text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Microgale soricoides là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale brevicaudata là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale cowani là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồn điền và rừng đã bị xuống cấp nặng. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale dobsoni là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, đồn điền và rừng bị xuống cấp nặng nề. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale drouhardi là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale fotsifotsy là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi đất thấp ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale gracilis là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale grandidieri là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale gymnorhyncha là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng đất thấp ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale jenkinsae là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale jobihely là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale longicaudata là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng dất thấp ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale macpheei là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae đã bị tuyệt chủng. Nó đã từng sinh sống ở đông nam Madagascar. "M. macpheei" chỉ được biết đến từ hai hộp sọ một phần được tìm thấy trong hang động Andrahomana, thông qua đồng vị carbon cho thấy niên đại của mẫu thu được khoảng 2000 năm tuổi. Nó là loài chuột tenrec chỉ được biết đến đã tuyệt chủng gần đây. Lần đầu tiên được mô tả trong năm 2007, nó tương tự như "Microgale brevicaudata" nhỏ hơn ở miền bắc và phía tây Madagascar.
1
null
Microgale majori là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale monticola là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale nasoloi là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale parvula là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale principula là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng đất thấp ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng núi cao nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale pusilla là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale taiva là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Microgale talazaci là một loài động vật có vú thuộc họ Tenrecidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sinh sống tự nhiên của nó là rừng núi cao ẩm ướt nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới hoặc rừng nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Nó bị đe dọa mất môi trường sinh sống.
1
null
Themis (Tiếng Hy Lạp: Θέμις) là một vị nữ thần Titan của Hy Lạp cổ. Bà được miêu tả như một "luật sư công minh", và là hiện thân cho thứ bậc thần linh, luật lệ, luật tự nhiên và phong tục. Themis có nghĩa là "luật lệ của đấng tối cao" chứ không thiên về những luật lệ của con người. Từ đó có ý nghĩa là "mọi thứ đều có sẵn trật tự của riêng nó" khác với từ títhēmi (τίθημι) nghĩa là "xếp đặt" một cách chủ động.  Đối với những người Hy Lạp cổ đại, bà là vị thần có trách nhiệm dàn xếp "những vấn đề xã hội của con người, đặc biệt là cộng đồng." Moses Finley đã ghi nhận Themis như ý nghĩa của từ ngữ được dùng bởi Homer vào thế kỉ thứ 8 TCN, nhằm khơi gợi lên trật tự xã hội vào kỉ nguyên đen tối của Hy Lạp vào thế kỷ thứ 10 và 9 TCN: Từ Themis không thể dịch ra được. Như món quà do chúa trời ban tặng và dấu ấn của sự tồn tại một nền văn minh, thỉnh thoảng nó có nghĩa là phong tục đúng đắn, thủ tục hợp lệ, trật tự xã hội, hay đôi khi nó chỉ đơn giản là ý muốn của các bậc thần thánh (được tiết lộ trong một điềm báo) với ít lý tưởng đúng đắn. Finley nói thêm, "Themis - phong tục tập quán, hay bất kì điều gì chúng ta muốn gán nghĩa thì sức mạnh to lớn của nó chưa bao giờ rõ ràng cả." Thế giới của Odysseus tồn tại một nhận thức tân tiến về sự phù hợp và đúng đắn." Thần thoại. Hiện thân của khái niệm trừu tượng này là Hellenes. Khả năng tiên đoán tương lai của nữ thần Themis giúp bà trở thành một trong số những nhà tiên tri ở Delphi, và sau này là nữ thần của sự công bằng tuyệt đối. Một số hình họa cổ về Themis không hề cho thấy đôi mắt bị che của bà (tài năng tiên tri khiến việc này vốn không hợp lí) hay việc bà mang trên tay một thanh kiếm (bà là đại diện của sự thuận hòa chứ không phải vũ lực). Thanh kiếm cũng được cho là tượng trưng cho khả năng tìm ra sự thật giữa những điều dối trá, và rằng đối với bà, không có cái gọi là thỏa hiệp. Themis là người tập hợp những nữ tế ở Delphi và bà cũng là một trong số đó. Theo một truyền thuyết khác, Themis tiếp nhận những nữ tế đó từ tay Gaia và sau đó trao cho Phoebe. Khi Themis bị coi thường, Nemesis mang đến lẽ phải và sự báo thù đầy phẫn nộ. Themis không hề hiếu chiến, bà là người đầu tiên mời Hera khi bà trở về đỉnh Polympus sau lời đe dọa từ Zeus (Iliad xv. 88)  Themis là người chủ trì cho các mối quan hệ giữa nam và nữ, cũng chính là trật tự trong gia đình (thứ được xem như là trụ cột), và thẩm phán là những bầy tôi của Themis (còn được gọi là "themistopóloi"). Trật tự trên đỉnh Olympus cũng giống như thế. Thậm chí nữ thần Hera xưng bà là "Lady Themis." Tên của Themis có thể dùng để thay thế cho Adrasteia là người đã nuôi nấng Zeus ở đảo Crete.  Themis đã xuất hiện tại Delos để cầu chúc Apollo chào đời. Theo Ovid, người đã bảo Deucalion ném những mảnh xương của "mẹ anh ta" qua vai của anh ta để lập nên giống nòi người mới sau trận đại hồng thủy chính là Themis chứ không phải Zeus.  Miêu tả của Hesiod và sự tương phản với Dike Trong thần thoại Hy Lạp, Hesiod nhắc đến Themis là một trong sáu đứa con trai và sáu đứa con gái của Gaia và Uranus (Đất và Trời). Trong số các Titan của huyền thoại nguyên thủy, chỉ một vài được tôn sùng tại nơi tôn nghiêm. Themis trong thần hệ của Hesiod là hiện thân đầu tiên cho Justice. Được khắc họa không chỉ trong tôn giáo xã hội mà còn trong các nền tôn giáo văn hóa, Hesiod đã miêu tả động lực của vũ trụ chính là các vị thần linh trong vũ trụ. Hesiod đã khắc họa Dike, nữ thần công lý, là con gái của Zeus và Themis.  Dike đã thực thi luật pháp xét xử, cùng với mẹ mình là Themis, hoàn thành quyết định cuối cùng của Moirai. Đối với Hesiod, Justice chính là trọng tâm của tôn giáo và đời sống đạo lý, độc lập với Zeus, chính là hiện thân cho mong muốn của thánh thần. Dike hiện thân cho quả báo và sự trừng phạt, khác với công lý trong khía cạnh phong tục hay luật lệ. Con cái. Người chồng duy nhất của Themis được đề cập đến tài liệu bên dưới là Zeus. Một trong vài đứa con của bà tên là Natura, một vị thần rừng của Hy Lạp.  Horae - Những nữ thần thời khắc. Themis có với Zeus các người con là những nữ thần Horae - hiện thân của trật tự tự nhiên, xã hội và thời khắc. Moirai - Những nữ thần vận mệnh. Những tín đồ của thần Zeus cho rằng con của Zeus và Themis là Moirai, Three Fates. Tuy vậy, trong một đoạn ghi chép của Pindar nói rằng Moirai thực ra đã có mặt trong lễ thành hôn của Zeus và Themis, rằng Moirai và Themis lớn lên cùng nhau ở suối nước của Okeanos, sau đó Moirai đã hộ tống Themis lên cổng trời để gặp Zeus tại đỉnh Olympus.Moirai, Three Fates
1
null
Catherine Zeta-Jones, CBE, (/ˈziːtə/; sinh ngày 25 tháng 9 năm 1969) là diễn viên xứ Welsh từng giành giải Oscar và giải Tony.Sau khi đóng vai chính trong một số phim truyền hình của Vương quốc Anh và Hoa Kỳ và vai phụ trong các bộ phim điện ảnh, cô đã nổi bật với vai diễn trong bộ phim của Hollywood là bộ phim hành động "The Mask of Zorro" và phim tội phạm kinh dị năm 1999 "Entrapment". Vai trò đột phá của cô là trong bộ phim năm 2000 Traffic, cô đã lần đầu tiên được đề cử giải Quả cầu vàng Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất. Các phim nổi tiếng khác "Chicago" (2002, giành giải Oscar và giải BAFTA nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất), phim ca nhạc "A Little Night Music" (2010). Đời sống cá nhân. Catherine Zeta-Jones kết hôn với Michael Douglas 18/11/2018, họ có với nhau 2 người con: Dylan Michael (2000) và Carys Zeta (2003)
1
null
Jacqueline Bisset (sinh 13 tháng 9 năm 1944) là một diễn viên Anh. Bà được đề cử 4 giải Quả cầu vàng và một giải Emmy. Cô được biết đến với bộ phim Casino Royale (1967), Bullitt (1968), Airport (1970), The Deep (1977), Class (1983), và phim truyền hình Nip/Tuck (2006). Bà cũng tham gia các phim Pháp sản xuất và được đề cử giải César phim La Cérémonie (1995). Bà được trao Huân chương Bắc đẩu bội tinh năm 2010.
1
null
Isabelle Yasmine Adjani (sinh ngày 27 tháng 6 năm 1955) là một nữ diễn viên điện ảnh và ca sĩ Pháp. Adjani đã xuất hiện trong 30 bộ phim từ năm 1970. Cô giữ kỷ lục cho các giải César cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất năm, với 5 giải, từng 2 lần đề cử giải Oscar. Isabelle Adjani nổi bật qua các phim Possession (1981) cô nhận giải César nữ diễn viên xuất sắc nhất và nữ diễn viên xuất sắc tại Liên hoan phim Cannes; phim One Deadly Summer (1983), giành 4 giải César, cô nhận giải nữ diễn viên xuất sắc nhất; phim Camille Claudel (1988),được đề cử 2 giải Oscar, đoạt 5 giải César trong đó cô đoạt giải nữ diễn viên xuất sắc nhất, giải Gấu bạc Liên hoan phim Berlin; phim La reine Margot (1994), giành 5 giải César và 2 giải Liên hoan phim Cannes và phim Skirt Day (2009) cô giành giải César nữ diễn viên xuất sắc nhất. Cùng với Catherine Deneuve và Isabelle Huppert, Adjani được xem là nữ diễn viên hàng đầu của điện ảnh nước Pháp đương đại.
1
null
Nastassja Kinski (sinh 24 tháng 1 năm 1961) là một nữ diễn viên, quốc tịch Mỹ sinh ra ở Đức đã xuất hiện trong hơn 60 bộ phim. Cô nổi bật qua các phim Tess năm 1979 đề cử 3 giải Oscar và cô giành giải César nữ diễn viên xuất sắc nhất,Paris, Texas năm 1984 giành 3 giải tại Liên hoan phim Cannes, trong đó có Cành cọ vàng; phim Faraway, So Close! năm 1993 giành Giải thưởng lớn của ban giám khảo và đề cử Cành cọ vàng Liên hoan phim Cannes và giành Giải phim Đức cho phim hay nhất...
1
null
Heidi Klum Samuel (sinh ngày 1 tháng 6 năm 1973), được biết đến với tên khai sinh của cô là Heidi Klum, là siêu mẫu người Đức và Mỹ, nữ diễn viên, dẫn chương trình truyền hình, doanh nhân, nhà thiết kế thời trang, sản xuất truyền hình, và ca sĩ. Năm 2008, cô trở thành một công dân Mỹ trong khi vẫn duy trì công dân gốc Đức của mình. Trong lĩnh vực phim ảnh cô nổi bật trong series truyền hình Project Runway của Lifetime Television từ năm 2009, sản xuất các show truyền hình nổi tiếng như Spin City (từ 1996), Sex and the City (từ 1998), Yes, Dear (từ 2000), How I Met Your Mother (từ 2005). Klum còn là host của chương trình truyền hình thực tế "Germany's Next Topmodel", được dựa theo "America's Next Top Model" của Tyra Banks, từ 2006 cho tới hiện tại. Các phim tham gia. Heidi Klum xuất hiện trong tập phim của chương trình truyền hình như "Malcolm in the Middle", "Cursed". Cô cũng có đóng vai khách mời trong "I Get That a Lot", "Spin City", "Sex and the City", ', "How I Met Your Mother", "Yes, Dear", "Ugly Betty" và "Desperate Housewives". Cô cũng lồng tiếng cho nhân vật Katya Nadanova trong video game '.
1
null
Dưới đây là danh sách đĩa nhạc của ban nhạc indie pop Foster the People bao gồm 2 album phòng thu, 2 đĩa mở rộng, 8 đĩa đơn và 7 video âm nhạc. Sau khi bài hát "Pumped Up Kicks" của Foster the People đã trở nên thành công trong những năm 2010, nhóm đã nhận được một hợp đồng thu âm từ Startime International và đã đạt được một lượng người hâm mộ thông qua các chương trình câu lạc bộ nhỏ và xuất hiện tại lễ hội âm nhạc như Coachella và South by Southwest. Sau khi phát hành Torches, album đầu tay của họ vào tháng 5 năm 2011, "Pumped Up Kicks" đã trở nên rất nổi tiếng vào giữa năm 2011, đạt vị trí số 3 trên các bảng xếp hạng bài hát rock, và thứ ba trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, lọt vào bảng xếp hạng Adult Top 40 và Mainstream Top 40.
1
null
Franka Potente (sinh ngày 22 tháng 7 năm 1974) là một nữ diễn viên phim và ca sĩ người Đức. Cô được biết đến ngay từ bộ phim đầu tay lãng mạn năm 1995 After Five in the Forest Primeval, đặc biệt nổi bật qua phim Run Lola Run năm 1998 được đề cử tới 41 giải thưởng, giành 26 giải, có các giải quan trọng tại Liên hoan phim Sundance và Liên hoan phim Seattle, 8 giải của Giải phim Đức, đề cử giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venice; tham gia phim Blow năm 2001; phim Che năm 2008, tuy nhiên không tham gia phim nổi tiếng như dự kiến Giáo hoàng Joan năm 2009. Cô cũng tham gia phim Thượng Hải với một số ngôi sao châu Á năm 2010, tham gia phim truyền hình nổi tiếng House năm 2009 trong 2 tập...Cô đã nhận giải diễn viên nữ xuất sắc nhất của Giải phim Đức năm 2010.
1
null
Johan Andersson (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1974) là trưởng nhóm lập trình game và người quản lý studio Paradox Tinto, một chi nhánh của Paradox Interactive tại Barcelona. Sự nghiệp. Trước khi làm việc cho Paradox, ông từng là nhân viên của hãng Funcom trong vai trò một nhà lập trình trên hệ máy console Sega Mega Drive với những game như "Nightmare Circus" và "NBA Hangtime". Ông bắt đầu làm việc tại công ty sau này trở thành Paradox Interactive vào năm 1998, tham gia vào đội ngũ ban đầu phát triển "Europa Universalis". Mặc dù ban đầu ông là một lập trình viên, Andersson đã trở thành trưởng nhóm thiết kế và nhà sản xuất tại Paradox Development Studio, làm việc trên các grand strategy game như "Hearts of Iron III", "Crusader Kings II", "Victoria II", "Europa Universalis IV", "Stellaris", và "". Triết lý thiết kế của ông là hãy "tạo ra những thế giới đáng tin cậy". Vào tháng 6 năm 2020, ông trở thành người dẫn dắt Paradox Tinto, một studio mới được thành lập tại Barcelona.
1
null
Ornella Muti (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1955) là một nữ diễn viên người Ý. Cô nổi bật trong phim Viva l'Italia (1977, được đề cử giải Oscar phim tiếng nước ngoài hay nhất), The Last Woman (1976), The Bishop's Room (1977, giành giải David di Donatello phim hay nhất), Tales of Ordinary Madness (1981, giành 4 giải David di Donatello), The Future Is Woman (1984)... Cô được bình chọn là "Người phụ nữ đẹp nhất thế giới" vào năm 1994 bởi một cuộc thăm dò trên toàn thế giới của các độc giả của tạp chí Class.
1
null
Rose McGowan (sinh ngày 5 tháng 9 năm 1973) diễn viên và ca sĩ, sinh ở Ý nhưng lớn lên và đóng phim tại Mỹ, được biết đến nhiều từ phim The Doom Generation (1995), nổi bật trong phim kinh dị nổi tiếng Scream (1996), phim hài Jawbreaker (1999), phim kinh dị Grindhouse gồm hai phần Planet Terror và Death Proof (2007), phim hành động Machete (2010), đặc biệt phim truyền hình Nip / Tuck nổi tiếng, xuất hiện trong 5 tập phim năm 2009.
1
null
Giovanna Mezzogiorno (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1974) là một nữ diễn viên kịch và phim Ý, con gái của diễn viên Vittorio Mezzogiorno và Cecilia Sacchi. Cô nổi bật qua các phim Cuộc hành trình của cô dâu (Il viaggio della sposa) năm 1997, Tình yêu đã mất (Del perduto amore) năm 1998 giành giải David di Donatello nữ diễn viên xuất sắc nhất, tham gia phim truyền hình Những người khốn khổ năm 2000, tham gia bộ phim Ilaria Alpi - ngày độc ác nhất (Ilaria Alpi - Il più crudele dei giorni), nổi bật phim Đối mặt với Windows (La finestra di fronte) giành nhiều giải thưởng quan trọng, năm 2003. Phim The Beast in the Heart năm 2005 có sự tham gia của cô rất thành công (đề cử giải Oscar phim tiếng nước ngoài hay nhất, cô giành Cúp Volpi tại Liên hoan phim Venice và giải David di Donatello nữ diễn viên xuất sắc nhất); và phim Vincere 2009 giành nhiều giải; tham gia phim Tình yêu thời thổ tả (Love in the Time of Cholera) chuyển thể từ tiểu thuyết nổi tiếng của Gabriel García Márquez năm 2007.
1
null
Elizabeth Jane Hurley (sinh ngày 10 tháng 6 năm 1965) là một người mẫu và diễn viên Anh. Năm 1994, cô đã trở thành trọng tâm của sự chú ý của các phương tiện truyền thông trên toàn thế giới do sự thành công toàn cầu của bộ phim Bốn đám cưới và một đám ma (Four Weddings and a Funeral - 1994, doanh thu 245 triệu USD, giành 4 giải BAFTA, 1 giải Quả cầu vàng, giải César phim tiếng nước ngoài hay nhất, đề cử 2 giải Oscar). Các phim nổi tiếng khác của cô: phim viễn tưởng (1997) và phim hài lãng mạn Bedazzled (2000)...
1
null
Anna Karina (tên khai sinh Hanne Karin Blarke Bayer; 22 tháng 9 năm 1940 - 14 tháng 12 năm 2019) sinh tại Đan Mạch, bây giờ là công dân Pháp, nữ diễn viên phim, đạo diễn và biên kịch, người đã dành hầu hết cuộc đời làm việc của mình tại Pháp. Cô nổi tiếng qua các phim The Little Soldier (1960), A Woman Is a Woman (1961), Vivre sa vie (1962), và Alphaville (1965) do Jean-Luc Godard đạo diễn. Với phim A Woman Is a Woman, Anna Karina giành giải nữ diễn viên xuất sắc nhất Liên hoan phim Berlin.
1
null
Hạt Garissa là một hạt thuộc tỉnh Đông Bắc ở Kenya. Theo điều tra dân số ngày 24 tháng 8 năm 1999, hạt này có dân số 329939 người. Hạt Garissa có diện tích 44952 km². Hạt lỵ đóng tại Garissa. Nhân khẩu học. Quận Garissa hầu hết là nơi sinh sống của người dân tộc Somalia . Cấu thành. Nó có sáu khu vực bầu cử: Quận hội. Theo Hiến pháp mớiđược ban hành vào năm 2010, Hạt Garisaa có một hội đồng với các thành viên được bầu từ các khu vực bầu cử thành viên duy nhất được gọi là phường. Ngoài ra còn có các thành viên được đề cử để đảm bảo tuân thủ quy tắc giới tính hai phần ba. Có sáu thành viên được đề cử để đại diện cho các nhóm bên lề (người khuyết tật và thanh niên) và một diễn giả sẽ là thành viên chính thức của hội đồng. Một thành viên hội đồng quận được bầu với nhiệm kỳ năm năm. Diễn giả được bầu bởi các thành viên hội đồng trong số những người không phải là thành viên của Hội đồng. Người phát ngôn chủ trì tất cả các buổi họp của hội nghị và khi vắng mặt, ông ta đã từ chối một phó chủ tịch được bầu từ các thành viên trong hội đồng.
1
null
Hạt Isiolo là một hạt thuộc tỉnh Đông ở Kenya. Theo điều tra dân số ngày 24 tháng 8 năm 1999, hạt này có dân số 100861 người. Hạt Isiolo có diện tích 25698 km². Hạt lỵ đóng tại Isiolo. Văn hóa và Truyền thông. Quận Isiolo là một xã hội đa văn hóa với một số cộng đồng dân tộc cư trú trong khu vực. Chúng bao gồm: người Borana , người Turkana , người Meru và người Somalia . Một số nhà truyền thông được đặt tại quận, bao gồm: Radio Shahidi , Baliti Fm, Angaf Radio trong số những người khác. Đài phát thanh Shahidi là một đài phát thanh cộng đồng ở Isiolo, được thành lập và sở hữu bởi Giáo phận Công giáo Isiolo. bao gồm bán kính khoảng 120 km từ thị trấn Isiolo với tần số 91,7 fm. Đài phát thanh bao gồm Trung tâm Isiolo, Tây Isiolo, Nam Isiolo, một số khu vực của Hạt Meru, Một số khu vực của Hạt Samburu cho đến thị trấn Maralal và một số khu vực của Quận Laikipia. Nó chủ yếu phát sóng bằng tiếng Swirin và tiếng Anh . Các nhà truyền thông khác ở quận Isiolo chủ yếu phát sóng bằng ngôn ngữ Borana địa phương . Chúng bao gồm Baliti Fm và Angaf Radio có bán kính khoảng 140 km từ thị trấn Isiolo. Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải. Quận Isiolo là sân bay của Isiolo , gần đây đã được nâng cấp thành sân bay quốc tế. Vị trí của nó là khoảng 283 km (176 mi), bằng đường bộ và khoảng 200 km (120 mi), bằng đường hàng không, về phía đông bắc của Sân bay Quốc tế Jomo Kenyatta , sân bay dân sự lớn nhất của Kenya . Sân bay nằm trên một mảnh đất rộng 260 ha (642 mẫu Anh) và tòa nhà ga hành khách của nó có diện tích 4.500 mét vuông (48.438 sq ft). Các tọa độ địa lý của sân bay này là: 0 ° 20 '37,00 "N, 37 ° 35' 16,00" E (Vĩ độ: 0,343610; Kinh độ: 37,587778). Phân khu hành chính. Tính đến năm 2018, Quận có hai khu vực bầu cử (Khu vực bầu cử phía Bắc Isiolo và Khu vực bầu cử phía Nam Isiolo ), ba quận và mười phường.
1
null
Carole Bouquet (sinh ngày 18 tháng 8 năm 1957) là một nữ diễn viên và người mẫu thời trang Pháp, người đã xuất hiện trong hơn 40 phim từ năm 1977. Cô nổi tiếng qua phim That Obscure Object of Desire (1977), For Your Eyes Only (1981) trong loạt phim về James Bond, và phim Too Beautiful For You (1989, giành 5 giải César, và giải đặc biệt ban giám khảo Liên hoan phim Cannes).
1
null
Huyện Rachuonyo là một huyện thuộc tỉnh Nyanza ở Kenya. Theo điều tra dân số ngày 24 tháng 8 năm 1999, huyện này có dân số 307126 người. Huyện Rachuonyo có diện tích 945 km². Huyện lỵ đóng tại Oyugis. Barack Obama Sr., cha của Barack Obama (tổng thống Hoa Kỳ thứ 44), sinh ra ở huyện này.
1
null
Danh sách đĩa nhạc của ban nhạc indie pop Mỹ Fun. bao gồm 2 album phòng thu, 1 album trực tiếp, 11 đĩa đơn và 7 video ca nhạc. Đĩa đơn "We Are Young" giúp Fun trở nên nổi tiếng thế giới khi đứng nhất tại bảng xếp hạng âm nhạc danh giá "Billboard" Hot 100 của Hoa Kỳ.
1
null
Irène Marie Jacob (sinh ngày 15 tháng 7 năm 1966) là nữ diễn viên Pháp gốc Thụy Sĩ, được coi là một trong những nữ diễn viên Pháp ưu việt của thế hệ của mình. Cô nổi danh qua hai bộ phim The Double Life of Véronique (1991, giành ba giải tại Liên hoan phim Cannes, cô giành giải nữ diễn viên xuất sắc nhất) và (Three Colors: Red - đề cử giải Cành cọ vàng, và 3 giải Oscar, năm 1994) của đạo diễn Krzysztof Kieślowski, phim Beyond the Clouds (1995, giải FIPRESCI tại Liên hoan phim Venice, 1 giải David di Donatello của Ý) và phim Othello (1995, phim chuyển thể kịch của William Shakespeare).
1
null
Isabella Fiorella Elettra Rossellini Giovanna (sinh ngày 18 tháng 06 năm 1952 tại Roma) là một tài tử điện ảnh, nhà làm phim, tác giả, nhà từ thiện, và người mẫu Mỹ gốc Ý-Thụy Điển. Lịch sử. Isabella Rossellini là con minh tinh Thụy Điển Ingrid Bergman và đạo diễn Ý Roberto Rossellini. Bà bắt đầu nổi danh qua phim Blue Velvet (1986, đề cử 1 giải Oscar, 2 giải Quả cầu vàng) và Death Becomes Her (1992, doanh thu 149 triệu USD, giành 1 giải Oscar, 1 giải BAFTA), giành giải Tinh thần độc lập tại Liên hoan phim Berlin năm 1998 qua phim Lost Luggage...
1
null
Ka-135 là loại máy bay trực thăng không người lái tầm gần thử nghiệm của Nga ra mắt trong Hội thảo kỹ thuật công nghệ quốc tế năm 2010 tại Zhukovsky, nó được giới thiệu dưới dạng mô hình lần đầu năm 2009. Đây là loại máy bay không người lái đa chức năng dùng cả hai mục đích dân sự và quân sự với các trang bị nền tảng gắn vào theo kiểu khối tùy vào nhiệm vụ mà nó được dùng vào như giám sát môi trường, tuần tra an ninh trên không, vận chuyển hàng hóa, theo dõi sinh thái, khí tượng, cung cấp thông tin liên lạc với các khu vực khó tiếp cận... Ka-135 sử dụng hai cánh quạt đồng trục với động cơ kiểu pít tông, trọng lượng tổng thể là 300 kg có khả năng hoạt động trong phạm vi 100 km, mang 100 kg tải trọng và đạt tốc độ tối đa là 180 km/h. Dự tính loại máy bay này sẽ hoàn tất việc phát triển năm 2015.
1
null
Isabelle Carré (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1971) là một nữ diễn viên Pháp, người đã xuất hiện trong hơn 40 bộ phim từ năm 1989. Cô giành được giải César cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất cho vai diễn trong phim Se souvenir des belles choses (2001), được đề cử giải César trong 6 phim khác: Beau fixe (1992), Le Hussard sur le toit (1995), La Femme défendue (1997), Les Sentiments (2003), Entre ses mains (2005) và Anna M. (2007).
1
null
Mallory Jane Birkin, OBE (14 tháng 12 năm 1946 – 16 tháng 7 năm 2023) là một nữ diễn viên Anh và ca sĩ sống ở Pháp. Trong những năm gần đây, cô đã viết cho album của riêng mình, đạo diễn một bộ phim và là một người đề xuất thẳng thắn vấn đề dân chủ tại Miến Điện. Cô là mẹ diễn viên Charlotte Gainsbourg. Cô tham gia nhiều phim nổi tiếng như Blowup (1966, giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes 1967), Don Juan, or If Don Juan Were a Woman (với Brigitte Bardot đóng chính,1973), Death on the Nile (1978), Evil Under the Sun (1981), The Pirate (1984), La Belle Noiseuse (1991, phim chuyển thể tiểu thuyết Balzac, giành Giải thưởng lớn Liên hoan phim Cannes)...
1
null
Udmurt (, "") là một ngữ hệ Ural, một phần con của Nhóm ngôn ngữ Permi, được sử dụng bởi người Udmurt của cộng hòa tự trị Udmurtia, Nga, được sử dụng chính thức cùng với Tiếng Nga. Ethnologue khảo sát có 550,000 người nói tiếng bản địa chiếm 77% dân số 750,000 thời USSR năm 1989.
1
null
Juliette Binoche (, sinh ngày 9 tháng 3 năm 1964), người Pháp gốc Ba Lan, là một nữ diễn viên, nghệ sĩ và vũ công Pháp. Cô đã xuất hiện trong hơn 40 bộ phim, được người nhận của rất nhiều giải thưởng quốc tế. Các bộ phim nổi tiếng nhất của cô: phim The Unbearable Lightness of Being (1988), Les Amants du Pont-Neuf (1991), (1993 - cô đoạt giải thưởng nữ diễn viên xuất sắc nhất Liên hoan phim Venice và 1 giải César), The English Patient (1996 - cô đã được trao một giải Oscar và giải BAFTA cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất, giải thưởng nữ diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Berlin năm 1997), phim Chocolat" (2000), "Certified Copy" (2010).
1
null
Tiếng Marshall (cách viết mới ', cách viết cũ ', ), còn gọi là tiếng Ebon, là một ngôn ngữ Micronesia. Đây là ngôn ngữ chính thức của quần đảo Marshall và là bản ngữ của chừng 44.000 người tại đây. Có khoảng 6.000 người nói hiện sống ngoài quần đảo Marshall. Có hai phương ngữ chính: Rālik (tây) và Ratak (đông). Phân loại. Tiếng Marshall là một thành viên của nhóm ngôn ngữ Micronesia trong ngữ chi châu Đại Dương của ngữ tộc Mã Lai-Đa Đảo thuộc ngữ hệ Nam Đảo. Những ngôn ngữ gần gũi nhất với tiếng Marshall là các ngôn ngữ Micronesia khác như tiếng Chuuk, tiếng Gilbert, tiếng Kosrae, tiếng Nauru và tiếng Pohnpei. Ví dụ, khối từ vựng của tiếng Marshall tương đồng 33% với của tiếng Pohnpei. Phương ngữ. Cộng hòa Quần đảo Marshall có 34 đảo san hô chia ra hai chuỗi, chuỗi đảo Ratak miền đông và chuỗi đảo Ralik miền tây. Hai chuỗi đảo này có phương ngữ riêng, khác nhau chủ yếu ở từ vựng, song vẫn thông hiểu lẫn nhau. Đảo Ujelang từng có một phương ngôn riêng, "hơi ít đồng đều hơn", nhưng từ năm 1980, nó đã là đảo hoang. Về ngữ âm, phương ngữ Ratak và Ralik khác nhau ở cách chúng tác động với cụm phụ âm kép đầu gốc từ. Ratak thì chêm một nguyên âm vào giữa, còn Ralik thì thêm một nguyên vào trước. Ví dụ, gốc ' 'chơi' trở thành ' trong tiếng Marshall Ralik và "" trong tiếng Marshall Ratak. Tình trạng. Tiếng Marshall là ngôn ngữ chính thức của quần đảo Marshall. Tính đến năm 1979, nó có 43.900 người nói trên quần đảo Marshall, cộng với số người nói ở Nauru và Hoa Kỳ, tổng cộng 49.550 người. Cùng tiếng Pohnpei và tiếng Chuuk, tiếng Marshall là một trong số ít những ngôn ngữ Micronesia có trên chục ngàn người nói. Ngữ âm. Phụ âm. Hầu hết phụ âm trong tiếng Marshall có hai hay ba vị trí phát âm thứ cấp (vòm hóa, ngạc mềm hóa hay làm tròn). Phụ âm vòm hóa được coi là phát âm "nhẹ", còn phụ âm ngạc mềm hóa và làm tròn được coi là "nặng" (phụ âm làm tròn vừa ngạc mềm hóa vừa môi hóa). (Sự phân biệt này có phần giống với sự phân biệt phụ âm "mảnh" và "rộng" trong tiếng Ireland, hay giữa phụ âm "mềm" và "cứng" trong tiếng Nga.) Những phụ âm "nhẹ" có thể coi là có cách phát âm thoải mái hơn. Dưới đây là các âm vị phụ âm tiếng Marshall: Không có sự phân biệt vô thanh-hữu thanh trong tiếng Marshall. Dù các âm tắc có thể được hữu thanh hóa như tha âm (, , ) khi ở giữa nguyên âm. Phụ âm cuối thường không thả hơi. Những âm lướt mất đi trong nhiều trường hợp, làm biến đổi nguyên âm bên cạnh chúng. Phụ âm có thể phát âm là , , , , (ứng với đó là các dạng hữu thanh hóa , , , , hay ), tất cả đều là biến thể tự do. Khi ở giữa từ trở thành âm xát hữu thanh (hay ) (trừ trường hợp là phụ âm kép). Tiếng Marshall không có âm . Các âm lưng lưỡi về cơ bản vẫn là âm ngạc mềm nhưng lưỡi kéo một chút về phía sau , nên vị trí phát âm của chúng thực ra là giữa ngạc mềm và lưỡi gà. Mọi âm lưng lưỡi đều "nặng". Như đã ghi ở trên, các âm vòm , , và là tha âm của âm đầu lưỡi , tuy về vị trí phát âm thì âm vòm là âm lưng lưỡi. và thường được phát âm lần lượt như âm mũi quặt lưỡi và . , và đều là âm đầu lưỡi và đều được rung hoàn chỉnh. và cũng là l tối giống trong "feel" tiếng Anh, phát âm chính xác lần lượt là và . Nguyên âm. Tiếng Marshall có hệ thống nguyên âm thẳng đứng với chỉ bốn âm vị nguyên âm, nhưng mỗi âm vị lại có những tha âm tùy theo phụ âm chung quanh. Nghiên cứu của Marshallese–English Dictionary (MED, 1976), Choi (1992) và Willson (2003) mâu thuẫn nhau về hệ thống nguyên âm. Choi (1992) xác định chỉ ba âm vị nguyên âm (song đề ra giả thuyết rằng đã có một tiến trình làm bớt số âm vị từ bốn xuống ba), hai nguồn còn lại xác định bốn âm vị. 12 nguyên âm xuất hiện trong cặp tối thiểu, một cách thường dùng để nhận biết tính âm vị. Ví dụ, (', 'cây xa kê'), (', 'nhưng') và ("", 'kiên kỵ') là những từ riêng rẽ. Tuy nhiên, phân bố không đồng đều của âm lướt gợi ý rằng chúng thực ra kết thúc bằng âm lướt (lần lượt , , ). Khi lấy ra âm lướt, ta chỉ còn bốn âm vị nguyên âm. Khi nguyên âm nằm giữa hai phụ âm với vị trí phát âm thứ cấp khác nhau thì nguyên âm sẽ được phát âm như sự chuyển tiếp liên tục từ tha âm này sang tha âm khác. Ví dụ, "" 'rụt rè', về mặt âm vị là , thì về mặt ngữ âm sẽ được phát âm là . Điều này tạo ra 24 cặp nguyên âm đôi trong tiếng Marshall:
1
null
Thỏ đuôi bông sa mạc (danh pháp hai phần: Sylvilagus audubonii) là một loài động vật có vú trong họ Leporidae, bộ Thỏ, được Baird mô tả năm 1858.. Thỏ đuôi bông sa mạc được tìm thấy trên khắp miền Tây Hoa Kỳ từ đông Montana miền tây Texas, và ở miền bắc và miền trung Mexico. Về phía tây mở rộng phạm vi của nó đến trung tâm Nevada và Nam California và Baja California. Nó được tìm thấy ở độ cao lên đến 2000 mét. Nó đặc biệt liên kết với các đồng cỏ khô hạn gần sa mạc phía Tây Nam Mỹ, mặc dù nó cũng được tìm thấy trong môi trường sống ít khô cằn như rừng pinyon-bách. Thỏ đuôi bông sa mạc có bề ngoài khá tương tự với thỏ châu Âu, mặc dù đôi tai của nó lớn hơn và thường dựng đứng. Nó cũng là một động vật có tính xã hội, thường tụ tập trong các nhóm nhỏ để nuôi.Thỏ đuôi bông sa mạc thường sử dụng các hang của các loài động vật gặm nhấm khác hơn là tự đào. Giống như tất cả những con thỏ đuôi bông, Thỏ đuôi bông sa mạc có một cái đuôi tròn với bộ lông trắng ở mặt dưới có thể nhìn thấy nó chạy đi. Nó có màu nâu xám nhạt, có bộ lông gần như trắng trên bụng. Con trưởng thành dài 33–43 cm và cân nặng tới 1,5 kg (3,3 lb). Đôi tai dài 8–10 cm, và chân sau rất lớn, dài khoảng 7,5 cm. Là loài dị hình giới tính, nhưng con cái có xu hướng lớn hơn con đực, nhưng có phạm vi nhà nhỏ hơn nhiều, khoảng 4.000 m² so với khoảng 60.000 m² cho con đực.
1
null
Kathrin Romany Beckinsale (sinh ngày 26 tháng 7 năm 1973) là một nữ diễn viên và người mẫu người Anh. Sau một số vai diễn truyền hình nhỏ, cô đã đóng vai chính đầu tay trong "Much Ado About Nothing" (1993). Cô xuất hiện trong các bộ phim truyền hình của Anh như "Prince of Jutland" (1994), "Cold Comfort Farm" (1995), "Emma" (1996) và "The Golden Bowl" (2000). Sau khi xuất hiện trong những bộ phim truyền hình quy mô nhỏ như "The Last Days of Disco" (1998) và "Brokedown Palace" (1999), cô đóng vai chính trong bộ phim chiến tranh "Trân Châu Cảng" và phim hài lãng mạn "Serendipity". Cô đóng tiếp vai diễn trong "The Aviator" (2004) và "Click" (2006). Từ khi được chọn làm diễn viên đóng vai chính Selene trong loạt phim "Thế giới ngầm" (2003–nay), Beckinsale trở nên nổi tiếng trước công chúng trong phim hành động, bao gồm "" (2004), "Whiteout" (2009), "Phi vụ ngầm" (2012) và "Truy tìm ký ức" (2012). Cô cũng tiếp tục xuất hiện trong các dự án chính kịch nhỏ hơn như "Snow Angels" (2007), "Nothing but the Truth" (2008) và "Everybody's Fine" (2009). Năm 2016, cô xuất hiện trong phim "Love & Friendship", màn trình diễn của cô nhận được sự tán dương trên toàn thế giới. Các phim đã đóng. Ghi chú
1
null
Gõ kiến Carolina (danh pháp hai phần: Melanerpes carolinus) là một loài chim thuộc họ Gõ kiến. Chim gõ kiến Carolina sinh sản ở phía nam Canada và đông bắc Hoa Kỳ, phía nam tận Florida và như xa phía tây là Texas. Nó lần đầu tiên được mô tả trong Linnaeus' "Systema Naturae", với tên "Picus carolinus"..
1
null
Sophie Marceau (; tên khai sinh: Sophie Danièle Sylvie Maupu, sinh ngày 17 tháng 11 năm 1966) là một nữ diễn viên, đạo diễn, nhà biên kịch và văn sĩ người Pháp. Từ lúc còn thiếu nữ, Marceau đã nổi tiếng với những bộ phim điện ảnh đầu tay như "La Boum" (1980) và "La Boum 2" (1982), giúp bà giành một Giải César cho nữ diễn viên triển vọng nhất. Bà trở thành ngôi sao điện ảnh tại Châu Âu với hàng loạt tác phẩm thành công như "L'Étudiante" (1988), "Pacific Palisades" (1990), "Fanfan" (1993) và "La fille de d'Artagnan" (1994). Marceau dần vươn lên thành ngôi sao điện ảnh quốc tế với diễn xuất trong các phim như "Trái tim dũng cảm" (1994), "Firelight" (1997) và tác phẩm thứ 19 của loạt phim điện ảnh đề tài James Bond "The World Is Not Enough" (1999). Năm 2005, bà từng là một trong ba gương mặt đại diện trên các trang bìa tạp chí "Elle" nhân kỉ niệm 60 năm ra đời ấn phẩm, bên cạnh Monica Bellucci và Laetitia Casta. Xuất thân. Marceau sinh ngày 17 tháng 11 năm 1966 tại Paris. Bà là con thứ hai của bà Simone (nhũ danh Morisset), một nhân viên phụ bán hàng (qua đời năm 2016) và ông Benoît Maupu làm nghề tài xế lái xe tải. Cha mẹ nữ diễn viên ly hôn khi bà mới lên 9 tuổi. Sự nghiệp điện ảnh. Tháng 2 năm 1980, Marceau cùng mẹ mình tình cờ gặp một công ty người mẫu đang tuyển dụng thiếu niên. Marceau làm mẫu chụp hình tại công ty này, nhưng không hề nghĩ đến những chuyện xảy ra sau đó. Cùng lúc này, ông Françoise Menidrey, giám đốc tuyển vai cho phim "La Boum" (1980) của Claude Pinoteau đề nghị các công ty người mẫu giới thiệu một thiếu nữ mới cho dự án. Kết quả là giám đốc tuyển vai của Hãng phim Gaumont, ông Alain Poiré vội vàng ký một hợp đồng dài hạn với Marceau. "La Boum" đã gây sốt ở các rạp chiếu không chỉ tại Pháp (thị trường phim tiêu thụ 4.378.500 vé) mà còn tại nhiều nước châu Âu khác. Năm 1981, Marcaeu lần đầu hát chính cùng ca sĩ người Pháp François Valéry trong bản nhạc "Dream in Blue" do Pierre Delanoë sáng tác. Bà từ chối vai chính trong bộ phim dấy lên nhiều tranh cãi "Beau-père" (1981); trong phim đó bà phải đóng một thiếu nữ quyến rũ cha dượng của mình để quan hệ tình dục. Vai diễn sau cùng được giao lại cho nữ diễn viên Ariel Besse. Năm 1982, tức năm lên 16 tuổi, Marceau mua lại hợp đồng của mình với Gaumont kèm theo mức phí một triệu đồng franc; bản thân bà đã tự đi vay mượn hầu hết số tiền trên. Sau khi đóng trong phần kế tiếp "La Boum 2" (1982), Marceau chú tâm nhiều hơn vào các vai chính kịch, gồm có bộ phim cổ trang "Fort Saganne" (1984) đóng cùng Gérard Depardieu và Catherine Deneuve, "Joyeuses Pâques" (1984), "L'amour braque", "Police" (1985) và "Descente aux enfers" (1986). Năm 1988, bà thủ vai chính trong "L'Étudiante" (1988) và tác phẩm đề tài lịch sử phiêu lưu "Chouans!". Cùng năm đó, Marceau được vinh danh là Nữ diễn viên phim lãng mạn xuất sắc nhất (Best Romantic Actress) tại Liên hoan phim điện ảnh lãng mạn quốc tế với vai diễn trong "Chouans!". Năm 1989, Marceau diễn chính trong "Mes nuits sont plus belles que vos jours" – tác phẩm do bạn trai lâu năm bà là Andrzej Zulawski làm đạo diễn. Năm 1990, nữ diễn viên lần lượt đóng trong "Pacific Palisades" và "La note bleue" – phim thứ ba mà bạn trai bà đạo diễn. Năm 1991, nữ minh tinh thử sức tại Nhà hát ở Eurydice, giúp đem về cho Marceau Giải Moliere cho Nữ diễn viên mới xuất sắc nhất. Trong suốt thập kỷ 1990, Marceau dần ít làm phim chính kịch, chẳng hạn như phim hài "Fanfan" (1993) và "La fille de d'Artagnan" (1994) – cả hai đều nổi tiếng và thịnh hành ở châu Âu. Cùng năm đó, bà trở lại nhà hát trong vai Eliza Doolittle trong "Pygmalion". Marceau thu hút sự chú ý quốc tế nhờ vai Công chúa Isabelle trong "Trái tim dũng cảm" (1995) của Mel Gibson. Cùng năm đó, nữ diễn viên nằm trong đội ngũ diễn viên quốc tế hùng hậu trong tác phẩm điện ảnh Pháp "Par-delà les nuages" do Michelangelo Antonioni và Wim Wenders làm đạo diễn. Năm 1997, bà tiếp tục gặt hái hàng loạt bộ phim thành công như "Firelight" của William Nicholson (ghi hình tại Anh), "Marquise" của Véra Belmont (ghi hình tại Pháp) và "Anna Karenina" của Bernard Rose (ghi hình tại Nga). Năm 1999, bà hóa thân vài vai Hippolyta trong "A Midsummer Night's Dream" và vai phản diện Elektra King trong phim "The World Is Not Enough". Năm 2000, Marceau hợp tác lần nữa với bạn trai Zulawski để cho ra đời "La fidélité"; trong phim bà vào vai một nhiếp ảnh gia tài năng làm việc cho một tờ báo lá cải dính nhiều tai tiếng và phải lòng một nhà xuất bản sách thiếu nhi lập dị. Trong những năm gần đây, Marceau hiện diện ở hàng loạt vai diễn, chủ yếu là phim điện ảnh của Pháp, như đóng vai một y tá góa phụ trong "À ce soir" (2004), một sĩ quan cảnh sát nằm vùng trong "Anthony Zimmer" (2005) và cô con gái của một ngôi sao điện ảnh bị mưu sát vướng vào rắc rối trong "La disparue de Deauville" (2007). Năm 2008, Marceau thủ vai một thành viên thuộc lực lượng kháng chiến Pháp trong "Les Femmes de l'ombre" và một bà mẹ đơn thân sống chật vật trong "LOL (Laughing Out Loud)". Năm 2009, nữ minh tinh đóng cặp cùng Monica Bellucci trong "Ne te retourne pas" nói về một mối liên hệ bí ẩn giữa hai người phụ nữ chưa bao giờ gặp mặt nhau. Năm 2010, Marceau hóa thân vào vai một giám đốc kinh doanh thành đạt bị buộc phải đối mặt với tuổi thơ bất hạnh của mình trong "L'Âge de raison". Năm 2012, Marceau thủ vai một phụ nữ 40 tuổi đem lòng yêu một nhạc sĩ nhạc jazz trẻ tuổi trong "Un bonheur n'arrive jamais seul". Đến năm 2013, bà đóng vai một phụ nữ xuất hiện ở đồn cảnh sát và thú nhận đã sát hại người chồng vũ phu của mình nhiều năm trước trong "Arrêtez-moi". Nữ diễn viên từng được lựa chọn vào thành phần ban giám khảo cho hạng mục tranh cử chính của Liên hoan phim Cannes 2015. Viết lách và đạo diễn. Năm 1995, Marceau viết một cuốn tiểu thuyết bán tự truyện có tựa "Menteuse" và xuất bản năm 2001. Tác phẩm của bà được miêu tả là "khám phá tính cách của phụ nữ". Năm 2002, nữ diễn viên có tác phẩm điện ảnh đạo diễn đầu tay mang tên "Parlez-moi d'amour", giúp bà giành được giải Đạo diễn xuất sắc nhất tại Liên hoan phim thế giới Montréal; phim có Judith Godrèche đóng chính. Tác phẩm thứ hai của bà là một bộ phim ngắn dài 9 phút có tựa "L'aube à l'envers" vào năm 1995, cũng có Godrèche đóng. Năm 2007, bà đạo diễn sản phẩm phim chiếu rạp thứ hai của mình mang tên "La disparue de Deauville". Đời tư. Từ năm 1985 đến 2001, Marceau có quan hệ tình ái với đạo diễn Andrzej Żuławski. Con trai của họ tên là Vincent chào đời vào tháng 7 năm 1995. Năm 2001, nữ diễn viên chia tay Żuławski để bắt đầu yêu nhà sản xuất Jim Lemley trong 6 năm. Cặp đôi có một cô con gái tên Juliette, chào đời vào tháng 6 năm 2002 tại Luân Đôn. Nữ minh tinh còn hẹn hò với Christopher Lambert từ năm 2007; họ từng là bạn diễn trong các phim "La disparue de Deauville" và "L'homme de chevet". Hai người tuyên bố chia tay vào ngày 11 tháng 7 năm 2014. Ngoài ra Marceau là một nhạc công cello được đào tạo bài bản và từng thể hiện sở trường này trong phim "Lost & Found" (1999); bà là người song ngữ (nói tốt cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp).
1
null
Valeria Golino (sinh ngày 22 tháng 10 năm 1966) là nữ diễn viên điện ảnh và truyền hình Ý - Hy Lạp. Cô nổi tiếng qua phim Storia d'amore (A Tale of Love - giải đặc biệt và Cúp Volpi tại Liên hoan phim Venice 1986), Rain Man (giành 4 giải Oscar và Gấu vàng tại Liên hoan phim Berlin 1989, doanh thu hơn 412 triệu USD), Hot Shots! (1991) và Hot Shots! Part Deux (1993), tham gia vai phụ trong phim 36 Quai des Orfèvres khá nổi tiếng của Pháp năm 2004.
1
null
Bách Độ Thiếp Ba (Trung văn giản thể: "百度贴吧", Trung văn phồn thể: "百度貼吧", phanh âm: "Bǎidù Tiēba") là diễn đàn trực tuyến do công ty Bách Độ của Trung Quốc lập ra vào ngày 25 tháng 11 năm 2003. Do Bách Độ Thiếp Ba có thao tác giản đơn, số người tham gia đông, có sức ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc đại lục nên đã thu hút được đông đảo cư dân mạng Trung Quốc tham gia. Năm 2012, Bách Độ mở thêm phiên bản tiếng Việt dành cho thị trường Việt Nam, lúc đầu gọi là Baidu Trà đá quán, sau đó lần lượt đổi tên là Baidu Tieba và Postbar.
1
null
Virginie Ledoyen (sinh ngày 15 tháng 11 năm 1976), được biết đến một giai đoạn tên Virginie Ledoyen, là một nữ diễn viên người Pháp gốc Tây Ban Nha. Cô khởi đầu từ phim Les Exploits d'un jeune Don Juan (1987), nổi tiếng từ phim Mima (1991) Les Marmottes (1994), L'Eau froide (1994) và La Fille seule (1995), sau đó là phim The Beach (2000, đóng với Leonardo DiCaprio), tham gia phim truyền hình Les Misérables (2000), và phim 8 Women (Huit femmes -2002, giành giải thưởng phim châu Âu và giải Gấu bạc tại Liên hoan phim Berlin)... Với các phim Les Marmottes, L'Eau froide, La fille seule, cô đều được đề cử giải César.
1
null
Claire Catherine Danes (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1979) là một nữ diễn viên truyền hình, sân khấu và điện ảnh Mỹ. Cô đã xuất hiện trong các vai đa dạng như Angela Chase trong phim truyền hình tuổi teen My So-Called Life (1994), vai Juliet trong Romeo + Juliet (1996) của đạo diễn của Baz Luhrmann, vai Kate Brewster trong , vai Yvaine trong Stardust và Temple Grandin trong phim Temple Grandin của kênh truyền hình HBO. Cô cũng đóng Carrie Mathison trong phim truyền hình Homeland của kênh Showtime. Cô từng giành giải Quả cầu vàng khi tham gia các phim My So-Called Life, Temple Grandin, Homeland. Vào năm 2012, tạp chí "Time" đã ghi tên cô 1 trong số 100 người có tầm ảnh hưởng nhất thế giới, và cô đã được trao ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood vào năm 2015.
1
null
"Some Nights" là ca khúc của nhóm nhạc indie pop Mĩ Fun.. Đây là đĩa đơn thứ hai trích từ album phòng thu thứ hai cùng tên. Đĩa đơn được phát hành vào ngày 4 tháng 6 năm 2012. Ca khúc được viết bởi Jeff Bhasker, Nate Ruess, Andrew Dost và Jack Antonoff. Video âm nhạc cho ca khúc cũng được phát hành vào ngày 4 tháng 6 năm 2012. Truyền thông. "Some Nights" xuất hiện trong mùa cuối của bộ phim "Harry's Law" Video âm nhạc. Video âm nhạc cho "Some Nights" được phát hành trên MTV.com lúc 15h55 (giờ phương Đông) ngày 4 tháng 6 năm 2012. Video này được sản xuất bởi Eklavya Sehrawat và đạo diễn bởi Anthony Mandler. Trong video, ban nhạc hát ca khúc trong lúc một cuộc chiến tranh đang nổ ra, và theo đó là câu chuyện của một đôi yêu nhau nhưng lại bị chia cắt khỏi nhau bởi cuộc chiến ác liệt Bảng xếp hạng tuần. Bảng xếp hạng cuối năm. !Bảng xếp hạng (2013) !Vị trí
1
null
Kovel (, chuyển tự La Tinh "Kovel’", , ) là một thành phố thuộc tỉnh Volyn nằm ở phía Tây Bắc Ukraina, cách Lutsk - trung tâm hành chính của Volyn - 70 cây số, cách cửa khẩu biên giới Yagodin-Dorohusk 65 cây số và cách cửa khẩu biên giới Domanove 69 cây số. Kovel, một mặt là trung tâm hành chính của huyện cùng tên, mặt khác bản thân nó cũng là một huyện của tình Volyn. Dân số của Kovel ước tính năm 2009 là 65.777 người và theo thống kê năm 2010 là 68.770 người. Tên của Kovel lấy từ một trong những bản văn tự tiếng Rune cổ nhất thế giới đã bị thất lại từ hồi thế chiến thứ hai. Một mũi giáo (tên gọi là mũi giáo Kovel) được khai quật tại thành phố này vào năm 1858 có khắc những hàng chữ cổ thuộc ngôn ngữ Goth (xem). Vào năm 2008 và 2011, Kovel đạt giải thưởng "thành phố đẹp nhất và có trật tự công cộng tốt nhất" trong số những thành phố có dân số từ 5-15 vạn dân. Lịch sử. Thành phố Kovel (Kowel trong tiếng Ba Lan) được đề cập lần đầu tiên trong các tư liệu lịch sử vào năm 1310. Nó được vua Ba Lan Zygmunt I Stary cấp quy chế thành phố vào năm 1518. Vào năm 1547, Kovel nằm dưới sự cai trị của Vương hậu Ba Lan - vợ của cua Zygmunt Stary - là Bona Sforza. Vào năm 1564, Kurbski trở thành người lãnh đạo ("starost") mới của Kowel. Sau ba lần chia cắt Ba Lan, thành phố Kovel thuộc chủ quyền của Đế quốc Nga trong vòng một thế kỷ. Trong thế chiến thứ nhất, thành phố này trở thành nơi giao chiến giữa quân đội Nga với quân đội của các quốc gia thuộc Liên minh Trung tâm. Sau chiến tranh, Kovel trở thành một phần lãnh thổ của nước Cộng hòa Ba Lan và là thủ đô của Hạt Kovel thuộc tỉnh Volhynia. Trong Thế chiến thứ hai, sau khi phát xít Đức xâm lược Ba Lan và xâm lược Liên Xô, Kovel trở thành nơi diễn ra sự kiện thảm sát 18 nghìn người Do Thái trong khoảng từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1942. Từ tháng 3 đến tháng 4 năm 1944, Kovel trở thành nơi giao chiến dữ dội của sư đoàn SS số 5 "Wiking" của phát xít Đức với quân đội Liên Xô. Sau khi chiến tranh kết thúc (1945), theo thỏa hiệp của các cường quốc tại hội nghị Tehran, một phần lãnh thổ của Ba Lan được trả lại cho Liên Xô, trong đó có Kovel. Dân cư gốc Ba Lan tại đây được đưa sang các vùng lãnh thổ khác của nước Ba Lan lúc đó và Kovel trở thành một bộ phận của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô Viết Ukraina. Kovel tiếp tục là một phần lãnh thổ của nước Cộng hòa Ukraina hiện nay sau khi Liên Xô tan rã vào năm 1991. Địa lý. Địa lý tự nhiên. Kovel tọa lạc tại vùng đất thấp Polesia thuộc Đồng bằng Đông Âu. Xét về mặt địa chất học, Kovel cũng như những khu vực xung quanh, thuộc về Ковельському виступі, vốn là một phần của khối lục địa Đông Âu cổ. Thành phố nằm trên cả hai bờ của sông Turiya, có chiều chảy từ Nam lên Bắc và là một phụ lưu của sông Pripyat. Ở khu vực phía Nam của con sông là các đập và hồ nhân tạo. Kovel được bao quanh bởi các khu đồng cỏ và đầm lầy ở phía Bắc cùng với các khu rừng mưa và sa thạch ở phía Nam. Dân cư. Theo thống kê năm 2012, dân số của Kovel là khoảng 68,7 nghìn người. Kovel là thàh phố đông dân thứ nhì của tỉnh Volyn, chỉ đứng sau thủ đô Lutsk. Biểu đồ phát triển dân số của Kovel từ năm 1863 đến 2012: Giao thông. Kovel là trung tâm phía Tây Bắc của hệ thống đường sắt Ukraina, với 6 tuyến đường sắt bắt nguồn từ thành phố này. Tuyến đường sắt đầu tiên trong số đó được xây dựng từ năm 1873, nối liền Kovel với Brest-Litovsk và Rivne. Năm 1877 Kovel lần đầu tiên được nối liền với Lublin và Warswaza trong Vương quốc Lập hiến Ba Lan bằng đường sắt.
1
null
OpenShift là một dịch vụ nền tảng điện toán đám mây của hãng Red Hat. Phần mềm chạy dịch vụ là mã nguồn mở và có sẵn trên GitHub với tên "OpenShift Origin". Người phát triển phần mềm có thể sử dụng Git để triển khai ứng dụng bằng các ngôn ngữ khác nhau trên nền tảng. Đặc biệt, OpenShift cũng hỗ trợ các ứng dụng web dạng phần mềm mã nhị phân, miễn là nó có thể chạy trên RHEL Linux. Điều này làm tăng tính tùy biến của hệ thống, hỗ trợ nhiều ngôn ngữ và frameworks. OpenShift bảo trì dịch vụ bên dưới ứng dụng và thống kê ứng dụng nếu cần thiết. Các chương trình khung được hỗ trợ. OpenShift cung cấp các chương trình khung ứng dụng web dưới dạng các API tích hợp, người dùng không thể thay đổi mã nguồn của chương trình khung (framework) Vài chương trình khung chạy không thay đổi trên OnpenShift:
1
null
Magdalena Mielcarz (sinh 3 tháng 3 năm 1978, Warsaw), diễn viên, người mẫu Ba Lan, làm việc tại Mỹ. Năm 1998,cô bắt đầu nghiên cứu tại Khoa Khoa học Chính trị tại Đại học Warsaw. Năm 2001, cô đã đóng vai đầu tay của cô trong bộ phim dài tập Quo Vadis, phim có chi phí cao nhất lịch sử điện ảnh Ba Lan, dựa theo tác phẩm của Henryk Sienkiewicz. Kể từ năm 2008 cô sống ở New York. Các phim đã đóng nổi bật:
1
null
Korshun (tiếng Nga: Коршун, Diều hâu) là loại máy bay trực thăng không người lái tầm trung thử nghiệm của Nga ra mắt trong Hội thảo kỹ thuật công nghệ quốc tế năm 2010 tại Zhukovsky. Đây là loại máy bay không người lái đa chức năng với các trang bị nền tảng gắn vào theo kiểu khối tùy vào nhiệm vụ mà nó được dùng vào như giám sát môi trường, tuần tra an ninh trên không, vận chuyển hàng hóa, theo dõi sinh thái, khí tượng, cung cấp thông tin liên lạc với các khu vực khó tiếp cận... Ngoài ra, Korshun còn có thể dùng để đi vào các khu vực có thảm họa về hóa chất, sinh học hay hạt nhân để thu thập thông tin vốn rất nguy hiểm cho con người nếu lại gần. Korshun sử dụng hai cánh quạt đồng trục với động cơ kiểu pít tông, trọng lượng tổng thể là 500 kg có khả năng hoạt động trong phạm vi 300 km, mang 150 kg tải trọng và đạt tốc độ tối đa là 170 km/h.
1
null
OTR-21 "Tochka" (; , "Dấu chấm hết") là một tổ hợp tên lửa đạn đạo chiến thuật tầm ngắn của Liên Xô. Mã định danh GRAU là 9K79; tên định danh NATO là SS-21 Scarab. Tên lửa được vận chuyển và phóng đi trên xe mang phóng tự hành 9P129, tổ hợp này sử dụng hệ thống dẫn đường quán tính. OTR-21 được triển khai tới Đông Đức vào năm 1981, để thay thế cho các tổ hợp tên lửa đạn đạo chiến thuật 9K52 Luna-M. Mô tả. OTR-21 là một tổ hợp phóng tên lửa cơ động, được thiết kế để triển khai cùng với các đơn vị chiến đấu khác trên chiến trường. Trong khi 9K52 Luna-M (FROG-7) có độ chính xác thấp, thì OTR-21 có độ chính xác cao hơn rất nhiều. Tên lửa có thể tấn công các mục tiêu chiến thuật của đối phương, chẳng hạn như các cơ sở hậu cần, cầu, cảng, nhà kho, bãi tập kết, sân bay… Đầu đạn phân mảnh có thể được thay thế bằng đầu đạn hạt nhân, hóa học hoặc sinh học. Động cơ nhiên liệu rắn giúp tên lửa dễ dàng bảo dưỡng và triển khai. Các đơn vị OTR-21 thường được tổ chức thành các lữ đoàn. Mỗi lữ đoàn có 18 xe phóng; mỗi xe phóng mang 2 tới 3 tên lửa. Xe phóng có thể lội nước, vận tốc tối đa trên đường đạt và ở dưới nước. Xe có hệ thống bảo vệ NBC (sinh - hóa - hạt nhân). Tổ hợp được phát triển từ năm 1968, có 3 biến thể được chế tạo. Scarab A. "Scarab A" được đưa vào trang bị cho Lục quân Liên Xô vào năm 1975. Tên lửa có thể mang một trong ba kiểu đầu đạn: Tầm bắn tối thiểu là , cực đại đạt ; sai số trúng đích (CEP) là khoảng . Scarab B. Tổ hợp cải tiến "Scarab B" (Tochka-U) được trang bị năm 1989. Động cơ cải tiến tăng tầm bắn lên . Sai số CEP giảm đáng kể, xuống còn . Scarab C. Biến thể thứ ba Scarab C được phát triển vào thập niên 1990. Tầm bắn tăng lên , và CEP giảm. Scarab C có trọng lượng . Biến thể khác. Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên tự phát triển một biến thể có tên gọi KN-02 Toksa (Rắn lục). Toksa có tầm bắn 120–140 km, nó là tên lửa đạn đạo chính xác nhất trong kho tên lửa của Quân đội Nhân dân Triều Tiên cho đến nay. KN-02 sử dụng xe tải MAZ-630308-224 thay thế cho xe 9P129.
1
null
Danh sách các phim ăn khách nhất trong lịch sử Đức, tên tiếng Đức, một số kèm tên tiếng Anh hoặc Việt. Số liệu không phản ánh chất lượng phim. Được liệt kê trong năm 1968 công bố những bộ phim với hầu hết các rạp chiếu phim cho khán giả ở Đức, bao gồm các buổi trình chiếu lặp lại (trừ Đông Đức). Từ năm trước đó, không có số liệu đáng tin cậy có sẵn. Các dữ liệu cho các bộ phim đã được thực hiện trước khi năm 1985 là ước tính. Số liệu thống kê tại trên 25 tháng 7 năm 2013 Danh sách các phim Đức lượt xem nhiều nhất ở Đức. Liệt kê công bố các bộ phim Đức (bao gồm cả đồng sản xuất) từ năm 1968 với hầu hết các bộ phim, khán giả ở Đức, bao gồm các buổi chiếu lặp lại (trừ Đông Đức). Từ các năm trước, không có số liệu đáng tin cậy có sẵn. Các dữ liệu cho các bộ phim đã được thực hiện trước năm 1985 là ước tính. Tính đến 6 Tháng 3 năm 2011 Các bộ phim ăn khách nhất Cộng hòa dân chủ Đức. Các sản phẩm thành công nhất của khu vực chiếm đóng của Liên Xô (SBZ 1945-1949) và CHDC Đức. Các phim Đức ăn khách nhất trên đất Mỹ. Phim Đức sản xuất thành công tại Mỹ, doanh thu tính bằng đô la Mỹ. Thống kê: Tháng 3 năm 2011
1
null
OTR-23 Oka (; đặt tên theo con sông Oka) là một tổ hợp tên lửa đường đạn chiến dịch chiến thuật cơ động (), do Liên Xô chế tạo vào cuối Chiến tranh Lạnh để thay thế tổ hợp SS-1C 'Scud B'. Mã định danh GRAU của tổ hợp này là 9K714, tên định danh NATO là SS-23 Spider. Việc đưa tổ hợp Oka vào trang bị đã tăng đáng kể sức mạnh hạt nhân chiến dịch chiến thuật của Liên Xô, do tầm bắn và độ chính xác của nó cho phép tổ hợp Oka không chỉ tấn công các mục tiêu cố định của NATO như sân bay, hệ thống hạt nhân và trung tâm chỉ huy mà còn tiêu diệt cả các mục tiêu cơ động. Thời gian phản ứng của tổ hợp Oka nhanh, từ trạng thái bình thường chuyển sang sẵn sàng bắn trong khoảng 5 phút, và tên lửa gần như không thể bị đánh chặn, do đó cho phép tên lửa xuyên thủng mọi lá chắn phòng thủ của đối phương. Các thành phần chính của tổ hợp 9K714 là: Quân đội Liên Xô khẳng định Oka chỉ có tầm bắn tối đa 250 dặm (400 km). Nhưng người Mỹ lại nói nó có tầm bắn lớn hơn nhiều. Năm 1987, Mikhail Gorbachev đề nghị với George Schultz rằng Liên Xô sẽ đơn phương loại bỏ tất cả các tổ hợp Oka, nếu Mỹ ngừng xây dựng lực lượng hạt nhân tầm gần ở châu Âu, mặc dù các tướng lĩnh quân đội Liên Xô rất ủng hộ Oka. Tuy nhiên Schultz không có thẩm quyền trong đề nghị này. Đã nổ ra các cuộc tranh cái ngoại giao về tổ hợp vũ khí này vào tháng 4/1990 khi Liên Xô thông báo cho Mỹ biết, họ đã bí mật chuyển giao ít nhất 120 tên lửa cho các đồng minh trong khối Vác-xa-va là Tiệp Khắc, Đông Đức và Bulgaria trong thời gian diễn ra cuộc đàm phán Hiệp ước lực lượng hạt nhân tầm trung. Người Nga chỉ chuyển giao các tên lửa với đầu đạn thông thường. Biến thể tên lửa. Ngoài các đầu đạn trên, theo các báo cáo Oka còn có thể mạng đầu đạn hóa học.
1
null
Brovary (tiếng Ukraina: "Бровари") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Kiev. Thành phố này có diện tích ? km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 86839 người. Vào thế kỷ 19, thành phố Brovary là một phần của vùng đất Brovary của quận Ostersky thuộc tỉnh Chernigov
1
null
Mukachevo (tiếng Ukraina: "Мукачево") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Zakarpattia. Thành phố này có diện tích ? km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 82346 người. Tên gọi. Vào ngày 23 tháng 5 năm 2017, quốc hội Ukraina chính thức đổi tên thành phố từ tên cũ Mukacheve ("Мукачеве") thành Mukachevo ("Мукачево"), một năm sau khi hội đồng thành phố quyết định đổi tên thành phố.
1
null
Korosten (tiếng Ukraina: "Коростень") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Zhytomyr. Thành phố này có diện tích 42,31 km², dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 66.669 người. Nhân khẩu. Theo điều tra dân số toàn quốc năm 2001, Korosten bao gồm các dân tộc Ukraina (89%), Nga (7,5%), Ba Lan (1,5%), Belarus (0,6%) và Do Thái (0,5%). Dưới đây là dân số Korosten qua các năm: Thành phố kết nghĩa. Korosten kết nghĩa với:
1
null
Enerhodar (tiếng Ukraina: "Енергодар") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Zaporizhia. Thành phố này có diện tích 63.5 km², dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 56.242 người. Đây là nơi đặt nhà máy điện hạt nhân Zaporizhia là nhà máy điện hạt nhân lớn nhất châu Âu và cũng là nơi đạt nhà máy nhiệt điện Zaporizhia (không xa nhà máy điện hạt nhân Zaporizhia).
1
null
Izium hay Izyum (, ; ) là một thành phố của Ukraina, thuộc tỉnh Kharkiv. Thành phố này cách tỉnh lỵ Kharkiv khoảng . Izium có dân số 45.884 người vào năm 2021. Trong cuộc xâm lược Ukraina năm 2022 của Nga, thành phố này nằm dưới sự chiếm đóng của quân đội Nga từ ngày 1 tháng 4 cho đến khi lực lượng Ukraina tái chiếm vào tháng 9 như một phần của cuộc phản công Kharkiv. Khí hậu. Izium có khí hậu lục địa ẩm (phân loại khí hậu Köppen "Dfb").
1
null
Avdiivka (tiếng Ukraina: "Авдіївка") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Donetsk. Thành phố này có diện tích 20.55 km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 37210 người. Chiến tranh Donbas. Bắt đầu từ giữa tháng 4 năm 2014, phe ly khai thân Nga đã chiếm được một số thị trấn ở Donetsk Oblast; bao gồm Avdiivka. Vào ngày 21 tháng 7 năm 2014, các lực lượng Ukraine được báo cáo đã bảo vệ thành phố khỏi phe ly khai. Yêu cầu này đã được lặp lại vào ngày hôm sau. Các lực lượng Ukraine giữ quyền kiểm soát Avdiivka, nơi trở thành một thành phố tiền tuyến và thường xuyên bị pháo kích. Theo OSCE, khu vực giữa Avdiivka và khu vực ly khai láng giềng do Yasynuvata kiểm soát là một trong những điểm nóng của Chiến tranh ở Donbass. Vào tháng 3 năm 2016, quân đội Ukraine đã thiết lập các công sự của mình trong khu vực "Khu công nghiệp", cho đến lúc đó một vùng đệm giữa các vùng lãnh thổ do Cộng hòa Nhân dân Donetsk kiểm soát và quân đội Ukraine kiểm soát Ukraine nằm ở phía đông Avdiivka. Điều này có nghĩa là phe ly khai thân Nga không còn toàn quyền kiểm soát đường cao tốc đã thống nhất các thành phố do họ kiểm soát Donetsk và Horlivka và việc họ bắn vào Avdiivka với vũ khí không bị cấm theo thỏa thuận Minsk II. Kể từ tháng 3 năm 2016, cuộc đấu tranh cho "Khu công nghiệp" của Avdiivka được tăng cường mạnh mẽ. Từ ngày 29 tháng 1 năm 2017 đến ngày 4 tháng 2 năm 2017, thành phố đã bị lôi kéo vào Trận chiến Avdiivka khiến Avdiivka không có điện và sưởi ấm trong vài ngày.
1
null
Kupiansk (tiếng Ukraina: "Куп'янськ") là một thị trấn của Ukraina. Thị trấn này là huyện lỵ của huyện Kupiansk ở phía đông tỉnh Kharkiv. Thị trấn này có diện tích 33,34 km2, dân số năm 2022 là 26.627 người. Trong Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraina, thành phố nằm trong kiểm soát của Nga và trở thành tỉnh lỵ tạm thời của tỉnh Kharkiv chiếm đóng của Nga.Trong cuộc phản công Kharkiv của Ukraina vào tháng 9/2022, thành phố được giải phóng và hiện tại vẫn nằm trong kiểm soát Ukraina.
1
null
Krasnoperekopsk (, , ) là một thành phố của Nga (hiện nay do Nga quản lí). Thành phố này thuộc bán đảo Krym. Thành phố này có diện tích 22 km², dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 31.023 người. Thành phố nằm ở phía nam mũi đất Perekop, bên hồ Stare, khoảng 124 km so với thủ phủ Simferopol của Krym. Thành phố nằm bên tuyến đường sắt Dzhankoy-Kherson.
1
null
Khust (tiếng Ukraina: "Хуст") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Zakarpattia. Thành phố này có diện tích ? km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 29080 người. Sau khi 1920, khi thành phố là một phần của Tiệp Khắc, một khu vườn mô hình (Masaryk thuộc địa) được xây dựng ở đó. Khí hậu. Khust có khí hậu đại dương (phân loại khí hậu Köppen "Cfb").
1
null
Bucha (tiếng Ukraina: "Буча") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Kiev. Thành phố này có diện tích 26,57 km², dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 28.533 người. Dân số năm 2021 ước tính 36.971 người. Lịch sử. Khu định cư nảy hình thành khi xây dựng tuyến đường sắt Kyiv – Kovel vào năm 1898 xung quanh một trạm dừng xe lửa nhỏ bên sông Bucha. Bucha là một trạm dừng xe lửa của tuyến đường sắt Kyiv – Kovel tương tự như một trạm ở thành phố Irpin hiện đại. Gần trạm dừng xe lửa Bucha có một ngôi làng nhỏ tên là Yablunka, nơi từng có một nhà máy gạch. Yablunka được đề cập trong từ điển Địa lý Ba Lan thế kỷ 19 với tên gọi là làng Jabłonka cách Kyiv 37 điểm. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, trước khi Kyiv được giải phóng khỏi quân đội Đức Quốc xã vào tháng 12 năm 1943, Bucha là địa điểm đóng đại bản doanh của Phương diện quân Ukraina số 1 do tướng Vatutin chỉ huy. Bucha được cấp trạng thái thành phố vào ngày 9 tháng 2 năm 2006 (trước đây, Bucha là một thị trấn thuộc khu tự quản của thành phố Irpin). Trận Bucha. Trong xung đột Nga Ukraine, giao tranh ác liệt đã diễn ra ở Bucha như một phần của cuộc tấn công Kyiv, dẫn đến tổn thất nghiêm trọng của Nga. Các lực lượng Nga đã tấn công đài tưởng niệm chiến tranh Afghanistan của thị trấn, nơi mà họ có thể đã nhầm với một phương tiện quân sự của Ukraina. Thành phố bị quân Nga chiếm đóng vào ngày 12 tháng 3. Thị trưởng Anatoliy Fedoruk tuyên bố lực lượng Ukraina tái chiếm Bucha vào ngày 31 tháng 3 năm 2022. Thảm sát Bucha. Vào ngày 2 tháng 4 năm 2022, các bản tin và video xuất hiện cho thấy các đường phố ở Bucha phủ đầy thi thể của những người dân mặc quần áo dân sự. Một số người được tìm thấy đã bị trói tay. Theo ước tính đầu tiên, ít nhất 280 thi thể đã được tìm thấy. phía Ukraina cáo thảm sát này do quân đội Nga gây ra nhưng phía Nga phủ nhận.
1
null
Lyman (, ), trước đây còn gọi là Krasnyi Lyman () ) từ năm 1925 tới năm 2016, là một thành phố ở Tỉnh Donetsk , Ukraina . Về mặt hành chính, nó được kết hợp như một thành phố có ý nghĩa quan trọng . Cho đến năm 2016, nó cũng từng là trung tâm hành chính của Lyman Raion, mặc dù nó không phải là một phần của raion. Nó vẫn đóng vai trò là trung tâm hành chính của Lyman hromada . Dân số là 20.066 (ước tính năm 2022), giảm từ 28.172 vào năm 2001. Vào tháng 10 năm 2022, sau hai trận chiến trong cuộc xâm lược Ukraina của Nga , dân số được chính quyền ước tính là khoảng 5.000 người. Lịch sử. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những tác phẩm điêu khắc bằng đá thời kỳ đồ đá mới ở quận Lyman và di tích của người Scythia từ thế kỷ thứ tư và thứ ba trước Công nguyên. Theo tiếng Nga Entsiklopedicheskii slovar (tập 34, trang 687) vào thế kỷ XVII, một pháo đài đã được xây dựng ở đó để bảo vệ biên giới phía nam của Sloboda Ukraina khỏi các cuộc tấn công của người Tatar Krym . Nó được đề cập lần đầu tiên trong các tài liệu vào giữa những năm 1600. Trong quá trình cải cách hành chính được thực hiện vào năm 1708 bởi Sa hoàng Nga Peter I , Lyman được đề cập rõ ràng là một trong những thị trấn được đưa vào Tỉnh Azov . Thị trấn đã được trao tiền tố Krasnyi ("đỏ") vào năm 1925 cho các mục đích ý thức hệ của chế độ Xô viết . Chiến tranh Nga-Ukraina. Vào tháng 6 năm 2014, thành phố là nơi diễn ra trận Krasnyi Lyman trong cuộc chiến ở Donbas . Vào ngày 5 tháng 6, thị trấn trở lại quyền kiểm soát của Ukraina. Theo luật giải trừ cộng đồng năm 2015 , thành phố trở lại tên ban đầu là Lyman , loại bỏ tên đầu Krasnyi . Sự thay đổi đã được Verkhovna Rada (quốc hội Ukraina) thông qua vào ngày 4 tháng 2 năm 2016. Lyman là một ngã ba đường sắt quan trọng. Trong cuộc xâm lược Ukraina năm 2022 của Nga , Lyman đã bị chiếm đóng sau trận chiến giành thành phố của quân đội Nga vào ngày 27 tháng 5. Những người chiếm đóng Nga đã đổi tên thành phố trở lại thành Krasnyi Liman của Liên Xô ngay sau đó. Từ ngày 10 tháng 9, quân đội Ukraina tiến đến Lyman như một phần của cuộc phản công Kharkiv của Ukraina , và giao chiến với quân đội Nga trong trận được gọi là Trận Lyman lần thứ hai . Ngày 1 tháng 10, Bộ Quốc phòng Nga Người phát ngôn tuyên bố rằng các lực lượng Nga đang rút khỏi thành phố, vài giờ sau khi tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố thành phố này bị Nga sáp nhập . Ngành Công Nghiệp. Lyman là đầu mối đường sắt quan trọng, chuyên chở tới 30% lượng hàng hóa trên hệ thống đường sắt Donetsk. 35% cư dân làm việc trong ngành vận tải đường sắt và 18% trong ngành công nghiệp. Các doanh nghiệp vận tải đường sắt bao gồm văn phòng địa phương của Cục quản lý đường sắt Donetsk, trạm động cơ đường ray PMS-10, kho đầu máy ТЧ-1, kho ô tô РПЧ-3, cùng nhiều địa điểm và đoạn đường bảo trì. Các ngành công nghiệp khác bao gồm chế biến thực phẩm, nhà máy thức ăn chăn nuôi, quản lý mỏ đá, nhà sản xuất bê tông Leman-Beton và các ngành khác. Hơn 80 doanh nghiệp nông nghiệp hoạt động trong khu vực. Ngành kinh doanh lâm nghiệp và chăn nuôi là một trong những ngành quan trọng nhất ở Ukraine. Hơn 40.000 tấm da chồn được sản xuất tại Lyman hàng năm. Ngoài ra còn có một chi nhánh của công ty năng lượng 000 Donbasnefteprodukt. Các ngành công nghiệp khác bao gồm nhà máy gạch silicat, nhà máy bê tông và nhựa đường, và nhà máy đóng hộp thực phẩm. Nhân khẩu học. Theo điều tra dân số Ukraina năm 2001 : Thị trấn kết nghĩa. Vào ngày 11 tháng 1 năm 2023 Westport, Connecticut chính thức công bố Lyman là thành phố kết nghĩa của họ.
1
null
Berehove (tiếng Ukraina: "Берегове") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Zakarpattia. Thành phố này có dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 26735 người. Khí hậu. Berehove có khí hậu đại dương (phân loại khí hậu Köppen "Cfb"). Thành phố kết nghĩa. Berehove kết nghĩa với:
1
null
Kaniv (tiếng Ukraina: "Канів") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Cherkasy. Thành phố này có diện tích 17,42 km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 26657 người. Thành phố năm bên sông Dnepr, và cũng là một trong các cảng nội địa sông chính trên Dnepr. Nhà thơ Ukraina Taras Shevchenko, được coi là một người sáng lập của văn học Ukraina, được chôn cất trên một ngọn đồi nhìn ra Dnepr trong Kaniv, và thành phố nhà ở một bảo tàng tưởng niệm dành riêng cho ông. Ngành công nghiệp trong thành phố bao gồm: nhà máy thủy điện Kaniv ở hồ chứa nước Kaniv trên sông Dnepr, một loại trái cây và rau quả, gia vị, nhà máy sữa lớn và nhà máy sản xuất pho mát, chế biến thịt gia cầm.
1
null
Slavutych (tiếng Ukraina: "Славутич") là một thành phố của Ukraina, thuộc tỉnh Kiev. Thành phố này có diện tích 2,53 km2. Slavutych được xây dựng cho những công nhân viên chức tại Pripyat còn sống sót sau Thảm họa Chernobyl. Thành phố có dân số . Vị trí. Slavutych nằm tại bờ phía tây của sông Dnieper, cách Chernihiv 40 km, Pripyat 45 km, Nhà máy điện nguyên tử Chernobyl 50 km (đều nằm trong Ivankiv Raion). Về địa lí, Slavutych nằm trong Ripky Raion, nhưng về mặt hành chính, trước 2020 là thành phố cấp tỉnh, sau 2020 là thành viên của Vyshhorod Raion.
1
null
Henichesk (tiếng Ukraina: "Генічеськ") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Kherson. Thành phố này có diện tích 7,04 km2, dân số theo điều tra dân số tháng 1 năm 2022 là 18,889 người. Trong cuộc xâm lược vào Ukraina, thành phố nằm trong sự chiếm đóng.Sau cuộc Phản Công Kherson của Ukraina, tỉnh lỵ Kherson của Nga dời về đây và tuyên bố chủ quyền phần bờ Tây còn lại của Kherson.
1
null
Bohodukhiv (tiếng Ukraina: "Богодухів") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Kharkiv. Thành phố này có diện tích ? km², dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 18.224 người. Giao thông. Thành phố có ga xe lửa Bohodukhiv trên tuyến đường sắt phía Nam từ năm 1878, nằm ở tọa độ . Thành phố kết nghĩa. Bohodukhiv kết nghĩa với:
1
null
Ilovaisk (tiếng Ukraina: "Іловайськ") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Donetsk. Thành phố này có diện tích 10,8 km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 17620 người. Các ngôn ngữ được sử dụng tại đây gồm: Nga 82,6% Ukraina 16,8% Armenia 0,2% Romani 0,1%
1
null
Vuhledar (tiếng Ukraina: "Вугледар") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Donetsk. Thành phố này có diện tích ? km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 17440 người. Trong chiến tranh Nga xâm lược Ukraina năm 2022,thành phố trở thành 1 trong những trận đánh lớn ở tỉnh Donestk và được giới chức quân sự Ukraina đánh giá là trận đánh xe tăng lớn nhất trong chiến sự hiện tại.
1
null
Svaliava (tiếng Ukraina: "Свалява") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Zakarpattia. Thành phố này có diện tích ? km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 17145 người. Nhân khẩu. Theo cuộc điều tra dân số năm 2001, các dân tộc cư trú trong thành phố là:
1
null
Huliaipole (tiếng Ukraina: "Гуляйполе") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Zaporizhia. Thành phố này có diện tích 23.1 km², dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 17.077 người. Lịch sử. "Xem chi tiết:Trận Huliaipole" Ngày 5 tháng 3 năm 2022, Quân đội Nga trong cuộc tấn công ở phía Nam Ukraine đã tấn công thành phố này, bắt đầu cuộc chiến giành thành phố. Hầu hết thành phố đã bị phá hủy trong trận chiến và theo Al Jazeera thì mọi cw dân đã chuyển xuống dưới các tầng hầm.
1
null
Rakhiv (tiếng Ukraina: "Рахів") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Zakarpattia. Thành phố này có diện tích ? km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 15241 người. Trong chiến tranh thế giới thứ i, giáo sư Tomáš Garrigue Masaryk ở lại đó trong 1917-1918, như là mảng kỷ niệm tại khách sạn Ukraine kỷ niệm. Khí hậu. Rakhiv có khí hậu lục địa ẩm (phân loại khí hậu Köppen "Dfb").
1
null
Marinka (tiếng Ukraina: "Мар'їнка") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Donetsk. Thành phố này có diện tích ? km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 10722 người.. Trong lịch sử thì khu vực ngày nay là Marinka từng là một phần của Kalmius Palanka vốn là một đơn vị hành chính thế kỷ XVIII của Zaporizhian Sich. Chiến tranh. Vào tháng 6 năm 2015, thị trấn Marinka là nơi diễn ra trận chiến gần Marinka một ngày, cuộc xung đột nghiêm trọng đầu tiên sau khi ký kết hiệp ước Minsk II vào tháng 2 năm 2014, trong đó các lực lượng Ukraine tái chiếm giữ thị trấn này trở lại sau một cuộc tấn công DPR. Đến năm 2022, Nga mở chiến dịch Nga xâm lược Ukraina và trận chiến lần thứ hai ở nơi đây lại bắt đầu khi pháo kích vào thị trấn Marinka với cường độ ngày càng tăng từ ngày 17 tháng 2 năm 2022 đến ngày 22 tháng 2 năm 2022. Đến tháng 11 năm 2022, phần lớn thị trấn Marinka đã bị phá hủy, không còn dân thường và một số tòa nhà đổ nát còn sót lại sau cuộc giao tranh khốc liệt. Vào ngày 25 tháng 12 năm 2023, phía Nga cho biết lực lượng của họ đã chiếm trọn thành phố nhưng quân đội Ukraine ban đầu phủ nhận tuyên bố này cho đến ngày hôm sau khi Tổng tư lệnh Ukraine Valerii Zaluzhnyi xác nhận Marinka đã thất thủ.
1
null
Zorynsk (tiếng Ukraina: "Зоринськ") là một thành phố của Ukraina. Thành phố này thuộc tỉnh Luhansk. Thành phố này có diện tích 8.68 km2, dân số theo điều tra dân số năm 2001 là 8838 người.Nhưng đến năm 2020 thì dân số đã giảm xuống còn 7,150 ngườido Bất ổn tại Ukraina năm 2014.
1
null
2S4 "Tyulpan" (thường phát âm là "Tulpan", ; ) là một hệ thống súng cối tự hành của Liên Xô. Tên định danh của GRAU là "2S4". Lục quân Liên Xô trang bị cối tự hành 2S4 vào năm 1975 và do đó NATO gọi loại cối này là M-1975 (2S7 Pion cũng có tên định danh M-1975), trong khi tên định danh chính thức là SM-240(2S4). Nó được thiết kế dựa trên khung gầm xe rải mìn bánh xích GMZ, cối M-240 240 mm được đặt ở phía sau xe. Khẩu đội cối 2S4 gồm 4 người, nhưng thêm một người để vận hành cối. Tầm bắn đạt 9.650 mét, nhưng với đạn tăng tầm có thể đạt tới 20.000 m. Do kích thước vũ khí và trọng lượng đạn lớn (một viên đạn tiêu chuẩn nặng 130 kg), nên nó có tốc độ bắn rất chậm: 1 viên/phút. Ngoài các loại đạn liều nổ mạnh, nó còn có thể bắn đạn xuyên giáp, đạn có đầu đạn hóa học và hạt nhân. Nó còn có thể bắn đạn dẫn đường bằng laser "Smel'chak" (liều mạng). Tyulpan hiện là cối nặng nhất trong trang bị quân đội trên toàn thế giới. 2S4 đã tham chiến ở Afghanistan và Chechnya. Trong cả hai cuộc xung đột, đạn Smel'chak phá hủy mục tiêu một cách nhanh chóng, chính xác. Hỏa lực mạnh nhưng vì kích thước lớn nên tốc độ bắn chậm.
1
null
Node.js là một hệ thống phần mềm được thiết kế để viết các ứng dụng internet có khả năng mở rộng, đặc biệt là máy chủ web. Chương trình được viết bằng JavaScript, sử dụng kỹ thuật điều khiển theo sự kiện, nhập/xuất không đồng bộ để tối thiểu tổng chi phí và tối đa khả năng mở rộng. Node.js bao gồm có V8 JavaScript engine của Google, libUV, và vài thư viện khác. Node.js được tạo bởi Ryan Dahl từ năm 2009, và phát triển dưới sự bảo trợ của Joyent. Mục tiêu ban đầu của Dahl là làm cho trang web có khả năng push như trong một số ứng dụng web như Gmail. Sau khi thử với vài ngôn ngữ Dahl chọn Javascript vì một API Nhập/Xuất không đầy đủ. Điều này cho phép anh có thể định nghĩa một quy ước Nhập/Xuất điểu khiển theo sự kiện, non-blocking. Vài môi trường tương tự được viết trong các ngôn ngữ khác bao gồm Twisted cho Python, Perl Object Environment cho Perl, libevent cho C và EventMachine cho Ruby. Khác với hầu hết các chương trình Javascript, Nodejs không chạy trên một trình duyệt mà chạy trên Server. Node.js sử dụng nhiều chi tiết kỹ thuật của CommonJS. Nó cung cấp một môi trường REPL cho kiểm thử tương tác. Node.js được "InfoWorld" bình chọn là "Công nghệ của năm" vào năm 2012. Ví dụ. Đây là phiên bản hello world HTTP Server trên Node.js: var http = require('http'); http.createServer(function (request, response) { response.writeHead(200, {'Content-Type': 'text/plain'}); response.end('Hello World\n'); }).listen(80); console.log('Server running at http://localhost:80/'); Đoạn mã sau là một máy chủ TCP hoạt động trên cổng 7000 và in ra chuỗi 'hello' trên mỗi kết nối: var net = require('net'); net.createServer(function (stream) { stream.write('hello\r\n'); stream.on('end', function () { stream.end('goodbye\r\n'); stream.pipe(stream); }).listen(7000); Cộng đồng. Cộng đồng phát triển Node.js chủ yếu tập trung ở hai nhóm google: nodejs và nodejs-dev, một kênh IRC là #node.js trên mạng freenode. Có một hội thảo về Node.js là NodeConf được tổ chức thường niên. Hiện nay Node.js được sử dụng bởi nhiều công ty trong đó có Linkedin, Microsoft, Yahoo! và Walmart.
1
null
Liv Rundgren Tyler (sinh ngày 1 tháng 7 năm 1977) là một diễn viên và người mẫu người Mỹ. Tyler bắt đầu làm người mẫu lúc 14 tuổi, nhưng sau một năm thì chú trọng về diễn xuất hơn. Cô ta đóng phim đầu tiên năm 1994 trong phim "Silent Fall". Cô ta có diễn xuất trong các phim "Empire Records" (1995), "Heavy" (1996) và "That Thing You Do" (1996). Sau đó Tyler trở nên nổi bật khi thủ diễn vai chính trong phim "Stealing Beauty" (1996). Kế tiếp đó, cô có tham gia trong các phim "Inventing the Abbotts" (1997) và "Cookie's Fortune" (1999). Tyler được nổi tiếng trên quốc tế nhờ vai trò cô gái Elf Arwen Undómiel trong bộ phim "Lord of the Rings". Cô ta cũng diễn xuất trong "Jersey Girl", phim "Lonesome Jim" (2005), phim "Reign Over Me" (2007) và các phim có kinh phí cao như "Armageddon" (1998), "The Strangers" (2008) và "The Incredible Hulk" (2008). Tyler là đại sứ thiện chí của Mỷ ở UNICEF kể từ 2003, và là phát ngôn viên của Givenchy. Tuổi thơ. Liv Tyler có tên khai sinh là Liv Rundgren, cô được sinh ra ở bệnh viện Mount Sinai ở East Harlem, thành phố Manhattan, New York. Là con gái duy nhất của người mẫu, diễn viên Bebe Buell và Steven Tyler, ca sĩ chính của ban nhạc huyền thoại Aerosmith. Cô được mẹ của mình đặt tên theo nữ diễn viên người Na Uy Liv Ullmann. Từ năm 1972 đến năm 1979, Bebe Buell chung sống với Todd Rundgren, ca sĩ chính của ban nhạc Utopia. Cuối năm 1976, bà mang thai sau mối quan hệ chớp nhoáng với Steven Tyler. Để bảo vệ đứa con gái của mình khỏi Steven, khi đó vẫn còn đang vật lộn với cơn nghiện ma túy - Bebe đã tuyên bố Todd Rundgren là mới là bố ruột và đặt tên đứa bé là Liv Rundgren, Todd cũng đã ký tên vào Giấy khai sinh cho Liv. Dù cả 2 chia tay một thời gian ngắn sau sự ra đời của Liv, Todd vẫn coi cô như con gái và chu cấp chi phí để nuôi dưỡng cô, bản thân Liv sau này cũng nói rằng: "Tôi rất biết ơn khi Todd (Rundgren) chấp nhận làm bố của tôi, hành động của ông ấy như muốn nói rằng "Dù đứa bé này không phải là con ruột của tôi, nhưng tôi vẫn muốn làm cha của nó."". Cả hai vẫn duy trì mối quan hệ tốt đẹp cho đến nay. Năm lên 10, Liv lần đầu gặp mặt Steven và nghi ngờ về danh tính của mình khi cô nhận ra sự tương đồng về dung mạo của mình với Mia Tyler (con gái của Steven và vợ ông ở thời điểm đó là Cyrinda Foxe), người nhỏ hơn Liv 1 tuổi. Liv đã hỏi điều này với Bebe và mọi chuyện được sáng tỏ. Mãi đến năm 1991, sự thật này mới được công khai trước truyền thông khi cô đổi họ của mình sang "Tyler", còn họ cũ "Rundgren" vẫn được cô giữ làm tên đệm. Sau khi biết được sự thật, tình cảm cha con giữa Liv và Steven ngày càng khăng khít hơn. Họ cũng có những sự hợp tác với nhau trong công việc khi Liv tham gia đóng MV "Crazy" của Aerosmith vào năm 1994. 4 năm sau, Steven cùng ban nhạc trình diễn cho một số ca khúc trong bom tấn "Armageddon", bộ phim mà Liv vào vai nữ chính. Đời sống cá nhân. Tyler bắt đầu hẹn hò với Joaquin Phoenix, bạn diễn của cô trong phim "Inventing the Abbotts" trong 3 năm từ 1995 đến 1998, Liv cũng trở thành người ăn chay trường trong khoảng thời gian hẹn với Joaquin. Năm 1998, Tyler công khai mối quan hệ với nhạc sĩ Anh Royston Langdon của băng nhạc Spacehog. Hai người đính hôn vào tháng 2 năm 2001, và thành hôn ở Barbados vào ngày 25 tháng 3 năm 2003. Ngày 14 tháng 12 năm 2004, cô hạ sinh con trai đầu lòng, Milo William Langdon. Ngày 8 thạng 5 năm 2008, hai người xác nhận chia tay nhưng vẫn giữ quan hệ bạn bè. Trong phỏng vấn với báo "Daily Telegraph", Tyler cho biết sư chia tay với Langdon đã khiến bản thân chuyển về Los Angeles. Cô cắt nghĩa rằng ở lại tại căn nhà hai người đã chung sống rất là khó khăn với cô. Trong tháng 6 năm 2010, Tyler nói rằng nàng quá nhạy cảm để đi chơi lăng nhăng ("I am far too sensitive for casual dates".) Cô nói thêm "Lâu thật lâu tôi mới yêu một lần ("I fall in love once in a blue moon."). Năm 2014, cô hẹn hò với Dave Gardner, nhà quản lý thể thao người Anh và là bạn thân của David Beckham. Họ có với nhau 2 người con gái: Sailor Gene Garner (sinh năm 2015) và Lula Rose Gardner (sinh năm 2016), David Beckham cũng chính là cha đỡ đầu của Sailor. Đến cuối năm 2021, cả hai chia tay nhưng vẫn giữ mối quan hệ tốt đẹp.
1
null
Chúa tể những chiếc nhẫn (tựa gốc tiếng Anh: The Lord of the Rings) là một loạt ba bộ phim phiêu lưu giả tưởng sử thi do Peter Jackson đạo diễn, dựa trên cuốn tiểu thuyết do J. R. R. Tolkien viết. Các bộ phim có phụ đề là ' (2001), ' (2002) và "" (2003). Được sản xuất và phân phối bởi New Line Cinema với sự đồng sản xuất của WingNut Films, loạt phim này là một liên doanh quốc tế giữa New Zealand và Hoa Kỳ. Loạt phim có sự góp mặt của một dàn diễn viên bao gồm Elijah Wood, Ian McKellen, Liv Tyler, Viggo Mortensen, Sean Astin, Cate Blanchett, John Rhys-Davies, Christopher Lee, Billy Boyd, Dominic Monaghan, Orlando Bloom, Hugo Weaving, Andy Serkis và Sean Bean. Lấy bối cảnh thế giới hư cấu ở Trung Địa, phim theo chân anh chàng hobbit Frodo Baggins khi anh và Hiệp hội nhẫn thần bắt tay vào nhiệm vụ phá hủy One Ring, để đảm bảo sự hủy diệt của kẻ tạo ra nó, Chúa tể hắc ám Sauron. Hiệp hội nhẫn thần cuối cùng tách ra và Frodo tiếp tục nhiệm vụ cùng với người bạn đồng hành trung thành Sam và con Gollum phản bội. Trong khi đó, Aragorn, người thừa kế lưu vong ngai vàng của Gondor, cùng với Legolas, Gimli, Boromir, Merry, Pippin và phù thủy Gandalf, đoàn kết để cứu các Dân tộc Trung địa Tự do khỏi lực lượng của Sauron và tập hợp họ trong Cuộc chiến Chiếc nhẫn để hỗ trợ Frodo bằng cách đánh lạc hướng sự chú ý của Sauron. Ba bộ phim được quay đồng thời và hoàn toàn tại quê hương New Zealand của Jackson từ ngày 11 tháng 10 năm 1999 cho đến ngày 22 tháng 12 năm 2000, với các cảnh quay được thực hiện từ năm 2001 đến năm 2004. Đây là một trong những dự án phim lớn nhất và tham vọng nhất từng được thực hiện, với kinh phí 281 triệu đô la. Bộ phim đầu tiên trong loạt phim được công chiếu tại Quảng trường Odeon Leicester ở London vào ngày 10 tháng 12 năm 2001; bộ phim thứ hai được công chiếu tại Rạp Ziegfeld ở Thành phố New York vào ngày 5 tháng 12 năm 2002; bộ phim thứ ba được công chiếu tại Rạp Đại sứ quán ở Wellington vào ngày 1 tháng 12 năm 2003. Một phiên bản mở rộng của mỗi bộ phim đã được phát hành dưới dạng băng đĩa một năm sau khi phát hành tại các rạp chiếu phim. "Chúa tể của những chiếc nhẫn" được nhiều người đánh giá là một trong những loạt phim vĩ đại nhất và có ảnh hưởng nhất từng được thực hiện. Đây là một thành công lớn về mặt tài chính và là một trong những loạt phim có doanh thu cao nhất mọi thời đại với 2,991 tỷ USD doanh thu trên toàn thế giới. Cả ba bộ phim đều nhận được sự hoan nghênh rộng rãi từ các nhà phê bình và khán giả, những người ca ngợi diễn xuất, chỉ đạo, biên kịch, giá trị sản xuất, điểm số, tham vọng, chiều sâu cảm xúc, hiệu ứng đặc biệt đột phá và sự trung thành với nguồn tư liệu. Các bộ phim đã nhận được nhiều giải thưởng, giành được 17 trong tổng số 30 đề cử Giải Oscar, bao gồm cả Phim hay nhất cho "Sự trở lại của nhà vua". Vào năm 2021, "Hiệp hội nhẫn thần" đã được Viện Lưu trữ phim Hoa Kỳ chọn để bảo quản trong Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vì "có ý nghĩa về mặt văn hóa, lịch sử hoặc thẩm mỹ".
1
null
Người khổng lồ xanh phi trường (tựa gốc tiếng Anh: The Incredible Hulk) là một bộ phim siêu anh hùng dựa trên nhân vật Hulk của Marvel Comics, do Marvel Studios sản xuất và Universal Pictures phát hành. Đây là bộ phim thứ hai trong Vũ trụ Điện ảnh Marvel (MCU). Phim do Louis Leterrier đạo diễn với kịch bản của Zak Penn. Phim có sự tham gia của tài tử Edward Norton, Liv Tyler, Tim Roth, Tim Blake Nelson, Ty Burrell và William Hurt. Trong "The Incredible Hulk", một câu chuyện sườn mới được lập nên nơi Bruce Banner trở thành Hulk giống như một con tốt vô thức trong một kế hoạch quân sự nhằm phục hồi chương trình siêu chiến binh qua tia bức xạ gamma. Trên đường chạy trốn Banner cố gắng tự chữa mình khỏi trở thành Hulk trước khi bị Tướng Thaddeus "Thunderbolt" Ross bắt. Nhưng những nỗi sợ tồi tệ nhất của anh ập đến khi tên lính thèm khát quyền lực Emil Blonsky trở thành sinh vật tương tự như anh nhưng thú tính hơn nhiều. Nội dung. Tại Đại học Culver ở Virginia, Đại tướng Thaddeus "Thunderbolt" Ross gặp Tiến sĩ Bruce Banner, đồng nghiệp và bạn trai của con gái ông Betty, liên quan đến một thí nghiệm mà Ross tuyên bố là nhằm làm cho con người miễn nhiễm với bức xạ gamma. Thí nghiệm là một phần của chương trình "Siêu chiến binh" từ Chiến tranh Thế giới II mà Ross hy vọng sẽ tái khởi động, đã thất bại. Việc tiếp xúc với bức xạ gamma khiến Banner biến thành Hulk trong một khoảng thời gian ngắn, bất cứ khi nào nhịp tim của anh ta tăng trên 200 nhịp mỗi phút. Hulk phá hủy phòng thí nghiệm và khu vực xung quanh, giết chết một số người bên trong và làm bị thương Đại tướng và Betty, và những người khác bên ngoài. Banner trở thành kẻ chạy trốn khỏi quân đội Hoa Kỳ và Ross, người muốn vũ khí hóa Hulk. 5 năm sau, Banner làm việc tại một nhà máy đóng chai ở Rocinha, Rio de Janeiro, Brasil, trong khi tìm kiếm phương pháp chữa trị cho tình trạng của mình. Trên internet, anh ta hợp tác ẩn danh với một đồng nghiệp chỉ được biết đến với cái tên "Mr. Blue". Anh ấy đang học các kỹ thuật Yoga để giúp giữ kiểm soát và không bị biến đổi trong năm tháng. Sau khi Banner cắt ngón tay của mình, một giọt máu của anh ta rơi vào một cái chai, cuối cùng được một người tiêu dùng lớn tuổi ở Milwaukee, Wisconsin ăn vào, khiến anh ta mắc bệnh gamma. Sử dụng chiếc chai để theo dõi Banner, Ross cử một đội đặc nhiệm, dẫn đầu bởi Emil Blonsky, để bắt anh ta. Banner biến thành Hulk, đánh bại đội của Blonsky và làm Blonsky bị thương nặng. Sau khi Ross giải thích cách Banner trở thành Hulk, Blonsky đồng ý được tiêm một lượng nhỏ huyết thanh tương tự, giúp tăng cường tốc độ, sức mạnh, sự nhanh nhẹn và khả năng hồi phục nhưng cũng bắt đầu biến dạng khung xương và làm suy yếu khả năng phán đoán của anh ta. Banner trở lại Đại học Culver và đoàn tụ với Betty. Banner bị tấn công lần thứ hai bởi lực lượng của Ross và Blonsky, bị lừa bởi người bạn trai đáng ngờ của Betty là Leonard Samson, khiến Banner một lần nữa biến thành Hulk. Trận chiến sau đó bên ngoài trường đại học chứng tỏ lực lượng của Ross vô ích, và họ rút lui, mặc dù Blonsky, người đang chùn bước, tấn công và chế giễu Hulk. Hulk làm Blonsky bị thương nặng và bỏ trốn cùng Betty. Sau khi Hulk quay lại với Banner, anh ta và Betty tiếp tục chạy trốn, và Banner liên lạc với Mr. Blue, người đã thúc giục họ gặp anh ta ở thành phố New York. Mr. Blue thực sự là nhà sinh học tế bào, Tiến sĩ Samuel Sterns, người nói với Banner rằng anh ta đã phát triển một loại thuốc giải độc có thể áp dụng cho tình trạng của Banner. Sau khi thử nghiệm thành công, anh ta cảnh báo Banner rằng thuốc giải độc chỉ có thể đảo ngược mỗi lần biến đổi. Sterns tiết lộ rằng anh ta đã tổng hợp các mẫu máu của Banner, mà Banner gửi từ Brasil, thành một nguồn cung cấp lớn, để áp dụng "tiềm năng vô hạn" của nó cho y học. Lo sợ sức mạnh của Hulk rơi vào tay quân đội, Banner mong muốn phá hủy nguồn cung cấp máu. Blonsky được hồi phục gia nhập lực lượng của Ross để nỗ lực thứ ba nhằm bắt Banner. Họ thành công, Banner và Betty được đưa đi trên một chiếc trực thăng. Blonsky ở lại và ra lệnh cho Sterns tiêm máu Banner cho anh ta, vì anh ta thèm muốn sức mạnh của Hulk. Thí nghiệm biến Blonsky thành Abomination, một sinh vật có kích thước và sức mạnh vượt trội hơn Hulk. Anh ta tấn công Sterns, người bị dính một ít máu của Banner ở vết cắt trên trán, khiến anh ta cũng bắt đầu đột biến. Abomination hoành hành qua Harlem. Nhận ra rằng Hulk là người duy nhất có thể ngăn chặn Abomination, Banner thuyết phục Ross thả anh ta ra. Anh ta nhảy từ trực thăng của Ross và biến hình sau khi chạm đất. Sau một trận chiến khắp Harlem, Hulk đánh bại Abomination bằng cách gần như siết cổ anh ta đến chết bằng dây xích, nhưng tha mạng khi nghe lời cầu xin của Betty và để lại Abomination cho Ross và lực lượng của anh ta bắt giữ. Sau khi có một khoảnh khắc yên bình với Betty, Hulk bỏ trốn khỏi New York. Một tháng sau, Banner ở Bella Coola, British Columbia. Thay vì ngăn chặn sự biến đổi của mình, anh ta bắt đầu biến đổi một cách có kiểm soát với một nụ cười nhếch mép nhẹ. Sau đó, Tony Stark tiếp cận Ross tại một quán bar địa phương và thông báo với anh ta rằng một đội đang được tập hợp lại với nhau. Diễn viên. Robert Downey Jr. có một vai khách mời không được công nhận là Tony Stark / Người Sắt ở cuối phim. Downey xuất hiện như một sự ưu ái dành cho Marvel Studios, điều mà anh ấy thừa nhận là một bước đi thông minh của Marvel, bởi vì khi anh ấy đang quảng cáo cho bộ phim của mình, anh ấy cũng sẽ phải đề cập đến quá trình sản xuất khác của họ. Đồng sáng tạo Hulk, Stan Lee, đóng vai một người đàn ông bị ốm khi uống soda bị nhiễm độc máu của Banner. Michael K. Williams xuất hiện như một người ngoài cuộc của Harlem, một vai diễn được viết cho anh ta bởi Norton, một người hâm mộ của "The Wire." Paul Soles, người lồng tiếng cho Banner trong loạt phim hoạt hình năm 1966 "The Marvel Super Heroes", xuất hiện với tư cách là Stanley, một chủ nhà hàng pizza tốt bụng, người đã giúp đỡ Banner. Ngoài ra, Bill Bixby quá cố xuất hiện, trong một cảnh trong bộ phim hài kịch truyền hình "The Courtship of Eddie's Father của anh ấy" trên một chiếc Banner truyền hình đang xem ở đầu phim. Rickson Gracie có một vai nhỏ là chỉ đạo võ thuật của Bruce Banner; mặc dù Gracie có nền tảng Jiu-Jitsu Brazil, nhưng ông vẫn được coi là một huấn luyện viên Aikido. Nữ diễn viên Brazil Débora Nascimento xuất hiện trong vai Martina, đồng nghiệp của Banner tại một nhà máy sản xuất đồ uống. Peter Mensah đóng một vai nhỏ là Tướng Joe Greller, một trong những người bạn / cộng sự quân sự của Tướng Ross. Christina Cabot đóng vai Thiếu tá Kathleen Sparr, phụ tá riêng của Tướng Ross. Nhân vật phụ của Hulk, Jim Wilson và Jack McGee, lần lượt xuất hiện với tư cách là sinh viên Đại học Culver do P.J. Kerr và Nicholas Rose thủ vai. Martin Starr đóng vai một sinh viên đại học, được coi là "Computer Nerd". Nhân vật này đã được hồi tố tiết lộ là Roger Harrington, vai trò Starr trong ' (2017), "Spider-Man: Far From Home" (2019) và ' (2021), được xác nhận vào tháng 5 năm 2019 bởi Feige.
1
null
Steven Tyler (Tên thật là Steven Victor Tallaricco; sinh ngày 26 tháng 3 năm 1948, tại Mỹ) là một ca sĩ, người viết nhạc, và là một tay chơi guitar, harmonica, piano, đồng thời là ca sĩ chính của ban nhạc Aerosmith. Ông được gọi là "Con Quỷ Gào thét" ("Demon of Screamin") vì hay hát bằng giọng cao và giọng hát trải nhiều cung bậc. Trong thập niên 70, ông nổi tiếng như giọng ca chính của Aerosmith. Lúc đó Aerosmith có nhiều albums tiếng tăm như "Toys in the Attic" hay "Rocks"... Trong thập niên 80, Tyler có vấn đề với thuốc và rượu. Dù vậy Steven vẫn đi diễn liên tục và thường xuyên trong nhóm Aerosmith. Aerosmith. Trước khi Aerosmith thành hình, Tyler đã ra một đĩa đơn mang phong cách đặc thù của Aerosmith sau này - "Dream On". Năm 1969, Tyler gặp Joe Perry (guitar) và Tom Hamilton. Về sau Tyler nói rằng ông rất ấn tượng với thái độ và sự mãnh liệt trong cách chơi nhạc của họ. Khoảng năm 1970, Tyler, Perry và Hamilton quyết định thành lập Aerosmith. Cả ban nhạc dời về Boston, trong một căn hộ nhỏ trên đường Commonwealth Avenue ở Brighton. Năm 1973, Aerosmith có được một hit nhỏ nhờ "Dream On", bài này lên đến hạng 59 trong năm. Đến năm 1975, Aerosmith cho ra Toys in the Attic và Rocks (1976), và bắt đầu được mọi người biết đến. Năm 1975, Aerosmith lên đến Top 40 nhờ bản "Sweet Emotion". Gia đình và quan hệ. Tyler có mối quan hệ trong thời gian ngắn với người mẫu Bebe Buell; hai người có một con gái Liv Tyler, sinh năm 1977. Buell đầu tiên nói Todd Rundgren là cha Liv để Liv khong bị ảnh hưởng bởi những vấn đề liên quan đến thuốc và rượu của Tyler. Năm 1978, Steven Tyler thành hôn với Cyrinda Foxe, một cựu người mẫu. Hai người có một cô con gái là Mia Tyler. Tyler và Foxe ly dị vào 1987. Năm 1997, Foxe viết cuốn sách có tên "Dream On: Livin' on the Edge With Steven Tyler and Aerosmith", thuật lại đời sống của 2 người với nhau. Foxe chết vì ung thư não năm 2002. Tháng 5, 1988, Tyler cưới người vợ thứ hai, Teresa Barrick. Hai người có một con gái, Chelsea Anna Tallarico (born ngày 6 tháng 3 năm 1989), và một con trai, Taj Monroe Tallarico (born ngày 31 tháng 1 năm 1992). Tháng 2 2005, Tyler và Teresa thông báo ly thân vì những vấn đề cá nhân. Tháng 1 2006, họ chính thức ly dị. Tyler có quan hệ với Erin Brady từ năm 2006. Ông đính hôn với Brady vào tháng 12 năm 2011.
1
null
Chân trời (hoặc đường chân trời) là một đường có thể nhìn thấy rõ ràng phân cách mặt đất với bầu trời.". Khi đứng từ bờ và nhìn ra biển thì vùng biển gần đường chân trời được gọi là "khơi". Trong tiếng Anh, từ "horizon" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "ὁρίζων κύκλος" (horizōn kyklos), "vòng tròn chia cắt", từ động từ "ὁρίζω" (horizō), "chia, tách", và từ "ὅρος" (Oros), " ranh giới, mốc". Hình thức và ứng dụng. Trước khi loài người phát minh ra đài phát thanh và điện báo thì khoảng cách tới chân trời có thể nhìn thấy ở trên biển là cực kỳ quan trọng vì nó thể hiện phạm vi tối đa có thể truyền tin và tầm nhìn. Thậm chí ngày nay, khi điều khiển một chiếc máy bay theo quy tắc VFR (Vision flight rules), là tập hợp những quy tắc hướng dẫn phi công điều khiển máy bay trong điều kiện thời tiết cho phép có thể dùng mắt thường định vị vị trí, đường đi, né tránh chướng ngại vật của máy bay, thì phi công cũng sử dụng các mối quan hệ trực quan giữa mũi của máy bay và đường chân trời để điều khiển máy bay. Một phi công cũng có thể dựa vào đường chân trời để định hướng không gian. Trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là phép chiếu phối cảnh trong các bản vẽ, thì độ cong của Trái Đất được bỏ qua và chân trời được xem là một đường thẳng lý thuyết mà tất cả các điểm trên bất kỳ mặt phẳng nằm ngang nào cũng đều hội tụ về đó (khi chiếu lên mặt phẳng hình ảnh) làm tăng khoảng cách từ người quan sát (làm cho người quan sát cảm thấy được độ xa gần của hình ảnh chiếu 3D). Trong thiên văn học, chân trời là mặt phẳng nằm ngang qua mắt của người quan sát. Nó là mặt phẳng cơ bản của hệ tọa độ chân trời và là quỹ tích các điểm có độ cao 0 độ. Khoảng cách đến chân trời. Bỏ qua ảnh hưởng của sự khúc xạ trong khí quyển, thì khoảng cách từ 1 người quan sát trên mặt đất đến chân trời, là khoảng: trong đó, "d" tính bằng km, "h" là độ cao so với mực nước biển tính bằng m. Ví dụ: Với "d" tính bằng dặm, "h" tính bằng feet, thì Công thức hình học. Nếu giả định Trái Đất là một hình cầu không có khí quyển thì ta có thể dễ dàng tính ra khoảng cách từ người quan sát tới chân trời. (Bán kính cong của Trái Đất thực sự thay đổi 1%, do đó công thức này là không chính xác thậm chí đã giả sử là không có sự khúc xạ.) Theo công thức liên hệ giữa tiếp tuyến và cát tuyến trong đường tròn, ta có: Trong đó: Phương trình trở thành: hoặc "R" là bán kính Trái Đất. Ta cũng có thể sử dụng định lý Pythagore trong trường hợp này để tính khoảng cách đến chân trời. Do tia nhìn của người quan sát tiếp tuyến với đường tròn Trái Đất cho nên nó vuông góc với bán kính tại điểm tiếp xúc, tạo nên 1 tam giác vuông với cạnh huyền là tổng bán kính với độ cao của người quan sát so với mực nước biển. Với: Theo định lý Pythagore, ta có: Một phương trình thể hiện sự tương quan giữa độ dài cung tròn "s" với góc mở "γ" tính bằng radian: mà: Thế vào, ta có: Lại có: Thế vào phương trình trên: Khoảng cách "d" và độ dài cung tròn "s" là gần bằng nhau vì độ cao "h" rất bé so với bán kính "R" ("h" ≪ "R") Những công thức hình học gần đúng. Nếu người quan sát đứng ở vị trí gần với mặt đất, thì độ cao "h" trong tham số có thể bỏ qua, khi đó công thức trở thành: Với giá trị của bán kính Trái Đất là 6371 km thì khoảng cách đến đường chân trời là: với "d" được tính bằng km, "h" là độ cao tính từ mực nước biển đến mắt của người quan sát với đơn vị đo lường là mét. Nếu sử dụng hệ thống đơn vị của Anh, thì khoảng cách đến đường chân trời là: với "d" tính bằng dặm, "h" tính bằng feet. Những công thức trên được sử dụng khi độ cao "h" rất bé nếu so với bán kính Trái Đất (6.371 km), kể cả khi người quan sát đứng ở trên 1 đỉnh núi, trên máy bay hoặc khinh khí cầu. Với các hằng số đã xác lập thì những công thức này có sai số trong phạm vi khoảng 1%. Công thức tính chính xác với giả định Trái Đất là hình cầu. Nếu độ cao "h" là đáng kể so với bán kính R, như khi quan sát từ các vệ tinh, thì cần phải có công thức tính chính xác: Với "R" là bán kính Trái Đất ("R" và "h" phải tính cùng 1 đơn vị đo lường. Ví dụ, nếu vị tinh ở độ cao 2000 km, thì khoảng cách đến đường chân trời là ; nếu ta bỏ qua tham số "h" thì sẽ cho 1 kết quả là với sai số lên đến 7%. Những đối tượng quan sát được ở trên đường chân trời. Để tính toán chiều cao của một đối tượng có thể nhìn thấy trên đường chân trời, với giả thuyết đối tượng quan sát được là đỉnh của một vật thể thì ta tính được khoảng cách từ đỉnh đó đến đường chân trời, sau đó thêm kết quả này vào khoảng cách từ người quan sát đến đường chân trời. Ví dụ, một người quan sát với chiều cao 1,70 m đứng trên mặt đất, khoảng cách từ người đó đến đường chân trời là 4,65 km. Đối với một tháp với chiều cao 100 m, khoảng cách từ đỉnh tháp đến đường chân trời là 35,7 km. Vì vậy, một người quan sát trên một bãi biển có thể nhìn thấy tháp miễn là nó cách người quan sát không xa hơn 40,35 km. Ngược lại, nếu một người quan sát trên một chiếc thuyền (h = 1,7 m) chỉ có thể nhìn thấy ngọn cây cao 10m trên một bờ biển gần đó nếu cây này cách người quan sát trong khoảng 16 km. Theo hình bên phải, người trên thuyền chỉ có thể nhìn thấy được ngọn hải đăng nếu như: với "D"BL tính bằng km, "h"B và "h"L tính bằng m. Nếu không bỏ qua khúc xạ khí quyển, thì điều kiện về tầm nhìn trở thành: Ảnh hưởng của sự khúc xạ khí quyển. Do các tia sáng bị khúc xạ khí quyển, nên khoảng cách thực tế của đường chân trời thấy được (tầm nhìn) sẽ lớn hơn khoảng cách tính toán với công thức hình học. Với những điều kiện tiêu chuẩn của khí quyển, sự sai lệch là khoảng 8%, tuy nhiên, sự khúc xạ bị ảnh hưởng bởi gradient nhiệt độ, thay đổi đáng kể hàng ngày, đặc biệt là trên mặt nước, do đó, giá trị tính toán cho sự khúc xạ chỉ xấp xỉ. Phương pháp chính xác - Sweer Khoảng cách "d" đến đường chân trời được tính bằng công thức: với "R"E là bán kính Trái Đất, "ψ" là độ nghiêng (võng) của đường chân trời và "δ" là độ khúc xạ của đường chân trời. Độ nghiêng được tính dễ dàng bằng công thức: với "h" là độ cao của người quan sát so với mặt đất, "μ" là chỉ số khúc xạ của không khí ở độ cao của người quan sát, và "μ"0 là chỉ số khúc xạ của không khí ở bề mặt Trái Đất. Độ khúc xạ "δ" của đường chân trời tính bằng công thức: với formula_23 là góc tạo bởi tia sáng với đường thẳng nối với tâm của Trái Đất. Góc "ψ" và formula_23 tương quan với nhau theo công thức: Phương pháp gần đúng—Young Có thể tính gần đúng bằng công thức đơn giản hơn sử dụng . Khoảng cách đến đường chân trời là: Lấy bán kính Trái Đất là 6371 km, với "d" tính bằng km và "h" tính bằng m, với "d" tính bằng dặm và "h" tính bằng feet, Kết quả tính bằng phương pháp Young gần đúng với kết quả từ phương pháp Sweer, với sai số có thể chấp nhận được.
1
null
Armageddon (Ngày tận thế) là một phim hành động khoa học viễn tưởng, ra mắt vào năm 1998, do Michael Bay làm đạo diễn, sản xuất bởi Jerry Bruckheimer và phát hành bởi Disney's Touchstone Pictures. Phim nói về một phi hành đoàn được gửi vào không gian để ngăn cản một tảng thiên thạch khổng lồ sắp va vào Trái Đất. Các diễn viên trong phim gồm có Bruce Willis, Ben Affleck, Billy Bob Thornton, Liv Tyler, Owen Wilson, Will Patton, Peter Stormare, William Fichtner, Michael Clarke Duncan, Keith David và Steve Buscemi. Tóm tắt. Năm 1998, tàu vũ trụ Atlantic nổ tung trong không gian sau khi va chạm với hàng nghìn thiên thạch nhỏ trong lúc người ta đang tiến hành sửa chữa. Ngay sau đó, một khu vực nằm giữa Phần Lan và tiểu bang South Carolina (Mỹ) cũng hứng chịu sự tấn công của thiên thạch. Nhiều tòa nhà cao tầng và danh lam thắng cảnh ở Thành phố New York bị thiên thạch phá hủy, trong đó có Trung tâm Thương mại Thế giới. Các nhà khoa học của NASA, đứng đầu là Dan Truman (Billy Bob Thornton), cho rằng một tảng thiên thạch có kích thước tương đương bang Texas đang hút các thiên thạch nhỏ về phía Trái Đất. Tảng thiên thạch khổng lồ này sẽ đâm vào Trái Đất trong 18 ngày nữa, hủy diệt toàn bộ sự sống trên bề mặt hành tinh. Họ khẩn trương vạch ra kế hoạch để ngăn chặn nó. Phần lớn phương án đưa ra đều không khả thi do tảng thiên thạch có khối lượng và tốc độ quá lớn. Cuối cùng, một nhà khoa học tên Ronald Quincy (Jason Isaacs) cho rằng cách duy nhất để làm thay đổi quỹ đạo của tảng thiên thạch là găm một đầu đạn hạt nhân vào lõi của nó và kích nổ đầu đạn từ xa. NASA quyết định tuyển mộ Harry Stamper (Bruce Willis), người được cho là thợ khoan giỏi nhất thế giới. Họ tìm thấy anh trên một giàn khoan dầu ở biển Đông, nơi anh đang làm việc cho một công ty Đài Loan. Đó là một người đàn ông mạnh mẽ, dám vác súng đuổi theo A. J. Frost (Ben Affleck), một công nhân dưới quyền, chỉ vì anh này dám tán tỉnh cô con gái Grace (Liv Tyler) của ông. Harry đồng ý giúp NASA phá hủy tảng thiên thạch với điều kiện ông phải được làm việc cùng đội khoan của ông, NASA chấp thuận đề nghị này của Harry. Đội khoan của Harry gồm có: Bear, Oscar, Noonan, Max, Rockhound và Chick, A. J. Frost cũng tình nguyện gia nhập nhóm để chứng tỏ tình yêu với con gái của Harry, đi cùng với họ có phi công Sharp, Watts và chuyên viên Gruber của con tàu "Tự Do" ("Freedom"), phi công Davis, Tucker và chuyên viên Halsey của con tàu "Độc Lập" ("Independence"). Theo kế hoạch, các thợ khoan sẽ khoan một hố sâu hơn 300 m vào lõi của tảng thiên thạch khổng lồ rồi đặt một quả bom nguyên tử vào đó. Khi quả bom được kích nổ, tảng thiên thạch sẽ vỡ làm đôi và bị lệch quỹ đạo, bay xa khỏi Trái Đất. Để đảm bảo rằng không có một mảnh vỡ nào của tảng thiên thạch rơi trúng Trái Đất, việc kích nổ phải được thực hiện ở một khoảng cách định sẵn, gọi là "Zero Barrier". Phi thuyền chở nhóm thợ khoan sẽ tiếp cận tảng thiên thạch từ phía sau rồi thả họ xuống bề mặt tảng thiên thạch. Đội thợ khoan của Harry được tham gia một khóa huấn luyện cấp tốc để thích nghi với điều kiện làm việc trong không gian. Khi khóa huấn luyện sắp hoàn thành thì một ngôi sao băng bất ngờ đi vào bầu khí quyển Trái Đất và lao xuống thành phố Thượng Hải ở Trung Quốc khiến cả thành phố bị phá hủy, gây nên một cơn sóng thần và làm khoảng 50.000 người thiệt mạng. Tai họa đó trở thành tâm điểm của báo chí thế giới và mọi sự quan tâm của dư luận tập trung vào chiến dịch của NASA cũng như đội ngũ của Harry. Ngày thực hiện sứ mệnh đã đến, hai tàu con thoi "Independence" (Độc Lập) và "Freedom" (Tự Do) được phóng lên và bay tới trạm không gian Mir của Nga để nạp nhiên liệu. Tại đây, Harry và các cộng sự gặp Lev Andropov, nhà du hành vũ trụ người Nga đã lên trạm được 18 tháng. Do một sự cố trong lúc nạp nhiên liệu, trạm không gian nổ tung. May mà hai phi thuyền kịp bay đi. Thế là Lev trở thành người đồng hành cùng đoàn. Trong lúc bay vòng ra phía sau Mặt Trăng để có thể hạ cánh xuống bề mặt tảng thiên thạch khổng lồ khi nó đi qua, 2 tàu con thoi gặp phải các mảnh vụn của thiên thạch và liên tục phải né tránh, tuy nhiên do có quá nhiều mảnh vụn, hai động cơ đẩy chính của Independence bị phá hỏng bởi một mảnh vụn khiến con tàu rơi vào tình trạng mất kiểm soát và rơi, khiến hai phi công và 3 thành viên trong đội khoan thiệt mạng. Chiếc "Independence" lao xuống bề mặt tảng thiên thạch và chỉ có ba người sống sót, trong đó có A.J. Chiếc "Freedom" cũng bị hư hại, nhưng vẫn hạ cánh an toàn. Hệ thống điện đài trên chiếc "Freedom" bị hỏng nên liên lạc với Trái Đất trở nên ngắt quãng. Nơi hạ cánh của phi thuyền là một vùng được cấu thành từ toàn sắt, nhưng Harry cùng các thợ khoan vẫn quyết tâm bắt tay vào công việc. Ngay sau đó, họ nhận ra rằng việc khoan sâu 300 m ở một bề mặt toàn sắt là không thể. Kế hoạch có nguy cơ đổ vỡ khi mọi nỗ lực tỏ ra vô hiệu, chưa dừng lại ở đó, xích mích giữa Harry và Sharp (cơ trưởng tàu "Freedom") trở nên trầm trọng khiến Tổng thống Mỹ quyết định kích nổ quả bom từ xa mà không cần đợi cả đội phải khoan xong, việc này khiến Truman vô cùng tức giận vì ông biết nếu kích nổ quả bom trên bề mặt thì vô dụng, tuy nhiên quả bom vẫn được kích hoạt qua cơ chế hẹn giờ. Phát hiện điều đó, Sharp cùng 1 chuyên viên khác đã gỡ kíp nổ, cứu nguy cho cả đội, đồng thời anh cũng hòa giải với Harry. Trong lúc đó, Lev, Bear, A. J tìm được nhau trong xác tàu, họ sử dụng chiếc xe khoan để di chuyển đến chỗ đội tàu Freedom, tuy gặp 1 sự cố khiến ho chiếc xe suýt nữa bay ra ngoài không gian nhưng với sự nhanh trí của Lev, cả ba người vẫn an toàn và họ vẫn giữ được chiếc xe. Tuy nhiên, may mắn lại không đến với Harry, mũi khoan liên tục hỏng vì gặp phải sắt cứng, đồng thời 1 tai nạn cũng khiến Max thiệt mạng cùng chiếc xe khoan duy nhất của tàu "Freedom." Vô vọng, Harry báo với NASA rằng nhiệm vụ đã thất bại khiến cả thế giới bàng hoàng, đúng lúc đó A. J đến nơi cùng chiếc xe khoan còn lại và khiến mọi người kinh ngạc, Cả đội lại bắt tay vào khoan, dù gặp khó khăn nhưng với bản lĩnh của mình, chính A. J đã thành công trong việc khoan sâu xuống 300 m và đưa quả bom hạt nhân xuống lỗ, Lúc này, một trận bão thiên thạch xảy ra trên bề mặt tảng thiên thạch khổng lồ, khiến 1 chuyên viên thiệt mạng trong khi quả bom bị hỏng bộ kích nổ từ xa. Điều này đồng nghĩa với việc 1 người sẽ phải ở lại và kích nổ quả bom bằng tay, cũng có nghĩa là người đó sẽ hi sinh, họ tiến hành bốc thăm và A. J là người ở lại. Tuy nhiên, Harry đã không đồng ý với việc để A. J hi sinh, ông đánh A. J một cái và giành lấy bộ kíp nổ, nói rằng ông sẽ làm việc này, còn việc của A. J là chăm sóc con gái ông. Qua kênh liên lạc, Harry nói lời vĩnh biệt với Grace cùng cả đội. Chiếc tàu con thoi gặp khó khăn lúc cất cánh nhưng cuối cùng họ cũng đã thoát ra được trong khi Harry vật lộn với cơn bão thiên thạch thứ 2, lúc tưởng chừng như tảng thiên thạch sắp vượt qua Zero Barrier, Harry lấy lại kíp nổ và ấn nút, một vụ nổ cực lớn diễn ra, phá hủy tảng thiên thạch khổng lồ thành trăm mảnh. Sứ mệnh thành công trong niềm hân hoan của toàn nhân loại. Chiếc tàu con thoi "Freedom" hạ cánh trở lại Trái Đất và cả đội được đón tiếp như những người hùng vĩ đại của cả thế giới. Bộ phim kết thúc với cảnh hôn lễ của A. J và Grace cùng sự có mặt của mọi người, cũng như để tưởng nhớ những thành viên đã hi sinh thân mình trong sứ mệnh giải cứu thế giới. "Chú thích: Xe khoan ở đây có tên trong phim là Armadillo" Thông tin thêm Armageddon được xem như một trong những bộ phim về đề tài ngày tận thế hay nhất trong lịch sử điện ảnh. Tác phẩm không chỉ dừng ở nhiệm vụ cứu nguy cấp bách cho cả nhân loại trước sự tồn vong của Trái Đất, mà còn xoáy sâu vào tình cha con giữa Harry và Grace, tình yêu của A. J và Grace, tình cảm vợ chồng, tình nghĩa bạn bè, cùng những sự hi sinh cao cả... Bộ phim được IMDb đánh giá khá cao với số điểm 6.4/10. Armageddon nhận được 4 đề cử Oscar bao gồm: Best Sound Editing, Best Visual Effects, Best Sound Mixing, Best Original Musical, 12 giải và 27 đề cử khác.
1
null
Đây là danh sách các trận đánh, chiến dịch, vây hãm, hành quân, các cuộc giao tranh... với tất cả quy mô lớn, nhỏ xảy ra tại lãnh thổ Việt Nam hoặc có sự tham gia của Việt Nam trong lịch sử 4.000 năm qua các triều đại và các thời kì.
1
null
Silent Fall là một phim bí mật ra năm 1994 về một em bé có bệnh tự kỷ, và là nhân chứng duy nhất trong một cuộc giết người rùng rơn. Phim dạo diễn bởi Bruce Beresford, và có các tài tử Richard Dreyfuss, Linda Hamilton, John Lithgow, J. T. Walsh, và Liv Tyler. Chuyện phim. Cốt truyện xoay quanh Tim, một em bé trai bịnh tự kỷ. Bé Tim thấy cha mẹ cậu bị giết. Bác sỉ tâm thần Rainer được mời khám nghiệm Tim để tìm ra manh mối vụ án. Nhưng ông ta không dụ Tim nói ra được em đã thấy chuyện gì xảy ra trong vụ án mang. Chị của Tim là Silvie rất bảo bộc em. Silvie cuối cùng thì cũng đồng lòng với bác sỉ Rainer, nhưng đồng thời cũng điều tra về đời tư ông ta. Silvie khám phá ra là ông ta bị cho rằng có dính líu đến vụ tự tử của một đứa trẻ nhỏ khác. Ông ta đã là bác sỉ của em đó...
1
null
2S5 "Giatsint-S" (; – Lan dạ hương) là một loại pháo lựu tự hành 152 mm của Liên Xô/Nga. Mã định danh GRAU là "2S5", được trang bị hệ thống bảo vệ xạ-sinh-hóa. Sản xuất. 2S5 Giatsint-S bắt đầu được sản xuất vào năm 1976 cùng với phiên bản của pháo 2A36 Giatsint-B. Đưa vào trang bị năm 1978 nên 2S5 có tên mã định danh của Mỹ là M1981.
1
null
2S7 "Pion" ("Hoa mẫu đơn") hay Malka là loại lựu pháo tự hành dùng đạn pháo cỡ lớn 203 mm do Liên Xô và Nga chế tạo. Mã định danh của GRAU là "2S7". Do phương Tây lần đầu phát hiện nó trong Lục quân Liên Xô vào năm 1975 nên nó được gán tên định danh NATO là M-1975 (2S4 Tyulpan cũng có tên định danh M-1975), dù tên định danh chính thức của nó là SO-203(2S7). Nó được thiết kế dựa trên khung gầm của xe tăng T-80, trang bị một khẩu pháo 2A44 203 mm. Khẩu đội pháo 2S7 gồm 7 người, thời gian chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu là 5-6 phút, thời gian thu hồi là 3-5 phút. 2S7 có thể bắn cả đạn hạt nhân chiến thuật. Tầm bắn đạt 37.500 mét, có thể mở rộng lên tới 55.500 mét. Quốc gia sử dụng. Ước tính có khoảng 1.000 đơn vị 2S7 được chế tạo. Lịch sử phục vụ. Loại pháo lựu tự hành cỡ lớn này được pháo binh Liên Xô và các nước vốn là thành viên của Liên Xô sử dụng trong các cuộc xung đột mà họ tham gia:
1
null
Stealing Beauty (; ) là một phim ra năm 1996 đảo diễn bởi Bernardo Bertolucci gồm các tài tử Liv Tyler, Joseph Fiennes, Jeremy Irons, and Sinéad Cusack. Phim được viết do Bertolucci và Susan Minot; phim nói về một thiếu nữ Mỹ du lịch qua Ý để sống với những bạn của mẹ cô (Mẹ cô vừa tự tử) Đây lần đầu tiên Liv Tyler thủ vai chính. "Stealing Beauty" chiếu lần đầu ở Ý vào tháng 3 năm 1996, và được bình chọn cho Cannes Film Festival 1996 ở Pháp vào tháng năm. Phim chiếu ở Mỷ vào ngày 14 tháng 6 năm 1996. Câu chuyện. Thiếu nữ Mỹ Lucy Harmon đến Tusan để sống với các bạn và gia đình trong một villa xinh đẹp. Bốn năm trước, cô từng đến đó và có hôn một chàng trai Ý. Lucy mong được gặp lại chàng trai đó vì mẹ cô vừa mới quyên sinh và cô muốn tìm ra ai là cha cô. Mẹ cô có tiết lộ rằng đó là một người trong villa. Sau khi đến tòa villa, Lucy làm quen với những người địa phương. Nhiều người đàn ông ở đây rất chú ý đến cô, nhưng người được Lucy chọn không phải là người mà cô định lúc đầu. Nhạc trong phim. Hole's song "Olympia" (AKA 'Rockstar') was also used in the film. Tyler was shown dancing and singing wildly along to the track, listening with her headphones and walkman. Đón nhận. Phim được khen và cũng được chê. Nhưng vai của Liv được khen ngợi nhiều, khiến vai này trở thành vai thăng tiến của cô.
1
null