text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Cadiscus aquaticus là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được E.Mey. ex DC. mô tả khoa học đầu tiên năm 1838. Đây là loài duy nhất của chi "Cadiscus", một số ý kiến sử dụng kết quả phân tích di truyền xếp loài thuộc vào chi "Senecio". với tên mới được chấp nhận năm 2009 là "Senecio cadiscus". | 1 | null |
Biến hoa sông Hằng (danh pháp khoa học: Asystasia gangetica) là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được (L.) T.Anderson mô tả khoa học đầu tiên năm 1860.
Cây "Asystasia gangetica micrantha", thường được gọi là rau ngót nhật. Vì là loại cây dễ trồng nên đã được nhiều người trồng làm rau, làm cảnh.
Cây này không kén đất, có thể mọc ở nơi tráng nắng cũng như dưới bóng dâm. Cây thường được nhân giống bằng cách dâm cành. | 1 | null |
Asystasiella atroviridis là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô.
Loài này được Thomas Anderson mô tả khoa học đầu tiên năm 1867 trong "J. Linn. Soc., Bot." 9: 526. Năm 1895, tại trang 326 quyển 4 phần 3b sách Naturlichen Pflanzenfamilien của A. Engler & K. Pranttl (Nat. Pflanzenfam. [Engler & Pranttl]) Gustav Lindau thiết lập chi "Asystasiella" có quan hệ họ gần với chi "Asystasia" và chuyển nó thành danh pháp như đề cập hiện tại.
Danh pháp "Ruellia atroviridis" được Nathaniel Wallich chép tay dưới số 2404 trang 72 bản thảo năm 1830 của Numer. List. nhưng không có mô tả gì thêm. | 1 | null |
Song biến Nees (danh pháp khoa học: Asystasiella neesiana) là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô.
Loài này được Nathaniel Wallich mô tả khoa học đầu tiên năm 1830 tại trang 73 quyển 1 sách Plantae Asiaticae Rariores (Pl. Asiat. Rar.) dưới danh pháp "Ruellia neesiana". Tại trang 89 quyển 3 sách này năm 1832 ông đồng nhất "Asystasia neesiana" với "Ruellia neesiana" .
Năm 1895, tại trang 326 quyển 4 phần 3b sách "Naturlichen Pflanzenfamilien" của A. Engler & K. Pranttl ("Nat. Pflanzenfam. [Engler & Pranttl]") Gustav Lindau thiết lập chi "Asystasiella" có quan hệ họ gần với chi "Asystasia" và chuyển loài này thành danh pháp như TPL đề cập hiện tại.
Lưu ý rằng "Ruellia neesiana" đề cập trong bài này có ở Nam Á và Đông Nam Á, và là loài khác biệt hoàn toàn với "Ruellia neesiana" có ở Brasil. | 1 | null |
Avicennia germinans (trong tiếng Anh gọi là "black mangrove", mắm "đen") là một loài cây trong họ Ô rô (Acanthaceae). Chúng mọc trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới của châu Mỹ, trên cả hai bờ Thái Bình Dương lẫn Đại Tây Dương, cũng như bờ Đại Tây Dương của vùng nhiệt đới châu Phi, nơi chúng lớn tràn lan trên những bãi biển lắm cát hay bùn mà nước biển lấn tới. Chúng còn phổ biến khắp vùng duyên hải của Texas và Florida, và lan rộng tới tận Louisiana và Georgia của Hoa Kỳ. Đây là loài chống chịu và tống lượng muối bên trong ra nhờ lá.
Như hầu hết các loài mắm khác, hạt con bắt đầu phát triển từ khi chưa rời cây mẹ.
Cái tên "mắm đen" bắt nguồn từ màu thân và gỗ lõi. Lá cây có khi trông trăng trắng do sự thải muối vào ban đêm hay ngày trời râm. Nó thường sống xen kẽ với "Rhizophora mangle" và "Laguncularia racemosa". Ba loài cây này giúp ổn định bờ biển, làm rào chắn sóng bão, ngăn mảnh vụn triều cuốn, và cung cấp chỗ kiếm ăn và sinh sản cho nhiều chủng loại cá, động vật có vỏ và chim.
Môi trường sống.
"A. germinans" mọc ngay trên nơi triều cường cạnh các đầm phá và cửa sông nước lợ. Dù có thể thoát muối qua lá, bản thân cây chịu mặn kém hơn một số loài tương tự sống cùng hệ sinh thái. Nó có thể đạt chiều cao , dù nó có xu hướng thu thành cây bụi khi mọc xa vùng nhiệt đới. Hạt nảy mầm giữa mùa hè. | 1 | null |
Calea zacatechichi là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Schltdl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1834.
Nền Văn Hóa phổ biến.
Nhà soạn nhạc người Mỹ David Woodard, người đã nuôi dưỡng Calea zacatechichi tại điền trang San Francisco của mình, đã sáng tác một ca khúc có tựa đề "Calea Zacatechichi", mà ông đã thu âm với một dàn hợp xướng toàn Tây Ban Nha. | 1 | null |
Cúc tâm tư hay còn gọi cúc kim tiền, hoa xu xi (danh pháp khoa học: Calendula officinalis) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Sử dụng.
Loài Cúc tâm tư đã được sử dụng truyền thống làm thuốc thảo dược, ẩm thực. Các cánh hoa có thể ăn được và có thể được sử dụng dưới dạng tươi trong món salad hoặc khô để tạo màu cho phô mai hoặc thay thế cho nghệ tây.
Người La Mã và Hy Lạp đã sử dụng Cúc tâm tư trong nhiều nghi lễ và các lễ rước bằng cách kết thành vòng hoa hoặc vương miện hoa đội lên. Một trong những biệt danh của nó là "Maria's Gold" đề cập đến việc sử dụng các hoa của chúng trong các sự kiện Công giáo ở một số nước. Hoa cúc tâm tư là hoa linh thiêng ở Ấn Độ và đã được sử dụng để trang trí những bức tượng của vị thần Hindu ngay từ thời rất xa xưa.
Tác dụng dược lý.
Dầu Calendula vẫn được sử dụng trong y học. Dầu của C. officinalis được sử dụng như một chất chống viêm, một tác nhân kháng u, và một phương thuốc để chữa lành vết thương.
Nhà máy nghiên cứu dược lý đã gợi ý rằng chiết xuất Calendula có đặc tính kháng virus, antigenotoxic, và chống viêm trong ống nghiệm. Trong ngành thảo dược, Calendula trong cồn được sử dụng tại chỗ để điều trị mụn, giảm viêm, kiểm soát chảy máu và các mô bị kích thích nhẹ nhàng. Một số bằng chứng giới hạn cho biết Calendula kem hoặc thuốc mỡ có hiệu quả trong điều trị viêm da bức xạ. Ứng dụng Đề tài của C. officinalis thuốc mỡ đã giúp ngăn ngừa viêm da và đau, do đó làm giảm tỷ lệ mắc bệnh của xạ trị bị bỏ qua trong các thử nghiệm ngẫu nhiên.
Calendula đã được sử dụng truyền thống cho đau bụng và táo bón. Trong các thí nghiệm với thỏ hỗng tràng, chiết xuất dung dịch nước-ethanol của C. officinalis hoa đã được chứng minh là có tác dụng chống co thắt, do đó cung cấp một cơ sở khoa học cho việc sử dụng truyền thống này. Chiết xuất dung dịch nước của C. officinalis thu được bằng phương pháp chiết xuất mới mẻ đã chứng minh kháng u (gây độc tế bào) hoạt động và các đặc tính điều hòa miễn dịch (kích hoạt tế bào lympho) trong ống nghiệm, cũng như các hoạt động chống khối u ở chuột.
Cây Calendula được biết là gây ra các phản ứng dị ứng, và nên tránh trong thời kỳ mang thai.
Nền văn hóa cổ đại công nhận và sử dụng các đặc tính chữa bệnh của calendula. Trong một số các tác phẩm y tế sớm nhất, calendula đã được đề nghị để chữa các bệnh của đường tiêu hóa. Nó được sử dụng để giải độc cho gan và túi mật. Những bông hoa được đắp lên các vết cắt và vết thương để ngăn chặn chảy máu, ngăn ngừa nhiễm trùng và mau lành. Calendula cũng được sử dụng cho các bệnh phụ nữ khác nhau, và để điều trị một số bệnh về da. Trong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, hoa calendula đã được sử dụng trên các chiến trường trong những vết thương mở như antihemorrhagic và chất khử trùng, và loài hoa này đã được sử dụng để băng bó cho vết thương mau lành. Calendula cũng được sử dụng theo cách này trong Thế chiến I. Calendula có tầm quan trọng trong lịch sử y học trong nhiều nền văn hóa, và nó vẫn quan trọng trong y học thay thế ngày hôm nay.
Trong ẩm thực.
Loài Calendula đã đượ sử dụng trong nấu ăn trong nhiều thế kỷ. Những bông hoa là một thành phần phổ biến trong các món súp và các món hầm Đức, điều này giải thích biệt danh "cúc vạn thọ nồi". Các cánh hoa vàng đáng yêu cũng được sử dụng để điểm thêm màu sắc cho bơ và pho mát. Những bông hoa là thành phần truyền thống trong các món ăn Địa Trung Hải và Trung Đông. Trà Calendula cung cấp lợi ích sức khỏe, cũng như là vị ngon.
Sử dụng làm thuốc nhuộm.
Những bông hoa đẹp đã từng được sử dụng như một nguồn thuốc nhuộm cho vải. Bằng cách sử dụng các màu khác nhau, màu vàng, cam và nâu. | 1 | null |
Blepharis angusta là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Christian Gottfried Daniel Nees von Esenbeck mô tả khoa học đầu tiên năm 1847 dưới danh pháp "Acanthodium angustum". Năm 1863, Thomas Anderson chuyển nó sang chi "Blepharis".
Phân bố.
Loài này có trong khu vực đông bắc Nam Phi (các tỉnh Gauteng, Mpumalanga, Limpopo, North West). | 1 | null |
Blepharis grossa là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được (Nees) T.Anderson mô tả khoa học đầu tiên năm 1864. Đây là loài bản địa Angola, Namibia và các tỉnh Cape.
Phân loại.
Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1847 bởi Nees von Esenbeck với danh pháp "Acanthodium grossum". Danh pháp đã được sửa đổi vào năm 1863 bởi Thomas Anderson thành "Blepharis grossa". | 1 | null |
Carlina acaulis là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Đây là loài bản địa vùng núi cao Trumg và Nam Áu. Loài này có 2 phân loài. Thân rễ chứa một số loại tinh dầu, đặc biệt là oxit carlina kháng khuẩn. Rễ trước đây được sử dụng trong y học thảo dược như một phương thuốc lợi tiểu và cảm lạnh. | 1 | null |
Tai ria, tên khoa học Blepharis maderaspatensis, là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Carl Linnaeus miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Acanthus maderaspatensis". Năm 1821, trên cơ sở mô tả trước đó của Benjamin Heyne, Albrecht Wilhelm Roth chuyển nó sang chi "Blepharis".
Mô tả.
Cây thân thảo cao tới 30 cm, sống lâu năm. Thân cây mọc bò, trườn hay bò sát mặt đất, đôi khi thuôn dài, thô ráp hoặc có lông tơ. Các lá thường 4 trên một vòng giả gồm 2 đôi không đều nhau; cuống lá khoảng 2 mm, có lông măng; phiến lá hình elip đến hình trứng ngược – hình mũi mác, 2,5-5 × 1-2 cm, có lông măng, gân phụ 3-5 ở mỗi bên của gân giữa, gốc lá hình nêm, mép gợn sóng hoặc có răng cưa, đỉnh nhọn. Hoa ở nách lá và đơn độc hoặc thành cụm gồm các cành ít hoa; lá bắc mọc thành đôi, hình thìa rộng đến hình trứng ngược thuôn dài, 4-13 × 2-6 mm, không bằng nhau, với các cặp bên trong lớn hơn các cặp bên ngoài, có 3 gân rõ nét, mép có lông rung cứng. Đài hoa có lông măng, chia thùy không đều; các thùy sau và thùy trước thuôn dài, 1,2-1,8 × 0,4-0,6 cm, 3 gân, đỉnh của thùy trước thường có 2 khe; các thùy bên hình mác thẳng, 9-12 × 2-3 mm, mép có lông rung. Tràng hoa màu ánh trắng, thường có màu hồng hoặc tía; môi hình trứng ngược, 1,6-1,7 × khoảng 0,8 cm, tỏa rộng; thuỳ hình trứng-thuôn dài. Chỉ nhị khoảng 5 mm. Vòi nhụy khoảng 1,2 cm. Quả nang hình elipxoit, khoảng 8 mm, nhẵn nhụi. Hạt khoảng 3 × 2 mm. Ra hoa tháng 12. Nhiễm sắc thể "2n" = 16, 22, 24, 26, 28, 30.
Phân bố.
Rộng khắp châu Phi, qua bán đảo Ả Rập, tiểu lục địa Ấn Độ tới Đông Dương và đảo Hải Nam. Tại Trung Quốc gọi là 百勒花 (bai le hua, bách lặc hoa).
Tại Việt Nam, tai ria thường mọc ở vùng khô hạn, từ Nha Trang đến Phan Rang. | 1 | null |
Mảnh cộng hay lá cầm, cây bìm bịp, cây xương khỉ, ưu độn thảo (tên khoa học: Clinacanthus nutans) là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Nicolaas Laurens Burman mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1768 dưới danh pháp "Justicia nutans". Năm 1894, Gustav Lindau chuyển nó sang chi "Clinacanthus". | 1 | null |
Thanh cúc hay còn gọi thỷ xa cúc, xa cúc lam, cúc ngô (danh pháp khoa học: Centaurea cyanus) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753..
Hoa được xem là Biểu tượng quốc gia của Estonia. Thanh cúc cũng từng là quốc hoa của nước Đức.
Thanh cúc có hàm lượng đường cao trong mật hoa của nó (34%) và giá trị đường cao của nó (lên đến 0,20 mg đường / ngày trên mỗi bông hoa). Trong y học dân gian, mặc dù hoa không có năng lượng chữa bệnh trực tiếp có thể được chứng minh, chúng thường được sử dụng chống viêm, sưng đỏ và nhức đầu, mụn trứng cá, sốt, ho và vết cắn của côn trùng.
Hoa thường mọc hoang bên cạnh các cánh đồng ngô tại châu Âu nên còn được gọi là "cúc ngô, cornflower", từ thời Trung Cổ. Hoa thường được thấy trên những cánh đồng cùng với hoa cúc La Mã và hoa anh túc đỏ. | 1 | null |
Centaurea pineticola, cũng được gọi là cây cỏ cỏng dây, là một loài thực vật có hoa thuộc họ Cỏng dây (Asteraceae). Loài này có nguồn gốc ở khu vực Địa Trung Hải, thường được tìm thấy ở các khu vực cây bụi và cánh đồng ở các vùng núi và vùng biển. Cây cỏ cỏng dây thường có thân thảo hoặc cỏng dây, lá mọc đối, có hình dạng và màu sắc khác nhau tùy theo các biến thể.
Centaurea pineticola thường được biết đến với hoa màu tím hoặc tím nhạt, thường có hình dạng rất đẹp. Loài này cũng có giá trị thực phẩm và y học, và thường được sử dụng trong các phương pháp truyền thống. | 1 | null |
Chromolaena tequandamensis là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Hieron.) R.M.King & H.Rob. mô tả khoa học đầu tiên.
Phân bổ.
Chromolaena tequandamensis (còn được gọi là Chromolaena) là một loại cây thân thảo sống một năm có nguồn gốc từ Trung Mỹ.
Ta có thể được tìm thấy loài cây này ở ven đường, đồng ruộng hay trong các khu rừng mưa nhiệt đới ở Trung và Nam Mỹ.
Công dụng.
Chromolaena tequandamensis được sử dụng làm cây thuốc để điều trị các bệnh khác nhau như sốt, nhức đầu và đau dạ dày. Nó cũng được sử dụng làm thuốc nhuộm vải và làm cây cảnh.
Hoa, hạt giống và cây con.
Hoa của loài này có một bông hoa giống hoa cúc màu vàng cam với tâm màu vàng hoặc màu trắng. Hạt là một quả hạch nhỏ, màu nâu sẫm. Cây con nhỏ, hình bầu dục và có màu xanh đậm.
Trồng trọt và nhân giống.
Chromolaena tequandamensis là một loại được nhân giống tốt nhất bằng cách chia cành vào mùa xuân hoặc mùa thu. Nó thích ở nơi đầy nắng trong đất thoát nước tốt. Nó có thể được nhân giống từ hạt giống, nhưng cách này khá chậm. Ta cũng có thể nhân giống bằng cách giâm cành vào cuối mùa hè. | 1 | null |
Cúc vàng hay còn gọi cúc hoa vàng, kim cúc (danh pháp khoa học: Chrysanthemum indicum) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Đặc điểm.
Cây mọc đứng, thân có khía và có lông ngắn. Lá nhọn, hình trái xoan, chia thùy có nhiều răng; hai mặt lá đồng màu xanh lục. Đầu hoa màu vàng xếp thành ngù, cuống ngắn.
Có thể gieo hạt trong khoảng từ tháng 8 đến tháng 10. Nó thường bắt đầu phát triển sau 10 đến 18 ngày ở thời tiết 15 °C (59 °F).
Công năng.
Theo quan điểm của y học cổ truyền, cúc hoa vàng có vị ngọt hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải cảm, tán phong thấp, giáng hoả, giải độc và làm sáng mắt. | 1 | null |
Cải ô rô hay còn gọi diếp xoăn (danh pháp khoa học: Chicorium intybus) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Nhiều giống được trồng lấy lá làm lá xà lách, chồi non hoặc rễ (var. Sativum), được nướng, nghiền, và được sử dụng như một chất thay thế cà phê và phụ gia thực phẩm. Trong thế kỷ 21, inulin, một chiết xuất từ rễ rau diếp xoăn, đã được sử dụng trong sản xuất thực phẩm như một chất làm ngọt và nguồn chất xơ ăn kiêng.
Rau diếp xoăn được trồng làm thức ăn thô xanh cho chăn nuôi. Nó sống như một loài thực vật hoang dã trên các con đường ở châu Âu bản địa của nó, và hiện đang phổ biến ở Bắc Mỹ, Trung Quốc và Úc, nơi nó đã được nhập tịch rộng rãi. "Diếp xoăn" cũng là tên phổ biến ở Hoa Kỳ cho rau cúc đắng ("Cichorium endivia"); hai loài có quan hệ họ hàng gần này thường bị nhầm lẫn. | 1 | null |
Cosmos atrosanguineus là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được William Jackson Hooker mô tả khoa học đầu tiên năm 1861 dưới danh pháp "Cosmos diversifolius" var. "atrosanguineus". Năm 1894 Andreas Voss tách nó ra thành loài độc lập. Danh pháp "Cosmos atrosanguineus" là bất hợp lệ ("nom. illeg."), do nó là đồng nghĩa của "Cosmos diversifolius". | 1 | null |
Sao nhái hồng hay cúc chuồn hồng (danh pháp khoa học: Cosmos caudatus) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Kunth mô tả khoa học đầu tiên năm 1820.
"Cosmos caudatus" là thực vật một năm trong chi "Cosmos", với các chiếc hoa tia màu tím, hồng hay trắng. Loài này là bản địa châu Mỹ Latinh (từ Rio Grande do Sul ở miền nam Brasil tới Tamaulipas ở đông bắc Mexico), và Tây Ấn, nhưng đã du nhập vào khu vực nhiệt đới châu Á, châu Phi và Australia.
Mô tả.
Sao nhái hồng có thể mọc cao tới . Thân cây màu xanh nhạt ánh tía, mọng. Lá mềm và có mùi hăng. Khi tối trời lá cây gập lại gần với các chồi đầu cành như thể cây cũng đi ngủ. Hoa đầu mọc đơn độc hay thành cụm lỏng lẻo trên một cuống đơn hay trên các đầu phụ.
Thực phẩm.
"Cosmos caudatus" ăn được và trong tiếng Mã Lai người ta gọi nó là "ulam raja", nghĩa là "xa lát vua". Trong ẩm thực Indonesia và ẩm thực Mã Lai thì lá của loài này được sử dụng đề làm xa lát. Nó được người Tây Ban Nha đưa tới từ châu Mỹ Latinh qua đường Philippines tới các phần còn lại của khu vực Đông Nam Á. Ulam, một từ trong tiếng Mã Lai, được sử dụng để chỉ một món ăn vừa có tính bổ dưỡng vừa có tính mỹ thuật, là món xa lát Mã Lai phổ biến được phục vụ trong các bữa ăn trưa/chiều trong các khách sạn cao cấp cũng như trong các quầy búp phê. | 1 | null |
Trong quang học, phát xạ kích thích hay còn gọi là phát xạ cảm ứng là quá trình mà một electron của nguyên tử (hoặc một phân tử) ở trạng thái kích thích tương tác với sóng điện từ có tần số nhất định có thể giải phóng năng lượng của nó vào trường điện từ và nhảy xuống mức năng lượng thấp hơn. Một photon được tạo ra theo cách này có cùng pha, tần số, phân cực, và hướng như các photon của sóng tới. Điều này trái ngược với phát xạ tự phát xảy ra khi không có trường điện từ xung quanh. Tuy nhiên, quá trình này lại tương tự như quá trình hấp thụ của nguyên tử, tức là quá trình mà năng lượng của một photon được hấp thụ gây ra một sự chuyển đổi năng lượng nguyên tử, giống hệt nhau nhưng ngược lại: từ mức thấp lên mức năng lượng cao hơn.
Lý thuyết của phát xạ kích thích được Einstein khám phá thuộc lĩnh vực cơ học lượng tử, trong đó năng lượng phát ra được mô tả bằng các thuật ngữ của photon, gọi là lượng tử của trường điện từ. Phát xạ kích thích cũng có thể được mô tả một cách cổ điển, tuy nhiên không liên quan đến photon hay cơ học lượng tử của vật chất.
Tổng quan.
Electron và cách chúng tương tác với trường điện từ rất quan trọng trong nghiên cứu về hóa học và vật lý. Trong điện từ học cổ điển, năng lượng của một electron có quỹ đạo quay xung quanh hạt nhân nguyên tử nhỏ hơn năng lượng của các electron có quỹ đạo xa hạt nhân hơn. Tuy nhiên, các hiệu ứng của cơ học lượng tử có thể kích thích các electron nhảy sang các quỹ đạo nguyên tử khác. Do đó, các electron được tìm thấy đạt những mức năng lượng đặc trưng của một nguyên tử, hai trong số đó được hiển thị dưới đây:
Khi một electron hấp thụ năng lượng của ánh sáng (photon) hoặc nhiệt (phonon), thì nó sẽ nhận lượng tử năng lượng tới. Nhưng quá trình chuyển đổi chỉ được phép ở giữa các mức năng lượng đặc trưng như hình trên. Điều này cho thấy sẽ thu được quang phổ vạch hấp thụ hoặc phát xạ.
Mô hình toán học.
Phát xạ kích thích có thể được tính toán bằng cách xem electron có thể ở một trong hai trạng thái năng lượng trong một nguyên tử: trạng thái năng lượng thấp (có thể là trạng thái cơ bản) (1) và "trạng thái kích thích" (2), với năng lượng "E"1 và "E"2 tương ứng.
Nếu nguyên tử ở trạng thái kích thích, nó có thể phân rã để chuyển xuống trạng thái năng lượng thấp hơn qua quá trình phát xạ tự phát, giải phóng lượng năng lượng chênh lệch giữa hai trạng thái thành một photon. Các photon sẽ có tần số ν và năng lượng "h"ν, được cho bởi:
với "h" là hằng số Planck
Ngoài ra, nếu nguyên tử ở trạng thái kích thích bị tác động bởi một điện trường có tần số formula_2, nó có thể sẽ phát ra thêm một photon có cùng tần số và cùng pha, để nguyên tử trở về trạng thái năng lượng thấp hơn. Quá trình này được gọi là phát xạ kích thích.
Nếu số lượng các nguyên tử đang ở trạng thái kích thích là N2 trong tổng số nguyên tử, thì tỉ lệ xảy ra phát xạ kích thích là:
với hằng số tỷ lệ thuận "B"21 được gọi là "hệ số Einstein", ρ(ν) là mật độ bức xạ của trường tới ở tần số ν. Vậy tỷ lệ phát xạ tỉ lệ thuận với số nguyên tử ở trạng thái kích thích và mật độ của photon tới.
Đồng thời, cùng lúc đó thì một số nguyên tử hấp thụ năng lượng của trường điện từ làm cho electron nhảy từ mức năng lượng thấp lên mức năng lượng cao hơn (tức là trong trường hợp này, electron từ mức năng lượng cơ bản nhảy lên mức năng lượng kích thích). Tỉ lệ nguyên tử hấp thụ cũng được cho bởi phương trình giống như phương trình trên:
Tỉ lệ hấp thụ tỷ lệ thuận với số nguyên tử ở trạng thái thấp hơn, N1. Einstein chỉ ra rằng hệ số tỷ lệ này bằng hệ số tỷ lệ của phát xạ kích thích:
Do đó quá trình hấp thụ và phát xạ kích thích là 2 quá trình đảo ngược xảy ra với những tỉ lệ khác nhau. Nếu ta xét cả một hệ gồm nhiều nguyên tử, thì 2 quá trình này có thể được xem như xảy ra cùng lúc. Tỷ lệ tổng của cả hệ chuyển đổi từ E2 về E1 bằng cách kết hợp cả hai quá trình này có thể được tính như sau:
Để kết quả là một số dương, thì điều kiện là số nguyên tử bị kích thích phải lớn hơn số nguyên tử ở trạng thái năng lượng thấp hơn, tức là: formula_7. Điều kiện formula_8 được gọi là đảo ngược mật độ, thường được dùng trong máy phát laser. | 1 | null |
Rambo III là một bộ phim hành động - chiến tranh Mỹ năm 1988 do đạo diễn Peter MacDonald thực hiện, nó là phần tiếp theo của hai bộ phim "First Blood" và "Rambo: First Blood Part II" cũng như là phim thứ ba trong loạt phim "Rambo". Nam diễn viên Sylvester Stallone tiếp tục vào vai chàng chiến binh John Rambo.
Phim này là sự xuất hiện cuối cùng của diễn viên Richard Crenna trong vai Đại tá Samuel Trautman trước khi ông qua đời vào năm 2003.
Nội dung.
Sau khi hoàn tất nhiệm vụ giải cứu tù binh Mỹ trong phần phim trước, John Rambo, do bị ám ảnh bởi chiến tranh, đã quyết định đến Thái Lan sống bằng việc bắt rắn và tham gia đấu võ đài. Thời gian này đang diễn ra cuộc Chiến tranh Afghanistan. Một hôm nọ, Rambo nghe tin người chỉ huy cũ của anh là Đại tá Samuel Trautman đến Afghanistan rồi bị quân đội Liên Xô bắt vì thấy ông tham gia quân du kích Mujahideen. Ngay lập tức, Rambo quyết định đến Afghanistan giải cứu Trautman đồng thời giúp những người du kích Mujahideen đánh trả quân đội Liên Xô.
Khi đến Afghanistan, Rambo được người đàn ông tên Mousa dẫn về ngôi làng Mujahideen. Đúng lúc đó có hai chiếc trực thăng Liên Xô bay đến bắn phá rồi giết nhiều người trong làng, Rambo dùng súng máy DShK gần đó bắn nổ một chiếc, còn chiếc còn lại bay đi mất. Tối hôm đó, Rambo cùng Mousa và cậu bé Hamid lẻn vào doanh trại Liên Xô để cứu Trautman nhưng không may bị lính canh phát hiện. Rambo bắn chết một số lính canh rồi bỏ chạy, anh bảo Mousa và Hamid về làng để một mình mình cứu Trautman.
Người đứng đầu trong doanh trại là Đại tá Zaysen. Sáng hôm sau, Rambo chờ Zaysen và binh lính ra khỏi doanh trại rồi chạy vào cứu Trautman cùng vài tù binh khác, anh cướp một chiếc trực thăng chở họ nhưng bị nhiều lính Liên Xô nã đạn lên. Chiếc trực thăng hỏng nặng rồi rơi xuống thung lũng, Rambo và Trautman đành phải đi bộ đến biên giới Pakistan sau khi bảo những người tù binh trốn về làng.
Khi thấy Rambo bắn nổ một chiếc trực thăng rồi chạy vào hang đá rộng lớn trên núi, Zaysen ra lệnh đội đặc nhiệm Spetsnaz đuổi theo, nhưng binh lính nào vào hang cũng đều bị Rambo dùng cung tên giết chết. Gần đến biên giới Pakistan, Rambo và Trautman nhìn thấy cả một đội quân Liên Xô đứng trước mặt, Zaysen lúc này đang điều khiển trực thăng Mi-24 yêu cầu hai người đầu hàng. Rambo và Trautman tưởng họ sẽ chết nhưng bất ngờ từ xa hàng chục quân du kích Mujahideen cưỡi ngựa chạy ra tấn công quân Liên Xô, trong đó có Mousa và Hamid. Trong lúc hai phe đang giao chiến ác liệt, Rambo cướp một chiếc xe tăng T-72 phá hủy máy bay trực thăng của Zaysen. Kết thúc trận chiến, toàn bộ binh lính Liên Xô đều bị tiêu diệt. Rambo và Trautman tạm biệt những người du kích khi họ chuẩn bị về nhà.
Đánh giá.
Bộ phim có nhiều tình tiết khá cường điệu (như việc Rambo dùng cung tên bắn nổ trực thăng, quân du kích cưỡi ngựa mà vẫn thắng được xe tăng, hoặc trường đoạn Rambo xách súng máy chạy băng qua doanh trại mà không cần ẩn nấp, xả súng trực diện hạ hàng chục lính đối phương mà không hề hấn gì). Mặt khác, nội dung phim bị cho là mang nặng tính tuyên truyền chính trị khi khắc họa quân đội Liên Xô khá "xấu xa và hung bạo".
Do có nhiều tình tiết phi lý và cường điệu quá mức nên phim "giành được" tới 5 đề cử Mâm xôi vàng, và "thắng" 1 giải. Với vai diễn Rambo trong phần này, diễn viên Sylvester Stallone bị trao một Mâm xôi vàng cho vai nam chính tệ nhất. | 1 | null |
Elytraria acaulis là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Carl Linnaeus con mô tả khoa học đầu tiên năm 1782 dưới danh pháp "Justicia acaulis". Năm 1897, Gustav Lindau chuyển nó sang chi "Elytraria".
Phân bố.
Loài này là bản địa vùng nhiệt đới châu Phi, Ấn Độ, Sri Lanka và đã du nhập vào Malaysia. | 1 | null |
Elytraria caroliniensis là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Johann Friedrich Gmelin mô tả khoa học đầu tiên năm 1791 dưới danh pháp "Tubiflora caroliniensis".
Năm 1803 André Michaux mô tả chi "Elytraria" với loài điển hình "Elytraria virgata", dù ông vẫn dẫn chiếu nó tới "T. caroliniensis".
Năm 1805 Christiaan Hendrik Persoon đồng nhất "E. virgata" với "T. caroliniensis" và chuyển nó sang chi "Elytraria".
Ghi chú của IPNI cho rằng "Elytraria caroliniensis" gián tiếp dựa theo "Anonymos caroliniensis" . Năm 1897 Gustav Lindau tạo ra tổ hợp tên gọi "Elytraria carolinensis" dựa theo "A. caroliniensis",
Phân bố.
Đông nam Hoa Kỳ, tại các bang Florida, Georgia, South Carolina. | 1 | null |
Elytraria cubana là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Năm 1938 Emery Clarence Leonard mô tả loài mới theo mẫu vật số 2948 do J. A. Shafer thu thập tháng 11 năm 1909 tại đông nam Holguín, tỉnh Oriente (hiện nay thuộc tỉnh Holguín), Cuba và ông đặt danh pháp cho nó là "Elytraria crenata". Tuy nhiên, danh pháp này đã được Martin Henrichsen Vahn dùng từ năm 1804 để chỉ loài sinh sống tại Ấn Độ, mà năm 1782 Carl Linnaeus con đặt danh pháp là "Justicia acaulis", nay là "Elytraria acaulis".
Năm 1956 Brother Alain đặt lại danh pháp cho loài tại Cuba là "Elytraria cubana".
Phân bố.
Cuba. | 1 | null |
Elytraria imbricata là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Martin Henrichsen Vahl mô tả khoa học đầu tiên năm 1796 dưới danh pháp "Justicia imbricata". Năm 1805, Christiaan Hendrik Persoon chuyển nó sang chi "Elytraria".
Phân bố.
Bản địa nhiệt đới châu Mỹ. Du nhập vào Galápagos, Madagascar, Philippines và Việt Nam. Tên tiếng Việt gọi là sí dạng. | 1 | null |
Staurogyne guianensis là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Cornelis Eliza Bertus Bremekamp mô tả khoa học đầu tiên năm 1939 dưới danh pháp "Gynocraterium guianense". Năm 2014, Daniel & McDade chuyển nó sang chi "Staurogyne".
Phân bố.
Miền bắc Brasil, Guiana, Guyana thuộc Pháp, Suriname. | 1 | null |
Cam Mậu (chữ Hán: 甘茂, ?-?), là thừa tướng nước Tần trong lịch sử Trung Quốc. Về danh nghĩa, ông chính là vị thừa tướng đầu tiên ở Trung Quốc.
Làm tướng nước Tần.
Nguyên Cam Mậu là người quê ở ấp Hạ Thái, lúc nhỏ học du thuyết. Vào những năm Tần Huệ Văn vương, Cam Mậu đến nước Tần, kết giao với tướng quốc Trương Nghi và Thứ trưởng Sư Lý Tật, sau được Nghi giúp đỡ và được vào yết kiến vua Tần Huệ Văn. Vua Tần mến phục ông, phong làm tướng.
Năm 312 TCN, Cam Mậu theo tướng Tần là Ngụy Chương đem quân hợp lực với Hàn, Ngụy cùng đánh nước Sở, chiếm được Hán Trung của Sở.
Năm 310 TCN, ở nước Thục, tướng Trần Trang nổi dậy chống lại nước Tần. Tần Vũ vương cử Cam Mậu sang Thục dẹp loạn, đánh bại quân nổi dậy. Cùng năm đó, vua Tần trục xuất Ngụy Chương và Trương Nghi ra nước ngoài, đồng thời bãi bỏ chức vụ tướng quốc, đặt ra tả, hữu Thừa tướng, phong Cam Mậu làm Tả thừa tướng và Sư Lý Tật làm Hữu thừa tướng.
Trận chiến Nghi Dương.
Năm 308 TCN, Tần Vũ vương nói với Cam Mậu:
-"Quả nhân muốn đem chiến xa vào đất Tam Xuyên để cướp ngôi nhà Chu, như vậy khi quả nhân chết rồi danh sẽ bất hủ"
Cam Mậu bèn xin Tần Vũ vương cho mình sang Ngụy để liên minh cùng Ngụy đánh Hàn, thông Tam Xuyên tiến vào đất Chu. Vua Tần đồng ý, cử Hướng Thọ theo phụ tá ông. Khi tới nước Ngụy, Cam Mậu bảo Hướng Thọ về báo đừng nên đánh nước Hàn vội. Khi Cam Mậu trở về, Tần Vũ vương thân hành đến đón ông ở Tức Nhưỡng, hỏi lý do vì sao không đánh Hàn. Cam Mậu cho vua Tần biết là vì ông sợ vua Tần sau sẽ nghe lời gièm pha mà sinh nghi ông, buộc vua Tần phải cùng thề với ông ở Tức Nhưỡng rồi mới ra quân.
Cam Mậu đánh thành Nghi Dương của nước Hàn hơn năm tháng vẫn chưa hạ được. Công tôn Thích và Sư Lý Tật ở trong nước quả nhiên khuyên vua triệu Cam Mậu về. Cam Mậu sai sứ sang đáp:
-"Tức Nhưỡng còn đó"
Vua Tần nhớ ra, đem đại quân đến hợp sức với ông, đánh Nghi Dương.
Cam Mậu đánh Nghi Dương, thúc trống ba lần mà quân không tiến tới được. Có viên hữu tướng nói rằng ông không biết lượng sức. Cam Mậu quyết định xuất tiền riêng để tăng tiền thưởng cho quân lính, đến hôm sau lại thúc trống, quân lính hăng hái tiến lên. Không bao lâu sao, Cam Mậu hạ được thành, chém đầu 6 vạn quân nước Hàn và chiếm Nghi Dương, buộc Hàn Tương vương phải cầu hòa.
Cho Hàn mượn binh.
Năm 307 TCN, Tần Vũ vương chết ở đất nhà Chu, em là Tần Chiêu Tương vương lên nối ngôi. Cùng năm đó, Sở Hoài vương đánh nước Hàn, vây đất Ung. Sứ nước Hàn là Công Trọng Xỉ sang nước Tần cầu viện. Tuyên Thái hậu vốn là người nước Sở nên không đồng ý giúp. Công Trọng bèn nhờ Cam Mậu. Cam Mậu lại thuyết phục Tần Chiêu Tương vương đem quân cứu nước Hàn, cho rằng nêu không cứu thì Công Trọng sẽ bị cách chức, Công Thúc sẽ lên thay mà Công Thúc thân Sở, sẽ liên kết với Sở, uy hiếp nước Ngụy cùng đánh Tần. Vua Tần đồng ý giúp quân, quân Sở rút lui.
Nhờ Tô Đại giúp đỡ.
Năm 306 TCN, Tần Chiêu Tương vương cử Cam Mậu cùng Sư Lý Tật đi đánh đất Bì Thị của nước Ngụy. Trong triều, Hướng Thọ cùng Công Tôn Thích bàn mưu gièm pha ông với Tần Chiêu Tương vương. Cam Mậu bèn bỏ trốn.
Khi ra khỏi ải Hàm Cốc, Cam Mậu gặp biện sĩ Tô Đại (em Tô Tần). Ông nhờ Tô Đại giúp đỡ. Tô Đại nhận lời, hứa sẽ giúp ông sang nước Tề. Sau đó Tô Đại đến Tần, khuyên Tần Chiêu Tương vương nên dùng đồ lễ đón Cam Mậu về, an trí ở Hòe Cốc vì Cam Mậu sắp sang nước Tề để liên minh với Hàn, Ngụy đánh Tần. Vua Tần nghe theo, ban cho ông chức thượng khanh và mời về nhưng ông không tới. Tô Đại lại sang thuyết Tề Mẫn vương, khuyên vua Tề dùng ông. Vua Tề bằng lòng, phong Cam Mậu làm thượng khanh.
Về sau Tề Mẫn vương cử Cam Mậu đi sứ nước Sở. Tần Chiêu Tương vương nghe tin ông ở nước Sở, sai sứ đến nhờ vua Sở đưa ông về Tần. Tuy nhiên sau đó tướng Sở là Phạm Quyên can gián không nên đưa ông về Tần, vua Sở lại muốn giữ ông ở lại làm tướng quốc, cũng bị Phạm Quyên ngăn cản. Cuối cùng Cam Mậu không về Tần được, cuối cùng ông qua đời ở nước Ngụy. | 1 | null |
Thanh táo hay thuốc trặc, tần cửu (danh pháp khoa học: Justicia gendarussa) là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Burm. f. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1768. Ảnh ngay bên dưới là sai, không biết kẻ ôn thần nào đưa vào. Tôi không biết xóa nên phải ghi chú vào đây. | 1 | null |
Adansonia grandidieri là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Baill. mô tả khoa học đầu tiên năm 1888.
"Adansonia grandidieri" là lớn nhất và nổi tiếng nhất của Madagascar trong sáu loài bao báp. Cây hùng vĩ và bất thường này là loài đặc hữu của đảo Madagascar, nơi mà nó là một loài nguy cấp bị đe dọa bởi sự xâm lấn đất nông nghiệp. | 1 | null |
Vụ hỏa hoạn công ty gia cầm Đức Huệ Cát Lâm 2013 là một vụ cháy xảy ra vào ngày 3 tháng 6 năm 2013 tại một nhà máy chế biến gia cầm trong trấn Mễ Sa Tử, một trấn cách 35 km so với Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khiến ít nhất 120 người thiệt mạng và hơn 60 người khác phải nhập viện vì bị thương.
Nhà máy giết mổ gia cầm được Công ty TNHH gia cầm Baoyuanfeng Cát Lâm thành lập vào năm 2009. Nhà máy sử dụng 1.200 công nhân, nhưng chỉ có 350 công nhân được cho là có mặt ở địa điểm tại thời điểm ngọn lửa. Nhà máy như vậy thường có một hệ thống làm mát sử dụng amonia, một hóa chất được cho là đã gây ra đám cháy.
Đám cháy bắt đầu từ 6 giờ 6 buổi sáng, đến 12 giờ trưa hỏa hoạn vẫn chưa được dập tắt. Tính đến 3 giờ 20 chiều cùng ngày, đã có 112 người đã thiệt mạng. Đây là vụ hỏa hoạn nghiêm trọng nhất ở Trung Quốc trong hơn một thập niên qua.
Cổng nhà máy bị khóa khi hỏa hoạn xảy ra, nhưng khoảng 100 công nhân đã thoát ra được ngoài. Nhà máy có cấu trúc bên trong phức tạp và lối đi hẹp, cản trở công tác cứu hộ. Nguyên nhân vụ hỏa hoạn chưa được làm rõ, song đài truyền hình nhà nước Trung Quốc CCTV cho hay các nhân chứng đã nghe thấy một tiếng nổ lớn và nghi ngờ có rò rỉ amonia lỏng. | 1 | null |
Cúc mốc hay còn gọi nguyệt bạch, ngọc phù dung (danh pháp khoa học: Crossostephium chinense) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc.
Người Trung Quốc có nhiều tên gọi chỉ loài này; như 芙蓉菊 (phù dung cúc), 蕲艾 (kì ngải),千年艾 (thiên niên ngải), 芙蓉 (phù dung), 海芙蓉 (hải phù dung), 白芙蓉 (bạch phù dung), 玉芙蓉 (ngọc phù dung), 香菊 (hương cúc), 白香菊 (bạch hương cúc), 白石艾 (bạch thạch ngải), 白艾 (bạch ngải), 日本海芙蓉 (Nhật Bản hải phù dung).
Lịch sử.
Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753 dưới danh pháp "Artemisia chinensis". Năm 1831, Christian Friedrich Lessing thiết lập chi mới "Crossostephium" và tách "A. chinensis" ra như là loài duy nhất của chi này, với danh pháp "Crossostephium artemisioides".
Năm 1872, Carl Johann Maximowicz kiểm tra mẫu vật của "C. artemisioides" và theo ông thì nó thuộc về chi "Tanacetum", với danh pháp chính xác là "Tanacetum chinense", như đề xuất trước đó của Asa Gray. Năm 1906, Tomitarô Makino lại chuyển nó về chi "Crossostephium", nhưng đổi danh pháp thành "Crossostephium chinense" mà không duy trì tên gọi "C. artemisioides" trước đó của Lessing.
Gần đây, một số tác giả cho rằng nó có quan hệ họ hàng gần với các loài "Artemisia" đặc hữu Hawaii như "A. australis", "A. kauaiensis" và "A. mauiensis" và vị trí đúng của nó là nằm trong chi "Artemisia".
Từ nguyên.
Tên chi "Crossostephium" có nguồn gốc từ 2 từ trong tiếng Hy Lạp là "κροσσός" (krossós), có nghĩa là quả/núm tua và "στέφω" (stéphō), có nghĩa là vương miện. Nó đề cập đến phần phụ giống như vương miện được tìm thấy trên quả của chi này. Tính từ định danh loài "chinense" có nghĩa là loài này đến từ Trung Quốc.
Phân bố.
Loài bản địa Campuchia, Đài Loan, Indonesia (đảo Java), Lào, Nhật Bản (bao gồm cả quần đảo Kazan và quần đảo Nansei), Philippines, Trung Quốc (trung nam, đông nam) và Việt Nam. Du nhập vào Thái Lan và Mauritius.
Mô tả.
Cây bụi thân gỗ sống lâu năm, cao không quá 30 cm, phân nhiều cành nhánh, với các cành mọc thẳng. Lá mập, hình thìa hoặc hình mác ngược, có kết cấu lông trắng mịn như nhung ở cả hai mặt. Các lá sắp xếp hình xoắn ốc và không cuống lá. Lá thường là nguyên hoặc 3 thùy, nhưng đôi khi 2 thùy hoặc xẻ trên 3 thùy. Thân gỗ, vỏ màu nâu nhạt. Không có lá ở phần dưới của thân gần gốc, nhưng mọc thành cụm dày dặc ở đầu cành. Hoa phức hợp tương tự như phần tâm màu vàng của hoa cúc. Mỗi “hoa” bao gồm nhiều hoa đĩa và một số hoa tia. Cụm hoa là một cành hoa với 1 trục chính nối trực tiếp với các hoa phức hợp có cuống ngắn. Quả nhỏ, hình trứng hoặc thuôn dài (tới 1,5 mm). Quả là loại quả bế, một loại quả khô không nứt, thường chỉ chứa 1 hạt. Ở vùng nhiệt đới, rất hiếm khi tạo quả.
Môi trường sống.
Trên các thành tạo đá vôi, rạn san hô nhô lên hoặc các khu vực dọc theo bờ biển, chẳng hạn như các khu rừng ven biển. Sinh sống tốt trên đất kiềm thoát nước tốt. Loài này thường không dễ bị sâu bệnh.
Sử dụng.
Có thể dùng làm thực phẩm (thảo mộc và gia vị).
Loài cây bụi này có lá màu bạc hấp dẫn. Các cụm lá 3 thùy dày đặc ở đầu cành tạo ra hình mẫu trang trí giống như hoa. Nó hòa hợp tốt với các loại cây có màu bạc khác. Ngoài ra, nó mang lại sự tương phản khi đặt bên cạnh các cây xanh. Nó cũng có thể được sử dụng như một cây trồng ở hàng rào.
Nó chứa một số chất ức chế enzym α-glucosidase nên có thể được sử dụng để điều trị bệnh tiểu đường. Các hợp chất khác có thể có tác dụng chữa bệnh là taraxerol, taraverone và taraxeryl acetate. Taraxerol có hiệu quả chống lại viêm nhiễm và các hợp chất gây ung thư ở chuột. Ở Đông Dương, các khối u được điều trị bằng cách đắp lá khô giã nát lên. Trong y học cổ truyền Đài Loan, loài cây này được sử dụng để điều trị ho, cảm cúm và nhiễm trùng khí quản, cũng như các trường hợp ngộ độc và đau khớp. Trong y học cổ truyền Việt Nam và Trung Quốc, nó cũng được sử dụng để điều trị ho, cũng như rối loạn kinh nguyệt.
Theo Phạm Hoàng Hộ (1999), tại Việt Nam nó được trồng làm cảnh hoặc dùng như trà; bổ, kiện vị, trị cảm mạo, ho, hượt và lợi kinh; đắp nơi sưng. | 1 | null |
Apeiba tibourbou là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Aubl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1775.
Đây là loài bản địa Caatinga và thảm thực vật Cerrado ở Brazil, và Costa Rica. Loài này được sử dụng như một loại cây trồng thay thế sợi để làm giấy. | 1 | null |
Nelsonia canescens là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Jean-Baptiste de Lamarck mô tả khoa học đầu tiên năm 1791 dưới danh pháp "Justicia canescens". Năm 1824, Kurt Polycarp Joachim Sprengel chuyển nó sang chi "Nelsonia".
Phân bố.
Loài này là bản địa khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới Cựu Thế giới (châu Phi nhiệt đới, Madagascar, Nam Á, Đông Nam Á, các đảo tây Thái Bình Dương) và miền bắc Australia, nhưng đã du nhập vào vùng nhiệt đới châu Mỹ (Trung và Nam Mỹ). Rất phổ biến ở châu Phi nhiệt đới nhưng hiếm thấy ở phía đông bắc và không có ở Nam Phi.
Tên gọi.
Tên gọi trong tiếng Việt là niên sơn, niên sơn đồng (hai tên gọi này có lẽ là phiên âm từ "Nelsonia"), vạn nhân đả, lựu tử thảo (tên phiên âm từ tên gọi trong tiếng Trung 瘤子草).
Mô tả.
Cây thân thảo sống lâu năm với một số thân bò phát triển từ một rễ cái hoặc thân rễ trung tâm; thân không (hoặc hiếm khi) mọc rễ ở các đốt phía dưới, dài tới 60 cm, rậm lông hoặc dày đặc lông mỏng có chiều dài đến 4 mm; có các tuyến hình đầu, không cuống. Lá có cuống dài 0,2–2(–2,5) cm; phiến lá hình trứng đến hình elip, không (hoặc rất hiếm khi) thu hẹp đột ngột phía dưới phần giữa, kích thước lớn nhất 1,5–7(–10) × 1–4(–5) cm, đỉnh nhọn đến thuôn tròn, phần gốc thon dần đến cắt cụt; mặt dưới có lông tơ từ thưa thớt đến dày dặc hoặc rậm lông với các lông mỏng (hiếm khi với các lông dày), dày đặc nhất trên các gân nhưng phiến lá luôn có lông đồng nhất, mặt trên có lông tơ tương tự hoặc thưa hơn. Cụm hoa dạng cành, dài 1–12 cm, trục nhiều lông; cuống cụm hoa dài 0,2–4,5 cm,có lông tơ như ở thân; lá bắc hình trứng-hình elip hoặc rộng tới thành hình tròn, 5–9 × 3,5–6 mm (đôi lá bắc ở dưới cùng đôi khi hơi giống lá và to hơn), thu hẹp dần hoặc lõm xuống (với “gờ” khác biệt) phía dưới đỉnh nhọn, nhiều lông và các tuyến hình đầu có cuống; cuống hoa dài khoảng 0,5 mm, rậm lông. Lá đài tương đối bằng nhau, dài 4,5–7 mm, nhọn; các lá đài mặt lưng hình elip; các lá đài mặt bụng hình elip, phân chia từ khoảng 1/3 trở xuống; các lá đài ở bên hình mác; thường có lông tơ dài tới 3 mm trên toàn bộ bề mặt (rất hiếm khi chỉ ở sát gốc) và có các tuyến hình đầu có cuống. Tràng hoa màu xanh lam nhạt trong suốt đến xanh lam đậm hoặc tía ánh lam, gần đối xứng tỏa tia, có lông ở họng; ống tràng dài (3–)4–6 mm, mở rộng thành họng hình chuông; các thùy dài 2,5–5 mm, trải rộng ít nhiều, hơi có khía đến thuôn tròn. Nhị hoa không thò ra đến hơi thò ra; chỉ nhị dài 0,5–2 mm; bao phấn dài khoảng 1 mm, các mô vỏ phân kỳ, các gờ ở đáy dễ thấy. Quả nang dài 4-7 mm, có ít tuyến ở gần đỉnh. Hạt nhiều (nhưng thường ít hơn 20), dài khoảng 0,5 mm.
Sinh thái học.
Rừng thưa, trảng cây bụi và đồng cỏ (thường bị xáo trộn hoặc thứ cấp) hoặc dọc theo các con đường và trong các bãi trống, bờ sông, các đồng ruộng cũ, bãi cỏ, nơi đổ nát; ở cao độ 50–1.750 m. Rất có thể là nó được du nhập vào châu Mỹ, nơi nó thể hiện một khoảng biến đổi hình thái hạn chế hơn nhiều. Không nghi ngờ gì nữa, nó cũng là loài bản địa Ấn Độ và Đông Nam Á (nơi "N. smithii" không xuất hiện), do tại đây nó cũng thể hiện sự biến đổi hình thái rất lớn. Môi trường sống ban đầu của loài hiện tại được coi là cỏ dại này về cơ bản này có lẽ là đồng cỏ và bờ sông, ở những nơi khô ráo và thoáng hơn so với "N. smithii". Lá tươi có vị chua như chanh và có thể ăn được. | 1 | null |
Damnamenia vernicosa là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Hook.f.) Given mô tả khoa học đầu tiên năm 1973.
Loài này này là loài đặc hữu của New Zealand, nơi chúng mọc ở các đảo thuộc tiểu vùng Auckland và Campbell. Môi trường sống ưa thích của chúng là vùng cao nguyên đầm lầy và bị chi phối bởi Pleurophyllum. Chúng cũng phát triển ở độ cao thấp hơn trong các vị trí tiếp xúc và với thảm thực vật thưa thớt. | 1 | null |
Bayern München vs Norwich City là trận đấu lượt đi vòng 2 UEFA Cup 1993-94, trong trận đấu đó Bayern München đã thua Norwich City 1-2. Đây là trận thắng duy nhất của một câu lạc bộ Anh trên sân vận động Olympic ở München. Trận lượt về diễn ra tại Carrow Road vào ngày 3 tháng 11 năm 1993, Norwich hòa Bayern 1-1, tổng tỷ số là 3-2 sau hai lượt trận, Norwich đi tiếp nhưng sau đó lại để thua trước nhà vô địch mùa bóng đó, Inter Milan.
Từ khi Bayern München chuyển đến sân Allianz Arena, họ đã phải hai lần chịu thất bại trước các đội bóng Anh. Trong trận chung kết Champions League 2012, Bayern đã nhận thất bại trên chấm luân lưu trước Chelsea. Ngày 13 tháng 3 năm 2013, tại vòng 1/8 Champions League 2012-13, họ cũng phải chịu thất bại 0-2 trước Arsenal, nhưng họ vẫn đi tiếp nhờ luật bàn thắng sân khách. | 1 | null |
Brachychiton rupestris là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ, ở Queensland, Úc. Theo phát hiện và mô tả của Thomas Mitchell và John Lindley, sở dĩ cây thường có tên là Queensland bottle tree (cây chai Queensland) là vì cây có chỗ phình ra ở thân. Cây trưởng thành cao 10 đến 25 mét (33 đến 82 ft). Cây rụng lá theo mùa, từ tháng 9 đến tháng 12. Lá cây đơn giản và được xẻ làm nhiều phần, có 1 hoặc nhiều phiến lá dài 11 cm (4 inch) và rộng 2 cm (0,8 inch). Hoa có màu vằng kem xuất hiện từ tháng 9 đến tháng 12, dọc theo quả đại bằng gỗ hình thuyền. Quả chín vào từ tháng 11 đến tháng 5. chưa có phân loài nào được phát hiện và công nhận.
Là cây mọng nước, hay rụng lá khi khô hạn, "Brachychiton rupestris" thích ứng với việc trồng trọt canh tác và dễ thích nghi với các loại đất khác nhau và nhiệt độ. Đây là 1 loài quan trọng trong rừng bán rụng lá ở vành đai Brigalow, Queensland, Úc đứng trước nguy cơ mất rừng. Cây còn sót lại bị người nông dân đưa đến nền đất trống tạo bóng mát và làm thức ăn cho gia súc.
Mô tả.
"Brachychiton rupestris" là cây mọng nước. Khi trưởng thành cây cao 10 đến 20 m (33 đến 36 ft), rất hiếm cây cao đến 25 m (82 ft) dù cây canh tác thường thấp hơn. Thân cây dày, cao 5 đến 15 m (16 đến 49 ft), với biến số đươnggf kính (DBH) là 1 đến 3,5 m (3,3–11,5 ft). Vỏ cây màu xám đen có nhiều vết nứt dạng lưới tổ ong trên bề mặt vài vết nứt sâu. khi cây còn non, nhành cây có màu xanh sáng hoặc xám. Lá mọc dọc theo cuống, giống như các cây cùng thuộc chi "Brachychiton."
"Brachychiton rupestris" hay rụng lá. Cây trong môi trường sống tự nhiên thường trụi lá giữa tháng 9 và tháng 12, tuy nhiên mức độ rụng lá, thời gian rụng có thể bị ảnh hưởng bởi mưa hay hạn hán. Đôi khi cây rụng lá chỉ từ một số cành. Lá mỗi cây có hình dạng khác nhau, được xẻ làm nhiều phần, hẹp hoặc có hình elip. Mặt trên của lá có màu bóng loáng, đậm, khác hẳn với mặt dưới có màu nhạt hơn. CÁc phiến lá trưởng thành dài 4 đến 11 cm (1,6 đến 4,3 inch) và 0,8 đến 2 cm (0,3 đến 0,8 inch) với đầu lá nhọn chĩa xuống dưới. Lá có sống giữa nổi lên cả hai mặt trên, dưới, và phía mặt lá dưới có 12 đến 25 cặp sống lá (nhiều hơn mặt trên) tạo một góc 50 đến 60 độ so với sống lá chính giữa. Lá non hợp vào với nhau (3 đến 9 lá) có hình mũi mác hoặc thẳng. Lá non dài 4 đến 14 cm (1,6 đến 5,5 inch) và rộng 0,3 đến 1 cm (0,1 đến 0,4 inch).
Bông hoa có màu vàng kem, chùm hoa hình chùy hoa lấm tấm đỏ xuất hiện từ tháng 9 đến tháng 11. Hoa mọc từ chồi nách ở cuối cành. Mỗi chùm hoa hình chùy có 10 đến 30 bông và dài 3 đến 8 cm (1,2 đến 3,1 inch). Mỗi bông hoa dài 0,5 đến 1 cm (0,2 đến 0,4 inch) và rộng 1,3 đến 1,8 cm (0,5 đến 0,7 inch). Chiều dài các thùy của bao hoa hơn một nửa so với đường kính bao hoa. Giống như tất cả các loài thuộc chi "Brachychiton", "Brachychiton rupestris" là cây có hoa đực và hoa cái cùng ở chung (Không phải là cây có hoa lưỡng tính, mà cây có hoa đực và hoa cái phân tính nhưng cùng trên 1 cây). Hoa đực có 15 nhị hoa, với bao phấn màu vàng nhạt, trong khi hoa cái có nhụy màu kem hoặc trắng được bao quanh bởi lá noãn (bộ phận ở trên đỉnh buồng trứng) hình ngôi sao.
Quả đại có hình thuyền, mọc thành nhóm 3 đến 5 quả. Mỗi quả có 4 đến 8, đôi khi đến 12 hạt. Quả phát triển từ tháng 11 đến tháng 5. Mặt ngoài quả thì nhẵn, mặt trong có lông. Quả được tách, dọc theo chiều dài, để lộ hạt. Hạt được bao bọc bởi lớp lông gọi là "exotesta". Hạt có hình trứng mặt nhẵn, dài 6 đến 7 mm (0,24 đến 0,28 inch) và rộng 3,5 đến 4,5 mm (0,14 đến 0,18 inch).
Loài có khá nhiều nét tương đồng là "Brachychiton compactus" ("Proserpine bottle tree" – cây chai Proserpine) mọc ở vùng lân cận thị trấn Proserpine, Queensland, Úc. Để phân biệt chúng, người ta dựa vào lá, hoa, quả. "Brachychiton compactus" có lá ô-van hơn, hoa nhỏ hơn và quả đại lại dẹt elip hơn. Đối với "Proserpine bottle tree" (cây chai Proserpine) (chưa được mô tả) lại có tán và lá màu xanh giống chanh tươi hơn.
Phân loại và đặt tên.
Loài được biết đến nhờ sự chú tâm của cộng đồng khoa học. Năm 1848, nhà thám hiểm Sir Thomas Mitchell đã quan sát cây một cách kĩ lưỡng trong chuyến thám hiểm Queensland và đăng trong tạp chí tên "Journal of an Expedition into the Interior of Tropical Australia (Ghi chép về cuộc thám hiểm nội địa vùng nhiệt đới Úc)." Khi leo lên đỉnh Abundance, ông bắt gặp chúng. Ông ghi chép lại rằng: "Thân cây phình ra ở giữa, trông giống như chiếc thùng, có đường kính gấp đôi so với thân ở mặt đất. Cành cây trông khá nhỏ về tỉ lệ so với thân cây. Trông cả cái cây rất kì quặc". Trong ấn phẩm tương tự, nhà thực vật học người Anh tên John Lindley lần đầu tiên chính thức mô tả loài. Lindley đã đặt loài này trong chi "Delabechea" với loài "Delabechea rupestris" là đại diện. Mitchell đã lựa chọn tên chi "Delabechea" để tôn vinh giám đốc Sở Địa chất Anh - Henry De la Beche, còn từ "rupestris" trong tiếng Latin là 1 tính ngữ, nghĩa là sống trong đá. Từ "rupestris" đã đề cập đến môi trường sống trên đỉnh đồi đá của mẫu vật mà Mitchell quan sát. Năm 1862, nhà thực vật học ở Victoria tên Ferdinand von Mueller đã đổi tên nó thành "Brachychiton delabechei" để kết hợp chi "Delabechea" vào "Brachychiton".
Trong cuốn "Flora Australiensis" (loài thực vật vùng "Australiensis"), nhà thực vật học người Anh tên George Bentham đã công bố mô tả quan trọng đầu tiên trong 9 mô tả về loài "Brachychiton", và đưa chúng vào một phần của "chi Trôm" ("Stercukia"). Vì vậy, loài này được chuyển tên thành "Sterculia rupestris". Tuy nhiên, Von Mueller vẫn giữ nguyên quan điểm của ông ràng coi "Brachychiton" như một chi riêng biệt. Vào năm 1891, nhà thực vật học người Đức tên Otto Kuntze không đồng ý cho loài cây này vào "chi Trôm" mà xếp vào chi "Clompanus". Ông đặt tên cho loài là "Clompanus rupestris". Năm 1893, nhà thực vật học người Đức tên Karl Moritz Schumann đã đổi danh pháp hai phần của loài là "Brachychiton rupestris" và được Achille Terraciano, quản lý vườn sinh thái Orto Botanico di Palermo, chấp nhận. Tên đó vẫn được duy trì cho đến ngày nay.
Năm 1988, Gordon Guymer sửa đổi lại việc phân loại chi "Brachychiton." Ông để "Brachychiton rupestris" trong mục "Delabechea" vì liên quan tới "Brachychiton compactus" (mới được mô tả). Điều đặc biệt ở mục "Delabechea" là cả ba loài đều có thân hình củ hành và có thể có khoảng trống lớn trong nhu mô gỗ chiều dọc. Các chi Brachychiton nằm ở một nhánh "Australasian" trong phân họ "Sterculioideae" (trước đây là "họ Trôm") khi mở rộng định nghĩa về chi "Malvaceae". Nó khác với "Sterculia", loài thuộc một nhánh khác trong "Sterculioideae".
Cái tên "Brachychiton" có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp "brachys" nghĩa là ngắn, và "chiton" nghĩa là vỏ (do vỏ hạt). Trong nhiều năm, tên chi bị hiểu lầm và cây bị coi là cây trung tính do sự sửa đổi không chính xác của mô tả ứng với từng tên riêng biệt. Cuối cùng danh pháp Brachychiton rupestre đã được công nhận và do 'biến thể chính tả' (một hiện tượng khi đặt tên loài trong sinh học) đã trở thành "Brachychiton rupestris". Tên thông thường còn có 'cây chai lá dẹt' (narrow-leaved bottle tree) hay chỉ đơn giản là 'cây chai'.
Phép lai chéo "Brachychiton" x "turgidulus" là phép lai bình thường giữa "B. rupestris" và "B. populneus". Nó được ở biểu hiện rõ nét ở phía đông thị trấn Boonah, Queensland.
Phân bố và môi trường sống.
"Brachychiton rupestris" được phát hiện ở trung tâm Queensland, từ vĩ độ 22° S đến 28° S. Cây phân bố chủ yếu nằm ở vùng đo lượng mưa 500mm (về phía tây). Cây sống nơi có địa hình đồi núi thấp có thổ nhưỡng đất sét, đá phiến sét, đất bazan. "Brachychiton rupestris" là "cây vượt tán", sống cùng tầng với các loài cây khác như Acacia "harpophylla, Araucaria cunninghamii, Cadellia pentastylis."
Bảo tồn.
Dù Đạo luật bảo tồn thiên nhiên Queensland xếp loài vào loài ít quan tâm, nhưng số lượng cá thể đang giảm dần tại một số nơi. Tại những nơi này, sự sinh trưởng của cây cũng bị cho là bị ảnh hưởng xấu. Loài được bảo tồn ở một số vườn quốc gia như VQG sông Auburn, Benarkin, núi Bunya, hồ Coalstoun, Dipperu, Good Night Scrub, Humboldt, Isla Gorge, và Tregole.
Ghi chú.
| 1 | null |
Trần Nguyên Mạnh (sinh ngày 20 tháng 12 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá người Việt Nam đang chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Nam Định và đội tuyển quốc gia Việt Nam.
Trưởng thành từ lò đào tạo trẻ của Sông Lam Nghệ An, Nguyên Mạnh được đôn lên đội một vào mùa giải 2012. Sau 8 mùa giải gắn bó và tạo dựng tên tuổi ở đội bóng quê hương, anh đã chuyển sang Viettel. Ngay mùa đầu tiên thi đấu cho Viettel, anh đã cùng đội bóng này vô địch V-League, á quân Giải bóng đá Cúp Quốc gia. Sau khi hết hạn hợp đồng với Viettel, Nguyên Mạnh đầu quân cho Nam Định.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Sông Lam Nghệ An.
Năm 14 tuổi, Trần Nguyên Mạnh tham gia thi đấu tại giải bóng đá huyện Đô Lương và được tuyển trạch viên của Sông Lam Nghệ An đưa vào tầm ngắm, lấy về câu lạc bộ để đào tạo.
Mùa giải 2012, Nguyên Mạnh được đôn lên đội một của Sông Lam Nghệ An, bắt dự bị cho thủ môn Nguyễn Viết Nam. Gần cuối mùa giải 2012, Viết Nam dính chấn thương dài hạn, Nguyên Mạnh được trao cơ hội bắt chính và đã có những màn trình diễn xuất sắc trong các vòng đấu cuối của V.League 2012. Từ mùa 2013, Nguyên Mạnh đã trở thành thủ môn số một trong khung gỗ của đội bóng xứ Nghệ.
Ở trận mở màn AFC Cup 2018 gặp CLB Tampines Rovers (Singapore), Nguyên Mạnh bị gãy tay sau một pha bắt bóng bổng và phải nghỉ thi đấu hết mùa giải 2018. Mãi đến V.League 2019, Nguyên Mạnh mới trở lại sân cỏ.
Viettel.
Kết thúc mùa giải 2019, Nguyên Mạnh cùng Hồ Khắc Ngọc chia tay SLNA để đầu quân cho câu lạc bộ Viettel. Tại đây, anh giúp đội bóng non trẻ Viettel chỉ phải nhận 25 bàn thua sau 32 trận và trở thành nhân tố đặc biệt quan trọng trong hành trình lên ngôi vô địch V.League 2020 của câu lạc bộ Viettel.
Ngày 18 tháng 11 năm 2022, Viettel đã thông báo chia tay Nguyên Mạnh và Khắc Ngọc. Hợp đồng của cả hai hết hạn từ tháng 11. Nguyên Mạnh cùng Khắc Ngọc không tham gia 3 trận đấu cuối cùng của Viettel ở V.League 1 2022.
Nam Định.
Ngày 5 tháng 12 năm 2022, Nam Định công bố rằng Trần Nguyên Mạnh ký hợp đồng 3 năm với câu lạc bộ từ mùa giải 2023. Mức lương, số tiền lót tay và một số đãi ngộ khác trong điều khoản hợp đồng không được tiết lộ.
Ngày 3 tháng 2 năm 2023, Nguyên Mạnh chính thức ra mắt Nam Định khi bắt chính trong trận thắng 1–0 trướcThành phố Hồ Chí Minh tại vòng 1 V-League 2023.
Sự nghiệp quốc tế.
Đội tuyển U-23.
Với màn trình diễn xuất sắc ở mùa giải 2013, HLV Hoàng Văn Phúc quyết định triệu tập thủ môn Nguyên Mạnh vào đội tuyển U-23 Việt Nam đi tập huấn nước ngoài và dự SEA Games 27. Mặc dù thể hiện khá tốt trong những trận được bắt chính, tuy nhiên, Mạnh vẫn chỉ là sự lựa chọn thứ 2 trong khung gỗ của đội tuyển U-23 Việt Nam sau người đàn em Trần Bửu Ngọc. Đáng tiếc hơn, ở SEA Games 27, Nguyên Mạnh không được bắt chính một trận nào và đội tuyển U-23 Việt Nam đã phải về nước sớm.
Đội tuyển quốc gia.
Mặc dù tuyển U-23 bị loại, nhưng chỉ sau đó một thời gian không lâu, Nguyên Mạnh lại được triệu tập lên tuyển dự nốt vòng đấu cuối của vòng loại Asian Cup 2015. Nhưng cũng như ở SEA Games 27, Nguyên Mạnh chỉ là sự lựa chọn số 2 sau người đàn anh nhỉnh hơn về mọi mặt là Nguyễn Mạnh Dũng.
Sau đó, VFF quyết định thay HLV trưởng đội tuyển Việt Nam là Miura Toshiya. Nguyên Mạnh tiếp tục được HLV người Nhật Bản triệu tập vào đội tuyển và may mắn hơn, Mạnh được vị chiến lược gia này chọn cho vị trí gác đền số 1 của tuyển.
Vào ngày 7 tháng 12 năm 2016, Nguyên Mạnh nhận thẻ đỏ đầu tiên trong sự nghiệp thi đấu quốc tế ở trận bán kết lượt về AFF Cup 2016 với Indonesia do đánh nguội cầu thủ đối phương. Kể từ đó, anh chỉ có 1 lần được gọi lên đội tuyển quốc gia tại King's Cup 2019 nhưng cũng chỉ ở vai trò dự bị.
Trước thềm AFF Cup 2020, khi Nguyễn Văn Toản và Đặng Văn Lâm đều chấn thương, Bùi Tấn Trường lại vướng lùm xùm bên ngoài sân cỏ, Nguyên Mạnh được gọi trở lại và trao cơ hội bắt chính trong hầu hết các trận đấu của đội tại giải đấu.
Tháng 1 năm 2022, anh được triệu huấn luyện viên Park Hang-seo triệu tập chuẩn bị cho 2 trận đấu gặp Úc và Trung Quốc tại Vòng loại thứ 3 World Cup 2022 khu vực châu Á. Ngày 1 tháng 2, anh bắt chính trong trận đấu với Trung Quốc trước khi bị chấn thương ở phút 86 và được thay thế bởi Bùi Tấn Trường, trận đấu mà Việt Nam thắng 3–1.
Cuộc sống cá nhân.
Ngày 3 tháng 4 năm 2016, Trần Nguyên Mạnh đã tổ chức lễ cưới với bạn gái Phương Chi tại một trung tâm tổ chức sự kiện ở thành phố Vinh, Nghệ An. Cả hai đã có mối quan hệ tình cảm được sáu năm cho đến thời điểm đó, trước khi Nguyên Mạnh bắt đầu thi đấu cho Sông Lam Nghệ An. Cặp đôi đã chào đón cô con gái đầu lòng sau hơn 5 tháng kết hôn. | 1 | null |
Chiranthodendron pentadactylon là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Larreat. mô tả khoa học đầu tiên năm 1805.
Liên kết ngoài.
Hoa cánh tay của quỷ, có nguồn gốc ở Mexico, tên khoa học là Chiranthodendron pentadactylon. Đây là một trong những loài hoa có hình thù kỳ dị nhất thế giới. Hình dáng của loài hoa này đúng như cái tên của nó, đỏ rực, giống như một bàn tay quỷ với đầy những móng vuốt. Tuy tên gọi nghe "ác độc" nhưng thực sự loài hoa này lại có công dụng chữa bệnh tim | 1 | null |
Eduard Kuno von der Goltz (còn được viết là "Cuno") (2 tháng 2 năm 1817 tại Wilhelmstal – 29 tháng 10 năm 1897 tại Eisbergen ở Minden) là một Thượng tướng Bộ binh của Phổ và là thành viên Quốc hội Đức ("Reichstag"). Ông đã có nhiều đóng góp cho quân đội Phổ trong các cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức, đặc biệt là thắng lợi chiến lược của mình trước Tập đoàn quân Rhine của Pháp dưới quyền Thống chế Bazaine trong trận Borny-Colombey.
Sự nghiệp quân sự.
Von der Goltz gia nhập Trung đoàn Phóng lựu Cận vệ Hoàng đế Alexander số 1 với tư cách là một thiếu sinh quân và trong trung đoàn này ông đã tham chiến trong cuộc chiến tranh chống Đan Mạch năm 1848. Vào năm 1849, ông tham gia chiến dịch trấn áp quân nổi dậy tại Baden với cấp bậc đại đội trưởng và được lên quân hàm Đại úy vào năm 1851. Mặc dù ông chưa hề học Trường Chiến tranh ("Kriegsschule"), ông đã được chuyển vào Bộ Tổng tham mưu với quân hàm thiếu tá, và vào năm 1861, ông được thăng quân hàm thượng tá. Đến năm 1862, ông được ủy nhiệm vào một chức tiểu đoàn trưởng trong Trung đoàn Bộ binh số 15 (Westfalen 2).
Cuộc chiến tranh thống nhất nước Đức.
Chiến tranh Schleswig lần thứ hai.
Trong cuộc Chiến tranh Đức-Đan Mạch năm 1864, Von der Goltz đã chỉ huy tiểu đoàn của mình đổ bộ thành công lên đảo Alsen, và do công tích này ông được tặng thưởng Huân chương Quân công, huân chương cao quý nhất của Vương quốc Phổ.
Chiến tranh Bảy tuần.
Vào năm 1866, Von der Goltz được thăng cấp Tư lệnh của Trung đoàn số 15 (Westfalen 2) và đồng thời được lên quân hàm đại tá. Ông đã tham gia trong Chiến dịch Main của cuộc Chiến tranh Bảy tuần. Trong cả hai cuộc chiến tranh, tướng August Karl von Goeben là cấp trên của ông. Vì những cống hiến của ông trong Chiến dịch Main, ông đã được tặng thưởng Lá sồi gắn vào Huân chương Quân công. Trong chiến dịch này, ông chỉ huy trung đoàn của mình ở trận Friedrichshall, khi mà hai tiểu đoàn dưới quyền của ông giành được quyền vượt sông Saale.
Chiến tranh Pháp-Đức.
Vào tháng 7 năm 1869, ông được phong cấp bậc Thiếu tướng và lãnh chức chỉ huy Lữ đoàn số 26, với biên chế gồm Trung đoàn số 15 cũ của ông và Trung đoàn số 55. Trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), lữ đoàn của ông là một phần thuộc biên chế của Quân đoàn VII do tướng Heinrich Adolf von Zastrow chỉ huy – một phần của Tập đoàn quân số 1 dưới quyền lão tướng Karl Friedrich von Steinmetz. Viên Sư trưởng của ông là Adolf von Glümer đã không cho lữ đoàn của ông tham chiến trong trận Spicheren vào ngày 6 tháng 8, mặc dù von der Goltz đã chỉ huy quân của mình tiến hành cuộc truy kích theo hướng Forbach và nhờ vậy ông được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt hạng nhì.
Có lẽ trận đánh quan trọng nhất của lữ đoàn là cuộc tấn công tự ý của von der Goltz tại Borny-Colombey vào ngày 14 tháng 8 năm 1870. Ngày hôm đó, Tập đoàn quân số 1 do Trung tướng Steinmetz chỉ huy đến gần các lực lượng Pháp đang trấn giữ các cao điểm ở hướng đông pháo đài Metz. Tuân theo mệnh lệnh của Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke, quân của Steinmetz dừng chân gần thị trấn Colombey đã theo dõi các hoạt động của đối phương. Thượng lệnh của Moltke cũng cho biết dự kiến của ông là để Tập đoàn quân số 1 giữ chân quân đội Pháp trong khi Tập đoàn quân số 2 hợp vây đối phương. Thiếu tướng Von der Goltz, người mà sự độc lập trong suy nghĩ của mình đã gia tăng do phục vụ trong Bộ Tổng tham mưu, nhận thấy quân Pháp bắt đầu rút lui. Một trong các sĩ quan tham mưu của Moltke có mặt ở đó và khẳng định với ông về ý định nêu trên của Moltke. Cấp trên của ông trong Tập đoàn quân số 1 ra lệnh cho Goltz phòng ngự. Giờ đây, Goltz không có thời gian để hỏi ý sư đoàn của ông, để sư đoàn hỏi ý quân đoàn, quân đoàn hỏi ý Steinmetz rồi thậm chí Steinmetz phải hỏi ý Moltke xem đoàn quân của ông phải làm gì. Vị vậy, vị tướng bạo dạn gửi một thông điệp đến sư đoàn của mình, quân đoàn của mình và Quân đoàn I do tướng Edwin von Manteuffel chỉ huy rằng ông sẽ tiến công, và quả thật vào lúc 3:30 chiều ông phát động một cuộc tấn công. Ban đầu, binh lính của ông đánh bật quân Pháp, nhưng rồi bị giam chân. Song, phát hiện ra cuộc giao chiến, viên chỉ huy một lữ đoàn gần đó đã vào trận. Hai sư đoàn thuộc Quân đoàn I cũng nhập trận. Quân Phổ và quân Pháp giao chiến đến tối, khi quân Pháp rút lui chậm chạp theo đường Metz. Đây là một trận đánh bất phân thắng bại, trong đó phía Đức phải hứng chịu thiệt hại nặng nề (222 sĩ quan và 5.000 binh lính). Tuy vậy, đây là một thất bại chiến lược của Pháp: cuộc triệt thoái của quân Pháp về Verdun đã bị trì hoãn nghiêm trọng và quân Đức vẫn bắt kịp họ.
Sáng hôm sau, nhà vua Wilhelm I thân hành đến chiến địa. Khi Steinmetz tố cáo với vua về sự bất tuân của Von der Goltz và Steinmetz, vua nhiệt liệt cảm ơn Manteuffel vì vai trò của ông này trong trận chiến và chuyển sang vị lữ đoàn trưởng bất tuân, vua khen ngợi Von der Goltz vì đã hai lần thể hiện tài năng của mình trong giai đoạn đầu tiên của cuộc chiến. Có lẽ Steinmetz không khỏi ngạc nhiên vì sự bất tuân của Von der Goltz lại được đề cao như vậy trong khi hành vi tương tự của ban thân ông ta trong trận Spicheren thì bị chê trách. Một trong các sĩ quan tham mưu của von Moltke nhận xét về Von der Goltz: "cách hành xử của ông ta rõ ràng đã đẩy mạnh các mục tiêu được nhắm tới; vì sự trì hoãn mà trận đánh gây ra cho quân Pháp có lợi cho các hoạt động được dự kiến của chúng ta và sẽ tạo điều kiện cho việc thực thi chúng". Ông đã được tặng thưởng Huân chương Thập tự Sắt hạng nhất.
Lữ đoàn của ông cũng đánh chiếm Jussy trong trận Gravelotte khốc liệt vào ngày 18 tháng 8. Sau khi pháo đài Metz thất thủ, Von der Goltz được bổ nhiệm làm Tư lệnh của các đơn vị khác, trong đó có hai trung đoàn kỵ binh. Lực lượng của ông được chỉ định là "Biệt đội Goltz", chiến đấu như một phần thuộc biên chế của Quân đoàn XIV mới được thành lập do tướng Karl August von Werder chỉ huy, chống lại "Tập đoàn quân Vosges" tình nguyện dưới quyền Giuseppe Garibaldi và được lệnh quan sát pháo đài Langres với 3.000 quân. Vào ngày 16 tháng 12 năm 1870, giao tranh diễn ra ở Longeau, khi von der Goltz chỉ huy quân ông tấn công 6.000 quân Pháp được phòng thủ vững chắc. Sau 3 tiếng đồng hồ chiến đấu, quân Pháp bị đánh bật vào pháo đài với thiệt hại to lớn. Sau đó, vào tháng 1 năm 1871, Von der Goltz được lệnh rời khỏi đây để hỗ trợ Werder chống nhau với Tập đoàn quân phía Đông của Pháp do viên tướng Charles Denis Sauter Bourbaki đứng đầu. Ông đã tham chiến trong trận Villersexel và trận đánh 3 ngày trên sông Lisaine. Sau thảm bại của quân Pháp tại sông Lisaine, quân đội Đức truy kích thành công các lực lượng của Bourbaki, và giao chiến đã kết thúc với việc 87.000 người của ông ta phải vượt biên sang Thụy Sĩ và bị nước này giam giữ đến tháng 3. Dựa theo các điều khoản của hiệp định đình chiến đã được ký kết, việc phát động một cuộc vây hãm Langres giờ đây là không thể thực hiện.
Sự nghiệp sau chiến tranh.
Vào tháng 5 năm 1871, Von der Goltz được ủy nhiệm làm Thanh tra của bộ binh nhẹ ("Jäger") và lính trơn ("Schützen"), và hai năm sau ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh của Sư đoàn số 1 tại Königsberg. Nửa năm sau khi nhậm chức, ông được lên quân hàm Trung tướng vào tháng 9 năm 1873. Vào tháng 12 năm 1871, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh của Sư đoàn số 13 đóng quân tại Münster, trong đó có trung đoàn mà ông chỉ huy vào năm 1866, và lữ đoàn mà ông chỉ huy vào các năm 1870 – 1871. Vào tháng 3 năm 1880, ông xuất ngũ với quân hàm Thượng tướng Bộ binh.
Sự nghiệp chính trị.
Vào năm 1867, Von der Goltz được bầu làm đại biểu khu vực bầu cử Minden-Lübbecke trong Quốc hội Liên bang Bắc Đức. Trên cương vị này, ông cũng là đại biểu của Nghị viện Thuế quan ("Zollparlament"). Vào năm 1869, do được phong cấp Lữ đoàn trưởng, ông phải rút khỏi ghế đại biểu của mình, nhưng được tái cử trong một cuộc bầu cử phụ vào ngày 9 tháng 9 năm 1869, và trở thành một nghị sĩ phe cực hữu. Ông là thành viên Quốc hội cho đến năm 1871.
Eduard Kuno von der Goltz từ trần vào ngày 29 tháng 10 năm 1897. | 1 | null |
Cola verticillata (tên gọi thông thường: cola trơn và cola nhầy) là một loài thực vật trong chi Cô la, thuộc họ Cẩm quỳ. Nó có nguồn gốc từ các khu rừng nhiệt đới châu Phi. Loài này được nhà thực vật học Đan Mạch Peter Thonning mô tả lần đầu với tên gọi "Sterculia verticillata", về sau được đổi thành "Cola verticillata" bởi Otto Stapf và Auguste Chevalier.
Miêu tả.
"Cola verticillata" là một loại cây có kích thước trung bình, cao khoảng 25 m (80 ft), phần dưới của thân cây không có cành. Cành cây thưa, màu nâu đỏ sẫm và thường rủ xuống. Nó có những chiếc lá thường xanh, hình bầu dục, bóng, xếp thành từng chùm ba hoặc bốn và những bông hoa hình sao, màu kem với những sọc màu nâu tía mọc ở nách lá. Quả của "Cola acuminata" rất đắng và được cho là không ăn được.
Phân bố và môi trường sống.
"Cola verticillata" có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới TâyTrung Phi; phạm vi của nó bao gồm Ghana, Bénin, Nigeria, Cameroon, Cộng hòa Trung Phi, Gabon, Cộng hòa Congo, Cộng hòa Dân chủ Congo và Angola. Nó sinh trưởng ở độ cao lên đến 1.000 m (3.300 ft), đặc biệt là gần suối và đầm lầy.
Sinh thái.
Mọt kola ("Balanogastris kolae") là một loài côn trùng chuyên phá hoại và sinh sản trên các hạt "Cola verticillata" và "Cola nitida." Loài nấm "Irenopsis aburiensis" cũng được ghi nhận trên cây này.
Ứng dụng.
Gỗ của "Cola verticillata" thường cứng và trắng. Ở miền nam Nigeria, nó được sử dụng trong bái vật giáo. Loài thực vật này đôi khi được trồng ở các làng quê. Hạt của nó chứa lượng cafein đáng kể, được hái từ tự nhiên khi chín và dùng làm thức uống. Vỏ, cành tỉa và lá rụng của "C. verticillata" có thể được sử dụng để sản xuất năng lượng. | 1 | null |
Cát đằng cánh hay khiên ngưu núi lá có cánh (danh pháp khoa học: Thunbergia alata) là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô (Acanthaceae). Loài này được Bojer ex Sims miêu tả khoa học đầu tiên năm 1825.
Là loài thực vật dây leo thân thảo sống lâu năm, bản địa khu vực Đông Phi nhưng đã du nhập vào nhiều nơi trên thế giới. Nó được tìm thấy trong thảm thực vật Cerrado ở Brasil và Hawaii, miền đông Australia, miền nam Hoa Kỳ trong các bang Texas và Florida, được trồng làm cây cảnh trong vườn hay trong các giỏ treo.
Miêu tả.
Cát đằng cánh có kiểu mọc dạng dây leo lâu năm, và có thể mọc cao tới 1,8-2,4 m (6–8 ft) trong khu vực nhiệt đới, hoặc ít hơn như là cây một năm hay thực vật trồng trong chậu. Nó có thân ghép đôi và các lá hình tim hay hình mũi tên có ít lông, cuống có cánh. Hoa 5 cánh và mọc trong suốt mùa sinh trưởng, mọc đơn độc ở nách lá. Thông thường hoa có màu cam đậm với đốm sẫm màu đặc trưng ở giữa, mặc dù các chủng khác nhau có thể có hoa màu đỏ, cam, cam đỏ, trắng, vàng nhạt, vàng tươi, có hoặc không có phần tâm màu sôcôla tía đặc trưng.
Gieo trồng.
Hạt của cát đằng cánh dễ nảy mầm trong đất nhiều mùn với một ít cát. Ngâm hạt trong nước ấm qua đêm giúp cải thiện nảy mầm khi gieo. Nó là loài cây mọc khỏe, nhanh ra hoa, với việc xén tỉa nhẹ giúp ra nhiều hoa hơn. | 1 | null |
Cát đằng thon (danh pháp khoa học: Thunbergia laurifolia) là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô (Acanthaceae). Loài này được John Lindley miêu tả khoa học đầu tiên năm 1856.
Phân bố.
Là loài bản địa Ấn Độ và vùng sinh thái Indomalaya, loài này có mặt trong khu vực từ quần đảo Andaman, quần đảo Nicobar, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam tới Malaysia. Nó được gọi là "kar tuau" ở Malaysia và "rang jeud ("รางจืด) ở Thái Lan.
Loài này cũng du nhập vào quần đảo Cook, Fiji, quần đảo Leeward, tây nam Mexico, Ogasawara-shoto, Peru, Sri Lanka, Tanzania, Uganda, quần đảo Wallis-Futuna và quần đảo Windward.
Mô tả.
Dây leo cao, quấn qua trái, không chồi. Lá của "Thunbergia laurifolia" không lông, mọc đối, hình tim với mép lá khía răng cưa và thuôn nhọn dần thành mũi nhọn ở đỉnh lá. Cuống lá 2–6 cm. Hoa to, đường kính 6–8 cm, không có mùi thơm và mọc thành chùm hoa lủng lẳng dài 40–50 cm. Các hoa lưỡng tính hình loa kèn với ống tràng rộng và ngắn, màu trắng phía ngoài và màu ánh vàng phía trong. Tràng hoa màu lam nhạt với 5–7 cánh hoa, trong đó có 1 cánh lớn hơn các cánh kia, tâm trắng hay vàng.
Ra hoa gần như liên tục quanh năm, với hoa nở vào sáng sớm và khép lại vào buổi chiều cùng ngày. Ong bầu ("Xylocopa" spp.) là động vật thường xuyên bay đến để lấy phấn hoa và mật hoa trong khi kiến đen (Formicidae) có mặt có lẽ là để ăn mật hoa. Loài này phát triển một hệ thống rễ củ.
Gieo trồng.
Nhân giống bằng cành giâm cắt từ thân hay các rễ củ.
Hóa học.
Các iridoid glucoside đã được cô lập từ "T. laurifolia". Lá sấy khô bằng vi sóng có các tính chất chống oxy hóa (AOP) mạnh hơn lá tươi. AOP của nước sắc từ lá sấy khô bằng vi sóng cao hơn so với của trà rang jeud sản xuất quy mô thương mại ở Thái Lan.
Sử dụng.
Cây cảnh.
Là loài dây leo nở hoa dài thời gian trong gieo trồng nên "Thunbergia laurifolia" là loài cây cảnh phổ biến trong các khu vườn khu vực nhiệt đới.
Trà và y học.
Tại Malaysia nước ép từ lá vò nát của "T. laurifolia" được sử dụng để điều trị rong kinh, đặt vào tai để trị tật điếc, và làm thuốc đắp vào vết cắt hay nhọt, đinh.
Tại Thái Lan, là được sử dụng để hạ sốt cũng như dùng làm thuốc giải độc. Một vài công ty trà thảo mộc Thái Lan đã bắt đầu sản xuất và xuất khẩu trà rang jeud. Người ta cho rằng loại trà này có tác dụng giải độc do thuốc, rượu và thuốc lá.
Loài xâm hại.
"Thunbergia laurifolia" có thể trở thành loài xâm hại khi thoát khỏi các vườn cảnh vào các môi trường sống bản địa có khí hậu thích hợp. Do nó là loài cây dây leo lâu năm mọc nhanh nên nó đã trở thành loài cỏ dại ngoại lai và khét tiếng tại nhiều quốc gia nhiệt đới. Nó đã trở thành cỏ dại tại thảm thực vật Cerrado ở Brasil và nhiều khu vực có khí hậu nhiệt đới ở Australia. | 1 | null |
Cardiff City Football Club () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của Wales có trụ sở tại Cardiff, xứ Wales. Câu lạc bộ thành lập năm 1899. Câu lạc bộ giành được danh hiệu vô địch hạng nhất trong mùa giải năm 2013 và được thăng hạng lên giải đấu cao nhất lần đầu tiên trong 51 năm qua.
Sân nhà của họ là sân vận động Cardiff City. Họ là câu lạc bộ của Wales và ngoài nước Anh duy nhất giành chức vô địch FA Cup, và giành được vào năm 1927.
Trong năm 2012, Cardiff City đã thay đổi chủ sở hữu, chủ sở hữu mới của câu lạc bộ là một người Malaysia, Vincent Tan. Điều này bao gồm sự thay đổi áo đấu trên sân nhà của câu lạc bộ và biểu trưng của câu lạc bộ.
Danh hiệu.
Premier League (vô địch quốc gia
Hạng nhất
Hạng Nhì
Hạng ba
FA Cup
FA Charity Shield
Football League Cup
European Cup Winner's Cup
Southern Football League hạng hai
Welsh Cup
FAW Premier Cup
FAW Welsh Youth Cup
FA Youth Cup
Algarve Challenge Cup | 1 | null |
Mương trắng (danh pháp khoa học: Diplodiscus trichospermus) là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Elmer Drew Merrill mô tả khoa học lần đầu tiên năm 1935 dưới danh pháp "Hainania trichosperma". Năm 2007 Y.Tang, M.G.Gilbert & Dorr chuyển nó sang chi "Diplodiscus" thành danh pháp "Diplodiscus trichospermus". | 1 | null |
Doellingeria scabra là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Thunb.) Nees mô tả khoa học đầu tiên năm 1832.
Liên kết ngoài.
Aster scaber là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Thunb. mô tả khoa học đầu tiên năm 1784. | 1 | null |
Eribroma oblongum là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được (Mast.) Pierre ex A. Chev. mô tả khoa học đầu tiên năm 1917.
Đây là loài bản địa của khu vực rừng mưa nhiệt đới của Cameroon, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích Đạo, Gabon, Ghana, Liberia, Nigeria, và Sierra Leone. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. | 1 | null |
Bo đỏ, bo rừng, trôm màu, hay còn gọi ngô đồng đỏ (danh pháp khoa học: Firmiana colorata) là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được William Roxburgh mô tả khoa học đầu tiên năm 1795 dưới danh pháp "Sterculia colorata". Năm 1844 Robert Brown chuyển nó sang chi "Firmiana" thành danh pháp hiện nay công nhận. | 1 | null |
Ngô đồng hay còn gọi tơ đồng, trôm đơn, bo rừng, bo xanh (danh pháp khoa học: Firmiana simplex) là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1763 dưới danh pháp "Hibiscus simplex". Năm 1909 William Franklin Wight chuyển nó sang chi "Firmiana".
Loài thực vật này cũng được gọi là Chinese parasol tree vì có xuất xứ rất nhiều ở Trung Quốc và các vùng Đông Á lân cận, trong đó có Việt Nam. Một cây trưởng thành có thể cao đếm 16 m, thân hình cao thẳng. Trong văn hóa Đông Á, cây ngô đồng có hình ảnh thiêng liêng rất quan trọng, nó được tương truyền là nơi ở mà phượng hoàng ưa thích.
Hình thái.
Cây gỗ nhỏ lâu năm, cao đến 16 m, đường kính thân cây có thể đến 30 cm. Vỏ thân cây nhẵn có màu xanh lá cây. Lá đơn mọc cách, phiến lá xẻ thùy chân vịt nông 3-5 thùy. Kích thước lá dài 15–30 cm. Hoa đơn tính cùng gốc, tràng hoa màu trắng hoặc vàng, mùa hoa vào tháng 7. Quả dạng kiên, hình trái xoan.
Ngô đồng nguyên xuất miền nam Trung Quốc tới bắc Việt Nam, được trồng rộng rãi ở châu Âu, Bắc Mỹ và Đông Á. Cây ưa đất ẩm, thành phần cơ giới của đất từ sét đến pha cát, đất chua, trung tính đến kiềm. Ánh sáng từ toàn phần đến bị che bóng một phần.
Công dụng.
Ngô đồng có dáng thân thẳng, tán cây dạng trứng phù hợp trồng làm cây bóng mát ở ven đường, gần bãi đỗ xe. Vỏ cây cho sợi. Gỗ ngô đồng có tính truyền âm tốt, được dùng để chế tạo một số loại nhạc cụ truyền thống phương đông như thất huyền cầm hay đàn tranh. Ngoài ra gỗ ngô đồng còn được dùng đóng một số đố gia dụng nhỏ khác.
Lá cây được dùng với liều lượng nhỏ trong y học chữa bệnh trĩ, loét. Lá cây phơi khô còn được cuộn lại sử dụng hút thay thể cho thuốc lá. Hạt sử dụng trong điều chế thuốc kháng histamine, hạt cho dầu và có thể ăn được nếu biết cách chế biến.
Văn hóa.
Trong văn hóa Trung Quốc, cây ngô đồng rất nổi tiếng do hình thái cao lãnh của nó. Thân cây ngô đồng cao lớn và cường tráng, khi vươn cao thì hướng lên rất thẳng. Vỏ cây trơn nhẵn xanh biếc, lá cây nồng đậm, một mảnh xanh um, có vẻ thanh nhã khiết tịnh, lại xưng "“Thanh đồng”" (青桐). Có hai câu thơ nổi tiếng tả ngô đồng, là ["Nhất chu thanh ngọc lập, thiên diệp lục vân ủy"; 一株青玉立,千叶绿云委], biểu đạt được trạng thái kỳ vĩ của nó.
Tỉ mỉ phân tích sâu, ngô đồng có vỏ cây đẹp, lá lớn cũng rất đẹp, từ lâu cũng trở thành một loại cây cảnh. Từ thời nhà Hán, ngô đồng đã trở thành một dạng cây cảnh không thể thiếu trong vườn ngự ở hoàng cung. Ngoài ra, cây ngô đồng cũng được trồng khá phổ biến trong dân gian, có thể điểm xuyến trước sân nhà, vườn tược, hay bên góc vệ đường. Đặc biệt nhất, theo truyền thuyết dân gian, cây ngô đồng là nơi trú ẩn ưa thích của phượng hoàng - một loài chim huyền thoại có ảnh hưởng lớn trong văn hóa các nước đồng văn Đông Á, bao gồm cả Việt Nam. Gỗ của loài cây này cũng rất chắc, đặc biệt được ưa thích để làm nhạc cụ như cầm, nhiều vật nhạc cụ trong truyền thuyết cũng được nói là làm từ những cây ngô đồng quý, như Tiêu Vĩ cầm (焦尾琴).
Do nổi tiếng trong văn hóa, hình tượng ngô đồng cũng đi vào thơ ca. Thiên Trường hận ca trứ danh của Bạch Cư Dị có câu: ["Đón gió xuân lý đào hoa nở, Gặp mưa thu rụng lá ngô đồng"; 春風桃李花開日,秋雨梧桐葉落時]. Thi tiên Lý Bạch thậm chí còn có một câu đi vào huyền thoại: ["Ninh tri loan phượng ý, viễn thác y đồng tiền"; 寧知鸞鳳意,遠託椅桐前]. | 1 | null |
Gossypium hirsutum là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Carl von Linné mô tả khoa học đầu tiên năm 1763.
Đây là loài bông được trồng phổ biến nhất trên thế giới. Trên toàn cầu, khoảng 90% sản lượng bông là các giống có nguồn gốc từ loài này. Hoa Kỳ, nước xuất khẩu bông lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 95% tổng sản lượng bông. Là loài bản địa Mexico, Tây Ấn, Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Florida nhiệt đới.
Các bằng chứng khảo cổ từ Thung lũng Tehuacan ở Mexico cho thấy việc trồng loài này từ 3.500 trước Công nguyên, mặc dù chưa có bằng chứng nào về chính xác nơi nó có thể được thuần hóa lần đầu tiên. v Đây là bằng chứng đầu tiên về trồng bông ở châu Mỹ tìm thấy cho đến nay.
Gossypium hirsutum bao gồm một số giống hoặc giống lai có độ dài sợi khác nhau và dung sai đối với một số điều kiện phát triển. Các giống có chiều dài dài hơn được gọi là "vùng cao nguyên liệu dài" và các giống chiều dài ngắn hơn được gọi là "vùng cao nguyên liệu ngắn". Các loại cây lương thực dài được trồng phổ biến nhất trong sản xuất thương mại.
Bên cạnh đó là cây trồng sợi, Gossypium hirsutum và Gossypium herbaceum là những loài chính được sử dụng để sản xuất dầu hạt bông.
Người Zuni sử dụng cây này để làm những sản phẩm may mặc, và lông tơ được làm thành dây và sử dụng theo nghi lễ. | 1 | null |
Echinacea paradoxa là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Norton) Britton mô tả khoa học đầu tiên năm 1913. Đây là thực vật có hoa Bắc Mỹ bản địa nam Missouri, Arkansas, và nam trung bộ Oklahoma, với với một quần thể cô lập được báo cáo từ quận Montgomery ở phía đông Texas. Loài này được liệt kê là bị đe dọa ở Arkansas.
"Echinacea paradoxa" là một loại thảo mộc lâu năm cao tới 90 cm. | 1 | null |
Thủy xương bồ hay bồ bồ (danh pháp hai phần: Acorus calamus, đồng nghĩa Acorus verus "Houtt") là một loài thực vật có hoa trong họ Xương bồ. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Phân bố.
Sinh trưởng tại vùng đầm lầy, rìa ao hồ, những vùng nước lặng, cũng được gieo trồng; ở độ cao dưới 2.800 m. Có ở nhiều nơi tại Trung Quốc, Afghanistan, Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Indonesia, Nhật Bản, Triều Tiên, Malaysia (Sarawak), Mông Cổ, Nepal, Pakistan, Nga (Viễn Đông, Siberi), Sri Lanka, Thái Lan, Việt Nam; Tây Nam Á, châu Âu (trừ Nam Âu), Bắc Mỹ.
Sử dụng.
Lá Thủy xương bồ chứa đến 20% tinh bột, thêm 1,5-3,5% tinh dầu, bao gồm cả Asarone và Eugenol.
Thủy xương bồ là một loại cây thuốc cổ truyền của y học châu Á. Các dân tộc bản địa Bắc Mỹ cũng sử dụng Thủy xương bồ để tắm, xông, phun thuốc và pha thức uống và làm gia vị.
Thân rễ Thủy xương bồ (Rhizoma Calami) được sử dụng, được thu hoạch vào tháng 9 và tháng 10. Thân rễ được sử dụng (chủ yếu tạo vị đắng) trong y học và trong sản xuất nước hoa và rượu mùi. Thủy xương bồ được coi là tăng lực và ngon miệng. Tinh dầu Thủy xương bồ cũng có chứa trong thức uống Coca-Cola. Nhai rễ có thể tạo cảm giác hưng phấn và ở liều cao hơn có thể tạo ra ảo giác nhẹ, mà được cho là vì có chứa chất Asarone. | 1 | null |
Thạch xương bồ (danh pháp: Acorus gramineus) là một loài thực vật có hoa trong họ Xương bồ. Loài này được William Aiton miêu tả khoa học đầu tiên năm 1789.
Loài này phân bố ở Đông Á. Thân rễ chứa tinh dầu có asaron, glucosid đắng acorin.
Là cây thân thảo, sống nhiều năm. Thân rễ phân nhánh, mọc bò ngang gồm nhiều đốt. Lá hình dải hẹp, có bẹ, mọc ốp vào nhau và xòe sang hai bên ở ngọn. Cụm hoa hình bông mọc ở đầu một cán dẹt, phủ bởi một lá bắc to và dài, nom như cụm hoa mọc trên lá. Quả mọng khi chín màu đỏ nhạt. Thân rễ và lá có mùi thơm đặc biệt.
Sông Hương được đặt tên vì có loài này mọc hai bên sông tỏa mùi thơm. | 1 | null |
Aaron Copland (1900-1990) là nhà soạn nhạc, nhà sư phạm người Mỹ. Ông sống trong thời kỳ âm nhạc có nhiều phong cách khác nhau như cấu trúc, biểu hiện, tân cổ điển... Ông là một trong những nhà soạn nhạc có ảnh hưởng tới các nhà soạn nhạc Mỹ sau này, rõ nhất là ở phong cách âm nhạc của Leonard Bernstein. Tác phẩm nổi tiếng của ông là tổ khúc Rodeo. | 1 | null |
Câu lạc bộ bóng đá Đắk Lắk là một câu lạc bộ bóng đá Việt Nam có trụ sở ở thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Sân nhà của đội là Sân vận động Buôn Ma Thuột có sức chứa 20 nghìn chỗ ngồi.
Lịch sử.
Đắk Lắk là tỉnh có truyền thống và bề dày về bóng đá trước đây, cũng như sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1976, đội bóng đá Đắk Lắk đã tham gia giải bóng đá Trường Sơn của khu vực miền Trung và những năm tiếp theo đều tham gia các giải bóng đá hạng A2, A1 toàn quốc, đạt thứ hạng khá trong khu vực và cả nước. Ngoài ra đội cũng từng tham gia giải hạng nhất quốc gia từ những năm đầu thập kỷ 90.
Mùa giải 2013, sau 10 năm thi đấu ở giải Hạng Nhì, đội đã thi đấu xuất sắc và giành vị trí thứ hai bảng B với 6 thắng, 4 hòa sau 10 vòng đấu. Đội chính thức giành quyền lên chơi giải Hạng Nhất 2014 sau khi giành chiến thắng 1-0 trước Nam Định. Mùa giải Hạng Nhất 2015, đội đứng thứ 5 với chiến thắng trước Công An Nhân Dân và chính thức trụ hạng. Mùa giải 2016, câu lạc bộ có sự chuyển biến mạnh mẽ khi thay huấn luyện viên mới và tăng cường đội hình.
Thành tích.
Giải Quốc gia.
Giải vô địch bóng đá hạng nhì Việt Nam: | 1 | null |
Edgard Victor Achille Charles Varèse (; hay Edgar Varèse; sinh 22 tháng 12 năm 1883 – mất 6 tháng 11 năm 1965) là một nhà soạn nhạc gốc Ý sinh ra ở Pháp nhưng phát triển sự nghiệp của mình phần lớn là ở Hoa Kỳ.
Âm nhạc của Varèse nhấn mạnh âm sắc và nhịp điệu. Ông là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "organized sound", một cụm từ có nghĩa là âm sắc và nhịp điệu có thể được kết hợp lại với nhau, thăng hoa thành một định nghĩa hoàn toàn mới của âm nhạc. Mặc dù các tất cả tác phẩm còn sót lại của ông chỉ có tổng thời lượng khoảng 3 giờ, nhưng ông vẫn được công nhận là người có ảnh hưởng đến một số nhà soạn nhạc lớn của cuối thế kỷ 20. Ông sử dụng những nhạc cụ mới và tài nguyên nhạc điện tử nên ông được mệnh danh là "cha đẻ của âm nhạc điện tử".
Cuộc đời và sự nghiệp.
Thời niên thiếu.
Edgard Victor Achille Charles Varèse được sinh ra ở Paris, nhưng khi ông chỉ mới có vài tuần tuổi thì đã được gửi đến cho bác cả và một vài người họ hàng của mình ở thị trấn nhỏ Le Villars trong vùng Burgundy của Pháp nuôi dưỡng. Ở đó, ông đã rất gắn bó với ông ngoại của mình, Claude Cortot (cũng là ông nội của nghệ sĩ dương cầm Alfred Cortot, người anh họ của Varèse).
Cuối những năm 1880, ông bị cha mẹ đòi lại, và buộc phải đi cùng họ đến định cư tại Turin - Ý vào năm 1893, để sống gần những người họ hàng bên nội của ông, vì cha ông là người gốc Ý. Ở đây ông đã học được những bài học âm nhạc thực sự đầu tiên của mình trong một thời gian dài với Giovanni Bolzoni, kiêm giám đốc nhạc viện Turin. Năm 1895, ông sáng tác vở opera đầu tiên, "Martin Pas", nhưng đã bị mất. Ông không bao giờ cảm thấy thoải mái với cuộc sống ở Ý, chủ yếu là do cuộc sống gia đình rất ngột ngạt, cho nên sau một cuộc ẩu đả với cha mình, Varèse đã bỏ nhà đi đến Paris vào năm 1903. | 1 | null |
Cúc chỉ thiên hay còn gọi là chân voi nhám, cỏ lưỡi mèo, bồ công anh (tên khoa học Elephantopus scaber), là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Tên gọi.
Trong tiếng Mã Lai, loài này được gọi là "Tutup bumi" hay "Tapak Sulaiman".
Phân bố.
Loài này phân bố ở vùng nhiệt đới châu Phi, Đông Á, tiểu lục đia Ấn Độ, Đông Nam Á, và Úc. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng trên núi nhiệt đới ẩm hoặc bán nhiệt đới.
Thành phần hóa học.
Thành phần hóa học của loài này gồm:
Sử dụng.
"E. scaber" là một loại dược liệu cổ truyền. "E. scaber" chứa elephantopin nó chứa germacranolide sesquiterpene lactone gồm hai vòng lactone và một nhóm chức, và nó thể hiện chức năng kháng u, kháng viêm. | 1 | null |
Sonchus grandifolius là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Thomas Kirk mô tả khoa học đầu tiên năm 1894. Năm 1965, Loutfy Boulos tạo ra chi mới "Embergeria" để chuyển 2 loài "S. grandifolius" và "S. megalocarpus" sang chi này, tương ứng thành "Embergeria grandifolia". và "Embergeria megalocarpa".
Nghiên cứu năm 2004 cho thấy "E. grandifolia" có quan hệ họ hàng gần với "Kirkianella novae-zelandiae". Cùng nhau chúng tạo thành cặp có quan hệ chị-em với "Actites megalocarpa" + ["Sonchus maritimus" và "Sonchus arvensis"]. Vì thế, nó được chuyển trở lại chi "Sonchus" nghĩa rộng.
Phân bố.
Loài này là đặc hữu quần đảo Chatham (New Zealand). | 1 | null |
Guazuma ulmifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Lam. mô tả khoa học đầu tiên năm 1789.
Liên kết ngoài.
Thục địa
Thục địa - "Guazuma ulmifolia" Lam. var. tomentosa K. Schum., thuộc họ Trôm - "Sterculiaceae".
Mô tả: Cây gỗ lớn trung bình, trông giống như cây Cò ke; nhánh non có lông mịn. Lá xoan bầu dục, gốc hình tim, gân gốc 3-5, hơi nhám vì có lông mịn; lá kèm 4mm. Cụm hoa ngắn ở nách lá, hoa màu vàng tươi, đài có lông sát; cánh hoa 5, cong, tận cùng bằng một phần phụ cao, chẻ hai, màu nâu; nhị lép nhọn. Quả xoan, có u nâu, đen.
Ra hoa tháng 5-12.
MUTAMBA (Guazuma ulmifolia)
Family: Sterculiaceae
Genus: Guazuma
Species: ulmifolia
Synonyms: Bubroma guazuma, Diuroglossum rufescens, Theobroma guazuma, Guazuma coriacea, G. inuira, G. polybotra G. tomentosa, G. utilis
Common Names: Mutamba, mutambo, embira, embiru, West Indian elm, guazima, guacima, guacimo, guasima de caballo, aquiche, ajya, guasima, cimarrona, guazuma, bolaina, atadijo, ibixuma, cambá-acã, bay cedar, bois d’homme, bois d’orme, bois de hetre, orme d’Amerique
Price: £22.50 – 1 lb / 454 gm Bag
Parts Used: Bark, leaves, root
From The Healing Power of Rainforest Herbs:
----Mutamba is a medium-sized tree that grows up to 20 m high, with a trunk 30 to 60 cm in diameter. Its oblong leaves are 6 to 12 cm long, and the tree produces small white-to-light-yellow flowers. It produces an edible fruit that is covered with rough barbs and has a strong honey scent. Mutamba is indigenous to tropical America on both continents and found throughout the Amazon rainforest.
TRIBAL AND HERBAL MEDICINE USES
Mutamba is called guasima or guacima in Mexico, where it has a very long history of indigenous use. The Mixe Indians in the lowlands of Mexico use a decoction of dried bark and fruit to treat diarrhea, hemorrhages and uterine pain. The Huastec Mayans of northeastern Mexico employ the fresh bark boiled in water to aid in childbirth, for gastrointestinal pain, asthma, diarrhea and dysentery, wounds, and fevers. Mayan healers in Guatemala boil the bark into a decoction to treat stomach inflammation and regular stomachaches. Mutamba was a magical plant to the ancient Mayans who also used it against “magical illnesses” and evil spells. In the Amazon, indigenous people have long used mutamba for asthma, bronchitis, diarrhea, kidney problems, and syphilis. They use a bark decoction topically for baldness, leprosy, dematosis and other skin conditions.
Mutamba holds a place in herbal medicine systems in many tropical countries; chiefly the bark and leaves are used. In Belizean herbal medicine practices, a small handful of chopped bark is boiled for 10 minutes in 3 cups of water and drunk for dysentery and diarrhea, for prostate problems, and as a uterine stimulant to aid in childbirth. A slightly stronger decoction is used externally for skin sores, infections, and rashes. In Brazilian herbal medicine practices, a bark decoction is used to promote perspiration, cleanse and detoxify the blood, and to suppress coughs. There it is used for fevers, coughs, bronchitis, asthma, pneumonia, syphilis, and liver problems. A bark decoction is also prepared and is used topically to promote hair growth, to combat parasites of the scalp, and to treat various skin conditions. In Peru, the dried bark and/or dried leaves are made into tea (standard infusion) and used for kidney disease, liver disease, and dysentery. There the bark is also used topically for hair loss. In Guatemala, the dried leaves of the tree are brewed into a tea and drunk for fevers, kidney disease, and skin diseases, as well as used externally for wounds, sores, bruises, dermatitis, skin eruptions and irritations, and erysipelas.
PLANT CHEMICALS
Mutamba bark is a rich source of tannins and antioxidant chemicals called proanthocyanidins. One in particular, procyanidin B-2, helps validate mutamba’s long standing use in several countries for hair loss and baldness. In 1999, researchers in Japan reported that procyanidin B-2 was a safe topical hair-growing agent. From 2000 to 2002, they published three in vitro and in vivo (in balding men) studies showing that procyanidin B-2 promoted hair cell growth and increased the total number of hairs on a designated scalp area. Researchers have determined that mutamba bark is a rich source of this natural chemical compound. Other independent research indicates that procyanidin B-2 also has antitumorous and anticancerous effects (even against melanoma) as well as lowers blood pressure and protects the kidneys. The bark also contains a chemical called kaurenoic acid which has been documented with antibacterial and antifungal properties in many studies over the years. The leaves of mutamba contain caffeine, however none has been found in the bark of the tree.
Mutamba’s main plant chemicals include: caryophyllene, catechins, farnesol, friedelin, kaurenoic acid, precocene I, procyanidin B-2, procyanidin B-5, procyanidin C-1, and sitosterol.
BIOLOGICAL ACTIVITIES AND CLINICAL RESEARCH
Mutamba’s long history of effective uses in herbal medicine propelled researchers to begin studying its properties and activities in the laboratory (beginning in 1968). It has been the subject of numerous studies since. In the first study published, using various animals (rats, rabbits, guinea pigs, cats and insects), reported that it lowered heart rate and blood pressure, relaxed smooth muscles and stimulated the uterus. Two years later, another researcher reconfirmed the uterine stimulant effects in rats, validating its historical uses as a uterine stimulant and childbirth aid. In eight different studies from 1987 to 2003, various leaf and bark extracts have clinically demonstrated remarkable antibacterial activity in vitro against several disease-causing pathogens, including Bacillus, Staphylococcus, Streptococcus, E. coli, and Neisseria gonorrhea. One of the recent 2003 studies also confirmed its antioxidant effects. In a 1995 in vitro study, mutamba also demonstrated antiviral activity against Herpes simplex type 1.
These studies could certainly explain why mutamba has been used so effectively in herbal medicine systems for many types of gastrointestinal problems, such venereal diseases as gonorrhea and syphilis, and upper respiratory conditions (pneumonia and bronchitis). Subsequent research focusing on particular chemicals found in mutamba documented their ability to interfere with an enzyme process by which bacteria and pathogens replicate. Scientists showed that these chemicals interacted with a cholera toxin-preventing its toxicity and the resultant diarrhea.
Traditionally a decoction of mutamba leaves has been used in Mexico for diabetes. It has only been recently (in 1998) that researchers in Mexico validated this indigenous use, publishing a study showing that a leaf extract significantly decreased hyperglycemia in rabbits. Of particular note (in 1990), a Brazilian research group demonstrated that a crude extract of mutamba bark was toxic to cancer cells in vitro, exhibiting a 97.3% inhibition rate. In yet another recent study (in 2002), Belgium researchers reported the possible mechanism by which mutamba bark reduces hypertension – it inhibits an enzyme called angiotensin II. Angiotensin inhibitors represent a newer classification of heart drugs (newer than the ACE-inhibitors) which are now being prescribed to lower blood pressure.
CURRENT PRACTICAL USES
Research continues to document the unique properties and actions of this plant while validating its traditional uses. Mutamba is a favorite natural remedy among Central and South American health practitioners and the indigenous peoples of the Amazon. It is often turned to first for upper respiratory infections as it can quiet coughs, reduce fever, as well as provides antiviral and antibacterial actions. It will be interesting to see if anyone in North or South America follows up on the research concerning hair loss and utilizes mutamba as a natural product for baldness and hair loss prevention. There certainly is a ready (and very profitable) market for products such as these. . . especially if they are effective!
Traditional Preparation: The traditional remedy for upper respiratory infections, asthma and other respiratory problems is one cup of a standard bark decoction 2-3 times daily. For gastrointestinal problems and other conditions the same bark decoction is used or 2-3 ml of a 4:1 tincture twice daily or one to 2 grams of powdered bark daily in tablets or capsules or stirred into water or juice can be substituted if desired. The same bark decoction is rinsed through the hair several times weekly as a natural remedy for hair loss. See Traditional Herbal Remedies Preparation Methods page if necessary for definitions.
Contraindications:
Mutamba bark has been documented in several animal studies to have uterine stimulant activity and it should not be taken during pregnancy.
Mutamba bark has been documented in animal studies to lower blood pressure. In vitro studies indicate that it can inhibit angiotensin II. People with a history of heart problems, those taking heart medications, or those with low blood pressure should not use this plant without supervision and advice of a qualified health care practitioner.
Drug Interactions: None published; however, mutamba bark may potentiate the action of certain antihypertensive drugs. | 1 | null |
Rau má lá rau muống hay còn gọi rau má lá rau muống cuống rau răm, dương đề thảo, tiết gà, cỏ mặt trời, rau chua lè, tam tróc, hồng bối diệp, nhất điểm hồng (danh pháp hai phần: Emilia sonchifolia) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. là một loại cây nhỏ mọc hàng năm, cao 0.2 - 0.4 m thân nhẵn. Lá phía dưới hình mắt chim hay hình trứng có khi gốc hình tim, mép có răng cưa hay hơi chia thùy nhỏ, cuống dài, những lá sau hình 3 cạnh, chia lông chim, thùy tận cùng hình trứng hơi 3 cạnh, răng cưa to thô, lá ở trên hình 3 cạnh dài, không cuống, có tai và ôm vào thân. Cụm hoa hình đầu, hình trụ, dài 8-9 mm, rộng 4 mm, thường tụ 2-4 chiếc, cuống gầy, dài 3-6 cm, hoa màu hồng hay hơi tím. Quả bế dài 5,5 mm, có gợn ngắn. Loài này được (L.) DC. ex DC. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1834. | 1 | null |
Enceliopsis argophylla là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (D.C.Eaton) A.Nelson mô tả khoa học đầu tiên năm 1909.
Đây là loài bản địa ở miền tây nam Hoa Kỳ: Arizona (Mohave County), Nevada (Clark County), và Utah (Washington County), và có thể được nhìn thấy một khoảng cách ngắn đông của Las Vegas, Nevada. | 1 | null |
Hibiscus cannabinus là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ, còn được gọi là Kenaf (theo tiếng Anh và tiếng Ba Tư). Loài này được Carl Linnaeus (L.) mô tả khoa học đầu tiên năm 1759.
Biệt danh "cannabinus" (cần sa) có thể được truy nguyên từ sự giống nhau của hình dạng chiếc lá với cây cần sa. Nếu trồng ở nơi hẹp, cây không phân nhánh có thể cao đến 3 hay 4 mét. Theo truyền thống, Kenaf được sử dụng để làm dây thừng hoặc bao tải. Các ứng dụng mới hơn là vật liệu xây dựng và sử dụng chúng làm chất hấp phụ hoặc làm thức ăn cho gia súc. Kenaf cũng được trồng để sản xuất bột giấy để làm giấy. Năng suất là khoảng 20 tấn bột giấy mỗi ha. Ngoài ra trong canh tác sợi, dư lượng được sử dụng để sản xuất bột giấy, hoặc chúng được sử dụng làm nhiên liệu đốt.
| 1 | null |
Tomáš Berdych (; sinh 17-9, 1985) là một cựu tay vợt quần vợt người Cộng hòa Séc. Anh từng lọt đến Chung kết Wimbledon 2010 và để thua Rafael Nadal trong trận chung kết sau 3 sec với tỷ số là 3-6, 5-7, 4-6.
Cuộc đời.
Berdych sinh ra ở Valasske Mezirici, Moravia, Cộng hòa Séc.Mẹ của anh là bà Hana Berdychová và cha của anh là ông Martin Berdych.Berdych làm quen với quần vợt ở tuổi lên 5 và ở tuổi lên 8 anh đã trở thành người chiến thắng dành cho các vận động viên nhí ở Cộng hòa Séc. | 1 | null |
Xương chua hay còn gọi bụp xước (danh pháp khoa học: Hibiscus surattensis) là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Carl von Linné mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Ngọn và lá non chua, thường được cho vào ca-ri hoặc nấu với các món canh chua nấu thủy sản. Cây mọc bụi ven đường, ven rừng, nương rẫy bỏ hoang, phân bổ đai cao dưới 1200m. | 1 | null |
Bụp hồng cận, hay còn gọi dâm bụt kép, râm bụt kép, mộc cận, hồng cận biếc (Danh pháp khoa học: Hibiscus syriacus), là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Đây là loài bản địa phần lớn châu Á, nhưng không có ở Syria (mặc cho tên gọi mà Linnaeus đã đặt cho nó).
Quốc hoa Hàn Quốc.
"Hibiscus syriacus" được chọn làm quốc hoa của Hàn Quốc. Bông hoa xuất hiện trong huy hiệu của Hàn Quốc và hình ảnh đất nước Hàn Quốc cũng được so sánh nên thơ với hoa dâm bụt trong chính bài Quốc ca của quốc gia này. Ngoài ra, tên gọi của hoa dâm bụt trong tiếng Hàn là "Mugunghwa" (Hangul: 무궁화; Hanja: 無窮花 = vô cùng hoa). Tầm quan trọng mang tính biểu tượng của loài hoa này bắt nguồn từ từ "Mugung" trong tiếng Hàn, có nghĩa là "vĩnh viễn" hay "nhiều vô kể". | 1 | null |
Hibiscus trionum là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Đây là loài thực vật hàng năm bản địa Levant. Loài này đã lan rộng khắp miền nam châu Âu cả hai như là một loại cỏ dại và cây trồng trong vườn. Nó đã được du nhập vào Hoa Kỳ như là một cảnh nơi mà nó mọc ngoài thiên nhiên. | 1 | null |
Đặc điểm.
Erigeron crenatus là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Eastw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1931.
Một số tên gọi khác: Crenate Fleabane, Cut-leaved Fleabane.
Nơi sống.
Erigeron crenatus thường sống ở Bắc Mỹ, được tìm thấy trong đầm lầy, rừng cây hoặc đồng cỏ ẩm ướt.
Hoa, hạt giống.
Loài này có hoa màu trắng, hơi hồng, đường kính từ 2-3cm, nhụy hoa có màu vàng. Hạt nhỏ và màu đen. Cây con nhỏ và mảnh khảnh.
Những cây đã sống lâu năm có thể nhân giống bằng phương pháp chiết cành hoặc hạt giống. Nó nơi ưa đất ẩm, thoát nước tốt và đủ nắng. Loài cây này có khả năng chịu hạn và không cần chăm sóc nhiều.
Công dụng, lợi ích.
Erigeron crenatus sử dụng làm cây cảnh trong vườn hoặc công viên. Nó cũng được dùng để làm nguồn thức ăn cho chim và một số động vật khác. | 1 | null |
Mollia gracilis là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được George Bentham mô tả khoa học đầu tiên năm 1861 theo mẫu vật số 4949 do Richard Spruce thu thập tại New Tarapoto, Peru.
Phân bố.
Loài cây gỗ cao tới 7,5 m (25 pedalis) này có trong các khu rừng miền đất thấp tại Bolivia, miền bắc Brasil, Colombia, Ecuador, Peru, Venezuela. | 1 | null |
Mollia lepidota là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được George Bentham mô tả khoa học đầu tiên năm 1861 theo các mẫu vật số 1591, 2538, 2576 do Richard Spruce thu thập ven sông Vaupés và Negro tại Brasil.
Phân bố.
Loài cây gỗ cao tới 4,5-6,0 m (15-20 pedalis) này có trong các khu rừng ẩm ướt vùng đất thấp tại Bolivia, miền bắc và tây trung Brasil, Colombia, Ecuador, Guyana, Venezuela. | 1 | null |
Mollia speciosa là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Carl Friedrich Philipp von Martius mô tả khoa học đầu tiên năm 1826. Ông xếp nó vào họ Tiliaceae.
Nó là loài điển hình của chi "Mollia".
Phân bố.
Loài cây gỗ này có tại vùng rừng miền bắc và tây trung Brasil, đông nam Colombia, Guyana, nam Venezuela. | 1 | null |
Mollia tomentosa là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được George Bentham mô tả khoa học đầu tiên năm 1861 theo mẫu vật số 2653 do Richard Spruce thu thập ven sông Vaupés tại Brasil.
Phân bố.
Loài cây gỗ cao tới 7,5 m (25 pedalis) này có tại miền bắc Brasil, đông nam Colombia, miền nam Venezuela. | 1 | null |
Mollia williamsii là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Charles Baehni mô tả khoa học đầu tiên năm 1936 theo mẫu số 1160 do Williams thu thập tại vùng ven sông Nanay, tại vùng Loreto ở miền bắc Peru. Mẫu này hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Field, Chicago, Hoa Kỳ.
Tên gọi.
Tên gọi địa phương trong tiếng Quichua là uchu mullaca.
Phân bố.
Loài cây gỗ cao tới 7,0 m này có tại Peru. | 1 | null |
Hoắc hương núi, còn gọi là phú vĩ nhám, thổ hoắc hương, xuyên hoắc hương hay ngắn gọn là hoắc hương (tên khoa học: Agastache rugosa) là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi. Loài này được Friedrich Ernst Ludwig von Fischer và Carl Anton von Meyer mô tả khoa học đầu tiên năm 1835 dưới danh pháp "Lophanthus rugosus". Năm 1891 Carl Ernst Otto Kuntze chuyển nó sang chi "Agastache". | 1 | null |
Chân thỏ hay gỗ bấc (danh pháp khoa học: Ochroma pyramidale) là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Jean-Baptiste Lamarck công bố hợp lệ lần đầu tiên tháng 4 năm 1788 dưới danh pháp "Bombax pyramidale", dựa trên mô tả của Antonio José Cavanilles trước đó. Năm 1920 Ignatz Urban chuyển nó sang chi "Ochroma". Loài này cũng thường được được dẫn với tên khoa học "Ochroma lagopus", do cuối tháng 6 năm 1788 Olof Swartz lần đầu tiên mô tả chi "Ochroma" với loài được mô tả kèm theo là "O. lagopus". Tuy nhiên danh pháp do Swartz công bố cho loài này có sau khi Lamarck đã công bố hợp lệ danh pháp "Bombax pyramidale", nên "O. lagopus" chỉ là đồng nghĩa muộn của "Ochroma pyramidale" khi nó được chuyển từ chi "Bombax" sang chi này. Nó là loài duy nhất hiện nay được công nhận của chi Ochroma.
Là loài cây gỗ to và lớn nhanh, có thể cao tới và đường kính thân cây . Gỗ bấc rất nhẹ (tỷ trọng riêng khoảng 120–150 kg/m³) với nhiều công dụng. Cây gỗ bấc là bản địa miền nam Brasil và miền bắc Bolivia cho tới miền nam Mexico.
Phân loại.
Là thành viên của họ Cẩm quỳ (Malvaceae), "O. pyramidale" từng được coi là một loài trong họ Gạo (Bombaceae) nhưng hiện nay được coi là có vị trí không rõ ràng trong Malvatheca, với mối quan hệ họ hàng gần nhất là với chi "Patinoa", tạo thành một nhánh độc lập với cả phân họ Cẩm quỳ (Malvoideae) và phân họ Gạo (Bombacoideae)
Sinh học.
Là loài bản địa khu vực từ miền nam Mexico tới miền nam Brasil, nhưng hiện nay nó có thể được tìm thấy ở nhiều quốc gia khác (Papua New Guinea, Indonesia, Thái Lan, quần đảo Solomon v.v.). Là thực vật tiên phong, nó xuất hiện trong những khu vực dọn quang trong những cánh rừng, hoặc là do con người chặt phá hoặc là do cây đổ hay trên những khu đồng ruộng bị bỏ hoang. Nó lớn rất nhanh, tới trong 10–15 năm. Tốc độ lớn nhanh này giải thích cho độ nhẹ của gỗ, vởi tỷ trọng riêng của nó thấp hơn cả bần. Loài cây này nói chung không sống quá 30-40 năm.
Ra hoa từ năm thứ ba trở đi, thông thường vào cuối mùa mưa khi rất ít loài cây gỗ khác ra hoa. Các hoa lớn nở vào buổi chiều muộn và duy trì tình trạng này qua đêm. Mỗi hoa chứa 1 tuyến mật sâu tới . Các loài thụ phấn ban ngày bao gồm khỉ mũ nhưng phần lớn quá trình thụ phấn diễn ra ban đêm. Người ta từng cho rằng động vật thụ phấn chủ chốt là dơi; nhưng chứng cứ gần đây cho thấy 2 nhóm động vật có vú ăn đêm là kinkajou và olingo có thể mới là động vật thụ phấn chính.
Gieo trồng.
Ecuador cung cấp trên 95% lượng gỗ bấc thương mại. Trong những năm gần đây khoảng 60% cây gỗ bấc đượng trồng trong các đồn điền thành các hàng dày dặc, khoảng 1.000 cây/ha (so với 2-3 cây/ha trong tự nhiên). Nó là cây sớm rụng lá trong mùa khô hoặc thường xanh, với các lá to () có thùy lá hình chân vịt. Là thực vật hạt kín hai lá mầm nên gỗ bấc được phân loại như là loại gỗ cứng mặc dù gỗ của nó rất mềm. Nó là loại gỗ cứng thương mại mềm nhất. Gỗ được thu hoạch sau 6-10 năm trồng.
Sử dụng.
Gỗ bấc rất nhẹ và sáng màu, với thớ gỗ thô. Tỷ trọng riêng của gỗ bấc khô trong phạm vi từ , với tỷ trọng điển hình khoảng . Gỗ của cây còn sống có các tế bào lớn chứa đầy nước. Điều này làm cho gỗ có kết cấu xốp và làm cho gỗ của cây còn sống không nhẹ hơn nước đáng kể và vừa đủ ở mức tối thiểu để gỗ nổi trên mặt nước. Trong sản xuất gỗ thương mại, gỗ bấc được sấy trong lò khoảng 2 tuần để làm các tế bào này khô và rỗng. Tỷ lệ thể tích/diện tích bề mặt lớn của các tế bào rỗng có vách mỏng được tạo ra từ sấy khô làm cho gỗ khô có tỷ lệ lực/trọng lượng (độ dai bền) lớn, do các tế bào chủ yếu chứa không khí. Không giống như gỗ mục nát tự nhiên, nhanh chóng bị phân hủy trong các rừng mưa nơi cây gỗ bấc sinh sống, các vách tế bào của gỗ bấc sấy khô vẫn giữ được kết cấu bền vững của xenluloza và linhin.
Do tỷ trọng thấp nhưng độ dai bền cao, gỗ bấc là vật liệu rất phổ biến để làm các kết cấu nhẹ, dai trong các thử nghiệm mô hình cầu, các mô hình nhà cửa và mô hình máy bay; tất cả các hạng đều có thể sử dụng cho các chủng loại máy bay mô hình kiểm soát bằng dây hoặc bằng sóng vô tuyến trong bộ môn thể thao máy bay mô hình, với "các hạng thi đấu" nhẹ nhất đặc biệt có giá trị trong máy bay mô hình bay tự do. Gỗ bấc cũng có giá trị như là một thành phần trong sản xuất các máy bay thật bằng gỗ nhẹ, nổi tiếng nhất trong số này có lẽ là de Havilland Mosquito của Anh trong thế chiến II.
Gỗ bấc cùng dùng để làm ra các mồi câu bằng gỗ trong câu cá, đặc biệt trong các mồi câu Rapala.
Các que gỗ bấc khô cũng có ích trong vai trò của bút thay thế tạm thời trong nghệ thuật thư pháp khi các ngòi bút kim loại thương mại với bề rộng mong muốn không có sẵn.
Gỗ bấc cũng thường được dùng làm vật liệu lõi trong các composit; chẳng hạn, cánh của nhiều loại turbine gió có chứa gỗ bấc. Trong sản xuất vợt bóng bàn, một lớp gỗ bấc thường được dán giữa hai lớp gỗ dán mỏng làm từ các loại gỗ khác. Gỗ bấc cũng được dùng trong cán tấm cùng với nhựa cốt sợi thủy tinh (sợi thủy tinh) để sản xuất các ván lướt sóng gỗ bấc chất lượng cao cũng như boong tàu và phần nổi trên mặt nước của nhiều loại thuyền, đặc biệt là các loại du thuyền có chiều dài dưới .
Gỗ bấc cũng dùng sản xuất các đồ dùng biểu diễn bằng gỗ để "đập phá" như bàn, ghế để đập gãy trong các cảnh nào đó của hát kịch, phim và truyền hình.
Thế hệ 5 và 6 của xe thể thao Chevrolet Corvette có sàn xe là gỗ bấc dán giữa các tấm nhựa cốt sợi cacbon.
Nhà khoa học kiêm nhà phiêu lưu mạo hiểm người Na Uy là Thor Heyerdahl, tin rằng tiếp xúc sớm của thổ dân Nam Mỹ và Polynesia là có thể, đã làm ra chiếc bè "Kon Tiki" từ gỗ bấc, và trên chiếc mảng này ông và đoàn thủy thủ đã vượt khoảng 6.900 km trên Thái Bình Dương trong 101 ngày (28/4/1947 - 07/8/1947) từ Callao, Peru để đến đảo san hô vòng Raroia trong quần đảo Tuamotu vào năm 1947. Tuy nhiên, gỗ của Kon Tiki đã không được sấy khô và khả năng nổi của nó chủ yếu là do nhựa của gỗ bấc có tỷ trọng thấp hơn nước biển. Điều may mắn ngẫu nhiên này có thể đã là nguyên chính cứu vãn chuyến thám hiểm, do nó ngăn nước biển không ngấm vào gỗ và làm chìm chiếc bè. | 1 | null |
Pavonia viscosa là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được A. St.-Hil. mô tả khoa học đầu tiên năm 1827.
Phạm vi sinh sống.
Phạm vi bản địa của loài này là phía Đông Nam Brazil. Chúng phát triển chủ yếu ở khu vực nhiệt đới khô theo mùa. | 1 | null |
Ma cây (tên gốc tiếng Anh: Evil Dead) là một phim điện ảnh kinh dị siêu nhiên của Mỹ năm 2013 do Fede Alvarez đạo diễn, với phần kịch bản được chấp bút bởi Rodo Sayagues và Alvarez, và sản xuất bởi Bruce Campbell, Robert Tapert và Sam Raimi. Quá trình quay phim được thực hiện tại vùng ngoại ô Auckland thuộc New Zealand, diễn ra trong vòng một tháng. Đây là phàn phim thứ tư của thương hiệu "Evil Dead", và được coi như một phần phim tái khởi động của phần phim gốc năm 1981 và đồng thời cũng là phần tiếp nối của bộ ba phim gốc. Nội dung phim xoay quanh câu chuyện về năm người bạn đi đến một ngôi nhà nhỏ ở vùng hẻo lánh nơi mà sự khám phá ra cuốn sách của thần chết vô tình khiến họ đánh thức những loài ma quỷ sống trong khu rừng gần đấy. Những con quỷ này đã bắt giữ họ cho đến khi một người thoát ra được và chiến đấu để giành lấy sự sống.
"Ma cây" được công chiếu ra mắt tại sự kiện South by Southwest diễn ra vào ngày 8 tháng 3 năm 2013 và bắt đầu khởi chiếu tại Mỹ từ ngày 5 tháng 4 năm 2013. Tại Việt Nam, phim không được công chiếu chính thức do không vượt qua vòng kiểm duyệt. Phim thu về 97,5 triệu USD toàn cầu. | 1 | null |
Nón Bài Thơ là một loại nón lá đặc biệt ở xứ Huế, khi soi lên ánh sáng thì thấy hiện lên bài thơ hay hình ảnh hoa văn được tạo nên khéo léo, bố cục cân đối giữa hai lớp lá của nón.
Đặc trưng.
Nón bài thơ xứ Huế cũng giống như nón ở một số địa phương khác trên cả nước, tuy nhiên nét đặc thù mang đậm dấu ấn phong cách Huế chính là dáng nón thanh tao, mềm mại, màu trắng sáng xanh mát dịu của lá và những hình hoa văn được tạo nên khéo léo,bố cục cân đối giữa hai lớp lá, chỉ khi soi ra trước ánh sáng mới có thể nhận thấy được vẻ đẹp đầy thi vị này. Và để làm nên những chiếc nón bài thơ này là cả một nghệ thuật, đòi hỏi sự kì công, khéo léo của những nghệ nhân làm nón.
Lịch sử ra đời.
Từ rất lâu đời, do nhu cầu của cuộc sống của các vương triều phong kiến nhà Nguyễn (kéo dài 143 năm: 1802 – 1945) và do sự phân công lao động trong xã hội, vì vậy, nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng trên vùng đất Huế đã được hình thành, phát triển và tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong số đó có những làng nón truyền thống như Phủ Cam, Đốc Sơ, Dạ Lê, Kim Long, Tây Hồ và làng nón Bài Thơ.
Có lẽ chưa thể có câu trả lời chính xác nhất về thời điểm ra đời. Tuy nhiên, theo những ghi chép còn sót lại của Lê Quý Đôn trong "Phủ biên tạp lục", khi nhận xét về chiếc nón lá xứ Thuận Hóa ở thế kỷ XVI, XVII đã cho chúng ta biết rằng nghề làm nón lá Huế đã có từ khoảng hơn 300 - 400 năm về trước.
Nghề làm nón ở Huế xuất phát từ nhu cầu của đời sống dân gian. Nón vừa là vật dụng khá tiện lợi, phù hợp với khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, giá lại rẻ, vì vậy, nón Huế rất được ưa chuộng. Nón Huế xuất hiện ở mọi nơi, trên cánh đồng lúa chín vàng ươm, ở chốn đền đài lăng tẩm vươn màu thời gian. Ai ai cũng có thể đội nón Huế. Từ cụ già đến em bé, hướng dẫn viên và cả những du khách nước ngoài.
Nghề làm nón lá nổi tiếng ở Huế từ lâu nhưng làm nón bài thơ thì chỉ khoảng từ sau năm 1959. Người dân Tây Hồ luôn tự hào quê mình là nơi xuất xứ của nón bài thơ xứ Huế. Chiếc nón bài thơ ra đời ở Tây Hồ như một sự tình cờ. Đó là vào khoảng năm 1959-1960, ông Dương Đức Bặt - một nghệ nhân chằm nón lá, cũng là một người yêu thơ phú trong làng đã có sáng kiến làm nên nón bài thơ, bằng cách ép những câu thơ vào giữa hai lớp lá, tôn vinh thêm vẻ đẹp của chiếc nón.
Lúc đó, nón lá ở Huế chủ yếu bán vào thị trường ở các tỉnh phía Nam, nên hai câu thơ đầu tiên được ông Bặt ép vào chiếc nón là: "Ai ra xứ Huế mộng mơ / Mua về chiếc nón bài thơ làm quà".
Ban đầu, nón bài thơ được người dân Tây Hồ làm để tặng người thân, không ngờ lại được mọi người yêu thích. Từ đó, những người làm nón ở Tây Hồ bắt đầu làm nón bài thơ hàng loạt, đưa ra bán ở thị trường. Những câu thơ được ép vào nón cũng đa dạng và phong phú hơn, thường là những câu thơ về Huế.
Cách làm.
Để làm được một chiếc nón bài thơ, phải trải qua rất nhiều công đoạn.Toàn bộ quy trình này, chủ yếu có 3 nhóm việc chính: Chuẩn bị khung và vành nón, xử lý lá nón, khâu và hoàn thiện nón. Trước hết là khâu tạo khung và vành nón. Đây là công việc đòi hỏi người thợ có nhiều kinh nghiệm, cẩn thận và khéo tay. Chiếc khung nón bao gồm 12 thanh gỗ vát mảnh được ghép lại, khớp nhau ở đỉnh, phía dưới khoảng cách đều nhau. Toàn bộ mặt khung hình khum nhẹ. Tùy thuộc vào thợ làm nón đặt loại khung nào thì người thợ sẽ làm loại khung đó. Nhưng tinh tế hơn cả vẫn là khâu làm vành. Vành nón được làm từ thân cây lồ ô. Bộ vành quyết định chủ yếu dáng vẻ chiếc nón. Có người đã nhận xét: "Nón Huế nhẹ, mềm mỏng, trước hết ở cốt cách của bộ vành. 16 vành như 16 vầng trăng được ve thật nhanh, thật tròn, thật nhẵn, thật điệu, sao cho không gợn chút méo mó ngay cả ở chỗ mắt cây".
Vùng sơn cước của Thừa Thiên Huế dường như là kho thiên nhiên vô tận để khai thác lá nón. Sau khi thợ sơn tràng đưa lá về, lá được tuyển sơ để chuyển sang sấy. Lá nón sấy đạt yêu cầu phải thỏa mãn các điều kiện là lá chín đều, khô vừa, giữ được sắc xanh nhẹ, chưa hoàn toàn ngả sang màu trắng vàng.
Đây là công việc vất vả và khá quan trọng, quyết định đến chất lượng của chiếc nón được tạo ra. Sau khi sấy xong, người thợ sẽ đem lá về rãi sương (giữ độ ẩm), ủi và lựa lá. Họ rất thạo trong việc chọn lá đực, lá cái, mặt phải, mặt trái, cắt và rọc sống. Hai mươi chiếc lá đực được xây đầu tiên sẽ nằm ở mặt trong. Tiếp đến là hình hoa văn – bài thơ phủ kín diện tích xung quanh chiếc nón. Lá cái được xây ở ngoài cùng. Ở công đoạn này động tác phải nhẹ nhàng khéo léo, chèn kỹ, đẹp và dằn chắc chắn, giữ cho mặt lá phẳng không xê dịch.
Khâu (chằm) nón là công đoạn quyết định đến sự hình thành và vẻ đẹp của cả chiếc nón. Người thợ sẽ khâu từ trên xuống đến vành 15, cứ 1 cm 3 mũi cước trong suốt. Vành cuối cùng khâu cước trắng, 2 mũi kim cách nhau 2 cm.
Đường chằm phải mềm mại, thanh nhẹ, dịu dàng. Bàn tay khéo léo của những nghệ nhân các làng nón đã làm được điều đó bằng tài năng và sự khổ luyện của mình, có khi phải chong đèn thâu đêm, suốt sáng, miệt mài, dường như không biết mỏi là gì. Khâu xong nón, người thợ chỉ còn việc đánh quai, chải dầu. Lớp dầu bóng bằng nhựa thông pha cồn làm cho nón thêm sáng, đẹp và chống thấm nước. Từ đây, chiếc nón bắt đầu cuộc hành trình của mình đến với người tiêu dùng gần - xa.
Gọi tên "Nón bài thơ" chính là vì những họa tiết được ghép vào giữa chiếc nón để mỗi khi che nghiêng nón lá trên làn nắng nhẹ, những công trình kiến trúc như chùa Thiên mụ, cầu Tràng Tiền, sông Hương cùng những vần thơ chợt hiện ra, khơi gợi bao cảm xúc trong mỗi người khi nhìn ngắm. | 1 | null |
Eupatorium japonicum là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Thunb. ex Murray mô tả khoa học đầu tiên năm 1784.
Là một trong bẩy loài hoa mùa thu của Nhật tên tiếng Nhật là 藤袴 nên gọi nôm na tiếng mình là hoa Hảo Đằng | 1 | null |
Septotheca tessmannii là danh pháp khoa học của một loài cây gỗ trong họ Malvaceae. Nó cũng là loài duy nhất hiện tại đã biết của chi Septotheca . Loài này là bản địa khu vực Peru, Colombia và Brasil.
Phân loại.
Là thành viên của họ Cẩm quỳ (Malvaceae), "S. tessmannii" hiện nay được coi là có vị trí không rõ ràng trong Malvatheca, với mối quan hệ có thể là thuộc về nhánh riêng của chính nó, độc lập với cả phân họ Cẩm quỳ (Malvoideae) và phân họ Gạo (Bombacoideae). | 1 | null |
Trôm mề gà tên khác: sang sé, sảng, trôm lá mác, trôm thon, che van (danh pháp khoa học: Sterculia lanceolata) là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ (Malvaceae). Loài này được Antonio José Cavanilles miêu tả khoa học đầu tiên năm 1788.
Cây gỗ nhỏ trong rừng, cao từ 6-12m, có cành non thường mảnh và có phủ lông. Lá mọc đơn, đính cách, tập trung ở đầu cành. Phiến lá hình bầu dục hoặc thon ngược, mặt dưới phiến lá có phủ nhẹ lớp lông hình sao. Hoa dạng tự chùm. Quả dạng quả đậu dài 5–8 cm, đính chùm sát gốc quả, thường chín vào tháng 6-8, khi chín quả màu đỏ và thường mở nang 1 bên, bề mặt quả thường có lớp lông mỏng. Hạt bên trong màu đen, mỗi quả có từ 4-7 hạt, hạt có kích thước 9-12mm.
Ở Việt Nam loài phân bổ từ Hòa Bình, Quảng Ninh trở vào đến Bạch Mã, trước đây cũng đã từng ghi nhận có phân bổ ở vùng Cà Ná. | 1 | null |
Thespesia populnea, tiếng Việt gọi là cây tra bồ đề hay tra lâm vồ, là một loài thực vật có hoa thuộc họ Cẩm quỳ. Là cây thân gỗ hay cây mọc thành cụm, phân bố rộng rãi ở các vùng nhiệt đới, nhất là dọc theo bờ biển. Tuy nhiên, tra bồ đề là loài cây thuộc về Cựu thế giới, có lẽ có nguồn gốc từ Ấn Độ. Cây có nhiều tên gọi khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau ở Ấn Độ. Ngày nay, gỗ của nó được sử dụng chủ yếu để làm đồ nội thất, do có chất lượng khắc gỗ tốt. Trong tiếng Kannada, một ngôn ngữ tại Ấn Độ, loài cây này được gọi là "Buguri mara", trong tiếng Tamil nó được gọi là பூவரசு "(puvarasu)", được người Tamil cổ lấy gỗ làm các vật dụng. Tra bồ đề cũng có thể có nguồn gốc từ đảo Hawaii hoặc các nước khác trong khu vực này, được các dân tộc Đa đảo cổ xưa gieo giống lấy gỗ và làm sợi. Tra bồ đề có thể đạt chiều cao từ 6 – 10 m, đường kính thân từ 20 – 30 cm. Nó phân bố ở nhiều độ cao từ ngang mực nước biển đến khoảng 275 m, trong các khu vực có lượng mưa trung bình từ 500 - 1,600 mm. Tra bồ đề có thể mọc trên nhiều loại đất khác nhau trong môi trường ven biển, bao gồm đất cát, đá vôi và đá ba-dan. Cây phát triển tốt trong môi trường có độ pH trung tính (từ 6 - 7,4)
Cây có nhiều tên thường gọi khác nhau như Indian Tulip Tree, Pacific Rosewood, Seaside Mahoe (ở Florida), Surina ("cây voi"), Suriya (Sinhala), Bebaru hay Baru baru (Malay), Milo hay Miro (trong nhiều ngồn ngữ Polynesian), Makoʻi (Rapanui), Gangaraavi (Telugu), Poovarasu: பூவரசு (Tamil), Poovarasu: പൂവരശ് (Malayalam), "buguri mara" ở Kannada PakuR (Bengali) và Plaksa (Phạn). | 1 | null |
Đoạn lá to, tên khoa học Tilia platyphyllos, là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được Giovanni Antonio Scopoli miêu tả khoa học đầu tiên năm 1771.
Đây là loài bản địa phần lớn các nước châu Âu, bao gồm cả địa phương ở miền tây nam nước Anh, đang phát triển trên đất nhiều đá vôi. | 1 | null |
Giải bóng đá Giáo sĩ (tiếng Latinh: "Clericus Cup") là một giải bóng đá được tổ chức thường niên với sự tranh tài của các đội bóng thuộc các chủng viện của Giáo hội Công giáo Roma. Ở mùa bóng thứ tư (năm 2010), giải đấu đã thu hút 16 trường, các cầu thủ tham gia đến từ 65 quốc gia khác nhau, phần lớn là Brasil, Ý, México và Hoa Kỳ. Họ là chủng sinh của Giáo hội hoặc các linh mục. Giải đấu được thành lập vào năm 2007 do sáng kiến của Hồng y Quốc vụ khanh Vatican Tarcisio Bertone - một người hâm mộ bóng đá. Giải do "Italy Sports Center" (ISC) - một tổ chức Công giáo xúc tiến thông qua các hoạt động thể thao được Tòa Thánh ủy quyền tổ chức, mùa bóng thứ bảy khởi tranh vào đầu năm 2013.
Mục tiêu chính thức của giải đấu là để "phục hồi năng lực thể thao truyền thống trong cộng đoàn Kitô hữu" và đã được gọi là "Giải vô địch bóng đá Thế giới Giáo sĩ" Nói cách khác, nó được tổ chức nhằm cung cấp một sân chơi thể thao thân thiện cho hàng ngàn chủng sinh đến từ nhiều quốc gia khác nhau đang học tập ở Roma.
Lịch sử.
Năm 2003, Jim Mulligan - một chủng sinh thuộc Đại học Giáo hoàng Beda thành lập một giải đấu loại trực tiếp gồm tám đội bóng quốc tế đến từ các trường thuộc Hệ thống Đại học Rôma. Giải này về sau được gọi là "THE ROME CUP". Trận đấu đầu tiên của giải diễn ra vào tháng 5 năm 2003 giữa Đại học Giáo hoàng Beda và Đại học Giáo hoàng Đấng Đáng Kính người Anh. Jim Mulligan bây giờ là một linh mục thuộc tổng giáo phận Westminster, Luân Đôn và ông vẫn tiếp tục các hoạt động thể thao của mình nhằm để quyên tiền cho các dự án khác của Giáo hội.
Mùa giải đầu tiên diễn ra từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2007. Mùa giải thứ hai bắt đầu vào tháng 11 năm 2007 và kết thúc vào ngày 3 tháng 5 năm 2008. Mùa giải thứ ba từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2009. Mùa giải thứ tư được chơi từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2010. Mùa giải thứ năm bắt đầu vào tháng 2 năm 2011.
Trong mùa giải thứ hai, trận khai mạc và trận chung kết được tổ chức tại Sân vận động dei Marmi ở Roma, từng tổ chức các giải đấu của Thế vận hội Mùa hè 1960. Ở mùa giải thứ ba, trận khai mạc do trọng tài hàng đầu của Ý là Stefano Farina điều khiển.
Mùa giải 2009 đã thu hút 16 đội, đại diện cho 15 chủng viện quốc tế, cùng với Đại học Gregorian. Mùa bóng này chia thành hai bảng: A và B. Bảng A gồm bốn chủng viện cấp quốc gia (Đại học Giáo hoàng Bắc Mỹ, Đại học Pio-Brasiliano, Đại học Chủng viện Pháp và Đại học Chủng viện Ba Lan), Đại học San Paolo, Đại học Mater Ecclesiae, Đại học Sant'Anselmo và Đại học Gregorian.
Bảng B gồm các trường: Mexican, Chủng viện Giáo hoàng Rôma, Đại học Giáo hoàng Urbanianum (các cầu thủ chủ yếu từ châu Phi và Đông Á), Học viện tôn giáo Augustinianum, Sedes Sapientiae, Redemptoris Mate và Guanelliani Internazionale. Hai trường Almo Collegio Capranica và Pio Latinh sáp nhập để thành đội Almo-Pio.
Tin tức bên lề.
Mặc dù là giải không chuyên nhưng Clericus Cup thực sự là một giải đấu có khán giả, cổ động viên, nhà tài trợ và áp dụng treo biển quảng cáo trên các đường biên sân. Giải bóng đá này có những điểm khác biệt: các trận đấu chỉ kéo dài trong một giờ đồng hồ và không được tổ chức vào ngày Chủ nhật, đơn giản vì Giáo hội Công giáo coi đó là ngày của Chúa, phải nghỉ ngơi dành cho việc thờ phượng. Thay vì sử dụng thẻ vàng và thẻ đỏ theo luật bóng đá thông thường, Giải bóng đá Giáo sĩ sử dụng thẻ xanh dương để phạt 5 phút ngồi ghế dự bị cho cầu thủ có hành vi phi thể thao.
Trong hai mùa bóng đầu tiên, báo chí quốc tế thường tập trung vào các sự kiện bên lề của giải. Tại mùa thứ hai của giải đấu, một số tờ báo quốc tế tìm thấy sự nhiệt tình của người hâm mộ giải nên đã đưa tin. Câu lạc bộ Redemptoris Mater là câu lạc bộ có số lượng fan đông đảo nhất. Đại học Giáo hoàng Bắc Mỹ cũng sử dụng một cái loa làm khó chịu cả hai đội chơi và người dân xung quanh nơi sân bóng. Điều này đã khiến chính quyền địa phương thông qua một sắc lệnh cấm sử dụng tambourines, nhạc cụ gõ và loa trong giờ sáng, khi hầu hết các trận đấu của giải đều diễn ra lúc này. | 1 | null |
Glebionis segetum là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (L.) Fourr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1869.
Loài này có lẽ chỉ bản địa ở đông vùng Địa Trung Hải nhưng đã được trồng ở tây và bắc châu Âu cũng như Trung Quốc cũng như một số khu vực ở Bắc Mỹ.
"Glebionis segetum" là cây lâu năm thân thảo có chiều cao đến 80 cm tall, với lá bố trí xoắn ốc, dạng thùy sâu, dài 5–20 cm. Hoa có màu vàng nhạt, có đầu hoa đường kính 3,5-5,5 cm, với vòng xuyến các hoa nhỏ phía ngoài và một trung tâm các hoa nhỏ đĩa. | 1 | null |
Rau khúc Ấn Độ, danh pháp khoa học Gnaphalium indicum (trong tiếng Việt có thể được gọi là Rau khúc, rau Khúc nếp, Hán văn là Thử cúc thảo) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753. | 1 | null |
Samuel Barber (1910-1981) là nhà soạn nhạc người Mỹ. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là khúc "Adagio cho dàn nhạc dây".
Tiểu sử.
Samuel Barber sinh vào ngày 9 tháng 3 năm 1910 tại West Chester, Pennsylvania, Hoa Kỳ. Ông học âm nhạc tại Nhạc viện Curtis, Philadelphia. Barber bắt đầu sáng tác từ năm 8 tuổi. Ông đã đạt nhiều giải thưởng về sáng tác trong các cuộc thi. Trong các năm 1935-1936, ông sống ở Rome. Ông qua đời vào ngày 23 tháng 1 năm 1981 tại Thành phố New York, Tiểu bang New York, Hoa Kỳ.
Phong cách âm nhạc.
Âm nhạc của Samuel Barber theo truyền thống châu Âu nhiều hơn, ít mang màu sắc Mỹ. Tuy không từ bỏ những phương thức biểu hiện hiện đại, Barber thiên về những hình thức và thể loại truyền thống. Do âm nhạc của ông có nội dung lãng mạn, tính chất trữ tình nên người ta coi ông là người thuộc dòng tân lãng mạn. | 1 | null |
Acacia caerulescens là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Maslin & Court miêu tả khoa học đầu tiên. Đây là một loài cây đặc hữu ở miền đông nam Australia
Cây phát triển chiều cao từ 10 đến 15 m và có cây hình chóp với những cành nhỏ lấp lánh có lớp phủ phấn trắng mịn. Loài này được mô tả chính thức vào năm 1989 dựa trên nguyên liệu thực vật được thu thập gần Buchan ở Gippsland.
Loài này có phạm vi phân bố hạn chế ở Victoria, nơi nó chỉ được tìm thấy ở khu vực các hồ Eternace và Buchan. Loài này được tìm thấy như là quần thể còn sót lại chủ yếu trong đất sét trên đá vôi như là một phần của cộng đồng rừng bạch đàn. Môi trường sống tự nhiên của nó đang bị đe dọa nạn phát quang. | 1 | null |
Acacia cana là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Maiden miêu tả khoa học đầu tiên.
Đây là một loại cây bụi rậm rạp có thể cao tới 6 mét và là một loại cây lâu năm có nghĩa là nó có tuổi thọ dài và không cần thiết tạo ra một lượng hạt giống cao. Chúng ra hoa rất nhiều từ tháng 8 đến tháng 10 và dựa vào động vật và côn trùng để thụ phấn và phát tán hạt. Loài này được tìm thấy ở vùng đồng bằng phía tây New South Wales và Trung tâm Queensland, môi trường sống của những khu vực này được tìm thấy là đất cát và đồng bằng gibber. | 1 | null |
Một hành tinh băng khổng lồ là một hành tinh khổng lồ bao gồm chủ yếu các nguyên tố nặng hơn hydro và heli, như là oxy, carbon, nitơ, và lưu huỳnh. Có hai hành tinh băng khổng lồ trong hệ Mặt Trời là Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương. Chúng chỉ có 20% hydro và heli tổng khối lượng, trái ngược với các hành tinh khí khổng lồ (Sao Mộc và Sao Thổ), vốn có tới 90% hydro và heli tổng khối lượng. Vào thập niên 90, người ta nhận ra rằng Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương thuộc một kiểu hành tinh khổng lồ riêng, tách biệt với các hành tinh khổng lồ khác. Chúng được biết đến như là các "hành tinh băng khổng lồ" vì khi trong quá trình hình thành, thành phần cấu tạo chủ yếu của chúng là băng. Tuy nhiên, lượng chất bay hơi dạng rắn còn lại trong các hành tinh băng khổng lồ là rất thấp.
Thuật ngữ.
1952, nhà văn khoa học viễn tưởng James Blish đã tạo ra thuật ngữ "hành tinh khí khổng lồ" ("gas giant") và nó đã được dùng để gọi các hành tinh phi đất đá khổng lồ trong hệ Mặt Trời. Tuy nhiên, vào thập niên 90, thành phần của Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương đã được phát hiện là có khác biệt lớn so với thành phần của Sao Mộc và Sao Thổ. Chúng chủ yếu được cấu tạo từ các nguyên tố nặng hơn hydro và heli, tạo nên một kiểu hành tinh khổng lồ tách biệt hoàn toàn. Vì trong quá trình hình thành, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương được hợp thành từ băng hoặc là khí mắc kẹt trong băng, thuật ngữ "hành tinh băng khổng lồ" ("ice giants") đã được sử dụng.
Ngày nay, rất ít nước trên Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương còn ở dạng băng. Thay vào đó, H2O chủ yếu tồn tại dưới dạng chất lưu siêu tới hạn ở áp suất và nhiệt độ của chúng. | 1 | null |
Keo phấn trắng hay là Keo bạc (danh pháp hai phần: Acacia dealbata) là loài thực vật có hoa trong chi Keo thuộc họ Đậu. Loài này được Link miêu tả khoa học đầu tiên.
Tại Việt Nam, ở một số nơi, như ở Đà Lạt, người ta gọi cây keo bạc hay là cây keo lá tròn (danh pháp khoa học: "Acacia podalyriifolia") là "mimosa". | 1 | null |
Trong thiên văn học, chuyển động nghịch hay nghịch hành (tiếng Anh: "retrograde motion") là chuyển động quay quanh trục hoặc quỹ đạo của một vật thể theo hướng ngược lại so với chiều tự quay của vật thể mẹ của nó, tức là vật thể trung tâm. Nó cũng có thể được sử dụng để mô tả các chuyển động khác ví dụ như tiến động hoặc chương động của trục quay. Chuyển động thuận (tiếng Anh: "rrograde motion") là chuyển động cùng chiều với chuyển động tự quay của vật thể mẹ. Sự quay được quyết định bởi một hệ quy chiếu quán tính, ví dụ như một định tinh.
Trong Hệ Mặt trời của chúng ta, quỹ đạo quanh Mặt trời của tất cả các hành tinh và hầu hết các thiên thể khác, ngoài trừ nhiều sao chổi, có chuyển động thuận, tức là quay cùng chiều với chiều tự quay của Mặt trời. Sự tự quay của hầu hết các hành tinh, ngoại trừ Sao Kim và Sao Thiên Vương, cũng là chuyển động thuận. Hầu hết vệ tinh tự nhiên có quỹ đạo quay thuận quanh hành tinh của chúng. Các vệ tinh chuyển động thuận của Sao Thiên Vương có quỹ đạo theo chiều mà Sao Thiên Vương tự quay, tức là ngược lại so với Mặt trời. Các vệ tinh chuyển động nghịch thì thường nhỏ và cách xa hành tinh mẹ của chúng, ngoại trừ vệ tinh Triton của Sao Hải Vương lớn và gần sao mẹ nhưng vẫn chuyển động nghịch. Tất cả các vệ tinh chuyển động nghịch được cho là đã hình thành riêng biệt trước khi bị hành tinh mẹ của chúng bắt giữ.
Nếu một hành tinh trong hệ Mặt trời có chuyển động tự quay quanh trục là chuyển động nghịch hành thì chu kỳ tự quay của nó sẽ có dấu trừ, còn độ nghiêng trục quay sẽ lớn hơn 90 độ và nhỏ hơn 180 độ.
Hình thành các hệ thống thiên thể.
Khi một thiên hà hoặc một hệ hành tinh hình thành, vật chất của nó có dạng một chiếc đĩa. Hầu hết vật chất quay và tự quay theo một hướng. Sự thống nhất trong chuyển động này là do sự sụp đổ của một đám mây khí. Bản chất của sự sụp đổ được giải thích bởi một định luật mang tên bảo toàn mô men động lượng. Vào năm 2010 việc tìm ra một số Sao Mộc nóng với quỹ đạo ngược chiều đã đặt ra câu hỏi về giả thuyết về sự hình thành của hệ hành tinh. Điều này có thể được giải thích là ngôi sao và hành tinh của chúng không hình thành trong cô lập mà trong các quần tinh chứa các đám mây phân tử. Khi một đĩa tiền hành tinh va chạm với hoặc ăn cắp vật chất từ một đám mây thì có thể dẫn tới chuyển động nghịch của đĩa và các hành tinh được sinh ra. | 1 | null |
Hugo Karl Ernst Freiherr von Kottwitz (6 tháng 1 năm 1815 ở Wahlstatt tại Liegnitz – 13 tháng 5 năm 1897 tại Stuttgart) là một Thượng tướng Bộ binh của Vương quốc Phổ, đã tham gia trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ năm 1866 và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871), trong đó ông đóng một vai trò quan trọng đến chiến thắng của quân đội Phổ – Đức trong trận Loigny-Poupry vào ngày 2 tháng 12 năm 1870.
Sự nghiệp quân sự.
Trong dịp sinh nhật lần thứ 17 của mình, Hugo Freiherr von Kottwitz đã gia nhập Trung đoàn Bộ binh số 11, đóng quân tại Breslau. Ông vẫn ở trong trung đoàn cho đến khi ông được phong cấp bậc Thượng tá và Tư lệnh ("Kommandeur") Trung đoàn Bộ binh số 17 (Westfalen 4) không lâu trước khi cuộc Chiến tranh Bảy tuần bùng nổ năm 1866. Dưới sự thống lĩnh của ông, trung đoàn này là một phần thuộc biên chế của "Binh đoàn Elbe" ("Elbarmee") và đã thể hiện khả năng của mình trong trận Königgrätz vào ngày 3 tháng 7 bằng cuộc tấn công thắng lợi vào rừng Bor nơi có quân Sachsen trấn giữ.
Trong cuộc tổng động viên vào năm 1870 khi Chiến tranh Pháp-Đức bùng nổ, ông được lên cấp bậc Thiếu tướng và Tư lệnh của Lữ đoàn Bộ binh số 33 thuộc Sư đoàn Bộ binh số 17. Lữ đoàn do ông chỉ huy bao gồm các Trung đoàn Hansestadt số 75 và 76. Sư đoàn này là một phần thuộc biên chế của Quân đoàn VIII dưới quyền chỉ huy của Đại Công tước xứ Mecklenburg-Schwerin là Friedrich Franz II.
Von Kottwitz đã tham chiến trong các cuộc vây hãm Metz, Toul và Paris. Vào tháng 11 năm 1870, ông tham gia trong cuộc tiến công của quân đội Đức về phía Le Mans. Đợt tấn công đại thắng của Lữ đoàn số 33 vào làng Loigny và sau đó là cuộc phòng ngự thành công vị trí này đã đóng một vai trò quyết định đến chiến thắng của người Đức trong trận Loigny-Poupry vào ngày 2 tháng 12 năm 1870.
Sau cuộc chinh phạt Orléans, ông đã tham gia trong thắng lợi quyết định của quân đội Đức trước "Binh đoàn Loire" của Pháp tại Le Mans vào tháng 1 năm 1871.
Trận đánh đẫm máu tại Loigny vào ngày 2 tháng 12 năm 1870 đã chứng tỏ lòng dũng cảm của các trung đoàn Hansestadt dưới quyền chỉ huy của Von Kottwitz. Vào lúc 8 giờ sáng, quân đội Pháp tấn công quân đội Bayern, đẩy quân Bayern vào tình thế khó khăn. Trước tình hình đó, một sĩ quan phụ tá của tướng Ludwig von der Tann, Tư lệnh quân Bayern, phải khẩn cấp cầu viện tướng Hermann von Tresckow, Tư lệnh của Sư đoàn số 17 của Phổ. Tresckow đã điều quân chủ lực của Lữ đoàn số 33 đến hỗ trợ các lực lượng Bayern. Dưới sự thống lĩnh của tướng Kottwitz, ba tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Hansestadt số 75 và một tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Hansestadt số 76 tiến về Loigny. "Như thể khi diễu binh, với trống đánh, cờ phất, và binh lính hối hả, 4 tiểu đoàn tiến xuống Loigny", với sự yểm trợ của 8 khẩu đội pháo được triển khai theo hình bậc thang ở phía tây Lumeau. Các lực lượng dưới quyền Kottwitz ngay lập tức ồ ạt quân cánh trái của Pháp dưới quyền tướng Bourdillon, và giáng cho quân Pháp một đòn mạnh vào sườn phải, gây cho đối phương choáng ngợp và phải rút chạy vào Loigny. Ở các hố sỏi phía đông ngôi làng, một số đội hình hàng dọc của Pháp đã tiến hành phòng ngự trước cuộc tấn công của quân đội Đức, nhưng bị lưỡi lê của Tiểu đoàn số 1 thuộc Trung đoàn Hansestadt số 76 quét sạch. Giờ đây, Tiểu đoàn số 2 của trung đoàn số 76 và các chi đội của trung đoàn số 75 tiến vào Loigny. Các đại đội Hansestadt khác, phối hợp với hai tiểu đoàn Bayern, đã tấn công mạnh mẽ từ Beauvilliers, "đánh chiếm Fougeu ngay từ lúc đầu", và bắt giữ nhiều tù binh Pháp tại đây. Họ vẫn giữ được vị trí của mình bất chấp hỏa lực khốc liệt và các đợt tấn công dồn dập của quân Pháp.
Một cuộc giằng co đã diễn ra hết sức quyết liệt ở Loigny, trong đó lợi thế nghiêng về phía Đức. Lúc chạng vạng, tướng Sonis của Pháp đã mang các lực lượng trừ bị của mình vào trận, nhưng để phản trả tướng Tresckow đã mở một tấn công bằng các lực lượng trừ bị cuối cùng của ông. Kottwitz xua hai tiểu đoàn mới toanh thuộc trung đoàn số 75 vào trận và họ đã đi vòng phía nam ngôi làng theo hướng Fougeu, và cùng với các lực lượng Đức chiến đấu trong khu vực này đánh tan quân Pháp, gây cho đối phương những thiệt hại nặng nề. Lữ đoàn Hansestadt do Kottwitz chỉ huy đã làm chủ được Loigny. Thiệt hại cho lữ đoàn của Kottwitz là 21 sĩ quan và 428 binh lính trong trận thắng ở Loigny-Poupry. Do "Tiểu đoàn Bắn súng hỏa mai" của Trung đoàn số 76, tức Tiểu đoàn III./76, sau này được đổi thành Tiểu đoàn II của Trung đoàn Bộ binh số 162 (Hansestadt 3), cuộc tấn công vào Loigny và tên tuổi của "Tướng von Kottwitz" trở thành một phần của huyền thoại định hình Trung đoàn Lübeck. Sau khi cuộc chiến tranh chấm dứt, vào ngày 14 tháng 7 năm 1874, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh ("Kommandeur") của Sư đoàn 26, đóng quân tại Stuttgart. Sau khi được thăng quân hàm Trung tướng, ông được lãnh chức Tư lệnh của Sư đoàn số 1 đóng quân ở Königsberg, thủ phủ tỉnh Đông Phổ, vào ngày 22 tháng 12 năm 1876. Theo yêu cầu của ông, ông được nghỉ hưu vào ngày 5 tháng 2 năm 1878.
Nhân dịp kỷ niệm 25 ngày chiến thắng Loigny-Poupry, ông được phong quân hàm Thượng tướng Bộ binh vào ngày 2 tháng 12 năm 1895. Vào ngày 13 tháng 5 năm 1897, ông từ trần tại Stuttgart. | 1 | null |
Đài thiên văn Keck (hay còn được gọi là Đài quan sát Manua Kea) là đài quan sát được đặt tại Hawaii, một vùng đất nhiệt đới, một vùng đất du lịch của Hoa Kỳ. Nơi đây có đặt kính thiên văn Keck, một trong những chiếc kính thiên văn quang học lớn nhất hiện nay. Đường kính của gương phản xạ của nó là 10m (33 feet). | 1 | null |
Acacia empelioclada là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Maslin miêu tả khoa học đầu tiên.
Đây là loài bản địa một khu vực dọc theo bờ biển phía nam trong khu vực Goldfields-Esperance và Great South của Tây Úc.
Là cây bụi mọc thẳng đứng thường phát triển đến chiều cao 0,5 đến 2 mét. Chúng nở hoa từ tháng 7 đến tháng 10 và có hoa màu vàng kem. | 1 | null |
Chương trình Voyager là một chương trình khoa học của Mỹ sử dụng hai tàu thăm dò không gian liên sao là "Voyager 1" và "Voyager 2". Chúng được phóng vào năm 1977, đúng lúc cả bốn hành tinh khổng lồ là Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương thẳng hàng. Hai tàu "Voyager 1" và "2" đã tận dụng sự thẳng hàng đó để bay gần chúng trong khi thu thập dữ liệu để truyền về Trái Đất. Sau khi phóng, quyết định được đưa ra là đưa "Voyager 2" đến gần Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương để thu thập dữ liệu về hai hành tinh đó.
Tính đến năm 2023, "Voyager 1" và "2" vẫn đang hoạt động bên ngoài ranh giới của nhật quyển trong không gian liên sao. Chúng thu thập và truyền các dữ liệu hữu ích về Trái Đất. | 1 | null |
Kim thất hay còn gọi bầu đất (danh pháp khoa học: Gynura procumbens) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Lour.) Merr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1923.
Cây thân cỏ, cao khoảng 1 m, thân màu tím mọng nước. Cuống lá, mặt sau lá màu tím, mặtt trên lá màu xanh đậm. Lá thuôn nhọn hai đầu, mép lá có răng cưa. | 1 | null |
Tam thất giả hay còn gọi là thổ tam thất, bầu đất dại, nam bạch truật, ngải rét, dru baba cao, kuê mang, (danh pháp khoa học: Gynura pseudochina) là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (L.) DC. mô tả khoa học đầu tiên năm 1838. | 1 | null |
Acacia forrestiana là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được E.Pritz. miêu tả khoa học đầu tiên.
Phân loại học.
Loài này được mô tả chính thức lần đầu tiên vào năm 1904 bởi nhà thực vật học Ernst Georg Pritzel trong tác phẩm giữa Pritzel và Ludwig Diels "Fragmenta Phytographiae Australiae occidentalis. Beitrage zur Kenntnis der Pflanzen Westaustraliens, ihrer Verbreitung und ihrer Lebensverhaltnisse" as published in "Botanische Jahrbucher fur Systematik, Pflanzengeschichte und Pflanzengeographie". Loài này được phân loại lại "Racosperma forrestianum" năm 2003 bởi Leslie Pedley sau đó chuyển lại vào chi "Acacia" trong năm 2006.
"A. forrestiana" có quan hệ gần gũi với "Acacia huegelii".
Mẫu điển hình được thu thập bởi Ludwig Diels gần Dandaragan năm 1901. | 1 | null |
Năm nước xưng vương (chữ Hán: 五国相王, Hán Việt: "Ngũ quốc tương vương"), là một sự kiện chính trị quan trọng xảy ra vào giữa thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Các nước xưng vương.
Từ khi lập quốc, các đời thiên tử nhà Chu đều tự xưng tước vương, còn các nước chư hầu được phong các tước vị nhỏ hơn như Công, Hầu, Bá, Tử, Nam để giữ sự độc tôn về tước vị cho thiên tử. Tuy nhiên khi bước sang thời Xuân Thu, nhà Chu suy yếu, một số nước chư hầu phát triển lớn mạnh, lấn át các nước khác và bắt đầu tự đưa mình lên ngang hàng với vua nhà Chu, mở đầu là nước Sở (704 TCN), sau đó là Ngô và Việt, nhưng cũng chỉ là số ít trong số chư hầu, đa phần các nước khác nếu muốn làm bá chủ đều phải mựon danh nghĩa thiên tử để ra lệnh cho chư hầu. Sang thời Chiến Quốc, các nước chư hầu càng phát triển mạnh hơn và cũng không thèm dùng đến danh nghĩa của thiên tử nhà Chu nữa, lần lượt ra mặt xưng vương. Năm 334 TCN, hai nước chư hầu là Ngụy và Tề hội nhau ở Từ Châu, cùng nhau làm lễ tự xưng vương hiệu.
Trong khi đó ở phía tây, thế lực nước Tần phát triển lớn mạnh sau biến pháp Thương Ưởng, vua Tần Huệ vương cũng làm lễ xưng vương năm 325 TCN, sau đó nước Hàn cũng tự xưng vương năm 324 TCN. Tần Huệ Vương chủ trương liên kết với Tề, Sở cùng chống lại Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy) Trước tình hình đó, người nước Ngụy là Công Tôn Diễn phát động phong trào hợp tung chống Tần, được vua nước Ngụy phong làm tướng quốc.
Năm 323 TCN, Công Tôn Diễn hội vua năm nước chư hầu là Ngụy, Hàn, Yên, Tống và Trung Sơn để làm lễ xưng vương cho các vua chư hầu. Lúc bấy giờ, Hàn và Ngụy đã xưng vương, ba nước còn lại chưa có vương hiệu. Theo đề nghị của Công Tôn Diễn, vua ba nước Yên, Tống và Trung Sơn bỏ tước hiệu cũ, tự xưng là vương (Yên Dịch vương, Tống Khang vương, Trung Sơn vương Thác), thực hiến kế hoạch chống lại ba cường quốc Tần, Tề, Sở.
Nỗ lực ly gián của Tề.
Sau khi được tin năm nước xưng vương, Tề Tuyên vương dùng kế phá hợp tung, bắt đầu từ việc ép nước Trung Sơn bỏ vương hiệu. Vua Tề sai sứ xin liên minh với nước Triệu và nước Ngụy cùng phế tước vương của vua Trung Sơn. Để đối phó, vua Trung Sơn cử Trương Đăng sang nước Tề, khuyên tướng quốc Điền Anh. Trương Đăng khuyên Điền Anh rằng nếu mời Triệu, Ngụy đánh Trung Sơn thì Trung Sơn sẽ quy phục Triệu, Ngụy chứ không theo Tê, chi bằng mời vua Trung Sơn tới hội kiến, đồng ý công nhận tước vương của Trung Sơn, đồng thời bắt vua Trung Sơn tuyệt giao với nước Triệu và nước Ngụy.
Điền Anh đồng ý làm theo. Trương Đăng lại đến Triệu và Ngụy rằng Tề đồng ý cho vua Trung Sơn xưng vương là có ý dùng quân Trung Sơn để đánh hai nước, và khuyên Triệu và Ngụy không nên theo Tề. Kế sách ly gián của vua Tề bất thành.
Tề Tuyên vương chưa bỏ cuộc, lại sang liên minh với nước Yên và nước Triệu cùng đánh Trung Sơn, nhưng cũng không thành công.
Ý nghĩa.
Sự kiện năm nước xưng vương đã đánh dấu việc thành lập liên minh hợp tung chống Tần lần đầu tiên do Công Tôn Diễn đề xuất. Cũng kể từ đó, các nước chư hầu đã hoàn toàn không còn coi vua nhà Chu là thiên tử nữa (dù là trên danh nghĩa), khiến nhà Chu mất đi hoàn toàn quyền uy trong mắt của các chư hầu. Thế lực nhà Chu ngày một suy yếu, từ đó lại phải cư xử nhũn nhặn với chính các chư hầu của mình, nhưng vẫn không tránh được việc diệt vong gần 70 năm sau. | 1 | null |
Quay là một chuyển động xuất hiện nhiều trong cuộc sống hằng ngày như kim đồng hồ, đầu cánh quạt,quạt máy tính... cũng như trong vũ trụ như chuyển động của các hành tinh, vệ tinh... Các chuyển động quay đều có lực hướng tâm, giúp cho vật không bị văng ra khỏi quỹ đạo bởi lực ly tâm. Quỹ đạo của chuyển động quay là các hình conic, chủ yếu là tròn và elip. | 1 | null |
Keo lá bạc hay còn gọi keo lá sim (danh pháp khoa học: Acacia holosericea) là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được G.Don miêu tả khoa học đầu tiên.
Cây thuộc nhóm cây bụi lớn hoặc gõ nhỏ, vỏ thân rạn nứt dọc. Lá keo hình trái xoan dài hoặc mũi mác, phiến lá dài 10–25 cm, rộng 1,5–10 cm, có từ 3-4 gân, bề mặt phiến lá được phủ lớp lông mịn màu trắng bạc. Hoa tự chùm, màu vàng hoặc vàng nhạt. Quả dạng quả đậu xoắn và cuộn tròn, dài 3–5 cm. Hạt cây có chứa nhiều protein và có thể được sử dụng làm thức ăn của cư dân một số nơi, tuy nhiên không nên ăn nhiều. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.