text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Freycinetia lunata là một loài thực vật có hoa trong họ Dứa dại. Loài này được Huynh miêu tả khoa học đầu tiên năm 1999.
Loài này thuộc chi Freycinetia. "Freycinetia lunata" được tìm thấy ở Papua New Guinea
. Hiện chưa có phân loài nào được ghi nhận cho loài này. | 1 | null |
Saccharum officinarum là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Loài này có nguồn gốc ở New Guinea, Người Hồi giáo mang nó đến Tây Ban Nha đương đại (Andalusia, giữa Málaga và Motril) là nơi duy nhất ở châu Âu nơi nó phát triển. Nó đến Tân thế giới với người Tây Ban Nha và hiện đang được trồng ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới trên toàn thế giới để sản xuất đường ăn và các sản phẩm khác. | 1 | null |
Freycinetia revoluta là một loài thực vật có hoa trong họ Dứa dại. Loài này được Huynh mô tả khoa học đầu tiên năm 2001.
Miêu tả và phân bổ.
Freycinetia revoluta là loài cây bụi hoặc cây nhỏ có 1 thân với tán lá dài, hẹp và nhọn. Loài cây này có nguồn gốc từ các khu rừng nhiệt đới ở Đông Nam Á và thường sống ở dưới các tán cây trong rừng nhiệt đới như Malaysia, Indonesia và Philippines. Chúng thích những nơi ẩm ướt, râm mát và có thể thích nghi với nhiều loại đất trồng khác nhau.
Freycinetia revoluta có hoa nhỏ màu trắng xếp thành chùm. Hạt nhỏ và tròn, cây con có thân dài, mỏng và lá hình bầu dục nhỏ.
Công dụng và lợi ích.
Freycinetia revoluta được sử dụng làm cây cảnh vì nó có tán lá và hoa đẹp. Chúng cũng được sử dụng trong y học cổ truyền để điều trị nhiều loại bệnh, bao gồm sốt, nhức đầu và đau dạ dày. Đôi khi loài này cũng được sử dụng làm nguồn thực phẩm vì lá và quả của nó có thể ăn được.
Trồng trọt và nhân giống.
Freycinetia revoluta có thể được nhân giống từ hạt hoặc giâm cành. Chúng phát triển tốt ở nơi có đất thoát nước tốt và đầy đủ ánh nắng. Chúng có khả năng chịu hạn và có thể chịu được nhiệt độ thấp tới -5°C. Chúng có thể được cắt tỉa để duy trì hình dạng hoặc kích thước mong muốn. | 1 | null |
Kê vàng, còn gọi là kê đỏ, kê đuôi cáo, kê ta hay ngắn gọn là kê, tên khoa học: Setaria italica, là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (L.) P.Beauv. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1812. Đây là loài kê được trồng nhiều thứ nhì trên thế giới, và quan trọng nhất ở Đông Á. Loài cây này đã được trồng lâu đời nhất trong các loài kê, được trồng ở Trung Quốc từ thiên niên kỷ 6 trước Công nguyên. Kê ta là cây thân thảo mọc thẳng có thể cao 120–200 cm. | 1 | null |
Setaria verticillata là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (L.) P.Beauv. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1812. Nó là loài bản địa Châu Âu. Đây là loài cỏ hàng năm với thân rủ hoặc thẳng có chiều dài hơn một mét.
Hạt của loài được dùng làm bia ở Nam Phi và cháo đặc ở Namibia. Đây được xem là thực phẩm cứu đói ở Ấn Độ. | 1 | null |
Setaria viridis là tên khoa học theo danh pháp hai phần của loài cỏ đuôi cáo, là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này đã được Cac Linnê mô tả đầu tiên trên thế giới, sau được P. Beauvois xác định lại vào năm 1812 (Ess. Agrostogr.51.1812), nên tên đủ theo quy ước là Setaria viridis (L) P.Beauv.
Nó đôi khi được coi là một phân loài của Setaria italica. Nó có nguồn gốc Á-Âu, nhưng nó được biết đến trên hầu hết các châu lục như là một loài được du nhập và có liên quan chặt chẽ với "Setaria faberi", một loại cỏ dại gây hại. Nó là một loại cỏ dễ mọc, mọc trong nhiều loại môi trường sống đô thị, đất canh tác, các khu đất trống, vỉa hè, đường sắt, bãi cỏ, và ở bên lề của các cánh đồng.
Liên kết ngoài.
sở dĩ nó có tên là đuôi cáo vìnos có hình dạng như cái đuôi của cáo | 1 | null |
Cao lương, một loại ngũ cốc cổ thuộc họ cỏ Poaceae hay còn gọi miến mía, cao lương đỏ, (cỏ) miến to, lúa miến, bo bo, mộc mạch là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (L.) Moench miêu tả khoa học đầu tiên năm 1794.
Có nhiều loại cao lương, phổ biến nhất là Sorghum bicolor, có nguồn gốc từ Châu Phi. Ngoài ra, còn có các loại hạt cao lương có nguồn gốc từ Úc, Ấn Độ và các nước Đông Nam Á khác.
Cao lương là cây ngũ cốc quan trọng thứ năm trên thế giới sau lúa gạo, lúa mỳ, ngô và đại mạch. Cao lương là cây hàng năm nhưng cây trồng là lâu năm. Loài cây này mọc thành nhóm cao đến 4 m. Hạt cao lương có hình dạng nhỏ, tròn và thường có màu trắng hoặc vàng - mặc dù một số giống có thể cho hạt cao lương đỏ, nâu, đen hoặc tím. Hạt có đường kính từ 3–4 mm. Hạt được dùng làm lương thực (lưu ý phải xay ra thành bột), hoặc nuôi gia súc, sản xuất si rum, ethanol.
Cao lương ngọt.
Cao lương ngọt là cây trồng C4, điểm bù CO2 thấp, quang hô hấp rất thấp, sự thoát hơi nước thấp và cho năng suất sinh học cao. Cây thường cao 2 – 5 mét, sinh trưởng nhanh, phát triển tốt ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới; phù hợp với đất trồng pH = 5,0 - 8,5; chịu hạn tốt; thời gian sinh trưởng ngắn, từ 100-115 ngày, năng suất 95-125 tấn/ha.
Cao lương trồng nhiều ở Mỹ, Ấn Độ, Nigeria, Trung Quốc, Mexico, Sudan và Argentina. Do thân có hàm lượng đường cao nên cây cao lương được dùng làm nguyên liệu chiết xuất ethanol sinh học.
Ở Việt Nam.
"Ăn cơm độn bo bo" là ký ức khó quên của nhiều người Việt thời kỳ nghèo khó thập niên 1970-1980. Thời đó Việt Nam bị thiếu lương thực, một số nước bạn bè như Liên Xô, Ấn Độ và một số nước có quan hệ hữu nghị đã viện trợ loại lương thực này cho Việt Nam.
Hạt bo bo có vỏ rất cứng và rất khó nấu ăn trực tiếp. Để làm thực phẩm, bo bo phải qua xay xát thành bột và lên men, làm thành bánh mì hoặc mì sợi. Nhưng người Việt thời đó phần lớn không biết cách chế biến loại hạt này. Để ăn hạt bo bo, người Việt thường phải ngâm nước và nấu thật lâu, giống như cách họ quen làm với lúa gạo, nhưng nấu xong thì hạt bo bo vẫn rất dai và cứng. Để dễ ăn, người ta phải độn bo bo với cơm. Vì thế, thành ngữ "Ăn cơm độn bo bo" trở thành câu nói mà nhiều người Việt dùng để chỉ sự thiếu thốn lương thực (dù thực ra nếu biết cách chế biến thì bo bo là loại lương thực có hàm lượng dinh dưỡng cao, được người dân nhiều nước sử dụng rất rộng rãi). | 1 | null |
Lạc tiên bốn cạnh, (danh pháp khoa học Passiflora quadrangularis) là một loài thực vật có hoa trong họ Lạc tiên. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1759. Lạc tiên bốn cạnh là loài dây leo thân thảo có tua cuốn. Lá đơn mọc cách, phiến lá gần hình tim hoặc hình trứng có đầu lá tù có mấu nhọn, đuôi là gần tim. Cuống là có 4-6 tuyến nổi hình chậu. Tua cuốn nằm ở nách lá. Hoa có mùi thơm, nhiều nhị, màu sặc sỡ. Quả hình bầu dục hoặc hơi trụ.
Quả được dùng làm nước ép giải khát tương tự như các loài chanh dây khác. Lá có thể dùng làm trà và một số nơi dùng trong quá trình điều trị bệnh cáo huyết áp và tiểu đường. | 1 | null |
Pecteilis radiata hay còn được gọi là hoa diệc bạch, lan bạch hạc. là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được (Thunb.) Raf. mô tả khoa học đầu tiên năm 1837.Pecteilis radiata sống chủ yếu ở Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nga. Đây là loài cây thích hợp với đới ôn hòa và nhiều nước. Lan Bạch Hạc có chiều cao từ 15 đến 50 cm.
Hoa nở chủ yếu từ tháng 7 tới tháng 8 hàng năm.
Mỗi bông có đường kính khoảng 3 cm.
Hoa thích hợp với vùng khí hậu ôn hòa và nhiều nước.
Loài hoa này thường tượng trưng cho sự tinh tế, trong sáng và sang trọng.
Hiện nay, diệc bạch đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. | 1 | null |
Chè Dây hay bạch liễm, trà dây (danh pháp: Ampelopsis cantoniensis) là một loài thực vật hai lá mầm trong họ Nho. Loài này được (Hook. & Arn.) K. Koch miêu tả khoa học đầu tiên năm 1853. còn gọi là thau rả (tiếng Nùng), khau rả (tiếng Tày), hồng huyết long, điền bổ trà, ngưu khiên tỵ…,
Phân bố.
Chè Dây sinh trưởng tự nhiên trên các triền núi.
Đặc điểm.
Thoạt nhìn chè dây có màu trắng như màu mốc, màu như vậy là do nhựa chè dây tiết ra với kinh nghiệm các nhà khoa học thì lá chè dây càng màu trắng thì chứng tỏ nhiều nhựa và rất tốt.
Thành phần.
Kết quả phân tích thành phần của chè dây cho thấy, đó là một loại dược liệu giàu chất flavonoid toàn phần chiếm 18.15 +_ 0.36% trong đó myricetin chiếm 5.32+_ 0.04% và tanin (10.82 -13.30%); chứa hai loại đường Glucase và Rhamnese.
Kết quả nghiên cứu về tính an toàn cho thấy, thành phần hóa học của chè dây không có những nhóm chất thường có độc như: alcaloid, saponin…,
Dược tính.
Chè dây có tác dụng diệt vi trùng, vi khuẩn, giảm độ axit tại dạ dày, giúp cho bệnh viêm loét dạ dày tá tràng dễ liền sẹo; cắt cơn đau do viêm loét hành tá tràng đạt 93,4%, với Alusi (loại thuốc chuyên trị bệnh viêm loét hành tá tràng hiện nay) là 89%, thời gian cắt cơn đau trung bình của chè Dây từ 8 đến 9 ngày, và Alusi là 17 ngày.
Theo kinh nghiệm dân gian chè dây có giá trị về mặt dược liệu rất quý; giúp tiêu hoá tốt, dễ ngủ, những người bị bệnh viêm loét dạ dày tá tràng, uống một thời gian dài thấy bệnh đỡ dần và hết đau.
Cao chè dây không gây ngộ độc cấp tính, không ảnh hưởng tới các chỉ tiêu hóa sinh, huyết học, cổ truyền và sinh sản khi dùng thuốc trong thời gian dài. Các nghiên cứu trên lâm sàng cũng đều cho thấy chè dây không thấy có các tác dụng phụ như đầy bụng, nôn mửa hoặc khó chịu, mệt mỏi, nhức đầu hoặc các biểu hiện dị ứng.
Sử dụng.
Chè dây thường hái toàn thân cả lá vào lúc cây chưa có hoa quả đem về rửa sạch cắt nhỏ, phơi khô, sao qua rỗi hãm với nước đun sôi như pha chè uống thay nước. Phơi khô có mùi thơm nhẹ. Sau khi sao mùi thơm càng rỡ hơn. Nước chè dây có vị hơi ngọt, uống rất dễ chịu...
Chè dây thuộc loại thuốc "hàn lương" (mát lạnh) nên khi sử dụng bạn nên chia theo đợt: Hàng ngày lấy 30-50g uống thay nước. Mỗi đợt uống liên tục từ 15-20 ngày. | 1 | null |
Dứa gai hay dứa dại (danh pháp khoa học: "Pandanus tectorius") là một loài thực vật có hoa trong họ Dứa dại. Nó có nguồn gốc từ phía đông Australia và các đảo Thái Bình Dương. Loài này được Parkinson ex Du Roi miêu tả khoa học đầu tiên năm 1774.Quả của cây này thường được gọi là quả Hala. | 1 | null |
Dây chìa vôi, hay còn gọi là Dây đau xương, Bạch liễm, Bạch phấn đằng, (danh pháp khoa học: Cissus modeccoides) là một loài thực vật hai lá mầm trong họ Nho. Loài này được Planch. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1887.
Cây dạng bụi leo, thân nhỏ, nhẵn, leo bằng tua cuốn dạng sợi. Lá đơn mọc cách. Phiến lá có 2 dạng, ở gốc thì nguyên thùy, càng lên trên thì xẻ thùy sâu chân vịt, có từ 3-7 thùy. Mép có răng cưa nhỏ. Hoa tự ngù, mọc ở phía đối diện với lá. Tràng hoa màu vàng nhạt. Dây trưởng thành có phủ lớp phấn trắn ngoài thân như phấn vôi.
Y học truyền thống phương Đông sử dụng làm thảo dược chữa một số bệnh liên quan tới xương khớp. | 1 | null |
Hoa Mai xanh, tên khoa học Petrea volubilis (), là một loài cây hoa leo có thân gỗ thuộc họ Cỏ roi ngựa. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Mô tả.
Xuất xứ từ Trung Mỹ, Hoa Mai xanh là một cây leo thân gỗ với những chiếc hoa nhỏ màu tím có dạng ngôi sao. Nó phát triển tốt nhất nơi nhiều ánh nắng. Nó nở hoa vào mùa xuân và ở một số khu vực cũng trong tháng 11. Hoa màu tím, nở kéo dài một vài ngày nhưng màu xanh bẹ hoa vẫn tồn tại lâu hơn, từ từ chuyển sang màu xám. Lá cứng, khi sờ có cảm tưởng như là giấy nhám. Trong khi hoa màu tím thường thấy hơn, có giống cây trồng có hoa màu trắng, 'Albiflora'.
Cắt tỉa.
Nếu muốn Mai xanh nở hoa và sai hoa đúng dịp Tết chúng ta chỉ cần tuốt lá cây trước Tết 60 ngày. | 1 | null |
Phyla canescens là một loài thực vật có hoa trong họ Cỏ roi ngựa. Loài này được (Kunth) Greene miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899.
Đây là loài bản địa Nam Mỹ. Nó đã được du nhập vào Úc như một loại cây cảnh và bãi cỏ ít tốn công chăm sóc, nhưng đã trở thành cây tự nhiên và được coi là một loại cỏ dại môi trường nghiêm trọng.
Phân bố.
"Phyla canescens" là loài bản địa Nam Mỹ, nơi nó đã được ghi nhận ở Argentina, Bolivia, Brazil, Chile, Ecuador, Paraguay, Peru và Uruguay. Loài này là một thành phần của cộng đồng đồng cỏ pampa. Loài này đã lan rộng đến nhiều nơi khác trên thế giới như một loài cỏ nông nghiệp và một loài thực vật xâm lấn. Ở Úc, "Phyla canescens" đã xâm chiếm các vùng đất ngập nước và đồng bằng ngập lũ với đất sét nặng, đặc biệt là ở lưu vực Murray Darling, gây hại cho thảm thực vật bản địa; cây phát triển tốt nhất trong môi trường sống thỉnh thoảng bị ngập úng, nhưng không thể cạnh tranh với loài cỏ "Paspalum distichum" và loài cói "Eleocharis plana" ở những nơi bị ngập úng nặng hơn. | 1 | null |
Phyla lanceolata là một loài thực vật có hoa trong họ Cỏ roi ngựa. Loài này được (Michx.) Greene miêu tả khoa học đầu tiên năm 1899.
Đây là loài bản địa nửa phía nam của Bắc Mỹ, bao gồm phần lớn Hoa Kỳ ngoại trừ góc phần tư phía tây bắc và phần lớn Mexico. Loài này cư trú trong nhiều loại môi trường sống ẩm ướt, bao gồm cả những khu vực bị xáo trộn, chẳng hạn như mương thủy lợi. Nó là một loại cây cỏ sống lâu năm, mọc tàn ở dạng giống như thảm với các thân lan rộng, kéo dài đến nửa mét, đôi khi mọc rễ ở các đốt. | 1 | null |
Parthenocissus quinquefolia (dây leo Trinh đằng năm lá, "Virginia creeper") là một loài thực vật hai lá mầm trong họ Nho. Loài này được (L.) Planch. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1887.
Cũng giống như các cây leo Trinh đằng ba mũi có liên quan, nó được trồng rộng rãi như một loại cây cảnh leo để trang trải các mặt tiền của tòa nhà, sử dụng này là thực sự quan trọng về kinh tế bởi vì, theo che bức tường trong suốt mùa hè, nó có thể làm giảm đáng kể chi phí làm mát. | 1 | null |
Trinh đằng ba mũi (danh pháp khoa học: Parthenocissus tricuspidata), còn gọi là Trinh đằng ba chẽ, Bà sơn hổ hoặc Ba tường hổ (爬墙虎), là một loài thực vật hai lá mầm trong họ Nho. Loài này được (Siebold & Zucc.) Planch. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1887.
"Parthenocissus tricuspidata" (từ tiếng Latinh: "tri" là ba, và "cuspidatus" là chĩa nhọn) có nguồn gốc từ Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc, và phát triển mạnh trong các nơi bãi bồi, rừng ven sông và khu núi rừng hỗn hợp ẩm.
"Parthenocissus tricuspidata" là một loại cây leo và có thể leo lên bức tường thẳng đứng đạt độ cao trên 20 mét. Các tua râu (vòi) của lá dài khoảng 2–3 cm và có sáu đến mười móc dính bám vào mặt tường phía sau. Các lá thường có ba mũi nhọn và hiếm khi phân chia, dài khoảng 10–20 cm, và đổi màu vào mùa thu sang màu đỏ tía. Hoa nở từ tháng Bảy đến tháng Tám, màu xanh lục và nở thành chùm. Cây kết quả mọng màu xanh-đen chín vào tháng Mười và có đường kính lên đến 8 mm, các loại trái này là không ăn được đối với con người.
Cùng với "Parthenocissus quinquefolia" (dây leo Trinh đằng năm lá), một số giống được sử dụng để bao phủ và trang trí tường xanh hoặc tường cây và phát triển mạnh, ngay cả ở các thành phố lớn. Sử dụng này là thực sự quan trọng về kinh tế bởi vì theo che bức tường trong suốt mùa hè, nó có thể làm giảm đáng kể chi phí làm mát. Hiếm khi mọc hoang dã theo cách này, mặc dù những loài chim hót thường ăn hạt của cây này. | 1 | null |
Vitis coignetiae là một loài thực vật hai lá mầm trong họ Nho. Loài này được Pulliat ex Planch. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1883.
Đây là loài bản địa khu vực khí hậu ôn đới của châu Á, nơi nó có thể được tìm thấy ở Vùng Viễn Đông của Nga, (Sakhalin); Hàn Quốc; và Nhật Bản (Hokkaido, Honshu, Shikoku). Nó được mô tả về mặt thực vật học vào năm 1883. Nó được gọi là meoru () trong tiếng Hàn và yama-budo () trong tiếng Nhật. | 1 | null |
Vitis rotundifolia là một loài thực vật hai lá mầm trong họ Nho. Loài này được Michx. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1803. Đây là loài bản địa đông nam và Nam Trung bộ Hoa Kỳ . Phạm vi phân bố loài này kéo dài từ Florida đến bờ biển New Jersey, và tây đến đông Texas và Oklahoma. Nó đã được trồng rộng rãi từ thế kỷ 16. Loại cây này thích nghi tốt với khí hậu ấm và ẩm bản địa; chúng cần ít giờ làm lạnh hơn các giống nổi tiếng hơn và phát triển mạnh trong nhiệt độ mùa hè.
Quả Muscadine có thể có màu đồng hoặc tím sẫm hoặc đen khi chín. Các giống hoang dã có thể vẫn xanh cho đến khi trưởng thành. Muscadine thường được sử dụng để làm rượu thủ công, nước trái cây và thạch. Chúng là nguồn polyphenol phong phú. | 1 | null |
Walther Reinhold Moßner, sau năm 1890 là von Moßner, còn gọi là "Mossner " (19 tháng 2 năm 1846 tại Berlin – 20 tháng 4 năm 1932 tại Heidelberg) là một sĩ quan quân đội Phổ, đã được thăng đến cấp bậc Thượng tướng Kỵ binh. Ông từng được xem là một kỵ binh xuất sắc của Phổ, đã thể hiện khả năng chiến đấu của mình trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ và cuộc Chiến tranh Pháp-Đức.
Tiểu sử.
Walther là con trai của chủ ngân hàng người Do Thái "Jakob Wilhelm Mossner", địa chủ ("Gutsherr") của Ulbersdorf (Landkreis Oels), và bà "Henriette Cäcilie Riese". Vào ngày 26 tháng 6 năm 1846, Moßner được rửa tội trong Nhà thờ Phúc Âm Nhà thờ Thánh Nikolai.
Trong cơn bão cách mạng ở Đức vào tháng 3 năm 1848 khi mà Vương thân Wilhelm bị tố cao là "phản động", "chuyên chế" và bị buộc phải rời khỏi kinh đô Berlin, ông Jakob đã từng giúp đỡ tận tình cho Wilhelm. Sau này vua Wilhelm I không bao giờ quên ơn ông. Hai năm sau khi lên kế ngôi năm 1861, trong một cuộc gặp gỡ với Jakob, khi vua tỏ ý muốn giúp Jakob nếu như ông một nguyện vọng nào đó, người chủ ngân hàng trả lời rằng ông có một cậu con trai giỏi cưỡi ngựa và khát khao gia nhập lực lượng kỵ binh. Nhà vua vui vẻ, hứa hẹn sẽ cho chàng trai 18 tuổi Walther gia nhập trung đoàn của mình, đó là "Trung đoàn Khinh kỵ binh của Đức vua". Sau khi nhập ngũ trong trung đoàn này ở Bonn vào năm 1865, người lính kỵ binh Walther không được đón nhận nồng nhiệt. Ông có nguồn gốc Do Thái, và đội ngũ sĩ quan của trung đoàn không muốn bầu ông làm một thành viên trong số họ. Và một tình huống độc đáo đã diễn ra, trong đó Wilhelm I buộc giới sĩ quan phải đón nhận một thiếu sinh quân mà họ không ưng ý. Thông qua viên trung đoàn trưởng, Wilhelm I cho các sĩ quan trung đoàn biết rằng vua sẽ coi sự khinh suất đối với Walther là một sự lăng mạ cá nhân. Các sĩ quan không còn dám chống đối nữa, và sau khi được đề cử làm sĩ quan, Mossner đã tiến hành cuộc giao phong đầu tiên với Vương công Karl Carolath, một sĩ quan bài Do Thái đã phản đối quyết liệt việc Mossner gia nhập Trung đoàn Khinh kỵ. Với một đòn giáng mạnh mẽ bằng kiếm lưỡi cong vào đầu, ông đã gây cho Carolath chấn thương nặng và ngay lập tức được những người đồng cấp của mình nể phục (Karh Carolath được biết đến vì là chồng của Nữ Bá tước xinh đẹp Elisabeth Hatzfeld về sau này). Các cuộc giao đấu khác đã xảy ra sau đó.
Được phong quân hàm Trung úy vào tháng 2 năm 1866, ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Áo-Phổ và lòng dũng cảm của ông trên chiến trường, đặc biệt là trong trận đánh quyết định tại Königgrätz-Sadowa vào ngày 3 tháng 7 năm 1866, đã củng cố thanh thế của ông như một chiến binh và kỵ binh hàng đầu. Ông đã được tặng thưởng Huân chương Đại bàng Đỏ vì đóng góp của mình trong trận chiến này. Sau trận đánh, ông giữ chức sĩ quan phụ tá cấp trung đoàn kể từ năm 1867 cho đến năm 1872, và trong giai đoạn này ông đã thể hiện tài năng của mình trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1871). Ông đã tự nguyện tham gia cuộc tấn công bằng kỵ binh vào ngày 19 tháng 1 năm 1871. Vào năm 1872, ông được bổ nhiệm vào Bộ Tổng tham mưu, vào năm 1875 ông được thăng quân hàm đại úy. Vào năm 1877, ông được ủy nhiệm làm sĩ quan tham mưu trong Trung đoàn Khinh kỵ binh Cận vệ (tại Potsdam), chỉ huy một đội kỵ binh trong trung đoàn này. Với cấp bậc Thiếu tá, ông đã được liệt vào hàng khanh tướng vào ngày 27 tháng 1 năm 1890 tại kinh đô Berlin. Vào năm 1892, ông được Đức hoàng Wilhelm II bổ nhiệm làm sĩ quan hầu cận của Hoàng đế. Kể từ năm 1896 cho đến năm 1898, ông là lữ đoàn trưởng của Lữ đoàn Kỵ binh số 3. Vào năm 1903, ông lãnh chức Thống đốc thành phố Straßburg, sang năm sau ông được phong cấp Thiếu tướng và Tư lệnh của Sư đoàn Kỵ binh Cận vệ.
Vào năm 1910, Moßner nghỉ hưu và được trao tặng Huân chương Công lao của Vương triều Phổ ("Verdienstorden der Preußischen Krone") . Vì những cống hiến của mình, Moßner đã được phong tước hiệu danh dự của Trung đoàn Khinh kỵ binh Cận vệ. Ngoài ra, vào năm 1911, ông được Đức hoàng bổ nhiệm làm thành viên của Viện thứ nhất trong Nghị viện lãnh thổ Đế chế Elsaß-Lothringen.
Moßner đã kết hôn lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 3 năm 1877 tại khu quân sự Phúc Âm ở Bonn với "Meta Giebert" (21 tháng 5 năm 1856 tại Fray Bentos, Argentina khi đó – 13 tháng 8 năm 1882 tại Gmunden, Salzkammergut). Cuộc hôn nhân này đã mang lại cho họ một người con gái là Henriette, người đã kết hôn với Giáo sư, Tiến sĩ Ernst Levy von Halle, và một người con trai là Robert. Vào ngày 12 tháng 12 năm 1883, Moßner đã tái giá tại Sondershausen (Thüringen) với "Anna von Wolffersdorff" (12 tháng 4 năm 1859 ở Sondershausen – 21 tháng 11 năm 1907 ở Straßburg, AlsaceElsass), con gái của viên thị thần và "Hofjägermeisters" của Công quốc Schwarzburg-Sondershausenschen là Adolf von Wolffersdorff và bà Liddy Rath. Cuộc hôn nhân này mang lại cho ông những người con Elisabeth, Ernst - ông vào trại tập trung Buchenwald năm 1944 - và Anna. | 1 | null |
Trong toán học,một siêu đồ thị là sự tổng quát của 1 đồ thị trong đó một cạnh có thể nối với bất kỳ đỉnh nào. Về mặt hình thức, một siêu đồ thị formula_1 là một cặp formula_2 mà formula_3 là một tập hợp của các yếu tố được gọi là các nút hay đỉnh,và formula_4 là một tập hợp các tập con khác rỗng của formula_3 gọi là siêu cạnh hoặc cạnh. Do đó,formula_4 là một tập hợp con của formula_7, mà formula_8 là power set của formula_3
Trong khi cạnh đồ thị là các cặp nút,siêu cạnh là bộ tùy ý của các nút. Do đó có thể chứa một số lượng tùy ý các nút. Tuy nhiên nó thường là mong muốn để nghiên cứu các siêu đồ thị, nơi mà tất cả siêu cạnh có cùng hướng, một siêu đồ thị k cùng kiểu dữ liệu là một siêu đồ thị như là tất cả siêu cạnh của nó có kích thước k (Nói cách khác, nó là một sự kết hợp các bộ kích thước k).
Vì vậy, siêu đồ thị có 2 đồng dạng là một đồ thị. Siêu đồ thị có 3 đồng dạng cùng kiểu dữ liệu là sự kết hợp tập hợp tập bộ ba không có thứ tự,và tiếp tục như vậy.
Thuật ngữ.
Do các liên kết của siêu đồ thị có thể có bất kỳ số các yếu tố trong một tập hợp, có một vài ký hiệu của các khái niệm về một đồ thị con, được gọi là siêu đồ thị con, siêu đồ thị bộ phận và siêu đồ thị phần.
Cho formula_10 là siêu đồ thị bao gồm đỉnh
và có:
Nơi formula_13 và formula_14 là bộ chỉ số của các đỉnh và các cạnh tương ứng.
Một siêu đồ thị con là một siêu đồ thị với một số đỉnh bị loại bỏ. Về mặt hình thức, các siêu đồ thị con formula_15 sinh ra bởi một tập hợp con formula_16 của formula_3 được định nghĩa là.
Các phần siêu đồ thị là một siêu đồ thị với một số cạnh bị loại bỏ. Cho một tập hợp con formula_19 tập hợp con của tập chỉ số cạnh, siêu đồ thị một phần được tạo ra bởi formula_20 là siêu đồ thị:
Cho một tập hợp con formula_22, siêu đồ thị được chọn là siêu đồ thị bộ phận:
Đối ngẫu formula_24 của formula_1 là một siêu đồ thị mà các đỉnh và các cạnh được thay đổi cho nhau, vì vậy mà các đỉnh được cho bởi formula_26 và có các cạnh được cho bởi formula_27:
Khi một khái niệm về phép bằng được xác định đúng, như thực hiện dưới đây, phép toán lấy đối ngẫu một siêu đồ thị là một phép nâng lên lũy thừa.
Một đồ thị kết nối G có tập đỉnh giống tập đỉnh của một siêu đồ thị kết nối H là một đồ thị chính của H nếu mỗi siêu đồ thị H sinh ra một đồ thị con được kết nối trong G. Đối với đồ thị không kết nối H, G là một đồ thị chính nếu có một song ánh giữa thành phần kết nối của G và H, sao cho mỗi kết nối thành phần G 'của G là một loạt các tương ứng với H'.
Một siêu đồ thị là song phương (hai bên) khi và chỉ khi các đỉnh của nó có thể được phân chia thành hai loại U và V mà mỗi siêu cạnh với số các yếu tố trong một tập hợp ít nhất 2 chứa tối thiểu một đỉnh từ cả hai lớp.
Đồ thị nguyên thủy của siêu đồ thị là đồ thị với đỉnh giống nhau của siêu đồ thị
và các cạnh giữa các cặp đỉnh được chứa trong cùng một siêu cạnh. Đồ thị nguyên thủy đôi khi còn được gọi là đồ thị Gaifman.
Mô hình đồ thị song phương.
Một siêu đồ thị H có thể là đại diện cho bởi một đồ thị song phương BG như sau: bộ X và E là phân vùng của BG Và ("x1", "e1") được nối với cạnh nếu và chỉ nếu đỉnh "x1" chứa trong cạnh "e1" trong "H". Ngược lại, đồ thị xong phương nào với bộ phận cố định và không có các nút không liên quan trong phần thứ hai đại diện cho một số siêu đồ thị theo cách mô tả ở trên. Đồ thị song phương này cũng được gọi là đồ thị tỷ lệ.
Tính không tuần hoàn.
Tương phản với đồ thị vô hướng thường theo đó có một khái niệm tự nhiên của tuần hoàn và đồ thị không tuần hoàn,có nhiều định nghĩa tương đương không tự nhiên của tính không tuần hoàn cho nhiều siêu đồ thị.
Định nghĩa thứ nhất của tính không tuần hoàn cho nhiều siêu đồ thị được tính bằng cách lấy Claude Berge;một siêu đồ thị là không tuần hoàn Berge nếu nó là đồ thị liên thuộc(đồ thị song phương định nghĩa ở trên) là không tuần hoàn. nếu đồ thị nguyên thủy của nó là không tuần hoàn.Định nghĩa này là rất hạn chế: ví dụ,nếu siêu đồ thị có vài cặp formula_30 của các đỉnh và một vài cặp formula_31 của các siêu đồ thị sao cho formula_32 and formula_33 thì nó là chu kỳ Berge.
Chu kỳ Berge có thể một cách rõ ràng hiển nhiên là phép thử kiểm định trong thời gian tuyến tính bằng khám phá đồ thị liên thuộc.
Chúng ta có thể định nghĩa khái niệm yếu của tính không tuần hoàn siêu đồ thị, chậm hơn số hạng tính không tuần hoàn α. Khái niệm này của tính không tuần hoàn tương đương với siêu đồ thị được bảo giác (mỗi đẳng phái của đồ thị nguyên thủy được che phủ bằng một vài siêu đồ thị) và đồ thị nguyên thủy của nó đang có hình sợi dây; nó cũng tương đương đến tính khả quy đến đồ thị trống rỗng qua thuật toán GYO (cũng gọi là thuật toán của Graham). Trong lý thuyết lĩnh vực cơ sở dữ liệu, ta biết rằng lược đồ cơ sở dữ liệu thích một số tính chất hấp dẫn nếu siêu đồ thị bên dưới nó là không tuần hoàn α. Hơn nữa, tính không tuần hoàn α cũng là liên quan đến hàm ý của đoạn được che theo thứ tự lôgic.
Chúng ta có thể phép thử kiểm định trong thời gian tuyến tính nếu siêu đồ thị là không tuần hoàn α
Lưu ý là tính không tuần hoàn α có tính chất trái với mong đợi mà thêm các siêu cạnh vào siêu đồ thị có chu trình α có thể làm nó không tuần hoàn α (chẳng hạn như, cộng vào siêu cạnh chứa toàn bộ các đỉnh của siêu đồ thị luôn luôn làm nó không tuần hoàn α). Thúc đẩy phần nào bằng khiếm khuyết được nhìn nhận này, Ronald Fagin định nghĩa khái niệm mang tính không tuần hoàn β và tính không tuần hoàn γ. Chúng ta có thể phát biểu rằng tính không tuần hoàn β khi yêu cầu toàn bộ siêu đồ thị con của siêu đồ thị là không tuần hoàn α, là tương đương để định nghĩa trước đây bằng Graham. Khái niệm của tính không tuần hoàn γ là hạn chế hơn điều kiện mà tương đương với vài yêu cầu của lược đồ cơ sở dữ liệu và được liên quan đến đồ thị Bachman. Cả hai tính không tuần hoàn β và tính không tuần hoàn γ có thể kiểm định trong thời gian đa thức.
Chúng ta có thể phép thử kiểm định trong thời gian tuyến tính nếu siêu đồ thị là không tuần hoàn α.
Phép đẳng cấu và đẳng thức.
Một đồng cấu Siêu đồ thị là một xạ ảnh từ tập đỉnh của một Siêu đồ thị khác như vậy mà mỗi cạnh của xạ ảnh tới một cạnh khác
Một siêu đồ thị formula_10 là đẳng cấu với một siêu đồ thị formula_35, được viết như formula_36 nếu tồn tại một song ánh
và một hoán vị formula_38 của formula_39 như vậy mà
Các song ánh formula_41 sau đó được gọi là đẳng cấu của các đồ thị. lưu ý rằng
Khi các cạnh của một siêu đồ thị được dán nhãn rõ ràng, ta có một khái niệm bổ sung đẳng cấu mạnh. Ta nói rằng formula_44 là đẳng cấu mạnh với formula_45 nếu hoán vị là phân biệt. Sau đó người ta viết formula_46. Lưu ý rằng tất cả các đồ thị đẳng cấu mạnh là đẳng cấu, nhưng không phải ngược lại.
Khi các đỉnh của một siêu đồ thị được dán nhãn rõ ràng, chúng ta có các khái niệm về tính tương đương, và cũng về phép bằng. Ta nói rằng formula_1 là tương đương với formula_48, và viết formula_49 nếu đẳng cấu formula_41 có
và
Ghi chú rằng:
Ngoài ra, hoán vị formula_38 là đồng nhất, người ta nói rằng formula_1 bằngformula_48, và viết formula_58. Lưu ý rằng, với định nghĩa về tính tương đồng, đồ thị là tự đối ngẫu.
Một siêu đồ thị tự đẳng cấu là một đẳng cấu từ một tập đỉnh vào chính nó, đó là ghi nhãn lại các đỉnh. Tập hợp các tự đẳng cấu của một siêu đồ thị H (= (X, E)) là một nhóm thuộc thành phần, được gọi là nhóm tự đẳng cấu của siêu đồ thị và được viết thành Aut(H).
Ví dụ.
Xem xét các siêu đồ thị formula_1 với các cạnh
và
Thì rõ ràng formula_44 và formula_45 là đẳng cấu (với formula_65, v.v…), nhưng chúng không phải là đẳng cấu mạnh. Vì vậy, ví dụ, trong formula_1, đỉnh formula_67 đáp ứng các cạnh 1, 4 và 6, vì vậy:
Trong đồ thị formula_48, không tồn tại bất kỳ đỉnh đáp ứng các cạnh 1, 4 và 6:
Trong ví dụ này, formula_44 và formula_45 là tương đương, formula_73, và các đối ngẫu là đẳng cấu mạnh:
formula_74.
Đồ thị đối xứng.
Hạng formula_75 của siêu đồ thị formula_1 là số lượng cực đại của bất cứ cạnh nào trong Siêu đồ thị. Nếu toàn bộ cạnh biên có cùng số lượng "k", siêu đồ thị được cho là đồng dạng hay là đồng dạng k", hay là được gọi là Siêu đồ thị k". Đây chính xác là siêu đồ thị đồng dạng 2.
Độ d(v) của đỉnh v là số cạnh chứa nó. Siêu đồ thị H gọi là k đều nếu mỗi đỉnh đều có độ k.
Siêu đồ thị đối ngẫu là đều và ngược lại.
Hai đỉnh x và y của siêu đồ thị H được gọi là đối xứng nếu ở H tồn tại tính tự đẳng cấu sao cho formula_77. Hai cạnh formula_78 và formula_79 được cho là đối xứng nếu ở đó tồn tại tính tự đẳng cấu sao cho formula_80.
Siêu đồ thị được cho là được bắc cầu đỉnh (hay là đối xứng đỉnh) nếu tất cả các đỉnh của nó là đối xứng. Nếu siêu đồ thị có cạnh song song và đối xứng đỉnh thì siêu đồ thị đó gọi là đối xứng đơn giản.
Vì tính đối xứng của siêu đồ thị, tính chất bắc cầu của cạnh giống như tính chất bắc cầu ở các đỉnh.
Đường Hoành.
Đường hoành của hypergraph "H" = ("X", "E") là tập hợp có formula_81 giao với mỗi cạnh. Đường hoành "T" được gọi là cực tiểu nếu tập hợp con của nó cũng là một đường hoành. Siêu đồ thị đường hoành của "H" là siêu đồ thị ("X", "F") mà tập hợp cạnh F của nó gồm tất cả đường hoành cực tiểu của H.
Tính toán siêu đồ thị đường hoành được ứng dụng trong tối ưu hoá tổ hợp, trí tuệ nhân tạo trong game và vài lĩnh vực khoa học máy tính như là máy học, chỉ số của cơ sở dữ liệu, bài toán thực nghiệm, khai thác dữ liệu, và tối ưu hoá chương trình tính.
Ma Trận Liên Thuộc.
Cho formula_82 và formula_83 mỗi siêu đồ thị có formula_84 ma trận liên thuộc formula_85 trong đó:
formula_86.
Chuyển vị formula_87 của ma trận liên thuộc định nghĩa một siêu đồ thị formula_88 gọi là đối ngẫu của H, formula_89 là một tập hợp gồm m-phần tử và formula_90 là một tập con gồm n phần tử của formula_89. Ta có formula_92 và formula_93 nếu và chỉ nếu formula_94.
Tô Màu Siêu Đồ Thị.
Tô màu siêu đồ thị được định nghĩa như sau. Giả sử formula_95 là siêu đồ thị sao cho formula_96.Sau đó formula_97 là màu chính của nếu formula_1 và nếu chỉ nếu,tất cả formula_99 ở đó tồn tại formula_100 sao cho formula_101. Nói cách khác, không thể có siêu cạnh đơn sắc với bản số lượng phần tử tối thiểu là 2.
Các siêu đồ thị mà có tồn tại một cách tô màu sao cho sử dụng hết k màu được gọi là tô được k màu. Siêu đô thị tô được 2 màu chính là siêu đồ thị song phương.
Phân hoạch.
Định lý phân hoạch của E. Dauber phát biểu như sau, cho cạnh biên - bắc cầu của Siêu đồ thị formula_10, ở đó tồn tại phân hoạch:formula_103 của tập hợp đỉnh formula_3 sao cho siêu đồ thị con formula_105 tạo ra bởi formula_106 là bắc cầu đối với mỗi formula_107, và sao cho:formula_108 mà formula_75 là hạng của "H".
Hệ quả là, một siêu đồ thị có cạnh bắc cầu thì không phải là đỉnh bắc cầu tô được 2 màu.
Phân hoạch đồ thị (nói riêng là phân hoạch siêu đồ thị) có ứng dụng trong thiết kế IC và tính toán song song.
Định lý.
Nhiều định lý và khái niệm liên quan tới đồ thị vẫn được áp dụng cho siêu đồ thị. Một số phương pháp nghiên cứu tính đối xứng của các đồ thị được mở rộng cho siêu đồ thị.
Hai định lý nổi tiếng là định lý Erdős–Ko–Rado và định lý Kruskal–Katona nói về siêu đồ thị đồng dạng.
Vẽ siêu đồ thị.
Mặc dù siêu đồ thị khó vẽ trên giấy hơn đồ thị thường nhưng các nhà nghiên cứu đã tìm ra phương pháp cho việc hình dung về nó.
Một cách nhìn trực quan về siêu đồ thị, tương tự như cách vẽ của một đồ thị thường, các đường cong trong mặt phẳng dùng để vẽ các cạnh. Các đỉnh của siêu đồ thị được vẽ như các điểm, hình tròn hay hình chữ nhật và các siêu cạnh được vẽ như cây với lá là các đỉnh. Nếu đỉnh được vẽ như các điểm, thì siêu cạnh có thể được biểu diễn như những đường cong nối với các điểm đó, hoặc những đường cong khép kín chứa tập hợp các điểm.
Một cách nhìn khác về siêu đồ thị, chia nhỏ khuôn mẫu của siêu đồ thị, chia mặt phẳng thành các vùng, mỗi vùng là một siêu cạnh, có thể được đánh dấu bằng màu sắc, đường viền xung quanh hoặc cả hai. Các đỉnh thì được mô tả như phần giao nhau của các vùng. Một biểu đồ Venn tập n là một điển hình, có thể được xem như một phần nhỏ của bức tranh về siêu đồ thị với n siêu cạnh (biểu diễn bởi các hình cong) và 2"n" − 1 đỉnh (biểu diễn bởi các vùng được sinh ra do những hình cong cắt nhau).
Tổng quát.
Nhìn chung, siêu đồ thị cho phép các cạnh có thể nối với nhau. Có hai cách nhìn về vấn đề này. Một là các cạnh không chỉ bao gồm tập hợp các đỉnh mà còn có thể chứa tập con các đỉnh. Mỗi phần tử trong tập hợp tuân theo một thứ tự, nhưng thứ tự này không phải partial order mà cũng không phải preorder, vì nó không bắc cầu. Đồ thị đúng với đồ thị Levi trong cách nhìn này là đồ thị có hướng và không có chu trình. Xét ví dụ sau, một siêu đồ thị có tập đỉnh là formula_110 và các cạnh formula_111 và formula_112. Mặc dù formula_113 và formula_114 nhưng formula_115 thì không đúng. Tuy nhiên, tính chất bao đóng bắc cầu của các phần tử trong tập hợp của siêu đồ thị đó lại tạo nên thứ tự riêng phần (partial order) và chia siêu đồ thị thành một tập hợp có thứ tự riêng phần.
Lần lượt, một cạnh có thể được nối với cạnh khác, (Bất kể các cạnh có trật tự theo hướng, đồ thị không chu trình). Điều này cho phép độ thị có cạnh lặp, không cần phải chứa tất cả các đỉnh. Ví dụ, xét một siêu đồ thị gồm hai cạnh formula_116 và formula_117, không có đỉnh, vì thế formula_118 và formula_119. Dẫn đến việc lặp đệ quy vô tận, những tập hợp mà các cạnh vi phạm axiom of foundation. Cụ thể là không có tính chất bao đóng bắc cầu cho các phần tử trong tập hợp thuộc siêu đồ thị. Mặc dù những cấu trúc này có thể trông khác với cái đầu tiên nhưng chúng có thể được hiểu một cách dễ dàng bởi việc tổng quát hóa tương đương đồ thị Levi của chúng không còn phân đôi nữa, nhưng lại đúng hơn một số đồ thị có hướng.
Ma trận liên thuộc của siêu đồ thị này là ma trận vuông, có hạng bằng tổng số đỉnh và cạnh. Vậy, trong ví dụ trên, ma trận liên thuộc chỉ đơn giản là:
Ứng dụng của siêu đồ thị.
Cơ sở dữ liệu quan hệ.
Trong những năm qua một số lượng đáng kể các nhà nghiên cứu đã dành thời gian và công sức để nghiên cứu, phân tích các quan hệ cơ sở dữ liệu – bằng phương pháp sử dụng các kỹ thuật liên quan đến đồ thị.
Một quan hệ cơ sở dữ liệu (RDB) thường được thể hiện bằng một tập hợp các mối quan hệ trong một miền giá trị nào đó, cùng với tập hợp các Functional Dependencies
Functional Dependencies đã được nghiên cứu bằng cách dùng loại đồ thị tổng quát chẳng hạn như FD – Graphs, Implication Graphs, Deduction Graphs
Hay NBE có các tập thuộc tính của RDB, một sự phụ thuộc vào chức năng F(X,Y) với cả hai X và Y, đó là tập hợp con của N. Định nghĩa duy nhất của các giá trị thuộc tính Y khi giá trị X được đưa ra.
Functional Dependencies có một số quy tắc cho phép chúng ta lấy thong tin mới đó lưu trữ một cách rõ ràng trong cơ sở dữ liệu.
i. Reflexivity:
ii. Transitivity: if and
iii. Conjunction: F(X, Y) if F(X, Y), F(X, Z)
Đấy là một tập hợp của Functional Dependencies, F, chúng ta có thể cần phải giải quyết các vấn đề như:
• Tìm xem một Functional Dependencies cho F (X, Y) có thể xuất phát từ F và dựa trên kết luận của quy định.
• Cho một tập hợp các thuộc tính X, ta phải tìm kiếm điểm kết thúc của nó so với F, tức là tìm thấy một thiết lập X*, như vậy rằng F(X, X*) thuộc về F
Có một số nghiên cứu về hypergraphs như cung cấp các hình thức tự nhiên và thống nhất để đối phó với hầu hết các vấn đề phát sinh trong công việc phân tích Functional Dependencies trong RDB
Một tập hợp F của FD trên các thuộc tính thiết lập tồn tại, có thể được đại diện bởi một Hypergraph H = (V,E) với V = N và E = {(X, Y)\X; F(X,Y F, Y }. Nó rất là dễ dàng để thấy rằng một B là một con đường trên H, nó tương đương với một chuỗi các tác động dựa trên nguyên tắc (°). Ví dụ B – con đường của hình bên dưới tương ứng
Với gốc F{ 1, 2, 3, 4 }, {9, 10} bắt đầu từ mối quan hệ ý nghĩa.
Thủ tục B- Visit giải quyết những vấn đề (a) và (b) trong O (size(H)) = O(size(F)) ở một khoảng thời gian. Trong cả hai trường hợp tập Q được sử dụng trong B – visit được khởi tạo bởi X. Cho X’ là một tập hợp được ghé thăm bởi Đỉnh B – kết nối tới X. Trong vấn đề (a) câu trả lời là một tập hợp sinh ra bởi F(X, Y) sinh ra F chỉ khi Y khi và chỉ khi Y X’ trong khi vấn đề kia là (b) khi X = X’
Urban transit application (ứng dụng di chuyển trong thành phố).
Phân tích quá trình đi lại, vận chuyển hành khách trong một thành phố luôn là một ứng dụng thú vị với mô hình siêu đồ thị.
Ở đây, hệ thống giao thông được miêu tả như một mô hình hóa mạng lưới đặc biệt, trong đó những đường vận chuyển được chồng lên hệ thống mặt đất. Mỗi dòng chuyển là một mạch, tức là một trình tự xen kẽ các node đại diện cho các dòng và vòng cung của một đại diện trong đoạn đường đi đó.
Hệ thông đường đi dưới mặt đất được hình thành bởi các nút thể hiện ở vị trí địa lý (ở trọng tâm của một khu vực) trong một khu đô thị và vòng cung của đó đại diện cho con đường dành để đi bộ đến được trung tâm.
Đổi với mỗi node I đang dừng trên mạng cơ sở, cho Li là một tập hợp các đường đi sẽ dừng lại ở I. Với mỗi node tôi sẽ được kết nối với các node tương ứng thuộc đường Li bởi một vòng cung để lại và một vòng cung ngược lên phía trên cao. Ta có hình minh họa sau đây
Từ một quan điểm của cá nhân địa phương có tuyến đường đi đó thì, người nào đó ở những trạm dừng chân I đi đến những nơi mà họ muốn đến phải ít tốn kém về mặt thời gian và chi phí. Vấn đề được đặt ra trong các tập con của công thức sau, tập trên được gọi là một tập hấp dẫn – đúng đắn bởi vì nó luôn luôn lên những chuyến xe đầu tiên đi đến các trạm dừng chân, thời gian di chuyển dự kiến sẽ được giảm đi rất là nhiều.
Nhìn chung, thời gian di chuyển trên chuyến xe và thời gian chờ để đi tiếp quảng đường khác, nó sẽ xảy ra trong những nhà chờ xe như vậy. Chuyến đi sẽ được bắt đầu nếu hành khác đó bỏ tiền ra và leo lên xe ngồi. | 1 | null |
Tuomas Lauri Johannes Holopainen (sinh ngày 25 tháng 12 năm 1976) là một songwriter, nhạc sĩ (nhưng thường là một keyboardist), nhà biên kịch và nhà sản xuất âm nhạc người Phần Lan, được biết đến nhiều nhất là người sáng lập, thủ lĩnh, keyboardist và songwriter của ban nhạc symphonic metal Nightwish. Anh cũng đã học về jazz và phong cách nhạc cổ điển, nhưng thứ ảnh hưởng nhiều nhất đến phong cách của anh là những bản nhạc phim với âm hưởng êm dịu.
Anh cũng tham gia trong các ban nhạc Nattvindens Gråt và Darkwoods My Betrothed. Dự án bên lề hiện tại của anh là ban nhạc gothic metal For My Pain... và ban nhạc của Timo Rautiainen.
Holopainen đã viết một số bài hát dùng làm các bản soundtrack trong các bộ phim, bao gồm việc hợp tác với bassist kiêm ca sĩ nam chính của Nightwish Marco Hietala trong "While Your Lips Are Still Red", cho bộ phim của Phần Lan "Lieksa!" năm 2007. Anh cũng là đồng sáng tác trong kịch bản bộ phim của chính Nightwish, "Imaginaerum", ra mắt tháng 11 năm 2012.
Tiểu sử.
Tuomas Holopainen sinh ra tại Kitee, Phần Lan vào ngày 25 tháng 12 năm 1976, là con trai của doanh nhân Pentti Holopainen và Kirsti Nortia-Holopainen. Anh có một chị gái là Susanna, hiện là một bác sĩ phẫu thuật, và một anh trai là Petri, là một trợ lý khám nghiệm tử thi. Tài năng về âm nhạc và khả năng biểu hiện chúng thành lời của anh bộc lộ từ khá sớm. Mẹ của Holopainen đã đăng ký cho anh học lớp piano trong trường khi lên bảy tuổi, và Holopainen sau đó tiếp tục học về clarinet, tenor saxophone, piano và lý luận âm nhạc trong mười một năm tại một trường cao đăng âm nhạc. Tuomas không hề có chút hứng thú nào với metal cho đến khi một người bạn tại ngôi trường anh theo học theo một dự án trao đổi sinh viên nước ngoài đưa anh tới xem buổi biểu diễn của Metallica và Guns N' Roses ở Mỹ, và anh chết mê chết mệt.
Holopainen tham gia một ban nhạc lần đầu tiên vào năm 1993. Anh chơi trong một số ban nhạc, bao gồm đảm nhiệm phần keyboard trong ba album của ban nhạc black metal Darkwoods My Betrothed và chơi trong Dismal Silence, Nattvindens Gråt và Sethian. Holopainen là một fan của Disney, J. R. R. Tolkien và Dragonlance. Trả lời phỏng vấn năm 2006, Holopainen tự nhận mình là một người "không theo tôn giáo nào, nhưng là một người cởi mở và biết suy nghĩ độc lập". Anh không quan niệm "tôn giáo là xấu", chủ yếu là "những diễn giải của con người về nó." Tín ngưỡng riêng của anh là một điều gì đó thuộc về cá nhân nhiều hơn.
Sự nghiệp âm nhạc.
Thành lập và ra mắt sản phẩm đầu tiên.
Tháng 7/1996, Holopainen bắt đầu nghĩ đến việc lập một ban nhạc của riêng anh, mà trong đó anh có thể viết nhạc và chơi keyboard. Đây chính là sự ra đời của Nightwish, khi cả ba người cùng ngồi quanh đống lửa trại, và anh hỏi Emppu Vuorinen (guitar) cùng người bạn học Tarja Turunen (vocal) để gia nhập một dự án mà sau này được biết là một ban nhạc với định hướng ban đầu là acoustic. Sau khi nghe giọng hát mạnh mẽ của Turunen, và những ảnh hưởng metal từ Vuorinen và tay trống Jukka Nevalainen, Tuomas quyết định chuyển Nightwish theo định hướng metal.
Bản phát hành không phải demo đầu tiên của Nightwish, "Angels Fall First", phát hành năm 1997, và tiếp theo là "Oceanborn" năm 1998. Năm 1999, Holopainen và các thành viên của một số ban nhạc metal Phần Lan khác như Embraze, Eternal Tears of Sorrow, Charon và Reflexion khởi động một dự án gothic metal với việc thành lập supergroup For My Pain... Tuy nhiên, do tất cả các thành viên đều bận rộn với ban nhạc của riêng mình, dự án sau đó bị tạm dừng.
Album phòng thu thứ ba của Nightwish, "Wishmaster", ra mắt năm 2000. Album này thậm chí còn bán chạy hơn cả hai album trước. Năm 2001, một lần nữa ý tưởng về For My Pain... được đưa lên, và các thành viên bắt đầu lên kế hoạch ra mắt.
Nổi tiếng thế giới.
Trong album phòng thu thứ tư "Century Child" của Nightwish, ra mắt năm 2002, Holopainen bắt đầu hợp tác với những dàn nhạc giao hưởng của Phần Lan và Vương quốc Anh, đây là một sự thay đổi trong phong cách âm nhạc của ban nhạc và phong cách kết hợp của Holopainen, và cũng cho phép tự do hơn với những nhạc cụ thêm vào. Việc sử dụng các yếu tố dàn nhạc đã có mặt trong các bản phát hành album phòng thu của Nightwish từ đó cho đến 31 tháng 12 năm 2007.
Năm 2003, For My Pain... phát hành album đầu tay của mình, mang tên "Fallen". Album được đón nhận nồng nhiệt, nhưng ban nhạc mất đi một lượng fan lớn do việc chậm ra các album mới –- cũng với lý do này mà "Fallen" bị trì hoãn tới bốn năm. Năm 2004, For My Pain... phát hành "Killing Romance", một đĩa đơn cho thị trường Phần Lan với ba bài hát trước đó chưa được phát hành: "Killing Romance", "Joutsenlaulu" và "Too Sad to Live".
Album phòng thu thứ năm của Nightwish, "Once" được phát hành vào năm 2004, và là một sự đột phá của họ tới thị trường Hoa Kỳ. Những đĩa đơn như "Nemo" và "Wish I Had an Angel" được phát trên kênh truyền hình MTV. Nightwish bắt đầu tour du lịch rộng lớn nhất của họ cho đến nay, Once World Tour, lần đầu tiên tới một số quốc gia như Nhật Bản. Sau khi buổi hòa nhạc cuối cùng (một buổi biểu diễn được quay tại Hartwall Areena, Phần Lan được giới thiệu trên DVD "End of an Era" vào năm 2006), tháng 10 năm 2005, Nightwish gửi tới Tarja Turunen một bức thư giải thích lý do sa thải cô khỏi ban nhạc.
Sự nghiệp hiện tại.
Trong năm 2006, Holopainen phải trải qua một thời kỳ đen tối đầy lo lắng và trầm cảm, càng tệ hơn bởi những tin đồn về bản thân và Nightwish trong các tờ báo lá cải hàng ngày. Những sự kiện này là cảm hứng của ông cho "Dark Passion Play", album phòng thu thứ sáu của Nightwish.
Sau sự chia tay của giọng ca heavy metal Timo Rautiainen với Trio Niskalaukaus, ông phát hành album solo đầu tiên của mình mang tên "Sarvivuori" với một đội ngũ tới từ nhiều ban nhạc khác nhau, bao gồm cả Holopainen chơi keyboard. Holopainen cũng đã viết một bài hát trong album. Đầu năm 2007, For My Pain... công bố rằng họ sẽ sớm bắt đầu thu âm sản phẩm tiếp theo sau "Fallen", nhưng mùa thu năm đó các thông tin cho thấy album một lần nữa bị hoãn lại.
Tháng tư năm 2007, Holopainen hợp tác với người bạn thân thiết của anh trong Nightwish, Marco Hietala để viết một bài hát chủ đề cho bộ phim của Phần Lan "Lieksa!". "While Your Lips Are Still Red" chính là bài hát đầu tiên anh viết riêng cho một bộ phim, mặc dù một số bài hát của Nightwish ("Nemo", "Wish I Had an Angel", "Amaranth") đã được đưa vào làm soundtrack trong các bộ phim. Holopainen nói rằng viết nhạc phim là một điều gì đó anh muốn làm trong tương lai. Trong "While Your Lips Are Still Red", ngoài Holopainen chơi piano, thì Marco Hietala hát chính và chơi guitar bass mộc, và Jukka Nevalainen chơi trống.
Trong năm 2007, Holopainen chơi keyboard cho ban nhạc punk Phần Lan Kylähullut trong EP "Lisää persettä rättipäille" của họ. Anh cũng chơi keyboard trong album tiếp theo của họ "Peräaukko sivistyksessä." Ta có thể nghe thấy giọng hát của Holopainen trong những đoạn điệp khúc trong cả hai sản phẩm này.
Giọng ca mới cho Nightwish được tiết lộ vào tháng 5/2007: ca sĩ người Thụy Điển Anette Olzon, người xuất hiện trong "Dark Passion Play", phát hành vào cuối tháng 8 năm đó. Ngày 8 tháng 5 năm 2008, có thông báo rằng Holopainen sẽ là nhà sản xuất cho ban nhạc pop/rock Phần Lan Indica trong album tiếp theo, Valoissa, được phát hành vào mùa thu năm 2008. Holopainen cũng được ghi nhận đã giúp đỡ trong quá trình sản xuất album thứ ba của tay chơi nhạc trance Orkidea, Metaverse năm 2008, cho sự hợp tác trong phiên bản tạo bởi Orkidea của bài hát Nightwish "Bye Bye Beautiful" (Nightwish - Bye Bye Beautiful (DJ Orkidea Remix)).
Album phòng thu thứ bảy của Nightwish, "Imaginaerum", được phát hành vào ngày 30 tháng 11 năm 2011 tại Phần Lan và tại Bắc Mỹ vào ngày 10 tháng 1 năm 2012.
Dự án solo.
Holopainen hiện đang chuẩn bị cho dự án solo của chính mình, dự kiến sẽ được phát hành vào đầu năm 2014. Holopainen đã tuyên bố trên trang web của mình, The Escapist, rằng ông có kế hoạch dành toàn bộ thời gian của mình để sáng tác cho các dự án trong tháng hai đến tháng 4 năm 2013 sau tour diễn Imaginaerum World Tour của Nightwish. Tính đến ngày 20 tháng 11 năm 2012, năm bài hát đã hoàn thành, nhưng vẫn đang ở trong "những cửa ải đầu tiên."
Phong cách âm nhạc.
Sáng tác.
Holopainen là một nguồn cảm hứng cho các ban nhạc khác, đặc biệt là trong các thể loại symphonic metal, gothic và power metal. Simone Simons, ca sĩ chính của Epica, chia sẻ rằng cô bắt đầu hát vì nghe âm nhạc của Nightwish. Cựu ca sĩ của Visions of Atlantis, Nicole Bogner, cũng thừa nhận rằng Nightwish đã truyền cảm hứng cho ban nhạc, đặc biệt là album đầu tiên của họ. Sander Gommans của After Forever nói rằng Nightwish "chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến chúng tôi trong việc tạo ra những bài hát mới". Thủ lĩnh ban nhạc power metal Phần Lan Sonata Arctica Tony Kakko, người đã làm việc với Nightwish cả trong việc tạo ra bản song ca "Beauty and the Beast" với Tarja Turunen và là một người ủng hộ ban nhạc hết mực, đã nhiều lần giải thích Nightwish có ảnh hưởng to lớn thế nào với anh.
Ca hát.
Trong những ngày đầu của Nightwish, Holopainen là nam ca sĩ của ban nhạc, đảm nhiệm tất cả những phần giọng hát nam trong "Angels Fall First". Trong những sản phẩm tiếp theo, ban nhạc bắt đầu tuyển mộ những ca sĩ nam tạm thời, do Holopainen thích tập trung vào việc chơi keyboard hơn. Tuy nhiên, anh cũng đã hát live ca khúc "Beauty and the Beast" mỗi khi ban nhạc không có sẵn những nam ca sĩ tạm thời, góp giọng trong "The Carpenter" của "Angels Fall First", đệm những tiếng hô trong "Moondance" của "Oceanborn" cũng như hát "Master Passion Greed" (ca khúc trong "Dark Passion Play"), mặc dù những bài hát không bao giờ được anh biểu diễn trực tiếp (với ngoại lệ là "The Carpenter", được biểu diễn tại Tavastia Club, Helsinki vào năm 1998). Holopainen cũng thực hiện phần thì thầm cho phần nền ca khúc "While Your Lips Are Still Red", nhưng anh cũng không biểu diễn chúng trực tiếp.
Trong profile của mình trên Nightwish.com, Holopainen mô tả rằng trải nghiệm kỳ lạ nhất trên sân khấu của anh là " 'hát' trước 20.000 người," và cơn ác mộng tồi tệ nhất của mình trên sân khấu là "phải hát một lần nữa."
Đồ biểu diễn.
Holopainen ưa thích sử dụng nhạc cụ và synthesizer của Korg khi biểu diễn trực tiếp và thực hiện công việc thu âm. Sau khi sử dụng một chiếc M1 mượn từ trường học của mình, anh đã mua một chiếc đàn Korg N364 từ tiền vay mượn của cha mình, bộ mà anh tiếp tục sử dụng để biểu diễn cho đến khi kết thúc "Once Upon A Tour".
Anh sau đó thêm vào một chiếc Korg Trinity, sau đó được thay thế bằng Triton. Trong năm 2004, chiếc Korg Karma mới sau đó cũng được thêm vào bộ nhạc cụ của anh.
Năm 2007, để chuẩn bị cho Dark Passion Play Tour, chiếc N364 được thay thế bởi hai chiếc Korg TR để thực hiện công việc bảo trì và sửa chữa một cách dễ dàng hơn.
Anh cũng sử dụng giá đứng K&M Spider.
Holopainen có một cách tiếp cận rất trực quan để thiết lập bộ nhạc cụ biểu diễn của mình. Trong những buổi biểu diễn cuối cùng trong tour diễn Once, anh sơn toàn bộ keyboard của mình màu trắng, và chuyển qua màu tím trong tour Dark Passion Play.
Ngoài ra, anh thường để một mô hình cao 12 inch của Edward Scissorhands trên keyboard hai tầng của mình, và một mô hình Jack Sparrow (trong loạt phim "Pirates of the Caribbean") trên keyboard đơn (bên tay trái). Trong một số buổi biểu diên của tour Dark Passion Play, Holopainen cũng có một con thuyền được đặt tên là Ocean Soul để xung quanh keyboard của mình.
Holopainen sử dụng một chiếc đàn Korg Oasys trong phòng thu, và một vài bản sửa đổi từ nhà máy của Oasys cũng được sử dụng trong Dark Passion Play, nhưng những phần âm thanh này vẫn chưa được biểu diễn trên sân khấu, thay vào đó là một số phiên bản được lấy mẫu và nạp vào trong những chiếc Triton của Holopainen. | 1 | null |
Huỳnh Khương Ngọc Quyên (sinh 24 tháng 4, 1988) là cựu siêu mẫu và diễn viên người Việt Nam. Ngọc Quyên định cư ở Mỹ và tập trung cho công việc kinh doanh.
Sự nghiệp.
Quyên tham gia vào lĩnh vực thời trang khi 16 tuổi. Ai đó mời Quyên tham gia những chuyến lưu diễn thời trang tại nước ngoài như Luân Đôn, Malaysia, Bắc Kinh... Quyên xuất hiện trong các chương trình: Duyên Dáng Việt Nam, Thời trang cuộc sống, Phong cách trẻ, Phong cách và cuộc sống... | 1 | null |
Hạng Yên (chữ Hán: 项燕), là tướng nước Sở thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Hạng Yên chính là ông nội của Hạng Vũ là Tây sở bá vương sau này.
Tiểu sử.
Hạng Yên là người đất Hạ Tướng, được xem là hậu duệ của vương thất nước Sở (mang họ Mị) Theo Sử ký, Hạ Tướng ban đầu là đất nhà Chu phong cho họ Cật, sau bị nước Lỗ diệt. Sở tiến công Lỗ, lấy đất Hạ Tướng đã đoạt được phong cho tổ tiên của Hạng Yên, từ đó nước Sở có họ Hạng.
Đến đời Hạng Yên, nước Sở đã suy yếu trầm trọng, trong khi nước Tần dần lớn mạnh. Từ năm 231 TCN, Tần vương là Doanh Chính bắt đầu chinh phạt nước khác, lần lượt diệt Hàn, Triệu rồi Ngụy. Năm 225 TCN, Chính cử Lý Tín đưa 20 vạn quân đánh nước Sở. Hạng Yên làm đại tướng, đem quân ra trận phối hợp với Xương Bình Quân phản Tần, đánh tan 20 vạn quân của Lý Tín, buộc Tín rút quân.
Năm 224 TCN, Doanh Chính lại cử Vương Tiễn đem 60 vạn quân sang hòng bóp nát nước Sở. Vua Sở huy động quân lính trong nước ra quyết chiến. Vương Tiễn dùng kế cố thủ không ra đánh làm quân Sở mất hết nhuệ khí, sau đó mới đưa quân ra. Quân Tần đánh cho quân Sở đại bại và phải rút chạy.
Quân Tần tiến vào Thọ Xuân, bắt sống Sở vương Phụ Sô. Hạng Yên bỏ chạy về Lan Lăng (phía nam sông Trường Giang), lại tìm lập người tông thất nước Sở là Xương Bình quân lên ngôi. Năm 223 TCN, Vương Tiễn đuổi theo tiến đánh, Xương Bình quân tử trận. Hạng Yên tuyệt vọng bèn tự vẫn. Nước Sở chính thức diệt vong kể từ đó.
Hai năm sau khi Hạng Yên qua đời, Doanh Chính thống nhất Trung Quốc, lập ra nhà Tần.
Con cháu.
Hạng Yên sinh được bốn người con. Người con lớn Hạng Siêu (項超) (hay ["Hạng Vinh"; 項榮]) mất sớm, nhưng có sinh được một con là Hạng Vũ, người thứ là Hạng Lương, người con út là Hạng Triền. Khi nước Sở mất, Hạng Lương mang Hạng Vũ bỏ trốn. Đến cuối thời nhà Tần, Hạng Lương cùng thiên hạ nổi lên chống Tần, lập lại nước Sở. Sau khi Hạng Lương tử trận, Hạng Vũ tự xưng là Sở vương, giao tranh cùng với Lưu Bang, cuối cùng bị đánh bại và phải tự tử. | 1 | null |
Pterostylis planulata là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được D.L.Jones & M.A.Clem. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1993.
Phân loại và đặt tên.
Pterostylis planulata được David Jones & Mark Clements mô tả chính thức vào năm 1983 và bản mô tả được xuất bản ở Muelleria. Mẫu vật được thu thập ở phía bắc của Vườn Quốc gia Grampians. Cụm từ cụ thể (planulata) có nguồn gốc từ từ Latinh planus có nghĩa là "cấp" hoặc "căn hộ" đề cập đến các cánh cửa ngang gần như bằng phẳng, đôi khi nông,
Phân bố và môi trường sống.
Loài này chỉ được biết đến từ phía bắc của Vườn quốc gia Grampians, nơi chúng mọc trong đất cạn trên các mỏ đá. | 1 | null |
Paul Tudor Jones II (sinh ngày 28 tháng 9 năm 1954), là nhà sáng lập Tudor Investment Corporation, công ty quản lý cho các đối tác đầu tư của Paul, còn được coi là quỹ phòng hộ. Đến tháng 3 năm 2011, ông được ước tính có tài sản ròng USD 3.3 tỷ USD theo tạp chí "Forbes" và được xếp hạng tài sản thứ 107 của nước Mỹ.
Những năm đầu cuộc đời và giáo dục.
Paul được sinh ra tại Memphis, Tennessee, tốt nghiệp tại trường nội trú Presbydertian, là một trường nam sinh, trước khi nhập học tại trường trung học Đại học Memphis, sau đó theo học tại Đại học Virginia. Paul là huynh trưởng của hội huynh đệ Sigma Alpha Epsilon. Để trả học phí, Paul đã viết văn kiện cho gia đình dưới bút danh Paul Eagle.
Năm 1976, Paul tốt nghiệp với tấm bằng cử nhân kinh tế Đại học Virginia, tới năm 1980, Paul được nhận vào học tại trường Kinh doanh Harvard nhưng không tham dự học.
Năm 1987, bộ phim "TRADER: The Documentary" của PBS..
Bộ phim thể hiện Jones như một người trẻ tuổi dự đoán sụp đổ năm 1987, bằng cách sử dụng phương pháp tương tự nhà dự báo thị trường Robert Prechter. Mặc dù video này được trình chiếu trên truyền hình công cộng vào tháng 11 năm 1987, có rất ít bản sao. Trên Internet, bids cho video này bắt đầu từ 295 USD. Theo Michael Glyn, giám đốc của video, Jones requested trong những năm 1990 rằng tài liệu này được loại bỏ khỏi circulation. Video này đã nổi lên theo thời gian trên chia sẻ video khác nhau và các trang web torrent nhưng thường được đưa xuống ngay sau đó do tuyên bố bản quyền.
Sự nghiệp.
Hãng của Jones hiện quản lý 17.7 tỷ USD (cho đến 1 tháng Sáu, năm 2007). Năng lực đầu tư của họ rộng rãi và đa dạng, bao gồm mua bán vĩ mô toàn cầu, đầu tư vốn chủ sở hữu cơ bản tại Hoa Kỳ và châu Âu, các thị trường mới nổi, đầu tư mạo hiểm, hàng hóa, các chiến lược hướng sự kiện, và các hệ thống mua bán có tính kỹ thuật. Jones, với cộng sự của ông là Hunt Taylor, was instrumental trong việc tạo ra FINEX, bộ phận tương lai tài chính của New York Board of Trade, và trong việc phát triển hợp đồng tương lai chỉ số đô-la Mỹ mua bán tại đó. Ông còn phục vụ như Chủ tịch của New York Cotton Exchange từ tháng 8 năm 1992 đến tháng 6 năm 1995.
Dự đoán ngày thứ hai đen tối 1987.
Paul được biết đến qua lợi nhuận 100 triệu USD, gấp 3 lần tài sản nhờ vào hàng loạt vị thế short, đánh cược vào cú sập của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ.
Phong cách đầu tư và niềm tin giao dịch.
Như được báo cáo trong "Market Wizards" và báo chí, phong cách và niềm tin giao dịch hợp đồng tương lai của Jones được tổng kết như sau:
Từ thiện.
Jones là người sáng lập của Robin Hood Foundation, một tổ chức từ thiện chủ yếu được hỗ trợ bởi các nhà khai thác quỹ phòng hộ. Ông sáng lập và là Chủ tịch Hội đồng quản trị của Trường Hiến chương xuất sắc, toàn nam đầu tiên điều lệ trường học của đất nước, nằm ở Bedford Stuyvesant khu phố của Brooklyn, New York. Ông sáng lập và chủ trì Bedford Stuyvesant tôi có một Quỹ Dream, trong đó đặt học sinh địa phương trong các trường cao đẳng.
Ông sở hữu Grumeti trữ trong Tanzania 's phương Tây Serengeti và gần đây đã được tán dương bởi Quốc hội các nước Đông Phi cho không cho phép săn trong dự trữ của mình. Các khách sạn hàng đầu ở đó, Sasaskwa, được đặt tên là # 1 khách sạn trên thế giới do tạp chí Travel & Leisure trong năm 2011 và 2012. Jones đã làm việc với Tanzania và Paul Milton của Hart Howerton, một công ty kiến trúc London chuyên về sử dụng đất quy mô lớn, xây dựng kế hoạch khu vực cho tính bền vững của khu vực, động vật hoang dã và các cộng đồng địa phương. Ông đã thiết lập một sự tin tưởng cho Pamushana dự trữ tư nhân, hoạt động của Singita nhóm của Nam Phi, dự trữ khoảng 300 dặm về phía đông nam Harare, gần biên giới Mozambique ở Zimbabwe.
Ông đã có những đóng góp lớn của ông alma mater, các Đại học Virginia, trong đó có đóng góp $ 35 triệu, mà đã đi đến việc xây dựng một sân bóng rổ mới, đặt tên là" 'John Paul Jones Arena ", trong danh dự của cha mình, một luật sư người cũng tham dự Đại học Virginia.
Vào tháng 4 năm 2013, Jones đã tham gia vào một cuộc tranh cãi tại Đại học Virginia sau khi nói với khán giả là sinh viên và cựu sinh viên, "Ngay khi đôi môi cảm ứng của em bé đó ngực của cô gái, quên nó. Mỗi đầu tư duy nhất tôi đã làm, mọi mong muốn để hiểu những gì sẽ làm cho này đi lên hoặc xuống sẽ bị tràn ngập bởi những kinh nghiệm đẹp nhất mà một người đàn ông sẽ không bao giờ chia sẻ, kết nối cảm xúc giữa mẹ và em bé đó. Tôi vừa nhìn thấy nó xảy ra hơn và hơn nữa. "
Đời sống cá nhân.
Jones lập gia đình với vợ ông, Sonia, một cựu người mẫu thời trang người Úc, từ năm 1988. Họ có bốn người con,
Jones đã quyên tiền cho nhiều ứng viên Cộng hòa. Năm 2012 ông quyên góp 200,000 USD cho Mitt Romney. Năm 2008 Jones quyên góp cho chiến dịch tranh cử tổng thống của John McCain và Rudy Giuliani. | 1 | null |
Rhizanthella omissa là một loài thực vật có hoa trong họ Lan và được tìm thấy ở Công viên quốc Lamington ở Queensland. Nó là một loại thảo mộc mọc trong rừng phi lao và nở hoa dưới lòng đất. Loài này được D.L.Jones & M.A.Clem. mô tả khoa học đầu tiên năm 2006 trong bài "The Orchadian". Loài này được liệt kê là "có nguy cơ tuyệt chủng" theo Chính phủ Queensland "Đạo luật Bảo tồn Thiên nhiên 1992". | 1 | null |
Trong tô pô, bổ đề số Lebesgue là công cụ hữu dụng trong không gian mêtric compact. Bổ đề nói rằng:
"Cho formula_1 là phủ mở của không gian mêtric formula_2. Nếu formula_3 là compact, thì có formula_4 sao cho với mỗi quả cầu bán kính formula_5 thì chứa trong một thành phần của formula_1."
Chứng minh.
Với mỗi formula_7 có một tập mở formula_8 chứa formula_9. Có một số formula_10 sao cho quả cầu formula_11 chứa trong formula_12. Họ
là phủ mở của formula_3, nên có phủ con hữu hạn
Đặt
Giả sử rằng formula_17. Khi đó có formula_18, sao cho formula_19. Ta có
Điều này dẫn đến formula_21 nằm trong thành phần formula_22 của formula_1, và formula_24 chứa trong formula_22. | 1 | null |
Trong tài chính, một nhà đầu tư trái ngược là một người cố gắng thu lợi nhuận bằng cách đầu tư khác với lẽ thường, khi ý kiến đồng thuận dường như là sai.
Một nhà đầu tư trái ngược cho rằng hành vi đám đông nhất định trong các nhà đầu tư có thể dẫn đến việc định giá sai có thể lợi dụng được trong thị trường chứng khoán. Ví dụ, tình trạng bi quan phổ biến rộng rãi về một cổ phiếu có thể dẫn đến một mức giá quá thấp tới mức nó phóng đại các rủi ro của công ty, và giảm bớt triển vọng của nó trong việc trở lại khả năng sinh lời. Xác định và mua các cổ phiếu nguy nan như vậy, và bán chúng sau khi các công ty phục hồi, có thể dẫn đến lợi nhuận trên mức trung bình. Ngược lại, tình trạng lạc quan rộng rãi có thể dẫn đến việc định giá cao không hợp lý mà cuối cùng sẽ dẫn đến những vụ rớt giá, khi những kỳ vọng cao không đạt kết quả. Tránh (hoặc bán khống) các khoản đầu tư thổi phồng quá mức như thế làm giảm nguy cơ của những vụ rớt giá như vậy. Những nguyên tắc chung này có thể áp dụng ở bất kỳ đâu, cho dù vụ đầu tư đang xem xét là một loại cổ phiếu cụ thể, một lĩnh vực công nghiệp, hay toàn bộ một thị trường hoặc một lớp tài sản nào khác.
Một số nhà đầu tư trái ngược có cái nhìn thị trường gấu lâu dài, trong khi phần lớn các nhà đầu tư đặt cược vào thị trường bò. Tuy nhiên, một nhà đầu tư trái ngược không nhất thiết phải có cái nhìn tiêu cực về thị trường chứng khoán nói chung, cũng không phải anh ta phải tin rằng nó luôn luôn được định giá quá cao, hoặc là suy xét thông thường luôn luôn là sai. Thay vì thế, nhà đầu tư trái ngược luôn tìm kiếm các cơ hội để mua hoặc bán các khoản đầu tư cụ thể khi phần lớn các nhà đầu tư dường như đang làm ngược lại, đến mức mà sự đầu tư đó đã trở nên bị định giá sai. Trong khi các ứng cử viên "mua" nhiều hơn có khả năng được xác định khi thị trường suy giảm (và ngược lại), thì những cơ hội như vậy có thể xảy ra trong các thời kỳ khi toàn thị trường nói chung tăng hoặc giảm.
Sự tương đồng với đầu tư giá trị.
Đầu tư trái ngược liên quan đến đầu tư giá trị ở chỗ đầu tư trái ngược cũng tìm kiếm các khoản đầu tư bị định giá sai và mua những khoản đầu tư nào dường như bị định giá thấp bởi thị trường. Một số nhà đầu tư giá trị nổi tiếng như John Neff đã từng đặt câu hỏi liệu có cái gọi là "trái ngược" hay không, nhìn nhận nó như là đồng nghĩa về bản chất với đầu tư giá trị. Một sự khác biệt có thể là một cổ phiếu có giá trị, trong lý thuyết tài chính, có thể được xác định bởi các số liệu tài chính như giá trị sổ sách hay P/E. Một nhà đầu tư trái ngược có thể nhìn vào những số liệu này, nhưng cũng có thể quan tâm đến các biện pháp "cảm tính" liên quan đến cổ phiếu đó trong số các nhà đầu tư khác, chẳng hạn như thông tin phân tích về bên bán và các dự báo thu nhập, khối lượng giao dịch, và bình luận của phương tiện truyền thông về công ty và triển vọng kinh doanh của nó.
Trong ví dụ về một cổ phiếu đã rớt giá do bi quan quá mức, có thể thấy những điểm tương đồng với "biên độ an toàn" mà nhà đầu tư giá trị Benjamin Graham đã tìm kiếm khi mua các cổ phiếu - về bản chất - có thể mua cổ phiếu với giá giảm đến giá trị nội tại của chúng. Có thể cho rằng, biên độ an toàn có nhiều khả năng tồn tại khi một cổ phiếu đã giảm rất nhiều, và đó là loại rớt giá thường đi kèm với tin tức tiêu cực và tình trạng bi quan chung.
Cùng với điều này, mặc dù nguy hiểm hơn, là bán khống các cổ phiếu được định giá quá cao. Điều này đòi hỏi các "túi tiền to" do một chứng khoán được định giá quá cao có thể tiếp tục tăng, do sự lạc quan, trong một thời gian. Cuối cùng, người bán khống tin rằng, cổ phiếu này sẽ 'sụp đổ và bốc cháy'.
Ví dụ về đầu tư trái ngược.
Các chỉ số trái ngược thường được sử dụng cho tâm lý nhà đầu tư là chỉ số biến động (cũng được gọi không chính thức là "chỉ số sợ hãi"), như VIX, mà bằng cách theo dõi giá của các quyền chọn tài chính, đưa ra một con số đo lường cách các tác nhân thị trường này gây bi quan hay lạc quan nói chung. Một con số thấp trong chỉ số này cho thấy một triển vọng lạc quan hay tự tin nhà đầu tư hiện hành cho tương lai, trong khi một con số lớn cho thấy một triển vọng bi quan. Bằng cách so sánh VIX với các chỉ số cổ phiếu chính trong một khoảng thời gian dài, rõ ràng là các đỉnh trong chỉ số này nói chung là thể hiện những cơ hội mua tốt.
Một ví dụ khác của một chiến lược trái ngược đơn giản là Chó của chỉ số Dow. Khi mua các cổ phiếu trong chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones có cổ tức tương đối cao nhất, một nhà đầu tư thường mua một số công ty "nguy nan" trong số 30 cổ phiếu loại đó. Những "Chó" này có lợi tức cao không phải vì cổ tức đã được tăng lên, mà vì giá cổ phiếu của chúng giảm. Công ty đang gặp khó khăn, hoặc chỉ đơn giản là ở một điểm thấp trong chu kỳ kinh doanh của họ. Bằng cách liên tục mua những cổ phiếu như vậy, và bán chúng khi chúng không còn đáp ứng các tiêu chí, nhà đầu tư "Chó" đang mua một cách có hệ thống những cổ phiếu ít được yêu thích nhất của chỉ số Dow 30, và bán chúng khi chúng trở nên được yêu thích một lần nữa.
Khi bong bóng Dot com bắt đầu xẹp, một nhà đầu tư có thể được hưởng lợi bằng cách tránh các cổ phiếu công nghệ đã từng là đối tượng chú ý của hầu hết các nhà đầu tư. Các lớp tài sản như cổ phiếu giá trị và các tín thác đầu tư bất động sản đã phần lớn bị bỏ qua bởi các báo chí tài chính vào thời điểm đó, mặc dù định giá thấp lịch sử của chúng, và nhiều quỹ tương hỗ trong những hạng mục này đã bị mất tài sản. Các khoản đầu tư này trải nghiệm các đợt tăng mạnh giữa những đợt rớt giá lớn trong thị trường chứng khoán Mỹ nói chung khi bong bóng vỡ ra.
Quan hệ với tài chính hành vi.
Các nhà đầu tư trái ngược đang cố gắng khai thác một số nguyên tắc của tài chính hành vi, và có sự chồng lấn đáng kể giữa các lĩnh vực này. Ví dụ, các nghiên cứu về tài chính hành vi đã chứng minh rằng các nhà đầu tư như một nhóm có khuynh hướng đánh giá nặng các xu hướng gần đây khi dự đoán tương lai; một cổ phiếu kém hoàn hảo sẽ vẫn xấu, và một cổ phiếu mạnh mẽ sẽ vẫn mạnh mẽ. Điều này thêm sự tin cậy cho niềm tin của các nhà đầu tư trái ngược rằng các khoản đầu tư có thể giảm "quá chậm" trong các thời kỳ tin tức tiêu cực, do những giả định không chính xác của các nhà đầu tư khác, liên quan đến triển vọng dài hạn đối với công ty này. | 1 | null |
Đầu cơ lướt sóng (tiếng Anh: swing trading) là một hoạt động đầu cơ trong thị trường tài chính, nơi một tài sản có thể mua bán được nắm giữ từ một đến vài ngày trong một nỗ lực để thu lợi từ sự các sự thay đổi hoặc 'đu đưa' giá. Một vị thế đầu cơ lướt sóng thường được nắm giữ dài hơn một vị thế mua bán trong ngày, nhưng ngắn hơn so với các chiến lược đầu tư mua và nắm giữ có thể được nắm giữ trong nhiều tháng hoặc nhiều năm. Lợi nhuận có thể được tìm kiếm bằng hoặc là mua một tài sản hoặc là bán khống.
Các phương thức đầu cơ lướt sóng.
Bằng cách sử dụng một tập hợp các quy luật khách quan dựa trên cơ sở toán học cho việc mua và bán là một phương pháp phổ biến cho các thương nhân lướt sóng để loại bỏ tính chủ quan, khía cạnh tình cảm, và phân tích tốn sức của mua bán lướt sóng. Các quy tắc mua bán có thể được sử dụng để tạo ra một thuật toán mua bán hoặc "hệ thống mua bán" sử dụng phân tích kỹ thuật hay phân tích cơ bản để cung cấp các tín hiệu mua bán.
Các cách tiếp cận giao dịch dựa trên quy tắc đơn giản hơn bao gồm chiến lược của Alexander Elder, trong đó đo lường hành vi của xu hướng giá của một công cụ sử dụng 3 trung bình trượt (moving average) khác nhau của các mức giá đóng cửa. Công cụ được giao dịch ở trạng thái Trường vị (Nắm giữ hàng = Long) khi ba trung bình được liên kết trong một chiều hướng đi lên, và giao dịch ở trạng thái Đoản vị (Bán = Short) khi ba trung bình đang di chuyển xuống phía dưới. Các thuật toán/hệ thống mua bán có thể bị mất lợi nhuận tiềm năng của chúng khi chúng đạt được đủ một khối lượng theo sau để ngăn chặn hiệu quả của chúng: "Bây giờ nó là một cuộc chạy đua vũ trang. Mọi người đều đang xây dựng các thuật toán phức tạp, và sự cạnh tranh càng lớn hơn thì lợi nhuận càng nhỏ hơn." Quan sát của Andrew Lo, Giám đốc Phòng thí nghiệm Kỹ nghệ tài chính, cho Viện Công nghệ Massachusetts.
Xác định thời điểm vào và thoát khỏi một giao dịch là thách thức chính đối với tất cả các chiến lược mua bán lướt sóng. Tuy nhiên, các thương nhân lướt sóng không cần định thời hoàn hảo (mua đáy và bán đỉnh của dao động giá) để tạo ra lợi nhuận. Các khoản thu nhập nhất quán nhỏ có liên quan nghiêm ngặt đến các quy tắc quản lý tiền cộng gộp lại lợi nhuận theo thời gian. Nói chung, người ta hiểu rằng các mô hình và thuật toán toán học không hoạt động thành công cho mọi công cụ hoặc tình huống thị trường.
Rủi ro có liên quan.
Các rủi ro trong mua bán lướt sóng là tương xứng với đầu cơ thị trường nói chung. Nguy cơ thua lỗ trong mua bán lướt sóng thường tăng lên trong một giao dịch đi ngang (hay chuyển động giá đi ngang), khi so sánh với một thị trường giá tăng (bullish market) hay thị trường giá giảm (bear market) khi mà thị trường chuyển động rõ ràng theo một hướng cụ thể. | 1 | null |
Cửa sổ tình yêu là chương trình phát thanh trực tiếp tư vấn về tâm lý, tình cảm, tình yêu, sức khoẻ sinh sản...trong Chương trình Phát thanh Thanh niên của Đài Tiếng nói Việt Nam
Lịch sử.
Mặc dù những cuộc tranh luận giữa những người làm chương trình diễn ra sôi nổi nhưng Dự án xây dựng Chương trình mang tên "Cửa sổ tình yêu" vẫn tiến triển. Ngày 7 tháng 3 năm 1999, Chương trình phát thanh trực tiếp "Cửa sổ tình yêu" đầu tiên được phát trên sóng. Bắt đầu từ đó, Chương trình này được phát thanh từ 10h00 đến 10h30 sáng chủ nhật và từ ngày 7 tháng 9 năm 2003 Cửa sổ tình yêu chính thức phát sóng 45 phút từ 10h00 đến 10h45 sáng chủ nhật hàng tuần và được phát lại vào 23h00 cùng ngày. Tính tới năm 2009, hơn hai mươi hai nghìn cuộc điện thoại đã được gọi đến với số máy quen thuộc 04.38262625 (nay là 024.38262625), hơn một trăm nghìn bức thư đã được nhận từ thính giả. Tất cả những cuộc điện thoại và lá thư đó là những câu chuyện về tình yêu và những trái tim tan vỡ, về tình dục, lạm dụng tình dục và sức khoẻ sinh sản.
Nội dung.
Cửa sổ tình yêu là chương trình phát thanh mới với hình thức và nội dung hoàn toàn khác so với các chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam đề cập tới những vấn đề tệ nhị, kín đáo mà những người Á Đông khó đề cập đến. Chương trình tư vấn về Tình yêu và sức khoẻ tình dục dành cho vị thành niên và thanh niên qua Đài Tiếng nói Việt Nam, được sự giúp đỡ của chuyên gia tư vấn của Đài BBC nước Anh trong việc xây dựng kịch bản.
Vai trò.
"Cửa sổ tình yêu" đã giúp cho bạn trẻ Việt Nam có cơ hội trình bày những khó khăn và nỗi lo sợ của mình về tình yêu và tình dục, an ủi và tư vấn cho họ, giúp họ có một kết thúc có hậu.
Thính giả.
Cũng giống như chương trình Bạn hãy nói với chúng tôi, đa phần những thính giả Chương trình "Cửa sổ tình yêu" sống ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, biên giới, hải đảo... nơi mà đài phát thanh thường là phương tiện tiếp cận thông tin duy nhất.
Ảnh hưởng.
"Cửa sổ tình yêu" đã gây được tiếng vang, không chỉ với thính giả ở Việt Nam, có những bạn trẻ người Việt từ Lào, Thái Lan, Malaysia, Philippin, Indonesia, Đài Loan, Trung Quốc... gọi về bởi ở nơi đó họ vẫn được nghe tiếng nói của Đài Tiếng nói Việt Nam, của Chương trình "Cửa sổ tình yêu". Hàng chục đoàn nhà báo từ các nước đã đến tham quan, học tập, chia sẻ kinh nghiệm. | 1 | null |
Tô pô phần bù hữu hạn là tô pô có thể định nghĩa trên mỗi tập formula_1. Nó bao gồm tập rỗng và các tập mở là các tập con của formula_1 có phần bù là hữu hạn. Do đó, trong tô pô phần bù hữu hạn, chỉ những tập đóng hoặc formula_1 là hữu hạn. Rõ ràng hơn, ta có thể viết tô pô phần bù hữu hạn như sau:
Tính chất.
Mọi tập con formula_5 của không gian tô pô formula_1 với tô pô phần bù hữu hạn là compact.
Chứng minh..
Giả sử formula_7 là một phủ mở của formula_5. Khi đó
nên
Vì mỗi formula_11 là hữu hạn nên formula_12 cũng hữu hạn. Do đó ta có thể chọn ra hữu hạn tập formula_11 (formula_14 với formula_15 và formula_16) sao cho
Do đó
Vậy formula_5 compact.
Hệ quả.
Một không gian tô-pô phần bù hữu hạn là một không gian compact. | 1 | null |
Friedrich von Scholl (25 tháng 10 năm 1846 – 2 tháng 10 năm 1928) là một sĩ quan quân đội Phổ, được thăng đến cấp Thượng tướng và Tướng phụ tá của Đức hoàng Wilhelm II.
Ông khởi đầu sự nghiệp quân sự của mình bằng việc nhập ngũ trong Trung đoàn Thương kỵ binh Cận vệ số 1 ở Potsdam. Với quân hàm thiếu úy, ông đã tham chiến trong cuộc Chiến tranh Pháp-Đức (1870 – 1870). Về sau này, ông giữ chức vụ Tư lệnh của lực lượng Hiến binh Cận vệ và là Tướng phụ tá của Hoàng đế. Vào ngày 20 tháng 5 năm 1907, ông được phong tước hiệu danh dự à la suite của Trung đoàn Thương kỵ binh Cận vệ số 1 và được thăng cấp Thượng tướng vào ngày 16 tháng 6 năm 1913. | 1 | null |
Vanilla planifolia là một loài thực vật có hoa thuộc chi "Vanilla" của họ Lan (Orchidaceae). Loài này được Jacks. ex Andrews miêu tả khoa học đầu tiên năm 1808. Đây là loài bản địa của México và là một trong những nguồn chủ yếu để sản xuất hương liệu vani do có hàm lượng chất vanillin cao. Cây này có một số tên gọi như vani lá phẳng, vani Tahiti hoặc vani Tây Ấn. | 1 | null |
Thơ sinh Việt Nam (tên khoa học: Zeuxinella vietnamica) là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài địa lan nhân giống và phát triển bằng thân rễ ngầm dưới đất này được Averyanov mô tả khoa học đầu tiên năm 1988 dưới danh pháp "Zeuxine vietnamica", nhưng tới năm 2003 thì chuyển thành "Zeuxinella vietnamica". | 1 | null |
Lãnh Khiêm (chữ Hán: 冷谦), tự Khải Kính (启敬) hoặc Khởi Kính (起敬), đạo hiệu Long Dương tử, người Vũ Lăng , dời nhà đến Gia Hưng , đạo sĩ, nhà âm nhạc, nhà dưỡng sanh học rất có ảnh hưởng vào cuối đời Nguyên, đầu đời Minh.
Sự nghiệp.
Âm nhạc.
Minh sử 61, Chí 37, Nhạc 1 chép: "… năm ấy (1364) (Minh Thái Tổ) đặt Thái Thường tư, có thuộc quan là các chức Hiệp luật lang… Người cuối đời Nguyên là Lãnh Khiêm, giỏi âm nhạc, quen gẩy đàn Sắt, mượn cớ tu đạo lánh ở Ngô Sơn . (Minh Thái Tổ) triệu làm Hiệp luật lang, lệnh cho tham gia việc phổ nhạc, để Nhạc sanh luyện tập… (Minh Thái Tổ) bèn khảo xét Nhã nhạc của 4 miếu (4 đời cha, ông, cụ, kỵ của Hoàng đế), mệnh cho Khiêm định rõ âm luật cùng các thứ Biên chung (chuông), Biên khánh (khánh), rồi định ra thể chế của việc ca múa".
Ông là người đặt nền móng cho lễ nhạc đời Minh. Từng trước tác 1 quyển cầm phổ Thái cổ di âm, do Tống Liêm viết lời tự, nay không còn; lại trước tác Cầm thanh thập lục pháp, nay vẫn còn, luận về 16 phạm trù mỹ học trong âm nhạc.
Dưỡng sanh học.
Tương truyền Lãnh Khiêm vào đầu đời Minh đã gần trăm tuổi , đúc kết từ kinh nghiệm bản thân và lý luận Đạo giáo, Lãnh Khiêm đã trước tác Tu linh yếu chỉ, trong sách hướng dẫn các phương pháp tập luyện dưỡng sanh đơn giản, kết hợp phép Án ma (xoa bóp) và phép Đạo dẫn để phòng bệnh, trị bệnh.
Tu linh yếu chỉ cùng Nhiếp sanh tiêu tức luận của Khâu Xử Cơ (đời Nguyên), Vật dược nguyên thuyên và Thọ nhân kinh của Uông Ngang (đời Thanh), Duyên niên cửu chuyển pháp của Phương Khai (đời Thanh), cả thảy 5 bộ sách, đã được Diệp Chí Sân tập hợp trong bộ tùng thư dạy dưỡng sanh là Di thân tập, phát hành vào năm 1852, đến nay vẫn còn bản in có từ đời Thanh.
Dị sự.
Từ đời Minh đến đời Thanh, dị sự về Lãnh Khiêm được lưu truyền vô số. Vài câu chuyện tiêu biểu như sau:
Bức tranh "Bồng Lai tiên dịch".
Đầu những năm Trung Thống (1260 – 1263) nhà Nguyên, Lãnh Khiêm cùng người Hình Đài là Lưu Bỉnh Trung theo thiền sư Hải Vân du ngoạn, không sách nào không đọc, hiểu biết sâu sắc từ Kinh Dịch cho đến Hoàng cực kinh thế của Thiệu Ung, các môn thiên văn, địa lý, luật lịch đều thông thạo. Trong những năm Chí Nguyên (1264 – 1294), Bỉnh Trung làm quan nhà Nguyên, ông bèn bỏ Phật theo Nho, vui chơi ở Sáp Xuyên , cùng Triệu Mạnh Phủ thăm Vệ vương phủ, trông thấy bức tranh Lý tướng quân, chợt nảy ra ý muốn học vẽ. Hơn tháng sau, sông núi, con người,… ông đều thể hiện rất sống động, thành ra nhờ tài vẽ mà nổi tiếng. Đến Hoài Dương, gặp dị nhân, uống "trung hoàng đại đan", sang đời Minh thì đã một trăm mấy chục tuổi, tóc đen mặt đỏ, như thời trai tráng .
Bồng Lai tiên dịch đồ (tranh Tiên Bồng Lai đánh cờ) của ông được xem là thần vật, lại có đề tặng của Trương Tam Phong, thành ra sở hữu bút tích của 2 vị tiên, giá trị phi thường. Lý Tây Nguyệt - Trương Tam Phong chân nhân toàn tập được đưa vào Bành Định Cầu – Đạo tàng tập yếu cũng nhắc đến bức tranh này.
Vào bình tránh tội.
Có người bạn nghèo đến xin giúp đỡ, Lãnh Khiêm bèn vẽ lên tường một cái cửa, nói người bạn đẩy cửa, thì cửa tự mở. Người bạn bước vào, thấy vàng bạc đầy ních, chính là kho báu của triều đình. Người bạn lấy vàng bạc ra dùng, về sau việc bị bại lộ, quan sai đến bắt, Lãnh Khiêm trốn vào một cái bình. Quan binh đưa cái bình đến trước mặt hoàng đế, hoàng đế hỏi gì thì ông đáp nấy. Hoàng đế nói: "Ngươi ra đây, trẫm không giết ngươi." Đáp: "Thần có tội, không dám ra." Hoàng đế giận, đập vỡ cái bình, những mảnh vỡ đều vang vang tiếng trả lời của Lãnh Khiêm .
Tương truyền trong những năm Vĩnh Lạc (1403 – 1424) thời Minh Thành Tổ, Lãnh Khiêm hóa hạc lên tiên. Từ Thấm (đời Thanh) - Minh họa lục quyển 2, Lãnh Khiêm truyện nhận xét: "Đời truyền ông hóa hạc, vào bình, việc rất là quỷ dị". | 1 | null |
Thysanolaena latifolia, tên tiếng Việt là đót, chít, là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (Roxb. ex Hornem.) Honda miêu tả khoa học đầu tiên năm 1930.
Đặc điểm.
Cỏ cao tới 3,5m hay hơn, giống sậy và lau. Thân to 5-8mm. Lá cứng, hình giáo rộng, nhọn mũi, ôm lấy thân, có mép, hơi ráp, dài 30–60 cm, rộng 5–10 cm. Chuỳ hoa ở ngọn, mềm, lúc đầu dựng đứng rồi mọc toả ra, dài 30–60 cm, có nhánh mịn và rất nhiều. Bông nhỏ rất nhiều gồm nhiều cọng nhỏ, hình dải thuôn, dài 1-1,5mm, chụm lại với nhau. Quả thóc nhỏ thuôn, gần hình cầu, nằm trong những mày nhỏ cứng.
Phân bố.
Thường gặp trên đất khô vùng núi, trong các savan ven các rừng của nước ta từ 50m đến độ cao 2000m. | 1 | null |
Urelytrum annuum là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được Stapf miêu tả khoa học đầu tiên năm 1908.
Đặc điểm.
Urelytrum annuum có hoa nhỏ 4 cánh màu vàng. Hạt nhỏ và màu nâu, có bề mặt nhám. Cây con nhỏ, có một thân đơn với các lá hình bầu dục nhỏ.
Công dụng.
Loài cây này có nhiều công dụng khác nhau như:
Trồng trọt và nhân giống.
Urelytrum annuum là loại cây phát triển nhanh, ít tốn công chăm sóc, có thể nhân giống bằng cách chiết cành hoặc giâm cành. Nó thích sống ở nơi có đất thoát nước tốt và đầy đủ nắng, có thể được trồng trong chậu hoặc trực tiếp trên đất. Loài cây này cần được tưới được thường xuyên và bón phân cân đối để cây phát triển tốt. Vào cuối mùa đông hoặc đầu mùa xuân nên cắt tỉa lại cành cây để kích thích sự phát triển.
Phân bổ.
Urelytrum annuum thường được tìm thấy ở những vùng ôn đới ấm áp như Châu Âu, Châu Á, Bắc Mỹ... ở những cánh đồng cỏ ẩm ướt, vùng đầm lầy hoặc dọc các dòng suối ở miền Tây Hoa Kỳ. | 1 | null |
Zea perennis là một loài trong chi "Zea" (chi Bắp ngô). Đây là một trong hai loài cây lâu năm trong chi "Zea". Loài cây lâu năm còn lại, "Z. diploperennis," là loài chị em gần của "Z. perennis". Hai loài này tạo một nhánh với "Z. luxurians". Ba loài này hợp thành đoạn "Luxuriantes" của chi "Zea". "Z. perennis" là loài thể tam bội duy nhất trong chi "Zea", hiếm khi tạo con lai sinh sản được với các loài thể nhị bội cùng chi.
Do tầm quan trọng kinh tế của bắp, có sự quan tâm nhất định đến việc dùng gen của những loài "Zea" khác nhằm nâng cao sản lượng hay chất lượng mùa vụ. "Z. perennis" được quan tâm vì tiềm năng biến bắp ngô thành cây trồng lâu năm. | 1 | null |
Trong kinh tế, hàng hóa là một mặt hàng có thể trao đổi được sản xuất để thỏa mãn các mong muốn hoặc nhu cầu. Hàng hóa toàn cầu gồm hàng hóa và dịch vụ.
Ý nghĩa đặc biệt hơn của thuật ngữ "hàng hóa toàn cầu" hay còn được gọi là "thương phẩm" chỉ được áp dụng cho hàng hóa kinh tế. Nó được dùng để mô tả một lớp các hàng hóa có nhu cầu đối với chúng, nhưng chúng được cung cấp không xét đến sự khác biệt phẩm chất giữa các thị trường. Một hàng hóa toàn cầu có đầy đủ hoặc một phần tính có thể thay thế, nghĩa là thị trường xem các trường hợp khác biệt của nó tương đương hoặc gần như vậy mà không quan tâm đến những người sản xuất ra chúng. Karl Marx từng miêu tả như sau: "Từ hương vị của lúa mì không thể nói ai là người tạo ra nó, một nông nô Nga, một nông dân Pháp hay một tư sản Anh."
Dầu mỏ và đồng là các ví dụ khác của những hàng hóa toàn cầu như vậy, cung và cầu của chúng là một phần của một thị trường chung. Các món hàng không được xem là hàng hoá toàn cầu hay thương phẩm như các hệ thống âm thanh nổi, mặt khác, có nhiều điểm khác biệt trong sản phẩm, chẳng hạn như thương hiệu, giao diện người dùng và chất lượng cảm nhận. Nhu cầu về một loại hệ thống âm thanh nổi cụ thể có thể lớn hơn nhiều so với nhu cầu cho một hệ thống khác.
Ngoài ra, theo Karl Maxr: " Một đơn vị hàng hóa có thể có nhiều giá trị sử dụng tùy thuộc vào người dùng hàng hóa đó "
Một trong những đặc trưng của hàng hóa toàn cầu là giá cả của nó được xác định như một hàm của toàn bộ thị trường của nó. Các hàng hóa toàn cầu vật chất đã được thiết lập tốt có các thị trường giao ngay và phái sinh trao đổi tích cực.
Hàng hoá toàn cầu cứng và mềm
Nói chung, hàng hoá toàn cầu các loại khoáng sản như quặng sắt, dầu thô, than đá, muối, đường, trà, hạt cà phê, đậu tương, nhôm, đồng, gạo, lúa mì, vàng, bạc, pa-la-đi, bạch kim.
Các hàng hóa toàn cầu mềm là các hàng hóa được trồng trọt.
Các hàng hóa toàn cầu cứng là các hàng hóa được khai thác bằng cách khai khoáng.
Có một lớp hàng hóa năng lượng quan trọng khác bao gồm điện năng, khí đốt, than đá và dầu. Điện năng có đặc điểm riêng là nó thường không kinh tế nếu tích trữ; do vậy, điện năng phải được tiêu thụ ngay khi nó được sản xuất.
Hàng hóa toàn cầu hóa xảy ra khi một thị trường hàng hóa hoặc dịch vụ đánh mất sự khác biệt giữa các cơ sở cung ứng, thường bởi sự khuếch tán của vốn trí tuệ cần thiết để thu mua hoặc sản xuất nó một cách hiệu quả. Như là, những hàng hóa mà trước kia mang lại biên lợi nhuận lớn đối với những người tham gia thị trường đã trở thành hàng hóa toàn cầu, chẳng hạn như thuốc gốc và các chip DRAM. Một ví dụ khác được trích dẫn từ "New York Times" Thực phẩm bổ sung vitamin tổng hợp, một viên calci 50mg có giá ngang nhau đối với một người tiêu dùng bất kể là công ty nào sản xuất hoặc ở thị trường nào, và như vậy, vitamin tổng hợp hiện đang được bán với số lượng lớn và có sẵn tại bất kỳ siêu thị nào với rất ít sự khác biệt giữa các thương hiệu.
Có một phổ hàng hoá, chứ không phải là một sự phân biệt rạch ròi giữa "hàng hóa so với sản phẩm có thể phân biệt". Vài sản phẩm có tính không khác biệt đầy đủ,do đó tính có thể thay thế, thậm chí điện có thể được phân biệt trên thị trường dựa trên phương pháp phát điện (ví dụ, nhiên liệu hóa thạch, gió, năng lượng mặt trời). Mức độ nhiều sản phẩm của thương mại hóa phụ thuộc vào tâm lý và phương tiện của người mua. Ví dụ, sữa, trứng, và giấy tập được người tiêu dùng cho là không thể phân biệt được; và theo họ; hoàn toàn có thể thay thế, giá thành thấp nhất là yếu tố duy nhất quyết định trong việc lựa chọn mua. Những khách hàng khác xem xét các yếu tố khác bên cạnh giá cả, chẳng hạn như tính bền vững môi trường và phúc lợi động vật. Với các khách hàng, so sánh giữa những tiêu chí như "sản phẩm hữu cơ hay không" hoặc "nuôi thả vườn hay nuôi trong lồng" được xem là sự khác biệt giữa các thương hiệu sữa hoặc trứng, tỷ lệ tái chế hoặc được cấp giấy chứng nhận từ hội đồng lâm nghiệp được xem là cách phân biệt thương hiệu của giấy viết.
Từ nguyên.
Từ "commodity" được sử dụng trong tiếng Anh vào thế kỷ 15, từ tiếng Pháp ", có nghĩa là "tiện nghi" hay "tiện lợi". Trở lại xa hơn, từ tiếng Pháp được dẫn xuất từ tiếng La-tinh "commoditatem" (nominative "commoditas") nghĩa là "sự phù hợp, tiện lợi hay lợi thế". Gốc Latin "commodus" (từ đó tiếng Anh phát triển thành các từ khác gồm "commodious" và "accommodate") có các nghĩa khác nhau như "thích hợp" hoặc "biện pháp, thời điểm, điều kiện thích hợp" và "lợi thế, lợi ích""
Công ty trao đổi hàng hóa toàn cầu.
Đây là danh sách các công ty trao đổi hàng hóa toàn cầu lớn vận hành toàn thế giới.
Trao đổi hàng hóa.
Trong ý nghĩa ban đầu và đơn giản, hàng hóa là thứ có giá trị, chất lượng đồng đều, được sản xuất với số lượng lớn bởi nhiều nhà sản xuất khác nhau, các sản phẩm từ mỗi nhà sản xuất khác nhau được coi là tương đương. Trên sàn giao dịch hàng hóa, nó là tiêu chuẩn cơ bản được ghi trong hợp đồng xác định hàng hóa, không có bất kỳ chất lượng vốn có trong sản phẩm một nhà sản xuất cụ thể.
Commodities exchanges include:
Thị trường cho việc giao dịch hàng thương phẩm có thể rất hiệu quả, đặc biệt nếu phân chia thành các nhóm đáp ứng các nhu cầu của các phân khúc thị trường. Các thị trường này sẽ nhanh chóng đáp ứng với những thay đổi trong cung và cầu để tìm một cân bằng giá và số lượng. Ngoài ra, các nhà đầu tư có thể được tiếp xúc thụ động với thị trường hàng hóa thông qua một chỉ số giá hàng hóa.
Dữ liệu hàng tồn kho.
Các hàng tồn kho các mặt hàng, với hàng tồn kho thấp thường dẫn đến giá tương lai biến động nhiều hơn và làm tăng nguy cơ của "hết kho" (hàng tồn kho cạn kiệt). Theo lý thuyết kinh tế, công ty nhận được lợi tức thuận lợi bằng cách giữ hàng tồn kho các mặt hàng nhất định. Dữ liệu về hàng tồn kho các mặt hàng không có sẵn từ một nguồn chung, mặc dù vậy dữ liệu có sẵn từ nhiều nguồn khác nhau. Dữ liệu hàng tồn kho của 31 mặt hàng được sử dụng trong một nghiên cứu năm 2006 về mối quan hệ giữa số lượng hàng tồn kho và phần bảo hiểm rủi ro hàng hoá trong tương lai.
Sự hàng hóa toàn cầu hóa của lao động.
Trong kinh tế chính trị cổ điển và đặc biệt trong phê bình về kinh tế chính trị của Các Mác, hàng hóa là một đối tượng hay hàng hóa hay dịch vụ ("sản phẩm" hay "hành vi") được sản xuất bởi lao động con người. Objects are external to man. However, some objects attain "use value" to persons in this world, when they are found to be "necessary, useful or pleasant in life," "Giá trị sử dụng" làm cho một đối tượng thành "một đối tượng của mong muốn con người," hoặc là "a means of subsistence in the widest sense."
Khi xã hội phát triển, người ta phát hiện ra rằng họ có thể trao đổi hàng hoá và dịch vụ cho hàng hóa và dịch vụ khác. Ở giai đoạn này, các hàng hóa và dịch vụ đã trở thành "hàng hóa." Hàng hóa được xác định là đối tượng được cung cấp để bán hoặc được "trao đổi trên thị trường." Trên thị trường, nơi hàng hóa được bán, "giá trị sử dụng" không phải là hữu ích trong việc tạo thuận lợi cho việc bán hàng hóa. Theo đó, ngoài việc có giá trị sử dụng, hàng hóa phải có một "trao đổi giá trị"-một giá trị có thể được thể hiện trên thị trường.
Trước Marx, nhiều nhà kinh tế tranh luận như những gì các yếu tố tạo nên giá trị trao đổi. Adam Smith cho rằng ngoại tệ giá trị được tạo thành từ thuê, lợi nhuận, lao động và các chi phí hao mòn trên các công cụ chăn nuôi. David Ricardo, một tín đồ của Adam Smith, cách tiếp cận đổi Smith ở điểm này bằng cách cáo buộc lao động một mình là nội dung của giá trị trao đổi của bất kỳ dịch vụ nào. Trong khi duy trì tất cả các giá trị trao đổi hàng hóa được bắt nguồn trực tiếp từ bàn tay của những người đã làm cho hàng hóa, Ricardo lưu ý rằng chỉ một phần của giá trị trao đổi của hàng hóa đã được trả cho người lao động, người làm hàng hóa. Các phần khác của các giá trị của hàng hóa đặc biệt này là lao động không được trả cho người lao động công nhân không được trả lương. Lao động chưa thanh toán này đã được giữ lại bởi các chủ sở hữu các phương tiện sản xuất. Trong xã hội tư bản, nhà tư bản sở hữu các phương tiện sản xuất và do đó lao động chưa thanh toán được giữ lại bởi các nhà tư bản như thuê hoặc như lợi nhuận. Phương tiện sản xuất có nghĩa là trang web nơi mà hàng hóa được thực hiện, các sản phẩm nguyên liệu được sử dụng trong việc sản xuất và các công cụ hoặc máy móc được sử dụng để sản xuất hàng hoá.
Tuy nhiên, không phải tất cả các mặt hàng có thể sinh sản cũng không được tất cả các mặt hàng ban đầu dự định được bán trên thị trường. Các mặt hàng này có giá cũng đang được coi là hàng hóa, ví dụ như người lao động quyền lực, tác phẩm nghệ thuật và tài nguyên thiên nhiên ("đất chính nó là một công cụ lao động"), mặc dù họ có thể không được sản xuất đặc biệt cho thị trường, hoặc là hàng hoá không tái sản xuất.
Phân tích hàng hóa của Marx được thiết kế để giúp giải quyết vấn đề của việc thiết lập các giá trị kinh tế hàng hóa, bằng cách sử dụng lý thuyết giá trị của lao động. Vấn đề này đã được thảo luận rộng rãi bởi Adam Smith, David Ricardo và Karl Rodbertus-Jagetzow cùng những người khác.
Tất cả ba nhà kinh tế nói trên, bác bỏ giả thuyết cho rằng lao động gồm 100% giá trị trao đổi hàng hóa nào. Trong mức độ khác nhau, các nhà kinh tế đã chuyển sang cung cấp và nhu cầu để thiết lập giá các mặt hàng. Marx cho rằng "giá cả" và "giá trị" của một mặt hàng là không đồng nghĩa. Giá hàng hóa bất kỳ sẽ thay đổi theo sự mất cân đối cung cấp cho nhu cầu tại bất kỳ thời gian một thời gian. "Giá trị" của hàng hóa tương tự, phù hợp và có thể phản ánh lượng giá trị lao động được sử dụng để sản xuất ra hàng hóa đó.
Trước Marx, các nhà kinh tế lưu ý rằng vấn đề với việc sử dụng "số lượng lao động" để thiết lập giá trị của hàng hóa là thời gian mà một người lao động không có tay nghề sẽ dài hơn thời gian dành cho các hàng hóa tương tự của một công nhân lành nghề. Như vậy, theo phân tích này, hàng hóa được sản xuất bởi một công nhân không có tay nghề sẽ có giá trị hơn hàng hóa cùng được sản xuất bởi các công nhân lành nghề. Marx đã chỉ ra, tuy nhiên, trong xã hội nói chung, một số tiền trung bình của thời điểm đó là cần thiết để sản xuất hàng hóa sẽ phát sinh. Thời gian trung bình này cần thiết để sản xuất hàng hóa Marx gọi là "thời gian lao động xã hội cần thiết" Thời gian lao động xã hội cần thiết là cơ sở thích hợp làm cơ sở các "trao đổi giá trị" của một loại hàng hóa nhất định.
Giá trị và giá cả không phải là thuật ngữ tương đương trong kinh tế, và Lý thuyết hoá các mối quan hệ cụ thể của giá trị theo giá thị trường là một thách thức cho các nhà kinh tế đều tự do và chủ nghĩa Mác. Tuy nhiên, Marx cho rằng giá trị và giá cả của hàng hóa bất kỳ chỉ trùng hợp khi cung và cầu là tương đương với nhau. | 1 | null |
Đền Choọng là ngôi đền thiêng tọa lạc trên núi Pu Đên thuộc trung tâm Mường Choọng xưa, nay là xã Châu Lý, huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.
Đền thờ Nang Phốm Hóm (Nàng tóc thơm) - Người con gái dân tộc Thái đảm trách sứ mệnh chỉ huy việc gom góp lương thảo nuôi quân trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (1418- 1427). Nang Phốm Hóm là hiện thân nét đẹp công - dung - ngôn - hạnh của người con gái Thái, là biểu tượng kết tinh từ tình đoàn kết các dân tộc anh em trên mảnh đất Miền Tây xứ Nghệ.
Đền được lập nên vào thời Hậu Lê vào thế kỷ XV. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đầu những năm 2000, dấu tích của Đền còn lại chỉ là những hòn tảng kê chân cột, toàn bộ sắc phong của Đền cũng đã bị thất lạc theo thời gian.
Vào Xuân năm Giáp Ngọ 2014, từ tâm thành của hậu thế đối với tiền nhân, Đền được phục dựng trên chính vị trí năm xưa tọa lạc.
Rằm tháng 6 năm Giáp Ngọ 2014 (11/7/2014), Ban vận động đóng góp phục dựng và tôn tạo Đền Chọong đã tổ chức khánh thành giai đoạn I. Toàn bộ khuôn viên di tích Đền có diện tích gần 10 hec ta, tổng kinh phí đầu tư giai đoạn I gần 10 tỷ đồng từ nguồn xã hội hoá do các doanh nghiệp, các nhà thành tâm và nhân dân đóng góp.
Ngày 16/7/2015, UBND tỉnh Nghệ An đã ban hành Quyết định số 3051-QĐ/UBND, xếp hạng di tích lịch sử Đền Chọong.
Rằm tháng 6 năm Ất Mùi- 2015 (30/7/2015) Lễ đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Đền Chọong đã được tổ chức trong niềm hân hoan của đông đảo đồng bào các dân tộc anh em Miền Tây xứ Nghệ.
Mỗi năm, Đền có các lễ chính gồm: Đám Lục ngoạt được tổ chức vào Rằm tháng Sáu âm lịch, Lễ khai niên tổ chức suốt tháng Giêng âm lịch và Lễ tạ cuối năm tổ chức vào 25- 26 tháng Chạp âm lịch.
Rằm tháng 6 năm Bính Thân 2016 (18/7/2016) sau 60 năm vắng bóng, Lễ hội Đền Chọong năm 2016 đã được huyện Quỳ Hợp long trọng tổ chức, thu hút sự quan tâm đặc biệt của đông đảo du khách và nhân dân. | 1 | null |
Pavel Samuilovich Urysohn, Pavel Uryson (Па́вел Самуи́лович Урысо́н) (3 tháng hai 1898 ở Odessa - 17 tháng tám 1924 ở Batz-sur-Mer) là một nhà toán học Ukraina (Liên Xô cũ) gốc Do Thái. Ông được biết đến với những đóng góp trong lý thuyết chiều, và phát triển Định lý mêtríc hóa Urysohn, và Bổ đề Urysohn, cả hai đều là kết quả cơ bản trong lý thuyết tôpô. Tên của ông cũng được đặt làm kỷ niệm cho Không gian phổ dụng Urysohn, Không gian Fréchet–Urysohn, khái niệm chiều Menger-Urysohn, và trong Phương trình tích phân Urysohn. Ông và Pavel Alexandrov là những người đầu tiên đưa ra khái niệm về tính compact vào năm 1923.
Urysohn nghiên cứu tại Đại học Moskva gia đoạn 1915-1921 dưới sự hướng dẫn của Nikolai Luzin. Sau đó ông trở thành một trợ lý giáo sư ở đó. Ông bị chết đuối vào năm 1924 trong khi bơi lội với đồng nghiệp Pavel Alexandrov. ngoài khơi bờ biển Brittany, Pháp, gần Batz-sur-Mer, và được chôn cất ở đó.
Chị/em gái của Urysohn, Lina Neiman, đã viết một cuốn hồi ký về cuộc đời và thời thơ ấu của ông. Do không phải là một nhà toán học nên bà đã đưa vào cuốn sách các bài viết về các công trình của ông bởi Pavel Alexandrov, Vadim Efremovich, Andrei Kolmogorov, Lazar Lyusternik, và Mark Krasnosel'skii. Định lý Urysohn được đặt theo tên ông. | 1 | null |
Topo được biết đến là một nhánh của toán học. Trong các không gian topo topologist's sine curve (đường cong hình sin của một nhà tô pô hoc) là một Không gian Tôpô với những tính chất rất thú vị.
Nó có thể được định nghĩa như một đồ thị của hàm formula_1 trên nửa khoảng mở (0,1] và gốc toạ độ.
Hình ảnh của đường cong.
Ta thấy "x" tiến gần 0 phía bên phải, độ dài của tia thay đổi theo độ lớn của "1/x" tăng. Điều này giải thích tại sao phần tia ở phía bên trái đồ thị dày đặc lại.
Tính chất.
Topologist's sine curve "T" is liên thông nhưng không liên thông địa phương cũng không liên thông đường.
Một số dạng khác.
Có hai dạng khác topologist's sine curve có các tính chất thú vị khác nhau.
closed topologist's sine curve có thể được định nghĩa bởi lấy topologist's sine curve và thêm vào tập hợp điểm giới hạn formula_3. Không gian này đóng và bị chặn nên nó là compact bởi Định lý Heine-Borel, tuy nhiên nó lại có những tính chất giống topologist's sine curve nó cũng liên thông nhưng không liên thông địa phương cũng không liên thông đường.
extended topologist's sine curve có thể được định nghĩa bởi lấy "closed topologist's sine curve" và thêm vào đó tập formula_4. Nó là liên thông đường nhưng không liên thông địa phương. | 1 | null |
Vĩ mô toàn cầu là chiến lược đầu tư trên một quy mô lớn khắp thế giới bằng cách sử dụng lý thuyết kinh tế để biện hộ quá trình ra quyết định. Chiến lược này thường trên cơ sở các dự báo và phân tích về các xu hướng tỉ lệ lãi suất, dòng tổng quát của các quỹ, các thay đổi chính sách, các chính sách chính phủ, quan hệ giữa các nhà nước, và các nhân tố có tính hệ thống rộng lớn khác.
Nhà đầu cơ vĩ mô Yra Harris cho rằng "vĩ mô toàn cầu" thực ra là một thuật ngữ mới, được dùng để gọi "địa chính trị." George Soros đã sử dụng một cách nổi tiếng một chiến lược vĩ mô toàn cầu khi ông bán bảng Anh năm 1992 vào thời điểm Cơ chế tỷ giá châu Âu sụp đổ.
Trong một Vòng đàm phán Opalesque thảo luận về vĩ mô toàn cầu, nhà quản lý quỹ đầu tư John Burbank đã thảo luận về tầm quan trọng ngày càng tăng và sự thay đổi của tư nhân và nhà đầu tư sang các chiến lược vĩ mô toàn cầu. Burbank xác định vĩ mô toàn cầu như "có một lý do để thể bán hay mua cái gì đó lớn hơn một cái nhìn cổ phiếu cơ bản."
Mua bán vĩ mô toàn cầu.
Các chiến lược mua bán vĩ mô toàn cầu đặt cơ sở trên các suy đoán đã được nghiên cứu kỹ về các phát triển kinh tế vĩ mô của thế giới. Mike Novogratz, chủ tịch quỹ phòng vệ khổng lồ Fortress Investment Group, đã thảo luận về trao đổi vĩ mô toàn cầu trong phỏng vấn video của ông. Novogratz mô tả chiến lược vĩ mô toàn cầu như theo dõi những câu chuyện kinh tế vĩ mô, chẳng hạn như sự mất cân bằng toàn cầu, các chu kỳ kinh doanh, sự tồn tại của đồng Euro, và thay đổi mô hình tăng trưởng của nền kinh tế mới nổi. Ông nói rằng có một sự khác biệt vốn có giữa nhà quản lý quỹ vĩ mô toàn cầu và quản lý vốn truyền thống. Hầu hết các nhà quản lý mua/bán vốn cổ phần bắt đầu trong nghiên cứu như các nhà phân tích và xem xét để thực hiện theo các câu chuyện kinh tế vĩ mô dựa trên những gì các vị trí mà họ tin tưởng và vị trí cổ phiếu họ dựa vào.
Mặt khác, thương nhân và nhà quản lý vĩ mô toàn cầu chủ yếu đến từ phía bên nguy cơ kinh doanh. Đối với thương nhân và nhà quản lý vĩ mô, các yếu tố chính trong việc ra quyết định là có rủi ro, vì khi đầu tư vào một thế giới đầu cơ như vậy có rất nhiều yếu tố rủi ro và di chuyển các điểm dữ liệu mà họ phải đưa vào hạch toán. Nhà đầu cơ vĩ mô không phải là trào lưu chính thống, họ dựa vào quản lý rủi ro và ở dạng linh hoạt để tránh một khủng hoảng thanh khoản. Trong năm 2007 và 2008, với bong bóng tín dụng, nơi đã có một thời gian dài thấp biến động và thiếu tính thanh khoản, nhiều quỹ vĩ mô toàn cầu thấy mình có vấn đề về thanh khoản. | 1 | null |
Trong toán học, chai Klein (hay bình Klein) là một ví dụ cho mặt không định hướng, nói cách khác, đó là một bề mặt (một đa tạp hai chiều), mà trong đó khái niệm về trong và ngoài không thể được xác định một cách nhất quán. Một số khái niệm hình học không định hướng liên quan khác có thể kể tới như mặt Mobius hay mặt phản xạ thực. Đối với dải Mobius, đây là một bề mặt có biên, còn chai Klein thì không có biên
Chai Klein đã được mô tả lần đầu vào năm 1882 bởi nhà toán học người Đức Felix Klein, ban đầu được đặt tên là Kleinsche Fläche ("bề mặt Klein") nhưng tên gọi đó không chính xác lắm so với những giải thích của Kleinsche Fläche ("Chai Klein"), do đó cuối cùng thuật ngữ chai Klein đã được sử dụng trong tiếng Đức.
Cấu tạo.
Chai Klein được cấu thành từ một hình vuông, nếu dán cạnh có màu tương ứng với nhau, theo hình minh hoạ bên dưới.
Nói rõ hơn, chai Klein là không gian thương được mô tả như hình vuông [0,1] × [0,1] với các cạnh bên xác định bởi quan hệ với và với :
Hình vuông này là một đa giác cơ sở của chai Klein.
Lưu ý rằng: chúng ta nói đến việc "dán" ở đây là theo nghĩa trừu tượng để dễ hiểu trong một không gian 3 chiều, và kết quả là ta có thể hình dung được 1 chai Klein tự giao. Tất nhiên chai Klein không giao nhau. Tuy nhiên, có một cách để hình dung chai Klein trong không gian bốn chiều.
Dán các cạnh có mũi tên màu đỏ trên hình vuông vào với nhau, để tạo thành một hình trụ. Tiếp theo, dán hai cạnh còn lại, mỗi cái lại tạo thành một hình trụ. Chú ý, ta sẽ tạo ra một hình tròn tự giao nhau. Đây là một phép nhúng của chai Klein trong không gian ba chiều.
Bằng việc thêm chiều thứ 4 vào không gian 3 chiều, sự tự giao có thể được loại bỏ.
Nhẹ nhàng đẩy một phần của ống có chứa phần giao dọc theo chiều thứ tư, ra khỏi không gian 3 chiều ban đầu. Một trường hợp tương tự có lợi khi xem xét một đường cong tự giao trên mặt phẳng; phần giao có thể được loại bỏ bằng cách nâng một phần ra khỏi mặt phẳng.
Phép nhúng này rất hữu ích cho việc hình dung các tính chất của chai Klein. Ví dụ, chai Klein không biên, bề mặt có chỗ dừng lại đột ngột, và không định hướng, được phản xạ từ một phía của mặt nhúng.
Mô hình vật lý thông thường của một chai Klein là một cấu trúc đồng dạng. Bảo tàng Khoa học ở London có trưng bày một bộ sưu tập thổi thủ công bằng thủy tinh chai Klein, trưng bày nhiều biến thể về chủ đề topo này. Các chai làm bởi Alan Bennett từ năm 1995 thực hiện cho các bảo tàng.
Tính chất.
Cũng như dải Mobius, chai Klein là một đa tạp khả vi trong không gian hai chiều không có định hướng. Nhưng chai Klein là một đa tạp đóng, một đa tạp compact không có biên. Trong khi dải Mobius có thể tồn tại phép nhúng được trong không gian Euclid ba chiều trong R3, chai Klein không thể. Nhưng chai Klein có thể được nhúng vào trong R4
Có thể xem chai Klein như một bó sợi trên vòng tròn "S"1, với sợi "S"1: chọn một hình vuông (modul các cạnh tương đương) từ trên xuống là "E" là tổng các không gian, không gian cơ sở B được cho trong khoảng đơn vị "y", có modul "1~0".
Phép chiếu được cho bởi:
π(["x", "y"])=["y"]
Chai Klein được xây dựng (mang ý nghĩa toán học, vì nó không thể được tạo ra mà không cho bề mặt nó tự giao) bằng cách nối các cạnh của hai dải Mobius với nhau, như được mô tả trong bài thơ năm câu sau đây của nhà toán học Leo Moser:
Cấu tạo ban đầu của chai Klein có được từ việc xác định những cạnh đối diện của hình vuông, điều này chứng tỏ chai Klein là một phức CW với 0-ngăn "P", 2 ngăn đơn "C"1, "C"2 và 1 ngăn đôi "D". Do đó đặc trưng Euler của nó là 1-2+1 = 0. Biên đồng cấu được cho bởi ∂"D" = 2"C"1 và ∂"C"1=∂"C"1=0, tạo ra nhóm thấu xạ của chai Klein "K" là H0("K",Z)=Z, H1("K",Z)=Z×(Z/2Z) và H"n"("K",Z) = 0 for "n">1.
Có một ánh xạ phủ 2-1 từ hình xuyến đến chai Klein, vì hai bản sao đều thuộc miền cơ bản của chai Klein, một cái được đặt kế phản ảnh của cái kia, tạo ra một miền cơ bản của hình xuyến. Phủ hầu khắp của cả hai hình xuyến và chai Klein là mặt phẳng R2.
Miền cơ bản của chai Klein có thể được xác định là nhóm các biến đổi sàn phủ hầu khắp và được biểu diễn là <"a","b" | "ab" = "b"−1"a">.
Sáu màu sắc đủ để tô màu bất kỳ bản đồ trên bề mặt của một chai Klein, đây là ngoại lệ duy nhất để phỏng đoán Heawood, một dạng tổng quát của định lý bốn màu, nhưng sẽ yêu cầu đến bảy màu.
Một chai Klein là đồng phôi với tổng kết nối hai mặt phản xạ. Nó cũng là đồng phôi với một quả cầu cộng với hai mặt mũ chéo.
Khi thực hiện phép nhúng trong không gian Euclide, chai Klein là một chiều. Tuy nhiên, còn có ba không gian topo khác, và trong một số ví dụ không định hướng thì chai Klein có thể được nhúng sao cho nằm trong không gian hai chiều, mặc dù bản chất không gian của nó vẫn không định hướng.
Chai Klein xẻ đôi.
Xẻ một chai Klein làm đôi dọc theo mặt phẳng đối xứng của nó, kết quả ta được hai ảnh đối xứng gương (phản chiếu qua gương) của dải Mobius, tức là một dải được xoắn nửa vòng bên trái, và một dải được xoắn nửa vòng bên phải (một trong hai hình nêu trên là hình bên phía tay phải).
Lưu ý rằng: phần giao của ảnh không thực sự tồn tại tại đó.
Các đường cong đơn đóng.
Các đường cong đơn, đóng, có thể xuất hiện trên bề mặt của chai Klein được chỉ ra khi sử dụng phép thấu xạ đầu tiên các nhóm của chai Klein với hệ số nguyên. Nhóm này đẳng cấu với Z×Z2. Đảo ngược định hướng, các lớp thấu xạ chỉ có chứa các đường cong đơn, kín như sau: (0,0), (1,0), (1,1), (2,0), (0,1). Sự định hướng của một đường cong đơn, đóng và đảo ngược, nếu nó nằm trong một trong hai mặt mũ chéo tạo nên chai Klein, nên nó là lớp thấu xạ (1,0) hoặc (1,1); nếu nó cắt chai Klein thành hai dải Mobius, thì nó là lớp thấu xạ (2,0); nếu nó cắt chai Klein thành một hình vành khuyên (annulus), nó sẽ trở thành lớp thấu xạ (0,1), và nếu nó là một đĩa có biên, thì nó là lớp thấu xạ (0,0).
Tham số hóa.
Phép nhúng "số 8" của chai Klein (bánh Klein) có một phép tham số hóa đặc biệt đơn giản. Đó là hình xuyến "số 8" vòng xoắn Mobius 180 độ được chèn vào:
formula_1
Với 0 ≤ θ < 2π và 0 ≤ v < 2π.
Trong phép nhúng này, vòng tròn tự giao là một vòng tròn hình học trong mặt phẳng Oxy. Bán kính "r" của đường tròn là một hằng số dương. Tham số "θ" xác định góc trong mặt phẳng "xy" và "v" xác định vị trí trên mặt cắt hình số 8. Với các tham số trên mặt cắt ngang là đường cong Lissajous với tỉ lệ 2:1
Trong không gian 4 chiều, mặt phẳng này có thể được biến thành không giao nhau bằng cách thêm vào biến "v" "tăng dần" trên trục thứ 4 ("trục w") tại giao điểm.
Thí dụ:
formula_2
Tham số hóa của phép nhúng 3 chiều của chai Klein phức tạp hơn nhiều. Dưới đây là phần tham số hóa của Robert Israel:
formula_3
Với 0 ≤ "u" < π và 0 ≤ "v" < 2π.
Dạng tổng quát.
Dạng tổng quát các nhánh phức tạp hơn của chai Klein được đề cập đến trong bài viết về đa giác cơ bản.
Một số ý kiến khác cho rằng, cấu trúc đa tạp 3 chiều, mà ta đã biết là một chai Klein rắn đồng phôi với topology tích Descartes Cartesian product: formula_4 của dải Mobius nhân với một khoảng. Chai Klein rắn là một phiên bản không định hướng được của khối xuyến, tương đương với formula_5.
Mặt phẳng Klein.
Mặt phẳng Klein, giống như mặt Riemann, là mặt có tập ánh xạ thoả hàm chuyển đổi (transition function) được sử dụng bằng số phức liên hợp.
Một vật thoả điều kiện đã nêu trên gọi là cấu trúc phi giải thích (dianalytic structure) trong không gian. | 1 | null |
Vườn bách thảo hay Thảo cầm viên là một công viên trồng nhiều loài thực vật khác nhau, được chăm sóc tốt và thường trồng thành từng nhóm theo loại, như xương rồng, rau thơm, thảo dược... Nhờ có nhà kính, vườn bách thảo có thể trồng các loại thực vật từ nhiều quốc gia và vùng khí hậu khác nhau. Vườn bách thảo thường được các đại học quản lý với mục đích làm cơ sở nghiên cứu khoa học.
Lịch sử.
Âu châu.
Ý.
Ở Âu châu, từ năm 1492 đã có vườn bách thảo Arboretum von Trsteno gần Dubrovnik. Các cườn 1544 còn có vườn bách thảo tại Pisa của Luca Ghini, 1545 ở Padua của Johannes Baptista Montanus cũng như ở Firenze (1545) và Bologna (1568).
Đức.
Ở Đức, vườn bách thảo đầu tiên được thành lập ở Leipzig (1580), Jena (1586), Heidelberg (1593), Gießen (1609) và Freiburg (1620), thường thuộc về phân khoa Y học là vườn dược thảo ("Hortus Medicus"). Vườn bách thảo Kiel là vườn bách thảo đầu tiên theo nghĩa hiện nay. Nó được Johann Daniel Major thành lập vào năm 1669 tại Christian-Albrechts-Universität zu Kiel.
Bồ Đào Nha.
Vườn bách thảo đầu tiên ở Bồ Đào Nha được bá tước Grafen von Pombal thuộc Universität Coimbra cho xây vào năm 1772.
Mạng lưới vườn bách thảo.
Hiện thời có khoảng 1.800 vườn bách thảo tại 150 quốc gia (phần lớn tại các vùng có khí hậu ôn hòa). Trng đó có 400 vườn ở Âu châu, 200 ở Bắc Mỹ, 150 ở Nga, và một số càng ngày càng tăng lên ở Đông Á. Mỗi năm chúng thu hút khoảng 150 triệu du khách. Trong quá khứ, các vườn bách thảo trao đổi thực vật qua việc ấn hành danh sách các hạt giống. Đó là một phương tiện để trao đổi không những các thực vật mà cả các thông tin giữa các vườn bách thảo với nhau; cách làm việc này vẫn tiếp diễn tới ngày nay.
Hội Vườn bách thảo Quốc tế (The International Association of Botanic Gardens) được thành lập vào năm 1954. Gần đây, việc điều hợp cũng được hội Bảo tồn Vườn bách thảo Quốc tế (Botanic Gardens Conservation InternationalBGCI) góp phần, hội đặt ra nhiệm vụ huy động các vườn bách thảo bảo đảm được sự đa dạng thực vật làm phúc lợi cho con người và quả đất. BGCI có hơn 700 thành viên phần lớn là các vườn bách thảo tại 118 nước, và ủng hộ mạnh mẽ Chiến lược toàn cầu bảo vệ thực vật (Global Strategy for Plant Conservation) bằng cách phát hành một số các phương sách và các ấn bản, và bằng cách tổ chức các hội thảo quốc tế và các chương trình bảo tồn.
Trong các vùng cũng có sự liên lạc với nhau. Tại Mỹ, có hội các vườn công cộng Mỹ (American Public Gardens Association), và ở Úc châu hội các vườn bách thảo Úc và Tân Tây Lan (BGANZ). | 1 | null |
Giới thiệu Coinvid - Sàn giao dịch tiền điện tử phát triển đột phá
Trang chính thức: [URL]https://coinvidd.co[/URL]
Coinvid là một sàn giao dịch tiền điện tử đột phá và tiềm năng, được thành lập với mục tiêu cung cấp một nền tảng giao dịch chất lượng cao và an toàn cho người dùng. Với đội ngũ chuyên nghiệp và sự hỗ trợ từ các chuyên gia trong lĩnh vực tiền điện tử, Coinvid đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm của cộng đồng giao dịch và đang trở thành một trong những lựa chọn hàng đầu cho nhà đầu tư.
Giới thiệu Coinvid - Sàn giao dịch tiền điện tử phát triển đột phá
Coinvid là một sàn giao dịch tiền điện tử đột phá và tiềm năng, được thành lập với mục tiêu cung cấp một nền tảng giao dịch chất lượng cao và an toàn cho người dùng. Với đội ngũ chuyên nghiệp và sự hỗ trợ từ các chuyên gia trong lĩnh vực tiền điện tử, Coinvid đã nhanh chóng thu hút sự quan tâm của cộng đồng giao dịch và đang trở thành một trong những lựa chọn hàng đầu cho nhà đầu tư.
1. An toàn và bảo mật
Coinvid đặt sự an toàn và bảo mật của người dùng lên hàng đầu. Sàn giao dịch sử dụng công nghệ mã hóa tiên tiến để bảo vệ thông tin cá nhân và giao dịch của người dùng khỏi bất kỳ nguy cơ tấn công hay lừa đảo nào. Điều này giúp tăng cường niềm tin và tin tưởng của cộng đồng giao dịch đối với Coinvid.
2. Đa dạng về cặp giao dịch
Với sự gia tăng không ngừng về số lượng tiền điện tử, việc có một sàn giao dịch hỗ trợ nhiều cặp giao dịch là rất quan trọng. Coinvid cung cấp một loạt các cặp giao dịch phong phú giữa các đồng tiền điện tử hàng đầu, cho phép người dùng dễ dàng tham gia vào các thị trường mới và tiềm năng sinh lời cao.
3. Giao diện người dùng thân thiện
Giao diện người dùng của Coinvid được thiết kế đơn giản, dễ sử dụng và thân thiện với người dùng. Ngay cả những người mới bắt đầu trong lĩnh vực tiền điện tử cũng dễ dàng thao tác trên nền tảng này mà không gặp khó khăn. Điều này giúp tạo ra môi trường giao dịch thoải mái và thuận lợi cho người dùng.
4. Công nghệ giao dịch tiên tiến
Coinvid không ngừng cải tiến và sử dụng các công nghệ giao dịch tiên tiến nhất để cung cấp trải nghiệm giao dịch tốt nhất cho người dùng. Tốc độ giao dịch nhanh chóng, khả năng mở rộng cao và khả năng xử lý đồng thời hàng nghìn giao dịch giúp sàn này đáp ứng nhu cầu giao dịch của người dùng trong mọi thời điểm.
5. Dịch vụ khách hàng xuất sắc
Coinvid cam kết cung cấp dịch vụ khách hàng xuất sắc và chuyên nghiệp. Đội ngũ hỗ trợ của họ luôn sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc và hỗ trợ người dùng trong quá trình sử dụng nền tảng giao dịch. Sự tận tâm và chuyên nghiệp của đội ngũ này đã giúp Coinvid tạo được lòng tin và lòng trung thành từ cộng đồng người dùng.
Kết luận
Coinvid đang là một trong những sàn giao dịch tiền điện tử phát triển nhanh chóng và tiềm năng. Với sự chú trọng đến an toàn, đa dạng về cặp giao dịch, giao diện người dùng thân thiện, công nghệ tiên tiến và dịch vụ khách hàng xuất sắc, Coinvid không chỉ là nơi lý tưởng để giao dịch tiền điện tử mà còn là nền tảng đáng tin cậy cho nhà đầu tư và người dùng trong cộng đồng tiền điện tử. | 1 | null |
Piper pseudoasperifolium là một loài thực vật có hoa trong họ Hồ tiêu. Loài này được C. DC. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1869.
Phân bổ.
Phạm vi sinh sống của loài này là Mexico (Oaxaca, Chiapas). Nó phát triển chủ yếu ở quần xã nhiệt đới ẩm ướt. | 1 | null |
Umberto Eco (; sinh ngày 5 tháng 1 năm 1932 – mất ngày 19 tháng 2 năm 2016) là một triết gia, nhà văn, nhà phê bình và một nhà ký hiệu học người Ý. Tên tuổi ông được biết đến nhờ cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình, "Tên của đóa hồng" (1980). Những cuốn tiểu thuyết khác của ông còn có thể kể đến "Con lắc của Foucault", "Hòn đảo ngày xưa", "Baudolino" (2000), "Ngọn lửa bí ẩn của nữ hoàng Loana" (2004) và "Nghĩa địa Praha" (2010). Ngoài ra, ông còn viết sách cho trẻ em cùng nhiều văn bản học thuật và bài luận khác.
Ông là người sáng lập ra Dipartimento di Comunicazione ở Đại học Cộng hoà San Marino, trưởng khoa "Scuola Superiore di Studi Umanistici", Đại học Bologna, thành viên của Accademia dei Lincei (từ tháng 11 năm 2010) và là thành viên danh dự của Kellogg College, đại học Oxford. | 1 | null |
Jean-Victor Poncelet (1 tháng 7 năm 1788 – 22 tháng 12 năm 1867) là một kỹ sư và nhà toán học người Pháp, nổi tiếng với cương vị hiệu trưởng Trường Bách khoa Paris. Ông được coi là người hồi sinh ngành hình học xạ ảnh. Tác phẩm của ông "Traité des propriétés projectives des figures" ("Xử lý các thuộc tính xạ ảnh của hình") được coi là công trình đáng tin cậy đầu tiên về chủ đề này kể từ công trình của Gérard Desargues từ thế kỷ 17. Sau đó ông đã viết một tác phẩm giới thiệu về nó: "Applications d’analyse et de géométrie" ("Những ứng dụng phân tích và hình học") .
Trong vai trò một nhà toán học, công trình nổi tiếng nhất của ông trong hình học xạ ảnh là công trình về định lý Feuerbach. Ông cũng có những phát kiến về liên hợp điều hòa xạ ảnh; một trong số đó là các cực và đường cực kết hợp với các đường cô-nic. Những phát kiến này đã dẫn tới nguyên lý đối ngẫu và cũng giúp cho sự phát triển của số phức và hình học xạ ảnh .
Trong vai trò một nhà kỹ sư quân đội, ông phục vụ trong chiến dịch của Napoléon tấn công Đế quốc Nga năm 1812. Trong chiến dịch này ông bị bắt làm tù binh và bị giam tới tận năm 1814. Sau đó, ông làm giảng viên cơ học tại trường Cao đẳng Ứng dụng ở quê nhà Metz. Trong thời gian này ông xuất bản tác phẩm "Introduction à la mécanique industrielle" ("Giới thiệu về cơ học công nghiệp") và phát triển các thiết kế về tua bin và bánh xe nước. Sau thời gian này, ông làm giảng viên tại Khoa Khoa học của Đại học Paris. Cuối cùng ông về làm hiệu trưởng của trường Bách khoa Paris, nơi ông đã từng theo học . Ông được tôn vinh khi tên được khắc cùng những nhân vật nổi tiếng khác của Pháp trên tháp Eiffel.
Tiểu sử.
Thời thơ ấu, quá trình học tập và bị cầm tù (1788 – 1814).
Poncelet sinh tại Metz, Pháp vào ngày 1 tháng 7 năm 1788. Ông là con trai ngoài giá thú của Claude Poncelet, một luật sư của Nghị viện Metz và cũng là một địa chủ giàu có . Khi còn ấu thơ, ông phải đến sống cùng với gia đình Olier ở Saint-Avold . Cho đến khi học trung học ông mới trở về Metz . Sau đó, ông theo học tại Trường Bách khoa Paris, một ngôi trường danh giá ở Paris từ 1808 đến 1810. Vì sức khỏe kém nên Poncelet sa sút trong năm học thứ ba . Sau khi tốt nghiệp, ông trở thành một kỹ sư trong quân đội. Trong thời gian này, ông tiếp tục theo học trường Cao đẳng Ứng dụng ở quê nhà và đạt đến bậc trung uý trong Quân đội Pháp vào năm tốt nghiệp .
Poncelet tham gia vào chiến dịch của Napoléon tấn công Đế quốc Nga năm 1812. Nhà viết tiểu sử cho rằng ông thuộc vào nhóm không đi theo Thống chế Michel Ney tại Trận Krasnoi và buộc phải đầu hàng quân Nga. Tuy nhiên một số nguồn khác lại cho rằng ông bị bỏ rơi trên chiến trường . Sau khi bị bắt, ông bị tướng Miloradovich thẩm vấn nhưng không khai thông tin gì . Poncelet trở thành tù binh chiến tranh và bị giam giữ ở Saratov . Trong thời gian tù đày, từ 1812 đến 1814, Poncelet viết tác phẩm nổi tiếng nhất của mình: "Traité des propriétés projectives des figures", phác thảo những khái niệm nền tảng của hình học xạ ảnh, đồng thời đưa ra những kết quả mới trong lĩnh vực này. Tuy nhiên tác phẩm này chưa thể công bố cho tới khi tác giả của nó được thả vào năm 1814 .
Được thả và sự nghiệp thời gian tiếp theo (1822–1848).
Năm 1815, một năm sau khi được tha, Poncelet làm kỹ sư trong quân đội tại quê nhà Metz. Năm 1822, trong khi vẫn làm kỹ sư, ông xuất bản tác phẩm "Traité des propriétés projectives des figures". Đây là công trình chính đầu tiên đề cập đến hình học xạ ảnh kể từ Desargues, mặc dù Gaspard Monge từng có một vài công trình nhỏ trước đó. Đây được coi là tác phẩm nền tảng cho hình học xạ ảnh hiện đại . Joseph Diaz Gergonne cũng viết về nhánh hình học này trong khoảng cùng thời gian, từ năm 1810. Poncelet công bố một vài kết quả về chủ đề này trong tạp chí toán học của Gergonne "Annales de Gergonne" ("Tập san của Gergonne") (tên chính thức là "Annales de mathématiques pures et appliquées", "Tập san toán học thuần túy và ứng dụng") .
Năm 1825, ông làm giảng viên cơ học tại École d'Application ở Metz. Ông làm công việc này đến năm 1835. Trong thời gian tại Metz, ông phát triển các thiết kế về tua bin và bánh xe nước, có nguồn gốc từ những nghiên cứu về cơ học tại một nhà máy xay Provençal tại miền nam nước Pháp . Mặc dù tua bin trong thiết kế của ông đến năm 1838 mới thành hình nhưng ông đã mường tượng ra những thiết kế đó từ mười hai năm trước đó . Năm 1835, ông rời École d'Application và đến năm 1838 trở thành giảng viên tại Faculté des Sciences ở Paris với sự giúp đỡ của François Arago .
Hiệu trưởng Trường Bách khoa Paris (1848 – 1867).
Năm 1848, Poncelet trở thành hiệu trưởng của ngôi trường mình từng được đào tạo: Trường Bách khoa Paris . Ông nắm giữ cương vị này cho đến khi nghỉ hưu năm 1850.
Trong thời gian này, ông viết "Applications d'analyse et de géométrie". Đây được coi là tác phẩm giới thiệu cho công trình trước kia của ông "Traité des propriétés projectives des figures". Nó gồm hai tập, ra mắt vào năm 1862 và 1864 .
Đóng góp.
Định lý Poncelet-Steiner.
Poncelet đề xuất định lý sau vào năm 1822: Các phép dựng hình Euclid bằng thước kẻ và compa có thể thực hiện được chỉ bằng thước kẻ nếu cho trước một đường tròn và tâm của nó. Nhà toán học Thụy Sĩ Jakob Steiner đã chứng minh định lý này năm 1833 và được có tên trong định lý. Phép dựng thỏa điều kiện định lý này được gọi là phép dựng Steiner . | 1 | null |
Vàng(I) oxalat là một hợp chất vô cơ công thức hoá học là Au2C2O4, là muối của axit oxalic. Hợp chất không tan trong nước, trong phân tử vàng(I) oxalat, ion vàng có số oxy hóa là +1.
Tinh chất hóa học.
Vàng có tính khử rất yếu nên dễ bị các kim loại khác đẩy ra khỏi dung dịch muối của nó như kali, calci, nhôm, sắt,… (các phản ứng dưới đây chỉ xảy ra khi đun nóng).
Điều chế.
Vàng(I) oxalat được điều chế bằng cách cho vàng(III) selenat hoặc vàng tác dụng với axit oxalic, tạo thành kết tủa. | 1 | null |
Westminster là một khu vực ở trung tâm Luân Đôn, nằm trong thành phố Westminster, Anh Quốc. Nó nằm trên bờ bắc của sông Thames, phía tây nam của thành phố Luân Đôn và cách Charing Cross 0,5 dặm (0,8 km) về phía tây nam. Tại đây tập trung nhiều địa danh lịch sử tiếng tăm của Luân Đôn, bao gồm cung điện Westminster, cung điện Buckingham, tu viện Westminster và thánh đường Westminster.
Về mặt lịch sử, là một phần của giáo xứ St Margaret ở City and Liberty of Westminster và hạt Middlesex, cái tên "Westminster" là một cách gọi từ xa xưa để chỉ khu vực xung quanh tu viện Westminster, phía tây (west) của nhà thờ Minster. Đây cũng là nơi đặt trụ sở của chính quyền Anh trong gần một ngàn năm tính đến nay. Ở Westminster có cung điện Westminster, di sản thế giới được UNESCO công nhận này cũng chính là nơi hội họp của Quốc hội Anh. Các ga tàu điện ngầm gần Westminster nhất là các ga Westminster, St James Park và Waterloo. | 1 | null |
Cải dầu hay Cải vàng (tên khoa học: Brassica napus) là một loài thực vật có hoa trong họ Cải. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
"Brassica napus" được trồng chủ yếu để thu hạt lấy dầu, đây là nguồn dầu thực vật lớn thứ 3 trên thế giới.
Tùy theo thời tiết, nhưng thường là cải dầu nở hoa vào giữa tháng 5. Những cánh đồng hoa nở vàng tại châu Âu nở vàng vào cuối mùa hè và mùa thu cũng thường bị nhầm lẫn là cánh đồng hoa cải dầu, tuy nhiên lúc đó hầu hết là cải mù tạc cũng thuộc họ cải, mọc ở Trung Âu để dùng làm phân xanh.
Diesel sinh học.
Dầu cải được dùng làm nhiên liệu diesel, hoặc làm Diesel sinh học, dùng trong hệ thống sưởi, hoặc pha với dầu hỏa chưng cất để chạy động cơ mô tô. Diesel sinh học có thể được dùng ở dạng nguyên chất trong các động cơ mới hơn mà không làm hư hỏng và thường kết hợp với dầu diesel hóa thạch với tỉ lệ dao động trong khoảng 2% đến 20% diesel sinh học. Do chi phí trồng, nghiền, và tinh chế diesel từ cải ngày càng cao, diesel sinh học nguồn gốc cải từ một loại dầu mới tốn chi phí nhiều hơn để sản xuất một động cơ dùng nhiên liệu diesel tiêu chuẩn, vì vậy nhiên liệu diesel thường được làm phổ biến từ dầu đã qua sử dụng. Dầu cải được xem là nguồn sản xuất diesel sinh học ưa chuộng khắp châu Âu, chúng chiếm khoảng 80% nguyên liệu, một phần là do hạt cải dầu sản xuất ra dầu nhiều hơn trên một đơn vị diện tích đất so với nguồn dầu khác, chẳng hạn như đậu nành, nhưng chủ yếu là do dầu canola có điểm Gel thấp hơn đáng kể so với hầu hết các loại dầu thực vật khác. Ước tính có khoảng 66% tổng nguồn cung dầu hạt cải trong Liên minh châu Âu dự kiến sẽ được sử dụng để sản xuất dầu diesel sinh học trong năm 2010-2011.
"Brassica napus" hiện được trồng với một hàm lượng phân chứa nitơ cao, và việc sản xuất lượng phân N2O có khả năng sinh ra một lượng khí nhà kính gấp 296 lần khả năng gây ấm lên toàn cầu của CO2. Ước tính có 3-5% nitơ đã dùng làm phân bón cho "Brassica napus" được chuyển thành N2O. | 1 | null |
Brassica rapa là một loài thực vật có hoa trong họ Cải. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Các hạt lấy dầu thường được gọi là canola có thể bao gồm một vài biến thể của "Brassica rapa", nhưng chủ yếu liên quan đến các loài Cải dầu ("Brassica napus") và Cải bẹ xanh ("Brassica juncea"). | 1 | null |
Công đồng Êphêsô là công đồng chung thứ ba của Kitô giáo.
Vào thế kỷ thứ 5 Nestorio, giáo chủ Constantinopolis chủ trương rằng: ""Chúa Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi vị. Đức Maria chỉ là Mẹ ngôi vị nhân tính của Chúa Giêsu, nên không phải là Mẹ Thiên Chúa". Công đồng được hoàng đế Theodosius II triệu tập vào năm 431 để giải quyết cuộc tranh luật.
Cyrillô, giáo chủ thành Alexandria chủ toạ công đồng gồm khoảng 250 Giám mục Đông phương, một Giám mục Tây phương và một phó tế thành Carthage cùng với ba đặc sứ của Giáo hoàng Cêlestinô I. Mặc dù có sự phản kháng của 68 Giám mục ủng hộ lập trường của Nestorio và sự ngăn cản của đại diện hoàng đế, công đồng vẫn khai mạc ngày 22 tháng 6 năm 431.Công đồng xác định Chúa Giêsu có hai bản tính nhưng chỉ có một ngôi vị duy nhất là Thiên Chúa. Mẹ Maria là Mẹ thật của Chúa Giêsu nên mẹ thật là Mẹ Thiên Chúa.
Bối cảnh.
Chính trị.
Thời kỳ này giáo chủ của Alexandria và Constantinopolis thường đối lập nhau.
Giám mục xứ Ai Cập được nhiều người tôn sùng như là: "Giáo hoàng thành Alexandria"". Vốn có uy thế từ lâu và một nguồn tài chính dồi dào, uy thế của giáo chủ Alexandria rất lớn cả hoàng đế cũng phải khiêng nể. Ngoài ra còn có cả một đạo binh lớn gồm các "khổ tu sĩ trên sa mạc" cùng những nhà hộ giáo.
Còn Giám mục Constantinopoli lại thường là những nhà giảng thuyết lừng danh, được chính quyền bao gồm cả hoàng đế kính nể, và dành cho nhiều quyền lợi.
Đứng giữa Constantinopoli và Alexandria là Giám mục thành Antiokia và các Giám mục xứ Syria, Pont và Tiểu Á. Còn Rôma lúc này đang nằm trong đế quốc Tây phương thường không rành các tác phẩm thần học bằng tiếng Hy Lạp của Đông phương. Giám mục ở Rôma cũng có nhiều liên hệ với Alexandria hơn là với Constantinopoli, trong khi nhiều Giám mục ở Constantinopoli muốn xóa bỏ quyền thừa kế thiêng liêng của "Roma đệ nhất".
Thần học.
Sau khi những tranh luận về Chúa Ba Ngôi kết thúc ở Công đồng Constantinopolis I. Các tranh luận lại nổ ra xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể, việc kết hợp giữa thiên tính Ngôi Lời và con người Đức Giêsu. Ngôi Lời vĩnh cửu còn Đức Giêsu được sinh ra, chịu chết.
Do đó nổi lên hai khuynh hướng thần học. Tại Alexandria: người ta khởi từ Ngôi Lời, nhấn mạnh sự duy nhất nơi Đức Kitô. Đức Kitô là Ngôi Lời mang xác phàm, đó là điều kiện để con người được thần hóa (lược đồ Ngôi Lời - Xác). Tại Antiokia: người ta nhấn mạnh về hai phương diện nơi Đức Kitô, khởi từ hai bản tính để đi đến thống nhất. Họ cố bảo vệ trọn vẹn nhân tính Đức Giêsu (lược đồ Ngôi Lời - Người).
Hai quan điểm trên đưa đến cuộc tranh luận giữa Cyrillo Giám mục Alexandria và Nestorio Giám mục của Constantinopoli. Nestorio chủ trương Chúa Kitô (s. bởi bà Maria) chỉ là một người được phúc tiền định mặc Thiên tính trở nên "Đền thờ" của Ngôi Lời (2 ngôi vị). Khoảng năm 424, Nestorio cấm các tín hữu khẩn cầu Đức Maria như Théotokos, nghĩa là Mẹ Thiên Chúa. Theo ông, Kinh Thánh không có hạn từ này và Đức Maria chỉ là Mẹ của nhân vật Giêsu.
Ngược lại, Cyrillo muốn bảo vệ sự duy nhất nơi Đức Kitô. Ông bênh vực Đức Kitô gần như chỉ có một bản tính. Cyrillo liên lạc với Giáo hoàng Cêlestinô I kết án Nestorio. Ông yêu cầu Nestorio ký vào bản văn xác định nơi Đức Giêsu, Ngôi Lời và Con người kết hợp thành một. Còn Nestorio liền nhờ bạn hữu ở Antiokia là các Giám mục Gioan và Theodoret tố cáo Cyrillo theo lạc thuyết Appolinarius.
Công đồng.
Triệu tập và chủ tọa.
Hoàng đế Theodosius II triệu tập Công đồng để giải quyết cuộc tranh luận. Thời gian và địa điểm được ấn định vào tháng 6 năm 431 tại Êphêsô. Ông yêu cầu các tỉnh đều cử đại biểu. Thánh Augustino cũng được mời, nhưng qua đời trước khi đến công đồng.
Ngay sau Lễ phục sinh, Nestorio đã đến địa điểm họp cùng với đông đảo dân chúng, tại đây ông gặp gỡ nhiều Giám mục khác để tranh thủ sự ủng hộ. Còn Cyrillo thì đến khoảng Lễ hiện xuống (40 ngày say) mới đến. Juvénal, Giám mục Giêrusalem đến sau Lễ Hiện xuống năm ngày. Giám mục Antiokia là Gioan cố tình trì hoãn chuyến đi.
Cyrillo được Giám mục Rôma ủy quyền chủ tọa công đồng, cùng với 50 Giám mục vùng Ai Cập, 110 vị ở Palestina và Tiểu Á, đã quyết định khai mạc công đồng khi các Giám mục vùng Antiokia và Syria chưa kịp đến, mặc cho đại diện của hoàng đế và 60 Giám mục còn lại yêu cầu hoãn cuộc họp.
Nội dung.
Mở đầu cuộc tranh luận, Cyrillo dùng lời lẽ mạnh mẽ để làm rối trí đối thủ Nestorio. Nestorio nói với Cyrillo: "Tôi không thể gọi con người đã từng là đứa trẻ hai ba tháng là Thiên Chúa, vì vậy tôi vô tội về máu của ngài, từ nay tôi không họp chung với ngài nữa".
Công đồng chia làm hai phe. Nestorio họp riêng với các Giám mục theo khuynh hướng của ông.
Các Giám mục còn lại tiếp tục họp công đồng với Cyrillo và đòi Nestorio phải ra tòa xét xử. Nestorio trì hoãn không đến. Cyrillo và các vị khác xem xét các bài giảng của Nestorio và đưa ra phán quyết là chúng có nội dung nghịch đạo và chống báng Chúa Kitô. Ngay lập tức nhóm của Cyrillo tuyên bố cách chức Nestorio vắng mặt, cùng 12 mệnh đề bị kết án: "Vì Chúa Giêsu Kitô bị Nestôriô xỉ nhục, Thánh Công Đồng này đã tuyên bố Nestôriô bị loại trừ khỏi chức phẩm Giám mục và khỏi mọi hiệp thông linh mục" .
Đồng thời các nghị phụ công nhận từ ngữ Theotokos (Mẹ Thiên Chúa) là chính đáng: "Nếu ai không tuyên xưng Emmanuel là Thiên Chúa thật, và do đó Rất Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ sinh ra xác phàm của Ngôi Lời nhập thể, thì mắc vạ tuyệt thông". Công Đồng lên án những ai muốn tách rời, phân chia Đức Kitô, chỉ coi con người của Ngài mới sinh ra, mới chịu chết cho chúng ta, còn chính Ngài là Con Thiên Chúa thì không. Như vậy, chỉ có một Thiên Chúa và một con người kề sát nhau, chứ không phải là một Đấng duy nhất là Chúa Giêsu Kitô, Con của Đức Mẹ.
Quyết định của công đồng được đưa ra nhanh đến độ các đại diện của Roma không kịp tới, tuy các vị này đến sau đã chấp nhận việc làm của công đồng. Riêng các nghị phụ xứ Syria khi tới nơi đã phản đối việc cách chức Nestorius, phủ nhận lối trình bày của Cyrillô, cho rằng có những từ ngữ quá đáng hoặc không chỉnh.
Ngược lại các Giám mục thuộc phe Nestorio trong phiên họp riêng cũng tuyên bố kết án Cyrillo và Giám mục Êpheso là Memmon. Khi đó Giám mục Gioan thành Antiokia mới đến dự công đồng. Ông trách Cyrillo đã gây nên xáo trộn vì hấp tấp và tuyên bố cách chức Cyrillo. Đối lại, Cyrillo và Giám mục Juvénal cũng tuyên bố cách chức Gioan.
Cuộc hỗn độn khiến cho người ta không rõ ai trong các Giám mục ai không bị kết án nữa. Đại diện của hoàng đế liền ra lệnh bắt cả hai, Cyrillo trốn kịp, được dân Alexandria tiếp đón. Còn Nestorio bị lưu đày và qua đời tại Lybia.
Tác động.
Công đồng Êphêsô bênh vực Đức Kitô duy nhất. Không còn ai tranh cãi về "Mẹ Thiên Chúa". Dân chúng biểu lộ niềm hân hoan và chúc mừng Công đồng bằng cuộc rước đuốc vĩ đại đêm 22 tháng 6 tung hô Mẹ Thiên Chúa. Kinh: "Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội" đã được soạn ra trong dịp này. Tước hiệu Mẹ Thiên Chúa đã đặt nền tảng cho việc tôn sùng Đức Maria ở cả Đông và Tây phương.
Tuy vậy, các Giám mục Tiểu Á không chấp nhận lối trình bày của Cyrillo và cho rằng nhiều từ ngữ chưa chỉnh. Năm 433, do tác động của Giám mục Gioan thành Antiokia, một công thức mới được đưa ra: "Có sự hợp nhất của hai bản tính (...) và vì sự hợp nhất này, chúng tôi tuyên xưng Đức Nữ Trinh là Mẹ Thiên Chúa". Công thức này sau đó được Cyrillo chấp nhận và Giáo hoàng Xíttô II phê chuẩn. | 1 | null |
Công Đồng Calcêđônia đã đưa ra một định nghĩa quan trọng có tính cách quyết định cho việc trình bày đức tin về tín điều Nhập thể của Chúa Giêsu. Công đồng khẳng định Đức Giêsu Kitô có hai bản tính, nhân tính và thiên tính, hai bản tính này kết hiệp trong cùng một chủ thể có ngôi vị là Thiên Chúa Ngôi Lời. Về thần tính, Ngôi Lời Chúa Con được Chúa Cha sinh ra từ thuở đời đời; còn về nhân tính và trong thời gian, ngài được thụ thai và sinh hạ bởi Maria.
Bối cảnh.
Nhiều Giám mục không đồng ý với tuyên tín của Công đồng Êphêsô về thiên tính và nhân tính của Chúa Giêsu. Do đó, năm 433, Giám mục Gioan thành Antiokia đưa ra một công thức mới được đưa ra: "Có sự hợp nhất của hai bản tính (...)". Công thức này sau đó được Cyrillo chấp nhận và Giáo hoàng Xíttô II phê chuẩn.
Thế nhưng vẫn có một số người không tán thành. Theodoret miền Syria luôn bảo vệ hai bản tính của Đức Kitô, không nói gì đến việc "kết hợp mà không lẫn lộn". Còn viện phụ Eutykes ở Constantinople, cho rằng thiên tính bao trùm nhân tính đến độ chỉ còn thiên tính, đây gọi là Nhất tính thuyết ("Monophysitism"). Ban đầu đây chỉ là một cao trào nhằm tiêu diệt mọi vết tích của Nestorius, bằng việc cách chức nhiều Giám mục xứ Syria có cảm tình với người đã bị Công đồng Êphêsô lên án.
Tuy nhiên Giám mục Constantinopolis là Flavianô liền tổ chức một công đồng kết án Eutykes. Tuyên bố phạt vạ tuyệt thông ông này. Vạ này đến sau được Giáo hoàng Lêô I y nhận, khiến vấn đề trở thành lớn.
Hội nghị ở Êphêsô.
Hoàng đế Theodose II bạn của Eutykes liền mời tất cả những Giám mục ủng hộ ông này về dự một hội nghị được tổ chức ở Êphêsô. Hội nghị được đặt dưới quyền chủ tọa của Giám mục Alexandria là Dioscorus, ông này cũng ủng hộ quan điểm của Eutykes.
Giáo hoàng Lêô I có cử ba đại diện và gửi thư tỏ lập trường, nhưng Dioscorus không cho đọc lá thư đó. Ông còn yêu cầu Giám mục Eusebius thành Dorylea (Phrygia) người tố cáo Eutykes, phải ra khỏi công đồng, viện lẽ nguyên cáo không được ngồi tòa xét xử. Giành được ưu thế nên Eutykes được tự do bào chữa và chỉ phải ký nhận Kinh Tin Kính Nicea sau đó ông được tha vạ. Ngược lại, Giám mục nào nói Đức Kitô hai bản tính thì đều bị truất chức.
Ngay sau đó, quân lính của triều đình được mời đến để "đánh chết những kẻ phân biệt hai bản tính". Flavianô bị đánh trọng thương rồi chết. Giám mục Theodoret báo tin cho Rôma, giáo hoàng Lêô liền lên tiếng phản bác hội nghị Êphêsô. Các sử giả công giáo thường gọi hội nghị này là "mẻ cướp Êphêsô". Mặc dù bị phản bác nhưng học thuyết Eutykes vẫn được công khai tuyên truyền cho đến hoàng đế Theodose II qua đời.
Công đồng.
Sau khi lên ngôi, tân hoàng đế Marcianus lại ủng hộ lập trường của Rôma. Marcianus quyết định triệu tập một công đồng ở Calcedonia và yêu cầu giáo hoàng đến chủ tọa nhưng Lêô I không thể đi được vì lúc này người Hung Nô đã xâm lăng đất Ý. Nhưng ông cử các đặc sứ gồm 3 Giám mục và 2 linh mục đến chủ tọa công đồng.
Nội dung.
Giám mục Dioscorus đến tham dự công đồng và đề nghị kết án Giám mục Rôma. Nhưng ông bị tố cáo về tội lộng hành và bị công đồng tuyên bố cách chức và lưu đày. Chức vụ của Flavianô được phục hồi. Những người tham gia vào "mẻ cướp Êphêsô" đều bị áp dụng kỷ luật.
Về Giáo lý, Bản tuyên tín Nicea-Constantinopoli và thư của giáo hoàng Lêô được đem ra đọc. Các nghị phụ đã đồng thanh tung hô: "Đây là đức tin các Giáo phụ, đức tin các Tông đồ. Tất cả chúng tôi đều tin như vậy... Phêrô đã nói qua miệng Lêô".
Công đồng tuyên bố:
Về tổ chức giáo hội, công đồng công nhận khoản luật của Công đồng Constantinopolis về các đặc ân dành cho Giáo hội rất thánh ở Constantinople là Rôma mới. Bởi thành phố này có sự hiện của hoàng đế, của thượng viện, và thừa hưởng cùng những đặc quyền như cố đô Rôma; Do đó, thành phố này đóng vai trò quan trọng trong các việc của Giáo hội, chỉ sau Rôma...
Hậu công đồng.
Nhiều Giám mục Hy Lạp, Syria, Palestin, Ai Cập không chịu ký nhận công thức do Công đồng Calcedonia. Các Giám mục này cho rằng: nếu chấp nhận công thức của Calcedonia; tức là đi ngược với Công đồng Êphêsô, và nhượng bộ Nestorius; nhất là không thể dung hòa được với giáo lý của Cyrillô.
Giáo chủ thành Alexandria là Timotheus Aelurius, người kế vị Dioscorus đã công khai chống đối công đồng. Cuộc chống đối này kéo dài gần nửa thế kỷ với các giáo chủ nối tiếp. Các đan sĩ, những người có nhiều ảnh hưởng trong quần chúng, kéo nhau theo bè Nhất tính thuyết, làm Giám mục Acacius thành Constantinopoli nghiêng theo.
Năm 484, hoàng đế Zenon ban hành chiếu chỉ Henotikos nhằm dung hòa hai bên, bằng một công thức "trung lập" làm ngơ đi tuyên tín của Calcedonia. Tuy nhiên công thức này đã bị Giáo hoàng Fêlix III phản đối và chính thức lên án. | 1 | null |
Lá gấm hay tấm lưới bạc (tiếng Đức) thuộc họ Tai voi (Gesneriaceae), tên khoa học là Chrysothemis pulchella, có nguồn gốc từ rừng mưa nhiệt đới ở Nam Mỹ, chủ yếu là Peru, Colombia, Ecuador và miền Bắc Brasil. Ở Việt Nam chúng phân bố trong miền Nam.
Mô tả.
Cây thân thảo, bụi và lâu năm, cao khoảng 20 cm, ưa bóng râm. Có rễ ngắn, bò trên mặc đất; thân có thể phát triển thành dây; dễ trồng, ít sâu bệnh. Lá đơn, dạng trái xoan, gốc hình tim, đầu tù, mọc đối chữ thập, phiến màu xanh đậm, dày bóng, nổi bật các gân màu trắng, đỏ, tím hoặc hồng; trên lá có lông tơ. Hoa mọc ra từ nách lá với lá đài lớn. Hoa nhỏ màu trắng, trắng ngà hoặc xanh, mọc thành cụm, nhưng không có hương. Cây con mọc lên từ rễ cây cũ. Thường cây vừa lớn vừa cho ra cây mới, nên tập trung thành bụi. Có thể chịu được điều kiện khắc nghiệt (đất bạc màu, khô hạn) nhưng chỉ trong một thời gian ngắn (khoảng 1 tháng) (cần được kiểm chứng hơn). | 1 | null |
Công đồng Constantinople II do Hoàng đế Justinianus I triệu tập vào năm 553 dưới triều Giáo hoàng Vigilius. Có khoảng 150 giám mục Đông Phương, 8 giám mục Phi Châu tham dự 8 khóa họp từ 5 tháng 5 đến 2 tháng 6. Công đồng lên án "Ba chương" trích từ tác phẩm của các giáo phụ bị cho là theo thuyết Nestorius: T. de Mopsuestus Theodoretus và Ibas.
Nội dung của Công Đồng: | 1 | null |
Công đồng Constantinopolis III diễn ra vào năm 680-681. Hoàng đế Constantinus IV triệu tập, dưới triều các Giáo hoàng Agatho và Leoô II. Khoảng 165 Giám mục Đông Phương, 6 Giám mục Tây Phương và 3 sứ thần tham dự. Công đồng họp 16 khóa từ 7 tháng 11 năm 680 đến 1 tháng 9 năm 681. Công đồng lên án Nhất chí thuyết (cũng dịch là Nhất ý thuyết) và dạy rằng Đức Kitô có hai ý chí: ý chí con người và ý chí Thiên Chúa.
Bản văn định tín của Công Đồng có thể chia làm 5 phần:
Phần V là lời căn dặn, răn đe không được phép dạy một giáo lý nào khác. | 1 | null |
Công đồng Nixêa II là một công đồng đại kết do Nữ hoàng Irene triệu tập vào năm 787 dưới triều Giáo hoàng Ađrianô I. Có khoảng 300 Giám mục Đông Phương, 2 đặc sứ tham dự 8 khóa họp từ 24-9 đến 23-10. Công đồng lên án hành vi phá hủy ảnh thánh, xác định có thể tôn kính ảnh thánh mà không bị coi là ngẫu tượng. Công đồng này được công nhận là Công đồng Đại kết thứ 7 bởi Chính thống giáo Đông phương, Công giáo Rôma và Công giáo Cổ.
Ađrianô đã viết cho nữ hoàng Irene như sau: ""Mọi ảnh tượng được tạc họa nhân danh Chúa hoặc thiên thần hoặc tiên tri hoặc tử đạo hoặc người công chính đều là thánh thiêng cả, bởi lẽ người ta không kính thờ gỗ đá, nhưng thờ kính Đấng được họa lại trên gỗ đá" " (Mansi: Concil.XII, 1069).
Công đồng công bố sự gắn bó của mình với giáo lý về sự tôn kính ảnh tượng. Công đồng này phân biệt giữa sự sùng kính ảnh tượng thánh và sự thờ phượng, chỉ dành cho một mình Thiên Chúa. Giáo hội Công giáo Rôma luôn luôn đồng ý với điều này, và thường dùng các hình ảnh, tranh vẽ, kính màu, tượng điêu khắc để dạy bảo và nhắc nhở giáo dân về các chân lý đức tin. | 1 | null |
Công đồng constantinople IV là công đồng thứ 8 của Công giáo nhóm họp năm 870, do Hoàng đế Basilius I triệu tập, dưới triều Giáo hoàng Adrianus II. Có khoảng 120 giám mục Đông Phương và 3 đặc sứ tham dự 6 khóa họp từ 5 tháng 10 năm 869 đến 8 tháng 2 năm 870. Công đồng lên án phái Phá Hủy Ảnh Thánh và truất quyền Thượng phụ Giáo chủ Photius, Nhưng Giáo hội ly khai Đông Phương chỉ công nhận Công đồng năm 880 đồng thời hủy bỏ hết Công đồng năm 870. | 1 | null |
Công đồng Lateran I (Lateranus I) diễn ra vào năm 1123 do Giáo hoàng Callixtus II triệu tập. Có khoảng 300 Giám mục và 700 đại biểu khác tham dự các khóa họp từ 8 tháng 3 đến 6 sáu 4. Công đồng phê chuẩn thỏa ước Worms và một số điều canh tân Giáo hội.
Thỏa ước Worms được thực hiện theo gợi ý của Giám mục Yves de Chartres, Thỏa ước phân biệt quyền của hai phía. Nhẫn và gậy Giám mục - biểu tượng chức thánh sẽ do giáo quyền, còn quyền hành thế tục do hoàng đế trao tượng trưng bằng vương trượng. Về khía cạnh sau Giám mục phải tuân phục hoàng đế.
Theo thỏa ước này, các Giám mục và tu viện trưởng được tuyển chọn theo luật của Giáo hội, với quyền bổ nhiệm của nhà cầm quyền dân sự nếu muốn, và trong nghi thức tấn phong Giáo hội sẽ ban cho họ nhẫn và gậy Giám mục. Như vậy, Giáo hoàng, tu viện trưởng, và các Giám mục bị kẹt giữa hai thế giới, thế giới quyền lực chính trị và thế giới lãnh đạo tinh thần.
Công đồng Lateran I cũng đề cập đến luật độc thân tu sĩ: "Chúng tôi tuyệt đối cấm linh mục, phó tế, phụ phó tế không được liên hệ với phụ nữ, hay sống với họ như điều khoản 3 công đồng Nicea công bố, với lý do cần thiết được phép, những người đó là mẹ, chị em, hay cô dì, hay bất cứ một người nữ nào mà không gây nghi ngờ" (Điều 3). "Nếu có linh mục hay phó tế... nào vi phạm luật này mà lập gia đình, công đồng công bố là hôn nhân đó cần phải được giải, và người đó phải bị lên án và chịu kỷ luật" (điều 21). | 1 | null |
Chi Nong tằm (danh pháp khoa học: Victoria) là một chi trong họ Súng, gồm các loài có lá màu lục rất lớn, bề mặt lá bằng phẳng nằm trên mặt nước. Súng nia ("Victoria amazonica") có lá với đường kính lên đến 3 m, cọng dài 7–8 m. Chi này được đặt theo tên nữ vương Victoria của Anh.
Các loài.
"Victoria amazonica" là loài bản địa của vùng nước nông thuộc bồn trũng sông Amazon như các hồ móng ngựa.
Loài khác, "Victoria cruziana", trong lưu vực sông Paraná-Paraguay, có kích thước nhỏ hơn một chút, mặt dưới của lá có màu tía thay vì màu đỏ của "V. amazonica". | 1 | null |
Tổ chức IFEX, chữ viết tắt của International Freedom of Expression Exchange network, là một mạng lưới toàn cầu của 119 tổ chức độc lập phi chính phủ
làm việc ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế để bảo vệ và khuyến khích Tự do ngôn luận như là một quyền căn bản của con người.
Lịch sử.
IFEX được thành lập vào năm 1992 tại Montréal, Canada, bởi một nhóm các tổ chức để đối đáp với những vi phạm về quyền tự do ngôn luận trên khắp thế giới.
Hoạt động.
Công việc thường ngày của tổ chức được thực hiện bởi nhân viên IFEX tại Toronto, Canada, và được quản lý bởi thành viên IFEX hội ký giả Canada tranh đấu cho quyền tự do ngôn luận (Canadian Journalists for Free Expression).
Nhiệm vụ của IFEX là chia sẻ các thông tin và động viên các hành động về các vấn đề như tự do báo chí, kiểm duyệt Internet, quyền được truy cập các thông tin của các cơ quan chính quyền, luật lệ và các xâm phạm quyền tự do ngôn luận.
Hoạt động của IFEX liên quan đến Việt Nam.
Tháng 3 năm 2013 IFEX đã vinh danh 7 phụ nữ của nhiều quốc gia trong đó có Blogger Nguyễn Hoàng Vi của Việt Nam vì đã có những nỗ lực tranh đấu cho quyền tự do phát biểu.
Trả lời IFEX, Nguyễn Hoàng Vi phát biểu:
"Chúng tôi không cho phép nỗi sợ hãi làm tê liệt bản thân mình. Trong tận cùng tâm thức, chúng tôi nhận ra rằng nên tha thứ tất cả những gì họ đã làm trên thân xác của chúng tôi. Tuy nhiên tha thứ không có nghĩa là chấp nhận.
Chúng tôi phải cho họ biết rằng những gì chúng tôi làm không dựa trên hận thù của cá nhân đối với kẻ gây ra; chúng tôi hành động chỉ để bảo vệ những quyền căn bản của chúng tôi, những quyền mà họ đang có cũng như tất cả chúng tôi phải có."
Tháng 1 năm 2018, IFEX đã vinh danh nữ ca sĩ Mai Khôi trong "Top 10 hoạt động phản kháng nghệ thuật" . Danh sách này bao gồm những nghệ sĩ từ khắp nơi trên thế giới có những hoạt động nghệ thuật bị nhà cầm quyền đàn áp và bản thân họ cũng bị đe dọa, hành hung, truy tố hay thậm chí còn bị đưa vào tù.
Trả lời phỏng vấn của Tổ chức Freemuse, Khôi chia sẻ: "Tôi không có bị chính thức cấm hát, nhưng không ai cho tôi hát vì họ sợ bị gặp rắc rối [...] Giống như là họ không giết tôi, nhưng cũng chẳng để tôi sống." | 1 | null |
Trận Dorylaeum là trận đánh trong cuộc Thập tự chinh thứ nhất diễn ra vào ngày 1 tháng 7 năm 1097, giữa Thập tự quân và người Thổ Seljuk, trận đánh diễn ra ở gần thành phố Dorylaeum ở Anatolia.
Bối cảnh.
Quân viễn chinh rời Nicaea vào ngày 26 tháng 6 với một mối ngờ vực sâu sắc về người Byzantine, những người đã chiếm được thành phố Nicaea mà không thông báo với họ sau một cuộc bao vây dài. Để đơn giản hóa vấn đề vấn đề về vật tư, các đội quân Thập tự chinh đã chia thành hai nhóm, nhóm yếu hơn do Bohemund của Taranto, Tancred-, cháu trai của ông, Robert Curthose, Robert của Flanders, và Taticius, tướng của Byzantine trong đội tiên phong, và Godfrey của Bouillon, Baldwin của Boulogne, anh trai của ông, Raymond IV của Toulouse, Stephen, và Hugh của Vermandois ở phía sau.
Ngày 29 tháng 6, họ biết được rằng người Thổ Nhĩ Kỳ đã lên kế hoạch cho một cuộc phục kích ở gần Dorylaeum (Bohemund nhận thấy quân đội của mình bị đeo bám bởi trinh sát Thổ Nhĩ Kỳ). Lực lượng Thổ Nhĩ Kỳ bao gồm Kilij Arslan I và đồng minh của ông Hasan của Cappadocia, cùng với sự trợ giúp từ Danishmendids, dẫn đầu là hoàng tử Thổ Nhĩ Kỳ Ghazi ibn Danishmend, người Ba Tư và người Albania Kavkaz, con số khoảng 150.000 người theo Raymond của Aguilers (Fulcher của Chartres cho rằng con số này bị phóng đại quá đáng, thực tế chỉ khoảng 36.0000 người). Theo số liệu hiện đại thì con số này ở khoảng 25,000-30,000 người (thậm chí 6,000-8,000 người theo một số ước tính gần đây).
Ngoài một số lượng lớn không tham chiến, lực lượng của Bohemund có thể có khoảng 10.000 người, đa số là bộ binh. Và dường như có vẻ hợp lý rằng Bohemund có khoảng 8.000 lính bộ binh và 2.000 kỵ binh.
Vào tối ngày 30 tháng 6, sau một cuộc hành quân ba ngày, đội quân của Bohemund hạ trại trên một đồng cỏ ở bờ phía bắc của sông Thymbres, gần thị trấn Dorylaeum đổ nát (Nhiều học giả tin rằng đây là địa điểm của thành phố Eskişehir hiện đại).
Trận đánh.
Ngày 01 tháng 7, lực lượng của Bohemund bị bao quanh bị bởi quân đội của Kilij Arslan ở bên ngoài Dorylaeum. Godfrey và Raymond đã tách ra khỏi đội tiên phong tại Leuce, và quân Thổ Nhĩ Kỳ tấn công vào đội quân của Bohemund vào lúc bình minh một cách hoàn toàn bất ngờ, và bắn tên như mưa vào trại của Thập tự quân. Các hiệp sĩ của Bohemund đã nhanh chóng lên ngựa nhưng các cuộc phản công lẻ tẻ của họ đã không thể ngăn chặn được người Thổ. Người Thổ Nhĩ Kỳ phi ngựa vào trại, và chia cắt những người không có khả năng chiến trận, những lính bộ binh không có áo giáp, những người đã không thể chạy nhanh hơn những con ngựa Thổ Nhĩ Kỳ và đã quá bị mất phương hướng hoặc quá hoảng sợ để tạo thành đội hình chiến đấu. Để bảo vệ lính bộ binh không có áo giáp và những người không tham chiến, Bohemund ra lệnh cho các hiệp sĩ của mình và hình thành một tuyến phòng thủ và tập hợp lính bộ binh cùng với những người không tham chiến vào trung tâm của trại, những phụ nữ đóng vai trò như người chở nước trong suốt cuộc chiến. Lúc này Thập tự quân đã tạo được một đội hình chiến đấu và che chở được cho nhiều lính bộ binh và những người không thể chiến đấu hơn, nhưng nó cũng làm cho người Thổ Nhĩ Kỳ có thể cơ động dễ dàng trên chiến trường. Các cung kỵ Thổ Nhĩ Kỳ tấn công theo kiểu quen thuộc của họ – lao vào tấn công, bắn các mũi tên của họ và nhanh chóng rút lui trước khi quân viễn chinh có thể phản công. Các cung thủ gây được rất ít thiệt hại đến các hiệp sĩ được thiết giáp hạng nặng, nhưng họ đã gây ra tổn thất nặng nề cho ngựa và lính bộ binh không có áo giáp. Bohemund đã phải gửi sứ giả đến các đội quân Thập tự chinh khác và lúc này cố gắng chiến đấu để cầm cự cho đến lúc quân tiếp viện đến nơi và đội quân của ông đã bị buộc phải quay trở lại bờ của con sông Thymbris. Đầm lầy ở bờ sông bảo vệ quân Thập tự chinh khỏi bị quân cung kỵ tấn công vì mặt đất quá mềm để phi ngựa và các hiệp sĩ thiết giáp hình thành một vòng tròn để bảo vệ bộ binh và những người phục vụ chiến đấu khỏi bị trúng tên, nhưng người Thổ Nhĩ Kỳ tiếp tục cho các cung thủ của họ tiến lên, theo tài liệu chép lại có đến 2.000 cung kỵ đã xuống ngựa. Các hiệp sĩ của Bohemund đã nổi khùng, mặc dù có lệnh là phải giữ bình tĩnh, một số nhóm nhỏ các hiệp sĩ muốn bất ngờ phá vỡ hàng ngũ và tấn công, nhưng họ đã bị tàn sát hoặc bị buộc phải quay trở lại vì kỵ binh Thổ Nhĩ Kỳ đã quay trở lại vượt quá phạm vi hiệu lực của kiếm và tên của họ, trong khi chúng vẫn bắn vào họ những cơn mưa tên và giết chết rất nhiều ngựa của các hiệp sĩ. Và mặc dù áo giáp bảo vệ của các hiệp sĩ rất tốt một cơn mưa mũi tên bắn vào họ có nghĩa là một số sẽ trúng vào những điểm không được bảo vệ và cuối cùng, sau khi bị bắn trúng quá nhiều một hiệp sĩ sẽ gục ngã vì những vết thương của mình.
Ngay sau giữa trưa, Godfrey đã đến nơi với một lực lượng khoảng 50 hiệp sĩ, họ đã xông qua đội hình của người Thổ Nhĩ Kỳ để tăng viện cho Bohemund. Qua ngày các nhóm nhỏ quân tiếp viện đến nơi (cũng từ Raymond, Hugh và Godfrey), một số bị giết bởi người Thổ Nhĩ Kỳ, những người khác cố chiến đấu để đến được trại của Bohemund. Vì Thập tự quân đã bị mất hết ngựa, người Thổ Nhĩ Kỳ đã trở nên hung dữ và quân Thập tự chinh bị buộc phải lui từ bờ sông có đầm lầy vào các vùng nước nông. Tuy nhiên, Thập tự quân vẫn còn giữ được tổ chức và sau khoảng 7 giờ hỗn chiến, các hiệp sĩ của Raymond đã đến, họ phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào cạnh sườn của quân Thổ Nhĩ Kỳ và làm cho người Thổ trở nên lộn xộn và cho phép quân Thập tự chinh tập hợp lại. Thập tự quân đã hình thành đội hình một dòng trận chiến với Bohemund, Tancred, Robert của Normandy và Stephen ở cánh trái, Raymond, Robert của Flanders ở trung tâm và Godfrey, Robert của Flanders và Hugh bên phải và họ cùng tiến lên để tấn công người Thổ Nhĩ Kỳ vừa hô to "hodie omnes divites si Deo placet effecti eritis" ("Ngày hôm nay Thiên Chúa rất hài lòng nếu tất cả các bạn sẽ trở nên giàu có"). Mặc dù sự tàn khốc của cuộc tấn công của Norman vào người Thổ Nhĩ Kỳ diễn ra một cách bất ngờ, họ đã không thể đánh gục người Thổ ngay lập tức, phải cho đến khi một lực lượng được chỉ huy bởi Đức Giám mục Adhemar của Le Puy-người thừa kế của giáo hoàng, đến nơi vào giữa buổi chiều, có lẽ cùng với Raymond trong đoàn tùy tùng, họ bí mật di chuyển xung quanh trận chiến qua ngọn đồi và vượt qua con sông, rồi tấn công ngang sườn vào các cung thủ ở bên trái và tấn công bất ngờ từ phía sau người Thổ Nhĩ Kỳ. Lực lượng của Adhemar đổ vào trại của người Thổ Nhĩ Kỳ và tấn công họ từ phía sau. Tất cả người Thổ Nhĩ Kỳ đều khiếp sợ khi nhìn thấy trại của họ bốc cháy và bởi sự tàn khốc và độ bền của các hiệp sĩ, vì áo giáp của các hiệp sĩ bảo vệ họ khỏi các mũi tên và che chắn cho họ khỏi bị thương từ ngay cả những nhát đâm, chém của gươm giáo và họ nhanh chóng bỏ chạy, bỏ lại trại của họ ở phía sau và buộc Kilij Arslan, vua Thổ phải rút lui khỏi chiến trường.
Hậu quả.
Quân viễn chinh đã thực sự trở nên giàu có, ít nhất là trong một thời gian ngắn, sau khi thu giữ được kho bạc của Kilij Arslan. Người Thổ bỏ trốn và Arslan quay sang mối quan tâm khác về các lãnh thổ phía đông của mình và quân viễn chinh có thể hành quân mà hầu như không bị kháng cự qua Anatolia để đến Antioch. Phải mất gần ba tháng để họ vượt qua Anatolia trong sự nắng nóng của mùa hè và vào tháng 10 họ bắt đầu cuộc bao vây thành phố Antiochia. | 1 | null |
Trường Trung học phổ thông Trần Hưng Đạo là một trường học công lập của thành phố Hải Phòng; được thành lập vào ngày 14 tháng 6 năm 1977.
Ban đầu, trường có tên gọi là Phổ thông trung học - vừa học vừa làm An Thái, sau được đổi thành Phổ thông trung học - vừa học vừa làm Trần Hưng Đạo, và hiện tại là Trung học phổ thông Trần Hưng Đạo.
Lịch sử.
Sau khi tiến hành thắng lợi công cuộc giải phóng Miền Nam 30/04/1975 thống nhất đất nước vào năm 1976, cả nước bước vào thời kỳ hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đã xác định chiến lược con người có vai trò cực kỳ quan trọng trong thời kỳ mới của cách mạng. Vì vậy, giáo dục và đào tạo cần được chuyển hướng để thực hiện nguyên lý giáo dục "Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với LĐSX, nhà trường gắn liền với xã hội".
Thực hiện đường lối giáo dục của Đảng CSVN, chủ trương của Bộ Giáo dục là nghiên cứu phát triển một loại hình trường học mới với cách thức đào tạo là trang bị kiến thức phổ thông và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng được yêu cầu vừa học lên được đại học, vừa có thể đi vào thực tiễn sản xuất để xây dựng quê hương.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, không còn viện trợ từ bên ngoài, kinh phí đầu tư cho giáo dục còn hạn chế do đó mô hình trường được xác định là: "trường Phổ thông trung học - vừa học, vừa làm". Trên địa bàn cả nước những năm trước đó mới chỉ có trường "Thanh niên lao động XHCN Hoà bình" đang thí điểm mô hình này, nhưng ở vùng đồng bằng thì chưa có một trường nào như vậy.
Nắm bắt được chủ trương đó, Thành uỷ - UBND thành phố Hải Phòng quyết định thành lập trên địa bàn thành phố 2 trường PTTH - VHVL đầu tiên vào ngày 14/06/1977 đó là trường PTTH - VHVL An Thái của huyện An Thụy và trường PTTH - VHVL Hùng Thắng của huyện Tiên Lãng.
Đến năm 1979 thêm 4 trường nữa được thành lập đó là trường PTTH - VHVL Nguyễn Trãi của huyện An Hải, trường PTTH - VHVL Tú Sơn của huyện An Thuỵ, trường PTTH - VHVL Bạch Đằng của huyện Thủy Nguyên, trường PTTH - VHVL Tô Hiệu của huyện Vĩnh Bảo.
Đến năm 1982 trên toàn quốc có khoảng 50 trường theo mô hình PTTH - VHVL.
Như vậy, ngày 14/06/1977 thành phố Hải Phòng thành lập trường PTTH vừa học, vừa làm An Thái, sau đó đổi tên thành PTTH - VHVL Trần Hưng Đạo, Hải Phòng và sau này đổi tên là Trường THPT Trần Hưng Đạo, Hải Phòng.
Quá trình phát triển.
Giai đoạn 1977-1987.
Năm học đầu tiên 1977-1978, trường chỉ có 6 lớp, với 250 học sinh, 25 cán bộ, giáo viên, nhân viên.
Trong 10 năm đầu kể từ ngày thành lập, trường luôn luôn là lá cờ đầu của ngành giáo dục toàn quốc với thành tích vừa trang bị cho học sinh kiến thức phổ thông, vừa tổ chức LĐSX để hướng nghiệp, dạy nghề cho học sinh và liên kết với địa phương để sử dụng có hiệu quả, hợp lý học sinh tốt nghiệp ra trường. Với thành tích đó sau 5 năm trường được tặng Huân chương Lao động hạng Ba,
Năm 1985 được tặng Huân chương Lao động hạng Nhì, Nhà giáo Lê Hồng Thuý - Nguyên Hiệu trưởng nhà trường được tặng danh hiệu Nhà giáo ưu tú và Anh hùng Lao động năm 1987, ngoài ra nhà trường còn được công nhận tập thể tiên tiến xuất sắc nhiều năm với cờ thi đua của Hội đồng Bộ trưởng, cờ của Tổng liên đoàn lao động về thành tích phục vụ sản xuất nông nghiệp, 5 cờ thi đua của Bộ Giáo dục và Đào tạo, 5 cờ tiên tiến xuất sắc của UBND Thành phố cùng với nhiều bằng khen, giấy khen của Trung ương và địa phương.
Năm 1982, chỉ 5 năm sau khi trường được thành lập, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã về thăm trường
Giai đoạn 1988-1994.
Sau năm 1987, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới Nhà nước tiến hành cải cách giáo dục, mô hình trường PTTH - VHVL đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình. Trường được đổi tên thành PTTH Trần Hưng Đạo, sau đó được Bộ giáo dục và đào tạo đổi tên thành trường THPT Trần Hưng Đạo. Bước vào thời kỳ xây dựng trường theo tiêu chí ‘‘Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa’’.
Giai đoạn 1995-2005.
Từ năm 1996 đến nay, trường luôn luôn được công nhận tiên tiến cấp thành phố, được tặng 3 bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Giai đoạn 2005-2010.
Từ năm 2005 - 2010, trường được bằng khen của Chính phủ năm học 2007 - 2008, 12 CBGV được công nhận CSTĐ cấp Thành phố, 2/3 số CBGV được công nhận CSTĐ cơ sở và danh hiệu giáo viên dạy giỏi các cấp.
Giai đoạn 2010-2015.
Tỷ lệ học sinh lên lớp thẳng hàng năm đạt từ 98,0% trở lên, tỷ lệ học sinh giỏi toàn diện năm học 2010 - 2011 đạt 11,8% (cao nhất từ trước tới nay). Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THPT nhiều năm gần đây đạt trên 99,0%. Tỷ lệ học sinh trúng tuyển Đại học, Cao đẳng năm học 2010 - 2011 đạt gần 40,0% trên tổng số học sinh đăng ký dự thi. Số học sinh giỏi thành phố năm sau cao hơn năm trước. Năm học 2011 - 2012 số học sinh giỏi thành phố đạt cao nhất từ trước tới nay với 23 giải trong đó có 2 giải nhất, 6 giải nhì, 6 giải ba, 9 giải khuyến khích, có 1 học sinh được chọn vào đội tuyển Quốc gia thi môn Máy tính cầm tay Hóa học.
Trong 3 năm học này, tỷ lệ học sinh giỏi toàn diện đạt trung bình 15%, tỷ lệ tốt nghiệp luôn đạt trên 99%, tỷ lệ học sinh đỗ Đại học, Cao đẳng ngày càng tăng lên trung bình đạt trên 60%.
Số học sinh giỏi thành phố ngày một tăng cả về chất và lượng. Tính từ năm 2012 đến 2015 trường có hơn 120 giải HSG Quốc gia, HSG thành phố và các lĩnh vực khác, trong đó có 7 học sinh được chọn vào đội tuyển thành phố tham dự kỳ thi Quốc gia giải toán qua máy tính cầm tay các môn Vật lý, Hóa học, Sinh học và tất cả các em đều đạt giải trong đó có: 2 giải Nhất (môn Vật lý và Sinh học), 2 giải Nhì (môn Vật lý và Hóa học), 2 giải Ba (môn Vật lý và Sinh học) và 1 giải Khuyến khích (môn Sinh học).
100% CB, GV, NV đạt chuẩn về trình độ, trong đó có 25% trên chuẩn, 10% đang học để nâng chuẩn; 20 giáo viên được công nhận Chiến sĩ thi đua cấp thành phố. Hơn 60% CB, GV đã được công nhận là Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở và danh hiệu giáo viên dạy giỏi các cấp.Trường liên tục được nhận Giấy khen của Giám đốc Sở GD&ĐT Hải Phòng vì đã có những thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ năm học. Đảng bộ, Công đoàn và Đoàn thanh niên nhà trường luôn được công nhận hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Tính đến năm 2015 trường đã được tặng 3 Bằng khen của Bộ GD&ĐT và 1 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ
Giai đoạn 2015-2020.
Năm học 2015-2016 nhà trường được Chủ tịch UBND thành phố khen Tập thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm học.
Năm học 2016-2017, phong trào thi đua “Dạy tốt-Học tốt”, lập thành tích chào mừng kỷ niệm 40 năm thành lập trường được thầy, trò nhà trường hưởng ứng sôi nổi và đạt thành tích rất đáng kể. Trường có 8 học sinh đoạt giải học sinh giỏi quốc gia; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 100%; tỷ lệ học sinh đạt điểm sàn xét tuyển đại học, cao đẳng đạt hơn 80%. Trong đó, 2 học sinh của trường đạt từ 28,5 điểm trở lên.
Năm học 2019-2020 tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT 100%.
Giai đoạn 2020-2025.
Năm học 2020-2021 tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT 100%.
Chi bộ.
Theo sự chỉ đạo của thành ủy - UBND thành phố Hải Phòng và huyện An Thụy, ngày 14/6/1977 phân hiệu cấp 3 An Thái thuộc trường cấp 3 Kiến Thụy được tách ra để thành lập trường phổ thông cấp 3 - vừa học vừa làm An Thái, tiền thân của trường THPT Trần Hưng Đạo. Từ tháng 6/1977, chi bộ Đảng nhà trường được thành lập.
Tới năm 2012, trong số các đảng viên chuyển đi đơn vị khác, có 1 đồng chí là chủ tịch quận, 3 đồng chí là trưởng, phó phòng ban sở GD&ĐT, 2 đồng chí là lãnh đạo trường THPT. Trong suốt chiều dài 35 năm tồn tại và phát triển, chi bộ đảng nhà trường luôn được huyện đảng bộ công nhận đơn vị trong sạch vững mạnh.
Các thế hệ lãnh đạo qua các thời kỳ.
- Hiệu trưởng: Anh hùng lao động - Nhà giáo ưu tú Lê Hồng Thúy
- Phó Hiệu trưởng: Nhà giáo Lê Tâm Đồng, Nguyễn Văn Tuệ, Phạm Khánh Tường
- Hiệu trưởng: Nhà giáo Lê Tâm Đồng
- Phó Hiệu trưởng: Nhà giáo Nguyễn Văn Tuệ, Phạm Khánh Tường
- Hiệu trưởng: Nhà giáo Phạm Khánh Tường
- Phó Hiệu trưởng: Nhà giáo Nguyễn Văn Tuệ, Bùi Văn Dũng, Đặng Thị Tuyến, Bùi Thị Vẻ
- Hiệu trưởng: Nhà giáo Phạm Trung Diện
- Phó Hiệu trưởng: Nhà giáo Đặng Thị Tuyến, Bùi Thị Vẻ, Nguyễn Thị Thanh Hà
- Hiệu trưởng: Nhà giáo Phạm Trung Diện
- Phó Hiệu trưởng: Nhà giáo Bùi Thị Vẻ, Nguyễn Thị Là
- Hiệu trưởng: Nhà giáo Phạm Trung Diện
- Phó Hiệu trưởng: Nguyễn Thị Là
- Hiệu trưởng: Nhà giáo Phạm Trung Diện
- Phó Hiệu trưởng: Nguyễn Thị Là, Nguyễn Thị Tuyên
- Hiệu trưởng: Nhà giáo Phạm Trung Diện
- Phó Hiệu trưởng: Nhà giáo Nguyễn Thị Tuyên, Đặng Thị Ngọc
- Hiệu trưởng: Nhà giáo Ngô Hồng Tân
- Phó Hiệu trưởng: Nhà giáo Nguyễn Thị Tuyên, Đặng Thị Ngọc
Cơ sở vật chất.
- Thời gian đầu (1977 - 1978) trường chỉ có 6 gian nhà tranh tre lứa lá cho 12 lớp học do phụ huynh xây dựng tặng, số học sinh là 250, số cán bộ, giáo viên, nhân viên là 25.
- Tới năm 2012: trên diện tích 5 ha hiện lên 1 ngôi trường khang trang với 34 phòng học cao tầng kiên cố với đầy đủ các công trình phụ trợ.
Nhà trường đang tích cực vận động xã hội hoá giáo dục đầu tư nâng cấp CSVC theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa đồng thời tiếp tục phấn đấu về mọi mặt để được công nhận trường chuẩn Quốc gia vào những năm học sắp tới.
- Năm 2022 toàn trường có 26 lớp, 1163 học sinh, 63.giáo viên
Những cựu học sinh tiêu biểu.
- Tiến sĩ Lê Xuân Huyên - Tập đoàn dầu khi Việt Nam.
- Đào Ngọc Ký, phó tổng giám đốc Công ty Sen cô Bộ Giao thông vận tải
- Nguyễn Văn Tuấn - Thành ủy viên, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra thành phố
- Đỗ Văn Vững phó tổng giám đốc Công ty chuyển giao công nghệ thủy lợi.
- Tiến sĩ Ngô Quốc Hoàn, giảng viên trường Đại học Bách Khoa Hà Nội.
- Nguyễn Văn Chọn giám đốc Công ty TNHH MTV KTCTTL Đa Độ.
- Vũ Văn Vui giám đốc Bệnh viên đa khoa An Lão | 1 | null |
Octopus macropus, cũng gọi là Bạch tuộc đốm trắng Đại Tây Dương, bạch tuộc đốm trắng, bạch tuộc cỏ, là một loài bạch tuộc bản địa ít nhất là ở Đại Tây Dương. Một loài bạch tuộc tương tự từ Biển Caribbe đôi khi được xác định là "O. macropus", dù mối qua hệ giữa hai taxa vẫn chưa được giải quyết.
"O. macropus" có vỏ áo dài 15 cm với tua dài quá 1 m. | 1 | null |
Một lượt tải trang (page view) là một lượt yêu cầu tải một trang web đơn lẻ trong một trang web lớn. Một lượt yêu cầu tải trang có thể xuất phát từ việc nhấn vào một đường dẫn trên một trang web khác tới trang được yêu cầu. Khái niệm này khác với "hit", liên quan đến việc yêu cầu tải bất kì một tệp tin nào từ hệ thống máy chủ của trang web. Bởi vậy có thể xảy ra trường hợp có nhiều hit trên mỗi lượt tải trang bởi trang web có thể được tạo nên từ nhiều tệp khác nhau. Lượt tải trang là một số được ghi lại trong hệ thống phân tích website.
Số lượt tải trang không phải thể hiện số người truy cập vào website. Vì một người có thể thực hiện nhiều lượt tải trang trên cùng một trang web trong một khoảng thời gian. | 1 | null |
Trận Hoa Dương (chữ Hán: 華陽之戰, Hán Việt: "Hoa Dương chi chiến"), là cuộc chiến tranh có sự tham gia của bốn nước chư hầu là Tần, Ngụy và Triệu và Hàn vào thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Quá trình chiến tranh.
Với việc nước Tề suy yếu sau cuộc chiến tranh kéo dài năm năm với nước Yên, nước Tần ở phía tây vươn lên trở thành nước chư hầu hùng mạnh nhất tại Trung Quốc. Tần tiếp tục dùng vũ lực để tranh đoạt đất đai và ép các nước khác quy phục mình. Năm 278 TCN, quân Tần đại thắng quân Sở, chiếm được Dĩnh đô, ép nước Sở thiên về phía đông và loại bỏ được một đối trọng lớn. Sau đó, nước Tần lại tiếp tục gây hấn với Tam Tấn (Hàn, Triệu, Ngụy), ép các nước này phải quy phục.
Năm 273 TCN, quân Triệu và Ngụy mở cuộc tiến công vào nước Hàn, bao vây thành Hoa Dương. Trước sức mạnh của Triệu và Ngụy, quân Hàn không đủ sức chống lại, đành sai sứ sang nước Tần cầu cứu. Tần Chiêu Tương vương cử tướng quốc là Ngụy Nhiễm cùng Thứ trưởng Vũ An quân Bạch Khởi và khách khanh Hồ Dương cứu nước Hàn. Quân Tần dùng chiến thuật ra tay bất ngờ, tiến quân một cách chớp nhoáng, một ngày đi được trăm dặm, không bao lâu sau thì đã tới Hoa Dương. Trước sự xuất hiện đột ngột của quân Tần, liên quân Triệu và Ngụy gặp bất ngờ. Hai bên giao tranh tại Hoa Dương. Quân Tần với kĩ thuật tác chiến tốt nhanh chóng đánh bại quân địch, chém đầu 13 vạn quân Ngụy và bắt sống ba tướng của Ngụy. Tướng Mang Mão bỏ chạy. Về phía quân Triệu cũng bị thiệt hại lớn, tướng Giả Yển bại trận, hai vạn quân bị bắt. Quân Tần thừa thắng kéo đến đánh huyện Quyển và Thái Dương, Trường Xã của nước Ngụy và Quan Tấn thuộc nước Triệu. Ngụy An Ly vương hoảng sợ, sai Đoàn Can Sùng sang Tần cắt đất Nam Dương để cầu hòa. Từ đó, Ngụy lại thần phục nước Tần. | 1 | null |
Maurice Bernard Sendak (; ngày 10 tháng 6 năm 1928 – ngày 8 tháng 5 năm 2012) là một họa sĩ và nhà văn người Mỹ viết sách cho trẻ em. Ông nổi tiếng vì cuốn "Ở nơi quỷ sứ giặc non", xuất bản lần đầu năm 1963, một trong những sách có tranh minh họa được yêu thích nhất mọi thời đại. | 1 | null |
Khách hàng chứng thực (thuật ngữ tiếng Anh: "Testimonial") là một kĩ thuật trong marketing, sử dụng các tuyên bố, lời nói của một người sử dụng ca ngợi những điểm tốt của sản phẩm.
Khách hàng chứng thực là một hình thức đang nở rộ trong thời đại internet. Các trang web như Yelp!, Google+, TripAdvisor cung cấp các công cụ để người sử dụng bình chọn, đánh giá chất lượng các sản phẩm, dịch vụ.
Nghiên cứu của Martin, Wentzel và Tomczak (2008) chỉ ra rằng hiệu quả của kĩ thuật "khách hàng chứng thực" phụ thuộc trên mức độ của các áp lực có tính quy chuẩn và chất lượng, các tính năng của sản phẩm ảnh hưởng lên người tiêu dùng. | 1 | null |
Ở nơi quỷ sứ giặc non (tiếng Anh: "Where the Wild Things Are") là sách có minh họa cho trẻ em học đọc viết năm 1963 bởi nhà văn, họa sĩ Mỹ Maurice Sendak, xuất bản lần đầu bởi Harper & Row. Cuốn sách đã được chuyển thể thành các loại hình văn hóa khác, bao gồm thành phim hoạt hình ngắn vào năm 1974 (với một bản chuyển thể năm 1988); một vở nhạc kịch opera năm 1980; và một phim chuyển thể năm 2009, được đạo diễn bởi Spike Jonze. Sách được bán 20 triệu bản trên toàn thế giới, trong đó có 10 triệu bản ở Hoa Kỳ..
Sendak đã giành được Huân chương Caldecott hàng năm từ các thủ thư dành cho trẻ em vào năm 1964, công nhận Wild Things là "cuốn sách tranh Mỹ nổi bật nhất dành cho trẻ em" năm trước. Đây không phải là lần đầu tiên nó được bình chọn là cuốn sách tranh số một trong một cuộc khảo sát năm 2012 với độc giả của Tạp chí Thư viện Trường học. | 1 | null |
Wake of Death (tựa tiếng Việt: Tử thần thức giấc) là một bộ phim hành động - võ thuật - tâm lý của Mỹ do Philippe Martinez làm đạo diễn, có sự tham gia của nam diễn viên hành động Jean-Claude Van Damme. Bộ phim được phát hành vào tháng 12 năm 2004 tại Mỹ.
Nội dung.
Sau khi làm xã hội đen trong nhiều năm, Ben Archer chuyển từ Marseille về Los Angeles và quyết định dành nhiều thời gian hơn cho người vợ Cynthia và đứa con trai Nicholas.
Cynthia làm việc trong cơ quan INS (Bộ Di trú và Nhập tịch), giúp đỡ cho những người Trung Quốc nhập cư. Cô phát hiện ra Kim, cô bé người Trung Quốc trẻ tuổi ở trên tàu người nhập cư, và quyết định đưa cô bé về nhà. Cynthia biết được Kim sẽ gặp nguy hiểm nếu bị trục xuất và thuyết phục thẩm phán cho cô một tuần để chống lại lệnh trục xuất. Tuy nhiên, đây là một sai lầm chết người.
Sun Quan, bố của Kim, là một đại ca xã hội đen Tam Hoàng. Hắn đến Mỹ để tìm Kim và biết được nơi con gái đang ở. Hắn giết chết Cynthia, bố mẹ nuôi của cô và những nhân viên trong nhà hàng. Lúc đó Nicholas và Kim đã bỏ chạy.
Ben đến nơi giết được ba tên xã hội đen và thấy xác chết Cynthia trong nhà hàng. Anh muốn cứu hai đứa trẻ và trả thù cho Cynthia. Anh được sự giúp đỡ của Max, Raymond và Tony. Hai đứa trẻ được tìm thấy, sau đó Ben và Tony đã đi giết Andy Wang.
Nhóm của Ben bắt giữ Mac Hoggins, cộng sự của Cynthia trong INS, rồi tra tấn hắn để lấy thông tin. Hoggins khai ra việc Sun Quan vận chuyển ma túy vào nước Mỹ và địa điểm của Sun Quan. Với tất cả thông tin có được, họ đã giết Hoggins.
Một cảnh sát gọi cho Ben và hẹn gặp anh ở nhà xác. Khi Ben đến nhà xác thì mọi người trong đó đã bị giết, còn hai tên sát nhân đang bỏ chạy. Sau một cuộc rượt đuổi bằng môtô, Ben hạ gục cả hai tên xã hội đen. Ben và Tony quay về nhà, họ thấy Max và Raymond đã bị giết trong khi Nicholas và Kim bị bọn xã hội đen bắt đi. Ben đuổi theo thì chỉ có thể giải cứu cho Kim.
Ben và Tony quyết định đối đầu với Sun Quan. Hai người đến bến cảng rồi giết hết những tên thuộc hạ của Sun Quan. Sun Quan đang giữ Nicholas làm con tin, hắn và Ben đang chĩa súng vào nhau. Cả hai bắn nhau, Ben chỉ bị thương trên vai, còn Sun Quan bị thương ngay ngực. Ben cứu được Nicholas đúng lúc lực lượng cảnh sát đến nơi. | 1 | null |
Kể từ khi thành lập giải bóng đá Ngoại hạng Anh năm 1992, hơn 100 cầu thủ đã lập hat-trick (tức là đã ghi ba bàn thắng trong 1 trận đấu) vào lưới đối phương. Cầu thủ đầu tiên ghi được hat-trick tại giải Ngoại hạng Anh là Eric Cantona, một cựu cầu thủ người Pháp. Ông đã ghi ba bàn cho Leeds United trong chiến thắng 5-0 trước Tottenham Hotspur. Đã có hơn 20 cầu thủ ghi được hơn 3 bàn, trong số đó có 4 cầu thủ ghi được 5 bàn, là Andrew Cole, Alan Shearer, Jermain Defoe và Dimitar Berbatov. Sadio Mané, cầu thủ hiện đang thi đấu cho Liverpool là cầu thủ lập được hat-trick nhanh nhất giải ngoại hạng Anh, chỉ trong 2 phút 56 giây, anh đã 3 bàn vào lưới Aston Villal tại vòng 37 mùa giải 2014/15, phá kỷ lục trước đó của cầu thủ Robbie Fowler đã lập hatrick với khoảng thời gian 4 phút 23 giây, trong khi vào năm 1999, cầu thủ Manchester United, Ole Gunnar Solskjær đã ghi bốn bàn thắng chi trong có 12 phút vào lưới Nottingham Forest, và là cầu thủ ghi bốn bàn nhanh nhất trong lịch sử nước Anh.
Trận đấu giữa Arsenal với Southampton tại sân vận động Highbury vào năm 2003 chứng kiến Jermaine Pennant và Robert Pirès mỗi người ghi một cú hat-trick cho đội nhà. Năm 2007, Roque Santa Cruz của Blackburn và Marcus Bent của Wigan, mỗi người đều đã lập một cú hat-trick trong một trận đấu mà Wigan thắng 5-3. Chỉ có bốn cầu thủ, Les Ferdinand, Ian Wright, Didier Drogba và Wayne Rooney, đã lập hat-trick trong hai trận liên tiếp. Các cú hat-trick của Rooney vào ngày 10 tháng 9 năm 2011 và của Matt Le Tissier vào ngày 19 tháng 8 năm 1995 là được ghi trong đó bao gồm các quả phạt đền và cú đá phạt trực tiếp.
Shearer đã lập hat-trick hoặc nhiều hơn con số trên tất cả mười một lần ở Premier League, nhiều hơn bất kỳ cầu thủ nào khác. Robbie Fowler đã lập được chín cú hat-trick, Thierry Henry và Michael Owen, mỗi cầu thủ đã lập được tám cú hat-trick. Năm cầu thủ đã từng lập hat-trick trong ba câu lạc bộ khác nhau: Yakubu Aiyegbeni (Blackburn Rovers, Everton và Portsmouth); Nicolas Anelka (Arsenal, Chelsea và Manchester City), Kevin Campbell (Arsenal, Everton và Nottingham Forest), Les Ferdinand(Newcastle thống nhất, Queens Park Rangers và Tottenham Hotspur) và Teddy Sheringham (Manchester United, Portsmouth và Tottenham Hotspur).
Số cú hat-trick.
Bảng sau liệt kê số lượng cú hat-trick đã ghi được bởi những cầu thủ đã ghi được hai hoặc nhiều hat-trick.
Lưu ý: Cầu thủ in đậm vẫn còn thi đấu tại Giải Ngoại Hạng Anh.
Số hat-tricks theo quốc gia.
Đây là thống kê số lượng hat-tricks theo một quốc tịch.
Số hat-trick theo câu lạc bộ.
Bảng sau liệt kê số hat-trick được ghi bởi các cầu thủ từ câu lạc bộ dưới đây.
Ghi chú.
Premier League, thành lập năm 1992, là hạng cao nhất của hệ thống giải đấu bóng đá Anh. | 1 | null |
Công đồng Lateran II do giáo hoàng Innôcentê II triệu tập năm 1139. Có khoảng 1.000 tham dự viên họp trong tháng 4, để lên án việc ly giáo của Anacletus.
Công đồng Lateran II tái khẳng định Luật độc thân tu sĩ đã được đề cập trong các công đồng trước:
Trước đó, giáo hoàng Nicôla II (năm 1059) và giáo hoàng Grêgôriô VII (năm 1075) đã cấm các linh mục vi phạm luật độc thân làm lễ, và cấm giáo dân đến dự lễ họ dâng, và cấm các vị này thi hành các chức vụ trong giáo hội.
Trong Công Đồng Lateran II cho rằng: ma quỷ (hoặc Satan) và các quỷ khác "đã được Thiên Chúa tạo dựng tốt lành nhưng chúng tự ý trở thành ma quỷ.". Công đồng cũng đã xếp Bí tích Hôn Phối chung với các Bí tích Thánh Thể, Thánh Tẩy và Truyền Chức (D 367). | 1 | null |
Công đồng Lateran IV do Giáo hoàng Innôcentê III triệu tập 10/04/1213 và khai mạc vào 11/11/1215 tại Laterano. Công đồng có 412 đại biểu chính thức (Hồng y, thượng phụ, Tổng giám mục và Giám mục) cùng với 800 đan viện phụ, bề trên, hạt trưởng tham dự các khoá họp từ 11 đến 30 tháng 11. Công bố 70 điều khoản.
Nội dung của Công đồng: | 1 | null |
Công đồng Lyon II do Giáo hoàng Grêgôriô X triệu tập năm 1272-1274. Có khoảng 500 giám mục và 570 giáo sĩ (có Thánh Thomas và Bonaventura), hoàng đế Đông Phương M. Paleologus cũng tham dự. Gồm 6 khoá họp từ 7 tháng 5 đến 17 tháng 7. Công đồng bàn về sự hợp nhất giữa Giáo hội Đông Phương và Tây Phương
Nội dung của công đồng: | 1 | null |
Man of Steel hay Người đàn ông thép là bộ phim viễn tưởng hành động siêu anh hùng Mỹ phát hành năm 2013 dựa trên nhân vật hoạt hình Superman của DC Comics - nhân vật này được tạo ra bởi hai tác giả Jerry Siegel và Joe Shuster. Phim là một bước khởi động lại toàn bộ loạt phim "Superman", kể lại từ đầu cuộc đời nhân vật chính. Phim công chiếu trên toàn thế giới vào ngày 14 tháng 6 năm 2013.
"Man of Steel" cũng chia sẻ chung một không gian giả tưởng với các nhân vật khác của DC Comics.
Nội dung.
Hành tinh Krypton đang mất ổn định vì nguồn năng lượng bị khai thác quá mức. Jor-El, nhà khoa học và cũng là trưởng ban cố vấn của Krypton, xin hội đồng cho phép ông kiểm soát kho dự trữ huyết thống di truyền. Trong khi đó Tướng Zod dẫn đầu một đội quân tạo ra cuộc nổi loạn và bắt giữ các ủy viên hội đồng. Nhận ra Krypton sắp tận thế, Jor-El đã ăn cắp codex - báu vật huyết thống quý giá của hành tinh - và đưa chúng vào DNA của Kal-El, con trai sơ sinh của ông, đứa trẻ Krypton đầu tiên được sinh ra theo cách tự nhiên trong suốt nhiều thế kỷ. Hai vợ chồng Jor-El và Lara-El cho phóng chiếc phi thuyền đưa Kal-El đến Trái Đất. Zod không lấy được codex nên tức giận giết chết Jor-El. Quân chính phủ sớm dập tắt cuộc nổi loạn của Zod, đội quân của hắn bị giam giữ trong vùng Phantom Zone. Cả hành tinh Krypton bị nổ tung không lâu sau đó.
Chiếc phi thuyền chở Kal-El đáp xuống thị trấn Smallville, tiểu bang Kansas, Hoa Kỳ. Hai vợ chồng Jonathan Kent và Martha Kent tìm thấy Kal-El và nuôi dưỡng cậu đến khôn lớn, đặt tên là Clark Kent. Clark sở hữu nhiều khả năng phi thường nên cậu buộc phải sống cô lập để tránh sự chú ý của mọi người xung quanh. Jonathan kể cho Clark nghe về nguồn gốc thật sự của cậu, khuyên cậu nên che giấu siêu năng lực. Nhiều năm sau, Jonathan chấp nhận chết trong một cơn bão chứ không muốn Clark giải cứu ông, ông lo sợ người khác sẽ chú ý đến một người phi thường như Clark. Cảm thấy đau buồn và muốn tìm hiểu thêm về cuộc sống, Clark bắt đầu đi khắp nơi trên thế giới, sử dụng nhiều tên giả.
Nữ nhà báo Lois Lane của tòa soạn Daily Planet đến quần đảo Bắc Cực thuộc Canada để khám phá một con tàu vũ trụ của Krypton xuất hiện tại đây. Clark cũng đang làm việc trong khu vực này, anh vào trong con tàu và khởi động dàn máy tính của nó bằng cách sử dụng chiếc chìa khóa Jor-El để lại cho anh. Anh gặp được trí tuệ nhân tạo mang hình dạng của cha mình. Trí tuệ nhân tạo giải thích rằng Clark được đưa đến Trái Đất để dẫn dắt loài người, đồng thời tặng cho anh một bộ trang phục của Krypton mang biểu tượng "Hi vọng". Lois đi theo Clark vào trong con tàu thì bị một cỗ máy tấn công. Clark đành dùng tia nhìn laser của mình để chữa vết thương của Lois trước khi mặc bộ trang phục rồi thử nghiệm khả năng bay lượn. Về lại thành phố Metropolis, Lois thuyết phục ông sếp Perry White xuất bản một bài báo về Clark nhưng không được chấp nhận. Cô đành đến nhà của gia đình Clark ở Smallville, quyết tâm tìm hiểu sự thật. Lois thuyết phục Clark để cô công khai tiểu sử của anh, nhưng sau khi nghe Clark kể về sự hi sinh của Jonathan, cô quyết định giữ bí mật cho Clark.
Sự hủy diệt của hành tinh Krypton vô tình giải thoát cho tướng Zod và phiến quân của hắn ra khỏi Phantom Zone, chúng bắt được tín hiệu của con tàu vũ trụ và kéo đến Trái Đất. Nghi ngờ Kal-El đang ở gần đây, Zod gửi lời đe dọa đến toàn bộ loài người, yêu cầu Clark ra đầu hàng nếu không hắn sẽ làm hại loài người. Clark đến gặp quân đội Mỹ và đồng ý lên phi thuyền của Zod, Lois cũng bị bắt buộc đi theo làm con tin. Zod tiết lộ rằng hắn có kế hoạch dùng cỗ máy khổng lồ tên World Engine để biến Trái Đất thành Krypton mới. Jax-Ur - nhà khoa học của Zod - dự định lấy huyết thống trong người Clark để tạo ra một đội quân hùng hậu đi hủy diệt loài người.
Sử dụng trí tuệ nhân tạo Jor-El để đổi hướng bay của chiếc phi thuyền, Clark và Lois chạy thoát thành công rồi cảnh báo quân đội Mỹ về kế hoạch của Zod. Một cuộc chiến dữ dội diễn ra giữa Clark và đội quân của Zod sau khi Zod đe dọa Martha. Zod cho đặt cỗ máy World Engine ở Ấn Độ Dương, đặt phi thuyền Black Zero ở Metropolis, cỗ máy và phi thuyền bắt đầu tác động mạnh vào sâu trong lòng Trái Đất để thay đổi địa hình và khí quyển. Vụ việc trên đã làm một phần Metropolis bị sụp đổ. Clark phá hủy cỗ máy World Engine ở Ấn Độ Dương trong khi quân đội vận chuyển chiếc phi thuyền năm xưa của Clark trên máy bay Boeing C-17 rồi đâm vào phi thuyền Black Zero ở Metropolis, đưa đội quân của Zod trở về Phantom Zone. Kế hoạch hồi sinh Krypton bị phá sản, Zod tức giận thề rằng sẽ phá hủy Trái Đất và tiêu diệt loài người để trả thù. Clark và Zod lao vào đánh nhau, cả hai bay khắp thành phố khiến vài tòa nhà đổ sập, cuối cùng Clark phải giết chết Zod khi hắn cố gắng tấn công dân thường trong nhà ga.
Clark quyết định sử dụng biệt danh "Superman" do quân đội đặt cho anh và thuyết phục chính phủ cho anh hoạt động độc lập. Hơn 30 năm sống trên Trái Đất, anh đã xem mình là một người Trái Đất và còn lương tâm con người nên sẽ không có chuyện anh chống lại loài người. Clark và Lois trở thành một đôi yêu nhau. Clark cũng cần một công việc ổn định vào những lúc anh không làm siêu anh hùng. Anh xin làm nhà báo trong tòa soạn Daily Planet, nhờ vậy anh được ở bên cạnh Lois, đồng thời có thể tìm hiểu nhiều tin tức trên thế giới.
Phát triển.
Sau thất bại tương đối của phim Superman Returns do Bryan Singer đạo diễn, vốn không đạt được mức doanh thu mong muốn cho Warner Bros, ý tưởng làm một phần phim Superman mới từ lâu bị xếp xó. Tuy nhiên, hãng Warner về sau đã quyết định làm một phần mới dựa trên hình mẫu của Batman Begins và hai phần "hit" tiếp theo của nó là The Dark Knight và The Dark Knight Rises. Đạo diễn Christopher Nolan, anh trai của ông là Jonathan và David S. Goyer, một người có kinh nghiệm về chuyển thể truyện tranh lên phim, được đưa vào dự án. Do kẹt quay phim The Dark Knight Rises, Christopher Nolan lập tức công bố sẽ chỉ tham gia sản xuất chứ không đạo diễn phim.. Ngày 4 tháng 10 năm 2010, Zack Snyder công bố sẽ tham gia đạo diễn phim sau khi kết thúc làm phim Sucker Punch. Ngày 18 tháng 10 năm 2010, Zack Snyder nói rằng phim "sẽ tập trung vào những ngày đầu của Superman và không có liên hệ với các phim trước" ("As I have already explained, the film will focus on early days of Superman, so there will be no links with other films...").
Sản xuất.
Nhân lực.
Zack Snyder đảm nhận vai trò đạo diễn trong khi Christopher Nolan, Charles Roven, Deborah Snyder, và Emma Thomas tham gia sản xuất. Kịch bản viết bởi David S. Goyer. Phim phát hành bởi Warner Bros. với các diễn viên tham gia gồm: Henry Cavill, Amy Adams, Michael Shannon, Kevin Costner, Diane Lane, Laurence Fishburne, Antje Traue, Ayelet Zurer, Russell Crowe, Christopher Meloni, Harry Lennix và Richard Schiff. Weta Digital, Moving Picture Company, và Double Negative đảm nhận vai trò kỹ xảo và hiệu ứng hình ảnh cho phim.
Địa điểm.
Phần lớn phim quay tại Chicago, Illinois. Các địa điểm khác bao gồm Toronto, Ontario, Plano, Illinois, Vancouver, và Tây Chicago, Illinois. Tòa soạn báo Daily Planet sẽ thực hiện dựa trên hai tòa nhà: Chicago Board of Trade Building và Willis Tower.
Đoàn làm phim.
Chỉ có năm thành viên đoàn làm phim là Christopher Nolan, Emma Thomas, Charles Roven, David S. Goyer, và Hans Zimmer đã từng tham gia loạt ba phim Batman của Nolan. Hans Zimmer sẽ soạn nhạc phim. Đây sẽ là phim Superman đầu tiên không sử dụng phần nhạc nền ghi dấu ấn của John Williams.
Thay đổi.
Henry Cavill là diễn viên "không phải người Mỹ" đầu tiên vào vai Clark Kent trong khi Laurence Fishburne là người da đen đầu tiên nhận vai Perry White nếu tính trên các phim điện ảnh. Zack Snyder khẳng định không có đá Krypton - điểm yếu nhất của Superman - trong phim. Ông cũng cho biết rằng dù rất cố gắng tham khảo gần 1500 phiên bản trang phục của Superman có cái "quần lót đỏ" nhưng vẫn thất bại trong việc giữ lại chi tiết này khi lên phim.
Đánh giá và tiếp nhận.
Cho đến nay bộ phim được trang Rotten Tomatoes đánh giá tích cực với 57% - gần với mức "tươi ngon". Nhiều người tuy bày tỏ sự thất vọng về phim nhưng cho rằng nó mang lại đủ sự hành động cho khán giả để trở thành một phim siêu anh hùng hay và đáng xem.
Trang Metacritic cho bộ phim điểm trung bình 55/100, dựa trên 47 nhận xét, cho thấy một kết quả "trung bình". CinemaScore khảo sát khán giả dưới 18 cho kết quả "A-", và kết quả "A" cho đối tượng trên 50 tuổi, trên thang từ "A+ tới F".
"Man of Steel" đạt doanh thu 128,681,486 USD tại Bắc Mỹ, tính tới 16 tháng 6 năm 2013, và khoảng 71,600,000 USD tại các nước khác tính tới 16 tháng 6 năm 2013, đạt tổng doanh thu toàn cầu 200,281,486 USD. Phim thu về 202.1 triệu USD trong cuối tuần công chiếu, trong đó có 17.5 triệu USD từ các rạp chiếu IMAX. | 1 | null |
Công đồng Vienne do Giáo hoàng Clêmentê V triệu tập năm 1311-1312. Có khoảng 132 Giám mục với nhiều giáo sĩ tham dự 3 khoá họp từ 16 tháng 10 năm 1311 đến 6 tháng 5 năm 1312. Công đồng giải tán dòng Hiệp Sĩ Đền Thờ, lên án quan niệm sai lạc của tu sĩ Beguard và Beguin.
Nội dung của công đồng: | 1 | null |
Công đồng Constance diễn ra từ năm 1414 -1418 dưới áp lực của hoàng đế Sigismund và được triệu tập bởi Giáo hoàng đối lập Gioan XXIII. Chủ nhà là Otto III. von Hachberg, giám mục của Konstanz. Có khoảng 200 Giám mục, nhiều giáo sĩ và chuyên viên tham dự 45 khoá họp, từ 5 tháng 11 năm 1414 đến 22 tháng 4 năm 1418. Công đồng bãi nhiệm ba Giáo hoàng đang tranh chấp nhau, chấm dứt tình trạng ly khai ở Tây Phương, lên án John Wycliff, Jan Hus và chọn Giáo hoàng Martinus V.
Vào ngày 11 tháng 11 năm 1417, Công Đồng chọn Đức Hồng y Oddo Colonna làm Giáo hoàng, với niên hiệu Martin V, vị Giáo hoàng thứ 206. Kết thúc Công Đồng, một lần nữa các vương quốc Ki-tô giáo được hiệp nhất, thời kỳ ly giáo tạm thời qua đi.
Nội dung của công đồng:
Jan Hus bị xử tử trên giàn hoả thiêu (dù Hus được lời hứa bảo đảm an toàn tính mạng khi đến đối chất tại công đồng). John Wycliffe (1330 tới 1384) vào thời công đồng Konstanz đã chết trước đó 30 năm. Tuy nhiên, xương cốt ông vài năm sau đó đã bị đào lên và bị thiêu đốt. | 1 | null |
Hoya spartioides là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được George Bentham mô tả khoa học đầu tiên năm 1880 dưới danh pháp "Astrostemma spartioides". Năm 1891 Carl Ernst Otto Kuntze chuyển nó sang chi "Absolmsia" với danh pháp "Absolmsia spartioides".
Tuy nhiên một số nghiên cứu phát sinh chủng loài cho thấy "Absolmsia" lồng sâu trong chi "Hoya".
Trong WCSPF 2018 người ta xếp loài này trong chi "Hoya" với danh pháp "Hoya spartioides". | 1 | null |
Acokanthera schimperi là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được (A.DC.) Schweinf. mô tả khoa học đầu tiên năm 1891.
Phân bố.
Acokanthera schimperi lả loài bản địa Eritrea, Ethiopia, Somalia, Kenya, Uganda, Tanzania, Rwanda và CH Congo. Nó là loài duy nhất trong chi cũng xuất hiện bên ngoài châu Phi, ở miền nam Yemen.
Sử dụng.
Vỏ, gỗ và rễ cây Acokanthera schimperi được sử dụng như một thành phần quan trọng của chất độc mũi tên ở châu Phi. Tất cả các bộ phận của cây đều chứa acovenoside A và ouabaïne, là những glycoside trợ tim. Quả của nó có thể ăn được, và được dùng làm thức ăn khi đói kém. Khi chín chúng có vị ngọt nhưng cũng hơi đắng. Trái cây chưa chín có thể gây ngộ độc vô tình vì chúng có độc tính cao.
Lophiomys imhausi thu thập chất độc từ Acokanthera schimperi loại cây này còn được con người sử dụng để săn bắn vì nó chứa nhiều chất độc cardenolide.
Nó cũng được sử dụng trong y học cổ truyền châu Phi. Ví dụ, ở Ethiopia, lá Acokanthera schimperi thường được sử dụng để chữa bệnh vàng da. | 1 | null |
Công đồng Florence diễn ra từ năm 1414 -1418. Phiên đầu họp ở Basel, sau đó dời về Ferrara, rồi về Florence. Có khoảng 150 giám mục Tây Phương, 30 giám mục Đông Phương tham dự. Công đồng đã đưa ra nhiều phương thức hợp nhất Giáo hội.
Nội dung của công đồng: | 1 | null |
Huỳnh anh hoa vàng nghệ hay Hoàng thiền (danh pháp hai phần: "Allamanda schottii") là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Pohl mô tả khoa học đầu tiên năm 1827.
Phân loại.
Loài này được miêu tả lần đầu bởi Johann Baptist Emanuel Pohl, ông đã ghi nhận chúng mọc trên hai bờ của sông Paraíba
vào năm 1827. William Hooker miêu tả một loài cây mà ông kết luận có hoa màu vàng đậm hơn nhỏ hơn hoa của "A. schottii" trồng ở Exeter có tên là "Allamanda neriifolia". Từ đó loài này được coi là danh pháp đồng nghĩa của "A. schottii". Loài này đã được liệt kê trong "Flora Brasiliensis" bởi Carl Friedrich Philipp von Martius.
Miêu tả.
Không giống như nhiều loài trong chi, "A. schottii" là cây bụi chứ không phải cây leo, cao 1,5–3 m và rộng khoảng 2 m.
Phân bố.
"Allamanda schottii" được tìm thấy ở phía nam và phía đông nam của Brazil, trong các tỉnh Espírito Sant, M Inas Gerais, Rio de Janeiro, Sao Paulo, Parana và Santa Catarina. Trước đây coi loài đặc hữu của quốc gia này, loài này đã được ghi nhận từ vùng đông bắc Argentina vào năm 2013. Tại Brazil, nó mọc gần hoặc bên cạnh các khu vực có nước, thường ở các khu vực ẩm ướt, trong rừng mở hoặc đóng.
Allamanda schottii đã được du nhập vào Puerto Rico, quần đảo Galapagos và Costa Rica. Loài này được ghi nhận đã thoát từ khu vực canh tác tại Úc. | 1 | null |
Công đồng Lateran V diễn ra từ năm 1512 -1517 do Giáo hoàng Julius II triệu tập. Có 115 giám mục Tây Phương tham dự 12 khoá họp, từ 3 tháng 5 năm 1512 đến 6 tháng 3 năm 1517. Công đồng xác định quyền bính Giáo hoàng và quyền bính công đồng, lên án những người theo thuyết Tân Aristote.
Nội dung của công đồng: | 1 | null |
Công đồng Trent (Latin: Concilium Tridentinum), được thành lập vào giữa năm 1545 và 1563 ở thành phố Trento và Bologna, miền bắc Ý, là một trong những nhà thờ Công giáo La Mã quan trọng nhất của Công đồng đại kết (Ecumenical council), được thúc đẩy bởi cuộc cải cách Tin Lành. Cũng như các sắc lệnh, Công đồng đã ban hành những lời tuyên bố về những gì được định nghĩa là những tin đồn do đạo Tin Lành gây ra, và đáp lại họ, các tuyên bố rất quan trọng và làm sáng tỏ giáo lý và giáo huấn của Giáo hội. Những đề cập đến một phạm vi rộng lớn các chủ đề, bao gồm thánh thư, kinh điển, truyền thống thiêng liêng, tội lỗi nguyên thủy, biện minh, cứu độ, các bí tích. Thánh lễ và sự tôn kính các thánh đồ. Công đồng đã họp trong 25 phiên từ ngày 13 tháng 12 năm 1545 đến ngày 4 tháng 12 năm 1563.
Hậu quả của Công đồng cũng rất quan trọng đối với phụng vụ và thực hành của Giáo hội. Trong các buổi thảo luận, Công đồng đã đưa lên Bản Tóm lược ví dụ chính thức của Kinh thánh và đưa ra một sự ủy thác cho việc tạo ra một phiên bản tiêu chuẩn, mặc dù điều này đã không đạt được cho đến những năm 1590. Năm 1565, tuy nhiên, một năm hoặc lâu hơn sau khi Công đồng đã hoàn thành công việc của mình, Piô IV ban hành các Tridentine Creed (sau Tridentum tên, Trento của Latin) và người kế nhiệm ông Piô V sau đó ban hành các Giáo Lý Rôma và các phiên bản của sách nguyện và Sách Lễ Trong, tương ứng, 1566, 1568 và 1570. Những lần lượt này,
Hơn ba trăm năm trôi qua cho đến khi công đồng đại kết kế tiếp, Công đồng Vatican I, được triệu tập năm 1869.
Thông tin cơ bản.
Những trở ngại và sự kiện trước Công đồng
Vào ngày 15 tháng 3 năm 1517, Công đồng thứ năm của Lateran đã đóng cửa các hoạt động với một số đề xuất cải cách (về việc lựa chọn các giám mục, thuế, kiểm duyệt và rao giảng) nhưng không phải về những vấn đề chính mà Giáo hội gặp phải ở Đức và các khu vực khác của châu Âu. Vài tháng sau, vào ngày 31 tháng 10 năm 1517, Martin Luther đã ban hành 95 đề tài của mình ở Wittenberg.
Một công đồng chung, tự do ở Đức.
Vị trí của Luther trên các công đồng đại kết đã thay đổi theo thời gian, nhưng năm 1520, ông kêu gọi các hoàng tử Đức phản đối Giáo hội của Giáo hoàng, nếu cần thiết với một công đồng ở Đức, mở ra và không có Giáo hoàng. Sau khi Đức Giáo hoàng lên án Exsurge Domine năm mươi hai luận văn của Luther như là dị giáo, quan điểm của Đức đã coi công đồng là phương pháp tốt nhất để hòa giải những khác biệt hiện có. Người Công giáo Đức, giảm số lượng, hy vọng một công đồng để làm rõ các vấn đề.
Phải mất một thời gian để công đồng thành hiện thực, một phần là do sự miễn cưỡng của giáo hoàng, cho rằng nhu cầu của Lutheran là sự loại trừ trách nhiệm của Công đồng, và một phần do những cuộc tranh chấp chính trị đang diễn ra giữa Pháp và Đức và mối nguy hiểm của Thổ Nhĩ Kỳ ở Địa Trung Hải. Dưới thời Giáo hoàng Clement VII (1523-34), quân của Hoàng đế La mã Công giáo Ca-tô V đã triệt hạ Papal Rome vào năm 1527, "hiếp dâm, giết chóc, đốt cháy, trộm cắp, giống như đã không được nhìn thấy kể từ khi Vandals". Nhà thờ Peter và Nhà thờ Sistine được sử dụng cho ngựa. Điều này, cùng với sự mâu thuẫn của Đức Thánh Cha giữa Pháp và Đức,
Charles V mạnh mẽ ủng hộ một công đồng, nhưng cần sự hỗ trợ của Vua Francis I của Pháp, người đã tấn công ông quân sự. Phanxicô I thường phản đối một công đồng chung vì sự ủng hộ một phần của đạo Tin Lành trong nước Pháp, và năm 1533 ông còn làm phức tạp hơn các vấn đề khi đề nghị một công đồng chung bao gồm cả các nhà cai trị Công giáo và Tin Lành ở Châu Âu có thể đưa ra một sự thỏa hiệp giữa hai hệ thống thần học. Đề xuất này phản đối sự phản đối của Đức giáo hoàng vì nó đã công nhận những người theo đạo Tin Lành và cũng đã nâng cao các hoàng thái thế kỷ của Âu châu lên trên hàng giáo phẩm về các vấn đề của nhà thờ. Đối mặt với một cuộc tấn công Thổ Nhĩ Kỳ, Charles đã giữ sự ủng hộ của các nhà cai trị Đức Tin lành, tất cả đều trì hoãn việc khai mạc Công đồng Trent. | 1 | null |
Sơn đôn (danh pháp khoa học: Amalocalyx microlobus) là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Pierre ex Spire mô tả khoa học đầu tiên năm 1905.
Loài này phân bố ở Vân Nam (Trung Quốc), Việt Nam, Lào, Thái Lan.
Tiếng Trung gọi là "Mao xa đằng" (毛车藤). | 1 | null |
Anisopus bicoronata là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Karl Moritz Schumann mô tả khoa học đầu tiên năm 1896 dưới danh pháp "Marsdenia bicoronata". Năm 1902 Nicholas Edward Brown chuyển nó sang chi "Anisopus".
WCSPF không công nhận loài này mà coi nó là đồng nghĩa của "Anisopus mannii". | 1 | null |
Anisopus efulensis là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Nicholas Edward Brown mô tả khoa học đầu tiên năm 1896 dưới danh pháp "Marsdenia efulensis". Năm 1994 D.J. Goyder chuyển nó sang chi "Anisopus".
Loài này phân bố trong khu vực Tây và Tây Trung nhiệt đới châu Phi. | 1 | null |
Anisopus rostrifera là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Nicholas Edward Brown mô tả khoa học đầu tiên năm 1906 dưới danh pháp "Marsdenia rostrifera". Năm 1957 Bullock chuyển nó sang chi "Anisopus".
WCSPF không công nhận loài này mà coi nó là đồng nghĩa của "Anisopus mannii". | 1 | null |
Công đồng Vaticanô I diễn ra từ năm 1869 -1870 do Đức Giáo hoàng Piô IX triệu tập. Có 747 giám mục tham dự và nhiều giáo sĩ trong 4 khoá từ 8 tháng 12 năm 1869 đến 1 tháng 7 năm 1870. Công đồng lên án Chủ nghĩa duy lý và tuyên bố ơn bất khả ngộ của Đức Giáo hoàng.
Nội dung của công đồng: | 1 | null |
Xu hướng thị trường (thuật ngữ tiếng Anh: "Market trend") là xu thế của một thị trường tài chính di chuyển theo một hướng cụ thể qua thời gian. Các xu hướng này được phân loại thành "trường kỳ" cho các khung thời gian dài hạn, "chính" cho các khung thời gian trung hạn, và "phụ" cho các khung thời gian ngắn hạn. Các thương nhân xác định các xu hướng thị trường bằng cách dùng phân tích kỹ thuật, một khung thời gian đặc trưng các xu hướng thị trường như các xu thế giá cả có thể dự đoán được trong thị trường khi giá cả đạt tới các ngưỡng hỗ trợ và kháng cự, thay đổi theo thời gian. Các thuật ngữ thị trường Bò và thị trường Gấu mô tả các xu hướng thị trường đi lên và đi xuống, một cách tương ứng, và có thể được sử dụng để mô tả toàn bộ thị trường hay các lĩnh vực và chứng khoán riêng biệt.
Từ nguyên.
Nguồn gốc chính xác của cụm từ "thị trường bò" và "thị trường gấu" không ai biết tới. "Từ điển tiếng Anh Oxford" trích dẫn một sử dụng 1891 của thuật ngữ "thị trường bò". Trong tiếng Pháp "bulle spéculative" chỉ một bong bóng thị trường đầu cơ. Từ điển từ nguyên trực tuyến liên quan từ "bull" tới "thổi phồng, sưng lên", và định ngày cho ý nghĩa thị trường chứng khoán của nó vào năm 1714. Các phong cách chiến đấu của cả hai con thú có thể có một tác động lớn đến những cái tên. Khi một con bò đực chiến đấu nó sẽ hất sừng của nó lên, khi một con gấu chiến đấu nó sẽ đè xuống đối thủ của mình với bàn chân của nó.
Một từ nguyên giả thuyết chỉ tới "những kẻ đầu cơ" (những người tạo lập thị trường) da gấu Luân Đôn, người sẽ có thể bán da gấu trước khi những con gấu đã thực sự bị bắt trái với câu tục ngữ "ne vendez pas la peau de l'ours avant de l’avoir tué" ("đừng bán da gấu trước khi bạn giết gấu") - một lời khuyên cho sự quá lạc quan. Cho đến thời điểm bong bóng biển Nam của năm 1721, con gấu cũng được kết hợp với bán khống; những kẻ đầu cơ sẽ có thể bán da gấu họ đã không làm chủ với dự đoán của giá cả giảm, mà sẽ cho phép họ mua lại chúng sau này cho một lợi nhuận bổ sung.
Một nguồn gốc chính đáng khác là từ chữ "Bulla" có nghĩa là hóa đơn, hoặc hợp đồng. Khi một thị trường đang tăng lên, những người nắm giữ của các hợp đồng giao hàng trong tương lai của một hàng hóa thấy được giá trị gia tăng hợp đồng của họ. Tuy nhiên trong một thị trường đang rơi xuống, các đối tác, các "người mang" (bearers) của hàng hóa sẽ được chuyển giao này có lợi bởi vì chúng đã bị khóa trong một mức giá giao hàng tương lai đó là cao hơn so với mức giá hiện tại.
Một số giả thuyết tương tự đã được sử dụng như phương tiện giúp trí nhớ:
Nhóm tác phẩm điêu khắc quốc tế Mark và Diane Weisbeck đã được chọn để thiết kế lại Thị trường Bò của phố U-ôn. Điêu khắc chiến thắng của họ, "Bull Market Rocket" đã được chọn làm biểu tượng thế kỷ 21, hiện đại của Thị trường Bò xu hướng lên.
Xu hướng chính.
Một xu hướng chính có ủng hộ rộng rãi trong suốt toàn bộ thị trường (hầu hết các lĩnh vực) và kéo dài cho năm hoặc lâu hơn.
Thị trường bò.
Một thị trường bò có liên quan với tăng niềm tin nhà đầu tư, và tăng đầu tư vào các dự đoán tăng giá trong tương lai (các tăng vốn). Một xu hướng Bò trong thị trường chứng khoán thường bắt đầu trước khi nền kinh tế nói chung có dấu hiệu phục hồi rõ nét.
Ví dụ: Chỉ số Sàn giao dịch chứng khoán Bombay của Ấn Độ, Sensex, đã trong một xu hướng thị trường Bò trong khoảng năm năm, từ tháng 4 năm 2003 đến tháng 1 năm 2008 vì nó tăng từ 2.900 điểm lên 21.000 điểm. Các thị trường bò đáng chú ý được đánh dấu 1925-1929, 1953-1957 và giai đoạn 1993-1997 khi thị trường chứng khoán Mỹ và nhiều nơi khác tăng; trong khi giai đoạn đầu tiên kết thúc đột ngột với sự bắt đầu của Đại khủng hoảng sự kết thúc của các khoảng thời gian sau chủ yếu là các giai đoạn của hạ cánh mềm, mà đã trở thành các thị trường gấu lớn. (xem: Suy thoái kinh tế 1960-1961 và bong bóng dot-com trong 2000-01)
Thị trường Gấu.
Một thị trường gấu là một sự suy giảm chung trong thị trường chứng khoán qua một khoảng thời gian. Nó là một quá trình chuyển đổi từ lạc quan nhà đầu tư cao sang lo sợ và bi quan nhà đầu tư rộng khắp. Theo The Vanguard Group, "Trong khi không có định nghĩa được thỏa thuận về một thị trường gấu, một trong những đo lường được chấp nhận chung là giảm giá 20% hoặc nhiều hơn qua ít nhất một khoảng thời gian hai tháng."
Ví dụ: Một thị trường gấu theo sau sụp đổ phố U-ôn năm 1929 và xóa 89% (386-40) vốn hóa thị trường của Trung bình công nghiệp Dow Jones vào tháng 7 năm 1932, đánh dấu sự bắt đầu của Đại suy thoái. Sau khi lấy lại gần 50% thiệt hại của nó, một thị trường gấu dài hơn từ 1937-1942 đã xảy ra, trong đó thị trường một lần nữa lại bị cắt giảm đi một nửa. Một thị trường gấu dài hạn xảy ra từ khoảng 1973-1982, bao gồm các khủng hoảng năng lượng năm 1970 và thất nghiệp cao của đầu những năm 1980. Tuy nhiên, một thị trường gấu khác đã xảy ra giữa tháng 3 năm 2000 và tháng 10 năm 2002. Các ví dụ gần đây nhất xảy ra giữa tháng 10 năm 2007 và tháng 3 năm 2009, là kết quả của khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay.
Đỉnh thị trường.
Một đỉnh thị trường (hoặc cao thị trường) thường không phải là một sự kiện đầy kịch tính. Thị trường chỉ đơn giản là đã đạt đến điểm cao nhất mà nó sẽ đạt, trong một thời gian (thường là vài năm). Nó được định nghĩa theo cách hồi tố do những người tham gia thị trường không nhận thức được nó khi nó xảy ra.
Một sự suy giảm thường đi theo sau đó, từ từ lúc ban đầu và về sau với tốc độ nhanh chóng hơn.
William J. O'Neil và công ty báo cáo từ những năm 1950 một đỉnh thị trường được đặc trưng bởi ba đến năm ngày phân phối tại một chỉ số thị trường chính xảy ra trong một thời gian tương đối ngắn. Phân phối là một suy giảm trong giá với khối lượng cao hơn so với phiên trước đó.
Ví dụ: Đỉnh cao của bong bóng dot-com (được đo bằng NASDAQ-100) xảy ra vào ngày 24 Tháng Ba năm 2000. Chỉ số này đóng cửa ở mức 4,704.73 và đã không trở lại kể từ khi đến mức đó. Chỉ số Nasdaq đạt mức cao nhất 5,132.50 và chỉ số S&P 500 tại 1.525,20. Một điểm cao mới cho thị trường Mỹ rộng là 09 tháng 10 năm 2007. Chỉ số S&P 500 đóng cửa ở mức 1565 và Nasdaq ở 2.861,50.
Đáy thị trường.
Một đáy của thị trường là một sự đảo ngược xu hướng, kết thúc của một suy thoái thị trường, và trước sự khởi đầu của một xu hướng di chuyển lên phía trên (thị trường bò). Rất khó khăn để xác định đáy (được gọi bởi các nhà đầu tư là "bắt đáy") trong khi nó đang xảy ra. Sự tăng sau khi giảm thường là ngắn ngủi và giá có thể lại tiếp tục suy giảm của chúng. Điều này sẽ có thể mang lại mất mát cho nhà đầu tư mua chứng khoán trong đáy của thị trường bị đánh giá sai hoặc đáy "sai". Baron Rothschild được cho là đã khuyên rằng thời gian tốt nhất để mua là khi có "đổ máu trên phố", tức là, khi thị trường đã giảm rất mạnh và tâm lý nhà đầu tư là cực kỳ tiêu cực.
Một số ví dụ về đáy của thị trường, theo các giá trị đóng cửa của Trung bình công nghiệp Dow Jones (DJIA) bao gồm:
Xu hướng phụ.
Các xu hướng phụ là các thay đổi ngắn hạn theo hướng giá trong một xu hướng chính. Thời gian là vài tuần hoặc vài tháng.
Một loại xu hướng thị trường thứ cấp được gọi là điều chỉnh thị trường. Điều chỉnh là một sự suy giảm giá ngắn hạn từ 5% đến 20% hoặc hơn. Sự điều chỉnh là một di chuyển đi xuống mà là không đủ lớn để có một thị trường gấu (ex post).
Một dạng khác của xu hướng phụ được gọi là một hồi phục thị trường gấu (đôi khi được gọi là "hồi phục non nớt" hay "trả lại con mèo chết") bao gồm một sự gia tăng giá cả thị trường chỉ 10% hoặc 20% và sau đó là thịnh hành, lấy lại xu hướng thị trường gấu. Các hồi phục thị trường gấu đã xảy ra trong chỉ số Dow Jones sau sụp đổ thị trường chứng khoán năm 1929 dẫn xuống đến đáy thị trường vào năm 1932, và trong suốt cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970. Chỉ số Nikkei 225 Nhật Bản đã được đặc trưng bởi một số hồi phục thị trường gấu kể từ cuối những năm 1980 trong khi trải qua một xu hướng đi xuống dài hạn tổng thể.
Xu hướng trường kỳ.
Một xu hướng thị trường trường kỳ là một xu hướng dài hạn kéo dài từ 5 đến 25 năm và bao gồm một loạt các xu hướng chính. Một thị trường gấu trường kỳ bao gồm các thị trường bò nhỏ hơn và thị trường gấu lớn hơn, thị trường tăng trường kỳ bao gồm các thị trường bò lớn hơn và thị trường gấu nhỏ hơn.
Trong thị trường tăng trường kỳ xu hướng phổ biến là "tăng" hoặc di chuyển lên. Thị trường chứng khoán Hoa Kỳ được mô tả là trong một thị trường tăng trường kỳ từ khoảng 1983 đến 2000 (hoặc 2007), với các rối loạn ngắn bao gồm sụp đổ năm 1987 và sự sụp đổ thị trường 2000-2002 bị kích hoạt bởi bong bóng công nghệ Internet.
Trong một thị trường gấu trường kỳ, xu hướng phổ biến là "giảm giá", hoặc di chuyển xuống. Một ví dụ về một thị trường gấu trường kỳ xảy ra trong vàng giữa tháng 1 năm 1980 đến tháng 6 năm 1999, mà đỉnh cao với Đáy Brown. Trong thời gian này giá vàng danh nghĩa đã giảm từ mức cao 850 USD/ao-xơ (30 USD/g) đến mức thấp 253 USD/ao-xơ (9 USD/g), và trở thành một phần của Đại khủng hoảng hàng hóa toàn cầu.
Cảm tính đầu tư.
Cảm tính nhà đầu tư là một Chỉ báo thị trường chứng khoán trái ngược. Theo định nghĩa, thị trường cân bằng người mua và người bán, vì vậy nó không thể có nghĩa là 'người mua hơn người bán' hoặc ngược lại, mặc dù đó là một biểu hiện phổ biến. Thị trường gồm có các nhà đầu tư và các thương nhân. Các nhà đầu tư có thể làm chủ một chứng khoán trong nhiều năm; các thương nhân đặt một vị trí trong vài tuần cho tới vài giây. Nói chung, các nhà đầu tư theo một chiến lược mua-cao, bán-thấp. Các thương nhân cố gắng "làm giảm" các hành động của các nhà đầu tư (mua khi họ bán, bán khi họ mua). Một dâng lên trong cầu từ những nhà đầu tư nâng cao giá chào (asks) của các thương nhân, trong khi một dâng lên trong cung đánh vào giá mời (bids) của các thương nhân.
Khi một bộ phận các nhà đầu tư biểu hiện một cảm tính có tính Bò (tiêu cực), một số nhà phân tích xem nó là một tín hiệu mạnh rằng một đáy thị trường có thể đã cận kề. Khả năng dự đoán của một tín hiệu như vậy (xem cảm tính thị trường) được chuyển thành cao nhất khi cảm tính nhà đầu tư đạt tới các giá trị cực đoan. Các chỉ báo đo lường cảm tính nhà đầu tư có thể bao gồm:
David Hirshleifer nhìn thấy trong hiện tượng xu hướng một đường dẫn bắt đầu với dưới phản úng và kết thúc trong quá phản ứng bởi các nhà đầu tư/nhà đầu cơ.
Ảnh hưởng.
Xu hướng thị trường có nhiều biến động về nhân khẩu học và công nghệ. Trong một cái nhìn kinh tế vĩ mô, tình trạng hiện tại của niềm tin người tiêu dùng trong chi tiêu sẽ thay đổi lưu thông tiền tệ. Trong một cái nhìn kinh tế vi mô, nhân khẩu học trong một thị trường sẽ thay đổi sự tiến bộ của các doanh nghiệp và các công ty. Với sự ra đời của Internet, người tiêu dùng có quyền truy cập vào các nhà cung cấp khác nhau cũng như các sản phẩm và dịch vụ thay đổi theo hướng mà thị trường sẽ đi thay thế.
Mặc dù vậy, người ta tin rằng xu hướng thị trường theo một hướng trên một vấn đề thời gian, có nhiều yếu tố khác nhau có thể thay đổi ý tưởng này. Đường cong công nghệ chữ S như được giải thích trong cuốn sách Lưỡng nan của Người đổi mới. Nó khẳng định công nghệ mà sẽ bắt đầu chậm sau đó tăng lên trong một lần người dùng hiểu rõ hơn, cuối cùng chững lại một khi công nghệ khác thay thế nó. Điều này cho thấy sự thay đổi trên thị trường là thực sự phù hợp. | 1 | null |
Hoa tai (danh pháp khoa học: Asclepias curassavica) là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Mô tả.
Các cây điển hình là cây con thường xanh mọc dài đến 1 m (3,3 ft) và có thân màu xám nhạt. Những chiếc lá mọc đối trên thân cây và có hình dạng mũi giáo hoặc hình mũi giáo-chữ nhật, kết thúc bằng các đầu nhọn hoặc sắc. Giống như các thành viên khác của chi, nhựa đục như sữa. Những bông hoa có trong các xim với 10-20 hoa mỗi xim. Chúng có tràng hoa và vành hoa màu tía hoặc đỏ và thùy hoa màu vàng hoặc màu da cam. Hoa nở gần như quanh năm. Quả dài 5–10 cm (2.0–3.9 in), quả có hình dạng hình thoi được gọi là nang. Các nang chứa hạt màu nâu đến nâu có hình dạng noãn và dài 6–7 mm (0,24–0,28 in). Các hạt phẳng có lông mượt mà cho phép các hạt nổi trên dòng không khí khi các nang giống như vỏ (tách ra mở).
Trồng.
Có một số giống khác nhau với màu hoa khác, một số có hoa màu đỏ rực rỡ, màu vàng hoặc màu cam. Hoa loài này trông rất rực rỡ trong vườn bướm hoặc khi cắt để cắm. Tuy nhiên, khi thân cây hoặc lá bị vỡ, chúng tiết ra nhựa màu sữa có thể gây tổn thương mắt.
Phân bố.
"Asclepias curassavica" được "NatureServe" mô tả là một "loài phổ biến, từ miền Nam Bắc Mỹ đến Trung Mỹ và vào Nam Mỹ."
Nó là một loài được du nhập ở các bang California, Florida, Hawaii, Louisiana, Tennessee và Texas, cũng như các vùng lãnh thổ chưa được hợp nhất của Hoa Kỳ của Puerto Rico và Quần đảo Virgin thuộc Hoa Kỳ.
Nó đã được du nhập ở các tỉnh An Huy, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Hải Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tô, Giang Tây, Thanh Hải, Tứ Xuyên, Xizang, Vân Nam và Chiết Giang, cũng như ở Đài Loan.
Nó được coi là một loại dị thảo, nhưng không phải là cỏ dại, tại Dự án Meteor Downs South gần Rolleston, Queensland, Australia. | 1 | null |
Asclepias purpurascens là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được L. mô tả khoa học đầu tiên năm 1753.
Tình trạng bảo tồn tại Hoa Kỳ.
Nó được liệt kê có nguy cơ tuyệt chủng ở Massachusetts và Wisconsin, như lịch sử đến Rhode Island, và là một loài quan tâm đặc biệt ở Connecticut [3] và Tennessee.
Sử dụng.
Giống như các thành viên khác của cỏ sữa, một số loài côn trùng sống trong cây này, bao gồm bướm vua ("Danaus plexippus"), bọ cánh cứng "Tetraopes tetraophtalmus", bọ rùa lớn "Oncopeltus fasciatus", bọ rùa nhỏ "Lygaeus kalmii" và bọ cánh cứng "Labidomera clivicollis". Các loài côn trùng và côn trùng khác ăn mật hoa.
Loài này đôi khi được trồng trong các khu vườn được thiết kế để thu hút bướm, nhưng ít phổ biến hơn so với "Asclepias incarnata" hoặc cỏ dại màu cam "Asclepias tuberosa". Mật hoa của cây cũng thu hút nhiều loài bướm và côn trùng khác. | 1 | null |
Atherandra acutifolia là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Joseph Decaisne mô tả khoa học đầu tiên năm 1844.
Phân bố.
Loài này phân bố trong khu vực từ Đông Dương tới Tây Malesia; bao gồm Indonesia (Java, Sumatra), Malaysia bán đảo, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam. | 1 | null |
Baseonema gregorii là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Friedrich Richard Rudolf Schlechter và Alfred Barton Rendle mô tả khoa học đầu tiên năm 1896.
Mô tả.
Là dây leo với nhựa mủ trắng. Thân cây dạng gỗ, vỏ màu nâu, thân non có lông tơ, thân già lông tơ thưa thớt. Lá từ có lông tơ đến có lông nhung; cuống lá dài 0,5-1,0 cm; phiến lá hình trứng rộng đến hình elip rộng đến gần tròn, 2-4 × 2–4 cm, từ nhọn đến nhọn hoắt, uốn ngược lại, mép gợn sóng, đáy tù, mặt trên màu xanh lục sẫm, mặt dưới màu lục nhạt. Cụm hoa ít hoa, có lông tơ thưa thớt, màu ánh tía, các mắt có lông mịn như len; cuống cụm hoa chính dài 2-4 (-7) cm, cuống cụm hoa thứ cấp dài 1–5 cm. Lá bắc hình kim, dài 1–2 mm, mặt ngoài có lông măng. Cuống hoa dài 1–4 cm. Lá đài hình trứng đến tam giác, 1-2 × 1 mm, mặt ngoài có lông nhung. Tràng hoa từ màu xanh lục chanh đến màu lục-vàng đốm nâu hạt dẻ, mặt ngoài có lông nhung, mặt trong nhẵn nhụi; ống tràng dài 1 mm, uốn ngược ở chân miện hoa; thùy thuôn dài, 4-5 × ± 2 mm, đỉnh tù, gân chính nổi rõ. Chân miện hoa hình trứng-tam giác, dài ± 1 mm, không có thùy miện hoa; các thùy mật giữa các nhị có lưỡi bẹ, từ nhọn đến chẻ đôi, dài ± 1 mm. Vòi nhụy dài ± 1 mm; đầu vòi hình nón-hình trứng, phần chuyển tiếp đế hoa hình trứng với cuống thẳng và đĩa dính hình gần cầu. Quả đại dài 5–10 cm, đường kính 7–11 mm, từ có lông măng đến nhẵn nhụi. Hạt 10-11 × 2 mm, ép chặt; mào lông đầu hạt dài 2–3 cm.
Sinh thái học.
Rừng cây bụi khô hoặc rừng thường xanh trên các mỏm đá; ở cao độ 600-1.500 m. Có tại Kenya và đông bắc Tanzania. | 1 | null |
Batesanthus purpureus là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Nicholas Edward Brown mô tả khoa học đầu tiên năm 1896.
Phân bố.
Loài này có tại Cameroon, Cộng hòa Dân chủ Congo, Cộng hòa Trung Phi, Gabon, Bờ Biển Ngà, Liberia, Nigeria. The Plant List hiện tại coi "Batesanthus talbotii" là loài tách biệt. | 1 | null |
Đại học quốc lập Đài Loan hay còn gọi là Đại học Đài Loan (tiếng Anh: National Taiwan University, viết tắt: NTU; tiếng Trung: ) là một trường đại học quốc gia nam nữ đồng giáo ở Đài Bắc, Đài Loan. Ở Đài Loan, trường này thường được gọi là "Đài Đại" (臺大). Khu trường sở chính rộng 1.086.167 m² tọa lạc tại Đại An, Đài Bắc. Ngoài ra, trường còn có 6 khu trường sở tại Đài Bắc và các nơi khác với tổng diện tích là 345.830.000 m² (chiếm 1% lãnh thổ Đài Loan). Đại học Quốc gia Đài Loan bao gồm 11 học viện, 54 khoa, 103 viện nghiên cứu và 4 trung tâm nghiên cứu. Vào năm 2010, trường có 17.514 sinh viên đại học và 15.824 nghiên cứu sinh.
Trường được thành lập năm 1928 bởi chính quyền Nhật Bản dưới thời Nhật chiếm đóng Đài Loan và khi đó được gọi là Đại học Đế quốc Taihoku (Đài Bắc). Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc tiếp quản việc quản lý Đại học Taihoku và tái tổ chức và đổi tên nó thành Đại học Quốc gia Đài Loan vào 15 tháng 11 năm 1945.
NTU vẫn thường được coi là đại học hàng đầu và danh giá nhất ở Đài Loan. Nó có mối quan hệ khăng khít với Academia Sinica (viện nghiên cứu trung ương của Đài Loan).
Giảng dạy.
NTU đào tạo các hệ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ trong nhiều lĩnh vực. Sinh viên được phép lựa chọn bất cứ khóa học nào của các trường cao đẳng thuộc NTU, tuy nhiên sinh viên cần phải hoàn thành các môn học bắt buộc của mỗi chuyên ngành nếu muốn được cấp bằng. Mỗi sinh viên phải xác nhận chuyên ngành mình sẽ theo học khi họ xin học. Một vài chuyên ngành có tính cạnh tranh cao hơn các chuyên ngành khác và yêu cầu kết quả học tập cao hơn. Gần đây, y học, kỹ thuật điện, luật và tài chính là các ngành được nhiều sinh viên lựa chọn nhất. Hầu hết các chuyên ngành cần 4 năm để hoàn thành, trong khi sinh viên theo học ngành nha khoa và y học lần lượt mất 6 và 7 năm để ra trường.
Tổng số sinh viên của NTU là 33.000, bao gồm trên 17.000 sinh viên đại học và 15.000 nghiên cứu sinh. Đội ngũ giảng viên và sinh viên của trường đã có trên 5000 nghiên cứu được xuất bản vào năm 2010.
Xếp hạng thế giới.
NTU được đánh giá là đại học tốt nhất Đài Loan.
QS World University Rankings (2015) xếp hạng NTU thứ 70 toàn cầu và 22 tại châu Á, đứng thứ 15 toàn cầu ở ngành kỹ thuật điện - điện tử, thứ 32 toàn cầu về các ngành khoa học tự nhiên. Bảng xếp hạng các trường đại học châu Á của QS (độc lập với bảng xếp hạng trên) xếp nó ở vị trí 22 ở châu Á. Ở cả hai bảng xếp hạng, nó đều là trường đại học tốt nhất Đài Loan.
Trong khi đó, NTU được xếp thứ 167 toàn cầu và 17 ở châu Á trong bảng xếp hạng các đại học thế giới của Times Higher Education (2015-16).
Cựu sinh viên.
Đại học quốc gia Đài Loan đã sản sinh ra nhiều cựu sinh viên nổi tiếng. Bà Thái Anh Văn (luật khoa) vừa đắc cử tổng thống Trung Hoa Dân Quốc năm 2016. Mã Anh Cửu, (luật khoa) tổng thổng đương nhiệm tính đến 5/2016, cũng như các cựu tổng thống Lý Đăng Huy (nông khoa), Trần Thủy Biển (luật khoa) đều đã từng theo học NTU. Lý Viễn Triết, nhận giải Nobel Hóa học 1986, từng nhận bằng cử nhân khoa học của NTU. Trên 40 cựu sinh viên của đại học Quốc gia Đài Loan đã được nhận vào National Academy of Engineering Hoa Kỳ và Viện hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ.
Ngoài ra, NTU đã từng đào tạo những cựu sinh viên là: | 1 | null |
Anisotoma natalensis là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Rudolf Schlechter mô tả khoa học đầu tiên năm 1894 dưới danh pháp "Dichaelia natalensis". Năm 1908 Nicholas Edward Brown chuyển nó sang chi "Brachystelma" với danh pháp "Brachystelma natalense". Năm 2016 Meve "et al." chuyển nó sang chi "Anisotoma". | 1 | null |
Các Giáo hội Công giáo Cổ có gốc gác từ các nhóm đã phân ly khỏi Giáo hội Công giáo Rôma vào những thời điểm khác nhau, do bất đồng về một số giáo lý nhất định, chủ yếu liên quan đến thẩm quyển của Giáo hoàng. Các Giáo hội này không hiệp thông với Tòa Thánh Rôma nhưng hiệp thông với nhau trong Liên minh Utrecht, cũng như với Cộng đồng Anh giáo sau này. Tuy nhiên, theo giáo huấn của Giáo hội Công giáo Rôma, các Giáo hội Công giáo Cổ vẫn duy trì sự kế thừa tông truyền và các bí tích hợp lệ (thành sự).
Công giáo Cổ được phân chia thành ba nhóm chính: Hà Lan, Đức-Áo-Thụy Sĩ và Slavơ:
Cơ sở giáo lý của các Giáo hội Công giáo Cổ là bản tuyên ngôn năm 1889 ở Utrecht. Gồm các điều khoản chính như: Chống lại quyền tối thượng của Giáo hoàng và việc buộc phải xưng tội tại tòa giải tội; chủ trương giáo sĩ được phép kết hôn; chấp nhận Bảy Công đồng đại kết đầu tiên là những Công đồng đã minh định những tín lý Kitô giáo thích đáng.
Năm 1925, các Giáo hội Công giáo Cổ này chính thức nhìn nhận việc phong chức của các Giáo hội thuộc Cộng đồng Anh giáo là hợp lệ. Năm 1932, họ hiệp thông hoàn toàn với Giáo hội Anh, dựa trên những thỏa thuận của bản Hiệp định Bonn ngày 2 tháng 7 năm 1931. | 1 | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.