text
stringlengths
1
148k
label
int64
0
2
__index_level_0__
int64
0
113k
Người Hittite (Ḫa-at-tu-ša / 𒄩𒀜𒌅𒊭) có gốc là người Anatolia cổ đại đã thành lập một đế chế tập trung tại Hattusa ở Anatolia Bắc Trung Đông khoảng năm 1600 TCN. Đế chế này đạt đến đỉnh cao vào giữa thế kỷ 14 trước Công nguyên theo Suppiluliuma I, khi nó bao trùm một khu vực bao gồm hầu hết Anatolia cũng như các phần của vùng phía bắc Levant và Mesopotamia trên. Giữa thế kỷ 15 và 13 TCN đế chế Hittite đã xung đột với đế chế Ai Cập, Đế quốc Assyrian Trung cổ và đế chế Mitanni để kiểm soát vùng Cận Đông. Người Assyria cuối cùng đã nổi lên như là quyền lực thống trị và sáp nhập phần lớn đế quốc Hittite, trong khi những người còn lại đã bị những người mới đến Phrygian sa thải cho khu vực. Sau c. 1180 TCN, trong thời kỳ đồ đồng, người Hittites nảy nở thành nhiều thành phố độc lập "Neo-Hittite" độc lập, một số đã tồn tại cho đến thế kỷ 8 trước Công nguyên trước khi lâm trận với Đế quốc Tân Assyrian. Ngôn ngữ Hittite là một thành viên riêng biệt của nhánh Anatolian thuộc họ ngôn ngữ Ấn-Âu, và cùng với ngôn ngữ Lu có liên quan, là ngôn ngữ lịch sử lâu đời nhất của Ấn - Âu. [2] Họ đã đề cập đến quê hương của họ như Hatti. Cái tên thông thường "Hittites" là do sự nhận dạng ban đầu của họ với những người theo Kinh thánh Hittites trong khảo cổ học thế kỷ 19. Mặc dù sử dụng tên Hatti cho lãnh thổ cốt lõi của họ, Hittites nên được phân biệt với Hattians, một người sớm hơn những người sống ở cùng một khu vực (cho đến khi bắt đầu của thiên niên kỷ 2 TCN) và nói một ngôn ngữ không liên quan được gọi là Hattic. Trong những năm 1920, sự quan tâm đến người Hittites tăng lên cùng với sự ra đời của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại và thu hút sự chú ý của các nhà khảo cổ như Halet Çambel và Tahsin Özgüç, dẫn đến việc giải mã các chữ tượng hình người Hittite. Trong thời kỳ này, lĩnh vực mới của tiếng Hittitology cũng ảnh hưởng đến việc đặt tên cho các tổ chức, chẳng hạn như ngân hàng quốc doanh Etibank ("ngân hàng Hittite"), và nền tảng của Bảo tàng văn minh Anatolian ở Ankara, cách 200 km về phía tây của thủ đô Hittite và nhà ở là triển lãm toàn diện nhất về các hiện vật Hittite trên thế giới. Lịch sử của nền văn minh Hittite được biết đến chủ yếu từ các văn bản hình chữ nhật được tìm thấy trong khu vực của vương quốc của họ, và từ sự tương giao ngoại giao và thương mại được tìm thấy trong các văn khố khác nhau ở Assyria, Babylonia, Ai Cập và Trung Đông, việc giải mã đó cũng là một sự kiện quan trọng trong lịch sử của ngôn ngữ học Đông Âu. Quân Hittite đã sử dụng thành công xe cộ [5], và mặc dù thuộc thời đại đồ đồng, người Hittites là tiền thân của thời kỳ đồ sắt, phát triển sản xuất hiện vật bằng sắt từ đầu thế kỷ 18 trước Công nguyên; vào lúc này, những món quà từ "người đàn ông Burushanda" của một ngai sắt và một cái búa sắt cho vua Kaneshite Anitta đã được ghi lại trong văn bản Anitta. Khám phá khảo cổ. Khám phá ban đầu. Học giả người Pháp Félix Marie Charles Texier đã phát hiện khu di tích Hittite đầu tiên vào năm 1834, nhưng không xác định được họ là người Hittite. Các bằng chứng khảo cổ học đầu tiên cho người Hittites xuất hiện trong các viên thuốc được tìm thấy ở thuộc địa của Kyrltepe (Karum Kanesh cổ) thuộc Assyrian, chứa đựng những ghi chép về thương mại giữa các thương gia Assyria và "đất Hatti" nhất định. Một số tên trong bảng không phải là Hattic hay Assyrian, nhưng rõ ràng là người Ấn - Âu. Văn bản trên một tượng đài tại Boğazköy bởi một người "Hattusas" do William Wright phát hiện năm 1884 đã được tìm thấy để phù hợp với các chữ viết chữ tượng hình từ Aleppo và Hamath ở Bắc Syria. Năm 1887, các cuộc khai quật tại Tell El-Amarna ở Ai Cập đã khám phá được sự tương giao ngoại giao của Pharaoh Amenhotep III và con trai Akhenaton. Hai trong số các chữ cái từ một "vương quốc Kheta" - nằm ngay trong khu vực chung chung giống như các tài liệu tham khảo Mesopotamian để "đất của Hatti" - được viết bằng kịch bản chữ nhật Akkadian chuẩn, nhưng bằng một ngôn ngữ không rõ; mặc dù các học giả có thể đọc nó, không ai có thể hiểu nó. Ngay sau đó, Archibald Sayce đã đề xuất rằng Hatti hay Khatti ở Anatolia là giống hệt với "vương quốc Kheta" được đề cập trong các văn bản Ai Cập này, cũng như với các Hittites Kinh thánh. Những người khác, như Max Müller, đồng ý rằng Khatti có lẽ là Kheta, nhưng đề nghị kết nối nó với Biblical Kittim, hơn là với "Children of Heth". Nhận dạng của Sayce đã được chấp nhận rộng rãi trong suốt quá trình đầu thế kỷ 20; và tên "Hittite" đã trở nên gắn bó với nền văn minh được khám phá tại Boğazköy. .Trong các cuộc khai quật không thường xuyên ở Boğazköy (Hattusa) bắt đầu từ năm 1906, nhà khảo cổ học Hugo Winckler đã tìm thấy kho lưu trữ hoàng gia với 10.000 viên, được ghi bằng hình nêm Akkadian và cùng một ngôn ngữ không rõ là chữ Ai Cập từ Kheta. Ông cũng đã chứng minh rằng những tàn tích ở Boğazköy là phần còn lại của thủ đô của một đế quốc, có lúc đã kiểm soát miền bắc Syria. Dưới sự chỉ đạo của Viện khảo cổ học Đức, các cuộc khai quật tại Hattusa đã được tiến hành từ năm 1907, với sự gián đoạn trong các cuộc chiến tranh thế giới. Kültepe đã được khai quật thành công bởi Giáo sư Tahsin Özgüç từ năm 1948 cho đến khi ông qua đời vào năm 2005. Các cuộc khai quật nhỏ cũng đã được thực hiện ở khu vực xung quanh ngay lập tức của Hattusa, bao gồm cả thánh địa Yazılıkaya, trong đó có nhiều công trình cứu hộ bằng đá miêu tả các nhà cai trị Hittite và các vị thần của thần thoại Hittite.
1
null
Thiện Hùng Tín ( , ? – 621), tại Việt Nam tên nhân vật này thường được đọc thành Đơn Hùng Tín, nhân vật quân sự cuối Tùy đầu Đường. Hình tượng trong chính sử. Ghi chép về Thiện Hùng Tín ở Cựu và Tân Đường Thư đều rất sơ lược. Sự tích về ông chỉ được chép phụ vào Lý Mật truyện như sau: Ông là người Tế Âm, Tào Châu , có quan hệ rất tốt với Trạch Nhượng. Từ nhỏ đã kiêu dũng, giỏi cưỡi ngựa múa thương. Năm Đại Nghiệp thứ 12 (616) nhà Tùy, cùng người trong quận là bọn Từ Thế Tích tham gia Ngõa Cương quân của Nhượng. Trong nghĩa quân, ông được gọi là "phi tướng". Năm thứ 14 (618), nghĩa quân dưới sự lãnh đạo của Lý Mật (đã giết Trạch Nhượng vào tháng 11 năm 617) thất bại dưới tay Vương Thế Sung ở trận Yển Sư, Thiện Hùng Tín đơn độc đầu hàng Thế Sung, trong khi bọn Từ Thế Tích quy hàng nhà Đường. Ông được Thế Sung trọng dụng, cho làm Đại tướng quân. Tần Vương Lý Thế Dân vây Lạc Dương (đô thành nước Trịnh của Thế Sung), Thiện Hùng Tín chống cự, cắp thương đuổi đến, sắp bắt kịp Tần Vương, Từ Thế Tích kêu lớn: "Đây là Tần Vương đấy!", ông hoảng sợ, lui về, Tần Vương mới thoát được. Thế Sung hàng Đường, Thiện Hùng Tín bị chém đầu. Uất Trì Kính Đức truyện còn chép việc Thiện Hùng Tín ở vườn Ngự Quả đuổi giết Lý Thế Dân, bị Kính Đức đâm ngã ngựa. Lý Tích truyện chép việc Từ Thế Tích đến đưa tiễn trước lúc chịu hình, đã cắt đùi dâng thịt cho ông. Hình tượng trong huyền sử. Trải qua một thời gian dài, sự tích về Thiện Hùng Tín được xây dựng dựa trên truyền kỳ dân gian, tạp kịch đời Nguyên – Minh và tiểu thuyết thông tục đời Thanh có thể tóm lược như sau: Ông có tên là Thiện Thông (chữ Hán: 单通, 581 - 621), tự Hùng Tín (雄信), sống ở Nhị Hiền Trang, cách 8 dặm về phía nam ngoài thành huyện Thiên Đường, Lộ Châu , nguyên quán Thiền Phụ, Tào Châu . Ông nội là Thiện Đăng, Hộ quốc tướng quân nhà Bắc Chu, trấn thủ phủ Đông Xương . Năm Đại Tượng đầu tiên (579) cha là Thiện Vũ thay chức trấn thủ Đông Xương. Năm Khai Hoàng đầu tiên (581) nhà Tùy, Lý Uyên đem quân trấn áp những kẻ chống đối, vây Đông Xương suốt 7 ngày đêm. Thành vỡ, Thiện Vũ bị giết. Nhà họ Thiện được gia tướng bảo vệ, chạy khỏi Sơn Đông, dời đến Lộ Châu. Hùng Tín và anh trai Hùng Trung đều văn võ toàn tài, được mọi người kính ngưỡng, gọi là "nhị hiền". Vào lúc Lý Uyên làm quan ở Thái Nguyên, bị Vũ Văn Thuật phái Cấm vệ quân của Đông Cung đến tập kích, ông ta giục ngựa bỏ chạy, trong khi đám vệ sĩ ít ỏi gắng sức chặn địch, sau đó được Tần Thúc Bảo giúp đỡ đánh tan Cấm vệ quân. Lý Uyên không biết truy binh đã bị đẩy lui, trong lúc buộc phải dừng lại cho ngựa lấy hơi, thoáng thấy bóng kỵ sĩ chạy đến, ông ta bèn giương cung bắn ngay một phát, thì ra đó lại là Thiện Hùng Trung vô can. Ngoài 20 tuổi, Hùng Tín kết giao rộng rãi, nổi danh khắp giới lục lâm, từng giúp đỡ Tần Thúc Bảo trong lúc khốn quẫn đến nỗi phải bán ngựa. Thiên hạ loạn lạc, ông gia nhập nghĩa quân Ngõa Cương. Sau khi nghĩa quân thất bại, Hùng Tín vì thù giết cha giết anh, không đi theo mọi người, quyết định đầu hàng lực lượng đối kháng với nhà Đường là Vương Thế Sung. Năm Vũ Đức thứ 4 (621), Tần Vương Lý Thế Dân vây chặt Vương Thế Sung ở Lạc Dương, Hùng Tín đưa quân xông ra, bị khốn ở núi Phục Ngưu. Sau 3 ngày đêm huyết chiến, ông cảm thấy vô vọng, thúc ngựa nhảy khỏi vách đá, nhưng không chết, nên bị bắt sống. Hùng Tín bị chém đầu ở Lạc Dương, hưởng dương 41 tuổi. Quá trình thay đổi của hình tượng trong huyền sử. Thời kỳ Đường – Tống. Thiện Hùng Tín là viên tướng phản Đường, từng đuổi giết Đường Thái Tông, ghi chép về ông ít ỏi là dễ hiểu. Lưu Tốc (Đường), Tùy Đường gia thoại kể rằng: "(Lý) Mật đã chết, Hùng Tín hàng Vương Sung , (Từ Thế) Tích về với nước (chỉ nhà Đường). Tích theo Hải Lăng Vương Lý Nguyên Cát đến vây Lạc Dương. Nguyên Cát cậy mình có dũng lực, thường ra ngoài săn bắn. Vương Sung biết được, nói với Hùng Tín. Ông lên ngựa xông ra, mũi thương chỉ còn cách Nguyên Cát chưa đến 1 thước, Tích hoảng hốt, kêu lên rằng: "Anh ơi, anh ơi! Đây là chủ của Tích!" Hùng Tín gò cương ngựa, cười mà nói rằng: "Sao mày không nói với anh, thì thôi vậy!"" Câu chuyện này đáng tin hơn câu chuyện mà Cựu Đường thư đã chép, nếu Từ Thế Tích chỉ kêu lên rằng: "Đây là Tần Vương đấy!" thì Hùng Tín không thể hoảng sợ mà lui về, càng không thể buông tha cho Lý Thế Dân. Đến đời Tống, đánh giá về Thiện Hùng Tín đã có sự phân biệt rất rõ nét: Tư trị thông giám, đại biểu cho giai cấp thống trị, vẫn hoàn toàn phủ định Thiện Hùng Tín. Nhưng Mạnh Nguyên Lão (Nam Tống), Đông kinh mộng hoa lục lại tôn ông làm thần linh, kể rằng dân chúng lập miếu, thờ cúng ông. Có thể thấy Thiện Hùng Tín đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với dân gian đời Tống, sự tích của ông dần được truyền kỳ hóa. Thời kỳ Nguyên – đầu Minh. Trong tạp kịch đời Nguyên và tiểu thuyết thông tục đầu đời Minh, Thiện Hùng Tín trở thành nhân vật phản diện: Thượng Trọng Hiền, vở Úy Trì Cung đơn tiên đoạt sóc viết Thiện Hùng Tín vì muốn giết Tần Vương lập công mà cắt bào dứt nghĩa với Từ Mậu Công. Đại Đường Tần Vương từ thoại (còn gọi là Đường Tần Vương bản truyện, Tiểu Tần Vương từ thoại, Tần Vương diễn nghĩa) kể rằng: "Thiện Hùng Tín là một trong Ngũ hổ tướng của Lý Mật (còn lại là La Thành, Tần Quỳnh, Trình Giảo Kim, Vương Bá Đương), trúng mỹ nhân kế của Vương Thế Sung, trở thành phò mã của Thế Sung. Vào lúc 2 nước Ngụy – Trịnh (theo tác phẩm, Lý Mật xưng là Ngụy đế, Vương Thế Sung xưng là Trịnh đế) giao chiến, Hùng Tín giết sạch hậu cung của Lý Mật, bắt hết gia quyến của các tướng đưa về Trịnh, ép họ đầu hàng. Về sau bị quân Đường bắt được, Hùng Tín nài nỉ Từ Mậu Công xin tha cho mình, nhưng bị cự tuyệt." Thời kỳ cuối Minh – Thanh. Trong tiểu thuyết thông tục cuối đời Minh và đời Thanh, Thiện Hùng Tín là hào kiệt lục lâm, trung nghĩa lưỡng toàn. Viên Vu Lệnh, Tùy sử di văn, được xem là bản mẫu của Tùy Đường diễn nghĩa, kể rằng: Thiện Hùng Tín là thủ lĩnh lục lâm, kết nghĩa với bọn Tần Thúc Bảo, Trình Giảo Kim, cùng nhau giúp đời. Nhưng nhân vật trọng tâm ở tác phẩm này là Tần Thúc Bảo. Đến Trử Nhân Hoạch (Thanh), Tùy Đường diễn nghĩa thì hình tượng chính diện của Thiện Hùng Tín – kết giao rộng rãi, cướp giàu giúp nghèo – đã được xây dựng hoàn chỉnh, trở nên vô cùng phổ biến, xóa sạch hình tượng không đẹp trong tạp kịch đời Nguyên.
1
null
"Grille" (tiếng Anh:cricket-dế) là một loại pháo tự hành được sử dụng bởi quân đội Đức Quốc xã trong thế chiến II.Dòng Grille sử dụng thân tăng Panzer 38(t) và pháo 15 cm sIG 33. Quá trình phát triển. Đơn đặt hàng 200 chiếc Grille dựa trên thân tăng mới 38(t) Ausf M do hãng BMM (Böhmisch-Mährische Maschinenfabrik) sản xuất.Nhưng vì có sự trì hoãn nên việc sản xuất được bắt đầu trên thân tăng 38(t) Ausf H, trong một vài trường hợp các thân xe tăng 38(t) được trả về nhà máy để tái trang bị. Grille Ausf. H. Là mẫu biến thể đầu tiên của Grille dựa trên thân tăng Panzer 38(t) Ausf. H có động cơ nằm ở phía sau.Tháp pháo của xe tăng được lược bỏ và thay thế bằng cấu trúc trên thấp-ngăn chiến đấu.Một pháo 15 cm schweres Infanteriegeschütz 33 được gắn phía trước ngăn chiến đấu bọc giáp này. Có tổng cộng 91 chiếc được sản xuất bởi hãng BMM (erstwhile ČKD Praga) ở Prague-thủ đô cộng hòa Séc từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1943.Ký hiệu của nó là 15 cm Schweres Infanteriegeschütz 33 (Sf) auf Panzerkampfwagen 38(t) Ausf. H (Sd.Kfz. 138/1). Vì mẫu H được lắp ráp trên thân tăng có giáp thân phía trước dày 50 li và 25 li ở phần ngăn chiến đấu-pháo phía trước. Grille Ausf. M. Mẫu biến thể thứ hai của Grille dựa trên thân tăng Panzer 38(t) Ausf. M có động cơ được bố trí ở giữa.Cũng giống như biến thể trước phần tháp pháo được lược bỏ và thay thế bằng cấu trúc thấp-ngăn chiến đấu.Không giống như mẫu H, mẫu M có ngăn chiến đấu lùi về phía sau, nhỏ và cao hơn bản cũ.Mẫu M cũng được trang bị pháo 15 cm schweres Infanteriegeschütz 33. Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1943 rồi từ tháng 10 năm 1943 đến tháng 9 năm 1944 với tổng cộng 282 chiếc được sản xuất, cũng như 120 xe chở đạn và thay thế pháo chính bằng ngăn đựng đạn.Nhưng những chiếc xe chở đạn này đều có thể lắp ghép lại như pháo tự hành bằng cách gắn pháo 15 cm vào.Mẫu M là mẫu biến thể cuối cùng được lắp ráp trên thân Ausf M cũng như 10 thân tăng được chuyển qua để lắp ráp Flakpanzer 38(t) cũng được dùng cho Grille. Ký hiệu chính thức của nó là 15 cm Schweres Infanteriegeschütz 33/1 auf Selbstfahrlafette 38(t) (Sf) Ausf. M (Sd.Kfz. 138/1). Lịch sử chiến đấu. Cả hai biến thể đều hoạt động ở dơn vị schwere Infanteriegeschütz cùng với trung đoàn Panzergrenadier, sư đoàn Panzergrenadier.Mỗi đơn vị được phân bổ sáu chiếc.
1
null
Đại học Bang Kansas, tên tiếng Anh là Kansas State University thường được gọi tắt là K-State, nằm tại Manhattan, Kansas, Hoa Kỳ. Trường K-State là trường đại học công lập lâu đời nhất của bang Kansas với tổng số sinh viên lên đến 23.588 trong kỳ Thu 2011. Một cơ sở khác của K-State đặt tại Salina, Kansas, dành cho Trường Công nghệ và Hàng không – một trường thành viên trong hệ thống các trường thuộc K-State - nằm tại thành phố Salina cách Manhattan 70 dặm về phía tây. Cơ sở đào tạo mới nhất là Olathe vừa được Trường K-State khai trương được hơn một năm phục vụ chủ yếu cho công tác nghiên cứu của nhà trường, được đặt tại khu Công viên Khoa học Sinh học của Bang Kansas (Kansas BioScience Park). Trường K-State được tổ chức Carnegie Classification of Institutions of Higher Education xếp loại là một trường đại học chuyên về nghiên cứu cấp cao (research university with high research - RU/H). Trường đã thành lập Văn phòng đại diện tuyển sinh tại Việt Nam tại địa chỉ 8C Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Hà Nội, Việt Nam. Văn phòng này đặt dưới sự điều hành của Capstone Việt Nam, 1 tổ chức phát triển nguồn nhân lực tại Hà Nội. Lịch sử. Đại học Bang Kansas, tiền thân là Kansas State Agricultural College, là một trường công lập được thành lập ngày 16/2/1863 trong thời kì Nội chiến tại Mỹ theo Đạo luật Morrill. Đây cũng là trường đại học đầu tiên được thành lập theo Đạo luật này. K-State đồng thời là trường đại học lâu đời nhất tại bang Kansas và lâu đời thứ ba trong Hiệp hội Big 12 (gồm 10 trường đại học công lập ở miền Trung Tây nước Mỹ). Những ngày đầu đi vào hoạt động, đại học Bang Kansas trở thành trường đại học công lập thứ hai chấp nhận nữ sinh tại Mỹ. Học kỳ đầu tiên, trường có tổng cộng 52 sinh viên, 26 nam và 26 nữ. Năm 1931, trường được đổi tên thành Đại học Nông nghiệp và Khoa học ứng dụng (Kansas State College of Agriculture and Applied Science). Đến năm 1951, theo xu hướng phát triển của các chương trình sau đại học, các nhà lập pháp bang quyết định đổi tên trường thành Đại học Nông nghiệp Bang Kansas, thậm chí ngày nay trong một số văn bản pháp lý tên này vẫn được dùng cùng lúc với cái tên Đại học Bang Kansas. Ngày 15/6/2009, ông Kirk Schulz trở thành Chủ tịch thứ 13 của Đại học Bang Kansas. Tháng 3 năm 2010, ông Kirk công bố kế hoạch phát triển K-State tầm nhìn 2025 với mục tiêu được xếp hạng là một trong 50 cơ sở đạo tạo-nghiên cứu hàng đầu quốc gia. Thông tin sơ lược. Từ năm 1987, K-State đứng đầu cả nước về số lượng sinh viên giành học bổng Rhodes, Marshall, Truman, Goldwater, và Udall với tổng số 124 giải thưởng. Đại học Bang Kansas hiện có 65 khoa tại 9 trường đại học thành viên trên các lĩnh vực: Nông nghiệp; Kiến trúc, thiết kế và lập đồ án; Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội; Quản trị kinh doanh; Giáo dục; Kỹ thuật; Khoa học con người; Công nghệ và Hàng không; và Thú y. Khoa sau đại học của trường đào tạo gần 100 chương trình Thạc sĩ và gần 50 chương trình Tiến sĩ. Năm 1991, Học viện Kỹ thuật Bang Kansas tại Salina, Kansas được sáp nhập vào Đại học Bang Kansas theo một Đạo luật của Bang, trở thành Đại học Công nghệ và Hàng không K-State. Trường đặt tại cơ sở tại Salina và thường được gọi là K-State Salina. K-State còn thường được biết đến với hàng loạt các chương trình diễn thuyết danh giá mang tên Landon, Lou Douglas, Huck Boyd, Dorothy L.Thompson. Trong những năm gần đây, chương trình diễn thuyết Landon thu hút sự tham gia của nhiều nhân vật nổi tiếng như Tổng thống George W Bush, Tổng thống Bill Clinton, Cựu Tổng thống Mexico Vicente Fox và Thẩm phán Tòa án tối cao Mỹ Sonia Sotomayor. Từ năm 1999, trường K-State bắt đầu áp dụng Quy tắc danh dự về học tập (academic honor code). Các sinh viên khi nhập học sẽ phải tuân theo lời thề danh dự: "Với tất cả danh dự và với tư cách là một sinh viên, tôi sẽ không bao giờ cung cấp hay tiếp nhận một sự trợ giúp không được phép nào trong quá trình học tập của mình." Các Thông tin về Nghiên cứu và Văn hóa. Nông nghiệp. Trường K-State đặc biệt quan tâm tới lĩnh vực Nông nghiệp, đặc biệt là đời sống động, thực vật ở vùng Great Plains. Vườn thực nghiệm Kansas State University Gardens nằm trong khuôn viên trường vừa là nơi cung cấp giáo cụ trực quan, vừa là "phòng thực hành" cho sinh viên K-State và người dân. Thảo nguyên Knoza Prairie là một khu bảo tồn các loại cỏ thân cao nằm ở Nam Manhattan, đồng sở hữu bởi Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và Đại học Bang Kansas; hoạt động như một trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dưới sự điều hành của Khoa Sinh. Trường cũng sở hữu hơn 18,000 mẫu Anh (73 km²) được sử dụng làm cơ sở Thực hành Nông nghiệp cho các trung tâm nghiên cứu đặt tại Hays, Garden City, Colby và Parsons. Văn hóa nghệ thuật. Tại K-State, có khá nhiều bảo tàng phục vụ cho việc học tập, giảng dạy, có thể kể đến như Bảo tàng Nghệ thuật Biển Marianna Kristler, Công viên côn trùng K-State, Bảo tàng Phục Trang và Dệt may KSU, và các Phòng trưng bày Chang, Chapman và Kemper. Đều đặn hàng năm, trường cũng tổ chức các chương trình biểu diễn kịch, khiêu vũ, hòa nhạc tại khán phòng McCain. Khoa học sinh vật. Năm 2006, K-State khai trương Viện nghiên cứu An toàn sinh học (Biosecurity Research Institute - BRI). Tại BRI, các nhà khoa học cùng các cộng sự làm việc hết mình để phân tích, nghiên cứu các mầm bệnh nguy hiểm, có sức tàn phá lớn. Trụ sở BRI được thiết kế và xây dựng đạt tiêu chuẩn an toàn sinh học cấp độ 3 (BSL-3) và tiêu chuẩn an toàn sinh học trong nghiên cứu nông nghiệp với cùng cấp độ (BSL-3Ag). Sự ra đời của BRI đã góp phần thu hút sự quan tâm của Hiệp hội quốc gia về bảo vệ Sinh học và Nông nghiệp (National Bio and Agro-Defense Facility - NBAF) tới trường K-State và thành phố Manhattan. Trong tương lai, NBAF sẽ xây dựng một cơ sở tại đây trên diện tích đất khoảng 46,000 m2 (500.000 mẫu Anh) nhằm mục đích sử dụng cho công tác nghiên cứu và phục vụ nghiên cứu. Chi phí xây dựng ước tính lên đến 650 triệu Đô-la. Theo sau NBAF, lãnh đạo của hai cơ quan liên bang khác cũng đã thông báo kế hoạch đến với K-State. The Arthropod-Borne Animal Disease Research Unit (ABADRU) - cơ quan chuyên trách về các loại bệnh ở động, thực vật bị gây ra bởi côn trùng đã quyết định dời phòng thí nghiệm của họ tại Laramie của Bang Wyoming về K-State để dễ dàng tiếp cận hơn với các thành quả nghiên cứu tại đây. Ngoài ra, Trung tâm Xuất sắc chuyên nghiên cứu các bệnh trên cơ thể động vật (Center of Excellence for Emerging and Zoonotic Animal Diseases - CEEZAD) đang có kế hoạch nghiên cứu mầm bệnh từ động vật truyền sang người, có nguy cơ gây thiệt hại lớn về kinh tế đối với ngành nông nghiệp Mỹ, an ninh nội địa, sức khỏe con người và các loài động vật khác. Nghiên cứu này sẽ được điều hành bởi tiến sĩ Juergen Rich của trường K-State. Chương trình diễn thuyết Landon. Đại học Bang Kansas thường xuyên tổ chức chương trình diễn diễn thuyết Landon nhằm tưởng nhớ Cựu Thống đốc Bang và cũng là ứng cử viên Tổng thống Alfred Landon. Chương trình này không chỉ dành cho sinh viên và giảng viên trong trường mà còn mở rộng cửa cho các đối tượng quan tâm khác. Chương trình thu hút sự tham gia của nhiều nhà diễn thuyết lỗi lạc, mà chủ yếu là các cựu chính trị gia và một số các quan chức đương nhiệm trong chính quyền Mỹ. Ngày 23/6/2006, Tổng thống Mỹ George W.Bush trở thành khách mời của buổi diễn thuyết thứ 143 của chương trình này tại Bramlage Coliseum. Ngày 2/3/2007, người tiền nhiệm của Tổng thống Bush, Cựu Tổng thống Bill Clinton cũng tham gia vào buổi diễn thuyết thứ 149. Ngày 23/8/2008, buổi diễn thuyết số 152 diễn ra với sự tham dự của Cựu Tổng thống Mexico Vicente Fox. Tổng cộng đã có đến 6 vị Tổng thống Mỹ và 3 Tổng thống từ các quốc gia khác là khách mời diễn thuyết tại K-State. Hàng năm, có khoảng 4 nhà diễn thuyết nhận lời đến với chương trình Landon. Thẩm phán Tòa án Tối cao Sonia Sotomayor là lãnh đạo cao cấp gần nhất diễn thuyết tại đây vào tháng 1/2011. Kĩ thuật và Vật lý. Các cơ sở nghiên cứu khác tại trường có thể kể đến Phòng thí nghiệm James R.Macdonald chuyên nghiên cứu về nguyên tử, phân tử, vật lý quang học; Trung tâm NASA nghiên cứu về lực hấp dẫn trong tế bào và các sinh vật học phát triển. Kỹ thuật lazer đa bào được phát triển bởi các nhà nghiên cứu của K-state đã mở đường cho kỹ thuật phẫu thuật LASIK. Các cơ sở ngiên cứu khác bao gồm: Thể thao. Các đội tuyển thể thao của K-State được gọi là Dã Miêu (Wildcats). Tất cả đều là thành viên của NCAA 1 và Hiệp hội Big 12 gồm 10 trường đại học công lập ở miền Trung Tây nước Mỹ. Trường là một trong số rất ít trường có một màu truyền thống duy nhất là màu tím hoàng gia. Bên cạnh đó, màu trắng và màu bạc thường được dùng bổ sung. Màu trắng cùng với màu tím đã cùng xuất hiện trong bài ca chiến đấu của trường với tên gọi: "Mèo hoang chiến thắng" (Wildcat Victory). Biểu tượng thể thao được thiết kế với hình ảnh cách điệu của hình ảnh đầu mèo và được tô màu tím hoàng gia. Các hoạt động thể thao chính thức tại trường bao gồm bóng đá, bóng rổ, bóng chày, gôn, quần vợt, đua thuyền, cưỡi ngựa và bóng chuyền. Cựu sinh viên điển hình. Từ khóa tốt nghiệp đầu tiên năm 1867, nhiều cưụ sinh viên của Đại học Bang Kansas đã đảm nhiệm nhiêu vị trí, công việc khác nhau trong xã hội. Hiện tại, Thống đốc Bang Kansas và một Thượng nghị sĩ Bang là những nhân vật tốt nghiệp từ ngôi trường này. Một số cựu sinh viên nổi tiếng khác có thể kể đến là Phó Tổng thống Liberi, Chủ tịch Viện Công nghệ Georgia, nhiếp ảnh gia trưởng của Nhà Trắng. Một số cựu sinh viên khác đã tỏa sáng tại Rock and Roll Hall of Fame và the College Football Hall Fame, một số khác đã trở thành Chủ tịch Nhân sự, giành giải Emmy hay thậm chí Huy chương vàng Olympic. Khuôn viên. Khuôn viên chính của Đại học Bang Kansas nằm tại Manhattan trên diện tích 668 mẫu Anh (2.70 km²). Từ năm 1986, K-State đã mở rộng thêm hơn 2 triệu mẫu anh (186,000 m²) diện tích sàn, trong đó bao gồm một thư viện mới, bảo tàng nghệ thuật và cơ sở nghiên cứu cây trồng.
1
null
Lỗ Hoàn công (,731 TCN-694 TCN), là vị vua thứ 15 của nước Lỗ thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 711 TCN đến 694 TCN. Ông mang họ Cơ (姬), tên là Doãn (允) hay Quỹ (軌), và Hoàn công là thụy hiệu của ông. Thân thế. Hoàn công là con trai của Huệ công với chính thất Trọng Tử (仲子), con gái của Vũ công nước Tống. Huệ công cũng có người con trai khác là Tức Cô (sau trở thành Lỗ Ẩn công), song mẹ của Tức Cô chỉ là tiểu thiếp. Mặc dù Tức Cô nhiều tuổi hơn song Hoàn công đã trở thành thế tử nhờ địa vị của mẹ. Lên ngôi. Năm 723 TCN, Lỗ Huệ công qua đời sau 46 năm trị vì. Mặc dù Cơ Doãn khi ấy đang là thế tử, song ông vẫn còn nhỏ nên Ẩn công được người nước Lỗ lập lên kế vị với thỏa thuận rằng ông ta sẽ cai trị như một nhiếp chính cho đến khi Hoàn công trưởng thành. Năm 712 TCN, công tử Huy đề nghị Ẩn công giết chết Cơ Doãn và xin làm thái tể, song Ẩn công đã từ chối, vì vẫn có dự định để lại ngôi cho Cơ Doãn. Lo ngại mình sẽ bị giết nếu sự việc này bị lộ ra, công tử Huy đã đến chỗ Cơ Doãn và vu cáo Ẩn công có kế hoạch giết chết ông, đề xuất rằng trước tiên hãy giết chết Ẩn công, và Cơ Doãn đã chấp thuận. Tháng 11 năm 712 TCN, trong lúc Lỗ Ẩn công đi tế, công tử Huy sai người giết chết Ẩn công và lập Cơ Doãn lên ngôi, tức là Lỗ Hoàn công. Dù không trực tiếp sát hại Lỗ Ẩn công, nhưng Lỗ Hoàn công vẫn bị một số sử gia quy kết trách nhiệm giết anh để giành ngôi vua. Quan hệ với láng giềng. Năm 711 TCN, Lỗ Hoàn công cùng Trịnh Trang công đổi đất cho nhau: Trịnh trao Hứa Điền cho Lỗ, Lỗ trao đất Banh cho Trịnh. Cùng năm, Hoa Đốc nước Tống giết Tống Thương công. Trịnh Trang công bèn họp các nước Lỗ, Tề, Trần cùng bàn về loạn nước Tống. Hoa Đốc bèn mang của đút lót cho cả bốn nước và xin đón công tử Phùng về nước làm vua. Lỗ Hoàn công và các chư hầu bằng lòng, vua Trịnh cho Tử Phùng về nước lên ngôi, tức là Tống Trang công. Năm 709 TCN, Lỗ Hoàn công cưới con gái Tề Hy công là Văn Khương làm vợ. Năm 706 TCN, Văn Khương sinh ra một người con trai. Vì người con trai này có cùng ngày sinh với Hoàn công, do đó được đặt tên là Đồng. Ông lập Cơ Đồng làm thế tử của nước Lỗ. Năm 697 TCN, Tống Trang công không ủng hộ Trịnh Chiêu công nên kêu gọi chư hầu các nước Lỗ, Tề, Trần, Sái đánh Trịnh để giúp em Chiêu công là Lệ công về nước. Lỗ Hoàn công hưởng ứng, nhưng cuối cùng liên quân không thắng được quân Trịnh, phải rút lui. Cũng như Lỗ Ẩn công, Lỗ Hoàn công có chủ trương lấn đất sang nước Châu nhỏ bé láng giềng. Năm 705 TCN, ông đi đánh Châu. Năm 696 TCN, nước Châu, nước Mâu và nước Cát phải đến triều kiến nước Lỗ và cùng ăn thề. Nhưng sau mấy tháng, Lỗ Hoàn công lại cùng nước Tống và nước Vệ sang đánh phá nước Châu. Năm 698 TCN, cha vợ ông là Tề Hy công qua đời và người anh vợ là Tề Tương công lên kế vị. Dù là anh vợ Lỗ Hoàn công, Tề Tương công vẫn mang quân đánh Lỗ vì Lỗ ủng hộ nước Kỷ vốn có thù với Tề. Hai bên đánh nhau không phân thắng bại. Bị hại. Sau đó Tề và Lỗ giảng hòa. Tháng 4 năm 694 TCN, Lỗ Hoàn công cùng vợ sang thăm nước Tề, dù có lời can ngăn nhưng ông không nghe theo. Phu nhân Văn Khương trước khi lấy ông đã thông dâm với Tề Tương công, dù hai người là anh em ruột. Hai vua gặp nhau ở đất Lạc. Tề Tương công gặp lại em gái, hai người lại lén tư thông. Lỗ Hoàn công biết chuyện rất giận, trách mắng Văn Khương và nói rằng thế tử Đồng không phải con mình mà là con vua Tề. Văn Khương nói lại với Tề Tương công. Vua Tề xấu hổ, tính chuyện giết Lỗ Hoàn công, bèn mời ông đến dự tiệc, chuốc cho ông uống say. Sau đó Tương công sai lực sĩ Bành Sinh đưa Lỗ Hoàn công ra xe và dặn giết Hoàn công. Bành Sinh bế ông lên xe, nhân đó bóp gãy xương sườn giết chết ông. Khi xe Lỗ Hoàn công về đến nước, mọi người thấy vua Lỗ đã chết, người nước Lỗ rất tức giận trước tội ác của Tương công, nên trách nước Tề. Tề Tương công bèn quy tội cho Bành Sinh, ra lệnh giết Bành Sinh để xin lỗi nước Lỗ. Lỗ Hoàn công làm vua được 18 năm. Người nước Lỗ lập thế tử Đồng năm đó 13 tuổi lên nối ngôi, tức là Lỗ Trang công. Những người con khác. Ngoài Trang công, Văn Khương và Hoàn công còn có hai người con trai khác tên là Thúc Nha (叔牙) và Quý Hữu (季友). Hoàn công cũng có một người con trai lớn tuổi hơn tên là Khánh Phụ (慶父) với một thê thiếp. Khánh Phụ, Thúc Nha và Quý Hữu là những người sáng lập ra ba gia tộc hùng mạnh mà sau này kiểm soát quyền lực nước Lỗ. Họ được gọi là Tam Hoàn do đều là hậu duệ của Hoàn công. Gia tộc của Quý Hữu, được gọi là Quý tôn thị, cuối cùng đã lập ra nước Phí (費). Trong tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc. Lỗ Hoàn công được biết đến trong tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc qua vụ việc sang thăm nước Tề và bị sát hại. Tề Tương công và Văn Khương bị quy trách nhiệm cho cái chết của ông. Vì Tề Tương công mang công tử Bành Sinh ra giết để che giấu tội lỗi, sau này công tử Bành Sinh đã hiện hồn báo oán khiến các tướng nổi loạn là Liên Xưng và Quản Chí Phủ phát hiện nơi ẩn nấp của vua Tề và giết Tương công.
1
null
"One Sweet Day" là một bài hát của ca sĩ người Mỹ Mariah Carey và nhóm nhạc Mỹ Boyz II Men nằm trong album phòng thu thứ năm của Carey, "Daydream" (1995). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ hai trích từ album vào ngày 14 tháng 11 năm 1995 bởi Columbia Records. Bài hát được đồng viết lời và sản xuất bởi Carey và Walter Afanasieff, cộng tác viên quen thuộc trong sự nghiệp của nữ ca sĩ, bên cạnh sự tham gia đồng viết lời từ tất cả những thành viên của Boyz II Men (Wanya Morris, Shawn Stockman, Nathan Morris và Michael McCary). "One Sweet Day" là một bản R&B ballad mang nội dung đề cập đến nỗi đau của một người trước sự ra đi của một người thân yêu, cũng như việc làm thế nào nhân vật chính nhớ đến sự hiện diện của họ để vơi đi nỗi nhớ, và cuối cùng là hy vọng nhìn thấy người đó trên thiên đường. Trong quá trình phát triển bài hát, cả hai nghệ sĩ đều đã lấy ý tưởng dựa trên câu chuyện thực về những người thân xung quanh cuộc sống họ, cũng như được lấy cảm hứng từ những nạn nhân của AIDS, một dịch bệnh đang nổi lên toàn thế giới lúc bấy giờ. Sau khi phát hành, "One Sweet Day" nhận được những phản ứng tích cực rộng rãi từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao nội dung lời bài hát ý nghĩa, cách xử lý bài hát hiệu quả, chất giọng nội lực của hai nghệ sĩ và gọi đây là một điểm nhấn nổi bật từ "Daydream". Ngoài ra, nó còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm hai đề cử giải Grammy cho Thu âm của năm và Hợp tác giọng Pop xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 38. "One Sweet Day" cũng tiếp nhận những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng ở Canada và New Zealand, và lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia nó xuất hiện, bao gồm những thị trường lớn như Úc, Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Ireland, Hà Lan, Na Uy, Thụy Điển và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, nó ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 và trụ vững trong 16 tuần liên tiếp, trở thành tác phẩm quán quân thứ mười của Carey và thứ tư của Boyz II Men tại đây, cũng như là đĩa đơn nắm giữ ngôi vị đầu bảng dài nhất trong lịch sử lúc bấy giờ, một kỷ lục nó sẽ tiếp tục nắm giữ trong 23 năm tiếp theo. Video ca nhạc cho "One Sweet Day" được đạo diễn bởi Larry Jordan, trong đó ghi lại quá trình Carey và Boyz II Men thu âm bài hát cùng nhau trong phòng thu. Vì lịch trình bận rộn của cả hai nên đã không có một video ca nhạc chính thức, bên cạnh đó họ cũng lo ngại rằng một video có nội dung rõ ràng sẽ không thể truyền tải hết thông điệp mạnh mẽ trong ca từ của nó. Nó đã gặt hái nhiều sự tán dương từ giới phê bình, những người cho rằng đây là sự lựa chọn khôn ngoan và đồng ý rằng sự mộc mạc của nó sẽ giúp khán giả nắm bắt bài hát dễ dàng hơn, cũng như nhận được một đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 1996 cho Video R&B xuất sắc nhất. Để quảng bá bài hát, hai nghệ sĩ đã trình diễn "One Sweet Day" trong một số sự kiện, bao gồm giải Grammy lần thứ 38, Buổi hòa nhạc giải Nobel Hòa bình năm 1997 và lễ tưởng niệm công nương Diana năm 1997, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của họ. Kể từ khi phát hành, nó đã xuất hiện trong nhiều album tuyển tập của Carey, như "# 1's" (1998), "Greatest Hits" (2001), "The Ballads" (2008) và "#1 to Infinity" (2015). Danh sách bài hát. Đĩa CD Đĩa CD maxi tại Nhật Đĩa CD maxi tại Anh quốc #1 Đĩa CD maxi tại Anh quốc #2 Đĩa CD maxi tại Hoa Kỳ Thành phần thực hiện. Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của "Daydream".
1
null
Tề Tương công (; ?-686 TCN) là người cai trị thứ 14 của nước Tề, một trong các thế lực chính vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có họ (tính) là Khương (姜), tên gia tộc (thị) là Lã (呂) và tên là Chư/Gia Nhi (諸兒). Dưới thời Tương công cai trị, nước Tề đã chinh phạt nước Kỷ (紀) của Khương thị, một nước láng giềng thù địch. Tuy nhiên, Tương công lại được biết nhiều hơn với sự hoang dâm vô đạo, giết người vô cớ, ông đã có quan hệ loạn luân với em gái là Văn Khương và giết chết em rể Lỗ Hoàn công. Cuối cùng, Tương công bị em họ là Vô Tri giết, Vô Tri sau đó lên ngôi. Quan hệ nội tộc. Ông là con trai của Tề Ly công – vua thứ 13 nước Tề. Năm 698 TCN, Ly công qua đời, Chư Nhi lên nối ngôi. Tề Tương công có người em họ là Khương Vô Tri hay còn gọi là Công Tôn Vô Tri – con của Di Trọng Niên – em ruột Tề Ly công. Khi Tề Ly công còn sống rất quý Vô Tri, nuôi dưỡng và cho Vô Tri hưởng chế độ như thế tử Chư Nhi. Tề Tương công khi còn là thế tử thường hay tranh chấp, xô xát với Công Tôn Vô Tri. Khi lên ngôi, ông bèn truất bỏ các chế độ mà vua cha đã ban cho Vô Tri. Giết Lỗ Hoàn công. Tương công khi còn là thế tử nước Tề đã có một mối quan hệ loạn luân với người em gái khác mẹ là Văn Khương. Năm 709 TCN, Văn Khương được vua cha Hy công gả cho Lỗ Hoàn công. Tháng 4 năm 694 TCN, Lỗ Hoàn công cùng vợ thăm nước Tề, Tương công và Văn Khương nhân dịp này lại nối lại mối quan hệ bất chính của họ Lỗ Hoàn công biết chuyện rất giận. Văn Khương không giấu được, bèn báo lại cho Tề Tương công biết. Tề Tương công lập kế giết vua Lỗ cho khỏi xấu hổ, bèn mời Lỗ Hoàn công vào uống rượu, chuốc cho vua Lỗ say. Sau đó Tương công lệnh cho một em trai khác mẹ là công tử Bành Sinh (彭生) giết chết Hoàn công. Bành Sinh theo lệnh đưa Lỗ Hoàn công ra xe, bế vua Lỗ lên xe, nhân đó bóp gãy xương sườn giết chết Lỗ Hoàn công. Khi xe vua Lỗ về đến nước, thấy vua Lỗ đã chết, người dân nước Lỗ rất tức giận trước tội ác của Tương công, trách cứ nước Tề. Tề Tương công bèn quy tội cho Bành Sinh, ra lệnh giết Bành Sinh để xin lỗi nước Lỗ. Con trai của Hoàn công và Văn Khương là thế tử Đồng lên nối ngôi, tức là Lỗ Trang công. Kết hôn. Sau cái chết của Lỗ Hoàn công, Văn Khương vẫn ở lại nước Tề và bà cùng với Tương công vẫn tiếp tục thông dâm. Năm 693 TCN, Tương công kết hôn với một người con gái của thiên tử nhà Chu, người cai trị toàn bộ Trung Quốc trên danh nghĩa, song công chúa đã qua đời chỉ một năm sau đó. Tề Tương lại kết hôn với Liên thị là em của Liên Xứng - một viên tướng dưới quyền. Can thiệp vào các chư hầu. Cùng năm Tề Tương công giết Lỗ Hoàn công, tướng Cao Cừ Di nước Trịnh giết vua là Trịnh Chiêu công, lập Tử Vĩ lên ngôi. Tháng 7 năm 694 TCN, Tử Vĩ và Cao Cừ Di sang nước Tề xin Tề Tương công ủng hộ. Nhưng ông không những không đồng tình mà bắt giết luôn Trịnh Tử Vĩ và Cao Cừ Di để trị tội sát hại Trịnh Chiêu công. Tề Tương công mang quân về phía đông đánh nước Kỷ (紀) để báo thù việc tổ tiên Tề Ai công bị vua nước Kỷ gièm pha mà bị vua nhà Chu giết chết. Năm 693 TCN, Tề đánh các thành Bình (郱), Tấn (鄑), Ngữ (郚) của Kỷ và trục xuất cư dân các thành này. Hai năm sau đó, một người em trai của Kỷ hầu đã đào thoát đến nước Tề. Biết không thể kháng cự lại cuộc xâm lược của Tề, năm 690 TCN, Kỷ hầu đã chạy trốn và giao lại đất nước cho người em trai đã chạy đến Tề, trên thực tế có nghĩa là trao đất nước cho Tề. Kỷ hầu dời đi vội vàng đến nỗi ông ta đã không an táng phu nhân của mình, bà nguyên là một công chúa của nước Lỗ. Tương công đã an táng bà theo đúng nghi lễ. Năm 688 TCN, vua nước Vệ là Huệ công bị công tử Kiềm Mâu đoạt ngôi 8 năm, xin nước Tề cứu giúp. Tề Tương công mang quân đánh Vệ, lật đổ Kiềm Mâu và lập lại Vệ Huệ công. Bị giết. Năm 687 TCN, Tề Tương công sai Liên Xưng (anh phu nhân Liên thị) và Quản Chí Phủ đi trấn thủ đất Quỳ Khâu, hẹn tới mùa dưa sang năm thì cho người khác ra thay thế. Năm 686 TCN, qua mùa dưa nhưng Tề Tương công vẫn không cho người ra thay hai tướng Quản, Liên. Có người tình nguyện xin ra trấn thủ thay nhưng ông vẫn không nghe. Hai tướng nghe tin nổi giận bàn nhau làm loạn, định lập Công Tôn Vô Tri lên ngôi. Liên Xưng vốn có em gái họ là Liên Thị là vợ Tề Tương công nhưng không được yêu. Liên Xưng sai người về nói với Liên thị làm người đưa tin và hứa sẽ cho làm vợ Vô Tri. Tháng 12 năm 686 TCN, Tề Tương công đi săn ở Bái Khâu. Liên thị ngầm sai người báo cho Liên Xưng biết. Liên Xưng và Quản Chí Phủ cùng Công Tôn Vô Tri bèn mang quân tới đột kích. Buổi đêm, Tề Tương công bị lực lượng đảo chính tới vây. Người hầu là Đồ Nhân Phí bị ông đánh roi nhưng vẫn trung thành; khi ra ngoài gặp Liên Xưng, biết mưu phản của Liên Xưng bèn giả oán trách vua, xin vào làm nội ứng, nhưng thực ra để báo tin nguy cấp cho ông. Mạnh Dương xin vào nằm ở giường để thế mạng cho Tề Tương công, còn ông ra nấp ở sau cửa để tìm cơ hội trốn. Quân Liên, Quản đánh vào, Đồ Nhân Phí cùng các vệ binh ra chống cự nhưng không đánh nổi và bị giết. Quân Liên - Quản đâm vào người nằm trên giường mới biết là đâm nhầm người khác. Vì Tề Tương công bị lộ giày sau cánh cửa nên bị quân Liên - Quản phát hiện và ập tới giết chết. Không rõ năm đó Tề Tương công bao nhiêu tuổi. Ông ở ngôi tất cả 12 năm. Công Tôn Vô Tri lên làm vua không lâu thì bị giết. Hai người em Tương công là công tử Củ và công tử Tiểu Bạch tranh nhau kế vị, cuối cùng công tử Tiểu Bạch giành được ngôi vua, tức là Tề Hoàn công. Trong văn học. Tề Tương công được đề cập trong tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc. Ông xuất hiện từ hồi 8 đến hồi 14. Những sự việc về Tề Tương công được tác phẩm mô tả kỹ là vụ giết Lỗ Hoàn công và vụ binh biến mùa dưa của Liên Xưng và Quản Chí Phủ.
1
null
Văn Khương (chữ Hán: 文姜; ? - 673 TCN), còn gọi là Tề Văn Khương (齊文姜), là một công chúa của nước Tề thời Xuân Thu và là phu nhân của Lỗ Hoàn công, mẹ của Lỗ Trang công, các vị quân chủ của nước Lỗ trong lịch sử Trung Quốc. Văn Khương cùng chị gái Tuyên Khương đều nổi tiếng có nhan sắc xinh đẹp đương thời. Việc loạn luân với người anh khác mẹ là Tề Tương công của Văn Khương đã dẫn đến việc Tương công giết chết chồng bà là Lỗ Hoàn công khi sự việc bị phanh phui. Vì sự việc tai tiếng trứ danh một thời này, Văn Khương được đời sau chép vào "Nghiệt bế truyện" (孽嬖傳) của Liệt nữ truyện. Với nhan sắc diễm lệ và điển tích trứ danh, Văn Khương được liệt vào một trong "Xuân Thu tứ đại mỹ nữ" (春秋四大美女) bên cạnh Hạ Cơ, Tức Quy và Tây Thi. Thân thế. Là dòng dõi Tề Thái công Khương Tử Nha, họ ("Tính"; 姓) của bà là "Khương" (姜) và "Văn" (文) là hiệu của bà. Thời Tiên Tần, nữ giới thường không xưng tên, chỉ được ghi lại theo hiệu (thường là thụy hiệu, xưng hiệu hoặc tên nước) cùng họ, ví dụ Tây Thi chính là họ Thi và ở thôn Tây nên gọi như vậy, cũng có Tức Quy chính là họ Quy và gả cho Vua nước Tức nên gọi như vậy. Theo lý giải của Đông Chu liệt quốc, một tiểu thuyết thời nhà Minh, Văn Khương có mặt hoa, mày liễu, nhan sắc tuyệt vời, lại thêm học hành thông thái, thi phú rất giỏi, nên đương thời người ta thường gọi bà là 「Văn Khương」. Căn cứ Sử ký, bà là con gái của Tề Hy công và là em gái của Tề Tương công và Tề Hoàn công. Tề Tương công, chư Chư Hi, là anh cùng cha khác mẹ với Văn Khương, chỉ lớn hơn bà độ vài tuổi, diện mạo phương phi, ra chiều trang nhã, nhưng phải cái tính đam mê sắc dục. Từ nhỏ đến lớn, Chư Nhi và Văn Khương thường lui tới, gần gũi nhau, do đó trong tình anh em lại có ẩn thêm một mối tình luyến ái. Tề Hy công vốn chiều con không bắt buộc giữ gìn khuôn phép, nên về sau sanh điều tệ hại. Hai người đã lén tư thông với nhau. Khi Văn Khương đến tuổi gả chồng, vì Tề Hy công muốn giao hảo với nước Lỗ nên hứa hôn Văn Khương với Lỗ Hoàn công. Trước đó, Tề Hy công có ý định để Văn Khương kết hôn với Thái tử nước Trịnh là Thái tử Hốt, Thái tử từ chối nói:「"Mỗi người đều có phối ngẫu của riêng mình. Tề Quốc là nước lớn, không thể là phối ngẫu của ta"」. Về sau bộ lạc Bắc Nhung xâm lấn nước Tề, nước Tề cầu viện nước Trịnh, Thái tử Hốt đem binh giải vây. Tề Hy công nhắc lại chuyện này, Thái tử vẫn từ chối, bảo:「"Trước kia không giúp nước Tề, ta cũng chưa dám cưới con gái Tề hầu. Hôm nay phụng mệnh của cha mà tới giải cứu nước Tề đang nguy khốn, lại nhân đó mà cưới vợ về, há chẳng phải dùng sức quân Trịnh để giải quyết chuyện cưới vợ của riêng ta ư? Bá tánh của nước Trịnh sẽ nghĩ ta như thế nào?"」. Liền từ biệt mà đi. Năm Tề Hy công thứ 22 (709 TCN), cũng rơi vào năm thứ 3 thời Lỗ Hoàn công trị vì, chính Lỗ Hoàn công sai Công tử Huy sang nước Tề đón Văn Khương về, Văn Khương do đó trở thành Phu nhân. Tề Hy công đích thân đưa tiễn bà đến đất Khoan, và Lỗ Hoàn công cũng đến đất Khoan đón vợ. Năm Lỗ Hoàn công thứ 6 (706 TCN), Văn Khương sinh ra một người con trai, người con này có ngày sinh trùng với cha, do đó được đặt tên là Cơ Đồng (姬同). Vì là Đích trưởng tử, Cơ Đồng được lập làm Thái tử của nước Lỗ. Về sau, bà lại sinh thêm Công tử Hữu. Làm loạn nước Lỗ. Năm Lỗ Hoàn công thứ 18 (694 TCN), Văn Khương cùng chồng về thăm nước Tề. Trước đó, hai nước đã có xung đột, vì Lỗ Hoàn công lại ủng hộ nước Kỷ, quốc gia vốn có tư thù với nước Tề. Khi xưa, tổ tiên nước Kỷ gièm pha hại chết tổ 9 đời của Văn Khương là Tề Ai công. Hai nước giảng hòa, hai Vua anh vợ em rể là Tề Tương công và Lỗ Hoàn công lại gặp nhau ở đất Lạc. Văn Khương gặp lại anh Tề Tương công, nảy sinh tình cảm như cũ nên lại tư thông với nhau. Lỗ Hoàn công biết chuyện rất giận, trách mắng Văn Khương và nói rằng Thái tử Đồng không phải con mình mà là con Tề Tương công. Văn Khương nói lại với Tề Tương công. Nhà vua xấu hổ, tính chuyện giết Lỗ Hoàn công, bèn mời Lỗ Hoàn công đến dự tiệc, chuốc cho Hoàn công uống say. Sau đó, Tương công sai Công tử Bành Sinh (公子彭生) đưa Lỗ Hoàn công ra xe và dặn giết Hoàn công. Bành Sinh bế vua Lỗ lên xe, nhân đó bóp gãy xương sườn giết chết Lỗ Hoàn công. Khi xe vua Lỗ về đến nước, mọi người thấy Hoàn công đã chết, người nước Lỗ trách nước Tề, nói rằng:「"Vua nước tôi luôn kính uy danh Vua nước ngài, không dám an cư, luôn chu toàn về lễ nghi. Nay lễ nghi đã vẹn mà Vua nước tôi bỏ mình, lại không có chỗ nào kêu oan được. Nay thỉnh xin Bành Sinh, đưa hắn về để thanh trừng gièm pha trong các chư hầu"」. Khi đó, Tề Tương công bèn quy tội cho Bành Sinh, ra lệnh giết Bành Sinh để xin lỗi nước Lỗ. Con trai Văn Khương và Lỗ Hoàn công là Thái tử Cơ Đồng lúc đó 13 tuổi lên nối ngôi, tức là Lỗ Trang công. Chồng chết, trở thành góa phụ, thế là Văn Khương công khai đi lại tư thông với anh ruột Tề Tương công, không thèm về nước Lỗ nữa. Để hai nhà thêm thân, Văn Khương bắt Lỗ Trang công lấy con gái Tương công, đó là Ai Khương. Vì Ai Khương còn nhỏ, Lỗ Trang công bị muộn con, Văn Khương lại ép Trang công lấy cả em gái Ai Khương là Thúc Khương (叔姜). Năm thứ 12 (686 TCN), Tề Tương công bị hai tướng Liên Xưng (連稱) và Quản Chí Phủ (管至父) làm binh biến giết chết. Dẫu vậy, Văn Khương vẫn lưu lại nước Lỗ, xa xa chỉ huy Lỗ Trang công điều hình chính sự. Không rõ bà qua đời khi nào, nhưng vào tháng giêng đầu năm Lỗ Trang công thứ 22 (672 TCN) có ghi lại việc ["Táng Tiểu quân Văn Khương nước tôi"; 葬我小君文姜], do đó ước chừng bà qua đời vào năm trước. Ngoài Trang công, Văn Khương và Hoàn công còn có hai người con trai khác tên là Cơ Thúc Nha (姬叔牙) và Cơ Quý Hữu. Lỗ Hoàn công cũng có một người con trai lớn tuổi hơn tên là Khánh Phụ (慶父) với một thê thiếp. Khánh Phụ, Thúc Nha và Quý Hữu là những người sáng lập ra ba gia tộc hùng mạnh mà sau này nằm quyền kiểm soát nước Lỗ. Họ được gọi là Tam Hoàn (三桓) do đều là hậu duệ của Hoàn công. Gia tộc của Quý Hữu, được gọi là Quý Tôn thị (季孙氏), cuối cùng đã lập ra nước Phí (費国). Đông Chu liệt quốc. Chuyện tình loạn luân giữa Văn Khương và Tề Tương công bị tác giả Phùng Mộng Long lên án trong tác phẩm tiểu thuyết nổi tiếng Đông Chu liệt quốc. Đặc biệt, hình ảnh Văn Khương được mô tả rất dâm dật. Tác giả quy trách nhiệm của việc anh em Văn Khương loạn luân là do Tề Hy công dạy con không nghiêm. Sau cái chết của Lỗ Hoàn công, nước Lỗ ở vào tình thế khó trong quan hệ với nước Tề lớn mạnh và đang bị chèn ép. Đại phu nước Lỗ đã tham mưu cho vua con Lỗ Trang công cách xử lý vụ việc rất tài tình, khéo léo để giải quyết việc vua nước Lỗ bị chết ở nước ngoài một cách không minh bạch, để giữ thể diện cho nước Lỗ nhỏ bé trong quan hệ với nước Tề lớn mạnh, và trong chừng mực bớt đi cái xấu do chính phu nhân Văn Khương gây ra. Cũng trong sách này, sau khi Tề Tương công qua đời, bà sang nước Cử và tiếp tục tư thông với thầy thuốc nước Cử.
1
null
Hồ Văn Huê (1917-1976) nguyên là đại tá, bác sĩ quân y Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, Phó cục trưởng kiêm Trưởng phòng quân y cục Hậu cần Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Tiểu sử. Ông sinh tại sở đại lý Rạch Kiến, tỉnh Chợ Lớn nay thuộc xã Phước Tuy, huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Trong một gia đình trung lưu làm nghề thuốc Bắc. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Sau khi tốt nghiệp trung học, Hồ Văn Huê được anh trai cho ra Hà Nội học. Năm 1938, Ông thi đỗ vào trường Đại học Y khoa Hà Nội. Trong thời gian ở Hà Nội, Hồ Văn Huê tham gia tích cực phong trào yêu nước của học sinh sinh viên, khích lệ lòng yêu nước của lớp trẻ, động viên lớp trẻ tham gia vào các tổ chức cứu quốc, đánh đổ đế quốc Pháp và chính quyền tay sai, đồng thời ông tham gia nhiều cuộc dã ngoại, cắm trại hè, tổ chức khám bệnh, cấp thuốc và dạy chữ Quốc ngữ cho đồng bào các địa phương. Năm 1944, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Y khoa, Hồ Văn Huê về Nam và làm việc tại Bệnh viện cao su Quảng Lợi, tỉnh Sông Bé. Cách mạng tháng Tám thành công, ông cùng lực lượng công nhân Quản Lợi thành lập chính quyền và được bầu làm chủ tịch Ủy ban nhân dân Sở cao su Quản Lợi. Kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ bùng nổ, ông vào chiến khu Đ phục vụ quân đội kháng chiến, ông từng lặn lội qua khắp các chiến trường miền Nam. Tại chiến khu, ông đã tập hợp được một đội ngũ y, bác sĩ, dược sĩ tên tuổi nhằm xây dựng ngành quân y phục vụ kháng chiến. Tại chiến khu miền Đông, Hồ Văn Huê tham gia thành lập Ban Quân y Khu 7, sau đó ông được chính quyền kháng chiến bổ nhiệm làm Trưởng quân y vụ Khu 7… Từ năm 1947, Ông đã cùng với nhiều y, bác sĩ, dược sĩ khác mở phòng Dược Khu 7, bào chế thành công nhiều loại thuốc tân dược phục vụ cho công tác phòng, chữa các bệnh nguy hiểm như sốt rét, kiết ly, sâu quảng… Năm 1954, tập kết ra Bắc, ông nhận nhiệm vụ Phó cục trưởng Cục Quân y thuộc Tổng cục Hậu cần phụ trách công tác huấn luyện, đào tạo cán bộ chuẩn bị cho chiến trường B. Với sự nhạy cảm "Nhìn xa thấy rộng" của lãnh đạo Cục Quân y, ông đã nỗ lực góp công cho ngành quân y đào tạo cấp tốc hàng trăm cán bộ cấp cao y dược đáp ứng cho nhiệm vụ chiến trường B ngay trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Đầu năm 1964, ông được cấp trên chỉ định về lại chiến trường miền Đông Nam Bộ (B2) bằng "đường Hồ Chí Minh trên biển với tàu không số" và đầu tháng 4 năm 1964 ông có mặt tại chiến trường nhận nhiệm vụ Phó Cục trưởng cục Hậu cần Miền kiêm Trưởng Phòng Quân y (B2), ông được phong quân hàm Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông giữ các chức vụ: Thứ trưởng bộ Y tế Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, đồng thời vẫn phụ trách Phó Cục trưởng cục Hậu cần Miền kiêm Trưởng phòng Quân y. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, căn bệnh hiểm nghèo do sốt rét nặng, do chất độc da cam mắc phải trong những năm kháng chiến ở chiến trường miền Đông Nam Bộ ngày một nặng thêm, ông mất vào ngày 7-4-1976 vì bệnh nặng, hưởng dương 59 tuổi, an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ TP Hồ Chí Minh. Vinh danh. • Ông đã được Nhà nước tặng nhiều huân chương cao quý.. • Tên ông, Hồ Văn Huê được đặt cho một con đường ở phường 9, Phú Nhuận, Tp Hồ Chí Minh. • Một con đường mang tên Hồ Văn Huê ở thị trấn Cần Đước quê hương ông. • Tại Chơn Thành, Bình Phước có một con đường mang tên ông. • Đường Hồ Văn Huê, ở xã Phước Tân Tp Biên Hoà, tỉnh Đồng Nai. - gần Q.lộ 51 • Đường Hồ Văn Huê, phường Nhơn Bình, Tp Quy Nhơn, Bình Định
1
null
Người giúp việc là những người được các gia đình hay cá nhân thuê làm các công việc nhà như nấu ăn, lau dọn, làm vườn hay thậm chí là chăm sóc trẻ em và người già, tùy theo yêu cầu của gia chủ. Một số người giúp việc gia đình sống trong hộ gia đình của người chủ sử dụng lao động. Trong một số trường hợp, sự đóng góp và kỹ năng của người giúp việc đảm nhận những nhiệm vụ quản lý phức tạp thuộc các hộ gia đình lớn đã nhận được sự đánh giá cao. Tuy nhiên, phần lớn, công việc giúp việc gia đình có xu hướng đòi hỏi khắt khe nhưng lại thường bị đánh giá thấp, mặc dù vai trò của họ rất cần thiết. Mặc dù đã có hệ thống luật pháp để bảo vệ người giúp việc gia đình đã có ở nhiều quốc gia, nhưng quyền lợi này thường không được thực thi rộng rãi. Ở nhiều khu vực pháp lý, công việc giúp việc gia đình có những điều lệ nghèo nàn và những người giúp việc gia đình bị lạm dụng nghiêm trọng, trong đó có cả tình trạng bị đối xử như nô lệ. Trong tiếng Việt, cụm từ trên thường được sử dụng để chỉ những người giúp việc trong nhà, mặc dù nhiều người giúp việc đảm nhiệm các công việc ngoài trời khác, như tỉa cây hay cắt cỏ. Dịch vụ giúp việc gia đình, hoặc thuê người làm công ăn lương tại nơi ở của người chủ, đôi khi được gọi đơn giản là "dịch vụ" và thường là một phần của hệ thống phân cấp tầng lớp xã hội tại nhiều khu vực và quốc gia. Ở Anh, hệ thống giúp việc trong gia đình rất phát triển đạt đến đỉnh điểm vào cuối thời đại Victoria, có lẽ đạt đến trạng thái phức tạp và có cấu trúc chặt chẽ nhất trong thời kỳ Edwardian (thời kỳ ở Hoa Kỳ được gọi là Thời đại mạ vàng và ở Pháp là thời kỳ Belle Époque), phản ánh tính di chuyển xã hội bị hạn chế trước Chiến tranh thế giới thứ nhất. Thuật ngữ. Trong tiếng Việt, một số từ ngữ khác để chỉ công việc tương đương là "người hầu", "đầy tớ", "gia nhân"... nhưng vì bản chất công việc và môi trường đã khác với hiện tại nên ngày nay ít được dùng. Từ “ô-sin” được người Việt Nam mượn từ một bộ phim truyền hình của Nhật Bản sản xuất vào những năm 1980 và trình chiếu ở Việt Nam năm 1994. Có lẽ từ vựng Việt Nam lúc ấy đang có nhu cầu tìm kiếm một từ tế nhị hơn để chỉ nghề đang dần thịnh hành trong xã hội nên từ ô-sin đã lập tức được sử dụng rộng rãi để chỉ những người giúp việc. Người giúp việc không đồng nghĩa với nô lệ. Lịch sử. Giúp việc nhà là một việc có từ lâu đời. Trước kia, hầu như chỉ có nữ giúp việc hay còn gọi là người hầu hay nô tì, tuy nhiên hiện nay ngày càng nhiều nam giới tham gia vào lực lượng lao động này. Giúp việc từng bị coi là tầng lớp dưới đáy xã hội, phải làm việc vất vả để đối lấy chỗ ở, cơm ăn, và đồng lương rẻ mạt. Các gia chủ tìm người giúp việc theo các cách rất truyền thống, mà chủ yếu là qua giới thiệu của người quen hay của giúp việc cũ khi họ nghỉ việc. Tuy nhiên, ngày nay cùng sự phát triển của xã hội, con người mà cụ thể là phụ nữ ngày một bận rộn hơn với các công tác xã hôi. Đây chính là một trong những nguyên nhân khiến cho nhu cầu người giúp việc ngày càng cao, không chỉ đối với các gia đình thượng lưu mà cả các gia đình trung lưu. Giúp việc có thể làm toàn thời gian (sống với gia chủ) hay làm bán thời gian (giúp việc theo giờ) và công việc họ đảm nhiệm cũng ngày một phong phú đa dạng hơn, thể hiện sự phát triển của xã hội. Ví dụ, ngày nay họ có thể phục vụ đồ ăn, đồ uống hay pha chế đồ uống trong các bữa tiệc tại gia. Nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa, đảm bảo quyền lợi của cả gia chủ và người lao động, ngày càng nhiều các công ty cung cấp dịch vụ giúp việc ra đời. Các công ty này còn đưa ra nhiều gói dịch vụ cho các công ty và cơ quan. Luật cho lao động giúp việc. Năm 1823, bộ luật đầu tiên về người giúp việc ra đời tại Anh mang tên Luật về Gia chủ và Người giúp việc ("United Kingdom's Master and Servant Act"). Tuy nhiên, đạo luật này còn nhiều ưu đãi với chủ lao động. Ngày nay, các phong trào đòi quyền lợi cho lao động giúp việc ngày một nhiều và mạnh mẽ trên toàn thể giới. Các chiến dịch này đã đem lại những thành tựu đáng kể. Hiện nay, người giúp việc đã có một tổ chức của riêng của họ, mang tên Hiệp hội Người giúp việc Thế giới ("The International Domestic Workers Network" - IDWN). Đây là sự kết hợp của các tổ chức của người giúp việc và công đoàn các nước trên toàn thế giới. Ngày 16 tháng 6 năm 2011, Hội nghị Lao động Quốc tế lần thứ 100 tại Geneva, Thụy Sĩ đã họp và thông qua Hiệp ước về Lao động giúp việc tên là C189 nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động trong lĩnh vực này. Ngày 16 tháng 6 đã được chọn làm ngày Quốc tế Lao động của Người giúp việc. Uruguay là quốc gia đầu tiên công nhận C189, tiếp đến Philippines là quốc gia thứ hai phê chuẩn hiếp ước C189. Tính đến hiện nay thì đã có 31 quốc gia phê chuẩn hiệp ước này. Ở khu vực Đông Nam Á, tính đến năm 2021, Philippines là nước duy nhất công nhận hiệp ước C189. Một số các quốc gia khác cũng thể hiện động thái rõ trong việc bảo vệ quyền lợi của lao động giúp việc. Ví dụ, gần đây Singapore đã thông qua đạo luật buộc chủ lao động phải cho giúp việc nước ngoài nghỉ ít nhất 1 ngày/tuần. Tại Việt Nam, năm 2020 chính phủ đã ban hành nghị định 145/2020 NĐ-CP nhằm giúp người làm nghề giúp việc nhà được bảo vệ quyền lợi và lợi ích của mình thông qua các điều khoản chặt chẽ: ký hợp đồng với người thuê, thời gian nghỉ ngơi tối thiểu một tháng, các quyền lợi khi gặp sự cố trong lúc làm việc... Với nghị định 145/2020 chính thức có hiệu lực vào tháng 2/2021 sẽ mở đường cho nhiều cơ sở pháp lý bảo vệ người giúp việc nhà trong tương lai. bTaskee là một công ty cung cấp dịch vụ giúp việc nhà theo giờ tại Việt nam đã triển khai gói bảo hiểm trị giá 100 triệu đồng cho các cộng tác viên giúp việc, nhằm đem đến môi trường làm việc tốt nhất cho người lao động. Phân loại lao động giúp việc. Xét về thời gian làm việc, có thể phân thành Giúp việc Toàn thời gian và Giúp việc Bán thời gian hay Giúp việc Theo giờ. Giúp việc toàn thời gian thường được cho ăn, ở và lương tháng. Tuy nhiên, ngày nay gia chủ thích Giúp việc Bán thời gian hay Giúp việc Theo giờ hơn do tính linh động và tiết kiệm của loại hình này. Giúp việc Bán thời gian hay Giúp việc Theo giờ thường cung cấp bởi các công ty giúp việc. Có một cách phân loại lao động giúp việc khác là theo công việc mà họ đảm nhận. Có thể liệt kê ra đây một số loại lao động giúp việc:
1
null
Tề Khoảnh công (chữ Hán: 齊頃公; cai trị: 598 TCN – 581 TCN), tên thật là Khương Vô Giã (姜無野), là vị vua thứ 23 của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Thân thế. Ông là con trai của Tề Huệ công – vua thứ 22 nước Tề và cháu nội của Tề Hoàn công. Mẹ ông là Tiêu Đồng Thúc Tử. Mùa hè năm 599 TCN, Tề Huệ công qua đời. Khương Vô Giã lên nối ngôi, tức là Tề Khoảnh công. Quan hệ với chư hầu. Ngoại giao. Năm 592 TCN, nước Tấn cử Khước Khắc làm chánh sứ và Loan Kinh làm phó sứ sang Tề. Cùng lúc có sứ nước Lỗ và nước Vệ sang. Để làm mẹ vui, nhân Khước Khắc bị gù, sứ nước Lỗ bị thọt chân, sứ nước Vệ bị chột, Tề Khoảnh công bèn chọn ra người bị gù tiếp đón Khước Khắc, người bị thọt tiếp đón sứ nước Lỗ và người bị chột tiếp sứ nước Vệ. Cảnh đó làm cho các phụ nữ trong hậu cung đứng trong màn để nhìn và cười nhạo. Khước Khắc nổi giận bèn bỏ về trước, để Loan Kinh ở lại. Khước Khắc xin Tấn Cảnh công phát binh đánh Tề để trả thù sự cười nhạo. Vua Tấn không nghe. Khước Khắc xin vua Tấn cho mình mang quân đội riêng đi đánh để báo thù riêng cũng không được chấp thuận. Tuy nhiên, Tấn Cảnh công (đang là bá chủ) cho tổ chức hội chư hầu ở Đoạn Đạo để trị tội các chư hầu không tuân phục. Mùa hè năm đó, Tề Khoảnh công sai các đại phu Cao Cố, Án Nhược, Sái Chiêu, Nam Quách Yển tới hội chư hầu. Sự việc tiếp theo, giữa Sử ký và Kinh Xuân Thu của Khổng Tử có khác biệt. Theo Sử ký, Khước Khắc bắt và giết cả bốn sứ giả nước Tề. Theo Xuân Thu, khi sứ đoàn tới Liễm Vu, Cao Cố đoán biết nước Tấn đang thù địch nên bỏ trốn. Khi sứ đoàn tới hội thề ở đất Quyền Sở thì Tấn Cảnh công có lệnh không cho nước Tề dự. Án Nhược, Sái Chiêu và Nam Quách Yển đều bị nước Tấn bắt giam riêng biệt ra 3 nơi. Sau đó nhờ Phần Hoàng người nước Miêu can Tấn Cảnh công rằng sứ nước Tề thật tình tới dự vì muốn giữ hòa khí 2 nước. Do đó vua Tấn thả cho 3 đại phu nước Tề về. Chiến tranh. Sau vụ việc đó, Khước Khắc vẫn muốn trả thù nước Tề, cuối cùng vua Tấn chấp thuận. Năm 591 TCN, nước Tề bị nước Tấn hợp binh với nước Vệ sang đánh. Liên quân 2 nước đánh tới đất Dương Cốc. Thế yếu, Tề Khoảnh công phải gửi công tử Khương Cường làm con tin cho nước Tấn, quân Tấn và quân Vệ mới rút lui. Năm 589 TCN, Tề Khoảnh công mang quân đánh nước Lỗ vì Lỗ ngả theo Tấn. Sau khi đánh bại quân Lỗ, Khoảnh công lại sang đánh Vệ - một đồng minh khác của Tấn. Vệ Mục công điều Tôn Lương Phu và Thạch Tắc mang quân ra chống, nhưng cũng bị quân Tề đánh bại. Vợ vua nước Vệ và vợ vua nước Lỗ đều sang nước Tấn, thông qua Khước Khắc báo tình hình lên vua Tấn, xin Tấn ra quân đánh Tề. Tấn Cảnh công bèn sai Khước Khắc mang 800 cỗ xe, cùng Sĩ Nhiếp, Hàn Quyết và Loan Thư ra trận để cứu Lỗ và Vệ. Tháng 6 năm 589 TCN, quân Tề gặp liên quân 4 nước Tấn, Lỗ, Vệ và Tào ở núi Mị Châm. Hai bên giao tranh ác liệt, quân Tề bắn Khước Khắc bị thương, nhưng Khước Khắc cố nén đau tự mình thúc trống. Quân Tấn hăng hái đánh bại quân Tề. Tề Khoảnh công thua chạy, bị tướng Tấn là Hàn Quyết truy kích. Người đánh xe cho ông là Phùng Sửu Phụ hiến kế đổi chỗ, tự mình vào xe giả làm vua Tề. Hàn Quyết đuổi tới nơi. Sửu Phụ lên giọng ra lệnh cho Tề Khoảnh công đang vào vai người đánh xe đi lấy nước suối Hòa Tuyền cho mình uống. Tề Khoảnh công vội chạy tới suối, gặp hai tướng Tề là Trịnh Chu Phủ và Uyển Phạt đánh xe khác tới, bèn nhảy lên xe chạy thoát. Phùng Sửu Phụ lộ chân tướng là người đóng thế, bị bắt về chỗ Khước Khắc; nhưng nghe lời phân tích lợi hại của Sửu Phụ đối với việc làm gương cho lòng trung nghĩa của bầy tôi, Khước Khắc tha chết cho Sửu Phụ. Khước Khắc thả Sửu Phụ nhưng vẫn thúc quân đuổi đánh vua Tề, tiến đến Mã Lăng. Tề Khoảnh công sai Tân Mỵ Nhân đi sứ, dâng đồ châu báu để xin quân Tấn rút lui. Khước Khắc không nghe, đòi vua Tề làm đường từ đông sang tây cho quân Tấn dễ dàng sang đánh và nộp mẹ (Tiêu Đồng Thúc Tử) là người đã cười nhạo mình khi đi sứ trước kia mới chấp nhận lui quân. Tân Mỵ Nhân phân tích việc bắt làm đường và nộp mẹ làm con tin là bạo ngược, chèn ép nước Tề quá đáng. Khước Khắc chấp thuận cho nước Tề giảng hòa. Củng cố chính quyền. Tề Khoảnh công sau khi thất bại trước quân Tấn đã chú trọng củng cố nội trị. Ông giảm nhẹ thuế má, quan tâm chăm sóc trẻ mồ côi, hỏi thăm người ốm, không cấm dân vào vườn của vua, mang của cải trong kho ra cứu giúp dân. Nhân dân nước Tề rất cảm phục ông. Về mặt ngoại giao, ông tăng cường dùng lễ hậu đối đãi với chư hầu để duy trì hòa bình. Năm 588 TCN, Tề Khoảnh công sang chầu nước Tấn nhân lúc nước Tấn bắt đầu đặt ra Lục Khanh cho 6 họ đại phu lớn. Ông muốn tôn Tấn Cảnh công làm vương nhưng vua Tấn không dám nhận. Năm 581 TCN, Tề Khoảnh công qua đời. Ông ở ngôi 18 năm. Con ông là Khương Hoàn lên nối ngôi, tức là Tề Linh công. Trong văn học. Tề Khoảng công được đề cập trong hồi 56 tác phẩm Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long: Nhấn mạnh vào việc Tề Khoảnh công vì muốn mẹ vui mà làm trò diễu sứ giả Khước Khắc nước Tấn nên gây thành cuộc chiến giữa hai nước.
1
null
Diplacodes trivialis là một loài chuồn chuồn ngô thuộc họ Libellulidae. Loài này phân bố rộng rãi và thường gặp tại các ao hồ, đầm, kênh mương thủy lợi, ruộng lúa... và là loài được quan tâm ở mức tối thiểu. Nó là loài bản địa ở Australia; Bangladesh; Brunei Darussalam; Campuchia; Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam, Vân Nam, Quảng Tây); Fiji; Hồng Kông; Ấn Độ; Indonesia; Nhật Bản; Lào; Malaysia; Myanmar; Nepal; Papua New Guinea; Philippines; Seychelles; Singapore; Quần đảo Solomon; Sri Lanka; Đài Loan; Thái Lan; Đông Timor; Việt Nam. Loài này có sải cánh dài 4–6 cm, ấu trùng dài 13–14 mm. Con đực có mình màu xanh lam đến xanh lam- xám với đuôi và mắt màu đen, con cái có mình màu xanh lục với những mảng màu đen trên đuôi, mắt màu xanh lục và màu đỏ.
1
null
Cuộc tấn công Matanikau, diễn ra từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 11 năm 1942, đôi khi còn gọi là Trận Matanikau lần thứ tư, là trận đánh giữa Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ và Lục quân Hoa Kỳ với Lục quân Đế quốc Nhật Bản tại khu vực sông Matanikau và Point Cruz thuộc đảo Guadalcanal trong Chiến dịch Guadalcanal thời kì Chiến tranh thế giới thứ hai. Trận đánh này là một trong những trận đánh cuối cùng gần sông Matanikau trong chiến dịch Guadalcanal. Sau chiến thắng của Hoa Kỳ trong Trận chiến sân bay Henderson trước đó, bảy tiểu đoàn Thủy quân lục chiến và Lục quân Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của tướng Alexander Vandegrift và chỉ huy chiến thuật bởi Đại tá Merritt A. Edson đã vượt sông Matanikau để tấn công các lực lượng quân Nhật ở vị trí giữa con sông và Point Cruz, bờ biển phía bắc Guadalcanal. Khu vực này được phòng thủ bởi Trung đoàn Bộ binh số 4 của Đại tá Nomasu Nakaguma cùng với một số đơn vị hỗ trợ khác, tất cả thuộc về Quân đoàn 17 của Trung tướng Hyakutake Harukichi. Sau khi gây ra thương vong lớn cho quân Nhật phòng thủ khu vực này, các lực lượng Hoa Kỳ đã phải rút lui vì mối đe dọa từ quân Nhật mới đổ bộ lên Guadalcanal. Hoàn cảnh trận đánh. Chiến dịch Guadalcanal. Ngày 7 tháng 8 năm 1942, lực lượng Đồng Minh (chủ yếu là Hoa Kỳ) đã đổ bộ lên Guadalcanal, Tulagi và nhóm đảo Nggela (thường được gọi là "nhóm đảo Florida") thuộc quần đảo Solomon. Cuộc đổ bộ này nhằm mục đích đập tan kế hoạch của người Nhật biến quần đảo này thành căn cứ đe dọa tuyến đường vận tải giữa Úc và Hoa Kỳ, đồng thời cũng chiếm luôn quần đảo để làm nơi xuất phát cho các chiến dịch cô lập căn cứ chính của hải quân Nhật là Rabaul và yểm trợ cho quân Đồng Minh trong Chiến dịch New Guinea. Cuộc đổ bộ này đã chính thức mở đầu cho Chiến dịch Guadalcanal kéo dài 6 tháng sau đó. Lợi dụng sự bất ngờ của quân Nhật, quân Đồng Minh đã hoàn thành cuộc đổ bộ và chiếm được Tulagi cùng một số hòn đảo nhỏ phụ cận cũng như một sân bay đang xây dựng dở tại Lunga Point thuộc Guadalcanal. Công việc hoàn tất sân bay được tiến hành ngay lập tức, chủ yếu bằng các thiết bị chiếm được của quân Nhật. Vào ngày 12 tháng 8, sân bay được đặt tên là Henderson theo tên của một phi công Thủy quân Lục chiến, Lofton R. Henderson, hy sinh trong Trận Midway. Đến ngày 18 tháng 8, sân bay sẵn sàng hoạt động và lực lượng không quân xuất kích từ sân bay mang tên "Không lực Cactus" (CAF) theo tên mã của Đồng minh cho chiến dịch Guadalcanal. Để bảo vệ sân bay, thủy quân lục chiến Mỹ đã thiết lập một vành đai phòng thủ quanh Lunga Point. Phản ứng lại việc Đồng Minh đổ bộ lên Guadalcanal, Bộ Tổng tư lệnh Đế quốc Nhật Bản giao cho Quân đoàn 17 đặt căn cứ tại Rabaul dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Hyakutake Harukichi nhiệm vụ tái chiếm Guadalcanal. Quân đoàn này được sự hỗ trợ của các đơn vị Hải quân Nhật, kể cả Hạm đội Liên hợp dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Yamamoto Isoroku, đặt căn cứ tại Truk. Bắt đầu từ ngày 19 tháng 8, nhiều đơn vị của Quân đoàn 17 bắt đầu đổ bộ lên Guadalcanal với mục tiêu đánh bật quân Đồng Minh ra khỏi hòn đảo. Bởi vì mối đe dọa từ các máy bay ở sân bay Henderson, quân Nhật đã không thể sử dụng những chuyển vận hạm to lớn, chậm chạp để vận chuyển lính và hàng tiếp liệu đến hòn đảo. Do đó, họ đã phải sử dụng các chiến hạm tại Rabaul và quần đảo Shortland để đưa lính đến Guadalcanal. Các chiến hạm Nhật Bản, chủ yếu là tuần dương hạm hạng nhẹ và khu trục hạm thuộc Hạm đội 8 của phó đô đốc Gunichi Mikawa, thực hiện chuyến đi khứ hồi dọc theo "khe" (eo biển New Georgia) đến Guadalcanal trong một đêm trong suốt thời gian chiến dịch, tối thiểu khả năng phơi ra trước các cuộc không kích Đồng Minh. Tuy nhiên, việc vận chuyển lực lượng như vậy ngăn trở việc mang theo đến Guadalcanal hầu hết các trang bị nặng và tiếp liệu của binh sĩ, bao gồm pháo hạng nặng, xe cộ cũng như nhiều lương thực và đạn dược. Thêm vào đó, hoạt động này trói chân các khu trục hạm Nhật vốn đang rất cần thiết trong vai trò hộ tống tàu buôn. Chúng được lực lượng Đồng Minh biết đến như là những chuyến "Tốc hành Tokyo" trong khi quân Nhật đặt tên cho nó là "Chuyên chở chuột" (Rat Transportation). Nỗ lực đầu tiên của quân Nhật tái chiếm sân bay Henderson là cuộc tấn công của 917 lính Nhật do đại tá Kiyonao Ichiki chỉ huy trong trận Tenaru vào ngày 21 tháng 8 năm 1942 với kết quả chỉ còn 128 lính Nhật sống sót và đại tá Ichiki cũng tử trận. Nỗ lực tiếp theo đến sau đó vào ngày 12 đến ngày 14 tháng 9, khi lần này 6.000 lính Nhật do thiếu tướng Kiyotake Kawaguchi chỉ huy tiếp tục bị đánh bại trong Trận chiến đồi Edson. Sau khi bị đánh bại tại đồi Edson, Kawaguchi và tàn quân Nhật đã tập trung lại ở phía tây sông Matanikau thuộc Guadalcanal. Trong lúc tàn quân Nhật rút chạy, quân Mỹ tập trung vào việc củng cố phòng tuyến Lunga. Ngày 18 tháng 9, một đoàn chuyển vận hạm đã đưa thêm 4.157 lính thuộc Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 7 đến Guadalcanal. Lực lượng tăng viện này cho phép Vandegrift từ ngày 19 tháng 9 thiết lập một vành đai phòng thủ đầy đủ không bị đứt quãng bao quanh Lunga. Tướng Vandegrift và các sĩ quan tham mưu vẫn còn lo ngại lực lượng của Kawaguchi đã rút về phía tây Matanikau và một số lượng lớn tàn quân Nhật rải rác giữa phòng tuyến Lunga và song Matanikau, do đó Vandegrift đã cho tiến hành nhiều cuộc hành quân truy quét nhỏ dọc theo thung lũng Matanikau. Đợt càn quét đầu tiên của Thủy quân lục chiến Mỹ vào khu vực phía Tây Matanikau từ ngày 23 đến 27 tháng 9 năm 1942 với lực lượng ba tiểu đoàn đã bị quân Nhật dưới sự chỉ huy của đại tá Akinosuke Oka đánh bật. Trong đợt tấn công thứ hai, từ ngày 6 đến 9 tháng 10, một lực lượng Thủy quân lục chiến lớn hơn đã được huy động. Lực lượng này đã vượt sông Matanikau thành công và tấn công đơn vị quân Nhật vừa mới đổ bộ lên Guadalcanal là Sư đoàn 2 của tướng Masao Maruyama và Yumio Nasu, đồng thời làm thiệt hại nặng Trung đoàn Bộ binh số 4 của Nhật. Đợt càn quét thứ hai này đã buộc quân Nhật phải rút lui về vị trí phía đông Matanikau. Trong thời gian đó, Thiếu tướng Millard F. Harmon, tổng chỉ huy các lực lượng Lục quân Hoa Kỳ tại Nam Thái Bình Dương, đã thuyết phục Phó đô đốc Robert L. Ghormley (tổng chỉ huy các lực lượng Đồng Minh tại khu vực Nam Thái Bình Dương) phải tăng viện cho các đơn vị Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ngay lập tức nếu muốn giữ được hòn đảo trước đợt tấn công tiếp theo. Ngày 13 tháng 10, lực lượng tăng viện mới bao gồm 2.837 lính thuộc Trung đoàn Bộ binh 164, Vệ binh Quốc gia North Dakota, thuộc Sư đoàn Americal của Lục quân đã được đưa đến Guadalcanal. Trận chiến sân bay Henderson. Từ ngày 1 đến ngày 17 tháng 10, Nhật đưa được 15.000 quân đến Guadalcanal, cho phép Hyakutake có tổng cộng 20.000 quân để thực hiện cuộc tấn công tiếp theo. Vì đã bị mất các cứ điểm bên bờ Đông sông Matanikau, quân Nhật cho rằng việc tấn công vành đai phòng thủ của Mỹ dọc theo bờ biển sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, Hyakutake quyết định mũi tấn công chính trong kế hoạch của ông sẽ từ phía Nam sân bay Henderson. Sư đoàn 2 (được tăng cường các đơn vị của Sư đoàn 38), do Trung tướng Masao Maruyama chỉ huy, bao gồm 7.000 người thuộc ba trung đoàn bộ binh, mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn, sẽ hành quân qua rừng rậm và tấn công cứ điểm phòng thủ của Mỹ từ phía Nam gần bờ Đông sông Lunga. Ngày tấn công ban đầu được ấn định là 22 tháng 10, sau đó đổi thành 23 tháng 10. Để thu hút sự chú ý của phía Mỹ khỏi mũi tấn công chủ yếu từ phía Nam, lực lượng pháo binh hạng nặng cùng năm tiểu đoàn bộ binh (khoảng 2.900 người) do Thiếu tướng Tadashi Sumiyoshi chỉ huy sẽ tấn công chu vi phòng thủ của quân Mỹ từ phía tây dọc theo hành lang bờ biển. Quân Nhật ước lượng có 10.000 quân Mỹ trên đảo, trong khi con số thực là khoảng 23.000 người. Lực lượng của Sumiyoshi bao gồm hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Bộ binh số 4 đã mở cuộc tấn công vào phòng tuyến Thủy quân lục chiến Mỹ trong đêm 23 tháng 10 tại vị trí cửa sông Matanikau. Hỏa lực pháo binh, súng cối và vũ khí cầm tay của quân Mỹ đã tiêu diệt rất nhiều lính Nhật tấn công trong khi tổn thất của họ là không đáng kể. Hai đêm liên tục từ ngày 24 tháng 10, lực lượng của Maruyama đã thực hiện nhiều cuộc tấn công trực diện với quân số lớn vào phía nam phòng tuyến Lunga nhưng thất bại thảm hại. Hơn 1.500 lính Nhật tử trận trong khi phía Mỹ chỉ mất khoảng 60 người. Các cuộc tấn công khác của Trung đoàn Bộ binh 124 Nhật do đại tá Oka chỉ huy gần Matanikau trong ngày 26 tháng 10 cũng bị đẩy lui với tổn thất nặng nề. Đến 8 giờ sáng ngày 26 tháng 10, Hyakutake quyết định chấm dứt mọi cuộc tấn công và ra lệnh cho lực lượng của ông rút lui. Khoảng phân nửa những người sống sót trong lực lượng của Maruyama được lệnh rút lui về phía trên thung lũng Matanikau trong khi Trung đoàn Bộ binh 230 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Toshinari Shōji được cho rút về Koli Point, phía Đông ngoại vi Lunga. Trung đoàn Bộ binh 4 rút lui về vị trí phía tây Matanikau và quanh khu vực Point Cruz trong khi Trung đoàn 124 chiếm giữ vị trí phòng thủ sườn núi Austen phía trên thung lũng Matanikau. Kế hoạch tấn công của Hoa Kỳ và lực lượng đôi bên. Để tiếp tục khai thác thắng lợi sau trận chiến sân bay Henderson, Vandegrift tung sáu tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến, sau đó còn có thêm một tiểu đoàn Lục quân, vào một cuộc tấn công ra phía Tây Matanikau với hai mục tiêu: không cho pháo binh Nhật có đủ tầm bắn đến sân bay Henderson và cắt đứt đường rút lui của lực lượng Maruyama đến ngôi làng Kokumbona, nơi đặt đại bản doanh của Quân đoàn 17. Lực lượng huy động bao gồm ba tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 5, chỉ huy bởi Đại tá Merritt Edson cộng thêm Tiểu đoàn 3, Trung đoàn Thủy quân lục chiến 7 chỉ huy bởi Đại tá William Whaling (gọi là đơn vị Whaling). Hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 2 là lực lượng dự trữ. Cuộc tấn công này sẽ được yểm trợ bởi pháo binh thuộc Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 11 và Trung đoàn Bộ binh 164, các máy bay thuộc Không lực Cactus và hải pháo từ chiến hạm Mỹ. Đại tá Edson là người chỉ huy chiến thuật cho cuộc tấn công. Lực lượng quân Nhật phòng thủ khu vực Matanikau bao gồm hai trung đoàn bộ binh 4 và 124. Trung đoàn 4 phòng thủ khu vực từ bờ biển vào sâu trong đất liền khoảng 1.000 dặm (914 m) còn Trung đoàn 124 từ đó vào đến dọc dòng sông. Cả hai trung đoàn này trên giấy tờ đều có sáu tiểu đoàn nhưng thực tế quân số đã bị tiêu hao nặng nề do giao tranh, bệnh tật và nạn đói. Đại tá Oka đã miêu tả lực lượng của ông trên thực tế chỉ còn một nửa. Diễn biến. Trong khoảng thời gian từ 1 giờ sáng đến 6 giờ sáng ngày 1 tháng 11, công binh Hoa Kỳ đã xây ba cây cầu vượt sông Matanikau. Lúc 6 giờ 30 phút sáng, chín khẩu đội pháo binh của Thủy quân lục chiến và Lục quân Mỹ (khoảng 36 khẩu pháo) và các chiến hạm "San Francisco", "Helena" và "Sterrett" đã pháo kích dữ dội vào bờ tây sông Matanikau. Các máy bay Hoa Kỳ, trong đó có 19 oanh tạc cơ hạng nặng B-17 cũng đến ném bom vào khu vực trên. Cùng thời điểm đó, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 5 thủy quân lục chiến (1/5 thủy quân lục chiến) vượt sông Matanikau ở khu vực cửa sông còn Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 5 thủy quân lục chiến (2/5 thủy quân lục chiến) và đơn vị Whaling vượt sông ở chỗ cạn. Đối mặt với Thủy quân lục chiến Mỹ là Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 4 Bộ binh Nhật do Thiếu tá Masao Tamura chỉ huy. Tiểu đoàn 2/5 và đơn vị Whaling đã gặp một sự kháng cự vô cùng yếu ớt do đó đã chiếm được nhiều ngọn đồi phía nam Point Cruz vào đầu buổi chiều. Tuy nhiên, dọc theo bờ biển gần Point Cruz, Đại đội 7 thuộc Tiểu đoàn Tamura đã chiến đấu kiên cường kìm bước tiến quân Mỹ. Sai vài giờ chiến đấu, Đại đội C thuộc Trung đoàn 1/5 thủy quân lục chiến đã gánh chịu thiệt hại nặng, trong đó có ba sĩ quan chết trận và bị đẩy lùi về hướng Matanikau bởi quân của Tamura. Phải đến khi có sự tăng viện của các đại đội từ tiểu đoàn 1/5 thủy quân lục chiến và sau đó là hai đại đội từ Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 5 thủy quân lục chiến (3/5 thủy quân lục chiến) cộng thêm sự chiến đấu dũng cảm của Hạ sĩ thủy quân lục chiến Anthony Casamento mà quân Mỹ mới ngừng được sự rút lui. Sau khi khảo sát tình hình chiến đấu vào cuối ngày, Đại tá Edson cùng với Đại tá Gerald Thomas và Thiếu tá Merrill Twining thuộc bộ tham mưu của tướng Vandegrif đã đưa ra quyết định bao vây quân phòng thủ Nhật quanh Point Cruz. Họ ra lệnh cho các đơn vị thủy quân lục chiến 1/5 và 3/5 tiếp tục gây áp lực lên quân Nhật dọc theo bờ biển trong ngày kế tiếp trong khi Tiểu đoàn 2/5 thủy quân lục chiến tiến về phía bắc bao vây quân Nhật phía tây và phía nam Point Cruz. Tiểu đoàn Tamura đến thời điểm này cũng đã bị thiệt hại nặng nề, trong đó Đại đội 5 và 7 chỉ còn từ 10 đến 15 tay súng chưa bị thương. Lo sợ quân Mỹ sẽ chọc thủng tuyến phòng ngự của mình, tướng Hyakutake tại tổng hành dinh của Quân đoàn 17 đã phải nhanh chóng điều toàn bộ số quân đang có trong tay đến chi viện cho nỗ lực phòng thủ của Trung đoàn Bộ binh số 4. Lực lượng chi viện bao gồm Tiểu đoàn Pháo chống tăng số 2 (trang bị 12 khẩu pháo) và đơn vị công binh chiến trường số 39 được bố trí sẵn sàng chiến đấu dọc theo phía nam và tây Point Cruz. Sáng ngày 2 tháng 11, được đơn vị Whaling bảo vệ cánh sườn, thủy quân lục chiến Tiểu đoàn 2/5 tiến quân về phía bắc và đến được bờ biển phía tây Point Cruz, bao vây được toàn bộ quân phòng thủ Nhật. Pháo binh Mỹ đã pháo kích dữ dội vào các vị trí quân Nhật trong ngày 2 tháng 11 nhưng thiệt hại gây ra là không rõ ràng. Trong khoảng thời gian còn lại của ngày hôm đó, Đại đội I Tiểu đoàn 2/5 đã thực hiện một cuộc tấn công trực diện áp đảo bằng lưỡi lê ở phần phía bắc vị trí phòng thủ quân Nhật. Cũng trong thời gian này, hai tiểu đoàn thuộc Trung đoàn thủy quân lục chiến số 2 bắt đầu tham gia vào cuộc tấn công đã tiến qua Point Cruz. Lúc 6 giờ 30 sáng ngày 3 tháng 11, nhiều lính Nhật cố gắng phá vòng vây nhưng bất thành. Từ 8 giờ sáng cho đến trưa, năm đại đội thủy quân lục chiến từ các Tiểu đoàn 2/5 và 3/5 với vũ khí cầm tay, súng cối, thuốc nổ và pháo binh yểm trợ đã tiêu diệt hoàn toàn quân Nhật bị vây ở gần Point Cruz. thủy quân lục chiến còn chiếm được 12 khẩu pháo chống tăng 37mm, một dã pháo 70 mm và 34 súng máy. Tổng số xác chết quân Nhật được thống kê bao gồm 239 người, trong đó có 28 sĩ quan. Một người lính thủy quân lục chiến tên Richard A. Nash kể lại khung cảnh trận đánh: Cùng thời gian này, Trung đoàn thủy quân lục chiến 2 cùng với đơn vị Whaling tiếp tục gây sức ép dọc bờ biển và đến được địa điểm phía tây Point Cruz 3.500 dặm (3.200 m) vào lúc nửa đêm. Lực lượng quân Nhật còn lại ở khu vực này chống lại thủy quân lục chiến Mỹ bao gồm 500 người lính còn lại của Trung đoàn 4 cộng thêm những người còn sống sót sau các cuộc tấn công ở Tenaru và đồi Edson, lính đồn trú hải quân. Với đà tiến quân này, lực lượng Mỹ hầu như sẽ phá được tuyến phòng thủ của quân Nhật và chiếm làng Kokumbona, đồng nghĩa đường rút lui của Sư đoàn Bộ binh số 2 Nhật sẽ bị cắt đứt và đe dọa nghiêm trọng khu vực hậu cứ, kho tiếp liệu cũng như tổng hành dinh của quân Nhật tại Guadalcanal. Đại tá Nakaguma trong cơn tuyệt vọng muốn tìm đến cái chết vinh quang bằng cách cho Trung đoàn 4 tấn công lần cuối vào quân Mỹ nhưng đã bị can ngăn bởi các sĩ quan thuộc bộ tổng tham mưu của Quân đoàn 17. Một sự kiện quan trọng xảy ra đã cứu vãn tạm thời tình thế quân Nhật tại Matanikau. Sáng ngày 3 tháng 11, các đơn vị thủy quân lục chiến tại Koli Point, phía đông phòng tuyến Lunga bất ngờ chạm trán với 300 lính Nhật vừa mới đổ bộ từ năm khu trục hạm. Điều này cộng thêm những nguồn tin về việc một lực lượng lớn quân Nhật đang được đưa đến Koli Point khiến cho người Mỹ tin rằng người Nhật đang chuẩn bị tiến hành một cuộc tấn công lớn nữa vào phòng tuyến Lunga từ khu vực Koli Point. Trước tình thế mới, các chỉ huy thủy quân lục chiến đã có cuộc họp vào sáng ngày 4 tháng 11 để bàn về phương án tác chiến. Đại tá Twining đề nghị tiếp tục cuộc tấn công đến cùng nhưng ý kiến này đã không được các Đại tá Edson, Thomas và tướng Vandegrift tán thành mà thay vào đó là chuyển mục tiêu đến Koli Point. Do đó, trong ngày này, Trung đoàn thủy quân lục chiến số 5 và đơn vị Whaling đã được triệu hồi về Lunga Point. Hai Tiểu đoàn 1 và 2 của Trung đoàn thủy quân lục chiến số 2 cộng với Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 164 được lệnh chiếm giữ vị trí khoảng 2.000 dặm (1.829 m) phía tây Point Cruz. Hành động này của phía Mỹ giúp cho con đường rút lui của Sư đoàn 2 Nhật giờ đây rộng mở và sư đoàn này đã đến làng Kokumbona trong ngày 4 tháng 11. Tuy nhiên, đại tá Nakaguma trong khoảng thời gian này đã tử trận bởi trúng đạn pháo. Kết quả. Sau khi đánh bại quân Nhật ở Koli Point, quân Mỹ tiếp tục trở lại cuộc càn quét khu vực phía tây tại Kokumbona vào ngày 10 tháng 11 với ba tiểu đoàn dưới sự chỉ huy của Đại tá thủy quân lục chiến John Arthur. Cùng thời gian đó, binh lính thuộc Sư đoàn Bộ binh 38 Nhật, bao gồm hầu hết Trung đoàn 228, đến Guadalcanal. Các đơn vị mới và sung sức này nhanh chóng được bố trí tại khu vực Point Cruz và Matanikau đã giúp kháng cự thành công các đợt tấn công của lực lượng Mỹ. 13 giờ 45 phút ngày 11 tháng 11, Vandegrift bất ngờ ra lệnh cho quân Mỹ rút lui về bờ đông Matanikau. Vandegrift đã ra lệnh rút lui vì những tin tức tình báo và ảnh không thám cho thấy quân Nhật đang tiếp tục đưa lực lượng tiếp viện đến Guadalcanal (10.000 binh lính còn lại của Sư đoàn 38) với mục tiêu cũ là tái chiếm sân bay Henderson. Tuy nhiên, nỗ lực tăng viện cuối cùng này đã bị Hải quân Hoa Kỳ chặn đứng trong trận hải chiến Guadalcanal. Quân Mỹ vượt sông Matanikau và tấn công lần nữa vào ngày 18 tháng 11 nhưng một lần nữa vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Nhật. Cuộc tấn công này dừng lại vào ngày 23 tháng 11 phía tây Point Cruz. Lực lượng Mỹ và Nhật tiếp tục đối diện nhau dọc theo một chiến tuyến ở về phía Tây Point Cruz trong sáu tuần lễ tiếp theo sau đó. Mặc dù ngay từ đầu tháng 11, quân Mỹ đã tiến sát hậu cứ quân Nhật nhưng phải đến cuối chiến dịch Guadalcanal, họ mới chính thức chiếm được Kokumbona. Chú thích. a. Con số này được ước đoán từ quân số 6 tiểu đoàn (500 người mỗi tiểu đoàn) cộng thêm 800 quân bổ sung của đơn vị Whaling cũng như các đơn vị hỗ trợ. Đây là số quân thực tế đã tham gia vào cuộc tấn công này, chứ không phải toàn bộ quân Đồng Minh đang có mặt tại đảo Guadalcanal thời điểm đó là 20.000 người.b. Con số này được ước đoán dựa theo báo cáo của Trung đoàn Bộ binh số 4 Nhật cho thấy lực lượng của họ chỉ còn phân nửa (khoảng 800 lính) cộng thêm khoảng 200 lính tiếp viện từ hậu cứ khi trận đánh đang diễn ra.c. Lính Mỹ đếm được có tổng cộng 239 xác lính Nhật tại vòng vây Point Cruz. Sử gia Frank bổ sung thêm thông tin các báo cáo của Nhật cho thấy tổng số lính Nhật tử trận trong trận này là 410 người nhưng một số có lẽ đã bao hàm những người chết trước khi cuộc tấn công bắt đầu.d. Lực lượng Nhật được đưa đến Guadalcanal trong giai đoạn này bao gồm toàn bộ Sư đoàn Bộ binh số 2 (Sendai), hai tiểu đoàn của Sư đoàn Bộ binh số 38 cùng nhiều đơn vị pháo binh, xe tăng, công binh và các đơn vị hỗ trợ khác. Lực lượng của Kawaguchi còn bao gồm phần còn lại của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 124 nguyên là một phần của Lữ đoàn Bộ binh số 35 do Kawaguchi chỉ huy trong Trận chiến đồi Edson.e. Thủy quân lục chiến Mỹ bị tổn thất hai người trong chiến đấu. Thiệt hại về phía Nhật Bản không được ghi rõ, nhưng theo sử gia Frank "rõ ràng là nặng nề". Griffith cho rằng có 600 lính Nhật bị giết.f. Sử gia Frank khẳng định đại tá Nakaguma đã tử trận ngày 7 tháng 11.g. Lực lượng Mỹ tham gia vào trận đánh ngày 18 tháng 11 bao gồm Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Bộ binh Lục quân 182 cộng thêm ba tiểu đoàn của Trung đoàn Thủy quân lục chiến số 8. Hai tiểu đoàn 1 và 3 của Trung đoàn Bộ binh 164 bắt đầu tấn công từ ngày 20 tháng 11.
1
null
Danh sách đĩa nhạc của B.o.B, nam ca sĩ nhạc hip hop, bao gồm 2 album phòng thu, 2 đĩa mở rộng, 8 mixtape, 9 đĩa đơn và 25 video âm nhạc. B.o.B là nam ca sĩ solo thứ 13 có album đầu tay đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 của Mỹ.
1
null
Pavel Maksimovich Yagunov (, 1900-1942) là một sĩ quan thuộc Hồng quân Liên Xô. Ông là người chỉ huy quân đội Liên Xô trong trận phòng thủ vùng mỏ Adzhimushkay. Vài nét về cuộc sống. P. M. Yagunov sinh ngày 10 tháng 1 năm 1900 tại làng Cheberchina (nay là Dubensky thuộc Cộng hòa Mordovia thuộc Liên bang Nga) trong một gia đình nông dân. Ông tốt nghiệp trường làng vào năm 1913. Thuở nhỏ, P. M. Yagunov làm nghề đưa thư và các tài liệu trong địa phương. Lớn lên một chút, ông rời nhà vào thành phố lập nghiệp. Sau khi Cách mạng Tháng Mười bùng nổ, Yagunov tình nguyện gia nhập Hồng quân vào năm 1919 và phục vụ trong Tiểu đoàn độc lập Cộng quân Turkestan, tham gia chiến đấu chống lại quân Bạch vệ của các tướng Denikin và Aktobe. Tháng 9 cùng năm, Yagunov gia nhập Đảng Cộng sản. Nhiều năm sau đó ông phục vụ trong quân ngũ tại vùng Trung Á, tham gia tiễu trừ quân phỉ thuộc phong trào Basmachi của Enver Pasha và Junaid Khan. Ông được bổ nhiệm làm chỉ huy tiểu đoàn bộ binh, sau đó là trung đoàn. Trong quá trình công tác, Yagunov được đánh giá là một chỉ huy có ý chí mạnh mẽ, biết sử dụng thẩm quyền chỉ huy quân sự của mình. Sau chiến tranh, P. M. Yagunov tốt nghiệp trường quân sự Tashkent vào năm 1923, sau đó là tốt nghiệp khóa huấn luyện quân sự dành cho sĩ quan trung cấp và cao cấp vào các năm 1930, 1938. Năm 1938, P. M. Yagunov được bổ nhiệm làm chỉ huy của trung đoàn bộ binh số 65 đóng tại vùng Viễn Đông với quân hàm Đại tá. Tháng 7 năm đó, ông bị huyền chức và bị bắt giam, vụ việc này có liên quan tới hai vụ bắt giam anh trai và người vợ cũ Yulii Aleksandrovna trước đó. Tháng 8 năm 1938 ông bị tuyên án 10 năm tù giam vì tội đồng lõa làm gián điệp và che giấu người vợ cũ của mình. Tuy nhiên, vào tháng 6 năm sau, Yagunov được phóng thích, phục chức và phục hồi đảng tịch. Sau đó ông được bổ nhiệm làm hiệu trưởng của Trường Quân sự Baku. Theo con gái P. M. Yagunov, bà Klary Pavlovny Yagunovoy, P. M. Yagunov được miêu tả là người như sau: Tham gia cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chiến đấu tại Krym. Ngày 22 tháng 6 năm 1944, phát xít Đức trắng trợn xé bỏ hiệp ước không tương xâm, điên cuồng tấn công vào lãnh thổ Liên Xô. Tháng 9 năm đó, P. M. Yagunov được bổ nhiệm làm chỉ huy sư đoàn bộ binh số 138. Đơn vị của ông từ giữa tháng 1 năm 1942 đã tham chiến tại bán đảo Kerch trong biên chế của Tập đoàn quân số 51. Trong quá trình chiến đấu, sư đoàn của Yagunov đã lập được nhiều chiến công mặc dù cũng chịu tổn thất nặng nề. Từ tháng 3 năm 1942, ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu việc huấn luyện tác chiến của Phương diện quân Krym với cấp bậc Phó Tham mưu thứ hai. Ngày 14 tháng 5 năm 1942, sau khi trận địa của Phương diện quân Krym bị quân Đức phá vỡ, P. M. Yagunov được giao nhiệm vụ chỉ huy một lực lượng hợp nhất có nhiệm cụ cản hậu và bảo vệ cho quân đội Liên Xô rút lui khỏi bán đảo Kerch an toàn. Trong đội hình có các chính trị viên dự bị của Phương diện quân, vài trăm học viên Trường hàng không, Trung đoàn dự bị 1 của Phương diện quân Krym, Tiểu đoàn công binh dường sắt độc lập 65... Trong các ngày 15-17 tháng 5, lực lượng của Yagunov đã chiến đấu quyết liệt để cầm chân quân Đức và điều này đã giúp cho quân đội Liên Xô có thể rút lui an toàn một lượng lớn binh lực qua eo biển Kerch (ví dụ chỉ trong ngày 16 và 17 tháng 5, đã có 41.000 quân nhân Liên Xô rút lui được về bán đảo Taman). Ngày 17 tháng 5, đội quân của Yagunov đã hoàn toàn bị bao vây tại khu mỏ Adzhimushkay. Cựu chỉ huy Phương diện quân Krym, tướng D. T. Kozlov đã nhận xét rằng: "Đại tá Yagunov đã tuân thủ tuyệt đối mệnh lệnh và ra sức bảo vệ làng Adzhimushkay." Cuộc chiến tại Adzhimushkay. Quân Đức tiếp tục tấn công sang phía Đông. Ngày 18 tháng 5, Sư đoàn bộ binh 46 (Đức) đánh chiếm làng Zhukovka và ngọn hải đăng ở Yanikale. Các trung đoàn còn lại của Sư đoàn 132 và Một phần sư đoàn kỵ binh 72 (lúc này đã không còn một con ngựa sống sót) trấn thủ khu vực Adzhimushkay hoàn toàn bị bao vây trong khi những đơn vị cuối cùng của Phương diện quân Krym (Liên Xô) đã rút sang Taman theo ngả Mitridat (phía nam vị Kerch). Dù trong tình trạng bị phân tán và mất hết các vũ khí nặng nhưng đại tá P. M. Yagunov vẫn tổ chức phản kích xuyên qua tuyến tấn công giữa các sư đoàn 46 (Đức) và 19 (Romania) để bắt liên lạc với Sư đoàn 157 lúc này đã cố giữ một dải đất hẹp ven bờ Yenikale. Ngày 20 tháng 5, khi Phương diện quân Krym đã rút hết sang Taman, các sư đoàn 132 và 157 vãn nhận được mệnh lệnh: "Giữ vị trí cho đến khi có mệnh lệnh tiếp theo". Ngày 21 rồi 22 trôi qua, vẫn không có mệnh lệnh nào được đưa đến. Đại tá P. M. Yagunov ra lệnh cho các trung đoàn của mình và Sư đoàn 157 (lúc này đã mấy chỉ huy) quay trở lại mỏ đá Adzhimushkay, dựa vào địa hình hiểm trở để tiếp tục chiến đấu. Trong cuộc chiến ở Adzhimushkay, P. M. Yagunov đã tổ chức một hệ thống chỉ huy, chia lực lượng đồn trú thành 3 tiểu đoàn, các lực lượng trinh sát, chống tăng, quân y và giữ kỷ luật quân đội rất nghiêm ngặt. Trong số những người phụ tá của ông có chính ủy tiểu đoàn I. P. Parakhin, phó chỉ huy phụ trách tác chiến, Đại tá F. A. Verushkin, phó chỉ huy phụ trách hậu cần S. T. Kolesnikov, tham mưu trưởng P. E. Sidorov, chủ nhiệm chính trị F. I. Kharmov, trưởng phòng bậc II phụ trách quân nhu A. I. Pirogov, chỉ huy các tiểu đoàn gồm trung tá G. M. Burmin, thiếu tá A. P. Panov, đại úy V. M. Levitsky cùng nhiều người khác. Các binh sĩ Liên Xô tại Adzhimushkay đã tham gia một cuộc chiến không cân sức, với tình trạng bị quân địch áp đảo, khống chế nguồn nước, đạn dược, thực phẩm và liên tục đặt mìn phá hầm cũng như xả khí độc vào hầm ngầm. Tuy nhiên họ vẫn kháng cự kiên cường Yagunov cùng với chính ủy Parakhin đã đích thân đi thị sát các khu quân y để đảm bảo các thương binh được săn sóc tử tế. Sau hơn 1 tháng quần nhau với quân Đức, đạn được và lương thực vơi cạn, nước uống ngày càng khan hiếm. Ngày 8 tháng 7, đại tá P. M. Yagunov đánh bức điện sau đây về đất liền thông quan máy liên lạc vô tuyến: ""Hỡi mọi người ! Hỡi tất cả các dân tộc Xô Viết ! Chúng tôi là những chiến sĩ phòng thủ ở Kerch. Chúng tôi đang chết ngạt bởi khí độc, đang chết dần chết mòn trong điều kiện giam hãm. Nhưng chúng tôi sẽ không lên đầu hàng"." Đêm 8 rạng ngày 9 tháng 7, đội quân trú phòng thu thập tất cả những người còn chiến đấu được, dù chỉ đủ sức để ném một quả lựu đạn. Lợi dụng đêm tối, họ lên khỏi các căn hầm và tấn công quân Đức, quyết dùng mạng đổi mạng với kẻ thù. Trong trận đánh này, P. M. Yagunov đã hy sinh khi dùng thân mình đỡ sức nổ của một quả lựu đạn. Ông được mai táng trong một quan tài làm bằng ván gỗ - Yagunov là người duy nhất trong số các binh sĩ ở Adzhimushkay được chôn trong quan tài. Thi hài của ông được tìm thấy trong một cuộc khai quật năm 1987 và được an táng tại quảng trường trung tâm của làng Adzhimushkay. Sau khi P. M. Yagunov tử trận, phó chỉ huy F. A. Verushkin tiếp tục thay thế ông chỉ huy cuộc chiến đấu. Quân Đức loan tin đã tiêu diệt hết đội quân trú phòng nhưng sau ngày 9 tháng 7 đến đầu tháng 8, quân Đức vẫn tiếp tục chịu thương vong trong các trận phục kích. Cuộc chiến đấu ngoan cường của đội quân trú phòng vẫn tiếp tục kéo dài tới ngày 30 tháng 10 năm 1942. Sau gần 170 ngày đêm trú ẩn dưới lòng đất và đơn độc chiến đấu với quân Đức, đội quân trú phòng Adzhimushkay đã đi vào cõi bất tử. Một trong những cựu binh của trận Adzhimushkay, A. I. Lodygin đã miêu tả rằng sự hiện diện của Yagunov luôn làm các binh sĩ chiến đấu tại đây vững lòng và tin tưởng và tương lai. Cái chết của ông khiến mọi người vô cùng đau đớn nhưng họ vẫn tiếp tục tin tưởng ở ông cũng và tiếp tục chiến đấu như Yagunov đã làm.
1
null
"Both of Us" là một ca khúc của nam ca sĩ nhạc hip hop người Mỹ B.o.B, phát hành vào 22 tháng 5 năm 2012. Đây là đĩa đơn thứ ba trích từ album phòng thu thứ hai của anh, "Strange Clouds" (2012). Ca khúc còn có sự góp giọng của nữ ca sĩ/nhạc sĩ nhạc đồng quê Taylor Swift và được sản xuất bởi Dr. Luke và Cirkut. "Both of Us" đã nhanh chóng lọt vào bảng xếp hạng Top 50 của Úc tại vị trí thứ 46. Ca khúc này đã bán được tổng cộng hơn 143,000 bản ngay trong tuần đầu tiên phát hành (khi "Strange Clouds" được phát hành), lọt vào vị trí thứ 18 tại bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 và trở thành ca khúc nổi nhất trong tuần. "Both of Us" đã nhận được rất nhiều lời khen ngợi, đặc biệt là về đoạn góp giọng của Swift, nhiều người nói nó giống như một giai điệu ngọt ngào và hấp dẫn. Video âm nhạc. Video âm nhạc cho "Both of Us" được đạo diễn bởi Jake Nava, được phát hành vào 27 tháng 6,2012. B.o.B đã chia sẻ một bức ảnh trích từ video này trên Twitter của anh với lời nhắn: "On the set of the #BothOfUs music video in Nashville with @taylorswift13. Video premieres end of June!" (Tạm dịch: "Chuẩn bị quay video âm nhạc cho #BothOfUs tại Nashville với @taylorswift13. Video sẽ phát hành vào cuối tháng Sáu!"). Cả B.o.B và Taylor Swift đều xuất hiện trong video. Xếp hạng. "Both of Us" đã nhanh chóng lọt vào bảng xếp hạng Top 50 của Úc tại vị trí thứ 46. Ca khúc này đã bán được tổng cộng hơn 143,000 bản ngay trong tuần đầu tiên phát hành, cùng với việc lọt vào vị trí thứ 18 tại bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và trở thành ca khúc nổi nhất trong tuần. Sau đó ca khúc lại lọt vào bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 tại vị trí 77.
1
null
Trương Bá Cần (tên thật: Trần Bá Cường, 1930–2009) là một linh mục Công giáo người Việt, từng giữ các chức vụ: Ủy viên đoàn Chủ tịch của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam; phó chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh; phó chủ tịch, ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh và tổng biên tập "Báo Công giáo và Dân tộc". Tiểu sử. Trương Bá Cần sinh ngày 13 tháng 7 năm 1930 tại Hương Khê, Hà Tĩnh, tên thánh là Phêrô. Năm 1958, ông được thụ phong linh mục tại Nhà thờ Đức Bà Paris, Pháp. Từ năm 1964 đến 1975, Linh mục Trương Bá Cần tham gia nhiều hoạt động chống chiến tranh Việt Nam, chống độc tài, kêu gọi hòa bình, đòi dân chủ dân sinh, đấu tranh cho quyền lợi của giới công nhân, chống đàn áp và tra tấn sinh viên. Cũng trong khoảng thời gian này, ông là Tổng Tuyên Úy của Phong trào Thanh niên Lao động Công giáo (Thanh Lao Công) trên toàn Việt Nam Cộng hòa. Năm 1969, ông cùng với linh mục Stêphanô Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan và một số linh mục, thân hữu tiến bộ xuất bản tạp chí Đối Diện. Sau năm 1975, Linh mục Trương Bá Cần là thành viên trong ban chủ trương của báo "Công giáo và Dân tộc" (không thuộc Giáo hội Công giáo), từ tháng 3 năm 1976 làm Phó Tổng biên tập, từ 1991 là Tổng Biên tập Báo Công giáo và Dân tộc.. Ông từ trần ngày 10 tháng 7 năm 2009, hưởng thọ 79 tuổi, an táng tại nghĩa trang giáo xứ Châu Nam. Liên kết ngoài.
1
null
Xa lộ Liên tiểu bang 59 (tiếng Anh: "Interstate 59" hay viết tắt là I-59) là một xa lộ liên tiểu bang tại miền Nam Hoa Kỳ. Điểm đầu phía nam của nó nằm gần Slidell, Louisiana, một khu ngoại ô của thành phố New Orleans, tại một điểm giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 10 và Xa lộ Liên tiểu bang 12, its northern terminus is at Wildwood, Georgia, at an intersection with Xa lộ Liên tiểu bang 24. Nhiệm vụ chính của xa lộ này là nối thành phố Birmingham, Alabama đến các thành phố Chattanooga, Tennessee và New Orleans, Louisiana. Suốt toàn tuyến đường, Xa lộ Liên tiểu bang 59 chạy song song với Quốc lộ Hoa Kỳ 11. Xa lộ có hai làn xe mỗi chiều trên toàn tuyến đường, trừ các đoạn ở phía bắc thành phố Tuscaloosa, Alabama và vùng đô thị Birmingham có trên 2 làn xe mỗi chiều. Mô tả xa lộ. Louisiana. Tại tiểu bang Louisiana, Xa lộ Liên tiểu bang 59 có đoạn đường ngắn nhất so với tại các tiểu bang khác mà I-59 đi qua. Bắt đầu từ nơi giao cắt với Xa lộ Liên tiểu bang 10 và Xa lộ Liên tiểu bang 12 gần Slidell, I-59 đi tránh thị trấn Pearl River trước khi qua Sông West Pearl và sau đó là Sông East Pearl. Tại Sông East Pearl, I-59 rời Quận Saint Tammany và đi vào Quận Pearl River, Mississippi. Mississippi. Tại tiểu bang Mississippi, I-59 tiếp tục chạy song song với Quốc lộ Hoa Kỳ 11 qua các vùng chủ yếu là nông thôn nhưng nó có đi qua hay đi tránh các thành phố và thị trấn sau: Picayune, Poplarville, Hattiesburg, Moselle, Laurel và Meridian. Đối với đoạn đi qua tiểu bang Mississippi, I-59 chạy trùng hay chạy gần bên Quốc lộ Hoa Kỳ 11. Giữa hai thị trấn Pearl River và Picayune, Quốc lộ Hoa Kỳ 11 chạy trùng với I-59. Xa lộ cũng chạy trùng với Quốc lộ Hoa Kỳ 98 tại Hattiesburg, với Quốc lộ Hoa Kỳ 84 và Xa lộ Mississippi 15 tại Laurel, và với Quốc lộ Hoa Kỳ 80, Quốc lộ Hoa Kỳ 11 và Xa lộ Mississippi 19 trong vùng Meridian. Ngay phía tây Meridian, Xa lộ Liên tiểu bang 20 nhập vào I-59 và hai xa lộ tiếp tục chạy trùng một đoạn dài khoảng , qua ranh giới tiểu bang Alabama và đến thành phố Birmingham. Alabama. Xa lộ Liên tiểu bang 59 và I-20 chạy trùng với nhau trên phần lớn tuyến đường của chúng qua tiểu bang Alabama, đi về hướng đông bắc qua Tuscaloosa trước khi tách khỏi nhau ở phía đông thành phố Birmingham. Tại Birmingham, có nhiều vụ tại nạn xảy ra gần nút giao thông lập thể I-20/59 và I-65. Từ thành phố Birmingham, I-59 tiếp tục đi hướng đông bắc đến gần Gadsden và Fort Payne trước khi vào tiểu bang Georgia. Một con đường tùy chọn là Quốc lộ Hoa Kỳ 11, chạy dọc bên cạnh I-59 trên toàn tuyến đường của I-59. Georgia. Xa lộ Liên tiểu bang 59 có một đoạn ngắn đi qua tiểu bang Georgia. Đoạn này chỉ có 3 lối ra trước khi nó kết thúc tại Xa lộ Liên tiểu bang 24 trong thành phố Wildwood khoảng vài dặm ở phía tây thành phố Chattanooga, Tennessee. Trong suốt tuyến đường qua tiểu bang, xa lộ I-59 được đặt tên là Xa lộ Tiểu bang 406 nhưng không có cắm biển dấu như thế.
1
null
Chi Rắn khiếm (danh pháp khoa học: Oligodon) là một chi rắn bản địa của khu vực Đông và Nam Á. Mô tả. Các loài rắn của chi "Oligodon" là những động vật bò sát ăn trứng và thường có chiều dài dưới 90 cm (35 inch). Các loài thể hiện các kiểu màu và sọc không giống nhau. sinh sống chủ yếu nhờ việc lùng sục trứng chim và bò sát. Ngoài trứng ra, chúng cũng ăn cả thằn lằn, ếch nhái và các loài động vật gặm nhấm nhỏ. Các loài rắn của chi "Oligodon" có răng nọc ở phía sau. Chúng có một bộ các răng to nằm ở phía cuối miệng cũng như các tuyến nọc chức năng. Tuy vậy nhưng chúng lại không nguy hiểm cho con người. Các loài rắn này chủ yếu kiếm ăn ban đêm, và sống trên mặt đất trong các khu rừng trưởng thành. Tên gọi trong tiếng Anh của rắn khiếm là kukri snake, do các răng sau rộng, phẳng và cong của chúng trông rất giống như kukri, một loại dao có hình dáng đặc biệt của người Nepal. Những chiếc răng này là sự thích nghi đặc biệt của rắn khiếm với loại hình thức ăn chủ yếu của chúng (trứng).
1
null
Tổng cục Hải quan () là tổ chức trực thuộc Bộ Tài chính với chức năng quản lý Nhà n­ước về Hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối hoặc tiền Việt Nam qua biên giới. Lịch sử. Ngày 10/9/1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp được uỷ quyền của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ký Sắc lệnh số 27 - SL thành lập Sở thuế quan và thuế gián thu khai sinh ngành hải quan Việt Nam với nhiệm vụ: Thu các quan thuế nhập cảnh và xuất cảnh, thu thuế gián thu. Sau đó, Ngành được giao thêm nhiệm vụ chống buôn lậu thuốc phiện và có quyền định đoạt, hoà giải đối với các vụ vi phạm về thuế quan và thuế gián thu. Giai đoạn 1945-1954, cả nước bước vào cuộc Kháng chiến chống thực dân Pháp xâm l­ược. Hải quan Việt Nam phối hợp cùng các lực l­ượng thực hiện chủ trương bao vây kinh tế và đấu tranh kinh tế với địch. Nhiệm vụ chính trị của Hải quan Việt Nam thời kỳ này là bám sát và phục vụ kịp thời nhiệm vụ của Cách mạng, tạo nguồn thu cho Ngân sách quốc gia, kiểm soát hàng hoá xuất nhập khẩu, đấu tranh chống buôn lậu giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm. Giai đoạn 1954-1975, Hải quan Việt Nam đ­ược xác định là công cụ bảo đảm thực hiện đúng đắn chế độ Nhà n­ước độc quyền ngoại thương, ngoại hối, thi hành chính sách thuế quan (thu thuế hàng hoá phi mậu dịch) tiếp nhận hàng hoá viện trợ và chống buôn lậu qua biên giới. Năm 1973, Hiệp định Paris đ­ược ký kết chấm dứt chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc. Hải quan Việt Nam huấn luyện, chuẩn bị các điều kiện triển khai công tác khi miền Nam đ­ược giải phóng. Sau khi thống nhất đất n­ước Hải quan triển khai hoạt động trên địa bàn cả n­ước từ tuyến biên giới phía Bắc đến tuyến biên giới phía Tây Nam, các cảng biển, Sân bay quốc tế, B­ưu cục ngoại dịch, Trạm chở hàng. Do yêu cầu quản lý tập trung thống nhất, Chính phủ đã có Quyết định số 80/CT ngày 5/3/1979 quyết định chuyển tổ chức Hải quan địa phương thuộc UBND tỉnh, thành phố về thuộc Cục Hải quan, Bộ Ngoại th­ương. Ngày 24/2/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ký lệnh công bố Pháp lệnh Hải quan. Pháp lệnh gồm 51 điều, chia làm 8 chương, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/1990. Pháp lệnh Hải quan xác định chức năng của Hải quan Việt Nam là "Quản lý Nhà n­ước về Hải quan đối với hoạt động xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam, đấu tranh chống buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, ngoại hối hoặc tiền Việt Nam qua biên giới. Bộ máy tổ chức của Hải quan Việt Nam được xác định rõ, tổ chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất, d­ưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hội đồng Bộ trưởng." Cơ cấu tổ chức. Theo Điều 3, Quyết định số 65/2015/QĐ-TTg ngày 17/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ, cơ cấu tổ chức Tổng cục Hải quan gồm: Cơ quan Tổng cục Hải quan ở Trung ương. Các tổ chức quy định từ số 1 đến số 13 nêu trên là tổ chức hành chính giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước; các tổ chức quy định từ số 14 đến số 16 nêu trên là tổ chức sự nghiệp. Các cơ quan hải quan ở địa phương. a) Các Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc Tổng cục Hải quan:gồm 35 cục Hải quan trong đó có 15 cục Hải quan liên tỉnh: b) Các Chi cục Hải quan: Đội Kiểm soát Hải quan và đơn vị tương đương thuộc Cục Hải quan tỉnh, liên tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Việc thành lập, sáp nhập, giải thể các Chi cục Hải quan, Đội Kiểm soát Hải quan và đơn vị tương đương do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định. c) Các đơn vị quy định tại điểm a và điểm b nêu trên có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước theo quy định của pháp luật. Hợp tác quốc tế. Ngày 1 tháng 7 năm 1993, Hải quan Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hội đồng Hợp tác Hải quan (CCC), nay là Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO). Sau khi trở thành thành viên của WCO, Hải quan Việt Nam đã tham gia Công ước KYOTO về Đơn giản hoá và Hài hoà hoá Thủ tục Hải quan (Năm 1997), Công ước Hài hoà Mô tả và Mã hoá Hàng hoá (Công ước HS) (Năm 1998). Từ năm 2000 đến nay, Hải quan Việt Nam đã và đang tiến hành các bước chuẩn bị cần thiết để tham gia Công ước KYOTO Sửa đổi. Trong 2 năm 1999 - 2000 Hải quan Việt Nam đã ký kết và thực hiện 2 Dự án với n­ước ngoài: Dự án VIE - 97/059 do UNDP tài trợ về "tăng cường năng lực cho Hải quan Việt Nam thực hiện công tác quản lý xuất nhập khẩu và hội nhập quốc tế" và Dự án nghiên cứu khả thi do cơ quan Phát triển và Th­ương mại Hoa Kỳ (TDA) và Công ty UNISYS tài trợ về công nghệ thông tin tiến tới áp dụng công nghệ trao đổi dữ liệu điện tử EDI". Ngày 29 tháng 12 năm 2003, Hải quan Việt Nam bắt đầu thực hiện việc xác định trị giá Hải quan theo Hiệp định Trị giá GATT của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Cho đến nay, Hải quan Việt Nam đã triển khai áp dụng phương pháp xác định trị giá hải quan theo GATT đối với hàng hoá đến từ 51 Quốc gia trên toàn cầu. Khen thưởng. - Huân ch­ương Lao động Hạng hai (toàn ngành) - Huân chương Lao động Hạng ba (toàn ngành) - 11 đơn vị và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Lao động và Huân ch­ương Chiến công các hạng - Huân ch­ương Độc lập Hạng nhì - Huân chương Hồ Chí Minh (1995)
1
null
Chi Rắn bồng (danh pháp khoa học: Enhydris) là một chi rắn có nọc nhẹ, theo truyền thống xếp trong phân họ Homalopsinae của họ Rắn nước (Colubridae), nhưng gần đây phân họ này đã được nâng cấp lên thành một họ riêng biệt. Vì thế, chi Enhydris hiện nay được coi là thuộc họ Rắn ri (Homalopsidae). Các loài. Đã từ lâu người ta biết rằng chi "Enhydris" là không đơn ngành. Vì thế, cơ sở dữ liệu của The Reptile Database đã chuyển tất cả các loài không có quan hệ họ hàng gần và tạo thành một nhóm đơn ngành với loài điển hình "Enhydris enhydris" sang các chi khác mà: Như vậy, chi "Enhydris" chỉ còn 6 loài.
1
null
Chi Rắn hoa cỏ (danh pháp khoa học: Rhabdophis) là một chi trong họ Rắn nước (Colubridae), được tìm thấy chủ yếu tại Đông Nam Á. Các loài. 26 loài được The Reptile Database công nhận Ba loài dưới đây cùng "Pseudagkistrodon rudis" từng có thời xếp trong chi "Macropisthodon". Độc tính. Thuật ngữ "rắn độc" được sử dụng ở một mức độ thiếu chính xác nhất định để chỉ một loạt loài rắn có nọc độc (nghĩa là các loài rắn tiết ra nọc độc, như nhiều loài rắn trong các họ Elapidae, Viperidae), nhưng thuật ngữ này là chính xác đối với một số loài rắn trong chi "Rhabdophis" (như "R. subminiatus", "R. tigrinus") do trên thực tế chúng đúng là rắn độc. Các loài rắn hoa cỏ này có các tuyến Nuchal tiết ra các chất độc mà chúng đã nuốt vào từ việc ăn thịt các loài cóc độc và được lưu giữ trong các tuyến Nuchal để sử dụng như là nọc độc của chúng khi phải phòng vệ. Trong khi cả nọc độc và chất độc đều là độc tố thì nọc độc được định nghĩa là độc tố phải có sự phân phát/hấp thụ trực tiếp, chẳng hạn như phân phát trực tiếp dưới da thông qua vết cắn của rắn có nọc độc, nhưng nọc độc này vẫn có thể nuốt vào mà không gây hại; còn chất độc là độc tố có thể gây hại thông qua hấp thụ không trực tiếp, như đụng chạm hay thông qua đường tiêu hóa.
1
null
Chiến dịch tấn công Novgorod-Luga (14 tháng 1 - 15 tháng 2 năm 1944) là một chiến dịch quân sự diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào lực lượng quân đội Đức Quốc xã đang tiến hành vây hãm Leningrad. Lực lượng Liên Xô tham chiến trong chiến dịch này là Phương diện quân Volkhov (về sau có cả cánh trái của Phương diện quân Leningrad), còn đối thủ phía Đức của họ là Tập đoàn quân số 18 thuộc Cụm Tập đoàn quân Bắc. Nhiệm vụ của Phương diện quân Volkhov trong chiến dịch này là giải phóng khu vực Novgorod, giành lại quyền kiển soát tuyến Đường sắt Tháng Mười và phối hợp với Phương diện quân Leningrad để bao vây và tiêu diệt một phần sinh lực của Tập đoàn quân số 18 tại Luga. Chiến dịch tấn công Novgorod-Luga là một phần của Chiến dịch tấn công Leningrad-Novgorod và diễn ra đồng thời với Chiến dịch tấn công Krasnoye Selo-Ropsha do Phương diện quân Leningrad thực thi. Thắng lợi của hai chiến dịch này đã khiến quân đội Liên Xô kiểm soát tuyến Đường sắt Tháng Mười - tuyến giao thông chủ yếu giữa Leningrad với nội địa Liên Xô và phá giải hoàn toàn sự uy hiếp của quân Đức đối với thành phố này. Bối cảnh. Trước tình hình khó có thể trụ vững tại khu vực gần thành phố Leningrad, từ tháng 9 năm 1943 Bộ Tư lệnh của Cụm Tập đoàn quân Bắc đã lên kế hoạch rút khỏi Leningrad về tuyến sông Narva - hồ Chudsko - Pskov - Ostrov - Idritsa (còn gọi là "tuyến Panther-Wotan"). Phía Liên Xô cũng sớm biết được ý đồ này và vì vậy, ngay từ ngày 29 tháng 9 các phương diện quân Leningrad, Volkhov và Tây Bắc đã nhận được lệnh phải tăng cường thu thập thông tin về động tĩnh của quân địch và luôn trong trạng thái sẵn sàng hành động nếu kẻ thủ bắt đầu rút quân. Tuy nhiên, mãi đến cuối năm 1943, quân Đức vẫn chưa thể rút khỏi Leningrad. Nguyên nhân chủ yếu là do Adolf Hitler. Ông ta tin tưởng rằng quân đội Liên Xô không thể tổ chức một cuộc tấn công quy mô lớn ở mặt trận Tây Bắc và vì vậy đã nhiều lần thẳng thừng từ chối lời thỉnh cầu được rút quân của Georg von Küchler, Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Bắc. Hitler đã bắt buộc quân Đức phải cố thủ tại các cứ điểm hiện tại và chỉ rút quân khi không còn có thể chống đỡ nổi các cuộc tấn công của quân đội Xô Viết. Binh lực và kế hoạch. Quân đội Liên Xô. Binh lực. Đầu năm 1944, phương diện quân Volkhov đóng quân theo một tuyến kéo dài từ Gontovoy Lipki đến Lezno, xa hơn nữa là từ sông Volkhov đến hồ Ilmen. Đồng thời, họ cũng chống giữ một đầu cầu vượt sông Volkhov trong khu vực Dymno-Zvanka - đầu cầu này quân đội Liên Xô đã lấy được từ hồi Chiến dịch tấn công Lyuban năm 1942. Cho đến đầu chiến dịch, Phương diện quân Volkhov có tổng cộng 22 sư đoàn bộ binh, 7 lữ đoàn bộ binh, 4 lữ đoàn xe tăng, 14 trung đoàn xe tăng và pháo tự hành, 2 lực lượng tăng cường cùng sự hỗ trợ của một lượng lớn các đơn vị pháo binh của cả ba phương diện quân (Volkhov, Leningrad, Baltic 2) và của Phương diện quân dự bị. Tổng cộng Phương diện quân Volkhov có 260.000 binh sĩ và sĩ quan, 400 xe tăng và pháo tự hành, 3.633 đại bác và súng cối, 257 máy bay của Tập đoàn quân không quân số 14. Hai phương diện quân Leningrad và Volkhov sẽ được yểm hộ bởi 330 máy bay của Lực lượng không quân tầm xa. Hỗ trợ cho mũi chủ công của hai phương diện quân Leningrad và Volkhov là mũi phụ công của phương diện quân Baltic 2, với nhiệm vụ tấn công theo hướng идрицком và phía Bắc của Novosokolniki nhằm găm giữ Tập đoàn quân số 16 (Đức), không cho quân Đức điều binh từ đơn vị này sang tăng viện cho Tập đoàn quân số 18. Thêm vào đó, lực lượng chủ lực của quân đội Liên Xô còn nhận được sự hỗ trợ của 13 lữ đoàn du kích (với quân số 35.000 người) . Nhiệm vụ của các nhóm du kích là sẽ tổ chức nổi dậy tiêu diệt các chính quyền thân Đức ở địa phương, không cho quân Đức thực hiện các hành động tiêu thổ, phá hoại tài sản cũng như bắt dân cư Nga chở sang đất Đức, phá hoại các tuyến tiếp vận và liên lạc đường bộ của quân Đức, và giúp đỡ quân đội Liên Xô tiến công tiêu diệt địch. Kế hoạch. Vào tháng 9 năm 1943, hội đồng quân sự của các Phương diện quân Leningrad và Volkhov đã trình lên Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô (STAVKA) kế hoạch và một cuộc tấn công quy mô lớn do hai phương diện quân này cùng phối hợp thực hiện, với mục tiêu là đánh bại chủ lực của Tập đoàn quân số 18 (Đức) và phá giải hoàn toàn sự uy hiếp của quân địch đối với thành phố Leningrad. Theo kế hoạch, hai phương diện quân phải cùng lúc tổ chức hai đòn đánh mạnh để tiêu diệt cụm quân Petergof-Strelna (được thực thi trong chiến dịch Krasnoye Selo-Ropsha của Phương diện quân Leningrad) và cụm quân Novgorod - đóng tại cạnh sườn của Tập đoàn quân số 18. Tiếp đó, quân đội Liên Xô sẽ phát triển lên Kingisepp, Luga và bao vây chủ lực của quân địch. Cuối cùng, Hồng quân sẽ tiến tới Narva, Pskov và Idritsa, hoàn tất việc giải phóng tỉnh Leningrad và tạo tiền để cho các cuộc tấn công mới vào khu vực Baltic. Riêng về phần mình, hội đồng quân sự của Phương diện quân Volkhov đã chia kế hoạch tấn công của mình thành 3 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, phương diện quân dự kiến sẽ đục thủng các phòng tuyến của quân Đức và giải phóng Novgorod. Giai đoạn thứ hai, phương diện quân phải đột phá sâu chừng 30 cây số và tiếp cận Luga. Việc giải phóng Luga và phát triển tấn công lên Ostrov, Pskov sẽ được thực hiện trong giai đoạn thứ ba. Nếu mọi chuyện diễn ra suôn sẻ, quân đội Liên Xô sẽ thi hành luôn "giai đoạn thứ tư" là chuẩn bị giải phóng nhanh các nước vùng Baltic. Đòn tấn công chính của phương diện quân Volkhov sẽ do Tập đoàn quân số 59 thực hiện, đánh từ đầu cầu bên bờ trái sông Volkhov cách Novgorod 30 cây số về phía Bắc. Một mũi công kích khác của Tập đoàn quân số 59 sẽ được mở ở phía Nam của Novgorod với xuất phát điểm là đầu nguồn sông Volkhov ở hồ Ilmen. Hai mũi tấn công này sẽ vòng qua Novgorod, gặp nhau ở Lyubolyady và tạo thành vòng vây đối với quân Đức đồn trú trong Novgorod. Sau khi giải phóng thành phố này, Tập đoàn quân số 59 sẽ tiến lên phía Tây Bắc theo hướng Luga và tiến xuống phía Tây Nam theo hướng Shimsk. Nếu nhanh chóng giải quyết Luga, quân đội Liên Xô sẽ có cơ hội cắt đứt đường lui binh của quân Đức từ các khu vực Mga, Tosno, Chudovo và Lyuban, vốn sẽ rút chạy trước sức ép của các tập đoàn quân số 8, 54 và 67 thuộc Phương diện quân Leningrad. Nhìn chung, nhiệm vụ của cả hai phương diện quân là tìm mọi cách lấy lại quyền kiểm soát tuyến đường sắt Kirov và Tháng Mười - con đường huyết mạch nối thành phố Leningrad với vùng nội địa Liên Xô. Kế hoạch được Đại bản doanh chấp thuận. Trong thời gian đó, do nhận được các thông tin về khả năng xảy ra một cuộc rút quân có tổ chức của Cụm Tập đoàn quân Bắc, Bộ Tổng tư lệnh Tối cao Liên Xô đã soạn thảo hai kế hoạch tấn công tương ứng với hai động thái có thể xảy ra của quân Đức: kế hoạch Neva-1 đặt trường hợp quân Đức tổ chức rút lui sớm và vì vậy quân đội Liên Xô phải lập tức tung quân tấn công truy kích kẻ thù; kế hoạch Neva-2 đặt trường hợp quân Đức sẽ cố bám trụ thêm một thời gian và quân đội Liên Xô sẽ tổ chức một cuộc tấn công được chuẩn bị kỹ lưỡng, lần lượt đột phá từng lớp phòng ngự của kẻ địch. Quân đội Đức Quốc xã. Binh lực. Chong mặt đối diện với phương diện quân Volkhov tại đây là một phần Tập đoàn quân số 18 của Đức, bao gồm 3 sư đoàn bộ binh thuộc không quân, 6 sư đoàn bộ binh và 3 lữ đoàn bộ binh thuộc các quân đoàn số 38, 26, 28. Tại đây, quân Đức đã xây dựng được một hệ thống phòng ngự kỹ lưỡng bao gồm nhiều trung tâm phòng ngự, nổi bật nhất là các cứ điểm tại Mga, Tosno, Lyuban, Chudovo và Novgorod. Tại hướng tấn công chính của khu vực phía Bắc Novgorod, quân Đức đã bố trí hai tuyến phòng ngự: tuyến thứ nhất chạy dọc theo tuyến đường sắt Novgorod - Chudovo, còn tuyến thứ hai dựa theo sông Kerest. Những khu vực xung quanh thành phố Novgorod cũng được bao bọc bởi ba lớp phòng thủ. Những tòa nhà bằng đá trong thành phố thì được tận dụng làm các hỏa điểm và boong-ke cho quân đồn trú. Diễn biến, 14-31 tháng 1. Giải phóng Novgorod. Ngày 14 tháng 1, hai phương diện quân Volkhov và Leningrad nổ súng tấn công. Chuỗi chiến dịch Leningrad-Novgorod cũng như chiến dịch Novgorod-Luga chính thức mở màn. Vào lúc 10 giờ 50 phút sáng, sau một loạt pháo bắn chuẩn bị dữ dội, tập đoàn quân số 59 của phương diện quân Volkhov bắt đầu ồ ạt xung phong, tấn công vào trận địa của sư đoàn khinh binh số 28, sư đoàn bộ binh thuộc không quân số 28 và lữ đoàn Latvia SS số 2 của quân đội Đức. Tại khu đầu cầu phía Bắc của Novgorod, quân Đức đã chịu một đòn tấn công của quân đoàn bộ binh số 6 (bao gồm các sư đoàn bộ binh số 65, 239, 310) và quân đoàn bộ binh số 14 (bao gồm các sư đoàn bộ binh số 191, 225 và 378). Trong ngày tấn công đầu tiên, bão tuyết dày đặc đã cản tầm nhìn của pháo binh và không cho phép không quân hoạt động, đồng thời phần lớn số xe tăng bị sa lầy trong các đầm lầy và các hố sụt; vì vậy các đơn vị bộ binh không nhận được sự hỗ trợ hiệu của từ các quân binh chủng này. Các quân đoàn bộ binh số 6 và 14 chiến đấu đơn độc đã không thể gặt hái được nhiều thành quả; chỉ có các sư đoàn bộ binh số 239 và 378 đục thủng được phòng tuyến quân địch và tiếp tục đột phá sâu hơn. Cánh phía Nam của Novgorod - do Thiếu tướng T. A. Sviklina chỉ huy và có nhiệm vụ phối hợp với quân đoàn bộ binh số 6 bao vây Novgorod - tỏ ra thành công hơn. Lực lượng tiên phong của cánh này là lữ đoàn bộ binh số 58 (thuộc sư đoàn bộ binh số 225) và các tiểu đoàn bộ binh trượt tuyết số 44, 34 trong đêm 14 tháng 1 đã hành quân vòng qua Novgorod trên mặt băng của hồ Ilmen, tiếp cận bờ Tây Bắc của hồ vào lúc bình minh hôm sau và đánh tan lữ đoàn Latvia SS (Đức) tại đây, thiết lập một đầu cầu có chiều dài 5 cây số và chiều rộng 4 cây số. Trước nguy cơ khối quân Đức đồn trú ở Novgorod bị bao vây, Cụm Tập đoàn quân Bắc vội vã đem quân tới tăng viện. Một phần sư đoàn số 290 và trung đoàn kỵ binh "Nord" đã được chuyển tới hồ Ilmen để chặn mũi công kích Nam Novgord của tập đoàn quân số 59; còn một trung đoàn của sư đoàn bộ binh số 290 cũng được điều từ Mga về củng cố mặt Bắc của Novgorod. Ngày 15 tháng 1, các thê đội tuyến 2 của Tập đoàn quân số 59 cũng được tung vào khu vực chung quanh Novgorod. Một phần của sư đoàn bộ binh số 239 cùng với các lữ đoàn xe tăng số 16, 29 đã hành quân đến trận địa để tiếp ứng cho quân đoàn bộ binh số 6. Sau nhiều trận kịch chiến, trong các ngày 15-16 tháng 1 quân đội Liên Xô đã đẩy lui sư đoàn bộ binh nhẹ số 28 và sư đoàn bộ binh số 24 của Đức và cắt đứt tuyến đường sắt Chudovo - Novgorod. Đến ngày 17, các quân đoàn số 6 và 14 đã đục thủng tuyến phòng ngự chính của quân địch trên một chính diện 20 cây số và đã đột phá sâu 8 cây số. Trong những ngày sau đó, các đơn vị cơ động của quân đoàn bộ binh số 6 đã tiến quân băng qua những khu vực đầm lầy, rừng núi và đến ngày 20 tháng 1 đã tiếp cận tuyến đường sắt Novgorod - Batyetskiy, cách Nashi (???) 2 cây số về phía Đông. Cùng lúc đó, mũi công kích phía Nam Novgorod - được tăng cường bởi các sư đoàn bộ binh số 372, 225 và một số đơn vị pháo binh cũng đẩy mạnh tiến công. Đến ngày 18 tháng 1, sư đoàn bộ binh số 372 đã kiểm soát tuyến đường bộ và đường sắt Novgorod - Shimsk và tiếp tục phát triển lên Staroy Melnitsy (???) và Gorynyeva (???). Các đợt tấn công của quân đội Liên Xô tại phía Bắc và phía Nam Novgorod đã khiến quân đoàn số 38 (Đức) đứng trước nguy cơ bị bao vây. Nhằm cứu vãn tình hình, bộ chỉ huy của Tập đoàn quân số 18 (Đức) đã đưa các sư đoàn bộ binh số 21, 121, sư đoàn bộ binh nhẹ số 8 và một số đơn vị khác về tăng viện cho Novgorod, nhưng tình thế rõ ràng là đã không thể nào vãn hồi. Ngày 18 tháng 1, Geogr Lindenmann hạ lệnh cho quân Đức bỏ Novgorod, rút về trấn thủ Batyetskiy trên con đường duy nhất nối giữa hai thành phố này. Sáng 20 tháng 1, các sư đoàn bộ binh số 191, 225 (của quân đoàn bộ binh số 14) và sư đoàn bộ binh số 7 (của lực lượng dự bị) đã giải phóng Novgorod mà không phải nổ phát súng nào. Một phần của sư đoàn bộ binh nhẹ số 28, sư đoàn bộ binh thuộc không quân số 1 và trung đoàn kỵ binh SS "Nord" đã rút chạy khỏi thành phố vào ngày 19 tháng 1, bỏ lại hết những vũ khí nặng. Однако выйти из окружения немецким войскам не удалось. Vào ngày 20 tháng 10, cách Novgorod 10 cây số về phía Tây, tại Gorynyeva, sư đoàn bộ binh số 372 (thuộc mũi công kích phía Nam Novgorod) và quân đoàn bộ binh số 6 đã gặp nhau, cắt đường lui của một khối lớn quân Đức. Phần lớn quân Đức trong vòng vây đã bị tiêu diệt, trong đó có 3.000 người bị bắt. Giải phóng tuyến Đường sắt Tháng Mười. Ngày 16 tháng 1, Tập đoàn quân số 54 nổ súng tấn công với mục tiêu là nhằm ghim giữ lực lượng địch quân. Sau đó, theo kế hoạch, tập đoàn quân số 54 sẽ phối hợp với các tập đoàn quân số 8 và 67 (Phương diện quân Leningrad) tiến công bao vây và tiêu diệt một phần sinh lực của các quân đoàn số 26 và 28 (Đức) tại khu vực Mga, Chudovo, Lyuban. Do sự chống cự quyết liệt của quân Đức, trong suốt 4 ngày Tập đoàn quân số 54 chỉ có thể đột phá được 5 cây số và không thể dập tắt sức kháng cự của các lực lượng địch thuộc sư đoàn bộ binh số 121, 21, 12 và sư đoàn bộ binh thuộc không quân số 13. Giữ vững Chudovo và Lyuban là một nhiệm vụ rất quan trọng đối với quân Đức vì tuyến đường sắt Tháng Mười và tuyến đường bộ Moskva-Leningrad nằm trên một phòng tuyến trung gian của quân Đức gọi là "Avtoban", theo kế hoạch trước đó sau khi rút lui khỏi Mga thì quân đội Đức sẽ tạm thời dừng chân ở đây. Ngày 21 tháng 1, quân Đức bắt đầu rút lui khỏi Mga. Ngay khi phát hiện ra các dấu hiệu lui binh ở gần khu vực Mga-Sinyavino, Tập đoàn quân số 67 (phương diện quân Leningrad) và Tập đoàn quân số 8 (phương diện quân Volkhov) ngay lập tức tung quân truy kích. Cho đến chiều ngày 21 tháng 1, Mga được giải phóng và sau đó quân đội Liên Xô đã giành lại quyền kiểm soát tuyến đường sắt Kirov. Tuy nhiên, trong những ngày sau đó các đợt tiến công của quân đội Liên Xô không được thuận lợi như thế. Sư đoàn bộ binh số 212 (Đức) - lực lượng cản hậu tại Mga có nhiệm vụ bảo vệ cho quân đoàn số 26 đang rút lui - đã chống trả quyết liệt và làm chậm bước tiến của quân đội Liên Xô, tạo điều kiện cho chủ lực quân Đức tiếp tục rút lui và chống giữ tuyến đường sắt Tháng Mười. Việc quân Đức lui binh khỏi Mga đã buộc phương diện quân Leningrad phải thay đổi kế hoạch ban đầu là sử dụng tập đoàn quân số 42 tấn công vào khu vực Pushkin, Slutsk [~ 4] và Tosno, hợp lực với Tập đoàn quân số 67 và các lực lượng của Phương diện quân Volkhov bao vây các quân đoàn số 26 và 28 của Đức tại khu vực Mga, Tosno và Lyuban. Trước tình hình mới, Tập đoàn quân số 42 chuyển sang tấn công cứ điểm quan trọng Krasnogvardeisk, giao lại nhiệm vụ giải phóng tuyến Đường sắt Tháng Mười cho Tập đoàn quân số 67 và Phương diện quân Volkhov. Ngày 22 tháng 1, Hội đồng quân sự Phương diện quân Volkhov trình lên Đại bản doanh kế hoạch về chiến dịch tấn công Novgorod-Luga. Mục tiêu của chiến dịch có liên hệ tới tình hình hiện thời là cụm quân Novgorod bị tiêu diệt và việc quân Đức rút chạy khỏi Lyuban, Mga; vì vậy Tập đoàn quân số 59 sẽ tiếp tục phát triển lên hướng Luga và giải phóng thành phố này; còn Tosno và Lyuban sẽ do các Tập đoàn quân số 8 và số 54 hợp lực xử lý. Kế hoạch được Đại bản doanh phê chuẩn (cùng với một số chỉnh sửa nhỏ) thông qua chỉ thị số 220013 ban hành cùng ngày, trong đó có nêu chi tiết: Thêm vào đó, để đảm bảo việc chỉ huy được hiệu quả, Đại bản doanh đã ủy quyền chuyển phần lớn binh lực của Tập đoàn quân số 8 sang Tập đoàn quân số 54. Tổng hành dinh của Tập đoàn quân số 8 cũng được chuyển sang cánh trái trên khu vực hồ Ilmen để tăng cường khả năng chỉ huy các đơn vị quân đội Liên Xô đang tấn công. Trong thời điểm này, quân Đức đóng tại tuyến đường sắt Tháng Mười vẫn tiếp tục chống cự ác liệt, tuy nhiên họ đã nhận ra rằng phòng tuyến tạm thời này không giữ chân quân đội Liên Xô được lâu và vì vậy quân Đức lại lục tục chuẩn bị rút lui về phía Tây. Ngày 25 tháng 1, Tập đoàn quân số 54 sau khi nhận được binh lực tăng cường từ tập đoàn quân số 8, 67 và lực lượng dự bị, tiếp tục nổ súng tấn công. Ngày 26 tháng 1, các sư đoàn bộ binh số 124, 364 và lữ đoàn bộ binh số 1 (chuyển từ tập đoàn quân số 67 sang tập đoàn quân số 54) đã giải phóng Tosno. Ngày 28 các sư đoàn bộ binh số 80, 281, 374, 177 giải phóng Lyuban, và đến ngày 29 các sư đoàn bộ binh số 29, 44 cùng các lữ đoàn số 14, 53 giải phóng Chudovo. Cùng ngày hôm đó, Hội đồng quân sự của phương diện quân Volkhov gửi báo cáo về việc giải phóng hoàn toàn tuyến đường sắt Tháng Mười cho Đại bản doanh, trong đó có đoạn: Quân đội Liên Xô tiếp tục truy kích và đến ngày 31 tháng 1, Tập đoàn quân số 54 đã tiếp cận tuyến Sluditsy - Eglino (???) - Apraksin Bor - Glushitsa (???). Cùng lúc đó, Tập đoàn quân số 42 của Phương diện quân Leningrad đã giải phóng Krasnogvardeisk, và một phần của Tập đoàn quân số 67 cũng quét sạch quân Đức khỏi Pushkin và Slutsk. Đến cuối tháng 1, các tập đoàn quân xung kích số 2 và tập đoàn quân số 42 của Phương diện quân Leningrad đã tiếp cận bờ sông Luga tại khu vực Kotly, Kingisepp và Bolshoi Sabsk, còn Tập đoàn quân số 67 đã tiến tới Siverskiy. Chiến sự ở Luga trong tháng 1. Sau khi giải phóng Novgorod, Tập đoàn quân số 59 lập tức hành quân đến Luga. Nếu giải phóng thành công Luga, quân đội Liên Xô có thể bao vây phần lớn chủ lực của Tập đoàn quân số 18 (Đức). Ở phía Tây theo hướng Narva, quân Đức bố trí 5 sư đoàn còn ở Tây Nam theo hướng Pskov là 14 sư đoàn (3/4 binh lực của Tập đoàn quân số 18) [17]. Vì lý do này, Đại bản doanh đã yêu cầu phải làm chủ Luga không muộn hơn ngày 29-30 tháng 1. Mũi tấn công chính của Tập đoàn quân số 59 do quân đoàn bộ binh cận vệ số 6 đảm trách, có nhiệm vụ đập nát sức kháng cự của quân Đức tại khu vực Batetskiy và cùng với quân đoàn bộ binh số 112 (tiến quân ở cánh phải) tổ chức phát triển tấn công lên Luga. Cùng lúc đó, quân đoàn bộ binh số 112 cũng có nhiệm vụ đánh theo hướng Finyov Lug và cắt đường lui của quân Đức từ tuyến đường sắt Tháng Mười. Tại cánh trái, tập đoàn quân số 59 bố trí cho quân đoàn bộ binh số 7 tiến theo hướng tuyến đường sắt Leningrad - Dno, còn quân đoàn bộ binh số 14 thì đi theo hướng Tây Nam về phía Shimsk . Bộ chỉ huy quân Đức, lúc này đã nhận ra tình thế nguy hiểm, vội vã tổ chức lại lực lượng và điều binh tới tăng viện cho Luga. Một vài cụm tác chiến đã được thành lập với nhiệm vụ ngăn chận bước tiến của Hồng quân về Luga và đảm bảo cho quân đoàn số 28 có thời gian rút lui khỏi khu vực này cũng như các khu vực Lyuban và Chudovo. Ngày 21 tháng 1, cụm tác chiến "Schulte" (bao gồm lữ đoàn SS Latvia số 2, một phần của sư đoàn bộ binh nhẹ số 2, sư đoàn bộ binh số 24, 121 và 21) tham gia trấn thủ tại tuyến Spasskaya Polisty - Tatino, bảo vệ cho khu vực Finyov Lug. Cụm tác chiến "Shpet" (một phần của sư đoàn bộ binh thuộc không quân số 1 và lữ đoàn kỵ binh "Nord") và sư đoàn bộ binh nhẹ số 8 trấn thủ hai phía của tuyến đường sắt Novgorod - Batetskiy, và cụm tác chiến "Ferguta" (một phần của lữ đoàn kỵ binh "Nord" và sư đoàn bộ binh số 290) trấn thủ hướng Shimsk. Quân đội Liên Xô vẫn tiếp tục tấn công. Các quân đoàn bộ binh số 6 và lữ đoàn xe tăng số 29 tiến thẳng tới Luga, tuy nhiên trên đường đi họ gặp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Đức và không thành công trong việc đột phá phòng tuyến của quân địch. Mãi tới ngày 26 tháng 1, sau nhiều ngày kịch chiến, mũi tấn công của Hồng quân dọc theo tuyến đường sắt Novgorod - Batyetskiy đã đẩy lui quân Đức, giải phóng Lyubolyady và tiến tới sông Luga. Tình hình ở cánh trái tỏ ra khả quan hơn. Sau 5 ngày chiến đấu, quân đoàn bộ binh số 7 đã dần dần dập tắt sức kháng cự của quân Đức và đột phá sâu 30-35 cây số về phía Tây và tiếp cận sông Luga, gần làng Trebon (???). Cùng lúc đó, sư đoàn bộ binh số 256 với sự trợ giúp của lữ đoàn xe tăng cận vệ số 7 và lữ đoàn du kích số 5 đã đánh chiếm ga Peredolskaya trên tuyến đường sắt Leningrad-Dno, còn sư đoàn bộ binh số 382 đánh bại sư đoàn bộ binh nhẹ số 8 (Đức) và giải phóng làng Medved, cắt đứt tuyến đường sắt Luga - Shimsk. Quân đoàn bộ binh số 14 và lữ đoàn xe tăng số 16 cũng quét sạch quân Đức khởi bờ Tây Bắc hồ Ilmen và đến ngày 26 tháng 1 đã tiếp cận Shimsk nhưng chưa thể giải phóng thành phố. Quân Đức đồn trú ở Shimsk đã chống cự quyết liệt nhằm bảo vệ tuyến đường liên lạc quan trọng giữa 2 tập đoàn quân số 18 và 16 của Đức. Do Shimsk chỉ là một mục tiêu nhỏ, bộ chỉ huy của Phương diện quân Volkhov cho tạm dừng tấn công ở đây và dồn sức lên khu vực Luga. Vào ngày 25 tháng 1, các quân đoàn bộ binh số 7 (bao gồm các sư đoàn bộ binh số 256, 382, 372) và số 14 cùng với các lữ đoàn xe tăng số 16, 122 và lữ đoàn xe tăng cận vệ số 7 của Tập đoàn quân số 59 đã được chuyển cho Tập đoàn quân số 8. Tập đoàn quân số 8 sẽ nhận nhiệm vụ tấn công Luga từ phía Nam và Đông Nam nhằm hỗ trợ cho mũi công kích của Tập đoàn quân số 59. Cánh trái của Tập đoàn quân số 8 được bảo vệ bởi đơn vị tăng cường số 150 trấn thủ ở khu vực gần Shimsk. Ngày 27 tháng 1, Tập đoàn quân số 59 (lúc này chỉ còn các quân đoàn bộ binh số 6, 112 và một lữ đoàn xe tăng) tiếp tục tấn công theo hướng Luga dọc theo tuyến đường sắt Novgorod - Batyetskiy. Sau nhiều ngày chiến đấu kịch liệt, Tập đoàn quân số 59 vẫn không thành công trong việc đột phá trận tuyến quân Đức và chỉ giành được những thắng lợi mang tính cục bộ. Quân đoàn bộ binh số 6 không thể hạ được cứ điểm mạnh tại Batyetskim còn quân đoàn bộ binh số 112 cũng không chiếm được Oredezh và cắt dứt tuyến đường bộ Luga; điều này khiến một phần quân đoàn số 28 (Đức) có thể rút lui an toàn về Chudovo. Tình hình tương tự diễn ra đối với Tập đoàn quân số 8. Nguyên do là, ý thức được tầm quan trộng của nhà ga Peredolskaya, quân đội Đức nhiều lần tổ chức phản kích vào điểm giao thông quan trọng này với lực lượng của sư đoàn thiết giáp số 12 và sư đoàn cảnh vệ số 285. Cuộc chiến tại nhà ga đã diễn ra hết sức ác liệt; Peredolskaya nhiều lần đổi chủ từ Liên Xô sang Đức rồi lại trở về phía Liên Xô. Cuối cùng, quân đội Liên Xô vẫn đứng vững ở Peredolskaya nhưng do chịu nhiều thiệt hại nặng nề, Tập đoàn quân số 8 không còn đủ sức để phát triển tấn công lên Luga nữa. Như vậy là kế hoạch "giải phóng Luga chậm nhất là ngày 29-30 tháng 1" coi như thất bại. Rõ ràng quân Đức đã cố giữ "tuyến Luga" bằng bất cứ giá nào và đã đổ dồn mọi lực lượng hiện có về đây; vào đầu tháng 2 khu Luga đã tập trung sư đoàn thiết giáp số 12, 4 sư đoàn bộ binh, 6 cụm tác chiến bộ binh cấp sư đoàn và những lực lượng còn sót lại của 6 sư đoàn, lữ đoàn khác. Thất bại tại Luga đã khiến tập đoàn quân số 18 (Đức) có điều khiện rút lui khỏi Leningrad và bảo toàn được phần lớn lực lượng. Nguyên nhân của thất bại này là do vào cuối tháng 1, quân đội Liên Xô đã không tập trung đủ binh lực trên các hướng tấn công chính cộng với địa hình phức tạp, thời tiết xấu, tuyến tiếp vận kéo dài, thiếu sự hỗ trợ của không quân và việc các lực lượng xe tăng đã bị hao hụt nhiều từ trước. Không hài lòng với kết quả chiến dịch, ngày 29 tháng 1 Đại bản doanh ra chỉ thị yêu cầu phương diện quân Volkhov tạm gác lại mục tiêu Shimsk và Soltsy, dồn hết binh lực vào nhanh chóng giải phóng Luga. Đại bản doanh cũng tăng cường cho Phương diện quân thêm 15.000 quân nhân và 150 xe tăng, bổ sung cho phần binh lực đã hao hụt trong các đợt tấn công trước. Tuy nhiên, suốt nhiều ngày sau đó, chiến sự vẫn diễn biến ác liệt và các Tập đoàn quân số 8, 59 cũng chưa thể hoàn thành nhiệm vụ được giao. Kết quả. Cho đến cuối tháng 1 năm 1944, hai Phương diện quân Leningrad và Volkhov đã đẩy lui được quân Đức, phá giải hoàn toàn vòng phong tỏa của kẻ địch đối với thành phố Leningrad. Tuy nhiên, Tập đoàn quân số 18 (Đức) vẫn bảo toàn được phần lớn chủ lực và tiếp tục chống cự mạnh mẽ. Đầu tháng 2 năm 1944, hai Phương diện quân Liên Xô tiếp tục các cuộc tấn công vào Tập đoàn quân số 18. Đối với Phương diện quân Leningrad, các Tập đoàn quân số 42 và Tập đoàn quân xung kích số 2 sẽ tổ chức công kích vào tuyến Narva, còn Tập đoàn quân só 67 sẽ tấn công vào Luga từ phía Bắc và Đông Bắc. Còn đối với Phương diện quân Volkhov, mục tiêu chủ chốt của họ vẫn là phải hạ gục Luga, với các lực lượng hiện có là Tập đoàn quân số 59, 8 và 54. Do Phương diện quân Volkhov không thể giải phóng Luga trong tháng 1 như dự định, Đại bản doanh buộc phải tổ chức điều chỉnh lại việc bố trí lực lượng cũng như ban hành một số thay đổi đối với kế hoạch ban đầu của Phương diện quân. Theo đề nghị của L. A. Govorov, vào ngày 1 tháng 2 Đại bản doanh đã quyết định thay đổi hướng tấn công của Tập đoàn quân số 42: lần này Tập đoàn quân sẽ tiến theo hướng Gdov, bỏ qua "cụm quân Luga" (Đức) ở phía Tây Bắc, cắt đứt tuyến liên lạc của quân Đức trên tuyến Luga - Pskov, hỗ trợ cho Tập đoàn quân số 67 và Phương diện quân Volkhov giải phóng Luga. Thêm vào đó, ngày 2 tháng 2 Tập đoàn quân xung kích số 1 của Phương diện quân Baltic 2 được chuyển giao cho Phương diện quân Volkhov để tăng cường lực lượng cho Phương diện quân này. Về phía Đức, hiểu rõ Tập đoàn quân số 18 đang đứng trước nguy cơ bị bao vây và tiêu diệt, tư lệnh của Cụm Tập đoàn Bắc Geogr von Küchler đã lập ngay kế hoạch rút binh khỏi khu vực Luga. Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 1 Adolf Hitler lần nữa lại ra lệnh "cấm rút lui", yêu cầu cố thủ "tuyến Luga" để giữ mối liên lạc giữa hai Tập đoàn quân số 16, 18 và ngăn chặn đà tiến công của quân đội Liên Xô. Mệnh lệnh này gặp phải sự phản đối quyết liệt của Küchler vì ông cho rằng yêu cầu này là không thể nào thực hiện được, thế là Hitler huyền chức ông ta và thay bằng Walter Model, người đã ban hành lệnh giữ từng tấc đất ngay khi vừa mới nắm quyền. Kế hoạch phòng thủ của Model - mang tên gọi "Thanh kiếm và Lá chắn" ("Schild und Schwert") - có nội dung là tổ chức phòng thủ chủ động và tung nhiều đòn phản kích dữ dội nhằm chặn các mũi tiến công của quân đội Liên Xô và khôi phục lại một phòng tuyến liên tục giữa hai Tập đoàn quân Đức, và lực lượng chính của Tập đoàn quân số 18 tại khu vực Luga (gồm 2 quân đoàn), обособленно сражавшимися в районе Нарвы. Và, nhằm củng cố khu vực Luga, quân Đức đã điều một số đơn vị thuộc Tập đoàn quân số 16 đến trấn thủ tại nơi này. Thêm vào đó, để khôi phục lại mặt trận liên tục và đảm bảo tuyến liên lạc giữa hai Tập đoàn quân, ngày 6 tháng 2, dựa trên sự quản lý của quân đoàn Latvia SS số 6, một cụm tác chiến mang tên "Friessner" (đạt theo tên người chỉ huy của nó, trung tướng bộ binh Johannes Frießner, bao gồm các quân đoàn số 38 và 10) được thành lập để bảo vệ Luga. Diễn biến, 1-15 tháng 2. Hoạt động của Phương diện quân Leningrad. Ngày 31 tháng 1, Tập đoàn quân số 42 hành quân vòng qua Luga và tiếp tục truy kích quân đoàn số 50 (Đức) đang rút chạy về phía Narva. Trong vòng vài ngày, với sự hỗ trợ của các lực lượng du kích, Tập đoàn quân số 42 đã giải phóng được nhiều vùng lãnh thổ trong đó có Lyady, Sara Gory (???), Gdov và tiến sát đến bờ hồ Chudsko. Sang đầu tháng 2, bộ tư lệnh Phương diện quân Leningrad bắt đầu giao cho Tập đoàn quân số 42 một nhiệm vụ mới: vòng qua cụm quân Luga (Đức) từ phía Tây và Tây Bắc, hỗ trợ Tập đoàn quân số 67 và Phương diện quân Volkhov giải phóng Luga. Theo kế hoạch mới, quân đoàn số 108 tiếp tục tiến tới Yamm thuộc tỉnh Pskov còn các quân đoàn bộ binh số 123, 116 từ khu vực Lyady ở phía Tây Nam tiến công vào Plyussa, Struga (???), tìm cách cắt đứt tuyến đường bộ Luga - Pskov. Hoạt động của Tập đoàn quân số 42 một lần nữa khiến Tập đoàn quân số 8 (Đức) đứng trước nguy cơ bị bao vây. Trước tình hình đó, Walter Model hạ lệnh cho quân Đức bằng mọi giá phải chống giữ tuyến Luga-Pskov và điều các sư đoàn bộ binh số 11, 212, 215, 24, 58, 21, 207 và sư đoàn bộ binh thuộc không quân số 13 tới trấn thủ khu vực từ phía Tây Luga tới hồ Chudsko. Các sư đoàn thiết giáp số 12, sư đoàn bộ binh thuộc không quân số 12 và sư đoàn bộ binh số 126 cũng được yêu cầu chuẩn bị một đòn phản kích từ hồ Chudsko đánh lên phía Bắc. Tuy nhiên, vào ngày 7 tháng 2, số quân Đức đang chuẩn bị phản kích đã bị Tập đoàn quân số 42 tấn công trước. Tại khu vực Yamm trên bờ sông Zhelbye, chiến sự bùng nổ ác liệt giữa một bên là quân đoàn bộ binh số 108 (Liên Xô) và sư đoàn bộ binh số 207 (Đức); còn giữa sông Luga và Plyussa thì các quân đoàn bộ binh số 116th và 123rd của quân đội Liên Xô - đang tiến về hướng Strugi Krasniye - cũng đang tấn công các cứ điểm của quân đoàn bộ binh số 58 và quân đoàn bộ binh thuộc không số 13 của Đức. Vào ngày 10, sư đoàn thiết giáp số 12 mở một đợt phản kích đánh vào các sư đoàn bộ binh số 196 và 128 (thuộc quân đoàn bộ binh số 108) tại Yamm nhưng không thu được kết quả đáng kể. Đế ngày 12, quân đoàn bộ binh số 108 đẩy lui quân Đức về phía Nam và giải phóng Podborovye. Một sư đoàn bộ binh Xô Viết cũng tấn công và chiếm giữ được một bàn đạp trên bờ Tây của hồ Chudsko. Cùng lúc đó, chiến sự tiếp tục xảy ra ở khúc cong của sông Plyussa, nơi các sư đoàn bộ binh số 58, 21, 24 của Đức chống giữ và quân Đức cũng đã bắt đầu mở một cuộc phản kích. Các quân đoàn số 116, 123 tại khu vực Zarudin (???) - Berezitse - Orehovno (???) sau nhiều ngày chiến đấu quyết liệt đã phá vỡ được hệ thống phòng thủ của quân địch, đánh tan 3 sư đoàn Đức. Một phần của sư đoàn bộ binh số 58 (Đức) bị bao vây. Quân Đức vội vã tung vào trận địa sư đoàn bộ binh thuộc không quân số 13 và một phần sư đoàn thiết giáp số 12 để cứu vãn tình hình nhưng các lực lượng này đã bị đánh bại với tổn thất hết sức nặng nề. Trung đoàn bộ binh ném lựu thuộc sư đoàn thiết giáp số 12 cũng bị lọt vào vòng vây. Ngày 13 tháng 2, quân Đức trong vòng vây, bỏ lại hết xe tăng và đại bác, tổ chức một cuộc tấn công nhằm phá vòng vây chạy về Strugi Krasniye, băng qua hồ Chyornoye nhưng thất bại và chỉ có một số ít chạy thoát. Cho đến ngày 15 tháng 2, hai quân đoàn của Tập đoàn quân số 42, bao quanh bởi các lực lượng Đức bị đánh tan, tiếp tục tiến về hướng Strugi Krasniye và Plyussa. Cùng với Tập đoàn quân số 42, tại phía Tây và Tây Bắc Luga các quân đoàn số 110, 117 của Tập đoàn quân số 67 cũng nổ súng tiến công. Gặp phải sự chống cự quyết liệt của quân Đức ở khúc cong Krasniye Gory - Dolgovka, mãi đến ngày 11 tháng 2 Tập đoàn quân số 67 mới có thể tiếp cận được Luga. Các đợt tấn công của Tập đoàn quân số 42, 67 đã khiến quân Đức ở Luga tơi vào tình thế rất nguy hiểm. Khả năng giữ được "tuyến Luga" và ngăn chận bước tiến của quân đội Liên Xô coi như không còn. Tuy nhiên, mặc dù các quân đoàn bộ binh số 123, 116 đã tiếp cận được ngoại vi Luga, họ vẫn chưa cắt đứt được tuyến đường bộ chạy về Pskov. Vì vậy, một phần của Tập đoàn quân số 18 vẫn còn khả năng chạy thoát khỏi khu vực Luga. Hoạt động của Phương diện quân Volkhov. Khi tháng 2 bắt đầu, ba Tập đoàn quân của Phương diện quân Volkhov tiếp tục mở các đợt tiến công mới để hoàn thành nhiệm vụ còn dang dở ở Luga. Theo kế hoạch, Tập đoàn quân số 54 tấn công Luga từ phía Tây Bắc và sẽ tìm cách hội quân với Tập đoàn quân số 59 đánh lên từ mặt Đông Nam tại Oredezh - Batyetskiy. Hướng tấn công khó khăn nhất do Tập đoàn quân số 8 phụ trách, tiến dọc theo tuyến đường sắt Luga - Pskov nhằm trợ giúp cho mũi tấn công của Tập đoàn quân số 59 và các đơn vị khác, phối hợp với mũi tấn công của Tập đoàn quân xung kích số 1 tiến hành bao vây và tiêu diệt cánh phải của Tập đoàn quân số 16 tại khy vực hồ Ilmen. Tập đoàn quân xung kích số 1 - được điều sang Phương diện quân Volkhov từ đầu tháng 2 - có nhiệm vụ chọc thủng phòng tuyến quân Đức tại phía Nam Staraya Russa và tiến về ga xe lửa Dno, hội quân với Tập đoàn quân số 8. Do hướng tấn công của Tập đoàn quân số 8 là khó nhất, không lâu sau đó Đại bản doanh lại tiếp tục tăng cường binh lực cho hướng tấn công này. Từ ngày 8 tháng 2 trở đi, sau khi một phần của Tập đoàn quân số 54 giải phóng Oredezh, họ được điều sang Tập đoàn quân số 67 của Phương diện quân Leningrad, và tổng hành dinh của Tập đoàn quân được chuyển về cánh trái của Phương diện quân Volkhov. Chỉ huy các quân đoàn bộ binh số 111 và 119, Tập đoàn quân số 54 được lệnh phải phối hợp với các Tập đoàn quân xung kích số 1, Tập đoàn quân số 8 nhằm bao vây và tiêu diệt quân Đức ở khu vực ​​Staraya Russa. Mặc dù được tăng cường và tái bố trí binh lực đáng kể, các cuộc tấn công của Hồng quân vào Luga vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Tập đoàn quân số 59 gặp phải sự kháng cự quyết liệt của quân đoàn số 38 (Đức) và chỉ tiến được 25 cây số sau 5 ngày. Mãi sau khi Tập đoàn quân số 54 giải phóng Oredezh, quân Đức mới chịu rút lui nhưng vẫn tiếp tục chống giữ quyết liệt ở Batyetskiy cho đến ngày 12 tháng 2, chặn bước tấn công của Tập đoàn quân số 59. Tập đoàn quân số 8 tiến theo tuyến đường sắt Luga-Pskov tỏ ra thành công hơn. Quân đoàn bộ binh số 7 (được tăng cường sư đoàn bộ binh số 256, lữ đoàn bộ binh số 1 và 2 tiểu đoàn xe tăng) đã đột phá đáng kể trong ngày 2 tháng 2 và cắt đứt tuyến đường bộ Pskov - Luga tại nơi gần làng Elemtsy (???). Tuy nhiên do Tập đoàn quân số 59 và lực lượng chính của quân đoàn bộ binh số 14 (thuộc Tập đoàn quân số 8) tiến chậm, cạnh sườn phải của quân đoàn bộ binh số 7 bị hở và không được các lực lượng trên che chở. Trước tình hình cần phải khôi phục lại quyền kiểm soát tuyến đường bộ Pskov - Luga bằng mọi giá, quân Đức đã quyết định mở một đợt phản kích vào quân đoàn bộ binh số 7. Sư đoàn bộ binh số 285 và lực lượng cận vệ của sư đoàn thiết giáp số 12 được lệnh đánh từ phía Bắc hồ Cheremenetskogo, còn sư đoàn bộ binh số 121 đánh từ Utorgosh ở phía Nam. Ngày 3 tháng 2, các mũi phản kích của Đức gặp nhau ở Strashevo, bao vây một phần lực lượng Liên Xô thuộc quân đoàn bộ binh số 7. Trong vòng vây là một phần của các sư đoàn bộ binh số 256, 372 và một trung đoàn của lữ đoàn du kích số 5. Tuy nhiên, số binh sĩ Liên Xô bị vây dưới sự chỉ huy của Đại tá A. G. Koziev - chỉ huy của sư đoàn bộ binh số 256 - đã chiến đấu hết sức quyết liệt. Họ rút lui khỏi tuyến đường bộ Pskov - Luga về phía làng Oklyuzhye (???) và bắt đầu tổ chức phòng ngự. Cụm quân của Koziev đã nhận được tiếp tế về lương thực, đạn dược từ Tập đoàn quân số 8 bằng đường không và liên tục đánh tan các cuộc tấn công của quân Đức suốt từ ngày 6 tới ngày 15 tháng 2. Lo lắng về tình hình số quân bị vây, bộ tư lệnh Phương diện quân ngay lập tức tổ chức một cuộc tấn công với mục tiêu giải vây cho khối quân Koziev, đập tan quân Đức ở Tây Nam Luga và cắt đứt tuyến liên lạc, tiếp vận của quân địch. Quân đoàn bộ binh số 99 (bao gồm các sư đoàn bộ binh số 229, 265, 311) thuộc lực lượng dự bị của Đại bản doanh đã được điều đến mặt trận và tấn công vào khu vực Utorgosh, Strugi Krasniye. Cùng lúc đó, sau khi được tăng cường binh lực, quân đoàn bộ binh số 14 được lệnh tấn công vào Soltsy. Vào ngày 7 tháng 2, quân đội Liên Xô tiếp tục nổ súng tấn công. Họ đã gặp phải sức chống cự dữ dội của Quân đoàn bộ binh nhẹ số 8 (Đức) - được yểm hộ bởi xe tăng và máy bay - và đến tận ngày 15 tháng 2 quân đội Liên Xô vẫn chưa thể hoàn thành đầy đủ nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, những đợt tấn công của quân đội Liên Xô đã khiến cho việc tiếp tế cho nhóm quân Koziev trở nên thuận lợi hơn rất nhiều. 5 февраля на помощь 8-й армии прибыли части 59-й армии, которые 16 февраля деблокировали «группу А.Г. Козиева». Sự kháng cự quyết liệt của quân Đức đã khiến cho các Tập đoàn quân số 8 và 54 của Liên Xô không thể hỗ trợ hiệu quả cho Tập đoàn quân xung kích số 1. Tập đoàn quân xung kích số 1, với binh lực gồm 4 sư đoàn bộ binh và 1 lữ đoàn bộ binh, vào đầu tháng 2 đã phát động tấn công trên một trận tuyến dài 100 cây số. Do sự chống cự dữ dội của các lực lượng Đức (bao gồm sư đoàn bộ binh thuộc không quân số 21, sư đoàn bộ binh số 30 và sư đoàn Latvia SS số 15 của Tập đoàn quân số 16), Tập đoàn quân xung kích số 1 tiến rất chậm và đến giữa tháng 2 chỉ đột phá được một vài cây số. Quân Đức rút khỏi Luga. Quân đội Liên Xô đã không thành công trong việc bao vây quân Đức ở Luga và cả ở phía Tây Nam hồ Ilmen, tuy nhiên tình hình của Tập đoàn quân số 18 (Đức) vẫn hết sức nguy hiểm và bắt buộc phải rút lui để bảo toàn lực lượng. Cho đến cuối cùng, tân tư lệnh Cụm Tập đoàn quân Bắc Walter Model vẫn tin tưởng rằng có thể giữ vững phòng tuyến giữa hồ Ilmen và hồ Chudsko, tuy nhiên ý kiến của ông ta không được Bộ Tư lệnh tối cao lục quân Đức ủng hộ. Bản thân Hitler lần này cũng cho rằng cần phải rút lui để tránh bị bao vây. Vì vậy Model buộc phải tuân lệnh. Ngày 8 tháng 2 các lực lượng hậu vệ và trợ chiến tại Luga bắt đầu rút lui về phía Pskov, tiếp sau đó là lực lượng chính của Tập đoàn quân số 18. Đến chiều ngày 12 tháng 2, Luga - vốn vẫn còn được đồn trú bởi các lực lượng chặn hậu của quân Đức - đã được các sư đoàn bộ binh số 120, 123, 201, 46 (của Tập đoàn quân số 67) với sự hỗ trợ của sư đoàn bộ binh số 377 (của Tập đoàn quân số 59) giải phóng. Sau khi giải phóng Luga, quân đội Liên Xô tiếp tục tiến công truy kích quân Đức đang tổ chức lui binh về tuyến Panther-Wotan. Phương diện quân Volkhov bị giải tán. Ngày 13 tháng 2 năm 1944, Đại bản doanh ban hành chỉ thị số 220023 với nội dung giải tán Phương diện quân Volkhov. Các tập đoàn quân số 54, 59, 8 được chuyển sang Phương diện quân Leningrad, còn Tập đoàn quân xung kích số 1 được trả về cho Phương diện quân Baltic 2. Bộ khung chỉ huy của Phương diện quân Volkhov được chuyển về lực lượng dự bị của Đại bản doanh. Việc giải tán Phương diện quân Volkhov được thực hiện theo đề nghị của Đại tướng L. A. Govorov - tư lệnh Phương diện quân Leningrad. Govorov cho rằng việc chỉ huy toàn bộ binh lực Liên Xô tại khu vực Pskov nên được thống nhất thành một mối dưới quyền điều hành của Phương diện quân này. Trong thời gian đó, Tư lệnh Phương diện quân Volkhov K. A. Meretskov vừa mới lập một kế hoạch tấn công vào Latvia, Estonia, Byelarussia; rõ ràng chỉ thị giải tán Phương diện quân Volkhov là một điều hoàn toàn bất ngờ đối với Meretskov. Trong hồi ký của mình, Đại tướng S. M. Shtemenko - đại diện Ban tham mưu của Phương diện quân Baltic 2 - đã cho rằng quyết định giải tán Phương diện quân Volkhov là một sai lầm: Hơn hai tháng sau, vào ngày 18 tháng 4 năm 1944, quân đội Liên Xô đã cho thành lập Phương diện quân Baltic 3, với lực lượng bao gồm các Tập đoàn quân số 42, 54, 67 của Phương diện quân Leningrad và Tập đoàn quân xung kích số 1 của Phương diện quân Baltic 2. Kết quả chiến dịch. Chiến dịch tấn công Novgorod-Luga là một thắng lợi mang tính chất quyết định của quân đội Liên Xô và cũng là thắng lợi quyết định đến sự thành bại chung cuộc của toàn bộ chuỗi chiến dịch Leningrad-Novgorod. Tuy nhiên, diễn biến chiến dịch không diễn ra thuận lợi như dự đoán. Quá trình giải phóng Luga diễn ra khá vất vả: quân đội Liên Xô không thể làm chủ được Luga đúng thời hạn và một mình Phương diện quân Volkhov cũng không thể đánh gục được quân Đức ở Luga như theo kế hoạch. Các Tập đoàn quân số 42 và 67 của Phương diện quân Leningrad buộc phải được huy động đến để trợ lực cho cuộc chiến ở Luga và điều này đã khiến mũi tấn công vào Narva bị yếu đi đáng kể. Tập đoàn quân số 18 của Đức mặc dù bị giáng cho một thất bại nặng nề nhưng vẫn bảo toàn được chủ lực và sức chiến đấu, đủ để ngăn không cho quân đội Liên Xô phá vỡ tuyến Panther-Wotan và tiến vào khu vực Baltic trong mùa xuân năm 1944. Một trong những nguyên nhân của các khó khăn nêu trên là do Phương diện quân Baltic 2 đã không hoàn thành nhiệm vụ. Các đợt tấn công của họ đã không đạt được kết quả như mong đợi và không đủ sức găm giữ hoàn toàn Tập đoàn quân số 16 (Đức), khiến cho Tập đoàn quân số 16 có thể điều động khá nhiều binh lực tới cố thủ ở Luga. Đại tướng (sau này là Nguyên soái) K. A. Meretskov - tư lệnh Phương diện quân Volkhov đã viết trong hồi ký của mình như sau: Vì vậy, Phương diện quân Volkhov không thể đục thủng được phòng tuyến của quân Đức và giải phóng Luga vào cuối tháng 1 theo kế hoạch. Tuy nhiên, quân Đức chỉ có thể làm chậm bước tiến của các Phương diện quân Leningrad và Volkhov. Các chỉ huy Xô Viết đã có những điều chỉnh cần thiết đối với kế hoạch và tái tổ chức lại lực lượng một cách kịp thời. Quân đội Liên Xô đã tiếp tục cuộc tấn công và cuối cùng đã đập vỡ được "tuyến Luga", buộc quân Đức phải triệt thoái về một phòng tuyến mới giữa khu vực hồ Ilmen và hồ Chudsko. Từ nửa cuối tháng 2 trở đi, Cụm Tập đoàn quân Bắc phải tổng triệt thoái về tuyến Panther-Wotan. Cho đến ngày 15 tháng 2, Phương diện quân Volkhov cùng với các Tập đoàn quân số 42 và 67 của Phương diện quân Leningrad đã tiến xa 50-120 cây số, tiếp cận phòng tuyến tại bờ phía Nam của hồ Chudsko - Plyussa - Utorgosh - Shimsk, giải phóng 779 điểm dân cư trong đó có các thành phố quan trọng như Novgorod, Luga, Batyetskiy, Oredezh, Mga, Tosno, Lyuban, Chudovo. Quan trọng hơn, quân đội Liên Xô đã giành lại quyền kiểm soát nhiều tuyến giao thông đường sắt có tầm quan trọng chiến lược như tuyến đường sắt Kirov và đường sắt Tháng Mười. Không lâu sau đó, 7 tuyến đường sắt từ Leningrad sẽ được tái khởi động: ở Vologda, Rybinsk, Moskva, Novgorod, Batyetskiy, Luga và Ust-Luga. Thương vong. Quân đội Liên Xô. Theo nghiên cứu thống kê "Nga và Liên Xô trong các cuộc chiến tranh của thế kỷ 20", thương vong của Phương diện quân Volkhov trong chiến dịch này là 12.011 chết và mất tích và 38.289 bị thương và bị ốm. Thương vong của Tập đoàn quân xung kích số 1 (được phối thuộc cho Phương diện quân Volkhov từ ngày 2 tháng 2 - 15 tháng 2 năm 1944) trong thời gian từ 14 tháng 1 đến 10 tháng 2 là 1.283 chết và mất tích và 3.759 bị thương và bị ốm. Theo báo cáo về chiến dịch Novogorod-Luga của Phương diện quân Volkhov, thương vong của Phương diện quân từ ngày 14 tháng 1 đến 11 tháng 2 (tính luôn cả thương vong của Tập đoàn quân xung kích số 1 từ ngày 1 đến 10 tháng 2) là 16.542 chết và mất tích và 46.191 bị thương và bị ốm. Thương vong lớn nhất thuộc về Tập đoàn quân số 59 với 25.155 chết và bị thương (trong đó số thương vong trong quá trình giải phóng Novgorod là 14.473 people), còn Tập đoàn quân số 8 tổn thất là 22.253 người. Thêm vào đó, các Tập đoàn quân số 42 và 67 của Phương diện quân Leningrad cũng chịu thương vong đáng kể trong quá trình phối hợp với Phương diện quân Volkhov giải phóng tuyến đường sắt Tháng Mười và Luga. Các thương vong này được tính chung vào tổng thương vong của Phương diện quân trong toàn bộ chuỗi chiến dịch Leningrad-Novgorod. Quân đội Đức Quốc xã. Do quân đội Đức Quốc xã buộc phải tổ chức rút lui khỏi Leningrad rất sớm và vội vã, thương vong của các Tập đoàn quân số 16 và 18 chỉ có thể được họ thống kê một cách sơ sài, vì vậy việc ước lượng thương vong của quân Đức rất khó. Tuy nhiên, có thể nói rằng quân Đức đã bảo toàn được chủ lực của hai Tập đoàn quân này. Theo các tài liệu Liên Xô, phương diện quân Volkhov đã đánh tan 8 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn thiết giáp, đánh thiệt hại nặng 4 sư đoàn bộ binh, giết, làm bị thương và bắt sống 82.000 tên địch. Thông tin thêm. Ngày 27 tháng 1 năm 1944, Hội đồng quân sự của Phương diện quân Leningrad tuyên bố vòng vây đối với thành phố Leningrad đã được phá giải hoàn toàn. Trong tuyên bố đã nêu tên các Phương diện quân Leningrad và Hạm đội Baltic, tuy nhiên Phương diện quân Volkhov - lực lượng đóng vai trò quan trọng không kém - lại không được nêu tên. Khi quân đội Liên Xô giải phóng Novgorod vào ngày 20 tháng 1 năm 1944, thành phố này gần như bị bỏ hoang. Chỉ có 40 trong số 2.500 ngôi nhà không bị phá hủy. Nhiều công trình kiến trúc quan trọng trong đó có giáo đường Thánh Xôphia và tượng đài "Thiên niên kỷ Nga" bị hư hại nghiêm trọng. Chỉ còn 30 người trong thành phố sống sót, số còn lại đều bị quân phát xít giết hại hay bị chở về Đức. Năm 2008, các thành phố Novgorod và Luga được phong danh hiệu "thành phố vinh quang quân sự" ("Город воинской славы") vì "sự dũng cảm, kiên định và chủ nghĩa anh hùng tập thể của những người bảo vệ thành phố trong cuộc chiến vì độc lập và tự do của Tổ quốc".
1
null
Xa lộ Liên tiểu bang 57 (tiếng Anh: "Interstate 57" hay viết tắt là I-57) là một xa lộ liên tiểu bang nằm trong các tiểu bang Missouri và Illinois của Hoa Kỳ. Phần lớn chiều dài của xa lộ này chạy song song với tuyến đường sắt củ Illinois Central. Nó chạy từ Xa lộ Liên tiểu bang 55 trong thành phố Sikeston, Missouri đến Xa lộ Liên tiểu bang 94 trong thành phố Chicago, Illinois. I-57 chủ yếu phục vụ như con đường tắt cho xe cộ giữa miền nam Hoa Kỳ (Memphis, New Orleans, etc.) và thành phố Chicago đi tránh thành phố St. Louis, Missouri. Nó đảm trách nhiệm vụ tương tự như Xa lộ Liên tiểu bang 12 là xa lộ đi tránh khỏi thành phố New Orleans đối với xe cộ chạy trên Xa lộ Liên tiểu bang 10. Giữa điểm giao cắt của I-55 và I-57 tại Sikeston, Missouri và điểm giao cắt của I-55 và I-90/94 tại thành phố Chicago, I-55 chạy khoảng trong khi con đường kết hợp của I-57 và I-94 chi dài khoảng giữa cùng hai điểm. , I-57 không có xa lộ phụ nhánh ngắn nào và cũng không có kế hoạch nào xây dựng một xa lộ như thế trong tương lai gần. Với chiều dài trên , đây là xa lộ liên tiểu bang 2 chữ số dài nhất mà không có một xa lộ phụ trợ nào. I-57 có một xa lộ vòng thương mại tại thành phố Charleston. Mô tả xa lộ. Missouri. Trong tiểu bang Missouri, Xa lộ Liên tiểu bang 57 chạy hướng bắc từ Sikeston đến Cầu Cairo I-57 bắt qua Sông Mississippi ở phía nam thành phố Cairo, Illinois. Sau khi kết thúc chiều đi hướng nam tại Xa lộ Liên tiểu bang 55, xa lộ trở thành Quốc lộ Hoa Kỳ 60 và gặp Quốc lộ Hoa Kỳ 67 tại Poplar Bluff, Missouri. Từ đó Quốc lộ Hoa Kỳ 67 đi hướng nam đến thành phố Little Rock, Arkansas. Tiểu bang Missouri có đề xuất kéo dài I-57 xuống hành lang xa lộ này nhưng kế hoạch này đụng với các kế hoạch của tiểu bang Arkansas nhằm kéo dài Xa lộ Liên tiểu bang 30 lên hướng bắc trên Quốc lộ Hoa Kỳ 67. Quốc lộ Hoa Kỳ 67 đã được nâng cấp lên tiêu chuẩn xa lộ liên tiểu bang Từ điểm khởi đầu, chiều đi hướng bắc, I-57 và Quốc lộ Hoa Kỳ 60 chạy trùng nhau khoảng 12 dặm. Illinois. Tại tiểu bang Illinois, Xa lộ Liên tiểu bang 57 chạy từ cầu bắt qua Sông Mississippi lên hướng bắc đến thành phố Chicago. I-57 là xa lộ liên tiểu bang dài nhất trong tiểu bang Illinois. Lộ trình của nó phần lớn đi theo con đường cũ của Quốc lộ Hoa Kỳ 51 tại vùng cực nam nhất của Illinois trước khi đi theo đường xiên hướng đông bắc đến Xa lộ Illinois 37, qua nút giao thông lập thể của nó với Xa lộ Liên tiểu bang 24 gần Pulleys Mill. Sau đó, nó theo Quốc lộ Hoa Kỳ 45 đi tránh các thành phố Champaign và Urbana, và đi theo hướng bắc đến Onarga. Sau đó, nó theo con đường cũ của Quốc lộ Hoa Kỳ 45 và cựu Quốc lộ Hoa Kỳ 54 đến Kankakee. Tại Kankakee, nó đi hướng bắc vào Đại Chicago, gặp Xa lộ Liên tiểu bang 80 tại khu ngoại ô Chicago và nhập vào Xa lộ Liên tiểu bang 94 bên phía nam thành phố Chicago. I-57 vẫn là xa lộ cao tốc duy nhất tại Chicago không có tên gọi phổ thông ngoài mã số.
1
null
Tổng quan. Philippine cùng với Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Malaysia, Brunei, là một trong các quốc gia tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa. Hiện tại, Philippine chiếm giữ 9 cấu trúc tại đây, gồm 7 đảo và 3 bãi san hô. Để so sánh, Việt Nam chiếm giữ 6 đảo, 17 đá san hô, và 3 bãi cạn. Đài Loan chiếm một đảo và một bãi đá, Malaysia có một đảo nhân tạo và 5 bãi đá san hô, Trung Quốc chiếm 8 đá san hô. Ngoài ra, Philippines cũng kiểm soát (nhưng không đồn trú) một số cấu trúc tại Trường Sa. Các cấu trúc này nằm gần các đảo do Philippine chiếm đóng, và có thể nhìn thấy ở đường chân trời. Tại độ cao 15 m người ta có thể nhìn thấy ở khoảng cách : đá North Reef, cồn Sandy Cay (Extension Reef), Loaita Nan và cồn Loaita. Các cấu trúc nằm phía đông kinh tuyến 116°E dù không có quân đóng giữ, nhưng cũng do Philippine kiếm soát. Đây là khu vực nằm gần Palawan, với cấu trúc xa nhất chỉ cáchbeing just . Mặc dù Philippine có lẽ có đủ lực lượng, nhưng họ không chiếm giữ các đảo này để tránh bị các quốc gia liên quan phản đối, và thay vào đó tập trung vào đảo Palawan. Các quan chức quân sự của Philippine cho biết các đảo này rất gần Palawan, nên "hiển nhiên" thuộc lãnh thổ Philippine. Thay vào việc đồn trú trên các cấu trúc này, Philippine cho xây các căn cứ hải quân và sân bay trên bờ tây đảo Palawan.
1
null
Bắc Ngụy Đạo Vũ Đế (chữ Hán: 北魏道武帝; 371–409), tên húy là Thác Bạt Khuê (拓拔珪), tên lúc sinh là Thác Bạt Thiệp Khuê (拓拔渉珪), là hoàng đế khai quốc của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là cháu nội vị vương cuối cùng của nước Đại là Thác Bạt Thập Dực Kiền. Sau thất bại trước quân Đông Tấn trong trận Phì Thủy, Tiền Tần rơi vào cảnh nội loạn và Thác Bạt Khuê liền tận dụng thời hội này để tái lập nước Đại vào năm 386, song ngay sau đó cải quốc hiệu sang Ngụy và xưng vương. Ông ban đầu là một chư hầu của Hậu Yên. Tuy nhiên, sau khi ông đánh bại hoàng đế Mộ Dung Bảo của Hậu Yên và chiếm được hầu hết lãnh thổ Hậu Yên, ông đã xưng đế vào năm 398. Đạo Vũ Đế thường được coi là một vị tướng tài giỏi, song lại tàn ác và độc đoán trong việc trị quốc, đặc biệt là vào cuối triều đại của ông. Năm 409, do ông xem xét đến việc giết chết Hạ Lan phu nhân, con trai ruột của bà là Thanh Hà vương Thác Bạt Thiệu (拓拔紹) giết chết ông, song ngay sau đó Thái tử Thác Bạt Tự đã đánh bại Thác Bạt Thiệu, Thác Bạt Tự sau đó lên ngôi và trở thành Minh Nguyên Đế. Trước khi thành lập Bắc Ngụy. Thời thơ ấu. Theo các sử tịch, Thác Bạt Khuê sinh ngày 4 tháng 8 năm 371, cha ông là Thác Bạt Thật (拓拔寔)- con trai và là thái tử của Đại vương Thác Bạt Thập Dực Kiền, song cha ông qua đời trước đó trong cùng năm vì bị một chấn thương khi bảo vệ Thác Bạt Thập Dực Kiền trong một vụ mưu sát của tướng Bạt Bạt Cân (拔拔斤). Mẹ của Thác Bạt Khuê là thê của Thác Bạt Thật, bà là con gái của thủ lĩnh một bộ lạc chư hầu hùng mạnh của nước Đại là Hạ Lan Dã Can (賀蘭野干). Thác Bạt Thập Dực Kiền mặc dù thương tiếc về cái chết của con trai song rất vui trước sự chào đời của cháu nội, ông tuyên bố đại xá tại nước Đại và đặt tên cho cháu trai là Thác Bạt Thiệp Khuê. (Tuy vậy, các sử tịch nói về cuộc đời sau này của ông với tên gọi rút ngắn là "Khuê".) Khoảng tết năm 377, Tiền Tần mở một chiến dịch lớn đánh nước Đại. Thác Bạt Thập Dực Kiền đã phải tạm thời chạy trốn khỏi đô thành Vân Trung (雲中, nay thuộc Hohhot, Nội Mông), song đã trở về Vân Trung sau khi Tiền Tần rút lui. Tuy nhiên, sau khi Thác Bạt Thập Dực Kiền trở về Vân Trung, cháu trai Thác Bạt Cân (拓拔斤) thuyết phục người con trai lớn tuổi nhất còn sống của ông là Thác Bạt Thật Quân (拓拔寔君) rằng Thác Bạt Thập Dực Kiền đang xem xét đến việc chỉ định một trong số các con trai của Mộ Dung vương hậu (một công chúa của Tiền Yên) làm thế tử và thậm chí còn tính đến việc giết chết Thác Bạt Thật Quân. Thác Bạt Thật Quân do đó đã phục kích cha và các em trai rồi giết chết họ. Điều này đã khiến quân Đại sụp đổ, và quân Tiền Tần chiếm được Vân Trung mà không cần phải tiến hành một cuộc chiến nào. Trong rối loạn, Hạ Lan phu nhân ban đầu đã chạy trốn đến chỗ Hạ Lan Nột (賀蘭訥)- là người kế thừa chức thủ lĩnh bộ lạc sau khi Hạ Lan Dã Can chết. Sau đó, Hoàng đế Phù Kiên của Tiền Tần tính đến việc đưa Thác Bạt Khuê đến kinh thành Trường An của Tiền Tần, song một viên quan của Thác Bạt Thập Dực Kiền trước đây tên là Yên Phượng (燕鳳) thuyết phục được Phù Kiên cho phép Thác Bạt Khuê được ở lại đất Đại với lý lẽ rằng đó sẽ là cách tốt nhất để duy trì lòng trung thành của các bộ lạc với Tiền Tần. Trong khi đó, Phù Kiên đã phân chia các bộ lạc nước Đại trước đây thành hai nhóm, do các thủ lĩnh người Hung Nô là Lưu Khố Nhân (劉庫仁) và Lưu Vệ Thần (劉衛辰) lãnh đạo. Thác Bạt Khuê cùng với mẹ mình đã đến sống ở chỗ Lưu Khố Nhân, người này khoản đãi Thác Bạt Khuê như một vương tử. Thời thanh niên. Không biết nhiều về cuộc sống của Thác Bạt Khuê cho đến năm 385, lúc này Tiền Tần rơi vào cảnh đại loạn sau thất bại trong trận Phì Thủy do các cuộc nổi dậy diễn ra trên khắp đế chế. Năm 384, con trai của Phù Kiên là Phù Phi lúc này đang bị Hoàng đế Mộ Dung Thùy của Hậu Yên bao vây, Lưu Khố Nhân cố gắng để cứu viện cho Phù Phi song bị Mộ Dư Thường (慕輿常, con trai một quý tộc Hậu Yên) ám sát; kế vị Lưu Khố Nhân là Lưu Đầu Quyến (劉頭眷). Tuy nhiên, năm 385, Lưu Đầu Quyến lại bị con trai của Lưu Khố Nhân là Lưu Hiển (劉顯) ám sát, Lưu Hiển trở thành tộc trưởng của bộ lạc và coi Thác Bạt Khuê (lúc đó đang 14 tuổi) là một mối đe dọa. Tuy nhiên, Bạt Liệt Lục Quyến (拔列六眷) và Khâu Mục Lăng Sùng (丘穆陵崇) phát hiện ra điều này, và theo lời hướng dẫn của Bạc Liệt, Khâu Mục Lăng hộ tống Thác Bạt Khuê đễn chỗ cữu phụ Hạ Lan Nột, và người này bảo vệ cho Thác Bạt Khuê. Năm 386, do sự thúc giục của các quan lại nước Đại trước đây, Hạ Lan Nột đã ủng hộ Thác Bạt Khuê trở thành Đại vương. Thác Bạt Khuê tiến hành lễ tức vị Đại vương vào ngày 6 tháng 1 (tức 20 tháng 2 năm 386), đặt niên hiệu là Đăng Quốc. Phiên bản khác. Tuy nhiên, một phiên bản khác về những năm đầu đời của Thác Bạt Khuê lại được ghi trong các sử tịch như "Tấn thư" và "Tống thư", là hai bộ chính sử viết về hai triều đại kình địch của Bắc Ngụy là nhà Tấn và Lưu Tống, và trong đó có chứa nhiều vấn đề gây chú ý. Theo đó, Thác Bạt Khuê không phải là cháu nội của Thác Bạt Thập Dực Kiền mà là con trai và được sinh ra sớm hơn đáng kể so với năm 371, và ông là con của Mộ Dung vương hậu. Khi nước Đại bị Tiền Tần tấn công vào năm 377, Thác Bạt Khuê khi đó tự chủ với cha và đầu hàng Tiền Tần. Phù Kiên lệnh rằng đây là một hành động phản bội và đưa Thác Bạt Khuê đi lưu đày. Khi Mộ Dung Thùy, tức sẽ là cữu phụ của Thác Bạt Khuê, lập nước Hậu Yên vào năm 384, Thác Bạt Khuê đã đễn chỗ cữu phụ, và sau đó đoạt lấy quyền quản lý các bộ lạc của cha bằng một chiến dịch do Hậu Yên tiến hành. Sau đó, để tránh việc người đời biết Thác Bạt Khuê là một kẻ phản bội cha, bản chính thức về tiểu sử của ông được bịa ra. Ngụy vương. Thiết lập quyền cai trị. Những năm đầu tiên trị vì, Thác Bạt Khuê phải quyết định theo ý kiến của các thủ lĩnh bộ lạc, và vị trí của ông không được chắc chắn. Tuy nhiên, sau đó ông đã từng bước khẳng định được vị thế lãnh đạo, và các thủ lĩnh bộ lạc bắt đầu kết hợp lại quanh ông. Vào tháng 2 ÂL năm 386, Thác Bạt Khuê định đô tại Thịnh Lạc (盛樂, nay thuộc Hohhot, Nội Mông), và khuyến khích người dân phát triển nông nghiệp. Tháng 4 ÂL năm 386, ông đổi tước hiệu của mình thành Ngụy vương và do vậy nhà nước ông cai trị cũng được lịch sử biết đến với cái tên Bắc Ngụy. Vào mùa thu năm 386, với sự trợ giúp của Tây Yên và Lưu Hiển, thúc phụ trẻ tuổi nhất của Thác Bạt Khuê là Thác Bạt Quất Đốt (拓拔窟咄) xưng vương, khi đó nhiều tù trưởng dưới quyền Thác Bạt Khuê bí mật liên kết với Thác Bạt Quất Đốt, Thác Bạt Khuê hoảng sợ đến nỗi phải chạy đến chỗ Hạ Lan bộ, và tìm kiếm trợ giúp của Hậu Yên. Hoàng đế Mộ Dung Thùy của Hậu Yên cử con trai Mộ Dung Lân đến hỗ trợ cho Thác Bạt Khuê, và họ cùng nhau đánh bại được Thác Bạt Quất Đốt, Quất Đốt phải chạy trốn và bị Lưu Vệ Thần giết chết. Tháng 12 ÂL năm đó, Mộ Dung Thùy ban cho Thác Bạt Khuê các tước hiệu Tây Thiền vu và Thượng Khuê vương, song do tước Thượng Khuê vương không danh giá bằng Ngụy vương nên Thác Bạt Khuê từ chối chúng. Mặc dù đã được Hậu Yên giúp đỡ và là một chư hầu của Hậu Yên, song Thác Bạt Khuê bắt đầu tính đến việc cuối cùng sẽ chinh phạt Hậu Yên. Năm 388, ông cử em họ Thác Bạt Nghi đi triều cống Mộ Dung Thùy song cũng là để nhằm quan sát triều đình Hậu Yên. Thác Bạt Nghi kết luận rằng Mộ Dung Thùy nay đã lớn tuổi, còn thái tử Mộ Dung Bảo thì lại kém cỏi, và có khả năng Hậu Yên sẽ bị suy yếu. Điều này đã khích lệ Thác Bạt Khuê rất nhiều trong việc lập kế hoạch diệt Hậu Yên. Năm 391, em trai của Hạ Lan Nột là Hạ Lan Nhiễm Can (賀蘭染干) âm mưu giết chết Hạ Lan Nột, và dẫn đễn việc huynh đệ giao chiến chống lại nhau. Thác Bạt Khuê nắm lấy cơ hội này để yêu cầu Hậu Yên cùng tiến đánh Hạ Lan bộ (mặc dù cả Hạ Lan Nột và Hạ Lan Nhiễm Can đều là huynh đệ của mẹ ông theo như Nguỵ thư). Vào mùa hè năm 391, Mộ Dung Lân bắt được Hạ Lan Nột và Hạ Lan Nhiễm Can, song lại cho phép Hạ Lan Nột được tự do và chỉ huy bộ lạc, còn Hạ Lan Nhiễm Can thì trở thành tù binh. Sau chiến dịch này, Mộ Dung Lân đã nhận thấy được khả năng của Thác Bạt Khuê nên đã đề xuất với phụ hoàng rằng hãy bắt giam Thác Bạt Khuê. Tuy nhiên, Mộ Dung Thùy từ chối. Vào tháng 7 ÂL năm 391, một sự kiện đã khiến cho Hậu Yên và Bắc Ngụy tuyệt giao với nhau. Khi đó, Thác Bạt Khuê cử Thác Bạt Cô (拓跋觚) đi triều cống Hậu Yên, và các con trai của Mộ Dung Thùy đã giữ Thác Bạt Cô lại và lệnh cho Thác Bạt Khuê phải mang ngựa đến để đổi lấy tự do cho Thác Bạt Cô. Thác Bạt Khuê đã từ chối và đoạn tuyệt quan hệ với Hậu Yên, thay vào đó, ông quay sang liên minh với Tây Yên. Thù địch với Hậu Yên. Năm 391, Thác Bạt Khuê tấn công Nhu Nhiên, Nhu Nhiên bị thiệt hại nặng nề song không bị tiêu diệt. Nhu Nhiên sau đó vẫn tiếp tục quấy nhiễu, và là một mối đe dọa thường xuyên trong suốt thời gian còn lại của triều đại Bắc Ngụy. Tháng 10 ÂL năm 391, Lưu Vệ Thần đã cử con trai Lưu Trực Lực Đê (劉直力鞮) đem quân đi đánh Bắc Ngụy, ngày Ất Mão tháng 11 (22 tháng 12 năm 391), Thác Bạt Khuê dân binh cự chiến với một đội quân nhỏ hơn nhiều, đến ngày Nhâm Ngọ tháng 11 (25 tháng 12) ông đánh bại dược Lưu Trực Lực Đê, và thậm chí còn băng qua Hoàng Hà để tiến đánh kinh thành Duyệt Bạt (悅拔, nay thuộc Ordos, Nội Mông) của Lưu Vệ Thần, và cuối cùng chiếm được thành, buộc Lưu Vệ Thần và Lưu Trực Lực Đê phải chạy trốn vào ngày Tân Mão cùng tháng (tức 3 tháng 1 năm 392). Ngày hôm sau, Lưu Vệ Thần bị các thuộc cấp giết chết, còn Lưu Trực Lực Đê thì bị bắt. Thác Bạt Khuê sáp nhập lãnh thổ và thần dân của Lưu Vệ Thần vào Bắc Ngụy, song thảm sát gia tộc họ Lưu và những người có liên hệ với tổng số trên 5.000 người. Tuy nhiên, một người con trai trẻ tuổi của Lưu Vệ Thần là Lưu Bột Bột chạy trốn được đến chỗ bộ lạc Tiết Can (薛干), tộc trưởng Thái Tất Phục (太悉伏) của bộ lạc này từ chối giao nộp Lưu Bột Bột bất chấp lời yêu cầu của Bắc Ngụy. Lưu Bột Bột cuối cùng kết hôn với một con gái của Cao Bình công Một Dịch Can (沒奕干, một chư hầu của Hậu Tần), và trở nên phụ thuộc vào nhạc phụ. Để trừng phạt Thái Tất Phục, Thác Bạt Khuê tấn công Tiết Can bộ vào năm 393 và thảm sát bộ lạc này, song bản thân Thái Tất Phục chạy thoát. Năm 394, Hoàng đế Mộ Dung Vĩnh của Tây Yên lúc này đang bị Mộ Dung Thùy tấn công, ông ta tìm kiếm trợ giúp từ Thác Bạt Khuê, Thác Bạt Khuê cử Trần Lưu công Thác Bạt Kiền (拓拔虔) và tướng Dữu Nhạc (庾岳) cố làm quân Hậu Yên rối trí, song quân Bắc Ngụy chưa từng thực sự giao chiến với Hậu Yên, cuối cùng thì Mộ Dung Vĩnh bị Mộ Dung Thùy bắt được và giết chết khi kinh thành Trường Tử (長子, nay thuộc Trường Trị, Sơn Tây) thất thủ, Tây Yên bị Hậu Yên thôn tính. Năm 395, Thác Bạt Khuê dẫn quân đột kích các vùng biên giới với Hậu Yên. Cũng trong năm đó, Mộ Dung Thùy cho Mộ Dung Bảo dẫn 8 vạn quân với sự hỗ trợ của Mộ Dung Nông và Mộ Dung Lân nhằm trừng phạt Bắc Ngụy. Thác Bạt Khuê hay tin về đội quân của Mộ Dung Bảo thì quyết định bỏ Thịnh Lạc và rút lui về phía tây qua Hoàng Hà. Quân của Mộ Dung Bảo nhanh chóng tiến đến sông vào mùa thu năm 395 và chuẩn bị để vượt sông. Tuy nhiên, lúc này Bắc Ngụy cắt đường đường thông tin giữa quân của Mộ Dung Bảo và kinh thành Trung Sơn (中山, nay thuộc Bảo Định, Hà Bắc) của Hậu Yên, và Bắc Ngụy phao tin rằng Mộ Dung Thùy qua đời, khiến cho quân Hậu Yên gặp phải xáo trộn rất lớn. Quân Hậu Yên và Bắc Ngụy lâm vào thế bí trong việc vượt qua Hoàng Hà trong suốt 20 ngày. Những người đi theo Mộ Dung Lân cố tiến hành chính biến và ủng hộ Mộ Dung Lân trở thành lãnh đạo mới, song hành động này đã thất bại. Khi mùa đông đến, quân Hậu Yên rút lui và không nhận ra rằng Hoàng Hà lúc này đã đóng băng và quân Bắc Ngụy có thể qua sông một cách dễ dàng, Mộ Dung Bảo cũng không để lại hậu quân khi rút lui. Thác Bạt Khuê đích thân dẫn quân đuổi theo, bắt kịp được quân Hậu Yên và hai bên nổ ra một trận chiến được sử sách gọi là trận Tham Hợp Pha vào ngày 8 tháng 12 DL, quân Bắc Ngụy giết hoặc bắt giữ gần như toàn bộ quân Hậu Yên, chỉ có Mộ Dung Bảo cùng một số quan tướng là có thể chạy thoát. Thác Bạt Khuê lo sợ trước những tù binh Hậu Yên nên đã đồ sát tất cả họ theo đề xuất của Khả Tần Kiến (可頻建). Năm 396, lo ngại rằng Bắc Ngụy sẽ xem thường Mộ Dung Bảo, Mộ Dung Thùy đích thân dẫn quân đi đánh Bắc Ngụy, giành được chiến thắng ban đầu và giết được Thác Bạt Kiền. Thác Bạt Khuê trở nên lo lắng và lại tính đễn việc bỏ Thịnh Lạc. Tuy nhiên, khi quân Hậu Yên đi qua Tham Hợp pha, họ than khóc cho những thân nhân và đồng bào của mình, Mộ Dung Thùy vì thế đã trở nên tức giận và lâm bệnh, quân Hậu Yên buộc phải rút lui về Trung Sơn. Sau khi Mộ Dung Thùy chết, Mộ Dung Bảo trở thành hoàng đế Hậu Yên. Vào mùa thu năm 396, Thác Bạt Khuê đã dẫn quân Bắc Ngụy tấn công bất ngờ Tĩnh Châu (并州, nay là trung bộ và bắc bộ Sơn Tây), đánh bại Mộ Dung Nông và buộc Nông phải chạy trốn về Trung Sơn. Thác Bạt Khuê sau đó tiến quân về phía đông, sẵn sàng đánh thành Trung Sơn. Nghe theo đề xuất của Mộ Dung Lân, Mộ Dung Bảo đã chuẩn bị phòng thủ Trung Sơn và để cho quân Bắc Ngụy tự do di chuyển trên khắp lãnh thổ Hậu Yên, Mộ Dung Bảo cho rằng Bắc Ngụy sẽ phải rút quân khi quân lính kiệt sức. Tuy nhiên, điều này đã dẫn đến việc tất cả các thành tại Hà Bắc ngày nay rơi vào tay Bắc Ngụy, ngoại trừ Trung Sơn và hai thành quan trọng khác là Nghiệp Thành (thuộc Hàm Đan, Hà Bắc) và Tín Đô (信都, nay thuộc Hành Thủy, Hà Bắc). Sau một nỗ lực ban đầu nhằm tiến đánh Trung Sơn gặp phải thất bại, Thác Bạt Khuê thay đổi kế sách của mình bằng việc thiết lập quyền cai trị tại các thành khác trong lúc cô lập Trung Sơn. Vào ngày Quý Hợi tháng 1 năm Đinh Dậu (9 tháng 3 năm 397), Tín Đô thất thủ. Tuy nhiên, Thác Bạt Khuê lúc này lại hay tin về một cuộc nổi loạn gần kinh đô Thịnh Lạc của mình nên đã cầu hòa với Hậu Yên, tuy vậy, Mộ Dung Bảo bác bỏ. Mộ Dung Bảo sau đó đã tấn công quân Bắc Ngụy khi Thác Bạt Khuê chuẩn bị rút lui, song chính Mộ Dung Bảo lại là người bại trận. Lúc này, lo lắng về một nỗ lực chính biến của Mộ Dung Lân, Mộ Dung Bảo đã quyết định bỏ Trung Sơn và chạy trốn về cố đô Long Thành (龍城, nay thuộc Cẩm Châu, Hà Bắc) của Tiền Yên trước đây. Đội quân Hậu Yên còn ở lại Trung Sơn ủng hộ một cháu trai của Mộ Dung Bảo là Khai Phong công Mộ Dung Tường (慕容詳) làm lãnh đạo, do đó Thác Bạt Khuê không thể ngay lập tức chiếm được Trung Sơn. Nhận thấy rằng mình bị người dân Hậu Yên xa lánh do từng ra lệnh đồ sát tù binh Hậu Yên sau trận Tam Hợp pha trước đây, Thác Bạt Khuê thay đổi chính sách và cố gắng đối xử nhẹ nhàng tại các lãnh thổ mới chính phục được của Hậu Yên, và theo thời gian thì các lãnh thổ này cũng dần trung thành với quyền cai trị của ông. Trong lúc này, Mộ Dung Tường đã tự xưng đế, và cho xử tử Thác Bạt Cô để thể hiện kiên quyết. Tuy nhiên, vào mùa thu, Mộ Dung Lân đã tấn công bất ngờ Mộ Dung Tường, giết chết Tường và chiếm lấy Trung Sơn. Mộ Dung Lân cũng xưng đế song đã không thể đứng vững trước sức ép từ quân Bắc Ngụy, cuối cùng thì Thác Bạt Khuê đã chiếm được Trung Sơn. Thác Bạt Khuê sau đó đã đối xử tốt với dân cư Trung Sơn bất chấp sự kháng cự của họ, song ông đã cho thảm sát các gia tộc ủng hộ việc giết chết Thác Bạt Cô. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, quân của Thác Bạt Khuê đã mắc phải một bệnh dịch nghiêm trọng và có đến một nửa binh sĩ và vật nuôi bị chết. Khi các tướng của ông thuyết phục ông đình chỉ các chiến dịch, Thác Bạt Khuê từ chối. Khoảng tết năm 398, khi Thác Bạt Khuê đã sẵn sàng tiến đánh Nghiệp Thành, người trấn thủ Nghiệp Thành là Mộ Dung Đức đã bỏ thành và chạy về phía nam Hoàng Hà để đến Hoạt Đài (滑台, nay thuộc An Dương, Hà Nam), và lập ra nước Nam Yên. Thác Bạt Khuê sau đó đã để Thác Bạt Nghi và Tố Hòa Bạt (素和跋) cai quản lãnh thổ cũ của Hậu Yên còn mình trở về Thịnh Lạc. Để tăng cường thông tin và sự kiểm soát, Thác Bạt Khuê cho mở đường giữa Vọng Đô (望都, nay thuộc Bảo Định, Hà Bắc) và Đại (代, nay thuộc Trương Gia Khẩu, Hà Bắc), qua Thái Hành Sơn. Tuy nhiên, ngay sau đó ông đã triệu hồi Thác Bạt Nghi về làm thừa tướng và thay thế vị trí của Nghi bằng một người họ hàng là Lược Dương công Thác Bạt Tuân (拓拔遵). Vào mùa hè năm 398, Thác Bạt Khuê đã tính đến việc phục hồi lại quốc hiệu Đại, song vì nghe theo lời của Thôi Hoành (崔宏), ông vẫn giữ quốc hiệu Ngụy. Thác Bạt Khuê dời đô từ Thịnh Lạc về phía nam đến Bình Thành (平城, nay thuộc Đại Đồng, Sơn Tây), để gần hơn về mặt địa lý với các lãnh thổ chinh phục được. Ông cũng ban hành các chiếu chỉ chuẩn hóa đo lường trong cả nước, và lập ra các lễ kỉ niệm chính thức dựa trên các truyền thống của người Hán và người Tiên Ti. Ngày Kỷ Sửu tháng 12 năm Mậu Tuất (24 tháng 1 năm 399), Thác Bạt Khuê xưng đế. Ông cũng tự coi mình là hậu duệ của Hoàng Đế, và do đó có quyền cai trị hợp pháp đối với người Hán. Thời kỳ đầu làm hoàng đế. Năm 399, Đạo Vũ Đế tiến hành một cuộc tấn công bất ngờ nhắm vào các bộ lạc Cao Xa (高車) ở khu vực sa mạc Gobi, Cao Xa phải chịu thương vong lớn và nhiều thành viên đã bị bắt. Đạo Vũ Đế đã bắt những người đàn ông Cao Xa phải sử dụng thân thể của họ như một bức tường trong một chuyến đi săn của ông để khiến cho các con vật không thể chạy thoát. Ông cũng bắt các nô lệ Cao Xa xây một trại nuôi hươu cho mình. Cũng trong năm đó, ông tiến hành tái tổ chức chính quyền, mở rộng từ 36 cục lên 360 cục, và ông cũng thiết lập một học đường tại Bình Thành và lệnh thu thập sách trên khắp đế chế và đưa đến Bình Thành. Vào mùa hè năm 399, tướng Lý Biện (李辯) của Nam Yên đã dâng kinh thành Hoạt Đài của Nam Yên cho Bắc Ngụy, buộc hoàng đế Mộ Dung Đức của Nam Yên phải chuyển sang tấn công Đông Tấn và chiếm lấy Thanh Châu (青州, nay là trung bộ và đông bộ Sơn Đông) làm lãnh thổ. Cuối năm 399, Đạo Vũ Đế đã trở nên giận dữ vì trong một lá thư gửi cho tướng Si Khôi (郗恢) của Đông Tấn, viên quan Thôi Sính (崔逞) đã phản đối không đủ địa vị của Tấn An Đế (và cũng bởi Thôi Sính trước đó đã so sánh Đạo Vũ Đế như một người có vẻ cáu gắt), ông đã buộc Thôi Sính phải tự sát. Sự kiện này đã khiến cho danh tiếng của Đạo Vũ Đế bị ảnh hưởng, và trong những năm sau đó, một vài quan lại quan trọng của Đông Tấn khi thua trong các cuộc nội chiến đã từ chối chạy đến Bắc Ngụy tị nạn. Năm 400, Đạo Vũ Đế tính đến chuyện lập Hoàng hậu. Trong số các phi tần, ông sủng ái Lưu thị nhất, bà là con gái của Lưu Đầu Quyến và đã sinh ra người con cả là Thác Bạt Tự. Tuy nhiên, theo phong tục của bộ lạc Thác Bạt, ông đã được thỉnh cầu phải để cho các ứng cử viên tiềm năng thử rèn tượng vàng. Lưu thị đã không thể hoàn thành bức tượng của bà. Tuy nhiên, Mộ Dung phu nhân (con gái út của Mộ Dung Bảo, là người mà ông đã bắt khi chiếm được Trung Sơn vào năm 397) lại có thể hoàn thành bức tượng của mình, và do vậy Đạo Vũ Đế lập bà làm hoàng hậu. Khoảng thời gian này, Đạo Vũ Đế ngày càng trở nên mê tín và trở nên tin tưởng các nhà chiêm tinh và giả kim thuật để tìm kiếm sự trường sinh bất tử. Ông cũng bắt đầu sử dụng các đạo luật nghiên khắc với các thuộc cấp, thẳng tay trừng phạt nếu họ thực hiện những điều mà ông cho là hành động bất kính. Năm 401-402, Đạo Vũ Đế nỗ lực tấn công Hậu Yên (lúc này Hậu Yên chỉ còn giới hạn tại Liêu Ninh ngày nay), song không thu được gì trước Hoàng đế Mộ Dung Thịnh của Hậu Yên. Khoảng thời gian này, Đạo Vũ Đế cũng tìm kiếm một mối quan hệ hôn nhân và hòa bình với Hậu Tần. Tuy nhiên, hoàng đế Diêu Hưng của Hậu Tần khi biết ông đã lập Mộ Dung hoàng hậu thì từ chối, và do trong khoảng thời gian này Đạo Vũ Đế liên tục tấn công một vài chư hầu của Hậu Tần nên quan hệ giữa hai nước tan vỡ. Đạo Vũ Đế do đó đã bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc đối đầu với Hậu Tần. Cũng trong năm, Diêu Hưng mở một cuộc tấn công lớn chống lại Bắc Ngụy. Tháng 8 ÂL năm 402, tướng chỉ huy tiền quân của Diêu Hưng là Nghĩa Dương công Diêu Bình (姚平) đã bị Đạo Vũ Đế bao vây tại Sài Bích (柴壁, nay thuộc Lâm Phần, Sơn Tây), và bất chấp các phản kích của cả Diêu Bình và Diêu Hưng, vòng vây của Bắc Ngụy càng trở nên chặt hơn, và vào mùa đông năm 402, Diêu Bình cùng đội quân của mình đã bị bắt sau thất bại trong một nỗ lực phá vây, chiến dịch chống Bắc Ngụy của Diêu Hưng cũng kết thúc. Thời kỳ cuối trị vì. Vào một vài năm cuối trong thời gian trị vì của mình, Đạo Vũ Đế đã trở nên khắc nghiệt hơn trong việc đối xử với các triều thần. Giả dụ, năm 406, khi ông lên kế hoạch mở rộng Bình Thành với ý định biến nó trở thành một kinh đô oai vệ, ông ban đầu đã lệnh cho Mạc Đề (莫題) lập kế hoạch bố trí, song do Mạc Đề đã không quá cẩn thận nên đã có một lỗi tương đối nhỏ, Đạo Vũ Đế vì thế lệnh cho Mạc Đề phải tự sát. Ông ngày càng hay lui tới Sài Sơn cung (豺山宮, nay thuộc Sóc Châu, Sơn Tây), và thường dành tới vài tháng ở đó. Các triều thần chủ chốt khác mà ông giết chết trong thời kỳ này còn bao gồm người họ hàng Thường Sơn vương Thác Bạt Tuân, Dữu Nhạc, Mạc Na Lâu Đề (莫那婁題), và Ngụy vương Thác Bạt Nghi. Năm 407, Bắc Ngụy và Hậu Tần có một thỏa ước hòa bình, các tướng bị bắt giữ của hai bên được trao trả. Tuy vậy, điều này đã gây ra một hậu quả tai hại đối với Hậu Tần, một tướng của Hậu Tần là Lưu Bột Bột trở nên giận dữ vì cha Lưu Vệ Thần của ông ta bị Bắc Ngụy giết chết trước đó, Lưu Bột Bột vì thế nổi dậy, lập ra nước Hạ. Tuy nhiên, Lưu Bột Bột lại tập trung vào chiến tranh du kích chống lại Hậu Tần, dần dần làm suy yếu sức mạnh của Hậu Tần, trong khi đó nước Hạ lại không thực sự tiến hành chiến tranh chống Bắc Ngụy. Năm 409, Đạo Vũ Đế có lẽ là đã bị ảnh hưởng bởi các chất độc mà các nhà giả kim thuật đưa cho, và ông được mô tả là rất thô bạo và hoang tưởng đễn nỗi liên tục lo ngại rằng sẽ có nổi dậy, đặc biệt là khi các thầy bói nói với ông rằng một cuộc nổi loạn sẽ diễn ra gần ông. Ông đôi khi không ăn uống gì trong nhiều ngày, hoặc không ngủ vào ban đêm. Ông thường thì thầm về các thành tựu hoặc thất bại của mình trong quá khứ, và ông nghi ngờ tất cả các triều thần của mình. Đôi khi, khi các triều thần bẩm báo với ông, ông đột nhiên nghĩ về lỗi lầm trong quá khứ của họ và ra lệnh trừng phạt và thậm chí là xử tử. Thỉnh thoảng, khi những người khác hành xử chỉ một chút không thích hợp, ông cũng trở nên tức giận và đến mức sẽ giết chết họ và trưng thi thể của họ ở bên ngoài hoàng cung. Toàn bộ triều đình đều phải hứng chịu một đợt khủng bố. Những cá nhân duy nhất thoát khỏi sự đối đãi này là Thôi Hoành và con trai Thôi Hạo (崔浩), họ đã không bao giờ phạm thượng hoặc xu nịnh hoàng đế vì cả hai đều có thể mang đến tai họa. Vào mùa thu năm 409, Đạo Vũ Đế đã quyết định lập Thác Bạt Tự làm thái tử. Do phong tục truyền thống của bộ lạc Thác Bạt là mẹ của người kế thừa phải chết, Đạo Vũ Đế lệnh cho mẹ của Thác Bạt Tự là Lưu thị tự sát. Ông đã giải thích lý do cho Thái tử Tự song điều này vẫn không ngăn được Thái tử thương nhớ mẹ, Đạo Vũ Đế vì thế tức giận và cho triệu kiến Thái tử. Thái tử Tự lo sợ và chạy ra khỏi Bình Thành. Tuy nhiên, Đạo Vũ Đế lại bị giết dưới tay một người con trai khác. Lúc ông đến thăm Hạ Lan bộ khi còn trẻ tuổi, ông trông thấy di mẫu (em gái của Hạ Lan thái hậu) xinh đẹp của mình, và muốn cưới bà làm thiếp. Tuy nhiên, Hạ Lan Thái hậu đã phản đối, song lý so không phải là vì loạn luân mà là do Hạ Lan phu nhân lúc đó đã có phu quân và do bà quá xinh đẹp, Thái hậu nói rằng những thứ đẹp thường có độc. Tuy vậy, Đạo Vũ Đế lại ám sát phu quân của Hạ Lan phu nhân và lấy bà làm thiếp, và đến năm 394 thì bà đã hạ sinh Thác Bạt Thiệu (拓拔紹), người con trai này sau đó được phong là Thanh Hà vương. Thác Bạt Thiệu được sử sách thuật lại là một thiếu niên khinh suất, ông thường cải trang thành thường dân đi thăm thú các đường phố, và thường bắt các khách du hành và lột bỏ quần áo của họ để làm trò tiêu khiển. Khi Đạo Vũ Đế hay tin, ông trừng phạt Thác Bạt Thiệu bằng cách cho treo ngược Thiệu trong một cái giếng, và chỉ thả ra khi Thiệu đã gần chết. Ngày Mậu Thìn tháng 10 năm Kỷ Dậu (6 tháng 11 năm 409), Đạo Vũ Đế có mâu thuẫn với Hạ Lan phu nhân và ông đã cho giam cầm và tính đến việc hành quyết bà, song lúc đó đã sập tối nên ông do dự. Hạ Lan phu nhân bí mật gửi một lời nhắn cho Thác Bạt Thiệu, yêu cầu Thiệu hãy cứu bà. Đến tối, Thác Bạt Thiệu đã vào cung và giết chết phụ hoàng. Tuy nhiên, sau đó, các cận binh hoàng cung đã bắt và giết chết Thác Bạt Thiệu cùng Hạ Lan phu nhân, Thác Bạt Tự đoạt lấy ngai vàng và trở thành Minh Nguyên Đế.
1
null
Núi Nguộc là ngọn núi thuộc huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, tiếng địa phương gọi là rú Nguộc. Trong sử liệu và các tài liệu cổ, rú Nguộc được gọi là Ngọc Lĩnh hoặc núi Ngọc. Núi cao 109m, mạch từ phía Bắc kéo xuống. Vị trí địa lý. Nằm trên trục đường quốc lộ 46 (Đường 15), thuộc địa bàn hai xã Ngọc Sơn và Thanh Ngọc, bên cạnh dòng sông Lam, cách tỉnh lỵ Nghệ An về phía Tây 40 km. Sông Lam chảy qua khu vực này gặp núi Nguộc chặn dòng gây đổi hướng dòng chảy, tạo nên thế hiểm trở, sông chảy xiết, núi cheo leo. Người dân địa phương gọi khu vực này là Gành. Từ phía Đông Bắc, phía Nam và Tây Nam nhìn sang núi có hình dáng của một con voi chiến. Theo đường quốc lộ 46 từ tỉnh lỵ đi lên, núi có 3 ngọn, hình dáng thanh tú. Ngọn cạnh sông Lam gọi là rú Trào, đỉnh ở giữa gọi rú Nguộc, ngọn còn lại thấp hơn ở phía bắc là rú Láng. Lịch sử. Vào giữa thế kỉ 16 vùng Thanh Chương, đặc biệt là vùng rú Nguộc, là nơi xảy ra nhiều trận thư hùng đẫm máu giữa các tướng lĩnh của hai tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh và Mạc trên sông Lam . Trong chiến tranh Việt Nam, người Mỹ đã thả xuống đây rất nhiều bom đạn nhằm triệt hạ đường 15 (quốc lộ 46), con đường vận chuyển huyết mạch nối từ Vinh lên đường mòn Hồ Chí Minh, Truông Bồn.
1
null
"Where Have You Been" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Barbados Rihanna nằm trong album phòng thu thứ sáu của cô, "Talk That Talk" (2011). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ năm trích từ album ở Hoa Kỳ và thứ ba trên toàn cầu vào ngày 8 tháng 5 năm 2012 bởi Def Jam Recordings và SRP Music Group. Bài hát được đồng viết lời bởi Ester Dean, cộng tác viên quen thuộc xuyên suốt sự nghiệp của nữ ca sĩ, với những nhà sản xuất nó Dr. Luke, Cirkut và Calvin Harris, bên cạnh sự tham gia đồng sản xuất của Kuk Harrell cũng như tham chiếu phần lời từ bài hát năm 1959 của Geoff Mack "I've Been Everywhere", được sáng tác bởi chính ông. "Where Have You Been" là một bản dance-pop, techno và electro house chịu nhiều ảnh hưởng từ nhiều thể loại âm nhạc khác nhau như R&B, hip hop, house và trance mang nội dung đề cập đến mong muốn và ước nguyện của một người phụ nữ trong việc tìm kiếm một người đàn ông có thể thỏa mãn và khiến cô hài lòng ở mọi phương diện trong tình yêu. Sau khi phát hành, "Where Have You Been" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ liên tưởng đến đĩa đơn đầu tiên từ "Talk That Talk" là "We Found Love" vốn cũng được sản xuất bởi Harris và đĩa đơn năm 2007 của Rihanna "Don't Stop the Music". Ngoài ra, bài hát còn gặt hái nhiều giải thưởng và đề cử tại những lễ trao giải lớn, bao gồm một đề cử giải Grammy cho Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhất tại lễ trao giải thường niên lần thứ 55. Nó cũng tiếp nhận những thành công lớn về mặt thương mại với việc lọt vào top 10 ở nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm những thị trường lớn như Úc, Bỉ, Canada, Đan Mạch, Pháp, Hungary, Ireland, New Zealand, Na Uy và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, "Where Have You Been" đạt vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, trở thành đĩa đơn thứ 22 của Rihanna vươn đến top 10 tại đây. Tính đến nay, nó đã bán được hơn 6 triệu bản trên toàn cầu, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất mọi thời đại. Video ca nhạc cho "Where Have You Been" được đạo diễn bởi Dave Meyers, trong đó bao gồm những cảnh Rihanna xuất hiện dưới nhiều bộ trang phục và địa điểm khác nhau nhằm tìm kiếm người đàn ông lý tưởng cho bản thân, tương tự như nội dung lời bài hát. Nó đã phá vỡ kỷ lục lúc bấy giờ về lượng người xem trong ngày đầu phát hành trên Vevo với 4.93 triệu lượt, đồng thời nhận được một đề cử tại giải thưởng âm nhạc NRJ năm 2013 cho Video của năm và hai đề cử tại giải Video âm nhạc của MTV năm 2012 cho Video có vũ đạo xuất sắc nhất và Kĩ xảo xuất sắc nhất. Để quảng bá bài hát, nữ ca sĩ đã trình diễn "Where Have You Been" trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải lớn, bao gồm "American Idol", "Saturday Night Live" và Lễ hội âm nhạc và nghệ thuật Thung lũng Coachella năm 2012, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của cô. Kể từ khi phát hành, nó đã được hát lại và sử dụng làm nhạc mẫu bởi nhiều nghệ sĩ, như Samantha Jade, Stooshe và Cimorelli. Thành phần thực hiện. Thành phần thực hiện được trích từ ghi chú của "Talk That Talk", Def Jam Recordings, SRP Records. Chứng nhận. !scope="col" colspan="3"|Streaming
1
null
Mahmoud Jibril (sinh ngày 28 tháng 5 năm 1952) là một nhà chính trị Libya hiện đang giữ chức chủ tịch Liên minh các lực lượng dân tộc Libya. Tháng 7 năm 2012, Liên minh Các lực lượng dân tộc, dẫn dắt bởi Mahmoud Jibril, giành đa số ghế trong cuộc bầu cử Quốc hội Libya, cuộc bầu cử đầu tiên kể từ khi chính quyền Gaddafi bị lật đổ. Ông đã giữ chức thủ tướng lâm thời Libya trong 7,5 tháng từ 25/3-23/10/2011 trong thời kỳ nội chiến Libya. Ông đã là chủ tịch ban chấp hành Hội đồng Chuyển tiếp Quốc gia Libya. Ông đã tốt nghiệp ngành khoa học chíbh trị và kinh tế tại đại học Cairo năm 1975, giành bằng thạc sĩ ngành khoa học chính trị năm 1988 và sau đó là tiến sĩ, cả hai bằng đều từ đại học Pittsburgh.
1
null
Marder III là tên một loại pháo tự hành chống tăng thuộc sê-ri Marder (Chồn mactet) được lắp ráp trên thân tăng Panzer 38(t). Chúng được sản xuất từ năm 1942 đến năm 1944 và phục vụ trên khắp các mặt trận cho đến hết cuộc chiến. Bối cảnh. Ngay trong những giai đoạn đầu của chiến dịch Barbarossa, quân đội Đức đã cảm thấy cần những phương tiện chống tăng mạnh mẽ và linh động hơn pháo chống tăng kéo Pak 36 hay pháo tự hành chống tăng Panzerjäger I.Điều này càng trở nên cần thiết khi vào tháng 6 năm 1941 đạn chống tăng không thể xuyên thủng giáp tăng T-34 và KV-1 của quân đội Liên Xô. Để giải quyết tạm thời tình hình, quân dội Đức quyết định lấy thân xe Lorraine (Marder I), Panzer II (Marder II) và Panzer 38(t) để làm khung tăng chế tạo các loại pháo tự hành chống tăng.Kết quả chính là dòng Marder-được trang bị pháo 76.2mm F-22 đời 1936 của quân đội Liên Xô hoặc pháo chống tăng 75 mm PaK 40 cho các phiên bản sau.Bởi vì trọng lượng và khoảng trống phân bố không hợp lý của thân tăng nhỏ này nên Marder không được bọc giáp đầy đủ.Chỉ có phần trước và sườn là được bọc giáp mỏng.Tất cả các mẫu Marder đều có phần tháp pháo mở.Một vài chiếc được gắn vải bạt nhằm bảo vệ kíp lái khỏi thời tiết khắc nghiệt. Lịch sử phát triển. Marder III, Sd.Kfz. 139. Mặc dù Panzer 38(t) đã trở thành lạc hậu vào đầu năm 1942, nhưng nó vẫn có thể làm thân tăng cho những loại pháo tự hành chống tăng rất tốt so với những vai trò khác.Từ khi pháo 76 mm M1936 (F-22) của quân đội Liên Xô bị quân Đức thu được với số lượng lớn, quân đội đã quyết định sử dụng pháo này với thân tăng Panzer 38(t) để làm pháo tự hành chống tăng. Để làm như vậy, cấu trúc trên của Panzer 38(t) bị lược bỏ thay vào đó là một ngăn chiến đấu gắn một khẩu pháo-một lớp giáp bảo vệ pháo khiến cho người điều khiển-thay đạn được bảo vệ rất ít.Giáp bọc bảo vệ phân bố dày từ 10-50 li.Pháo chính, ngăn chiến đấu được bố trí trên ngăn động cơ.Nó có hình dáng cao hơn nên dễ bị bắn cháy hơn Panzer 38. Loại pháo tự hành chống tăng được đưa vào dây chuyền sản xuất với tên gọi Panzerjäger 38(t) für 7.62 cm PaK 36(r), Sd.Kfz. 139.Có tổng cộng 363 chiếc Marder III mẫu này được sản xuất từ tháng 4 năm 1942 đến năm 1943. Marder III Ausf.H, Sd.Kfz. 138. Biến thể tiếp theo của Marder III sử dụng pháo 7.5 cm PaK 40 lắp trên khung Panzer 38(t) Ausf. H.Mẫu này có động cơ được bố trí phía sau (chữ H viết tắt của Heckmotor-động cơ phía sau) giống như Panzer 38.Không giống những mẫu khác, ngăn chiến đấu của bản H được bố trí nằm giữa, điều này giúp cho kíp chiến đấu có thể cuối thấp xuống tránh được đạn và mảnh bom từ bộ binh.Nhưng vì động cơ được gắn phía sau nên chỉ có đủ chỗ cho 2 người ngồi ở giữa.Giáp bọc sườn dày tăng thêm bảo vệ cho kíp chiến đấu.Nhưng kiểu giúp móng ngựa mỏng này chỉ bảo vệ được phần trước và sườn còn phía sau-bên trên hoàn toàn hở.Mẫu H có thể mang được 38 viên đạn và cũng giống như mẫu 139, nó cũng được trang bị súng máy 7.92 mm ở phần thân-phiên bản do Séc sản xuất. Tên hiệu đầy đủ của phiên bản này là 7.5 cm PaK 40/3 auf Panzerkampfwagen 38(t) Ausf.H, Sd.Kfz. 138.Dự án sản xuất 418 chiếc mẫu H được tiến hành theo đúng kế hoạch: 243 chiếc được sản xuất từ tháng 11 năm 1942 đến tháng 4 năm 1943; 175 chiếc còn lại được chuyển đồi từ Panzer 38(t) vào năm 1943. Marder III Ausf.M, Sd.Kfz. 138. Biến thể cuối cùng của Marder III dựa trên thân tăng Panzer 38(t) Ausf. M (chữ M tượng trưng cho Mittelmotor-động cơ ở giữa) và được trang bị pháo chống tăng 75 mm PaK 40.Ở mẫu M động cơ được di chuyển từ phía sau ra giữa người lái và những người còn lại của kíp chiến đấu.Bởi vì động cơ được dịch chuyển ra giữa nên kíp chiến đấu không còn phải ngồi trên ngăn động cơ như các phiên bản trước.Ngăn chiến đấu được dịch thấp xuống tầng cuối cùng-chỗ mà phiên bản trước đặt động cơ, điều này giúp bảo vệ kíp chiến đấu nhưng cũng giảm bớt tầm nhìn xuống.Mẫu M vẫn giữ nguyên thiết kế mở.Phiên bản chỉ có thể mang theo 27 viên đạn.Súng máy được lắp ráp ở phần thân đã bị lược bỏ thay vào đó là kíp chiến đấu được trang bị một khẩu MG-34 hoặc MG-42.Ở 2 phiên bản trước, người chỉ huy đóng vai trò như người điều khiển pháo chính, còn ở mẫu M người điều khiển radio ra phía sau cùng với chỉ huy-người điều khiển pháo chính và có vai trò giống người thay đạn.Kết quả chiến đấu trở nên tốt hơn vì người chỉ huy thoát khỏi vai trò người điều khiển pháo và có thể chỉ huy kíp chiến đấu. Mẫu M là phiên bản Marder III được sản xuất nhiều nhất với 975 chiếc được sản xuất từ năm 1943 đến đầu năm 1944.Tên hiệu chính thức của nó Panzerjäger 38(t) mit 7.5 cm PaK 40/3 Ausf.M, Sd.Kfz. 138. Lịch sử chiến đấu. Tất cả các biến thể của Marder III đều phục vụ trên nhiều mặt trận trong đó Sd.Kfz. 139 được dùng chủ yếu mặt trận phía đông, mặc dù cũng có tham gia chiến sự tại Tunisia.Đến tận tháng 2 năm 1945, vẫn còn đến 350 chiếc mẫu M đang hoạt động. Marder III phục vụ Panzerjäger Abteilungen của sư đoàn Panzer của cả Wehrmacht và Waffen SS, cũng như lực lượng-giống như sư đoàn Hermann Göring. Marder III có độ linh động cao giống như các loại phương tiện chiến tranh được lắp ráp trên thân tăng Czechoslovak 38t.Hỏa lực của nó đủ mạnh để tiêu diệt phần lớn tăng Liên Xô ở tầm bắn thích hợp. Điểm yếu của Marder III chủ yếu liên quan đến khả năng sống sót của nó, thiết kế mở cộng với hình dáng cao, giáp bọc mỏng khiến cho nó dễ bị tiêu diệt bởi đạn pháo bắn trực tiếp.Ngoài ra giáp bọc mỏng còn khiến Marder III dễ bị tiêu diệt bởi xe tăng đối phương và đạn súng máy khi ở gần. Marder III không phải thuộc dạng pháo tự hành chống tăng xung kích như Jagdpanther, Jagdtiger nên chúng chỉ thực hiện vai trò phòng thủ hay canh gác.Mặc dù Marder III có tính linh động cao, chúng vẫn không thay thế được pháo chống tăng kéo tờ. Vào tháng 3 năm 1942, trước khi Marder III xuất hiện, quân đội Đức đã sở hữu pháo tự hành chống tăng StuG III và đã đưa vào sản xuất.StuG III được bọc giáp kỹ càng nên được sản xuất với số lượng lớn hơn Marder III.Mặc dù có nhiều pháo tự hành xung kích nhưng quân đội Đức vẫn sản xuất Hetzer dựa trên khung tăng Panzer 38(t) từ năm 1944.Giáp bọc yếu và dễ bị tiêu diệt nên dòng Marder III đã bị ngưng sản xuất nhưng chúng vẫn phục vụ đến tận cuối cuộc chiến.
1
null
Trần Văn Thuyết (sinh năm 1960), có biệt danh là Thuyết buôn vua, Thuyết chăn voi từ Vụ án Năm Cam và đồng phạm. Được biết đến như một doanh nhân giàu có bậc nhất miền Bắc Việt Nam thập niên 1990, chồng của nữ đạo diễn Nguyễn Linh Nga, và là một mắt xích quan trọng trong vụ án Năm Cam. Thông tin. Sinh năm 1960 trong một gia đình có 6 anh chị em, Thuyết là con trai thứ hai.. Thuyết từng là một cảnh sát trại giam của Bộ Công an khi còn trẻ, nhưng vì dính vào một vụ bê bối nên đổi nhghề sang buôn bán xe ô tô, đồ điện tử và bất động sản.. Khi còn ở thời kỳ đỉnh cao, Thuyết là một thương nhân giàu có nổi tiếng ở Hà Nội thập niên 1990, từng được xem là dân chơi xe siêu sang cũng như bất động sản và có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với hàng loạt giới chức cấp cao của Việt Nam.. Số tài sản khổng lồ của Nguyễn Linh Nga và Thuyết ở thời điểm này lên đến hàng trăm tỉ đồng với những siêu xe như Mercedes Benz S550, Mercedes Benz S600, những căn biệt thự sang trọng nằm tại những dãy phố trung tâm nổi tiếng của Hà Nội như phố Hàng Chuối, phố Nguyễn Thái Học. Địa điểm số 91 Nguyễn Thái Học là nơi Thuyết gặp gỡ với Trương Văn Cam cùng đồng bọn và nhiều giới chức cấp cao để "chạy án", bàn tính chuyện làm ăn. Vai trò của Thuyết trong Vụ án Năm Cam và đồng phạm. Khi Vụ án Năm Cam và đồng phạm bị đưa ra ánh sáng, Thuyết lĩnh án chung thân, sau đó được giảm xuống 20 năm tù vì tội móc nối với các quan chức, lãnh đạo hàng đầu Việt Nam để giúp Năm Cam "chạy" án..Vụ án Năm Cam và đồng phạm là một trong những vụ án lớn nhất trong lịch sử Việt Nam suốt một thế kỷ qua. Trong đó Trương Văn Cam hay còn gọi là Năm Cam là một đối tượng hình sự đặc biệt nguy hiểm, cầm đầu hàng trăm băng nhóm đồng bọn từ Bắc chí Nam theo kiểu "xã hội đen" nhũng nhiễu người dân, giết người, cướp của, tổ chức đánh bạc, hối lộ nhiều quan chức, gây bất bình xã hội. Năm 1995, Năm Cam nhờ Nguyễn Văn Thắng, hay Thắng Tài Dậu giúp móc nối với Trần Văn Thuyết để nhờ Thuyết "chạy án" do biết được công an đang mở cuộc điều tra về các hoạt động phạm tội của tổ chức nguy hiểm này, và cũng biết Thuyết quen thân nhiều giới chức pháp luật cấp cao. Từ đó Thuyết thân thiết với Năm Cam và các băng nhóm, đồng bọn của Cam, cùng nhau thực hiện nhiều vụ "chạy án", hối lộ, móc nối với nhiều quan chức cấp cao. Thuyết bị cơ quan cảnh sát điều tra bắt ngày 6 tháng 4 năm 2002 tại số 5 đường Nguyễn Thái Học, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Chịu án cùng Trần Văn Thuyết còn có nhiều nhân vật như Trương Văn Cam, Châu Phát Lai Em, Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Hữu Thịnh, Phạm Văn Minh, Hồ Thanh Tùng cùng bị tử hình. Chịu án chung thân có Nguyễn Tuấn Hải, Nguyễn Xuân Trường, Bùi Anh Việt, Văn Công Tiến. Mức 20 năm gồm có Dương Ngọc Hiệp, Phan Thị Trúc, Trần Văn Thuyết, Tạ Đắc Lung. Những quan chức dính líu vào vụ việc gồm các ông Trần Mai Hạnh, cựu Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Tổng Giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam, là quan chức cấp cao và là bị cáo trong vụ án. Ông Nguyễn Thập Nhất, Trưởng phòng Kiểm sát giam giữ Viện Kiểm sát Nhân dân Hà Nội. Ông Phạm Sỹ Chiến, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Ông Bùi Quốc Huy, nguyên Trung tướng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, cùng nhiều nhân vật cấp cao khác. Mối tình với Linh Nga. Thuyết từng đính hôn với diễn viên, đạo diễn Nguyễn Linh Nga trước khi bị bắt. Cuộc tình của hai nhân vật "đình đám" trở thành đề tài khai thác rộng rãi của truyền thông Việt Nam những năm 2000, đặc biệt là sau khi cơ quan điều tra bắt Thuyết. Vụ bắt giữ xảy ra chỉ một tuần lễ sau lễ cưới của Thuyết và Nga. Đặc xá và nhân quả. Nguyễn Linh Nga từng chia sẻ với báo chí những năm sau này, vào năm 2002, cô là người nộp tiền giữ lại căn biệt thự Hàng Chuối cùng tài sản mà Thuyết hiện đang ở sau khi được đặc xá. Linh Nga cũng nộp tiền khắc phục hậu quả xin giảm án xuống 20 năm cho Thuyết. Cô đứng giữa làn đạn của dư luận, bênh vực cho Thuyết, trở thành một lá chắn đạn cho danh dự của hai người, trong khi các bằng hữu đều cao chạy xa bay, hoặc quay ngược trở lại xúc phạm Thuyết và Nga trên công luận. Trước khi Thuyết ra Toà tháng 12 năm 2001, Linh Nga bị chính các thành viên gia đình Thuyết truy xét về tiền bạc khiến cô phải dọn ra khỏi chính căn nhà mới cưới. Những bức hình cưới của Nguyễn Linh Nga và Thuyết treo trong nhà cũng bị gia đình Thuyết phá bỏ. Cùng thời điểm này, ngay sau khi cô hoàn tất giấy tờ giữ lại hai căn biệt thự cùng toàn bộ tài sản đứng tên cho Thuyết, giúp giảm án tù chung thân cho Thuyết xuống 20 năm, thì Nga bị ngăn cấm không cho vào thăm nuôi Thuyết ở trại giam Tiền Giang và nhận được tin báo từ cán bộ trại giam về việc Thuyết đã gạch tên Nga khỏi sổ thăm nuôi với tư cách là vợ. Sau khi Vụ án Năm Cam và đồng phạm khép lại, năm 2005 Linh Nga sang Mỹ du học và định cư. Năm 2015 Nga trở lại Việt Nam với tư cách nhà làm phim. Thuyết nhắc lại mối tình một thời với Linh Nga, nhưng cô không hồi âm. Về phần Thuyết cũng cưới một người vợ sau khi ra tù nhưng không thấy dư luận nhắc gì về việc này. Giới chức phạm tội trong vụ án. Giới chức liên quan. Những giới chức liên quan đến việc nhận hối lộ từ Trần Văn Thuyết, Năm Cam gồm:
1
null
Hoa hậu Thế giới 2012 là cuộc thi Hoa hậu Thế giới lần thứ 62 diễn ra vào ngày 18 tháng 8 năm 2012 tại sân vận động trung tâm Đông Thắng, Ordos, Nội Mông, Trung Quốc. Ivian Sarcos từ Venezuela đã trao lại vương miện cho Vu Văn Hà, hoa hậu đến từ nước chủ nhà. Các thí sinh đã tham quan Trường Thục và Thượng Hải. Kết quả cuộc thi. Các giải thưởng phụ. Hoa hậu Bãi biển. Phần thi diễn ra vào ngày 2 tháng 8 sau phần giới thiệu về trang phục áo tắm diễn ra tại Seven Star Lake Resort. Người chiến thắng sẽ được công bố vào đêm chung kết cuộc thi. Hoa hậu Tài năng. Phần thi tài năng đã được diễn ra vào ngày 21 tháng 7. Ngày 4 tháng 8, có 16 thí sinh được chọn vào vòng bán kết và sau đó là 5 thí sinh sẽ trình diễn phần thi Tài năng diễn ra ngày 8 tháng 8 tại nhà hát Ordos. Người chiến thắng phần thi Tài năng sẽ được công bố vào đêm chung kết cuộc thi. "Thể thao". Phần thi thể thao diễn ra ngày 9 tháng 8. Có 24 thí sinh vào vòng bán kết, và được chia thành 6 đội. "Siêu mẫu". Phần thi Siêu mẫu diễn ra ngày 23 tháng 7. Có 47 thí sinh được lựa chọn vào vòng bán kết và vào thắng chung kết vào ngày 12 tháng 8. Top 10 sau đó được lựa chọn và người chiến thắng sẽ được công bố vào đêm chung kết. "Người đẹp Nhân ái". Top 10 người đẹp nhân ái được lựa chọn. Người chiến thắng sẽ được công bố vào đêm chung kết cuộc thi.
1
null
Nguyễn Thái Sơn (1927-1970) là một nhà cách mạng Việt Nam. Thân thế sự nghiệp. Ông sinh năm 1927 tại thôn An Phú, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Côi (nay là huyện Quỳnh Phụ), tỉnh Thái Bình. Năm 1945, Cách mạng tháng 8 nổ ra, ông tham gia và bắt đầu hoạt động cho phong trào Việt Minh. Năm 1948, ông được cử vào Nam công tác, được giao nhiều nhiệm vụ quan trọng, ông đều hoàn thành. Năm 1954, ông được phân công ở lại miền Nam làm Bí thư Tỉnh ủy Cần Thơ. Từ đó, ông lấy bí danh là Bảy Bình. Năm 1959, ông là Thường vụ Khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Tháng 01 năm 1970, trong một đợt công tác Bến Tre, ông bị địch bao vây tại xã Phú Túc, huyện Châu Thành. Ông đã hi sinh trong trận chiến đấu ngày 30/01/1970.. Vinh danh. Tên ông được đặt cho một ngôi trường ở Quận 3, Tp Hồ Chí Minh và một con đường ở quận Gò Vấp, Tp Hồ Chí Minh .
1
null
Lịch sử hành chính Hà Nam có thể xem mốc khởi đầu từ năm 1890 với sự kiệm phủ Lý Nhân được tách khỏi tỉnh Hà Nội để thành lập tỉnh Hà Nam. Vào thời điểm hiện tại (2019), về mặt hành chính, Hà Nam được chia làm 6 đơn vị hành chính cấp huyện – gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 1 thị xã và 4 huyện – và 109 đơn vị hành chính cấp xã – gồm 83 xã, 20 phường và 6 thị trấn. Trước khi thành lập tỉnh. Từ thời Hùng Vương, vùng đất Hà Nam ngày nay nằm trong quận Vũ Bình thuộc bộ Giao Chỉ. Thời Bắc thuộc, là đất thuộc quận Giao Chỉ. Đời Lý gọi là châu Lị Nhân (蒞仁州). Sử chép các vua Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông từng cho dựng hành cung ở châu Lị Nhân ("Toàn thư", BK2-35a). Đời Trần cũng gọi là châu Lị Nhân (bản in "Việt sử lược" in sót nét thành Vị Nhân 位仁), thuộc lộ Đông Đô. Thời thuộc Minh là huyện Lị Nhân thuộc phủ Giao Châu. Đời Lê kiêng âm (đọc Lợi Nhân) nhưng vẫn viết Lị 蒞 không phải đổi chữ. Đến đời Lê Thánh Tông thăng làm phủ, thuộc Sơn Nam thừa tuyên. Khoảng năm 1624, Thượng thư Nguyễn Khải đã cho chuyển thủ phủ trấn Sơn Nam từ thôn Tường Lân, huyện Duy Tiên, phủ Lỵ Nhân đến đóng ở thôn Châu Cầu thuộc tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng, phủ Lỵ Nhân, trấn Sơn Nam Thượng. Năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đổi là phủ Lý Nhân (里仁府), vẫn gồm 5 huyện Kim Bảng, Duy Tiên (trước Lê Trung hưng là Duy Tân), Thanh Liêm, Nam Xương (Nam Xang), Bình Lục như thời Lê sơ. Năm 1831, Minh Mạng cho lập tỉnh Hà Nội và sáp nhập phủ Lý Nhân của trấn Sơn Nam vào tỉnh Hà Nội. Tỉnh Hà Nam - Những thay đổi hành chính. Đến tháng 10 năm 1890 (đời vua Thành Thái năm thứ 2), phủ Lý Nhân được tách khỏi tỉnh Hà Nội để lập tỉnh Hà Nam. Bấy giờ, tỉnh Hà Nam gồm 5 huyện Duy Tiên, Kim Bảng, Thanh Liêm, Bình Lục, Nam Xương (Nam Xang), gồm 33 tổng. Ngày 20 tháng 10 năm 1908, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đem toàn bộ phủ Liêm Bình và 17 xã của huyện Vụ Bản và Thượng Nguyên (phần nam Mỹ Lộc) của tỉnh Nam Định, cùng với 2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên nghiệp của huyện Phú Xuyên (Hà Nội), nhập vào huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, gọi chung là huyện. Tỉnh Hà Nam có 1 thị xã Hà Nam và 6 huyện: Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng, Lạc Thủy, Lý Nhân, Thanh Liêm. Năm 1946, đổi tên một số xã thuộc huyện Lạc Thủy. Năm 1953, 3 huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên của tỉnh Nam Định nhập vào tỉnh Hà Nam; chuyển trở lại huyện Lạc Thủy về tỉnh Hòa Bình. Năm 1956, 3 huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên được sáp nhập trở lại vào tỉnh Nam Định. Năm 1965, Hà Nam được hợp nhất với tỉnh Nam Định thành tỉnh Nam Hà. Năm 1966, hợp nhất một số xã thuộc huyện Bình Lục. Năm 1967, hợp nhất một số xã thuộc huyện Duy Tiên.. Năm 1972, hợp nhất một số xã thuộc huyện Lý Nhân. Năm 1975, Nam Hà Hợp nhất với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Năm 1976, hợp nhất một số xã thuộc các huyện Bình Lục, Duy Tiên Năm 1977, hợp nhất một số xã thuộc các huyện Kim Bảng, Thanh Liêm, Lý Nhân. Cùng năm, hợp nhất thị xã Hà Nam và 2 huyện Kim Bảng, Thanh Liêm thành huyện Kim Thanh; sáp nhập 9 xã của thành phố Nam Định vào huyện Bình Lục và hợp nhất một số xã thuộc huyện Kim Thanh. - Sáp nhập toàn bộ xã Hùng Lý vào xã Chính Lý - Sáp nhập toàn bộ xã Hòa Lý vào xã Nguyên Lý - Thành lập xã Chân Lý trên cơ sở toàn bộ xã Chân Hồng và xã Tân Lý - Thành lập xã Hòa Hậu trên cơ sở toàn bộ xã Nhân Hòa và xã Nhân Hậu - Thành lập thị trấn Hà Nam (Kim Thanh) trên cơ sở toàn bộ thị xã Hà Nam cũ - Thành lập xã Thanh Chung trên cơ sở toàn bộ xã Thanh Châu và Liêm Trung - Sáp nhập xã Thanh Lâm vào xã Thanh Tuyền - Thành lập xã Thanh Giang trên cơ sở toàn bộ xã Liêm Chính và Liêm Tuyền Năm 1978, hợp nhất một số xã thuộc huyện Lý Nhân. Năm 1981, huyện Kim Thành tách ra thành thị xã Hà Nam và 2 huyện Kim Bảng, Thanh Liêm. Năm 1982, điều chỉnh một số xã thuộc huyện Thanh Liêm. Cùng năm, điều chỉnh địa giới huyện Thanh Liêm và thị xã Hà Nam. Năm 1984, thành lập một số xã và thị trấn thuộc các huyện Kim Bảng, Thanh Liêm, Duy Tiên. Cùng năm, điều chỉnh địa giới thành phố Nam Định và huyện Bình Lục. Năm 1986, thành lập thị trấn huyện lị thuộc các huyện Duy Tiên, Kim Bảng. Năm 1987, thành lập thị trấn huyện lị thuộc các huyện Bình Lục, Lý Nhân. Năm 1991, tỉnh Hà Nam Ninh lại chia tách thành 2 tỉnh: Nam Hà và Ninh Bình. Năm 1996, tỉnh Hà Nam được tái lập.. Cùng năm, thị xã Hà Nam đổi tên thành thị xã Phủ Lý và chuyển 7 xã của huyện Bình Lục về thành phố Nam Định của tỉnh Nam Định quản lý. Khi tách ra, tỉnh Hà Nam có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Phủ Lý và 5 huyện: Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng, Lý Nhân, Thanh Liêm. Năm 2000, điều chỉnh địa giới thị xã Phủ Lý và các huyện Duy Tiên, Kim Bảng, Thanh Liêm; thành lập một số phường thuộc thị xã Phủ Lý. - Thành lập phường Lê Hồng Phong trên cơ sở một phần xã Châu Sơn. Phường Lê Hồng Phong có 271,78 ha diện tích tự nhiên và 6.083 nhân khẩu - Thành lập phường Quang Trung trên cơ sở một phần xã Lam Hạ, phường Lương Khánh Thiện và phường Minh Khai. Phường Quang Trung có 261,59 ha diện tích tự nhiên và 6.266 nhân khẩu. - Sáp nhập một phần xã Liêm Chính vào phường Lương Khánh Thiện. Phường Lương Khánh Thiện có 31,52 ha diện tích tự nhiên và 6.791 nhân khẩu. - Sáp nhập một phần xã Liêm Chính vào phường Minh Khai. Sáp nhập một phần phường Minh Khai vào xã Phù Vân. Phường Minh Khai có 35,39 ha diện tích tự nhiên và 6.822 nhân khẩu. - Sáp nhập một phần xã Liêm Chính và xã Thanh Châu vào phường Hai Bà Trưng. Phường Hai Bà Trưng có 61,35 ha diện tích tự nhiên và 6.034 nhân khẩu. - Sáp nhập một phần xã Liêm Chính và xã Thanh Châu vào phường Trần Hưng Đạo. Phường Trần Hưng Đạo có 16,96 ha diện tích tự nhiên và 4.968 nhân khẩu. - Sau khi điều chỉnh, xã Liêm Chính có 332,47 ha diện tích tự nhiên và 4.128 nhân khẩu, xã Thanh Châu có 323,55 ha diện tích tự nhiên và 5.430 nhân khẩu, xã Châu Sơn có 555,82 ha diện tích tự nhiên và 5.945 nhân khẩu, xã Lam Hạ có 621,59 ha diện tích tự nhiên và 5.561 nhân khẩu, xã Phù Vân có 564,85 ha diện tích tự nhiên và 7.791 nhân khẩu. - Thị xã Phủ Lý có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 6 phường và 6 xã Năm 2008, thành lập thành phố Phủ Lý. Thành phố Phủ Lý có diện tích tự nhiên 3.426,77 ha và 121.350 nhân khẩu, có 12 đơn vị hành chính: 6 phường và 6 xã. Năm 2009, thành lập thị trấn Ba Sao thuộc huyện Kim Bảng. Năm 2013, điều chỉnh địa giới thành phố Phủ Lý và các huyện Duy Tiên, Kim Bảng, Thanh Liêm, Bình Lục; thành lập một số phường thuộc thành phố Phủ Lý. - Thành lập phường Thanh Châu trên cơ sở toàn bộ xã Thanh Châu. Phường Thanh Châu có 336,86 ha diện tích tự nhiên và 6.307 nhân khẩu. - Thành lập phường Châu Sơn trên cơ sở toàn bộ xã Châu Sơn. Phường Châu Sơn có 524,11 ha diện tích tự nhiên và 8.158 nhân khẩu. - Thành lập phường Liêm Chính trên cơ sở toàn bộ xã Liêm Chính. Phường Liêm Chính có 332,51 ha diện tích tự nhiên và 5.047 nhân khẩu. - Thành lập phường Lam Hạ trên cơ sở toàn bộ xã Lam Hạ. Phường Lam Hạ có 627,96 ha diện tích tự nhiên và 5.953 nhân khẩu. - Thành lập phường Thanh Tuyền trên cơ sở toàn bộ xã Thanh Tuyền. Phường Thanh Tuyền có 458,31 ha diện tích tự nhiên và 7.478 nhân khẩu. Năm 2019, hợp nhất một số xã, thị trấn thuộc các huyện Bình Lục, Lý Nhân, Thanh Liêm. Cùng năm, thành lập thị xã Duy Tiên và thành lập một số phường, xã mới thuộc thị xã Duy Tiên. - Thành lập phường Bạch Thượng trên cơ sở toàn bộ xã Bạch Thượng. Phường Bạch Thượng có 6,24 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 11.960 người. - Thành lập phường Châu Giang trên cơ sở toàn bộ xã Châu Giang. Phường Châu Giang có 12,81 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 17.219 người. - Thành lập phường Duy Hải trên cơ sở toàn bộ xã Duy Hải. Phường Duy Hải có 5,50 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 6.473 người. - Thành lập phường Duy Minh trên cơ sở toàn bộ xã Duy Minh, Phường Duy Minh có 5,71 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 7.861 người. - Thành lập phường Đồng Văn trên cơ sở toàn bộ thị trấn Đồng Văn. Phường Đồng Văn có 5,59 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 11.327 người. - Thành lập phường Hòa Mạc trên cơ sở toàn bộ thị trấn Hòa Mạc. Phường Hòa Mạc có 5,68 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 11.488 người. - Thành lập phường Hoàng Đông trên cơ sở toàn bộ xã Hoàng Đông. Phường Hoàng Đông có 6,36 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 10.556 người. - Thành lập phường Tiên Nội trên cơ sở toàn bộ xã Tiên Nội. Phường Tiên Nội có 6,86 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 8.843 người. - Thành lập phường Yên Bắc trên cơ sở toàn bộ xã Yên Bắc. Phường Yên Bắc có 7,05 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 10.399 người. - Thành lập xã Tiên Sơn trên cơ sở toàn bộ xã Châu Sơn, Tiên Phong và Đọi Sơn. Xã Tiên Sơn có 12,31 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 13.932 người. - Sáp nhập toàn bộ xã Mỹ Thọ và xã An Mỹ vào thị trấn Bình Mỹ. Thị trấn Bình Mỹ có 14,62 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 13.341 người. - Sau khi sắp xếp, huyện Bình Lục có 17 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 16 xã và 01 thị trấn. - Thành lập xã Trần Hưng Đạo trên cơ sở toàn bộ xã Nhân Hưng và xã Nhân Đạo. Xã Trần Hưng Đạo có 12,99 km² diện tích tự nhiên, quy mô dân số 7.076 người. - Sáp nhập toàn bộ xã Đồng Lý vào thị trấn Vĩnh Trụ. Thị trấn Vĩnh Trụ có 5,11 km² diện tích tự nhiên, quy mô dân số 10.886 người. - Sau khi sắp xếp, huyện Lý Nhân có 21 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 20 xã và 01 thị trấn. - Thành lập thị trấn Tân Thanh trên cơ sở toàn bộ xã Thanh Bình và xã Thanh Lưu. Thị trấn Tân Thanh có 11,76 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 9.496 người. - Sau khi sắp xếp, huyện Thanh Liêm có 16 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 14 xã và 02 thị trấn.
1
null
Selena Gomez & the Scene, một ban nhạc Mỹ, đã phát hành 3 album phòng thu, 8 đĩa đơn và 9 video âm nhạc. Ban nhạc phát hành album đầu tay, "Kiss & Tell" vào 29 tháng 9 năm 2009. Album ra mắt tại vị trí thứ 9 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 của Mỹ, và đến tháng 3 năm 2010, album đã nhận được chứng nhận đĩa Vàng của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA). Đĩa đơn thứ hai của album, "Naturally" đã lọt vào top 30 của Mỹ, top 20 của New Zealand, Canada, Đức và lọt vào top 10 của Anh, Ireland. Ca khúc cũng đã được chứng nhận đĩa Bạch kim ở Mỹ và Canada. Album phòng thu thứ hai của họ là "A Year Without Rain" được phát hành vào 17 tháng 9 năm 2010, ra mắt ở vị trí thứ 4 trong bảng xếp hạng "Billboard" 200 của Mỹ và đã được chứng nhận đĩa Vàng bởi RIAA vào tháng 1 năm 2011. Có hai đĩa đơn từ album được phát hành, "Round & Round" và "A Year Without Rain". Album thứ ba của ban nhạc là "When the Sun Goes Down" được phát hành vào 28 tháng 6 năm 2011. Đĩa đơn đầu tiên của album, "Who Says", được phát hành trước đó vào 14 tháng 4 năm 2011. Còn đĩa đơn thứ hai, "Love You Like a Love Song", phát hành vào 17 tháng 6 năm 2011. Album đã đánh vào bảng xếp hạng "Billboard" 200 ở vị trí thứ 3 và nắm trong top 10 trong suốt một tháng. 78,000 bản album đã được tiêu thụ ngay trong tuần đầu phát hành. "When the Sun Goes Down" đã được chứng nhận đĩa Vàng ở Mỹ bởi RIAA vào 17 tháng 11 năm 2011. Vào 15 tháng 4 năm 2011, Selena Gomez & the Scene đã bán được tổng cộng 1,400,000 album theo doanh số của "Kiss & Tell" và "A Year Without Rain".
1
null
Lạc đà Guanaco ("Lama guanicoe") là một loài động vật thuộc họ Lạc đà gốc Nam Mỹ, có chiều cao đến vai khoảng 107 đến 122 cm (3,5 đến 4 foot) và cân nặng khoảng 90 kg (200 lb). Mặc sắc cơ thể của chúng biến đổi rất ít (khác với loài Lạc đà không bướu), từ màu nâu nhạt cho đến màu quế sẫm và ở bụng thì có màu trắng. Lạc đà Guanaco có mặt màu xám và tai thẳng nhỏ. Cái tên gốc "guanaco" bắt nguồn từ "wanaku" (trước đây phát âm là "huanaco") trong tiếng Quechua, một ngôn ngữ Nam Mỹ. Con guanaco non được gọi là "chulengo".
1
null
Cây Ươi (tên gọi khác: đười ươi, lười ươi, an nam tử, cây thạch, ươi bay, bàng đại hải, lù noi, sam rang, som vang, đại đông quả) có danh pháp khoa học: Scaphium macropodum (các danh pháp đồng nghĩa khác: "Sterculia lychnophora, Caryophyllum macropodum, Scaphium lychnophorum, Firmiana lychnophora"). Loài này thuộc chi Ươi, họ phụ Trôm của họ Cẩm Quỳ. Hạt của nó (hạt lười ươi) được sử dụng trong y học cổ truyền có tác dụng thanh nhiệt và cũng có thể dùng để trị chứng rối loại tiêu hóa hoặc làm mát cổ họng. Nó được thu thập là loại sản phẩm chính ngoài gỗ ở Lào, và có giá trị xuất khẩu sau cây cà phê ở nước này. Miêu tả. Cây thân gỗ cao 25–30 m. Hạt khô có kích thước bằng đầu ngón tay người lớn, có màu đen và vỏ nhăn nheo. Lười ươi trong văn tịch Việt Nam. Trịnh Hoài Đức trong cuốn "Gia Định Thành thông chí" ghi là:
1
null
Kugelpanzer là một mẫu thiết kế xe tăng của Đức Quốc xã trong thế chiến II.Nó là một trong những phương tiện bọc giáp kỳ lạ nhất từng được thiết kế. Chỉ có một mẫu tăng do thám thuộc loại Rollzeug còn lại ở bảo tàng Kubinka, Nga-nằm trong tập hợp những chiếc xe tăng Đức.Kugelpanzer được liệt kê với tên gọi Item #37 và sơn màu xám.Dựa vào những mảnh rớt, thiết bị lái đã bị lược bỏ và không có mẫu sắt nào được cho phép lấy đi từ Kugelpanzer. Lịch sử phát triển. Không có tài liệu rõ ràng về loại phương tiện này cũng như lịch sử thiết kế, nhưng có 5 sự kiện được cho là thực sự chắc chắn: Rất khó để xác định chức năng của Kugelpanzer nhưng nhìn qua thì ta có thể phán đoán đây là một mẫu xe do thám với tấm giáp bọc và lỗ nhìn ra ngoài.Có thể động cơ được lắp phía dưới hoặc đằng sau người điều khiển radio.Một bánh xe định hướng được lắp phía sau để nối với 2 xích ở hai bên. Đặc tính. Đằng sau Kugelpanzer là một cần nhỏ và bánh kéo.Một vài ý kiến cho rằng đây có thể là hệ thống lái.Tuy nhiên nó chỉ giống như một cái cần kéo để giữ thăng bằng và tránh cho phần thân tăng bị ngã về hai bên do thắng. Với thiết kế nhỏ gọn và đơn giản, Kugelpanzer có vẻ giống một chiếc xe do thám hoặc rải cáp hơn là thiết bị chiến đấu-dụng cụ đặt vũ khí. Sử dụng. Chiếc xe bọc thép được chuyển giao cho Nhật Bản và bị quân đội Liên Xô bắt giữ vào năm 1945 tại Mãn Châu (theo các nguồn khác- bị bắt tại bãi tập Kummersdorf của Wehrmacht cùng với xe tăng siêu nặng Panzer VIII "Maus"). Là một mẫu thử nghiệm, không tham gia vào các trận chiến. Chiếc xe đã được sửa đổi sau khi bị bắt, sơn lại và tháo bộ truyền động. Năm 2000, lớp sơn ban đầu đã được phục hồi. Hiện tại, một bản sao duy nhất đã được bảo quản trong bảo tàng bọc thép ở Kubinka.
1
null
Chinchila (phiên âm /ʈʃɪnˡʈʃɪǀə/) hay còn gọi là sóc sin-sin là một loài động vật gặm nhấm hoạt động về đêm (chỉ ra ngoài hoạt động từ lúc hoàng hôn đến bình minh), có kích thước lớn hơn sóc đất (ground squirrel) một chút và cũng khỏe hơn, có nguồn gốc tư dãy núi Andes ở Nam Mỹ. Chúng sống theo bầy đàn ở độ cao khá lớn so với mực nước biển (lên đến 4.270 m). Về mặt lịch sử, chúng sống ở dãy núi Andes thuộc Bolivia, Chile, và Peru, nhưng ngày nay chỉ còn thấy những bầy đàn sống trong tự nhiên tại Chile. Cùng với họ hàng viscacha của mình, chúng tạo thành họ (sinh học) Chinchillidae. Chinchilla theo nghĩa đen là chincha nhỏ, được đặt theo tộc người Chincha ở Andes, những người trước đây thường mặc bộ lông dày và có đặc tính giống nhung của chúng. Đến cuối thế kỷ 19, chinchilla đã trở nên khá hiếm bởi nạn săn bắn để lấy bộ lông cực mềm của chúng. Ngày nay, hầu hết nguồn lông chinchilla phục vụ cho ngành công nghiệp thời trang là từ chinchilla nuôi nhốt. Các loài Chinchilla. Có hai loài chinchilla là "Chinchilla chinchilla" (tên trước đây là "Chinchilla brevicaudata") và "Chinchilla lanigera". Có những khác biệt nhỏ dễ thấy giữa hai loài này, "C. chinchilla" có tai và đuôi ngắn hơn, vai và cổ đậm hơn "C. lanigera". Loài "C. chinchilla" ngày nay phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng; loài "C. lanigera" tuy hiếm nhưng vẫn có thể được tìm thấy trong tự nhiên. Chinchilla nuôi trong nhà được cho là thuộc loài "C. lanigera".
1
null
Chiến dịch Dnipropetrovsk là một trận đánh diễn ra giữa Hồng quân Liên Xô với quân đội Đức Quốc xã trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kéo dài từ ngày 23 tháng 10 đến 23 tháng 12 năm 1943. Nó là một phần của Trận sông Dniepr diễn ra trong nửa cuối năm 1943. Kế hoạch. Sau khi quân đội Liên Xô tiếp cận được vùng hạ lưu sông Dniepr, các Tập đoàn quân số 46 (tư lệnh: V. V. Glagolyev) và Tập đoàn quân cận vệ số 8 (tư lệnh: tướng I. I. Maslennikov, từ ngày 10 tháng 11 là V. I. Chuikov) thuộc Phương diện quân Ukraina 3 (tư lệnh: Đại tướng R. Ya. Malinovsky) đã đánh chiếm hai đầu cầu vượt sông ở phía Bắc (đầu cầu Aulskiy) (Auly) và Nam Dniepropetrovsk. Nhiệm vụ của quân đội Liên Xô lúc này là phải nhanh chóng giải phóng Dniepropetrovsk và tiêu diệt cụm quân Dniepropetrovsk bằng hai mũi hợp vây, tiếp đó sẽ tiến tới tiêu diệt cụm quân Kryvyi Rih. Binh lực của quân đội Liên Xô trong chiến dịch này là khoảng 100.000 người, 2.000 đại bác và súng cối cùng một lượng nhỏ xe tăng. Đối thủ của họ là Tập đoàn quân thiết giáp số 1 (tư lệnh: Trung tướng kỵ binh Eberhard von Mackensen, đến ngày 29 tháng 19 là trung tướng xe tăng Hans Hube) của Cụm Tập đoàn quân Nam (tư lệnh: Thống chế Erich von Manstein), với binh lực tổng cộng 25.000 người, 50 xe tăng, 700 đại bác và súng cối. Diễn biến. Ngày 23 tháng 10 năm 1943, Tập đoàn quân số 46 và Tập đoàn quân cận vệ số 8 nổ súng tấn công, mở màn chiến dịch Dnipropetrovsk. Trong thời gian này quân Đức đang căng sức giữ vùng Krivoi Rog - vốn đang bị quân đội Liên Xô công kích trong chiến dịch Pyatikhatskaya ("Днепропетровская операция"), đòn đánh của Phương diện quân Ukraina 3 tại Dnipropetrovsk hoàn toàn là một sự bất ngờ. Cả hai Phương diện quân đã nhanh chóng đục thủng tuyến phòng ngự của quân Đức, nối liền hai đầu cầu vượt sông, giải phóng vùng công nghiệp Dnipropetrovsk và Dniprodzerzhynsk vào ngày 25 tháng 10. Sau khi hoàn tất giai đoạn đầu của chiến dịch, quân đội Liên Xô tiếp tục tấn công các cụm quân Krivoi Rog ở phía Tây Nam và Nikopol ở phía Nam. Trước tình hình nguy cấp, quân Đức vội vã điều 3 sư đoàn xe tăng, 1 sư đoàn bộ binh cơ giới hóa và 1 sư đoàn bộ binh tới chặn đòn tấn công của phía Liên Xô. Đòn phản kích của quân Đức đã tạm thời chặn được đà tiến công của quân đội Liên Xô sau một chuỗi những trận đánh đẫm máu. Sau khi củng cố lại lực lượng, đến ngày 14 tháng 11 Phương diện quân Ukraina 3 lại tấn công, tuy nhiên họ đã không thành công trong việc tạo được một bước đột phá quyết định cho chiến dịch. Trong suốt hai tuần, quân đội Liên Xô chỉ tiến được 20 cây số, và một tháng sau đó cả hai bên đều không thể đánh bại đối phương dù đã liên tục tấn công và phản công. Đến ngày 23 tháng 12 chiến dịch Dnipropetrovsk kết thúc. Kết quả. Quân đội Liên Xô đã không hoàn thành được tất cả các mục tiêu trong chiến dịch Dnipropetrovsk. Tuy nhiên quân đội Đức quốc xã cũng đã chịu những thiệt hại rất nặng nề và các thành phố Krivoi Rog và Nikopol cũng đã bị quân đội Liên Xô áp sát. Hai thành phố này sẽ được giải phóng vào tháng 2 năm 1944 trong Chiến dịch tấn công Nikopol–Krivoi Rog.
1
null
Rick Goodman (sinh ngày 28 tháng 10 năm 1955) là nhà phát triển game và là người sáng lập kiêm chủ sở hữu hãng Stainless Steel Studios hiện nay không còn tồn tại. Ông được biết đến với các tựa game chiến lược thời gian thực (RTS) do ông thiết kế, chẳng hạn như "Age of Empires" và "Empire Earth". Sự nghiệp. Năm 1995, Goodman đồng sáng lập hãng Ensemble Studios cùng với người em trai Tony Goodman và John Boog-Scott. Dự án đầu tiên của họ là Age of Empires (AoE) mà Goodman đảm nhiệm vai trò Trưởng bộ phận thiết kế. Sau khi được game phát hành, ngay lập tức nó đã tạo thành một cơn chấn động lớn trong ngành công nghiệp game và Goodman trở thành một trong những nhà phát triển game được công nhận nhất trên thế giới. Vì sự thành công của trò chơi, một số người nói rằng trong AoE, Goodman đã phát minh ra kiểu "giao diện game được công nhận nhiều nhất dành cho các trò RTS", bởi vì rất nhiều tựa game tương tự về sau đều bắt đầu sử dụng giao diện game AoE như: bản đồ nhỏ, kiểm soát các đơn vị và công trình, tên phe phái của bạn và thời kỳ mà bạn đang ở nằm trên đỉnh màn hình và một số khác. Sau sự thành công lẫy lừng của "Age of Empires", Goodman đã rời bỏ Ensemble cùng với Dara-Lynn Pelechatz để thành lập studio riêng của mình mang tên Stainless Steel Studios vào năm 1998. Pelechatz nói với GameSpy rằng Goodman đã không thể quyết định được cái tên cho studio của mình, do đó ông đã mở một cuốn catalog với kế hoạch đặt tên studio dựa theo tên món đồ bắt gặp đầu tiên. Năm 2001, Stainless Steel Studios dưới sự quản lý của Goodman đã tạo ra tựa game đầu tiên của hãng là Empire Earth. Game được Sierra Entertainment phát hành, cung cấp nhiều tính năng mới, bao gồm kiểu đồ họa 3D cùng tính năng phóng to thu nhỏ đầy ấn tượng và mốc thời gian bao trùm 500,000 năm lịch sử nhân loại từ thời tiền sử đến thế kỷ 22. Trò chơi đã đoạt giải thưởng "Game hay nhất năm 2001"của GameSpy. Theo một số cho biết thì "Empire Earth" là những gì mà Goodman muốn "Age of Empires" như vậy. PC Gamer cho biết trong một bài viết về "Empire Earth" rằng họ cảm thấy như đó là phiên bản gộp Gold Edition của toàn bộ loạt game AoE (đó là tất cả các phiên bản AoE bao gồm các phiên bản trong tương lai như AoE IV và V). Goodman đã sớm có rạn nứt với Sierra và bắt tay vào làm một tựa game mới là . Trò chơi rất giống với những sản phẩm thành công trước đây của Goodman, trừ việc game chỉ bao trùm toàn bộ lịch sử nhân loại có một thiên niên kỷ từ năm 950 tới 1950, được cho là những năm quan trọng nhất trong lịch sử nhân loại. Trò chơi được Activision phát hành vào năm 2003. Trớ trêu thay, mặc dù không có nhiều lời nhận xét gay gắt và game nhận được lời đánh giá tích cực trên các trang web đánh giá cao hơn so với "Empire Earth". Sau "Empires", Goodman còn giúp đỡ trong việc tạo ra một tựa game khác là do hãng Myelin Media phát hành ở Mỹ và SEGA ở châu Âu. Game chính thức phát hành lần đầu tiên vào tháng 11 năm 2004. Tựa game cuối cùng của Goodman là trò chơi chiến lược thời gian thực được phát hành và phát triển một phần bởi Midway Games, và được phát hành chính thức vào ngày 12 tháng 7 năm 2006. Ngoài ra, ông còn là thành viên hội đồng quản trị của 8D World với mục đích xây dựng một thế giới ảo để giúp đỡ trẻ em Trung Quốc học tiếng Anh. Stainless Steel Studios sụp đổ. Tuy nhiên, vào cuối tháng 11 năm 2005, chỉ một tuần trước khi phát hành game, Stainless Steel Studios đột ngột đóng cửa và sa thải tất cả nhân viên. Theo một cuộc phỏng vấn, Goodman đổ lỗi cho việc đóng cửa công ty của ông là do Midway gây nên. Cũng trong cuộc phỏng vấn đó, lấy từ đoạn trích dẫn chi tiết của người sáng lập studio Rick Goodman cho biết đó là lỗi của nhà phát hành "Rise & Fall", Midway Games đã mất khả năng thanh toán tài chính cho quá trình phát triển của trò chơi. Ông tường thuật lại với GameStar rằng sau khi tựa game chiến lược trên máy tính đã bị đẩy tiến độ từ tháng 10 năm 2005 đến đầu năm 2006, Midway liên tục cắt giảm kinh phí cho Stainless Steel Studios khiến hãng phải lần lượt sa thải nhân viên của mình do thiếu kinh phí trầm trọng dẫn đến phá sản. Midway đã tuyên bố trong một bản tin rằng họ sẽ tiếp tục phát triển tựa game và chính thức phát hành vào tháng 6 năm 2006. Sản phẩm. Rick Goodman đã thực hiện một phần trong việc phát triển nhiều tựa game. Ngoài lề. Rick Goodman được một số người gọi là "Ngài Grinch".
1
null
Wargame đại chiến lược (tiếng Anh: "Grand strategy wargame") là thể loại wargame chỉ tập trung vào phần đại chiến lược nghĩa là chiến lược quân sự ở cấp độ hoạt động và sử dụng toàn bộ nguồn tài nguyên của một quốc gia hoặc cả một đế chế. Đặc điểm. Wargame đại chiến lược thường tập trung vào một cuộc chiến tranh hoặc một loạt các cuộc chiến trong một khoảng thời gian dài. Các đơn vị cá nhân, thậm chí quân đội có thể không được đại diện, thay vào đó, sự chú ý được dành cho các hoạt động chiến tranh. Tất cả nguồn lực của các quốc gia tham gia có thể được huy động như là một phần của một cuộc chiến lâu dài. Sự mô phỏng thường liên quan đến cuộc xung đột chính trị và kinh tế cũng như quân sự. Cái kết xa nhất của việc này là phân nhánh của trò chơi chiến lược trong đó người chơi sẽ nắm lấy vai trò của chính quyền toàn bộ một quốc gia và không có khả năng tiến hành chiến tranh chẳng hạn như trong trò "". Ví dụ về các tựa game đại chiến lược nơi mà chiến thuật quân sự được trừu tượng hóa cao hoặc loại bỏ hoàn toàn bao gồm các board game như "Risk" và "Diplomacy". Một ví dụ khác trông thực tế hơn là "Axis & Allies", mặc dù trong đó yếu tố quân sự vẫn còn rất trừu tượng. Những game như "Rise and Decline of the Third Reich", "Empires in Arms" và "Empires of the Middle Ages" đều là những wargame thực sự, mang ý nghĩa là các đơn vị quân đội đại diện đặc trưng và tham chiến trực tiếp dựa trên các thuộc tính quân sự cụ thể. Loạt game "Hearts of Iron" hoặc "Hegemony" là một ví dụ của những trò chơi trên máy tính thuộc loại này. Cách chơi và chức năng. Trò chơi sử dụng kỹ thuật và các tính năng khác nhau để mô phỏng các mặt chiến lược quân sự quốc gia. Một số game mô phỏng sản xuất công nghiệp tài nguyên và các đơn vị quân đội. Số khác có thể cho phép thực hiện các bước ngoại giao và liên minh khác nhau. Ví dụ tựa game "Axis & Allies" sử dụng "giá" cho các đơn vị sản xuất, bao gồm một số lượng các đơn vị sản xuất được phân bổ mỗi lượt, và được dùng để "trả tiền" cho mỗi đơn vị được sản xuất. Một số game cho phép các quốc gia khác nhau sản xuất các đơn vị vào một mức tỷ lệ, tương ứng với lịch sử kinh tế và công nghiệp thế giới thực của họ. Lợi ích học thuật. Vì những game như vậy đã vượt ra ngoài giới hạn chiến tranh đơn giản chỉ xử lý về các vấn đề kinh tế, địa lý, lịch sử và chính trị đặc biệt mang tính hữu ích trong giáo dục và nghiên cứu các vấn đề quốc tế.
1
null
Long diên hương là một chất sáp màu xám được tạo ra trong hệ tiêu hóa của cá nhà táng. Trước đây, long diên hương được sử dụng trong ngành công nghiệp sản xuất nước hoa, nhưng ngày nay nó đã được thay thế phần lớn bằng vật liệu tổng hợp và chỉ còn được sử dụng trong một số loại nước hoa đắt tiền. Hình thành. Long diên hương được tạo thành trong hệ tiêu hóa của cá nhà táng nhưng chính xác quá trình hình thành như thế nào thì chưa được khám phá. Khác với nhiều người tưởng, long diên hương không được nôn ra từ cá nhà táng mà được bài tiết ra cùng với phân và có mùi tương tự khi mới được thải ra. Nhiều giả thuyết cho rằng đó là chất tiết để bao bọc những thức ăn khó tiêu như răng của một số loài mực, nhưng cũng có thuyết cho rằng chất tiết này như một loại kháng sinh để làm lành những vết thương trong ruột của cá nhà táng. Long diên hương sau đó được nôn hoặc bài tiết ra ngoài hay nó thoát ra biển sau khi cá nhà táng chết và xác bị phân hủy. Lịch sử và những ngộ nhận về sự hình thành. Long diên hương đã được biết đến từ thế kỷ thứ 10. Từ những báo cáo có được từ các thương gia và thủy thủ, du hành gia người Ả Rập Al-Masudi đã cho rằng long diên hương là một loại nấm mọc dưới đáy biển bị bão bứt ra khỏi gốc và trôi dạt vào bờ biển. Lý thuyết về sự hình thành này tồn tại trong 6 thế kỷ. Người Ả Rập tin rằng long diên hương được chảy từ các con suối gần bờ biển. Trong câu chuyện cổ tích "Ngàn lẻ một đêm", nhân vật Sinbad bị đắm tàu và trôi ​​dạt vào một hoang đảo, nơi đây anh ta phát hiện ra một con suối chảy ra long diên hương. Khoảng năm 1000 CN, trong cổ thư Trung Quốc đặt tên cho chất này là long diên hương (bính âm:Lóngxiánxiāng, zh:龙 涎 香) và miêu tả nó là một loại "nước bọt của rồng", bởi vì người ta tin rằng chất này có nguồn gốc từ nước bọt của con rồng đang nằm ngủ gần biển tiết ra. Marco Polo là người đầu tiên ghi nhận long diên hương là một chất bài tiết của cá nhà táng sau khi ông quan sát cá nhà táng nôn ra chất này trong một cuộc săn mực gần quần đảo Socotra ở Ấn Độ Dương. Năm 1783, nhà thực vật học Joseph Banks trong một tác phẩm của mình đã mô tả những quan niệm sai lầm phổ biến về long diên hương ở Tây Âu và nguồn gốc của chất này. Ông xác định rằng nó là một sản phẩm sản sinh từ phần ruột bị phình to của một con cá nhà táng đang bệnh. Hai nhà hóa học người Pháp, Joseph Bienaimé Caventou và Pierre Joseph Pelletier là những người đầu tiên sử dụng long diên hương làm chất nền trong nước hoa. Tính chất vật lý. Long diên hương thường được tìm thấy ở dạng tảng, cục với nhiều kích thước và hình dạng khác nhau. Khối lượng của nó dao động từ 15 g (~½ oz) đến 50 kg (110 pound) hay thậm chí là hơn thế. Khi mới được lấy ra từ cơ thể cá nhà táng, tiền chất dạng chất béo của long diên hương có màu trắng nhợt, đôi khi điểm vài vệt đen, mềm và có mùi phân rất nặng. Sau nhiều tháng hay nhiều năm bị oxy hóa và phân hủy quang hóa ("Photodegradation") ở biển khơi, tiền chất này chuyển sang màu xám đậm hay đen với một kết cấu dạng sáp và cứng giòn với hương thơm rất kỳ lạ bao gồm có mùi đất, mùi biển và mùi của động vật. Mùi của long diên hương được miêu tả giống như "một phiên bản mùi nhẹ nhàng như isopropanol mà không có mùi hắc và khó chịu". Trong điều kiện đã "trưởng thành", long diên hương có tỉ trọng trong khoảng 0.780 và 0.926. Long diên hương có nhiệt độ nóng chảy là và trở thành một chất lỏng dạng nhựa cây có màu vàng. Ở , long diên hương bắt đầu bay hơi, tạo thành một làn hơi có màu trắng. Long diên hương tan được trong dietyl ete và dầu. Tính chất hóa học. Long diên hương trơ với axít. Những tinh thể ambrein màu trắng có thể được tách ra khỏi long diên hương nếu ta nung nóng long diên hương trong cồn và để nguội. oxy hóa ambrein có thể sản sinh ra ambrox và ambrinol, hai thành phần chính tạo mùi hương của long diên hương. Ambroxan, hiện được dùng rộng rãi trong ngành sản xuất nước hoa, là một trong những chất hóa học do con người điều chế có tính chất mô phỏng theo long diên hương tự nhiên. Sử dụng. Cũng như xạ hương, người ta biết nhiều đến long diên hương thường chủ yếu là do nó được dùng trong việc sản xuất nước hoa. Long diên hương đã từng được sử dụng để chế biến thực phẩm và đồ uống. Món ăn yêu thích của Vua Charles II của Anh đươc cho là một bữa ăn bao gồm trứng và long diên hương. Long diên hương đã bị cấm sử dụng ở nhiều quốc gia trong những năm 1970, trong đó có Hoa Kỳ, bởi vì nguồn gốc của nó là từ cá nhà táng, là một loài dễ bị tổn thương. Người Ai Cập cổ đốt long diên hương để xông thơm, còn người Ai Cập hiện đại thì sử dụng nó trong các loại thuốc lá thơm. Trong đại dịch Cái chết Đen ở châu Âu, người ta tin rằng nếu mang theo một quả cầu long diên hương sẽ có thể giúp tránh bị lây nhiễm bởi vì họ cho mùi thơm của nó có thể xua đi chướng khí gây bệnh. Chất này cũng từng được sử dụng như một hương liệu cho thực phẩm, và chất kích dục. Trong thời Trung cổ, người châu Âu sử dụng long diên hương như một loại thuốc chữa nhức đầu, cảm, động kinh, và các bệnh khác. Long diên hương có giá rất cao. Giá của long diên hương vào thời điểm năm 2012 là 20 USD/gam, bằng 2/3 giá vàng.
1
null
Kho bạc Nhà nước (tên giao dịch tiếng Anh: "Vietnam State Treasury", viết tắt là VNST) là cơ quan trực thuộc Bộ Tài chính, thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về quỹ ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước và các quỹ khác của Nhà nước được giao quản lý; quản lý ngân quỹ; tổng kế toán nhà nước; thực hiện việc huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển thông qua hình thức phát hành trái phiếu chính phủ theo quy định của pháp luật. Lịch sử. Ở Việt Nam, trong thời kỳ phong kiến, các tài liệu về Kho bạc Nhà nước (hay Ngân khố Quốc gia) không còn được lưu giữ đầy đủ, song cũng không có nhiều khác biệt so với thông lệ quốc tế. Trong thời kỳ thực dân Pháp cai trị, Chính phủ thuộc địa Pháp thành lập Ngân khố Đông Dương, một cơ quan tương đương Bộ, với chức năng chủ yếu là quản lý và điều hành ngân quỹ quốc gia, tổ chức in tiền (chủ yếu là tiền giấy và tiền kim loại mệnh giá nhỏ) và cùng với Ngân hàng Đông Dương quản lý kho tiền của Chính phủ thuộc địa. Cách mạng Tháng Tám thành công, cùng với sự ra đời của Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 28/8/1945, ngành Tài chính của nước Việt Nam chính thức được thành lập. Nhiệm vụ cấp bách của ngành Tài chính lúc này là chuẩn bị tiền để giải quyết các nhu cầu chi tiêu của bộ máy Nhà nước và quân đội. Để có một cơ quan chuyên môn, đặc trách nghiên cứu và giải quyết các vấn đề ngân sách và tiền tệ, ngày 29/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 75-SL thành lập Nha ngân khố trực thuộc Bộ Tài chính. Đây là mốc lịch sử quan trọng đầu tiên đối với sự ra đời của Kho bạc Nhà nước Việt Nam. Theo Sắc lệnh Số 75-SL, nhiêm vụ chủ yếu của Nha ngân khố là: Trong thời gian 5 năm tồn tại và hoạt động (1946 - 1951), Nha Ngân khố đã gắn bó mật thiết với những thời kỳ khó khăn nhất của cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, đồng thời đã hoàn thành các trọng trách đã được Chính phủ giao phó. Nha Ngân khố còn tổ chức phát hành các loại tiền dưới hình thức tín phiếu để giải quyết các nhu cầu chi tiêu của cán bộ, bộ đội và nhân dân ở các vùng mới giải phóng. Để cụ thể hoá chức năng và nhiệm vụ của cơ quan quản lý Quỹ ngân sách Nhà nước, hai tháng sau khi thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam (5/1951), ngày 20/7/1951, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 107/TTg (ngày nay gọi là Quyết định) thành lập Kho bạc Nhà nước đặt trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam và thuộc quyền quản trị của Bộ Tài chính. Đây là mốc lịch sử quan trọng thứ hai đối với sự ra đời của Kho bạc Nhà nước Việt Nam. Hệ thống Kho bạc Nhà nước (1951-1964) được tổ chức như sau: Riêng Liên khu Việt Bắc không thành lập Kho bạc Liên khu. Kho bạc Trung ương trực tiếp điều khiển các Kho bạc tỉnh hay thành phố trong Liên khu Việt Bắc. Công việc của Kho bạc cấp nào do Ngân hàng Quốc gia cấp đó phụ trách. Trưởng Ngân hàng cấp nào kiêm chức chủ nhiệm Kho bạc cấp ấy. ở những nơi chưa thành lập Chi nhánh Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, có thể được thành lập Kho bạc Nhà nước. Tất cả các khoản thu của ngân sách quốc gia đều phải nộp vào Kho bạc Nhà nước. Các khoản chi của Kho bạc Trung ương đều phải có lệnh của Bộ Tài chính; Các khoản chi của Kho bạc Liên khu và Kho bạc Tỉnh đều phải có lệnh của Kho bạc Trung ương. Việc điều hoà tiền giữa Kho bạc các cấp thuộc quyền của Kho bạc Trung ương. Kho bạc Nhà nước các cấp có trách nhiệm đôn đốc và kiểm tra các cơ quan và đơn vị thu tiền và nộp tiến vào Kho bạc Nhà nước. Kho bạc Nhà nước cấp dưới phải báo cáo tình hình thu chi cho Kho bạc Nhà nước cấp trên; Kho bạc trung ương phải báo cáo Bộ Tài chính tình hình thu chi ngân sách của toàn hệ thống Kho bạc Nhà nước. Uỷ ban Kháng chiến hành chính các cấp có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra Kho bạc Nhà nước đồng cấp thực hiện nhiệm vụ theo quy định, nhưng không có quyền ra lệnh Kho bạc Nhà nước xuất tiền ngoài phạm vi uỷ ngân của cấp trên. Ngày 4-1-1990, Hội đồng Bộ trưởng đã ký Quyết định số 07/HĐBT tái thành lập hệ thống "Kho bạc Nhà nước" trực thuộc Bộ Tài chính với chức năng và nhiệm vụ chủ yếu là "Quản lý quỹ ngân sách Nhà nước và các quỹ dự trữ tài chính Nhà nước; tổ chức huy động vốn cho ngân sách nhà nước và cho đầu tư phát triển". Đây là mốc lịch sử quan trọng thứ ba đối với sự thành lập của Kho bạc Nhà nước Việt Nam. Cơ cấu tổ chức. Theo Quyết định số 1959/QĐ-BTC ngày 28/9/2015 Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Kho bạc Nhà nước gồm: Kho bạc Nhà nước được tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương theo đơn vị hành chính, bảo đảm nguyên tắc tập trung, thống nhất. Cơ quan Kho bạc Nhà nước ở địa phương. Kho bạc Nhà nước ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh) trực thuộc Kho bạc Nhà nước. - Phòng kế toán nhà nước - Phòng kiểm soát chi - Phòng thanh tra - kiểm tra - Phòng tài vụ - quản trị - Văn phòng Kho bạc Nhà nước ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Kho bạc Nhà nước cấp huyện) trực thuộc Kho bạc Nhà nước cấp tỉnh. Tình hình hiện nay. Việc tái thành lập và bổ sung thêm các chức năng và nhiệm vụ mới cho hệ thống Kho bạc Nhà nước là một quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, đáp ứng kịp thời yêu cầu đổi mới công tác quản lý tài chính và điều hành ngân sách nhà nước, phục vụ có hiệu quả hơn nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền kinh tế trong tình hình mới. Công tác quản lý và điều hành quỹ Ngân sách Nhà nước có liên quan mật thiết đến việc thực hiện thắng lợi các chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia. Việc khai thác các nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng có hiệu quả vào các mục đích phát triển kinh tế - xã hội là trách nhiệm chủ yếu của ngành Tài chính. Thực tế cho thấy, khi hệ thống Kho bạc Nhà nước nằm dưới quyền quản lý và điều hành trực tiếp của Bộ Tài chính thì việc điều hành ngân sách Nhà nước sẽ rất thuận lợi. Các nhu cầu chi tiêu của nền kinh tế sẽ được Bộ Tài chính chủ động tạo nguồn và có thể đáp ứng kịp thời và đầy đủ. Từ khi đất nước chuyển sang thời kỳ đổi mới, đẩy nhanh quá trình hợp tác và hội nhập, nền kinh tế đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Tiềm lực tài chính Nhà nước tăng lên nhanh chóng nhờ khai thác triệt để các nguồn thu và đẩy mạnh công tác vay nợ trong nước để bù đắp thâm hụt ngân sách; lạm phát về cơ bản đã được kiểm soát; đặc biệt nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng lên rất nhanh. Tất cả những điều này đã tạo điều kiện để tăng GDP với tốc độ tương đối cao và ổn định. Đây chính là những điều kiện để tăng tiềm lực của nền tài chính Quốc gia nói chung cũng như công tác quản lý và điều hành Quỹ ngân sách Nhà nước nói riêng.
1
null
Nước mắm Cát Hải là tên gọi chung để chỉ các loại nước mắm được sản xuất tập trung tại huyện đảo Cát Hải của thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Nếu như nước mắm Phú Quốc được coi là một mặt hàng chủ lực của đảo Phú Quốc (Kiên Giang) thì nước mắm Cát Hải cũng là một sản phẩm thuộc vào loại nổi tiếng nhất của đảo Cát Hải (Hải Phòng). Trước năm 1959 và cho cả đến nay, nhiều người miền Bắc Việt Nam vẫn biết đến nước mắm Cát Hải nhiều hơn dưới tên gọi là nước mắm Vạn Vân qua câu ca dao nổi tiếng về những đặc sản ẩm thực của miền Bắc: "Dưa La, húng Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét". Trong lịch sử thương mại thời hiện đại của Việt Nam, có thể xem nước mắm Vạn Vân (sau năm 1959 đổi tên thành nước mắm Cát Hải) là một trong những thương hiệu nổi tiếng đầu tiên do những doanh nhân người Việt sáng lập ra cùng với các thương hiệu khác như hãng sơn của Nguyễn Sơn Hà và hãng tàu thủy của Bạch Thái Bưởi. Quá trình phát triển. Nhiều tài liệu cho rằng nghề làm nước mắm ở đảo Cát Hải đã có lịch sử vài thế kỷ do những cuộc di dân từ Thái Bình ra lập nghiệp trên đảo mang theo từ quê hương rồi truyền lại cho con cháu qua nhiều đời. Tuy nhiên tên gọi nước mắm Vạn Vân rồi nước mắm Cát Hải chỉ mới có từ thế kỷ 20. Cuốn "Staliques Commerciales" của Vidy xuất bản năm 1936 cho biết: "Xí nghiệp Vạn Vân thành lập năm 1916 ở giữa hai làng Can Lộc và Văn Chấn là nơi làm muối. Xưởng có 10.000 chum loại 400kg đựng chượp...". Đoàn Đức Ban được coi là người sáng lập ra doanh nghiệp cũng như thương hiệu nước mắm Vạn Vân. Ông cũng là cha đẻ của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Dù có thể tên gọi nước mắm vạn Vân ("vạn Vân" thay vì "Vạn Vân") đã được biết đến từ trước đó bởi loại nước mắm sản xuất ở làng Vân (vạn có nghĩa là làng chài Vân) thuộc xứ Kinh Bắc (Bắc Ninh) nhưng là một người có tài kinh doanh, Đoàn Đức Ban đã sử dụng tên gọi dân gian vốn được nhiều người biết tiếng làm tên gọi cho chính doanh nghiệp của mình. Các sản phẩm nước mắm của doanh nghiệp Vạn Vân đều được ông đăng ký bảo hộ với Nha kinh tế Hải Phòng khi đó cũng như luôn đi trước các đối thủ cạnh tranh ở khâu tiếp thị và quảng bá sản phẩm nên được nhiều người tiêu dùng xứ Bắc đón nhận. Tại các tỉnh thành như Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh... sản phẩm nước mắm của hãng Vạn Vân luôn chiếm ưu thế hơn hẳn những cơ sở sản xuất nước mắm khác và thậm chí đã đi vào câu ca dao: "Dưa La, húng Láng, nem Báng, tương Bần, nước mắm Vạn Vân, cá rô đầm Sét". Ngày 23/10/1959, hãng nước mắm Vạn Vân và Trạm hải sản Cát Hải sáp nhập thành Xí nghiệp Nước mắm Cát Hải. Từ đó, nước mắm Vạn Vân được gọi là nước mắm Cát Hải. Ít lâu sau, Xí nghiệp Nước mắm Cát Hải trở thành doanh nghiệp quốc doanh 100% vốn ngân sách Nhà nước. Ngay cả trong thời kỳ ác liệt nhất của hai cuộc chiến tranh thống nhất đất nước thì ngành sản xuất nước mắm trên đảo Cát Hải cũng không bị đình trệ. Trong giai đoạn không quân Mỹ bắn phá miền Bắc, nhiều công nhân của Xí nghiệp Nước mắm Cát Hải cũng đồng thời là những người lính tham gia chiến đấu bảo vệ quê hương biển đảo. Kể từ năm 1959, hãng nước mắm Vạn Vân đã trải qua vài lần đổi tên thành các doanh nghiệp khác nhau như Xí nghiệp nước mắm Cát Hải, Công ty chế biến dịch vụ thủy sản Cát Hải, rồi Công ty Cổ Phần chế biến dịch vụ thủy sản Cát Hải như hiện nay. Từ một doanh nghiệp nước mắm hoàn toàn vốn tư nhân trước năm 1959 đã sáp nhập và trở thành một doanh nghiệp toàn bộ vốn quốc doanh sau năm 1959 rồi cuối cùng là công ty cổ phần từ thời kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Tuy nhiên kể từ khi tên gọi nước mắm Vạn Vân được đổi tên thành nước mắm Cát Hải thì vẫn giữ nguyên cho đến nay. Hiện nay, chủ sở hữu được pháp luật Việt Nam bảo hộ của thương hiệu nước mắm Cát Hải là Công ty Cổ Phần chế biến dịch vụ thủy sản Cát Hải (Hải Phòng). Sản xuất. Vùng biển Hải Phòng nằm trong khu vực vịnh Bắc Bộ) với các ngư trường lớn như Cát Hải, Bạch Long Vĩ có nguồn cá tự nhiên tương đối dồi dào và phong phú nên rất thích hợp cho việc làm nước mắm. Nước mắm Cát Hải được chế biến theo phương thức cổ truyền qua kỹ thuật chọn cá nguyên liệu (tốt nhất là cá nục, còn gọi là cá quẩn, tiếp đến cá nhâm, cá ruội, rồi cá mực nang, mực ống…), thao tác đánh quậy, lên muối và phương pháp gia nhiệt bằng ánh nắng mặt trời, kích thích bằng sự lên men trong chượp, sự tinh tế, nhạy cảm trong kiểm soát quá trình giải Prôtêin thành amino acid để có hương thơm tự nhiên. Vì thế, nước mắm Cát Hải càng để lâu càng ngon. Công ty cổ phần chế biến dịch vụ thủy sản Cát Hải hiện có trên 30 sản phẩm đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng cao mang thương hiệu "Cát Hải" với các nhãn hiệu: ông sao, cao đạm, cá mực, cá quẩn và các loại nước mắm đặc biệt trên bao bì ghi rõ dòng chữ "bổ sung vi chất sắt" gồm loại 1B, hạng 1, thượng hạng… Sử dụng. Nước mắm Cát Hải chất lượng tốt có mùi thơm nhẹ đặc trưng của sản phẩm và cũng thường có vị mặn hơn một số dòng nước mắm khác tại Việt Nam. Nước mắm Cát Hải rất thích hợp khi chế biến nhiều món ăn mang hương vị đặc trưng của ẩm thực miền Bắc và đặc biệt là ẩm thực Hải Phòng. Tuỳ theo khẩu vị của mỗi người, từng gia đình, mỗi vùng miền mà nước mắm Cát Hải có thể để ăn nguyên chất hoặc thêm gia vị như chanh, quất tươi, đường trắng, nước sôi để nguội hay thêm ớt, hạt tiêu, tỏi, tương ớt... nhưng quan trọng là không làm mất hương vị tự nhiên của nước mắm. Một số sản phẩm nước mắm Cát Hải với nhãn hiệu ông sao, cá mực, cá quẩn, cao đạm… thích hợp với nhu cầu của người cao tuổi, hiện đã có mặt trên thị trường các nước Đông Âu, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Lào, Philippine…
1
null
Ambrein là một chất thơm được sử dụng trong ngành công nghiệp nước hoa. Nó là thành phần chính của long diên hương, một chất tiết từ hệ tiêu hóa của cá nhà táng, và là thành phần gây hiệu ứng kích dục của long diên hương. Ambrein là một rượu triterpen. Ambrein có tác dụng thuốc giảm đau và làm gia tăng hành vi tình dục ở chuột. Nó có thể làm tăng nồng độ nhiều loại hóc môn của thùy trước tuyến yên và nồng độ testosteron trong huyết thanh.
1
null
Trường Trung học phổ thông Trần Phú là một trường trung học phổ thông công lập tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Ban đầu trường có tên là Phổ thông Trung học Tân Phú, cho đến khi chính thức thành lập năm 1981, trường mang tên Phổ thông Trung học Trần Phú, theo tên Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lịch sử. Trước đây, khi chưa tách thành hai quận Tân Bình và Tân Phú, quận Tân Bình là một quận nội thành Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích đất tự nhiên rộng lớn so với các quận lân cận. Tuy nhiên, vào thời kỳ Giải phóng miền Nam 30 tháng 4 năm 1975, toàn quận chỉ có 3 trường cấp III, tập trung tại khu vực trung tâm. Trong tình hình đó, từ năm học 1980–1981, Trường Phổ thông trung học Tân Phú, với danh nghĩa là một phân hiệu của Trường Nguyễn Thượng Hiền, được thành lập với cơ sở là 7 phòng học mượn tạm của Trường Trung học cơ sở Tân Phú (nay là Trường Trung học cơ sở Đồng Khởi). Thời gian này, trường chỉ gồm 9 lớp học, tổng số học sinh là 450 và tập thể giáo viên – công nhân viên chỉ có 25 người. Hiệu trưởng đầu tiên của trường là cô Lê Thị Mỹ Bích. Đến tháng 10 năm 1981, trường được tiếp nhận cơ sở của trường Thanh niên phụng sự xã hội, nguyên là doanh trại quân đội được Ban Chỉ huy Quân sự Thành phố Hồ Chí Minh chuyển giao. Sau đó, trường được xây thêm phòng học mới, tu sửa các phòng cũ để có chỗ cho 17 lớp học và khối văn phòng. Năm học 1981–1982, trường chính thức được thành lập, đổi tên thành Phổ thông trung học Trần Phú. Qua nhiều lần cải tạo, nâng cấp, Trường Trần Phú có cơ sở hạ tầng, được trang bị cơ sở vật chất như hiện nay. Cơ sở vật chất. Hiện nay, Trường Trần Phú gồm có năm khối nhà: Ở các khối nhà A, C, D và F tầng trệt là các khoảng diện tích tự do được sử dụng như sân trường nên được gọi là các sảnh. Trường cũng có hai khu hầm gửi xe được bố trí bên dưới khối nhà E và khối nhà A. 2 phòng nghỉ ngơi phục vụ cho học sinh. Ở các cầu thang đều có máy bấm vân tay, máy nhận diện điểm danh khuôn mặt và máy rửa tay sát khuẩn. Nhân sự. Bộ phận chuyên môn. Gồm có 142 giáo viên thuộc 11 tổ Bộ môn, 7 thầy cô thuộc tổ Hành chính, 9 thầy cô thuộc tổ Giám thị, 12 cô chú thuộc tổ Bảo vệ và Phục vụ. Hoạt động ngoại khóa. Ngoài các chương trình Trại Đoàn 26/3, Trại Xuân, Trại Trưởng thành, Lễ Trưởng thành và Tri Ân, các buổi sinh hoạt chuyên đề hằng tháng, học sinh trường Trần Phú có thể tham gia các câu lạc bộ ngoại khóa như câu lạc bộ Võ thuật, câu lạc bộ Bóng đá, câu lạc bộ Tiếng Anh... hoặc tham gia các chương trình hướng nghiệp của tổ Địa lý, tổ Lịch sử với các hoạt động ngoại khóa theo chủ điểm tháng. Hoạt động ngoại khóa của các tổ học tập. Trong năm học, các tổ học tập như tổ Toán, tổ Ngữ văn, tổ Địa lý... có các chương trình ngoại khóa cho học sinh, gồm các hoạt động: Thành tích. Tỉ lệ tốt nghiệp và đậu đại học. Những năm gần đây, tỉ lệ tốt nghiệp của trường đạt 100%, hiệu suất đào tạo là 99,8%, tỉ lệ đậu đại học đạt 80% (chưa kể số học sinh đậu cao đẳng). Năm học 2010–2011, điểm thi đại học bình quân của học sinh khối 12 là 15,28, xếp hạng 93 trong các trường trung học phổ thông có điểm thi cao nhất toàn quốc, tăng so với kỳ thi đại học-cao đẳng năm 2010 với điểm bình quân là 13,82, xếp hạng 147 toàn quốc. Năm học 2009–2010, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã trao tặng cờ thi đua "Đơn vị xuất sắc năm học 2009–2010" cho trường. Giáo viên. Theo thống kê thành tích của nhà trường, có 281 lượt giáo viên là Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở 45 lượt giáo viên là Chiến sĩ thi đua cấp thành phố, 19 giáo viên nhận bằng khen của Bộ trưởng, 4 giáo viên nhận bằng khen của Thủ tướng, 52 giáo viên được tặng bằng khen của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về thành tích giảng dạy, 49 giáo viên được trao tặng huy chương "Vì sự nghiệp giáo dục" và huy chương "Vì sự nghiệp công đoàn". Học sinh. Kỳ thi Học sinh giỏi lớp 12 cấp Thành phố & Olympic Truyền thống 30 tháng 4. Thành tích của học sinh trong kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 Thành phố và kỳ thi Olympic Truyền thống 30 tháng 4 (Olympic các tỉnh phía Nam): Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp Thành phố. Cuộc thi Khoa học Kĩ thuật đã luôn được nhà trường quan tâm và tạo điều kiện để học sinh có thể thực hiện đề tài. Các đề tài của học sinh thuộc nhiều lĩnh vực như Phần mềm, Điện tử, Robot, Vật liệu hóa học, Y sinh...
1
null
Charleston là thành phố lớn thứ nhì của tiểu bang Hoa Kỳ Nam Carolina, phía đông giáp Đại Tây Dương. Thành phố có diện tích là 405,5 km² và dân số là 120 083 người (2010). Nó là thủ phủ của hạt Charleston khi hạt này được thành lập năm 1901 . Tên gốc của thành phố này vào năm 1670 là "Charles Towne". Nó chuyển đến vị trí hiện tại (Oyster Point) từ vị trí tại bờ tây sông Ashley (Albemarle Point) vào năm 1680. Đến năm 1783 thì thành phố mang tên như hiện nay. Vào năm 1690, Charleston là thành phố lớn thứ năm tại Bắc Mỹ . Nó vẫn nằm trong số mười thành phố lớn nhất Hoa Kỳ theo thống kê năm 1840 .
1
null
Chạng vạng là khoảng thời gian giữa lúc rạng đông và lúc Mặt Trời mọc, hoặc giữa lúc hoàng hôn và lúc Mặt Trời lặn. Vào lúc đó, ánh sáng mặt trời tán xạ ở tầng khí quyển bên trên rồi chiếu xuống tầng khí quyển phía dưới khiến cho mặt đất không sáng hoàn toàn hoặc tối hoàn toàn, ánh sáng tán xạ này cũng được gọi là chạng vạng. Mặt Trời ở càng thấp dưới đường chân trời, chạng vạng càng tối (cần xét các yếu tố khác, chẳng hạn điều kiện khí quyển). Khi Mặt Trời xuống thấp dưới 18° dưới đường chân trời, bầu trời chạng vạng buổi tối trở nên hoàn toàn tối và ban đêm chính thức bắt đầu. Tương tự, khi Mặt Trời lên trở lại đến vị trí 18° dưới đường chân trời, ban đêm trở thành chạng vạng buổi sáng. Thời gian chạng vạng có những ấn tượng thị giác đặc biệt, điển hình là ánh sáng mềm dịu từ bầu trời và những hình bóng nổi bật của các vật thể, do đó nó được đánh giá cao bởi giới nhiếp ảnh, giới họa sĩ gọi thời gian này là giờ xanh, theo từ ngữ tiếng Pháp "''l'heure bleue"". Chạng vạng không nên bị nhầm lẫn với ánh sáng khá trông giống của cực quang trên bầu trời vùng vĩ độ cao, hay các ánh khí trong thời gian này. Động vật chạng vạng là các loài động vật hoạt động mạnh mẽ nhất lúc chạng vạng. Các giai đoạn chạng vạng. Chạng vạng (twilight) được xác định dựa theo góc trông Mặt Trời formula_1, tức vị trí tâm của đĩa Mặt Trời so với đường chân trời toán học. Chạng vạng thường được phân chia thành ba pha (giai đoạn) gồm: chạng vạng dân dụng ("civil twilight", sáng nhất), chạng vạng hàng hải ("nautical twilight") và chạng vạng thiên văn ("astronomical twilight", tối nhất). Chạng vạng dân dụng. Chạng vạng dân dụng là giai đoạn mà ánh sáng tự nhiên vẫn đủ cho các hoạt động ngoài trời mà chưa cần ánh sáng nhân tạo. Chạng vạng dân dụng buổi sáng bắt đầu khi tâm đĩa Mặt Trời hình học ở vị trí 6° dưới đường chân trời và kết thúc khi Mặt Trời mọc. Chạng vạng dân dụng buổi tối bắt đầu lúc Mặt Trời lặn và kết thúc khi tâm đĩa Mặt Trời hình học tới vị trí 6° dưới đường chân trời. Thời điểm bắt đầu chạng vạng dân dụng buổi sáng còn được gọi là rạng đông dân dụng, và thời điểm kết thúc chạng vạng dân dụng buổi tối được gọi là hoàng hôn dân dụng. Trong quân đội Hoa Kỳ, các từ viết tắt BMCT (begin morning civil twilight) và EECT (end evening civil twilight) được dùng để chỉ tương ứng các thời điểm nói trên. Rạng đông dân dụng đến sau giai đoạn chạng vạng hàng hải buổi sáng, còn hoàng hôn dân dụng đến trước giai đoạn chạng vạng hàng hải buổi tối. Trong điều kiện thời tiết lý tưởng, sự chiếu sáng của Mặt Trời lúc chạng vạng dân dụng vẫn còn đủ cho mắt người có thể phân biệt rõ ràng các vật thể trên mặt đất, vì vậy chưa cần đến các nguồn ánh sáng nhân tạo cho hầu hết hoạt động ngoài trời. Vào các thời điểm hoàng hôn và bình minh dân dụng, ánh sáng từ Mặt Trời phân định đường chân trời rõ nét, và các ngôi sao và hành tinh sáng nhất có thể xuất hiện. Một người quan sát sao từ Trái Đất có thể nhận biết được Sao Kim, hành tinh sáng nhất, còn được gọi là "sao hôm" hay "sao mai", vì họ có thể thấy nó trong chạng vạng dân dụng (xem cấp sao biểu kiến). Trên bầu trời lúc này, vẫn còn ánh sáng phản chiếu và tán xạ trong khí quyển nhuộm sắc đỏ vàng gần chân trời, có thể thấy vành đai sao Kim và bóng của Trái Đất ở phía đối diện Mặt Trời mọc/lặn. Đây cũng là lúc bắt đầu của giờ xanh, khi phong cảnh mang một sắc xanh ấn tượng. Trong pháp luật ở một vài nước, chạng vạng dân dụng là thời gian trong ngày mà một số đạo luật bắt đầu có hiệu lực. Các luật này xác định thời gian đó vào một khoảng cố định sau khi Mặt Trời lặn hoặc trước khi Mặt Trời mọc (thường là 20–30 phút), thay vì theo góc trông của Mặt Trời dưới đường chân trời. Ví dụ: khi vào thời gian này, người đang lái xe ô tô phải bật đèn pha (gọi là giờ bật đèn ở Anh Quốc); hoạt động săn bắn bị hạn chế; hành vi trộm cắp đột nhập khi đó sẽ được coi là đột nhập ban đêm, và tội này sẽ bị phạt nặng hơn ở một số khu vực pháp lý. Thời gian này có thể ảnh hưởng tới việc các thiết bị phụ trợ trên máy bay, ví dụ đèn báo hiệu chống va chạm, được yêu cầu vận hành. Chạng vạng dân dụng được định nghĩa trong Quy định Hàng không Liên bang (FAR) của Hoa Kỳ, được liệt kê vào American Air Almanac. Chạng vạng hàng hải. Chạng vạng hàng hải buổi sáng (rạng đông hàng hải) bắt đầu khi tâm đĩa Mặt Trời hình học ở vị trí 12 độ dưới đường chân trời vào buổi sáng, và kết thúc khi tâm đĩa Mặt Trời hình học lên vị trí 6 độ dưới chân trời vào buổi sáng. Chạng vạng hàng hải buổi chiều tối bắt đầu khi tâm đĩa Mặt Trời hình học ở vị trí 6 độ dưới đường chân trời vào buổi chiều tối, và kết thúc (hoàng hôn hàng hải) khi tâm đĩa Mặt Trời hình học xuống vị trí 12 độ dưới chân trời vào buổi chiều tối. Rạng đông hàng hải và hoàng hôn hàng hải. Rạng đông hàng hải là thời điểm mà tâm đĩa Mặt Trời hình học ở vị trí 12 độ dưới đường chân trời vào buổi sáng. Trước nó là khoảng thời gian chạng vạng thiên văn buổi sáng, và sau nó là chạng vạng hàng hải buổi sáng. Hoàng hôn hàng hải là khoảnh khắc mà tâm đĩa Mặt Trời hình học ở vị trí 12 độ dưới chân trời vào buổi chiều tối. Nó đánh dấu sự bắt đầu của chạng vạng thiên văn và kết thúc của chạng vạng hàng hải buổi chiều tối. Trước lúc rạng đông hàng hải và sau lúc hoàng hôn hàng hải, các thủy thủ không thể định hướng theo đường chân trời ở ngoài biển vì họ không thể thấy rõ ràng đường chân trời. Vào lúc rạng đông và hoàng hôn hàng hải, mắt người khó thậm chí là không thể nhận thấy sự chiếu sáng gần điểm Mặt Trời mọc hay lặn trên đường chân trời (dù nó vẫn có). Các thủy thủ có thể dựa vào các ngôi sao đã biết để xác định đường chân trời tham chiếu vào giai đoạn chạng vạng hàng hải. Trong điều kiện khí quyển tốt và không có các sự chiếu sáng khác, vào lúc chạng vạng hàng hải mắt người vẫn có thể phân biệt được những đường nét chung của các vật thể trên mặt đất nhưng không thể tham gia vào các hoạt động ngoài trời đòi hỏi chi tiết. Trong quân sự có các từ viết tắt BMNT (begin morning nautical twilight) tức là rạng đông hàng hải và EENT (end evening nautical twilight) tức là hoàng hôn hàng hải, được dùng trong các kế hoạch phòng ngự hoặc tấn công. Chạng vạng thiên văn. Rạng đông và hoàng hôn thiên văn. Rạng đông thiên văn là thời điểm khi tâm đĩa Mặt Trời hình học ở vị trí 18 độ dưới chân trời vào buổi sáng. Hoàng hôn thiên văn là thời điểm khi tâm đĩa Mặt Trời hình học ở vị trí 18 độ dưới đường chân trời vào buổi chiều tối. Trước khi rạng đông thiên văn và sau hoàng hôn thiên văn, bầu trời hoàn toàn không được chiếu sáng bởi Mặt Trời nữa, đó là ban đêm. Định nghĩa. Chạng vạng thiên văn buổi sáng bắt đầu (rạng đông thiên văn) khi tâm đĩa Mặt Trời hình học ở vị trí 18° dưới chân trời vào buổi sáng, và kết thúc khi tâm đĩa Mặt Trời hình học lên vị trí 12° dưới chân trời vào buổi sáng. Chạng vạng thiên văn buổi tối bắt đầu khi tâm đĩa Mặt Trời hình học ở vị trí 12° dưới chân trời vào buổi tối và kết thúc (hoàng hôn thiên văn) khi tâm đĩa Mặt Trời hình học xuống vị trí 18° dưới đường chân trời vào buổi tối. Ở một số địa điểm (không có ô nhiễm ánh sáng thành thị, ánh trăng, cực quang và các sự chiếu sáng khác), nơi mà bầu trời đủ tối, thời gian chạng vạng thiên văn (sáng/tối) là đủ cho các nhà thiên văn có thể thực hiện dễ dàng hầu hết quan sát với các nguồn sáng điểm, chẳng hạn các ngôi sao. Tuy nhiên, một số đối tượng quan sát khá mờ nhạt, chẳng hạn các thiên hà và tinh vân xa, cần có độ tối hơn chạng vạng thiên văn để có thể nhận ra. Theo lý thuyết, các ngôi sao mờ nhạt nhất có thể nhận ra được bằng mắt thường (xấp xỉ cấp sao biểu kiến thứ sáu) sẽ hiện ra vào buổi tối khi hoàng hôn thiên văn, và biến mất lúc rạng đông thiên văn buổi sáng. Tuy nhiên ở một số nơi khác, đặc biệt là những nơi có ô nhiễm ánh sáng, chạng vạng thiên văn có thể trông hoàn toàn giống ban đêm. Vào buổi tối, ngay cả khi chạng vạng thiên văn chưa kết thúc và vào buổi sáng khi chạng vạng thiên văn đã bắt đầu, hầu hết người quan sát bình thường cho rằng bầu trời tối đen, vì hầu như không có ngôi sao nào có thể được thấy. Do ô nhiễm ánh sáng, những người ở các địa phương gần và trong các thành phố lớn có thể không bao giờ có cơ hội được thấy bất cứ thứ gì ngoài Mặt Trăng và các ngôi sao sáng nhất, bất kể vào lúc chạng vạng nào, họ cũng không thể trải nghiệm cái gì gần với một bầu trời thực sự tối. Thời gian xảy ra. Giữa ngày và đêm. Người quan sát tại các vĩ độ thuộc phạm vi từ 0° đến 48°34 so với xích đạo ở mỗi bán cầu có thể thấy chạng vạng hai lần mỗi ngày trong năm, giữa các thời điểm của rạng đông (dân dụng, hàng hải, thiên văn) và Mặt Trời mọc, cũng như giữa lúc Mặt Trời lặn và các thời điểm hoàng hôn. Điều này cũng xảy ra với người quan sát tại một số vĩ độ cao hơn vào nhiều ngày trong năm, trừ các ngày gần ngày hạ chí. Tuy nhiên, tại các vĩ độ cận cực trong khoảng 9 độ tính từ các cực (tức là vĩ độ 81° đến 90° từ xích đạo), Mặt Trời không thể mọc cao hơn 18 độ trên đường chân trời và cũng không thể lặn xuống thấp hơn 18 độ dưới đường chân trời trong cùng một ngày bất kỳ trong năm, vì vậy chạng vạng không thể xảy ra giữa ngày và đêm ở những nơi này. Từ ngày này sang ngày hôm sau. Tại các vĩ độ lớn hơn 48°34' Bắc hoặc Nam, vào các ngày gần hạ chí, các loại chạng vạng có thể kéo dài từ lúc Mặt Trời lặn tới lúc Mặt Trời mọc buổi sáng của ngày hôm sau, bởi Mặt Trời không xuống thấp hơn 18 độ dưới chân trời nên bầu trời không tối hoàn toàn ngay cả vào lúc nửa đêm Mặt Trời. Các vĩ độ này bao gồm nhiều khu vực đông dân trên Trái Đất, bao gồm toàn bộ Vương quốc Anh và một số quốc gia ở Bắc Âu và thậm chí là Trung Âu. Giữa hai đêm vùng cực. Ở các vĩ độ cận hai cực Bắc hoặc Nam vào mùa đông, ban đêm vùng cực hiếm khi tối hoàn toàn trong suốt 24 giờ mỗi ngày. Điều này chỉ có thể xảy ra vào những ngày gần đông chí và tại các vĩ độ trong khoảng 5.5 độ tính từ các cực. Tại các vĩ độ khác và ngày khác, ban đêm vùng cực bao gồm một thời gian chạng vạng hàng ngày khi Mặt Trời ở không xa dưới chân trời. Gần ngày đông chí, khi xích vĩ của Mặt Trời thay đổi chậm, bóng tối hoàn toàn kéo dài trong vài tuần ở chính các cực, chẳng hạn từ ngày 11 tháng 5 tới 31 tháng 7 tại trạm Nam Cực Amundsen–Scott. Bắc Cực chứng kiến điều tương tự từ ngày 13 tháng 11 đến 29 tháng 1. Trưa Mặt Trời lúc chạng vạng dân dụng trong ban đêm vùng cực: giữa 67°24' và 72°34', Bắc hoặc Nam. Trưa Mặt Trời lúc chạng vạng hàng hải trong ban đêm vùng cực: giữa 72°34' và 78°34', Bắc hoặc Nam. Trưa Mặt Trời lúc chạng vạng thiên văn trong ban đêm vùng cực: giữa 78°34' và 84°34', Bắc hoặc Nam. Trưa Mặt Trời lúc ban đêm hoàn toàn trong ban đêm vùng cực: giữa 84°34' và 90°, Bắc hoặc Nam. Kéo dài suốt 24 giờ. Tại các vĩ độ gần cực trong khoảng 9 độ, vì chênh lệch độ cao góc của Mặt Trời nhỏ hơn 18 độ, chạng vạng có thể kéo dài suốt 24 giờ. Điều này có thể xảy ra trong chỉ một ngày ở vĩ độ 9 tính từ địa cực, và có thể kéo dài tới trong vài tuần khi càng gần cực. Một địa điểm tốt để quan sát là Alert, Nunavut, Canada, hiện tượng này có thể kéo dài trong một tuần vào cuối tháng 2, và một lần nữa vào cuối tháng 10. Thời lượng. Thời lượng của chạng vạng phụ thuộc vĩ độ và thời gian trong năm. Mặt Trời chuyển động biểu kiến với tốc độ 15 độ mỗi giờ (360° mỗi ngày), nhưng Mặt Trời lặn và mọc thường xảy ra ở một góc nghiêng so với chân trời và thời lượng thực sự của giai đoạn chạng vạng bất kỳ sẽ là một hàm của góc đó, kéo dài càng lâu với góc càng xiên. Góc giữa đường chuyển động của Mặt Trời so với chân trời thay đổi theo vĩ độ cũng như thời gian trong năm (do sự nghiêng của trục Trái Đất so với Mặt Trời). Tại Greenwich, Anh (51.5°B), thời lượng của chạng vạng dân dụng có thể thay đổi từ 33 phút đến 48 phút, tùy thuộc vào thời gian trong năm. Ở xích đạo, chạng vạng dân dụng chỉ kéo dài ít nhất 24 phút. Điều này là do ở các vĩ độ thấp, đường chuyển động biểu kiến của Mặt Trời vuông góc với chân trời. Nhưng tại các cực, chạng vạng dân dụng có thể kéo dài tới tận 2–3 tuần. Tại những vùng vĩ độ cao cận Bắc Cực và Nam Cực, chạng vạng (nếu có) có thể kéo dài vài giờ, thậm chí cả ngày. Khi ta tới gần các vòng cực Bắc hoặc Nam, đĩa Mặt Trời di chuyển xuống đường chân trời của người quan sát tới một góc rất thấp, địa điểm của người quan sát sẽ gián tiếp vượt qua các vùng chạng vạng trong thời gian lâu hơn. Ở những nơi nằm trong các vòng cực, vào mùa hè ban ngày có thể kéo dài 24 tiếng, tại các vùng rất gần các cực, chạng vạng có thể kéo dài trong suốt vài tuần vào gần các điểm phân. Bên ngoài các vòng cực nơi khoảng cách góc đến vòng cực nhỏ hơn các góc xác định chạng vạng (xem trên), vào gần ngày hạ chí chạng vạng có thể tiếp diễn quá lúc nửa đêm địa phương tới buổi sáng sớm hôm sau. Vị trí chính xác của các vòng cực, và các vùng mà chạng vạng có thể tiếp diễn sau lúc nửa đêm thay đổi ít qua từng năm theo độ nghiêng của trục Trái Đất. Các vĩ độ thấp nhất trung bình sao cho từng loại chạng vạng có thể tiếp tục sau nửa đêm địa phương bao gồm: xấp xỉ 60.561° (60°33′43″) đối với chạng vạng dân dụng, 54.561° (54°33′43″) đối với chạng vạng hàng hải và 48.561° (48°33′43″) đối với chạng vạng thiên văn. Vào ngày đông chí ở bên trong các vòng cực, chạng vạng có thể kéo dài qua lúc trưa Mặt Trời ở các vĩ độ dưới 72.561° (72°33′43″) đối với chạng vạng dân dụng, 78.561° (78°33′43″) đối với chạng vạng hàng hải, và 84.561° (84°33′43″) đối với chạng vạng thiên văn. Trên các hành tinh khác. Trên Sao Hỏa, chạng vạng lâu hơn trên Trái Đất, kéo dài tới hai giờ trước khi Mặt Trời mọc hay sau khi Mặt Trời lặn. Bụi trên khí quyển cao tán xạ ánh sáng tới nửa ban đêm của hành tinh này. Các cảnh chạng vạng tương tự cũng được thấy trên Trái Đất sau các vụ phun trào núi lửa lớn.
1
null
Cá heo Ả Rập hay còn gọi là cá heo mỏ dài (Delphinus tropicalis) thuộc Chi Delphinus sinh sống chủ yếu ở những vùng biển nhiệt đới và ôn đới ấm của tất cả các đại dương lớn. Chúng dường như ưa thích những vùng biển nước nông và ấm áp gần bờ biển hơn so với các loài cá heo khác. Loài này được tìm thấy chủ yếu ở những khu vực thềm lục địa (có độ sâu dưới 180 m) hoặc xung quanh các đảo, và nói chung thường không sinh sống quá xa bở.
1
null
Nhà thờ Tân Định (tên chính thức: Nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu, Tân Định) là một nhà thờ Công giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc giáo xứ Tân Định. Nhà thờ Tân Định cùng với Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn là hai nhà thờ được xây dựng từ rất sớm và có quy mô lớn nhất tại thành phố này. Nhà thờ tọa lạc tại số 289 đường Hai Bà Trưng, phường Võ Thị Sáu, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, được khởi công vào năm 1870 và khánh thành vào ngày 16 tháng 12 năm 1876. Tổng thể mang phong cách kiến trúc Roman. Nhà thờ được sơn màu hồng phấn cả bên ngoài và bên trong từ năm 1957, khiến nhà thờ có biệt danh là "nhà thờ màu hồng." Toàn bộ công trình hiện được sơn màu hồng nổi bật cùng với mặt tiền gồm một tháp chính ở giữa và nhiều tháp phụ đối xứng. Trên đỉnh tháp chính cao 52,6 mét có cây thánh giá làm bằng đồng cao 3 mét. Bên trong có năm quả chuông, với tổng trọng lượng là 5,5 tấn. Hai tháp phụ có những tháp đèn, nhiều cửa sổ hoa gió với những hoa văn tạo vẻ vững chãi mà duyên dáng. Nội thất nhà thờ khá bề thế với hai hàng cột Gothic dẫn tới bàn thờ chính làm bằng đá cẩm thạch của Ý, tôn lên vẻ đẹp rất nhiều cho cả công trình kiến trúc. Hàng cột biên bên trái là nơi có các bệ tượng các vị thánh nữ, bên phải là bệ tượng các thánh nam. Nhà thờ Tân Định đã trải qua nhiều lần tu sửa, mở rộng trong nhiều sự kiện khác nhau, nhưng không hề xóa đi nét kiến trúc ban đầu. Lịch sử. Giáo xứ Tân Định có thể chia ra làm 5 giai đoạn: Lịch sử nhà thờ Tân Định bắt đầu từ năm 1874 trong sứ mệnh của cha Donatien Éveillard (1835-1883) có tài liệu ghi Donatianus Eveillard (Sơn). Chính Cha Éveillard giám sát việc xây dựng ngôi nhà thờ đầu tiên. Cha Eveillard phải cực nhọc vất vả trong suốt hai năm 1875, 1876, Ngài phải vừa đi vận động tài chính, vừa chỉ huy xây cất. Chỉ có một người Hoa là ông A Lộc giúp Cha trong công việc hướng dẫn xây cất. Cuối cùng ngôi thánh đường khang trang vững chắc đã thành hình. Chi phí xây dựng là khoản 15.000 đồng bạc Đông Dương (piastre) (tương đương khoảng 38.000 franc). Nhà thờ được khánh thành vào tháng 12 năm 1876. Cha Éveillard cũng đã mời những sơ từ dòng Thánh Phaolô thành Chartres về đây thành lập một cô nhi viện và trường nội trú bên cạnh nhà thờ, gọi là "Thánh Nhi Tân Định" hay "Trường Thánh nhi Tân Định" (tên gốc là "Sainte Enfance de Tan-Dinh", hay "École de Tan-Dinh"). Trường được mở vào năm 1877 và khoảng những năm 1880 thì trường có khoảng 300 học sinh theo học. Có lẽ thành tựu lớn nhất của Cha Éveillard là thành lập nhà xuất bản tôn giáo có tên là Nhà In Thừa Sai (Imprimerie de la Mission) tại Tân Định, nơi Cha đã đào tạo những trẻ em có hoàn cảnh khó khăn từ Trường Thánh nhi Tân Định để chúng có thể làm những công việc xuất bản sách. Khi Cha Éveillard qua đời ngày 15-9-1883, ngài được an táng ngày 17-9-1883 phía trước bàn thờ Đức Mẹ trong Nhà Thờ Tân Định. Một tấm cẩm thạch trắng được làm bia phủ trên mộ Ngài. Đến đầu những năm 1890 thì nhà thờ và các trường học ban đầu không còn phù hợp với mục đích sử dụng, nên người kế nhiệm của Cha Éveillard, Cha Louis-Eugène Louvet (Cha Ngôn) (1838-1900), đã tổ chức một giải xổ số để gây quỹ xây dựng lại nhà thờ và trường học. Phần lớn diện tích của Nhà thờ Tân Định hiện nay có từ năm 1896-1898, khi việc tái thiết này được thực hiện với chi phí là 8.600 đồng Đông Dương (22.000 đồng Francs). Các tòa nhà trường học liền kề cũng được xây dựng lại trong thời gian này và trường "École des Sourds-Muets de Tân-Định" mới ("Trường câm điếc Tân Định") được mở trong khuôn viên Trường Thánh Nhi Tân Định. Đến năm 1908, Trường Thánh Nhi có thêm 4 nữ tu người Pháp và 10 nữ tu Việt Nam. Cha Louvet (Cha Ngôn) đã bổ nhiệm một nhà truyền giáo tên là Jean-François-Marie Génibrel (Cha Thượng) (1851-1914) điều hành Nhà In Thừa Sai. Trong những năm tiếp theo, trong quá trình truyền giáo, Cha Génibrel đã xuất bản một loạt các ấn phẩm học thuật đáng chú ý, bao gồm "Manuel de conversation Annamite-Français" (1893), "Vocabulaire Français-Annamite" (1898), "Vocabulaire Annamite-Français" (1906) và tác phẩm đột phá "Dictionnaire Annamite-Français" (1898), Cha Génibrel đã mất 14 năm nghiên cứu miệt mài để cho ra những tác phẩm trên. Cha Génibrel cũng bắt đầu công việc nghiên cứu "Dictionnaire Français-Annamite" (Từ điển Pháp - An Nam) nhưng chưa kịp hoàn thành. Vào năm 1928-1929 Nhà thờ Tân Định được trùng tu và nâng cấp dưới sự ủy quyền của Linh mục Jean-Baptiste Nguyễn Bá Tòng (1868-1949), người sau này nổi tiếng là giám mục Việt Nam đầu tiên của Đông Dương, phụ trách giáo phận Phát Diệm. Trong thời kỳ này, tháp chuông cao 52,62m và tiền sảnh đã được xây dựng thêm ở phía trước của tòa nhà và một trần giả được tạo ra phía trên gian giữa. Năm 1949, các trụ cấu trúc ở gian giữa được gia cố. Năm 1957, nhà thờ đã được tu bổ và sơn lại bằng màu hồng mà nhiều người biết đến ngày nay (màu hồng cá hồi ở bên ngoài, màu dâu tây và màu kem ở bên trong). Kể từ thời điểm đó, nhà thờ đã trải qua một số lần tân trang lớn. Một phần của Trường Thánh Nhi Tân Định ngày nay vẫn được sử dụng bởi các nữ tu dòng Thánh Phaolô thành Chartres. Đa phần khu vực của Trường Thánh Nhi đã trở thành cơ sở cho trường Trung học cơ sở Hai Bà Trung ở bên cạnh. Kiến trúc. Được thiết kế theo phong cách Roman kết hợp với các yếu tố Gothic và Phục hưng, Nhà thờ Tân Định bao gồm một gian giữa với mái vòm hình thùng cao (ngày nay được giấu bằng trần giả), các gian được ngăn cách bằng mái vòm với lối đi bên và hành lang. Thiết kế của nhà thờ kết hợp một phòng trưng bày phía trên (triforium hay mái vòm nông) và có hai nhà nguyện kiểu apse hình chóp nằm hai bên gian giữa, gần với lối vào. Khi bước vào nhà thờ cánh bên trái cung thánh là tượng Đức Mẹ Maria (cùng với một gian phụ kính Thánh Theresa ở gần lối vào), cánh phải là tượng Thánh Cả Giuse. Trên những cây cột hai bên cánh của cung thánh có những bức tượng thánh và 14 Chặng Đàng Thánh Giá có niên đại từ những năm 1890. Trong năm 1928-1929 khi công cuộc xây dựng lại nhà thờ đang được tiến hành, một giáo dân Pháp giàu có tên François Haasz, Trưởng bộ phận Cơ khí tại Maison Larue, và người vợ Anne Tống Thị Mực của ông đã tài trợ cho nhà thờ xây dựng thêm bàn thờ cao bằng đá cẩm thạch Ý và bàn thờ phụ. Ngày nay hai hạng mục này được xem là một trong những điểm trang trí nổi bật nhất của bất kỳ nhà thờ nào ở Sài Gòn.
1
null
Nhà thờ Chợ Quán (tên hiệu: Nhà thờ Thánh Tâm Chúa Giêsu) là một nhà thờ Công giáo tại Thành phố Hồ Chí Minh, thuộc giáo xứ Chợ Quán, tọa lạc tại số 120 đường Trần Bình Trọng, phường 2, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Nhà thờ có kiến trúc Romanesque, đã nhiều lần bị phá hủy rồi lại được xây lại vào các năm 1727, 1733, 1793, 1862, 1882 và ngôi nhà thờ hiện nay được khánh thành vào năm 1896. Nhà thờ Chợ Quán là nhà thờ cổ nhất Thành phố Hồ Chí Minh. Lịch sử. Họ đạo Chợ Quán là họ đạo lâu đời nhất của Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, thành lập vào năm 1722. Trương Vĩnh Ký cho rằng những người lập nên họ đạo là lưu dân đến từ thuộc phường Thợ Đức ở Huế. Đến năm 1725, họ đạo đã có khoảng 300 bổn đạo. Chợ Quán trở thành trung tâm đón tiếp lưu dân từ miền Trung vào. Trong buổi đầu hình thành, Họ Chợ Quán trải qua nhiều thử thách và cộng đoàn phải chịu cảnh phân tán trong các năm 1727, 1733, 1862 và 1882. Các linh mục phụ trách tiên khởi của Chợ Quán xây dựng cộng đoàn có linh mục Emmanuel Quitaon (Dòng Tên) từ Đồng Nai đến giúp (cuối thế kỷ XVII), linh mục José Garcia (Dòng Phan Sinh) đầu thế kỷ XVIII, rồi các linh mục Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX như các linh mục Phước, Phanxicô Thán, Bênađô Hạp, Gioan Baotixita Giáo, Giuse Chữ, Antôn Triêm, Tôma Triêm, Tôma Đoan. Ngôi nhà nguyện đầu tiên của Họ đạo đã được xây vào năm 1674. Năm 1727, linh mục José Garcia dựng nhà thờ Chợ Quán. Nhưng nhà thờ này đã bị đốt phá vào năm 1731, được xây lại vào năm 1733, dài 55 mét, rộng 20 mét. Năm 1766, Giám mục Piguel đến dâng lễ tại nhà thờ Chợ Quán theo nghi thức Giám mục dành cho cả giáo dân và lương dân. Dịp này có 600 người được rửa tội và 7000 người được thêm sức. Năm 1793, người ta lại thấy họ Chợ Quán cất một nhà thờ họ với những cây cột gỗ to lớn. Nhà thờ Chợ Quán bị phá thành bình địa vào năm 1834. Trong khoảng thời gian 1835-1859, Chợ Quán lâm vào cảnh không có nhà thờ. Năm 1859, Chợ Quán phải dùng tạm một nhà thờ bằng lá. Năm 1862, linh mục Nguyễn Biểu Đoan thay thế nhà thờ này bằng một ngôi nhà thờ bảy gian bằng gạch, lợp ngói. Năm 1882, linh mục chánh xứ Nicôla Hamm (tên Việt là Tài) khởi công xây dựng nhà thờ mới. Nhưng linh mục Hamm mới chỉ kịp đổ nền thì qua đời. Linh mục Errard (tên Việt là Y), người đã từng xây các nhà thờ Tha La, Tân Triều, Bến Gỗ, Bãi Xan và Bà Rịa, đã đứng ra tiếp tục công trình xây cất này. Đầu năm 1889, nhà thờ xong phần căn bản và linh mục đã có thể cử hành các nghi lễ tại đây, nhưng linh mục Errard không có dịp nhìn thấy công trình của mình hoàn tất vì ông ngã bệnh phải về Pháp và qua đời năm 1891. Như vậy, nhà thờ Chợ Quán là nhà thờ cuối cùng trong sự nghiệp xây dựng nhà thờ của vị thừa sai này. Linh mục Lucien Mossard (tên Việt là Mão) tiếp tục công trình và cho xây dựng hai bức tượng cao 1 thước 6, 14 chặng Đàng Thánh Giá và bộ tượng Giáng sinh. Công trình này kéo dài suốt 14 năm, trải qua sáu đời chánh xứ đến năm 1896 thì hoàn tất. Ngôi nhà thờ mới khánh thành vào mùng 4 Tết Bính Thân (năm 1896), được làm phép bởi Giám mục Dépierre và vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Kiến trúc. Công trình mang kiến trúc Romanesque, các cánh cửa đều theo cấu trúc mái vòm cong, những cột đá to với những hoa văn độc đáo và lợp ngói đỏ. Tháp chuông nhà thờ gồm có ba tầng: tầng kéo chuông, tầng để chuông và tầng mái trên cùng với tổng cộng năm quả chuông (mỗi quả chuông đều có ghi tên người dâng cúng): hai quả chuông kéo trong ngày thường, hai quả chuông dùng cho các dịp lễ quan trọng và một quả chuông để báo tử. Trong dịp lễ đặc biệt thì mới kéo tất cả năm quả chuông cùng một lúc. Mặt bên nhà thờ đơn giản với dãy cửa sổ vòm, gờ chỉ, cửa sổ lá xách kính, bộ mặt kiến trúc bề ngoài công trình mang chung một gam màu vàng nhạt. Mặt bằng bố trí theo lối kiến trúc nhà thờ cổ, gồm năm gian trải dài từ lối vào chính - tháp chuông đến Cung thánh, qua khỏi sảnh vào không gian chính, nơi làm lễ của nhà thờ với hai tượng thánh ở hai bên. Tiếp theo là một dãy sáu vòm lớn chạy dọc, nối nhau trên các phần đầu cột, phân chia phần không gian chính có trần cao ở giữa và các không gian phụ. Hành lang hai bên có cao độ trần thấp hơn, cấu tạo trần là hình dạng của những múi đan chéo nhau, tạo nên những đường gân góp phần trang trí, làm cho không gian nội thất giảm bớt sự đơn điệu. Khu Cung thánh được bố trị trên một mặt bằng cong trần có hình cầu.
1
null
Tiếng Guarani, chính xác hơn là tiếng Guaraní Paraguay ("avañe'ẽ" 'ngôn ngữ của con người'), là một ngôn ngữ bản địa tại Nam Mỹ thuộc về nhóm Tupí–Guaraní của hệ ngôn ngữ Tupi. Đây là một trong hai ngôn ngữ chính thức tại Paraguay (cùng với tiếng Tây Ban Nha), nơi phần lớn dân số có thể nói tiếng Guaraní và một nửa dân số vùng nông thôn chỉ biết nói tiếng Guaraní. Thứ tiếng này còn được nói tại nhiều khu vực của các quốc gia láng giềng, bao gồm một số nơi ở đông bắc Argentina, đông nam Bolivia và tây nam Brasil và đây cũng là ngôn ngữ chính thức thứ hai tại một tỉnh của Argentina, là tỉnh Corrientes từ năm 2004; nó cũng là ngôn ngữ chính thức tại Mercosur. Tiếng Guaraní là một trong những ngôn ngữ bản địa phổ biến nhất và là ngôn ngữ duy nhất tại châu Mỹ có tỷ lệ lớn người nói không phải dân bản địa. Điều này là bất bình thường ở châu Mỹ, nơi mà các ngôn ngữ bản địa bị mai một dần và bị thay thế bằng ngôn ngữ của thực dân châu Âu (trong trường hợp này, một ngôn ngữ chính thức nữa của Paraguay là tiếng Tây Ban Nha). Quá trình này đã diễn ra gần như đồng thời với quá trình hình thành người Mestizo (những người có tổ tiên lai giữa người Tây Ban Nha và thổ dân châu Mỹ), cũng là những thổ dân châu Mỹ cấp tiến bị đồng hóa văn hóa. Từ "Guaraní" thường được dùng để chỉ tiếng Guaraní Paraguay. Tuy nhiên, nó là một phần của một dãy phương ngữ, trong đó đa phần cũng được gọi là Guaraní. Ngữ âm. Mỗi âm tiết chỉ gồm một phụ âm cộng một nguyên âm hoặc chỉ nguyên âm; âm tiết không thể kết thúc bằng phụ âm và cũng không có cụm phụ âm. Các nguyên âm về cơ bản là tương đương với trong tiếng Tây Ban Nha, dù các tha âm , hay xuất hiện hơn; tự vị thể hiện nguyên âm (giống trong tiếng Ba Lan). Phụ âm. Hệ thống phụ âm như sau: Tự vị dùng khi viết nằm trong ngoặc nhọn nếu nó khác các viết với kí tự IPA.
1
null
Trận Woëvre là một trận đánh trên Mặt trận phía tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra từ ngày 5 tháng 4 cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1915 giữa Quân đội Pháp và Quân đội Đế quốc Đức. Tuy rằng quân Pháp đã phần nào thành công trong việc tiêu hủy chỗ lồi Saint-Mihiel của quân Đức, trận đánh kết thúc với thất bại rõ ràng của quân Pháp kèm theo thiệt hại nặng nề cho họ. Trận đánh này với bất lợi của quân Pháp đã góp phần chứng tỏ khả năng phòng ngự cao của Quân đội Đức trong cuộc chiến tranh, sau thất bại của Quân đội Anh trong trận Neuve Chapelle cùng năm đó. Nhìn chung, thời tiết xấu, địa hình bất lợi, sự yểm trợ yếu ớt của lực lượng Pháo binh cùng với sự kháng trả kiên cường và những đợt phản kích của quân Đức, cũng như việc 9 Sư đoàn Đức tại đây được 3 Sư đoàn nữa tăng viện đã khiến cho những cuộc tiến công của quân Pháp dễ dàng bị thất bại thê lương và không thể chiếm lại được Saint-Mihiel. Tư lệnh Cụm Tập đoàn quân phía đông của Pháp là Auguste Dubail đã ra lệnh cho 7 Quân đoàn thuộc Tập đoàn quân số 1 của ông tiến công chỗ lồi Saint-Mihiel của quân Đức – một chỗ lồi đã được hình thành giữa trận tuyến quân Pháp từ nỗ lực đánh bọc sườn pháo đài Verdun của Tổng tham mưu trưởng Quân đội Đức là Erich von Falkenhayn hồi năm 1914. Mục tiêu của Dubail là rút ngắn phòng tuyến quân Pháp, trừ khử mối đe dọa đến Verdun, … Cuộc tấn công bắt đầu vào ngày 5 tháng 4 năm 1915, nhằm vào Tập đoàn quân số 5 của Đức do Thiếu tướng - Thái tử Wilhelm chỉ huy. Giao tranh diễn ra ác liệt nhất ở một số nơi như Combres ở hướng Bắc của chỗ lồi. Trong khi mạn Tây của chỗ lồi vẫn trụ vững, quân Pháp đã bắt đầu xuyên thủng mạn Đông của chỗ lồi trên cao nguyên Les Éparges. Tuy quân Pháp đã gây bất ngờ cho quân Đức, họ gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu là do pháo binh không có khả năng yểm hộ cho cuộc tiến công vào các vị trí phòng ngự rắn chắc của Quân đội Đức. Vào ngày 7 tháng 4 năm 1915, quân bộ binh Pháp tấn công những bị chặn đứng và chỉ chiếm được có 500 yard chiến hào Đức. Những cuộc tấn công và phản công dồn dập trong cuộc chiến này đã gây tổn thất cao cho cả hai phe. Tổng tư lệnh Quân đội Pháp là Joseph Joffre nhận thấy quân Pháp không thể đạt được mục tiêu, và họ phải trì hoãn tiến công trong hai ngày sau do hỏa lực khủng khiếp của lực lượng Pháo binh Đức, nhưng vào ngày 9 tháng 4 năm ấy họ đã chiếm được cao nguyên Les Éparges. Vào ngày 12 tháng 4 năm 1915, một cuộc tấn công khác của quân đội Pháp bị đánh bại. Trận chiến Woëvre là một trong những cuộc giao chiến cơ bản trong giai đoạn này của chiến tranh, đồng thời cũng trở thành một trong hàng loạt thảm họa của phe Hiệp Ước khi ấy. Thất bại đẫm máu tại Woëvre, cùng với những cuộc tiến công khác của quân Pháp tại Champagne và Artois trong năm 1915, đã không thể mang lại thành quả gì cho họ nói riêng và khối Hiệp Ước nói chung. Vào ngày 23 tháng 4 năm 1915, quân Pháp đánh lùi một cuộc tấn công hạn chế của quân Đức vào Les Éparges, nhưng trong ngày hôm sau quân Đức gặt hái thắng lợi trong cuộc tiến công về hướng Tây Nam cao nguyên này. Vào ngày 30 tháng 4 năm 1915, Joffre đã hạ lệnh đình chỉ chiến dịch tấn công này. Giao tranh lẻ tẻ tiếp tục trong những tháng hè và sau đó Saint-Mihiel trở thành một khu vực tĩnh lặng. Thiệt hại to lớn của quân Pháp trong chiến dịch thất bại này đã khiến cho họ không thể hợp tác với quân Anh trong các chiến dịch tấn công theo dự kiến ở hướng Bắc chỗ lồi Noyon. Mãi đến cuối năm 1918, Quân đội Hoa Kỳ mới tiến công Saint-Mihiel và giành chiến thắng.
1
null
Disney Channel là một mạng lưới truyền hình vệ tinh và truyền hình cáp của Mỹ, sở hữu do Disney-ABC Television Group (thuộc công ty Walt Disney) có trụ sở tại Burbank, California. Kênh truyền hình này nằm dãy dưới sự điều hành của chủ tịch Disney-ABC Television Group, bà Anne Sweeney. Các mạng lưới quốc tế của kênh Disney, được điều hành bởi chủ tịch Carolina Lightcap, gồm hơn 90 kênh giải trí giành cho trẻ em và gia đình phủ sóng trên 160 quốc gia với hơn 30 ngôn ngữ. Vào tháng 8 năm 2013, Disney Channel có mặt trên 98,142,000 tivi ở nhà (85.94% thông qua người dùng cáp, vệ tinh và điện thoại) ở Hoa Kỳ. Kênh đã ngừng phát sóng từ 01/10/2021 tại Đông Nam Á (trong đó có Việt Nam) và Hồng Kông vì đã hết thời hạn cung cấp kênh truyền hình này trên dịch vụ truyền hình trả tiền. Tại Việt Nam, các chương trình của Disney Channel đã chuyển sang phát sóng trên các kênh của Truyền hình Q.net.
1
null
Xe tăng hạng nhẹ VK 16.02 Leopard là một xe tăng hạng nhẹ trinh sát được thiết kế từ tháng 3 đến tháng 10 năm 1942 và việc sản xuất được ấn định vào tháng 4 năm 1943. Tuy nhiên dự án đã bị bỏ dở giữa chừng trước khi có bất kì mẫu nào được sản xuất. Nó dự kiến được trang bị pháo 75 mm Kwk 41, sau này vũ khí thay đổi lại là pháo 50 mm sử dụng trên tăng Panzer III. Leopard có giáp nghiêng trước dày, ảnh hưởng từ xe tăng Panther. Để tăng khả năng di chuyển nhiều chỗ khác nhau, nó được lắp xích rộng 350mm. Việc sản xuất được lên kế hoạch vào tháng 4 năm 1943 nhưng bị bỏ giữa chừng vào tháng 1 năm 1943. Lý do là vì pháo chính 50 mm L/60 không đủ sức mạnh để hạ gục tăng Liên Xô và Mỹ-Anh, mặc dù nó vẫn có thể hạ gục tăng Anh-Mỹ hạng nhẹ và tăng lội nước của Liên Xô. Thêm nữa, VK 16.02 có trọng lượng lớn, trong khi các xe thiết giáp khác như Sdfkz 234 Puma (được trang bị pháo chính 75mm) với trọng lượng nhẹ hơn có thể được dùng làm xe do thám dù cho khả năng đi qua các vùng đất gập ghềnh của nó không tốt. Khung tăng Leopard còn được lên kế hoạch sử dụng khung cho pháo phòng không sử dụng pháo 20mm Flakvierling hoặc 37mm PaK 36. Thông số kỹ thuật. Động cơ đầu tiên:Maybach HL 120 TRM L Súng máy : đời đầu: 5 cm Kw.K. 39 L/60L Đời sau: 3 cm M.K. 103A Vũ khí súng máy : 9 -> 12 viên loại đạn : HE,ACPR,AP
1
null
Biển báo giao thông là những biển báo được dựng ven đường giao thông để cung cấp thông tin đến người tham gia giao thông. Từ những năm 1930, nhiều nước đã áp dụng các loại biển báo có hình ảnh, mặt khác, cũng đã tiêu chuẩn hóa và đơn giản hóa biển báo của mình để giúp cho việc lưu thông quốc tế dễ dàng hơn (giảm bớt rào cản ngôn ngữ) cũng như giúp tăng cường an toàn giao thông. Các loại biển báo. Biển báo giao thông có thể chia thành một số loại. Phần phụ chương thứ nhất của "Công ước Viên về Báo hiệu và Tín hiệu Giao thông Đường bộ" ("Vienna Convention on Road Signs and Signals" - tính đến 30 tháng 6 năm 2004 đã có 52 nước ký kết hiệp định) năm 1968 đã chia biển báo thành tám loại: Tại Việt Nam. Hệ thống biển báo giao thông đường bộ Việt Nam được tham khảo theo Công ước Viên 1968 và hiệp định GMS-CBTA. Một số biển báo được viết bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh. Hệ thống biển báo hiện nay được quy định trong "Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về báo hiệu đường bộ" (QCVN 41:2019/BGTVT, hay Quy chuẩn 41) do Tổng cục Đường bộ Việt Nam biên soạn, Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam thẩm định, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải Việt Nam ban hành năm 2020.
1
null
Súng bắn tỉa hạng nặng 12,7 mm Việt Nam là một loại súng bắn tỉa công phá do Việt Nam chế tạo, có cỡ nòng 12,7 mm, được thiết kế dựa trên Súng bắn tỉa công phá KSVK của Nga nhưng có thêm một số cải tiến mới. Đặc điểm thiết kế và hoạt động. Súng bắn tỉa 12,7 mm thuộc đề tài khoa học "Nghiên cứu thiết kế, chế thử súng bắn tỉa cỡ nòng 12,7mm" của Viện Vũ khí (Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, Quân đội Nhân dân Việt Nam). Mẫu thiết kế dựa trên cơ sở của súng bắn tỉa KSVK, với kiểu băng đạn sau cò súng, có bộ phận giảm giật ở nòng, hình dáng bên ngoài rất giống với KSVK. Dự án hoàn thành vào năm 2010 và súng được Nhà máy Z111 chế tạo thành công mẫu thử nghiệm. Tất cả các thiết bị như nòng súng, báng súng, vỏ ngoài, thân, đạn dược, kính ngắm quang học... cũng như dây chuyền sản xuất và công nghệ chế tạo tại nhà máy Z111 đều do phía Việt Nam làm chủ thông qua việc nghiên cứu tiếp thu công nghệ kỹ thuật súng bắn tỉa KSVK từ phía Nga. Súng có kích thước phù hợp, trọng lượng 12,5 kg, hộp tiếp đạn 5 viên, sơ tốc đầu đạn 840 m/s, tầm bắn hiệu quả 1.200m. Súng bắn đạt tỉ lệ trúng, độ chụm cao, bảo đảm độ bền và hoạt động tin cậy trong các điều kiện thời tiết khắc nghiệt . Mục đích. Súng bắn tỉa hạng nặng 12,7 mm được chế tạo nhằm có thể dùng để tiêu diệt hiệu quả nhiều loại mục tiêu như xe thiết giáp hạng nhẹ, mục tiêu sau bức tường hay kính chống đạn... Việc nghiên cứu thành công đề tài thiết kế, chế thử súng bắn tỉa 12,7mm tạo cơ sở để Việt Nam chủ động sản xuất súng bắn tỉa trong nước, hạn chế nhập khẩu, góp phần đáp ứng yêu cầu huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Kính ngắm N12. Phòng Khí tài, Viện Vũ khí (Tổng cục Công nghiệp quốc phòng) vừa cho ra mắt sản phẩm kính ngắm súng bắn tỉa cỡ nòng 12,7mm.sản phẩm kính ngắm bắn ngày đồng bộ cho súng bắn tỉa cỡ nòng 12,7mm (ký hiệu N12) có khối lượng 1,28 kg. Các thông số kỹ, chiến thuật đều đạt tiêu chuẩn, như: Độ phóng đại gấp 10 lần, thị giới 3 độ, mức phân biệt 6 giây, cự ly ngắm bắn tối đa lên tới 18.800m. Sản phẩm có khả năng chịu được thời tiết nóng ẩm, chịu rung xóc, va đập và đạt yêu cầu về độ cứng, vững chắc khi lắp lên thân súng, đồng thời bảo đảm thao tác sử dụng thuận tiện, dễ dàng,… Trong quá trình thiết kế kính ngắm N12, nhóm nghiên cứu đã phối hợp chặt chẽ với các tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu, thiết kế, chế tạo súng bắn tỉa cỡ nòng 12,7mm. Do vậy, hai sản phẩm súng bắn tỉa và kính ngắm hoàn toàn tương thích với nhau, có khả năng đưa vào đồng bộ, sử dụng ngay sau khi sản xuất. Sản phẩm kính ngắm N12 đã được chế tạo đồng bộ tại Xí nghiệp 23, Z199 (Tổng cục Công nghiệp quốc phòng), được thử nghiệm thực tế và được Hội đồng Khoa học Tổng cục Công nghiệp quốc phòng nghiệm thu. Trang bị. Mẫu súng được dự tính sẽ chỉ sản xuất với số lượng rất ít để trang bị cho các chiến sĩ bắn tỉa thuộc một số lực lượng đặc biệt của Quân đội Nhân dân Việt Nam tùy theo các nhiệm vụ đặc biệt.
1
null
FN SCAR là loại súng trường tấn công do công ty FN Herstal của Bỉ phát triển cho Bộ Tư lệnh Tác chiến đặc biệt của Hoa Kỳ. Loại súng này được phát triển sử dụng thiết kế dưới dạng khối để có thể dễ dàng tháo ráp chuyển đổi qua lại các loại đạn sử dụng. Súng có thể lắp ráp chuyển thành hai mẫu là SCAR-L sử dụng đạn 5,56×45mm NATO và SCAR-H sử dụng đạn 7,62×51mm NATO, mỗi mẫu có ba loại nòng khác nhau là ngắn, tiêu chuẩn và dài. Việc sử dụng thiết kế có thể chuyển đổi giữa hai loại đạn này để người sử dụng súng có thể sử dụng cả những viên đạn nhặt được khi chiến đấu ngoài chiến trường ngoài loại đạn trang bị tiêu chuẩn cũng như thay đổi chiều dài nòng cho phù hợp với yêu cầu tác chiến. Loại súng này được dự tính sẽ thay thế các loại súng như M4, M16, M14 và SR-25 trong lực lượng quân đội Hoa Kỳ hiện đang được tiếp tục thử nghiệm trong chương trình Individual Carbine. Lịch sử. Năm 2004 Bộ chỉ huy các hoạt động đặc biệt của Hoa Kỳ đã đề ra yêu cầu về một loại súng trường tấn công mới cho mình và đã mở thầu để thu hút các công ty vũ khí tham gia. Công ty vũ khí nổi tiếng của Bỉ là FN Herstal đã thắng trong cuộc đấu thầu này với dự án SCAR. Đến giữa năm 2005 thì khẩu SCAR đầu tiên được giao cho Bộ chỉ huy các hoạt động đặc biệt của Hoa Kỳ. Kể từ khi được sử dụng tại Hoa Kỳ thì hai mẫu SCAR-L và SCAR-H được gọi là Mk 16 và Mk 17. Vào tháng 7 năm 2007, lực lượng quân đội Hoa Kỳ đã tổ chức một cuộc thử nghiệm độ tin cậy giữa FN SCAR, M4, HK416 và XM8. Trong thử nghiệm, các khẩu súng sẽ bắn 60.000 viên đạn trong môi trường cực kỳ bụi. Trong cuộc thử nghiệm này XM8 bị kẹt đạn 127 lần, SCAR bị kẹt đạn 226 lần, HK-416 bị kẹt 233 lần và M4 bị kẹt 882 lần. Hiện tại thì SCAR đang được sản xuất với số lượng nhỏ tại chi nhánh FN USA của FN Herstal tại Hoa Kỳ theo đơn đặt hàng 160.000 khẩu cho Bộ chỉ huy các hoạt động đặc biệt của Hoa Kỳ để dần thay thế và trở thành loại súng trường tiêu chuẩn cho lực lượng này. Lực lượng đặc nhiệm của Hoa Kỳ đã sử dụng loại súng này trong chiến dịch thủ tiêu Bin Laden.Ngoài ra nó còn được sử dụng trong các lực lượng đặc nhiệm của một số nước. Thiết kế. SCAR sử dụng cơ chế nạp đạn bằng khí nén với hệ thống trích khí ngắn, khóa nòng xoay với 4 móc xếp theo hình chữ thập. Thân súng làm bằng nhôm chia làm hai phần trên và dưới, hai phần súng này được nối với nhau bằng các đinh ghim. Hai mẫu SCAR-L và SCAR-H có thiết kế giống nhau đến 90% để có thể chuyển đổi qua lại, nòng súng có thể tháo ráp nhanh chóng được gắn với súng bằng hai con ốc, để tháo ráp nòng súng chỉ cần một lượng nhỏ các công cụ cần thiết và chỉ cần vài phút để có thể tiến hành việc tháo ráp. Nút chọn chế độ bắn nằm ở cả hai bên thân súng để có thể sử dụng thuận cả hai tay với ba chế độ là khóa an toàn, bắn phát một và bắn tự động. Súng được cắt hai khe để gắn kéo lên đạn ở cả hai bên thân súng, nút kéo có thể gắn ở một trong hai khe này. Súng có một thanh răng để gắn các hệ thống nhắm phù hợp với yêu cầu tác chiến, có thêm một số thanh răng phụ nằm trên ốp lót tay của súng. báng súng có thể gấp lại cũng như có thể điều chỉnh chiều dài cho phù hợp với yêu cầu và được làm theo hình gò má để xạ thủ cảm thấy dễ chịu khi sử dụng. Điểm ruồi của SCAR có thể tháo ráp để tránh cản đường nhắm của các hệ thống nhắm gắn vào thanh răng. Một ống phóng lựu 40 mm đã được phát triển cho loại súng này. Ống phóng lựu này được gọi là FN40GL hay Mk 13 Mod 0 vốn được phát triển từ ống phóng GL1 của khẩu FN F2000.
1
null
"My Happy Ending" là một bài hát của ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Canada Avril Lavigne nằm trong album phòng thu thứ hai của cô, "Under My Skin" (2004). Bài hát được phát hành như là đĩa đơn thứ hai trích từ album vào ngày 14 tháng 6 năm 2004 bởi Arista Records và RCA Records. "My Happy Ending" được đồng viết lời bởi Lavigne và Butch Walker, cộng tác viên quen thuộc xuyên suốt sự nghiệp của cô, người cũng đồng thời chiụ trách nhiệm sản xuất bản nhạc. Đây là một bản grunge kết hợp với những yếu tố từ post-grunge và goth-pop với nội dung đề cập đến cảm xúc của một cô gái sau khi chia tay người yêu cũ, trong đó cô suy nghĩ về mối tình lẽ ra phải kết thúc có hậu hơn thực tế. Sau khi phát hành, "My Happy Ending" nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao sự thay đổi trong phong cách âm nhạc của Lavigne so với album trước, đồng thời so sánh với một số tác phẩm đuơng thời của Vanessa Carlton và Michelle Branch. Bài hát cũng gặt hái nhiều thành công lớn về mặt thương mại, vươn đến top 10 ở những thị trường lớn như Úc, Áo, Ireland, Ý, Na Uy, Tây Ban Nha và Vương quốc Anh. Tại Hoa Kỳ, "My Happy Ending" đạt vị trí thứ chín trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, trở thành đĩa đơn đạt thứ hạng cao nhất từ "Under My Skin" cũng như là đĩa đơn thứ tư của Lavigne vuơn đến top 10 tại đây. Video ca nhạc cho "My Happy Ending" được đạo diễn bởi Meiert Avis, trong đó bao gồm những cảnh Lavigne ngồi trong một khán phòng và xem lại những hình ảnh về mối tình cũ của cô, với màu sắc video dần thay đổi khi những kỷ niệm bắt đầu thay đổi theo hướng tiêu cực. Nó đã nhận được một đề cử tại giải thưởng Video của MuchMusic năm 2005 cho . Để quảng bá bài hát, nữ ca sĩ đã trình diễn "My Happy Ending" trên nhiều chương trình truyền hình và lễ trao giải, như "Good Morning America", "Late Show with David Letterman", "The Tonight Show Jay Leno" và giải thưởng Âm nhạc Thế giới năm 2004, cũng như trong nhiều chuyến lưu diễn của cô.
1
null
Nguyễn Thị Nhỏ (1909 - 1946) là một nhà cách mạng chống Pháp. Bà là người cầm cờ đỏ búa liềm đầu đoàn biểu tình chống đàn áp và sưu cao thuế nặng tại Đức Hòa ngày 1 tháng 5 năm 1930. Thân thế. Bà còn có biệt danh là Sáu Nhỏ, sinh năm 1909 trong một gia đình tiểu thương tại làng Long Hồ – chợ Ngã Tư, nay là xã Long An, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long. Cha bà là ông Nguyễn Văn Vững qua đời sớm. Nhờ sự tảo tần của thân mẫu là bà Tống Thị Tòng mà các anh chị em bà đều được ăn học. Từ nhỏ, bà sớm hiểu biết và chia sẻ những công việc khó nhọc với mẹ. Về sau, các anh chị em bà có nhiều người tham gia hoạt động cách mạng chống thực dân Pháp như anh trai bà là ông Nguyễn Văn Nhung, một trong những người thành lập Chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đầu tiên ở tỉnh Vĩnh Long và là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Long năm 1930; em gái bà là Nguyễn Thị Phụng, một đảng viên hoạt động ở Chợ Lớn, từng ngồi tù thời thực dân Pháp. Khởi đầu con đường cách mạng. Tháng 3 năm 1926, bà hưởng ứng và phong trào học sinh - sinh viên và quần chúng lao động khắp Nam Kỳ xuống đường để tang Phan Chu Trinh. Sau khi đậu sơ học, bà được bổ nhiệm dạy trường nữ ở Hương Điểm (Bến Tre). Tại đây, bà luôn tuyên truyền giáo dục học sinh về lịch sử dân tộc và tinh thần yêu nước, chống lại quyền thống trị của thực dân Pháp. Năm 1927, bà được kết nạp vào Chi bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Sa Đéc, cùng sinh hoạt chính trị với những nhà cách mạng trẻ tuổi khác như Quản Trọng Linh, Quản Trọng Hoàn. Không lâu sau, bà chuyển về dạy ở "Sa Đéc học đường" (Sa Đéc). Tại đây, bà được đưa đi dự lớp huấn luyện tại tỉnh bộ Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội ở Sa Đéc. Cũng từ đó, bà rời trường đi làm cách mạng, sinh hoạt chính trị chung với Hà Huy Giáp, Nguyễn Văn Phát. Bà cũng thường xuyên có liên lạc với Châu Văn Liêm ở Chợ Mới (Long Xuyên). Đầu năm 1929, bà được cử đi học lớp huấn luyện chính trị do Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Nam Kỳ tổ chức. Lớp do các ông Phạm Văn Đồng, Châu Văn Liêm, Nguyễn Kim Cương trực tiếp phụ trách. Giữa năm 1929, bà cùng ông Nguyễn Văn Phát được điều lên công tác tại cơ quan Kỳ bộ đóng ở số nhà 14 đường Lacaze (Chợ Lớn, nay là đường Nguyễn Tri Phương). Bấy giờ, bà và ông Phát đã có hứa hẹn kết duyên vợ chồng. Lúc lên đường, bà hẹn với ông Phát: Hoạt động tại Sài Gòn - Chợ Lớn. Ở Sài Gòn, Nguyễn Thị Nhỏ và một số đồng chí chịu trách nhiệm cộng tác biên tập, in và phát hành báo "Công – Nông – Binh", tờ nội san "Bôn-sơ-vích" và tài liệu Đại hội lần thứ nhất của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội. Công việc đang tiến triển, thì ngày 23 tháng 9 năm 1929, do một thành viên tên Sường – tức Hồ Cao Cương, một thành viên trong cơ quan Kỳ bộ, chỉ điểm, bà và các ông Nguyễn Văn Phát, Trần Ngọc Quế bị mật thám Pháp bắt. Ngoài ra, các ông Nguyễn Kim Cương - Ủy viên Ban Chấp hành Kỳ Bộ, Phạm Văn Đồng - Bí thư Kỳ Bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội Nam kỳ, cũng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giữ trong đợt này. Bà bị đưa đi giam giữ ở Khám Lớn (Sài Gòn) và bị tra tấn dã man, tuy nhiên bà vẫn một mực khai nhận bà với ông Phát là vợ chồng, chủ ngôi nhà 14 đường Lacaze và bà là người ở tỉnh lên Sài Gòn làm công việc nội trợ gia đình. Bị giam 6 tháng, do không đủ bằng chứng, chính quyền thực dân buộc phải trả tự do cho bà. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của những đòn tra tấn, tai chị về sau thường sưng mủ, dẫn đến khả năng thính giác bị suy yếu. Vì vậy về sau bà có biệt danh là Sáu Điếc. Tuy bà được trả tự do nhưng ông Phát vẫn còn bị giam giữ. Tranh thủ lúc được tha, bà liên lạc ngay với ông Châu Văn Liêm (tên lúc này là Việt), là Bí thư Kỳ bộ thay ông Phạm Văn Đồng đã bị thực dân Pháp bắt. Lúc này Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội đã giải tán, An Nam Cộng sản Đảng được thành lập, bà được chuyển kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng tháng 10 năm 1929, công tác tại xưởng Ba Son. Lấy lý do đi thăm chồng, bà được tổ chức cử vào Khám Lớn để liên lạc, truyền đạt chủ trương, quyết định của tổ chức từ ngoài vào nhà tù. Các ông Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và một số thành viên Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội bị giam trong Khám Lớn bấy giờ nhận được quyết định kết nạp vào An Nam Cộng sản Đảng là do bà mang quyết định từ ngoài vào. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, ba tổ chức cộng sản ở 3 miền thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyễn Thị Nhỏ là một trong số lớp người đầu tiên ở Nam Kỳ trở thành đảng viên của chính đảng Cộng sản thống nhất này. Một trong những lãnh đạo quan trọng. Ngày 4 tháng 6 năm 1930, Trung ương Đảng tổ chức nhiều cuộc biểu tình nông dân đấu tranh đòi chính quyền thực dân giảm sưu thuế, trong đó có cuộc biểu tình lớn tại Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn. Trong đợt này, ông Châu Văn Liêm, Bí thư Liên Tỉnh ủy Chợ Lớn – Gia Định, người trực tiếp lãnh đạo các cuộc biểu tình này bị mật thám Pháp bắt được và bị sát hại sau đó. Xứ ủy Nam kỳ đã phải cử Lê Quang Sung và Nguyễn Thị Nhỏ về phụ trách Tỉnh ủy Chợ Lớn thay ông Châu Văn Liêm để ổn định tình hình, lãnh đạo quần chúng chống khủng bố. Với nhiệm vụ này, bà trực tiếp đi xây dựng cơ sở Đảng ở vùng Đức Hòa, tỉnh Chợ Lớn, lập ra Chi bộ Đảng đầu tiên ở làng Thạnh Lợi (Đức Hòa), đi diễn thuyết kêu gọi quần chúng đứng lên làm cách mạng tại làng Tân Phú, khu vực chợ Rạch Nhum v.v… Tại cuộc họp các đại biểu tháng 11 năm 1930 ở làng Long Hiện, quận Bến Lức, tỉnh Chợ Lớn, ông Lê Quang Sung được bầu Bí thư Tỉnh ủy, bà được bầu Phó Bí thư đầu tiên của Tỉnh ủy Chợ Lớn. Bấy giờ, chính quyền thực dân thực hiện chính sách đàn áp và truy lùng rất gắt gao những người Cộng sản. Bà phải liên tục cải trang, ở và hoạt động nhiều nơi khác nhau. Bà về lại Đức Hòa, nhận làm con nuôi trong một gia đình là cơ sở cách mạng, có lúc cải dạng làm cô giáo để hoạt động. Do có khả năng diễn thuyết và khéo léo, biết xây dựng các cơ sở bí mật, vì vậy, mật thám Pháp tìm cách truy bắt bà ở nhiều nơi trong tỉnh nhưng vẫn không tìm ra được manh mối. Giữa năm 1931, nhiều cơ sở Đảng bị phá vỡ trong toàn Nam bộ, nhiều thành viên trong Xứ ủy Nam Kỳ bị bắt. Bà cùng với một số lãnh đạo Cộng sản ở Nam Kỳ như Nguyễn Văn Nhung, Ngô Văn Chính, Nguyễn Văn Hoành… đã họp bàn quyết định khôi phục lại Xứ ủy lâm thời Nam Kỳ. Bà cũng được bầu tham gia trong Xứ ủy lâm thời, khi đó bà mới tròn 22 tuổi. Tháng 11 năm 1931, Bí thư Tỉnh ủy Chợ Lớn Lê Quang Sung bị bắt, bà cùng với các đồng chí còn lại trong Tỉnh ủy chịu trách nhiệm chính trong việc lãnh đạo khôi phục và phát triển phong trào ở tỉnh Chợ Lớn, địa bàn hoạt động có lúc sang cả tỉnh Tân An. "Người cách mạng không bao giờ khóc với kẻ thù". Cuối năm 1931, trong một chuyến công tác vào thành phố Sài Gòn, bà bị mật thám Pháp phục kích bắt được. Khác với lần bị bắt trước, biết bà là một trong những lãnh đạo Cộng sản ở Nam Kỳ, nắm giữ nhiều đầu mối quan trọng, mật thám Pháp đã cho thực hiện tra tấn khốc liệt, đưa ra đối chất để tìm manh mối. Hà Huy Giáp, một thành viên Xứ ủy Nam Kỳ bấy giờ, từng bị bắt đưa ra đối chất với bà, kể lại: Không khai thác được gì, chính quyền Pháp đưa bà sang giam giữ tại Khám Lớn. Tại Khám Lớn, bà liên lạc với các bạn tù nữ tìm cách tiếp tục hoạt động, thành lập một Ban trật tự trong Khám Lớn để vận động tù nhân đấu tranh với cai ngục, đòi hỏi quyền lợi tối thiểu cho sự sống của tù nhân. Đặc biệt, bà đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh của các tù nhân ngày 20 tháng 11 năm 1931, phản đối việc thực dân Pháp đưa đi xử tử Lý Tự Trọng. Sau cuộc đấu tranh này, bà bị đưa vào biệt giam 1 tuần lễ, chân tay bị còng, cho ăn uống theo hình phạt nặng nhất. Giáp Tết 1932, bà cùng bạn tù tổ chức ca hát, tuyệt thực, đấu tranh đòi cai ngục mở khóa còng cho các nữ tù nhân bị còng quá hạn hoặc bị kiệt sức. Bà và nữ đồng chí Bảo Lương cùng khám đã sáng tác bài thơ về xuân ở trong tù tràn đầy lạc quan cách mạng : Ngày 2 tháng 9 năm 1933, thực dân Pháp đưa 120 chính trị phạm Cộng sản ra xử tại phiên tòa "Đại hình đặc biệt" ở Sài Gòn. Nguyễn Thị Nhỏ và các đồng chí Ngô Gia Tự, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Diểu, Phạm Hùng, Lê Văn Lương v.v… bị thực dân Pháp đưa ra phiên tòa xét xử kéo dài từ ngày 2 - 9 tháng 5 năm 1933. Bà là phụ nữ duy nhất đứng lên tố cáo đanh thép chế độ tàn bạo của thực dân Pháp, bác bỏ lời buộc tội với ý đồ vu cáo Đảng Cộng sản Đông Dương. Sáng ngày 9 tháng 5 năm 1933, tòa án thực dân Pháp tuyên án tử hình 8 người, trong đó có Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Lê Quang Sung, Nguyễn Thị Nhỏ, 19 án tù khổ sai chung thân, 79 án tù từ 5 năm đến 20 năm. Bà nhìn sang các đồng chí, mỉm cười kiêu hãnh sau khi nghe kêu án. Một viên cảnh sát Pháp hỏi khi bà bị tuyên án tử hình Bà trả lời cứng cỏi, đanh thép: Vụ án này gây chấn động chính trị mạnh trong toàn Nam Kỳ và lan rộng ra cả nước, gây làn sóng bất bình trong nhân dân tiến bộ thế giới. Do sức ép dư luận trong nước và ở Pháp, với sự can thiệp của luật sư tiến bộ người Pháp Cancellieri, sau đó, thực dân Pháp buộc phải hạ mức án của 8 án tù tử hình xuống còn khổ sai chung thân, riêng Nguyễn Thị Nhỏ lãnh án 15 năm tù khổ sai. Ngày 16 tháng 5 năm 1933, thực dân Pháp đưa tàu Armand Rousseau với 33 lính áp tải, bí mật rời cảng Sài Gòn, đưa 89 tù nhân cộng sản đi đày Côn Đảo, trong đó có Nguyễn Thị Nhỏ. Khi phong trào Đông Dương đại hội phát triển mạnh, nhà cầm quyền thực dân Pháp phải nới tay trong việc giải quyết các yêu sách ở thuộc địa. Giữa năm 1935, một đoàn đại biểu Mặt trận Bình dân Pháp đi thị sát các nhà tù ở Đông Dương. Trong đoàn có nhà báo tiến bộ Pháp Louis Marie Ferreux. Được tiếp xúc với nhà báo này, bà đề nghị ông viết bài tố cáo chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương. Nhờ sự vận động tích cực của Ferreux và tổ chức quốc tế Công hội Đỏ tiếp sức can thiệp, tháng 7 năm 1935, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương buộc phải ra lệnh đặc xá Nguyễn Thị Nhỏ. Những năm cuối đời. Dù được trả tự do, nhưng sức khỏe của bà bị suy sụp nhanh chóng do những lần tra tấn. Bà bị buộc quản thúc tại Châu Thành, Vĩnh Long (nay thuộc thành phố Vĩnh Long) cho đến sau Nam Kỳ khởi nghĩa. Sau năm 1940, bà trở về sống tại quê nhà. Do sức khỏe quá suy yếu, bà không tham gia hoạt động nào nữa. Mặc dù vậy, bà vẫn còn kịp nhìn thấy những thành quả một đời cách mạng khi kịp chứng kiến sự thành công của Cách mạng Tháng Tám. Ngày 21 tháng 11 năm 1946, bà đã vĩnh biệt chồng là ông Nguyễn Văn Phát - lúc đó là Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính tỉnh Vĩnh Long và 5 con thơ. Vinh danh. Để ghi nhận công lao của bà, ngày 4 tháng 4 năm 1985, chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đặt tên bà cho một con đường (thực tế là 2 đoạn đường riêng biệt, trước đó có tên là đường Dương Công Trừng) đi qua các quận 5, 6, 11, Tân Bình.
1
null
Lớp khinh hạm Type 053H2G (NATO gọi là lớp Jiangwei I - Giang Vệ I) là một lớp tàu hải quân của Hải quân Trung Quốc. Lớp này được thiết kế trên cơ sở cải tiến lớp khinh hạm "Type 053" và được đưa vào chế tạo từ đầu thập niên 1990. Chỉ có 4 chiếc thuộc lớp này được chế tạo, mang các số hiệu 539 (Anqing), 540 (Huainan), 541 (Huaibei), 542 (Tongling). Lớp này có kích thước lớn hơn lớp "Type 053" một chút và được trang bị tên lửa hải đối không HQ-61. Ngoài ra, tàu có mang máy bay trực thăng loại Harbin Z-9C. "Type 053H2G" có lượng choán nước chuẩn là 2.250 tấn, khi đầy tải là 2.393 tấn. Tàu dài 112 m, sườn ngang rộng 12,4 m, mớn nước 4,3 m. Tàu có thể đạt tốc độ 24 hải lý trên giờ và tầm hoạt động 5000 hải lý. Thủy thủ đoàn 168 người.
1
null
Các xa lộ liên tiểu bang phụ trợ (tiếng Anh: "auxiliary Interstate Highways") hay còn được gọi là các xa lộ liên tiểu bang 3-chữ số là một tập hợp xa lộ được đưa vào sử dụng với mục đích hỗ trợ các xa lộ cao tốc thuộc Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang của Hoa Kỳ. Tương tự như các xa lộ liên tiểu bang dòng chính, các xa lộ này cũng phải hội đủ tất cả các Chuẩn mực xa lộ liên tiểu bang. Chúng nhận cùng tổng số phần trăm quỹ xây dựng từ chính phủ liên bang (90%), và phải tuân thủ hết tất cả các tiêu chuẩn khác mà liên bang quy định. Mục đích chính của các xa lộ liên tiểu bang phụ trợ là phục vụ các thành phố lớn và các khu ngoại ô của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, một số cũng cung cấp các tuyến đường giao thông phụ đến các xa lộ liên tiểu bang chính yếu ở những nơi khác trên lãnh thổ Hoa Kỳ - tại những khu vực không đô thị. Một ví dụ là Xa lộ Liên tiểu bang 180 (I-180) tại tiểu bang Pennsylvania. Trong một vài trường hợp, các xa lộ liên tiểu bang phụ trợ được thêm vào trong Hệ thống Xa lộ Liên tiểu bang gốc có chiều dài để cung cấp đường kết nối liên tiểu bang đến các thành phố đang phát triển nhanh mà không có một xa lộ liên tiểu bang nằm trong dự án gốc. Các ví dụ gồm có I-565 đi đến thành phố Huntsville, Alabama, I-185 đi đến thành phố Columbus, Georgia, và I-555 đi đến thành phố Jonesboro, Arkansas. Đối ngược với các xa lộ liên tiểu bang chính yếu, các xa lộ liên tiểu bang 3 chữ số thường chỉ chạy bên trong hay quanh một vùng đô thị riêng lẻ của Hoa Kỳ cho dù vùng đô thị đó có nằm bên trong một tiểu bang của Hoa Kỳ hay không (vùng đô thị tại Hoa Kỳ có thể nằm trong hơn 1 tiểu bang). Ngoài ra, xa lộ liên tiểu bang 3 chữ số thường thường ngắn hơn và nhiều trong số đó không đi qua ranh giới các tiểu bang mặc dù thuật từ của nó "Interstate" có nghĩa là liên tiểu bang. Vì có rất nhiều xa lộ liên tiểu bang phụ trợ nên các mã số xa lộ liên tiểu bang phụ trợ có thể bị lập lại tại các tiểu bang khác nhau nằm dọc theo cùng một xa lộ liên tiểu bang dòng chính. Tuy nhiên, không có hai xa lộ liên tiểu bang phụ trợ 3-chữ số trong một tiểu bang có thể dùng chung một mã số. Thuật ngữ và dẫn giải. Các nguyên tắc cơ bản của xa lộ liên tiểu bang phụ trợ được chia thành ba nhóm như sau: xa lộ nhánh ngắn ("spur"), xa lộ vành đai ("loop" hay "beltway"), và xa lộ tránh ("bypass"). Mỗi loại phản ánh một đặc tích khác nhau của xa lộ liên tiểu bang phụ trợ. Chữ số đầu tiên của mã số gồm 3-chữ số quyết định xem một xa lộ có phải là một xa lộ tránh, xa lộ nhánh ngắn hay xa lộ vành đai. Hai chữ số sau được lấy từ mã số của xa lộ liên tiểu bang chính yếu. Ví dụ I-515 gồm có một chữ số lẻ đứng đầu là "5", và cho biết đây là một xa lộ nhánh ngắn. Hai chữ số sau cùng cho biết xa lộ mẹ của nó hay nguồn gốc của nó. Trong trường hợp này, "15" trong mã số I-515 cho biết nó là xa lộ phụ trợ của I-15. Xa lộ nhánh ngắn (spur). Một xa lộ liên tiểu bang nhánh ngắn thường là một xa lộ như sau: Mã số của một xa lộ nhánh ngắn có chữ số đầu là số "lẻ". Đôi khi, một xa lộ liên tiểu bang 3-chữ số sinh ra từ một xa lộ liên tiểu bang 3-chữ số khác. Xa lộ nhánh ngắn như thế được gọi là "xa lộ liên tiểu bang nhánh ngắn thứ ba" và không trực tiếp nối với xa lộ liên tiểu bang mẹ của nó nhưng có liên hệ liên kết qua ngã xa lộ nhánh ngắn mà nó được sinh ra. Xa lộ tránh. Một xa lộ tránh có thể đi quanh một thành phố hay có thể đi băng qua thành phố đó bằng thông lộ không có lối ra/vào. Đối với một xa lộ liên tiểu bang 3-chữ số, xa lộ tránh thường có cả hai đầu kết nối vào một xa lộ liên tiểu bang khác. Xa lộ tránh 3-chữ số thường có chữ số đầu tiên là số chẵn. Xa lộ vành đai. Một xa lộ vành đai hoàn toàn đi quanh một thành phố vùng đô thị, và thường kết nối với nhiều xa lộ khác. Không giống các xa lộ liên tiểu bang phụ trợ khác, các xa lộ vành đai không có các điểm đầu vì chúng có hình thể vòng tròn. Xa lộ vành đai cũng có chữ số đầu tiên là số chẵn. Các xa lộ dòng chính ngắn. Một xa lộ liên tiểu bang dòng chính (1 hay 2 chữ số) đôi khi ngắn hơn phân nửa chiều dài của một xa lộ liên tiểu bang phụ dài nhất, vì thế chúng được xem giống như một xa lộ liên tiểu bang phụ hơn là một xa lộ liên tiểu bang chính yếu. Điều này thường là trường hợp của các xa lộ liên tiểu bang nội tiểu bang. Các xa lộ liên tiểu bang phụ trợ. Dưới đây là danh sách xa lộ liên tiểu bang phụ trợ tại Hoa Kỳ. Chúng được sắp xếp theo thứ tự như sau:
1
null
Trận Kajmakčalan là một trận đánh giữa Quân đội Serbia và Bulgaria trên Mặt trận Macedonia trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trận đánh diễn ra từ ngày 12 tháng 9 đến ngày 30 tháng 9 năm 1916, khi quân Serbia chiếm cứ cao điểm Prophet Ilia trong lúc đang đẩy quân Bulgaria về thị trấn Mariovo, nơi quân Bulgaria thành lập các hàng phòng ngự mới. Từ ngày 26 tháng 9 tới ngày 30 tháng 9 năm ấy, cao điểm đổi chủ vài lần cho tới khi quân Serbia chiếm hẳn Prophet Ilia vào ngày 30 tháng 9. Hai bên đều hứng chịu thương vong cao trong trận chiến. Tổn thất của quân Serbia lên đến 1 vạn người chết và bị thương trong ngày 23 tháng 9. Mỗi Đại đội Bulgaria đều bị giảm xuống còn 90 lính và một Trung đoàn có 73 Sĩ quan và 3 nghìn lính bị loại ra khỏi vòng chiến. Ở cấp độ chiến lược, trận này không phải là một thắng lợi lớn của phe Hiệp Ước do chẳng mấy chốc thì mùa đông đến khiến cho các hoạt động quân sự tiếp theo hầu như không thể tiến hành. Ngày nay, trên cao điểm Prophet Ilia có một nhà thờ nhỏ chứa sọ của các tử sĩ Serbia, và nhà thờ này được xem là địa điểm văn hóa cũng như nơi thu hút du lịch.
1
null
"Hit the Lights" là một ca khúc của nhóm nhạc Mỹ Selena Gomez & the Scene, trích từ album phòng thu thứ ba của họ, "When the Sun Goes Down" (2011). Ca khúc được sáng tác bởi Leah Haywood, Daniel James, Tony Nilsson và được sản xuất bởi Haywood, James dưới cái tên chung, Dreamlab. Về phần nhạc, dây là một ca khúc nhạc dance sôi động, còn về phần lời, "Hit the Lights" nói về việc sống hết mình và vượt qua những khó khăn trong cuộc sống. Một EP remix (phối khí) kĩ thuật số đã được phát hành vào 20 tháng 1 năm 2012. Ca khúc đã được phát hành tại đài phát thanh Top 40/Mainstream ở Mỹ vào 10 tháng 4 năm 2012. Đây là đĩa đơn thứ ba và cũng là cuối cùng của album, nhưng sau đó lại có tin đồn rằng "My Dilemma" sẽ là đĩa đơn thứ tư của "When the Sun Goes Down". "Hit the Lights" có được những đánh giá rất tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Ca khúc đã ra mắt ở bảng xếp hạng Canadian Hot 100 ở vị trí 93. Video âm nhạc cho ca khúc được phát hành vào 16 tháng 11 năm 2011. Video có cảnh Selena Gomez và những người bạn của cô đang vui đùa trên xung quanh những cánh đồng, những cảnh tiệc đêm và vui đùa trên đường phố. Vào tháng 2 năm 2012, video âm nhạc cho bản MD's Radio Mix của ca khúc được phát hành trên trang Youtube chính thức của Gomez. "Hit the Lights" được phát hành ở Anh bởi hãng đĩa Polydor như một đĩa đơn vào tháng 8 năm 2012. Video âm nhạc. Gomez bắt đầu quay video âm nhạc cho ca khúc vào cuối tháng 9 năm 2011. Video được phát hành chính thức trên VEVO vào 16 tháng 11 năm 2011. Năm đoạn quảng cáo ngắn cho video đã được phát hành từ 7 tháng 11 năm 2011 đến 9 tháng 11 năm 2011. Video hậu trường của "Hit the Lights" thì được phát hành sau đó vào 11 tháng 11 năm 2011. Bản MD's Radio Mix của "Hit the Lights" được phát hành vào tháng 2 năm 2012 và bản video thứ hai xuất hiện trên VEVO vào 19 tháng 4 năm 2012. Đội ngũ sản xuất. Phần thực hiện được lấy từ sách ảnh của album "When the Sun Goes Down". Xếp hạng. "Hit the Lights" đầu tiên lọt vào bảng xếp hạng Ultratop ở Bỉ tại vị trí thứ 54, đến tuần tiếp theo thì leo lên vị trí thứ 29. Ca khúc còn ra mắt ở bảng xếp hạng Canadian Hot 100 ở vị trí 93 vào tuần lễ 3 tháng 12 năm 2011.
1
null
Lugano (, tiếng Lombard: Lügàn) là một thành phố nằm ở phía nam Thụy Sĩ, thuộc bang Ticino nói tiếng Ý, có chung đường biên giới với Ý. Cho đến tháng 12 năm 2010, tính riêng dân số trong thành phố là 54.667 người và dân số ngoại thành là trên 145.000 người. Đây là thành phố lớn thứ 9 của Thụy Sĩ tính theo dân số và là thành phố nói tiếng Ý lớn nhất nằm ngoài nước Ý. Lugano nằm bên cạnh hồ Lugano, có mùa hè ấm áp và việc trong những năm gần đây thành phố thu hút một số lượng ngày càng tăng những người nổi tiếng, ngôi sao giải trí và các vận động viên thành danh đã khiến cho thành phố này được đặt biệt danh là "Monte Carlo của Thụy Sĩ".
1
null
Trận Isonzo lần thứ nhất là một trận đánh trên Mặt trận Ý của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra giữa Quân đội Ý và Quân đội Đế quốc Áo-Hung từ ngày 23 tháng 6 đến ngày 7 tháng 7 năm 1915. Trận đánh kết thúc với thất bại của quân Ý kèm theo tổn thất nặng nề cho họ, và họ chỉ chiếm được một phần đất không có tầm quan trọng. Với thất bại này, "cuộc dạo chơi đến Viên" của quân Ý đã rơi vào thảm họa và tinh thần quân đội Ý bị suy sụp. Ngược lại, Tập đoàn quân số 5 của Áo-Hung đã làm nên chiến thắng đầu tiên của họ - trái ngược với các dự đoán và người Áo tự hào vì thắng lợi của mình. Điều đó chứng tỏ thắng lợi của học thuyết cứng rắn của tướng Áo là Svetozar Boroević. Trận Isonzo mở đầu với cuộc tiến công của các Sư đoàn trừ bị dưới quyền Tư lệnh Tập đoàn quân số 3 của Ý là Emanuele Filiberto vào ngày 23 tháng 6 năm 1915, một tháng sau khi khai chiến. Tuy nhiên, cuộc tấn công bị trì hoãn do nước Ý chưa hoàn tất việc tổng động viên quân đội. Những mục tiêu đầu tiên của quân Ý là cao nguyên Doberdo và đầu cầu Gorizia, được Tập đoàn quân số 5 của Áo-Hung dưới sự chỉ huy của Boroević trấn giữ. Các tướng lĩnh Ý đã không cung cấp đầy đủ lương thực, đạn dược và Pháo binh cho binh sĩ. Tuy bị áp đảo về quân số, quân Áo-Hung đã tổ chức phòng ngự kỹ lưỡng, chặt chẽ và quân Ý không thể đạt được thắng lợi ở cấp độ chiến dịch. Sau một tuần lễ pháo kích, quân Ý cứ bị đánh tan trước phòng tuyến của địch thủ trong cố gắng vượt sông cvà leo lên ngọn núi ở phía sau của mình. Người chỉ huy quân Ý là Luigi Cadorna lại còn tổ chức các đợt tấn công nhử mồi vô ích tại Trentino và vùng trung lưu sông Isonzo gần Gorizia, làm suy kiệt cuộc tấn công của mình. Sự tiếp viện của 2 Sư đoàn khác đã khiến cho quân Áo giữ được phòng tuyến của mình, ngăn chặn mọi nỗ lực vượt sông của địch thủ và quân Ý phải chấm dứt tấn công vào tháng 7 năm ấy. Tổn thất của họ và thất bại của Cadorna đã gây bất ngờ cho Quân đội Ý. Trận chiến này đã chứng tỏ sự quyết đoán và dũng cảm của quân đội của Boroević. Họ đã đem lại cho đế quốc đang chịu áp lực lớn của họ một thắng lợi cần thiết. Sau trận này, quân Ý lại tấn công quân Áo trong trận Isonzo lần thứ hai và cũng không thu được thắng lợi đáng kể.
1
null
UltraISO là một ứng dụng cho Microsoft Windows để tạo, chỉnh sửa và chuyển đối các file ảnh ISO dùng cho đĩa quang. Từ việc phát hành đầu tiên của UltraISO vào ngày 20/4/2002, tác giả của nó EZB Systems duy trì và kiểm soát như một shareware. UltraISO được sản xuất bởi EZB Systems. ISZ format. UltraISO uses a proprietary format known as ISZ. The format advertised as "ISO Zipped", even though it is not a simple zip archive. The format uses ZLIB or BZIP2 to compress the data, and can support AES encryption of various strength. The file format specification is available publicly on EZB Systems's website. The format is now supported by third party applications such as Daemon Tools và Alcohol 120%.
1
null
Khoảnh khắc để nhớ (tiếng Hàn: 내 머리 속의 지우개) là bộ phim điện ảnh tình cảm, lãng mạn Hàn Quốc sản xuất năm 2004, dựa trên một bộ phim truyền hình Nhật Bản có tên là Pure Soul, phát sóng bởi công ty truyền thông Yomiuri Telecasting Corporation. Khoảnh khắc để nhớ theo mô típ các mối quan hệ xung quanh nhân vật chính và sự mất mát đau thương do bởi căn bệnh Alzheimer mang lại. Bộ phim ra mắt tại Hàn Quốc ngày 5/11/2004, trở thành một trong 5 bộ phim ăn khách nhất năm 2004. Bộ phim cũng thành công ngoài mong đợi khi công chiều tại Nhật Bản, và thu về $20,462,454. Nội dung phim. Su Jin (Son Ye Jin) là một nhà thiết kế thời trang, một cô gái hiền hậu có tính hay quên lớn lên trong một gia đình khá giả và hạnh phúc. Chul Soo (Jung Woo Sung) là một chàng thợ mộc thô lỗ cục cằn, bị mẹ mình ruồng bỏ từ nhỏ, lớn lên trong sự nuôi dạy có phần khắc nghiệt của một người xây đền. Soo Jin là một nhà thiết kế thời trang nhưng mắc căn bệnh mất trí nhớ ngắn hạn. Mỗi lần đến cửa hàng mua đồ thì thể nào cũng để quên ví tiền và đồ đã mua. Một ngày, Soo Jin mua một chai nước ngọt rồi cứ thế mà đi về, đến khi sực nhớ quay lại cửa hàng thì chai nước ngọt đã bị một chàng trai cầm mất, Soo Jin đã cầm lon nước và uống hết một mạch. Khi lên xe bus, cô mới phát hiện ra rằng mình còn quên ví tiền, lúc quay trở lại Soo Jin mới biết rằng hoá ra chai nước của chàng trai kia không phải là của cô. Khi công ty của Soo Jin phải sửa sang lại thì cô lại gặp chính chàng trai ấy có tên là Chul Soo, một người mơ ước sau này có thể làm kiến trúc sư. Dần dần cả hai đi tìm hiểu, yêu nhau và Soo Jin còn chủ động cầu hôn với Chul Soo. Nhưng sau khi kết hôn, căn bệnh mất trí của Soo Jin ngày càng nghiêm trọng đến nỗi nhiều khi cô còn không biết mình là ai, tuy vậy cô không muốn hình ảnh của Chul Soo sẽ biến mất trong trí nhớ của mình. Nhạc phim. 01. Chopin: Prelude Op.28 No.7 (Segovia version) 02. El dia que me quieras - Big Mama (Lee Ji Young) 03. nae il eun bi - Boo Hwal (Jung Dan) 04. Children of August 05. A moment to remember (Humming Version) - Min Seol 06. hwe sang - Whee Sung 07. byul - Wanted (Ha Dong Gyoon), Kim Tae Won 08. Paganini: 24 Caprices for solo Violin Op.1 - Andante 09. dong hwa - Gumi [Roman] 10. nae il eun bi (Humming Version) - Boo Hwal (Jung Dan) 11. La Paloma - Big Mama (Shin Yun Ah) 12. Chopin: Prelude Op.28 No.7 (Piano) 13. El Reloj - Big Mama (Lee Young Hyun, Park Min Hye) 14. Nessun Dorma - Big mama Park Min Hye 15. A moment to remember - Min Seol 16. nae il eun bi (Classic) 17. gyuh ool oh hoo 18. nal geu man it juh yo (Guitar Version) - Gumi
1
null
Ngày xửa ngày xưa (tiếng Anh: Once Upon a Time) là một bộ phim truyền hình cổ tích của Mỹ, phát sóng chính thức trên ABC. Loạt phim được tạo ra bởi hai tác giả của "" ("Trò chơi Ảo giác") và "Mất tích", Edward Kitsis và Adam Horowitz. Vào ngày 3 tháng 11 năm 2011, ABC yêu cầu thêm 9 tập phim nữa cho "Ngày xửa ngày xưa", mang lại cho mùa một tổng cộng 22 tập phim. Soundtrack của mùa một đã được phát hành vào ngày 1 tháng 5 năm 2012. Bộ DVD/Bluray đầy đủ mùa một sẽ được phát hành ngày 28 tháng 8 năm 2012. Tại Việt Nam, "Ngày xửa ngày xưa" đã được đăng ký bản quyền và chính thức được phát sóng trên kênh STAR Movies bắt đầu vào ngày 11 tháng 5 năm 2012, và tiếp đó là tối mỗi thứ sáu hàng tuần của những ngày còn lại trong tháng 5. Một chương trình đặc biệt được phát sóng kéo dài suốt tháng 6 cho toàn bộ 22 tập phim của mùa một, mỗi tối từ thứ hai đến thứ sáu trong tuần. Bắt đầu từ ngày 31 tháng 1 năm 2013, mùa 1 của "Ngày xửa ngày xưa" chính thức phát sóng vào buổi tối trên kênh truyền hình VTV3. Sản xuất. Ý tưởng. Adam Horowitz và Edward Kitsis đã lên ý tưởng hình thành chương trình từ 2004, trước khi tham gia vào viết "Mất tích', nhưng họ muốn đợi cho đến khi "Mất tích" kết thúc để bắt đầu tập trung vào dự án này. Tám năm trước khi thử nghiệm "Ngày xửa ngày xưa", khi đó cả hai mới vừa mới hoàn thành công việc của họ trên "Fecility", 2002, Kitsis và Horowitz trở nên có hứng thú viết truyện cổ tích khám phá tình yêu của "bí ẩn và hứng thú trong khám phá nhiều thế giới khác nhau". Họ trình bày các tiền đề này lên mạng, nhưng đã bị từ chối vì bản chất tưởng tượng của nó. Cả hai học được khi thực hiện "Mất tích" cách nhìn câu chuyện dưới một góc độ khác, rằng "nhân vật phải cắt từ thần thoại", họ mở rộng "như mọi người, bạn có để xem những khoảng trống trong trái tim của họ hoặc trong cuộc sống của họ để quan tâm đến họ... Đối với chúng tôi, điều này là rất nhiều cho hành trình của nhân vật và nhìn thấy những gì đã được lấy từ họ trong chuyến đi đến Storybrooke - đi vào nó như vậy là trái ngược trong việc tạo nên 'chương trình phá vỡ lời nguyền'." Mặc dù tương đồng khi so sánh với "Mất tích", các nhà văn có ý định làm chương trình khác biệt nhau. Đối với họ, "Mất tích" quan tâm đến bản thân với sự cứu chuộc, trong khi "Ngày xửa ngày xưa" là về "hy vọng". Nhà đồng sáng tạo "Mất tích" Damon Lindelof hỗ trợ trong sự phát triển của loạt phim như một nhà tư vấn, nhưng không có thống kê chính thức cho cốt truyện. Để phân biệt với câu chuyện mà những gì khán giả đã biết, nhân viên chương trình quyết định bắt đầu thí điểm viết truyện tại điểm kết thúc của câu chuyện cổ tích Bạch Tuyết thông dụng. Các chủ đề liên quan đến gia đình và tình mẹ được nhấn mạnh, trái ngược với tập trung tình cha con trong "Mất tích". Kitsis và Horowitz đã tìm cách để viết các nhân vật nữ mạnh mẽ, chứ không phải là kiểu những thiếu nữ yếu đuối gặp nạn theo cổ điển. Horowitz nói mong muốn của họ để tiếp cận mỗi nhân vật theo cùng một cách, tự hỏi, "Làm thế nào để chúng tôi làm ra những biểu tượng thực sự, làm cho họ có thể thuật lại?". Cốt truyện là "bản mẫu của loạt phim". Kitsis khẳng định rằng mỗi tuần sẽ có những đoạn hồi tưởng giữa hai thế giới, khi họ "thích ý tưởng sẽ trở lại và ra thông báo những gì các nhân vật thiếu thốn trong cuộc sống của họ." Các tác giả mong muốn trình bày một "mớ hỗn độn" nhiều nhân vật nhỏ có thể được nhìn thấy trong một cảnh của cốt truyện, mà đã có một cuộc tranh luận về Geppetto, Pinocchio, và Cáu Kỉnh. Horowitz khởi thảo, "Một trong những điều thú vị cho chúng tôi đến với những câu chuyện này là suy nghĩ của những nhân vật khác nhau có thể tương tác trong cách họ chưa bao giờ có trước đây". Chương trình cũng có một tiền đề tương tự với loạt truyện tranh ngụ ngôn của Bill Willingham, mà ABC mua bản quyền trong năm 2008, nhưng chưa bao giờ thực hiện nó qua các giai đoạn quy hoạch. Horowitz và Kitsis đã "đọc vấn đề cặp đôi" của truyện ngụ ngôn, nhưng trạng thái mà trong khi cả hai khái niệm rằng là "trong cùng một sân chơi", họ tin rằng họ đang "kể một câu chuyện khác nhau". Dàn diễn viên. Horowitz nói rằng mọi người ban đầu họ muốn thuê diễn xuất trong loạt phim đều chấp nhận vai diễn của được cung cấp sau khi nhận được một kịch bản. Ginnifer Goodwin được vào vai Bạch Tuyết, được đánh giá cao rằng cô sẽ đóng vai một nhân vật mạnh mẽ đã được gọt giũa cho khán giả. Nữ diễn viên vừa hoàn thành công việc của cô trong loạt phim "Big Love", và đang tìm kiếm một dự án mới, cô quay lại với truyền hình sau khi kịch bản phim không làm cô quan tâm. Có nói trước đây trong các cuộc phỏng vấn rằng cô rất thích đóng vai Bạch Tuyết, Goodwin nói rằng việc chấp nhận đóng vai Bạch Tuyết của cô là "không cần suy nghĩ". Cả Kitsis và Horowitz là tự nhận mình làngười hâm mộ lớn của "Big Love", và đã viết một phần của Bạch Tuyết với Goodwin trong tâm trí. Joshua Dallas vào vai Hoàng tử Quyến Rũ, rất hài lòng khi những nhà văn đã "đem lại sự phóng túng ấn tượng" cho nhân vật của anh, tin rằng hoàng tử đã trở nên thực tế hơn. Anh giải thích, "Hoàng tử Quyến Rũ xuất hiện chỉ với một cái tên. Anh ấy vẫn là một người đàn ông với những cảm xúc tương tự như bất kỳ người đàn ông khác. Anh ấy là hoàng tử, nhưng anh ấy là Hoàng tử của mọi người. Anh ấy nhúng tay vào việc khó nhọc. Anh ấy có một vương quốc để chạy trốn. Anh ấy có một gia đình để bảo vệ. Anh ấy có một tình yêu, tình yêu sử thi anh hùng ca dành cho Bạch Tuyết. Anh ấy như bao người khác. Anh ấy là con người." Jennifer Morrison được thuê vào vai Emma Swan, nữ diễn viên giải thích nhân vật của mình như một ai đó "giúp một cậu bé có chút cảm xúc khác thường", nhưng lưu ý rằng Emma chưa tin vào những câu chuyện thuộc thế giới cổ tích. Cậu bé 10 tuổi Jared Gilmore, được biết đến với vai trò của cậu trong "Mad Men", nhận vai diễn con trai của cô, Henry. Vai diễn Hoàng hậu Regina/ Regina Mills được giao cho Lana Parrilla, cô giải thích nhân vật của mình rằng, "luôn có hai câu chuyện được kể khi diễn Regina. Có một mối đe dọa về cô là người khác biết cô là Hoàng hậu Độc ác và sau đó có một thực tế đơn giản là bị người mẹ ruột bước vào thế giới của cô và đe dọa lấy đi mất người con trai của cô là rất lớn. Đó là một nỗi sợ hãi mà tôi nghĩ rằng bất kỳ người mẹ nuôi nào cũng sẽ có. Tôi nghĩ rằng điều đó sẽ thực sự giúp ích cho các đối tượng liên quan đến Regina trong một mức độ nào đó". Vai Rumpelstiltskin được giao cho Robert Carlyle, câu chuyện được viết với Carlyle trong tâm trí, mặc dù các nhà văn ban đầu nghĩ rằng ông sẽ không bao giờ chấp nhận vai diễn. Horowitz nhắc lại cảnh Carlyle trong tù, ngày đầu tiên mà diễn viên nhận vai "nổ tung tâm trí... Bạn có thể thấy Ginny nhảy thực sự, lần đầu tiên anh ấy diễn nhân vật ấy. Thật tuyệt vời!". Những tác giả cung cấp vai diễn Bà tiên xanh cho Lady Gaga, nhưng họ chưa bao giờ nhận được hồi âm từ phía nhân viên quản lý của cô. Trong mùa hai, Meghan Ory vai Ruby/Cô bé quàng khăn đỏ và Emilie de Ravin vai Belle sẽ tham gia làm diễn viên thường xuyên. Nhân vật định kỳ mới cho mùa hai sẽ gồm Công chúa Aurora ("Người đẹp ngủ trong rừng") thủ vai bởi Sarah Bolger và Hoa Mộc Lan được Jamie Chung thủ vai. Ảnh hưởng. Như một cái gật đầu về quan hệ giữa các nhóm sản xuất của "Ngày xửa ngày xưa" và "Mất tích", chương trình mới đều chịu ảnh hưởng từ "Mất tích", và dự kiến ​​sẽ là một chủ đề xuyên suốt loạt phim. Ví dụ, nhiều thứ có thể được tìm thấy trong thế giới của "Mất tích", chẳng hạn như thanh kẹo Apollo, Sân bay hải dương, Uýtski MacCutcheon và, đều có thể được nhìn thấy trong "Ngày xửa ngày xưa". Tháp đồng hồ của thị trấn bị mắc kẹt lúc 8:15 tối, ám chỉ đến Chuyến bay 815 từ thế giới trong "Mất tích". Cuốn truyện tranh "Ultimate Wolverine vs. Hulk" ("Người Sói tối thượng vs Người Xanh tối thượng") tập 3 mà Henry đọc trong tập 9 được viết bởi Damon Lindelof, nhà chịu trách nhiệm sản xuất "Mất tích". Cũng như thế, được nhìn thấy trong lâu đài của Rumplestiltskin, là cây phồ, thứ xuất hiện gần lúc kết thúc của mùa cuối loạt phim "Buffy Người diệt ma cà rồng", mặc dù màu khác nhau. Trong tập 8, tên thật của "Kị sĩ Tối" là Zoso, một trong những biểu tượng của album "Led Zeppelin IV". Chương trình, một sản phẩm của ABC, một tập đoàn con của Disney, có nhiều ảnh hưởng từ các câu chuyện cổ tích phiên bản Disney làm nền tảng cho chương trình. Các chú lùn, không hề có tên trong phiên bản dân gian, đều có tên được lấy từ phiên bản phim Disney. Tương tự, Người đẹp ngủ trong rừng bị nguyền rủa bởi một cá nhân tên là Maleficent, một lần nữa cái tên được dùng trong bộ phim năm 1959 của Disney cho mụ phù thủy ác độc không có tên trong các phiên bản cổ tích. Người bạn tiên của lão khắc gỗ Geppetto được gọi là Bà tiên xanh trong bộ phim năm 1940 của Disney, dựa trên tác phẩm "Cuộc phiêu lưu của Pinocchio", hay hơn là "Cô tiên với mái tóc xanh", và nhân vật biểu tượng của ông, được gọi là 'Chú dế Jiminy' trong tác phẩm Disney, hay hơn là 'Chú dế biết nói' trong tiểu thuyết của Carlo Collodi. Một ảnh hưởng khác từ Disney là tên của chú chó đốm của bác sĩ Hopper, "Pongo", là một tham chiếu đến một trong những nhân vật chính của "101 con chó đốm". Thần đèn trong đèn thần thừa nhận rằng ông ta đến từ Agrabah, vương quốc trung tâm của phim "Aladdin và cây đèn thần". Lần đầu tiên khi Bạch Tuyết gặp Cáu Kỉnh, chú lùn có thể được nghe thấy là huýt sáo đoạn điệp khúc của bản "Heigh Ho" trong phim Disney "Bạch Tuyết và Bảy chú lùn". Trong màn mở đầu tập phim "Heart of Darkness", lúc mà cô quét nhà của các chú lùn, có thể nghe thấy Bạch Tuyết ngân nga bài hát With a Smile and a Song", một ca khúc khác từ bộ phim Disney. Trong màn mở đầu tập phim "Skin Deep", chiếc mũ được Chuột Mickey đội trong "Phù thủy tập sự" từ bộ phim "Fantasia" 1940 của Disney có thể được nhìn thấy trong lâu đài của Rumplestiltskin. Cũng trong tập phim này, tách trà với một đồng tiền nằm bên trong là ám chỉ đến nhân vật Chip trong Người đẹp và quái vật, một chiếc đồng hồ trang sức ám chỉ đến Cogsworth và một cái chân đèn ám chỉ đến Lumière. Chiếc xe tải chở hoa mang tên "Game of Thorns" ám chỉ đến loạt phim mới của "Game of Thrones" ("Cuộc chiến ngai vàng"). Trang phục và tính cách của nhân vật Gaston, nhân vật phản diện của "Người đẹp và quái vật", cũng ảnh hưởng đến chương trình. Một ảnh hưởng khác từ Disney trong tập phim "What Happened to Frederick" nơi mà Henry được tặng Trò chơi không gian, là một tham chiếu đến phim "Tron", mà biểu trưng có thể được nhìn thấy trên Hộp bữa trưa của Henry trong tập "The Stranger". Trong tập phim "An Apple Red as Blood", cảnh quả táo rơi khỏi tay Bạch Tuyết gợi nhớ cảnh trong phim Bạch Tuyết gốc của Disney. Tập phim "Hat Trick" chịu nhiều ảnh hưởng từ "Alice lạc vào Xứ sở thần tiên" mà trong số chúng đến từ bản truyện gốc hơn là phiên bản của Disney. Một trong những thứ đáng nhớ là khi Mary Margaret áp đảo Người thợ mũ với thứ cô cầm trên tay, một lối chơi quần vồ giống hệt với những mô tả trong bộ phim của Disney. Trong "The Stranger", khi Pinocchio và Geppetto đang vượt qua một cơn bão, họ bị một con cá voi khổng lồ đuổi theo, là một tham chiếu đến cá voi Monstro trong bộ phim "Pinocchio" 1940 của Disney, trong khi truyện gốc của Carlo Collodi là một con cá mập trắng. Trong cùng tập phim, người Thợ mũ điên, Jefferson ám chỉ đến ban nhạc Jefferson Airplane thập niên 60, có một bản thu âm hot với "Alice trong Xứ sở thần tiên" được lấy cảm hứng từ "Chú thỏ trắng". Màn mở đầu. Bắt đầu với tập phim thứ hai, mà mở đầu xuất hiện bên dưới tiêu đề của chương trình đặt vào một sinh vật thần thoại, con người, hoặc một đồ vật được gắn với chủ đề của tập phim. Âm nhạc. Mark Isham soạn nhạc chủ đề và ca khúc của loạt phim. Ngày 14 tháng 2 năm 2012, một album mở rộng với bốn tín năng từ điểm số đã được phát hành bởi ABC Studios. Ngày 1 tháng 5 năm 2012, 25 ca khúc nhạc phim album với 5 bìa album khác nhau được phát hành bởi hãng thu âm Intrada. Thiết lập. Sự lan tỏa và giới hạn của Khu rừng Phép thuật hiện chưa được biết đến. Cho đến nay trong loạt phim này, đã được thấy rằng có một số vương quốc và vùng đất nằm ngoài phạm vi của rừng phép thuật. Những ranh giới không gian nằm trong Khu rừng Phép thuật bao gồm một vương quốc được cai trị bởi vua Leopold mà bây giờ là bởi Hoàng hậu Regina, vương quốc của vua Midas, vương quốc của vua George, vương quốc của Lọ Lem và một vương quốc dường như được cai trị bởi cha của Belle. Có thể thấy trong tập phim "Fruit of the Poisonous Tree" vương quốc đèn thần Agrabah cũng nằm trong thế giới này. Cũng có một ít cuộc chiến tranh được biết đến như Chiến tranh Quái nhân, vào nhiều lúc khác nhau ảnh hưởng tới các vương quốc khác. Hiệu ứng của Lời Nguyền Tối cũng chưa hoàn toàn được biết đầy đủ, nó có thể lan rộng vượt ra ngoài rừng phép thuật và xâm nhập các địa hạt khác trong thế giới cổ tích. Storybrooke, Maine được mô tả là một thị trấn nhỏ ven biển thông thường. Mặc dù do lời nguyền, nó bị mắc "bẫy thời gian" với những chiếc xe hơi cổ điển thập niên 80 trên đường hoặc những cuốn sách truyện tranh cổ thập niên 80 được bán tại một tiệm ở góc phố, nhưng những phương tiện hiện đại như TV và Internet vẫn có sẵn. Tuy nhiên, có thể thấy trong nhiều tập phim, cư dân bị ảnh hưởng bởi lời nguyền không thể rời khỏi ranh giới của Storybrooke. Một ngoại lệ đáng chú ý là Henry, có thể rời khỏi Storybrooke để gặp Emma từ Boston trong tập phim đầu tiên vì cậu không phải là một phần nằm trong lời nguyền. Chưa rõ sẽ có chuyện gì xảy ra với các nhân vật nếu họ có thể vượt khỏi ranh giới thị trấn. Về những nhân vật có dự định rời khỏi thị trấn, xe hơi của họ gặp tai nạn ngay tại mốc giới và họ bị rơi vào tình trạng nguy hiểm nào đó. Trong một dịp, sau khi Kathryn biến mất, thầy giáo dạy thể dục có thể được thấy đang lái xe đi nơi khác với lý do không rõ cho thấy mọi người có cố gắng rời khỏi nơi này. Từ khi Emma lăn bánh vào thị trấn, lời nguyền bắt đầu yếu đi, với những chiếc đồng hồ bắt đầu hoạt động và những quả táo trên cây của Regina cho thấy những dấu hiệu bắt đầu hỏng. "Hat Trick" hiển thị Xứ sở thần tiên trong "Cuộc phiêu lưu của Alice vào Xứ sở thần tiên" của Lewis Carroll. Nó cho gợi ý rằng những thế giới khác và những chiều vũ trụ khác đều tồn tại. Cũng có thể thấy trong tập phim "An Apple Red as Blood" rằng có khả năng lấy những thứ từ Thế giới cổ tích và mang chúng đến thế giới ngày nay, ví dụ như quả táo độc mà Bạch Tuyết cắn phải, và nó được dùng để làm bánh nướng mà Henry tử vong khi ăn. Phát sóng. Theo Disney, chương trình đã được đăng ký bản quyền trên hơn 190 quốc gia. Sự tiếp nhận. Đánh giá. Tập phim đầu tiên đã thu hút một lượng khán giả 13 triệu người và nhận được điểm đánh giá 4.0 từ Thiếu niên và Người lớn 18-49. Nó là tập kịch phim ra mắt được đánh giá cao nhất từ người lớn 18-49 và là buổi ra mắt lớn nhất của ABC trong 5 năm. Ba tập tiếp theo của chương trình được đánh giá phù hợp hàng tuần với 11 triệu người xem. Bộ phim đã trở thành chương trình phi-thể thao số 1 với lượng người xem và người trưởng thành trẻ vào mỗi tối Chủ nhật. Mùa đầu tiên ra mắt được đánh giá là kịch phim được bình chọn cao nhất Mùa Giải thưởng và đề cử. "Ngày xửa ngày xưa" được đề cử Giải thưởng Mọi người ưa thích 2012 cho "Kịch truyền hình mới được yêu thích" nhưng để thua "Person of Interest". Nó cũng được đề cử cho giải "Thể loại phim truyện hay nhất" tại Giải Vệ tinh 2011 nhưng để thua "American Horror Story". Chương trình cũng nhận được ba đề cử tại Giải thưởng Hiệu ứng xã hội trực quan 2012 nhưng để thua "Boardwalk Empire", "Gears of War 3", và "Terra Nova". Tại Giải Sao Thổ lần thứ 38, chương trình nhận được đề cử "Chương trình truyền hình hay nhất" và Lana Parrilla đã được đề cử cho giải thưởng "Nữ diễn viên truyền hình xuất sắc nhất". Chương trình cũng nhận được danh hiệu "Kịch truyền hình mới được yêu thích" và "Kẻ xấu được yêu thích" dành cho Lana Parrilla trên TV Guide.
1
null
Đảo Sea Lion (tiếng Tây Ban Nha: Isla de los Leones Marinos), là hòn đảo lớn nhất trong nhóm đảo Sea Lion (Sea Lion Group) của quần đảo Falkland. Nó có diện tích 9,05 km2 (3,49 dặm vuông) và nằm cách Lafonia (Đông Falkland) 14,2 km về phía đông Nam. Địa lý. Đảo Sea Lion có chiều dài từ đông sang tây 7,8 km, chỗ rộng nhất trên đảo đạt 2,3 km. Điểm cao nhất là Bull Hill, cao 46 mét (151 ft). Địa chất là chủ yếu là đá sa thạch và đá bùn, từ khoảng 250 triệu năm trước. Một số hóa thạch nhỏ đã được tìm thấy.
1
null
Đảo George (tiếng Tây Ban Nha: Isla Jorge) là hòn đảo lớn thứ 2 trong nhóm đảo Speedwell ở quần đảo Falkland (Anh). Đảo có diện tích là 24 km2, toạ lạc tại phía Nam đảo Speedwell và nằm phía tây nam đảo Đông Falkland. cách bán đảo Lafonia bởi eo biển Eagle. Đảo George là một hòn đảo khá bằng phẳng, cáo không quá 18 m so với mực nước biển kể cả khi nước biên đạt độ triều cường cao nhất. Đảo George và Đảo Barren được xem là những trang trại cừu phía nam quần đảo Falkland, ngoài ra du lịch ở đây cũng được phát triển và quản lý tốt.
1
null
Speedwell (tiếng Tây Ban Nha: Isla Águila), trước đây được biết đến với tên gọi đảo Eagle, là hòn đảo thuộc quần đảo Falkland (Anh). Đảo nằm trong eo biển Falkland, Tây Nam bán đảo Lafonia, Đông Falkland. Đảo Speedwell có diện tích 19,9 dặm vuông (51,5 km2), có chiều dài từ bắc xuống nam là 17,5 km và rộng khoảng 5 km tại miền trung đảo. Đảo tương đối thấp và bằng phẳng, được sử dụng làm nơi nuôi cừu hơn 100 năm. Đảo tách biệt với Lafonia bởi eo biển Eagle, tên củ của đảo Speedwell. Speedwell là hòn đảo lớn nhất trong nhóm đảo Speedwell, trong nhóm đảo còn có đảo George, đảo Barren và Đảo Annie có diện tích đáng kể. Sinh Thái. Đảo là nơi sinh sống lý tưởng của nhiều loài động vật gặm nhấm, nơi đây cũng là nơi lưu trú của loài chim cánh cụt Magellan, các tổ chim của nhiều loài chim khác cũng được tìm thấy trên đảo Speedwell. Tuy nhiên đảo được biết đến như là một chơi chăn nuôi cừu từ hàng 100 năm qua.
1
null
Swan là một quần đảo nhỏ, nằm giữa eo biển Falkland thuộc quần đảo Falkland. quần đảo là một vùng đất tương đối thấp, được bao phủ bởi những cánh đồng cỏ tussac. Tên đảo có nghĩa là "thiên nga" được đô đốc George Grey, là người khảo sát quần đảo Falkland đặt.
1
null
Trận Albert lần thứ nhất là một trận đánh trên Mặt trận phía tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, diễn ra giữa Quân đội Pháp và Quân đội Đế quốc Đức từ ngày 25 tháng 9 cho đến ngày 29 tháng 9 năm 1914. Do vấp phải sự chống trả và phản công quyết liệt của quân Đức, quân Pháp phải chấm dứt tiến công trực diện và rút lui về phía sau Noyon, để lại khu vực này cho quân Đức. Sơ lược. Trận đánh Albert giữa Quân đội Pháp và Quân đội Đức là một phần của cái gọi là "Cuộc Chạy đua ra biển" - một loạt những cuộc tấn công và phản công của cả hai phe nhằm bọc sườn lẫn nhau trên vùng đất kéo dài từ sông Aisne cho đến bờ biển nước Pháp. Cuộc tiến công của người Đức theo "Kế hoạch Schlieffen" đã bị chặn đứng cách Paris 30 dặm Anh trong trận sông Marne lần thứ nhất từ ngày 5 tháng 9 cho đến ngày 12 tháng 9 năm 1914. Trận Albert lần thứ nhất diễn ra sau trận sông Marne lần thứ nhất và cuộc phản kích của khối Hiệp Ước trong trận sông Aisne lần thứ nhất vào ngày 12 tháng 9 năm ấy. Tình hình cho thấy rằng một cuộc đột phá là khó thể xảy ra, thế rồi các lực lượng Đức và phe Hiệp Ước đã cố gắng bọc sườn nhau trong một vận động về hướng Bắc, gọi là "Chạy đua ra biển". Tổng tư lệnh Quân đội Pháp là Joseph Joffre đã khơi mào vận động này khi ông ra lệnh cho Tướng Noël de Castelnau kéo Tập đoàn quân số 2 của mình về hướng Bắc qua sông Avre để tiến công cánh phải của quân Đức. Vào ngày 25 tháng 9 năm 1914, Castelnau phát động một cuộc tấn công "vỗ mặt" nhằm vào quân Đức tại Albert (về hướng Đông Nam Amiens). Tuy nhiên, quân Pháp đã vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân Đức< Dưới sự chỉ huy của Thái tử Rupprecht xứ Bayern, quân Đức cũng tổ chức những cuộc phản công dữ dội xung quanh Albert. Tập đoàn quân số 2 của Pháp phải thoái lui về phía sau Noyon, nhượng lại khu vực này cho người Đức và cầm cự trước những đợt công kích tiếp theo của quân Đức trong khi chờ quân tiếp viện từ Tập đoàn quân số 10 của Tướng Louis Mand'huy. Nhìn chung, hai bên đều không thể đánh tạt sườn đối phương trong cái gọi là "Cuộc Chạy đua ra biển", chấm dứt mọi hy vọng về cuộc chiến tranh ngắn ngủi và dẫn đến tình trạng "chiến tranh chiến hào" kèm theo vận động hạn chế gắn liền với Mặt trận phía tây trong suốt ba năm sau đó.
1
null
Cuộc đời lớn (tiếng Hàn: 자이언트, tiếng Anh: "Giant") hay còn có tên khác "Yêu và Hận" là bộ phim truyền hình do đài SBS (Hàn Quốc) sản xuất.Đây là bộ phim nằm trong dự án kỷ niệm 20 năm thành lập của đài truyền hình SBS.Phim được phát sóng tập đầu tiên vào ngày 10 tháng 5 năm 2010. Nội dung. Lấy bối cảnh Seoul vào những năm 1970, bộ phim kể về câu chuyện vô cùng chân thật của 3 anh em Lee Sung Mo, Lee Gang Mo và Lee Mi Joo sau khi người cha bị sát hại, mẹ mất và cả gia đình ly tán. Đến khi trưởng thành nhận ra nhau thì mỗi người một hoàn cảnh, nhưng tình cảm anh em vẫn đong đầy. Họ bắt đầu hành trình báo thù những kẻ đã gây ra biến cố lớn cho gia đình. Truyện phim khắc họa sự khốc liệt của thương trường, đặc biệt trong ngành kinh doanh bất động sản, khi chỉ trong vòng 40 năm, giá trị đất của Gang Nam đã tăng vọt từ hàng trăm đến hàng ngàn lần. Vì thế cuộc chiến giành ưu thế từ những mảnh đất vàng có cơ hội diễn ra càng khốc liệt hơn. Những ảo vọng về quyền lực và tiền tài cũng khiến không ít nhân vật được các diễn viên hóa thân bị tha hóa,biến chất được khắc họa lại một cách rất tự nhiên trong phim. Ý kiến phản hồi. Đánh giá. Về phía nhà đài. Là dự án phim kỷ niệm 20 năm thành lập, đài SBS đã quyết định đầu tư lớn vào một tác phẩm hoành tráng và khác biệt, phản ánh xã hội Hàn Quốc trong thời kỳ bắt đầu xây dựng kinh tế, thời kỳ của những cuộc đấu tranh sinh tồn chứa đựng nhiều nước mắt. Cuộc đời lớn thông qua câu chuyện thành đạt của một người đàn ông có thật, để truyền tải thông điệp về sức mạnh của nghị lực và tinh thần bất khuất, không lùi bước trước những khó khăn trong cuộc sống. Ở đó, sự cương trực, lòng can đảm và tính nhân văn được đề cao một cách sâu sắc qua từng nhân vật. Xuyên suốt bộ phim là những cuộc chạy trốn khỏi sự truy sát, lòng hận thù của các anh em Lee Gang Mo và cuộc chiến thương trường đầy khốc liệt. Nhiều tình huống gay cấn, liên tục được đẩy lên cao trào khiến bộ phim trở nên vô cùng kịch tính. Song mạch phim giàu cảm xúc giúp Cuộc đời lớn trở nên cân bằng hơn, và câu chuyện báo thù vì thế không quá nặng nề, u ám mà ngược lại. Tình cảm gia đình, sự yêu thương gắn bó bất chấp thời gian và hoàn cảnh giữa 3 anh em nhà họ Lee là những điểm sáng đầy cuốn hút. Đây cũng là thông điệp mạnh mẽ, nổi bật trong suốt 90 tập phim. Một gia đình thì sẽ không bao giờ tan vỡ. Giá trị của nó là nền tảng vững chắc cho mọi thành công. Ngoài ra, tình yêu đôi lứa giữa Gang Mo và Hwang Jeong Yeon, hay Mi Joo và Min Woo tuy không phải là yếu tố chủ đạo, nhưng có thể ví như những làn gió mát khiến Cuộc đời lớn trở nên mềm mại và hấp dẫn hơn. Dẫu bị ngăn cách bởi lỗi lầm của thế hệ trước nhưng tình yêu đã giúp họ mở rộng vòng tay, tha thứ cho nhau để sống thật với trái tim mình. Có thể nói, những giọt nước mắt của hận thù, yêu thương, sự hy sinh đã hòa quyện vào nhau tạo nên một Cuộc đời lớn vô cùng cảm động. Thành công của xem phim Cuộc đời lớn, ngoài kịch bản xuất sắc còn có sự đóng góp của dàn diễn viên nổi tiếng và rất quen thuộc với khán giả Việt Nam. Hotboy Kim Soo Hyun (Bay cao ước mơ – Dream High) sẽ trở lại với lối diễn mạnh mẽ, giàu cảm xúc cùng những diễn biến nội tâm vô cùng xuất sắc khi thể hiện hình ảnh cậu bé cháy bỏng căm thù những kẻ đã sát hại cha mẹ mình. Trong khi đó, diễn viên gạo cội Lee Bum Soo (Vợ tôi là gangster, Sóng gió hậu trường, Nếu như yêu) hóa thân thành Gang Mo với nghị lực sống phi thường, là người nắm giữ mạch chảy chính trong phim. Diễn xuất nhuần nhuyễn, biến hóa và gương mặt góc cạnh, tràn đầy cảm xúc gây ấn tượng mạnh mẽ với người xem, đặc biệt là ánh mắt sôi trào thù hận khi đối diện kẻ thù hay nụ cười ấm áp đầy trìu mến dành cho đứa em gái nhỏ Mi Joo. Người xem cũng sẽ có dịp hội ngộ nam diễn viên Jung Bo Suk, từng tạo dấu ấn sâu đậm qua bộ phim Tình si, sẽ hoàn toàn lột xác trong vai diễn phản diện đầy tham vọng. Nam diễn viên Được sống cùng thần tượng - Joo Sang Wook, cũng sẽ hóa thân vào nhân vật đầy mâu thuẫn, nhiều dã tâm nhưng rất si tình. Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của "nữ hoàng quảng cáo" Hwang Jung Eum cùng nữ diễn viên khả ái Park Jin Hee… Diễn xuất rất chân thực, đồng đều, ổn định của các diễn viên đã thu hút người xem dõi theo từng diễn biến và khóc cười, đồng hành cùng họ suốt chiều dài bộ phim. Từ các diễn viên nhí thể hiện các nhân vật lúc nhỏ cho đến những tên tuổi gạo cội đều đã hóa thân rất trọn vẹn. Ba anh em nhà họ Lee đã lấy đi rất nhiều nước mắt của người xem trong những tình tiết gia đình ly tán rồi hội ngộ sau bao nhiêu năm xa cách hay sự hy sinh tình cảm riêng tư của Gang Mo và Mi Joo. Với kịch bản sâu sắc cùng dàn diễn viên đầy nội lực, Cuộc đời lớn từng tạo nên cơn sốt người xem với tỷ suất liên tục tăng, trở thành một trong những bộ phim tâm lý xã hội gia đình xuất sắc nhất của màn ảnh Hàn năm 2010. Về phía khán giả. Khán giả Việt Nam rất ấn tượng về tài diễn xuất và các bối cảnh rất thực với xã hội thập niên 60 trong công cuộc xây dựng đất nước và chính khán giả không tin đời sống của người Hàn Quốc trong thời gian này lại giống người Việt Nam hiện nay cùng với nội dung kịch bản rất ấn tượng và cảm động,lăm li và bi đát nhưng đầy tình nghĩa,hình ảnh mô tả cuộc đời của ba anh em đã được diễn đạt tới người xem rất xuất sắc và khán giả rơi nước mắt về diễn đạt mô tả xã hội thời điểm đó như thật. Ở Hàn Quốc, bộ phim này đã đạt được rating rất cao về cách diễn xuất và xây dựng bối cảnh,lời thoại tâm lý và bên phía nhà đài đây cũng giải thích thêm là bộ phim có được là nhờ tâm huyết rất lớn của những nhà làm phim.
1
null
Vua đầu bếp (tiếng Anh: MasterChef) là một trò chơi truyền hình về ẩm thực theo kiểu truyền hình thực tế do Franc Roddam sáng lập, bắt nguồn từ một chương trình truyền hình phiên bản của Anh năm 1990. Ngày nay, biểu trưng của MasterChef được sử dụng ở khắp thế giới và đã trở nên nổi tiếng tại nhiều quốc gia. Nó được sản xuất trên 35 quốc gia và trình chiếu tại ít nhất 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Định dạng của chương trình xuất hiện ở 4 phiên bản: sêri chính "MasterChef"; "MasterChef: The Professionals" (Vua Đầu bếp: Nhà nghề) dành cho các đầu bếp chuyên nghiệp; "Celebrity MasterChef" (Vua Đầu bếp Người nổi tiếng) có những người nổi tiếng tham gia với vai trò người dự thi và "Junior MasterChef" (Vua Đầu bếp Nhí), phiên bản được sáng tạo phù hợp với trẻ em, lần đầu được phát triển năm 1994 và giờ đây đã được mở rộng sang các quốc gia khác bên ngoài nước Anh. Các phiên bản quốc tế. Current, previous and upcoming versions include:
1
null
Avia B-534 là một loại máy bay hai tầng cánh được sản xuất trong thời gian giữa Chiến tranh Thế giới I và Chiến tranh Thế giới II. Thiết kế và phát triển. Năm 1932, công ty máy bay Tiệp Khắc đã tổ chức cho mẫu thử đầu tiên của một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh một động cơ bay thử, mẫu máy bay này có tên Avia B-34, do Frantiŝek Novotńy thiết kế. Sau khi sửa đổi, Bộ quốc phòng Tiệp Khắc đã đặt mua B-34. Mẫu thử thứ hai được chế tạo có tên gọi Avia B-34/2, dự định trang bị động cơ Avia Rr 29 thay động cơ Hispano-Suiza 12N V12 cho mẫu thứ thứ nhất và loạt sản xuất thử. Tuy nhiên động cơ Rr 29 lại quá nóng và rung lắc mạnh nên mẫu B.34/2 trước khi bay đã được lắp động cơ Hispano-Suiza 12Ybrs V12. Avia B-34/2 thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 25 tháng 5 năm 1933. Mẫu thử được gửi đi thử vào tháng 9 và định danh là B-534.1. Ngày 10 tháng 10, B-534 được trưng bày lần đầu vào ngày kỉ niệm không quân Lục quân. Lịch sử hoạt động. Vào ngày 1 tháng 9 năm 1938, 1 tháng trước khi Hiệp ước München làm Tiệp Khắc mất 30% lãnh thổ và 34% dân số, Đã có 328 chiếc B-534 và Bk-534 được trang bị cho 21 phi đội tiêm kích của Không quân Tiệp Khắc, số máy bay khác được trang bị cho lực lượng dự bị và huấn luyện. Tính năng kỹ chiến thuật (B-534 IV). Dữ liệu từ "Aircraft of the Third Reich Vol.1"
1
null
Avia BH-33 là một máy bay tiêm kích hai tầng cánh do Tiệp Khắc chế tạo vào năm 1927. Nó dựa trên loại BH-21J, đây là sự kết hợp giữa khung thân của BH-21 và động cơ chế tạo theo giấy phép Bristol Jupiter. Thiết kế và phát triển. Các thử nghiệm ban đầu của mẫu thử thứ nhất cho kết quả đáng thất vọng, hiệu suất bay kém, chỉ nhỉnh hơn BH-21, ngay cả khi trang bị phiên bản mạnh hơn của động cơ Jupiter. Sau đó 2 mẫu thử khác được chế tạo, cả hai đều có tên gọi BH-33-1, mỗi chiếc được trang bị một biến thể mạnh hơn của động cơ Jupiter - Jupiter VI và Jupiter VII. Hiệu suất của mẫu thử trang bị Jupiter VII cuối cùng đã đạt yêu cầu, và Bộ chiến tranh Tiệp Khắc yêu cầu sản xuất lô nhỏ - 5 chiếc. 3 chiếc trong số này được bán cho Bỉ, nước này có ý định sẽ mua giấy phép chế tạo, nhưng cuối cùng không thực hiện. Ba Lan đã mua giấy phép chế tạo 50 chiếc có tên gọi PWS-A, chúng được trang bị cho Không quân Ba Lan vào năm 1930. Việc phát triển vẫn được tiếp tục, khung thân gần như được thiết kế lại hoàn toàn, thay thế các cấu trúc gỗ bằng thép. Sản phẩm là BH-33E. Tuy nhiên, quân đội Tiệp Khắc không mặn mà lắm với loại máy bay này. Một lần nữa Avia lại bán giấy phép sản xuất cho nước ngoài, lần này là Nam Tư mua giấy phép sản xuất 24 chiếc đi kèm với hợp đồng mua của Avia 20 chiếc khác. Cuối năm 1929, một phiên bản khác được cải tiến có tên gọi BH-33L, có sải cánh dài hơn, lắp động cơ Škoda L W. Đây là phiên bản cuối cùng, và quân đội đã mua 80 chiếc. Chúng trở thành trang bị tiêu chuẩn cho một số trung đoàn không quân vào đầu Chiến tranh thế giới II. Biến thể cuối cùng lắp động cơ Pratt & Whitney Hornet do BMW chế tạo có tên gọi BH-33H (sau được định danh BH-133) vào năm 1930, nhưng không được chế tạo hàng loạt. Lịch sử hoạt động. Những chiếc BH-33 của Tiệp Khắc không bao giờ tham chiến, còn BH-33 của Ba Lan đã bị thay thế sau khi Đức xâm chiếm Ba Lan. Xem thêm. Chuỗi định danh máy bay. BH-27 - BH-28 - BH-29 - BH-33
1
null
Fastlife là album phòng thu đầu tay của nam ca sĩ thu âm người Mỹ Joe Jonas. Album được phát hành vào 21 tháng 10 năm 2011 bởi hãng đĩa Hollywood. Đây là sản phẩm âm nhạc đầu tiên của Jonas từ khi nhóm nhạc Jonas Brothers ngừng hoạt động một năm trước đó. Nội dung của "Fastlife" đánh dấu một sự thay đổi trong định phong cách âm nhạc của anh, từ pop rock của Jonas Brothers đến electropop và R&B. Ngoài phần nhạc pop bình thường, bản remix (phối khí) chính thức của"Just in Love"còn bao gồm phần rap khá nhạy cảm của Lil Wayne, điều này làm cho "Fastlife" bị dán nhãn Parental Advisory. Album này được sản xuất bởi một loạt các nhà sản xuất nổi tiếng, trong đó có Rob Knox, Danja, và Brian Kennedy... Joe Jonas đã phát hành trước đó hai đĩa đơn"See No More"và"Just in Love"lần lượt vào tháng 6 và tháng 9 năm 2011. "Fastlife" đã lọt vào bảng xếp hạng "Billboard" 200 tại vị trí thứ 15 với hơn 18,000 bản được tiêu thụ. Đĩa đơn. Đĩa đơn đầu tiên của "Fastlife" là"See No More", phát hành vào 13 tháng 6 năm 2011."See No More"đã lọt vào vị trí 53 ở Anh và vị trí 92 ở Mỹ. Đĩa đơn thứ hai của "Fastlife" là"Just in Love", phát hành vào 13 tháng 9 năm 2011 nhưng không lọt được vào bảng xếp hạng nào. Bản remix hợp tác với Lil Wayne được phát hành vào 4 tháng 10 năm 2011. Một video quảng cáo cho"All This Time"được phát hành vào 9 tháng 12 năm 2011 và được đăng trên trang web của đài phát thanh Pháp. Quảng bá. Vào 22 tháng 8 năm 2011, Joe Jonas biểu diễn những ca khúc sau tại "Live on Letterman": Ngoài ra Joe còn biểu diễn một số ca khúc trong album tại "Late Night with Jimmy Fallon" (13 tháng 7), "Lopez Tonight" (8 tháng 8), "Live with Regis and Kelly" (8 tháng 9), "The Ellen DeGeneres Show" (26 tháng 9), "The Today Show" (5 tháng 10), "The Wendy Williams Show" (7 tháng 10), "The Tonight Show with Jay Leno" (3 tháng 11), "Conan" (7 tháng 11). Thương mại. "Fastlife" ra mắt tại vị trí thứ 15 với hơn 18,000 bản được tiêu thụ và nằm trong bảng xếp hạng "Billboard" 200 đến 2 tuần. Đến 29 tháng 12 năm 2011, album đã tiêu thụ được 25,000 bản.
1
null
Ansaldo A.120 (đôi khi còn gọi là FIAT A.120, khi FIAT ("Fabbrica Italiana Automobili Torino" – Nhà máy ô tô Ý ở Turin) mua Ansaldo) là một loại máy bay trinh sát được Ý phát triển vào thập niên 1920. Thiết kế dựa trên phát triển cánh cho Ansaldo A.115 và khung thân của máy bay tiêm kích Dewoitine D.1. Không quân Ý sử dụng số lượng khiêm tốn loại máy bay này, ngoài ra nó còn được Áo và Lítva sử dụng.
1
null
Chuột lang nhà (tên khoa học Cavia porcellus, tiếng Anh: "guinea pig"), còn gọi là bọ ú, là một loài thuộc bộ Gặm nhấm, họ Chuột lang. Mặc dù trong tiếng Anh chúng có tên thông thường là "Guinea pig" ("lợn guinea") nhưng chúng không thuộc họ Lợn và cũng không có nguồn gốc từ Guinea mà chúng đến từ dãy núi Andes. Các nghiên cứu sớm nhất dựa trên sinh hóa và lai giống chỉ ra rằng chúng là hậu duệ đã được thuần hóa của các loài có quan hệ gần gũi trong phân họ Chuột lang như "Cavia aperea", "C. fulgida", hay "C. tschudii", vậy nên, chúng không tồn tại trong tự nhiên. Tên. Tên khoa học của loài này là "Cavia porcellus", với "porcellus" Là tiếng Latin nghĩa là "lợn nhỏ", "Cavia" là tiếng Latin Mới, nó có nguồn gốc từ cabiai, tên của con vật trong ngôn ngữ của bộ tộc Galibi có nguồn gốc từ Guiana thuộc Pháp. Cabiai có lẽ là sự thích nghi của "çavia" trong tiếng Bồ Đào Nha (nay savia), chính nó được suy ra từ chữ "saujá", nghĩa là chuột. Chuột lang được gọi là "quwi" hay "jaca" trong tiếng Quechua và cuy hay cuyo (số nhiều cuyes, cuyos) trong tiếng Tây Ban Nha ở Ecuador, Peru, và Bolivia. Người nuôi sinh sản "cavy" thường dùng nhiều hơn để miêu tả con vật, trong khi những nhà khoa học và phòng thí nghiệm thường dùng "guinea pig". Làm sao con vật lại bị gọi là "pig (lợn)" là không rõ ràng. Chúng có cấu tạo hơi giống lợn, với một cái đầu lớn cân xứng với cơ thể của nó, cổ mập và mông tròn không có đuôi; một vài tiếng kêu chúng phát ra rất giống như chúng được tạo ra bởi lợn, và chúng cũng dành nhiều thời gian cho việc ăn. Tên của con vật mang ý nghĩa lợn trong nhiều ngôn ngữ châu Âu. Từ tiếng Đức cho chúng là "Meerschweinchen", nghĩa là "lợn con biển", đã được dịch sang tiếng Ba Lan như "świnka morska", tiếng Hungary như tengerimalac và tiếng Nga như морская свинка. Thuật ngữ tiếng Pháp là "Cochon d'Inde" (lợn Ấn Độ) hoặc "cobaye"; tiếng Hà Lan gọi nó Guinees biggetje (lợn con Guinea) hoặc Cavia (trong khi ở một số tiếng địa phương Hà Lan nó được gọi là chuột Spaanse). Người Trung Quốc gọi chúng là lợn Hà Lan (荷兰猪, hélánzhū). Trong tiếng Nhật Bản, chuột lang là "モルモット" (morumotto), xuất phát từ tên của một loài gặm nhấm ở núi, marmot. Đặc điểm. Chuột lang là gặm nhấm lớn, có trọng lượng từ 700 đến 1200 g (1,5-1,2 kg), và chiều dài từ 20 đến 25 cm (8-10 inch). Mắt của chúng có thể thấy hầu hết các màu. Tai của chúng rất nhạy, có thể nghe các âm thanh nhỏ. Lông có hai lớp để giữ ấm cơ thể. Nó thường sống trung bình bốn đến năm năm, nhưng có thể sống lâu đến tám năm. Theo Sách Kỷ lục Guinness 2006, con chuột lang sống lâu nhất sống sót 14 năm, 10,5 tháng. Lịch sử. Trong những năm 1990, một quan điểm khoa học thiểu số nổi lên đề xuất rằng caviomorpha như chuột lang, chinchilla và octodon degus không phải gặm nhấm và cần được phân loại lại như một bộ động vật có vú riêng biệt (tương tự như lagomorpha). Nghiên cứu tiếp theo sử dụng lấy mẫu rộng hơn đã phục hồi sự đồng thuận giữa các nhà sinh học động vật có vú mà việc phân loại hiện tại của động vật gặm nhấm như đơn ngành là hợp lý. Môi trường tự nhiên. "Cavia porcellus" không được tìm thấy trong tự nhiên hoang dã, nó có khả năng hậu duệ từ một số loài liên quan chặt chẽ tới các loài cavia khác, chẳng hạn như "Cavia aperea", "Cavia fulgida", và "Cavia tschudii", vẫn thường thấy trong các khu vực khác nhau của Nam Mỹ. Một số loài chuột lang xác định vào thế kỷ 20, chẳng hạn như "Cavia anolaimae" và "Cavia guianae", có thể là chuột lang nhà trở nên hoang dã bằng cách trở về thiên nhiên. Chuột lang được tìm thấy trên đồng cỏ và chiếm môi trường sinh thái thích hợp tương tự như của bò.
1
null
Cuộc vây hãm Antwerp diễn ra vài tháng 9 và tháng 10 năm 1914, là một trận vây hãm do Quân đội Đế quốc Đức khởi đầu trên Mặt trận phía Tây của cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhằm vào thành phố cảng Antwerp của Bỉ, và kết thúc với việc quân Đức đánh đuổi quân Hiệp Ước và chiếm được Antwerp. Chiến thắng này được xem là "của trời cho" của Tổng tham mưu trưởng Quân đội Đức là Erich von Falkenhayn, mặc dù phần lớn quân phòng thủ Bỉ và Anh tại đây đã trốn thoát về hướng Tây. Sự thất thủ của cảng Antwerp cùng với một cảng khác là Lille trong cùng tháng 10 năm 1914 đã trở thành một trong những thảm họa cho khối Hiệp Ước trong giai đoạn này. Sau khi Liège thất thủ vào ngày tháng 8 năm 1914, vua Albert I của Bỉ đã quyết định tổ chức phòng ngự tại Antwerp vào ngày 20 tháng 8 năm ấy, 5 Sư đoàn Bỉ đã đóng cứ tại Antwerp. Cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1914, Albert I đã từng phát động những cuộc tấn công nhằm vào quân Đức vốn đang giao chiến với quân Anh trong trận Mons và quân Pháp trong trận Charleroi. Trước tình hình đó, Trung tướng Đức là Hans Hartwig von Beseler phải tiến chiếm cảng này và loại trừ mối đe dọa từ bên sườn của quân Bỉ. Ông có trong tay 5 Sư đoàn cùng với các khẩu trọng pháo và siêu pháo. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1914, quân Đức bắt đầu công phá Antwerp. Những quả đạn nặng 1 tấn của các bích kích pháo dài 17 inch đã gây cho dân chúng Antwerp hoảng loạn. Quân Bỉ ở các pháo đài bên ngoài nhanh chóng bị đè bẹp, và quân Bỉ phòng thủ bên trong cũng bị quân Đức dồn vào tường thành. Trước khó khăn đó, Albert I phải cầu cứu Luân Đôn. Nhận thấy việc phòng vệ Antwerp là có lợi cho Anh Quốc, "Bộ trưởng Bộ Hải quân" Anh là Winston Churchill đã tăng viện 3 Lữ đoàn Thủy quân lục chiến Anh được trang bị yếu ớt cho quân Bỉ. Tuy nhiên, quân tiếp viện Anh đến vào thời điểm này đã là trễ và không thể xoay chuyển thế trận. Vào ngày 2 tháng 10 năm 1914, quân Đức phá tan hàng phòng ngự đầu tiên của thành phố, và không lâu sau đó thì Chính phủ Bỉ phải di dời tới Ostend. Vào ngày 7 tháng 10 năm ấy, người Đức bắt đầu công pháo vào Antwerp, cho đến ngày 9 tháng 10 năm 1914. Hy vọng của người Bỉ về một "đồn lẻ quốc gia" đã không trở thành hiện thực. Cuối cùng, vào ngày 10 tháng 10 năm ấy, Thống đốc quân sự Bỉ tại Antwerp là Victor Deguise phải đầu hàng. Tuy nhiên, trong ngày 8 tháng 10 năm 1914, vua Bỉ và đội quân tả tơi của ông đã tháo lui khỏi Antwerp cùng với quân Anh. Họ sẽ còn tiếp tục tham gia trong trận Yser và trận Ypres lần thứ nhất. Tuy nhiên, việc chiếm đóng Antwerp đã mang lại lợi thế to lớn cho quân Đức, do thắng lợi này tạo điều kiện cho quân Đức chuyển tầm hướng của mình về phía Tây và có thể phát động tấn công tại vùng Flanders.
1
null
Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long (tên chính thức: Nhà thờ chính tòa Thánh Anna) là nhà thờ chính tòa của Giáo phận Vĩnh Long, Việt Nam. Nhà thờ tọa lạc tại số 141 đường Lê Thái Tổ, phường 2, thành phố Vĩnh Long, tỉnh Vĩnh Long. Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long cách Thành phố Hồ Chí Minh 136 km. Nhà thờ này được xây dựng từ năm 1964 tới năm 1967 theo đồ án của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ. Tuy nhiên, vì nhiều lý do nên khi xây dựng, người ta đã chỉnh sửa lại phần lớn chi tiết thiết kế ban đầu nên sau này, Ngô Viết Thụ đã phủ nhận đó là công trình do ông thiết kế. Nhà thờ chính tòa Vĩnh Long hiện là nhà thờ có sức chứa lớn ở Việt Nam, với chiều dài 100 mét, chiều rộng 36 mét và chiều cao đến mái là 27 mét. Lịch sử. Trước năm 1862. Tại Vĩnh Long lúc đó không có nhà thờ, không có họ đạo vì là nơi thị tứ có quan quyền cấm đạo rất ngặt. Tuy nhiên cũng có một vài người có thế lực giữ đạo, như ông Trần Văn Triệu, gốc Cái Nhum vì có công phò vua Gia Long lúc tị nạn, nên khi lên ngôi vua thưởng ông làm tổng đốc Vĩnh Long. Có 1 y sĩ danh tiếng được nhiều uy tín trong dân nhưng cũng không dám giữ đạo công khai. 1862–1938. Khi Pháp chiếm một số tỉnh miền Tây thì Vĩnh Long là nơi tập hợp nhóm chống xâm lược, nên quân Pháp quyết định đánh chiếm luôn Vĩnh Long. Tuy đã chiếm được Vĩnh Long nhưng Pháp không giữ mà chịu ký hòa ước trao trả lại cho triều đình với điều kiện nhà vua thôi cấm đạo và ngưng các cuộc quấy nhiễu các tỉnh lân cận (566 - 82). Trong tình thế mới này, cha Cordier vừa lo cho binh lính Pháp vừa lo cho một ít bổn đạo tại Vĩnh Long. Cha là người thuộc địa phận Nam Vang, nên khi quân lính rút cha cũng phải rời Vĩnh Long. Đức cha Lefèbre đã nhờ cha sở Mỹ Tho là cha Guillon kiêm luôn Vĩnh Long. Đến năm 1866 Vĩnh Long được giao cho cha sở Cái mơn là cha Gernot đảm trách. Thời này ông Phan Thanh Giản làm tổng đốc Vĩnh Long. Ông là người thức thời hiểu dân và thân thiện với cha Gernot. Triều đình Huế luôn xúi dân nổi loạn nên quân Pháp quyết định chiếm Vĩnh Long, và thật sự cuộc chiếm đóng đã hoàn tất 19 - 6 - 1867. Từ nay Vĩnh Long có cha sở đó là cha Bernard. Việc đầu tiên là cha cất một Nhà thờ cột cây lợp lá, gần vị trí Nhà thờ cũ ở mé sông, có ông trùm Cử phụ trách với cha, nhưng sau khi ông đi lập nghiệp ở Sađéc. Cha ở Vĩnh Long được có 1 năm, sau đổi về Biên Hòa và chết tại đó năm 1868. Kế cha Le Mec được gửi từ Sài Gòn xuống nhậm sở Vĩnh Long. Trong 10 năm cha đã đặt nề nếp hẳn hoi cho họ đạo. Năm 1869 cha xin mở trường và được các sư huynh từ Pháp sang giúp, học trò thật đông. Nhưng đến năm 1881 theo đạo luật giải tán dòng tu của Pháp nên trường phải đình chỉ, các thầy phải trở về Pháp. Năm 1869 cha cũng cho mở một nhà thương giao cho các bà dòng thánh Phaolô. Cha nhường Nhà thờ cũ cho các bà và cất một Nhà thờ mới cột cây nhưng lợp ngói. Cơ sở mồ côi khang trang vách tường lợp ngói nuôi chừng 50 em cô nhi. Cha cũng lo mở nhiều họ nhánh như Mỹ Điền, Xuân Sơn, Nhơn Phó, Sađéc, Cái Kè. Năm 1877 cha về phụ trách Nhà thờ chính tòa Sài Gòn. Cha phó Cái Mơn là cha Faron đổi về Vĩnh Long. Vì sức yếu nên cha chỉ ở Vĩnh Long đến năm 1880 rồi về Thủ Dầu Một. Cha Lizé về thế được 7 năm, lập thêm nhiều họ nhánh.Năm 1885 miền trung bất ổn, Nhà thờ bị phá, bổn đạo bị giết, cha Hamon đưa giáo dân từ Bình Định đến tá túc tại Vĩnh Long. Trong 2 năm cư ngụ tại Vĩnh Long, cha Hamon giúp cha Lizé thật đắc lực. Khi cha Lizé lâm bệnh và chết tại Hongkong 1887, cha Hamon còn ở lại coi Họ đạo Vĩnh Long ít lâu rồi đưa giáo dân trở về Bình Định. Cha Lalement về thay thế coi sóc Họ đạo Vĩnh Long từ 1887 - 1908. Địa sở Vĩnh Long rộng lớn nên hằng năm có các thầy Đại chủng viện đến giúp. Tại chỗ thì có cha Quờn coi ngã Tư, Hồi Xuân, Măng Thít, Cái Quá, Hiếu Hòa, Diên Nhơn, Hồi Luông, Sa Co, và Ông Năm. Có cha Long coi Mỹ Điền, Xuân Sơn, Cai Lộc và Cái Muối. Có cha Havas coi Cái Bè nhưng chỉ trong năm 1888. Có cha Narp coi Ngã Tư, Bình Dinh, Bình Quới, Long Hiệp. Cha Cường coi Cái Tàu, Hòa Thuận, Phú An, Tân Hiệp. Tổng cộng số giáo dân chừng 2500. Mỗi năm cha sở phải đi kinh lý các họ để sắp xếp công việc. Mặc dầu đa đoan công vịêc và không có tiền, cha vẫn cất được nhà cha sở như còn ngày hôm nay và cha cũng lo cất Nhà thờ. Nhà thờ khởi công năm 1889 và hoàn tất năm 1894 với số tiền là 12000 đồng. Vào thời đó là cả một công trình, kiểu Roman dài 38m, ngang 19m, cao 16,7m có 2 tháp chuông. Năm 1893 có cha Tân về giúp tại Ngã Tư và Tân Hiệp. Cha Tân chết tại Vĩnh Long, chôn tại đất thánh Tây. Hiện hài cốt đã đưa về đất thánh Tân Ngãi. Năm 1901 cha Lalement làm bề trên địa phận nên một số họ nhánh được giao cha sở Cái Mơn và Cái Nhum. Năm 1905 cha phải về lo việc địa phận ở Sài Gòn thì có cha Ackerman đến thay thế. Sau thời gian vắng mặt một năm cha trở lại làm việc đến khi lâm bệnh và chết tại Sài Gòn. Làm việc tông đồ 33 năm, cha đã hy sinh cho Vĩnh Long 20 năm. Cha Arkerman chính thức nhậm sở 1908 và ở đến năm 1915. Sau cha, đến cha Bellemin coi Vĩnh Long từ 1915 - 1938. 1938–nay. Địa phận Vĩnh Long được thành lập năm 1938. Dịp này tất cả các cha thừa sai đều rút về Sài Gòn. Như vậy ở Vĩnh Long trống mặc dầu có cha Thao làm phó. Đức cha Ngô Đình Thục về Vĩnh Long không có chỗ ở nên tạm thời tá túc tại nhà xứ Vĩnh Long và kiêm chính sở Vĩnh Long. Trong thời gian này thấy có cha Thao, cha Quang phụ giúp Đức cha trong việc mục vụ. Đến tháng 10 - 1938 cha Hưởn từ Biên Hòa được đưa về tạm coi sóc Họ đạo và lo mua sắm tòa Giám mục. Tháng 10 - 1940 cha Raphae Linh đến thay cha Hưởn và phục vụ đến năm 1945. Kế cha Tađêô Thiên về ở từ 1945 đến 1948. Thời gian từ 1938 đến 1948 kể như thời gian chuyển tiếp vì không có cha nào thực sự là sở. Tháng 8 - 1948 cha Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang đang làm giám đốc tiểu chủng viện được bộ nhiệm làm chính sở chính tòa. Trong thời gian dài 17 năm từ 1948 - 1965 với thật nhiều cha phó kế tiếp nhau: cha Long, cha Truyền, cha Hớn, cha De Roeck, cha Sánh, cha Binh, cha Nhơn, cha Đức, cha Khương. Cha đã làm cho mọi nơi từ họ chính đến họ lẽ có một cuộc sống nề nếp. Lúc này địa sở Vĩnh Long có Long Hiệp, Cầu Mới, Hòa Tịnh, Cái Mơn. Năm 1954 cha mở trường trung học Nguyễn Trường Tộ. Nhà in Long Hồ và đồng thời ra tờ nguyệt san lấy tên là Hiệp Nhất. Đến năm 1965 cha được Tòa thánh bổ nhiệm làm Giám mục Cần Thơ. Năm 1960 Đức cha Ngô về Huế. Tòa thánh bổ nhiệm Đức cha Antôn Thiện về Vĩnh Long. Từ 1965 đã khởi công xây cất Nhà thờ chính tòa mới tại Ngã Ba Cần Thơ dưới trào quản lý của cha Raphae Minh. Cha Benoỵt Trương Thành Thắng từ Cái Mơn về thay thế Đức cha Quang. Đức cha Antôn quyết định nhân dịp này bắt đầu sử dụng liền Nhà thờ mới, mặc dầu chỉ xong có tầng dưới. Như vậy khu Nhà thờ cũ tại mé sông tạm thời bỏ trống. Cha sở mới là cha Thắng và cha phó là cha Antôn Khương về nhà thờ mới trong khung cảnh rất chật vật. Tầng trên chưa xong, tầng dưới tạm xong dùng làm Nhà thờ tạm, dùng một vài căn phòng tầng dưới làm nhà ở. Nhà thờ được hoàn thành vào năm 1967. không có tháp chuông, mặc dầu trong họa đồ có vẽ. Cha sở sửa sang khuôn viên Nhà thờ, cất nhà cha sở, trường học. Ngoài ra cha còn mua một thửa đất tại xã Tân Ngãi để làm đất thánh cho Họ đạo và ngày nay đang sử dụng, và lập họ đạo Đình Khao nơi Á thánh Minh tử đạo. Tết Mậu Thân 1968 là một biến cố khó quên trong lịch sử Họ đạo. Cả năm bảy ngàn người đến tá túc ở tầng dưới Nhà thờ, ngoài hành lang, ngoài sân cỏ. Đâu đâu cũng người là người. Mấy tháng trời cha phải chung sống với họ, lo lắng cho họ. Nhiều người ngày hôm nay vẫn còn nhắc: nhờ Nhà thờ mà tôi qua được cái tết Mậu Thân. Sau tết Mậu Thân, Đức cha Antôn Thiện từ chức, Đức cha Giacôbê Mầu được chỉ định thay thế. Đến tháng 1 - 1973 cha Benoỵt được đổi về Cái Mơn, làm chính sở kiêm phụ trách Nhà phước. Cha Phaolô Trọng đang làm quản lý địa phận, được gọi về thay thế. Việc đầu tiên là cha cho làm các cửa sổ lớn chung quanh Nhà thờ để cho có đủ không khí trong Nhà thờ. Cha còn cất trung tâm Phaolô 6 nơi huấn luyện cho thanh niên trong địa phận và đồng thời dùng nơi đây làm Nhà thờ cho xóm Đường Chừa. Sau ngày giải phóng, địa sở chính tòa chỉ còn Nhà thờ chính và 2 điểm có Nhà thờ và có lễ đó là Văn Thánh và Đình Khao. Nhà thờ Đường Chừa giải thể. Ngược lại, nhờ có một số cha trong chủng viện rảnh rang nên được Đức cha bổ nhiệm đi phụ trách thiệt thọ các họ lẽ như Cái Sơn có cha J.B. Trác, ở Long Mỹ có cha Phêrô Thuận, ở Thiềng Đức có cha Giuse Lục, ở Tân Ngãi có cha Gioakim Nghiệm. Cách chung những họ lẽ của Vĩnh Long thời xưa đều có cha sở ở tại chỗ đảm trách. Tình thế mới đòi hỏi có thêm được Nhà thờ ở chủng viện phường 1 do cha Tôma Tân phụ trách để tránh cho một người khỏi phải đi lễ xa tận nhà thờ chính tòa.
1
null
"Wouldn't Change a Thing" là một ca khúc được biểu diễn bởi Demi Lovato và Joe Jonas trong bộ phim chính thức của kênh Disney Channel "". Đây là đĩa đơn thứ tư trích từ album nhạc phim này. Ở Đức, một bản khác của ca khúc thu âm bởi Demi Lovato và Stanfour được phát hành vào 31 tháng 7 năm 2010. Ngoài ra "Wouldn't Change a Thing" còn xuất hiện trong tập phim "The Arms of Mine" của phim truyền hình "Grey's Anatomy" nhưng được hát lại bởi Justin Chambers.
1
null
Tilted Mill Entertainment là một công ty phát triển trò chơi máy tính có trụ sở tại Framingham, Massachusetts. Công ty do cựu trưởng nhóm thiết kế của hãng Impressions Games kiêm tổng giám đốc Chris Beatrice, giám đốc kinh doanh Peter Haffenreffer và nhà thiết kế Jeff Fiske thành lập vào năm 2001. Công ty có 20 nhân viên thiết kế, lập trình, đóng vai trò sáng tạo và hành chính. Cái tên Tilted Mill (cối xay nghiêng) là muốn nhắc đến Đôn Kihôtê. Tilted Mill phát triển phần thứ năm tiếp theo của "dòng game SimCity" mang tên "SimCity Societies" (tất cả các phiên bản trước đây đều do hãng Maxis phát triển). Tuy nhiên, trò chơi đã bị chỉ trích vì thiếu kiểu lối chơi mang tính truyền thống của "SimCity". Ngày 11 Tháng 7 năm 2008, Tilted Mill đã công bố việc tạo ra tựa game độc lập đầu tiên của họ mang tên "Hinterland". Theo trang web của Tilted Mills cho biết thì "Trong "Hinterland", bạn sẽ xây dựng và dẫn dắt một ngôi làng nhỏ, đưa dân chúng đến định cư chỉ đơn giản đấu tranh để tồn tại và phát triển thịnh vượng ở miền thôn quê đồng không mây quạnh của một thế giới giả tưởng thời Trung Cổ". Game được phát hành trên Steam vào ngày 30 tháng 9 năm 2008.
1
null
Kỹ thuật hàng không-vũ trụ là một trong những ngành kỹ thuật cơ bản liên quan đến thiết kế, kết cấu và khoa học về khí cụ bay và tàu vũ trụ. Nó được chia thành hai nhánh lớn là kỹ thuật hàng không và kỹ thuật vũ trụ. Kỹ thuật hàng không-vũ trụ có thể được hiểu bao gồm những lĩnh vực cấu thành sau: Cơ học chất lưu, Động lực học bay, Cơ học kết cấu máy, Toán học, Kỹ thuật điện, Động cơ phản lực, Kỹ thuật điều khiển, Kiểm soát không lưu, Vật liệu kết cấu, Cơ học vật rắn, Điện hàng không, Độ tin cậy bay, Phần mềm, Điều khiển nhiễu, Kiểm định bay, Công nghệ chế tạo thiết bị bay (máy bay, tên lửa, tàu vũ trụ). Kỹ thuật hàng không-vũ trụ có thể được học ở nhiều cấp học từ Kỹ sư, Thạc sĩ, Tiến sĩ và Sau tiến sĩ ở nhiều nước công nghiệp hàng không vũ trụ phát triển trên thế giới như Mỹ, Nga, Pháp, Anh, Trung Quốc, Nhật. Kỹ sư hàng không-vũ trụ có thể được hiểu là một kỹ sư trên các lĩnh vực cơ bản sau: Kỹ sư máy bay (dân dụng và quân sự), Kỹ sư tên lửa và Kỹ sư nghiên cứu về các thiết bị vũ trụ (vệ tinh, tàu vũ trụ). Các cơ sở đào tạo, nghiên cứu Hàng không-vũ trụ. Việt Nam. Ở Việt Nam, kỹ thuật hàng không-vũ trụ còn là một lĩnh vực mới. Một số cơ sở chính của nhà nước về việc nghiên cứu và đào tạo kỹ thuật hàng không-vũ trụ bao gồm:
1
null
Ensemble Studios là một nhà phát triển trò chơi điện tử ban đầu do Tony Goodman, Rick Goodman và John Boog-Scott thành lập vào năm 1995 như một công ty độc lập, nhưng về sau bị Microsoft mua lại vào năm 2001 và hoạt động như một studio nội bộ cho đến chính thức tan rã năm 2009. Ensemble đã phát triển nhiều tựa game chiến lược thời gian thực, bao gồm loạt game "Age of Empires", "Age of Mythology" và "Halo Wars". Ngoài ra để phát triển trò chơi, Ensemble Studios đã tạo Genie Engine được dùng trong "Age of Empires", ', và '. Game. Ensemble Studios đã phát triển loạt game thuộc thể loại chiến lược thời gian thực "Age of Empires", bao gồm "Age of Empires", "", "Age of Empires III". Ngoài ra Họ còn phát hành "Age of Mythology", một sản phẩm phụ từ dòng game gốc. Các bản mở rộng cũng được phát hành cho tất cả các phiên bản của họ bao gồm hai bản cho "Age of Empires III". Lần phát hành cuối cùng của họ là tựa game chiến lược thời gian thực gọi là "Halo Wars" cho hệ máy Xbox 360. Kết thúc và di sản. Ngày 9 tháng 9 năm 2008, Có tin báo rằng Ensemble sẽ đóng cửa sau khi phát hành trò "Halo Wars". Theo nhiều báo cáo độc lập, tất cả các nhân viên không cần thiết đều bị sa thải và các nhân viên còn lại được khích lệ cho đến khi hoàn thành dự án. Microsoft đã phát hành một bản báo cáo nội bộ vào ngày 10 tháng 9 năm 2008 mà sau đó đã bị lộ ra ngoài. Theo báo cáo trên blog của Ensemble Studio vào cuối năm 2008, công ty sẽ đóng cửa vào ngày 29 tháng 1 năm 2009. Cũng có tin nói rằng có ít nhất hai studio mới đang được hình thành bởi các nhân viên cũ của Ensemble Studio. Vào tháng 2 năm 2009, người đứng đầu cũ của Ensemble Studios Tony Goodman đã bắt đầu thành lập một studio độc lập là Robot Entertainment và một số nhân viên hiện có đã được giao những vị trí trong công ty này. Tiếp theo sự thành lập của Robot Entertainment, nhà sản xuất cũ của Ensemble Studios David Rippy đã bắt đầu thành lập một studio độc lập là Bonfire Studios, bao gồm toàn bộ các nhân viên cũ của Ensemble. Bonfire về sau được đổi tên thành Zynga Dallas thông qua việc hãng Zynga mua lại và chỉ phát hành một game duy nhất như một công ty độc lập. Vào năm 2008, một studio thứ ba gọi là Newtoy, Inc. Được tạo ra bởi các nhà phát triển từ Ensemble, hãng đã phát hành "Chess With Friends" cho iPhone vào tháng 11 năm 2008, và "Words With Friends" vào tháng 8 năm 2009. Newtoy cũng Zynga được mua lại và đổi tên thành Zynga With Friends, một biệt danh cho sự thành công của Newtoy với loạt game "With Friends". Newtoy phát hành hai game trong khi họ vẫn độc lập. Vào tháng 3 năm 2009, một studio thứ tư là Windstorm Studios đã được công bố, do Monk Dusty thành lập theo kiểu công ty một thành viên. Dusty Monk về sau đã đóng cửa studio này vào ngày 21 tháng 3 năm 2012 và gia nhập vào Robot Entertainment với những đồng nghiệp cũ của ông.
1
null
Bắc Ngụy Minh Nguyên Đế (chữ Hán: 北魏明元帝; 392–423), tên húy là Thác Bạt Tự (拓拔嗣), là hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Ngụy trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai cả của hoàng đế khai quốc Đạo Vũ Đế. Dưới thời trị vì của ông, lãnh thổ Bắc Ngụy đã không được mở rộng nhiều như dưới thời trị vì của cha ông hoặc của con trai Thái Vũ Đế, song ông đã giúp Bắc Ngụy trở thành một nhà nước ổn định ở phía bắc Trung Quốc, và khởi đầu cho truyền thống họp mặt với các triều thần quan trọng để lắng nghe lời khuyên của họ và đưa ra quyết định cuối cùng. Ông thường được các sử gia coi là một người cai trị thông minh và có óc phân tích. Đầu đời. Thác Bạt Tự sinh năm 392, tức sau khi cha Thác Bạt Khuê lập ra Bắc Ngụy vào năm 386 song trước thời điểm Thác Bạt Khuê chinh phục hầu hết lãnh thổ của kình địch Hậu Yên và xưng đế vào năm 399. Mẹ của ông là một thê thiếp được Thác Bạt Khuê sủng ái, Lưu thị, bà là con gái của tộc trưởng Hung Nô Lưu Đầu Quyến (劉頭眷). Ông sinh ra tại kinh đô Vân Trung (雲中, nay thuộc Hohhot, Nội Mông). Thác Bạt Tự là con trai cả của Thác Bạt Khuê, và Thác Bạt Khuê được thuật lại là rất vui mừng trước việc này và đã cho đại xá. Khi Thác Bạt Tự trưởng thành, ông là một chàng trai trẻ sáng suốt và có lòng tốt, tất cả các hành động của ông đều không phạm phép tắc. Ngược lại, em trai Thác Bạt Thiệu (拓拔紹) của ông lại là một thiếu niên phù phiếm và hung bạo, Thiệu thường bị phụ hoàng trừng phạt, và Thác Bạt Tự đã có gắng uốn nắn hành vi của em trai bằng những lời trách mắng, song điều này lại khiến cho Thác Bạt Thiệu tức giận ông. Năm 403, Thác Bạt Khuê sau khi xưng đế đã phong cho Thác Bạt Tự là Tề vương. Năm 409, Đạo Vũ Đế đã có ý định lập Thác Bạt Tự làm thái tử, song do truyền thống của bộ lạc Thác Bạt có quy định rằng mẹ của người thừa kế sẽ phải chết, Đạo Vũ Đế đã buộc Lưu thị phải tự sát. Đạo Vũ Đế đã triệu Thác Bạt Tự đến và giải thích rằng truyền thống này cũng giống với việc Hán Vũ Đế buộc người thiếp được mình sủng ái là Triệu thị (mẹ của Hán Chiêu Đế) phải chết, lý do đều là để tránh ảnh hưởng quá lớn của ngoại thích đối với một hoàng đế trẻ tuổi. Sau khi Thác Bạt Tự dời khỏi chỗ cha, vì có nhiều tình cảm với mẹ nên ông đã than khóc rất nhiều. Khi nghe được tin, Đạo Vũ Đế đã lại triệu ông vào cung, song do Đạo Vũ Đế vào cuối thời trị vì của mình có xu hướng hoang tưởng và bạo lực rất lớn, các hầu cận của tân thái tử đã đề nghị rằng ông không nên vào cung mà hãy đi ở ẩn tại vùng thôn quê. Thác Bạt Tự đã chấp thuận và làm theo, ông đã chạy khỏi tân đô Bình Thành. Trong khi đó, Đạo Vũ Đế đã mâu thuẫn với Hạ Lan phu nhân về những tội của con trai Thác Bạt Thiệu nên đã giam cầm và lên kế hoạch giết bà. Hạ Lan phu nhân đã bí mật gửi một tin nhắn cho con trai, bảo Thiệu hãy đến cứu bà. Đáp lại, Thác Bạt Thiệu đã ám sát Đạo Vũ Đế và cố đoạt lấy ngôi vị hoàng đế, ông ta cũng cố gắng nắm lấy quân đội. Thác Bạt Tự hay tin trong cung, đã trở về Bình Thành song lại ẩn thân, cố gắng dần tập hợp những người ủng hộ. Thác Bạt Thiệu đã cố gắng tìm kiếm để trừ khử ông, song các cận binh hoàng cung đã dần quay sang phía Thác Bạt Tự, và họ đã bắt giữ Thác Bạt Thiệu và giải đến chỗ Thác Bạt Tự. Thác Bạt Tự quyết định xử tử Thác Bạt Thiệu, Hạ Lan phu nhân và các cộng sự của Thác Bạt Thiệu. Thác Bạt Tự sau đó lên ngôi hoàng đế. Thời kỳ đầu trị vì. Minh Nguyên Đế đối lập với phong cách cai trị độc đoán của cha, ông đã lập ra một hội đồng gồm tám triều thần để cố vấn cho mình trong tất cả các vấn đề quan trọng. Hội đồng chủ yếu là những người Tiên Ti đến từ bộ lạc Thác Bạt, song cũng có người Hán và các sắc tộc khác. Điều này đã trở thành một truyền thống của những người kế vị ngai vàng Bắc Ngụy sau này. Tuy nhiên, trong khi khoan dung hơn cha của mình, ông cũng không tha thứ cho các hành vi sai trái của một số quân sư. Ví dụ, vào năm 413, một trong số các quân sư chủ chốt là Thác Bạt Khuất (拓拔屈), đã đại bại dưới tay quân Hạ trong một trận chiến, và sau đó, khi bại giáng làm thứ sử Tĩnh Châu (并州, nay là trung bộ và nam bộ Sơn Tây) thì lại lơ là nhiệm vụ, và Minh Nguyên Đế đã cho xử tử Khuất. Năm 410, Minh Nguyên Đế cử một trong số các quân sư của mình là Nam Bình công Bạt Bạt Tung (拔拔嵩) đi đánh Nhu Nhiên, và khi Bạt Bạt Tung bị quân Nhu Nhiên bao vây, Minh Nguyên Đế đã đích thân dẫn quân đi giải vây cho Bạt Bạt. Những năm sau đó, ông thường dời khỏi kinh đô Bình Thành để kiểm tra khả năng phòng thủ ở các mặt phía bắc (với Nhu Nhiên) và phía đông (với Bắc Yên), để chắc chắn rằng đất nước của ông có thể chống lại được kẻ thù. Ông cũng thường cử quân lính đi bình định các bộ lạc nổi loạn. Thời kỳ trị vì giữa. Năm 414, Minh Nguyên Đế cử các sứ thần đến Hậu Tần, Bắc Yên, Đông Tấn, và Nhu Nhiên, mục đích là để thiết lập các mối quan hệ hòa bình. Các phái đoàn đến Hậu Tần và Đông Tấn có vẻ đã đạt được thành công, song sứ thần Hốt Nữu Vu Thập Môn (忽忸于什門) đã xung đột với hoàng đế Phùng Bạt của Bắc Yên khi Phùng Bạt yêu cầu Hốt Nữu Vu phải quỳ trước mình, và Phùng Bạt đã giữ Hốt Nữu Vu lại và khước từ việc thiết lập quan hệ với Bắc Ngụy. Còn đoàn sứ thần được cử đến Nhu Nhiên thì khó khăn hơn trong việc đánh giá, vì mặc dù có được thành công ban đầu, đến tết năm 415 thỉ khả hãn Uất Cửu Lư Đại Đàn (郁久閭大檀) của Nhu Nhiên lại tiến hành xâm lược, và Minh Nguyên Đế đã buộc phải đáp trả và buộc Uất Cửu Lư Đại Đàn phải rút lui. Tuy nhiên, đến khi Minh Nguyên Đế cử quân sư Đạt Hề Cân (達奚斤) đi truy kích Uất Cửu Lư Đại Đàn, quân Bắc Ngụy đã gặp phải thời tiết khắc nghiệt và chịu nhiều thương vong do bị tê cóng. Điều này đã dẫn đến một bối cảnh lặp lại kéo dài xuyên thế kỷ, đó là Nhu Nhiên tấn công còn Bắc Ngụy sẽ phản công thành công, song sau đó lại không thể có được chiến thắng quyết định trước Nhu Nhiên. Cũng vào năm 414, Minh Nguyên Đế bắt đầu lệnh cho Thôi Hạo (崔浩), con trai của quân sư Thôi Hoành (崔宏), dạy cho ông các bản văn cổ xưa như "Kinh Dịch" và "Hồng Phạm" (洪範), cả hai đều là các bản văn huyền bí. Ông cũng thường hỏi Thôi Hạo đưa ra những lời dự đoán dựa trên các bản văn này, và chúng thường là chính xác. Thôi Hạo do đó ngày càng được Minh Nguyên Đế tin cậy và hỏi ý kiến trong các quyết định quan trọng. Năm 415, các vùng miền bắc của Bắc Ngụy bị một nạn đói lớn, khiến cho Minh Nguyên Đế phải tính đến chuyện dời đô về phía nam đến Nghiệp Thành (鄴城, nay thuộc Hàm Đan, Hà Bắc), song Thôi Hạo và Chu Đạm (周澹) lại cho rằng việc di chuyển này sẽ nhanh chóng bộc lộ sự thua kém về số lượng dân cư của người Tiên Ti với người Hán, Minh Nguyên Đế nghe theo và vẫn định đô tại Bình Thành, và chuyển một số người Tiên Ti nghèo khó đến các khu vực ở Hà Bắc hiện nay. Vào mùa đông năm 415, theo một thỏa ước hòa bình đã đạt được trước đó, hoàng đế Diêu Hưng của Hậu Tần đã gửi con gái của mình là Tây Bình công chúa đến Bắc Ngụy để kết hôn với Minh Nguyên Đế. Ông chào đón công chúa Hậu Tần với một buổi lễ theo nghi thức của một hoàng hậu. Tuy nhiên, theo phong tục của bộ lạc Thác Bạt thì chỉ có phối ngẫu nào có thể tự tay rèn được một tượng vàng thì mới có thể trở thành hoàng hậu, và Tây Bình công chúa đã không thể làm được, do vậy Minh Nguyên Đế chỉ lập bà làm quý phi, song trong cung thì bà có vinh dự của chính thất và hoàng hậu. Năm 416, tướng Lưu Dụ của Đông Tấn mở một cuộc tấn công lớn vào Hậu Tần, với ý định tiêu diệt nước này. Một hạm đội của Lưu Dụ do tướng Vương Trọng Đức (王仲德) chỉ huy đã tiến gần đến tiền đồn chính duy nhất của Bắc Ngụy ở bờ nam Hoàng Hà là Hoạt Đài (滑台, nay thuộc An Dương, Hà Nam), tướng Uất Trì Kiến (尉遲建) của Bắc Ngụy sợ quân Đông Tấn nên đã bỏ Hoạt Đài và chạy sang bờ bắc Hoàng Hà. Minh Nguyên Đế đã cho xử tử Uất Trì Kiến và sau đó cử sứ giả đến quở trách Lưu Dụ và Vương Trọng Đức, song cả hai đều khẳng định mục tiêu của họ là Hậu Tần chứ không phải Bắc Ngụy, và rằng thành Hoạt Đài sẽ sớm được trao trả khi sau khi chiến dịch kết thúc. (Tuy nhiên, Đông Tấn đã không thực sự trao trả Hoạt Đài, và Bắc Ngụy đã không còn có một sự hiện diện đáng kể nào ở bờ nam Hoàng Hà cho đến năm 422.) Quân Đông Tấn nhanh chóng chiếm được trọng thành Lạc Dương và sau đó tiến về kinh thành Trường An của Hậu Tần. Vào mùa xuân năm 417, hoàng đế Diêu Hoằng của Hậu Tần đã yêu cầu sự trợ giúp khẩn cấp của Bắc Ngụy. Minh Nguyên Đế đã triệu tập hội đồng các quân sư và xem xét liệu có nên khởi binh ngăn chặn quân Đông Tấn tiến binh để bảo vệ Hậu Tần hay không. Hầu hết các quân sư lo sợ rằng Lưu Dụ cũng muốn tiến đánh Bắc Ngụy nên đã đề xuất Minh Nguyên Đế hãy đánh chặn quân Đông Tấn. Tuy nhiên, Thôi Hạo lại nói rằng nếu làm vậy sẽ biến Bắc Ngụy trở thành mục tiêu tấn công của Đông Tấn, và Minh Nguyên Đế đã phần nào đồng ý, song vẫn cử khoảng 10 vạn lính do Bạt Bạt Tung chỉ huy đi bảo vệ bờ bắc Hoàng Hà để chuẩn bị cho trận chiến. Nếu một tàu của Đông Tấn bị gió thổi đến bờ bắc, quân Bắc Ngụy sẽ bắt giữ chiếc tàu và giết chết hoặc bắt giữ toàn bộ thủy thủ, và khi quân Đông Tấn đổ bộ lên bờ bắc, quân Bắc Ngụy tạm thời rút lui, và sau đó tái lập thế phòng thủ ở bờ bắc ngay sau khi quân Đông Tấn trở lại thuyền. Giận dữ trước sự quấy rối này, Lưu Dụ đã cử tướng Đinh Ngổ (丁旿) dẫn quân đổ bộ lên bờ bắc và giáng cho quân Bắc Ngụy một thất bại lớn. Điều này đã chấm dứt các nỗ lực của Minh Nguyên Đế nhằm cứu Hậu Tần, và từ đó cũng không còn các trận đánh nào giữa Bắc Ngụy và Đông Tấn trong suốt chiến dịch. Trong khi Minh Nguyên Đế vẫn lên kế hoạch cắt đường của Lưu Dụ nếu quân Hậu Tần có thể chặn được quận quân Đông Tấn, thì Lưu Dụ đã chiếm được Trường An và tiêu diệt Hậu Tần vào mùa thu năm 417, và kế hoạch của Minh Nguyên Đế đã không thể thực hiện. Nhiều quan lại cũ của Đông Tấn từng đối đầu với Lưu Dụ đã chạy trốn từ Hậu Tần sang Bắc Ngụy, và Minh Nguyên Đế thậm chí đã ra lệnh rằng bất kỳ ai có thể cứu giúp và đưa các thành viên hoàng tộc họ Diêu đến Bình Thành đều sẽ được trọng thưởng. (Tuy vậy, hầu hết các thành viên hoàng tộc Hậu Tần đã bị Lưu Dụ bắt và giết chết.) Thời kỳ trị vì cuối. Năm 418, Minh Nguyên Đế mở một chiến dịch tấn công Bắc Yên và bao vây kinh thành Hòa Long (和龍, nay thuộc Cẩm Châu, Liêu Ninh) của nước này, song đã không thể chiếm được thành và buộc phải rút quân. Năm 422, Minh Nguyên Đế bị ốm nặng, rõ ràng là do thuốc của các nhà giả kim thuật đưa cho ông để nhằm "kéo dài tuổi thọ". Ông đã tham khảo ý kiến của Thôi Hạo về những gì mình sẽ phải làm để chuẩn bị cho các sự kiện sau khi qua đời. Thôi Hạo đã dự đoán rằng ông sẽ phục hồi, song khuyên ông hãy lập người con trai cả là Thác Bạt Đảo làm thái tử, và sau đó chuyển giao một số quyền lực cho thái tử. Bạt Bạt Tung cũng chấp thuận, nên Minh Nguyên Đế đã lập Thác Bạt Đảo làm thái tử, và thậm chí còn cho thái tử cai trị như một hoàng đế thứ hai. Ông cũng ủy thác cho các quân sư chủ chốt gồm Bạt Bạt Tung, Thôi Hạo, Đạt Hề Cân, An Trì Đồng (安遲同), Khâu Mục Lăng Quan (丘穆陵觀), và Khâu Đôn Đôi (丘敦堆) làm các quân sư cho thái tử. Từ thời điểm này trở đi, hầu hết các vấn đề, đặc biệt là đối nội, đều do Thái tử quản lý, còn bản thân Minh Nguyên Đế chỉ quyết định các vấn đề quan trọng. Đến năm 422, sau khi hay tin về cái chết của Lưu Dụ (Lưu Dụ đã đoạt lấy ngai vàng Đông Tấn vào năm 420 và lập ra triều đại Lưu Tống), Minh Nguyên Đế đã đoạn tuyệt quan hệ với Lưu Tống và triệu tập hội đồng các quân sư, thông báo cho họ rằng ông có kế hoạch tấn công và chiếm lấy ba trọng thành ở phía nam Hoàng Hà từ tay Lưu Tống, gồm: Lạc Dương, Hổ Lao, và Hoạt Đài. Thôi Hạo đã phản đối hành động này, nên Minh Nguyên Đế đã ủy thác cho Đạt Hề Cân làm chỉ huy đội quân tiến đánh Lưu Tống. Đạt Hề Cân đầu tiên cho quân bao vây Hoạt Đài, song sau đó đã không thể nhanh chóng chiếm được thành, Minh Nguyên Đế đã đích thân dẫn quân tiến về phía nam để trợ giúp cho Đạt Hề. Ông cũng lệnh cho thái tử Đảo dẫn một đội quân đến vùng biên giới phía bắc nhằm chống lại một cuộc tấn công của Nhu Nhiên. Hoạt Đài sau đó thất thủ, và Đạt Hề Cân tiến gần đến Hổ Lao và Lạc Dương. Trong lúc này, Minh Nguyên Đế cũng cử các tướng Nga Thanh (娥清), Lư Đại Phì (閭大肥), Phổ Cơ (普幾), và Ất Chiên Kiến (乙旃建) tiến về phía đông, chiếm được một vài quận ở tây bộ Sơn Đông ngày nay. Tuy nhiên, trong khi các thành khác tại Thanh Châu (青州, nay là trung bộ và đông bộ Sơn Đông) thất thủ, quân Bắc Ngụy đã không thể chiếm được đô phủ của Thanh Châu, tức Đông Dương (東陽, nay thuộc Thanh Châu, Sơn Đông), và cuối cùng đã buộc phải rút lui sau khi đã cạn nguồn lương thảo và một phần lớn binh sĩ bị ốm. Quân Bắc Ngụy cũng sa lầy khi bao vây Hổ Lao, nơi này được Đông Tấn giao cho Mao Đức Tổ (毛德祖) phòng thủ, song lại chiếm được Lạc Dương và Hứa Xương (許昌, nay thuộc Hứa Xương, Hà Nam) vào mùa xuân năm 423, cắt đứt đường tiếp viện của Đông Tấn với Hổ Lao. Đến mùa hè năm 423, Hổ Lao thất thủ. Chiến dịch sau đó đã dừng lại, Bắc Ngụy đã kiểm soát phần lớn Hà Nam và tây bộ Sơn Đông hiện nay. Năm 423, Minh Nguyên Đế cũng bắt đầu một kế hoạch xây dựng lớn, đó là xây một thành lũy tại vùng biên giới phía bắc để phòng thủ trước các cuộc tấn công của Nhu Nhiên. Vào mùa đông năm 423, Minh Nguyên Đế qua đời. Thái tử Đảo lên ngôi, tức Thái Vũ Đế.
1
null
Viêm gan siêu vi C là bệnh truyền nhiễm, chủ yếu ảnh hưởng đến gan, do siêu vi viêm gan C (HCV) gây ra. Bệnh thường không có triệu chứng, nhưng viêm mạn tính có thể dẫn đến mô sẹo ở gan và cuối cùng là xơ gan. Nhìn chung, triệu chứng của xơ gan biểu hiện rõ sau nhiều năm mắc phải. Trong một số trường hợp, bệnh nhân xơ gan sẽ bị suy gan, ung thư gan hoặc thực quản và giãn tĩnh mạch dạ dày có thể gây tử vong. HCV chủ yếu lây qua đường máu do tiêm chích ma túy, dụng cụ y khoa không đảm bảo vô khuẩn và truyền máu. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, cả thế giới có khoảng 170 triệu người mắc bệnh viêm gan C, trong đó có khoảng 94 triệu người đang sống ở các nước châu Á.. Giả thuyết về bệnh viêm gan siêu vi C (lúc đầu gọi là "không A không B") được đưa ra vào thập niên 70 và đến năm 1989 thì xác định là bệnh viêm gan siêu vi C. Bệnh viêm gan siêu vi C chỉ có ở người và tinh tinh. Siêu vi tồn tại dai dẳng trong gan ở khoảng 85% bệnh nhân viêm gan C. Tình trạng viêm nhiễm dai dẳng có thể điều trị bằng thuốc: phác đồ điều trị chuẩn là kết hợp peginterferon và ribavirin, trong một số trường hợp dùng thêm hoặc boceprevir hoặc telaprevir. Nhìn chung, 50–80% bệnh nhân được điều trị lành bệnh. Những bệnh nhân chuyển sang xơ gan hoặc ung thư gan có lẽ cần phải ghép gan. Viêm gan siêu vi C là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến ghép gan dẫu rằng tái nhiễm siêu vi C sau cấy ghép thường xảy ra. Hiện vẫn chưa có vắc xin phòng ngừa viêm gan siêu vi C Biểu hiện triệu chứng. Viêm cấp. Bệnh gây triệu chứng cấp ở 15% số ca nhiễm. Các triệu chứng thường nhẹ và không rõ ràng, nôn, đau cơ và khớp, và sụt cân. Hầu hết các ca viêm cấp không có vàng da. Có từ 10 đến 15% số ca nhiễm tự hồi phục, thường là ở bệnh nhân trẻ và nữ. Viêm mạn. Khoảng 80% số người nhiễm siêu vi viêm gan C chuyển sang viêm mạn. Hầu hết rất ít biểu hiện triệu chứng hoặc không có triệu chứng trong vài chục năm đầu mắc bệnh. mặc dù mạn có thể gây mệt mỏi. lâu năm là nguyên nhân gây xơ gan và ung thư gan. Có khoảng 10-30 % viêm mạn chuyển sang xơ gan trong thời gian 30 năm. Xơ gan thường xảy ra ở những người cũng bị viêm gan siêu vi B hoặc nhiễm HIV, nghiện rượu, và nam giới. Những người chuyển sang xơ gan có nguy cơ gấp 20 lần bị ung thư biểu mô tế bào gan. Tỉ lệ bị ung thư ở những người này là 1-3% mỗi năm, và nếu bị xơ gan lại thêm nghiện rượu thì nguy cơ cao hơn gấp 100 lần. là nguyên nhân gây ra 27% số ca xơ gan và 25% số ca ung thư biểu mô tế bào gan trên thế giới. Xơ gan có thể dẫn đến tăng áp lực tĩnh mạch cửa, cổ trướng (tích tụ nước ở bụng),dễ bầm tím hoặc chảy máu, giãn tĩnh mạch (tĩnh mạch giãn to, đặc biệt ở dạ dày và thực quản), vàng da, và hội chứng suy giảm nhận thức gọi là bệnh não do gan. Đây chính là nguyên nhân phổ biến đòi hỏi phải ghép gan. Biến chứng ngoài gan. hiếm khi gây hội chứng Sjögren (rối loạn tự miễn), giảm tiểu cầu, lichen phẳng, bệnh tiểu đường, và rối loạn sinh sản bạch huyết tế bào B. Ước tính có 0,16% đến 45,4% bệnh nhân mạn bị giảm tiểu cầu. Có giả định được đưa ra về mối liên hệ giữa viêm gan siêu vi C với chứng ngứa sẩn cục Hyde và viêm tiểu cầu thận tăng sinh màng. cũng gây biến chứng cryoglobulin huyết, một loại bệnh viêm mạch máu vừa và nhỏ (hay viêm mạch) do sự lắng đọng của phức thể miễn dịch liên quan đến cryoglobulin. Vi rút học. Siêu vi viêm gan C (HCV) là virút chứa ARN, nhỏ, chuỗi đơn dương có vỏ bọc. HCV thuộc chi "hepacivirus," họ "Flaviviridae". HCV có 7 kiểu gen (genotype) chính, biểu thị bằng số từ 1 đến 7. Ở Mỹ, có khoảng 70% số ca viêm gan siêu vi C do genotype 1, có 20% ca do genotype 2, và khoảng 1% do mỗi trong số các genotype còn lại gây ra. Genotype 1 cũng là loại gây bệnh phổ biến nhất ở Nam Mỹ và châu Âu. Đường lây truyền bệnh. Đường lây bệnh chủ yếu ở các nước phát triển là do tiêm chích ma túy (IDU), trong khi ở các nước đang phát triển chủ yếu qua truyền máu và thủ thuật y khoa không an toàn. Có 20% số ca vẫn chưa biết rõ nguyên nhân lây truyền; tuy nhiên, nhiều ca trong số này được cho là do IDU. Do tiêm chích ma túy. IDU là yếu tố nguy cơ chính gây viêm gan siêu vi C ở nhiều nơi trên thế giới. Xem xét 77 nước thì thấy 25 nước (trong đó có Mỹ) có tỉ lệ viêm gan siêu vi C từ 60% đến 80% ở đối tượng chích ma túy. Và 12 nước có tỉ lệ mắc bệnh cao hơn 80%. Có 10 triệu người tiêm chích ma túy được cho là bị nhiễm bệnh viêm gan siêu vi C; Trung Quốc (1.6 triệu), Mỹ (1.5 triệu), và Nga (1.3 triệu) có tổng cộng số người tiêm chích bị nhiễm bệnh nhiều nhất. Nhiễm bệnh viêm gan siêu vi C ở những bạn tù tại Mỹ cao gấp 10 đến 20 lần so với dân số chung; điều này được cho là do hành vi mang tính nguy cơ cao ở trong tù, chẳng hạn như tiêm chích ma túy và xăm hình bằng dụng cụ không vô trùng. Sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Truyền máu, truyền các sản phẩm máu, hoặc ghép gan mà không thử nghiệm HCV sẽ mang nguy cơ cao lây nhiễm bệnh. Mỹ tiến hành thử nghiệm truy tầm phổ quát vào năm 1992 và Canada vào năm 1990. Biện pháp này giúp làm giảm nguy cơ lây nhiễm từ 200 đơn vị máu có 1 ca nhiễm xuống còn 10,000 đơn vị máu có 1 ca nhiễm và đến 10,000,000 đơn vị máu mới có 1 ca nhiễm.. Nguy cơ thấp vẫn tiếp tục duy trì bởi vì kể từ khi người hiến máu nhiễm bệnh viêm gan siêu vi C cho đến khi kiểm tra máu dương tính có thể từ 11–70 ngày phụ thuộc vào phương pháp thử nghiệm. Một số nước không thực hiện việc thử nghiệm viêm gan siêu vi C vì chi phí cao. Những người bị đâm phải kim của người có HCV dương tính có khả năng 1,8% nhiễm bệnh sau đó. Nguy cơ còn cao hơn nếu kim có lỗ rỗng và đâm sâu. Có nguy cơ bị lây nhiễm do niêm mạc tiếp xúc với máu nhưng thấp, và không gây lây nhiễm nếu da lành lặn tiếp xúc với máu. Dụng cụ bệnh viện cũng được xác định là đường lây truyền viêm gan siêu vi C gồm: dùng lại ống chích kim tiêm, lọ thuốc đa dụng, chai dịch truyền, và dụng cụ phẫu thuật không đảm bảo vô khuẩn, và các dụng cụ khác. Hạn chế việc thực thi bắt buộc các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn nghiêm ngặt ở các cơ sở y nha công và tư được cho là nguyên nhân chính gây lây nhiễm HCV ở Ai Cập, nước có tỉ lệ nhiễm bệnh cao nhất thế giới. Đường tình dục. Liệu có thể lây qua đường quan hệ tình dục hay không vẫn còn tranh cãi. Trong khi có mối liên hệ giữa quan hệ tình dục mang nguy cơ cao và , người ta vẫn chưa biết rõ lây nhiễm bệnh là do dùng ma túy mà không thú nhận hay là do quan hệ tình dục là yếu tố nguy cơ cao. Phần lớn bằng chứng cho thấy không có nguy cơ ở những đôi một vợ một chồng khác giới. Quan hệ tình dục gây trầy xước nhiều âm đạo, chẳng hạn quan hệ tình dục qua hậu môn, hoặc khi có bệnh lây qua đường quan hệ tình dục, trong đó có HIV hoặc loét âm đạo mang nguy cơ lây nhiễm. Chính phủ Mỹ chỉ khuyến cáo dùng bao cao su để ngừa lây nhiễm ở những người có quan hệ tình dục với nhiều người. Xăm mình. Xăm làm tăng nguy cơ mắc bệnh viêm gan siêu vi C gấp 2 đến 3 lần. Nguy cơ cao là do hoặc dụng cụ không vô khuẩn hoặc màu xăm nhiễm siêu vi gan C. Hình xăm hay xăm được thực hiện hoặc là trước giữa thập niên 80, "chui," hoặc không chuyên nghiệp gây ra mối quan ngại đặc biệt, vì trong những trường hợp như thế có thể thiếu kỹ thuật vô trùng. Nguy cơ cũng cao hơn ở hình xăm lớn. Ước tính có gần nửa bạn tù dùng chung dụng cụ xăm không vô trùng. Hiếm thấy trường hợp xăm mình ở cơ sở có giấy phép bị nhiễm trực tiếp HCV. Dùng chung vật dụng cá nhân. Các đồ dùng chăm sóc cá nhân như dao cạo râu, bàn chải đánh răng, dụng cụ làm móng và chăm sóc bàn chân có thể nhiễm máu. Dùng chung các dụng cụ này tiềm tàng khả năng dẫn đến nhiễm HCV. Cần có biện pháp phòng ngừa thích hợp trong bất kỳ tình huống y khoa nào gây chảy máu, như vết mổ và vết thương. HCV không lây qua tiếp xúc thông thường như ôm, hôn, hoặc dùng chung dụng cụ ăn uống hoặc nấu nướng. Lây qua đường âm đạo. Viêm gan C lây qua đường âm đạo từ mẹ bị nhiễm sang con chiếm ít hơn 10% số ca thai nghén. Không có biện pháp làm giảm nguy cơ này. Việc lây nhiễm xảy ra lúc nào trong quá trình mang thai vẫn chưa biết rõ, nhưng có lẽ ở cả vào thời kỳ mang thai và vào lúc sinh. Sanh lâu gây nguy cơ lây nhiễm cao hơn. Không có bằng chứng cho thấy bú sữa mẹ lây truyền HCV; tuy nhiên, đối với người mẹ nhiễm HCV thì hãy cẩn thận nên tránh cho con bú nếu núm vú nứt hoặc chảy máu, hoặc có lượng siêu vi cao trong máu. Chẩn đoán. Có một số xét nghiệm chẩn đoán như: kháng thể HCV enzyme immunoassay hay gọi là ELISA, recombinant immunoblot assay, và HCV RNA polymerase chain reaction (PCR) định lượng. ARN của HCV có thể được phát hiện bằng PRC thường từ 1 đến 2 tuần sau khi nhiễm, trong khi kháng thể cần lâu hơn nhiều để hình thành, vì vậy đến lúc này mới phát hiện được. Bệnn viêm gan siêu vi C mạn được xác định là nhiễm siêu vi viêm gan C hơn 6 tháng căn cứ trên sự hiện diện của ARN. Viêm mạn thường không có triệu chứng trong vài chục năm đầu, vì vậy thường phát hiện sau khi kiểm tra mức độ men gan tăng hoặc khi kiểm tra định kỳ những người có nguy cơ cao. Xét nghiệm không thể phân biệt được viêm cấp tính và viêm mạn tính. Huyết thanh học. Xét nghiệm viêm gan siêu vi C thường bắt đầu với xét nghiệm máu để tìm kháng thể HCV bằng xét nghiệm miễn dịch enzyme. Nếu kết quả dương tính thì làm xét nghiệm xác nhận nhằm kiểm chứng xét nghiệm miễn dịch và nhằm xác định lượng siêu vi. Xét nghiệm recombinant immunoblot assay dùng để kiểm chứng xét nghiệm miễn dịch và HCV RNA polymerase chain reaction dùng để định lượng siêu vi. Nếu không tìm thấy ARN và immunoblot dương tính thì có nghĩa là người đó đã nhiễm trước đó và không còn mang vi rút nữa do hoặc là điều trị hoặc tự khỏi; nếu immunoblot âm tính thì có nghĩa là xét nghiệm miễn dịch sai. Sau khi nhiễm khoảng 6–8 tuần thì kết quả mới cho dương tính. Men gan thay đổi trong thời gian đầu của bệnh và trung bình bắt đầu tăng sau khi nhiễm bệnh 7 tuần. Men gan hầu như không liên quan đến mức độ trầm trọng của bệnh. Sinh thiết. Các loại sinh thiết gan dùng để xác định mức độ tổn thương gan hiện tại; tuy nhiên, có nguy cơ do thủ thuật này. Các biến đổi thường thấy là u nang bạch huyết ở mô mềm, nang bạch huyết ở bộ tam cửa, và thay đổi ống mật. Cũng có một số xét nghiệm máu nhằm tìm cách xác định mức độ xơ hóa gan và nhằm hạn chế sinh thiết gan. Kiểm tra tầm soát. Chỉ 5–50% số người bị nhiễm ở Mỹ và Canada được cho là biết mình mắc bệnh. Những người có nguy cơ cao, trong đó có những người xăm mình, được khuyến cáo làm xét nghiệm kiểm tra. Đối với những người có men gan cao cũng cần rà soát vì đây thường là dấu hiệu duy nhất của viêm gan mạn. Kiểm tra định kỳ hiện không được khuyến cáo tại Mỹ. Tuy nhiên, vào năm 2012, Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh (CDC) Hoa Kỳ khuyến cáo những người sinh từ 1945 đến 1965 cần làm một xét nghiệm kiểm tra. Phòng ngừa. , không có vắc xin phòng ngừa viêm gan siêu vi C. Tuy nhiên, hiện có một số vắc xin đang được nghiên cứu bào chế và cho kết quả khả quan. Kết hợp chiến lược giảm tác hạichẳng hạn như cung cấp kim tiêm ống chích mới và điều trị dùng ma túy, làm giảm 75% nguy cơ viêm gan siêu vi C ở người tiêm chích. Kiểm tra những người hiến máu ở cấp độ quốc gia cũng quan trọng như tuân thủ biện pháp phòng ngừa quốc tế ở các cơ sở chăm sóc sức khỏe. Ở những nước không có đủ nguồn cấp ống chích, thì nên cho thuốc điều trị bằng đường uống thay vì đường tiêm. Điều trị. HCV gây viêm mạn ở 50–80% số người bị nhiễm. Khoảng 40-80% trong số viêm mạn này sạch siêu vi khi được điều trị. Rất ít trường hợp sạch siêu vi mà không phải điều trị. Bệnh nhân viêm gan siêu vi C mạn được khuyên tránh rượu và thuốc có hại cho gan, và tiêm vắc xin ngừa viêm gan siêu vi A và viêm gan siêu vi B. Những bệnh nhân viêm gan siêu vi C bị xơ gan nên kiểm tra siêu âm để tìm ung thư biểu mô tế bào gan. Bệnh viêm gan C mạn tính cần được điều trị càng sớm càng tốt nhằm: Điều trị đặc hiệu. Cây kế sữa. Silymarin trong cây kế sữa ức chế vi rút viêm gan C (HCV) qua khả năng chống oxy hóa, kháng viêm và điều hòa miễn dịch, góp phần làm tăng hiệu quả bảo vệ gan. Một số nghiên cứu lâm sàng trong đó sử dụng các chiết xuất thảo dược, đặc biệt là silymarin, để điều trị cho bệnh nhân viêm gan C mãn tính, với mục đích chứng minh rằng loại thuốc này thích ứng tốt với các chất kháng virus và giúp giảm thiểu các phản ứng phụ bất lợi. Các nghiên cứu gần đây cũng chỉ ra rằng silymarin có tác dụng làm giảm sự hình thành kháng insulin. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với những người mắc bệnh viêm gan C, thể hiện qua tỷ lệ đáp ứng virus bền vững (sustained virological response – SVR), cho thấy khi điều trị kết hợp silymarin với pegylated interferon và ribavirin thì lượng kháng insulin hình thành chỉ là một nửa (25-33%) so với những bệnh nhân không sử dụng silymarin – có lượng kháng insulin lên đến 60%. Interferon Alpha. Cho đến nay, biện pháp cơ bản điều trị viêm gan siêu vi C là Interferon alpha. Đây là một chất tự nhiên của cơ thể, được sản xuất bởi các tế bào đề kháng khi bị nhiễm siêu vi. Như vậy, khi được dùng để điều trị bệnh viêm gan C, interferon alpha bắt chước đáp ứng tự nhiên của cơ thể chúng ta. Interferon alpha (RoferonỊ-A) được đóng sẵn trong bơm tiêm nhỏ, tiêm dưới da hoặc bắp thịt. Sau những lần tiêm đầu tiên, hầu hết bệnh nhân có cảm giác sốt nhẹ, mệt mỏi giống như cúm trong vài giờ. Lý do là việc điều trị Interferon alpha sẽ khởi động đáp ứng của cơ thể chống lại siêu vi trùng C, tương tự như đối với siêu vi trùng cúm. Những triệu chứng này giảm dần sau một vài tuần. Để hạn chế tác dụng phụ này, nên tiêm thuốc vào buổi tối và uống Paracetamol nửa tiếng trước khi tiêm. Trong thời gian điều trị, nên làm xét nghiệm máu để đánh giá đáp ứng. Sau khi kết thúc đợt điều trị, cần tiếp tục theo dõi 6 tháng tiếp theo, bởi vì một số bệnh nhân có thể tái phát sau khi ngưng điều trị. Hiên nay, một số phác đồ phối hợp kháng sinh chống virut cho kết quả khỏi bệnh cao hơn, ví dụ kết hợp Interferon alpha với Ribavirin. Chi phí điều trị. Đến tháng 11/2014, Bảo hiểm xã hội Việt Nam vẫn chưa chi trả bảo hiểm thuốc cho bệnh nhân điều trị viêm gan siêu vi C. Chi phí thuốc khoảng từ 60 - 200 triệu đồng/ 1 bệnh nhân. Tiên lượng. Đáp ứng điều trị có khác nhau tùy theo genotype. Có 40-50% số bệnh nhân nhiễm HCV genotype 1 đáp ứng lâu dài với 48 tuần điều trị. Có 70-80% bệnh nhân nhiễm HCV genotype 2 và 3 đáp ứng lâu dài với 24 tuần điều trị. Có khoảng 65% số bệnh nhân nhiễm genotype 4 đáp ứng lâu dài với 48 tuần điều trị. Hiếm thấy hiệu quả trong điều trị bệnh genotype 6, và hiệu quả cho thấy trong 48 tuần điều trị với liều giống như liều cho bệnh genotype 1. Bệnh dịch học. Ước tính có 130–170 triệu người, hay khoảng 3% dân số thế giới, sống chung với viêm gan siêu vi C mạn tính. Có khoảng 3–4 triệu người nhiễm bệnh mỗi năm, và hơn 350,000 người tử vong do các biến chứng của viêm gan siêu vi C mỗi năm. Tỉ lệ tăng đều đặn vào thế kỷ 20 do cả IDU và thuốc điều trị qua đường tĩnh mạch hoặc dụng cụ y khoa không đảm bảo vô trùng. Trong số những bệnh nhân viêm mạn tính, nguy cơ bị xơ gan sau 20 năm có khác nhau giữa các nghiên cứu nhưng ước tính khoảng 10%-15% ở nam và khoảng 1-5% ở nữ. Nguyên nhân có sự khác nhau về nguy cơ vẫn chưa rõ. Một khi bị xơ gan thì tỉ lệ tiến triến sang ung thư biểu mô tế bào gan là từ 1%-4% mỗi năm. Ở Mỹ, khoảng 2% dân số bị viêm gan siêu vi C, với khoảng 35,000 đến 185,000 ca mới mỗi năm. Tỉ lệ mắc bệnh giảm ở các nước phương Tây vào thập niên 90 nhờ cải thiện việc kiểm tra máu trước khi truyền. Tỉ lệ tử vong hàng năm do HCV ở Mỹ từ 8,000 đến 10,000; tỉ lệ tử vong được dự tính sẽ tăng vì những người bị nhiễm do truyền máu trước khi xét nghiệm HCV cho kết quả dương tính. Tỉ lệ mắc bệnh cao hơn ở một số nước châu Phi và châu Á. Những nước có tỉ lệ bệnh đặc biệt cao là Ai Cập (22%), Pakistan (4.8%) và Trung Quốc (3.2%). Sở dĩ ở Ai Cập có tỉ lệ cao được cho là do chiến dịch điều trị hàng loạt bệnh sán máng không liên tục trong đó có sử dụng ống tiêm thủy tinh không vô trùng. Lịch sử. Vào giữa thập niên 70, Harvey J. Alter, Chủ nhiệm bộ môn Bệnh Lây Truyền thuộc Viện Y tế Quốc gia, và nhóm nghiên cứu của ông chứng minh hầu hết các ca viêm gan sau tiêm truyền không do siêu vi Viêm gan A hoặc B. Mặc dù khám phá này, các nỗ lực nghiên cứu quốc tế nhằm tìm cách xác định siêu vi, mà lúc đầu gọi là "viêm gan không A không B" (NANBH), bị thất bại trong thập niên sau đó. Vào năm 1987, Michael Houghton, Qui-Lim Choo, và George Kuo thuộc Chiron Corporation, cộng tác với bác sĩ D.W. Bradley thuộc Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh, đã dùng phương pháp vô tính phân tử nhằm xác định vi sinh vật chưa biết này. Vào năm 1988, siêu vi này được Alter xác nhận bằng cách kiểm tra bộ mẫu NANBH. Vào tháng 4 năm 1989, việc phát hiện HCV được công bố trong hai bài báo trên tạp chí "Science". Sự phát hiện siêu vi đưa đến cải thiện đáng kể trong chẩn đoán và cũng nâng cao điều trị chống siêu vi. Vào năm 2000, nữ bác sĩ Alter và Houghton được vinh danh nhận Giải Lasker dành cho nghiên cứu y học lâm sàng vì "công trình tiên phong đưa đến việc phát hiện siêu vi gây viêm gan C và tìm ra phương pháp kiểm tra làm giảm nguy cơ viêm gan do truyền máu từ 30% vào năm 1970 xuống gần như 0% vào năm 2000." Chiron đệ đơn xin cấp bằng sáng chế về siêu vi C và chẩn đoán siêu vi C. Vào năm 1990, CDC rút đơn xin cấp bằng sáng chế cạnh tranh sau khi Chiron trả 1,9 triệu đô la Mỹ cho CDC và 337.500 đô la Mỹ cho Bradley. Vào năm 1994, Bradley kiện Chiron, tìm cách vô hiệu bằng sáng chế, đưa tên mình vào làm đồng phát minh, và nhận tiền bồi thường và thu nhập khủng. Vào 1998, ông bỏ vụ kiện sau khi bị thua kiện ở tòa phúc thẩm. Xã hội và văn hóa. Ngày viêm gan thế giới, được tổ chức vào 28 tháng 7 do Liên đoàn viêm gan thế giới (World Hepatitis Alliance) điều phối. Về mặt kinh tế, chi phí cho viêm gan C rất tốn kém đối với cả cá nhân và xã hội. Ở Mỹ, trung bình, chi phí suốt đời dành điều trị bệnh ước tính 33,407 đô la Mỹ vào năm 2003 với chi phí ghép gan khoảng 200,000 đô la Mỹ. Ở Canada chi phí cho đợt điều trị chống siêu vi lên đến 30,000 đô la Canada vào năm 2003, trong khi ở Mỹ từ 9.200 đến 17.600 đô la Mỹ vào năm 1998. Ở nhiều nước trên thế giới, người ta không thể trả nổi tiền điều trị chống siêu vi vì họ hoặc không có bảo hiểm hoặc bảo hiểm của họ không chi trả tiền điều trị chống siêu vi. Nghiên cứu. Tính đến 2011, có khoảng 100 loại thuốc điều trị viêm gan siêu vi C đang được nghiên cứu. Trong số đó, có vắc xin phòng viêm gan, tác nhân điều biến miễn dịch, và ức chế cyclophilin, và những thuốc khác. Có được những phương pháp điều trị mới tiềm năng này là nhờ sự hiểu biết nhiều hơn về siêu vi viêm gan siêu vi C. Viêm gan siêu vi C là bệnh do siêu vi viêm gan C - một loại virút - xâm nhập tế bào gan, gây ra bệnh viêm gan. HCV xâm nhập thẳng vào cơ thể qua máu; rồi tấn công tế bào gan và sinh sôi nảy nở tại đây, làm cho tế bào gan sưng lên và đồng thời giết các tế bào gan. Có đến 80% những người bị nhiễm HCV có khả năng trở thành bệnh kinh niên ("chronic") - có nghĩa là 6 tháng sau khi bị nhiễm, bệnh vẫn không hết. Đa số những người bị HCV kinh niên không thấy có triệu chứng nào và vẫn có cuộc sống bình thường. Tuy nhiên, trong số 10 - 25% người có HCV kinh niên, bệnh sẽ âm thầm tiến triển trong khoảng 10 - 40 năm, và có thể làm hư gan trầm trọng, xơ gan ("cirrhosis"), hoặc ung thư gan. Hiện nay bệnh viêm gan C là nguyên nhân hàng đầu đưa đến việc thay ghép gan tại Hoa Kỳ. Cho đến nay chưa có thuốc chích ngừa hoặc thuốc để chữa lành hẳn bệnh HCV. Tuy nhiên nhiều phương pháp trị liệu được áp dụng có thể tiêu diệt và/hoặc làm chậm lại hay chận đứng sự phát triển của HCV cho một số người. Cách lây nhiễm. Siêu vi viêm gan C lưu hành trong máu, do đó bệnh viêm gan C lây truyền chủ yếu qua đường máu. Những đường lây nhiễm siêu vi C chủ yếu: Diễn biến tự nhiên. Phần lớn bệnh nhân không có triệu chứng lâm sàng. Một số khác có biểu hiện mệt mỏi, chán ăn, có thể vàng da, vàng mắt, nước tiểu đậm màu.Chẩn đoán bệnh dựa vào xét nghiệm máu. Khoảng 85% trường hợp nhiễm Viêm gan siêu vi C sẽ chuyển thành viêm gan mạn tính, nghĩa là không đào thải được virut sau 6 tháng. Đặc điểm nổi bật của bệnh viên gan C mạn tính là sự tiến triển rất thầm lặng qua 10-30 năm, vì thế người bệnh thường không được chẩn đoán và điều trị kịp thời. Nhiều trường bệnh chỉ được phát hiện khi đã có biến chứng nghiêm trọng: xơ gan với biểu hiện báng bụng (ổ bụng có nước), giãn mạch máu đường tiêu hóa, có thể vỡ gây chảy máu ồ ạt và tử vong. Một biến chứng nữa là ung thư tế bào gan. Khi đã xơ, gan khó hồi phục lại, cho dù tình trạng viêm có thuyên giảm. Vì vậy, các thầy thuốc khuyên nên điều trị sớm nhằm ngăn ngừa hoặc làm chậm tiến triển sang giai đoạn xơ gan. Chẩn đoán. Xét nghiệm máu. Men gan tăng chứng tỏ tế bào gan đang bị phá hủy. Kháng thể chống siêu vi C dương tính trong hầu hết các trường hợp. Chức năng gan có thể rối loạn tùy mức độ và thời gian bị bệnh. Khám chuyên khoa gan. Sau khi xác nhận đang có quá trình viêm gan, nên làm thêm các xét nghiệm: Lời khuyên chế độ ăn và lối sống. Chế độ ăn. Nên hạn chế uống rượu bia, bởi vì xơ gan dễ xảy ra hơn ở người viêm gan đồng thời nghiện rượu. Bệnh nhân viêm gan C có thể duy trì chế độ ăn lành mạnh bình thường. Khi đã có xơ gan, bác sĩ khuyên nên áp dụng chế độ ăn giảm muối và giảm béo. Lối sống. Siêu vi viêm gan C lây truyền qua đường máu. Nếu bị đứt tay, hãy lau sạch máu bằng dung dịch sát trùng. Mặc dù nguy cơ lây nhiễm thấp, vẫn nên áp dụng phương pháp bảo vệ khi quan hệ tình dục.
1
null
Nghĩa trang liệt sĩ Rừng Sác là một nghĩa trang ở Việt Nam, được xây dựng và hoàn thành vào năm 2011 tại thị trấn Cần Thạnh, huyện Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi này quy tập khoảng trên dưới hai ngàn mộ tử sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam, trong đó có hơn 860 mộ của các chiến sĩ thuộc Đoàn 10 Đặc công (còn gọi là Đặc công rừng Sác). Quy tập mộ. Theo thống kê, qua hai cuộc chiến tranh tại Việt Nam xảy ra trên đất Cần Giờ thì có khoảng 454 Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, cán bộ chiến sĩ, du kích người Cần Giờ tử trận và đặc biệt có hơn 860 liệt sĩ thuộc Đoàn 10 Rừng Sác đã chết. Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, chính quyền và người dân huyện Cần Giờ đã tích cực phối hợp với các ngành chức năng, các địa phương liên quan để tìm kiếm, cất bốc và quy tập hài cốt các liệt sĩ có nguyên quán tại Cần Giờ và sau hơn 36 năm thì đạt kết quả khả quan với 169 di vật, hài cốt liệt sĩ có nguyên quán tại huyện Cần Giờ được công nhận, quy tập về Nghĩa trang liệt sĩ rừng Sác. Năm 2005 đã diễn ra lễ truy điệu và cải táng tượng trưng phần mộ của 540 liệt sĩ thuộc Trung đoàn 10 đặc công Rừng Sác tử trận ở khu vực sông Lòng Tàu, sông Soài Rạp những năm 1967-1968 mà người ta chưa tìm thấy hài cốt. Quá trình xây dựng. Nghĩa trang liệt sĩ Rừng Sác được khởi công ngày 13 tháng 12 năm 2003 và phải trải qua ba giai đoạn thi công xây dựng, đến ngày 24 tháng 01 năm 2011 công trình được hoàn thành với tổng mức đầu tư hơn 18 tỷ đồng Việt Nam. Lễ khánh thành được tổ chức vào sáng ngày 29 tháng 01 năm 2011. Một số hoạt động. Sau khi khánh thành và đưa vào hoạt động, Nghĩa trang liệt sĩ Rừng Sác là nơi thường xuyên diễn ra các sự kiện quan trọng như truy điệu, dâng hương, thắp nến tri ân vào Ngày Thương binh Liệt sĩ của Việt Nam, như sự kiện hơn gần 1.000 thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh đã cùng thắp nến tưởng niệm tại đây vào chiều ngày 12 tháng 5 năm 2012. Nhiều lãnh đạo cấp cao của nhà nước Việt Nam và Thành phố Hồ Chí Minh cũng từng đến dâng hương, tưởng niệm. Đại tướng Phùng Quang Thanh khi đến dâng hương cũng đã ghi vào sổ lưu niệm: "Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam tỏ lòng khâm phục và biết ơn các anh hùng liệt sĩ và đồng bào Rừng Sác đã hy sinh anh dũng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Toàn quân nguyện giữ vững phẩm chất bộ đội cụ Hồ, phát huy truyền thống cách mạng làm nòng cốt cùng toàn Đảng toàn dân giữ vững thành quả cách mạng, tham gia xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đời đời biết ơn và nguyện noi theo tấm gương chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và chủ nghĩa xã hội của các anh hùng liệt sĩ, cựu chiến binh Rừng Sác"
1
null
Niacin hay niaxin (còn được gọi là vitamin B3, axit nicotinic hay vitamin PP) là một hợp chất hữu cơ có công thức và là một trong 40 đến 80 chất dinh dưỡng thiết yếu của con người, tùy thuộc vào định nghĩa được sử dụng. Niacin là một trong năm vitamin mà nếu thiếu trong chế độ ăn uống của con người sẽ gây ra bệnh điển hình: bệnh thiếu niacin (pellagra), bệnh thiếu vitamin C (scurvy), bệnh thiếu thiamin (beriberi), bệnh thiếu vitamin D (bệnh còi xương), bệnh thiếu vitamin A (bệnh mù ban đêm và các triệu chứng khác). Niacin đã được sử dụng trong hơn 50 năm để tăng mức độ HDL trong máu và đã được chứng minh là có thể làm giảm nguy cơ gây bệnh tim mạch trong một số thử nghiệm có kiểm soát trên người. Niacin là chất rắn hòa tan trong nước, không màu, là dẫn xuất của pyridin, với nhóm carboxyl (COOH) ở vị trí số 3. Các dạng vitamin B3 khác là dạng amid, nicotinamid ("niacinamid"), trong đó nhóm carboxyl được thay bằng nhóm carboxamid (), cũng như các amid phức tạp hơn và các dạng este. Cả axit nicotinic và nicotinamid đều được gọi chung là niacin hay vitamin B3, và bởi vì có hoạt tính sinh hóa tương tự nhau, axit nicotinic và nicotinamid thường được dùng thay thế nhau khi đề cập đến các hợp chất thuộc họ này. Niacin không thể chuyển trực tiếp thành nicotinamid, nhưng cả hai hợp chất có thể được chuyển thành NAD và NADP "in vivo". Mặc dù có hoạt tính vitamin như nhau nhưng nicotinamid lại không có tác dụng dược lý (tác động lên lipid) như niacin. Nicotinamid không làm giảm cholesterol hoặc gây bệnh flushing. Nicotinamide có thể gây độc cho gan ở liều vượt quá 3 g/ngày đối với người lớn. Niacin là tiền chất của NAD+/NADH và NADP+/NADPH, là những chất đóng vại trò thiết yếu trong việc chuyển hóa trong tế bào sống. Niacin tham gia vào việc cải biến DNA và sản sinh các hormon steroid trong tuyến thượng thận. Nhu cầu. Một khuyến nghị sử dụng hàng ngày đối với niacin là 2–12 mg/ngày đối với trẻ em, 14 mg/ngày đối với phụ nữ, 16 mg/ngày đối với nam giới và 18 mg/ngày đối với phụ nữ có thai và phụ nữ đang cho con bú. Nói chung, tình trạng niacin trong cơ thể được kiểm tra thông qua nước tiểu được coi là đáng tin cậy hơn là kiểm tra trong huyết tương. Sự thiếu hụt. Hiện nay, thiếu hụt niacin đôi khi xảy ra ở các nước đang phát triển và thường xuyên hơn trong điều kiện nghèo đói, suy dinh dưỡng và nghiện rượu mãn tính. Thiếu hụt niacin cũng có xu hướng xảy ra ở các vùng mà ngô là lương thực chính (ngô là loại ngũ cốc duy nhất có mức niacin tiêu hóa được ở mức thấp). Thiếu hụt niacin ở mức nhẹ đã được chứng minh là sẽ làm chậm quá trình trao đổi chất, làm giảm khả năng chịu lạnh. Sự thiếu hụt nghiêm trọng niacin trong chế độ ăn gây ra bệnh pellagra, với triệu chứng là viêm da, tiêu chảy, sút giảm trí nhớ, tăng sắc tố, dày da, viêm miệng và lưỡi, tiêu hóa rối loạn và sẽ tử vong nếu không được điều trị. Các triệu chứng tâm thần thường gặp khi thiếu niacin bao gồm khó chịu, kém tập trung, lo âu, mệt mỏi, bồn chồn, thờ ơ và trầm cảm. Ảnh hưởng biến cải lipid. Niacin liên kết và kích thích thụ thể cặp protein G, GPR109A, là tác nhân gây ức chế phân hủy chất béo trong mô mỡ. Nicotinamid thì không liên kết với thụ thể nêu trên nên không ảnh hưởng đến mức lipid trong máu. Các lipid được giải phóng từ các mô mỡ thường được dùng để tạo nên các lipoprotein tỉ trọng rất thấp (VLDL) trong gan, là tiền chất của lipoprotein tỉ trọng thấp (LDL) hay cholesterol "xấu". Niacin ngăn cản sự phân hủy chất béo nen nó làm giảm mức axit béo tự do trong máu và do đó làm giảm tiết VLDL và cholesterol ở gan. Niacin làm giảm mức VLDL do đó làm tăng mức lipoprotein tỉ trọng cao (HDL) hay cholesterol "tốt" trong máu, nên đôi khi nó được chỉ định dùng cho người có HDL thấp và có nguy cơ cao bị đau tim. Độc tính. Sử dụng niacin liều cao có thể làm tăng lượng đường trong máu, gây trầm trọng thêm bệnh đái tháo đường, nhưng các nghiên cứu gần đây cho thấy ảnh hưởng thực tế lên lượng đường trong máu chỉ ở mức 5-10%. Các bệnh nhân tiểu đường tiếp tục sử dụng thuốc chống đái tháo đường có chứa niacin cho thấy lượng đường huyết thay đổi không lớn. Do vậy, niacin tiếp tục được khuyến cáo như là một loại thuốc để ngăn ngừa bệnh tim mạch ở những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường. Tăng acid uric máu là một tác dụng phụ của liều cao niacin và có thể làm trầm trọng thêm bệnh gút. Niacin ở liều sử dụng để giảm mức cholesterol có liên quan đến các dị tật bẩm sinh ở động vật trong phòng thí nghiệm, và có thể gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của bào thai. Nicotinamid. Nicotinamid có thể được thu được từ chế độ ăn uống đó là hiện nay chủ yếu là NAD+ và NADP+. Chúng được thủy phân trong ruột và nicotinamid sinh ra được hấp thụ trực tiếp hoặc tiếp tục thủy phân thành axit nicotinic. Trong tự nhiên chỉ có một lượng nhỏ nicotinamid. Trong thực phẩm không chế biến, niacin chủ yếu có mặt ở dạng pyridine nucleotide NAD và NADP. Các chất này có thể bị thủy phân bởi các enzym trong quá trình chế biến thực phẩm. Quá trình đun sôi thực phẩm có thể giải phóng niacin dưới dạng nicotinamide (lên đến 55 mg/kg). Sinh tổng hợp và hóa tổng hợp. Gan có thể tổng hợp niacin từ tryptophan, cần đến 60 mg tryptophan để cps 1 mg niacin. Một số phản ứng liên quan trong việc chuyển đổi tryptophan thành NAD cần đến riboflavin, vitamin B6 và sắt. Mỗi năm có vài triệu kilogam niacin được tổng hợp từ 3-methylpyridin. Nguồn thực phẩm giàu niacin. Niacin có trong nhiều loại thực phẩm, bao gồm cả gan, thịt gà, thịt bò, cá, ngũ cốc, đậu phộng và các loại đậu và cũng được tổng hợp từ tryptophan, một amino acid thiết yếu có trong hầu hết các dạng protein. Các sản phẩm động vật: Rau quả: Các loại hạt, đậu đỗ
1
null
Sonny with a Chance là một album nhạc phim cho bộ phim truyền hình chính thức của Disney Channel "Sonny with a Chance". Album được phát hành vào 5 tháng 10 bởi hãng đĩa Walt Disney và ra mát ở vị trí 163 trên bảng xếp hạng "Billboard" 200, khiến cho album trở thành album nhạc phim lên hạng chậm nhất của Demi Lovato ở bảng xếp hạng này. Album cũng ra mắt ở vị trí thứ 3 tại bảng xếp hạng Kid Albums của Mỹ và vị trí thứ 8 trên bảng xếp hạng Top Soundtracks. Hai đĩa đơn từ album đã được phát hành. Đĩa đơn thứ nhất là "So Far, So Great" biểu diễn bởi Demi Lovato. Đĩa đơn sau đó là "Me, Myself and Time", đã đạt vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng "Billboard" Bubbling Under Hot 100 Singles
1
null
"Turn to You (Mother's Day Dedication)" là một ca khúc của nam ca sĩ thu âm người Canada Justin Bieber. Ca khúc được phát hành vào 11 tháng 5 năm 2011 để dành riêng cho Ngày của Mẹ vào 13 tháng 5. Thực hiện. "Turn to You (Mother's Day Dedication)" được sáng tác và biên soạn bởi Justin Bieber, Nasri, Jacob Pena, Adam Messinger, Tom Strahle và được sản xuất bởi Bieber và Adam Messinger.
1
null
Các nhân vật trong "Ngày xửa ngày xưa (tiếng Anh: Once Upon a Time"), một bộ phim truyền hình cổ tích Mỹ được tạo ra bởi Edward Kitsis và Adam Horowitz, là những nhân vật cổ tích từ Khu rừng Phép thuật bị nguyền rủa trong chiếc bẫy thời gian tại Storybrooke, Maine. Họ bị buộc phải sống một cuộc sống mà không có những kết thúc có hậu, và đa số họ không thể nhớ thân phận thực sự của họ là ai. Câu chuyện xoay quanh một nữ trinh thám lẻ loi Emma Swan tái ngộ với cậu bé Henry Mills, đứa con mà cô bỏ rơi mười năm trước. Không muốn dính líu đến cậu, Emma chở trả cậu về nhà ở Storybrooke. Trên đường đi, cậu bé luôn kể với cô mọi chuyện trong cuốn sách cổ tích lớn mà cậu cầm theo là có thật: mọi người ở Storybrooke là những nhân vật trong cuốn sách bị nguyền rủa bởi Hoàng hậu Độc ác, và rằng là con gái của Bạch Tuyết và Hoàng tử Quyến Rũ, Emma là người duy nhất có thể giải thoát họ. Emma không tin lấy một chữ từ lời nói của cậu và giữ nguyên ý định trả cậu về cho Regina Mills, thị trưởng của Storybrooke, người mà Henry cho rằng là bà Hoàng hậu trong cuốn sách. Hoài nghi, Emma quyết định ở lại Storybrooke chỉ sau khi nhìn thấy Henry cô đơn và thiếu thốn tình cảm như thế nào. Thái độ đối kháng của Regina làm cho Emma trở nên đáng ngờ về bà ta và cô ở lại thị trấn. Vô tình, cô bắt đầu phá vỡ lời nguyền. Những công dân còn lại Storybrooke được tiết lộ thân phận cổ tích của họ thông qua những đoạn hồi tưởng các sự kiện trong Khu rừng Phép thuật: Mary Margaret Blanchard, giáo viên của Henry và thật sự là Bạch Tuyết; David Nolan, người tỉnh dậy sau cơn hôn mê tìm thấy những ký ức sai lầm với người vợ Kathryn Nolan mâu thuẫn với những cảm xúc mà anh có với Bạch Tuyết khi anh là Hoàng tử Quyến Rũ; Ông Gold, người đàn ông giàu nhất thị trấn và là người đáng sợ nhất, phản ánh thân phận thực của ông là Rumplestiltskin; Archie Hopper, Chú dế Jiminy trong thế giới cổ tích, là bác sĩ tâm lý trị liệu trong thị trấn; Cảnh sát trưởng Graham là người thợ săn được gửi đến để sát hại Bạch Tuyết; August Booth, một nhà văn liệt nửa thân người cần phép thuật để hồi phục và là người lạ đầu tiên đến thị trấn sau Emma, thực sự là cậu bé gỗ Pinocchio; và nhiều nhân vật cổ tích khác. Nhân vật định kỳ. Maleficent. Bác sĩ Whale/Tiến sĩ Frankenstein
1
null
Đảo Keppel () là một đảo trong quần đảo Falkland, nằm giữa Saunders và Pebble. Nó có diện tích và điểm cao nhất, đỉnh Keppel, đạt . Có một thung lũng rộng, phẳng ở tâm đảo với nhiều hồ nước ngọt. Thung lũng này dốc đứng về phía tây nam, tây và bắc. Mạn đông bắc đảo khá thấp, với đường bờ biển hõm sâu. Chuột nâu là loài xâm lấn số một, là kẻ thù của chim làm tổ trên đảo mà trong đó có những loài cần bảo vệ. Vùng chim quan trọng. Đảo Keppel được BirdLife International đánh giá là Vùng chim quan trọng (IBA). Những loài bảo tồn quan trọng là "Tachyeres brachypterus", "Chloephaga rubidiceps", "Pygoscelis papua" (cánh cụt Gentoo, 1250 cặp sinh sản) "Eudyptes chrysocome" (780 cặp), "Spheniscus magellanicus" (cánh cụt Magellan), "Thalassarche melanophris" (hải âu mày đen, 1800 cặp) và "Melanodera melanodera".
1
null
Tour de France 2012 là cuộc đua thứ 99 của giải đua xe đạp Vòng quanh nước Pháp - Tour de France. Giải đua xuất phát tại thành phố Liège của Bỉ và kết thúc trên đại lộ Champs-Elysées, thủ đô Paris. Ngoài Bỉ và Pháp, một phần cuộc đua cũng diễn ra trên lãnh thổ của Thụy Sĩ. Tour de France 2012 được bắt đầu vào ngày 30 tháng 6 và kết thúc vào ngày 22 tháng 7 năm 2012.
1
null
Tần Lĩnh () là một dãy núi chính chạy theo hướng đông-tây ở nam bộ tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc. Cùng với Hoài Hà, dãy núi tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Bắc và Nam Trung Quốc. Tần Lĩnh là nơi sinh sống của rất nhiều loài thực vật và động vật hoang dã, trong đó một số loài không thể tìm thấy ở một nơi nào khác trên Trái Đất. Ở phía bắc Tần Lĩnh là thung lũng Vị Hà có dân cư đông đúc, và là một trung tâm thời cổ của nền văn minh Trung Hoa. Ở phía nam Tần Lĩnh là thung lũng Hán Thủy. Ở phía tây là một dãy các ngọn núi dọc theo mép phía bắc của cao nguyên Thanh-Tạng. Ở phía đông Tần Lĩnh là Phục Ngưu Sơn (伏牛山) và Đại Biệt Sơn. Mặc dù phía bắc của dãy núi hay có thời tiết nóng nực, tuy nhiên, dãy núi đã tạo thành một rào cản tự nhiên khiến cho vùng đất phìa bắc của nó có khí hậu bán khô hạn, cùng với đất đai thiếu phì nhiêu và đa dạng nên nơi đây không có một hệ động vật hoang dã phong phú. Dãy núi cũng đóng vai trò như một tuyến phòng thủ tự nhiên chống lại các cuộc xâm lược của các sắc dân du mục từ phương Bắc do chỉ có bốn đèo để qua dãy núi này. Vào cuối thập niên 1990, một hầm đường sắt và một tuyến đường xoắc ốc đường sắt đã được hoàn tất, do đó việc vượt qua dãy núi đã trở nên dễ dàng. Đỉnh cao nhất của dãy núi là Thái Bạch Sơn (太白山) với cao độ , cách Tây An về phía tây và là đỉnh núi cao nhất tại phía đông Trung Quốc. Hóa Sơn (华山) (), Li Sơn (骊山/驪山) (), và Mạch Tích Sơn (麦积山) () là ba đỉnh quan trọng khác của dãy núi. Sinh vật. Môi trường tại Tần Lĩnh thuộc vùng sinh thái rừng rụng lá dãy núi Tần Lĩnh. Tần Lĩnh tạo thành một vùng phân nước giữa lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang. Lưu vực Hoàng Hà ở miền Bắc Trung Quốc, về mặt lịch sử thì vùng này có các rừng lá rộng rụng lá. Lưu vực Trường Giang ở miền Nam Trung Quốc, vùng này có mùa đông ôn hòa hơn và có lượng mưa lớn hơn, và về mặt lịch sử thì vùng này có rừng lá rộng thường xanh ôn đới ấm. Các khu rừng có độ cao thấp ở vùng chân núi được thống trị bởi các loài cây rụng lá ôn đới như sồi ("Quercus acutissima, Q. variabilis"), cây đu ("Ulmus"), hồ đào ("Juglans regia"), phong ("Acer" spp.), tần bì ("Fraxinus") và "cơm nguội" (Celtis). Các loài thường xanh tại các khu vực có độ cao thấp bao gồm cây lá rộng Castanopsis sclerophylla, sồi Quercus glauca và cây lá kim thông đuôi ngựa ("Pinus massoniana"). Ở độ cao trung bình, các loại cây lá kim như Thông trắng Trung Quốc ("Pinus armandii") mọc xen với bạch dương lá rộng ("Betula"), sồi ("Quercus") và cây trăn ("Carpinus"). Từ độ cao 2.600 đến 3.000 mét, các khu rừng ở độ cao trung bình này nhường chỗ có một kiểu rừng phụ núi cao gồm linh sam ("Abies fargesii, A. chensiensis"), sa mộc ("Cunninghamia"), và bạch dương ("Betula"), và một giống đỗ quyên có danh pháp khoa học là "Rhododendron fastigiatum" mọc nhiều dưới tán rừng. Khu vực Tần Lĩnh có một số lượng lớn các loài cây quý hiếm, trong đó khoảng 3.000 đã được ghi nhận cho đến nay. Các loài thực vật bản địa trong khu vực bao gồm chi Bạch quả ("Ginkgo"), một trong số các loài cây cổ nhất trên thế giới, cũng như thông trắng Trung Quốc ("Pinus armandii"), túc Miếu Đài ("Acer miaotaiense") và sa mộc. Việc đốn gỗ tại Tần Lĩnh đã lên đến đỉnh điểm vào thế kỷ 18. Tần Lĩnh là nơi sinh sống của các loài gấu trúc Tần Lĩnh, một phân loài của gấu trúc lớn, được bảo vệ trong vùng với sự hỗ trợ của các khu bảo tồn thiên nhiên Trường Thanh (长青) và Phật Bình (佛坪). Có từ 250 đến 280 cá thể gấu trúc lớn sinh sống trong khu vực, và được ước tính là chiếm khoảng một phần năm toàn bộ số gấu trúc lớn hoang dã. Tần Lĩnh cũng là nơi sinh sống của linh ngưu (Budorcas taxicolor, một loài bò), chim trĩ vàng ("Chrysolophus pictus"), voọc mũi hếch vàng ("Rhinopithecus roxellana"), gà lôi tía ("Tragopan temminckii"), Cò quăm mào Nhật Bản ("Nipponia nippon"), Đại bàng vàng ("Aquila chrysaetos"), oanh cổ đen ("Luscinia obscura") và báo gấm ("Neofelis nebulosa").
1
null
Armstrong Whitworth A.W.35 Scimitar là một loại máy bay tiêm kích hai tầng cánh một động cơ do hãng Armstrong Whitworth Aircraft của Anh thiết kế chế tạo. 4 chiếc Scimitar đã được chế tạo cho Không quân Lục quân Na Uy và giao hàng năm 1936. Thiết kế và phát triển. A.W.35 Scimitar là một phát triển của hãng Armstrong Whitworth từ loại tiêm kích Armstrong Whitworth A.W.16, trang bị động cơ Armstrong Siddeley Panther. Mẫu thử đầu tiên "(G-ACCD)" là một sửa đổi lần thứ hai của A.W.16, bay lần đầu vào ngày 29 tháng 4 năm 1935. Mẫu thử thứ 2 ("G-ADBL") là một chiếc A.W.16 hoán cải. Lịch sử hoạt động. Không quân Lục quân Na Uy đặt mua 4 chiếc Scimitar. Sau khi A & AEE thử nghiệm 2 chiếc tại Martlesham Heath cuối năm 1935, chúng được giao cho Na Uy vào năm 1936. Mẫu thử Scimitar thứ hai được Armstrong Whitworth lưu giữ ở nhà máy của Whitley đến năm 1958, rồi bị thải loại. Tính năng kỹ chiến thuật (A.W.35). The British Fighter since 1912
1
null
Đan viện Cát Minh Sài Gòn là một đan viện nữ Dòng Cát Minh tọa lạc tại Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Đây cũng là đan viện Dòng Cát Minh đầu tiên được thiết lập tại Viễn Đông. Lịch sử. Năm 1844, khi đang chịu tù đày tại Huế, Giám mục Lefèbvre của Tây Đàng Trong (Sài Gòn) chiêm bao thấy Thánh Têrêsa thành Ávila hiện ra và nói với ông rằng: "Hãy thành lập Dòng Kín trên đất An Nam, vì nhờ đó Thiên Chúa sẽ không ngừng được phụng sự và vinh quang". Năm 1849, sau khi ra tù, Giám mục Lefèbvre viết thư cho người em họ là nữ tu Philomène để bày tỏ ước muốn thành lập dòng kín Cát Minh tại Sài Gòn. Khi bức thư đến Lisieux, mọi người trong Đan viện rất đỗi vui mừng. Nữ tu Geneviève de Sainte Thérèse, bề trên của nhà dòng tại Lisieux, đã sai nữ tu Philomène viết thư hồi âm cho Giám mục Lefèbvre để bày tỏ sự tán đồng, nhưng cần phải đợi cho việc bách hại Công giáo tạm lắng tại đất An Nam. Năm 1861, từ dòng kín ở Lisieux (Pháp), bốn nữ tu gồm: Philomène de l’Immaculée, Marie Baptiste, Emmanuel và Saint Xavier đã tình nguyện làm cuộc hành trình truyền giáo ở miền Viễn Đông. Ngày 9 tháng 10 năm đó, họ đặt chân đến An Nam (nay là Việt Nam). Vài hôm sau khi đến Sài Gòn, các nữ tu này được đưa đi xem khu đất mà Giám mục Lefèbvre muốn xây đan viện Dòng Cát Minh. Khu vực này nằm đối diện với Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn và Tu viện Dòng Thánh Phaolô thành Chartres. Đến năm 1862, năm thiếu nữ bản xứ đầu tiên gia nhập đan viện. Tuy nhiên, nhà nguyện đan viện này dựng bằng gỗ nên bị sập trong một trận bão. Nữ tu Philomène liên lạc với Dòng Cát Minh bên Pháp xin kinh phí xây mới đan viện. Chính quyền thuộc Pháp đến hiện trường xem xét, đồng ý cấp chủ quyền đầy đủ cho khu đất này và hỗ trợ một phần kinh phí. Thánh lễ đặt viên đá đầu tiên được cử hành trọng thể do Giám mục Jean Claude Miche (tên Việt là Mịch) chủ sự ngày 8 tháng 10 năm 1867. Đến ngày 9 tháng 12 năm 1876 đan viện mới được khánh thành và cung hiến. Đan viện Cát Minh Sài Gòn mang phong cách kiến trúc theo các tu viện ở Pháp với các dãy nhà hướng mặt vào một sân trong, kết hợp với khu vườn kín để sinh hoạt nội bộ và tách biệt với bên ngoài. Nhà nguyện bên trong đan viện được thiết kế với các yếu tố kiến trúc Việt Nam, cung thánh với hình cổng tam quan, mái ngói cong và các chữ Hán.
1
null