text
stringlengths 0
512k
|
---|
Trong điện toán, một máy chủ hay máy phục vụ (tiếng Anh: server) là một phần của máy tính phần cứng hoặc phần mềm (chương trình máy tính) mà cung cấp chức năng cho các chương trình khác hoặc các thiết bị, được gọi là "máy khách". Kiến trúc này được gọi là mô hình khách – chủ. Máy chủ có thể cung cấp các chức năng khác nhau, thường được gọi là "dịch vụ", chẳng hạn như chia sẻ dữ liệu hoặc tài nguyên giữa nhiều máy khách hoặc thực hiện tính toán cho một máy khách. Một máy chủ duy nhất có thể phục vụ nhiều máy khách và một máy khách có thể sử dụng nhiều máy chủ. Quy trình máy khách có thể chạy trên cùng một thiết bị hoặc có thể kết nối qua mạng với máy chủ trên một thiết bị khác. Các máy chủ điển hình là máy chủ cơ sở dữ liệu, máy chủ tập tin, máy chủ thư, máy chủ in, máy chủ web, máy chủ trò chơi và máy chủ ứng dụng.
Các hệ thống máy khách-máy chủ ngày nay được triển khai thường xuyên nhất bởi (và thường được xác định bằng) mô hình yêu cầu-phản hồi: máy khách gửi một yêu cầu đến máy chủ, thực hiện một số hành động và gửi phản hồi trở lại máy khách, thường kèm theo một kết quả hoặc xác nhận. Việc chỉ định một máy tính là "phần cứng cấp máy chủ" ngụ ý rằng nó chuyên dùng để chạy các máy chủ trên đó. Điều này thường ngụ ý rằng nó mạnh hơn và đáng tin cậy hơn các máy tính cá nhân tiêu chuẩn, nhưng cách khác, các cụm máy tính lớn có thể bao gồm nhiều thành phần máy chủ tương đối đơn giản, có thể thay thế được.
Lịch sử
Việc sử dụng máy chủ từ trong máy tính xuất phát từ lý thuyết xếp hàng, nơi nó có từ giữa thế kỷ 20, được sử dụng đặc biệt trong (cùng với "dịch vụ"), bài báo giới thiệu ký hiệu của Kendall. Trong các tài liệu trước đó, chẳng hạn như , các thuật ngữ cụ thể hơn như "máy điều hành [điện thoại]" được sử dụng.
Trong máy tính, "máy chủ" có niên đại ít nhất là từ RFC 5 (1969), một trong những tài liệu sớm nhất mô tả ARPANET (tiền thân của Internet), và tương phản với "người dùng", phân biệt hai loại máy chủ mạng: "máy chủ- máy chủ lưu trữ "và" máy chủ người dùng ". Việc sử dụng "phục vụ" cũng có từ các tài liệu ban đầu, chẳng hạn như RFC 4, tương phản giữa "máy chủ phục vụ" với "máy chủ lưu trữ sử dụng".
Hoạt động
Nói một cách chính xác, thuật ngữ máy chủ đề cập đến một chương trình hoặc quy trình máy tính (chương trình đang chạy). Thông qua phép ẩn dụ, nó đề cập đến một thiết bị được sử dụng để (hoặc một thiết bị dành riêng cho) chạy một hoặc một số chương trình máy chủ. Trên mạng, một thiết bị như vậy được gọi là máy chủ . Ngoài máy chủ, các từ phục vụ và phục vụ (như danh từ và như động từ) thường được sử dụng, mặc dù người phục vụ và người hầu thì không. Từ server (danh từ) có thể đề cập đến dạng trừu tượng của chức năng, ví dụ: Dịch vụ web. Ngoài ra, nó có thể đề cập đến một chương trình máy tính biến máy tính thành máy chủ, ví dụ: Dịch vụ Windows. Ban đầu được sử dụng là "máy chủ phục vụ người dùng" (và "người dùng sử dụng máy chủ"), theo nghĩa "tuân theo", ngày nay người ta thường nói rằng "máy chủ phục vụ dữ liệu", cùng nghĩa với "cho". Ví dụ: máy chủ web "lấy thông tin các trang web cho người dùng" hoặc "phục vụ các yêu cầu của họ".
Máy chủ là một phần của mô hình máy khách-máy chủ; trong mô hình này, một máy chủ phục vụ dữ liệu cho các máy khách. Bản chất của giao tiếp giữa máy khách và máy chủ là yêu cầu và phản hồi. Điều này trái ngược với mô hình ngang hàng trong đó mối quan hệ là tương hỗ theo yêu cầu. Về nguyên tắc, bất kỳ quy trình được máy tính hóa nào có thể được sử dụng hoặc gọi bởi một quy trình khác (đặc biệt là từ xa, đặc biệt là để chia sẻ tài nguyên) là một máy chủ và quy trình gọi hoặc các quy trình là một máy khách. Vì vậy, bất kỳ máy tính đa năng nào được kết nối với mạng đều có thể lưu trữ các máy chủ. Ví dụ: nếu các tệp trên thiết bị được chia sẻ bởi một số quá trình, thì quá trình đó là một máy chủ tệp. Tương tự, phần mềm máy chủ web có thể chạy trên bất kỳ máy tính nào có khả năng và do đó máy tính xách tay hoặc máy tính cá nhân có thể lưu trữ một máy chủ web.
Mặc dù yêu cầu-phản hồi là thiết kế máy khách-máy chủ phổ biến nhất, nhưng vẫn có những thiết kế khác, chẳng hạn như mô hình đăng ký xuất bản. Trong mô hình đăng ký xuất bản, khách hàng đăng ký với một máy chủ pub-sub, đăng ký các loại thông báo được chỉ định; đăng ký ban đầu này có thể được thực hiện theo yêu cầu-phản hồi. Sau đó, máy chủ pub-sub sẽ chuyển tiếp các thông điệp phù hợp đến các máy khách mà không có bất kỳ yêu cầu nào khác: máy chủ đẩy các thông báo đến máy khách, thay vì máy khách kéo các thông báo từ máy chủ như trong phản hồi yêu cầu.
Phân loại
Máy chủ cấp phát địa chỉ IP động
Máy chủ cơ sở dữ liệu
Máy chủ điều khiển tên miền
Máy chủ proxy
Máy chủ tập tin
Máy chủ tên
Máy chủ thư điện tử
Máy chủ truyền tập tin
Máy chủ ứng dụng
Máy chủ web |
Euro (ký hiệu tiền tệ quốc tế: "EUR") là tiền tệ chung của 12 nước thuộc Liên minh châu Âu. Tiền giấy và tiền kim loại Euro bắt đầu được lưu hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2002 tuy rằng loại tiền tệ này đã được đưa vào sử dụng từ ngày 1 tháng 1 năm 1999.
Trình bày
Tiền giấy Euro có 7 mệnh giá, mỗi mệnh giá có một màu khác nhau. Các tờ tiền giấy mang hình của kiến trúc châu Âu từ các thời kỳ khác nhau trong lịch sử nghệ thuật.
Mặt trước có hình của một hay nhiều cửa sổ hay cổng vào (ngụ ý mời chào) và mặt sau là một chiếc cầu (ngụ ý kết nối). Đó không phải là công trình kiến trúc có thật mà chỉ là tập hợp của những đặc điểm phong cách của từng thời kỳ kiến trúc một.
Tất cả các tờ tiền giấy đều có cờ hiệu châu Âu, chữ đầu tự của Ngân hàng Trung ương châu Âu bao gồm 5 ngôn ngữ (BCE, ECB, EZB, EKT, EKP), một bản đồ châu Âu (bao gồm cả các khu hành chính hải ngoại của Pháp) ở mặt sau, tên "Euro" bằng chữ La tinh và chữ Hy Lạp, chữ ký của Giám đốc Ngân hàng Trung ương châu Âu đương nhiệm. Vì Wim Duisenberg đã trao lại chức giám đốc cho Jean-Claude Trichet trong mùa thu 2003 nên trên các tờ tiền giấy in sau này chữ ký cũng đã thay đổi. 12 ngôi sao của EU cũng có trên tờ tiền giấy Euro.
Các tờ tiền giấy là do người Áo Robert Kalina thiết kế sau một cuộc thi trong toàn EU.
Các mệnh giá
Số xê ri
Khác với tiền kim loại Euro các tờ tiền giấy Euro không có một mặt đặc trưng cho từng quốc gia và vì thế mà không thể nhận biết qua hình ảnh là tờ tiền giấy là của quốc gia nào. Thay vào đấy, thông tin này có trong số xê ri trên mặt sau. Mẫu tự đầu tiên của số xê ri có 12 chữ số là dấu hiệu của Ngân hàng Trung ương Quốc gia chịu trách nhiệm in tờ tiền giấy này. Ngân hàng Trung ương Quốc gia này hoặc là đã đưa tờ tiền giấy vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng hoặc là đã cung cấp cho một Ngân hàng Trung ương Quốc gia khác để ngân hàng này đưa vào lưu hành trong phạm vi thẩm quyền của ngân hàng đó. Các mẫu tự W, K và J được dành riêng cho các quốc gia EU không tham gia vào Euro trong thời gian này.
Sau mẫu tự của Ngân hàng Trung ương Quốc gia là một số bao gồm 10 con số và cuối cùng là một con số kiểm định. Tổng số ngang (cộng tất cả các con số của dãy số lại cho đến khi nào chỉ còn một con số) của 11 con số này là một tổng số kiểm định trong bảng phía dưới. Con số kiểm định cũng có thể được kiểm tra bằng cách thay thế mẫu tự bằng thứ tự của mẫu tự đó trong bảng chữ cái (A=1;Z=26). Tổng số ngang của các con số kể cả số thay cho chữ cái phải là 8.
Một con số kiểm định đúng tất nhiên không phải là một sự bảo đảm là tờ tiền giấy này là tờ tiền thật. Chỉ có con số kiểm định đúng thôi thì tờ tiền giả không trở thành tờ tiền thật nhưng kinh nghiệm cho thấy nhiều người giả mạo đã in số kiểm định sai trên tờ tiền giả. Để kiểm tra tiền giả hay thật nên dùng những phương pháp khác.
Dấu hiệu của Ngân hàng Trung ương Quốc gia
Các mẫu tự được phân phát bắt đầu từ Z (ngược với bảng chữ cái), thứ tự của các quốc gia là tên của các nước trong ngôn ngữ của từng nước. Hy Lạp đúng ra là nhận chữ W nhưng vì W không có trong bảng chữ cái của tiếng Hy Lạp nên Hy Lạp đã đổi lấy chữ Y của Đan Mạch.
Mã của bản in
Ở mặt trước, hơi kín đáo một ít là một chuỗi ngắn bao gồm mẫu tự và số, là mã của bản in; chữ cái đầu tiên là ký hiệu của nhà in đã in tờ tiền giấy này. Ký hiệu của nhà in không trùng hợp với ký hiệu của ngân hàng trung ương quốc gia, tức là tiền giấy do một quốc gia đưa vào lưu hành có thể đã được in ở một nước khác (thí dụ như một số tờ tiền giấy của Phần Lan được in từ một nhà in của Anh).
Các mã A, C và S được dành riêng cho các nhà in hiện thời không in tiền giấy Euro.
Hai dấu hiệu cuối cùng của chuỗi ký hiệu ngắn này là vị trí của tờ tiền giấy trên tờ giấy in, tức là từ A1 (phía tên bên trái) đến J6 (phía dưới bên phải), tùy theo kích thước của tờ giấy in.
Trong số này 2 nhà in của Đức chiếm phần lớn nhất trong số lượng tiến giấy được in. Trong số 14,8899 tỉ tờ tiền giấy Euro được in cho ngày 1 tháng 1 năm 2002 có 4,7829 tỉ là từ Ngân hàng Liên bang Đức.
Các đặc điểm chống giả mạo
Các tờ tiền giấy Euro có nhiều đặc điểm an toàn nhằm để ngăn cản hay làm cho việc giả mạo khó khăn hơn.
Các đặc điểm chung
Giấy dùng để in tiền được làm từ sợi bông vải, có thể được xác minh bằng bút thử đặc biệt, nếu là tiền thật thì dùng loại bút thử này không để lại dấu vết.
Hình chìm trên giấy.
Dây an toàn, khi đưa giấy lên trước ánh sáng có thể nhìn thấy.
Một vài phần của hình có thể cảm nhận được khi sờ lên.
Một mệnh giá được in một phần ở mặt trước và một phần ở mặt sau, khi đưa lên trước ánh sáng sẽ nhìn thấy toàn phần (Hai mặt bổ sung chính xác cho nhau).
Chữ siêu nhỏ.
Dưới ánh sáng của tia cực tím có thể nhìn thấy các sợi có nhiều màu.
Các đặc điểm của từng mệnh giá
Vạch bằng lá kim loại đặc biệt có ảnh ba chiều (tiếng Anh: Hologram), khi nhìn nghiêng ảnh sẽ thay đổi giữa ký hiệu Euro và mệnh giá (ở các mệnh giá 5, 10 và 20 Euro).
Vạch đặc biệt khi nhìn nghiên tờ tiền giấy sẽ có màu vàng với ký hiệu Euro và mệnh giá (ở các mệnh giá 5, 10 và 20 Euro).
Ảnh ba chiều với hình của kiểu kiến trúc hay mệnh giá (ở các mệnh giá 50, 100, 200 và 500 Euro).
Đổi màu: Khi nhìn nghiêng tờ tiền giấy màu sẽ thay đổi ở các mệnh giá lớn (ở các mệnh giá 50, 100, 200 và 500 Euro).
Các đặc điểm bí mật
Trên các tờ tiền giấy Euro còn có những đặc điểm an toàn bí mật (được gọi là "M-Features"). Những đặc điểm này được kiểm tra một cách tự động trong các chi nhánh của Ngân hàng Trung ương châu Âu.
Cho đến nay các phương pháp kiểm tra này đã có thể nhận biết được tiền giả một cách chắc chắn. Mỗi một tờ tiền giấy trung bình được kiểm tra 3 tháng một lần trong một chi nhánh của Ngân hàng Trung ương châu Âu nhằm khám phá và ngăn chặn tiền giả trong lưu hành
Các đặc điểm an toàn của loạt thứ hai
Loạt tiền giấy Euro thứ hai sẽ từng bước thay thế các loại tiền giấy hiện nay vào năm 2008. Các tờ tiền giấy mới này có các đặc điểm an toàn mới hay được tiếp tục cải tiến. Cho đến nay vẫn chưa có thông tin chi tiết chính thức về các đặc điểm an toàn này.
Giả mạo
Tỷ lệ tiền giấy Euro giả mạo đã tăng rõ rệt trong năm 2003, vì thế mà các đặc điểm an toàn mới hiện đang được xem xét thí dụ như việc tích hợp chip điện tử để nhận diện tiền giấy. Ngân hàng Trung ương châu Âu dự định khoảng năm 2008 sẽ lưu hành loạt tiền Euro mới có thêm nhiều đặc điểm an toàn mới nhưng hình dáng của các tờ tiền giấy sẽ không thay đổi. |
Danh pháp hai phần có thể gọi là danh pháp Latinh hay tên khoa học, tên Latinh là quy định của sinh thái học về tên một loài sinh vật bằng tiếng Latinh, trong đó gồm hai từ: từ đầu tiên là tên chi và từ thứ hai là tên loài.
Danh pháp hai phần = Tên chi + Tên loài.
Ví dụ:
Con chuột nhắt thường gặp trong nhà - theo danh pháp này - có tên là Mus musculus.
Loài người hiện đại có tên là Homo sapiens; trong đó Homo là tên chi (nghĩa là "người"), còn sapiens là tên loài (nghĩa là thông minh hoặc tinh khôn). Trong chi "người" (homo) còn có nhiều loài khác đã tuyệt chủng như Homo erectus (người đứng thẳng), Homo habilis (người khéo léo).
Quy định này là thống nhất trong sinh học trên toàn thế giới, nhằm để hệ thống hoá các loài và tránh nhầm lẫn. Như vậy, quy định về cách đặt tên như trên chính là một thệ thống quy tắc đặt tên trong khoa học, gọi là danh pháp, áp dụng trong lĩnh vực phân loại sinh học.
Quy tắc
Người sáng lập ra cách đặt tên là Carl Linnaeus. Theo ông phải dùng tiếng Latinh để mô tả loài. Đó là quy tắc đầu tiên.
Quy tắc thứ hai: Trong tất cả các văn bản khoa học, tên loài theo danh pháp hai phần bắt buộc phải in nghiêng.
Tên loài theo danh pháp này còn có thể thêm "phần thứ ba" là tên người đầu tiên và năm phát hiện ra nó và đặt tên, mô tả. Phần thứ ba này thường đặt trong ngoặc đơn. Quy tắc này chỉ áp dụng trong chuyên ngành:
Danh pháp hai phần = Tên chi + Tên loài + Tên người.
Ví dụ: Brevicoryne brassicae (Linnaeus, 1758), nghĩa là loài rệp cải do Linnaeus phát hiện và đặt tên vào năm 1758.
Đôi khi cần viết tắt thì chỉ được viết trong ngữ cảnh mà người khác có thể hiểu được đúng và chỉ được viết tắt tên phần tên chi bằng chữ cái đầu tiên, viết hoa và thêm dấu chấm, vẫn viết nghiêng. Ví dụ tên khoa học viết tắt của loài người là H. sapiens. |
Cuộc thi Sáng tạo Robot châu Á – Thái Bình Dương ABU, hay ABU Robocon, là cuộc thi chế tạo robot dành cho sinh viên các trường đại học, học viện và cao đẳng khối kĩ thuật của các nước trong khu vực châu Á và Thái Bình Dương do Hiệp hội Phát thanh Truyền hình châu Á -Thái Bình Dương (ABU) tổ chức mỗi năm 1 lần.
Cuộc thi là phiên bản mở rộng của NHK Robocon, một cuộc thi bắt đầu vào năm 1991 và chỉ dành cho các đội đến từ Nhật Bản. Từ năm 2002, nó trở thành cuộc thi thường niên mang tên ABU Robocon để cổ vũ cho phong trào sáng tạo robot của thanh niên trong khu vực. Mỗi nước được cử một đội là sinh viên của một trường đại học, học viện hay cao đẳng tham dự (riêng nước đăng cai tổ chức được cử hai đội). Trong đa số trường hợp, đội tham dự ABU Robocon được tuyển chọn từ cuộc thi trong nước do đài truyền hình thành viên tổ chức với cùng chủ đề.
Thể thức thi đấu
Mỗi năm cuộc thi có một chủ đề khác nhau, nhưng nói chung các đội thi phải sử dụng hai hoặc nhiều robot để hoàn thành nhiệm vụ. Một trong số các robot sẽ được điều khiển bằng tay trong khi các robot khác là tự động. Các robot tối ưu thường nặng hơn 10 kg và trải dài trên diện tích một mét vuông. Để chế tạo robot, các thí sinh (là những sinh viên chưa tốt nghiệp đại học) phải có kiến thức phong phú về lập trình, thiết kế cơ khí và thiết kế mạch điện tử.
Mỗi trận thi đấu diễn ra giữa hai đội, thường được đặt tên là đội đỏ và đội xanh. Sân chơi có dạng đối xứng và robot của cả hai đội xuất phát trong cùng một điều kiện (ngoại trừ Robocon 2015 sử dụng trò chơi đánh theo lượt dựa trên môn cầu lông).
Một trận đấu điển hình (ngoại trừ Robocon 2015) kéo dài trong 3 phút nhưng có thể dừng lại sớm hơn sau khi có 1 đội đạt được chiến thắng tuyệt đối và trận đấu sẽ dừng lại ngay lập tức. Nếu không có đội nào đạt được chiến thắng tuyệt đối thì đội nào có số điểm cao hơn sau 3 phút sẽ là đội chiến thắng.
Các phiên bản đầu tiên của Robocon có xu hướng nhấn mạnh tính cạnh tranh của trò chơi, trong đó những người chơi đạt được chiến thắng bằng cách sử dụng các chiến lược để triển khai robot của họ cũng như ngăn cản đối thủ đạt được mục tiêu. Chiến lược này rất đáng chú ý trong chiến thắng của Việt Nam tại ABU Robocon 2004 và 2006, hay chiến thắng của Trung Quốc tại ABU Robocon 2008. Để giảm thiểu các vấn đề phát sinh, các lần tổ chức sau này đã làm giảm tính chiến đấu và tập trung nhiều hơn vào công nghệ, thiết kế để khiến robot thực hiện các thao tác phức tạp, đòi hỏi các đội phải sáng tạo hơn trong việc thiết kế robot.
Năm 2023, sau 3 năm tạm dừng và biểu diễn gián tiếp do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 (riêng năm 2022 thi đấu gián tiếp), cuộc thi trở lại với thể thức thi đấu trực tiếp.
Tổ chức
Vòng chung kết
Các bước tổ chức một cuộc thi ABU Robocon bao gồm:
Nước chủ nhà công bố chủ đề của cuộc thi trong năm tới các nước tham dự thông qua ABU. Thông thường chủ đề sẽ được công bố vào cuối kì ABU Robocon liền trước.
Các trường đại học, học viện lập kế hoạch thiết kế, chế tạo robot của mình để thi theo chủ đề đó.
Các đài truyền hình của các nước tổ chức cuộc thi trong nước để lựa chọn một đội đại diện duy nhất (hoặc hai đội, nếu là nước chủ nhà) và ghi hình quá trình chế tạo robot của đội đại diện cho nước mình gửi đến ban tổ chức cuộc thi năm đó.
Băng ghi hình cuộc thi và các băng ghi hình quá trình chế tạo robot của các đội tham dự sẽ được ban tổ chức gửi đến các đài truyền hình để phát sóng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Vòng loại khu vực Việt Nam (Cuộc thi sáng tạo Robot Việt Nam)
Vòng loại khu vực Việt Nam (Cuộc thi sáng tạo Robot Việt Nam) do Đài Truyền hình Việt Nam (VTV) tổ chức với đơn vị thường trực là Ban Khoa giáo (VTV2).
Năm 2002 không có vòng loại miền, cả 17 đội lọt vào vòng chung kết. Từ năm 2003, 3 miền Bắc, Trung, Nam tổ chức vòng loại miền. 32 đội (riêng năm 2010 là 34 đội) đứng đầu từ 3 miền (một số năm chỉ có 2 miền Bắc và Nam khi khu vực miền Trung được phân vào 2 miền còn lại) tham gia vòng chung kết Cuộc thi sáng tạo Robot Việt Nam.
Từ 2003, các đội thi tham dự vòng chung kết được chia thành 8 bảng đấu, mỗi bảng đấu có 4 đội (năm 2010 có 2 bảng đấu 5 đội do có tổng cộng 34 đội lọt vào vòng chung kết). 2 đội đứng đầu mỗi bảng đấu được đi tiếp. Các đội sau đó sẽ đấu loại trực tiếp cho tới khi tìm ra nhà vô địch.
Trong suốt thời gian phát sóng, vì đối tượng tham dự chương trình không hạn chế cho nên quán quân sau khi vô địch (và đội á quân, nếu ABU Robocon được tổ chức ở Việt Nam) có khoảng 2-3 tháng để nâng cấp robot và cải thiện chiến thuật để chuẩn bị cho vòng chung kết ABU Robocon.
Các lần tổ chức
Trong các năm 2020 và 2021, giải thi đấu trực tiếp bị hủy do ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19 và được chuyển sang hình thức biểu diễn gián tiếp. Năm 2022, cuộc thi được tổ chức dưới hình thức thi đấu gián tiếp.
Các nước vô địch
* Biểu diễn gián tiếp. 2 mùa giải thi đấu trực tiếp bị hủy do ảnh hưởng của Đại dịch COVID-19.
** Thi đấu gián tiếp do một số quốc gia bị ảnh hưởng bởi Đại dịch COVID-19.
Thành tích theo quốc gia
Thành tích của Việt Nam
Chú thích |
Mỹ trong tiếng Việt có thể là:
Tên thường gọi của nước Hoa Kỳ (đọc ngắn từ A Mỹ Lợi Gia [亞美利加])
Mỹ kim (theo phiên âm của chữ Hán: 美金) là tên gọi khác của đô la Mỹ, đơn vị tiền tệ chính thức của Hoa Kỳ.
Châu Mỹ (từ Mỹ Lợi Gia, theo phiên âm Hán-Việt của America)
Nam Mỹ
Trung Mỹ
Bắc Mỹ
Một từ có nghĩa là "đẹp" (chữ Hán: 美), được dùng trong các từ ghép như:
Mỹ học
Mỹ thuật
Mỹ viện |
Trong tài chính, chiết khấu là quy trình xác định giá trị hiện tại của một lượng tiền tệ tại một thời điểm trong tương lai và việc thanh toán tiền dựa trên cơ sở các tính toán giá trị thời gian của tiền tệ. Giá trị chiết khấu của một vòng quay tiền tệ được xác định bằng cách khấu trừ giá trị của nó đi một tỷ lệ chiết khấu thích hợp đối với từng đơn vị thời gian giữa thời điểm mà vòng quay tiền tệ được lượng giá với thời gian bắt đầu của vòng quay tiền tệ. Thông thường phần lớn các tỷ lệ chiết khấu được biểu diễn như là tỷ lệ phần trăm theo năm.
Để tính giá trị hiện tại (PV) của một vòng quay tiền tệ đơn giản, người ta chia nó cho (1 cộng với lãi suất của đơn vị thời gian mà vòng quay tiền tệ này phải thực hiện).
Ví dụ
Tính giá trị tương lai (FV) của $100 sẽ nhận được sau thời gian 5 năm với lãi suất cố định 12% mỗi năm
FV = PV$(1 cộng 12%)^n
Do 1,125 là khoảng 1.762 nên giá trị tương lai của 100 đô la sau 5 năm sẽ khoảng bằng $176.
Tỷ lệ chiết khấu
Tỷ lệ chiết khấu hay còn gọi là chiết suất, sử dụng trong các tính toán tài chính thông thường được chọn tương đương với chi phí vốn. Một số điều chỉnh có thể được thực hiện với tỷ lệ chiết khấu với sự tính toán đến các rủi ro liên quan đến sự không chắc chắn của các vòng quay tiền tệ với những diễn biến khác.
Hệ số chiết khấu
Hệ số chiết khấu, P(T), là số mà theo đó vòng quay tiền tệ trong tương lai là có thể nhận được ở thời điểm T phải là tích số để đảm bảo thu được giá trị hiện tại. Vì thế, đối với tỷ lệ chiết khấu kép hàng năm cố định r ta có:
Đối với tỷ lệ chiết khấu kép liên tục và cố định r chúng ta có:
P(T) = e −rT
Các loại chiết khấu khác
Trong việc định giá bán hàng cho từng phương thức thanh toán (trả ngay, thanh toán trước hạn khi mua hàng trả chậm X ngày, mua hàng với số lượng lớn hoặc ổn định v.v), người ta cũng áp dụng việc giảm giá hay khi các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác khi mua lại thương phiếu, hối phiếu hoặc các giấy tờ có giá với thời hạn thanh toán xác định của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán với một giá trị nhỏ hơn một tỷ lệ nhất định cũng được gọi chung là chiết khấu có thực. |
BASIC là một ngôn ngữ lập trình bậc cao, đơn giản, dễ sử dụng, nhằm đơn giản hóa quá trình lập trình. BASIC được phát minh vào năm 1963 bởi các giáo sư John George Kemeny và Thomas Eugene Kurtz thuộc viện Đại học Dartmouth (Dartmouth College).
BASIC là viết tắt của Beginner's All-purpose Symbolic Instruction Code trong tiếng Anh.
Lịch sử
Bối cảnh ra đời
Cho đến giữa thập niên 1960, máy tính là những công cụ khá đắt giá chỉ dùng cho các công việc có mục đích đặc biệt. Với cách xử lý theo khối (batch), những máy tính trên chỉ chạy một chương trình tại một thời điểm. Tuy vậy, trong thập niên này giá máy tính đã hạ đủ để cho các công ty nhỏ cũng có thể mua được, và tốc độ của chúng đã tăng đến mức đa số thời gian của chúng là rỗi.
Các ngôn ngữ lập trình của thời đó thường được thiết kế giống như máy tính chạy chúng, chỉ cho các mục đích đặc thù (như xử lý các công thức khoa học, hay soạn thảo văn bản). Vì những máy chỉ xử lý một công việc như vậy có giá đắt nên có khuynh hướng chỉ quan tâm đến tốc độ xử lý của máy tính là chính. Các ngôn ngữ đặc thù đó nói chung là khó dùng và sử dụng các cú pháp khác nhau.
Tại thời điểm đó ý tưởng hệ thống chia sẻ thời gian bắt đầu trở nên phổ biến. Trong những hệ thống như vậy thời gian xử lý của máy chủ được chia nhỏ ra và mỗi người sử dụng được một thời gian ngắn tuần tự. Sự luân chuyển đó đủ nhanh để người sử dụng sẽ có cảm giác là họ được sử dụng toàn bộ máy. Theo lý thuyết, việc chia sẻ thời gian giảm thiểu được rất nhiều chi phí khi một máy tính có thể chia sẻ cho hàng trăm người dùng.
Những năm đầu - thời đại của máy vi tính
Ngôn ngữ BASIC nguyên thủy được John Kemeny và Thomas Kurtz lập ra năm 1963 và được một nhóm sinh viên trường Dartmouth thực hiện dưới sự chỉ đạo của hai ông. BASIC cho phép sinh viên viết chương trình cho hệ thống chia sẻ thời gian Dartmouth. Với mục đích làm giảm bớt sự phức tạp của các ngôn ngữ cũ, BASIC được thiết kế để cho các thế hệ người sử dụng mới có thể tận dụng hệ thống chia sẻ thời gian để lập trình. BASIC đầu tiên này thường được nhắc đến như Dartmouth BASIC.
Tám nguyên tắc khi thiết kế BASIC:
Dễ sử dụng ngay cả với người mới học.
Ngôn ngữ lập trình cho mọi mục đích
Cho phép các khả năng lập trình nâng cao dành riêng cho các chuyên gia mà vẫn giữ được sự đơn giản cho người mới học.
Có tương tác với người dùng
Các thông báo lỗi rõ ràng và thân thiện.
Chạy nhanh với các chương trình nhỏ
Không cần phải hiểu biết về phần cứng máy tính
Đứng giữa người sử dụng và hệ điều hành
Ngôn ngữ này dựa một phần trên ngôn ngữ FORTRAN và một phần trên ngôn ngữ Algol 60, thêm vào khả năng chia sẻ thời gian, xử lý văn bản và ma trận. BASIC được cài đặt đầu tiên trên máy mainframe GE-2000 series với nhiều terminal. Khởi đầu nó là ngôn ngữ phiên dịch.
Những người thiết kế ngôn ngữ này quyết định nó vẫn nên ở phạm vi công cộng để ngôn ngữ trở nên phổ biến. Họ cũng phổ biến nó cho các trường trung học trong vùng Dartmouth và đóng góp nhiều công sức trong việc làm tăng tiến ngôn ngữ này. Kết quả là, sự hiểu biết về BASIC trở nên tương đối phổ biến cho một ngôn ngữ máy tính và BASIC đã được cung cấp bởi một số nhà sản xuất, và trở nên khá quen thuộc trên các máy vi tính mới như dòng máy DEC PDP và Data General Nova. Ở các máy này, ngôn ngữ có khuynh hướng được cung cấp như một ngôn ngữ phiên dịch, thay vì một ngôn ngữ biên dịch.
Vài năm sau khi được công bố, các chuyên gia máy tính đáng kính, đặc biệt là Edsger W. Dijkstra, bày tỏ ý kiến về việc dùng câu lệnh GOTO (câu lệnh này đã có trong nhiều ngôn ngữ kể cả BASIC), nâng cao các bài tập lập trình nghèo nàn. Một vài người còn chế giễu BASIC quá chậm hoặc quá đơn giản.
Sự phát triển bùng nổ - Kỉ nguyên máy tính gia đình
Tuy ngôn ngữ này đã được dùng trên một vài máy vi tính, nhưng việc giới thiệu máy vi tính Altair 8800 vào năm 1975 đã thực sự phổ biến BASIC. Hầu hết ngôn ngữ lập trình đều quá lớn so với bộ nhớ ít ỏi trong những máy tính này, và với việc lưu trữ chậm chạp trên băng giấy (băng audio cassette, các loại đĩa sau đó cũng không có trong nhiều năm) và với việc thiếu các ứng dụng xử lý văn bản, một ngôn ngữ nhỏ như BASIC thực sự phù hợp. BASIC cũng có lợi thế là nó khá nổi tiếng với những nhà thiết kế trẻ, những người quan tâm đến máy vi tính vào ngay thời điểm thành quả của Kemeny và Kurtz bắt đầu bị bỏ qua. Một trong những ngôn ngữ đầu tiên xuất hiện cho máy tính này là Tiny BASIC, một sự bổ sung đơn giản cho BASIC đầu tiên được viết bởi Giáo sư. Li-Chen Wang, và sau đó được chuyển sang máy Altair bởi Dennis Allison theo yêu cầu của Bob Albrecht (người sau đó đã thành lập Dr. Dobb's Journal). Thiết kế và toàn bộ mã nguồn của Tiny BASIC đã được công bố vào năm 1976 trong Dr. Dobb's Journal.
Các công ty mới cố gắng theo đuổi sự thành công của MITS, IMSAI, North Star và Apple, do đó đã tạo ra một cuộc cách mạng máy tính gia đình; lúc đó, BASIC trở thành một phần chuẩn của tất cả máy tính nhưng lại rất ít có ở máy tính gia đình. Hầu hết xuất hiện với một trình thông dịch BASIC trong ROM. Sau đó, có nhiều triệu máy tính trên thế giới chạy BASIC, với một số lượng người dùng lớn hơn nhiều so với tất cả người dùng của các ngôn ngữ khác cộng lại.
Năm 1975, Micro-Soft (lúc đó chỉ có hai người - Bill Gates và Paul Allen) công bố Altair BASIC. Phiên bản được viết cho máy Altair có đồng tác giả là Gates, Allen và Monte Davidoff. Các phiên bản của Microsoft BASIC sau đó bắt đầu xuất hiện trong các nền tảng khác theo bản quyền, và hàng triệu bản sao và biến thể đã sớm được sử dụng; nó trở thành một trong nhiều ngôn ngữ chuẩn của máy Apple II. Khoảng 1979, Microsoft đã thảo luận với một vài nhà bán lẻ máy vi tính, trong đó có IBM, về việc cho phép một trình thông dịch BASIC trong các máy tính của họ. Một phiên bản đã được cài trong chíp IBM PC ROM và các máy tính không dùng đĩa mềm mà tự khởi động vào BASIC.
BASIC có nhiều phiên bản hơn bất kì ngôn ngữ lập trình nào khác. Tất cả nhưng rất ít máy tính gia đình vào thập niên 1980 có ROM - thường trú trình thông dịch BASIC.
BBC đã công bố BBC BASIC, được phát triển cho họ bởi Acorn Computers Ltd, kết hợp thêm nhiều từ khoá cấu trúc, cũng như truy cập trực tiếp toàn diện và linh hoạt vào hệ điều hành. Nó cũng có một trình biên dịch hợp ngữ được tích hợp hoàn toàn.
Sự trưởng thành - Kỉ nguyên máy tính gia đình
Nhiều phiên bản BASIC mới hơn đã được sáng tạo trong thời gian này. Microsoft đã bán một vài phiên bản BASIC cho MS-DOS/PC-DOS bao gồm BASICA, GW-BASIC (một phiên bản tương thích với BASICA không cầm IBM's ROM) và Quick BASIC. Nhà phát triển Turbo Pascal Borland đã công bố Turbo BASIC 1.0 vào năm 1985 (các phiên bản kế tiếp vẫn đang được bán bởi tác giả gốc dưới tên PowerBASIC).
Những ngôn ngữ này giới thiệu nhiều sự mở rộng dành cho BASIC của máy tính gia đình, như là cải tiến thao tác chuỗi và hỗ trợ đồ hoạ, truy cập vào tập tin hệ thống và các kiểu dữ liệu được thêm vào. Quan trọng hơn là những tiện lợi trong lập trình có cấu trúc, bao gồm việc thêm cấu trúc điều khiển và các thủ tục con riêng biệt hỗ trợ các biến cục bộ.
Dù sao, khoảng nửa sau thập niên 1980 các máy tính mới phức tạp hơn nhiều. Cùng lúc đó, máy tính đã phát triển từ một sở thích của cá nhân trở thành công cụ được dùng chủ yếu cho các ứng dụng được viết bởi nhiều người khác, và việc lập trình được phổ biến rộng rãi, trở nên ít quan trọng hơn vì sự lớn dần lên về số lượng người dùng. BASIC bắt đầu mờ nhạt, dù cho một vài phiên bản vẫn tồn tại.
Sự may mắn của BASIC trở lại lần nữa cùng với việc giới thiệu Visual Basic của Microsoft. Dù vậy, thật khó khi nói rằng đây là ngôn ngữ BASIC, vì sự thay đổi quan trọng về mô hình hướng tới ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng và lập trình theo sự kiện. Trong khi điều này có thể được cho là một sự phát triển của ngôn ngữ, vài đặc điểm của Dartmouth BASIC, như đánh số dòng và từ khoá INPUT, vẫn tồn tại.
Nhiều phiên bản BASIC khác cũng đã phát triển mạnh trong vài năm cuối, gồm Bywater BASIC, True BASIC và REALbasic. Nhiều biến thể và tài liệu khác về BASIC được tạo ra bởi những người yêu thích, những nhà phát triển chuyên môn, và những người khác, vì cũng tương đối dễ dàng để phát triển những trình thông dịch và biên dịch cho BASIC.
Cú pháp căn bản
Trong BASIC, các câu lệnh đều được viết chữ in.
Nhãn lệnh
Nhãn lệnh là các số nguyên tăng dần viết ở đầu dòng lệnh, đóng vai trò là các số hiệu dòng lệnh dùng cho lệnh nhảy (GOTO). Ở các phiên bản mới của BASIC (chẳng hạn QBASIC), nhãn lệnh là không bắt buộc.
10 x = 2
20 y = 3
30 PRINT x + y
Khi đánh số nhãn lệnh, thông thường người ta đánh cách quãng (chẳng hạn, 10, 20, 30,...) để thuận tiện cho việc thêm các dòng lệnh (nếu cần) về sau này. Chẳng hạn nếu muốn chèn dòng lệnh in ra thông báo trước khi in kết quả x + y thì dòng lệnh có nhãn 25 được chèn vào như sau:
10 x = 2
20 y = 3
25 PRINT "Ket qua tinh toan: "
30 PRINT x + y
Tên biến
Tên biến không phân biệt chữ hoa và chữ thường. Các biến ký tự và biến chuỗi cần có dấu $ ở cuối tên biến. Các biến số nguyên có thể dùng dấu % ở cuối tên biến.
x = 20.5
a$ = "Lap trinh BASIC"
m% = 1
Chú thích
Dòng chú thích bắt đầu bằng từ khóa REM
REM Chuong trinh tinh tong day so
Nhiều lệnh trên một dòng
Dùng dấu : để phân tách các lệnh trên cùng một dòng
x = 3: y = 8
Lệnh cơ bản
Lệnh gán
biến = giá_trị
z = SQR(x * x + y * y)
a$ = "Xin chao!"
Lệnh INPUT
Lệnh INPUT dùng để nhập giá trị biến từ bàn phím.
INPUT x
INPUT x1, x2
INPUT "Cho gia tri cua y: "; y
INPUT "Cho gia tri cua z: ", z
Với dòng lệnh thứ nhất sẽ có một dấu chấm hỏi (?) hiện ra trên màn hình, chờ người dùng nhập một giá trị số vào. Dòng lệnh thứ hai sẽ làm hiện lên hai dấu chấm hỏi (??), chờ nhập hai số. Với dòng lệnh thứ ba, giữa thông báo và số nhập vào sẽ cách nhau một dấu trống. Dòng lệnh thứ tư tương tự như vậy nhưng khoảng cách là một dấu TAB.
Ngoài ra BASIC còn có các lệnh LINE INPUT để nhập chuỗi ký tự và INPUT WAIT có nhiệm vụ chờ người dùng nhập số liệu trong một khoảng thời gian nhất định. Đối với INPUT WAIT nếu không được nhập số liệu vào thì máy sẽ dùng một giá trị định sẵn.
LINE INPUT "Nguyen Viet Thao: "; HOTEN$
Lệnh PRINT
Lệnh này được dùng để in giá trị của biến, của biểu thức (số và chuỗi ký tự) ra tập tin, màn hình, máy in...
PRINT "Gia tri can tim la: "
PRINT x / 2
Lệnh GOTO
GOTO Tên_nhãn_lệnh
Điều kiện - rẽ nhánh
Lệnh IF
IF điều_kiện THEN
câu_lệnh
ELSE
câu_lệnh
END IF
Riêng nếu câu_lệnh là một lệnh GOTO thì không cần THEN.
IF A < 5 GOTO 80
Lệnh lặp
Lệnh FOR
FOR biến = giá_trị_đầu TO giá_trị_cuối [STEP bước_nhảy]
câu_lệnh
NEXT biến
Lệnh DO WHILE...LOOPDO WHILE điều_kiện
câu_lệnh
LOOP
Lệnh DO... LOOP WHILE
DO
câu_lệnh
LOOP WHILE điều_kiện
Khai báo mảngDIM X(500)
Khai báo hàmFNA F(X) = X*X
Gọi chương trình con
Trong chương trình chínhGOSUB tên_CTC
Đoạn chương trình con khởi đầu bằng SUB và kết thúc bằng RETURN (trở về chương trình chính.
SUB tên_CTC
...các lệnh...
RETURN
Visual Basic
Tên tuổi của Basic gắn liền với Visual Basic.
Ghi chú |
Taekwondo (, , Hán-Việt: Đài Quyền Đạo) còn được viết là Tae Kwon Do hay Taekwon-Do là quốc võ của Hàn Quốc và là loại hình võ đạo (mudo) thường được tập luyện nhiều nhất của người dân nước này. Đây cũng là một trong những môn thể thao phổ biến nhất trên thế giới. Trong "Taekwondo", Tae (태, Hanja: 跆 - Đài) có nghĩa là "cước pháp"; Kwon (권, Hanja: 拳 - Quyền) nghĩa là "thủ pháp"; và Do (도, Hanja: 道- Đạo) có nghĩa là "đạo, con đường" (hay "nghệ thuật"). Vì vậy, Taekwondo có nghĩa là "Nghệ thuật đấu võ bằng tay và chân".
Lịch sử
Sơ khai
Võ thuật ở Hàn Quốc có lịch sử rất lâu đời, bắt đầu từ thời cổ đại. Các nghệ thuật chiến đấu truyền thống của Hàn Quốc, có thể bắt nguồn từ thời kì Cao Ly năm 37 trước Công nguyên. Người ta đã phát hiện ra tại một di tích của mồ mả hoàng gia Muyongchong và Kakchu-chong xây cất trong khoảng từ năm thứ 3 đến năm 427 nhiều bức tranh vẽ trên tường có cảnh những người đàn ông đang tập luyện. Đây có thể là những tài liệu ban đầu mô tả về các kỹ thuật đối kháng ban đầu có tên là Subakhi.
Các kỹ thuật chiến đấu truyền thống Triều Tiên cũng được tập luyện tại Tân La, một vương quốc được thành lập ở đông nam Triều Tiên vào khoảng 20 năm trước triều đại Cao Câu Ly ở phía bắc. Tại Kyongju, kinh đô trước đây của Tân La, hình hai vị Kim Cang trừ ma diệt quỷ bảo vệ Phật giáo trong tư thế trụ tấn được khắc trên bức tường trong hang động Sokkuram ở đền Pulkuk-sa. Thời gian này, một tổ chức Hoa Lang đạo gây ảnh hưởng rất lớn và làm phong phú thêm cho nền văn hoá và võ thuật Triều Tiên, được thành lập. Con cháu của giới quý tộc ở Tân La đã được tuyển chọn để học tập huấn luyện trong Hoa Lang đạo như là một tổ chức quân đội, giáo dục và xã hội. Các kỹ thuật chiến đấu của Trung Quốc cũng được du nhập và được đưa vào huấn luyện truyền bá trong Hoa Lang đạo với tên gọi Dang Soo (Đường thủ), Gong Soo (Tống thủ).
Nhiều tài liệu cho thấy tổ chức này không chỉ xem việc tập luyện võ thuật như là phần thiết yếu trong huấn luyện quân đội và tăng cường thể chất mà còn phát triển chúng như là một hoạt động giải trí. Các khám phá nghệ thuật cổ như các bức tranh trên tường ở những ngôi mộ của triều đại Cao Câu Ly, các hình ảnh khắc trên đá ở những đền, chùa được xây dựng trong khoảng thời gian của triều đại Tân La và nhiều tài liệu cho thấy các thế tấn, kỹ thuật và hình dáng rất giống với các thế tấn và hình dáng của Taekwondo ngày nay.
Trong thời kì Cao Ly (918-1392), võ thuật Triều Tiên, lúc bấy giờ được biết nhiều với tên gọi là Subakhi, được tập luyện không chỉ được xem như là một kỹ năng để tăng cường sức khoẻ mà nó còn được khuyến khích tập luyện như một võ thuật có giá trị cao. Có ít nhất là hai tài liệu được ghi chép trong thời gian đó cho thấy rằng Subakhi đã trở nên rất phổ biến đến nỗi nó được đem biểu diễn cho vua xem. Điều này có nghĩa là Subakhi đã được tập luyện như một môn thể thao có tổ chức cho khán giả xem và các chuyên gia cho rằng vào thời gian đó người Hàn Quốc rất thích khía cạnh thi đấu của võ thuật.
Dưới thời nhà Triều Tiên có một quyển sách phát hành về dạy hệ thống các kỹ năng chiến đấu tương tự cách huấn luyện võ thuật ngày nay. Nó đã trở thành phổ biến hơn với công chúng, ngược lại với triều đại Cao Ly trước đây, võ thuật chỉ độc quyền cho quân đội. Một tài liệu lịch sử viết người dân của tỉnh Chungchong và Cholla đã tụ tập ở một làng tổ chức thi đấu Subakhi. Tài liệu này cho thấy Subakhi đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động thể thao quần chúng. Hơn thế nữa, dân chúng muốn tham gia vào quân đội của hoàng gia rất háo hức tập luyện Subakhi bởi vì nó là môn kiểm tra chính trong chương trình tuyển chọn.
Đặc biệt, vua Triều Tiên Chính Tổ (1777-1800) phát hành một bộ sách giáo khoa về phong tục và tập quán Hàn Quốc có tựa đề là Chaemulbo, trong đó nói rằng Subakhi được gọi là Taekkyon, một tên gọi rất tương đồng với tên gọi Taekwondo ngày nay.
Các chuyên gia cho rằng vấn đề quan trọng ở đây không chỉ là tên được thay đổi mà cả kỹ thuật cũng thay đổi một cách đột ngột. Trong giai đoạn lịch sử Subakhi trước đó, kỹ thuật tay được nhấn mạnh. Các tài liệu lịch sử có liên quan đến Taekkyon được xuất bản vào khoảng cuối thế kỷ 19 ghi lại rằng nó là một nghệ thuật được đặt phần lớn trên các kỹ thuật chân. Lúc bấy giờ, Taekkyon thật sự là một môn thi đấu có hệ thống tập trung vào kỹ thuật chân và chiến thuật. Vì vậy thật là rõ ràng trong suốt thời nhà Triều Tiên, Subakhi đã trở thành một môn thể thao quốc gia quan trọng và thu hút sự chú ý của cả hoàng gia lẫn công chúng.
Vào cuối triều đại Triều Tiên, Subakhi bắt đầu suy tàn vì sự bỏ mặc của hoàng gia cũng như sự ăn sâu của đạo Khổng đề cao giá trị văn chương. Subakhi chỉ tồn tại như một hoạt động giải trí của người dân thường.
Vào cuối thế kỷ 19, quân đội Triều Tiên suy yếu, người Nhật đô hộ đất nước. Sự áp bức của đế quốc Nhật Bản đối với nhân dân Triều Tiên rất hà khắc và việc tập luyện võ thuật được xem nguồn gốc của sự nổi loạn bị cấm đoán. Tuy nhiên, các tổ chức kháng Nhật sử dụng Taekkyon như một phương pháp huấn luyện tinh thần và thể chất. Ngoài ra, các du học sinh Triều Tiên tại Nhật Bản cũng hấp thu được các môn võ mới của Nhật Bản như Karate và Jujitsu. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành môn võ Taekwondo hiện đại sau này.
Hiện đại
Sau giải phóng vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, những người có nguyện vọng khôi phục lại môn võ thuật cổ truyền Triều Tiên bắt đầu dạy trở lại. Bên cạnh đó, các du học sinh Triều Tiên tại Nhật Bản cũng trở về Triều Tiên và mở các võ đường dạy các kỹ thuật họ tổng hợp từ môn võ truyền thống Triều Tiên với các kỹ thuật tân tiến của Nhật Bản. Các võ đường lớn được thành lập như Chung Do Kwan (청도관) do Lee Won Kuk thành lập tháng 9 năm 1944; Moo Duk kwan (무덕관) do Hwang Kee thành lập tháng 11 năm 1945, Kwon Bop dojang (권법도장) do Yun Byung-in thành lập và Song Moo kwan (송무관) do Byung Jik Ro thành lập). Hầu hết đều dùng tên gọi Kong So do hay Tae Soo Do cho môn võ tổng hợp của mình.
Tháng 1 năm 1946, Choi Hong Hi, một sĩ quan trẻ, đã xây dựng phong trào tập luyện võ thuật trong đơn vị của mình. Tám năm sau, trên cương vị Thiếu tướng Tư lệnh Sư đoàn 29 Bộ binh, ông đã thành lập võ đường Oh Do Kwan (오도관 - Ngã Đạo Quán) tại Yong Dae Ri. Tháng 9 năm 1954, Choi cùng các môn đệ của mình đã biểu diễn các kỹ thuật mới do chính ông tổng hợp trước sự chứng kiến của Tổng thống Rhee Syngman vào tháng 9 năm 1954. Buổi biểu diễn đã gây được ấn tượng lớn đối với Rhee và Choi được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của Chung Do Kwan, bấy giờ là võ đường lớn nhất Hàn Quốc. Đầu năm 1955, một ủy ban đặc biệt được thành lập theo chỉ thị của tổng thống bao gồm các nhân sĩ trí thức, giáo sư, sử gia và các chính khách uy tín để đặt tên cho môn võ mới nhằm quảng bá trong đại chúng. Ngày 11 tháng 4 năm 1955, ủy ban công bố tên gọi TaeKwonDo cho môn võ thuật dựa trên nền tảng của môn Taekkyon đã được hiện đại hóa. Tên gọi này chính thức được dùng để thay thế cho những tên gọi cũ như Dang Soo, Gong Soo, Taek Kyon, Kwon Bup,... vốn vẫn được lưu hành trong dân gian.
Cuối cùng vào tháng 9 năm 1959, Hội Taekwondo Hàn Quốc được thành lập (trước đó vốn mang tên là Hiệp hội Tae Soo Do Triều Tiên). Vào thập niên 1960, huấn luyện viên Hàn Quốc bắt đầu ra nước ngoài phổ biến Taekwondo. Tháng 10 năm 1963, Taekwondo đã trở thành môn thi đấu chính thức lần đầu tiên tại Đại hội Thể thao Quốc gia. Đây là bước ngoặt trong lịch sử phát triển của môn võ này.
Ngày 22 tháng 3 năm 1966, Liên đoàn Taekwondo quốc tế (International Taekwon-Do Federation - ITF) được thành lập với 9 thành viên sáng lập gồm Việt Nam Cộng hòa, Malaysia, Singapore, Tây Đức, Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Ai Cập và Hàn Quốc.
Năm 1972, Taekwondo chứng kiến cuộc phân ly lớn sau khi Chủ tịch ITF lưu vong sang Canada và dời trụ sở của ITF về đây sau đó chia làm 3 chi phái: Choi Hong Hwa (con trai của Choi Hong Hi), Chang Ung thành viên IOC tại Triều Tiên. Tại Hàn Quốc, Hiệp hội Taekwondo Hàn Quốc thành lập Kukkiwon (국기원) để tiêu chuẩn hóa kỹ thuật và tổ chức. Giải Vô địch Thế giới lần 1 tại Seoul từ ngày 25 đến 27 tháng 5 năm 1973 với 19 quốc gia tham dự. Tại cuộc họp được tổ chức bên lề của giải, một tổ chức mới được thành lập với tên gọi là Liên đoàn Taekwondo Thế giới (World TaeKwonDo Federation - WTF), do Tiến sĩ Un Yong Kim làm chủ tịch. Từ đó, giải Vô địch Taekwondo Thế giới được tổ chức 2 năm một lần.
Hiện nay Liên đoàn Taekwondo Thế giới (WTF) có 193 quốc gia thành viên toàn thế giới, với khoảng 50.000.000 người tập luyện. IOC đã công nhận Taekwondo là môn thể thao quốc tế tại đại hội lần thứ 83 năm 1980, Taekwondo được công nhận là môn thi đấu tại Thế vận hội 2000 và 2004.
Về tên gọi của Taekwondo ở Việt Nam, do được truyền bá bởi Quân đội Đại Hàn Dân quốc trong chiến tranh Việt Nam nên thời gian đầu môn võ này được gọi là Võ Đại Hàn, sau đó được gọi là Túc Quyền đạo, Thái Cực Đạo (tên gọi này được cho là xuất phát từ lá cờ mang hình âm dương thái cực của Hàn Quốc). Taekwondo cũng phổ biến ở miền Nam Việt Nam trước khi được truyền bá ra miền Bắc.
Đặc điểm
Do võ phục, phân cấp màu đai cũng như đòn thế của Taekwondo có nét tương đồng với Karatedo, và việc Nhật Bản truyền bá môn võ Karatedo vào Hàn Quốc trong thời thế chiến đệ nhị nên trong những năm thập niên 50-60, nhiều người trên thế giới lầm tưởng rằng Taekwondo là từ một hệ phái của Karatedo tách ra và phát triển thành một môn võ. Trong nỗ lực thoát khỏi ảnh hưởng từ Karatedo của các bậc thầy sáng lập môn phái Taekwondo hiện đại, và để phù hợp hơn với đặc tính của môn thể thao Taekyon truyền thống, Taekwondo chú trọng đặc biệt vào những đòn chân (chokki, cước pháp) và nhấn mạnh tính chất thể thao của bộ môn. Trong khi có một số nét tương tự Kungfu của Trung Quốc và các môn võ Triều Tiên khác như Hapkido, Tangsudo, Taekwondo có chiều hướng sử dụng bàn chân và cẳng chân qua những cú đá đầy uy lực. Các võ sư Taekwondo chuyên nghiệp đã làm cả thế giới ngạc nhiên với những kỹ năng nhào lộn phá tan những tấm gỗ đặt cách mặt đất 10 feet hay tấn công liên hoàn nhiều mục tiêu trên không.
Tuy nhiên, thực tế Taekwondo có một số lượng đòn tay (sugi) khá lớn, nếu xem xét các bài quyền và chương trình luyện tập, người tập dễ nhận thấy số lượng đòn tay của Taekwondo nhiều gấp ba lần các đòn tấn công hoặc phòng ngự bằng chân. Với số lượng đòn tay phong phú như vậy, không hề thua sút môn Quyền Anh nếu môn sinh không sao nhãng luyện tập. Dầu vậy, trong huấn luyện và thi đấu với tư cách một môn thể thao hơn là một môn võ có giá trị tự vệ, Taekwondo đặt nặng vào vai trò của các đòn chân, nên đòn tay của môn phái không tránh khỏi sự mai một và ít được trau truốt, tinh lọc để đạt được tính hiệu quả.
Các hệ phái chính
Taekwondo hiện đại thoát thai từ các hệ phái võ thuật truyền thống của Triều Tiên, vì vậy cũng có rất nhiều hệ phái khác nhau với những hệ thống quyền pháp khác nhau. Tuy nhiên, có 2 hệ phái chính lớn nhất và ở quy mô thế giới:
Hệ phái Chang Hon
Đây là hệ phái lớn đầu tiên của Taekwondo, dựa trên hệ thống kỹ thuật và quyền pháp do Đại võ sư Choi Hong Hi xây dựng từ năm 1954. Hệ phái lấy tên theo tên hiệu của đại sư Choi Hong Hi, người sáng lập hệ phái: Chang Hon (창헌, Thương Hiên). Đây cũng là hệ phái nền tảng của Liên đoàn Taekwondo quốc tế, thành lập năm 1966.
Đặc điểm của hệ phái là có nhiều nét tương đồng với quyền pháp Karate, mang nặng tính chiến đấu. Hệ thống quyền pháp có 24 bài quyền (형, hyeong) và hệ thống đẳng cấp phân thành 10 cấp (급, Kup) và 9 đẳng (단, dan). Võ phục và thể lệ thi đấu gần như tương tự với Karate. Vì vậy, khi thi đấu, các võ sĩ không mang giáp và khi ra đòn phải dừng đòn ở cự ly tối thiểu hoặc chỉ được khẽ chạm vào đối thủ.
Hệ phái Kukkiwon
Đây là hệ phái lớn nhất thế giới, dựa trên hệ thống kỹ thuật và quyền pháp quy định tổ chức kỹ thuật Kukkiwon (국기원) của Hiệp hội Taekwondo Hàn Quốc, thành lập năm 1973. Đây cũng là hệ phái nền tảng của Liên đoàn Taekwondo thế giới, thành lập cùng năm đó.
Đặc điểm của hệ phái mang tính hiện đại và thể thao nhiều hơn. Các đòn thế nguy hiểm bị cấm dùng trong thi đấu. Hệ thống quyền pháp có 25 bài quyền (품새, Poomsae) và hệ thống đẳng cấp: 8 cấp (급, Kup) và 10 đẳng (단, Dan). Võ phục dùng loại áo cổ chữ V và thể lệ thi đấu mang nặng tính thể thao. Vì vậy khi thi đấu, các vận động viên bắt buộc mặc giáp và chỉ được phép tấn công vào phần mặc giáp của đối thủ.
Thập vị đại sư
Dưới đây là 9 vị đại sư được công nhận là co công lao to lớn trong việc xây dựng và truyền bá Taekwondo hiện đại:
Lee Won Kuk, người sáng lập võ đường Chung Do Kwan, về sau từng là võ đường Taekwondo lớn nhất Hàn Quốc. Ông cũng từng là một môn sinh của Gichin Funakoshi, người sáng lập hệ phái Shotokan Karate.
Chun Sang Sup, người sáng lập hệ phái Choson Yunmookwan Kwon Bop Bu, về sau trở thành các võ đường Jido Kwan và Han Moo Kwan. Ông cũng từng là một môn sinh của Gichin Funakoshi, người sáng lập hệ phái Shotokan Karate.
Yun Byung In, người sáng lập hệ phái YMCA Kwon Bop Bu, về sau trở thành võ đường Chang Moo Kwan.
Hwang Kee, người sáng lập võ đường Moo Duk Kwan.
Roh Byong Jick, người sáng lập võ đường Song Moo Kwan. Ông cũng từng là một môn sinh của Gichin Funakoshi, người sáng lập hệ phái Shotokan Karate.
Choi Hong Hi, người sáng lập võ đường Oh Do Kwan, tổ sư hệ phái Chang Hon, sáng lập viên Liên đoàn Taekwondo quốc tế (ITF). Ông cũng từng là một môn sinh của Gichin Funakoshi, người sáng lập hệ phái Shotokan Karate.
Nam Tae Hee, đồng sáng lập và huấn luyện viên trưởng đầu tiên của võ đường Oh Do Kwan.
Jong Pyo Hong, người sáng lập võ đường Kang Duk Won, Kwon Bop Bu
Park Chul Hee, đồng sáng lập võ đường Kang Duk Won, Kwon Bop Bu.
10.Lee Yong Woo, người sáng lập võ đường Jung Do Kwan.
Ngoài ra, hệ phái Kukkiwon còn công nhận 6 võ sư đạt đẳng cấp cao nhất: Thập đẳng huyền đai.
Yong Ki Pae (Jidokwan)
Chong Soo Hong (Moo Duk Kwan)
Il Sup Chun (Jidokwan)
Nam Suk Lee (Chang Moo Kwan)
Tiến sĩ Sang Kee Paik (Sa Sang Kwan)
Tiến sĩ Un Yong Kim, cựu chủ tịch Kukkiwon và WTF. |
C là một ngôn ngữ mệnh lệnh được phát triển từ đầu thập niên 1970 bởi Dennis Ritchie để dùng trong hệ điều hành UNIX. Từ đó, ngôn ngữ này đã lan rộng ra nhiều hệ điều hành khác và trở thành một những ngôn ngữ phổ dụng nhất. C là ngôn ngữ rất có hiệu quả và được ưa chuộng nhất để viết các phần mềm hệ thống, mặc dù nó cũng được dùng cho việc viết các ứng dụng. Ngoài ra, C cũng thường được dùng làm phương tiện giảng dạy trong khoa học máy tính mặc dù ngôn ngữ này không được thiết kế dành cho người nhập môn.
Các đặc trưng
Tổng quan
C là một ngôn ngữ lập trình tương đối nhỏ gọn vận hành gần với phần cứng và nó giống với ngôn ngữ Assembler hơn hầu hết các ngôn ngữ bậc cao. Hơn thế, C đôi khi được đánh giá như là "có khả năng di động", cho thấy sự khác nhau quan trọng giữa nó với ngôn ngữ bậc thấp như là Assembler, đó là việc mã C có thể được dịch và thi hành trong hầu hết các máy tính, hơn hẳn các ngôn ngữ hiện tại trong khi đó thì Assembler chỉ có thể chạy trong một số máy tính đặc biệt. Vì lý do này C được xem là ngôn ngữ bậc trung.
C đã được tạo ra với một mục tiêu là làm cho nó thuận tiện để viết các chương trình lớn với số lỗi ít hơn trong mẫu hình lập trình thủ tục mà lại không đặt gánh nặng lên vai người viết ra trình dịch C, là những người bề bộn với các đặc tả phức tạp của ngôn ngữ. Cuối cùng C có thêm những chức năng sau:
Một ngôn ngữ cốt lõi đơn giản, với các chức năng quan trọng chẳng hạn như là những hàm hay việc xử lý tập tin sẽ được cung cấp bởi các bộ thư viện các thủ tục.
Tập trung trên mẫu hình lập trình thủ tục, với các phương tiện lập trình theo kiểu cấu trúc.
Một hệ thống kiểu đơn giản nhằm loại bỏ nhiều phép toán không có ý nghĩa thực dụng.
Dùng ngôn ngữ tiền xử lý, tức là các câu lệnh tiền xử lý C, cho các nhiệm vụ như là định nghĩa các macro và hàm chứa nhiều tập tin mã nguồn (bằng cách dùng câu lệnh tiền xử lý dạng #include chẳng hạn).
Mức thấp của ngôn ngữ cho phép dùng tới bộ nhớ máy tính qua việc sử dụng kiểu dữ liệu pointer.
Số lượng từ khóa rất nhỏ gọn.
Các tham số được đưa vào các hàm bằng giá trị, không bằng địa chỉ.
Hàm các con trỏ cho phép hình thành một nền tảng ban đầu cho tính đóng và tính đa hình.
Hỗ trợ các bản ghi hay các kiểu dữ liệu kết hợp do người dùng từ khóa định nghĩa struct cho phép các dữ liệu liên hệ nhau có thể được tập hợp lại và được điều chỉnh như là toàn bộ.
Một số chức năng khác mà C không có (hay còn thiếu) nhưng có thể tìm thấy ở các ngôn ngữ khác bao gồm:
An toàn kiểu,
Tự động Thu dọn rác,
Các lớp hay các đối tượng cùng với các ứng xử của chúng (xem thêm OOP),
Các hàm lồng nhau,
Lập trình tiêu bản hay Lập trình phổ dụng,
Quá tải và Quá tải toán tử,
Các hỗ trợ cho đa luồng, đa nhiệm và mạng.
Mặc dù C còn thiếu nhiều chức năng hữu ích nhưng lý do quan trọng để C được chấp nhận vì nó cho phép các trình dịch mới được tạo ra một cách nhanh chóng trên các nền tảng mới và vì nó cho phép người lập trình dễ kiểm soát được những gì mà chương trình (do họ viết) thực thi. Đây là điểm thường làm cho mã C chạy hiệu quả hơn các ngôn ngữ khác. Thường thì chỉ có ngôn ngữ ASM chỉnh bằng tay chạy nhanh hơn (ngôn ngữ C), bởi vì ASM kiểm soát được toàn bộ máy. Mặc dù vậy, với sự phát triển các trình dịch C, và với sự phức tạp của các CPU hiện đại có tốc độ cao, C đã dần thu nhỏ khác biệt về tốc độ này.
Một lý do nữa cho việc C được sử dụng rộng rãi và hiệu quả là do các trình dịch, các thư viện và các phần mềm thông dịch của các ngôn ngữ bậc cao khác lại thường được tạo nên từ C.
Ví dụ "hello, world"
Ví dụ đơn giản sau đây được thấy trong lần in đầu tiên của cuốn "The C Programming Language", và đã trở thành bài tiêu chuẩn trong chương nhập môn của hầu hết các loại sách giáo khoa về lập trình. Chương trình hiển thị câu "hello, world!" trên đầu ra chuẩn, mà thường là một màn hình. Mặc dù vậy, nó có thể xuất ra một tập tin hay xuất ra trên một thiết bị phần cứng kể cả trên một vùng chứa, tùy thuộc vào việc đầu ra chuẩn được chỉ thị vào đâu khi chương trình này được thực thi.
#include <stdio.h>
int main(void)
{
printf("hello, world!");
return 0;
}
Chương trình trên sẽ dịch đúng trong hầu hết các trình dịch hỗ trợ chuẩn ANSI C hay chuẩn C99.
Sau đây là các phân tích theo từng dòng mã của ví dụ trên
#include <stdio.h>
Dòng đầu tiên này là một chỉ thị tiền xử lý #include. Điều này sẽ làm cho bộ tiền xử lý (bộ tiền xử lý này là một công cụ để kiểm tra mã nguồn trước khi nó được dịch) tiến hành thay dòng lệnh đó bởi toàn bộ các dòng mã hay thực thể trong tập tin mà nó đề cập đến (tức là tập tin stdio.h). Dấu ngoặc nhọn bao quanh stdio.h cho biết rằng tập tin này có thể tìm thấy trong các nơi đã định trước cho bộ tiền xử lý biết thông qua các đường tìm kiếm đến các tập tin header. Tập hợp các tập tin được khai báo sử dụng qua các chỉ thị tiền xử lý còn được gọi là các tập tin bao gồm.
int main(void)
Dòng trên biểu thị một hàm chuẩn tên main. Hàm này có mục đích đặc biệt trong C. Khi chương trình thi hành thì hàm main() được gọi trước tiên. Phần mã int chỉ ra rằng giá trị trả về của hàm main (tức là giá trị mà main() sẽ được trả về sau khi thực thi) sẽ có kiểu là một số nguyên. Còn phần mã (void) cho biết rằng hàm main sẽ không cần đến tham số để gọi nó. Xem thêm Void.
{
Dấu '{' cho biết sự bắt đầu của định nghĩa của hàm main.
printf("hello, world\n");
Dòng trên gọi đến một hàm chuẩn khác tên là printf. Hàm này đã được khai báo trước đó trong tập tin stdio.h. Dòng này sẽ cho phép tìm và thực thi mã (đã được hỗ trợ sẵn) với ý nghĩa là hiển thị lên đầu ra chuẩn dòng chữ hello, world<ký tự xuống dòng EOL-chuyển dấu nhắc sang dòng mới>.Mã ký tự \n là một dãy thoát được chuyển dịch thành dấu ký tự EOL (viết tắt từ chữ End-Of-Line) có nghĩa là chuyển vị trí dấu nhắc xuống đầu một dòng kế. Giá trị trả về của hàm printf (theo khai báo nguyên mẫu chuẩn của hàm này trong C) có kiểu int, nhưng vì giá trị trả về này không được (người lập trình) dùng tới nên giá trị đó bị bỏ qua (một cách lặng lẽ).
return 0;
Dòng này sẽ kết thúc việc thực thi mã của hàm main và buộc nó trả về giá trị 0 (là một số nguyên như khai báo ban đầu int main ).
}
Dấu '}' cho biết việc kết thúc mã cho hàm main.
Các kiểu
C có một hệ thống kiểu tương tự như của Pascal, mặc dù chúng khác nhau trong một số khía cạnh. Có nhiều kiểu cho các số nguyên với nhiều cỡ cho có đấu và không có dấu, có kiểu số floating point, kiểu các ký tự char, các kiểu thứ tự enum, kiểu bản ghi record và kiểu đơn vị union.
C tạo ra sự mở rộng mạnh mẽ việc sử dụng của kiểu các con trỏ pointer, một dạng đơn giản các tham chiếu mà chúng chứa địa chỉ các vùng nhớ. Các con trỏ có thể được tham chiếu ngược (dereference) để lấy về giá trị của dữ liệu được chứa trong địa chỉ đó (địa chỉ mà con trỏ chỉ vào). Địa chỉ này có thể được điều chỉnh bằng các phép gán thông thường và các phép toán số học trên con trỏ. Trong thời gian thực thi, một con trỏ đại diện cho một địa chỉ của bộ nhớ. Trong thời gian chuyển dịch, nó là một kiểu phức tạp đại diện cho cả địa chỉ và kiểu của dữ liệu. Điều này cho phép các biểu thức bao gồm các con trỏ được kiểm tra về kiểu. Các con trỏ thì được dùng cho nhiều mục tiêu trong C. Các dòng ký tự string thường được đại diện bởi một con trỏ chỉ tới một dãy của các ký tự. Sự cấp phát bộ nhớ động, được miêu tả sau đây, thì được tiến hành thông qua các con trỏ.
Một con trỏ rỗng có nghĩa là nó không chỉ đến một chỗ nào hết. Điều này có ích trong những trường hợp như là con trỏ next trong một nút cuối của một danh sách liên kết linked list. Việc tham chiếu ngược một con trỏ trống gây ra các biểu hiện không dự đoán trước được. Các con trỏ kiểu void thì lại có thể chỉ đến một đối tượng mà không cần biết kiểu của đối tượng đó. Điều này đặc biệt hữu dụng trong lập trình tiêu bản bởi vì cỡ và kiểu của các đối tượng mà chúng chỉ tới thì không thể biết được và do đó không thể thực hiện tham chiếu ngược, nhưng chúng lại có thể được hoán chuyển thành các con trỏ của các kiểu khác.
Các kiểu mảng array trong C thì có cỡ cố định, độ lớn tĩnh của nó phải được biết trước trong thời gian chuyển dịch. Điều này gây nhiều trở ngại trong thực tế bởi vì người ta có thể chỉ định các vùng nhớ ở thời gian thực thi dựa trên các thư viện chuẩn và hành xử chúng như là các mảng. Không như các ngôn ngữ khác, C biểu thị các mảng giống như trường hợp các con trỏ: chúng đóng vai trò một địa chỉ của bộ nhớ và một kiểu dữ liệu. Do đó, các giá trị chỉ số có thể vượt quá cỡ của một mảng.
C cũng cung cấp các kiểu mảng đa chiều. Các giá trị chỉ số của các mảng đa chiều thì được gán theo thứ tự hàng chính. Một cách có ý nghĩa thì các mảng này hoạt động như là mảng của các mảng nhưng thực chất chúng được phân bố như là mảng một chiều với việc tính và tạo các vị trí tương đối.
C thường được dùng trong việc lập trình các hệ thống bậc thấp, ở đó có thể cần thiết để xem số nguyên như là một địa chỉ của bộ nhớ, là một giá trị double precision, hay là một kiểu con trỏ. Trong các trường hợp này, C cung cấp việc hoán chuyển, mà phép toán này sẽ bắt buộc chuyển đổi giá trị từ một kiểu sang một kiểu khác. Dùng phép hoán chuyển sẽ làm mất đi phần nào tính an toàn mà thường được cung cấp bởi hệ thống kiểu.
Lưu trữ dữ liệu
Một trong những chức năng quan trọng nhất của một ngôn ngữ lập trình là việc cung cấp cơ sở cho việc quản lý bộ nhớ và các đối tượng được chứa trong bộ nhớ. C cung ứng 3 phương cách để cấp phát bộ nhớ cho các đối tượng:
Sự cấp phát vùng nhớ tĩnh: khoảng trống dành cho đối tượng thì được cung cấp trong phần mã nhị phân ở thời gian dịch; những đối tượng này có một thời gian sống lâu dài theo sự tồn tại của phần mã nhị phân chứa chúng (các đối tượng).
Sự cấp phát vùng nhớ tự động: Các đối tượng tạm thời có thể được chứa trong một chồng (stack), và khoảng trống này thì được trả về một cách tự động và có thể được dùng lại sau khi khối mã mà chúng (tức các đối tượng tạm thời) được khai báo đã thực thi xong.
Sự cấp phát vùng nhớ động: Các khối của bộ nhớ với bất kì cỡ lớn mong muốn nào đều có thể được yêu cầu (hay xin) trong thời gian thi hành bằng cách dùng các hàm thư viện như là malloc(), realloc() và free() từ một khu vực của bộ nhớ có tên là heap; các khối này có thể được tái dụng sau khi gọi hàm free() để hoàn trả chúng lại cho bộ nhớ.
Ba phương án này thích hợp cho các tình huống khác nhau và có những hậu quả khác nhau. Ví dụ, kiểu cấp phát tĩnh sẽ không cần thời gian (để tính toán) cho sự cấp phát, kiểu cấp phát tự động sẽ cần một khoảng thời gian nào đó cho dự tính, và kiểu cấp phát động có thể đòi hỏi một lượng lớn thời gian dùng dễ tính toán cho việc cấp phát và hoàn trả (các vùng nhớ đã được yêu cầu trước đó). Mặt khác, khoảng trống của chồng thường giới hạn cho vùng nhớ tĩnh hay cho khoảng trống của heap, và chỉ kiểu cấp phát vùng nhớ động là cho phép sự cấp phát cho các đối tượng mà kích thước của nó chỉ có thể biết được trong lúc thi hành. Hầu hết các chương trình C đều dùng nhiều cả ba phương cách này.
Khi có thể thì sự cấp phát tự động hay sự cấp phát tĩnh thường được dề nghị dùng vì kho nhớ được quản lý bởi trình dịch, giải phóng cho người lập trình những lồi lầm phiền hà khi phải xin cấp phát và hoàn trả các vùng nhớ bằng tay. Rất tiếc nhiều cấu trúc dữ liệu có thể trương nở trong thời gian thực thi và vì kiểu cấp phát tĩnh và kiểu tự động phải có một độ lớn cố định ở thời gian dịch nên trong nhiều tình huống mà buộc phải dùng kiểu cấp phát động. Các dãy thay đổi về độ lớn là một ví dụ điển hình của trường hợp này. (Xem ví dụ từ bài malloc về các dãy được cấp phát vùng nhớ động.)
Cú pháp
Không như Fortran, C là ngôn ngữ dạng tự do, cho phép người lập trình tùy tiện sử dụng ký tự whitespace để xếp đặt (cách trình bày) mã nguồn. Các dòng chú giải hoặc có thể đặt nằm giữa /* và */ hoặc viết từng dòng bắt đầu bởi // theo sau đó là các chú giải.
Mỗi tập tin chứa mã có thể chứa các khai báo và các định nghĩa hàm. Các định nghĩa hàm, chính chúng, cũng chứa các khai báo và các mệnh đề. Các khai báo thì hoặc là định nghĩa những kiểu mới với các từ khoá như struct, union, và enum, hoặc là gán các kiểu và đăng ký vùng chứa (trong bộ nhớ) cho các biến mới (Ví dụ: char *myname = "ABC"). Các từ khoá như là char và int cũng như là ký hiệu con trỏ chỉ tới * là các kiểu sẵn có. Các khối mã thì được đóng ở giữa các dấu { và } để chỉ ra phần (mã) mà các khai báo và các cấu trúc điều khiển (bên trong dấu ngoặc) có hiệu lực.
Như là một ngôn ngữ mệnh lệnh, C phụ thuộc vào các mệnh đề (câu lệnh) để làm hầu hết các việc. Hầu hết các mệnh đề lại là các mệnh đề biểu thức mà một cách đơn giản chúng tạo nên việc đánh giá các biểu thức đó—và trong quá trình này, các biến nhận được các giá trị mới hoặc các giá trị này được trả ra. Các mệnh đề dòng điều khiển cũng có hiệu lực cho việc thực thi có điều kiện hay có lặp lại, mà chúng được cấu tạo với các từ khóa như là if, else, switch, do, while và for. Các nhảy dòng cũng có thể thực hiện qua câu lệnh goto. Nhiều phép toán khác nhau được cung cấp sẵn để thực thi trên các phép tính cơ sản về số học, lô gíc, so sánh, kiểu bit, chỉ số của mảng, và phép gán giá trị. Các biểu thức cũng gọi các hàm, bao gồm một số lượng lớn các hàm thư viện, để tiến hành các thao tác chung.
Các vấn đề của C
Một câu nói phổ biến được người ta lập lại nhiều lần của một nhà thiết kế trình dịch Bjarne Stroustrup, người sáng lập ra C++, là "C makes it easy to shoot yourself in the foot." (tạm dịch: "C làm cho việc bạn tự hại bạn trở nên dễ dàng") . Nói cách khác, C cho phép nhiều phép toán không mong muốn trong một cách tổng quát, và do đó, nhiều lỗi đơn giản đã được tạo ra bởi một người lập trình mà chúng lại không thể phát hiện qua trình dịch hay ngay cả không phát hiện ra trong lúc thi hành. Điều này là nguyên nhân của một số chương trình có các ứng xử không lường trước được và có các lỗ hổng về an toàn. Một dị bản ngôn ngữ C là Cyclone điều chỉnh được một phần trong số các vấn đề như vậy.
Một lý do của các vấn đề nêu trên là để tránh cho cái giá quá cao phải trả cho việc kiểm soát (lỗi) ở thời gian dịch và thời gian thi hành. Một lý do khác là sự đòi hỏi để giữ C được càng hiệu quả và càng uyển chuyển càng tốt. Một ngôn ngữ càng mạnh thì càng khó khăn cho ngôn ngữ lập trình đó để làm rõ ràng mọi thứ trong các chương trình (được viết trong ngôn ngữ này). Một số việc kiểm tra đã được dựa trên các công cụ bên ngoài, những công cụ như vậy được bàn đến trong phần Các công cụ kiểm tra tĩnh bên ngoài cho trình dịch.
Sự cấp phát vùng nhớ
Một vấn đề với C (và đây thường là vấn đề lớn cho những người mới làm quen với C) là việc cấp phát (vùng nhớ) một cách tự động hay một cách động cho các đốì tượng mà không khởi động chúng. Các đối tượng này, ban đầu, chứa các giá trị bất kì trong khoảng nhớ mà chúng được cấp phát. Các giá trị này có thể là các giá trị ngẫu nhiên còn lại trong bộ nhớ mà chưa được làm sạch, chúng hoàn toàn không dự đoán được. Nếu một chương trình có khai biến mà lại không gán giá trị ban đầu, thường là 0 (cho kiểu số) hay null (cho kiểu con trỏ) hay "" (cho kiểu dãy ký tự,...) thì có thể gây ra các phản ứng không lường trước được của chương trình đó. Hầu hết các trình dịch C hiện đại có thể phát hiện và cảnh cáo về việc "quên gán giá trị khởi động" trong nhiều trường hợp, nhưng cũng không hoàn toàn hiệu quả.
Một vấn đề thường thấy khác là bộ nhớ heap không thể được tái dụng cho tới khi nó được hoàn trả lại về cho bộ nhớ bởi người lập trình bằng câu lệnh free(). Hậu quả là nếu người lập trình quên hoàn trả các vùng đã cấp phát về cho bộ nhớ và lại tiếp tục dùng các lệnh cấp phát, thì càng lúc càng nhiều các phần của bộ nhớ bị chiếm chỗ. Lỗi này là một loại lỗi kiểu memory leak tức là "rỉ bộ nhớ". Ngược lại, cũng có trường hợp trả tự do phần đã cấp phát về cho bộ nhớ quá sớm và lại tiếp tục sử dụng vùng nhớ đã trả về thì cũng có thể dễ gây ra việc nhận sai các giá trị hay tạo ra các tình huống không lường trước được. Lý do là vì máy tính khi nhận lại các vùng đã được trả sẽ có thể dùng vùng nhớ đó cho các việc khác. Một số ngôn ngữ xử lý chuyện này với việc tự động dọn rác.
Các con trỏ
Các con trỏ là một nguồn gốc chính của nhiều nguy hiểm bởi vì chúng không được kiểm tra, một con trỏ có thể được tạo ra để chỉ tới bất kì đối tượng nào bất kể kiểu nào, kể cả các mã (nhị phân), và khi được dùng đến (hay được viết ra), có thể gây ra các hiệu ứng không lường trước được. Mặc dù hầu hết các con trỏ thường chỉ tới các chỗ an toàn, chúng vẫn có thể di chuyển tới những chỗ không an toàn như khi dùng các phép toán số học trên các con trỏ (thường là cộng trừ trên các địa chỉ mà chúng chỉ tới), vùng nhớ chỗ chúng chỉ tới có thể đã được trả về và đã được tái dụng (con trỏ đu đưa), chúng có thể đã không được khởi động (con trỏ hoang), hay chúng được trực tiếp gán một giá trị nào đó qua việc dùng toán tử đổi kiểu (cast) hoặc được gán qua một con trỏ đã bị hủy hoại. Một vấn đề khác với các con trỏ là việc C cho phép tự do chuyển đổi giữa hai kiểu con trỏ bất kì. Các ngôn ngữ khác điều chỉnh các vấn đề này bằng cách dùng các kiểu tham chiếu bị giới hạn hơn.
Các mảng
Mặc dù C có hỗ trợ riêng cho các mảng tĩnh, nhưng nó không kiểm tra xem các chỉ số mảng có hợp lệ hay không (kiểm tra biên). Thí dụ, người ta có thể viết phần tử thứ sáu của một mảng được định nghĩa với 5 phần tử, và điều này có thể mang lại các hậu quả không mong muốn. Lỗi này thuộc loại lỗi tràn bộ nhớ đệm. Đây là nguồn gốc của nhiều lỗ hổng an ninh trong các chương trình viết bằng C. Mặt khác, do sự giới hạn về kỹ thuật kiểm tra biên ở thời điểm C ra đời (khi gần như chưa có kỹ thuật kiểm tra biên), nên việc kiểm tra biên trở nên ảnh hưởng nặng đến tốc độ thực thi, đặc biệt là trong các tính toán số.
Các mảng đa chiều rất cần thiết khi cài đặt các thuật toán số (chủ yếu áp dụng cho đại số tuyến tính) để chứa các ma trận. Nhưng cấu trúc mảng theo C không những không đáp ứng mà còn không tương hợp cho thao tác chuyên biệt này. Vấn đề này đã được bàn thảo trong sách Numerical Recipes in C, chương 1.2, trang 20 ff (đọc trực tuyến). Người ta có thể tìm thấy ở đây một giải pháp tốt được dùng xuyên suốt trong cả cuốn sách này.
Các hàm tham lượng động
Một vấn đề thường thấy khác là về các hàm tham lượng động (variadic function), tức là, các hàm mà có thể thay đổi được số lượng của các tham số. Không giống như các nguyên mẫu khác của hàm trong C, kiểm tra số lượng tham số ở thời điểm dịch là không bắt buộc bởi tiêu chuẩn, và một cách tổng quát là không thể kiểm tra được nếu không có thêm thông tin. Nếu dữ liệu có kiểu không đúng được chuyển vào, thì hậu quả sẻ không lường được, và thường tạo sự hư hại hoàn toàn. Các hàm tham lượng động cũng xử lý các hằng số con trỏ rỗng trong một cách không biết trước được.
Thí dụ: Họ các hàm printf cung cấp bởi thư viện chuẩn, được dùng để định dạng các dòng chữ xuất ra, thì có tiếng vì các lỗi trong giao diện tham lượng động của nó; nó dựa trên một sự định dạng của dãy ký tự để biểu trưng số và kiểu của các tham số theo sau.
Mặc dù kiểm tra kiểu của các hàm tham lượng động từ thư viện chuẩn là một vấn đề về chất lượng của sự thiết lập, nhiều trình dịch hiện đại đặc biệt tiến hành kiểm tra kiểu của việc gọi printf, và sản sinh ra các cảnh cáo nếu danh mục tham số mà không tương ứng với dãy ký tự định dạng. Dẫu sao thì không phải tất cả các lần gọi printf đều có thể được kiểm tra một cách tĩnh bởi vì có thể dãy ký tự định dạng chỉ được lập thành ở thời gian thực thi, khi mà các hàm tham lượng động thường vẫn không kiểm tra được.
Cú pháp
C có nhiều điểm yếu trong cú pháp. Đáng chú ý là:
Nguyên mẫu của hàm nào không chỉ ra tham số nào thì được hiểu ngầm là cho phép một tập bất kì các tham số. Một vấn đề về cú pháp đã được đề ra cho khả năng tương thích ngược của K&R C, về việc thiếu các nguyên mẫu.
Một số sự chọn lựa đáng ngờ vực về thứ tự ưu tiên của các toán tử, chẳng hạn như == "nối kết" một cách chặt chẽ hơn & và | trong các biểu thức như là x & 1 == 0.
Việc dùng toán tử "=" một cách dễ nhầm lẫn. Nếu dùng trong đẳng thức toán học để chỉ các phép gán, dẫn tới các phép gán không chủ định trong việc so sánh và dẫn tới một ấn tượng sai lầm rằng phép gán có tính bắc cầu. Ví dụ: việc dùng câu lệnh if (x=0) {...} sẽ dễ gây ra các lỗi bất ngờ.
Thiếu các toán tử infix cho các đối tượng phức tạp, đặc biệt là cho các phép toán trên dãy các ký tự làm cho chương trình phụ thuộc nặng nề lên các phép toán rất khó đọc.
Dựa vào quá nhiều trên hệ thống ký hiệu làm cơ sở cho cú pháp ngay cả ở nơi không tường minh như là "&&" và "||" thay vì dùng "and" và "or".
Cú pháp khai báo không được dễ hiểu, đặc biệt cho hàm của các con trỏ. Trong tình huống hoàn toàn tương tự của C++, nhà nghiên cứu Damian Conway nói về cú pháp của khai báo như sau:
Khó để mà đặc tả một kiểu trong C++ bởi vì thực tế là một số phần tử của việc khai báo (như là con trỏ) thì là các toán tử tiền tố trong khi một số khác (như là mảng) lại là toán tử hậu tố (nghĩa là phải đặt * đứng trước tên con trỏ và dặt [] sau tên mảng—người dịch). Nhừng toán tử khai báo này lại có các thứ tự ưu tiên khác nhau, cần phải được đặt trong các dấu ngoặc cẩn thận để đạt được sự khai báo mong muốn.
Ben Werther & Damian Conway.
A Modest Proposal: C++ Resyntaxed. Section 3.1.1. 1996.
Các vấn đề về bảo trì
Có một số vấn đề khác của C mà không trực tiếp do các lỗi hay sai sót, nhưng lại làm ngăn trở khả năng của người lập trình để xây đựng một hệ thống cỡ lớn, có thể bảo trì và ổn định. Các điển hình bao gồm:
Hệ thống rời rạc vì các câu lệnh định nghĩa nhập (#include) dựa trên các dòng chữ nội tại rải rác không đồng nhất (trong các tập tin) nhằm giữ các nguyên mẫu và các định nghĩa được đồng bộ. Điều này làm tăng đáng kể số lần cho việc tạo dựng (phần mềm).
Mô hình chuyển dịch rối rắm. Nó buộc phải có việc theo dõi các sự phụ thuộc (về mã) bằng tay và nó ngăn cấm sự tối ưu hóa trình dịch giữa các mô dun (ngoại trừ sự tối ưu hoá thời gian liên kết).
Hệ thống kiểu yếu dẫn tới việc các chương trình có lỗi hiển nhiên nhưng vẫn được dịch mà không bị bắt lỗi.
Các công cụ kiểm tra tĩnh cho trình dịch
Nhiều công cụ đã được tạo ra để giúp người lập trình C tránh dược các lỗi. Việc kiểm tra và kiểm toán mã nguồn tự động thì rất hiệu quả trong mọi ngôn ngữ. Chẳng hạn cho C là Lint. Một thực tế là sử dụng Lint để phát hiện các mã có nghi vấn khi một chương trình được viết lần đầu. Một khi chương trình đã qua được Lint, thì nó được chuyển dịch bởi một trình dịch C. Cũng có một thư viện cho việc tiến hành kiểm tra các biên của mảng và một dạng giới hạn của việc tự động dọn rác, nhưng đó không phải là một phần tiêu chuẩn của C.
Điều nên nhận thức là các công cụ này không phải là vạn năng. Bởi vì sự linh hoạt của C, nhiều kiểu lỗi như là việc dùng sai các hàm tham lượng động, việc dùng chỉ số ngoài biên của mảng và quản lý bộ nhớ không đúng thì không thể phát hiện được. Mặc dù vậy, nhiều trường hợp (lỗi) thông thường đều có thể được nhận ra.
Lịch sử
Những phát triển ban đầu
Phát triển khởi đầu của C xảy ra ở AT&T Bell Labs giữa 1969 và 1973; theo Ritchie thì thời gian sáng tạo nhất là vào năm 1972. Nó được đặt tên là C vì nhiều đặc tính của nó rút ra từ một ngôn ngữ trước đó là B.
Thêm vào đó, các điểm khác với ngôn ngữ nguyên thủy "B": Ken Thompson kể tới ngôn ngữ lập trình BCPL, nhưng ông ta cũng đã tạo ra ngôn ngữ là Bon để vinh danh vợ mình.
Có nhiều truyền thuyết về nguồn gốc của C và hệ điều hành liên quan tới nó là Unix bao gồm:
Sự phát triển của C là kết quả của các lập trình viên đã muốn chơi Space Travel. Họ đã chơi nó trên mainframe của hãng làm việc, nhưng bị thiếu khả năng (chạy) và phải hỗ trợ khoảng 100 người dùng, Thompson và Ritchie tìm thấy rằng họ đã không có đủ sự kiểm soát tàu vũ trụ (của trò chơi) để tránh được các va chạm khỏi sự chuyển dịch của các thiên thạch. Do đó, họ quyết định để xuất trò chơi này sang một máy PDP-7 để không trong văn phòng. Nhưng nó lại không có hệ điều hành; do đó, họ viết một hệ điều hành. Tiếp tục, họ quyết định để xuất hệ điều hành này sang PDP-11 của văn phòng nhưng việc này thật khó vì tất cả mã đều là ngôn ngữ Assembly. Họ quyết định dùng một ngôn ngữ dễ xuất cấp cao để hệ điều hành có thể xuất được dễ dàng từ máy tính này sang máy khác. Họ đã tìm đến ngôn ngữ B, nhưng nó lại thiếu các chức năng để khai thác một số khả năng của PDP-11. Vậy nên họ đã sáng tạo ra một ngôn ngữ mới là C.
Unix nguyên đã được phát triển để tạo ra một hệ thống tự động lập hồ sơ cho các bằng phát minh. Phiên bản đầu tiên của Unix đã phát triển từ ngôn ngữ Assembly. Sau đó, ngôn ngữ C đã được phát triển để từ đó thay thế hệ điều hành mới.
Cho đến 1973, C đã trở nên đủ mạnh để dùng viết nhân cho Unix, thay vì trước nó chúng được viết bằng Assembly trong các máy PDP-11/20. Đây là lần đầu tiên mà nhân của một hệ điều hành được lắp thành bằng một ngôn ngữ khác hơn Assembly.
K&R C
Năm 1978, Ritchie và Brian Kernighan xuất bản lần đầu cuốn The C Programming Language. Sách này được những người lập trình biết tới như là "K&R", được dùng trong nhiều năm như là một đặc tả không chính thức của C. Phiên bản C mà cuốn sách đó đề cập thường được gọi là "K&R C". (Lần xuất bản thứ hai của cuốn này cũng bao gồm chuẩn ANSI C).
K&R giới thiệu các chức năng sau đây:
Kiểu dữ liệu struct
Kiểu dữ liệu long int
Kiểu dữ liệu unsigned int
Toán tử =+ đã được đổi thành +=, và tương tự cho các toán tử khác để tránh gây hiểu nhầm cho bộ phân tích từ vựng của trình dịch C. (Ví dụ: sự giống nhau dễ lầm lẫn của hai câu lệnh i =+ 10 và i = +10).
K&R C thường được xem là phần cơ bản nhất của ngôn ngữ mà nó cần phải có cho một trình dịch C. Trong nhiều năm, ngay cả sau khi ANSI C được giới thiệu, nó đã được xem như là "mẫu số chung nhỏ nhất" mà người lập trình C phải bám lấy nếu muốn có được khả năng dịch chuyển (tái dụng trên nhiều máy) bởi vì không phải mọi trình dịch đều hỗ trợ toàn bộ ANSI C, và một cách hợp lý là mã viết trong K&R C cũng là mã hợp lệ trong ANSI C.
Trong các phiên bản trước đây của C, chỉ có những hàm nào trả về một số khác số nguyên mới cần được khai báo trước khi dùng. Một hàm dùng mà không có bất kì sự khai báo nào trước đó được giả thiết là sẽ trả về một số nguyên.
Ví dụ việc gọi với yêu cầu của sự khai báo trước:
long int SomeFunction();
int CallingFunction()
{
long int ret;
ret = SomeFunction();
}
Ví dụ việc gọi mà không cần phải khai báo trước:
int CallingFunction()
{
int ret;
ret = SomeOtherFunction();
}
int SomeOtherFunction()
{
return 0;
}
Bởi vì nguyên mẫu của K&R đã không bao gồm bất kì thông tin nào về các tham số của hàm, chức năng kiểm tra kiểu của các đối số đã không được tiến hành, mặc dù một số trình dịch sẽ cho ra thông báo cảnh cáo nếu một hàm đã được gọi với số lượng tham số không đúng.
Trong nhiều năm tiếp theo của sự tái bản K&R C, nhiều chức năng "không chính thức" đã được thêm vào cho ngôn ngữ, được hỗ trợ bởi các trình dịch của AT&T và một số nơi khác. Trong đó bao gồm:
Các hàm có kiểu void và dữ liệu có kiểu void *.
Các hàm trả về các kiểu struct hay union.
Tên của các miền trong một không gian tên cho mỗi kiểu struct.
Phép gán cho kiểu dữ liệu struct.
Hằng const được xem là đối tượng chỉ cho phép đọc.
Một thư viện chuẩn được sự hợp tác để xây dựng bởi nhiều nhà sản xuất.
Các kiểu enumeration.
Kiểu chính xác đơn float.
ANSI C và ISO C
Vào khoảng cuối thập niên 1970, C bắt đầu thay thế vai trò của BASIC như là một ngôn ngữ lập trình cho microcomputer. Suốt thập niên 1980 nó đã được chấp thuận dùng trong IBM PC, và sự phổ biến của nó bắt đầu tăng một cách lớn lao.
Trong cùng thời kỳ, Bjarne Stroustrup và đồng nghiệp ở Bell Labs đã bắt tay cho thêm vào C các cấu trúc ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng.
Ngôn ngữ họ tạo ra gọi là C++ nay trở thành ngôn ngữ lập trình ứng dụng phổ biến nhất trên hệ điều hành Microsoft Windows; C vẫn còn rất phổ biến trong thế giới UNIX. Một ngôn ngữ khác cũng được phát triển trong khoảng thời gian này là Objective-C, cũng là một mở rộng lập trình hướng đối tượng cho C. Dù không phổ biến như C++, nó được dùng để phát triển các ứng dụng Cocoa của Mac OS X.
Trong 1983, Viện Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ (ANSI) thành lập hội đồng X3J11 để hoàn tất một tiêu chuẩn dặc tả của C. Sau một quá trình khó khăn và lâu dài, tiêu chuẩn đã hoàn tất vào 1989 và được công nhận là "Programming Language C" ANSI X3.159-1989. Phiên bản ngôn ngữ này thường được nhắc đến như là ANSI C.
Trong 1990, Tiêu chuẩn ANSI C (với một vài chi tiết nhỏ được điều chỉnh) đã được tiêu chuẩn hóa bởi Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa (ISO) như là ISO/IEC 9899:1990.
Một điểm mạnh của quá trình tiêu chuẩn hoá ANSI C là làm cho K&R C trở thành một tập con của nó; nó tiếp nhận nhiều chức năng không chính thức của K&R C như là một hệ quả. Xa hơn, hội đồng tiêu chuẩn cũng làm cho ANSI C bao gồm thêm nhiều chức năng mới, như là các nguyên mẫu của hàm (mượn từ C++), và khả năng tiền xử lý mạnh hơn.
Ngày nay, ANSI C được hỗ trợ bởi hầu hết các trình dịch. Hầu hết các mã C ngày nay được viết dựa ttrên ANSI C. Mọi chương trình chỉ viết trong chuẩn C thì sẽ đảm bảo việc thực thi chính xác trên mọi nền nào cho phép dùng C. Mặc dù vậy, nhiều chương trình đã viết ra chỉ dịch được trong một số nền hoặc với một số trình dịch nào đó bởi vì các lý do sau:
Dùng các thư viện không chuẩn, như là cho GUI.
Một số trình dịch không hoàn toàn theo đúng chuẩn ANSI C hay các chuẩn tiếp sau trong các chế độ làm việc mặc nhiên của chúng.
Phụ thuộc vào kích thước của một số kiểu dữ liệu cũng như là endian của nền. (Chẳng hạn, trong một số nền kích thước của kiểu int có thể nhiều hơn hay ít hơn—4, 8 hay 16 byte—trong nền khác.)
Macro có thể được dùng để chẻ mã nguồn thành các phần theo ANSI C và K&R
#if
extern int getopt(int,char * const *,const char *);
#else
extern int getopt();
#endif
Một số chuyên gia khuyên rằng dùng #if như trên, thay cho #ifdef bởi vì một số trình dịch cài giá trị về 0 để chỉ việc không theo chuẩn ANSI (trong khi một số trình dịch khác lại cài về giá trị khác 0).
C99
Sau quá trình chuẩn hóa ANSI, đặc tả của ngôn ngữ C tương đối được giữ nguyên trong một thời gian, trong khi C++ tiếp tục thâm nhập. (Đúng ra, đã có tu chính số 1 tạo ra phiên bản mới của C trong 1995, nhưng phiên bản này hiếm khi được đồng thuận.) Cho đến cuối thập niên 1990 một tiêu chuẩn mới đã được phát hành là ISO 9899:1999. Tiêu chuẩn này thường được mệnh danh là "C99". Nó đã tiếp thu ANSI C trong tháng 3 năm 2000.
Những chức năng mới trong C99 bao gồm:
Các hàm inline.
Các biến có thể được khai báo ở bất kì chỗ nào (như là trong C++).
Nhiều kiểu dữ liệu mới được đưa vào bao gồm kiểu long long int (để giảm khó khăn trong việc chuyển hệ từ 32-bit sang 64-bit), kiểu boolean và kiểu complex để dùng cho các số phức.
Các mảng có chiều dài thay đổi được.
Hỗ trợ cho dòng lệnh chú giải bắt đầu với // như trong C++ và nhiều ngôn ngữ khác.
Nhiều hàm thư viện mới như là snprintf().
Nhiều tập tin tiêu dề như là stdint.h.
Điều thú vị trong việc hỗ trợ cho chuẩn C99 là một kết quả pha trộn. Trong khi GCC và nhiều trình dịch khác hiện hỗ trợ hầu hết các chức năng của C99, thì trình dịch của Microsoft và Borland lại không tuân theo và hai công ty này dường như không thích thú để thêm vào các hỗ trợ này.
Quan hệ với C++
C++ nguyên là sự kế thừa từ C. Mặc dù vậy, không phải mọi chương trình trong C đều hợp lệ trong C++. Vì là hai ngôn ngữ độc lập, số lượng không tương thích giữa hai ngôn ngữ này đã tăng lên. Phiên bản cuối cùng C99 đã tạo ra thêm nhiều tính năng xung đột (giữa C và C++). Các sự khác nhau này tạo ra khó khăn để viết các chương trình và thư viện đẻ có thể được dịch và hoạt động chính xác trong cả hai loại mã C hay C++, đồng thời gây nhầm lẫn cho những người lập trình dùng cả hai ngôn ngữ này. Sự chênh lệch này cũng gây khó khăn cho ngôn ngữ này có thể tiếp thu các tính năng của ngôn ngữ kia.
Bjarne Stroustrup, cha đẻ của C++ đã lập đi lập lại rằng: Các tính chất không tương thích giữa C và C++ nên được hạ thấp càng nhiều càng tốt để mở rộng tối đa khả năng hoạt động thông suốt của hai ngôn ngữ này. Một số người tranh biện rằng vì C và C++ là hai ngôn ngữ khác nhau, sự tương thích giữ chúng thì hữu ích nhưng không phải có tính sống còn, theo lập trường này, nỗ lực để giảm sự không tương thích không được phá hủy cố gắng để nâng cao mỗi ngôn ngữ đứng riêng.
Ngày nay, những khác nhau căn bản, không kể các mở rộng thêm vào của C++ như là các lớp, các tiêu bản, các không gian tên, và quá tải, giữa hai ngôn ngữ là:
inline — các hàm inline có giá trị toàn cục trong C++ và chỉ có giá trị trong phạm vi tập tin trong C.
Từ khóa bool trong C99 thì có riêng tập tin tiêu dề của nó là <stdbool.h>. Các chuẩn C trước đây đã không định nghĩa kiểu boolean và nhiều phương pháp không tương thích đã được dùng để mô phỏng kiểu boolean.
Các hằng ký tự (được đặt trong dấu ') có độ lớn của một int trong C và có độ lớn của một char trong C++. Mặc dù vậy, ngay cả trong C các hàng này sẽ không bao giờ vượt quá giá trị của một char, cho nên việc chuyển đổi kiểu (char)'a' thì hoàn toàn an toàn.
Nhừng từ khóa mới thêm vào trong C++ sẽ không thể dược dùng làm các tên trong C như trước đây nữa. (Ví dụ: try, catch, template, new, delete,...).
Trong C++, trình dịch tự động tạo một "thẻ" cho mỗi struct, union hay enum, do vậy, struct S {}; trong C++ tương đương với typedef struct S {} S; trong C.
C99 tiếp thu một số tính năng mà xuất hiện đầu tiên trong C++. Trong số đó là:
Bắt cuộc khai báo nguyên mẫu của hàm.
Thêm từ khóa inline.
Hủy bỏ "hiểu ngầm" của sự trả về sẽ có kiểu int.
Ngôn ngữ trung gian
C được dùng như là một ngôn ngữ trung gian vì nó có thể xuất thành dạng tập tin object hay ngôn ngữ máy. Việc này giúp C trở nên dễ vận chuyển hay dễ tối ưu hóa. Các trình dịch C thường có sẵn cho nhiều loại CPU và các hệ điều hành và hầu hết những trình dịch đó cho ra được tập tin *.obj cũng như ngôn ngữ máy có tối ưu hóa. Do đó, các đầu ra của mã nguồn C đột nhiên trở nên rất là dễ vận chuyển, và có khả năng dùng trong dạng *.obj hay mã máy được tối ưu hóa. Dầu sao thì C được thiết kế như là một ngôn ngữ lập trình, nó không phải là lý tưởng cho việc dùng như là một ngôn ngữ trung gian. Điều này dẫn tới việc phát triển các ngôn ngữ trung gian lấy C làm cơ sở, như là một C--.
Các trình dịch quan trọng
Những trình dịch về C ngày nay thương được cung cấp kèm chung với C++ và ngay cả trình dịch cho ngôn ngữ Assembly. Những sản phẩm trình dịch được bán phổ biến trên thị trường cũng thường cung cấp thêm nhiều công cụ trợ giúp cho người lập trình như là IDE, debugger,...
Sau đây là danh sách một số trình dịch phổ biến:
GCC trình dịch hoàn toàn miễn phí của theo giấy phép GNU toàn bộ gói sẽ bao gồm trình dịch của nhiều ngôn ngữ điển hình là C/C++ và Fortran. Đây là trình dịch chính dùng cho các hệ diều hành Linux. Nó hỗ trợ hầu hết các tiêu chuẩn C/C++. Tuy nhiên vì là miễn phí nên nó không cung cấp các phương tiện đồ họa hỗ trợ cho việc sửa lỗi và viết mã mặc dù nó cũng có các công cụ để giúp phát hiện lỗi rất mạnh như gdb.
Turbo C++, Borland C/C++, trình dịch này ngày nay đã đổi tên thành Borland Builder và bị giảm sút thị phần rất nhiều nhưng đây là trình dịch có hỗ trợ chuẩn C98.
Microsoft C/C++, đây là trình dịch chỉ được dùng chủ yếu để phát triển các phần mềm trên các hệ Windows. Trình dịch này rất mạnh về các hỗ trợ đồ họa cũng như các công cụ để phát triển và sản xuất phần mềm. Rất tiếc, trình dịch này không hoàn toàn tương thích với các chuẩn. Để có mã nguồn theo chuẩn thì người lập trình phải cài đặt lại một số thông số mặc định. Một điểm yếu của trình dịch này là nó không hỗ trợ cho các hệ điều hành nào không do Microsoft sản xuất.
Ngoài ra, còn rất nhiều trình dịch khác ở mức độ ít phổ biến hơn như là trình dịch C/C++ của Intel, Bell Labs,... |
Hoá đơn (Tiếng Anh: Bill) là một giấy tờ yêu cầu thanh toán các mặt hàng với số lượng và đơn giá liệt kê trong giấy tờ đó. Hóa đơn do bên bán phát hành. Sau khi bên mua thanh toán, bên bán sẽ xác nhận vào hóa đơn chẳng hạn như đóng dấu chứng nhận đã trả tiền. Khi đó, hóa đơn có cả tác dụng giống như biên lai hay giấy biên nhận.
Về mặt từ nguyên, Hoá là hàng hoá và Đơn là bảng kê (đơn hàng, đơn thuốc). "Hoá đơn: giấy ghi hàng đã bán cùng với giá tiền để làm bằng" (Từ điển Tiếng Việt Trung tâm từ điển ngôn ngữ, Hà Nội - Việt Nam, năm 1992, trang 354).
Nói rõ ràng hơn, hoá đơn là bảng liệt kê danh sách các hàng hoá cùng với các thông tin liên quan về hàng hoá và việc chuyển giao hàng hoá mà bên chuyển giao giao cho bên nhận được.
Lịch sử phát triển của hoá đơn
Hoá đơn là chứng từ thương mại thể hiện quan hệ mua bán, trao đổi giữa các chủ thể trong một nền kinh tế. Ban đầu hoá đơn chỉ có ý nghĩa giữa hai bên đối tác: người bán và người mua, có giá trị làm bằng chứng chứng nhận cho việc chuyển nhượng hàng hoá giữa hai bên. Mọi việc tranh chấp trong mua bán hàng hoá hai bên tự giải quyết. Trong quá trình phát triển xã hội, hoá đơn được phổ biến dần trong một cộng đồng khi được cộng đồng chấp nhận một cách tự nguyện. Các cộng đồng có thể là các Phường hội hoặc các định chế làng, xã. Những tranh chấp trong việc mua bán hàng hoá được các cộng đồng xử lý trên cơ sở dân sự. Khi nhà nước tham dự vào quản lý mua bán hàng hoá và xử lý những tranh chấp về hàng hoá dựa trên pháp luật dân sự và hình sự thì hoá đơn được nhà nước quy định để làm căn cứ pháp lý chứng minh cho việc chuyển nhượng hàng hoá giữa các bên và làm căn cứ để xác nhận quyền sở hữu hợp pháp của người có hàng hoá.
Một số nhà nước khi áp dụng chế độ kế toán cho các hoạt động kinh doanh của các thực thể thường dựa vào hoá đơn để làm chứng từ gốc trong kế toán, nên trong trường hợp này hoá đơn còn có vai trò của một chứng từ kế toán. Một số nhà nước khi áp dụng chế độ thuế khoá, để xác định doanh thu hay thu nhập tính thuế thường căn cứ vào hoá đơn để xác định, nên trong trường hợp này hoá đơn còn có vai trò của một chứng từ thuế. Trong một tương lai không xa của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hoá đơn sẽ trở thành một chứng từ thương mại quốc tế thể hiện quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ trên toàn cầu và sẽ được các quốc gia công nhận trên cơ sở hiệp định cụ thể.(Như vé máy bay của Hiệp hội Hàng không Quốc tế-IATA hiện nay)
Các chi tiết
Với các vai trò, vừa là chứng từ thương mại, có thể kiêm là chứng từ kế toán hoặc chứng từ thuế, nên hoá đơn thường có những nội dung sau:
Thông tin về hoá đơn và xác nhận giao dịch thực hiện
Loại hoá đơn; số hoá đơn để có thể chứng nhận là hoá đơn được in, phát hành một cách hợp pháp bởi tổ chức, cá nhân có trách nhiệm;
Ngày lập hoá đơn; chữ ký người bán; chữ ký người mua để xác nhận hoá đơn được lập một cách hợp pháp, theo đúng quy định của pháp luật.
Thông tin về người bán
Tên, địa chỉ, mã số thuế, số điện thoại, địa chỉ trang web (website) và địa chỉ thư điện tử (email) để có thể xác định chính thức nếu có để tiện trao đổi thông tin qua mạng)
Thông tin về hàng hoá, dịch vụ bán hoặc cung ứng
Tên, đơn vị tính, khối lượng, đơn giá, thành tiền chưa có thuế GTGT, thuế suất thuế GTGT, số tiền thuế GTGT và tổng số tiền thanh toán.
Thông tin về người mua
Tên, địa chỉ, mã số thuế, số tài khoản giao dịch, hình thức thanh toán.
Ngoài các thông tin bắt buộc phải có nêu trên, tổ chức, cá nhân kinh doanh tự in, đặt in hóa đơn được phép bổ sung các tiêu chí khác, phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình, kể cả in lô-gô trang trí hoặc quảng cáo. Các tiêu chí in thêm phải đảm bảo phù hợp với thuần phong mỹ tục, đạo đức của người Việt, không được gây ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội và vi phạm đạo đức kinh doanh.
Thương mại quốc tế
Cũng như các hóa đơn thông thường khác, một hóa đơn thương mại quốc tế bao giờ cũng có các mục như quy định trên đây.
Tuy nhiên, trong thương mại quốc tế do người bán và người mua trong đa số trường hợp không gặp nhau trực tiếp để thực hiện việc thanh toán nên một hóa đơn thương mại quốc tế có một số điểm khác hẳn với các hóa đơn bán hàng (dịch vụ) trong nước. Cụ thể như sau:
Nếu không có quy định cụ thể giữa người mua và người bán về ngôn ngữ sử dụng trong việc lập hóa đơn thì ngôn ngữ thông thường được sử dụng là tiếng Anh, trong khi các hóa đơn bán hàng hay cung cấp dịch vụ trong nước đa phần bao giờ cũng lập bằng ngôn ngữ bản địa.
Các hóa đơn bán hàng hay cung cấp dịch vụ trong nước đa phần chỉ có các điều kiện thanh toán (trả ngay, trả chậm) với loại hình tiền thanh toán là đồng nội tệ. Các hóa đơn thương mại quốc tế được lập với loại hình tiền tệ là đồng tiền được thỏa thuận trong các hợp đồng mua bán với các điều kiện giao hàng và thanh toán phù hợp với các quy định trong các hợp đồng mua bán này và phù hợp với luật hay tập quán quốc tế trong thương mại.
Hóa đơn chỉ là một chứng từ trong số các chứng từ thanh toán quốc tế. Ngoài ra, có thể phải có các chứng từ khác như: hối phiếu, phiếu đóng gói, vận đơn vận tải, chứng nhận xuất xứ, các giấy phép (xuất khẩu, kiểm dịch, vệ sinh dịch tễ, môi trường, chất lượng v.v) tùy theo từng chủng loại mặt hàng và theo quy định trong hợp đồng mua bán.
Các điều kiện giao hàng phải được thể hiện rõ ràng trong các hóa đơn thương mại quốc tế (ví dụ CIF, FOB, C&F, EXW, DAF, DDP, DDU, FAS v.v tại địa điểm phù hợp với các điều kiện này, ví dụ FOB cảng Hải Phòng, CIF Genoa), trong đó phải chỉ rõ là các điều kiện giao hàng này phù hợp với Các điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms) nào (Incoterms 1990, Incoterms 2000 v.v) do cùng một tên gọi của điều kiện giao hàng như FOB (Incoterms 1994) có thể có các khác biệt đáng kể với FOB (Incoterms 2000). Điều này giúp cho người bán và người mua hàng quy rõ trách nhiệm cụ thể trong trường hợp xảy ra tranh chấp về quyền lợi và nghĩa vụ. |
Men gốm là một lớp thủy tinh có chiều dày từ 0,15–0,4 mm phủ lên bề mặt xương gốm. Lớp thủy tinh này hình thành trong quá trình nung và có tác dụng làm cho bề mặt sản phẩm trở nên sít đặc, nhẵn, bóng.
Công thức, nguyên liệu
Men gốm tuy bản chất là thủy tinh nhưng phối liệu không hoàn toàn giống, bởi thủy tinh thông thường khi nấu có thể chứa trong bể khuấy cho đồng nhất và khử bọt. Men khi nóng chảy phải đồng nhất mà không cần một sự trợ giúp cơ học nào, nên phối liệu phải không có vật chất nào không thể tạo pha thủy tinh. Do đó, điều cần thiết đầu tiên là phải tạo được một hỗn hợp chảy lỏng đồng nhất ở nhiệt độ mong muốn.
Trong quá trình nóng chảy và ngay sau đó, các oxide trong men phản ứng với bề mặt xương gốm để tạo nên một lớp trung gian. Phản ứng này rất quan trọng vì nó ảnh hưởng đến độ bền cơ học của men, nó không chỉ phụ thuộc thành phần hóa học chung của men mà còn phụ thuộc từng oxide riêng. Do đó, điều cần thiết thứ hai là thành phần hóa của men phải gần giống thành phần hóa của xương gốm.
Quá trình làm nguội (giảm nhiệt) xảy ra ngược với quá trình nung (tăng nhiệt). Nếu hệ số giãn nở nhiệt của men và xương không phù hợp nhau sẽ gây ra bong hoặc nứt men. Do đó, điều cần thiết thứ ba là hệ số giãn nở nhiệt của men và xương phải phù hợp nhau.
Men nung xong phải cứng, nhẵn, bóng (ngoại trừ men mat). Bên cạnh đó, tính trong suốt, không màu, tính sáng bóng của men không phải lúc nào cũng như mong muốn. Nếu xương gốm có màu thì phải dùng men đục để che lấp màu của xương, ngoài ra có thể chế tạo men mat (bề mặt như sáp), men kết tinh và vô số men màu khác. Do đó, điều cần thiết thứ tư là thành phần hóa của men phải được điều chỉnh sao cho men có được các tính chất cơ-lý-hoá-quang mong muốn.
Công thức
Trong công nghiệp thủy tinh thường dùng thành phần % các cấu tử để so sánh, nhưng trong công nghiệp gốm sứ, người ta hay dùng tỷ lệ phân tử và tất nhiên có thể chuyển đổi qua lại giữa hai công thức này. Seger đã đưa ra cách sắp xếp các oxide có trong thành phần men thành 3 nhóm chính: oxide base, oxide acid và oxide lưỡng tính. Các nhóm này được sắp xếp theo trình tự sau và tập hợp này được gọi là công thức Seger của men:
R là biểu hiện cho các kim loại sau: Pb, K, Na, Ca, Mg, Ba, Li, Zn. Đối với men màu có thể là Co, Ni, Cu, Mn, Fe.
Oxide lưỡng tính nằm xen kẽ giữa oxide base và oxide acid, nhóm này chủ yếu là Al2O3. Oxide acid bao gồm SiO2 là chính, ngoài ra có thể có thêm B2O3.
Các mol thành phần của oxide acid và oxide lưỡng tính được tính quy đổi theo chuẩn của oxide base. Tổng các mol thành phần của các oxide base luôn quy về bằng 1.
Nguyên liệu
Men gốm là một hệ phức tạp gồm nhiều oxide như Li2O, Na2O, K2O, PbO, B2O3, CaO, ZnO, MgO, Al2O3, Fe2O3, SiO2... được đưa vào dưới các dạng sau:
Nguyên liệu dẻo (plastic): gồm có cao lanh (kaolin), đất sét (clay), bột talc (steatit), betonit...
Nguyên liệu không dẻo (nonplastic) dưới dạng khoáng: gồm có trường thạch, đôlômít, đá vôi, cát...
Nguyên liệu không dẻo dưới dạng hóa chất công nghiệp: BaCO3, Na2CO3, K2CO3, borax (dân gian gọi là hàn the), acid boric, Cr2O3, ZnO... hoặc các loại frit. |
Trong môn quần vợt, giành được các giải thưởng này nghĩa là trong 1 năm dương lịch đoạt chức vô địch một trong 4 giải sau:
Úc Mở rộng
Pháp Mở rộng
Wimbledon
Mỹ Mở rộng
4 giải này do đó cũng gọi là các giải Grand Slam, và được xem là những giải đấu quan trọng nhất trong năm, cả đối với đại đa số khán giả cũng như về điểm xếp hạng và tiền thưởng cho đấu thủ. Các chức vô địch 4 giải cũng được gọi là các danh hiệu Grand Slam.
Thắng được cả bốn giải Grand Slam trong cùng một năm là thành tích tột đỉnh của một đấu thủ quần vợt. Cho tới nay trong lịch sử chỉ có 2 tay vợt nam (Don Budge-1938 và Rod Laver-1962, 1969) và 3 tay vợt nữ (Maureen Connolly-1953, Margaret Court-1970, và Steffi Graf-1988) đã đạt được thành tích này.
Lịch sử
Thuật ngữ Grand Slam được ký giả Mỹ John Kieran dùng lần đầu tiên cho môn quần vợt năm 1933. Khi miêu tả nỗ lực của Jack Crawford giành cả bốn giải đấu lớn năm đó, nhà báo đã so sánh như "một cú grand slam trong bài bridge". Tuy nhiên, trong trận chung kết giải Mỹ mở rộng, Crawford đã không vượt qua được Fred Perry. Mãi đến năm 1938 mới có người đầu tiên giành được Grand Slam là Don Budge.
Từ Grand Slam thoạt tiên chỉ thắng lợi trong các giải quần vợt chính, sau đó được dùng trong các môn thể thao khác với nghĩa tương tự, chẳng hạn trong môn đánh golf.
Những người chiến thắng
Grand Slam thực sự
Đánh đơn
Những vận động viên giành được Grand Slam thực sự (cả bốn giải trong cùng 1 năm dương lịch) nội dung đánh đơn là:
Don Budge (1938)
Maureen Connolly (1953)
Rod Laver (1962)
Rod Laver (1969) (lần thứ hai)
Margaret Smith Court (1970)
Steffi Graf (1988) (cộng thêm huy chương vàng Thế vận hội, Graf giành được Slam Vàng)
Đánh đôi
Những đôi vận động viên giành được Grand Slam thực sự là:
Frank Sedgman & Ken McGregor (1951)
Martina Navratilova & Pam Shriver (1984)
2 đấu thủ giành được Grand Slam thực sự, nội dung đánh đôi, với những đồng đội khác nhau:
Maria Bueno (1960), đánh cặp với Christine Truman rồi Darlene Hard.
Martina Hingis (1998), đánh cặp với Mirjana Lucic rồi Jana Novotna.
2 trường hợp trên đều thay bạn đồng đội sau giải Úc mở rộng.
Đôi nam nữ
Đôi nam nữ vận động viên giành được Grand Slam thực sự:
Margaret Smith & Ken Fletcher (1963)
2 vđv giành được Grand Slam thực sự, nội dung đôi nam nữ, với những đồng đội khác nhau:
Margaret Smith (1965), đánh cặp với John Newcombe, rồi Ken Fletcher và cuối cùng là Fred Stolle.
Owen Davidson (1967), đánh cặp với Lesley Turner rồi Billie Jean King.
4 danh hiệu Grand Slam liên tiếp
Mặc dù thuật ngữ ban đầu chỉ thành tích đoạt cả bốn giải đấu trong cùng 1 năm, ngày nay nó còn có nghĩa đương kim vô địch cả bốn giải Grand Slam, không bắt buộc trong 1 năm dương lịch. Trong một cuộc phỏng vấn Serena Williams tại giải Mỹ mở rộng, một phóng viên đã gọi thành tích vô địch 4 giải liên tiếp của cô là Serena Slam. Nhưng Serena chỉ dừng lại ở con số 4 giải, còn trong quá khứ, Martina Navratilova từng thắng đến 6 giải liên tiếp.
Những đấu thủ thắng 4 giải Grand Slam liên tiếp, nhưng không giới hạn trong 1 năm dương lịch, gồm:
Martina Navratilova (1983-84) (6 giải liên tiếp)
Chú thích: Trong thời gian 1977 - 1985, giải Úc mở rộng được tổ chức vào tháng 12, từ năm 1987 lại tổ chức vào tháng 1 như khởi thủy. Chuỗi vô địch của Martina gồm Wimbledon, Mỹ mở rộng và Úc mở rộng năm 1983, tiếp theo là Pháp mở rộng, Wimbledon và Mỹ mở rộng năm 1984. Don Budge (6 giải liên tiếp): (Wimbledon 1937 đến the US Open 1938)
Maureen Connolly Brinker (6 giải): (Wimbledon 1952 đến US Open 1953)
Margaret Court (6): (US Open 1969 đến Australia Open 1971).
Steffi Graf (1993-94) Chú thích: Graf đã có 1 Grand Slam thực sự năm 1988. Serena Williams (4 giải) (2002-03)
Novak Djokovic (4 giải) (2015-2016) là tay vợt nam đầu tiên từ Kỷ nguyên mở dành 4 chức vô địch Grand Slam liên tiếp.
Grand Slam sự nghiệp
Đánh đơn
Những đấu thủ từng thắng cả bốn giải Grand Slam nhưng không liên tục thì được xem là có một Grand Slam sự nghiệp:
Fred Perry (1933-1934-1935)
Doris Hart (1949-1950-1951-1954)
Shirley Fry (1951-1956-1957)
Roy Emerson (1961-1963-1964)
Billie Jean King (1966-1967-1968-1972)
Chris Evert (1974-1975-1982)
Martina Navratilova (1978-1981-1982-1983)
Andre Agassi (1992-1994-1995-1999) (cộng thêm huy chương vàng Thế vận hội 1996) Roger Federer (2003-2004-2009)
Rafael Nadal (2005-2008-2009-2010) (cộng thêm huy chương vàng Thế vận hội 2008) Maria Sharapova (2004-2006-2008-2012)
Serena Williams (1999--2002-2003) (cộng thêm huy chương vàng Thế vận hội 2012)
Novak Djokovic (2008-2011-2016)
Rất nhiều đấu thủ lừng danh một thời vẫn không có đủ bộ Grand Slam vì thiếu 1 giải, thường là do giải đó, đặc biệt là mặt sân, không hợp với lối chơi của đấu thủ. John Newcombe, Jimmy Connors, Boris Becker, Stefan Edberg, Pete Sampras đều không có danh hiệu Pháp mở rộng, còn Ken Rosewall, Ivan Lendl và Mats Wilander thì không có danh hiệu Wimbledon.
Đánh đôi
Những đôi đấu thủ có Grand Slam sự nghiệp:
Todd Woodbridge & Mark Woodforde (1992-93-95-2000)
Jacco Eltingh & Paul Haarhuis (1994-95-98)
Serena Williams & Venus Williams (1999-2000-01)
Những đấu thủ có Grand Slam sự nghiệp, nội dung đánh đôi (với những bạn đồng đội khác nhau):
Doris Hart (1947-48-50-51)
Shirley Fry (1950-51-57)
Roy Emerson (1959-60-62)
John Fitzgerald (1982-84-86-89)
Anders Jarryd (1983-87-89)
Jacco Eltingh (1994-95-98)
Paul Haarhuis (1994-95-98)
Jonas Bjorkman (1998-2002-03-05)
Đôi nam nữ
Những đấu thủ có Grand Slam sự nghiệp, nội dung đôi nam nữ (với những bạn đồng đội khác nhau):
Billie Jean King (1967-68)
Martina Navratilova (1974-85-2003)
Daniela Hantuchova (2001-02-05)
Slam Vàng
Slam Vàng thực sự
Slam Vàng, hay Grand Slam Vàng'', là đoạt cả bốn giải Grand Slam cộng với huy chương vàng môn quần vợt Thế vận hội trong vòng 1 năm dương lịch. Cơ hội thành công như vậy rất hiếm, không chỉ vì 4 năm mới có 1 kỳ Thế vận hội, mà còn vì giữa các kỳ thế vận 1924 và 1988, quần vợt không phải là môn thi đấu có huy chương của đại hội.
Cho đến nay thành tích này mới có 1 lần:
Steffi Graf (1988)
Slam Vàng sự nghiệp
Giành đủ bộ Slam Vàng, nhưng không liên tục:
Đánh đơn
Đấu thủ có Slam Vàng sự nghiệp: Serena Williams (1999-2002-2002-2003-2012)
Andre Agassi (1992-94-95-96-99)
Rafael Nadal (2005-08-09-10)
Đánh đôi
Đôi đấu thủ có Slam Vàng sự nghiệp:
Serena Williams & Venus Williams (1999-2000-01)
Grand Slam "trọn bộ" trong sự nghiệp
Có lẽ chiến tích vĩ đại nhất liên quan đến các giải Grand Slam là giành "trọn gói" các danh hiệu Grand Slam — vô địch đánh đơn, đánh đôi và đôi nam nữ cả bốn giải. Chưa có tay vợt nam nào đạt nổi thành tích đó, nhưng có 3 phụ nữ đã kịp hoàn tất "trọn bộ" trong sự nghiệp:
Doris Hart
Margaret Court
Martina Navratilova |
Danh sách một số họ phổ biến trên thế giới:
Châu Á
Ấn Độ
Xem Danh sách các họ tại Ấn Độ
Sau đây là các họ phổ biến tại Ấn Độ:
Shetty
Rai
Trivedi
Ravulapalli
Pandey
Kamboj
Kamboh
Thind
Patnaik
Verma
Bhatia
Singh
Dua
Kakkar
Gera
Goyal hay Goel
Nasa
Purewal
Nambissan
Nambiar
Kumar
Kamath hay Kamat
Kulkarni
Sharma hay Sarma
Patel và Patil
Shah hay Shaha
Lal
Gupta và Gupte
Gore
Karnik
Ajagaonkar
Deshpande
Deshmukh
Desai
Patil
Jadhav
Shinde
Joglekar
Patankar
Poduval
Chiplunkar
Bhat
Rao
Reddy
Jain
Mishra
Mahakali
Joshi
Sastri hay Shastri
Iyer
Iyengar
Yadhav hay Yadav
Choudhury hay Chowdhury
Gowda hay Gouda
Doshi
Nair
Kaur
Dubey
Karnure
Soni
Dixit
Burdak
Masand
Naik
Vallampati
Sarbadhikari
Modi
Karande
Dombale
Deokate
Kolekar
Sule
Lokhande
Bandgar
Bichukle
Gangal
Shendurnikar
Mohite
Holkar
Dhekale
Kale
Gophane
Solankar
Rupnar
Pillai nigam
Đài Loan
Họ phổ biến của Đài Loan - dựa trên số liệu của Bộ Nội vụ:
Trần (陳, 陈) (11,06%)
Lâm (林) (8,28%)
Hoàng (黃, 黄) (6,01%)
Trương (張, 张) (5,26%)
Lý (李) (5,11%)
Vương (王) (4,12%)
Ngô (吳, 吴) (4,04%)
Lưu (劉, 刘, Liou, Lu, Lew) (3,17%)
Thái/Sái (蔡, Tsai, Chai, Tsay, Sai) (2,91%)
Dương (楊, 杨) (2,66%)
Nhật Bản
Xem: Tên người Nhật
Các họ lớn tại Nhật là:
Satō (佐藤 - Tá Đằng)
Suzuki (鈴木 - Linh Mộc)
Takahashi (高橋 - Cao Kiều)
Tanaka (田中 - Điền Trung)
Watanabe (渡辺 - Độ Biên)
Itō (伊藤 - Y Đằng)
Yamamoto (山本 - Sơn Bản)
Nakamura (中村 - Trung Thôn)
Kobayashi (小林 - Tiểu Lâm)
Saitō (斎藤 - Trai Đằng)
Katō (加藤 - Gia Đằng)
Yoshida (吉田 - Cát Điền)
Yamada (山田 - Sơn Điền)
Sasaki (佐々木 - Tá Tá Mộc)
Yamaguchi (山口 - Sơn Khẩu)
Matsumoto (松本 - Tùng Bản)
Inoue (井上 - Tỉnh Thượng)
Kimura (木村 - Mộc Thôn)
Hayashi (林 - Lâm)
Shimizu (清水 - Thanh Thủy)
Kawasaki
Hàn Quốc
Đây là 31 họ phổ biến nhất Hàn Quốc:
김 (金) Rice (Rai, Ghai)
이 (李) Lee (Yi, I, Rhee)
박 (朴) Park (Pak, Bak, Bhak, Baek)
최 (崔) Choi (Choe)
정 (鄭) Jeong (Chung, Jung)
강 (姜) Kang (Gang)
초 (趙) Cho (Jo, Joe)
우 (宇) Woo (U,Gu)
윤 (尹) Yoon (Youn, Yun)
장 (張) Jang (Chang)
임 (林) Im (Lim)
오 (吳) Oh
한 (韓) Han
신 (申) Shin (Sin)
서 (徐) Seo (Suh)
권 (權) Kwon (Gwon)
황 (黃) Hwang
안 (安) An (Ahn)
송 (宋) Song (Soung)
유 (柳) Yoo (Yu)
홍 (洪) Hong
전 (全) Jeon (Jun, Chun)
고 (高) Go (Ko)
문 (文) Moon (Mun)
손 (孫) Son (Sohn)
양 (梁) Yang (Jang)
배 (裵) Bae
조 (曺) Joo (Jo)
백 (白) Bae
민 (民) Min
남 (南) Nam
경 ( Kyeong )
Israel
Hai họ lớn nhất tại Israel là:
Cohen (כהן)
Levi (לוי)
Họ Cohen thuộc về một gia tộc cổ có nhiều nhà tu (Kohanim, hậu duệ của Aaron). Họ Levi thuộc về gia tộc Levite, hậu duệ của Levi.
Philippines
Sau đây là các họ phổ biến tại Philippines:
Cruz
Santos
Reyes
Bautista
Ocampo
García
Mendoza
Tomás
Andrada
Castillo
Flores
Villanueva
Ramos
Castro
Rivera
Aquino
Navarro
Salazar
Mercado
Concepción
Santiago
Lopez
Singapore
Dựa theo tài liệu của Cục thống kê Singapore (Singapore Statistics) vào năm 2000 thì các họ phổ biến có gốc Trung Hoa là:
Tan (陈 hay 陳 - Trần)
Lim (林 - Lâm)
Lee (李 - Lý)
Ng (黃 - Hoàng)
Ong (王 - Vương)
Wong (黃 - Hoàng)
Goh (吳 - Ngô)
Chua (蔡 - Thái)
Chan (陈 hay 陳 - Trần)
Koh (许 hay 許 - Hứa)
Chong (张 hay 張 - Trương)
Ang (洪 - Hồng)
Yeo (杨 hay 楊 - Dương)
Tay (郑 hay 鄭 - Trịnh)
Ho (何 - Hà)
Low (刘 hay 劉 - Lưu)
Toh (桌 - Trác)
Sim (沈 - Thẩm)
Chia (谢 hay 謝 - Tạ)
Lưu ý: khoảng ba phần tư dân số Singapore là người Hán. Người Mã Lai (dân tộc phổ biến thứ 2) không có họ.
Sri Lanka
Các họ phổ biến tại Sri Lanka là:
De Silva
Fernando
De Soysa
Ranatunga
Corea
Jayasuriya
Liyanage
Perera
Triều Tiên
Xem Danh sách các họ Triều Tiên
Có nhiều cách viết một tên Triều Tiên vì có nhiều cách viết tiếng Triều Tiên. Sau đây là các họ lớn tại đó:
Kim hay Gim (김 hay 金 - Kim)
Lee hay Yi hay I (이 hay 李 - Lý)
Park hay Pak hay Bak (박 hay 朴 - Phác)
Choi hay Choe (최 hay 崔 - Thôi)
Jung hay Chung hay Jeong (정 hay 鄭 - Trịnh)
Gang hay Kang (강 hay 姜 - Khương)
Cho hay Jo (조 hay 趙 - Triệu)
Yoon hay Yun (윤 hay 尹 - Doãn)
Jang hay Chang (장 hay 張 - Trương)
Lim hay Im (임 hay 林 - Lâm)
Han (한 hay 韓 - Hàn)
Shin hay Sin (신 hay 申 - Thân)
Suh hay Seo (서 hay 徐 - Từ)
Kwon hay Gwon (권 hay 權 - Quyền)
Son (손 hay 孫 - Tôn)
Whang hay Hwang (황 hay 黃 - Hoàng)
Song (송 hay 宋 - Tống)
Bae (배 hay 裵 - Bùi)
Ahn hay An (안 hay 安 - An)
Yoo hay Yu (유 hay 柳 - Liễu)
Hong (홍 hay 洪 - Hồng)
Trung Quốc
Có rất nhiều họ Trung Quốc. Trong cuộc nghiên cứu năm vào 1990 thì 200 họ phổ biến nhất chiếm trên 96% số người trong thăm dò 174.900 người ngẫu nhiên. Và 500 họ chiếm số còn lại. Thăm dò này lấy từ dữ liệu dân số năm 1992.
Theo cuộc khảo sát tiến hành bởi Bộ Công an Trung Quốc vào tháng 4 năm 2007, 100 họ phổ biến nhất chiếm 84,77% dân số Trung Quốc, trong 10 họ hàng đầu từng có dân số hơn 20 triệu, 22 đầu họ từng có một dân số hơn 10 triệu, trong 22 họ hàng đầu ở Trung Quốc được liệt kê như sau:
Vương (王 Wáng): 92.881.000 (2007), 7,25%
Lý (李 Lǐ): 92.074.000 (2007), 7,19%
Trương (張, 张 Zhāng): 87.502.000 (2007), 6,83%
Lưu (劉, 刘 Liú)
Trần (陳, 陈 Chén)
Dương (楊, 杨 Yáng)
Hoàng (黃, 黄 Huáng)
Triệu (趙, 赵 Zhào)
Ngô (吳, 吴 Wú)
Chu (周 Zhōu)
Từ (徐 Xú)
Tôn (孫, 孙 Sūn)
Mã (馬, 马 Mǎ)
Châu (朱 Zhū)
Hồ (胡 Hu)
Quách (郭 Guō)
Hà (何, Hé)
Cao (高 Gāo)
Lâm (林 Lín)
La (羅, 罗 Luó)
Trịnh (鄭, 郑 Zhèng)
Lương (梁 Liáng)
Hàn
Trong một cuộc nghiên cứu khác (1987) kết hợp dữ kiện từ Trung Quốc và Đài Loan (thăm dò 570.000 người), kết quả khác trên một tí. Họ phổ biến nhất là họ Lý (李), chiếm tỉ lệ 7,9%, rồi sau đó đến họ Vương (王) với tỉ lệ 7,4%, và Trương (張, 张) với 7,1%; nghiên cứu còn cho thấy 19 họ phổ biến nhất chiếm 55,6% và 100 họ phổ biến nhất chiếm 87%. Các họ được phân bổ khác nhau tuỳ theo vùng. Ở miền bắc thì các họ Lý (李), Vương (王), Trương (張, 张) và Lưu (劉, 刘) phổ biến nhất, trong khi tại miền nam các họ Trần (陳, 陈), Triệu (趙, 赵), Hoàng (黃, 黄), Lâm (林) và Ngô (吳, 吴) lại phổ biến hơn. Tại Bắc Kinh có hơn 450 họ, nhưng lại có ít hơn 300 họ ở Quảng Đông và Phúc Kiến. Có lẽ thống kê này chịu ảnh hưởng của dữ kiện từ Đài Loan.
Việt Nam
Theo cuốn Họ và Tên người Việt Nam soạn bởi Tiến sĩ Lê Trung Hoa được Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản (2005), những họ phổ biến nhất Việt Nam là:
Nguyễn (阮) (38,4%)
Trần (陳) (12,1%)
Lê (黎) (9,5%)
Phạm (范 - 範) (7%)
Hoàng/ Huỳnh (黃) (5,1%)
Phan (潘) (4,5%)
Vũ/ Võ (武) (3,9%)
Đặng (鄧) (2,1%)
Bùi (裴) (2%)
Đỗ (杜) (1,4%)
Hồ (胡) (1,3%)
Ngô (吳) (1,3%)
Dương (楊) (1%)
Lý (李) (0,5%)* Phí (費)
Một số họ phổ biến khác:
Trương (張)
Hà (何)
Đường (唐)
Đinh (丁)
Đoàn (段)
Trịnh (鄭)
Đào (陶)
Vương (王)
Phùng (馮)
Mai (枚 - 梅)
Tô (蘇)
Phí (費)
Tạ (謝)
Thân (申)
Lâm (林)
Tống (宋)
Hoa (華)
Khúc (曲)
Từ (徐)
Thường (常)
Tiêu (蕭)
Ngọ (午)
Kim (金)
Đồng văn (同)
Quách (郭)
Đàm (谭 - 譚)
Triệu (趙)
Mạc (莫)
Thái (蔡)
Lưu (劉)
Thạch (石)
Lương (梁)
Châu Âu
Anh
Các họ sau đây chỉ phổ biến tại Anh, Wales và Đảo Man (đa số dân chúng của các vùng khác như Scotland và Bắc Ireland có gốc Celt nên có cách đặt tên khác). Thông tin này được trích từ một tài liệu của Nha Y tế Anh (British National Health Service) .
Smith (1,15%)
Jones (0,94%)
Williams (0,66%)
Taylo (0,53%)
Brown (0,51%)
Davies (0,48%)
Evans (0,39%)
Wilson (0,35%)
Thomas (0,35%)
Johnson (0,34%)
Roberts (0,33%)
Robinson (0,29%)
Thompson (0,28%)
Wright (0,28%)
Walker (0,27%)
White (0,27%)
Edwards (0,27%)
Hughes (0,26%)
Green (0,25%)
Hall (0,25%)
Carney
Norwood
Martin
Ellis
Freeman
Ba Lan Xem Họ Ba Lan
Theo 1000 Najpopularniejszych nazwisk w Polsce ("1000 tên phổ biến tại Ba Lan") của J.M Zawadzki, 2002, thì các họ sau đây rất lớn tại Ba Lan:
Nowak (203.506)
Kowalski (139.719)
Wiśniewski (109.855)
Wójcik (99.509)
Kowalczyk (97.796)
Kamiński (94.499)
Lewandowski (92.449)
Zieliński (91.043)
Szymański (89.091)
Woźniak (88.039)
Dąbrowski (86.132)
Kozłowski (75.962)
Jankowski (68.514)
Mazur (66.773)
Wojciechowski (66.361)
Kwiatkowski (66.017)
Krawczyk (64.048)
Kaczmarek (61.816)
Piotrowski (61.380)
Grabowski (58.393)
Bỉ
(Thống kê ngày 1 tháng 1 năm 2002)
Peeters 33.273
Janssens 31.529
Maes 25.654
Jacobs 20.229
Mertens 18.927
Willems 18.604
Claes 16.822
Goossens 16.202
Wouters 15.950
De Smet 14.491
Trên đây là các họ Bỉ gốc Flem; trong số các họ Bỉ gốc Pháp thì họ Dubois là họ phổ biến nhất với 11.000 tên.
Bồ Đào Nha
Các họ phổ biến tại Bồ Đào Nha là:
Amaral
Andrade
Avila
Bettencourt
Braga
Branco
Borges
Cabral
Camara
Carvalho
Costa
Dias
Fernandes
Ferreira
Gomes
Martins
Medeiros
Mendonça
Menezes
Moniz
Moreira
Neves
Oliveira
Pereira
Reis
Rego
Rodrigues
Santos
Silva
Soáres
Sousa
Tabicas
Tavares
Vasconcellos
Viveiros
Bulgaria
Các họ phổ biến tại Bulgaria (với dạng dùng ký tự Cyrill trong ngoặc):
Ivanov (Иванов)
Petrov (Петров)
Georgiev (Георгиев)
Dimitrov (Димитров)
Stoyanov (Стоянов)
Andreev (Андреев)
Mihaylov (Михайлов)
Nikolov (Николов)
Vassilev (Василев)
Todorov (Тодоров)
Đan Mạch
Dựa theo một thống kê năm 2004 , các họ phổ biến tại Đan Mạch là:
Jensen, 303.089
Nielsen, 296.850
Hansen, 248.968
Pedersen, 186.913
Andersen, 172.894
Christensen, 133.033
Larsen, 129.662
Sørensen, 124.175
Rasmussen, 104.130
Jørgensen, 98.354
Petersen, 92.189
Madsen, 70.176
Kristensen, 65.074
Olsen, 54.044
Thomsen, 40.514
Christiansen, 40.224
Poulsen, 34.203
Johansen, 33.120
Knudsen, 31.977
Mortensen, 31.252
Theo truyền thống, các họ tại Đan Mạch có hậu tố sen, có nghĩa là "con trai". Ví dụ, khi nhìn vào tên của hai cha con Peter Sørensen (cha) và Hans Petersen (con), người ta biết rằng cha của Hans là Peter và ông nội của Hans là Søren. Truyền thống này đôi khi cũng được dùng cho con gái, với hậu tố datter. Ví dụ như họ Jensdatter hay họ Poulsdatter (có nghĩa là "con gái của Jens" và "con gái của Pouls").
Ngày nay các họ có hậu tố sen đã mất ý nghĩa của chúng vì ngay cả phụ nữ cũng mang các họ này. Cùng lúc đó, mặc dù vẫn còn các trường hợp các con của Hans Petersen mang họ Hansen nhưng đại đa số họ vẫn giữ họ Petersen.
Đức
Phần lớn các họ tại Đức thường là các tên gọi liên quan đến nghề nghiệp; ví dụ: müller là "thợ xay", schmidt là "thợ kim loại", schneider là "thợ may"...
Müller (0,95%)
Schmidt (0,69%)
Schneider (0,40%)
Fischer (0,35%)
Meyer (0,33%)
Weber (0,30%)
Schulz (0,27%)
Wagner (0,27%)
Becker (0,27%)
Konstancy (0,26%)
Estonia
Hai họ phổ biến tại Estonia là:
Tamm ("cây sồi")
Mägi ("ngọn đồi")
Hà Lan
Dựa vào một thống kê của Meertens Instituut vào năm 1947 thì các họ phổ biến tại Hà Lan là:
De Jong 55.256
De Vries 49.298
Jansen 49.213
Van den Berg 37.678 (bao gồm cả Van der Berg và Van de Berg)
Bakker 37.483
Van Dijk 36.578
Visser 34.721
Janssen 32.824
Smit 29.783
Meijer và Meyer 28.256
Hungary
Tại Hungary họ được đặt trước tên. Theo Bộ Nội vụ của Hungary vào năm 1998 thì các họ phổ biến tại đó là:
Nagy (244.663; "to lớn")
Kovács (228.274; "thợ kim loại")
Tóth (223.291; "người Slovak")
Szabó (217.066; "thợ may")
Horváth hay Horvát (201.524; "người Croat")
Kiss hay Kis (139.919; "nhỏ bé")
Varga (137.398; "thợ làm giầy")
Molnár (112.878; "thợ xay")
Németh hay Német (97.715; "người Đức")
Farkas (83.755; "chó sói")
Balogh (79.653; "tay trái, vụng về")
Papp (56.235; "nhà tu")
Takács (55.180; "thợ dệt")
Juhász (54.267; "mục đồng")
Mészáros (42.738; "thợ thịt")
Lakatos (41.005; "thợ khóa")
Simon (39.881)
Oláh (37.147; "người Roman")
Fekete (34.755; "đen")
Rácz (34.518; "người Serb")
Szilágyi (32.628; "đến từ vùng Szilágy")
Török (27.888; "người Thổ")
Fehér (27.262; "trắng")
Gál hay Gaál (26.557)
Balázs (26.158)
Ireland
Sau đây là 20 họ được dùng nhiều nhất tại Ireland:
Murphy
Kelly
O'Sullivan
Walsh
Smith
O'Brien
Byrne
Ryan
O'Connor
O'Neill
O'Reilly
Doyle
McCarthy
Gallagher
O'Doherty
Kennedy
Lynch
Murray
Quinn
Moore
Các họ bắt đầu bằng "O'" là các họ theo bên nội.
Latvia
Các họ phổ biến tại Latvia là:
Bērziņš ("cây bulô" - birch)
Kalniņš ("ngọn đồi")
Ozoliņš ("cây sồi")
Na Uy
Theo Cục Thống kê Na Uy (Statistics Norway) thì các họ phổ biến tại Na Uy là:
Hansen (1,31%)
Olsen (1,21%)
Johansen (1,21%)
Larsen (0,90%)
Andersen (0,88%)
Nilsen (0,83%)
Pedersen (0,82%)
Kristiansen (0,55%)
Jensen (0,54%)
Karlsen (0,50%)
Johnsen (0,48%)
Pettersen (0,47%)
Eriksen (0,44%)
Berg (0,41%)
Haugen (0,32%)
Hagen (0,32%)
Johannessen (0,31%)
Andreassen (0,28%)
Jacobsen (0,27%)
Halvorsen (0,27%)
Hậu tố sen có nghĩa là "con trai".
Nga
Theo nguồn thì các họ phổ biến tại Nga (dạng dùng ký tự Cyrill trong ngoặc) là:
Ivanov (Иванов)
Kuznetsov (Кузнецов)
Popov (Попов)
Petrov (Петров)
Vasilyev (Васильев)
Smirnov (Смирнов)
Kozlov (Козлов)
Mikhailov (Михайлов)
Semenov (Семенов)
Stepanov (Степанов)
Pháp
Dựa theo nguồn thì các họ phổ biến tại Pháp là:
Martin
Bernard
Thomas
Petit
Durand
Richard
Moreau
Dubois
Robert
Laurent
Simon
Michel
Leroy
Garcia
Lefebvre
Roux
David
Bertrand
Fournier
Girard
Bonnet
Morel
Rousseau
Lambert
Blanc
Phần Lan
Dựa theo Trung tâm Kiểm tra Dân số của Phần Lan thì các họ phổ biến tại đó, (tỉ lệ trong ngoặc được tính dựa trên tổng số dân của Phần Lan vào năm 2005), là:
Virtanen, 24.204 (0,461%)
Korhonen, 23.721 (0,452%)
Nieminen, 21.841 (0,416%)
Mäkinen, 21.699 (0,414%)
Mäkelä, 19.674 (0,375%)
Hämäläinen, 19.518 (0,372%)
Laine, 18.908 (0,360%)
Koskinen, 18.058 (0,344%)
Heikkinen, 17.939 (0,342%)
Järvinen, 17.381 (0,331%)
Séc
Theo Bộ Nội vụ của Cộng hòa Séc vào năm 2002 thì các họ phổ biến tại đó là:
Novák, 70.504
Svoboda, 52.088
Novotný, 49.962
Dvořák, 46.099
Černý, 36.743
Procházka, 33.274
Kučera, 31.286
Veselý, 26.481
Horák, 25.174
10.Nguyễn
Marek, 22.548
Pokorný, 22.203
Pospíšil, 22.189
Hájek, 21.276
Jelínek, 20.733
Král, 20.510
Růžička, 19.846
Beneš, 19.600
Fiala, 19.121
Sedláček, 18.484
Các họ trên bao gồm cả các dạng giống cái (ví dụ, Novák bao gồm cả Nováková)
Romania
Các họ phổ biến tại România là:
Popa (191.938; "nhà tu")
Popescu (147.784; "con trai của nhà tu")
Radu (gốc từ chữ rad của tiếng Slav nghĩa là "vui mừng")
Ionescu ("con trai của John/Jean")
Şerban ("người Serb")
Matei ("Matthew/Mathieu")
Stoica
Gheorghe ("George")
Constantin ("Constantine")
Stan
Dumitrescu ("con trai của Demetrius")
Mihai ("Michael/Michel")
Ioniţă ("John/Jean nhỏ")
Dumitru ("Demetrius")
Dinu ("Constantine")
Tudor ("Theodor")
Dobre (gốc từ chữ dobro của tiếng Slav nghĩa là "tốt")
Barbu ("người có râu")
Ştefan ("Stephan/Stéphan")
Florea ("hoa")
Ene (biến dạng của John/Jean)
Vasile ("húng quế")
Marin ("Marinus")
Ghiţă ("George nhỏ")
Georgescu ("con trai của George")
Serbia
Các họ phổ biến (với dạng dùng ký tự Cyrill trong ngoặc) tại Serbia là:
Petrović (Петровић)
Jovanović (Јовановић)
Marković (Марковић)
Popović (Поповић)
Vuković (Вуковић)
Živković (Живковић)
Đorđević (Ђорђевић)
Lukić (Лукић)
Marić (Марић)
Janković (Јанковић)
Milovanović (Миловановић)
Ilić (Илић)
Obradović (Обрадовић)
Aleksić (Алексић)
Gavrilović (Гавриловић)
Davidović (Давидовић)
Đurović (Ђуровић)
Stevanović (Стевановић)
Stefanović (Стефановић)
Radović (Радовић)
Stojanović (Стојановић)
Slovakia
Horváth
Kováč
Varga
Tóth
Nagy
Baláž
Szabó
Molnár
Balog
Lukáč
Tây Ban Nha
Theo nguồn thì các họ phổ biến tại Tây Ban Nha, năm 1999, là:
García, 1.378.000 (3,48%)
Fernández, 851.000 (2,15%)
González, 839.000 (2,12%)
Rodríguez, 804.000 (2,03%)
López, 796.000 (2,01%)
Martínez, 788.000 (1,97%)
Sánchez, 725.000 (1,83%)
Pérez, 709.000 (1,79%)
Martín, 459.000 (1,16%)
Gómez, 440.000 (1,11%)
Ruiz, 321.000 (0,81%)
Hernández, 305.000 (0,77%)
Jiménez, 293.000 (0,74%)
Díez, 293.000 (0,74%)
Álvarez, 273.000 (0,69%)
Moreno, 261.000 (0,66%)
Muñoz, 241.000 (0,61%)
Alonso, 206.000 (0,52%)
Gutiérrez, 170.000 (0,43%)
Romero, 170.000 (0,43%)
Navarro, 158.400 (0,40%)
Torres, 134.600 (0,34%)
Domínguez, 134.600 (0,34%)
Gil, 134.600 (0,34%)
Vázquez, 130.000 (0,33%)
Serrano, 122.700 (0,31%)
Ramos, 118.000 (0,30%)
Blanco, 118.000 (0,30%)
Sanz, 106.900 (0,27%)
Castro, 102.900 (0,26%)
Suárez, 102.900 (0,26%)
Ortega, 99.000 (0,25%)
Rubio, 99.000 (0,25%)
Molina, 99.000 (0,25%)
Delgado, 95.000 (0,24%)
Ramírez, 95.000 (0,24%)
Morales, 95.000 (0,24%)
Ortiz, 87.120 (0,22%)
Marín, 83.160 (0,21%)
Iglesias, 83.160 (0,21%)
Các họ chấm dứt với "ez" là các họ đặt theo bên nội.
Thổ Nhĩ Kỳ
Các họ phổ biến tại Thổ Nhĩ Kỳ là:
Yılmaz
Yıldırım
Öztürk
Doğan
Thụy Điển
Theo nguồn thì các họ phổ biến tại Thụy Điển là:
Johansson (3.3%)
Andersson (3.2%)
Karlsson (2.5%)
Nilsson (2.2%)
Eriksson (1.7%)
Larsson (1.6%)
Olsson (1.4%)
Persson (1.4%)
Svensson (1.3%)
Gustafsson (0.90%)
Pettersson (0.83%)
Jonsson (0.72%)
Jansson (0.63%)
Hanson hay Hansson (0.54%)
Bengtsson (0.42%)
Jönsson (0.42%)
Petersson (0.37%)
Carlsson (0.34%)
Gustavsson (0.32%)
Magnusson (0.32%)
Lindberg (0.31%; "đồi đá vôi")
Olofsson (0.30%)
Theo truyền thống, các họ phổ biến tại Thụy Điển là họ đặt theo bên nội, ví dụ con trai của Karl sẽ có họ Karlsson và con gái của Karl sẽ có họ Karlsdotter, nhưng bắt đầu từ thế kỷ 19 truyền thống đó đã bị bỏ.
Châu Mĩ
Argentina
Argentina có rất nhiều dân định cư đến từ các nước châu Âu nhưng chịu ảnh hưởng văn hóa Tây Ban Nha. Điều này hiện rõ với các họ phổ biến nhất sau đây:
González
Rodríguez
López
García
Gómez
Pérez
Brazil
Khi người Bồ Đào Nha đến đô hộ Brazil họ mang theo nhiều nô lệ gốc châu Phi. Vì các nô lệ thường bị xem như một vật sở hữu, họ và con cái họ thường mang họ theo tên người chủ. Do đó có rất nhiều tên tại Brasil có gốc Bồ Đào Nha.
Khi một người không có tên, hay không biết tên, hay tên không kiểm tra được hay không phát âm được theo tiếng Bồ Đào Nha (mọi điều này đều có thể xảy ra cho các nô lệ đến từ châu Phi hay cho các người dân bản xứ) thì họ được cho 1. họ de Costa (trong tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là "đến từ bờ biển") nếu họ sống gần bờ biển, 2. họ de Silva ("đến từ rừng") nếu họ sống gần rừng, 3. họ dos Santos ("của các thánh") nếu họ là các trẻ mồ côi đã từng lớn lên trong các viện hướng dẫn bởi các nhà thờ. Điều này giải thích tại sao 3 họ này rất phổ biến tại Brasil.
Dias
de jesus
da Silva
da Costa
da Cruz
do Nascimendo
dos Santos
da Conceição
da Matta hay da Mata
Souza
Cavalcante hay Cavalcanti
Carvalho
Menezes
Neves
Vasconcellos
Fernandes
Muniz
Cardoso
Amaral
Nazário
Borges
Moreira
Nogueira
Pereira
Ferreira
Oliveira
Silveira
Ribeiro
Gomes
Garcia
Rodrigues
Bittencourt hay Bitencourt
Martins
Mendonça
Reis
Lins
Lima
Bernardes
Sanches
Moreno
Torres
Gil
Serrano
Branco
Castro
Soares
de Sá
Moraes
Fagundes
Hoa Kỳ
Theo tài liệu thống kê của Chính phủ Hoa Kỳ thì các họ phổ biến tại đó là:
Smith (1,006%)
Johnson (0,810%)
Williams (0,699%)
Jones (0,621%)
Brown (0,621%)
Davis (0,580%)
Miller (0,424%)
Wilson (0,339%)
Moore (0,312%)
Taylor (0,311%)
Anderson (0,311%)
Thomas (0,311%)
Jackson (0,310%)
White (0,279%)
Harris (0,275%)
Martin (0,273%)
Thompson (0,269%)
Garcia (0,254%)
Martinez (0,234%)
Robinson (0,233%)
Cũng như Đan Mạch, hậu tố son có nghĩa là con trai, như Johnson: John's son - con trai của John, Jackson: Jack's son - con trai của Jack,...
Nuevo León, Mexico
Theo tài liệu của Miriam Garcia (Para regios...los Martínez) đăng trên tạp chí El Norte vào ngày 18 tháng 3 năm 2003, thì các họ phổ biến tại vùng Nuevo León, México là:
Martínez (8,50%)
Rodríguez (8,14%)
García (7,14%)
González (7,09%)
Hernández (7,06%)
Québec, Canada
Theo tài liệu Quelques Statistiques sur les Noms de Famille của Institut de la statistique du Québec (Viện thống kê Québec) và tài liệu Les 6 000 premiers noms de famille par ordre alphabétique, Québec của Chính phủ Canada, các họ phổ biến tại tỉnh bang Québec của Canada là:
Tremblay (1,13%)
Gagnon (0,82%)
Roy (0,77%)
Côté (0,74%)
Bouchard (0,56%)
Gauthier (0,55%)
Morin (0,51%)
Lavoie (0,49%)
Fortin (0,47%)
Gagné (0,47%)
Pelletier (0,45%)
Bélanger (0,44%)
Bergeron (0,41%)
Lévesque (0,41%)
Simard (0,38%)
Girard (0,37%)
Leblanc (0,37%)
Boucher (0,35%)
Ouellet (0,34%)
Caron (0,32%)
Beaulieu (0,31%)
Poirier (0,31%)
Dubé (0,31%)
Cloutier (0,31%)
Fournier (0,30%)
Lapointe (0,30%)
Lefebvre (0,29%)
Poulin (0,28%)
Nadeau (0,28%)
Martin (0,27%)
St-Pierre (0,27%)
Martel (0,26%)
Grenier (0,26%)
Landry (0,26%)
Lessard (0,26%)
Leclerc (0,25%)
Bédard (0,25%)
Bernier (0,24%)
Couture (0,24%)
Richard (0,23%)
Michaud (0,23%)
Desjardins (0,23%)
Hébert (0,22%)
Blais (0,22%)
Turcotte (0,22%)
Savard (0,22%)
Lachance (0,22%)
Parent (0,22%)
Demers (0,21%)
Gosselin (0,21%)
50 họ trên chiếm gần 18% dân số của Québec.
Châu Phi
Ai Cập
Các họ lớn tại Ai Cập là:
Abaza
Sorour
Kishk
Ghi chú
Họ phổ biến |
Frédéric Antoine Ozanam (23 tháng 4 năm 1813 – 8 tháng 9 năm 1853) là một học giả người Pháp. Ông cùng với những sinh viên bạn học đã sáng lập Hội Bác ái (Conférence de la charité), ngày nay là Hiệp hội Bác ái Vinh Sơn (Conférences saint Vincent de Paul). Ông đã được Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước (beatified) vào năm 1997, từ đó ông được giáo hội Công giáo gọi đích danh là Frédéric Hồng phúc.
Thân thế
Ozanam được sinh ra tại Milano. Gia đình ông là di dân gốc người Do Thái, đã đến định cư tại thành phố Lyon từ nhiều thế kỷ trước, và đã đạt được một xuất sắc ở thế hệ thứ ba, trước thời Frédéric, qua nhân vật Jacques Ozanam (1640-1717), một nhà toán học kiệt xuất. Cha ruột, ông Antoine, phục vụ trong quân đội của phe Cộng hoà, nhưng đã tự dấn thân vào lãnh vực thương mãi, giáo dục, và cuối cùng là y dược, trong triều đại của Đế chế I của Pháp.
Cậu bé lớn lên tại Lyon và chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Abbé Noirot, một trong những vị thầy của cậu. Khuynh hướng bảo thủ và sùng tín của cậu đã tự bộc lộ rất sớm, và cậu đã xuất bản một tập sách mỏng chống lại Phái Saint-Simon vào năm 1831, gây ra sự chú ý đối với Alphonse de Lamartine. Những năm tiếp theo Ozanam được gửi vào trường luật tại Paris, anh đã ở trọ tại gia đình nhà bác học André-Marie Ampère, và nhờ họ mà anh đã làm quen với François-René de Chateaubriand, Jean-Baptiste Henri Lacordaire, Charles Forbes René de Montalembert và những người dẫn dắt phong trào canh tân - Công giáo tiến hành (neo-Catholic movement).
Trong thời sinh viên, anh đã làm công việc phóng viên và viết bài cho Tribune catholique (Tạp chí Diễn đàn Công giáo) của giáo sư triết học Bailly, sau này trở thành tờ L'univers vào ngày 1 tháng 11 năm 1833. Cộng tác với những người bạn trẻ, vào tháng 5 năm 1833, Ozanam đã thành lập Hiệp hội Bác ái Vinh Sơn (Conférences saint Vincent de Paul) lừng danh, số lượng thành viên hiệp hội đã tăng đến con số hơn 2000 vào thời điểm ông qua đời. Ông đã nhận được văn bằng Tiến sĩ Luật vào năm 1836 bằng hai luận án: "Về việc cấm chỉ" về luật pháp La Mã và "Từ quy định đến hiệu quả thủ đắc" về luật của nước Pháp; sau đó ông nhận tiếp văn bằng Tiến sĩ Văn chương vào năm 1838 sau khi bảo vệ thành công luận án "Về Thần khúc và về triết lý của Dante", quyển sách đầu tiên của một loạt những tác phẩm nổi tiếng của ông. Một năm sau đó, ông được bổ nhiệm làm giáo sư luật thương mãi tại Lyon, và làm trợ giáo bộ môn văn học nước ngoài tại Đại học Sorbonne vào năm 1840. Ông kết hôn vào tháng 6 năm 1841, và hưởng tuần trăng mật tại nước Ý.
Vào năm 1844, sau khi giáo sư Claude Charles Fauriel qua đời, Ozanam được bổ nhiệm chính thức vào ghế giáo sư văn học nước ngoài. Quãng đời ngắn ngủi còn lại của ông đã vô cùng bận rộn, vừa giảng dạy trong cương vị giáo sư, vừa viết rất nhiều tác phẩm văn chương, vừa làm công tác xã hội của Hiệp hội Bác Ái Vinh Sơn.
Những biến cố của Cuộc Cách mạng 1848, đưa đến cho ông một cái nhìn lạc quan, một lần nữa, ông quay lại với báo chí trong vai trò một cộng tác viên của tờ Ere nouvelle (Kỷ nguyên mới) và những tờ báo khác nữa. Ông đi du lịch rất nhiều, và đã có mặt tại Anh trong cuộc Đại Triển lãm năm 1851.
Thể trạng yếu ớt bẩm sinh của ông càng trở nên suy kiệt vì chứng bệnh lao phổi, cho nên ông mong muốn được dưỡng bệnh bằng cách du lịch sang Ý, nhưng ông đã qua đời khi vừa về đến Marseilles vào ngày 8 tháng 9 năm 1853.
Sự nghiệp
Ozanam là nhà phê bình lịch sử và văn chương hàng đầu của phong trào canh tân - Công giáo tiến hành tại Pháp vào tiền bán thế kỷ thứ 19. Ông đã học nhiều hơn, chân thành hơn, và có tính cách luận lý nhiều hơn Chateaubriand; nhưng lại kém thiên lệch chính trị và kém tính đa cảm văn chương so với Montalembert. Trong những hoạt động đương thời, ông đã là một người đứng đắn và nhiệt tâm ủng hộ, bênh vực cho học thuyết Dân chủ Công giáo (Catholic democracy) đồng thời là một nhà hoạt động xã hội có quan điểm rằng giáo hội nên tự thích nghi với những hoàn cảnh thay đổi chính trị xảy ra do hậu quả của cuộc Cách mạng Pháp.
Các bài viết của ông nhấn mạnh vào những đóng góp quan trọng của lịch sử Cơ đốc giáo, và khẳng định là, trong sự tiếp tục lối đi của các Hoàng đế La mã (Caesars), giáo hội Công giáo đã là nhân tố hiệu nghiệm trong việc khai hóa các dân tộc man di và trong việc tổ chức xã hội Thời Trung cổ. Ông thừa nhận rằng mục tiêu của ông là sự phản chứng với học thuyết của Gibbons, và, cũng như bất cứ sử gia nào muốn chứng minh một luận đề nào đó là đúng, thì đều mắc ít nhiều sai lầm, Ozanam đã không nghi ngờ về việc thực hiện một sự giải trừ lành mạnh đối với quan điểm phổ thông thời bấy giờ, nhất là giữa khối người nói tiếng Anh, cho rằng giáo hội Công giáo đã đi quá trớn trong việc nô dịch hóa tư tưởng thay vì làm thăng hoa tư tưởng con người.
Kiến thức về văn chương trung cổ và cảm nghiệm về đời sống thời trung cổ là điều thích hạp với sự nghiệp của ông, tri thức uyên bác của Ozanam vẫn còn được coi trọng.
Trước tác
Các tác phẩm của ông đã được xuất bản thành 11 quyển sách (Paris, 1862-1865). Trong đó có các danh mục sau đây:
Deux chanceliers d'Angleterre, Bacon de Verulam et Saint Thomas de Cantorbry (Paris, 1836)
Dante et la philosophie catholique au XIIIeme siècle (Paris, 1839; 2nd ed., enlarged 1845)
Études germaniques (2 vols., Paris, 1847-1849), bản dịch Anh ngữ của A. C. Glyn là History of Civilization in the Fifth Century (Luân Đôn, 1868)
Documents inédits pour servir a l'histoire de l'Italie depuis le VIIIeme siècle jusqu'au XIIeme (Paris, 1850)
Les poi~tes franciscains en Italie au XIIIme sicle (Paris, 1852)
Nhiều thư từ của ông được dịch sang Anh ngữ bởi A. Coates (Luân Đôn, 1886). |
Nhật ký Đặng Thùy Trâm là hai tập nhật ký viết tay của bác sĩ Đặng Thùy Trâm từ ngày 8 tháng 4 năm 1968 đến ngày 20 tháng 6 năm 1970 (hai ngày trước khi bà qua đời). Đây còn là tên một cuốn sách do nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn biên tập dựa trên nguyên bản của hai cuốn nhật kí này.
Đôi nét về tác giả
Đặng Thuỳ Trâm sinh ngày 26 tháng 11 năm 1942 tại Huế trong một gia đình trí thức. Mẹ cô là dược sĩ, giảng viên trường Đại học Dược Hà Nội Doãn Ngọc Trâm; bố là bác sĩ ngoại khoa Đặng Ngọc Khuê;
Đặng Thùy Trâm tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, cô tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam với tư cách là một bác sĩ quân y và được điều vào công tác ở Đức Phổ, chiến trường Quảng Ngãi trong chiến tranh Việt Nam.
Đặng Thùy Trâm được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 27 tháng 9 năm 1968.
Cô ''Thùy'' hi sinh ngày 22 tháng 6 năm 1970. Cô được mai táng tại nơi hi sinh, sau thống nhất được đưa về Nghĩa trang liệt sĩ xã Phổ Cường. Năm 1990 được gia đình đưa về Nghĩa trang liệt sĩ Xuân Phương,Từ Liêm, Hà Nội.
Cuốn Nhật ký
Hai cuốn nhật ký còn lại (một cuốn đã bị mất) được viết từ 8 tháng 4 năm 1968, khi tác giả phụ trách bệnh xá Đức Phổ, cho đến 20 tháng 6 năm 1970, 2 ngày trước khi cô hi sinh, trong đó có:
Cuốn thứ nhất: được viết từ ngày 8 tháng 4 năm 1968 đến ngày 4 tháng 12 năm 1969 gồm 219 trang viết tay do Frederic Whitehurst và Nguyễn Trung Hiếu giữ lại trong số các tư liệu thu được sau một trận càn ở Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi vào khoảng cuối tháng 12 năm 1969.
Cuốn thứ hai: được viết từ ngày 31 tháng 12 năm 1969 và kết thúc ngày 20 tháng 6 năm 1970. Cuốn này gồm 53 trang viết tay do quân Mĩ lấy được trên người Thùy Trâm sau khi cô hi sinh.
Theo bà Nguyễn Thị Kim Liên, người đi cùng khi chị bị bắn chết thì lính Mỹ lấy cả hai cuốn nhật ký từ trong ba lô chị mang bên mình.
Hai cuốn nhật kí chỉ được viết trong 3 năm nhưng như chứa đựng cả một góc nhìn thế giới lớn lao với một tâm hồn trẻ trung của một người con gái tuổi hai mươi. Những lời văn đọc sơ qua thì thấy đượm buồn nhưng càng suy ngẫm thì càng thấy chúng lôi cuốn bởi những ý văn trong trẻo, thể hiện tất cả những mong muốn của tuổi trẻ từ tác giả. Tuy là một bác sĩ nhưng cô đã anh dũng ngã xuống như một người lính thực thụ chiến đấu tới hơi thở cuối cùng với cây súng trong tay.
Hai tập nhật ký do Frederic Whitehurst, cựu sĩ quan quân báo Hoa Kỳ, lưu giữ cho đến ngày được trả lại cho gia đình tác giả vào cuối tháng 4 năm 2005. Ông đã giữ lại quyển nhật ký mà không đốt đi, vì theo lời của thông dịch viên, thượng sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Trung Hiếu, trong cùng đơn vị: "Đừng đốt, trong đó đã có lửa". Câu nói này cũng là tiêu đề của bộ phim Đừng đốt của đạo diễn Đặng Nhật Minh về cuộc đời của Đặng Thùy Trâm.
Cuốn sách
Cuốn Nhật kí Đặng Thùy Trâm được Nhà xuất bản Hội Nhà văn liên kết với Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam cho ra mắt nhân dịp kỉ niệm ngày Thương binh liệt sĩ 27 tháng 7 năm 2005 của Việt Nam. Đến tháng 3 năm 2006, quyển sách này đã bán được hơn 400.000 bản, được xem là một hiện tượng văn học. Trong một số bài báo nước ngoài, nó còn được ví như nhật ký Anne Frank của Việt Nam. Tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2008, sách đã cán mốc con số phát hành kỉ lục là 450 000 bản với 26 lần tái bản.
Cùng với Mãi mãi tuổi hai mươi, Nhật kí Đặng Thùy Trâm đã được xếp vào một trong mười sự kiện văn hóa tiêu biểu năm 2005 tại Việt Nam.
Ngày 11 tháng 9 năm 2007, cuốn sách đã được nhà xuất bản Random House phát hành tại Mĩ và nhiều quốc gia khác dưới tên tiếng Anh là Last night, I dreamed of peace (Đêm qua tôi mơ thấy hòa bình). Hiện nay, nhật kí Đặng Thùy Trâm đã được dịch ra các thứ tiếng: Hàn Quốc, Anh, Thái, Romania,...
Hiện tại cuốn Nhật ký được lưu giữ tại Viện Lưu trữ về Việt Nam – Đại học Texas Tech ở Lubbock, bang Texas, Hoa Kỳ. |
Pháp (Hán tự: 法, bính âm tiếng Trung Quan thoại: fă, phiên âm Hepburn tiếng Nhật: hō, tiếng Phạn: धर्म dharma, tiếng Pali: dhamma), cũng được dịch theo âm Hán-Việt là Đạt-ma (達磨, 達摩), Đàm-ma (曇摩), Đàm-mô (曇無), Đàm (曇). Chữ dharma vốn xuất phát từ tiếng Phạn, ngữ căn √dhṛ, có nghĩa là "nắm giữ", đặc biệt là nắm giữ tính năng hoạt động của con người. Cách dùng chữ thuật ngữ này rất đa dạng, và vì vậy, nó mang rất nhiều nghĩa:
Tập quán, thói quen, tiêu chuẩn của phép cư xử;
Điều phải làm, nghề nghiệp, bổn phận, nghĩa vụ;
Trật tự xã hội, quy củ trong xã hội;
Điều lành, việc thiện, đức hạnh;
Sự thật, thật tại, chân lý (sa. satya);
Nền tảng của thế gian và các cõi giới;
Tín ngưỡng tôn giáo;
Tiêu chuẩn để nhận thức về chân lý, về luật tắc;
Giáo lý, sự giải thích;
Bản thể, bản tính;
Căn bản nhân đạo;
Thuộc tính, phẩm chất, đặc tính, cấu trúc cơ bản. Ý nghĩa này của thuật ngữ thường được dùng trong các luận giải của Du-già hành tông, liệt kê tất cả kinh nghiệm thế gian thành 100 pháp hoặc 100 cấu trúc cơ bản. Họ cho rằng, các pháp không tồn tại trên cơ sở tự tính này hàng Nhị thừa không thể nào nhận thức được, nhưng là một đối tượng quán sát đặc biệt của hàng Bồ Tát. Không nhận thức được tính không của các cấu trúc cơ bản là điều rất quan trọng cho sở tri chướng. Xem thêm Bách pháp.
Trong luận lý học, là tiền đề hay là đối tượng của một động từ.
Tổng quát lại, người ta có thể hiểu Pháp là "tất cả những gì có đặc tính của nó - không khiến ta lầm với cái khác - có những khuôn khổ riêng của nó để nó làm phát sinh trong đầu óc ta một khái niệm về nó" (nhậm trì tự tính, quỹ sinh vật giải 任持自性、軌生物解).
Pháp vốn được sử dụng trong Ấn Độ giáo, với ý nghĩa là chân lý, thiện pháp. Tương phản với cái thiện là phi pháp. Phật giáo cũng có tư tưởng là thiện pháp nhưng nói rộng hơn thì cái ác, phiền não, khổ, cũng là Pháp. Theo ngài luận sư Giác Âm thì Pháp có 4 nghĩa như: Thuộc tính; giáo pháp; thánh điển và sự vật (bao gồm vật nhìn thấy và không nhìn thấy). Còn đối với Phật giáo nguyên thủy thì pháp bao gồm: Hiện tượng và tâm lý, như ngũ uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức, hay duyên khởi cũng là pháp. Đối với khái niệm trong pháp luật, pháp số... thì đó lại là những quy phạm của con người trong đời sống cộng đồng.
Ví dụ: Khi một người nhìn vào một tượng Phật hay một sự vật nào đó, người đó sẽ sinh khởi các hành động, tư tưởng, ý kiến, đưa ra các giáo lý,... Đó là người đó đang an trụ trong pháp, ta xét ở ví dụ này là người đó sẽ bái lạy tượng Phật mỗi ngày đó là thực hành Phật pháp. Tương tự như vậy, ta sẽ có khái niệm tổng quát hơn về pháp, khi một đối tượng tiếp xúc, bắt gặp, giao tiếp với một đối tượng, họ sẽ sinh khởi các pháp, nếu hai đối tượng đó ngừng tiếp xúc, bắt gặp, giao tiếp với nhau thì pháp cũng sẽ dừng. |
Pháp lam (hay đồ đồng tráng men) là những sản phẩm được làm bằng đồng hoặc hợp kim đồng, trên bề mặt được tráng men trang trí để tăng giá trị thẩm mỹ. Bài viết này chỉ đề cập đến Pháp lam Huế hay đồ đồng tráng men thời Nguyễn.
Lịch sử tên gọi
Vấn đề này hiện đang còn được tiếp tục tranh luận bởi giới nghiên cứu về Huế.
Dựa theo một số bài viết của cố họa sĩ Phạm Đăng Trí, những nhà sưu tập cắt nghĩa rằng: "pháp lam" bắt nguồn từ chữ "pha lang" do người Trung Hoa dùng để chỉ một loại đồ tráng men mà các nhà truyền giáo Tây phương trước kia hướng dẫn cho họ sản xuất rồi du nhập kỹ thuật sang Việt Nam. Sở dĩ chữ "pháp lam" phải trại ra từ chữ "pha lang" (France) là để tránh phạm húy chúa Nguyễn Phúc Lan1...
Một số nhà khảo cổ học cho rằng "Pháp lam" là loại đồ men Pháp, chữ "Pháp" ở đây được người Trung Hoa dùng đề chỉ chung người phương Tây chứ không riêng gì người Pháp...; chữ "lam" ngoài nghĩa thông thường chỉ màu sắc xanh lam, cây chàm... còn được Từ điển Hán Việt Thiều Chữu giải thích trong là soi, làm gương theo kiểu Pháp... Theo từ điển, Cảnh Thái lam là tên gọi sản phẩm mỹ nghệ dùng men tráng lên đồng hoặc thiếc... niên hiệu Cảnh Thái đời Minh Đại Tông, hàng được chế tạo tại Bắc Kinh, và gọi: Cảnh Thái lam...
Ý kiến khác: "... châu Âu trang trí cửa sổ bằng khung ghép hình và cùng với vật gia dụng tráng men trắng có lấm tấm hạt các màu xanh lục... Nghệ nhân Huế dưới triều nhà Nguyễn cũng chế tác mặt hàng nhiều mảng màu trên men, cốt đồng và nghĩ rằng nó có nguồn gốc từ "pháp lang sa" (Française) và do kiêng húy 2 Thượng Vương Nguyễn Phúc Lan (1635-1648) nên gọi là "Pháp lam". Về việc đổi chữ "lang" thành "lam" đó là vì chữ Lang (瑯) có âm gần giống với chữ Lan (灡) trong tên chúa Nguyễn Phước Lan, nhất là phát âm theo lối Huế. Vì thế cần phải đọc trại đi để tránh phạm húy...
Tạm gọi và hiểu: Sản phẩm này mang tính địa phương (Huế) cao và trong lịch sử chỉ thời Nguyễn mới sản sinh ra chúng. Chúng có liên quan đến một di tích nằm trong quần thể Di sản văn hóa thế giới (Cố đô Huế), đó là Pháp lam tượng cục. Dẫu không còn rõ nét trên thực địa nhưng tên gọi của cơ quan này vẫn còn ghi trong sử liệu. Thời xưa nghệ nhân Huế có sáng tạo trong quy trình công nghệ chế tác đồ pháp lam. Đây chính là cái giá trị văn hóa phi vật thể của loại đồ đặc biệt này và Luật di sản văn hóa buộc mọi người phải bảo vệ. Do đó không nên đổi tên gọi "Pháp lam" thành "đồ đồng tráng men", cũng không nên viết chung chung "Pháp lam" mà phải viết rõ ràng "Pháp lam Huế" hay "đồ đồng tráng men thời Nguyễn" để khỏi nhầm với Pháp lang Trung Hoa.
Nguồn gốc xuất xứ
Pháp lam Huế tiếp thu kỹ nghệ Họa pháp lang của Quảng Đông, Trung Quốc. Quảng Đông là cửa ngõ du nhập công nghệ chế tác Họa pháp lang (Émaux hay Painted enamel) vào Trung Hoa. Khác với kỹ nghệ Kháp ti pháp lang (Cloisonné), từ xứ Byzantine du nhập vào Trung Hoa qua ngã Tây Vực theo vó ngựa viễn chinh của quân Mông Cổ, kỹ nghệ Họa pháp lang xuất xứ từ vùng Limoges ở Pháp và vùng Battersea ở Anh, du nhập vào Trung Hoa theo chân các tu sĩ dòng Tên vào cuối thế kỷ 17.
Kỹ nghệ này du nhập vào Việt Nam từ thời vua Minh Mạng (năm 1827). Bấy giờ, có một nhóm thợ vẽ ở Nội Tạo, cơ quan chuyên việc vẽ vời, trang trí trong cung Nguyễn, học được nghề làm pháp lam từ Trung Hoa.
Phân loại
Dựa vào phương pháp chế tạo thai cốt và kỹ thuật thể hiện men màu, họa tiết, có thể chia chế phẩm pháp lang thành bốn loại:
Kháp ti pháp lang (掐丝珐琅): Pháp lang làm theo kiểu ngăn chia ô hộc. Xem Cloisonne
Họa pháp lang (画珐琅): Pháp lang làm theo kiểu vẽ trên nền men như các tác phẩm hội họa (Painted enamel), kiểu này được phát minh ra tại thị trấn Limoges của Pháp trong thế kỷ 15.
Tạm thai pháp lang (錾胎珐琅): Pháp lang có cốt được chạm trổ (champleve).
Thấu minh pháp lang (透明珐琅): Pháp lang có phủ lớp men trong bên ngoài.
Pháp lam Huế thuộc Họa pháp lang và một số vật dụng khác là đồ ký kiểu thuộc Kháp ti pháp lang được đặt mua tại Trung Hoa. Dựa trên các hiện vật pháp lam được trang trí trên các cung điện của triều Nguyễn và các hiện vật pháp lam hiện còn lưu giữ ở Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế cũng như trong dân gian, có thể thấy pháp lam được sử dụng vào các mục đích chính sau đây:
Pháp lam dùng trong trang trí ngoại thất các cung điện triều Nguyễn: Loại hình này thường thấy trên các bờ nóc, bờ quyết, cổ diềm tại các cung điện điển hình như ở điện Sùng Ân (lăng Minh Mạng); điện Biểu Đức (lăng Thiệu Trị); điện Hòa Khiêm (lăng Tự Đức); điện Thái Hòa (Đại Nội) và các nghi môn ở các lăng trên cũng như khu vực Đại Nội.
Pháp lam dùng trong trang trí nội thất: Đó là những hoành phi, câu đối, bình, choé...
Pháp lam gia dụng và pháp lam tế tự: Hiện vật nhóm này bao gồm các đồ dùng trong việc tế tự như lư hương, quả bồng, chân đế quả bồng, cơi trầu... và các đồ gia dụng như khay trà, tô, bát, tìm đựng thức ăn.
Pháp lam qua các thời kỳ
Pháp lam còn là loại hình mỹ thuật, đồng thời, là một loại vật liệu đặc biệt, được sử dụng rất nhiều trong việc trang trí nội ngoại thất các cung điện ở Huế. Đó là những tác phẩm mỹ thuật hay các chi tiết trang trí trong kiến trúc Huế. Sử sách nhà Nguyễn cho biết thời điểm khai sinh kỹ nghệ chế tác pháp lam ở Việt Nam là năm 1827; thịnh hành vào các đời vua Minh Mạng (1820-1841), Thiệu Trị (1841-1847), Tự Đức (1848-1883); sa sút từ sau thời kỳ tứ nguyệt tam vương3 và dù được phục hồi, chỉnh đốn dưới triều Đồng Khánh (1885-1889) song không phục hưng nổi mà rơi vào thoái trào rồi thất truyền. Như vậy, thời gian tồn tại của kỹ nghệ pháp lam Huế, từ lúc khai sinh đến khi thất truyền, chỉ hơn 60 năm. Nhưng di sản pháp lam còn lại trên mảnh đất cố đô Huế khá đồ sộ, phong phú về số lượng; đa dạng về loại hình và kiểu thức.
Hiện ở Huế có nhiều nhóm nghiên cứu phục chế Pháp lam, tuy cách thức, công nghệ và đạt những mức độ thành công khác nhau song bước đầu đã đáp ứng công tác trùng tu di tích, hơn thế nữa đã phục hồi được một nghề chuyên sản xuất cho vua chúa mà một thời gian được xem như thất truyền.
Chú thích
Trong Nguyễn Phúc tộc thế phả in năm 1995, trang 123, tên húy của chúa Nguyễn Phúc Lan viết theo Hán tự là 灡 và đọc là "Lan". Nếu theo Luật kỵ húy của triều Nguyễn tại sao triều đình Huế lại ban ra các chức danh có phiên âm gần giống lan như: Lang Đạo, Lang Chiên, Thị Lang, Lang Trung, Đặng Sĩ Lang, Tá Quốc Lang...? Nguồn Quan chức nhà Nguyễn-Nhà xuất bản Thuận Hóa, năm 2000.
Âm Lan là quốc húy của triều Nguyễn. Căn cứ theo chỉ dụ năm Gia Long thứ 6 (1807) về những điều răn cấm: kính lục các chữ húy đọc đến phải tránh âm, làm văn phải đổi dùng chữ khác. Các chữ húy này gồm 6 chữ: Noãn (暖); Ánh (映); Chủng (種); Luân (輪); Hoàn (環) và Lan (籣).
Đây là giai đoạn lịch sử đen tối nhất của triều Nguyễn, sau khi vua Dục Đức bị truất phế, chỉ trong vòng 4 tháng mà hai quyền thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường đã lập rồi truất phế thêm 2 người nữa là vua Hiệp Hòa và vua Kiến Phúc nên ở Huế mới có câu: Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết, Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường (Một sông hai nước lời khôn nói, bốn tháng ba vua triệu chẳng lành). |
Tiếng Latinh có trật tự từ ngữ vô cùng mềm dẻo bởi vì cổ ngữ này có rất nhiều biến cách.
Trong Latin không có mạo từ xác định hoặc mạo từ không xác định như "a" hoặc "the" trong tiếng Anh. Chúng có thể được thay thế bằng những tính từ khác, chẳng hạn như ille (các dạng của ille dần dần thay đổi đơn giản thành le hoặc la trong Nhóm ngôn ngữ Rôman ngày nay) hay haec, ea, id...
Từ loại
Câu
Biến thể của từ (inflection)
Biến thể của danh từ hoặc đại từ (declension)
Số đếm
Cách (case)
Giống
So sánh
Biến thể của động từ (conjugation)
Dạng (voice)
Lối (mood)
Động danh từ
Thì (tense)
Động tính từ |
Thủ tướng (Tổng lý) là chức vụ dành cho người đứng đầu ngành hành pháp của một quốc gia, là nhân vật lãnh đạo chính trị cao nhất trong chính phủ của một quốc gia theo thể chế đại nghị, hay chức vị hành chính cao nhất trong chính phủ của một quốc gia theo chính thể cộng hòa.
Từ nguyên
Xưng hiệu "Thủ tướng" (chữ Hán: 首相) bắt nguồn từ Trung Quốc, là gọi tắt của "thủ tịch tể tướng" (首席宰相), vốn là chỉ người có chức vị cao nhất trong các tể tướng. Hiện nay, trong tiếng Trung Quốc thủ tướng là thông xưng của người đứng đầu nội các các quốc gia theo xã hội chủ nghĩa.
Tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Triều Tiên, Hàn Quốc và Nhật Bản, thông xưng chỉ người đứng đầu chính phủ trung ương các nước này đều là "Tổng lý" (總理). Từ "Tổng lý" có nghĩa gốc là quản lý chung, quản lý toàn diện, từ đó mà có thêm nghĩa dẫn thân chỉ người phụ trách hoặc người lãnh đạo của một số sự vụ, bộ môn, cơ cấu, tổ chức. Xét theo từ nguyên và ý nghĩa thì từ thủ tướng chỉ nên dùng để gọi người đứng đầu chính phủ các quốc gia theo chế độ quân chủ.
Thủ tướng trong các nền cộng hòa và quân chủ
Chức vụ Thủ tướng thường có tại các quốc gia quân chủ nghị viện (có vua và có quốc hội). Trong trường hợp này thủ tướng là người đứng đầu chính phủ, đưa ra các chính sách quốc gia. Do đó thủ tướng của các nước này chỉ chịu trách nhiệm với người dân thông qua các cuộc bầu cử.
Thủ tướng cũng thường có tại các quốc gia theo chế độ cộng hòa có tổng thống hay quốc trưởng. Trong trường hợp này thủ tướng là người được chỉ định bởi tổng thống để thi hành các chính sách của tổng thống. Các thủ tướng này hoàn toàn chịu trách nhiệm với người đề cử họ: tổng thống hay quốc trưởng, và chỉ có quyền lực hơn bộ trưởng một chút. Cá biệt có những chế độ dân chủ đại nghị như Đức, Ý, Ấn Độ... trong đó tổng thống chỉ mang tính nghi lễ, tương tự vua của các nước Anh, Nhật, nên thủ tướng chịu trách nhiệm trước quốc hội.
Các tên gọi khác nhau
Chức vụ Thủ tướng có tên gọi khác nhau ở mỗi quốc gia, chủ yếu để thể hiện quyền hạn và nhiệm vụ.
Danh sách Thủ tướng của các quốc gia trên thế giới
Dưới đây là danh sách thủ tướng các nước |
Ngã (我, sa. ātman, pi. attā) tức là cái "ta" được thiết thuyết với một thể tính trường tồn, không bị ảnh hưởng của tụ tán. Đạo Phật không công nhận sự hiện diện của một ngã như thế. Trong tất cả mọi hiện tượng tâm lý và vật lý thì không có một chủ thể gì được gọi là độc lập, thường còn (Vô ngã, Ngũ uẩn).
Theo đạo Phật, ý nghĩ cho rằng có "ta", có "người" - những đơn vị độc lập không phụ thuộc vào nhau - chính là Vô minh, si mê. Sự nhận thức là có "ta" tự khởi lên bởi vì con người thường bị tri thức mê hoặc - tri thức ở đây là thức thứ sáu, khả năng suy nghĩ phân biệt - cho rằng thế giới nhị nguyên vốn có sẵn và từ đó phát sinh ra sự suy nghĩ và hành động theo quan niệm rằng, "ta" và người, vật bên ngoài hoàn toàn là những đơn vị độc lập. Dần dần, ý nghĩ "ta" khắc sâu vào tâm và những ý nghĩ khác như "ta yêu cái này, ta ghét cái nọ; cái này của ta, cái này của ngươi" bắt đầu nảy nở. Những ý nghĩ nêu trên lại có ảnh hưởng trở lại với ý nghĩ "ta" và, vì vậy, cái "ta" này cai trị tâm linh của con người. Nó sẵn sàng tấn công tất cả những gì mà nó cảm thấy bị đe dọa, thèm khát những gì giúp nó gia tăng quyền lực. Thù hận, tham khát và xa rời chân tính là những tai hại phát sinh từ đó và chúng trực tiếp đưa con người đến bể Khổ.
Trong Thiền tông, người ta sử dụng phương pháp Tọa thiền (ja. zazen) để phá vỡ cái vòng lẩn quẩn nêu trên. Trong quá trình tu tập dưới sự hướng dẫn của một vị Thiền sư, Lão sư (ja. rōshi), người ta có thể dần dần vượt khỏi sự khống chế của cái "Ngã", tiêu diệt "Ngã" hay, đúng hơn, vượt khỏi cái "ý nghĩ sai lầm là có tự ngã" bởi vì, nhìn theo khía cạnh tuyệt đối thì người ta không thể tiêu diệt một cái gì không có thật, chưa hề có thật như cái "Ngã". |
Paṭiccasamuppāda (; paṭiccasamuppāda), thường được dịch là khởi nguồn có tính phụ thuộc, hoặc còn gọi là duyên khởi (zh. 縁起, sa. pratītyasamutpāda, pi. paṭiccasamuppāda, bo. rten cing `brel bar `byung ba རྟེན་ཅིང་འབྲེལ་བར་འབྱུང་བ་), cũng được gọi là nhân duyên sinh (zh. 因縁生) hay nhân duyên, và vì bao gồm 12 thành phần nên cũng có tên khác là thập nhị nhân duyên (zh. 十二因縁, sa. dvādaśanidāna, dvādaśāṅgapratītyasamutpāda, bo. rten `brel yan lag bcu gnyis རྟེན་འབྲེལ་ཡན་ལག་བཅུ་གཉིས་), là một giáo lý quan trọng của triết học Phật giáo, nói rằng tất cả các pháp (dharmas - các hiện tượng) sinh khởi đều phụ thuộc vào những pháp khác: "nếu cái này tồn tại, thì cái kia tồn tại; nếu cái này đoạn diệt, thì cái kia cũng đoạn diệt".
Nguyên lý này được thể hiện qua các liên kết duyên khởi trong Phật giáo (tiếng Pali: dvādasanidānāni, tiếng Phạn: dvādaśanidānāni), là một danh sách gồm 12 yếu tố phụ thuộc lẫn nhau rút ra từ các giáo lý của Đức Phật. Theo truyền thống, danh sách này được hiểu như là việc mô tả sự khởi đầu có điều kiện của việc tái sinh trong luân hồi (saṃsāra), và khổ (duḥkha) là một kết quả tất yếu. Thuyết này chỉ rõ là mọi hiện tượng tâm lý và vật lý tạo nên đời sống đều nằm trong một mối liên hệ với nhau, chúng là nguyên nhân của một yếu tố này và là kết quả của một yếu tố khác, làm thành một vòng với mười hai yếu tố. Các yếu tố này làm loài hữu tình cứ mãi vướng mắc trong luân hồi.
Một cách giải nghĩa khác cho rằng danh sách là sự miêu tả về sự phát sinh của những thứ thuộc về tâm trí và kéo theo là sự nhận thức về "tôi" và "của tôi", đó là những nguồn gốc của sự đau khổ. Theo đó, sự đảo ngược chuỗi nhân quả được giải thích là sự dẫn đến sự chấm dứt những thứ hình thành từ tâm trí và sự tái sinh. Các học giả đã chú ý đến những sự không thống nhất trong danh sách, và đánh giá nó là một sự tổng hợp về sau của một vài danh sách trước đó.
Duyên khởi và Vô ngã (zh. 無我, sa. anātman, pi. anattā) là hai giáo lý làm rường cột cho tất cả các tông phái Phật giáo. Trong giáo lý Duyên khởi đức Phật dạy về 12 duyên hỗ tương, lệ thuộc lẫn nhau trong một vòng xích có 12 khoen.
Từ nguyên
Pratityasamutpada (tiếng Phạn: प्रतीत्यसमुत्पाद) bao gồm hai thuật ngữ:
pratitya: "có tính bị phụ thuộc"; xuất hiện trong nhiều kinh điển của Vệ-đà và Áo nghĩa thư khác nhau, chẳng hạn như các bài thánh ca 4.5,14, 7.68.6 của Rigveda và 19,49.8 của Atharvaveda, theo nghĩa "xác nhận, phụ thuộc, thừa nhận nguồn gốc". Nguồn gốc tiếng Phạn của từ này là prati*, là hình thức xuất hiện rộng rãi hơn trong văn học Vệ-Đà, và nó có nghĩa là "đi về phía trước, quay lại, trở lại, tiếp cận" và đồng thời hàm nghĩa "quan sát, tìm hiểu, thuyết phục chính mình về sự thật về bất cứ điều gì, sự chắc chắn về, tin tưởng, trao niềm tin, công nhận". Trong các ngữ cảnh khác, pratiti*- một thuật ngữ liên quan- có nghĩa là "hướng tới, tiếp cận, hiểu biết sâu sắc về bất cứ điều gì".
samutpada: "sự phát sinh", "sự tăng, sự sản xuất, nguồn gốc". Trong văn học Vệ Đà, nó có nghĩa là "mọc lên cùng nhau, phát sinh, đến để vượt qua, xảy ra, hiệu ứng, hình thành, sản xuất, bắt nguồn".
Thuật ngữ này đã được dịch khác nhau sang tiếng Anh như khởi nguồn có tính phụ thuộc, duyên khởi, đồng phát sinh và phụ thuộc lẫn nhau, phát sinh có điều kiện hoặc là sự khởi đầu có điều kiện.
Thuật ngữ này cũng có thể chỉ cho mười hai liên kết, Pali : dvādasanidānāni, tiếng Phạn: dvādaśanidānāni, trong đó dvāvaśa ("mười hai") + nidānāni (số nhiều của "nidāna","nguyên nhân, động lực, liên kết"). Nói chung, trong truyền thống phật giáo Đại thừa, pratityasamutpada (tiếng Phạn) được sử dụng để chỉ cho nguyên tắc chung của quan hệ nhân quả phụ thuộc lẫn nhau, trong khi theo truyền thống phật giáo Thượng tọa bộ thì paticcasamuppāda (tiếng Pali) được dùng để chỉ cho mười hai liên kết.
Danh sách nhân duyên
Mười hai nhân duyên
Theo kinh Duyên khởi, mười hai nhân duyên cụ thể như sau:
Vô minh (zh. 無明, sa. avidyā, pi. avijjā): Sự nhận thức sai lầm về cuộc đời. Không thấy rõ đời là bể Khổ hay Tứ Diệu Đế, không thấy rõ bản chất của sự vật, hiện tượng đều Vô thường, Vô ngã;
Vô minh sinh Hành (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra): Hành động tạo nghiệp từ thân, khẩu, ý. Hành này có thể tốt hoặc xấu hay trung tính;
Hành sinh Thức (zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa), làm nền tảng cho một đời sống mới: Thức lựa chọn cha mẹ đúng như hành tốt xấu quy định;
Thức sinh Danh sắc (zh. 名色, sa., pi. nāmarūpa): Là toàn bộ tâm lý và vật lý của bào thai mới, do Ngũ uẩn tạo thành;
Danh sắc sinh Lục nhập (zh. 六根, sa. ṣaḍāyatana, pi. saḷāyatana): Là toàn bộ các giác quan và đối tượng của chúng. Lục nhập = 6 căn + 6 trần;
Xúc (zh. 觸, sa. sparśa, pi. phassa): Lục căn bắt đầu tiếp xúc với bên ngoài gọi là Xúc.
Xúc sinh Thọ/Thụ (zh. 受, sa., pi. vedanā): Cảm giác, cảm nhận, lãnh thọ. Ví dụ như: yêu, thích, ganh ghét, đố kỵ, lo sợ, hạnh phúc, ưu sầu, thất vọng, hối tiếc, khó chịu, sân giận,...;
Thọ sinh Ái (zh. 愛, sa. tṛṣṇā, pi. taṇhā): Sự ham muốn từ các giác quan như mắt ưa thích sắc đẹp, mũi thích hương thơm, tai ưa tiếng hay, lưỡi đắm vị ngọt, thân ưa xúc chạm êm ái hay Ngũ dục : Tiền tài; Danh vọng; Sắc đẹp; Ăn ngon; Ngủ nghỉ;
Ái sinh Thủ (zh. 取, sa., pi. upādāna): Giành giữ lấy, chiếm lấy cho mình;
Thủ dẫn đến Hữu (zh. 有, sa., pi. bhava): Là toàn bộ những gì ta gọi là tồn tại, sự sống, thế giới;
Hữu dẫn đến Sinh (zh. 生, sa., pi. jāti): Là cuộc sống hằng ngày bao gồm dục lạc, tham ái hay lòng ham muốn;
Sinh dẫn đến Già & Chết (zh. 老死, sa., pi. jarāmaraṇa): Có sinh ắt có diệt.
Kinh nghiệm giác ngộ lý duyên khởi bao gồm Mười hai nhân duyên của Phật được ghi lại trong Luật tạng (sa., pi. vinayapiṭaka), phần Đại phẩm (pi. mahāvagga).
Giải nghĩa
Người ta có thể nhìn Mười hai nhân duyên dưới nhiều cách phân tích khác nhau. Cách phân tích thông thường có tính thời gian là: yếu tố 1-2 thuộc về đời sống trước đây, yếu tố 3-7 là điều kiện và nguyên nhân sinh thành của đời sống sau này, yếu tố 8-10 là kết quả trong đời sống này, yếu tố 11-12 chỉ đời sống tương lai.
Mười hai nhân duyên chỉ rõ tính chất liên hệ lẫn nhau của dòng chảy "Tâm", "Vật" của thế giới hiện tượng, trong đó những khái niệm quan trọng nhất là "Ta", "Người", "Sinh vật". Nếu thuyết vô ngã chỉ rõ thế giới và con người do các yếu tố giả hợp kết thành với nhau, thật chất là trống rỗng, thì thuyết nhân duyên có tính chất tổng hợp các yếu tố đó, chỉ ra rằng mọi hiện tượng thân tâm đều bắt nguồn từ những hiện tượng khác. Sự phụ thuộc lẫn nhau đó có thể nhìn dưới khía cạnh đồng thời hoặc có thứ tự thời gian.
Thuyết Mười hai nhân duyên được các trường phái Phật giáo giải thích khác nhau. Nam tông cho rằng thuyết này đã giải thích nguyên nhân của khổ và tất cả mọi pháp hữu vi (sa. saṃskṛta) đều có nguyên nhân và điều kiện mới sinh ra nên chúng vô ngã - không có một tự tính nào. Như thế thuyết Mười hai nhân duyên nhằm dẫn đến quan điểm vô ngã.
Trong Bắc tông, Mười hai nhân duyên được sử dụng để chứng minh sự không thật của sự vật và đặc biệt trong Trung quán tông (sa. mādhyamika), Mười hai nhân duyên được định nghĩa là tính Không. Kinh Bát-nhã ba-la-mật-đa nhấn mạnh rằng Mười hai nhân duyên không nên hiểu theo thứ tự thời gian. Thuyết này nói lên sự liên hệ của vạn vật một cách tổng quát.
Sự phụ thuộc có điều kiện
Các giáo lý của Duyên khởi khẳng định quan hệ nhân quả không theo quan hệ nhân quả trực tiếp giống như của Newton hoặc theo nhân quả đơn độc. Thay vào đó, nó khẳng định một quan nhân quả có điều kiện một cách gián tiếp và một nhân quả đa dạng. Quan điểm về "liên kết nhân quả" trong Phật giáo rất khác với ý tưởng về nhân quả đã được phát triển ở châu Âu. Thay vào đó, khái niệm về quan hệ nhân quả trong Phật giáo là sự đề cập đến các điều kiện được tạo ra bởi một số nhiều những nguyên nhân, mà cùng nhau một cách cần thiết chúng tạo ra các hiện tượng bên trong đời sống và bên kia cuộc sống, chẳng hạn như nghiệp trong một đời sống tạo ra các điều kiện để dẫn đến sự tái sinh cụ thể trong một cõi cho một đời sống khác. Nguyên tắc Duyên khởi khẳng định rằng sự khởi nguồn có tính phụ thuộc là một điều kiện cần thiết. Điều này được thể hiện rõ trong Kinh trung bộ (MN): "Khi cái này có, thì cái kia có; Cái này phát sinh, thì cái kia phát sinh; Khi cái này không có, thì cái kia không có; Cái này chấm dứt, Cái kia chấm dứt."
Nguyên lý bản thể học
Theo Peter Harvey, Duyên khởi (Pratityasamutpada) là một nguyên tắc bản thể học; đó là, một lý thuyết để giải thích bản chất và sự liên hệ của sự tồn tại, sự trở thành và thực tại tột cùng. Phật giáo khẳng định rằng không có gì là độc lập, ngoại trừ niết bàn. Tất cả các trạng thái vật lý và tâm trí phụ thuộc và phát sinh từ các trạng thái đã tồn tại trước đó, và đến lượt chúng sinh ra các trạng thái phụ thuộc khác trong khi chúng chấm dứt. Các 'nhân duyên khởi lên' đều hành động theo nhân quả, và do đó Duyên khởi là niềm tin của Phật giáo cho rằng quan hệ nhân quả là nền tảng của bản thể học, không phải là một đấng sáng tạo (Chúa, thần thánh) cũng không phải là khái niệm bản thể học của Vệ-đà gọi là Đại ngã (Brahman) hay bất kỳ 'nguyên tắc sáng tạo siêu việt' nào khác.
Nguyên lý bản thể luận của Duyên khởi trong Phật giáo được áp dụng không chỉ để giải thích bản chất, sự tồn tại của vật chất và hiện tượng được quan sát thực nghiệm, mà còn đối với bản chất và sự tồn tại của sự sống. Ở dạng trừu tượng, theo Peter Harvey, "học thuyết nêu rõ: 'Do cái này có mặt, cái kia có mặt. Do cái này sanh, cái kia sanh. Do cái này không có mặt, cái kia không có mặt. Do cái này diệt, cái kia diệt'." Không có "nguyên nhân đầu tiên" mà tất cả mọi loài nảy sinh.
Cách vận hành của tâm trí
Đối lập với sự giải thích bản thể học của Harvey, Eviatar Shulman lập luận rằng có một số ý nghĩa bản thể có thể được lượm lặt từ duyên khởi, nhưng cốt lõi của nó là liên quan đến "xác định các quá trình khác nhau về trải nghiệm của tâm trí và mô tả mối quan hệ của chúng".
Noa Ronkin dẫn rằng trong khi Đức Phật hoãn tất cả các nhận định đánh giá về các câu hỏi siêu hình nhất định, ngài không phải là một nhà chống đối về siêu hình học: không có dẫn chứng nào trong các bản kinh gợi ý rằng các câu hỏi siêu hình là hoàn toàn vô nghĩa, thay vào đó Đức Phật đã dạy rằng kinh nghiệm có thể cảm nhận qua các giác quan đều là khởi nguồn có tính phụ thuộc và bất kể cái gì là khởi nguồn có tính phụ thuộc thì bị ảnh hưởng, vô thường, là đối tượng của sự thay đổi, và vô ngã. |
Ngũ uẩn (zh. wǔyùn 五蘊, sa. pañca-skandha, pi. pañca-khandha, bo. phung po lnga ཕུང་པོ་ལྔ་), cũng gọi là Ngũ ấm (五陰), là năm (pañca) nhóm (skandha) tượng trưng cho năm yếu tố tạo thành con người, toàn bộ thân tâm. Ngoài ngũ uẩn đó ra không có gì gọi là cái "ta".
Ngũ uẩn là:
Sắc uẩn (zh. 色; sa., pi. rūpa), chỉ sự nhận biết mình có thân và sáu giác quan (hay còn gọi là lục căn, bao gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý), do Tứ đại chủng (sa., pi. mahābhūta) tạo thành, đó là bốn yếu tố đất, nước, gió, lửa. Sắc tạo nên các giác quan và đối tượng của chúng. Cái biết của sắc uẩn gọi là sắc thức, là sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: Ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sắc thức phụ thuộc vào sáu căn tiếp xúc với sáu trần để hình thành nên sáu thức. (Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là sắc? Bị thay đổi, này các Tỷ-kheo, nên gọi là sắc. Bị thay đổi bởi cái gì? Bị thay đổi bởi lạnh, bị thay đổi bởi nóng, bị thay đổi bởi đói, bị thay đổi bởi khát, bị thay đổi bởi sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng và rắn. Bị thay đổi, này các Tỷ-kheo, nên gọi là sắc.)
Thọ uẩn (zh. 受, sa., pi. vedanā), tức là toàn bộ các cảm giác, cảm nhận sự thay đổi chung quanh, không phân biệt chúng là dễ chịu, khó chịu hay trung tính. (Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là thọ? Được cảm thọ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là thọ. Cảm thọ gì? Cảm thọ lạc, cảm thọ khổ, cảm thọ phi khổ phi lạc. Được cảm thọ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là thọ.)
Tưởng uẩn (zh. 想, sa. saṃjñā, pi. saññā) là nhận biết sự khác biệt, như là màu này khác màu kia, mùi này khác mùi kia... (Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là tưởng? Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng. Nhận rõ gì? Nhận rõ màu xanh, nhận rõ màu vàng, nhận rõ màu đỏ, nhận rõ màu trắng. Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng.)
Hành uẩn (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), Hành là ý định, toan tính, suy tư, cân nhắc trước 1 quyết định. Hành bao gồm tất cả các chủ tâm trước khi một hành động được hình thành. Hành là đối tượng đã tạo nên nghiệp thiện ác. (Gồm Thân hành, Khẩu hành, Ý hành) (Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là hành? Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi nên gọi là hành. Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi gì? Làm cho hiện hành sắc với sắc tánh, làm cho hiện hành thọ với thọ tánh, làm cho hiện hành tưởng với tưởng tánh, làm cho hiện hành các hành với hành tánh, làm cho hiện hành thức với thức tánh. Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi, này các Tỷ-kheo, nên gọi là các hành.)
Thức uẩn (zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa) là sự nhận thức nhờ mặc định, mặc định cái này chua, mặc định cái kia đắng, mặc định cái nọ màu đỏ, mặc định cái kia nóng, cái này lợi, cái kia không lợi... Đây cũng là bước chuyển tiếp của tưởng uẩn và hành uẩn, từ sự cảm nhận sự khác biệt rồi suy tư cân nhắc xem mức độ khác biệt như thế nào, cho đến định nghĩa sự khác biệt bằng những danh từ hay tên gọi cho từng sự vật, sự việc, hiện tượng... (Và này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là thức? Rõ biết, này các Tỷ-kheo, nên gọi là thức. Rõ biết gì? Rõ biết chua, rõ biết đắng, rõ biết cay, rõ biết ngọt, rõ biết chất kiềm... rõ biết không phải chất kiềm, rõ biết mặn, rõ biết không mặn. Rõ biết, này các Tỷ-kheo, nên gọi là thức.)
Ngũ uẩn cũng được gọi là năm ràng buộc vì chỉ có Phật hay A-la-hán mới không bị dính mắc nơi chúng. Đặc tính chung của chúng là Vô thường, Vô ngã và Khổ. Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh nhấn mạnh đến tính Không của ngũ uẩn.
Tính chất khổ và vô thường của năm uẩn là một trong những quan điểm quan trọng nhất của Phật giáo. Khổ xuất phát từ lòng ham muốn, không hiểu sự vô thường của ngũ uẩn, không chắc thật của các uẩn đó; và con người được tạo thành từ năm uẩn đó không gì khác hơn là một sự giả hợp, không có một cái "ta" thật sự đứng đằng sau con người đó (Vô ngã). Tri kiến về tính vô ngã của ngũ uẩn là một tri kiến rất quan trọng, nó có thể đưa đến giải thoát. Đại sư người Đức Nyānatiloka trình bày như sau về tầm quan trọng đó:
"Đời sống của mỗi chúng ta thực chất chỉ là một chuỗi hiện tượng thân tâm, một chuỗi hiện tượng đã hoạt động vô lượng kiếp trước khi ta sinh ra và sẽ còn tiếp tục vô tận sau khi ta chết đi. Ngũ uẩn này, dù riêng lẻ từng uẩn hay hợp chung lại, chúng không hề tạo thành một cái gì gọi là cái ta. Ngoài chúng ra, không còn cái gì được gọi là một thể của cái ta độc lập với chúng, để ta tạm gọi nó là cái ta. Lòng tin có một cái ta, có một nhân cách độc lập chỉ là một ảo tưởng." |
Niết-bàn , trong Phật giáo và Ấn Độ giáo, là mục đích chính và cuối cùng của các nhà tu hành. Tuy nhiên, Phật giáo lại nhìn nhận niết bàn là trạng thái diệt tận được tham ái, sân hận và si mê để đạt đến trạng thái bình lặng tuyệt đối. Còn riêng về Ấn Độ giáo, niết bàn là sự trở về của linh hồn cá nhân (Atman) vào với linh hồn vũ trụ (Brahman), của tiểu ngã vào với đại ngã. Trong thế giới Niết bàn cũng chia ra là Tiểu Niết Bàn và Đại Niết Bàn.
Từ nguyên
Niết-bàn (zh. 涅槃, sa. nirvāṇa, pi. nibbāna, ja. nehan) là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn nirvāṇa hoặc tiếng Pāli nibbāna. Nirvāṇa nguyên là phân từ thụ động quá khứ của động từ niḥ-√vā (2) nirvāti với nghĩa "thổi tắt", "dập tắt" (một ngọn lửa) và như thế thì nirvāṇa mang nghĩa đã bị dập tắt, thổi tắt. Qua đó mà thuật ngữ nirvāṇa cũng được dịch nghĩa là Khổ diệt, Diệt (zh. 滅), Diệt tận (zh. 滅盡), Diệt độ (zh. 滅度), Tịch diệt (zh. 寂滅), Bất sinh (zh. 不生), Viên tịch (zh. 圓寂), và vì khổ diệt được hiểu là mục đích tối cao trong đạo Phật nên nirvāṇa cũng được dịch ý là Giải thoát (zh. 解脫).
Tóm lược lại thì Niết-bàn có thể được hiểu là: Tình trạng ngọn lửa tham lam, sân hận, ngu si trong tâm đã bị dập tắt, tâm trở nên trong sáng, mát mẻ, thanh lương, tịch tịnh, tĩnh lặng. Niết bàn là thái độ tâm hết sạch phiền não, rõ biết tất cả pháp là vô ngã, vô thường, và bất toại nguyện.
Quan điểm Phật giáo
Tổng quan về Niết-bàn
Niết-bàn là mục đích tu hành cứu cánh của mọi trường phái Phật giáo. Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết-bàn được xem là đoạn triệt Luân hồi (zh. 輪回, sa., pi. saṃsāra). Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện (zh. 不善, sa. akuśala, pi. akusala) là tham, sân và si. Trưởng lão tăng kệ (pi. theragāthā) ghi (Chân Nguyên dịch Pāli-Việt):
Nguyên văn tiếng Pāli:
sabbo rāgo pahīno me, sabbo doso samūhato,
sabbo me vigato moho, sītibhūto `smi nibbuto. ||79||
Dịch nghĩa:
Ta đã buông xả tất cả những tham dục (pi. rāga), đã tiêu diệt tất cả sân hận (pi. dosa), ta đã lìa xa tất cả si mê (pi. moha)—Ta đã đạt sự tĩnh lặng (pi. sītibhūta), chứng niết-bàn (pi. nibbuta). ||79||
Với sự xuất hiện của Đại thừa (sa. mahāyāna), người ta có một quan điểm mở rộng của Niết-bàn dựa trên khái niệm Bồ Tát (zh. 菩薩, sa. bodhisattva, pi. bodhisatta). Ở đây Niết-bàn được xem như hết Khổ, khi có sự giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi tham ái.
Trong nhiều kinh sách, người ta miêu tả Niết-bàn như một "ngọn lửa đã tắt". Đó là xuất thế (zh. 出世; sa. lokottara) và chỉ có những hành giả đã đạt mới biết được. Vì vậy, trong đạo Phật nguyên thủy, Niết-bàn được hiểu là giải thoát khỏi phiền não. Tập bộ kinh (pi. suttanipāta) miêu tả như sau (Chân Nguyên dịch Pāli-Việt):
Nguyên văn tiếng Pāli:
accī yathā vātavegena khitto, atthaṃ paleti na upeti sankhaṃ,
evaṃ munī nāmakāyā vimutto, atthaṃ paleti na upeti sankhaṃ. ||1074||
atthan gatassa na pamāṇaṃ atthi, yena naṃ vajju taṃ tassa n`atthi
sabbesu dhammesu samūhatesu, samūhatā vādapathā pi sabbe. ||1076||
Dịch nghĩa:
Như ngọn lửa (pi. accī) đã bị sức mạnh của cơn gió (pi. vātavega) dập tắt, đến nơi an nghỉ, không thể được định nghĩa—cũng như vậy, một mâu-ni đã được giải thoát ra khỏi danh xưng và thân xác (pi. nāmakāya) đi về chốn an nghỉ, vượt khỏi mọi định nghĩa.||1074||
Người đã đến chỗ an nghỉ thì người ta không thể dùng sự quy ước (pi. pamāṇa) để diễn tả ông ta. Cái đó không thuộc về ông ta. Khi tất cả các pháp (ý tưởng) đã tiêu diệt thì tất cả những phương tiện ngôn ngữ (pi. vādapatha) cũng tiêu diệt.||1076||
Trong một số kinh sách khác, Niết-bàn được hiểu là sự "an lạc" nhưng phần lớn được hiểu là sự giải thoát khỏi cái Khổ (sa. duḥkha, pi. dukkha).
Niết-bàn theo quan điểm của Phật Thích Ca
Niết-bàn có 2 loại, đó là:
1- Hữu-dư Niết-bàn (Sa upādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-la-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là kilesaparinibbāna: tất cả mọi phiền-não Niết-bàn, nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.
2- Vô-dư Niết-bàn (Anupādisesanibbāna) là Niết-bàn đối với bậc Thánh A-la-hán đã diệt tận được tất cả mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, đến lúc hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là khandha- parinibbāna: ngũ-uẩn Niết-bàn nghĩa là ngũ-uẩn diệt rồi không còn ngũ-uẩn nào tái-sinh kiếp sau nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
Niết-bàn có ba loại theo đối-tượng thiền-tuệ, đó là:
1-Vô-hiện-tượng Niết-bàn(Animittanibbāna) là Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-thường (aniccalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-ngã, do năng lực tín-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của giới, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-hiện-tượng Niết-bàn (animittanibbāna): Niết-bàn không có hiện-tượng các pháp-hữu-vi.
2- Vô-ái Niết-bàn (Appaṇihitanibbāna) là Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái khổ (dukkhalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái vô-thường và trạng-thái vô-ngã, do năng lực định-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ), hoặc do năng lực của định, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là vô-ái Niết-bàn (appaṇihitanibbāna): Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.
3- Chân-không Niết-bàn (Suññatanibbāna) là Niết- bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, danh-pháp tam-giới; thấy rõ, biết rõ trạng-thái vô-ngã (anattalakkhaṇa) hiện rõ hơn trạng-thái khổ và trạng-thái vô-thường, do năng lực tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực hơn 4 pháp-chủ còn lại (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ), hoặc do năng lực của tuệ, dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn gọi là chân-không Niết-bàn (suññatanibbāna): Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.
Những đối-tượng Niết-bàn ấy thuộc về diệt khổ- Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ.
Quan điểm Ấn Độ giáo
Theo Ấn Độ giáo, Niết-bàn là sự thật tuyệt đối. Theo S.K. Belvalkar thì khái niệm Niết-bàn này xuất hiện trước khi Phật giáo được thành lập. Theo trường sử thi Mahābhārata thì Niết-bàn được xem là sự tịch tĩnh (sa. śānti) và sự thỏa mãn (sa. susukkti). Trong tác phẩm Anugītā, Niết-bàn được xem như "một ngọn lửa không có chất đốt". Chí Tôn ca như chủ ý nhấn mạnh tính đối nghịch với khái niệm Niết-bàn trong Phật giáo vì bài này miêu tả Niết-bàn như sự chứng đắc Brahma (sa. brahman, 2,71). Du-già sư (sa. yogin) ở đây không được xem như một ngọn đèn đã tắt (như trong Phật giáo), mà là một ngọn đèn không đứng giữa cơn gió, không bị lay chuyển (6,19). Chứng đạt Niết-bàn được gọi là giải thoát (sa. mokṣa). |
Vô minh (chữ Hán 無明, tiếng Phạn: अविद्या avidyā, tiếng Pali: avijjā, tiếng Tạng: མ་རིག་པ་ ma rig-pa) chỉ nhận thức sai lầm về bản ngã và thế giới xung quanh. Vô minh là yếu tố đầu tiên trong nguyên lý Duyên khởi với mười hai nhân duyên (sa. pratītya-samutpāda), là những nguyên nhân làm con người vướng trong Luân hồi (sa. saṃsāra). Vô minh cũng là một trong ba ô nhiễm, Tam lậu (sa. āsrava), một trong ba phiền não (sa. kleśa) và khâu cuối cùng của mười trói buộc (Thập triền, sa. saṃyojana).
Vô minh được xem là gốc của mọi bất thiện trong thế gian và cũng là một đặc tính của Khổ (sa. duḥkha). Đó là tình trạng tâm thức không thấy sự vật "như nó là" (Như thật tri kiến), cho ảo giác là sự thật và vì vậy sinh ra khổ. Vô minh sinh ái (sa. tṛṣṇā) và đó là yếu tố cơ bản sinh ra sự tái sinh. Theo quan điểm Đại thừa, vì vô minh mà từ tính Không (sa. śūnyatā) thoắt sinh ra hiện tượng, làm cho người còn mê lầm tưởng đó là sự thật và không thấy tự tính (Si). Vì vô minh mà ham mê vật chất nên sinh ra tham. Vì vô minh mà sinh ra sự đố kỵ dẫn tới sân.
Mỗi tông phái Phật giáo có cách giải thích khác nhau về vô minh. Trong các trường phái Đại thừa, vô minh cũng được hiểu khác nhau. Trung quán tông (sa. mādhyamika) cho rằng, vô minh xuất phát từ quan điểm chấp trước tiên thiên của ý thức, và từ đó mà xây dựng lên một thế giới của riêng mình, cho thế giới đó những tính chất của chính mình và ngăn trở không cho con người thấy thế giới đích thật. Vô minh cũng là không thấy thể tính thật sự, và thể tính đó là tính Không. Như thế vô minh có hai khía cạnh: một là nó che đậy thế giới đích thật, hai là nó xây dựng cái ảo ảnh, cái giả. Hai mặt này cứ luôn luôn dựa vào nhau. Đối với Kinh lượng bộ (sa. sautrāntika) và Tì-bà-sa bộ (sa. vaibhāṣika) thì vô minh là cách nhìn thế giới sai lạc, cho thế giới là thường còn, mà thế giới có thật chất là vô thường. Vô minh làm cho con người tưởng lầm thế giới có một tự ngã. Theo Duy thức tông thì vô minh là một kiến giải điên đảo, vô minh cho rằng thế giới độc lập với ý thức (tâm) mặc dù Duy thức tông cho rằng thế giới và ý thức chỉ là một.
Ngoài ra còn có Thất tình lục dục cũng do vô minh mà ra. Thất tình lục dục tức là hỉ bảy tình cảm mà mỗi người đều có (hỉ=vui mừng, nộ=giận dữ, ai=buồn bã, lạc=vui vẻ, ái=yêu thương, ố=ghét và dục=ham muốn) và sáu ham muốn trở thành thói khó sửa của mỗi người (sắc dục, hình mạo dục, uy nghi tư thái dục, ngữ ngôn âm thanh dục, tế hoạt dục, nhân tượng dục). |
Truyền hình, hay còn được gọi là TV (Tivi) hay vô tuyến truyền hình (truyền hình không dây), máy thu hình, máy phát hình, hay vô tuyến là hệ thống điện tử viễn thông có khả năng thu nhận tín hiệu sóng và tín hiệu vô tuyến hoặc hữu tuyến để chuyển thành hình ảnh và âm thanh (truyền thanh truyền hình) và là một loại máy phát hình truyền tải nội dung chủ yếu bằng hình ảnh sống động và âm thanh kèm theo. Máy truyền hình là máy nhận những tín hiệu đó và phát ra hình ảnh.
Được đưa ra thị trường đầu tiên trong hình thức rất thô sơ trên cơ sở thử nghiệm vào cuối năm 1920, sau đó được phổ biến với việc cải thiện rất nhiều về hình thức ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các máy thu truyền hình (tivi) đã trở thành phổ biến trong gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức, chủ yếu là một phương tiện để giải trí, quảng cáo và xem tin tức. Trong những năm 1950, truyền hình đã trở thành phương tiện chính để định hướng dư luận. Vào giữa những năm 1960, việc phát truyền hình màu và kinh doanh máy thu hình màu tăng ở Mỹ và bắt đầu ở hầu hết các nước phát triển khác. Sự sẵn có của các phương tiện lưu trữ như VHS (giữa năm 1970), laserdisc (1978), Video CD (1993), DVD (1997), và Blu-ray độ nét cao (2006) cho phép người xem sử dụng các máy truyền hình để xem và ghi nhận các tài liệu như phim ảnh và các tài liệu quảng bá. Kể từ những năm 2010, truyền hình Internet đã gia tăng các chương trình truyền hình có sẵn thông qua Internet thông qua các dịch vụ như iPlayer, Hulu, và Netflix.
Trong năm 2013, 79% hộ gia đình trên thế giới sở hữu một chiếc tivi. Việc thay thế các màn hình hiển thị với ống cao áp cathode (CRT) to nặng với các lựa chọn thay thế nhỏ gọn, tiết kiệm năng lượng, màn hình phẳng như màn hình plasma, màn hình LCD (cả huỳnh quang-backlit và LED-backlit), và màn hình OLED là một trong những cuộc cách mạng phần cứng. Nó bắt đầu thâm nhập vào thị trường màn hình máy tính của người tiêu dùng vào cuối năm 1990 và nhanh chóng lan rộng đến các thiết bị truyền hình. Trong năm 2014, hầu hết các thiết bị TV LCD bán ra là chủ yếu là màn hình LCD LED-backlit. Các nhà sản xuất TV lớn thông báo về việc ngừng sản xuất màn hình CRT, RPTV, plasma và LCD và thậm chí cả huỳnh quang-backlit vào năm 2014. TV LED được dự kiến sẽ được thay thế dần bằng TV OLED trong tương lai gần. Ngoài ra, các nhà sản xuất lớn đã công bố rằng họ sẽ tăng sản xuất TV thông minh vào giữa thập kỷ 2010. TV thông minh được mong đợi trở thành hình thức thống trị của truyền hình thiết lập vào cuối thập kỷ 2010.
Các tín hiệu truyền hình được phân phối như tín hiệu truyền hình phát sóng được mô hình hóa trên hệ thống phát sóng radio trước đó. Phát sóng truyền hình sử dụng máy phát vô tuyến tần số công suất cao phát sóng tín hiệu truyền hình đến các máy thu truyền hình cá nhân. Cho đến đầu những năm 2000, tín hiệu truyền hình phát sóng là tín hiệu analog nhưng các nước nhanh chóng bắt đầu chuyển sang tín hiệu kỹ thuật số, với việc chuyển đổi dự kiến sẽ được hoàn thành trên toàn thế giới vào năm 2020. Ngoài ra để truyền trên mặt đất, tín hiệu truyền hình cũng được phân phối bằng cáp (chuyển đổi kỹ thuật số) và vệ tinh các hệ thống kỹ thuật số.
Một TV tiêu chuẩn được bao gồm nhiều mạch điện tử nội bộ, bao gồm các mạch tiếp nhận và giải mã tín hiệu truyền hình. Một thiết bị hiển thị hình ảnh mà thiếu một bộ chỉnh được gọi chính xác là một màn hình video hơn là một chiếc tivi. Hệ thống truyền hình cũng được sử dụng để giám sát, điều khiển quá trình công nghiệp và ở những nơi quan sát trực tiếp là khó khăn hoặc nguy hiểm..
Từ nguyên
Từ tivi (đọc theo tiếng Anh, TV viết tắt từ television) là một từ ghép, kết hợp từ tiếng Hy Lạp và tiếng Latinh. "Tele", tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "xa"; trong khi từ "vision", từ tiếng Latinh visio, có nghĩa là "nhìn" hay "thấy". Tiếng Anh viết tắt thành TV và đọc là /ˈtiːˈviː/.
Vô tuyến truyền hình là một từ Hán Việt kết hợp từ vô tuyến 无线 có nghĩa là không dây và truyền hình, có nghĩa là chuyển tải dữ liệu hình ảnh.
Lịch sử
Sự phát triển của công nghệ truyền hình có thể được thực hiện trên 2 phạm vi: các phát triển trên phương diện cơ học và điện tử học, và các phát triển hoàn toàn trên điện tử học. Sự phát triển thứ hai là nguồn gốc của các tivi hiện đại, nhưng những điều trên không thể thực hiện nếu không có sự phát hiện và sự thấu hiểu từ hệ thống cơ khí.
Truyền hình cơ học
Hệ thống Fax cho hình ảnh tiên phong trong phương pháp quét cơ học của hình ảnh trong đầu thế kỷ XIX. Alexander Bain giới thiệu máy fax năm 1843 đến 1846. Frederick Bakewell giới thiệu một phiên bản của máy fax trong phòng thí nghiệm vào năm 1951.
Willoughby Smith phát hiện ra quang dẫn của nguyên tố selen vào năm 1873.
Một sinh viên người Đức tên Paul Gottlieb Nipkow đưa ra phát kiến hệ thống tivi cơ điện tử đầu tiên năm 1884. Đây là một đĩa quay với một mô hình xoắn ốc với các lỗ trên đĩa, vì vậy mỗi lỗ quét một dòng của hình ảnh. Mặc dù Nipkow không bao giờ xây dựng một mô hình hoạt động thực sự, các biến thể của vòng quay đĩa Nipkow trở nên cực kỳ phổ biến. Constantin Perskyi đã đặt ra thuật ngữ truyền hình trong bài báo đọc ở Đại hội Điện Quốc tế tại Hội chợ Thế giới Quốc tế ở Paris vào ngày 24/08/1900. Bài báo của Perskyi xem xét các công nghệ cơ điện hiện có, đề cập đến công việc của Nipkow và những người khác.. Một sự gia tăng nhẹ trong sử dụng truyền hình cáp bắt đầu vào khoảng năm 2010 dành cho chương trình phát sóng truyền hình kỹ thuật số mặt đất, trong đó cung cấp chất lượng hình ảnh nguyên sơ trên diện tích rất lớn, và cung cấp dịch vụ thay thế CATV cho truyền hình hữu tuyến.
Tất cả các nước khác trên thế giới cũng đang trong quá trình chuyển đổi của một trong hai dịch vụ truyền hình mặt đất analog hoặc chuyển đổi sang truyền hình kỹ thuật số mặt đất.
Truyền hình cáp
Truyền hình cáp là một hệ thống các chương trình truyền hình phát sóng phải trả tiền thuê bao qua các tín hiệu tần số radio RF vô tuyến truyền qua cáp đồng trục hoặc xung ánh sáng qua sợi cáp quang. Điều này trái ngược với truyền hình mặt đất analog, trong đó các tín hiệu truyền hình được truyền qua không gian bằng sóng vô tuyến và được nhận bởi một ăng-ten gắn liền với truyền hình. chương trình FM radio, Internet tốc độ cao, dịch vụ điện thoại, và các dịch vụ phi truyền hình tương tự cũng có thể được cung cấp thông qua các loại cáp.
Từ viết tắt CATV thường được sử dụng cho truyền hình cáp. Lúc ban đầu nó được lấy tên cho truy cập truyền hình cộng đồng hoặc Community Antenna Television, từ nguồn gốc truyền hình cáp của năm 1948: khu vực nhận được giới hạn bởi khoảng cách từ máy phát hoặc núi lớn "ăng-ten công cộng" đã được xây dựng, và cáp đã chạy từ chúng để tới các nhà riêng. Nguồn gốc của truyền hình cáp thậm chí còn lâu đời hơn các chương trình phát thanh đã được phân phối bằng cáp ở một số thành phố châu Âu những năm 1924.
Truyền hình cáp trước đó là analog nhưng kể từ những năm 2000, tất cả các nhà khai thác cáp đã chuyển sang hoặc đang trong quá trình chuyển đổi sang truyền hình cáp kỹ thuật số.
Truyền hình vệ tinh
Truyền hình vệ tinh là một hệ thống cung cấp chương trình truyền hình sử dụng tín hiệu phát sóng từ vệ tinh chuyển tiếp truyền thông. Các tín hiệu được nhận thông qua một ăng-ten parabol ngoài trời thường được gọi là chảo thu truyền hình vệ tinh và một khối downconverter độ nhiễu thấp (LNB). Một máy thu vệ tinh sau đó giải mã chương trình truyền hình mong muốn để xem trên TV. Người nhận có thể lắp một hộp set-top bên ngoài, hoặc tích hợp sẵn trong bộ chỉnh TV. Truyền hình vệ tinh cung cấp một loạt các kênh và dịch vụ, đặc biệt là các khu vực địa lý mà không nhân được tín hiệu truyền hình mặt đất hoặc truyền hình cáp.
Các phương pháp phổ biến nhất của việc nhận là truyền hình trực tiếp phát sóng vệ tinh (DBSTV), còn được gọi là "trực tiếp đến nhà" (DTH). Trong các hệ thống DBSTV, tín hiệu được truyền từ một vệ tinh phát sóng kỹ thuật số hoàn toàn trực tiếp trên sóng Ku. Hệ thống truyền hình vệ tinh được biết đến như hệ thống truyền hình chỉ nhận. Các hệ thống nhận tín hiệu analog truyền trong quang phổ C-band từ loại vệ tinh FSS, và yêu cầu sử dụng các chảo thu lớn. Do đó các hệ thống này có biệt danh là hệ thống "chảo thu", và cũng đắt hơn và ít phổ biến.
Các tín hiệu truyền hình vệ tinh phát sóng trực tiếp là tín hiệu analog trước đó và sau đó là tín hiệu kỹ thuật số, cả hai đều đòi hỏi một thiết bị tiếp nhận tương thích. Các tín hiệu kỹ thuật số có thể bao gồm truyền hình độ nét cao (HDTV). Một số truyền thông và các kênh truyền hình được tự do phát hay tự do xem, trong khi nhiều kênh truyền hình khác đòi hỏi mỗi thuê bao phải trả tiền.
Năm 1945 một nhà văn nhà khoa học viễn tưởng người Anh Arthur C. Clarke đã đề xuất một hệ thống thông tin liên lạc trên toàn thế giới nó sẽ hoạt động bằng thiết bị của ba vệ tinh đều cách nhau trong quỹ đạo của Trái Đất đã được công bố trên tạp chí Wireless World số ra tháng 10 năm 1945 của và ông đã giành được Huy chương Franklin Stuart Ballantine của Viện trong năm 1963.
Các tín hiệu truyền hình vệ tinh đầu tiên từ châu Âu đến Bắc Mỹ đã được chuyển tiếp qua vệ tinh Telstar trên vùng biển Đại Tây Dương vào ngày 23 tháng 7 năm 1962. Các tín hiệu được nhận và phát sóng ở Bắc Mỹ và các nước châu Âu và được theo dõi bởi hơn 100 triệu người. Ra mắt vào năm 1962, vệ tinh Relay 1 là vệ tinh đầu tiên để truyền tín hiệu truyền hình từ Mỹ đến Nhật Bản. Các thông tin vệ tinh địa tĩnh đầu tiên, Syncom 2, đã được đưa ra vào ngày 26 tháng 7 năm 1963.
Vệ tinh truyền thông thương mại đầu tiên trên thế giới, được gọi là Intelsat I và biệt danh "Early Bird", đã được phóng lên quỹ đạo địa tĩnh vào ngày 6 tháng 4 năm 1965. Các mạng quốc gia đầu tiên của vệ tinh truyền hình gọi là Orbita, được tạo ra bởi Liên Xô vào tháng 10 năm 1967, và được dựa trên các nguyên tắc sử dụng các vệ tinh Molniya hình elip cho việc phát sóng lại và cung cấp các tín hiệu cho trạm truyền hình mặt đất downlink. Các vệ tinh thương mại Bắc Mỹ đầu tiên thực hiện truyền hình địa tĩnh là của Canada Anik 1, mà đã được đưa ra vào ngày 09 tháng 11 năm 1972. ATS-6, thử nghiệm thế giới đầu tiên cho mục đích giáo dục và Direct Broadcast Satellite (DBS), đã được đưa ra vào ngày 30 tháng 5 năm 1974. Nó được truyền với tần số 860 MHz sử dụng băng rộng điều chế FM và có hai kênh âm thanh. Các mạng truyền tải được tập trung vào các tiểu lục địa Ấn Độ, nhưng thí nghiệm đã có thể nhận được tín hiệu ở Tây Âu sử dụng nhà xây dựng các thiết bị kỹ thuật thiết kế truyền hình UHF đã được sử dụng.
Việc đầu tiên trong một loạt các vệ tinh địa tĩnh Liên Xô thực hiện Truyền tải trực tiếp truyền hình, Ekran 1, đã được đưa ra vào ngày 26 tháng 10 năm 1976. Nó sử dụng một tần số 714 MHz UHF downlink để truyền đi có thể được nhận được với các công nghệ truyền hình UHF hiện tại hơn là công nghệ vi sóng.
Máy thu truyền hình (ti vi)
Ti vi, máy thu truyền hình, viết tắt là TV, là một thiết bị kết hợp một bộ thu sóng, màn hình hiển thị, và loa cho các mục đích của việc xem truyền hình. Được giới thiệu vào cuối năm 1920 ở dạng cơ học, bộ truyền hình đã trở thành một sản phẩm tiêu dùng phổ biến sau Thế Chiến thứ II ở dạng điện tử, sử dụng ống tia cathode. Việc bổ sung các màu sắc để phát sóng truyền hình sau năm 1953 tăng thêm sự phổ biến của máy thu hình ở năm 1960, và một ăng ten ngoài trời đã trở thành một tính năng phổ biến của các căn nhà ở các vùng ngoại ô. Các bộ truyền hình ở khắp nơi đã trở thành thiết bị hiển thị cho các phương tiện truyền thông đầu tiên được ghi nhận trong năm 1970, như VHS và DVD sau đó. Đây cũng là thiết bị hiển thị cho thế hệ đầu tiên của máy tính gia đình (ví dụ, Timex Sinclair 1000) và video game console (ví dụ, Atari) trong năm 1980. TV kể từ cuối những năm 2010 màn hình LCD sử dụng đặc biệt là màn hình LED-backlit LCD (màn hình LED này được sử dụng chủ yếu) và OLED.
TV LED được cho là sẽ bị TV OLEDs thay thế trong tương lai gần.
Công nghệ màn hình
Quay đĩa
Hệ thống đầu tiên là hệ thống cơ học mà sử dụng một đĩa quay để tạo ra hình ảnh. Chúng thường có một độ phân giải và kích thước màn hình thấp và không phổ biến với cộng đồng.
Công nghệ CRT
Các ống cathode (CRT) là một ống chân không chứa một hoặc nhiều súng electron (một nguồn của các electron hoặc cực phát electron) và một màn hình huỳnh quang được sử dụng để xem hình ảnh. Nó có một tác dụng là để đẩy nhanh và làm chệch hướng các chùm electron (s) vào màn hình để tạo ra các hình ảnh. Các hình ảnh có thể đại diện cho dạng sóng điện (dao động), hình ảnh (tivi, màn hình máy tính), mục tiêu radar hoặc những người khác. Các CRT sử dụng một tấm kính sơ tán, rộng, sâu (tức là dài từ phía trước mặt màn hình cho đến cuối phía sau), khá nặng, và tương đối dễ vỡ. Như một vấn đề của an toàn, mặt màn hình thường được làm bằng thủy tinh chì dày để tránh được các va đập và ngăn chặn hầu hết các khí thải X-ray, đặc biệt là CRT được sử dụng trong sản phẩm tiêu dùng.
Trong bộ truyền hình và màn hình máy tính, toàn bộ khu vực phía trước của ống được quét nhiều lần và có hệ thống trong một mẫu hình cố định gọi là raster. Một hình ảnh được tạo ra bằng cách kiểm soát cường độ của mỗi tia trong ba chùm electron, cho mỗi màu cơ bản (đỏ, xanh lá cây, và màu xanh) với một tín hiệu video như là một tài liệu tham khảo. Trong tất cả các màn hình CRT hiện đại và TV, các chùm tia bị bẻ cong bởi độ lệch từ, một từ trường khác nhau được tạo ra bởi cuộn dây và điều khiển bằng mạch điện tử xung quanh cổ ống, mặc dù lệch tĩnh điện thường được sử dụng trong dao động, là một loại công cụ chẩn đoán.
Công nghệ DLP
Digital Light Processing (DLP) là một loại công nghệ máy chiếu sử dụng một thiết bị kỹ thuật số Micromirror. Một số DLPS có một TV tuner, và thiết bị này có một loại màn hình TV. Ban đầu nó được phát triển vào năm 1987 bởi Tiến sĩ Larry Hornbeck của Texas Instruments. Trong khi các thiết bị hình ảnh DLP được phát minh bởi Texas Instruments, máy chiếu DLP đầu tiên dựa được giới thiệu bởi Digital Projection Ltd vào năm 1997. Digital Projection và Texas Instruments đã được cả hai giải thưởng Emmy trao năm 1998 cho các công nghệ máy chiếu DLP. DLP được sử dụng trong một loạt các ứng dụng hiển thị từ màn hình tĩnh truyền thống với màn hình tương tác và cũng ứng dụng chúng vào các dịch vụ truyền thống bao gồm y tế, an ninh, và các ứng dụng công nghiệp.
Công nghệ DLP được sử dụng trong máy chiếu DLP trước (chủ yếu thiết bị chiếu độc lập cho các lớp học và các doanh nghiệp), DLP TV chiếu phía sau, và các dấu hiệu kỹ thuật số. Nó cũng được sử dụng trong khoảng 85% kế hoạch điện ảnh kỹ thuật số, và trong sản xuất phụ gia như một nguồn năng lượng trong một số máy in để hiệu chỉnh các loại nhựa thành các đối tượng 3D rắn.
Plasma
Một bảng điều khiển màn hình plasma (PDP) là một loại màn hình phẳng thông thường và rộng để truyền hình có kích thước 30 inch (76 cm) hoặc lớn hơn. Chúng được gọi là "plasma" sẽ được hiển thị bởi công nghệ sử dụng tế bào nhỏ có chứa chất khí tích điện ion hóa, hoặc những chất đặc biệt trong các buồng thường được gọi là đèn huỳnh quang.
LCD
TV màn hình tinh thể lỏng (TV LCD) là máy thu hình sử dụng công nghệ màn hình LCD để tạo ra hình ảnh. TV LCD mỏng hơn và nhẹ hơn so với ống tia cathode màn hình(CRT) kích thước màn hình tương tự, và có thể sản xuất các kích cỡ lớn hơn nhiều (ví dụ, 90 inch đường chéo). Khi giảm được các chi phí sản xuất, thì cho ra đời sự kết hợp của các tính năng có màn hình LCD cho máy thu truyền hình thực tế.
Năm 2007, TV LCD vượt quá doanh số của TV CRT-dựa trên toàn thế giới lần đầu tiên, [cần dẫn nguồn] và con số bán hàng của họ so với các ngành công nghệ khác tăng mạnh. TV LCD đã nhanh chóng có đối thủ cạnh tranh lớn trên thị trường màn hình lớn, bảng điều khiển màn hình plasma và phía sau là máy chiếu TV. Trong giữa những năm 2010 màn hình LCD đã trở thành màn hình phổ biến nhất, bởi đến nay, nó vẫn được sản xuất và mua bán rộng rãi nhất.
Màn hình LCD cũng có những nhược điểm riêng. Các công nghệ khác đã giải quyết những điểm yếu đó, bao gồm OLED, FED và SED, nhưng đến năm 2014 những công nghệ này không được đưa vào sản xuất trên diện rộng.
OLED
OLED (diode phát sáng hữu cơ) là một diode phát sáng (LED), trong đó các lớp quang điện phát xạ là một tấm phim của hợp chất hữu cơ phát ra ánh sáng để đáp ứng với một dòng điện. Đây là lớp bán dẫn hữu cơ nằm giữa hai điện cực. Nói chung, ít nhất là một trong những điện cực trong suốt. OLED được sử dụng để tạo ra màn hình kỹ thuật số trong các thiết bị như màn hình TV. Nó cũng được sử dụng cho màn hình máy tính, hệ thống di động như điện thoại di động, trò chơi cầm tay console và PDA.
Có hai đối tượng chủ yếu của OLED: những đối tượng dựa trên các phân tử nhỏ và những đối tượng sử dụng polymer. Thêm các ion di động để OLED tạo ra một tế bào điện hóa phát quang hoặc LED, trong đó có một chế độ hoạt động hơi khác nhau. Màn hình OLED có thể sử dụng hoặc là ma trận thụ động (PMOLED) hay ma trận tự động động giải quyết các đề án. OLED ma trận tự động (AMOLED) đòi hỏi một transistor backplane màng mỏng để chuyển từng điểm ảnh riêng hoặc tắt, nhưng cho phép độ phân giải cao hơn và kích thước màn hình lớn hơn.
Một màn hình hiển thị OLED không có đèn nền. Vì vậy, nó có thể hiển thị màu đen sâu và có thể mỏng hơn và nhẹ hơn so với một màn hình tinh thể lỏng (LCD). Trong điều kiện ánh sáng môi trường xung quanh thấp như một căn phòng tối một màn hình OLED có thể đạt được một tỷ lệ tương phản cao hơn so với màn hình LCD, cho dù màn hình LCD sử dụng đèn huỳnh quang cathode lạnh hoặc đèn nền LED.
OLED được cho là sẽ thay thế các công nghệ màn hình khác trong tương lai gần.
Độ phân giải màn hình
LD
Truyền hình độ nét thấp hoặc LDTV đề cập đến hệ thống truyền hình có độ phân giải màn hình thấp hơn so với các hệ thống truyền hình độ nét tiêu chuẩn 240p như vậy (320 * 240). Chúng được sử dụng trong các thiết bị truyền hình cầm tay.
SD
Truyền hình độ nét tiêu chuẩn SDTV hoặc đề cập đến hai độ phân giải khác nhau: 576i, với 576 dòng xen kẽ của độ phân giải, có nguồn gốc từ các PAL và SECAM hệ thống châu Âu phát triển; và 480i dựa trên hệ thống truyền hình quốc gia Mỹ hệ thống Committee NTSC.
HD
Truyền hình độ nét cao (HDTV) cung cấp một độ phân giải cao hơn đáng kể so với truyền hình độ nét tiêu chuẩn.
HDTV có thể được truyền trong các định dạng khác nhau:
1080p: 1920 × 1080p: 2.073.600 điểm ảnh (~ 2,07 megapixel) mỗi khung
1080i: 1920 × 1080i: 1.036.800 điểm ảnh (~ 1,04 MP) cho mỗi trường hoặc 2.073.600 pixel (~ 2.07 MP) cho mỗi khung hình. Độ phân giải CEA phi tiêu chuẩn tồn tại ở một số nước như 1440 × 1080i: 777.600 pixels (~ 0,78 MP) cho mỗi trường hoặc 1.555.200 pixel (~ 1,56 MP) cho mỗi khung hình
720p: 1280 × 720p: 921.600 pixels (~ 0,92 MP) cho mỗi khung hình.
UHD
Truyền hình độ nét siêu cao (còn gọi là Super Hi-Vision, Ultra truyền hình HD, UltraHD, UHDTV, hoặc UHD) bao gồm 4K UHD (2160p) và 8K UHD (4320p), là hai định dạng video kỹ thuật số được NHK Science & Technology Research Laboratories đề xuất và được Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) chấp thuận.
Kinh doanh
Người tiêu dùng Bắc Mỹ mua một TV mới trung bình bảy năm một lần, và các hộ gia đình có trung bình 2.8 chiếc TV. Tính đến năm 2011, 48 triệu bộ truyền hình mỗi năm được bán với giá trung bình là $ 460 và kích thước của 38 inch (97 cm). [152] Trong năm 2014, hầu hết các TV LCD bán ra chủ yếu là màn hình LCD đèn nền LED. Các nhà sản xuất TV lớn thông báo về việc ngừng sản xuất các loại TV CRT, RPTV, plasma và LCD thậm chí huỳnh quang-backlit trong năm 2014.
</small>
Nội dung
Chương trình
Việc chương trình truyền đến công chúng có thể xảy ra nhiều cách khác nhau. Sau khi sản xuất, bước tiếp theo là cho ra thị trường và cung cấp những sản phẩm để bất cứ thị trường nào mở là sử dụng nó. Điều này thường xảy ra ở hai cấp độ:
Original Run hoặc First Run: một nhà sản xuất tạo ra một chương trình bằng một hoặc nhiều giai đoạn và hiển thị nó trên một trạm phát sóng hoặc mạng mà đã trả tiền cho những chương trình này hoặc có giấy phép đã được cấp bởi các nhà sản xuất truyền hình để làm như vậy.
Hợp tác phát sóng: đây là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi để mô tả tập quán thành lập chương trình (ngoài chạy ban đầu). Nó bao gồm chạy thứ cấp trong nước về các vấn đề về lần chạy đầu tiên mà còn được sử dụng quốc tế và có thể không được quản lý bởi các nhà sản xuất có nguồn gốc. Trong nhiều trường hợp, các công ty khác, các đài truyền hình, hoặc cá nhân đang tham gia làm công tác cung cấp, nói cách khác, để bán các sản phẩm vào thị trường mà họ được phép bán kết hợp bởi hợp đồng của chủ sở hữu quyền tác giả, trong hầu hết các trường hợp sản xuất.
Chương trình đầu tiên đang tăng về các dịch vụ thuê bao bên ngoài nước Mỹ, nhưng rất ít các chương trình sản xuất trong nước được cung cấp thông tin về nội địa free-to-air (FTA) ở nơi khác. Tuy nhiên thực tế này đang tăng lên, thường trên các kênh truyền hình kỹ thuật số FTA-only hoặc với thuê bao đầu tiên xuất hiện trên FTA.
Không giống như Mỹ, FTA chiếu lặp lại một chương trình của mạng FTA thường chỉ xảy ra trên mạng. Ngoài ra, các chi nhánh ít khi mua hoặc sản xuất các chương trình ngoài mạng lưới mà không tập trung vào chương trình địa phương.
Thể loại
Các thể loại truyền hình bao gồm một lượng lớn các loại chương trình giải trí, thông tin, và giáo dục người xem. Các thể loại vui chơi giải trí sản xuất đắt tiền nhất thường là thể loại phim truyền hình dài tập và kịch tính. Tuy nhiên, thể loại khác, chẳng hạn như các thể loại lịch sử phương Tây, cũng có thể có chi phí sản xuất cao.
Phổ biến các thể loại giải trí văn hóa bao gồm các chương trình hành động theo định hướng như các bộ phim truyền hình cảnh sát, tội phạm, trinh thám, kinh dị. Đồng thời, cũng có những biến thể khác của thể loại phim truyền hình, chẳng hạn như những phim truyền hình y học và những bộ phim dài tập opera xà phòng (soap operas). Các chương trình khoa học viễn tưởng có thể rơi vào một trong hai dạng thể loại phim truyền hình hay thể loại hành động, tùy thuộc vào việc họ nhấn mạnh câu hỏi triết học hay mạo hiểm cao. Phim hài là một thể loại phổ biến bao gồm phim tình huống hài (sitcom) và chương trình hoạt hình cho người lớn như South Park.
Các hình thức ít tốn kém nhất của Các thể loại chương trình giải trí là các game show, talk show, show truyền hình, và truyền hình thực tế. Gameshow yêu cầu thí sinh trả lời các câu hỏi và đoán các câu đố để giành chiến thắng và đoạt các giải thưởng. Talk show có cuộc phỏng vấn với các diễn viên đóng phim, truyền hình, ngôi sao âm nhạc và người nổi tiếng. Show truyền hình có một loạt các nghệ sĩ biểu diễn âm nhạc và các nghệ sĩ khác, chẳng hạn như diễn viên hài và ảo thuật, được MC hoặc người quản lý giới thiệu. Có một số điểm trùng giữa một số talk show và show truyền hình bởi vì những show này thường có màn trình diễn của các ban nhạc, ca sĩ, diễn viên hài, và các diễn viên khác giữa những đoạn phỏng vấn. Truyền hình thực tế cho thấy những người "bình thường" (không phải diễn viên) phải đối mặt với những thách thức hay kinh nghiệm khác nhau, từ bị bắt giữ bởi cảnh sát (COPS) hoăc giảm cân bất thường (The Biggest Loser). Một phiên bản biến thể của chương trình thực tế miêu tả những người nổi tiếng làm các hoạt động thường ngày (The Osbournes, Cha Hood Snoop Dogg) hoặc làm lao động chân tay (The Simple Life).
Các chương trình truyền hình giả tưởng cho phép một số học giả truyền hình và phát thanh truyền hình các nhóm vận động tranh luận đều là "truyền hình có chất lượng" bao gồm hàng loạt các chương trình như Twin Peaks và The Sopranos. Kristin Thompson cho rằng một số trong những phim truyền hình mang đặc điểm của những việc triển lãm cũng được tìm thấy trong các bộ phim nghệ thuật, chẳng hạn như chủ nghĩa hiện thực tâm lý, sự phức tạp trong lời thoại, và cốt truyện rõ ràng. Chương trình truyền hình không giả tưởng mà một số học giả truyền hình và phát thanh truyền hình các nhóm vận động tranh luận là "chất lượng truyền hình " bao gồm một loạt các vấn đề nghiêm túc vàh phi thương mại nhằm vào một loạt các đối tượng thích hợp, chẳng hạn như các chương trình phim tài liệu và chương trình về quan hệ công chúng.
Tài trợ
Trên khắp thế giới, việc phát sóng TV được tài trợ bởi chính phủ, quảng cáo, cấp phép (một hình thức thuế), đăng ký thuê bao, hoặc sự kết hợp của tất cả các yếu tố trên. Để bảo vệ các khoản thu, các kênh truyền hình thuê bao thường được mã hóa để đảm bảo rằng chỉ các thuê bao nhận được các mã giải mã để xem các tín hiệu. Kênh không được mã hóa được gọi là miễn phí hoặc FTA (free to air).
Trong năm 2009, thị trường TV toàn cầu có 1,217.2 triệu TV cho các hộ gia đình với ít nhất một hộ gia đình có một TV và tổng doanh thu là 268.9 tỷ EUR (giảm 1,2% so với năm 2008). Bắc Mỹ đã có những thị phần doanh thu truyền hình lớn nhất với 39%, theo sau Châu Âu (31%), châu Á-Thái Bình Dương (21%), châu Mỹ Latin (8%), và châu Phi và Trung Đông (2%).
Trên toàn cầu, các nguồn thu truyền hình khác nhau chia thành 45% -50% doanh thu quảng cáo truyền hình, 40% -45% phí thuê bao và 10% ngân sách công.
Quảng cáo
Tầm ảnh hưởng rộng lớn của truyền hình làm cho nó trở thành một phương tiện mạnh mẽ và hấp dẫn đối với các nhà quảng cáo. Nhiều đài và kênh truyền hình bán các khoảng thời gian phát sóng cho các nhà quảng cáo ("nhà tài trợ") để tài trợ cho chương trình của họ.
Tại Mỹ
Kể từ khi ra đời ở Mỹ vào năm 1941, quảng cáo truyền hình đã trở thành một trong những phương tiện quảng cáo hiệu quả nhất, có sức thuyết phục, và phổ biến nhất của nhiều loại sản phẩm, đặc biệt là hàng tiêu dùng. Trong những năm 1940 và những năm 1950, chương trình truyền hình chỉ do các nhà quảng cáo này sản xuất. Điều này cho phép các nhà quảng cáo sáng tạo các nội dung tốt của chương trình truyền hình. Có lẽ do các vụ bê bối chương trình trong năm 1950, các đài truyền hình chuyển sang quảng cáo theo kiểu tạp chí, giới thiệu nhiều đoạn quảng cáo ngắn với nhiều nhà quảng cáo khác nhau.
Giá quảng cáo tại Mỹ được xác định chủ yếu bởi thống kê của Nielsen. Thời gian trong ngày và độ phổ biến của kênh xác định đoạn phim quảng cáo có giá bao nhiêu. Ví dụ, nó có thể có giá khoảng 750,000 USD cho một block 30 giây quảng cáo thương mại trong thời gian rất đặc biệt của chương trình American Idol, trong khi cùng một lượng thời gian cho chương trình Super Bowl có thể có giá vài triệu USD. Ngược lại, các khung thời gian ít được xem như buổi sáng sớm và buổi chiều các ngày trong tuần, thường được bán với số lượng lớn cho nhà sản xuất infomercials ở mức giá thấp.
Trong những năm gần đây, các chương trình trả tiền hoặc quảng cáo thương mại đã trở nên phổ biến, thường là ở độ dài 30 phút hoặc một giờ. Một số công ty dược phẩm và các doanh nghiệp khác thậm chí còn tạo ra cái gọi là video "tin tức" các mặt hàng để phát sóng (từ nội bộ trong ngành), và trả tiền cho giám đốc chương trình để họ lồng ghép phát sóng các đoạn video quảng cáo gián tiếp này.
Một số chương trình TV cũng kèm quảng cáo vào chương trình của họ, bắt đầu trong các bộ phim và được biết đến như là định vị sản phẩm. Ví dụ, một nhân vật có thể uống một loại soda nhất định, đi đến một chuỗi nhà hàng đặc biệt, hoặc lái xe một loại xe nhất định của hãng xe. (Điều này đôi khi rất tinh tế, với chương trình có cung cấp bởi các nhà sản xuất xe với chi phí thấp hơn.) Đôi khi, một thương hiệu cụ thể hoặc nhãn hiệu thương mại, hoặc âm nhạc của một nghệ sĩ hay nhóm nhạc nhất định được sử dụng. (Điều này không bao gồm các khách mời xuất hiện của các nghệ sĩ người thực hiện chương trình.)
Anh
Cơ quan giám sát truyền hình quản lý quảng cáo truyền hình tại Anh. Hạn chế của nó đã được áp dụng kể từ những ngày đầu của truyền hình thương mại được tài trợ. Mặc dù vậy, có một ông trùm truyền hình, Roy Thomson, đã coi các giấy phép phát sóng như là một "giấy phép để in tiền". Giới hạn chỉ rõ: cho phép ba kênh truyền hình quốc gia thương mại lớn như là ITV, Channel 4 và Five có thể phát trung bình các quảng cáo tối đa bảy phút mỗi giờ (tám phút trong giờ cao điểm). Các đài truyền hình khác chỉ được phát trung bình không quá chín phút quảng cáo mỗi giờ (mười hai phút ở trong giờ cao điểm). Điều này có nghĩa rằng nhiều chương trình truyền hình được nhập khẩu từ Mỹ có thời gian tạm dừng bất thường mà các công ty của Anh không thể tận dụng các khoảng ngắt đoạn này, vốn dành cho quảng cáo thường xuyên hơn tại Mỹ. Không có quảng cáo nào được chèn vào trong quá trình ngắt quãng của một số chương trình bị cấm quảng cáo hoặc chương trình đó có độ dài dự kiến ngắn hơn 30 phút. Danh mục này bao gồm bất kỳ chương trình tin tức, phim tài liệu, và các chương trình cho trẻ em; thêm vào đó, các quảng cáo có thể không được phát sóng trong một chương trình được thiết kế và tiếp nhận phát sóng trong các trường học hoặc trong bất kỳ dịch vụ phát thanh truyền hình tôn giáo hoặc trong một buổi lễ chính thức của Hoàng gia, hoặc dịp lễ nào đó. Cơ quan này cũng phân chia ranh giới rõ ràng thời gian giữa các chương trình và quảng cáo.
Kênh BBC hiện nay đang được theo dõi nghiêm ngặt với yêu cầu là kênh truyền hình phi thương mại. Kênh này không được phép phát quảng cáo trên truyền hình ở Anh, mặc dù nó có nhiều kênh quảng cáo được tài trợ ở bên ngoài nước Anh. Phần lớn ngân sách của nó đến từ phí bản quyền truyền hình (xem dưới đây), hợp tác phát sóng và việc bán nội dung phát sóng cho các đài truyền hình khác.
Ireland
Ủy ban phát thanh truyền hình của Ireland (BCI) (tiếng Ireland: Coimisiún Craolacháin na hÉireann) giám sát quảng cáo trên truyền hình và đài phát thanh toàn Ireland, bao gồm cả các đài truyền hình tư nhân và nhà nước. Có một số hạn chế dựa trên quảng cáo, đặc biệt là liên quan đến việc quảng cáo rượu. Quảng cáo rượu bị cấm cho đến sau 7 giờ tối mỗi ngày. Đài truyền hình ở Ireland tuân thủ luật phát thanh truyền hình được Ủy ban phát thanh truyền hình của Ireland và Liên minh châu Âu ban hành. Tài trợ của chương trình thời sự bị cấm hoàn toàn.
Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2009, trách nhiệm của BCI đang dần được chuyển giao cho các Broadcasting Authority của Ireland.
Đăng ký
Một số kênh truyền hình được tài trợ một phần từ thuê bao; Do đó, các tín hiệu được mã hóa trong phát sóng để đảm bảo rằng chỉ có các thuê bao thanh toán có quyền xem các chương trình truyền hình trả tiền hoặc kênh chuyên ngành. Hầu hết các dịch vụ thuê bao cũng được tài trợ bởi quảng cáo.
Thuế hoặc giấy phép
Dịch vụ truyền hình ở một số quốc gia có thể được tài trợ bởi một giấy phép hoặc một hình thức đánh thuế, đồng nghĩa với việc quảng cáo đóng một vai trò ít hoặc không có vai trò gì cả. Ví dụ, một số kênh có thể thực hiện không có quảng cáo ở tất cả và một số rất ít, bao gồm:
Australia (ABC)
Nhật Bản (NHK)
Na Uy (NRK)
Thụy Điển (SVT)
Vương quốc Anh (BBC)
Hoa Kỳ (PBS)
Đan Mạch (DR)
Kênh BBC phát tại Vương quốc Anh không có quảng cáo truyền hình và được tài trợ bởi một giấy phép truyền hình hàng năm được các nhà nhận chương trình phát sóng truyền hình trực tiếp trả tiền. Hiện nay, ước tính có khoảng 26,8 triệu các hộ cá thể gia đình Anh trong nước sở hữu TV, với khoảng 25 triệu bản quyền truyền hình tại các hộ gia đình có hiệu lực từ năm 2010. Chi phí cấp giấy phép truyền hình này do chính phủ quy định, nhưng BBC không phải chịu kiểm soát của chính phủ.
Hai kênh truyền hình BBC chính được theo dõi bởi gần 90% dân số mỗi tuần; tổng thể đạt mức 27% tổng số người xem, mặc dù thực tế cho thấy 85% hộ gia đình là đa kênh, với 42% trong số này có quyền truy cập vào 200 kênh truyền hình miễn phí thông qua qua vệ tinh và 43% số hộ gia đình có quyền truy cập vào 30 kênh hoặc hơn thông qua Freeview. Các giấy phép cho phép bảy kênh truyền hình BBC phát mà không quảng cáo hiện có giá £139,50 một năm (khoảng 215 USD) không phụ thuộc vào số tivi sở hữu. Khi cùng một sự kiện thể thao được phát trên BBC và các kênh thương mại khác, đài BBC luôn luôn thu hút của số đông khán giả, cho thấy rằng khán giả thích xem truyền hình không bị gián đoạn bởi quảng cáo.
Ngoài thông tin quảng cáo nội bộ, Australian Broadcasting Corporation (ABC) không có quảng cáo; quảng cáo trên kênh này bị cấm theo Đạo Luật ABC năm 1983. ABC nhận được tài trợ từ chính phủ Úc ba năm một lần. Trong ngân sách liên bang năm 2008/09, ABC nhận được 1,13 tỷ AUD. Các quỹ cung cấp cho truyền hình, đài phát thanh, thông tin trực tuyến, và đầu ra quốc tế của ABC. ABC cũng nhận được tiền từ nhiều cửa hàng ABC của nó trên khắp nước Úc. Mặc dù được tài trợ bởi chính phủ Úc, nhưng sự độc lập biên tập của ABC được đảm bảo thông qua pháp luật.
Ở Pháp, các kênh truyền hình chính phủ tài trợ được quảng cáo, nhưng những người sở hữu bộ truyền hình phải trả tiền thuế hàng năm ("la redevance audiovisuelle").
Tại Nhật Bản, NHK được trả bởi chi phí bản quyền (được biết đến trong tiếng Nhật là lệ phí tiếp nhận (受信料 Jushinryō)). Các luật phát sóng quy định kinh phí NHK rằng bất kỳ trang bị truyền hình NHK đều phải trả tiền. Lệ phí được chuẩn hóa, có giảm giá cho nhân viên văn phòng và sinh viên đi làm, và cho các cư dân của quận Okinawa.
Truyền hình tại Việt Nam |
Hệ thống trên một vi mạch (còn gọi là hệ thống trên chip, hay hệ thống SoC, tiếng Anh: system-on-a-chip, viết tắt là SoC hay SOC) là một vi mạch (IC) được tích hợp các thành phần của một máy tính hoặc các hệ thống điện tử khác. Hệ thống SoC có thể bao gồm các khối chức năng kĩ thuật số (digital), tương tự (analog), tín hiệu kết hợp (mixed-signal) và cả các khối tần số radio (RF). SoC xuất hiện trong điện thoại di động - một thiết bị điện tử tiêu tốn ít năng lượng. Ứng dụng điển hình của các hệ thống SoC là các hệ thống nhúng.
SoC tích hợp một vi điều khiển (hoặc một vi xử lí) với những ngoại vi như các bộ xử lí đồ họa (GPU: graphics processing unit), module WiFi, hoặc bộ đồng xử lí (coprocessor).
Nhìn chung, có loại SoC bao gồm SoC tích hợp một vi điều khiển, SoC tích hợp một vi xử lí (loại này được sử dụng phổ biến trong các điện thoại di động) và loại SoC đặc biệt được thiết kế cho những ứng dụng riêng không giống với hai loại kia. Loại SoC đặc biệt này được gọi là SoC lập trình được (Programmable SoC, viết tắt là PSoC). Các PSoC có một số thành cấu tạo bên trong không được cài đặt hoặc thiết lập trước mà có thể được lập trình bằng việc lập trình FPGA hoặc CPLD (complex programmable logic device). Khi việc chế tạo SoC cho một ứng dụng đặc biệt không khả thi, người ta chọn một giải pháp khác là chế tạo SiP (system in package), một linh kiện gồm nhiều IC tích hợp trên nó. Khi sản xuất ở số lượng lớn, SoC sẽ tốn nhiều chi phí hơn so với SiP do việc sản xuất các gói của SiP sẽ ít tốn kém hơn.
Một hệ thống máy tính điển hình bao gồm một loạt các mạch tích hợp cho phép thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Các mạch tích hợp này có thể là:
bộ vi xử lý (microprocessor)
bộ nhớ (RAM, ROM, REM)
khối truyền thông nối tiếp UART
các cổng song song (parallel port)
khối điều khiển truy xuất bộ nhớ trực tiếp (DMA controller)
Sự phát triển gần đây của công nghệ bán dẫn cho phép chúng ta tích hợp ngày càng nhiều thành phần vào một hệ thống trên một vi mạch. SoC có thể tích hợp thêm các khối như: bộ xử lý tín hiệu số, bộ mã hóa, giải mã Viterbi, Turbo,... tùy theo yêu cầu của từng ứng dụng cụ thể.
Công nghệ thiết kế và xây dựng các hệ thống trên một vi mạch (SoC) có thể kể đến như:
Công nghệ chế tạo ASIC
FPGA
Các thiết kế SoC thường tiêu tốn ít năng lượng và có giá thành thấp hơn các hệ thống đa chip nếu so sánh cùng một thiết kế. Ngoài ra, hệ thống đơn chip cũng có tính ổn định cao hơn. Các ứng dụng xây dựng trên cơ sở sử dụng các hệ thống đơn chip cũng cho giá thành thấp hơn, không gian chiếm chỗ ít hơn. |
''Phân biệt với khối lượng
Trong khoa học và kỹ thuật, trọng lượng của một vật thường được xem là lực mà lực hấp dẫn tác động lên vật thể đó. Nó được ký hiệu bằng chữ P.
Trọng lượng và trọng lực
Đối với một vật nằm yên trên bề mặt Trái Đất, trong hệ quy chiếu gắn với bề mặt Trái Đất, vật không có gia tốc chuyển động, nên theo định luật 2 Newton, tổng cộng các lực tác động vào vật bằng không.
Trong công thức trên: là phản lực do mặt đất tác dụng lên vật, là trọng lực (lực hấp dẫn do trọng trường của Trái Đất tác dụng lên vật), và là tổng các lực quán tính trong hệ quy chiếu phi quán tính gắn với mặt đất, trong đó quan trọng nhất là lực quán tính ly tâm gây ra bởi chuyển động quay quanh trục của Trái Đất.
Trọng lượng biểu kiến của vật nói trên (thường được gọi là trọng lượng) là lực do vật tác động lên mặt đất, theo định luật 3 Newton, có độ lớn bằng và chiều ngược với phản lực mặt đất:
Do đó:
Nói chung, các lực quán tính, bao gồm lực ly tâm, có giá trị rất nhỏ so với trọng lực, nên:
Nếu không có bề mặt giữ vật đứng yên, vật thể sẽ rơi tự do và ở trạng thái phi trọng lượng, tức là trọng lượng biểu kiến bằng 0. Những người ở trạng thái rơi tự do không cảm thấy sức nặng của cơ thể, do trọng lượng biểu kiến bằng 0, dù trọng lực tác động lên họ không đổi.
Lực hấp dẫn tác động lên mọi phần tử trong vật thể. Còn phản lực chỉ tác động vào nơi tiếp xúc với bề mặt cản. Phản lực này làm biến dạng nhỏ cơ thể, gây ra cảm giác về sức nặng.
Trọng lượng biểu kiến
Trọng lượng biểu kiến, thường gọi tắt là trọng lượng, là sức nặng của vật được thể hiện qua giá trị đo của cân lò xo hay lực kế lò xo. Nó đặc trưng cho lực nén của vật lên mặt sàn hay lực căng do vật gây ra lên lò xo của lực kế khi treo vật vào. Chính trọng lượng biểu kiến (chứ không phải trọng lực) là yếu tố tạo ra cảm giác về sự nặng nhẹ của cơ thể. Thực chất, cảm giác nặng nhẹ là cảm nhận của chúng ta về phản lực do mặt sàn tác dụng lên cơ thể mình chứ không phải cảm nhận về lực hút của Trái Đất. Khi không có sàn đỡ, ví dụ như khi rơi từ trên cao xuống, chúng ta không cảm thấy trọng lượng biểu kiến và ở trạng thái gọi là phi trọng lượng.
Bài toán thang máy trong cơ học cổ điển
Đây là một ứng dụng của định luật 2 Newton cho chuyển động của người dưới tác dụng của trọng lực và phản lực sàn thang máy, khi bỏ qua lực ly tâm trong hệ quy chiếu gắn với mặt đất.
Lực tổng cộng = khối lượng × gia tốc
Phản lực sàn + trọng lực = khối lượng × gia tốc
Phản lực sàn = - trọng lực + khối lượng × gia tốc
Phản lực sàn = khối lượng × (gia tốc - gia tốc trọng trường)
Theo định luật 3 Newton:
Trọng lượng biểu kiến = - phản lực sàn
Trọng lượng biểu kiến = khối lượng × (gia tốc trọng trường - gia tốc)
Trong công thức trên, độ lớn các đại lượng được tính theo phương hướng xuống dưới.
Nếu thang máy chuyển động đều hay đứng yên thì gia tốc bằng 0. Khi đó có phản lực, và do đó trọng lượng biểu kiến của người, sẽ bằng giá trị trọng lực.
Nếu thang máy có gia tốc khi đi lên (giá trị âm khi tính theo phương hướng xuống dưới), người trong thang máy cảm thấy "nặng" hơn; trọng lượng biểu kiến tăng do phản lực sàn thang máy tăng. Nếu thang máy có gia tốc đi xuống (giá trị dương khi tính theo phương hướng xuống dưới), người trong thang máy cảm thấy "nhẹ hơn".
Khi thang máy rơi tự do, gia tốc đi xuống bằng gia tốc trọng trường do đó người mất trọng lượng biểu kiến. Khi thang máy đi xuống với gia tốc lớn hơn gia tốc trọng trường, thang sẽ đẩy người xuống phía dưới và người sẽ thấy trọng lượng biểu kiến nghịch hướng so với ban đầu
Công thức và dụng cụ tính trọng lượng
Tính trọng lượng theo khối lượng (công thức liên hệ giữa trọng lượng và khối lượng): P = m.g
Trong đó: P là trọng lượng, đơn vị là N (niutơn, Newton (đơn vị))
m là khối lượng, đơn vị là kg(kilogram)
g: gia tốc trọng trường; đối với hệ quy chiếu Trái Đất g = 9.81 m/s^2
P: trọng lượng kg.m/s^2 = N
Dụng cụ dùng để đo độ lớn (cường độ) của lực hoặc trọng lượng là lực kế.
Chú thích |
Vi mạch (tiếng Anh: microchip) hay vi mạch tích hợp, hoặc mạch tích hợp (tiếng Anh: integrated circuit, gọi tắt IC, còn gọi là chip theo thuật ngữ tiếng Anh) là tập các mạch điện chứa các linh kiện bán dẫn (như transistor) và linh kiện điện tử thụ động (như điện trở) được kết nối với nhau, để thực hiện được một chức năng xác định. Tức là mạch tích hợp được thiết kế để đảm nhiệm một chức năng như một linh kiện phức hợp.
Các linh kiện kích thước cỡ micrometre (hoặc nhỏ hơn) chế tạo bởi công nghệ silicon.
Mạch tích hợp giúp giảm kích thước của mạch điện đi rất nhiều, bên cạnh đó là độ chính xác tăng lên. IC là một phần rất quan trọng của các mạch logic. Có hai loại IC chính gồm lập trình được và cố định chức năng, không lập trình được. Mỗi IC có tính chất riêng về nhiệt độ, điện thế giới hạn, công suất làm việc, được ghi trong bảng thông tin (datasheet) của nhà sản xuất.
Hiện nay, công nghệ silicon đang tiến tới những giới hạn của vi mạch tích hợp và các nhà nghiên cứu đang nỗ lực tìm ra một loại vật liệu mới có thể thay thế công nghệ silicon này.
Lịch sử
Lịch sử phát triển của mạch tích hợp bắt đầu từ năm 1949, khi kỹ sư người Đức Werner Jacobi (Siemens AG) nộp bằng sáng chế cho một thiết bị khuếch đại bán dẫn giống như mạch tích hợp, có 5 transistor trên một bề mặt chung cho bộ khuếch đại 3 tầng, làm dụng cụ trợ thính.
Ngày 12 tháng 9 năm 1958, người Mỹ Jack Kilby ở Texas Instruments trình bày vi mạch đầu tiên. Kilby sau đó giành được giải thưởng Nobel Vật lý năm 2000.
Nửa năm sau sự kiện Kilby, Robert Noyce ở Fairchild Semiconductor phát triển ý tưởng của riêng mình về một mạch tích hợp giải quyết được nhiều vấn đề thực tế mà Kilby đã không làm được. Thiết kế Noyce được làm bằng silicon, trong khi chip Kilby làm bằng germanium. Noyce thông tin cho Kurt Lehovec ở Sprague Electric về các nguyên tắc của tiếp giáp p-n cô lập gây ra bởi tác động của một tiếp giáp p-n có thiên áp (diode), là một khái niệm quan trọng về IC.
Fairchild Semiconductor cũng là quê hương của công nghệ vi mạch silicon-gate đầu tiên với cổng tự liên kết (self-aligned gate), cơ sở của tất cả các chip CMOS của máy tính hiện đại. Công nghệ này được phát triển bởi nhà vật lý người Ý Federico Faggin vào năm 1968, người sau đó đã gia nhập Intel và phát triển các đơn chip Central Processing Unit (CPU) (Intel 4004) đầu tiên, và ông nhận Huy chương Quốc gia về Công nghệ và Đổi mới năm 2010.
Phân loại
Phân loại theo tín hiệu được xử lý
Theo xử lý tín hiệu
IC digital xử lý hoặc lưu trữ các tín hiệu digital.
IC analog hay IC tuyến tính xử lý tín hiệu analog.
IC hỗn hợp, có cả analog và digital.
Phân loại theo mức độ tích hợp
IC (Integrated Circuit), tên chung. Từng còn chia ra SSI (small-scale integration) và MSI (medium-scale integration)
LSI (Large Scale Integrated)
VLSI (Very Large Scale Integrated) Các CPU, GPU, ROM, RAM, PLA, chipset, microcontroller,...
ULSI (ultra-large-scale integration) dự đặt cho mạch trên 1 triệu transistor.
Phân loại theo công nghệ
Theo công nghệ
Monolithic: tất cả các phần tử đặt trên một miếng nền vật liệu bán dẫn đơn tinh thể. Các linh kiện bán dẫn được tạo bằng pha tạp chất (doping), và theo thứ tự lớp thực hiện lai ghép điện trở, đường mạch dẫn, tụ điện, lớp cách điện, cực gate của MOSFET. Ví dụ công nghệ TTL, CMOS, CCD, BiCMOS, DMOS, BiFET-, transistor lưỡng cực.
Mạch màng mỏng hay mạch phim, là những phần tử được tạo bằng lắng đọng hơi trên nền thủy tinh. Nó thường là các mạng điện trở. Chúng có thể được chế tạo bằng cách cân bằng điện tử với độ chính xác cao, và được phủ nhúng bảo vệ. Trong nhóm này bao gồm cả các mạch của transistor màng mỏng (TFT), ví dụ trong ứng dụng màn hình phẳng.
Lai mạch màng dày kết hợp một số chip, vết mạch in đường dây dẫn, linh kiện điện tử thụ động (gần như chỉ có điện trở). Nền thường là gốm và thường được nhúng tráng.
Phân loại theo công dụng
Theo công dụng
CPU, vi xử lý trong máy tính.
Memory, bộ nhớ lưu trữ dữ liệu digital
Thu nhỏ chip trong công nghệ RFID để giám sát (Identification) không tiếp xúc của các đối tượng hay các sinh vật sống
IC logic tiêu chuẩn thuộc họ logic khác nhau
ASIC dành cho phát triển ứng dụng cụ thể, ví dụ cho điều khiển lò nướng bánh, xe hơi, máy giặt,...
ASSP là sản phẩm tiêu chuẩn cho ứng dụng cụ thể, tương tự như ASIC, nhưng có sẵn từ các nhà sản xuất và không được xây dựng theo yêu cầu của khách hàng
IC cảm biến quá trình vật lý, hoá, sinh hoá,... ví dụ gia tốc, ánh sáng, từ trường, chất độc,...
DSP (Digital signal processing) xử lý tín hiệu digital.
ADC và DAC, chuyển đổi analog ←→ digital
FPGA (Field-programmable gate array) được cấu hình bởi các IC digital của khách hàng, trong đó bao gồm một số lượng lớn các đơn vị chức năng kết nối được (interconnectable)
Vi điều khiển (microcontroller) chứa tất cả các bộ phận của một máy tính nhỏ (bộ nhớ chương trình, ALU, bộ nhớ và thanh ghi)
IC công suất có thể xử lý các dòng hay điện áp lớn (ví dụ khuếch đại công suất lớn, kiểm soát mạng điện lưới)
System-on-a-chip (SoC) là hệ thống trong một chip. |
Chip có thể là:
Trong sinh học, ChIP viết tắt cho kỹ thuật thí nghiệm chromatin immunoprecipitation.
Trong máy tính và điện tử học, chip có thể là:
theo nghĩa rộng, vi mạch
theo nghĩa hẹp, bộ vi xử lý
Trong ẩm thực ở các nước nói tiếng Anh, một miếng chip là miếng khoai tây rán.
Trong Sonic Unleashed, Chip(tên gọi) là nhân vật bạn thân đồng hành của Sonic trong mọi chặng đường, vượt qua thử thách chống lại Eggman và những con robot |
Cổ khuẩn hoặc vi sinh vật cổ (danh pháp khoa học: Archaea) là một nhóm các vi sinh vật đơn bào nhân sơ. Chúng không có nhân tế bào hay bất cứ bào quan nào trong tế bào chất. Trong quá khứ, chúng được xem như một nhóm vi khuẩn khác biệt và được gọi là vi khuẩn cổ (danh pháp khoa học: Archaebacteria), nhưng do có lịch sử tiến hóa độc lập và nhiều bất đồng về sinh hóa với các dạng khác của sự sống, chúng hiện được phân thành một vực (domain) riêng trong hệ thống ba vực. Ba vực này là ba nhánh phát sinh chủng loại riêng biệt tiến hóa từ nguồn gốc chung, bao gồm Vi khuẩn (Bacteria), Vi khuẩn cổ và Sinh vật nhân chuẩn (Eukarya). Vi khuẩn cổ lại chia làm bốn ngành đã được công nhận, dù có thể tồn tại nhiều ngành hơn trong thực tế. Crenarchaeota và Euryarchaeota là các nhóm vi khuẩn cổ được nghiên cứu nhiều nhất. Việc phân loại vi khuẩn cổ vẫn gặp nhiều khó khăn, khi phần lớn chúng chưa từng được nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và chỉ mới được phát hiện thông qua phân tích acid nucleic ở các mẫu lấy từ môi trường. Dù trước đây nhóm vi khuẩn cổ được gộp với nhóm vi khuẩn để thành sinh vật nhân sơ (prokaryote) (hay giới Monera), thì sự phân loại này giờ đã trở nên lỗi thời.
Vi khuẩn và vi khuẩn cổ khá tương đồng về hình dạng và kích thước, dù một vài vi khuẩn cổ có hình dạng bất thường, như tế bào dạng phẳng và vuông của Haloquadra walsbyi. Mặc dù nhìn tương đồng với vi khuẩn, vi khuẩn cổ vẫn mang bộ gen và một số con đường trao đổi chất gần với sinh vật nhân chuẩn hơn: đặc biệt các enzyme liên quan tới quá trình phiên mã và dịch mã. Các đặc tính sinh hóa khác của Archea là độc nhất vô nhị, như vai trò của các ether lipid trong màng tế bào của chúng. Vi khuẩn cổ khai thác các nguồn năng lượng đa dạng hơn nhiều so với sinh vật nhân chuẩn: từ các hợp chất hữu cơ quen thuộc như đường, tới sử dụng amonia, ion kim loại hay thậm chí cả khí hydro làm chất dinh dưỡng. Vi khuẩn cổ ưa muối (Halobacteria) sử dụng ánh sáng mặt trời làm nguồn năng lượng và các loài vi khuẩn cổ khác có thể cố định cacbon; tuy nhiên không giống thực vật và vi khuẩn lam, không một loài vi khuẩn cổ nào có thể thực hiện cả hai việc trên. Vi khuẩn cổ sinh sản vô tính và phân chia nhờ các hình thức phân đôi, phân mảnh hoặc nảy chồi; trái với vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn, không có loài nào của vi khuẩn cổ có bào tử.
Ban đầu, vi khuẩn cổ được biết như là những sinh vật ưa sống ở những môi trường khắc nghiệt, như suối nước nóng hay hồ mặn, nhưng sau đó chúng được tìm thấy ở nhiều môi trường khác nhau, bao gồm cả đất, các vùng lầy, và đặc biệt tập trung cao ở các đại dương. Các vi khuẩn cổ trong cộng đồng sinh vật phù du có thể là một trong những nhóm các sinh vật có số lượng đông đảo nhất trên Trái Đất. Vi khuẩn cổ hiện nay được ghi nhận như một phần quan trọng của sự sống trên hành tinh và có thể đóng vai trò ở cả chu trình cacbon lẫn chu trình nitơ. Không có ví dụ rõ ràng về các mầm bệnh hay ký sinh là vi khuẩn cổ được biết đến, chúng thường là những sinh vật hỗ sinh hoặc hội sinh. Một ví dụ là các loài sinh methan cư trú trong ruột người và động vật nhai lại, có số lượng lớn trợ giúp tốt cho tiêu hóa. Các vi khuẩn cổ sinh methan thường được ứng dụng trong sản xuất biogas và xử lý nước thải, và các enzyme từ các vi khuẩn cổ sống nơi khắc nghiệt, có thể chịu được nhiệt độ cao và các dung môi hữu cơ, được khai thác trong ngành công nghệ sinh học.
Phân loại
Một vực mới
Đầu thế kỷ 20, những sinh vật nhân sơ được công nhận như một nhóm sinh vật riêng lẻ và được phân loại dựa vào đặc điểm sinh hóa, hình thái và trao đổi chất. Ví dụ, các nhà vi sinh học đã cố gắng phân loại các vi sinh vật dựa trên cấu trúc của thành tế bào, hình dạng, và hợp chất chúng tiêu thụ. Tuy nhiên, một phương pháp được đề ra vào năm 1965, sử dụng trình tự gen ở những sinh vật này để tìm ra những sinh vật nhân sơ nào thực sự liên hệ với nhau. Phương pháp này, gọi là phát sinh chủng loại (phylogenetics), là phương pháp chính được sử dụng cho đến ngày nay.
Năm 1977, Archaea lần đầu được phân loại như một nhóm riêng biệt trong sinh vật nhân sơ bởi Carl Woese và George E. Fox trong cây phát sinh chủng loại dựa trên trình tự gen của RNA ribosome (rRNA). Hai nhóm trên lúc đầu được đặt tên là Vi khuẩn cổ (Archaebacteria) và vi khuẩn thực (Eubacteria), và được xếp thành các giới (Kingdom) hoặc phân giới (Subkingdom), do Woese và Fox đặt tên là Urkingdoms. Woese cho rằng nhóm sinh vật nhân sơ này là một phần khác mang tính cơ bản của sự sống. Để nhấn mạnh sự khác biệt này, hai nhóm sau đó được đổi tên thành Archaea và Bacteria. Từ archaea xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ , mang nghĩa "cổ đại".
Ban đầu, chỉ có những vi khuẩn cổ sinh methan được đặt vào vực mới này, và vi khuẩn cổ được xem như những sinh vật chỉ sống ở các môi trường sống khắc nghiệt như suối nước nóng hay hồ mặn. Cuối thế kỷ 20, các nhà vi sinh vật đã nhận ra rằng vi khuẩn cổ là một nhóm sinh vật rộng lớn, đa dạng và phổ biến rộng rãi trong tự nhiên, ở cả những môi trường ít cực đoan hơn như đất và đại dương. Sự đánh giá cao tầm quan trọng và tính phổ biến của Archea đến từ việc sử dụng phản ứng chuỗi trùng hợp để xác định các sinh vật nhân sơ trong các mẫu nước hoặc đất với axít nucleic đơn lẻ. Việc này cho phép khám phá và nhận dạng các sinh vật mà không thể nuôi cấy trong phòng thí nghiệm, điều nhìn chung vẫn còn khó khăn.
Sự phân loại hiện nay
Phân loại vi khuẩn cổ nói riêng và sinh vật nhân sơ nói chung, là một lĩnh vực thay đổi nhanh chóng và nhiều tranh cãi. Hệ thống phân loại hiện hành định phân Archaea thành các nhóm có cùng các đặc điểm cấu trúc và chung tổ tiên. Sự phân loại này dựa nhiều vào việc sử dụng kết quả trình tự rRNA để làm rõ mối quan hệ giữa các sinh vật (phát sinh chủng loại phân tử). Hầu hết các loài dễ nuôi cấy và nghiên cứu đều nằm trong hai ngành chính, Euryarchaeota và Crenarchaeota. Các nhóm khác chỉ mới tạm thời được tạo ra. Một ví dụ như loài lạ thường Nanoarchaeum equitans, được tìm ra năm 2003, đã được đặt vào ngành riêng của chính nó, ngành Nanoarchaeota. Một ngành mới, Korarchaeota, cũng được đề xuất. Nó gồm một nhóm nhỏ các loài ưa nóng bất thường mang những đặc tính giống hai ngành chính, nhưng có quan hệ gần hơn hết với Crenarchaeota. Một số loài mới phát hiện khác lại chỉ có mối quan hệ xa với các ngành trên, như các vi sinh vật nano ARMAN, được tìm thấy năm 2006 và là một vài trong số những sinh vật nhỏ nhất được con người biết đến.
Phân loại thành các loài
Việc phân loại vi khuẩn cổ thành các loài là một vấn đề còn gây tranh cãi. Sinh học xác định một loài như một nhóm các cá thể có liên quan đến nhau. Tiêu chí "giao phối" quen thuộc và độc nhất (các cá thể có thể giao phối với nhau và tạo ra thế hệ con nhưng không giao phối với các cá thể khác), không hữu dụng vì vi khuẩn cổ sinh sản vô tính.
Vi khuẩn cổ cho thấy mức độ chuyển gen ngang cao giữa các thế hệ. Một vài nhà nghiên cứu đề xuất rằng các cá thể có thể nhóm lại thành những quần thể giống như loài, tạo nên bộ gen có sự tương đồng cao và có sự chuyển gen không thường xuyên với các tế bào có bộ gen ít liên quan, như ở chi Ferroplasma. Mặt khác, các nghiên cứu về Halorubrum cho thấy sự chuyển gen đáng kể với các quần thể ít liên quan, làm hạn chế khả năng ứng dụng của tiêu chí này. Một mối quan tâm khác là ý nghĩa thực tiễn của việc định dạng loài này đến đâu.
Những hiểu biết hiện tại về tính đa dạng di truyền còn rời rạc và tổng số các loài vi khuẩn cổ vẫn không thể được ước tính với bất kì độ chính xác nào. Ước tính số các ngành khoảng từ 18 đến 23, trong đó mới chỉ có 8 có đại diện được nuôi cấy và nghiên cứu trực tiếp. Nhiều trong số các nhóm được đưa giả thuyết lại là từ một chuỗi rRNA đơn lẻ, cho thấy tính đa dạng của các sinh vật này thì vẫn còn là một câu hỏi chưa được trả lời. Nhóm vi khuẩn cũng chứa nhiều vi sinh vật chưa được nuôi cấy với những mô tả đặc tính tương tự.
chúng có thể được xuất phát từ 1 vật có nguồn gốc không gian rơi vào Trái Đất thời kì sơ khai.
Nguồn gốc và tiến hóa
Dù các hóa thạch tế bào sinh vật nhân sơ có thể có niên đại gần 3,5 tỷ năm về trước, thì hầu hết sinh vật nhân sơ đều không có đặc điểm hình thái đặc trưng và hình dạng hóa thạch không thể được sử dụng để xác định chúng là Archaea. Thay vào đó, hóa thạch hóa học của các lipid đặc trưng lại có ý nghĩa bởi những hợp chất này không xuất hiện ở các sinh vật khác. Một số tư liệu xuất bản nêu ra rằng lipid của vi khuẩn cổ hay sinh vật nhân chuẩn còn hiện diện ở các đá phiến sét có niên đại vào 2,7 tỷ năm về trước; nhưng những dữ liệu này vẫn còn là nghi vấn. Một số lipid được phát hiện ở trong các mẫu vật từ thời Tiền Cambri. Những dấu hiệu cổ nhất ở vùng Isua, Tây Greenland, nơi lưu giữ các trầm tích cổ xưa nhất trên Trái Đất, được hình thành vào 3,8 tỷ năm trước. Thế hệ Archaea này có thể là thế hệ sơ khai nhất xuất hiện trên Trái Đất.
Woese phát biểu rằng vi khuẩn, vi khuẩn cổ và sinh vật nhân chuẩn là những dòng giống riêng biệt được rẽ nhánh khởi đầu từ một tập hợp các cá thể tổ tiên sơ khai. Tuy nhiên vài nhà sinh học lại cho rằng vi khuẩn cổ và sinh vật nhân chuẩn được rẽ ra từ một nhóm vi khuẩn. Có thể tổ tiên chung cuối cùng của vi khuẩn và vi khuẩn cổ là một sinh vật ưa nhiệt, điều này gia tăng khả năng rằng nhiệt độ thấp hơn là những "môi trường cực đoan" đối với vi khuẩn cổ, và các cá thể sống trong môi trường lạnh hơn chỉ xuất hiện sau đó. Khi người ta thấy rằng mối liên hệ giữa vi khuẩn cổ với vi khuẩn còn kém gần gũi hơn cả giữa chúng với sinh vật nhân chuẩn, thuật ngữ prokaryote (sinh vật nhân sơ) chỉ còn mang nghĩa duy nhất là "không phải nhân chuẩn", giới hạn lại ý nghĩa của từ này.
Vi khuẩn cổ và sinh vật nhân chuẩn
Mối quan hệ giữa vi khuẩn cổ và sinh vật nhân chuẩn vẫn còn là vấn đề cần tranh luận. Bên cạnh những tương đồng về cấu trúc tế bào và chức năng mà được đưa ra dưới đây, nhiều cây di truyền đã tách biệt hai nhóm.
Những tuyên bố rằng mối quan hệ giữa sinh vật nhân chuẩn và ngành vi khuẩn cổ Euryarchaeota gần hơn mối quan hệ giữa hai ngành Euryarchaeota và Crenarchaeota; và sự hiện diện của các gen giống vi khuẩn cổ ở trong các loài chắc chắn là vi khuẩn, như Thermotoga maritima, tạo nên do sự chuyển gen ngang; tất cả tạo nên sự phức tạp của vấn đề. Một giả thuyết chủ đạo đó là tổ tiên của sinh vật nhân chuẩn tách ra ban đầu từ vi khuẩn cổ, và các sinh vật nhân chuẩn đi ra từ sự kết hợp của một vi khuẩn cổ và một vi khuẩn thật, trở thành nhân và tế bào chất; điều này giải thích cho nhiều sự tương đồng về di truyền nhưng lại gặp khó khăn khi giải thích về cấu trúc tế bào.
Hình thái
Các cá thể vi khuẩn cổ có kích cỡ đường kính từ 0,1 micromet (μm) tới hơn 15 μm, tồn tại ở nhiều hình dạng khác nhau, phổ biến là hình cầu, hình que, hình xoắn và hình đĩa. Các hình thái khác trong ngành Crenarchaeota bao gồm các tế bào có thùy với hình dạng bất thường như Sulfolobus, các tơ hình kim có đường kính nhỏ hơn nửa micromet như ở Thermofilum, và tế bào hình que chữ nhật gần như hoàn hảo ở Thermoproteus và Pyrobaculum. Haloquadra walsbyi là các vi khuẩn cổ có hình vuông, phẳng sống ở các thủy vực có độ mặn rất cao. Những hình dạng không bình thường này có thể là được duy trì cố định bởi thành tế bào và bộ khung tế bào. Những protein có liên quan tới các thành phần của bộ khung tế bào của những sinh vật khác cũng xuất hiện ở vi khuẩn cổ, và có các cấu trúc dạng sợi nằm bên trong tế bào của chúng; tuy nhiên trái ngược với các sinh vật khác, cấu trúc tế bào của vi khuẩn cổ mới chỉ được hiểu rất ít ỏi. Ở Thermoplasma và Ferroplasma, việc thiếu đi thành tế bào có nghĩa là chúng không có hình dạng tế bào cố định, và có thể biến đổi giống như trùng amip.
Một vài loài có thể tập hợp hoặc tạo các thể sợi của các tế bào với độ dài lên tới 200 μm. Những tế bào này có thể trở nên nổi bật trong các biofilm. Đặc biệt, tập hợp các tế bào Thermococcus coalescens có thể hợp lại với nhau khi nuôi cấy, tạo thành những tế bào khổng lồ riêng lẻ. Các cá thể thuộc chi Pyrodictium lại tạo một tập đoàn đa bào phức tạp, gồm hệ thống các ống dài, mỏng và rỗng gọi là cannulae nằm ngoài bề mặt tế bào và gắn kết chúng tạo nên một khối đông đúc rậm rạp. Chức năng của các cannulae vẫn chưa được rõ ràng, nhưng có thể chúng giúp sự truyền thông tin hoặc trao đổi dinh dưỡng giữa các tế bào gần nhau. Có sự tồn tại của những tập đoàn đa loài, như cộng đồng "chuỗi ngọc trai" được phát hiện năm 2001 trong một đầm lầy ở Đức. Những tập đoàn hình tròn và màu trắng của một loài thuộc ngành Euryarchaeota chưa biết đến được đặt cách đều nhau dọc theo những sợi mỏng mà có thể kéo dài lên 15 centimet (5,9 in); những sợi tơ này được tạo bởi một loài vi khuẩn đặc biệt.
Cấu tạo và hoạt động
Vi khuẩn cổ và vi khuẩn nhìn chung có cấu trúc tế bào tương tự nhau, nhưng hoạt động và thành phần cấu tạo lại riêng biệt. Giống vi khuẩn, vi khuẩn cổ thiếu hệ thống màng bên trong và các bào quan. Màng tế bào của vi khuẩn cổ cũng thường gắn với thành tế bào và chúng cũng di chuyển sử dụng một hoặc nhiều tiên mao. Về cấu trúc, vi khuẩn cổ gần giống với vi khuẩn gram dương nhất. Hầu hết chúng đều có một lớp màng sinh chất đơn lẻ và có thành tế bào, thiếu đi vùng ngoại vi bào chất; một ngoại lệ là Ignicoccus, có một vùng chất bào lớn đặc biệt mà chứa các túi mang gắn với màng tế bào và bao bọc bởi một lớp màng ngoài.
Màng tế bào
Màng tế bào vi khuẩn cổ được tạo thành bởi những phân tử mà khác biệt rất lớn với các dạng sự sống khác, cho thấy vi khuẩn cổ có mối liên hệ xa xôi với vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn. Màng tế bào của tất cả cá thể đều được tạo thành từ những phân tử phospholipid. Những phân tử này đều chứa một phần phân cực mà có thể hòa tan trong nước (đầu phosphate), và một phần chất béo không phân cực và không hòa tan (đuôi lipid). Hai phần bất đồng được liên kết thông qua một nhóm glycerol. Trong nước, bó các phospholipid có phần đầu hướng về nước và đuôi quay ngược lại. Cấu trúc chính của màng tế bào là lớp đôi các phospholipid, gọi là lớp lipid kép.
Những phospholipid này của vi khuẩn cổ khác thường về bốn mặt:
Vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn có màng được tạo chủ yếu bởi glycerol-ester lipid, trong khi màng tế bào vi khuẩn cổ lại được tạo bởi glycerol-ether lipid. Sự khác biệt đó là về loại liên kết giữa lipid với nhóm glycerol (màu vàng trong hình bên). Ở ester lipid, đây là một liên kết ester, trong khi ở ether lipid thì là liên kết ether. Các liên kết ether bền hơn về hóa học so với liên kết ester. Sự ổn định này giúp vi khuẩn cổ sinh tồn được ở những môi trường có nhiệt độ cực đoan, rất axít hoặc rất kiềm. Vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn cũng chứa một số ether lipid, nhưng trái với vi khuẩn cổ là những lipid này không phải phần chính trong màng tế bào của các loài này.
Hóa học lập thể của nhóm glycerol thì đảo nghịch với nhóm tìm thấy ở các loài khác. Nhóm glycerol có thể xuất hiện ở cả hai dạng giống như những hình ảnh ngược nhau qua gương, gọi là dạng bàn tay trái và bàn tay phải; trong hóa học gọi là các enantiomer (chất đối hình). Giống như bàn tay trái không thể vừa vặn với chiếc găng tay cho bàn tay phải, một glycerol bàn tay phải nhìn chung không thể sử dụng với các enzyme vốn thích nghi với dạng tay trái. Điều này dẫn đến giả thuyết rằng vi khuẩn cổ sử dụng những enzyme hoàn toàn khác biệt cho việc tổng hợp phospholipid so với vi khuẩn vá sinh vật nhân chuẩn. Những enzyme này phát triển rất sớm trong lịch sử sự sống, cho thấy sự tách ra rất sớm của vi khuẩn cổ so với hai vực trên.
Đuôi lipid của vi khuẩn cổ cũng khác biệt về hóa học với các sinh vật khác. Lipid của vi khuẩn cổ chủ yếu dựa trên chuỗi bên isoprene và là những chuỗi dài với nhiều nhánh bên và đôi khi có cả những vòng cyclopropane hay cyclohexane. Điều này tương phản với những axít béo có ở các màng tế bào của các loài khác, là những chuỗi thẳng không có nhánh và vòng. Các nhóm isoprene đóng vai trò quan trọng trong sinh hóa của nhiều sinh vật, nhưng duy chỉ có vi khuẩn cổ là sử dụng chúng để tạo thành phospholipid. Những chuỗi có nhánh này có thể giúp bảo vệ màng tế bào khỏi bị hỏng do nhiệt độ cao.
Ở một số vi khuẩn cổ, lớp lipid kép được thay bằng một lớp đơn. Vi khuẩn cổ đã nhập đuôi của hai phân tử phospholipid độc lập thành một phân tử đơn với hai đầu cực; điều này khiến màng của chúng thêm cố định và chống chịu tốt hơn với môi trường khắc nghiệt. Các lipid ở Ferroplasma là một ví dụ, chúng được cho là giúp gia tăng sự sống sót của loài này khi ở trong môi trường axít cao.
Thành tế bào và tiên mao
Hầu hết vi khuẩn cổ (trừ Thermoplasma và Ferroplasma) đều có thành tế bào. Ở hầu hết vi khuẩn cổ, thành tế bào thì được nhập với những protein trên bề mặt, tạo thành một lớp S (S-layer). Một lớp S là một hệ thống cố định các phân tử protein mà bao phủ bên ngoài tế bào như một áo giáp xích. Lớp này giúp bảo vệ cả về mặt hóa học lẫn vật lý, và có thể ngăn chặn các đại phân tử liên kết với màng tế bào. Khác với vi khuẩn, hầu hết vi khuẩn cổ không có peptidoglycan trong thành tế bào của chúng. Ngoại lệ của điều này là pseudopeptidoglycan (peptidoglycan giả), được tìm thấy ở các vi sinh vật sinh methan, nhưng pseudopeptidoglycan này lại thiếu đi axít D-amin và axít N-acetylmuramic.
Tiên mao của Archea có hoạt động giống như của vi khuẩn —cuống dài của chúng được điều khiển bởi một động cơ quay ở gốc. Những động cơ này lấy năng lượng từ gradient proton trong màng tế bào. Tuy nhiên, tiên mao của vi khuẩn cổ lại khác biệt đáng kể về thành phần cấu tạo và sự phát triển. Hai loại tiên mao tiến hóa từ các nguồn gốc khác nhau. Tiên mao vi khuẩn có chung nguồn gốc với hệ thống lưu trữ loại III, trong khi ở vi khuẩn cổ thì tiên mao ban đầu tiến hóa từ nhung mao vi khuẩn loại IV. Khác với tiên mao vi khuẩn, vốn rỗng và gắn kết với các tiểu đơn vị di chuyển từ lỗ trung tâm tới đỉnh của tiên mao, tiên mao vi khuẩn cổ được tổng hợp bằng cách gắn thêm các tiểu đơn vị vào gốc.
Trao đổi chất
Vi khuẩn cổ có sự trao đổi chất với các phản ứng hóa học rất đa dạng và sử dụng nhiều nguồn năng lượng. Những phản ứng này được phân loại vào các nhóm dinh dưỡng, phụ thuộc vào nguồn năng lượng và nguồn cacbon. Một số loài lấy năng lượng từ các hợp chất vô cơ như lưu huỳnh và amonia (hóa dưỡng vô cơ), bao gồm các loài nitrat hóa, các loài sinh methan và các loài oxy hóa methan kị khí. Ở những phản ứng này, một hợp chất chuyển electron cho hợp chất khác (phản ứng oxy hóa-khử), giải phóng năng lượng để cung cấp cho hoạt động của tế bào. Năng lượng giải phóng tạo ra ATP nhờ quá trình thẩm thấu hóa học, giống như quá trình cơ bản tương tự diễn ra ở ti thể của tế bào nhân chuẩn.
Có những nhóm vi khuẩn cổ khác sử dụng ánh sáng mặt trời như nguồn năng lượng (quang dưỡng), tuy nhiên sự quang hợp tạo oxy không diễn ra ở các sinh vật này. Nhiều con đường chuyển hóa cơ bản xuất hiện chung ở nhiều dạng sống; ví dụ, vi khuẩn cổ sử dụng một dạng đã biến đổi của quá trình đường phân (con đường Entner–Doudoroff) và một chu trình Krebs hoàn toàn hoặc một phần. Những điểm giống nhau trên giữa vi khuẩn cổ với các sinh vật khác có lẽ phản ánh được nguồn gốc ban đầu trong lịch sử sự sống và mức độ hiệu quả cao của những điểm này.
Một số loài Euryarchaeota là những loài sinh methan, sống trong môi trường kị khí như các đầm lầy. Dạng trao đổi chất này đã tiến hóa từ rất sớm, và thậm chí có thể là ở những sinh vật sống tự do đầu tiên. Có một phản ứng chung đó là khí cacbonic được dùng làm chất nhận điện tử để oxy hóa khí hydro. Quá trình sinh methan liên quan đến một loạt các coenzyme mà chỉ có ở những vi khuẩn cổ này, như coenzyme M hay methanofuran. Các hợp chất hữu cơ khác như rượu, acid acetic hay acid formic được sử dụng như các chất nhận điện tử khác ở các loài sinh methan. Những phản ứng này có chung ở các vi khuẩn cổ sống trong ruột. Acid acetic cũng bị phân tách trực tiếp thành methan và cacbon dioxide nhờ các vi khuẩn cổ "dưỡng acetic". Những vi khuẩn cổ dưỡng acetic này thuộc bộ Methanosarcinales, và là thành phần chính trong các cộng đồng vi sinh vật sản sinh biogas.
Các vi khuẩn cổ khác sử dụng trong khí quyền như nguồn cacbon dựa vào quá trình cố định cacbon (tự dưỡng). Quá trình này bao gồm cả một dạng đã biến đổi mức độ cao của chu trình Calvin hay một con đường chuyển hóa mới khám phá gần đây gọi là chu trình 3-hydroxypropionate/4-hydroxybutyrate. Crenarchaeota cũng sử dụng chu trình Krebs ngược trong khi Euryarchaeota sử dụng con đường acetyl-CoA thu gọn. Quá trình cố định cacbon sử dụng năng lượng từ nguồn vô cơ. Không một vi khuẩn cổ nào được biết là có quá trình quang hợp. Các nguồn năng lượng của vi khuẩn cổ cực kỳ đa dạng, bao gồm của việc oxy hóa amonia ở Nitrosopumilales cho tới việc sự oxy hóa hydro sulfite hoặc sulfide nguyên tử ở các loài thuộc Sulfolobus, sử dụng cả oxy hoặc ion kim loại làm chất nhận điện tử.
Những vi khuẩn cổ quang dưỡng sử dụng ánh sáng để sản xuất năng lượng hóa học dưới dạng ATP. Ở Halobacteria, các chất truyền ion được hoạt hóa bởi ánh sáng như bacteriorhodopsin và halorhodopsin sẽ tạo ra gradient ion bằng cách bơm ion ra khỏi tế bào thông qua màng sinh chất. Năng lượng được lưu trữ trong các gradient điện hóa này sau đó sẽ được chuyển thành dạng ATP nhờ sự tổng hợp ATP. Quá trình này là một dạng phosphoryl quang hóa. Khả năng của những bơm nhờ ánh sáng này để chuyển ion thông qua màng phụ thuộc vào những biến đổi nhờ ánh sáng trong cấu trúc của một cofactor retinol nằm ở trung tâm của protein.
Di truyền
Archaea thường có một nhiễm sắc thể đơn dạng vòng, kích cỡ có thể lớn tới khoảng 5.751.492 cặp base như ở Methanosarcina acetivorans, bộ gen lớn nhất của vi khuẩn cổ được biết đến. Một phần mười kích cỡ này là bộ gen nhỏ chỉ có 490.885 cặp base của loài Nanoarchaeum equitans, loài vi khuẩn cổ có bộ gen bé nhất; ước tính nó chỉ chứa khoảng 537 gen mã hóa protein. Những mảnh DNA nhỏ và riêng biệt, gọi là các plasmid, cũng được tìm thấy ở vi khuẩn cổ. Plasmid có thể được lưu chuyển giữa các tế bào thông qua tương tác vật lý, trong quá trình mà có thể gần giống như sự tiếp hợp của vi khuẩn.
Vi khuẩn cổ có thể bị nhiễm các virus DNA chuỗi kép, mà vốn không có mối liên quan tới bất kì dạng virus khác nào và có nhiều hình dạng bất thường, bao gồm dạng chai, dạng que có móc hoặc hình giọt nước. Những virus này đã được nghiên cứu hầu hết từng chi tiết trong các loài ưa nhiệt, đặc biệt các bộ Sulfolobales và Thermoproteales. Một virus DNA chuỗi đơn xâm nhiễm các loài ưa muối đã được xác định vào năm 2009. Sự phòng chống các loại virus này có thể cần can thiệp RNA đến từ các trình tự DNA lặp có liên quan đến các gen của virus.
Vi khuẩn cổ phân biệt hẳn về mặt di truyền với vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn, với lên tới 15% các protein được mã hóa bởi bất kì bộ gen vi khuẩn cổ nào đều là độc nhất riêng cho nhóm này, dù hầu hết các gen đặc biệt đấy chưa biết được có vai trò gì. Trong các protein độc nhất mà có chức năng đã được xác định, hầu hết đều liên quan đến sự sinh methan. Những protein mà có chung ở vi khuẩn cổ, vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn là trung tâm chung của chức năng tế bào, liên quan chủ yếu đến các quá trình phiên mã, dịch mã và chuyển hóa nucleotide. Những đặc trưng riêng khác của vi khuẩn cổ là sự tổ chức của các gen ở các chức năng liên quan —như các enzyme xúc tác các bước trong cùng con đường chuyển hóa lại thuộc những operon hoàn toàn mới, sự khác biệt lớn về các gen của tRNA và các enzyme aminoacyl tRNA synthetase.
Phiên mã và dịch mã ở vi khuẩn cổ giống như ở sinh vật nhân chuẩn hơn là ở vi khuẩn, với RNA polymerase và ribosome của vi khuẩn cổ rất gần với của sinh vật nhân chuẩn. Dù vi khuẩn cổ chỉ có duy nhất một loại RNA polymerase, cấu trúc và chức năng của nó trong phiên mã dường như gần với RNA polymerase II của sinh vật nhân chuẩn, với tập hợp protein tương tự (nhân tố phiên mã chung) giúp gắn kết RNA polymerase với promoter của một gen. Tuy nhiên, những nhân tố phiên mã khác của vi khuẩn cổ lại gần hơn với của vi khuẩn. Sự chỉnh sửa sau phiên mã thì đơn giản hơn là ở sinh vật nhân chuẩn, khi hầu hết gen của vi khuẩn cổ thiếu intron, dù có rất nhiều intron trong các gen RNA vận chuyển và RNA ribosome của chúng, cũng như intron có thể xuất hiện trong một vài gen mã hóa protein.
Sinh sản
Vi khuẩn cổ sinh sản vô tính thông qua phân đôi, phân mảnh hoặc nảy chồi; không có giảm phân, do đó nếu một loài vi khuẩn cổ nào xuất hiện nhiều hơn một dạng ở trên, tất cả đều có vật liệu di truyền giống nhau. Sự phân bào được điều khiển trong chu trình tế bào; sau sự nhân đôi nhiễm sắc thể và tách rời hai nhiễm sắc thể con, tế bào mới phân chia. Các chi tiết mới chỉ được nghiên cứu ở chi Sulfolobus, nhưng ở đây chu trình tế bào có những đặc điểm tương tự như ở cả vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn. Các nhiễm sắc thể nhân đôi từ nhiều điểm khởi đầu, sử dụng các DNA polymerase mà giống với các enzyme tương tự của sinh vật nhân chuẩn. Tuy nhiên, những protein mà điều khiển sự phân chia tế bào, ví dụ FtsZ tạo thành một vòng co lại xung quanh tế bào, và những hợp phần của vách ngăn dựng lên dọc giữa trung tâm tế bào, thì giống các protein tương ứng ở vi khuẩn.
Cả vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn đều có bào tử, ngược với vi khuẩn cổ. Một vài loài của Haloarchaea có sự thay đổi kiểu hình và phát triển thành một số kiểu tế bào khác nhau, bao gồm những cấu trúc vách mỏng giúp chống chịu với choáng thẩm thấu và cho phép vi khuẩn cổ sinh tồn ở môi trường nước có độ muối thấp, nhưng đây không phải là cấu trúc sinh sản và thay vì thế có thể giúp chúng tới những môi trường sống mới.
Sinh thái học
Môi trường sống
Vi khuẩn cổ phân bố ở hàng loạt môi trường sống, và là một phần chính của các hệ sinh thái toàn cầu, có thể chiếm tới gần 20% sinh khối của Trái Đất. Những vi khuẩn cổ đầu tiên được phát hiện là các loài sống ở môi trường khắc nghiệt. Thực tế, một số vi khuẩn cổ tồn tại được ở nhiệt độ cao, thường trên , được tìm thấy ở các mạch nước phun, các "ống khói đen" (black smoker) ở các miệng thủy nhiệt và các giếng dầu. Những ổ sinh thái khác bao gồm những môi trường sống rất lạnh và có độ mặn, tính acid hoặc tính kiềm cao. Tuy nhiên, vi khuẩn cổ còn bao gồm cả những loài sống ở điều kiện bình thường, trong các vùng lầy, cống rãnh, trong đất và đại dương.
Những vi khuẩn cổ sống ở môi trường cực đoan là thành viên của bốn nhóm sinh lý chính. Chúng là các loài vi sinh ưa mặn, ưa nhiệt, ưa kiềm và ưa acid. Những nhóm này không trải rộng hay riêng biệt của một ngành nào, chúng cũng không loại trừ lẫn nhau, bởi một số vi khuẩn cổ có thể thuộc về vài nhóm. Tuy nhiên, chúng là điểm khởi đầu hữu dụng cho công việc phân loại.
Các loài ưa mặn, bao gồm chi Halobacterium, sống ở môi trường có lượng muối rất cao như các hồ mặn và có số lượng nhiều hơn hẳn nhóm vi khuẩn tương đương ở độ muối cao hơn 20–25%. Các loài ưa nhiệt sinh tồn tốt nhất ở nhiệt độ trên , ở những nơi như suối nước nóng; các vi khuẩn cổ "siêu ưa nhiệt" phát triển tối ưu ở nhiệt độ lớn hơn . Loài vi khuẩn cổ Methanopyrus kandleri sinh trưởng ở mức , nhiệt độ cao kỉ lục của bất kì sinh vật nào.
Những vi khuẩn cổ khác tồn tại ở điều kiện có acid hoặc kiềm cao. Lấy ví dụ, một trong các vi khuẩn cổ ưa acid cực đoan nhất là Picrophilus torridus, có thể sống ở mức pH 0, tương đương với phát triển trong acid sulfuric nồng độ 1,2 mol.
Khả năng chống chịu lại môi trường khắc nghiệt đã đưa vi khuẩn cổ trở thành trọng tâm của suy đoán về sự tồn tại của sự sống ngoài Trái Đất. Những môi trường sống của chúng cực đoan không khác gì lắm so với trên Sao Hỏa, dẫn đến một giả thuyết là những vi sinh vật sống có thể được di chuyển giữa các hành tinh nhờ các vẫn thạch.
Gần đây, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng vi khuẩn cổ tồn tại không chỉ trong môi trường nhiệt độ cao hay bình thường mà còn hiện diện, đôi khi ở số lượng lớn, ở cả nhiệt độ thấp. Ví dụ là vi khuẩn cổ rất phổ biến ở môi trường đại dương lạnh như biển ở hai cực. Một điều còn quan trọng hơn là số lượng to lớn của vi khuẩn cổ được tìm thấy xuyên suốt các đại dương trên thế giới ở những môi trường không cực đoan giữa các cộng đồng sinh vật phù du (là một phần của picoplankton – các sinh vật phù du kích cỡ 0,2-2 µm). Dù những vi khuẩn cổ này có thể xuất hiện với số lượng vô cùng lớn (lên tới 40% sinh khối vi sinh), hầu hết chúng đều chưa từng được phân lập và nghiên cứu trong nuôi cấy vô trùng. Vì thế những hiểu biết của chúng ta về vai trò của vi khuẩn cổ đối với sinh thái đại dương mới chỉ rất sơ lược, ảnh hưởng đầy đủ của chúng lên các chu trình sinh địa hóa toàn cầu phần lớn vẫn chưa được khám phá. Một số loài Crenarchaeota ở biển có khả năng nitrit hóa, từ đó đề xuất rằng chúng có thể ảnh hưởng lên chu trình nitơ ở đại dương, dù những loài này cũng có thể sử dụng những nguồn năng lượng khác. Số lượng lớn vi khuẩn cổ được phát hiện trong các trầm tích bao phủ đáy biển, với những loài chiếm phần lớn các tế bào sống ở độ sâu trên 1 mét dưới mặt lớp trầm tích này.
Vai trò trong chu trình hóa học
Vi khuẩn cổ tái sử dụng các nguyên tố như cacbon, nitơ, sulfide thông qua những môi trường sống đa dạng của chúng. Dù những hoạt động này là cần thiết cho chức năng hệ sinh thái thông thường, vi khuẩn cổ cũng có thể góp phần vào những thay đổi do con người làm ra, thậm chí kể cả sự ô nhiễm.
Vi khuẩn cổ đảm nhận nhiều bước trong chu trình nitơ. Chúng bao gồm những phản ứng mà tách nitơ khỏi hệ sinh thái, như hô hấp dùng nitơ hay sự phản nitrat hóa, cũng như các quá trình nhập nitơ, như đồng hóa và cố định nitơ. Mối liên quan giữa vi khuẩn cổ với các phản ứng oxy hóa amonia đã được khám phá gần đây. Những phản ứng này đóng vai trò đặc biệt quan trọng ở đại dương. Sự hiện diện của vi khuẩn cổ cũng là cốt yếu đối với sự oxy hóa amonia ở đất. Chúng sản xuất ra nitrit, mà những vi sinh vật khác sau đó sẽ oxy hóa thành nitrat. Thực vật và các loài khác tiêu thụ các chất này sau đó.
Ở chu trình sulfide, vi khuẩn cổ phát triển bằng cách oxy hóa các hợp chất lưu huỳnh để giải phóng nguyên tố này khỏi đá, giúp các loài khác có thể sử dụng được. Tuy nhiên, vi khuẩn cổ thực hiện việc này, như Sulfolobus, tạo ra acid sulfuric như là một sản phẩm thừa, và sự phát triển của các loài này ở các mỏ bị bỏ hoang có thể góp phần tạo ra nước acid mỏ và gây những tác hại cho môi trường.
Trong chu trình cacbon, vi khuẩn cổ sinh methan chuyển đi hydro và có vai trò quan trọng trong việc phân hủy vật chất hữu cơ của các quần thể vi sinh vật trong những hệ sinh thái kị khí, như trầm tích, đầm lầy và trong xử lý nước thải. Tuy nhiên, methan là một trong những khí nhà kính nhiều nhất trong khí quyển Trái Đất, chiếm khoảng 18% tổng lượng toàn cầu. Chúng gây ra hiệu ứng nhà kính mạnh hơn gấp 25 lần so với khí cacbonic. Các loài sinh methan là nguồn chính của methan khí quyền, và là nguyên nhân chính của phần lớn lượng phát thải methan hàng năm. Vì thế, vi khuẩn cổ cũng đóng góp vào việc phát thải khí nhà kính và gây ra hiện tượng ấm lên toàn cầu.
Tương tác với các loài khác
Quan hệ tích cực giữa Archea và các sinh vật khác bao gồm sự hỗ sinh và hội sinh. Cho đến năm 2007, chưa có bất kì trường hợp gây bệnh hay ký sinh do vi khuẩn cổ nào được biết đến. Tuy nhiên, người ta đã đề xuất về một mối quan hệ giữa vài loài sinh methan và các bệnh nhiễm trùng trong miệng; hay Nanoarchaeum equitans có thể là ký sinh của vài loài vi khuẩn cổ khác, do nó chỉ có thể sống và sinh sản khi ở trong tế bào loài Ignicoccus hospitalis thuộc Crenarchaeota, và không đem lại lợi ích nào cho vật chủ của nó.
Hỗ sinh
Một ví dụ được hiểu rõ ràng của sự hỗ sinh đó là mối tương tác giữa động vật nguyên sinh và vi khuẩn cổ sinh methan trong hệ thống tiêu hóa của động vật tiêu hóa cellulose, như động vật nhai lại và mối. Ở môi trường kị khí, các động vật nguyên sinh sẽ phá vỡ cellulose của thực vật để lấy năng lượng. Quá trình này giải phóng khí hydro là sản phẩm thừa, nhưng mật độ khí hydro cao lại giảm năng suất sinh năng lượng của chúng. Khi các loài sinh methan chuyển hydro vào methan, động vật nguyên sinh sẽ có thể có thêm nhiều năng lượng hơn.
Ở các loài động vật nguyên sinh sống kị khí như Plagiopyla frontata, vi khuẩn cổ sống bên trong các loài này và tiêu thụ khí hydro sản xuất trong hydrogenosome của chúng. Vi khuẩn cổ còn hợp tác với cả những sinh vật lớn hơn. Ví dụ, loài vi khuẩn cổ sống ở biển Cenarchaeum symbiosum cộng sinh trong loài bọt biển Axinella mexicana.
Hội sinh
Vi khuẩn cổ có thể là những kẻ hội sinh, thu lợi từ sự kết hợp mà không giúp đỡ hay gây hại gì cho loài khác. Lấy dẫn chứng như loài sinh methan Methanobrevibacter smithii, là loài vi khuẩn cổ phổ biến nhất trong các vi sinh vật ở cơ thể người, chiếm khoảng 1/10 tất cả các sinh vật nhân sơ trong ruột người. Ở mối và ở người, những loài methan này có thể là loài hỗ sinh, liên kết với các vi sinh vật khác trong ruột và trợ giúp cho sự tiêu hóa. Cộng đồng vi khuẩn cổ cũng kết hợp với nhiều loài sinh vật khác nhau, như trên bề mặt san hô, và trong các phần đất bao xung quanh rễ cây (vùng rễ).
Vai trò trong công nghiệp và kĩ thuật
Các vi khuẩn cổ sống môi trường cực đoan, đặc biệt những loài có tính chống chịu với cả nhiệt hay acid và kiềm, là nguồn cho các enzyme có thể hoạt động dưới những điều kiện khắc nghiệt trên. Những enzyme này được phát hiện với nhiều công dụng. Ví dụ, các DNA polymerase ổn định với nhiệt độ, như Pfu DNA polymerase từ Pyrococcus furiosus, đã tạo nên cuộc cách mạng trong ngành sinh học phân tử nhờ cho phép phản ứng chuỗi trùng hợp sử dụng trong nghiên cứu trở thành một kĩ thuật đơn giản và nhanh chóng để tái bản DNA. Trong công nghiệp, amylase, galactosidase và pullulanase ở các loài Pyrococcus khác mà có thể hoạt động ở nhiệt độ lớn hơn đã giúp cho việc xử lý thực phẩm ở nhiệt độ cao, như sản xuất ra sữa và váng sữa có lượng lactose thấp. Các enzyme từ những vi khuẩn cổ ưa nhiệt cũng có xu hướng ổn định trong các dung môi hữu cơ, từ đó có những ứng dụng trong các quá trình thân thiện với môi trường trong ngành hóa học xanh nhằm tổng hợp các hợp chất hữu cơ. Tính ổn định này còn giúp chúng tham gia vào cả sinh học cấu trúc. Những enzyme tương tự như của vi khuẩn và sinh vật nhân chuẩn lấy từ vi khuẩn cổ thường được sử dụng trong các nghiên cứu của ngành này.
Trái ngược với một loạt những ứng dụng của các enzyme vi khuẩn cổ, việc sử dụng chính bản thân các loài này trong công nghệ sinh học thì còn chưa phát triển. Vi khuẩn cổ sinh methane là một phần thiết yếu trong xử lý nước thải, chúng cũng là một phần của cộng đồng vi sinh vật có tính năng tiêu hóa kị khí và sản xuất biogas. Trong xử lý mỏ, những vi khuẩn cổ ưa acid cho thấy triển vọng trong việc chiết xuất các kim loại từ quặng. bao gồm vàng, cobalt và đồng.
Vi khuẩn cổ có một lớp mới các chất kháng sinh có tiềm năng ứng dụng. Một vài chất đã được mô tả nhưng người ta tin rằng vẫn còn hàng trăm chất khác tồn tại, đặc biệt trong các nhóm Haloarchaea và Sulfolobus. Những hợp chất này có cấu trúc khác biệt hơn là với kháng sinh từ vi khuẩn, do đó chúng có thể có những cách thức hoạt động hoàn toàn mới. Thêm vào đó, chúng có thể cho phép tạo ra những gen đánh dấu chọn lọc mới mà ứng dụng trong ngành sinh học phân tử của vi khuẩn cổ.
Chú thích
Đọc thêm |
Toán sinh học (tiếng Anh: mathematical biology hay biomathematics) là một lĩnh vực giao thoa (interdisciplinary) của nghiên cứu học thuật nhằm vào mô hình hoá các quá trình sinh học trong tự nhiên dùng kĩ thuật và công cụ toán học. Nó vừa mang tính ứng dụng vừa mang tính lý thuyết trong nghiên cứu sinh học.
Nghiên cứu
Dưới đây là một danh sách các lĩnh vực nghiên cứu trong toán sinh học và liên kết đến các dự án liên quan ở nhiều trường đại học khác nhau:
Mô hình hóa bệnh về động mạch
Mô hình hóa neuron và các chất gây ung thư (Modelling of neurons and carcinogen|carcinogenesis)
Đặc tính cơ học của các mô sinh học (Mechanics of biological tissues )
Enzyme học lý thuyết và động học enzyme (Theoretical enzymology and enzyme kinetics )
Mô hình hóa cơ chế ung thư (Cancer modelling and simulation )
Những ví dụ này được đặc trưng bởi các cơ chế phức tạp, phi tuyến và mọi người đang ngày càng được nhận ra rằng kết quả của những sự tương tác đó chỉ có thể được hiểu thông qua các mô hình tính toán và toán học. Vì sự đa dạng của những kiến thức liên quan, nghiên cứu toán sinh học thường được thực hiện ở bởi sự liên kết giữa các nhà toán học, nhà vật lý học, nhà sinh học, nhà y khoa, nhà động vật học, nhà hoá học...
Chú thích
J.D. Murray, Mathematical Biology. Springer-Verlag, 3rd ed. in 2 vols.: Mathematical Biology: I. An Introduction, 2002 ISBN 0387952233; Mathematical Biology: II. Spatial Models and Biomedical Applications, 2003 ISBN 0387952284.
L. Edelstein-Keshet, Mathematical Models in Biology. SIAM, 2004. ISBN 0075549506
L.A. Segel, Modeling dynamic phenomena in molecular and cellular biology. C.U.P., 1984. ISBN 052127477X
F. Hoppensteadt, Mathematical theories of populations: demographics, genetics and epidemics. SIAM, Philadelphia, 1975 (reprinted 1993). ISBN 0898710170
S.I. Rubinow, Introduction to mathematical biology. John Wiley, 1975. ISBN 0471744468
A. Goldbeter, Biochemical oscillations and cellular rhythms. C.U.P., 1996. ISBN 0521599466
E. Renshaw, Modelling biological populations in space and time. C.U.P., 1991. ISBN 0521448557
P.G. Drazin, Nonlinear systems. C.U.P., 1992. ISBN 0521406684
D.W. Jordan and P. Smith, Nonlinear ordinary differential equations, 2nd ed. O.U.P., 1987. ISBN 0198565623 |
Trong toán học, vòng lặp Picard có thể hiểu là:
trong phương pháp số: một dạng vòng lặp điểm cố định để tìm nghiệm số xấp xỉ cho một phương trình.
trong phương trình vi phân: là một phương pháp tìm sự tồn tại của nghiệm phương trinh vi phân đi qua một điểm.
Theo cách hiểu đầu tiên, vòng lặp Picard tạo nên một dãy các số hội tụ đến nghiệm của phương trình; nó liên quan đến xử lý các số. Theo cách hiểu thứ hai, vòng lặp này sinh ra một dãy các hàm tiệm cận đến hàm thỏa mãn phương trình vi phân; nó liên quan đến xử lý các biểu thức. |
Trong toán học, vòng lặp Lambda, hay vòng lặp Λ, là một phương pháp dạng vòng lặp Picard ứng dụng chủ yếu để giải các phương trình truyền xạ hoặc các hệ phương trình vi tích phân tương tự. |
Trong toán học, định lý cộng hàm cầu điều hòa, còn gọi là định lý cộng Legendre, được phát biểu như sau:
Nếu góc γ được định nghĩa thông qua {θ1,φ1} và {θ2,φ2} bằng:
cos(γ) = cos(θ1)cos(θ2) + sin(θ1) sin(θ2) cos(φ1 - φ2)
Thì đa thức Legendre với biến γ sẽ thỏa mãn:
Ở đây, và là đa thức Legendre và đa thức Legendre liên quan.
Định lý này được chứng minh bằng việc dùng hàm Green cho tổng các hàm điều hòa cầu và cân bằng tổng này với hàm sinh của đa thức Legendre. |
Nguyễn Dương (tiếng Trung: 元阳县; bính âm: Yuányáng Xiàn, Hán Việt: Nguyên Dương huyện) là một huyện trong châu tự trị Hồng Hà, miền nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đây là nơi cư trú của tộc người thiểu số Cáp Nê. Du khách nhiều nhiếp ảnh gia trên thế giới hay đến Nguyên Dương vì có nhiều đồi núi với ruộng bậc thang. Địa điểm thu hút nhiều thợ săn hình nhất là Thanh Khẩu (青口, Qingkou), một bản thượng nhỏ 6 km phía nam thị trấn Nguyên Dương — đất núi gần đấy được trở thành ruộng bậc thang để cấy lúa.
Nguyên Dương nằm bên bờ Nguyên Giang (tên gọi sông Hồng đoạn chảy qua Trung Quốc), cách Côn Minh (thủ phủ tỉnh Vân Nam) 337 km về hướng nam và cách cửa khẩu quốc tế Hà Khẩu (Trung Quốc) và Lào Cai (Việt Nam) 197 km về hướng tây bắc.
Phân chia hành chính
2 trấn: Nam Sa, Tân Nhai
12 hương: Ngưu Giác Trại, Sa Lạp Thác, Gá Nương, Thượng Tân Thành, Tiểu Tân Nhai, Phùng Xuân Lĩnh, Đại Bình, Phàn Chi Hoa, Hoàng Mao Lĩnh, Hoàng Thảo Lĩnh, Nga Trát, Mã Nhai. |
được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12. Theo truyền thuyết của Nhật Bản, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà.
Dần dần công dụng giúp thư giãn lẫn tính hấp dẫn đặc biệt của hương vị trà đã thu hút rất nhiều người dân Nhật đến với thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tinh thần Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo (chado, 茶道), một sản phẩm đặc sắc thuần Nhật.
Từ việc đơn giản uống trà, chuyển sang cách pha và uống trà, rồi nghi thức thưởng thức trà cho đến khi đúc kết thành trà đạo, đây là một tiến trình không ngừng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo lý với ý nghĩa đích thực của từ này.
Tất nhiên ở đây trà đạo không đơn thuần là con đường, là phép tắc uống trà mà trên hết là một phương tiện hữu hiệu nhằm làm trong sạch tâm hồn bằng cách: trước tiên, hòa mình với thiên nhiên, để từ đây tu sửa tâm, nuôi dưỡng tính và đạt tới giác ngộ.
Khái quát
Hòa, Kính, Thanh, Tịch (和 - 敬 - 清 - 寂) là bốn nguyên tắc cơ bản của Trà đạo. Phật giáo thường dùng thuật ngữ "ngón tay chỉ mặt trăng". Suy rộng ra, Trà đạo là con đường mà đi hết con đường đó sẽ đến nơi có "trà vừa ngon vừa không ngon". Cũng như nhiều thứ cần phải rèn luyện, học tập, Trà đạo luôn gắn liền với thực hành. Khác với trông chờ vào đâu đó, Trà đạo thuộc về bên lối sống "tự làm chủ bản thân".
Lịch sử
Giai đoạn 1
Vào thế kỷ thứ 8 - 14 trà bắt đầu được sử dụng phổ biến trong tầng lớp quý tộc. Lúc đó có các cuộc thi đấu đoán tên trà. Văn hóa uống trà giai đoạn đó được coi là những trò chơi xa xỉ và tầng lớp quý tộc rất thích dụng cụ uống trà Trung Quốc.
Giữa cái bối cảnh xô bồ này, một nhà sư tên là Murata Juko đã tìm thấy vẻ đẹp giản dị tồn tại trong văn hóa uống trà. Đến với trà bằng tinh thần của nhà sư, nên Murata Juko rất coi trọng cuộc sống tinh thần. Trà đạo ra đời như thế.
Juko yêu cái đẹp "wabi" và "sabi".
Tuy nhiên, trà đạo vẫn còn chưa được nhiều người biết đến.
Sau Murata Juko, người kế nghiệp tiếp theo là Takeno Jyoo.
Jyoo quan niệm: "Mặc dù xung quanh chúng ta chẳng có gì cả: không hoa, không lá; nhưng có cảnh hoàng hôn chiều tà với một mái nhà tranh."
Giai đoạn 2
Sau thời Jyoo, đến thế kỷ 16 là thời của Senno Rikyu - Rikiu mới là người đã đưa ra bước ngoặt quan trọng, tạo nên một văn hóa trà đạo trong giới võ sĩ (samurai). Senno Rikyu đã là thầy dạy trà đạo cho Oda Nobunaga (Shogun - người đứng đầu giới võ sĩ) của thời Azuchi. Sau khi Oda Nobunaga chết, Toyotomi Hideyoshi lên (thời Momoyama) thì Senno Rikyu tiếp tục dạy cho ông này. Như vậy, hoạt động của Senno Rikyu có tầm ảnh hưởng khá sâu rộng trong tầng lớp võ sĩ, và ảnh hưởng mạnh đến chính trị thời đó.
Trong thế kỷ 16, cùng thời với Senno Rikyu, còn có Yabunnouchi Jyochi, cũng là học trò của Takeno Jyoo. Yabunouchi Jyochi là trà sư tại chùa Honganji, ngôi chùa lớn nhất đất nước Nhật Bản. Yabunouchi chú trọng việc thực hành Trà đạo ở chính nơi bản thân, nơi lối sống, nơi cái tâm trong trẻo của mỗi người.
Ngoài ra còn có nhiều trà nhân khác nữa. Mỗi trà nhân đều pha trà theo phong cách riêng của mình. Nếu các phái (trà) có sự khác nhau thì chỉ khác một chút ở phần thực hiện những động tác của nghi thức pha trà, tức là khác phần bên ngoài, còn đạo tinh thần bên trong là duy nhất.
Giai đoạn 3
Trà đạo trong thời hội nhập
Trà đạo hiện nay cũng dần được biến đổi, trong mỗi phòng trà đều có một số bàn ghế gỗ cho khách ngồi. Nếu như khách không thể quen với kiểu ngồi truyền thống của Nhật thì sự biến đổi nói trên cho phép người phương Tây với thói quen hiện đại cũng có thể tham gia được những buổi trà đạo mà không hề làm mất đi không khí tôn nghiêm trong phòng uống trà. Dần dần, trà đạo được đưa vào phòng khách theo phong cách phương Tây. Người đến không cần phải gò bó theo kiểu ngồi hay cách uống trà của người Nhật vẫn có thể mặc áo theo kiểu Tây phương.
Trà thất
Trà thất là một căn phòng nhỏ dành riêng cho việc uống trà, nó còn được gọi là "nhà không". Đó là một căn nhà mỏng manh với một mái tranh đơn sơ ẩn sau một khu vườn. Cảnh sắc trong vườn không loè loẹt mà chỉ có màu nhạt, gợi lên sự tĩnh lặng. Trong khu vườn nhỏ có thể bố trí một vài nét chấm phá để tạo nên một ấn tượng về một miền thung lũng hay cảnh núi non cô tịch, thanh bình. Nó như một bức tranh thủy mặc gợi lên bầu không khí mà Kobiri Emshiu đã tả:
Một chòm cây mùa hạ,
một nét biển xa,
một vừng trăng chiếu mờ nhạt.
Trên con đường dẫn đến trà thất, có một tảng đá lớn, mặt tảng đá được khoét thành một cái chén đựng đầy nước từ một cành tre rót xuống. Ở đây người ta "rửa tay" trước khi vào ngôi nhà nằm ở cuối con đường, chỗ tịch liêu nhất:
Tôi nhìn ra,
không có hoa,
cũng không có lá.
Trên bờ biển,
một chòi tranh đứng trơ trọi,
trong ánh nắng nhạt chiều thu.
Ngôi nhà uống trà làm bằng những nguyên liệu mong manh làm cho ta nghĩ đến cái vô thường và trống rỗng của mọi sự. Không có một vẻ gì là chắc chắn hay cân đối trong lối kiến trúc, vì đối với thiền, sự cân đối là chết, là thiếu tự nhiên, nó quá toàn bích không còn chỗ nào cho sự phát triển và đổi thay. Điều thiết yếu là ngôi trà thất phải hòa nhịp với cảnh vật chung quanh, tự nhiên như cây cối và những tảng đá. Lối vào nhà nhỏ và thấp đến nỗi người nào bước vào nhà cần phải cúi đầu xuống trong vẻ khiêm cung, trong khi người võ sĩ đạo thì phải để lại bên ngoài cây kiếm dài. Ngay trong phòng trà cũng ngự trị một bầu không khí lặng lẽ cô tịch, không có màu sắc rực rỡ, chỉ có màu vàng nhạt của tấm thảm rơm và màu tro nhạt của những bức vách bằng giấy.
Tokonoma
Tokonoma là một góc phòng được trang trí và hơi thụt vào trong so với vách tường. Tokonoma là một trong bốn nhân tố thiết yếu tạo nên phòng khách chính của một căn nhà. Bản thân từ "tokonoma" ám chỉ góc phòng thụt vào hoặc căn phòng có góc như nó. Có một vài dấu hiệu để biết đâu là tokonoma. Thông thường, có một khu vực để treo tranh hoặc một bức thư pháp. Hay có một cái giá nhỏ để đặt hoa, có thể là một chiếc bình, có thể nhìn thấy một hộp hương trầm. Một gia đình truyền thống Nhật có nhiều cuộn giấy và các vật dụng khác mà họ trưng bày ở tokonoma tuỳ từng mùa hoặc ngày lễ gần nhất. Khi bước vào một trà thất, người ta thường quỳ và ngắm tokonoma một lát. Cũng có thể xem các vật được trưng bày. Thiền gây ảnh hưởng đến tokonoma lẫn chabana chỉ khi chúng ta chú tâm đến những chi tiết nhỏ bé trong cuộc sống thì mới thấy vẻ đẹp trong những điều giản dị.
Chabana
Chabana (茶花) là phong cách cắm hoa đơn giản mà thanh lịch của Trà đạo, có nguồn gốc sâu xa từ việc nghi thức hóa Ikebana. Cha, theo nghĩa đen, là "trà" và ban, biến âm của từ hana, có nghĩa là "hoa". Phong cách của chabana là không có bất kỳ quy tắc chính thức nào để trở thành chuẩn mực cho nghệ thuật cắm hoa trong trà thất. Hoa thể hiện tình cảm của chủ nhà trong một buổi tiệc trà. Hoa được cắm trong một chiếc bình hoặc một cái lọ mộc mạc với phong cách thay đổi theo mùa. Lọ hoa có thể được làm từ bất kỳ chất liệu nào, từ đồng, gốm tráng men hoặc không tráng men, cho đến tre, thủy tinh và các vật liệu khác.
Khi cắm hoa cho một bữa tiệc trà, đầu tiên chủ nhà phải chọn hoa và lọ tương ứng. Hoa trong phòng trà gợi được cho người ngắm cảm giác như đang đứng giữa khu vườn tự nhiên.
Kakejiku
Kakejiku tạm hiểu chỉ là một tấm vải trống trơn, nó có thể cuộn vào đi theo bia rượu, hoặc mở ra treo trên vách tường tokonoma. Lúc thì gắn vào Kakejiku một bức tranh nhỏ, lúc khác một bức thư pháp hoặc là sự kết hợp cả tranh và chữ (thư họa). Những nội dung khi xuất hiện trên Kakejiku thường mang ý nghĩa sâu xa, có thể là một công án Thiền tông,... Chẳng hạn,
một câu nói đã được nhắc đến nhiều trong Thiền: "Bình thường tâm thị đạo", hoặc một câu văn dường như là riêng biệt của Trà đạo:" Nhất kỳ Nhất hội", hay đơn giản chỉ là một chữ :"Vô" là từ Hán Việt. Từ Việt có nghĩa tương đương là Không. Kakejiku luôn gắn liền với dáng vẻ, với niềm tin không chia ly, không so bì, không say rượu, không si mê, không mù quáng, không sùng bái. Trong thời hội nhập, có những lúc Kakejiku gắn theo một nội dung mới. Khi này, một câu văn thơ Việt: "Nghìn trái tim mang trong một trái tim", hoặc khi khác, một câu như: :" Yêu là chết ở trong lòng một ít", hay một chữ vài chữ tiếng Anh như:"Just do it!".
Đạo cụ
Để có thể thực hiện được một nghi thức Trà Đạo, người hành lễ cần phải có đầy đủ các yếu tố sau:
Trà Thất
Trà Thất: Là một căn phòng có kích thước nhỏ nhất khoảng 3x3m. Trong phòng có trải những tấm tatami hay chiếu tre được sắp xếp thành hình vuông bởi 8 mảnh 0.75x1.5m, trông rất đẹp và trang nhã. Cách bày trí các đạo cụ trong Trà Thất gồm: Tranh, thơ, câu liễn: Là những bức tranh về phong cảnh thiên nhiên hay những bài thơ, câu liễn được treo, dán trong Trà Thất. Nó sẽ làm tăng thêm phần trang trọng cho Trà Thất. Hoa: Thường được cắm trong bình, lọ hay dĩa nhỏ, được đặt ở giữa phòng hay đặt dưới bức tranh trong phòng. Nó có tác dụng làm cho căn phòng thêm sinh động, tạo cảm giác thoải mái, gần gũi với thiên nhiên cho người tham gia. Lư trầm: Được đặt ở góc phòng hay dưới bức tranh hoặc giữa phòng. Nhưng thường lư trầm được đặt ở góc phòng. Trầm hương có tác dụng làm cho căn phòng có được mùi hương thoang thoảng phảng phất nhẹ nhàng, khiến cho mọi người được thư giãn tinh thần, thoải mái dễ chịu. Các đạo cụ trên được xếp rất gọn gàng, không chiếm diện tích của phòng trà, tạo sự cân bằng, hòa hợp theo phong thủy.
Trà Viên
Trà Viên: Là một khu vườn được thiết kế phù hợp với việc ngắm hoa, và thưởng thức trà. Nhưng loại hình này ít được thông dụng như Trà Thất bởi tính cầu kỳ của nó đòi hỏi cách bày trí khu vườn thật khéo, làm sao cho khu vườn vẫn còn được nét tự nhiên để người tham gia Trà Đạo không có cảm giác bị rơi vào một cảnh giả do bàn tay con người tạo ra. Trong Trà Viên thì ít khi có các tấm chiếu hay thảm vì mọi người thường ngồi trên thảm cỏ trong vườn.
Cách bày trí đạo cụ trong Trà Viên: Hoa, Lư Trầm: Thường được đặt ở giữa chỗ ngồi họp nhóm của những người tham gia. Trong vườn thì có các loài cây như: Hoa anh đào, hoa mai, hoa mơ, tùng, liễu. Những loài cây này dễ tạo cảm hứng thi phú cho người xem trong quá trình đàm Đạo, đối ẩm. Bên cạnh đó là các hòn non bộ, những tảng đá lớn, chậu nước cũng được sắp xếp theo bố cục chặt chẽ, thể hiện sự cân đối Âm – Dương trong phong thủy.
Đạo cụ pha chế
Trà: tùy theo hệ phái nào mà trà được sử dụng có sự khác biệt. Matcha (まっちゃ): trà bột. Người ta hái những lá trà non đem đi rửa sạch, phơi ráo nước và xay nhuyễn thành bột. Vì thế trà có màu xanh tươi và độ ẩm nhất định chứ không khô như các loại trà lá. Khi uống, bột trà được đánh tan với nưới sôi. Trà nguyên lá: chỉ lấy nước tinh chất từ lá trà. Lá trà được phơi khô, pha chế trong bình trà, lấy tinh chất, bỏ xác. Thường sử dụng loại trà cho nước màu vàng tươi hay màu xanh nhẹ.
Phụ liệu: ngoài nguyên liệu chính là trà bột hay trà lá, người pha chế còn cho thêm một số thảo dược, các loại củ quả phơi khô, đậu để làm tăng thêm hương vị cho chén trà, hay quan trọng hơn là mang tính trị liệu, rất có lợi cho sức khỏe, giúp người bệnh mau hồi phục thể chất lẫn tinh thần.
Nước pha trà: thường là nước suối, nước giếng, nước mưa, hay nước đã qua khâu tinh lọc.
Ấm nước (お釜): dùng đun nước sôi để pha trà, thường được làm bằng đồng để giữ độ nóng cao.
Lò nấu nước (焜炉): bếp lò bằng đồng thường dùng than để nấu. Nhưng ngày nay người Nhật đã thay than bằng một bếp điện để bên trong lò đồng
Hũ đựng nước (水差し): dùng để đựng nước lạnh khi pha trà.
Chén trà (茶碗): chén dùng để dựng trà cho khách thưởng thức. Chén được làm bằng men, công phu, tỉ mỉ và mỗi chén có những họa tiết độc đáo riêng. Vì thế mà trong khi làm một buổi tiệc trà, không có hai chén trà giống nhau. Các nghệ nhân làm chén cũng đưa chủ đề thiên nhiên, thời tiết vào trong tác phẩm của mình, vậy nên có thể dùng chén phù hợp cho 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Mùa xuân: chén có những hoa văn mùa xuân như hoa anh đào.
Mùa hạ: là mùa nóng nên chén trà có độ cao thấp hơn, miệng rộng hơn chén trà mùa xuân để dễ thoát hơi nóng.
Mùa thu: chén có hình dạng giống chén mùa xuân, có hoa văn đặc trưng cho mùa thu như lá phong, lá momizi.
Mùa đông: là mùa lạnh nên chén có độ dày và cao hơn các chén mùa khác để giữ nóng lâu hơn. Màu sắc của men cũng mang gam màu lạnh.
Kensui (建水): chậu đựng nước rửa chén khi pha trà, được làm bằng men và to hơn chén trà một chút.
Hũ, lọ đựng trà (なつめ): hủ,lọ dùng để đựng trà bột, được trang trí họa tiết rất đẹp, gần gũi với cuộc sống sinh hoạt nhưng cũng mang tính thẫm mĩ cao. Trên nắp hũ, đôi khi bắt gặp hình quạt giấy, hình hoa lá, tre, trúc,...
Khăn fukusa (ふくさ): khăn lau hủ,lọ trà và muỗng trà khi pha trà.
Khăn chakin (茶巾): khăn lau chén trà khi pha trà, được làm bằng vải mùng màu trắng.
Khăn kobukusa (こぶくさ): khăn dùng để kê chén trà. Khi đem trà cho khách thưởng thức, dùng khăn để lên tay, sau đó đặt chén trà lên để giảm bớt độ nóng từ chén trà xuống tay, sau đó mang chén trà cho khách.
Muỗng múc trà (茶杓): chiếc muỗng bằng tre, dài, một đầu uốn cong để múc trà.
Gáo múc nước: chiếc gáo bằng tre, nhỏ, dài để múc nước từ trong ấm nước, hủ đựng nước ra chén trà.
Cây đánh trà (茶筅): dùng để đánh tan trà với nước sôi. Được làm từ tre, ống tre được chẻ nhỏ một đầu thành nhiều cọng tre có kích thước nhỏ khoảng 1mm.
Bình trà: để pha trà lá
Tách trà nhỏ: để thưởng thức loại trà lá.
Bánh ngọt: (như là Wagashi) dùng bánh trước khi uống trà sẽ làm cho khách cảm nhận hương vị đậm đà đặc sắc của trà. |
Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959 là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây dựng tổ chức lại đất nước, và tích lũy để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh sắp tới.
Sau Kháng chiến chống Pháp và Hiệp định Genève, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập sau Cách mạng Tháng Tám chỉ còn quyền lực trên miền Bắc. Các thế lực chống Cộng và thân Pháp đã rời miền Bắc vào tập trung tại miền Nam. Do đó, chính trị ở miền Bắc vững mạnh, dân chúng tuyệt đối tin tưởng ủng hộ chính quyền.
Chiến tranh chủ yếu diễn ra trên miền Bắc trước đây đã tàn phá nặng nề cơ sở vật chất, các công trình cầu đường bị phá hủy, nhiều làng xóm bị đốt trụi. Sau năm 1954, miền Bắc đứng trước những khó khăn rất lớn về kinh tế, vượt qua được chỉ bởi sự ủng hộ hết lòng của dân chúng và sự lãnh đạo của chính phủ. Lúc này viện trợ nước ngoài chưa nhiều, chủ yếu dừng ở mức đào tạo.
Chính trị
Những người lãnh đạo miền Bắc lúc đó là những người cộng sản được dân chúng tin tưởng và ủng hộ vì họ vừa chiến thắng cuộc chiến giành độc lập cho Việt Nam trong Kháng chiến chống Pháp. Sau khi thắng Pháp, họ từng bước bắt tay vào việc tổ chức đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa của Liên Xô và Trung Quốc, đặc biệt là vận dụng các phương pháp cực đoan của Mao Trạch Đông trong các "công tác phát động quần chúng" để đấu tranh giai cấp, thực hành chuyên chính vô sản và các công tác tuyên truyền khác. Các chiến dịch cải cách ruộng đất, hợp tác hoá nông nghiệp, cải tạo tư bản tư doanh, chống Nhân văn-Giai phẩm đã san bằng các thành phần xã hội, tiêu diệt giai cấp tư sản, địa chủ. Các chiến dịch đó khi thực hiện có nhiều sai lầm gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Sai lầm lớn nhất là trong cải cách ruộng đất. Những đơn vị cán bộ được huấn luyện trước đến làng xã xa lạ, tìm "địa chủ áp bức" theo tỷ lệ dân số rồi đấu tố. Sửa sai diễn ra phục hồi khoảng 70-80% những tổn thất này, và dẫn đến Tổng bí thư Trường Chinh đã phải từ chức.
Đời sống xã hội dựa trên nguyên tắc kỷ luật hoá cao độ, các quyền tự do cá nhân và các tổ chức bị hạn chế tối đa. Xã hội nhanh chóng chuẩn bị cho cuộc sống quân sự hoá cao độ theo phương châm "Toàn dân-Toàn diện, mỗi người dân đều là một chiến sĩ" dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Lao động Việt Nam.
Nhìn chung, xã hội miền Bắc trong thời gian 1954-1959 là một xã hội chính trị rất mạnh, về cơ bản người dân của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà chấp nhận những thiếu thốn và coi đó như sự hy sinh cần thiết. Uy tín của Đảng Cộng sản vẫn rất cao, dân chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của họ và sẵn sàng hy sinh nhân lực-vật lực để chuẩn bị cho mục tiêu thống nhất đất nước mà khi đó tất yếu sẽ phải giải quyết bằng chiến tranh, và phải đối đầu với siêu cường số 1 thế giới là Hoa Kỳ.
Sự tuyệt đối trung thành của dân chúng đạt được trong Cách mạng tháng Tám, được duy trì và củng cố bởi tình hình kinh tế, mức sống thực tế, trình độ giáo dục tăng và tăng vọt. Do kinh tế nhỏ lẻ, nên những chấn chỉnh chính trị ít mang lại hậu quả với kinh tế.
Kinh tế - xã hội
Miền Bắc không thuận lợi về nông nghiệp như miền Nam do đất canh tác ít hơn, lại hay bị lũ lụt. Thời Pháp thuộc, nông nghiệp miền Bắc có những năm thậm chí còn không đủ để nuôi sống người dân chứ không nói đến thặng dư. Trong khi những nông dân trung lưu miền Nam có thể sinh sống khá giả trên đất của họ. Những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, cao su, hạt tiêu, cà phê nằm hầu hết ở miền Nam. Điều này gây khó khăn cho miền Bắc về ngoại thương. Miền Bắc có thuận lợi về khoáng sản, thuận tiện phát triển công nghiệp. Nhưng trước chiến tranh công nghiệp rất nhỏ lẻ, yếu ớt, lại bị tàn phá trong suốt 9 năm chiến tranh Đông Dương.
Thời kỳ này (1954-1960) là thời kỳ phục hồi. Giai đoạn này được nhà nước chia làm hai kế hoạch 3 năm 1954-1957 và 1958-1960. Các kế hoạch phục hồi kinh tế diễn ra thuận lợi, đến hết thời kỳ này đã có các chỉ tiêu ngang mức trước chiến tranh. Cuối thời kỳ này, các nền móng của hàng loạt các công trình lớn được xây dựng, chuẩn bị cho thời kỳ phát triển công nghiệp rất mạnh 1960-1964. Mức sống nhân dân đã ổn định cùng với việc phát triển phúc lợi xã hội. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chú trọng xây dựng con người hơn là phát triển công nghiệp, điều này đóng góp cho sức phát triển lâu dài của miền Bắc.
Nông nghiệp
Ngay sau khi chấm dứt chiến tranh, nhà nước thực hiện nhiều đợt cải cách ruộng đất tịch thu không bồi thường đất đai của những người bị quy là địa chủ chia cho nông dân thiếu đất. Sau đó nhà nước thực hiện chính sách hợp tác hoá nông nghiệp đưa tất cả nông dân miền Bắc vào hợp tác xã. Đồng thời chính quyền cũng tập trung phục hồi nông nghiệp.
Nông nghiệp miền Bắc lạc hậu do thiếu vốn và máy móc nhưng việc hợp tác hóa tạo ra những tổ chức kinh tế nông nghiệp lớn cấp làng xã, tạo điều kiện tập trung các nguồn lực và phát triển thủy lợi, áp dụng kỹ thuật mới. Lúc đó, các hợp tác xã nông nghiệp chưa bị đình đốn như sau này, có thể thấy những tranh ảnh hồi đó miêu tả hàng đoàn người dàn hàng ngang tát nước cứu lúa, điều không thể thực hiện được trước đây.
Phân hóa học nhanh chóng được sử dụng rộng rãi, dù trước đó còn xa lạ với đại bộ phận nông dân. Hệ thống thủy lợi cấp xã huyện ngày nay về cơ bản đã được hình thành thời kỳ này. Các công trình thủy lợi lớn thời cổ như Kênh Nhà Lê (đời Lê), Kênh Thái Sư (đời Trần) được nạo vét và đào thêm các kênh nhánh. Xây dựng rất nhiều các công trình hồ đập nhỏ và vừa như Cấm Sơn, Quan Thần. Công trình lớn Đại thủy nông Bắc Hưng Hải đảm bảo nước tưới cho Bắc Ninh, Hải Dương và Hưng Yên được xây dựng chủ yếu bằng sức người, đến nay vẫn có vai trò sống còn với nông nghiệp ở đó. Đê điều được củng cố, thời kỳ này các đê xung yếu sông Hồng như Đê Đìa được đắp cao rộng gấp đôi trước đây, toàn bộ các điếm canh đê thời cổ được xây lại kiên cố.
Nhìn chung, hệ thống thủy lợi hiện nay của Đồng Bằng Bắc Bộ được xây dựng trong thời kỳ này. Đây là hệ thống quy mô rất lớn và mật độ dày đặc so với thế giới, kế thừa từ cổ đại, một niềm tự hào của người Việt. Sau này mới có máy móc, còn đến hết thời kỳ này, hệ thống vẫn được xây dựng bằng sức người.
Những vùng vành đai trắng rộng lớn được gỡ mìn và phục hóa. Nhà nước tổ chức lực lượng thanh niên và bộ đội phục viên khai hoang những vùng đất mới có do thủy lợi, thành lập những nông trường lớn, thí điểm xây dựng nông nghiệp tiên tiến, ví dụ Nông trường Tam Thiên Mẫu, Nông trường Ba Sao.
Nhà nước động viên một số lượng lớn người di cư, huy động các trí thức y tế giáo dục, điều động các đơn vị bộ đội đến những vùng xa xôi để khai khẩn phát triển. Ví dụ như phát triển Sơn La, Lai Châu và Điện Biên (hiện nay hội những trí thức Hà Nội di cư lên Tây Bắc vẫn sinh hoạt). Một ví dụ nữa là tiễu phỉ và xây dựng Hà Giang. Thị xã Hà Giang xây hoàn toàn mới, đến nay vẫn phần đông là người gốc xuôi. Các vùng núi thấp Bắc Bộ và đất đỏ Phủ Quỳ cũng thành lập các nông trường trồng cây công nghiệp. Ví dụ Nông trường Lục Nam trồng dứa, hàng xuất khẩu rất giá trị hay Nông trường Phủ Quỳ trồng cao su.
Nhà nước khuyến khích và cộng tác với các lái buôn gia súc để chuyển trâu bò về miền xuôi làm sức kéo. Vấn đề này có tầm quan trọng lớn, vì trong chiến tranh, trâu bò bị chết, nhiều nơi nông dân phải đeo ách kéo cầy thay trâu bò. Thông thường, nhà nước không thu thuế và hỗ trợ tiền vận chuyển. Có những lái buôn ở Hưng Yên mỗi chuyến mang đến vài toa xe chở trâu. Việc nhiều gia đình nông dân mua chung trâu bò cũng được khuyến khích để tăng tốc độ phát triển đàn sức kéo. Sau này, việc khuyến khích buôn trâu bò mới bị hạn chế do nhà nước thực hiện chính sách cải tạo tư bản tư doanh. Nhà nước dùng phương pháp truyền thống thời phong kiến để quản lý trâu bò, chống giết thịt.
Ngay năm 1955, nạn đói cơ bản đã được giải quyết, sau đó là những năm được mùa liên tiếp cho đến vụ chiêm 1960 mất mùa. Hết thời kỳ này, miền Bắc đã bắt đầu thu hoạch các cây công nghiệp, sau đó sản lượng tăng cao trong thời kỳ 1960-1964, phục vụ công nghiệp mới và xuất khẩu. Nếu như năm 1955 được gọi là "năm rách", dân chúng phải lột cả vải sơn trên xác máy bay để mặc, thì đến năm 1960 mỗi người dân đã có vài bộ quần áo một năm, hơn thời trước chiến tranh.
Khai khoáng
Các mỏ lớn dễ phục hồi hơn vùng nông thôn, do các công nhân có kỷ luật và các cơ sở công nghiệp xa những vùng có chiến sự. Tuy vậy, giao thông bị phá hủy cản trở tốc độ xây dựng lại các mỏ. Việc mất khách hàng truyền thống tiêu thụ than đá cũng làm chậm sản lượng than và thiếu vốn đầu tư. Tuy vậy, hết thời kỳ này than đá đã sản xuất gần đạt mức trước chiến tranh, năm 1938.
Nhà nước xây dựng đội ngũ trí thức trắc địa và địa chất quy mô có nhiệt tình lao động. Nhờ đó, một số mỏ lớn được phát hiện như mỏ Apatit Lào Cai, các mỏ sắt, mangan cho công nghiệp. Tuy nhiên, phát triển địa chất chỉ mạnh mẽ sau thời này, khi những nhà địa chất mới học xong về nước làm việc.
Các mỏ mới được xây dựng phục vụ kế hoạch phát triển thời kỳ 1960-1965, như các mỏ sắt, mangan, thiếc, than mỡ ở Đông Bắc Bộ phục vụ cho "thành phố gang thép" Thái Nguyên đang xây dựng.
Công nghiệp
Trước chiến tranh (1938), công nghiệp miền Bắc rất lạc hậu và nhỏ bé. Thời kỳ này, một kế hoạch đồng bộ xây dựng công nghiệp mới rất lớn được vạch ra và tiến hành. Song song với việc phục hồi giao thông là tổ chức các nông trường, mỏ khoáng cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy sẽ xây trong kế hoạch. Đến cuối thời kỳ này, một vài nhà máy mới đã đi vào hoạt động, nhưng phần lớn đang được xây dựng. Ví dụ: khu công nghiệp Thượng Đình, Nhà máy Trần Hưng Đạo, Trung Qui Mô, Dệt Nam Định. Những khu công nghiệp lớn chưa từng thấy được động thổ, như thành phố gang thép Thái Nguyên hay liên hợp các nhà máy dệt Nam Định.
Nhìn chung, việc phát triển công nghiệp mới gặp thuận lợi vì đây là thời kỳ ổn định của chế độ xã hội chủ nghĩa. Liên Xô đang chứng minh tính ưu việt của mình bằng sự phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp khổng lồ và hiện đại, bằng hệ thống y tế và giáo dục miễn phí có chất lượng tốt; Trung Quốc chưa rơi vào tình trạng hỗn loạn trong Cách mạng Văn hóa.
Thời kỳ này công nghiệp chưa phát triển nhưng đã giúp người dân sau chiến tranh đỡ cơ cực, các kế hoạch thời này về sau trở thành xương sống của công nghiệp Việt Nam. Việc phục hồi kinh tế với tốc độ cao và các kế hoạch đúng đắn đã làm tốc độ phát triển năm 1960-1964 cao vọt, đến năm 1964, công nghiệp miền Bắc đã vượt hàng chục lần trước chiến tranh (1938).
Giao thông
Sau chiến tranh, hầu như các cầu nhỏ và vừa bị phá hủy, đường sắt bị lột ray, đường bộ bị đào bới cản phá xe địch. Thời kỳ này, công nghiệp phát triển chậm vì phải đợi phục hồi giao thông. Các công ty công trình giao thông lớn ngày nay hầu hết được thành lập thời đó. Trung Quốc đã giúp đỡ nhiều trong việc này (tại đầu cầu Việt Trì cũ vẫn còn bia tưởng niệm liệt sĩ Trung Quốc hy sinh trong khi xây dựng cầu này). Đường giao thông lớn được phục hồi và chuyển từ 6 mét trước chiến tranh thành 8 mét và hơn nữa. Thiết bị được nhập khẩu số lượng lớn. Tiêu chuẩn giao thông thời kỳ này rất nhỏ so với ngày nay, nên toàn bộ các cầu đường xây dựng ngày đó nay đã làm lại.
Hết thời kỳ này, hệ thống giao thông đã hoạt động như trước chiến tranh, khổ đường và các cầu mở rộng so với trước đây. Đường sắt đến Vinh, các cảng biển và đường sắt quốc tế là yếu tố tiên quyết để nhập khẩu hàng hóa trong thời kỳ xây dựng lớn sau đó.
Các phương tiện giao thông bộ hết sức khan hiếm, đáng kể nhất là số xe tải thu được của Pháp trong chiến tranh và số xe tải có được do viện trợ. Việc tổ chức sản xuất xe đạp, xe máy, máy kéo... mới trên kế hoạch. Các nhà máy đóng tàu thuyền ít và hoạt động chậm. Nhà nước thành lập các hợp tác xã đóng tàu thuyền, chủ yếu bằng phương pháp thủ công.
Cảng Hải Phòng được lắp thiết bị mới. Rất nhiều cảng bí mật như Mũi Chùa, Cái Lân được xây dựng phục vụ chiến tranh. (Cảng Mũi Chùa ở Tiên Yên Quảng Ninh có kho nằm trong lòng núi, nay đã bịt kín. Cảng Cái Lân nay trở thành khu công nghiệp lớn). Các cảng bí mật này đảm bảo nhập hàng hóa và chuyển vũ khí vào Nam khi Mỹ đánh phá ách liệt. Một số cảng dân sự lớn được nạo vét như Hạ Long, Cửa Ông, Cảng nổi Bái Tử Long, Bến Thủy, mực nước sâu, luồng lạch tốt hơn cảng Hải Phòng - cảng duy nhất trước chiến tranh.
Trong thời kỳ này cũng đã mở Đường hạnh phúc lên vùng cao Hà Giang năm 1959. Con đường dài 140 km trên vách đá nhưng chỉ có hai xe tải chạy than là công cụ cơ giới khi làm đường. Khi làm Đường Hạnh Phúc phải treo công nhân khoan lên vách đá dựng đứng đã nói lên những khó khăn và dũng cảm của ngày đó.
Thương mại
Ban đầu, nội thương vẫn trong tay những cửa hàng cá nhân buôn bán nhỏ lẻ, hoạt động chủ yếu trong các chợ. Các chính sách cải tạo vì thế ít ảnh hưởng đến nội thương cho đến khi xuất hiện các hợp tác xã mua bán và công ty thương nghiệp của nhà nước với nguồn hàng dồi dào hơn các cá nhân. Các tổ chức thương nghiệp nhà nước xuất hiện cùng với chính sách phân phối hạn chế chặt chẽ thương nghiệp. Ngoài các công ty thương nghiệp nhà nước, mọi hình thức thương mại khác không do nhà nước thực hiện đều bị coi là bất hợp pháp. Người dân mua hàng hoá bằng cách cầm phiếu mua hàng được phân bổ đến các cửa hàng. Chính sách này thực chất là một hình thức phân phối theo đầu người của thời chiến. Chỉ có những hàng hóa bình dân tối cần thiết được sản xuất và mua bán. Các hàng hóa được coi là xa xỉ bị cấm đoán. Tuy thắt chặt nội thương, nhưng lượng hàng hóa tăng cùng phát triển kinh tế vẫn làm dân chúng dễ chịu hơn những năm tháng trước chiến tranh và chiến tranh.
Ngoại thương phát triển nhảy vọt do nhu cầu nhập khẩu thiết bị. Tuy nhiên, giao thông chưa được phục hồi không cho phép số lượng hàng hóa lớn. Chủ yếu các hàng nhập lúc này là phương tiện và vật liệu cho các công trình và giao thông. Một số hàng nhập khẩu là thiết bị nông nghiệp, công nghiệp cho các cơ sở cung cấp nguyên liệu, dành cho các nhà máy sắp được xây dựng trong kế hoạch. Nguồn thanh toán chủ yếu là viện trợ không hoàn lại. Chính quyền đã sớm nhìn ra những lợi thế ngoại thương. Cuối giai đoạn này, một số hàng xuất khẩu đã xuất hiện, như hoa quả nhiệt đới, cao su... nhưng còn rất ít.
Y tế, giáo dục
Trong Kháng chiến chống Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành lập Việt Nam Học Hiệu ở gần biên giới, bên trong lãnh thổ Trung Quốc để duy trì ngành giáo dục.
Đến những năm 1954-1960, một kế hoạch khổng lồ cho phát triển y tế và giáo dục được xây dựng, bắt đầu được tiến hành và hoàn thành khoảng đầu những năm 1970. Kết quả: số lượng giáo viên, y bác sĩ, trường học, bệnh viện, số giường bệnh và chỗ ngồi học tăng 30-50 lần.
Khẩu hiệu của Hồ Chí Minh là: "Vì mục đích mười năm phải trồng cây, vì mục đích trăm năm phải trồng người". Khẩu hiệu này đã động viên dân chúng tham gia dạy và học, kể cả trong hoàn cảnh thời đó nhiều gia đình nông dân lúc đó không muốn cho con cái đi học mà để chúng ở nhà làm việc, họ chưa từng biết chữ và chưa nhận thấy giá trị của kiến thức. Chính phủ đề cao chủ nghĩa dân tộc và tinh thần đoàn kết Bắc-Nam, phù hợp với hoàn cảnh chia cắt về chính trị khi đó.
Các trường Đại học Sư phạm, Đại học Bách Khoa, Đại học Tổng hợp, Đại học Y, Đại học Dược được thành lập và mở rộng. Việc học hoàn toàn miễn phí, hình thức tuyển chọn là cử tuyển. Sinh viên có tiêu chuẩn lương thực và vải mặc như người đi làm. Những học sinh giỏi nhất được cử đi học ở nước ngoài từ trong Kháng chiến chống Pháp. Điều này giải phóng một nguồn lực tri thức lớn trong nông dân. Những trí thức trưởng thành giai đoạn này về sau là lực lượng lãnh đạo kinh tế-kỹ thuật của Việt Nam. Với người lớn, phong trào Bình dân học vụ và các lớp bổ túc, xóa nạn mù chữ mở rộng khắp, hết thời kỳ này về cơ bản đã xóa được nạn mù chữ.
Các trí thức đi du học thời này khi trở về đã đặt nền móng cho khoa học của nước Việt Nam mới. Những nước đào tạo nhiều cho Việt Nam là Tiệp Khắc, Liên Xô, Trung Quốc. Thời kỳ sau thì gần như tất cả các nước xã hội chủ nghĩa đào tạo cho Việt Nam. Từ thời kỳ này, người Việt Nam có cơ hội học tập nghiên cứu trong những trường đại học và viện nghiên cứu hàng đầu thế giới.
Đoàn Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô đã đến miền Bắc tìm hiểu và giúp xây dựng kế hoạch phát triển các cán bộ có trình độ cao.
Trước đây, nhiều tỉnh đông dân như Thái Bình chưa có trường cấp 3 (trung học), điều này gây khó khăn cho học sinh, do phải đi trọ học tốn kém. Cùng với số lượng thầy giáo mới được đào tạo, số lượng các trường tăng theo cấp số nhân. Việc tăng số lượng các trường diễn ra cùng mới việc tăng mức phổ cập giáo dục, từ xóa nạn mù chữ đến hết cấp 3. Hệ thống trường giáo dục phổ thông ngày nay được hình thành hoàn tất khoảng những năm 1970.
Khoa học y tế Việt Nam khá phát triển, ngay từ thời kỳ này đã chế tạo được các sản phẩm tiên tiến như vắc-xin, kháng sinh. Tốc độ xây dựng các bệnh viện cũng nhanh như trường phổ thông. Trước chiến tranh nhiều tỉnh chưa có bệnh viện, hệ thống các bệnh viện ngày nay được hình thành xong khoảng những năm 1970. Việc chữa bệnh thời kỳ này hoàn toàn miễn phí.
Ở miền núi, y tế và giáo dục được các đơn vị bộ đội, biên phòng đảm nhiệm. Nhà nước động viên những đợt giáo viên và y bác sĩ di cư đến vùng núi xa xôi, như Tây Bắc, Hà Giang.
Sự phát triển về y tế giáo dục trong thời kỳ này là một thành công nhảy vọt có tầm quan trọng ảnh hưởng lớn tới các mặt khác trong xã hội, để đến những năm 1960 sau đó có được các cán bộ trình độ cao. Đến khi hòa bình lập lại, miền Bắc mới có 700 cán bộ chuyên môn có trình độ đại học. Nhưng sáu nǎm sau, đã đào tạo 2.500 cán bộ có trình độ đại học và trên 10.000 cán bộ trung cấp chuyên nghiệp. Năm 1960 có 1.815.000 học sinh phổ thông, 2.400 lưu học sinh đang học ở nước ngoài, trong nước có 9 trường đại học với 11.070 sinh viên, có 50 trường trung cấp chuyên nghiệp với 26.330 học sinh. Trong 5 nǎm, sẽ có thêm gần 25.000 cán bộ tốt nghiệp đại học và gần 10 vạn cán bộ tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp.
Quân đội
Tổ chức lại về mặt chính trị
Quân đội Nhân dân Việt Nam được tổ chức lại về mặt chính trị để bảo đảm trung thành tuyệt đối với đảng. Một cán bộ lý luận cấp cao nhất, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, được biệt phái thành lập Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam nhằm thực hiện chính sách của đảng trong quân đội. Công tác chính trị và giáo dục lý tưởng được đặt ngang hàng công tác quân sự. Nhiều sĩ quan xuất thân từ thành thị, có kinh nghiệm tác chiến và học vấn tốt đã bị thay thế vì các tiêu chuẩn như thành phần lý lịch và không đủ độ tin tưởng của đảng. Thay vào đó là lớp sĩ quan xuất thân từ nông dân. Tuy nhiên đó là một xáo trộn không lớn, chủ yếu chỉ diễn ra trong hàng ngũ cán bộ sơ cấp và trung cấp. Hàng ngũ tướng lĩnh chỉ huy của quân đội không bị xáo trộn nhiều. Sau này, cùng với sửa sai, việc thanh lọc này được phục hồi, chỉ còn những cán bộ có anh em, bố mẹ theo đối phương mới bị loại bỏ. Trong chuyện này có sự can thiệp của những lãnh tụ cấp cao nhất có tư tưởng thực tế như Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp.
Chính quy hoá
Khoa học quân sự Việt Nam rất phát triển, thực tiễn 9 năm kháng chiến đã kết hợp chặt chẽ binh thư cổ đại và chiến tranh hiện đại. Những năm hòa bình lập lại, khoa học quân sự được đúc kết từ thực tiễn vào sách vở thành tài liệu, nghiên cứu, giảng dạy cùng với quân đội đang được hiện đại hóa. Quân đội Nhân dân Việt Nam từ đó hết sức thiện chiến ở cả hai mức, cá nhân từng chiến sĩ và khoa học chỉ huy. Phương pháp xây dựng công sự hình râu tôm phân nhánh, phương pháp tiến quân ba mũi là những độc đáo đặc sắc của khoa học quân sự này.
Cũng như dân sự, hệ thống các trường quân đội được thành lập để phát triển nhân sự. Cũng rất nhiều cán bộ trí thức được cử đi đào tạo ở nước ngoài. Sự phát triển của xã hội là nền tảng phát triển quân đội..
Vệ quốc đoàn Việt Minh ở giai đoạn trước, vừa được chính quy hóa, vừa được tiếp viện gần 8 vạn bộ đội tập kết từ miền nam ra, trở nên rất mạnh mẽ cả về chuyên môn và tư tưởng, sự trung thành. Rất nhiều người miền nam tham gia hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng, trong khi một phần trong những người còn lại được huấn luyện để chuẩn bị gửi vào chiến trường.
Hiện đại hoá
Thời kỳ này, số lượng vũ khí mới ít, trình độ khoa học quân sự chưa cao làm cản trở đáng kể việc phát triển các binh chủng hiện đại. Cùng thời kì, Việt Nam Cộng hòa đã được trang bị nhiều phương tiện hiện đại hơn. Nhưng việc phát triển vững chắc dựa trên nòng cốt là phát triển con người đem lại những thuận lợi cho tương lai. Ví dụ, đến năm 1965, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những đơn vị máy bay tiêm kích, radar, tên lửa của Liên Xô viện trợ trong khi Việt Nam Cộng hòa cũng nhận viện trợ các kỹ thuật đó ở người Mỹ với tổng số viện trợ quân sự trong 6 năm (1955-1960) là 1,0289 tỷ USD.
Năm 1954, khi kết thúc chiến tranh tại Miền Bắc Việt Nam, Quân đội Nhân dân Việt Nam chủ yếu được trang bị súng chiến lợi phẩm theo tiêu chuẩn phương Tây (xem Kháng chiến chống Pháp). Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đã có một số cối pháo tiêu chuẩn Liên Xô viện trợ như: cối 82mm, pháo phản lực, pháo phòng không 37 mm, nhưng số lượng vẫn rất hạn chế. Súng cầm tay cũng đã có một lượng không đáng kể được viện trợ bởi các nước xã hội chủ nghĩa, như PPSh-41 (tên Việt Nam là K-50).
Một trong những thành công của thời kỳ 1954-1960 là tìm được phương án biên chế súng đạn tiêu chuẩn cho bộ binh. Các vũ khí bộ binh chỉ được nhập khẩu đủ sau đó, nhưng cơ cấu sử dụng súng đạn đã có. Các súng bộ binh phương Tây chiến lợi phẩm (là vũ khí chủ yếu đến lúc này) dần đổi sang các súng của khối Xã hội chủ nghĩa dùng tiêu chuẩn Liên Xô.
Chính vì phải thay đổi tiêu chuẩn vũ khí nên cần nhập khẩu số lượng rất lớn vũ khí, đạn dược, khí tài và tổ chức dự trữ đạn dược, đào tạo nhân sự. Điều này đến trong khi giao thông còn tồi tệ dẫn đến hiện đại hóa quân đội chậm chạp, các vũ khí nặng càng chậm hơn, chỉ tương đối hoàn thành năm 1966.
Đến năm 1958 thì cơ cấu quân sự xuất hiện trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam đã hình thành. Lực lượng quân chủ lực trung ương là những đơn vị đầu tiên đổi vũ khí cũ (chiến lợi phẩm từ Pháp) sang vũ khí mới được viện trợ. Năm 1958, 2/3 súng của lực lượng quân chủ lực đã đổi tiêu chuẩn. Chính vì vậy, đến năm 1966, 60% lực lượng chủ lực Quân đội Nhân dân Việt Nam đã được trang bị súng trường tấn công AK-47, số còn lại dùng cạc bin SKS. Súng AK-47 được xem là vượt trội hơn vũ khí cá nhân tiêu chuẩn của quân Mỹ trước năm 1966 là súng trường M14 (năm 1966 quân Mỹ mới trang bị hàng loạt súng trường tấn công M16).
Các kế hoạch thiết kế và chế tạo vũ khí mới vẫn được duy trì từ trước Kháng chiến chống Pháp, nhưng thời điểm này chậm phát triển do vũ khí nhập khẩu đã xuất hiện. Các đại bác và súng chống tăng không giật (RPG) mới nhập rất thích hợp. Quân đội Nhân dân Việt Nam chuyển sang nghiên cứu sử dụng và sao chép, cải tiến các súng nhập khẩu. Nhưng chỉ sau 1960 mới sản xuất được số lượng lớn vũ khí, do công nghiệp thời này còn yếu.
Trong khi súng trường tấn công mới chưa phổ biến, các binh chủng hiện đại chưa về nước thì pháo binh và phòng không đã phát triển trước. Quân đội Nhân dân Việt Nam từ bỏ các pháo phương Tây chiến lợi phẩm như lựu pháo 105mm, cối 81mm, thay bằng các pháo khối Xã hội chủ nghĩa tiêu chuẩn Liên Xô như cối 82mm, pháo nòng dài chống tăng 85mm Đ44, lựu pháo 122mm... Các cán bộ kỹ thuật, kế toán, trinh sát, thông tin được chọn trong số các trí thức quân đội và cử đi du học. Sau này có những vũ khí được thiết kế riêng cho chiến trường Việt Nam như ĐKB của Liên Xô. Trong giai đoạn này, số lượng pháo tăng gấp nhiều lần. Lực lượng phòng không tách khỏi pháo binh năm 1956 trở thành một binh chủng độc lập. Trong khi đó các đơn vị bộ binh dần xây dựng kiểu hợp thành, gồm các thành phần pháo binh, phòng không riêng, đóng vai trò lực lượng cơ động mạnh.
Chuẩn bị chiến tranh
Những nỗ lực thực hiện Hiệp định Genève của miền Bắc bất thành. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thẳng tay đàn áp những người cộng sản ở miền Nam và từ chối tất cả các đề nghị hợp tác của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Lực lượng Cộng sản miền Nam hoạt động ngày càng mạnh, đòi hỏi sự hỗ trợ của miền Bắc.
Thời kỳ này là thời kỳ khủng bố trắng đen tối, nhiều đoàn cán bộ miền Nam đã vượt biển về trung ương xin vũ khí bằng tàu nhỏ. Tuyến đường biển hình thành, quan trọng với vùng ven Trung Bộ như Bình Định, Quảng Nam, Quảng Ngãi. (xem Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển).
Giai đoạn này miền Bắc bắt đầu bí mật cho tiến hành phát triển tuyến đường tiếp vận chiến lược: Đường Trường Sơn - còn được gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh. Đây sẽ là một tuyến vận chuyển chiến lược đảm bảo nhu cầu chiến tranh sẽ được mở rộng tại miền Nam sau này. Nhưng vào lúc đó tuyến đường này vẫn chỉ là các lối mòn trong rừng cho giao liên và các toán cán bộ vào Nam.
Các hoạt động ngoại giao đảm bảo một con đường thuận lợi qua Campuchia, hàng đến Campuchia bằng đường biển và chuyển vào miền Nam bằng đường bộ.
Nói chung, các nỗ lực tranh đấu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào thời kỳ này là đấu tranh chính trị và ngoại giao để đòi tổng tuyển cử theo Hiệp định Genève. Miền Bắc ở giai đoạn này đang tích luỹ nhưng chưa đủ khả năng để tiến hành chiến tranh tại miền Nam.
Ngoại giao
Ngay từ trong Kháng chiến chống Pháp, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nỗ lực tranh thủ ngoại giao. Chiến dịch Biên giới năm 1950 kết thúc thắng lợi, nối liền miền Bắc với khối Xã hội chủ nghĩa, Trung Quốc, Liên Xô và Đông Âu. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Mao Trạch Đông đến dự sinh nhật thứ 70 của Stalin, sau đó ký các hiệp định hợp tác. Trung Quốc và Liên Xô đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1950. Sau này, đây là nguồn hỗ trợ lớn để Việt Nam Dân chủ Cộng hòa duy trì cuộc chiến lấu dài thống nhất đất nước. Trong thời kỳ này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn được nhiều nước khác đặt quan hệ ngoại giao.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quan hệ mật thiết với Campuchia, nước này sau này sẽ trở thành hậu phương lớn của chiến trường miền Nam, đường vận chuyển đầu tiên vào Nam. Một số hoàng thân Lào để gia đình của họ trú tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong khi họ hoạt động cách mạng tại Lào.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một tấm gương lớn cho các nước Á Phi giải phóng dân tộc. Nhưng quan hệ còn rất ít. Lúc này mới có những bước đi đầu tiên với Phong trào Không liên kết.
Viện trợ nước ngoài
Khối lượng hàng quân sự Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa (bao gồm Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary, Bulgaria, România, Đông Đức, Bắc Triều Tiên và Cuba) viện trợ từ năm 1955 đến 1975, qua từng giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1955-1960: tổng số 49.585 tấn, gồm: 4.105 tấn hàng hậu cần, 45.480 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: viện trợ 29.996 tấn, Trung Quốc viện trợ 19.589 tấn.
Giai đoạn 1961-1964: tổng số 70.295 tấn, gồm: 230 tấn hàng hậu cần, 70.065 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 47.223 tấn: Trung Quốc 22.982 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 442 tấn.
Giai đoạn 1965-1968: tổng số 517.393 tấn, gồm: 105.614 tấn hàng hậu cần, 411.779 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 226.969 tấn, Trung Quốc: 170.798 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 119.626 tấn.
Giai đoạn 1969-1972: tổng số 1.000.796 tấn, gồm: 316.130 tấn hàng hậu cần, 684.666 tấn vũ khí, trang bị-kỹ thuật; trong đó, Liên Xô 143.793 tấn, Trung Quốc 761.001 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác 96.002 tấn.
Giai đoạn 1973-1975: Tổng số 724.512 tấn, gồm: 75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí, trang bị - kỹ thuật; trong đó, Liên Xô: 65.601 tấn, Trung Quốc: 620.354 tấn, các nước xã hội chủ nghĩa khác: 38.557 tấn.
Như vậy, qua 20 năm, các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; khối lượng hàng hóa quân sự trên quy đổi thành tiền, tương đương 7 tỉ rúp. Việc tự lực sản xuất vũ khí của Quân đội Nhân dân Việt Nam chủ yếu hướng vào quân trang quân phục và vũ khí cá nhân, còn vũ khí hạng nặng phụ thuộc phần nhiều vào viện trợ từ các quốc gia đồng minh.
Chú thích |
Tình hình Miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1959 là một giai đoạn của Chiến tranh Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử quân sự Việt Nam hiện đại, giai đoạn này còn được gọi là "Chiến tranh một phía". Đây cũng là một phần của chiến lược "Trả đũa ồ ạt" do Tổng thống Hoa Kỳ Dwight D. Eisenhower và ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles chủ trương.
Việt Nam Cộng hòa
Thành lập
Theo hiệp định Genève, Quốc gia Việt Nam theo quân Pháp tập kết về miền Nam Việt Nam, quân Pháp sẽ rút dần sau hai năm và Việt Nam sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ Eisenhower thấy rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành, nên Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc tuyển cử không thể diễn ra. Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do Edward Lansdale, người của CIA và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953, giúp huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam (sau là Việt Nam Cộng hòa); xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippin; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch "bình định Việt Minh và các vùng chống đối" Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ thay thế dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam ở miền Nam. Tháng 1-1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho quân đội Quốc gia Việt Nam.
Tính ra, từ năm 1954 đến năm 1960, Mỹ đã viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa 7 tỷ đôla, trong đó viện trợ quân sự là 1,5 tỷ đôla. Trong những năm 1954-1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu đôla giúp trang bị cho các lực lượng thường trực Việt Nam Cộng Hòa, gồm 170.000 quân nhân và lực lượng cảnh sát 75.000 người; 80% ngân sách quân sự của Quốc gia Việt Nam là do Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả 800 chuyến tàu chờ vũ khí và phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này giúp Quốc gia Việt Nam đủ sức duy trì bộ máy hành chính và quân đội khi không còn viện trợ của Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ.
Với sự trợ giúp tích cực của Hoa Kỳ, thủ tướng vừa được bổ nhiệm Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng ổn định được tình hình. Sau cuộc trưng cầu ý dân ngày 23 tháng 10 năm 1955 Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống và miền Nam (lúc đó có tên là Quốc gia Việt Nam) trở thành Việt Nam Cộng hòa với nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam. Quốc trưởng Bảo Đại, vì không phải là đối thủ của Ngô Đình Diệm, đã bị phế truất và phải đi lưu vong.
Kinh tế, văn hoá, xã hội
Giai đoạn 1954-1959 là thời đỉnh cao của chế độ Việt Nam Cộng hoà. Với mục đích xây dựng một quốc gia phi cộng sản và đối trọng với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, chính phủ Hoa Kỳ đã viện trợ những khoản tiền và hàng hóa lớn cho Việt Nam Cộng hoà. Tình hình chính trị tương đối ổn định, người cộng sản chưa phát động chiến tranh du kích, an ninh nông thôn chưa xấu đi như các giai đoạn sau này tạo điều kiện cho miền Nam Việt Nam phát triển trên mọi lĩnh vực.
Trong thời kỳ này, Chính phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm đã đạt được một số thành quả quan trọng: kinh tế phục hồi và phát triển nhanh, hệ thống đường sá, cơ sở hạ tầng và các khu công nghiệp được xây dựng, y tế và giáo dục phát triển, các cơ sở văn hóa được thành lập, nạn mù chữ tiếp tục bị xoá bỏ. Chính phủ giúp hơn 800.000 dân miền Bắc di cư ổn định đời sống, đời sống của dân chúng được cải thiện...
Tuy vậy, đường lối Cải cách điền địa mà Ngô Đình Diệm đề ra bị nông dân miền Nam phản đối dữ dội. Trong khi Việt Minh đã giảm thuế, xóa nợ và tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nghèo, Ngô Đình Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở lại. Đến cuối thời Ngô Đình Diệm, 10% chủ đất đã nắm giữ 55% đất canh tác cả miền Nam. Nông dân phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất và phải nộp cho quân đội. Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô Đình Diệm bị mắng chửi là "tàn nhẫn hệt như bọn Pháp". Đất của các Giáo xứ Công giáo thì còn được Ngô Đình Diệm thiên vị, cho miễn thuế và hạn mức. Kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ phe Việt Minh, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.
Văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Mỹ được giới thiệu rộng rãi và xâm nhập mạnh vào miền Nam. Tuy nhiên, tầng lớp trí thức, công chức miền Nam vẫn chịu ảnh hưởng của văn hoá Pháp nhiều hơn vì nhiều người trong số họ từng được Pháp đào tạo. Hơn nữa, Pháp có các mối liên hệ văn hoá với Việt Nam lâu năm và sâu sắc hơn Mỹ. Mặt khác, lối sống hưởng thụ kiểu Mỹ vẫn theo chân phim ảnh, vật phẩm và các cố vấn Mỹ xâm nhập vào miền Nam, dẫn tới sự nảy nở của các tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm... dù bị Chính quyền Ngô Đình Diệm tìm cách hạn chế tối đa bằng luật pháp.
Chính trị
Tổng thống Ngô Đình Diệm, với sự trợ giúp của người em là Cố vấn Ngô Đình Nhu, đã nhanh chóng thanh lọc bộ máy cầm quyền, đưa những người trung thành với họ vào các vị trí quan trọng trước kia vẫn dành cho người Pháp. Việc loại bỏ ảnh hưởng của Pháp làm cho Ngô Đình Diệm có tiếng là "người theo chủ nghĩa dân tộc".
Là tổng thống đầu tiên, Ngô Đình Diệm đã để lại nhiều dấu ấn cho chính trị của miền Nam, kể cả sau khi chết. Trong một nhà nước tập quyền như Việt Nam Cộng hoà lúc bấy giờ thì chính trị của quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các đặc tính cá nhân của Tổng thống. Ngô Đình Diệm, ngay trong thời kỳ sơ khởi này của chế độ, đã bộc lộ những điểm yếu mà sau đó đã bị đối thủ khai thác tối đa để dùng trong các chiến dịch phản tuyên truyền làm bất ổn chính thể của ông và, cuối cùng, đưa đến sự thất bại của chính thể đó.
Tất cả các nhà lãnh đạo của Việt Nam Cộng hoà, từ Ngô Đình Diệm cho đến Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh sau này, không ai có được uy tín cao trong dân chúng như là những người hy sinh đấu tranh cho độc lập cho dân tộc như Hồ Chí Minh. Trước năm 1945, họ là quan chức của Triều đình Huế hoặc chính quyền bảo hộ Pháp, sau này trở thành quan chức của Quốc gia Việt Nam. Họ xuất thân là các công chức, trí thức chịu nhiều ảnh hưởng Tây phương, xa rời với tâm lý của nông dân. Họ rất yếu trong công tác dân vận, thậm chí khi xuống địa phương gặp quần chúng họ lại nói tiếng Pháp. Ngô Đình Diệm còn thụ hưởng nghi lễ rửa chân làm Hoàng đế của người Thượng. Trong khi đó cách dân vận của những người Cộng sản thì lại hợp lý hơn: cán bộ của họ "ba cùng" (cùng ăn, cùng ở, cùng làm) với nông dân, cán bộ người Kinh của họ "cà răng căng tai" cùng người Thượng.
Lực lượng chính trị của Việt Nam Cộng hoà mạnh ở các thành phố lớn và tại các vùng nông thôn mà người cộng sản không có nhiều ảnh hưởng như các vùng có đông tín đồ Cao Đài, Hoà Hảo, Thiên chúa giáo...
Chính phủ Việt Nam Cộng hoà vướng vào một nghịch lý. Muốn xây dựng miền Nam thành một nền dân chủ theo mô hình phương Tây trước hết phải ổn định chính trị, thiết lập lại trật tự xã hội, phát triển kinh tế với sự hỗ trợ của Mỹ. Nhưng càng cố gắng thiết lập trật tự, dẹp bỏ các lực lượng chống đối thì họ càng bị coi là tay sai, độc tài, gia đình trị. Những người cộng sản và những thành phần chính trị hợp pháp đối lập với chính phủ Việt Nam Cộng hoà lúc đó càng có lý do để chỉ trích chính phủ và gia tăng các hoạt động chống đối của họ. Để đối phó, chính phủ Việt Nam Cộng hoà càng cứng rắn hơn nữa. Cứ như thế tình hình chính trị miền Nam ngày càng bất ổn, chính phủ Ngô Đình Diệm càng bị lên án độc tài, gia đình trị.
Quân đội
Việt Nam Cộng hoà cũng thành công trong việc thống nhất lại các lực lượng Quân đội Quốc gia vốn là nhiều mảnh vụn, nhiều phe cánh khác nhau khi còn là quân đội của Quốc gia Việt Nam trong thành phần quân đội Liên hiệp Pháp. Việc thống nhất này diễn ra bằng bạo lực quân sự, ít sử dụng các yếu tố chính trị, và do tổng thống Ngô Đình Diệm đích thân chỉ đạo. Nổi bật nhất là việc Chính phủ Ngô Đình Diệm đã nhanh chóng bình định các lực lượng vũ trang cát cứ của nhóm Bình Xuyên, của các giáo phái như Hòa Hảo, Cao Đài... và những người cộng sản còn lại đang ẩn mình trong các giáo phái. Phần lớn các lực lượng quân sự giáo phái, hoặc phải giải tán, hoặc chấp nhận hợp nhất với lực lượng quân đội chính phủ. Ngô Đình Diệm trọng dụng rất nhiều quan chức người miền bắc (bắc 54 - tức những người di dời vào nam trong giai đoạn 1954-1956) vào cả bộ máy chính trị và quân đội.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa được thành lập và cấp tốc trang bị và huấn luyện với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ. Quân đội này, vào thời điểm đó có trang bị vũ khí được xem là đứng đầu khu vực Đông Nam Á và vượt trội hơn Quân đội Nhân dân Việt Nam - đối thủ đang tiềm tàng ở miền Bắc của họ.
Thi hành chính sách chống Cộng
Sau khi thực hiện Hiệp định Genève, lực lượng Việt Minh tại miền Nam (chỉ chung cho tất cả những người kháng chiến cũ) còn khoảng 100.000 người. Lúc này những người cộng sản chủ trương đấu tranh chính trị đòi thực hiện Tổng tuyển cử, chống các chương trình xã hội của chính quyền Ngô Đình Diệm như "Cải cách điền địa", "Cải tiến nông thôn" và bảo vệ cán bộ cách mạng nhưng vẫn sẵn sàng hoạt động vũ trang bất cứ lúc nào với số vũ khí được chôn giấu từ trước. Chính phủ Việt Nam Cộng hoà lo ngại và đề phòng trước hoạt động của những người cộng sản tại miền Nam. Chính vì thế Chính phủ Việt Nam Cộng hoà tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, liên gia phòng vệ, dồn dân lập ấp chiến lược... một cách tàn bạo với mục tiêu kêu gọi và ép buộc những người cộng sản ly khai chủ nghĩa cộng sản đồng thời tiêu diệt những người trung thành với lý tưởng của họ. Những biện pháp cứng rắn nhất được áp dụng, ví dụ ngày 16-8-1954, quân Việt Nam Cộng hoà đã nổ súng trấn áp đoàn biểu tình ở thị xã Gò Công, bắn chết 8 người và 162 người bị thương.
Từ tháng 5-1955 đến tháng 5-1956, Ngô Đình Diệm phát động "chiến dịch tố cộng" giai đoạn 1 trên quy mô toàn miền Nam; tháng 6-1955, mở chiến dịch Thoại Ngọc Hầu càn quét những khu từng là căn cứ kháng chiến chống Pháp của Việt Minh. Tháng 8-1956, Đảng Cần lao Nhân vị của Ngô Đình Diệm tiến hành thực hiện "Tố cộng - diệt cộng" giai đoạn hai với khẩu hiệu: "Tiêu diệt nội tuyến, diệt trừ nội tâm, đạp lên oán thù để thực hiện dân chủ nhân vị quốc gia".
Hành động của chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã không tính đến các đặc điểm tâm lý và quyền lợi của dân chúng cũng như hoàn cảnh lịch sử: Việt Minh vừa thắng trong chiến tranh Chiến tranh Đông Dương. Bằng cách này chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã làm biến dạng mô hình xã hội truyền thống và đẩy những người kháng chiến chống Pháp trước đây ra rừng lập chiến khu. Đồng thời đây là cơ hội rất tốt cho những người Cộng sản tuyên truyền coi chính quyền Việt Nam Cộng hoà là "tay sai đế quốc".
Sau 3-4 năm đỉnh cao, bắt đầu từ năm 1958, chính phủ Việt Nam Cộng hoà bắt đầu phải đối phó với những khó khăn chính trị, quân sự ngày càng khó giải quyết, nhất là khi những người cộng sản gia tăng các hoạt động phản công của họ.
Ngày 23-3-1959 Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt miền Nam "trong tình trạng chiến tranh". Tháng 4-1959, chính quyền Ngô Đình Diệm thông qua đạo luật 91, được ban hành ngày 6-5-1959 mang tên "Luật 10-59" về việc thành lập các toà án quân sự đặc biệt để xử những người cộng sản. Theo luật 10-59, bị can có thể được đưa thẳng ra xét xử không cần mở cuộc điều tra, án phạt chỉ có hai mức: tử hình hoặc lao động khổ sai, xét xử kéo dài 3 ngày là tối đa, không có ân xá hoặc kháng án. Dụng cụ tử hình ở một số ít địa phương có cả máy chém. Từ 25-4 đến ngày 10-5, Việt Nam Cộng hoà phát động chiến dịch "Đồng tâm diệt Cộng", tổ chức càn lớn khắp miền Nam.
Một điều phi lý, là số lượng thành viên Việt Minh còn lại ở miền nam chỉ có khoảng 10 vạn, nhưng số người bị bắt giữ và xét xử lại gấp nhiều lần, chứng tỏ sự lộng hành, oan sai trong đạo luật.Theo Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng thì "Trong những năm 1954 - 1959, ở miền Nam đã có 466.000 đảng viên và những người yêu nước bị bắt giam, 400.000 người bị đưa đi đày và 68.000 người bị giết."
Vấn đề sắc tộc
Một bộ phận dân tộc miền núi cũng không ủng hộ Chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Theo nhận định của đảng cộng sản: "Ảnh hưởng của chúng ngay cả trong từng lớp trên người Thượng còn kém hơn Pháp trước đây nhiều"
Vấn đề tôn giáo
Các tôn giáo Hòa Hảo, Cao Đài không phải chỗ dựa chính chính quyền Việt Nam Cộng hòa, khá đông lựa chọn thái độ trung lập. Theo nhận định của Đảng cộng sản về Công giáo: "Trước hoà bình tổng số đồng bào Công giáo chỉ khoảng 324.630, nay cộng thêm vào số đồng bào miền Bắc di cư vào có khoảng 711.714 (theo tài liệu của báo chí miền Nam). Mấy năm qua Mỹ - Diệm cố gắng phát triển Công giáo để làm hậu thuẫn cho chúng. Chúng đạt được một số kết quả ở vài nơi ở Liên khu V; trong những vùng bị khủng bố nặng nề, có nhiều người vào Công giáo để tránh khủng bố; ở Nam Bộ cũng làm như thế, nhưng Công giáo không phát triển nổi. Số Công giáo người miền Nam, nhất là ở Nam Bộ, trước đây đoàn kết tốt với đồng bào lương và tham gia kháng chiến, đến nay nói chung quan hệ tốt đó vẫn được duy trì. Những cha cố Công giáo di cư vào không lôi kéo được họ. Công giáo di cư khi mới vào nói chung đều ủng hộ Diệm, tích cực chống ta".. Các tín đồ tôn giáo (Cao Đài, Hoà Hảo, Phật giáo, v.v.), đại đa số là nông dân, đều có mâu thuẫn với chính quyền Mỹ - Diệm về quyền lợi dân tộc, quyền lợi tôn giáo và quyền lợi giai cấp. Ngay cả trong Công giáo, cũng có bộ phận theo Diệm và có bộ phận chống Diệm.
Tổng thống Ngô Đình Diệm có lực lượng chính trị hậu thuẫn mạnh ở thành thị là lực lượng Công giáo, chủ yếu là các giáo dân di cư từ miền Bắc. Tuy nhiên Công giáo là tôn giáo mới du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ XVI, số tín đồ Công giáo ít hơn nhiều so với các tôn giáo khác đã tồn tại ở Việt Nam từ lâu đời. Tổng thống Ngô Đình Diệm là người Công giáo, lại bố trí nhiều nhân vật Công giáo vào chính phủ nên ông bị kết tội thiên vị tôn giáo của mình. Khi xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo năm 1963, sau khi các cuộc đàm phán đều không mang lại hiệu quả , Tổng thống Ngô Đình Diệm đã chọn giải pháp vũ lực để giải quyết khủng hoảng nên tự làm mất sự ủng hộ cả trong và ngoài nước, và gây ra những xáo trộn rất lớn cho chính trường và xã hội. Cũng chính điều này làm khởi phát cuộc đảo chính của Quân lực Việt Nam Cộng hoà chống lại Tổng thống Ngô Đình Diệm vào tháng 11 năm 1963.
Hoa Kỳ lúc đó là đồng minh quan trọng nhất của Việt Nam Cộng hoà. Thiếu sự viện trợ của Hoa Kỳ thì Việt Nam Cộng hoà không thể có nguồn lực để xây dựng bộ máy hành chính và quân đội. Quyền lợi toàn cầu của Hoa Kỳ đòi hỏi họ phải ủng hộ một miền Nam Việt Nam "phi cộng sản, theo chủ nghĩa dân tộc" và có thể đối đầu với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Khi các rối loạn xảy ra, tình hình Việt Nam Cộng hoà xấu đi thì tất yếu sự ủng hộ của Hoa Kỳ dành cho Ngô Đình Diệm cũng sẽ xấu đi.
Lực lượng Việt Minh ở miền Nam
Những người Cộng sản miền Nam Việt Nam là bộ phận cấu thành của Đảng Lao động Việt Nam; Đảng Lao động Việt Nam là "bộ phận hữu cơ của phong trào Cộng sản và Công nhân toàn thế giới" (điều lệ Đảng). Hệ thống Cộng sản có tổ chức chặt chẽ từ cơ sở đến cấp quốc gia lên đến khu vực, châu lục và toàn thế giới. Nhưng những người Cộng sản miền Nam Việt Nam có những đặc trưng của người miền Nam. Những người Cộng sản miền Nam Việt Nam, do lịch sử khai hoang xứ Nam Bộ và ảnh hưởng văn hoá Pháp, họ mang cách sống, suy nghĩ và tác phong đặc trưng riêng của người Nam Bộ. Họ có sự độc lập tương đối với Trung ương Đảng tại Hà Nội. Những người Cộng sản miền Nam không thường dùng các lý luận như "Ba dòng thác cách mạng thế giới" hay "Bốn mâu thuẫn lớn của thời đại", không tham gia các tranh cãi lý luận đặc trưng của những người Cộng sản đương thời; họ thích mọi việc rõ ràng và đơn giản. Họ là những người thực tiễn.
Trong giai đoạn 1954-1959, những người Việt Minh miền Nam đã có các đối sách rất hiệu quả, gây khó khăn cho chính phủ Ngô Đình Diệm. Trong giai đoạn này, tổ chức của họ là Xứ uỷ Nam Bộ thay thế cho Trung ương Cục miền Nam, đã có các đối sách hợp lý, gây khó khăn cho Chính phủ Ngô Đình Diệm. Từ chỗ bị truy lùng ráo riết, chỉ trong hai năm, những người cộng sản đã tạo thế chủ động tấn công cả về chính trị và quân sự. Về chính trị, họ đã làm chính quyền lao đao bằng các cuộc đấu tranh chính trị rầm rộ ở nông thôn và thành thị do họ chỉ đạo từ xa. Về quân sự, họ thực hiện ám sát và chiến tranh du kích. Chiến thuật này đã phát huy tác dụng làm hạn chế được sức mạnh quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh được những trận lớn như trận Tua Hai (Tây Ninh) vào căn cứ cấp trung đoàn của quân đội Việt Nam Cộng hoà. Nhưng nhìn chung do thiếu thốn về cơ sở vật chất và hệ thống nhân lực, ở nhiều địa phương, những người cộng sản vẫn tồn tại, chung sống một cách "hòa bình", đan xen với bộ máy chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Bối cảnh
Theo Hiệp định Genève, lực lượng quân sự của mỗi bên tham gia cuộc chiến Đông Dương (1945-1954) sẽ rút khỏi lãnh thổ của phía bên kia. Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Nam phải di chuyển về phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng một số cán bộ, đảng viên các ngành vẫn được bố trí ở lại. Theo ước tính của Mỹ, lực lượng này còn đến 100.000 người. Một số cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang dày dạn kinh nghiệm được chọn lọc làm nhiệm vụ bảo vệ lãnh đạo Đảng, thâm nhập vào tổ chức quân sự và dân sự của đối phương hoặc nắm lực lượng vũ trang giáo phái để dự phòng cho việc phải chiến đấu vũ trang trở lại. Việt Minh cũng chôn giấu một số vũ khí và đạn dược tốt để sử dụng khi cần. Chỉ riêng Quân khu 8 đã để lại số vũ khí đủ trang bị cho 3 tiểu đoàn (1.500 người). Trong chiến dịch Tố cộng, chính quyền Việt Nam Cộng hoà đã phát hiện 707 hầm chứa vũ khí, thu giữ 119.954 vũ khí các loại và 75 tấn tài liệu.
Bên cạnh đó Trung ương Đảng đã cử những cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường về miền Nam lãnh đạo. Một số trí thức là đảng viên vào miền Nam hoạt động công khai và hợp pháp. Đồng thời miền Bắc còn tuyển chọn và huấn luyện nhiều nhân viên tình báo đưa vào miền Nam hoạt động trong hàng ngũ đối phương. Những cán bộ được cử vào Nam xâm nhập miền Nam bằng con đường hợp pháp dưới danh nghĩa dân thường di cư vào Nam.
Đấu tranh chính trị (1954-1956)
Vì quân đội đã tập kết ra Bắc, Việt Minh miền Nam không còn chính quyền, quân đội và đã trở thành những phần tử hoạt động bí mật bị truy sát. Nhưng họ vẫn còn những cơ sở Đảng hoạt động bí mật tại nông thôn. Họ nhận thức được ngay rằng đó là thời điểm đấu tranh chính trị và chuyển tất cả mọi nỗ lực sang đấu tranh chính trị. Trong bối cảnh mới, họ nhanh chóng thay đổi phương châm đấu tranh. Họ không tuyên truyền về các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Cộng sản như "đấu tranh giai cấp", "chuyên chính vô sản", "liên minh công-nông" hay "sứ mạng của giai cấp công nhân"... vì có thể không hấp dẫn hoặc gây phản cảm trong dân chúng. Họ khai thác tình cảm dân tộc và lòng tự hào về cuộc Kháng chiến chống Pháp, đòi thực thi Hiệp định Genève, đòi tổng tuyển cử, đòi dân chủ tự do.
Có thể nói rằng trong Chiến tranh Việt Nam, điểm mạnh về đấu tranh chính trị luôn thuộc về những người Cộng sản vì họ là những người đã lãnh đạo 9 năm kháng chiến chống Pháp. Họ có uy tín và được dân chúng công nhận là những người hy sinh cho độc lập dân tộc, là người của "Cụ Hồ". Ảnh hưởng của cuộc kháng chiến chín năm và thắng lợi của nó rất to lớn và sâu rộng trong lòng người dân miền Nam. Việt Minh rất được cảm tình của người dân nhất là ở nông thôn, miền núi. Những sai lầm như đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất chỉ thể hiện ở miền Bắc, trong khi tại miền Nam, chủ trương chia đất cho nông dân được thi hành mềm dẻo hơn nhiều do Việt Minh chưa có chính quyền đủ mạnh để thực hiện triệt để cũng như các cán bộ miền Nam coi trọng thực tiễn hơn. Sau này thì những người cộng sản lại kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Đó không phải là một khẩu hiệu suông mà đã được họ kết hợp rất nhuần nhuyễn và bài bản.
Tổ chức biểu tình
Ban đầu Việt Minh tổ chức những cuộc biểu tình tố cáo chính quyền Ngô Đình Diệm phá hoại Hiệp định Genève, đòi thực hiện Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, chống lại việc thi hành chính sách "Cải cách điền địa" và tuyên truyền trong dân chúng rằng: chính phủ Ngô Đình Diệm là chế độ phát xít, phản động, gia đình trị và tham nhũng, là tay sai của Mỹ, được Mỹ dựng lên để chia cắt Việt Nam, áp đặt Chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Việt Minh kết hợp nhiều hình thức tuyên truyền như truyền miệng, phát truyền đơn, sử dụng báo chí tự do để chỉ trích chính quyền. Họ còn phát động quần chúng đấu tranh với những khẩu hiệu như: đòi cải thiện dân sinh, chống nộp tô cho chủ đất, đòi lại các quyền tự do dân chủ, bảo vệ hoà bình.
Trong giai đoạn này Việt Minh kết hợp cả hai hình thức đấu tranh bí mật và đấu tranh công khai vô cùng sáng tạo và nhuần nhuyễn. Họ xây dựng nhiều tổ chức công khai như vạn phát, vạn cấy, hội chống trộm cướp... để có danh nghĩa hoạt động công khai. Tiếp đó cài người vào nắm các Hội đồng hương chính, công đoàn, nghiệp đoàn, hội ái hữu, hội tương tế để sử dụng các tổ chức này tập hợp quần chúng, tổ chức biểu tình, đưa các yêu sách đấu tranh.
Chính quyền Ngô Đình Diệm đối phó với những cuộc đấu tranh chính trị bằng cách thực hiện chiến dịch "Tố cộng, diệt cộng" nhằm loại bỏ những cán bộ cộng sản hoạt động bí mật. Những người cộng sản đáp trả bằng những cuộc biểu tình đòi thả cán bộ của họ hoặc tổ chức các cuộc diệt ác trừ gian - tiêu diệt những nhân viên và những người cộng tác với chính quyền Ngô Đình Diệm được gọi là "bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm".
Với các phương pháp dân vận tuyên truyền đúng tâm lý và đúng thời điểm, những người Cộng sản miền Nam đã vô hiệu hoá các nỗ lực chính trị của chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Chính phủ này không thể nào ổn định nổi tình hình chính trị tại miền Nam. Họ càng cố gắng thiết lập trật tự xã hội, tiêu diệt Việt Minh và các giáo phái thì lại càng bị chỉ trích độc tài. Việt Minh lại có thêm lý do chống độc tài để tiếp tục phát triển cuộc đấu tranh của mình. Việt Minh còn khai thác mọi sai lầm và dùng các vấn đề về xuất thân của các lãnh đạo Việt Nam Cộng hoà để tuyên truyền về bản chất bù nhìn, "tay sai đế quốc", "hữu danh vô thực" của chính quyền này, và từ đó tuyên bố mục tiêu đấu tranh của họ là giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chống lại "đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai". Phương pháp tổ chức đấu tranh chính trị của họ cũng rất chặt chẽ theo từng tuyến rõ ràng:
Binh vận, địch vận: vận động trong quân đội đối phương, đưa người vào làm tình báo nằm vùng và làm phân rã ý chí chiến đấu của binh sĩ địch, kêu gọi họ bỏ ngũ, làm binh biến...
Phụ vận: vận động các tầng lớp phụ nữ, thuyết phục họ không cho con em đi lính và tham gia vào đấu tranh chính trị chống chính quyền.
Trí vận: vận động trong giới trí thức, chức sắc tôn giáo,... lôi kéo họ đứng về phía Cộng sản hoặc không chống lại Cộng sản. Nếu có thể, đưa người có cảm tình với Cộng sản vào cơ cấu chính quyền.
Nông vận: vận động trong giới nông dân
Thanh vận: vận động thanh niên
...
Kết hợp với ám sát và chia rẽ đối phương
Khi cần họ còn kết hợp đấu tranh chính trị với hoạt động ám sát ("diệt ác ôn") để vô hiệu hoá và đe dọa đối phương. Hậu quả của các hoạt động này là nhiều vùng nông thôn ở miền Nam chỉ còn vỏ của chính phủ còn xã trưởng, ấp trưởng... nếu không phải là người ủng hộ Việt Minh thì cũng bị Việt Minh kiểm soát. Thậm chí những người Cộng sản còn vận động được sự quyên góp trong vùng của Việt Nam Cộng hoà kiểm soát.
Những người Cộng sản cũng đã khôn khéo chia rẽ các lực lượng chống Cộng vốn thường bất hoà với nhau. Họ tranh thủ mọi lực lượng, mọi người bằng các tình cảm anh em, đồng hương hay các hội tương thân tương ái. Ngay trong lực lượng Công giáo di cư cũng có một số người theo chủ nghĩa Cộng sản. Khi cần tổ chức các cuộc biểu tình, hội họp thì các cán bộ Việt Minh dùng người mình đã móc nối để kêu gọi tụ tập. Khi tổ chức các cuộc biểu tình, Việt Minh luôn tránh công khai sự lãnh đạo của họ. Rất nhiều trường hợp những người biểu tình tham gia vì lý do cá nhân chứ không biết người tổ chức cuộc biểu tình là đảng viên hoặc cảm tình viên của Việt Minh.
Hoạt động vũ trang dưới danh nghĩa các giáo phái
Trong giai đoạn này, Việt Minh chủ trương phát động quần chúng đấu tranh chính trị đòi Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ cán bộ - đảng viên, hạn chế hoạt động vũ trang. Vì vậy thời kỳ này chưa có những xung đột quân sự lớn và công khai giữa lực lượng Việt Minh và chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Hoạt động bạo lực chỉ giới hạn ở mức tổ chức các vụ ám sát dưới tên gọi diệt ác trừ gian, hỗ trợ giáo phái chống chính quyền Ngô Đình Diệm và thành lập các đại đội dưới danh nghĩa giáo phái để đấu tranh vũ trang một cách hạn chế.
Trong thời gian 1954-1956, những người Việt Minh miền Nam không hoạt động vũ trang công khai chống lại quân đội Việt Nam Cộng hoà mà chỉ trợ giúp các lực lượng vũ trang giáo phái hoặc rút lui vào rừng để bảo toàn lực lượng. Hơn nữa, Đảng Lao động Việt Nam không cho phép đấu tranh vũ trang vì có thể phương hại đến việc đòi tổng tuyển cử và dân chúng miền Nam lúc đó cũng không ủng hộ đánh nhau vào lúc hoà bình mới được lập lại.
Việt Minh còn chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với sự hỗ trợ của hoạt động vũ trang. Trong giai đoạn 1954 - 1956, vì không thể tổ chức hoạt động vũ trang vì trái với Hiệp định Genève nên họ cố vấn, giúp đỡ các giáo phái chống lại chính quyền Ngô Đình Diệm, sau đó thành lập các đơn vị vũ trang lấy danh nghĩa giáo phái. Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ (gồm các tỉnh Tân An, Mỹ Tho, Gò Công, Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên), tiền thân của Khu uỷ Khu 8, chỉ thị các tỉnh phải giúp đỡ quân Hoà Hảo, đưa cán bộ, đảng viên thâm nhập lực lượng Hoà Hảo. Trong các chiến dịch Đinh Tiên Hoàng (20/5/1955), Nguyễn Huệ (1/1/1956), cán bộ Việt Minh cố vấn cho lực lượng Hoà Hảo chống lại sự tấn công của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Khi quân đội các giáo phái tan rã, Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ chủ trương tổ chức lực lượng vũ trang dưới nhiều hình thức hợp pháp và bán hợp pháp như: dân canh, chống cướp... tiến tới tổ chức lực lượng vũ trang núp dưới danh nghĩa lực lượng giáo phái (Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên) ly khai ở các tỉnh Kiến Tường, Kiến Phong, Long An..., đồng thời thành lập Bộ Tư lệnh giáo phái để lãnh đạo các lực lượng trên. Chiến thuật này nhằm: hỗ trợ phong trào đấu tranh của quần chúng, khoét sâu mâu thuẫn nội bộ của đối phương, kéo dài sự tranh giành thế lực của chính quyền Ngô Đình Diệm và các giáo phái, tạo điều kiện cho người cộng sản củng cố và phát triển lực lượng kháng chiến.
Tháng 2/1956, tỉnh Kiến Phong tổ chức đơn vị vũ trang lấy tên Tiểu đoàn Đinh Bộ Lĩnh (hay Đinh Tiên Hoàng) gồm 3 đại đội với quân số khoảng 100 người dưới danh nghĩa "lực lượng Hoà Hảo ly khai" gồm một số cán bộ, chiến sĩ từng trợ giúp Hoà Hảo chống chính quyền Ngô Đình Diệm. Tỉnh Gò Công tổ chức một đại đội vũ trang gồm 44 người dưới danh nghĩa Bình Xuyên. Tỉnh Mỹ Tho tổ chức một đại đội vũ trang gồm 40 người dưới danh nghĩa Hoà Hảo, một đại đội 30 người lấy tên "Cao thiên hoà bình" dưới danh nghĩa Cao Đài. Sau khi thành lập các đơn vị vũ trang dưới danh nghĩa giáo phái, Liên tỉnh uỷ miền Trung Nam Bộ lập "Bộ Tư lệnh giáo phái" để thống nhất chỉ huy lực lượng vũ trang các tỉnh. Cờ của Bộ tư lệnh này là cờ đỏ ngôi sao xanh.
Khi bị đàn áp mạnh, các đơn vị vũ trang Việt Minh tập hợp lại rồi lùi sâu vào chiến khu ở nông thôn, nhất là ở khu vực Đồng Tháp Mười và khu vực giáp biên với Campuchia để bảo toàn lực lượng. Họ tự khai hoang, tự nuôi sống và chờ cơ hội. Quân số thì chủ yếu lấy từ số thanh niên tự nguyện - vì căm thù chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã giết người thân của họ trong các chiến dịch tố cộng, diệt cộng. Trong thời kỳ này những người này hầu hết là người miền Nam, hầu như không có lính người miền Bắc. Vũ khí nhẹ họ lấy từ các hầm chôn giấu trước đây do Việt Minh để lại hoặc thu mua từ binh sĩ Sài Gòn lén bán ra chợ đen, và có cả đường dây từ Thái Lan mua về. Họ còn lập công binh xưởng để đúc khí giới, nhất là hoả lực tự tạo. Họ cũng chưa có quân phục; tổ chức cao nhất chỉ đến cấp đại đội, còn các tên tiểu đoàn, trung đoàn... cốt là để khuếch trương thanh thế. Nhưng họ đang chuẩn bị rất nỗ lực vì chẳng bao lâu nữa họ sẽ phát động chiến tranh du kích khắp nơi.
Chuyển hướng đấu tranh (1956-1959)
Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 6/1956
Tháng 6/1956, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam họp và ra Nghị quyết "Về tình hình, nhiệm vụ và công tác miền Nam". Bộ Chính trị khẳng định: "tính chất cuộc vận động cách mạng của ta ở miền Nam là dân tộc và dân chủ. Nhiệm vụ cách mạng của ta ở miền Nam là phản đế và phản phong kiến" và "Hình thức đấu tranh của ta trong toàn quốc hiện nay là đấu tranh chính trị, không phải là đấu tranh vũ trang. Nói như thế không có nghĩa là tuyệt đối không dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định hoặc không tận dụng những lực lượng vũ trang của các giáo phái chống Diệm" đồng thời "Cần củng cố lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng các căn cứ làm chỗ dựa. Đồng thời xây dựng cơ sở quần chúng vững mạnh làm điều kiện căn bản để duy trì và phát triển lực lượng vũ trang. Tổ chức tự vệ trong quần chúng nhằm bảo vệ các cuộc đấu tranh của quần chúng và giải thoát cán bộ khi cần thiết".
Đề cương cách mạng miền Nam
Tháng 8/1956, Bí thư Xứ uỷ Nam Bộ Lê Duẩn soạn "Đề cương cách mạng miền Nam". Đề cương xác định rõ: "Nhiệm vụ của cách mạng miền Nam là trực tiếp đánh đổ chính quyền độc tài, phát xít Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, giải phóng nhân dân miền Nam khỏi ách đế quốc, phong kiến, thiết lập ở miền Nam một chính quyền liên hiệp có tính chất dân tộc, dân chủ để cùng với miền Bắc thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ nhân dân."
Để đẩy mạnh phong trào cách mạng tại miền Nam, Đề cương cách mạng miền Nam vạch ra các nhiệm vụ cơ bản sau:
1. Giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, phát huy uy thế chính trị của Đảng trong quảng đại quần chúng.
2. Xây dựng khối liên minh công nông sâu rộng và vững chắc.
3. Tích cực phổ biến Cương lĩnh Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong các tầng lớp nhân dân. Xây dựng, củng cố, phát triển mạnh mẽ mặt trận dân tộc thống nhất khắp thành thị, nông thôn miền Nam.
4. Khai thác mâu thuẫn trong nội bộ địch để làm yếu và cô lập địch, gây thêm lực lượng cho ta.
Hội nghị Xứ uỷ Nam Bộ
Tháng 12/1956, Xứ uỷ Nam Bộ mở hội nghị ở Phnompenh Campuchia nghiên cứu nghị quyết Bộ Chính trị và "Đề cương cách mạng miền Nam". Hội nghị ra quyết định "Con đường tiến lên của Cách mạng miền Nam là phải dùng bạo lực, tổng khởi nghĩa giành chính quyền... Hiện nay, trong chừng mực nào đó phải có lực lượng vũ trang hỗ trợ cho đấu tranh chính trị và tiến tới sau này dùng nó đánh đổ Mỹ Diệm... cần tích cực xây dựng lực lượng vũ trang tuyên truyền, lập đội vũ trang bí mật, tranh thủ vận động cải tạo lực lượng giáo phái bị Mỹ Diệm đánh tan đứng vào hàng ngũ nhân dân, lợi dụng danh nghĩa giáo phái ly khai để diệt ác ôn."
Chiến tranh du kích
Lực lượng
Sau 1956, khi không còn cơ hội tổng tuyển cử nữa, những người Cộng sản bắt đầu phát động chiến tranh du kích từ đánh nhỏ quấy rối đi lên đánh tập trung, đánh lớn. Vì còn chưa có tiếp tế từ miền Bắc nên cách xây dựng quân đội cũng có nhiều nét đặc trưng. Họ sử dụng lại cách xây dựng quân đội theo mô hình của kháng chiến chống Pháp, cũng theo "ba thứ quân": bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích.
Thành phần thấp nhất là dân quân - du kích. Lực lượng này hoạt động tự phát, tự túc, sinh hoạt như là dân địa phương và hoạt động bán thời gian ngay trong địa bàn. Vì du kích không có các chiến thuật kỹ thuật nên hoạt động chính là hỗ trợ đấu tranh chính trị và quấy rối trị an, "Diệt ác phá kìm", chống càn. Nếu đối phương mạnh thì giấu quân vào hầm bí mật hoặc giải tán về nhà nằm chờ. Lúc thường thì làm giao liên, tải thương, tiếp đạn... Đa số các nơi, những người cộng sản tổ chức lực lượng du kích từ cấp xã. Lực lượng du kích chỉ có chỉ huy là xã đội trưởng, không có lãnh đạo cụ thể, vì vậy lãnh đạo thực sự của du kích cũng như những vị bí thư nắm thông tin mật, luôn là cán bộ ở xã-huyện. Ngoài ra, khi lực lượng du kích đủ mạnh, thường chọn lọc và đưa những thanh niên có trình độ, có kỹ năng để tập trung thành bộ đội huyện. Như ở Long An, mỗi tiểu đội phụ trách 2 đến 3 xã, mỗi tổ 1 xã. Một số vùng đặc biệt như U Minh, Rạch Giá thậm chí có tiểu đội du kích hoạt động từng ấp, mỗi xã có đến hàng chục du kích quân.Bộ đội địa phương là bộ đội tập trung của huyện, tỉnh, ăn mặc quân phục tự may, có hoạt động chủ yếu là tập kích đánh giao thông, bao vây đồn bót. Cấp tổ chức chỉ lên đến đại đội nhưng được phiên hiệu thành tiểu đoàn vì phần lớn các địa phương chỉ có đủ kinh phí và vũ khí có hạn. Bộ đội địa phương cấp huyện thường không có cấp lãnh đạo trực tiếp, nên cũng do tổ chức Đảng Cộng Sản cấp huyện lãnh đạo. Tỉ lệ những người được chọn làm Đảng viên ở bộ đội địa phương cấp huyện rất ít.
Khi lực lượng bộ đội địa phương cấp huyện đủ mạnh, tổ chức Đảng sẽ tập hợp những đơn vị mạnh thành cấp tiểu đoàn và bầu ra các cấp chỉ huy, lãnh đạo riêng. Lực lượng này có nhiều đảng viên hơn, và do chính quyền cấp tỉnh trực tiếp chỉ huy, điều động. Lực lượng này vừa đóng vai trò phối hợp với bộ đội chính quy, lại vừa đóng vai trò làm chủ lực cho tỉnh khi quân chính quy rời khỏi tỉnh.
Bộ đội chủ lực hoạt động tập trung dưới quyền Khu uỷ (miền Nam lúc đó được những người Cộng sản chia làm 6 khu: Khu Trị-Thiên, Khu 5, 6, 7, 8 và 9). Bộ đội chủ lực đã có các đơn vị hoả lực độc lập khả dĩ có thể đánh công kiên, đánh vận động nhưng còn chưa mạnh nên họ tránh giao chiến mặt đối mặt mà dùng cách đánh tập kích của đặc công. Ngay như trận Tua Hai nổi tiếng, đánh vào căn cứ Trung đoàn 32 thuộc Sư đoàn 13 của Việt Nam Cộng hoà, cách đánh của họ chủ yếu là đưa người và vũ khí thâm nhập bí mật vào nội tuyến và lợi dụng sự chủ quan của đối phương để trong đánh ra, ngoài đánh vào.
Hoạt động
Để thực hiện đường lối cách mạng mà Bộ Chính trị và Xứ Ủy Nam Bộ đã xác định, những người cộng sản toàn miền Nam đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, tổ chức biểu tình, chống cải cách điền địa, ám sát và đấu tranh vũ trang chống chính quyền. Họ tổ chức các cuộc biểu tình chống việc thi hành nghĩa vụ quân sự, tổ chức nông dân dùng hung khí tấn công địa chủ thu tiền thuê đất, đặt mìn giết chết lực lượng bảo an, ám sát viên chức chính phủ, đánh chìm phương tiện nạo vét kinh, tấn công vào Khu Dinh điền...
Trong thời kỳ này, những người cộng sản đẩy mạnh hoạt động ám sát các viên chức chính phủ được gọi là bọn ác ôn. Từ quý 3 năm 1957, mỗi tỉnh Khu 8 bình quân giết 20 - 30 nhân viên chính phủ trong một tháng.
Họ còn sử dụng lực lượng vũ trang cấp đại đội tấn công vào các đồn của quân đội Việt Nam Cộng hoà.
Một chiến thuật rất hiệu quả áp dụng từ thời đó làm bó tay các cấp chỉ huy Quân lực Việt Nam Cộng hoà là chiến thuật "Bám đất bám dân". Cách đánh này có mô hình điển hình như sau:
Quân du kích phục kích đường giao thông.
Quân lực Việt Nam Cộng hoà kéo đến giao chiến.
Quân du kích nếu yếu thế thì sẽ phân tán vào xóm ấp để được những người dân ủng hộ che giấu.
Nếu Quân lực Việt Nam Cộng hoà bao vây và pháo kích, lập tức các cán bộ địa phương liền kêu gọi dân chúng ra biểu tình cản đường thiết giáp, đòi bồi thường hoa màu, chống bắn pháo vào làng... Nếu có người thương vong thì vấn đề trở nên quá phức tạp cho quân Việt Nam Cộng hòa.
Khi quân lực Việt Nam Cộng hoà rút đi thì du kích quay lại tiếp tục bám đất bám dân như trước.
Trong hoàn cảnh chiến tranh và tình hình chính trị phức tạp như miền Nam lúc ấy thì chiến thuật này làm bó tay quân lực Việt Nam Cộng hoà và hạn chế được ưu thế trang bị và quân số của họ. Quân lực Việt Nam Cộng hoà, khi đó chưa được chuẩn bị để đối phó với kiểu chiến tranh này.
Một đặc điểm chiến sự khác là những người Cộng sản thiếu khả năng quản lý các vùng của họ vì họ rất nghèo. Họ không có tiền cho hệ thống an sinh xã hội nên thường không đánh để chiếm đất mà chỉ cốt giành quyền làm chủ trên thực tế. Họ không xoá bỏ chính quyền địa phương của đối phương mà khống chế hệ thống đó để làm việc cho họ. Sau khi những người Cộng sản rút đi vùng đó vẫn cắm cờ của Việt Nam Cộng hòa và chính phủ vẫn phải trợ cấp vùng đó. Các vùng như vậy vẫn có bốt đóng nhưng quân Việt Nam Cộng hòa chỉ làm chủ trong đồn mà thôi, bên ngoài du kích hoạt động tự do trong các việc như thu thuế và tuyển quân. Thậm chí trong đồn và bên ngoài còn có liên lạc thoả thuận để tránh xung đột với nhau. Kiểu chung sống "hoà bình" như vậy rất phổ biến ở những vùng xa thành phố, nhất là sau khi thanh thế của những người Cộng sản mạnh lên. Do vậy những thống kê về số dân hay diện tích đất đai mỗi bên kiểm soát đều rất khác nhau và khó có thể xác minh được.
Việt Nam Cộng hòa tăng cường đàn áp
Không chỉ những người cộng sản đẩy mạnh hoạt động mà chính quyền Việt Nam Cộng hoà cũng đẩy mạnh chống Cộng rất tích cực. Những biện pháp càn quét của Việt Nam Cộng hoà thu được kết quả khiến những người cộng sản bị thiệt hại nặng. Chỉ riêng Tỉnh Định Tường, trong năm 1957, chính quyền bắt 29 huyện uỷ viên, 24 cán bộ huyện uỷ, 70 bí thư xã, 38 phó bí thư, 73 chi uỷ viên, 229 đảng viên, 69 thanh niên có liên quan đến cộng sản thuộc 3 huyện Cai Lậy, Cái Bè và Châu Thành.
Trước tình hình đó, cuối năm 1958, Xứ uỷ Nam Bộ chỉ đạo cho các Liên tỉnh uỷ không được hoạt động vũ trang, cho phần lớn cán bộ đảng viên tạm ngừng hoạt động hoặc đổi địa bàn hoạt động để giữ gìn lực lượng, một bộ phận ra hoạt động hợp pháp lâu dài. Các tỉnh Long An, Kiến Phong, Kiến Tường tuy vẫn duy trì lực lượng vũ trang nhưng không còn hoạt động mà rút vào căn cứ Đồng Tháp hoặc biên giới Campuchia sinh sống. Những người đổi địa bàn hoạt động bị bắt hơn phân nửa, một số khác mất tinh thần, bỏ công tác. Khoảng 700 người ra trình diện. Một số chấp nhận ly khai cộng sản được tha bổng, số còn lại bị tống giam. Số còn hoạt động nhiều người bị mất tinh thần, giảm liên hệ với quần chúng, giảm hoạt động tuyên truyền. Nhìn chung đến cuối năm 1958, sau 2 năm thực hiện chủ trương dùng đấu tranh chính trị kết hợp với chiến tranh du kích, tổng khởi nghĩa giành chính quyền, những người cộng sản thiệt hại nặng, phong trào đấu tranh của họ đi xuống.
Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10/59 quy định việc tổ chức các Tòa án quân sự đặc biệt nhằm xét xử "các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa". Sau khi luật này được ban hành, lực lượng cộng sản tiếp tục bị thiệt hại nặng nề. Đơn cử Khu 8, sau hiệp định Genève có 12.000 đảng viên, đến tháng 7/1956 còn 6.000 người, cuối năm 1959 chỉ còn 2.000 người.
Nghị quyết 15
Ngày 13/1/1959, Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam họp Hội nghị lần thứ 15 ra Nghị quyết 15 "Về tăng cường đoàn kết, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà". Nghị quyết 15 xác định "Vì chế độ miền Nam là một chế độ thực dân và nửa phong kiến cực kỳ phản động và tàn bạo, vì chính quyền miền Nam là chính quyền đế quốc và phong kiến độc tài, hiếu chiến, cho nên ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng xích nô lệ... Theo tình hình cụ thể và yêu cầu hiện nay của cách mạng thì con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân. Đó là mục tiêu phấn đấu của nhân dân miền Nam hiện nay."
Tháng 2/1959, sau khi nhận được thông báo nội dung cơ bản Nghị quyết 15, Xứ uỷ Nam Bộ chỉ đạo các tỉnh tăng cường hoạt động vũ trang hỗ trợ quần chúng nổi dậy giành chính quyền ở nông thôn.
Thực hiện chỉ thị của Xứ uỷ Nam Bộ, trên toàn miền Nam lực lượng cộng sản thực hiện một số cuộc tấn công vũ trang quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn vào lực lượng quân sự Việt Nam Cộng hoà. Nhìn chung trong năm 1959 những người cộng sản vẫn cố gắng hoạt động vũ trang dù đang gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, phong trào đấu tranh chính trị và hệ thống tổ chức Đảng dần phục hồi, nhiều cơ sở quần chúng được xây dựng. Tuy nhiên đến lúc này, lực lượng cộng sản miền Nam đã rất suy yếu so với năm 1954. Các đoàn cán bộ từ miền Bắc (gồm nhiều cán bộ người miền Nam tập kết ra Bắc trước đó 5 năm) bắt đầu hành quân vào miền Nam qua Đường Trường Sơn để chi viện cho phong trào đấu tranh của người cộng sản ở miền Nam. |
Chiến tranh lạnh (cold war) là chính sách thù địch về mọi mặt của các nước đế quốc trong mối quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa.
Một số cuộc chiến tranh lạnh trên thế giới
1871–1914: Đế quốc Anh, Pháp và Đế quốc Nga ở một bên và Đức và Đế quốc Áo-Hung ở bên kia
1923–nay: giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ
Chiến tranh Lạnh: Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, giữa khối Warszawa do Liên Xô đứng đầu và NATO do Hoa Kỳ đứng đầu, kéo dài từ 1947 cho đến 1991 - khi Liên Xô và khối Warszawa tan rã.
1949–nay: giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc
1953–nay: giữa Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc
1962–nay: Mỹ và Cuba |
Bài này giới thiệu một số từ loại trong ngữ pháp Latinh.
Danh từ
Danh từ là tên của một người, một nơi chốn, hoặc một vật.
Danh từ riêng là tên riêng của người, vật, hoặc nơi chốn. Proper
Danh từ thường là một tên có thể được cung cấp cho bất kỳ một cái nào thuộc một lớp của các vật thể.
Danh từ tập hợp là một tên mà có thể được cung cấp cho một nhóm của các vật thể, dù cho bản thân nó thuộc số ít.
Động danh từ là tên của một hành động
Danh từ trừu tượng là tên của một tình chất hoặc một điều kiện
Đại từ
Đại từ là một từ dùng để thay thế cho một danh từ hoặc một đại từ khác.
Danh từ mà được một đại từ thế chỗ, được gọi là từ đi trước (antecēdere; en: antecedent).
Vì thế, trong câu:
John đi đến trường, nhưng cậu ta không học <p>
thì danh từ John là từ đi trước của cậu ta.
Từ đi trước là một trường hợp phân biệt với một đại từ quan hệ.
Cả trong Latinh lẫn trong tiếng Anh đều không cần từ đi trước đại từ.
Đại từ nhân xưng trình bày bằng dạng của nó, tuỳ theo chỗ nó đứng
cho người nói
cho người nghe
cho người hoặc vật được nói đến
Đại từ quan hệ liên kết một mệnh đề phụ thuộc thuộc - ở chỗ nó thay thế - với từ đi trước.
Đại từ nghi vấn được dùng để đặt câu hỏi
Đại từ xác định chỉ ra một vật thể xác định
Đại từ bất định đề cập đến một vật thể không xác định
Đại từ phản thân ám chỉ ngược vào chủ thể.
Tính từ
Tính từ là một từ được dùng để chỉ tính chất hoặc giới hạn của danh từ hoặc đại từ
Những từ a, an, và the (trong tiếng Anh) thực sự là những tính từ giới hạn, còn được gọi là mạo từ
Tiếng Latinh không dùng mạo từ
Tính từ chữ số chỉ thị có bao nhiêu người hoặc vật được nói đến. Chúng cũng là các số nguyên (cardinal) biểu thị số lượng.
và các số thứ tự (ordinal)
Tính từ sở hữu chỉ quyền sở hữu
Đại từ chỉ định, đại từ bất định và các đại từ nghi vấn (which/what) có thể được dùng như những tính từ, và chúng có tên gọi tương ứng.
Đại từ chỉ định
Đại từ bất định
Đại từ nghi vấn
Tính từ cũng thường được dùng như danh từ.
Động từ
Động từ là một từ dùng để chỉ về hoạt động của một người, một nơi chốn, hoặc một sự vật.
Động từ có một bổ ngữ để bổ nghĩa cho nó được gọi là ngoại động từ (transitive / used transitively)
Động từ không có bổ ngữ được gọi là nội động từ (intransitive)
Chú ý: có những động từ khi ở dạng này, khi ở dạng kia.
Gió thổi tuyết và mặt chúng tôi
Gió thổi dữ dội
Động từ được phân ra thành quy tắc và bất quy tắc. Đặc thù này chỉ đơn thuần làm cho tiện lợi.
Động từ quy tắc trong tiếng Anh cho các thời quá khứ chưa hoàn thành (imperfect) và quá khứ phân từ (past participle) được thêm "d" hoặc "ed" vào thời hiện tại.
Động từ bất quy tắc trong tiếng Anh không theo dạng trên.
Trợ động từ được dùng để chia một động từ khác. Trong Latin, động từ esse (to be) thường được dùng.
Phó từ
Giới từ
Liên từ
Cảm thán từ |
Bão Katrina là cơn bão thứ 11 được đặt tên và bão cuồng phong thứ năm của mùa bão Bắc Đại Tây Dương 2005. Katrina là cơn bão gây thiệt hại vật chất lớn nhất, và thiệt hại nhân mạng nhiều thứ 5 trong lịch sử nước Mỹ. Bên cạnh đó, Katrina còn là xoáy thuận nhiệt đới mạnh thứ ba từng đổ bộ vào quốc gia này, sau hai cơn bão Labor Day 1935 và Camile năm 1969. Tổng cộng đã có ít nhất 1.833 người thiệt mạng, khiến Katrina trở thành cơn bão chết chóc nhất tại Hoa Kỳ kể từ bão Okeechobee 1928. Tổng thiệt hại vật chất ước tính lên tới 108 tỉ USD (2005 USD), gần gấp 4 lần cơn bão Andrew năm 1992. Sau này, bão Ike năm 2008 và Sandy 2012 cũng đã gây nhiều tổn thất hơn Andrew, nhưng cả hai đều còn kém xa Katrina.
Bão Katrina có nguồn gốc từ sự tương tác giữa một sóng đông và những tàn dư của áp thấp nhiệt đới Ten trên vùng Bahamas vào ngày 23 tháng 8. Sang sáng sớm ngày hôm sau, áp thấp nhiệt đới mới hình thành đã mạnh lên thành bão nhiệt đới Katrina. Hệ thống di chuyển chủ yếu về phía Tây hướng đến Florida và mạnh lên thành một cơn bão cuồng phong chỉ sau hai giờ trước khi nó đổ bộ lên thành phố Hallandale Beach và Aventura trong ngày 25. Sau khi suy yếu trong một khoảng thời gian rất ngắn, vào ngày 26 tháng 8, Katrina tiến vào vịnh Mexico và bắt đầu tăng cường mạnh mẽ. Cơn bão đã mạnh lên đạt đến cấp 5 trong thang bão Saffir-Simpson trên vùng nước ấm ngoài khơi vịnh Mexico, nhưng sau đó nó đã suy yếu xuống thành bão cấp 3 khi nó đổ bộ lần thứ hai lên vùng Đông Nam Louisiana trong ngày 29 tháng 8.
Katrina đã tàn phá nặng nề vùng duyên hải vịnh Mexico từ Trung Florida cho đến Texas, phần lớn thiệt hại là do sóng biển dâng. Tổn thất nhân mạng nghiêm trọng nhất là tại New Orleans, Louisiana, đây là những nơi đã xảy ra ngập lụt khi mà hệ thống đê bị tàn phá thảm khốc, tại rất nhiều địa điểm hàng giờ sau khi cơn bão đi vào trong đất liền. Cuối cùng 80% thành phố và những khu vực rộng xung quanh đã bị ngập, và tình trạng này vẫn còn duy trì trong nhiều tuần. Thiệt hại vật chất lớn nhất xảy ra tại các vùng ven biển, như những thị trấn bên bờ biển Mississippi; hơn 90% các khu vực này cũng đã bị ngập. Tàu thuyền, xe cộ và nhà cửa bị đẩy vào trong đất liền; nước biển thì đã lấn sâu 10–19 km (6-12 dặm) từ đường bờ biển.
Sự thất bại của hệ thống bảo vệ bão tại New Orleans được xem là thảm họa công trình dân dụng tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ và nó đã thúc đẩy một vụ kiện chống lại Công binh Lục quân Hoa Kỳ (USACE), những nhà thiết kế và xây dựng hệ thống đê bắt buộc bởi Đạo luật Kiểm soát Lũ lụt 1965. Trách nhiệm cho sự thất bại và lũ lụt được gán thẳng cho Lục quân vào tháng 1 năm 2008 bởi luật sư Stanwood Duval, tòa án địa phương Hoa Kỳ, nhưng cơ quan liên bang không chịu trách nhiệm về tài chính vì quyền miễn tố trong Đạo luật Kiểm soát Lũ lụt 1928. Đã có một cuộc điều tra về những phản ứng từ liên bang, tiểu bang và các chính quyền địa phương, dẫn đến sự từ chức của giám đốc Cơ quan Quản lý Khẩn cấp Liên bang (FEMA) Michael D. Brown và giám đốc Sở Cảnh sát New Orleans (NOPD) Eddie Compass. Ngoài ra còn rất nhiều những quan chức chính phủ đã bị chỉ trích vì những phản ứng của họ, đặc biệt là Thị trưởng New Orleans Ray Nagin, Thống đốc Louisiana Kathleen Blanco, và Tổng thống George W. Bush.
Một vài cơ quan bao gồm Tuần duyên Hoa Kỳ (USCG), Trung tâm Bão Quốc gia (NHC), và Cơ quan Thời tiết Quốc gia đã được ngợi khen. Họ cung cấp những dự báo theo dõi chính xác về cơn bão với những khoảng thời gian đầy đủ và hợp lý.
Lịch sử khí tượng
nhỏ|250x250px|Biểu đồ thể hiện đường đi của bão; những dấu chấm màu đại diện cho vị trí bão và cường độ của nó trrong thời gian 6 tiếng.
|left
Bão Katrina phát triển từ áp thấp nhiệt đới 12L trên vùng Đông Nam Bahamas vào ngày 23 tháng 8 năm 2005, kết quả từ sự tương tác giữa một sóng đông và những tàn dư của áp thấp nhiệt đới Ten. Hệ thống dần mạnh lên thành bão nhiệt đới Katrina vào sáng sớm ngày 24 tháng 8. Cơn bão di chuyển hướng đến Florida, và đạt cấp độ bão cuồng phong chỉ hai giờ trước khi nó đổ bộ vào địa điểm giữa Hallandale Beach và Aventura trong sáng sớm ngày 25 tháng 8. Katrina suy yếu trên đất liền, nhưng đã mạnh trở lại thành bão cuồng phong chỉ một giờ sau khi đi vào vịnh Mexico, và nó tiếp tục mạnh thêm trên vùng nước ngoài khơi. Vào ngày 27 tháng 8, Katrina đạt cấp độ 3 trong thang bão Saffir-Simpson, trở thành cơn bão lớn thứ ba của mùa bão. Sau đó, một chu trình thay thế thành mắt bão làm gián đoạn quá trình tăng cường độ, nhưng đã giúp cơn bão tăng kích thước lên gần gấp đôi. Trên vịnh Mexico, Katrina tăng cường mạnh mẽ, từ bão cấp 3 lên thành bão cấp 5 chỉ trong vòng 9 tiếng. Nguyên nhân giúp Katrina mạnh lên rất nhanh là nhờ nhiệt độ nước biển trên bề mặt của dòng lặp trong vịnh ấm bất thường.
Trong sáng sớm ngày 28 tháng 8 Katrina mạnh lên thành bão cấp 5 và đạt đỉnh vào thời điểm 18.00 UTC cùng ngày, với vận tốc gió duy trì liên tục trong một phút tối đa 175 dặm/giờ (280 km/giờ) và áp suất trung tâm tối thiểu 902 mbar (26,6 inHg). Trị số áp suất đo được này giúp Katrina trở thành cơn bão Đại Tây Dương mạnh thứ tư từng được ghi nhận trong lịch sử vào thời điểm đó; đồng thời là cơn bão mạnh nhất từng ghi nhận được trên vịnh Mexico. Tuy nhiên, vị trí thứ 4 đã bị đẩy lùi xuống thứ 6 bởi bão Rita và bão Wilma sau này trong mùa bão; và kỷ lục bão mạnh nhất trên vịnh Mexico cũng bị phá vỡ bởi Rita. Tiếp theo Katrina suy yếu và đổ bộ lên địa điểm gần Buras-Triumph, Louisiana vào thời điểm 1110 UTC ngày 29 tháng 8 với cường độ bão cấp 3 cùng vận tốc gió 125 dặm/giờ (200 km/giờ). Tại thời điểm đổ bộ, trường gió bão cuồng phong (≥ 75 dặm/giờ) trải rộng 120 dặm (190 km) từ tâm bão ra phía ngoài, áp suất tối thiểu khi đó là 920 mbar (27 inHg). Sau khi di chuyển qua vùng Đông Nam Louisiana và eo Breton, cơn bão đổ bộ lần thứ ba gần biên giới Louisiana–Mississippi với vận tốc gió 120 dặm/giờ (190 km/giờ), vẫn ở cường độ bão cấp 3. Katrina đã duy trì cường độ ổn định khi tiến vào Mississippi, cuối cùng suy yếu thành bão nhiệt đới trên khu vực gần Meridian, Mississippi khi đã đi sâu được 150 dặm (240 km) vào trong đất liền. Katrina tiếp tục giảm cấp xuống còn áp thấp nhiệt đới trên khu vực gần Clarksville, Tennessee, nhưng những tàn dư của nó có thể nhận ra lần cuối cùng trên vùng Đông Ngũ Đại Hồ trong ngày 31 tháng 8, thời điểm mà nó bị hấp thụ bởi một front lạnh. Kết quả tạo ra một cơn bão ngoại nhiệt đới di chuyển nhanh chóng theo hướng Đông Bắc và tác động đến vùng miền Đông Canada.
Chuẩn bị
Chính quyền Liên bang
Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ đã bắt đầu định vị trước một vòng tròn xung quanh khu vực tác động dự kiến và huy động hơn 400 quân nhân dự bị. Vào ngày 27 tháng 8, họ sơ tán tất cả nhân viên ra khỏi vùng New Orleans trước khi có lệnh di tản bắt buộc. Những đội bay từ Trung tâm Huấn luyện Hàng không lưu động cũng tổ chức những chiếc máy bay cứu hộ từ Texas đến Florida. Tất cả máy bay đều hướng đến vịnh Mexico vào chiều ngày 29 tháng 8. Những phi đội bay, nhiều người trong số họ đã mất nhà cửa trong cơn bão, bắt đầu những hoạt động cứu trợ bất kể ngày đêm tại New Orleans, và dọc theo vùng duyên hải Mississippi và Alabama.
Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp tại các khu vực Louisiana, Alabama và Mississippi trong ngày 27 tháng 8. "Trong ngày Chủ nhật, 28 tháng 8, Tổng thống Bush đã trao đổi với Thống đốc Blanco và khuyến khích bà đề ra lệnh di tản bắt buộc tại New Orleans." Tuy nhiên, trong lời dẫn chứng của cựu giám đốc Cơ quan Quản lý Tình trạng Khẩn cấp Liên bang Michael Brown trước tiểu ban Hạ viện trong ngày 29 tháng 9, dân biểu Stephen Buyer đã tra vấn tại sao trong tuyên bố tình trạng khẩn cấp của Tổng thống Bush vào ngày 27 lại không bao gồm các quận (hạt) duyên hải Orleans, Jefferson và Plaquemines. Trên thực tế tuyên bố không bao gồm bất kỳ quận ven biển Louisiana nào, trong khi các quận ven biển được tuyên bố cho vùng Mississippi và Alabama. Brown trần tình rằng đó là vì Thống đốc Louisiana Blanco đã không đưa các quận vào yêu cầu viện trợ ban đầu của bà, một quyết định khiến ông cảm thấy sốc. Sau khi lắng nghe, Blanco đưa ra bản sao chép bức thư của mình, trong đó trình bày rằng bà đã yêu cầu trợ giúp cho "tất cả các quận Đông Nam bao gồm thành phố New Orleans" cũng như tên của 14 quận đặc biệt được dự kiến sẽ hứng chịu tổn thất lớn; có Jefferson, Orleans và Plaquemines.
Ảnh hưởng
Nam Florida
12 người bị thiệt mạng tại Nam Florida, bao gồm ba người ở Quận Broward, một ở Quận Miami-Dade, và bốn ở thành phố Miami. Hơn một triệu người bị cúp điện, và chi phí thiệt hại từ 1 đến 2 tỷ đô la Mỹ.
Đông Nam Louisiana
Thành phố New Orleans phải ra lệnh sơ tán lần đầu tiên trong lịch sử, vì 70% diện tích của thành phố nằm dưới mực nước biển, và sóng cồn dự kiến đạt độ cao kỷ lục là 8 mét trên mức thủy triều thông thường. Thiết bị đo sóng trên biển ghi nhận sóng đạt đến 11 mét trước khi nó ngừng hoạt động. Các kế hoạch để giảm thảm họa đã hoạt động hết công suất tại những khu vực bị ảnh hưởng. Một số chuyên gia phỏng đoán khoảng một triệu người đã mất nhà vì bão tố. State Farm Insurance và những công ty bảo hiểm khác ước lượng chi phí thiệt hại bảo hiểm đã lên đến 25 tỷ đô la.
May mắn cho phần nhiều của New Orleans, cơn bão này không thảm họa đến độ như các nhà khí tượng học dự báo, tại vì bão Katrina quay phải vào đúng lúc và quanh mắt bão vượt qua New Orleans cách 16–24 km. Dù là các phóng viên cho rằng sóng bão vượt qua bờ đê, nó lên chậm và ổn định, cho nên phần nhiều của hệ thống bờ đê giữ thẳng, nhưng mà nhiều máy bơm nước bị cúp điện, và một đê của Hồ Pontchartrain bị bể, làm 80% của thành phố New Orleans lụt, có chỗ bị lụt gần 8 mét, nhất là vào vùng đông của thành phố.
Hai quận Jefferson và Plaquemines phải tuyên bố thiết quân luật.
Các khu vực khác
Miền nam của tiểu bang Mississippi bị tàn phá kinh khủng. Hai thành phố Gulfport và Biloxi bị mưa và sóng lụt, và những sòng bạc trên nước đã bị mang khỏi nước biển và lên đất liền. Phần nhiều của những người bị thiệt mạng ở Biloxi.
Ở Mobile, Alabama, Vịnh Mobile đổ nước vào phố sâu 60–90 cm. Hơn 110.000 người bị cúp điện ở Alabama, và có người báo cáo có bão táp gần Brewton, Alabama. Miền tây của tiểu bang Georgia bị mưa lụt, gió thổi, và vài bão táp ở ba quận Polk, Heard, và Carroll.
Tại tiểu bang Tennessee, gần 75.000 người bị cúp điện vào hai khu vực Memphis và Nashville. Khu vực Hopkinsville đã bị mưa lụt dữ. Nhiều căn nhà bị lụt và một trường trung học bị sụp xuống một phần ở Quận Christian. Tại Quận Warren ở tiểu bang Ohio, Katrina có thể đã gây ra một lốc xoáy EF0 , làm gãy vài cây cối.
Số người bị thiệt mạng
Bảng bên phải liệt kê số người bị thiệt mạng đã được xác nhận tại những khu vực bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, số tử thương được ước lượng có thể nhiều hơn, nhất là ở New Orleans, nhưng các giới chức đã quan tâm đến việc cứu những người đang sống, thay vì đếm những người bị thiệt mạng. Vào ngày 31 tháng 8, thị trưởng New Orleans Ray Nagin cho rằng số người bị thiệt mạng do bão chắc tới hàng ngàn. |
Tên gọi Nghệ An có thể là:
Xứ Nghệ hay còn gọi là xứ Nghệ An hay châu Nghệ An
Trấn Nghệ An từ giữa năm Hồng Thuận nhà Hậu Lê đến năm 1831 đời Nguyễn.
Tỉnh Nghệ An từ năm 1991 đến nay |
Định luật Moore được xây dựng bởi Gordon Moore - một trong những sáng lập viên của tập đoàn sản xuất chip máy tính nổi tiếng Intel. Định luật ban đầu được phát biểu như sau:
"Số lượng transistor trên mỗi đơn vị inch vuông sẽ tăng lên gấp đôi sau mỗi 24 tháng." (1 inch vuông xấp xỉ 6,45 cm²). Năm 2000 định luật được sửa đổi và công nhận là sau mỗi chu kỳ 18 tháng. Tuy nhiên, có một số thông tin cho rằng Gordon Moore đã công bố sửa đổi định luật của ông là 24 tháng nhưng báo chí tại thời điểm đó đã viết là 18 tháng.
Định luật Moore lần đầu tiên được công bố rộng rãi trên tạp chí Electronics Magazine số ra ngày 19 tháng 4 năm 1965.
Tác dụng của Định luật Moore
Định luật Moore là một bước ngoặt lớn trong ngành công nghệ điện tử, giải thích tại sao nhà sản xuất có thể giảm giá thành trong khi vẫn tiếp tục nâng cao hiệu suất của phần cứng.
Định luật Moore cũng là một động lực kích thích cho ngành công nghiệp điện tử duy trì sự phát triển mạnh mẽ trong hàng thập kỷ qua.
Thực tế, từ "định luật" trong tên gọi "Định luật Moore" không mang cùng một ý nghĩa với từ "định luật" trong tên gọi "định luật Newton" hay "định luật Gauss". Vào năm 1965, trong một bài báo có tiêu đề "Đưa thêm nhiều thành phần vào mạch tích hợp" cho tạp chí Electronics, Gordon Moore đưa ra tiên đoán rằng số lượng thành phần (bóng bán dẫn) trong các mạch tích hợp – bộ não của máy tính – sẽ tăng gấp đôi sau mỗi năm. Khoảng 1 thập kỷ sau, tiến sĩ Moore thay đổi lại kết luận của mình, theo đó số lượng bóng bán dẫn sẽ phải mất 2 năm để tăng gấp đôi - con số "18 tháng" được nhiều người đưa ra chưa bao giờ tồn tại trên Định luật Moore.
Định luật Moore tại thời điểm hiện tại và dự báo trong tương lai
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây định luật Moore đã có nhiều biểu hiện bị thay đổi và kéo dài dần thời gian tăng đôi số transistor trên một đơn vị diện tích (một inch vuông). Tại thời điểm hiện nay (năm 2007), khoảng thời gian để tăng đôi số transistor là xấp xỉ 60 tháng. Nhiều nhà phân tích cho rằng trong tương lai không xa khi mà các áp dụng kỹ thuật đã không thể rút nhỏ kích cỡ của một transistor xuống hơn được (cụ thể là khi kiến trúc của transistor đã được rút xuống đến mức độ phân tử) thì định luật Moore sẽ không còn đúng nữa. |
Nguyên dương hay Nguyên Dương có thể chỉ:
Các số nguyên dương, tập con của vành số nguyên Z.
Nguyên Dương, một huyện thuộc châu tự trị người Di, người Cáp-ni Hồng Hà, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Nguyên Dương, huyện thuộc địa cấp thị Tân Hương, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. |
Genève ( theo tiếng Pháp, phiên âm tiếng Việt: Giơ-ne-vơ hoặc Giơ-neo ; ; ; ) là thành phố đông dân thứ hai ở Thụy Sĩ (sau Zürich) và là thành phố Romandy (phần nói tiếng Pháp của Thụy Sĩ) đông dân nhất.
Genève nằm nơi hồ Genève (tiếng Pháp: Lac Léman) chảy vào sông Rhône, và là thủ phủ của bang Genève. Dân số trong nội vi thành phố là 191.415 (Tháng 12 năm 2010) và của khu vực đô thị — mở rộng vào Pháp và Vaud — là khoảng 700.000. Genève được nhiều người xem như là thành phố toàn cầu, chủ yếu là do sự có mặt của nhiều tổ chức quốc tế ở đây, kể cả tổng hành dinh châu Âu của Liên Hợp Quốc.
Khu tự quản (ville de Genève) có dân số (tính đến năm 3 năm 2013) là 194.245 người, và tổng (về cơ bản là thành phố và vùng ngoại ô của nó) người. Năm 2014, agglomération du Grand Genève có dân số 946.000 người trong 212 cộng đồng ở cả Thụy Sĩ và Pháp. Bên trong Thụy Sĩ, khu vực đô thị có tên gọi "Métropole lémanique" có dân số 1,26 triệu người. Khu vực này về cơ bản là trải rộng về phía đông từ Genève về phía khu vực Riviera (Vevey, Montreux) và đông bắc về phía Yverdon-les-Bains, ở tổng láng giềng Vaud.
Genève là một thành phố toàn cầu, một trung tâm tài chính và một trung tâm toàn cầu về ngoại giao do sự hiện diện của nhiều tổ chức quốc tế, bao gồm cả trụ sở của nhiều cơ quan của Liên Hợp Quốc và Chữ Thập Đỏ. Genève là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức lớn trên thế giới. Đó cũng là nơi Công ước Genève được ký kết, chủ yếu liên quan đến việc đối xử với những người không chiến đấu trong thời chiến và tù binh.
Năm 2017, Genève được xếp hạng là trung tâm tài chính quan trọng thứ mười trên thế giới về khả năng cạnh tranh của Chỉ số trung tâm tài chính toàn cầu, đứng thứ năm ở châu Âu sau London, Zürich, Frankfurt và Luxembourg.
Năm 2019, Genève được xếp hạng trong số mười thành phố đáng sống nhất trên thế giới bởi Mercer cùng với Zürich và Basel. Thành phố đã được gọi là đô thị bé nhất thế giới và "Thủ đô hòa bình". Năm 2017, Genève được xếp hạng là thành phố đắt đỏ thứ bảy trên thế giới. Geneva được xếp hạng thứ ba về sức mua trong bảng xếp hạng các thành phố toàn cầu của UBS năm 2018.
Lịch sử
Genève là tên một vùng dân cư của người Celt của vùng Allobroges. Cái tên Genava (hay là Genua) trong tiếng Latin xuất hiện lần đầu tiên trong những bài viết của Julius Caesar trong De Bello Gallico, trong những lời bình của ông về các trận chiến Gallic. Tên của nó có thể là trùng với tên nguyên gốc trong tiếng Ligurian là Genua (Genova ngày nay), nghĩa là "đầu gối"; là, "góc", chỉ đến vị trí địa lý của nó; mặc dù có lẽ đúng hơn là nó dựa trên gốc gen- hay "sinh ra" (Genawa là nơi sinh ra dòng sông từ tử cung của hồ; có lẽ là tên đầy đủ nghĩa là "sinh ra từ nước"). Sau sự chinh phạt của La Mã nó trở thành một phần của Provincia Romana (Gallia Narbonensis). Vào năm 58 TCN, tại Genève, Caesar bao vây Helvetii trên đường hành quân về phía tây. Vào thế kỉ thứ 9 nó trở thành thủ đô của Burgundy. Mặc dù Genève bị tranh chấp giữa người Burgundian và người Frank và Thánh chế La Mã, thực tế nó được cai quản bởi các giám mục của thành phố, cho đến thời Cải cách Kháng Cách, khi Genève trở thành một nước cộng hòa.
Nhờ vào công sức của các nhà cải cách như là John Calvin, Genève đôi khi được mệnh danh là "Roma Kháng Cách". Vào thế kỉ 16 Genève là trung tâm của nền Thần học Calvin; Nhà thờ St. Pierre ở nơi mà bây giờ gọi là Khu phố cổ là nhà thờ riêng của John Calvin. Trong thời gian đó khi nước Anh dưới quyền cai trị của Nữ hoàng Mary I, một người đàn áp phong trào Kháng Cách (Protestant), một số lớn các học giả Kháng Cách bỏ trốn sang Genève. Trong những học giả này có William Whittingham người chỉ đạo việc biên dịch bản Kinh Thánh Genève với sự hợp tác của Miles Coverdale, Christopher Goodman, Anthony Gilby, Thomas Sampson và William Cole.
Một trong những sự kiện lịch sử quan trọng ở Genève là l'Escalade (nghĩa đen: "chia lại tỉ lệ bức tường"). Đối với người dân Genève, l'Escalade là biểu tượng cho sự độc lập của họ. Nó đánh dấu cố gắng cuối cùng trong một chuỗi các tấn công được tổ chức trong suốt thế kỉ 16 bởi xứ Savoy, muốn sáp nhập Genève như là thủ phủ phía bắc của dãy Alps. Lần tấn công cuối cùng này diễn ra vào đêm 11-12 tháng 12 năm 1602 và được kỉ niệm hàng năm tại Khu phố cổ với nhiều cuộc diễu hành với nhiều ngựa, súng đại bác và quân lính ăn mặc theo quân phục của thời đó.
Genève, hay chính thức là "Bang & Cộng hòa Genève", trở thành một bang của Thụy Sĩ vào năm 1815. Hiệp ước Genève lần đầu tiên được ký vào năm 1864, để bảo vệ bệnh binh và thương binh trong chiến tranh.
Địa lý
Genève nằm tại , về phía cạnh tây nam của hồ Genève, nơi hồ chảy vào sông Rhône. Nó được bao quanh bởi hai dãy núi, dãy Alps và dãy Jura.
Thành phố Genève có diện tích 15.86 km², trong khi diện tích của bang Genève là 282 km², tính luôn cả hai vùng đất của Céligny ở Vaud. Phần của hồ gắn liền vào Genève có diện tích 38 km² và đôi khi được nhắc đến như là Petit lac (hồ nhỏ). Tiểu bang chỉ có 4.5 km đường biên giới với phần còn lại của Thụy Sĩ; trên tổng số 107.5 km đường biên giới, phần còn lại 103 km chia chung với Pháp, với Départment de l'Ain về phía bắc và Département de la Haute-Savoie về phía nam.
Độ cao của Genève là 373.6 m, và tương ứng với độ cao của phần rộng lớn nhất của Pierres du Niton, hai tảng đá lớn nhô lên trên hồ từ cuối thời băng hà. Tảng đá này được chọn bởi Tướng Guillaume Henri Dufour như là điểm chuẩn cho tất cả các việc đo đạc ở Thụy Sĩ .
Con sông lớn thứ hai ở Genève là sông Arve chảy vào sông Rhône chỉ hơi về phía tây trung tâm thành phố.
Genève nằm ở phía tây nam Thuỵ Sĩ. Phía nam hướng về đỉnh núi Blanc - ngọn núi cao nhất trong dãy Alps, gần bên hồ Genève là dòng sông Rhone chảy qua thành phố, chia thành phố làm hai phần, bên bờ trái là thành phố cổ kính, bên phải là thành phố hiện đại. Trên bờ sông có 8 chiếc cầu nối liền hai bờ. Genève là vùng đất phát triển quanh cây cầu lớn nhất, thành phố này được núi đồi và ao hồ bao bọc nên khí hậu quanh năm ôn hoà, non xanh nước biếc, phong cảnh đẹp như tranh nên được gọi là Thánh địa của du khách.
Khí hậu
Khí hậu của Genève ôn hòa. Mùa đông không quá khắc nghiệt thường có sương mù nhẹ vào ban đêm. Mùa hè thì ấm áp một cách dễ chịu. Lượng mưa phân bố khá đều trong năm mặc dù mùa thu có vẻ mưa nhiều hơn các mùa khác trong năm. Genève thường có tuyết rơi vào những tháng lạnh trong năm. Những vùng núi gần thành phố thường có tuyết rơi nhiều và rất thích hợp cho môn thể thao trượt tuyết như ở Verbier và Crans-Montana là những nơi chỉ cách thành phố hơn một giờ đi xe. Núi Salève (cao 1400 m) nằm ở biên giới Pháp-Thụy Sĩ là điểm đến trượt tuyết gần nhất. Vào những năm 2000–2009, nhiệt độ trung bình trong năm là 11 °C và số giờ nắng trung bình trong năm là 2003 giờ.
Giáo dục
Genève có Đại học Genève được thành lập vào năm 1559 bởi John Calvin. Mặc dù quy mô trường đại học này không lớn (khoảng 13 000 sinh viên) nhưng Đại học Genève thường được xếp hạng trong nhóm những trường đại học hàng đầu của thế giới. Năm 2011, trường được xếp hạng thứ trong các trường đại học Châu Âu.
Viện Sau Đại học về Nghiên cứu Quốc tế và Phát triển là một trong những cơ sở hàn lâm đầu tiên trên thế giới giảng dạy về quan hệ quốc tế. Hiện nay, viện này có các chương trình đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ chuyên ngành Luật, Khoa học Chính trị, Lịch sử, Kinh tế, Quan hệ Quốc tế và Nghiên cứu Phát triển.
Genève cũng có trường quốc tế lâu đời nhất trên thế giới là Trường Quốc tế Genève được thành lập năm 1924 cùng với Liên đoàn các Quốc gia. Đại học Webster là một đại học của Hoa Kỳ cũng có một phân hiệu ở Genève. Ngoài ra, Genève còn có Viện Quốc tế Lancy (Institut International de Lancy) thành lập năm 1903 và Trường Đại học Quốc tế Genève.
Trường Ngoại giao và Quan hệ Quốc tế Genève là một đại học tư trên nền của lâu đài Penthes (Château de Penthes) bên cạnh hồ Genève.
Trẻ em bắt buộc phải đến trường đến cuối năm 16 tuổi. Hệ thống trường công lập của Tổng Genève có trường tiểu học (écoles primaires) dành cho lứa tuổi từ 4–12 và cấp định hướng CO (cycles d'orientation) dành cho học sinh lứa tuổi 12–15 và trường trung học (collèges) cho học sinh từ 15 đến 19 tuổi. Trường trung học lâu đời nhất là Trường trung học Calvin cũng được xem là một trong những trường công lập lâu đời nhất trên thế giới.
Thành phố Genève có năm thư viện chính. Các thư viện này bao gồm Thư viện thành phố Genève (Bibliothèques municipales Genève), Thư viện Xã hội học (Haute école de travail social, Institut d'études sociales), Thư viện Y tế (Haute école de santé), Thư viện kỹ sư Genève (École d'ingénieurs de Genève) và Thư viện nghệ thuật và thiết kế (Haute école d'art et de design). Có tổng cộng khoảng 877 680 đầu sách hoặc các phương tiện thông tin khác tại các thư viện vào năm 2008 có tổng cộng 1 798 980 lần sử dụng. |
Blitzkrieg, ( hay được dịch là chiến tranh chớp nhoáng) là một từ tiếng Đức mô tả cách thức tiến hành chiến tranh của Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ 2, nhắm đến mục tiêu nhanh chóng bao vây tiêu diệt chủ lực đối phương bằng các mũi vận động thọc sâu của các đơn vị xe tăng - cơ giới hoá hợp thành tập trung sau khi đã phá vỡ phòng tuyến với sự hỗ trợ của không quân.
Ưu thế chủ yếu của phương thức chiến tranh này là hiệu quả gây sốc bất ngờ, khiến đối phương bị tê liệt trước khi kịp phản ứng. Ở giai đoạn mở đầu của cuộc chiến, phương thức này đã đem đến những thắng lợi dễ dàng cho Quân đội Đức Quốc xã qua các chiến dịch xâm chiếm Ba Lan, Hà Lan, Bỉ, Pháp. Chỉ trong giai đoạn sau, khi các hoạt động quân sự được tiến hành trên các vùng đất rộng lớn của Liên Xô, dưới thời tiết khắc nghiệt và địa hình lầy lội ở đây thì phương thức này mới cho thấy nhược điểm là các quân binh chủng hợp thành không tiến quân cùng tốc độ và do đó giảm hiệu quả chiến đấu.
Trên phương diện ngôn ngữ, từ Blitzkrieg được một tờ báo Anh sử dụng lần đầu vào năm 1939 sau cuộc Đức xâm chiếm Ba Lan, trước đó từ này chưa từng được dùng trong điều lệnh hay bất kỳ một tài liệu hướng dẫn tác chiến chính thức của Quân đội hay Không quân Đức Quốc xã. Vì lý do đó, trên góc độ lý luận, nó bị nghi ngờ với tư cách là một học thuyết chiến tranh hay là một chiến lược tiến hành chiến tranh chặt chẽ, hoàn chỉnh. Tuy nhiên, đây là một trong những từ ngữ tiếng Đức nổi tiếng nhất.
Tuy nhiên, trên góc độ thực tiễn thì Blitzkrieg có một quá trình tích luỹ lý luận - kinh nghiệm lâu dài từ trước, phục vụ cho một chiến lược chiến tranh rõ ràng, các chiến dịch lặp đi lặp lại nhiều lần trên nền chiến thuật tác chiến ổn định, có tổ chức quân binh chủng tương ứng, có trang bị vũ khí phù hợp với ý đồ - và nó hội tụ đầy đủ mọi yếu tố của một học thuyết quân sự. Trong số những cội nguồn của blitzkrieg có chiến công hiển hách của vị Tuyển hầu tước Vĩ đại Friedrich Wilhelm I quét sạch quân xâm lược Thụy Điển trong "Cuộc đua xe trượt tuyết vĩ đại" vào Mùa Đông 1678 - 1679, cuộc chinh phạt chớp nhoáng tỉnh Silesia (nước Áo) của nhà vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế nước Phổ vào năm 1740, hai chiến thắng lẫy lừng của ông trong các trận Roßbach và Leuthen vào năm 1757, và những tư tưởng chiến lược đúng đắn của hai vị Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Đức cuối thế kỷ 19 là Helmuth von Moltke và Alfred von Schlieffen, căn cứ vào vị trí địa lý không thuận lợi của Phổ - Đức thời đó.
Nguồn gốc và lịch sử phát triển
Đặc điểm địa chính trị và chiến lược chiến tranh của nước Đức
Lịch sử của nước Phổ, và nước Đức sau này là biên niên sử các hành động can thiệp của các cường quốc châu Âu cố gắng kìm chế Phổ/Đức, đặc biệt từ khi nước Đức thống nhất vào năm 1871. Vốn từ buổi đầu lịch sử, Phổ có nguồn tài nguyên và nhân lực hết sức yếu ớt, cho nên không thể thắng nổi một cuộc chiến lâu dài, tiêu hao. Do điều kiện địa lý Đức nằm giữa đồng bằng Bắc châu Âu, giáp với Pháp ở phía Tây và giáp với Nga ở mặt Đông, nên hai cường quốc này muốn có một nước Đức yếu kém làm vùng đệm hơn là một nước Đức hùng mạnh có khả năng đe doạ biên giới của mình.
Đối mặt với những lợi ích địa chính trị đó của Pháp và Nga (Liên Xô sau này), Đức luôn phải chuẩn bị chiến tranh trên hai mặt trận. Tuy nhiên, nếu cả hai cường quốc này cùng tấn công thì Đức sụp đổ. Do đó, cả ba cuộc chiến 1871 (Liên minh Phổ chống Pháp), 1914 (Chiến tranh thế giới thứ nhất) và 1939 (Chiến tranh thế giới thứ hai) Đức đều tiến hành với cùng một chiến lược ra tay hạ Pháp trước.
Để chiến lược này thành công, Đức buộc phải hành động nhanh gọn để giải quyết xong mặt trận phía Tây với Pháp trong khi Nga (hoặc Liên Xô) chưa kịp triển khai lực lượng mở mặt trận phía Đông. Đây chính là yêu cầu cơ bản cho mọi học thuyết của Đức về chiến tranh - bao gồm phương diện chiến thuật, quy mô quân đội, tổ chức quân đội, trang bị vũ khí - từ nửa cuối thế kỷ 19 đến trước Chiến tranh thế giới thứ hai.
Sự phát triển của lý luận chiến tranh ở Đức trước Chiến tranh thế giới thứ nhất
Mầm mống của nền lý luận quân sự Đức, mà đỉnh điểm là Chiến tranh chớp nhoáng trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, có thể là cuộc "Cuộc đua xe trượt tuyết vĩ đại" (Schlittenfahrt) của Tuyển hầu tước vĩ đại Friedrich Wilhelm I xứ Brandenburg vào thế kỷ 17. Đó là chiến dịch của ông tại Đông Phổ và Samogitia chống quân xâm lược Thụy Điển trong Mùa Đông năm 1678 - 1679, và đạt hiệu quả hết sức to lớn. Trên xe trượt tuyết, những chiến binh của ông đã tổ chức một cuộc tấn công cơ động vô cùng mãnh liệt, và truy đuổi quân thù. Quân Thụy Điển đại bại thảm hại. Bản thân Friedrich Wilhelm I cũng chủ trương tiến hành cuộc chiến "ngắn và dễ" (kurtz und vives), do lúc điều kiện không thuận lợi của xứ Phổ - Brandenburg khi ấy.
Tiếp theo đó, nhà vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ, khi thân chinh phát binh phạt tỉnh Silesia của Áo vào năm 1740 mà không có lời cảnh báo, cuộc Chiến tranh Silesia lần thứ nhất bùng nổ và châu Âu đã được nếm mùi của cái mà hậu thế gọi là Chiến tranh chớp nhoáng. Trước khi xuất binh, ông đã giữ kín được bí mật, và thực hiện mọi mưu kế ngoại giao, trong khi ba quân đang hừng hực khí thế. Ngay cả khi các Trung đoàn của ông đã lên đường hành binh rồi, ông vẫn còn nói với sứ thần Áo rằng ông sẽ không làm gì đến Nữ hoàng Áo Maria Theresia. Và trước khi rời khỏi kinh đô để cùng với ba quân tiến đánh Silesia, ông tham dự buổi lệ khiêu vũ ngay trong kinh thành Berlin. Và, khi đã đứng trước đoàn quân tinh nhuệ đang trên đường chinh phạt Silesia, ông vẫn thương thuyết, tuy nhiên Maria Theresia đã không chấp nhận các điều khoản của ông. Nhưng rồi, sau hai trận thắng lớn tại Mollwitz và Chotusitz thì cuộc chiến đã kết thúc vào năm 1742 với đại thắng của Vương quốc Phổ. Vào năm 1748, trong chuyên luận Những Nguyên lý cơ bản của Chiến tranh ("Principes généraux de la guerre"), nhà vua răn dạy các Sĩ quan Quân đội:
Đó là quy luật nền tảng cho sự sống còn của một quốc gia nghèo tài nguyên và nhân lực như Phổ. Các tướng lĩnh Phổ theo đó phải đánh một trận quyết định, qua đó tạo tiền đề cho "Chiến tranh chớp nhoáng" sau này, mặc dù nhà vua Friedrich II Đại Đế chưa hề dùng từ ngữ này. Vào năm 1757, ông lại áp dụng kiểu chiến này khi cuộc Chiến tranh Bảy Năm bùng nổ. Khi đó, người Áo liên kết với Nga và Pháp để tấn công Phổ do đó ông quyết định thân chinh khởi đại binh đánh xứ Bohemia để triệt hạ Áo. Dù ban đầu quân Phổ thắng lớn trong trận đại chiến Praha, cuộc "chiến tranh chớp nhoáng" này không thành công do quân Phổ bị quân Áo đánh bại trong trận Kolín tàn khốc (1757). Nhưng rồi, sang cuối năm 1757, ông liên tiếp đại phá tan nát quân Pháp - Quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh trong trận Roßbach và quân Áo trong trận Leuthen. Những chiến thắng vẻ vang này đưa tên tuổi của ông trở nên hết sức vinh quang và thể hiện một hình thức mới của "Chiến tranh chớp nhoáng". Theo đó, ông phải thực chiến chiến lược tấn công, đánh những trận đòn sấm sét, quyết định nhằm ngăn cách các cường địch của ông họp binh với nhau.
Nền lý luận quân sự Phổ - Đức cũng có lẽ chịu ảnh hưởng từ chiến thắng của Hoàng đế Napoléon Bonaparte trước Đế quốc Áo trong cuộc chiến tranh với Liên minh lần thứ ba năm 1805. Cuộc chiến được quyết định chóng vánh bằng một trận đánh (trận Ulm) đã cấy vào các nhà tư tưởng quân sự của Phổ sau đó - Gerhard von Scharnhorst và August Neidhardt von Gneisenau - ý tưởng của trận đánh quyết định tiêu diệt phần lớn quân lực đối phương, được thực hiện bằng các mũi tấn công nhanh chóng, bất ngờ vào sâu trong lãnh thổ đối thủ. Carl von Clausewitz - nhà lý thuyết quân sự Đức ở thế kỷ 18-19, bạn và học trò của hai nhà tư tưởng trước đó - là người đặt nền móng cho lý luận chiến tranh Phổ - Đức trên cách diễn dịch "nghệ thuật quân sự của Napoléon" của von Scharnhorst và von Gneisenau. Trong tác phẩm Vom Kriege (Bàn về chiến tranh), ông đưa ra các lý luận tổng quát về chiến tranh, tổ chức quân đội và cách thức tiến hành chiến tranh, sự cần thiết của việc tập trung quân lực, thực hành vận động chiến bao vây, và qua đó khuếch đại ảnh hưởng của Napoléon.
Sau đó, Bá tước Alfred von Schlieffen - Thống chế và là nhà chiến lược Đức - mới là người nối kết những tư tưởng quân sự đã xác lập với đặc điểm địa chính trị - kinh tế của nước Đức để phát triển thành một chiến lược chiến tranh. Xuất phát từ nhận thức rằng nước Đức bị bao quanh bởi các cường quốc giàu tài nguyên, ông đi đến kết luận rằng Đức không thể thắng khi tham chiến cùng lúc 2 mặt trận, cũng không thể thắng một cuộc chiến tranh kéo dài. Do đó, Đức chỉ có một lựa chọn duy nhất là lần lượt đánh bại từng đối phương - trước hết là Pháp - bằng một đòn quyết định, chớp nhoáng, mang tính huỷ diệt.
Chiến lược này của ông được cụ thể hoá trong kế hoạch Schlieffen thời chiến tranh thế giới thứ nhất với 2 mũi tấn công vào Pháp: một mũi phía Bắc qua Bỉ - Hà Lan vòng sát eo biển Manche, một mũi từ phía Đông hợp điểm bao vây ở tây Paris trong vòng 6 tuần, thời gian dự tính cần thiết để Nga tổng động viên xong và mở mặt trận phía Đông. Về mặt chiến thuật, kế hoạch này có thể được coi là sự kết hợp kinh nghiệm vận động chiến trong lịch sử chiến tranh trước đó vào điều kiện khách quan của Đức, thể hiện bằng việc tập trung tới 90% quân đội cho mặt trận, thực hành vận động bao vây bằng 2 gọng kềm trước khi tiêu diệt phần lớn quân lực địch trong một trận đánh quyết định. Trên cả hai mặt chiến lược - chiến thuật, kế hoạch này có thể coi là ý đồ tiền thân của blitzkrieg.
Nhà quân sự - chiến lược kế tục ông, danh tướng Helmuth von Moltke Lớn, đã bước đầu triển khai ý đồ của Schlieffen thành học thuyết khi nhận thức tốc độ hành tiến chỉ có thể thực hiện thành công nhờ một cơ cấu chỉ huy phân quyền linh động. Ông đã đưa ra hệ thống tổ chức dựa trên Bewegungskrieg ("vận động chiến") và Auftragstaktik ("chiến thuật nhiệm vụ"), trong đó các cấp chỉ huy tiền phương được toàn quyền lựa chọn phương án chiến đấu cho đơn vị để đạt mục tiêu chiến thuật được giao. Đây chính là đóng góp quan trọng để được tổng kết vào học thuyết "blitzkrieg" về sau.
Những bài học tổng kết từ Chiến tranh thế giới thứ nhất
Bản kế hoạch Schlieffen được tướng Helmuth von Moltke Nhỏ điều chỉnh và áp dụng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Vì một số lý do khách quan như sự kháng cự kiên cường của Bỉ, Nga tổng động viên nhanh hơn dự tính, khiến Đức không thực hành tấn công theo đúng kế hoạch. Từ ngày 5 cho đến ngày 9 tháng 9 năm 1914, quân Đức bị chặn đứng trong trận đánh bất phân thắng bại với liên quân Anh - Pháp trên sông Marne, nên họ phải rút các đơn vị cánh phải về. Kế hoạch Schlieffen bị phá sản. Họ sa vào cuộc chiến trên hai mặt trận, trong đó mặt trận phía Tây phải cầm cự trong chiến hào và cuối cùng dẫn tới thất bại.
Tuy nhiên, có thể nói nguyên nhân quan trọng nhất của thất bại là tại thời điểm bắt đầu chiến tranh, quân đội Đức chưa được cơ giới hoá, cũng không có một lực lượng cơ động chiến thuật nào khác ngoài kỵ binh. Trong khi đó, với sự phát minh của súng máy từ cuối thế kỷ 19, thì việc bố trí hoả lực chéo cánh trên chiến trường khiến bên phòng ngự dễ dàng vô hiệu hoá kỵ binh cũng như bộ binh tấn công. Ở thời kỳ sau của Thế chiến thứ 1, người Anh đã phát minh ra xe tăng dùng để che chắn cho bộ binh khỏi đạn súng máy, có thể leo qua chiến hào, đè qua hàng rào kẽm gai để phá vỡ tuyến phòng ngự của đối phương. Mặc dù những chiếc xe tăng đầu tiên này không hoàn hảo, nhưng ở vị trí bị tấn công, người Đức nhanh chóng nhìn nhận tiềm năng của chúng.
Ở tầm chiến thuật, cuối Thế chiến 1, Quân đội Đức đã thử nghiệm thành công biện pháp tấn công phòng tuyến đối phương. Theo đó, pháo và không quân sẽ hỗ trợ hoả lực để thê đội 1 gồm các toán nhỏ bộ binh xâm nhập phòng tuyến, bỏ qua các ổ phòng ngự để nhắm vào các mục tiêu mềm ở hậu cứ. Kế đó, thê đội 2 gồm các đơn vị bộ binh lớn hơn mang theo vũ khí nặng tham chiến đảm nhận việc tiêu diệt các điểm phòng ngự tiền phương. Cũng trong giai đoạn này, người Đức đã đúc rút được kinh nghiệm trong tổ chức vận động chiến - khi ở mặt trận phía Đông cả hai bên đều thực hành vận động chiến thay vì cầm cự trong chiến hào. Phân tích cho thấy với hình thức chiến tranh này, nhiều đơn vị nhỏ phối hợp hợp đồng chiến dịch có hiệu quả chiến đấu cao hơn một số ít đơn vị lớn hoạt động độc lập.
Sau thế chiến 1, những kinh nghiệm đúc rút từ thất bại kết hợp với nền tảng chiến lược - chiến thuật trước đó đã được tướng Hans von Seeckt (Han-xơ Vôn Xíc-tơ), Tổng tham mưu trưởng Quân đội Đức, tổng kết lại thành một học thuyết cụ thể xuất bản năm 1921, tựa đề "Chỉ huy và tác chiến hợp thành quân binh chủng" (Command & Combat with Combined Arms). Ngoài ra, Hans von Seeckt còn có một đóng góp quan trọng nữa ở cấp độ chiến dịch - chiến thuật là nhấn mạnh vào tốc độ hành tiến hơn là tập trung quân lực mật độ cao và tiến hành bao vây. Ông cho rằng chỉ có tốc độ mới đem đến sự bất ngờ cho đối phương và đưa đến cơ hội chiến thuật khi đối phương không kịp quyết định hoặc quyết định sai, và việc khai thác thành công cơ hội này sẽ dẫn tới thắng lợi nhanh chóng. Cả hai đóng góp của ông có thể được coi là nền móng hoàn chỉnh, chỉ còn chờ ý tưởng cơ giới hoá để blitzkrieg có hình hài.
Quá trình cơ giới hoá Blitzkrieg
Ý tưởng cơ giới hoá của H. Guderian
Trong Chiến tranh Thế giới thứ 1, Guderian ban đầu là Sĩ quan Thông tin Cơ yếu tại Bộ Tổng tham mưu, sau đó được thuyên chuyển sang bộ phận Quân báo. Hai vị trí này giúp cho Guderian có một cái nhìn tổng quát về chiến tranh, qua đó học được những kỹ năng tư duy chiến lược lẫn chiến thuật - kỹ thuật phục vụ cho chiến lược ấy. Sau chiến tranh, ông tiếp tục phục vụ trong Bộ chỉ huy quân đội Đức (Truppenamt) và đến năm 1927, ông được phân công phụ trách nhóm nghiên cứu chiến thuật tác chiến cơ giới. Ở vị trí này, kỹ năng tư duy lẫn kinh nghiệm của ông có cơ hội phát huy để sáng tạo ra mảnh ghép cuối cùng của học thuyết Blitzkrieg: tổ chức và tác chiến của lực lượng xe tăng - cơ giới hoá.
Trong khi tìm hiểu về quá trình cơ giới hoá của các quân đội Phương Tây, ông đã đọc và dịch một số tác phẩm của Fuller, Liddell Hart và de Gaulle sang tiếng Đức. Ít nhiều dựa trên những ý tưởng đầu vào này, ông đưa ra những bài tập giả định tình huống, triển khai vào những buổi tập trận với đội hình xe tăng gỗ để phân tích, và cuối cùng đi đến một ý tưởng của riêng mình. Trong tác phẩm "Panzer Leader", ông cho rằng bản thân xe tăng không thể hoạt động độc lập (theo cách của Fuller), cũng không nên đóng vai trò hỗ trợ bộ binh vì tính năng cơ động sẽ bị hạn chế. Thay vào đó, ông đề xuất thành lập binh chủng thiết giáp, gọi là Panzerwaffe. Đơn vị cơ sở của Panzerwaffe là các sư đoàn cơ giới hoá hợp thành lấy xe tăng làm nòng cốt; các đơn vị bộ binh, pháo binh và các thành phần hỗ trợ khác của sư đoàn đều được cơ giới hoá hoặc mô tô hoá, tất cả đều phục vụ cho tác chiến của xe tăng. Cơ cấu hợp thành như vậy cho phép mỗi sư đoàn thiết giáp có khả năng tác chiến độc lập, không phụ thuộc vào hỗ trợ của bộ binh và pháo binh truyền thống (không được cơ giới hoá hoặc mô tô hoá).
Tổ chức của lực lượng thiết giáp
Đề xuất của Guderian nhận được sự ủng hộ ở Bộ Tổng tham mưu Quân đội Đức, và sau đó, mỗi sư đoàn Panzer (thiết giáp) đều có biên chế tiêu chuẩn 1 trung đoàn xe tăng, 1 trung đoàn pháo xe kéo (hoặc pháo tự hành), 1 lữ đoàn bộ binh cơ giới (gồm 2 trung đoàn), các đơn vị trinh sát, công binh, thông tin, quân khí... tất cả đều được cơ giới hoá, còn các sư đoàn Panzergrenadier (bộ binh cơ giới hoá) gồm 3 trung đoàn bộ binh cơ giới hoá (trang bị xe thiết giáp) hoặc mô tô hoá (trang bị xe tải bánh hơi), 1 tiểu đoàn xe tăng hoặc pháo tự hành chống tăng, 1 trung đoàn pháo xe kéo và các đơn vị trinh sát, kỹ thuật trực thuộc. Các sư đoàn hợp thành này được sử dụng như những viên gạch lắp ghép thành quân đoàn thiết giáp (Panzerkorps) hoặc tập đoàn quân thiết giáp (Panzergruppe hay Panzerarmee) đảm nhiệm vai trò của mũi tấn công cơ động cấp chiến dịch.
Nhờ kinh nghiệm ở vị trí Sĩ quan cơ yếu của mình, ông nhận thức rằng radio là phương tiện kỹ thuật thiết yếu để phối hợp tác chiến trong khi vận động. Do đó, ông yêu cầu xe tăng phải được trang bị radio, và chính phát kiến này của ông cho phép chỉ huy các đơn vị tăng của Đức tổ chức đội hình rất tốt trong các trận đánh.
Các nhà nghiên cứu lịch sử cũng chỉ ra rằng ý tưởng của Guderian không phải là toàn bộ blitzkrieg như người ta thường nghĩ, mà chỉ là một sự bổ sung thiết yếu ở tầm mức chiến thuật cho phần học thuyết đã có trước đó. Dĩ nhiên, nó cũng không hoàn chỉnh nếu bỏ qua sự phát triển lý luận về cách thức tổ chức và phối hợp tác chiến của Không quân. Mà ở khía cạnh này, Không quân Đức đã có điều kiện thử nghiệm ở cuộc nội chiến Tây Ban Nha, để về sau đó hoàn thiện cách thức phối hợp với lực lượng cơ giới hoá theo ý tưởng của Guderian.
Các giai đoạn của Blitzkrieg
Giai đoạn thứ nhất
Máy bay ném bom tập trung tấn công một khu vực hẹp và cô lập nó ra khỏi các đơn vị quân khác. Đồng thời bộ binh sẽ mở nhiều cuộc tấn công "gây rối" quy mô nhỏ trên toàn phòng tuyến đối phương và tấn công mạnh vào một Schwerpunkt (điểm tập trung, trọng điểm) với sự tham gia của bộ binh đi kèm tăng-thiết giáp, cơ giới và pháo binh.
Giai đoạn thứ hai
Sau khi tiền tuyến phòng ngự của đối phương bị phá vỡ tại Schwerpunkt. Lực lượng tấn công chính sẽ thọc sâu vào hậu phương của đối phương để mở đường cho pháo binh và bộ binh theo sâu. Đồng thời, một phần lực lượng sẽ lập các phòng tuyến để giữ chặt hai bên cánh của Schwerpunkt, không cho đối phương nối lại phòng tuyến. Máy bay ném bom khi này sẽ tập trung tấn công các khu vực chỉ huy và các điểm tập trung quân của đối phương.
Giai đoạn thứ ba
Giai đoạn này bắt đầu với sự sụp đổ của phòng tuyến của đối phương. Các lực lượng bộ binh-thiết giáp sẽ đẩy mạnh tiến quân và cô lập từng cụm quân đối phương và tấn công từ hai bên cánh. Khi này lực lượng không quân sẽ mở rộng tầm hoạt động vào sâu hậu cứ của đối phương để hỗ trợ các mũi tấn công của bộ binh-thiết giáp.
Các nguyên tắc chiến thuật cơ bản của blitzkrieg
Tập trung quân lực
Bố trí quân lực tập trung tại một chính diện hẹp trên chiến trường để giành ưu thế quân số cục bộ, từ đó chiếm ưu thế chiến thuật cục bộ để rồi khuếch trương ưu thế cục bộ đó thành chiến thắng là phương cách thường dùng trong lịch sử chiến tranh. Ngay ở Chiến tranh thế giới thứ nhất, một kỹ sư Anh là Frederick Lanchester (Phrê-đê-rich Lan-chextơ) đã nghiên cứu về tương quan sức mạnh của hai phía đối địch và đưa ra Định luật Lanchester, trong đó khẳng định một đội quân đông gấp 2 đối phương sẽ có sức mạnh bằng gấp bốn lần (bằng bình phương tỷ lệ quân số).
Trong học thuyết blitzkrieg, việc tập trung quân lực được quy tắc hoá và mô tả bằng từ Schwerpunktprinzip, theo đó bộ binh, pháo binh, xe tăng sẽ được tập trung tối đa vào một điểm trọng tâm, gọi là Schwerpunkt nhằm đạt ưu thế áp đảo về số lượng và hoả lực cục bộ. Với sự lựa chọn điểm trọng tâm có tính toán nhằm đảm bảo yếu tố bất ngờ cũng như đảm bảo địa thế ở điểm trọng tâm phù hợp cho hoạt động của xe tăng và xe cơ giới, thì lực lượng này sẽ vừa thực hiện đột phá phòng tuyến đối phương, vừa thực hiện vận động thọc sâu dưới sự hỗ trợ của Không quân và pháo binh.
Đột phá tuyến phòng ngự
Chiến thuật đột phá tuyến phòng ngự của đối phương về cơ bản là bài bản đã áp dụng ở Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất được cơ giới hoá, trong đó sử dụng một lực lượng thâm nhập vào các tuyến bên trong trước khi tấn công các vị trí phòng ngự bên ngoài. Đối diện với một phòng tuyến của đối phương gồm 3 lớp cơ bản: các tuyến phòng ngự vòng ngoài, tuyến pháo binh hỗ trợ và khu vực vận động của quân trù bị chiến thuật, thì blitzkrieg yêu cầu chia đội hình xe tăng - cơ giới hoá thành 3 thê đội lần lượt thâm nhập khu vực chiến thuật. Thê đội 1 sẽ bỏ qua các ổ đề kháng để thọc sâu tấn công lực lượng trù bị trong khi thê đội 2 tấn công tuyến pháo hỗ trợ phòng ngự. Sau khi 2 thê đội này đã thâm nhập thành công qua chiều sâu chiến thuật của phòng tuyến, thì thê đội ba mở màn tấn công trực diện các ổ đề kháng. Việc đồng bộ hoá thời gian nhằm bảo đảm hiệu quả gây tê liệt tức thời toàn bộ chiều sâu phòng tuyến, tối đa hoá hiệu quả gây sốc, bảo đảm xuyên thủng tuyến phòng ngự, sau đó thực hiện vận động thọc sâu vào hậu cứ đối phương.
Vận động thọc sâu
Sau khi đã mở được cửa đột phá qua tuyến phòng ngự tiền duyên của đối phương, nhiệm vụ của các đơn vị xe tăng - cơ giới hoá là vận động sâu, đánh chiếm các yếu điểm của đối phương trong hành tiến dưới sự bảo vệ của Không quân. Nhằm tối đa hoá khả năng khai thác các cơ hội chiến thuật, tăng tốc độ vận động, học thuyết đặt trọng tâm vào việc rút ngắn quy trình ra quyết định.
Nguyên tắc linh hoạt chiến thuật
Thông thường, quyết định tác chiến mỗi khi có một tình huống phát sinh thường đi qua các bước: thu thập thông tin tình huống (hoặc do Quân báo và Trinh sát cung cấp), cân nhắc giải pháp, ra quyết định, triển khai xuống cấp dưới. Trong điều kiện vận động, nếu thông tin được thu thập ngay ở chiến trường và quyết định được cân nhắc ở hậu phương, thì khi quyết định triển khai xuống rất có khả năng đã lạc hậu với chiến sự đang phát triển liên tục. Vì lý do đó, học thuyết khuyến khích cấp chỉ huy chiến dịch và chiến thuật nhận nhiệm vụ dưới hình thức mục tiêu và ý định, và được toàn quyền ra quyết định tác chiến dựa trên thông tin tức thời tại chỗ . Quy tắc phân quyền này cần có một quá trình chuẩn bị có chiều sâu: việc đào tạo và bổ nhiệm sĩ quan ngay từ các đơn vị nhỏ đã phải dựa trên khả năng tư duy chiến thuật, chứ không dựa trên khả năng đảm bảo kỷ luật chiến thuật.
Hợp điểm, bao vây tiêu diệt
Mục tiêu vận động tuỳ thuộc vào từng chiến dịch, nhưng quy tắc chung là chia cắt, cô lập và làm tê liệt một phần quân lực đối phương. Để làm việc này, thông thường mỗi chiến dịch cần có hai mũi tiến công sâu theo kiểu gọng kềm để hợp điểm phía sau lưng của đối phương.
Sau khi đã hợp điểm và bao vây một phần lực lượng địch trong túi, thì chiến dịch đi vào giai đoạn cuối cùng: bức hàng hoặc tiêu diệt đối phương đã bỏ qua trong quá trình vận động trước đó. Do học thuyết blitzkrieg lấy việc phá huỷ quân lực đối phương làm mục tiêu, nên cuộc tấn công cuối cùng thường triển khai từ nhiều hướng, trong thời gian sớm nhất có thể.
Hiệp đồng với Không quân
Không quân Đức Quốc xã (Luftwaffe) luôn là một thành phần quan trọng theo học thuyết blitzkrieg ở hai vai trò: hỗ trợ hoả lực tại điểm trọng tâm (Schwerpunkt) và chế áp không quân đối phương, bảo vệ cho lực lượng xe tăng - cơ giới thực hiện vận động chiến.
Trong Không quân Đức, các phi đội ném bom bổ nhào Ju 87 Stuka đảm nhiệm vai trò hỗ trợ mặt đất và tấn công sân bay đối phương (yểm trợ tầm gần), trong khi các phi đội tiêm kích Messerschmitt Bf 109/110 chiếm ưu thế trên bầu trời. Trong thực tế chiến tranh, thắng lợi của các chiến thuật blitzkrieg đều tuỳ thuộc vào khả năng kiểm soát không phận của Luftwaffe. Ở giai đoạn sau của chiến tranh, khi Luftwaffe đánh mất ưu thế trên không, thì các binh đoàn xe tăng - cơ giới của Đức hoặc bị đánh chặn trong khi vận động, hoặc không dám thực hiện vận động.
Những hạn chế chiến thuật của blitzkrieg
Do Blitzkrieg dựa vào vận động chiến nên những hạn chế của nó bộc lộ khi điều kiện thực hành vận động bị hạn chế, như địa hình và thời tiết không thuận lợi, bị không quân đối phương ngăn cản, khi đối phương thực hành chiến thuật phòng thủ phù hợp hoặc đường tiếp vận cho lực lượng xe tăng - cơ giới bị chặn đánh.
Địa hình và thời tiết không thuận lợi
Trên phương diện chiến thuật, khu vực địa hình không thuận lợi thường bị đối phương xem nhẹ phòng thủ, nên thường có giá trị bất ngờ mà khu rừng rậm Ardennes là một ví dụ cụ thể. Tuy nhiên, trong điều kiện địa hình khắt khe hơn, như tuyết mềm, bùn lầy hay trong điều kiện thời tiết quá lạnh như đã xảy ra ở trận Moskva khiến xe tăng không thể vận động sẽ dẫn tới thất bại của chiến dịch.
Một địa hình bất lợi khác của blitzkrieg là tác chiến trong đô thị. Ở đây, chướng ngại vật và nhà cửa một mặt hạn chế tính cơ động của xe tăng, buộc xe tăng phải tham chiến ở tầm gần, một mặt khác đối phương có thể lựa chọn bố trí các điểm hoả lực chống tăng trên cao, ngoài góc nâng bắn của pháo tăng khiến hoả lực của xe tăng giảm hiệu quả. Đây chính là trường hợp xảy ra ở trận Stalingrad, khi tập đoàn quân xe tăng số 4 bị cầm chân trong cuộc chiến đường phố.
Đánh mất ưu thế trên không
Vận động chiến chỉ phát huy hiệu quả khi bên tấn công vận động nhanh hơn đối thủ. Cho nên việc sử dụng không quân bảo vệ cho các mũi vận động dưới đất đồng thời truy cản không cho đối phương vận động là một nguyên tắc của blitzkrieg. Ở thời kỳ đầu của chiến tranh thế giới thứ 2, do Không quân Đức thường chiếm ưu thế trên không nên các binh đoàn Panzer được tự do vận động. Nhưng ở giai đoạn sau của chiến tranh, khi Không quân Đức đánh mất ưu thế cũng là lúc mà các sư đoàn thiết giáp Đức rất e ngại vận động. Trong chiến dịch Overlord, do lực lượng Không quân Đồng minh hoàn toàn làm chủ bầu trời, nên lực lượng thiết giáp Đức không dám vận động vào ban ngày, không tiến hành được những cuộc phản công có ý nghĩa.
Chiến thuật phòng ngự có hiệu quả
Ở nửa sau của Chiến tranh thế giới thứ 2, đã có một số chiến thuật phòng ngự chống các mũi tấn công thiết giáp có hiệu quả. Chiến thuật con nhím do tướng Pháp Maxime Weygand đề xuất ở thời gian diễn ra trận chiến nước Pháp, về sau được người Đức vận dụng để chống các mũi tấn công thiết giáp của Hồng quân, là một ví dụ. Ý tưởng của chiến thuật này là bố trí các cụm cứ điểm phòng ngự đa hướng thay vì bố trí tuyến đơn hướng: dù bị bao vây vẫn có năng lực phòng ngự. Nếu quân lực của cụm phòng thủ đủ lớn để đe doạ đánh cắt đường tiếp vận thì bên tấn công không thể bỏ qua trong hành tiến. Thế nên bên tấn công hoặc phải để lại quân lực kìm chế, chấp nhận giảm sức của mũi thiết giáp, hoặc phải dành thời gian tiêu diệt, chấp nhận giảm tốc độ vận động.
Một chiến thuật khác là bố trí phòng ngự chiều sâu. Điểm cơ bản của chiến thuật này là tổ chức nhiều lớp phòng ngự kế tiếp, mỗi lớp kết hợp mìn và hoả lực chống tăng do một thê đội giữ tuyến và sẽ rút cuốn chiếu dần. Cách bố trí phòng ngự như vậy vừa giảm được tốc độ đột kích vừa mài mòn dần các mũi thiết giáp. Dọc tuyến phòng ngự bố trí một vài vai cứng với hoả lực chống tăng dày đặc để nắn điểm đột kích của bên tấn công vào giữa các vai, thì bên tấn công sẽ không thể đột kích quá sâu vì lo sợ bị cắt vào sau đội hình. Ở trận vòng cung Kursk, chiến thuật này của Hồng quân thành công đến nỗi các mũi tấn công của Đức bị kiệt sức khi chưa đột kích qua hết bề dày của tuyến phòng ngự.
Tiếp vận bị cắt đứt
Lực lượng thiết giáp cần một khối lượng tiếp vận lớn, đặc biệt là nhiên liệu. Trong khi đó, là một "con rắn đầu cứng đuôi mềm" nó để lộ điểm yếu ở đường tiếp vận nhất là khi bộ binh theo sau không kịp, để một khoảng hở lớn giữa mũi thiết giáp và lực lượng bảo đảm giao thông phía sau. Ở chiến dịch tấn công Ardennes cuối năm 1944, do không có đủ bộ binh thiết lập giao thông nên các mũi thiết giáp của Đức hoạt động hầu như tách rời với hậu phương. Đến khi quân Đồng Minh phản công và đe doạ cắt ngang qua đường tiếp vận, thì lực lượng thiết giáp phải bỏ xe tăng hết nhiên liệu lại chiến trường để rút về chiến tuyến của mình.
Các chiến dịch blitzkrieg tiêu biểu
Cho đến tận giai đoạn sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Quân đội Đức Quốc xã tiến hành nhiều chiến dịch theo quy tắc của blitzkrieg. Tuy nhiên, hai chiến dịch Tây Âu và Barbarossa là những chiến dịch tiêu biểu nhất.
Chiến dịch châu Âu, 1940
Chiến dịch châu Âu, bao gồm cuộc tấn công Pháp và cuộc tấn công trước đó và Hà Lan và Bỉ, được thực hiện chính bởi cụm tập đoàn quân A (gồm 45 sư đoàn, có 7 sư đoàn thiết giáp và 2 sư đoàn bộ binh cơ giới hoá trong 3 quân đoàn) và B (có 29 sư đoàn, 3 sư đoàn thiết giáp và một sư đoàn bộ binh cơ giới hoá), diễn ra theo 2 giai đoạn: Chiến dịch Vàng (Fall Gelb) và Chiến dịch Đỏ (Fall Rot).
Chiến dịch Vàng mở đầu ngày 9 tháng 5 năm 1940 với cuộc tấn công nghi binh của cụm tập đoàn quân B vào Hà Lan và Bỉ, hút phần lớn quân lực Đồng Minh về phía Bắc nước Pháp. Trong khi đó, cụm tập đoàn quân A bất ngờ tiến quân qua khu rừng rậm Ardennes, nơi mà các tướng lĩnh Pháp cho là không thuận lợi cho hoạt động của xe tăng nên bố trí phòng ngự mỏng. Có sự hỗ trợ hoả lực mạnh mẽ của Không quân, cụm tập đoàn quân A nhanh chóng đột phá phòng tuyến Pháp ở Sedan. Tiếp đó, ngay khi vượt sông Meuse ở ngay ngày thứ tư của chiến dịch, lực lượng thiết giáp của cụm triển khai chạy đua về hướng eo biển Manche ở Abbeville, cắt ngang qua bố trí quân lực của Đồng Minh, và đến ngày thứ 10 của chiến dịch đã đẩy các đơn vị Đồng Minh ở Bắc Pháp vào túi Dunkirk. Chỉ nhờ có lệnh tạm ngưng tấn công của Hitler mà 33 vạn quân Đồng Minh kịp sơ tán bằng tàu.
Trong chiến dịch này, mặc dù quân Đồng Minh có gần gấp đôi số xe tăng (4.000 so với 2.200 của Đức), nhưng do biên chế tản mác trong các đơn vị bộ binh, nên không thực hiện được một hoạt động phản công nào có ý nghĩa. Cộng thêm yếu tố bất ngờ, dẫn tới sự tê liệt mang tính hệ thống. Vì thế khi chiến dịch Đỏ triển khai với 3 mũi tấn công bằng thiết giáp: về Brest (quân đoàn XV Panzer), hướng Lyon qua Đông Paris (quân đoàn XIV Panzer), hướng vòng ngược dọc theo lưng chiến tuyến Maginot (quân đoàn XIX Panzer), thì quân đội và nước Pháp nhanh chóng sụp đổ, buộc phải ký văn kiện đầu hàng vào ngày 22/6/1940, chỉ trong vòng 6 tuần từ ngày bắt đầu chiến dịch.
Chiến dịch Barbarossa, 1941
Sáng ngày 22/6/1941, Không quân Đức Quốc xã (Luftwaffe) tấn công các sân bay và các mục tiêu quân sự bên trong lãnh thổ Liên Xô. Trong vòng vài giờ sau đó, hơn 3 triệu quân Đức dẫn đầu bởi các sư đoàn thiết giáp ồ ạt vượt biên giới, bắt đầu chiến dịch blitzkrieg lớn nhất trong lịch sử nhắm vào mục tiêu đánh bại Hồng quân và xoá sổ Liên bang Xô viết trong vòng vài tháng.
Theo kế hoạch, chiến dịch được tiến hành bởi 3 mũi. Mũi thứ nhất của Cụm tập đoàn quân Bắc gồm 26 sư đoàn, trong đó có 3 sư đoàn thiết giáp và 2 sư đoàn cơ giới hóa, tấn công qua các nước Cộng hòa vùng Baltic vào Bắc Nga, hướng tới Leningrad. Mũi thứ hai của Cụm tập đoàn quân Trung tâm gồm 49 sư đoàn, trong đó có 9 sư đoàn thiết giáp và 6 sư đoàn cơ giới hóa, tấn công Smolensk sau đó qua Belarus tới Moskva. Mũi thứ ba của Cụm tập đoàn quân Nam gồm 41 sư đoàn, trong đó có 5 sư đoàn thiết giáp và 4 sư đoàn bộ binh cơ giới hóa, tấn công vào vùng đông dân trù phú Ukraina, chiếm Kiev sau đó triển khai xuống phía Nam, tới sông Volga và vùng dầu hỏa Caucasus.
Ở giai đoạn đầu của chiến dịch, Hồng quân hoàn toàn bị bất ngờ và không kịp phản ứng. Chỉ trong 3 ngày đầu, gần 4.000 máy bay bị phá hủy ngay trên sân bay, các đồn biên phòng nhanh chóng bị tràn ngập. Ở phía Bắc, tập đoàn quân thiết giáp số 4 của Đức xuyên qua giữa 2 quân đoàn Hồng quân, sau đó bao vây và tiêu diệt 2 quân đoàn này. Ở mặt trận trung tâm, tập đoàn quân thiết giáp số 2 vượt sông Tây Bug ở phía Nam, tập đoàn quân thiết giáp số 2 đột phá qua khe giữa 2 phương diện quân Hồng quân ở sông Neman, vận động thành 2 gọng kềm thọc sâu hợp điểm tại Minsk, khiến 32 sư đoàn Hồng quân bị bao vây trong túi và sau đó bị tiêu diệt.
Ở giai đoạn hai, trên mặt trận trung tâm, tập đoàn quân thiết giáp số 2 của Đức vượt sông Dniepr vận động bao vây Smolensk từ phía Nam, tập đoàn quân thiết giáp số 3 tiến công Smolensk từ phía Bắc. Sau khi hợp điểm thành công, 2 gọng kềm phong tỏa 3 tập đoàn quân Hồng quân trong túi, bắt sống 18 vạn tù binh. Chiếm xong Smolensk, tập đoàn quân thiết giáp số 2 được lệnh quay về phía Nam, phối hợp với cụm tập đoàn quân Nam đánh về phía Bắc thành 2 gọng kềm bao vây Kiep, tiêu diệt và bức hàng 43 sư đoàn Hồng quân với tổng số 60 vạn người cùng với nhiều vũ khí nặng.
Bước vào giai đoạn 3, các tập đoàn quân đoàn thiết giáp Đức lặp lại bài bản tấn công bằng 2 gọng kềm thắng lợi thêm một lần nữa ở Vyazma, bao vây 4 tập đoàn quân Hồng quân trong túi, bắt sống gần 70 vạn người, nâng tổng số Hồng quân bị tiêu diệt hoặc bắt sống lên xấp xỉ 3 triệu. Nhưng đây cũng là dấu chấm hết cho những thắng lợi của blitzkrieg ở Liên Xô khi sau đó Hồng quân phản công thành công ở trận Moskva, biến mặt trận phía Đông thành một cuộc chiến tranh tiêu hao tổng lực.
Học thuyết quân sự của Đức Quốc xã so với đương thời
Với những nền tảng lý luận chiến thuật - chiến lược đã được đúc kết từ lịch sử trước đó ở Đức, từ những năm 1920 trở đi, học thuyết blitzkrieg của Đức dần thành hình và triển khai vào tổ chức quân đội. Tiến trình chủ yếu để góp phần hoàn chỉnh học thuyết là xác định vai trò của xe tăng - bộ binh cơ giới hoá trong tương quan với vai trò truyền thống của bộ binh - kỵ binh cùng với cách thức tổ chức lực lượng này và phương pháp tác chiến của chúng. Đây là điểm cốt yếu dẫn tới tranh luận về sự vay mượn và ảnh hưởng qua lại giữa blitzkrieg và các lý luận chiến tranh đương thời.
Lý luận chiến tranh và tổ chức quân đội của Phương Tây
Với Thế chiến thứ 1 kết thúc thắng lợi bằng chiến thuật phòng ngự trong chiến hào, giới lãnh đạo quân sự Phương Tây lại tiếp tục đặt trọng tâm vào bộ binh. Với quan điểm đó, việc nghiên cứu các giải pháp phòng ngự chiến thuật mới cho bộ binh được chú trọng mà việc cơ giới hoá bộ binh lại bị xem nhẹ. Đến khi những nghiên cứu về xe tăng đạt được những tiến bộ lớn và bắt đầu được sản xuất trang bị cho quân đội, thì xe tăng được tổ chức thành các lữ đoàn thuần tăng. Vai trò của các lữ đoàn này hoặc là hỗ trợ hoả lực cho bộ binh, hoặc cơ động chiến thuật thay thế kỵ binh trước đó - dẫn đến khả năng tác chiến độc lập bị hạn chế.
Một vài nhà lý luận quân sự như J.F.C. Fuller, B.H. Liddell Hart ở Anh có quan điểm khác về vai trò của lực lượng cơ giới hoá trong điều kiện mới. Fuller là một sĩ quan trong lực lượng xe tăng mới lập ở Anh, ông đề xuất tách xe tăng ra thành một binh chủng riêng, thậm chí vạch ra cả kế hoạch tấn công chỉ bằng lực lượng xe tăng tập trung. Trong khi đó, với xuất thân là sĩ quan bộ binh, nhưng với nhãn quan của một nhà chiến thuật, Liddell Hart phân tích các trận đánh trong Thế chiến 1 để rút ra rằng những cuộc tấn công trực diện vào các điểm hay tuyến phòng ngự đối phương đều có hiệu quả thấp, và tấn công gián tiếp, vu hồi bọc hậu là chiến thuật tối ưu. Để thực hiện được chiến thuật tấn công gián tiếp, cần phải cơ giới hoá bộ binh. Quan điểm của hai ông, mặc dù có một vài ủng hộ nhất định, nhưng không được Quân đội Hoàng Gia Anh thừa nhận rộng rãi để triển khai.
Ở Pháp, Charles de Gaulle (Sác-lơ đờ Gôn) xuất phát từ góc nhìn khác. Ông chỉ ra rằng phân bố dân số nước Pháp theo độ tuổi không cho phép duy trì một lực lượng bộ binh đông đúc như trước, cho nên cần cơ giới hoá bộ binh, trang bị xe tăng, máy bay, lấy khả năng cơ động và hỏa lực bù cho số lượng. Tuy nhiên, cũng như ở Anh, quan điểm của ông không được giới lãnh đạo quân đội Pháp chấp nhận.
Trong khi đó, những quan điểm này lại được chính nước Đức cân nhắc, nghiên cứu và lựa chọn áp dụng vào học thuyết của mình.
Lý luận chiến tranh và tổ chức quân đội của Liên Xô
Khác với các nước Phương Tây trải qua chiến tranh phòng ngự ở Thế chiến 1, Liên Xô có bề dày kinh nghiệm về vận động chiến ở cùng thời kỳ cũng như cuộc nội chiến trong thời gian kế tiếp. Một mặt khác, các nhà lý luận quân sự Liên Xô nhận định rằng chiến tranh tương lai là sân khấu cho hình thức vận động chiến được cơ giới hoá. Đây là hai lý do chính dẫn đến việc các lãnh đạo Hồng quân phát triển một học thuyết quân sự, Tác chiến chiều sâu (Deep Battle), một học thuyết hiện đại so với đương thời, đã được hoàn chỉnh tới mức đã được triển khai thành Điều lệ tác chiến vào năm 1936.
Với lập luận rằng trên lãnh thổ rộng lớn của mình, chiến tranh không thể kết thúc bằng một số ít trận đánh quyết định, nên học thuyết đưa ra khái niệm "nghệ thuật chiến dịch" như là một cấp độ ở giữa chiến thuật và chiến lược, tức cách thiết kế, tổ chức các chiến dịch nối tiếp nhau liền lạc hợp lý được nối kết trong một mục tiêu thống nhất. Ở cấp độ chiến thuật, học thuyết đưa ra cách thức tấn công suốt chiều sâu phòng tuyết đối phương bằng các loại hoả lực để thê đội 1 mở cửa đột phá trước khi thê đội 2 - là lực lượng cơ giới hoá vận động thọc sâu. Với quan điểm 2 thê đội này, học thuyết đưa đến việc vừa thành lập các đơn vị xe tăng - cơ giới hoá hợp thành tập trung có khả năng tác chiến cơ động độc lập, vừa biên chế cơ hữu xe tăng vào các Tập đoàn quân hợp thành.
Tác giả chính của học thuyết này được cho là Nguyên soái Liên Xô M.N. Tukhachevsky, Tổng Tham mưu trưởng Hồng quân giai đoạn 1925-1928, Phó Dân uỷ Quốc phòng 1931-1937. Tuy nhiên, trong cuộc thanh trừng của Stalin vào năm 1937, Tukhachevsky cùng với các đồng sự cùng đóng góp vào học thuyết cùng với một thế hệ chỉ huy hiểu rõ học thuyết hoặc bị thủ tiêu, hoặc bị cải tạo ở các trại Gulag ở Siberia. Vì thế, ở thời điểm bắt đầu cuộc chiến tranh giữ nước, Hồng quân Liên Xô về cơ bản là một đội quân không có bài bản tác chiến rõ ràng, sức mạnh chỉ tính bằng số quân và vũ khí khi không có đội ngũ chỉ huy có đủ năng lực. Chỉ đến sau những thất bại ban đầu ở Chiến tranh Thế giới thứ 2, Hồng quân mới được tổ chức lại và tác chiến theo những nguyên tắc đã được xác lập trong học thuyết.
Sự thất bại về mặt chiến lược của blitzkrieg ở mặt trận phía Đông
Blitzkrieg ra đời như một giải pháp cho chiến lược chiến tranh của nước Đức: chóng vánh giải quyết từng đối thủ để tránh tham chiến cùng lúc hai mặt trận đồng thời tránh bị sa lầy vào chiến tranh tiêu hao. Tuy nhiên, ở Chiến tranh thế giới thứ 2, Blitzkrieg đã không giải được cả hai vấn đề đó.
Thứ nhất, mặc dù xâm chiếm thành công phần lớn châu Âu, nhưng Đức đã bỏ lỡ cơ hội tiêu diệt lực lượng viễn chinh Anh (British Expeditionary Force) ở Dunkirk, cũng như Không quân Đức không thắng được Không quân Hoàng gia Anh ở trận chiến nước Anh. Việc không giải quyết xong nước Anh trước khi mở chiến dịch tấn công Liên Xô là một rủi ro mang tính chiến lược: nguy cơ cùng lúc đối mặt với hai đối thủ không bị loại trừ.
Thứ hai, Đức không xác định mục tiêu chiến lược - chiến dịch hợp lý trong cuộc tấn công Liên Xô. Ví dụ, trong quá trình phát triển của chiến dịch Barbarossa, sau khi chiếm xong Smolensk, lẽ ra cụm tập đoàn quân trung tâm cần được tăng cường để nhắm tới mục tiêu Moskva đang để ngỏ, thì lại bị làm suy yếu khi lực lượng thiết giáp của cụm được điều xuống mục tiêu Kiev ở phía Nam. Cho nên, khi tập trung được quân lực để mở màn chiến dịch tấn công Moskva, thì Hồng quân cũng đã kịp tập trung phòng thủ Moskva. Sự kiện sau đó, Hồng quân phản công thắng lợi ở trận đánh này có một ý nghĩa to lớn: Đức buộc phải tham gia một cuộc chiến tranh tiêu hao tổng lực, và khi đã sa lầy vào chiến tranh tiêu hao này, Đức hoàn toàn không có cơ hội trước tiềm lực khổng lồ của Liên Xô.
Cả hai điểm trên có thể coi là thất bại về mặt chiến lược của blitzkrieg: chúng vi phạm tiền đề chiến thắng, dẫn đến sự thất bại hầu như chắc chắn của nước Đức.
Giá trị của blitzkrieg với các học thuyết quân sự hiện đại
Trên 2 phương diện tổ chức quân đội và chiến thuật tác chiến, blitzkrieg là một cột mốc lịch sử xác lập 2 xu hướng chắc chắn trong học thuyết quân sự hiện đại của quân đội các nước lớn: xu hướng hợp thành vũ khí và cơ giới hoá.
Ở Liên Xô, sau Thế chiến thứ 2 việc cơ giới hoá tiếp tục được đẩy mạnh, với 65 sư đoàn tăng - cơ giới và mô tô hoá trên tổng số 175 sư đoàn. Xe thiết giáp chở quân bánh hơi BTR-152 và bánh xích BTR-50 ra đời, nâng chất lượng cơ giới hoá lên một bước mới. Đến năm 1953, thì học thuyết của Quân đội Xô viết có sự thay đổi lớn khi lực lượng chiến lược nắm vai trò chủ yếu: quân đội chỉ để chiếm đất và khai thác cơ hội sau khi bom nguyên tử đã được sử dụng. Vì thế, cấu trúc quân đội chuyển qua hầu hết là xe tăng và thiết giáp nặng, có khả năng sống sót cao sau đòn đánh trả hạt nhân. Ở thời kỳ này, việc hợp thành vũ khí bị bỏ quên. Cho đến cuối thập kỷ 60, để cân bằng với học thuyết quân sự Phản ứng linh hoạt của Mỹ - vốn nhằm đối phó với nhiều cấp độ xung đột - thì Quân đội Xô Viết mới quay lại với xu hướng hợp thành vũ khí truyền thống của mình. Cho đến giữa thập kỷ 1970, thì Quân đội Xô Viết đã cơ bản hoàn thành việc hợp thành vũ khí và cơ giới hoá với nhiều loại xe tăng - xe thiết giáp đời mới.
Quân đội Mỹ sau Thế chiến thứ 2 đi trên một con đường khác với Quân đội Xô Viết. Do phải tham chiến ở Triều Tiên và sau đó là Việt Nam với bản chất là những cuộc chiến tranh bất cân xứng, trong đó các binh đoàn cơ giới hoá không có nhiều vai trò, nên việc hợp thành vũ khí chỉ giới hạn ở hoả lực bộ binh - pháo binh và không quân. Hơn thế nữa, do môi trường tác chiến trải dài từ châu Âu sang châu Á, nên Quân đội Mỹ phải chủ yếu dựa vào bộ binh với vũ khí nhẹ, dễ điều động bằng máy bay. Từ những năm 60 trở đi, với việc nhận định nước Mỹ đối mặt với nhiều đe doạ ở nhiều cấp độ khác nhau, từ chiến tranh hạt nhân đến chiến tranh du kích, nên Quân đội Mỹ thay đổi học thuyết thành Phản ứng linh hoạt, trong đó tiếp tục xu hướng hợp thành vũ khí và nâng cao sức cơ động cho các đơn vị trên một khung tổ chức dễ thay đổi. Đặc biệt, trong thời gian này, Quân đội Mỹ bắt đầu thử nghiệm sử dụng trực thăng làm phương tiện cơ động thay cho xe thiết giáp.
Từ những năm 1970 đến gần đây, Quân đội Mỹ đã 2 lần thay đổi học thuyết: mỗi lần mức độ hợp thành vũ khí lại tăng lên. Học thuyết hiện tại của Quân đội Mỹ là ứng dụng của thời đại tin học, đặt trọng tâm vào việc nối mạng tất cả các lực lượng (network centric) với quan niệm rằng đây là phương cách tốt nhất để tích hợp mọi nguồn lực, bao gồm nguồn lực cứng là các loại vũ khí và nguồn lực mềm là các loại thông tin chiến trường.
Chú thích
Ghi chú
Nguồn dẫn |
Báo chí (報誌) ngành báo, hay cũ là tân văn (新聞), như trong Phụ nữ tân văn, tức là báo phụ nữ, Lục Tỉnh tân văn, tức là báo Lục tỉnh), nói một cách khái quát là những xuất bản phẩm định kỳ nhằm báo cáo về các sự vật, hiện tượng hay con người nổi bật trong ngày mà xã hội cần quan tâm.
Tuy phương tiện truyền tải báo chí thay đổi theo thời gian, các nghiệp vụ báo chí vẫn bao gồm: tìm hiểu thông tin, phân tích thông tin và phổ biến thông tin đến độc giả. Mở rộng ra, khái niệm báo chí cũng được sử dụng cho các phương pháp tìm kiếm tin tức, lối viết văn trên báo chí, và các hoạt động (chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp) của báo chí.
Theo thời gian, phương tiện truyền tải của thông tin đi từ nhật báo, tạp chí (trên giấy) tới đài phát thanh, đài truyền hình (trên loa đài) tới các ấn bản điện tử trên web (báo điện tử).
Trong xã hội hiện đại, báo chí là người cung cấp thông tin chính và phản hồi ý kiến về các vấn đề của công chúng. Tuy nhiên báo chí không phải lúc nào cũng chỉ giới hạn ở tìm kiếm và truyền tải thông tin. Truyền thông báo chí có thể mở rộng sang các hình thức khác như văn học và điện ảnh. Ở một số quốc gia, báo chí bị chính phủ kiểm soát và không phải là một cơ quan hoàn toàn độc lập.
Tuy nhiên, trong một xã hội dân chủ, việc tiếp cận với thông tin miễn phí đóng một vai trò chính trong việc tạo ra một hệ thống kiểm tra và cân bằng, cũng như phân bổ quyền lực cân đối giữa chính phủ, các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức xã hội khác. Việc tiếp cận thông tin có thể kiểm chứng được do báo chí thu thập bởi các nguồn phương tiện truyền thông độc lập, tuân thủ các tiêu chuẩn báo chí, có thể khiến các công dân bình thường có khả năng tham gia vào các hoạt động chính trị.
Vai trò và vị thế của báo chí, cùng với các phương tiện truyền thông đại chúng, đã trải qua những thay đổi sâu sắc trong hai thập kỷ vừa qua với sự ra đời của công nghệ kỹ thuật số và phổ biến thông tin trên Internet. Điều này đã tạo ra một sự thay đổi trong việc xem báo giấy, vì người dân ngày càng đọc tin tức thông qua điện thoại thông minh và các thiết bị điện tử khác, thách thức các tờ báo tìm cách kiếm tiền thông qua các phương tiện kỹ thuật số cũng như phát triển khả năng xuất bản các tin tức có ngữ cảnh. Với truyền thông Mỹ, các tòa soạn đã cắt giảm số nhân viên và bảo hiểm của họ khi thấy các kênh truyền thông truyền thống như truyền hình đã bị giảm lượng khán giả theo dõi. Ví dụ, năm 2007 đến 2012, CNN đã giảm thời gian phát các chương trình thời sự chỉ còn một nửa chiều dài thời gian ban đầu.
Việc thu hẹp tầm ảnh hưởng của báo chí có liên quan đến việc giảm lượng độc giả quy mô lớn. Phần lớn những độc giả được hỏi trong các nghiên cứu gần đây cho thấy họ đã thay đổi phương thức đọc tin tức. Thời đại kỹ thuật số cũng đã mở ra một loại hình mới của báo chí trong đó các công dân bình thường đóng vai trò lớn hơn trong quá trình viết tin tức, với sự xuất hiện của báo chí công dân và việc quảng bá thông tin thông qua Internet. Sử dụng điện thoại thông minh được trang bị máy quay video, bất kỳ người dân nào cũng có thể ghi lại các sự kiện hay tin tức và tải chúng lên các kênh như YouTube. Các kênh truyền thông tin tức chính thống đã nhanh chóng lợi dụng các kênh thông tin như vậy. Trong khi đó, việc dễ dàng truy cập vào tin tức từ nhiều nguồn thông tin trực tuyến như blog và các phương tiện truyền thông xã hội khác, đã dẫn đến việc độc giả có thể chọn đọc tin tức từ rất nhiều nguồn chính thức và không chính thức, thay vì chỉ đọc báo chí truyền thống của các cơ quan thông tấn.
Lịch sử
Tờ báo tiếng Đức "Relation aller Fürnemmen und gedenckwürdigen Historien" của Johann Carolus phát hành năm 1605 ở Strassburg (nay thuộc Pháp) được thừa nhận là tờ báo giấy đầu tiên. Tờ nhật báo tiếng Anh đầu tiên, Daily Courant, phát hành từ năm 1702 đến 1735. Trường học đầu tiên về ngành báo chí, Missouri School of Journalism, thành lập năm 1908 tại Hoa Kỳ bởi Walter Williams.
Tại Việt Nam, Gia Định báo là tờ báo tiếng Việt đầu tiên, phát hành từ năm 1865 đến 1910 tại Sài Gòn.
Tên gọi
Từ báo chí bắt đầu từ hai chữ: báo (報: báo cáo, báo tin), chí (誌: viết).
Vai trò
Mỗi loại hình báo chí sẽ đảm nhiệm những vai trò nhất định, tuy nhiên loại hình báo chí nào cũng mang những vai trò, chức năng chung là chuyển tải thông tin đến công chúng, đều có tính công khai, tính thời sự, tính tương tác, tính đa dạng, tính định kỳ… Tuỳ đặc điểm riêng của từng thể loại mà sẽ ưu tiên các tính năng để phát huy tốt được vai trò của thể loại báo đó.
Tự do báo chí
Các loại báo chí
Báo chí là tên gọi chung của các thể loại thông tin đại chúng. Có những loại báo chí sau:
Báo viết: Thể loại báo chí xuất hiện lâu đời nhất, hình thức thể hiện trên giấy, có hình ảnh minh họa. Ưu điểm: tính phổ cập cao, có nội dung sâu, người đọc có thể nghiên cứu. Nhược điểm: thông tin chậm, khả năng tương tác hai chiều (giữa người đọc và người viết) kém. Còn gọi là báo in, báo giấy hay là báo chữ và có nhiều dạng như nhật báo, tạp chí, tuần báo, nguyệt san, tập san,...
Báo nói: Thông tin được chuyển tải qua thiết bị đầu cuối là radio bằng ngôn ngữ. Ra đời thế kỷ 19. Ưu điểm: thông tin nhanh. Nhược điểm: không trình bày được các thông tin bằng hình ảnh (phóng sự ảnh) hoặc các thông tin có hình ảnh minh họa.
Báo truyền hình: Thông tin được chuyển tải bằng hình ảnh và âm thanh qua thiết bị đầu cuối là máy phát hình (đài truyền hình) và máy thu hình (television). Ưu điểm: thông tin nhanh; khuyết điểm: khả năng tương tác hai chiều chưa cao.
Báo mạng điện tử: Sử dụng giao diện website trên Internet để truyền tải thông tin bằng bài viết, âm thanh, hình ảnh, các đoạn video gồm cả hình ảnh động và âm thanh (video clip). Ưu điểm: thông tin cập nhật nhanh, tính tương tác hai chiều cao. Khuyết điểm: tính phổ cập còn yếu, có thể bao gồm cả tin giả.
Người làm báo
Những người làm việc cho báo chí hay săn tin, được gọi là phóng viên, biên tập viên, nhân viên tòa soạn,... Tòa soạn báo là nơi sản xuất và phát hành báo chí. Tòa soạn báo điện tử là cơ quan báo chí chuyên sản xuất và phát hành các bài báo dưới dạng ấn bản điện tử (còn gọi là báo điện tử hay báo mạng).
Có một công thức chung cho báo chí: báo điện tử, phát thanh đưa tin, truyền hình phản ánh, báo viết bình luận.
Báo chí và tuyên truyền hay còn nói cách khác là một dịch vụ quảng cáo truyền thống. Sức mạnh của báo chí rất to lớn có thể cứu sống được nghìn người thông qua báo chí, nhưng ngược lại điều đó, nghề báo còn nhiều bất cập và tiêu cực vẫn còn những nhà báo (người làm báo) trước khi đặt bút viết lên một bài báo họ chưa nghĩ về kết cục sau khi bài báo đã được đăng hay phát hành rộng rãi trên khắp cả nước. Báo chí còn được mệnh danh là quyền lực thứ tư, sau tam quyền phân lập, có khả năng giám sát hoạt động của chính phủ cũng như định hướng dư luận.
Đánh giá về báo chí |
Tất cả các đơn vị hành chính liên bang của Nga được nhóm lại trong 8 vùng liên bang của Nga (tiếng Nga: федеральные округа, số ít: федеральный округ; chuyển tự: federalnyye okruga, số ít: federalny okrug), mỗi vùng liên bang được quản lý bởi một Đặc phái viên Toàn quyền, do Tổng thống Nga bổ nhiệm.
Lịch sử
Các vùng liên bang được thành lập theo sắc lệnh của tổng thống Vladimir Putin vào tháng 5 năm 2000
Ngày 19 tháng 1 năm 2010, thành lập Vùng liên bang Bắc Kavkaz, được tách từ vùng liên bang phía Nam.
Tháng 3 năm 2014, sau khi quân đội Nga can thiệp và sáp nhập bán đảo Krym, Vùng liên bang Krym được thành lập. Tính hợp pháp của việc sáp nhập này đang bị cộng đồng quốc tế phản đối. Ngày 28 tháng 7 năm 2016, Vùng liên bang Krym được nhập vào Vùng liên bang phía Nam để tiện cho việc quản lý.
Vào tháng 11 năm 2018, Buryatia và Zabaykalsky Krai vốn thuộc Vùng liên bang Siberi nhưng được thêm vào Khu liên bang Viễn Đông theo sắc lệnh do tổng thống Putin ban hành. Trung tâm hành chính của Vùng liên bang Viễn Đông đã được chuyển từ Khabarovsk đến Vladivostok vào tháng 12 năm 2018.
Danh sách các vùng liên bang
Nguồn:
Vùng liên bang Trung Tâm
Trung tâm hành chính: Moskva. Bao gồm 17 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc trung ương:
Moskva (thành phố liên bang)
Tỉnh Belgorod
Tỉnh Bryansk
Tỉnh Ivanovo
Tỉnh Kaluga
Tỉnh Kostroma
Tỉnh Kursk
Tỉnh Lipetsk
Tỉnh Moskva
Tỉnh Oryol
Tỉnh Ryazan
Tỉnh Smolensk
Tỉnh Tambov
Tỉnh Tver
Tỉnh Tula
Tỉnh Vladimir
Tỉnh Voronezh
Tỉnh Yaroslavl
Vùng liên bang Phía Nam
Trung tâm hành chính: Rostov-na-Donu (đọc tương tự như Rátxtốp na Đônu tức thành phố Rostov trên sông Đông).
Bao gồm: 5 tỉnh, 4 cộng hòa & 1 vùng:
Tỉnh Astrakhan
Tỉnh Rostov
Tỉnh Volgograd
Tỉnh Kherson
Tỉnh Zaporozhye
Vùng Krasnodar
Nước cộng hòa Adygea
Nước cộng hòa Kalmykia
Nước cộng hòa Donetsk
Nước cộng hòa Lugansk
Vùng liên bang Bắc Kavkaz
Trung tâm hành chính Pyatigorsk.
Bao gồm: 6 cộng hoà & 1 vùng:
Nước cộng hòa Dagestan
Nước cộng hòa Ingushetia
Nước cộng hòa Kabardino-Balkaria
Nước cộng hòa Karachay-Cherkessia
Nước cộng hòa Bắc Ossetia-Alania
Vùng Stavropol
Nước cộng hòa Chechnya
Vùng liên bang Tây Bắc
Trung tâm hành chính: Sankt-Peterburg. Bao gồm: 1 thành phố trực thuộc trung ương liên bang, 7 tỉnh, 2 nước cộng hòa và 1 khu tự trị
Sankt-Peterburg (thành phố trực thuộc trung ương)
Tỉnh Arkhangelsk
Khu tự trị Nenetsia
Tỉnh Kaliningrad
Tỉnh Leningrad
Tỉnh Murmansk
Tỉnh Novgorod
Tỉnh Pskov
Tỉnh Vologda
Cộng hòa Karelia
Cộng hòa Komi
Vùng liên bang Viễn Đông
Trung tâm hành chính: Khabarovsk. Bao gồm 3 tỉnh, 1 tỉnh tự trị, 3 vùng, 1 nước cộng hòa và 1 khu tự trị.
Tỉnh Amur
Tỉnh Magadan
Tỉnh Sakhalin
Tỉnh tự trị Do Thái
Vùng Kamchatka
Vùng Khabarovsk
Vùng Primorsky
Cộng hòa Sakha
Khu tự trị Chukotka
Vùng liên bang Siberi
Trung tâm hành chính: Novosibirsk. Bao gồm 5 tỉnh, 3 vùng và 4 nước cộng hòa:
Tỉnh Irkutsk
Tỉnh Kemerovo
Tỉnh Novosibirsk
Tỉnh Omsk
Tỉnh Tomsk
Vùng Altai
Vùng Krasnoyarsk
Vùng Zabaykalsky
Nước cộng hòa Altai
Nước cộng hòa Buryatia
Nước cộng hòa Khakassia
Nước cộng hòa Tuva
Vùng liên bang Ural
Trung tâm hành chính: Ekaterinburg. Bao gồm 4 tỉnh và 2 khu tự trị:
Tỉnh Chelyabinsk
Tỉnh Kurgan
Tỉnh Sverdlovsk
Tỉnh Tyumen
Khu tự trị Khantia-Mansia
Khu tự trị Yamalo-Nenets
Vùng liên bang Volga (Privolzhsky)
Trung tâm hành chính: Nizhny Novgorod (Novgorod hạ). Bao gồm 7 tỉnh, 1 vùng và 6 nước cộng hòa:
Tỉnh Kirov
Tỉnh Nizhny Novgorod
Tỉnh Orenburg
Tỉnh Penza
Tỉnh Samara
Tỉnh Saratov
Tỉnh Ulyanovsk
Vùng Perm
Nước cộng hòa Bashkortostan
Nước cộng hòa Chuvashia
Nước cộng hòa Mari El
Nước cộng hòa Mordovia
Nước cộng hòa Tatarstan
Nước cộng hòa Udmurtia
Vùng liên bang Krym
Trung tâm hành chính: Simferopol. Bao gồm 1 thành phố trực thuộc trung ương liên bang và 1 nước cộng hòa không được quốc tế công nhận:
Sevastopol (thành phố liên bang)
Nước cộng hòa Krym
Ghi chú
Phân cấp hành chính Nga |
Mặt trăng có thể là:
Mặt Trăng, vệ tinh tự nhiên của Trái Đất
Mặt trăng, cách gọi khác của vệ tinh tự nhiên |
Hiệp hội Bác ái Vinh Sơn (Conférences saint Vincent de Paul) là một tổ chức giáo dân quốc tế thuộc giáo hội Công giáo La Mã bao gồm thiện nam tín nữ ở mọi lứa tuổi, là những nhà từ thiện chuyện giúp đỡ những người kém may mắn.
Chi hội Bác ái Vinh Sơn đầu tiên được thành lập vào năm 1833 do những thành viên trẻ tuổi 1 có ý muốn tạo ra một tổ chức làm việc công quả để giúp đỡ những người cùng khổ sống ở Paris, nước Pháp. Chi hội này được thành lập bởi Frederick Hồng phúc, luật sư, nhà văn và giáo sư của Đại học Sorbonne.
Hiệp hội nhận tên thánh Vinh Sơn làm bổn mạng (quan thầy) theo mong muốn của Nữ tu
Rosalie Rendu, Nữ tử bác ái (Daughter of Charity). Bà Rosalie (được Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước vào năm 2004) là một thành viên của hội Con Đức Mẹ (Daughters of Charity) của Thánh Vinh Sơn Phaolô (St. Vincent de Paul), một nhóm tín nữ tình nguyện phục vụ những người kém may mắn, do hai vị đồng sáng lập: Thánh Vinh Sơn Phaolô và Thánh nữ St. Louise de Marillac. Nữ tu Rosalie, có công trạng chăm sóc người nghèo trong khu ổ chuột của Paris, làm hướng đạo viên cho Frédéric Hồng phúc và các cộng sự viên trong việc tiếp xúc với đối tượng phục vụ của họ.
Đại gia đình Vinh Sơn
Hiệp hội Bác ái Vinh Sơn là một thành phần trong Đại gia đình Vinh Sơn bao gồm:
Tu hội Truyền giáo (Congregation of the Mission) (các tu sĩ Vinh Sơn và Nam nhân Bác ái, Thánh Vinh Sơn Phaolô thành lập)
Nữ Tử Bác Ái (Daughters of Charity)
Hội Các Bà Bác ái (Ladies of Charity) (tổ chức tín nữ từ thiện, Thánh Vinh Sơn Phaolô thành lập)
Nữ tử Bác ái theo phương hướng Seton (do Thánh nữ Elizabeth Ann Seton thành lập)
Liên hiệp các công trình Pháp quốc UOF
và một số tổ chức khác, kể cả những nhóm tín hữu trong Cộng đồng Anh giáo (Giáo hội Anh giáo, Giáo hội Giám lý Hoa Kỳ,..).
Thành viên của Hiệp hội khoảng 950.000 người ở 130 quốc gia trên toàn thế giới, các thành viên này liên kết hoạt động thông qua những cái được gọi là "các hội nghị". Một hội nghị có thể không dựa vào giáo hội, cộng đồng trung ương, nhà trường, bệnh viện, v.v., và được những người tình nguyện Công giáo lập ra với tôn chỉ đóng góp thời gian và của cải để trợ giúp người khác trong cộng đồng. Người ngoài Công giáo cũng có thể tham gia với sự hiểu biết rằng Hiệp hội là một tổ chức Công giáo. Đại học Thánh Gioan tại New York đi theo đường hướng Vinh Sơn và điều hành Trung tâm Vinh Sơn trong làng đại học Queens của họ.
Youth SVP là tổ chức giới trẻ lớn nhất trong Giáo hội Công giáo của Anh quốc và xứ Wales. Từ năm 1999, có hơn 8000 thanh niên đã hoạt động cụ thể hóa đức tin bằng cách gia nhập vào Youth SVP, tại 132 quốc gia trên thế giới.
Tinh thần Vinh Sơn
Ơn kêu gọi theo tinh thần Thánh Vinh Sơn
Hiệp hội Bác ái Vinh Sơn bao gồm những người giáo dân nam, nữ, giới trưởng thành và giới thanh niên có ưu tư củng cố trách nhiệm của họ trong lĩnh vực tâm linh và trần thế.
Giữ quân bình giữ việc đào sâu tâm linh và dấn thân xã hội
Hội viên Vinh Sơn là những người muốn thực hiện sư quân bình giữa đời sống tâm linh và dấn thân phục người kém may mắn. Họ suy tư về những vấn đề của xã hội một cách cá nhân, và cùng với Hiệp hội cố gắng giải quyết vấn đề thao theo những tiêu chuẩn mới nhất đang hiện hành.
Người kém may mắn là những người nghèo khó, bị bỏ rơi, bị loại trừ, là người đang đau khổ, bất kể chủng tộc, quan điểm hoặc tín ngưỡng.
Phục vụ cá nhân và thường xuyên
Hội viên Vinh Sơn tự làm cho mình trở thành người phục vụ: thực thi bác ái trong sự tiếp xúc gần gũi, mỗi cá nhân phục vụ trực tiếp và thường xuyên cho những người kém may mắn, phải xem họ như những người bạn, chứ không phải là những cá nhân cần sự trợ giúp.
Phải là bạn bè để yêu thương
Tình bạn là "chất xi măng" liên kết giữa các hội viên Vinh Sơn với nhau, cũng như liên kết họ với những người kém may mắn.
Đem đến niềm vui không ồn ào rầm rộ
Thánh Vinh Sơn Phaolô nói rằng: "Sự phục vụ người nghèo phải được thực hiện với niềm vui, lòng can đảm và sự kiên trì". Hội viên Vinh Sơn phải đến với người khác với tấm lòng thanh thản (hơn là với đôi tay chất đầy quà biếu).
Lòng thanh thản là thành quả của sự rèn luyện đức tính khiêm nhường và tính cách đơn sơ.
Trung tín với Giáo hội Công giáo
Hội viên Vinh Sơn là thành viên của một tổ chức giáo dân Kitô giáo, tham dự vào hoạt động bác ái của giáo dân Kitô hữu trên khắp thế giới để phục vụ những người kém may mắn.
1 Những thành viên tiên khởi:
2 950.000 thành viên là số liệu mới của Thủ bản Hiệp hội Bác ái Vinh Sơn |
Vinh Sơn đệ Phaolô (tiếng Pháp: Vincent de Paul, sinh 24 tháng 4, 1581 – mất 27 tháng 9 năm 1660) là một vị thánh của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông sinh tại Pouy, Landes, Gascony, nước Pháp trong một gia đình nông dân nghèo. Lễ kính của ông trước đây là ngày 19 tháng 7, hiện nay được cử hành vào ngày giỗ của ông 27 tháng 9.
Ông nghiên cứu môn nhân tính hóa tại Dax trong trường dòng Phan Sinh (Cordeliers) và nhận bằng tú tài thần học tại Toulouse. Vinh Sơn thụ phong linh mục năm 1600 và lưu trú tại Toulouse cho đến khi đi Marseille để nhận thừa kế. Trên đường về từ Marseille, tàu của ông bị cướp và bị bọn hải tặc người Thổ bắt đưa đi Tunis và bị bán làm nô lệ. Sau khi cảm hoá người chủ để trở thành một Kitô hữu, linh mục Vinh Sơn được trả tự do vào năm 1607.
Sau đó, ông quay trở lại Pháp và nhận nhiệm sở tại một giáo xứ gần Paris. Ông thành lập các tu dòng từ thiện như Tu hội Nữ tử Bác ái (Congregation of the Daughters of Charity), với sự cộng tác của bà Louise de Marillac, và Tu hội Truyền giáo (Congregation of Priests of the Mission, hay Lazarist).
Khi được vua Louis XIII bổ nhiệm làm Tổng Tuyên úy của những tù nhân khổ sai chèo thuyền chiến, ông có cơ hội để cải thiện đời sống tử tù của Pháp.
Vào năm 1705 tu viện trưởng Tu hội Truyền giáo Lazarists đề nghị tiến hành hồ sơ phong thánh (canonization) cho đấng sáng lập. Vào ngày 13 tháng 8 năm 1729, Vinh Sơn Phaolô đã được Giáo hoàng Biển Đức XIII phong Chân phước (beatification) và được Giáo hoàng Clêmentê XII tuyên phong Hiển thánh (canonized) vào ngày 16 tháng 6 năm 1737. Năm 1885, Giáo hoàng Lêô XIII tuyên bố thánh Vinh Sơn là thánh bổn mạng (quan thầy) của hội Nữ tu sĩ Bác ái (Sisters of Charity of the Blessed Virgin Mary). Thánh Vinh Sơn cũng là thánh bổn mạng của hội Nam tu sĩ Bác ái (Brothers of Charity). |
Lạc đà hai bướu (tên khoa học Camelus bactrianus) là loài động vật guốc chẵn lớn, có nguồn gốc từ vùng thảo nguyên của khu vực Đông Á. Gần như toàn bộ lạc đà hai bướu (ước tính khoảng 1,4 triệu con hiện đang sinh sống) ngày nay đã được thuần hóa, tuy vậy trong tháng 10 năm 2002 thì người ta ước tính còn khoảng 950 con vẫn sống cuộc sống hoang dã tại miền tây bắc Trung Quốc và Mông Cổ và chúng được xếp vào danh sách các loài Đã Thuần hóa
Đặc điểm, sinh trưởng
Lạc đà hai bướu trưởng thành cao trên 2 mét (7 ft) tính từ bướu trở xuống và cân nặng trên 725 kg (1.600 pounds). Chúng là động vật ăn cỏ, vì thế chúng ăn các loại cỏ, lá cây, ngũ cốc và có khả năng uống tới 120 lít (32 galông Mỹ) nước một lúc. Miệng của chúng đủ khỏe và cho phép chúng ăn các loại thực vật có gai trên sa mạc.
Chúng có cấu tạo cơ thể thích nghi với đời sống trên sa mạc (rất nóng ban ngày, rất lạnh ban đêm và bão, gió cát); chúng có chân to và lớp da rất dày trên đầu gối và ngực, các lỗ mũi có thể mở ra khép lại, các mắt được bảo vệ bằng lớp lông dày, lông mày rậm rạp và hai hàng lông mi dài. Lớp da và lông trên cơ thể dày giữ cho chúng đủ ấm trong đêm sa mạc lạnh lẽo và cách nhiệt cho chúng trong điều kiện thời tiết khô và nóng ban ngày.
Lạc đà một bướu (Camelus dromedarius) là loài lạc đà khác duy nhất còn tồn tại, có nguồn gốc ở vùng sa mạc Sahara, nhưng ngày nay các lạc đà một bướu không còn tồn tại trong điều kiện đời sống hoang dã. So sánh với chúng thì lạc đà hai bướu có thân hình chắc chắn hơn, có khả năng chịu đựng tốt hơn sự nóng bức mùa hè trên sa mạc ở miền bắc Iran cũng như mùa đông băng giá của Tây Tạng . Lạc đà một bướu thì cao và nhanh hơn, và khi có người điều khiển thì nó có thể đi được với vận tốc 13–15 km/h (8-9 dặm/h), còn lạc đà hai bướu khi chở người chỉ đi được với vận tốc khoảng 4 km/h (2,5 dặm/h) .
Lịch sử
Người ta cho rằng lạc đà hai bướu được thuần hóa vào khoảng trước năm 2500 TCN, có thể là ở miền bắc Iran hoặc tây nam Turkestan. Lạc đà một bướu được cho là đã thuần hóa vào khoảng năm 4000 TCN ở bán đảo Ả Rập.
Phân loại
Gallery
Chú thích |
Động cơ đốt trong (tiếng Anh: internal combustion engine; viết tắt: ICE) là một loại động cơ nhiệt, trong đó quá trình đốt cháy nhiên liệu xảy ra với chất oxy hóa (thường là không khí) trong buồng đốt, vốn là một bộ phận quan trọng của chu trình của chất lỏng làm việc. Trong động cơ đốt trong, sự giãn nở của khí ở nhiệt độ cao và áp suất cao do quá trình đốt cháy tác dụng lực trực tiếp lên một số thành phần của động cơ như piston, cánh tuabin, cánh quạt hoặc vòi phun. Lực này giúp vật thể di chuyển một quãng đường nhất định, biến năng lượng hóa học thành công hữu ích.
Động cơ đốt trong được ứng dụng thương mại đầu tiên được tạo ra bởi Étienne Lenoir vào khoảng năm 1860 và động cơ đốt trong hiện đại đầu tiên được Nicolaus Otto tạo ra vào năm 1876 (xem động cơ Otto).
Thuật ngữ động cơ đốt trong thường dùng để chỉ một động cơ trong đó quá trình đốt xảy ra không liên tục, chẳng hạn như những loại động cơ quen thuộc như động cơ piston bốn kỳ và hai kỳ, cùng với các biến thể, như động cơ piston sáu kỳ và động cơ quay Wankel. Loại động cơ đốt trong thứ hai sử dụng quá trình đốt liên tục bao gồm tua bin khí, động cơ phản lực và hầu hết các động cơ tên lửa; mỗi loại động cơ này đều hoạt động theo nguyên tắc động cơ đốt trong cơ bản. Súng cầm tay cũng là một dạng động cơ đốt trong.
Ngược lại, trong các động cơ đốt ngoài, như động cơ hơi nước hoặc Stirling, năng lượng truyền cho lưu chất hoạt động không chứa, trộn lẫn, hoặc bị tạp nhiễm bởi các sản phẩm của quá trình đốt. Lưu chất hoạt động (chất lỏng làm việc) có thể là không khí, nước nóng, nước áp lực hoặc thậm chí natri lỏng, được đun nóng trong nồi hơi.
Động cơ đốt trong thường được vận hành bằng nhiên liệu năng lượng cao như xăng hoặc dầu diesel, hoặc những chất lỏng có nguồn gốc từ nhiên liệu hóa thạch. Mặc dù được ứng dụng trong nhiều thiết bị cố định, hầu hết những động cơ đốt trong được sử dụng trong các thiết bị di động và là nguồn sinh công quan trọng cho các loại phương tiện như ô tô, máy bay và tàu thuyền, nhóm phương tiện này thường được gọi là "phương tiện động cơ đốt trong" (ICEV).
Thông thường, động cơ đốt trong sử dụng nhiên liệu hóa thạch như khí tự nhiên hoặc các sản phẩm dầu mỏ như xăng, dầu diesel hoặc dầu nhiên liệu. Những loại nhiên liệu tái tạo ngày càng được sử dụng rộng rãi như diesel sinh học cho động cơ kích nổ nén (động cơ diesel) và bioethanol hoặc metanol cho động cơ kích nổ tia lửa (động cơ xăng). Hydro đôi khi được sử dụng, và có thể được lấy từ nhiên liệu hóa thạch hoặc năng lượng tái tạo.
Lịch sử
Nhà vật lý người Pháp Jean de Hautefeuille đề xuất thiết kế một động cơ đốt trong dùng để bơm nước vào năm 1678. Tuy nhiên, người được xem phát minh động cơ đốt trong đầu tiên là Christiaan Huygens, nhà khoa học người Hà Lan. Vào năm 1678 hoặc 1679 (có tài liệu cho rằng năm 1673), Huygens sử dụng một ống hình trụ lớn với bề mặt nhẵn bóng bên trong làm xi lanh và có piston di chuyển dọc trục xi lanh. Piston nối với một sợi dây và ròng rọc để nâng vật nặng. Bên dưới ống trụ là buồng đốt dùng để đốt nổ thuốc súng. Khi thuốc súng nổ, không khí giãn nở thể tích và đẩy piston. Sau khi nổ xong, không khí nguội lại, giảm thể tích, tạo chân không bên trong ống trụ, di chuyển piston về vị trí ban đầu, đồng thời kéo dây nâng vật nặng, thực hiện quá trình sinh công. "Động cơ Huygens" (Huygens engine) được cho rằng, chỉ với 1dram (tương đương 1/16ounce hoặc 1,77gram) thuốc súng, sử dụng trong ống trụ cao 7–8 feet (2,1–2,4m), đường kính 15–16in (khoảng 38–41cm), có thể tạo ra công đủ nâng khối lượng của 8 thiếu niên (tương đương 540kg).
Đến năm 1791, nhà khoa học người Anh John Barber đăng ký bằng sáng chế cho động cơ tuabin khí đầu tiên. Trong động cơ tuabin của Barber, nhiên liệu như than, dầu đốt, hoặc gỗ được gia nhiệt, hòa trộn với không khí, nén và đốt cháy. Sản phẩm khí cháy có áp suất cao sẽ làm quay cánh quạt của tuabin, làm sinh công. Năm 1794, Thomas Mead và Robert Street, hai kỹ sư người Anh, cùng đồng thời đăng ký bằng phát minh cho động cơ đốt trong sử dụng khí cháy. Thomas Mead sử dụng hỗn hợp khí khi nổ trong buồng đốt sẽ đẩy piston lên; sau khi quá trình cháy kết thúc, piston sẽ di chuyển xuống nhờ vào sức nặng của piston và áp suất chân không. Còn Robert Street sử dụng nhiên liệu lỏng (dầu hỏa hoặc nhựa thông) bay hơi để tạo hỗn hợp khí cháy. Nhựa thông hoặc dầu hỏa được phun lên đáy của xi lanh đang được đốt nóng, khiến nhiên liệu ở thể lỏng hóa hơi thành hỗn hợp khí. Hỗn hợp này được kích nổ bằng ngọn lửa. Quá trình cháy–nổ của hỗn hợp khí làm giãn nở thể tích trong xi lanh và làm piston chuyển động, thực hiện công.
Năm 1798, John Stevens, nhà phát minh người Mỹ, đã thiết kế động cơ đốt trong sử dụng cồn (alcohol) làm nhiên liệu cháy. Năm 1801, Philippe Lebon, một kỹ sư người Pháp, đã đăng ký phát minh cho động cơ khí (hỗn hợp khí ga được nén trong buồng đốt và kích nổ). Năm 1807, anh em kỹ sư người Pháp, Nicéphore Niépce (cũng là người phát minh ra kỹ thuật nhiếp ảnh) và Claude Niépce, đã chạy thử mẫu động cơ đốt trong mang tên Pyréolophore. Hai ông đã gắn động cơ Pyréolophore để điều khiển tàu thủy chạy trên sông Saône, Pháp. Cùng năm đó, kỹ sư người Thụy Sĩ François Isaac de Rivaz phát minh động cơ đốt trong dùng khí hydro làm nhiên liệu và kích nổ bằng tia lửa điện. Ý tưởng sử dụng khí hydro làm nhiên liệu cho động cơ đốt trong cũng được nghiên cứu độc lập bởi kỹ sư người Anh William Cecil vào năm 1820. Năm 1823, Samuel Brown đăng ký phát minh động cơ chân không đốt bằng khí được ứng dụng rộng rãi trong công nghiệp. Động cơ của Brown được sử dụng trong ô tô vào năm 1824, vận hành tàu chạy trên sông Thames vào năm 1827, và bơm nước ở kênh đào Croydon, phía nam London, vào năm 1832. Động cơ đốt trong đầu tiên có kỳ nén diễn ra trước kỳ nổ được phát triển lần đầu tiên bởi William Barnett, một kỹ sư người Anh, vào năm 1838. Năm 1854, hai nhà phát minh người Ý, Eugenio Barsanti và Felice Matteucci, phát minh động cơ piston tự do.
Năm 1860, Jean Joseph Étienne Lenoir, một kỹ sư người Bỉ, đã phát minh động cơ đốt trong hai kỳ chạy bằng khí đốt, công suất 6HP, hiệu suất 5%. Đây được xem là động cơ đốt trong có hiệu quả thực tế đầu tiên. Động cơ đốt trong của Lenoir là loại động cơ hai kỳ, một xi lanh, tác động kép, không có kỳ nén (hỗn hợp khí không được nén trước khi kích nổ), hỗn hợp khí được kích nổ ở khoảng 1/3 hành trình di chuyển của piston. Ưu điểm của thiết kế này là tạo ra loại động cơ vận hành nhanh hơn, ít ồn hơn, và hiệu quả kinh tế cao hơn động cơ hơi nước. Do vậy, động cơ Lenoir được ưa chuộng, với khoảng 400 đến 500 bộ động cơ được bán ra thời điểm đó. Tuy nhiên, động cơ Lenoir có hiệu suất không cao do không có kỳ nén nên chủ yếu chỉ được dùng cho những động cơ tĩnh tại.
Năm 1872, George Brayton, một kỹ sư người Mỹ, đã phát minh động cơ đốt trong sử dụng dầu hỏa làm nhiên liệu. Động cơ Brayton cấu tạo gồm hai xi lanh piston tịnh tiến, một xi lanh thực hiện kỳ nén và xi lanh còn lại thực hiện kỳ giãn nở (sinh công). Hỗn hợp không khí và khí đốt được kích nổ bằng ngọn lửa mồi, hỗn hợp cháy được bơm từ xi lanh nén qua xi lanh nổ để thực hiện quá trình sinh công ở điều kiện đẳng áp. Hiệu suất hoạt động của động cơ Brayton không cao do phần lớn công sinh ra trong xi lanh kỳ nổ được dùng để vận hành xi lanh kỳ nén. Tuy vậy, phát minh của Brayton có ý nghĩa quan trọng vì, nhờ sử dụng nhiên liệu lỏng (khác với nhiên liệu khí như động cơ Lenoir hoạt động tĩnh tại), động cơ đốt trong của Brayton có thể được ứng dụng để vận hành trên xe ô tô. Chu trình Brayton ngày nay được ứng dụng trong những tuabin khí. Năm 1874, Siegfried Marcus, một nhà phát minh người Đức, được xem là người thiết kế xe ô tô sử dụng động cơ bốn kỳ đầu tiên. Động cơ của Marcus sử dụng kích nổ điện, phun hòa khí, và thiết bị tiết lưu ("bướm ga"). Động cơ Marcus, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Kỹ thuật Công nghiệp và Thương mại tại Vienna, được xem là mẫu xe động cơ xăng cổ nhất còn tồn tại đến ngày nay.
Dựa trên mẫu thiết kế động cơ của Lenoir, Nikolaus Otto, một kỹ sư người Đức, đã phát minh động cơ đốt trong bốn kỳ đầu tiên vào năm 1876 (Chu trình Otto). Động cơ chạy bằng khí than của Otto không chỉ giảm tiếng ồn hơn, mà còn hiệu quả cao hơn gấp 3 lần so với động cơ của Lenoir. Năm 1879, Karl Benz chế tạo thành công động cơ đốt trong hai kỳ chạy bằng xăng. Năm 1882, James Atkinson phát minh ra động cơ đốt trong hoạt động theo chu trình Atkinson. Năm 1885, Gottlieb Daimler, một kỹ sư người Đức, đăng ký bằng sáng chế cho động cơ bốn kỳ chạy bằng xăng đầu tiên. Năm 1889, Daimler cùng một kỹ sư người Đức khác là Wilhelm Maybach đã cho ra mắt động cơ chữ V hai xi lanh đầu tiên tại Paris, Pháp. Năm 1892, Rudolf Diesel phát triển thành công động cơ kích nổ nhờ quá trình nén hỗn hợp nhiên liệu (Động cơ Diesel). Động cơ Diesel vận hành ở tốc độ 170RPM, có công suất 18HP và hiệu suất 27% – hiệu suất cao hơn những động cơ hơi nước và động cơ kích nổ tia lửa điện cùng thời điểm đó. Năm 1926, Robert Goddard, một kỹ sư người Mỹ, chế tạo tên lửa vận hành bằng nhiên liệu lỏng đầu tiên.
Phân loại động cơ đốt trong
Trong lịch sử chế tạo động cơ đã có rất nhiều phương án được phác thảo và hiện thực nhưng lại không phù hợp với các cách phân loại dưới đây, ví dụ như động cơ Otto với bộ phun nhiên liệu trực tiếp hay các loại động cơ hoạt động theo nguyên tắc của động cơ diesel nhưng lại có bộ phận đánh lửa. Các phương pháp chế tạo lại có thể được kết hợp rất đa dạng, ví dụ như động cơ có dung tích nhỏ với piston tròn và điều khiển qua khe hở theo nguyên tắc Otto (động cơ Wankel) hay động cơ diesel hai kỳ có dung tích lớn với bộ điều khiển bằng van (động cơ diesel của tàu thủy). Phần phân loại tổng quát này không liệt kê những trường hợp đặc biệt nhằm để tránh sự khó hiểu.
Theo công dụng
Động cơ tĩnh tại: Dùng vận hành các thiết bị như máy phát điện (công suất lên đến 25MW).
Động cơ ô tô.
Động cơ máy bay: Bao gồm động cơ đốt trong kiểu piston cho máy bay cánh quạt và động cơ phản lực dùng cho máy bay phản lực.
Động cơ tàu thủy.
Động cơ xe lửa (đầu máy xe lửa).
Động cơ một số thiết bị và dụng cụ như máy cày, máy cắt cỏ, máy trộn bê tông.
Theo chu trình làm việc
Động cơ một kỳ: Loại động cơ này thực chất là kiểu động cơ bốn kỳ nhưng được thiết kế lại. Động cơ 1 kỳ gồm bốn buồng đốt với các piston di chuyển cùng lúc, do vậy, tuy có bốn kỳ, nhưng mỗi kỳ đều là kỳ sinh công (power stroke). Một kiểu thiết kế khác của động cơ 1 kỳ sử dụng một khối piston có chứa khoang nổ và khoang nén.
Động cơ hai kỳ: Chu trình làm việc được hoàn thành trong 2 hành trình chuyển động qua lại của piston, tương ứng với một vòng quay trục khuỷu. Trong động cơ hai kỳ chỉ diễn ra hai quá trình nén và nổ (sinh công). Việc thay đổi khí mở tức là hai hỗn hợp khí–nhiên liệu mới và khí thải bị trộn lẫn với nhau một phần.
Động cơ ba kỳ: Động cơ này có cấu tạo gồm hai piston di chuyển tịnh tiến được đặt trong cùng một xi lanh; hai piston được gắn trên cùng một trục khuỷu. Chu trình cháy diễn ra trong một vòng quay trục khuỷu. Khi trục khuỷu thực hiện một vòng quay, hai piston sẽ di chuyển đến gần nhau rồi xa ra, về hai đầu của xi lanh.
Động cơ bốn kỳ: Chu trình làm việc được hoàn thành trong 4 hành trình chuyển động qua lại của piston, tương ứng với 2 vòng quay trục khuỷu. Việc thay đổi khí được đóng kín có nghĩa là hỗn hợp khí – nhiên liệu mới và khí thải được tách hoàn toàn ra khỏi nhau. Trong thực tế hai khí này tiếp xúc với nhau trong một khoảng thời gian ngắn.
Động cơ sáu kỳ: Loại động cơ này có thêm hành trình phụ để nén và đốt cháy lại khí xả. Do vậy, động cơ 6 kỳ có hai kỳ sinh công – tức là 1/3 trong tổng số kỳ (hành trình chuyển động của piston) tạo ra công hữu ích, nhiều hơn khi so với động cơ bốn kỳ chỉ có 1/4 trong tổng số kỳ là sinh công. Đối với cùng dung tích xi lanh, nếu động cơ có tỉ lệ kỳ sinh công càng cao, sẽ có công suất lớn hơn. Ưu điểm của động cơ 6 kỳ là giúp tận dụng nhiệt thải của kỳ sinh công đầu tiên; lượng nhiệt này có thể dùng để sinh hơi nước giúp làm mát động cơ và đẩy piston. Do vậy, loại động cơ này có hiệu năng cao hơn, đồng thời giảm bớt khí thải ô nhiễm. Động cơ 6 kỳ có thể tiết kiệm nhiên liệu lên đến 40% so với động cơ bốn kỳ.
Theo quy trình nhiệt động lực học
Tùy vào quá trình cấp nhiệt và tỷ số nén, các loại động cơ đốt trong có thể chia thành hai nhóm chính như sau:
Động cơ Otto: Động cơ làm việc theo quá trình cấp nhiệt đẳng tích (chu trình Otto), có tỷ số nén thấp (ε = 8–12), như động cơ sử dụng nhiên liệu xăng, cồn nhiên liệu, hoặc ga.
Động cơ Diesel: Động cơ làm việc theo quá trình cấp nhiệt đẳng áp (chu trình Diesel), có tỷ số nén cao (ε = 12–24), như động cơ diesel, động cơ sử dụng bột than.
Theo nhiên liệu sử dụng
Động cơ xăng.
Động cơ diesel.
Động cơ ga hay động cơ khí đốt.
Động cơ sử dụng loại nhiên liệu khác như khí hóa lỏng (LPG), cồn (metanol, etanol), khí hydro.
Theo phương pháp nạp nhiên liệu
Động cơ không tăng áp: Không khí không được nén trước khi nạp vào động cơ.
Động cơ tăng áp: Loại động cơ này tận dụng khí xả từ động cơ để quay tuabin; sau đó, tuabin làm quay trục máy nén khí mới đi vào động cơ.
Động cơ siêu nạp: Loại động cơ này sử dụng một máy nén khí làm tăng áp suất dòng khí nạp, đi qua cổ hút, vào buồng cháy của động cơ, được vận hành nhờ lực truyền động của trục khuỷu động cơ thông qua dây đai.
Theo cách chuyển động của piston
Động cơ piston đẩy (hay kết hợp với thanh truyền và trục khuỷu)
Động cơ Wankel (Động cơ piston tròn)
Động cơ piston quay
Động cơ piston tự do
Theo phương pháp tạo hòa khí
Theo phương pháp tạo hỗn hợp đốt hay còn gọi là hòa khí (hỗn hợp khí và nhiên liệu để đốt cháy trong động cơ), động cơ đốt trong được chia thành các loại sau:
Động cơ tạo hòa khí bên ngoài: Hỗn hợp nhiên liệu và không khí được tạo thành bên ngoài xi lanh nhờ bộ chế hòa khí (carburetor), gọi là hỗn hợp đồng thể, sau đó được đưa vào xi lanh và đốt cháy bằng tia lửa điện (bugi). Các loại động cơ loại này bao gồm động cơ xăng, động cơ ga.
Động cơ tạo hòa khí bên trong: Hỗn hợp hơi nhiên liệu và không khí được tạo thành bên trong xi lanh nhờ bơm cao áp và vòi phun, gọi là hỗn hợp dị thể. Hỗn hợp được phun vào xi lanh gần điểm chết trên (ĐCT); sau đó, hỗn hợp này tự bốc cháy do hỗn hợp bị nén ở nhiệt độ cao. Các loại động cơ loại này bao gồm động cơ diesel, động cơ phun xăng điện tử.
Theo phương pháp đốt
Hỗn hợp khí và nhiên liệu được đốt bằng bộ phận đánh lửa (bugi) trong các động cơ Otto, tốt nhất là ngay trước điểm chết trên.
Trong các động cơ diesel hỗn hợp đốt bằng cách tự bốc cháy. Không khí được nén rất mạnh và ngay trước điểm chết trên, nhiên liệu được phun vào. Vì ở nhiệt độ rất cao nên nhiên liệu tự bốc cháy.
Theo phương pháp làm mát
Động cơ làm mát bằng nước: Loại động cơ này dùng nước hoặc hỗn hợp nước–etylen glycol bơm tuần hoàn trong những khoang rỗng (gọi là áo nước) bao quanh xi lanh. Nhiệt được truyền qua thành xi lanh đến áo nước và cuối cùng được truyền cho nước. Nước được bơm đến bộ phận két nước để trao đổi nhiệt đối lưu với không khí bên ngoài. Hỗn hợp dung dịch làm mát nước–etylen glycol có thể được thêm chất chống ăn mòn và chất chống xâm thực khí. Etylen glycol giúp hạ nhiệt độ dung dịch xuống −50°C.
Động cơ làm mát bằng không khí: Loại động cơ này dùng không khí trao đổi nhiệt đối lưu để làm mát động cơ. Động cơ làm mát bằng không khí có thiết kế dạng cánh tản nhiệt hoặc gờ nổi để tăng bề mặt trao đổi nhiệt.
Động cơ làm mát bằng dầu nhờn (như động cơ Elsbett). Những động cơ làm mát bằng dầu thường là loại có công suất thấp. Năng suất giải nhiệt của phương pháp làm mát này vốn không cao do dầu bôi trơn có tính giải nhiệt thấp.
Theo hình dáng động cơ và số xi lanh
Tuỳ theo số lượng xi lanh động cơ Otto và động cơ diesel có thể được chế tạo thành:
Động cơ 1 xi lanh.
Động cơ thẳng hàng 2, 3, 4, 5, 6 hay 8 xi lanh (động cơ I2, I3, I4, I5, I6 hay I8).
Động cơ chữ V 2, 4, 6, 8, 10, 12, 16xi lanh (động cơ V2, V4, V6, V8, V10, V12 hay V16).
Động cơ VR 6 hay 8 xi lanh.
Động cơ chữ W 3, 8, 12 hay 16 xi lanh.
Động cơ Boxer hay còn gọi là động cơ phẳng, là kiểu động cơ có các piston đặt trên mặt phẳng nằm ngang và đối đỉnh nhau.
Động cơ piston hướng kính hay còn gọi là "động cơ piston tỏa tròn" hoặc "động cơ hình sao" 5, 6, 7, 8, 9 hay 12 xi lanh.
Động cơ piston đối .
Theo số trục khuỷu
Động cơ 1 trục khuỷu.
Động cơ 2 trục khuỷu.
Động cơ 3 trục khuỷu trở lên.
Động cơ không có trục khuỷu (như động cơ piston quay Wankel).
Theo thiết kế – vị trí van
Đối với động cơ bốn kỳ:
Động cơ van trên (OHV).
Động cơ van dưới (UHV).
Van xoay.
Đối với động cơ hai kỳ:
Lỗ thông khí thẳng: Động cơ này có lỗ quét và lỗ nạp khí nằm ở hai phía đối diện nhau ở một đầu xi lanh.
Lỗ thông khí vòng: Động cơ này có lỗ quét và lỗ nạp khí nằm cùng một phía ở một đầu xi lanh.
Lỗ thông khí thẳng một chiều: Động cơ này có lỗ quét và lỗ nạp khí nằm riêng biệt ở hai đầu xi lanh.
Cấu tạo
Bộ phận chính của động cơ đốt trong piston tịnh tiến là thân động cơ (hay còn gọi là thân máy, lốc máy), có nhiệm vụ chứa và lắp ráp tất cả chi tiết bộ phận trong động cơ. Thân động cơ thường được đúc bằng gang xám nhờ vào khả năng chịu mài mòn tốt và giá thành thấp; tuy nhiên, ngày nay, thân động cơ thường được làm bằng hợp kim nhôm.
Xi lanh được đặt trong thân động cơ. Xi lanh cùng với nắp xi lanh và đỉnh piston tạo thành buồng đốt và thể tích làm việc của động cơ. Đối với động cơ nhiều xi lanh, những xi lanh được sắp xếp thành một hàng (động cơ xi lanh thẳng hàng) hoặc hai hàng (động cơ Boxer hoặc chữ V), một số động cơ hiện đại có bố trí xi lanh thành ba hàng (động cơ chữ W); ngoài ra, cũng có một số cách bố trí xi lanh khác trong động cơ đốt trong. Động cơ xi lanh đơn được dùng phổ biến trong xe gắn máy hoặc những máy công tác loại nhỏ. Ở những động cơ làm mát bằng nước, thân động cơ chứa những khoang chứa nước giải nhiệt, được gọi là áo nước, giúp nước tuần hoàn và làm mát động cơ. Ở những động cơ nhỏ làm mát bằng không khí, thay vì sử dụng áo nước, bên ngoài thân động cơ có những cánh tản nhiệt bằng cách truyền nhiệt trực tiếp ra ngoài không khí. Mặt trong xi lanh được mài rãnh chéo song song (crosshatch) giúp giữ dầu nhờn và tạo bề mặt trượt tốt hơn. Bề mặt xi lanh quá thô nhám sẽ làm mòn piston và nhanh gây hư hỏng động cơ. Xi lanh thường được đúc nguyên khối vào thân máy. Những động cơ lớn hoặc động cơ xe tải thường sử dụng những ống xi lanh rời, có thể thay thế khi bị mòn. Ống xi lanh có hai loại khô và ướt tùy vào thiết kế ống xi lanh có tiếp xúc trực tiếp với nước làm mát hay không.
Piston là bộ phận hình trụ ngắn bên trong xi lanh. Piston có hai nhiệm vụ chính. Piston kết hợp cùng với xi lanh và nắp xi lanh tạo thành buồng đốt động cơ. Piston chuyển động tịnh tiến qua lại trong xi lanh, giúp truyền áp suất khí cháy, qua tay biên và chốt piston đến trục khuỷu. Ngoài ra, ở một số động cơ hai kỳ, piston còn làm nhiệm vụ đóng mở cửa nạp và cửa xả. Phần trên cùng của piston được gọi là đỉnh piston. Đỉnh piston trực tiếp nhận áp lực và nhiệt lượng của khí cháy. Đỉnh piston thường có dạng phẳng, lõm, hoặc lồi. Ngoài ra, động cơ hai kỳ sử dụng piston có đỉnh dạng lồi nghiêng để dẫn hướng dòng khí nạp–xả dễ dàng hơn. Piston thường được làm bằng hợp kim nhôm trong các động cơ loại nhỏ hoặc bằng gang xám trong những động cơ loại lớn, tốc độ thấp. Chốt piston là bộ phận nối giữa thanh truyền và piston; chốt piston thường có thiết kế rỗng để giảm khối lượng. Phần thân piston có tiện các rãnh để đặt vòng găng (vòng xéc-măng) có nhiệm vụ ngăn không cho khí cháy lọt xuống cácte động cơ và ngăn không cho dầu nhờn lọt vào buồng đốt. Ngoài ra, vòng găng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải nhiệt cho phần đỉnh piston. Khoảng 70% trong tổng nhiệt lượng mà đỉnh piston nhận sẽ được truyền qua vòng găng.
Hệ thống thông khí động cơ (PCV) cho phép một lượng nhỏ khí cháy thoát ra từ các-te động cơ đi qua piston thải ra ngoài (gọi là khí thoát), nhằm tránh làm bẩn dầu và gây ăn mòn. Ở động cơ xăng hai kỳ, hành trình lưu chuyển của hỗn hợp không khí và nhiên liệu đi qua các-te nên loại động cơ này không cần hệ thống thông khí riêng biệt.
Nắp xi lanh được gắn vào thân máy nhờ bu-loong hoặc đinh tán. Nắp xi lanh có nhiệm vụ đậy kín toàn bộ xi lanh, ở phía đối diện piston. Nắp xi lanh còn làm giá đỡ lắp ráp các chi tiết của xupap như ống dẫn hướng xupap, xupap nạp (mở ra khi nạp khí mới vào xi lanh), và xupap xả (mở ra khi xả khí cháy ra khỏi xi lanh). Tuy nhiên, ở động cơ hai kỳ, ống dẫn hướng khí được nối trực tiếp vào thành xi lanh mà không cần dùng đến xupap mà thay vào đó, piston có nhiệm vụ kiểm soát việc đóng mở cửa nạp và cửa xả. Nắp xi lanh còn là nơi lắp bugi ở động cơ đánh lửa và kim phun ở động cơ phun nhiên liệu trực tiếp. Động cơ Diesel (động cơ CI) đều sử dụng hệ thống phu nhiên liệu, một số loại sử dụng phương pháp phun trực tiếp, một số loại khác dùng phương pháp phun gián tiếp. Hầu hết những động cơ đánh lửa (động cơ SI) sử dụng một bugi trên mỗi xi lanh, tuy nhiên một số động cơ có thể sử dụng hai bugi cho một xi lanh. Để tăng độ kín khít và ngăn không cho khí cháy thoát ra giữa nắp xi lanh và thân máy, người ta sử dụng tấm đệm, gọi là vòng đệm nắp máy (hay còn gọi roong nắp máy, gioăng nắp máy). Trục cam và lò xo xupáp là những chi tiết điều khiển quá trình đóng mở các xupap. Có nhiều cơ cấu điều khiển trục cam, trong đó, cơ cấu phối khí trục cam trên đỉnh (OHC) là loại thường gặp nhất trong các động cơ tốc độ vòng tua cao. Một số động cơ sử dụng cơ cấu phân khối khí Desmodromic, là cơ cấu không sử dụng lò xo mà sử dụng đòn bẩy để đóng mở xupap. Trục cam có thể tác động trực tiếp lên thân xupap hoặc lên cò mổ trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đũa đẩy.
Phần đáy của các-te động cơ là bình gom dầu có nhiệm vụ thu hồi dầu nhờn chảy xuống khi động cơ hoạt động và hồi lưu dầu nhờn đó để bôi trơn động cơ. Trục khuỷu được đặt trong trong phần không gian giữa xi lanh và bình gom dầu. Trục khuỷu có vai trò biến đổi chuyển động tịnh tiến của piston thành chuyển động quay. Trục khuỷu được giữ cố định bằng những ổ trục chính (hay còn gọi gối đỡ chính), giúp trục khuỷu có thể xoay được. Vách ngăn trong các-te chia mỗi gối đỡ chính thành hai phần; mỗi phần có nắp đậy có thể tháo rời. Thanh truyền (hay còn gọi là biên, tay biên) là bộ phận nối trục khuỷu tại chốt trục khuỷu (hay còn gọi là cổ biên) và piston tại chốt piston. Thanh truyền có nhiệm vụ truyền lực tác động và biến đổi chuyển động tịnh tiến của piston thành chuyển động tròn của trục khuỷu. Phía đầu tay biên nối trực tiếp với trục piston được gọi là đầu trên biên hay đầu biên nhỏ; phía đầu nối trực tiếp với chốt trục khuỷu được gọi là đầu dưới biên hay đầu biên lớn. Đầu dưới biên thường được cắt thành hai nửa để có thể dễ dàng lắp ráp vào trục khuỷu; nửa trên nối trực tiếp với biên, nửa dưới được gọi là nắp biên. Hai nửa này được ghép lại bằng hai bu lông.
Nắp xi lanh còn là nơi lắp cổ hút và cổ xả động cơ. Cổ hút hay còn gọi là cụm ống hút được nối trực tiếp với bộ lọc gió hoặc nối gián tiếp thông qua bộ chế hòa khí. Cổ hút có vai trò phân phối khí đến các xi lanh. Cổ xả là chi tiết đầu tiên trong hệ thống xả khí của động cơ, có vai trò thải khí cháy từ xi lanh. Hệ thống xả của động cơ đốt trong cũng có thể có thêm bộ lọc khí xúc tác và ống giảm thanh. Bộ phận cuối cùng trong hệ thống xả là ống bô.
Nguyên tắc hoạt động cơ bản
Hỗn hợp không khí và nhiên liệu (thường được gọi là hoà khí) được đốt trong xi lanh của động cơ đốt trong. Khi đốt cháy nhiệt độ tăng làm cho khí đốt giãn nở tạo nên áp suất tác dụng lên một piston đẩy piston này di chuyển đi.
Có nhiều loại động cơ đốt trong khác nhau, một phần sử dụng các chu kì tuần hoàn khác nhau. Tuy vậy tất cả các động cơ đốt trong đều lặp lại trong một chu trình tuần hoàn chu kì làm việc bao gồm 4 bước: nạp, nén, nổ (đốt) và xả. Xả và nạp là hai bước dùng để thay khí thải bằng nhiên liệu mới (ví dụ hoà khí ở động cơ xăng, không khí ở động cơ diesel,...). Nén và nổ dùng để biến đổi năng lượng hoá học (đốt hỗn hợp không khí và nhiên liệu) thông qua nhiệt năng (nhiệt độ) và thế năng (áp suất) thành cơ năng (động năng trong chuyển động quay).
Động cơ bốn kỳ
Kỳ nạp: Kỳ thứ nhất bắt đầu khi piston ở vị trí điểm chết trên (ĐCT) và kết thúc khi piston ở điểm chết dưới (ĐCD). Trong kỳ thứ nhất (van nạp mở, van xả đóng), hỗn hợp không khí và nhiên liệu được "nạp" (hút) vào xi lanh trong lúc piston chuyển động từ ĐCT xuống ĐCD.
Kỳ nén: Trong kỳ thứ hai (hai van đều đóng), piston nén hỗn hợp khí và nhiên liệu trong xi lanh khi chuyển động từ ĐCD lên ĐCT. Ở cuối kỳ thứ hai (piston ở tại ĐCT), hỗn hợp khí và nhiên liệu được đốt trong động cơ xăng bằng bộ phận đánh lửa gọi là bougie (bugi) hoặc tự bốc cháy trong động cơ diesel.
Kỳ nổ: Hay còn gọi là kỳ đốt, kỳ sinh công. Trong kỳ thứ ba (các van vẫn tiếp tục được đóng), hỗn hợp khí và nhiên liệu được đốt cháy. Vì nhiệt độ tăng dẫn đến áp suất của hỗn hợp khí tăng, làm cho piston chuyển động từ ĐCT xuống ĐCD. Chuyển động tịnh tiến của piston được chuyển bằng thanh truyền đến trục khuỷu và được biến đổi thành chuyển động quay. Khi piston ở ĐCD (kết thúc kỳ nổ), van xả bắt đầu mở để chuẩn bị cho kỳ thứ tư, đồng thời giảm áp suất trong xi lanh gần bằng với áp suất xả.
Kỳ xả: Trong kỳ thứ tư (van nạp đóng, van xả mở) piston chuyển động từ ĐCD lên ĐCT đẩy khí từ trong xi lanh qua ống xả thải ra môi trường. Kết thúc kỳ xả, van nạp bắt đầu mở, van xả đóng lại, chu trình lặp lại từ đầu.
Chuyển động của piston ở kỳ thứ nhất, hai và bốn là nhờ vào năng lượng được tích trữ bởi bánh đà gắn ở trục khuỷu trong kỳ thứ ba (kỳ sinh công). Một động cơ bốn kỳ vì thế có góc đánh lửa là 720° tính theo góc quay của trục khuỷu tức là khi trục khuỷu quay 2 vòng thì mới có một lần đánh lửa. Có thêm nhiều xi lanh thì góc đánh lửa sẽ nhỏ đi, năng lượng đốt được đưa vào nhiều hơn trong hai vòng quay của trục khuỷu sẽ làm cho động cơ chạy êm hơn.
Do trong lúc khởi động chưa có đà nên trục khuỷu phải được quay từ bên ngoài bằng một thiết bị khởi động như dây (ở máy cưa, ca nô,...), cần khởi động (ở xe máy,...), tay quay khởi động (ở ô tô cổ, xe cải tiến, xe kéo nông nghiệp,...) hay một động cơ điện nhỏ (ở xe máy, ô tô,... hiện đại).
Việc thay thế khí thải bằng hỗn hợp khí mới được điều khiển bằng trục cam. Trục này được gắn với trục khuỷu, quay nhờ cơ cấu giảm tốc 1:2, đóng và mở các van trên đầu xi lanh của động cơ. Thời gian trục khuỷu đóng và mở các van được điều chỉnh sao cho van nạp và van xả được mở cùng một lúc trong một thời gian ngắn khi chuyển từ kỳ xả sang kỳ nạp. Khí thải thoát ra với vận tốc cao sẽ hút khí mới vào buồng đốt nhằm nạp khí mới vào xi lanh tốt hơn và tăng áp suất đốt.
Động cơ hai kỳ
Động cơ hai kỳ không có các van nạp và van xả như động cơ bốn kỳ. Thay vào đó là các lỗ nạp và lỗ xả khí đặt trực tiếp trong thành xi lanh, được đóng–mở do chuyển động của piston. Lỗ xả kiểm soát dòng khí nạp và khí xả khi piston ở gần điểm chết dưới (ĐCD). Chu trình cơ bản của động cơ hai kỳ như sau:
Kỳ nén: Bắt đầu khi piston ở vị trí gần điểm chết trên (ĐCT), đóng lỗ nạp và lỗ xả. Khi đó, piston nén hỗn hợp hòa khí bên trong xi lanh và đồng thời nạp hòa khí mới vào buồng đốt (cacte). Khi piston đến vị trí ĐCT, quá trình nổ diễn ra.
Kỳ nổ: Hỗn hợp khí và nhiên liệu được đốt cháy ở nhiệt độ cao và áp suất cao. Hỗn hợp khí giãn nở thể tích, làm đẩy piston chuyển động từ ĐCT xuống ĐCD. Khi piston gần đến ĐCD, lỗ xả và lỗ nạp được mở ra. Phần lớn lượng khí cháy thoát ra khỏi xi lanh; đồng thời, lượng hòa khí mới được nén ở buồng đốt, di chuyển vào xi lanh. Hình dạng thiết kế của piston và lỗ nạp–xả được thiết kế sao cho khí nạp không bị hút trực tiếp vào lỗ xả để đạt hiệu quả quét khí xả cao nhất.
Trong động cơ hai kỳ, mỗi chu trình quay của trục khuỷu sẽ có một kỳ sinh công. Về mặt lý thuyết, động cơ hai kỳ có công suất cao gấp đôi so với động cơ bốn kỳ trong cùng điều kiện như dung tích xi lanh, tốc độ piston v.v. Tuy nhiên, việc nạp hòa khí vào đầy dung tích xi lanh rất khó thực hiện; đồng thời, một lượng hòa khí mới sẽ bị thoát ra ngoài theo khí xả trong quá trình quét khí. Ngoài ra, trong xi lanh luôn tồn chứa một lượng khí sót của quá trình nổ; lượng khí sót này giảm hiệu suất của kỳ nổ. Do vậy, trong thực tế, hiệu suất của động cơ hai kỳ không thể cao gấp đôi so với động cơ bốn kỳ.
So sánh động cơ hai kỳ và bốn kỳ
Ưu điểm của động cơ hai kỳ:
Động cơ hai kỳ có mật độ năng lượng lớn hơn vì tạo ra công trong mỗi một vòng quay của trục khuỷu. Tỉ số công suất trên khối lượng động cơ của động cơ hai kỳ cao hơn so với động cơ bốn kỳ. Với cùng dung tích xi lanh, công suất động cơ hai kỳ tạo ra có thể cao hơn từ 1,4 đến 1,6 lần so với động cơ bốn kỳ.
Do không sử dụng các xu páp nạp–xả, động cơ hai kỳ có thể hoạt động ở tốc độ cao hơn động cơ bốn kỳ với cùng kích thước động cơ.
Các động cơ hai kỳ có thể được chế tạo đơn giản và rẻ tiền hơn vì ngược với động cơ bốn kỳ, loại động cơ này không cần có bộ phận điều khiển van.
Nhược điểm của động cơ hai kỳ:
Nhiên liệu dùng cho động cơ hai kỳ là hỗn hợp giữa xăng và dầu nhờn. Dầu nhờn có nhiệm vụ bôi trơn thành xi lanh khi piston chuyển động tịnh tiến. Hiệu năng cháy của hỗn hợp nhiên liệu này thấp hơn so với xăng khi không có dầu nhờn. Ngoài ra, một phần hỗn hợp không khí và nhiên liệu không được đốt trong lúc đẩy khí thải thoát ra ngoài. Điều này có thể được khắc phục nhờ bộ phận phun nhiên liệu trực tiếp (ví dụ như ở động cơ diesel).
Do mỗi vòng quay của piston đều có kỳ nổ, nên nhiệt độ động cơ hai kỳ nóng hơn, dẫn đến giảm độ bền động cơ.
Các động cơ hai kỳ không có được công suất như động cơ bốn kỳ ngày nay vì khác với động cơ hai kỳ chúng đã không được tiếp tục cải tiến nữa và đã bị động cơ bốn kỳ đẩy lùi do tốn nhiên liệu hơn và vì có khí thải xấu hơn.
Ứng dụng
Động cơ hai kỳ được sử dụng phần lớn ở các ứng dụng mà giá thành động cơ và mật độ năng lượng được ưu tiên hơn tiêu thụ nhiên liệu và bảo vệ môi trường. Trước tiên là cho những động cơ có dung tích nhỏ như ở các loại xe gắn máy nhỏ, máy cưa cầm tay, máy cắt cỏ, bơm nước loại nhỏ, mô hình có động cơ, trong thể thao đua mô tô và các động cơ cho tàu thủy.
Các động cơ có cấu tạo khác
Động cơ Wankel (Động cơ piston tròn)
Động cơ Wankel là một loại động cơ piston tròn được gọi theo tên của nhà phát minh Felix Wankel. Trong một động cơ Wankel piston có dạng hình tam giác có góc tròn quay trong một hộp máy hình bầu dục. Mỗi một cạnh của tam giác tương ứng với một piston, trên mặt cạnh này có khoét lõm tạo thành buồng đốt. Khi piston quay được một vòng thì trục khuỷu quay được 3 vòng. Do luôn luôn chỉ quay theo một chiều nên động cơ chạy rất êm.
Động cơ piston tròn có cấu tạo nhỏ gọn và không cần có bộ phận điều khiển van. Nguyên tắc của động cơ này tương ứng với động cơ Otto, cũng có bốn kỳ nạp, nén, nổ và xả. Tất cả bốn kỳ thay vì hoạt động trong một lần chuyển động lên và xuống của piston đều xảy ra trong một lần quay của piston. Khi piston tam giác quay thì truyền lực cho một hệ thống lệch tâm để đưa ra trục khuỷu.
Động cơ Wankel có một số ưu điểm so với động cơ đốt trong piston tịnh tiến truyền thống. Động cơ Wankel có kích thước nhỏ gọn hơn với cùng công suất động cơ. Động cơ piston quay cũng không có những bộ phận dễ bị mài mòn của động cơ piston tịnh tiến như van, thanh truyền, trục cam, trục khuỷu. Động cơ Wankel hoạt động êm ái hơn do không có piston chuyển động tịnh tiến. Tuy nhiên, động cơ Wankel tạo ra khí thải ô nhiễm hơn động cơ piston tịnh tiến thông thường.
Động cơ Stelzer
Động cơ Stelzer, được đặt tên theo nhà phát minh Frank Stelzer, là một loại động cơ hai kỳ có piston tự do. Trong động cơ Stelzer chỉ có piston chuyển động trong toàn bộ chu trình hoạt động. Đường kính piston thay đổi nên đóng và mở các lỗ của thân máy, qua đó mà điều khiển việc thay khí và nhiên liệu.
Nhiên liệu
Một số nhà chế tạo động cơ quan trọng
Đọc thêm
Động cơ Stirling
Tái tuần hoàn khí thải
Động cơ đốt ngoài
Ghi chú
Chú thích |
DOIT là một phương pháp tư duy sáng tạo rất hiệu quả trong môi trường nghiên cứu. Nó được nhiều người mệnh danh là một "Trình tự đơn giản để sáng tạo".
Trong khi các kỹ thuật khác tập trung trên từng khiá cạnh đặc biệt của tư duy sáng tạo thì DOIT sẽ "gói ghém" chúng lại với nhau, và dẫn ra các phương pháp về sự xác định ý nghĩa và đánh giá của vấn đề. DOIT giúp bạn tìm ra kỹ thuật sáng tạo nào là tốt nhất.
Chữ DOIT là chữ viết tắt từ Anh ngữ bao gồm:
D
Define Problem (Xác định vấn đề)
O
Open Mind and Apply Creative Techniques (Cởi mở Ý tưởng và Áp dụng các Kỹ thuật Sáng tạo)
I
Identify the best Solution (Xác định lời Giải hay nhất)
T
Transform (Chuyển bước)
Lịch sử của phương pháp
Kĩ thuật này đã được miêu tả lần đầu trong quyển "The Art of Creative Thinking" (tạm dịch Nghệ thuật Tư duy Sáng tạo) của Robert W. Olson năm 1980.
Cách tiến hành
Dựa theo các bước viết tắt của DOIT sự tiến hành phân ra như sau
Xác định vấn đề
Phần này tập trung vào phân tích vấn đề để đoan chắc rằng vấn đề được đặt ra là đúng. Những bước sau đây sẽ giúp khẳng định và cô lập nguyên do của vấn đề:
Kiểm lại rằng bạn nắm vững vấn đề, không chỉ thấy dấu hiệu của nó. Hãy hỏi lập đi lập lại rằng tại sao vấn đề tồn tại, cho tới khi nào bạn nhận ra cội rễ của vấn đề.
Đặt câu hỏi tại sao vấn đề nảy sinh. Điều này có thể dẫn tới mệnh đề tổng quát hơn của vấn đề.
Hãy nắm rõ các giới hạn, biên giới của vấn đề. Rút ra từ các đối tượng cái gì là mục tiêu muốn đạt tới, cái gì ràng buộc những hoạt động/thao tác để đạt mục tiêu, và cái gì là những điều kiện môi trường có thể thay đổi hay hoán chuyển hay không các điều kiện này.
Ghi xuống các mục đích, các đối tượng và/hoặc các tiêu chuẩn mà một lời giải của vấn đề phải thoả mãn. Sau đó, hãy "kéo dãn" mỗi mụch đích, mỗi đối tượng và tiêu chuẩn ra và viết xuống tất cả những ý tưởng mà nó có thể được "để mắt tới".
Khi mà vấn đề tưởng chừng rất lớn, thì hãy chia nhỏ hay bẻ gãy nó ra thành nhiều phần. Tiếp tục như vậy cho tới khi tất cả các phần chia ra đều có thể giải đoán được trong đúng phạm vi của nó, hay là phải xác định một cách chính xác những vùng nào cần nghiên cứu để tìm ra. (Xem thêm về kỹ thuật phân tích vấn đề.)
Tổng kết vấn đề trong một dạng càng ngắn gọn súc tích càng tốt. Tác giả cho rằng cách tốt nhất để làm việc này là viết xuống một số mệnh đề miêu tả vấn đề bằng hai từ và lựa chọn mệnh đề nào rõ nhất.
Cởi mở ý tưởng và áp dụng các kỹ thuật sáng tạo
Một khi đã nắm rõ vấn đề muốn giải quyết, bạn đã có đủ diều kiện để bắt đầu đề ra các lời giải khả dĩ. Hãy chấp nhận tất cả những ý tưởng hay nảy sinh trong óc.
Ở giai đoạn này chúng ta không cần đánh giá về các ý tưởng được đưa ra (cởi mở ý tưởng). Thay vào đó, hãy cố đưa ra càng nhiều càng tốt các ý kiến có thể dùng. Ngay cả những ý tồi có thể làm ngòi nổ cho các ý tốt về sau.
Kích thích những ý mới bằng cách "lôi ra" (một cách bắt buộc) những sự tương đồng, tương tự giữa vấn đề đang suy nghĩ với những vấn đề khác tưởng chừng không hề có một liên hệ nào với nhau. Chẳng hạn như (dùng phương pháp Thu Thập ngẫu nhiên):
Viết xuống tên của các đối tượng vật chất, hình ảnh, thực vật, hay động vật.
Lập danh sách chi tiết các đặc tính của nó.
Sử dụng danh sách này để làm mồi kích thích trực giác nảy sinh các ý mới cho việc giải quyết vấn đề.
Có thể dùng đến tất cả các phương pháp tư duy sáng tạo khác để tìm tất cả các ý có thể là lời giải đúng cho vấn đề. Mỗi phương pháp sẽ cho ta những điểm mạnh và những điều lợi ích.
Hãy hỏi nhiều ngươì có nền tảng học vấn, có hiểu biết, và có mức độ thông minh khác nhau cho ý kiến về các lời giải. Trong khi đưa ra các lời giải, hãy nhớ cho rằng mỗi cá nhân khác nhau sẽ có một cách tiếp cận khác nhau và cái nhìn khác nhau về cùng một vấn đề, và gần như chắc chắn rằng các ý kiến dị biệt đó sẽ góp phần vào quá trình chung.
Xác định lời giải hay nhất
Chỉ có trong bước này mới cần lựa ra ý tưởng hay nhất trong các ý đã nêu trong các bước trước. Thường thì ý tưởng tốt nhất được nhận ra một các hiển nhiên. Nhưng nhiều lúc, một cách có giá trị là kiểm nghiệm và phát triển chi tiết hơn những ý kiến đã đề ra trước khi lựa chọn ý nào hay hơn để chắc chắn rằng một lời giải hay không bị bỏ quên. Cách thức đánh giá các lời giải cũng tuỳ theo mục đích và điều kiện đã xác định ở bước đầu. Một cách hay là đưa ra một thang điểm khách quan trong việc đánh giá các phương án. Cuối cùng phương án nào cao điểm nhất sẽ được chọn.
Khi lựa chọn lời giải phải luôn bám sát vào các mục đích của bạn. Việc quyết định sẽ trở nên dễ dàng khi mà bạn hiểu rõ các mục đích này.
Ghi ra tất cả những "mặt trái" hay điểm yếu của ý kiến của bạn. Hãy thật sự nghiêm khắc! Cố gắng để làm tốt lên (mỹ hoá) các mặt xấu này. Sau đó hãy điều chỉnh lời giải để giảm các khía cạnh yếu kém trên.
Hãy nhấn mạnh các hậu quả tiềm tàng: xấu nhất cũng như tốt nhất có thể xảy đến khi thực thi lời giải của bạn. Điều chỉnh lại lời giải để giảm nhẹ hết sức hậu quả xấu và tăng cường tối đa những ảnh hưởng tích cực. Tiến hành "Chuyển bước" nếu bạn có đủ sức.
Chuyển bước
Sau khi xác định và đưa ra lời giải cho vấn đề, thì bước cuối cùng là thực hiện lời giải. Biến lời giải thành hành động. Bước này không chỉ bao gồm sự phát triển sản phẩm bền vững của các ý kiến của bạn mà còn bao gồm cả các mặt khác (như là thị trường và giao thương nêu vấn đề có liên quan đến sản xuất). Điều này có thể cần nhiều thì giờ và công sức. Bước cuối này thường trở nên khó khăn cho nhiều người nghiên cứu độc lập không có kinh nghiệm về sản xuất. Do đó việc liên kết với các nhà sản xuất có kinh nghiệm hay các nhà đầu tư cũng là một bước đòi hỏi một số kỹ năng gia tế cần thiết.
Hiểu biết tường tận về thị trường, địa phương, chế độ, luật lệ, con người, xã hội và các yếu tố sản xuất tại nơi mình muốn thực thi kế hoạch sẽ đóng vai trò tối quan trọng trong bước này.
Một lời nhắc nhở khá quan trọng: Khi mà thì giờ cho phép, hãy lợi dụng tìm hiểu thêm những quá trình nghiên cứu và những dự định khác xem các ý kiến nào đã được thử nghiệm.
Có rất nhiều nhà sáng tạo thất bại trong giai đoạn này. Họ sẽ có nhiều vui sướng để sáng chế ra nhiều sản phẩm và dịch vụ mới là những thứ có thể đi trước thị trường hiên tại trong nhiều năm. Họ lại thất bại để phát triển chúng và đành bó tay ngắm nhìn những người khác hưởng lợi trên những ý tưởng sáng tạo này trong rất nhiều năm (như trường hợp của người sáng lập ra thương hiệu McDonald's, người tìm ra chất kháng sinh penicillin đầu tiên, máy chụp ảnh...) |
Ada Lovelace (tên đầy đủ: Augusta Ada King, nữ Bá tước Lovelace; tên trước khi kết hôn: Augusta Ada Byron; 10 tháng 12 năm 1815 – 27 tháng 11 năm 1852) là một nhà toán học và nhà văn người Anh, nổi tiếng với công trình nghiên cứu máy tính đa năng cơ khí theo đề xuất của Charles Babbage, là máy Analytical Engine. Bà là người đầu tiên nhận ra rằng chiếc máy này có những ứng dụng ngoài tính toán thuần túy, và đã công bố thuật toán đầu tiên được thiết kế bởi một chiếc máy như vậy. Do đó, bà thường được coi là nhà phát triển phần mềm máy tính đầu tiên.
Tiểu sử
Thời thơ ấu
Ada là con gái độc nhất (chính thức) của nhà thơ Lord Byron và bà Annabella Milbanke. Ada được đặt tên Augusta vì Byron đã có quan hệ với người chị cùng cha khác mẹ, Augusta Leigh, mà người ta đồn rằng họ đã có một con với nhau. Để tránh rắc rối, bà Augusta Leigh khuyên Byron cưới vợ nên Byron đã miễn cưỡng chọn Annabella. Vào ngày 16 tháng 1 năm 1816, khi Ada chỉ độ 1 tháng, Annabella bỏ Byron. Vào ngày 21 tháng 4 cùng năm Byron ký giấy ly dị vợ và rời khỏi Anh một vài ngày sau đó. Ông sẽ không bao giờ nhìn thấy mặt vợ con và nước Anh nữa.
Khi rời bỏ Byron, Annabella mang Ada (lúc đó hãy còn mang họ cha là Augusta Ada Byron) theo mình nhưng Ada có thật sự lớn lên với mẹ hay không thì không ai biết chính xác. Có người nói là Ada sống dưới sự kiểm soát và kiềm chế của mẹ, ngay cả sau khi đã có chồng; có người nói là Ada không biết mặt cả cha lẫn mẹ. Ngay từ nhỏ, Ada đã nổi tiếng là thông minh, có năng khiếu đặc biệt về toán học và khoa học, nhưng bà chỉ theo học với gia sư riêng tại nhà. Khi còn trẻ, Ada được biết đến trong xã hội (tầng lớp trung lưu và quý tộc) của London thời đó; Ada cũng là hội viên của hội Bluestockings.
Khi trưởng thành
Năm 1835, Ada kết hôn với William King, Bá tước Lovelace. Họ có ba người con: Byron King sinh ngày 12 tháng 5 năm 1836, Annabella King sinh ngày 22 tháng 9 năm 1837 (sau này được biết đến như Lady Anne Blunt) và Ralph Gordon King sinh ngày 2 tháng 7 năm 1839. Từ khi lấy chồng về sau, tên hiệu đầy đủ của Ada là The Right Honourable Augusta Ada, Countess of Lovelace (hay "Augusta Ada, nữ Bá tước Lovelace"). Nhưng trên thực tế bà được mọi người biết với tên Ada Lovelace.
Bà có quen biết với Mary Somerville, một nhà nghiên cứu về khoa học và tác giả nổi tiếng trong thế kỷ 19. Chính Mary Somerville đã giới thiệu bà với Charles Babbage vào ngày 5 tháng 6 năm 1833. Ngoài ra bà cũng quen biết với nhiều nhân vật nổi tiếng như: Sir David Brewster, Charles Wheatstone, Charles Dickens và Michael Faraday.
Sau khi Charles Babbage phát minh ra cái máy tính cơ khí của ông, The Analytical Engine, nhà toán học người Ý Luigi Menabrea đã viết một quyển sách về chiếc máy này. Trong thời gian 9 tháng, giữa 1842 và 1843, Ada (dưới tên Ada Byron) đã giúp Babbage dịch cuốn sách đó. Trong bản dịch, không những cho thêm ý kiến của mình, bà còn phụ chú một chương nói về cách tính chuỗi số Bernoulli bằng cách dùng máy tính của Babbage. Bản phụ chú này (Xem Bản phụ chú của Ada Byron) được xem như là chương trình máy tính đầu tiên trong lịch sử.
Qua đời
Lovelace qua đời ở tuổi 36 vào ngày 27 tháng 11 năm 1852 vì ung thư tử cung. Căn bệnh kéo dài vài tháng, trong thời gian đó Annabella nắm quyền chỉ huy những người xung quanh Ada, đồng thời loại trừ tất cả bạn bè và những người thân tín của bà. Dưới ảnh hưởng của mẹ, Ada đã có một cuộc cải biến tôn giáo, bị dụ dỗ phải ăn năn về hành vi trước đây và biến Annabella thành kẻ thi hành án. Bà mất liên lạc với chồng sau khi thú nhận điều gì đó với ông vào ngày 30 tháng 8 khiến ông bỏ rơi cô trên giường. Không biết bà đã nói gì với ông ta. Theo yêu cầu, bà được chôn cất bên cạnh mộ cha tại Nhà thờ St. Mary Magdalene ở Hucknall, Nottinghamshire. Một tấm bia tưởng niệm viết bằng tiếng Latinh, cho bà và cha của bà vẫn ở trong nhà nguyện gắn liền với Horsley Towers.
Tranh luận về vai trò lập trình viên
Nhiều người viết tiểu sử đã chú ý đến việc Ada Lovelace phải chật vật với toán. Họ cũng đã tranh luận xem bà có thật sự thấu hiểu các khái niệm về cái máy được phát minh bởi Charles Babbage, hay chỉ phải dùng vì vị trí trong xã hội và vì là một người đàn bà.
Những người viết tiểu sử cũng chú ý đến việc các chương trình máy tính (trong phụ chú của Ada) được soạn bởi Babbage, Ada chỉ tìm ra một lỗi trong cách tính chuỗi số Bernoulli và viết cho Babbage nhờ sửa. Các thư từ giữa hai người trong thời gian cộng tác chứng minh là người soạn các chương trình là Charles Babbage. Ngoài sự khám phá ra lỗi trên, Ada đã chỉ ra các khả năng của chiếc máy mà Babbage chưa đề cập đến. Bà đã dám tiên đoán "the Engine might compose elaborate and scientific pieces of music of any degree of complexity or extent".
Tuy nhiên, dưới vai trò của người phụ nữ đầu tiên trong lĩnh vực tin học, Ada Lovelace chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử. Sự đóng góp của bà, thật sự là to lớn hay không, không thể xét qua với các thông tin và các tài liệu hiện có.
Tưởng niệm
Vào ngày 10 tháng 12 năm 1980, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã phê chuẩn hướng dẫn sử dụng cho một ngôn ngữ lập trình mới mang tên bà. Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cũng chọn mã MIL-STD-1815 cho ngôn ngữ Ada vì nó bao gồm năm sinh của Ada Lovelace. Hình ảnh của bà có trên các nhãn hiệu hologram của Microsoft. Từ 1998, the Đoàn thể Máy tính Anh đã tặng thưởng một huy chương có tên của bà và trong năm 2008 đã khởi xướng một cuộc thi hằng niên dành cho các nữ sinh ngành khoa học máy tính.
Tại Vương quốc Anh, hội thảo chuyên đề Lovelace của BCSWomen (BCSWomen Lovelace Colloquium), một hội thảo hằng năm dành cho các nữ sinh chưa tốt nghiệp đại học, được đặt theo tên của Ada Lovelace. |
Chu kỳ Meton (Enneadecaeteris) trong thiên văn và lập lịch là sự xấp xỉ cụ thể của bội số chung của năm chí tuyến và chu kỳ quay của Mặt Trăng xung quanh Trái Đất khi quan sát từ Trái Đất. Chu kỳ Meton là chu kỳ tương ứng với 19 năm chí tuyến. Ở đây 19 năm chí tuyến sai lệch với 235 tháng Mặt Trăng vào khoảng 2 giờ 5 phút. Sai số của chu kỳ Meton sẽ xấp xỉ 1 ngày sau mỗi 219 năm.
Trong kỷ nguyên J2000 thì:
19 năm chí tuyến ≈ 6939,601604 ngày
235 tháng Mặt Trăng ≈ 6939,688380 ngày
Nếu 19 năm ấy chỉ có 12 tháng Mặt Trăng mỗi năm thì tổng số chỉ có 19 x 12 = 228 tháng, như vậy dôi ra 235 - 228 = 7 tháng.
Con số xấp xỉ này đã được sử dụng trong lịch Hêbrơ. Điều này được các nhà thiên văn học như Meton (người Hy Lạp) biết đến và giới thiệu vào khoảng năm 432 TCN cũng như Kidinnu người Chaldea (thế kỷ 4 TCN). Nó cũng được sử dụng để tính toán ngày lễ Phục Sinh.
Trong một âm dương lịch điển hình thì phần lớn các năm âm lịch có 12 tháng, nhưng một vài năm có các tháng dôi ra, được biết đến như là tháng nhuận. Như trên đã nói, có 7 tháng nhuận phải thêm vào trong 19 năm của chu kỳ Meton.
Theo truyền thống (trong các lịch của người Babylon, Hêbrơ và Attic), các năm thứ 3, 6, 8, 11, 14, 17 và 19 là những năm dài (có 13 tháng) của chu kỳ Meton.
Chu kỳ Meton là sự kết hợp của hai chu kỳ con có độ chính xác thấp hơn là chu kỳ 8 năm và chu kỳ 11 năm, trong đó:
Chu kỳ 8 năm (xấp xỉ 2.921,9375 ngày) ≈ 99 tháng Mặt Trăng (xấp xỉ 2.923,5283 ngày), nghĩa là sai số khoảng -1,5 ngày/8 năm hay xấp xỉ -1 ngày sau mỗi 5 năm. Xem thêm chu kỳ tám năm.
Chu kỳ 11 năm (xấp xỉ 4.017,6641 ngày) ≈ 136 tháng Mặt Trăng (xấp xỉ 4.016,1601 ngày), nghĩa là sai số khoảng 1,5 ngày/11 năm hay xấp xỉ 1 ngày sau mỗi 7,3 năm.
Chu kỳ Meton tự bản thân nó là một chu kỳ con của một chu kỳ lớn có độ chính xác cao hơn là chu kỳ 334 năm (xấp xỉ 121.990,8913 ngày) ≈ 4.131 tháng Mặt Trăng (121.990,8626 ngày) tức sai số chỉ khoảng 41 phút 28 giây, nghĩa là sai số tròn 1 ngày sau khoảng 11.598 năm.
Meton lấy xấp xỉ chu kỳ này thành số nguyên (6940) ngày, chia nó thành 125 tháng dài với 30 ngày mỗi tháng và 110 tháng ngắn với 29 ngày mỗi tháng.
Chu kỳ 19 năm cũng rất gần đúng với 255 tháng giao điểm (là khoảng thời gian giữa hai lần Mặt Trăng vượt qua đường hoàng đạo từ nửa bầu trời phía nam sang bầu trời phía bắc, nó xấp xỉ 27,212221 ngày, tức sai số khoảng nửa ngày), vì thế nó cũng là chu kỳ nhật, nguyệt thực, nó là khoảng thời gian của khoảng 4 hoặc 5 lần nhật (nguyệt) thực trở lại. |
Đinh Đức Thiện (15 tháng 11 năm 1914 – 21 tháng 12 năm 1986), tên thật là Phan Đình Dinh, là một vị tướng lĩnh cấp cao, hàm Thượng tướng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Cơ khí Luyện kim, Bộ trưởng Phụ trách dầu khí, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần. nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III và khoá IV. Huân chương Sao vàng.
Ông được mệnh danh là "Anh cả của ngành vận tải quân sự Việt Nam"
Tiểu sử
Ông tên thật là Phan Đình Dinh, quê làng Địch Lễ, xã Nam Vân, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định (nay là xã Nam Vân, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định). Ông sinh trưởng trong gia đình nhà Nho nghèo, cha mất sớm, mẹ ông đã tần tảo nuôi 8 người con. Ông là em trai của Trưởng ban Tổ chức Trung ương kiêm Ủy viên Bộ chính trị Lê Đức Thọ và là anh trai của Đại tướng Mai Chí Thọ.
Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1930. Năm 1939, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Ông bị Pháp bắt giam 2 lần vào năm 1930 và 1940. Sau khi được trả tự do, ông tiếp tục hoạt động Cách mạng.
Từ 1944 đến 1945, ông tham gia Ban cán sự tỉnh, rồi Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Yên; Bí thư tỉnh uỷ kiêm Chủ tịch tỉnh Bắc Giang; Uỷ viên thường vụ Khu uỷ Khu I; Uỷ viên Khu uỷ Khu Việt Bắc.
Năm 1950, ông chuyển vào quân đội, làm cục trưởng cục Vận tải quân sự (1950- 1955).
Từ 1955 đến 1957, ông đảm nhận chức Phó Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp.
Từ 1957 đến 1964, ông chuyển ngành làm Thứ trưởng Bộ Công thương, sau đổi tên thành Bộ công nghiệp nặng (1960), Giám đốc kiêm Bí thư Đảng ủy Khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên.
Năm 1965, ông trở lại quân đội, là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Uỷ viên Quân uỷ Trung ương, với cương vị là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, ông được giao trọng trách tổ chức nâng cấp tuyến hậu cần chiến lược Bắc- Nam, tăng năng lực chi viện cho chiến trường miền Nam. Đồng thời từ năm 1966 đến 1972, ông ông được Chính phủ giao tiếp tục xây dựng ngành cơ khí luyện kim, với cương vị là Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần kiêm Thứ trưởng (1966- 1969), rồi Bộ trưởng Bộ cơ khí và luyện kim (1969-1972).
Từ 1972 đến 28/3/1974, Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần - kiêm Quyền Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải.
Từ 1974 đến 1976, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và Chủ nhiệm Tổng cục Kỹ thuật.
Từ 1976 đến 1980, ông là Bộ trưởng phụ trách công tác dầu khí, Bí thư Đảng ủy Tổng cục Dầu khí.
Từ 7/2/1980 đến 23/4/1982, ông là Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải.
Từ 1982 đến 1986, ông là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Ông được phong quân hàm Thiếu tướng tháng 4 năm 1974, Trung tướng năm 1984 và Thượng tướng tháng 12 năm 1986.
Tại Đại hội Đảng lần thứ III (nhiệm kỳ 1960-1976), ông được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Đại hội Đảng lần thứ IV (nhiệm kỳ 1976-1982), ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông qua đời ngày 21 tháng 12 năm 1986, hưởng thọ 72 tuổi.
Công tác hậu cần trong và sau thời chiến
Năm 1950, ông được điều vào quân đội giữ chức Cục trưởng Cục vận tải đầu tiên thuộc Tổng cục Cung cấp (nay gọi là Tổng cục Hậu cần).
Năm 1955, là Phó chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp, đặc trách nhiệm vụ đảm bảo vận tải tiếp tế các chiến dịch, đặc biệt Đông Xuân 1953-1954 và vận tải đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhu cầu lương thực, vũ khí góp phần quan trọng cho chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Đến năm 1965, sau một thời gian biệt phái làm Thứ trưởng Bộ Công thương ông được điều trở lại quân đội, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần, Ủy viên Quân ủy Trung ương với nhiệm vụ đẩy mạnh công việc vận tải tiếp tế cho cách mạng miền Nam thông qua đường mòn trên biển và đường Trường Sơn. Trên cương vị Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, ông là một chỉ huy kiên trì và sáng tạo trong chỉ đạo đảm bảo giao thông cho tuyến hậu cần chiến lược đường mòn Hồ Chí Minh, chi viện cho Quân giải phóng miền Nam. Đây là một nhiệm vụ rất nặng nề, Mỹ dùng không quân rải thảm bom trên tất cả các tuyến đường, đặc biệt khu Bốn và dọc tuyến đường Trường Sơn để ngăn chặn từ xa nguồn tiếp viện của miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Tướng Đinh Đức Thiện, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và là Cục trưởng đầu tiên của Cục Vận tải, được ví như người "anh cả" của ngành Vận tải quân sự, "người thầy" của công tác giao thông vận tải trong hai cuộc chiến tranh, bởi ngay trong lúc khó khăn, gian nguy nhất, ông vẫn kiên trì phương thức sử dụng cơ giới và có những đề xuất táo bạo để công tác giao thông vận tải thời chiến phát huy hiệu quả.
Trước yêu cầu của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, tăng cường cơ giới để nâng cao hiệu suất vận tải, ông đã quyết tâm tổ chức làm cho bằng được tuyến đường ống xăng dầu Bắc - Nam vượt Trường Sơn. Quyết tâm đó của ông vào thời điểm đó được cho là rất táo bạo, vượt sự tưởng tượng của nhiều người, kể cả đối phương. Trải qua 7 năm (1968-1975), dưới sự tổ chức chỉ đạo, chỉ huy của ông, kể cả khi được giao biệt phái phụ trách Quyền Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải, nhưng là một vị tướng Hậu cần, ông đã chỉ đạo, tổ chức bộ đội xăng dầu vượt qua những muôn vàn gian khổ và hy sinh đã xây dựng, quản lý và vận hành một tuyến đường ống chiến lược nối hậu phương miền Bắc, chạy từ biên giới Việt - Trung, dọc ngang Trường Sơn vào tới miền Đông Nam Bộ, chiến trường B2, với tổng chiều dài trên 5.000 km (trong đó có 1.500 km qua Trường Sơn), cùng hàng trăm trạm bơm và khu kho có sức chứa trên 300.000 m³. Đường ống xăng dầu trên báo chí Việt Nam và quốc tế được xem là "một kỳ tích của quân đội ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, biểu hiện sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân".
Trong lễ tưởng niệm mười năm ngày mất của Thượng tướng Đinh Đức Thiện tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 10/1/1997, Đại tướng Võ Nguyên Giáp xúc động nói: "Đồng chí Đinh Đức Thiện có công lớn trong việc xây dựng tuyến đường Trường Sơn 559, xây dựng hệ thống giao thông vận tải lớn từ hậu phương miền Bắc đến các chiến trường, trong đó có tuyến đường ống dẫn xăng dầu, nhằm bảo đảm chi viện cho miền Nam, tạo cơ sở hạ tầng cho cơ động lực lượng và vận chuyển lớn, phục vụ đắc lực cho thời cơ chiến lược, nhất là cho Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975".
Năm 1974, Khi Bộ Quốc phòng tách mảng trang bị kỹ thuật, quân giới để thành lập Tổng cục kỹ thuật chuẩn bị cho tổng tiến công giải phóng Miền nam, ông được giao làm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch nhà nước kiêm Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần và Tổng cục kỹ thuật.
Năm 1975, ông là đại diện Quân ủy Trung ương được giao giữ trọng trách Phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Xây dựng và phát triển kinh tế đất nước
Ông được xem là mẫu người năng động, luôn luôn tìm tòi khám phá cái mới, cái tiên tiến. Từ một cán bộ cao cấp trong quân đội, được Đảng, nhà nước tin tưởng giao cho ông tham gia chính quyền dân sự, gánh vác những công việc trong thời điểm bước ngoặt hoặc khởi sự trong sự nghiệp phát triển công nghiệp, kiến thiết đất nước như:
• Từ 1957 đến 1964, ông là Thứ trưởng Bộ công nghiệp nặng, Bí thư Đảng ủy kiêm Giám đốc Khu công nghiệp Gang thép Thái Nguyên chịu trách nhiệm quản lý xây dựng khu công nghiệp lớn nhất miền bắc lúc đó. Đây là khu Công nghiệp đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam khi đó có dây chuyền sản xuất liên hợp khép kín từ khai thác quặng sắt đến sản xuất gang, phôi thép và cán thép.
• 1969-1972, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Cơ khí luyện kim
• 1972- 1974, ông được Chính phủ giao nhiệm vụ biệt phái, phụ trách Quyền Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải (thay Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ đang trực tiếp làm Tư lệnh BTL đảm bảo GTVT tại tuyến lửa Quân khu 4)
• 1974-1976, ông được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Phó Chủ nhiệm Ủy ban kế hoạch Nhà nước.
• Năm 1975, Sau ngày giải phóng miền Nam, ông được Chính phủ giao nhiệm vụ tiếp quản các cơ sở vật chất và tài liệu của các công ty dầu khí tại miền Nam, đồng thời tổ chức thành lập Tổng cục Dầu mỏ và Khí đốt. Ngày 3/9/1975 Tổng cục Dầu mỏ và khí đốt Việt Nam (Tổng cục Dầu khí) ra đời. Sau đó Ông chính thức được giao làm Bộ trưởng phụ trách công tác dầu khí, Bí thư Đảng ủy Tổng cục Dầu khí, (đến năm 1981).
Ông đã cùng nhà khoa học Nguyễn văn Biên, Cục trưởng Cục Dầu khí đầu tiên và các cộng sự của mình khởi thảo lộ trình, kế hoạch hiện thực hóa Hiệp định hợp tác Việt Nam và Liên Xô về thăm dò, khai thác dầu khí tại lục địa Nam Việt Nam.
Ông hiểu ngành Dầu khí là ngành đặc thù, đòi hỏi công nghệ cao, tri thức tổng hợp các ngành địa chất, vật lý, hóa học, kinh tế học, cơ khí, dịch vụ kỹ thuật ở tầm cao. Đích thân ông đi hầu hết các tỉnh thành trong cả nước để hoạch định xây dựng cơ sở kỹ thuật cho ngành Dầu khí.
Ông quyết định lấy Vũng Tàu làm nơi xây dựng hạ tầng ban đầu, đặc biệt làm cảng dầu khí cho Xí nghiệp Liên doanh Vietsovpetro. Sự quyết đoán sáng suốt này tạo tiền đề quan trọng cho những kế hoạch tìm kiếm, thăm dò khai thác dầu khí sau này.
Để thực hiện chương trình xây dựng ngành dầu khí với lực lượng ban đầu quá mỏng, ông đã đề nghi đưa quân đội vào giúp tăng cường cho công tác khai thác dầu khí cho thành lập binh đoàn 318 dầu khí
Năm 1980 - 1982, lần thứ hai ông được bổ nhiệm giữ chức Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam. Ông được tôn vinh là: "Anh cả của ngành giao thông vận tải" bởi đã có nhiều đóng góp to lớn về đảm bảo Giao thông - Vận tải trong 2 cuộc kháng chiến đấu tranh giải phóng dân tộc: (trong thời kỳ chống Pháp ông làm Cục trưởng Cục Vận tải quân sự, trực tiếp chỉ huy đảm bảo cho chiến dịch Điện Biên Phủ, trong thời kỳ chống Mỹ với cương vị Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Thứ trưởng,... ông đã khởi xướng và chỉ đạo, chỉ huy mở tuyến đường giao thông chiến lược Bắc - Nam, góp phần thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước).
Từ năm 1982, khi tổ chức ngành dầu khí đã được hình thành và đứng vững, ông về lại Bộ Quốc phòng, giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (Việt Nam).
Lịch sử thụ phong quân hàm
Danh hiệu và tôn vinh
Huân chương Sao vàng
Huân chương Hồ Chí Minh
Huân chương Quân công hạng nhất
Huân chương Chiến công hạng I
Huân chương Chiến thắng hạng I
Huân chương Chiến sĩ Giải phóng
Huy chương Quân kỳ Quyết thắng.
• Tên của ông được đặt cho một con phố ở khu đô thị Việt Hưng, quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
• HĐND tỉnh Khánh Hoà đặt tên ông cho một đường phố tại Thành phố Nha Trang (năm 2020).
Gia đình
Ông là em ruột của ông Lê Đức Thọ và là anh ruột của ông Mai Chí Thọ.
• Con gái của ông:
Phan Thu Lương, nguyên Phó Tổng Giám đốc của Công ty TNHH Đèn hình Orion-Hanel (OHPT)
Phan Thị Hòa, nguyên Ủy viên Hội đồng Quản trị, Trưởng ban Ban Kiểm soát Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
• Con trai của ông:
Phan Đình Nhân, nguyên Phó phòng Kế hoạch Đầu tư Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội, nguyên Hội trưởng Hội cổ vật Thăng Long.
Phan Đình Đức, Ủy viên Hội đồng Thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, nguyên Tổng Giám đốc Tổng công ty CP Phân đạm và Hóa chất Dầu khí (PVFCCo) thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. |
Ngũ quark (tiếng Anh: pentaquark) là một hạt hạ nguyên tử tạo bởi một nhóm gồm 5 hạt quark (để phân biệt với 3 hạt quark trong mỗi baryon và 2 hạt quark trong mỗi meson); cụ thể hơn, nó bao gồm 4 hạt quark và 1 hạt phản quark. Do vậy số baryon của nó là 1. Trước khi có tên là ngũ quark, người ta đã xếp nó vào một dạng hạt mới, gọi là hạt ngoại baryon. Một vài thí nghiệm từ năm 2003 đã cho rằng một ngũ quark có khối lượng vào khoảng 1540 MeV, là tổ hợp của 2 quark trên, 2 quark dưới và 1 phản quark lạ (). Đây là một tổ hợp nhỏ nhất của các thành phần, với số baryon là 1 và số lạ dương.
5 hạt quark này không phải là thành phần hạt quark sơ khai trong mô hình dự đoán sự tồn tại của ngũ quark ban đầu. Hạt quark thứ 4 đã được phát hiện với tỉ khối trạng thái cao hơn so với biển Dirac cùng với năng lượng âm, trong khi phản quark lại có tỉ khối trạng thái thấp hơn, với năng lượng dương. Điều này dẫn đến việc không cần nhiều năng lượng để tạo nên một lỗ hạt kích thích, do vậy ngũ quark nhẹ hơn 2 GeV hoặc nó có thể được dự đoán bởi những mô hình cấu tạo quark khác.
Lịch sử
Sự tồn tại của các ngũ quark đã được đặt giả thuyết bởi Maxim Polyakov, Dmitri Diakonov và Victor Petrov thuộc Viện vật lý hạt nhân Petersburg tại Nga vào năm 1997, nhưng dự đoán của họ đã gặp nhiều nghi vấn. Tuy vậy, sự tồn tại của ngũ quark đã được công bố lần đầu tiên vào tháng 7 năm 2003 từ thí nghiệm của Takashi Nakano thuộc Đại học Osaka, Nhật Bản, và Ken Hicks thuộc phòng thí nghiệm Thomas Jefferson (hay Jefferson Lab) ở Newport News, Virginia. Thí nghiệm của họ bắn một tia gamma vào một neutron, để tạo ra một meson và một ngũ quark. Tuy nhiên, hạt ngũ quark này chỉ tồn tại trong giây trước khi phân rã thành 1 meson và 1 neutron.
Song sự tồn tại của ngũ quark vẫn còn bị nghi ngờ. Để giải quyết vấn đề thông suốt, nhóm hợp tác CLAS đã thiết lập lại thí nghiệm này ở phòng thí nghiệm Jefferson Lab, với mục đích tìm kiếm những hạt ngũ quark như trước đó. Thí nghiệm hoàn toàn dựa vào may mắn.
Nhóm CLAS đã tìm lại lần nữa vào năm 2005 với bằng cách tăng gia tốc của các photo khi bắn vào hidrô lỏng. Trước đó, nhóm khoa học của Đức là SAPHIR đã có một kết quả chứng minh cho sự tồn tại của ngũ quark, nhưng kết quả của nhóm CLAS chính xác hơn 50 lần so với nhóm SAPHIR bằng việc thu thập dữ liệu lớn gấp 10 lần, với năng lượng ở phạm vi dự đoán là sẽ xảy ra phản ứng phân rã. Một thành viên của nhóm CLAS, Raffaella De Vita thuộc Viện vật lý hạt nhân (Istituto Nazionale di Fisica Nucleare) của Ý, đã công bố ngày 17 tháng 4 năm 2005 tại hội nghị thường niên của Hội Vật lý Hoa Kỳ ở Tampa, Florida rằng nhóm CLAS đã không thu được kết quả như trước đó - không có bằng chứng nào về sự tồn tại của ngũ quark được phát hiện. Nhiều kết quả thêm của nhóm CLAS đang được mong đợi ở cuối năm 2005.
Cũng cần chú ý rằng các thí nghiệm sau đó đã không thành công trong việc phát hiện ra ngũ quark tại năng lượng cao là do các meson trao đổi tạo ra bộ máy triệt tiêu các gulon trao đổi có hương trung tính, điều này sau đó đã được ngăn chặn bởi luật OZI. Do vậy các giới hạn chặn trên của tốc độ tạo ngũ quark phụ vào các kết quả âm của một số thí nghiệm không đồng nghĩa với việc phủ định sự tồn tại của ngũ quark. |
Quark ( hay ) (tiếng Việt đọc là Quắc) là một loại hạt cơ bản sơ cấp và là một thành phần cơ bản của vật chất. Các quark kết hợp với nhau tạo nên các hạt tổ hợp còn gọi là các hadron, với những hạt ổn định nhất là proton và neutron – những hạt thành phần của hạt nhân nguyên tử. Do một hiệu ứng gọi là sự giam hãm màu, các quark không bao giờ được tìm thấy đứng riêng rẽ; chúng chỉ có thể tìm thấy bên trong các hadron. Với lý do này, rất nhiều điều về các quark được biết đến đã được dẫn ra từ các hadron chúng tổ hợp lên.
Có sáu loại quark, còn được biết đến là hướng: lên (u), xuống (d), duyên (c), lạ (s), đỉnh (t), và đáy (b). Các quark lên (u) và quark xuống (d) có khối lượng nhỏ nhất trong các quark. Các quark nặng hơn nhanh chóng biến đổi sang các quark u và d thông qua một quá trình phân rã hạt: sự biến đổi từ một trạng thái khối lượng cao hơn sang trạng thái khối lượng thấp hơn. Vì điều này, các quark u và d nói chung là ổn định và thường gặp nhất trong vũ trụ, trong khi các quark duyên (c), lạ (s), đỉnh (t), và đáy (b) chỉ có thể được tạo ra trong va chạm năng lượng cao (như trong các tia vũ trụ và trong các máy gia tốc hạt).
Các quark có rất nhiều tính chất nội tại, bao gồm điện tích, màu tích, spin, và khối lượng. Các quark là những hạt cơ bản duy nhất trong mô hình chuẩn của vật lý hạt đều tham gia vào bốn tương tác cơ bản (điện từ, hấp dẫn, mạnh, và yếu), cũng như là các hạt cơ bản có điện tích không phải là một số nguyên lần của điện tích nguyên tố. Đối với mỗi vị quark có tương ứng với một loại phản hạt, gọi là phản quark, mà chỉ khác với các quark ở một số tính chất có độ lớn bằng nhau nhưng ngược dấu.
Mô hình quark đã được các nhà vật lý Murray Gell-Mann và George Zweig đề xuất độc lập nhau năm 1964. Các quark được đưa ra như là một phần trong biểu đồ sắp xếp cho các hadron, và có rất ít chứng cứ về sự tồn tại của chúng cho đến tận năm 1968. Cả sáu quark đều đã được quan sát trong các máy gia tốc thực nghiệm; quark cuối cùng được khám phá là quark đỉnh (t) được quan sát tại Fermilab năm 1995.
Phân loại
Mô hình chuẩn là một mô hình lý thuyết miêu tả mọi hạt cơ bản được biết đến hiện nay, cũng như về hạt chưa quan sát được, boson Higgs. Mô hình này gồm sáu hương quark, tên gọi là (q), quark lên (u), quark xuống (d), quark duyên (c), quark lạ (s), quark đỉnh (t), và quark đáy (b). Phản hạt của quark được gọi là phản quark, và được ký hiệu bởi dấu gạch ngang bên trên cho mỗi quark tương ứng, như cho phản quark trên (u). Nói chung đối với phản vật chất, các phản quark có cùng khối lượng, thời gian sống trung bình, spin tương ứng với quark của nó, nhưng có điện tích và các tích khác có dấu ngược lại.
Các quark là những hạt có spin-, hàm ý rằng chúng là các hạt fermion tuân theo định luật thống kê spin. Chúng cũng tuân theo nguyên lý loại trừ Pauli, nói rằng không có 2 fermion nào có thể đồng thời chiếm cùng một trạng thái lượng tử. Điều này ngược hẳn với các hạt boson (các hạt với spin nguyên), bất kì số lượng hạt nào cũng có thể chiếm cùng một trạng thái. Không giống như các lepton, các quark có một đặc tính là màu tích, làm cho chúng tham gia vào tương tác mạnh. Kết quả của lực hút giữa các quark khác nhau hình thành lên các hạt tổ hợp gọi là các hadron (xem "Tương tác mạnh và màu tích bên dưới).
Các quark xác định lên các số lượng tử của các hadron được gọi là các quark hóa trị; ngoài điều này, bất kì một hadron có thể chứa một số vô hạn các hạt ảo (hay biển) quark, phản quark, và các gluon không ảnh hưởng đến số lượng tử của các hadron. Có hai họ hadron: baryon, với ba quark hóa trị; và meson, với một quark và một phản quark hóa trị.. Những baryon hay gặp nhất là proton và neutron, các viên gạch của hạt nhân nguyên tử. Có rất nhiều hadron đã được biết đến (xem danh sách các baryon và danh sách các meson), hầu hết chúng khác nhau là do thành phần các quark và các tính chất của quark trong các hạt này. Sự tồn tại của các hadron "ngoại lai" với nhiều hơn các quark hóa trị, như các tetraquark () và các pentaquark (), đã được phỏng đoán nhưng vẫn chưa được chứng minh.
Các fermion cơ bản được nhóm lại thành ba thế hệ, mỗi thế hệ bao gồm hai lepton và hai quark. Thế hệ đầu tiên bao gồm quark lên u và quark xuống d, thế hệ thứ hai gồm quark lạ s và quark duyên c, và thế hệ thứ ba gồm quark đỉnh t và quark đáy b. Tất cả những tìm kiếm cho thế hệ thứ tư gồm các quark và những fermion cơ bản khác đều đã thất bại, và có một chứng cứ gián tiếp mạnh cho thấy không thể tồn tại nhiều hơn ba thế hệ. Các hạt trong thế hệ cao hơn thường có khối lượng lớn hơn và ít ổn định hơn, làm cho chúng phân rã thành các hạt ở thế hệ thấp hơn do tác động của các tương tác yếu. Chỉ có thế hệ thứ nhất (các quark u và d) là thường gặp trong tự nhiên. Các quark nặng hơn chỉ có thể được tạo ra trong các va chạm năng lượng cao (như trong quá trình va chạm của các tia vũ trụ), và phân rã rất nhanh; tuy nhiên, chúng được nghĩ là đã có mặt trong một thời gian rất ngắn sau Big Bang, khi vũ trụ trong trạng thái rất nóng và đậm đặc (kỉ nguyên quark). Những nghiên cứu về những quark nặng hơn được thực hiện trong các điều kiện nhân tạo, như trong các máy gia tốc hạt.
Có điện tích, khối lượng, màu tích, và hương, các quark là các hạt cơ bản duy nhất được biết đến có tham gia vào cả bốn tương tác cơ bản của vật lý học hiện nay: tương tác điện từ, tương tác hấp dẫn, tương tác mạnh và tương tác yếu. Tuy nhiên, tương tác hấp dẫn là quá nhỏ trong thang đo hạt hạ nguyên tử, và nó không được miêu tả trong Mô hình chuẩn.
Xem bảng các tính chất bên dưới để có tổng quan hoàn thiện về tính chất của sáu vị quark.
Lịch sử
Mô hình quark đã được hai nhà vật lý Murray Gell-Mann
và George Zweig đề xuất một cách độc lập vào năm 1964. Đề xuất được đưa ra ngay sau khi Gell-Mann đưa ra công thức của hệ thống phân loại hạt còn gọi là Bát Chính Đạo năm 1961—hay, theo thuật ngữ vật lý, đối xứng vị SU(3). Nhà vật lý người Israel Yuval Ne'eman đã độc lập phát triển một biểu đồ tương tự với Bát Chính Đạo trong cùng năm này.
Tại thời điểm ban đầu của lý thuyết quark, khái niệm "vườn hạt" đã được đưa ra, để bao gồm các hạt khác, kể cả các hadron. Gell-Mann và Zweig khẳng định rằng chúng không phải là các hạt cơ bản, thay vào đó là tổ hợp thành phần của các quark và các phản quark. Mô hình của họ bao gồm ba vị của quark – lên u, xuống d, và lạ s –và họ quy cho chúng các tính chất như spin và điện tích. Phản ứng ban đầu của cộng đồng vật lý đối với giả thiết này là lẫn lộn. Đã có sự tranh cãi đặc biệt về liệu các quark là một thực thể vật lý hay chỉ là một sự trừu tượng để dùng giải thích các khái niệm mà không được hiểu một cách thông thường tại thời điểm đó.
Chỉ trong ít năm sau, sự mở rộng mô hình Gell-Mann – Zweig đã được đề xuất. Sheldon Lee Glashow và James Bjorken đã tiên đoán sự tồn tại của vị quark thứ tư, mà họ gọi là duyên. Đề xuất này được thêm vào bởi vì nó cho phép một cách miêu tả tốt hơn tương tác yếu (cơ chế cho phép các quark bị phân rã), làm cân bằng số các quark đã biết với số các lepton đã biết, và hàm ý một công thức khối lượng làm sửa lại một cách chính xác khối lượng của các meson trước đó.
Năm 1968, các thí nghiệm tán xạ phi đàn hồi sâu tại Trung tâm Máy gia tốc tuyến tính Stanford (SLAC) cho thấy proton chứa các thành phần nhỏ hơn, các hạt giống như điểm và chứng tỏ proton không phải là một hạt cơ bản. Các nhà vật lý đã không sẵn sàng đồng nhất các hạt này với các quark tại thời điểm đó, thay vào đó họ gọi chúng là "các parton" – một thuật ngữ do Richard Feynman đưa ra. Các hạt được quan sát tại SLAC sau đó được đồng nhất với các quark lên u và quark xuống d, và nhiều quark (hương) sau đó đã được khám phá ra. Tuy thế, "parton" vẫn còn được sử dụng là một thuật ngữ chung cho các thành phần của các hadron (quark, phản quark, và gluon).
Sự tồn tại của quark lạ s đã được xác nhận một cách gián tiếp trong thí nghiệm tán xạ ở SLAC: không chỉ là một thành phần cần thiết trong mô hình 3 quark của Gell-Mann và Zweig, nó cũng cung cấp một cách giải thích cho các hadron kaon () và pion () đã được khám phá ra trong các tia vũ trụ năm 1947.
Trong một bài báo năm 1970, Glashow, John Iliopoulos và Luciano Maiani trình bày một lý do sâu hơn cho sự tồn tại của hạt quark duyên chưa được khám phá. Số các hương quark được đề xuất tăng lên đến 6 vào năm 1973, khi Makoto Kobayashi và Toshihide Maskawa chú ý rằng các quan sát thực nghiệm trong vi phạm CP có thể được giải thích nếu tồn tại một cặp quark khác.
Các quark duyên đã được tạo ra hầu như đồng thời bởi hai nhóm nhà khoa học vào tháng 11 năm 1974 (xem Cuộc Cách mạng tháng Mười một)—một tại SLAC dưới sự lãnh đạo của Burton Richter, và một tại Phòng thí nghiệm Quốc gia Brookhaven dưới sự lãnh đạo của Samuel Ting. Quark duyên đã được quan sát khi nó liên kết với phản quark duyên trong các meson. Hai nhóm nhà khoa học đã đặt tên cho meson được khám phá ra với hai ký hiệu khác nhau, J và ψ; do đó nó thường được biết đến với tên gọi meson . Sự khám phá cuối cùng đã thuyết phục được cộng đồng các nhà vật lý rằng mô hình quark là đúng đắn.
Trong những năm sau, đã xuất hiện một số các đề nghị cho sự mở rộng mô hình quark lên tới 6 quark. Một trong số này, Haim Harari đăng bài báo năm 1975 trong đó lần đầu tiên ông đề cập đến thuật ngữ quark đỉnh và quark đáy.
Năm 1977, quark đáy được quan sát bởi một đội các nhà khoa học tại Fermilab đứng đầu bởi Leon Lederman. Đây là một dấu hiệu mạnh cho sự tồn tại của quark đỉnh: nếu không có quark đỉnh, quark đáy sẽ không có đối tác của nó. Tuy vậy, cho đến tận năm 1995 thì quark đỉnh mới được quan sát, cũng bởi Máy dò Va chạm tại Fermilab (CDF) và DØ bởi các nhà khoa học tại Fermilab. Quark đỉnh có khối lượng lớn hơn so với giá trị suy đoán trước đó—nặng tương đương, thậm chí hơn cả nguyên tử vàng.
Nguồn gốc tên gọi
Gell-Mann nảy sinh ý định đặt tên là quark khi ông nghe âm thanh do những con vịt phát ra. Ban đầu, ông chưa thực sự quyết định được cách viết chính thức cho những thuật ngữ ông đang nghiên cứu, cho đến khi ông tìm thấy từ quark trong quyển sách Finnegans Wake của James Joyce:
Gell-Mann miêu tả chi tiết về tên gọi quark trong cuốn sách của ông, The Quark and the Jaguar:
Zweig thích cái tên ace hơn trong lý thuyết của ông, nhưng thuật ngữ của Gell-Mann trở nên thông dụng khi mô hình quark đã được chấp nhận rộng rãi.
Các hương của quark được đặt tên do một số các lý do. Các quark lên và xuống được đặt theo tên của các thành phần lên và dưới của spin đồng vị mà chúng mang. Quark lạ được đặt tên như vậy do nó được khám phá là các thành phần của các hạt lạ được khám phá ở trong tia vũ trụ nhiều năm trước khi mô hình quark được đưa ra; những hạt này được nghĩ là "lạ" do chúng có thời gian sống không bình thường. Glashow, người đồng đưa ra 'quark lạ' với Bjorken, nói rằng "Chúng tôi đưa ra sự kiến thiết của chúng tôi về 'quark lạ' do chúng tôi thấy thích thú và dễ chịu bởi sự đối xứng của nó mang lại cho thế giới hạt hạ nguyên tử." Các tên gọi "đỉnh", "đáy" do Harari đưa ra, đã được chọn bởi vì chúng "mang tính logic với các quark trên và dưới". Trước đây, các quark đỉnh t và đáy b thỉnh thoảng được gọi tương ứng là "sự thật" (truth) và "đẹp" (beauty), nhưng những tên gọi này sau đó không còn được sử dụng nữa.
Các tính chất
Điện tích
Các quark có các giá trị điện tích là phân số – là hoặc + lần điện tích nguyên tố, phụ thuộc vào hương của chúng. Các quark lên, duyên, và đỉnh (tập hợp lại gọi là các quark kiểu – lên) có điện tích +, trong khi các quark xuống, lạ, và đáy (các quark kiểu – xuống) có điện tích −. Các phản quark có các điện tích trái dấu tương ứng với các quark; các phản quark kiểu – trên có điện tích − và các phản quark kiểu – dưới có điện tích +. Từ các điện tích của một hadron bằng tổng các điện tích của các quark cấu tạo nên hadron này, do đó mọi hadron có điện tích là số nguyên: tổng của ba quark (tạo thành baryon), ba phản quark (tạo thành phản baryon), hoặc một quark và một phản quark (tạo thành meson) luôn luôn là các điện tích nguyên.
Ví dụ, các hadron là thành phần của các hạt nhân nguyên tử, các neutron và proton, có điện tích lần lượt là 0 và +1; neutron có thành phần là hai quark xuống d và một quark lên u, proton có hai quark lên u và một quark xuống d.
Spin
Spin là một tính chất nội tại của các hạt cơ bản, và hướng của nó là một tính chất quan trọng của bậc tự do. Nó thường được hình dung giống như sự quay của một vật xung quanh trục của chính nó (từ đó có tên là "spin"), mặc dù khái niệm này không hoàn toàn đúng ở mức thang nguyên tử bởi vì các hạt cơ bản được tin là các hạt điểm.
Spin có thể biểu diễn bởi một vector với độ dài được đo bằng các đơn vị của hằng số thu gọn Planck ħ (đọc là "h ngang"). Đối với các quark, khi đo các thành phần của vector spin dọc theo một trục bất kì chỉ thu được các giá trị +ħ/2 hoặc −ħ/2; với lý do này các quark được phân loại thành các hạt spin-. Các thành phần của vector spin dọc theo một trục bất kì – ký hiệu là z – thường được gắn bởi mũi tên chỉ lên trên ↑ đối với giá trị + và mũi tên chỉ xuống dưới ↓ đối với giá trị −, đặt sau biểu tượng cho hương. Ví dụ, một quark lên (u) với spin + dọc theo trục z được ký hiệu bởi u↑.
Tương tác yếu
Một hương của quark chỉ có thể biến đổi thành một hương khác của quark thông qua tương tác yếu, một trong bốn tương tác cơ bản trong vật lý hạt. Bằng cách hấp thụ hoặc phát ra một boson W, bất kì một loại quark – lên nào (quark lên, quark duyên, và quark đỉnh) có thể biến đổi thành một loại quark – xuống bất kì (quark xuống, quark lạ, quark đáy) và ngược lại. Cơ chế biến đổi hương này là nguyên nhân của quá trình phóng xạ của phân rã beta, trong đó một neutron () "tách ra" thành một proton (), một electron () và một phản neutrino electron () (xem hình). Điều này xuất hiện khi một quark xuống trong neutron () phân rã thành một quark lên bằng cách phát ra một hạt boson W ảo, biến đổi một neutron thành một proton (). Hạt boson W sau đó phân rã thành một electron và một phản neutrino electron.
Cả phân rã beta và quá trình ngược lại là phân rã ngược beta thường được dùng trong các ứng dụng y học như chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) và trong các thí nghiệm năng lượng cao như trong các máy dò neutrino.
Trong khi quá trình biến đổi hương là giống nhau đối với mọi quark, mỗi quark có một sự ưu tiên để biến đổi thành một quark khác trong chính thế hệ của nó. Khả năng xảy ra biến đổi của mọi hương được miêu tả bởi một bảng toán học, gọi là ma trận Cabibbo–Kobayashi–Maskawa (ma trận CKM). Biên độ xấp xỉ của những phần tử trong ma trận CKM là:
với Vij đại diện cho khả năng của một hương của một quark i thay đổi thành một hương của một quark j (hay ngược lại).
Có tồn tại một ma trận tương tác yếu tương đương cho các lepton (nằm bên phải boson W trên biểu đồ phân ra beta ở trên), gọi là ma trận Pontecorvo–Maki–Nakagawa–Sakata (ma trận PMNS). Hai ma trận CKM và PMNS cùng với nhau miêu tả toàn bộ biến đổi hương, nhưng sự liên kết giữa hai ma trận này vẫn chưa hoàn toàn rõ ràng.
Tương tác mạnh và màu tích
Các quark sở hữu một tính chất gọi là màu tích (color charge). Chúng có ba loại màu tích, với tên gọi là lam, lục, và đỏ. Tương ứng với chúng là các phản màu – phản lam, phản lục, và phản đỏ. Mỗi quark mang một màu, và tương ứng mỗi phản quark mang một phản màu.
Hệ thống tương tác đẩy và hút giữa các quark cùng với sự tổ hợp khác nhau của ba màu tích được gọi là tương tác mạnh, với các hạt trung gian tải lực gọi là các hạt gluon; điều này được trình bày bên dưới. Lý thuyết miêu tả tương tác mạnh gọi là Sắc động lực học lượng tử (QCD). Một quark với một giá trị màu tích có thể tạo thành một hệ đóng với một phản quark mang phản màu tương ứng; ba (phản) quark, ứng với mỗi (phản) màu, tương tự cũng tạo thành một hệ đóng. Kết quả của hai quark hút nhau sẽ tạo thành một màu trung tính: Một quark với màu tích ξ kết hợp với một phản quark với màu tích -ξ sẽ tạo thành một màu tích 0 (hay màu "trắng") và hình thành lên một hạt meson. Tương tự với mô hình kết hợp màu sắc trong quang học cổ điển, sự kết hợp của ba quark hay ba phản quark, mỗi quark với màu tích khác nhau, sẽ tạo ra một màu tích "trắng" và hình thành lên một baryon hay phản baryon.
Trong vật lý hạt hiện đại, các đối xứng chuẩn (hay đối xứng gauge)-một loại của nhóm đối xứng-liên quan đến các tương tác của các hạt cơ bản với nhau (xem lý thuyết chuẩn hay lý thuyết gauge). Màu SU(3) (thường viết tắt là SU(3)c) là một đối xứng chuẩn (đối xứng gauge) liên quan đến màu tích trong các quark và xác định sự đối xứng cho Sắc động lực học lượng tử. Giống như các định luật vật lý là độc lập với các hướng x, y, và z trong không gian, và không thay đổi nếu các trục tọa độ được quay theo một hướng mới, các định luật trong Sắc động lực học lượng tử là độc lập với các hướng trong "không gian màu" ba chiều được gắn với ba màu lam, lục và đỏ. Sự biến đổi màu SU(3)c tương ứng với "sự quay" trong không gian màu này (nói về mặt toán học là một không gian phức). Mỗi hương của quark f, và mỗi hương nhỏ fB, fG, fR tương ứng với các màu của quark,, tạo thành một bộ ba: một ba-thành phần trường lượng tử biến đổi dưới biểu diễn cơ sở của SU(3)c. Do yêu cầu SU(3)c phải là cục bộ – theo đó nhũng biến đổi của nó phải được phép thay đổi trong không gian và thời gian-nó xác định lên các tính chất của tương tác mạnh, đặc biệt là sự tồn tại của tám loại gluon để thực hiện chức năng của chúng là những hạt tải lực.
Khối lượng
Hai thuật ngữ được sử dụng liên quan đến khối lượng của quark bao gồm: khối lượng quark hiện tại chỉ gồm khối lượng của chính các hạt quark, trong khi khối lượng quark thành phần gồm khối lượng của quark hiện tại cộng với khối lượng của các hạt trường gluon xung quanh các hạt quark. Những khối lượng này có những giá trị điển hình rất khác nhau. Và hầu hết khối lượng của các hadron chủ yếu được đóng góp từ các gluon mà những gluon này liên kết các hạt quark với nhau, chứ không phải từ khối lượng của các hạt quark. Trong khi các gluon không có khối lượng, chúng lại có năng lượng-đặc biệt là năng lượng liên kết sắc động lực học lượng tử (QCBE) – và năng lượng này đóng góp rất lớn vào tổng khối lượng của hadron (xem khối lượng trong thuyết tương đối hẹp, và sự tương đương năng lượng khối lượng). Ví dụ, một hạt proton có khối lượng xấp xỉ 938 MeV/c2, với khối lượng nghỉ của ba hạt quark hóa trị chỉ là khoảng 11 MeV/c2; và hầu hết phần còn lại là do các gluon QCBE đóng góp vào.
Mô hình Chuẩn khẳng định rằng các hạt cơ bản có khối lượng là nhờ cơ chế Higgs, cơ chế này liên quan đến hạt boson Higgs-hạt này chưa được tìm thấy bằng thực nghiệm. Các nhà vật lý hy vọng rằng trong tương lai những nghiên cứu sâu về nguyên nhân hạt quark đỉnh (t) có khối lượng rất lớn, với khối lượng xấp xỉ bằng với khối lượng của hạt nhân vàng (~171 GeV/c2), có thể khám phá ra về nguồn gốc khối lượng của các quark và các hạt cơ bản khác.
Bảng các tính chất
Bảng sau tổng kết các tính chất quan trọng của sáu hạt quark. Số lượng tử hương (spin đồng vị (I3), số duyên (C), số lạ (S, không nên nhầm với spin), số đỉnh (T), và số đáy (B′)) được gán một giá trị xác định đối với mỗi hương của quark, và phân chúng theo các tính chất làm ba thế hệ. Số baryon (B) là + đối với mọi quark, do mọi baryon đều chứa ba quark. Đối với các phản quark, điện tích (Q) và mọi số lượng tử hương (B, I3, C, S, T, và B′) có dấu ngược lại. Khối lượng và mô men động lượng toàn phần (J; bằng với spin đối với các hạt điểm) không thay đổi dấu đối với các phản quark. Giá trị tuyệt đối số đo các thuộc tính giữa quark và phản quark tương ứng là như nhau.
J = mô men động lượng toàn phần, B = số baryon, Q = điện tích, I3 = spin đồng vị, C = số duyên, S = số lạ, T = số đỉnh, B′ = số đáy.* Chú ý viết như cho biết sai số trong phép đo.
Tương tác giữa các quark
Được miêu tả bởi sắc động lực học lượng tử, tương tác mạnh giữa các quark được truyền đi bởi các gluon, những hạt boson gauge vector phi khối lượng. Mỗi gluon mang một màu tích và một phản màu tích. Trong mô hình chuẩn của tương tác giữa các hạt (một phần của mô hình tổng quát hơn gọi là lý thuyết nhiễu loạn, các gluon liên tục được trao đổi giữa các quark với nhau thông qua một quá trình hấp thụ và phát ra các hạt ảo. Khi một gluon được truyền đi giữa các quark, màu tích cũng được thay đổi theo; ví dụ, nếu một quark đỏ phát ra một gluon đỏ-phản lục, thì quark này sẽ trở thành quark lục, và ngược lại nếu một quark lục hấp thụ một gluon đỏ-phản lục thì nó sẽ trở thành một quark đỏ. Do vậy, trong khi màu của quark liên tục bị thay đổi, tương tác mạnh giữa chúng luôn được bảo toàn.
Do các gluon mang màu tích, tự chúng có thể phát ra hoặc hấp thụ những gluon khác. Điều này là nguyên nhân của tính tự do tiệm cận: khi các quark càng lại gần với nhau hơn, lực liên kết sắc động lực học lượng tử giữa chúng trở nên yếu hơn.
Ngược lại, khi khoảng cách giữa các quark tăng lên, lực liên kết giữa chúng trở nên mạnh hơn. Trường màu bị nén mạnh, giống như sợi dây cao su có xu hướng co lại khi bị kéo giãn, và nhiều gluon với màu tích thích hợp được tạo ra một cách tự phát làm mạnh thêm trường màu. Vượt quá 1 mức năng lượng xác định, những cặp quark và phản quark được tạo ra. Những cặp này liên kết các quark bị tách biệt với nhau, làm cho những hadron mới được tạo ra. Hiệu ứng này được gọi là sự giam hãm màu: Các quark không bao giờ xuất hiện một cách cô lập. Quá trình hadron hóa này xuất hiện trước khi quark hình thành trong một va chạm năng lượng cao có thể tương tác được với các hạt khác theo một cách bất kì nào đó. Chỉ có quark đỉnh t là một ngoại lệ, nó có thể phân rã trước khi bị hadron hóa.
Biển quark
Các hadron, cùng với các quark hóa trị () đóng góp vào các số lượng tử của chúng, chứa các cặp hạt quark ảo-phản quark ảo () gọi là biển quark (). Biển quark hình thành khi một gluon của trường màu hadron tách ra; quá trình này cũng xảy ra ngược lại trong sự hủy của hai biển quark để tạo ra một gluon. Kết quả là một dòng không đổi các gluon tách ra và tạo thành cái thường gọi là "biển quark". Biển quark ít ổn định hơn các quark hóa trị, và chúng thường hủy lẫn nhau bên trong các hadron. Mặc dù vậy, biển quark có thể hadron hóa thành các hạt baryon hoặc meson trong những điều kiện xác định.
Các pha khác của vật chất quark
Dưới những điều kiện cần thiết nhất định, các quark có thể thoát khỏi trạng thái bị giam hãm và tồn tại như là các hạt tự do. Theo nguyên lý tự do tiệm cận, tương tác mạnh trở nên yếu hơn tại những nhiệt độ cao hơn. Thậm chí, sự giam hãm màu có thể biến mất và dẫn đến sự hình thành một dạng plasma cực nóng của các hạt quark và gluon chuyển động tự do. Pha của vật chất này được gọi là plasma quark-gluon. Những điều kiện chính xác cần thiết để làm xuất hiện trạng thái này chưa được biết tới và đã trở thành chủ đề của nhiều suy đoán và thực nghiệm. Những ước lượng gần đây đặt ra giới hạn nhiệt độ cần thiết là 1,90±0,02×10¹² (gần hai nghìn tỉ) kelvin.
Trong khi một trạng thái mà toàn bộ các quark và gluon tự do chưa từng được tạo ra (mặc dù rất nhiều cố gắng đã được thực hiện ở CERN trong các thập niên 1980 và 1990), những thí nghiệm gần đây tại Máy Va chạm Ion Nặng Tương đối tính (RHIC) đã chỉ ra chứng cớ cho vật chất quark dạng lỏng biểu hiện chuyển động chảy "gần như lý tưởng".
Plasma quark-gluon có thể được miêu tả bởi sự tăng số lượng lớn các cặp quark nặng hơn trong quan hệ với số các cặp quark lên u và quark xuống d. Người ta tin rằng trong giai đoạn 10−6 giây sau Vụ Nổ Lớn (kỉ nguyên quark), vũ trụ tràn ngập bởi plasma quark-gluon, do lúc này nhiệt độ quá cao để cho các hadron có thể ổn định được.
Với mật độ baryon đủ cao và nhiệt độ tương đối thấp - phù hợp với các điều kiện được tìm thấy trong các sao neutron – vật chất quark được mong đợi là chúng sẽ suy biến thành dạng chất lỏng Fermi của tương tác yếu giữa các quark. Chất lỏng này có thể được miêu tả bởi một sự ngưng tụ của các cặp Cooper quark màu, theo đó là sự phá vỡ đối xứng cục bộ SU(3)c. Do các cặp Cooper quark mang màu tích, những pha của vật chất quark sẽ trở thành siêu dẫn màu; nghĩa là màu tích có thể vượt qua mà không bị cản trở. |
Thuyết sắc động lực học lượng tử (Quantum chromodynamics hay QCD) là lý thuyết miêu tả một trong những lực cơ bản của vũ trụ, đó là tương tác mạnh. Nó miêu tả các tương tác của các quark và các gluon và là một dạng của thuyết trường lượng tử phát triển dựa trên nền tảng toán học của lý thuyết nhóm, là non-abelian và ý tưởng đối xứng và biến đổi trên cả địa phương và toàn cầu của thuyết gauge. QCD có vai trò quan trọng trong Mô hình chuẩn của vật lý hạt. Một số lượng lớn các kết quả thành công từ các thí nghiệm của QCD đã được công bố trong những năm qua.
QCD có hai tính chất đặc biệt:
Tự do tiệm cận, điều này có nghĩa trong các phản ứng năng lượng rất cao, các quark và gluon tương tác rất yếu. Những tính chất dự đoán này đã được phát hiện từ thập niên 1970 nhờ David Politzer, Frank Wilczek và David Gross. Với công trình này, họ đã nhận giải thưởng Nobel vật lý năm 2004.
Chế ngự, điều này có nghĩa lực ở giữa các quark không hoàn toàn tiêu tan khi chúng tách ra xa. Do đó, sẽ phải cần đến một nguồn năng lượng vô hạn để có thể tách các quark ra xa, chúng được giới hạn mãi mãi trong các hadron như proton và neutron. Mặc dù chưa được chứng minh, những tính chế ngự đã được cộng đồng vật lý chấp nhận một cách rộng rãi bởi vì nó giải thích cho việc tại sao các quark không thể tồn tại ở dạng tự do, và đã được kiểm chứng một cách đơn giản bằng phương pháp mắt lưới của QCD.
Thuật ngữ
Nhà vật lý Murray Gell-Mann đã đặt ra từ quark theo nghĩa hiện tại của nó. Ban đầu nó xuất phát từ cụm từ "Three quarks for Muster Mark" tạm dịch là: "Ba hạt quark cho Muster Mark" trong Finnegans Wake của James Joyce. Vào ngày 27 tháng 6 năm 1978, Gell-Mann viết một bức thư riêng cho người biên tập Từ điển tiếng Anh Oxford, trong đó ông kể rằng ông đã bị ảnh hưởng bởi những lời của Joyce: "The allusion to three quarks seemed perfect" tạm dịch là: "Việc ám chỉ ba hạt quark có vẻ hoàn hảo" (Ban đầu, chỉ có ba hạt quark được phát hiện.)
Ba loại tích trong QCD (trái ngược với một loại trong điện động lực học lượng tử hoặc QED) thường được gọi là "màu tích" bởi sự tương đồng lỏng lẻo với ba loại màu sắc (đỏ, lục và lam) mà con người cảm nhận được. Khác với danh pháp này, thông số lượng tử "màu sắc" hoàn toàn không liên quan đến hiện tượng màu sắc quen thuộc hàng ngày.
Lực giữa các quark được gọi là lực màu hoặc lực tương tác mạnh, và chịu trách nhiệm cho lực hạt nhân.
Vì lý thuyết điện tích được mệnh danh là "điện động lực học", từ tiếng Hy Lạp χρῶμα chroma "màu sắc" được áp dụng cho lý thuyết màu tích, "sắc động lực học".
Lịch sử
Lý thuyết
Các định nghĩa
Các nhóm đối xứng
Các luật chú ý
Các trường
QCD
Gaμv=dμGva-dvGμa-gfabcGμbGvc
trong đó:Gμva là tenxơ bất biến gluonic đo cường độ trường.
fabc:hằng số cấu trúc của SU
Các phương pháp
Nhiễu loạn QCD
Mắt lưới QCD
Khai triển 1/N
Mô hình khác
Thí nghiệm kiểm chứng |
Trong vật lý, giam hãm hay chế ngự (tiếng Anh: confinement) là một hiện tượng mà ở đó các quark không thể được cô lập. Các quark có điện tích màu bị chế ngự cùng với các quark khác bởi tương tác mạnh để hình thành các cặp đôi hoặc cặp ba làm cho tổng điện tích màu là trung hòa. Lực ở giữa các quark tăng lên mỗi khi chúng được tách ra xa, vì vậy không thể phát hiện ra được một quark đơn lẻ trong tự nhiên hay trong các thí nghiệm.
Việc các quark bị chế ngự vẫn chưa được chứng minh rõ ràng, chưa có một chứng minh toán học nào chỉ ra rằng các thuyết sắc động lực học lượng tử phải gắn liền với tính chế ngự, nhưng trực giác chỉ ra rằng tính chế ngự là do lực mang các gluon có điện tích màu. Giống như việc các hạt điện tích mỗi khi tách xa nhau, điện trường giữa chúng giảm xuống một cách nhanh chóng, cho phép các electron ra khỏi hạt nhân. Tuy nhiên, mỗi khi 2 hạt quark được tách ra, các trường gluon hình thành các ống nhỏ (hay các dây) của điện tích màu. Do vậy lực tạo bởi 2 hạt quark này trở nên lớn hơn mỗi khi chúng được tách ra xa. Do năng lượng lớn bằng lực nhân với khoảng cách, nên tổng năng lượng tăng một cách tuyến tính với khoảng cách.
Khi 2 quark được tách ra xa, như nó từng xảy ra ở các va chạm trong các máy gia tốc hạt, tại một số thời điểm năng lượng của nó lớn đủ để thuận lợi cho việc tạo ra các cặp quark/phản quark "hiện" ra từ chân không hơn là làm cho các quark này tách ra xa nhau. Hậu quả của sự kiện này là khi các quark được tạo ra trong mộ máy gia tốc, thay vì nhìn thấy các quark ở trạng thái đơn, các nhà vật lý lại phát hiện thấy rất nhiều các hạt mang điện tích màu trung hòa (meson và baryon), dính lại với nhau. Quá trình này được gọi là hadron hóa, là một trong những vấn đề mà các nhà vật lý hạt cảm thấy khó hiểu nhất.
Pha chế ngự thường được định nghĩa bởi sự hoạt động của vòng Wilson, là đường mà cặp quark-phản quark vạch ra trong không-thời gian, xuất hiện ở một điểm và tan biến ở một điểm khác. Trong lý thuyết không chế ngự, hoạt động của một vòng như vậy tỷ lệ thuận với chu vi của nó. Tuy nhiên, trong một thuyết chế ngự hoạt động của vòng này lại tỷ lệ thuận với diện tích của nó. Do diện tích luôn tỉ lệ thuận với quá trình tách rời của cặp quark-phản quark, các quark tự do đã bị trấn áp.
Bên cạnh mô hình QCD ở không gian 4 chiều, một mô hình có tính chế ngự khác là mô hình Schwinger.
Lý thuyết compact Abelian gauge lại miêu tả tính chế ngự này ở không-thời gian 2 và 3 chiều. |
Trong sinh học, lão hóa (tiếng Anh: senescence, xuất phát từ senex trong tiếng Latin có nghĩa là "người già", "tuổi già") là trạng thái hay quá trình tạo nên tuổi tác, già nua. Lão hóa tế bào là một hiện tượng khi các tế bào phân lập trở nên hạn chế khả năng phân chia trong môi trường nuôi cấy. Lão hóa cơ thể đề cập đến quá trình trưởng thành và già nua của sinh vật. Những quá trình này không liên quan đến cơ chế apoptosis (chết tế bào theo chương trình). Tuổi già của sinh vật thường kèm theo biểu hiện giảm khả năng chống chọi với stress, mất dần cân bằng nội môi và tăng nguy cơ mắc bệnh tật. Do đó, cái chết là một kết cục cuối cùng của lão hóa.
Một số nhà khoa học trong lĩnh vực sinh vật học cho rằng tuổi già bản thân nó là một loại bệnh và có thể cứu chữa được, mặc dù đây là một vấn đề đang tranh cãi. Người ta đã xác định một số yếu tố di truyền và môi trường tác động đến quá trình lão hóa ở các sinh vật mô hình, điều này đem lại hy vọng có thế làm chậm, giữ hoặc phục hồi lại sự lão hóa ở con người. Ví dụ, chế độ ăn kiêng (khoảng 30% nhu cầu thường nhật) đã kéo dài tuổi thọ của nấm men, sâu, ruồi, chuột và khỉ. Một vài gene cần thiết cho quá trình này đã được xác định và việc sửa đổi các gene này cũng đem lại tác dụng như ăn kiêng. Chất Resveratrol, một loại polyphenol có trong rượu vang đỏ cũng cho thấy khả năng kéo dài tuổi thọ của nấm men, sâu và ruồi. Khói thuốc lá là một yếu tố thúc đẩy sự lão hóa, những người hút thuốc thường già nhanh hơn những người không hút.
Giả thuyết về quá trình lão hóa
Nguyên nhân gây lão hóa được giải thích bằng nhiều thuyết khác nhau: thuyết di truyền, thuyết gốc tự do,... Ngoài ra, hiện tượng lão hóa có liên quan đến đột biến gen còn gây hội chứng già trước tuổi hay liên quan đến tuổi thọ con người. Quá trình lão hóa diễn ra ở mọi cơ quan trong cơ thể và gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Tuy nhiên nếu thực hiện tích cực một số biện pháp, chúng ta có thể trì hoãn quá trình lão hóa. Tại các nước tiên tiến như Nhật Bản, các kiến thức về sự lão hóa được phổ biến rộng rãi cho người dân và các biện pháp này đã giúp cho tuổi thọ của người Nhật kéo dài đến 86 tuổi. Ở Hàn Quốc, các dược thảo chống lão hóa như nhân sâm, dinh dưỡng, thuốc bổ dưỡng, thể dục, các yếu tố gây ra lão hóa... được phổ cập cho người dân và đã giúp kéo dài tuổi thọ đến 78,5 tuổi. Các danh nhân Hy Lạp có các nhân tố di truyền tốt hầu hết đều có tuổi thọ rất cao, Pythagoras sống gần 80 tuổi, Sophocles thọ gần 90 tuổi. Triết gia nổi tiếng như Gorgias 107 tuổi, Democritus 90 tuổi, Platon 80 tuổi, Diogenes thành Sinope 89 tuổi, Cleanthes 99 tuổi. Ở Việt Nam, lão hóa là một trong những vấn đề đang rất được quan tâm, tuy nhiên tài liệu và thông tin về lão hóa còn rất giới hạn.
Thuyết di truyền
Thuyết di truyền có lẽ là thuyết khoa học nhất. Theo thuyết này thì con người có sẵn trong các tế bào của mình một chương trình – mang trong các "gen". Các gen hoạt động theo thứ tự, bất di bất dịch: sinh, lão, bệnh, tử. Các tế bào soma của người bình thường đều có một đời sống có giới hạn. Thông thường tế bào chết đi sau 40-60 chu kì sao chép. Thời gian sống của mỗi tế bào được quyết định về di truyền học bởi hai hệ thống độc lập với nhau.
1.Hệ thống kiểm soát đời sống tế bào nhờ quà trình làm hao mòn các telomere ở các đầu tận cùng nhiễm sắc thể:
Ở động vật có vú, các đầu tận nhiễm sắc thể được bảo vệ bằng các telomere (theo tiếng Hy Lạp, telo có nghĩa là cuối, còn mere là phần), tức là những cấu trúc đặc biệt được hình thành bởi các chuỗi TTAGGG lặp lại kế tiếp nhau. Ở người các chuỗi lặp lại của telomere có từ 5000 đến 15000 base. Telomere có nhiệm vụ bảo đảm sự bền vững của nhiễm sắc thể, chống lại thoái hóa có hại, chống lại sự tái tổ hợp sai lạc và có vai trò điều hòa gen.
Mỗi lần phân chia, các nhiễm sắc thể đều mất một số lượng nhỏ DNA của telomere, khoảng chừng 50-100 base. Khi các telomere trở nên quá ngắn thì các nhiễm sắc thể sẽ kém bền vững, chúng không thể bám vào được màng nhân tế bào, bị dính vào nhau và có hình dạng kì dị. Hậu quả là các tế bào không thể phân chia được nữa. Các nhà nghiên cứu đang bắt đầu đánh giá kích thước của telomere như một " thước đo" chuẩn xác tuổi thọ của các tế bào. Tuy nhiên enzym telomerase hoạt động ở tế bào mầm và tế bào ung thư, giúp cho tế bào phân chia liên tục bằng cách kéo dài các chuỗi DNA của telomere, khiến cho tế bào trở nên "bất tử".
Cấu tạo của telomerase: telomerase của người gồm 2 tiểu đơn vị là hTR và hTERT. hTR (human template for replication) là RNA làm khuôn để sao chép, hTERT (human telomerase reverse trancriptase) là protein xúc tác sự polymer hóa nucleotid. Thành phần RNA của telomerase người có chừng 445 nucleotid, trong đó các nucleotid 46-56 là vị trí gắn vào đầu cùng của telomere, và đó là khuôn để từ đó thêm vào các DNA của telomere. Trong việc kéo dài telomere, đầu tiên telomerase sẽ nhận dạng đầu cùng của telomere thông qua các hoạt động giữa telomere và cả hai tiểu đơn vị hTR và hTERT của telomerase, nhận dạng xong thì thêm chuỗi sáu base TTAGGG của telomere, như vậy là kéo dài thêm một telomere và cứ thế tiếp tục.
2.Hệ thống kiểm soát sự tiến triển chu kì tế bào thông qua các gen p53, DNA- PK và INK4:
Gen DNA- PK sửa chữa những gen bị tổn thương. Trong khi gen p53 không cho các gen bị tổn thương tự nhân lên. Khi có một biến cố lớn trong tế bào, protein p53 còn gọi là "vệ sĩ của bộ gene" sẽ phát đi một hiệu lệnh để tế bào này tự hủy. Các nhà khoa học cũng cho biết rằng các yếu tố lối sống ảnh hưởng đến cơ chế hoạt động bình thường của gen p53. Việc tránh các chất độc hại tác động đến p53 là một bước đi quan trọng tiến tới một lối sống lành mạnh hơn.
Protein p16INK4a là sản phẩm chính từ sự mã hóa của gen INK4, còn được gọi là protein ức chế ung thư p16INK4a. Protein này có vai trò trong sự điều hòa chu trình tế bào khi ở dạng liên kết và làm bất hoạt các dạng CDK vòng khác nhau. Sự biểu hiện p16INK4a sẽ gia tăng theo tuổi tác và quá trình biểu hiện này thì liên quan đến quá trình già hoá của tế bào và được thừa nhận là chi phối tới quá trình lão hóa. Khi càng lớn tuổi thì nồng độ p16INK4a sẽ càng cao. Kết quả nghiên cứu từ các tế bào có các nguồn gốc khác nhau như tủy xương, tuyến nội tiết ở tụy. Cũng như não cho thấy là p16INK4a đã chi phối quá trình lão hóa bằng cách giới hạn sự tự làm mới của các tế bào có khả năng nhân đôi.
Thuyết gốc tự do
Các phản ứng sinh hóa bên trong tế bào "phóng" ra các gốc tự do (radical libre, free radical). Thực chất một gốc tự do là một nguyên tử oxy "không ổn định", sẵn sàng bám vào các phân tử quanh nó (để trở thành ổn định), Thuyết này phát xuất từ ý kiến của BS. Denham Harman (Trường Đại học Nebraska) đưa ra hồi 1950: các gốc tự do là nguyên nhân chính gây xáo trộn hoạt động của các ty lạp thể (mitochondries), bám vào các DNA. Nguyên liệu chính của các mật mã di truyền, gây đột biến bên trong các tế bào….Nói một cách khác là các gốc tự do là nguyên nhân của sự tự hủy hoại, của sự lão hóa ở cấp tế bào.
Gốc tự do là những tiểu phân hóa học (phân tử, nguyên tử, ion) có một nguyên tử đơn độc ở lớp ngoài cùng. Với áp lực mạnh của điện tử đơn độc, gốc tự do có khả năng tương tác với tất cả các phân tử của những tế bào bên cạnh nó, phá vỡ hoàn toàn màng tế bào, làm hư hại gen di truyền hoặc hủy hoại toàn bộ tế bào. Nó làm tế bào già đi và gây ra các bệnh lý tim mạch, viêm khớp, bệnh dạ dày- ruột, đục thủy tinh thể,thoái hóa võng mạc, bệnh phổi, tiểu đường, ung thư, sa sút trí tuệ, parkinson, suy giảm hệ thống miễn dịch…
Gốc tự do sinh ra do chính hoạt động sống của mỗi tế bào và do tác động của môi trường sống (tia phóng xạ, các bức xạ có năng lượng cao, tia tử ngoại, bụi, các chất độc). Thông thường, chúng được sinh ra với lượng rất nhỏ và bị phá hủy ngay bởi các hệ thống chống gốc tự do của cơ thể. Nhưng khi hệ thống bảo vệ này bị quá tải hay rối loạn (do môi trường ô nhiễm, tân lý căng thẳng, tuổi tác…), quá trình lão hóa và các bệnh lý sẽ tiến triển rất nhanh.
Gốc tự do và hiện tượng nhăn da: Các phân tử của chất tạo keo collagen (vốn đứng riêng rẽ với nhau) bị các gốc tự do dán vào nhau, gây nên những "liên kết chéo" (cross- linkage): cấu trúc căn bản của collagen bị xáo trộn. Các tế bào của mô liên kết chịu trách nhiệm bài tiết và trùng tu collagen cũng bị hư hại… nên da mất dần tình đàn hồi. Các vết nhăn xuất hiện. Biết rằng mô liên kết là cái nền chung cho hết thảy các loại mô trong cơ thể thì ta hiểu vai trò của các gốc tự do trong sự lão hóa của cơ thể. Nhưng mâu thuẫn thay, gốc tự do rất cần thiết cho đời sống, nhờ có gốc tự do mà các bạch cầu bám vào được các vi khuẩn và siêu vi để tiêu diệt chúng! Nhưng tế bào cũng sản xuất ra các chất kháng oxy (anti- oxydants) và sự sống bên trong tế bào được thể hiện bởi sự xuất hiện liên tục của hai chất – gốc tự do và kháng oxy - trong khoảnh khắc ngắn ngủi (1/1000 giây đồng hồ)!
Thuyết kích tố
Thuyết này dựa vào nhận xét rằng mọi giai đoạn của đời sống đều do kích tố điều hành. Lúc nhỏ có kích tố tăng trưởng. Từ tuổi dậy thì có các kích tố nam, nữ. Khi sự bài tiết các kích tố yếu đi thì cơ thể già dần. Còn nhiều loại kích tố khác cũng ảnh hưởng tới sự lão hóa, ví dụ như DHEA và Melatonin. Đáng chú ý nhất là hormone tăng trưởng hGH.
Hormone tăng trưởng được sản xuất ở tuyến yên. Các nhà khoa học đã khám phá một yếu tố quan trọng liên quan mật thiết với tuổi già, đó là sự thiếu hụt hormone tăng trưởng hGH. Việc tìm ra các chất kích thích cơ thể sản xuất hGH đã tạo niềm hy vọng về chuyện đảo ngược quá trình lão hóa. hGH được phóng thích bởi tuyến yên từ lúc mới sinh cho đến khi cao tuổi. Sau khi vào máu, nó nhanh chóng đến gan để được chuyển thành chất DGF-1, DGF-2. Đây là những phân tử truyền tin và được xem là "yếu tố tăng trưởng", kích thích sự phát triển các phần khác nhau của cơ thể.
Phân tử hGH là một chất đạm (protein) được tạo bởi một chuỗi 190 amino acid và có phân tử lượng là 22 kilo daltons5 (khoảng 120 lần phân tử lượng của thuốc Aspirin). Giống như các hormone khác, lượng hGH phóng thích vào hệ tuần hoàn sẽ đạt tối đa lúc 20 tuổi và sau đó giảm dần. Đến tuổi 60 thì lượng hGH chỉ bằng khoảng 15-20% so với lúc trẻ. hGH giúp tăng chiều dài xương đến tuổi 20 (vì vậy qua tuổi này chúng ta không thể cao hơn); một số người cao to bất thường là do tình trạng cường hGH làm cơ thể phát triển quá mức.
Nó cũng làm tăng tổng hợp protein trong tế bào, giúp cho cơ rắn chắc, phục hồi sự hư hỏng của da và tim, chống lại sự thoái hóa của tế bào, từ đó ngăn chặn được sự lão hóa. hGH được phóng thích từ tuyến yên vào máu trong khi ngủ. Khi trẻ đang tuổi lớn, hGH sẽ giúp các chất dinh dưỡng hấp thu và chuyển tới xương, cơ, các mô khác mà không tích tụ thành mở (còn ở người cao tuổi thì hay tích tụ thành mỡ). Hormon này kích thích sự tổng hợp collagen – một chất có tính đàn hồi giúp tạo sự khỏe mạnh, dẻo dai cho sụn, gân, dây chằng và xương. Khi tuổi cao, việc giảm collagen dẫn đến nhăn da, yếu cơ xương khớp…
Việc tổng hợp hGH rất khó khăn và tốn kém. Trước đây, người ta chỉ sản xuất hGH để điều trị những vấn đề đặc biệt do thiếu hụt hGH. Vào giữa những năm 1980, công ty Genetech và Eli Lilly đã tổng hợp được hGH thông qua kỹ thuật DNA. Năm 1989, các nhà khoa học ở bệnh viện St.Thomas (London,Anh) do bác sĩ Franco Salomon chủ trì đã tiêm hGH cho 24 người trưởng thành bị cắt tuyến yên do khối u trong 6 tháng. Kết quả là họ tăng trọng lượng nhưng lượng mỡ và cholesterol trong máu giảm. Salomon và cộng sự tiếp tục nghiên cứu để tìm hiểu xem tại sao hGH lại có tác dụng trên những người trưởng thành, bởi từ trước tới nay người ta cho rằng hGH không có tác dụng gì đối với đối tượng này nên mới bị giảm đi. Douglas Crist, một chuyên gia ở Đại học Y khoa New Mexico đã tiêm hGH cho 8 vận động viên điền kinh (5 nam, 3 nữ tuổi 22-23) ba lần một tuần trong 6 tuần. Kết quả thể hình phát triển rất tốt, khối lượng cơ bắp tăng thêm nhưng lượng mỡ giảm, chỉ số cơ/mỡ đạt mức lý tưởng.
Đối với người lớn tuổi, việc bổ sung hGH cho kết quả rất tốt. Tiến sĩ lão khoa Julian Whitaker thuộc viện Wellness ở California cho rằng những khám phá về hGH thực sự là một cuộc cách mạng. Nghiên cứu của bác sĩ Beng Ale Bengtsson ở Thụy Sĩ cũng cho kết quả tương tự về tác dụng của hGH trên người già. Khó khăn lớn nhất là sản phẩm tổng hợp hGH còn quá đắt tiền, chỉ mới có thể dùng trong nghiên cứu. Vì vậy, các nhà khoa học đã nỗ lực tìm kiếm nhằm đưa ra các sản phẩm có thể áp dụng một cách rộng rãi, và người ta đã tìm ra được hai chất: Alpha-GPC và Somabol. Alpha-GPC là một chất chiết xuất từ đậu nành, được chứng minh là có kích thích tuyến yên tiết ra hGH và cũng có thể ức chế vùng dưới đồi trong việc tiết somatostatin (chất ngăn cản việc sản xuất hGH). Somabol là toàn bộ nhóm yếu tố tăng trưởng như EGF, FGF, TGF, được chiết xuất từ lòng đỏ trứng hữu cơ. Như đã nêu trên, khi hGH được phóng thích vào máu, chúng sẽ đến gan và được chuyển hóa thành các yếu tố tăng trưởng và chính các yếu tố này mới có hoạt tính sinh học của hormone tăng trưởng.
Thuyết miễn dịch
Cơ thể sinh ra đã được trang bị một hệ thống phòng thủ chống sự xâm nhập của các vật lạ. Đó là sự miễn dịch. Miễn dịch bảo vệ cơ thể bằng nhiều cách. Có thể là các bạch cầu trực tiếp tấn công, vô hiệu hóa vi trùng, nấm bệnh. Có thể là các bạch cầu đặc biệt tạo ra chất kháng thể, lưu thông trong máu và vô hiệu hóa tác nhân ngoại nhập. Lý thuyết này dựa vào hai nhận xét: thứ nhất là với tuổi già, cơ thể sản xuất ít kháng thể đồng thời phẩm chất cũng kém, thứ hai là với tuổi già, cơ thể đôi khi lại tạo ra kháng thể chống lại chính các phân tử cấu tạo cơ thể, đưa tới bệnh hoạn, suy yếu. Như trường hợp viêm khớp ở người cao tuổi. Một thí dụ nữa là khi bị bệnh cảm cúm thì sức chịu đựng của người cao tuổi kém người trẻ và lâu bình phục hơn.
Thuyết về sự lầm lẫn
Sự lầm lẫn có thể do: Sự hư hao, cơ thể với các chức năng hao mòn theo thời gian vì những va chạm, xâm lấn. Nếu không được tu bổ, chữa trị thì cơ thể sẽ bị tiêu hủy. Thuyết này được bác học người Đức August Weismann đưa ra năm 1882. Theo ông ta, sự chết xảy ra vì khi một mô hư hao không bao giờ tự nó tân trang được. Sự hư hao tả tơi còn làm xói mòn các diễn tiến sinh hóa bình thường trong cơ thể. Theo Dan Georgakas, cơ thể già vì thường xuyên bị tác hại bởi các áp lực từ bên ngoài như xúc động, va chạm thực chất, nhiễm độc ]]môi trường]].
Phản ứng tròng tréo: Chất tròng tréo thường thường là một hóa chất cột hai phân tử riêng rẽ với nhau. Sự tròng tréo (cross linkage) chất đạm làm tổn thương mô và tế bào, ngăn cản sự thu nhập chất dinh dưỡng, giảm bài tiết chất phế thải, đưa tới sự suy yếu cơ thể. Sự tròng tréo thường thấy ở các phân tử đạm trong chất tạo keo khiến cho da khô, nhăn, không đàn hồi. Thuyết này cũng liên hệ tới sự sử dụng chất đường. Khi đường vào máu, nó sẽ bám vào chất đạm, làm đạm chuyển sang màu vàng, không dùng được và thành nguy hiểm cho cơ thể.
Thuyết về sự tích lũy những sai lầm
Để tăng trưởng, cơ thể liên tục biến chế các phân tử đạm và DNA. Nhưng những phần tử này không phải lúc nào cũng được sản xuất hoàn hảo. Có nhiều tổn thương trong việc tổng hợp chất đạm, tạo ra chất đạm bất thường mà khi tích tụ với nhau sẽ gây hư hao cho tế bào, mô và các bộ phận. Theo thuyết này, khi ta về già thì cơ thể dễ phạm các lỗi lầm kể trên, đưa đến sự già.
Trong quá trình biến hóa của từng tế bào, có sự tích lũy các chất phế thải. Sự tích lũy này có thể xem như một phần của tiến trình lão hóa. Về phía các tế bào không có khả năng phân thân như tế bào cơ tim, thận và não, có một sự tích lũy dần dần của nhiều chất liệu mà các khoa học gia có thể nhận ra dưới kính hiển vi nhờ một phương pháp nhuộm màu đặc biệt. Một trong những chất đó là "lipofuscin", một chất mềm biểu hiện tình trạng "hao mòn tả tơi" của mô bào về già. Khoa học chưa tìm được nguồn gốc và ảnh hưởng của lipofuscin, mà chỉ biết rằng nó tích lũy trong não bộ người già và có thể loại khỏi cơ thể bằng vài dược phẩm. Người ta cũng đang nghiên cứu coi sự loại trừ này có lợi hoặc có hại cho cơ thể.
Trong tế bào và mô lành mạnh luôn luôn có một sự luân chuyển các thành phần hệ trọng như: diệu tố, kích thích tố, và hóa chất dẫn truyền tín hiệu thần kinh. Trong mỗi quá trình luân chuyển thường có khả năng xảy ra những sai lầm. Nếu những sai lầm đó tích lũy tới một mức độ cao thì tế bào hoặc mô trở thành bất khả dụng và có thể chết. Ví dụ nếu một hóa chất ở tế bào não bộ bị suy thoái thì dù cho những tế bào đó còn sống nhưng não bộ cũng mất chức năng điều khiển các bộ phận trong cơ thể. Nếu những tế bào khiếm khuyết sinh sôi nảy nở thì dù cho chúng không nằm trong những cơ quan điều khiển cơ thể, toàn bộ cơ thể cũng có thể bị hủy hoại dẫn đến tử vong, như trường hợp các bệnh ung thư.
Tích trữ những đột biến
Thuyết này liên quan tới các tế bào thân (somatic cells) là loại tế bào luôn luôn sinh sản và hủy diệt. Gen trong tế bào bị ảnh hưởng của các tác nhân nguy hại như tia phóng xạ, hóa chất độc, thay đổi cấu tạo, khiến tế bào hư hao, chức năng lệch lạc, cơ thể kém hoạt động. Sự đột biến có thể truyền sang thế hệ kế tiếp của tế bào.
Liên quan đến đột biến gen
Hội chứng già trước tuổi
Nhóm nghiên cứu phát hiện ra 18 trong số 20 bệnh nhân già trước tuổi đều bị đột biến ở gen lamin A, thuộc nhiễm sắc thể số một. Tại đó, trật tự của hai đơn vị DNA cơ bản là guanine và adenine bị đổi chỗ cho nhau. Tiến sĩ Maria Eriksson thuộc nhóm nghiên cứu nói: "Ban đầu, chúng tôi không thể tin được kết quả này, làm sao một đột biến nhỏ như thế lại dẫn đến hậu quả khủng khiếp nhường ấy". Bà cho biết lamin A, hay còn gọi là LMNA còn liên quan đến sáu căn bệnh khác.
Căn bệnh lão hóa ở trẻ em, hay còn gọi là hội chứng già trước tuổi Hutchingson-Gilford, lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1886. Bệnh nhân không phát hiện vào lúc mới sinh mà phải 18 tháng sau đó mới có các triệu chứng của tuổi già, như bị lão hóa, còi cọc, da nhăn nheo, mặt nhỏ, quai hàm to gần bằng đầu, xương trở nên giòn, bị hói vào lúc 4 tuổi, cơ quan nội tạng rệu rã và thường tử vong ở tuổi 13 vì những bệnh của người già như bệnh tim, đột quỵ. Chiều cao của trẻ không quá 1m và chỉ cân nặng khoảng 13-15 cân. Tuy nhiên, trẻ mắc căn bệnh này thường có trí thông minh trên mức bình thường. Ví dụ như trường hợp mắc bệnh của cậu bé John Tacket, 15 tuổi, bang Michigan, Mỹ. Cậu chỉ cao khoảng 1m. Tacket học lớp 9, rất giỏi môn toán và chơi trò pool chuyên nghiệp. Tuy nhiên, Tacket bị đau thắt ngực – một triệu chứng của bệnh tim chỉ xuất hiện ở người già vào khoảng 60-70 tuổi.
Trước đây, có giả thiết cho rằng bệnh này mang tính di truyền (đột biến trong tinh trùng của người cha truyền vào phôi của con). Tuy nhiên nghiên cứu mới đã cho thấy bệnh này mang tính tự phát. Trên thế giới, cứ khoảng 4-8 triệu trẻ em thì có một trường hợp bị lão hóa sớm. Chính vì thế việc nghiên cứu bệnh này rất khó vì số bệnh nhân trong một thời điểm là có hạn. Bên cạnh việc phát hiện ra tác nhân gây lão hóa ở trẻ, nghiên cứu này còn giúp các nhà khoa học hiểu rõ hơn về quá trình phát triển tuổi già bình thường. Trong thời gian tới, các nhà khoa học sẽ tập trung tìm ra loại thuốc có khả năng lặp lại trật tự của gen lamin A.
Đột biến gen tạo nên sự trường thọ
Các nhà khoa học đã tìm thấy một đột biến gen chung trên những người sống lâu trăm tuổi. Phát hiện này có thể là chìa khóa quan trọng để tìm ra cách thức tránh được sự lão hóa. Trong nghiên cứu trên 52 cụ già Ý, đều thọ hơn trăm tuổi, các nhà nghiên cứu tại Viện Công nghệ California ở Pasadena (Mỹ) nhận thấy: 17% trong số này có chứa đột biến C150T trong DNA ty thể (loại DNA nằm ngoài nhân tế bào). Trong khi đó, chỉ có 3,4% trong số 117 người dưới tuổi 99 là chứa đột biến trên, nghĩa là chỉ bằng một phần trăm.
Theo các nhà nghiên cứu, dường như đột biến C150T đã kích thích sự tái tạo của DNA ty thể, cho phép cơ thể thay thế những tế bào già nua một cách nhanh hơn. Để kiểm tra xem đột biến trên có phải là do di truyền hay không, các nhà khoa học đã nghiên cứu mẫu tế bào da của những người thí nghiệm được thu thập hai lần cách nhau 9-19 năm. Trên một số người, cả hai mẫu đều chứa đột biến, trong khi những người khác đột biến xuất hiện sau. Điều đó chứng tỏ, đột biến này có thể di truyền, cũng có thể phát sinh trong quá trình sống.
Những giả thuyết tiến hóa
Sự lão hóa xảy ra rất khác nhau giữa các loài và cả trong cùng một loài. Nhìn theo góc độ tiến hóa thì loài nào càng ít thiên địch càng sống lâu. Lý do là sự đóng góp của từng cá thể vào sự tiến hóa của loài chỉ quan trọng cho đến khi cá thể đó hoàn tất quá trình sinh sản, truyền lại vốn di truyền cho thế hệ kế tiếp. Tất cả các đột biến gây chết trước khi một cá thể có thể sinh sản đều bị chọn lọc tự nhiên loại bỏ nhanh chóng, nhưng các đột biến gây chết ở tuổi sau sinh sản thì không bị chọn lọc. Càng ít thiên địch, độ tuổi sinh sản càng được kéo dài, chọc lọc tự nhiên càng có cơ hội loại bỏ những đột biến gây bất lợi ở độ tuổi cao. Ví dụ, chuột và dơi rất giống nhau, cùng kích thước, nhưng dơi sống 30 năm, chuột sống chỉ 2-3 năm. Chim thường sống lâu, chim biển là sống lâu hơn cả.
Điều hòa gene
Lão hóa còn do điều hòa biểu hiện gene. Có một số gene được cho là có vai trò quan trọng trong quá trình lão hóa. Nghiên cứu ở nấm men (Saccharomyces cerevisiae, ruồi dấm (Drosophila melanogaster) và giun Caenorhabditis elegans cho thấy có ít nhất hai con đường lão hóa liên quan đến gene Sir2 và nhóm gene chống oxy hóa (như gene mã hóa cho superoxide dismutase ở nấm men).
Lão hóa tế bào
Lão hóa tế bào là hiện tượng tế bào không còn khả năng phân chia. Tuy nhiên, không phải ở tế bào nào cũng có hiện tượng lão hóa. Sinh vật đơn bào phân chia bằng trực phân, nguyên phân không có hiện tượng này. Ở một số loài như bọt biển, san hô và tôm hùm cũng không có lão hóa tế bào (tuy nhiên chúng có thiên địch và bệnh tật, nên vẫn chết, tôm hùm sẽ lớn mãi nếu không có gì "trở ngại", con lớn kỉ lục cũng cỡ 20 kg). Ở các sinh vật mà tế bào lão hóa, những tế bào này sẽ phân chia đến giai đoạn "hậu-nguyên phân" (post-mitosis), khi đó chúng mất khả năng phân chia. T
Vấn đề còn đang trong giai đoạn nghiên cứu. Tuy nhiên, quan niệm được chấp nhận rộng rãi là sự lão hóa của tế bào có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn sự phát triển của ung thư. Khi tế bào sinh dưỡng nguyên phân liên tục sẽ có sai sót trong quá trình sao chép DNA, sai sót này tích tụ qua nhiều lần nguyên phân sẽ có nguy cơ biến tế bào thành tế bào ung thư nếu nó không bị lão hóa, ngừng phân chia và cuối cùng là chết đi. Gần đây, telomere (đầu mút của nhiễm sắc thể) được cho là giữ vai trò trong việc giới hạn số lần phân chia của tế bào.
Tác dụng của hóa chất
Lão hóa có thể được gây ra do các tổn thương hóa học. Các đại phân tử sinh học như protein cấu trúc hay DNA có thể bị tổn thương do các tác nhân hóa học như oxy (còn gọi là oxy hóa), đường và căng thẳng gây ra sự lão hóa. Các tổn thương có thể có là phá vỡ mạch đa phân, tạo liên kết chéo giữa các polymer sinh học, hay gắn các gốc hóa học lạ vào phân tử sinh học. Được nói đến nhiều nhất là tác hại của các gốc tự do. |
Chả cá Lã Vọng là tên của món chả cá đặc sản Hà Nội. Đây là món chả làm từ cá (thường là cá lăng) thái miếng đem tẩm ướp, nướng trên than củi rồi rán lại trong chảo mỡ, do gia đình họ Đoàn tại số nhà 17 phố Chả Cá (trước đây là phố Hàng Sơn) trong khu phố cổ giữ bí quyết kinh doanh từ năm 1871 và đặt tên cho nó như trên.
Lịch sử
Vào những năm thời kỳ Pháp thuộc, ở số 17 Hàng Sơn có một gia đình họ Đoàn sinh sống, họ thường lấy nhà mình làm nơi cưu mang nghĩa quân Đề Thám. Chủ nhà hay làm một món chả cá rất ngon đãi khách, lâu dần thành quen, những vị khách ấy đã giúp gia đình mở một quán chuyên bán món ăn ấy khởi đầu từ năm 1871, vừa để nuôi sống gia đình, vừa làm nơi tụ họp. Lâu dần, hai tiếng 'Chả Cá' được gọi thành tên phố. Trong nhà hàng luôn bày một ông Lã Vọng - Khương Tử Nha ngồi bó gối câu cá - biểu tượng của người tài giỏi nhưng đang phải đợi thời. Vì thế khách ăn quen gọi là Chả cá Lã Vọng, ngày nay trở thành tên nhà hàng và cũng là của món ăn. Bí quyết làm chả cá chỉ truyền lại cho con cháu nhà họ Đoàn.
Thực hiện
Cá làm chả thường là cá lăng tươi. Đây là loại cá ít xương, ngọt thịt và thơm. Thịt cá được lọc theo kiểu lạng từ hai bên sườn, thái mỏng, ướp với nước cốt riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, mắm tôm theo một phương cách bí truyền đặc biệt ít nhất 2 giờ đồng hồ, rồi kẹp vào vỉ nướng chả có quết một lớp mỡ cho đỡ dính. Người nướng phải quạt lửa, lật giở đều tay sao cho hai mặt đều chín vàng như nhau. Chuẩn bị ăn, người ta mới mang những kẹp chả đã nướng trút vào chảo mỡ - đây là bí kíp gia truyền của loại chả cá này - trên bếp than hoa đặt giữa bàn ăn. Khi các miếng chả sôi trong mỡ lăn tăn, vàng thơm, rau thìa là và hành hoa cắt khúc được gia vào chảo đảo lẫn và nhanh chóng chia ra các bát ăn. Thường không dùng dầu ăn để rán cá vì nhiệt độ thấp hơn và cá kém thơm ngon hơn.
Thưởng thức
Chả phải ăn nóng. Khi ăn, gắp từng miếng cá ra bát, rưới nước mỡ đang sôi lên trên, ăn kèm bún, bánh đa nướng, lạc rang, thìa là, hành hoa, dọc hành chẻ nhỏ ngâm dấm, rau mùi, húng Láng và mắm tôm. Mắm tôm phải được pha chế bằng cách vắt chanh tươi, một ít nước mỡ, đường, rượu trắng và ớt, đánh sủi bọt lên rồi thêm chút tinh dầu cà cuống. Một số khách nước ngoài không ăn được mắm tôm thì thay bằng nước mắm, nhưng nước mắm ít nhiều khiến món chả cá bị giảm hương vị.
Có hai cách ăn phổ biến:
Cho cá đã nướng vào chảo mỡ, bỏ hành và rau thìa là vào. Khi rau chín tái thì gắp ra ăn với bún, rau thơm, đậu phộng rang và mắm tôm đã pha chế theo cách cho một ít bún vào bát, cho rau và một vài miếng chả cá lên trên, rắc ít lạc rang, rưới chút mắm tôm rồi trộn ăn. Khi ăn mùi mắm tôm quyện với vị ngọt của cá, mùi rau và vị bùi của lạc rang. Do có nhiều mỡ nên khi ăn phải kèm theo cuống hành tươi chẻ nhỏ ngâm qua dấm pha loãng.
Cho chả cá, hành và rau vào bát, rưới nước mỡ đang sôi và dùng ngay, có thể ăn kèm với bánh đa nướng. Cách ăn này làm vừa đủ ăn nếu không cá sẽ nguội, mất ngon.
Ngoài hai cách trên, một số người có thể cho cả bún vào chảo và đảo nhanh với cá, thìa là, hành hoa sau đó trút ra bát ăn. Ăn cách này rất nóng ngon nhưng hơi nhiều mỡ.
Món này có thể nhắm với rượu và hợp với tiết trời lạnh. Với trời nóng thì, để cho đỡ ngán, thực khách thường uống bia.
Bình luận đánh giá
Patricia Schultz đã đưa món Chả cá Lã Vọng vào cuốn "1.000 nơi nên biết trước khi chết" (1000 Places to See Before You Die).
Cuối năm 2003, hãng tin Mỹ MSNBC đã rút gọn lại và đặt nhà hàng Chả cá Lã Vọng Hà Nội ở vị trí thứ 5 trong 10 nơi nên biết trước khi chết cùng với 9 địa danh, lễ hội nổi tiếng khác trên thế giới.
Món này tương đối nhiều dầu mỡ động vật nên không tốt cho những người có vấn đề về tim mạch.
Hình ảnh |
Litva (phiên âm: Lít-va; ), tên chính thức là Cộng hòa Litva () là một quốc gia thuộc khu vực châu Âu theo thể chế cộng hòa. Theo sự phân chia của Liên Hợp Quốc, Litva được xếp vào nhóm Bắc Âu. Litva giáp với Latvia về phía bắc, giáp với Belarus về phía đông nam, giáp với Ba Lan và tỉnh Kaliningrad thuộc Liên bang Nga về phía tây nam và giáp với biển Baltic về phía tây. Địa hình của Litva khá bằng phẳng và thấp, không có điểm nào có độ cao vượt quá 300 mét. Khí hậu của nước này tương đối ôn hòa. Đất nước Litva có rất nhiều rừng cây, sông suối và một nguồn tài nguyên đất đai màu mỡ. Theo số liệu vào tháng 7 năm 2007, dân số Litva là 3.575.439 người, mật độ dân số là khoảng 55 người/km².
Litva là một quốc gia có lịch sử lâu đời tại châu Âu. Quốc gia này chính thức xuất hiện trong lịch sử từ năm 1009 và sau đó đã phát triển thành Đại Lãnh địa Litva hùng mạnh. Trong khoảng thời gian 1569–1795, Litva cùng với Ba Lan thành lập một quốc gia với tên gọi Liên bang Ba Lan – Litva. Khi liên bang tan rã, Litva trở thành một phần của Đế chế Nga cho đến năm 1918, khi nước này tuyên bố thành lập nền cộng hòa. Sau hiệp ước Xô-Đức (1939), Liên Xô đã thu hồi Tây Belarus và trả lại vùng đất Vilnius cho Litva, nhưng năm 1940 đến lượt Litva, cũng như Estonia sáp nhập vào Liên Xô, rồi Đức Quốc xã chiếm đóng năm 1941. Sau thế chiến thứ hai, Litva đã trở thành một phần của Liên Bang Xô-viết với tên gọi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Litva. Sau khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ vào năm 1991, Litva trở thành một quốc gia độc lập
Ngày nay Litva là một nước cộng hòa theo thể chế cộng hòa nghị viện, đứng đầu là tổng thống. Nước này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, NATO, Tổ chức Thương mại Thế giới. Vào ngày 1 tháng 5 năm 2004, Litva đã chính thức trở thành một thành viên của Liên minh châu Âu. Kinh tế Litva khá phát triển so với các nước Đông Âu lân cận. Thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất ở Litva là Vilnius.
Lịch sử
Thời kỳ tiền sử
Sau khi băng tan, con người đã xuất hiện tại vùng đất mà ngày nay là Litva vào khoảng thiên niên kỷ thứ 10 trước Công nguyên. Họ đến từ hai hướng khác nhau, một từ bán đảo Jutland và một từ đất nước Ba Lan ngày nay, mang theo hai nền văn hóa khác nhau thể hiện trên những công cụ mà họ sử dụng. Những người này chủ yếu sống bằng nghề săn bắn và không thành lập những khu dân cư cố định. Sang thiên niên kỷ thứ 8 trước Công nguyên, khí hậu trở nên ấm áp hơn khiến rừng cây phát triển, các nguồn thức ăn ngày càng trở nên dồi dào. Vào thiên niên kỉ thứ 6 và thứ 5 trước công nguyên, con người tại đây bắt đầu thuần hóa các loài vật nuôi. Nền nông nghiệp xuất hiện tương đối muộn tại Litva, vào khoảng thiên niên kỉ thứ 3 trước công nguyên do thiếu các công cụ canh tác hiệu quả. Các nghề thủ công và thương mại bắt đầu xuất hiện. Các dân tộc thuộc nhóm Ấn – Âu đã đến đây vào khoảng năm 2500 trước Công nguyên và đồng nhất thành các dân tộc Baltic khoảng 500 năm sau đó.
Người Litva là một nhánh của các dân tộc Baltic, bao gồm cả người Latvia và nhiều dân tộc khác nữa. Theo cuốn biên niên sử của tu viện thành phố Quedlinburg, đất nước Litva đã chính thức xuất hiện trong lịch sử vào ngày 14 tháng 2 năm 1009. Trong thế kỷ XI, Litva gồm nhiều vùng đất nhỏ phải triều cống cho Kievan Rus. Nhưng sang thế kỷ XII, người Litva đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh chinh phục và cướp bóc sang những vùng đất xung quanh, tiền đề để hình thành Đại Lãnh địa Litva sau này.
Đại Lãnh địa Litva
Trước sự đe dọa của ngoại bang, Mindaugas đã thống nhất các dân tộc Baltic lại và đánh thắng người Livonia trong trận Saule vào năm 1236. Ngày 6 tháng 6 năm 1253, ông đã lên ngôi vua của Litva và đất nước được tuyên bố với tên gọi Vương quốc Litva. Tuy nhiên, Mindaugas đã bị người cháu trai của ông là Treniota sát hại. Vương quốc Litva rơi vào khủng hoảng và đất nước này đã bị tàn phá nặng nề trong các cuộc xâm lăng của người Mông Cổ vào các năm 1241, 1259 và 1275.
Năm 1316, vua Gediminas đã tiến hành khai phá và xây dựng lại đất nước Litva. Dưới sự trị vì của Gediminas, đất nước Litva đã trở nên hùng mạnh và dám thách thức với cả người Mông Cổ, lúc đó đang kiểm soát nước Nga. Bằng những cuộc chiến tranh chinh phục, lãnh thổ Litva đã mở rộng hơn bao giờ hết, trải dài từ biển Baltic đến biển Đen và bao gồm nhiều phần của nước Belarus và Ukraina ngày nay. Vào cuối thế kỷ XIV, Litva trở thành quốc gia rộng lớn nhất châu Âu.
Cuộc hôn nhân giữa nữ hoàng Jadwiga của Ba Lan và đại công tước Jogaila của Litva vào năm 1377 đã thành lập một liên minh quyền lực giữa Ba Lan và Litva nhằm chống lại mối đe dọa đến từ nước Phổ và Đại Lãnh địa Moskva. Trước đó, đại công tước Jogaila đã cải đạo và biến Litva trở thành một quốc gia theo Cơ đốc giáo. Ngày 2 tháng 2 năm 1386, Jogaila chính thức trở thành vua của Ba Lan. Điều đó có nghĩa là Ba Lan và Litva đã trở thành một quốc gia duy nhất, thế nhưng Đại Lãnh địa Litva vẫn giữ nguyên vị thế riêng của mình. Thời kỳ này, nhiều thành phố của Litva chịu ảnh hưởng của hệ thống luật pháp của người Đức, trong đó có Vilnius, thủ đô của Đại Lãnh địa Litva.
Vào thế kỷ XVI, những du học sinh Litva khi trở về đất nước đã mang theo một cuộc cách mạng văn hóa, được biết đến như Thời kỳ Phục hưng của Litva. Kiến trúc Ý được giới thiệu tại nhiều thành phố của nước này, đồng thời với việc nền văn học Litva viết bằng tiếng Latin nở rộ. Ngôn ngữ viết của tiếng Litva cũng được sáng tạo trong thời gian đó.
Liên bang Ba Lan – Litva (1569–1795)
Với sự đồng thuận của Hiệp ước Lublin năm 1569, một quốc gia thống nhất giữa Ba Lan và Litva được thành lập với tên gọi Liên bang Ba Lan – Litva, hay còn được biết đến như nền Cộng hòa thứ nhất của Ba Lan hoặc Cộng hòa Liên bang của Hai Quốc gia. Sự hợp nhất giữa Vương quốc Ba Lan với Đại Lãnh địa Litva đã hình thành nên một quốc gia có diện tích rộng lớn ở châu Âu và có vị thế chính trị đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ chính thức thời kỳ này là tiếng Ba Lan và tiếng Latin ở Vương quốc Ba Lan cùng với tiếng Ruthenia và tiếng Litva ở Đại Lãnh địa Litva. Tuy nhiên, Litva đã phải trải qua một quá trình Ba Lan hóa trên mọi mặt đời sống. Tầng lớp quý tộc và thượng lưu ở những thành phố lớn như Vilnius và Grodna lại thường hay sử dụng tiếng Ba Lan. Và đến năm 1696, tiếng Ba Lan đã trở thành ngôn ngữ chính thức tại Litva.
Sang thế kỷ XVIII, liên bang bắt đầu suy sụp bởi những cuộc khủng hoảng chính trị và xung đột. Bản Hiến pháp Ngày 3 tháng 5 năm 1791 đã đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của Liên bang Ba Lan – Litva. Những sự phân chia Ba Lan vào các năm 1772, 1793 và 1795 đã chứng kiến việc Litva bị xâu xé giữa Nga và Phổ.
Thời kỳ thuộc Đế quốc Nga (1795–1914)
Sau sự phân chia lần thứ ba Ba Lan năm 1795, Đế quốc Nga đã kiểm soát phần lớn lãnh thổ của Litva, trong đó có thành phố Vilnius. Khoảng đầu thế kỷ XIX, nước Nga đã tỏ ra có thể chấp nhận sự tự trị của Litva nhưng điều này đã không thành hiện thực. Vào năm 1812, khi quân đội Pháp của Napoléon I tiến vào Litva, người Litva đã coi đó như những người mang hy vọng độc lập về cho Litva. Thế nhưng khi quân Pháp bị đánh bại bởi Nga, Sa hoàng Nikolai I đã ban hành hàng loạt đạo luật đồng hóa đối với Litva. Năm 1864, theo lệnh của Sa hoàng Aleksandr II, tiếng Litva và bảng chữ cái La Tinh chính thức bị cấm tại tất cả mọi trường học.
Tuy nhiên đến cuối thời kỳ này, tiếng Litva đã dần dần khôi phục sau một thời gian dài bị lãng quên. Thời điểm đó, tiếng Ba Lan và tiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong tầng lớp thượng lưu. Phong trào phục hưng ngôn ngữ dân tộc xuất hiện trước trong tầng lớp nghèo khổ, rồi sau đó là những người giàu có. Những tờ báo bằng tiếng Litva đã ra đời tại Aušra và Varpas. Tiếng Litva được khôi phục và phát triển là một điều kiện để dẫn tới phong trào độc lập dân tộc sau này.
Chiến tranh thế giới thứ nhất
Phong trào vận động dân tộc của Litva ngày càng phát triển mạnh mẽ trong Đế chế Nga đang suy tàn. Năm 1914, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Vào năm 1915, Litva bị quân đội Đức chiếm đóng. Sự sụp đổ của Đế chế Nga trong cuộc Cách mạng tháng Mười Nga đã dẫn tới việc Litva tuyên bố thành lập một nền cộng hòa độc lập ngày 16 tháng 2 năm 1918 khi vẫn còn bị Đức chiếm đóng. Tháng 11 năm 1918, quân Đức thất bại và Litva trở thành một quốc gia độc lập. Ban đầu, vua Mindaugas II được tuyên bố là vua của Vương quốc Litva nhưng sau đó chính quyền Litva đã tuyên bố thành lập một nước cộng hòa.
Litva giữa hai cuộc thế chiến (1918–1939)
Sau khi trở thành một nước cộng hòa độc lập vào năm 1918, Litva đã phải chiến đấu chống lại nhiều quốc gia lân cận để bảo vệ cho nền độc lập. Những người Bolshevik đã tấn công Litva từ phía đông tuy nhiên ngay sau đó chính phủ Litva ở thủ đô lâm thời Kaunas đã đẩy lùi quân đội Xô viết ra khỏi lãnh thổ. Tiếp đó, Litva lại có những xung đột về lãnh thổ với Ba Lan và Đức. Năm 1920, quân Ba Lan chính thức chiếm thành phố Vilnius của Litva.
Theo hiến pháp Litva, thành phố Vilnius là thủ đô của nước này mặc dù nó nằm trong lãnh thổ Ba Lan và cộng đồng người Litva tại thành phố này quá nhỏ bé, chỉ chiếm khoảng 3% dân số so với cộng đồng người Ba Lan và Do Thái đông đảo tại đây. Những xung đột về lãnh thổ giữa Litva với Ba Lan và Đức khiến tình hình nước này luôn bất ổn.
Chiến tranh thế giới thứ hai
Theo Hiệp ước Xô-Đức được ký kết tháng 8 năm 1939, Litva nằm trong khu vực ảnh hưởng của Liên Xô. Năm 1940, Liên Xô gửi tối hậu thư cho Litva yêu cầu trục xuất và bắt giam một số chính trị gia quan trọng của Litva, đồng thời đòi triển khai các đơn vị quân đội Xô viết ngay trên lãnh thổ nước này. Chính quyền Litva đã quyết định chấp nhận tối hậu thư, mặc dù tổng thống Antanas Smetona phản đối và rời khỏi Litva sau đó. Ngày 15 tháng 6 năm 1940, 150.000 Hồng quân Liên Xô đã tiến vào lãnh thổ Litva khi quân đội Litva được yêu cầu không phản ứng lại. Ngay sau đó, một cuộc bầu cử đã diễn ra để thành lập chính quyền dân chủ nhân dân ở Litva và kết nạp nước này vào Liên bang Xô viết.
Chính phủ hiện nay ở Litva, Mỹ Nghị viện châu Âu tuyên bố rằng ba nước Litva, Latvia và Estonia bị Liên Xô chiếm đóng trái phép. Ngược lại theo quan điểm của Nga, thì vào thời điểm đó, người dân và chính phủ hợp pháp của các nước Baltic đã tình nguyện gia nhập Liên Xô. Họ và người Nga đã có quan hệ lâu bền, cùng thuộc một đất nước là Đế quốc Nga kể từ thập niên 1720 trở đi (tức là cùng lúc với việc Scotland và Anh thống nhất để hình thành Vương quốc Anh). Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Ivanov đã tuyên bố: "Nói rằng Liên Xô đã chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic là vô lý và vô nghĩa. Người ta không thể chiếm một cái gì đó vốn thuộc về anh ta."
Franklin Roosevelt trong trao đổi với Joseph Stalin ngày 01/12/1943, cũng công nhận chủ quyền của Liên Xô ở vùng Baltic: "Tại Hoa Kỳ đang dấy lên nghi vấn về các nước cộng hòa Baltic thuộc Liên Xô, và tôi tin rằng công luận thế giới cho là các dân tộc của các nước cộng hòa này có một tương lai bấp bênh. Vì vậy, tôi hy vọng rằng Nguyên soái Stalin sẽ đi vào xem xét yêu cầu này. Cá nhân tôi không có nghi ngờ rằng người dân ở các nước này sẽ bỏ phiếu để gia nhập Liên Xô cũng như cùng nhau như họ đã làm vậy trong những năm 1940... Thực tế là dư luận không biết rõ lịch sử."
Cuối năm 1989, hai năm trước sự sụp đổ của Liên Xô, Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô đã chính thức lên án nội dung trong Hiệp ước Molotov-Ribbentrop về việc sáp nhập các nước vùng Baltic (Estonia, Latvia, Litva) là bất hợp pháp,. còn chính phủ Nga hiện nay thì phủ nhận hành động của Liên Xô là chiếm đóng
Mặc dù Hoa Kỳ và Vương quốc Anh là các nước đồng minh của Liên Xô chống phát xít Đức trong Thế chiến II công nhận chủ quyền tại ba nước Baltic của Liên Xô tại Hội nghị Yalta năm 1945 nhưng đến thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chính quyền của các nước phương Tây lại không công nhận việc này
Ngày 22 tháng 6 năm 1941, phát xít Đức xâm lược Liên Xô, tạo cơ hội cho Litva có một thời gian độc lập ngắn ngủi. Mặt trận Chính trị Litva (Lietuvos aktyvistų frontas) đã cố gắng thương lượng với phát xít Đức cho phép Litva được độc lập nhưng yêu cầu đó không được chấp nhận. Khi Đức tấn công Litva, chính phủ nước này đã nhanh chóng bị hạ bệ. Đến thời điểm ấy, người Litva mới nhận ra rằng, người Đức không hề muốn Litva được độc lập. Những khu trại tập trung để tàn sát người Do Thái được dựng lên ở rất nhiều nơi, lại có thêm sự tiếp tay của một số người Litva. Trước đó, Litva là một trong những cộng đồng người Do Thái hưng thịnh nhất tại châu Âu. Sau khi chiến tranh kết thúc, chỉ 9% người Do Thái tại Litva còn sống sót.
Năm 1945, Hồng quân Liên Xô chiếm lại Litva khỏi phát xít Đức. Litva lại trở thành một nước cộng hòa xô viết với sự đồng thuận của Mỹ và Anh.
Thời kỳ thuộc Liên bang Xô viết (1945–1990)
Trong thời kỳ này, nhiều người Litva đã cộng tác với Đức Quốc xã bị đi đầy sang Siberia và các vùng hẻo lánh khác của Liên Xô. Để đáp lại, hàng chục nghìn người Litva đã tham gia một tổ chức vũ trang du kích với tên gọi miško broliai để chống lại. Nhưng cuối cùng họ đã thất bại vào năm 1965.
Cho đến giữa năm 1988, mọi mặt chính trị, kinh tế và văn hóa của Litva đều nằm trong sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Litva. Dưới sự lãnh đạo của những người trí thức, Phong trào Vận động Cải cách đã thành lập nhằm đòi các quyền tự do dân chủ cho Litva, tiến hành hợp pháp hóa chế độ đa đảng và tái sử dụng quốc kỳ và quốc ca riêng của dân tộc. Một bộ phận lớn thành viên của Đảng Cộng sản Litva cùng đồng tình với những cải cách này. Ngày 23 tháng 8 năm 1989, nhân kỉ niệm 50 năm Hiệp ước Xô-Đức, hai triệu người Estonia, Latvia và Litva đã nối thành một dải người từ Tallinn đến Vilnius, thể hiện tình đoàn kết của ba nước Baltic cùng chung nguyện vọng tách khỏi Liên Xô.
Litva độc lập (từ năm 1991 đến nay)
Ngày 11 tháng 3 năm 1990, nước Cộng hòa Litva tuyên bố độc lập, tách khỏi Liên bang Xô viết. Ngày 15 tháng 3 năm 1990, Liên Xô bắt đầu ban hành cấm vận và tiến hành những hoạt động quân sự chống lại Litva. Quân đội Xô viết đánh chiếm các tòa nhà công cộng và đưa xe tăng vào thủ đô Vilnius, sau đó lập nên Ủy ban Bảo vệ Quốc gia nhằm trấn áp ý định ly khai tại nước này. Vào ngày 13 tháng 1 năm 1991, quân đội Xô viết tấn công tháp truyền hình Vilnius, làm chết 14 dân thường và làm bị thương 700 người. Những hoạt động quân sự của Liên Xô đã bị dư luận quốc tế chỉ trích mạnh mẽ. Trong khi đó, chính phủ của Litva vẫn hoạt động. Trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 9 tháng 2 năm 1991, đại đa số người dân Litva đã bỏ phiếu tách khỏi Liên Xô, thành lập một nước Litva độc lập và dân chủ. Litva đã nhanh chóng được các nước phương Tây công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao, đầu tiên là Iceland. Cuối cùng, Litva chính thức được công nhận là một quốc gia độc lập vào ngày 6 tháng 9 năm 1991. Ngày này trở thành ngày quốc khánh của Litva. Đến năm 1993, quân đội Nga đã chính thức rút hết khỏi Litva.
Ngày 17 tháng 9 năm 1991, Litva trở thành một thành viên của Liên Hợp Quốc. Tiếp đến ngày 31 tháng 5 năm 2001, Litva chính thức trở thành thành viên thứ 151 của Tổ chức Thương mại Thế giới – WTO. Và đến ngày 1 tháng 5 năm 2004, cùng với 9 quốc gia Đông và Nam Âu khác, Litva trở thành một thành viên của Liên minh châu Âu (EU). Litva còn là một thành viên của NATO và có quan hệ chính trị gần gũi với các nước phương Tây.
Năm 2015, Văn phòng Tổng Công tố của Nga đang thẩm xét lại tính hợp pháp của việc Hội đồng Nhà nước Liên bang Xô viết trao nền độc lập cho ba nước Litva, Latvia và Estonia vào năm 1991. Đơn kiến nghị của hai nhà lập pháp thuộc đảng Nước Nga Thống nhất của Putin gửi tới các công tố viên cho rằng việc trao nền độc lập cho Litva, Latvia và Estonia là bất hợp pháp. Tổng thống Litva Dalia Grybauskaitė nói "nền độc lập của chúng tôi giành được bằng máu và sự hy sinh của người dân Litva. Không ai có quyền đe dọa. Chỉ có chúng tôi mới quyết định số phận của mình."
"Đề xuất kiểu này của những đại biểu Duma Quốc gia là hoàn toàn không thể chấp nhận được và phi lý," hãng thông tấn LETA của Latvia dẫn lời phát ngôn viên Bộ Ngoại giao nước này nói.
Latvia, Litva và Estonia có sắc dân thiểu số nói tiếng Nga và đã hoang mang vì tuyên bố của Putin cho rằng Moscow có quyền can thiệp quân sự nếu cần thiết để bảo vệ người nói tiếng Nga ở nước ngoài.
Chính trị
Thể chế chính trị
Kể từ khi tuyên bố khôi phục độc lập vào ngày 11 tháng 3 năm 1990, nước này đã duy trì truyền thống dân chủ mạnh mẽ. Litva đã tổ chức cuộc tổng tuyển cử độc lập đầu tiên vào ngày 25 tháng 10 năm 1992, trong đó 56,75% cử tri ủng hộ hiến pháp mới. Có những cuộc tranh luận mãnh liệt liên quan đến hiến pháp, đặc biệt là vai trò của tổng thống. Một cuộc trưng cầu dân ý đã được tổ chức vào ngày 23 tháng 5 năm 1992 để đánh giá ý kiến công chúng về vấn đề này, và 41% số cử tri ủng hộ việc khôi phục chức Tổng thống. một hệ thống bán tổng thống chế đã được thống nhất.
Tổng thống
Người đứng đầu nhà nước là Tổng thống. Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu nhiệm kỳ 5 năm (không tại chức quá hai nhiệm kỳ liên tục). Tổng thống quyết định những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại và cùng với Chính phủ, thực hiện chính sách đối ngoại. Về đối nội, Tổng thống thực hiện chức năng Tổng tư lệnh trưởng lực lượng vũ trang, đứng đầu Hội đồng Quốc phòng Nhà nước; có quyền đưa ra sáng kiến lập pháp tại Quốc hội và cũng có quyền phủ quyết các luật được thông qua bởi Quốc hội. Tổng thống đề cử Thủ tướng thành lập Chính phủ với sự đồng ý của Quốc hội và phê chuẩn thành phần Chính phủ. Tổng thống có thể giải tán Quốc hội quy định của Hiến pháp.
Quốc hội (Seimas)
Cơ quan lập pháp của Litva là Quốc hội đơn viện với 141 đại biểu, trong đó trong đó 70 đại biểu được bầu theo danh sách tranh cử của các đảng, 71 đại biểu được bầu theo cơ chế mỗi khu vực bầu một đại biểu với nhiệm kỳ bốn năm. Quốc hội nhiệm kỳ 2008-2012 được bầu ngày 12 tháng 10 năm 2008. Kết quả bầu cử: có 7 đảng và Liên minh vượt qua được ngưỡng 5% để có ghế trong Quốc hội và không đảng nào giành được số ghế đa số tuyệt đối.
Chủ tịch Quốc hội do Quốc hội bầu với nhiệm kỳ 4 năm.
Chính phủ
Là cơ quan quyền lực hành pháp cao nhất. Chính phủ bao gồm Thủ tướng Chính phủ và các Bộ trưởng và do Tổng thống đề cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm với sự chấp thuận của Quốc hội. Chính phủ điều hành các công việc của đất nước, bảo vệ sự bất khả xâm phạm lãnh thổ và đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự công cộng; thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, cũng như các nghị định của Tổng thống; điều hành hoạt động của các Bộ, cơ quan chính phủ khác; chuẩn bị dự thảo ngân sách của Nhà nước và trình Quốc hội; thực hiện ngân sách nhà nước và báo cáo về việc thực hiện ngân sách cho Quốc hội; dự thảo dự án luật và trình Quốc hội xem xét; thiết lập ngoại giao quan hệ và duy trì quan hệ với nước ngoài và các tổ chức quốc tế; và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Chính phủ bao gồm 13 Bộ do Thủ tướng đứng đầu.
Thủ tướng
Do Tổng thống đề cử, thành lập Chính phủ (với sự đồng ý của Quốc hội) và phê chuẩn thành phần Chính phủ. Thủ tướng đương nhiệm là ông Saulius Skvernelis, là chính trị gia độc lập được 2 đảng Nông dân Xanh và Đảng Xã hội Dân chủ Litva đề cử, nhậm chức vào ngày 13 tháng 12 năm 2016.
Địa lý
Lãnh thổ
Litva được xếp vào nhóm Bắc Âu theo sự phân chia của Liên Hợp Quốc. Tuy nhiên đôi khi Litva cũng được coi là một quốc gia ở Đông Âu. Litva là một quốc gia có diện tích tương đối nhỏ, khoảng 65.200 km². Litva chia sẻ chung đường biên giới các quốc gia là Belarus (502 km), Latvia (453 km), Ba Lan (91 km), tỉnh Kaliningrad thuộc Nga (227 km). Đường bờ biển giáp với biển Baltic của Litva dài 99 km. Điểm thấp nhất ở Litva là mép nước tiếp giáp với biển Baltic (0 m), còn điểm cao nhất là đồi Aukštojas, cao 294 m.
Phân chia sử dụng đất ở Litva như sau:
Đất trồng trọt: 35%
Đồng ruộng: 12%
Đồng cỏ: 9%
Rừng: 31%
Khác: 15 %
Địa hình
Litva nằm trong khu vực đồng bằng Đông Âu rộng lớn. Địa hình của nước này được hình thành khi kỉ Băng Hà kết thúc vào khoảng 22.000 đến 25.000 năm trước. Đất nước này có dạng địa hình hỗn hợp giữa những vùng đất thấp và cao nguyên. Phía tây nước này là khu vực cao nguyên Samogitia còn phía đông nam là cao nguyên Baltic. Giữa hai vùng cao nguyên này lại có một vùng đất thấp nằm ở trung tâm đất nước. Litva có một mạng lưới sông hồ rất dày đặc với 2883 hồ rộng trên 10.000 m² và 758 con sông dài trên 10 km. Những con sông dài nhất ở Litva là sông Nemunas bắt nguồn từ Belarus (dài 917 km), sông Neris (510 km), sông Venta (346 km), sông Šešupė (298 km). Tuy nhiên chỉ có khoảng 600 km đường sông phù hợp cho thuyền bè đi lại.
Mũi đất Kursh được hình thành ngoài khơi biển Baltic là một dải cát dài nối giữa Litva với tỉnh Kalinigrad thuộc Nga, chia cắt phá Kursh ra khỏi biển Baltic. Đây là nơi có thiên nhiên vô cùng đặc sắc và có nhiều cảnh quan hấp dẫn, thuộc về đồng thời cả hai nước Litva và Nga.
Khí hậu
Khí hậu của Litva là sự trung gian chuyển tiếp giữa khí hậu ôn đới hải dương và ôn đới lục địa. Thời tiết ở Litva tương đối dễ chịu và ôn hòa. Nhiệt độ trung bình tại bờ biển của Litva là khoảng 1,6 °C vào tháng 1 và 17,8 °C vào tháng 7. Còn tại thủ đô Vilnius tại phía đông Litva, nhiệt độ tháng 1 là 2,1 °C và tháng 7 là 18,1 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 717 mm tại bờ biển và 490 mm tại vùng phía đông trong nội địa. Đất đai của Litva rất màu mỡ. Rừng cây chiếm khoảng 1/3 diện tích tại Litva với các loại cây chủ yếu là thông, vân sam, bu lô. Tuy nhiên cây sồi và tần bì thì ít gặp hơn. Rừng của Litva rất giàu nấm và các loại cây trái.
Phân chia hành chính
Hệ thống hành chính hiện nay được thành lập năm 1994 và được sửa đổi vào năm 2000 để đáp ứng các yêu cầu của Liên minh châu Âu. 10 hạt của nước này (tiếng Litva: singular - apskritis, plural - apskritys) được chia thành 60 thành phố (tiếng Litva: singular - savivaldybė, plural - savivaldybės), và chia thành 500 seniūnija.
Quân đội
Lực lượng Vũ trang Litva bao gồm 20.565 người đang phục vụ trong quân đội.
Chế độ quân dịch trong quân đội Litva đã bị bãi bỏ từ tháng 9 năm 2008. Tuy nhiên, nó lại được đưa ra vào năm 2015 vì những lo ngại về một cuộc chiến tranh thế giới mới dưới tác động của sự căng thẳng chính trị Nga-Ukraina.
Hệ thống phòng thủ của Litva dựa trên khái niệm "bảo vệ tổng thể và vô điều kiện" được chỉ định bởi "Chiến lược An ninh Quốc gia" của Litva. Mục tiêu của chính sách quốc phòng của Litva là chuẩn bị cho xã hội của họ quyền bảo vệ chung và lồng ghép Litva vào các cấu trúc an ninh và quốc phòng của phương Tây.Bộ quốc phòng chịu trách nhiệm về các lực lượng chiến đấu, tìm kiếm và cứu hộ, và các hoạt động tình báo.
4.800 Bộ đội Biên phòng nằm dưới sự giám sát của Bộ Nội vụ và chịu trách nhiệm bảo vệ biên giới, hộ chiếu và thuế hải quan và chia sẻ trách nhiệm với hải quân về buôn lậu / buôn bán ma túy. Một bộ phận an ninh đặc biệt xử lý bảo vệ VIP và bảo mật thông tin liên lạc.
Các Lực lượng Vũ trang Litva bao gồm: Lục quân Litva, Lực lượng Không quân Litva, Lực lượng Hải quân Litva, Lực lượng Đặc nhiệm Litva và các đơn vị khác: Bộ Tư lệnh Hạm đội, Huấn luyện, Cảnh sát quân sự... Trực tiếp trực thuộc Bộ Quốc phòng là Lực lượng Đặc nhiệm và Cảnh sát Quân sự. Lực lượng Cảnh sát được đặt dưới sự chỉ huy của Lực lượng Tình Nguyện Quốc phòng Litva.
Kinh tế
Trong Liên bang Xô Viết trước đây Litva có trình độ phát triển khá cao về nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng và điện tử. Năm 1991, Litva đứng hàng thứ tư trong Liên Xô cũ về sản xuất máy công cụ (sau Nga, Ukraina, Belarus).
Sau khi tách ra khỏi Liên bang Xô Viết, kinh tế Litva lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Chính phủ của Đảng Dân chủ Lao động lên cầm quyền (tháng 11 năm 1992), thực hiện một loạt biện pháp kinh tế tài chính cứng rắn nên đã từng bước đi vào ổn định. Từ 1998 do bất đồng giữa Thủ tướng và Tổng thống về đường lối phát triển kinh tế nên kinh tế tiếp tục suy thoái, nhiều vấn đề như nghèo khổ, thất nghiệp gia tăng; tình hình xã hội ngày càng gay gắt. Năm 2000, Chính phủ đưa ra chương trình kinh tế khắc khổ theo đó giảm 5-10% quỹ lương của cơ quan ăn lương ngân sách, tăng 10-18% giá dịch vụ công cộng; giảm 40% ngân sách trợ cấp cho những người có thu nhập thấp; cắt giảm các chương trình phúc lợi - xã hội, nhờ đó nền kinh tế dần được phục hồi.
Từ 2003 nền kinh tế tăng trưởng trên 8% mỗi năm. Năm 2008: GDP tăng 5,1% đạt 48,75 tỷ USD, lạm phát - 11%, tỷ lệ thất nghiệp - 4,8%, đầu tư chiếm 27,8% GDP.
Từ 2009, kinh tế lâm vào khủng hoảng trầm trọng, GDP sụt giảm 15%. Năm 2010: GDP đạt 35.73 tỷ USD, trong đó: nông nghiệp: 4,3%, công nghiệp: 27,6%, dịch vụ: 68,2%. Thất nghiệp tăng 17,9%. Tỷ lệ lạm phát 0,9%. Nợ công - 36,7%.
Litva bắt đầu quá trình tư nhân hoá sớm hơn các nước Baltic khác và đã hoàn thành việc tư nhân hoá nông nghiệp, xí nghiệp nhỏ, ngân hàng và hiện đang ở giai đoạn cuối của quá trình tư nhân hoá với việc tư hữu hoá các tổ hợp quốc doanh lớn trong lĩnh vực giao thông vận tải và năng lượng.
Litva có trình độ phát triển cao về các ngành nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng, điện tử, cơ khí và chế tạo công cụ lao động
Ngày 1 tháng 1 năm 2015, Litva chính thức trở thành thành viên thứ 19 trong khu vực đồng Euro. Mặc dù gia nhập EU từ 11 năm trước (2004) song Litva là quốc gia cuối cùng ở khu vực Baltic gia nhập Khu vực đồng tiền chung châu Âu do đơn xin gia nhập của Litva đã bị các nhà lãnh đạo EU từ chối do tỷ lệ lạm phát tại nước này ở mức quá cao so với tiêu chuẩn châu Âu. Đây là nước cuối cùng chuyển sang sử dụng đồng euro trong số ba nước Baltic thuộc Liên Xô cũ – Estonia đã gia nhập năm 2011 và Latvia năm 2014.
Tính đến năm 2016, GDP của Litva đạt 42.776 USD, đứng thứ 87 thế giới và đứng thứ 30 châu Âu.
Thương mại
Năm 2009, nhằm khắc phục khủng hoảng, Chính phủ của Thủ tướng Andrius Kubilius đã phát động một chiến dịch nhằm thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển thị trường xuất khẩu.
Năm 2010: Xuất khẩu đạt 19,29 tỷ USD (16,48 - 2009). Mặt hàng chính: các sản phẩm khoáng sản - 22%, máy móc, thiết bị - 10%, hoá chất - 9%, hàng dệt may - 7%, thực phẩm - 7%, chất dẻo - 7%
Đối tác: Nga - 13,2%, Latvia - 10%, Đức - 9,6%, Ba Lan - 7,1%, Estonia - 7,1%, Belarus - 4,7%, Anh - 4,3%. Nhập khẩu đạt 20,34 tỷ USD (17,56 tỷ - 2009). Mặt hàng chính: các sản phẩm khoáng sản, máy móc thiết bị và thiết bị vận tải, hóa chất, dệt may và quần áo, kim loại. Đối tác: Nga - 30,1%, Đức - 11,1%, Ba Lan - 9,9%, Latvia - 6,3%.
Đầu tư
Đầu tư năm 2010 đạt 15,2% GDP. Đầu tư trực tiếp nước ngoài: 14,11 tỷ USD. Đầu tư gián tiếp ra nước ngoài: 2,507 tỷ USD.
Các công ty lớn
Công ty Cổ phần đóng tàu Klaipėda "Baltija": Được Bộ Công nghiệp tàu thủy của Liên Xô thành lập vào năm 1952, để xây dựng các tàu thuyền đánh cá. Từ 1992 được cổ phần hóa 96%. "Baltija" đóng tàu không chỉ cho các nước vùng Baltíc (Latvia, mà còn là nguồn cung cấp đội tàu và các công ty hàng hải trên toàn thế giới. "Baltija" xây dựng phao, sà lan, tàu thuyền đánh cá, bến tàu nổi, bến phà sông, tàu hàng khô và vận chuyển container. "Baltija" cũng cung cấp dịch vụ sửa chữa tàu.
Công ty Đường sắt quốc gia. Là công ty nhà nước được thành lập năm từ 1860. Litva có mạng lưới đường sắt chính Litva bao gồm 1.749 km khổ rộng 1.520 mm, trong đó có 122 km được điện khí; 68 km khổ hẹp. Trong năm 2006, đường sắt Litva vận chuyển 6.200.000 hành khách và 50 triệu tấn hàng hóa. Dầu mỏ là mặt hàng vận chuyển hàng hóa chính.
Giáo dục
Tại Litva, giáo dục được chú trọng đầu tư và phát triển hiệu quả. Hàng năm, khoảng 26% ngân sách của Chính phủ được đầu tư cho giáo dục nhằm đảm bảo nguồn hỗ trợ cho hệ thống giáo dục tiểu học và trung học kịp thời. Do đó, trình độ và chất lượng giáo dục tại Litva ở mức khá cao:
Số lượng học sinh trung học có học lực tốt được miễn học phí khoảng 68%
Đạt tỷ lệ gần 100% người từ 15 tuổi trở lên biết chữ
30,4% dân số trong độ tuổi lao động 25 – 64 tuổi hoàn thành chương trình giáo dục đại học
90% dân số Litva nói ít nhất 1 ngôn ngữ và 60% nói hai ngôn ngữ (Nga, Anh)
Tuy nhiên, việc tham gia vào Liên minh châu Âu năm 2004, mở rộng mội trường làm việc và lao động đã làm Litva bị nạn "chảy máu chất xám" ngày càng nhiều. Dân số đã giảm khoảng 180.000 ngàn người do di cư sang nước khác.
Tôn giáo
Theo điều tra dân số năm 2001, 79% dân số nước này thuộc về Giáo hội Công giáo La Mã.
Trong nửa đầu của thế kỷ XX, Giáo hội Luther có khoảng 200.000 thành viên chiếm 9% tổng dân số, nhưng nó đã giảm kể từ năm 1945. Cộng đồng Tin Lành nhỏ được phân tán khắp vùng phía bắc và phía tây của đất nước. Tín hữu và giáo sĩ bị giết, hoặc bị tra tấn hoặc bị trục xuất tới Siberia dười thời Liên Xô. Có 4,9% dân số là Chính Thống giáo (chủ yếu là sắc tộc thiểu số Nga), 1,9% là Tin Lành và 9,5% dân số không theo bất kỳ tôn giáo nào.
Trong lịch sử, Litva còn là quê hương của một cộng đồng Do Thái giáo có từ thế kỷ XVIII, với số lượng khoảng 160.000 người trước chiến tranh thế giới hai, hầu như hoàn toàn bị tiêu diệt trong vụ thảm sát Holocaust. Giờ cộng đồng Do Thái giáo chỉ còn khoảng 3.400 vào cuối năm 2010. |
Latvia (phiên âm tiếng Việt: Lát-vi-a, ), tên chính thức là Cộng hòa Latvia () là một quốc gia theo thế chế cộng hòa tại khu vực châu Âu. Latvia giáp với Estonia về phía bắc, giáp với Litva về phía nam, giáp với Nga và Belarus về phía đông và giáp biển Baltic về phía tây. Theo số liệu tháng 7 năm 2007, dân số của Latvia là 1.842.226 người năm 2022, mật độ dân số khoảng 29.6 người/km². Các dân tộc ở Latvia chủ yếu là người Latvia (chiếm 63%) và người Nga (chiếm 24.2%), người Belarus 3,1%, người Ukraina 2,2%, ngoài ra còn có các dân tộc thiểu số khác.
Latvia là một quốc gia có lịch sử lâu đời tại châu Âu. Trong lịch sử, nước này đã từng bị đô hộ bởi nhiều quốc gia láng giềng. Kể từ thế kỷ XVIII, Latvia trực thuộc nước Nga Sa hoàng. Ngày 18 tháng 11 năm 1918, nền cộng hòa của Latvia chính thức được thành lập.
Nhưng đến năm 1940, sau hiệp ước Xô-Đức 1939, Liên Xô xâm lược và sáp nhập Latvia với tên gọi Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Latvia. Vào năm 1991, Liên Xô sụp đổ và Latvia lại trở thành một quốc gia độc lập.
Ngày nay, Latvia là một thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, NATO. Ngày 1 tháng 5 năm 2004, Latvia chính thức trở thành một thành viên của Liên minh châu Âu. Đất nước này đang phát triển hết sức nhanh chóng, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Latvia trong năm 2006 đạt 11,9%, cao nhất châu Âu. Thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất Latvia là Riga, một địa điểm du lịch nổi tiếng thế giới với rất nhiều những công trình lịch sử và văn hóa.
Lịch sử
Thời tiền sử
Tổ tiên của người Latvia là những bộ lạc Baltic cổ đã sống ở phía đông bờ biển Baltic từ thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên. Từ thời đó, Latvia đã là một nơi giao thương quan trọng để người Viking đi từ bán đảo Scandinavia qua sông Daugava đến nước Nga và Đế quốc Byzantine. Bờ biển Latvia nổi tiếng toàn châu Âu bởi mặt hàng hổ phách quý hiếm của nó. Vào thế kỷ X, các bộ lạc Baltic bắt đầu thành lập các vương quốc tại khu vực này. Bốn nền văn hóa phát triển tại khu vực là các vương quốc của người Couronia, Latgallia, Selonia và Semigallia. Trong đó, vương quốc của người Latgallia là phát triển nhất và có ảnh hưởng sâu rộng về chính trị và xã hội. Người Couronia thì vẫn tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược và cướp bóc trong một thời gian dài. Còn người Selonia và Semgallia lại là những nông dân thịnh vượng và ít có những xung đột hay chiến tranh.
Thời thuộc Đức
Do nằm ở một vị trí chiến lược, Latvia thường xuyên bị xâm chiếm bởi những quốc gia lớn hơn xung quanh. Vào cuối thế kỷ XII, Latvia được nhiều thương nhân Tây Âu ghé thăm do con sông dài nhất nước này, sông Daugava, là một cửa ngõ quan trọng để sang nước Nga. Các nhà buôn và nhà truyền đạo Cơ Đốc người Đức cũng nằm trong số này. Nhưng người Baltic ngoại đạo vẫn chưa sẵn sàng theo tôn giáo mới nên họ đã nổi dậy chống lại. Giáo hoàng ở Roma đã quyết định gửi một đạo quân viễn chinh đến Latvia để gây ảnh hưởng tại vùng đất này. Sự xuất hiện của quân viễn chinh Đức đã chấm dứt sự phát triển của những bộ lạc Baltic tại Latvia, thay vào đó là sự cải đạo của hàng loạt dân địa phương sang Kitô giáo.
Người Đức đã thành lập thành phố Riga vào năm 1201, và Riga đã dần dần phát triển thành đô thị rộng lớn và xinh đẹp nhất trên bờ nam biển Baltic. Vào thế kỷ XIII, Liên bang Livonia bao gồm Estonia là Latvia đã phát triển mạnh mẽ dưới quyền lực của người Đức. Năm 1282, Riga rồi sau đó là Cēsis, Limbaži, Koknese và Valmiera đã nằm trong Liên minh Hanse. Từ đó, Riga trở thành một địa điểm giao thương quan trọng giữa đông và tây, trở thành trung tâm thương mại lớn ở phía đông Baltic và có những mối liên hệ văn hóa ngày càng gần gũi với Tây Âu. Đầu thế kỷ XIII, dòng Hiệp sĩ Porte-Glaive và dòng Hiệp sĩ Teuton sáp nhập tạo thành Dòng Livonia. Dòng này truyền đạo và cai trị lãnh thổ Latvia cho đến khi bị giải thể năm 1561. Đất nước bị chia cắt và thuộc quyền thống trị của Ba Lan và Thụy Điển.
Thời thuộc Ba Lan và Thụy Điển
Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, Liên bang Livonia bắt đầu suy tàn và tan rã. Sau cuộc chiến tranh Livonia (1558-1583), phần đất Latvia ngày nay bị đặt dưới sự cai trị của Ba Lan-Litva, trong đó có Riga. Vào thế kỷ XVII, Lãnh địa Courtland, một phần của Livonia cũ đã đạt được sự phát triển kinh tế một cách nhanh chóng và thành lập hai thuộc địa, một ở hòn đảo cửa sông Gambia (châu Phi) và đảo Tobago ở biển Caribbean.
Sau cuộc chiến tranh Ba Lan - Thụy Điển (1600-1629), Riga lại nằm dưới sự cai trị của Thụy Điển và trở thành thành phố rộng lớn và phát triển nhất trong các thành phố của đất nước này. Trong khi đó thì thành phố Vidzeme lại được biết đến với cái tên giỏ bánh mì của Thụy Điển vì nơi này cung cấp phần lớn lượng lúa mì cho vương quốc. Phần còn lại của Latvia nằm trong Ba Lan cho đến năm 1793.
Đất nước Latvia trong thế kỷ XVII đã được củng cố vững chắc. Với sự hợp nhất của các dân tộc Couronia, Latgallia, Selonia, Semgallia và Livonia, một quốc gia với nền văn hóa thống nhất và ngôn ngữ chung đã được hình thành, với tên gọi Latvia.
Thời thuộc Nga
Năm 1700, cuộc Đại chiến Bắc Âu nổ ra, Thụy Điển thất bại và phải cắt Latvia cho Nga, và Latvia trở thành một bộ phận của Đế chế Nga. Sa hoàng đã nhanh chóng kiểm soát tất cả những thành phố giàu có của đất nước Latvia.
Giai cấp nông nô chính thức được giải phóng tại Courland vào năm 1818 và Vidzeme vào năm 1819. Một bộ luật được thông qua vào năm 1849 là tiền đề công nhận sự sở hữu đất đai của nông dân. Công nghiệp phát triển mạnh mẽ đồng thời với việc dân số cũng tăng lên nhanh. Latvia trở thành một trong những vùng đất phát triển nhất của nước Nga.
Vào thế kỷ XIX, Phong trào Vận động Dân tộc Latvia đầu tiên xuất hiện trong tầng lớp trí thức. Phong trào được lãnh đạo bởi nhóm Người Latvia trẻ từ thập niên 1850 đến 1880 với những cuộc vận động ngôn ngữ và văn hóa. Tuy nhiên sự bần cùng hóa ở nông thôn vẫn tiếp tục diễn ra trong hoàn cảnh các đô thị ngày càng giàu có đã dẫn đến những cuộc vận động cánh tả vào khoảng những năm 1880, lãnh đạo bởi Rainis và Pēteris Stučka, mang màu sắc của chủ nghĩa Marx và dẫn đến sự thành lập Đảng Lao động Xã hội Dân chủ Latvia.
Thời cận và hiện đại
Năm 1918, Latvia tuyên bố độc lập, nhưng chỉ được Nga Xô Viết công nhận chủ quyền sau hòa ước Riga 1920. Đến năm 1940, sau hiệp ước Xô-Đức 1939, Liên Xô tiến quân vào nước này và Latvia sáp nhập vào Liên Xô sau một cuộc trưng cầu dân ý mà phương Tây cho là gian lận. Sau đó, năm 1941, Đức tấn công Liên Xô và chiếm Latvia trong Thế chiến thứ II (1941-1944).
Sau này, chính phủ Latvia, Mỹ Nghị viện châu Âu Tòa án Nhân quyền châu Âu cho rằng ba nước này bị Liên Xô chiếm đóng trái phép và sáp nhập vào Liên Xô. Ngược lại theo quan điểm của Nga, thì vào thời điểm đó, người dân và chính phủ hợp pháp của các nước Baltic đã tình nguyện gia nhập Liên Xô. Họ và người Nga đã có quan hệ lâu bền, cùng thuộc một đất nước là Đế quốc Nga kể từ thập niên 1720 trở đi (tức là cùng lúc với việc Scotland và Anh thống nhất để hình thành Vương quốc Anh). Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Ivanov đã tuyên bố: "Nói rằng Liên Xô đã chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic là vô lý và vô nghĩa. Người ta không thể chiếm một cái gì đó vốn thuộc về anh ta."
Đương thời, Quốc hội Mỹ yêu cầu tổng thống Mỹ và Ngoại trưởng Mỹ thúc giục chính phủ Nga phải nhận ra rằng việc Liên Xô chiếm đóng Estonia, Latvia và Litva theo Hiệp ước Molotov-Ribbentrop là bất hợp pháp: "Hoa Kỳ không bao giờ công nhận sự chiếm đóng bất hợp pháp và bạo lực và các đời Tổng thống Mỹ tiếp theo không gián đoạn việc duy trì quan hệ ngoại giao với các quốc gia này trong suốt sự chiếm đóng của Liên Xô, không bao giờ công nhận chúng như là nước cộng hòa thuộc Liên Xô." Cựu Đại sứ Mỹ tại Ukraine, ông William B. Taylor đã khẳng định trên tờ báo The New York Times khẳng định lập trường Hoa Kỳ không bao giờ công nhận sự sáp nhập của Liên Xô đối với Latvia, Estonia và Lithuania trong Thế chiến II. Tuy nhiên, tại Hội nghị Teheran 1943, Tổng thống Mỹ là Franklin Roosevelt trong trao đổi với Joseph Stalin ngày 01/12/1943, đã công nhận chủ quyền của Liên Xô ở vùng Baltic: "Tại Hoa Kỳ đang dấy lên nghi vấn về các nước cộng hòa Baltic thuộc Liên Xô, và tôi tin rằng công luận thế giới cho là các dân tộc của các nước cộng hòa này có một tương lai bấp bênh. Vì vậy, tôi hy vọng rằng Nguyên soái Stalin sẽ đi vào xem xét yêu cầu này. Cá nhân tôi không có nghi ngờ rằng người dân ở các nước này sẽ bỏ phiếu để gia nhập Liên Xô cũng như cùng nhau như họ đã làm vậy trong những năm 1940... Thực tế là dư luận không biết rõ lịch sử."
Cuối năm 1989, hai năm trước sự sụp đổ của Liên Xô, Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô đã chính thức lên án nội dung trong Hiệp ước Molotov-Ribbentrop về việc sáp nhập các nước vùng Baltic (Estonia, Latvia, Litva) là bất hợp pháp,. còn chính phủ Nga hiện nay thì phủ nhận hành động của Liên Xô là chiếm đóng
Trong thời gian này có khoảng 70.000 người Do Thái sống tại Latvia, 95% trong số họ bị sát hại trong thời gian Đức quốc xã chiếm đóng nước này. Năm 1944, Latvia tái sáp nhập vào Liên bang Xô Viết.
Khoảng 120 cho tới 300 ngàn người Latvia gốc Đức đã bỏ sang Đức hoặc Thụy Điển. Vào tháng 3/1949, 43,000 người từng phục vụ cho Đức Quốc xã bị đưa sang Siberia trong chiến dịch Priboi được tiến hành tại cả ba nước Baltic, mà đã được hoạch định cẩn thận và được chấp thuận bởi Moskva vào tháng 1 năm 1949. Khoảng chừng 136,000 cho tới 190,000 người Latvia, tùy theo nguồn, đã bị bắt giam trong những năm sau chiến tranh, từ năm 1945 cho tới 1952 vì đã cộng tác với quân Đức Các vùng nông thôn ở Latvia bắt đầu tập thể hóa. Tiếng Latvia bị giới hạn trong những nơi công cộng, thay thế vào đó tiếng Nga được dùng làm ngôn ngữ chính. Vào khoảng năm 1959, chừng 400,000 người chuyển tới Litva sinh sống từ các nước cộng hòa Xô viết khác và dân địa phương Latvia giảm xuống chỉ còn 62% dân số cả nước.
Năm 1991, Latvia trở thành nước cộng hòa. Bởi vì tính đồng nhất của dân tộc Latvia bị hủy bỏ trong thời kì lịch sử nhà cầm quyền nước ngoài cai trị, nên chính quyền Latvia đặt ra các luật lệ về quyền công dân rất chặt chẽ, hạn chế quyền công dân cho người Latvia và những người sống trong vùng này kể từ trước khi bị sáp nhập vào Liên Xô năm 1940. Chính điều đó đã làm cho khoảng 452.000 trong số 740.000 người Latvia gốc Nga không được thừa nhận có quyền công dân do di dân từ Nga sang trong thời kỳ Xô Viết dù họ đã sống tại Litva từ lâu.
Năm 1995, Latvia đệ đơn xin gia nhập Liên hiệp châu Âu. Những cố gắng xin gia nhập Liên hiệp châu Âu không được chấp nhận trong các cuộc đàm phán bắt đầu từ năm 1997. Latvia đã cải thiện hệ thống quản lý hành chính, và gia tăng hợp pháp hóa vấn đề quốc tịch cho cộng đồng thiểu số các dân tộc khác đặc biệt là cộng đồng người Nga. Latvia đã phải đương đầu với cuộc suy thoái kinh tế xuất phát từ cuộc khủng hoảng của Nga năm 1998. Liên hiệp châu Âu bắt đầu các cuộc thương lượng việc xin gia nhập của Latvia từ năm 1999. Tháng 5 năm 2001, Latvia và 8 nước khác ở Trung Âu và Đông Âu xin gia nhập tổ chức NATO. Nhằm tạo điều kiện để được gia nhập vào NATO, Quốc hội Latvia năm 2002 đã thông qua luật không đòi hỏi các ứng cứ viên vào Quốc hội phải biết tiếng Latvia. Năm 2004, Latvia gia nhập Liên minh châu Âu.
Chính trị
Thể chế nhà nước: Cộng hoà nghị viện.
Tổng thống:
Tổng thống là công dân Latvia đủ 40 tuổi trở lên, không có quốc tịch khác, không giữ các chức vụ khác, được không ít hơn 51/100 đại biểu Quốc hội bầu nhiệm kỳ bốn năm (không quá 2 nhiệm kỳ liên tục).
Tổng thống có thể bị miễn nhiệm theo đề nghị của không ít hơn 1/2 số đại biểu Quốc hội và trong bỏ phiếu kín với không ít hơn 2/3 số đại biểu. Trong trường hợp, Tổng thống đề nghị giải tán Quốc hội, mà trong trưng cầu dân ý hơn 1/2 số phiếu phản đối thì Tổng thống mặc nhiên bị phế truất.
Tổng thống đại diện cho nhà nước trong quan hệ quốc tế, thực hiện các quyết định của Quốc hội về phê duyệt các điều ước quốc tế, là Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang. Tổng thống có quyền sáng kiến lập pháp.
Quốc hội (Saeima):
Cơ quan lập pháp của Latvia là Quốc hội 1 viện với 100 đại biểu được bầu bởi phổ thông đầu phiếu nhiệm kỳ bốn năm.
Quốc hội Latvia Khóa 10 được bầu ngày 2 tháng 10 năm 2010. Liên minh Thống nhất của đương kim Thủ tướng Valdis Dombrovskis (Đảng "Thời mới", Liên minh dân sự, Hội vì một chính sách khác) đứng đầu với 31.2% phiếu bầu, chiếm 33 ghế; "Trung tâm Hòa hợp" – 26%, chiếm 29 ghế; Liên minh xanh và Nông dân – 19,7%, chiếm 22 ghế; Liên minh " vì một nước Latvia tốt đẹp" và Khối "Tất cả vì Latvia "-"Tổ quốc và Tự do" đều đạt 7,6%, cùng chiếm 8 ghế.
Liên minh Thống nhất cùng với Liên minh xanh và Nông dân, với 55 đại biểu đã thành lập phái đa số cầm quyền tại Quốc hội. Lực lượng cánh tả đối lập không ủng hộ Chính phủ tại Quốc hội, với 45 đại biểu, gồm "Trung tâm Hòa hợp", Liên minh " vì một nước Latvia tốt đẹp", Khối "Tất cả vì Latvia "-"Tổ quốc và Tự do".
Chủ tịch Quốc hội do thành viên Quốc hội bầu.
Chính phủ (Nội các) do Thủ tướng bổ nhiệm và được Quốc hội thông qua, đứng đầu là Thủ tướng thực hiện các chức năng và quyền hạn của cơ quan hành pháp. Chính phủ Latvia gồm Thủ tướng, Văn phòng Chính phủ và 13 Bộ.
Thủ tướng do Tổng thống đề cử đứng ra thành lập Chính phủ (còn gọi là Nội các), được Quốc hội thông qua.
Thủ tướng Latvia hiện nay là ông Valdis Dombrovskis.
Chính sách đối ngoại
Trở thành thành viên của EU và NATO là mục tiêu chính sách đối ngoại lớn của Latvia trong những năm 1990. Trong một cuộc trưng cầu toàn quốc vào ngày 20 tháng 9 năm 2003, trong số 100% cử tri tham gia bỏ phiếu, 66,9% cử tri Latvia ủng hộ gia nhập Liên minh châu Âu. Latvia trở thành thành viên của Liên minh châu Âu (EU) vào ngày 1 tháng 5 năm 2004. Latvia trở thành thành viên NATO kể từ ngày 29 tháng 3 năm 2004.
Hiệp ước phân định biên giới với Nga đã được ký kết và phê chuẩn trong năm 2007. Theo hiệp ước, huyện Abrene thông qua Nga đàm phán về tranh chấp biên giới biển với Litva đang được tiến hành (các mối quan tâm chính là quyền thăm dò dầu khí).
Gần đây, Latvia cũng bắt đầu quan tâm đến hợp tác với các nước thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Đông Nam Á.
Địa lý
Latvia nằm ở phía bắc châu Âu, giáp biển Baltic về phía tây, có vĩ tuyến từ 55° đến 58° B, kinh tuyến từ 21° đến 29° Đ. Latvia có tổng diện tích trong đó là đất liền, là đất nông nghiệp, là đất rừng và là vùng nước nội địa.
Tổng chiều dài biên giới quốc gia là . Tổng chiều dài biên giới đất liền là , trong đó giáp với Estonia về phía bắc, với Nga về phía đông, với Belarus về phía đông nam và với Litva về phía nam. Tổng chiều dài biên giới đường biển là , giáp với Estonia, Thụy Điển và Litva.
Kinh tế
Latvia có nền kinh tế mở. Xuất khẩu đóng vai trò đáng kể vào GDP. Do vị trí địa lý, lĩnh vực dịch vụ chiếm phần lớn trong hoạt động kinh tế. Dịch vụ vận chuyển hàng quá cảnh được đánh giá phát triển cao. Ngành khai thác gỗ và chế biến gỗ, nông nghiệp và chế biến thực phẩm, và sản xuất các thiết bị máy móc và điện tử phát triển mạnh. Kinh tế Latvia có tăng trưởng GDP trên 10%/năm trong thời gian 2006-2007, nhưng từ năm 2008 bước vào một cuộc suy thoái nghiêm trọng: thâm hụt ngân sách, nợ công lớn. GDP sụt giảm 18% trong năm 2009. Nhờ thực hiện chính sách tăng trưởng xuất khẩu mạnh, nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng trở lại: GDP hàng quý năm 2010 tăng 2,9%.
IMF, EU, và các nhà tài trợ quốc tế khác có. Thỏa thuận hỗ trợ tài chính để Latvia gia nhập eurozone. Thỏa thuận này kêu gọi giảm thâm hụt tài chính của Latvia xuống dưới mức 3% GDP vào năm 2012 để đáp ứng tiêu chuẩn gia nhập eurozone. Chính phủ ban hành cắt giảm chi tiêu lớn nhằm giảm thâm hụt ngân sách tối đa 8,5% GDP năm 2010. Latvia đã thông qua ngân sách năm 2011 với mức thâm hụt ngân sách dự kiến là 5,4% GDP.
Đa số các công ty, ngân hàng và bất động sản đã được tư nhân hóa, mặc dù nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần khá lớn trong một vài doanh nghiệp lớn. Latvia chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới vào tháng 2 năm 1999. Tính đến năm 2016, GDP của Latvia đạt 27.945 USD, đứng thứ 101 thế giới và đứng thứ 33 châu Âu.
Năm 2010, GDP: đạt 23,39 tỷ USD, trong đó nông nghiệp - 4,2%, công nghiệp - 20,6%, dịch vụ - 75,2%. Tỷ lệ thất nghiệp là 14,3%. Tỷ lệ lạm phát là 1,2%. Nợ công - 46,2% GDP. Ngân sách: thu: 8,028 tỷ USD, chi 9,863. Nợ nước ngoài: 3,728 tỷ USD. Thế mạnh của Latvia là nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng, điện tử, bưu điện, thiết bị giao thông vận tải, du lịch... Nông nghiệp sản phẩm: ngũ cốc, dầu hạt cải, khoai tây, rau, thịt lợn, gia cầm, sữa, trứng, cá. Công nghiệp: thực phẩm chế biến, gia công sản phẩm gỗ, dệt may, kim loại chế biến, dược phẩm, xe ô tô đường sắt, sợi tổng hợp, điện tử.
Thương mại
Xuất khẩu và công nghiệp là động lực chính của tăng trưởng kinh tế chủ yếu là xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ, máy móc và thiết bị, kim loại, hàng dệt.
Xuất khẩu: Năm 2010 đạt 7,894 tỷ USD. Mặt hàng chính: sản phẩm thực phẩm, gỗ và sản phẩm gỗ, kim loại, máy móc, thiết bị, dệt may. Đối tác: Litva - 15,19%, Estonia - 13,57%, Nga - 13,17%, Đức - 8,13%, Thụy Điển - 5,7% Nhập khẩu: Năm 2010 đạt 9,153 tỷ USD. Mặt hàng chính: máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng, hóa chất, nhiên liệu, xe ô tô. Đối tác: Litva 16,36%, Đức 11,34%, Nga 10,68%, Ba Lan 8,11%, Estonia 7,69%.
Đầu tư
Đầu tư trong nước: 15,7% GDP (2010). Đầu tư trực tiếp của nước ngoài: 1,171 tỷ USD (2010). Đầu tư ra nước ngoài: 1,097 triệu USD năm 2010.
Tôn giáo
Tôn giáo lớn nhất ở Latvia là Kitô giáo, mặc dù chỉ có khoảng 7% dân số tham dự nghi lễ tôn giáo thường xuyên Các nhóm Kitô giáo lớn nhất tính đến năm 2011 là:
Giáo hội Luther: 708,773 tín hữu
Công giáo Rôma: 500.000 tín hữu
Chính Thống giáo Đông phương: 370.000 tín hữu
Trong cuộc phỏng vấn do tổ chức Eurobarometer bình chọn năm 2005, 37% công dân Latvia trả lời rằng "họ tin rằng có một vị thần", trong khi 49% trả lời rằng "họ tin rằng có một số loại tinh thần hay thế lực siêu nhiên" và 10% nói rằng "họ không tin rằng có bất kỳ loại tinh thần, thần, hay thế lực siêu nhiên" nào.
Trước thời gian chiếm đóng của Liên Xô, Giáo hội Luther là tôn giáo nổi bật nhất, tôn giáo này được các nước Bắc Âu và dân chúng miền Bắc Đức tin theo. Kể từ sau sự sáp nhập của Liên Xô, Giáo hội Luther đã giảm số lượng tín hữu hơn một chút so với Công giáo La Mã ở cả ba quốc gia vùng Baltic trong đó có Latvia. Các tín hữu của Giáo hội Luther, với ước tính khoảng 600.000 thành viên vào năm 1956, đã bị ảnh hưởng nhất. Một tài liệu nội bộ được ban hành ngày 18 tháng 3 năm 1987, ở gần cuối của chế độ Xô viết tồn tại ở nước này, nói rằng các tín hữu tích cực đã bị thu hẹp chỉ còn 25.000 người ở Latvia, nhưng đức tin Kitô cũng đã trải qua một sự hồi sinh sau khi Liên Xô sụp đổ. Kitô hữu Chính Thống giáo của quốc gia này thuộc về Giáo hội Chính Thống giáo Latvia, một cơ quan bán tự trị trong Giáo hội Chính thống giáo Nga. Trong năm 2011, đã có 416 người Do Thái giáo và 319 người Hồi giáo sống ở Latvia.
Ngoài ra còn các giáo phái Kitô giáo và các tôn giáo thiểu số khác như Phật giáo, Ấn giáo. |
Estonia (, ), tên chính thức là Cộng hòa Estonia () là một quốc gia nằm ở khu vực Bắc Âu. Estonia tiếp giáp với Liên bang Nga về phía đông, giáp với Latvia về phía nam, giáp với vịnh Phần Lan về phía bắc và giáp với biển Baltic về phía tây.
Estonia có địa hình tương đối thấp. Nước này có rất nhiều sông và hồ, kèm theo đó là một diện tích rừng đáng kể. Estonia nằm trong khu vực khí hậu ôn hòa, có tính chất chuyển tiếp từ khí hậu hải dương sang khí hậu lục địa.
Trong suốt lịch sử của mình, Estonia đã từng bị nhiều quốc gia láng giềng đô hộ, tiêu biểu là Thụy Điển và Nga. Vào ngày 24 tháng 2 năm 1918, nền cộng hòa đầu tiên ở Estonia được chính thức thành lập trên cơ sở tách ra khỏi Đế quốc Nga. Tuy nhiên, đến năm 1940, đất nước này cùng với hai quốc gia Baltic còn lại là Latvia và Litva được sáp nhập vào Liên bang Xô viết (Liên Xô) rồi vào Đức (1941–1944) trong chiến dịch Barbarossa.
Sau thế chiến thứ hai, Estonia được sáp nhập vào Liên Xô với tư cách là một nước cộng hòa liên bang nhưng một số nước (Hoa Kỳ cùng một số nước châu Âu) cho rằng trong khoảng thời gian từ năm 1944–1991, Estonia nằm dưới sự chiếm đóng của Liên bang Xô viết. Năm 1991, Liên Xô sụp đổ dẫn đến việc Estonia lại trở thành một quốc gia độc lập. Ngày nay, Estonia là một nước cộng hòa theo thể chế dân chủ nghị viện. Nước này là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Liên minh châu Âu, NATO.
Người Estonia có liên hệ về mặt dân tộc với người Phần Lan. Tiếng Estonia là một trong những ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Phần Lan-Ugria của ngữ hệ Ural, có liên hệ gần với tiếng Phần Lan và tiếng Hungary. Đây là một trong số ít những ngôn ngữ chính thức của châu Âu không bắt nguồn từ ngữ hệ Ấn-Âu.
Lịch sử
Thời kỳ cổ đại
Con người bắt đầu định cư tại Estonia vào khoảng từ 11.000 đến 13.000 năm về trước, khi mà băng tan chảy vào cuối Thời kỳ Băng hà. Pulli là bộ tộc đầu tiên đến định cư tại Estonia, trên bờ con sông Parnu, gần thị trấn Sindi, miền nam Estonia. Sử dụng phương pháp phóng xạ carbon, các nhà khoa học xác định rằng bộ tộc Pulli đã đến định cư tại Estonia vào khoảng 11.000 năm về trước, lúc bắt đầu thiên niên kỉ thứ 9 trước Công nguyên. Bằng chứng về những cộng đồng sống bằng săn bắt và đánh cá khoảng 6500 năm trước Công nguyên đã được tìm thấy ở thị trấn Kunda, miền bắc Estonia. Những đồ tạo tác bằng xương và đá tương tự như ở Kunda cùng đã được tìm thấy ở nhiều nơi nằm ngoài lãnh thổ Estonia như Latvia, miền bắc Litva và miền nam của Phần Lan. Nền văn hóa Kunda nằm trong Thời kỳ đồ đá giữa.
Cuối Thời kỳ đồ đồng và đầu Thời kỳ đồ sắt đã đánh dấu những thay đổi lớn về văn hóa. Sự thay đổi công cụ sản xuất đã dẫn tới những thay đổi lớn về mặt kinh tế của Estonia. Khoảng chừng từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ V, những khu dân cư nông nghiệp đã bắt đầu mở rộng. Dân số cũng tăng lên. Những ảnh hưởng về mặt văn hóa của Đế chế La Mã đã vươn tới Estonia. Tuy nhiên trong Thời kỳ Đồ sắt, những cuộc chiến tranh và xung đột với các dân tộc Baltic và người Scandinavia đã khiến tình hình Estonia trở nên bất ổn.
Vào thế kỷ I, hệ thống phân chia hành chính đã được thành lập tại Estonia. Hai đơn vị phân chia hành chính chủ yếu là vùng (kihelkond) và tỉnh (maakond). Mỗi vùng bao gồm vài ngôi làng và thường có ít nhất một pháo đài. Còn mỗi tỉnh thì lại gồm nhiều vùng. Vào thế kỷ XIII, các vùng của Estonia mở rộng và phát triển. Đến thời kỳ này, người Estonia vẫn giữ một tôn giáo cổ xưa của riêng họ, gọi là Tharapita.
Thời kỳ Trung cổ
Từ năm 1228 đến 1560, Estonia trở thành một phần của Liên bang Livonia, một liên bang lỏng lẻo giữa người Estonia thuộc hệ ngôn ngữ Phần Lan và các dân tộc vùng Baltic. Trong thời gian này, Estonia liên tiếp bị nhiều quốc gia láng giềng xâm chiếm.
Estonia đã giữ mình như một vùng đất ngoại đạo trong thời gian dài tại châu Âu. Tuy nhiên đến đầu thế kỷ XIII, người Đức đã xâm chiếm vùng phía nam Estonia ngày nay trong cuộc Thập tự chinh Phương Bắc và tiến hành truyền bá đạo Cơ đốc. Trong cùng thời gian đó, người Đan Mạch đã xâm chiếm và cai trị miền bắc Estonia và kéo dài cho đến năm 1346. Vào cuối thế kỷ XIII, thành phố Reval (tên cũ của Tallinn, thủ đô ngày nay của Estonia) đã tham gia vào Liên minh Hanse, một liên hiệp kinh tế vùng Baltic. Năm 1343, người dân miền bắc Estonia và đảo Saaremaa đã nổi dậy chống lại sự cai trị của người Đức nhưng cuộc khởi nghĩa đã bị dập tắt.
Bên cạnh Đức và Đan Mạch, Estonia còn bị xâm chiếm bởi Đế chế Nga vào những năm 1481 và 1558 nhưng những nỗ lực này của người Nga đều không thành công.
Estonia trong cuộc Cải cách Kháng cách
Cải cách Kháng Cách được bắt đầu vào năm 1517 đã gây ra một sự thay đổi lớn tại khu vực Baltic. Tại Liên bang Livonia, những ý tưởng của cuộc Cải cách Kháng cách nhanh chóng lan rộng trong những năm 1520. Những sự thay đổi lớn đã diễn ra trên các mặt ngôn ngữ, giáo dục, tôn giáo và chính trị của vùng đất này. Từ thời điểm đó, những nghi lễ nhà thờ phức tạp bằng tiếng Latin trước kia đã được thay thế bằng ngôn ngữ bản địa của người dân.
Trong cuộc chiến tranh Livonia năm 1561, miền bắc Estonia trở thành một bộ phận của Thụy Điển trong khi miền nam nhanh chóng rơi vào tay Liên bang Ba Lan và Lietuva vào thập niên 1580. Cuối cùng vào năm 1625, toàn bộ lãnh thổ Estonia đã về tay Đế chế Thụy Điển hùng mạnh. Khu vực này được chia làm hai tỉnh: tỉnh Estonia ở miền bắc Estonia ngày nay và tỉnh Livonia gồm miền nam Estonia và miền bắc nước Latvia ngày nay.
Năm 1631, vua Gustavus Adolphus của Thụy Điển đã buộc các quý tộc phải trao thêm quyền lợi cho nông dân, dù rằng chế độ nông nô vẫn được duy trì. Dưới sự cai trị của Thụy Điển, năm 1632 xưởng in và trường đại học đầu tiên đã được thành lập tại thành phố Dorpat (tên cũ của thành phố Tartu ngày nay).
Estonia trong Đế chế Nga
Đại chiến Bắc Âu kết thúc đã dẫn tới việc Thụy Điển để mất Estonia vào tay Đế chế Nga (năm 1710 trên thực tế và năm 1721 chính thức với Hiệp ước Nystad). Đại chiến Bắc Âu đã khiến rất nhiều người Estonia thiệt mạng nhưng dân số của nước này đã dần dần phục hồi lại sau đó. Thời gian đầu, quyền lợi của những người nông dân bị hạn chế nhưng sau đó, nước Nga đã bãi bỏ chế độ nông nô tại tỉnh Estonia vào năm 1816 và tỉnh Livonia vào năm 1819.
Đường tới nền cộng hòa
Sau khi chế độ nông nô bị bãi bỏ kèm theo đó là cơ hội học hành nhiều hơn đối với những cư dân nói tiếng Estonia, một phong trào vận động dân tộc của Estonia đã phát triển mạnh. Phong trào này phát triển mạnh trong lĩnh vực văn hóa với sự hình thành của nền văn học, âm nhạc, sân khấu mang bản sắc riêng của Estonia. Những người lãnh đạo tiêu biểu của các cuộc vận động là Johann Voldemar Jannsen, Jakob Hurt và Carl Robert Jakobson. Thời kỳ này, văn học Estonia phát triển đến đỉnh cao với sự kiện bộ sử thi Kalevipoeg của người Estonia được xuất bản năm 1862. Lễ hội âm nhạc đầu tiên của Estonia được tổ chức vào năm 1869.
Trước chính sách Nga hóa của đế chế Nga, vào những năm 1890 các nhà trí thức đã kêu gọi quyền tự trị lớn hơn cho vùng đất này, cao hơn nữa là sự độc lập hoàn toàn cho Estonia. Sau khi những người Bolshevik lên nắm chính quyền trong cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917, Estonia đã tự tuyên bố độc lập vào ngày 24 tháng 2 năm 1918 . Tiếp đó, với sự trợ giúp của phương Tây, Estonia đã chiến thắng quân đội Liên Xô trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1918-1920). Kết quả là Hiệp định Hòa bình Tartu đã được ký kết vào ngày 2 tháng 2 năm 1920 với việc Liên Xô công nhận nền độc lập của nước Cộng hòa Estonia. Estonia trở thành một nước cộng hòa theo chế độ dân chủ nghị viện nhưng vào năm 1934, quốc hội Estonia bị giải tán bởi sự bất mãn của người dân do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới xảy ra và tác động đến nền kinh tế nước này. Năm 1938, Konstantin Päts lên làm tổng thống và cuộc bầu cử quốc hội mới lại được tổ chức tại Estonia.
Estonia trong Chiến tranh thế giới thứ hai
Hiệp ước Xô-Đức (hay còn gọi là Hiệp ước Molotov-Ribbentrop) được ký kết vào năm 1939 giữa Liên Xô và Đức nhằm phân chia ảnh hưởng của mỗi bên đối với các nước Đông Âu và Baltic, theo đó Đức đồng ý việc Liên Xô đòi hỏi những lãnh thổ mà nước Nga đã mất trong cuộc nội chiến Nga, bao gồm 3 nước Baltic, trong đó có Estonia. Trong 2 năm 1939 và 1940, Đức đã di dân những người Đức ở Estonia và Latvia về nước. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1940, Liên Xô tiến vào Estonia, cùng với đó là cả Latvia và Litva. Chính phủ Estonia quyết định không phản ứng lại để tránh đổ máu. Các lực lượng quân đội của Estonia được lệnh tiến hành giải giới, không chống lại Hồng quân Liên Xô.
Tháng 7 năm 1940, một cuộc bầu cử được tổ chức với kết quả Estonia trở thành một nước cộng hòa xô viết thuộc Liên Xô với tên gọi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Estonia. Nhiều quốc gia phương Tây, trong đó có Mỹ, không công nhận kết quả cuộc bầu cử này và họ cho rằng Liên Xô đã tiến hành những cuộc bầu cử gian lận Ngược lại theo quan điểm của Nga, thì vào thời điểm đó, người dân và chính phủ hợp pháp của Estonia đã tình nguyện gia nhập Liên Xô bởi nhiều người Estonia vốn là người gốc Nga. Theo quan điểm của người Nga thì dân Estonia và người Nga đã có quan hệ lâu bền, cùng thuộc một đất nước là Đế quốc Nga trong hàng trăm năm. Theo RIA Novosti của Nga thì trước năm 1918, vùng Baltic đã không bao giờ tồn tại các quốc gia độc lập: họ đã là một phần của đế chế Nga từ thập niên 1720 trở đi (tức là cùng lúc với việc Scotland và Anh thống nhất để hình thành Vương quốc Anh), và trước đó vùng Baltic thuộc về Thụy Điển và trước đó nữa là các Hiệp sĩ Teutonic. Theo quan điểm của Nga, Bộ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Ivanov đã tuyên bố: "Nói rằng Liên Xô đã chiếm đóng các quốc gia vùng Baltic là vô lý và vô nghĩa. Người ta không thể chiếm một cái gì đó vốn thuộc về anh ta.".
Theo nguồn tài liệu từ Nga thì đương thời, Franklin Roosevelt trong trao đổi với Joseph Stalin ngày 01/12/1943 đã công nhận chủ quyền của Liên Xô ở vùng Baltic: "Tại Hoa Kỳ đang dấy lên nghi vấn về các nước cộng hòa Baltic thuộc Liên Xô, và tôi tin rằng công luận thế giới cho là các dân tộc của các nước cộng hòa này có một tương lai bấp bênh. Vì vậy, tôi hy vọng rằng Nguyên soái Stalin sẽ đi vào xem xét yêu cầu này. Cá nhân tôi không có nghi ngờ rằng người dân ở các nước này sẽ bỏ phiếu để gia nhập Liên Xô cũng như cùng nhau như họ đã làm vậy trong những năm 1940... Thực tế là dư luận không biết rõ lịch sử."
Mặc dù Hoa Kỳ và Vương quốc Anh là các nước đồng minh của Liên Xô chống phát xít Đức trong Thế chiến II công nhận chủ quyền tại Cộng hòa Estonia của Liên Xô tại Hội nghị Yalta năm 1945 nhưng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, chính quyền của các nước phương Tây lại tuyên bố không công nhận việc này.
Các quan điểm lịch sử ở Liên Xô mô tả các sự kiện trong năm 1939 và 1940 như sau: Estonia là một tỉnh cũ của Đế quốc Nga. Cộng hòa Xô viết Estonia đã được công bố ngày 29 Tháng 11 năm 1918 nhưng chính quyền này bị quân phản cách mạng và Bạch Vệ tiêu diệt vào năm 1919. Trong tháng 6 năm 1940, Liên Xô đã sáp nhập Estonia là do người lao động lật đổ chế độ "độc tài phát xít" trong nước Cuối năm 1989, hai năm trước sự sụp đổ của Liên Xô, Đại hội Đại biểu Nhân dân Liên Xô đã chính thức lên án nội dung trong Hiệp ước Molotov-Ribbentrop về việc sáp nhập các nước vùng Baltic (Estonia, Latvia, Litva) là bất hợp pháp,. còn chính phủ Nga hiện nay thì phủ nhận hành động của Liên Xô là chiếm đóng
Năm 1941, phát xít Đức tấn công Liên Xô. Đức Quốc xã nhanh chóng sáp nhập Estonia vào một tỉnh của Đức với tên gọi Ostland. Các trại tập trung được thành lập trên lãnh thổ Estonia với những vụ giết chóc và thảm sát đẫm máu. Nhiều thanh niên Estonia dù không muốn tham gia phe phát xít cũng bị bắt phải tham chiến chống lại Liên Xô
Khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, 34.000 thanh niên Estonia đã gia nhập Hồng quân Liên Xô chiến đấu chống lại Đức Quốc xã, và chỉ 30% họ sống sót sau chiến tranh.
Khoảng 70.000 người Estonia đã tham gia vào các lực lượng vũ trang Đức Quốc xã (bao gồm cả Waffen-SS). Sự hình thành các đội quân người Estonia trong lực lượng Đức được công bố ngày 28/8 năm 1942 và chính thức thành lập vào năm 1942. Hầu hết trong số họ đã tham gia vào năm 1944, bất chấp lúc đó rõ ràng rằng Đức sẽ không giành chiến thắng trong chiến tranh Ngày 21/9/1944, Ủy ban quốc gia của Cộng hòa Estonia đã cố gắng để thiết lập lại nền độc lập Estonia và yêu cầu quân Đức rời đi và tuyên bố tái lập nền độc lập của đất nước vào ngày 18 tháng 9 năm 1944
Trong Chiến dịch Baltic (1944), Liên Xô đã đánh tan Cụm Tập đoàn quân Trung tâm và Cụm Tập đoàn quân phương Bắc của Đức. Quân Đức buộc phải rút chạy khỏi Estonia và bị dồn vào Kurland ở Latvia, tại nơi này hơn 300.000 quân Đức đã bị cầm chân cho đến khi Đức quốc xã đầu hàng.
Estonia thời hậu chiến
Sau khi Estonia được Hồng quân Liên Xô giải phóng (theo quan điểm của Nga và người Estonia gốc Nga) hoặc tái chiếm đóng (theo quan điểm của phương Tây và người Estonia bản địa), nhiều người Estonia đã rời bỏ đất nước sang tị nạn ở Thụy Điển và Phần Lan. Dưới sự cai trị của Joseph Stalin, hàng ngàn người Estonia từng cộng tác với Đức Quốc xã đã bị đưa đi cải tạo lao động tại những vùng xa xôi hẻo lánh của Liên Xô. Sự việc này kéo dài đến khi Stalin chết vào năm 1953. Hơn một nửa số người Estonia bị lưu đày đã chết hoặc định cư tại nơi ở mới, số còn lại chỉ được chấp nhận trở về Estonia vào khoảng đầu thập niên 1960.
Sau khi tái chiếm đóng Estonia, hơn 900.000 ha đất đã được Liên Xô quốc hữu hóa và phần lớn đất đã được trao cho người định cư từ Nga mới di chuyển sang.
Nền kinh tế kế hoạch được thiết lập tại Estonia. Với vị trí địa lý chiến lược của mình cùng với tình hình Chiến tranh Lạnh càng thêm căng thẳng, nhiều vùng bờ biển và quần đảo tại Estonia đã bị quân sự hóa cao độ và rất ít người được phép sống tại những vùng đó. Bên cạnh đó, hàng trăm ngàn người từ các vùng khác nhau của Liên Xô đã đến Estonia định cư để tiến hành các chính sách công nghiệp hóa đối với vùng đất này.
Từ những năm 70 của thế kỷ XX, Liên Xô bắt đầu gặp những khó khăn về kinh tế và dần dần rơi vào khủng hoảng chính trị. Năm 1987-1989, một cuộc vận động của người dân Estonia đã nổ ra yêu cầu thành lập một chính quyền tự trị tại nước này và cả sự độc lập về mặt kinh tế. Năm 1988, sau các cuộc cải cách ở Liên Xô, những người theo chủ nghĩa dân tộc hoạt động công khai. Năm 1989, hơn hai triệu người Estonia, Latvia và Litva đã nối nhau thành một dải người từ Tallinn đến Vilnius để thể hiện tình đoàn kết của nhân dân ba nước Baltic cùng mong muốn tách khỏi Liên Xô.
Cộng hòa Estonia (từ năm 1991 đến nay)
Ngày 20 tháng 8 năm 1991, nhân lúc cuộc đảo chính Xô viết diễn ra tại Moskva, Estonia tuyên bố độc lập. Ngay sau đó, Iceland trở thành nước đầu tiên công nhận sự độc lập của Estonia. Và đến ngày 31 tháng 8 năm 1994, đơn vị quân đội cuối cùng của Liên bang Nga đã rời khỏi Estonia.
Sau khi trở thành một quốc gia độc lập, Estonia đã thắt chặt mối quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây. Năm 2004, Estonia gia nhập NATO và Liên minh châu Âu - EU. Trong khi đó, mối quan hệ giữa nước này với Nga lại xấu đi nhanh chóng và lên đến căng thẳng cực độ trong vụ Estonia di dời tượng đài Chiến sĩ đồng thiếc. Người Estonia gốc Nga đã vô cùng phẫn nộ và coi đây là một hành động lăng mạ sự hy sinh của hơn 5 vạn chiến sĩ Hồng quân là người Estonia. Việc Estonia di dời tượng đã gây ra những cuộc biểu tình của cộng đồng người gốc Nga, khiến một người chết và hàng trăm người bị bắt. Trước đó, Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov mô tả quyết định khai quật các ngôi mộ và dỡ bỏ bức tượng Chiến sĩ là "ghê tởm" Tổng thống Nga Putin lên án những người "đang xâm phạm các tượng đài tưởng niệm anh hùng chiến tranh, qua đó lăng mạ chính dân tộc mình và gieo mầm thù hận và nghi ngờ giữa các dân tộc và các nước". Ông Putin không nhắc đến quốc gia cụ thể nào, nhưng bài phát biểu là nhằm nhắc đến việc Estonia mới đây di dời tượng đài chiến sĩ hồng quân ở Tallinn..
Năm 2015, Văn phòng Tổng Công tố của Nga đang thẩm xét lại tính hợp pháp của việc Hội đồng Nhà nước Liên bang Xô viết trao nền độc lập cho ba nước Lithuania (Litva), Latvia và Estonia vào thời điểm năm 1991. Đơn kiến nghị của hai nhà lập pháp thuộc đảng Nước Nga Thống nhất của Putin gửi tới các công tố viên cho rằng việc trao nền độc lập cho Lithuania, Latvia và Estonia là bất hợp pháp. Nói với hãng tin Reuters, Bộ trưởng Ngoại giao Estonia Keit Pentus-Rosimannus cho rằng "Toàn bộ vấn đề là phi lý về mặt luật pháp. Đây là một ví dụ nữa của tư tưởng đế quốc đang trỗi dậy mà không may đang tồn tại ở Nga."
Chính trị
Chính phủ
Estonia là một nước cộng hòa theo chế độ dân chủ nghị viện gồm ba nhánh là: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quyền lập pháp được thực hiện bởi Nghị viện Estonia (Riigikogu), hay còn gọi là Hội đồng Quốc gia. Quốc hội Estonia gồm 101 ghế và được bầu 4 năm một lần.
Chính phủ của Estonia thuộc nhánh hành pháp, đứng đầu là thủ tướng Estonia. Chức thủ tướng được đề cử bởi tổng thống và được bầu tại quốc hội. Chính phủ Estonia có tổng cộng 12 bộ trưởng (bao gồm cả thủ tướng). Thủ tướng có quyền chỉ định các bộ trưởng khác phụ trách các bộ chuyên trách, ngoài ra còn có thể chọn thêm tối đa 3 bộ trưởng không phụ trách một bộ nào. Như vậy, số bộ trưởng tối đa trong chính phủ Estonia là 15 bộ trưởng.
Tòa án Tối cao Estonia (Riigikohus) phụ trách việc xét xử luật pháp với 19 thẩm phán tối cao. Chức tổng thẩm phán tối cao có nhiệm kỳ 9 năm và được đề cử bởi tổng thống, thông qua bởi quốc hội.
Tổng thống Estonia là người đứng đầu nhà nước Estonia. Tổng thống Estonia có vai trò chủ yếu trong các lĩnh vực ngoại giao và mang tính nghi thức, nhưng cũng có thể dừng thông qua một bộ luật. Chức vụ tổng thống được bầu bởi quốc hội với điều kiện phải giành được ít nhất 2/3 tổng số phiếu bầu.
Estonia là nước đầu tiên bầu cử chính quyền địa phương qua internet vào năm 2005 và bầu cử quốc hội qua internet vào năm 2007 . Tuy nhiên người dân Estonia vẫn có thể bầu cử theo cách truyền thống nếu họ muốn.
Đối ngoại
Sau khi trở thành một quốc gia độc lập, Estonia đã thắt chặt quan hệ ngoại giao với các nước phương Tây. Do có những mối quan hệ về lịch sử và văn hóa, người Estonia gần gũi với các nước Bắc Âu như Thụy Điển và Phần Lan hơn là với các nước cùng nằm trong khu vực Baltic như Latvia và Litva. Hiện nay quan hệ kinh tế giữa Estonia với các Bắc Âu ngày càng được đẩy mạnh với hơn 3/4 đầu tư nước ngoài vào Estonia là đến từ các nước Bắc Âu.
Sau khi độc lập khỏi nước Nga, hiến pháp của Estonia năm 1992 quy định chỉ có người định cư ở Estonia trước khi Liên Xô xâm lược (1940) mới được coi là người Estonia. Hiện có khoảng 1/3 dân số Estonia gốc Nga di cư sau 1940 trong thời kỳ Xô viết không có quyền công dân.
Trong khi đó, mối quan hệ giữa Estonia và Nga lại khá lạnh nhạt, nhiều lúc lên đến căng thẳng. Những mâu thuẫn chủ yếu giữa hai nước là vấn đề lãnh thổ kể từ sau khi Liên Xô tan rã hay những quan điểm khác nhau giữa hai nước về vấn đề lịch sử trước đây. Người Estonia gốc Bắc Âu coi người Nga là một lực lượng chiếm đóng đất nước họ, trong khi người Estonia gốc Nga và người Nga lại cho rằng họ đã giải phóng Estonia thoát khỏi chủ nghĩa phát xít. Căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi chính quyền Estonia quyết định di dời bức tượng đài chiến sĩ Hồng quân tại thủ đô Tallinn hồi tháng 4 năm 2007 vì lý do tượng đài này "gợi nhớ lại thời kỳ đau thương thời Liên Xô". Tuy nhiên người Estonia gốc Nga đã vô cùng phẫn nộ và coi đây là một hành động thóa mạ lịch sử. Mối quan hệ giữa Estonia với Nga trở nên căng thẳng chưa từng thấy .
Phân chia hành chính
Toàn bộ đất nước Estonia được chia thành 15 hạt (maakond), đứng đầu bởi một hạt trưởng do chính phủ bổ nhiệm với nhiệm kỳ 5 năm và đại diện cho chính quyền quốc gia ở cấp địa phương. Sau hạt, Estonia lại được chia tiếp thành 227 khu tự quản, bao gồm các thành phố (linn) và thị trấn (vald). Dưới đây là danh sách các hạt của Estonia:
Harju (hạt) (Harjumaa)
Hiiu (hạt) (Hiiumaa)
Ida-Viru (hạt) (Ida-Virumaa)
Järva (hạt) (Järvamaa)
Jõgeva (hạt) (Jõgevamaa)
Lääne (hạt) (Läänemaa)
Laan-Viru (hạt) (Lääne-Virumaa)
Pärnu (hạt) (Pärnumaa)
Põlva (hạt) (Põlvamaa)
Rapla (hạt) (Raplamaa)
Saare (hạt) (Saaremaa)
Tartu (hạt) (Tartumaa)
Valga (hạt) (Valgamaa)
Viljandi (hạt) (Viljandimaa)
Võru (hạt) (Võrumaa)
Địa lý
Địa hình
Về mặt địa lý, Estonia là một trong 3 nước vùng Baltic cùng với Latvia và Litva, thuộc khu vực Đông Âu. Nhưng theo phân loại của Liên Hợp Quốc thì Estonia lại thuộc vào khu vực Bắc Âu. Nước này có tổng diện tích là 45.226 km², trong đó phần đất là 43.211 km² và phần nước là 2.015 km². Đường bờ biển của Estonia dài tổng cộng 3.794 km, phía bắc giáp với vịnh Phần Lan còn phía tây giáp với biển Baltic. Trên đất liền, Estonia có đường biên giới chung với hai nước Liên bang Nga về phía đông và Latvia về phía nam.
Nhìn chung, địa hình của Estonia khá thấp. Độ cao trung bình của Estonia chỉ khoảng 50 m trên mực nước biển. Đồi Suur Munamägi là điểm cao nhất tại Estonia nhưng cũng chỉ cao có 318 m. Giống với nước láng giềng Phần Lan, Estonia cũng có rất nhiều hồ. Trên một diện tích bé nhỏ của nước này có tới 1400 hồ nước khác nhau, đa phần trong số chúng là những hồ nhỏ nhưng cũng có những hồ rất lớn như hồ Peipus, nằm giữa biên giới Estonia và Nga. Đa phần những hồ này được tạo thành sau khi băng rút đi vào cuối Thời kỳ Băng hà. Estonia cũng có rất nhiều sông, chủ yếu là các sông ngắn. Những con sông dài nhất nước này là Võhandu (162 km), Pärnu (144 km) và Põltsamaa (135 km). Bên cạnh đó Estonia cũng có rất nhiều đầm lầy.
Bờ biển Estonia có rất nhiều đảo và vịnh. Hai đảo lớn nhất của Estonia là đảo Saaremaa và đảo Hiiumaa được tính là hai trong số 15 tỉnh của nước này.
Estonia là một nước khá nghèo về khoáng sản. Các tài nguyên thiên nhiên chính của nước này chủ yếu bao gồm đá phiến dầu và đá vôi. Bên cạnh đó, rừng ôn đới cũng che phủ một phần lớn diện tích của Estonia, tới 51%.
Khí hậu
Estonia thuộc khu vực ôn đới gần lên đến hàn đới. Vị trí Estonia cũng là vùng đệm, chuyển tiếp giữa khí hậu ôn đới hải dương và ôn đới lục địa. Estonia (và phần lớn các nước Bắc Âu nói chung) có khí hậu điều hòa bởi dòng Hải lưu Gulf Stream thổi lên nên có nhiệt độ cao hơn so với những nước trong khu vực cùng vĩ độ trên thế giới. Biển Baltic cũng tác động đến khí hậu vùng ven biển, khác vùng nằm sâu trong nội địa.
Nhiệt độ trung bình hàng năm của Estonia là 5 °C. Về mùa đông, thời tiết khá lạnh những cũng không đến nỗi quá gay gắt. Nhiệt độ trung bình tháng 2, tháng lạnh nhất trong năm là khoảng -5,2 °C. Mùa hè thời tiết thường dịu mát. Nhiệt độ trung bình tháng 7, tháng nóng nhất trong năm là khoảng 18 °C .
Do chịu ảnh hưởng của dòng hải lưu Gulf Stream nước ấm và vị trí gần biển, Estonia có lượng mưa khá cao. Mỗi năm thông thường có từ 160 đến 190 ngày mưa. Tuyết thường rơi dày nhất tại vùng đông nam Estonia, kéo dài từ giữa tháng 12 đến cuối tháng 3. Mùa tuyết tan cũng là mùa lũ mùa xuân.
Kinh tế
Estonia là nước có nền kinh tế thị trường và là một trong những nước có mức thu nhập đầu người cao hơn mức trung bình ở Đông Âu và vùng Baltic. Tính đến năm 2016, GDP của Estonia đạt 23.476 USD, đứng thứ 105 thế giới và đứng thứ 34 châu Âu.
Chính phủ tiến hành các cải cách kinh tế thuận lợi do đó Estonia là nước đầu tiên trong các nước thuộc Liên Xô cũ thoát khỏi khủng hoảng, từ năm 1994 luôn có tăng trưởng kinh tế. Sau khi gia nhập EU nhờ thực hiện chính sách kinh tế thị trường tự do, chính sách tài chính thích hợp, ngân sách cân bằng và nợ công rất thấp và được sự hỗ trợ của phương Tây nên nền kinh tế bước vào giai đoạn phát triển nhanh, tăng trưởng GDP trung bình đạt trên 8% (2004-2007). Tuy nhiên từ giữa năm 2008 đến đầu 2010, do tác động khủng hoảng tài chính toàn cầu, GDP năm 2008 giảm 3,6%, năm 2009 GDP giảm 14,1%, thất nghiệp tăng 13,8%, lạm phát 11% (cao nhất trong EU). Năm 2010, kinh tế có dấu hiệu phục hồi: Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2011 đã có hơn 14 nghìn công ty mới được đăng ký ở Estonia, cao hơn 40% so với cùng kỳ năm 2008. Ngành công nghiệp công nghệ cao giờ đây chiếm tỷ trọng 15% GDP nước này.
Estonia cũng là một trong những nước có tốc độ đường truyền băng thông rộng nhanh nhất thế giới và giữ kỷ lục thế giới về số doanh nghiệp trên đầu người. Toàn bộ 1,3 triệu công dân của quốc gia này trả tiền đỗ xe qua điện thoại di động và có các hồ sơ sức khỏe được lưu trữ bằng công nghệ điện toán đám mây. 95% dân số nước này thực hiện việc kê khai hoàn thuế thu nhập hằng năm qua mạng và việc này chỉ mất khoảng năm phút. Việc đăng ký thành lập một doanh nghiệp cũng chỉ mất 5 phút thao tác qua dịch vụ chính phủ điện tử.
GDP tăng 1,6% (dự kiến 2016), tỷ lệ thất nghiệp còn cao - 13,5%, tỷ lệ lạm phát (giá tiêu dùng) - 2,4%, nợ công - 7,7% GDP, nợ ngoài nước - 25,13 tỷ USD (2009 - 25,56 tỷ đôla).
Estonia gia nhập Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) tháng 5 năm 2010, gia nhập khu vực đồng euro từ ngày 1 tháng 1 năm 2011.
Estonia có những thế mạnh: điện tử - viễn thông, chi phí nhân công rẻ trình độ chuyên môn cao, chi phí về nguyên liệu, dịch vụ viễn thông và vận tải, chi phí thuê văn phòng, nhà xưởng thấp hơn các nước khác trong khu vực,
Các ngành công nghiệp chủ yếu: máy móc, thiết bị điện tử, viễn thông, công nghệ thông tin, gỗ, hàng dệt may và dịch vụ. Tăng trưởng sản xuất công nghiệp năm 2010 là 10%.
Các ngành nông nghiệp chủ yếu: ngũ cốc, khoai tây, rau, chăn nuôi và sản phẩm sữa, cá.
GDP theo cấu trúc ngành nông nghiệp: 3.7%, công nghiệp: 30.2% dịch vụ: 66.1%
Lực lượng lao động theo lĩnh vực nghề nghiệp: nông nghiệp: 4.2%, công nghiệp: 20.2%, dịch vụ: 75.6%
Thương mại
Năm 2010, xuất khẩu đạt 10,77 tỷ USD. Mặt hàng xuất khẩu chính: máy móc, thiết bị điện - 21%, gỗ và sản phẩm gỗ - 9%, kim loại - 9%, đồ nội thất - 7%, xe cộ và phụ tùng - 5%, các sản phẩm thực phẩm và đồ uống - 4%, dệt may - 4%, chất dẻo -3%.
Đối tác xuất khẩu chính: Phần Lan -18,57%, Thụy Điển - 12,52%, Latvia - 9,51%, Nga - 9,33%, Đức - 6,09%, Litva - 4,76%, Mỹ - 4,26%.
Nhập khẩu đạt 11,520 USD. Mặt hàng nhập khẩu chính: máy móc, thiết bị điện - 22%, nhiên liệu khoáng sản - 18%, sản phẩm hóa chất - 3%, thực phẩm - 6%, chất dẻo - 6%, dệt may - 5%.
Đối tác nhập khẩu chính: Phần Lan -14,52%, Litva - 10,84%, Latvia -10,47%, Đức - 10,33%, Nga - 8,59%, Thụy Điển - 8,34%, Ba Lan - 5,63%.
Đầu tư
Do chính sách đầu tư cởi mở, đối xử nhà đầu tư nước ngoài như trong nước nên đã thu hút được khá nhiều vốn đầu tư.
Đầu tư (tổng cố định): 22,5% GDP (2010).
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài: 17,530 tỷ USD (2010).
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài: 7,134 tỷ USD (2010).
Tôn giáo
Hiến pháp Estonia bảo đảm tự do tôn giáo, tách riêng nhà thờ và nhà nước, và các quyền cá nhân riêng tư của tín ngưỡng và tôn giáo. Theo Viện truyền thông Dentsu Inc, Estonia là một trong những nước vô thần nhất trên thế giới, với 75,7% dân số tự xưng là không theo tôn giáo nào. Các cuộc điều tra năm 2005 cho thấy chỉ có 16% dân số Estonia tuyên xưng niềm tin vào một vị thần, niềm tin thấp nhất của tất cả các nước được nghiên cứu. Các giáo phái tôn giáo lớn nhất trong nước là Giáo hội Luther, có 152.000 tín hữu chiếm 14,8% dân số, chủ yếu là người Estonia. Và 143.000 tín hữu của Chính Thống giáo, chủ yếu là cộng đồng thiểu số người Nga. Theo điều tra dân số năm 2000, có khoảng 152.000 tín đồ thuộc Giáo hội Luther, 143.000 tín đồ Chính thống giáo, 5.000 người thuộc Công giáo La Mã, 4,268 người theo Nhân chứng Jehovah, [178] và 1.000 tín đồ của đạo Taaraism hoặc Maausk. Cộng đồng Do Thái giáo có dân số ước tính khoảng 1.900. Khoảng 68.000 người tự coi mình là người vô thần. Đất nước này đã Kitô hóa bởi các Hiệp sĩ Teuton trong thế kỷ XIII. Trong thời Cải Cách, đạo Tin Lành lan rộng, và nhà thờ Luther đã chính thức được thành lập ở Estonia năm 1686. Nhiều người Estonia tuyên xưng không được đặc biệt theo tôn giáo nào, bởi vì luật tôn giáo thông qua vào thế kỷ XIX gắn liền với quy luật phong kiến Đức.
Chú thích |
Chứng nhận xuất xứ mẫu A, còn gọi tắt đối với những người làm công tác thanh toán quốc tế là CO form A hay GSP form A. Đây là một trong các chứng từ sử dụng trong thanh toán quốc tế với các nhà nhập khẩu của một số quốc gia khác, bên cạnh hóa đơn thương mại, hối phiếu, vận đơn và các chứng từ khác có liên quan (nếu có). Nó được một số quốc gia phát triển giàu có chấp nhận nhằm tính thuế ưu đãi cho hàng hóa có xuất xứ từ các quốc gia đang phát triển.
Danh sách các quốc gia chấp nhận C/O form A
Dưới đây là danh sách các quốc gia chấp nhận C/O form A trong Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP).
Mục đích
Mục đích của CO form A là để làm căn cứ giúp cho các cơ quan quản lý về thuế xác định được mức thuế suất thuế nhập khẩu (ưu đãi) cũng như trị giá tính thuế của các mặt hàng đã được cấp chứng nhận xuất xứ từ quốc gia phát hành ghi trên một chứng nhận xuất xứ mẫu A cụ thể, do các quốc gia nhập khẩu áp dụng các biểu thuế suất nhập khẩu khác nhau đối với cùng một mặt hàng nhưng có nguồn gốc xuất xứ khác nhau.
Phát hành
Việc phát hành chứng nhận xuất xứ mẫu A do cơ quan có thẩm quyền thực hiện trên cơ sở khai báo của các nhà xuất khẩu và đơn xin cấp của họ. Các khai báo của nhà xuất khẩu phải cho thấy quốc gia nhập khẩu thuộc về danh sách nói trên, nếu không cần phải sử dụng chứng nhận xuất xứ mẫu khác. Thông thường, chứng nhận này do các Phòng thương mại và công nghiệp cấp với một lệ phí nhỏ.
Tại Việt Nam, hiện nay một số mặt hàng xuất khẩu vào thị trường của Liên minh châu Âu cần có thêm giấy phép xuất khẩu (Export License) nên chứng nhận xuất xứ mẫu A khi đó do các phòng giấy phép xuất nhập khẩu các khu vực cấp.
Các khai báo
Mục 1: Tên và địa chỉ đầy đủ của nhà xuất khẩu
Mục 2: Tên và địa chỉ đầy đủ của người được ủy thác nhận hàng hóa.
Mục 3: Phương tiện vận tải và hành trình của lô hàng (càng chi tiết càng tốt), thông thường có dẫn chiếu tới vận đơn.
Mục 4: Dành cho cơ quan cấp chứng nhận xuất xứ (có thể để trống hoặc đóng dấu RETROSPECTIVELY (cấp muộn) trong trường hợp chứng nhận xuất xứ được cấp sau ngày vận đơn một khoảng thời gian dài, thường là sau từ 1 -2 tuần.
Mục 5: Số thứ tự của các mặt hàng xin cấp chứng nhận xuất xứ.
Mục 6: Nhãn, mác vận chuyển và số lượng kiện hàng theo từng loại mặt hàng.
Mục 7: Mô tả chung về hàng hóa, số lượng và chủng loại kiện hàng.
Mục 8: Ghi tiêu chuẩn xuất xứ. Cụ thể như sau:
Nếu toàn bộ sản phẩm hàng hóa có 100% nguyên liệu đầu vào và được sản xuất tại một quốc gia duy nhất thì ghi chữ "P", riêng xuất vào Úc và New Zealand thì có thể để trống.
Nếu hàng hóa được gia công, chế biến và định hình cuối cùng từ một quốc gia, còn nguyên liệu đầu vào có nguồn gốc nhập khẩu thì:
Đối với nước nhập khẩu là Mỹ, ghi chữ "Y" nếu giao hàng trực tiếp từ nước xuất khẩu và ghi "Z" nếu việc giao hàng không trực tiếp (thông qua nước thứ ba), kèm theo là tỷ lệ phần trăm của tổng giá trị của nguyên phụ liệu nội địa và các chi phí về nhân công trên cơ sở giá giao hàng EXW. Ví dụ "Y" 35% hay "Z" 49%.
Nước nhập khẩu là Canada: Nếu hàng hóa được gia công hay chế biến từ các nước đang phát triển thì ghi "G", còn lại thì ghi "F".
Nước nhập khẩu là Nhật Bản, Na Uy, Thụy Sĩ và 15 nước thuộc Liên minh châu Âu trước khi mở rộng thêm 10 quốc gia mới: Ghi chữ "W" và sau đó là mã số của hàng hóa theo quy định trong Harmonized Commodity Description and coding System (HS code) ở mức 4 chữ số đầu tiên (mã đầy đủ là 8 số). Ví dụ "W"96.18 (có thể ghi là W-9618).
Nước nhập khẩu là Bulgari, Cộng hòa Séc, Hungary, Ba Lan, Nga, Slovakia: Ghi là "Y" cộng với số phần trăm giá trị của nguyên liệu nhập khẩu trên cơ sở giá FOB nếu hàng hóa được gia công chế biến một phần tại nước xuất khẩu (nguyên liệu chưa qua gia công chế biến được nhập khẩu một phần). ví dụ "Y"45%. Trong trường hợp hàng hóa được gia công chế biến qua nhiều công đoạn tại nhiều nước đang phát triển khác nhau thì ghi "Pk".
Nước nhập khẩu là Úc và New Zealand: Không cần ghi gì.
Mục 9: Ghi trọng lượng tổng thể hay các loại đơn vị tính khác.
Mục 10: Ghi ngày và số của hóa đơn bán hàng.
Mục 11: Xác nhận của cơ quan cấp chứng nhận xuất xứ (ngày tháng năm cấp, chữ ký và dấu).
Mục 12: Ghi nước xuất khẩu và nước nhập khẩu, ngày tháng năm xin cấp, chữ ký và dấu của nhà xuất khẩu.
Ghi chú
Đối với Úc, NewZealand: Chứng nhận xuất xứ mẫu A không phải là một yêu cầu bắt buộc.
Đối với Mỹ, thông thường nên khai báo trước các chi tiết về hàng hóa trước khi hàng hóa được xếp lên phương tiện vận tải để hải quan Mỹ xem xét, tránh các trường hợp bị từ chối nhập khẩu. Chứng nhận xuất xứ mẫu A cũng không phải là một yêu cầu bắt buộc. |
Trong toán học nói chung và lượng giác học nói riêng, các hàm lượng giác là các hàm toán học của góc, được dùng khi nghiên cứu tam giác và các hiện tượng có tính chất tuần hoàn. Các hàm lượng giác của một góc thường được định nghĩa bởi tỷ lệ chiều dài hai cạnh của tam giác vuông chứa góc đó, hoặc tỷ lệ chiều dài giữa các đoạn thẳng nối các điểm đặc biệt trên vòng tròn đơn vị. Những định nghĩa hiện đại hơn thường coi các hàm lượng giác là chuỗi số vô hạn hoặc là nghiệm của một số phương trình vi phân, điều này cho phép hàm lượng giác có thể có đối số là một số thực hay một số phức bất kì.
Các hàm lượng giác không phải là các hàm số đại số và có thể xếp vào loại hàm số siêu việt.
Các hàm lượng giác cơ bản
Ngày nay, chúng ta thường làm việc với sáu hàm lượng giác cơ bản, được liệt kê trong bảng dưới, kèm theo liên hệ toán học giữa các hàm.
Trong lịch sử, một số hàm lượng giác khác đã được nhắc đến, nhưng nay ít dùng là: |
Cải cách Kháng nghị (Protestant Reformation) hay Cải chính Tin Lành là cuộc cải cách tôn giáo khởi xướng bởi Martin Luther và được tiếp nối bởi Jean Calvin, Huldrych Zwingli, Jacobus Arminius và những người khác tại châu Âu thế kỷ 16. Với ý định ban đầu là nhằm cải cách Giáo hội Công giáo Rôma, phong trào thường được coi là bắt đầu với 95 luận đề của Martin Luther và kết thúc với Hòa ước Westphalia năm 1648. Khi ấy, nhiều người ở châu Âu bất bình về những điều họ cho là các giáo lý giả mạo và những lạm dụng phổ biến trong giáo hội, nhất là việc mua bán phép ân xá (indulgence). Một hiện tượng khác gây bất mãn không kém là việc buôn bán chức thánh, cũng như tình trạng thối nát trong giáo triều Công giáo Roma (Vatican). Đối với nhiều người, sự băng hoại này là cố tật của cả hệ thống, ngay cả ở vị trí các Giáo hoàng.
Ngày 31 tháng 10 năm 1517, tại Sachsen (thuộc nước Đức ngày nay), Martin Luther treo 95 Luận đề trên cửa Nhà thờ Lâu đài Wittenberg (đây là chỗ được dùng để treo các thông báo của viện đại học) kêu gọi mở các cuộc tranh luận về các vấn đề của giáo hội. 95 luận đề của Luther trình bày các luận điểm phê phán giáo hội và Giáo hoàng, tập chú vào việc bán phép ân xá, và quan điểm của giáo hội về Luyện ngục. Trước Luther đã có những người lên tiếng đòi cải cách như Pierre Vaudès, John Wycliffe và Jan Hus. Nhiều nhân vật khác tiếp bước phong trào cải cách tuy quan điểm có khác biệt nhất định với Luther, như Huldrych Zwingli, Jean Calvin và Jacobus Arminius. Nhìn chung, những giáo lý của giáo hội mà những người chủ trương cải cách muốn thay đổi là luyện ngục, sự sùng kính Maria, việc các thánh cầu bầu và được tôn kính, hầu hết các bí tích, luật độc thân giáo sĩ, và thẩm quyền của Giáo hoàng.
Giáo hội Công giáo thời đó đã phản ứng bằng cách tiến hành chiến dịch chấn hưng Công giáo và phản đối Kháng Cách, do Công đồng Trent khởi xướng và được Dòng Tên thực thi triệt để. Nhìn chung, Bắc Âu, ngoại trừ Ireland và một vài nơi thuộc Anh Quốc, tiếp nhận đức tin Kháng Cách, Nam Âu duy trì truyền thống Công giáo Rôma, trong khi tranh chấp quyết liệt dẫn đến những cuộc chiến diễn ra ở Trung Âu.
Trong số các giáo phái phát sinh từ cuộc Cải cách Kháng nghị, quan trọng nhất là các Giáo hội Lutheran (phần lớn ở Đức, vùng Nordic và Baltic), các Giáo hội Cải cách (hay Calvinist, hầu hết ở Pháp, Thụy Sĩ, Hà Lan, Hungary, và Scotland), và Anh giáo. Bên cạnh đó cũng tồn tại các phong trào như Anabaptist được gọi chung là Cải cách Triệt để.
Khởi nguyên
Tình trạng bất ổn, vốn âm ỉ bên trong giáo hội và đế quốc, được đẩy lên đỉnh điểm khi xảy ra việc dời ngai Giáo hoàng về Avignon, Pháp (1308-1378), và sự tranh chấp thẩm quyền giữa hai triều Giáo hoàng tồn tại song song (1378-1416) gây ra các cuộc chiến giữa các vương hầu, những cuộc nổi dậy của nông dân, và sự quan ngại ngày càng lan rộng về tình trạng thối nát của hệ thống tu viện. Chủ nghĩa dân tộc mới xuất hiện bắt đầu thách thức tính đồng nhất của thế giới đại đồng của thời kỳ trung cổ lúc bấy giờ.
Một trong những luận điểm cấp tiến và gay gắt nhất đến từ John Wycliffe thuộc Đại học Oxford, sau đó là từ Jan Hus thuộc Đại học Karl ở Praha. Giáo hội Công giáo Rô-ma kết thúc cuộc tranh luận tại Công đồng Constance (1414-1418) với án lệnh xử tử Jan Hus trên giàn hoả thiêu (dù Hus được lời hứa bảo đảm an toàn tính mạng khi đến đối chất tại công đồng), và thiêu di hài của Wycliffe như một án phạt dành cho kẻ dị giáo.
Bất kể những nỗ lực nhằm xác định rõ ràng và củng cố các khái niệm truyền thống thời trung cổ về giáo hội và đế quốc, Công đồng Constance đã không nhận diện được tình trạng căng thẳng giữa các dân tộc, cùng những bất đồng về thần học đã được khơi dậy trong thế kỷ trước. Công đồng cũng không ngăn chặn được cuộc ly giáo và các cuộc chiến tại Bohemia (Chiến tranh Hussite) khi người dân xứ này nổi dậy phản kháng việc xử tử Jan Hus.
Những biến động lịch sử thường sản sinh nhiều tư duy mới về lề lối cần có để tái tổ chức xã hội, và đây là trường hợp dẫn đến cuộc Cải cách Tin Lành. Nối tiếp sự sụp đổ của các định chế tu viện và học thuyết kinh viện tại Âu châu vào cuối thời kỳ trung cổ, với đỉnh điểm là thời kỳ Triều Giáo hoàng tại Avignon, sự tranh chấp thẩm quyền giữa hai triều Giáo hoàng, và sự thất bại của các nỗ lực cải cách dựa vào công đồng.
Thế kỷ 16 chứng kiến sự sôi sục của cuộc tranh luận lớn về cải cách tôn giáo và, sau này, về những giá trị tôn giáo căn bản. Đại thể, các sử gia cho rằng rào cản của những nỗ lực cải cách trước đó (quá nhiều quyền lợi khác biệt, thiếu sự phối hợp để có thể hình thành một liên minh cải cách) sẽ dẫn đến các biến động nghiêm trọng hơn, hoặc ngay cả một cuộc cách mạng, vì hệ thống hiện hữu hoặc phải tự điều chỉnh hoặc sẽ bị tan rã, và sự thất bại của phong trào cải cách dựa vào công đồng giáo hội (conciliar movement) đã dọn đường cho cuộc Cải cách Tin Lành tại Tây Âu. Những phong trào cải cách thiếu định hướng - từ chủ nghĩa hình thức, phong trào sùng kính đến Chủ nghĩa Nhân bản - nối kết với sức mạnh kinh tế, chính trị và thành phần xã hội góp phần làm gia tăng mối bất bình trong dân chúng đối với sự giàu có và thế lực của giai cấp tăng lữ đặc quyền, khuấy động sự bất mãn đối với tình trạng thối nát về đạo đức và tài chính của một giáo hội đang chìm đắm trong tinh thần thế tục.
Chủ nghĩa nhân bản Thời kỳ Phục hưng đem đến khí thế sục sôi chưa từng có trong giới khoa bảng, cùng lúc với mối quan tâm dành cho tinh thần tự do trong học thuật. Diễn biến không ngơi nghỉ trong các đại học là những cuộc tranh luận sôi nổi xoay quanh các chủ đề như bản chất của giáo hội, nguồn và phạm vi của thẩm quyền dành cho Giáo hoàng, các công đồng và các vương hầu.
Cuộc Cải cách
Tín hữu Kháng Cách thường truy nguyên sự phân ly của họ với Giáo hội Công giáo Rôma đến thế kỷ 16, với phong trào thường được gọi là cuộc Cải cách Hiệp quyền hay Cải cách Pháp chế (Magisterial Reformation), vì phong trào này nhận được sự ủng hộ từ giới quan quyền (để phân biệt với cuộc Cải cách Triệt để, không được giới cầm quyền hỗ trợ hay ủng hộ). Phong trào phản kháng bùng nổ đột ngột tại nhiều nơi, nhưng tìm thấy sức mạnh của mình tại Đức, suốt thời gian Âu châu đang bị đe dọa bởi cuộc xâm lăng Hồi giáo, mối hiểm họa này khiến các vương hầu Đức xao lãng các vấn đề nội chính. Tóm lại, đến một mức độ nào đó, phong trào phản kháng có nguồn gốc sâu xa từ những biến cố xảy ra trong suốt hai thế kỷ trước đó tại Tây Âu.
Tinh thần phản kháng trở nên nghiêm trọng khi Martin Luther, tu sĩ Dòng Augustine và giáo sư Đại học Wittenberg, vào năm 1517 kêu gọi mở lại cuộc tranh luận về việc bán Phép ân xá (indulgence). Truyền thống cho rằng Luther đã treo 95 luận đề trên cửa của nhà thờ lâu đài Wittenberg, nơi dành để treo các thông báo của viện đại học. Động thái này khơi mở sự bùng nổ đột ngột và dữ dội một sức mạnh mới không thể kìm chế nổi, bắt nguồn từ nỗi bất bình âm ỉ từ lâu trong sự đè nén. Sự bất mãn mau chóng lan rộng khắp nơi, một phần là nhờ kỹ thuật in ấn, xuất bản những ấn phẩm nhằm phổ biến các tư tưởng mới và các văn kiện như 95 luận đề.
Xảy ra cùng lúc với các biến động tại Đức là một phong trào tại Thụy Sĩ dưới sự lãnh đạo của Huldrych Zwingli. Hai phong trào này mau chóng đồng ý với nhau về hầu hết các vấn đề về thần học cũng như phương pháp thí dụ như sử dụng ấn phẩm để truyền bá tư tưởng cải cách. Tuy vậy, một số bất đồng không quan trọng lại khiến họ tiếp tục duy trì tình trạng hai thực thể phân cách. Một số người ủng hộ Zwingli cho rằng cuộc cải cách tại Đức là còn quá bảo thủ, và họ ngày càng hướng về các quan điểm quá khích như Anabaptist (một vài giáo phái có nguồn gốc từ phong trào này vẫn tồn tại cho đến ngày nay). Một số phong trào phát triển theo hệ tư tưởng của thuyết thần bí hay thuyết nhân bản, đôi khi họ tách rời khỏi Công giáo hay khỏi cộng đồng Kháng Cách, hoặc thành lập các phong trào bên ngoài các giáo hội.
Kế tiếp giai đoạn đầu của cuộc Cải cách, sau sự kiện Luther bị khai trừ khỏi giáo hội và Giáo hoàng lên án cuộc cải cách, các tác phẩm của John Calvin gây nhiều ảnh hưởng trong tiến trình kiến tạo một sự đồng thuận tương đối trong vòng các nhóm khác nhau tại Thụy Sĩ, Scotland, Hungary, Đức và các nơi khác. Sự kiện Giáo hội Anh Quốc tách rời khỏi giáo hội Công giáo Rôma dưới triều Henry VIII, bắt đầu từ năm 1529 và hoàn tất vào năm 1536, đem nước Anh đồng hành với cuộc cải cách; tuy nhiên, những thay đổi tại Anh được tiến hành một cách dè dặt hơn các nơi khác ở châu Âu, suốt nhiều thế kỷ họ chọn lựa con đường trung trung giữa truyền thống và tân giáo, nhằm kiên định tinh thần thoả hiệp bền vững bên trong giáo hội.
Từ chủ nghĩa nhân văn đến tư tưởng Cải cách
Những nỗ lực cải cách thiếu định hướng của những người theo thuyết nhân văn (nhân bản), chịu ảnh hưởng bởi Thời kỳ Phục hưng (Renaissance), chỉ làm những người có khuynh hướng cải cách càng thêm mất kiên nhẫn. Eramus và những nhân vật hậu bối như Luther và Zwingli đều xuất hiện từ cuộc tranh luận này, dần dần trở nên các nhân tố đóng góp vào cuộc ly giáo thứ hai của thế giới Cơ Đốc giáo. Không may cho giáo hội, cuộc khủng hoảng thần học khởi phát với William xứ Ockham vào thế kỷ 14 được nối kết với sự bất mãn của giới thị dân. Kể từ lúc các nền tảng triết học của chủ nghĩa kinh viện sụp đổ, thuyết duy danh (nominalism) mới xuất hiện là điềm báo bất tường cho giáo hội cho đến lúc ấy vẫn được xem là định chế hợp pháp đóng vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Hệ tư tưởng mới, ủng hộ khái niệm cho rằng không có học thuyết tôn giáo nào có thể được chống đỡ bởi các cuộc tranh luận triết học, đã bào mòn sự liên kết lâu đời giữa lý trí và đức tin được giảng dạy vào thời trung cổ bởi Thomas Aquinas.
Các phong trào cải cách như chủ nghĩa nhân bản và thuyết sùng kính đề kháng triết học kinh viện thời trung cổ cùng các thể chế hỗ trợ nó. Tại Đức, thuyết sùng kính được ưa chuộng tại các đại học, cho rằng cần có một định nghĩa mới về Thiên Chúa, ngài không còn được nhìn xem là một nguyên tắc tể trị thuần lý, nhưng là một ý chí toàn trị với quyền năng vô hạn. Thiên Chúa nay được xem là đấng tể trị tuyệt đối, vượt quá sự hiểu biết của con người, và tôn giáo nên thiên về nhiệt tâm và tình cảm. Điều này dẫn đến sự phục hưng nền thần học Augustine, dạy rằng con người không thể được cứu rỗi bởi những nỗ lực của chính mình, nhưng bởi ân điển của Thiên Chúa, đã bào mòn tính hợp pháp của các thể chế nghiêm nhặt của giáo hội, theo đó giáo hội cung cấp một kênh dẫn giúp con người làm điều lành để được lên thiên đàng. Dù vậy, thuyết nhân bản khởi thủy là một phong trào cải cách giáo dục bắt rễ từ những nỗ lực vào thời phục hưng nhằm phục hồi tư tưởng và nền giáo dục kinh điển. Là cuộc cách mạng chống lại luận lý học Aristotle, thuyết nhân bản đặt trọng tâm vào việc thay đổi từng cá nhân thông qua phương pháp thuyết phục như là một sự đối nghịch với tính thuần lý.
Sự phân cực xảy ra trong cộng đồng học thuật tại Đức khi giới tăng lữ tấn công Johann Reuchlin (1455–1522) vì ông nghiên cứu về những văn bản tiếng Do Thái Kinh Thánh và tiếng Do Thái, khiến Luther trở nên đồng cảm với những cải cách giáo dục của những người theo thuyết nhân văn với chủ trương ủng hộ quyền tự do học thuật. Dưới sự lãnh đạo của Erasmus, những người theo thuyết nhân bản lên án các hình thức khác nhau của sự thối nát bên trong giáo hội. Erasmus cho rằng tôn giáo thật là sự sùng tín nội tâm hơn là các biểu hiện bên ngoài thông qua nghi thức và thánh lễ (bí tích). Ông viết, "Tôi nhận thấy người dân thường trong thế giới Cơ Đốc giáo đã trở nên bại hoại, không chỉ trong cách sống mà còn trong ý tưởng. Tôi cũng thấy phần lớn những người tự nhận là cha xứ và giáo sư đang lạm dụng danh Chúa để làm lợi cho mình...rao giảng những gì họ gọi là điều răn của Chúa nhưng thật ra chỉ là phát kiến của con người...phép ân xá, đóng góp tiền bạc thay vì thật lòng ăn năn, và những điều tương tự..." Chú trọng vào nỗ lực cải thiện đạo đức và giảm nhẹ các nghi thức, Erasmus đã đặt nền tảng cho cuộc cải cách của Luther.
Chủ trương chống định chế tăng lữ của thuyết nhân bản cũng ảnh hưởng sâu đậm trên Luther. Giới trung lưu ngày càng học thức cao tại miền bắc nước Đức, được gọi là cộng đồng trí thức, cùng giới thị dân quay sang hệ tư tưởng mới của Luther để khái niệm hóa nỗi bất bình của họ theo cung cách của nền văn hóa thời ấy. Sự trỗi dậy của giới thị dân cùng với nguyện vọng của họ muốn điều hành công việc của mình mà không bị hạn chế bởi các rào cản của thể chế hoặc các tập quán văn hóa đã lỗi thời, làm gia tăng tính thuyết phục của chủ nghĩa cá nhân theo thuyết nhân bản. Đối với nhiều người, tư tưởng của giáo hội là quá nghiêm nhặt, nhất là trong lãnh vực tín dụng. Giới thị dân và các vương hầu liên kết với nhau trong mối quan tâm về việc không đóng thuế cho nhà nước, họ cho rằng phần lớn tiền thuế thu từ dân chúng được nộp cho Giáo hoàng tại nước Ý.
Các khuynh hướng này thúc đẩy những đòi hỏi cho cải cách và làm phục hồi trào lưu bài tăng lữ. Những người cải cách bắt đầu quan tâm đến sự phân cách giữa linh mục và bầy chiên của họ. Không phải linh mục nào cũng có thể hưởng một nền giáo dục tốt. Linh mục đang phục vụ tại các giáo xứ thường không biết tiếng Latin, các cha xứ tại nông thôn còn có ít cơ hội hơn để được đào tạo về thần học. Ngược lại, vì là chủ sở hữu các vùng đất rộng lớn, nhiều giám mục quay sang học luật, thay vì thần học, để đảm trách các công việc quản trị tài sản. Sự kính trọng dành cho giáo hội ngày càng sút giảm, nhất là trong giới thị dân có học thức, đặc biệt khi liên quan đến một chuỗi các sự kiện làm bẽ mặt giáo hội như việc bắt giữ Giáo hoàng Boniface VIII theo lệnh của Philip IV, vua nước Pháp, "thời kỳ lưu đày" tại Avignon, sự tranh chấp quyền lực giữa hai Giáo hoàng, và sự thất bại của những nỗ lực cải cách dựa vào các công đồng. Trong một ý nghĩa nào đó, chiến dịch gây quỹ xây dựng Đại Giáo đường Thánh Peter dưới triều Giáo hoàng Leo X là gánh nặng quá sức cho một giáo hội ưa chuộng sự thanh nhã và hào nhoáng theo cung cách của thời phục hưng, buộc họ phải đẩy mạnh việc bán phép ân xá, do đó làm gia tăng ác cảm của giới thị dân đối với hệ thống tăng lữ.
Luther, đem đến cho khái niệm về sự cứu rỗi chỉ bởi đức tin của Augustine một tầm cao mới. Thừa hưởng từ thuyết nhân bản ý thức về quyền tự do cá nhân, Luther dạy rằng mỗi tín hữu đều có quyền tư tế (quan điểm này nhận được sự ủng hộ rộng rãi nhờ sự lớn mạnh của giới trung lưu có học thức tại miền bắc nước Đức), và quan điểm của ông cho rằng Kinh Thánh là thẩm quyền chân chính duy nhất khơi mở trở lại các cuộc tranh luận về việc hạn chế thẩm quyền của Giáo hoàng.
Những ảnh hưởng tác động trên cuộc cải cách
Dù một số tư tưởng của thuyết nhân bản được chấp nhận rộng rãi trong vòng các nhà cải cách, ảnh hưởng lớn nhất tác động trên phong trào này là Kinh Thánh. Trong nhiều thế kỷ, Giáo hội Công giáo chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa nhân bản: từ thuyết tân Plato của các triết gia kinh viện cho đến thuyết tân Aristotle được giảng dạy bởi Thomas Aquinas và các môn sinh của ông, đã biến thuyết nhân bản trở thành một phần của giáo lý của giáo hội. Như vậy, khi Luther và các nhà cải cách khác chấp nhận tín lý "duy Thánh Kinh" (sola scriptura), xem Kinh Thánh là tiêu chí duy nhất của nền thần học, đã đặt cuộc cải cách của họ vào vị thế đối kháng với thuyết nhân bản của thời kỳ ấy.
Luther được đào tạo để trở thành giáo sư chuyên ngành thánh kinh học và đang khi giảng dạy môn học này tại Đại học Wittenberg, Kinh Thánh đã đổi mới bản thân ông. Về sau ông tỏ ra hối tiếc vì đã dành quá nhiều thời gian để nghiên cứu các tác giả nhân bản cổ điển như Plato và Aristotle thay vì nghiên cứu Kinh Thánh. Cũng nên biết rằng Luther không biết đến những tác phẩm của các nhà cải cách trước ông như Jan Hus cho đến khi, qua lời chế giễu của một trong những đối thủ của ông, Johann Eck, Luther mới nhận ra rằng ông đang rao giảng điều mà Jan Hus đã giảng dạy trước đó.
Tín hữu Kháng Cách tập chú vào các khái niệm như được xưng công chính chỉ bởi đức tin (phân biệt với được xưng công chính bởi đức tin cùng với việc làm), "duy Kinh Thánh" (Kinh Thánh là thẩm quyền duy nhất và tối hậu), "quyền tư tế dành cho mọi tín hữu" (phân biệt với thẩm quyền dành cho giới tăng lữ thông qua việc cử hành các thánh lễ), mọi người phải chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa có nghĩa là, theo Kinh Thánh, ngoại trừ Chúa Giê-xu, không ai có thể có vai trò trung gian giữa Thiên Chúa và con người. Bởi vì các nhà cải cách xem các giáo lý này là bắt nguồn từ Kinh Thánh, họ khuyến khích việc xuất bản Kinh Thánh cùng với nền giáo dục phổ thông, vì họ cho rằng người ta không thể hiểu biết về sự cứu rỗi nếu không thể đọc và hiểu Kinh Thánh (Xem Năm Tín lý Duy nhất).
Trong các thế kỷ trước đó, đã có các phong trào kêu gọi hội thánh trở lại với sự dạy dỗ của Kinh Thánh, nổi bật nhất là những nỗ lực đến từ John Wycliffe và Jan Hus. Không có gì đáng ngạc nhiên khi dễ dàng nhận thấy tư tưởng của các nhân vật này được lặp lại trong cuộc Cải cách Tin Lành, vì cả hai đều đến từ một nguồn: Kinh Thánh.
Sự trỗi dậy của ý thức quốc gia cùng mối bất bình về tình trạng đạo đức suy đồi trong giáo hội là những nhân tố xuất hiện vào cùng một thời điểm để trở thành lực đẩy cho cuộc cải cách, nhưng chính là ý thức quay về với giáo huấn của Kinh Thánh đã khởi phát cuộc cải cách, và duy trì sức mạnh của phong trào này cho đến ngày nay.
Cải cách Tin Lành là thành quả rực rỡ của phong trào xóa mù chữ cũng như phát minh máy in. Bản dịch Kinh Thánh sang tiếng Đức của Luther là thời điểm quyết định cho sự phát triển của nỗ lực xóa mù chữ cho người dân thường, đồng thời kích thích việc in ấn và phổ biến sách và tiểu luận tôn giáo. Kể từ năm 1517, các loại tiểu luận tôn giáo ngập tràn nước Đức và nhiều nơi khác ở châu Âu.
Đến năm 1530 đã có hơn 10 000 xuất bản phẩm với tổng cộng 10 triệu ấn bản. Cuộc cải cách đã thúc đẩy cuộc cách mạng truyền thông. Công nghệ in ấn đã được sử dụng cách hiệu quả để truyền bá tư tưởng cải cách. Những tác gia cải cách vẫn sử dụng văn phong, ngôn ngữ, và những hình mẫu thời tiền cải cách nhưng họ biết cách ứng dụng chúng cho những mục tiêu mới. Những tác phẩm viết bằng tiếng Đức như bản dịch Kinh Thánh, sách giáo lý dành cho trẻ em, và sách giáo lý dành cho mục sư của Luther đã có ảnh hưởng rộng rãi.
Việc sử dụng tiếng Đức dân gian cho bản Tín điều các Sứ đồ làm cho bản tuyên tín này trở nên dễ hiểu và gần gũi hơn. Những hình ảnh minh họa cho Kinh Thánh cũng như những tiểu luận tôn giáo đã là công cụ hữu hiệu giúp phổ biến tư tưởng Luther. Danh họa Lucas Cranach (1472-1553), một thân hữu của Luther, đã góp phần minh họa nền thần học Luther cho quảng đại quần chúng.
Cải cách ngoài nước Đức
Cải cách tại Anh
Cuộc cải cách tại Anh diễn biến theo chiều hướng khác. Từ lâu đã xuất hiện trào lưu bài tăng lữ, cũng đã dấy lên phong trào Lollard, soi dẫn những người theo Jan Hus tại xứ Bohemia. Tuy vậy, vào thời kỳ ấy của thập niên 1520, phong trào này không tạo được ảnh hưởng đáng kể nào trong quần chúng. Đặc điểm của cuộc cải cách tại Anh là xuất phát từ những mục tiêu chính trị của Henry VIII. Mặc dù từng là tín hữu Công giáo nhiệt thành, chưa bao giờ chối bỏ giáo lý Công giáo, và từng viết sách công kích Martin Luther, nhà vua nhận ra rằng tách rời khỏi ngai Giáo hoàng là ích lợi hơn nhiều. Năm 1534, đạo luật Quyền Tối Thượng đặt Henry vào vị trí đứng đầu Giáo hội tại Anh Quốc (không phải Giáo hội của Anh Quốc). Từ năm 1535 đến năm 1540, dưới sự lãnh đạo của Thomas Crommwell, chính sách giải thể các tu viện được tiến hành. Sự sùng kính dành cho các thánh, những cuộc hành hương và các địa điểm hành hương bị huỷ bỏ. Một số lượng lớn đất đai và tài sản của giáo hội được trao vào tay nhà vua, sau đó là giới quý tộc.
Nhiều nhà quý tộc chống đối cuộc cải cách này như Thomas More và Giám mục John Fisher, và cả hai đều bị xử tử. Cùng lúc là sự lớn mạnh của phong trào Kháng Cách, chịu ảnh hưởng từ tư tưởng Huldrych Zwingli và John Calvin. Khi Edward VI kế vị Henry năm 1547, những người này nhận được sự ủng hộ của triều đình. Một tiến trình cải cách mạnh mẽ hơn được thực thi bao gồm quyết định huỷ bỏ lễ Misa và các tượng thờ. Sau một thời gian ngắn, khi Công giáo Rôma được phục hồi trong thời trị vì của Mary (1553–1558), một sự đồng thuận tương đối được thiết lập dưới triều Elizabeth I, tuy điều này vẫn còn là vấn đề đang tranh cãi trong vòng các sử gia. Thời trị vì của Elizabeth I được xem là thời kỳ khởi nguyên của Anh giáo (Anglicanism).
Sự thành công của Phong trào Phản Cải cách tại Âu châu và sự lớn mạnh của nhóm Thanh giáo tại Anh khiến cuộc cải cách bị chia rẽ theo chiều hướng phân cực, mặc dù phải đến thập niên 1640, nước Anh mới trải qua cuộc tranh chấp tôn giáo mà sự khắc nghiệt của nó có thể so sánh được với những gì mà các nước láng giềng đã gánh chịu vài thập niên trước.
Thanh giáo
Phong trào Thanh giáo trong thời kỳ sơ khai (cuối thế kỷ 16 – thế kỷ 17) theo Thần học Calvin với mục tiêu cải cách Giáo hội Anh. Khởi phát từ những bất đồng với chính sách tôn giáo của Nữ hoàng Elizabeth I, họ cố thuyết phục Giáo hội Anh đi theo mô hình các giáo hội Kháng Cách ở lục địa châu Âu, đặc biệt là cuộc cải cách tôn giáo tại Geneva. Những người Thanh giáo bác bỏ khuynh hướng chú trọng nghi thức trong giáo hội, xem điều đó tương tự tội thờ lạy hình tượng. Họ cũng chống đối việc thành lập các tòa án tôn giáo, và từ chối công nhận hoàn toàn các chỉ dẫn về nghi thức của Kinh Cầu nguyện chung.
Về sau, phong trào Thanh giáo được xem như là thành phần ngoài quốc giáo, sau cùng họ tiến hành thành lập các giáo hội có khuynh hướng Cải cách như Tự trị giáo đoàn (Congregationalism).
Scandinavia
Trong thế kỷ 16, tất cả vương quyền vùng Scandinavia lần lượt chấp nhận tư tưởng Luther như vương triều Đan Mạch (cai trị cả Na Uy và Iceland), và vương triều Thụy Điển (cai trị cả Phần Lan) đều đến với đức tin Kháng Cách.
Tại Thụy Điển, cuộc cải cách được đẩy mạnh bởi Gustav Vasa trị vì từ năm 1523. Nỗ lực của Giáo hoàng can thiệp vào nội tình giáo hội Thụy Điển khiến bang giao chính thức giữa nước này và Giáo hoàng bị cắt đứt kể từ năm 1523. Bốn năm sau, tại Hội nghị Västerås, quốc hội công nhận thẩm quyền của nhà vua trên giáo hội như quyền sở hữu tài sản giáo hội, phê chuẩn việc bổ nhiệm các chức sắc. Ngoài ra, các chức sắc giáo hội phải chịu xét xử theo luật dân sự, và "Lời tinh tuyền của Thiên Chúa" phải được giảng dạy tại nhà thờ và trường học – nghĩa là chính thức cho phép truyền bá tư tưởng Kháng Cách.
Dưới thời trị vì của Frederick, Đan Mạch vẫn duy trì đức tin Công giáo. Dù đã cam kết ngăn cấm cuộc cải cách, nhà vua lại theo đuổi chính sách bảo vệ những nhà thuyết giáo Lutheran và những nhà cải cách, trong đó có Hans Tausen. Nhờ vậy, tư tưởng Luther xác lập ảnh hưởng vững chắc trong lòng người dân Đan Mạch. Khi Frederick băng hà, con trai ông, Christian, một người công khai chấp nhận đức tin Kháng Cách, bị ngăn cản kế vị cha cho đến khi ông kết thúc cuộc nội chiến năm 1537 để đăng quang với danh hiệu Christian III. Từ đó Giáo hội Luther trở thành quốc giáo của Đan Mạch.
Scotland
Cao trào cải cách ở Scotland lên đến đỉnh điểm khi giáo hội được cải tổ theo giáo thuyết cải cách, và khi ảnh hưởng của nước Anh vượt trội nước Pháp. John Knox được nhìn nhận là lãnh tụ của cuộc cải cách tại america
Năm 1560, Quốc hội bác bỏ thẩm quyền Giáo hoàng, cấm cử hành lễ misa và phê chuẩn Tín điều Kháng Cách, bản tín điều này được xem như là phản ứng đối với ảnh hưởng thống trị của Pháp thông qua chế độ nhiếp chính của Mary nhà Guise, người cai trị đất nước khi con gái của bà, Mary Nữ hoàng Scotland (cũng là Hoàng hậu Pháp) vắng mặt.
Cuộc cải cách đã giúp định hình Giáo hội Scotland, và qua đó, xác lập nền tảng cho các giáo hội Trưởng lão trên toàn thế giới.
Hà Lan
Không giống những nơi khác, cuộc cải cách tại Hà Lan không khởi phát từ giới lãnh đạo Mười sáu tỉnh của đất nước này, nhưng do các phong trào quần chúng, và được củng cố bởi các di dân Kháng Cách đến từ những vùng khác nhau trên đại lục. Dù phong trào Anabaptist có được sự ủng hộ của dân chúng trong vùng suốt những thập niên đầu của cuộc cải cách, Thần học Calvin, được thể hiện qua Giáo hội Cải cách Hà Lan, trở nên đức tin Kháng Cách có ảnh hưởng rộng lớn kể từ thập niên 1560.
Những cuộc bách hại dữ dội nhắm vào người Kháng Cách do chính quyền Tây Ban Nha của Felipe II đang cai trị Hà Lan càng thúc đẩy khát vọng giành độc lập của cư dân trong vùng, dẫn đến Chiến tranh Tám mươi năm, cuối cùng chia cắt khu vực này thành hai quốc gia: Cộng hòa Hà Lan phía bắc chấp nhận đức tin Kháng Cách, và nước Bỉ phía nam theo Công giáo.
Hungary
Trong thế kỷ 16, hầu hết người dân Hungary chấp nhận đức tin Kháng Cách. Việc truyền bá tư tưởng cải cách nhận được sự hỗ trợ tích cực từ cộng đồng người Đức đông đảo ở đây. Họ có thể hiểu và dịch các tác phẩm của Martin Luther sang tiếng Hungary. Trong khi Giáo hội Luther có ảnh hưởng rộng rãi trong cộng đồng nói tiếng Đức, tư tưởng Calvin được chấp nhận bởi người Hungary.
Tại vùng tây bắc, giới cầm quyền và tăng lữ, được che chở bởi Vương triều Habsburg, đã từng chiến đấu chống người Thổ Nhĩ Kỳ để bảo vệ đức tin Công giáo. Họ tìm mọi cách để cầm tù người Kháng Cách và đem họ lên giàn hỏa thiêu. Tuy nhiên, chính sách khắt khe này chỉ làm gia tăng sự phản kháng.
Đến cuối thế kỷ 16, người Kháng Cách vẫn còn chiếm đa số dân Hungary cho đến khi những nỗ lực của Phong trào Phản Cải cách trong thế kỷ 17 dưới sự lãnh đạo của các tu sĩ Dòng Tên đánh bạt ảnh hưởng Kháng Cách, và đem phần lớn dân Hungary trở lại đức tin Công giáo. Tuy vậy, vẫn còn một thiểu số đông đảo người Kháng Cách sinh sống ở đây, đa số chịu ảnh hưởng thần học Calvin.
Ý
Trong thập niên 1520, tư tưởng cải cách được truyền bá đến Ý, nhưng đến đầu thế kỷ 17, gặp phải sự chống đối của Tòa án Dị giáo và sự lãnh đạm của dân chúng, đã mau chóng suy yếu.
Tuy nhiên, từ năm 1532 nhóm Waldensian (một phong trào Cơ Đốc khởi phát tại Lyons, Pháp, từ cuối thập niên 1170) chấp nhận tư tưởng cải cách theo Thần học Calvin. Qua hàng trăm năm bị bách hại, Giáo hội Waldensian vẫn tồn tại như là giáo hội Kháng Cách duy nhất tại Ý với khoảng 30 000 tín hữu.
Pháp
Dù không hề quan tâm đến các ý tưởng cải cách tôn giáo, Francis I (1515-1547) vẫn chủ trương bao dung tôn giáo. Song, sau biến động năm 1534 - khi những người được cho là tín hữu Kháng Cách treo dán áp phích khắp nước Pháp, ngay cả trong hoàng cung nhằm phản bác việc cử hành lễ misa - nhà vua thay đổi thái độ, xem cộng đồng Kháng Cách là mối de dọa cho sự ổn định chính trị của vương quốc. Từ đây khởi phát giai đoạn đầu của cuộc bách hại nhắm vào người Kháng Cách ở Pháp, thành lập Chambre Ardente (Phòng thiêu) – tòa án đặc biệt xét xử người dị giáo – thuộc Nghị viện Paris (Parlement de Paris) để giải quyết các vụ truy tố người dị giáo ngày càng gia tăng. Vài ngàn người Kháng Cách rời bỏ nước Pháp trong giai đoạn này, trong đó có John Calvin.
Ở Geneva, Calvin vẫn quan tâm đến tình hình trong nước; ông đào tạo các mục sư và gởi về lãnh đạo các giáo đoàn tại Pháp. Dù bị bách hại dữ dội dưới triều Henri II, Giáo hội Cải cách Pháp theo thần học Calvin phát triển mạnh trong nhiều vùng rộng lớn của nước Pháp, trong giới thị dân tiểu tư sản, và một phần giới thượng lưu cầm quyền.
Đến thập niên 1550, nhiều người trong giới quý tộc chấp nhận đức tin Kháng Cách, từ đó xuất hiện những mầm mống phát sinh cuộc tranh chấp lâu dài được biết đến với tên Chiến tranh Tôn giáo Pháp. Cuộc nội chiến được đẩy nhanh bởi cái chết đột ngột của Henri II năm 1559, bắt đầu thời kỳ suy thoái kéo dài của vương quyền Pháp. Sự tàn bạo và thái độ cực đoan là những đặc điểm nổi trội của giai đoạn này, thể hiện trong vụ Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy trong tháng 8 năm 1572, có khoảng từ 30 000 đến 100 000 người Huguenot bị tàn sát trên khắp nước Pháp. Cuộc chiến kết thúc khi Henri IV, từng là một chiến binh Huguenot, ban hành Chỉ dụ Nantes, ban một số quyền tự do có giới hạn cho cộng đồng thiểu số Kháng Cách. Công giáo trở nên quốc giáo, tài sản của người Kháng Cách Pháp tiêu tán dần trong thế kỷ kế tiếp, nhất là khi Louis XIV ban hành Chỉ dụ Fontainebleau thu hồi Chỉ dụ Nantes, và thiết lập Công giáo là tôn giáo duy nhất của nước Pháp. Phản ứng lại Chỉ dụ Nantes, Friedrich Wilhelm I xứ Brandenburg công bố Sắc lệnh Potsdam, ban quyền tự do nhập cư cho di dân Huguenot Pháp, cũng như miễn thuế cho họ trong vòng 10 năm.
Ảnh hưởng và Di sản
Về chính trị, cuộc Cải cách Tin Lành là một trong những nguyên nhân dẫn tới một chuỗi các cuộc chiến tranh tôn giáo mà đỉnh điểm là cuộc chiến tranh Ba mươi năm. Từ năm 1618 đến 1648, nhà Habsburg Công giáo cùng các đồng minh khởi binh tiến đánh các vương hầu Kháng Cách người Đức; những vương hầu này nhận được sự ủng hộ từ Đan Mạch và Thụy Điển. Nhà Habsburg - cai trị Tây Ban Nha, Áo, Hà Lan thuộc Tây Ban Nha cùng phần lớn lãnh thổ Đức và Ý - là những người kiên trung bảo vệ Giáo hội La Mã. Kỷ nguyên Kháng Cách kết thúc khi nước Pháp Công giáo quyết định liên minh với những người Kháng Cách chống lại nhà Habsburg, bí mật lúc ban đầu nhưng về sau tham gia trực tiếp vào cuộc chiến. Đây là lần đầu tiên tại châu Âu kể từ khi Luther khởi phát cuộc cải cách, những xác tín chính trị và quyền lợi quốc gia được xem trọng hơn những xác tín tôn giáo. Sau Hòa ước Westphalia, các giáo phái thuộc Cơ Đốc giáo trên lục địa này tìm cách sống chung trong hòa bình tương đối.
Những điểm chính của Hòa ước Westphalia:
Mọi phe phái nên công nhận Hòa ước Augsburg năm 1555, theo đó mỗi vương hầu đều có quyền chọn lựa tôn giáo cho lãnh thổ của mình, Công giáo, hoặc Lutheran, hoặc thần học Calvin (nguyên tắc cuius regio, eius religio - lãnh thổ nào, tôn giáo đó).
Tín đồ sống trong các lãnh địa không có quốc giáo được quyền thực hành đức tin của mình theo ý muốn.
Hòa ước Westphalia cũng đánh dấu sự kết thúc quyền lực chính trị bao trùm châu Âu của Giáo hoàng. Nhận thức đầy đủ về sự mất mát này, Giáo hoàng Innocent X công bố hòa ước là "không có hiệu lực, không có giá trị, không thích hợp, không công bằng, đáng nguyền rủa, ngớ ngẩn, vô nghĩa trong mọi thời điểm." Dù vậy, các vương quyền châu Âu, cả Công giáo lẫn Kháng Cách, đều phớt lờ tuyên bố này.
Về tâm linh, cuộc Cải cách Tin Lành đã phục hồi bên trong thế giới Cơ Đốc giáo sự nhận thức sâu sắc và sinh động về nền đạo đức độc thần giáo của Cựu Ước, là niềm xác tín từng được các nhà tiên tri thể hiện bằng nhiều phương cách khác nhau. Luther thiết lập lễ thờ phượng buổi chiều với nội dung tập chú vào các giáo huấn của Cựu Ước. Công cuộc dịch thuật toàn bộ Kinh Thánh khơi mở cho dân chúng kiến thức về phần quan trọng này của Kinh Thánh từ lâu hầu như đã bị quên lãng.
Cuộc cải cách là nỗ lực kêu gọi sự tập chú vào quyền bính thánh khiết và huyền nhiệm của Thiên Chúa, là đấng tội nhân phải ứng hầu trực tiếp mà không có sự bảo vệ nào từ phía giáo hội. Do đó, theo quan điểm Kháng Cách, khi mỗi cá nhân trải nghiệm ân điển cứu chuộc của Thiên Chúa, cùng lúc họ sẽ nhận thức về trách nhiệm của mình trong nỗ lực thay đổi bản thân. Trong khi ấy, những tín hữu chấp nhận giáo thuyết tiền định cũng nhận ra rằng sự bảo đảm duy nhất cho sự cứu rỗi chính là những chỉ dấu về nếp sống thánh khiết, đức hạnh và nhân ái. Như thế, cuộc cải cách đã tái khẳng định khía cạnh đạo đức của Cơ Đốc giáo, theo một phương cách mới.
Về thể chế, cộng đồng Kháng Cách khuyến khích tín hữu tham gia tích cực vào mọi lĩnh vực của giáo hội. Chủ trương này lập nền trên giáo huấn của Kinh Thánh khẳng định quyền tư tế của mỗi tín hữu. Mặt khác, sự hủy bỏ các tu viện, và cho phép giới chức sắc kết hôn giúp thu hẹp những khác biệt trong cấu trúc chính thức cúa giáo hội.
Chú thích |
Chữ số Ả Rập (còn gọi là chữ số Ấn Độ hay chữ số Hindu) là bộ ký hiệu được phổ biến nhất để tượng trưng cho số. Chúng được xem là một trong những thành quả quan trọng nhất trong toán học.
Lịch sử
Cụm từ "chữ số Ả Rập" thật sự là tên sai, vì hệ chữ số này không được người Ả Rập sáng chế hay dùng rộng rãi. Thay vào đó, chúng được phát triển tại Ấn Độ bởi những người Hindu vào khoảng năm 400 TCN. Tuy thế, vì người Ả Rập đã truyền hệ chữ số này vào các nước Tây phương sau khi chúng được lan tràn đến Ba Tư, hệ chữ số này được có tên "Ả Rập". Người Ả Rập gọi hệ chữ số này "chữ số Ấn Độ" (أرقام هندية, arqam hindiyyah).
Những bản khắc đầu tiên sử dụng số 0 bằng tiếng Ấn Độ đã được tìm thấy vào khoảng những năm 400. Mã số học của Aryabhata cũng đại diện cho kiến thức về ký hiệu số 0. Vào thời Bhaskara I (thế kỷ thứ 7), hệ đếm cơ số 10 với 9 ký tự đã được sử dụng rộng rãi ở Ấn Độ, và khái niệm số 0 (đại diện bởi một dấu chấm) cũng đã được biết đến (xem thêm Vāsavadattā của Subandhu, hay định nghĩa của Brahmagupta). Cũng có giả thuyết rằng ký tự 0 được phát minh ra vào thế kỷ đầu tiên, khi triết học của Phật giáo về shunyata (Không tính) đang thịnh hành.
Bạn có thể đọc thêm về cách các chữ số được phổ biến đến Ả Rập trong "Bảng niên đại của các học giả", do al-Qifti viết vào cuối thế kỉ 12 nhưng đã được chú thích từ các nguồn tài liệu trước đó (xem thêm [1]):
...vào năm 776 một người từ Ấn Độ tự giới thiệu mình đến vị Caliph al-Mansur, người này khá thông thạo học thuyết về phương pháp tính toán liên quan đến chuyển động các thiên thể, có cách để tính các phương trình dựa trên nửa dây cung (về cơ bản là hình sin) tính trên từng nửa độ... Al-Mansur ra lệnh dịch quyển sách của người này sang tiếng Ả Rập. Nhờ vậy, dựa trên bản dịch này, người Ả Rập đã có cơ sở vững chắc để tính toán sự vận động của các hành tinh...
Cuốn sách trên do các nhà học giả Ấn Độ giới thiệu, khá phù hợp với cuốn Brahmasphutasiddhanta (Sự hình thành của Vũ trụ) được nhà toán học Ấn Độ Brahmagupta viết năm 628 đã sử dụng các ký hiệu số học của người Hindu với ký tự số 0.
Hệ thống chữ số cùng được hai nhà toán học Ba Tư là Al-Khwarizmi (tác giả cuốn sách "Về phép tính với số học của người Hindu" viết năm 825) và nhà toán học Ả Rập là Al-Kindi (tác giả của bốn tập sách "Sử dụng chữ số của người Ấn Độ" Ketab fi Isti'mal al-'Adad al-Hindi năm 830. Xem [2]) biết đến. Chính hai nhà toán học này đã phổ biến rộng rãi hệ thống chữ số Ấn Độ sang Trung Đông và phía Tây. Vào thế kỉ thứ 10, các nhà toán học Trung Đông đã mở rộng hệ cơ số 10 để bao gồm cả phần thập phân, đã được nhà toán học Syria là Abu'l-Hasan al-Uqlidisi ghi lại trong tài liệu của mình năm 952-953.
Fibonacci, nhà toán học người Ý theo học tại Béjaïa (Algérie) đã khuyến khích sử dụng chữ số Ả Rập ở châu Âu trong cuốn sách Liber Abaci được xuất bản năm 1202. Tuy nhiên hệ thống chữ số này không được phổ biến rộng rãi ở châu Âu cho đến khi người ta phát minh ra kĩ thuật in (Xem Bản đồ thế giới năm 1482 theo thuyết Ptolemy do Lienhart Holle in tại Ulm, hoặc Bảo tàng Gutenberg tại Mainz, Đức.)
Trong thế giới Ả Rập—cho đến thời hiện đại—hệ thống chữ số Ả Rập chỉ được các nhà toán học sử dụng. Các nhà khoa học Hồi giáo sử dụng hệ thống chữ số Babylon, và các nhà buôn sử dụng hệ thống chữ số tương tự như hệ thống chữ số Hi Lạp và hệ thống chữ số Do Thái. Do vậy, ngay cả trước khi Fibonacci mà hệ thống chữ số Ả Rập đã được sử dụng rộng rãi.
Mô tả
Bộ chữ số Ả Rập là bộ chữ số vị trí (giá trị đại diện thay đổi theo vị trí) với 10 ký tự đại diện cho 10 số. |
Thái Nguyên là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, tỉnh lỵ là thành phố Thái Nguyên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 75 km, và là tỉnh nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội.
Năm 2022, Thái Nguyên là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 25 về số dân, xếp thứ 14 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP). GRDP đạt 150.195 tỉ Đồng (tương ứng với 6,3 tỉ USD) đứng thứ 2 vùng Trung du và miền núi phía Bắc (sau tỉnh Bắc Giang, đứng thứ 6 vùng thủ đô sau Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Bắc Giang và Vĩnh Phúc. GRDP bình quân đầu người đạt 95,1 triệu đồng (tương ứng với 4.161 USD) đứng đầu vùng trung du và miền núi phía bắc, nằm trong top 12 tỉnh thành có GRDP đầu người cao nhất cả nước. Tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2021 đạt 6,56 %.
Thái Nguyên cũng là tỉnh duy nhất của khu vực trung du miền núi phía Bắc nằm trong Top 10 tỉnh thành phố có mức thu nhập bình quân đầu người GNI cao nhất cả nước năm 2020 (với 12.960 USD).
Tính sơ bộ đến năm 2020, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.307.871 người, là tỉnh đông dân thứ 25 toàn quốc và đứng thứ 3 các tỉnh trong vùng Trung du miền núi phía Bắc. Sau 10 năm dân số tỉnh Thái Nguyên tăng 163.635 người, tỷ lệ tăng dân số bình quân là 1,36%/năm. Tính từ thời điểm tổng điều tra dân số và nhà ở 01/04/2019 thì hết năm 2020 dân số tỉnh Thái Nguyên tăng thêm 21.120 người.
Tỉnh có 434.111 người người cư trú ở khu vực thành thị, chiếm 32% tổng dân số; 876.484 người cư trú ở khu vực nông thôn, chiếm 68%, tổng dân số của tỉnh. Năm 2019, tỷ lệ dân số sống ở thành thị của tỉnh đứng thứ 18 so với cả nước và đứng đầu trong số các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, đứng thứ hai trong vùng Thủ đô (chỉ sau Thành phố Hà Nội). Theo kết quả của tổng điều tra dân số nhà ở năm 2019 của Tổng cục Thống kê, Thái Nguyên là địa phương đứng thứ 3 cả nước về tỷ lệ sở hữu ô tô cá nhân trên hộ dân với tỷ lệ 10,3%, chỉ xếp sau Hà Nội và Đà Nẵng và đây cũng là tỉnh có tỉ lệ số hộ gia đình sử dụng điện thoại đứng thứ 3 cả nước, chỉ xếp sau Thành phố Hồ Chí Minh và Cà Mau.
Theo kết quả Chỉ số cải cách hành chính (PCI) năm 2019 của các tỉnh, thành phố, Thái Nguyên xếp vị trí thứ 12/63 với tổng số 67,71 điểm, tăng 6 bậc so với năm 2018. Đứng đầu vùng Trung du miền núi phía Bắc.
Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh ở Việt Nam (Chỉ số PAPI) năm 2020, tỉnh Thái Nguyên đạt tổng điểm 46.471, thuộc nhóm 16 tỉnh đạt điểm cao nhất (đứng thứ 3 cả nước), sau tỉnh Quảng Ninh (48.811 điểm) và tỉnh Đồng Tháp (46.961 điểm). 6/8 chỉ số nội dung PAPI của tỉnh nằm trong nhóm đạt điểm cao nhất. Cụ thể: Chỉ số Thủ tục hành chính công đạt 7.656 điểm; Chỉ số kiểm soát tham nhũng trong khu vực công đạt 7.278 điểm; Chỉ số công khai, minh bạch trong việc ra quyết định đạt 6.322 điểm; Chỉ số tham gia của người dân cấp cơ sở đạt 6.216 điểm; Chỉ số trách nhiệm giải trình với người dân đạt 5.335 và Chỉ số quản trị điện tử đạt 3.463 điểm. Thái Nguyên cũng là tỉnh duy nhất có tới 6 chỉ số nội dung tăng điểm phần trăm so với năm 2019.
Thái Nguyên cùng với Bình Dương, Bắc Ninh, Đồng Nai và Bắc Giang nằm trong nhóm 5 tỉnh thành được các doanh nghiệp đánh giá có cơ sở hạ tầng tốt nhất năm 2019 vừa qua, cũng là những trung tâm công nghiệp lớn của cả nước.
Thái Nguyên là trung tâm kinh tế, chính trị - xã hội của khu vực đông bắc hay cả vùng Trung du và miền núi phía bắc. Tỉnh Thái Nguyên được tái lập ngày 1/1/1997 với việc tách tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Thái Nguyên nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc thủ đô Hà Nội, một trung tâm kinh tế đang phát triển ở miền Bắc. Thái Nguyên được coi là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn của cả nước với quy mô tổng cộng hàng chục trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp, các Viện Nghiên cứu.
Thái Nguyên cũng là một địa bàn chiến lược về quốc phòng, là nơi đóng trụ sở Bộ tư lệnh, cùng nhiều cơ quan khác của Quân khu 1.
Tên gọi
"Thái Nguyên" là từ Hán Việt: (太wikt). Thái (太) ở đây có nghĩa là to lớn hay rộng rãi, Nguyên (原) có nghĩa là cánh đồng hoặc chỗ đất rộng và bằng phẳng.
Địa lý
Vị trí địa lý
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Thái Nguyên, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 75 km, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 200 km, cách biên giới Việt Nam - Trung Quốc khoảng 200 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp tỉnh Lạng Sơn và tỉnh Bắc Giang
Phía tây giáp tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Tuyên Quang
Phía nam giáp thủ đô Hà Nội
Phía bắc giáp tỉnh Bắc Kạn.
Với vị trí địa lý là một trong những trung tâm chính trị, kinh tế và giáo dục của khu Việt Bắc nói riêng, của vùng trung du miền núi phía bắc nói chung, Thái Nguyên là cửa ngõ giao lưu kinh tế - xã hội giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Việc giao lưu đã được thực hiện thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông hình rẻ quạt mà thành phố Thái Nguyên là đầu nút.
Các điểm cực của tỉnh Thái Nguyên:
Điểm cực bắc tại: vùng núi Tân Trào, xã Linh Thông, huyện Định Hóa.
Điểm cực đông tại: khu Lân Thùng, xã Phương Giao, huyện Võ Nhai.
Điểm cực nam tại: tổ dân phố Phù Lôi, phường Thuận Thành, thành phố Phổ Yên.
Điểm cực tây tại: vùng núi gần với đèo Khế, xã Yên Lãng, huyện Đại Từ.
Địa chất
Khu vực tây bắc Thái Nguyên bao gồm huyện Định Hóa và các xã phía tây của hai huyện Phú Lương, Đại Từ có lịch sử hình thành sớm nhất, thuộc chu kỳ kiến tạo sơn Caledonia bắt đầu cách đây 480 triệu năm và được hình thành xong trong đại cổ sinh cách đây 225 triệu năm. Các khu vực núi còn lại của Thái Nguyên có lịch sử địa chất trẻ hơn. Phần lớn lãnh thổ Thái Nguyên có lịch sử hình thành suốt trung sinh (bắt đầu từ cách đây 240 triệu năm và kết thúc cách đây 67 triệu năm, kéo dài trong khoảng 173 triệu năm).
Sau khi được hình thành xong (cách đây 67 triệu năm), lãnh thổ Thái Nguyên ngày nay tồn tại dưới chế độ lục địa liên tục 50 triệu năm. Với thời gian này, địa hình Thái Nguyên ngày nay được san bằng và trở thành bình nguyên. Đến kiến tạo sơn Hymalaya cách đây khoảng 25 triệu năm, do vận động nâng lên mãnh liệt, Thái Nguyên cũng được nâng cao từ 200 đến 500m, làm cho địa hình trẻ lại. Những miền được nâng cao có địa hình bị cắt xẻ, các vật liệu trầm tích trẻ, mềm bị ngoại lực bóc mòn, các núi cổ được cấu tạo bằng nham thạch cổ hơn, cứng hơn lại lộ ra, tái lập lại địa hình như lúc mới hình thành xong (cuối trung sinh).
Địa hình
Địa hình tỉnh Thái Nguyên chủ yếu là đồi núi thấp, thấp dần từ bắc xuống nam. Diện tích đồi núi cao trên 100m chiếm 2/3 diện tích toàn tỉnh, còn lại là vùng có độ cao dưới 100m.
Núi của Thái Nguyên không cao lắm và đều là phần phía nam của các dãy núi cánh cung Ngân Sơn, Bắc Sơn. Địa hình cao hơn cả là dãy núi Tam Đảo, có đỉnh cao nhất 1590m; sườn đông dãy núi Tam Đảo thuộc địa phận phía tây nam của tỉnh Thái Nguyên (gồm các xã phía tây huyện Đại Từ) có độ cao trên dưới 1000m rồi giảm nhanh xuống thung lũng sông Công và vùng hồ Núi Cốc.
Phía đông tỉnh, địa hình cũng chỉ cao 500m-600m, phần nhiều là các khối núi đá vôi với độ cao sàn sàn như nhau.
Phía nam tỉnh, địa hình thấp hơn nhiều, có một số núi thấp nhô lên khỏi các vùng đồi thấp. Vùng trung du ở phía nam và vùng đồng bằng phù sa các con sông đều cao dưới 100m.
Địa hình tỉnh Thái Nguyên dốc theo hướng bắc-nam phù hợp với hướng chảy của sông Cầu. Phía hữu ngạn sông Cầu có hướng dốc tây bắc-đông nam, phía tả ngạn sông Cầu (trừ phần đông nam huyện Võ Nhai) dốc theo hướng đông bắc-tây nam. Thái Nguyên có 4 nhóm cảnh quan hình thái địa hình với các đặc trưng khác nhau đó là:
Nhóm cảnh quan địa hình đồng bằng.
Nhóm cảnh quan hình thái gò đồi.
Nhóm cảnh quan hình thái địa hình núi thấp.
Nhóm cảnh quan địa hình nhân tác. (Thái Nguyên chỉ có kiểu các hồ nước nhân tạo, rộng lớn nhất là hồ Núi Cốc).
Nhìn chung địa hình Thái Nguyên không phức tạp lắm so với các tỉnh trung du, miền núi khác, đây là một thuận lợi của Thái Nguyên cho canh tác nông lâm nghiệp và phát triển kinh tế xã hội nói chung so với các tỉnh trung du miền núi khác.
Thủy văn
Sông Cầu là con sông chính của tỉnh và gần như chia Thái Nguyên ra thành hai nửa bằng nhau theo chiều bắc nam. Sông bắt đầu chảy vào Thái Nguyên từ xã Văn Lăng, huyện Đồng Hỷ và đến địa bàn xã Hà Châu, huyện Phú Bình, sông trở thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Giang và sau đó hoàn toàn ra khỏi địa bàn tỉnh ở xã Thuận Thành, huyện Phổ Yên. Ngoài ra Thái Nguyên còn có một số sông suối khác nhưng hầu hết đều là phụ lưu của sông Cầu. Trong đó đáng kể nhất là sông Đu, sông Nghinh Tường và sông Công. Các sông tại Thái Nguyên không thuộc lưu vực sông Cầu là sông Rang và các chi lưu của nó tại huyện Võ Nhai, sông này chảy sang huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn và thuộc lưu vực sông Thương. Ngoài ra, một phần diện tích nhỏ của huyện Định Hóa thuộc thượng lưu sông Đáy. Ô nhiễm nguồn nước là một vấn đề đáng quan tâm, nhất là tình trạng ô nhiễm trên sông Cầu.
Ngoài đập sông Cầu, Thái Nguyên còn xây dựng một hệ thống kênh đào nhân tạo dài 52 km ở phía đông nam của tỉnh với tên gọi là Sông Máng, nối liền sông Cầu với sông Thương để giúp việc giao thông đường thủy và dẫn nước vào đồng ruộng được dễ dàng.
Thái Nguyên không có nhiều hồ, và nổi bật trong đó là Hồ Núi Cốc, đây là hồ nhân tạo được hình thành do việc chặn dòng sông Công. Hồ có độ sâu 35 m và diện tích mặt hồ rộng 25 km², dung tích của hồ ước tính từ 160 triệu - 200 triệu m³. Hồ được tạo ra nhằm các mục đích cung cấp nước, thoát lũ cho sông Cầu và du lịch. Hiện hồ đã có một vài khu du lịch đang được quy hoạch để trở thành khu du lịch trọng điểm quốc gia.
Cơ cấu đất đai
Tỉnh Thái Nguyên có tổng diện tích là 356.282 ha. Cơ cấu đất đai gồm các loại sau:
Đất núi chiếm 48,4% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200 m, hình thành do sự phong hóa trên các đá Macma, đá biến chất và trầm tích. Đất núi thích hợp cho việc phát triển lâm nghiệp, trồng rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh doanh nhưng cũng thích hợp để trồng cây ăn quả, một phần cây lương thực cho nhân dân vùng cao.
Đất đồi chiếm 31,4% diện tích tự nhiên chủ yếu hình thành trên sa thạch, bột kết phiến sét và một phần phù sa cổ kiến tạo. Đây là vùng đất xen giữa nông và lâm nghiệp. Đất đồi tại một số vùng như Đại Từ, Phú Lương... ở từ độ cao 150 m đến 200 m có độ dốc từ 50 đến 200 phù hợp đối với cây công nghiệp và cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là cây trà (một đặc sản của Thái Nguyên).
Đất ruộng chiếm 12,4% diện tích đất tự nhiên, trong đó một phần phân bố dọc theo các con suối, rải rác, không tập trung, chịu sự tác động lớn của chế độ thủy văn khắc nghiệt (lũ đột ngột, hạn hán...) khó khăn cho việc canh tác.
Trong tổng quỹ đất 356.282 ha, đất đã sử dụng là 246.513 ha (chiếm 69,22% diện tích đất tự nhiên) và đất chưa sử dụng là 109.669 ha (chiếm 30,78% diện tích tự nhiên). Trong đất chưa sử dụng có 1.714 ha đất có khả năng sản xuất nông nghiệp và 41.250 ha đất có khả năng sản xuất lâm nghiệp.
Khí hậu
Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, nhưng do địa hình nên khí hậu Thái Nguyên vào mùa đông được chia thành 3 vùng rõ rệt:
Vùng lạnh nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai.
Vùng lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương và phía nam huyện Võ Nhai.
Vùng ấm gồm: Thành phố Thái Nguyên, thành phố Sông Công, thành phố Phổ Yên và các huyện Đồng Hỷ, Phú Bình, Đại Từ.
Nhiệt độ trung bình của Thái Nguyên là 21,5 - 23 °C (tăng dần từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam); chênh lệch giữa tháng nóng nhất (tháng 6: 28,9 °C) với tháng lạnh nhất (tháng 1: 15,2 °C) là 13,7 °C. Tại thành phố Thái Nguyên, nhiệt độ cao nhất và thấp nhất từng được ghi nhận lần lượt là 41,5 °C và 3 °C. Tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.300 đến 1.750 giờ (giảm dần từ Đông sang Tây) và phân phối tương đối đều cho các tháng trong năm. Khí hậu Thái Nguyên chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.000 đến 2.500 mm; cao nhất vào tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1. Nhìn chung khí hậu tỉnh Thái Nguyên thuận lợi cho phát triển ngành nông, lâm nghiệp.
Hành chính
Tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị cấp huyện trực thuộc, bao gồm 3 thành phố và 6 huyện với 177 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 41 phường, 10 thị trấn và 126 xã.
Lịch sử
Thời tiền sử
Từ xa xưa, Thái Nguyên đã là nơi sinh sống của người Việt cổ. Trên địa bàn hang Ốc thuộc xã Bình Long đã tìm được dấu tích của người tiền sử có niên đại ít nhất cách đây từ 7000 đến 8000 năm với những vỏ ốc bị chặt đuôi, xương động vật là những tàn tích thức ăn của người xưa. Từ những năm 1980, cũng tại huyện Võ Nhai, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra dấu tích của người Việt cổ tại khu vực Mái Đá Ngườm thuộc xã Thần Sa. Hàng chục ngàn hiện vật từ các hang Phiêng Tung, Mái đá Hạ Sơn I, Hạ Sơn II, hang Thắm Choong, Nà Ngùn và Mái Đá Ranh…ở Thần Sa, với những công cụ cuội được ghè đẽo như: Mảnh tước, rìu tay, công cụ chặt hình núm cuội, công cụ chặt rìa, công cụ chặt 2 lưỡi, công cụ hình sừng bò... Đặc biệt. các nhà khảo cổ đã tìm thấy 3 bộ xương người cổ được mai táng ở Mái Đá Ngườm, xóm Kim Sơn. Mái Đá Ngườm là một di chỉ quan trọng bậc nhất của khu di chỉ khảo cổ học Thần Sa với 4 địa tầng văn hóa khảo cổ, trong đó tầng thứ tư tiêu biểu cho trung kỳ Thời đại đá cũ.
Thời kỳ hình thành nhà nước và Bắc thuộc
Theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, đời các vua Hùng, Thái Nguyên thuộc bộ Vũ Định, một trong 15 bộ của nước Văn Lang, nằm dưới sự cai quản của chế độ lạc tướng. Khoảng đầu công nguyên, chế độ lạc tướng chấm dứt, bộ chuyển thành huyện, tên Vũ Định vẫn được giữ nguyên. Dưới thời Nhà Triệu, Thái Nguyên nằm trong quận Giao Chỉ. Đời nhà Hán, Thái Nguyên nằm trong huyện Long Biên thuộc quận Giao Chỉ. Đến đời Đường, Thái Nguyên là đất châu Long và châu Vũ Nga, thuộc An Nam đô hộ phủ.
Thời nhà Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần
Dưới triều Đinh, Tiền Lê (TK X), đất nước được chia làm 10 đạo. Khi Lý Thái Tổ lên ngôi năm 1010, 10 đạo được đổi thành 24 lộ, các vùng xa xôi hẻo lánh như Thái Nguyên nằm trong các châu biên viễn. Kể từ khi nhà Lý định đô ở Thăng Long, Thái Nguyên đã trở thành phên giậu trực tiếp che chở phía bắc kinh thành. Dưới thời Nhà Lý, Thái Nguyên có một danh tướng nổi tiếng, từng 2 lần được vua gả công chúa cho, được dân gian tôn sùng là Đức Thánh Đuổm (xem thêm bài Dương Tự Minh).
Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống năm 1076-1077, phần đất phía nam Thái Nguyên từng là địa đầu của phòng tuyến sông Cầu, nơi diễn ra những trận đánh ác liệt giữa quan quân Nhà Lý với Nhà Tống. Dưới thời Nhà Trần, đầu năm 1226, châu được đổi thành lộ, Thái Nguyên thuộc Như Nguyệt Giang lộ. Năm 1397, Nhà Trần đổi châu Thái Nguyên thành trấn Thái Nguyên (tương đương với tỉnh ngày nay).
Thời thuộc Minh
Thời thuộc Minh (1407-1427), trấn Thái Nguyên được đổi thành phủ Thái Nguyên lệ thuộc vào ty Bố Chính. Năm 1426, phủ Thái Nguyên đổi thành Thái Nguyên Thừa Chính ty, gồm 3 phủ: Thái Nguyên, Phú Bình, Thông Hóa. Cũng trong thời gian bị Nhà Minh cai trị, dân chúng Thái Nguyên lại liên tiếp đứng lên khởi nghĩa. Tiêu biểu là Lưu Nhân Chú, người huyện Đại Từ, ông cùng cha và anh rể đã tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo.
Thời Lê sơ
Năm 1428, Nhà Lê sơ được thành lập, Lê Thái Tổ chia đất nước làm 5 đạo, Thái Nguyên thuộc Bắc Đạo. Năm 1466, Lê Thánh Tông chia lại 5 đạo thành 12 đạo Thừa Tuyên, Thái Nguyên là Thái Nguyên Thừa Tuyên. Năm 1467, Nhà Lê tiến hành điều tra địa hình, địa giới, hoàn thành lập bản đồ quốc gia Đại Việt vào năm 1469. Cùng thời gian này, Thái Nguyên Thừa Tuyên được đổi thành Ninh Sóc Thừa Tuyên, gồm 3 phủ: Phú Bình, Thông Hóa, Cao Bằng. Đến năm 1483, Ninh Sóc Thừa Tuyên đổi thành xứ Thái Nguyên. 1533 lại đổi xứ thành trấn Thái Nguyên. Năm 1677, phủ Cao Bằng tách khỏi trấn Thái Nguyên thành trấn Cao Bằng. Thủ phủ trấn Thái Nguyên lúc này đặt tại xã Bình Kỳ, huyện Thiên Phúc (Sóc Sơn, Hà Nội ngày nay).
Thời nhà Nguyễn
Dưới thời Gia Long, Thái Nguyên thuộc tổng trấn Bắc Thành. Năm 1813, sau khi huyện Thiên Phúc tách khỏi trấn Thái Nguyên nhập về Bắc Ninh. Thủ phủ trấn Thái Nguyên được chuyển về thành Đồng Mỗ, huyện Đồng Hỷ (nay thuộc phường Trưng Vương, thành phố Thái Nguyên). Năm 1831, 1832, Minh Mạng chia cả nước làm 30 tỉnh và 1 phủ Thừa Thiên. Trấn Thái Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Đến năm 1836, tỉnh Thái Nguyên có 3 phủ, 9 huyện và 2 châu.
Thời thuộc Pháp
Dưới thời Pháp thuộc, từ năm 1890, chính quyền thực dân tách huyện Bình Xuyên khỏi tỉnh Thái Nguyên để thành lập tỉnh Vĩnh Yên và thực thi chế độ quân quản, chia nhỏ Thái Nguyên nhập vào các tiểu quân khu thuộc các đạo quan binh. Như vậy, từ tháng 10/1890 - 9/1892 tỉnh Thái Nguyên bị xóa bỏ, phân tán vào các địa bàn khác nhau đặt dưới quyền quản lý của giới cầm quyền quân sự Pháp.
Theo các Nghị định của toàn quyền Đông Dương ký vào các ngày 10 và 15/10/1892, các địa hạt đã bị phân tán (trừ huyện Bình Xuyên) trở về với tỉnh Thái Nguyên, đặt dưới quyền cai trị của một Công sứ. Đến 12/6/1894, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định đưa các châu Cảm Hóa, Chợ Rã vào tiểu quân khu Cao Bằng thuộc Đạo Quan binh II, đồng thời tổ chức một đơn vị là Tiểu quân khu Cai Kinh gồm 13 tổng, trong đó có 5 tổng tách từ Thái Nguyên sang. 11/4/1900, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Bắc Cạn trên cơ sở toàn bộ phủ Thông Hóa của Thái Nguyên.
Khởi nghĩa Thái Nguyên
Vào 11 giờ đêm 30-8-1917, Đội Trường và một lính thân tín bắt đầu hành sự: Giết tên Giám binh Noel-chỉ huy Trại lính khố xanh và Ba Chén; chém đầu viên phó quản Lạp-tay sai đắc lực của Giám binh. Hai thủ cấp của chúa Trại được dâng lên Lễ tế cờ. Liền đó, Đội Cấn tuyên đọc tờ Hịch thứ nhất, chính thức phát động cuộc Khởi nghĩa Thái Nguyên.
Hạt nhân của quân khởi nghĩa gồm 131 người trong tổng số 175 binh lính ở Trại lính khố xanh (có 30 người bỏ trốn, 10 người già yếu xin nộp súng về nhà…). Đội Cấn trở thành "Thái Nguyên Quang phục quân Đại đô đốc" ra lệnh ngay cho Đội Giá dẫn hơn 100 binh lính chia thành nhiều toán đi sang Nhà lao Thái Nguyên (ở cách Trại lính khố xanh khoảng 400m về phía đông bắc) phá ngục, cứu tù.
Tại đây, quân khởi nghĩa đã giết chết được tên cai ngục Lô-ép (Loew) và mở cửa nhà lao cho tù nhân chạy trốn về Trại lính khố xanh, giữa những làn đạn từ phía "Trại lính Tây" của chủ lực quân sự Pháp đóng ở Thái Nguyên, cách nhà lao 200m, thấy "có biến" đã bắn xối xả tới. 180 tù nhân-có người bị tra tấn thành tàn tật, phải bò lết-thoát thân được về trại lính. Riêng thủ lĩnh Lương Ngọc Quyến-bị liệt nửa người-nhờ có đồng đội cõng chạy, nên cũng thoát được khỏi tù.
Liền sau đấy, nghĩa quân đã triển khai lực lượng đánh chiếm được nhiều vị trí khác ở tỉnh lỵ Thái Nguyên, như: Dinh Công sứ; các công sở: Lục lộ, Điền bạ, Tòa án, Nhà đoan; Kho vũ khí: Lấy được 92 súng "mút-cơ-tông", 75 súng trường, 1 súng lục, 15 thanh kiếm, hơn 62 nghìn viên đạn; Nhà Bưu điện; Kho bạc... Trong vòng nửa đêm (30-8-1917) và một ngày (31-8-1917) chưa đầy 24 giờ đồng hồ, cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917 đã thành công chấn động. Không chỉ chiếm được tỉnh lỵ và làm chủ tỉnh chiến lược Thái Nguyên, cuộc khởi nghĩa còn thành lập được quân đội (lấy tên là "Quang phục quân Thái Nguyên") gồm 623 người (trong đó: 131 lính khố xanh, 180 tù nhân được giải phóng, 312 công nhân và nông dân yêu nước trong tỉnh đến gia nhập) do Trịnh Văn Cấn làm "Đại đô đốc", Lương Ngọc Quyến làm "Quân sư". Cuộc khởi nghĩa đã tuyên bố đặt quốc hiệu là "Đại Hùng", định quốc kỳ là "cờ Ngũ Tinh" (nền vàng có 5 ngôi sao đỏ) với hàng chữ "Nam binh phục quốc". Hình ảnh của một quốc gia độc lập với quốc kỳ, quốc hiệu và quân đội từng xiết bao mơ ước, vậy là đã thu nhỏ mà huy hoàng xuất hiện và hiên ngang tồn tại, giữa thời Pháp thuộc đen tối, ở tỉnh lỵ Thái Nguyên trong vòng 132 tiếng đồng hồ (từ đêm 30-8-1917 đến trưa 5-9-1917).
Đấy cũng là thời gian mà nghĩa quân đã căng thẳng chuẩn bị và anh dũng chiến đấu, chống lại cuộc đại phản kích và đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp vào địa bàn trung tâm của cuộc khởi nghĩa.
Và, sau buổi trưa 5-9-1917, quyết định rút lực lượng khởi nghĩa ra khỏi tỉnh lỵ Thái Nguyên, nghĩa quân vẫn còn có 4 tháng 11 ngày, kiên trì và quyết liệt kéo dài cuộc chiến đấu oanh liệt vì độc lập, tự do của dân tộc và đất nước, trên địa bàn các tỉnh, từ Thái Nguyên đến Vĩnh Yên, Phúc Yên, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hưng Yên, cho đến ngày 10-1-1918, hy sinh đến người cuối cùng.
Thủ đô kháng chiến
Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhiều Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ thường xuyên qua lại hoạt động, phát triển lực lượng ở Thái Nguyên. Năm 1947, Hồ Chí Minh đã tới Thái Nguyên và lãnh đạo cuộc Kháng chiến chống Pháp từ căn cứ chính tại ATK Định Hóa. Cũng tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mở Chiến dịch Biên giới thu đông 1950, Chiến cục đông-xuân 1953-1954 cũng như quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử và hàng loạt sự kiện quan trọng khác.
Giai đoạn 1954–1965
Ngày 1 tháng 7 năm 1956, Thái Nguyên là một trong sáu tỉnh thuộc Khu tự trị Việt Bắc mới thành lập, thị xã Thái Nguyên là thủ phủ Khu tự trị Việt Bắc. Riêng huyện Phổ Yên lúc này được sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Phúc và huyện Phú Bình được sáp nhập vào tỉnh Bắc Giang, tuy nhiên một năm sau hai huyện này lại được chuyển trở lại tỉnh Thái Nguyên thuộc Khu tự trị Việt Bắc. Khu tự trị Việt Bắc tồn tại đến cuối năm 1975 thì bị giải thể.
Ngày 19 tháng 10 năm 1962, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 114-CP về việc thành lập thành phố Thái Nguyên.
Ngày 21 tháng 4 năm 1965, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Quyết định số 103-NQ-TVQH, hợp nhất hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái.
Thái Nguyên sau khi tái lập tỉnh (1997–nay)
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn.
Sau khi tái lập, tỉnh Thái Nguyên có 9 đơn vị hành chính gồm thành phố Thái Nguyên (tỉnh lỵ), thị xã Sông Công và 7 huyện: Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, Phú Lương, Võ Nhai.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, thành lập thành phố Sông Công trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sông Công, thành lập thị xã Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Phổ Yên.
Ngày 10 tháng 4 năm 2022, thành lập thành phố Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phổ Yên.
Tỉnh Thái Nguyên có 3 thành phố và 6 huyện như hiện nay.
Kinh tế
Thái Nguyên thuộc Vùng trung du và miền núi phía bắc, một vùng được coi là nghèo và chậm phát triển nhất tại Việt Nam. Tuy vậy, Thái Nguyên lại có nền kinh tế phát triển từ rất sớm, trong đó công nghiệp đóng vai trò chủ yếu. Là một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền bắc.
Trong năm 2020, kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên tiếp tục chuyển biến tích cực dù chịu ảnh hưởng tương đối do dịch bệnh COVID-19: Tăng trưởng kinh tế đạt trên 4.24%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 4.45%; xuất khẩu ước đạt 26,7 tỷ USD. Cơ cấu nền kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực là tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp tăng 4,45% so với cùng kỳ; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội đạt gần 40 nghìn tỷ đồng, tăng 3,6% so với cùng kỳ; tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn ước đạt 41,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% so với cùng kỳ.
Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn năm 2020 ước đạt 15,56 nghìn tỷ đồng, tiếp tục dẫn đầu vùng trung du miền núi phía bắc, đạt kế hoạch đề ra, nhưng giảm 0,3% so với cùng kỳ; tổng chi ngân sách địa phương đạt 14,9 nghìn tỷ đồng, giảm 7,8% so với dự toán và bằng 76,5% so với cùng kỳ.
Năm 2021, tỉnh Thái Nguyên phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 7%.
Tính đến tháng 12/2019, trên địa bàn tỉnh có trên 7.000 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký gần 86 nghìn tỷ đồng; các KCN trên địa bàn tỉnh đã thu hút được 250 dự án đầu tư trong và ngoài nước, với tổng số vốn đăng ký gần 9,5 tỷ USD, thu hút được trên 120.000 lao động, với thu nhập bình quân gần 7 triệu đồng/tháng.
Thái Nguyên có tổ hợp Samsung với 2 nhà máy SEVT và SEMV với tổng mức đầu tư hơn 7 tỉ đô la Mỹ tại Khu công nghiệp Yên Bình. Khu tổ hợp này đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của Thái Nguyên ngày nay. Cùng với đó, tổ hợp khai thác chế biến khoáng sản Núi Pháo (gần 01 tỷ USD), dự án Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc và các dự án xây dựng cấp bách hệ thống chống lũ lụt Sông Cầu kết hợp hoàn thiện hạ tầng đô thị hai bên bờ Sông Cầu cùng nhiều dự án công nghiệp hiện đại khác đã mang lại diện mạo mới cho công nghiệp Thái Nguyên, trước kia vốn chỉ dựa vào khu công nghiệp Gang Thép được thành lập năm 1959, là nơi đầu tiên và duy nhất tại Việt Nam có dây chuyền sản xuất liên hợp khép kín từ khai thác quặng sắt đến sản xuất gang, phôi thép và cán thép.
Hiện Thái Nguyên đã và đang triển khai các khu công nghiệp sau:
KCN Gang Thép (160ha - là KCN đầu tiên của Thái Nguyên)
KCN Sông Công (320ha);
KCN Sông Công I (220ha);
KCN Sông Công II (250ha - đang triển khai, hiện đang mở rộng lên 450ha) thuộc thành phố Sông Công;
KCN Yên Bình I (200ha)
KCN Yên Bình II (Đang triển khai)
KCN Nam Phổ Yên (200 ha),
KCN Tây Phổ Yên (200ha) thuộc thành phố Phổ Yên;
KCN Điềm Thuỵ A (180ha) thuộc huyện Phú Bình
KCN Điềm Thuỵ B (170ha) thuộc huyện Phú Bình
KCN Quyết Thắng (200ha - đang triển khai) thuộc thành phố Thái Nguyên
KCN Phú Bình (675 ha - đang triển khai) thuộc địa bàn xã Tân Hoà, Tân Thành và Thị trấn Hương Sơn huyện Phú Bình.
Ngoài ra, Thái Nguyên hiện đang triển khai xây dựng Khu công nghệ thông tin tập trung Yên Bình có diện tích 545,82ha nằm trên địa bàn thành phố Phổ Yên và huyện Phú Bình. Tổng mức đầu tư chỉ riêng hạ tầng của dự án này dự kiến là 4.232 tỷ đồng.Thời gian triển khai từ 2020-2025.
Thái Nguyên cũng quy hoạch một số cụm công nghiệp tại nhiều địa phương trên địa bàn tỉnh. Đến hết năm 2019 đã có 23 cụm công nghiệp được phê duyệt quy hoạch chi tiết với diện tích hơn 763 ha (7.63 km²), trong đó diện tích đất công nghiệp là 407,6 ha (4,076 km²). Theo Đề án điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển cụm công nghiệp tỉnh Thái Nguyên đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, sẽ hình thành 35 CCN với tổng diện tích 1.259 ha. Tuy nhiên nhà ở cho công nhân cũng là một vấn đề nan giải khi mà trong năm 2019 Thái Nguyên có khoảng 120.000 công nhân, trong đó có tới 43.045 người có nhu cầu về nhà ở.
Trung bình hàng năm (từ 2016-2019) tỉnh đã giải quyết bình quân mỗi năm trên 22 nghìn lao động có việc làm ổn định. Đến hết năm 2019, tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 68,6%, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 4,38%.
Một vài doanh nghiệp tiêu biểu của Thái Nguyên có thể kể đến như
- Công ty Cổ phần Tập đoàn Tiến Bộ (Trụ sở tại số 01, đường Bắc Kạn, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên): là Công ty kinh doanh đa ngành nghề, ở nhiều lĩnh vực mũi nhọn như: Bất động sản, sắt thép, vật liệu xây dựng, sản xuất quả cầu lông tiêu chuẩn thi đấu, giàn giáo, cốp pha. Trải qua hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty đã phát triển lớn mạnh, hoạt động chuyên nghiệp trên địa bàn trải rộng toàn quốc. Sản phẩm không chỉ được tiêu thụ trong nước mà còn được xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Sản phẩm của công ty có tính cạnh tranh cao, được khách hàng đón nhận. Công ty đã vinh dự được đảng và nhà nước trao tặng huân chương lao động, nhận giải thưởng Sao vàng Đất Việt, các Cúp vàng ISO, hàng Việt Nam được người tiêu dùng ưa thích và nhiều giải thưởng cao quý khác.
Năm 2015, TBCO đã chính thức lên sàn giao dịch với mã chứng khoán TTB Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh (HOSE). Việc gia nhập thị trường chứng khoán đánh dấu bước ngoặt lớn đối với công ty, khẳng định sự phát triển và hòa nhập cùng cộng đồng doanh nghiệp trên toàn quốc, giúp Công ty có cơ hội phát triển mạnh mẽ và quản trị doanh nghiệp minh bạch hơn, đồng thời nâng cao giá trị của doanh nghiệp.
Hiện nay TBCO đang đầu tư một số dự án bất động sản tại Thái Nguyên như TBCO riverside tại Thành phố Thái Nguyên với 02 block chung cư cao từ 19-25 tầng, chung cư TBCO với 04 block tòa nhà cao trên 10 tầng. Sau thành công bước đầu với các dự án bất động sản tại Thái Nguyên, TBCOB đã mở rộng đầu tư sang Bắc Giang với việc hoàn thành đầu tư xây dựng phần thô 2/4 tòa chung cư Dự án Green City tại Bắc Giang với quy mô diện tích 1,6 ha, với gần 700 căn hộ trong thời gian 9 tháng, trong đó hơn 600 căn hộ đã được Ủy ban nhân dân Thành phố Bắc Giang mua sử dụng làm quỹ nhà tái định cư.
- Công ty Cổ phần đầu tư và thương mại TNG (TNG): đã được xếp hạng TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, TOP 10 doanh nghiệp lớn nhất ngành dệt may Việt Nam và TNG cũng đã khẳng định được thương hiệu ở thị trường trong nước cũng như trên thế giới. Công ty cổ phần đầu tư và thương Mại TNG là doanh nghiệp hoat động đa ngành trong đó ngành nghề chính là may mặc xuất khẩu, trong đó thị trường Mỹ chiếm 54%, EU chiếm 21.9 %, Canada & mexico chiếm 11%, Korea chiếm 7%, japan chiếm 3 % và các thị trường khác chiếm 3.5%. Năm 2019, TNG ra mắt dự án TNG Village - chung cư chuẩn sống xanh gồm nhiều tiện ích cao cấp tại trung tâm Thành Phố Thái Nguyên.
- Công ty Cổ phần Thái Hưng: được thành lập từ năm 1993 (Tiền thân là doanh nghiệp tư nhân dịch vụ kim khí Thái Hưng), Thái Hưng có vai trò đặc biệt quan trọng trong chuỗi giá trị khi sản lượng tiêu thụ thép bình quân của Thái Hưng hàng năm chiếm khoảng 13% thị phần thép của Việt Nam.
Với doanh thu bình quân hàng năm từ 15.000 - 18.000 tỷ đồng (tương đương 650 triệu USD - 780 triệu USD). Thái Hưng là đơn vị sản xuất, kinh doanh đa ngành nghề trong đó: Kinh doanh: Thép xây dựng, phôi thép, phế liệu kim loại, sách văn hóa phẩm, Dịch vụ: Logistics, khách sạn; Đầu tư: Giáo dục, bất động sản.
Năm 2019, Thái Hưng tham gia thị trường BĐS với dự án Crown Villas Thái Hưng với quy mô gần 40ha
Trải qua hơn 26 năm xây dựng và phát triển, Thái Hưng đã xây dựng được đội ngũ nhân lực vừa có tâm vừa có tầm, với hơn 500 lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề bậc cao. Thái Hưng đã tạo dựng được chữ tín trong lòng đối tác khách hàng, với mạng lưới bán hàng trải rộng theo chiều dài của đất nước, hơn 2000 khách hàng và mở rộng quan hệ với gần 50 quốc gia trên thế giới thông qua hoạt động xuất nhập khẩu với kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân hàng năm khoảng 150 - 200 triệu USD.
Hiện nay Thái Hưng đang đầu tư vào lĩnh vực bất động sản và giáo dục với dự án Khu tổ hợp thương mại dịch vụ trường học và nhà ở Gia Sàng (Crown Villas). Dự án có quy mô hơn 35 ha với tổng mức đầu tư trên 2.100 tỷ đồng.
Nhờ có uy tín lâu năm hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thép xây dựng, sản phẩm thép do Thái Hưng cấp đã có mặt ở nhiều công trình trọng điểm của quốc gia, trở thành niềm tự hào của Công ty mỗi khi nhắc đến như: Trung tâm hội nghị quốc gia, Tòa Keangnam, nhà ga T1 - Sân bay quốc tế Nội Bài, nhà máy lọc hóa dầu Dung Quất, Tập đoàn Sam Sung electronics, các khu đô thị lớn nhỏ hầu hết trong cả nước, các dự án đường cao tốc, đường vành đai ….
Để ghi nhận những thành tựu đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, Thái Hưng đã được Nhà nước trao tặng nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quý: Huân chương lao động Hạng Nhất, Hạng Nhì (lần 2), Hạng Ba; 9 cờ thi đua của chính phủ và hơn 300 phần thưởng khác của các Sở, Ban, ngành từ trung ương đến địa phương. Thái Hưng vinh dự nằm trong TOP 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, TOP 20 doanh nghiệp tư nhân lớn nhất việt Nam, Top 1000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam, Top 500 doanh nghiệp tư nhân có lợi nhuận tốt nhất Việt Nam …
- Công ty TNHH khai thác Chế biến khoáng sản Núi Pháo (Công ty con của Masan High-Tech Materials (MHT), thuộc tập đoàn Masan):
Năm 2020, doanh thu thuần của Công ty đạt 7.291 tỷ đồng, tăng 55% so với cùng kỳ năm 2019, nộp ngân sách Nhà nước 1.478 tỷ đồng, sản lượng khai thác của Công ty đạt 3.868.995 tấn; thời gian vận hành thực tế của nhà máy đạt 95,4%. Công ty đã hỗ trợ 2,36 tỷ đồng để phát triển cộng đồng (48 dự án phát triển cộng đồng với 1.100 hộ gia đình được hỗ trợ), đồng thời tuân thủ đầy đủ Luật Bảo vệ môi trường. Cũng trong năm 2020 Masan High-Tech Materials đã hoàn tất giao dịch mua lại Công ty H.C. Starck Tungsten Powders và thiết lập liên minh chiến lược Mitsubishi Materials Corporation thông qua khoản đầu tư 90 triệu USD từ Tập đoàn Nhật Bản, tương ứng 10% cổ phần của MHT.
Thái Nguyên có tài nguyên khoáng sản phong phú về chủng loại, là một lợi thế so sánh lớn trong việc phát triển các ngành công nghiệp luyện kim, khai khoáng. Tỉnh Thái Nguyên có trữ lượng than lớn thứ hai trong cả nước, than mỡ trữ lượng trên 15 triệu tấn, than đá trữ lượng khoảng 90 triệu tấn; kim loại màu có thiếc, chì, kẽm, wolfram, vàng, đồng, niken, thủy ngân… Khoáng sản vật liệu xây dựng cũng là tiềm năng nguyên liệu rất lớn để sản xuất xi măng, sản xuất đá ốp lát các loại và sản xuất vật liệu xây dựng. Riêng mỏ Núi Pháo trên địa bàn các xã phía đông của huyện Đại Từ được các cơ quan chuyên môn đánh giá có trữ lượng Wolfram khoảng 21 triệu tấn, lớn thứ 2 trên thế giới sau một mỏ tại Trung Quốc, ngoài ra mỏ còn có trữ lượng fluor lớn nhất thế giới khoảng 19,2 triệu tấn, và trữ lượng đáng kể bismuth, đồng, vàng và một số kim loại khác.
Nhìn chung, ngoài các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI đang triển khai trên địa bàn, các doanh nghiệp, tập đoàn địa phương của Thái Nguyên cũng tương đối mạnh và đa dạng ngành nghề, từ kinh doanh sắt thép, nguyên vật liệu cho tới bất động sản, khai khoáng, may mặc, hàng tiêu dùng. Trong danh sách top 500 thương hiệu mạnh Việt Nam năm 2019, Thái Nguyên đóng góp tới 6 doanh nghiệp (nếu không tính SAMSUNG ELECTRONICS VIỆT NAM THÁI NGUYÊN) và đều có thứ hạng cao trong danh sách.
Hệ thống các Trung tâm thương mại, chợ trên địa bàn tỉnh
Trong vòng 5 năm gần đây, hàng nghìn tỷ đồng đã được các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư xây dựng các TTTM, siêu thị, dịch vụ lưu trú cao cấp trên địa bàn tỉnh. Nhờ vậy, cơ sở hạ tầng thương mại không ngừng được hoàn thiện theo hướng hiện đại. Trong đó, mô hình TTTM, siêu thị ngày càng gia tăng về số lượng, quy mô và chất lượng.
Các TTTM có quy mô tương đối lớn tại Thái Nguyên gồm:
Trung tâm thương mại Go! Thái Nguyên (Big C Thái Nguyên): 36.000m2, do tập đoàn Central Retail (Thái Lan) đầu tư xây dựng, hiện là TTTM quy mô lớn nhất đang hoạt động tại TP. Thái Nguyên cũng như vùng Trung du miền núi phía Bắc.
Trung tâm thương mại Vincom Plaza Thái Nguyên: 13.500m2, do tập đoàn VinGroup đầu tư xây dựng từ năm 2018.
Trung tâm thương mại Phú Quý Thăng Long : 6.238m2, do công ty TNHH Phú Quý Thăng Long đang xây dựng từ cuối năm 2021
Trung tâm thương mại Vincom Plaza Sông Công: Hiện đang xây dựng trên địa bàn TP. Sông Công.
Trung tâm thương mại Đông Á Plaza.
Trung tâm thương mại Đồng Quang Plaza.
Trung tâm thương mại Kim Thái Plaza.
Trung tâm thương mại Hoàng Gia Plaza.
Trung tâm thương mại Danko Plaza: Hiện đang xây dựng trên địa bàn TP. Thái Nguyên (Khu đô thị Danko).
Các TTTM này đều được đầu tư xây dựng đồng bộ, hiện đại với nhiều công năng sử dụng, như: Tổ hợp nhà hàng, khách sạn, cơ sở kinh doanh dịch vụ, hội trường, phòng họp, cửa hàng, văn phòng cho thuê…
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh hiện có 26 siêu thị, tập trung nhiều nhất ở T.P Thái Nguyên với 22 siêu thị; còn lại phân bố tại T.P Sông Công; T.X Phổ Yên; Phú Bình; Đại Từ. Một số siêu thị có quy mô lớn và hiện đại, cụ thể:
Siêu thị Lan Chi Mart Thái Nguyên.
Siêu thị Aloha Mall Thái Nguyên.
Siêu thị Aloha Mall Sông Công.
Siêu thị Thành Đô Thái Nguyên.
Hệ thống siêu thị Vinmart, Vinmart+
Hệ thống siêu thị Minh Cầu.
Hệ thống siêu thị điện máy Nguyễn Kim, Mediamart, HC HomeCredit, VinPro, Điện máy xanh...
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các TTTM, siêu thị, những năm gần đây, hệ thống các chợ trên địa bàn tỉnh cũng được quan tâm đầu tư nâng cấp, mở rộng theo hướng văn minh, hiện đại. Tính riêng từ năm 2016 đến nay, toàn tỉnh đã xây dựng mới, nâng cấp 30 chợ với tổng nguồn vốn trên 140 tỷ đồng, nâng tổng số chợ đang hoạt động nằm trong quy hoạch của tỉnh lên 140 chợ. Trong đó, 4 chợ hạng I, 10 chợ hạng II và 126 chợ hạng III. Hiện nay, hầu hết các xã vùng sâu, vùng xa trên địa bàn tỉnh đều đều đã có chợ hoặc các điểm mua sắm tập trung. Thương mại nông thôn phát triển đóng góp gần 80% vào tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của tỉnh.
Có thể nói, cơ sở hạ tầng từng bước đồng bộ đã và đang thúc đẩy hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh diễn ra ngày càng sôi động, với nhiều loại hình dịch vụ, thương mại phong phú, đa dạng, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của của người dân. Nhờ đó, nếu như năm 2016, tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh chỉ đạt 25.642 tỷ đồng thì đến năm 2020, con số này đã tăng lên gần 40.000 tỷ đồng, gấp 1,6 lần. Đứng đầu khu vực Trung và miền núi phía Bắc.
Dân cư
Theo điều tra dân số ngày 1/4/2019, dân số tỉnh Thái Nguyên là 1.286.751 người, trong đó nam có 629.197 người và nữ là 657.554 người. Tổng dân số đô thị là 410.267 người (31,9%) và tổng dân cư nông thôn là 876.484 người (68,1%). Cũng theo Tổng cục Thống kê, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2019 của Thái Nguyên là 1,36%. Tỷ lệ dân số sống ở thành thị của tỉnh đứng thứ 18 so với cả nước và đứng đầu trong số các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc, đứng thứ hai trong vùng Thủ đô (chỉ sau Thành phố Hà Nội). Tỷ lệ đô thị hóa của Thái Nguyên tính đến năm 2023 là 41,73%.
Không như nhiều tỉnh trung du miền núi phía bắc khác, tỉnh Thái Nguyên có đa số dân cư là người Kinh (73,1%), tỉ lệ người Kinh chiếm cao hơn tại các thành phố Thái Nguyên, Sông Công, Phổ Yên và các huyện phía nam như Phú Bình cũng như tại các khu vực ven quốc lộ, tỉnh lộ và thị trấn tại các huyện còn lại. Người Kinh ban đầu chỉ là dân tộc bản địa cư trú tại các khu vực trung du ven sông Cầu ở khu vực phía nam của tỉnh Thái Nguyên ngày nay. Vào thời Nhà Trần, Lê, Nguyễn, nhiều làng xóm của người Kinh hình thành tại các khu vực phía nam của tỉnh và dân cư chủ yếu là các di dân đến từ các nơi thuộc đồng bắng Sông Hồng và Thanh Hóa ngày nay. Bên cạnh đó, khi các quan triều đình được cử đến Thái Nguyên, họ thường đem theo cả gia đình, dòng tộc tới định cư. Ngoài ra, nhiều người đến làm ăn và buôn bán rồi sau đó ở lại Thái Nguyên lập nghiệp. Đặc biệt, trong thời kỳ thuộc Pháp, rất nhiều người Kinh từ các tỉnh đồng bằng đã được chế độ thực dân đưa lên Thái Nguyên để làm việc trong các đồn điền và hầm mỏ. Trong kháng chiến chống Pháp, vì có vai trò là thủ đô kháng chiến nên số người Kinh đến Thái Nguyên ngày càng tăng. Quá trình người Kinh nhập cư đến Thái Nguyên tiếp tục tăng nhanh vào sau năm 1954, khi một số cơ sở công nghiệp lớn được hình thành và việc thực hiện chương trình "kinh tế mới". Ngay từ năm 1960, người Kinh đã chiếm 74,56% dân số tỉnh. Người Kinh ở Thái Nguyên nói chung vẫn giữ được nhiều phong tục truyền thống của cha ông tại miền xuôi, mặc dù vậy nhiều yếu tố đã bị phai nhạt, đặc biệt là ở khu vực các huyện phía bắc, họ chịu ảnh hưởng của các dân tộc thiểu số bản địa.
Tỷ lệ tăng dân số bình quân hàng năm giai đoạn 2009-2019 đạt 1,36%/năm (trong đó, khu vực thành thị tăng bình quân 3,56%/năm và khu vực nông thôn tăng 0,48%/năm), tốc độ tăng bình quân giai đoạn 10 năm qua cao hơn so với tốc độ tăng bình quân của 10 năm trước (tỷ lệ tăng dân số bình quân năm giai đoạn 1999-2009 là 0,71%/năm) và cao hơn so với mức tăng 1,14%/năm của bình quân chung của cả nước.
Sở dĩ tỉnh Thái Nguyên có tốc độ tăng dân số cao hơn bình quân chung cả nước và cao hơn giai đoạn 10 năm trước chủ yếu là do có sự di chuyển từ các tỉnh khác đến nhập cư vào Thái Nguyên để tham gia lao động làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, trong đó tăng đột biến ở các năm 2014 và 2015 khi trên địa bàn có các dự án đầu tư nước ngoài sản xuất các sản phẩm điện tử, viễn thông tăng năng lực và đi vào sản xuất.
Dân cư Thái Nguyên phân bố không đều, vùng cao và vùng núi dân cư rất thưa thớt, trong khi đó ở thành thị và đồng bằng dân cư lại dày đặc. Mật độ dân số thấp nhất là huyện Võ Nhai 80 người/km², cao nhất là thành phố Thái Nguyên với mật độ 1.903 người/km², thứ 2 là thành phố Phổ Yên với mật độ 760 người/km², sau đó là thành phố Sông Công với mật độ 705,3 người/km².
Thành phần dân tộc
Trên địa bàn tỉnh hiện có 46 dân tộc trên tổng số 54 dân tộc tại Việt Nam sinh sống, trong đó 8 dân tộc đông dân nhất là:
Các dân tộc thiểu số
Năm 1999 dân tộc Tày có 106.238 người, đứng hàng thứ hai trong các dân tộc của tỉnh (chiếm 10,15%). Họ có mặt ở tất cả các huyện, thành phố trong tỉnh, tập trung đông nhất là ở huyện Định Hoá (41,1%), tiếp đến là các huyện: Phú Lương (18,6%), Đại Từ (12,7%), Võ Nhai (12,5%).
Trong quá trình phát triển tộc người, người Nùng ở Việt Nam nói chung và Thái Nguyên nói riêng có hiện tượng là nhiều nhóm Nùng đến sớm đã bị Tày hoá, còn những nhóm Nùng hiện nay được biết đến thì tới Việt Nam chỉ khoảng vài trăm năm nay.
Những người Hoa đầu tiên đã có mặt ở Thái Nguyên khoảng trên dưới 150 năm. Họ là lưu dân có nguồn gốc từ các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây tại Trung Quốc. Tổ tiên của một bộ phận trong số họ vốn là những nông dân nghèo đói phải phiêu bạt mưu sinh, một số ít khác có thể là hậu duệ những chiến binh của phong trào Thái Bình Thiên Quốc chống lại Nhà Thanh, bị đàn áp nên trốn sang Việt Nam. Khoảng những năm 60-70 của thế kỷ trước, một bộ phận người Hoa cũng chuyển từ Hà Cối (Quảng Ninh) về Thái Nguyên lập nghiệp.
Theo Tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999, người Ngái ở Thái Nguyên chỉ có 422 nhân khẩu, sinh sống phân tán ở các huyện Đại Từ (110 người, nam: 60, nữ: 50), thành phố Thái Nguyên (86 nhân khẩu, nam: 42, nữ: 44), Phổ Yên (31 nhân khẩu, nam: 21, nữ: 10). Người Ngái còn phân bố ở các huyện Phú Lương và Đồng Hỷ. Dân tộc Ngái không có các thôn bản riêng, họ sống xen kẽ với người Kinh, Tày, Hoa và Sán Dìu.
Người Sán Dìu tự gọi mình là Sán Dìu (Sán Dao/Sán Dìu, chữ Hán: 山由, Sơn Do). Các cộng đồng láng giềng gọi họ bằng nhiều tên khác nhau: Trại Đất, Trại ruộng, Mán Quần Cộc, Mán Váy Xẻ, Sán Nhiều, Slán Dao. Các nhà ngôn ngữ học xếp dân tộc Sán Dìu vào nhóm ngôn ngữ Hán, thuộc ngữ hệ Hán-Tạng.
Người Dao ở Thái Nguyên thuộc 3 nhóm địa phương: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt và Dao Lô Gang. Dao Quần Chẹt tập trung chủ yếu ở huyện Đại Từ, Dao Đỏ cư trú phân tán ở huyện Phú lương và Đồng Hỷ, Dao Lô Gang tập trung ở huyện Võ Nhai. Ngoài ra, người Dao còn cư trú rải rác ở Định Hoá, Phổ Yên... Tuy thuộc 3 nhóm khác nhau nhưng đều tự gọi là Dao Đại Bản (Tầm Mả Miền), cùng nói phương ngữ Kiềm Miền
Theo số liệu của Ban chỉ đạo cuộc Tổng điều tra dân số Việt Nam năm 1979 thì vào năm này tỉnh Bắc Thái nói chung, Thái Nguyên nói riêng mới có số liệu về người H'Mông. Năm 1979, toàn tỉnh Bắc Thái có 650 người Hmông thì tại Thái Nguyên ngày nay có 644 người, trong đó gần 80% tập trung ở huyện Võ Nhai. Sau đó 10 năm (1989) dân số H'Mông ở Thái Nguyên đã lên tới 2.264 người, huyện có đông người H'Mông nhất là Đồng Hỷ tăng từ 54 người lên 1.022 người (tăng tuyệt đối 968 người), huyện Võ Nhai mặc dù đã tăng từ 513 người lên 923 người (tăng tuyệt đối 410 người) nhưng lại xuống vị trí thứ hai. Đến năm 1999, dân số Hmông trong toàn tỉnh đã lên tới 4.831 người, tăng hơn gấp đôi trong 10 năm.
Người Sán Chay bao gồm hai nhóm là Cao Lan và Sán Chí, đều là những cộng đồng mới di cư sang Việt Nam cách đây một vài trăm năm. Trong Đại Nam nhất thống chí, ở mục Phong tục tỉnh Thái Nguyên khi đề cập tới người Cao Lan có ghi: Mán Cao Lan cứ ba năm một lần thay đổi chỗ ở, không ở chỗ nào nhất định.
Tôn giáo
Cũng giống như phần lớn các tỉnh khác tại Miền Bắc Việt Nam, Thái Nguyên có đại đa số cư dân "không tôn giáo". Theo thống kê năm 2019, số người theo có tôn giáo tại tỉnh Thái Nguyên là 48.299 người, tức chiếm 5,58% tổng dân số của tỉnh. Hiện nay, Thái Nguyên có khoảng 100 chùa, gần 50 đền và khoảng 100 đình. Đạo Tin Lành ở Thái Nguyên có từ năm 1963 và từ năm 1990 trở lại đây, tôn giáo này tiếp tục phát triển, tập trung chủ yếu vào người Mông, Dao. Thái Nguyên có 4 xứ đạo Công giáo hoạt động là: Thái Nguyên, Tân Cương, Nhã Lộng (Phú Bình) và Yên Huy (Đại Từ), tất cả các hoạt động Công giáo ở Thái Nguyên đều do Toà giám mục Giáo phận Bắc Ninh chỉ đạo.
Du lịch
Theo số liệu tổng hợp của Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên: Trong năm 2019, khách do cơ sở lưu trú du lịch phục vụ đạt hơn 1 triệu lượt; khách du lịch đến các điểm tham quan đạt hơn 1,8 triệu lượt; doanh nghiệp lữ hành phục vụ đạt hơn 150.000 lượt; doanh thu tại các doanh nghiệp du lịch đạt trên 430 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm trước, lượng khách tăng hơn gần 500.000 lượt, doanh thu từ các doanh nghiệp tăng hơn gần 30 tỷ đồng. Trên địa bàn tỉnh có 435 cơ sở lưu trú du lịch, trong đó có 01 khách sạn đạt tiêu chuẩn 5 sao đang được xây dựng của tập đoàn APEC, 50 khách sạn đạt từ 1 đến 4 sao, 386 cơ sở đạt tiêu chuẩn kinh doanh nhà nghỉ, nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê.
Thái Nguyên từng là nơi tổ chức Năm Du lịch Quốc gia 2007. Với lợi thế là trung tâm vùng, hạ tầng cơ sở phát triển, với hơn 800 điểm đến là các di tích lịch sử, di tích danh thắng, di tích khảo cổ học, di tích kiến trúc nghệ thuật, di tích tín ngưỡng đã được kiểm kê, bảo vệ theo quy định của Luật Di sản văn hoá và 80 lễ hội được tổ chức vào dịp đầu xuân… Trên địa bàn tình, một trong những điểm đến được nhiều du khách quan tâm như:
Khu du lịch hồ Núi Cốc, cách thành phố Thái Nguyên 20 km về phía tây (giáp dãy núi Tam Đảo) là khu du lịch lớn nhất của tỉnh. Mặt hồ rộng 25 km² và có đến 69 hòn đảo lớn nhỏ. Nơi đây đang thu hút nhiều khách trong và ngoài tỉnh đến nghỉ và tham quan. Hiện hồ đã có một vài khu du lịch đang được quy hoạch để trở thành khu du lịch trọng điểm quốc gia. Thái Nguyên cũng là nơi đăng cai Festival Trà Quốc tế lần thứ I từ 11-15/11/2011 tại thành phố Thái Nguyên và khu du lịch Hồ Núi Cốc. Khu Du lịch Hồ Núi Cốc đón tiếp khoảng hơn 600.000 lượt du khách trong năm 2019.
Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam với diện tích 40.000 m², nằm ngay tại trung tâm thành phố Thái Nguyên. Bảo tàng có hệ thống 5 phòng trưng bày cố định và Khu trưng bày ngoài trời với 6 vùng văn hóa đặc trưng (vùng Núi cao, vùng thung lũng, vùng đồng bằng Bắc bộ, vùng ven biển miền Trung, vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, vùng đồng bằng Nam bộ). Hiện nay bảo tàng lưu trữ hơn 10.000 đơn vị tài liệu, hiện vật thuộc di sản văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam. Hệ thống trưng bày gồm 6 phòng, sử dụng hơn 2.000 tư liệu khoa học: Phòng mở đầu là khái quát đặc trưng văn hóa các dân tộc Việt Nam. Phòng Việt - Mường gồm dân tộc Việt, Mường, Thổ, Chứt. Phòng Tày - Thái gồm các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Lào, Lự, Sán Chay, Bố Y. Phòng H'Mông - Dao và nhóm Nam Á gồm các dân tộc H'Mông, Dao, Pà Thẻn, La Chí, La Ha, Cờ Lao, Pu Péo. Phòng Môn - Khmer gồm các dân tộc Khơ Mú, Mảng, Kháng, Xinh Mun, Ơ Đu, Khơ Me, Ba Na, Xơ Đăng, Cơ Ho, Hrê, M'Nông, Xtiêng, Bru Vân Kiều, Cơ Tu, Giẻ Triêng, Mạ, Co, Tà Ôi, Chơ Ro, Brâu, Rơ Măm. Và phòng Hán - Hoa, Tạng Miến, Mạ, Opolinedi gồm các dân tộc Hoa, Ngái, Sán Dìu, Hà Nhì, La Hủ, Phù Lá, Lô Lô, Cống, Si La, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Ra Glai, Chu Ru.
Di tích đền Đội Cấn, công viên Sông Cầu tại trung tâm thành phố Thái Nguyên.
Khu du lịch hang Phượng Hoàng và suối Mỏ Gà (là suối chảy ra từ núi đá) tại huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên 45 km.
Khu Di tích Quốc gia đặc biệt ATK Định Hoá. Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sinh sống nhiều năm trong Kháng chiến chống Pháp (1945-1954), đón tiếp, phục vụ 2.680 đoàn khách với gần 557.000 lượt khách.
Thác nước 7 tầng Khuôn Tát, nằm trong khu di tích lịch sử ATK.
Các điểm đền chùa như đền Đuổm thờ Dương Tự Minh (Phú Lương); chùa Hang (thành phố Thái Nguyên); chùa Phù Liễn; đền Xương Rồng (thành phố Thái Nguyên).
Khu di tích núi Văn, núi Võ được nhà nước xếp hạng cấp quốc gia. Dấu tích cùng với truyền thuyết đẹp gắn với danh tướng Lưu Nhân Chú và đội nghĩa binh của ông.
Khu Di tích Lịch sử Quốc gia - Địa điểm lưu niệm các TNXP Đại đội 915, Đội 91 Bắc Thái, phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên đón tiếp gần 1.800 đoàn khách trong nước và quốc tế đến tham quan, dâng hương, tri ân các liệt sĩ TNXP, với gần 160.000 lượt người.
Thái Nguyên có thể hình thành các tuyến du lịch nối các điểm tham quan du lịch trong tỉnh với các điểm du lịch của các tỉnh lân cận. Cụ thể như:
Thành phố Thái Nguyên-Hồ Núi Cốc, vùng chè Tân Cương - Cây đa Tân Trào (Tuyên Quang).
Thành phố Thái Nguyên - Đền Đuổm - Khu di lịch ATK Định Hoá - Hồ Ba Bể (Chợ Đồn, Bắc Kạn) - Pác Bó (Cao Bằng).
Thành phố Thái Nguyên - Chùa Hang - Hang Phượng Hoàng - suối Mỏ Gà - Động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn).
Thành phố Thái Nguyên - Tam Đảo (Vĩnh Phúc) - Hồ Đại Lải (Vĩnh Phúc).
Thành phố Thái Nguyên - Đền Hùng (Phú Thọ).
Thành phố Thái Nguyên - Côn Sơn, Yên Tử, Đền Kiếp Bạc, (Hải Dương).
Ngoài ra Thái Nguyên có nhiều dân tộc còn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc đặc sắc như dân tộc Tày, H’Mông, Dao có thể khai thác thành các điểm du lịch cho khách tham quan.
Theo nhiệm vụ quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc, tỉnh Thái Nguyên đến năm 2030 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Hồ Núi Cốc sẽ là trung tâm du lịch sinh thái và nghỉ dưỡng.
Thủ tướng Chính phủ vừa có Quyết định số 1577/QĐ-TTg ngày 15/11/2018: Phê duyệt Nhiệm vụ quy hoạch chung xây dựng Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc, tỉnh Thái Nguyên đến năm 2030.
Theo quyết định này, phạm vi nghiên cứu lập quy hoạch thuộc địa bàn các xã: Tân Thái, Bình Thuận, Lục Ba, Vạn Thọ, Quân Chu và thị trấn Quân Chu thuộc huyện Đại Từ, xã Phúc Tân thuộc thành phố Phổ Yên. Quy mô diện tích lên tới 19.276ha.
Quy hoạch xây dựng Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc phải gắn với bảo tồn, tôn tạo, phát huy các giá trị cảnh quan thiên nhiên, môi trường, điều kiện tự nhiên, văn hóa để phát triển du lịch, kinh tế xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân và đảm bảo an ninh – quốc phòng.
Hồ Núi Cốc sẽ là Trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng sinh thái, bảo tồn, thể thao và vui chơi giải trí cao cấp của tỉnh Thái Nguyên và khu vực miền Bắc; là khu vực bảo tồn sinh quyển, rừng phòng hộ bảo vệ lưu vực chính của sông Công, khu vực trồng chè đặc sản có quy mô lớn tập trung có giá trị kinh tế cao và tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, gìn giữ văn hóa đặc sắc của các nhóm dân tộc vùng lòng hồ.
Mục tiêu của quy hoạch này là nhằm cụ thể hóa Quy hoạch tổng thể phát triển Khu du lịch quốc gia Hồ Núi Cốc, tỉnh Thái Nguyên đến năm 2025, định hướng đến 2030; xây dựng và phát triển Khu du lịch Hồ Núi Cốc đáp ứng các tiêu chí công nhận là Khu du lịch quốc gia trước năm 2025, hướng tới trở thành trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng lớn của quốc gia với hệ thống cơ sở vật chất đồng bộ, hiện đại đến năm 2030, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thái Nguyên và vùng trung du miền núi Bắc Bộ.
Giao thông
Đường bộ
Thái Nguyên có hệ thống hạ tầng giao thông tương đối phát triển, với 1 tuyến cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên, 1 tuyến tiền cao tốc Thái Nguyên - Chợ Mới, 5 tuyến quốc lộ đi qua.
: Đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên theo tiêu chuẩn cao tốc loại A, đoạn Thái Nguyên - Chợ Mới (Bắc Kạn) là tiền cao tốc.
: Tuyến Quốc lộ 1B từ Thành phố Thái Nguyên đi Lạng Sơn.
: Tuyến Quốc lộ 3 từ Thành phố Thái Nguyên đi Hà Nội, đoạn qua TP. Thái Nguyên, TP. Sông Công và TP. Phổ Yên đã được nâng cấp thành đường cấp III đô thị chính thứ yếu 4 làn xe.
: Tuyến Quốc lộ 17 phường Chùa Hang, Thành phố Thái Nguyên đi Hà Nội, qua Bắc Ninh - Bắc Giang.
: Tuyến Quốc lộ 3C từ Định Hóa, Thái Nguyên nối qua các tỉnh Bắc Kạn, Cao Bằng.
: Tuyến Quốc lộ 37 có 2 hướng, lấy thành phố Thái Nguyên làm đầu nút. Hướng 1 đi từ Thành phố Thái Nguyên qua huyện Đại Từ sang các tỉnh Tuyên Quang, Yên Bái. Hướng 2 từ Thành phố Thái Nguyên theo hướng Phú Bình đi các tỉnh Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng và Thái Bình.
Thái Nguyên cũng có một số tỉnh lộ, trong đó nổi bật là như tỉnh lộ 261 kết nối huyện Đại Từ và thành phố Phổ Yên, tỉnh lộ 260 kết nối phía tây thành phố Thái Nguyên và huyện Đại Từ, tỉnh lộ 264 kết nối hai huyện Định Hóa và Đại Từ, tỉnh lộ 254 kết nối huyện Định Hóa với Quốc lộ 3. Ngoài ra còn có các tỉnh lộ 242, 259, 262. Thái Nguyên là một trong những địa phương đi đầu cả nước về phong trào vận động nhân dân hiến đất giải phóng mặt bằng để làm đường giao thông, do vậy, kinh phí để hoàn thành các tuyến đường đã được giảm xuống.
Đường sắt
Về đường sắt, tỉnh Thái Nguyên có tuyến đường sắt Hà Nội - Quan Triều hay còn gọi là tuyến đường sắt Hà Thái; tuyến đường sắt Quan Triều - Núi Hồng dài 33,5 km đã từng có một đoạn ngắn nối lên tỉnh Tuyên Quang nhưng ngày nay đã bị bỏ và chỉ sử dụng để chuyên chở khoáng sản. Tuyến đường sắt Kép - Lưu Xá (từ phường Phú Xá, thành phố Thái Nguyên đến thị trấn Kép, Lạng Giang, Bắc Giang) được xây dựng trong thời chiến tranh để nhận viện trợ của các nước XHCN và vận chuyển khoáng sản về khu công nghiệp Gang Thép đã bị bỏ hoang, cộng thêm hệ thống đường sắt nội bộ trong khu Gang Thép.
Đường sông
Do là tỉnh trung du nên giao thông đường sông của tỉnh chủ yếu chỉ phát triển ở sông Cầu và sông Công đoạn cuối nguồn thuộc tỉnh, dự án Cụm cảng Đa Phúc được xây dựng tại thành phố Phổ Yên có thể kết nối đến cảng Hải Phòng.
Mạng lưới xe bus nội tỉnh
Tỉnh Thái Nguyên hiện có nhiều tuyến xe buýt đi tới tất cả các huyện trong tỉnh, bao gồm:
01: Đường Tròn Tân Long - TP Thái Nguyên - BX Thái Nguyên - QL3 - Phổ Yên - Phố Nỷ
02A: Yên Lãng - QL37 - Đại Từ - QL3 - TP Thái Nguyên - Đường Tròn TT Thành Phố - BX Thái Nguyên - CMT8 - Gang Thép
02B: Yên Lãng - QL37 - Đại Từ - QL3 - TP Thái Nguyên - Bệnh Viện A - CT07 - BX Thái Nguyên - NB Quá Tải - Gang Thép
03: Chợ Thái - TP Thái Nguyên - BX Thái Nguyên - CT07 - Viện A - NB Đán - Hồ Núi Cốc - Đại Từ - Ký Phú - TT Quân Chu
04: TT Quân Chu - TT Bắc Sơn - KCN Yên Bình
05: Tân Long - TP Thái Nguyên - QL3 - TT Hương Sơn - Phú Bình - Cầu Ca
06: BX Thái Nguyên - CT07 - Viện A - TP Thái Nguyên - QL3 - Giang Tiên - Đu - KM31 - QL3C - TT Chợ Chu - Định Hóa
07: Quyết Thắng(Z115) - CT07 - BX Thái Nguyên - TP Thái Nguyên - Cầu Gia Bẩy - TT Chùa Hang - QL1B - TT Đình Cả - Võ Nhai
08: Bình Long - TT Chùa Hang - QL1B - TP Thái Nguyên - QL3 - KCN Yên Bình
09: TT Trại Cau - TT Chùa Hang - TP Thái Nguyên - BX Thái Nguyên - Thịnh Đán - Thịnh Đức - TP Sông Công - KCN Diesel Sông Công
28: BX Thái Nguyên - TP Thái Nguyên - QL3 - Bờ Đậu - Giang Tiên - Đu - KM31 - Chợ Mới
30: DTLS 915 Gia Sàng - TP Thái Nguyên - QL3 - Bờ Đậu - Giang Tiên - Đu - KM31 - QL3C - ĐT264 - DTLS ATK Định Hóa
Giáo dục
Tỉnh Thái Nguyên được coi là một trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn thứ tư sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng. Thái Nguyên là trung tâm giáo dục lớn với 9 trường đại học, 11 trường cao đẳng, và nhiều trường trung cấp nghề.
Đại học Thái Nguyên và thành viên
Đại học Thái Nguyên là một trong năm Đại học vùng cùng với Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Đà Nẵng, Đại học Huế. Là đại học trọng điểm của Việt Nam, thuộc khu vực trung du, miền núi phía bắc và được thành lập vào năm 1994, đại học bao gồm 7 trường đại học thành viên, 2 khoa, 1 phân hiệu Đại học, 1 trường cao đẳng, 8 trung tâm và 4 viện nghiên cứu trực thuộc:
Trường Đại học Sư phạm
Trường Đại học Nông lâm
Trường Đại học Y dược
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh
Trường Đại học Khoa học
Trường Đại học Công nghệ thông tin và truyền thông
Trường Ngoại ngữ
Khoa Quốc tế
Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật
Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại Lào Cai (đơn vị này có trụ sở tại tỉnh Lào Cai)
Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại Hà Giang (đơn vị này có trụ sở tại tỉnh Hà Giang)
Các trường đại học, cao đẳng khác
Đại học:
Trường Đại học Việt Bắc
Trường Đại học Công nghệ Giao thông Vận tải
Cao đẳng:
Trường Cao đẳng kinh tế - tài chính Thái Nguyên (thuộc UBND tỉnh TN)
Trường Cao đẳng thương mại - du lịch Thái Nguyên
Trường Cao đẳng Công nghiệp Thái Nguyên
Trường Cao đẳng Y tế Thái Nguyên
Trường Cao đẳng sư phạm Thái Nguyên
Trường Cao đẳng cơ khí luyện kim
Trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Việt Bắc
Trường Cao đẳng công nghiệp Việt-Đức
Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Công nghiệp
Trường Cao đẳng nghề số 1 - Bộ Quốc phòng
Các trường trung cấp
Trường trung cấp luật Thái Nguyên
Trường trung cấp nghề Nam Thái Nguyên
Trường trung cấp nghề Thái Nguyên
Trường trung cấp Y tế Thái Nguyên
Trường trung cấp Y khoa Pasteur
trung cấp mỏ địa chất nghề vinacomin
Số liệu về trường, lớp, giáo viên học sinh đầu năm học 2019-2020
Sau khi sắp xếp lại, năm học 2019-2020 trên địa bàn toàn tỉnh có 681 trường (bao gồm cả 01 trường nội trú do Trung ương quản lý - Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc), trong đó có 28 trường ngoài công lập. Bao gồm: hệ mầm non có 237 trường (công lập 215, ngoài công lập 22 trường); Tiểu học có 219 trường (công lập 217, ngoài công lập 2); trung học cơ sở có 191 trường (công lập 190, ngoài công lập 1); trung học phổ thông có 33 trường (3 trường ngoài công lập; 30 trường công lập) và có 01 trường nội trú thuộc Trung ương quản lý.
Số liệu sơ bộ về lớp học và học sinh đầu năm học 2019-2020: Hệ mầm non có 3.080 nhóm/lớp với 83.947 học sinh. Cấp tiểu học có 3.940 lớp với 117.312 học sinh, trong đó tuyển mới vào lớp 1 là 25.235 học sinh. Trung học cơ sở có 2.019 lớp với 71.548 học sinh, trong đó tuyển mới vào lớp 6 là 19.388 học sinh, giảm 0,74% so năm học trước. Trung học phổ thông có 873 lớp với 35.842 học sinh, trong đó tuyển mới vào lớp 10 là 12.057 học sinh, giảm 6,5% cùng kỳ. Nhìn chung học sinh tuyển mới đầu các cấp học đều giảm so với năm học trước.
Riêng số học sinh dân tộc nội trú là 1.887 em, đạt tỷ lệ 6,34% học sinh dân tộc thiểu số được học tại các trường dân tộc nội trú. So với mục tiêu Nghị quyết Đại hội còn thiếu 1,66%; dự kiến đến tháng 9 năm 2020 đạt tỷ lệ 8%, bằng mục tiêu đề ra.
- Kết quả xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia: Thực hiện đề án xây dựng hệ thống trường đạt chuẩn Quốc gia giai đoạn 2016-2020, tính đến ngày 20/12/2019, toàn tỉnh có 560/683 trường đạt chuẩn quốc gia đạt tỷ lệ 82,72%
- Kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông quốc gia trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên: Số học sinh thực tế dự thi để xét công nhận tốt nghiệp là 13.976 học sinh; Kết quả số học sinh đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông năm học
2018 - 2019 là 12.831 học sinh, đạt tỷ lệ đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông của tỉnh Thái Nguyên năm 2019 là 91,81% (thấp hơn so với tỷ lệ 97,39% của năm 2018).
- Công tác tuyển sinh cao đẳng, đại học năm học 2019-2020: Theo số liệu của Đại học Thái Nguyên, kế hoạch tuyển sinh 12.390 chỉ tiêu; đã tuyển sinh mới được khoảng 8 nghìn chỉ tiêu, bằng 60% kế hoạch, trong đó, có khối ngành y dược vượt chỉ tiêu tuyển sinh; còn lại các khối ngành khác đều chưa đạt kế hoạch.
Y tế
Theo thống kê năm 2016, tỉnh Thái Nguyên có 1 bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế là Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, 1 bệnh viện trực thuộc Quân khu 1 là Bệnh viện Quân y 91, 213 cơ sở y tế do Sở Y tế tỉnh quản lý (chưa tính các cơ sở y tế tư nhân) - trong đó có 12 bệnh viện công lập và 5 bệnh viện tư nhân, 13 phòng khám khu vực và 178 trạm y tế. Tổng số giường bệnh do Bộ Y tế quản lý là khoảng hơn 1.600 giường, Sở Y tế tỉnh quản lý là 4.295 giường trong đó 3.145 giường tại các bệnh viện. Dưới đây là thống kê các bệnh viện, trung tâm y tế trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên:
Các bệnh viện tuyến trung ương
Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên (bệnh viện đa khoa hạng I trực thuộc Bộ Y tế - quy mô kế hoạch 1.300 giường)
Các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh và tương đương tuyến tỉnh:
Bệnh viện A (Là BV đa khoa hạng I tuyến tỉnh, mũi nhọn sản nhi - quy mô 510 giường, thực kê 850 giường)
Bệnh viện C (Là BV đa khoa hạng I tuyến tỉnh - quy mô 510 giường, thực kê 900 giường)
Bệnh viện Gang Thép (Là BV đa khoa hạng II tuyến tỉnh - quy mô 350 giường, thực kê 500 giường)
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên (trực thuộc Đại học Thái Nguyên)
Bệnh viện Quân y 91 (trực thuộc Quân khu I)Các bệnh viện, trung tâm y tế chuyên khoa tuyến tỉnh: Bệnh viện Tâm thần
Bệnh viện Mắt Thái Nguyên
Bệnh viện Y học cổ truyền Thái Nguyên
Bệnh viện Chỉnh hình & Phục hồi chức năng
Bệnh viện Điều dưỡng và Phục hồi Chức năng
Bệnh viện Lao và Phổi Thái Nguyên
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật
Trung tâm Giám định Y khoa
Trung tâm Giám định Pháp YCác bệnh viện tư nhân: Bệnh viện Quốc tế Thái Nguyên (300 giường)
Bệnh viện Đa khoa Trung tâm
Bệnh viện Đa khoa An Phú
Bệnh viện Đa khoa Việt Bắc
Bệnh viện đa khoa Yên Bình
Đa khoa Bảo Ngọc-Yên NinhCác bệnh viện và trung tâm y tế tuyến huyện:'''
Bệnh viện Đa khoa Huyện Đại Từ
Bệnh viện Đa khoa Huyện Định Hóa
Bệnh viện Đa khoa Huyện Phú Bình
Bệnh viện Đa khoa Huyện Võ Nhai
Trung tâm Y tế Thành phố Thái Nguyên
Trung tâm Y tế Thành phố Sông Công
Trung tâm Y tế Thành phố Phổ Yên
Trung tâm Y tế Huyện Đại Từ
Trung tâm Y tế Huyện Định Hóa
Trung tâm Y tế Huyện Đồng Hỷ
Trung tâm Y tế Huyện Phú Lương
Trung tâm Y tế Huyện Phú Bình
Trung tâm Y tế Huyện Võ Nhai
Ẩm thực
Là địa bàn có nhiều dân tộc cùng sinh sống, cư dân trong tỉnh lại có nguồn gốc đa dạng nên ẩm thực tại tỉnh Thái Nguyên cũng khá phong phú. Một số dân tộc thiểu số trong tỉnh thường làm "xôi thập cẩm" có nhiều màu sắc trong các dịp lễ tết, các màu sắc đều được nhuộm từ các loại lá cây tự nhiên bằng một số công thức khác nhau có thể lấy ví dụ như xôi màu tím sẽ được ngâm vào chậu nước lá cây gạo cẩm trộn với nước gio, xôi màu vàng được ngâm vào chậu nước nghệ. Trên địa bàn huyện Định Hóa ở phía tây bắc tỉnh có đặc sản là cơm lam, được làm bằng cách cho gạo nếp đã ngâm vào ống nứa, cho thêm nước rồi nút lại bằng lá chuối non sau đó đem hơ trên ngọn lửa. Cơm nếp lam có thể để được cả tuần mà không bị thiu hay vữa. Cũng trên địa bàn huyện miền núi Định Hóa, một loại gạo đặc sản mang tên "Gạo Bao Thai Định Hoá" đã được bảo vệ nhãn hiệu tập thể từ năm 2007. Làng bánh chưng Bờ Đậu nằm ven quốc lộ 3 và quốc lộ 37 thuộc địa bàn xã Cổ Lũng, huyện Phú Lương không chỉ nổi tiếng ở tỉnh Thái Nguyên mà còn được nhiều nơi khác biết đến vào mỗi dịp tết đến xuân về. Những năm gần đây, bánh chưng Bờ Đậu còn vượt ra ngoài lãnh thổ Việt Nam. Bánh chưng Bờ Đậu được làm từ gạo nếp thuần chủng và lá dong nếp lấy từ trên rừng huyện Định Hóa, nước để làm bánh là nguồn tự nhiên ở địa phương được lấy từ những giếng khơi trên núi.
Điểm nhấn từ trước đến nay khi nhắc đến Thái Nguyên, sản phẩm nổi lên hàng đầu đó la chè Thái Nguyên với hàng loạt thương hiệu nổi tiếng nức danh trong và ngoài nước như: Chè Tân Cương (TP. Thái Nguyên); Chè La Bằng (Đại Từ); Chè hữu cơ Sông Cầu; Trại Cài (Đồng Hỷ); Làng nghề chè Vô Tranh - Tức Tranh (Phú Lương),.... Trà Thái Nguyên nổi tiếng trên khắp Việt Nam và được tôn vinh là một trong hai loại trà ngon nhất nước và cũng được mệnh danh là "Thủ đô Chè Việt Nam". Trong đó, trà tại vùng Tân Cương, một xã phía tây thành phố Thái Nguyên được đánh giá cao nhất. Giống chè tại Thái Nguyên được ông Đội Năm, tên thật là Võ Văn Thiệt di thực về vùng này khoảng năm 1920-1922 và vườn chè cổ nay đã 87 tuổi.
Danh sách ẩm thực
Các đặc sản, ẩm thực địa phương như: chè Tân Cương, chè búp khô, chè xanh, tương nếp Úc Kỳ, cơm lam Định Hóa, na La Hiên, bánh cooc mò người Tày, nếp vải Phú Lương, giò ngựa bạch làng Phẩm, bưởi Tràng Xá, bánh trứng kiến Định Hóa, đậu phụ An Long, trám đen - xanh, rượu men lá Cầu Mai, xôi ngũ sắc Định Hóa, sắn, cốm Phúc Lương, bún tươi Gò Chè, gà đồi Phú Bình, măng - măng khô, măng đắng Ngàn Me, đường phên Chòi Hồng, rau bò khai Định Hóa, nham trám đen Hà Châu, bánh chưng Bờ Đậu, ổi Linh Nham, cốm nếp vải Ôn Lương, cọ ỏm Định Hóa, bánh ngải Tày, cá kho lá chè, nem chua Đại Từ, miến Việt Cường, gạo bao thai Định Hóa, tôm cuốn Thừa Lâm, hồng da tre Đồng Hỷ.
Thể thao
Sân vận động Thái Nguyên và nhà thi đấu Thái Nguyên nằm ở khu vực trung tâm thành phố là những nơi tổ chức các hoạt động thể thao và văn hóa-xã hội của tỉnh. Câu lạc bộ bóng đá nữ Gang Thép Thái Nguyên là một trong sáu đội bóng tham dự Giải vô địch bóng đá nữ Việt Nam. |
Người Cơ Ho, còn gọi là Kaho, Kơ Ho, Koho, K'Ho theo chính tả tiếng Cơ Ho, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam , cư trú tại khu vực Cao nguyên Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Người K'Ho nói tiếng Cơ Ho, ngôn ngữ thuộc ngữ chi Bahnar thuộc Ngữ hệ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú
Theo tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1989, dân tộc Cơ Ho có trên 82.917 người, đến 1 tháng 4 năm 1999 có 128.723 người. Địa bàn cư trú chủ yếu của dân tộc này là tỉnh Lâm Đồng, bao gồm nhiều nhóm địa phương như Cơ Ho Srê, Cơ Ho Chil (Cil), Cơ Ho Nộp, Cơ Ho Lạch (Lạt), Cơ Ho T'ring (T'Rin) và Cơ Ho Cờ Dòn (K'Don).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Cơ Ho ở Việt Nam có dân số 200.800 người, cư trú tại 46 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Cơ Ho cư trú tập trung tại các tỉnh:
Lâm Đồng (175.531 người, chiếm 12,3% dân số toàn tỉnh và 87,7% tổng số người Cơ Ho tại Việt Nam),
Bình Thuận (13.531 người),
Khánh Hòa (5.724 người),
Ninh Thuận (3.333 người),
Đồng Nai (982 người),
Thành phố Hồ Chí Minh (681 người).
Các nhánh người K'Ho
Người Cơ Ho chia ra thành mấy nhóm, phân biệt bởi địa bàn cư trú và sinh hoạt cũng như ngôn ngữ.
Cơ Ho Srê là nhóm có dân số đông nhất trong các dân tộc Cơ Ho. Srê nghĩa là ruộng nước, người K'Ho Srê sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước tại cao nguyên Di Linh. Nhóm k'Ho sre ở xã Gung Ré Di linh bao gồm Jrài(thôn Hàng làng), rơ yằm(thôn Klong Trao). K'Ho sre ở xã Bảo Thuận bao gồm kơlạ, Drồng, Tali. K'Ho sre ở thị trấn Di Linh bao gồm Drềng, kaminh. K'Ho sre ở xã Liên Đầm bao gồm số 5, vohbla. K'Ho sre ở xã Tân Nghĩa bao gồm kơ Brạ, ơDồng...
Nhóm Cơ Ho Chil (ngày 1 tháng 4 năm 1989) có khoảng 18.000 người. Trước đây, họ cư trú rải rác trên vùng núi cao thuộc thượng lưu sông Krông Knô (Bắc và Tây-Bắc cao nguyên Lang Biang). Nhưng do sống du canh, du cư, nên từ lâu, họ đã di chuyển xuống phía Nam (vùng Bắc và Đông-Bắc thành phố Đà Lạt) kế cận với địa bàn cư trú của nhóm Cơ Ho Lạt, người Chu Ru và Raglai. Hiện nay, họ cư trú trên địa bàn các huyện Đức Trọng, Lâm Hà, Lạc Dương, Đơn Dương và vùng phụ cận thành phố Đà Lạt...
Nhóm Cơ Ho Lạt cư trú tập trung ở Xã Lát và một số vùng thung lũng xung quanh thành phố Đà Lạt. Do có điều kiện tiếp xúc, giao lưu lâu dài với người Kinh, nên đời sống kinh tế nhóm này có những tiến bộ nhất định so với các nhóm Cơ Ho Dòn, Nộp, Chil...
Nhóm Cơ Ho Nộp cư trú phía Nam Di Linh, ven đường số từ Di Linh đi Phan Thiết. Do quá trình giao lưu văn hóa xã hội lâu đời với các dân tộc anh em ở Bình Thuận, nhất là người Chăm, nên người Cơ Ho Nộp còn lưu giữ một số yếu tố văn hóa của các dân tộc đó như tục ăn trầu, và trồng trầu, cau xung quanh địa điểm cư trú của mình.
Nhóm Cơ Ho Dòn hay K'Don cư trú ở miền núi phía Đông-Nam Di Linh, gọi là vùng Gia Bắc, kế cận với địa bàn cư trú của người Cơ Ho Nộp, tập trung đông nhất tại xã Đinh Trang Hòa, huyện Di Linh.
Nhóm Cơ Ho T'rin cư trú tập trung ở xã Giang Ly, Sơn Thái ở Khánh Hòa. Người T’Rin chỉ có hai họ để phân biệt, con trai mang họ Hà và con gái mang họ Cà. Trang phục của người T’Rin là kết hợp trang phục giữa người K’Ho và người Chăm.
Ngoài ra còn người Mạ tại khu vực Đồng Nai Thượng có văn hóa, ngôn ngữ tương tự người K'Ho nhưng do có ý thức dân tộc riêng nên họ được công nhận là một trong 54 dân tộc.
Kinh tế
Kinh tế của người Cơ Ho là chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, ngoài ra còn có lâm thổ sản và một số nghề thủ công như rèn, đan lát, dệt.
Sản xuất nông nghiệp
Trồng trọt: tùy theo đặc điểm địa lý và xã hội của mỗi nhóm mà ngành trồng trọt ở mỗi nhóm có những nét khác nhau. Riêng đối với người Srê, phương thức canh tác chủ đạo là trồng lúa trên ruộng nước ở các thung lũng (Srê nghĩa là ruộng nước) còn những nhóm người Cơ Ho khác do cư trú ở vùng núi cao, nên phát rừng làm rẫy (mìr) để trồng ngô, lúa rẫy, sắn. Họ thường phát rẫy như sau: trước tiên, đàn bà, trẻ em dùng chà gạc (yoas) chặt những cây nhỏ và dây leo nhưng không cần chặt đứt hẳn, tiếp đó, đàn ông dùng rìu (sùng) đốn những cây lớn dần từ dưới lên đỉnh dốc, những cây này ngã sẽ kéo theo cây nhỏ và dây leo. Sau khi phơi nắng độ hơn một tháng, người ta châm lửa đốt rồi dọn rẫy để gieo hạt khi mùa mưa bắt đầu (khoảng tháng tư). Những nhóm làm rẫy thường sống du cư, khi đất canh tác bạc màu lại chuyển đến nơi khác. Ngoài những cây lương thực chủ yếu, người Cơ Ho còn trồng lẫn các loại rau (bầu, bí, mướp, đậu...). Họ cũng làm vườn, trồng cây ăn quả như mít, bơ, chuối, đu đủ...
Chăn nuôi: gia súc, gia cầm như trâu, bò, lợn (heo), dê, gà, vịt... theo phương thức thả rông. Trâu, bò chỉ dùng làm sức kéo ở những vùng làm ruộng nước, còn lại chủ yếu để hiến tế trong các nghi lễ.
Các nghề khác: săn bắt thú rừng, đánh cá, hái lượm lâm thổ sản vẫn rất phổ biến. Các nghề thủ công phổ biến nhất là đan lát và rèn, riêng người Chil còn có thêm nghề dệt, ngoài ra một số nơi có nghề gốm (làm theo phương thức không có bàn xoay).
Công cụ sản xuất truyền thống: rìu (sùng); chà gạc (woát hay yoas - dùng để chặt cây, là một đoạn tre già uốn cong một đầu để tra lưỡi sắt), gậy chọc lỗ tra hạt (chrmul), riêng nhóm Chil ngoài gậy chọc lỗ tra hạt còn có thêm p'hal (dùng khi vừa chọc lỗ vừa tra hạt, có cán bằng gỗ, lưỡi sắt dài khoảng 28 cm, rộng 3–4 cm). Công cụ canh tác lúa nước của người Srê có cuốc(cau); cày (ngal) làm bằng gỗ, trước đây lưỡi cũng bằng gỗ nhưng gần đây thay bằng sắt; bừa (Sơkam) răng gỗ và Kơr (dùng để trang đất cho bằng phẳng). Cày, bừa và kơr đều do 2 trâu kéo.
Xã hội
Đơn vị tổ chức xã hội thường thấy của người Cơ Ho là Bon, tương đương với buôn, làng ở các dân tộc khác. Đó vừa là một đơn vị tổ chức xã hội, vừa là một đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc của dân tộc Cơ Ho.
Bòn là làng truyền thống theo kiểu một công xã nông thôn mang đậm dấu ấn của thị tộc mẫu hệ dựa trên cơ sở cư trú trong những căn nhà dài, kế cận nhau theo nhóm dòng họ. Đứng đầu bòn là già làng (cau cra dờng_ người già nhất). Về quyền lợi kinh tế, già làng cũng giống như mọi thành viên khác của làng nhưng về mặt tinh thần, người này lại có uy tín gần như tuyệt đối so với các thành viên khác trong làng. Già làng là hiện thân của truyền thống và là một yếu tố tinh thần đưa đến sự thống nhất của cộng đồng (bon) trong xã hội truyền thống của người Cơ Ho. Trong xã hội truyền thống thì chủ làng, cùng với chủ rừng (Sơmbri), thầy cúng và các gia trưởng hợp thành tầng lớp trên của người Cơ Ho. Sự khác biệt giữa các tầng lớp trong xã hội truyền thống chủ yếu dựa vào sự khác biệt chút ít về những tư liệu sinh hoạt như chiêng, ché, nồi đồng, chứ không phải là các tư liệu sản xuất chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp. Chưa có sự bóc lột sức lao động của những thành viên khác trong cộng đồng làng, cộng đồng dân tộc... Tuy nhiên trong xã hội đó, đã xuất hiện sự phân tầng xã hội: kẻ giàu, người nghèo, "con ở hoặc "tôi tớ trong gia đình. Ở những vùng tập trung dân cư với mật độ cao, hình thành một tổ chức liên minh giữa những bòn với nhau trên cơ sở tự nguyện, gọi là M'đrông.
Trong xã hội truyền thống của người Cơ Ho đã tồn tại hai hình thức gia đình theo chế độ mẫu hệ: gia đình lớn và gia đình nhỏ. Người phụ nữ đúng vai trò chủ động trong hôn nhân, sau hôn lễ, người đàn ông về nhà vợ ở (nếu gặp trường hợp gia đình hiếm muộn thì người phụ nữ vẫn có thể ở nhà chồng), con cái tính dòng họ theo mẹ, con gái là người thừa kế. Tập tục cổ truyền của người Cơ Ho tuyệt đối cấm kỵ việc kết hôn giữa những người có cùng một dòng họ, nhất là ở cùng một địa phương. Con chú, con bác, con dì, không được lấy nhau. Trái lại, con cô, con cậu từ hai phía có thể có quan hệ hôn nhân với nhau theo luật tục. Sau khi vợ chết, người chồng có thể kết hôn với người em gái của vợ. Và ngược lại, nếu chồng chết, người vợ góa có thể kết hôn với người em trai của chồng nếu đôi bên ưng thuận. Hôn nhân của người Cơ Ho dựa trên cơ sở sự ưng thuận giữa hai bên trai gái, cha mẹ không quyết định. Theo xu thế phát triển quá trình giải thể các gia đình lớn chuyển dần sang gia đình nhỏ đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là ở những vùng kinh tế phát triển hơn hoặc ở gần đường giao thông lớn, các thị trấn hay đô thị. Độ tuổi kết hôn của người Cơ Ho thường là 16 - 17 tuổi đối với nữ và 18 - 20 tuổi đối với nam, bình quân một phụ nữ sinh 5 - sáu con nên tỷ lệ sinh cao.
Tuy nhiên theo sự phát triển của xã hội, đã xuất hiện các gia đình mà đàn ông K'Ho lấy vợ là người Kinh hay người của dân tộc sống theo phụ hệ, thì quyền trong gia đinh nghiêng về người chồng.
Văn hoá
Sinh hoạt
Ẩm thực: Người Cơ Ho thường ăn ba bữa, theo tập quán ăn bốc(tùy theo ở 1 số nơi vẫn ăn bằng thìa muỗng_sơ ío và đũa_duơh, lương thực chính là gạo ăn với thực phẩm như cá, thịt, rau. Trước kia, họ nấu ăn bằng ống nứa, sau này mới dùng các dụng cụ nấu ăn bằng đất nung, đồng, gang. Các món ăn thường chế biến khô để thuận tiện cho ăn bốc. Thực phẩm kho hoặc luộc, canh được chế biến từ rau trộn với tấm và cho thêm ớt, muối. Thức uống là nước suối, dụng cụ trữ nước uống là những quả bầu khô hoặc ghè. Người Cơ Ho hút các loại cây thuốc phơi khô cuốn lại, rượu cần (tơrnờm) làm từ gạo, ngô, sắn...với men chế biến từ cây rừng rất được ưa chuộng trong các bữa tiệc, lễ hội...
Trang phục: trang phục của đàn ông là khố bằng vải bản rộng, dài khoảng 1,5 – 2 m, có hoa văn theo dải dọc. Phụ nữ dùng váy bằng một tấm vải quấn quanh người rồi giắt cạp. Vay nền đen, có diềm hoa văn trắng. Nếu thời tiết lạnh, họ khoác thêm chăn (ùi) ra ngoài. Phụ nữ dùng vòng cổ, vòng tay, cườm và khuyên căng tai làm đồ trang sức.
Nhà ở: người Cơ Ho ở nhà sàn dài bằng gỗ, hai mái uốn cong, lợp bằng cỏ tranh, có liếp nghiêng ra phía ngoài và cũng lợp tranh để chống lạnh. Trước cửa ra vào là cầu thang lên xuống, vách đối diện với cửa để ché, giỏ đựng đồ đạc và bàn thờ. Mọi sinh hoạt chủ yếu (ăn uống, nghỉ ngơi, tiếp khách) đều diễn ra quanh bếp lửa trong nhà.
Tín ngưỡng
Người Cơ Ho tin rằng mọi mặt của đời sống đều do các thế lực siêu nhiên quyết định. Tín ngưỡng về siêu nhiên trong quan niệm của người Cơ Ho có tính chất đa thần...Thần linh (yàng) là thế lực phù hộ cho con người vị và ma quỷ (chạ) lại gây tai họa. Vị thần tối cao là Yang Nđu, rồi có thần Mặt Trời, Mặt Trăng, thần Núi (Yang Cơ P’Nom), thần Nước (Yàng Dạ), thần Rừng (Yàng Brê), thần Đất( Yàng ụ), thần Mưa (Yàng Mìu), thần Lúa (Yàng Kòi)...Họ cúng tế trong những dịp thực hiện hoặc xảy ra những sự kiện quan trọng (hiếu hỷ, những giai đoạn trong sản xuất, ốm đau bệnh tật...). Liên quan đến trồng lúa, người Cơ Ho thực hiện các lễ nghi ở từng công đoạn như gieo lúa, khi lúa trổ bông, đạp lúa và cho lúa vào kho. Trong các nghi lễ cúng tế, tuỳ tầm quan trọng của buổi lễ họ dùng trâu, lợn, dê, hoặc gà để tế sống cùng với rượu. Bàn thờ (nao) thường đặt ở chỗ trang trọng và tôn nghiêm nhất trong nhà. Bàn thờ ngày trước làm bằng ván gỗ có chạm trổ nhưng nay hầu như không còn nữa, giờ đây người ta nhận ra chỗ thờ cúng nhờ những nhánh cây, bông lúa vắt trên mái đối diện với cửa ra vào.
Đến nay các lễ nghi phong tục cổ truyền của người Cơ Ho vẫn còn được bảo lưu. Bên cạnh đó, mấy chục năm lại đây một bộ phận khá lớn người Cơ Ho đã theo đức tin Kitô giáo được du nhập từ bên ngoài, bao gồm cả Công giáo Rôma và Tin lành. Kinh thánh và các tài liệu truyền giáo khác được dịch ra tiếng Cơ Ho và các nhà truyền giáo đã sử dụng ngôn ngữ đó trong việc truyền giảng đạo.
Ăn: Người Cơ-ho xưa ăn cơm nấu bằng nồi đất, ăn ngày 3 bữa với canh rau rừng và các loại gia vị như tiêu, ớt...Đồ uống là nước suối đựng trong vỏ trái bầu. Rượu cần được dùng trong các dịp lễ tiệc, hội hè.
Ở: Nhà ở của người Cơ-ho xưa là nhà sàn dài, mái lợp tranh, phía trước cửa nhà có cầu thang lên xuống. Nhiều nhà quây quần lại thành làng.
Phương tiện vận chuyển xưa: Chiếc gùi đeo qua hai vai là phương tiện vận chuyển hàng ngày.
Hôn nhân: Phụ nữ chủ động trong hôn nhân. Sau hôn lễ, người đàn ông về ở nhà vợ, con mang họ của mẹ.
Tang ma: Có tục chia của cho người chết và làm lễ bỏ mả .
Văn học, nghệ thuật
Chữ viết: Vào đầu thế kỷ 20, chữ Cơ Ho được xây dựng bằng hệ thống chữ Latin nhưng mặc dù đã được cải tiến nhiều lần, được dùng để dạy trong một số trường học, nhưng loại chữ này chưa phổ cập.
Văn học nghệ thuật: Vốn văn học nghệ thuật dân gian Cơ Ho khá phong phú. Thơ ca đậm chất trữ tình và giàu nhạc tính. Một số vũ khúc cổ truyền thường được diễn trong các lễ hội. Các nhạc cụ truyền thống như bộ cồng chiêng gồm 6 chiếc, kèn ống bầu (Kơmbuat), đàn ống tre (Kơrla), trống (Sơgơr)... có khả năng hòa âm với lời ca hoặc độc tấu. Gần đây, ông Nguyễn Huy Trọng, một linh mục ở giáo xứ Kala, huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng đã sưu tập được khoảng 400 truyện cổ tích, nhiều câu thơ (tam pla) và 30 trường ca, sử thi của người Cơ Ho trong đó có trường ca Gơ Plom Kòn Yồi dài hơn 6.000 câu. Những kết quả sưu tập này bước đầu đã được gửi cho cơ quan chuyên môn..
Lễ hội
Hàng năm, người Cơ Ho tổ chức ăn Tết khi mùa màng đã thu hoạch xong (theo thời vụ hiện nay thường vào tháng 12 dương lịch). Tết này có ý nghĩa đón lúa về nhà (Nhô Lir Bông hay Nhô Lirvong). Theo tập quán, các gia đình thay phiên nhau mỗi năm hiến một con trâu để cả bon tổ chức lễ đâm trâu (nho sa rơ pu) trong dịp này. Lễ tổ chức ngoài trời trước nhà chủ có vật hiến tế, nhà già làng hay trên mảnh đất rộng, bằng phẳng, cao ráo trong làng, với cây nêu trang trí sặc sỡ. Mọi người nhảy múa theo tiếng cồng chiêng. Thịt trâu được chia cho từng gia đình, còn máu trâu bôi vào trán những người dự lễ như một sự cầu phúc. Lễ tết kéo dài 7 - 10 ngày, trong các ngày Tết, dân làng đến chung vui với từng gia đình. Trong từng gia đình, người ta cũng tổ chức hiến tế gà, bôi máu lên vựa thóc, sàn kho, cửa ra vào, cửa sổ. Sau Tết, người ta mới được ăn lúa mới và thực hiện các công việc lớn như làm nhà, chuyển làng...
Các nhân vật |
Người Thái với tên tự gọi là Tay/Tày/Thay/Thày () tùy thuộc vào cách phát âm của từng khu vực. Các nhóm, ngành lớn của người Thái tại Việt Nam bao gồm: Tay Đón (Thái Trắng), Tay Đăm (Thái Đen), Tay Đèng (Thái Đỏ) và Tay Dọ (Thái Yo) cùng một số khác nhỏ hơn. Họ đã có mặt ở miền Tây Bắc Việt Nam trên 1200 năm, là hậu duệ những người Thái đã di cư từ vùng đất thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc bây giờ.
Lịch sử
Người Thái thiểu số ở Việt Nam là 1 trong những dân tộc thuộc sắc tộc Thái và họ đều có nguồn gốc từ miền nam Trung Quốc di cư về phía nam (hay là khu vực Đông Nam Á). Dựa trên các chứng cứ về di truyền, Jerold A. Edmondson cho rằng tổ tiên của các cư dân nói ngôn ngữ Tai-Kadai di cư từ Ấn Độ tới Myanmar, rồi sau đó tới Vân Nam (Trung Quốc) khoảng 20.000 - 30.000 năm trước. Từ đó họ đến đông bắc Thái Lan và sau đó di cư dọc vùng duyên hải Hoa Nam lên phía bắc đến cửa sông Trường Giang, gần Thượng Hải khoảng 8-10.000 năm trước.. Vào thời kỳ vương quốc Nam Chiếu và Đại Lý tồn tại từ TK 8 đến TK 13, cũng như sau đó, họ từ đó chiếm lĩnh Thái Lan và Lào.
Theo David Wyatt, trong cuốn "Thailand: A short history (Thái Lan: Lịch sử Tóm lược)", người Thái xuất xứ từ phía nam Trung Quốc, có cùng nguồn gốc với các nhóm dân ít người bây giờ như Choang, Tày, Nùng. Dưới sức ép của người Hán và người Việt ở phía bắc và phía đông, người Thái dần di cư về phía nam và tây nam. Người Thái di cư đến Việt Nam trong thời gian từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII. Trung tâm của họ khi đó là Điện Biên Phủ (Mường Thanh). Từ đây, họ tỏa đi khắp nơi ở Đông Nam Á cùng 1 lúc bây giờ như Lào, Thái Lan, bang Shan ở Miến Điện và một số vùng ở đông bắc Ấn Độ cũng như nam Vân Nam. Vậy nên tổ tiến của những Thái đều ở Vân Nam hết rồi di cư xuống Đông Nam Á và Ấn Độ.
Theo sách sử Việt Nam, vào thời Nhà Lý, man Ngưu Hống (được cho là một cộng đồng người Thái Đen, đây là âm Hán Việt, phiên âm cho từ ngu hàu () tức là rắn hổ mang) ở đạo Đà Giang, đã triều cống lần đầu tiên vào năm 1067. Trong thế kỷ XIII, người Ngưu Hống kết hợp với người Ai Lao chống lại Nhà Trần và bị đánh bại. Năm 1280, một thủ lĩnh tên Trịnh Giác Mật, được gọi là "chúa đạo Đà Giang" đầu hàng Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật nhà Trần, nhưng chưa rõ thành phần dân tộc của nhân vật này. Năm 1337 lãnh tụ Xa Phần bị giết chết sau một cuộc xung đột, xứ Ngưu Hống bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt và đổi tên thành Mường Lễ, hay Ninh Viễn (Lai Châu ngày nay) và giao cho họ Đèo cai quản. Năm 1431 lãnh tụ Đèo Cát Hãn, người Thái Trắng tại Mường Lễ (tức Mường Lay, nổi lên chống triều đình, chiếm hai lộ Qui Hóa (Lào Cai) và Gia Hưng (giữa sông Mã và sông Đà), tấn công Mường Mỗi (tức Mường Muổi, Sơn La), Đèo Mạnh Vương (con của Đèo Cát Hãn) làm tri châu. Năm 1466, lãnh thổ vùng tây bắc Đại Việt, gồm những vùng đất của người Thái được tổ chức lại thành thừa tuyên Hưng Hóa, gồm 3 phủ: An Tây (tức Phục Lễ), Gia Hưng và Qui Hóa, 4 huyện và 17 châu.
Những lãnh tụ Thái được gọi là phụ tạo, được phép cai quản một số lãnh địa và trở thành giai cấp quý tộc của vùng đó, như dòng họ Đèo cai quản các châu Lai, Chiêu Tấn, Tuy Phụ, Hoàng Nham; dòng họ Cầm các châu Phù Hoa, Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo, Luân, Ninh Biên; dòng họ Xa cai quản châu Mộc; dòng họ Hà cai quản châu Mai, dòng họ Bạc ở châu Thuận; họ Hoàng ở châu Việt...
Năm 1841, trước sự đe dọa của người Xiêm La, triều đình Nhà Nguyễn kết hợp ba châu Ninh Biên, Tuần Giáo và Lai Châu ở tả ngạn sông Mekong thành phủ Điện Biên. Năm 1880, phó lãnh sự Pháp là Auguste Pavie nhân danh triều đình Việt Nam phong cho Đèo Văn Trị chức tri phủ cha truyền con nối tại Điện Biên; sau khi giúp người Pháp xác định khu vực biên giới giữa Việt Nam với Trung Quốc và Lào, Đèo Văn Trị được cử làm quan của đạo Lai Châu, cai quản một lãnh thổ rộng lớn từ Điện Biên Phủ đến Phong Thổ, còn gọi là xứ Thái. Tháng 3, 1948 lãnh thổ này được Pháp tổ chức lại thành Liên bang Thái tự trị, qui tụ tất cả các sắc tộc nói tiếng Thái chống lại Việt Minh.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, để lấy lòng các sắc tộc thiểu số miền Bắc, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập Khu tự trị Thái Mèo ngày 29 tháng 4 năm 1955, Khu tự trị Tày Nùng và vùng tự trị Lào Hạ Yên, nhưng tất cả các khu này đều bị giải tán năm 1975
Dân cư
Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số năm 1999, người Thái có số dân là 1.328.725 người, chiếm 1,74% dân số cả nước, cư trú tập trung tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An (số lượng người Thái tại 8 tỉnh này chiếm 97,6% tổng số người Thái ở Việt Nam)và một số ở Tỉnh Lâm Đồng và Đắk Lắk. Trong đó tại Sơn La có 482.485 người (54,8 % dân số), Nghệ An có 269.491 người (9,4 % dân số), Thanh Hóa có 210.908 người (6,1 % dân số), Lai Châu cũ (nay là Lai Châu và Điện Biên) có 206.001 người (35,1 % dân số).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Thái ở Việt Nam có dân số 1.820.950 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam, có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh:
Sơn La (669.265 người, chiếm 53,2% dân số toàn tỉnh và 36,9% tổng số người Thái tại Việt Nam),
Nghệ An (338.559 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh và 19,0% tổng số người Thái tại Việt Nam),
Thanh Hóa (247.817 người, chiếm 6,6% dân số toàn tỉnh và 14,5% tổng số người Thái tại Việt Nam),
Điện Biên (213.714 người, chiếm 38,0% dân số toàn tỉnh và 12,0% tổng số người Thái tại Việt Nam),
Lai Châu (142.898 người, chiếm 32,3% dân số toàn tỉnh và 7,7% tổng số người Thái tại Việt Nam),
Yên Bái (61.964 người),
Hòa Bình (34.387 người),
Đắk Lắk (19.709 người),
Đắk Nông (11.250 người)...
Các nhóm người Thái
Người Thái Đen (Tai Dam)
Nhóm Thái Đen (Thay Đằm, ) cư trú ở khu vực tỉnh Sơn La và Điện Biên (Mường La, Mường Thèng), một số tập trung ở miền Tây Thanh Hóa (Mường Khoòng). Các nhóm Tay Thanh (Man Thanh), Tay Mười, Tay Khăng ở miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An cũng mới từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài ba trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hóa và nhân chủng của cư dân địa phương và Lào.
Nhóm Tay Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi qua Lào vào Thanh Hóa và tới Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm, nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào. Dân số của nhóm Thái Đen tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 699.000 người trong tổng số 763.950 người Thái Đen trên toàn thế giới. Ngoài ra còn có khoảng 50.000 người Thái Đen hay Tay Mười sinh sống tại tỉnh Khăm Muộn, Lào (số liệu 1995); 10.000 người Thái Đen (một phần của dân tộc Thái theo phân loại của CHND Trung Hoa) sinh sống tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (số liệu 1995) và 700 người Thái Đen sinh sống tại tỉnh Loei, Thái Lan (số liệu 2004, nhóm này đến Thái Lan vào năm 1885).Số dân Thái Đen cũng sống ở các tỉnh khác như Nakhon Pathom, Ratchaburi, Suphan buri, Phitsanulok, Chumphon và Surat Thani.
Người Thái Trắng (Tai Don)
Nhóm Thái Trắng (Thay Đón/Thay Khao, ) cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu, Điện Biên và một số huyện tỉnh Sơn La (Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên). Ở Đà Bắc thuộc tỉnh Hòa Bình, có nhóm tự nhận là Táy Đón, được gọi là Thổ. Ở xã Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai, có một số địa bàn Thái Trắng chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sapa, Bắc Hà, nhiều nhóm Thái Trắng đã Tày hóa.
Người Thái Trắng đã có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế kỷ XIII và làm chủ Mường Lay (địa bàn chính là huyện Mường Chà ngày nay) thế kỷ XIV, một bộ phận di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hóa thế kỷ XV. Có thuyết cho rằng họ là con cháu người Thái Lặc ở Trung Quốc. Dân số của nhóm Thái Trắng tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 280.000 người trong tổng số 490.000 người Thái Trắng trên toàn thế giới. Ngoài ra còn có khoảng 200.000 người Thái Trắng sinh sống tại Lào (thống kê năm 1995); 10.000 người Thái Trắng (một phần của dân tộc Thái theo phân loại của CHND Trung Hoa) sinh sống tại tỉnh Vân Nam, Trung Quốc (số liệu 1995).
Ở Mường Tấc, nay thuộc huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La, một nhánh của người Thái Trắng nói tiếng riêng gọi là tiếng Tày Tấc.
Người Thái Đỏ (Tai Daeng)
Nhóm Thái Đỏ (?) (Tai Daeng - Tay Đèng), gồm nhiều nhóm khác nhau cư trú chủ yếu ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hòa Bình) và các huyện miền núi như Bá Thước (Thanh Hóa) và Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương - điều này không chắc chắn (Nghệ An). Dân số của nhóm Thái Đỏ tại Việt Nam năm 2002 ước tính khoảng 140.000 người trong tổng số 165.000 người Thái Đỏ trên toàn thế giới. Ngoài ra còn có khoảng 25.000 người Thái Đỏ sinh sống tại tỉnh Sầm Nưa, Lào (số liệu 1991).
Một số nhóm có dân số ít hoặc chưa được phân định rõ ràng như Tay Mười (sống xen kẽ với nhóm Tay Thanh và Tay Mường ở Nghệ An) có khoảng 300 người (2002), Tay Mường (Thái Hàng Tổng,Thái Do, Tay Dọ) có khoảng 10.000 người (2002), Tay Thanh có khoảng 20.000 người (2002), Phu Thay (hay Phutai, Putai, Puthai, Puthay) với dân số 209.000 người (2002) (ngoài ra tại Thái Lan có khoảng 470.000 người (2006), tại Lào có 154.000 người (2001) và tổng số người Phu Thay trên thế giới là 833.000)...
Người Thái Mường Vạt
Người Thái Mường Vạt hay còn gọi là Tày Mường Vạt sống tại huyện Yên Châu, Sơn La. Họ nói tiếng Thái Mường Vạt.
Người Thái Yo
Người Thái Do hay còn gọi là Tày Dọ, sống rải rác tại huyện Quỳ Châu, Nghệ An và huyện Thường Xuân, Thanh Hóa. Họ nói Tiếng Tay Dọ, có chữ viết riêng là chữ Thái Quỳ Châu, hiện nay vẫn đang được sử dụng.
Người Thái Thanh
Người Thái Thanh hay còn gọi là Tày Then, Tày Nhại. Họ sinh sống ở Nghệ An, Thanh Hóa và nói tiếng Tay Nhại.
Người Thái Lự
Người Thái Lự là một nhánh của dân tộc Thái, sinh sống tại hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu. Ở Việt Nam họ được xếp vào dân tộc riêng là người Lự.
Người Tày Đà Bắc
Người Tày Đà Bắc hay còn gọi là Thổ Đà Bắc gồm 20,000 người sống tại Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình. Tuy gọi là người Tày nhưng họ theo văn hóa của Người Thái Tây Bắc và nói tiếng Phu Thái.
Người Tày Sapa, người Pa Dí
Người Tày Sapa và người Pa Dí sinh sống tại Sa Pa và Mường Khương tỉnh Lào Cai. Họ được xếp vào dân tộc Tày, tuy nhiên tiếng nói của họ thuộc nhóm Thái Tây Nam của người Thái.
Người Thái ở hải ngoại
Ngoài ra còn có chừng 20.000 người Thái gốc Việt Nam sinh sống tại nước ngoài, chủ yếu là Pháp và Hoa Kỳ.
Ngôn ngữ và chữ viết
Người Thái có ngôn ngữ và văn tự riêng. Các nhà dân tộc học hiện nay đã xếp tộc người này vào Nhóm nói tiếng Thái - ngữ hệ (họ ngôn ngữ) Kra-Dai (hay còn gọi là Tai-Kadai) .
Do có chung một cội nguồn, các ngôn ngữ Thái có tỷ lệ từ vựng chung cao.
Các ngôn ngữ Thái này chủ yếu là ngôn ngữ đơn âm tiết, có thanh điệu. Cú pháp chủ yếu là SVO (chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ). Trừ những câu mệnh lệnh thức, còn ít có trường hợp đảo ngược thứ tự này. Tiếng Thái Việt Nam là một phương ngữ được hợp bởi năm vùng thổ ngữ:
1. Thái Trắng miền cực bắc Tây Bắc.
2. Thái Đen vùng giữa miền Tây Bắc, thường gọi là tiếng Thái chín châu (Kwam Thai kau chaw muang).
3. Thái Đen ở huyện Yên Châu (Sơn La), thường gọi là Thái Mường Vạt.
4. Thái Trắng ở huyện Phù Yên, Mộc Châu (Sơn La) hợp cùng Thái Đen, thường gọi là Tày Thanh (Man Thanh, Tay Nhại).
5. Nhóm Thái với các tên thường gọi là Tày Mường, Hàng Tổng, Tày Dọ ở mạn Tây bắc Hòa Bình và miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An.
Văn tự Thái có nguồn gốc từ hệ chữ Sanskrit (Ấn Độ). Chữ Thái cổ Việt Nam thống nhất cách cấu tạo và đọc, nhưng lại có tám loại ký tự khác nhau, đó là: chữ Thái Đen, chữ Thái Trắng Mường Lay, chữ Thái Trắng Phong Thổ, chữ Thái Trắng Phù Yên, chữ Thái Trắng Mộc Châu, Mai Châu, Đà Bắc, chữ Thái Lai Xư (Tay Thanh), chữ Thái Lai Pao (Tương Dương, Nghệ An), chữ Thái Lai Tay hay chữ Thái Quỳ Châu (Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp thuộc tỉnh Nghệ An).
Trong giai đoạn 1954 - 1969, chữ Thái khu tự trị Tây Bắc cũ đã được cải tiến, thống nhất và mang tên Chữ Thái Việt Nam thống nhất. Từ tháng 5/2008 chữ Thái cải tiến mới được chính thức được đưa vào sử dụng, được gọi là chữ Thái Việt Nam.
Chữ Thái Việt Nam (Tai Viet) có vùng mã Unicode U+AA80..U+AADF , tuy nhiên các font chữ phổ biến hiện có trong máy tính không hiện được các ký tự này.
Đặc điểm kinh tế
Người Thái có nhiều kinh nghiệm, đào mương, dựng đập, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm nương để trồng lúa, hoa màu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ, bền đẹp.
Văn hóa
Họ của người Thái
Người Thái sử dụng các họ chủ yếu như: Khoàng, Bạc, Bế, Bua, Bun, Cà (Hà, Kha, Khà, Mào, Sa), Cầm, Chẩu, Chiêu, Đèo, Điều, Điêu, Hà, Hoàng, Khằm Leo, Lèo, Lềm (Lâm, Lịm), Lý, Lò (Lô, La, Lo), Lộc (Lục), Lự, Lường (Lương), Manh, Mè, Nam, Nông, Ngần, Ngưu, Nho, Nhật, Panh, Pha, Phia, Phìa, Quàng (Hoàng, Vàng), Quàng, Sầm (Cầm Bá, Phạm Bá), Tạ, Tày, Tao (Đào), Tạo, Tòng (Toòng), Lang (Vi), Vì (Vi), Xa (Sa), Xin.
Hôn nhân
- Người Thái có tục ở rể, vài năm sau, khi đôi vợ chồng đã có con mới về ở bên nhà chồng, nhưng bây giờ hầu như không có trừ vài trường hợp gia đình bên gái khó khăn.
- Cô gái Thái khi lấy chồng phải búi tóc (Tằng Cẩu) - tục lệ này thường thấy rõ ràng nhất ở nhóm Thái Đen.
Tục lệ ma chay
Người Thái quan niệm chết là tiếp tục "sống" ở thế giới bên kia. Vì vậy, đám ma là lễ tiễn những người chết về "mường trời".
Văn hóa dân gian
Thần thoại, cổ tích, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của dân tộc Thái là: Xống chụ xon xao (Tiễn dặn người yêu), Khun Lú Nàng Ủa (Chàng Lú nàng Ủa).... Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật tục, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây. Người Thái rất thích ca hát, đặc biệt là khắp. () là lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hóa nổi bật của người Thái.
Nhà cửa
Điểm khác biệt nhất của nhà cửa người Thái so với người Việt và Hán là họ ở nhà sàn. Nhà sàn người Thái trắng có khá nhiều điểm gần với nhà Tày-Nùng. Còn nhà người Thái Đen lại gần với kiểu nhà của các cư dân Môn-Khmer. Tuy vậy, nhà người Thái Đen lại có những đặc trưng không có ở nhà của cư dân Môn-Khmer: nhà người Thái Đen nóc hình mai rùa, chỏm đầu đốc có khau cút với nhiều kiểu khác nhau. Hai gian hồi để trống và có lan can bao quanh. Khung cửa ra vào và cửa sổ có nhiều hình thức trang trí khác nhau.
Bộ khung nhà Thái có hai kiểu cơ bản là khứ tháng và khay điêng. Vì khay điêng là vì khứ kháng được mở rộng bằng cách thêm hai cột nữa. Kiểu vì này dần gần lại với kiểu vì nhà người Tày-Nùng.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà Thái Đen khá độc đáo: các gian đều có tên riêng. Trên mặt sàn được chia thành hai phần: một phần dành làm nơi ngủ của các thành viên trong gia đình, một nửa dành cho bếp và còn là nơi để tiếp khách nam giới.
Những người Thái Việt Nam có danh tiếng
Các dòng họ người Thái nối đời làm quan lang đạo các vùng mường Tây Bắc Việt Nam, trong thời phong kiến Việt Nam từ thời nhà Hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, theo Lê Quý Đôn gồmː
họ Xa phụ đạo châu Mộc Châu, Đà Bắc, Mã Nam (Sop Bao) ngày nay là các huyện Mộc Châu, huyện Đà Bắc, huyện Vân Hồ và huyện Sốp Bao (Lào)).
họ Đèo phụ đạo châu Lai (Mường Lay), châu Chiêu Tấn (Phong Thổ), châu Quỳnh Nhai.
họ Cầm phụ đạo châu Ninh Biên (Điện Biên Phủ), châu Luân Châu (Tủa Chùa), châu Tuần Giáo, châu Sơn La, châu Mai Sơn, châu Phù Hoa (Phù Yên).
họ Hà phụ đạo châu Mai (Mai Châu).
họ Bạc (Bạc Cầm) phụ đạo Mường Mỗi (châu Thuận Châu).
họ Hoàng phụ đạo châu Việt (Yên Châu).
Theo Phạm Thận Duật gồmː
họ Xa phụ đạo châu Mộc Châu, Đà Bắc, ngày nay là các huyện Mộc Châu, huyện Đà Bắc, huyện Vân Hồ.
họ Đèo phụ đạo châu Lai (Mường Lay), châu Chiêu Tấn (Phong Thổ), châu Luân Châu (Tủa Chùa), châu Quỳnh Nhai, thêm châu Văn Bàn (cũng theo Nguyễn Văn Siêu).
họ Cầm phụ đạo châu Tuần Giáo, châu Sơn La, châu Mai Sơn, châu Phù Hoa (Phù Yên).
họ Hà phụ đạo châu Mai (Mai Châu),Mường Khoòng (Bá Thước).
họ Bạc phụ đạo Mang Mỗi (Mưỡng Muổi - châu Thuận Châu).
họ Hoàng phụ đạo châu Việt (Mưỡng Vạt - Yên Châu).
{|class= "sortable wikitable"
|+ Những người Thái Việt Nam có danh tiếng
!width= 120px |Tên !! Sinh thời !! Hoạt động
|-
|-
| Lò Lẹt || Tk.14
|Chúa người Thái Đen tại Thuận Châu (Mường Mỗi) thuộc tiểu quốc Ngưu Hống, chống lại nhà Trần thời Trần Minh Tông, Trần Hiến Tông năm 1329-1337, sau thần phục nhà Trần góp phần mở rộng lãnh thổ Đại Việt về phía tây bắc vào cuối thời nhà Trần.
|-
| Xa Khả Xâm || Tk.15
| Thủ lĩnh người Thái Trắng tại Mộc Châu, thần phục Lê Thái Tổ năm 1427, tham gia chống lại nhà Minh lập nên nhà Hậu Lê, được Lê Thái Tổ phong làm quan Tư mã cai quản Mộc Châu (vùng đất nay là huyện Mộc Châu, huyện Đà Bắc, huyện Vân Hồ và huyện Sốp Bao (Lào).
|-
| Đèo Cát Hãn || Tk.15
| Thủ lĩnh người Thái Trắng tại Mang Lễ (Mường Lay), trong lịch sử Việt Nam xuất hiện từ thời Nhà Hồ sang thời Hậu Lê.
|-
| Đèo Văn Sinh || Tk.19
| Thủ lĩnh người Thái Trắng, năm 1869 nắm quyền cai quản vùng Sipsong Chuthai (mười hai xứ Thái), quê bản Nậm Dòn, xã Nậm Hàng, huyện Mường Tè, Lai Châu
|-
| Đèo Văn Trị || 1849-1908
| Thủ lĩnh người Thái Trắng, tên Thái là Cầm Oum, con của chúa Đèo Văn Sinh, kế thừa cai quản vùng Sipsong Chuthai, cuối thế kỷ XIX từng tham gia chống Pháp nhưng sau đó thừa nhận sự cai trị của người Pháp.
|-
| Đèo Văn Long || 1887-1975
| Thủ lĩnh người Thái, lãnh chúa Khu tự trị Thái ở Liên bang Đông Dương, con trai thứ của chúa Đèo Văn Trị
|-
| Lò Văn Sôn || 1920-...
| Chiến sỹ Điện Biên, đại tá, nguyên phó Tham mưu trưởng Quân khu 1. Quê quán xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La
|-
| Cầm Ngoan || 1922-2007
| Đại biểu Quốc hội Việt Nam 5 khóa (3 đến 7), Phó chủ tịch Quốc hội khóa 7, quê xã Tường Phù, Phù Yên, Sơn La
|-
| Hoàng Nó || 1926-
| Tên thật Cầm Văn Lương, nhà thơ, bí thư khu uỷ Khu tự trị Tây bắc. Quê quán xã Mường Chanh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
|-
| Lò Văn Puốn || 1940-... || Ủy viên BCHTW Đảng CSVN, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Lai Châu, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 10 (1996-2001), quê xã Thanh An, huyện Điện Biên
|-
| Cầm Xuân Ế || 1949-...
| Thiếu tướng phó tư lệnh Quân khu 2. Quê quán xã Tường Tiến, huyện Phù Yên tỉnh Sơn La
|-
| Lù Thị Phương || 1951-...
| Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 11, tỉnh Lai Châu
|-
| Tòng Thị Phóng || 1954-...
| Ủy viên Bộ Chính trị BCH TW Đảng CSVN, đại biểu Quốc hội Việt Nam từ khóa 10 (1997) đến nay, quê xã Chiềng An, thành phố Sơn La.
|-
| Tống Văn Thoóng || 1955-...
| Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 12, tỉnh Lai Châu
|-
| Lò Văn Giàng || 1956-...
| Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu (2010-2015), Ủy viên BCHTW Đảng CSVN khóa 11, quê Mường Lay, Điện Biên.
|-
| Vi Văn Long || 1958-...
| Trung tướng CANDVN
| Cầm Ngọc Minh || 1959-...
| Chủ tịch UBND tỉnh Sơn La nhiệm kỳ 2016–2021. Quê quán xã Quang Huy, huyện Phù Yên tỉnh Sơn La
|-
| Lò Văn Muôn || 1961-...
| Chủ tịch HĐND tỉnh Điện Biên, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, quê xã Noong Luống, huyện Điện Biên
|-
| Hoàng Lương || 1944-2015
| Phó giáo sư - tiến sĩ, nhà giáo ưu tú, nguyên chủ nhiệm bộ môn Dân tộc học, Đại học KHXH & NV - Đại học Quốc gia Hà Nội. Quê quán Huy Tân, Phù Yên, Sơn La.
|-
| Hoàng Ngọc Dũng || 1961-...
| Thiếu tướng phó tư lệnh Quân khu 2. Quê quán xã Sốp Cộp, huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La
|-
| Lò Thanh Hay ||
| Thiếu tướng - Giám đốc công an tỉnh Sơn La. Quê quán Mộc Châu, Sơn La
|-
| Hà Thị Nga || 1969-...
| Phó Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai khóa 14 (2015-2020). Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2020-nay)
|-
| Quàng Văn Hương || 1969-...
| Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 (2016-2021), quê xã Chiềng Cọ, thành phố Sơn La.
|-
| Phạm Thị Hoa || 1970-...
| Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 11, tỉnh Thanh Hóa
|-
| Tống Thanh Bình || 1970-...
| Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 (2016-2021), quê xã Mường Tè, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu
|-
| Vi Thị Hương || 1970-...
| Bác sĩ, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 13, quê xã Môn Sơn, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An
|-
| Lò Thị Luyến || 1974-...
| Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa 14 (2016-2021), quê xã Chiềng Mai, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
|-
| Sa Minh Trắc || 1942-...|| Thiếu tướng QĐNDVN, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu 2. Quê xã Cát Thịnh huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái Thiếu tướng về với đời thường . Cựu chiến binh VN, 02/02/2012. Truy cập 01/04/2018.
|-
| Hà Hùng || || Nguyên Bí thư tỉnh uỷ ĐCS Sơn La. Hiện giờ là Phó Chủ nhiệm UBKT trung ương, Quê quán: Mộc Châu, Sơn La
|-
| Quàng Văn Huyên || || Đại tá QĐNDVN Nguyên Chính uỷ Bộ CHQS tỉnh Sơn La, Lão thành cách mạng. Quê quán: Chiềng An, TP sơn La, Sơn La
|-
| Cầm Quốc Quân || || Đại tá QĐNDVN Nguyên Phó Chỉ huy trưởng Chính trị Bộ CHQS tỉnh Sơn La. Quê quán: Mai Sơn, Sơn La.
|-
| Điêu Chính Một|| || Đại tá QĐNDVN Chính uỷ Bộ CHQS tỉnh Lai Châu. Quê quán: Mường Chiên, Quỳnh Nhai, Sơn La.
|-
| Hà Duy Hom || || Đại tá QĐNDVN Nguyên Chính uỷ Cục Hậu cần Bọ Tư lệnh Biên phòng. Quê quán: Tường Phong, Phù Yên, Sơn La
|-
| Tao Văn Khứn || || Đại tá QĐNDVN Nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS tỉnh Điện Biên. Quê quán: Mường Lay, Điện Biên.
|-
| Hà Văn Pâng || || Đại tá QĐNDVN Chỉ huy BĐBP tỉnh Sơn La. Quê quán: Chiềng Dong, Mai Sơn, Sơn La.
|-
| 'Cầm Văn Câu || || Đại tá QĐNDVN Chính uỷ Bộ CHQS tỉnh Sơn La. Quê quán: Mường Chanh, Mai Sơn, Sơn La.
|}
Tham khảo
Xem thêm
Danh sách ngôn ngữ
Danh sách các nước theo ngôn ngữ nói
Các dân tộc Việt Nam
Nguồn gốc các dân tộc Việt Nam
Wyatt, David K, Thailan: A short History'', Yale University Press, New Haven and Luân Đôn, 1984 |
Người Mường, còn có tên gọi là Mol, Moan, Mual, là dân tộc sống ở khu vực trung du và miền núi phía Bắc Việt Nam. Người Mường được công nhận là một thành viên của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam.
Người Mường nói tiếng Mường, ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường trong ngữ chi Việt thuộc ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á.
Dân số người Mường tại Việt Nam theo kết quả điều tra dân số năm 2019 là 1.452.095 người, tập trung đông nhất ở tỉnh Hòa Bình chiếm 37,81% và các tỉnh lân cận là Thanh Hóa 25,92%, Phú Thọ 15,04%, Sơn La 5,83%, Hà Nội 4,29%. Các vùng còn lại chiếm 11,11%.
Người Mường có quan hệ rất gần với người Kinh, có cùng nguồn gốc với người Kinh. Các nhà dân tộc học ngôn ngữ đưa ra thuyết cho rằng người Mường và người Kinh có nguồn gốc chung là người Việt-Mường cổ. Vào thời kỳ ngàn năm bắc thuộc thì bộ phận người cư trú ở miền núi, bảo tồn bản sắc cổ Âu Lạc, và sau này trở thành người Mường. Bộ phận ở trung du và đồng bằng có sự hòa trộn với người phương bắc về văn hóa, ngôn ngữ và nhân chủng thì thành người Kinh. Quá trình chia tách Mường - Kinh, xác định theo ngôn ngữ học thì diễn ra bắt đầu từ thế kỷ 7-8 và kết thúc vào thế kỷ 12, thời Nhà Lý.
Dân số và địa bàn cư trú
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê công bố năm 1989, dân tộc Mường ở Việt Nam mới chỉ có 914.396 người nhưng 10 năm sau, tức năm 1999, vẫn theo kết quả Tổng điều tra dân số của Tổng cục Thống kê công bố, người Mường đã tăng lên 1.137.515 người, sau 10 năm tiếp, tức năm 2019, vẫn theo kết quả tổng điều tra dân số thì số người Mường tăng lên là 1.434.628 người.
Người Mường sống tập trung ở các thung lũng hai bờ sông Đà (Phú Thọ, Sơn La, Ba Vì, Hòa Bình) và khu vực trung lưu của sông Mã, sông Bưởi (các huyện Thạch Thành, Bá Thước, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc của tỉnh Thanh Hóa). Người Mường ở Thanh Hoá gồm hai bộ phận: Mường Trong (Mường gốc) và Mường Ngoài (người Mường di cư từ Hòa Bình vào). Sang đến tỉnh Nghệ An hầu như không có người Mường sinh sống (năm 1999 chỉ có 523 người Mường trong toàn tinh). Ngoài ra ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ cũng có gần 27.000 người mới di cư vào trong những năm gần đây.
Theo Tổng điều tra dân số năm 2019, người Mường có dân số là 1.452.095 người. Người Mường sống tập trung chủ yếu ở các tỉnh:
Hòa Bình (549.026 người, chiếm 63,3% dân số của tỉnh),
Thanh Hóa (376.340 người, chiếm 9,5% dân số của tỉnh),
Phú Thọ (218.404 người, chiếm 13,1% dân số của tỉnh),
Sơn La (84.676 người, chiếm 8,2% dân số của tỉnh),
Hà Nội (62.239 người),
Ninh Bình (27.345 người),
Yên Bái (17.401 người)
Đắk Lắk (15.656 người)
Ở Đắk Lắk số người Mường chiếm khoảng 1,5% toàn tỉnh chủ yếu tập trung ở thành phố Buôn Ma Thuột và một số huyện lân cận. Người Mường ở đây di cư từ năm 1954 và có nguồn gốc từ Mường Phú Thọ và Hòa Bình. Đa số vẫn giữ được phong tục tập quán nguồn gốc và bản sắc văn hóa dân tộc mình.
Nguồn gốc
Người Mường có cùng nguồn gốc với người Việt cư trú lâu đời ở vùng Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ,...
Đẻ đất đẻ nước
Đẻ đất đẻ nước là bộ sử thi lớn, kể về gốc tích và công cuộc đấu tranh của người Mường ở thời đại rất xa xưa, chứa đựng những quan niệm người Mường cổ về việc hình thành trời đất, tạo lập thế giới.
Chim Ây, Cái Ứa
Cũng như các dân tộc khác, để lý giải về nguồn gốc của dân tộc mình, dân gian Mường ở Hòa Bình còn lưu giữ và truyền kể những huyền thoại về sự xuất hiện dân tộc mình dưới dạng những áng Mo (những truyền thuyết đó được lưu truyền chủ yếu dưới dạng các bản mo hát với phiên bản dài ngắn khác nhau).
Thuở xưa, khi con người chưa xuất hiện, trời làm hạn hán,khô khan, cây cối khô mà chết, rồi trời lại mưa. Một trận mưa to chưa từng thấy. Nước chảy thành suối thành sông. Đất lở bồi thành đồng bằng. Đá lăn chất đầy thành gò thành đống, thành đồi thành núi. Từ dưới đất mọc lên một cây si. Cây si lớn như thổi trở thành một cây cổ thụ, cành lá che kín cả bầu trời. Cây si bị sâu đục ăn làm cho gãy cành rụng lá. Từ gốc cây si đẻ ra một đôi chim. Chim Ây là đực, Cái ứa là cái. Đôi chim rủ nhau bay lên cành cây si làm tổ. Cành si gãy. Chim bay lên cây đa làm tổ. Cây đa đổ. Chim Ây và Cái Ứa lại rủ nhau bay lên núi đá lấy cỏ làm thành tổ Hang Hao. Cái Ứa đẻ ra trăm ngàn quả trứng. Trứng chim nở ra thành muôn loài muôn vật. Còn lại một trăm cái trứng thì nở ra con người. Đó là người Mường và người Kinh.
Truyền thuyết về Đức thánh Tản Viên (thần núi Ba Vì)
Người Mường Thanh Sơn còn cho rằng Đức Thánh Tản Viên Sơn (còn gọi là Sơn tinh) – Con rể vua Hùng thứ 18 – là người Mường Thanh Sơn. Truyền kể rằng, ở vùng mường Xuân đài, Khả Cửu ngày xưa có một cô gái con nhà Lang tên là Đinh Thị Đen (người Mường Thanh Sơn gọi là Đinh Thị Điên). Cô là người đen đủi xấu xí nhất trong gia đình dòng họ nên bị bố mẹ, anh chị em hắt hủi. Một lần vào rừng lấy củi, cô gái tủi thân ngồi khóc trên một tảng đá và ngủ thiếp đi. Từ đó cô có thai và đã bị nhà Lang hắt hủi đuổi đi. Cô đã lang thang lần đi đến vùng mường Tất Thắng. Dân ở đó thấy cô đói khát đã cho cô ăn uống. Từ Tất Thắng, cô lại đi tiếp đến động Lăng Xương (thuộc xã Trung Nghĩa huyện Thanh Thủy ngày nay) thì đẻ ra thần Tản Viên. Dân bản ở đây thương tình đã đóng cho cô một bè nứa và đưa hai mẹ con cô vượt sông Đà sang vùng Ba Vì (thuộc Hà Nội ngày nay). Mẹ con bà Đinh Thị Đen được bà Ma Thị là chúa các động mường cưu mang nhận làm con nuôi. Khi Tản Viên lớn lên, thần được bà Ma Thị truyền cho quyền cai trị và bảo vệ các xứ mường. Thần đã lấy con gái vua Hùng thứ 18 tên là Ngọc Hoa làm vợ.
Truyền thuyết Đẻ Giang
Người Mường ở các xã Lai Đồng, Đồng Sơn, Thạch Kiệt còn lưu truyền truyền thuyết "Đẻ giang" như sau: ở đất mường Tồng (tên gọi cũ của Lai Động) có một cái hang gọi là hang Cơng Tiếng. Ở đó có con chim ưng đẻ ra một quả trứng. Quả trứng nở ra một con vứa (con ngài tằm). Con Vứa bay hết Mường này sang Mường nọ rồi đậu vào cây đa, cây sấu rồi bay tiếp lên núi đá trắng. Cũng từ đó bản Mường trở nên đông vui sầm uất. Người Mường biết làm nhà để ở và đẻ con cái, ra bố mẹ con giang. Bố mẹ con giang ra trước rồi tiếp theo đẻ ra được Buồng Nang Ráu, là cháu nàng Thăn, con của nàng Ún Mái. Nàng ún Mái lại đẻ ra dân ra bản, đẻ ra vợ chồng. Từ đó, Người Mường có quê quán, có nhà có cửa, có cơm ăn, rượu uống và vàng bạc. Họ mang giang đi hát khắp nơi. Từ đó các bản mo giang được truyền bá rộng rãi như sang mường Pi, mường Thàng (Hòa Bình) để những vùng mường này phát triển. Nhờ đó con giang được truyền và ăn sâu vào đời sống tinh thần của người Mường.
Trên đây chỉ là một vài truyền thuyết tiêu biểu của người Mường Thanh Sơn giải thích về nguồn gốc dân tộc của mình. Mặc dù truyền thuyết mang tính hoang đường và đôi khi tản mạn nhưng lại là tư liệu quý. Người Mường quan niệm mình và người Kinh vốn cùng một cha mẹ sinh ra, cùng máu mủ dòng giống. Chính vì lẽ đó mà cho đến tận ngày nay, người Mường vẫn còn lưu truyền câu ca: "Ta với mình tuy hai mà một. Mình với ta tuy một thành hai".
Ngôn ngữ
Tiếng Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường trong ngữ chi Việt của ngữ hệ Nam Á. Tiếng Mường rất gần với tiếng Việt (Đặc biệt là Mường Tân Lạc, Hòa Bình) có thể nói một cách khái quát (nhưng không tuyệt đối, khoảng 75%) như sau:
Những từ không dấu trong tiếng Việt thì giữ nguyên là thành tiếng mường như: Con, con chim, con voi, ăn, cho, tiêu pha,... một số từ khác phụ âm đầu: tay = xay, đi= ti, con dê= con tê, coan tê (con dê), con bò= con pò, máy bừa= máy pừa, tai= xai...
Những từ có dấu hỏi trong tiếng Việt cũng giữ nguyên: của cải= của cải, đểu= đểu, giả= giả...
Những từ có dấu ngã thì chuyển thành dấu hỏi như: đã= đả, những = nhửng (Tân Lạc, Hòa Bình vẫn giữ nguyên)
Những từ có dấu nặng thì chuyển thành dấu sắc: nặng= nắng (phát âm lại ~ nặng= nắăng, tận= tấn (tấân)... (Tân Lạc, Hòa Bình vẫn giữ nguyên)
Những từ mà có âm "ặc, ịt, ặc, ục" thì giữ nguyên không chuyển dấu: đông đặc= đông đặc, mặc= mặc.
Những từ có dấu huyền thì chuyển thành dấu sắc và ngược lại dấu sắc thì thành dấu huyền: nắng= đằng (ví dụ: trời nắng= trới đằng(đắng)
Một số từ không theo quy luật: cây tre= cââ pheo(tle), xưng hô(chú=chú, cháu= xôn), nhìn (ngắm)=(ngỏ)= (mờờng), trông thấy= mờờng đố, ở giữa= ở khựa...(khá giống phương ngữ Thanh - Nghệ - Tĩnh)
(Bổ sung một số từ không theo quy luật: Qua một số các cụm từ ngữ âm tiết đã đăng cơ bản đều đúng, riêng theo tôi thấy có một số cần bổ sung và chỉnh như sau (vùng Tân Lạc, Hòa Bình xưng hô): cháu = xôn; em = ún; chị = cái; anh = tứa(phát âm không dấu, lại vừa như có dấu sắc kèm theo từ ai kéo dài); dì(em của mẹ)= íi; cô (em bố)= woạ; mẹ = mạng; bố = pố(bố); bác(chị, anh của bố, mẹ)= bác; bà= bà; ông = ôông....
Nước= đác (phát âm Đảk, ví dụ: uống nước= óong đác(đảc); nhưng Nhà nước thì lại khác (ví dụ: Nhà nước= Nhá nước = không thể gọi (nhà nước= nhá đảc) được.
- Nhìn= mờờng, thấy=đố hoặc một số địa phương có cách gọi khác nhìn= ngó là bươn (nhìn thấy= hẩu bươn, hoặc nhìn thấy= hẩu kỉa)
- Đi= ti; đứng= chọọng; dậy= dậậ; ngủ= tảy (ví dụ: ngủ dậy= tảy dậậ) (dậậ tảy= đang ngủ mới thức giấc và dậy; ngủ được một giấc = àn chể)... tay= xay;- từ chỉ con vật: con trâu= con tru, coan tru; con bò= con pò, coan pò; con lợn= con cúi; con ngỗng= con ngan; con ngan= con xiêm; con gà= con ca.... (con chó= con chó; con mèo= con mèo)
Đặc điểm kinh tế
Người Mường sống định canh định cư ở miền núi, nơi có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn. Người Mường làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Trước đây, người Mường trồng lúa nếp nhiều hơn lúa tẻ và gạo nếp là lương thực ăn hàng ngày. Nguồn kinh tế phụ đáng kể của gia đình người Mường là khai thác lâm thổ sản như nấm hương, mộc nhĩ, sa nhân, cánh kiến, quế, mật ong, gỗ, tre, nứa, mây, song... Nghề thủ công tiêu biểu của người Mường là dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ thuật khá tinh xảo.
Tổ chức cộng đồng
Xưa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của người Mường là chế độ lang đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hà) chia nhau cai quản các vùng. Đứng đầu mỗi mường có các lang cun, dưới lang cun có các lang xóm hoặc đạo xóm (Ậu đạo), cai quản một xóm. giúp việc cho nhà lang, hưởng lộc của lang.
Sau này vào thời Nhà Nguyễn chính quyền Mường có thêm chức Lý trưởng. Chức này vẫn sau lang cun. Sau một số năm (thường 3 năm) thì bầu lại lý trưởng. Lý trưởng phải được sự phê chuẩn của Lang cun.
Về bản chất Lang cun Mường và chế đô Lang cun có xấu tốt. Giống như quan cũng có quan xấu quan tốt. Dân Mường vẫn thích chế độ lang đạo hơn là chịu sự quản lý của người Kinh.
Nhà Nguyễn sau khi thành lập phế bỏ chế độ Lang đạo, đặt quan lại lên cại quản liền xảy ra sự chống đối, như khởi nghĩa Lê Duy Lương, khởi nghĩa ở Thạch Bị, Sơn Âm. Về sau vua Minh Mạng lại khôi phục chức chế độ Lang đạo. Đặc biệt khi bắt được người cầm đầu, nhà Nguyễn chỉ phủ dụ mà không thấy giết.
Tín ngưỡng
Người Mường theo đạo Tin Lành, Thiên Chúa, Phật giáo và Không theo đạo nhưng có sự khác biệt ở người theo đạo Phật là mọi nghi lễ đều phải có chủ lễ là thầy mo chủ trì.
Người Mường thờ Vua Cha Ngọc Hoàng, Phật, Thánh, Quốc mẫu Hoàng Bà. Cô Đôi Thượng Ngàn trong tín ngưỡng thờ mẫu Tam Phủ là người Mường.
Đối với người Mường: "Vạn vật hữu linh".
Thầy tâm linh Mường gồm có:
Thầy đồng: là nam, người được thánh thần mượn thân để làm việc. Không vào làm việc được trong đám ma.
Thầy Mỡi: giống thầy đồng nhưng là Nữ.
Thầy Mo: Người lo tang ma là chủ yếu. thầy này mới biết mo đẻ đất đẻ tác.
Trượng (Đá Trượng): là thầy nhưng không có thánh thần ốp đồng. Thầy này là đi học mà thành.
Thầy bùa, ếm, chài....
Văn hóa
Ăn
Người Mường thích ăn các món đồ như xôi đồ, cơm tẻ đồ, rau, cá đồ. Cơm, rau đồ chín được dỡ ra rá trải đều cho khỏi nát trước khi ăn.
Rượu Cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng như nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Đặc biệt, phụ nữ còn có phong tục nhiều người cùng chuyền nhau hút chung một điếu thuốc.
Ở
Người Mường sống tập trung thành làng xóm ở chân núi, bên sườn đồi, nơi đất thoải gần sông suối... ở tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ. Mỗi làng có khoảng vài chục nóc nhà, khuôn viên của mỗi gia đình thường nổi bật lên những hàng cau, cây mít. Đại bộ phận ở nhà sàn, kiểu nhà bốn mái. Phần trên sàn người ở, dưới gầm đặt chuồng gia súc, gia cầm, để cối giã gạo, các công cụ sản xuất khác.
Tại sao lại phải đặt chuồng gia súc ở dưới gầm sàn. đó là vì xưa rất nhiều thú dữ như cọp, báo.... mà con người lại thưa ít nên phải đặt chuồng gia súc dưới gầm sàn.Khi cọp báo đến thì người nhà đánh chiêng gõ mõ để làm con vật sợ mà đi
Làm nhà mới, khi dựng cột bếp, người Mường có tục làm lễ nhóm lửa. Gia chủ lấy bẹ chuối cắt hình ba con cá to kẹp vào thanh nứa buộc lên cột bếp, ở cột cái của bếp còn đặt một quả bí xanh. Trước lúc đun nấu ở nhà mới, gia chủ làm lễ nhóm lửa xin thần bếp cho đặt 3 hòn đầu rau và hòn đá cái. Đêm đó gia chủ mời mọi người uống rượu cần dưới ánh sáng của ngọn lửa không tắt.
Vị trí cửa Poóng của Người Mường rất quan trọng. Người già, người đức cao vọng trọng ngồi bên trên nhất khi ngồi, ăn, uống,
Cưới hỏi
Trai gái tự do yêu đương tìm hiểu, ưng ý nhau thì báo để gia đình chuẩn bị lễ cưới. Để dẫn đến đám cưới phải qua các bước: ướm hỏi (kháo thếng), lễ bỏ trầu (ti nòm bánh), lễ xin cưới (nòm khảu), lễ cưới lần thứ nhất (ti cháu), lễ đón dâu (ti du). Trong ngày cưới, ông mối dẫn đầu đoàn nhà trai khoảng ba, bốn chục người gồm đủ nội, ngoại, bạn bè mang lễ vật sang nhà gái tổ chức cưới. Chú rể mặc quần áo đẹp chít khăn trắng, gùi một chón (gùi) cơm đồ chín (bằng khoảng 10 đấu gạo), trên miệng chón để hai con gà trống thiến luộc chín. Trong lễ đón dâu, cô dâu đội nón, mặc váy áo đẹp ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen thắt 2 vạt ở phía trước. Cô dâu mang về nhà chồng thường là 2 chăn, hai cái đệm, 2 quả gối tựa để biếu bố mẹ chồng và hàng chục gối con để nhà trai biếu cô dì, chú bác.
Tục cưới xin của người Mường gần giống như người Kinh (chạm ngõ, ăn hỏi, xin cưới và đón dâu). Khi trong nhà có người sinh nở, người Mường rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ em lớn khoảng một tuổi mới đặt tên.
Quan hệ xã hội
Quan hệ trong làng xóm với nhau chủ yếu là quan hệ láng giềng. Gia đình hai, ba thế hệ chiếm phổ biến. Con cái sinh ra lấy họ cha. Quyền con trai trưởng được coi trọng va con trai trong gia đình được thừa kế tài sản. Người Mường theo từng nơi mà có nơi không theo quan niệm con chú con bác mà dù là con chú hay con bác ai ra đời trước đều là anh là chị, phân theo tuổi tác chứ không theo thứ hay trưởng. Nhưng người vai trên thì vẫn gọi là chú hay cô mà không phân biệt tuổi tác. (Ví dụ như: Mường Tân Lạc, Hòa Bình) Con của chú ra đời trước con của bác thì vẫn gọi là anh là chị.
Sinh nở
Khi người vợ sắp sinh con, người chồng phải chuẩn bị nhiều củi, làm một bếp riêng ở gian trong và quây phên nứa thành một buồng kín cho vợ đẻ. Khi vợ chuyển dạ đẻ, người chồng đi báo tin cho mẹ vợ và chị em họ hàng nội ngoại biết để đến nhà cùng nhau chờ đợi. Bà đỡ cắt rốn cho đứa trẻ bằng dao nứa lấy từ đầu chiếc dui trên mái nhà. Nếu là con trai thì dùng dao nứa mái nhà trước, nếu là con gái thì dùng dao nứa mái nhà sau. Cuống rốn của các con trong gia đình được đựng chung trong một ống nứa, họ tin rằng làm như thế lớn lên anh em sẽ thương yêu nhau.
Ngày sinh con, gia đình tổ chức ăn mừng, mời thầy mo cùng trừ mọi điều xấu hại đến mẹ con. Đẻ được ba đến bảy ngày thường có nhiều anh em, bà con đến thăm hỏi tặng quà. Bà ngoại mừng cháu bao giờ cũng có vài vuông vải tự dệt, gia đình khá giả mừng thêm chiếc vòng bạc đeo cổ, anh em thân thích thì mừng gạo, mừng tiền.
Người đẻ thường ăn cơm nếp cẩm với lá tắc chiềng (loại lá thuốc chống được bệnh sài), uống nước nấu với các loại lá cây thuốc và trong thời gian cữ (bảy đến mười ngày) nhất là ba ngày đầu luôn luôn phải sưởi bên bếp lửa. Trẻ sơ sinh nếu là trai thì được âu yếm gọi là lọ mạ (thóc giống), nếu là gái thì lại trìu mến gọi là cách tắc (rau cỏ). Thường thì trẻ khoảng 1 tuổi mới được đặt tên gọi chính thức.
Ma chay
Người chết tắt thở, con trai trưởng cầm dao nín thở chặt 3 nhát vào khung cửa sổ gian thờ, sau đó gia đình nổi chiêng phát tang. Thi hài người chết được liệm nhiều lớp vải và quần áo theo phong tục rồi để vào trong quan tài làm bằng thân cây khoét rỗng, bên ngoài phủ áo vẩy rồng bằng vải.
Tang lễ do thầy mo chủ trì. Hình thức chịu tang của con cái trong nhà không khác so với người Kinh, tuy nhiên con dâu, cháu dâu chịu tang ông bà, cha mẹ còn có bộ trang phục riêng gọi là bộ quạt ma.
Khi người con trai trong gia đình ấy chống gậy tre thì gia đình ấy có bố mất, nếu chống gậy gỗ thì gia đình có mẹ mất.
Tế quạt ma là một nghi lễ độc đáo trong đám ma người Mường. Khi tế quạt ma, những người là dâu trong nhà trong họ của người quá cố phải mặc bộ đồ quạt ma rất đẹp, gồm: váy đen, cạp mới, áo ngắn, áo chùng trắng, yếm đỏ, hai tay đeo vòng hạt cườm, tay phải cầm quạt cọ múa, tay trái cầm que gậy, đầu đội mũ quạt trong trí tua hạt cườm; phía trước đặt một chiếc ghế mây.
Sau khi chôn người chết. lấp đất. Lấy 4 viên đá to đẹp để dánh dấu mồ. 2 viên đặt ở đầu và cuối. 2 viên đặt 2 bên.4 viên đá này rất quan trọng để tránh mất mồ mả. Tìm được 4 viên đá coi như tìm được mả.
Người Mường Lạc Sơn Hòa bình: sau khi chôn người chết. 3 đêm đầu vẫn để hương thờ.sau 3 đêm thì làm lễ cho đồ dùng..... và đưa người chết về mồ về mả. hôm 49 ngày thì làm lễ "thay màu áo". Tức là nhuộm áo tang chấm dứt mặc áo tang.
Tết năm đầu tiên đó anh em họ hàng mang lễ đến nhà có người chết đặt lễ cho hồn người chết đó. gọi là "đặt cành kèo". gồm bánh trưng chai rượu.
Lịch
Lịch Cổ truyền người Mường gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tương ứng với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.
Người Mường ở Mường Tân Lạc, Hòa Bình có cách tính lịch khác với người Mường ở các nơi khác gọi là cách tính ngày lui, tháng tới. Tháng giêng lịch Mường Bi ứng với tháng 10 của lịch Mường các nơi khác và tháng 10 âm lịch.
Lễ hội
Người Mường có nhiều ngày hội quanh năm: Sắc bùa, hội xuống đồng (Khung mùa), hội cầu mưa (tháng 4), lễ rửa lá lúa (tháng 7, 8 âm lịch), lễ cơm mới...
Văn nghệ dân gian
Kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường khá phong phú, có các thể loại thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Người Mường còn có hát ru em, đồng dao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Cồng là nhạc cụ đặc sắc của người Mường, ngoài ra còn có đàn cò ke (tương tự đàn nhị của Trung Quốc truyền bá vào Việt Nam), sáo, trống, khèn lù. Người Mường ở Vĩnh Phúc và Phú Thọ còn dùng ống nứa gõ vào những tấm gỗ trên sàn nhà, tạo thành những âm thanh để thưởng thức gọi là "đâm đuống".
Tín ngưỡng:Người Mường thờ cúng Tổ Tiên Ông Bà.
Hát Xéc bùa (có nơi gọi Xắc bùa hay Khoá rác) được nhiều người ưa thích. Thường (có nơi gọi Ràng thường hoặc Xường) là loại dân ca ca ngợi lao động, và các nét đẹp phong tục dân tộc. Bọ mẹng là hình thức hát giao du tâm sự tình yêu. Ví đúm cũng là loại dân ca phổ biến.
Bên cạnh đó, người Mường còn có các thể loại hát khác như hát ru, hát đồng dao... Đặc biệt, ở người Mường phải kể đến lễ ca. Đó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Ngoài sáo, nhị, trống, kèn... thì cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc.
Chơi
Trò chơi của người Mường gần gũi với mọi đối tượng. Có những trò chơi được tổ chức chu đáo, công phu như: thi bắn nỏ, đánh đu, ném còn, v.v... Các trò chơi của lứa tuổi thiếu niên nhi đồng được tổ chức linh hoạt ở mọi nơi, mọi lúc với những điều kiện chơi đàn giản, tiện lợi như trò đánh cá cắt, trò cò le, trò đánh chó hoặc buôn chó, trò đánh mảng, trò chăm chỉ, chằm chăn.
Phương tiện vận chuyển
Phụ nữ phổ biến dùng loại gùi đan bằng giang hoặc tre, 4 góc nẹp thành thẳng đứng, có dây đeo qua trán hoặc qua vai để chuyên chở. Đôi dậu, đòn gánh có mấu 2 đầu, đòn xóc cũng thường được sử dụng.
Nước sạch được chứa trong ống nứa to, dài hơn 1 mét vác vai từ bến nước về dựng bên vách để dùng dần.
Nhà cửa
Người Mường sống trong những ngôi nhà sàn truyền thống, địa bàn cư trú tập trung chủ yếu ở những dải đồng bằng thung lũng hẹp, doi đất ven sông, ngòi, dưới chân các dãy núi hay trên các đồi gò thấp. Làng bản mường sống tập trung thành từng chòm, từng xóm, ẩn khá kín dưới màu xanh của cây cối trồng quanh nhà. Các bản mường thường có khoảng từ 20 đến 30 nóc nhà, và nếu bản to thì có thể nhiều hơn nữa. Bản làng thường dựng nơi gần nguồn nước, gần đồng ruộng, thuận lợi cho lao động sản xuất. Tuy vậy, bản làng của người Mường ít khi lộ rõ để người ngoài dễ phát hiện vì được bao bọc bởi luỹ tre và cây ăn quả. Đường vào bản thường là những con đường mòn nhỏ quanh co tạo cảm giác dễ nhầm, dễ lạc. Và đối với người Mường, họ không coi trọng việc dựng nhà lập bản sao cho thuận tiện giao thông đi lại. Vì lẽ đó mà muốn vào bản làng hay nhà của người Mường thường phải băng qua con đường nhỏ nối làng với đường chính hoặc lội qua những con suối, ngòi.
Với người Mường nói chung, nhà là nơi diễn ra và chứng kiến những sự kiện như sinh, hôn, tử của một vòng đời. Từ đó, ngôi nhà không chỉ có ý nghĩa đối với gia đình mà còn mang ý nghĩa cộng đồng xã hội, không chỉ là nhu cầu về vật chất là để trú ngụ nắng mưa, ngủ nghỉ, mà còn đáp ứng nhu cầu tâm linh.
Người Mường rất trọng hướng nhà, vì vậy, hướng nhà phải do một thầy địa lý có tiếng chọn riêng theo tuổi của gia chủ. Họ quan niệm làm nhà đúng hướng sẽ đem lại tài lộc và may mắn đến cho gia đình
Theo quan niệm của người Mường, làm nhà không được ngược hướng với đồi núi, chính vì vậy, bề ngoài, nhà của người Mường có vẻ không theo một quy luật nào. Nhà dựng ở đồi gò thì lưng dựa vào đồi gò, cửa hướng ra khoảng không thung lũng, cánh đồng trước mặt. Nhà dựng ở ven sông thì mặt có thể hướng ra dòng sông hay hướng vào trong... Tất cả những cái tưởng chừng là "lộn xộn" đó lại tạo cho bản làng của người Mường Thanh Sơn cảm giác vừa vững vàng vừa cởi mở với những nét độc đáo riêng.
Nhà sàn của người Mường là kiểu kiến trúc cổ truyền. Việc dựng nhà sàn của người Mường là kết quả của một quá trình dài đúc rút kinh nghiệm cư trú. Điều đó thể hiện ở bản mo nổi tiếng họ là "Te tấc te đác" (đẻ đất đẻ nước). Trong bản mo đồ sộ này có đoạn nói về sự ra đời của nhà sàn người Mường. Mo rằng: Khi người Mường sinh ra nhà chưa có nên phải sống trong các hang núi, hốc cây, họ phải đối mặt với nhiều thiên tai hiểm hoạ. Một hôm, ông Đá Cần (còn gọi là lang Cun Cần) bắt được một con rùa đen trong rừng đang định đem ra làm thịt. Rùa van xin Đá Cần tha chết và hứa nếu được thả thì rùa sẽ dạy cho ông cách làm nhà để ở, làm kho để lúa để thịt: Bốn chân tôi làm nên cột cái
Nhìn sườn dài, sườn cụt mà xếp làm ruiNhìn qua đuôi làm trái
Nhìn lại mặt mà làm cửa thang cửa sổNhìn vào xương sống làm đòn nóc dài dài
Muốn làm mái thì trông vào maiVào rừng mà lấy tranh, lấy nứa làm vách
Lấy chạc vớt mà buộc kèoLần dựng thứ nhất, nhà đổ. Ông Đá Cần doạ làm thịt rùa. Rùa lại phải dặn lấy gỗ tốt mà làm cột làm kèo… Từ đó, người Mường biết làm nhà để ở.
Việc dựng nhà của người Mường đòi hỏi nhiều công đoạn, nhiều sức lực nên họ có tục giúp đỡ nhau. Người giúp gỗ, người giúp lạt, người giúp công, giúp sức. Trước kia, để nhận được sự giúp đỡ của dân làng, gia đình làm nhà phải chuẩn bị một lễ nhỏ mang đến nhà Lang để nhờ Lang báo cho mọi người trong bản làng biết. Mỗi gia đình sẽ cử một người đến giúp. Người ta phân công những công việc cụ thể cho mỗi thành viên đảm nhận như xẻ gỗ, đan nứa, pha tre, đan gianh cọ, lợp mái… Gia chủ làm nhà tuỳ vào điều kiện kinh tế mà nhận sự giúp đỡ khác nhau. Nhà khá giả thì mọi người giúp ít và ngược lại. Theo tục này, ở xã Xuân Đài có lệ khi một người làm nhà thì tuỳ vào khả năng mà giúp gỗ, lạt, nứa, lá, và mỗi nhà góp ba đến năm cân gạo nếp, hai chai rượu, một con gà… Lệ này ở mỗi xóm làng lại có những quy định khác nhau. Ở xã Tân Phú thì có lệ mỗi gia đình đưa cho gia chủ bốn trăm "phá" (tức là hai trăm cây nứa gập đôi). Nói chung, tục giúp nhau trong việc làm nhà của người Mường Thanh Sơn như đóng góp nguyên vật liệu, lương thực, thực phẩm và ngày công thể hiện sự quan tâm chung của cả bản làng, tinh thần tương thân tương ái, đoàn kết cộng đồng sâu sắc.
Trong quá trình dựng nhà của người Mường, thầy mo có vai trò tương đối quan trọng. Mở đầu việc dựng nhà, ông mo làm lễ cắm cọc vào nơi làm cầu thang. Sau đó, chủ nhà cày ba luống làm lệ trên nền làm nhà. Ông mo đi sau vảy nước vào những luống cày đó và khấn vía lúa. Người làm nhà chuẩn bị vài cụm lúa đã tuốt hết hạt chỉ còn cọng rơm ném ra xa rồi cầm đòn xóc đâm vào cụm lúa nâng lên. Mỗi lần nâng đòn xóc lên rồi lại để xuống và hát giang ý nói rằng "lúa đẹp, lúa nặng, lúa bay về nhà để cho no cho đủ…". Ông mo nâng các cụm lúa lên trên tay rước đi vài vòng rồi giang mo "đẻ đất đẻ nước" đoạn nói về rùa dạy dân làm nhà. Tiếp theo ông mo vảy một thứ nước mà người Mường cho đó là nước phép vào những hố chôn cột để xin thần linh cho gia chủ làm nhà mới.
Người Mường kiêng không để mấu của đòn tay quay xuống mặt sàn. Khi bắc đòn tay thì ngọn phải quay về gian cuối, gốc ở gian đầu nơi có cầu thang lên xuống. Gian này được gọi là gian gốc. Sào nhà gác lên thượng lương. Gốc sào cũng phải quay về gian gốc. Tre nứa dùng làm nhà phải không được cụt ngọn, không bị sâu hay bị đốt cháy dở. Gỗ làm nhà phải là loại gỗ chắc đảm bảo không mối mọt và thường là gỗ lim xanh, mài lái… Người Mường đặc biệt quan tâm đến những cây gỗ mọc ở núi đá như giống gỗ heo vì giống gỗ này chặt đốn thì mềm nhưng khi chôn xuống đất hàng trăm năm cũng không mục mại. Có nơi người Mường còn kéo gỗ ra ngâm bùn tại ngòi, suối khoảng một hai năm mới vớt lên làm.
Những cây gỗ được chọn làm cột, sau khi lắp mộng, dựng khung, được chôn thẳng xuống những hố đã đào sẵn sâu khoảng 20 – 30 cm. Tục chôn cột nhà, ngoài dụng ý cho vững chắc khung nhà khi lợp mái, làm sàn, làm vách, còn có ý nghĩa tâm linh, thể hiện cho sự hoà hợp âm dương, một biến thể của tín ngưỡng phồn thực. Cho đến nay, đa số người Mường đã thay đổi tục chôn cột nhà bằng cách nâng cột lên mặt đất và kê lên những phiến đá chống mối mọt. Tuy nhiên cột nhà của người Mường Thanh Sơn không được gia công bào gọt nhiều như cột nhà của người Thái và người Mường ở Hòa Bình. Nếu cột nhà của người Thái Sơn La được xẻ, bào, đẽo cho vuông thành, thì cột nhà của người Mường Thanh Sơn chỉ bào lớp vỏ ngoài và để tròn.
Người Mường dùng con xỏ bằng tre, con then bằng gỗ, đinh kèo bằng gỗ… để đóng thay cho đinh sắt. Họ dùng lạt mây, giang hoặc tre bánh tẻ để buộc níu các ngoàm đẽo hoặc cột kèo. Khung nhà sàn của người Mường được dựng hoàn toàn bằng cách ghép mộng, đục đẽo mà thành. Đòn tay (tôn thảy) được đặt dọc mái nhà. Đòn tay cái có miếng tre kẹp chặt đòn tay vào đầu cột cái gọi là cái khoá kèo. Mái nhà lợp bằng lá cọ hoặc bằng cỏ gianh. Những cây nứa ngộ (loại nứa to và dày) vàng óng được lựa chọn kỹ để pha nan kẹp lá (như cái gắp dùng để kẹp cá nướng). Cứ như thế, những kẹp lá cọ được đưa lên mái buộc thẳng vào dui mè. Đây là cách lợp mái nhà theo tục truyền thống còn tồn tại phổ biến cho đến ngày nay. Tuy vậy ở một số nơi, người Mường đã thay cách lợp nhà. Lá cọ được đưa lên lợp vào dui mè mà không cần kẹp nữa. Mái nhà sàn khum khum hình mai rùa.
Nếu như nhà sàn của người Mường ở Hòa Bình phổ biến là bốn mái (hai mái đầu hồi và hai mái dài). Sàn nhà thấp giống sàn nhà của người Thái thì nhà sàn của người Mường ở Thanh Sơn cũng như nhà sàn Yên Lập chủ yếu là loại nhà sàn hai mái mà không có mái đầu hồi. Mái nhà dốc vảy gần sát sàn. Nhà của người Mường không có sàn thềm bên ngoài như của người Thái. Sàn nhà được làm bằng những cây bương già thẳng pha thành mảnh dát xuống lược bỏ mắt và cạnh sắc ghép liền với nhau, dùng lạt mây buộc chặt kết thành từng mảnh buộc chặt vào khung sàn. Những sàn nhà của nhà Lang trước đây thì thường dùng gỗ tốt như lim, gụ làm sàn nên qua thời gian sử dụng, những tấm ván lên nước bóng láng. Từ mặt đất lên sàn nhà thường cao khoảng 2 đến 2,5 m tuỳ từng nơi ẩm thấp hay cao ráo.
Công việc làm nhà tiến hành trong 4 – 5 ngày thì kết thúc. Ngày lợp mái, gia chủ tổ cúng tổ tiên, thổ công cai quản nơi mình ở. Lễ cúng gồm xôi nếp và thủ lợn bày ở khoảng đất trống chọn làm sàn. Nhà làm xong, gia đình lại tổ chức cúng tổ tiên, thổ công, ma rừng, ma cây, ma bến nước, ma đồi gò… thông báo rằng gia đình đã có một ngôi nhà mới, mời tổ tiên về chung vui với con cháu phù hộ gia đình may mắn.
Nhà của người Mường thường ba đến năm gian. Những gia đình đông con thì nhà lên đến bảy – mười hai gian. Những ngôi nhà như vậy ngày nay còn rất ít. Nhà dù ít hay nhiều gian đều có một sàn bên trái để bắc cầu thang và máng nước sinh hoạt. Gian đầu tiên từ cầu thang lên gọi là gian gốc. Đây là gian quy tụ mọi tính linh thiêng của ngôi nhà, là nơi xuất phát những tục lệ đối xử hành vi của con người với ngôi nhà.
Ở gian gốc có một cây cột to hơn các cây cột khác trong nhà gọi là cột gốc (còn gọi là cây cột chồ) ở đầu góc nhà gần cầu thang. Cây cột gốc được người Mường trân trọng đặt khám (bàn thờ) thờ tổ tiên. Mọi người kể cả chủ hay khách đến nhà chơi đều không được bôi nhọ, dựa lưng, gác chân, buộc đồ vật hay treo quần áo vào cột này. Phần cột dưới sàn cũng không được buộc trâu bò hay dựng, treo công cụ lao động. Người Mường quan niệm nếu phạm phải những điều cấm trên thì bị coi là xúc phạm đến gia đình, tổ tiên và thần linh.
Gian nhà gốc chỉ dành riêng cho nam giới. Phụ nữ trong nhà không được ngồi nghỉ hoặc làm việc ở đây. Trong các ngày trọng đại như hôn lễ, ma chay thì chỉ nam giới có vai vế trong dòng họ được ngồi ăn uống.
Tại gian nhà linh thiêng này có một cửa sổ làm sát đến sàn nhà gọi là cửa sổ "voóng" linh thiêng, không ai được đưa vật gì hay chui qua. Cửa sổ voóng chỉ dành để đưa quan tài ra ngoài khi gia chủ có tang ma. Đối diện với cột chỗ ở gian gốc có một cột nhà tương đối quan trọng. Ở chân cột này, người Mường để vào cum lúa đã tuốt hết hạt. Đầu cột đội một cái giỏ thủng biểu hiện cho âm tính (người Mường gọi là nường). Bên cạnh đó, người Mường treo một đoạn tre tước xơ một đầu cho bông lên biểu hiện cho dương tính (gọi là nõ). Điều này thể hiện đời sống tâm linh, nói lên sự hỗn hợp, cân bằng âm dương, sự ổn định và thuận hoà của cả gia đình.
Gian thứ hai của ngôi nhà (gian kế theo gian gốc) dành cho nam giới ngủ nghỉ. Gian giữa thường là gian để thóc và làm bếp. Lúa gặt ở ruộng nương về phơi khô khi chuyển lên nhà được để ở đây. Họ xếp lúa vào một cái quây như cái bồ thủng đáy đan bằng nứa hoặc giang để gần bếp. Bếp của người Mường là rất công phu. Khuôn bếp được làm bằng loại gỗ đặc biệt cứng, có đường viền xung quanh, đáy lót bằng bẹ chuối rồi rải bùn lên trên. Khi chuyển bếp mới, người Mường tìm một số loại cỏ thơm như cỏ mật phơi khô để vào bếp đốt lấy tro rồi mới bắc kiềng nấu nướng. Bếp thường đặt trên trục nhà nơi nóc dọi xuống. Có nhà bếp đặt gần cửa sổ để thông gió, tránh khói và hoả hoạn. Tuy vậy, việc đặt bếp ở cửa sổ ít được ưa chuộng hơn vì người Mường quan niệm nếu đặt bếp gần cửa sổ thì hơi ẩm từ bếp toả ra ngôi nhà không đều. Nhà người Mường thường có hai bếp chuyên dụng. Một bếp để nấu nướng thức ăn, và phụ nữ, trẻ em trong gia đình ngồi sưởi. Một bếp nhỏ hơn đặt ở gian gốc dùng để cho đàn ông trong gia đình ngồi sưởi vào mùa đông và đun nước uống hàng ngày hoặc tiếp khách. Bếp này người phụ nữ trong gia đình ít khi được ngồi hoặc sử dụng, trừ phụ nữ cao tuổi như bà, cụ hay con gái út được yêu quý nhất.
Gian cuối cùng là nơi dành cho phụ nữ sinh hoạt có chạn bát, để đồ dùng gia đình, nơi sửa soạn cơm nước. Gian này được ngăn với các gian khác trong nhà bởi một tấm liếp. Đây cũng là nơi người phụ nữ thay quần áo và ngủ nghỉ. Đầu hồi nhà, người Mường để một cái cối đuống và một cối tròn. Cối đuống không chỉ dùng để giã thóc gạo mà còn là phương tiện để gia đình báo nhà có việc lớn như đám cưới mà tang ma. Bên cạnh đó, cối đuống còn là một nhạc cụ sử dụng để gõ những bản nhạc vui trong ngày lễ tết, hội hè với những bản đuống rộn ràng âm vang, người Mường gọi là "đâm đuống" hay "châm đuống".
Dưới sàn nhà, người Mường nuôi gà, trâu hoặc để cất các công cụ sản xuất như cày, cuốc, liềm, nong, nia… Nhà của người Mường thường chỉ có một cầu thang. Song những ngôi nhà dài từ 7 - 12 gian thì phải làm hai cầu thang ở hai đầu nhà. Những nhà có hai cầu thang như vậy khá hiếm vì người Mường quan niệm đó là sự xui xẻo, kiêng kị, của nả sẽ không giữ được trong nhà "vào đầu này ra đầu kia".
Trang phục
Người Mường có đặc trưng riêng về tạo hình và phong cách thẩm mỹ trên trang phục.
Thầy mo khi hành lễ mặc y phục riêng. Đó là chiếc áo dài 5 thân cài khuy bên nách phải, nhuộm màu xanh hoặc đen, thắt dây lưng trắng, đội mũ vải nhọn đầu. Thầy mỡi khi cúng chữa bệnh thường đội mũ chầu.
Trang phục nam
Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dưới hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Đầu cắt tóc ngắn hoặc quấn khăn trắng. Quần lá tọa ống rộng dùng khăn thắt giữa bụng còn gọi là khăn quần. Xưa có tục để tóc dài búi tóc. Trong lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu tím than, ngoài khoác đôi áo chúng đen dài tới gối, cái cúc nách và sườn phải.
Trang phục nữ
Bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ được nét độc đáo. Khăn đội đầu là một mảnh vải trắng hình chữ nhật không thêu thùa, yếm, áo cánh (phổ biến là màu trắng) thân rất ngắn thường xẻ ở ngực và váy dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy, phụ nữ người Mường có thể búi tóc sau gáy nếu không đội khăn. Cạp váy nổi tiếng bởi các hoa văn được dệt kỳ công. Trang sức gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 giây bạc có treo hộp quả đào và móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.
Áo mặc thường ngày có tên là áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh người Kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc trắng (về sau có thêm các màu khác không phải loại vải cổ truyền). Bên trong là loại áo báng, cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thường đội khăn trắng, xanh với phong cách không cầu kỳ như một số tộc người khác. Váy là loại váy kín màu đen. Toàn bộ phận được trang trí là đầu váy và cạp váy, khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể. Đây là một phong cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn ngữ và khu vực láng giềng (trừ nhóm Thái Mai Châu, Hòa Bình do ảnh hưởng văn hóa Mường mà mặc thường ngày tương tự như họ). Nhóm Mường Thanh Hóa có loại áo ngắn chui đầu, gấu lượn, khi mặc cho vào trong cạp váy và cao lên đến ngực. Phần trang trí hoa văn trên cạp váy gồm các bộ phận: rang trên, rang dưới, và cao. Trong các dịp lễ, Tết, họ mang chiếc áo dài xẻ ngực thường không cài khoác ngoài bộ trang phục thường nhật vừa mang tính trang trọng vừa phô được hoa văn cạp váy kín đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn xẻ ngực thường mang theo chiếc yếm bên trong. Về cơ bản giống yếm của phụ nữ Kinh nhưng ngắn hơn.
Hoạt động kinh tế truyền thống
Nông nghiệp ruộng nước chiếm vị trí hàng đầu, cây lúa là cây lương thực chính. Công cụ làm đất phổ biến là chiếc cày chìa vôi và chiếc bừa đơn, nhỏ có răng bằng gỗ hoặc tre. Lúa chín dùng hái gặt bó thành cum gùi về nhà phơi khô xếp để trên gác, khi cần dùng, lấy từng cum bỏ vào máng gỗ, dùng chân chà lấy hạt rồi đem giã. Trong canh tác ruộng nước, người Mường có nhiều kinh nghiệm làm thủy lợi nhỏ.
Ngoài ruộng nước, người Mường còn làm nương rẫy, chăn nuôi gia súc, săn bắn, đánh cá, hái lượm và sản xuất thủ công nghiệp (dệt vải, đan lát...).
Cụ thể như sau:
Nghề nông trồng lúa nước
Nghề nông trồng lúa nước được tiến hành ở những nơi có địa bàn bằng phẳng gần sông, ngòi. Đó là những mảng đồng bằng thung lũng hay những doi đất nhỏ hẹp dưới chân các dãy núi, ven các đồi gò thấp. Người Mường Thanh Sơn rất coi trọng cây lúa nếp, vì trong cuộc sống, bữa ăn truyền thống thì cơm nếp là nguồn lương thực chủ đạo. Bên cạnh đó, người Mường còn trồng cả lúa tẻ và ngày càng phổ biến giống lúa này cho năng suất cao. Ngoài những thửa ruộng nước ở đồng bằng, người Mường đa phần làm ruộng bậc thang tận dụng đất ở sườn, chân đồi gò. Loại ruộng này thường hẹp về chiều rộng nhưng lại dài như những cánh cung vòng quanh các đồi gò. Do ruộng bậc thanh làm ở trên cao, nguồn nước tưới tiêu khó khăn nên người Mường Thanh Sơn biết đào mương bắc máng, làm guồng xe nước lợi dụng dòng chảy của các con sông, suối, ngòi để đưa nước lên cao, cung cấp cho những thửa ruộng dài ngoằn nghèo. Ruộng bậc thang chủ yếu chỉ trồng được một vụ trong năm là vụ mùa. Các vụ khác người Mường dùng để trồng ngô, khoai, rau… Những loại hoa màu này thích hợp với mùa khô ít nước. Một loại ruộng mà người Mường Thanh Sơn biết tận dụng khai phá để trồng lúa gọi là ruộng chằm, ruộng rộc. Đây là những thửa ruộng ở nơi đầm lầy dưới là bùn loãng, nước còn ở mặt trên cùng cỏ dại mọc thành tầng, thành lớp. Ruộng chằm – rộc thường rất sâu, đến thắt lưng thậm chí còn đến ngực. Do đó, ruộng loại này thường rất khó khăn trong canh tác vì không thể cày bừa dễ dàng như ruộng bậc thanh hay ruộng nước ở đồng bằng. Để thuận lợi làm ruộng cũng như thu hoạch, người Mường thường phải chặt chuối, tre làm thành bè để bám hoặc gối lên làm cỏ, cấy hay gặt. Tuy vậy, do điều kiện không có nhiều diện tích thuận lợi cho canh tác nông nghiệp thì những loại ruộng chằm ruộng rộc cũng chiếm một vị trí khá quan trọng trong cuộc sống của người Mường.
Nương rẫy
Bên cạnh những thửa ruộng nước, người Mường Thanh Sơn còn đốt nương làm rẫy với hình thức lao động lạc hậu kiểu chọc lỗ tra hạt. Người Mường có kinh nghiệm quý trong việc chọn đất làm nương rẫy. Họ chọn những mảng rừng có giang, nứa mọc dày, trồng mùn màu mỡ hay những vạt đất đen ven đồi núi. Khi chọn đất, người Mường thường chặt một cây nứa hoặc cây gỗ vát nhọn đâm xuống đất. Nếu đâm được sâu thì điều đó chứng tỏ tầng mùn dày. Một kinh nghiệm nữa là xem đất màu gì, nếu đất dính vo trên tay thấy mềm dẻo, bóng như pha mỡ là đất tốt. Chọn được mảng rừng đồi ưng ý, người Mường Thanh Sơn tiến hành chặt khoanh vùng để phân giới không cho người khác lấy mất. Người Mường đốt mảng rừng này để lấy mùn và tiện lợi cho việc dọn nương. Công việc gieo trồng tiến hành vào khoảng tháng 3- tháng 4 khi bắt đầu xuất hiện những cơn mưa đầu tiên. Người Mường Thanh Sơn trồng lúa nương không bằng cày cuốc mà bằng cách lấy một đoạn cây to bằng cổ tay vót nhọn một đầu dùng để đâm hố tra hạt. Gieo giống xong, họ chặt ngọn nứa, cành cây nhỏ để quét lớp mùn bề mặt lấp các hố lại. Việc gieo trồng lúa nương tương đối đơn giản nhưng lại đòi hỏi nhiều công sức, đặc biệt là làm cỏ cũng như trông nom không để chim thú phá hoại. Trong làm nương rẫy, người Mường Thanh Sơn đặc biệt có ý thức hạn chế hoả hoạn cháy rừng tràn lan. Điều này bắt nguồn từ quan niệm truyền thống "vạn vật hữu linh". Theo người Mường, rừng núi, cây cối, dòng sông, suối… cũng có linh hồn, do thần linh hoặc ma quỷ cai quản. Cho nên, họ tránh làm nương rẫy ở những vạt rừng, cây cổ thụ coi là linh thiêng- nơi ngự trị của thần rừng, thần cây mặc cho đất đai ở đó có màu mỡ tơi xốp đến đâu. Từ quan niệm đó mà trong lao động sản xuất của người Mường nói chung, người Mường Thanh Sơn nói riêng có nhiều tục lệ lễ nghi nông nghiệp như tục rước vía lúa, lễ cầu mùa, lễ mừng cơm mới cho đến tục đóng cửa rừng và mở cửa rừng … kèm theo lệ cấm kiêng kị mang tính chất siêu nhiên linh thiêng.
Một số nghề phụ khác
Cùng với nghề nông trồng lúa (lúa nương và lúa nước) làm chính, người Mường Thanh Sơn còn tăng gia sản xuất với những hoạt động kinh tế phụ gia đình, từ chăn nuôi, làm vườn, dệt vải, đan lát.. đến săn bắn và hái lượm. Cần phải nói rằng mặc dù những hoạt động này không phải là lao động sản xuất chính nhằm đảm bảo cuộc sống của người Mường Thanh Sơn nhưng những nghề phụ này lại đóng vai trò tương đối quan trọng trong việc cung cấp nhu yếu phẩm trong đời sống hàng ngày của họ.
Chăn nuôi
Những đàn gia súc, gia cầm thường được người Mường nuôi thành bầy đàn thả dông trong rừng. Người Mường Thanh Sơn nuôi gia súc chủ yếu là trâu, bò ngoài cung cấp thực phẩm trong những ngày hội trọng đại còn dùng làm sức kéo trong lao động sản xuất. Đối với người Mường, trâu bò có vị trí đặc biệt trong đời sống thường ngày vì đối với họ chúng là cả tài sản, cơ nghiệp, phản ánh tiềm lực kinh tế từng nhà trong bản và bản này với bản khác. Trâu bò chăn thành bầy đàn trong rừng lâu ngày đôi khi đem đến những điều ngạc nhiên thú vị về số lượng tăng giảm do sự sinh nở của chúng. Bên cạnh đó, người Mường Thanh Sơn còn nuôi lợn, gà để lấy thịt trứng. Chúng cũng được người Mường nuôi thả thành bầy. Người Mường Thanh Sơn không có thói quen làm chuồng trại riêng cho gia súc, gia cầm. Họ thắt buộc những con trâu bò dùng để cày bừa dưới gầm sàn và làm chuồng trại cho gia cầm. Riêng đối với lợn, họ không mấy khi nhốt dưới sàn nhà mà được làm chuồng ở xa nhà, xa nguồn nước. Người Mường Thanh Sơn còn biết tận dụng ao hồ, sông ngòi để nuôi thả cá. Tuy vậy do địa bàn cư trú bán trung du và miền núi nên ao hồ ở nơi người Mường ở xuất hiện ít. Họ chủ yếu dựa vào đánh bắt cá, tôm tự nhiên ở sông, suối và các chi lưu của nó. công cụ dùng để đánh bắt chủ yếu là lưới, đó, đăng, chũm. Song có lẽ kiểu đánh bắt cá truyền thống của người Mường Thanh Sơn là dùng một thứ lá có độc gọi là lá cơi giã nhuyễn dải xuống một khúc suối ngòi đề làm cho cá tép say nổi lên mặt nước rồi bắt đem về.
Nghề vườn
Người Mường nói chung và người Mường Thanh Sơn nói riêng không chú ý lắm đến hiệu quả kinh tế vườn đem lại. Vườn của người Mường Thanh Sơn trồng đủ các loại cây như cau, mít, bưởi, chuối, khế, chanh, trầu, tre, bương, chuối… Có thể nói, ngoài các hình thức lao động kiếm sống phụ khác, mảnh vườn trở nên gắn bó thân thiết với người Mường như một phần của cuộc sống. Với người Mường Thanh Sơn, hầu như nhà nào cũng có mảnh vườn nhỏ đủ để trồng cây quanh nhà, mỗi thứ một ít để phục vụ cho gia đình theo kiểu mùa nào thức ấy. Phụ nữ trong gia đình rất chăm lo đến các loại cây trồng trong vườn. Đôi khi những người đàn ông cũng rất thích thú với mảnh vườn quanh nhà của mình. Họ quyết định các giống cây trồng và quan tâm đến chúng. Tuy vậy, vườn của người Mường Thanh Sơn chủ yếu vẫn là loại vườn tạp. Song ngày nay, những cây trồng trong vườn dần được người Mường lưu ý đến giá trị kinh tế. Họ trồng các giống cây cho năng xuất và hiệu quả kinh tế cao như nhãn, vải hoặc tranh, quýt để bán ra thị trường. Chính vì lẽ đó, người Mường Thanh Sơn ngày càng chú ý cải tạo mảnh vườn nhỏ bé của mình. Ngoài vườn nhà, người Mường Thanh Sơn còn tận dụng cả những vạt đất nhỏ ven bờ suối, ngòi để dễ tưới nước chăm bón. Họ trồng các loại rau, củ, quả như khoai, cà, bí, cải để cải thiện bữa cơm vốn đơn giản của mình.
Người Mường Thanh Sơn đã biết trồng cây xen canh luân vụ, ngoài việc cải thiện bữa ăn hàng ngày thì người Mường Thanh Sơn còn làm vườn với mục đích phát triển kinh tế hộ gia đình, tăng thu nhập hàng năm.
Nghề thủ công gia đình
Người Mường Thanh Sơn đặc biệt khéo tay trong việc đan lát các vật dụng dùng trong gia đình từ nguyên liệu là tre, nứa và giang, mây như đan vỏ dao dùng để đi rừng, rổ, rá, thúng, nia, mâm, ớp, giỏ… Trong các nghề thủ công truyền thống của người Mường đầu tiên phải kể đến là nghề dệt vải. Trong mỗi gia đình Mường Thanh Sơn đều có các khung cửi dùng để dệt vải bông, vải lanh để phục vụ may mặc cho các thành viên. Công việc trồng bông và dệt vải chủ yếu do nữ giới đảm nhận. Tuy nhiên, nghề dệt vải ở người Mường chưa mang nhiều yếu tố hàng hoá. Họ chủ yếu sản xuất lúc nông nhàn mà chưa dành thời gian đáng kể cho nó. Trong vùng Mường Thanh Sơn, các xã nổi tiếng về dệt vải đẹp phải kể đến các xã như Minh Đài, Xuân Đài, Lai Đồng, Tất Thắng, Cự Đồng… Nguyên liệu dùng để dệt vải ngoài bông, lanh còn có tơ tằm. Nghề trồng dâu, sắn nuôi tằm tương đối phổ biến trong mỗi gia đình. Bên cạnh đó, nghề mộc cũng tương đối phát triển. Hầu như ở bản làng nào của người Mường đều có đội mộc riêng của mình để phục vụ trong xây dựng nhà cửa, đình miếu hoặc làm hậu sự cho lễ tang… Đàn ông Mường rất khéo tay trong nghề này. Họ làm ra những sản phẩm tương đối độc đáo như bao dao, làm cung, nỏ, đồ thổi xôi từ gỗ và các vật dụng khác phục vụ cho cuộc sống.
Khai thác nguồn lợi từ thiên nhiên
Săn bắn và hái lượm là hoạt động kinh tế phụ gắn bó với cuộc sống thường ngày của người Mường Thanh Sơn. Nguồn rau rừng như rau tàu bay, rau rớn, rau vi, đắng cảy, măng giang, măng nứa… được khai thác một cách hợp lý để có thể cung cấp lâu dài. Các cây củ cho bột như củ nâu, củ mài, củ vớn … chỉ được người Mường Thanh Sơn khai thác và những năm đói kém, mất mùa. Việc thu hái rau rừng thường được thực hiện cùng với các công việc khác như lấy củi, đi nương rẫy hoặc lấy rau lợn… Họ tranh thủ làm việc này sau khi đã hoàn tất các công việc khác mà theo họ là quan trọng hơn. Hoạt động săn bắn chim thú, bổ sung cho bữa ăn là công việc thường xuyên và là đặc quyền của người đàn ông Mường. Ngoài ra, săn bắn còn xuất phát từ nhu cầu của việc bảo vệ nương rẫy khỏi sự phá hoại của chim thú cũng như việc mất mát các con vật nuôi. Trong gia đình người Mường, người đàn ông thường có những chiếc nỏ súng cho riêng mình. Họ rất tự hào và chăm sóc chu đáo cho dụng cụ mà họ cho rằng thể hiện nam tính cũng như vai trò của mình trong gia đình. Con trai Mường ngay từ nhỏ đã được ông, cha cho theo trong mỗi lần đi săn, làm bẫy thú nên khi lớn lên rất thạo việc săn bắn. Người Mường biết làm nhiều loại bẫy thú với những kiểu dáng khác nhau để bẫy những con thú lớn, thú nhỏ và chim. Trong các loại bẫy của người Mường Thanh Sơn, thông dụng nhất là bẫy đâm, bẫy lao và bẫy sập. Loại bẫy này dùng để bẫy các con thú lớn như hươu, nai, gấu hoặc lợn rừng. Còn các loại bẫy nhỏ như "ngọ đánh", "ngọ cắp", "ngọ rô" dùng để bắt các con thú nhỏ như gà rừng, chim, sóc… được đặt quanh nương rẫy để bảo vệ hoa màu. Đặc biệt, những sản phẩm người Mường Thanh Sơn thu từ rừng không chỉ đủ dùng trong gia đình mà còn được dùng để trao đổi với các lái buôn từ miền xuôi như măng, mộc nhĩ, nấm, trầm hương, sa nhân, cánh kiến, các loại gỗ quý như đinh, lim, táu, lát, xửa, kháo trắng, kháo vàng, treo, chò… và các loại dược liệu quý như đẳng sâm, khúc khắc, hoài sơn… Người Mường đổi những sản phẩm từ khai thác rừng để lấy những vật dụng dùng trong gia đình như muối, dầu thắp, kim chỉ, kiềng, bát địa, xoong nồi, dao, cuốc, gương lược. Bên cạnh đó, hàng năm, người Mường còn bán cho các lái thương một số lượng lớn trâu bò. Hoạt động buôn bán ngày càng len lỏi vào tận các bản mường xa, từng bước tạo nên mối quan hệ giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người Mường, người Kinh và các dân tộc khác, góp phần vào giao lưu văn hoá - kinh tế giữa các tộc người gần gũi nhau.
Các dòng họ chính của người Mường
Họ Nguyễn
Họ Đinh
Họ Quách
Họ Bạch
Họ Bùi
Họ Tôn
Họ Cao
Họ Dương
Họ Hà
Họ Hoàng
Họ Lê
Họ Phạm
Họ Tăng
Họ Trương
Họ Phùng
Họ Xa
Những người Mường có danh tiếng
Ghi chú |
Người Dao (ngoài ra còn có các tên gọi khác: Dìu Miền, Miền, các phân hệ như: Lù Gang, Làn Tẻn, Đại Bản, Tiểu Bản, Cốc Ngáng, Cốc Mùn, Sơn Đầu v.v) là một dân tộc có địa bàn cư trú truyền thống là phía nam Trung Quốc và lân cận ở bắc phần tiểu vùng Đông Nam Á.
Tại Trung Quốc người Dao là một trong số 56 dân tộc thiểu số ở được công nhận, (tiếng Hán: 瑶族, Pinyin: Yáo zú, nghĩa là Dao tộc) với dân số là 2.796.003 người. Người Dao cũng là một dân tộc thiểu số ở Lào, Myanmar, Thái Lan.
Người Dao là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam, với số dân là 891.151 người năm 2019 . Ở Việt Nam, người Dao tuy có dân số không đông nhưng các bản làng của họ trải rộng tại các miền rừng núi phía Bắc (Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Tuyên Quang,...) đến một số tỉnh trung du như: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Hà Nội và miền biển Quảng Ninh (người Dao Thanh Y) .
Ngoài ra, người Dao còn chia ra thành nhiều nhóm khác nhau, với những nét riêng về phong tục tập quán mà biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang phục của họ như: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y, Dao Áo dài, Dao Quần Trắng,... Mặc dù, họ có nhiều nhóm người khác nhau.
Phân bố
Tại Trung Quốc
Người Dao tại Trung Quốc có hàng trăm nhóm, tiêu biểu như:
Lam Điện Dao (Dao Làn Tẻn, Dao Chàm): Phân bố tại Vân Nam, Quảng Tây. Nhóm này cũng được coi là có mặt tại Việt Nam, Lào. Y phục của họ thường được nhuộm chàm.
Hồng Dao (Dao Đỏ): Chủ yếu cư trú tại huyện Long Thắng. Quần áo của họ thường là màu đỏ.
Bàn Dao: Chủ yếu cư trú tại Quế Bình (Quảng Tây). Thờ phụng Bàn Hồ. "Tết Bàn vương" là lễ hội quan trọng nhất.
Sơn Tử Dao: sinh sống rải rác tại Quý Châu, Vân Nam.
Đính Bản Dao: sinh sống tại Vĩnh Châu, Hồ Nam.
Quá Sơn Dao: Cư trú tại huyện Tân Ninh (Thiệu Dương, Hồ Nam).
Bạch Khố Dao (Dao Quần trắng): Chủ yếu cư trú tại Quảng Tây hà trì nam đan. Họ mặc quần màu trắng, vì thế mà có tên gọi này.
Bát Bài Dao: Chủ yếu cư trú tại huyện tự trị người Dao Liên Nam (Thanh Viễn, Quảng Đông).
Bình Địa Dao (Dao đồng bằng): Chủ yếu tại huyện Giang Vĩnh, Hồ Nam
Ao Dao, Hoa Lam, Trà Sơn Dao: Cư trú tại huyện tự trị Dao Kim Tú
Bối Lâu Dao: Chủ yếu cư trú tại Lăng Vân (Bách Sắc, Quảng Tây).
Tại Việt Nam
Nguồn gốc
Theo kết quả nghiên cứu của Đề án "Sưu tầm kiểm kê kho sách cổ người Dao" do Tiến sĩ Trần Hữu Sơn (Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin - Thể thao Lào Cai) chủ trì có đăng tại thì: Người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) gồm 7 nhóm. Người Dao ở Việt Nam và ở Lào Cai có 3 nhóm: Dao Tuyển, Dao Nga Hoàng và Dao Làn Tẻn (còn gọi là Dao Chàm) họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17). Để đến được đất Việt, sống ở vùng núi như ngày nay, người Dao đã phải trải qua cuộc hành trình muôn phần gian khổ vượt biển, vượt núi, vượt sông. Điều này phản ánh rõ trong nhiều phong tục, nghi lễ của người Dao và được ghi lại rất tỉ mỉ trong sách cổ. Người Dao di cư sang Việt Nam theo nhiều đợt từ đảo Hải Nam, qua Phòng Thành, tới Bắc Giang. Tới đây, họ di chuyển theo các hướng khác nhau là:
Theo sông Lô tới Hà Giang hình thành nên người Dao Áo dài.
Theo sông Chảy tới Lào Cai, hậu duệ ngày nay gọi là Dao Tuyển.
Nhóm ở lại vùng Nga Hoàng thuộc Yên Lập, Yên Phúc một thời gian, sau đó di chuyển tới Văn Chấn (Yên Bái), rồi Văn Bàn (Lào Cai) là tổ tiên người Dao quần chẹt ngày nay.
Ngôn ngữ
Xếp theo ngôn ngữ thì người Dao có hai nhóm chính là Kim Miền và Dìu Miền.
Nhóm Kim Miền
Người Dao Khâu hay còn gọi là Kìm Miền, là một trong những nhánh Dao di cư sang Việt Nam sớm nhất nên họ được xem như thuộc nhóm Dao đại bản, tức người đến trước trong cộng đồng dân tộc Dao. Họ sinh sống tập trung ở các huyện Than Uyên, Sìn Hồ, Phong Thổ thuộc tỉnh Lai Châu.
Dao Quần trắng vào Việt Nam khoảng thế kỷ XIII, họ từ Phúc Kiến tới Quảng Yên ngược Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên rồi mới tới Tuyên Quang. Một bộ phận nhỏ của nhóm này lại từ Tuyên Quang xuôi về Đoan Hùng rồi ngược sông Hồng lên Yên Bái và Lào Cai. Bộ phận này tên là Dao Họ.
Dao Thanh Y còn gọi là Dao Tuyên, Ban Y hay Dao Chăm. đến Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ XVII, họ từ Quảng Đông vào Móng Cái qua Lục Ngạn (nay còn một bộ phận ở Lục Nam), tới sông Đuống rồi ngược lên Tuyên Quang.
Dao Áo Dài sinh sống chủ yếu ở các xã miền núi Tuyên Quang và Hà Giang, sống du canh du cư và canh tác nương rẫy là chủ yếu.
Nhóm Dìu Miền
Dao Quần Chẹt (Dột Kùn), Dao Thanh Phán, Dao Sơn Đầu và Dao Tiền, Dao Thêu, Dao Tro, hiện có mặt ở Phú Thọ, Hòa Bình, Hà Giang, Tuyên Quang là từ Quảng Đông vào và phân tán tới các địa điểm trên. Hai nhóm này vào Việt Nam có thể là từ thế kỉ 15.
Dao Đại Bản, Dao Coóc Ngáng, Dao Sừng sinh sống ở Hà Giang, Cao Bằng và Yên Bái. Cũng được biết với tên người Dao Đỏ ở Lào Cai và Lai Châu.
Các nhóm khác như Dao Lô Gang (Lô Gang nghĩa là đến sau), Dao Đầu Trọc, Cóc Ngáng, Cóc Mùn...
PGS. TS. Nguyễn Khắc Tụng xếp người Dao tại Việt Nam thành bốn nhóm chính:
Đại Bản (Tả Pán)
Dao Đỏ (Hùng Thầu Dào, Dao Coóc Ngáng, Dao Quý Lâm) tại Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang , Hà GIang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên.
Dao Quần Chẹt (Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng): tại Hòa Bình, Ba Vì, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Sơn La, Yên Bái
Dao Thanh Phán (Dao Coóc Mùn, Dao Đội Ván, Dao Lô Gang, Dao Dụ Kiùn, Dao Thêu) tại Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn
Tiểu Bản
Dao Tiền (Dao Đeo Tiền): tại Hòa Bình, Phú Thọ, Sơn La, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn.
Khố Bạch
Dao Quần Trắng: tại Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang (còn gọi là Dao Họ ở Yên Bái, Lào Cai)
Làn Tẻn
Dao Thanh Y: tại Tuyên Quang, Bắc Giang, Quảng Ninh
Dao Áo Dài (Dao Tuyển, Dao Chàm, Dao Slán Chỉ) tại Yên Bái, Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn
Địa bàn cư trú
Dân tộc Dao cư trú chủ yếu ở biên giới Việt-Trung, Việt-Lào và ở một số tỉnh trung du và ven biển Bắc bộ Việt Nam. Cụ thể, đa phần tại các tỉnh như Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lai Châu, Hòa Bình, v.v.
Tại Việt Nam, dân số người Dao theo điều tra dân số năm 1999 là 620.538 người .
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Dao ở Việt Nam có dân số 891.151 người, cư trú tại 61 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Dao cư trú tập trung tại các tỉnh:
Hà Giang (127.181 người, chiếm 15,1% dân số toàn tỉnh và 14,6% tổng số người Dao tại Việt Nam),
Lào Cai (108.326 người, chiếm 14,4% dân số toàn tỉnh và 11,8% tổng số người Dao tại Việt Nam),
Tuyên Quang (105.359 người, chiếm 12,5% dân số toàn tỉnh và 12,1% tổng số người Dao tại Việt Nam),
Yên Bái (101.223 người, chiếm 11,3% dân số toàn tỉnh và 11,2% tổng số người Dao tại Việt Nam),
Quảng Ninh (73.591 người, chiếm 5,2% dân số toàn tỉnh),
Lai Châu (58.849 người, chiếm 13,2% dân số toàn tỉnh),
Bắc Kạn (56.067 người, chiếm 17,6% dân số toàn tỉnh),
Cao Bằng (54.947 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh),
Thái Nguyên (32.370 người) ,
Lạng Sơn (28.225 người),
Sơn La (21.995 người),
Đắk Nông (19.786 người),
Đắk Lắk (17.479 người),
Hòa Bình (17.248 người),
Phú Thọ (15.702 người),
Bắc Giang (12.379 người).
Các nhóm và ngôn ngữ
Có một số nhóm khác biệt trong phạm vi dân tộc Dao, và các nhóm này cũng nói bằng một vài ngôn ngữ từ các ngữ hệ khác nhau, như:
Hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền (Miêu-Dao):
Người Miền nói các thứ tiếng Miền (tiếng Trung: 勉語/勉语, Hán-Việt: Miễn ngữ), bao gồm:
Các ngôn ngữ Miền-Kim
Tiếng Dìu Miền (Ưu Miền), khoảng 818.685 người (383.000 tại Trung Quốc, 350.000 tại Việt Nam, 40.000 tại Thái Lan, 20.250 tại Lào, 70.000 tại Hoa Kỳ)
Tiếng Kim Môn (còn gọi là tiếng Dao đồng bằng, tiếng Làn Tẻn, tiếng Lam Điện), trên 300.000 người Dao
Phương ngữ Phiêu Man, 20.000 người
Phương ngữ Tảo Mẫn, 60.000 người
Tiếng Miền Phiêu-Giao, 43.000 người
Tiếng H'Mông (hay tiếng Miêu)
Tiếng Bố Nỗ, 258.000 người
Phương ngữ Ngô Nại, 18.442 người
Phương ngữ Ưu Nặc, 9.716 người
Phương ngữ Huỳnh Nại, 1.078 người, còn được biết đến như là 'Hoa Lam Dao'
Một vài nhà ngôn ngữ học gộp nhóm các ngôn ngữ trên - với tổng cộng trên 287.000 người - cùng nhau như là các phương ngữ của tiếng Bố Nỗ (布努语).
Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai:
Tiếng Lạp Già (拉珈語/拉珈语), 12.000 người
Tiếng Trung:
Khoảng 500.000 người Dao nói các phương ngữ của tiếng Trung
Chữ viết
Người Dao có chữ viết gốc Hán được Dao hóa (chữ Nôm Dao).
Văn hóa
Sách cổ đã sưu tầm và kiểm kê có tới 68% là các bộ kinh thư, các sách về tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán. Sách văn học tuy chiếm một tỉ lệ nhỏ (22,8%) nhưng có giá trị quan trọng. Bên cạnh một số dân ca (nhất là dân ca giao duyên) được những người biết chữ cổ chép lại còn khá nhiều tập truyện văn học, bao gồm một số bộ tiểu thuyết cổ của Trung Quốc. Các nhà nghiên cứu lúc đầu chỉ sưu tầm được 2 truyện thơ, trong một dự án đã tìm thấy 23 truyện thơ lần đầu tiên được phát hiện ở vùng người Dao như: "Hàn Bằng", "Đàm Thanh", "Bát Nương", "Lâu Cảnh", "Trạng Nghèo", "Đô Nương truyện", "Đặng Nguyên Huyện truyện", "Bá Giai truyện", "Thần sắt ca"... Trong số đó, truyện thơ kể về hành trình tìm đất vất vả của người Dao chiếm số lượng nhiều hơn cả (40%). Một số truyện tuy có chủ đề khác nhưng trước khi đề cập đến nội dung chính cũng kể về cuộc hành trình của người Dao.
Nguồn gốc
Theo cuốn sách cổ Quá Sơn Bảng Văn và những sách cổ người Dao ghi chép lại. Thì người Dao ban đầu sinh sống ở Trung Quốc. Những năm nhà Minh suy tàn chiến tranh loạn lạc xảy ra khoảng thế kỷ 16, 17. Nhân dân đói khổ lầm than. Trong đó có dân tộc Dao, họ đã tập hợp lại rồi cùng nhau vượt biển xuống phía nam để tìm vùng đất mới để sinh sống tránh chiến tranh giết chóc. Quá trình vượt biển đầy gian nan ấy họ chia nhau thành nhiều hướng đi. Có nhóm thì xuống phía nam qua cửa biển Móng Cái di cư vào các tỉnh miền bắc Việt Nam như Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang... Một số nhóm đến Thái Lan, Malaysia, Lào..., dù sinh sống ở đâu, họ luôn nhớ về nguồn cội, lưu giữ được những nét văn hóa, phong tục tập quán truyền thống của họ qua những cuốn sách cổ.
Phong tục, tín ngưỡng
Người dân tộc Dao rất coi trọng chữ hiếu. Chính vì vậy mà họ có phong tục thờ cúng tổ tiên hay còn được gọi là tục thờ cúng Bàn Vương (mang một ý nghĩa sâu xa có liên quan đến truyền thuyết về sự hình thành của người Dao) vì họ cho rằng tổ tiên, ông bà luôn dõi theo chân họ phù hộ cho họ. Vào các ngày rằm họ thường đem lễ vật thờ cũng tổ tiên gồm một con gà, ba miếng thịt được luộc chín và một li rượu, một li nước và một bó nhang. Việc thờ cúng do thầy nên người thầy cúng rất được coi trọng. Đối với dân tộc đạo thì họ luôn giúp đỡ nhau. Họ sùng bái tổ tiên nhưng ngày nay theo xu hướng phát triển thì có một số ít đi theo các đạo khác như Thiên Chúa giáo... Đặc biệt đối với người con trai thì khi trưởng thành, gia đình sẽ tổ chức cho lễ đặt tên hay còn được gọi là lễ Cấp sắc đánh dấu sự trưởng thành của người con và cái tên đó sẽ đi theo suốt cuộc đời của họ, cả trong thế giới bên kia và trong lễ đặt tên đó tổ chức các nghi lễ rất độc đáo trở thành nét văn hoá riêng biệt của người Dao mới có.
Người Dao coi mình là con cháu của Bàn Vương (tiếng Dao gọi là Piền Hùng). Tương truyền bị hạn ba năm liền không có gì ăn, nhà vua cung cấp cho mỗi người một cái búa, một con dao để đốn rừng làm rẫy trồng lúa. Con cháu Bàn Vương ngày một đông hơn trong khi đất đai của Bình Vương thì có hạn, nhà vua phải ra chỉ dụ Quá Sơn bảng văn để họ phân tán đi các nơi tìm vùng đất mới để sinh sống.
Đón Tết
Về phong tục ngày tết, với người Dao ở các tỉnh Tây Bắc như Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Quảng Ninh... việc thờ cúng tổ tiên những ngày đầu năm mới là điều bắt buộc. Ngoài ra, tùy theo dòng họ mà người Dao ở một số nơi cũng có những quy ước riêng. Từ ngày 27, 28 tháng chạp nhà nhà đã chuẩn bị làm bánh dày, món bánh không thể thiếu trong mâm lễ thờ tổ tiên đêm cuối cùng của năm.
Đêm giao thừa của người Dao, một số nơi đàn ông, con trai không ở nhà mà phải tập trung ra đồi cao cúng lễ mừng năm mới. Mâm lễ dâng cúng bao gồm một con lợn, hai con gà, một quả trứng, một đĩa cơm nếp và một vò rượu. Một thầy cúng sẽ chủ trì, đọc bài khấn xua đuổi tà ma, cầu cho năm mới mùa màng tươi tốt, người người bình an.
Đặc biệt, một nghi lễ không thể thiếu trong ngày tết của người Dao là lễ Pút tồng ( nhảy đồng) tức nhảy lửa. Một số nhóm dao quảng ninh thì chỉ tổ chức bái tổ tiên cầu một năm mưa thuận gió hòa, con người luôn khỏe mạnh bình an. mùa màng bội thu. Chăn nuôi gia súc gia cầm lớn nhanh và khỏe mạnh. Một số tỉnh tây bắc, người Dao thường tổ chức nhảy lửa vào tối nùng 2 mùng 3 tết. Họ đốt một đống lửa to giữa nhà, nam nữ ngồi riêng cách xa hai phía. Nam phải đủ 18 tuổi mới được tham gia nhảy lửa và ngồi thành hàng để thầy cúng bày lễ làm phép. Khi bếp lửa đượm thành đống than hồng là lúc từng người với đôi chân trần lần lượt nhảy vào. Trước khi nhảy phải tắm rửa sạch sẽ và mặc quần áo mới, không được mặc đồ màu trắng.
Ngoài người Dao, lễ nhảy lửa chỉ tìm thấy ở một dân tộc ít người khác là người Pà Thẻn ở Lâm Bình (Tuyên Quang) cũng với nghi thức tương tự.
Nhà cửa
Ở Việt Nam, người Dao cư trú chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc, và gần đây mới có một số nhỏ chuyển vào Tây Nguyên... Tuy nhiên, dù cư trú phân tán và có nhiều nhóm Dao khác nhau như Dao Đỏ, Dao Tiền, Dao quần trắng,... chúng ta vẫn có thể nhận ra nét đặc trưng về nhà ở của tộc người này. Về cơ bản, người Dao có ba loại hình nhà ở chính: nhà đất, nhà sàn (người Dao quần trắng ở Yên Bái) và nhà nửa sàn nửa đất (người Dao đỏ ở (Tả Phìn) Sa Pa - Lào Cai). Song, cùng với sự phát triển chung của xã hội, những nét đặc trưng này đang phai nhạt dần, nhất là từ sau năm 1945 và đặc biệt là những năm gần đây.
Để tìm hiểu quá trình phát triển nhà ở của dân tộc Dao cũng như nhiều dân tộc khác ở Việt Nam, người ta đặc biệt quan tâm đến kết cấu của bộ khung nhà mà đơn vị kết cấu của bộ khung nhà là các kiểu vì (vì cột, vì trung gian giữa vì kèo - vì cột và vì kèo). Nhà ở của người Dao là các kiểu vì kèo và một yếu tố khác vô cùng quan trọng là tổ chức mặt bằng sinh hoạt. Các nhóm dao ở vùng đông bắc cũng dạng cột kèo nhưng các cột họ kê bởi những hòn đá to, bằng phẳng vững chắc chống mối mọt gọi là nhà kê tảng. Bởi vì sự khác biệt giữa nhà ở của dân tộc nước ta chủ yếu ở hai yếu tố đó, còn yếu tố khác chỉ là thứ yếu.
Trang phục
Trong trang phục truyền thống, người Dao nam mặc quần và áo đơn giản, nữ trang phục phong phú hơn từ quần dài cho đến áo với những trang trí hoa văn truyền thống hết sức cầu kỳ, đầu đội khăn thêu hoa văn. chỉ đỏ là chủ yếu. nổi bật đối với dao đỏ. Tùy theo từng nhóm dao và tùy theo từng hệ ngôn ngữ.
Ngôn ngữ
Người dao trong quá trình thiên di. Du canh du cư. Ban đầu từ một hệ ngôn ngữ chung. Dần dần hình thành 2 hệ ngôn ngữ là: Miền và Mùn. Hai hệ ngôn ngữ này có nhiều điểm nhiều từ giống nhau. Nhưng về phát âm thì có những từ láy đi rất nhiều. Giống như giọng miền bắc với giọng miền trung.
Những người Dao có danh tiếng
Hình ảnh |
Người Chứt, còn gọi là người Rục, người Sách, người A rem, người Mày, người Mã liềng, Xá lá Vàng là một dân tộc ít người sinh sống tại miền trung Việt Nam và Lào.
Tại Việt Nam người Chứt được công nhận là một trong 54 dân tộc Việt Nam.
Địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999 thì dân tộc này có dân số khoảng 3.829 người, sống chủ yếu ở tại Minh Hóa, Tuyên Hóa, Bố Trạch (Quảng Bình); một số ở Hương Khê (Hà Tĩnh) và tại Đăk Lăk. Thực tế, 7 tên gọi Sách, Mày, Rục, Mã Liềng, Arem, Xơ-lang, Umo dùng để chỉ 7 nhóm trong tộc người này. Nhóm người Rục được phát hiện muộn nhất (năm 1959) ở xã Thượng Hóa, huyện Minh Hóa và đến năm 2004 có 85 hộ với 428 nhân khẩu. Nhưng theo ước tính của Tổng cục Thống kê ngày 1 tháng 7 năm 2003 thì dân số người Chứt giảm xuống còn 3.787 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chứt ở Việt Nam có dân số 6.022 người, cư trú tại 23 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chứt cư trú tập trung tại các tỉnh:
Quảng Bình (5.095 người, chiếm 84,6% tổng số người Chứt tại Việt Nam),
Đắk Lắk (435 người),
Lâm Đồng (266 người),
Hà Tĩnh (156 người)
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 450 người Chứt (Ethnologue ghi là theo điều tra dân số năm 1995 của Lào) sinh sống tại tỉnh Khammouan.
Người Chứt là tộc người sử dụng ngôn ngữ cùng ngữ hệ với tiếng Việt. Tiếng Chứt được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm vì gần gũi với tiếng Kinh nguyên thủy. Thời điểm tiếng Chứt tách ra khỏi nhóm tiếng Việt-Mường vẫn còn đang tranh cãi
Theo Phạm Văn Cường thì là vào khoảng thế kỷ V - VI, sau đó khá lâu, vào khoảng thế kỷ X - XI tiếng Mường mới tách ra (Phạm Đức Dương).
Còn theo Bùi Xuân Dinh thời điểm phân tách của nhóm Việt-Mường và 2 nhóm Chứt - Poong diễn ra từ khoảng thiên niên kỷ thứ I TCN đến thế kỷ thứ II sau CN. Và nhóm Việt Mường phân tách khoảng từ khoảng thế kỷ thứ VII - VIII
Giáo sư Trần Trí Dõi đã nhận xét tiếng Chứt như "bảo tàng lưu giữ các giai đoạn phát triển của tiếng Việt". Văn hóa của người Chứt cũng cho phép tìm lại lịch sử phát triển của người Việt cổ.
Người Chứt sống chủ yếu bằng trồng trọt và một phần nhờ săn bắn và hái lượm. Họ ăn cơm đồ cách thủy với thức ăn thường có rau rừng thái nhỏ nấu với ốc hay cá suối.
Lịch sử
Trước đây, người Chứt sống du canh du cư, chủ yếu vùng núi tỉnh Quảng Bình và Hà Tĩnh, trong điều kiện rất lạc hậu. A. Cheon và Th. Guignard, hai nhà nghiên cứu người Pháp, đã miêu tả là người Chứt "hết sức nhút nhát, hễ thấy người lạ thì lập tức lẩn trốn. Họ không có quần áo, nam nữ đều che mình bằng vỏ cây sui, ngủ chung lẫn lộn trong hang hoặc trong lều. Họ ăn bột cây nhúc và săn bắt tôm cá, thú nhỏ trong rừng. Cả nam và nữ đều búi tóc đằng sau". Có nguồn cho biết nhóm Rục thời trước có nguồn thức ăn quan trọng là bột cây báng và thịt khỉ.
Dưới thời Pháp thuộc, người Chứt bị miệt thị là "Xá lá vàng". "Xá" chỉ những tộc người lạc hậu; "lá vàng" chỉ cuộc sống di cư, người Chứt thường chỉ sống tại một địa điểm trong những túp lều lợp bằng lá cây khoảng vài ngày cho đến khi lá chuyển sang màu vàng thì bỏ đi nơi khác. Bản thân chữ "Chứt" cũng được hiểu là hang đá, nơi trú ngụ của người Chứt. Với trình độ sản xuất thấp, người Chứt không biết dệt vải. Vào mùa hè nam giới Chứt đóng khố và cởi trần còn phụ nữ Chứt mặc váy. Mùa đông, họ mặc áo làm bằng vỏ cây.
Khi Việt Nam giành độc lập từ Pháp, người Chứt được chính quyền Việt Nam vận động về sống định cư, hòa đồng hơn vào các tộc người khác.
Ngày nay người Chứt đã sống định canh định cư, nhưng các làng của người Chứt (gọi là Cà Vên) thường tản mạn và nhà cửa không bền vững. Họ sống nhờ trồng trọt (nhóm Sách làm ruộng, còn nhóm Rục và A rem là làm rẫy), canh tác lúa, đậu, lạc, trầu không. Khi đến mùa thu hoạch, họ vẫn lên ở các hang núi gần nương rẫy, chỉ trở lại bản làng khi mùa màng xong xuôi. Người Chứt cũng hái lượm, săn bắn, đánh cá, chăn nuôi. Nghề mộc và đan lát khá phổ biến trong các tộc người Chứt. Các đồ dùng bằng kim loại và vải vóc, y phục phải mua hoặc trao do người Chứt không trồng bông dệt vải hay chế tạo đồ kim loại.
Người Chứt ngày nay thường nhận mình là họ Cao, họ Đinh, họ Hồ... Mỗi dòng họ đều có người tộc trưởng, có bàn thờ tổ tiên chung. Trong làng người Chứt, tộc trưởng nào có uy tín lớn hơn thì được suy tôn làm trưởng làng.
Văn hóa
Người Chứt có quan hệ vợ chồng bền vững. Lễ cưới được tổ chức bên nhà gái trước lễ đón dâu. Lễ vật trong đám cưới ngoài lợn, gà, luôn phải có thịt khỉ sấy khô.
Việc ma chay của người Chứt đơn giản, nhóm Sách có tiếp thu ảnh hưởng của người Kinh. Tang gia được tổ chức trong 2 đến 3 ngày bằng nghi lễ cúng bái, rồi đưa người chết đi chôn. Mộ được đắp thành nấm đất, không có nhà mồ bên trên. Sau 3 ngày, tộc trưởng làm lễ gọi hồn cho người chết về ngụ tại bàn thờ tổ tiên ở nhà tộc trưởng, từ đó người thân không chăm sóc mộ nữa.
Ngoài, thờ cúng tổ tiên, người Chứt tin có ma rừng, ma suối, ma không trung, ma bếp... Trong tín ngưỡng của người Chứt cũng có Thần nông bảo vệ mùa màng và là vị thần tối cao. Hoạt động nông nghiệp thường được thực hiện kèm theo các nghi lễ như lễ xuống giống, lễ sau gieo hạt, lễ cúng hồn lúa, lễ ăn mừng được mùa.
Người Chứt có làn điệu dân ca Kà-tưm, Kà-lềnh. Nhạc cụ có khèn bè, đàn ống lồ ô loại cho nam và loại cho nữ, sáo 6 lỗ... Dân tộc Chứt có vốn truyện cổ và văn nghệ dân gian phong phú, gồm nhiều đề tài khác nhau.
Về ẩm thực, người Chứt có món cơm Pồi được nấu từ ngô, lúa nếp nương, sắn củ, đỗ... nấu chín và bỏ vào cối giã lấy bột, nhồi kỹ. Sau đó cơm được nấu trong ống tre hay nghè hôông" (một dạng chõ) cùng với nước gọi là "nồi nân", lấy mo chuối vấn quanh miệng. Cơm Pồi thường được dùng với rau rừng, nấu với các loại cá, ốc hoặc thịt thú rừng chặt thành miếng vừa ăn.
Các tộc người Chứt
Người Nguồn
Người Nguồn là tên gọi cộng đồng người gồm 35 ngàn nhân khẩu, sinh sống ở huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Người Nguồn hiện chưa được công nhận là một dân tộc trong các dân tộc Việt Nam.
Hiện vẫn còn chưa có sự thống nhất về việc người Nguồn có phải là một sắc tộc riêng hay không. Tại Hội thảo khoa học xác định dân tộc Nguồn tổ chức ngày 19/10/2004 tại Đồng Hới, Quảng Bình, có ý kiến đề nghị xếp người Nguồn vào dân tộc Mường, Thổ hoặc Chứt và cũng có ý kiến tách người Nguồn thành một dân tộc thiểu số riêng.
Người Nguồn sống xen kẽ với người Sách và người Rục ở Thượng Hóa, Hóa Sơn, người Mày, người Khùa, và người Arem ở xã Dân Hóa và xã Trọng Hóa. Họ thường tự xưng là người Kinh sống xen cùng người Kinh ở các vùng khác mới di cư đến đất Minh Hóa sau này.
Người Sách
Người Sách hay Saek cư trú chủ yếu ở các xã vùng cao của huyện Minh Hoá và sống rải rác ở một số xã miền núi của huyện Tuyên Hoá, Bố Trạch. Họ còn sinh sống ở tỉnh Khammoune bên kia biên giới.
Ở huyện Minh Hoá: Tộc người Sách cư trú tập trung theo cộng đồng ở các xã Thượng Hoá (bản Phú Minh, Yên Hợp), Hoá Sơn (bản Hoá Lương, Lương Năng), ngoài ra người Sách sống xen ghép với dân tộc Kinh và Mày ở các xã: Hoá Tiến, Hoá Hợp, Hoá Thanh, Dân Hoá, Trung Hoá, Hồng Hoá, Xuân Hoá, Thị trấn Quy Đạt...
Ở huyện Tuyên Hoá: Tộc người Sách sống xen cư với dân tộc Kinh ở các xã: Lâm Hoá, Sơn Hoá, Lê Hoá, Thanh Hoá, Thị trấn Đồng Lê.
Ở huyện Bố Trạch: Tộc người Sách sống xen cư với các dân tộc khác ở các xã: Thượng Trạch, Tân Trạch.
Khác với các tộc khác ở nhà sàn, người Sách, Nguồn xây và ở nhà trệt.
Người Mày
Người Mày cư trú tại hai xã Dân Hóa, Trọng Hóa huyện Minh Hóa, giáp biên giới với Lào. Tên Mày có nghĩa là đầu nguồn con nước.
Người Mày có lễ hội đặc trưng như Lễ cúng cơm mới kéo dài hay ngày. Ngoài lễ vật cúng trầu cau, rượu cần, bánh đòn, xôi gà, cung tên... phải có một hòn đá suối và cặp ống trống mái. Cặp ống này làm bằng nứa, ống trống dài khoảng một mét, ống mái dài bằng nửa ống trống, trong đó chứa một nắm gạo nếp. Sau đó dùng que nứa đầu vót nhọn rồi dùng dây mây buộc chặt vào phần gốc của hai ống trống mái. Đầu vót nhọn được người khấn cà vào hòn đá suối, phát ra âm thanh. Chủ hộ ngồi trước bàn thờ, cầm hai ống trống mái cà lên hòn đá suối thành khẩn đọc lời khấn. Sau lễ cúng, cả làng cùng nhau hát dân ca như "Kà tơm-tà lênh" (con trâu đi cày) và "Kà răng-tà nên" (chiều về trên đỉnh núi).
Người Mã Liềng
Những năm 90 của thế kỷ trước, người Mã Liềng chủ yếu sống trong các hang đá hay những nhà sàn đơn sơ cheo leo trên dãy núi Giăng Màn. Sau này họ được nhà nước cho tập trung định cư ở các bản Kè, bản Cáo, bản Chuối, bản Cà Xen thuộc hai xã Lâm Hóa, Hóa Thanh, của huyện Tuyên Hóa. Một số sinh sống ở khu vực Rào Tre giáp ranh thuộc tỉnh Hà Tĩnh, nhóm này thường được gọi là người Chứt.
Người Mã Liềng ở nhà sàn, nhà chỉ quay về hướng Nam hoặc Đông Nam, lưng tựa vào chân núi Giăng Màn. Đặc biệt ngôi nhà sàn phải có hai cầu thang, một dành cho nữ và một dành cho nam. Khi vào nhà, khách nam chỉ được ngồi phía phòng có cầu thang nam, nữ cũng chỉ được ngồi phía phòng có cầu thang nữ.
Các cột trong nhà đều có tên riêng. Ví dụ như Cột con rể nằm ở bên phải phòng dành cho nam, đây là nơi người con trai ngồi khi đến tìm hiểu người con gái. Ngược lại, người con gái ngồi ở cột tương ứng bên phía gian dành cho nữ, gọi là cột con dâu. Phòng ngủ chính là buồng thiêng, không ai được vào trừ hai vợ chồng chủ nhà. Trên góc buồng thiêng có đặt "Chà bài" (bàn thờ) để thờ "Ma Nộ", là bộ cung tên dùng để đi săn bắn.
Người Arem
Người Arem là một trong những tộc người được phát hiện muộn nhất ở Việt Nam vào năm 1956. Họ sống trong những hang đá tại Tân Trạch như hang Đại Cáo, hang Người lùn, hang Duật...
Hiện người Arem cư trú tại xã Tân Trạch trong các bản Đoòng, bản 61, bản 39 (làng Arem). Trước đây, người Arem vốn là một tộc người có tên tuổi, cư trú tập trung ở hai nơi có các tên gọi Rục hay Bòn Bòn. Nhưng do chiến tranh, để tránh bom rơi, đạn lạc, họ đã bỏ bản, lui vào trong rừng già của dải Trường Sơn náu thân. Vì cuộc lánh nạn này cho nên điều kiện sinh sống hết sức khó khăn và dẫn đến suy kiệt dần. Năm 1956, lúc được phát hiện ra, người Arem đã và đang sống một cuộc sống hết sức nguyên thủy như ở hang, mặc quần áo vỏ cây và đồ ăn, thức uống chủ yếu không qua đun nấu.
Đến đầu năm 1992, tộc người A Rem được Nhà nước hỗ trợ theo dự án Bảo tồn và phát triển những tộc người có nguy cơ biến mất. Lúc này, người A Rem chỉ còn lại 83 người.
Năm 2013, dân số người A Rem trên toàn xã Tân Trạch gồm 75 hộ, 333 khẩu.
Người Rục
Cũng giống người Arem, người Rục được một tiểu đội Công an Quảng Bình phát hiện vào ngày 12 tháng 8 năm 1959 trong hang sâu ở núi Ma Ma, Phong Nha - Kẻ Bàng thuộc xã Thượng Hóa huyện Minh Hóa (Quảng Bình) gồm 11 hộ với 34 người.
Người Rục có tập quán rất lạc hậu, quen ở hang sâu, săn bắt, hái lượm, thức ăn chủ yếu là bột báng giã nhuyễn.
Họ cũng có một cuộc sống tinh thần phong phú với những nhạc cụ như đàn trơ bon, đàn môi, sáo dọc và làn điệu cà lưm cà lềnh. Do tập quán lạc hậu, sống trong hang đá, săn bắt, hái lượm tận rừng sâu, người Rục có nguy cơ suy giảm dân số hết sức nghiêm trọng.
Trong hơn 40 năm, người Rục đã làm một cuộc hành trình về với cộng đồng. Đến cuối năm 2006, nhân khẩu đã lên đến 414 người và được phân bố trong bốn bản Phú Minh, Ón, Yên Hợp và Mò O - Ồ Ồ thuộc xã Thượng Hóa, ở xen với các tộc như Sách, Mày, Kinh. Số liệu năm 2009 số lượng nhân khẩu có khoảng 600 người.
Những người Chứt có danh tiếng
Ghi chú |
Người Thổ hay còn gọi là người Cuối hay người Mọn là một nhóm dân tộc Việt-Mường có vùng cư trú chính ở phần phia tây tỉnh Nghệ An, Việt Nam; được công nhận là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Trước 1945, người Thổ được coi là người Mường và không có định danh dân tộc riêng.
Người Thổ có nhiều nhóm khác nhau, có các tên gọi khác như Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai, Ly Hà, Tày Pọng, Con Kha, Xá Lá Vàng v.v.
Người Thổ nói tiếng Thổ, tiếng Cuối... ngôn ngữ thuộc Ngữ chi Việt, nhưng có nhiều phương ngữ khác nhau.
Ngôn ngữ
Do quá trình cấu kết dân tộc diễn ra với nhiều giai đoạn khác nhau nên thành phần cấu thành của dân tộc Thổ rất đa dạng, vì vậy không tồn tại 1 thứ tiếng Thổ đơn nhất, tuy nhiên tất cả các nhóm Thổ đều có ngôn ngữ gốc thuộc ngữ chi Việt trong ngữ hệ Nam Á . Theo nhà ngôn ngữ học Nguyễn Hữu Hoành (2009) thì về ngôn ngữ các nhóm Thổ có thể được phân loại như sau
Nhóm Mọn, Họ gần nhất với người Mường, họ nói một thổ ngữ Mường, 2 thứ tiếng này giống nhau đến 98% do vậy được coi là cùng một ngôn ngữ, ngôn ngữ của họ từng được Maspéro phân loại là tiếng Nam Mường. Mức độ giống nhau về từ vựng của tiếng Nam Mường với tiếng Mường Bi (Hòa Bình), Mường Ống (Bá Thước, Thanh Hóa) và phương ngữ Nghệ An của tiếng Việt lần lượt là 77%, 79% và 71%. Tuy nhiên từ vựng của Nam Mường lại giống tới 84% so với tiếng Mường ở Như Xuân (Thanh Hóa). "Mọn" là tên gọi trong tiếng Mường để chỉ người Mường. Cư trú ở khu vực phía tây sông Hiếu, thuộc các huyện Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Tân Kỳ.
Nhóm Thổ Lâm La (Nghĩa Đàn, Nghệ An) và Thổ Như Xuân (Thanh Hóa), 2 nhóm này tuy có bộ từ vựng tương đồng cao so với tiếng Việt (lần lượt 94% và 95%). Tuy nhiên quá trình thay đổi về ngữ âm của 2 thứ tiếng trên lại tương đối khác so với tiếng Việt. Ngoài ra, Hoàng Hữu Hoành cũng đề cập rằng quá trình cách tân ngữ âm của Thổ Lâm La và Thổ Như Xuân là tương tự với tiếng Nguồn. Tuy vậy mối quan hệ của Thổ Lâm La, Thổ Như Xuân và tiếng Nguồn với tiếng Việt và các tiếng Mường khá chồng chéo và không nhất quán do vậy Hoàng Hữu Hoành đã xếp nhóm này thành 2 nhóm riêng biệt cùng với tiếng Nguồn là những nhóm chưa xác định được vị trí trong phân nhánh Việt-Mường
Nhóm Cuối tạo thành 1 ngôn ngữ riêng biệt với hai phương ngữ chính là Cuối Chăm (Tân Hợp) và Cuối Đếp (Quang Tiến và Quang Phong). Tiếng Cuối cùng với tiếng Tày Poọng-Đan Lai, Tày Tum và Tày Hung bên Lào tạo thành một nhánh riêng trong ngữ chi Việt song song với các ngành Việt-Mường và Chứt. Tuy vậy, sự giống nhau về từ vựng của tiếng Cuối và Tày Poọng chỉ ở mức 66% thấp hơn cả sự tương đồng của tiếng Việt và các ngôn ngữ Mường.
Nhóm Kẹo (xã Nghĩa Quang, hiện là phường Quang Tiến và Quang Phong, tx Thái Hòa) sử dụng tiếng Việt dù văn hóa của họ cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ người Cuối và người Thổ Mọn. Ngôn ngữ của họ có tương đồng về từ vựng lên đến 99% với phương ngữ Nghệ An của tiếng Việt, quá trình phát triển ngữ âm cũng tương tự. Ho được cho là có nguồn gốc từ người Việt từ đồng bằng di cư lên miền núi kết hợp với người Cuối, người Mọn đã Việt hóa. "Kẹo" là tên người Thái dùng để chỉ người Việt-Mường.
Nhóm Tày Poọng, Đan Lai (Ly Hà) được cho là nhóm bản địa tại miền Tây Nghệ An. Sự giống nhau về từ vựng của tiếng Đan Lai và tiếng Tày Poọng lên đến 85% do vậy chúng có thể được coi là các phương ngôn của cùng 1 ngôn ngữ. Tuy nhiên tiếng Tày Poọng hiện nay đang dần mai một, người Tày Poọng hiện nay đang dần chuyển sang nói tiếng Thái và tiếng Việt. Người Tày Poọng cư trú tập trung tại các xã Tam Hợp, Tam Quang của Tương Dương.
Dân số và địa bàn cư trú
Người Thổ có khoảng 69.000 người, chủ yếu sinh sống tại miền tây tỉnh Nghệ An (80 %) và tỉnh Thanh Hóa (13 %).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thổ ở Việt Nam có dân số 74.458 người, có mặt tại 60 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Thổ cư trú tập trung tại tỉnh
Nghệ An (59.579 người, chiếm 80,0% tổng số người Thổ tại Việt Nam),
Thanh Hóa (9.652 người, chiếm 13,0% tổng số người Thổ tại Việt Nam),
Lâm Đồng (966 người),
Đồng Nai (657 người),
Đắk Lắk (541 người),
Bình Dương (510 người),
Thành phố Hồ Chí Minh (362 người),
Điện Biên (226 người),
Đắk Nông (216 người),
Hà Nội (211 người)...
Người Thổ có nhiều dòng họ, trong đó họ Trương là một họ lớn chiếm số đông trong cộng đồng.
Đặc điểm kinh tế
Người Thổ làm rẫy trên cả đất dốc, cả đất bằng, trồng lúa và gai là chính. Trong canh tác lúa, ngoài cách thức chọc lỗ tra hạt, người Thổ còn gieo vãi và dùng cày, bừa để lấp đất sau khi gieo. Cây gai cho sợi đan nhiều vật dụng cần thiết: túi, võng, lưới bắt cá, vó, lưới săn thú, v.v. Một tấm lưới săn thú cần đến 30–40 kg sợi gai.
Cá, chim, thú là nguồn thực phẩm quan trọng đối với người Thổ, họ có kinh nghiệm săn bắn, đánh bắt cá. Bên cạnh đó, rừng cung cấp các loại rau, quả, củ làm thức ăn thông thường cũng như khi đói kém. Người Thổ trước đây có nghề dệt vải nhưng do điều kiện canh tác cũng như sự giao lưu với người Kinh đã làm cho nghề dệt bị mai một dần.
Tổ chức cộng đồng
Trong làng người Thổ, quan hệ gắn bó giúp đỡ lẫn nhau là nếp sống lâu đời. Theo tục cũ, toàn bộ đất đai, rừng núi, sông suối là của chung dân gian, mỗi người được quyền quản lý khi đang gieo trồng, được quyền khai thác khi là dân sống trong làng.
Hôn nhân gia đình
Người Thổ có tục "ngủ mái": nam nữ thanh niên được nằm tâm tình với nhau, nhất là vào dịp tết, lễ hội, tuy nhiên không được có hành vi thiếu đúng đắn bởi dư luận và luật tục rất nghiêm minh. Từ những đêm "ngủ mái", họ chọn bạn trăm năm. Trong hôn nhân, nhà trai phải tốn không ít tiền của và trước khi cưới, chàng trai phải năng đến làm việc cho nhà vợ tương lai.
Tục lệ ma chay
Đám tang của người Thổ trước kia có nhiều nét độc đáo. Họ dùng quan tài độc mộc, khiêng người chết đi chôn thì để chân hướng về phía trước, còn mộ thường để chân hướng xuôi theo chiều nước chảy.
Văn hóa
Xưa kia người Thổ có nhiều ca dao, tục ngữ, câu đố, truyện cổ, các điệu ca hát của người lớn, những bài đồng dao của trẻ, đặc biệt là những điệu hát ru, v.v. Song vốn văn nghệ dân gian Thổ đến nay đã bị quên lãng, mất mát nhiều.
Cứ vào dịp hội hè lễ tết thì người Thổ lại tập trung nhau lại các đôi trai gái lai cùng nhau uống rượu cần, cùng hát múa, tiếng cồng chiêng hoà chung với những câu hát đối tạo nên những âm thanh vang vọng trong đêm hội. Chiêng của người Thổ giống với người Thái về cấu tạo nhưng họ lại có những điệu đánh khác hẳn. Người Thổ có những câu hát dối rất đặc sắc.
Nhà cửa
Người Thổ quen sống trên nhà sàn, nhưng nhà của họ không có gì đặc biệt. ở vùng Lâm La nhà sàn của người Thổ giống hệt nhà người Mường. Ở những xã phía Nam, nhà người Thổ lại giống nhà người Thái. Nay nhiều nơi người ta đã chuyển sang nhà ở đất theo kiểu nhà người Việt.
Trang phục
Khó nhận ra cá tính tộc người. Đồ mặc có nơi giống như y phục của người Kinh nông thôn nửa thế kỷ về trước, có nơi phụ nữ dùng cả váy mua của người Thái. Ở vùng Thổ phổ biến tập quán phụ nữ đội khăn vuông trắng, còn khăn tang là khăn trắng dài.
Những người Thổ có danh tiếng |
Người Giáy, còn gọi là Nhắng, Dẳng, Pâu Thìn, Pu Nà, Cùi Chu, Xạ, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam .
Người Giáy nói tiếng Bố Y, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái trong hệ ngôn ngữ Tai-Kadai.
Dân số người Giáy tại Việt Nam theo điều tra dân số năm 2019 là 67.858 người , năm 2009 là 58.617 người .
Tên gọi khác
Các tên gọi khác của người Giáy bao gồm Nhắng, Dẳng, Pâu Thìn, Pu Nả, Củi Chu, Xạ.
Người Giáy ở Lào Cai nói nhẹ nhàng, tự gọi tên dân tộc mình là Pú Dáy. Cấn Dẳng là tiếng của người Tày sống gần với người Giáy, tiếp đó là người Kinh gọi Dẳng thành Nhắng. Người Pâu Thìn, Pú Nả, Củi Chu là những nhánh khác. Xa Dìn là tiếng Quan Hỏa địa phương (Hán Việt: Nhiệt Y-热依) dùng để chỉ tên người Giáy.
Người Tày Ngạn tại huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang được xếp vào nhóm dân tộc Tày và người Nùng An ở huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng được xếp vào dân tộc Nùng nhưng có ngôn ngữ gần với tiếng Giáy.
Người Pú Nả
Người Pú Nả hay còn gọi là Củi Chu sinh sống ở các bản Séo Sin Chải , Lò Suối Tủng, Phan Lìn, Nùng Than xã San Thàng, thị xã Lai Châu có nguồn gốc từ tỉnh Quý Châu Trung Quốc, di cư về Việt Nam cách đây từ 150 đến 200 năm. Người Pú Nả mặc trang phục như người Giáy, dùng lời hát, thơ ca, tục ngữ, đồng dao như người Giáy nhưng tiếng Pú Nả người Giáy không nghe được.
Dân số và địa bàn cư trú
Người Giáy cư trú ở Lào Cai (50 %), Hà Giang (27 %), Lai Châu (18 %) và Yên Bái (4 %). Dân số năm 1999 là 49.098 người .
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Giáy ở Việt Nam có dân số 58.617 người, cư trú tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Giáy cư trú tập trung tại các tỉnh:
Lào Cai (28.606 người, chiếm 48,8% tổng số người Giáy tại Việt Nam), Hà Giang (15.157 người, chiếm 25,9% tổng số người Giáy tại Việt Nam),
Lai Châu (11.334 người),
Yên Bái (2.329 người)
Đặc điểm kinh tế
Người Giáy làm ruộng nước là chính, rẫy chỉ là nguồn thu nhập thêm và thường cũng là chỗ chăn nuôi lợn, gà. Người Giáy nuôi nhiều trâu, ngựa, lợn, gà, vịt, có truyền thống dùng ngựa để cưỡi, thồ, dùng trâu kéo cày, kéo gỗ.
Văn hóa
Người Giáy vốn có truyện cổ, thơ ca, tục ngữ, câu đố, đồng dao v.v... Có nhiều truyện giải thích hiện tượng tự nhiên, có nhiều truyện thơ dài, có truyện kết hợp lời kể với lời hát. Dân ca phong phú, gồm nhiều loại, mỗi loại có nhiều bài, điệu khác nhau, đặc biệt các hình thức hát giao duyên nam nữ là sinh hoạt sôi nổi và hấp dẫn.
Phong tục tín ngưỡng
Đón Tết
Người Giáy cũng ăn tết theo âm lịch, trùng với Tết Nguyên Đán. Mỗi năm, sắp đến ngày tết, người Giáy làm các món bánh truyền thống như bánh bổng, bánh khảo để cúng bàn thờ tổ tiên và để ăn trong những ngày đầu năm mới.
Từ chiều 30 tết, mọi người tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới chuẩn bị đón tết. Hương, nến được thắp lên và giữ liên tục không được tắt cho đến lúc lễ hóa vàng xong. Như nhiều dân tộc khác, người Giáy cũng có tục đón linh hồn tổ tiên về trước giao thừa và cúng lễ hóa vàng (những vật phẩm cúng lễ bằng giấy như quần áo, tiền, vàng mã được đốt đi) để tiễn ông bà về trời. Tuy nhiên, người Giáy có nhiều dòng họ khác nhau, lễ hóa vàng của mỗi dòng họ cũng có sự khác biệt. Chẳng hạn họ Vương (Vàng) và một số họ khác làm lễ hóa vàng vào chiều mùng 1 tháng giêng, người họ Sầm (Sần) thì phải đến tận ngày mùng 3.
Lễ xuống đồng
Lễ xuống đồng là ngày lễ quan trọng nhất trong năm, đã được truyền giữ từ đời này sang đời khác, nếu không vì lý do bất khả kháng thì năm nào cũng tổ chức. Theo quan niệm của người Giáy, ngày Thìn - tức là Rồng, làm lễ vào ngày Thìn sẽ được rồng phun mưa cho ruộng lúa tốt tươi, không bị hạn hán. Nếu ngày Thìn đầu năm trùng với ngày tết thì lễ xuống đồng sẽ lùi lại vào ngày Thìn tiếp theo.
Ngày xưa, lễ xuống đồng được tổ chức ngoài ruộng. Mỗi gia đình trong thôn sắm sửa một mâm cúng gồm thịt lợn, gà, bánh khảo, bánh bổng và hương hoa mang ra đặt ngoài đồng, nơi tổ chức lễ. Mọi người sẽ cùng thắp hương khấn vái cầu cho năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống ấm no. Ngày nay, lễ xuống đồng có sự tham gia của chính quyền địa phương.
Một nghi thức không thể thiếu trong lễ xuống đồng của người Giáy là ném còn. Trước tết khoảng một tuần, người trong thôn phân công nhau làm những quả còn bằng vải, bọc cát bên trong, to bằng nắm tay, có dây dài chừng 80 cm, trang trí nhiều màu sắc. Một cây tre thẳng, cao chừng 14m cũng được chuẩn bị từ trước tết để đến ngày Thìn đem ra đồng dựng làm cây nêu. Trên ngọn cây treo một vòng còn hình tròn rộng chừng 1m, giữa vòng còn là lỗ còn rộng gần 1 gang tay dán bằng giấy, một mặt màu đỏ tượng trưng cho mặt trời, mặt kia màu trắng (hoặc xanh) tượng trưng cho mặt trăng. Sau phần cúng mâm lễ là đến nghi thức ném còn. Những người có mặt chia nhau đứng về hai phía của vòng còn, mỗi người từ bên này sẽ cầm quả còn ném sao cho quả còn xuyên thủng lỗ còn. Người từ bên kia cũng ném theo hướng ngược lại. Khi lỗ còn bị quả còn xuyên thủng thì nghi thức ném còn kết thúc. Quả còn may mắn xuyên thủng lỗ còn sẽ được người dân nhặt đem về đặt trong hũ gạo với niềm tin sẽ mang lại no ấm cho gia đình. Không chỉ là một trò chơi thử thách kỹ năng, độ chính xác của người chơi mà là một nghi thức mang ý nghĩa phồn thực. Quả còn xuyên qua lỗ còn tượng trưng cho quan hệ tình dục, thể hiện sự âm dương giao hòa với mong muốn mọi sự tốt lành, may mắn. Vì thế, quả còn cứ được tung lên cho đến khi xuyên thủng được lỗ còn mới thôi. Nếu ném tất cả các quả còn mà lỗ còn vẫn chưa thủng, người ta phải buộc dây vào hòn đá thay quả còn, thậm chí dùng súng bắn.
Hôn nhân gia đình
Theo phong tục Giáy, trong các gia đình vị thế nổi bật là người chồng, người cha. Con cái lấy họ theo cha. Nhà trai chủ động việc cưới xin, sau lễ cưới, cô dâu về ở cùng gia đình nhà chồng, tuy vậy việc ở rể cũng là phổ biến. Trước kia người Giáy có tục "kéo vợ". Đó là trường hợp cô gái và gia đình cô ta đồng ý nhưng nhà trai không đủ tiền của để cưới hỏi đường hoàng, chàng trai phải tổ chức "kéo vợ".
Phụ nữ Giáy khi mang thai phải kiêng cữ và cúng cầu mong sinh nở yên lành. Dịp đứa bé đầy tháng, có lễ trình báo với tổ tiên và cầu xin tổ tiên phù hộ. Tên, ngày tháng năm sinh của mỗi người được thầy cúng ghi vào miếng vải đỏ, sẽ dùng để so tuổi khi tính chuyện cưới xin và chọn giờ trong việc làm nhà cửa, đám ma của chính người đó.
Nhà cửa
Nhóm Giáy vùng Hà Giang, Cao Bằng ở nhà sàn. Nhóm Giáy vùng Lào Cai, Lai Châu ở nhà đất. Nhưng qua tài liệu văn học dân gian thì người Giáy vốn ở nhà sàn. Hiện nay người Giáy ở nhà đất vẫn còn dựng một sàn trước cửa để sử dụng. Nhà sàn hay nhà đất, gian giữa đều là nơi trang nghiêm: đặt bàn thờ tổ tiên, tiếp khách. Buồng các cặp vợ chồng trong gia đình quay ở các gian bên. Phụ nữ không nằm gian giữa. Bếp thường đặt ở gian bên; nay có nhiều nơi đã làm nhà để đun nấu riêng.
Trang phục
Trang phục Giáy được chọn chủ yếu là ở trang phục nữ với loại áo ngắn xẻ nách viền cổ trang trí đậm nét. Một số tộc người ở nước ta (phía bắc) có mặc loại áo xẻ nách (thường là áo dài), số áo ngắn loại này không nhiều như người Nùng... Tuy nhiên đây là loại áo với kỹ thuật "xẻ nách" và phong cách trang trí ở đường viền cổ, tuy không cầu kỳ nhưng là một sắc thái riêng cho loại áo này về kỹ thuật và mỹ thuật.
Trang phục nam
Nam mặc áo cánh xẻ ngực, cổ tròn, đứng, cài cúc vải. Áo thường có ba túi, hai túi dưới, một túi trên bên phải. Thân áo hơi ngắn, màu chàm. Nam mặc quần ống đứng (rộng 35 – 40 cm), cạp to bản, không dũng dây cút mà chỉ vận vào người. Trước đây nam giới thường quấn khăn trên đầu. Có nhóm nam cũng mặc áo xẻ nách.
Trang phục nữ
Phụ nữ Giáy phổ biến mặc loại áo ngắn xẻ nách. Đây là loại áo ngắn trùm kín mông, xẻ nách phải, ống tay rộng. Cổ áo đường viền xẻ nách từ vai trái sang phải được viền và trang trí vải khác màu (thường là tương phản với nền áo) cũng như ở hai vai, giữa cánh tay và cửa tay. Cũng có loại áo như trên nhưng lại để chàm hoặc trắng nguyên không trang trí. Áo mặc trong là loại áo cánh ngắn cộc tay, xẻ ngực, cổ tròn thấp và có hai túi dưới. Áo xẻ nách cài cúc vải được tết cẩn thận với nhiều loại đẹp mắt. Phụ nữ Giáy thường đội khăn quấn thành nhiều kiểu khác nhau, cổ đeo vòng bạc. Nhóm Giáy Lào Cai, Lai Châu mặc quần chàm ngắn đến mắt cá chân, ống rộng. Tóc vấn theo kiểu vành khăn và thường đeo túi vải thêu hoa văn phổ biến ở đáy túi là hình răng chó. Phổ biến đi loại giày vải thêu hoa văn nhiều loại.
Những người Giáy có danh tiếng |
Người Lào tại Việt Nam, còn gọi tên khác là Lào Bốc hoặc Lào Nọi (, ) là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam .
Người Lào nói tiếng Lào Bóc, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái trong họ ngôn ngữ Kra-Dai (Tai-Kadai).
Dân số và địa bàn cư trú
Người Lào tại Việt Nam cư trú tập trung tại các huyện Điện Biên, Phong Thổ (tỉnh Điện Biên), huyện Sốp Cộp (tỉnh Sơn La), Than Uyên (tỉnh Lào Cai). Năm 1999 họ có dân số 11.611 người .
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lào ở Việt Nam có dân số 14.928 người, cư trú tại 42 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Lào cư trú tập trung tại các tỉnh:
Lai Châu (5.760 người, chiếm 38,6% tổng số người Lào tại Việt Nam),
Điện Biên (4.564 người, chiếm 30,6% tổng số người Lào tại Việt Nam),
Sơn La (3.380 người, chiếm 22,6% tổng số người Lào tại Việt Nam),
Hà Tĩnh (433 người),
Đắk Lắk (275 người).
Đặc điểm kinh tế
Phần đông người Lào làm ruộng nước là chính, với kỹ thuật canh tác dùng cày, bừa và làm thủy lợi. Nghề phụ gia đình của người Lào như: dệt, rèn, gốm, làm đồ bạc khá phát triển.
Hôn nhân gia đình
Người Lào thường mang các họ Lò, Lường, Vi... như người Thái, mỗi họ có kiêng kị riêng. Con cái lấy họ theo cha. Tàn dư gia đình lớn chỉ còn thấy ở một số nơi hẻo lánh. Phổ biến là hình thức gia đình nhỏ, một vợ một chồng. Theo tục cũ các chàng trai phải ở rể vài năm rồi mới được đưa vợ về nhà mình, hoặc ra ở riêng. Lâu nay thời hạn ở rể đã giảm dần.
Tục lệ ma chay
Trong phong tục ma chay, người chết được làm lễ và chôn cất chu đáo. Riêng người đứng đầu mường, bản dưới chế độ cũ khi chết thì thiêu xác.
Văn hóa
Trong xã hội người Lào, những ông Mo Lăm là lớp người giỏi chữ và biết nhiều truyện cổ, dân ca. Họ ghi chép lại truyện cổ và các điệu dân ca quen thuộc. Trong vốn văn nghệ dân gian Lào có cả ảnh hưởng văn nghệ dân gian Thái. Người Lào múa Lăm vông... trong các dịp liên hoan, lễ hội...
Nhà cửa
Người Lào sống định cư, có bản đông tới cả trăm nhà. Nhà ở thường rộng lòng, thoáng đãng, chắc chắn, cây cột chính ở cạnh bếp đun và các cột, kèo, được chạm khắc trang trí. Nóc nhà có mái cao, uốn khum hai đầu hồi, tạo dáng hình mai rùa.
Trang phục
Phong cách trang phục gần giống người Thái, ít cá tính tộc người (là tộc người thiểu số ở Việt Nam, nhưng lại là đa số ở bên Lào) không tiêu biểu cho một phong cách về trang phục. Hoặc có những bộ trang phục mang phong cách khác lạ.
Trang phục nam
Đàn ông Lào thường xăm hình chữ "vạn" vào cổ tay và thường xăm hình con vật vào đùi.
Trang phục nữ
Phụ nữ Lào nổi tiếng là những người dệt vải khéo tay. Họ mặc váy đen quấn cao đến ngực, gấu váy thêu nhiều hoa văn sặc sỡ. Kiểu áo cánh ngắn bó thân với hàng khuy bạc phổ biến ở vùng Sông Mã. Ở vùng Điện Biên áo giống với áo cùng loại của người Khơ Mú láng giềng. Cô gái Lào chưa chồng thường búi tóc lệch về bên trái. Phụ nữ Lào dùng khăn phả biêng/phaa biang (). Khi không đội khăn, phụ nữ Lào thích cài nhiều trâm bạc và búi tóc. Phụ nữ đeo nhiều vòng ở cổ tay, xăm hình một loại cây rau ở mu bàn tay.
Người Lào Việt Nam có danh tiếng |
Người Lự, còn gọi là người Tày Lự, người Thái Lự (Tai Lue, Tai Lü) (tiếng Thái: ไทลื้อ; ; tiếng Lự:ᦟᦹᧉ, ), hay còn gọi là Thái Lặc tộc (phiên âm Hán Việt; ) là một dân tộc thiểu số sinh sống trong khu vực Lào, Thái Lan, Myanmar, Việt Nam và Trung Quốc.
Tiếng nói chính thức của người Lự là tiếng Lự, là ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, họ ngôn ngữ Kra-Dai (Tai-Kadai). Người Lự cũng sử dụng ngôn ngữ chính thức tại các quốc gia mà họ sinh sống.
Tại Việt Nam, người Lự được công nhận là một trong số 54 dân tộc . Theo điều tra dân số 1/4/2019 có 6.757 người Lự.
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Lào
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 134.100 người Lự (Ethnologue ghi là năm 2000) sinh sống tại các tỉnh Phongsali, Luang Namtha, Bokeo, Oudomxai, Xaignabouli, Luang Prabang.
Tại Thái Lan
Tại Thái Lan, theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 83.000 người Lự (Ethnologue ghi là theo ước tính năm 2001 của Johnstone và Mandryk) sinh sống tại các tỉnh Chiang Rai, Phayao, Lamphun, Nan và khắp miền bắc Thái Lan.
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, người Lự được công nhận là dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc. .
Dân số theo điều tra dân số 1999 là khoảng 4.964 người . Cư trú chủ yếu tập trung ở hai huyện Phong Thổ và Sìn Hồ, tỉnh Lai Châu và một lượng đáng kể di cư vào tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên, theo ước tính năm 2003 của Ủy ban dân tộc Việt Nam thì dân tộc này có dân số 5.553 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lự ở Việt Nam có dân số 5.601 người, cư trú chủ yếu tại 21 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Phần lớn người Lự cư trú tập trung tại tỉnh
Lai Châu (5.487 người, chiếm 98,0% tổng số người Lự tại Việt Nam),
Thái Nguyên (75 người), các tỉnh còn lại có không quá 10 người.
Tại Myanmar
Tại Myanmar, có khoảng 200.000 người sinh sống tại bang Shan, thuộc vùng Đông Bắc. Đôi khi tại đây họ còn gọi là người Shan từ Trung Quốc.
Tại Trung Quốc
Tại Trung Quốc, họ được coi là một phần của dân tộc Thái.
Đặc điểm kinh tế
Người Lự có truyền thống làm ruộng từ lâu đời. Họ biết dùng cày bừa, đào mương dẫn nước, gieo mạ, cấy lúa, nhưng lại không làm cỏ, bón phân. Họ còn làm thêm nương để trồng lúa, ngô, khoai, sắn, lạc, bông, chàm và nhà nào cũng có vườn cạnh nhà. Người Lự có tập quán ăn cơm nếp là chính, thích ăn ớt, ưa uống nước chè và đàn ông thường hút thuốc lào.
Trong các nghề phụ của người Lự thì nghề dệt phát triển nhất. Mỗi gia đình người Lự thường có vài ba khung cửi. Tài nghệ dệt, may, thêu đều khá cao, từ chiếc quần của đàn ông cho đến váy, áo, khăn của phụ nữ thường có hoa văn trang trí rực rỡ trên nền vải nhuộm chàm, nhất là trang phục ngày lễ hội càng được trang trí nhiều và đẹp hơn.
Hôn nhân gia đình
Trai gái Lự được tìm hiểu nhau tự do rồi xin ý kiến cha mẹ để kết hôn, nhưng họ phải nhờ thầy số xem tuổi trước, nếu hợp tuổi mới lấy nhau. Con trai phải ở rể vài ba năm rồi ra ở riêng. Con lấy họ theo cha, tên con trai có chữ đệm Bạ (trong tiếng Trung, người Lự (tức Thái Lặc vùng Tây Song Bản Nạp), họ Bạ được chuyển âm là Nham/岩). Con gái lấy họ theo mẹ, tên có chữ đệm Ý (họ Ý được chuyển âm là Ngọc/玉). Người Lự sống tình nghĩa, thủy chung. Vợ chồng rất ít ly dị nhau, nếu trai bỏ vợ, gái bỏ chồng đều bị phạt nặng theo luật tục.
Tục lệ ma chay
Sau khi chôn cất người chết một thời gian, tang gia làm một mái nhà táng giấy có trang trí đẹp rồi bỏ vải, đệm, gối, thóc, tiền vào đó để làm lễ đưa linh hồn người chết vào chùa.
Văn hóa
Người Lự hay hát dân ca yêu thích vốn truyện cổ, thơ ca, tục ngữ. Âm nhạc đương đại của người Lự ở Lào, Thái Lan chịu ít nhiều từ dòng nhạc mó lam, luk thung và múa truyền thống lăm vông.
Tuyên Phủ Ti lễ nghi nhạc vũ bắt nguồn từ lịch sử của Tuyên Phủ Ti , được biết đến ở Mạnh Mẫu, tập trung ở khu vực ngày nay là Na Doãn Cổ trấn huyện tự trị dân tộc Thái-Lạp Hỗ-Ngõa Mạnh Liên. Nằm ở giữa Tây Song Bản Nạp ở tây Vân Nam và Đức Hoành ở nam Vân Nam, huyện Mạnh Liên có thể được coi là một khu vực biên giới của người Thái, và được định cư vào năm 1256 sau cuộc chinh phục Đại Lý của người Mông Cổ vào năm 1254, khiến người Thái ở trung tâm Vân Nam đi tìm kiếm. của những vùng đất mới.
Hầu hết các nhạc cụ được sử dụng để chơi nhạc nghi lễ Huyền Phủ đều được làm thủ công hoặc tu sửa ở Mang lãng trại (芒朗寨), Mạnh A thôn (勐阿村), Mạnh Ma trấn (勐马镇), huyện Mạnh Liên. Các nhạc cụ truyền thống này bao gồm:
Đính (定): đàn lute với hộp âm thanh mảnh, lưng tròn được chạm khắc từ một khối gỗ duy nhất; tương tự như ngưu thối cầm(牛腿琴) của người Động.
Sảnh (省) - đàn lute gảy với 4 dây trong các khóa kép, có thể so sánh với sueng (ซึง) của vùng Lan Na ở miền Bắc Thái Lan.
Phi mại (非迈) - lá cây, được chơi như một nhạc cụ lưỡi gà
Đa la (哆啰 hoặc 多罗) - đàn nhị với bát nhị làm từ gáo dừa., có thể so sánh với đàn nhị xò lò miền bắc Thái Lan (สะล้อ).
Bì thu (比秋) một loại sáo dọc nhỏ truyền thống.
Trúc ti (竹丝) - sáo bầu
Ca lạp tát (嘎拉萨) - đàn phím kim loại, tương đương với Ranat ek lek (ระนาดเอก เหล็ก) Thái Lan.
Tượng cước cổ (象脚鼓) - "trống chân voi", trống tay dài một đầu với thân hình chiếc cốc được chạm khắc từ một khúc gỗ. Thái Lan gọi là Klong yao (กลอง ยาว), Lào gọi là Khawng yao và Campuchia gọi là skor chhaiyam ().
Mang la (铓) - cồng núm đồng.
Sai (钗) chũm chọe.
Tam giác đồng phiến (三角铜片) - kẻng tam giác.
Đồng linh (铜铃) - cặp chũm chọe rất nhỏ, dày, âm vực cao.
Bạch lãng (帕朗) - bộ chuông đồng.
Chữ viết
Chữ viết của người Lự chịu ảnh hưởng từ chữ Môn từ Miến Điện. Chữ Thái Lự mới được phát triển ở Trung Quốc vào những năm 1950, dựa trên bảng chữ cái Tai Tham truyền thống được phát triển vào cỡ năm 1200. Vì thế chữ còn được gọi là chữ Tây Song Bản Nạp tân Thái văn (西双版纳傣文) hay chữ Tày Lự giản thể. Chính phủ Trung Quốc quảng bá bộ chữ mới thay thế cho bộ chữ cũ hơn. Tuy nhiên, việc dạy chữ là không bắt buộc và kết quả là nhiều người không biết đến chữ Tày Lự mới. Các cộng đồng người Lự ở Myanmar, Lào, Thái Lan và Việt Nam vẫn sử dụng bảng chữ cái Tai Tham.
Trang phục
Đồng bào dân tộc Lự ở Lai Châu cư trú thành từng bản dọc theo các dòng sông, suối. Người Lự biết canh tác lúa nước từ rất sớm, nên đời sống vật chất tương đối ổn định, vốn văn hoá tinh thần cũng phong phú, đa dạng với nhiều loại hình sinh hoạt văn hoá dân gian mang đậm bản sắc dân tộc, tiêu biểu nhất là nét đẹp trang phục truyền thống của phụ nữ dân tộc Lự. Những lúc nông nhàn, phụ nữ dân tộc Lự thường quay tơ, xe sợi.
Nói về trang phục truyền thống của phụ nữ dân tộc Lự, bà Tao Thị Chen ở bản Hon, xã Bản Hon, huyện Tam Đường (Lai Châu) cho biết, người Lự có truyền thống trồng bông, nuôi tằm, kéo sợi, dệt vải, phục vụ nhu cầu may mặc trong gia đình và dòng họ. Trang phục phụ nữ dân tộc Lự gồm có: Khăn đội đầu, áo, váy, thắt lưng.
Khăn đội đầu được làm bằng vải bông, nhuộm chàm đen, dài khoảng trên 400 cm, rộng 30 cm, hai đầu khăn có tua dài khoảng 20 cm. Trên nền đen của hai đầu khăn dệt xen kẽ 18 đường chỉ trắng, to nhỏ khác nhau và hai đường chỉ vàng chạy ngang tô điểm cho khăn. Khi sử dụng, khăn được gấp làm bốn theo chiều dọc và được quấn quanh đầu nhiều vòng và búi nghiêng về phía bên trái đầu. Trong khi đó, phụ nữ Lự ở Thái Lan hoặc Lào cuốn khăn vòng quanh đầu được làm bằng vải bông, nhuộm hồng hay để trắng. Cuốn xong vòng cuối, họ thường dắt phần đuôi khăn cho gọn giấu vào phần tóc hay để lộ ra một đoạn. Búi tóc phụ nữ Lự ở đây có điểm tương đồng với búi tóc phụ nữ Lào, Thái Lan và Campuchia.
Áo may bằng vải chàm đen, ghép liên kết với nhau từ 6 miếng vải cắt theo hình rẻ quạt, tạo cho áo có vạt xòe rộng so với eo. Hoa văn dệt kết hợp với hoa văn ghép vải. Cổ áo liền với nẹp ngực gồm 5 miếng vải may cầu kỳ với các màu khác nhau tạo thành. Miếng vải ở giữa được đáp những quả hình trám màu xanh, đỏ nối tiếp nhau. Tay áo dài được may thon dần về phía cổ tay viền một vòng vải hoa nhỏ, sát nách có thêu hoa văn chạy vòng quanh ống tay. Trên thân áo bên trái thêu một đường chỉ nhỏ hình dóng trúc, chạy từ cổ thẳng xuống vạt áo bằng chỉ các màu.
Vòng quanh eo từ phía trước ra phía sau là hoa văn ghép vải, gọi đó là "con suối uốn lượn". Dưới hoa văn ghép vải là những hình tam giác thêu bằng chỉ các màu. Hai bên vạt áo được đính hai dây vải hoa, dải dây bên sườn phải có 5 tua bằng sợi len các màu có xâu những hạt cườm. Khi mặc, vạt áo được vắt chéo thân bên trái sang phía sườn phải và buộc hai dây vải với nhau.
Hằng ngày người phụ nữ Lự thường mặc từ 2 đến 3 chiếc váy cùng một lúc. Chúng được lồng vào nhau thành nhiều tầng, mỗi chiếc cách nhau 3 đến 4 cm theo chiều cao dần. Người Lự quan niệm mặc như vậy vừa kín đáo vừa đẹp, vừa có thể thay đổi cho nhau, khi chiếc váy ngoài đã cũ. Váy được tạo bởi ba miếng vải khác nhau, hình ống và chia làm ba phần gồm cạp, thân và chân váy. Cạp váy làm bằng vải bông nhuộm nâu, không trang trí hoa văn. Thân váy làm bằng vải tơ tằm dược dệt trên một khung cửi riêng, kỹ thuật dệt phức tạp và đòi hỏi sự khéo léo của người dệt để tạo thành những hoa văn theo ý thích của từng người. Thân cài hoa văn thành hai phần rõ rệt. Nửa thân tiếp giáp với cạp váy bằng vải tơ tằm màu nâu sạm, trên có dệt thêm nhiều sọc màu vàng và đỏ chạy song song theo chiều ngang của váy.
Trên bộ trang phục còn có thắt lưng được may bằng vải mộc trắng, hai đầu thêu hoa văn và có tua sợi mềm mại. Vòng cổ được làm bằng bạc, hình tròn, hai đầu vòng uốn gập ngược lại tạo ra hai lá hình tam giác, trên mặt lá có chạm khắc hoa dây mềm mại. Ngoài ra, phụ nữ Lự (Thái Lặc) ở Cảnh Hồng, Trung Quốc thường búi tóc và cài hoa trên đầu (thường dùng hoa phong lan cài từ búi tóc xuống gáy nhằm che đi phần tai bên trái). Trên búi tóc phụ nữ Lự thường cài bằng chiếc lược nhựa nằm ngang. Áo từ vải trắng hay vải màu, chân váy là sà-rông ảnh hưởng ít nhiều từ người Shan ở Miến Điện, còn lại trang phục của người Lự ở Lào hay Thái Lan cũng ảnh hưởng Miến Điện và trang phục của các sắc tộc người Thái khác.
Tôn giáo
Người Lự ở Trung Quốc, Lào và Thái Lan đều theo Phật giáo Nam tông. Nơi thờ tự của người Lự bao gồm một chính điện, một tu viện và một phòng trống, ngôi chùa trung tâm của Phật giáo cộng với một pháp đường, một tòa nhà kinh Phật và một ngôi chùa. Diện mạo của chánh điện nhìn chung là mái kiểu Wat một mái hoặc kép, hoặc một đỉnh núi lơ lửng, một mái kiểu Wat kép hình đa giác hoặc hình phụ. Sau một hoặc hai tầng trên dốc, có dốc một mặt hai tầng hoặc ba tầng, dốc ba cạnh và dốc năm cạnh. Số lượng dốc có liên quan đến cấp độ của ngôi chùa Phật giáo. Đền chùa nào của người Lự cũng có hai con sư tử chinthe canh gác 2 bên cổng (tương tự như sư tử đá Trung Quốc và nghê Việt Nam). Chinthe ( (); (); ()) là một sinh vật thần thoại cổ đại đứng gác ở các lối vào chùa thuộc Phật giáo Nam tông hay Tiểu thừa.
Đại tôn giáo Phật giáo Nguyên thủy, nhiều lễ hội và hoạt động Phật giáo. Lễ hội Songkran, được tổ chức vào tháng 6 Dương lịch hàng năm, là lễ hội lớn nhất, các vị Phật sẽ được tôn thờ, một bữa tiệc linh đình sẽ được tổ chức, các nhà sư, người thân và bạn bè sẽ được mời đến dự tiệc và những lời chúc mừng sẽ được gửi đến mỗi người bằng cách té nước.
Nhà cửa
Người Lự ở nhà sàn, hai mái, mái phía sau ngắn, còn mái phía trước kéo dài xuống che cho cả hàng hiên và cầu thang. Cửa ra vào ở hướng Tây Bắc. Trong nhà có hai bếp, một bếp để nấu ăn và một bếp để đun nước tiếp khách. Các công trình của người Lự bị ảnh hưởng bởi môi trường tự nhiên như khí hậu, độ cao, địa hình, vật liệu xây dựng và các môi trường xã hội như dân số, kinh tế, tôn giáo, chính trị, công nghệ, tư tưởng. Chủ yếu là các hàng rào khô đẹp và khéo léo được đại diện bởi Tây Song Bản Nạp. Các tòa nhà kiểu cách, những ngôi nhà lợp bằng đất dày và chắc chắn, có mái bằng bằng đất được thể hiện bằng những ngôi nhà dân cư của người Lự ở Cảnh Hồng (Trung Quốc), Lào và Thái Lan cũng như các tòa nhà chùa Phật giáo trang nhã và lộng lẫy. |
Người Sán Chay, tên gọi khác là Cao Lan, Sán Chỉ, Hờn Bán, Sán Chấy là một dân tộc cư trú tại miền bắc Việt Nam.
Tại Việt Nam người Sán Chay là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam , có dân số năm 2019 là 201.398 người.
Người Sán Chay nói tiếng Sán Chay, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Thái trong Hệ ngôn ngữ Tai-Kadai.
Dân số và địa bàn cư trú
Người Sán Chay gồm hai nhóm Cao Lan và Sán Chỉ chủ yếu tập trung ở ba huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Hàm Yên thuộc tỉnh Tuyên Quang, huyện Phú Lương thuộc tỉnh Thái Nguyên, huyện Sơn Động thuộc tỉnh Bắc Giang và rải rác các tỉnh đông bắc Bắc Bộ khác như Yên Bái, Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn. Hiện tại có một nhóm người vào Tây Nguyên lập nghiệp được tổ chức thành các làng.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Sán Chay ở Việt Nam có dân số 201.398 người, có mặt tại 58 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Sán Chay cư trú tập trung tại các tỉnh:
Tuyên Quang (70.636 người, chiếm 36,2% tổng số người Sán Chay tại Việt Nam),
Thái Nguyên (39.472 người, chiếm 19,2% tổng số người Sán Chay tại Việt Nam),
Bắc Giang (30.283 người),
Quảng Ninh (16.346 người),
Yên Bái (10.084 người),
Cao Bằng (7.908 người),
Đắk Lắk (5.220 người),
Lạng Sơn (4.942 người),
Phú Thọ (4.278 người),
Vĩnh Phúc (1.912 người)...
Đặc điểm kinh tế
Người Sán Chay làm ruộng nước là chính, nông nghiệp đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra có một số dân tộc: Sán Chỉ vì điều kiện không có ruộng nên nghề chính của những người dân vẫn là nghề làm nương rẫy (lúa nương).
Tổ chức cộng đồng
Làng xóm thường tập trung một vài hộ gia đình đến vài chục hộ gia đình tùy vào thời gian sinh sống hay thời gian hình thành của làng, họ sống gắn bó đoàn kết với nhau.
Hôn nhân gia đình
Dân tộc Sán Chay có nhiều họ, mỗi họ chia ra các chi. Từng họ có thể có một điểm riêng biệt về tập tục. Mỗi họ thờ "hương hỏa" một thần linh nhất định. Trong gia đình người Sán Chay, người cha là chủ nhà. Tuy nhà trai tổ chức cưới vợ cho con nhưng sau cưới, cô dâu lại về ở với cha mẹ đẻ, thỉnh thoảng mới về nhà chồng, cho đến khi mang thai mới về hẳn với chồng.
Văn hóa
Trang phục: Hiện nay trang phục của người Sán Chay thường giống người Kinh hoặc người Tày. Thường ngày phụ nữ Sán Chay dùng chiếc dây đeo bao dao thay cho thắt lưng. Trong những dịp lễ tết, hội hè, các cô gái thường thắt 2-3 chiếc thắt lưng bằng lụa hoặc bằng nhiễu, với những màu khác nhau.
Dân tộc Sán Chay có nhiều truyện cổ, thơ ca, hò, vè, tục ngữ, ngạn ngữ. Đặc biệt sình ca là hình thức sinh hoạt văn nghệ phong phú hấp dẫn nhất của người Sán Chay. Các điệu múa Sán Chay có: múa trống, múa xúc tép, múa chim gâu, múa đâm cá, múa thắp đèn... Nhạc cụ cũng phong phú, gồm các loại thanh la, não bạt, trống, chuông, kèn...
Vào ngày hội đình, hội xuân, tết nguyên đán... người Sán Chay vui chơi giải trí, có những trò diễn sôi nỗi như: đánh quay, "trồng cây chuối", "vặn rau cải", tung còn...Nhà cửa: Nói là nhà Cao Lan, nhưng đây chỉ là của một nhóm nhỏ ở Sơn Động, Bắc Giang. Nhà của người Cao Lan ở các địa phương khác cũng như nhà của người Sán Chỉ có nhiều nét gần với nhà Tày - Nùng. Riêng nhóm Cao Lan ở Sơn Động nhà cửa của họ có những nét rất độc đáo, chúng tôi không thấy giống bất kỳ nhà cửa của một dân tộc nào khác trong nước. Nhà sàn, vách che sát đất, xa trông tưởng là nhà đất.
Bộ khung nhà với vì kèo kết cấu đơn giản nhưng rất vững chắc. Có hai kiểu nhà là: "nhà trâu đực" và "nhà trâu cái". Nhà trâu cái vì kèo bốn cột. Nhà trâu đực vì kèo ba cột.
Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt giữa nhà trâu cái và trâu đực đều có những nét tương tự như vậy là để phân biệt nhà trâu cái và nhà trâu đực chỉ là ở vì kèo khác nhau.
Người Cao Lan là một bộ phận của dân tộc Sán Chay.
Những người Sán Chay có danh tiếng |
Người Brâu (còn gọi là người Brạo) là một dân tộc ít người sinh sống chủ yếu tại Campuchia, Lào và một ít tại Việt Nam
Tiếng Brâu là một ngôn ngữ trong ngữ tộc Môn-Khmer.
Tại Việt Nam, người Brâu được công nhận là một trong 54 dân tộc Việt Nam. Theo điều tra dân số năm 1999 thì người Brâu, cùng với người Ơ Đu, là một trong những tộc người ít dân nhất hiện nay ở Việt Nam, chỉ với 313 người, còn theo ước tính năm 2006 thì có 84 hộ với dân số 322 người, sống tập trung ở làng Đăk Mế, xã Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, thuộc Tây Nguyên.
Dân số
Chưa thấy số liệu chính thức mới nhất về dân số tại Lào. Số liệu điều tra dân số Campuchia năm 2008 (2008 Cambodian census) không có mục sắc tộc . Theo các nguồn khác nhau thì dân số người Brâu tại Campuchia khoảng 14.000 người, tại Lào khoảng 13.000 người tới 24.000+ người
Tại Việt Nam từ năm 1981 trở lại đây thì dân số người Brâu dao động trong khoảng 300 người. Cụ thể như sau:
Năm 1981 có 282 người
Năm 1989 có khoảng 231 người
Năm 1994 có 231 người
Đầu năm 1996 có 254 người sống trong huyện Ngọc Hồi, riêng xã Bờ Y có 253 người
Theo Tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999, có 313 người Brâu, 155 nam, 158 nữ. Ở tỉnh Kon Tum và cả Tây Nguyên có 298 người. Ngoài ra ở các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang và Lai Châu, mỗi tỉnh có một người, ở tỉnh Bình Phước có hai người, ở đồng bằng sông Cửu Long có 10 người.
Năm 2006 có 322 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Brâu ở Việt Nam có dân số 397 người, cư trú tại 7 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Brâu cư trú tập trung tại các tỉnh: Kon Tum (379 người, chiếm 95,5% tổng số người Brâu tại Việt Nam), Thành phố Hồ Chí Minh (12 người, chiếm 3,0% tổng số người Brâu tại Việt Nam)
Cuộc sống
Người Brâu vốn ở vùng nam Lào và đông bắc Campuchia, mới nhập cư vào Việt Nam khoảng 4-5 đời nay.
Người Brâu vốn quen với cuộc sống du canh du cư, đốt rừng làm rẫy để trồng các loại lúa, ngô, sắn, sử dụng các công cụ sản xuất thô sơ như rìu, rựa và chiếc gậy chọc lỗ tra hạt. Với kỹ thuật trồng trọt này, năng suất cây trồng đạt được thấp.
Văn hóa
Tộc người này có truyền thống văn hóa độc đáo, dù kỹ thuật nông nghiệp còn lạc hậu. Văn hóa của người Brâu thể hiện ở các phong tục như hôn nhân, ma chay; ở nghệ thuật âm nhạc độc đáo, thể hiện qua các loại nhạc cụ, dân ca; ở các kiến trúc và trang phục riêng và ở các sinh hoạt văn hóa truyền thống như thả diều, đi cà kheo, đánh phết.
Phong tục
Trong phong tục hôn nhân, nhà trai tổ chức hỏi vợ phải nộp lễ vật cho nhà gái. Đám cưới được tiến hành tại nhà gái, và chàng rể phải ở lại nhà vợ khoảng 2 đến 3 năm rồi mới được làm lễ đưa vợ về ở hẳn nhà mình. Trong phong tục ma chay, người chết được đưa ra khỏi nhà, cho vào quan tài độc mộc và quàn tại một căn nhà riêng do dân làng dựng lên. Mọi người đến chia buồn, gõ chiêng cồng, mấy ngày sau mới mai táng. Những ché, gùi, dao, rìu... được bỏ lại trong nhà mồ được coi là số của cải gia đình dành cho người đã mất.
Âm nhạc
Các nhạc cụ cổ truyền của dân tộc Brâu có cồng và chiêng gồm nhiều loại khác nhau. Đặc biệt có bộ chiêng tha (chỉ gồm hai chiếc) nhưng có thể trị giá từ 30 đến 50 con trâu. Chiêng tha, gồm chiêng vợ và chiêng chồng, là một biểu tượng tinh thần, quyền uy tối linh trong đời sống cộng đồng thông qua sinh hoạt lễ hội. Đó là "vật chủ" thông linh giữa thế giới phàm tục của con người và thế giới các thần trên cao, nên nó được ký thác chức năng phán truyền. Do đố bộ chiêng được đặt ở vị trí trang trọng không chỉ lúc diễn xướng mà cả khi cất giữ.
Các thiếu nữ thường chơi krông pút là nhạc cụ gồm 5-7 ống lồ ô dài ngắn không đều nhau đem ghép với nhau, tạo âm thanh bằng đôi bàn tay vỗ vào nhau ngoài miệng ống. Khi ru con hoặc trong đám cưới, người Brâu có những điệu dân ca thích hợp.
Kiến trúc
Nhà của người Brâu có những đặc điểm rất dễ nhận, ít thấy ở nhà những dân tộc khác. Nhà của họ là kiểu nhà sàn, mái dốc, cạnh nhà chính có nhà phụ là nơi ở của những người già và cất giữ lương thực, đồ dùng
Trước hết, người Brâu rất chú trọng làm đến việc làm đẹp cho ngôi nhà. Điều này được thể hiện ở các kiểu "sừng đầu đốc". Chỉ trong một làng nhỏ có thể thấy nhiều kiểu khác nhau. Chạy dọc theo sống nóc, người ta còn dựng một dải trang trí không chỉ đẹp mà còn rất độc đáo.
Bộ khung nhà với vì kèo đơn giản, vách che nghiêng theo thế "thượng khách hạ chủ". Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt: vào nhà từ phía đầu hồi. Thang bắc lên một gian hồi để trống rồi mới vào nhà. Cách bố trí trên mặt sàn của gian hồi này cũng rất đặc biệt. Mặt sàn chia làm ba phần với các độ chênh khác nhau.
Trong nhà chia đôi theo chiều dọc, nửa về bên trái, một phần dành cho con gái, còn lại là nơi sinh hoạt của con trai về ban ngày vì đêm họ ra ngủ tại nhà rông. Còn nửa kia đặt bếp.
Trang phục
Người Brâu có trang phục đơn giản nhưng vẫn thể hiện cá tính trong tạo hình và trang trí.
Nam giới ở trần, đóng khố. Đến khoảng 14 đến 16 tuổi, con trai Brâu phải cưa bốn răng cửa hàm trên, và thường xăm mặt, xăm mình.
Phụ nữ để tóc dài hoặc cắt ngắn, đeo nhiều vòng trang sức (chuỗi hạt cườm ngũ sắc, hoặc vòng đồng, bạc) ở tay chân và cổ. Trước đây, phụ nữ để mình trần, mặc váy hở, quấn quanh thân. Thân váy được xử lý mỹ thuật ở phần đầu váy và chân váy với lối đáp các miếng vải khác màu có các sọc đen ngang đơn giản chạy ngang. Mùa lạnh họ mang chiếc áo chui đầu, cộc tay, khoét cổ. Đây là loại áo ngắn thân thẳng, tổng thể áo có hình gần vuông. Thân áo phía mặt trước và sau được xử lý mỹ thuật cũng theo nguyên tắc như váy. Toàn bộ thân trước màu sáng có đường viền đậm trên vai và gấu áo. Lưng áo được xử lý màu sáng có sọc ngang đơn giản nửa phía dưới áo.
Ghi chú |
Người Bru - Vân Kiều (còn gọi là người Bru, người Vân Kiều, người Ma Coong, người Trì hay người Khùa) là dân tộc cư trú tại trung phần bán đảo Đông Dương gồm Lào, Việt Nam và Thái Lan. Ngôn ngữ của người Bru là tiếng Bru, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Cơ Tu của ngữ tộc Môn-Khmer.
Tại Việt Nam họ là một dân tộc thiểu số trong số 54 dân tộc tại Việt Nam . Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, người Vân Kiều là một trong những dân tộc thiểu số mang họ Hồ nhằm ghi công chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam hiện nay xếp loại dân tộc Bru - Vân Kiều gồm cả những người Pa Kô, với số dân tổng cộng tại Việt Nam năm 2019 là 94.598 người , năm 2009 là 74.506 người .
Trong phân loại quốc tế người Bru tại Việt Nam là người Bru Đông, phân biệt với người Bru Tây cư trú ở Lào và Thái Lan.
Địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, theo điều tra dân số năm 1999 thì dân tộc này có khoảng 55.559 người, sống tập trung ở miền núi của Quảng Trị, Quảng Bình và Thừa Thiên Huế. Thực tế các tên gọi Vân Kiều, Ma Coong, Trì, Khùa, Bru dùng để chỉ các nhóm khác nhau trong tộc người này.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Bru-Vân Kiều ở Việt Nam có dân số 94.598 người, cư trú tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Bru-Vân Kiều cư trú tập trung tại các tỉnh: Quảng Trị (69.785 người, chiếm 73,9% tổng số người Bru-Vân Kiều tại Việt Nam), Quảng Bình (18.575 người, chiếm 19,6% tổng số người Bru-Vân Kiều tại Việt Nam), Đắk Lắk (3.563 người), Thừa Thiên Huế (1.389 người).
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue, có khoảng 69.000 người Bru nói phương ngữ phía đông của tiếng Bru, tương tự như tại Việt Nam.
Tại Thái Lan có khoảng 5.000 người nói phương ngữ phía đông của tiếng Bru và khoảng 20.000 người nói phương ngữ phía tây của tiếng Bru.
Người Ma Coong
Người Ma Coong hay Măng Coong gồm 600 người sinh sống tại xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình trong các bản Noông, bản 61 (Cà Roòng), bản Nịu... Họ nổi tiếng với Lễ hội đập trống.
Người Khùa
Người Khùa gồm 1000 người sinh sống ở các xã Dân Hóa và Trọng Hóa, huyện Minh Hóa. Họ sống xen kẽ với cộng đồng người Sách-Mày tại đây.
Người Trì
Người Trì có khoảng 300 người, địa bàn cư trú ở các bản Cờ Đỏ, Nồng Mới, Troi của xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch.
Lịch sử
Người Bru vốn là cư dân nông nghiệp có trình độ tương đối phát triển, xưa kia họ tập trung sinh sống tại vùng trung Lào, sau những biến động của lịch sử diễn ra hàng thế kỷ, họ phải di cư đi các nơi. Một số đi theo hướng tây bắc sang Thái Lan, một số đi theo hướng đông tụ cư tại vùng miền núi phía tây Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế của Việt Nam. Khi vào Việt Nam họ dựng làng xung quanh hòn núi Vân Kiều (núi Viên Kiều), về sau người Việt lấy tên của hòn núi đặt cho một tổng của người Bru, và từ đó họ còn được gọi là Bru - Vân Kiều
Ngôn ngữ
Người Vân Kiều nói tiếng Bru thuộc ngữ chi Cơ Tu, ngữ hệ Môn-Khmer. Còn gọi là tiếng Sô-Trì, Leung, Kaleu, Khùa hay Katang.
Người Bru (Vân Kiều) có liên hệ gần gũi với người Pa Kô. Trong khi người Pa Kô thích sống trên cao, không có chữ viết, thì người Vân Kiều ở lưng chừng núi chữ viết riêng (vay mượn từ chữ Lào). Người Vân Kiều vì có tiếp cận với người Kinh ở vùng đồng bằng nên có sự giao thoa văn hóa. Còn Pa Kô bởi vì cách xa người Kinh vùng đồng bằng nên vẫn giữ bản sắc văn hóa riêng của mình nhiều hơn. Tại Việt Nam, người Pa Cô được xếp vào dân tộc Tà Ôi.
Kinh tế
Tộc người này có truyền thống làm rẫy và làm ruộng, cùng với hái lượm săn bắn và đánh cá. Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm dành chủ yếu cho các lễ cúng hơn là cải thiện bữa ăn. Nghề thủ công của dân tộc này chỉ có đan chiếu lá, gùi. Văn hóa của người Bru-Vân Kiều đặc sắc, thể hiện ở phong tục hôn nhân, nghệ thuật âm nhạc truyền thống, ở kiến trúc và trang phục, như miêu tả chi tiết dưới đây.
Văn hóa
Hôn nhân
Trong phong tục đám cưới của người Bru-Vân Kiều, nhà trai trao cho nhà gái một GÓI TÔ
Cô dâu khi về nhà chồng thường trải qua nhiều nghi lễ phức tạp: bắc bếp, rửa chân... Trong họ hàng, ông cậu có quyền quyết định khá lớn đối với việc lấy vợ, lấy chồng cũng như khi làm nhà, cúng bái của các cháu.
Âm nhạc
Nhạc cụ truyền thống Bru-Vân Kiều có nhiều loại: trống, thanh la, chiêng núm, kèn (amam, ta-riềm, Khơ-lúi, pi), đàn (achung, pơ-kua...). Dân ca của dân tộc này có nhiều làn điệu như "chà chấp", lối vừa hát vừa kể rất phổ biến, hay "sim", hình thức hát nam nữ. Ca dao, tục ngữ, truyện cổ các loại của người Bru-Vân Kiều rất phong phú.
Kiến trúc
Người Bru-Vân Kiều ở nhà sàn nhỏ, phù hợp với quy mô gia đình thường gồm cha, mẹ và các con chưa lập gia đình riêng. Nếu ở gần bờ sông, suối, các nhà trong làng tập trung thành một khu trải dọc theo dòng chảy. Nếu ở chỗ bằng phẳng rộng rãi, các ngôi nhà trong làng xếp thành vòng tròn hay hình bầu dục, ở giữa là nhà công cộng. Ngày nay, người Bru-Vân Kiều ở nhiều nơi đã có xu hướng ở nhà trệt.
Nhà của người Bru-Vân Kiều là nhà sàn có hai mái, thường lợp bằng lá mây hoặc lá cọ. Chiều dài của ngôi nhà dài - ngắn bao nhiêu tùy thuộc vào số lượng người trong gia đình, hoặc tùy thuộc vào kinh tế. Nhưng dù nhà dài hay ngắn, đều cũng chỉ có hai cửa chính, một cửa chủ yếu dành cho nữ, còn một cửa chỉ dành cho nam và khách nam. Hai bên đầu hồi có những hình trang trí bằng gỗ theo kiểu sừng trâu hoặc đôi chim, vừa đỡ bị tốc lá, vừa mang tính thẩm mỹ
Trang phục
Nam giới Bru-Vân Kiều để tóc dài, búi tóc, ở trần, đóng khố. Trước đây, họ thường lấy vỏ cây sui làm khố, áo.
Phụ nữ Bru-Vân Kiều mặc áo và váy. Áo nữ có đặc điểm xẻ ngực màu chàm đen và hàng kim loại bạc tròn đính ở mép cổ và hai bên nẹp áo. Có nhóm mặc áo chui đầu, không tay, cổ khoét hình tròn hoặc hình vuông. Váy trang trí theo các mảng lớn trong bố cục dải ngang. Gái chưa chồng búi tóc về bên trái, sau khi lấy chồng búi tóc trên đỉnh đầu. Trước đây phụ nữ Bru-Vân Kiều ở trần, mặc váy. Váy trước đây không dài thường qua gối 20 đến 25 cm.
Có nhóm nữ Bru-Vân Kiều đội khăn bằng vải quấn thành nhiều vòng trên đầu rồi thả sau gáy, cổ đeo hạt cườm, mặc áo cánh xẻ ngực, dài tay màu chàm cổ và hai nẹp trước áo có đính các "đồng tiền" bạc nhỏ màu sáng, nổi bật trên nền chàm đen tạo nên một cá tính về phong cách thẩm mỹ riêng trong diện mạo trang phục các dân tộc Việt Nam.
Lễ hội
Lễ hội đập trống của người Ma Coong, tổ chức vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch để mừng mùa trăng mới. Lễ hội được tổ chức tại bản Cà Roòng, xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình .
Những người Bru - Vân Kiều có danh tiếng
Danh sách Những người Pa Kô Việt Nam có danh tiếng, hiện được xếp vào dân tộc Bru - Vân Kiều. |
Người Chơ Ro còn gọi là Chrau Jro, người Đơ-Ro, Châu Ro, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam .
Người Chơ Ro có dân số 29.520 người năm 2019 . Người Chơ Ro cư trú đông ở tỉnh Đồng Nai, một số ít ở tỉnh Bình Thuận, Bình Dương và Bình Phước.
Tiếng Chơ Ro là ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer trong ngữ hệ Nam Á.
Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Chơ Ro ở Việt Nam có dân số 26.855 người, cư trú tại 36 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chơ Ro cư trú tập trung tại các tỉnh:
Đồng Nai (15.174 người, chiếm 56,5% tổng số người Chơ Ro tại Việt Nam),
Bà Rịa-Vũng Tàu (7.632 người),
Bình Thuận (3.375 người),
Thành phố Hồ Chí Minh (163 người),
Bình Dương (134 người),
Bình Phước (130 người)
Tại Đồng Nai, người Châu Ro sống tập trung chủ yếu tại ấp Lý Lịch, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu; xã Túc Trưng huyện Định Quán; xã Xuân Vinh, xã Xuân Bình, xã Bàu Trâm, xã Hàng Gòn huyện Long Khánh; xã Xuân Trường, xã Xuân Phú, xã Xuân Thọ... huyện Xuân Lộc. Một số hộ dân Châu Ro sống rải rác ở huyện Long Thành, xã Xuân Thiện, huyện Thống Nhất.
Các địa phương có đông người Châu Ro sinh sống
Đồng Nai:
Ấp 6, xã Phước Bình, huyện Long Thành
Ấp Lý Lịch, xã Phú Lý, huyện Vĩnh Cửu
Ấp Bình Hòa, xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc
Ấp Thọ Trung, xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc
Ấp 3, xã Xuân Hòa, huyện Xuân Lộc
Ấp Bình Hòa, xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc
Ấp Trung Sơn, xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc
Ấp Đức Thắng, Đồng Xoài, xã Túc Trưng, huyện Định Quán
Ấp 5, xã Thanh Sơn, huyện Định Quán
Ấp Chợ, xã Suối Nho, huyện Định Quán
Ấp 5, xã La Ngà, huyện Định Quán
Ấp Suối Sóc, xã Xuân Mỹ, huyện Cẩm Mỹ
Ấp 4, xã Lâm San, huyện Cẩm Mỹ
Ấp Xuân Thiện, xã Xuân Thiện, huyện Thống Nhất
Ấp 9/4, xã Xuân Thạnh, huyện Thống Nhất
Ấp Nhân Hòa, xã Trung Hòa, huyện Trảng Bom
Ấp Ruộng Lớn, xã Bảo Vinh, thị xã Long Khánh
Bà Rịa, Vũng Tàu:
Thị trấn Ngãi Giao, huyện Châu Đức
Xã Bàu Chinh, huyện Châu Đức
Ấp Tân Thuận, xã Long Tân, huyện Đất Đỏ
Ấp Cầu Ri, xã Sông Xoài, Tx. Phú Mỹ
Ấp 1, xã Hắc Dịch, Tx. Phú Mỹ
Thôn Tân Ro, xã Châu Pha, Tx. Phú Mỹ
Ấp Bàu Hàm, xã Tân Lâm, huyện Xuyên Mộc
Bình Thuận
Xã Trà Tân, huyện Đức Linh
Kinh tế
Trước kia người Chơ Ro sống chủ yếu bằng nghề làm rẫy, cuộc sống nghèo nàn và không ổn định. Về sau người Chơ Ro đã biến rẫy thành đất định canh, đồng thời nhiều nơi phát triển làm ruộng nước, nhờ vậy cuộc sống có phần khá hơn. Chăn nuôi, hái lượm, săn bắn, đánh cá đều góp phần quan trọng trong đời sống của người Chơ Ro. Ngoài ra họ chỉ đan lát, làm các đồ dùng bằng tre, gỗ,...
Xã hội
Người Chơ Ro không theo chế độ mẫu hệ hay phụ hệ mà coi trọng cả hai như nhau. Trong hôn nhân, tuy nhà trai hỏi vợ cho con, nhưng lễ cưới tổ chức tại nhà gái, chàng trai phải ở rể vài năm rồi vợ chồng làm nhà ở riêng.
Khi chôn người chết theo truyền thống Chơ Ro, người Chơ Ro dùng quan tài độc mộc, đắp nắm mồ hình bán cầu. Sau 3 ngày kể từ hôm mai táng, gia đình có tang làm lễ "mở cửa mả".
Người Chơ Ro vốn ở nhà sàn, lên xuống ở đầu hồi. Từ mấy chục năm nay, người Chơ Ro đã hoàn toàn quen ở nhà trệt. Trong nhà đồ đạc đơn giản, chỉ có chiêng và ché được coi là quý giá. Gần đây nhiều gia đình có thêm tài sản mới như xe đạp.
Một vài dòng họ lớn của người Chơ ro là: Chơ Lưn, Jgo n’he, Vôq Jiêng, Ta jâu, Vôq khlong, Vôq jguc, Smăh, Vôq Prâng, Vôq Dâr, Vôq Glao.
Tên gọi của các dòng họ này có nghĩa là tên của một loài vật nào đó, như dòng họ Chơ Lưn (cá sấu) hay tên của ngay vùng đất nơi họ sinh sống, như dòng họ Vôq nđu (đầu nguồn suối - họ ở khu vực đầu nguồn suối)...
Tuy nhiên, hiện nay, trong các văn bản, hầu hết những người Chơ ro ở huyện Định Quán đều mang dòng họ Điểu; người Chơ ro ở Long Khánh mang họ Thổ, họ Đào; người Chơ ro ở Xuân Lộc thường mang họ Văn, họ Thị; người Chơ ro ở Vĩnh Cửu thường lấy họ Nguyễn, họ Hồng.
Văn hóa
Trên những địa bàn cư trú như hiện nay, người Chơ Ro sống gần gũi với người Việt nên trong ngôn ngữ của mình, lượng từ tiếng Việt tham gia ngày càng nhiều hơn, đến nay đại đa số dân cư Chơ Ro đều biết chữ quốc ngữ. Xu hướng xích lại gần với người Việt được biểu hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống hàng ngày, các hoạt động sản xuất, các quan hệ xã hội, những biểu hiện văn hóa vật chất như nhà cửa, y phục, đồ gia dụng,...
Vốn văn nghệ dân tộc của người Chơ Ro phong phú. Nhạc cụ có bộ chiêng 7 chiếc, đây đó còn thấy đàn ống tre, có ống tiêu và một số người còn nhớ lối hát đối đáp trong lễ hội.
Cho đến nay, kiến trúc nhà của người Chơ Ro đã có nhiều biến đổi căn bản, ngôi nhà cổ truyền không mấy khi tìm thấy trong vùng cư trú hiện nay của họ. Từ vài chục năm trở lại đây, người Chơ Ro đã quen xây dựng những ngôi nhà ở theo lối của người dân nông thôn Việt. Đó là những ngôi nhà có kèo, bộ khung bằng tre kết hợp với gỗ, phần nhiều lợp bằng cỏ tranh, vách được thưng lên bằng vách nứa, cửa ra vào mở về phía mái, nhà nằm ngang. Quy mô một ngôi nhà thường có ba gian và thêm một chái hồi để làm bếp, đồng thời là nơi để nông cụ. Nét truyền thống còn lại trong ngôi nhà hiện nay của người Chơ Ro là cái sạp làm bằng tre nứa, chạy dọc theo suốt chiều dài ba gian nhà, bề ngang chiếm nữa lòng nhà
Xưa phụ nữ Chơ Ro quấn váy, đàn ông đóng khố; áo của người Chơ Ro là loại áo chui đầu; trời lạnh có tấm vải choàng. Nay người Chơ Ro mặc như người Kinh trong vùng, chỉ còn dễ nhận ra người Chơ Ro ở tập quán thường đeo gùi theo và ở sở thích của phụ nữ hay đeo các vòng đồng, bạc, dây cườm trang sức nơi cổ và tay.
Người Chơ Ro có danh tiếng
Chú thích |
Người Co còn có tên gọi khác: Cor (Kor), Col. Người Co là một trong số 54 dân tộc ở Việt Nam.
Người Co nói tiếng Co (KOR), một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer.
Dân số và địa bàn cư trú
Người Co cư trú chủ yếu ở khu vực thung lũng thượng du các sông Trà Bồng, sông Rin và sông Tranh thuộc huyện Trà Bồng và Tây Trà tỉnh Quảng Ngãi. Người Co ở Quảng Nam khoảng 4,500 người, sống chủ yếu ở các xã Trà Kót, Trà Giáp, Trà Nú, Trà Giang huyện Bắc Trà My và một số ít sống ở xã Tiên Lập (Tiên Phước), Tam Sơn, Tam Trà (Núi Thành).
Dân số người Co theo điều tra dân số 2019 là 40.442 người , theo điều tra dân số 1999 là 27.766 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Co ở Việt Nam có dân số 33.817 người, cư trú tại 25 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Co cư trú tập trung tại các tỉnh:
Quảng Ngãi (28.110 người, chiếm 83,1% tổng số người Co),
Quảng Nam (5.361 người),
Kon Tum (118 người).
Đặc điểm kinh tế
Người Co làm rẫy là chính. Người Co trồng lúa, ngô, sắn và nhiều loại cây khác. Đặc biệt, cây quế Quảng là đặc sản truyền thống ở Trà My. Quế ở vùng người Co có chất lượng và năng suất cao được các địa phương trong nước và nhiều nơi trên thế giới biết tiếng. Hàng năm quế đem lại nguồn thu đáng kể cho người Co.
Tại các vùng Quảng Nam, Quảng ngãi, một thời đã trồng giống lúa Co, và lúa Trì trì. Có lẽ lúa Co là đó, là của người Co, Lúa Trì Trì là của người Chăm.
Tổ chức cộng đồng
Từng làng của người Co có tên gọi riêng theo tên người trưởng làng hoặc tên sông, suối, tên đất, tên rừng.
Trong xã hội Co, các bô lão luôn được nể trọng. Ông già được suy tôn làm trưởng làng phải là người hiểu biết phong tục, giàu kinh nghiệm sản xuất và ứng xử xã hội, được dân làng tín nhiệm cao và thuộc dòng họ có công lập làng. Người Co xưa kia không có tên gọi của mỗi dòng họ, về sau người Co nhất loạt mang họ Đinh. Từ mấy chục năm nay một số người Co lại lấy họ Hồ, họ Phạm, họ Huỳnh.(của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm văn Đồng, cụ Huỳnh Thúc Kháng của Việt nam, thời sau 1945)
Văn hóa
Người Co thích múa hát, thích chơi chiêng, cồng, trống. Các điệu dân ca phổ biến của người Co là Xru, Klu và Agiới. Các truyện cổ của người Co truyền miệng từ đời này sang đời khác luôn làm say lòng cả người kể và người nghe.
Nhà cửa
Trước kia vòng rào làng được dựng lên cao, dày, chắc chắn với cổng ra vào đóng mở theo quy định chặt chẽ, với hệ thống chông thò, cạm bẫy để phòng thủ... Tùy theo số dân mà làng có một hay vài một nhà ở, dài ngắn, rộng hẹp khác nhau. Thường nóc cũng là làng vì rất phổ biến hiện tượng làng chỉ có một nóc nhà. Nay vẫn thấy có nóc dài tới gần 100m.
Người Co ở nhà sàn. Dân làng góp sức làm chung ngôi nhà sau đó từng hộ được chia diện tích riêng phù hợp với nhu cầu sử dụng. Ngôi nhà có thể nối dài thêm cho những gia đình đến nhập cư sau. Dưới gầm sàn xếp củi, nhốt lợn, gà.
Hầu hết người Co đã và đang chuyển sang làm nhà đất. Không ít người ưu kiểu nhà "xuyên trĩnh" ở đồng bằng miền Trung.
Xưa kia, khi dân làng phát triển đông đúc mà việc nối nhà dài ngôi nhà thêm nữa không thuận tiện cũng không muốn chia làng mới thì họ kiến trúc kiểu "nhà kép", mở rộng theo chiều ngang. Như vậy là người Co đã đặt song song mặt hành mặt bằng sinh hoạt của hai dãy nhà, phần gưl của chúng ghép liền với nhau, tạo thành khoảng rộng dài ở giữa gồm gưl và truôk càn hai dãy tum ở đôi bên.
Trang phục
Người Co không dệt vải, vì vậy vải và đồ may mặc đều mua của nơi khác, phần lớn là mua của người Kinh và người Xơ-đăng. Theo sắc phục truyền thống, nam giới thường ở trần, đóng khố, nữ quấn váy, mặc áo cộc tay, yếm. Trời lạnh mỗi người khoác tấm vải dài, rộng. Người Co thích đeo vòng cổ, vòng tay, hoa tai bằng đồng hoặc bạc, nhưng thích nhất là bằng hạt cườm. Phụ nữ quấn nhiều vòng cườm các màu quanh eo lưng.
Những người Co có danh tiếng |
Người H'rê, còn có tên gọi khác là Chăm Rê, Chom Krẹ, Lùy, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Tên gọi
Tên gọi của người Hrê trước đây thường gắn với tên sông, tên núi, chưa có một tên gọi thống nhất chung cho cả dân tộc. Ví dụ: Người Hrê ở sông Krêq của huyện Sơn Hà, gọi là wì Krêq (người Krêq). Người Hrê ở sông Hrê huyện Ba Tơ, gọi là Hrê. Người Hrê ở vùng sông Đinh huyện An Lão, gọi là Hrê wì Đinh... Ngoài ra, cư dân người Hrê trước đây còn có tên gọi hiện đã lạc hậu như Chàm Quảng Ngãi, Chăm Hrê, Chom, Rê, Man Thạch Bích, Mọi Đá Vách, Lùy (Lũy)...Qua quá trình cố kết phát triển, ý thức dân tộc xuất hiện và được củng cố, tộc danh thống nhất được gọi là Hrê theo người Hrê Ba Tơ.
Tôn giáo
Dân tộc H'rê hầu hết không theo một tôn giáo nào cả. Tuy nhiên, tín ngưỡng của người H'rê rất gần với thuyết linh vật.
Người H'rê cho rằng mọi vật, hòn đá, cây cỏ, dòng suối, núi rừng... đều có linh hồn như con người, nên người H'rê đối xử với mọi tạo vật một cách hiền hòa và tôn trọng như thể tôn trọng chính bản thân mình.
Người H'rê còn theo một số đạo khác, chủ yếu thuộc Thiên chúa giáo như Đạo Báp-tít Liên Hiệp, Ngũ Tuần, Tin Lành, Trưởng Lão,..
Nhóm ngôn ngữ
Tiếng Hrê là một ngôn ngữ trong ngữ tộc Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á. Tiếng H'rê thuộc hệ Bahnar Bắc, gần với tiếng Xơ Đăng, Ka Dong, Giẻ...
Dân số và địa bàn cư trú
Người Hrê sống chủ yếu ở tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, có dân số 149.460 người năm 2019 .
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hrê ở Việt Nam có dân số 127.420 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Hrê cư trú tập trung tại các tỉnh:
Quảng Ngãi (115.268 người, chiếm 90,5% tổng số người Hrê tại Việt Nam),
Bình Định (9.201 người),
Kon Tum (1.547 người),
Đắk Lắk (341 người),
Gia Lai (128 người).
Theo thống kê đến ngày 31/12/2015, tổng dân số dân tộc Hrê của tỉnh Quảng Ngãi là: 132,745 người, trong đó:
Huyện Ba Tơ: 48,852 người
Huyện Sơn Hà: 65,823 người
Huyện Minh Long: 13,478 người
Các huyện khác và thành phố Quảng Ngãi: 4,592 người.
Đặc điểm kinh tế
Người Hrê làm lúa nước từ lâu đời, kỹ thuật canh tác lúa nước của người Hrê tương tự như vùng đồng bằng Nam Trung bộ. Người Hrê chăn nuôi nhằm phục vụ các lễ cúng bái và buôn bán trao đổi, riêng trâu còn được dùng để kéo cày, bừa. Nghề đan lát, dệt khá phát triển, nhưng nghề dệt đã bị mai một qua mấy chục năm gần đây.
Tổ chức cộng đồng
Trong làng người H'rê, "già làng" có uy tín cao và đóng vai trò quan trọng. Dưới thời phong kiến người H'rê nhất loạt đặt họ Đinh, gần đây một số người lấy họ Nguyễn, Hà, Phạm... Hình thức gia đình nhỏ rất phổ biến ở dân tộc Hrê.
Người H'rê vô cùng coi trọng cộng đồng mình đang sống và mối liên kết với từng thành viên trong cộng đồng. Trong những lễ hội như đâm trâu hoặc cúng bái ở làng, tất cả các gia đình đều phải cử người tham gia, đóng góp công sức.
Văn hóa
Người Hrê cũng có lễ đâm trâu như phong tục chung ở Trường Sơn - Tây Nguyên. Người Hrê thích sáng tác thơ ca, ham mê ca hát và chơi các loại nhạc cụ. Ka-choi và Ka-lêu là làn điệu dân ca quen thuộc của người Hrê. Truyện cổ đề cập đến tình yêu chung thủy, cuộc đọ tài trí giữa thiện và ác, giàu và nghèo, rất hấp dẫn các thế hệ từ bao đời nay. Nhạc cụ của người Hrê gồm nhiều loại: đàn Brook, Ching Ka-la, sáo ling la, ống tiêu ta-lía, đàn ống bút của nữ giới, khèn ra-vai, ra-ngói, pơ-pen, trống... Những nhạc cụ được người Hrê quý nhất là chiêng, cồng, thường dùng bộ 3 chiếc, hoặc 5 chiếc, với các nhịp điệu tấu khác nhau.
Nhà cửa
Hrê xưa ở nhà sàn dài. Nay hầu như nhà dài không còn nữa. Nóc nhà có hai mái chính lợp cỏ tranh, hai mái phụ ở hai đầu hồi thụt sâu vào trong hai mái chính. Mái này có lớp ngoài còn thêm một lớp nạp giống như ở vách nhà. Chỏm đầu đốc có "bộ sừng" trang trí với các kiểu khác nhau. Vách, lớp trong bằng cỏ tranh, bên ngoài có một lớp nẹp rất chắc chắn. Hai gian đầu hồi để trống.
Bộ khung nhà kết cấu đơn giản giống như nhà của nhiều cư dân khác ở Tây Nguyên.
Trong nhà (trừ hai gian đầu hồi) không có vách ngăn. Với nhà người Hrê còn có đặc điểm ít thấy ở nhà các dân tộc khác: thường thì nhà ở cửa mặt trước hoặc hai đầu hồi. Mặt trước nhà nhìn xuống phía đất thấp, lưng nhà dựa vào thế đất cao. Người nằm trong nhà đầu quay về phía đất cao. Nhưng với người Hrê thì hoàn toàn ngược lại.
Gian hồi bên phải (nhìn vào mặt nhà) (A) dành cho sinh hoạt của nam và khách. Gian hồi bên trái (C) dành cho sinh hoạt của nữ. Giáp vách gian hồi bên phải đặt bếp chính. Gian chính giữa đặt bếp phụ. Gian giáp vách với gian hồi bên trái đặt cối giã gạo.
Trang phục
Giống người Kinh. Có cá tính tộc người song không rõ nét. Trước kia đàn ông Hrê đóng khố, mặc áo cánh ngắn đến thắt lưng, quấn khăn; đàn bà mặc váy hai tầng, áo 5 thân, trùm khăn. Nam, nữ đều búi tóc cài trâm hoặc lông chim. Ngày nay, người Hrê mặc quần áo như người Kinh. Người Hrê thích đeo trang sức bằng đồng, bạc, vàng, đồng hồ, nữ có thêm hoa tai. Tục cà răng đã được xóa bỏ.
Người H'rê có danh tiếng |
Người Cơ Tu (còn gọi là người Ka Tu, Gao, Hạ, Phương, Ca-tang) là một dân tộc sống ở Miền Trung (Việt Nam) và Hạ Lào. Dân số người Cơ Tu có khoảng trên 103 nghìn người. Tại Việt Nam người Cơ Tu là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Người Cơ Tu nói tiếng Cơ Tu, một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer trong ngữ hệ Nam Á, được Joshua Project phân loại thành Cơ Tu Đông (Eastern Katu) và Cơ Tu Tây (Western Katu), bao gồm các ngôn ngữ khác như Katang, Pa Kô, Tà Ôi Thượng... Có các nhánh như Cơ Tu Thượng (Katu Dh'riu) tại Lào, Cơ Tu Trung (Katu Nal), Cơ Tu Hạ (Katu Phuong) nói Tiếng Phuong và nhánh Ca Tang tại Nam Giang. Tại Lào theo Joshua Project năm 2019 có 29,000 người.
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Cơ Tu ở Việt Nam có dân số 74.173 người, cư trú chủ yếu tại các huyện Đông Giang, Tây Giang, huyện Nam Giang tỉnh Quảng Nam (55.091 người, chiếm 74,2% tổng số người Cơ Tu tại Việt Nam). Có 16.719 người Cơ Tu tại tỉnh Thừa Thiên-Huế, chiếm 23,8% tổng số người Cơ Tu tại Việt Nam, chủ yếu ở các huyện Nam Đông và A Lưới. Tại TP Đà Nẵng có khoảng 1,250 người, sinh sống ở ba thôn: Tà Lang, Giàn Bí thuộc xã Hòa Bắc và thôn Phú Túc, xã Hòa Phú, huyện Hòa Vang. Ngày nay, nhiều người trẻ Cơ tu đã tìm các cơ hội học tập và việc làm ở các thành phố lớn. Một số người Cơ tu đã ra nước ngoài học tập và tốt nghiệp với bằng tiến sĩ, tiêu biểu là TS. Alăng Thớ, người Cơ tu đầu tiên tốt nghiệp tiến sĩ từ Học viện Công nghệ Hoàng gia Melbourne, Úc Châu.
Tại Lào
Tại Lào, theo Ethnologue thì năm 1998 dân tộc này có 14.700 người, cư trú chủ yếu tại thượng nguồn sông Xê Kông, trong các tỉnh Xekong, Saravan, Champasak.
Kinh tế
Người Cơ Tu trồng cây lương thực theo lối phát rừng làm rẫy, thu hái các lâm thổ sản. Công cụ lao động khá nghèo nàn như rìu, dao, gậy chọc lỗ tra hạt. Các hoạt động kinh tế khác gồm có chăn nuôi, dệt, đan lát, hái lượm, đánh cá, săn bắn và trao đổi hàng hóa theo cách vật đổi vật. Trong năm chỉ có đúng 1 mùa làm rẫy, gieo vào tháng 3-4 và gặt vào tháng 10-11. Cây lương thực chủ yếu là lúa, ngô, sắn.
Văn hóa - Nhà cửa
Lễ hội đâm trâu hàng năm thường diễn ra trước mùa tỉa lúa, dựng lều giữa sân. Khi mặt trời ló dạng bắt đầu thủ tục cúng Giàng và các vị thần linh, hòa tấu khúc nhạc cúng từ nhạc cụ. Mọi người cùng nhau nhảy múa chung quanh con trâu, một người được cho là có công cho làng cho trâu uống nước. Đánh dấu điểm đâm, thịt trâu được chia cho cả làng cùng nhau nướng ăn.
Trong làng người Cơ Tu, các nếp nhà sàn tạo dựng theo hình vành khuyên hoặc gần giống thế. Ngôi nhà rông cao, to, đẹp, hơn cả là nơi tiếp khách chung, hội họp, cúng tế, tụ tập chuyện trò vui chơi.
Trang phục
Có cá tính riêng trong tạo hình và trang trí trang phục, khác các tộc người khác trong khu vực, nhất là trang phục nữ. Nam giới người Cơ Tu đóng khố, ở trần, đầu hoặc vấn khăn hoặc để tóc ngắn bình thường. Khố có các loại bình thường (không trang trí hoa văn và ít màu sắc), loại dùng trong lễ hội dài rộng về kích thước và trang trí đẹp với màu sắc và hoa văn trên nền chàm. Mùa rét, họ khoác thêm tấm choàng dài hai, ba sải tay. Tấm choàng màu chàm và được trang trí hoa văn theo nguyên tắc bố cục dải băng truyền thống với các màu trắng đỏ, xanh. Người ta mang tấm choàng có nhiều cách: hoặc là quấn chéo qua vai trái xuống hông và nách phải, thành vài vòng rồi buông thõng xuống trùm quá gối. Lối khoác này tay và nách phải ở trên, tay và vai trái ở dưới hoặc quấn thành vòng rộng từ cổ xuống bụng, hoặc theo kiểu dấu nhân trước ngực vòng ra thân sau.
Phụ nữ Cơ Tu để tóc dài búi ra sau gáy, hoặc thả buông. Xưa họ để trần chỉ buộc một miếng vải như chiếc yếm che ngực. Họ mặc váy ngắn đến đầu gối, màu lanh khoác thêm tấm chăn. Họ thường mặc áo chui đầu khoét cổ, thân ngắn tay cộc. Về kỹ thuật đây có thể là một trong những loại áo giản đơn nhất (trừ loại áo choàng chỉ là tấm vải). Áo loại này chỉ là hai miếng vải khổ hẹp gập đôi, khâu sườn và trừ chỗ tiếp giáp phía trên làm cổ. Khi mặc cổ xòe ra hai vai thoạt tưởng như áo cộc tay ngắn. Áo được trang trí ở vai, ngực, sườn, gấu, với các màu đỏ, trắng trên nền chàm. Váy ngắn cũng được cấu tạo tương tự như vậy: theo lối ghép hai miếng vải khổ hẹp gập lại thành hình ống.
Họ ưa mang các đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay đồng hồ (mỗi người có khi mang tới 5,6 cái), khuyên tai bằng gỗ, xương, hay đồng xu, vòng cổ bằng đồng, sắt cũng như các chuỗi hạt cườm, vỏ sò, mã não.. Nhiều người còn đội trên đầu vòng tre có kết nút hoặc những vòng dây rừng trắng (rơnơk) và cắm một số loại lông chim. Một vài vùng có trục cưa răng cho nam nữ đến tuổi trưởng thành khi đó làm tổ chức lễ đâm trâu. Ngoài ra người Cơ Tu còn có tục xăm mình, xăm mặt. Đồ trang sức phổ biến là vòng tay, vòng cổ, khuyên tai. Các phong tục xăm mặt, xăm mình, cưa răng, đàn ông búi tóc sau gáy đã dần được loại bỏ. |
Người Kháng, còn gọi là Xá Khao, Xá Xúa, Xá Đón, Xá Dâng, Xá Hộc, Xá Aỏi, Xá Bung, Quảng Lâm, là dân tộc cư trú tại bắc Việt Nam và Lào. Họ là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Người Kháng nói tiếng Kháng, là ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer. Tuy nhiên vị trí của nó trong nhánh Môn-Khmer chưa được xác định rõ ràng, Tiếng Kháng được cho là thuộc ngữ chi Khơ Mú hoặc ngữ chi Palaung
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, người Kháng cư trú tại Sơn La và Lai Châu. Dân số theo điều tra dân số năm 1999 là 10.272 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Kháng ở Việt Nam có dân số 13.840 người, cư trú tại 25 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Kháng cư trú tập trung tại các tỉnh:
Sơn La (8.582 người, chiếm 62,0% tổng số người Kháng tại Việt Nam),
Điện Biên (4.220 người, chiếm 30,5% tổng số người Kháng tại Việt Nam),
Lai Châu (960 người).
Tại Lào
Tại Lào, dân tộc này được gọi bằng các tên gọi như: Phong-Kniang, Pong 3, Khaniang, Kenieng, Keneng, Lao Phong với dân số khoảng 1.000 người (số liệu theo Wurm và Hattori, 1981).
Kinh tế
Người Kháng làm rẫy theo lối chọc lỗ tra hạt, trồng nhiều lúa nếp làm lương thực chính, nay nhiều nơi chuyển sang cày bừa đất, gieo hạt, có ruộng bậc thang nhưng không nhiều. Họ chăn nuôi gà, lợn, trâu là phổ biến. Đồ đan: ghế, rổ, rá, nia, hòm, gùi... và thuyền độc mộc kiểu đuôi én được người Thái ưa dùng. Người Kháng thường dùng loại gùi một quai, đeo qua trán. Họ trồng bông rồi đem bông đổi lấy vải và đồ mặc của người Thái.
Văn hóa
Theo phong tục Kháng, người chết được chôn cất chu đáo, trên mộ có nhà mồ, có các đồ vật dành cho người chết: hòm đựng quần áo, giỏ cơm, ống hút rượu, bát, đũa... phía đầu mộ chôn một cột cao 4-5 mét, trên đỉnh có con chim gỗ và treo chiếc áo của vợ hay chồng người chết.
Người Kháng có quan niệm mỗi người có 5 hồn, hồn chính trên đầu và 4 hồn kia ở tứ chi. Khi chết mỗi người biến thành "ma ngắt" ngụ ở 5 nơi. Hồn chủ thành ma ở nhà, chỗ thờ tổ tiên là "ma ngắt nhá", hồn tay phải trên thiên đàng là "ma ngắt kỷ", hồn tay trái ở gốc cây làm quan tài là "ma ngắt hóm", hồn chân phải ở nhà mồ là "ma ngặt mơn", hồn chân trái lên trời thành ma trời là "ma ngặt xừ ù".
Nhà cửa
Người Kháng ở nhà sàn. Nhà thường có 3 gian 2 chái, mái kiểu mu rùa và hai cửa ra vào ở hai đầu nhà, 2 cửa sổ ở hai vách bên. Trước kia, mái ở hai đầu hồi thường được làm thẳng, hiện nay nhiều nơi đã làm mới hình mái rua như nhà Thái Đen. Mỗi nhà có hai bếp lửa (một bếp để nấu ăn hàng ngày, còn một bếp để sưởi và để nấu đồ cúng khi bố mẹ chết).
Trang phục
Cá tính tộc người mờ nhạt giống phong cách trang phục Thái đen. Phụ nữ nhuộm răng đen, ăn trầu.
Người Kháng có danh tiếng |
Người Khơ Mú (; Khmu: ; ; ; ; ) (tên gọi khác: Xá Cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, Tày Hạy, trong văn liệu Latinh ghi là Khmu, Khamu hay Khammu) là một trong những nhóm sắc tộc lớn nhất sinh sống tại khu vực bắc Đông Nam Á. Họ cư trú ở miền bắc Lào, Myanmar, tây nam Trung Quốc (trong châu tự trị Tây Song Bản Nạp thuộc tỉnh Vân Nam), Thái Lan, và Việt Nam. Tại Trung Quốc, người Khơ Mú gọi là Khắc Mộc tộc ().
Tại Việt Nam, người Khơ Mú là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam . Tuy nhiên tại Trung Quốc thì họ lại không được công nhận chính thức như là một dân tộc tách biệt mà được đặt trong một thể loại rộng là các nhóm sắc tộc không phân loại.
Người Khơ Mú nói tiếng Khơ Mú, một ngôn ngữ trong ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á. Người Khơ Mú là sắc tộc sinh sống sớm nhất tại Lào, cùng với người Môn tại Thái Lan và người Mường tại Việt Nam tạo nên những cộng đồng cư dân bản địa sớm nhất ở khu vực.
Dân số và địa bàn cư trú
Người Khơ Mú là những cư dân bản thổ ở miền bắc Lào. Hiện tại có khoảng 479.249-540.000 người Khơ Mú khắp thế giới, với dân số khoảng 389.694 người (năm 1985) tại Lào, 72.929 người (năm 2009) tại Việt Nam, 31.403 (năm 2000) tại Thái Lan, 1.600 người (năm 1990) tại Trung Quốc, không rõ số liệu tại Myanmar và cỡ 8.000 tại Hoa Kỳ.
Tại Lào
Người Khơ Mú tại Lào chủ yếu sống trong tỉnh Luang Prabang và Xiêng Khoảng. Phần lớn các làng mạc của người Khơ Mú bị cô lập và có sự phát triển chậm chạp do ở các vùng xa xôi khó khăn. Trong nhiều khu vực, họ sinh sống bên cạnh người H'Mông và các nhóm sắc tộc thiểu số khác.
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, họ sống tập trung chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ như Nghệ An, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Thanh Hóa với số dân theo điều tra dân số năm 2019 có 90.612 người , năm 1999 khoảng 56.542 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Khơ Mú ở Việt Nam có dân số 90.612 người, cư trú tại 44 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Khơ Mú cư trú tập trung tại các tỉnh:
Nghệ An (41.139 người, chiếm 48,9% tổng số người Khơ Mú tại Việt Nam),
Điện Biên (19.785 người),
Sơn La (15.783 người),
Lai Châu (7.778 người),
Yên Bái (1.539 người),
Thanh Hóa (1.031 người).
Tại Thái Lan
Phần lớn người Khơ Mú tại Thái Lan đã tới đây trong giai đoạn gần đây từ Lào và Việt Nam như là những người tị nạn, cũng từ cuộc chiến tranh Việt Nam. Họ sống tập trung gần biên giới Lào-Thái Lan. Người Khơ Mú có quan hệ huyết thống gần gũi với Mlabri, người lá vàng bản địa của Thái Lan.
Tại Trung Quốc
Tại Trung Quốc có khoảng 1.600-2.000 người Khơ Mú sinh sống rải rác trong tỉnh Vân Nam, được xếp vào nhóm không phân loại.
Tại Hoa Kỳ
Tại Hoa Kỳ, một lượng lớn người Khơ Mú sinh sống tại Richmond (California), chủ yếu là người tị nạn, di cư từ sau chiến tranh Việt Nam. California cũng là trung tâm của cả Khmu National Federation Inc. và Kmhmu Catholic National Center.
Nguồn gốc
Nhóm dân tộc Khmuic đề cập đến một nhóm các dân tộc ở Đông Nam Á lục địa nói các ngôn ngữ có liên quan chặt chẽ và tuân theo các phong tục và truyền thống tương tự. Dựa trên các bằng chứng ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử, người ta tin rằng những nhóm dân tộc hiện nay khác biệt này là hậu duệ của một dân tộc thuần nhất có thể là một trong những nhóm dân cư đầu tiên đến định cư ở miền Bắc Đông Dương. Những khu vực sinh sống của người Khmuic lịch sử này rộng lớn hơn nhiều so với hiện tại, bao gồm cả những vùng đất thấp phía bắc của ít nhất là Thái Lan và Lào ngày nay, cho đến khi bị các đế chế Mon và Khmer kế tiếp hấp thụ hoặc đẩy lên vùng núi ẩn náu và sau đó là sự xuất hiện của nhiều sắc tộc Thái khác nhau.
Đặc điểm kinh tế
Người Khơ Mú sống chủ yếu bằng kinh tế nương rẫy. Cây trồng chính là ngô, khoai, sắn. Trong canh tác, người Khơ Mú dùng dao, rìu, gậy chọc hốc là chính. Hái lượm săn bắn giữ vị trí quan trọng, nhất là lúc giáp hạt. Người Khơ Mú nuôi gia súc, gia cầm chỉ để phục vụ dịp lễ lạt, tiếp khách. Nghề đan lát phát triển. Họ đan các đồ dùng để vận chuyển, chứa lương thực... Người Khơ Mú không phát triển nghề dệt vải, nên thường mua quần áo, váy của người Thái để mặc.
Văn hóa
Dân tộc Khơ Mú có vốn truyền thống văn hóa lâu đời, tuy cuộc sống vật chất còn nghèo, nhưng cuộc sống tinh thần khá dồi dào.
Đón Tết
Trước khi đón tết, vào tháng chạp dân làng Khơ Mú tổ chức lễ "đón mẹ lúa". Một mâm lễ chung được bày ra trên nương, người cao niên đại diện dân làng thắp hương khấn tạ ơn thần linh. Một con trâu được tắm sạch sẽ dắt ra trước kho lúa, người ta cảm ơn rồi lấy hoa giắt vào sừng, lấy vải đắp lên mình trâu.
Chiều 30 tết, người già trong làng tìm đến nhà và không quên dặn nhau nhớ để ý xem sau thời khắc giao thừa nghe con vật gì cất tiếng đầu tiên để đoán thời vận. Người Khơ Mú quan niệm nếu con gà gáy đúng canh ba thì cả năm gặp điều may mắn, còn gà gáy sớm hơn báo hiệu điều chẳng lành như gặp hỏa hoạn hoặc trong làng sẽ có người chửa hoang.
Với tập tục dân gian gắn với ngày tết, người Khơ Mú cũng có những nét riêng khác hẳn với các dân tộc khác như tục lấy nước đầu năm mới. Nếu nhặt được hòn sỏi trắng thì may mắn cả năm, còn gặp hòn sỏi đen thì coi như kém may. Nước vừa múc về sẽ chia cho mọi người trong nhà cùng uống, gọi là uống nước mới.
Lễ cúng ma nhà (Hrôigang)
Một tập quán ăn sâu vào tình cảm và tiềm thức của người Khơ Mú thuộc họ Rvai (hổ), đó là nghi lễ cúng ma nhà (Hrôigang). Vào dịp Tết Nguyên đán, người Khơ mú thuộc họ hổ đã diễn lại các động tác của hổ, vật tổ của dòng họ với ý thức tự nhắc nhở và giáo dục những người trong cộng đồng rằng mình là người họ hổ và có nguồn gốc từ hổ. Với quan niệm hổ là tổ tiên của mình, người Khơ mú thuộc họ Rvai kiêng không động tay vào hổ, không săn bắt, giết, ăn thịt hổ.
Trong các hội hè, các nghi lễ người hóa trang giống như hổ. Khi gặp hổ chết, người Khơ mú thuộc họ Rvai phải khóc than thật sự như tổ tiên của mình qua đời. Người ta tin rằng khi chết đi, họ sẽ hóa thành kiếp hổ. Khi còn sống, người ta kiêng đắp chăn sặc sỡ như lông hổ, khi chết, người ta đắp cho chiếc chăn khác màu lông hổ và đặt chiếc chăn giống màu lông hổ bên cạnh người chết để hồn được siêu thoát và trở về với hổ, có nghĩa là về với tổ tiên
Tổ chức cộng đồng
Các họ của người Khơ Mú thường mang tên một loài thú, một loài chim hay một thứ cây nào đó. Mỗi dòng họ coi thú, chim, cây ấy là tổ tiên ban đầu của mình và họ kiêng giết thịt và ăn thịt các loại động, thực vật này. Mỗi dòng họ có huyền thoại kể về lai lịch của tổ tiên chung, người cùng dòng họ coi nhau là anh em ruột thịt.
Hôn nhân gia đình
Ở gia đình người Khơ Mú, vợ chồng bình đẳng, chung thủy. Người Khơ Mú có tục cưới rể một năm, sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Khi ở nhà vợ, người chồng đổi họ theo vợ, còn nếu có con thì con theo họ mẹ, trái lại khi về nhà chồng thì vợ phải đổi họ theo chồng và các con lại mang họ bố. Người cùng dòng họ không được lấy nhau, nhưng con trai cô được lấy con gái cậu. Trong việc dựng vợ gả chồng và trong cuộc sống gia đình, vai trò của người cậu đối với các cháu rất quan trọng.
Nhà ở
Đến nay ở nhiều vùng người Khơ Mú vẫn còn du canh du cư. Làng bản của họ thường cách xa nhau, nhỏ bé, ít dân. Nhà cửa phần lớn làm sơ sài, đồ dùng trong nhà cũng ít ỏi.
Nhà ở truyền thống của người Khơ Mú là kiểu nhà nửa sàn nửa đất và thường được làm ở trên đồi cao ven nương rẫy để tránh thú rừng. Không như một số dân tộc sử dụng phần gầm sàn làm nơi sinh hoạt hay chứa nông cụ, nông sản, người Khơ Mú coi phần gầm sàn là nơi thiêng nhất trong ngôi nhà, thậm chí ngày thường không dám xâm phạm, trừ việc quét dọn trước mỗi đầu năm mới.Đầu hồi nhà sàn của người Khơ Mú có hình con ốc sên, vừa có tác dụng trang trí, cầu mong sự giàu có, vừa nhằm dọa tà ma không cho đến gần.
Đặc biệt, bên trong ngôi nhà sàn của người Khơ Mú có đến ba bếp lửa nằm ở ba vị trí khác nhau tạo nên nét đặc trưng "bốn góc nhà, ba góc bếp" không thể tìm thấy ở các dân tộc khác.
Lên hết bậc cầu thang ở phía đầu hồi là cửa chính vào ngôi nhà sàn. Bên cánh trái gian đầu tiên là một bếp lớn dùng để nấu thức ăn hằng ngày.
Ở trung tâm gian giữa, nơi cửa chính nhìn vào là bếp thứ hai, đặt ngay dưới trang thờ ông bà tổ tiên. Bếp này được người Khơ Mú xem là bếp thờ, bếp thiêng và chỉ nổi lửa vài lần trong năm vào dịp tết hoặc cúng lễ.
Trong cùng bên trái của gian thứ ba là một bếp nữa. Chỗ ngủ của chủ nhà được đặt bên phải gian thứ ba này.
Trang phục
Người Khơ Mú không phát triển nghề dệt vải, nên thường mua quần áo, váy của người Thái, người Lự (áo có ảnh hưởng của phụ nữ Lự vùng Tây Song Bản Nạp, Lào và Thái Lan chứ không phải người Lự Việt Nam) để mặc. Sắc thái Khơ Mú thể hiện ở trang phục hầu như đã bị phai mờ tuy trang sức của phụ nữ còn có đôi điểm riêng biệt, áo của phụ nữ Khơ Mú thường màu đen, dài đến eo. Cổ áo cắt theo hình chữ V nẹp viền bằng dải thổ cẩm, mặt trước áo đáp tấm vải thổ cẩm rộng khoảng 20 cm thêu hoa văn rực sỡ chạy từ cổ áo đến hết thân áo. Đây là điểm nhấn thu hút nhất của chiếc áo phụ nữ dân tộc Khơ Mú.
Váy màu đen, dài từ eo xuống mắt cá chân. Thân váy, gấu váy được thêu họa tiết hoa văn dọc chạy theo thân váy. Váy khi mặc được giữ lại bởi chiếc thắt lưng quấn quanh eo, thắt lưng bằng lụa, màu sáng, điểm thắt nút thường nằm ở phần hông bên phải. |
Xin xem các cách dùng khác tại Mạ (định hướng).
Người Châu Mạ hay người Mạ (có tên gọi khác Mạ Xốp, Mạ Tô, Mạ Krung, Mạ Ngắn) là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam, cư trú chủ yếu tại nam Trung phần .
Người Mạ nói tiếng Mạ thuộc ngữ chi Bahnar của ngữ tộc Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú
Theo điều tra dân số năm 1999, người Mạ có khoảng 33.338 người, cư trú chủ yếu ở các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Lắk, Đồng Nai (Việt Nam).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Mạ ở Việt Nam có dân số 41.405 người, cư trú tại 34 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Mạ cư trú tập trung tại các tỉnh:
Lâm Đồng (31.869 người, chiếm 77,0% tổng số người Mạ tại Việt Nam),
Đắk Nông (6.456 người),
Đồng Nai (2.436 người),
Bình Phước (432 người),
Thành phố Hồ Chí Minh (72 người).
Kinh tế
Người Mạ làm nương rẫy trồng lúa và cây khác như ngô, bầu, bí, thuốc lá, bông... Công cụ sản xuất thô sơ, có các loại xà-gạt, xà-bách, dao, rìu, gậy chọc lỗ. Trong tỉnh Lâm Đồng (huyện Cát Tiên), người Mạ có làm ruộng nước bằng kỹ thuật lùa cả đàn trâu xuống ruộng để trâu giẫm đất đến khi sục bùn thì gieo lúa giống (xạ lúa). Người Mạ nuôi trâu, bò, gà, vịt, ngan... theo cách thả trâu, bò vào rừng sống thành đàn, chỉ khi cần giết thịt hoặc giẫm ruộng mới tìm bắt về.
Phụ nữ Mạ nổi tiếng về nghề dệt vải truyền thống với những hoa văn tinh vi hình hoa lá, chim thú với nhiều màu sắc. Nghề rèn sắt nổi tiếng ở nhiều làng. Họ tự luyện quặng lấy sắt để rèn các công cụ sản xuất và vũ khí như xà gạt lưỡi cong, lao... Ở vùng ven Đồng Nai, người Mạ làm thuyền độc mộc để đi lại, vận chuyển và đánh cá trên sông.
Tổ chức cộng đồng
Người Mạ sống thành từng bòn (làng), mỗi bon có từ 5 đến 10 nhà sàn dài (nhà dài là nơi ở của các thế hệ có chung huyết thống). Đứng đầu bon là quăng bon (già trưởng làng).
Bộ tộc Mạ đã xác lập được chế độ phụ hệ vững chắc trong hôn nhân gia đình. Đây là điều khác nhau giữa người Mạ với người Kơho, Chil, Lạt và Mnông. Lãnh thổ người Mạ đã từng ổn định trong lịch sử, khiến cho một số tài liệu xưa gọi nó là tiểu vương quốc Mạ hoặc xứ Mạ.
Hôn nhân gia đình
Nhà trai chủ động trong hôn nhân, nhưng sau lễ cưới chú rể phải sang ở nhà vợ, đến khi nộp đủ đồ sính lễ cho nhà gái mới được đưa vợ về ở hẳn nhà mình.
Văn hóa
Kho tàng văn học dân gian Mạ gồm nhiều truyện cổ, truyền thuyết, huyền thoại độc đáo,chữ viết (1990). Nhạc cụ có bộ chiêng, đồng, trống, khèn bầu, khèn sừng trâu, đàn lồ ô, sáo trúc 3 lỗ gắn vào trái bầu khô.
Nhà cửa
Nhà người Mạ không chỉ có những đặc trưng đáng chú ý mà còn có thể "đại diện" cho nhà của người Cờ Ho, Chil trên cao nguyên Lâm Đồng. Mạ là cư dân lâu đời trên mảnh đất này. Hiện nay nhà người Mạ đã có rất nhiều thay đổi. Nhà sàn chỉ còn ở những vùng cao, vùng thấp nhà đất đã chiếm ưu thế.
Nhà ở cổ truyền của người Mạ là nhà sàn dài tới 20–30 m (nay đã hiếm). Nay vẫn là nhà sàn nhưng là nhà ngắn của các gia đình nhỏ.
Bộ khung nhà với ba vì hai hoặc bốn cột. Kết cấu đơn giản thường là ngoãm tự nhiên và buột lạt. Mái hồi khum tròn nhưng không có "sừng" trang trí. Hai mái chính cũng hơi khum nên mặt cắt của nóc có hình "parabôn". Mái nhà rất thấp nên phần mái bên trên cửa, người ta phải làm vồng lên để ra vào khỏi đụng đầu.
Tổ chức mặt bằng sinh hoạt cũng có những đặc điểm đáng chú ý: khu vực giữa nhà là nơi sinh hoạt chung của mọi gia đình (tiếp khách, cúng bái...), nơi này có bàn thờ thần bếp và có một cái cột để buộc ché rượu cần khi tiếp khách. Còn dưới chân vách hậu là một dãy dài những ú, ché đựng rượu cần... Các hộ gia đình ở về hai bên của khu trung tâm.
Phần diện tích và không gian trong nhà dành cho các gia đình cũng có những đặc điểm rất dễ nhận: giữa nhà là một kho thóc, mặt sàn kho các mặt sàn nhà khoảng trên 1 mét.
Dưới gầm kho thóc đặt bếp. Trên bếp có dựa treo. Giáp vách hậu là sạp dành cho mọi thành viên trong gia đình. Giáp vách tiền là một sạp nhỏ và thấp (khoảng 70–80 cm) trên để bát, đĩa, vỏ bầu khô và các thứ lặt vặt khác.
Nhà người Cờ Ho hoặc Chil về hình thức thì nhà của họ cũng giống nhà người Mạ. Cái khác ở cách bố trí trong nhà là giáp vách tiền, cái sạp ở nhà người Mạ thì người Cơ ho còn kết hợp làm chuồng hà.
Trang phục
Có cá tính riêng về tạo hình áo nữ, đặc biệt là phong cách thẩm mỹ. Mùa làm nông, nhiều người ở trần, mùa rét choàng tấm mền. Có tục cà răng, căng tai, đeo nhiều vòng trang sức.
Trang phục nam
Thường để tóc dài búi sau gáy, ở trần, đóng khố. Khố cũng có nhiều loại khác nhau về kích thước và hoa văn trang trí. Loại khố trang trọng có đính hạt cườm, tua dài. Bên cạnh đó họ còn mặc áo chui đầu, xẻ tà, vạt sau dài hơn vạt trước che kín mông. Áo có các loại: dài tay, ngắn tay và cộc tay. Thủ lĩnh búi tóc cắm lông chim có bộ khiên giáo kèm theo.
Trang phục nữ
Phụ nữ để tóc dài búi sau gáy. Xưa họ ở trần mặc váy, có bộ phận mặc áo chui đầu. Áo nữ mặc vừa sát thân, dài tới thắt lưng, không xẻ tà, vạt trước và sau áo bằng nhau; cổ áo tròn thấp. Tổng thể áo chỉ là hình chữ nhật màu trắng. Nửa thân dưới áo trước và sau lưng được trang trí hoa văn các màu đỏ, xanh là chính trong bố cục dải băng ngang thân với các mô típ hoa văn hình học là chủ yếu. Chiều dọc hai bên mép áo được dệt viền các sọc trang trí. Váy là loại váy hở được dệt trang trí hoa văn với những phong cách bố cục đa dạng. Về cơ bản là các sọc: màu xanh, đỏ, vàng, trắng trên nền chàm chủ yếu là hoa văn hình học theo nguyên tắc bố cục dải băng ngang truyền thống. Có trường hợp nửa trên váy dệt trang trí hoa văn kín trên nền sáng (trắng) với hoa văn hình học màu đỏ xanh.
Nam nữ thường thích mang vòng đồng hồ ở cổ tay có những ngấn khắc chìm - ký hiệu các lễ hiến sinh tế thần cầu mát cho chủ nhân nó. Nam nữ đều đeo hoa tai cỡ lớn bằng đồng, gà voi, gỗ; cổ đeo hạt cườm. Phụ nữ còn mang vòng chân đồng nhiều vòng xoắn. |
Người M'Nông theo cách gọi của Việt Nam và họ tự gọi dân tộc của họ là Bu-Nông. Theo phiên âm tiếng Khmer là Phnong Đơm nghĩa là Khmer cổ thời Phù Nam. Dân tộc M'nông (Bu-Nông) là tập hợp các nhóm người địa phương bao gồm: Bu-Đâng, Preh, Gar, Nông, Prâng, RLăm, Kuêñ, Čil Bu Nor, nhóm Bu-Nông Bu-Đâng, là sắc tộc cư trú ở trung phần Việt Nam và đông bắc Campuchia.
Vào thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp gọi chung nhóm người thiểu số ở khu vực Tây Nguyên là người Thượng, dịch từ tiếng Pháp là "Montagnards", trong đó có bao gồm người Bu-Nông.
Ở Việt Nam M'Nông là một trong 54 dân tộc tại Việt Nam , có dân số theo điều tra năm 2019 là 127.334 người .
Tại Campuchia người M'Nông được xếp vào khối Khmer Lơ-Lục Chân Lạp hay Khmer vùng cao. Theo Joshua Project dân số người M'Nông năm 2019 là 46.000 người, và thuộc nhóm M'Nông Trung tâm (Central Mnong).
Người M'Nông nói tiếng M'Nông, một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, người M'Nông là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Địa bàn cư trú của người M'Nông bao gồm những phần đất thuộc các huyện miền núi tây nam tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, Quảng Nam, Lâm Đồng và Bình Phước (chiếm trên 99,3%) của Việt Nam, nhưng tập trung đông nhất là tại các huyện của tỉnh Đắk Nông.
Dân số của người M'Nông theo điều tra dân số năm 1999 là 92.451 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người M’Nông ở Việt Nam có dân số 127.334 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người M’Nông cư trú tập trung tại các tỉnh:
Đắk Nông (50.718 người, chiếm 39,3% tổng số người M’Nông tại Việt Nam),
Đắk Lắk (48.505 người, chiếm 38,9% tổng số người M’Nông tại Việt Nam),
Lâm Đồng (10.517 người),
Bình Phước (10.879 người),
Quảng Nam (4.934 người).
Tại Campuchia
Tại Campuchia, người M'Nông được gọi là Phong, Phnong, Bunong, Budong, Phanong. Người Phnong năm 2002 có khoảng 20.000 người theo SIL International,, năm 2008 có 37.500 người theo 2008 Cambodian census.. Họ chủ yếu sinh sống trong tỉnh Mondulkiri, giáp biên giới với các tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk của Việt Nam.
Đặc điểm kinh tế
Người Bu-Nông làm rẫy là chính, ruộng nước chỉ có ở vùng ven hồ, đầm, sông. Những con vật nuôi thông thường ở trong các gia đình là trâu, chó, dê, lợn, gà và một số nhà nuôi cả voi. Người Bu-Nông ở Bản Đôn có nghề săn voi và thuần dưỡng voi nổi tiếng. Nghề thủ công của người M'Nông có dệt vải sợi bông do phụ nữ đảm nhiệm và đan lát các dụng cụ như gùi, giỏ, mùng... do đàn ông làm.
Tổ chức cộng đồng
Mỗi làng thường có vài chục nóc nhà, ông trưởng làng đóng vai trò to lớn trong dân làng. Mọi người sống theo kinh nghiệm và tập tục truyền lại từ nhiều đời. Nam nữ, trẻ, già ai cũng thích rượu cần và thuốc lá cuốn.
Hôn nhân gia đình
Người Bu-Nông theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, trong gia đình người vợ giữ vị trí chính, nhưng người chồng không bị phân biệt đối xử, họ sống tôn trọng nhau. Cha mẹ về già thường ở với con gái út.
Theo nếp cũ, đến tuổi trưởng thành, người Bu-Nông phải cà răng mới được yêu đương lấy vợ lấy chồng. Phong tục cưới xin gồm 3 bước chính là dạm hỏi, lễ đính hôn, lễ cưới. Nhưng cũng có nơi đôi vợ chồng trẻ ở phía nào là tùy thỏa thuận giữa hai gia đình. Người Bu-Nông thích nhiều con, nhất là con gái. Phong tục cũ sinh con sau một năm mới đặt tên chính thức.
Tục lệ ma chay
Trong tang lễ, người M'Nông có tập quán ca hát, gõ chiêng trống bên áo quan suốt ngày đêm. Sau khi hạ huyệt, họ dùng cây, que và lá cây trải kín miệng hố rồi mới lấp đất lên trên. Qua 7 ngày hoặc một tháng, gia chủ làm lễ đoạn tang.
Các nhóm địa phương của người M'nông
Dân tộc M'nông (Bu-Nông) thuộc nhóm Indonesian. Có tầm vóc trung bình, nước da bánh mật, môi hơi dày, râu thưa, mắt nâu đen, tóc đen, thẳng. Một số nhóm địa phương khác có tóc xoăn.
Ngôn ngữ Bu-Nông thuộc ngữ tộc Môn-Khmer miền núi phía Nam. Trong vốn từ vựng M'nông bộc lộ rõ sự ảnh hưởng của tiếng Chăm, qua ngôn ngữ Ê Đê và Gia Rai, là những ngôn ngữ thuộc nhóm Malay-Polynesia, bên cạnh sự ảnh hưởng sâu đậm hơn của nhóm Môn-Khmer...
Trong quá trình lịch sử phát triển tộc người của mình, do địa bàn cư trú phân tán trên một vùng rừng núi hiểm trở, việc giao lưu giữa các vùng M'nông rất khó khăn, hạn chế, đã phân chia cư dân M'nông ra rất nhiều nhóm địa phương. Nhưng các nhóm này vẫn tự nhận một tên gọi chung là Bu-Nông (M'nông).
Những nhóm địa phương của người M'nông có thể kể đến như:
Bu-Nông Gar chủ yếu ở vùng Huyện Lăk, xung quanh hồ Lăk thuộc tỉnh Đắk Lắk và vùng Tây Bắc của tỉnh Lâm Đồng. Tiếng M'Nông Gar là ngôn ngữ gốc của dân tộc M'Nông vì ít bị hòa bởi các ngôn ngữ của các dân tộc khác.
Bu-Nông Preh chủ yếu ở vùng Đăk Min, Krông Nô, Đăk Song của tỉnh Đắk Nông và huyện Lăk của tỉnh Đắk Lắk. Tiếng M'Nông Preh làm ngôn ngữ chính của dân tộc bởi vì người M'Nông Preh nói thì đa số các chủng khác đều hiểu được.
Bu-Nông RLăm (Rolom), ở huyện Lăk, tỉnh Đắk Lắk. Bu-Nông RLăm có sự hòa huyết giữa yếu tố Êđê và Mnông (Người M'Nông lai). Bu-Nông RLăm tập trung quanh hồ Lăk tiếp thu kỹ nghệ làm gốm của người Êđê, kiến trúc nhà sàn dài, trang phục và cả phần lớn yếu tố ngôn ngữ. Có ý kiến cho rằng do sự cộng cư với nhóm Êđê Bih người Mnông RLăm đã chuyển sang trồng lúa nước, làm gốm, dệt chiếu, ở nhà sàn dài và tiếp thu khá nhiều phong tục tập quán Êđê so với các nhóm Mnông khác.
Bu-Nông Čil, cư trú trên địa bàn huyện Lạc Dương, Đức Trọng, Lâm Hà của tỉnh Lâm Đồng và huyện Lăk thuộc tỉnh Đắk Lắk.
Bu-Nông Nông, ở Đắk Nông, Đăk Min tỉnh Đắk Lắk.
Bu-Nông Kuêñ, ở huyện Krông Pách, tỉnh Đắk Lắk.
Bu-Nông Prâng, ở Đắk Nông, dăk Min, Lăk và EA Súp, tỉnh ĐăkLăk
Bu-Nông Bu Đâng, ở Bản Đôn, Đắk Lắk.
Bu-Nông Bu Nor, ở các huyện Đắk Nông, Đăk Min, tỉnh Đắk Lắk.
Bu-Nông Din Bri/ Dăm Bri, ở vùng tả ngạn sông EA Krông, tỉnh Đắk Lắk
Bu-Nông Đip, ở tỉnh Bình Phước và Đắk Lắk.
Bu-Nông Biăt, ở tỉnh Bình Phước và bên kia biên giới Campuchia-Việt Nam.
Bu-Nông Bu Dêh, ở vùng giáp ranh giữa tỉnh Bình Phước và tỉnh Dăk Lăk.
Bu-Nông Si Tô, ở Đăk Song, tỉnh Đắk Nông.
Bu-Nông Kah, ở các huyện Lăk, Đắk Nông, M'Drăk, tỉnh Đắk Lắk.
Bu-Nông Phê Dâm, ở vùng Quảng Tin, huyện Đắk Nông, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra, còn có một số nhóm địa phương khác của người M'nông như: Bu-Nông Rơ Đe, Bu-Nông R'ông, Bu-Nông K'Yiêng... cư trú ở Campuchia.
Do có nhiều nhóm địa phương như vậy, nên cộng đồng dân tộc M'nông (Bu-Nông) có nhiều phương ngữ, nhưng chủ yếu là phương ngữ Bu-Nông miền Đông và phương ngữ Bu-Nông miền Tây; Sự khác nhau giữa các phương ngữ đó là không đáng kể; Giữa các phương ngữ đó đều dễ dàng nghe và hiểu tiếng nói của nhau.
Nhà cửa
Người Bu-Nông có nhà trệt là chính, ngôi nhà trệt của người Bu-Nông khá đặc biệt bởi chân mái thường buông xuống gần đất, nên cửa ra vào có cấu trúc vòm như tổ tò vò.
Ngoài ra nhóm đại phương Bu-Nông RLăm có theo tục dân tộc Êđê chủ yếu là nhà sàn.
Văn hóa
Người Bu-Nông là cư dân nông nghiệp từ lâu đời. Trong sinh hoạt kinh tế truyền thống, phương thức phát rừng làm rẫy (Kăr Mir) chiếm vị trí trọng yếu. Cây lương thực chính của người Bu-Nông là lúa tẻ. Số lượng lúa nếp gieo trồng không đáng kể. Ngoài lúa ra, ngô, khoai, sắn cũng được họ trồng thêm trên rẫy để làm lương thực phụ và nhất là dùng cho chăn nuôi heo, gà...
Công cụ làm rẫy của người Bu-NôngGar, Bu-Nông Čil chủ yếu là: Chà gạc (Wiêh/Wiah), rìu (sung), gậy chọc lỗ (Tak Rmul), cuốc, Wăng Ku Êt (cuốc nhỏ dụng cụ làm cỏ) và Ka Jơ (cái cào) ...
Việc săn thú phát triển ở vùng Bu-Nông Gar, ở địa phương với nhiều kinh nghiệm săn lùng, săn rình và gài cạm bẫy để bắt thú rừng. Đặc biệt là nghề săn bắt và thuần dưỡng voi rừng của người M'nông. Voi rừng săn được, đem về thuần dưỡng biến thành vật nuôi trong gia đình và được dùng làm phương tiện vận chuyển đường rừng rất hữu hiệu. Xưa kia, người M'nông còn dùng voi làm chiến tượng trong chiến tranh bộ lạc...
Việc chăn nuôi gia súc, gia cầm như: trâu, bò, dê, lợn, gà, vịt ở người Bu-Nông Gar, Bu-Nông Čil chủ yếu là dùng vào các lễ hiến sinh mà mỗi năm các gia đình người Bu-Nông thường phải tổ chức nhiều lần theo chu kỳ nông nghiệp cổ truyền và đời sống của họ...
Nhà của người Bu-NôngGar, thường có mái buông chùm gần sát mặt đất, có kiến trúc mái cửa vòm như cửa tò vò, trông rất đẹp mắt.
Thông thường, mỗi ngôi nhà của người Bu-Nông Gar, Bu-Nông Čil ở địa phương là nơi cư trú của nhiều hộ gia đình có quan hệ huyết thống về phía mẹ.
Ở người Bu-Nông Gar, Bu-Nông Čil, ngoài cách nấu cơm bằng những nồi đất nung, họ còn có thói quen ăn món cháo chua vào bữa trưa. Khi đi làm rẫy, cháo chua thường được đựng trong vỏ quả bầu khô mang theo... Thức ăn thông thường của người M'Nông là muối ớt., cá khô, thịt thú ăn được và các loại rau rừng...
Rượu cần, là một nhu cầu phổ biến đối với người Bu-Nông. Nam, nữ, trẻ, già ai cũng thích rượu cần và thuốc lá cuốn...
Xã hội truyền thống của người Bu-Nông còn bảo lưu những dấu ấn khá sâu đậm của chế độ mẫu hệ. Người phụ nữ đóng vai trò chủ động trong hôn nhân. Sau lễ cưới, người con trai thường ở bên nhà vợ. Con cái sinh ra đều theo dòng họ mẹ và quyền thừa kế tài sản đều thuộc về những người con gái trong gia đình.
Người Bu-Nông theo Tin ngưỡng đa thần, đặc biệt là các vị thần nông nghiệp và các vị chư thần giống như các vị thần của người Kơ Ho, người Mạ. Đạo phật, đạo Thiên chúa và nhất là đạo Tin lành cũng đã dần thâm nhập và phát triển vào vùng người Bu-Nông.
Trang phục
Trang phục truyền thống của người đàn ông Bu-Nông ngày xưa là đóng khố, áo chui đầu, hiện nay trang phục này chỉ sử dụng trong các dịp lễ hội.Phụ nữ Bu-Nông mặc váy quấn buông dài trên mắt cá chân. Khố, váy, áo của người Bu-Nông có màu chàm thẫm được trang trí bằng các hoa văn truyền thống, màu đỏ rất đẹp mắt.
Người Bu-Nông thích mang nhiều đồ trang sức như: vòng cổ, vòng tay, vòng chân, hoa tai, nhẫn bằng đồng hay bằng bạc...
Riêng nữ giới còn thích quàng lên cổ những chuỗi hạt cườm ngũ sắc Những chiếc vòng đồng là cái mà hầu như người Bu-Nông nào cũng có. Đó là kỷ vật của các lễ hiến sinh, hay lễ kết nghĩa anh em, bạn bè. Nó còn tượng trưng cho sự giao ước với thần linh thay lời hứa hôn của đôi trai gái theo tập quán cổ truyền của dân tộc?
Tập quán cưa bằng một số răng cửa đối với thanh niên nam, nữ đang trưởng thành và xâu thủng lỗ tai để mang đồ trang sức. Hoa tai thường là một khúc ngà voi, hay một khúc tre vàng óng hay một thỏi gỗ quý. Dái tai của một số lão ông, lão bà có khi xệ xuống chạm vai và như thế được coi là đẹp, là người sang trọng. Cùng với tập tục cà răng, căng tai là tập quán nhuộm răng đen và ăn trầu giống như người Kinh...
Các nhân vật |
Người Ơ Đu, còn có tên gọi khác là người Tày Hạt, là một dân tộc ít người có vùng cư trú là huyện Tương Dương phía tây tỉnh Nghệ An, và Trung Lào.
Từ Ơ Đu là tên tự gọi của dân tộc, và theo tiếng Thái nghĩa là "thương lắm". Họ là một trong những dân tộc ít người nhất của Việt Nam và Lào. Tại Việt Nam người Ơ Đu được công nhận trong số 54 dân tộc tại Việt Nam .
Người Ơ Đu nói tiếng Ơ Đu, ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer trong ngữ hệ Nam Á. Tuy nhiên hầu hết người Ơ Đu dùng các tiếng Khơ Mú, Thái để giao tiếp hàng ngày .
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, họ cư trú tại một bản là Văng Môn, xã Nga My, huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An với 103 hộ và 441 người (2019) .
Theo thống kê dân số vào tháng 4 năm 1999, người Ơ Đu có 301 người. Theo ước tỉnh của Ủy ban dân tộc Việt Nam thì dân số năm 2003 vào khoảng 370 người
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ơ Đu ở Việt Nam có dân số 376 người, có mặt tại 11 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ơ Đu cư trú tập trung tại các tỉnh:
Nghệ An (340 người, chiếm 90,4% tổng số người Ơ Đu tại Việt Nam),
Thành phố Hồ Chí Minh (12 người),
Hà Nội (7 người),
Lâm Đồng (4 người),
Đồng Nai (4 người)...
Tại Lào: theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 194 người Ơ Đu sống tại tỉnh Xiêng Khoảng.Họ tăng lên 969 người vào 2016.
Lịch sử
Xưa kia người Ơ Đu cư trú suốt hai bên bờ sông Nậm Mộ, Nậm Nơn, nhưng do nhiều biến cố lịch sử, họ phải dời đi nơi khác hoặc ở lẫn vào các dân tộc khác. Hiện nay họ sống rải rác trong nhiều bản vùng sâu vùng xa thuộc huyện Tương Dương, tập trung ở hai bản Kim Hòa, Xốp Pột tại xã Kim Đa và một số cư trú lẻ tẻ ở các bản các xã kế cận, thuộc huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An.
Sau khi thủy điện Bản Vẽ được xây dựng, họ tiếp tục di dời đến khu định cư mới tại Bản Văng Môn, xã Nga My, huyện Tương Dương cách nơi ở cũ 30 km về phía Đông.
Ngôn ngữ và văn hóa
Tiếng Ơ Đu thuộc ngữ chi Khơ Mú của ngữ tộc Môn-Khmer. Nhưng hiện nay người Ơ Đu chỉ còn giữ được ý thức tự giác về tộc người, còn ngôn ngữ thì hầu như đã mất (chỉ còn một vài người biết tiếng mẹ đẻ). Họ sử dụng thông thạo tiếng Thái và tiếng Khơ Mú hoặc biết thêm tiếng Việt. Bản sắc văn hóa của người Ơ Đu mờ nhạt vì chịu ảnh hưởng của người Thái và người Khơ Mú. Trong lần tổng điều tra dân số toàn quốc năm 1989, nhiều người Ơ Đu tự khai là người Thái hay người Khơ Mú.
Trang phục không có đặc tính tộc Ơ Đu mà chịu ảnh hưởng khá mạnh mẽ của cư dân Việt - Mường và Thái.
Người Ơ Đu có lịch tính năm riêng, tiếng sấm đầu xuân cũng là thời điểm bắt đầu năm mới.
Họ quan niệm người có hồn, khi chết, hồn biến thành ma, ma nhà chi phối mọi hoạt động của người sống trong nhà.
Cho đến nay, chỉ có một người tốt nghiệp đại học (từ năm 1981): đó là anh Lô Kim Trọng ở bản Kim Hòa, xã Kim Đa, Tương Dương, Nghệ An, làm hiệu trưởng trường trung học cơ sở Kim Đa từ năm 1999.
Đặc điểm kinh tế
Người Ơ Đu sinh sống bằng nương rẫy. Lúa là nguồn lương thực chính, ngô, sắn, kê là lương thực phụ. Hái lượm và săn bắn vẫn chiếm vị trí quan trọng trong đời sống kinh tế của họ. Người Ơ Đu nuôi bò với số lượng không đáng kể nhằm lấy sức kéo. Gà, lợn nuôi thường để sử dụng vào mục đích nghi lễ, cúng bái và cải thiện bữa ăn, nhất là dịp có khách.
Nghề phụ gia đình hầu như chỉ có đan lát đồ gia dụng, gần đây đã có một số gia đình có khung dệt vải.
Hôn nhân gia đình
Người Ơ Đu sống trong gia đình nhỏ, trong hôn nhân có tục ở rể, sau một thời gian chàng rể mới đưa vợ, con về nhà mình. Cũng giống như người Đan Lai (thuộc dân tộc Thổ), người Ơ Đu có tục đẻ ngồi tại góc nhà.
Xưa kia người Ơ Đu không có tên họ, nay lấy tên họ giống của người Lào hoặc Thái, chẳng hạn như các họ Lò Khăm, Lò May, Lò Văn.
Nhà cửa
Người Ơ Đu còn bảo lưu một số nét văn hóa, như kiểu nhà đầu quay vào núi hay đồi. Một ngôi nhà thường có 4 đến 8 cột, tương ứng với 1 hay 3 gian tùy điều kiện từng gia đình. Khi dựng, bao giờ người Ơ Đu cũng dựng cột chính (gọi là cột góc ma nhà ở) trước, sau đó mới đến các cột khác theo thứ tự từ trái sang phải, từ trên xuống dưới.
Ghi chú |
Người Rơ Măm là một dân tộc ít người ở Việt Nam. Tộc người này cư trú chính tại làng Le, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum. Người Rơ Măm là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam .
Ngôn ngữ
Tiếng Rơ Măm thuộc ngữ chi Bahnaric của ngữ tộc Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú
Dân số Rơ Măm tại Việt Nam theo điều tra dân số 1999 là 352 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Rơ Măm ở Việt Nam có dân số 436 người, có mặt tại 7 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Rơ Măm cư trú tập trung tại tỉnh
Kon Tum (419 người, chiếm 96,1% tổng số người Rơ Măm tại Việt Nam), các tỉnh khác có rất ít như
Thành phố Hồ Chí Minh (9 người),
Đồng Nai (3 người)...
Đặc điểm kinh tế
Người Rơ Măm sinh sống bằng nghề làm rẫy, lúa nếp là lương thực chủ yếu. Khi gieo trồng, đàn ông cầm hai gậy nhọn chọc lỗ, đàn bà theo sau bỏ hạt giống và lấp đất, săn bắt và hái lượm vẫn giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Trong số các nghề phụ gia đình, nghề dệt vải phát triển nhất nhưng ngày nay đã suy giảm vì người Rơ Măm đã quen dùng các loại vải công nghiệp bán trên thị trường.
Tổ chức cộng đồng
Đơn vị cư trú của người Rơ Măm là đê (làng), đứng đầu là một ông già trưởng làng do dân tín nhiệm. Làng Le của người Rơ Măm nay chỉ còn khoảng 10 ngôi nhà ở, có cả nhà rông. Mỗi nhà có từ 10 đến 20 người gồm các thế hệ, có quan hệ thân thuộc với nhau. Các cặp vợ chồng dù vẫn sống chung dưới một mái nhà, nhưng đã độc lập với nhau về kinh tế.
Hôn nhân gia đình
Việc cưới xin của gia đình Rơ Măm gồm 2 bước chính: ăn hỏi và lễ cưới. Sau lễ cưới vài ba ngày, vợ chồng có thể bỏ nhau, nhưng khi đã sống với nhau lâu hơn thì họ không bỏ nhau.
Tục lệ ma chay
Khi có người chết, sau 1-2 ngày đưa đi mai táng. Nghĩa địa nằm về phía Tây của làng, các ngôi mộ được sắp xếp có trật tự, khi chôn, tránh để người dưới mộ "nhìn" về phía làng. Người Rơ Măm không bao giờ làm nghĩa địa phía Đông, vì sợ cái chết sẽ "đi" qua làng như hướng đi của mặt trời.
Nhà cửa
Nhà ở đều có hành lang chính giữa, chạy suốt chiều dài sàn, ở trung tâm nhà có một gian rộng là nơi tiếp khách và diễn ra các sinh hoạt văn hóa nói chung của các gia đình.
Trang phục
Có phong cách riêng trong tạo dáng và trang trí trang phục, đặc biệt là trang phục nữ. Người Rơ Măm có tục "cà răng, căng tai". Đến tuổi trưởng thành, trai gái đều cưa cụt 4 hay 6 răng cửa hàm trên. Hiện nay lớp trẻ đã bỏ tục này. Phụ nữ thích đeo khuyên, hoa tai, vòng tay và đeo những chuỗi cườm ở cổ.
Trang phục nam
Nam cắt tóc ngắn ở trần, đóng khố. Vạt trước khố dài tới gối, vạt sau dài tới ống chân. Khố thường dùng màu trắng nguyên của vải mộc. Lưng được xăm hoa văn kín, nhất là những người cao tuổi. Trai gái đến tuổi thành niên phải cưa răng ở hàm trên (4 hoặc 6 chiếc).
Trang phục nữ
Phụ nữ thường để tóc dài búi sau gáy. Áo là loại cộc tay vai thẳng (không khoét cổ như Brâu), thân thẳng, hình dáng gần vuông giống áo Brâu. Áo màu sáng (màu nguyên của sợi bông) các đường viền cổ và cửa tay cộc màu đỏ. Gấu áo có dải băng trang trí (cao 1/4 thân áo) bằng màu đỏ, hoa văn hình học. Váy là loại váy hở màu trắng nguyên sợi bông. Bốn mép váy và giữa thân váy có các đường viền hoa văn màu đỏ với mô típ hoa văn hình học và sọc ngang. Họ thường đeo hoa tai vòng to, nặng xệ xuống. Người khá giả đeo hoa tai bằng ngà voi, người nghèo đeo hoa tai bằng gỗ. Vòng tay là loại bằng đồng nhiều xoắn. Lý do được chọn của trang phục Rơ Măm chính là màu sắc và phong cách trang trí áo, váy phụ nữ.
Ẩm thực
Dân tộc Rơ Măm có món cá gỏi kiến vàng. Người Rơ Măm dùng kiến vàng và trứng để nấu canh, trộn gỏi, xào với thịt thú rừng,…nhưng giữ được hương vị thơm ngon nguyên chất nhất chính là cá gỏi kiến vàng. Kiến vàng có rất nhiều quanh khu vực cư trú của người Rơ Mâm. Khi lấy tổ kiến vàng xuống, người ta đặt một chậu nước phía dưới, lấy gọng dao gõ nhẹ cho kiến rơi xuống chậu, rồi nhẹ nhàng tách đôi, lấy trứng kiến ra để riêng. Trứng kiến vàng màu trắng đục, to bằng hạt gạo, có mùi thơm nhẹ.
Cách làm cá gỏi kiến vàng khá đơn giản: Cá suối bắt loại vừa phải, bằng ba ngón tay, đem về làm sạch, băm nhuyễn, vắt cho cạn nước để đỡ mùi tanh. Kiến vàng và trứng giã sơ qua, để ngoài nắng một lúc cho se lại. Lấy muối hột, ớt xanh, tiêu rừng trộn chung cá với kiến vào, thêm chút thính gạo (bột gạo rang cháy xém), dậy lên mùi thơm. Khi ăn lấy lá sung cuốn lại vừa miếng và thưởng thức, vị ngọt của cá suối hòa vào vị béo của trứng kiến, vị cay xé của tiêu ớt tạo nên món ăn ngon.
Những người Rơ Măm có danh tiếng |
Người Tà Ôi, gồm có 3 nhóm địa phương còn gọi là kan tua, Pa Cô, Ba Hi hay Pa Hi, là một dân tộc cư trú ở miền trung Việt Nam và nam Lào. Tại Việt Nam người Tà Ôi là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam . Theo Điều tra dân số Việt Nam năm 2019 có 52.356 người , thuộc nhóm Tà Ôi Thượng (Upper Ta Oi) theo Joshua Project. Tại Lào theo Joshua Project năm 2019 có 48 ngàn người Tà Ôi Thượng (Upper Ta Oi), 22 ngàn người Tà Ôi Hạ (Lower Ta Oi). Người Tà Ôi nói tiếng Tà Ôi, một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Ka Tu trong ngữ tộc Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á.
Dân số và phân bố
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, theo số liệu điều tra dân số năm 1999 thì người Tà Ôi có số dân khoảng 34.960 người sinh sống tập trung ở khu vực miền núi phía Tây miền trung Việt nam, trong địa phận các huyện A Lưới thuộc tỉnh Thừa Thiên-Huế và hai huyện Hướng Hóa và Đakrông thuộc tỉnh Quảng Trị. Theo ước tính của Ủy ban dân tộc Việt Nam thì dân số năm 2003 khoảng 38.946 người.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Tà Ôi ở Việt Nam có dân số 52.356 người, có mặt tại 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Tà Ôi cư trú tập trung tại các tỉnh:
Thừa Thiên-Huế (34.967 người, chiếm 67,35% tổng số người Tà Ôi tại Việt Nam),
Quảng Trị (16.446 người, chiếm 31,81% tổng số người Tà Ôi tại Việt Nam), Đà Nẵng (237 người)...
Tại Lào
Tại Lào, theo ước tính của Ethnologue thì có khoảng 30.876 người Tà Ôi (Ethnologue ghi là theo điều tra dân số năm 1995 của Lào) sinh sống tại các mường (huyện) Sa Mouay, Ta Oy,... tỉnh Saravan, và mường Nong tỉnh Savannakhet.
Tổ chức cộng đồng
Làng người Tà Ôi theo truyền thống thường có một ngôi nhà công cộng kiểu nhà rông dựng giữa làng: có vùng lại chỉ có ngôi "nhà ma" dựng ngoài rìa khu gia cư để hội tụ dân làng khi có lễ hội và sinh hoạt chung.
Từng dòng họ người Tà Ôi có riêng tên gọi, có kiêng kỵ nhất định, có truyền thuyết lý giải về tên gọi và điều kiêng cữ ấy. Con cái đều lấy họ theo cha, chỉ con trai được thừa hưởng gia tài. Trưởng họ đóng vai trò quan trọng trong cả việc làng.
Người Tà Ôi trước đây làm rẫy là chính, gần đây ở một số nơi họ làm ruộng nước, có vườn cây ăn quả, đào ao thả cá.
Hôn nhân gia đình
Thanh niên nam nữ Tà Ôi tự do tìm hiểu nhau qua tục đi "sim" tình tự nơi chòi rẫy. Họ trao vật làm tin cho nhau, rồi nhà trai nhờ người mai mối. Sau lễ cưới, cô dâu trở thành người nhà chồng. Việc kết hôn giữa con trai cô với con gái cậu được khuyến khích, nhưng nếu trai họ A đã lấy vợ ở họ B, thì trai họ B không được làm rể họ A mà phải tìm vợ ở họ C.
Tục lệ ma chay
Người Tà Ôi có tục người chết được vài năm, dòng họ sẽ tổ chức cải táng, lúc này mới làm nhà mồ đẹp, trang trí công phu và dựng tượng quanh bờ rào mồ.
Văn hóa
Người Tà Ôi có nhiều tục ngữ, ca dao, câu đố, có nhiều truyện cổ kể các chủ đề phong phú: nguồn gốc tộc người, nguồn gốc dòng họ, cuộc đấu tranh giữa kẻ giàu với người nghào, giữa cái thiện với cái ác, tình yêu chung thủy v.v... Dân ca có các điệu Ka-lơi, Ba-boih, Rơin và đặc biệt là điệu Lum Tang Wai (Tiếng Lào: ລຳຕັ່ງຫວາຍ, Tiếng Thái: ลำตั่งหวาย,đọc là lăm tăng vải)
trữ tình. Chiêng, cồng, đàn, sáo, kèn, trống, khèn là những loại nhạc cụ thường gặp ở vùng của người Tà Ôi.
Nhà cửa
Nhà ở của người Tà Ôi là nhà sàn dài phổ biến tại nhiều vùng Trường Sơn - Tây Nguyên. Nhìn bề ngoài, nhà Tà Ôi kể cả nhà sàn và nhà đất đều có nó hình mai rùa và đều có "sừng" trang trí hình hai đầu chim cu tượng trưng cho tình yêu quê hương và tâm tính hiền hòa của dân tộc.
Tổ chức mặt bằng sinh hoạt của nhà ở thống nhất trong toàn dân tộc. Trung tâm của ngôi nhà là căn mong: nơi thờ tự, tiếp khách, hội họp chung của mọi thành viên trong nhà. Diện tích còn lại được ngăn thành từng buồng, chỗ ở và sinh hoạt của các gia đình. Thông thường thì các buồng được bố trí thành hai hàng theo chiều dọc. Ở giữa là hành lang dành để đi lại. Đến nay ở những nhà đất người ta vẫn duy trì bố cục bên trong nhà như vậy.
Trang phục
Cá tính tộc người không rõ nét, nổi bật mà có sự giao thoa của nhiều yếu tố văn hóa khác trên trang phục. Đồ trang sức bằng đồng, bạc, hạt cườm, xương là phổ biến. Tục cà răng, căng tai, xăm mình, để tóc lá bài trước trán đã phai nhạt đi.
Trang phục nam: Nam giới đóng khố, mặc áo hoặc ở trần.
Trang phục nữ: Phụ nữ có áo, váy, có nơi dùng loại váy dài kéo lên che ngực thay áo.
Nhà dài
Sau năm 1975 nhà nước Việt Nam có chủ trương xóa bỏ nhà dài, tách thành những hộ riêng biệt vì vậy cho tới nay nhà dài ở vùng người Tà Ôi không còn nữa. Vào năm 1973 khi chuyển cư về Việt Nam làng A Hươr có 3 ngôi nhà dài. Theo lời kể của những người trong làng: trước đây mỗi họ ở một ngôi nhà dài, những họ đông có tới trên 20 hộ sinh sống trong một nhà dài. Mỗi hộ có tới 5-6 người có bếp lửa
Gian khách được bố trí ở giữa nhà dài, gọi là moong. Hai đầu hồi của nhà đều có cầu thang chính bắc lên nhà. Cầu thang chính thường được dùng để đón khách. Ở mỗi hộ có các cầu thang phụ nhỏ bắc vào sườn nhà đi vào từng hộ. Mỗi hộ có một bếp (apoh) riêng. Tại gian khách cũng bố trí một bếp lửa. Trước đây khi nhà dài có khách đến thăm thì 4 hộ ở xung quanh gian khách là những hộ tiếp khách đầu tiên, sau đó mới đến các hộ tiếp theo lần lượt mang thức ăn đến phòng khách mời khách ăn uống. Đây còn là nơi để cho khách ngủ đêm lại. Những hộ ở gần gian khách có nhiệm vụ thông báo cho các hộ khác để tiếp khách. Khách đến được mời hút thuốc, uống rượu, được mời ăn mía, chuối, lạc, được mang chiếu và gối để ở. Khách ăn cơm có các hộ xung quanh nhà lần lượt mang cơm đến, khách ngủ dậy được mang bầu nước để rửa mặt, sau đó được mời ăn sáng.
Tại những cột nhà dài người ta treo sừng trâu, sừng bò sau mỗi lần gia đình nào đó tổ chức hiến tế. Trước đây người Tà Ôi tại làng có quy định rằng nếu trường hợp một đôi vợ chồng đến thăm làng và nghỉ đêm ở lại chỉ có người chồng được nghỉ ở gian khách còn người vợ sẽ đựợc gửi đến một hộ nào đó để nghỉ. Gian khách của ngôi nhà dài còn là nơi diễn ra các hoạt động chung của làng. Trong phòng khách còn có cây cột to (âr rông mông), nơi để chum rượu lớn buộc vào đó cho chắc chắn.
Tất cả của cải như chum, trống, thanh la, v.v. đều để ở gian khách, không bao giờ xảy ra trường hợp mất hay cầm nhầm. Nếu có việc lớn như tổ chức lễ aja cũng đưa khách về ở gian khách. Gian khách cũng là chỗ thanh niên, ở chỗ đó có chăn chiếu riêng cho thanh niên. Tổ chức việc uống rượu vào dịp khánh thành nhà, cưới xin, mừng con rể, đàn ông vui chơi... đều diễn ra ở gian giữa, đàn bà nấu nướng ở các nơi.
Khi trong nhà có người chết người ta đưa người chết ra bằng lối cửa phụ, không đưa ra lối hành lang vì sợ xui xẻo, bệnh tật ảnh hưởng đến các hộ khác. Khi khách sẽ dọn dẹp đồ đạc trong từng hộ gia đình.
Ở giữa nhà dài là hành lang (ka nang) đi lại dọc theo ngôi nhà dẫn đến từng hộ gia đình. Đây là chỗ thông thoáng không để bất cứ đồ đạc gì trên khoảng không đó, kể cả việc ngồi trên hành lang cũng không được phép, ông già làng là người thường xuyên nhắc nhở công việc đó. Khi một hộ gia đình có con trai lớn lấy vợ mà chưa có điều kiện nối thêm nhà dài thì đôi vợ chồng đó vẫn ở chung với bố mẹ. Ở với cha mẹ chừng một năm khi đã có con cái thì tách khỏi bố mẹ và nối thêm chiều dài của ngôi nhà sau khi xin ý kiến của tập thể. Ví dụ ở ngôi nhà dài hộ A có con lấy vợ, sau đó đôi vợ chồng đó sinh con. Làng sẽ làm thêm một gian ở phía đầu hồi và xin cho hộ kế tiếp với hộ A chuyển dịch ra phía đầu hồi, cứ như thế đối với các hộ tiếp theo. Phụ nữ không được đi theo lối hành lang của ngôi nhà khi vào gian khách trừ khi mang thức ăn cho khách, và không được ăn tại nhà khách.
Ở giữa ngôi nhà dài người Tà Ôi thường làm một cái thang đi lên gian khách. Cầu thang này chỉ có đàn ông và khách mời mới được đi lại, phụ nữ không được phép sử dụng cầu thang này như lối lên.
Phụ nữ khi sinh nở được làm một cái lán nhỏ bằng cách đan một cái sạp bằng tấm liếp quây xung quanh để che chắn gió. Sau khi sinh khoảng một tuần đó cũng là nơi tắm giặt cho sạch sẽ.
Mặt bằng sinh hoạt ngôi nhà dài
Bếp của mỗi hộ sẽ được làm ở giữa nhà, phía trên có một giàn treo, chỗ ngủ của gia đình là sàn nhà. Khi ngủ người ta xoay chân về phía bếp lửa. Cho đến năm 1972 khi làng chuyển về Việt Nam định cư thì cách nằm ngủ của phần lớn người Tà Ôi vẫn như vậy. Củi dùng để nấu nướng hay sưởi ấm được người phụ nữ Tà Ôi kiếm, lượm mỗi khi đi nương rẫy hoặc đi rừng, một vài bó củi đun để xung quanh bếp, phần lớn số củi còn lại để dưới gầm sàn. Sàn nhà cao 1,50 m. Phía dưới sàn người ta quây các chuồng nhỏ để nuôi gia cầm. Kho thóc không được làm gần nhà dài mà được làm ở ngoài bìa rừng, người Tà Ôi sợ hỏa hoạn sẽ làm cho kho thóc cháy sẽ mất nguồn lương thực. Thóc ăn hàng ngày được để trên gác mái nhà dài. Đồ đạc quý hiếm được để trong các Krúh - một loại gùi đan hình trụ có nắp - được đặt gần vách nhà hoặc treo trên mái.
Nhà ở
Nhà ở theo theo lối truyền thống hiện nay rất hiếm, kiểu nhà truyền thống được người Tà Ôi gọi là doang.
Khi chọn được một mảnh đất ưng ý với các tiêu chí như sau: đất bằng phẳng, gần nguồn nước, gần chỗ ở người dân cùng làng, chủ nhà tiến hành việc xem các thần có cho phép mình ở chỗ đất đó hay không. Người ta chọn từ 6 đến 10 hạt gạo rồi đào trên mảnh đất đó một lỗ nhỏ, bỏ gạo vào lỗ đó và thắp hương. Khi hương cháy hết, chủ nhà lấy hạt gạo ra xem. Nếu các thần cho phép dựng nhà ở chỗ đó thì hạt gạo không bị gãy, bị hỏng, trường hợp không được phép hạt gạo sẽ thành bột, bị gãy, vụn.
Nhà người Tà Ôi được dựng ở phía chếch Mặt Trời, khi Mặt Trời lên cao ánh sáng chiếu thẳng vào hướng cửa nhà là không tốt. Trước đây nhà người Tà Ôi được làm trước tháng 6 để tránh mưa gió. Khi dựng cột nhà phải xem giờ, khoảng 4-5 giờ sáng, lúc Mặt Trời chưa mọc, chưa có chim hoặc hoẵng kêu, người Tà Ôi quan niệm thần nhà không thích nhiều tiếng động của chim thú sẽ gây ra rủi ro.
Ngày dựng cột chính, hương được thắp theo lối dân tộc, người ta dùng một cái giỏ có chân bỏ vào: 6 chén, thịt gà. Khi cúng già làng sẽ là người chủ tế, mọi người đứng ở xung quanh. Các trường hợp chuyển nhượng nhà sau khi mua cũng phải làm lễ cúng, ví dụ: nhà Kê Văn Tham mua của Hồ Viên Pả, khi chuyển về ở phải tổ chức lễ cúng, đồ cúng có: gà sống, tấm rèng, chén rượu.
Nhà được làm theo lối cổ truyền có chiều dài 5,40 m chiều rộng 4,20 m, tổng diện tích của nhà là 22,68 mét vuông. Trên một đơn vị diện tích mặt bằng đó bố trí các công năng của nhà như sau: Hai đầu hồi nhà phía đông và phía tây là phía cửa ra vào với cầu thang (kpong) đi lên, cửa chính có chiều cao 1m30 chiều rộng 70 cm. Phía tây có một bếp lửa hình vuông có chiều rộng 1m vuông làm chỗ nấu nướng, trên bếp có để một gác để ngô, sắn và các loại thức ăn. Đối diện với bếp lửa là chỗ nằm của ông chủ nhà có dải một chiếc chiếu làm nơi nằm ngủ. Nhà có 3 cửa sổ (a loang a be) có chiều cao dài 93 cm chiều rộng 66 cm. Nhà ở có 6 cột chính (non) các xà gắn kết với cột chính theo nguyên tắc ngòam, khi dựng nhà người Tà ôi cũng dựng những cột chính này đầu tiên. Sau đó là các xà dọc liên kết tạo thành khung nhà. Tiếp theo là các bộ kèo cột, các đòn tay (ploi). Mái nhà được lợp tranh, vách nhà (ner) được đan bằng lồ ô đập dập đan vào nhau. Nhà ông Quỳnh Vâng làm năm 1997 tại làng là ngôi nhà duy nhất tính đến thời điểm hiện nay được làm theo phương pháp cổ truyền.
Tín ngưỡng
Hồn vía và các siêu linh
Người Tà Ôi quan niệm vạn vật đều có linh hồn, tín ngưỡng đa thần chi phối hầu hết các mặt trong cuộc sống của họ. Trong thế giới thần linh của người Tà Ôi trước tiên phải kể đến hồn.
Trước tiên là hồn, hồn được nằm ở khoảng từ ngực cho đến đầu khi người còn sống. Khi người chết rồi thì cũng chỉ có một hồn (avai ving) và hồn đó lang thang ở nghĩa địa. Khi người chết không bằng lòng với gia đình thì hồn này về quấy phá người sống. Trong các dịp cúng lễ hồn của người chết cũng thường về thông qua những giấc mơ (am bo) của người sống. Theo người Tà Ôi thì hồn được hóa thân như tiếng nói, hoặc hồn có thể tạo ra một sức mạnh tác động đến vật thể khác, ví dụ như hồn có thể về gõ cửa. Người Tà Ôi còn cho rằng người chết sau 3 ngày thì có thể quay trở về đòi của cải nếu không được người sống chia cho. Cũng từ cách suy nghĩ trên mà người Tà Ôi còn dùng cách rải tro ở trước cửa để nhìn thấy dấu chân của hồn về sau khi có người nhà chết. Năm 2003 khi ông Võ Dậu mất, bà Ka Dậu là vợ dùng tro rải trước thềm và thấy ông bước chân của ông in trên tro, đúng là ông đã về. Có nhiều người còn thấy hồn về với tiếng động như rót nước hoặc lấy thức ăn trong nồi. Người Tà Ôi nói sau khi chết 3 ngày, người chết mới thật sự biết mình mất, trước đó thì không biết, như một người mơ ngủ không tỉnh không say. Hồn xấu là những người chết thiêng, nhất là đàn bà chết do sinh nở, chết bị hổ vồ, người chết ở dạng này hay hiện ra mộ kêu khóc và trêu chọc người sống. Người chết có thể về xin các đồ vật như quần áo, gùi, dao... Lúc này gia đình của người chết có thể dùng lá chuối cắt thành hình chữ T thay cho áo, cắt hình chữ V thay cho quần. Người giàu có thì dùng 2 tấm vải vứt ra ngoài và nói tôi đã cho, đừng xin thêm và phải phù hộ cho tôi. Trường hợp không bằng lòng hồn có thể về làm cho người sống đau ốm, hoặc làm các công việc bị mắc nợ, không trôi chảy.
Ma (brau briêu) đây là loại ma rừng có thể phù hộ cho người sống tuy nhiên cũng có thể gây ra ốm đau bệnh tật. Theo người Tà Ôi thì ma brau briêu có thể sai khiến được hổ, rắn, muông thú để làm hại người.
Trước đây hàng năm người Tà Ôi có tổ chức cúng các giàng: trời (abang), thần đất (katek) thần rừng (krúm kaek). Tổ chức cúng trời đất phải 10-12 năm một lần, vì khi cúng phải có trâu. Khi làng giàu có, không có người chết, làng được bội thu tổ chức cúng tạ ơn. Các trường hợp làng bị bão lụt, thiên tai cũng tổ chức cúng thần trời, đất, nhà rông, nhà ở. Khi tổ chức đâm trâu cúng cho trời có 12 loại thức ăn, cúng đất là tám loại thức ăn, cúng cho giàng kmưk là năm loại thức ăn: trâu, lợn, gà, tiết canh, món nướng, món thái, làm canh làm xôi. Cơm được để trong chén và rót nước đót, có chum nhỏ và chén nhỏ rồi thắp hương.
Thần nước (giàng đak)
Thần nước được người Tà Ôi hình dung là một người đàn ông thấp, bé nhỏ có râu tóc bạc phơ. Thần nước còn có thể ban cho người dân nhiều cá ăn, trong truyền thuyết người Tà Ôi kể rằng thần nước tạo ra cá bằng cách bỏ hạt gạo vào lá chuối rồi đưa chỗ suối, những hạt gạo sẽ biến thành cá và người ta sẽ bắt được nhiều cá. Khi ở bên Lào các ông Quỳnh Say, Quỳnh Chay đã từng nhìn thấy thần nước ở chỗ đầu ngọn thác, gọi là Avó còn có nghĩa là bác thể hiện tôn trọng của người Tà Ôi (có thể họ chỉ hình dung như vậy). Thần nước có mối liên hệ đặc biệt với lễ khánh thành bến nước, lần đầu tiên khi làm bến nước, nước được dẫn về làng qua các ống lồ-ô, lúc này không người nào được sử dụng nước. Các trưởng họ và già làng đem con gà còn sống cầu mong cho nước ăn không đau bụng, nguồn nước không bao giờ tắt. Sau khi cúng xong giết gà bên nhà rông và lấy máu chôn ở chỗ có nước. Chỗ cột cuối cùng có vòi nước được làm rất đẹp và chôn máu gà (sôl rtang dak) được làm và sửa hàng năm. Nước lần đầu tiên khi sử dụng dân làng phải làm một con gà, một con lợn, một con dê không cho người làng khác được sử dụng. Lúc đó già làng sẽ làm lễ cúng mời thần nước (aul –avó dak).
Thần chỗ ở gia đình (giàng an teng)
Trước đây người Tà Ôi ở trong những ngôi nhà dài, mỗi gia đình sở hữu một gian trong ngôi nhà dài. Trong khoảng không gian đó người Tà Ôi đều thờ thần chỗ ở gia đình của mình. Thần chỗ ở gia đình thường xuất hiện từ giấc mơ của chủ nhà, khi ngủ người Tà Ôi mơ thấy thần chỗ ở gia đình nhập vào tấm khố, tấm rèng hay bất cứ đồ vật nào thì người ta sẽ bỏ đồ vật đó vào cái kang (một loại gùi được đan đặc biệt) và để ở góc nhà. Chủ nhà sẽ làm một con gà để làm lễ cúng nhập giàng an teng vào hộ gia đình mình. Kể từ thời điểm đó, bất cứ gia đình có công việc gì như đám ma, đám cưới, cúng thần rừng, thần nước thì đều tiến hành cúng thần nhà. Đặc biệt trong mỗi dịp gia đình có hoàn thành một công việc gì người ta đều cho rằng có sự trợ giúp của thần chỗ ở gia đình, trong các dịp bình thường khi cúng thì không cần mở kang có đồ vật mà giàng đã nhập vào. Trong năm chỉ có dịp dân làng tổ chức aja thì hộ gia đình đó mới mở kang để lấy đồ vật ra cúng, thường đồ vật này được mang ra nhà rông để làm lễ cúng. Khi kang-chỗ ngự trị của thần chỗ ở gia đình được đặt ở góc nhà khi làm lễ cúng, chủ nhà thường để cơm, gạo, thịt phía trước kang để cúng.
Thần nhà dài (giàng đanh)
Trong ngôi nhà dài có nhiều hộ gia đình sinh sống thì thần nhà dài (giàng đeng) ngự ở gian khách. Chủ nhà dài sẽ làm một cái nhà nhỏ để thần nhà ngự ở trong đó và treo ở dưới nóc nhà. Trong gia đình có người bị đau ốm hay xảy ra bất cứ công việc gì người ta cúng thần gia đình xong thì đều cúng thần nhà dài. Khi làng có dịp gì chủ nhà dài đều cúng thần nhà dài, trước đây có quy định các hộ trong nhà dài khi ăn dê, trâu, bò đều phải cầu cúng cho thần nhà dài được biết.
Thần hổ (giàng avó)
Trong hệ thống thú rừng của người Tà Ôi, con hổ được coi là con vật có sức mạnh nhất. Hổ được người Tà Ôi coi như vị thần bảo hộ cho làng. Việc bắt được hổ theo quan niệm của người Tà Ôi được ví như món quà tặng của thần rừng. Xuất phát từ giấc mơ ngẫu nhiên, trong làng có người làm loại bẫy to (tì hò), người chủ bẫy về đến nhà mơ thấy con hổ (a vó bok) báo mộng, khi đó người chủ bẫy mơ thấy hổ xin ở lại với làng. Khi hổ mắc bẫy người ta tổ chức cúng thần rừng với các đồ vật hiến tế như sôl, leo, chuẩn bị hạt mã não, tấm rèng. Việc tổ chức cúng tạ ơn thần rừng được làm chu đáo, sau đó người ta mới cắt đầu hổ rồi mang về làng. Một nhóm thanh niên làm nhà mồ cho hổ (ping a vó), khi làm xong nhà mồ thì chưa đặt đầu hổ vào bên trong. Làng tổ chức lễ hiến sinh bằng cách giết thịt một con dê, một con gà, một con lợn để khánh thành ngôi nhà mồ đó. Các đồ cúng được đặt trong mâm để trong nhà mồ. Chủ làng sẽ nói: hổ muốn ở lại làng phải bảo vệ làng không được để cho người chết, khi có xung đột, chiến tranh giữa các làng khác phải thông báo sớm qua giấc mơ. Nếu có người phá phách hoặc đốt làng, phải phạt người đó. Khi tiến hành việc cúng đầu hổ không cho phụ nữ mang thai vào nhà mồ, người khách lạ cũng không được vào. Nếu khách ở làng khác đến chơi phải báo trước cho chủ làng.
Hàng năm người ta vẫn đến tiến hành thăm nhà mồ có đầu hổ. Trong các thôn của xã Nhâm chỉ có làng Nhâm I còn có tục thờ thần hổ, làng Ka Linh, Tà Kêu trước đây ở bên Lào cũng có. Từ chiến tranh chống Mỹ cho đến nay người ta không còn giữ thủ tục này.
Vị trí của ngôi nhà mồ dành riêng cho hổ được chôn ở phía trên nhà mồ của người, không ai có quyền vào khu nhà mồ của hổ. Nhà mồ của hổ được rào bằng đá xung quanh. Ở giữa ngôi nhà mồ người ta để hòn đá, trên hòn đá người ta đặt chiếc đầu hổ, người ta cũng chia cho hổ các vật dụng như: vòng tay, bát đựng thức ăn, tấm rèng, sừng trâu, bò, hàm răng lợn. Các loại đồ thờ cúng này ông già làng phải phân bổ cho các hộ chuẩn bị.
Hàng năm khi người Tà Ôi tiến hành tổ chức ăn năm mới, hay cúng khánh thành nhà rông, thần hổ đều được chia phần, khi tuốt lúa mới phải thổi cơm dành phần cho thần hổ ăn. Một năm tổ chức vệ sinh cho khu nhà mồ hổ một lần, khách ngoài làng không được phép vào trong khu nhà mồ đó. Việc thờ đầu hổ xuất phát từ niềm tin rằng hổ sẽ báo mộng cho người ta biết làng sắp gặp chuyện chiến tranh, mất mùa, có dịch bệnh. Các điềm báo xấu đó thông qua giấc mộng đến với người trong làng. Trước đây ở bên Lào có nhiều trường hợp một làng thờ đến 2 đầu hổ.
Những người Tà Ôi có danh tiếng |
Người Xinh Mun, còn gọi người Puộc, người Pụa là một dân tộc ít người, sinh sống ở bắc Việt Nam và Lào.
Tại Việt Nam người Xinh Mun được công nhận trong số 54 dân tộc tại Việt Nam .
Ngôn ngữ
Tiếng nói của người Xinh Mun là tiếng Puộc (tiếng Xinh Mun, Ksingmul), thuộc ngữ chi Khơ Mú trong ngữ tộc Môn-Khmer, ngữ hệ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Việt Nam
Tại Việt Nam, họ được công nhận là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Dân số của dân tộc này có khoảng 18.018 người (điều tra dân số 1999).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Xinh Mun ở Việt Nam có dân số 23.278 người, có mặt tại 22 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xinh Mun cư trú tập trung tại tỉnh
Sơn La (21.288 người, chiếm 91,5% tổng số người Xinh Mun tại Việt Nam) cư trú chủ yếu ở các huyện biên giới giáp Lào là Yên Châu và Sông Mã.,
Điện Biên (1.926 người) chủ yếu tại xã Chiềng Sơ, huyện Điện Biên Đông,
Đồng Nai (10 người),
Nam Định (10 người),
Hà Nội (10 người)...
Tại Lào
Tại Lào, họ được gọi là người Puộc, với dân số khoảng 2.146 người (theo Ethnologue) vào năm 1985.
Cư trú
Người Xinh Mun cư trú chủ yếu ở vùng biên giới Việt-Lào và ven sông Mã thuộc hai tỉnh Sơn La và Lai Châu của Việt Nam và tỉnh Xiêng Khoảng cùng Huaphan của Lào.
Đặc điểm kinh tế
Người Xinh Mun sống chủ yếu bằng nghề làm nương rẫy, trồng lúa nếp và ngô là chính. Có loại nương chọc lỗ tra hạt giống, có nương dùng cuốc và có nương dùng cày để canh tác. Một số nơi có ruộng nước. Trước kia người Xinh Mun nuôi trâu, dê, lợn... thả rông, nay nhiều bản đã làm chuồng xa nhà cho súc vật. Hái lượm và săn bắn góp phần quan trọng cho đời sống của họ. Nghề đan lát khá phát triển, đồ đan đẹp và bền, họ thường đổi đồ đan cho người Thái, người Lào để lấy một phần đồ mặc và đồ sắt. Người Xinh Mun có tập quán ăn trầu, nhuộm răng đen, uống rượu cần, thích gia vị cay.
Tổ chức cộng đồng
Trước kia người Xinh Mun sống du canh, du cư, nay họ đã sống ổn định và lập những làng đông đúc. Người Xinh Mun đa số mang họ Lò, họ Vi. Mỗi họ đều có kiêng cữ riêng. Các con theo họ cha. Trong nhà, khi người cha chết, thì con trai cả giữ vai trò quan trọng.
Hôn nhân gia đình
Trong hôn nhân, nhà trai phải đưa tiền cho nhà gái. Sau lễ dạm, lễ hỏi mới đến lễ đi rể, thường sau vài ba năm lúc cô dâu chú rể đã có vài ba con, nhà trai mới tổ chức đón dâu về. Kể từ lễ đi ở rể, đôi vợ chồng phải đổi tên riêng của mình, lấy chung một tên khác do cậu, bố mẹ vợ hay thầy cúng đặt cho.Phụ nữ Xinh Mun thường đẻ tại nhà. Khi con gần đầy tháng, cha mẹ nhờ thầy cúng đặt tên.
Tục lệ ma chay
Khi có người chết, người nhà bắn súng báo tin cho dân làng biết. Người Xinh Mun không có tục cải táng, tảo mộ...
Nhà cửa
Người Xinh Mun ở nhà sàn, mái hình mai rùa, có hai thang lên xuống ở hai đầu hồi.
Trang phục
Không có cá tính dân tộc mà chịu ảnh hưởng trang phục Thái đen (giống người Kháng). |
Người Xơ Đăng hay Xê Đăng, còn có tên gọi khác là Sedang, Cà Dong, Sơ-drá, Hđang, Mơ-nâm, Hà Lăng, KmRâng, Bri La, Tang, Tà Trĩ, Châu, Con Lan, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam .
Tiếng Xơ Đăng là ngôn ngữ thuộc Nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer của ngữ hệ Nam Á.
Dân số và địa bàn cư trú
Người Xơ Đăng cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam. Người Xơ Đăng có quan hệ gần gũi với người Giẻ Triêng, người Co, người Hrê và người Ba Na.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Xơ Đăng ở Việt Nam có dân số 212.277 người, có mặt tại 41 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xơ Đăng cư trú tập trung tại tỉnh:
Kon Tum (133.117 người, chiếm 24,4% dân số toàn tỉnh và 61,8% tổng số người Xơ Đăng tại Việt Nam),
Quảng Nam (47.268 người, chiếm 22,4% tổng số người Xơ Đăng tại Việt Nam),
Quảng Ngãi (19.690 người),
Đắk Lắk (9.818 người),
Gia Lai (964 người)...
Người Xơ Teng
Người Xơ Teng hay Xơ Đeng là nhánh lớn nhất của dân tộc Sê Đăng, ngôn ngữ là tiếng Xơ Teng. Họ cư trú ở huyện Ngọc Hồi, Đắk Tô, Đắk Hà và Tu Mơ Rông.
Người Hà Lăng
Người Hà Lăng hay Selang là một nhánh của dân tộc Sê Đăng, dân số khoảng 20,000 người, ngôn ngữ là tiếng Hà Lăng. Họ cư trú chính ở huyện Tu Mơ Rông và huyện Đăk Glei, Kon Tum.
Người Mơ Nâm
Người Mơ Nâm nói tiếng Mơ Nâm, là một nhánh của dân tộc Sê Đăng, họ chủ yếu cư trú tại huyện miền núi Kon Plong, tỉnh Kon Tum.
Người Ca Dong
Người Ca Dong nói tiếng Ca Dong, sinh sống lâu đời tại vùng chân núi Ngọc Lĩnh ở hai huyện Nam và Bắc Trà My thuộc tỉnh Quảng Nam và huyện Sơn Tây tỉnh Quảng Ngãi.
Người Sơ Drá
Người Sơ Drá hay S'drá nói tiếng Sơ Drá, sinh sống ở Kon Tum hiện nay có khoảng 17,424 người, sống tập trung ở các xã Đăk Ui, Ngọk Réo (huyện Đăk Hà) và Đăk Kôi, Đăk Tờ Lùng (huyện Kon Rẫy).
Các nhánh khác
Ngoài ra còn có nhóm Kon H'ring sinh sống tại phía Tây Nam thành phố Kon Tum. Nhóm Ta Kua (Kơ Tua) tại Tu Mơ Rông và Nam Trà My, Quảng Nam.
Đặc điểm kinh tế
Người Xơ Đăng làm rẫy là chính. Nhóm Mơ-nâm làm ruộng nước nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát đất. Họ chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ-dra có nghề rèn từ quặng sắt rất phát triển và nổi tiếng.
Tổ chức cộng đồng
Mỗi làng Xơ Đăng có nhà rông, có bãi mộ chôn người chết... Nhà cửa của dân làng quây quần bên nhau, mọi người gắn bó giúp đỡ nhau. Ông "già làng" được trọng nể nhất, là người điều hành mọi sinh hoạt chung trong làng và đại diện của dân làng.
Hôn nhân gia đình
Tên của người Xơ Đăng không có họ kèm theo, nhưng có từ chỉ định giới tính: nam là A, nữ là Y (ví dụ như là A Nhong, Y Hên). Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng theo phong tục (ngày nay ít người còn theo phong tục này), được tìm hiểu, yêu nhau. Lễ cưới xin đơn giản. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng gia đình mỗi bên ít năm, rất ít trường hợp ở hẳn một bên.
Văn hóa
Trong số các lễ cúng, lễ hội truyền thống của người Xơ Đăng, lễ đâm trâu được tổ chức long trọng nhất, đông vui nhất. Người Xơ Đăng thích hát múa, tấu chiêng cồng, chơi đàn, kể chuyện cổ. Đàn ông không chỉ có tinh thần thượng võ, mà còn tài nghệ trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tạo nên những sản phẩm tiêu biểu, đó là ngôi nhà rông và cây nêu trong lễ đâm trâu.
Mỗi làng người Xơ Đăng đều có nhà rông, nóc và mái được tạo dáng như cánh buồm lớn hoặc lưỡi rìu khổng lồ ngửa lên trời. Có hình chim chèo bẻo hay hình sừng thú chót vót ở hai đầu đốc. Nhà rông được dân làng tạo dựng nên hoàn toàn bằng thảo mộc có sẵn ở địa phương. Kỹ thuật xây dựng chỉ là lắp ghép và chằng buộc, không hề dùng đến đinh sắt, dây thép... Nhà rông thực sự là công trình kiến trúc, một sản phẩm văn hóa, là trụ sở và câu lạc bộ trong làng của người Xơ Đăng.
Người Xơ Đăng có sự đối xử bình đẳng giữa nam và nữ, không phân biệt giữa con riêng và con chung, con đẻ và con nuôi, con của mình và con của anh em họ. Quan hệ làng bản khá đoàn kết, có tục kết nghĩa với người cùng tuổi hoặc cùng tên. Con cháu cùng họ không được phép kết hôn với nhau.
Trang phục
Tấm choàng của phụ nữ Xơ Đăng được dệt từ những sợi bông với nhiều màu sắc khác nhau, trong đó màu đen là chủ thể.
Xơ Đăng là 1 trong 47 dân tộc sinh sống ở vùng đất Tây Nguyên với truyền thống văn hóa đặc sắc, trong đó có những nét đẹp trên trang phục. Nghề dệt thổ cẩm truyền thống, đồng bào Xơ Đăng đã có từ lâu đời, góp phần lưu giữ những nét đặc trưng nhất trên trang phục của dân tộc Xơ Đăng.
Trong 5 nhóm địa phương thì ngoài nhóm đồng bào Ca Dong thì các nhóm chính của dân tộc Xơ Đăng như Xơ Teng, Tơ Đrá, Mơ Nâm, Hà Lăng, đều có nghề dệt thổ cẩm truyền thống. Khung cửi của đồng bào Xơ Đăng nói chung cũng giống như khung dệt của đồng bào Ba Na hay Gia Rai. Họ chủ yếu dệt vải khổ hẹp từ 30 – 40 cm, nhưng cũng có khi dệt khổ vải rộng tới 80 cm. Nhờ nghề dệt, đồng bào dân tộc Xơ Đăng vẫn giữ được các loại hình trang phục với những nét đặc trưng theo từng nhóm địa phương. Các dân tộc khác ở Tây Nguyên thường có màu đen và màu chàm nhưng trang phục của đồng bào Xơ Đăng là màu chàm. Nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc Tây Nguyên, bà Lương Thanh Sơn, cho biết: Kiểu trang phục của đồng bào Xơ Đăng khá giống với trang phục của các dân tộc ở khu vực Tây Nguyên: "Cũng như các dân tộc khác ở Tây Nguyên, trang phục của đồng bào Xơ Đăng thường có màu đen và màu chàm. Hoa văn trên trang phục chủ yếu được trang trí xung quanh áo, váy".
Trang phục đậm chất Tây Nguyên của dân tộc Xơ Đăng là các loại khố, áo của đàn ông; áo chui đầu tay áo được khoét sát nách và váy quấn của phụ nữ, khăn đội đầu, tấm choàng, tấm địu trẻ em. Trang phục truyền thống của đồng bào Xơ Đăng thì nam giới đóng khố, cởi trần. Khố là một tấm vải dài, khổ hẹp luồn qua háng, quấn quanh thắt lưng, thả mành mành hai đầu buông dài trước và sau đến gần cổ chân. Trong các lễ hội, trang phục của người đàn ông quấn thêm một tấm vải quấn chéo trên ngực, nhìn như một chiến binh đang ra trận. Nhà nghiên cứu văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, bà Linh Nga Nie KĐăm, cho biết: "Mỗi dân tộc ở Tây nguyên có nét riêng về trang phục và có đặc trưng riêng. Dân tộc của người Jalai, Chu ru thì tay dài, váy dào, hoa văn chỉ ở gấu áo, trên ngực.. Người Xơ Đăng lại mặc váy cộc, áo cộc. Hoa văn dày đặc hơn".
Một bộ trang phục truyền thống của phụ nữ Xơ Đăng gồm có: áo, váy và tấm choàng (khăn vai). Áo là kiểu áo chui đầu, không có tay. Tấm choàng hay còn gọi là khăn vai của phụ nữ Xơ Đăng được dệt từ những sợi bông với nhiều màu sắc khác nhau, chủ yếu là màu đen. Bà Y Mon, xã Đak Ang, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, cho biết: "Trang phục ngày xưa của dân tộc Xơ Đăng là áo trắng, váy đen và có một dây buộc ở bụng. Thường thì bây giờ chúng tôi mua vải dệt về tự may trang phục".
Các thiếu nữ Xơ Đăng đến tuổi trưởng thành thường dùng tấm choàng khoác qua người như một dấu hiệu cho những chàng trai biết mình chưa xây dựng gia đình để có thể trò chuyện, tìm hiểu. Khi về nhà chồng, người con gái đem theo tấm choàng và giữ gìn như một vật kỷ niệm quý giá của thời con gái. Tấm choàng của phụ nữ Xơ Đăng được dệt từ những sợi bông với nhiều màu sắc khác nhau, trong đó màu đen là chủ thể. Để có tấm choàng, họ dệt tấm vải với kích thước cần dùng sau đó ghép 2 tấm lại. Trên mặt phải của tấm choàng được trang trí hoa văn hình quả trám xen kẽ với các dải màu đen, trắng, đỏ. Phụ nữ Xơ Đăng cũng thích đeo đồ trang sức bằng cườm đá nhiều màu sắc ở thắt lưng, cổ tay, cổ chân, đeo vòng đồng, vòng bạc trên cổ và khuyên tai.
Dù cuộc sống có nhiều đổi thay, đời sống phát triển, người Xơ Đăng có nhiều lựa chọn để may, mặc các bộ trang phục khác. Tuy nhiên trong các dịp lễ hội, đồng bào Xơ Đăng vẫn khoác trên mình những bộ trang phục truyền thống, để giữ gìn nét văn hóa và bản sắc của dân tộc mình.
Các nhân vật |
Người Xtiêng hay còn gọi là người Stiêng hay Giẻ Xtiêng (không nhầm với người Giẻ Triêng) là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam.
Người Xtiêng nói tiếng Xtiêng, một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer trong ngữ hệ Nam Á. Ngôn ngữ thứ hai là ngôn ngữ phổ thông quốc gia nơi họ cư trú, là tiếng Việt hoặc tiếng Khmer.
Dân số và địa bàn cư trú
Dân tộc Xtiêng có dân số khoảng 66.788 người (1999), cư trú tập trung tại một số huyện thuộc các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Tây Ninh (chiếm trên 99,3%).
Tại Campuchia có khoảng 6.500 người Xtiêng, theo Điều tra dân số Campuchia năm 2008. (Xem: Khmer Loeu).
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, người Xtiêng ở Việt Nam có dân số 100.752 người, có mặt tại 34 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xtiêng cư trú tập trung tại tỉnh Bình Phước (81.708 người, chiếm 95,6% tổng số người Xtiêng tại Việt Nam), Tây Ninh (1.654 người), Đồng Nai (1.269 người), Lâm Đồng (380 người), Bình Dương (153 người)...
Đặc điểm kinh tế
Về hình thái kinh tế, có thể tạm chia dân tộc này thành hai nhóm là nhóm Bù Đéc ở vùng thấp, biết làm ruộng nước và dùng trâu, bò kéo cày từ khá lâu và nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ yếu, sống gần gũi với người M'Nông, người Mạ.
Thức ăn chủ yếu của họ là gạo, rau, cá, tôm. Trước đây người Xtiêng thường ăn bằng tay nhưng gần đây đã ăn bằng bát đĩa. Họ hay dùng rượu cần trong dịp hội hè.
Tổ chức cộng đồng
Ngày nay người Xtiêng ở nhiều nơi đã định canh định cư, từng gia đình làm nhà ở riêng. Họ Điểu là họ phổ biến khắp vùng Xtiêng. Làng Xtiêng có truyền thống tự quản, đứng đầu là một già làng am hiểu tập tục, có uy tín lớn, tháo vát và thường là người giàu có ở làng. Mức giàu được tính bằng tài sản như: trâu, bò, chiêng, cồng, ché, vòng, trang sức và còn rất nhiều thứ khác nữa
Người Xtiêng ưa thích âm nhạc, nhạc cụ thường thấy nhất là bộ chiêng sáu cái. Chiêng không được gõ ở ngoài nhà, trừ ngày lễ đâm trâu. Chiêng dùng trong hội lễ, cả trong bộc lộ tình cảm, hòa giải xích mích giữa các gia đình. Ngoài chiêng còn có cồng, khèn bầu cũng được người Xtiêng ưa thích. Cuối mùa khô, họ hay chơi thả diều.
Hôn nhân gia đình
Người Xtiêng lấy vợ, lấy chồng khác dòng họ. Thông thường con trai từ tuổi 19-20, con gái từ tuổi 15-17 bắt đầu tìm bạn đời.Tùy theo vùng miền mà các chàng trai người Xtiêng lấy vợ lấy chồng sẽ ở rể hoặc về nhà chồng; các khu vực Phước Long; Phú Riềng; Bù Gia Mập; Bù Đăng...sau khi lấy nhau con gái sẽ về nhà chồng. Khu vực Bình Long; Hớn Quản... con trai sẽ ở rể.
Nhà cửa
Nhà ở của người Xtiêng không đồng nhất giữa các khu vực. Chẳng hạn ở Bù Lơ người Xtiêng sống trong nhà đất dài với gia đình lớn theo chế độ phụ hệ; ở Đắc Kia người Xtiêng cư trú trong nhà sàn, nha nua va nhà đất ngắn với gia đình nhỏ; ở Bù Đeh người Xtiêng lại sống trong nhà sàn dài với gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ.
Bộ khung nhà người Xtiêng dù nhà sàn hay đất đều trên cơ sở vì hai cột (không có kèo). Căn cứ vào cấu tạo của bộ khung nhà đất của người Xtiêng hiện nay còn thấy thì nhà đất của người Xtiêng là rất thô sơ. Nhà đất của người Xtiêng chỉ như là một cái chòi, mái được kéo gần sát mặt đất. Cửa ra vào rất thấp, mở ở hai đầu hồi và một cửa ở mặt trước nhà, mái trên cửa cũng phải cắt bớt hoặc làm vòng lên như ở nhà người Mạ.
Trang phục
Trang phục của người Xtiêng khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Mùa đông người ta choàng một tấm vải để chống rét. Người Xtiêng để tóc dài búi sau gáy, tai xâu lỗ, hoa tai bằng gỗ, ngà voi và xăm mặt, xăm mình với những hoa văn giản đơn. Mọi người nam, nữ, già, trẻ đều thích đeo các loại vòng. Trẻ em nhỏ đeo lục lạc ở hai cổ chân.
Người Xtiêng có danh tiếng |
Người Pà Thẻn hay Pá Hưng, còn viết là Pạ Hung, là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam. Tại Trung Quốc, người Pá Hưng không được xếp vào dân tộc riêng mà được coi là một nhánh của người Miêu.
Người Pà Thẻn tự gọi mình là "Pạ Humg" nghĩa là "Tám vị anh hùng" hay gọi là "Bát Hùng" của "Tám dòng họ(Xìn(Sìn) phát âm "Cạ Cumg hoặc Cạ Sợ", Làn "Cạ Lan", Ván(Vắn) "Cạ Tè", Hủng(Húng) "Cạ Hũmg", Lừu(Lìu, Liều) "Cạ Lioo", Phù "Cạ Bôz", Tẩn "Cạ Tíи" và Tải(Tái) "Cạ Tơ".
Ngôn ngữ
Tiếng Pà Thẻn thuộc Hệ ngôn ngữ H'Mông-Miền.
Dân số và địa bàn cư trú
Dân số người Pà Thẻn theo tổng điều tra dân số năm 2019 là 8.248 người , sống tập trung tại một số xã như Xã Tân Bắc (thôn My Bắc, thôn Nậm O, thôn Nậm Sú, thôn Nậm Khảm); xã Tân Trịnh (thôn Tả Ngảo, thôn Mác Thượng); xã Yên Thành (thôn Pà vầy sủ, thôn Đồng Tiến, thôn Thượng Sơn); xã Yên Bình (thôn Hạ Sơn, thôn Thượng Bình); xã Tân Nam (thôn Khâu Làng); xã Xuân Minh (thôn Lùng Lý) thuộc huyện Quang Bình và xã Tân Lập (thôn Minh Thượng và thôn Minh Hạ); xã Hữu Sản thuộc huyện Bắc Quang của tỉnh Hà Giang và tỉnh Tuyên Quang.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Pà Thẻn ở Việt Nam có dân số 6.811 người, có mặt tại 32 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Pà Thẻn cư trú tập trung tại các tỉnh:
Hà Giang (5.771 người, chiếm 84,7% tổng số người Pà Thẻn tại Việt Nam),
Tuyên Quang (877 người),
Đồng Nai (27 người),
Thái Nguyên (25 người),
Hà Nội (20 người)...
Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01 tháng 4 năm 2019, người Pà Thẻn có 8.248 người, trong đó số người ở thành thị là 865 người, số người ở nông thôn là 7.383 người. Người Pà Thẻn cư trú chủ yếu là khu vực Trung du và miền núi phía Bắc với 7.856 người, địa bàn tỉnh Hà Giang có 6.502 người, tỉnh Tuyên Quang có 1.258 người, tỉnh Bắc Ninh là 183 người, Hà Nội là 28 người.
Đặc điểm kinh tế
Người Pà Thẻn sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa nước, làm nương, rẫy, chè Shan tuyết. Lúa, ngô là cây lương thực chính.
Về dịch vụ: phát triển du lịch sinh thái kết hợp văn hóa cộng đồng tại địa phương, Làng văn hóa du lịch cộng đồng Pà thẻn tại thôn My Bắc, du lịch sinh thái tại thôn Minh Hạ xã Tân Lập, huyện Bắc Quang.
Tổ chức cộng đồng
Các bản của người Pà Thẻn thường tập trung ven suối, thung Lũng hoặc triền núi thấp. Có làng đông tới 150-250 nóc nhà.
Hôn nhân gia đình
Dân tộc Pà Thẻn có nhiều dòng họ. Những người cùng họ coi nhau như những người thân thích có chung một tổ tiên, không được lấy nhau. Người Pà Thẻn có tục ở rể tạm thời, nếu gia đình không có con trai mới lấy rể về ở hẳn. Người ở rể phải thờ ma họ vợ, con cái theo họ bố nhưng thờ họ vợ.
Văn hóa
Sinh hoạt văn hóa dân gian của dân tộc Pà Thẻn khá phong phú, thể hiện qua kho tàng truyện cổ tích, các làn điệu dân ca, hát ru, các điệu nhảy múa, các loại nhạc cụ (khèn bè, đàn tầy nhậy, sáo trúc...).
Nhà cửa
Nhà ở của người Pà Thẻn có ba loại: nhà sàn, nhà nền, nhà đất và nhà nửa sàn nửa đất.
Trang phục
Có đặc điểm tộc người đậm nét khác phong cách các dân tộc cùng nhóm ngôn ngữ hay khu vực.
Cái độc đáo của trang phục Pà thẻn là ở trang phục nữ, được biểu hiện ở lối tạo dáng áo dài, cách dùng màu và lối mặc, tạo nên một phong cách riêng.
Trang phục nam:
Nam thường mặc áo quần màu chàm. Đó là loại áo cánh ngắn xẻ ngực, quần lá tọa, giống phong cách trang phục các dân tộc Tày,...
Trang phục nữ:
Phụ nữ Pà thẻn đội khăn màu chàm quấn thành nhiều vòng trên đầu. Đó là lối đội khăn chữ nhất quấn thành mái xòe rộng như mũ, hoặc lối đội khăn hình chữ nhân giản đơn hơn cũng tạo thành mái nhơ ra hai bên mang tai. Áo có hai loại cơ bản là áo ngắn và áo dài. Áo ngắn xẻ ngực, cổ thấp, màu chàm, cổ làm liền với hai vạt trước. Áo này thường mặc với váy rộng nhiều nếp gấp, màu chàm. Áo dài là loại xẻ ngực, có thể gọi là áo lửng, cổ thấp liền hai vạt trước, khi mặc vạt phải đè chéo lên vạt trái, phía dưới của vạt phải nhọn xuống tạo thành vạt chính của thân trước. Ông tay và toàn bộ thân áo được trang trí với lối dùng màu nóng sặc sỡ. Áo này mặc với váy hở dệt thuê hoa văn đa dạng (hình thập ngoặc, hình quả trám...). Giữa eo thân áo được thắt dây lưng là loại được dệt thuê hoa văn. Phụ nữ ưa mang nhiều đồ trang sức vòng cổ, vòng tay,... Cùng với áo và váy, phụ nữ có a thứ (vừa giống cái yếm vừa giống tạp dề). Nó được mang như mang tạp dề nhưng không có công dụng như tạp dề. Màu sắc chủ yếu trên phụ nữ là đỏ, đen, trắng. Hoa văn chủ yếu được tạo ra bằng dệt. |
Người Cờ Lao, các tên gọi khác Gelao, Ke Lao, tên tự gọi: Klau ( hay người Ngật Lão, ) là một dân tộc cư trú ở vùng nam Trung Quốc và bắc Việt Nam. Họ là một trong số 54 dân tộc Việt Nam và 56 dân tộc Trung Quốc được công nhận một cách chính thức.
Tổng số người Cờ Lao tại hai quốc gia này khoảng 438.200-594.000 người (theo các nguồn khác nhau). Dân tộc Cờ Lao chủ yếu sinh sống tại khu vực phía tây tỉnh Quý Châu, Trung Quốc. Một số ít sinh sống tại các tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Tứ Xuyên. Tại Việt Nam theo Điều tra dân số năm 2019 có 4.003 người , sinh sống tại các huyện Đồng Văn và Hoàng Su Phì thuộc tỉnh Hà Giang. Tín ngưỡng chính là đa thần, thờ phụng tổ tiên.
Ngôn ngữ
Tiếng Cờ Lao thuộc về hệ ngôn ngữ Tai-Kadai, nhưng ngày nay chỉ còn rất ít người Cờ Lao còn nói được thứ tiếng này. Do các phương ngữ Cờ Lao khác nhau rất nhiều, nên tại Trung Quốc, tiếng Quan Thoại đã được sử dụng như là ngôn ngữ chung (lingua franca) và hiện nay là thứ tiếng chung được nhiều người Cờ Lao sử dụng. Các tiếng H'Mông, Di và Bố Y cũng được sử dụng. Tiếng Cờ Lao không có bảng chữ cái riêng. Các ký tự của tiếng Trung được người Cờ Lao tại Trung Quốc sử dụng để thay thế.
Trang phục
Quần áo truyền thống của đàn ông bao gồm áo vét và quần dài. Phụ nữ mặc áo vét ngắn và váy hẹp được chia thành ba phần: phần trên được may tỉ mỉ bằng len đỏ trong khi hai phần còn lại là vải được viền các màu đen và trắng. Cả đàn ông lẫn đàn bà đều dùng khăn quàng cổ dài.
Tại Việt Nam
Về tộc danh thì người Cờ Lao tự gọi mình là Thư ngay từ những ngày đầu di cư sang Việt Nam, trong đó có ba ngành Thư khác nhau là Trắng, Đỏ và Xanh.
Dân số và địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cờ Lao ở Việt Nam chỉ có dân số 2.636 người, nhưng có mặt tại tới 39 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Cờ Lao cư trú tập trung chủ yếu tại tỉnh Hà Giang (2.301 người, chiếm 87,3% tổng số người Cờ Lao tại Việt Nam), ngoài ra còn có ở Tuyên Quang (69 người), Hà Nội (50 người), Thành phố Hồ Chí Minh (25 người).
Tại Hà Giang, người Cờ Lao cư trú tại các địa phương như xã Bạch Đích, Phú Lũng huyện Yên Minh, các xã Sính Lủng và Phố Là, huyện Đồng Văn và xã Túng Sán, huyện Hoàng Su Phì. Tại xã Túng Sán, Hoàng Su Phì, họ chiếm đa số tương đối (trên 40%).
Tổ chức cộng đồng
Mỗi bản người Cờ Lao có khoảng 15-20 nhà. Mỗi nhà là một gia đình nhỏ gồm vợ chồng và con cái, con trai có vợ ít khi ở chung với bố mẹ. Mỗi nhóm Cờ Lao có một số họ nhất định. Các con đều theo họ cha.
Người Cờ Lao ở nhà đất thường ba gian hai chái. Mái lợp tranh. Ở Hoàng Su Phì đôi khi người ta lợp bằng những máng nứa theo kiểu lợp ngói âm dương. Vách đan bằng nứa, có khi người ta đan bằng những cây gỗ nhỏ.
Ở Đồng Văn, người Cờ Lao làm nương, gieo trồng ngô ở hốc núi đá. Ở Hoàng Su Phi, họ làm ruộng nước và nương núi đất, trồng lúa là chính. Nghề thủ công phổ biến của người Cờ Lao là đan lát và làm đồ gỗ, sản phẩm là phên, cót, nong, bồ, bàn ghế, yên ngựa v.v.
Phong tục, văn hóa
Theo phong tục con trai cô được lấy con gái cậu. Phụ nữ Cờ Lao khi mang thai thường kiêng cữ cẩn thận để sinh đẻ dễ, con khỏe mạnh. Ở vùng Đồng Văn, người Cờ Lao đốt nhau thai của đứa trẻ sơ sinh thành than rồi đem bỏ vào hốc đá trên rừng, tránh để cho chó hay lợn giẫm vào. Đứa trẻ sinh ra được 3 ngày 3 đêm (nếu là con trai), 2 ngày 3 đêm (nếu là con gái), thì bố mẹ làm lễ đặt tên cho con. Đứa con đầu lòng được bà ngoại đặt tên cho. Người Cờ Lao chết đi được làm lễ chôn cất và lễ chay. Người Cờ Lao có tục khi chôn cất thì xếp đá thành từng vòng quanh mộ (mỗi vòng đá tương ứng với 10 tuổi của người chết), rồi lấp đất kín những vòng đá ấy.
Hàng năm người Cờ Lao có những ngày lễ, tết theo âm lịch như 3 tháng 3, 5 tháng 5, 15 tháng 7, 9 tháng 9 v.v. và Tết Nguyên Đán là lớn nhất.
Trang phục
Cá tính trang phục không rõ ràng, chịu ảnh hưởng của trang phục (hay gần gũi) với cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái như Tày, Nùng Giáy v.v về kỹ thuật và phong cách mỹ thuật.
Trang phục nam: Đàn ông Cờ Lao mặc quần như nhiều dân tộc vùng biên giới phía Bắc
Trang phục nữ: Phụ nữ Cờ Lao mặc quần, áo dài 5 thân cài nách, dài quá đầu gối, được trang trí bằng nhiều miếng vải khác màu khâu đáp lên ngực áo từ giữa ngực sang nách phải, theo mép xẻ. |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.