text
stringlengths 0
512k
|
---|
Nói chung, dữ liệu bao gồm những mệnh đề phản ánh thực tại. Một phân loại lớn của các mệnh đề quan trọng trong thực tiễn là các đo đạc hay quan sát về một đại lượng biến đổi. Các mệnh đề đó có thể bao gồm các số, từ hoặc hình ảnh.
Dữ liệu trong tính toán
Theo điều 4 Luật Giao dịch điện tử ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005, Dữ liệu là thông tin dưới dạng ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự.
Theo nghĩa rộng, dữ liệu thô là các số, ký tự, hình ảnh hay các kết quả khác của các thiết bị chuyển đổi các lượng vật lý thành các ký hiệu. Các dữ liệu thuộc loại này thường được xử lý tiếp bởi người hoặc đưa vào máy tính. Trong máy tính, dữ liệu được lưu trữ và xử lý tại đó hoặc được chuyển (output) cho một người hoặc một máy tính khác. Dữ liệu thô là một thuật ngữ tương đối; việc xử lý dữ liệu thường được thực hiện theo từng bước, và "dữ liệu đã được xử lý" tại bước này có thể được coi là "dữ liệu thô" cho bước tiếp theo.
Các thiết bị tính toán được phân loại theo phương tiện mà chúng sử dụng để biểu diễn dữ liệu. Một máy tính tương tự (analog computer) biểu diễn dữ liệu bằng hiệu điện thế, khoảng cách, vị trí hoặc các định lượng vật lý khác. Một máy tính số (digital computer) biểu diễn dữ liệu bằng chuỗi các ký hiệu rút ra từ một bảng chữ cái cố định. Các máy tính số phổ biến nhất sử dụng bảng chữ cái nhị phân, nghĩa là, một bảng chữ cái gồm hai chữ cái, thường được ký hiệu là "0" và "1". Các biểu diễn quen thuộc hơn, chẳng hạn các số và chữ, sẽ được xây dựng từ bảng chữ cái nhị phân.
Có một số dạng dữ liệu đặc biệt. Một chương trình máy tính là một tập hợp dữ liệu được hiểu là các lệnh. Hầu hết các ngôn ngữ máy tính phân biệt giữa các chương trình và các dữ liệu khác mà chương trình đó làm việc với. Nhưng trong một số ngôn ngữ, chẳng hạn LISP và các ngôn ngữ tương tự, các chương trình về bản chất là không thể phân biệt với các dữ liệu khác. Ngoài ra, còn có một dạng dữ liệu đặc biệt khác là metadata dữ liệu mêta, nghĩa là một mô tả về dữ liệu khác. Một ví dụ về dữ liệu meta là danh mục tài liệu tại thư viện, đây là một mô tả về nội dung của các cuốn sách. |
Trong kỹ nghệ phần mềm, một hệ thống quản lý phiên bản (còn viết là VCS theo từ tiếng Anh version control systems) là một hệ thống lưu giữ các phiên bản của mã nguồn của sản phẩm phần mềm, giúp các lập trình viên có thể dễ dàng lấy lại phiên bản mong muốn. |
Tứ sắc là tên một trò chơi bài lá phổ biến ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Đây chính là một dạng khác của bộ bài tam cúc. Tứ Sắc thích hợp với số lượng người chơi là 4 người, tuy nhiên 2 hay 3 người đều chơi được.
Quân bài
Lá bài Tứ Sắc làm bằng bìa, hình chữ nhật. Bộ bài có 7 đạo quân (Tướng, Sĩ, Tượng, Xe, Pháo, Mã và Tốt) mỗi đạo quân có 16 lá chia đều ra 4 màu xanh, vàng, trắng, đỏ do vậy có tên là "tứ sắc". Tuy nhiên, trên mặt quan bài chỉ viết chữ chứ không minh họa hình ảnh giống như bài Tam cúc và bài Tổ tôm, đồng thời kích thước cũng nhỏ và ngắn hơn. Phía mặt ngoài lá bài chỉ có một màu và các đạo quân khác màu nhưng có giá trị như nhau cho mỗi loại quân cùng tên. Mỗi màu có 28 lá và cả bộ bài có 112 lá.
Mục đích
Mục đích của trò chơi Tứ sắc là làm tròn bài, cách làm này được gọi là tới, bằng cách kết hợp các nhóm bài chẵn và lẻ. Người nào tới trước thì người đó thắng và không có nhì, ba, bét.
Các khái niệm
Chẵn
Khái niệm chẵn cho các quân, nhóm quân thỏa mãn điều kiện sau:
Từ 2 đến 4 lá bài giống nhau và cùng màu.
Riêng quân Tốt (Chốt) có thể từ 3 đến 4 lá bài khác màu.
Tướng có từ 1 đến 4 lá bài.
Bốn lá bài giống nhau mà cùng màu được gọi là quan hay quằn (đọc theo giọng miền Nam là guằn).
Ba lá bài giống nhau mà cùng màu được gọi là khạp
Lẻ
Khái niệm lẻ cho các quân, nhóm quân thỏa mãn điều kiện sau:
Bộ ba Tướng - Sĩ - Tượng, Xe - Pháo - Mã cùng màu.
Rác
Những lá bài thừa ra không được xếp vào chẵn hay lẻ thì được gọi là rác hay cu ki.
Phải đếm cho chẵn bài rồi mới được tới không thì thền nếu cây bài lẻ
Cách chơi
Chia bài
Một người sẽ chia bài cho những người chơi cùng cứ 5 lá một lượt cho đến khi đủ 20 lá một người. Người nào muốn lấy cái sẽ được chia thêm 1 quân nữa và được ra bài đầu tiên. Phần bài còn lại được úp kín, đặt ở giữa (gọi là nọc hay tỳ) để cho mọi người có thể lấy được thêm về sau. Mọi người sẽ sắp xếp bài theo các bộ chẵn và lẻ, rác để chuẩn bị làm tròn bài.
Cách ăn vào bài
Ăn vào bài chẵn:
Người nào cầm cái sẽ đánh trước một lá rác vào cửa bên phải của mình. Người ngồi bên phải nhà cái nếu trên tay đã có một lá rác giống lá đánh ra đó thì sẽ lấy vào làm một đôi (chẵn). Sau khi ăn quân này thì người đó phải có trách nhiệm đánh sang bên phải mình một lá rác khác để bài trên tay mình luôn có số lượng là 20 lá. Nếu hai người còn lại có một đôi giống quân bài nhà cái đánh ra thì một trong hai nhà đó có quyền lấy lá bài đó về và phải đánh trả lại lá bài rác vào cửa đó. Cách ăn lá bài và trả lại lá bài hơi giống trong chơi bài tá lả. Tuy nhiên, trong hai người còn lại đó, người nào có số lượng lá bài chẵn nhiều hơn thì được ưu tiên vào chẵn (ăn quân) hơn.
Ăn vào bài lẻ:
Nếu nhà cái đánh ra một quân Pháo xanh, mà nhà bên tay phải đã có quân Xe xanh và Mã xanh thì sẽ được lấy bài vào lẻ. Nếu người này không có bài để lấy vào lẻ thì hai người còn lại cũng không được lấy mặc dù trên tay có cặp quân chờ lẻ sẵn. Nguyên tắc ăn lẻ là: phải ăn đúng vị trí cửa đánh.
Nếu người bên tay phải có thể ăn Pháo xanh vào lẻ, nhưng hai nhà còn lại thì có thể ăn quân đó vào chẵn thì hai người này được ưu tiên ăn quân rác vừa được nhà cái đánh. Luật chơi của Tứ Sắc là: ưu tiên chẵn trước, lẻ sau.
Nếu cả ba người còn lại không thể lấy con rác do nhà cái đánh thì theo thứ tự, người ngồi bên tay phải nhà cái sẽ được lấy (còn gọi là kéo hay lật) một lá bài ở tập bài giữa chiếu (nọc) và lại tuân theo những quy định trên để mọi người ăn vào bài chẵn, lẻ cho đến khi xuất hiện tới.
Tới là tình huống khi một người đã hết rác và có hai tình huống chờ để tới:
Bài đã chẵn (hay còn gọi là xên):
Khi một người đã hết rác thì chỉ cần chờ đến lượt mình hoặc người khác lấy bài ra từ nọc được lá Tướng thì được tới và sẽ thắng. Hoặc khi trên tay đã có hai lá bài của bộ bài chẵn mà bài do người khác vừa đánh ra có thể lấy để kết hợp cùng làm bộ chẵn thì cũng sẽ được tới. Nếu bài ăn vào chẵn đó tạo thành đủ 4 quân thì được tới ở giá trị tới Quan.
Bài đang chờ vào chẵn hoặc lẻ thì vừa hết rác.
Khi một người đã đủ các bộ chẵn hoặc lẻ mà chỉ cần thêm 1 lá bài phù hợp nữa là hết rác thì trường hợp này gọi là chờ vào chẵn hoặc lẻ để được tới.
Trong khi chơi, các lá bài được lấy vào chẵn hoặc lẻ thì được để dưới chiếu bài trước mặt, để mọi người cùng nhìn thấy chứ không được cầm lên trên tay. Nếu ngay từ lúc chia bài, trên tay đã có 4 lá bài giống nhau (có Quan) thì cũng phải hạ Quan này xuống chiếu để mọi người cùng biết.
Bài bụng
Đây là trường hợp trên tay có Xe-Xe-Pháo-Mã hoặc Xe-Pháo-Pháo-Mã hoặc Xe-Pháo-Mã-Mã. Trường hợp này được coi là không may vì người chơi không được lấy hai con giống nhau ra ăn.
Ví dụ như đang có Xe-Xe-Pháo-Mã, cho dù người khác có đánh Xe ra cũng không được ăn. Trong trường hợp người đánh Xe ra ở ngay bên tay trái mình, lúc đó, cách ăn đúng đắn là dùng Pháo-Mã ăn (trở thành Xe-Pháo-Mã), còn hai con Xe còn lại trên tay mình trở thành bài liền. Nếu người chơi dùng đôi Xe để ăn con Xe cùng màu, thì hai con Pháo và Mã còn lại sẽ thành rác, nếu người chơi đánh một trong hai con này ra mà người khác có quân Mã hoặc Pháo thì người đánh con Xe sẽ phải đền bài. Nếu người chơi phía trên không đánh con Xe hoặc người cầm Xe-Xe-Pháo-Mã không bốc được con Xe, thì để hết rác trên bài buộc người chơi phải đánh một con Xe ra và giữ lại bộ lẻ Xe-Pháo-Mã, hành động này gọi là "tề bài". Trường hợp này áp dụng cho cả người chơi có đôi Tốt cùng màu và hai con Tốt khác màu, Tướng-Sĩ-Sĩ-Tượng cùng màu và cả Tướng-Sĩ-Tượng-Tượng cùng màu.
Cách tính điểm
Người tới phải xòe bài ra để tính lệnh (điểm). Cách tính như sau
Đôi: không được lệnh nào
Tướng: 1 lệnh
3 con đã khui (Xe-Pháo-Mã, Tướng-Sĩ Tượng, ba con cùng màu hoặc ba con chốt khác màu): 1 lệnh
4 con đã khui: 6 lệnh
Khạp (còn trên tay): 3 lệnh
Quằn (còn trên tay): 8 lệnh
4 con chốt khác màu: 2 lệnh
Ngoài ra, người tới còn được cộng thêm 3 lệnh nữa
Số lệnh cuối cùng bắt buộc phải lẻ (15 hoặc 21 lệnh), nếu không tức là đã đánh sai luật và người tới có thể bị phạt.
Nếu tới quan (có sanh hay có khui đã mở), số lệnh sẽ được gấp đôi
Chến
Làm cái gọi là giữ chến. Khi bắt đầu cuộc chơi, gọi là đậu chến, mọi người bỏ ra một số tiền bằng nhau và chơi cho đến khi có một người hết tiền (đứt chến). 1 lần chơi như vậy cũng gọi là 1 chến.
Các khái niệm khác
Đứt đầu: nếu không đủ ba con Xe-Pháo-Mã hoặc Tướng-Sĩ-Tượng thì gọi là đứt đầu. Ví dụ như đứt đầu tướng tức là chỉ có sĩ-tượng cùng màu và thiếu tướng
Nhập xác: nếu đang đứt đầu tướng mà lật được con tướng, thì gọi là nhập xác. Trường hợp này được coi là may mắn
Các câu thành ngữ từ Tứ Sắc
Chốt độc đi tiên, để lâu chung tiền: nếu chỉ có một con tốt/chốt rác thì nên đánh ra ngay khi có cơ hội, nếu không để đến tàn cuộc mới đánh thì làm mồi cho người khác tới (người ta thường đợi tốt/chốt để tới vì nhiều cơ hội hơn - tốt/chốt có thể ghép vào các con chốt khác màu)
Chẵn tay, may cái, xách dái về không: trong lúc cái chia bài, nếu chia chẵn (bốc lên vừa đủ năm con để chia) thì cái sẽ được tới bàn này, nhưng đến cuối cùng cũng sẽ thua hết
Đứt chến: hết tiền
1 quằn 3 khạp: 1 vợ lớn 3 vợ nhỏ, tức là người lăng nhăng
Thông tin thêm
Tứ Sắc cũng giống như một số bài lá khác là được dùng để xem bói vận mệnh.
Người Huế cũng dùng bộ bài tứ sắc để chơi theo một cách khác nhưng gồm 3 người chơi gọi là bài xệp. "Bài vụ", "Tứ Sắc", '"mạt chược" và "kiệu" được coi là bốn trò chơi cung đình Huế. |
Trong các môn thể thao cạnh tranh, doping là việc sử dụng các loại thuốc tăng cường hiệu suất thể thao bị cấm. Thuật ngữ doping được các tổ chức điều chỉnh các cuộc thi thể thao sử dụng rộng rãi. Việc sử dụng thuốc để tăng cường hiệu suất được coi là phi đạo đức, và do đó bị hầu hết các tổ chức thể thao quốc tế, bao gồm cả Ủy ban Olympic quốc tế cấm. Hơn nữa, các vận động viên (hoặc các chương trình thể thao) thực hiện các biện pháp rõ ràng để trốn tránh sự phát hiện làm trầm trọng thêm hành vi vi phạm đạo đức với sự lừa dối công khai và gian lận.
Nguồn gốc của doping trong thể thao bắt đầu ngay từ khởi đầu của chính thể thao. Từ việc sử dụng các chất trong các cuộc đua xe ngựa cho đến những tranh cãi gần đây hơn về bóng chày và đua xe đạp, quan điểm phổ biến của các vận động viên đã thay đổi rộng rãi từ quốc gia này sang quốc gia khác trong những năm qua. Xu hướng chung giữa các cơ quan chức năng và các tổ chức thể thao trong nhiều thập kỷ qua là quy định chặt chẽ việc sử dụng chất cấm trong thể thao. Lý do của lệnh cấm chủ yếu là các rủi ro về sức khỏe của các loại thuốc tăng cường hiệu suất, sự bình đẳng về cơ hội cho các vận động viên và hiệu quả mẫu mực của môn thể thao không có ma túy đối với công chúng. Các cơ quan chống doping tuyên bố rằng việc sử dụng các loại thuốc tăng cường hiệu suất là đi ngược lại "tinh thần thể thao".
Lịch sử
Việc sử dụng chất cấm trong thể thao đã có từ hàng thế kỷ, khởi đầu ngay từ khi bắt đầu có về khái niệm thể thao. Vào thời cổ đại, khi người khỏe mạnh nhất của một quốc gia được chọn làm vận động viên hoặc chiến binh, họ được cho ăn chế độ ăn kiêng và được chăm sóc theo cách được coi là có lợi để giúp tăng cơ bắp. Ví dụ, thần thoại Scandinavi nói rằng Berserker có thể uống một hỗn hợp gọi là "butotens", để tăng đáng kể sức mạnh thể chất của họ nhưng có nguy cơ sẽ bị điên. Một giả thuyết cho rằng hỗn hợp này được điều chế từ nấm Amanita muscaria, mặc dù điều này đang còn tranh cãi.
Thế vận hội cổ đại ở Hy Lạp đã bị cáo buộc là có hình thức doping. Ở Rome cổ đại, với việc đua xe ngựa đã trở thành một phần rất lớn trong văn hóa, các vận động viên đã uống các loại thảo dược để tăng cường sức mạnh trước các cuộc đua xe ngựa.
Gần đây, một người tham gia một cuộc đua đi bộ bền bỉ ở Anh, Abraham Wood, cho biết vào năm 1807 rằng ông đã sử dụng laudanum (có chứa thuốc phiện) để giữ cho anh ta tỉnh táo trong 24 giờ trong khi cạnh tranh với Robert Barclay Allardyce. Đến tháng năm 1877, các cuộc đua đi bộ đã kéo dài đến 500 dặm và năm sau, cũng tại hội trường nông nghiệp ở Islington, London, kéo dài đến 520 dặm. Báo Illustrated London News đã nói:
Có thể là một lợi thế để biết rằng một người đàn ông có thể di chuyển 520 dặm trong 138 giờ, và có thể sống qua một tuần với một thời gian nghỉ ngơi vô cùng ngắn, mặc dù chúng ta không cảm nhận được bất cứ ai mà có thể có thể được trọng dụng ở một vị trí nơi khả năng đi bộ này sẽ có ích cho anh ta [và] những gì sẽ đạt được bằng sự lặp lại liên tục việc này.
Mặc dù thế, sự kiện này đã trở nên phổ biến, với 20.000 khán giả tham dự mỗi ngày. Được khuyến khích, các nhà quảng bá đã phát triển ý tưởng và sớm tổ chức các cuộc đua tương tự cho người đi xe đạp.
"... Và nhiều người có khả năng chịu đựng sự đau khổ của họ một cách công khai, cuối cùng, nếu một người đi bộ mệt mỏi, đơn giản là họ ngồi xuống - còn một người đi xe đạp mệt mỏi sẽ ngã xuống xe và có thể khiến những người đi xe đạp khác ngã xuống theo. Điều đó vui hơn nhiều ".
Niềm đam mê với các cuộc đua xe đạp kéo dài sáu ngày liền trải khắp Đại Tây Dương và sự hấp dẫn tương tự cũng mang đến cho đám đông ở Mỹ. Và càng nhiều khán giả chịu trả tiền vào xem, giải thưởng sẽ càng cao và càng khuyến khích người thi đấu tỉnh táo hơn hoặc được giữ tỉnh táo để đi được xa nhất. Việc kiệt sức của họ đã được hạn chế nhờ các soigneurs (từ tiếng Pháp có nghĩa là "người chăm sóc"), người giúp đỡ giống như người hỗ trợ trong môn quyền Anh. Trong số các phương pháp điều trị mà họ cung cấp cho người đua là nitroglycerine, một loại thuốc dùng để kích thích tim sau các cơn đau tim và được cho là có tác dụng cải thiện hơi thở của người lái xe. Người đua bị ảo giác vì kiệt sức và có lẽ là do thuốc trên. Nhà vô địch Mỹ Major Taylor từ chối tiếp tục cuộc đua ở New York, nói: "Tôi không thể tiếp tục đua trong an toàn, vì có một người đàn ông đuổi theo tôi quanh vòng đua với con dao trên tay".
Phản ứng của công chúng đã chống lại các thử nghiệm như vậy, cho dù là đua đơn hoặc đua theo các nhóm hai người. Một báo cáo cho biết:
Một cuộc thi thể thao trong đó những người tham gia điên cuồng, và cuộc đua đã thử thách sức mạnh của họ cho đến khi khuôn mặt của họ trở nên gớm ghiếc với những sự tra tấn khiến cuộc đua không còn là thể thao nữa mà là đó là sự tàn nhẫn. Nó xuất hiện từ các báo cáo về hiệu suất duy nhất này rằng một số người đi xe đạp đã thực sự trở nên điên rồ trong cuộc thi... Sẽ cần nhiều ngày và nhiều tuần phục hồi để đưa các tay đua vào trạng thái ổn định, và có khả năng một số người trong số họ sẽ không bao giờ hồi phục sau những căng thẳng.
Cha đẻ của steroid đồng hóa ở Hoa Kỳ là John Ziegler (1917-1983), một bác sĩ cho đội cử tạ Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 20. Năm 1954, trong chuyến công du tới Vienna cùng đội của mình thi đấu giải vô địch thế giới, Ziegler đã học được từ đồng nghiệp người Nga rằng thành công của đội cử tạ Liên Xô là do họ sử dụng testosterone như một loại thuốc tăng cường hiệu suất. Với quyết định rằng các vận động viên Mỹ cần hỗ trợ hóa học để duy trì tính cạnh tranh, Ziegler đã làm việc với Công ty Dược phẩm CIBA để phát triển một steroid đồng hóa dùng để uống. Điều này dẫn đến việc tạo ra methandrostenolone, xuất hiện trên thị trường vào năm 1960. Trong Thế vận hội năm đó, tay đua xe đạp người Đan Mạch Knud Enemark Jensen đã ngã gục và chết khi đang thi đấu trong cuộc đua xe đạp độ dài 100 km (62 dặm). Khám nghiệm tử thi sau đó cho thấy sự hiện diện của amphetamine và một loại thuốc gọi là nicotinyl tartrate trong cơ thể anh ta.
Chuyên gia về doping của Mỹ, Max M. Novich, đã viết: "Các huấn luyện viên của trường phái cũ đã cung cấp phương pháp điều trị bằng cocaine làm căn bản, tuyên bố với sự đảm bảo rằng một tay đua mệt mỏi trong cuộc đua sáu ngày sẽ có được khả năng tiếp tục thở sau khi hấp thụ các hỗn hợp này. " John Hoberman, giáo sư tại Đại học Texas ở Austin, Texas, cho biết các cuộc đua kéo dài sáu ngày là "thí nghiệm thực tế kiểm tra sinh lý học của sự căng thẳng cũng như các chất có thể làm giảm kiệt sức."
Tỷ lệ
Hơn 30% vận động viên tham gia Giải vô địch thế giới về điền kinh năm 2011 thừa nhận đã sử dụng chất cấm trong sự nghiệp. Theo một nghiên cứu do Cơ quan chống doping thế giới (WADA) thực hiện, thực tế 44% trong số họ đã sử dụng chúng. Tuy nhiên, chỉ 0,5% trong số những người được thử nghiệm đã bị bắt.
Toàn bộ đội điền kinh của Nga đã bị cấm tham dự Thế vận hội Olympic 2016, bởi vì Nhà nước Nga đã tài trợ cho chương trình doping của họ.
Tình huống khó xử của Goldman
Tình huống khó xử của Goldman, hay vấn đề nan giải của Goldman, là một câu hỏi được đặt ra cho cá vận động viên ưu tú từ một bác sĩ, và nhà báo tên Bob Goldman. Goldman hỏi liệu họ có dùng chất cấm để đảm bảo họ thành công trong thể thao hay không, nhưng chất cấm sẽ khiến họ phải chết sau 1 năm. Trong nghiên cứu của mình, như trong nghiên cứu trước đây của Mirkin, khoảng một nửa số vận động viên trả lời rằng họ sẽ chấp nhận dùng chất cấm, nhưng nghiên cứu hiện đại của James Connor và đồng nghiệp đã cho kết quả thấp hơn nhiều, chỉ 1%, với các vận động viên có mức độ chấp nhận dùng chất cấm tương tự như tỷ lệ dân số Úc đồng ý dùng chất cấm nếu có thể làm nhà vô địch Thế vận hội.
Các chất cấm
Steroid
Trong 20 năm qua, sự xuất hiện của steroid trong thể thao đã được coi là một bệnh dịch. Nghiên cứu và thử nghiệm hạn chế đã được tiến hành chỉ để tìm ra những tác động ngắn hạn, có thể đảo ngược đối với các vận động viên cả về thể chất và tinh thần. Những tác dụng phụ này sẽ được giảm bớt nếu vận động viên được phép sử dụng các chất được kiểm soát dưới sự giám sát y tế thích hợp. Những tác dụng phụ này bao gồm áp xe tiêm bắp và các vi khuẩn khác có thể gây nhiễm trùng, từ các sản phẩm giả mà người dùng quyết định mua trên thị trường chợ đen, cho tới huyết áp cao và cholesterol, cũng như vô sinh và các bệnh da liễu như mụn trứng cá nghiêm trọng. Ảnh hưởng tinh thần bao gồm tăng sự hung hăng và trầm cảm, và trong những trường hợp hiếm hoi, tự tử cũng đã xảy ra. Hầu hết các nghiên cứu về tác dụng của steroid đã được chứng minh là không phù hợp và thiếu các xét nghiệm đáng tin cậy cũng như thực hiện các nghiên cứu theo kiểu sai lệch để xác định trước quan điểm của thế giới về việc sử dụng steroid trong thể thao. Những ảnh hưởng lâu dài vẫn chưa thể được xác định chính xác do sự kiểm tra lại các chất này nhưng sẽ bắt đầu xuất hiện khi người dùng steroid sớm đạt đến 50 tuổi trở lên.
Strychnine tại Thế vận hội
Những "thí nghiệm thực tế điều tra sinh lý học của stress cũng như các chất có thể làm giảm kiệt sức" không được biết đến bên ngoài môn đạp xe đạp.
Thomas Hicks, một người Mỹ sinh ra ở Anh vào ngày 7 tháng 1 năm 1875, đã giành chiến thắng trong cuộc thi marathon Olympic năm 1904. Ông vượt qua vạch đích chỉ sau một vận động viên Fred Lorz người Mỹ, mà đã được huấn luyện viên vận chuyển 11 dặm trên đường đua, dẫn đến việc bị truất quyền thi đấu. Tuy nhiên, Charles Lucas, huấn luyện viên của Hicks, rút ra một ống tiêm và đến trợ giúp anh khi Hicks bắt đầu vật lộn để có thể thở được.
Do đó, tôi quyết định tiêm cho anh ta một miligam sunfat strychnine và ép anh ta uống một ly lớn chứa đầy rượu brandy. Hick bắt đầu đạp tiếp một lần nữa với sức khỏe tốt nhất có thể [nhưng] anh ta cần tiêm thêm 1 lần nữa vào thời điểm bốn dặm cuối cùng để có thể đua tốc độ về đích.
Theo nhà sử học thể thao Alain Lunzenfichter và nhà sử học về doping thể thao, Tiến sĩ Jean-Pierre de Mondenard, cho biết, việc sử dụng strychnine vào thời điểm đó được cho là cần thiết để vượt qua những chặng đua dài.
Cần phải được đánh giá cao rằng tại thời điểm cấm doping vì sức khỏe của các vận động viên hoặc sự thuần khiết của cuộc thi vẫn chưa đi vào vấn dề đạo đức bởi vì, sau cuộc đua marathon này, báo cáo cuộc đua chính thức cho biết: Cuộc đua marathon đã thể hiện từ một góc nhìn y tế xem các thuốc có thể tỏ ra rất hữu ích ra sao cho các vận động viên trong các cuộc đua đường dài.
Hicks, đã đứng "giữa sự sống và cái chết" nhưng đã hồi phục, giành huy chương vàng vài ngày sau đó, và sống đến năm 1952. Tuy nhiên, anh không bao giờ tham gia thi đấu môn điền kinh nữa.
Chất gây hưng phấn
Chất gây hưng phấn là thuốc thường tác động lên hệ thần kinh trung ương để điều chỉnh chức năng và hành vi tinh thần, làm tăng cảm giác hưng phấn của một cá nhân và giảm cảm giác mệt mỏi. Trong danh sách các chất cấm của Cơ quan Chống Doping Thế giới, chất gây hưng phấn là nhóm lớn thứ hai sau các chất đồng hóa steroid. Ví dụ về các chất kích thích nổi tiếng bao gồm caffeine, cocaine, amphetamine, modafinil và ephedrine. Caffeine, mặc dù là chất kích thích, đã không bị Ủy ban Olympic quốc tế hoặc Cơ quan chống doping thế giới cấm từ năm 2004.
Benzedrine là tên thương mại của amphetamine. Hội đồng châu Âu nói rằng lần đầu tiên nó xuất hiện trong thể thao tại Thế vận hội Berlin năm 1936. Nó được sản xuất vào năm 1887 và sản phẩm phái sinh, Benzedrine, được Gordon Alles phân lập ở Mỹ vào năm 1934. Hiệu ứng cảm nhận của nó mang lại cho nó tên đường phố là "speed". Quân đội Anh sử dụng 72 triệu viên thuốc amphetamine trong Chiến tranh thế giới thứ hai và RAF đã dùng amphetamine nhiều đến nỗi theo một báo cáo thì "Methedrine đã thắng Trận chiến nước Anh". Vấn đề là amphetamine dẫn đến việc thiếu phán đoán và sẵn sàng chấp nhận rủi ro, điều này trong thể thao có thể dẫn đến màn trình diễn tốt hơn nhưng trong máy bay chiến đấu và máy bay ném bom đã dẫn đến nhiều vụ va chạm máy bay khi hạ cánh, điều RAF không có thể chịu đựng được. Amphetamine đã được rút lại nhưng số lượng lớn thuốc này vẫn còn trên thị trường chợ đen. Amphetamine cũng được sử dụng một cách hợp pháp như là một chất trợ giúp để giảm béo và cũng như một loại thuốc chống trầm cảm trước khi bị loại dần do sự xuất hiện của các chất cấm mới hơn trong những năm 1950.
Everton, một trong những câu lạc bộ hàng đầu trong giải bóng đá Anh, là nhà vô địch của mùa giải 1962. Và nó đã được thực hiện, theo một cuộc điều tra của tờ báo quốc gia, với sự giúp đỡ của benzedrine. Tin tức lan truyền sau chiến thắng của Everton rằng các cầu thủ đã dùng chất cấm này. Tờ báo đã điều tra, trích dẫn nơi phóng viên tin rằng nó đến từ và trích lời thủ môn, Albert Dunlop, nói:
Tôi không thể nhớ làm thế nào chất đó lần đầu tiên được cung cấp cho chúng tôi. Nhưng chúng được phân phối trong phòng thay đồ. Chúng tôi đã không bị bắt buộc phải dùng chúng nhưng hầu hết các cầu thủ đã dùng. Các viên thuốc chủ yếu là màu trắng nhưng một hoặc hai lần chúng có màu vàng. Chúng được sử dụng qua mùa giải 1961-62 và mùa giải vô địch theo sau nó. Uống chất cấm trước đây hầu như không được nêu tên trong câu lạc bộ. Nhưng một khi nó đã bắt đầu, chúng tôi có thể có rất nhiều viên nhộng và uống thỏa thích nếu chúng tôi muốn. Vào những ngày có trận đấu, các viên thuốc này được trao cho hầu hết cầu thủ như một lẽ đương nhiên. Chẳng mấy chốc, một số cầu thủ không thể đá nếu không có thuốc.
Câu lạc bộ đồng ý rằng thuốc này đã được sử dụng nhưng chúng "không thể có tác dụng có hại". Dunlop, tuy nhiên, cho biết ông đã trở thành một người nghiện chất này.
Vào tháng 11 năm 1942, tay đua xe đạp người Ý Fausto Coppi đã dùng "bảy gói amphetamine" để đánh bại kỷ lục tính giờ thế giới trên đường đua. Năm 1960, tay đua người Đan Mạch Knud Enemark Jensen đã gục ngã trong thời gian đua thử nghiệm đồng đội 100 km tại Thế vận hội Olympic ở Rome và chết sau đó trong bệnh viện. Khám nghiệm tử thi cho thấy anh ta đã uống amphetamine và một loại thuốc khác, Ronicol, làm giãn mạch máu. Chủ tịch của liên đoàn xe đạp Hà Lan, ông Piet van Dijk, nói về Rome rằng "cả xe tải chất cấm- [đã] được sử dụng với số lượng hoành tráng như vậy."
Jock Andrew tay đua xe đạp chuyên nghiệp người Anh những năm 1950 đã nói đùa: "Bạn không bao giờ nên đi theo đuổi đường đua trong một cuộc đua lớn - chỉ cần đi theo dấu vết của các ống tiêm rỗng và giấy bọc chất kích thích là được."
Người quản lý đội đua xe đạp Hà Lan Kees Pellenaars kể về một tay đua mà ông chăm sóc:
Tôi đưa anh ta đến một trại huấn luyện ở Tây Ban Nha. Cậu bé thay đổi thành một con sư tử. Anh ta chạy xung quanh như thể anh ta được tên lửa cung cấp năng lượng. Tôi nói chuyện với anh ta. Anh ta thực sự rất vui vì anh ấy đã đua tốt và anh ta bảo tôi trông chừng anh ấy. Tôi hỏi có phải anh ta "dùng thứ gì đó" phải không và anh ta nhảy cẫng lên, trèo lên ghế và anh ta rút ra một túi nhựa đựng đầy thuốc từ sâu trong tủ. Tôi cảm thấy trái tim mình ngừng đập một nhịp. Tôi chưa bao giờ thấy rất nhiều pháo hoa cùng nhau như thế. Với một soigneur chúng tôi đếm số viên thuốc: có 5.000, không bao gồm các chế phẩm hormone và thuốc ngủ. Tôi lấy đống thuốc đó đi, và anh ta thở phào. Tôi để anh ta giữ hormone và thuốc ngủ. Sau đó, anh ta dường như đã dùng quá nhiều thuốc cùng một lúc và cuối cùng anh ta đã ngủ vài ngày liền. Chúng tôi không thể đánh thức anh ta dậy. Chúng tôi đưa anh đến bệnh viện và họ phải súc rửa dạ dày. Họ trói anh ta vào giường để ngăn chặn mọi chuyện xảy ra lần nữa. Nhưng bằng cách này hay cách khác, anh ta lại có một số chất kích thích và thích đi dạo trong bệnh viện. Một y tá đi ngang qua thấy anh ta trong hành lang, đi bộ cùng với chiếc giường được buộc chặt vào lưng.
Hiện tại modafinil đang được sử dụng trên toàn thế giới thể thao, với nhiều trường hợp cao cấp thu hút báo chí vì các vận động viên nổi tiếng của Hoa Kỳ đã thử nghiệm thất bại cho chất này. Một số vận động viên bị phát hiện đã sử dụng modafinil đã phản đối vì thuốc không nằm trong danh sách bị cấm tại thời điểm vi phạm của họ, tuy nhiên, Cơ quan phòng chống doping thế giới (WADA) cho rằng đây là chất liên quan đến những người đã bị cấm, vì vậy quyết định đứng. Modafinil đã được thêm vào danh sách các chất bị cấm vào ngày 3 tháng 8 năm 2004, mười ngày trước khi bắt đầu Thế vận hội Mùa hè 2004.
Một cách tiếp cận của các vận động viên để đi vòng qua các quy định về chất kích thích là sử dụng các chất kích thích mới được tạo ra, mà trước đây chưa bị cấm chính thức, nhưng có cấu trúc hóa học hoặc tác dụng sinh học tương tự. Các chất kích thích thiết kế thu hút sự chú ý của truyền thông trong năm 2010 bao gồm mephedrone, ephedrone và fluoroamphetamine, có cấu trúc hóa học và tác dụng tương tự như ephedrine và amphetamine. |
Ngài Walter Scott, Nam tước thứ nhất (15 tháng 8 năm 1771 – 21 tháng 9 năm 1832), là một nhà sử học, tiểu thuyết gia, nhà thơ và nhà viết kịch người Scotland. Nhiều tác phẩm của ông vẫn là tác phẩm kinh điển của văn học châu Âu và Scotland, đặc biệt là các tiểu thuyết Ivanhoe (1819), Rob Roy (1817), Waverley (1814), Old Mortality ((1816), Trái tim của Mid-Lothian (1818) và Cô dâu của Lammermoor (1819), cùng với những bài thơ tự sự Marmion (1808) và The Lady of the Lake (1810). Ông có ảnh hưởng lớn đến văn học Âu Mỹ.
Với tư cách là một người biện hộ, thẩm phán và quản trị viên pháp lý chuyên nghiệp, ông đã kết hợp việc viết và chỉnh sửa với công việc hàng ngày của mình với tư cách là Thư ký phiên họp và Phó cảnh sát trưởng của Selkirkshire. Ông là người nổi bật trong cơ sở Tory của Edinburgh, hoạt động tích cực trong Hiệp hội Cao nguyên, trong một thời gian dài là chủ tịch của Hiệp hội Hoàng gia Edinburgh (1820–1832), và là phó chủ tịch của Hiệp hội Cổ vật Scotland (1827–1829). Kiến thức về lịch sử và cơ sở văn học đã trang bị cho ông để thiết lập thể loại tiểu thuyết lịch sử như một mẫu mực của Chủ nghĩa lãng mạn châu Âu. Ông trở thành nam tước xứ Abbotsford ở Hạt Roxburgh, Scotland, vào ngày 22 tháng 4 năm 1820; danh hiệu này đã biến mất sau cái chết của con trai ông vào năm 1847.
Tiểu sử
Walter Scott sinh ngày 15 tháng 8 năm 1771, trong một căn hộ trên tầng ba ở College Wynd ở Old Town, Edinburgh, một con hẻm hẹp dẫn từ Cowgate đến cổng Đại học Edinburgh (Old College). Ông là con thứ chín (sáu đã chết khi còn nhỏ) của Walter Scott (1729–1799), một thành viên của chi nhánh thiếu sinh quân của Gia tộc Scott và là Hiệp hội các nhà văn cho Hoàng đế, và vợ của ông Anne Rutherford, em gái của Daniel Rutherford và một hậu duệ của cả Gia tộc Swinton và của Nhà Haliburton (dòng dõi đã trao cho gia đình Walter quyền cha truyền con nối được chôn cất ở Tu viện Dryburgh).
Walter, thông qua Haliburtons, là anh em họ của nhà phát triển bất động sản London James Burton (mất năm 1837), người được sinh ra với họ 'Haliburton', và là con trai của cùng một kiến trúc sư Decimus Burton. Walter trở thành thành viên của Câu lạc bộ Clarence, trong đó gia đình Burton là thành viên.
Một cơn sốt bại liệt thời thơ ấu vào năm 1773 đã khiến Scott bị què, một tình trạng sẽ ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và việc viết lách của ông.
Để cải thiện tình trạng khập khiễng của mình, vào năm 1773, ông được gửi đến sống ở vùng nông thôn Biên giới Scotland, tại trang trại của ông bà nội ông ở Sandyknowe, bên cạnh đống đổ nát của Tháp Smailholm, ngôi nhà trước đây của gia đình. Tại đây, ông được dì Jenny Scott dạy đọc và học từ bà những kiểu nói cũng như nhiều câu chuyện và truyền thuyết sau này đã đánh dấu phần lớn công việc của ông. Vào tháng 1 năm 1775, ông trở lại Edinburgh, và mùa hè năm đó ông cùng dì Jenny đi trị liệu spa tại Bath ở Somerset, miền Nam nước Anh, nơi họ sống tại số 6 South Parade. Vào mùa đông năm 1776, ông quay trở lại Sandyknowe, với một nỗ lực khác để chữa bệnh bằng nước tại Prestonpans vào mùa hè năm sau.
Năm 1778, Scott trở lại Edinburgh để học tư thục nhằm chuẩn bị cho việc đi học và cùng gia đình đến ngôi nhà mới của họ, một trong những ngôi nhà đầu tiên được xây dựng ở Quảng trường George. Vào tháng 10 năm 1779, ông bắt đầu học tại Trường Trung học Hoàng gia ở Edinburgh (ở Trường Trung học Yards). Lúc đó ông đã có thể đi bộ và khám phá thành phố cũng như vùng nông thôn xung quanh. Ông đọc bao gồm các truyện lãng mạn hào hiệp, thơ, lịch sử và sách du lịch. Ông đã được James Mitchell dạy riêng về số học và viết lách, đồng thời học từ lịch sử của Nhà thờ Scotland với trọng tâm là các Covenanter.
Năm 1783, cha mẹ ông, tin rằng ông đã cạn kiệt sức lực, đã gửi ông đến ở lại sáu tháng với dì Jenny của mình tại Kelso ở Biên giới Scotland: ở đó ông theo học Trường Ngữ pháp Kelso, nơi ông gặp James Ballantyne và em trai John, người sau này trở thành đối tác kinh doanh và máy in của ông.
Vẻ bề ngoài
Do bị nhiễm bệnh bại liệt sớm, Scott bị đi khập khiễng rõ rệt. Ông được mô tả vào năm 1820 là "cao, hình thể cân đối (ngoại trừ một mắt cá chân và bàn chân khiến ông đi lại khập khiễng), không béo cũng không gầy, trán rất cao, mũi ngắn, môi trên dài và khuôn mặt khá béo, nước da tươi tắn và trong trẻo". , đôi mắt rất xanh, sắc sảo và sâu sắc, với mái tóc giờ đã bạc trắng". Mặc dù là một người kiên quyết đi bộ, nhưng ông ấy đã trải nghiệm sự tự do di chuyển nhiều hơn trên lưng ngựa.
Sinh viên
Scott bắt đầu học kinh điển tại Đại học Edinburgh vào tháng 11 năm 1783, ở tuổi 12, trẻ hơn hầu hết các bạn học một tuổi. Vào tháng 3 năm 1786, ở tuổi 14, ông bắt đầu học việc tại văn phòng của cha mình để trở thành thành viên của Hiệp hội các nhà văn cho Hoàng đế. Ở trường phổ thông và đại học, Scott đã trở thành bạn của Adam Ferguson, người có cha là Giáo sư Adam Ferguson tổ chức các quán văn học. Scott đã gặp nhà thơ mù Thomas Blacklock, người đã cho ông mượn sách và giới thiệu cho ông về chùm thơ Ossian của James Macpherson. Trong suốt mùa đông năm 1786–1787, cậu bé Scott 15 tuổi đã gặp nhà thơ người Scotland Robert Burns tại một trong những tiệm này, cuộc gặp gỡ duy nhất của họ. Khi Burns nhận thấy một bản in minh họa bài thơ "The Justice of the Peace" (Công lý của hòa bình) và hỏi ai đã viết nó, Scott chỉ đích danh tác giả là John Langhorne và được Burns cảm ơn. Scott mô tả sự kiện này trong hồi ký của mình, nơi ông thì thầm câu trả lời cho người bạn Adam của mình, người đã nói với Burns; một phiên bản khác của sự kiện xuất hiện trong Literary Beginnings.
Khi quyết định trở thành luật sư, ông trở lại trường đại học để học luật, lần đầu tiên tham gia các lớp triết học đạo đức (dưới thời Dugald Stewart) và lịch sử phổ quát (dưới thời Alexander Fraser Tytler) vào năm 1789–1790. Trong thời gian học đại học thứ hai này, Scott trở nên nổi bật trong các hoạt động trí tuệ của sinh viên: ông đồng sáng lập Hiệp hội Văn học năm 1789 và được bầu vào Hiệp hội Đầu cơ vào năm sau, trở thành thủ thư và thư ký kiêm thủ quỹ một năm sau đó.
Sau khi hoàn thành khóa học luật của mình, Scott theo học luật ở Edinburgh. Ông đã có chuyến thăm đầu tiên với tư cách là thư ký luật sư đến Cao nguyên Scotland, chỉ đạo một vụ trục xuất. Ông được nhận vào Khoa người bào chữa năm 1792. Ông có một mối tình không thành với Williamina Belsches xứ Fettercairn, người đã kết hôn với bạn của Scott Ngài William Forbes, Nam tước thứ 7. Vào tháng 2 năm 1797, mối đe dọa về một cuộc xâm lược của Pháp đã thuyết phục Scott và nhiều bạn bè của ông tham gia Đội kỵ binh ánh sáng tình nguyện của Hoàng gia Edinburgh, nơi ông phục vụ vào đầu những năm 1800, và được bổ nhiệm làm đội trưởng và thư ký. Các hoạt động diễn tập hàng ngày trong năm đó, bắt đầu từ 5 giờ sáng, cho thấy quyết tâm đảm nhận vai trò này.
Sự nghiệp văn học, hôn nhân và gia đình
Scott đã được thúc đẩy theo đuổi sự nghiệp văn học bởi sự nhiệt tình ở Edinburgh vào những năm 1790 đối với văn học Đức hiện đại. Nhớ lại khoảng thời gian năm 1827, Scott nói rằng ông "phát cuồng vì nước Đức". Năm 1796, ông sản xuất phiên bản tiếng Anh của hai bài thơ của Gottfried August Bürger, Der wilde Jäger và Lenore, được xuất bản dưới tên The Chase, và William and Helen. Scott đã đáp lại sự quan tâm của người Đức vào thời điểm đó đối với bản sắc dân tộc, văn hóa dân gian và văn học thời trung cổ, gắn liền với niềm đam mê đang phát triển của chính ông đối với thể loại ballad truyền thống. Một cuốn sách yêu thích từ thời thơ ấu là Reliques of Ancient English Poetry của Thomas Percy. Trong suốt những năm 1790, ông đã tìm kiếm trong các bộ sưu tập bản thảo và trên các cuộc "đột kích" ở Border để tìm những bản ballad từ màn trình diễn truyền miệng. Với sự giúp đỡ của John Leyden, ông đã sản xuất hai tập Minstrelsy of the Scottish Border vào năm 1802, bao gồm 48 bản ballad truyền thống và hai bản mô phỏng của Leyden và chính ông. Trong số 48 truyền thống, 26 tác phẩm được xuất bản lần đầu tiên. Một ấn bản mở rộng xuất hiện trong ba tập vào năm sau. Với nhiều bản ballad, Scott đã kết hợp các phiên bản khác nhau thành văn bản mạch lạc hơn, một cách làm mà sau này ông đã bác bỏ. The Minstrelsy là dự án đầu tiên và quan trọng nhất trong một loạt dự án biên tập trong hai thập kỷ tiếp theo, bao gồm câu chuyện tình lãng mạn thời trung cổ Sir Tristrem (mà Scott gán cho Thomas the Rhymer) vào năm 1804, các tác phẩm của John Dryden (18 tập, 1808), và các tác phẩm của Jonathan Swift (19 tập, 1814).
Trong một chuyến đi đến Lake District với những người bạn cũ thời đại học, ông đã gặp Charlotte Charpentier (tiếng Anh cổ là "Thợ mộc"), con gái của Jean Charpentier ở Lyon ở Pháp và là phường của Lord Downshire ở Cumberland, một người Anh giáo. Sau ba tuần tán tỉnh, Scott cầu hôn và họ kết hôn vào đêm Giáng sinh năm 1797 tại Nhà thờ St Mary, Carlisle (nay là gian giữa của Nhà thờ lớn Carlisle). Sau khi thuê một ngôi nhà ở Phố George của Edinburgh, họ chuyển đến Phố South Castle gần đó. Con cả của họ, Sophia, sinh năm 1799, sau đó kết hôn với John Gibson Lockhart. Bốn trong số năm đứa con của họ đã sống sót sau chính Scott. Con trai cả của ông, Ngài Walter Scott, Nam tước thứ 2 (1801–1847), được thừa kế tài sản và bất động sản của cha mình: vào ngày 3 tháng 2 năm 1825 ông kết hôn với Jane Jobson, con gái duy nhất của William Jobson xứ Lochore (mất năm 1822) bởi vợ ông là Rachel Stuart (mất năm 1863), nữ thừa kế của Lochore và là cháu gái của Phu nhân Margaret Ferguson. Năm 1799, Scott được bổ nhiệm làm Cảnh sát trưởng-Phó cảnh sát trưởng của Hạt Selkirk, có trụ sở tại tòa án ở Royal Burgh of Selkirk. Trong những ngày đầu mới kết hôn, Scott kiếm được một cuộc sống kha khá từ công việc luật sư, tiền lương của ông với tư cách là Cảnh sát trưởng, thu nhập của vợ ông, một số thu nhập từ việc viết lách của ông và phần chia tài sản khiêm tốn của cha ông.
Sau khi cậu bé Walter chào đời vào năm 1801, gia đình Scotts chuyển đến một ngôi nhà ba tầng rộng rãi tại 39 North Castle Street, nơi vẫn là căn cứ ở Edinburgh của ông cho đến năm 1826, khi nó được bán bởi những người được ủy thác bổ nhiệm sau khi tài chính của ông suy sụp. Từ năm 1798, Scott đã trải qua những mùa hè trong một ngôi nhà nhỏ ở Lasswade, nơi ông tiếp đãi những vị khách, bao gồm cả những nhân vật văn học. Chính tại đó, sự nghiệp tác giả của ông đã bắt đầu. Có những yêu cầu về nơi cư trú trên danh nghĩa đối với vị trí Cảnh sát trưởng-Phó cảnh sát trưởng của anh ấy, và lúc đầu, anh ấy ở tại một quán trọ địa phương trong thời gian diễn ra vòng quanh. Năm 1804, ông chấm dứt việc sử dụng ngôi nhà kiểu nông thôn Lasswade và thuê ngôi nhà lớn Ashestiel, cách Selkirk 6 dặm (9,7 km), nằm trên bờ nam của Sông Tweed và kết hợp với một ngôi nhà tháp cổ.
Trước sự khăng khăng của Scott, ấn bản đầu tiên của Minstrelsy đã được in bởi người bạn của ông là James Ballantyne tại Kelso. Năm 1798, James đã xuất bản phiên bản Erlkönig của Goethe của Scott trên tờ báo The Kelso Mail của ông, và vào năm 1799, ông đã đưa nó cùng hai bản dịch của Bürger vào một tuyển tập được in riêng, Lời xin lỗi cho những câu chuyện kinh hoàng. Năm 1800, Scott đề nghị Ballantyne thành lập doanh nghiệp ở Edinburgh và cho ông vay một khoản tiền để thực hiện quá trình chuyển đổi vào năm 1802. Năm 1805, họ trở thành đối tác trong lĩnh vực kinh doanh in ấn, và từ đó cho đến khi khủng hoảng tài chính năm 1826, các tác phẩm của Scott được in thường xuyên bởi công ty.
Scott nổi tiếng là người yêu chó và đã sở hữu vài con trong suốt cuộc đời của mình. Sau khi ông qua đời, một tờ báo đã ghi nhận "trong số tất cả những vĩ nhân yêu chó, không ai yêu chúng hơn hoặc hiểu chúng kỹ lưỡng hơn". Những con chó nổi tiếng nhất của Scott là Maida, một con chó săn lớn và Spice, một con chó săn Dandie Dinmont được mô tả là mắc bệnh hen suyễn, được Scott đặc biệt quan tâm. Trong một đoạn nhật ký được viết ở đỉnh điểm của những khó khăn tài chính của mình, Scott đã mô tả sự mất tinh thần trước viễn cảnh phải bán chúng: "Ý nghĩ phải chia tay những sinh vật câm này đã khiến tôi xúc động hơn bất kỳ suy nghĩ nào mà tôi đã đặt ra".
Nhà thơ
Từ năm 1805 đến năm 1817, Scott đã sản xuất năm bài thơ tự sự dài, sáu khổ thơ, bốn bài thơ ngắn hơn được xuất bản độc lập và nhiều bài thơ nhỏ. Scott cho đến nay vẫn là nhà thơ nổi tiếng nhất thời bấy giờ cho đến khi Lord Byron xuất bản hai khổ đầu tiên của Childe Harold's Pilgrimage (Chuyến hành hương của Childe Harold) vào năm 1812 và tiếp theo chúng là những câu chuyện bằng thơ phương Đông kỳ lạ của ông.
The Lay of the Last Minstrel (1805), dưới hình thức lãng mạn thời trung cổ, nằm ngoài kế hoạch của Scott nhằm đưa một bài thơ nguyên bản dài của chính ông vào ấn bản thứ hai của Minstrelsy: đó là "một loại Lãng mạn về Hiệp sĩ Biên giới & tạm ứng". Ông mắc nợ giọng bất thường đặc biệt ở mét nhịp bốn của Christabel của Coleridge, bài hát mà ông đã nghe John Stoddart đọc thuộc lòng. ( Mãi đến năm 1816 nó mới được xuất bản.) Scotland, cả hai đều làm say mê công chúng và với những ghi chú đồ sộ của nó cũng gửi đến sinh viên cổ vật. Bài thơ mang chủ đề đạo đức mạnh mẽ, khi niềm kiêu hãnh của con người được đặt trong bối cảnh của cuộc phán xét cuối cùng với việc giới thiệu một phiên bản "Dies irae" ở cuối. Tác phẩm đã thành công ngay lập tức với hầu hết các nhà phê bình và với độc giả nói chung, trải qua năm lần xuất bản trong một năm. Những dòng nổi tiếng nhất là những dòng mở đầu khổ thơ cuối cùng:Người đàn ông thở ở đó, với linh hồn đã chết,
Người chưa bao giờ nói với chính mình,
Đây là của riêng tôi, quê hương của tôi!
trái tim của ai chưa bao giờ trong anh ta bị đốt cháy,
Khi bước chân về nhà, anh đã quay lại,
Từ việc lang thang trên một dải nước ngoài!—
Nếu như vậy có thở, đi, đánh dấu anh ta tốt;
Đối với anh không có sự sung sướng nào của người hát rong.Ba năm sau khi The Lay Scott xuất bản Marmion (1808) kể một câu chuyện về những đam mê đồi bại dẫn đến cao trào thảm khốc cho Trận Flodden năm 1513. Sự đổi mới chính liên quan đến việc mở đầu mỗi trong số sáu khổ thơ bằng một bức thư của tác giả gửi cho bạn bè. Sự đổi mới chính liên quan đến việc mở đầu mỗi trong số sáu khổ thơ bằng một bức thư của tác giả gửi cho một người bạn: William Stewart Rose, The Rev. John Marriot, William Erskine, James Skene, George Ellis, và Richard Heber: các thư tín phát triển các chủ đề về mặt tích cực đạo đức và niềm vui đặc biệt do nghệ thuật truyền đạt. Trong một động thái chưa từng có, nhà xuất bản Archibald Constable đã mua bản quyền bài thơ với giá một nghìn guineas vào đầu năm 1807, khi chỉ mới hoàn thành bài đầu tiên. Niềm tin của Constable được chứng minh bằng doanh số bán hàng: ba ấn bản xuất bản năm 1808 đã bán được 8.000 bản. Câu thơ của Marmion kém nổi bật hơn so với câu thơ của The Lay, với các bức thư ở thể thơ bốn nhịp iambic và câu chuyện ở thể thơ bốn nhịp với các nhịp ba thường xuyên. Sự đón nhận của những người đánh giá kém thuận lợi hơn so với The Lay: phong cách và cốt truyện đều bị cho là lỗi, các thư tín không liên kết với câu chuyện, có quá nhiều mô phạm cổ xưa, và nhân vật của Marmion là vô đạo đức. Những dòng quen thuộc nhất trong bài thơ tóm tắt một trong những chủ đề chính của nó: “Ôi mạng nhện ta giăng,/ Lần đầu tập lừa dối”
Sự nghiệp thi ca thần tốc của Scott lên đến đỉnh điểm với câu chuyện dài thứ ba của ông, The Lady of the Lake (1810), bán được 20.000 bản trong năm đầu tiên. Những người đánh giá khá thuận lợi, nhận thấy những khiếm khuyết được ghi nhận trong Marmion hầu như không có. Ở một khía cạnh nào đó, nó mang tính truyền thống hơn so với những phần trước: câu chuyện hoàn toàn được viết bằng tứ giác iambic và câu chuyện về James V (Vua xứ Scots 1513‒42) được ngụy trang trong suốt có thể dự đoán được: Coleridge đã viết cho Wordsworth: 'Chuyển động của Bài thơ.. .là giữa một Canter đang say ngủ và một người đàn bà đi chợ – nhưng nó dài vô tận – tôi dường như chưa bao giờ làm được gì cả – tôi chưa bao giờ nhớ một bài thơ tự sự nào mà trong đó tôi cảm thấy cảm giác Tiến bộ uể oải như vậy.” Nhưng sự đồng nhất về nhịp điệu được giải tỏa bởi những bài hát thường xuyên và khung cảnh Cao nguyên Perthshire được trình bày như một phong cảnh mê hoặc, gây ra sự gia tăng phi thường trong thương mại du lịch địa phương. xung đột giữa các xã hội lân cận trong các giai đoạn phát triển khác nhau.
Hai bài thơ tự sự dài còn lại, Rokeby (1813), lấy bối cảnh ở điền trang Yorkshire cùng tên thuộc về J. B. S. Morritt, bạn của Scott trong thời kỳ Nội chiến, và The Lord of the Isles (1815), lấy bối cảnh ở Scotland đầu thế kỷ 14 và đỉnh điểm là Trận Bannockburn năm 1314. Cả hai tác phẩm nhìn chung đều được đón nhận thuận lợi và bán chạy, nhưng không sánh được với thành công vang dội của The Lady of the Lake. Scott cũng đã viết bốn bài thơ tự sự hoặc bán tự sự nhỏ từ năm 1811 đến 1817: Tầm nhìn của Don Roderick (1811, kỷ niệm những thành công của Wellington trong Chiến dịch Bán đảo, với lợi nhuận quyên góp cho những người bị chiến tranh ở Bồ Đào Nha); Cô dâu của Triermain (đã xuất bản) ẩn danh vào năm 1813); Cánh đồng Waterloo (1815); và Harold the Dauntless (xuất bản ẩn danh năm 1817).
Trong suốt cuộc đời sáng tạo của mình, Scott là một nhà phê bình tích cực. Mặc dù bản thân là một Tory, ông đã đánh giá cho The Edinburgh Review từ năm 1803 đến 1806, nhưng việc ủng hộ hòa bình với Napoléon của tạp chí đó đã khiến ông hủy đăng ký vào năm 1808. Năm sau, ở đỉnh cao của sự nghiệp thi ca, ông đã có công trong việc thành lập một Đối thủ của Tory, The Quarterly Review mà ông đã đóng góp các bài đánh giá trong suốt phần đời còn lại của mình.
Năm 1813, Scott được trao giải Nhà thơ đoạt giải. Ông từ chối, cảm thấy rằng "một cuộc hẹn như vậy sẽ là một chiếc cốc tẩm độc," vì Giải thưởng đã bị mang tiếng xấu do chất lượng công việc mà những người nắm giữ danh hiệu trước đó bị suy giảm, "vì một loạt các nhà thơ đã viết ra những bài ca tụng thông thường và khúm núm trong những dịp hoàng gia." Ông tìm kiếm lời khuyên từ Công tước thứ 4 xứ Buccleuch, người đã khuyên ông nên duy trì sự độc lập về văn học của mình. Vị trí này thuộc về bạn của Scott, Robert Southey.
Tiểu thuyết gia |
Vanir là một thần tộc trong thần thoại Bắc Âu bên cạnh thần tộc lớn nhất và có nhiều ảnh hưởng nhất Aesir.
Đặc điểm
Các Vanir thường là các thần của mùa màng, biển và sự sung túc. Bên cạnh các Aesir đại diện cho sức mạnh và chiến tranh, các Vanir được coi là những vị thần đem lại của cải, bảo hộ cho hòa bình và hạnh phúc và cùng với các Aesir, duy trì trật tự và ổn định. Họ có hiểu biết sâu rộng về pháp thuật nên có thể tiên đoán tương lai. Freyja được coi là người dạy pháp thuật cho các Aesir. Cộng đồng Vanir cho phép người cùng gia đình, thậm chí anh chị em ruột kết hôn với nhau - điều mà thị tộc Aesir ngăn cấm. Freyr và Freyja là con của Njord (Njǫrðr) với em ruột mình.
Những nỗ lực nhằm cải đạo người Bắc Âu dị giáo sang Thiên Chúa giáo gặp nhiều khó khăn vì tục lệ thờ cúng các Vanir bám rễ khá sâu. Người Bắc Âu cổ có thể lựa chọn thờ các thần thuộc thị tộc Aesir hoặc Vanir hay cả hai. Tục thờ cúng các Vanir thường mạnh trong các vùng nơi người dân làm nghề nông hoặc đánh cá.
Vanaheim
Vanaheim (còn gọi là Vanaland) là nơi các Vanir sinh sống. Giống Asgard, Vanaheim nằm trên cành của cây thế giới Yggdrasil. Snorri Sturluson gọi Vanaheim là Tanakvísl hoặc Vanakvísl.
Các Vanir và người Elf
Có thể là các sử thi Edda coi các Vanir đồng nhất với người Elf (tiếng Bắc Âu cổ gọi là Alfar) khi trong các Edda hai cụm từ "Aesir và Vanir" và "Aesir và Alfar" được dùng thay thế lẫn nhau để chỉ "tất cả các vị thần". Cả Vanir và Alfar đều đem lại sự sung túc. Sự khác nhau trong tên gọi có thể chỉ địa vị khác nhau giữa họ. Người Elf chỉ là những phúc thần có vai trò nhỏ bé trong khi Vanir là một thị tộc lớn có nhiều ảnh hưởng. Thần Freyr được coi là thủ lĩnh của người Elf (tòa điện nơi Freyr sinh sống có tên là Álfheim nghĩa là "ngôi nhà của người Elf").
Vai trò của các Vanir
Người Bắc Âu cổ tin rằng các Vanir ban cho họ những hiểu biết về thiên văn học. Thần gió Njord đã đem kiến thức về Mặt Trời, Mặt Trăng và các vì sao (thể hiện trong các bản khắc chữ rune và những hình vẽ trong hang động) lưu truyền khắp vùng Scandinavia. Dù còn nhiều tranh cãi, người ta tin rằng những hiểu biết này giúp người đi biển và các người Viking sau này vượt qua những vùng biển rộng. Ngoài ra các Vanir còn am tường nghề y và ma thuật.
Danh sách các Vanir
Freyja: nữ thần sắc đẹp, tình yêu, chiến tranh và cái chết, sau này sang Asgard
Freyr: thần của ánh sáng, mưa và sự sung túc, sau này sang Asgard
Gerðr
Gullveig, việc các Æsir (Aesir) ngược đãi nữ thần này đã gây chiến tranh giữa hai thị tộc
Hœnir: con tin từ thị tộc Æsir
Mímir: con tin từ thị tộc Æsir
Kvasir: vị thần của sự khôn ngoan
Lýtir
Njord (Njǫrðr): thần gió và cũng là thủ lĩnh các Vanir, sau này sang Asgard làm con tin của các Aesir
Skaði: nữ thần săn bắn, thường được thể hiện với đôi giày trượt tuyết, vợ của Njord |
Tam cúc (三菊) là tên một trò chơi bài lá dân gian phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Tam cúc là thú chơi của tầng lớp bình dân và được nhiều tầng lớp chơi vì luật chơi khá đơn giản. Tam cúc không chỉ được chơi khi giải trí, rỗi rãi mà trong các ngày lễ, Tết, nó cũng là trò chơi không thể thiếu. Người dân đồng bằng Bắc Bộ thường có tập quán chơi tam cúc trong lúc đợi nồi bánh chưng chín. Tuy nhiên, đối tượng chủ yếu chơi Tam Cúc vẫn là phụ nữ vì tam cúc có số bài ít, còn nam giới thì chơi Tổ tôm nhiều hơn.
Quân bài
Bộ bài Tam Cúc có 32 lá bài, tương tự trò chơi cờ tướng, gồm hai loại quân là quân đỏ và quân đen gồm 16 quân đỏ và 16 quân đen. Mỗi loại gồm các quân tướng (將 vẽ hình vị tướng ngồi ghế có cờ cắm sau lưng), sĩ (士 vẽ hình vị quan đội mũ cánh chuồn có một em bé đứng khoanh tay ở phía sau), tượng (象 có vẽ hình con voi), xe (車 có vẽ hình cỗ xe với ba khối màu đỏ, xanh, vàng), pháo (砲 có vẽ hình khẩu pháo), mã (馬 có vẽ hình con ngựa), tốt (卒 có vẽ hình người lính cầm giáo). Trong một bộ màu đỏ hoặc đen thì trừ tướng chỉ có 1 lá và tốt có 5 lá mỗi loại quân, các quân khác đều có 2 lá. Quân bài Tướng của quân đỏ được gọi là "tướng ông". Quân bài Tướng của loại quân đen được gọi là "tướng bà". Quân bài Sĩ của loại quân đỏ được gọi là Sĩ điều, quân bài Tượng của loại quân đỏ được gọi là Tượng/Tịnh hồng, quân bài Tượng của loại quân đen được gọi là Tượng/Tịnh thâm. Các quân khác đều gọi theo tên kèm màu sắc của loại quân. Chữ Hán trên quân bài giống các quân cờ phía đen trong cờ tướng.
Lá bài làm bằng bìa mỏng, hình chữ nhật dài và hẹp có nền màu trắng, ở trên có ghi các tên bài bằng chữ Hán màu đen (quân đỏ có dấu son màu đỏ) và có hình minh họa. Mặt sau thì giống hệt nhau cho cả 32 lá bài.
Cách chơi
Người nào có số lượng lá bài thắng nhiều nhất thì người đó xếp thứ nhất và tiếp theo đến người thứ hai, thứ ba..
Khái niệm
Bài Tam Cúc được phân định lớn nhỏ như sau: Tướng > Sĩ > Tượng > Xe > Pháo > Mã > Tốt.
Các quân bài cùng tên thì giá trị quân đỏ lớn hơn quân đen.
Như vậy:
Quân bài lớn nhất trong bộ bài tam cúc là quân tướng ông (tướng đỏ).
Quân bài nhỏ nhất trong bộ bài tam cúc là quân tốt đen.
Quân tượng thâm (tượng đen) lớn hơn quân pháo đỏ.
Các bộ quân kết hợp trong bài:
Bộ đôi: Hai quân bài cùng màu, cùng tên như đôi Sĩ điều, đôi Pháo đen... (giống trong bộ bài tây).
Bộ ba: Ba quân Tướng-Sĩ-Tượng, Xe-Pháo-Mã cùng màu (tương tự như Sảnh trong bộ bài tây). Nhưng Sĩ-Tượng-Xe, Tượng-Xe-Pháo, Pháo-Mã-Tốt thì không phải là một bộ ba.
Tứ tử (hay tứ quý): Bốn quân Tốt cùng màu (tương tự như bộ bài tây).
Ngũ tử (hay ngũ quý): Năm quân Tốt cùng màu.
Cách chơi
Tam Cúc có thể được chơi 4 người, 3 người hoặc 2 người. Nhưng nếu chơi ba người thì phải bỏ đi một con Tốt đỏ và một con Tốt đen hoặc bỏ đi 5 quân: Tướng ông, tướng bà, 1 sĩ điều, 1 tốt đỏ và 1 tốt đen.
Ban đầu, một người sẽ trộn bài và một người bắt cái. Cái sẽ được tính bằng cách đếm theo chiều tay phải của người bắt cái và đọc lần lượt từ Tướng->Sĩ->Tượng->Xe->Pháo->Mã->Tốt. Lá bài được bắt cái có tên là gì thì việc đếm sẽ dừng lại ở người tương ứng với tên bài đó. Nhà cái sẽ được ra bài đầu tiên và được chia bài đầu tiên. Khác với bài Tứ Sắc, các quân bài được chia hết cho tất cả mọi người tham dự chiếu bài.
Người có cái sẽ ra bài đầu tiên và gọi bài. "một cây", "đôi cây" hay "ba cây"... được gọi thì những người chơi còn lại sẽ tương ứng cho ra số cây bài của mình. Với ván bài có 2 người hoặc 4 người sẽ có khẩu quyết "cấm tướng, cấm sĩ lấy tượng cầm đầu" và ở lượt gọi bài đầu tiên, người chơi chỉ được phép ra cây bài lớn nhất là tượng hồng. Người chơi nào ra bất kể tướng hay sĩ đều phạm luật và không được quyền ăn. Với ván bài có 3 người chơi, khẩu quyết đổi thành "cấm sĩ, cấm tượng lấy xe cầm đầu" và xe hồng trở thành cây bài lớn nhất được phép ra ở lượt gọi đầu tiên. Các cây bài được ra với mặt phải (mặt có ký hiệu quân) được giữ kín và úp xuống chiếu bài. Khi mọi người đã ra đầy đủ bài thì người gọi bài sẽ lật bài đầu tiên rồi theo thứ tự những người bên cạnh, ai có lá bài có giá trị lớn nhất thì người đó được bài và giành cái. Tuy nhiên, tất cả mọi người được phép chui bài bằng cách chịu thua và không lật bài lên để khỏi lộ bài. Các bài thu bị gọi là rác và bị bỏ đi.
Đặc biệt:
Vì trường hợp một người có Ngũ tử hoặc Tứ tử hiếm khi xảy ra nên nếu chơi 2 người hoặc 4 người thì "Tứ tử trình làng", hạ nhóm quân Tứ tử đó xuống chiếu và được ăn, nhưng không được làm cái. Nếu có Ngũ tử thì có quyền cướp cái và trình làng bất cứ lúc nào. Nếu chơi 3 người thì có Tứ tử cũng sẽ được trình làng bất kỳ lúc nào và cướp cái. (Chơi 3 người không có Ngũ tử vì thiếu hai con Tốt đỏ và Tốt đen). Tứ tử trình làng hay ngũ tử cướp cái không được tính là lượt gọi đầu tiên và luật cấm ở lần gọi đầu tiên vẫn giữ nguyên sau lượt này.
Đến vòng bài cuối cùng trước khi hết quân, người cầm cái gọi đôi Tốt đen (nhóm quân có giá trị thấp nhất trong bài), nếu thắng thì được gọi là kết đôi, nếu cuối bài mà gọi được 3 xe pháo mã đen hoặc xe pháo mã đỏ (nếu người này có xe pháo mã đen để kết mà người kia có xe pháo mã đỏ để ăn thi được gọi là đè) thì được gọi là kết ba.
Tuỳ từng nơi chơi, từng hội chơi mà giá trị kết đôi hay kết ba được tính thêm điểm vào lúc tổng kết cuối mỗi ván chơi. Ngoài ra, việc người có cái cố gắng kết đôi hay kết ba nhưng bị đè (người chơi khác có bộ lớn hơn) cũng tính thêm điểm cho người đè được kết đôi. Ví dụ kết đôi thêm 2, đè 4, kết ba thêm 3 đè 6, riêng kết tứ tử ăn thêm 8 đè 16, nhưng kết ăn thêm phải là đôi, ba, tứ tử đen. Việc "đi đêm" cũng có nhiều hội chơi sử dụng, đó là cách tráo đổi quân giữa những người chơi sao cho có lợi cho cả hai bên để được nhiều nhóm quân hơn. Khi "đi đêm", các quân bài được úp mặt phải xuống chiếu để đảm bảo tên các quân tráo đổi được giữ kín.
Các từ ngữ có nguồn gốc xuất phát từ Tam Cúc
Đi đêm.
Tứ tử trình làng.
Ngũ tử cướp cái
Trong văn học
Nhà thơ Hoàng Cầm có bài thơ về Cây Tam Cúc nổi tiếng và sau này được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc:
...Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì...
...Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ
Đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em...
...Thả tịnh vàng cưới Chị võng mây trôi
Em đứng nhìn theo Em gọi đôi.
Nhà thơ Hồ Dzếnh có bài thơ về Cỗ bài tam cúc:
...Từ đó mỗi mùa đào nở
Pháo xe lại rộn cây bài
Có độ anh về, có độ
Vắng anh, em nhớ mong hoài...
Nhà thơ Trần Đăng Khoa có bài thơ về Đánh tam cúc:
Đây là tướng ông
Chân đi hài đỏ
Đây là tướng bà
Tóc hiu hiu gió
Đây là con ngựa
Chân có bụi đường |
Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ/Cục An ninh Trung ương (tiếng Anh: National Security Agency/Central Security Service, viết tắt NSA/CSS) là cơ quan thu thập các tin tức tình báo được cho là lớn nhất thuộc chính phủ Hoa Kỳ. Nó có nhiệm vụ thu thập và phân tích các tín hiệu truyền thông nước ngoài đồng thời đảm bảo an toàn cho các kênh truyền thông của chính phủ Hoa Kỳ. Được chính thức thành lập vào ngày 4 tháng 11 năm 1952, NSA là một bộ phận của Bộ quốc phòng Hoa Kỳ và luôn được đặt dưới quyền lãnh đạo của một tướng 3 sao. NSA là một thành phần quan trọng của cộng đồng Tình báo Hoa Kỳ (United States Intelligence Community) đứng đầu bởi Giám đốc tình báo quốc gia (Director of National Intelligence).
Lĩnh vực nghe lén của NSA bao gồm: truyền thông quảng bá qua sóng vô tuyến (từ các cá nhân và tổ chức), Internet, điện thoại, và các dạng truyền thông khác. Nhiệm vụ bảo vệ an toàn thông tin của NSA bao gồm quân sự, ngoại giao và các thông tin mật hoặc nhạy cảm của chính phủ. Mặc dù được biết đến như là tổ chức có số nhà toán học làm việc lớn nhất, có số lượng siêu máy tính lớn nhất, nhưng thông tin về NSA hầu như không được biết đến cho tới tận những năm đầu của thế kỷ 21. Trong một thời gian dài, ngay cả việc NSA tồn tại cũng không được chính phủ Hoa Kỳ chính thức thừa nhận. Vì vậy, người ta còn gọi một cách hài hước rằng tên NSA là từ viết tắt của "No Such Agency" (Cơ quan không tồn tại) hoặc "Never Say Anything" (Không nói bất cứ điều gì).
Do tính chất công việc nghe lén, hoạt động của NSA/CSS liên quan rất nhiều tới những nghiên cứu trong lĩnh vực phân tích mật mã (phá mã), tiếp bước của những cơ quan tiền thân đã rất thành công trong việc phá mã trong thế chiến II. (Xem thêm: Mã Purple, Venona, và JN-25).
Trụ sở của NSA đặt tại pháo đài George G. Meade, tiểu bang Maryland, cách Washington, DC khoảng 16 km về phía đông bắc. NSA có cổng riêng của mình trên đường Baltimore-Washington với biển "Dành riêng cho nhân viên NSA" và luôn được 2 xe cảnh sát bang Maryland canh gác. Rất khó để đánh giá quy mô hoạt động của NSA vì đây là thông tin mật nhưng ta có thể đánh giá gián tiếp thông qua hóa đơn tiền điện. Ngân sách dành chi trả tiền điện hàng năm của NSA đứng ở vị trí thứ 2 trong toàn bang Maryland với số tiền hơn 21 triệu đô la Mỹ . Các bức ảnh chụp bãi đỗ xe của NSA cho thấy có khoảng 18000 vị trí đỗ xe nhưng hầu hết các dự đoán đánh giá tổng số nhân viên trên toàn cầu của NSA phải gấp đôi con số nói trên.
Để thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin cho chính phủ, NSA tham gia vào rất nhiều lĩnh vực công nghệ trong đó có thiết kế các phần cứng và phần mềm chuyên biệt, sản xuất các chíp bán dẫn đặc biệt (có cả nhà máy sản xuất chíp tại pháo đài Fort Meade) và nghiên cứu nâng cao về mật mã học. NSA cũng ký hợp đồng với các công ty tư nhân trong lĩnh vực nghiên cứu và thiết bị.
Lịch sử
Nguồn gốc của NSA có thể coi bắt đầu từ một tổ chức thiết lập bên trong Bộ quốc phòng Hoa Kỳ có tên là Cơ quan an ninh lực lượng vũ trang (tiếng Anh: Armed Forces Security Agency, viết tắt AFSA) đặt dưới sự chỉ đạo của Bộ tổng tham mưu (Joint Chiefs of Staff) thành lập vào ngày 20 tháng 5 năm 1949. AFSA có nhiệm vụ chỉ đạo các hoạt động tình báo điện tử của các bộ phận tình báo bao gồm: Cơ quan an ninh quân sự (Army Security Agency), Bộ phận an ninh hải quân (Naval Security Group), và Cục an ninh không quân (Air Force Security Service). Tuy nhiên cơ quan này có rất ít quyền lực và thiếu các cơ chế phối hợp trung tâm. NSA ra đời từ một bản ghi nhớ ngày 10 tháng 10 năm 1951 gửi từ giám đốc CIA Walter Bedell Smith tới James B. Lay, bí thư thường trực của Hội đồng an ninh quốc gia. Ban ghi nhớ nêu rõ: "sự quản lý và phối hợp các hoạt động thu thập và xử lý thông tin tình báo truyền thông tỏ ra kém hiệu quả" và đề nghị một cuộc khảo sát về các hoạt động tình báo truyền thông. Đề nghị được phê chuẩn vào ngày 13 tháng 12 năm 1951 và các nghiên cứu được cho phép vào ngày 28 tháng 12 năm 1951 và báo cáo được hoàn thành vào 13 tháng 6 năm 1952. Được biết đến dưới tên " báo cáo hội đồng Brownell" theo tên của chủ tịch hội đồng Herbert Brownell, bản báo cáo đã tóm lược lịch sử các hoạt động tình báo truyền thông của Hoa Kỳ và đề xuất yêu cầu về chỉ đạo và phối hợp các hoạt động này ở mức độ quốc gia. NSA đã được thành lập với phạm vi vượt qua giới hạn trong lĩnh vực quân sự.
Việc thành lập NSA được phê chuẩn trong một bức thư của tổng thống Harry S. Truman vào tháng 6 năm 1952. NSA được chính thức thành lập qua một chỉ thị số 9 của Hội đồng an ninh quốc gia (NSCID) vào ngày 24 tháng 10 năm 1952 và bắt đầu hoạt động từ ngày 4 tháng 11 năm 1952. Bản thân bức thư của tổng thống Truman cũng là thông tin mật và được giữ bí mật trước công chúng nhiều năm sau đó.
Tham gia của NSA trong các hệ thống mật mã công cộng
Kể từ thời gian dưới quyền lãnh đạo của Bobby Ray Inman, NSA đã tham dự vào việc tạo lập chính sách đối với công chúng trong lĩnh vực sử dụng mật mã trong cả vai trò cố vấn cho các bộ phận khác của chính phủ Hoa Kỳ cũng như tham dự trực tiếp.
NSA có liên quan rất nhiều đến tranh cãi xung quanh quá trình hình thành Tiêu chuẩn mật mã hóa dữ liệu (DES), một tiêu chuẩn mật mã hóa khối dùng cho chính phủ. Trong suốt quá trình thiết kế DES tại IBM vào thập kỷ 1970, NSA đã đề xuất những thay đổi trong thuật toán. Vì thế, nhiều người nghi ngờ NSA đã cố tình làm yếu thuật toán để có thể phá vỡ khi cần thiết. Nghi ngờ tập trung chủ yếu vào một thành phần quan trọng của thuật toán, S-box. Đây có thể là một cổng sau để NSA có thể dễ dàng đọc được các thông tin đã được mã hóa. Ngoài ra độ dài khóa cũng bị rút ngắn, tạo điều kiện cho NSA có thể phá vỡ hệ thống với hệ thống siêu máy tính của mình.
Khi kỹ thuật phân tích mã vi sai được tìm ra thì những nghi ngờ này có phần được giảm bớt. S-box đã được sửa đổi có khả năng chống lại dạng tấn công này. Vì thế nhiều khả năng NSA đã biết đến phân tích mã vi sai vào thời điểm thiết kế DES, trước khi kỹ thuật này được độc lập phát hiện vài thập kỷ sau đó. Tuy nhiên việc can thiệp để giảm độ dài khóa DES từ 128 (theo đề nghị của IBM) xuống còn 56 bít thì chỉ có thể giải thích rằng đây là cố gắng làm yếu thuật toán để NSA với công suất tính toán vượt trội của mình có thể tấn công duyệt toàn bộ để giải mã trong trường hợp cần thiết.
Nhiều khả năng dưới ảnh hưởng của tranh cãi trong quá trình thiết kế DES mà sự liên quan của NSA trong quá trình chọn thuật toán thay thế DES chỉ hạn chế ở việc kiểm tra hiệu suất phần cứng (Xem thêm: Quá trình thiết kế AES).
NSA cũng là yếu tố quan trọng trong những tranh cãi hồi cuối thập kỷ 1990 trong vấn đề xuất khẩu công nghệ mật mã. Từ lâu, phần cứng và phần mềm mật mã được xếp cùng hạng với máy bay chiến đấu, xe tăng, pháo và bom nguyên tử.
Tại nhiều thời điểm, NSA/CSS đã cố gắng hạn chế việc xuất bản các tài liệu nghiên cứu về mật mã học, chẳng hạn như các thuật toán mật mã hóa khối Khufu và Khafre.
Bằng sáng chế
NSA có quyền đệ trình để nhận bằng sáng chế từ Văn phòng Sở hữu công nghiệp và Sáng chế Hoa Kỳ (US Patent and Trademark Office) theo một thủ tục đặc biệt mà thông tin không được tiết lộ ra công chúng. Không giống với các bằng sáng chế thông thường khác, bằng sáng chế của NSA được giữ bí mật và không có thời hạn công bố. Tuy nhiên, nếu Văn phòng Sáng chế nhận được yêu cầu đăng ký của cho sáng chế giống với sáng chế của NSA thì bằng sáng chế đó sẽ được công bố và được chính thức trao cho NSA giống như trường hợp bình thường kể từ ngày công bố.
Các hoạt động trong nước
Quy chế hoạt động của NSA (quyết định số 12333 ) cho phép tổ chức này quyền được thu thập thông tin "tình báo nước ngoài hoặc phản gián" đồng thời cấm thu thập các "thông tin liên quan tới các hoạt động trong nước của công dân Hoa Kỳ". Trong lãnh thổ Hoa Kỳ, NSA vẫn tuyên bố dựa hoàn toàn vào FBI để lấy các thông tin về các hoạt động tình báo nước ngoài và hạn chế phạm vi hoạt động của mình trong giới hạn các tòa đại sứ và các hoạt động của phái đoàn nước ngoài.
Các hoạt động mô tả dưới đây, đặc biệt là chương trình nghe lén điện thoại và cơ sở dữ liệu cuộc gọi, đã tạo nên những lo ngại về sự lạm dụng quyền lực của NSA.
ECHELON
NSA/CSS cùng với các cơ quan tương đương của Anh (Government Communications Headquarters), Canada (Communications Security Establishment), Australia (Defence Signals Directorate) và New Zealand (Government Communications Security Bureau) còn được gọi là nhóm UKUSA, được cho là đã vận hành một hệ thống có tên là ECHELON. Hệ thống này bị nghi ngờ là có khả năng giám sát phần lớn các luồng thông tin điện thoại, fax và số liệu dân sự trên phạm vi toàn thế giới. Trung tâm quan trọng nhất của ECHELON được đặt ở một trạm của Không quân hoàng gia Anh (RAF) tại Menwith Hill (tọa độ: 54,0162 độ vĩ Bắc, 1,6826 độ kinh Tây) gần Harrogate, Yorkshire. Theo một bài báo đăng trên tờ New York Times ngày 25 tháng 12 năm 2005, một điểm quan trọng khác là ở Sugar Grove, West Virginia (tọa độ: 38,514997 độ vĩ Bắc, 79,28421 độ kinh Tây) nghe lén tất cả các luồng truyền thông quốc tế đến miền đông Hoa Kỳ, còn điểm nằm gần Yakima, Washington (tọa độ: 46,681965 độ vĩ Bắc, 120,357810 độ kinh Tây) thì thu thập các luồng thông tin tới miền tây Hoa Kỳ.
Về mặt kỹ thuật, cùng với sự phát triển và tính chất mở của công nghệ, hầu như tất cả các dạng truyền thông hiện đại (điện thoại, Internet, fax, thông tin vệ tinh) đều có thể bị nghe trộm. Các hoạt động nghe lén của NSA đã tạo ra rất nhiều chỉ trích vì chúng đã xâm phạm đến đời tư của các công dân Hoa Kỳ. Tuy nhiên, điều luật liên quan tới NSA về thu thập thông tin tình báo của Hoa Kỳ (USSID 18) đã cấm hoàn toàn việc nghe lén và lưu trữ thông tin về "các tổ chức, công ty, thực thể và công dân Hoa Kỳ" trừ khi có phê chuẩn bằng văn bản của Tổng chưởng lý Hoa Kỳ (Attorney General). Toà án tối cao Hoa Kỳ cũng có quy định cấm các cơ quan tình báo thực hiện việc theo dõi các công dân Hoa Kỳ. Tuy nhiên trong một số trường hợp đặc biệt (chẳng hạn như vụ 11/9), việc theo dõi trên có thể được thực hiện mà không vi phạm điều luật USSID 18. Tuy nhiên, trong quá khứ , đã có dư luận về việc vi phạm điều luật USSID 18 mặc dù các quy định chặt chẽ của NSA nghiêm cấm việc này.
Hệ thống ECHELON cũng gây ra nhiều phẫn nộ đối với công dân các nước bên ngoài liên minh UK/USA vì họ nghi ngờ rằng chính phủ Hoa Kỳ đã sử các thông tin thu thập được với những mục đích bên ngoài an ninh quốc gia trong đó bao gồm cả những mục tiêu chính trị và tình báo kinh tế. Chúng ta cũng cần lưu ý rằng nhiệm vụ của NSA là thu thập các thông tin liên quan tới đảm bảo an ninh quốc gia và các hoạt động tình báo quân sự.
ThinThread
Theo những thông tin của tờ Baltimore Sun vào năm 2006, một chương trình nghe trộm điện thoại có tên là ThinThread được NSA thử nghiệm trong những năm cuối thập kỷ 1990. Chương trình này có thể đã đóng góp công nghệ để sử dụng trong những chương trình sau đó nhưng việc bảo vệ tính riêng tư đã bị loại bỏ sau Sự kiện 11 tháng 9 .
Nghe lén điện thoại
Vào ngày 16 tháng 12 năm 2005, tờ New York Times đã đăng một bản tin khẳng định dưới áp lực của Nhà Trắng và mệnh lệnh của tổng thống George W. Bush, trong nỗ lực chống khủng bố, NSA đã thực hiện việc nghe lén (trái luật) đối với các cuộc gọi ra nước ngoài của công dân Hoa Kỳ . Theo tờ báo này: "Nhà Trắng yêu cầu The New York Times không công bố bài báo vì có thể gây ảnh hưởng tới việc điều tra và khiến những kẻ khủng bố trở nên cảnh giác hơn. Sau khi có cuộc họp với những viên chức cấp cao về những điều này, tờ báo đã lùi ngày xuất bản chậm lại 1 năm để tiến hành những báo cáo bổ sung. Một vài thông tin mà những quan chức trên cho rằng có thể có ích cho khủng bố đã được cắt bỏ."
Tin tức về việc nghe lén đã tạo nên sự phản đối kịch liệt từ quốc hội và các tổ chức. Họ coi đây là một sự vi phạm pháp luật và hiến pháp. Thượng nghị sĩ Arlen Specter (R-PA), chủ tịch Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ đã nói rằng "điều đó rõ ràng là không phù hợp", "sai sót một cách hệ thống" và ông ta muốn tổ chức giải trình về vấn đề này trong đầu năm 2006. Yêu cầu điều tra nói trên cũng được Hạ nghị sĩ Rob Simmons (R-CT), chủ tịch tiểu ban Tình báo của Ủy ban An ninh nội địa ủng hộ. Trong một phát biểu của mình, ông ta nói: "Liệu việc nghe lén chỉ được thực hiện để chống khủng bố hay nó còn được dùng cho nhiều việc khác nữa?". Cũng giống như ECHELON (xem phần trước), một số cá nhân cho rằng các chính sách của Nhà Trắng đã mâu thuẫn với Luật thông tin tình báo nước ngoài trong đó có nêu: "Không được cố tình thu thập thông tin liên lạc từ, đến hoặc liên quan tới công dân Hoa Kỳ nếu không được sự cho phép của cấp có thẩm quyền". Thu thập thông tin để chống khủng bố được đề cập trong phần II của Luật Ái quốc Hoa Kỳ (USA Patriot Act).
Ngày 16 tháng 12, Scott McClellan, thư ký báo chí của Nhà Trắng, từ chối bình luận về sự việc này: "không có lý do gì mà chúng ta bàn luận về các hoạt động tình báo đang diễn ra bởi vì điều này có thể khiến các nỗ lực ngăn chặn tấn công của chúng ta trở nên vô ích" Sáng hôm sau, 17 tháng 12, tổng thống Hoa Kỳ đã có bài phát biểu dài 8 phút trực tiếp trên truyền hình thay vì bài phát biểu hàng tuần trên radio khẳng định rằng ông ta đã chấp thuận việc tìm kiếm nghe lén này. Tỏ ra giận dữ, ông ta bảo vệ hành động của mình là "quan trọng cho an ninh quốc gia" và rằng người dân Hoa Kỳ trông chờ vào tổng thống "làm tất cả những việc trong giới hạn quyền lực, trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật, để bảo vệ họ và các quyền tự do" chừng nào mà al-Qaida còn tỏ ra là một mối đe dọa. Ông ta còn dùng những lời nặng nề để nói về những người đã tiết lộ câu chuyện, cho rằng họ đã vi phạm pháp luật: "Việc rò rỉ thông tin không được phép đã làm ảnh hưởng tới an ninh quốc gia và đặt các công dân trong tình trạng nguy hiểm".
Thượng nghị sĩ Russ Feingold (D-WI), trong một cuộc phỏng vấn qua điện thoại với tờ Associated Press, đã cho rằng bài phát biểu của tổng thống cho thấy "mức độ cực đoan đáng ngại". Ông ta còn nói: "Nếu những điều đó đúng thì tổng thống không cần đến Luật Ái quốc vì ông ta có thể tạo ra trong quá trình thực hiện. Ông ta là tổng thống George Bush, chứ không phải là vua Bush. Đây không phải là hệ thống chính phủ của chúng ta và không phải là cái mà chúng ta đã chiến đấu để đạt tới". Trong cuộc phỏng vấn với CNN, Feingold cũng tỏ ra gay gắt không kém: "Chúng ta có một tổng thống, chứ không phải ông vua". Thượng nghị sĩ Patrick Leahy (D-VT), nhân vật cao nhất của Đảng Dân chủ trong Ủy ban Tư pháp, cũng phát biểu: "Chính quyền Bush dường như đã đứng trên pháp luật".
Ở chiều ngược lại, những chỉ trích đối với tiết lộ của tờ NewYork Times cho rằng tổng thống có quyền quyết định việc nghe lén, phù hợp với Quyết định 12333 ban hành dưới thời Ronald Reagan năm 1981.
Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã mở một cuộc điều tra vào cuối tháng 12 năm 2005 để tìm ra nguồn tin đã tiết lộ cho tờ New York Times.
Cơ sở dữ liệu cuộc gọi
Ngày 10 tháng 5 năm 2006, tờ USA Today đăng tin về việc NSA đang vận hành một "cơ sở dữ liệu lớn nhất từng có trên Trái Đất" chứa thông tin của tất cả các cuộc gọi (cả trong nước và quốc tế) thực hiện qua các công ty AT&T, Verizon và BellSouth. Sau khi thừa nhận việc này, chính quyền cũng khẳng định là không thu thập những thông tin như họ tên, địa chỉ và các thông tin cá nhân khác. Cũng giống như các công ty điện thoại lớn khác, Qwest Communications cũng bị yêu cầu cung cấp các thông tin cuộc gọi nhưng đã từ chối thực hiện viện trên cơ sở pháp luật.10 tháng 5 năm 2006-nsa_x.htm
Nghe lén điện thoại của công dân Hoa Kỳ
Trong những năm sau khi Richard Nixon từ chức, có một vài cuộc điều tra về việc lạm dụng các cơ sở của CIA và NSA. Thượng nghị sĩ Frank Church đã chỉ đạo một ủy ban của Thượng viện và tìm ra một số hoạt động mà trước đó chưa được biết đến, chẳng hạn như kế hoạch ám sát Fidel Castro của CIA dưới chỉ đạo của John F. Kennedy và Chưởng lý Robert F. Kennedy. Trong quá trình điều tra, ủy ban cũng phát hiện rằng NSA đã chủ động thực hiện việc nghe lén điện thoại của các công dân Hoa Kỳ.
PRISM
Vào tháng 6 năm 2013, một cựu nhân viên của CIA (Edward Snowden), làm việc cho NSA qua hãng Booz Allen Hamilton tiết lộ, cơ quan này trong chương trình PRISM đã theo dõi các hoạt động trên Internet toàn thế giới bằng cách khai thác các thông tin của các khách hàng các hãng lớn. Theo báo chí tường thuật, trong số đó có các hãng như Google, Microsoft, Apple, Facebook, Yahoo, PalTalk, YouTube, Skype und AOL, NSA được quyền truy cập trực tiếp ngay trên các Servers của họ.
Nhân viên tiêu biểu
Giám đốc
1952–1956 Trung tướng Ralph J. Canine, USA
1956–1960 Trung tướng John A. Samford, USAF
1960–1962 Phó Đô đốc Laurence H. Frost, USN
1962–1965 Trung tướng Gordon A. Blake, USAF
1965–1969 Trung tướng Marshall S. Carter, USA
1969–1972 Phó Đô đốc Noel A. M. Gaylor, USN
1972–1973 Trung tướng Samuel C. Phillips, USAF
1973–1977 Trung tướng Lew Allen, Jr., USAF
1977–1981 Phó Đô đốc Bobby Ray Inman, USN
1981–1985 Trung tướng Lincoln D. Faurer, USAF
1985–1988 Trung tướng William E. Odom, USA
1988–1992 Phó Đô đốc William O. Studeman, USN
1992–1996 Phó Đô đốc John M. McConnell, USN
1996–1999 Trung tướng Kenneth A. Minihan, USAF
1999–2005 Trung tướng Michael V. Hayden, USAF
2005–2014 Trung tướng Keith B. Alexander, USA
2014–nay Đô đốc Michael S. Rogers, USN
USA, USAF, và USN là viết tắt của Lục quân, Không quân và Hải quân Hoa Kỳ.
Phó giám đốc
Tháng 12, 1952–Tháng 11, 1953 Chuẩn Đô đốc Joseph Wenger, USN
Tháng 11, 1953–Tháng 6, 1956 Thiếu tướng John Ackerman, USAF
Tháng 6, 1956–Tháng 8, 1956 Thiếu tướng John A. Samford, USAF
Tháng 8, 1956–Tháng 9, 1957 Ông Joseph H. Ream
Tháng 10, 1957–Tháng 7, 1958 Tiến sĩ H. T. Engstrom
Tháng 8, 1958–Tháng 4, 1974 Tiến sĩ Louis W. Tordella, USN
Tháng 4, 1974–Tháng 5, 1978 Ông Benson K. Buffham
Tháng 5, 1978–Tháng 4, 1980 Ông Robert E. Drake
Tháng 4, 1980–Tháng 7, 1982 Bà Ann Z. Caracristi
Tháng 7, 1982–Tháng 6, 1985 Ông Robert E. Rich
Tháng 6, 1985–Tháng 3, 1988 Ông Charles R. Lord
Tháng 3, 1988–Tháng 7, 1990 Ông Gerald R. Young
Tháng 7, 1990–Tháng 2, 1994 Ông Robert L. Prestel
Tháng 2, 1994–Tháng 10, 1997 Ông William P. Crowell
Tháng 10, 1997–Tháng 6, 2000 Bà Barbara A. McNamara
Tháng 6, 2000–nay Ông William B. Black, Jr.
Các nhà mật mã học tiêu biểu
Lambros D. Callimahos
Agnes Meyer Driscoll
William F. Friedman
Solomon Kullback
Frank Rowlett
Abraham Sinkov
Louis W. Tordella
Các hệ thống mật mã của NSA
Bài chính: Các hệ thống mật mã của NSA
NSA đảm nhiệm vai trò về thành phần liên quan tới mật mã trong các hệ thống sau:
EKMS Hệ thống quản lý khóa điện tử
FNBDT Thiết bị đầu cuối điện tử băng hẹp (tiêu chuẩn)
Fortezza Hệ thống mật mã trong thẻ mật mã cầm tay định dạng PC Card
KL-7 Máy mật mã hóa rôto ngoại tuyến ADONIS (sau thế chiến II tới thập kỷ 1980)
KW-26 Máy mật mã điện báo trực tuyến điện tử ROMULUS (1960s–thập kỷ 1980)
KW-37 Máy mật mã quảng bá JASON dùng cho hải quân (1960s–thập kỷ 1990)
KY-57 Máy mật mã âm thanh qua radio chiến thuật VINSON
SINCGARS Radio chiến thuật với kỹ thuật nhảy tần số điều khiển bằng mật mã
STE Thiết bị điện thoại an toàn
STU-III Một loạt điện thoại an toàn cũ hơn
Các hoạt động thu thập tin tức tình báo (SIGINT)
Ultra
Magic (mật mã)
Mật mã Purple
Dự án VENONA
Sự kiện vịnh Bắc Bộ
Vụ USS Liberty
USS Pueblo (AGER-2)
ECHELON
NSA trong văn học
Bài chính: NSA trong văn học
Từ khi sự tồn tại của NSA được biết đến rộng rãi vài thập kỷ gần đây, đặc biệt từ thập kỷ 1990, cơ quan này được đề cập đến trong nhiều tiểu thuyết trinh thám. Hầu hết trong số này đã thổi phồng vai trò của NSA trong các hoạt động của các cơ quan tình báo. Trong bộ phim Die Another Day trong series phim Jame Bond, nhân vật nữ chính (Bond girl) do Halle Berry thủ vai là một nhân viên của NSA. Hai tiểu thuyết của Dan Brown là Mật mã Da Vinci và Pháo đài số (Tựa gốc "Digital Fortress"), nói về những cuộc giải mã hay truy tìm tung tích chìa khoá của mã tuần hoàn của cặp đôi Susan Fletcher và David Breker. Bên cạnh đó, NSA cũng xuất hiện trong nhiều bộ phim, sách và trò chơi điện tử khác.
Ghi chú |
Tổ tôm, hay theo Hán Việt tụ tam bài (聚三牌), là một trò chơi bài lá dân gian phổ biến của người Việt. Về tên gọi, có nguồn cho rằng "tổ tôm" là đọc trại âm "Tụ tam". "Tụ tam" theo từ nguyên là "góp ba thứ lại", tức ba hàng Văn, Vạn và Sách của bộ bài.
Trong các ngày lễ, Tết, tổ tôm thường được nam giới và người già chơi vì nó có một số luật khá khó, nhiều nước biến hoá, thanh niên và phụ nữ thời xưa ít chơi. Tổ tôm không phổ biến và bình dân bằng trò chơi Tam cúc.
Lịch sử và nguồn gốc
Lai lịch tổ tôm đến nay vẫn chưa rõ nhưng đến thế kỷ 19 tại Việt Nam thì lối chơi bài này rất phổ biến, nhất là trong giới thượng lưu vốn coi đây là một trò chơi thanh lịch dùng nhiều trí lực. Văn chương Việt Nam nhắc đến tổ tôm trong một số tác phẩm văn thơ.
Ca dao thì có câu:
"Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà Mạn Hảo xem Nôm Thúy Kiều".
Riêng cỗ bài thì hình vẽ trên mỗi quân bài lại mang phong cách tranh mộc bản (木本 mokuhan) của Nhật Bản nên có người đặt câu hỏi phải chăng tổ tôm xuất phát từ Nhật. Nguyên nhân có lẽ chỉ là do dưới thời Pháp thuộc, công ty A.Camoin & Cie của Pháp đã cho phát hành bộ bài tổ tôm với những hình trang trí lấy cảm hứng từ mĩ thuật Nhật Bản. Hình ảnh của bộ bài tổ tôm được giữ nguyên từ đó cho đến nay. Có nguồn thì lại phỏng đoán cho tổ tôm xuất phát từ Trung Hoa. Tuy nhiên cho đến nay rõ một điều là cả Nhật và Trung Hoa đều không dùng bộ bài này.
Những nhân vật trên quân bài đều trang phục như người Nhật thời Edo, tức trước cuộc cải cách của Nhật hoàng Minh Trị 1868. Trong các quân bài thì 18 quân vẽ hình người đàn ông (có tám người chân quấn xà-cạp kyahan), bốn hình phụ nữ và bốn hình trẻ em. Ngoài ra có vài quân vẽ những vật khác nhưng đều là mô hình thông dụng trong ngành hội họa Nhật: cá chép, trái đào, vọng lâu, tàu thuyền.
Quân bài
Bài Tổ tôm có 120 lá bài gọi là "quân", chia thành 3 "hàng" (còn gọi là "chất" hay "hoa") Vạn (萬), Sách (索), Văn (文). Mỗi hàng có 9 bậc gọi là "số" từ nhất (一) đến cửu (九). Mỗi bậc có 4 quân, tổng cộng là 108 quân. Ngoài ra có số đặc biệt gọi là hàng yêu ("yêu đỏ" hay "yêu điều" vì có thêm dấu son đỏ trên mặt chữ) có tên gọi riêng là Ông lão (hay Ông cụ), Thang Thang và Chi Chi. Hàng yêu cũng 4 quân mỗi bậc tức là thêm 12 quân, cộng với 108 kể trên là 120 quân cả thảy.
Lá bài làm bằng bìa cứng, hẹp và dài, một mặt để trơn, mặt kia có hình và chữ. Bề ngang lá bài khoảng chiều ngang hai ngón tay. Bề dọc dài hơn ngón tay giữa.
Trên mỗi lá bài có hình vẽ ở khoảng giữa. Tên quân viết ở hai đầu ngược và xuôi bằng chữ Nho. Tên hàng Vạn, Văn, Sách nằm nhích bên trái. Tên số từ Nhất đến Cửu nằm bên phải. Cách nhận diện ba hàng Vạn, Văn, và Sách có thể tóm tắt là:
"Vạn vuông, Văn chéo, Sách loằng ngoằng".
Các quân bát vạn, cửu vạn, bát sách, và cửu sách cũng có dấu son đỏ giống như hàng yêu. Vì có hình minh họa nên ai dù không biết chữ Nho cũng có thể nhận diện bằng hình.
Cỗ bài tổ tôm ngoài việc dùng đánh tổ tôm còn dùng đánh tài bàn và đánh chắn tuy phải loại bỏ một số quân cho phù hợp với trò chơi.
Cách chơi
Muốn chơi tổ tôm phải có năm người (gọi là chân) ngồi trên chiếu để dễ quây thành vòng tròn. Ngồi bàn thì khó hơn vì bàn chỉ có bốn cạnh. Năm chân gọi chung là "làng".
Người cầm cái sẽ chia bài đều thành sáu phần, mỗi phần 20 quân; năm phần thì cho năm người, còn lại một phần thì xếp ở giữa chiếu, gọi là "bài nọc". Mỗi người cầm bài lên xòe dạng nan quạt xếp để dễ xem rồi cố xếp thành "phu", tức từng bộ theo thể lệ tổ tôm.
Ván bài bắt đầu khi bắt cái. Người được cái rút ra hai quân từ sấp bài nọc. Một quân gọi là "bài bốc" đặt cùng với bài nọc nhưng quân này lật ngửa. Một quân người cái giữ trên tay. Vào thời điểm này thì người cái có 21 quân, sấp bài nọc có 18 quân và một quân bài bốc. Bốn chân còn lại mỗi người có 20 quân.
Người cái đánh quân bài đầu tiên vào "cửa" bên phải của mình theo thứ tự ngược chiều kim đồng hồ. Người kế gọi là "tay dưới" có hai lựa chọn để đạt được phu.
ăn
không ăn
Nếu "ăn" tức là nhận quân bài của tay trên thì phải đánh ra bên cửa phải một quân lẻ cho người kế tiếp tay dưới.
Nếu không ăn thì có thể bốc một quân từ sấp bài nọc.
Phu
Một phu phải có ít nhất ba quân theo luật nhất định để thành một bộ. Chưa tròn một phu thì gọi là "lưng", phải chờ quân.
Phu dọc: ba quân cùng một hàng và theo tứ tự số; ví dụ như nhất vạn + nhị vạn + tam vạn; nhị văn + tam văn + tứ văn...
Phu bí: là phu cùng một số mà khác hàng; ví dụ như nhị vạn + nhị sách + nhị văn
Thiên khai: bốn quân giống nhau
Khàn: ba quân giống nhau
Phu lưng còn gọi là "cộng thành 10" với hàng văn lớn hơn cả; ví dụ như nhất vạn + nhất sách + cửu văn; nhị vạn + nhị sách + bát văn
Trong số này có những phu có tên riêng như
Tôm: tam vạn + tam sách + thất văn
Tôm đỏ: cửu vạn + cửu sách + thang thang
Lèo: cửu vạn + cửu sách + chi chi
Nhà cái đi trước, hạ bài xuống chiếu rồi bốc một quân từ sấp bài nọc. Khi bài nọc hết thì xong một ván. Có khi ván đó không có ai "ù" thì ván đó gọi là "hòa".
Ù
Ù là khi người đánh hạ cả 21 quân xuống xếp thành các phu, không lẻ quân nào. Quân lẻ thì gọi là "rác" nhưng luật cấm rác không được có quân yêu. Ù có nhiều loại.
Ù thập điềm: toàn quân đỏ
Ù bạch định: toàn quân trắng
Ù kính cụ: toàn quân trắng và quân Ông cụ
Ù kính tứ cố: toàn quân trắng và bốn quân Ông cụ
Xếp bài
Khi chơi tổ tôm bài hạ xuống chiếu có quy tắc để dễ kiểm điểm khi tính điểm. Phu bí phải xếp trên cùng. Phu dọc phải xếp dưới và đặt dọc. Có thiên khai thì phải trình làng. Khàn thì đặt úp, đến khi ù thì lật lên.
Tính điểm
Nhiều ván tổ tôm gom lại là một hội. Mỗi ván tính điểm rồi cộng lại.
Biến thể
Tổ tôm bí tứ
Tổ tôm bốn người chơi thì gọi là bí tứ.
Tổ tôm điếm
Bài ù phải có lưng các lá còn lại nằm trong các bí trừ các lá yêu
Lưng:
-Thiên khai (4 quân giống nhau)
-Khàn (có 3 lá giống nhau khi 1 lá nữa ra thì dậy khàn giống chíu trong chắn)
-Phỗng (bài có 2 lá phỗng thêm 1 lá)
-các tụ tam sau
<nhất vạn + nhất sách + cửu văn>
<Thang thang + ông lão + cửu sách>
<cửu vạn + cửu sách + thang thang> (ở đây phải là cửu vạn chứ: cửu vạn + cửu sách + thang thang)
<tam vạn + tam sách + thất văn>
<cửu vạn + bát sách + chi chi>
<nhị vạn + nhị sách + bát văn>
<nhất văn + nhị văn + tam văn>
Bí:
-bí tam - giống như phỏm trong "tá lả"
tứ văn + tứ vạn + tứ sách
tứ văn + ngũ văn + lục văn
tương tự có bí tứ, bí ngũ...
Những loại bài tương tự
Tài bàn
Tài bàn gồm ba người chơi, đánh như tổ tôm tuy nhiên trong tài bàn không bị bó buộc nhiều về cách ăn, cách đánh (như ăn một đánh hai thì được phép hoặc đánh phu dưới chiếu...). Một bài ù được trong tài bàn phải đủ ít nhất 9 lưng, tùy bài có khàn hay không có khàn thì quy ra cước, trong tài bàn chỉ có 3 cước ù là ù xuông, ù tài bàn và ù sửu bàn.
Trong tài bàn người ta quy định một số cây gọi là "tài"
Nhị, cửu văn
Tứ, thất sách
Ngũ, bát vạn.
Các cây tài này cùng với các cây "yêu" một phỗng được 2 lưng, một khàn thì có 6 lưng, một chiếu hoặc thiên khai có 12 lưng. Các cây còn lại 1 phỗng có 1 lưng, 1 khàn có 3 lưng, và chiếu hoặc thiên khai có 6 lưng. Ngoài ra các phu tính 1 lưng như của Tổ tôm như nhị vạn nhị sách bát văn, thang thang ông lão cửu sách...
Trong tài bàn không có cước tôm lèo..
Ù tài bàn khi người ù có 1̣9 lưng trở lên
Ù sửu bàn khi không có khàn mà ù được.
Thông thường ù sửu bàn có cước to hơn ù tài bàn.
Các trường hợp còn lại thì ù xuông, nhỏ nhất.
Cách tính cước tùy người chơi.
Vì thế, đánh tài bàn là cách học "nhập môn" trước khi chơi được Tổ tôm cũng vì lẽ đó.
Đánh chắn
Xem mục Chắn
Các từ ngữ tiếng lóng liên quan đến Tổ tôm
Gàn bát sách
Cửu vạn
Thất sách
Phỗng mất
Hoa rơi cửa Phật
Hợp cạ
Tròn bài
Trong văn học
Do Tổ tôm khá khó nên người xưa có câu ca dao đề cao Tổ tôm, nó thể hiện trình độ và cái oai phong của bậc quân tử:
Làm trai biết đánh Tổ tôm
Uống chè mạn hảo xem nôm Thuý Kiều
Nhà thơ Nguyễn Khuyến có nhắc đến Tổ tôm trong bài Tự trào:
...Mở miệng nói ra gàn bát Sách
Mềm môi chén mãi tít cung Thang
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng
Còn nhà thơ Trần Tế Xương cũng có đề cập đến trò chơi này trong bài Chơi cuộc Tổ tôm:
Bực chăng nhẽ anh hùng khi vị ngộ
Như lúc đen chơi cuộc Tổ tôm
Riêng nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã viết cả một bài thơ, câu nào cũng có tên một quân bài Tổ tôm, theo tương truyền là để khất nợ:
Thân "bát văn" tôi đã xác vờ.
Trong nhà còn biết "bán chi" giờ?
Của trời cũng muốn "không thang" bắc,
Lộc thánh còn mong "lục sách" chờ.
Thiên tử "nhất văn" rồi chẳng thiếu.
Nhân sinh "tam vạn" hãy còn thừa.
Đã không "nhất sách" kêu chi nữa?
"Ông lão" tha cho cũng được nhờ!
Trong tác phẩm Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn cũng có nêu lên chi tiết: "Ấy đó, quan phụ mẫu cùng với nha lại, đương vui cuộc tổ tôm ở trong đình ấy, ngài mà còn dở ván bài thì dẫu trời long đất lở, đê vỡ, dân trôi, ngài cũng thây kệ." |
Lễ Vượt Qua hay lễ Quá Hải ( ) là lễ quan trọng nhất của người Do Thái, kéo dài một tuần. Chiều ngày 14 tháng Ni-xan (khoảng tháng ba, tháng tư dương lịch), người ta sát tế chiên (cừu) tại đền thờ, rồi tư tế lấy máu chiên mà đổ dưới chân bàn thờ. Khi đêm xuống, người ta sẽ ăn tiệc chiên vượt qua theo gia đình hay theo nhóm mà không quên lấy chút máu chiên bôi lên cửa nhà. Lễ Vượt Qua được cử hành như một cuộc tưởng niệm nhằm giúp mỗi người sống lại kinh nghiệm của cha ông họ được giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập xưa kia. Trong bữa tiệc, người ta ăn thịt chiên với bánh không men và rau đắng, ngoài ra, họ cũng uống với nhau bốn chén rượu đã được vị chủ tọa bữa tiệc chúc lành để kỉ niệm bốn lời hứa của Thiên Chúa với dân Do Thái:
"Ta sẽ đem các ngươi ra từ ách của Ai Cập"
"Ta sẽ giải thoát các ngươi khỏi cảnh làm tôi mọi chúng"
"Ta sẽ giương cánh tay mà chuộc lấy các ngươi"
"Ta sẽ lấy các ngươi làm dân Ta, và Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi"
Họ sẽ nhắc nhở lại biến cố Xuất Hành và đọc một bài Thánh Vịnh khi tiệc tàn.
Theo Kinh Thánh
Theo kinh thánh, cách đây khoảng 3500 năm (1500 năm TCN), dân Do-thái từng sinh sống và làm nô lệ tại xứ Ai-cập trong khoảng
430 năm. Tại đây, họ bị vua quan người Ai-cập đặt những cai nô để áp bức, bắt họ phục dịch cực khổ, phải làm lụng nặng nhọc để nhồi đất sét
làm gạch, làm đủ thứ công việc đồng áng, bị cưỡng bức lao động để xây dựng thành quách kho tàng cho vua Ai-cập.
Thiên Chúa đã nghe tiếng la thán và thấy nỗi thống khổ của họ, nên Ngài đã đến với Môi-se, để sai phái ông cứu họ ra khỏi tay người Ai-cập và để đem tuyển dân của Ngài vào miền đất hứa, là một xứ tốt đẹp rộng rãi, tuôn tràn sữa và mật ong.
Vua Ai-cập, dĩ nhiên không chấp thuận lời yêu cầu của Môi-se để cho dân Do-thái được tự do rời xứ. Để bắt phục vua, Thiên Chúa đã lần lượt trút xuống xứ Ai-cập 9 tai vạ khủng khiếp, như nước sông biến thành máu thật hôi thối, ếch nhái bò lúc nhúc khắp nơi, muỗi bay dày đặc, ruồi nhặng bay từng đàn nguy hại bay vào nhà người Ai-cập, từ vua tới dân; mọi súc vật đều bị chết vì dịch; ung thư, mụn nhọt, ghẻ lở, mưa đá trút xuống dữ dội, cào cào tràn ngập vùng và cắn nuốt tất cả cây cỏ ngoài đồng, và rồi bóng tối dày đặc bao phủ cả xứ Ai-cập trong ba ngày.
Tuy vậy, sau mỗi tai vạ, vua Ai-cập vẫn cứng lòng và một mực không cho dân Do-thái ra đi.
Đến đây, Thiên Chúa tuyên bố về tai vạ thứ mười và cũng là tai vạ cuối cùng; đó là Ngài sẽ giết chết tất cả các con trưởng nam của người Ai-cập, từ thái tử con vua Ai-cập đang ngồi trên ngôi, cho đến con trưởng nam của người nữ tì đang xay cối.
Song song với lời tuyên bố về tai vạ thứ mười này, Thiên Chúa có phán với Môi-se ra lệnh cho toàn dân Do-thái làm đúng theo một lời hướng dẫn rất quan trọng, để con dân của Ngài không bị vạ lây với dân Ai-cập. Lời hướng dẫn này được ghi lại trong Kinh Thánh, sách Xuất Hành chương 12. Lời này đó chính là hãy giữ Lễ Vượt Qua. Người dân Do Thái giữ Lễ Vượt Qua bằng cách giết chiên và ăn thịt chiên quay với bánh không men và rau đắng. Và sau đó lấy huyết chiên bôi trên hai cây cột và mày cửa của nhà nào ăn chiên đó. Được chép ở sách Xuất Ê-díp-tô-ký chương 12 về Lễ Vượt Qua rằng:11 Vậy, ăn thịt đó, phải như vầy: Dây lưng cột, chân mang giày, tay cầm gậy, ăn hối hả; ấy là lễ Vượt-qua của Đức Giê-hô-va.12 Đêm đó ta sẽ đi qua xứ Ê-díp-tô, hành hại mọi con đầu lòng xứ Ê-díp-tô, từ người ta cho đến súc vật; ta sẽ xét đoán các thần của xứ Ê-díp-tô; ta là Đức Giê-hô-va.13 Huyết bôi trên nhà các ngươi ở, sẽ dùng làm dấu hiệu; khi ta hành hại xứ Ê-díp-tô, thấy huyết đó, thì sẽ vượt qua, chẳng có tai nạn hủy diệt các ngươi.Toàn dân Do-thái làm y như lời hướng dẫn. Và cũng qua tai vạ thứ mười này, vua và toàn dân Ai-cập đã bằng lòng để cho dân Do-thái được tự do ra đi. Cảnh này được ghi chép lại như sau cũng tại chương 12:29 Vả, khi giữa đêm, Đức Giê-hô-va hành hại mọi con đầu lòng tại xứ Ê-díp-tô, từ thái tử của Pha-ra-ôn ngồi trên ngai mình, cho đến con cả người bị tù, và hết thảy con đầu lòng của súc vật.30 Đang lúc ban đêm, Pha-ra-ôn, quần thần cùng hết thảy người Ê-díp-tô đều chờ dậy; có tiếng kêu la inh ỏi trong xứ Ê-díp-tô, vì chẳng một nhà nào là không có người chết.31 Trong đêm đó, Pha-ra-ôn bèn đòi Môi-se và A-rôn mà phán rằng: Hai ngươi và dân Y-sơ-ra-ên hãy chờ dậy, ra khỏi giữa vòng dân ta mà đi hầu việc Đức Giê-hô-va, như các ngươi đã nói.Khi dân Do Thái rời khỏi Ai Cập, vua Ai Cập lại cho quân truy đuổi họ. Khi đến biển Đỏ, Thiên Chúa cho nước biển rẽ làm đôi để dân Do Thái đi qua. Khi dân Do Thái đã qua hết thì Thiên Chúa lại cho nước biển ngập trở lại để dìm chết quân đội của vua Ai Cập.
Ẩm thực truyền thống
Bởi vì người Do Thái không ăn ẩm thực có men trong vòng tám ngày. Gia đình người Do Thái thường ăn các loại thức ăn khác nhau trong tuần lễ Vượt Qua. Một số bao gồm:
Ẩm thực Do Thái Ashkenazi
Matzah brei – Bánh Matzo làm mềm trong sữa hoặc nước và được đem đi chiên với trứng và mỡ, ăn ngọt hoặc ăn mặn tùy ý thích
Matzo kugel – Bánh kugel được làm với bánh matzo thay vì được làm với nuôi hoặc sợi mì
Charoset – Một sự kết hợp ngọt ngào giữa trái cây, tươi, trái cây sấy khổ hoặc cả hai, đậu, gia vị cay, mật ong, và thỉnh thoảng có người cho rượu vang vào. Charoset là một biểu tượng cho những cái vữa tô hồ mà người Israel đã dung để xây dựng những công trình kiến trúc khi còn làm nô lệ cho Ai Cập.
Chrain – Củ cải ngựa và củ cải đường cay
Gefilte fish – Cá kho chiên hoặc cá trái banh được làm một hỗn tạp của cá phi lê đã xay nát ra, đa số là cá chép hoặc cá chó.
Canh gà với matzah balls (kneydlach) – Canh gà ăn với bánh bao matzo.
Mỳ Passover - Mỳ được chế biến từ bột khoai tây và trứng, ăn với súp. Bột nhồi chiên thành những miếng mỏng, cuộn tròn và cắt ra thành những dây băng.
Ẩm thực Do Thái Sephardi
Kafteikas di prasa – Bánh nướng xốp làm từ thịt, tỏi tây và bột mỳ
Thịt cừu hoặc đùi gà – Một biểu tượng về bàn tay mạnh mẽ của Thiên Chúa và korban pesach
Mina (pastel di pesach) – một miếng thịt làm bằng bánh không men matzo
Rau xanh mùa xuân – atisô, Đậu răng ngựa, Đậu Hà Lans
Bán ẩm thực có men
Chametz là bất cứ món đồ ăn đã được lên men. Vì trong ngày lễ vượt qua dân Do Thái không được ăn ẩm thức có men cho nên người Do Thái tìm mọi cách ngăn chặn cám dỗ ăn đồ ăn có men hay tránh vi phạm luật vì sự sao lãng hay sự quên lãng của chính bản thân mình hay các thành viên trong gia đình và trong cộng đồng Do Thái. Cách giải quyết duy nhất của người Do Thái là "tạm thời" đốt bỏ ẩm thực có men (gọi là Chametz) hoặc bán đồ ăn thức uống có men cho dân ngoại hay người không theo đạo Do Thái hay tín đồ của tôn giáo khác. Người Do Thái thường bán "tạm thời" đồ ăn thức uống có men đặc biệt là rượu và những thứ xa xỉ đắt tiền. Sau khi ngày lễ vượt qua kết thúc thì người Do Thái mua lại những đồ ăn thức uống đó. Tất nhiên để duy trình tính nguyên trạng của đồ ăn thức uống có men đặc biệt là những món đồ giá trị cao thì việc bán "tạm thời" cũng có luật riêng trong hợp đồng. Cách thực hành việc bán ẩm thức có men "tạm thời" này thường là chuẩn bị sẵn những cái tủ chứa đồ, và họ dán nhãn mãn ghi chú rằng "Chametz" và đóng lại hay khóa tủ lại. Những người dân ngoại hay đối tác kinh doanh đã từng làm ăn những vụ buôn bán tạm thời trong mùa lễ vượt qua này với cộng đồng Do Thái thì hiểu rằng các món đồ ăn thức uống được dán ghi chú "Chametz" thì không được sử dụng.
Mặc dù việc bán Chametz này có truyền thống cổ xưa từ nhiều năm, một số nhà chức trách cơ quan của Do Thái Giáo cải cách đã coi việc buôn bán này với sự khinh thường - vì "chủ sở hữu mới" được cho là không thực sự sở hữu hàng hoá thực tế mà chỉ là hình thức buôn bán ảo.
Việc buôn bán tạm thời Chametz này rất có tổ chức. Cộng đồng Do Thái có những tổ chức riêng, hội nhóm riêng, và tập đoàn riêng để giúp và giải quyết những vụ buôn bán tạm thời này dễ dàng và nhanh chóng hơn cho cộng đồng Do Thái của họ. Những tổ chức riêng, hội nhóm riêng, và tập đoàn riêng này được giám sát bởi các thầy đạo Rabbi trong cộng đồng Do Thái. Vì vậy Rabbi được coi là các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong những vụ buôn bán này mỗi năm khi sắp sửa đến ngày lễ vượt qua của dân Do Thái.
Những gia đình người Do Thái phải dọn dẹp, họ phải lấy tất cả những ẩm thực đồ ăn thức uống lên men Chametz và đặt vào những chiếc thùng, hay những chiếc hộp để chứa đồ. Sau đó thì thầy đạo Rabbi sẽ tiến hành hợp đồng để bán tạm thời những món đồ Chametz đó.
Vậy mấy món đồ Chametz cho ai vậy ? Mấy món đồ Chametz bán tạm thời cho các khách hàng không phải là người Do Thái, gọi là dân ngoại, tiếng Hebrew gọi là goy (số ít) và goyim (số nhiều). Và khách hàng phải trả tiền đặt cọc, sau khi ngày lễ vượt qua kết thúc, khách hàng bán lại món đồ chametz đó - hay trả lại. Thì Rabbi sẽ trả lại tiền đặt cọc đó cho khách hàng. Những vụ buôn bán Chametz hay bán tạm thời này bị ràng buộc theo luật Do Thái Giáo Halakha.
Bánh Đa Do Thái
Khi nhắc đến ngày lễ vượt qua thì không thể nào không nhắc tới món bánh truyền thống không men là đặc sản của ẩm thực Do Thái. Bánh không men của người Do Thái được gọi là bánh Matzah hay Matzo. Hình dạng bánh Matzah trông hơi giống cái bánh Đa của người Việt Nam. Bánh Matzah có hai dạng là hình tròn và hình vuông. Điều căn bản nhất của bánh matzah là bánh không có được lên men, tuyệt đối không được lên men. Bánh Matzah đều có thể được làm thủ công bằng tay hoặc làm băng công nghệ máy móc kỹ thuật tân tiến hiện đại.
Trong Kinh Thánh Torah của người Do Thái có hướng dẫn cách ăn bánh matzo, cụ thể là vào đêm đầu tiên của ngày Lễ Vượt Qua thì người Do Thái chỉ được tuyệt đối duy nhất ăn bánh không men (thực tế là bánh matzo) trong suốt tuần lễ của ngày lễ Vượt Qua. Ăn bánh đa do thái là một biểu tượng đậm đà bản sắc quốc hồn dân tộc Do Thái và có những lời giải thích về chuyện ấy như sau.
Trong Kinh Thánh Torah có kể thì rằng là dân tộc Hebrew đang chạy trốn khỏi xứ xở Ai Cập một cách rất là vội vã. Chính vì thế người Hebrew không có thời gian để nấu bánh chín mùi lên men, vì thế cái bánh mà họ phải ăn thì phẳng như cái bánh đa hay cái bánh tráng, và bánh thì chưa kịp lên men, cho nên ngày nay theo truyền thống thánh kinh người Do Thái có bánh không men Matzo. Cái bánh Matzo nhắc nhở cho dân tộc Do Thái về sự di dân vội vã khỏi Ai Cập ấy.
Một số vị học giả khác thì cho rằng trong thời đại Exodus, bánh không men Matzo được phổ biến rộng rãi vì bánh thuận tiện cho việc di chuyển liên tục từ nơi này sang nới khác. Bánh thuận tiện vì dễ bảo quản và cân nặng thì rất nhẹ nhàng ví bánh tương tự như là bánh bích quy. Vì vậy bánh Matzo được nấu với chủ đích là cho những chuyến đi hành trình dài.
Bánh Matzo còn có một tên gọi khác rất là thú vị và cái tên gọi đó nà Lechem Oni mà trong tiếng Hebrew Lechem Oni có nghĩa bánh của sự nghèo đói. Có một lời giải thích rằng bánh matzo như nà một biểu tượng để nhắc nhở người Do Thái về cảm giác nghèo khổ đói nghèo của những tên nô lệ và từ đó người Do Thái học cách khiêm tốn hơn, và học cách biết ơn nhiều về sự tự do và tránh đi cái sự kiêu ngạo phóng túng được tượng trưng bởi bánh mì đã lên men mà sang chảnh hơn.
Bánh đa Shmura matzo ("được theo dõi" hoặc "bị bảo vệ" matzo), là bánh đa không men được ưa thích của người Do Thái vào ngày lễ vượt qua trong cộng đồng người Do Thái chính cống. Shmura matzo được làm từ lúa mì được bảo vệ khỏi sự nhiễm bẩn ô uế bẩn thỉu dơ dáy bởi những yếu tố lên men chametz từ thời điểm thu hoạch vào mùa hè để nướng bánh thành bánh đa không men matzos sau năm hay mười tháng sau ấy.
Trong những tuần lễ trước ngày Lễ Vượt Qua, bánh đa được chuẩn bị cho ngày lễ để được sử dụng ăn uống và tiêu thụ. Trong nhiều cộng đồng Chính cống Do Thái, nhưng người đàn ông theo truyền thống thì những ông Do Thái này tụ tập theo nhóm ("Chaburas") để làm bánh đa và nướng bánh đa làm bằng tay để được ăn ở bàn tiệc, bột được cuộn bằng tay, cho nến bánh đa lớn và tròn. Các nhóm cũng làm việc cùng nhau trong các nhà máy sản xuất bánh đa làm bằng máy, sản xuất bánh đa hình vuông thông thường được bán ở các cửa hàng.
Nướng bánh đa là công việc sử dụng nhiều sức lao động trong vòng thời gian yêu cầu là 18-22 phút để trộn bột và nước với việc kết thúc việc nướng bánh và lấy bánh ra khỏi lò ngay lập tức thật nhanh chóng để tránh cho bánh có đủ thời gian kịp lên men. Chính vì thế nên chỉ có một số ít bánh matzos có thể được nướng cùng một lúc, và các thành viên của chabura được yêu cầu phải làm việc liên tục mau gọn lẹ thật nhanh chóng để không cho bánh được ủ lên men.
Một thiết bị cắt đặc biệt được chạy trên bột ngay trước khi nướng bánh để chích bất kỳ bong bóng nào mà có thể làm cho bánh matza phồng lên. Chính điều này tạo ra những lỗ rỗ li ti trên mặt bánh đa matzo mà chúng ta thường thấy.
Sau khi bánh đa ra khỏi lò, toàn bộ khu vực làm việc phải được quét dọn lau chùi sạch sẽ và vệ sinh để đảm bảo rằng không có miếng bánh vụn hay bột cũ nào còn sót lại. Vì những bột cũ này có khả năng lên men, và để đảm bảo tiêu chuẩn và đúng tinh thần của ngày lễ và tiêu chí của luật lệ Do Thái thì bất cứ yếu tố nào gây ô nhiễm lên men cũng có thể ảnh hưởng đến những chiếc bánh đa sẽ được làm tiếp tục.
Một số máy có thể làm bánh đa trong vòng 5 phút sau khi bột bánh được nhào.
Bữa ăn Lễ Vượt Qua
Vào đêm đầu tiên của ngày lễ vượt qua, người Do Thái hội họp với nhau để ăn uống vì đó là một truyền thống của người Do Thái. Người Do Thái hải ngoại sống bên ngoài Israel thì tổ chức tiệc tùng vào hai đêm đầu tiên của ngày lễ vượt qua, bao gồm người Do Thái chính cống và người do thái bảo thủ. Bữa ăn trong ngày lễ vượt qua là một bữa tiệc đặc biệt và có tên gọi riêng là Seder. Từ Seder סדר có nguồn gốc từ tiếng Hebrew có nghĩa là dàn xếp sắp đặc hoặc sắp xếp ám chỉ đến cái tính chất theo thứ tự trật tự của nghi lễ.
Cái bàn tiệc trong ngày lễ vượt qua được chuẩn bị bố trí theo phong cách phương Tây với những cái đĩa sành sứ Trung Hoa cùng với dao nĩa muỗng bằng bạc được đặt trên bàn tiệc. Cái bàn tiệc thì được phủ lên tấm vải trắng. Cách bố trí bàng tiệc như vậy để phản ánh sự quan trọng của bữa tiệc trong ngày lễ vượt qua.
Trong bữa ăn thì người Do Thái sẽ kể câu truyện Exodus trong Kinh Thánh, nhưng họ sử dụng một văn bản đặc biệt với tên gọi là Haggadah. Bốn ly rượu được uống tùy vào giai đoạn của câu truyện. Cuốn Haggadah được chia ra làm 15 phần:
Kadeish קדש – đọc kinh ban phước lành Kiddush và người do thái uống ly rượu vang thứ nhất
Urchatz ורחץ – người Do Thái rửa tay theo nghi thức Do Thái Giáo mà không có đọc kinh ban phúc lành
Karpas כרפס – ngâm cái karpas trong nước muối
Yachatz יחץ – bẻ gãy bánh matzo ở giữa; miếng bánh lớn hơn là afikoman để dành để ăn cho nghi thức trễ hơn trong giai đoạn của nghi thức Tzafun
Maggid מגיד – kể lại câu truyện về ngày lễ vượt qua, bao gồm tứ câu hỏi và người do thái uống ly rượu vang thứ nhị
Rachtzah רחצה – người do thái rửa tay lần thứ hai với đọc kinh ban phúc lành
Motzi מוציא – truyền thống đọc kinh phước lành trước khi ăn bánh mì
Matzo מצה – truyền thống đọc kinh ban phước lành trước khi ăn bánh đa do thái matzo
Maror מרור – ăn rau đắng maror
Koreich כורך – ăn một cái bánh sandwich kẹp bánh đa do thái và rau đắng
Shulchan oreich שולחן עורך – lit. "set table"—the serving of the holiday meal
Tzafun צפון – ăn miếng bánh matzo bự to lớn hơn afikoman
Bareich ברך – đọc kinh cầu nguyện sau bữa ăn và người do thái uống ly rượu vang thứ ba
Hallel הלל – đọc kinh cầu nguyện Hallel, truyền thống đọc kinh cầu nguyện trong những ngày lễ hội; người do thái uống ly rượu vang thứ tư
Nirtzah נירצה – kết luận
Mười lăm phần này là song song với mười lăm bước trong đền thờ ở Jerusalem mà người Lê Vi đã bước lên trong thời gian phụng vụ đền thánh, và được kỷ niệm đến trong 15 15 Psalms (#120–134) còn được biết đến với cái tên là Shir HaMa'alot (Tiếng Hebrew: .
Trong bữa ăn thì có nhiều câu hỏi và cũng như nhiều câu trả lời và tất nhiên cũng có những cuộc tranh luận đầy kịch tính để kích thích óc tưởng tượng, trí sáng tạo, và sự tò mò thích thú của trẻ em người Do Thái. Dĩ nhiên thì trẻ em cũng có phần thưởng với đậu, kẹo ngọt, hay quà vặt khi các em tham gia vào cuộc tranh luận, khi các em đặt câu hỏi, và khi các em trả lời câu hỏi. Tương tự như vậy, họ khuyến khích thiếu nhi tìm kiếm các miếng bánh matzo bự to lớn afikoman, là những miếng bánh đa do thái sẽ được ăn cuối cùng trong bữa ăn. Sự tham gia của khán giả và sự tương tác là lề luật, và nhiều người trong gia đình kéo dài bữa ăn tới buổi ban đêm với các cuộc thảo luận sôi nổi và ca hát nhiều. Bữa ăn kết thúc với những ca khúc khen ngợi và củng cố đức tin vào Thiên Chúa được in trong Haggadah, bao gồm bài dân ca Chad Gadya ("Một đứa trẻ nhỏ" hoặc "Một con dê nhỏ").
Ảnh hưởng đến những tôn giáo khác
Ki tô giáo
Nghi lễ Cơ đốc Thứ năm Tuần Thánh phát hiện nguồn gốc của ngày lễ có từ lễ Vượt Qua của Người Do thái, đêm mà người ta thường nghĩ đến Bữa Tiệc Ly. |
Đế quốc La Mã hay Đế quốc Rôma ( ; ) là giai đoạn tiếp nối Cộng hòa La Mã cổ đại. Chính thể Đế chế La Mã, được cai trị bởi các quân chủ gọi là hoàng đế La Mã, thống lĩnh các vùng đất rộng lớn bao quanh Địa Trung Hải ở châu Âu, Bắc Phi, và Tây Á. Kể từ khi Caesar Augustus đăng cơ cho tới thời kỳ loạn lạc vào thế kỷ thứ 3, La Mã theo chế độ Nguyên thủ một hoàng đế, đóng đô ở Rôma, lấy Italia làm đất mẫu với nhiều tỉnh phụ thuộc. La Mã về sau được cai trị bởi nhiều hoàng đế, san sẻ quyền lực để kiểm soát hiệu quả hơn cực đông và cực tây Đế quốc. Thành Rôma vẫn là kinh đô trên danh nghĩa của cả hai nửa cho tới năm 476, thời điểm mà phù hiệu đế chế được gửi tới Constantinopolis sau khi Ravenna rơi vào tay các tộc rợ Giécmanh. Việc thụ nhận đạo Kitô như là quốc giáo của La Mã vào năm 380 và sự thất thủ của Tây La Mã trước các cuộc xâm lấn của các vương quốc Giécmanh được lấy làm mốc đánh dấu cho sự chấm dứt của thời kỳ cổ đại Hy-La và sự khởi đầu của thời kỳ Trung cổ ở phương Tây. Cũng do những sự kiện ấy, cộng với quá trình Hy Lạp hóa dần dần các tỉnh phía đông, giới sử học đã đặt tên riêng cho nhà nước La Mã kế tục còn sót lại ở phía đông là Đế quốc Byzantine.
Nhà nước tiền thân của Đế quốc La Mã, tức Cộng hòa La Mã, trở nên cực kỳ bất ổn sau các xung đột nội bộ triền miên, không có hồi kết. Giữa thể kỷ thứ nhất TCN, Julius Caesar được bổ nhiệm làm dictator perpetuo ("độc tài vĩnh viễn"), sau bị mưu sát vào năm 44 TCN bởi nhiều kẻ bất mãn với chế độ do Caesar bày ra. Các cuộc nội chiến và xung đột tiếp diễn, rốt cuộc dẫn đến chiến thắng của Octavian trước Mark Antony và Cleopatra tại trận Actium vào năm 31 TCN. Ngay năm sau, Octavian chinh phục Vương quốc Ptolemaios ở Hy Lạp, chấm dứt thời kỳ Hy Lạp hóa vốn bắt nguồn từ những cuộc thảo phạt của Alexandros vào khoảng thế kỷ thứ 4 TCN. Thế lực của Octavian trở nên quá đỗi lớn mạnh, khiến viện nguyên lão đành ban cho ông quyền lực tuyệt đối kèm danh hiệu mới là Augustus, bản chất là đã biến ông thành vị hoàng đế đầu tiên của La Mã. Lãnh thổ rộng lớn của La Mã đời Augustus được phân chia thành các tỉnh nguyên lão và các tỉnh đế chế, với Italia vẫn là trung tâm hành chính của toàn thể đế quốc.
Hai thế kỷ đầu của Đế quốc La Mã chứng kiến một sự thịnh vượng và ổn định chưa từng có tiền lệ, thường được gọi là thời kỳ Pax Romana (). Lãnh thổ La Mã đạt cực thịnh dưới đời Traianus (98–117); tuy nhiên không lâu sau, dấu hiệu của một giai đoạn rối ren đã nhen nhóm từ đời Commodus (177–192). Vào thế kỷ thứ 3 CN, La Mã lâm vào một cuộc khủng hoảng mang tính quyết định sự tồn vong của chính nó, khi các lãnh thổ như Gallia và Palmyra lần lượt tuyên bố độc lập và ly khai khỏi Đế quốc. Đồng thời, hàng loạt các hoàng đế tự xưng, hầu hết xuất thân từ nhà binh, thay phiên nhau lãnh đạo Đế quốc. Để bình định xã tắc, Diocletianus đã cho lập hai triều đình riêng biệt ở Đông phần Hy Lạp và ở Tây phần La Mã vào năm 286; đạo Kitô trở nên lớn mạnh nhờ việc ban hành Chỉ dụ Milan vào năm 313. Ít lâu sau, Giai đoạn Di cư diễn ra, bao gồm các cuộc xâm lăng của người Giécmanh và các toán quân Hung của Attila, quá trình mà đã khiến Đế quốc Tây La Mã bị suy yếu trầm trọng. Sau sự kiện thành Ravenna rơi vào tay tộc rợ Heruli và Romulus Augustus bị phế truất bởi Odoacer vào năm 476, Đế quốc Tây La Mã rốt cuộc bị tiêu diệt; hoàng đế Đông La Mã Zeno tuyên bố bãi bỏ nhà nước phía Tây vào năm 480. Tuy vậy, Đế quốc Đông La Mã vẫn bền bỉ sống sót trong vòng 1 thiên niên kỷ tiếp, cho tới sự kiện quân Turk Ottoman của Mehmed II hạ thành Constantinople vào năm 1453.
Do phạm vi ảnh hưởng rộng lớn và sự tồn tại lâu dài của Đế quốc La Mã, thể chế và văn hóa của La Mã cổ đại đã có tầm ảnh hưởng sâu sắc và dai dẳng đối với sự phát triển của ngôn ngữ, tôn giáo, nghệ thuật, kiến trúc, văn học, triết học, pháp luật, và các hình thức chính phủ của các vùng lãnh thổ từng nằm dưới sự cai trị của nó. Tiếng Latinh của người La Mã đã phát sinh các ngôn ngữ Rôman về sau, trong khi tiếng Hy Lạp trung đại đã được Đông La Mã công nhận là ngôn ngữ chính thức của họ. Sự thụ nhận Kitô giáo của Đế quốc La Mã đã dẫn đến sự hình thành các vương quốc Kitô Trung cổ. Nghệ thuật Hy Lạp và La Mã cổ đại đã truyền cảm hứng bất tận cho thời kỳ Phục hưng Ý. Truyền thống kiến trúc của Roma đóng vai trò nền tảng cho các dòng kiến trúc như Romanesque, Phục hưng, Tân cổ điển, cũng như kiểu Hồi giáo. Sự mặc khải nền khoa học và kỹ thuật thời Hy-La (cũng là nền tảng cho khoa học Hồi giáo) ở Châu Âu thời Trung cổ đã dẫn đến khoa học Phục hưng và Cách mạng khoa học. Về mặt pháp quyền, bộ luật La Mã đã được kế thừa và phát huy bởi rất nhiều hệ thống pháp luật trên thế giới, chẳng hạn bộ luật Napoléon của Pháp. Ngoài ra, thể chế cộng hòa của Roma đã để lại một di sản sâu đậm, ảnh hưởng đến các nước cộng hòa thành bang ở Ý Trung cổ, cũng như nhà nước Hoa Kỳ ban đầu lập quốc và các nước cộng hòa dân chủ hiện đại.
Lịch sử
Quá độ từ Cộng hòa sang Đế chế
Lãnh thổ Rôma bắt đầu khuếch trướng ít lâu sau sự sáng lập của Cộng hòa La Mã vào thể kỷ thứ 6 TCN, song vẫn chưa thoát khỏi phạm vi bán đảo Ý tới tận thế kỷ thứ 3 TCN. Thời đó, nó đã sẵn là một "đế quốc" (tức là một nước mạnh) từ lâu trước cả khi có hoàng đế. Cộng hòa La Mã không phải là một quốc gia-dân tộc theo nghĩa hiện đại, mà thực chất là một mạng lưới các thị trấn tự trị (tùy theo nhiều mức độ khác nhau đối với Viện nguyên lão La Mã) và các quận tỉnh được điều hành bởi các tướng lĩnh quân đội. Nền Cộng hòa được cai trị, không bởi các hoàng đế, mà bởi các pháp quan được tuyển cử thường niên (trên hết là các quan chấp chính La Mã) kết hợp với quyền giám sát từ Viện nguyên lão. Bởi nhiều nguyên cớ khác nhau, các cuộc biến loạn quân sự và chính trị ở La Mã diễn ra rất thường xuyên vào thế kỷ thứ nhất TCN, giúp mở đường đến thể chế hoàng đế về sau. Quyền hạn quân sự của quan chấp chính được thể hiện bằng khái niệm pháp lý La Mã imperium, nghĩa đen là "chỉ huy". Đôi khi, nếu quan chấp chính lập công lớn thì được tôn vinh bằng danh hiệu imperator (vị chỉ huy). Đây chính là gốc gác của từ emperor (và empire) trong tiếng Anh, bắt nguồn từ việc danh hiệu này (cùng nhiều danh hiệu khác) được ban cho các các hoàng đế La Mã thế hệ đầu vào dịp họ đăng cơ.
Các xung đột nội bộ, các vụ mưu phản và các cuộc nội chiến diễn ra triền miên và tràn lan ở La Mã từ thế kỷ thứ 2 TCN trở đi, đồng thời với quá trình La Mã mở mang bờ cõi ra khỏi Italia. Cuối giai đoạn này, vào năm 44 TCN, Julius Caesar nhận chức quan độc tài trong một thời gian ngắn trước khi bị sát hại. Đám thủ phạm phản trắc bèn chạy trốn khỏi Roma, nhưng sau bị đánh bại ở Philippi bởi ba quân của Mark Antony và con trai nuôi của Caesar là Octavian vào năm 42 TCN. Sự chia cắt đế quốc giữa Antony và Octavian không tồn tại được bấy lâu, căng thẳng leo thang giữa hai nhà cai trị và rốt cuộc lên đến cao trào với chiến thằng quyết định của Octavian tại trận Actium trước Mark Antony và tình nhân Cleopatra vào năm 31 TCN, khép lại cuộc chiến cuối cùng của Cộng hòa La Mã. Năm 27 TCN, Viện nguyên lão và nhân dân La mã tấn phong Octavian là princeps ("đệ nhất công dân"), được trao quyền phó chấp chính imperium, cùng tước vị mới là Augustus ("người được tôn kính") – chính thức mở ra thời kỳ Nguyên thủ của Đế quốc La Mã (thường được tính từ năm 27 TCN - 284). Nền cộng hòa bấy giờ chỉ còn là tấm bình phong tồn tại trên danh nghĩa, ai ai cũng biết Augustus là người đứng sau nắm giữ mọi quyền hành tại Roma. Bởi lẽ xã tắc an bình và thịnh vượng nhờ tài trị nước của Augustus, ông được nhân dân hết mực yếu mến và được coi như một vị quân chủ trên thực tế chứ không chỉ trên danh nghĩa đơn thuần.
Thái bình La Mã
Trong vòng 200 năm kể từ đời Augustus, La Mã bước vào giai đoạn phồn vinh kinh tế và ổn định chính trị chưa từng có tiền lệ, được gọi là Pax Romana ("Thái bình La Mã"). Các cuộc nổi loạn địa phương hi hữu nổ ra, song nếu xảy đến thì bị dập tắt một cách "tàn nhẫn và nhanh gọn". Triều đại Julio-Claudius do Augustus lập ra còn trải qua bốn đời hoàng đế nữa — Tiberius, Caligula, Claudius, và Nero — trước khi đứt đoạn vào năm 69 do sự biến Tứ Đế Niên. Vespasianus chiến thắng và sáng lập triều đại Flavius ngắn ngủi. Tiếp nối là triều đại Nerva–Antonine, nổi danh với "Ngũ Hiền Đế": Nerva, Traianus, Hadrianus, Antoninus Pius, và vị minh quân say mê triết học Marcus Aurelius.
Tây phương sụp đổ và Đông phương kế tục
Theo quan điểm của sử gia Hy Lạp, Dio Cassius, một sử gia đương thời, với việc hoàng đế Commodus lên kế vị vào năm 180 CN đã đánh dấu sự suy yếu "từ một vương quốc của vàng trở thành một vương quốc của gỉ và sắt" -bình luận nổi tiếng trên đã khiến một số nhà sử học, đặc biệt là Edward Gibbon coi triều đại của Commodus như là sự khởi đầu cho sự suy tàn của Đế quốc La Mã.
Năm 212, dưới thời trị vì của Caracalla, quyền công dân La Mã đã được ban cho tất cả các cư dân tự do của Đế quốc. Tuy nhiên, bất chấp điều này, triều đại Severus lại là một triều đại hỗn loạn-và các vị hoàng đế của triều đại này thường xuyên bị sát hại hoặc bị hành quyết-và tiếp sau sự sụp đổ của nó, đế quốc La Mã đã bị nhấn chìm bởi cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba, một thời kì của những cuộc xâm lược, nội chiến, suy thoái kinh tế, và bệnh dịch . Trong việc định rõ các thời kỳ lịch sử, cuộc khủng hoảng này đôi khi được xem như là cột mốc cho sự chuyển tiếp từ thời kì cổ đại sang thời kì Hậu cổ đại. Aurelianus (trị vì từ năm 270–275) đã cứu đế quốc thoát khỏi bờ vực sụp đổ và ổn định nó. Diocletianus (trị vì từ năm 284-305) đã hoàn tất việc khôi phục lại đế quốc, ông ta đã không chấp nhận vai trò Nguyên Thủ và thay vào đó đã trở thành vị hoàng đế đầu tiên thường xuyên được gọi là Dominus, "chủ nhân" hay " Chúa Tể". Triều đại của Diocletianus còn chứng kiến nỗ lực phối hợp chung lớn nhất của đế quốc chống lại mối đe dọa thấy rõ của Thiên Chúa giáo, "Cuộc Đại bức hại".
Diocletianus đã phân chia đế quốc thành bốn khu vực, mỗi khu vực lại được cai trị bởi một vị hoàng đế, chế độ này được gọi là Tứ đầu chế. Tin tưởng rằng mình đã khắc phục được những hỗn loạn mà đã gây khó khăn cho Rome, ông đã thoái vị cùng với vị đồng hoàng đế của mình, và chế độ Tứ đầu chế đã sụp đổ. Trật tự cuối cùng đã được Constantinus Đại đế khôi phục, ông ta đã trở thành vị hoàng đế đầu tiên cải sang đạo Thiên chúa, và là người đã thiết lập Constantinople là kinh đô mới của đế quốc phía Đông. Trong suốt những thập kỷ dưới các triều đại Constantinus và Valentinus, đế quốc được phân chia theo trục đông tây, với hai trung tâm quyền lực nằm tại Constantinople và Rome. Triều đại của Julianus, dưới sự ảnh hưởng từ vị cố vấn của ông là Mardonius, đã cố gắng khôi phục lại tôn giáo Hy Lạp hóa và La Mã cổ đại, điều này chỉ làm gián đoạn sự kế vị của các hoàng đế theo Thiên Chúa giáo trong một thời gian ngắn ngủi. Theodosius I, vị hoàng đế cuối cùng cai trị cả phía Đông và phía Tây, đã qua đời vào năm 395 CN sau khi biến Thiên Chúa giáo trở thành tôn giáo chính thức của đế quốc.
Đế quốc Tây La Mã đã bắt đầu tan rã vào đầu thế kỷ thứ 5 CN khi các cuộc xâm lược và di dân của người German đã lấn át khả năng đồng hóa những người di dân và đánh đuổi những kẻ xâm lược của đế quốc. Người La Mã đã thành công trong việc đánh đuổi toàn bộ những kẻ xâm lược, nổi tiếng nhất trong số đó là Attila, dẫu vậy do đế quốc đã đồng hóa nhiều tộc người German không thực sự trung thành với Rome, điều này khiến cho nó bắt đầu tự hủy diệt chính mình. Hầu hết các biên niên sử xác định sự kết thúc của Đế quốc Tây La Mã là vào năm 476, khi Romulus Augustulus bị vị thủ lĩnh người German là Odoacer ép thoái vị. Bằng việc xưng thần với hoàng đế Đông La Mã, thay vì tự xưng là hoàng đế, Odoacer đã lật đổ đế quốc Tây La Mã bằng cách chấm dứt dòng dõi của các vị hoàng đế Tây La Mã.
Đế quốc ở phía Đông— thường được gọi là đế quốc Đông La Mã, nhưng được nhắc đến vào thời của nó như là đế quốc La Mã hoặc bằng nhiều tên gọi khác— đã có một số mệnh khác. Nó đã sống sót trong suốt gần một thiên niên kỷ sau sự sụp đổ của nửa phía Tây và trở thành vương quốc Thiên Chúa giáo ổn định nhất trong Thời kỳ Trung Cổ. Vào thế kỷ thứ 6 CN, Justinianus I đã tái chinh phục lại bán đảo Ý từ tay người Ostrogoth, Bắc Phi từ người Vandal, và miền Nam Tây Ban Nha từ người Visigoth. Nhưng chỉ trong vòng vài năm sau khi Justinianus qua đời, lãnh thổ nằm dưới sự kiểm soát của người Đông La Mã ở Ý đã phần lớn rơi vào tay của người Lombard, những người đã định cư ở bán đảo này. Ở phía Đông, một phần là hậu quả đến từ sự tàn phá của Đại dịch Justinianus, người La Mã đã bị đe dọa bởi sự trỗi dậy của đạo Hồi, những tín đồ của họ đã nhanh chóng chinh phục các vùng đất của Syria, Armenia và Ai Cập trong các cuộc chiến tranh Byzantine-Ả Rập, và sớm gây ra mối đe dọa trực tiếp đối với Constantinople. Trong thế kỷ tiếp theo, người Ả Rập cũng đã chiếm đóng miền Nam Ý và Sicily.
Tuy nhiên, người La Mã đã thành công trong việc ngăn cản sự bành trướng xa hơn nữa của đạo Hồi vào những vùng lãnh thổ của họ trong thế kỷ thứ 8, và bắt đầu từ thế kỷ thứ 9 họ đã tái khôi phục được phần nào những vùng đất đã bị mất. Năm 1000 CN, đế quốc Đông La Mã đã đạt tới đỉnh cao của nó: Basil II đã tái chinh phục lại Bulgaria và Armenia, văn hóa và thương mại đã hưng thịnh. Tuy vậy, ngay sau đó sự bành trướng đã bất ngờ bị chặn lại vào năm 1071 với thất bại của người Đông La Mã trong trận Manzikert. Hậu quả của trận chiến này đã khiến cho đế quốc trải qua một thời kỳ suy yếu ngắn. Hai thập kỷ xung đột nội bộ và các cuộc xâm lược của người Turk cuối cùng đã mở đường cho hoàng đế Alexios I Komnenos gửi một lời kêu gọi giúp đỡ tới các quốc gia Tây Âu vào năm 1095. Dưới thời kỳ phục hưng Komnenos, vương quốc đã khôi phục lại được sức mạnh của nó.
Năm 1204, những người tham gia vào cuộc Thập tự chinh thứ tư đã tiến hành cướp phá Constantinople. Cuộc chinh phạt Constantinople vào năm 1204 đã khiến cho những tàn dư của đế quốc tan rã thành những quốc gia kế thừa, người chiến thắng sau cùng là Nicaea. Sau khi quân đội đế quốc tái chiếm lại được Constantinople, đế quốc không khác gì một nhà nước Hy Lạp bị giới hạn ở bờ biển Aegea. Đế quốc Đông La Mã cuối cùng đã sụp đổ khi Mehmed II chinh phục Constantinople vào ngày 29 tháng 5 năm 1453.
Địa lý và nhân khẩu
Đế quốc La Mã là một trong những đế quốc lớn nhất trong lịch sử, với những vùng lãnh thổ tiếp giáp nhau khắp châu Âu, Bắc Phi và Trung Đông. Thành ngữ Latinh imperium sine fine ("đế quốc mà không có điểm kết thúc" ) nhằm nêu lên sự mộng tưởng rằng đế quốc không bị giới hạn về cả thời gian hay không gian. Trong bộ sử thi Aeneid của Virgil, sự vô hạn của đế quốc được nói là do vị thần Jupiter ban cho những người La Mã. Tuyên bố về sự thống trị thế giới này đã được tiếp tục nhắc đến và tồn tại cho đến khi Đế quốc nằm dưới sự thống trị của Kitô giáo vào thế kỷ thứ 4.
Ngoài việc sáp nhập thêm những vùng lãnh thổ rộng lớn trong tiến trình tạo dựng nên đế quốc của mình, người La Mã còn là những nhà điêu khắc cực lớn đối với môi trường của họ và là những người trực tiếp thay đổi địa lý. Ví dụ như, toàn bộ các cánh rừng đã bị đốn hạ để cung cấp đủ nguồn gỗ cho việc mở rộng đế quốc. Trong tác phẩm Critias của mình, Plato đã miêu tả sự phá rừng như sau: tại nơi trước kia từng là "một khu rừng dồi dào trên núi," lúc này đây ông ta chỉ có thể nhìn thấy "chỉ đơn thuần là khung xương của vùng đất."
Trong thực tế, sự bành trướng của người La Mã được thực hiện chủ yếu dưới thời Cộng hoà, dẫu vậy khu vực Bắc Âu chỉ được chinh phục vào thế kỷ 1, khi mà người La Mã đã củng cố quyền lực của họ ở châu Âu, châu Phi và châu Á. Dưới triều đại của Augustus, một "bản đồ toàn cầu của thế giới được biết đến" đã được trưng bày lần đầu tiên trước công chúng tại Rome, trùng khớp với bố cục của tác phẩm toàn diện nhất về địa lý chính trị mà vẫn còn tồn tại từ thời cổ đại, Geography của nhà văn người Hy Lạp gốc Pontos Strabo Khi Augustus qua đời, tác phẩm ca ngợi về những thành tựu của ông (Res Gestae) đã mô tả những nét đặc trưng nổi bật theo danh mục về địa lý của các dân tộc và những nơi bên trong đế quốc. Địa lý, các cuộc điều tra dân số, và những văn thư ghi lại được lưu giữ một cách kĩ càng là những mối quan tâm chủ yếu của chính quyền đế quốc.
Đế quốc đạt tới đỉnh cao về lãnh thổ của nó dưới thời Trajan (trị vì từ năm 98–117), trên một diện tích lên tới 5 triệu kilomet vuông. Ước tính dân số theo truyền thống là từ người được cho là khoảng từ một phần tư tới một phần sáu dân số thế giới điều này khiến cho nó trở thành quốc gia có dân cư lớn nhất và lớn hơn bất cứ thực thể chính trị thống nhất nào ở phương Tây cho đến giữa thế kỷ 19. Các nghiên cứu nhân khẩu học gần đây đã kết luận rằng dân số của nó vào lúc đỉnh điểm nằm trong khoảng từ tới hơn . Bất cứ thành phố nào trong số ba thành phố lớn nhất của đế quốc—Rome, Alexandria, và Antioch—gần như đều có kích thước gấp đôi bất kỳ thành phố châu Âu nào vào đầu thế kỷ 17.
Sử gia Christopher Kelly đã miêu tả nó:
Vị hoàng đế kế vị Trajanus, Hadrianus đã thông qua một chính sách duy trì thay vì mở rộng đế quốc. Các đường biên giới (fines) đã được đánh dấu, còn những phòng tuyến biên giới (limes) thì được tuần tra. Những khu vực biên giới được củng cố vững chắc nhất là nơi ổn định nhất. Trường thành Hadrianus mà đã ngăn cách thế giới La Mã khỏi những gì đã được coi là một mối đe dọa man rợ luôn hiện diện là công trình quan trọng nhất còn sót lại của nỗ lực này.
Ngôn ngữ
Ngôn ngữ của người La Mã là tiếng Latin, nó đã được Virgil nhấn mạnh như là nguồn cội của sự thống nhất và truyền thống của người La Mã Cho đến tận thời của Alexander Severus (trị vì từ năm 222-235), giấy khai sinh và di chúc của công dân La Mã đều phải được viết bằng tiếng Latin. Tiếng Latin cũng còn là ngôn ngữ của các tòa án pháp định ở phía Tây và của quân đội trên khắp Đế quốc, nhưng lại không được áp dụng chính thức đối với những cư dân nằm dưới sự cai trị của người La Mã. Chính sách này tương phản với của Alexandros Đại đế, ông ta mong muốn biến tiếng Hy Lạp trở thành ngôn ngữ chính thức trên khắp đế quốc của mình. Như là một hệ quả từ các cuộc chinh phục của Alexandros, tiếng Hy Lạp Koine đã trở thành ngôn ngữ chung ở khu vực quanh phía đông Địa Trung Hải và ở Tiểu Á. "Biên giới ngôn ngữ" này đã phân chia đế quốc thành hai nửa với tiếng Latin ở Phía Tây và tiếng Hy Lạp ở Phía Đông thông qua bán đảo Balkan, tạo ra một hệ ngôn ngữ song song bên trong đế quốc La Mã.
Những người La Mã mà được nhận một nền giáo dục ưu tú, thì lại học tiếng Hy Lạp như là một ngôn ngữ thơ ca, và hầu hết những người thuộc chính quyền đều có thể nói tiếng Hy Lạp. Các vị hoàng đế của triều đại Julio-Claudius đã khuyến khích những tiêu chuẩn cao đối với tiếng Latin chuẩn (Latinitas), một trào lưu ngôn ngữ được đồng nhất theo những thuật ngữ hiện đại như là tiếng La tinh cổ điển, và ủng hộ việc sử dụng chính thức tiếng Latin trong các hoạt động kinh doanh. Hoàng đế Claudius đã cố gắng để hạn chế việc sử dụng tiếng Hy Lạp, và nhân dịp này ông đã cho thu hồi quyền công dân của những người ít sử dụng tiếng Latin, nhưng ngay cả trong Viện nguyên lão, ông chỉ cần sử dụng đến song ngữ riêng của mình trong những dịp phải tiếp kiến với những sứ thần biết nói tiếng Hy Lạp. Suetonius đã trích dẫn lời nói của ông khi đề cập đến "hai ngôn ngữ của chúng ta," và hoàng đế đã sử dụng hai viên thư ký hoàng gia, một dùng tiếng Hy Lạp và một là tiếng Latinh, để đề ngày tháng cho triều đại của ông.
Ở phía Đông của đế chế, pháp luật và các văn bản chính thức thường xuyên được dịch sang tiếng Hy Lạp từ tiếng La tinh. Sự giao thoa hàng ngày của hai ngôn ngữ được thể hiện trong những câu văn viết bằng song ngữ, mà thậm chí đôi khi có sự chuyển đổi qua lại giữa tiếng Hy Lạp và Latinh. Sau khi tất cả các cư dân tự do của đế quốc được ban cho quyền công dân La Mã vào năm 212 CN, một số lượng lớn các công dân La Mã không biết nói tiếng Latinh, tuy vậy tiếng Latin vẫn là một dấu hiệu của "người La Mã."
Một trong những cải cách của hoàng đế Diocletianus (trị vì từ năm 284-305) đó là đã tìm cách khôi phục lại uy quyền của tiếng Latinh và thành ngữ tiếng Hy Lạp ἡ κρατοῦσα διάλεκτος (hẽ kratousa dialektos) là minh chứng cho việc duy trì địa vị của tiếng Latin là "ngôn ngữ của quyền lực". Học giả Libanius (thế kỷ thứ 4) coi tiếng Latinh như là nguyên nhân gây ra một sự suy giảm trong chất lượng của thuật hùng biện Hy Lạp Trong những năm đầu của thế kỷ thứ 6, hoàng đế Justinianus đã tiến hành một nỗ lực viển vông nhằm tái khẳng định địa vị của tiếng Latin như là ngôn ngữ của pháp luật, mặc dù vào thời của ông ta, tiếng Latin không còn giữ được sự thịnh hành như là một sinh ngữ ở phía Đông.
Thổ ngữ và di sản ngôn ngữ
Các tài liệu tham khảo dành cho những người phiên dịch cho thấy các ngôn ngữ địa phương đã tiếp tục được sử dụng thay vì tiếng Hy Lạp và Latinh, đặc biệt là ở Ai Cập nơi mà tiếng Copt nổi trội hơn hẳn, và trong các môi trường quân sự dọc theo sông Rhine và Danube. Những luật gia La Mã cũng cho thấy một mối quan tâm đối với các ngôn ngữ địa phương như tiếng Punic, Gaul, và tiếng Aram trong việc đảm bảo sự hiểu biết chính xác cùng với việc áp dụng pháp luật và những lời thề. Ở hành tỉnh châu Phi, tiếng Libya-Berber và Punic đã được sử dụng cho những chữ khắc và câu ghi trên các đồng tiền xu dưới triều đại Tiberius (thế kỷ thứ 1 sau công nguyên). Các chữ khắc bằng tiếng Libya-Berber và Punic lần xuất hiện trên các tòa nhà công cộng vào thế kỷ thứ 2, một số song song cùng với tiếng Latinh. Ở Syria, những người lính Palmyra thậm chí đã sử dụng thổ ngữ Aram trong các câu khắc, một ngoại lệ đáng lưu ý bởi vì theo luật thì tiếng Latin là ngôn ngữ của quân đội.
Kho lưu trữ của Babatha là một ví dụ có tính gợi ý về sự đa ngôn ngữ trong đế quốc. Những cuộn giấy cói này được đặt tên theo tên của một người phụ nữ Do Thái ở tỉnh Arabia có niên đại từ năm 93 tới năm 132 CN, chúng chủ yếu sử dụng tiếng Aram, thổ ngữ, viết bằng các ký tự Hy Lạp cùng với ảnh hưởng của tiếng Semit và Latinh; tuy nhiên một đơn thỉnh cầu gửi tới vị tổng đốc La Mã lại được viết bằng tiếng Hy Lạp.
Địa vị thống trị của tiếng Latinh trong giới học giả tinh hoa có thể làm phai mờ tính liên tục của ngôn ngữ nói, bởi vì tất cả các nền văn hóa bên trong đế quốc La Mã chủ yếu là được truyền miệng. Ở phía Tây, tiếng Latinh, được sử dụng ở dạng nói của nó là tiếng Vulgar Latin, đã dần dần thay thế tiếng Celt và tiếng Ý mà vốn có liên quan tới nó thông qua việc cùng có chung nguồn gốc Ấn-Âu.Tương đồng trong cú pháp và từ vựng đã tạo thuận lợi cho việc chấp nhận và sử dụng tiếng Latinh. Sau giai đoạn phân chia quyền lực chính trị vào thời kì hậu cổ đại, tiếng Latin đã phát triển thành các nhánh khác nhau với tính chất cục bộ mà cuối cùng đã trở thành nhóm ngôn ngữ Rôman, chẳng hạn như tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Ý và Romania.
Vì là một ngôn ngữ quốc tế của tri thức và văn học, bản thân tiếng Latin vẫn tiếp tục là một phương tiện dùng trong các hoạt động ngoại giao và cho sự phát triển trí thức được đồng nhất với chủ nghĩa nhân văn thời Phục hưng cho đến tận thế kỷ 17, và đối với pháp luật và Giáo hội Công giáo Rôma cho đến ngày nay.
Mặc dù tiếng Hy Lạp tiếp tục là ngôn ngữ của Đế quốc Đông La Mã, sự phân bố ngôn ngữ ở phía Đông lại phức tạp hơn. Đa số những người nói tiếng Hy Lạp sống ở bán đảo Hy Lạp và các đảo, miền tây Tiểu Á, các thành phố lớn, và một số vùng ven biển. Giống như tiếng Hy Lạp và Latinh, tiếng Thrace có nguồn gốc từ hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, giống như một số ngôn ngữ đã biến mất khác ở Anatolia vốn chỉ được chứng thực từ những chữ khắc vào thời kì đế quốc. Tiếng Albania thường được coi là hậu duệ của tiếng Illyri, mặc dù vậy giả thuyết này đã bị một số nhà ngôn ngữ học bác bỏ, họ chủ trương rằng nó có nguồn gốc từ tiếng Daci hoặc tiếng Thrace. Nhiều ngôn ngữ Phi-Á khác nhau— chủ yếu là tiếng Copt ở Ai Cập, và Aram ở Syria và Lưỡng Hà— chưa bao giờ bị tiếng Hy Lạp thay thế. Tuy nhiên, việc sử dụng tiếng Hy Lạp trên toàn thế giới là một nhân tố cho phép truyền bá Thiên Chúa giáo, như được chỉ ra thông qua ví dụ đó là việc sử dụng tiếng Hy Lạp trong các thư từ của thánh Paul.
Một số trích dẫn liên quan đến tiếng Gaul vào giai đoạn Hậu cổ đại có thể ngụ ý rằng nó đã tiếp tục được nói. Vào thế kỷ thứ 2 CN, đã có sự thừa nhận rõ ràng về việc sử dụng nó trong một vài phong tục theo luật định, bói toán và dược lý.Sulpicius Severus, khi đang biên soạn vào thế kỷ thứ 5 ở Gallia Aquitania, đã ghi chép bằng song ngữ với tiếng Gaul là ngôn ngữ đầu tiên. Sự tồn tại của thổ ngữ Galatia ở Anatolia mà gần giống với ngôn ngữ được nói bởi người Treveri gần Trier đã được chứng thực bởi Jerome (331–420), ông ta là người có sự hiểu biết trực tiếp.
Đa phần các học giả ngôn ngữ học lịch sử đều cho rằng tiếng Gaul thực sự vẫn còn được nói cho đến tận giai đoạn giữa tới giai đoạn cuối thế kỷ thứ 6 ở Pháp. Bất chấp sự La Mã hóa đáng kể đối với văn hóa vật chất bản địa, tiếng Gaul đã được duy trì để có thể sống sót và đã tồn tại đồng thời với tiếng Latinh trong suốt hàng thế kỷ thống trị Gaul của người La Mã. Lần cuối cùng tiếng Galatia được nhắc đến là bởi Cyril của Scythopolis, ông tuyên bố rằng một linh hồn quỷ dữ đã ám một tu sĩ và khiến cho người này chỉ có thể nói tiếng Galatia, trong khi lần cuối cùng tiếng Gaul được nhắc đến ở Pháp là bởi Gregory của Tours trong giai đoạn giữa năm 560 và 575, ông ta ghi chép rằng một điện thờ ở Auvergne mà "được gọi là Vasso Galatae theo tiếng Gallia" đã bị phá hủy và thiêu trụi. Sau một thời kỳ dài sử dụng song ngữ, ngữ hệ Gaul-La Mã mới xuất hiện mà bao gồm cả tiếng Pháp đã được định hình bởi tiếng Gaul theo một vài phương diện; trong trường hợp của tiếng Pháp chúng bao gồm các từ mượn và cách dịch phỏng theo (bao gồm oui, từ thay cho "yes"), thay đổi âm, và ảnh hưởng trong cách chia động từ và thứ tự từ.
Xã hội
Đế quốc La Mã có sự đa dạng văn hóa đặc biệt, cùng với "một khả năng gắn kết đáng kinh ngạc hơn nữa" để tạo ra một ý thức về bản sắc chung trong khi lại chứa đựng rất nhiều các dân tộc khác nhau nằm bên trong hệ thống chính trị của nó suốt một khoảng thời gian dài. Người La Mã đã chú ý đến việc tạo ra các công trình công cộng và những không gian thoáng đãng chung dành cho tất cả mọi người dân như là các khu chợ, đấu trường đài vòng, trường đua ngựa và các nhà tắm, điều này giúp nuôi dưỡng ý thức về "lối sống La Mã".
Xã hội La Mã cũng có nhiều hệ thống phân cấp xã hội chồng chéo mà những khái niệm hiện đại về "giai cấp" trong tiếng Anh có thể không đại diện một cách chính xác cho nó. Hai thập kỷ của những cuộc nội chiến mà từ đó đã giúp cho Augustus nổi lên và trở thành nhà cai trị duy nhất đã khiến cho xã hội truyền thống ở Rome rơi vào tình trạng hỗn loạn và biến động, nhưng nó lại không ảnh hưởng một cách trực tiếp tới sự phân bố giàu nghèo và quyền lực xã hội. Từ góc nhìn của các tầng lớp dưới, nó đơn giản chỉ là thêm vào kim tự tháp xã hội một đỉnh chóp. Những mối quan hệ cá nhân như sự bảo trợ, tình bạn (Amicitia), gia đình, hôn nhân đã tiếp tục ảnh hưởng đến các hoạt động chính trị và chính quyền như dưới thời Cộng hòa. Tuy nhiên, vào triều đại của Nero, việc tìm thấy một cựu nô lệ lại giàu có hơn một công dân tự do, hoặc một kỵ sĩ có nhiều quyền lực hơn một nguyên lão lại không phải là một điều bất thường.
Sự mập mờ chính xác hơn là sự rườm rà của hệ thống phân cấp xã hội quá cứng nhắc dưới thời cộng hòa đã dẫn đến sự gia tăng di động xã hội dưới thời đế quốc, cả theo chiều hướng đi lên và đi xuống, tới một mức độ vượt xa tất cả những xã hội cổ đại đã được ghi chép rõ ràng khác. Phụ nữ, nô lệ được giải phóng, và nô lệ có cơ hội để có được và sử dụng ảnh hưởng theo những cách mà trước kia họ ít có khả năng đạt được. Đời sống xã hội trong đế quốc, đặc biệt là đối với những người có tiềm lực cá nhân giới hạn, đã được thúc đẩy hơn nữa bởi thông qua sự phát triển của các hiệp hội tự nguyện và hội anh em (collegia và sodalitates) được hình thành cho nhiều mục đích khác nhau: các hiệp hội nghề nghiệp và thương mại, các nhóm cựu chiến binh, những hội tương tế tôn giáo, các hội ăn uống và nhậu nhẹt, những đoàn biểu diễn nghệ thuật, và các hội mai táng.
Địa vị pháp lý
Theo luật gia Gaius, sự khác biệt chủ yếu trong "luật pháp nhân" của người La Mã đó là tất cả mọi người sẽ là người tự do (Liberi) hoặc là nô lệ (servi). Tư cách pháp lý của người tự do hơn nữa có thể được xác định bằng quyền công dân của họ. Hầu hết người dân đều giữ những quyền hạn chế (chẳng hạn như ius Latinum,"quyền của người Latin"), nhưng có quyền được bảo vệ về mặt pháp luật và các đặc quyền không dành cho những người không có quyền công dân. Người tự do không được coi là công dân nhưng khi sinh sống bên trong thế giới La Mã thì giữ địa vị là peregrini, không phải người La Mã. Năm 212 CN, bằng sắc lệnh được biết đến với tên gọi là Constitutio Antoniniana, hoàng đế Caracalla đã mở rộng quyền công dân cho tất cả các cư dân tự do của đế quốc. Chủ nghĩa quân bình hợp pháp này đòi hỏi một sự sửa đổi sâu rộng đối với những pháp luật hiện hành vốn đã phân chia giữa công dân và những người không phải công dân.
Phụ nữ
Những người phụ nữ La Mã tự do được coi là công dân từ thời nhà nước Cộng hoà cho tới thời Đế quốc, nhưng họ không có quyền bỏ phiếu hay nắm giữ chức vụ chính trị, hoặc phục vụ trong quân đội. Đứa trẻ sinh ra từ người mẹ có quyền công dân thì cũng sẽ có được điều này, thể hiện bằng cách nói ex duobus civibus Romanis natos ("trẻ em sinh ra bởi hai công dân La Mã"). Một người phụ nữ La Mã giữ tên họ của gia đình mình (nomen) trong suốt cuộc đời. Con cái thường lấy theo tên của người cha, nhưng vào thời kì đế quốc, đôi khi lại sử dụng một phần tên của người mẹ cho tên của họ, hoặc thậm chí sử dụng nó để thay thế.
Hình thái hôn nhân cổ xưa manus trong đó người phụ nữ phải lệ thuộc vào uy quyền của người chồng đã được bãi bỏ một cách rộng khắp vào thời kì đế quốc, và một người phụ nữ đã lập gia đình có quyền giữ lại quyền sở hữu với bất kỳ của hồi môn nào mà họ sở hữu. Về mặt pháp lý, họ vẫn nằm dưới thẩm quyền pháp lý của người cha, bất kể là họ đã đi lấy chồng đi chăng nữa và chỉ khi nào người cha qua đời, họ mới được tự do về mặt pháp lý. Sự sắp đặt này là một trong những yếu tố về mức độ độc lập của phụ nữ La Mã được hưởng khi so sánh với những người phụ nữ của những nền văn hóa cổ đại khác và cho tới tận thời kỳ hiện đại: mặc dù họ phải trả lời cha mình về những vấn đề pháp lý, họ không bị ràng buộc bởi sự giám sát trực triếp của người cha trong đời sống hàng ngày, và người chồng không có quyền lực pháp lý đối với họ. Mặc dù đối với những người chỉ kết hôn một lần duy nhất, sẽ là một niềm tự hào khi là "một đàn ông -một phụ nữ" (univira), có rất ít sự kỳ thị đối với việc ly dị, hay là nhanh chóng tái hôn sau khi mất một người chồng do qua đời hoặc ly hôn.
Người con gái có quyền thừa kế bình đẳng với người con trai nếu người cha của họ qua đời mà không để lại một di chúc. Một người mẹ La Mã của quyền sở hữu tài sản và nhường lại nó khi thấy phù hợp, bao gồm thiết lập các điều khoản trong di chúc của mình, điều này khiến họ có ảnh hưởng rất lớn với những người con trai của họ ngay cả khi những người con trai của họ đã trưởng thành.
Là một phần trong cải cách của Augustus nhằm khôi phục lại đạo đức truyền thống và trật tự xã hội, luật đạo đức đã cố gắng để chỉnh đốn lại đạo đức của đàn ông và phụ nữ như là một biện pháp để thúc đẩy "các giá trị gia đình". Dưới thời cộng hòa Tội ngoại tình là một chuyện gia đình riêng tư, nó đã bị hình sự hóa và được định nghĩa chung là một hành vi tình dục bất chính (stuprum) mà diễn ra giữa một công dân nam và một phụ nữ có chồng, hoặc giữa một người phụ nữ có chồng với bất cứ nam giới nào không phải là chồng của họ. Nhà nước đã khuyến khích việc sinh con: một người phụ nữ nếu sinh được 3 người con thì sẽ được ban tặng những huy chương mang tính tượng trưng và quyền tự do về mặt pháp lý lớn hơn (ius trium liberorum).
Bởi vì họ có tư cách pháp lý là công dân và mức độ tự do nhất định, phụ nữ có thể sở hữu tài sản, ký kết các hợp đồng, và tham gia vào việc kinh doanh, bao gồm vận tải bằng tàu thủy, sản xuất, và cho vay. Những bản khắc trên khắp đế quốc tôn vinh phụ nữ như là người bảo trợ trong việc tài trợ cho các công trình công cộng, đây là dấu hiệu cho thấy họ có thể đã có được và tùy ý sử dụng sự giàu có đáng kể này; chẳng hạn như công trình Khải hoàn môn của nhà Sergii được Salvia Postuma tài trợ, bà là thành viên của gia tộc được vinh danh này, và công trình xây dựng lớn nhất tại khu chợ ở Pompeii được Eumachia tài trợ, bà ta là một nữ tư tế của nữ thần Venus.
Nô lệ và pháp luật
Dưới triều đại của Augustus, có đến 35% người dân ở Ý là nô lệ, điều này khiến cho La Mã trở thành một trong năm "xã hội nô lệ" trong lịch sử, trong đó những người nô lệ chiếm ít nhất một phần năm dân số và đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Chế độ nô lệ là một chế độ phức tạp không những chống đỡ cấu trúc xã hội truyền thống của người La Mã mà còn đóng vai trò hữu ích trong nền kinh tế. Trong môi trường đô thị, nô lệ có thể là các chuyên gia như thầy giáo, thầy thuốc, đầu bếp, người giữ sổ sách, ngoài ra thì phần lớn các nô lệ đã qua huấn luyện hoặc không có kỹ năng thì lao động ở trong các hộ gia đình hoặc các công xưởng. Các ngành nông nghiệp và công nghiệp, chẳng hạn như xay xát và khai thác mỏ, đều dựa trên việc khai thác sức lao động của nô lệ. Bên ngoài đất Ý, nô lệ chiếm trung bình khoảng từ 10 đến 20 phần trăm dân số, ở tỉnh Ai Cập thuộc La Mã thì lại thưa thớt nhưng tập trung nhiều hơn ở một số vùng của Hy Lạp. Việc mở rộng quyền sở hữu đất canh tác và các ngành công nghiệp của người La Mã sẽ bị ảnh hưởng từ thực tiễn của chế độ nô lệ ở các tỉnh. Mặc dù chế độ nô lệ thường được đánh giá là đang trong quá trình suy tàn vào thế kỷ thứ 3 và thứ 4, nó vẫn là một phần không thể thiếu của xã hội La Mã cho tới tận thế kỷ thứ 5. Chế độ nô lệ đã chấm dứt dần dần vào thế kỷ thứ 6 và thứ 7 cùng với sự suy tàn của các trung tâm đô thị ở phía Tây và sự tan rã của nền kinh tế đế quốc phức tạp mà đã tạo ra nhu cầu cho nó.
Pháp luật liên quan đến chế độ nô lệ là "cực kỳ phức tạp". Theo luật La Mã, nô lệ được coi là tài sản và không có địa vị pháp lý. Họ có thể phải chịu các hình thức nhục hình vốn không thường được áp dụng đối với công dân, bóc lột tình dục, tra tấn, và hành quyết nô lệ mà không cần xét xử. Một nô lệ bị cưỡng bức thì không phải là một vấn đề quan trọng trong pháp luật bởi lẽ tội hiếp dâm chỉ có thể bị tống giam nếu đó là người tự do; Người chủ nô có quyền khởi tố người cưỡng bức nô lệ của mình vì đã làm thiệt hại tài sản theo Luật Aquilia Nô lệ có hình thức hôn nhân không được pháp luật công nhận được gọi là conubium, nhưng đôi khi hôn nhân của họ được công nhận, và nếu cả hai được trả tự do thì họ có thể kết hôn. Sau những cuộc chiến tranh nô lệ dưới thời Cộng hòa, pháp luật dưới triều đại của Augustus và những người kế vị ông đã cho thấy một chiều hướng quan tâm đến việc kiểm soát các mối đe dọa từ các cuộc khởi nghĩa thông qua việc hạn chế kích thước của các nhóm lao động, và việc săn lùng nô lệ bỏ trốn.
Ban đầu, nô lệ sẽ được mua lại từ quân đội bởi các đại lý bán buôn, sau đó họ sẽ được đem bày bán công khai tại các khu chợ hoặc thậm chí là các cửa hàng. Nô lệ bị giao bán tại các gian hàng bị buộc phải đứng trong tình trạng khỏa thân hoàn toàn, và trên cổ mỗi người nô lệ đêu đeo một tấm thẻ cung cấp các thông tin về nguồn gốc, sức khỏe, tính cách, trí thông minh, giáo dục và các thông tin khác của họ cho người mua. Thường thì người ta sẽ ưa chuộng các nô lệ khỏe mạnh, và ưu tiên nô lệ đàn ông hơn. Nô lệ trẻ em có giá thấp hơn nô lệ người lớn. Nô lệ có thể được đem hoàn trả lại sau sáu tháng nếu như họ có những khuyết điểm không được biểu hiện ở quầy giao bán, hoặc nếu như họ làm cho người chủ thua lỗ. Giao dịch nô lệ được giám sát bởi các quan chức tài chính La Mã được gọi là Quaestor (quan coi quốc khố).
Về mặt pháp luật, một nô lệ không thể sở hữu tài sản, nhưng nếu một nô lệ quản lý việc kinh doanh, người này có thể được trao cho một tài khoản cá nhân hoặc quỹ (peculium) mà có thể sử dụng như thể nó là của riêng mình. Các điều khoản của tài khoản này khác nhau tùy thuộc vào mức độ tin tưởng và hợp tác giữa người chủ nô với nô lệ: một nô lệ với năng khiếu kinh doanh có thể được cho phép dành nhiều thời gian cho việc tạo ra lợi nhuận, và có thể được phép thừa kế peculium, người này còn quản lý các nô lệ khác trong gia đình của chủ nô. Trong một hộ gia đình hoặc nơi làm việc, một hệ thống cấp bậc giữa các nô lệ có thể tồn tại, với một nô lệ có đóng vai trò là ông chủ của nô lệ khác.
Theo thời gian, nô lệ đã dần nhận được sự bảo vệ của pháp luật, trong đó họ có quyền nộp đơn khiếu nại chống lại người chủ của họ. Một dự luật buôn bán có thể chứa một điều khoản quy định rằng các nô lệ không được phép sử dụng cho nạn mại dâm, tuy rằng gái mại dâm ở La Mã cổ đại thường là nô lệ. Với việc bùng phát buôn bán nô lệ thái giám trong những năm cuối thế kỷ 1 CN đã thúc đẩy đạo luật trong đó cấm thiến một nô lệ trái với ý muốn của họ "vì ham muốn hoặc lợi ích." Hoàng đế Claudius đã tuyên bố rằng nếu một nô lệ bị chủ nhân bỏ rơi, anh ta sẽ trở thành người tự do. Nero đã trao cho nô lệ quyền khiếu nại chống lại chủ nhân của họ tại một tòa án. Và dưới thời Antoninus Pius, một chủ nhân giết một nô lệ mà không có lý do chính đáng có thể bị xét xử vì tội giết người. Từ giữa đến cuối thế kỷ thứ 2 sau Công nguyên, việc nô lệ phàn nàn về sự đối xử tàn nhẫn hoặc không công bằng của chủ sở hữu đối với họ đã trở nên rất phổ biến. Vì hầu hết nô lệ La Mã có thể dễ dàng trà trộn vào dân chúng nếu họ trốn thoát, các chủ sở hữu thường ngăn cản nô lệ bỏ trốn bằng cách đặt xăm lên trán họ những dòng chữ như "Tôi là một kẻ trốn chạy!" hoặc "Đóng thuế" nếu nô lệ thuộc sở hữu của nhà nước La Mã. Vì lý do này, nô lệ thường đeo những tấm băng đô để che đi hình xăm của họ khi trốn thoát.
Lễ hội Saturnalia, được tổ chức vào ngày 17 tháng 12 theo Lịch Julian, là một dịp hiếm hoi mà người nô lệ có thể tạm thời được hưởng những quyền như người tự do. Vào dịp lễ này, nô lệ sẽ được thưởng thức một bữa tiệc thịnh soạn, được đánh bạc, thậm chí được quyền chỉ trích hoặc tỏ ra thiếu tôn trọng đối với chủ nhân mà không bị trừng phạt. Một số nguồn còn đề cập đến việc người chủ và nô lệ đã ăn tối cùng nhau, hay người chủ đã phục vụ bữa ăn cho các nô lệ của mình như một cách để tôn vinh họ.
Chế độ nô lệ của La Mã không dựa trên chủng tộc. Nô lệ được đưa đến từ khắp các vùng đất ở châu Âu và Địa Trung Hải, bao gồm Gaul, Hispania, Đức, Britannia, khu vực Balkan, Hy Lạp... Nói chung, nô lệ ở Ý là những người Ý bản xứ, cùng với nô lệ ngoại quốc sinh ra ở bên ngoài đất Ý chiếm thiểu số (bao gồm cả nô lệ và nô lệ được trả tự do) ước tính khoảng 5% về tổng số ở kinh đô vào giai đoạn đỉnh cao của nó, đây là nơi mà số lượng của họ là lớn nhất. Những người đến từ bên ngoài đất Ý chủ yếu là người gốc Hy Lạp, trong khi người Do Thái chưa bao giờ được đồng hóa hoàn toàn vào xã hội La Mã. Những nô lệ này (đặc biệt là người ngoại quốc) có tỷ lệ tử vong cao hơn và tỷ lệ sinh thấp hơn những nô lệ bản địa, và thậm chí đôi khi họ dễ bị trục xuất hàng loạt. Tuổi đời trung bình được ghi lại vào thời điểm qua đời của nô lệ ở Rome là cực kỳ thấp: 17 tuổi rưỡi (17.2 cho nam; 17.9 cho nữ).
Trong giai đoạn bành trướng dưới thời Cộng hòa khi chế độ nô lệ đã trở nên phổ biến, tù nhân chiến tranh là một nguồn cung cấp nô lệ chính và cuộc chinh phục Hy Lạp đã đem về Rome thêm một số nô lệ có tay nghề cao và cả nô lệ có học thức. Nô lệ cũng được buôn bán trong các khu chợ, và đôi khi được bán bởi những tên cướp biển. Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi và việc tự bán mình làm nô lệ của những người nghèo là những nguồn khác. Ngược lại, Vernae, là những nô lệ "cây nhà lá vườn" được sinh ra từ những nữ nộ lệ trong các hộ gia đình ở thành thị hoặc trong một điền trang đồng quê hoặc nông trại. Mặc dù họ không có tư cách pháp lý đặc biệt, nếu như người chủ ngược đãi hoặc không nuôi nấng vernae của mình thì sẽ phải đối mặt với sự chê bai của xã hội, bởi vì họ được coi là một phần trong familia của người này, hộ gia đình, và trong một số trường hợp có thể thực sự là con cái của những đàn ông tự do trong gia đình.
Những nô lệ có tay nghề cao hoặc học thức có thể tích lũy được một peculium đủ lớn để mua lại sự tự do của họ, hoặc được chủ nô giải phóng. Việc giải phóng nô lệ đã trở nên đủ thường xuyên tới mức vào năm 2 trước Công nguyên một đạo luật (Lex Fufia Caninia) đã được ban hành trong đó giới hạn số lượng nô lệ mà một chủ nô được cho phép giải phóng trong di chúc của mình.
Nô lệ được giải phóng
Rome khác với các thành bang Hy Lạp ở chỗ cho phép những người nô lệ được giải phóng trở thành công dân. Sau khi được giải phóng, một nô lệ đã từng thuộc về một công dân La Mã được hưởng quyền tự do từ người chủ sở hữu và cả quyền tự do chính trị thực sự (Libertas), trong đó có cả quyền bầu cử. Một nô lệ có được quyền Libertas thì được gọi là một libertus ("người được giải phóng", Liberta đối với nữ) trong mối quan hệ với chủ cũ của mình, người chủ cũ sẽ trở thành người bảo trợ của họ (Patronus): hai bên tiếp tục có những nghĩa vụ thông thường và hợp pháp với nhau. Những người nô lệ được giải phóng còn được xếp vào một tầng lớp xã hội, nói chung gọi là libertini, mặc dù các nhà văn sau đó sử dụng thuật ngữ libertus và libertinus.
Một libertinus không có quyền nắm giữ các chức vụ công hoặc là giáo sĩ tối cao của nhà nước, nhưng người này có thể đóng một vai trò của một giáo sĩ trong tôn giáo thờ cúng hoàng đế. Ông ta cũng không thể kết hôn với một người phụ nữ từ một gia đình thuộc tầng lớp nguyên lão, cũng như bản thân ông ta không được phép đứng vào hàng ngũ nguyên lão, nhưng vào thời kì đầu của đế quốc, những nô lệ được giải phóng đã giữ vị trí chủ chốt trong bộ máy quan liêu của chính phủ nhiều tới mức Hadrianus đã phải hạn chế sự tham gia của họ bằng pháp luật. Bất kỳ đứa trẻ nào được một nô lệ được giải phóng sinh ra thì đều là người tự do, với đầy đủ các quyền công dân.
Sự thăng tiến thành công của những nô lệ được giải phóng—thông qua ảnh hưởng chính trị trong việc phụng sự đế quốc hoặc thông qua sự giàu có—là một đặc trưng của xã hội đế quốc thời kỳ đầu. Sự thành công của một nhóm những nô lệ được giải phóng xuất sắc này đã được chứng thực bằng những bản khắc trên khắp đế quốc, và bởi việc sở hữu một số ngôi nhà xa hoa nhất tại Pompeii, chẳng hạn như ngôi nhà của gia đình Vettii. Tuy nhiên, những người này cũng thường bị giới quý tộc khinh miệt và gán cho biệt danh "Nouveau riche" (những người giàu có thô tục).
Việc giải phóng nô lệ thường được tổ chức trong một buổi lễ công khai, được thực hiện trước sự chứng kiến của một số quan chức nhà nước. Chủ sở hữu sẽ chạm vào đầu người nô lệ bằng một chiếc gậy và tuyên bố rằng anh (cô) ta được tự do. Tuy vậy các nghi thức đơn giản hơn đôi khi được sử dụng, chẳng hạn như chủ sở hữu tuyên bố trả tự do cho một nô lệ trước mặt bạn bè và gia đình, hoặc chỉ là một lời tuyên bố trong bữa tối gia đình. Một chiếc mũ phớt được gọi là Pileus sẽ được trao cho các nô lệ mới được giải phóng này.
Hệ thống đẳng cấp
Từ La tinh Ordo (số nhiều ordines) đề cập đến một sự phân biệt xã hội, nó được dịch sang tiếng Anh với nhiều nghĩa khác nhau là "giai cấp, tầng lớp, đẳng cấp", nhưng không có cái nào trong số đó là chính xác. Một trong những mục đích của việc điều tra dân số La Mã đó là xác định một cá nhân thuộc về Ordo nào. Hai ordines cao nhất ở Rome là tầng lớp nguyên lão và kỵ sĩ. Bên ngoài Rome, decurion, hay còn được gọi là curiales (tiếng Hy Lạp:bouleutai), là Ordo thống trị cao nhất của mỗi một thành phố riêng lẻ.
Viện nguyên lão của Đế quốc La Mã là một tổ chức chính trị đã tồn tại từ khi nền văn minh La Mã cổ đại ra đời. Viện nguyên lão đã nắm giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị thời kỳ Cộng hòa. Sau khi Cộng hòa La Mã sụp đổ, cán cân quyền lực theo hiến pháp đã chuyển từ " Viện nguyên lão La Mã " sang "Hoàng đế La Mã". Kể từ thời hoàng đế đầu tiên là Augustus, Hoàng đế và Viện nguyên lão về danh nghĩa là hai nhánh chính phủ đồng đẳng. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền lực thực sự của Viện nguyên lão là không đáng kể, vì Hoàng đế nắm giữ quyền lực thực sự. Do đó, tư cách thành viên trong Viện nguyên lão chỉ còn là ước muốn sở hữu bởi các cá nhân muốn tìm kiếm uy tín và vị thế trong xã hội, thay vì tìm kiếm quyền lực thực tế. Trong triều đại của các Hoàng đế đầu tiên, các quyền lập pháp, tư pháp và bầu cử đều được chuyển từ "Hội đồng thường dân " sang Viện nguyên lão. Tuy nhiên, do sự kiểm soát mà Hoàng đế nắm giữ đối với Viện nguyên lão là tuyệt đối, Viện nguyên lão đã trở thành một công cụ để Hoàng đế thực thi các quyền lực của mình.
"Nguyên lão", bản thân nó không phải là một chức vụ được bầu chọn ở La Mã cổ đại, mỗi một cá nhân được nhận vào Viện nguyên lão sau khi ông ta đã được bầu và giữ chức vụ là một thẩm phám hành pháp ít nhất một nhiệm kì. Một nguyên lão cũng phải đáp ứng một yêu cầu về tài sản tối thiểu là 1 triệu sestertii, vốn được xác định bởi những cuộc điều tra dân số. Nero đã ban tặng nhiều tiền bạc cho một số nguyên lão từ các dòng họ lâu đời nhưng nay họ đã trở nên quá nghèo khổ để có thể đủ điều kiện. Không phải tất cả những người có đủ điều kiện Ordo senatorius đều được lựa chọn vào một vị trí trong Viện nguyên lão, họ được yêu cầu phải có nơi cư trú hợp pháp tại Rome. Hoàng đế thường bổ sung những vị trí còn khuyết trong hội đồng 600 thành viên bằng cách bổ nhiệm.. Con trai của một nguyên lão thuộc Ordo senatorius cũng phải hội đủ điều kiện riêng của mình thì cũng mới được chấp nhận vào Viện Nguyên Lão. Một nguyên lão có thể bị mất ghế nếu ông ta vi phạm tiêu chuẩn đạo đức: ví dụ như ông ta bị cấm kết hôn với một phụ nữ được trả tự do hoặc chiến đấu trong đấu trường.
Dưới triều đại của Nero, các nguyên lão chủ yếu vẫn từ Rome và các vùng đất khác của Ý cùng với một số đến từ bán đảo Iberia và miền nam nước Pháp; Những người đến từ các tỉnh nói tiếng Hy Lạp ở phía Đông bắt đầu được thêm vào dưới thời Vespasianus Vị nguyên lão đầu tiên tới từ tỉnh Cappadocia phía đông đã được thừa nhận dưới triều đại Marcus Aurelius. Dưới thời triều đại Severus (193–235), các nguyên lão người Ý chỉ chiếm chưa đến một nửa Viện nguyên lão. Vào thế kỷ thứ 3 CN, nơi ở cố định tại Rome đã không còn là điều cần thiết nữa, và những bản khắc chứng thực rằng các vị nguyên lão đã hoạt động chính trị và tỏ ra hào phóng ở quê nhà của mình (patria).
Các nguyên lão đã có một vầng hào quang uy tín và là tầng lớp thống trị truyền thống của những người nổi lên thông qua honorum cursus, con đường của sự nghiệp chính trị, nhưng tầng lớp kỵ sĩ của đế quốc lại thường nắm giữ sự giàu có và nhiều quyền lực chính trị hơn. Thành viên của tầng lớp kỵ sĩ được căn cứ vào tài sản, vào những ngày đầu của Rome, equites hay kỵ sĩ đã được phân biệt bởi việc họ có khả năng tham gia lực lượng kỵ binh trong quân đội (những "kỵ binh của nhân dân"), nhưng vào thời đế quốc, việc tham gia kỵ binh đã được tách riêng Một người được coi là một kỵ sĩ nếu như ông ta có giá trị tài sản là 400.000 sesterces và ba thế hệ trong gia đình sinh ra là người tự do thì mới đủ điều kiện. Cuộc điều tra dân số vào năm 28 trước Công nguyên đã cho thấy có một số lượng lớn những người đủ điều kiện, và trong năm 14 CN, một ngàn kỵ sĩ đã được ghi nhận chỉ riêng tại Cadiz và Padua. Tầng lớp kị sĩ còn nổi lên thông qua con đường binh nghiệp (tres militiae) để nắm giữ các chức vụ quan trọng như Thái thú và Kiểm sát trưởng trong chính quyền đế quốc.
Sự nổi lên của các nguyên lão và kỵ sĩ đến từ các tỉnh là một khía cạnh của biến động xã hội trong ba thế kỷ đầu của đế quốc. Tầng lớp quý tộc La Mã dựa trên sự cạnh tranh và không giống với tầng lớp quý tộc châu Âu sau này, một gia đình La Mã không thể duy trì vị thế của nó chỉ đơn thuần thông qua thừa kế hoặc có được quyền sở hữu đất đai. Được đứng vào những ordines cao hơn mang đến sự ưu đãi và đặc quyền, nhưng nó cũng đi kèm với một số trách nhiệm. Vào thời cổ đại, mỗi một thành phố đều phải trông đợi vào sự tài trợ đến từ những công dân có ảnh hưởng của nó cho các công trình công cộng, các sự kiện, và những buổi lễ (munera), thay vì là từ thuế mà vốn chủ yếu dùng cho quân đội. Để duy trì địa vị thì đòi hỏi mỗi người đều phải có những khoản chi tiêu cá nhân lớn. Những Decurion đã trở nên quan trọng đối với hoạt động của các thành phố tới mức vào giai đoạn cuối của đế quốc, khi mà những thành viên của Hội đồng thành phố ngày càng trở nên ít dần, những người đã đứng vào Viện nguyên lão lại được chính quyền trung ương khuyến khích từ bỏ vị trí của mình và trở về quê hương, trong một nỗ lực để duy trì các hoạt động dân sự.
Vào giai đoạn cuối của đế quốc, các dignitas ("giá trị, sự kính trọng") đi kèm với hàng ngũ nguyên lão và kỵ sĩ còn được đề cao hơn nữa bằng các tước hiệu như là vir illustris, "người nổi tiếng". Danh xưng clarissimus (tiếng Hy Lạp lamprotatos) được sử dụng để chỉ rõ dignitas của một nguyên lão nào đó và gia đình của họ bao gồm cả phụ nữ. "Các thứ hạng" của địa vị kỵ sĩ đã gia tăng nhanh. Những kỵ sĩ phục vụ đế quốc được xếp hạng theo mức lương (sexagenarius, 60,000 sesterce mỗi năm; centenarius, 100,000; ducenarius, 200,000). Tước hiệu eminentissimus, "xuất sắc nhất" (tiếng Hy Lạp exochôtatos) được dành cho những kỵ sĩ đã từng là Pháp quan thái thú.
Sự bất bình đẳng
Khi mà nguyên tắc về sự bình đẳng của các công dân trước pháp luật thời cộng hòa bị lu mờ dần, các đặc quyền mang tính biểu tượng và xã hội của tầng lớp thượng lưu dẫn sự phân cấp một cách không chính thức ở bên trong xã hội La Mã thành hai tầng lớp đó là những người nắm giữ quyền cao chức trọng (honestiores) và những người thuộc tầng lớp thấp kém (humiliores). Nói chung, honestiores là những thành viên của ba "giai cấp" trên, cùng với một số sĩ quan quân đội. Việc cấp quyền công dân cho tất cả cư dân vào năm 212 dường như đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các tầng lớp thượng lưu vốn có địa vị cao hơn hẳn các công dân khác, điều này đã được khẳng định đặc biệt là trong hệ thống tư pháp Việc kết án phụ thuộc vào sự đánh giá của vị viên chức chủ tọa đối với "giá trị" tương xứng (dignitas) của bị cáo: một honestior có thể trả một khoản phạt khi bị kết tội đối với một tội mà có thể sẽ là một trận đòn roi dành cho một humilior.
Dưới thời cộng hoà, những người tự do hiếm khi phải nhận án tử hình ngay cả trong trường hợp một vụ án ở kinh đô, nó có thể diễn ra nhanh và tương đối ít đau đớn đối với các công dân được coi là "đáng kính trọng hơn" của đế quốc, trong khi những người bị coi là thấp kém hơn có thể phải trải qua nhiều kiểu tra tấn và đón nhận một cái chết từ từ mà trước kia vốn dành cho nô lệ, chẳng hạn như là đóng đinh và xử tử bằng động vật giống như là một cảnh tượng trong đấu trường. Trong giai đoạn đầu thời kỳ đế quốc, những người đã cải sang đạo Thiên Chúa có thể bị mất địa vị là honestiores của họ, đặc biệt là nếu họ từ chối thực hiện các khía cạnh tôn giáo trong nghĩa vụ công dân của mình, và do vậy họ trở thành đối tượng bị trừng phạt mà tạo ra tiền đề cho sự tử vì đạo.
Chính quyền và quân đội
Ba trụ cột quan trọng của chính quyền đế quốc La Mã đó là chính quyền trung ương, quân đội, và chính quyền địa phương. Quân đội thiết lập sự kiểm soát đối với các vùng đất thông qua chiến tranh, nhưng sau khi một thành phố hoặc một dân tộc đã chịu khuất phục, thì quân đội lại đảm nhiệm nhiệm vụ giữ gìn trật tự: bảo vệ các công dân La Mã (sau năm 212 CN, là với tất cả cư dân tự do của Đế quốc), các vùng đất nông nghiệp mà nuôi sống họ, và địa điểm tôn giáo Việc hợp tác với tầng lớp quý tộc đầy quyền lực ở các địa phương là điều cần thiết để duy trì trật tự, thu thập thông tin, và tăng thêm nguồn thu cho ngân khố. Người La Mã thường tiến hành lợi dụng tình trạng chia rẽ chính trị nội bộ bằng cách ủng hộ một trong hai phe: theo như quan điểm của Plutarch "đó là sự bất hòa giữa các phe phái trong các thành phố mà dẫn đến việc mất quyền tự cai quản".
Các cộng đồng chứng minh được lòng trung thành với Rome sẽ giữ lại được những luật lệ riêng, và đồng thời có thể thu thuế tại địa phương của họ, và trong trường hợp đặc biệt sẽ được miễn thuế La Mã. Đặc quyền pháp lý và sự độc lập một cách tương đối là một động lực để tiếp tục giữ được vị thế tốt đối với Rome. Sự cai quản của La Mã như vậy đã bị hạn chế, nhưng điều này lại tỏ ra hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực có sẵn cho nó.
Chính quyền trung ương
Quyền hạn của một vị hoàng đế (quyền lực tuyệt đối của ông) tồn tại ít nhất là trong lý thuyết, gồm có "quyền quan bảo dân" (potestas tribunicia) và "quyền quan trấn thủ của Hoàng đế" (Imperium proconsulare). Trên lý thuyết, quyền hạn của quan bảo dân (tương tự như Quan bảo dân của người bình dân của nền cộng hòa cũ) khiến cho bản thân hoàng đế và chức vụ của ông trở thành bất khả xâm phạm, và đem lại cho hoàng đế quyền lực đối với chính quyền dân sự của Roma, bao gồm cả quyền lực để chủ trì và kiểm soát viện nguyên lão.
Quyền hạn của quan trấn thủ (tương tự như của các thống đốc quân sự, hoặc quan trấn thủ, dưới thời nền Cộng hòa cũ) đã đem lại cho ông quyền lực đối với toàn bộ quân đội La Mã. Ông cũng đã được giao những quyền hạn, mà dưới thời Cộng hòa, đã được dành cho viện nguyên lão và các hội đồng, bao gồm cả quyền tuyên bố chiến tranh, phê chuẩn các hiệp ước quốc tế, và đàm phán với các nhà lãnh đạo ngoại quốc.
Hoàng đế cũng có thẩm quyền để thực hiện một loạt các công việc đã được thực hiện bởi các kiểm duyệt viên, bao gồm cả quyền hạn kiểm soát các thành viên của viện nguyên lão Ngoài ra, hoàng đế còn kiểm soát cả tôn giáo, vì từ khi là hoàng đế, ông cũng luôn luôn đảm nhiệm chức Pontifex Maximus (Đại Tư tế) và là thành viên của mỗi nhóm trong bốn nhóm thầy tế lớn.. Trong khi những tước hiệu này đã được định rõ vào thời kì đầu của giai đoạn đế quốc, cuối cùng chúng cũng bị mất đi, và quyền lực của hoàng đế dần ít tính lập hiến và mang nhiều tính quân chủ hơn.
Trên thực tế, quyền hạn của một vị hoàng đế và quyền lực của ông được dựa trên sự ủng hộ chính đến từ quân đội. Được trả lương bởi ngân khố hoàng gia, những lính lê dương này cũng đã thề một lời thề quân sự thường niên để tỏ lòng trung thành đối với ông, được gọi là Sacramentum.
Sau khi một vị hoàng đế qua đời, trên lý thuyết, viện nguyên lão được quyền lựa chọn vị hoàng đế mới, nhưng hầu hết các hoàng đế đều đã chọn người kế vị riêng của họ, thường là một thành viên trong gia đình. Vị Hoàng đế mới phải nhanh chóng tìm kiếm một sự thừa nhận cho địa vị mới của ông ta và để ổn định bối cảnh chính trị. Không có vị hoàng đế có thể hy vọng sống sót, ít ra là trị vì, mà không có lòng trung nghĩa của đội Cận vệ của Hoàng đế La Mã và các quân đoàn. Để bảo đảm lòng trung thành của họ, hoàng đế thường ban cho họ donativum, một khoản tiền thưởng.
Quân đội
Các binh sĩ của quân đội đế quốc La Mã đều là những quân nhân chuyên nghiệp và họ tình nguyện tham gia phục vụ 25 năm trong quân ngũ. Nhiệm vụ chính của quân đội La Mã vào đầu thời kì đế quốc đầu đó là bảo vệ nền Thái bình La Mã (Pax Romana). Ba bộ phận chính của quân đội đó là:
Các đơn vị đồn trú tại Rome, trong đó bao gồm cả lực lượng vệ binh hoàng gia và vigile, những người có vai trò như là cảnh sát và nhân viên cứu hỏa;
Quân đội ở các tỉnh, bao gồm cả các quân đoàn La Mã và các đạo quân trợ chiến được cung cấp bởi các tỉnh (auxilia);
Hải quân.
Trong và sau cuộc nội chiến, Octavianus giảm số lượng to lớn của các Binh đoàn Lê dương La Mã (gồm hơn 60 Binh đoàn) xuống còn 28 Binh đoàn - một con số dễ chấp nhận và kiểm soát hơn nhiều. Một số Binh đoàn bị ngờ vực về sự trung thành chỉ đơn giản là bị sa thải. Các Binh đoàn khác được hợp nhất - sự thật này được gợi nên qua biệt hiệu Gemina (Anh em song sinh).
Năm 9, các bộ tộc German tận diệt ba Binh đoàn La Mã trong trận rừng Teutoburg. Thảm họa này giảm số lượng các Binh đoàn xuống còn 25. Sau này, tổng số các Binh đoàn sẽ lại được tăng lên và trong vòng 300 năm sau, La Mã luôn luôn có chừng trên dưới 30 Binh đoàn.
Augustus cũng thành lập đội Cận vệ của Hoàng đế La Mã (Praetoriani): chín cohorts có vẻ là để gìn giữ nền hòa bình chung và đóng quân tại Ý. Được trả lương hậu hĩnh hơn các Binh đoàn, các Cận vệ cũng phục vụ ngắn hạn hơn; thay vì phục vụ theo thời gian tiêu chuẩn của các Binh đoàn là 25 năm, họ về phép sau 16 năm tại nhiệm.
Tuy quân trợ chiến (tiếng Latinh: auxilia = những hỗ trợ) không nổi danh các Binh đoàn, họ có tầm quan trọng không nhỏ. Khác với các Binh đoàn, quân trợ chiến được tuyển mộ từ người không có quyền công dân. Được tổ chức trong các đơn vị nhỏ hơn gồm toàn là lính cohort, họ được trả thù lao ít hơn các Binh đoàn, và sau 25 năm phục vụ trong quân đội, họ cùng các con mình được trao quyền công dân La Mã. Theo Tacitus quân trợ chiến cũng có số lượng xấp xỉ bằng các Binh đoàn. Từ thời điểm đó La Mã có 25 Binh đoàn với khoảng 5.000 lính, ta suy ra quân trợ chiến cũng có chừng khoảng 125.000 binh sĩ, vậy là có xấp xỉ 250 trung đoàn trợ chiến.
Lực lượng Hải quân La Mã (tiếng Latinh: Classis, dịch sát nghĩa. "hạm đội") không chỉ hỗ trợ trong việc tiếp tế và vận tải của các Binh đoàn, nhưng cũng góp phần bảo vệ biên thùy ở các dòng sông Rhine và Donau. Một trách nhiệm của họ là bảo vệ những con đường buôn bán rất quan trọng trên biển chống lại mối đe dọa của cướp biển. Do đó, họ tuần tra khắp biển Địa Trung Hải, một phần của Bắc Đại Tây Dương (các bờ biển của Hispania, Gallia, và Britannia), và cũng hiện diện trên Biển Đen. Song, người La Mã vẫn coi Lục quân là một nhánh cao cấp và vinh hiển hơn.
Chính quyền tỉnh
Quá trình để một vùng lãnh thổ bị sáp nhập trở thành một tỉnh đều phải trải qua ba bước: làm một sổ ghi danh sách các thành phố, tiến hành một cuộc tổng điều tra dân số, và vẽ bản đồ Hơn nữa những hồ sơ lưu trữ của chính quyền còn bao gồm ngày sinh và qua đời, giao dịch bất động sản, thuế và những biên bản pháp lý Trong thế kỷ 1 và 2, chính quyền trung ương đã phái khoảng 160 quan chức mỗi năm để cai trị các vùng đất bên ngoài Ý Trong số các quan chức có các "thống đốc La Mã", theo cách gọi bằng tiếng Anh: hoặc thẩm phán được bầu tại Rome, những người có tên trong viện nguyên lão và nhân dân La Mã, cai trị các tỉnh trực thuộc viện nguyên lão;. hoặc thống đốc, thường thuộc tầng lớp kị sĩ, những người nắm giữ quyền tuyệt đối của họ thay mặt cho hoàng đế ở những tỉnh không nằm dưới sự kiểm soát của viện nguyên lão, đặc biệt là tỉnh Ai Cập thuộc La Mã Một thống đốc phải khiến cho bản thân ông ta trở nên gần gũi với người dân mà ông ta cai quản. Tuy nhiên, bộ máy giúp việc của ông ta lại rất nhỏ: những cấp dưới chính thức của ông ta (apparitores), bao gồm các vệ sĩ, sứ truyền lệnh, sứ giả, những người chép bản thảo, và cận vệ; Các Legate, cả dân sự và quân sự, thường là những người thuộc tầng lớp kị sĩ và bạn bè, đang trong độ tuổi và có kinh nghiệm, hộ tống ông ta nhưng không chính thức.
Các quan chức khác được bổ nhiệm đó là các giám sát tài chính của chính quyền. Việc tách riêng trách nhiệm tài chính khỏi luật pháp và chính quyền là một cải cách ở thời kì đế quốc. Những kiểm sát trưởng thuộc tầng lớp kị sĩ mà ban đầu có quyền lực "ngoài vòng pháp luật và ngoài hiến pháp," đã quản lý cả tài sản của nhà nước và một lượng lớn tài sản cá nhân của hoàng đế (res Privata).
Luật La Mã
Tòa án La Mã nắm giữ quyền xét xử đầu tiên đối với các trường hợp liên quan đến công dân La Mã khắp đế quốc, nhưng lại có quá ít các công chức tư pháp để có thể áp đặt luật La Mã thống nhất ở các tỉnh. Hầu hết các vùng của miền đông của đế quốc đã có các bộ luật và những thủ tục pháp lý chính thức. Nói chung, chính sách của La Mã là tôn trọng mos regionis ("truyền thống vùng" hay "luật pháp của địa phương") và coi luật pháp địa phương như là một nguồn tiền lệ pháp lý và ổn định xã hội Sự phù hợp giữa luật La Mã và luật địa phương được cho là phản ánh một ius gentium cơ bản, "luật của các quốc gia" hay luật quốc tế được coi là phổ biến và nhất quán giữa tất cả các cộng đồng con người. Nếu một bộ luật tỉnh riêng biệt mâu thuẫn với luật La Mã hoặc luật pháp theo tục lệ, các quan tòa La Mã sẽ nghe kháng cáo, và hoàng đế nắm giữ thẩm quyền cuối cùng để đưa ra quyết định.
Ở phía Tây, pháp luật đã được thi hành dựa trên cơ sở địa phương hóa cao độ hay nền tảng bộ lạc, và quyền sở hữu tư nhân có thể là một sự mới lạ của thời đại La Mã, đặc biệt là trong số các bộ tộc người Celt. Luật La Mã tạo điều kiện cho việc cho một tầng lớp thân La Mã có thể đạt được sự giàu có một cách thuận lợi thông qua việc có được đặc quyền mới của mình là công dân. Sự mở rộng quyền công dân cho tất cả các cư dân tự do của đế quốc vào năm 212 đã được áp dụng thống nhất trong pháp luật La Mã, thay thế các bộ luật địa phương vốn áp dụng cho những người không phải là công dân. Những nỗ lực của Diocletianus nhằm để ổn định đế quốc sau khi kết thúc cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba bao gồm việc biên soạn hai bộ luật quan trọng trong vòng bốn năm đó là Codex Gregorianus và Codex Hermogenianus, để hướng dẫn việc cai quản các tỉnh theo những tiêu chuẩn pháp lý phù hợp.
Thuế
Việc thu thuế vào thời đế quốc lên tới khoảng 5 phần trăm tổng sản lượng. Tỷ lệ thuế điển hình đối với mỗi cá nhân dao động trong khoảng từ 2-5 phần trăm Những luật lệ về thuế lại tạo ra sự "lúng túng" trong hệ thống phức tạp của các loại thuế trực tiếp và gián tiếp, một số được thu bằng tiền mặt và một số bằng hiện vật. Các loại thuế có thể được cụ thể cho một tỉnh, hoặc đối với các loại tài sản như: thủy sản, ruộng muối;. chúng có thể có kết quả trong một thời gian hạn chế Việc thu thuế đã được chứng minh là điều cần thiết để có thể duy trì quân đội, và người nộp thuế đôi khi có thể nhận được một khoản hoàn lại nếu quân đội cướp được một lượng chiến lợi phẩm dư thừa. Thuế bằng hiện vật đã được chấp nhận từ các khu vực ít lưu hành tiền tệ, đặc biệt là đối với những người có thể cung cấp lương thực, hàng hoá đến các doanh trại quân đội.
Các nguồn thu chính của việc thuế trực tiếp là các cá nhân, những người nộp thuế khoán và một khoản thuế đối với đất đai của họ, có thể hiểu như là một khoản thuế đối với sản lượng của nó hoặc năng lực sản xuất Những khoản bổ sung có thể được nộp bởi những người hội đủ điều kiện miễn trừ nhất định;. Ví dụ, nông dân Ai Cập có thể ghi vào sổ các cánh đồng mà bỏ hoang và được miễn thuế tùy thuộc vào mức độ ngập lụt của sông Nile. Nghĩa vụ nộp thuế được xác định căn cứ theo các cuộc điều tra dân số.
Một nguồn thu quan trọng của thuế gián thu là portoria, thuế quan và thuế cầu đường đối với việc nhập khẩu và xuất khẩu, bao gồm cả giữa các tỉnh. Những khoản thuế đặc biệt còn được áp dụng đối với việc buôn bán nô lệ. Vào cuối triều đại của mình, Augustus tiến hành đánh thuế 4 phần trăm đối với việc bán nô lệ, và sau này Nero chuyển từ thu thuế người mua sang thu thuế của người bán, những người phản ứng bằng cách tăng giá bán của họ. Một chủ nô nếu giải phóng một nô lệ thì cũng phải trả "thuế tự do", tính theo 5 phần trăm giá trị.
Thuế thấp đã giúp cho tầng lớp quý tộc La Mã gia tăng sự giàu có của họ, mà bằng hoặc hơn cả nguồn thu của chính quyền trung ương. Một vị hoàng đế đôi khi bổ sung ngân khố của mình bằng cách tịch thu điền sản của những người "siêu giàu", nhưng vào thời kì sau này, sự chống đối của những người giàu có vốn phải đóng thuế là một trong những yếu tố góp phần vào sự sụp đổ của đế quốc.
Kinh tế
Moses Finley là học giả nổi bật ủng hộ nhiều quan điểm sơ sài cho rằng: nền kinh tế La Mã "kém phát triển và kém hiệu quả", phải dựa chủ yếu vào nông nghiệp tự cung tự cấp; đô thị thì tiêu thụ chứ ít tạo ra các giá trị công thương; tầng lớp thợ thủ công có địa vị thấp hèn; công nghệ chậm phát triển; tóm lại "thiếu hợp lý về mặt kinh tế." Song quan điểm của giới chuyên gia ngày nay phức tạp hơn thế nhiều. Đất đai chiếm được từ các cuộc chinh phục được tái tổ chức trên quy mô lớn, giúp tạo ra thặng dư sản lượng cũng như thục đẩy sự chuyên hóa nghề nông, đơn cử như ở miền bắc châu Phi. Mỗi đô thị lại đặc thù với các hoạt động thương mại hoặc kỹ nghệ riêng, và quy mô của các công trình đô thị chứng tỏ ngành xây dựng của La Mã từng rất phát triển. Giấy cói bảo tồn các phương pháp hoạch toán tinh vi minh chứng cho một sự hợp lý kinh tế nhất định, và tiền tệ cũng được lưu hành rất phổ biến trong nội bộ Đế quốc. Mặc dù sự di chuyển và liên lạc thời cổ còn rất hạn chế, mạng lưới giao thông vận tải của La Mã vào thế kỷ thứ nhất và thứ hai rất phát triển, có cả các tuyến thương mại liên vùng.
Tiền tệ và ngân hàng
Thời kì đầu đế quốc đã có sự lưu hành tiền tệ đạt đến một mức độ gần như phổ quát, với ý nghĩa của việc sử dụng tiền như một cách để thể hiện giá cả và các khoản nợ. Đồng sestertius (số nhiều sestertii, tiếng Anh "sesterces", ký hiệu là HS) là đơn vị cơ bản về mặt giá trị thanh toán vào thế kỷ thứ 4, mặc dù đồng denarius bạc, trị giá bốn sesterces, cũng đã được sử dụng trong việc thanh toán vào triều đại Severus. Đồng tiền có giá trị nhỏ nhất thường được lưu hành là đồng as (số nhiều asses), bằng một phần tư đồng sestertius. Vàng nén và thỏi dường như không được tính là pecunia, "tiền", và chỉ được sử dụng trên các vùng biên giới để giao dịch kinh doanh hoặc mua bất động sản. Người La Mã vào thế kỷ 1 và 2 tính số lượng tiền, chứ không phải cân chúng -một dấu hiệu cho thấy đồng tiền được định giá ngay trên mặt của nó và không phải dựa vào hàm lượng kim loại của đồng tiền. Khuynh hướng đối với tiền định danh này cuối cùng dẫn đến làm giảm giá trị của tiền xu La Mã, với những hậu quả để lại vào thời kì cuối của đế quốc. Sự tiêu chuẩn hóa đối với tiền trong toàn đế quốc đã thúc đẩy thương mại và hội nhập thị trường Với số lượng lớn tiền xu kim loại trong lưu thông đã làm tăng nguồn cung tiền cho các giao dịch hoặc tiết kiệm.
Roma không có ngân hàng trung ương, và các quy định của hệ thống ngân hàng là tối thiểu. Ngân hàng vào thời cổ đại thường tiến hành dự trữ với số lượng nhỏ. Một ngân hàng điển hình thường có số vốn hạn chế, và thường chỉ có một người chủ, mặc dù một ngân hàng có thể có nhiều từ 6 tới 15 người chủ. Seneca thừa nhận rằng bất cứ ai có liên quan đến thương mại đều cần phải tiếp cận nguồn tín dụng.
Một người chủ ngân hàng gửi tiền chuyên nghiệp (argentarius, coactor argentarius, hoặc sau này là nummularius) nhận và giữ những khoản tiền gửi trong một thời hạn nhất định hoặc không thời hạn và cho bên thứ ba vay tiền. Tầng lớp nguyên lão đã tham gia rất nhiều vào việc cho tư nhân vay, cả các chủ nợ và khách hàng vay, cho vay từ tài sản cá nhân của họ trên cơ sở các mối quan hệ xã hội. Chủ sở hữu của một món nợ có thể sử dụng nó như một phương tiện thanh toán bằng cách chuyển nó cho một bên khác, không dùng tiền mặt trao tay. Mặc dù đôi khi người ta cho rằng La Mã cổ đại thiếu "giấy" hoặc giao dịch tài liệu, các hệ thống của các ngân hàng trên khắp đế quốc cũng cho phép trao đổi một khoản tiền rất lớn mà không có sự vận chuyển tiền tự nhiên, một phần vì những rủi ro của việc di chuyển số lượng lớn tiền mặt, đặc biệt là bằng đường biển. Chỉ có một vụ thiếu tín dụng nghiêm trọng được biết đến và đã xảy ra vào đầu thời đế quốc, một cuộc khủng hoảng tín dụng vào năm 33 CN mà khiến cho một số nguyên lão gặp phải rủi ro, chính quyền trung ương đã giải cứu thị trường thông qua một khoản vay 100 triệu HS được hoàng đế Tiberius thực hiện vào ngành ngân hàng (Mensae). Nói chung, số vốn khả dụng vượt quá số lượng cần thiết cho khách hàng vay. Bản thân chính quyền trung ương không vay tiền, và cũng không có nợ công để cần bù đắp cho thâm hụt ngân sách từ dự trữ tiền mặt.
Các vị hoàng đế của triều đại Antoninus và Severus về mặt tổng thể đều đã làm mất giá trị đồng tiền, đặc biệt là đồng denarius, dưới áp lực của việc biên chế quân đội. Lạm phát đột ngột dưới triều đại Commodus đã gây tổn hại đối với thị trường tín dụng. Vào giữa những năm 200, nguồn cung tiền đồng giảm mạnh Tình cảnh của cuộc khủng hoảng của thế kỷ thứ ba- chẳng hạn như việc giảm sút thương mại đường dài, hoạt động khai thác mỏ bị gián đoạn, và việc vận chuyển tiền đúc vàng ra bên ngoài đế quốc bởi những kẻ thù xâm lược- đã làm suy giảm mạnh nguồn cung tiền và ngành ngân hàng cho đến năm 300 Mặc dù tiền xu La Mã từ lâu đã là tiền định danh hoặc tiền tệ tín dụng, những lo ngại kinh tế chung đã lên đến đỉnh điểm dưới triều đại Aurelianus, và giới ngân hàng mất niềm tin vào đồng tiền hợp pháp của chính quyền trung ương. Mặc dù Diocletianus sau này giới thiệu đồng solidus vàng và những cải cách tiền tệ, thị trường tín dụng của đế quốc sẽ không bao giờ phục hồi mạnh mẽ lại như nó trước đây.
Khai mỏ và luyện kim
Các khu vực khai thác khoáng sản chính của đế quốc là Tây Ban Nha (vàng, bạc, đồng, thiếc, chì); Gaul (vàng, bạc, sắt), Anh (chủ yếu là sắt, chì, thiếc), các tỉnh Danube (vàng, sắt); Macedonia và Thrace (vàng, bạc) và Tiểu Á (vàng, bạc, sắt, thiếc). Việc tập trung khai mỏ trên quy mô lớn - trong lòng đất và bằng các phương tiện khai thác lộ thiên và dưới lòng đất - đã diễn ra từ dưới triều đại của Augustus cho đến đầu thế kỷ thứ 3, khi sự bất ổn của đế quốc đã gián đoạn quá trình khai thác. Ví dụ như các mỏ vàng của Dacia đã có thể không còn được người La Mã khai thác sau khi tỉnh này bị từ bỏ vào năm 271. Khai thác mỏ dường như đã khôi phục lại được một phần trong suốt thế kỷ thứ 4.
Khai thác thủy lực, mà được Pliny gọi là Ruina montium ("hủy hoại những ngọn núi"), đã cho phép khai thác các kim loại thường và kim loại quý trên quy mô công nghiệp nguyên thủy. Tổng sản lượng sắt hàng năm ước tính khoảng 82.500 tấn sản lượng đồng được sản xuất với tốc độ hàng năm là 15.000 tấn, và chì là 80.000 tấn, những cấp độ sản xuất chưa từng có cho đến cuộc cách mạng công nghiệp; Chỉ riêng Tây Ban Nha đã chiếm 40 phần trăm sản lượng chì thế giới Sản lượng chì cao là do nó là một sản phẩm phụ của quá trình khai thác bạc quy mô lớn đạt 200 tấn mỗi năm. Vào giai đoạn cao điểm vào khoảng giữa thế kỷ thứ 2, kho bạc La Mã được ước tính có khoảng 10.000 tấn, lớn hơn từ 5 tới 10 lần hơn toàn bộ lượng bạc của châu Âu thời trung cổ và các Caliphate vào khoảng 800 CN. Như một dấu hiệu cho quy mô sản xuất kim loại của người La Mã, ô nhiễm chì trong các tảng băng ở Greenland tăng gấp bốn lần so với mức tiền sử của nó trong thời kỳ đế quốc, và sau đó tiếp tục giảm.
Giao thông và vận chuyển
Đế quốc La Mã hoàn toàn bao quanh Địa Trung Hải, và họ gọi nó là "biển của chúng tôi" (Mare Nostrum). Tàu thuyền của người La Mã đã đi lại khắp Địa Trung Hải cũng như các con sông chính của Đế quốc, trong đó có sông Guadalquivir, Ebro, Rhône, Rhine, sông Tiber và sông Nile. Việc vận chuyển bằng đường biển thường được chọn nếu có thể, và vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ là rất khó khăn. Phương tiện đi lại, bánh xe, và tàu thuyền cho thấy sự tồn tại của một số lượng lớn các thợ mộc lành nghề.
Vận tải bằng đường bộ thì sử dụng hệ thống các con đường La Mã tiên tiến. Các loại thuế bằng hiện vật được các cộng đồng đóng bao gồm việc cung cấp lương thực cho các nhân viên, động vật, hoặc phương tiện cho các cursus publicus, hệ thống bưu điện nhà nước và dịch vụ vận tải đã được Augustus thành lập Các trạm ngựa nằm dọc theo những con đường mỗi 7-12 dặm La Mã, và có xu hướng phát triển thành một làng hoặc trạm buôn bán. Một mansio (số nhiều mansiones) là một trạm dịch vụ tư nhân đặc quyền của triều đình đế quốc dành cho cursus publicus. Các nhân viên hỗ trợ tại một cơ sở như vậy bao gồm người dắt la, thư ký, thợ rèn, xe ngựa, một thầy thuốc thú y, một vài quân cảnh và người đưa thư. Khoảng cách giữa mansiones được xác định bằng quãng đường một chiếc xe ngựa có thể đi di chuyển trong một ngày. La là loài động vật thường được sử dụng cho xe kéo, và nó có thể đi được khoảng 4 dặm mỗi giờ. Như một ví dụ về tốc độ thông tin liên lạc, một người đưa tin ít nhất phải mất chín ngày để đi đến Rome từ Mainz thuộc tỉnh Thượng Germania, ngay cả khi đang có một vấn đề cấp bách Ngoài các mansiones, một số quán rượu cũng cung cấp chỗ ở cũng như ăn uống, một nhãn được ghi lại trong một lần lưu lại cho thấy chi phí cho rượu vang, bánh mì, thức ăn cho con la, và chi phí của một gái mại dâm.
Thương mại và hàng hóa
Các tỉnh La Mã buôn bán giữa chúng với nhau, nhưng thương mại còn mở rộng ra bên ngoài biên giới tới các khu vực xa xôi như Trung Quốc và Ấn Độ. Các mặt hàng chính là ngũ cốc. Ngoài ra còn buôn bán mặt hàng khác như dầu ô liu, các loại thực phẩm, garum (nước mắm), nô lệ, quặng và đồ vật kim loại, sợi và dệt may, gỗ, gốm, đồ thủy tinh, đá cẩm thạch, giấy cói, gia vị và dược liệu, ngà voi, ngọc trai và đá quý.
Lao động và việc làm
Những dòng chữ khắc ghi lại 268 ngành nghề khác nhau trong thành phố Rome, và 85 ở Pompeii. Hiệp hội nghề nghiệp hoặc các Hội thương gia (collegia) được chứng thực cho một loạt các ngành nghề, trong đó có ngư dân (piscatores), người buôn muối (salinatores), người buôn bán dầu ô liu (olivarii), người làm trò mua vui (scaenici), người buôn bán gia súc (pecuarii), thợ kim hoàn (aurifices), người đánh xe (asinarii hoặc muliones), và thợ đá (lapidarii) Đôi khi có những nghề khá đặc biệt: một collegium tại Rome bị hạn chế nghiêm ngặt đối với thợ thủ công làm việc với ngà voi và gỗ cam quýt.
Các công việc được thực hiện bởi những người nô lệ rơi vào năm loại chung: nội trợ, trên các văn bia ghi lại ít nhất 55 công việc khác nhau trong gia đình, phục vụ hoàng gia hoặc công cộng; hàng thủ công đô thị và dịch vụ, nông nghiệp và khai thác khoáng sản Tù nhân cung cấp phần lớn lao động trong các mỏ hoặc mỏ đá, nơi mà điều kiện làm việc nổi tiếng là tàn bạo. Trong thực tế, có rất ít sự phân công lao động giữa nô lệ và người tự do. Một số lượng lớn những người lao động thông thường được sử dụng trong nông nghiệp: trong hệ thống canh tác công nghiệp của Ý (latifundia), có thể chủ yếu là nô lệ, nhưng trên khắp đế quốc, nô lệ lao động trong nông nghiệp có lẽ là ít quan trọng hơn so với các hình thức lao động phụ thuộc vào những người về cơ bản không phải là nô lệ.
Dệt may và sản xuất trang phục là một nguồn việc làm chính. Vải và cả áo quần đã hoàn thành được giao dịch giữa các dân tộc của đế quốc mà có sản phẩm thường được đặt tên theo tên gọi của họ hay một thị trấn đặc biệt, giống như một "nhãn hiệu" thời trang.
GDP
Các sử gia kinh tế có tính toán khác nhau về sản phẩm quốc nội của nền kinh tế La Mã. Trong những năm 14, 100, và 150 CN, ước tính GDP bình quân đầu người khoảng từ 166 tới 380 HS. GDP bình quân đầu người của Ý được ước tính là cao hơn từ 40 đến 66 phần trăm so với phần còn lại của đế quốc, do thuyên chuyển thuế từ các tỉnh và sự tập trung thu nhập của tầng lớp có địa vị ở trung tâm của đế quốc. Ước tính vào năm 1 sau Công nguyên, GDP bình quân đầu người của Ý là khoảng 809 USD (tính theo thời giá năm 1990), gấp đôi Trung Quốc và Ấn Độ vào thời điểm đó .
Kiến trúc và kĩ thuật xây dựng
Những đóng góp chính của người La Mã đối với kiến trúc là cung vòm và mái vòm. Ngay cả sau khi trải qua hơn 2.000 năm một số cấu trúc La Mã vẫn còn đứng vững, một phần do những phương pháp chế tạo xi măng và bê tông tinh vi Các con đường La Mã được coi là những con đường tiên tiến nhất xây dựng cho đến đầu thế kỷ 19. Hệ thống đường sá tạo điều kiện cho việc duy trì trật tự của quân đội, giao thông và thương mại. Những con đường có thể chịu được lũ lụt và các mối đe dọa môi trường khác. Ngay cả sau khi chính quyền trung ương sụp đổ, một số tuyến đường vẫn có thể sử dụng trong hơn một ngàn năm.
Các cây cầu La Mã là một trong những cây cầu lớn và bền vững đầu tiên, chúng được xây dựng từ đá cùng với kiểu kiến trúc cung vòm như cấu trúc cơ bản. Vật liệu được sử dụng nhiều nhất bê tông. Cây cầu La Mã lớn nhất là cây cầu Trajan bắc qua hạ lưu sông Danube, nó được xây dựng bởi Apollodorus của Damascus và vẫn là cây dài nhất đã được xây dựng cả về chiều dài tổng thể và chiều dài trong hơn một thiên niên kỷ.
Người La Mã đã xây dựng nhiều đập để trữ nước, chẳng hạn như các đập Subiaco, hai trong số đó cấp nước cho Anio Novus, một trong những hệ thống cầu máng lớn nhất của Roma. Họ đã xây dựng 72 đập chỉ riêng trên bán đảo Iberia, và một số lượng nhiều hơn thế nữa được biết đến trên khắp Đế quốc, và một số vẫn còn được sử dụng. Một số đập bằng đất ở nước Anh từ thời La Mã cũng đã được biết đến, trong đó có một ví dụ đã được bảo quản tốt là ở Longovicium (Lanchester).
Người La Mã đã xây dựng nhiều cầu máng. Một luận án còn sót lại tới ngày nay của Frontinus, người từng giữ chức vụ curator aquarum (ủy viên về nước) dưới thời Nerva, đã phản ánh vai trò hành chính quan trọng đối với việc bảo đảm cung cấp nước. Sau khi nước đi qua cầu máng, nó được tập trung vào các bể chứa nước và theo các đường ống để tới các đài phun nước công cộng, phòng tắm, nhà vệ sinh, hoặc các khu công nghiệp. Các hệ thống cống dẫn nước chính trong thành phố Roma là Aqua Claudia và Aqua Marcia. Một hệ thống phức tạp còn được xây dựng để cung cấp nước cho Constantinoplis từ nơi cách nó hơn 120 km dọc theo một tuyến đường quanh co dài hơn 336 km. Người La Mã cũng đã sử dụng cống dẫn nước trong hoạt động khai thác khoáng sản phong phú của họ trên toàn đế quốc, tại các địa điểm như Las Médulas và Dolaucothi ở miền Nam xứ Wales.
Cuộc sống thường nhật
Thành thị và nông thôn
Quy hoạch thành phố và lối sống đô thị của người La Mã đã bị ảnh hưởng bởi người Hy Lạp ngay từ giai đoạn đầu. Ở Đông La Mã, sự cai trị của người La Mã đã thúc đẩy và định hình sự phát triển mang tính địa phương của các thành phố vốn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Hy Lạp. Các thành phố như Athens, Aphrodisias, Ephesus và Gerasa đã thay đổi một số khía cạnh của quy hoạch và kiến trúc thành phố để phù hợp hơn với lý tưởng hoàng gia, đồng thời thể hiện bản sắc riêng và tính ưu việt của khu vực. Ở Tây La Mã, Rome khuyến khích phát triển các trung tâm đô thị với những ngôi đền bằng đá, nơi hội họp, đài phun nước hoành tráng, nhà hát ngoài trời..., thường được xây gần hoặc tại các khu định cư có từ trước gọi là oppida. Quá trình đô thị hóa ở La Mã Châu Phi mở rộng trên các thành phố Hy Lạp và Punic dọc theo bờ biển.
Tại thành phố Rome, hầu hết mọi người thuộc tầng lớp nghèo hoặc trung lưu sống trong các tòa nhà chung cư cao tầng (insulae) mà thường là bẩn thỉu và dễ hỏa hoạn. Các insulae có thể cao đến sáu hoặc bảy tầng, những căn hộ lớn nhất và đắt nhất thường nằm ở tầng dưới cùng. Đa số Insulae được xây dựng bằng gỗ, gạch bùn, và bê tông nguyên thủy nên rất dễ bị cháy và sụp đổ. Augustus đã tiến hành cải cách nhằm tăng cường sự an toàn của các tòa nhà ở thành phố Rome. Vì mối nguy hiểm của hỏa hoạn và sụp đổ, chiều cao tối đa của các insulae bị Augustus giới hạn ở mức 70 feet La Mã gọi là pes (tương đương 20,7 m), và sau đó bị giảm xuống còn 60 feet La Mã (17,75 m) bởi Hoàng đế Nero sau vụ Đại Hỏa hoạn thành Rome.
Các cơ sở công cộng chẳng hạn như nhà tắm công cộng, nhà vệ sinh có vòi xả nước (latrinae), bồn chứa nước hoặc các đài phun nước công phu (nymphea) cung cấp nước ngọt, và các hoạt động giải trí quy mô lớn chẳng hạn đua ngựa hay võ sĩ giác đấu chủ yếu nhắm vào những người thường sống trong các insulae. Các cơ sở tương tự được xây dựng ở các thành phố trên khắp Đế chế, và một số cấu trúc La Mã được bảo tồn tốt nhất là ở Tây Ban Nha, miền nam nước Pháp và miền bắc châu Phi.
Các nhà tắm công cộng phục vụ các chức năng vệ sinh, xã hội và văn hóa. Tắm là trọng tâm của xã hội thường nhật La Mã vào buổi chiều muộn trước bữa tối. Các phòng tắm được chia làm 3 cấp nhiệt độ: caldarium là tắm nước nóng, tepidarium là tắm nước ấm, và fgiridarium là tắm nước lạnh. Ngoài ra có thể còn có các dịch vụ khác như các phòng tập thể dục và tập tạ, phòng xông hơi khô, spa tẩy tế bào chết (nơi các loại dầu được mát xa vào da và cơ thể được kỳ cọ bằng một dụng cụ gọi là strigil), sân bóng hoặc bể bơi ngoài trời. Nước trong phòng tắm thường được đun bằng lò dưới sàn. Những phòng tắm khỏa thân kết hợp nam nữ không phải là điều bất thường trong thời kỳ đầu của Đế quốc, mặc dù một số cơ sở có thể đã cung cấp những phòng tắm riêng biệt cho nam giới và phụ nữ. Phòng tắm công cộng là một phần của văn hóa đô thị tại khắp các tỉnh, nhưng vào cuối thế kỷ thứ 4, bồn tắm cá nhân bắt đầu xuất hiện ở các hộ gia đình và dần thay thế hình thức tắm chung.
Các gia đình giàu có ở Rome thường có từ hai ngôi nhà trở lên, một căn nhà ở thành phố (domus) và ít nhất một căn biệt thự (villa) nằm ở vùng ngoại ô hoặc nông thôn bên ngoài thành phố.
Domus là ngôi nhà thuộc sở hữu riêng của một gia đình thượng lưu giàu có, và có thể được trang bị một phòng tắm riêng (balneum), nhưng đó không phải là một nơi để rút lui khỏi đời sống công cộng. Mặc dù có một vài khu phố của Rome tập trung một số lượng lớn những căn nhà sang trọng, thế nhưng những người giàu ở Rome thường không sống trong những khu vực biệt lập. Nhà của họ thường dễ tìm thấy và dễ tiếp cận. Sảnh trước (atrium) phục vụ như là một đại sảnh để tiếp khách, trong đó gia trưởng (chủ hộ) gặp khách hàng vào mỗi buổi sáng, từ những bạn bè giàu có đến những người phụ thuộc nghèo nhận từ thiện. Nó cũng là một trung tâm của nghi lễ tôn giáo gia đình, có đặt một đền thờ và những hình ảnh của tổ tiên gia đình. Những ngôi nhà nằm trên những con đường bận rộn đông đúc người qua lại, có không gian đối diện với đường phố thường được thuê để làm các cửa hàng (tabernae) với mục đích kinh doanh.
Những căn biệt thự (villa) ở ngoại ô hoặc nông thôn ngược lại là một lối thoát khỏi sự nhộn nhịp của thành phố, và chỉ có giới thượng lưu mới có đủ điều kiện để sở hữu những căn nhà này. Những căn villa có thể được xây trên những khu đất riêng của người chủ sở hữu, hoặc xây ở những "thị trấn nghỉ mát" nằm trên bờ biển, chẳng hạn như ở các thành phố Pompeii và Herculaneum.
Chương trình đổi mới đô thị dưới thời Augustus, và sự tăng trưởng dân số của Rôma lên tới 1 triệu người, hình thành nên một nỗi nhớ dành cho cuộc sống nông thôn được thể hiện trong nghệ thuật. Các thi sĩ ngợi ca cuộc sống lý tưởng của nông dân và người chăn cừu. Nội thất của các ngôi nhà thường được trang trí bằng tranh vẽ những khu vườn, đài phun nước, thiên nhiên, cây cảnh, và động vật, đặc biệt là chim và sinh vật biển, đạt độ chính xác đến mức các học giả hiện đại đôi khi có thể nhận diện chúng theo loài. Nhà thơ Augustace Horace nhẹ nhàng châm biếm sự khác biệt giữa các giá trị đô thị và nông thôn trong truyện ngụ ngôn của ông về chuột thành phố và chuột nông thôn, thường được kể lại như một câu chuyện dành cho trẻ em.
Ở một mức độ thực tế hơn, chính quyền trung ương đã có sự quan tâm tích cực trong việc hỗ trợ sản xuất nông nghiệp. Sản xuất lương thực là ưu tiên hàng đầu trong việc sử dụng đất. Các trang trại lớn (latifundia) đạt được một nền kinh tế có quy mô duy trì cuộc sống đô thị bền vững và phân công lao động chuyên biệt hơn. Tiểu nông được hưởng lợi từ sự phát triển của thị trường địa phương ở các thị trấn và trung tâm buôn bán. Các kỹ thuật nông nghiệp như luân canh và chọn giống vật nuôi đã được phổ biến khắp Đế quốc, và các giống cây trồng mới được giới thiệu từ tỉnh này sang tỉnh khác, chẳng hạn như đậu Hà Lan và cải bắp được vận chuyển sang Anh.
Việc duy trì một nguồn cung cấp thực phẩm với giá cả phải chăng cho cư dân nghèo ở thành phố Rome đã trở thành một vấn đề chính trị lớn vào cuối thời Cộng hòa. Vào năm 123 TCN một đạo luật được đề xuất bởi Gaius Gracchus và sau đó được chấp thuận rộng rãi, qua đó mọi công dân là nam giới trưởng thành (trên 14 tuổi) ở Rome sẽ được cung cấp 33 kg ngũ cốc mỗi tháng với mức giá cực kỳ thấp. Đến những năm 60 TCN thì ngũ cốc bắt đầu được trợ cấp hoặc phân phát miễn phí cho những người nam giới có đủ điều kiện công dân. Ngũ cốc được sử dụng để làm bánh mì, yếu tố quan trọng nhất trong bữa ăn của người La Mã. Có khoảng 200,000-250,000 người đàn ông trưởng thành tại Rome đã nhận khoản trợ cấp này hàng tháng, khoảng 33 kg ngũ cốc cho mỗi người, tổng cộng khoảng 100.000 tấn lúa mì chủ yếu được thu hoạch từ Sicily, Bắc Phi và Ai Cập. Khoản trợ cấp ngũ cốc này tiêu tốn ít nhất 15% ngân khố của nhà nước, nhưng đã góp phần quan trọng vào việc cải thiện điều kiện sống của người dân ở các tầng lớp thấp hơn trong xã hội, đồng thời đem lại lợi nhuận cho người giàu bởi nó cho phép người dân nghèo chi tiêu nhiều hơn thu nhập của họ vào rượu vang và dầu ô liu, những thứ vốn được sản xuất từ trang trại của những địa chủ giàu có.
Thực phẩm và ăn uống
Hầu hết các căn hộ ở Rome không có nhà bếp, mặc dù một lò than củi có thể được sử dụng cho việc nấu ăn đơn giản ở hầu hết các hộ gia đình. Thực phẩm đã qua chế biến được phục vụ tại các quán rượu và hộp đêm, cũng như các nhà trọ và quầy hàng thực phẩm (tabernae, cauponae, popinae, thermopolia). Người dân thuộc tầng lớp thấp trong xã hội chủ yếu ăn uống tại các nhà hàng, trong khi người giàu thường tổ chức những bữa tiệc sang trọng tại nhà riêng với những đầu bếp (archimagirus) và nhân viên nhà bếp được huấn luyện. Những bữa ăn sang trọng cũng có thể xuất hiện ở các buổi tiệc được tổ chức bởi các câu lạc bộ xã hội (collegia).
Hầu hết người dân La Mã tiêu thụ ít nhất 70% lượng calo hàng ngày của họ dưới hình thức các loại ngũ cốc và các loại đậu. Món cháo yến mạch Puls (pottage) được coi là món ăn thổ dân của người La Mã. Các loại súp ngũ cốc cơ bản có thể kết hợp với rau xắt nhỏ, thịt bít tết, pho mát, hoặc các loại thảo mộc để tạo nên các món ăn tương tự như polenta hoặc risotto.
Cư dân đô thị và quân đội ưa thích tiêu thụ ngũ cốc của họ dưới hình thức các loại bánh mì. Các cối xay và lò nướng thương mại thường được kết hợp trong một khu phức hợp sản xuất bánh mì. Đến triều đại của Aurelian, bánh mì sản xuất từ các xưởng bánh mì của nhà nước đã được phân phối miễn phí cho người dân như là khẩu phần ăn hàng ngày, cùng với đó là dầu ô liu, rượu vang, và thịt lợn cũng đã được cung cấp miễn phí cho mọi công dân (nam giới).
Văn học La Mã tập trung vào thói quen ăn uống của các tầng lớp thượng lưu, những người mà bữa chiều (cena) đối với họ có chức năng xã hội quan trọng. Khách ăn tối thưởng thức bữa ăn trong một phòng ăn được trang trí tinh xảo (triclinium), thường có tầm nhìn hướng ra một khu vườn yên tĩnh. Khi ăn, họ ngồi hoặc nằm tựa trên những chiếc trường kỷ. Một bữa Cena truyền thống bao gồm ba phần. Món khai vị thường bao gồm trứng, ô liu và rượu mật ong. Món chính thường bao gồm một món thịt, chẳng hạn như thịt lợn nướng. Món tráng miệng bao gồm trái cây hoặc các loại hạt.
Bánh mì là món ăn thường nhật của người La Mã, người giàu ăn bánh mì làm từ lúa mì và những người nghèo hơn thì ăn bánh mì làm từ lúa mạch. Các sản phẩm tươi sống như rau và đậu cũng rất quan trọng. Ô liu và các loại hạt cũng thường xuyên xuất hiện trong bữa ăn của người La Mã. Mặc dù có nhiều hoàng đế La Mã khuyến khích người dân không ăn thịt - như các hoàng đế Didius Julianus và Septimius Severus - nhưng thịt và các sản phẩm chế biến từ thịt như xúc xích, thịt muối và thịt xông khói vẫn được tiêu thụ rộng rãi bởi người dân. Sữa dê hoặc sữa cừu được ưa chuộng hơn so với sữa bò; sữa cũng được sử dụng để làm ra các loại pho mát, vì đây là một cách để lưu trữ và kinh doanh các sản phẩm sữa.
Dầu ô liu là nguyên liệu cơ bản để nấu ăn của người La Mã, nó còn được dùng để thắp sáng và tạo ra các chế phẩm dùng khi tắm rửa. Bơ bị người La Mã xem thường, nhưng lại là một đặc điểm nổi bật của chế độ ăn uống Gallic. Muối là thứ gia vị cơ bản trong bữa ăn: Pliny the Elder từng nhận xét rằng "Cuộc sống văn minh không thể tiếp diễn mà không có muối: nó là một thành phần cần thiết đến mức nó trở thành một phép ẩn dụ cho niềm vui tinh thần mãnh liệt". Muối là một mặt hàng thương mại quan trọng, nhưng muối tinh khiết lại tương đối đắt tiền. Gia vị mặn phổ biến nhất là một loại nước mắm lên men được gọi là garum. Gia vị địa phương có sẵn bao gồm các loại thảo mộc trong vườn, thì là, rau mùi và quả bách xù. Gia vị nhập khẩu bao gồm tiêu, nghệ tây, quế và thì là. Các loại thực phẩm ngọt như bánh ngọt thường sử dụng mật ong và siro rượu để làm chất tạo ngọt. Một loạt các loại trái cây khô (quả sung, quả mận) và các loại trái cây tươi cũng thường xuyên có mặt trong bữa ăn như là một món tráng miệng của người La Mã.
Những bữa ăn xa hoa có thể được xem như một dấu hiệu của sự tiến bộ văn minh hoặc sự suy đồi về đạo đức. Nhà sử học đầu tiên của triều đại Tacitus đã so sánh sự xa hoa trong thực đơn La Mã hàng ngày của ông với sự đơn giản trong chế độ ăn của người German. Ngũ cốc, các loại đậu, rau và trái cây thường được người La Mã xem là những loại thức ăn văn minh hơn thịt. Bữa ăn Địa Trung Hải gồm bánh mì, rượu vang và dầu ô liu đã được thánh hóa bởi Kitô giáo La Mã, trong khi sự tiêu thụ thịt thường xuyên của chế độ ăn uống German đã trở thành một biểu hiện của chủ nghĩa ngoại giáo. Các hoàng đế như Didius Julianus và Septimius Severus cũng từng khuyến khích người dân nên hạn chế ăn thịt.
Giải trí và trình diễn
Khi nhà thơ Juvenal phàn nàn rằng người La Mã đã đánh đổi quyền tự do chính trị của họ cho "bánh mì và hí trường", chính là ông đang nói đến khoản trợ cấp ngũ cốc miễn phí của nhà nước và circenses, các sự kiện giải trí được tổ chức tại những địa điểm ngoài trời lớn có tên gọi là circus trong tiếng Latin. Circus lớn nhất ở Rome là Circus Maximus, nơi tổ chức các cuộc đua ngựa, đua xe ngựa, trò chơi cưỡi ngựa Troy, các cuộc thi săn thú vật (venation), các cuộc thi đấu thể thao, các cuộc chiến đấu của những võ sĩ giác đấu hay các màn trình diễn tái hiện những sự kiện lịch sử trong quá khứ. Từ lâu, nhiều lễ hội tôn giáo đã có các trò chơi (ludi), chủ yếu là các cuộc đua ngựa và đua xe ngựa (ludi circenses).
Dưới thời Augustus, các hoạt động giải trí công cộng được tổ chức tối đa 77 ngày mỗi năm; tới triều đại của Marcus Aurelius, số ngày được phép tổ chức các hoạt động giải trí đã được tăng lên thành 135 mỗi năm. Các trò chơi (ludi) được tổ chức tại circus thường được mở đầu bằng một nghi thức diễu hành gọi là Pompa circensis.
Ngoài ra, những sự kiện cạnh tranh cũng được tổ chức tại các địa điểm nhỏ hơn như đấu trường và sân vận động. Các môn thể thao có nguồn gốc Hy Lạp như chạy đua, boxing, đấu vật hay pancratium khá phổ biến ở các cuộc tranh tài. Một môn thể thao đối kháng cực kỳ khốc liệt đã nhiều lần được tổ chức ở La Mã thời kỳ này là Naumachia, những trận thủy chiến giả đẫm máu với quy mô không thua kém gì những trận thủy chiến thực sự. Đối tượng tham gia Naumachia thường là những tội phạm bị kết án hoặc nô lệ.
Circus là những công trình kiến trúc lớn nhất thường xuyên được xây dựng trong thế giới La Mã cổ đại. Đấu trường La Mã, hay còn được biết đến với cái tên Colosseum, trở thành địa điểm thi đấu thường xuyên cho những môn thể thao đẫm máu kể từ khi nó được mở cửa vào năm 80 sau Công nguyên. Circus Maximus có sức chứa lên tới 150.000 khán giả, trong khi Đấu trường La Mã có sức chứa là 50.000 chỗ ngồi, cộng thêm một khán đài đứng có thê chứa được 10.000 người nữa.
Việc sắp xếp chỗ ngồi dành cho khán giả tại các đấu trường thể hiện trật tự của xã hội La Mã: Hoàng đế ngồi ở một khu vực sang trọng dành riêng cho ông ta, những thành viên của Viện nguyên lão cũng được bố trí chỗ ngồi thuận lợi dành riêng cho họ, thường là những hàng ghế ở dưới cùng để tiện cho việc theo dõi các cuộc thi đấu hay các màn trình diễn. Phụ nữ và nô lệ ngồi ở những hàng ghế xa nhất, trong khi những người còn lại ngồi ở quãng giữa. Những buổi trình diễn tại hí trường cũng nhiều lần trở thành dịp để người dân tổ chức biểu tình về các vấn đề chính trị và xã hội. Các hoàng đế đôi khi phải triển khai vũ lực để dập tắt tình trạng bất ổn của đám đông, nổi tiếng nhất tại cuộc bạo loạn Nika năm 532, khi quân đội dưới quyền của hoàng đế Justin đã giết chết hàng ngàn người.
Ludi circenses hay đua xe ngựa (chariot racing) là môn thể thao rất được quan tâm ở La Mã thời kỳ này, và thường xuyên được tổ chức tại các Circus. Môn thể thao này nguy hiểm cho cả người lái và ngựa vì rất dễ dẫn đến chấn thương thậm chí là tử vong, nhưng chính sự nguy hiểm này lại đem tới niềm phấn khích và hứng thú cho các khán giả. Các đội tham gia tranh tài thường được phân biệt với nhau bằng màu sắc của trang phục thi đấu mà họ đang mặc. Tương tự như các môn thể thao hiện đại chẳng hạn bóng đá, khán giả thường chọn ủng hộ một đội duy nhất, sự hâm mộ của họ đôi khi đến mức quá khích, và bạo lực đã nhiều lần nổ ra giữa các cổ động viên của hai đội đối địch. Những người thi đấu ở môn thể thao này thường trở thành những vận động viên nổi tiếng nhất và giàu có nhất ở La Mã cổ đại. Một ngôi sao của bộ môn thể thao này là Diocles, tới từ Lusitania (Bồ Đào Nha ngày nay), người đã tham gia các cuộc đua xe ngựa trong vòng 24 năm và có thu nhập nghề nghiệp lên tới 35 triệu sesterces. Thiết kế của các circus La Mã phải đảm bảo rằng không đội nào có thể giành được lợi thế không công bằng cũng như giảm thiểu va chạm ở mức vừa đủ để duy trì sự khốc liệt và thỏa mãn các khán giả. Những cuộc đua xe ngựa tiếp tục diễn ra vào thời kỳ Đông La Mã dưới sự bảo trợ của các vị hoàng đế, nhưng sự suy tàn của các đô thị trong thế kỷ thứ 6 và thứ 7 cuối cùng đã dẫn đến sự sụp đổ của bộ môn này.
Trong suốt 40 năm trị vì của mình, hoàng đế Augustus đã tổ chức tám cuộc giác đấu, trong đó có tổng cộng 10.000 đấu sĩ đã tham gia chiến đấu, cùng với đó là 26 cuộc thi săn thú được tổ chức trong cùng khoảng thời gian này, đã dẫn đến cái chết của hơn 3.500 con thú. Để đánh dấu sự kiện công trình Đấu trường La Mã được hoàn tất, hoàng đế Titus đã tổ chức một lễ khánh thành kéo dài 100 ngày liên tiếp, mỗi ngày đều có một trận giác đấu ác liệt giữa hơn 3.000 đấu sĩ khác nhau. Sức hấp dẫn của những cuộc giác đấu đối với người La Mã được thể hiện rõ nét qua những mô tả trên tranh ghép, tranh tường, đèn và thậm chí cả các bản vẽ graffiti.
Những đấu sĩ được huấn luyện để tham gia các cuộc giác đấu có thể có xuất thân là nô lệ, tù nhân, hoặc cũng có thể là những người tự do tình nguyện tham gia tranh tài. Cái chết không phải là một kết quả cần thiết hoặc thậm chí là đáng mong muốn trong các trận đấu giữa những chiến binh có tay nghề cao, bởi những người này phải trải qua một quá trình luyện tập rất tốn kém và tốn thời gian. Trong khi đó, những đấu sĩ noxii là những tù nhân bị kết án tử hình, họ được huấn luyện rất ít hoặc không được huấn luyện, thường không có vũ khí, và hoàn toàn không có hi vọng sống sót trong những cuộc giác đấu. Sự đau đớn về thể chất và sỉ nhục về tinh thần được xem là cái giá cho những tội ác mà họ đã phạm phải.
Những hoạt động giải trí dành cho trẻ em thời La Mã khá đa dạng, phổ biến nhất trong số đó bao gồm trò "Rolling hop" (nghĩa là trò chơi lăn vòng, trong đó người chơi lăn một chiếc vòng và cố gắng giữ cho chúng không bị đổ lâu nhất có thể), và "Knucklbones" (nghĩa là trò chơi ném xương). Các bé gái thời kỳ này cũng rất thích chơi búp bê, những con búp bê thường dài khoảng 15 cm- 16 cm với các chi nối, thường được làm từ các vật liệu có sẵn như gỗ, đất nung, đá, xương, ngà, da hoặc sáp. Các trò chơi bóng phổ biến gồm có trigon, một môn thể thao đòi hỏi sự khéo léo đặc biệt và harpastum, một môn thể thao khó chơi hơn. Thú cưng dành cho trẻ em thời kỳ này bao gồm chim, chó, mèo, dê, cừu, thỏ và ngỗng.
Khi bước sang tuổi thiếu niên, hầu hết các hoạt động rèn luyện thể chất dành cho nam giới đều mang tính chất quân sự. Campus Martius ban đầu là một sân tập thể dục công cộng của thành Rome nơi các chàng trai trẻ tập luyện để phát triển các kỹ năng cưỡi ngựa và chiến đấu. Săn bắn cũng được coi là một trò tiêu khiển thích hợp. Một số phụ nữ La Mã thời kỳ này được đào tạo để trở thành các vận động viên thể dục dụng cụ và vũ công, với một số ít trở thành những nữ đấu sĩ. Bức tranh khảm "Những cô gái mặc bikini" nổi tiếng cho thấy những người phụ nữ trẻ La Mã đang tham gia vào các hoạt động khá giống với thể dục nhịp điệu ngày nay. Phụ nữ nói chung được khuyến khích duy trì sức khỏe thông qua các hoạt động như chơi bóng, bơi lội, đi bộ,...
Người La Mã mọi lứa tuổi cũng rất thích chơi các trò board game (trò chơi trên bàn), chẳng hạn như lachunculi, một trò chơi chiến thuật khá giống với cờ vua, và XII scripta, một trò chơi gần tương tự như cờ tào cáo ngày nay. Các trò chơi cờ bạc với xúc xắc không được ưa thích, nhưng lại là là một trò tiêu khiển phổ biến trong lễ hội Saturnalia (lễ hội vinh danh thần Saturn) được người La Mã tổ chức vào tháng 12 hàng năm.
Trang phục
Trong một xã hội có ý thức như của người La Mã, quần áo và trang điểm cá nhân đã đưa ra những manh mối trực quan ngay lập tức về nghi thức tương tác với người mặc. Mặc quần áo đúng cách được cho là sự phản ánh một xã hội có trật tự tốt. Toga được coi là trang phục chính thức của công dân nam La Mã, tuy nhiên loại trang phục này khá đắt tiền, khó mặc, không thoải mái, và thường chỉ được sử dụng trong các nghi lễ, những dịp trang trọng hoặc khi hầu tòa. Còn trong sinh hoạt thường ngày, người La Mã ưa chuộng các loại trang phục giản dị và thoải mái hơn.Toga màu tím được coi là loại toga sang trọng và có giá trị nhất, thường chỉ được mặc bởi các vị hoàng đế.
Loại trang phục cơ bản cho tất cả người La Mã, bất kể nam hay nữ, giàu hay nghèo, là một loại áo có tên là tunic. Loại áo này có kiểu dáng đơn giản, thường dài từ vai tới một điểm nào đó giữa hông và mắt cá chân. Chiều dài của một chiếc tunic phụ thuộc vào người mặc: áo tunic dành cho một người đàn ông thường dài đến giữa bắp chân, nhưng áo tunic một người lính thì lại có phần ngắn hơn; tunic của một người phụ nữ thường kéo dài đến tận bàn chân, còn của một đứa trẻ thì thường chỉ dài đến đầu gối.
Vào thế kỷ thứ 2, các hoàng đế và những người có địa vị thường được miêu tả mặc một loại trang phục gọi là pallium, một loại áo có nguồn gốc từ Hy Lạp. Phụ nữ La Mã cũng mặc pallium. Tertullian coi pallium là một sản phẩm may mặc phù hợp dành cho các tín đồ Kitô giáo, trái ngược với toga, và cũng là một loại trang phục của những người có học thức. Vào thế kỷ thứ 4, toga đã ít nhiều được thay thế bởi pallium như một loại trang phục thể hiện sự đoàn kết xã hội.
Phong cách quần áo ở La Mã thay đổi theo thời gian, mặc dù không nhanh như thời trang ngày nay. Ở Dominate, quần áo được mặc bởi cả binh lính và quan chức chính phủ được trang trí khá tinh xảo, với các sọc dệt hoặc thêu (clavi) và vòng tròn (orbiculi) xuất hiện trên cả áo chẽn và áo choàng. Những yếu tố trang trí này bao gồm các mô hình hình học, họa tiết thực vật cách điệu và ở các loại trang phục đắt tiền hơn thì có cả hình người hoặc động vật. Việc sử dụng lụa tăng lên, và các cận thần của Đế chế sau này đều mặc áo choàng lụa tinh xảo. Sự quân sự hóa của xã hội La Mã và sự suy yếu của đời sống văn hóa đô thị về sau đã khiến cho thói quen ăn mặc bị ảnh hưởng: thắt lưng kiểu quân đội nặng nề được mặc bởi cả các quan chức cũng như binh lính, và toga thì đã không còn được sử dụng.
Văn hóa
Cuộc sống ở Đế chế La Mã thường xoay quanh thành phố Roma, và bảy ngọn đồi nổi tiếng của nó. Thành phố cũng đã có một số nhà hát, gymnasia, các quán rượu, phòng tắm và nhà thổ. Trên khắp các vùng đất nằm dưới sự kiểm soát của Rome, trình độ kiến trúc các căn nhà ở đều rất khiêm tốn tới cả những biệt thự thôn quê, và ngay trong kinh đô Rome, các căn nhà ở trên đồi Palatine thanh lịch, mà từ đó từ "cung điện" được hình thành. Phần lớn dân số sống ở trung tâm thành phố, gói gọn trong các khu nhà chung cư.Hầu hết các thị trấn và thành phố La Mã đều đã có một khu chợ và các đền thờ, cũng như chính bản thân thành phố Roma. Hệ thống cống dẫn nước được xây dựng để đưa nước đến các trung tâm đô thị và được sử dụng như một con đường để nhập khẩu rượu vang và dầu từ nước ngoài. Địa chủ thường cư trú ở các thành phố và việc chăm sóc điền trang của họ được giao lại cho những người quản lý trang trại. Để kích thích năng suất lao động cao hơn nhiều, nhiều địa chủ đã giải phóng một số lượng lớn nô lệ. Vào triều đại của Augustus, các nô lệ Hy Lạp có học thức trong nhà đã dạy học cho các trẻ em nam La Mã (đôi khi ngay cả các cô gái). Các tác phẩm điêu khắc Hy Lạp được dùng để trang trí cảnh quan cho khu vườn mang phong cách Hy Lạp trên đồi Palatine hoặc trong các biệt thự.
Nhiều khía cạnh của văn hóa La Mã đã được tiếp thu từ người Etruscan và người Hy Lạp. Trong kiến trúc và điêu khắc, sự khác biệt giữa các hình mẫu Hy Lạp và những bức họa La Mã là rõ ràng. Đóng góp chính của người La Mã cho nghệ thuật kiến trúc là khung vòm và mái vòm.
Chế độ nô lệ và nô lệ là một phần của trật tự xã hội. Có rất nhiều chợ nô lệ, ở nơi đó họ có thể bị mua và bán. Nhiều nô lệ có thể được giải phóng bởi những người chủ của họ, một số nô lệ có thể tiết kiệm được tiền để mua lại sự tự do của mình. Người ta ước tính rằng hơn 25% dân số La Mã đã làm nô lệ.
Tôn giáo
Sự mở rộng của đế quốc đồng nghĩa với việc cư dân La Mã bao gồm người đến từ nhiều nền văn hóa khác nhau, sự cúng bái những vị thần với số lượng ngày một gia tăng được khoan dung và chấp nhận. Chính quyền Đế quốc nói riêng và người La Mã nói chung, đều có xu hướng rất khoan dung cho phần lớn tôn giáo và tín ngưỡng, sao cho họ không gây bất an. Điều đó dễ dàng được các đức tin khác đồng thuận do các nghi thức tế thần và lễ hội La Mã thường được thêm bớt cho phù hợp với văn hóa và bản sắc địa phương. Do người La Mã theo Đa Thần giáo, họ cũng dễ dàng đồng hòa thần linh của các tộc người mà họ chinh phạt. Một cá nhân có thể cúng tế cả chư thần La Mã để thể hiện bản sắc La Mã của anh ta và tôn giáo cá nhân, vốn được xem là một phần của đặc điểm cá nhân của anh em. Cũng có những giai đoạn chính quyền tổ chức các cuộc bách hại, nhất là với Kitô giáo.
Sự thờ cúng Hoàng đế
Trong một nỗ lực nhằm để tăng cường lòng trung thành, các cư dân của đế quốc đã được kêu gọi tham gia thờ cúng hoàng đế để tỏ lòng tôn kính đối với những vị hoàng đế (thường là đã qua đời) như là các á thần Một vài hoàng đế tự mình tuyên bố là vị thần trong khi đang còn sống với hoàng đế, đó là các trường hợp ngoại lệ và những vị hoàng đế này vào thời điểm đó bị coi là mất trí một cách rộng rãi (chẳng hạn như Caligula). Làm như vậy trong giai đoạn đầu thời đế quốc sẽ mạo hiểm tiết lộ một cách nông cạn những gì mà Hoàng đế Augustus gọi là "khôi phục nhà nước Cộng hòa". Kể từ đó, công cụ này chủ yếu là cách mà mỗi một vị Hoàng đế sử dụng để kiềm chế thần dân của mình.
Công giáo trở thành Quốc giáo
Đức tin Ki-tô giáo, tức là tin vào Thiên Chúa Ba Ngôi bắt đầu được giảng dạy trong khắp Đế quốc La Mã từ khoảng nửa đầu thế kỷ thứ 1 sau khi Chúa Giê-su Ki-tô về trời và truyền cho các Tông đồ sứ mệnh loan báo Tin Mừng. Thời gian đầu, đặc biệt là dưới triều đại Nero, Giáo hội đã bị bách hại rất nhiều, đa số các Tông đồ của Chúa Giê-su đều tử vì đạo. Các Ki-tô hữu phải bí mật giữ đức tin và truyền giáo, một số sống trong các hang toại đạo và các tín hữu nhận diện nhau bằng biểu tượng con cá.
Năm 313, Constantinus Đại đế ban hành Chiếu chỉ Milan, ngừng tất cả sự bách hại Ki-tô giáo trên toàn Đế quốc. Constantinus nói rõ là ông tin là những sự thành công của ông là do sự bảo vệ của Thiên Chúa vĩ đại của Kitô giáo. Trong suốt triều đại của ông, Constantinus đã bảo trợ Giáo hội về mặt tài chính, xây dựng nhiều Vương cung Thánh đường khác nhau, ban những đặc quyền (như miễn một số thuế), thăng những người Kitô hữu tới những chức vụ cao, và trả lại cho Giáo hội những tài sản tịch thu trong Đại thảm sát thời Diocletian. Những công trình nổi tiếng của ông bao gồm Nhà thờ Mộ Thánh và Vương cung thánh đường Thánh Phêrô (nhà thờ cũ).
Chú thích |
Người Mỹ gốc Phi - African American - (còn gọi là người Mỹ da đen, hoặc đơn giản là "dân da đen") là thành phần chủng tộc sinh sống ở Hoa Kỳ có tổ tiên từng là thổ dân ở châu Phi nam Sahara, là thành phần sắc tộc thiểu số lớn thứ hai ở Hoa Kỳ.
Nhiều người Mỹ gốc Phi có trong dòng máu của mình một phần châu Âu, người Mỹ Bản địa (da đỏ), châu Á và châu Mỹ Latin. Thuật ngữ "Người Mỹ gốc Phi" đặc biệt đề cập đến những người có tổ tiên là dân châu Phi để phân biệt với những người là hậu duệ của dân da trắng hoặc người Ả Rập ở châu Phi như người Maroc gốc Ả Rập hoặc người da trắng ở Nam Phi. Tuy nhiên, có những di dân đến từ các quốc gia châu Phi, vùng Ca-ri-bê và Nam Mỹ thường tự nhận và cũng được gọi là người Mỹ gốc Phi.
Như vậy, thuật ngữ "người Mỹ gốc Phi" được dùng để chỉ những công dân Mỹ có tổ tiên là người Phi châu. Đa số người Mỹ gốc Phi là hậu duệ của người dân sinh sống ở Tây và Trung Phi bị bắt làm nô lệ và bị đem đến Bắc Mỹ từ năm 1609 đến 1807, suốt trong thời kỳ buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Những người khác đã đến qua những đợt di dân gần đây từ vùng Caribbean, Nam Mỹ và Phi châu. Nhìn chung, một người da đen, sử dụng tiếng Anh như tiếng mẹ đẻ, đang sống ở Hoa Kỳ, thường được xem là một người Mỹ gốc Phi.
Thắng lợi của phong trào Dân quyền những năm 1960 là một bước tiến quan trọng trong sự nghiệp đấu tranh đòi quyền bình đẳng của người Mỹ gốc Phi. Nhiều người cho rằng cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2008 cũng là một bước tiến trong mối quan hệ giữa các chủng tộc ở Mỹ: khi mà người Mỹ da trắng đã đóng vai trò quan trọng trong việc bầu Barack Obama trở thành tổng thống da màu đầu tiên của nước này.
Danh xưng
Thuật ngữ "người Mỹ gốc Phi" (African American) được sử dụng phổ biến ở Hoa Kỳ kể từ cuối thập niên 1980, khi nhiều người da đen bắt đầu chấp nhận và tự gọi mình bằng thuật ngữ này.
Thủ lĩnh da đen chủ trương dân tộc cực đoan Malcolm X ủng hộ danh xưng "người Mỹ gốc Phi" vì cho rằng về lịch sử và văn hoá, từ này là xứng hiệp hơn cách gọi "người da đen" (như từ nigger). Thuật ngữ này được sử dụng tại một buổi họp của Tổ chức Thống nhất Mỹ Phi (OAAU) vào đầu thập niên 1960, trong bản tuyên bố "Hai mươi triệu người Mỹ gốc Phi – đó là tên gọi dành cho chúng tôi - những người Phi châu đang sinh sống tại Mỹ". Từ thập niên 1950, cầu thủ và huấn luyện viên bóng rổ thuộc NBA, Lenny Wilkens, đã sử dụng từ này khi ông, lúc ấy còn là một thiếu niên, điền mẫu đơn xin việc.
Dân số
Theo Cơ quan điều tra dân số Hoa Kỳ, năm 2005 có 39,9 triệu người Mỹ gốc Phi sinh sống ở Hoa Kỳ, chiếm 13,8% dân số toàn quốc. Theo thống kê năm 2000, có 54,8% người Mỹ gốc Phi sống ở miền Nam, 17,6% sống ở vùng Đông Bắc và 18,7% ở Trung Tây, trong khi chỉ có 8,9% cư trú tại những tiểu bang miền Tây. Năm 2000, có khoảng 88% người Mỹ gốc Phi sống ở các vùng đô thị. Thành phố New York có đông cư dân da đen nhất, vượt quá con số 2 triệu. Trong số các thành phố có dân số từ 100.000 trở lên, Gary, Indiana có tỉ lệ dân da đen cao nhất (85%), kế đó là Detroit, Michigan (83%), Atlanta, Georgia (65%), Philadelphia (43%) và Washington, D.C. (60%) được kể là những trung tâm dân cư người Mỹ gốc Phi lớn nhất Hoa Kỳ.
Lịch sử
Thời kỳ nô lệ
Người da đen ở Mỹ là một cộng đồng cấu thành từ nhiều nhóm chủng tộc khác nhau. Có hơn 40 nhóm chủng tộc đến từ ít nhất 25 vương quốc ở Phi châu bị đem bán đến vùng đất mới Bắc Mỹ thuộc Anh (về sau là Hợp chúng quốc Hoa Kỳ) trong thời kỳ buôn nô lệ qua Đại Tây Dương. Các vương quốc Phi châu hùng cường dọc bờ biển thường bán những nhóm người này cho các thương buôn người Âu để đổi lấy các loại hàng hoá như hàng dệt và vũ khí.
Ít khi xảy ra tình trạng người Phi bị người Âu bắt cóc, bởi vì người Âu không thể thâm nhập sâu vào nội địa. Những hiểm hoạ bệnh tật chết người luôn hiện hữu và các vương quốc hùng mạnh và hiếu chiến thường kiểm soát vùng duyên hải.
Người Phi bị bán và trao đổi như những nô lệ và bị đem lên tàu vượt biển sang Hoa Kỳ đến từ tám khu vực buôn nô lệ ở Phi châu, bao gồm Senegambia (nay là Sénégal, Gambia, Guinée và Guiné-Bissau), Sierra Leone (bao gồm vùng đất ngày nay thuộc Liberia), Windward Coast (nay là Côte d'Ivoire), Gold Coast (nay là Ghana và vùng phụ cận), Bight of Benin (nay là Togo, Bénin và Tây Nigeria), Bight of Biafra (Nigeria phía nam sông Benue, Cameroon và Guinea Xích đạo), Trung Phi (Gabon, Angola, Cộng hoà Dân chủ Congo) và Mozambique và Madagascar.
Những người nô lệ Phi châu đã mang theo họ tín ngưỡng, ngôn ngữ và văn hoá khi bị cưỡng bức lên tàu đến Tân Thế giới, tuy nhiên, những thương buôn và chủ nô đẩy mạnh những chiến dịch tàn bạo và có hệ thống nhằm tước bỏ bản sắc châu Phi, dần dần tiến đến việc loại bỏ hoàn toàn tên, ngôn ngữ và tín ngưỡng nguyên thủy của họ. Khi có thêm các phương tiện nô dịch, giới chủ nô cố ý sắp xếp nô lệ nói các ngôn ngữ khác nhau sống chung tại các nông trang và cấm họ sử dụng bất cứ ngôn ngữ nào khác ngoài tiếng Anh cũng như cấm họ học đọc học viết. Dần dà, người Phi ở Mỹ hình thành một bản sắc mới tập chú vào các điều kiện tương tác tại vùng đất mới đối nghịch với những ràng buộc lịch sử và văn hoá với châu Phi.
Khoảng năm 1860, có 3,5 triệu người nô lệ bị đem vào miền Nam Hoa Kỳ, cùng với 500.000 người Phi đang sống tự do ở khắp đất nước. Sở hữu nô lệ là vấn đề gây nhiều tranh cãi trong chính trị và xã hội Mỹ. Chủ trương bãi bỏ nô lệ có tiến triển và lên đến đỉnh điểm khi Abraham Lincoln đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 1860, dẫn đến hành động ly khai của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ, và bùng nổ cuộc Nội chiến Mỹ (1861-1865).
Thời kỳ Tái thiết và sự kỳ thị chủng tộc
Khi nội chiến kết thúc với chiến thắng thuộc về miền Bắc, Hoa Kỳ công nhận các quyền dân sự dành cho người Mỹ gốc Phi. Bản Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ năm 1862 công bố rằng mọi nô lệ thuộc Liên minh miền Nam Hoa Kỳ đều được tự do chiếu theo luật pháp Hoa Kỳ. Tuy nhiên, bản Tuyên ngôn lại có những ngoại lệ dành cho các nô lệ bị cầm giữ trong những vùng lãnh thổ không ly khai, như thế chẳng có nô lệ nào được giải phóng, bởi vì luật pháp Hoa Kỳ vào thời điểm ấy không có hiệu lực đối với Liên minh miền Nam Hoa Kỳ.
Đến khi Tu chính án thứ Mười ba của Hiến pháp Hoa Kỳ được thông qua năm 1865, tất cả nô lệ mới được tự do, kể cả những người đang sống ở các tiểu bang ly khai. Trong thời kỳ Tái thiết, người Mỹ gốc Phi ở miền Nam giành được quyền bầu cử và nắm giữ các chức vụ công, cũng như hưởng được một số quyền dân sự mà trước đây họ bị khước từ. Thế nhưng, khi Thời kỳ Tái thiết chấm dứt vào năm 1877, giới chủ đất miền Nam áp đặt một thể chế mới nhằm tước bỏ quyền công dân của người da đen và theo đuổi chủ trương phân biệt chủng tộc, từ đó bùng phát làn sóng khủng bố và áp bức, thể hiện qua các hình thức như xử tử bởi đám đông bạo hành mà không cần xét xử (lynching) và bạo hành trong đêm.
Trong Thời kỳ Tiến bộ (1900-1917), người da đen thuộc giai cấp trung lưu có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện điều kiện sống cho đồng bào của họ. Phong trào này phát triển mạnh nhất tại miền Nam trong các trường đại học dành cho người da đen như Đại học Tuskegee hay Đại học Atlanta, các tạp chí dành cho giới học thuật và trong giáo hội Episcopal (Anh giáo). Giống thành phần tiến bộ da trắng, những người tiến bộ da đen bắt tay trợ giúp giai cấp công nhân thông qua các chương trình từ thiện trong khi ủng hộ các thay đổi chính trị nhằm gia tăng vai trò của chính quyền trong nỗ lực kiến tạo sự công bằng trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Nhiều người da đen tiến bộ thuộc giới tinh hoa thường tìm đến những anh em cùng màu da để giúp đỡ, cũng giống như tính cách và hành động của những người da trắng tiến bộ đối xử với di dân đến từ Âu châu.
Mặc dù những thành công của họ trong các nỗ lực nhân đạo, thành phần da đen tiến bộ lại không quan tâm đến các vấn đề như kỳ thị chủng tộc. Thay vào đó, họ quảng bá tinh thần đấu tranh sinh tồn với hi vọng người da đen, nhờ chăm chỉ làm việc và học vấn mà dần dà thăng tiến vị trí xã hội của mình. Trong thực tế, hoàn cảnh của đa số người da đen không được cải thiện bao nhiêu do chính sách phân biệt chủng tộc áp đặt bởi người da trắng, hỗ trợ bởi những cuộc bạo hành có hệ thống.
Trong thập niên cuối của thế kỷ 19 ở Hoa Kỳ, các luật lệ kỳ thị và các cuộc bạo hành chủng tộc nhắm vào người Mỹ gốc Phi bắt đầu nở rộ. Giới cầm quyền được bầu cử, bổ nhiệm hoặc tuyển dụng bởi công dân da trắng khởi sự ban hành hoặc đỡ đầu các biện pháp kỳ thị, nhất là ở các tiểu bang Texas, Louisiana, Mississippi, Alabama, Georgia, Florida, Nam Carolina, Bắc Carolina, Virginia, Arkansas, Tennessee, Oklahoma và Kansas. Có bốn đạo luật kỳ thị hoặc cho phép kỳ thị chống lại người Mỹ gốc Phi được tán thành bởi phán quyết của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ trong vụ án Plessy v. Ferguson năm 1896 – cho phép chính quyền địa phương áp chế hoặc tước bỏ quyền bầu cử tại các tiểu bang miền nam, khước từ các cơ hội kinh tế hoặc các nguồn tài nguyên quốc gia, bao che các hành vi bạo lực cá nhân hay tập thể nhắm vào người da đen. Mặc dù sự kỳ thị hiện hữu trên toàn quốc, hệ thống phân biệt chủng tộc trong các lĩnh vực luật pháp, kinh tế, xã hội và các chuỗi bạo động chống lại người Mỹ gốc Phi ở các tiểu bang miền nam được biết đến nhiều nhất dưới tên Jim Crow.
Làn sóng di dân và Phong trào Dân quyền
Tình trạng khốn cùng của người Mỹ gốc Phi ở miền Nam đã kích hoạt đợt Di dân lớn vào đầu thế kỷ 20, cùng lúc với sự thăng tiến của giới tinh hoa trong thành phần trí thức và hoạt động văn hoá của cộng đồng da đen ở miền Bắc, hình thành phong trào chống chủ trương bạo động và kỳ thị người Mỹ gốc Phi, giống phong trào bãi bỏ chế độ nô lệ trước đó, thu hút nhiều thành phần chủng tộc khác nhau.
Một trong số những nhóm này, Hiệp hội Quốc gia Thăng tiến cho Người Da màu (NAACP), phát động bởi nhà báo nổi tiếng hay nói thẳng, Ida B. Wells Barnett, tiến hành chiến dịch chống các vụ xử tử bởi đám đông bạo hành (lynching). Trong thập niên 1950, tổ chức này xúc tiến một loạt các thách thức pháp lý có tính toán cẩn thận nhằm xoá bỏ hệ thống kỳ thị Jim Crow, nổi bật nhất là vụ án "Brown chống Sở Giáo dục thành phố Topeka" (Brown v. Board), tiểu bang Kansas khi Tối cao Pháp viện phán quyết chủ trương phân biệt chủng tộc tại các cơ sở giáo dục công lập là vi hiến.
Phán quyết của Tối cao Pháp viện trong vụ án Brown v. Board là ngả rẽ quyết định cho Phong trào Dân quyền Mỹ. Đấy là một phần trong chiến lược lâu dài nhằm đánh đổ hệ thống Jim Crow trong giáo dục công lập, bệnh viện, giao thông, nhân dụng và gia cư, giành quyền bình đẳng cho người Mỹ gốc Phi khi tiếp cận các tiện nghi kể trên cũng như bảo đảm quyền bầu cử của họ.
Từ năm 1954 đến năm 1968, Phong trào Dân quyền nỗ lực nhắm vào mục tiêu bãi bỏ các hành vi kỳ thị chủng tộc ở chỗ riêng tư cũng như tại nơi công cộng đối với người Mỹ gốc Phi, nhất là tại miền nam Hoa Kỳ. Năm 1966 chứng kiến sự xuất hiện của Phong trào Sức mạnh Da đen, kéo dài từ năm 1966 đến 1975, mở rộng các mục tiêu của Phong trào Dân quyền bằng cách thêm vào những đòi hỏi về phẩm cách chủng tộc, độc lập về kinh tế và chính trị, cũng như giải phóng khỏi quyền lực da trắng. Một vài học giả bắt đầu gọi Phong trào Dân quyền là cuộc Tái thiết lần thứ hai.
Phong trào Dân quyền và Phong trào Sức mạnh Da đen là đỉnh cao của những thế hệ bị áp bức và chứng kiến những sự kiện quan trọng trong lịch sử nước Mỹ như vụ sát hại Emmet Till, Rosa Parks và cuộc tẩy chay xe buýt ở Montgomery, Alabama, vụ kỳ thị ở Little Rock, Arkansas, rất nhiều vụ biểu tình ngồi (sit-in), các cuộc tuần hành vì tự do, cuộc Diễu hành đến Washington vì Việc làm và Tự do năm 1963 và các sự kiện khác. Cuộc Diễu hành đến Washington vì Việc làm và Tự do cùng các điều kiện đã giúp hình thành cuộc diễu hành được cho là các nhân tố tạo nên áp lực đối với Tổng thống John F. Kennedy, sau đó là Lyndon B. Johnson, vận động thông qua Đạo luật Dân quyền năm 1964 cấm đoán tất cả hành động kỳ thị tại các tiện nghi công cộng, trong tuyển dụng nhân lực và trong các nghiệp đoàn lao động.
Chiến dịch "Mùa hè Tự do Mississippi" năm 1964 tạo cơ hội cho hàng ngàn thanh niên đầy ắp lý tưởng, da đen và da trắng, điều hành các "trường học tự do" nhằm dạy các kỹ năng đọc viết, lịch sử và công dân giáo dục trong khi những thiện nguyện viên khác vận động người da đen đăng ký bầu cử. Các mùa hè này được ghi dấu bởi những hành động quấy rối, đe dọa và bạo động nhắm vào những người hoạt động cho dân quyền cũng như những gia đình đón tiếp họ. Sự mất tích của ba thanh niên, James Chaney, Andrew Goodman và Michael Schwerner, tại Philadelphia và Mississippi thu hút sự quan tâm của công luận trên toàn quốc. Sáu tuần sau, người ta tìm thấy thi thể bị đánh đập dã man của Chaney, một thanh niên da đen, trong một bãi đầm lầy cùng với thi thể của hai người bạn da trắng, cả hai đều bị bắn chết.
Cơn phẫn nộ của công luận đối với "Mùa hè Mississippi đẫm máu" và sự tàn bạo của những kẻ giết người giúp thúc đẩy việc thông qua Đạo luật Quyền Bầu cử năm 1965. Đạo luật đã đánh đổ những rào cản từng ngăn trở không cho người da đen hưởng quyền bầu phiếu và là một thắng lợi tạo tiền đề cho việc thông qua các đạo luật dân quyền khác trong hơn một thập niên.
Đến lúc này, những người Mỹ gốc Phi vẫn nghi ngờ về tính hiệu quả của chủ trương phản kháng bất bạo động bắt đầu có nhiều ảnh hưởng. Các thủ lĩnh da đen chủ trương bạo động như Malcolm X thuộc tổ chức Dân tộc Hồi giáo và Eldridge Cleaver thuộc Đảng Báo đen, kêu gọi người da đen tự phòng vệ và sử dụng các biện pháp bạo động nếu cần. Từ giữa thập niên 1960 đến giữa thập niên 1970, phong trào Báo đen thúc giục người Mỹ gốc Phi hướng về châu Phi để tìm kiếm sự soi dẫn và nhấn mạnh đến tình đoàn kết da đen hơn là tinh thần hoà nhập.
Trong khi Phong trào Dân quyền đạt được đỉnh cao sức mạnh của mình vào thập niên 1960 dưới sự dẫn dắt của những nhà lãnh đạo như Martin Luther King, Jr., Whitney Young và Roy Wilkins, Sr., thì các phát ngôn nhân của tổ chức Dân tộc Hồi giáo như Malcolm X, sau này là Stokeley Carmichael, Đảng Báo đen, và tổ chức Cộng hòa Tân Phi châu kêu gọi người Mỹ gốc Phi theo đuổi chủ nghĩa dân tộc da đen và kiến tạo quyền lực da đen, quảng bá các ý tưởng về thống nhất, đoàn kết châu Phi (đen) và chủ thuyết Liên Phi. Đến cuối thập niên 1960, một số nhà hoạt động dân quyền và các thủ lĩnh chủ trương liên Phi bị ám sát, trong đó có Medgar Evers, Malcolm X, Martin Luther King, Jr. và Fred Hampton. Tuy nhiên, khi ấy người Mỹ gốc Phi đã đạt được những bước tiến căn bản trong lĩnh vực kinh tế và chính trị nhờ những nỗ lực trong thời kỳ đấu tranh cho dân quyền.
Các vấn đề hiện tại
Kể từ Phong trào Dân quyền, nhiều người Mỹ gốc Phi đã đạt được những thăng tiến quan trọng cho vị trí của mình trên nấc thang xã hội, trong khi những thập niên gần đây chứng kiến sự phát triển về quy mô của người Mỹ gốc Phi thuộc giai cấp trung lưu trên toàn lãnh thổ Hoa Kỳ. Mặc dù những cơ hội chưa từng có đã giúp người Mỹ da đen tiếp cận hệ thống giáo dục đại học và tuyển dụng nhân lực, do những tàn dư của chế độ nô lệ và sự kỳ thị chủng tộc, người da đen vẫn là một cộng đồng tụt hậu về kinh tế, giáo dục và xã hội nếu so sánh với người da trắng.
Các vấn đề nan giải trong chính trị, kinh tế, xã hội đối với người Mỹ gốc Phi là việc khó tiếp cận các chương trình chăm sóc sức khoẻ, chủ nghĩa chủng tộc trong các định chế, phân biệt trong gia cư, giáo dục, cảnh sát, tư pháp và nhân dụng; cũng có các vấn nạn về nghèo khổ và bị lạm dụng. Nghèo khổ là vấn nạn lớn khi liên quan đến các tổn thương tinh thần trong cuộc sống hôn nhân và biện pháp giải quyết, các vấn đề về sức khoẻ, trình độ học vấn thấp, mất quân bình trong các chức năng tâm lý và tội phạm. Năm 2004, có 24,7% gia đình người Mỹ gốc Phi được xem là sống dưới mức nghèo.
Ảnh hưởng của các hoạt động tội phạm như giết người, buôn ma tuý và trấn lột khiến các cộng đồng người Mỹ gốc Phi càng nghèo khổ hơn và đang là một vấn đề nghiêm trọng. Năm 1995, một phần ba nam giới người Mỹ gốc Phi ở độ tuổi từ 20 đến 29 từng chịu một hình thức chế tài vì dính líu đến tội phạm (giam giữ trong tù, quản chế hoặc tù treo). Một số thống kê cho thấy người Mỹ gốc Phi phạm tội giết người, bị giết hoặc bị giam giữ bảy lần nhiều hơn người da trắng. Có lẽ trình độ học vấn và địa vị xã hội là nguyên nhân dẫn đến tập quán phạm tội. Tỷ lệ các vụ sát nhân và các hình thức bạo hành khác của người Mỹ gốc Phi là cao hơn so với các cộng đồng dân cư da trắng hoặc các chủng tộc khác có chung hoàn cảnh (tụt hậu về kinh tế).
Người Mỹ gốc Phi thường là đối tượng của việc phân loại hồ sơ dựa theo yếu tố chủng tộc, cũng dễ bị nhìn xem là hình mẫu tiêu cực trong xã hội. Theo Hiệp hội Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ, đàn ông da đen có nguy cơ tử vong vì bệnh tim 20% cao hơn người da trắng, và nam giới da đen có tỷ lệ mắc bệnh huyết áp cao đứng đầu thế giới. Tỷ lệ sinh con ngoài hôn nhân của các bà mẹ người da đen cao hơn tỷ lệ bình quân cả nước, 56% trẻ da đen sinh ra trong những gia đình mà người mẹ không có ràng buộc hôn nhân chính thức với cha của đứa trẻ. Năm 1998, con số các bà mẹ độc thân chiếm 54% gia đình người Mỹ gốc Phi.
Điều kiện kinh tế
Tình trạng kinh tế của cộng đồng người Mỹ gốc Phi, nói chung, đang là một vấn đề gây tranh cãi, khi các con số thống kê tính đến những tàn dư của quá trình kỳ thị trong quá khứ lẫn sự tăng trưởng bền vững trong đại bộ phận dân số Hoa Kỳ, cũng như sự phồn vinh của cộng đồng nếu so sánh với các quốc gia bên ngoài nước Mỹ.
Lợi tức trung bình của người Mỹ gốc Phi xấp xỉ 65% lợi tức của dân "da trắng", tức là "những người có nguồn gốc chủng tộc từ Âu châu, Trung Đông hoặc Bắc Phi", theo các con số thống kê. Sự cách biệt này lớn nhất khi mức lợi tức được tính ở nấc thang cao nhất, mặc dù rõ ràng là thành phần giàu có nhất khó được xem là biểu trưng cho toàn thể cộng đồng, da trắng hoặc da đen. Theo danh sách những người giàu nhất của tạp chí Forbes, tài sản trị giá 800 triệu đôla trong năm 2000 của Oprah Winfrey đã đặt cô vào vị trí người Mỹ gốc Phi giàu nhất trong thế kỷ 20, thật thảm hại khi so sánh với con số 100 tỷ đôla trị giá tài sản của Bill Gates trong năm 1999, khi Gates được xếp thứ nhất trong danh sách những người Mỹ da trắng giàu nhất thế kỷ 20.
Tuy nhiên, trong danh sách năm 2004 của Forbes, trị giá tài sản của Gates chỉ còn 46,6 tỷ đôla trong khi tài sản của Winfrey tăng lên 1,4 tỷ đôla, củng cố vị trí của cô như là người Mỹ gốc Phi giàu nhất thế kỷ 20, tỉ phú da đen duy nhất trên thế giới, xếp thứ 235 trong danh sách những người giàu nhất nước Mỹ năm 2005, thứ 562 trong số những người giàu nhất thế giới và là một trong những nhân vật vừa giàu nhất vừa có ảnh hưởng lớn nhất tại Hoa Kỳ.
Mặc dù nhiều người Mỹ gốc Phi vẫn sống dưới mức nghèo, những chỉ số gần đây cho thấy khoảng cách giàu nghèo đang thu hẹp dần. Kể từ cuối thập niên 1990, mức lợi tức của người da đen gia tăng đáng kể - thành phần hạ lưu đang thu hẹp dần trong khi giai cấp trung lưu đang phát triển mạnh, và tình trạng tương tự đang diễn ra trong giới giàu có.
Hơn 1,7 triệu người Mỹ gốc Phi đã vượt qua ngưỡng nghèo; khoảng cách giữa mức lợi tức của phụ nữ da đen và phụ nữ da trắng nay chỉ còn một vài phần trăm; tỷ lệ thất nghiệp ở người da đen trong những năm gần đây ở dưới mức 10%. Tỷ lệ người nghèo từ 26,5% trong năm 1998 còn 24,7% năm 2004.
Năm 2003, yếu tố giới tính thay thế yếu tố chủng tộc để trở nên nhân tố chính kéo dài tuổi thọ ở Hoa Kỳ, với sự kiện phụ nữ Mỹ gốc Phi sống lâu hơn nam giới da trắng sinh cùng năm. Khoảng cách tuổi thọ giữa người da trắng (78,0) và da đen (72,8) giảm 5,2 năm, biểu thị chiều hướng lâu dài của hiện tượng này.
Năm 2004, công nhân da đen có mức lợi tức trung bình xếp hạng thứ nhì trong các cộng đồng thiểu số tại Mỹ, chỉ sau cộng đồng Mỹ gốc Á. Tương tự, trong các nhóm thiểu số, chỉ có người Mỹ gốc Á là có nhiều cơ may hơn người Mỹ gốc Phi trong việc nắm giữ các công việc văn phòng (quản trị, chuyên gia và các lãnh vực liên quan). Năm 2001, hơn một nửa gia đình Mỹ gốc Phi kiếm được 50.000 đôla hoặc hơn trong một năm.
Nhìn chung, người Mỹ gốc Phi tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị hơn các nhóm thiểu số khác với tỷ lệ cử tri đi bầu ở mức cao nhất trong năm 2004.
Văn hoá
Trong khi chia sẻ những điểm chung với các gia đình Mỹ khác, người Mỹ gốc Phi giữ riêng cho mình những nét đặc thù liên quan đến thời điểm cũng như phương cách xây dựng hôn nhân và tổ chức gia đình, vai trò của giới tính, cung cách làm cha mẹ và những biện pháp đối phó với khó khăn.
Trong cộng đồng người Mỹ gốc Phi, sự hình thành một gia đình thường không khởi đầu bằng một cuộc hôn nhân, mà bằng sự kiện một đứa trẻ chào đời. Một gia đình da đen tiêu biểu thường tôn trọng tôn ti trật tự và tỏ ra nghiêm nhặt trong việc tuân giữ các chuẩn mực đạo đức, cũng áp dụng các biện pháp kỷ luật về thể xác. Ông bà, đặc biệt là bà, thường thủ giữ vai trò chủ chốt trong việc bảo vệ gia đình. Khi các bà mẹ không thể đảm đương nhiệm vụ của mình, bà sẽ bước vào bắt tay chăm sóc và dạy dỗ bọn trẻ. Năm 1998, có 1,4 triệu, tức 12%, trẻ da đen sống với ông bà (dù chúng có cha mẹ hay không). Mặt khác, khi về già ông bà được chăm sóc bởi các thành viên còn lại trong đại gia đình.
Trong số các cộng đồng chủng tộc sinh sống ở Hoa Kỳ, người Mỹ gốc Phi được xem là cộng đồng quan tâm nhiều nhất đến các vấn đề tâm linh. Theo các cuộc thăm dò thực hiện năm 2006 của Nhóm Barna (một tổ chức đặt trụ sở tại California, chuyên khảo sát các lĩnh vực tôn giáo), có 52% người da đen tham dự các buổi lễ tôn giáo hàng tuần , 95% có cầu nguyện trong tuần và 66% có đọc Kinh Thánh .
Sức mạnh văn hoá của gia đình người Mỹ gốc Phi thể hiện trong lĩnh vực tâm linh, tinh thần tương trợ, bản sắc chủng tộc, cấu trúc gia đình rộng mở, và nhà thờ. Những nhân tố này được xem là nguồn lực hỗ trợ trong ý thức hệ và trong thực tế cuộc sống.
Các món ăn của cộng đồng người Mỹ gốc Phi sản sinh trong hoàn cảnh bị áp bức về chủng tộc và kinh tế. Dưới chế độ nô lệ, người Mỹ gốc Phi không được phép ăn những phần thịt ngon, còn sau khi được giải phóng nhiều người không đủ tiền để mua thịt. Soul food, những món ăn có nguồn gốc từ châu Phi, không chỉ được ưa thích trong vòng người Mỹ gốc Phi ở miền nam mà còn phổ biến trong cộng đồng da đen trên toàn quốc, với nhiều sáng tạo trong công thức chế biến từ những sản phẩm rẻ tiền thu hoạch được ở nông trang cũng như do săn bắt và câu cá.
Âm nhạc của người Mỹ gốc Phi (còn gọi là âm nhạc da đen) hiện diện khắp nơi trong văn hoá Mỹ gốc Phi. Tổ tiên người Mỹ gốc Phi bị đem đến Bắc Mỹ để làm nô lệ tại các nông trường bông vải, đã mang theo họ các ca khúc phức điệu (polyphonic) tiêu biểu từ hàng trăm nhóm chủng tộc trên khắp vùng Tây Phi và Hạ Sahara. Tại Mỹ, truyền thống văn hoá đa dạng hoà quyện với các thể loại âm nhạc phương Tây như polka, waltz... tạo nên một loại hình âm nhạc độc đáo của các cộng đồng Mỹ gốc Phi. Có nhiều thay đổi lớn trong các giai đoạn sau này, đến thế kỷ 21, các thể loại âm nhạc của người Mỹ gốc Phi chiếm vị trí thống trị trong dòng nhạc phổ thông trên khắp thế giới như nhạc rap, nhảy hiphop. Xuyên suốt các cộng đồng người Mỹ gốc Phi trên khắp Hoa Kỳ, âm nhạc da đen thể hiện những khía cạnh đa dạng và phức tạp của văn hoá và cuộc sống đương đại cũng như trong lịch sử của người Mỹ gốc Phi.
Ảnh hưởng
Từ những ngày đầu tiên đặt chân lên Bắc Mỹ trong thân phận nô lệ, người Phi và người Mỹ gốc Phi đã có nhiều đóng góp sáng tạo cho văn học, nghệ thuật, kỹ năng nông nghiệp, thực phẩm, kiểu dáng trang phục, âm nhạc, ngôn ngữ trong văn hoá Mỹ.
Âm nhạc Mỹ gốc Phi là một trong những ảnh hưởng văn hoá Mỹ gốc Phi lan toả rộng nhất ở nước Mỹ ngày nay cũng như trong dòng nhạc phổ thông trên khắp thế giới. Hip hop, R&B, funk, soul, techno và các loại hình âm nhạc Mỹ đương đại khác đều sản sinh từ các cộng đồng da đen, biến thể từ nhạc blues, jazz và nhạc phúc âm, gospel. Âm nhạc Mỹ gốc Phi cũng gây ảnh hưởng và nối kết với hầu hết các loại hình nhạc phổ thông trên thế giới.
Các ca sĩ, diễn viên nổi tiếng người Mỹ gốc Phi và có sức ảnh hưởng cực lớn tới thế giới như "Nữ hoàng nhạc R&B" Whitney Houston, "Ông hoàng nhạc Pop" Michael Jackson, nữ ca sĩ kiêm diễn viên Beyoncé, nữ danh ca Diana Ross, huyền thoại nhạc Soul Aretha Franklin, những giọng ca nhạc gospel nổi tiếng như Cissy Houston, Dionne Warwick (mẹ và chị họ của Whitney Houston)
Nhiều tác giả sáng tác tiểu thuyết, thi ca và tiểu luận từ những trải nghiệm sống của người Mỹ gốc Phi, và văn học Mỹ gốc Phi chiếm vị trí quan trọng trên văn đàn Mỹ. Trong số các tác giả nổi tiếng có Langston Hughes, James Baldwin, Richard Wright, Zora Neale Hurston, Ralph Ellison, Toni Morrison và Maya Angelou.
Nhiều sáng chế của người Mỹ gốc Phi được sử dụng rộng rãi trên khắp thế giới. Mặc dù hầu hết các nhà phát minh nô lệ đều là vô danh, một nô lệ của Tổng thống Liên bang miền Nam Jefferson Davis đã thiết kế chân vịt tàu thủy, được lắp đặt cho tất cả tàu thuyền của hải quân miền Nam. Sau Nội chiến, thành phần chủng tộc thiểu số, trong đó có người Mỹ gốc Phi đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng vượt bậc của nền công nghiệp Mỹ. Đến năm 1913 có hơn 1.000 ngàn sáng chế đã đăng ký của người Mỹ gốc Phi.
Trong số những nhà phát minh nổi bật nhất có Jan Matzeliger, phát triển máy sản xuất giày với số lượng lớn, Elijah McCoy, sáng chế các thiết bị bôi trơn tự động cho máy hơi nước. Granville Woods đã có 35 bằng sáng chế cải tiến hệ thống đường ray xe điện kể cả hệ thống giúp tàu hoả có thể liên lạc khi đang di chuyển...
Có nhiều tên tuổi lớn trong các lĩnh vực thể thao, nghệ thuật, âm nhạc là người Mỹ gốc Phi. Trong những thập niên gần đây, người Mỹ gốc Phi cũng nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy tư pháp và trong Chính phủ Hoa Kỳ; ngoài Clarence Thomas là người Mỹ gốc Phi thứ nhì (sau Thurgood Marshall) được bổ nhiệm vào Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ năm 1991, thì Colin Powell là người Mỹ gốc Phi đảm nhiệm chức vụ cao nhất trong chính phủ liên bang, Powell được bổ nhiệm Ngoại trưởng Hoa Kỳ năm 2000, sau khi phục vụ trong cương vị Cố vấn An ninh Quốc gia (1987-1989) và Chủ tịch Liên quân (1989-1993). Người kế nhiệm Powell trong chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao từ năm 2004, Condoleezza Rice, là phụ nữ Mỹ gốc Phi đầu tiên phục vụ chính phủ trong vị trí này; trước đó Rice là Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống George W. Bush (2000-2004).
Những thành quả người Mỹ gốc Phi giành được qua Phong trào Dân quyền và Phong trào Sức mạnh Da đen không chỉ bảo đảm một số quyền căn bản cho người da đen mà còn thay đổi sâu sắc và toàn diện xã hội Hoa Kỳ. Trước thập niên 1950, người Mỹ vẫn sống dưới bóng của chế độ nô lệ và luật lệ kỳ thị chủng tộc (Jim Crow), nhưng như lời của Martin Luther King, Jr., người Mỹ gốc Phi và những người ủng hộ họ đã thách thức nước Mỹ "trỗi dậy để sống đúng với ý nghĩa thật của niềm xác tín rằng mọi người sinh ra trong bình đẳng..." (Tôi Có một Giấc mơ).
Phong trào Dân quyền đánh dấu một sự thay đổi triệt để trong xã hội, chính trị, kinh tế và đời sống dân sự Hoa Kỳ. Nó xuất hiện với các cuộc tẩy chay, biểu tình ngồi lỳ (sit-in), tuần hành, kiện tụng, đánh bom và những hình thức bạo động khác; đã thúc đẩy các phương tiện truyền thông toàn cầu và mở ra các cuộc tranh luận gay gắt; hình thành các liên minh dân sự, kinh tế và tôn giáo; phân hoá và hàn gắn hai chính đảng lớn nhất đất nước; làm thay đổi mối quan hệ giữa người da trắng và người da đen, cũng như cách xử sự giữa mọi người với nhau.
Điều quan trọng hơn hết là phong trào đã gỡ bỏ tinh thần kỳ thị chủng tộc khỏi đời sống và luật pháp Hoa Kỳ, thăng tiến các quyền tự do dân sự và xã hội mà nhiều người Mỹ thuộc các nền văn hoá khác nhau vẫn hằng mong đợi. Những tiền lệ được thiết lập bởi Phong trào Dân quyền trong khía cạnh chiến lược và chiến thuật, cũng như những mục tiêu mà nó đã đạt được, đã tác động lên Phong trào Tự do Ngôn luận, cuộc đấu tranh của công nhân nông trại và lao động nhập cư thuộc nghiệp đoàn Công nhân Nông trại Hiệp nhất, Phong trào Người Da đỏ Mỹ, những nỗ lực bảo đảm quyền bình đẳng dành cho phụ nữ, người tàn tật và các cộng đồng thiểu số khác.
Ai là người Mỹ gốc Phi?
Câu trả lời tiêu biểu là bất cứ người nào có tổ tiên là người Phi châu da đen. Định nghĩa này biểu thị những kinh nghiệm kéo dài trong suốt thời kỳ phân biệt chủng tộc, quyền tối thượng của người da trắng, chế độ nô lệ và hệ thống luật lệ phân biệt màu da.
Tại miền nam Hoa Kỳ, có luật một giọt máu, nghĩa là chỉ cần có một giọt "máu đen" là người da đen. Khi một người mang dòng máu lai thì người ấy sẽ được xem là thuộc về nhóm chủng tộc "hạ đẳng" trong hai dòng máu ấy.
Đến từ miền nam, nó được xem là định nghĩa chuẩn trên toàn quốc, được cả người da trắng lẫn người da đen chấp nhận – vì những lý do khác nhau.
Người ủng hộ quyền tối thượng của người da trắng, tức người chủ trương kỳ thị chủng tộc, xem bất cứ ai có nguồn gốc châu Phi da đen là thua kém về đạo đức và trí tuệ, như thế là thuộc thành phần hạ đẳng. Trong thời kỳ nô lệ, do những động cơ kinh tế giới chủ nô tìm mọi cách nâng cao đến mức tối đa số nô lệ hầu bảo đảm nguồn lao động rẻ tiền trong vào giai đoạn ấy cũng như trong những thập niên kế tiếp.
Trong khi đó, đối với người Mỹ gốc Phi, hệ thống một giọt máu phân biệt con người theo màu da là nhân tố quan trọng đóng góp cho tinh thần đoàn kết trong các cộng đồng chủng tộc thiểu số. Người Mỹ gốc Phi chia sẻ với nhau nhiều điều trong xã hội, và vì vậy có chung một chính nghĩa - bất kể những pha trộn đa chủng hoặc những phân tầng về xã hội và kinh tế.
Người Mỹ da trắng, người da đỏ, người Á châu hoặc Ả Rập vẫn không được nhìn nhận là người Mỹ gốc Phi sinh sống ở Hoa Kỳ, dù cho tổ tiên của họ di cư từ lục địa Phi. Trong một số trường hợp, có những người da trắng Nam Phi, người Bắc Phi gốc Âu hoặc người Á đến từ Phi châu tự đồng hoá mình với người Mỹ gốc Phi hầu có thể hưởng lợi từ luật Affirmative Action (dành đặc quyền cho các chủng tộc thiểu số) hoặc những chương trình khác, nhưng luận điểm của họ thường không đứng vững.
Thống kê
Bảng kê dưới đây biểu thị số người Mỹ gốc Phi trải qua các thời đại, dựa trên số liệu của Văn phòng Thống kê Hoa Kỳ (Từ năm 1920 đến 2000 dựa trên số liệu của Văn phòng Thống kê Hoa Kỳ, phổ biến bởi Time Almanac năm 2005, trang 377)
Ghi chú: Theo Dữ liệu Thống kê CIA, năm 2005, tỷ lệ này là 13,5%
Chú thích
Đọc thêm
Jack Salzman, ed., Encyclopedia of Afro-American culture and history, New York, NY: Macmillan Library Reference USA, 1996
African American Lives, edited by Henry L. Gates, Evelyn Brooks Higginbotham, Oxford University Press, 2004 - more then 600 biographies
From Slavery to Freedom. A History of African Americans, by John Hope Franklin, Alfred Moss, McGraw-Hill Education 2001, standard work, first edition in 1947
Black Women in America - An Historical Encyclopedia, Darlene Clark Hine (Editor), Rosalyn Terborg-Penn (Editor), Elsa Barkley Brown (Editor), Paperback Edition, Đại học Indiana Press 2005
van Sertima, Ivan "They Came Before Columbus" |
Himalaya hay Hy Mã Lạp Sơn là một dãy núi ở châu Á, phân chia tiểu lục địa Ấn Độ khỏi cao nguyên Tây Tạng. Mở rộng ra, đó cũng là tên của một hệ thống núi hùng vĩ bao gồm cả Himalaya theo đúng nghĩa của từ này, Karakoram, Hindu Kush và các dãy núi nhỏ khác trải dài từ dãy núi Pamir. Tên gọi này bắt nguồn từ tiếng Sanskrit , một từ kép mang ý nghĩa "nơi ở của tuyết" (từ chữ "tuyết", và "nơi ở"; xem thêm Himavat).
Himalaya là dãy núi cao nhất Trái Đất và là nơi của 14 đỉnh núi cao nhất thế giới: các đỉnh cao trên 8.000 m, bao gồm cả đỉnh Everest. Để thấy được kích thước khổng lồ của những đỉnh núi trong dãy Himalaya, có thể so với đỉnh Aconcagua trong dãy Andes, với độ cao 6.962 m, là đỉnh cao nhất bên ngoài Himalaya, trong khi hệ thống núi Himalaya có trên 50 ngọn núi khác nhau đạt chiều cao vượt quá 7.200 m. Dãy Himalaya cũng là nơi khởi nguồn của 3 hệ thống sông lớn trên thế giới, đó là lưu vực các sông như sông Ấn, sông Hằng-Brahmaputra và sông Dương Tử. Khoảng 750 triệu người sống trên lưu vực của các con sông bắt nguồn từ dãy Himalaya, tính luôn cả Bangladesh.
Được nâng lên bởi sự hút chìm của mảng kiến tạo Ấn Độ dưới mảng Á-Âu, dãy Himalaya chạy theo hướng tây-tây bắc đến đông-đông nam trong một vòng cung dài 2.400 km (1.500 mi). Neo phía tây của nó, Nanga Parbat, nằm ngay phía nam của khúc quanh cực bắc của sông Indus. Neo phía đông của nó, Namcha Barwa, nằm ở phía tây của khúc quanh lớn của sông Yarlung Tsangpo (thượng nguồn của sông Brahmaputra). Dãy núi Himalaya giáp phía tây bắc bởi dãy Karakoram và dãy Hindu Kush. Ở phía bắc, chuỗi được tách ra khỏi cao nguyên Tây Tạng bởi một thung lũng kiến tạo rộng 50–60 km (31-37 mi) được gọi là Indus-Tsangpo. Hướng về phía nam vòng cung của dãy Himalaya được bao quanh bởi Đồng bằng Ấn-Hằng rất thấp. Phạm vi thay đổi về chiều rộng từ 350 km (220 mi) ở phía tây (Pakistan) đến 150 km (93 mi) ở phía đông (tỉnh Arunachal Pradesh). Himalaya khác biệt với các dãy lớn khác của Trung Á, mặc dù đôi khi thuật ngữ 'Himalaya' (hay 'Đại Hy Mã Lạp Sơn') được sử dụng một cách ít thông dụng hơn để bao gồm Karakoram và một số phạm vi khác.
Dãy Himalaya có 52,7 triệu người sinh sống, trải khắp 5 quốc gia: Bhutan, Trung Quốc, Ấn Độ, Nepal và Pakistan. Phạm vi Hindu Kush ở Afghanistan và Hkakabo Razi ở Myanmar thường không được tính, nhưng cả hai đều có (cùng với Bangladesh) một phần của hệ thống sông Hindu Kush Himalaya (HKH). Himalaya có ảnh hưởng sâu sắc đến khí hậu của khu vực, giúp giữ mưa gió mùa trên đồng bằng Ấn Độ và hạn chế lượng mưa trên cao nguyên Tây Tạng. Himalaya đã định hình sâu sắc các nền văn hóa của tiểu lục địa Ấn Độ, với nhiều đỉnh núi thuộc dãy núi Himalaya được coi là linh thiêng trong Ấn Độ giáo, Phật giáo và Kỳ Na giáo.
Tên gọi
Tên của phạm vi bắt nguồn từ tiếng Phạn Himālaya (हिमालय, "Nơi ở của tuyết"), từ himá (हिम, "tuyết") và ā-laya (आलय, "nơi ở, nơi trú ngụ"). Hiện tại chúng được gọi là "Dãy núi Himalaya", thường được rút ngắn thành "Himalaya". Trước đây, chúng được mô tả theo số ít là Himalaya và được biểu hiện dưới dạng Himavan trong các tác phẩm cũ. Điều này trước đây cũng được phiên âm là Himmaleh, như trong thơ của Emily Dickinson và các bài tiểu luận của Henry David Thoreau.
Những ngọn núi được biết đến với tên gọi là Himālaya trong tiếng Nepal và tiếng Hindi (cả hai đều được viết là हिमालय), hay dãy núi tuyết '(ཧི་མ་ལ་ཡ་) ở Tây Tạng, dãy núi Himāliya (tiếng Urdu: سلسلہ کوہ ہمالیہ) trong tiếng Urdu và dãy núi Ximalaya (tiếng Trung giản thể: 喜马拉雅山脉; tiếng Trung phồn thể: 喜馬拉雅山脈; bính âm: Xǐmǎlāyǎ Shānmài) trong tiếng Trung Quốc. (Tiếng Quảng Đông: hei-mã-lai-ngã san-mặk (hei1 maa5 laai1 ngaa5 saan1 mak6).)
Địa lí
Dãy Himalaya bao gồm các dãy núi song song: Đồi Sivalik ở phía nam; dãy Himalaya thấp hơn; dãy núi Đại Himalaya, là dãy cao nhất và trung tâm; và dãy Himalaya ở phía bắc. Karakoram thường được coi là tách biệt với dãy Himalaya.
Ở giữa đường cong lớn của dãy núi Himalaya nằm trên đỉnh Dhaulagiri và khối núi Annapurna ở Nepal cao 8.000 m (26.000 ft) ở Nepal, cách nhau bởi Hẻm núi Kali Gandaki. Hẻm núi phân chia dãy Himalaya thành các phần phía tây và phía đông cả về mặt sinh thái và địa lý - đường đèo ở đầu Kali Gandaki, Kora La là điểm thấp nhất trên đường vòng giữa Everest và K2 (đỉnh cao nhất của dãy Karakoram và Pakistan). Về phía đông của Annapurna là các đỉnh Manaslu cao 8.000 m (5,0 dặm) và qua biên giới ở Tây Tạng, Shishapangma. Ở phía nam của nó nằm ở thủ đô Kathmandu của Nepal và là thành phố lớn nhất ở dãy Himalaya. Phía đông thung lũng Kathmandu là thung lũng của sông Bhote/Sun Kosi dâng lên ở Tây Tạng và cung cấp tuyến đường bộ chính giữa Nepal và Trung Quốc - Xa lộ Araniko/Quốc lộ Trung Quốc 318. Xa hơn về phía đông là dãy núi Mahalangur với bốn trong số sáu những ngọn núi cao nhất thế giới, bao gồm cả cao nhất: Cho Oyu, Everest, Lhotse và Makalu. Vùng Khumbu, một nơi phổ biến cho môn trekking, được tìm thấy ở đây trên các phương pháp phía tây nam đến Everest. Sông Arun thoát các sườn phía bắc của những ngọn núi này, trước khi quay về phía nam và chảy đến phạm vi phía đông của Makalu.
Ở vùng viễn đông của Nepal, dãy Himalaya nổi lên khối núi Kanchenjunga ở biên giới với Ấn Độ, ngọn núi cao thứ ba trên thế giới, đỉnh núi cao nhất 8.000 m (26.000 ft) và là điểm cao nhất của Ấn Độ. Phía đông của Kanchenjunga thuộc bang Sikkim của Ấn Độ. Trước đây là một Vương quốc độc lập, nó nằm trên tuyến đường chính từ Ấn Độ đến Lhasa, Tây Tạng, đi qua đèo Nathu La vào Tây Tạng. Phía đông Sikkim là Vương quốc Phật giáo cổ đại của Bhutan. Ngọn núi cao nhất ở Bhutan là Gangkhar Puensum, đây cũng là một ứng cử viên nặng ký cho ngọn núi chưa được chinh phục cao nhất thế giới. Dãy Himalaya ở đây đang ngày càng trở nên gồ ghề với những thung lũng dốc rừng rậm rạp. Himalaya tiếp tục, quay nhẹ về phía đông bắc, qua bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ cũng như Tây Tạng, trước khi đi đến kết thúc ở đỉnh Namche Barwa, nằm ở Tây Tạng bên trong khúc quanh lớn của sông Yarlung Tsangpo. Ở phía bên kia của Tsangpo, về phía đông, là những ngọn núi Kangri Garpo. Tuy nhiên, những ngọn núi cao ở phía bắc của Tsangpo, bao gồm cả Gyala Peri, đôi khi cũng được đưa vào dãy Himalaya.
Đi về phía tây từ Dhaulagiri, miền tây Nepal có phần xa xôi và thiếu những ngọn núi cao lớn, nhưng là nơi có hồ Rara, hồ lớn nhất ở Nepal. Sông Karnali dâng lên ở Tây Tạng nhưng cắt qua trung tâm của khu vực. Xa hơn về phía tây, biên giới với Ấn Độ theo sông Sarda và cung cấp một tuyến giao thương vào Trung Quốc, nơi trên cao nguyên Tây Tạng là đỉnh cao của Gurla Mandhata. Ngay bên kia hồ Manasarovar từ đây là núi Kailash linh thiêng, nằm sát nguồn của bốn con sông chính của dãy Himalaya và được tôn sùng trong Ấn Độ giáo, Phật giáo, Sufism, Kỳ Na giáo và Bonpo. Ở bang Uttarakhand mới được thành lập của Ấn Độ, dãy Himalaya lại nổi bật trở lại ở huyện Kumaon với các đỉnh núi cao Nanda Devi và Kamet. Bang này cũng là một điểm đến hành hương quan trọng, với nguồn gốc của sông Hằng tại Gangotri và Yamuna tại Yamunotri, và các đền thờ tại Badrinathpuri và Kedarnath.
Tiểu bang tiếp theo của dãy núi Himalaya, Himachal Pradesh, được ghi nhận là các trạm đồi, đặc biệt là Shimla, thủ đô mùa hè của Raj thuộc Anh và Dharmasala, trung tâm của cộng đồng Tây Tạng lưu vong ở Ấn Độ. Khu vực này đánh dấu sự khởi đầu của sông Punjab Himalaya và sông Sutlej, nơi đông đúc nhất trong năm nhánh của Ấn Độ, cắt ngang qua phạm vi ở đây. Xa hơn về phía tây, dãy Himalaya hình thành phần lớn phần phía nam của các lãnh thổ Liên minh do Ấn Độ quản lý là Jammu, Kashmir và Ladakh. Đỉnh núi đôi của Nun Kun là những ngọn núi duy nhất cao trên 7.000 m (4,3 dặm) trong phần này của dãy Himalaya. Bên dưới là thung lũng Kashmir nổi tiếng và thị trấn và hồ Srinagar. Cuối cùng, dãy Himalaya đạt đến điểm cuối phía tây của chúng ở đỉnh Nanga Parbat cao hơn 8.000 m (26.000 ft) trên thung lũng Indus. Đầu phía tây chấm dứt tại một địa điểm hùng vĩ gần Nanga Parbat ("núi sát thủ"), nơi các dãy Karakoram, Himalaya và Hindu Kush giao nhau. Nó nằm ở vùng Gilgit-Baltistan của Kashmir do Pakistan quản lý.
Các đỉnh nổi tiếng
Địa chất
Himalaya là một trong những dải núi trẻ nhất trên Trái Đất và bao gồm chủ yếu là các đá trầm tích và đá biến chất được nâng lên. Theo học thuyết kiến tạo mảng, sự hình thành của nó là kết quả của sự va chạm lục địa hoặc tạo núi dọc theo ranh giới hội tụ giữa mảng Ấn-Úc và mảng Á-Âu. Dải núi này được xem là núi nếp uốn.
Sự va chạm bắt đầu vào Creta thượng cách đây khoảng 70 triệu năm, khi mảng Ấn-Úc chuyển động về phía bắc với vận tốc khoảng 15 cm/năm và va chạm với mảng Á-Âu.Cách đây khoảng 50 triệu năm, mảng Ấn-Úc này đã đóng kín hoàn toàn đại dương Tethys, sự tồn tại của đại dương này được xác định thông qua các đá trầm tích lắng đọng trên đáy đại dương, và các núi lửa ở rìa của nó. Vì các trầm tích này nhẹ nên nó được nâng lên thành núi thay vì bị chìm xuống đáy đại dương. Mảng Ấn-úc tiếp tục di chuyển theo chiều ngang bên dưới cao nguyên Thanh Tạng làm cho cao nguyên này nâng lên. Cao nguyên Arakan Yoma ở Myanma và quần đảo Andaman và Nicobar thuộc vịnh Bengal cũng được hình thành do sự va chạm này.
Mảng Ấn-Úc vẫn đang chuyển động với tốc độ 67 mm/năm, và hơn 10 triệu năm nữa nó sẽ đi sâu khoảng 1.500 km vào châu Á. Khoảng 20 mm/năm của sự hội tụ Ấn-Á theo đứt gãy dọc theo sườn phía nam của Himalaya. Điều này làm cho Himalaya nâng cao khoảng 5 mm/năm. Sự chuyển động của mảng Ấn Độ vào mảng châu Á cũng gây ra các hoạt động địa chấn như động đất thường xuyên ở khu vực này.
Trong kỷ băng hà cuối cùng, có một dòng sông băng kết nối giữa Kangchenjunga ở phía đông và Nanga Parbat ở phía tây. Ở phía tây, các sông băng kết hợp với mạng lưới băng ở Karakoram và ở phía bắc, chúng đã hợp nhất với khối băng cũ ở nội địa Tây Tạng. Ở phía nam, các sông băng chảy ra đã kết thúc dưới độ cao 1.000-2.000 m (3.300-6.600 ft). Trong khi các sông băng thung lũng hiện tại của dãy Himalaya có chiều dài tối đa 20 đến 32 km (12 đến 20 mi), một số sông băng thung lũng chính dài 60 đến 112 km (37 đến 70 dặm) trong thời kỳ băng hà. Đường băng tuyết của sông băng (độ cao nơi sự tích lũy và mài mòn của sông băng được cân bằng) thấp hơn khoảng 1.400-1.660 m (4.590-55050) so với hiện nay. Do đó, khí hậu lạnh hơn ít nhất 7,0 đến 8,3 °C (12,6 đến 14,9 °F) so với hiện nay.
Thủy văn
Mặc dù quy mô của chúng, dãy Himalaya không tạo thành một lưu vực lớn và một số dòng sông cắt ngang qua phạm vi, đặc biệt là ở phía đông của phạm vi. Do đó, sườn núi chính của dãy Himalaya không được xác định rõ ràng và đường đèo núi không có ý nghĩa đối với việc vượt qua phạm vi như với các dãy núi khác. Các con sông của dãy Himalaya chảy vào hai hệ thống sông lớn:
Các sông phía tây, trong đó Sông Ấn là sông lớn nhất, tạo thành thung lũng sông Ấn. Sông Ấn bắt nguồn từ Tây Tạng tại nơi giao nhau của các sông Sengge và Gar và chảy về phía tây nam qua Ấn Độ và sau đó qua Pakistan để vào biển Ả Rập. Nó được cấp nước thêm từ Sông Jhelum, Chenab, Ravi, Beas, và sông Sutlej, cùng với các sông khác.
Hầu hết các sông khác của Himalaya chảy vào thung lũng sông Hằng-Brahmaputra. Các sông chính gồm Sông Hằng, Brahmaputra và Yamuna, cũng như các chi lưu khác. Brahmaputra bắt nguồn từ sông Yarlung Tsangpo ở tây Tây Tạng, và chảy về phía đông qua Tây Tạng và về phía tây qua các đồng bằng Assam. Sông Hằng và Brahmaputra gặp nhau ở Bangladesh, và chảy vào Vịnh Bengal qua châu thổ lớn nhất thế giới Sundarbans.
Sông băng
Himalaya là nơi tích tụ băng và tuyết lớn thứ 3 trên thế giới chỉ sau Nam Cực và Bắc Cực. Dãy Himalaya kéo dài qua khoảng 15.000 sông băng với khoảng 12.000 km³ nước ngọt. Các sông băng như Gangotri và Yamunotri (Uttarakhand) và Khumbu (khu vực đỉnh Everest), Langtang (vùng Langtang) và Zemu (Sikkim).
Do nằm gần chí tuyến Bắc, ranh giới băng tuyết vĩnh cửu của Himalaya nằm ở đường có độ cao lớn nhất trên thế giới trong khoảng . Ngược lại, các núi ở xích đạo thuộc New Guinea, Rwenzoris và Colombia có đường băng tuyết thấp hơn ở độ cao . Các khu vực cao hơn của Himalaya có tuyết phủ quanh năm, mặc dù chúng nằm gần vùng nhiệt đới, và chúng là thượng nguồn của các con sông lớn có dòng chảy quanh năm.
Trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã theo dõi sự gia tăng đáng chú ý về tốc độ rút lui của sông băng trên toàn khu vực do hậu quả của biến đổi khí hậu. Ví dụ, các hồ băng đã hình thành nhanh chóng trên bề mặt các sông băng phủ đầy mảnh vụn ở dãy núi Himalaya trong suốt vài thập kỷ qua. Mặc dù tác dụng của việc này sẽ không được biết đến trong nhiều năm, nhưng nó có thể có nghĩa là thảm họa đối với hàng trăm triệu người sống dựa vào sông băng để nuôi sống các dòng sông trong mùa khô.
Hồ
Khu vực Himalaya có đến hàng trăm hồ. Hầu hết các hồ được tìm thấy ở độ cao nhỏ hơn 5.000 m, với kích thước hồ giảm dần theo độ cao. Hầu hết các hồ lớn hơn nằm ở phía bắc của dãy núi chính. Chúng bao gồm hồ nước ngọt linh thiêng Manasarovar, gần núi Kailas với diện tích 420 km2 (160 dặm vuông) và tọa lạc ở độ cao 4.590 m (15.060 ft). Nó chảy vào hồ Rakshastal gần đó với diện tích 250 km2 (97 dặm vuông) và nằm thấp hơn một chút ở độ cao 4.575 m (15,010 ft). Hồ Puma Yumco là một trong những hồ cao nhất trong số các hồ lớn hơn ở độ cao 5.030 m (16.500 ft).
Đi về phía nam của dãy núi, các hồ có kích thước nhỏ hơn. Hồ TIlyicho ở Nepal thuộc khối núi Annapurna là một trong những hồ ở độ cao cao nhất trên thế giới. Hồ Pangong, nằm trên biên giới giữa Ấn Độ và Trung Quốc, và hồ Yamdrok, nằm ở trung tâm Tây Tạng, là hai trong số những hồ có diện tích bề mặt lớn nhất theo thứ tự là 700 km², và 638 km². Các hồ nổi tiếng khác như hồ Phoksundo thuộc vườn quốc gia Shey Phoksundo của Nepal, Hồ Gurudongmar ở Bắc Sikkim, Hồ Gokyo ở quận Solukhumbu, hồ Rara ở phía tây Nepal, và hồ Tsongmo gần biên giới Ấn Độ-Trung Quốc ở Sikkim.
Một vài hồ có khả năng gây nguy hiểm do vỡ hồ băng. Hồ băng Tsho Rolpa ở thung lũng Rowaling thuộc quận Dolakha của Nepal, là hồ đang trong tình trạng nguy hiểm nhất. Hồ nằm ở độ cao đã phát triển đáng kể trong vòng 50 năm qua do băng tan.
Các hồ trên núi được các nhà địa lý gọi là tarn nếu chúng được tạo ra bởi hoạt động của băng giá. Tarn được tìm thấy phổ biến ở các vùng thượng nguồn ở Himalaya có độ cao trên 5.500 m.
Vùng đất ngập nước ôn đới của dãy núi Himalaya cung cấp môi trường sống và nơi sinh sống quan trọng cho các loài chim di cư. Nhiều hồ có độ cao trung bình và thấp vẫn còn được nghiên cứu kém về mặt thủy văn và đa dạng sinh học, như Khecheopalri ở Sikkim Đông dãy Himalaya.
Khí hậu
Kích thước rộng lớn, phạm vi độ cao khổng lồ và địa hình phức tạp của dãy Himalaya có nghĩa là vùng núi này có nhiều loại khí hậu, từ cận nhiệt đới ẩm ở chân đồi đến điều kiện hoang mạc khô, lạnh ở phía Tây Tạng của dãy núi. Đối với phần lớn dãy Himalaya - ở phía nam của những ngọn núi cao, ngoại trừ ở phía tây xa nhất, đặc điểm đặc trưng nhất của khí hậu là gió mùa. Mưa lớn đến vào gió mùa tây nam vào tháng 6 và kéo dài đến tháng 9. Gió mùa có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến giao thông và gây ra những trận sạt lở đất lớn. Nó cũng hạn chế cơ hội du lịch - mùa leo núi và trekking bị giới hạn trong cả trước gió mùa vào tháng Tư/tháng Năm hoặc sau gió mùa vào tháng Mười/tháng Mười Một (mùa thu). Nepal và Sikkim thường được coi là có năm mùa: mùa hè, gió mùa, mùa thu, (hoặc sau gió mùa), mùa đông và mùa xuân.
Nếu theo phân loại khí hậu Köppen, độ cao thấp hơn của dãy Himalaya, đạt đến độ cao trung bình ở miền trung Nepal (bao gồm thung lũng Kathmandu), được phân loại là Cwa, tức khí hậu cận nhiệt đới ẩm với mùa đông khô. Ở những nơi cao hơn, hầu hết các dãy Himalaya có khí hậu cao nguyên cận nhiệt đới (Cwb).
Ở phía tây xa nhất của dãy Himalaya, phía tây thung lũng Kashmir và thung lũng Indus, gió mùa Nam Á không còn là yếu tố chi phối và phần lớn mưa rơi vào mùa xuân. Srinagar nhận được khoảng 723 mm (28 in) khoảng một nửa lượng mưa của các địa điểm như Shimla và Kathmandu, với những tháng ẩm nhất là tháng ba và tháng tư.
Phía bắc của dãy Himalaya, còn được gọi là dãy núi Himalaya Tây Tạng, rất lạnh và khô, nói chung là đặc biệt lộng gió ở phía tây nơi có khí hậu sa mạc lạnh. Thảm thực vật thưa thớt, còi cọc và mùa đông lạnh giá. Hầu hết lượng mưa trong khu vực ở dạng tuyết trong những tháng cuối mùa đông và mùa xuân.
Tác động cục bộ đến khí hậu có ý nghĩa trên khắp dãy Himalaya. Nhiệt độ giảm 6,5 °C (11,7 °F) mỗi khi độ cao tăng thêm 1.000 m (3.300 ft). Điều này dẫn đến sự đa dạng của khí hậu từ khí hậu gần như nhiệt đới ở chân đồi, đến vùng lãnh nguyên và băng tuyết vĩnh cửu ở độ cao lớn hơn. Khí hậu địa phương cũng bị ảnh hưởng bởi địa hình: Phía bên kia của dãy núi nhận được ít mưa hơn trong khi các sườn dốc tiếp xúc với lượng mưa lớn và bóng mưa của những ngọn núi lớn có thể là đáng kể, ví dụ dẫn đến điều kiện sa mạc ở Thượng Mustang. được che chở khỏi những cơn mưa gió mùa bởi các khối núi Annapurna và Dhaulagiri và có lượng mưa hàng năm khoảng 300 mm (12 in), trong khi Pokhara ở phía nam của khối núi có lượng mưa đáng kể (3.900 mm hoặc 150 trong một năm). Do đó, mặc dù lượng mưa hàng năm thường cao hơn ở phía đông so với phía tây, các biến thể địa phương thường quan trọng hơn.
Himalaya có ảnh hưởng sâu sắc đến khí hậu của tiểu lục địa Ấn Độ và cao nguyên Tây Tạng. Chúng ngăn những cơn gió lạnh, khô cằn thổi về phía nam vào tiểu lục địa, khiến phần lớn khu vực Nam Á ấm hơn nhiều so với các vùng ôn đới tương ứng ở các lục địa khác. Nó cũng tạo thành một rào cản cho gió mùa, khiến chúng không di chuyển về phía bắc và gây ra mưa lớn ở vùng Terai. Himalaya cũng được cho là đóng một phần quan trọng trong sự hình thành các sa mạc Trung Á, như sa mạc Taklamakan và sa mạc Gobi.
Sự gia tăng tổn thất băng trên dãy Himalaya trong 40 năm qua đã được chứng minh bằng ảnh vệ tinh. Ngay cả khi mục tiêu 1,5 °C đầy tham vọng sẽ đạt được, sông băng Himalaya dự kiến sẽ mất một phần ba bề mặt của chúng.
Sinh thái
Hệ động và thực vật của Himalaya biến đổi theo khí hậu, lượng mưa, độ cao, và đất. Khí hậu thay đổi từ nhiệt đới ở chân núi đến băng tuyết vĩnh cửu ở những đỉnh cao nhất. Lượng mưa hàng năm tăng từ tây sang đông dọc theo sườn phía nam của dải núi. Sự đa dạng về khí hậu, độ cao, lượng mưa, và đất đai tạo điều kiện cho nhiều quần xã động - thực vật phát triển. Ví dụ như ở những độ cao rất lớn (áp suất thấp) cùng với khí hậu cực lạnh cho phép các sinh vật ái cực, vốn chịu được điều kiện rất khắc nghiệt, sống sót.
Ở độ cao lớn, loài báo tuyết khó phát hiện và từng có nguy cơ tuyệt chủng là loài săn mồi chính của khu vực. Con mồi của nó bao gồm các thành viên của gia đình dê gặm cỏ trên đồng cỏ núi cao và sống trên địa hình đá, đáng chú ý là cừu Bharal đặc hữu hoặc cừu hoang Himalaya. Hươu xạ bụng trắng cũng được tìm thấy ở độ cao lớn. Do thường xuyên bị săn bắt để lấy xạ hương của nó, bây giờ loài hươu này rất hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Các loài động vật ăn cỏ đặc hữu hoặc gần đặc hữu khác bao gồm sóc Marmota, dê núi sừng ngắn Himalaya, bò Tây Tạng, trâu rừng Tây Tạng, sơn dương Himalaya và ban linh Himalaya. Các phân loài sống ở Himalaya đang bị đe dọa nghiêm trọng của loài gấu nâu được tìm thấy lẻ tẻ trên phạm vi cũng như gấu đen châu Á. Trong những ngọn núi hỗn hợp giữa rừng rụng lá và rừng lá kim ở phía đông dãy Himalaya, gấu trúc đỏ kiếm ăn trong những khu rừng tre rậm rạp. Phía dưới các khu rừng dưới chân đồi có một số loài linh trưởng khác nhau, bao gồm cả voọc vàng có nguy cơ tuyệt chủng và voọc xám Kashmir, với các phạm vi bị hạn chế ở phía đông và phía tây của dãy Himalaya. Ngoài ra hổ Bengal cũng thỉnh thoảng sinh sống ở chân đồi, và chúng thậm chí được báo cáo là đã xuất hiện ở độ cao 4,100 m ở một đoạn núi tại Bhutan.
Sự phát triển phong phú của hệ động thực vật thống nhất của Himalaya đang trải qua những thay đổi về hợp phần và cấu trúc do biến đổi khí hậu. Hydrangea hirta là một ví dụ về các loài hoa có thể được tìm thấy trong khu vực này. Sự gia tăng nhiệt động có thể làm cho một số loài chuyển lên sống ở những độ cao cao hơn. Rừng sồi bị thông xâm lấn ở khu vực Garhwal Himalaya. Có một số báo cáo về các loại cây ăn quả và thực vật có hoa thời kỳ đầu ở dạng loài thân gỗ, đặc biệt là rhododendron, táo và Myrica esculenta. Đặc tính dược của một số loài quan trọng có thể bị ảnh hưởng do biến đổi khi hậu.
Văn hóa
Dân số Himalaya thuộc quần thể Himalaya bản địa bị cô lập văn hóa riêng biệt. Những nền văn hóa đó - Ấn Độ giáo (Ấn Độ), Phật giáo (Tây Tạng), Hồi giáo (Afghanistan, Iran) và thuyết vật linh (Miến Điện và Đông Nam Á) - đã tạo ra ở đây một nơi riêng biệt và độc đáo của riêng họ. Sự sắp xếp hiện tại của họ, mặc dù có một vài ngoại lệ, được liên kết với các khu vực địa lý cụ thể và độ cao tương đối mà tại đó chúng xảy ra.
Có nhiều khía cạnh văn hóa của dãy Himalaya. Trong đạo Kỳ Na, Núi Ashtapad ở Himalaya là một nơi linh thiêng nơi Jain Tirthankara đầu tiên, Rishabhdeva được giải thoát. Người ta tin rằng sau khi Rishabhdeva đạt được niết-bàn, con trai của ông, Hoàng đế Bharata Chakravartin, đã xây dựng ba bảo tháp và hai mươi bốn ngôi đền trong số 24 Tirthankara với những thần tượng của họ được đính đá quý ở đó và đặt tên là Sinharndha. Đối với người theo đạo Hindu, dãy Himalaya được nhân cách hóa thành Himavath, cha của nữ thần Parvati. Himalaya cũng được coi là cha đẻ của sông Hằng. Hai trong số những nơi hành hương thiêng liêng nhất đối với người theo Ấn Độ giáo là quần thể đền thờ ở Pashupatinath và Muktinath, còn được gọi là Saligrama vì sự hiện diện của những tảng đá đen thiêng gọi là saligram.
Những người theo đạo Phật cũng đặt tầm quan trọng rất lớn trên những ngọn núi của dãy Himalaya. Paro Taktsang là thánh địa nơi Phật giáo bắt đầu ở Bhutan. Muktinath cũng là nơi hành hương của Phật tử Tây Tạng. Họ tin rằng những cái cây trong khu rừng dương xuất phát từ gậy đi bộ của tám mươi bốn pháp sư Phật giáo Ấn Độ cổ đại hay mahasiddhas. Họ coi saligram là đại diện của vị thần rắn Tây Tạng được gọi là Gawo Jagpa. Sự đa dạng của người dân Himalaya thể hiện theo nhiều cách khác nhau. Nó thể hiện qua kiến trúc, ngôn ngữ và phương ngữ, tín ngưỡng và nghi lễ của họ, cũng như quần áo của họ. Hình dạng và vật liệu của nhà dân phản ánh nhu cầu thực tế và niềm tin của họ. Một ví dụ khác về sự đa dạng giữa các dân tộc ở dãy Himalaya là hàng dệt thủ công hiển thị màu sắc và hoa văn độc đáo cho nền dân tộc của họ. Cuối cùng, một số người rất coi trọng trang sức. Phụ nữ Rai và Limbu đeo khuyên tai vàng lớn và đeo khuyên mũi để thể hiện sự giàu có của họ thông qua trang sức của họ.
Cư dân ở Garhwal, Gorkha và Kumaon cũng tạo thành một nhóm ngôn ngữ khác biệt quan trọng nhưng có phần giống nhau sống ở vùng Garhwal, Nepal và Kumaon của Uttarakhand, tương ứng, với vương quốc của họ phát triển và mở rộng trong các khoảng thời gian khác nhau.
Các tôn giáo trong khu vực
Nhiều nơi thuộc Himalaya thuộc về các tôn giáo có ảnh hưởng như Phật giáo, Ấn Độ giáo, Kỳ Na giáo và Sikh giáo. Địa điểm tôn giáo nổi tiếng nhất là Paro Taktsang, nơi Padmasambhava được cho là đã thành lập nên Phật giáo ở Bhutan. Padmasambhava cũng được tôn thờ như vị thánh quan thầy của Sikkim. Ngoài ra còn có Hồi giáo và Hindhu Shaivite Kashmiri Pandit trong khu vực Kashmir.
Trong Ấn Đọ giáo, Himalaya được nhân cách hóa là vị thần Himavat, cha đẻ của Ganga và Parvati.
Một số địa điểm Phật giáo kim cương thừa tọa lạc ở dãy Himalaya như ở Tây Tạng, Bhutan và ở các vùng thuộc Ấn Độ như Ladakh, Sikkim, Arunachal Pradesh, Spiti và Darjeeling. Nhiều tu viện nằm ở Tây Tạng, bao gồm cả nơi ở của Dalai Lama. Bhutan, Sikkim và Ladakh cũng có rất nhiều tu viện. Có hơn 6.000 tu viện ở Tây Tạng. Hồi giáo Tây Tạng có các thánh đường của họ ở Lhasa và Shigatse.
Tài nguyên
Himalaya là nơi có sự đa dạng của các nguồn dược liệu. Thực vật từ các khu rừng đã được sử dụng trong nhiều thiên niên kỷ để điều trị các tình trạng từ ho đơn giản đến rắn cắn. Các bộ phận khác nhau của cây - rễ, hoa, thân, lá và vỏ cây - được sử dụng làm phương thuốc cho các bệnh khác nhau. Ví dụ, một chiết xuất vỏ cây từ cây pindrow abies được sử dụng để điều trị ho và viêm phế quản. Lá và thân dán từ một cây xạ hương arachne được sử dụng cho các vết thương và như một thuốc giải độc cho vết rắn cắn. Vỏ cây callicarpa arborea được sử dụng cho bệnh ngoài da. Gần một phần năm của thực vật hạt trần, thực vật có hoa và pteridophyte ở dãy Himalaya được tìm thấy có tính chất dược liệu, và nhiều khả năng sẽ được phát hiện.
Hầu hết dân số ở một số nước châu Á và châu Phi phụ thuộc vào cây thuốc để chữa bệnh hơn là thuốc tây. Vì rất nhiều người sử dụng cây thuốc làm nguồn chữa bệnh duy nhất của họ ở dãy Himalaya, nên cây là nguồn thu nhập quan trọng. Điều này góp phần phát triển công nghiệp kinh tế và hiện đại cả trong và ngoài khu vực. Vấn đề duy nhất là người dân địa phương đang nhanh chóng phá rừng trên dãy Himalaya để lấy gỗ, thường là bất hợp pháp. Điều này có nghĩa là số lượng cây thuốc đang giảm dần và một số trong số chúng có thể trở nên hiếm hơn hoặc, trong một số trường hợp, bị tuyệt chủng.
Mặc dù người dân địa phương đã phá hầu hết các phần của các khu rừng ở dãy Himalaya, nhưng vẫn còn một lượng lớn cây xanh từ các khu rừng nhiệt đới đến các khu rừng núi cao. Những khu rừng này cung cấp gỗ làm nhiên liệu và các nguyên liệu thô khác để sử dụng cho các ngành công nghiệp. Ngoài ra còn có nhiều đồng cỏ cho động vật ăn cỏ. Nhiều giống động vật sống ở những ngọn núi này làm như vậy dựa trên độ cao. Ví dụ, voi và tê giác sống ở độ cao thấp hơn của dãy Himalaya, còn được gọi là vùng Terai. Ngoài ra, những động vật được tìm thấy ở những ngọn núi này là nai Kashmir, gấu đen, hươu xạ, voọc và báo tuyết. Bò Tây Tạng cũng được tìm thấy trên những ngọn núi này và thường được người dân thuần hóa để sử dụng như một công cụ để vận chuyển. Tuy nhiên, quần thể của nhiều loài động vật này và vẫn còn những loài khác đang suy giảm và đang trên bờ vực tuyệt chủng.
Himalaya cũng là nguồn cung cấp nhiều khoáng chất và đá quý. Trong số các loại đá thứ ba, là tiềm năng to lớn của dầu khoáng. Có than nằm ở Kashmir, và đá quý nằm ở dãy Himalaya. Ngoài ra còn có vàng, bạc, đồng, kẽm và nhiều loại khoáng sản và kim loại khác nằm ở ít nhất 100 nơi khác nhau trong những ngọn núi này. |
Eliezer "Elie" Wiesel KBE (; 30 tháng 9 năm 1928 ở Sighetu Marmatiei, Vương quốc Romania (lúc đó thuộc Hungary) — 2 tháng 7 năm 2016 ở Boston, Massachusetts) là một nhà triết học, nhà văn, nhà hoạt động chính trị, nhân đạo người gốc Do Thái và là tác giả của 57 cuốn sách, được viết chủ yếu bằng tiếng Pháp và tiếng Anh, bao gồm cả Night, một tác phẩm dựa trên kinh nghiệm của ông khi là tù nhân Do Thái trong các trại tập trung ở Auschwitz và Buchenwald của Đức Quốc xã.
Ông đạt giải Giải Nobel Hòa bình năm 1986 về vai trò gương mẫu trong việc chống lại bạo động, trù dập và kỳ thị chủng tộc. Ngoài ra ông còn được Huy chương Wallenberg năm 1990. Từ năm 1978 ông giảng dạy tại Đại học Boston.
Những tác phẩm nổi tiếng của Wiesel
Night (1958; 2006)
Dawn (1961; 2006)
Day (1962; 2006)
The Oath
Giải thưởng
1968: Giải Médicis
1986: Giải Nobel Hòa bình |
Trong nhiều thập kỷ, trên quan điểm chính trị, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từng được biết đến là một thực thể chính trị đồng nghĩa với Trung Quốc lục địa. Về mặt lịch sử, cái tên đó bao hàm những giai đoạn lịch sử gần đây nhất trong lịch sử Trung Quốc nối tiếp sau các chế độ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm và nền Cộng hoà. Kỷ nguyên chính thức khởi đầu tại Trung Quốc vào ngày 1 tháng 10 năm 1949, sau một chiến thắng toàn diện trong Nội chiến Trung Quốc, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên Quảng trường Thiên An Môn. Kỷ nguyên hiện được gọi là Lịch sử Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Vì thế, giai đoạn lịch sử này kéo dài từ năm 1949 đến hiện nay và bao gồm cả những thập kỷ tranh chấp chính trị, kinh tế và cải cách xã hội, cũng như nhiều phong trào gây ảnh hưởng cả bên trong cũng như trên phạm vi quốc tế.
Quá độ sang Chủ nghĩa Xã hội của Mao Trạch Đông (1949-1976)
Sau cuộc Nội chiến Trung Quốc (國共内戰) và thắng lợi của các lực lượng Mao Trạch Đông (毛澤東) trước Quốc Dân Đảng (國民黨) của Tưởng Giới Thạch (蔣介石), khiến Tưởng phải bỏ chạy tới Đài Loan(台灣), Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 1 tháng 10 năm 1949. Mục tiêu đầu tiên của Mao là thay đổi toàn bộ hệ thống sở hữu đất đai và những cuộc cải cách ruộng đất rộng lớn. Hệ thống sở hữu đất theo kiểu chủ đất phong kiến Trung Quốc cũ cùng những người nông dân làm thuê được thay thế bởi một hệ thống phân chia công bằng hơn có chú ý tới những người nông dân nghèo khổ. Mao nhấn mạnh tới cuộc đấu tranh giai cấp, 1953 ông đã thúc đẩy thực hiện nhiều chiến dịch tiêu diệt tầng lớp chủ đất và tư sản cũ. Đầu tư nước ngoài cũng bị bãi bỏ.
Mao Trạch Đông tin rằng chủ nghĩa xã hội sẽ giành chiến thắng trước mọi lý thuyết xã hội khác. Sau thành công của Kế hoạch Năm năm dựa trên khuôn mẫu Xô viết với nền kinh tế quản lý tập trung hóa hoàn toàn, Mao Trạch Đông đưa ra những dự án đầy tham vọng về Đại nhảy vọt năm 1957, bắt đầu một quá trình chưa từng có nhằm tập trung hóa sản xuất tại các vùng nông thôn. Cùng với các vụ thiên tai, sự chấm dứt viện trợ kinh tế từ phía Liên Xô và một hệ thống quản lý sản xuất cực thô sơ, Đại nhảy vọt kết thúc với nạn đói, trong thời gian đó 20 triệu người đã chết vì nạn đói hoặc thiếu ăn. Sự thất bại của Mao với cuộc Đại nhảy vọt khiến ông mất dần quyền lực trong chính phủ, quyền lực rơi vào tay Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình.
Ở thời Mao Trạch Đông, sự thống nhất và chủ quyền của Trung Quốc lần đầu tiên trong khoảng thời gian một thế kỷ đã được đảm bảo, và những sự phát triển hạ tầng, công nghiệp, chăm sóc y tế, cũng như giáo dục, đã làm tăng tiêu chuẩn sống của người dân thường Trung Quốc. các chiến dịch như Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hoá chủ yếu có mục đích thúc đẩy sự phát triển và "thanh lọc" nền văn hoá, dù những hậu quả của hai chiến dịch đó là to lớn cả về kinh tế và con người, chúng vẫn để lại một "nền tảng" cho quá trình xây dựng và phát triển kinh tế về sau này. Các con số thống kê về số người chết do các chiến dịch của Mao Trạch Đông, có nguyên nhân từ các thảm họa thiên nhiên, nạn đói và các hậu quả hỗn loạn chính trị khác trong thời cầm quyền của Tưởng Giới Thạch.
Để củng cố tính chính thống chủ nghĩa xã hội và tiêu diệt các "nhân tố cũ" của Trung Quốc, cùng lúc ấy đạt được một số mục đích chính trị, Mao Trạch Đông đã bắt đầu cho thực hiện Cách mạng Văn hoá năm 1967. Chiến dịch này ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống Trung Quốc. Các nhóm Hồng Vệ Binh hàng ngày đi hô khẩu hiệu và kể lại các câu nói của Mao Trạch Đông, cũng như truy quét các "tàn dư lạc hậu" trên các đường phố và nhiều công dân bị coi là phản cách mạng. Giáo dục và vận tải công cộng hầu như bị đình chỉ toàn bộ. Nhiều lãnh đạo chính trị nổi bật gồm cả Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, bị thanh trừng và bị coi là "những kẻ theo tư bản". Chiến dịch này chỉ hoàn toàn chấm dứt cùng với cái chết của Mao Trạch Đông năm 1976.
Sự nổi lên của Đặng Tiểu Bình và các cuộc Cải cách Kinh tế (1976-1989)
Cái chết của Mao Trạch Đông kéo theo cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Bè lũ bốn tên, Hoa Quốc Phong, và Đặng Tiểu Bình. Cuối cùng, Đặng Tiểu Bình lên nắm quyền lãnh đạo tối cao Trung Quốc vào năm 1980. Tại phiên họp toàn thể lần thứ ba của Đại hội toàn quốc Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 11, Đặng Tiểu Bình bắt đầu đưa Trung Quốc theo con đường Cải cách Khai phóng (改革開放), các chính sách này bắt đầu bằng việc phi tập thể hóa nông thôn, tiếp đó là các cải cách trong công nghiệp nhằm mục tiêu giảm quản lý tập trung từ chính phủ trong lĩnh vực này. Về vấn đề di sản của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình đưa ra câu nói nổi tiếng "7 phần tốt, 3 phần xấu", và tránh lên án Mao. Đặng Tiểu Bình bảo vệ ý tưởng về Các đặc khu kinh tế (SEZ's), những vùng cho phép đầu tư nước ngoài được rót trực tiếp mà không bị cản trở hay quản lý từ phía chính phủ, hoạt động dựa trên hệ thống tư bản. Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh tầm quan trọng của công nghiệp nhẹ coi đó là bước đệm cần thiết cho việc phát triển những ngành công nghiệp nặng của đất nước.
Những người ủng hộ cải cách đưa ra bằng chứng về sự phát triển ở mức độ cao ở các lĩnh vực tiêu dùng và xuất khẩu của nền kinh tế, sự hình thành một tầng lớp trung lưu thành thị chiếm tới 15% dân số, mức sống cao hơn (thể hiện qua sự tăng trưởng ngoạn mục của mức GDP trên đầu người, chi tiêu tiêu dùng, tuổi thọ, tỷ lệ biết chữ, và tổng mức sản xuất lương thực) và ở mức rộng lớn hơn là các quyền con người và tự do cho người dân thường Trung Quốc, coi đó là minh chứng cho sự thành công của các cuộc cải cách.
Dù tiêu chuẩn cuộc sống đã được cải thiện rõ rệt trong thập kỷ 1980, những cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình vẫn bị chỉ trích rộng rãi. Những người bảo thủ cho rằng một lần nữa Đặng Tiểu Bình lại mở cửa Trung Quốc cho những điều xấu xa từ bên ngoài, và người dân quá thiên về tư duy vật chất, trong khi những người theo chủ trương tự do chỉ trích Đặng Tiểu Bình về lập trường cứng rắn của ông trong lĩnh vực chính trị. Các lực lượng tự do đã bắt đầu bày tỏ thái độ phản kháng bằng nhiều cách khác nhau chống lại thế lực lãnh đạo, và đã dẫn tới Sự kiện Thiên An Môn năm 1989 khiến chính phủ Trung Quốc bị quốc tế lên án. Những chỉ trích về các cuộc cải cách kinh tế, cả trong và ngoài Trung Quốc cho rằng cải cách đã gây ra bất bình đẳng giàu nghèo, ô nhiễm môi trường, tham nhũng tràn lan, thất nghiệp tăng cao, cùng với đó là tình trạng giãn thợ tại các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả cũng như các ảnh hưởng văn hóa xấu khác. Vì thế họ tin rằng văn hóa Trung Hoa đã bị sai lạc, người nghèo trở thành một tầng lớp vô hy vọng bên dưới, và rằng sự ổn định xã hội đang bị đe doạ. Họ cũng tin rằng nhiều cuộc cải cách chính trị, như những động thái chuẩn bị cho những cuộc bầu cử toàn dân, đã không bao giờ trở thành hiện thực. Dù có những quan điểm trái ngược như vậy, hiện nay quan điểm thông thường của người dân với Mao đã có một số cải thiện, ít nhất cũng ở bề ngoài; những hình ảnh về Mao và các chủ đề liên quan tới Mao đã trở thành một thứ mốt, thường được sử dụng trên các mặt hàng mới. Tuy nhiên, con đường hiện đại hóa và tiến tới cải cách kinh tế theo hướng thị trường mà Trung Quốc đã bắt đầu theo đuổi từ đầu thập kỷ 1980 có lẽ không thể đảo ngược. Thậm chí những người chỉ trích những cải cách kinh tế cũng không muốn quay trở lại với cuộc sống hai thập kỷ trước kia, dù sao vẫn cần phải đưa ra một số biện pháp sửa đổi nhằm giảm bớt các ảnh hưởng tiêu cực trên các vấn đề xã hội, một kết quả khác của các cuộc cải cách hiện tại.
Sự phát triển của quyền lực kinh tế ở thế hệ thứ ba (1989-2002)
Sau vụ Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình rút về hậu trường. Trong khi vẫn nắm quyền kiểm soát tối cao, ông chuyển quyền lực sang thế hệ lãnh đạo thứ ba cho Giang Trạch Dân. Dù bị cấm vận thương mại từ bên ngoài, tăng trưởng kinh tế đã một lần nữa đạt mức cao vào giữa thập niên 1990. Các cải cách kinh tế vi mô của Giang Trạch Dân phát triển hơn nữa học thuyết "Chủ nghĩa xã hội kiểu Trung Quốc" của Đặng Tiểu Bình. Cùng lúc đó, giai đoạn cầm quyền của Giang Trạch Dân cũng là thời gian phát triển của nạn tham nhũng trong mọi lĩnh vực đời sống. Thất nghiệp ở mức cao khi các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả bị đóng cửa dọn đường cho các liên doanh mới, cả trong nước và nước ngoài, làm ăn hiệu quả hơn. Hệ thống an sinh xã hội kém cỏi trước kia được đặt trước một thử thách thật sự. Giang Trạch Dân cũng chú tâm tới những phát triển khoa học và công nghệ trong lĩnh vực thám hiểm vũ trụ. Để đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ của một số dân đông đảo, Đập Tam Hiệp được xây dựng, kéo theo một số lượng đông đảo những kẻ ủng hộ lẫn chỉ trích. Ô nhiễm môi trường đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng khi thủ đô Bắc Kinh luôn phải hứng chịu các trận bão cát hậu quả của việc sa mạc hoá.
Thập niên 1990 cũng chứng kiến sự trở lại của hai thuộc địa nước ngoài, Hồng Kông từ tay người Anh năm 1997, và Ma Cao từ Bồ Đào Nha năm 1999. Hồng Kông và Ma Cao tiếp tục được hưởng quyền tự chủ lớn, và có hệ thống kinh tế độc lập của riêng mình. Giang Trạch Dân và Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã có những cuộc viếng thăm cấp quốc gia lẫn nhau, nhưng Quan hệ Trung-Mỹ đã nảy sinh nhiều bất đồng lớn trong giai đoạn cuối thập kỷ này. Hoa Kỳ đã ném bom nhầm vào Đại sứ quán Trung Quốc tại Belgrade năm 1999 do các thông tin tình báo sai lệch. Bên trong Hoa Kỳ, Cox Report cho rằng Trung Quốc đã ăn trộm nhiều thông tin quân sự tối mật từ Hoa Kỳ. Và vào năm 2001, một máy bay do thám Hoa Kỳ đã va chạm với một máy bay chiến đấu Trung Quốc, khiến dân chúng nước này tức giận và căm ghét Hoa Kỳ.
Trên lĩnh vực chính trị, Trung Quốc một lần nữa lại bị lên án vì cấm đoán Pháp Luân Công năm 1999. Những người phản kháng của phong trào tinh thần này ngồi im lặng bên ngoài Trung Nam Hải, yêu cầu đối thoại với những nhà lãnh đạo Trung Quốc. Giang Trạch Dân coi đó là sự đe dọa đối với độc quyền chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc, và đặt ra ngoài vòng pháp luật tất cả mọi nhóm đối lập, trong khi sử dụng các thông tin đại chúng để tuyên truyền rằng đó là sự thờ cúng ma quỷ.
Trái lại, các chính sách kinh tế của Thủ tướng Chu Dung Cơ khiến Trung Quốc vẫn giữ được ổn định và phát triển trong cuộc Khủng hoảng tài chính châu Á. Tăng trưởng kinh tế đạt mức bình quân 8% một năm, giảm sút năm 1998 do hậu quả những trận lũ lụt tại sông Dương Tử. Sau một thập kỷ đàm phán, cuối cùng Trung Quốc đã được chấp nhận gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Tiêu chuẩn sống của người dân đã được cải thiện nhiều với sự tái xuất hiện của tầng lớp trung lưu, dù hố chênh lệch giữa nông thôn và thành thị vẫn còn là vấn đề. Sự chênh lệch giàu nghèo giữa phía Đông và phía Tây tiếp tục nới rộng, buộc chính phủ phải đưa ra chương trình "phát triển phía Tây", với các dự án đầy tham vọng như Đường sắt Thanh Hải-Tây Tạng. Chi phí giáo dục đang ở mức cao hơn bao giờ hết. Tham nhũng tiếp tục lan tràn dù các chiến dịch chống tham nhũng của Thủ tướng Chu Dung Cơ đã tuyên án tử hình nhiều quan chức.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (2002-2013)
Cuộc khủng hoảng lớn nhất tầng lớp lãnh đạo mới của Trung Quốc do Hồ Cẩm Đào lãnh đạo phải đối mặt trong thế kỷ 21 là vấn đề về sức khỏe cộng đồng với đại dịch SARS. Lập trường của Trung Quốc trong cuộc chiến chống khủng bố khiến nước này trở nên gần gũi hơn với Hoa Kỳ, nhưng đã bị chỉ trích khi đàn áp những người theo chủ nghĩa ly khai tại Tân Cương. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng ở mức hai con số và sự phát triển tại các vùng nông thôn đã trở thành mục tiêu quan trọng của chính phủ. Kiểm duyệt thông tin và vị thế chính trị cũng như tương lai Đài Loan vẫn còn chưa chắc chắn. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng khi Hồng Kông và Thượng Hải ngày càng mở rộng và Bắc Kinh tổ chức thành công Thế vận hội Mùa hè 2008.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện nay (2013-hiện nay)
Ngày 15 tháng 11 năm 2012, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 18 đã tiến hành phiên họp đầu tiên sau đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 18 và quyết định bầu Tập Cận Bình làm Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc. Ngày 14 tháng 3 năm 2013, ông được bầu làm Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, kết thúc quá trình chuyển giao quyền lực ở quốc gia đông dân nhất thế giới.
Tập Cận Bình là người ủng hộ phát triển kinh tế thị trường, nhưng khá thận trọng về cải cách chính trị; phát triển Trung Quốc với việc duy trì sự lãnh đạo của đảng cộng sản và việc cần thiết duy trì ổn định xã hội. Quan điểm chung của Tập Cận Bình về người làm "quan" là: "Mỗi cán bộ chính quyền cần phải luôn luôn ghi nhớ: quyền lực của chính quyền nhân dân bắt nguồn từ nhân dân, phải đại biểu cho lợi ích của nhân dân, phải vì nhân dân mưu lợi ích".
Chiến dịch cải cách chống tham nhũng mang tên "Đả hồ diệt ruồi" do Chủ tịch Tập Cận Bình phát động nhận được khen ngợi của nhân dân Trung Hoa, nhưng do các lực cản từ khủng hoảng kinh tế nên uy tín chính trị của Tập Cận Bình đang bị thách thức.
Tới đầu thế kỷ 21, với trên 1,3 tỷ dân, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã trở thành một nhân tố quan trọng trong tương lai thế giới. Năm 2015, Trung Quốc đã vượt Hoa Kỳ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo sức mua tương đương. Nước này đang tiếp tục theo đuổi Giấc mộng Trung Quốc, mục tiêu là trở thành siêu cường số 1 thế giới, giành lại địa vị mà văn minh Trung Hoa từng có được trong quá khứ. |
Duy thức tam thập tụng (zh. 唯識三十頌, sa. triṁśikā-vijñaptimātratāsiddhi-kārikā) là một trước tác của Thế Thân (sa. Vasubandhu, zh. 世親).
Trong tác phẩm "Thành Duy Thức Luận" (成唯識論), Huyền Trang đã dịch phần kệ tụng sang chữ Hán.
Như tên của luận, nội dung chỉ dựa vào khoảng 30 câu tụng mà trình bày xuất sắc giáo lý của Duy thức tông. Đây là trước tác sau cùng trong những năm cuối đời của ngài Thế Thân. Tác phẩm tuy có hình thức là những câu kệ đơn giản nhưng được xem là tập đại thành của tư tưởng Duy Thức, gây ảnh hưởng rất lớn đến hậu thế. Khác với "Duy thức nhị thập luận", Thế Thân đã không tự chú tác phẩm này, nhưng sau khi ngài nhập diệt thì hậu nhân tranh nhau thêm thắt chú giải. Trong các bản chú giải, bản của An Huệ (sa. Sthiramati, zh. 安慧) rất nổi tiếng, và còn lại nguyên điển Phạn ngữ. |
Sân bay Cà Mau là một sân bay nội địa nằm ở thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, một tỉnh cực Nam của Việt Nam.
Vị trí
Sân bay Cà Mau nằm ở số 93, đường Lý Thường Kiệt khóm 5, phường 6, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, phía tây cách trung tâm thành phố Cà Mau khoảng 3 km, phía đông cách biển khoảng 45 km. Từ Quốc lộ 1 (đường Lý Thường Kiệt) vào đến sân bay 100 m.
Tọa độ sân bay (Hệ WGS-84): 9°10’38,956’’N; 105°10’33,476’’E.
Đặc điểm
Cảng hàng không Cà Mau là sân bay vệ tinh, trực thuộc Cụm cảng Hàng không miền Nam. Đây là sân bay hàng không dân dụng cấp 3C có khả năng tiếp nhận các loại máy bay như ATR-72, AN-2, MI-17, KingAir B200 và các loại máy bay khác có trọng tải cất cánh tương đương.
Cảng hàng không Cà Mau có:
AFS: VVCMYDYX
SITA: SGNAAXH
Mã cảng hàng không (SITA code): CAH.
Nhà ga hành khách với diện tích 2.233 m².
Đường hạ cất cánh (Runway) với 1 đường băng cất – hạ cánh với chiều dài là 1.500 m; rộng 30 m.
Sân đỗ tàu bay (Apron): Diện tích 7.200 m².
Năng lực đáp ứng năng lực phục vụ hai chuyến bay ATR72 giờ cao điểm.
Giờ phục vụ: 12/24h.
Lịch sử
Sân bay Cà Mau được xây dựng từ thời Pháp, còn gọi là phi trường Moranc, tại thị trấn Quản Long, tỉnh An Xuyên (nay là tỉnh Cà Mau). Khi đó, đường hạ, cất cánh dài 400 mét, rộng 16 mét.
Tháng 6 năm 1962, sân bay này được thiết kế lại với quy mô là 1 sân bay hạng G. Diện tích sân bay là 91,61 hecta, đường hạ cất cánh dài 1050 mét, rộng 30 mét với mục đích phục vụ cho Quân lực Việt Nam Cộng hoà và Không lực Hoa Kỳ với các loại máy bay như trực thăng, L19, OV10, Dakota, C130 lên xuống.
Sau khi tiếp quản năm 1975, Tổng cục trưởng Tổng cục Hàng không dân dụng Việt Nam Phùng Thế Tài đã ký quyết định số 1525-QĐ-TC về việc tổ chức biên chế các đơn vị trực thuộc sân bay Tân Sơn Nhất, trong đó nêu rõ sân bay Quản Long thuộc sự quản lý của Cụm sân bay Tân Sơn Nhất và được gọi là Cảng Hàng không Cà Mau. Tuy nhiên, sân bay bị bỏ hoang một thời gian dài đến năm 1995 mới khôi phục chuyển sang mục đích dân sự.
Năm 1995, Cụm cảng Hàng không miền Nam tiến hành nâng cấp, xây dựng mới nhà ga và khu nhà văn phòng Cảng Hàng không Cà Mau.
Năm 1999, đường hạ cất cánh, đường lăn, sân đậu tiếp tục được nâng cấp và kéo dài với quy mô đường hạ cất cánh đạt chiều dài 1.500 m, rộng 30 m, bề mặt phủ bê tông nhựa đảm bảo tiếp nhận các loại máy bay ATR72 và các máy bay tương đương.
Ngày 13 tháng 12 năm 2003, Cụm cảng hàng không miền Nam khởi công dự án xây dựng nhà ga cảng Hàng không Cà Mau, với diện tích xây dựng 2.233 m², trong đó diện tích sàn tầng trệt: 1.485 m², diện tích sàn tầng lửng: 748 m².
Từ tháng 5 năm 2004, Công ty Bay dịch vụ hàng không – VASCO đã khai thác tuyến bay SGN – CMA – SGN. Lịch bay thường lệ là từ thứ hai đến chủ nhật hàng tuần.
Năm 2021, đường hạ cất cánh, đường lăn, sân đậu tiếp tục được nâng cấp và kéo dài với quy mô đường hạ cất cánh đạt chiều dài 2.300 m, rộng 35 m, bề mặt phủ bê tông nhựa đảo tiếp nhận các loại máy bay E190LR, E195 và các máy bay tương đương.
Ngày 29 tháng 4 năm 2023, chuyến bay số hiệu QH1281 của Hãng hàng không Bamboo Airways hạ cánh xuống sân bay Cà Mau, đánh dấu mốc lần đầu tiên trong lịch sử có đường bay thẳng kết nối Thủ đô Hà Nội và Cà Mau.
Năm 2025, đường hạ cất cánh, đường lăn, sân đậu tiếp tục được nâng cấp và kéo dài với quy mô đường hạ cất cánh đạt chiều dài 2.300 m, rộng 35 m, bề mặt phủ bê tông nhựa đảo tiếp nhận các loại máy bay A220, A319, A320 và các máy bay tương đương.
Thống kê
Các điểm đến và các hãng hàng không
Hiện tại, Cảng hàng không Cà Mau phục vụ cho Hãng Hàng không (VASCO) khai thác đường bay TP. Hồ Chí Minh – Cà Mau – TP. Hồ Chí Minh.
Định hướng phát triển
Theo Quyết định phê duyệt quy hoạch tổng thể Cảng Hàng không Cà Mau – giai đoạn đến 2015, định hướng đến 2025 của Bộ giao thông vận tải, Cảng Hàng không Cà Mau đến năm 2015 sẽ là cảng hàng không cấp 3A (theo mã chuẩn của Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế ICAO) và sân bay quân sự cấp I, trong đó đường hạ cất cánh hiện tại sẽ được kéo dài đạt kích thước 2750m x 38m, đảm bảo tiếp nhận các loại máy bay như ATR-72, F70, Embraer E190 và tương đương với số máy bay tiếp nhận tại giờ cao điểm là 2; Lượng hành khách tiếp nhận là 200.000 lượt hành khách/năm, lượng khách giờ cao điểm: 150 hành khách/giờ cao điểm.
Đến giai đoạn 2025-2030, Cảng Hàng không Cà Mau sẽ là cảng hàng không cấp 4C, xây dựng đường hạ cất cánh mới 3800m x 50m, đảm bảo khai thác máy bay A321/A330/B777/B767 và tương đương với số máy bay tiếp nhận tại giờ cao điểm là 15; Lượng hành khách tiếp nhận là 16 triệu lượt hành khách/năm, lượng khách giờ cao điểm là 4000 hành khách/giờ cao điểm.
Giai đoạn 2025 - 2035, sân bay này giữ nguyên quy mô sân bay dân dụng cấp 4E, nhưng nâng công suất thiết kế lên 40 triệu khách/năm. |
Sân bay quốc tế Long Thành là một sân bay quốc tế đang trong quá trình xây dựng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 40 km về hướng Đông. Với công suất lên đến 100 triệu hành khách/năm khi hoàn tất cả 3 giai đoạn, đây sẽ là sân bay lớn nhất Việt Nam trong tương lai.
Ngày 11 tháng 11 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ký Quyết định số 1777/QĐ–TTg phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng Sân bay quốc tế Long Thành giai đoạn 1 (một nhà ga công suất 25 triệu khách/năm, một đường cất hạ cánh 4000 m x 75 m, một đài kiểm soát không lưu cao khoảng 123 m, và các công trình liên quan khác), dự kiến triển khai công tác thiết kế và hoàn thành xây dựng trong giai đoạn 2020-2025.
Ngày 5 tháng 1 năm 2021, dự án sân bay Long Thành chính thức khởi công xây dựng giai đoạn 1 với sự tham dự của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT và các ban ngành liên quan. Giai đoạn 1 của dự án này được dự kiến sẽ khánh thành năm 2026.
Bối cảnh ra đời dự án
Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất hiện là sân bay quốc tế duy nhất phục vụ Vùng đô thị TP. Hồ Chí Minh theo quy hoạch, là vùng kinh tế năng động nhất cả nước với dân số vùng đô thị này dự kiến đạt 20-22 triệu người vào năm 2020, tỷ lệ dân thành thị dự kiến khoảng 77% tổng dân số. Sân bay Tân Sơn Nhất vốn được xây dựng trong chiến tranh Việt Nam nhằm mục đích phục vụ cho các hoạt động dân sự và quân sự. Vị trí sân bay Tân Sơn Nhất nằm trong khu vực nội đô vốn đông đúc và chật chội, do đó khả năng mở rộng và đảm bảo an toàn bay là rất hạn chế và khó khăn, chưa kể tiếng ồn của các chuyến bay nơi đây sẽ khiến cuộc sống của người dân quanh đó bị ảnh hưởng.
Trong khi đó số lượng khách quốc tế đến Việt Nam lại tăng nhanh qua từng năm, mức tăng trưởng lượng khách vào khoảng 15-20% trung bình mỗi năm và thị trường hàng không quốc nội đầy tiềm năng (dân số Việt Nam vào năm 2010 là hơn 89 triệu dân theo báo cáo của CIA nhưng chưa đến 20% người dân đi lại bằng đường hàng không). Ngoài ra, chính phủ Việt Nam nhận thấy rằng, cần phải có một sân bay với quy mô lớn nhằm cạnh tranh kinh tế với các cảng hàng không trung chuyển lớn khác trong khu vực Đông Nam Á nói riêng và Châu Á nói chung. Vì thế, ý tưởng về 1 sân bay mới được ra đời nhằm thúc đẩy kinh tế vùng Nam Bộ và cả nước. Công suất tối đa của sân bay Tân Sơn Nhất khoảng 25 triệu lượt khách mỗi năm. Nhưng kể từ năm 2010, trong những đợt cao điểm như Tết Nguyên đán hay nghỉ lễ, số lượt chuyến mỗi ngày đã vượt quá khả năng tiếp nhận 400 lượt chuyến mỗi ngày. Năm 2015, sân bay này đã phục vụ 26,5 triệu lượt khách/năm, dự báo năm 2016 sẽ đạt mức 30 triệu hành khách/năm. Tốc độ tăng trưởng lượng khách trên 18%-20% mỗi năm.
Vị trí địa lý
Theo Quy hoạch tổng thể, vị trí sân bay quốc tế Long Thành nằm tại Bình Sơn, Long Thành, Đồng Nai, cách Thành phố Hồ Chí Minh 40 km về hướng Đông, cách Sân bay Tân Sơn Nhất 43 km, cách thành phố Biên Hoà 30 km về hướng Đông Nam, cách thành phố Vũng Tàu 70 km về hướng Bắc, cạnh Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây và gần Long Thành (thị trấn thuộc huyện Long Thành tỉnh Đồng Nai).
Các thông số kỹ thuật
Theo quy hoạch tổng thể, sau khi hoàn thành sân bay này có 4 đường cất hạ cánh đạt tiêu chuẩn quốc tế mới nhất (dài 4000 m, rộng 60 m) có thể phục vụ các loại máy bay 2 tầng khổng lồ như Airbus A380, Boeing 747-8, có 4 nhà ga rộng lớn và hiện đại có công suất tổng cộng phục vụ 100 triệu khách/năm. Nhà ga hàng hoá công suất 5 triệu tấn/năm. Diện tích đất quanh sân bay vào khoảng 25.000 ha (trong đó diện tích Sân bay quốc tế Long Thành vào khoảng 5.000 ha) và theo kế hoạch thì sân bay Long Thành sẽ là một Cảng trung chuyển hàng không của Việt Nam và quốc tế. Sân bay Long Thành sẽ là 1 sân bay cấp 4F (mức cao nhất) hoặc cao hơn theo tiêu chuẩn của ICAO.
Tổng mức đầu tư giai đoạn I: 6,7447 tỷ USD, chủ đầu tư: Tổng công ty Cảng hàng không Miền Nam. Đơn vị tư vấn thiết kế: Công ty tư vấn sân bay Nhật Bản (JAC). Dự án được triển khai theo 3 giai đoạn chính: 2019 - 2025, 2025 - 2035, 2035 - 2050 và sau 2050. Hiện tại, quy hoạch dự án đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt tại Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14 tháng 6 năm 2011 do Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký.
Kế hoạch khai thác
Nhận thấy Việt Nam cần phải có một sân bay quy mô lớn nhằm cạnh tranh với các sân bay lớn khác trên quốc tế và khu vực Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai có 1 vị trí quá thuận lợi, chính phủ Việt Nam đã định hướng sân bay Long Thành sẽ là một Cảng trung chuyển hàng không và là thủ phủ hàng không của cả nước cũng như trên quốc tế nhằm mục đích thu hút khách quá cảnh và các chuyến bay trung chuyển tại đây để thu lợi về kinh tế, ngoài ra tại đây sẽ là khu trung tâm dịch vụ hàng không trên quốc tế với nhiều dịch vụ như cung ứng xăng dầu, bảo trì, nâng cấp, sửa chữa máy bay... cho các hãng hàng không trong nước và quốc tế. Do đó khả năng đóng góp phát triển kinh tế của sân bay Long Thành là rất lớn, theo nghiên cứu của hãng tư vấn Hansen Partnership của Úc thì sân bay Long Thành sẽ đóng góp được 3 - 5% GDP cả nước.
Khi đi vào hoạt động, sân bay Long Thành sẽ đảm nhiệm 80% tổng lượng khách quốc tế tính luôn cả khách quá cảnh trên các chuyến bay quốc tế và 20% khách quốc nội, trong khi đó sân bay Tân Sơn Nhất sẽ chủ yếu phục vụ các chuyến bay quốc nội với việc đảm nhận 80% khách quốc nội và 20% khách quốc tế nhưng không đảm nhận các chuyến bay trung chuyển cũng như khách quá cảnh trên các chuyến bay quốc tế.
Các giai đoạn phát triển
Theo chủ trương đã được Quốc hội thông qua hồi tháng 6 năm 2015, sân bay Long Thành sẽ được xây dựng với công suất thiết kế 100 triệu hành khách và 5 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Trong đó, việc xây dựng sẽ chia làm 3 giai đoạn.
Tổng mức đầu tư khái toán cho toàn bộ 3 giai đoạn của dự án là 336.600 tỉ đồng (tương đương 16,03 tỉ đô la Mỹ, áp dụng đơn giá của năm 2014). Trong đó, riêng giai đoạn 1 là 114.450 tỉ đồng (tương đương 5,45 tỉ đô la Mỹ).
Mục tiêu mà Bộ GTVT đề ra là sẽ khởi công sân bay Long Thành vào năm 2020, hoàn thành vào năm 2024 và đầu năm 2025 đưa vào khai thác giai đoạn 1.
Giai đoạn 1
Giai đoạn 1, sẽ đầu tư một đường băng và một nhà ga hành khách cùng các hạng mục phụ trợ đồng bộ với công suất 25 triệu hành khách và 1,2 triệu tấn hàng hóa mỗi năm. Tổng mức đầu tư của giai đoạn 1 là 114.451 tỉ đồng (tương đương 5,45 tỉ đô la Mỹ). Chậm nhất đến năm 2025 sẽ hoàn thành và đưa vào khai thác giai đoạn 1.
Giai đoạn 1 khởi công vào 2021, theo Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể.
Các giai đoạn tiếp theo
Giai đoạn 2, tiếp tục đầu tư xây dựng thêm một đường băng cấu hình mở và một nhà ga hành khách để đạt công suất 50 triệu hành khách/năm và 1,5 triệu tấn hàng hóa/năm.
Giai đoạn 3, sẽ hoàn thành các hạng mục của dự án để đạt công suất 100 triệu hành khách/năm và 5 triệu tấn hàng hóa/năm. Khi hoàn thiện, sân bay sẽ có 4 nhà ga và 4 đường băng, dự kiến năm 2035 sẽ hoàn thành.
Quy hoạch Kết nối giao thông
Để phát huy hiệu quả Cảng hàng không quốc tế Long Thành, Bộ Giao thông Vận tải và Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai đã thống nhất quy hoạch kết nối giao thông với sân bay Long Thành bao gồm: Đường sắt nhẹ Thủ Thiêm - Cảng hàng không quốc tế Long Thành, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Long Thành – Dầu Giây (), đường cao tốc Bến Lức – Long Thành (), đường cao tốc Biên Hòa – Vũng Tàu (), hệ thống đường Vành đai 3, Vành đai 4, Tỉnh lộ 25 C (đường Nguyễn Ái Quốc), đường Tôn Đức Thắng được thi công mở rộng lên đến 8 làn xe và dự kiến sẽ hoàn tất vào năm 2020.
Kinh phí
Vốn đầu tư cho dự án được huy động từ nhiều nguồn: Quỹ đầu tư phát triển của Chính phủ, trái phiếu Chính phủ, cổ phần và đầu tư nước ngoài. Giai đoạn từ năm 2011 đến 2014 triển khai báo cáo đầu tư và thu xếp vốn cho dự án. Chi phí xây dựng sân bay theo dự kiến cho đến năm 2050 với 3 giai đoạn là 19 tỷ USD, theo đánh giá là "đắt một cách đáng kinh ngạc".
So sánh phí tổn
Theo TS Nguyễn Lâm Thành (ĐB Quốc hội tỉnh Lạng Sơn), sân bay Đại Hưng (Trung Quốc) có diện tích 4.700ha, tương đương với Long Thành nhưng thiết kế đến 7 đường băng, công suất 100 triệu hành khách/năm và 4 triệu tấn hàng hóa có vốn đầu tư chỉ 11,5 tỉ USD, sân bay Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ), 4 đường băng, công suất 90 triệu lượt hành khách/năm, vốn đầu tư chỉ 12 tỉ USD, cả hai cùng được vận hành năm 2019, ít tốn kém hơn nhiều so với sân bay Long Thành 4 đường băng, công suất 100 triệu lượt hành khách/năm, 5 triệu tấn hàng hóa nhưng vốn đầu tư lên đến 16 tỉ USD.
Tuy nhiên, phân tích mới đây của Bộ GTVT lại cho thấy điều ngược lại. Cụ thể, Bộ GTVT đã so sánh suất đầu tư sân bay Long Thành với các sân bay trên thế giới như:
Dự án sân bay quốc tế Frankfurt (FRA, Đức) giai đoạn 3: khởi công 4-2019, công suất 21 triệu khách/năm có tổng mức đầu tư khoảng 4,5 tỉ USD. Quy đổi tổng mức đầu tư cho công suất 25 triệu khách/năm là khoảng 5,3 tỉ USD.
Dự án sân bay quốc tế Incheon (ICN, Hàn Quốc) giai đoạn 3: khai thác từ tháng 1-2018, công suất 18 triệu khách/ năm có tổng mức đầu tư khoảng 4,3 tỉ USD, mức đầu tư cho công suất 25 triệu khách/năm là khoảng 5,9 tỉ USD.
Như vậy, tổng mức đầu tư dự án sân bay Long Thành giai đoạn 1 công suất 25 triệu khách/năm là 4,692 tỉ USD, nhỏ hơn tổng mức đầu tư FRA giai đoạn 3 và ICN giai đoạn 3. Tuy nhiên, Bộ Giao thông vận tải cũng nhận định việc so sánh tổng mức đầu tư giữa các dự án đầu tư sân bay trên thế giới chỉ mang tính chất tham khảo vì thời điểm xây dựng, mức độ áp dụng công nghệ, quy trình vận hành, khai thác tại mỗi dự án khác nhau; các chính sách về thuế, về nhập khẩu trang thiết bị, các điều kiện thị trường liên quan đến lãi suất, chi phí nhân công, máy móc, nguyên vật liệu tại địa phương đều có ảnh hưởng tới chi phí đầu tư xây dựng...
Thiết kế
Sáng 28/11, 9 phương án kiến trúc nhà ga hành khách Cảng hàng không quốc tế Long Thành được trưng bày bằng mô hình tại Trung tâm triển lãm nghệ thuật Việt Nam, số 2 Hoa Lư, Hà Nội để lấy ý kiến người dân. Bản vẽ phối cảnh cùng các thông tin chi tiết được Bộ GTVT, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam (ACV) thiết kế triển lãm. Đây là các phương án kiến trúc được lựa chọn trong tổng số 16 đơn vị tham gia sơ loại thi tuyển quốc tế. Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng và Bộ GTVT, ACV tổ chức triển khai kế hoạch lấy ý kiến rộng rãi người dân, các tổ chức, chuyên gia về phương án kiến trúc nhà ga hành khách Cảng hàng không quốc tế Long Thành. Sau đó đơn vị chức năng sẽ lựa chọn phương án kiến trúc đạt hiệu quả cao nhất, đưa vào báo cáo nghiên cứu khả thi để xây dựng công trình.
Sau hai tuần triển lãm cùng với những đánh giá của người dân và các chuyên gia, ACV đã quyết định lựa chọn thiết kế LT-03, với hình ảnh bông sen cách điệu được tác giả đưa vào, sử dụng xuyên suốt trong quá trình thiết kế, mái, phối cảnh mặt chính nhà ga, nội thất khu vực quầy làm thủ tục. Bên cạnh đó khu vực nhà để xe ngoài trời, trên mái sử dụng làm công viên cây xanh kết hợp với hồ nước lớn tại vị trí trung tâm cũng lấy ý tưởng hoa sen, làm điểm nhấn cho khu vực này. Phương án bố trí mái sảnh chính với độ vươn lớn. Ngoài ra việc bố trí mái nhỏ tại khu vực cầu cạn tương đối hài hòa (giống như những lớp xếp của bông hoa sen), mang lại cho du khách quốc tế một cảm nhận ban đầu, ấn tượng, lưu giữ về hình ảnh của quốc hoa Việt Nam.
Công ty Heerim Architects & Planners (Hàn Quốc) là đơn vị thiết kế. Công ty này cũng thiết kế nhiều nhà ga lớn như: nhà ga hành khách T2 sân bay Incheon (Hàn Quốc); sân vận động Olympic (Baku); Tòa tháp Kangnam - Trung tâm nghiên cứu & phát triển ở Gangnam, Hàn Quốc.
Vị trí trong khu vực
Vị trí trong khu vực châu Á: Việt Nam được đánh giá có vị trí địa - kinh tế và địa - chính trị quan trọng trong khu vực. Vùng Đông Nam Bộ có vị trí là trung tâm của ASEAN, hoàn toàn có thể trở thành trung tâm trung chuyển hành khách và hàng hoá trong khu vực. Minh chứng mới nhất: Chính phủ Việt Nam đã khởi công Cảng trung chuyển Vân Phong với tổng mức đầu tư lên đến 7 tỷ USD trong tháng 10/2009. Trong vòng 20 năm qua, nền kinh tế Việt Nam đã tăng trưởng nhanh. Ngoài ra, lượng khách du lịch đến Việt Nam cũng tăng nhanh chóng. Khu vực Đông Nam Bộ chiếm 2/3 kim ngạch xuất khẩu của cả nước và có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, lượng vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn.
Ngoài ra, một số dự án du lịch lớn tại tỉnh Lâm Đồng (Đan Kia - Suối Vàng với số vốn 1,2 tỷ USD), các khu nghỉ mát tại Nha Trang và Phan Thiết, các dự án du lịch Bà Rịa – Vũng Tàu được cấp phép hoặc đang tiến hành thủ tục xin phép như: Saigon Atlantis (4,1 tỷ USD), Vungtau Aquarium, Công viên giải trí Bàu Trũng với tổng vốn lên đến 500 triệu USD, Disneyland Saigon cũng là những điểm thu hút khách lớn sử dụng sân bay này. Vùng Đô thị Thành phố Hồ Chí Minh cũng đang phát triển năng động để trở thành một Đại đô thị có dân số lên đến 25 triệu người (Mega Metropolitan Area) bao gồm: TP. HCM và các vệ tinh: Biên Hoà - Vũng Tàu - Thủ Dầu Một - Bà Rịa - Tân An - Tây Ninh - Gò Công - Mỹ Tho.
Các ý kiến phản đối dự án
Tháng 3 năm 2015, tại hội thảo khoa học “Xây mới sân bay Long Thành hay nâng cấp Tân Sơn Nhất”, PGS.TS. Nguyễn Thiện Tống, Chủ tịch Chi hội hàng không thuộc Hội tư vấn Khoa học công nghệ và Quản lý HASCON, nguyên chủ nhiệm bộ môn Kỹ thuật hàng không trường Đại học Bách khoa TP.HCM đã phản biện các ý kiến của bộ Giao thông vận tải:
Ông cho rằng lập luận của bộ GTVT về việc sân bay lớn phải rời xa trung tâm thành phố là không đúng và thiếu cơ sở, bởi theo ông có đến 29 trong số 100 sân bay lớn đông khách nhất thế giới năm 2011 chỉ cách trung tâm thành phố từ 10 km trở xuống.
Về lo ngại sân bay Tân Sơn Nhất sẽ bị quá tải, vượt năng suất thiết kế 25 triệu khách một năm vào 2020 và việc mở rộng sân bay này tốn kém hơn xây mới sân bay Long Thành, ông nhận định hiện nay đường băng cất hạ cánh của Tân Sơn Nhất chưa khai thác hết năng suất: Tân Sơn Nhất có 2 đường băng với chiều dài 3.050 m và 3.800 m, cách nhau 365 m, Sân bay quốc tế Chhatrapati Shivaji ở Mumbai, Ấn Độ, có 2 đường băng cất hạ cánh dài 2.990 m và 3.660 m. Năm 2013 họ đón tới 260.000 chuyến bay, trong khi Tân Sơn Nhất 2013 chỉ đạt 140.000 chuyến bay, bằng 54% sân bay Mumbai.
Theo TS. Nguyễn Bách Phúc, Chủ tịch Hội tư vấn Khoa học công nghệ & quản lý TP.HCM (HASCON) mà đã được Văn phòng Quốc hội và Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã gửi toàn bộ bản báo cáo để nghiên cứu và phân tích cho Quốc hội trước khi kỳ họp diễn ra vào cuối tháng 5/2015 với tên gọi “Báo cáo đầu tư dự án cảng Hàng không Quốc tế Long Thành”:
Sân bay Long Thành nếu nói về tác dụng trung chuyển quốc tế thì chỉ có thể trung chuyển cho mỗi một nước Úc thôi, mà Úc chỉ có 20 triệu dân và ngoài ra tất cả các sân bay ở Đông Nam Á đều có thể trung chuyển cho Úc cả.
Long Thành khó mà có thể cạnh tranh được với những sân bay rất lớn đã có truyền thống ở Đông Nam Á như sân bay Chek Lap Kok (Hồng Kông), sân bay Changi (Singapore), sân bay Kuala Lumpur (Malaysia) hay sân bay Suvarnabhumi (Bangkok, Thái Lan). Sự mong muốn sân bay Long Thành trở thành sân bay trung chuyển quốc tế là không thực tế và từ đó con số 100 triệu hành khách/ năm theo dự báo của “báo cáo đầu tư” cũng là một con số không thực tế.
Theo ông Nguyễn Phụng Tâm (kỹ sư trưởng hãng hàng không Emirates, sân bay Kennedy, New York - Mỹ) lo ngại: “Sân bay Narita ở Nhật cách Tokyo 58 km dù xây rất hiện đại nhưng cũng bị thất thế vì quá xa trung tâm. Có hơn 25 hãng hàng không (trong đó có Vietnam Airlines) vẫn duy trì đường bay thẳng đến sân bay Haneda cách Tokyo 14 km vì gần trung tâm. Kịch bản tương tự có thể xảy ra với sân bay Long Thành.”
Chuyên gia hàng không Lê Trọng Sành, nguyên Trưởng phòng Quản lý sân bay Tân Sơn Nhất cho rằng: “Phía Nam chỉ cần nâng cấp 6 sân bay gồm Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Cam Ranh, Liên Khương, Cần Thơ, Phú Quốc và quản lý hiệu quả là có thể đạt sản lượng 100 triệu khách/năm. Không cần xây sân bay Long Thành quá tốn kém khi nợ công đã lên đến 80 tỉ USD.”
TS Trần Đình Bá (Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam- Hội Kinh tế & vận tải ĐSVN - Hội Kiến trúc sư VN), tại hội thảo về dự án đầu tư Cảng Hàng không quốc tế Long Thành do Cục Hàng không Việt Nam và Báo Lao động tổ chức ở TP HCM ngày 14 tháng 5, nêu hàng loạt vấn đề chưa được làm rõ, như: vốn đầu tư, thời gian hoàn vốn, mức độ tác động đến tăng trưởng GDP... đặc biệt là quy hoạch 4 siêu sân bay cấp 4F, 4E, 3C là Tân Sơn Nhất - Biên Hòa - Nước Trong - Long Thành trên một chu vi có bán kính 23 km thì hướng cất hạ cánh sẽ đâm vào nhau do Vùng tiếp cận cất hạ cánh (TMA) chồng lên nhau. Như vậy về luận chứng kỹ thuật chưa đảm bảo các tiêu chuẩn an toàn.
Quyết định
Ngày 9 tháng 3 năm 2015, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng căn cứ báo cáo của bộ GTVT, kiến nghị Bộ Chính trị đồng ý về chủ trương đầu tư xây dựng sân bay Long Thành. Ngày 7 tháng 5 năm 2015, phát biểu bế mạc hội nghị BCH Trung ương khóa XI lần thứ 11, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết BCH Trung ương tiếp tục khẳng định sự cần thiết, đúng đắn của chủ trương đầu tư xây dựng cảng hàng không trung chuyển quốc tế Long Thành, coi đây là dự án đặc biệt quan trọng cấp quốc gia, có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chủ trương đầu tư xây dựng sân bay Long Thành sau đó được Quốc hội Việt Nam khóa XIII biểu quyết thông qua ngày 25 tháng 6 năm 2015. Trong số 461 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết có 428 ý kiến đồng ý, 17 không đồng ý, 16 bỏ phiếu trống.
Ngày 11/11/2020, Phó thủ tướng Trịnh Đình Dũng ký quyết định phê duyệt dự án đầu tư xây dựng Cảng hàng không quốc tế Long Thành giai đoạn một.
Ngày 30/12/2020, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể xác nhận rằng giai đoạn một của dự án sẽ được khởi công vào ngày 05/01/2021.
Di dân
Theo Sở Tài nguyên - môi trường Đồng Nai (ngày 31 tháng 8 năm 2015), qua thống kê tổng diện tích đất của các hộ gia đình, cá nhân sử dụng trong vùng dự án trên 1.970 ha (chiếm 59% diện tích đất bị thu hồi trong dự án). Số nhân khẩu nằm trong dự án bị ảnh hưởng phải giải tỏa, đền bù lên đến gần 15.000 người. Ngoài ra, có trên 1.920 ha diện tích đất của các công trình tôn giáo, công ty kinh doanh, trụ sở… sẽ bị thu hồi khi thực hiện dự án. Tổng số tiền để thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ cho người dân và các cơ quan tổ chức trên 13.100 tỷ đồng.
Đầu tháng 3 năm 2016, UBND tỉnh Đồng Nai, đơn vị được giao làm chủ đầu tư tiểu dự án tái định cư và giải phóng mặt bằng, cho biết kinh phí cho việc này lên đến trên 18.500 tỉ đồng. Mặc dù vậy, nếu Chính phủ không hỗ trợ thì Đồng Nai cũng sẵn sàng đi vay để thực hiện.
Chiều 19 tháng 6 năm 2017, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về nội dung bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để triển khai cảng hàng không quốc tế Long Thành. Theo đó, ngân sách sẽ dành 23.000 tỷ đồng chi cho công việc nêu trên, gồm xây dựng hạ tầng 2 khu tái định cư và nghĩa trang.
Vào ngày 18 tháng 5 năm 2020, Ủy ban nhân dân xã Bình Sơn đã tổ chức lễ chi trả bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng dự án cản hàng không quốc tế Long Thành.
Ngày 20-10, UBND tỉnh Đồng Nai tổ chức bàn giao đất sạch cho Bộ GTVT để làm dự án sân bay quốc tế Long Thành như cam kết với Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, UBND tỉnh Đồng Nai đã bàn giao hơn 2.589ha cho Bộ GTVT. Trong số diện tích này, có 1.810ha là khu vực ưu tiên mà Đồng Nai đã cam kết trước Thủ tướng Chính phủ bàn giao đúng hạn để khởi công dự án sân bay.
Khởi công dự án
Ngày 25 tháng 6 năm 2015, sau khi Quốc hội thông qua việc xây dựng sân bay Long Thành, Bộ trưởng Bộ GTVT Đinh La Thăng cho biết "có thể khởi công sân bay Long Thành từ năm 2018."
Theo như phê duyệt tiến độ kế hoạch triển khai dự án sân bay Long Thành sẽ là:
Tuy nhiên vào tháng 3 năm 2016, đại diện UBND tỉnh Đồng Nai, đơn vị được giao làm chủ đầu tư tiểu dự án tái định cư và giải phóng mặt bằng, cho biết sớm nhất cũng phải giữa năm 2018 công tác di dân, tái định cư mới được thực hiện và "việc này đòi hỏi ít nhất 3 năm, tức là suôn sẻ nhất thì năm 2021 tỉnh mới có thể bàn giao mặt bằng cho chủ đầu tư khởi công được".
Đầu cơ đất
Thượng tướng Lê Chiêm nêu ý kiến tại phiên thảo luận tổ của Quốc hội sáng 27/10/2017 về báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư Cảng hàng không quốc tế Long Thành: “TP. HCM đổ về Đồng Nai mua đất, đăng ký hết rồi. Người dân ở Long Thành không ở được mà lên Đắk Lắk, Lâm Đồng ở để phát triển kinh tế. Còn đất ở Long Thành họ bán, cán bộ ta mua hết rồi”.
Cùng ngày, đại biểu Trương Trọng Nghĩa (TP.HCM) đặt vấn đề: "Nghị quyết 94 của Quốc hội khóa XIII chủ trương đầu tư dự án cảng hàng không quốc tế Long Thành có nêu trong 5.000 ha đất của dự án có 1.050 ha đất cho quốc phòng. Chính phủ, Quốc hội phải nói rõ về sự cần thiết cấp bách của 1.050 ha đất quốc phòng trong dự án sân bay Long Thành. Phải nêu rõ các công trình sẽ xây ở đây, mục đích rõ ràng và có luận chứng đầy đủ".
Đại biểu quốc hội (ĐBQH) Lưu Bình Nhưỡng khẳng định: “Bây giờ tình trạng đầu cơ đất ở Long Thành rất khủng khiếp. Không chỉ dân hay đầu nậu, mà cán bộ cũng mua để chờ thời. Một số cán bộ ở TP. HCM rồi Đồng Nai và các tỉnh lân cận đã mua đất ở đây”. Theo ông Nhưỡng, tình trạng đầu cơ, găm đất còn dẫn đến chính sách đền bù giải phóng mặt bằng không công bằng: “Anh đầu cơ tích trữ (có thể có cả cán bộ trong đó) rồi tìm cách xây nhà cửa, làm công trình rồi tăng tiền đền bù. Điều này không công bằng với người dân thực sự ở trên mảnh đất đó”. |
Search Engine Optimization - Tối ưu hóa công cụ tìm kiếm (SEO) là quá trình tăng chất lượng và lưu lượng truy cập website bằng cách tăng khả năng hiển thị của website hoặc webpage cho người dùng trên các máy truy tìm dữ liệu như Google, Bing, Yahoo,... SEO liên quan tới cải thiện kết quả tìm kiếm không tốn phí (kết quả tìm kiếm "tự nhiên"), không bao gồm nguồn truy cập trực tiếp và việc mua quảng cáo hiển thị. Ngoài ra, kỹ thuật SEO có thể sử dụng cho các loại tìm kiếm khác nhau, bao gồm tìm kiếm hình ảnh, video, nội dung học thuật, tin tức và kết quả trên công cụ tìm kiếm theo ngành.
Là một chiến lược Internet marketing, SEO xem xét cách thức hoạt động, các thuật toán kiểm soát hành vi của công cụ tìm kiếm; những gì người dùng tìm kiếm, các thuật ngữ hoặc từ khóa được nhập vào và công cụ tìm kiếm ưa thích của đối tượng mục tiêu. SEO dùng để cải thiện thứ hạng website trên trang kết quả của công cụ tìm kiếm (SERP), nhờ đó tăng lưu lượng truy cập và lượng khách hàng được chuyển đổi từ nguồn này.
Khác với Tối ưu hóa công cụ tìm kiếm cục bộ (Local SEO) - tập trung tối ưu hóa khả năng hiển thị Webpage của doanh nghiệp khi người dùng tìm kiếm các sản phẩm hoặc dịch vụ có gắn yếu tố địa phương (sản phẩm A ở địa phương B), SEO tập trung nhiều hơn vào các tìm kiếm phạm vi quốc gia hoặc quốc tế.
Lịch sử
Năm 1990, các công cụ tìm kiếm đầu tiên (như ALIweB) lập danh mục các website, các quản trị viên website chỉ cần gửi URL của trang tới các công cụ tìm kiếm khác nhau để được thu thập dữ liệu, trích xuất liên kết đến các trang khác từ website bằng Trình thu thập dữ liệu web (Web Crawler) để được lưu và sắp xếp trong bộ dữ liệu của họ. Song song đó, một chương trình, được gọi là bộ chỉ mục (indexer), sẽ trích xuất thông tin về trang để thu thập về sau, như các từ chứa, vị trí và mật độ từng từ trong trang, cũng như tất cả các liên kết mà trang chứa.
Đến năm 1997, các lập trình viên của công cụ tìm kiếm như Altavista và Infoseek đã nhận ra các nhà quản trị website có thể đưa ra thông tin khác với nội dung thực hay thao túng một số thuộc tính trong nguồn HTML để tăng thứ hạng website . Do đó, họ đã phát triển các thuật toán xếp hạng phức tạp hơn, có tính đến các yếu tố bổ sung mà các quản trị website khó thao tác hơn để ngăn chặn . Điều này rất quan trọng để tránh việc tạo ra kết quả tìm kiếm kém chất lượng hoặc không liên quan có thể khiến người dùng chuyển sang các nguồn tìm kiếm khác.
Hơn nữa, một số công cụ tìm kiếm cũng chủ động tiếp cận ngành công nghiệp SEO bằng cách trở thành nhà tài trợ và khách mời thường xuyên tại các hội nghị, webchats và hội thảo về SEO, cung cấp thông tin và hướng dẫn tối ưu hóa website. Ví dụ: Google có chương trình Sơ đồ website (Sitemaps) để giúp quản trị viên web tìm hiểu nếu Google gặp bất kỳ sự cố nào khi lập danh mục các website và cung cấp dữ liệu về lưu lượng truy cập website từ Google ; công cụ quản trị website Bing cung cấp cách để quản trị viên gửi sơ đồ và nguồn cấp dữ liệu web, cho phép người dùng xác định "tốc độ thu thập dữ liệu" và theo dõi trạng thái xếp hạng của website.
Mối quan hệ với Google:
Là một trong các công cụ tìm kiếm phổ biến nhất hiện nay, cách thức Google đánh giá và xếp hạng website tác động rất lớn tới SEO. Năm 1998, Sergey Brin và Larry Page đã cho ra đời Google và thu hút được một lượng người theo dõi trung thành cùng sự phát triển của Internet. Google hạn chế bị thao túng như các công cụ tìm kiếm khác chỉ xem xét các yếu tố on-page (như tần suất từ khóa, thẻ meta, tiêu đề, liên kết và cấu trúc website) nhờ kết hợp cả yếu tố off-page (như Hyperlink, PageRank). PageRank, công thức toán học đánh giá giá trị của trang thông qua việc xem xét số lượng, chất lượng của các trang liên kết đến nó . Một trang có PageRank cao hơn có khả năng được truy cập bởi người lướt web ngẫu nhiên.
Vào 2007, Saul Hansell của New York Times cho biết Google sử dụng hơn 200 điều kiện khác nhau khi xếp hạng các website , không tiết lộ các thuật toán họ sử dụng để xếp hạng các trang. Google đã công bố một chiến dịch chống lại các backlink chuyển đổi PageRank bằng cách sử dụng thuộc tính nofollow (không theo dõi) trên các liên kết, Googlebot sẽ không còn xử lý bất kỳ liên kết nofollow nào .
Tháng 12 năm 2009, Google tuyên bố sử dụng lịch sử tìm kiếm trên web của tất cả người dùng để đưa ra kết quả tìm kiếm phù hợp . Vào ngày 8 tháng 6 năm 2010, Google sử dụng hệ thống xếp hạng website mới có tên Google Caffeine, cho phép người dùng tìm thấy kết quả tin tức, bài đăng trên diễn đàn và nội dung khác nhanh hơn nhiều so với trước đây . Google Instant, trình duyệt tìm kiếm theo thời gian thực (realtime-search), được giới thiệu vào cuối năm 2010 nhằm nỗ lực để làm cho kết quả tìm kiếm kịp thời và liên quan hơn.
Vào 02/2011, Google đã công bố bản cập nhật Panda, trong đó xử phạt các website chứa nội dung trùng lặp từ các website và nguồn khác. Google Penguin 2012 đã nỗ lực xử phạt các website sử dụng các kỹ thuật thao túng để cải thiện thứ hạng của họ trên công cụ tìm kiếm, nó tập trung vào các liên kết spam bằng cách đo lường chất lượng của các liên kết đến các trang.
Vào 10/2019, Google tuyên bố họ sẽ bắt đầu áp dụng các mô hình BERT, dự định kết nối người dùng dễ dàng hơn với nội dung có liên quan và tăng chất lượng lưu lượng truy cập đến các website được xếp hạng trong trang kết quả của công cụ tìm kiếm.
Phương pháp công cụ tìm kiếm thu thập dữ liệu
Các công cụ tìm kiếm sử dụng các thuật toán toán học phức tạp để diễn giải những website mà người dùng tìm kiếm, các thuật toán này đôi khi được gọi là các "con nhện" kiểm tra liên kết giữa các website. Các website nhận được nhiều liên kết dẫn về (inbound link) hơn, hoặc các liên kết mạnh hơn, được cho là quan trọng hơn và đúng hơn với những gì người dùng đang tìm kiếm.
Các công cụ tìm kiếm hàng đầu, như Google, Bing và Yahoo!, sử dụng trình thu thập thông tin để tìm các trang cho kết quả tìm kiếm bằng thuật toán của họ. Các trang được liên kết từ những trang được xếp hạng trong bộ dữ liệu của công cụ tìm kiếm khác không cần phải được khai báo vì chúng được tìm thấy tự động. Yahoo!, DMOZ khi vận hành trước kia đều yêu cầu khai báo thủ công và sự phê duyệt của con người. Google cung cấp Google Search Console giúp tạo và khai báo Sơ đồ website XML miễn phí để đảm bảo rằng tất cả các trang được tìm thấy.
Trình thu thập dữ liệu web cho công cụ tìm kiếm có thể xem xét một số yếu tố khác nhau khi thu thập dữ liệu website. Không phải mọi trang đều được xếp hạng bởi các công cụ tìm kiếm. Khoảng cách của các trang từ thư mục gốc (root directory) của một website cũng có thể là một yếu tố trong việc các trang có được thu thập thông tin hay không.
Ngày nay, hầu hết mọi người đang tìm kiếm trên Google bằng thiết bị di động. Vào tháng 11 năm 2016, Google đã công bố thay đổi lớn đối với cách thu thập dữ liệu website và bắt đầu xếp hạng theo ưu tiên cho thiết bị di động.
Ngăn chặn thu thập dữ liệu:
Để tránh bị lưu các nội dung không mong muốn, nhà quản trị website có thể ngăn “con nhện” thu thập dữ liệu một số tệp hoặc thư mục thông qua tệp robot.txt tiêu chuẩn trong thư mục gốc của tên miền. Ngoài ra, một trang có thể được loại trừ khỏi cơ sở dữ liệu của công cụ tìm kiếm bằng cách sử dụng thẻ meta dành riêng cho robot (thường là ). Khi công cụ tìm kiếm truy cập vào một website, tệp robots.txt nằm trong thư mục gốc là tệp được thu thập thông tin đầu tiên. Sau đó, tệp robots.txt được phân tích cú pháp và sẽ hướng dẫn cho robot trang nào không được thu thập thông tin. Vì trình thu thập thông tin của công cụ tìm kiếm có thể giữ một bản sao được lưu trong bộ nhớ cache của tệp này, đôi khi nó có thể thu thập dữ liệu các trang mà quản trị viên web không muốn thu thập thông tin. Các trang thường không được thu thập thông tin bao gồm các trang đăng nhập cụ thể như giỏ mua hàng và nội dung dành riêng cho người dùng, chẳng hạn như kết quả tìm kiếm từ các tìm kiếm nội bộ. Vào tháng 3 năm 2007, Google đã cảnh báo các nhà quản trị website rằng họ nên ngăn chặn việc lập chỉ mục kết quả tìm kiếm nội bộ vì những trang đó bị coi là spam tìm kiếm.
Các loại hình SEO
Hiện nay, SEO được thực hiện đa dạng với nhiều loại hình khác nhau, trong đó nổi bật là :
SEO tổng thể là tăng uy tín và chất lượng bằng cách tối ưu toàn bộ website theo tiêu chuẩn thân thiện với công cụ tìm kiếm, đồng thời giúp nâng cao trải nghiệm người dùng. Để thực hiện SEO tổng thể cần tối ưu đồng thời cả on-page, off-page và kỹ thuật.
SEO từ khóa là loại hình thông dụng nhất hiện nay. Khi tiến hành, nhà quản trị có thể lựa chọn giữa SEO từ khóa tiếng Việt có dấu và không dấu, nhằm mục đích cải thiện thứ hạng của website trên công cụ tìm kiếm, tăng khả năng hiển thị với người dùng.
SEO hình ảnh là kỹ thuật đưa hình ảnh trên website ưu tiên hiển thị ở những vị trí đầu trên trang tìm kiếm hình ảnh của những công cụ như Google, Yahoo khi người dùng nhập từ khóa liên quan.
SEO video social là nâng cao thứ hạng tìm kiếm của website nhờ các trang mạng xã hội và tương tác người dùng.
Local SEO (tối ưu hóa công cụ tìm kiếm theo khu vực) là kỹ thuật tối ưu hóa để website xuất hiện ở những vị trí đầu tiên trên kết quả tìm kiếm có liên quan đến khu vực địa lý (như sản phẩm A ở địa phương B), giúp người dùng dễ dàng tìm kiếm thông tin và website doanh nghiệp, hỗ trợ khoanh vùng và tiếp cận khách hàng hiệu quả.
SEO app mobile sẽ đưa ứng dụng của doanh nghiệp trên appstore hay google play hiển thị ở những vị trí đầu trên trang tìm kiếm khi người dùng nhập từ khóa, giúp họ dễ dàng tìm thấy và tải ứng dụng.
Phân loại SEO
Tùy theo cách tiếp cận và mục đích mà giới làm kỹ thuật SEO được chia làm ba loại: SEO mũ trắng, mũ đen và mũ xám
SEO mũ trắng
Một kỹ thuật SEO được coi là mũ trắng nếu nó tuân thủ các nguyên tắc của công cụ tìm kiếm và không gian lận. SEO mũ trắng hướng tới mục đích duy nhất là tăng hạng website trên công cụ tìm kiếm bằng cách tạo nội dung chất lượng và đáp ứng tối đa hóa trải nghiệm người dùng. Đây là hướng đi an toàn để phát triển website bền vững, giúp phát triển thương hiệu tránh việc bị phạt hoặc cấm khỏi công cụ tìm kiếm. SEO mũ trắng có nét tương đồng với phát triển web về mặt tăng khả năng truy cập, mặc dù hai việc này không giống hệt nhau.
SEO mũ đen
SEO mũ đen(Black hat SEO) cố gắng cải thiện thứ hạng website nhanh nhất bằng cách lợi dụng sơ hở của thuật toán. Kỹ thuật mũ đen bất chấp nguyên tắc và đôi khi vi phạm đạo đức khi sử dụng thủ thuật như Doorway Pages (spam chuyển hướng người dùng trực tiếp từ website khác), cloaking (thủ thuật che giấu nội dung), chèn link và từ khóa không liên quan… để đạt mục đích, bỏ qua lợi ích của người dùng. Do đó, tuy có thể tăng thứ hạng và lượng truy cập website nhanh nhưng kỹ thuật SEO mũ đen có rủi ro cao bị phạt hoặc cấm, tạo ra kết quả kém chất lượng với tỷ lệ thoát trang cao, tỷ lệ chuyển đổi thấp,..., hiệu quả tồn tại không lâu.
SEO mũ xám
Một loại khác đôi khi được sử dụng là SEO mũ xám. Đây là phương pháp kết hợp giữa mũ đen và mũ trắng, tránh việc website bị phạt nhưng không hướng tới tạo ra nội dung tốt nhất cho người dùng. SEO mũ xám hoàn toàn tập trung vào việc cải thiện thứ hạng công cụ tìm kiếm bằng các thủ thuật khéo léo như article spinning (tạo bài viết mới trên bài viết cũ), mua tên miền cũ hoặc hết hạn,...Rủi ro của kỹ thuật này cũng tương đối cao và ranh giới với SEO mũ đen rất mong manh.
Các công cụ tìm kiếm có thể xử phạt các website bị phát hiện sử dụng phương pháp mũ đen hoặc xám, bằng cách giảm thứ hạng hoặc loại hoàn toàn khỏi danh sách dữ liệu của họ, áp dụng tự động bằng thuật toán hoặc bằng cách xem xét thủ công. Một ví dụ đó là việc Google loại bỏ cả BMW Đức và Ricoh Đức vào tháng 2 năm 2006 do hành vi gian lận, chỉ khôi phục lại sau khi họ xin lỗi và sửa đổi lỗi vi phạm.
Ưu điểm và Nhược điểm của SEO trong Marketing
SEO mang lại những lợi ích tuyệt vời cho doanh nghiệp. Đầu tiên, SEO có thể giúp tối ưu hóa ROI (lợi tức đầu tư) nhờ đo lường được hiệu quả qua các chỉ số như lưu lượng truy cập Website, tỷ lệ chuyển đổi thành doanh số,... từ đó nắm được nhược điểm và cải thiện website hiệu quả.
Thứ hai, SEO mang lại hiệu quả chi phí với việc chủ động tiếp cận được khách hàng có nhu cầu với sản phẩm, dịch vụ trên Internet, giúp tiết kiệm thời gian, giảm thiểu chi phí tiếp cận.
Thứ ba, SEO cải thiện được trải nghiệm cho người dùng nhờ đòi hỏi nâng cao chất lượng website từ cấu trúc, giao diện tới nội dung trong quá trình thực hiện, từ đó tăng mức độ hiển thị trên công cụ tìm kiếm, thuận lợi tiếp cận khách hàng hơn.
Thứ tư, nhờ phân tích lưu lượng truy cập Website chất lượng qua quá trình thực hiện SEO mà doanh nghiệp nắm bắt được đặc điểm và hành vi của khách hàng tiềm năng, hỗ trợ đưa ra các chiến dịch marketing hiệu quả trên kênh online và offline.
Thứ năm, SEO giúp tăng độ tin cậy của website trên danh sách của công cụ tìm kiếm, góp phần xây dựng và phát triển thương hiệu, thu hút khách hàng tiềm năng và tăng doanh số hiệu quả.
Tuy nhiên, SEO không phải phù hợp với mọi loại website và doanh nghiệp. Một chiến lược SEO cần thực hiện trong dài hạn (trung bình 5-7 tháng) mới đạt hiệu quả và thích hợp hơn với doanh nghiệp đã có một lượng khách hàng nhất định, do đó cần cân nhắc điều kiện và nhu cầu trước khi tiến hành. Hơn nữa, khi các thuật toán thay đổi, doanh nghiệp có thể chịu tổn thất lớn nếu phụ thuộc phần lớn vào lưu lượng truy cập website.
So sánh giữa SEO và Google Adwords
Cả SEO và Google Adwords đều là những công cụ đắc lực giúp doanh nghiệp tối ưu hóa website trên các công cụ tìm kiếm, cải thiện thứ hạng và độ hiển thị, từ đó tăng lưu lượng truy cập và hỗ trợ công việc marketing và bán hàng hiệu quả. Tuy nhiên, giữa hai công cụ này có những điểm khác biệt nhất định mà người làm marketing cần nắm rõ để ứng dụng hiệu quả vào chiến dịch của mình.
Cả hai công cụ đều có giá trị nhất định khi thực hiện các chiến dịch Marketing. Nếu SEO mang lại hiệu quả với lưu lượng truy cập bền vững thì Google Adwords lại hữu ích hơn đối với các chiến dịch hay doanh nghiệp cần kết quả ngay. Trên thực tế, doanh nghiệp sau khi sử dụng Google Adwords có thể thu về doanh số đáp ứng tốt chi phí đã bỏ ra thì có thể coi là thành công và hiệu quả chi phí, tuy nhiên cần có sự kiểm soát cẩn thận.
Tuy nhiên, ngay cả khi dùng Google Adwords thì tích hợp với các kỹ thuật SEO sẽ giúp doanh nghiệp thu về kết quả tốt hơn và bền vững hơn trong dài hạn. Trong đó, tận dụng tốt Marketing nội dung sẽ giúp bạn tối ưu hóa nội dung tiếp cận khách hàng, tăng lượng truy cập tự nhiên, giúp giảm thiểu chi phí về sau. Ngược lại, khi website đã có được vị trí tốt bằng kỹ thuật SEO thì vẫn có thể tận dụng Google Adwords để tăng thêm lượt tiếp cận cho cùng một từ khóa. Vận dụng hiệu quả 2 công cụ này sẽ giúp doanh nghiệp tối ưu được hiệu quả Marketing và tăng doanh số bán hàng.
Các công cụ hỗ trợ SEO
Google Webmaster Tools (Search Console): Đây là một công cụ hỗ trợ SEO miễn phí do chính Google cung cấp. Webmaster Tools có khả năng thống kê, theo dõi hoạt động cả on-page và off-page cho website, đồng thời cung cấp cho nhà quản trị website các thông số của website và các thông báo từ google.
Google Disavow Link: được biết tới để ngăn chặn những backlink xấu từ đối thủ, hay sửa chữa sai lầm vì đã spam liên kết quá mức và bị phạt bởi Google Penguin.
Google Setting có chức năng đáng chú ý nhất là Geographic Target. Ở đây các SEOer có thể chọn thị trường mục tiêu cho website của mình. Nếu chọn thị trường mục tiêu đúng thì website của bạn sẽ được đánh giá cao hơn trong Google của thị trường đó
Google Remove URLs: Nhiệm vụ của Google Remove URLs là xóa những link 404 Not Found ra khỏi bộ dữ liệu của Google. Bạn chỉ việc nhấp vào “Create a new removal request”, nhập liên kết bị dính 404 Not Found vào và chờ Google xử lý.
Google Analytics: Đây là một công cụ miễn phí đến từ Google. Công cụ này cho phép người quản trị tạo ra các thống kê chi tiết, các báo cáo về hoạt động của website. Google Analytics và Webmaster Tools là hai công cụ thiết yếu mà mỗi người làm SEO đều phải biết.
Ahrefs: Đây là một công cụ của bên thứ 3. Ahrefs là trợ thủ đắc lực để hỗ trợ off-page, có thể phân tích website khá tổng quan và chi tiết như: Backlink, văn bản chứa liên kết, lưu lượng truy cập, nghiên cứu từ khóa… và nhiều hơn thế nữa. Tuy nhiên để sử dụng công cụ này thì phải trả phí với một khoản phí không nhỏ: khoảng 99$ cho gói rẻ nhất.
Keyword Planner: Đây là một công cụ miễn phí do Google cung cấp cho người dùng. Công cụ này chủ yếu là dành cho những người đang chạy quảng cáo Google Adwords. Nó giúp SEOer nghiên cứu từ khóa bao gồm cả từ khóa mở rộng và những từ đồng nghĩa…kèm thêm các thông số: Giá thầu quảng cáo, lượng tìm kiếm chính xác. Công cụ này nằm trong phần quảng cáo Google Adwords của Google.
Keyword Tool: Đây là một công cụ hỗ trợ nghiên cứu từ khóa tuyệt vời. KeywordTools giúp tìm kiếm những từ khóa truy vấn của người dùng rất đầy đủ và chi tiết, kèm thêm các thông số như: Search Volume (lượng người tìm mỗi 1 tháng), mức độ cạnh tranh, Giá thầu quảng cáo,…Với công cụ này, doanh nghiệp phải trả phí 69$/tháng cho gói cơ bản.
Screaming Frog SEO: Đây là một công cụ hỗ trợ on-page rất mạnh. Screaming Frog giúp “quét” hết website và thống kê ra các thành phần trên web như:các tệp tin css, js, ảnh, URL, sitemap, … từ góc độ SEO.
SEO Quake: Giúp các SEOer đánh giá được PageRank, Alexa Rank (số đo mức độ phổ biến của website), các chỉ số xã hội,… ngay khi truy cập vào 1 website, từ đó giúp doanh nghiệp đánh giá nhanh sức mạnh đối thủ khi nghiên cứu từ khóa.
Web Developer: Đây là 1 công cụ hoàn hảo để kiểm tra mọi yếu tố về on-page như Internal Link, Tiêu đề, Hình ảnh,….
Seomoz Toolbar: Đây là công cụ giúp bạn đánh giá rõ hơn sức mạnh của đối thủ qua số lượng backlink trỏ đến website của họ.
Nghề SEO
Với sự phổ biến tăng dần của xu hướng sử dụng kỹ thuật SEO thì khái niệm “nghề SEO” cũng theo đó được phát triển. Nhiệm vụ chính của những người làm nghề SEO là tối ưu hóa Website và tăng lưu lượng truy cập.
Công việc SEO
Nghiên cứu từ khóa: Đây là công việc cực kỳ quan trọng trong SEO nhằm mục đích tìm ra những cụm từ, nhóm từ khóa nhắm tới từng loại đối tượng tìm kiếm và dễ dàng đưa website lên vị trí cao trên kết quả tìm kiếm.
Xây dựng nội dung: Sau khi có được bộ từ khóa mục tiêu và chất lượng nhất, tiến hành xây dựng cấu trúc và nội dung cho các landing page để đẩy các từ khóa.
Onpage: Tối ưu onpage cho các từ khóa như tiêu đề, H1, thẻ mô tả Meta, hình ảnh, độ dễ đọc cho nội dung đã triển khai…Hiện nay việc này trở nên ngày càng quan trọng hơn sau khi Google tung ra hàng loạt các bản cập nhật mới, đặc biệt là Google Panda và Google Humming Bird
Offpage: Tối ưu offpage hay nói cách khác là xây dựng hệ thống backlink dẫn về trang chủ và các trang quan trọng. Bao gồm tất cả các liên kết từ các website khác nhau (blog, mạng xã hội, tin tức,...)
Theo dõi kết quả: Theo dõi kết quả và tiếp tục tối ưu hoá các yếu tố ảnh hưởng đến SEO theo chuẩn công cụ tìm kiếm Google.
Kỹ năng người làm nghề SEO
Để thực hiện tốt công việc này, người làm nghề SEO cần có những kỹ năng và kiến thức chuyên môn nhất định. Thứ nhất, việc hiểu, phân tích được mã code của website giúp người làm SEO nắm được bản chất của Website để biết cần nâng cấp, sửa chữa phần nào. Thứ hai, kỹ năng phân tích và đo lường các chỉ số giúp SEO-er theo dõi và nắm được hiệu quả công việc và triển khai các bước tối ưu hóa tốt hơn. Bên cạnh đó, khả năng tự học đối với nghề SEO vô cùng quan trọng do tính đặc thù và sự đổi mới liên tục về công nghệ, các thuật toán đòi hỏi sự linh hoạt cao nhất. Đồng thời, một SEO-er có kỹ năng biên tập nội dung sẽ biết cách sử dung từ khóa hiệu quả nhất, giúp cải thiện chất lượng website đạt vị trí cao và tối ưu hóa trải nghiệm người dùng.
Xu hướng SEO 2020
Với mục đích tối đa hóa lợi ích cho người dùng, các công cụ tìm kiếm, nổi bật là Google, có xu hướng ngày càng đề cao các yếu tố trải nghiệm người dùng khi sắp xếp thứ hạng các website. Điển hình, RankBrain - một hệ thống điện tử được Google sử dụng sắp xếp các kết quả tìm kiếm - tập trung Dwell Time (thời gian người dùng ở lại trên trang) và Click through rate (tỷ lệ người dùng nhấp vào kết quả của website). Bên cạnh đó, Google Pagespeed Insights - bộ tiêu chuẩn đo lường tốc độ và mức độ thân thiện với người dùng của website cũng được chú trọng nhằm nâng cao trải nghiệm người dùng. Ngoài ra, một website có nội dung độc nhất và hữu ích, có tiêu đề và mô tả hấp dẫn, thông tin chính xác, khiến người dùng nhấp vào/trở lại sẽ được ưu tiên hơn trên kết quả tìm kiếm.
Sử dụng từ khóa ngữ nghĩa LSI cũng là một xu hướng SEO trong năm 2020. Từ khóa ngữ nghĩa LSI là những từ và cụm từ liên kết chặt chẽ với chủ đề/ nội dung trên website của doanh nghiệp (ví dụ với từ khóa “thay đổi thời tiết” thì LSI có được là “viêm xoang khi thay đổi thời tiết”, “đau đầu khi thay đổi thời tiết”), có thể được tìm thấy bằng công cụ LSI Graph, gợi ý của Google, Google Keyword Planner giúp phát triển các từ khóa liên quan theo xu hướng của người dùng, tối ưu hóa SEO hiệu quả.
Kể từ tháng 5/2015, số lượt tìm kiếm trên di động đã vượt qua số lượt tìm kiếm trên máy tính, Google sẽ xem xét giao diện website cho di động trước so với giao diện cho máy tính, cũng như dựa trên các tiêu chí cho phiên bản cho di động sẽ được ưu tiên trong quá trình đánh giá và xếp hạng website. Do đó, người làm SEO cần đặc biệt lưu ý tối ưu lại phiên bản di động của website khi thực hiện tối ưu hóa.
Ngoài ra, Tìm kiếm bằng giọng nói cũng đang phát triển với tốc độ nhanh về số lượng các tìm kiếm bằng giọng nói do xu hướng sử dụng điện thoại di động và nhu cầu tìm kiếm thông tin nhanh, với dự báo đạt 50% trong năm 2020 (theo số liệu từ BacklinkO). |
Lịch sử hành chính Hà Giang có thể xem mốc khởi đầu từ năm 1891 với Quyết định ngày 20 tháng 8 năm 1891 của Toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan, thành lập tỉnh Hà Giang, bao gồm phủ Tường Yên và huyện Vĩnh Tuy. Vào thời điểm hiện tại (2019), về mặt hành chính, Hà Giang được chia làm 11 đơn vị hành chính cấp huyện – gồm 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 10 huyện – và 193 đơn vị hành chính cấp xã – gồm 175 xã, 5 phường và 13 thị trấn.
Lịch sử tổ chức hành chính
Trước khi thành lập tỉnh
Theo các tài liệu lịch sử, vùng đất Hà Giang xưa vốn là địa bàn cư trú của bộ Tây Vu thuộc quốc gia Văn Lang, sau đó là quốc gia Âu Lạc. Thời Bắc thuộc, vùng Hà Giang thuộc địa phận huyện Tây Vu thuộc quận Giao Chỉ.
Sau khi quốc gia Đại Việt độc lập, một thời gian dài vùng đất Hà Giang là vùng tự trị, thuộc phạm vi thế lực của các Tộc tướng xứ Thái, phụ thuộc lỏng lẻo vào Đại Việt. Đến thời Lý, mang tên châu Bình Nguyên, thuộc phủ Phú Lương. Đầu thời Trần, khu vực Hà Giang – Tuyên Quang được gọi là châu Tuyên Quang, thuộc lộ Quốc Oai. Năm 1397 thì đổi thành trấn Tuyên Quang. Khi quân Minh xâm lược Đại Việt, đã đổi trấn Tuyên Quang thành châu Tuyên Hóa và đến năm 1408 thì thăng làm phủ Tuyên Hóa.
Sau khi đánh đuổi quân Minh, vua Lê Thái Tổ chia cả nước thành 5 đạo, dưới đạo là trấn, lộ, phủ, huyện, châu và cuối cùng là cấp xã. Vùng đất Hà Giang – Tuyên Quang lúc đó thuộc vào Tây đạo. Đến năm, 1466 vua Lê Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, đặt nơi đây là thừa tuyên Tuyên Quang, lãnh 1 phủ và 5 huyện châu. Năm 1490, thừa tuyên Tuyên Quang được đổi thành xứ Tuyên Quang, gồm huyện Phù Yên (sau đổi là Hàm Yên), 5 châu (Thu sau đổi là Thu Châu, Đại Nam – sau đổi là Chiêm Hóa, Vị Xuyên, Bảo Lạc và Lạc Yên) và phủ An Bình. Vùng đất Hà Giang chủ yếu nằm ở châu Vị Xuyên và một phần của châu Bảo Lạc.
Đến đời Hồng Thuận (1509-1516), xứ Tuyên Quang đổi thành trấn Minh Quang.
Thời Lê Chiêu Tông, triều đình rối ren, giặc giả nổi lên khắp nơi. Vũ Văn Uyên nhân đó nổi lên cát cứ trấn Minh Quang. Vua Lê Chiêu Tông đành phải phong cho Uyên làm Khánh Bá hầu, Đô thống sứ trấn Tuyên Quang. Uyên mở mang thế lực cả một vùng phía Bắc Đại Việt, truyền đời cát cứ. Vùng Hà Giang ngày nay cũng nằm trong phạm vi ảnh hưởng của các chúa Bầu, lập thành các doanh Bình Di, Bình Man, Trần Uy, Yên Biên, Nam Đương, vốn thuộc vào châu Vị Xuyên của trấn Tuyên Quang.
Địa danh Hà Giang lần đầu tiên được nhắc đến trong bài minh khắc trên chuông chùa Sùng Khánh (xã Đạo Đức, Vị Xuyên), được đúc nhân dịp trùng tu chùa vào đầu thời vua Lê Dụ Tông, năm Ất Dậu 1707.
Cuối thế kỷ XVII, thế lực chúa Bầu suy yếu. Năm 1672, nhân lúc triều đình sơ hở, chúa Trịnh mang đại quân đi đánh chúa Nguyễn phía nam, chúa Bầu Vũ Công Tuấn trốn về Tuyên Quang, cấu kết với dòng dõi họ Mạc là Mạc Kính Vũ, tự xưng Tiểu Giao Cương vương và chạy sang Vân Nam nhờ nhà Thanh giúp sức. Thổ ty nhà Thanh nhân dịp này chiếm đất hai châu Vị Xuyên, Bảo Lạc thuộc Tuyên Quang và châu Thủy Vĩ thuộc Hưng Hóa, cướp dân của Đại Việt, cho đặt Tuần ty ở các động ven biên giới để thu thuế. Triều đình Lê - Trịnh nhiều lần cho sứ giả sang đòi lại đất, mãi đến năm 1728 nhà Thanh mới chịu trả lại hầu hết đất đai đã chiếm của Đại Việt, kể cả vùng Tụ Long.
Năm 1802, Gia Long lên ngôi, đổi đặt xứ Tuyên Quang thành trấn Tuyên Quang. Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831), triều đình thực hiện cải cách hành chính đổi trấn thành tỉnh, đổi một số châu thành huyện và sách động thành xã, thống nhất hành chính vùng Bắc Thành cũ. Trấn Tuyên Quang đổi thành tỉnh Tuyên Quang.
Năm 1842 thì chia tỉnh Tuyên Quang thành 3 hạt bao gồm Hà Giang, Bắc Quang và Tuyên Quang.
Sau khi thành lập tỉnh
Năm 1895, ranh giới Hà Giang được ấn định lại như trên bản đồ ngày nay.
Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, gọi chung là huyện. Tỉnh Hà Giang có 1 thị xã Hà Giang và 4 huyện: Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Vị Xuyên.
Năm 1962, chia huyện Đồng Văn thành 3 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc và Yên Minh; chia huyện Vị Xuyên thành 2 huyện: Vị Xuyên và Quản Bạ.
Năm 1965, chia huyện Hoàng Su Phì thành 2 huyện: Hoàng Su Phì và Xín Mần.
Sau năm 1975, Hà Giang được hợp nhất với tỉnh Tuyên Quang thành tỉnh Hà Tuyên.
Năm 1981, điều chỉnh địa giới một số xã thuộc các huyện Mèo Vạc, Quản Bạ, Vị Xuyên, Hoàng Xu Phì, Xín Mần:
Sáp nhập một phần xã Xín Cái (Mèo Vạc) vào xã Thượng Phùng.
Sáp nhập toàn bộ xã Nghĩa Hòa (Quản Bạ) vào xã Nghĩa Thuận.
Giải thể xã Thanh Hương (Vị Xuyên), sáp nhập vào xã Thanh Đức và xã Xín Chải
Sáp nhập một phần xã Thanh Đức và xã Phường Tiến (Vị Xuyên) vào xã Thanh Thủy
Sáp nhập một phần xã Lao Chải (Vị Xuyên) vào xã Xín Chải
Sáp nhập một phần xã Thàng Tín và xã Thèn Chu Phìn (Hoàng Su Phì) vào xã Pố Lồ
Sáp nhập một phần xã Pố Lồ (Hoàng Su Phì) vào xã Vinh Quang
Sáp nhập toàn bộ xã Pốc Pài (Xín Mần) vào xã Pà Vầy Sừ.
Sáp nhập toàn bộ xã Thèn Phàng (Xín Mần) vào xã Xín Mần
Sáp nhập toàn bộ xã Bản Pắng và một phần xã Bản Phùng (Xín Mần) vào xã Bản Máy
Sáp nhập một phần xã Pà Vầy Sừ (Xín Mần) vào xã Chi Cà
Sáp nhập phần còn lại xã Bản Phùng và một phần xã Bản Dúi (Xín Mần) vào xã Nàn Xỉn.
Năm 1982, điều chỉnh địa giới các huyện Yên Minh, Mèo Vạc và Đồng Văn:
Sáp nhập một phần huyện Đồng Văn (gồm toàn bộ 4 xã Phú Lũng, Thắng Mố, Sủng Chéng, Sủng Thài) vào huyện Yên Minh
Sáp nhập một phần huyện Yên Minh (gồm toàn bộ 3 xã Niêm Sơn, Nậm Ban, Tát Ngà) vào huyện Mèo Vạc
Điều chỉnh địa giới hành chính 2 xã Bạch Đích vào xã Na Khê (Yên Minh)
Năm 1983, chia huyện Vị Xuyên thành 2 huyện: Vị Xuyên và Bắc Mê; điều chỉnh địa giới các huyện Vị Xuyên, Xín Mần, Hoàng Su Phì, Bắc Quang:
Thành lập huyện Bắc Mê trên cơ sở một phần huyện Vị Xuyên. Huyện Bắc Mê có các xã Phú Nam, Đường Âm, Yên Phú, Yên Cường, Thượng Tân, Giáp Chung, Lạc Nông, Minh Ngọc, Minh Sơn, Yên Định.
Sáp nhập toàn bộ xã Bản Máy (Xìn Mần) vào huyện Hoàng Su Phì
Sáp nhập một phần huyện Hoàng Su Phì (gồm toàn bộ 2 xã Trung Thịnh, Nàng Đôn) vào huyện Xín Mần
Thành lập xã Xuân Minh (Bắc Quang) trên cơ sở một phần xã Xuân Lập
Sáp nhập một phần huyện Bắc Quang vào huyện Xín Mần (sáp nhập 3 xã Nà Chì, Khuôn Lùng, Quảng Nguyên), huyện Hoàng Su Phì (sáp nhập 3 xã Thông Nguyên, Tiên Nguyên, Xuân Minh), huyện Vị Xuyên (sáp nhập các xã Thượng Sơn, Quảng Ngần, Trung Thành, Bạch Ngọc, Việt Lâm và thị trấn nông trường Việt Lâm).
Năm 1986, chia tách một số xã, thị trấn thuộc huyện Bắc Quang:
Thành lập thị trấn Việt Quang (Bắc Quang) trên cơ sở một phần xã Việt Vinh và xã Quang Minh. Thị trấn Việt Quang có diện tích tự nhiên 1.797,23 hécta với 10.332 nhân khẩu.
Thành lập xã Việt Hồng (Bắc Quang) trên cơ sở một phần xã Yên Hà, Việt Vinh và Hùng An. Xã Việt Hồng có diện tích tự nhiên 970 hécta với 1.175 nhân khẩu.
Thành lập xã Đức Xuân (Bắc Quang) trên cơ sở một phần xã Liên Hiệp. Xã Đức Xuân có diện tích tự nhiên 4.592 hécta với 1.154 nhân khẩu.
Năm 1987, chia tách một số xã thuộc huyện Bắc Mê:
Thành lập xã Đường Hồng (Bắc Mê) trên cơ sở một phần xã Đường Âm. Xã Đường Hồng có 4.320 hécta đất với 2.333 nhân khẩu.
Thành lập xã Phiêng Luông (Bắc Mê) trên cơ sở một phần xã Yên Cường. Xã Phiêng Luông có 2.108 hécta đất với 616 nhân khẩu.
Thành lập xã Yên Phong (Bắc Mê) trên cơ sở một phần xã Yên Phú. Xã Yên Phong có 4.833 hécta đất với 1.566 nhân khẩu.
Sáp nhập một phần xã Minh Ngọc (Bắc Mê) vào xã Thượng Tân. Xã Minh Ngọc có 8.391 hécta đất với 2.085 nhân khẩu. Xã Thượng Tân có 7.119 hécta đất với 1.345 nhân khẩu.
Năm 1991, tái lập tỉnh Hà Giang từ tỉnh Hà Tuyên. Tỉnh Hà Giang có 10 đơn vị hành chính gồm thị xã Hà Giang (tỉnh lị) và 9 huyện: Bắc Mê, Bắc Quang, Đồng Văn, Hoàng Su Phì, Mèo Vạc, Quản Bạ, Vị Xuyên, Xín Mần, Yên Minh.
Năm 1994, thành lập một số phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Hà Giang và các huyện Vị Xuyên, Bắc Quang; điều chỉnh địa giới huyện Hoàng Su Phì và huyện Xín Mần.
Năm 1997, chia tách một số xã thuộc các huyện Yên Minh, Bắc Quang và Vị Xuyên:
Thành lập xã Du Tiến (Yên Minh) trên cơ sở một phần xã Du Già. Xã Du Tiến có 5.815,3 ha diện tích tự nhiên và 2.223 nhân khẩu.
Thành lập xã Mậu Long (Yên Minh) trên cơ sở một phần xã Mậu Duệ và xã Ngọc Long. Xã Mậu Long có diện tích tự nhiên 7.071,8 ha và 3.228 nhân khẩu.
Thành lập xã Thượng Bình (Bắc Quang) trên cơ sở một phần xã Bằng Hành. Xã Thượng Bình có 4.374,3 ha diện tích tự nhiên và 1.701 nhân khẩu.
Thành lập xã Tân Thành (Bắc Quang) trên cơ sở một phần xã Tân Lập (Bắc Quang) và xã Quảng Ngần (Vị Xuyên). Xã Tân Thành có 3.484,5 ha diện tích tự nhiên và 1.847 nhân khẩu
Năm 1999, chia tách một số xã, thị trấn thuộc các huyện Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Bắc Quang, Hoàng Su Phì và thị xã Hà Giang:
Thành lập thị trấn Mèo Vạc (Mèo Vạc) trên cơ sở một phần xã Mèo Vạc. Thị trấn Mèo Vạc có 1.441 ha diện tích tự nhiên, 4.074 nhân khẩu.
Thành lập xã Tả Lủng (Mèo Vạc) trên cơ sở phần còn lại xã Mèo Vạc và một phần xã Sủng Trà. Xã Tả Lủng có 1.955 ha diện tích tự nhiên và 2.013 nhân khẩu.
Giải thể xã Yên Minh (Yên Minh), thành lập thị trấn Yên Minh, xã Hữu Vinh, xã Đông Minh trên cơ sở một phần xã Yên Minh. Sáp nhập phần còn lại của xã Yên Minh vào xã Sủng Tráng và xã Lao Và Chải. Thị trấn Yên Minh có 3.047 ha diện tích tự nhiên và 4.932 nhân khẩu. Xã Hữu Vinh có 2.554,9 ha diện tích tự nhiên và 2.587 nhân khẩu. Xã Đông Minh có 2.086 ha diện tích tự nhiên và 2.009 nhân khẩu. Xã Sủng Tráng có 2.181 ha diện tích tự nhiên và 2.789 nhân khẩu. Xã Lao Và Chải có 5.209 ha diện tích tự nhiên và 3.392 nhân khẩu.
Thành lập thị trấn Tam Sơn (Quản Bạ) trên cơ sở một phần xã Quản Bạ. Thị trấn Tam Sơn có 1.230 ha diện tích tự nhiên và 3.858 nhân khẩu.
Thành lập xã Đồng Tiến (Bắc Quang) trên cơ sở một phần xã Đồng Tâm. Xã Đồng Tiến có 3.385,6 ha diện tích tự nhiên và 2.293 nhân khẩu.
Thành lập xã Yên Thành (Bắc Quang) trên cơ sở một phần xã Yên Bình. Xã Yên Thành có 5.896 ha diện tích tự nhiên và 2.826 nhân khẩu.
Thành lập thị trấn Vinh Quang (Hoàng Su Phì) trên cơ sở toàn bộ xã Vinh Quang. Thị trấn Vinh Quang có 481 ha diện tích tự nhiên, 2.182 nhân khẩu.
Thành lập xã Kim Linh (TX. Hà Giang) trên cơ sở một phần xã Kim Thạch. Xã Kim Linh có 3.590 ha diện tích tự nhiên và 2.064 nhân khẩu.
Năm 2003, chia tách một số xã thuộc huyện Bắc Quang; thành lập huyện Quang Bình được thành lập trên cơ sở tách 12 xã thuộc huyện Bắc Quang, 2 xã thuộc huyện Hoàng Su Phì và 1 xã thuộc huyện Xín Mần:
Điều chỉnh một số đơn vị hành chính cấp xã thuộc huyện Bắc Quang:
- Thành lập xã Tân Bắc trên cơ sở một phần xã Tân Trịnh. Xã Tân Bắc có 5.690 ha diện tích tự nhiên và 3.644 nhân khẩu.
- Thành lập xã Đông Thành trên cơ sở một phần xã Đồng Yên và xã Vĩnh Hảo. Xã Đông Thành có 5.369,1 ha diện tích tự nhiên và 2.736 nhân khẩu.
Thành lập huyện Quang Bình trên cơ sở một phần huyện Bắc Quang (gồm toàn bộ các xã Bản Rịa, Yên Thành, Yên Bình, Bằng Lang, Xuân Giang, Nà Khương, Yên Hà, Tiên Yên, Hương Sơn, Tân Trịnh, Vĩ Thượng, Tân Bắc), huyện Hoàng Su Phì (gồm toàn bộ các xã Tiên Nguyên, Xuân Minh) và huyện Xín Mần (toàn bộ xã Tân Nam). Huyện Quang Bình có 77.463 ha diện tích tự nhiên và 50.886 nhân khẩu, có 15 đơn vị hành chính trực thuộc
Năm 2005, thành lập phường Ngọc Hà thuộc thị xã Hà Giang và xã Niêm Tòng thuộc huyện Mèo Vạc:
Thành lập phường Ngọc Hà (TX. Hà Giang) trên cơ sở một phần phường Trần Phú và xã Ngọc Đường. Phường Ngọc Hà có 238,10 ha diện tích tự nhiên và 3.027 nhân khẩu.
Sáp nhập một phần xã Ngọc Đường (TX. Hà Giang) vào phường Quang Trung. Phường Quang Trung có 1.132 ha diện tích tự nhiên và 3.623 nhân khẩu.
Thành lập xã Niêm Tòng (Mèo Vạc) trên cơ sở một phần xã Niêm Sơn và xã Khâu Vai. Xã Niêm Tòng có 3.151,25 ha diện tích tự nhiên và 3.656 nhân khẩu.
Năm 2006, điều chỉnh địa giới thị xã Hà Giang và huyện Vị Xuyên:
Sáp nhập một phần thị xã Hà Giang (toàn bộ các xã Phú Linh, Kim Linh, Kim Thạch) vào huyện Vị Xuyên
Sáp nhập một phần phường Quang Trung (TX. Hà Giang) vào xã Phong Quang (Vị Xuyên)
Sáp nhập một phần huyện Vị Xuyên (toàn bộ các xã Phương Độ, Phương Thiện) vào thị xã Hà Giang.
Năm 2009, thành lập thị trấn huyện lị thuộc các huyện Đồng Văn, Bắc Mê và Xín Mần:
Sáp nhâp một phần xã Đồng Văn (Đồng Văn) vào xã Thài Phìn Tủng. Xã Thài Phìn Tủng có tổng diện tích tự nhiên là 2.132.22 ha và tổng dân số là 4.026 nhân khẩu.
Thành lập thị trấn Đồng Văn (Đồng Văn) trên cơ sở phần còn lại của xã Đồng Văn. Thị trấn Đồng Văn có tổng diện tích tự nhiên là 3.030,65 ha và tổng dân số là 5.935 nhân khẩu.
Thành lập thị trấn Yên Phú (Bắc Mê) trên cơ sở toàn bộ xã Yên Phú. Thị trấn Yên Phú có tổng diện tích tự nhiên là 6.723,31 ha và tổng dân số là 6.082 nhân khẩu.
Thành lập thị trấn Cốc Pài (Xín Mần) trên cơ sở toàn bộ xã Cốc Pài. Thị trấn Cốc Pài có tổng diện tích tự nhiên là 1.647,38 ha và tổng dân số là 3.969 nhân khẩu.
Năm 2010, thành lập thành phố Hà Giang. Cùng năm, thành lập thị trấn Yên Bình thuộc huyện Quang Bình:
Thành lập thành phố Hà Giang trên cơ sở toàn bộ thị xã Hà Giang. Thành phố Hà Giang có diện tích tự nhiên 13.531,93 ha và 71.689 nhân khẩu, 08 đơn vị hành chính cấp xã, gồm các phường: Trần Phú, Minh Khai, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Ngọc Hà và các xã: Ngọc Đường, Phương Thiện, Phương Độ.
Thành lập thị trấn Yên Bình (Quang Bình) trên cơ sở toàn bộ xã Yên Bình. Thị trấn Yên Bình có 4.750 ha diện tích tự nhiên và 6.665 nhân khẩu.
Năm 2019, hợp nhất một số xã thuộc các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần:
Sáp nhập toàn bộ xã Bản Péo (Hoàng Su Phì) vào xã Nậm Dịch. Xã Nậm Dịch có 30,56 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 3.612 người.
Sáp nhập toàn bộ xã Ngán Chiên (Xín Mần) vào xã Trung Thịnh. Xã Trung Thịnh có 29,95 km² diện tích tự nhiên và quy mô dân số 6.366 người.
Các đơn vị hành chính trực thuộc
Chú thích |
thế=|200x200pxTrạng thái bình thường Thái Bình Dương: gió xích đạo đem nước ấm thổi hướng về phía tây, nước lạnh vọt ra lên trên ở mặt ngoài men theo bờ biển châu Nam Mĩ (theo NOAA / PMEL / TAO).
Chú thích:
Normal Conditions là trạng thái bình thường.
Hình biểu diễn Convective Circulation là đối lưu khí quyển.
Equator là xích đạo.
Màu đỏ thẫm là dòng nước ấm.
Mũi tên màu trắng là phương hướng dòng nước biển tầng ngoài.
Thermocline là tầng nhảy lên nhiệt độ, ngăn chia ra hai phần: phần trên là miền nước ấm, phần dưới là miền nước lạnh.
120 độ E là 120 độ kinh đông.
80 độ W là 80 độ kinh tây.thế=|200x200pxHiện tượng En Ni-nhô: nước ấm đẩy đi hướng về châu Nam Mĩ, nước lạnh không vọt lên lại lần nữa cho nên khiến cho đại dương biến hoá làm cho nóng ấm; chú ý khí áp phía đông và phía tây Thái Bình Dương cũng biến động thuận theo nó, thì cái đó gọi là Dao động sóng cả phương nam.Hiện tượng En Ni-nhô (tiếng Tây Ban Nha: fenómeno El Niño, tiếng Anh: El Niño phenomenon), còn gọi là Hiện tượng Con trai của Chúa, kết hợp với Dao động sóng cả phương nam - một hiện tượng khác, gọi là ENSO, là danh từ mà ngư dân ở khu vực dọc bờ biển Peru và Ecuador sử dụng để gọi một hiện tượng khí hậu khác thường. Chủ yếu chỉ nhiệt độ mặt biển ở đại dương nhiệt đới của phần phía đông và trung tâm của Thái Bình Dương liên tục không ngừng thay đổi làm cho nóng ấm một cách khác thường, khiến cho mô thức khí hậu của cả thế giới phát sinh biến hoá, hình thành một số khu vực khô cạn và một số khu vực khác lượng mưa xuống lại vượt hơn mức độ thường.
Nguồn gốc
Từ "El Niño" bắt nguồn từ tiếng Tây Ban Nha, có nghĩa là "bé trai", một số người còn gọi là "Chúa hài nhi" hoặc "con trai của Chúa".
Ban đầu thế kỉ XIX, ở những quốc gia nói tiếng Tây Ban Nha như Ecuador và Peru của Nam Mỹ, các ngư dân phát hiện, cứ cách mấy năm, từ tháng 10 cho đến tháng 3 của năm sau sẽ xuất hiện một dòng nước ấm đi sát bờ biển tiến xuống phía nam, khiến cho nhiệt độ nước biển tầng ngoài biểu lộ rõ ràng lên cao. Bờ đông Thái Bình Dương của Nam Mỹ vốn dĩ thịnh hành dòng nước lạnh Peru, đàn cá thuận theo dòng nước lạnh mà di chuyển khiến cho ngư trường Peru trở thành một trong bốn ngư trường lớn của thế giới. Nhưng hễ dòng nước ấm này xuất hiện, loài cá có bản chất ưa nước lạnh thì sẽ chết với số lượng lớn, khiến cho các ngư dân gặp phải thảm hoạ. Bởi vì hiện tượng này lúc nghiêm trọng nhất thường diễn ra vào trước và sau lễ giáng sinh, do đó những ngư dân gặp phải thiên tai này mà lại không thể làm gì cứu vãn được nên gọi hiện tượng này là El Niño tức con trai của Thượng đế - Chúa hài nhi.
Tần suất xuất hiện của hiện tượng này hoàn toàn bất quy tắc, nhưng mà bình quân khoảng chừng mỗi 04 năm phát sinh một lần. Về phương diện cơ bản, nếu khoảng thời gian hiện tượng này xảy ra liên tục ít hơn 05 tháng, sẽ gọi là Tình hình En Ni-nhô (El Niño Condition), nếu hiện tượng này xảy ra liên tục trong khoảng thời gian bằng hoặc lớn hơn 05 tháng, sẽ gọi là Sự kiện En Ni-nhô (El Niño Episodes).
Ở trong tình trạng bình thường theo quy luật chung, dòng nước biển gió mùa ở khu vực Thái Bình Dương nhiệt đới chuyển động từ châu Mĩ hướng về châu Á. Khiến cho mặt ngoài của Thái Bình Dương bảo toàn nóng ấm, mang đến mưa nhiệt đới cho vùng xung quanh Indonesia. Nhưng quy luật này cứ mỗi 2 đến 7 năm sẽ bị làm xáo trộn một lần, khiến cho hướng gió và dòng nước biển phát sinh chuyển hoá phương hướng tương phản, dòng nước nóng của tầng ngoài Thái Bình Dương thì đổi hướng về phía đông chạy về châu Mĩ, theo sau đó liền mang đến mưa nhiệt đới, khiến cho Trái Đất xuất hiện khô cạn với diện tích lớn, đây chính là "hiện tượng En Ni-nhô".
Sau này, từ El Niño về phương diện khoa học dùng để biểu thị hiện tượng gia tăng khác thường của nhiệt độ mặt biển phần phía đông Thái Bình Dương ở mấy ngàn kilômét sát gần Peru và Ecuador. Lúc hiện tượng này phát sinh, nhiệt độ nước biển ở phạm vi lớn lên cao từ 3 đến 6 độ C so với bình thường hằng năm. Nhiệt độ nước ở thủy vực rộng lớn của Thái Bình Dương, đã thay đổi dòng nước biển ờ xích đạo và gió tín phong đông nam truyền thống, dẫn đến biến đổi khí hậu mang tính toàn cầu trái với bình thường.
Tiêu chuẩn định nghĩa
nhỏ|Các loại miền Niño được thị sát kiểm trắc nhiệt độ mặt biển để mà xác định tướng ENSO hiện tại (nóng ấm hoặc lạnh rét).
Sự kiện En Ni-nhô là chỉ hiện tượng mà phạm vi lớn mặt ngoài phía trung tâm và đông Thái Bình Dương xích đạo liên tục không ngừng nghiêng lệch về nóng ấm khác thường. tiêu chuẩn đánh giá phán đoán của nó còn tồn tại sai biệt nhất định ở trong quốc tế. Thông thường đem chỉ số chênh lệch chuẩn nhiệt độ mặt biển miền Niño 3 đạt đến 0,5 °C trở lên trong 06 tháng liên tục không gián đoạn định nghĩa là một lần Sự kiện En Ni-nhô. Hiện tại, Hoa Kỳ lấy giá trị trung bình trượt 03 tháng của chỉ số chênh lệch chuẩn nhiệt độ mặt ngoài biển miền Niño 3.4 liên tục 05 lần lớn hơn hoặc bằng 0,5 °C định nghĩa là một lần Sự kiện En Ni-nhô; Cục Khí tượng Australia đem giá trị chênh lệch chuẩn nhiệt độ mặt ngoài biển miền Niño 3.4 lớn hơn hoặc bằng 0,8 °C lại thêm chỉ số dao động sóng cả phương nam nhỏ hơn hoặc bằng - 0,8 °C định nghĩa là một lần sự kiện En Ni-nhô. Trung tâm Hadley Cục Khí tượng Vương quốc Anh đem giá trị chênh lệch chuẩn nhiệt độ mặt ngoài biển miền Niño 3.4 lớn hơn hoặc bằng 0,5 °C, và lại liên tục không ngừng ít nhất 06 tháng trở lên định nghĩa là một lần Sự kiện En Ni-nhô; Trung tâm Khí hậu Tokyo Sở Khí tượng Nhật Bản đem giá trị trung bình trượt chênh lệch chuẩn nhiệt độ mặt ngoài của 5 tháng trong 6 tháng liên tục không gián đoạn của miền Niño 3 lớn hơn hoặc bằng 0,5 °C định nghĩa là một lần Sự kiện En Ni-nhô.
Để cho phản ánh một cách càng thêm đầy đủ toàn thể tình hình phía trung tâm và đông Thái Bình Dương xích đạo, hiện tại, Trung tâm Khí tượng Quốc gia Cục Khí tượng Trung Quốc về phương diện nghiệp vụ chủ yếu lấy chỉ số chênh lệch chuẩn nhiệt độ mặt biển của miền tổng hợp Niño (miền Niño 1+2+3+4) mà phân biệt đoán định Sự kiện En Ni-nhô, chỉ tiêu như sau: chỉ số chênh lệch chuẩn nhiệt độ mặt biển của miền tổng hợp Niño liên tục không gián đoạn 06 tháng trở lên lớn hơn hoặc bằng 0,5 °C (có thể có phần tháng đơn lẻ ở khoảng giữa quá trình chưa đạt chỉ tiêu) là một lần Sự kiện En Ni-nhô; nếu chỉ tiêu miền đó liên tục không ngừng 05 tháng lớn hơn hoặc bằng 0,5 °C, lại thêm tổng số chỉ số của 05 tháng lớn hơn hoặc bằng 4 °C, cũng định nghĩa là một lần Sự kiện En Ni-nhô.
Nguyên nhân hình thành
Gió tín phong đông nam suy kém
Sau khi gió tín phong đông nam mà thổi sát gần xích đạo nam bán cầu suy kém, sự nổi lên trên của nước lạnh ở khu vực Thái Bình Dương sẽ giảm bớt hoặc thôi hoạt động, từ đó hình thành nhiệt độ nước biển ở phạm vi lớn gia tăng nóng ấm khác thường, dòng nước biển xích đạo truyền thống và hoàn lưu khí quyển phát sinh khác thường, dẫn đến một ít khu vực đi sát bờ Thái Bình Dương đón nhận giáng thủy trái với bình thường, một ít địa phương khác thì khô cạn nghiêm trọng.
Ở trong tình hình bình thường phù hợp với quy luật chung, gió tín phong đông bắc thổi sát gần xích đạo bắc bán cầu, gió tín phong đông nam thổi sát gần xích đạo nam bán cầu. Nước biển mang theo mình gió tín phong xê dịch từ phía đông hướng về phía nam, hình thành tách ra dòng nước ấm bắc xích đạo và dòng nước ấm nam xích đạo. Nước biển mà từ phía đông Thái Bình Dương xích đạo chảy ra ngoài, nương tựa vào tầng dưới mà bổ sung dòng nước vọt ra lên cao, từ đó khiến cho nước lạnh tầng dưới của một khu vực này nổi lên trên, nhiệt độ nước thấp hơn khắp chung quanh, hình thành chênh lệch nhiệt độ mặt biển của phần phía đông và phía tây.
Song, bỗng nhiên có một hôm gió tín phong đông nam suy kém, tức khắc sẽ hình thành sự nổi lên trên của nước lạnh ở khu vực Thái Bình Dương giảm bớt hoặc thôi hoạt động, nhiệt độ nước biển lên cao ngay, hình thành nhiệt độ nước biển ở phạm vi lớn tăng thêm nóng ấm khác thường. Cho nên, dòng nước ấm này đột nhiên tăng mạnh men theo bờ biển Ecuador xâm chiếm phía nam, khiến cho nhiệt độ nước biển lên cao dữ dội, đàn cá ở nước lạnh vì nguyên do đó nên tử vong số lượng nhiều, chim biển vì nguyên do tìm kiếm không được thức ăn cho nên rời bỏ chia lìa rối loạn, ngư trường bỗng chốc mất đi cơ năng sinh sống, khiến cho quốc gia đi sát bờ biển gặp phải tổn thất cực kì to lớn.
Tự quay Trái Đất
Nghiên cứu phát hiện, việc phát sinh sự kiện En Ni-nhô có liên quan với sự biến hoá vận tốc tự quay Trái Đất, từ niên đại 50 thế kỉ XX tới nay, vận tốc tự quay Trái Đất đã huỷ hoại sự phân bố gia tốc trung bình của thước đo trong 10 năm qua, sự biến hoá khác thường có dao động từ 4 đến 5 năm, trung bình năm phát sinh ở vận tốc tự quay Trái Đất của một ít En Ni-nhô khá mạnh thì phát sinh ở trong năm chuyển hướng trọng đại, nhất là năm mà tự chuyển biến chậm. Sự biến hoá tốc độ tự quay Trái Đất trong khoảng thời gian ngắn có liên quan ngược với sự biến hoá nhiệt độ mặt biển ở phía đông Thái Bình Dương xích đạo, tức là lúc tốc độ tự quay Trái Đất tăng tốc trong khoảng thời gian ngắn, nhiệt độ mặt biển của phía đông Thái Bình Dương xích đạo hạ xuống thấp; trái lại, lúc tốc độ tự quay Trái Đất giảm chậm, nhiệt độ mặt biển của phía đông Thái Bình Dương xích đạo lên cao. Điều này nói rõ ra rằng, sự giảm chậm của tự quay Trái Đất có khả năng là nguyên nhân chủ yếu hình thành hiện tượng En Ni-nhô.
Khi tự quay Trái Đất giảm tốc, "hiệu ứng phanh xe" khiến cho khí quyển và nước biển ở đới xích đạo thu được một quán tính hướng đông, dòng nước biển xích đạo và gió tín phong suy kém, nước ấm ở phía tây Thái Bình Dương xê dịch hướng về phía đông, nước lạnh ở phía đông Thái Bình Dương bị ngăn cản lật lên trên, vì nguyên do tích tụ và chất đống nước ấm nên hiện tượng El Ni-nhô phát sinh nước biển gia tăng nhiệt độ và mặt biển nâng cao.
Đặc trưng khí hậu
Vào khoảng thời gian En Ni-nhô phát sinh, trường khí áp của phía đông Thái Bình Dương xuống thấp, trường khí áp của phía tây Thái Bình Dương lại tăng cao, sự biến hoá của trường khí áp khiến cho đới gió đông thịnh hành ở miền nhiệt đới suy kém, thậm chí chuyển thành đới gió tây, do đó dòng nước biển tầng ngoài phía đông Thái Bình Dương mà nguyên lúc đầu là đi về phía tây thì di chuyển ngược hướng về phía đông, dần dần nhận lấy nhiệt sau khi tăng thêm nhiệt độ rồi tụ họp ở vùng biển phía đông Thái Bình Dương, nhiệt độ nước mặt ngoài Thái Bình Dương ở miền nhiệt đới đã hiện ra sự biến hoá của phía đông cao phía tây thấp, nước biển có nhiệt độ cao hướng về bờ mà tụ họp ở phía đông Thái Bình Dương (diện tích tương đương một nửa đại lục Hoa Kỳ), cũng ức chế nhiệt độ xuống thấp và dòng vọt lên mà có giàu chất dinh dưỡng vọt ra lên trên ở nơi sâu của miền đó. Vì vậy đàn cá dời đi lưu trú hướng về nơi khác, số lượng chim biển của vùng đó cũng giảm bớt rõ rệt, lượng sản xuất phân bón phosphat xuống thấp, ở phương diện hiệu ứng vòng xúc xích khiến cho ngư nghiệp và nông nghiệp của khu vực đó tất cả cùng bị chịu tổn thất ở mức độ tương đương.
Ngoài sự biến hoá nhiệt độ của nước biển ra, khoảng thời gian hiện tượng En Ni-nhô phát sinh cũng vì nguyên do sự thay đổi của hoàn lưu khí quyển và trao đổi nhiệt lượng khí quyển - đại dương nên hình thành hình thái khí hậu khác thường. Vào khoảng thời gian hiện tượng En Ni-nhô phát sinh, lúc nhiệt độ biển và đại dương phía đông Thái Bình Dương ở miền nhiệt đới tăng cao khác thường (kỉ lục mạnh nhất hiện tại là lên cao 6 °C), khí quyển ở phía trên mặt đại dương, theo cùng hơi nước của biển và đại dương mang đến, nhận lấy nhiệt mà lên cao, trải qua tác dụng đối lưu hình thành mây và mưa, dẫn đến giáng thủy tăng gia ở vùng đất lân cận, cơ hội phát sinh mưa lớn và nạn lụt tăng cao. Để cho cân bằng sự lên cao của không khí ở khu vực phía đông Thái Bình Dương, không khí trên trời của phía tây Thái Bình Dương ở miền nhiệt đới mà có nhiệt độ mặt biển xuống thấp thì thoả mãn chìm xuống, hình thành áp lực mặt ngoài Trái Đất của khu vực đó tăng gia và lại ức chế giáng thủy, do đó ở nước Indonesia, nước Philippines và phía bắc Liên bang Úc khá dễ dẫn đến khô cạn ở khoảng thời gian hiện tượng En Ni-nhô phát sinh.
Nói đơn giản, đặc trưng của hiện tượng En Ni-nhô chính là sự thay đổi ngược hướng của nhiệt độ nước của mặt ngoài biển và đại dương ở phía đông và tây Thái Bình Dương, theo cùng trường khí áp của khí quyển có sự dao động phía đông và phía tây theo phép tắc cầu ván bấp bênh. Khi sự biến hoá nhiệt độ mặt biển Thái Bình Dương xích đạo hiện ra phía đông cao phía tây thấp, sự biến hoá trường khí áp liền ngay biến thành phía tây cao phía đông thấp (tức là khoảng thời gian hiện tượng En Ni-nhô phát sinh); trái lại, nếu sự biến hoá nhiệt độ nước biển là phía đông thấp phía tây cao, trường khí áp liền ngay hiện ra hình thái phía tây thấp phía đông cao (tức là khoảng thời gian không có hiện tượng En Ni-nhô phát sinh). Đối với sự biến hoá của trường khí áp, giới khí tượng thông thường lấy giá trị khác biệt của trường khí áp ở giữa hai khu vực Tahiti, Polynésie thuộc Pháp ở phía đông và Darwin, Liên bang Úc ở phía tây của Nam Thái Bình Dương, và lại gọi tên là Dao động sóng cả phương nam. Cho nên hiện tượng biến hoá khí quyển và đại dương mà hiện tượng En Ni-nhô và Dao động sóng cả phương nam từng cái một sản sinh cho nhau và làm bạn với nhau, đã lấy đầu chữ cái của hai danh từ gọi chung là ENSO.
Hiện tượng En Ni-nhô phát sinh khoảng chừng mỗi từ hai đến bảy năm một lần, chu kì mạng sống của nó từ khởi đầu, chín muồi đến trước và sau suy thoái có thể đạt đến khoảng thời gian một năm rưỡi đến hai năm. Vậy sau, giống y một kiểu của quả lắc đồng hồ, dần dần hồi phục. Có lúc trong quá trình hồi phục lại dao động vượt quá phía trước, hình thành gió đông thịnh hành mạnh thêm, nhưng mà nhiệt độ nước mặt ngoài của phía đông Thái Bình Dương thấp thêm, thứ hiện tượng tương phản này mà phản ánh đối lập với En Ni-nhô tức khắc gọi nó là La Ni-nha (ý nghĩa là bé gái trong chữ Tây Ban Nha). Do đó, hiện tượng En Ni-nhô thực ra là hiện tượng tự nhiên cái mà tác dụng giao hỗ đại dương và khí quyển sản sinh, nó đang là một bộ phận của quy luật hài hoà tầng khí quyển Trái Đất và thủy quyển của giới tự nhiên giống như quy phạm gieo vần và tiếng có thanh bằng thanh trắc, cũng là một cái vòng của hệ thống khí hậu toàn cầu. Té ra nó chỉ là một cái hiện tượng mang tính biển và đại dương mà ngư dân sống bám biển và đại dương miêu tả, hiện nay đã hoà hợp thành ENSO và La Ni-nha, đã bao hàm lĩnh vực khí quyển và biển - đại dương, biến thành là danh từ đời thường mà mọi nhà đều hiểu rõ.
Hiệu ứng và ảnh hưởng
Ảnh hưởng mà khẳng định minh xác nhất là, Sự kiện En Ni-nhô dẫn đến lượng giáng thủy toàn cầu tăng nhiều rõ rệt so với năm bình thường phù hợp với quy luật chung. Cái này dẫn đến quốc gia đi sát bờ Thái Bình Dương của Nam Mĩ và vùng phía đông và trung tâm Thái Bình Dương mắc phải nạn lụt dồn dập, cùng lúc nước Ấn Độ, nước Indonesia, Liên bang Úc từng khu vực một thì khô cạn nghiêm trọng, nhiều loài cây nông nghiệp của thế giới sắp bị ảnh hưởng.
Hiện tượng En Ni-nhô từ tháng 4 năm 1982 đến tháng 7 năm 1983, là một lần nghiêm trọng nhất trong mấy thế kỉ qua tới nay, nhiệt độ mặt nước từ phía đông và trung tâm Thái Bình Dương cao hơn khoảng chừng 4 đến 5 °C so với năm bình thường đúng theo quy luật, gây nên 1300 đến 1500 người của cả thế giới mất mạng sống, kinh tế tổn thất gần 10 tỉ đô-la Mĩ.
Hiện tượng En Ni-nhô từ năm 1986 đến năm 1987, khiến cho nhiệt độ nước của mặt ngoài nước biển ở phía đông và trung tâm Thái Bình Dương xích đạo thiên về cao vào khoảng 2 °C so với nhiệt độ trung bình năm bình thường đúng theo quy luật; đồng thời, hoàn lưu khí quyển của khu vực miền nhiệt đới cũng xuất hiện khác thường một cách tương ứng, khí quyển của miền nhiệt đới và miền khác xuất hiện biến hoá khác thường; mưa lớn đến thình lình ở vùng đất bắc bộ và trung bộ nước Peru của châu Nam Mĩ biến thành nạn lụt; nước sông sông Amazon ở bên trong biên giới Colombia dâng tràn mãnh liệt, gây nên đê sông nhiều lần nứt vỡ; phía đông bắc nước Brasil mưa ít và khô cạn, vùng đất phía tây nóng nực; vùng đất phía đông và đi sát bờ biển của Liên bang Úc nước mưa giảm thiểu rõ ràng; vùng đất phạm vi lớn từ Hoa Nam Trung Quốc, Nam Á đến phía bắc châu Phi tất cả đều mưa ít và khô cạn.
Đầu năm 1990 lại phát sinh điềm báo trước hiện tượng En Ni-nhô. Tháng 1 năm này, nhiệt độ mặt nước vùng biển trung tâm Thái Bình Dương cao hơn năm trước, ngoài nhiệt độ mặt nước vùng biển xích đạo cao vượt 0,5 °C so với năm trước, nhiệt độ mặt nước vùng biển của đường biến đổi ngày quốc tế về phía tây cũng cao vượt sắp gần 1 °C so với năm trước; tầng nước ấm 28 °C mà kề cận mặt nước biển thì hẹp khoảng 10 mét so với năm trước; mức nước của vùng biển đi sát bờ Thái Bình Dương ở châu Nam Mĩ phình lên 15 đến 30 xăngtimét so với bình thường.
Hiện tượng En Ni-nhô từ năm 1997 đến năm 1998, nhiệt độ mặt nước phía đông và trung tâm Thái Bình Dương cao vượt khoảng chừng 3 đến 4 °C so với năm bình thường đúng theo quy luật, khiến sông Trường Giang xuất hiện nước lớn, vùng đất Hoa Nam có mưa lớn đến thình lình liên tục, vùng đất Đông Nam Á phát sinh nạn cháy rừng rậm quy mô lớn. Hiện tượng En Ni-nhô lần này phát sinh ngay liền sau năm 1990 đến năm 1994, mức độ dồn dập là hiếm thấy, nhưng mà quy mô khá nhỏ. Tình hình đại hạn của 5 tỉnh phía tây nam Trung Quốc cũng là do hiện tượng En Ni-nhô dẫn đến.
Mùa bão Đại Tây Dương năm 2005 đã xuất hiện hiếm thấy bốn bão cấp 5 cường độ mạnh nhất, tách ra theo thứ tự là bão Emily, bão Katrina, bão Rita và bão Wilma, và hơn nữa gây nên thương vong trầm trọng mạng người và tổn thất tài sản nhà cửa ở Bắc Mĩ và Trung Mĩ. Trong đó, bão Wilma là một bão phía bắc Đại Tây Dương mạnh nhất trong số chúng nó được ghi chép lại tới nay.
Mùa bão Đại Tây Dương năm 2007 lại xuất hiện hai bão cấp 5 giống nhau cường độ mạnh nhất tách ra là bão Dean và bão Felix. Một mặt khác, hiện tượng En Ni-nhô có lúc cũng sẽ quay về thúc đẩy thành bão ở phía tây bắc Thái Bình Dương với con số thiên về ít, nhưng mà tình hình đặc thù uy lực và siêu mạnh có phát sinh. Thí dụ: bão Zeb (năm 1998) của mùa bão Thái Bình Dương năm 1998 và siêu bão Megi (năm 2010) của mùa bão Thái Bình Dương năm 2010.
Trong 100 năm qua tới nay, hiện tượng En Ni-nhô phát sinh tổng cộng 24 lần, quy mô có mạnh có yếu. Hiện tượng En Ni-nhô quy mô mạnh sẽ hình thành hình thái khí hậu mang tính toàn cầu biến hoá với chiều ngang lớn, trong đó lấy nhiệt độ nước biển của năm 1982 - 1983 và lần này 1997 - 1998 là biến hoá lớn nhất, kêu gọi là Siêu cấp En Ni-nhô của thế kỉ này, cũng dẫn đến tai hoạ nghiêm trọng. Căn cứ vào ước tính, hiện tượng En Ni-nhô lần ấy năm 1982 - 1983, quốc gia Đông Nam Á của miền phía tây Thái Bình Dương và Liên bang Úc phát sinh khô cạn nghiêm trọng và nạn cháy sinh sôi nẩy nở và vượt ra ngoài phạm vi, quốc gia châu Mĩ của miền phía đông Thái Bình Dương bị huỷ hoại vì nạn lụt, ngoài cái chết của hai nghìn mạng người, tổn thất tiền của đạt đến cái móc 13 tỉ đô-la Mĩ.
Về hiện tượng En Ni-nhô lần này mà nói, từ mùa thu năm ngoái tới nay, vùng đất Đông Nam Á, Liên bang Úc và Brasil phát sinh khô cạn, nạn cháy rừng rậm và tai hoạ khói bụi mù mịt trên không nghiêm trọng, vùng đất phía đông bắc Hoa Kỳtiếp thụ mùa đông ấm, nhưng mà nước Canada, nước Chile và nước Peru thì bị mưa lớn mặc ý tàn hại, nước Canada gian nan thống khổ vì sự hung dữ của băng và tuyết, nước México cũng phát sinh tuyết rụng xuống mà từ trăm năm qua tới nay chưa gặp, đi sát bờ biển đông nam Trung Quốc đại lục có mưa bão, Đài Loan tất nhiên cũng đã trải qua mùa đông ấm và mưa xuân liên tục không dứt. Mặc dù tổn thất tiền của chính xác vẫn chưa thể thống kê một lúc ra tới nay, nhưng mà nước Indonesia vì nguyên do tai nạn môi trường nghiêm trọng nhất trong 50 năm qua tới nay nên gây ra khủng hoảng kinh tế, tiến đến gây ra sóng triều cải cách chính trị ở trong trạng thái hừng hực, chính là một trường hợp điển hình bị ảnh hưởng hiện tượng En Ni-nhô sâu đậm. Tất nhiên mọi việc xảy ra có cái lợi có cái hại, rất nhiều người cũng sẽ nương tựa hiện tượng En Ni-nhô mà nhận lấy lợi ích, khí xoáy nhiệt đới của miền Đại Tây Dương khá ít, nông dân trồng cây bông sợi ở Liên bang Úc vì nguyên do khí hậu khô hanh nên gặt hái rất dồi dào, ngư dân Chile cũng vì nguyên do đàn cá số lượng nhiều bơi theo dòng nước chảy quanh hướng về phía nam nên nở ra vẻ mặt vui mừng tươi cười. Hiện tượng En Ni-nhô thực ra không chỉ là phát sinh đơn lẻ ở Thái Bình Dương, nghiên cứu gần nhất quan sát đến sự đồng dạng nhiệt độ nước mặt ngoài của Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương có sự biến hoá giống nhau, chỉ là bởi vì khoảng cách chiều ngang đông tây của Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương khá nhỏ, tác dụng giao hỗ của nhiệt lượng giữa biển - đại dương và khí quyển mau lẹ hơn nữa trong khoảng thời gian ngắn, do đó biên độ biến hoá của nó nhỏ hơn nữa hiệu ứng không rõ ràng. Ngoài sự biến hoá khí hậu ra, vận tốc tự quay Trái Đất trong khoảng thời gian hiện tượng En Ni-nhô phát sinh cũng sẽ bị ảnh hưởng nên giảm chậm chút ít. Về phương diện y tế công cộng, lúc hiện tượng En Ni-nhô phát sinh, miền khí hậu vừa ấm vừa ẩm cũng vì nguyên do virus phổ biến mang tính nhiệt đới (ví dụ như virus Dengue, virus Hanta, viêm não, bệnh tả, sốt rét, v.v) sinh sôi đông đúc số lượng nhiều ở kí chủ cho nên tàn hại khá tuỳ tiện. Có một ít người cho biết là bệnh Chết Đen vào khoảng thời gian cuối niên đại 1340, đại dịch bệnh tật mấy lần ở trong năm 1557 đến năm 1900 có khả năng đều có liên quan với hiện tượng En Ni-nhô. Những quan sát tương quan này, tiến bước báo cho chúng ta biết hiện tượng En Ni-nhô sản sinh xác thực hiệu ứng mang tính toàn cầu, do đó về phương diện chính trị, kinh tế, xã hội và khoa học, tất cả nó có ý nghĩa và ảnh hưởng trọng đại.
Sự biến hoá trái bình thường của khí hậu trong khoảng thời gian hiện tượng En Ni-nhô phát sinh thường thường có thể hình thành tổn hại trọng đại với tài sản sinh mệnh của loài người, các trung tâm nghiên cứu khí tượng và biển - đại dương chủ yếu của thế giới tất cả cùng tích cực đưa vào nghiên cứu quan hệ qua lại với hiện tượng En Ni-nhô. Thí dụ Hoa Kỳ từ năm 1985 tới nay đã tiêu mỗi năm kinh phí từ 10 đến 20 triệu đô-la Mĩ chuyên tiến hành công việc nghiên cứu mà có liên quan dự trắc hiện tượng En Ni-nhô, đầu năm 1997 thành công dự trắc ra sự xuất hiện của hiện tượng En Ni-nhô đợt này. Có người hoài nghi thứ đầu tư này có đáng giá không ? Kì san Climate Change gần đây nhất có một bài văn ước tính hạng mục nghiên cứu này chỉ đơn giản đã mang đến hiệu ích gấp 20 - 30 lần với nông nghiệp Hoa Kỳ, khiến cho Cục Quản lí Hải dương và Khí quyển Quốc gia Hoa Kỳ mà ủng hộ xuất tiền thì rất phấn khởi. Nông dân của Liên bang Úc lần này cũng vì nguyên do chính phủ của họ đã nêu ra cảnh báo trước nên kịp thời điều chỉnh quy mô và hạng mục canh tác và giảm thiểu đáng kể tổn thất có thể.
Cục Khí tượng Trung ương Trung Hoa dân quốc cũng thích đáng thúc đẩy cấp bách kế hoạch nghiên cứu của dự báo khí hậu trong một khoảng thời gian ngắn, giai đoạn bây giờ một trong những trọng điểm công tác của Cục đó là phân tích và nghị luận đặc tính biến hoá của hiện tượng En Ni-nhô về nơi khí hậu Đài Loan hình thành, cùng với độ dự báo đáng tin của những đặc tính này. Tất nhiên mục tiêu cuối cùng của Cục Khí tượng Trung ương Trung Hoa dân quốc, vẫn hi vọng sáng lập lên nghiệp vụ dự báo về biến hoá khí hậu trong khoảng thời gian ngắn ở vùng đất Đài Loan.
Tác động
Mưa bão, lụt lội, đó là các hiện tượng dễ thấy nhất của El Niño. Lý do là dòng nước ấm ở phía đông Thái Bình Dương chạy dọc theo các nước Chile, Peru... đã đẩy vào không khí một lượng hơi nước rất lớn. Hậu quả là các quốc gia ở Nam Mỹ phải hứng chịu một lượng mưa bất thường, có khi lượng mưa lên đến 15 cm mỗi ngày. Điều bất ngờ là những cơn gió ở Thái Bình Dương tự dưng đổi hướng vào thời điểm có El Niño. Chúng thổi ngược về phía đông thay vì phía tây như thời tiết mỗi năm. Những cơn gió này có khả năng đưa mây vượt qua Nam Mỹ, đến tận România, Bulgaria, hoặc bờ biển Đen của Nga. Như vậy, một vùng rộng lớn của tây bán cầu bị El Niño khống chế. Năm 1997, toàn vùng này bị thiệt hại ước tính 96 tỷ USD do mưa bão, lũ lụt từ El Niño gây ra. Ngược lại, hiện tượng khô hạn lại xảy ra trên các quốc gia thuộc đông bán cầu. Do mây tập trung vào một khu vực có mật độ quá cao, do đó, phần còn lại của thế giới phải hứng chịu đợt hạn hán nghiêm trọng. Các nước thường xuyên chịu ảnh hưởng khô hạn do El Niño gây ra có thể kể: Úc, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam... Đợt hạn hán gần đây nhất ở Úc đã làm hàng triệu con kangaroo, cừu, bò... chết vì khát. Bang New South Wales suốt chín tháng không có mưa, hồ nước ngọt Hinze (bang Queensland) cạn kiệt. Tại Thái Lan, hơn một triệu gia đình bị thiếu nước trầm trọng. Tại Việt Nam, một vùng rộng lớn bị mặn xâm nhập, đặc biệt là tại Nam Bộ, gây khô hạn, thiếu nước ngọt và thời tiết khô nóng, không mưa kéo dài.
Đối phó
Các nhà khoa học đã đề ra ba giải pháp đối phó với hiện tượng này:
Khai thác tất cả tiềm lực văn minh nhân loại để dự báo thời điểm chính xác xuất hiện, dự báo đường đi và sức công phá.
Không làm các công việc tiếp tay cho El Niño như phá rừng, thải khí cácbonic vào không khí, vì El Niño càng mạnh mẽ hơn nếu mặt đất thiếu cây xanh hay để xảy ra hiện tượng nhà kính.
Chuẩn bị những điều kiện tối thiểu để sống chung với El Niño, ví dụ như xây nhà phao tránh lũ (đối với vùng lũ lụt) hay dự trữ nước (đối với vùng khô hạn)...
Lợi ích của El Niño
Không phải El Niño lúc nào cũng gây tai họa cho con người. Cách đây hơn 5000 năm, khi mà hiện tượng này mới được ngư dân Peru phát hiện thì El Niño đồng nghĩa với "tin mừng". Vì nước biển lúc ấy tăng lên đủ ấm để vi sinh vật phát triển. Chúng là thức ăn cho cá biển. Nhờ thế nền đánh bắt cá của các nước ven biển Nam Mỹ phát triển mạnh. Nếu năm nào mà hiện tượng El Niño không làm cho nhiệt độ nước biển tăng lên quá cao thì năm đó sẽ có mùa cá bội thu.
Ngoài ra, El Niño còn làm cho một số hoang mạc khô cằn nhất thế giới như Antacama (Nam Mỹ) có những cơn mưa lớn giúp cho thực vật tại nơi đây phát triển đáng kinh ngạc. Tiêu biểu là vào năm 2015, hoa đã nở rộ khắp Hoang mạc Antacama.
Ghi chép
Những đợt El Niño từ giữa năm 1900 đến năm 2020.Có sách vở ghi chép ghi lại từ năm 1900 tới nay, năm 1900, 1903, 1906, 1915, 1919, 1926, 1931, 1941, 1942, 1958, 1966, 1973, 1978, 1980, 1983, 1987, 1988, 1992, 1995, 1998, 2003, 2007, 2010,... đều đã phát sinh hiện tượng En Ni-nhô cả, khiến nhiệt độ nước biển của phần phía đông và trung tâm Thái Bình Dương thấp hơn 1 đến 2 °C. Có nhà khoa học cho biết là, bởi vì xu thế của hoá ấm toàn cầu cho nên hiện tượng En Ni-nhô có xu thế suy kém.
Từ năm 1900 tới nay, đã phát sinh ít nhất 30 vụ Sự kiện En Ni-nhô. Trong đó, năm 1982 – năm 1983, năm 1997 – năm 1998 và năm 2014 – 2016 là sự kiện được ghi chép là mãnh liệt nhất.
Hiện tượng En Ni-nhô xuất hiện ở suất năm sau đây: 1986 – 1987, 1991 – 1994, 1997 – 1998, 2002 – 2003, 2004 – 2005, 2006 – 2007, 2009 – 2010, 2014 – 2016, 2018 – 2019.
Đọc thêm |
Trạm vũ trụ Hòa Bình, hay trạm vũ trụ Mir, (tiếng Nga: Мир - Mir - có nghĩa là "hòa bình"), là một trạm nghiên cứu được phóng lên vũ trụ vào ngày 19 tháng 2 năm 1986, chuyên chú vào các thí nghiệm khoa học phục vụ mục đích hòa bình và sự phát triển của con người. Mir chấm dứt hoạt động ngày 23 tháng 3 năm 2001 và bị phá vỡ khi tiếp xúc khí quyển.
Các mô-đun của trạm
Trạm Mir là trạm vũ trụ đa mô-đun đầu tiên trên thế giới. Trạm được xây dựng từ nhiều mô-đun khác nhau từ nhiều lần phóng tên lửa.
*Mô-đun Kvant-2, Spektr, Kristall và Priroda là những mô-đun dựa trên Khối hàng hóa chức năng (ФГБ - FGB - Functional Cargo Block) của tàu vũ trụ thử nghiệm TKS
Những kỉ lục
Suốt 15 năm bay vòng quanh Trái Đất với 23.000 thí nghiệm khoa học, đây là kỉ lục độc nhất của ngành hàng không vũ trụ thế kỉ 20. Trạm đã đón nhận 104 lượt phi hành gia từ nhiều quốc gia khác nhau, đa phần là phi hành gia Nga và Mỹ và một số phi hành gia từ các nước khác như Pháp, Đức, Anh, Áo, Nhật,... đến làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Đợt lưu trú dài nhất trên Mir, và cũng là kỉ lục chuyến bay vũ trụ dài nhất của một con người là của phi hành gia Nga Valeri Vladimirovich Polyakov (437 ngày).
Mir cũng không thể thoát một số tai nạn khi thực hiện sứ mệnh: hỏa hoạn (2/1997), mất điện và tụt áp suất do tàu vận tải Tiến bộ̣ va chạm vào trạm (6/1997), mất liên lạc với mặt đất suốt hai tháng (2000).
Về Trái Đất
Đầu năm 2001, Nga quyết định đưa Mir về Trái Đất vì nó tồn tại quá lâu, phục vụ nhân loại gấp ba lần thời hạn thiết kế ban đầu là 5 năm và dọn đường cho Trạm Vũ trụ Quốc tế vì Nga không có đủ kinh phí vận hành cả hai trạm vũ trụ cùng một lúc.
Vào ngày 24 tháng 1 năm 2001, tàu vận tải Progress M1-5 đã phóng lên và kết nối Mir ba ngày sau. Khoảng 2 tháng sau, vào ngày 23 tháng 3 năm 2001, sau nhiều thao tác điều chỉnh độ cao, tàu Progress đã thực hiện ba lần đốt động cơ - với lần đốt động cơ cuối cùng là đốt tới khi hết nhiên liệu vào lúc 05:27:36 GMT - từ từ đưa trạm về Trái Đất. Tín hiệu cuối cùng từ trạm Mir đã nhận lúc 5:31 GMT cùng ngày. Mir cùng với tàu Progress sau đó cháy và tan vỡ trong khí quyển, những mảnh vỡ sót lại đã rơi xuống mặt Thái Bình Dương lúc 06:00 GMT.
Trước khi về Trái Đất, người ta cũng khá lo ngại về trường hợp Mir có thể gây ra những thảm họa khi nó rơi xuống các khu dân cư hay thành phố lớn. Nhưng điều này không xảy ra, Mir đã được cố ý phá vỡ khi gia nhập khí quyển và các phần vỡ đã chọn một diện tích 1500 km² trên vùng biển Nam Thái Bình Dương để làm phần mộ của mình. |
Quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam được bắt đầu từ thế kỷ 19 dưới thời Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ đã bí mật hỗ trợ Việt Minh chống lại phát xít Nhật ở mặt trận Đông Dương, mặc dù một liên minh chính thức vẫn chưa được thành lập. Sau khi Liên bang Đông Dương tan rã, năm 1954, Hoa Kỳ ủng hộ Việt Nam Cộng hòa đi theo đường lối chủ nghĩa tư bản nhằm chống lại chủ nghĩa Marx-Lenin của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Chiến tranh Việt Nam. Đến năm 1973, Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam và sau đó là sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa vào năm 1975, Hoa Kỳ đã áp dụng nhiều lệnh cấm vận thương mại và cắt đứt mối quan hệ với Việt Nam, chủ yếu là do lo ngại liên quan đến thuyền nhân Việt Nam hay vấn đề tù binh, quân nhân mất tích trong chiến tranh Việt Nam. Những nỗ lực tái thiết lập quan hệ giữa hai nước vẫn không được thực hiện trong nhiều thập kỷ cho đến khi Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt chính thức tuyên bố thiết lập mối quan hệ ngoại giao Hoa Kỳ - Việt Nam vào ngày 11 tháng 7 năm 1995. Trước đó, vào năm 1994, Hoa Kỳ đã dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại kéo dài 30 năm đối với Việt Nam. Quan hệ giữa hai nước tiếp tục được cải thiện trong thế kỷ 21.
Việt Nam hiện được coi là một đồng minh tiềm năng của Hoa Kỳ, đặc biệt trong bối cảnh địa chính trị liên quan đến các tranh chấp ở biển Đông và ngăn chặn chủ nghĩa bành trướng của Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam còn là một trong những nước có dư luận ủng hộ Hoa Kỳ nhất, và là nước duy nhất theo chủ nghĩa Marx-Lenin có quan điểm thuận lợi như vậy. Kể từ khi bình thường hóa quan hệ vào năm 1995, các đời Tổng thống Hoa Kỳ đều đến thăm Việt Nam ít nhất một lần, nhấn mạnh tầm quan trọng của Việt Nam trong chính sách xoay trục sang châu Á ngày càng gia tăng của Mỹ, những chuyến thăm này rất được người dân Việt Nam hoan nghênh bất chấp những khác biệt về chính trị. Hai nước đã thường xuyên mở rộng trao đổi chính trị, đối thoại về nhân quyền và an ninh khu vực. Tháng 7 năm 2000, hai nước đã ký kết Hiệp định Thương mại song phương và bắt đầu có hiệu lực từ tháng 12 năm 2001. Đến tháng 12 năm 2006, Hoa Kỳ chấp thuận Quy chế Quan hệ Thương mại Bình thường Vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam.
Ngày 25 tháng 7 năm 2013 tại Nhà Trắng đã diễn ra cuộc hội đàm giữa Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang và Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Hai nhà Lãnh đạo đã quyết định xác lập quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ dựa trên các nguyên tắc tôn trọng Hiến chương Liên Hiệp Quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Khoảng 10 năm sau đó, vào ngày 10 tháng 9 năm 2023, trong chuyến thăm Tổng thống Joe Biden tới Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, hai bên đã ra Tuyên bố chung, chính thức nâng cấp quan hệ lên mức Đối tác Chiến lược Toàn diện. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nâng cấp quan hệ đối tác với một quốc gia từ mức Đối tác Toàn diện lên thẳng mức cao nhất Đối tác Chiến lược Toàn diện, bỏ qua mức Đối tác Chiến lược, chỉ trong vòng 10 năm (từ 2013 đến 2023).
Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam được đặt tại thủ đô Hà Nội, cùng với tổng lãnh sự quán tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ hiện đặt tại thủ đô Washington, D.C. và tổng lãnh sự quán nằm ở thành phố San Francisco.
Lịch sử
Trước thế kỷ XX
Vào tháng 7 năm 1787, đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp là Thomas Jefferson (sau này là tổng thống), đã chú ý đến các loại lúa gạo tốt có xuất xứ từ Cochin China (tên gọi tiếng Pháp của Việt Nam đương thời). Ông thậm chí còn tiếp cận hoàng tử Cảnh để thu thập các giống lúa đó và tìm cách gieo trồng chúng ở Paris.
Năm 1803, thuyền trưởng Jeremiah Briggs nhận nhiệm vụ đến Việt Nam trên con tàu Fame từ Salem, Massachusetts. Sau khi cập thuyền ở Turon Đà Nẵng, ông đi thuyền nhỏ ra Huế xin vua Gia Long cho thông thương. Gia Long cho phép thông thương nhưng tỏ thái độ tức tối vì cho rằng thuyền buôn Hoa Kỳ từ đầu muốn đến thông thương với Tây Sơn, bởi lẽ Gia Long mới lên ngôi có 6 tháng mà thuyền Hoa Kỳ thì đã khởi hành trước đó.
Các chuyến tàu thương mại tiếp theo của Hoa Kỳ ghé Việt Nam là: tàu Marmion của thuyền trưởng Oliver Blanchard đến từ Boston, Oliver không may bệnh và chết khi chưa kịp rời Việt Nam; tàu Beverly (chung chủ với tàu Marmion) của John Gardner; tàu Aurora của Robert Gould từ Salem, Massachusetts.
Một trong những cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa người Mỹ và Việt là vào năm 1819 khi thương nhân John White, mà sử Việt ghi lại là "Hôn Viết" chỉ huy tàu buôn Franklin vào "Canjeo" (cửa Cần Giờ) ngày 7 Tháng 6 với ý định lên Sài Gòn buôn bán. Quan địa phương cho biết triều đình Huế đòi thuyền phải ra Đà Nẵng chứ không được ghé Sài Gòn. White vì công việc khác lại phải sang Philippines nên đến 25 Tháng 9 mới trở lại Cần Giờ. Lần này có lệnh cho phép lên Sài Gòn. Ngày 7 Tháng 10 tàu bỏ neo ở Sài Gòn rồi White nán lại đó ba tháng đến 30 Tháng Giêng 1820 mới rời Việt Nam. Ông có ghi lại mọi sự việc trong thời gian ở sang Việt Nam trong cuốn sách tựa A Voyage to Cochin-China.
Cuộc tiếp xúc chính thức giữa chính phủ hai nước thì mãi đến năm 1829, khi Tổng thống Andrew Jackson mới lên nhậm chức thì Bộ Ngoại giao Mỹ cử phái bộ do Edmund Roberts (sử sách Việt ghi là "Nghĩa-đức-môn La-bách") và Đại úy David Geisinger ("Đức-giai Tâm-gia") mang theo dự thảo hiệp định thương mại hầu tìm cách thông thương với nước Cochinchina (Việt Nam).
Đầu tháng 1 năm 1833 chiến hạm Peacock chở phái bộ đến Vũng Lấm (nay thuộc Phú Yên). Sau nhiều ngày thảo luận với đại diện Việt Nam là Ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn Phức, hiệp định thương mại vẫn không thành. Theo lời của Edmund Roberts thì việc không thành là hoàn toàn do lỗi triều đình nhà Nguyễn, với các thủ tục ngoại giao quá rườm rà, quan chức ủy quyền thương thuyết thì không có ý kiến rõ ràng, lại hay lảng tránh các câu hỏi trực diện do Mỹ nêu ra. Phía Việt Nam tỏ ra quá dè dặt, thận trọng và có thái độ nghi kỵ. Các phái viên của triều Nguyễn không đồng ý ký Hiệp định chủ yếu vì vấn đề hình thức văn bản. Họ cho rằng những lời lẽ viết trong dự thảo hiệp định không tuân thủ những quy thức tôn kính khi tâu vua Việt Nam. Họ cũng cho rằng Tổng thống Hoa Kỳ được bầu ra và có nhiệm kỳ nên Tổng thống Mỹ không tương xứng với Hoàng đế Việt Nam. Sử liệu Việt Nam thì nói rằng Ngoại lang Nguyễn Tri Phương và Tư vụ Lý Văn Phức sau khi nghe dịch nội dung quốc thư của Tổng thống Mỹ và dự thảo của hiệp định thương mại, thấy không hợp cách thức nên đã không trình lên vua rồi viết thư trả lời rằng Hoàng đế Việt Nam không ngăn cản buôn bán, nhưng phải tuân theo pháp luật Việt Nam. Tàu Mỹ phải đến Đà Nẵng, không được phép lên bờ. Nhận được thư này, phái đoàn của Edmund Roberts rời Việt Nam.Nhâm thìn, năm Minh Mệnh thứ 13, mùa đông, tháng 11 [tháng 1-1833]
Quốc trưởng nước Nhã Di Lý (nước này ở Tây dương, hoặc gọi Hoa Kỳ, hoặc gọi là Ma Ly Căn [America], hoặc gọi là Anh Cát Lợi Mới [New England] đều là biệt hiệu nước ấy) sai bọn bề tôi là Nghĩa Đức Môn La Bách Đại [Edmund Roberts], Uý Đức Giai Tâm Gia [David Geisinger] (tên hai người) đem quốc thư xin thông thương thuyền ở cửa Vụng Lấm [Vũng Lấm] thuộc Phú Yên. Vua sai viên Ngoại lang Nguyễn Tri Phương, Tư vụ Lý Văn Phức đi hội với quan tỉnh, lên trên thuyền thết tiệc và hỏi ý họ đến đây làm gì. Họ nói: "Chỉ đến vì muốn giao hiếu và thông thương" nói năng rất cung kính. Đến lúc dịch thư ra có nhiều chỗ không hợp thể thức.
Vua bảo không cần đệ trình thư ấy. Rồi cho quan quyền lĩnh chức Thương bạc làm tờ trả lời. Đại lược nói: "Nước ấy muốn xin thông thương, cố nhiên là ta không ngăn trở, nhưng phải tuân theo pháp luật đã định. Từ nay, nếu có đến buôn bán thì cho đỗ ở vụng Trà Sơn, tấn sở Đà Nẵng, không được lên bờ làm nhà, vượt quá kỷ luật, rồi giao thư cho họ mà bảo họ đi".Năm 1836, phái đoàn của Edmund Roberts một lần nữa lại ghé Việt Nam qua ngã Đã Nẵng. Tuy nhiên, Đặc sứ Roberts lâm bệnh nặng nên không thể trao đổi với các quan chức Việt Nam. Edmund Roberts mất tại Ma Cao ngày 12 tháng 6 năm 1836.Bính Dần, Minh Mệnh năm thứ 17 [1836], Binh thuyền Ma Li Căn [America] đậu ở vũng Trà Sơn thuộc Đà Nẵng, Quảng Nam, nói có quốc thư cầu thông đạt, xin vào chầu. Quan tỉnh đem việc tâu lên. Vua hỏi Thị lang bộ Hộ Đào Trí Phú rằng: "Xem tình ý lời lẽ của họ tỏ ra cung thuận, vậy có nên nhận hay không?" [Trí Phú] thưa: "Họ là người nước ngoài, tình ý giả dối cũng chưa biết chừng. Thần tưởng hãy cho họ vào Kinh, lưu ở công quán Thương bạc, phái người đến khoản đãi để thăm dò cái ý họ đến". Thị lang Nội các Hoàng Quýnh tâu nói: "Nước họ xảo quyệt muôn mặt, nên cự tuyệt đi. Một khi dung nạp sợ để lo cho đời sau. Người xưa đóng cửa ải Ngọc Quan, tạ tuyệt Tây Vực, thực là chước hay chống cự Nhung Địch". Vua nói: "Họ xa cách trùng dương trên 40000 dặm, nay ngưỡng mộ uy đức triều đình mà đến sao lại cự tuyệt, chẳng hoá tỏ cho người ta thấy mình không rộng rãi ư?". Liền sai Đào Trí Phú cùng với Thị lang bộ Lại Lê Bá Tú, làm thuộc viên Thương bạc, đến tận nơi uý lạo thăm hỏi. Khi đến nơi, viên thuyền trưởng nói là bị ốm, không tiếp kiến được. Ta sai thông ngôn đến thăm; họ cũng sai người đáp lễ, rồi ngay ngày ấy, giương buồm kéo đi. Bọn Trí Phú đem việc tâu lên và nói: "Chợt đến, chợt đi thực không có lễ nghĩa !" Vua phê bảo rằng: "Họ đến, ta không ngăn cản, họ đi, ta không đuổi theo. Lễ phép văn minh có trách gì man di cõi ngoài!"Hơn 15 năm sau, trong chuyến hành trình đến vùng biển châu Á năm 1845, chiến thuyền Constitution (thường gọi là Old Ironsides) của Hoa Kỳ đã cập bến Đà Nẵng. Thuyền trưởng là John Percival liên lạc với các quan địa phương xin được tiếp xúc với triều Nguyễn để đặt mối giao hảo. Được tin, vua Thiệu Trị tại Huế cử viên ngoại lang Nguyễn Long đi hỏa tốc vào Đà Nẵng hiệp cùng Kinh lịch thuộc viên ở tỉnh là Nguyễn Dụng Giai đến thăm hỏi và làm việc với Percival. Nhưng thay vì gây thêm cảm tình, Percival khi nhận được thư cầu cứu của giám mục Dominique Lefebvre thì chiếm đoạt lấy 3 chiến thuyền và một số người làm con tin, đòi nhà chức trách phải thả Lefebvre. Sự việc không giải quyết được, Percival sai nổ súng bắn lên bờ rồi nhổ neo ra khơi ngày 16 tháng 5, khiến tình hình thêm rắc rối. Nỗ lực bang giao Việt-Mỹ bế tắc.
Mãi đến năm 1873, lần này do xúc tiến của triều đình nhà Nguyễn, Bùi Viện được vua Tự Đức cử sang Mỹ như một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền" để cầu viện tìm cách chống Pháp. Bùi Viện sau đó đã đi qua Yokohama (Nhật Bản) để đáp tàu sang Mỹ, rồi lưu lại đó một năm mới gặp được Tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ 1868-1876). Lúc này Pháp và Mỹ đang đụng độ trong trận chiến ở México nên Mỹ cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng Bùi Viện không mang theo quốc thư nên không đạt được cam kết chính thức. Vì vậy, ông lại quay về Việt Nam trở lại kinh thành Huế. Có được thư ủy nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại xuất dương một lần nữa. Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ và Pháp đã hết thù địch nên Ulysses Grant lại khước từ cam kết giúp Đại Nam đánh Pháp.
Thời Pháp thuộc và Chiến tranh Đông Dương
Ngày 9 tháng 12 năm 1907, Hoa Kỳ thiết lập lãnh sự quán đầu tiên tại Sài Gòn, thuộc địa Đông Dương thuộc Pháp. Mặc dù từ năm 1889, Hoa Kỳ đã có giao thương với thành phố này.
Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đại diện hội "Những người An Nam yêu nước" gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hòa bình Versailles cho tổng thống Mỹ Woodrow Wilson nhưng không được trả lời.
Đầu thập niên 1940, cơ quan OSS (tiền thân của CIA) của Mỹ đã giúp đỡ Việt Minh thuốc men và một số vũ khí để chống Nhật, đối tượng lúc ấy là kẻ địch của cả Mỹ và Việt Nam. Việt Minh giúp đỡ lực lượng Mỹ về tin tức tình báo và giúp cứu các lính Mỹ rồi chuyển giao cho người Mỹ.
Trong Chiến tranh Đông Dương (1945-1954), Mỹ đã giúp Pháp và đồng minh Quốc gia Việt Nam trong cuộc chiến chống cộng và tái chiếm thuộc địa của họ. Đến cuối chiến tranh, 80% chiến phí chủ yếu của Pháp do Mỹ tài trợ, lên đến 1,5 tỷ USD.
Năm 1947, Hoa Kỳ mở lãnh sự quán tại Hà Nội.
Trong trận Điện Biên Phủ, Mỹ trực tiếp chở khoảng 16 ngàn quân Pháp vào Điện Biên Phủ và hỗ trợ không quân cho quân đội Pháp cùng nhiều thứ khác cũng như sự ủng hộ về mặt ngoại giao. Nhờ điều đó mà thực dân Pháp mới có thể duy trì được cuộc chiến và Quốc gia Việt Nam của những người Việt theo chủ nghĩa dân tộc mới có thể tiếp tục tồn tại.
Ngày 17 tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ nâng cấp Tổng lãnh sự quán tại Sài Gòn thành Sứ quán với Edmund A. Gullion làm Đại biện lâm thời.
Ngày 24 tháng 6 năm 1952, Sứ quán tại Sài Gòn chính thức nâng cấp thành Đại sứ quán với đại sứ là Donald R. Heath.
Thời kỳ Chiến tranh Việt Nam
Trong Chiến tranh Việt Nam (1955-1975), chính phủ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ hậu thuẫn Việt Nam Cộng hòa chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rồi cả Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam khi đất nước bị chia cắt vào năm 1954.
Hợp chúng quốc Hoa Kỳ có tham gia Hội nghị Genève năm 1954 với một phái đoàn do Bedell Smith làm trưởng đoàn nhưng cũng như phái đoàn Quốc gia Việt Nam, không ký bản hiệp định. Do đó, Hoa Kỳ không công nhận chính phủ miền Bắc Việt Nam và chỉ duy trì quan hệ với chính phủ miền Nam Việt Nam.
Khi chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm từ chối tổng tuyển cử, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ cũng ủng hộ lập trường đó. Dựa trên thuyết Domino trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh Hoa Kỳ tăng viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa. Đến năm 1963 có hơn 16.000 cố vấn quân sự Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và đến đầu năm 1965 thì Tổng thống Lyndon B. Johnson cho đổ bộ lực lượng Thủy quân lục chiến, chính thức tham chiến. Đến năm 1973, đã có trên 600.000 binh lính Mỹ và đồng minh chiến đấu trên chiến trường miền Nam Việt Nam. Trong cuộc chiến này, quân đội Hoa Kỳ đã gây ra rất nhiều tội ác đối với nhân dân Việt Nam, những tội ác chiến tranh này làm ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ hai nước, và là cơ sở để Việt Nam yêu cầu Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh, vụ kiện hậu quả chất độc da cam tại Hoa Kỳ và các hợp tác tẩy trừ chất độc màu da cam ở Việt Nam sau này, trong nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh giữa hai quốc gia.
Năm 1973, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ký hiệp định Paris với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và rút quân chính quy ra khỏi chiến trường miền Nam Việt Nam.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Hoa Kỳ đóng cửa Đại sứ quán tại Sài Gòn và di tản toàn bộ nhân viên. Đại sứ Hoa Kỳ rời Sài Gòn vào rạng sáng hôm sau.
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa lên nắm quyền tại miền Nam Việt Nam năm 1975 (rồi tái thống nhất năm 1976), kết thúc gần hai thập kỷ của cuộc Chiến tranh Việt Nam. Cuộc chiến này đã tạo ra sự chia rẽ trong xã hội và chính trị của cả hai nước.
Từ năm 1975 đến năm 1994, Hoa Kỳ đã cấm vận Việt Nam. Trong thời gian này, từ 1977 đến 1978 Việt Nam và Hoa Kỳ đàm phán bình thường hóa quan hệ nhưng không thành vì hai bên không thể thỏa thuận được về việc bồi thường chiến tranh và người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Việt Nam yêu cầu Hoa Kỳ bồi thường những tổn thất mà họ đã gây ra ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ đã bác bỏ. Mỹ cho rằng Việt Nam không thi hành Hiệp định Paris nên họ không bồi thường chiến tranh.
Năm 1993, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ mới tuyên bố không ngăn cản các nước khác cho Việt Nam vay tiền trả nợ cho các tổ chức tài chính quốc tế. Năm 1994, Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai quốc gia. Ngày 28 tháng 1 năm 1995, Hoa Kỳ thiết lập văn phòng liên lạc tại Hà Nội. Ngày 11 tháng 7 năm 1995, Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngày 5 tháng 8 năm 1995, quan chức ngoại giao hai nước ký kết thỏa thuận mở Đại sứ quán tại thủ đô của hai nước. Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội mở cửa ngày 6 tháng 8 năm 1995 với Đại sứ là L. Desaix Anderson.
Năm 1997, Việt Nam đồng ý trả cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ khoản nợ trị giá 140 triệu USD mà Việt Nam Cộng hòa trước đây đã vay để đầu tư vào cơ sở hạ tầng.
Năm 2007, Bộ Ngoại giao Việt Nam ban hành công văn 2243/BNG-CM xác nhận tên đầy đủ chính thức Hoa Kỳ là "Hợp chúng quốc Hoa Kỳ".
Ngày 23 tháng 5 năm 2016, nhân chuyến thăm tới Việt Nam, Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Barack Obama công bố quyết định dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận vũ khí áp đặt đối với Việt Nam kéo dài từ năm 1975, nhưng đề cập thêm rằng việc bán vũ khí còn tùy thuộc vào cam kết của Việt Nam về vấn đề nhân quyền.
Biên niên sử
Năm 1787, Thomas Jefferson, khi ấy là đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, tiếp cận Hoàng tử Cảnh để thu thập các giống lúa Việt Nam, tìm cách gieo trồng ở Carolina.
Ngày 21 tháng 5 năm 1803, thuyền trưởng tàu Fame là Jeremiah Briggs cập bến Turon [Đà Nẵng] để xin vua Gia Long cho thông thương.
Ngày 7 tháng 6 năm 1817, trung tá hải quân John White của đội tàu Franklin cập bến Vũng Tàu.
Ngày 3 tháng 7 năm 1831, John Shillaber, đại sứ Hoa Kỳ tại Batavia, gửi báo cáo thương mại ở Việt Nam về Bộ ngoại giao Hoa Kỳ.
Ngày 27 tháng 1 năm 1832, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ Edward Livingston cử đặc sứ Edmund Roberts mang theo quốc thư của tổng thống Andrew Jackson đến Việt Nam để thương thuyết thiết lập thương mại.
Tháng 1 năm 1833, phái bộ do Edmund Roberts dẫn đầu đến Việt Nam đàm phán về việc ký kết hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ nhưng thất bại.
Ngày 14 tháng 5 năm 1836, Edmund Roberts lần thứ hai ghé Đà Nẵng để thương thuyết nhưng bệnh nặng và qua đời.
Ngày 10 tháng 5 năm 1845, thuyền trưởng John Percival của tàu Constitution (thường gọi là Old Ironsides) cập bến Đà Nẵng. Tàu này xảy ra xung đột với chính quyền Việt Nam khi cố gắng giải cứu một cha sứ người Pháp.
Ngày 25 tháng 2 năm 1850, Joseph Balestier, đại sứ Hoa Kỳ tại Siangapore và kiêm nhiệm đặc sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ghé Đà Nẵng để xử lý vụ việc của John Percival trước đó, đồng thời xin thiết lập thương mại.
Ngày 6 tháng 9 năm 1870, bộ ngoại giao Hoa Kỳ bác bỏ ý kiến lập sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Tháng 7 năm 1873, Bùi Viện được vua Tự Đức cử sang Mỹ như một "đại sứ đặc mệnh toàn quyền" nhờ giúp chống Pháp. Tổng thống Ulysses Grant sau đó từ chối.
Ngày 10 tháng 3 năm 1889, Aimée Fonsales được bổ nhiệm làm tham tán thương mại Hoa Kỳ tại Sài Gòn.
Ngày 9 tháng 12 năm 1907, Hoa Kỳ thiết lập lãnh sự quán đầu tiên tại Sài Gòn, thuộc địa Đông Dương thuộc Pháp.
Ngày 19 tháng 6 năm 1919: Nguyễn Ái Quốc gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam cho tổng thống Mỹ Woodrow Wilson nhưng không được phúc đáp.
Năm 1947, Hoa Kỳ mở lãnh sự quán tại Hà Nội.
Ngày 17 tháng 2 năm 1950, Hoa Kỳ nâng cấp Tổng lãnh sự quán tại Sài Gòn thành Sứ quán với Edmund A. Gullion làm Đại biện lâm thời.
Ngày 24 tháng 6 năm 1952, Sứ quán tại Sài Gòn chính thức nâng cấp thành Đại sứ quán với đại sứ là Donald R. Heath.
Năm 1957, Hoa Kỳ mở lãnh sự quán tại Huế.
Tháng 7 năm 1969, Tổng thống Richard Nixon thăm Việt Nam Cộng hòa, gặp Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, kết thúc Chiến tranh Việt Nam.
Từ 1977 đến 1978: Việt Nam và Hoa Kỳ mở đàm phán bình thường hóa quan hệ nhưng không thành khi Việt Nam đòi một ngân khoản bồi thường cho cuộc chiến. Bên Hoa Kỳ bác bỏ điểm đó khiến cuộc thương lượng đi vào bế tắc.
Ngày 2 tháng 7 năm 1993: Hoa Kỳ tuyên bố không ngăn cản các nước khác cho Việt Nam vay trả nợ tổ chức tài chính quốc tế.
Ngày 3 tháng 2 năm 1994: Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton tuyên bố bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và lập cơ quan liên lạc giữa hai nước.
Ngày 11 tháng 7 năm 1995: Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Tháng 8 năm 1995: Việt Nam và Hoa Kỳ khai trương đại sứ quán tại Washington D.C. và Hà Nội, ký thỏa thuận về xử lý nợ của chính quyền Sài Gòn cũ với Bộ trưởng Tài chính Việt Nam Nguyễn Sinh Hùng.
Từ 22 tháng 10 đến 25 tháng 10 năm 1995: Chủ tịch nước Việt Nam Lê Đức Anh và phu nhân gặp chính thức với Tổng thống Bill Clinton và và phu nhân tại Thành phố New York trong dịp đến Mỹ tham dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên Hợp Quốc. Đại tướng Lê Đức Anh là nguyên thủ nước Việt Nam thống nhất đầu tiên đặt chân đến Hoa Kỳ.
Ngày 27 tháng 6 năm 1997: Ngoại trưởng Mỹ Madeleine Albright thăm Việt Nam và ký hiệp định thiết lập quan hệ quyền tác giả với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm.
Ngày 12 tháng 5 năm 1997: Việt Nam và Mỹ trao đổi đại sứ lần đầu tiên sau chiến tranh.
Ngày 11 tháng 3 năm 1998: Tổng thống Bill Clinton lần đầu tuyên bố miễn áp dụng đạo luật bổ sung Jackson-Vanik đối với Việt Nam.
Từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 2 tháng 10 năm 1998: Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm lần đầu tiên sau chiến tranh đến thăm chính thức Mỹ.
Ngày 2 tháng 6 năm 2000: Tổng thống Bill Clinton tiếp tục tuyên bố miễn áp dụng đạo luật bổ sung Jackson-Vanik đối với Việt Nam.
Ngày 14 tháng 7 năm 2000: Tại Washington D.C., đại diện hai nước ký Hiệp định Thương mại song phương sau nhiều vòng đàm phán.
Ngày 6 tháng 9 năm 2000: Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương gặp chính thức với Tổng thống Bill Clinton tại Thành phố New York trong dịp tham dự hội nghị Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc và chính thức mời tổng thống Mỹ đến thăm Việt Nam.
Từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 11 năm 2000: Tổng thống Mỹ Bill Clinton thăm chính thức Việt Nam.
Ngày 4 tháng 10 năm 2001: Thượng viện Mỹ thông qua Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ.
Ngày 17 tháng 10 năm 2001: Tổng thống George W. Bush phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ.
Ngày 19-25 tháng 6 năm 2005: Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Hoa Kỳ.Tổng thống George W.Bush cũng cam kết ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO và nhận lời mời thăm Việt Nam năm 2006.
Ngày 17-20 tháng 11 năm 2006: Tổng thống George W.Bush đến Việt Nam tham dự APEC.
Ngày 18-23 tháng 11 năm 2007:Nhận lời mời của Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ George W. Bush và Phu nhân, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Phu nhân đi thăm chính thức Hợp chủng quốc Hoa Kỳ.
Ngày 22-26 tháng 6 năm 2008: Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng thăm Hoa Kỳ. Tổng thống George W.Bush tuyên bố ủng hộ chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
Từ 25-27/7/2013, Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang sang thăm chính thức Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng thống Obama. Trong chuyến thăm này, 2 nhà lãnh đạo đã nhất trí nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên đối tác toàn diện
Từ ngày 7-7-2015 đến ngày 11-7-2015 diễn ra chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng theo lời mời của Tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama, nhân dịp kỷ niệm 20 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Hoa Kỳ và 40 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Đây cũng là chuyến công du chính thức đầu tiên tới Washington của một Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 23/5/2016 Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ Barack Obama tuyên bố chính thức dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí sát thương với Việt Nam trong cuộc Hội đàm với Chủ tịch nước Việt Nam Trần Đại Quang mở ra mối quan hệ tốt đẹp và ấm dần lên giữa hai nước từng là cựu thù.
Ngày 29 - 31/5/2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam thăm chính thức Mỹ theo lời mời của Tổng thống Mỹ Donald Trump
Ngày 11 - 12.11/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump thăm cấp nhà nước tới Việt Nam - là Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thăm Việt Nam trong năm đầu nhiệm kỳ
Ngày 26 - 28/2/2019, Tổng thống Mỹ Donald Trump có chuyến thăm (không chính thức) tới Việt Nam để tham dự Hội nghị Thượng Đỉnh Mỹ-Triều lần 2
Ngày 10 - 11/9/2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden thăm cấp nhà nước tới Việt Nam - là Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thăm Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng. Trong chuyến thăm đặc biệt này, 2 nhà lãnh đạo cao nhất của hai nước đã nhất trí nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện.
Chủ đề quan hệ ngoại giao
Nhân quyền
Hoa Kỳ thường bất đồng quan điểm với Việt Nam về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Đây cũng là một trong những nội dung được tranh luận sôi nổi ở Quốc hội Hoa Kỳ, nhưng nó rất ít khi được đề cập ở Quốc hội Việt Nam. Bất đồng cơ bản là cách hiểu "nhân quyền" của cả hai bên. Trong khi Hoa Kỳ đòi hỏi Việt Nam những quyền cơ bản nhất tương tự như ở quốc gia họ hay một số quốc gia khác thì Việt Nam cho rằng, nhân quyền có những khác biệt tùy theo hoàn cảnh của mỗi quốc gia. Trong năm 2007, chính phủ Việt Nam bắt giam một số người bất đồng chính kiến mà họ cho là đã vi phạm luật pháp Việt Nam, có cả người Mỹ, trong đó có những người gốc Việt. Chính phủ Hoa Kỳ cho rằng mặc dù có những hạn chế tự do ngôn luận (như không cho phép báo chí tư nhân, nghiêm cấm tuyên truyền chống Nhà nước, sự chỉ trích chính phủ hoặc biểu tình/tụ tập đông người bị hạn chế), Việt Nam cũng đã có những tiến bộ đáng kể về mở rộng tự do tôn giáo. Trong năm 2005, Việt Nam đã thông qua luật về tự do tôn giáo, một số nhóm giáo phái, tôn giáo ngoài vòng pháp luật được chính thức công nhận và cho phép hoạt động. Kết quả là, vào tháng 11 năm 2006, Hoa Kỳ đã gạch tên Việt Nam ra khỏi danh sách "Những quốc gia cần quan tâm đặc biệt".
Đầu năm 2011, tạp chí Mỹ Foreign Policy đã liệt kê Việt Nam đứng chót trong danh sách 8 đồng minh khác "đáng xấu hổ nhất" của Hoa Kỳ với các lý do:
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất được pháp luật cho phép bổ nhiệm các nhà lãnh đạo từ hàng ngũ của chính đảng này.
Việt Nam đã "tăng cường trấn áp nhân quyền" trong năm qua, bỏ tù những người bảo vệ quyền con người, blogger và những người vận động chống tham nhũng."
Các nhóm tôn giáo "bị sách nhiễu nhiều lần trong khi sự tàn bạo của cảnh sát và các trường hợp tử vong khi bị cảnh sát giam xảy ra thường xuyên."
Như một số nước, Việt Nam dựng tường lửa internet, chặn các trang web họ phản đối và "đòi các nhà cung cấp dịch vụ và các quán cafe internet theo dõi người dùng".
Một nhà ngoại giao của Hoa Kỳ ở Việt Nam "bị vật xuống đất và khiêng đi khi đến thăm một linh mục bất đồng chính kiến có tiếng ở Huế".
Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam cho rằng Hoa Kỳ đã từng có điều 2385 về tội danh "Advocating overthrow of Government" (tiếng Việt: Vận động lật đổ chính quyền) của Bộ Hình luật Hoa Kỳ quy định: "Bất kỳ ai cố ý hô hào, kích động, khuyến khích lật đổ hoặc phá rối Chính phủ Mỹ và các tổ chức chính quyền cấp dưới đều phải bị tuyên phạt cao nhất tới 20.000USD, hoặc phải ngồi tù 20 năm. Sau khi mãn hạn tù 5 năm cũng không được Chính phủ và các tổ chức khác tin dùng", và Alien and Sedition Acts (tiếng Việt: Đạo luật Phản loạn) năm 1798 quy định: "Việc viết, in, phát biểu hay phổ biến... mọi văn bản sai sự thật, có tính chất xúc phạm hay ác ý chống chính quyền đều là tội…", là những luật có nội dung tương tự những đạo luật Việt Nam mà Hoa Kỳ đang phản đối và cho rằng việc Hoa Kỳ phản đối là tiêu chuẩn kép và là cái cớ để Hoa Kỳ can thiệp nội bộ vào các quốc gia khác. Tuy nhiên báo Quân đội Nhân dân khi tóm lược nội dung của điều 2385 trong Bộ Hình luật Mỹ không nhắc rõ vấn đề phương thức mà chỉ tập trung nhắc rõ vấn đề vận động lật đổ chính quyền và các hình phạt, trong khi điều luật này cấm các hành vi kêu gọi, vận động lật đổ hoặc hủy hoại chính phủ "bằng vũ lực hoặc bạo lực, hoặc nỗ lực để làm như vậy". Còn Alien and Sedition Acts thì đã hết hạn và bị bãi bỏ từ hơn 200 năm trước.
Cuối năm 2012 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho ra mắt bản báo cáo thường niên năm 2012, trong đó có nhận xét là tình hình nhân quyền tại Việt Nam, nhất là tự do báo chí và tự do ngôn luận đã có chiều hướng xấu đi vì các biện pháp bắt giam và sách nhiễu những ai thực thi tự do phát biểu quan điểm chỉ trích chính phủ. Việt Nam thường dùng điều 88 "tuyên truyền chống Nhà nước" để truy tố và kết án đương sự.
Quân sự
Cả hai quốc gia đã có những cuộc thăm viếng của các phái đoàn quân sự.
Hoa Kỳ cũng trợ giúp Việt Nam trong các vụ nâng cấp quốc phòng. Năm 2013, Hoa Kỳ dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu vũ khí phi sát thương sang Việt Nam. Đến năm 2016 Hoa Kỳ chính thức dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu vũ khí sát thương cho Việt Nam.
Mỹ chuyển giao tàu tuần tra trọng tải lớn USCGC Morgenthau (WHEC 722) vừa rút khỏi biên chế lực lượng Tuần duyên Mỹ cho phía Việt Nam.
Biển Đông và chủ quyền
Trong tương quan tranh chấp chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông, đại sứ Hoa Kỳ David Shear cho biết "Mỹ có lợi ích quốc gia đối với hòa bình, ổn định ở Biển Đông cũng như về an ninh hàng hải và tự do đi lại. Chúng tôi quan ngại về đe dọa vũ lực và Mỹ ủng hộ tiến trình ngoại giao giữa các nước có quan hệ trực tiếp". Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia tại Biển Đông và cho rằng "đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông vượt quá những gì mà công ước Liên Hiệp quốc về luật biển Unclos cho phép". Những tuyên bố này đã làm Trung Quốc không hài lòng và báo chí Trung Quốc đăng nhiều bài chỉ trích "chính sách can thiệp" của Mỹ.
Trong vụ Trung Quốc kéo giàn khoan Hải Dương 981 ra Biển Đông vào tháng 5 năm 2014, Quốc hội Hoa Kỳ đã ra Nghị quyết lên án Trung Quốc.
Hỗ trợ nhân đạo & hàn gắn hậu quả chiến tranh
Qua những tổ chức phi chính phủ, Hoa Kỳ cũng thường xuyên viện trợ nhân đạo cho Việt Nam trong các lĩnh vực y tế, giáo dục.
Hoa Kỳ và Việt Nam cũng có những đàm phán để khắc phục và hàn gắn những hậu quả từ chiến tranh Việt Nam. Việt Nam tích cực giúp tìm những quân nhân Mỹ mất tích. Việt Nam vẫn ủng hộ các nạn nhân thực hiện vụ kiện hậu quả chất độc màu da cam trong Chiến tranh Việt Nam nhằm đòi các công ty hóa chất sản xuất phải bồi thường thiệt hại. Chính phủ Hoa Kỳ hiện vẫn từ chối trách nhiệm với những nạn nhân này và cho rằng mối liên hệ giữa các khuyết tật và chất độc da cam vẫn "chưa có bằng chứng khoa học". Tuy nhiên vào tháng 5/2007, Quốc hội Hoa Kỳ đã phân bổ khoản ngân sách 3 triệu USD nhằm khắc phục ảnh hưởng của chất độc da cam và môi trường tại một số điểm nóng nhất và năm 2009 tăng lên 6 triệu USD.
Viện trợ kinh tế và công nghệ
Hoa Kỳ cũng có nhiều viện trợ về kinh tế và chuyển tiếp công nghệ cho Việt Nam.
Tháng 3 năm 2015, Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh ký kết tài trợ không hoàn lại cho công ty TNHH Xây dựng - thương mại - du lịch Công Lý một khoản viện trợ lên đến gần 1 tỷ USD, để thực hiện chương trình nghiên cứu khả thi phát triển nhà máy điện gió Bạc có công suất 300MW.
Cũng trong khuôn khổ của chương trình hỗ trợ của Chính phủ Hoa Kỳ cho Việt Nam với thời gian kéo dài 15 năm, Cơ quan Phát triển Quốc tế của Hoa Kỳ (USAID) sẽ triển khai 75 dự án về các lĩnh vực như hạ tầng giao thông, giáo dục, y tế và đặc biệt là năng lượng sạch.
Thương mại
Bắt đầu có hiệu lực của Hiệp định Thương mại song phương năm 2001, thương mại hai chiều giữa hai nước được gia tăng, kết hợp với dòng đầu tư quy mô lớn của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Trong năm 2006, Hoa Kỳ xuất khẩu 1,1 tỷ USD hàng hóa vào Việt Nam và nhập khẩu 8,6 tỷ USD từ Việt Nam.
Đại sứ quán và lãnh sự quán
- Tại Hoa Kỳ:
Washington, D.C. (Đại sứ quán)
San Francisco (Lãnh sự quán)
- Tại Việt Nam:
Hà Nội (Đại sứ quán)
Thành phố Hồ Chí Minh (Lãnh sự quán)
Chú thích |
Logic (hợp lý, hữu lý, hàm lý) hay luận lý học, từ tiếng Hy Lạp cổ đại λόγος (logos), nghĩa nguyên thủy là từ ngữ, hoặc điều đã được nói, (nhưng trong nhiều ngôn ngữ châu Âu đã trở thành có ý nghĩa là suy nghĩ hoặc lập luận hay lý trí). Logic thường được nhắc đến như là một ngành nghiên cứu về tiêu chí đánh giá các luận cứ, mặc dù định nghĩa chính xác của logic vẫn là vấn đề còn đang được bàn cãi giữa các triết gia. Tuy nhiên khi môn học được xác định, nhiệm vụ của nhà logic học vẫn như cũ: làm đẩy mạnh tiến bộ của việc phân tích các suy luận có hiệu lực và suy luận ngụy biện để người ta có thể phân biệt được luận cứ nào là hợp lý và luận cứ nào có chỗ không hợp lý.
Theo truyền thống, logic được nghiên cứu như là một nhánh của triết học. Kể từ giữa thế kỷ 19 logic đã thường được nghiên cứu trong toán học và luật. Gần đây nhất logic được áp dụng vào khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo. Là một ngành khoa học hình thức, logic nghiên cứu và phân loại cấu trúc của các khẳng định và các lý lẽ, cả hai đều thông qua việc nghiên cứu các hệ hình thức của việc suy luận và qua sự nghiên cứu lý lẽ trong ngôn ngữ tự nhiên. Tầm bao quát của logic do vậy là rất rộng, đi từ các đề tài cốt lõi như là nghiên cứu các lý lẽ ngụy biện và nghịch lý, đến những phân tích chuyên gia về lập luận, chẳng hạn lập luận có xác suất đúng và các lý lẽ có liên quan đến quan hệ nhân quả. Ngày nay, logic còn được sử dụng phổ biến trong lý thuyết lý luận.
Qua suốt quá trình lịch sử, đã có nhiều sự quan tâm trong việc phân biệt lập luận tốt và lập luận không tốt, và do đó logic đã được nghiên cứu trong một số dạng ít nhiều là quen thuộc đối với chúng ta. Logic Aristotle chủ yếu quan tâm đến việc dạy lý luận thế nào cho tốt, và ngày nay vẫn được dạy với mục đích đó, trong khi trong logic toán học và triết học phân tích (analytical philosophy) người ta nhấn mạnh vào logic như là một đối tượng nghiên cứu riêng, và do vậy logic được nghiên cứu ở một mức độ trừu tượng hơn.
Các quan tâm về các loại logic khác nhau cho thấy rằng logic không phải là một ngành có thể nghiên cứu tách biệt. Trong khi logic thường có vẻ sự thúc đẩy chính nó, môn học này phát triển tốt nhất khi lý do mà chúng ta quan tâm đến logic được đặt ra một cách rõ ràng.
Các lĩnh vực nghiên cứu
Logic được nghiên cứu bởi nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này thường được thực hiện bằng cách áp dụng phương pháp hình thức của nó vào các chủ đề nhất định nằm ngoài phạm vi logic, chẳng hạn như trong đạo đức học hoặc khoa học máy tính. Ngoài ra, bản thân logic cũng có thể là đối tượng nghiên cứu của các lĩnh vực khác.
Triết học logic và logic triết học
Triết học logic là lĩnh vực triết học nghiên cứu về phạm vi và bản chất của logic. Nó tra xét các tiền giả định (presupposition) ẩn trong logic, tìm cách xác định những khái niệm cơ bản của logic hoặc các mặc định siêu hình học có liên hệ với những khái niệm đó. Nó cũng quan tâm đến việc phân loại các hệ thống logic và các ràng buộc bản thể luận kéo theo những hệ thống ấy. Logic triết học là một lĩnh vực nằm trong phạm trù triết học logic. Nó nghiên cứu ứng dụng của các phương pháp logic trong các vấn đề triết học của các ngành như siêu hình học, đạo đức học và tri thức luận. Những ưng dụng kiểu này thường xuất hiện dưới dạng các hệ thống logic mở rộng (extended) hoặc phi hình thức (deviant).
Siêu logic học
Siêu logic học (Metaphysics) là ngành triết học nghiên cứu các đặc tính của các hệ thống logic hình thức. Ví dụ, khi một hệ thống hình thức mới được phát triển, các nhà siêu logic học sẽ nghiên cứu nó nhằm xác định những công thức nào có thể được chứng minh. Họ cũng sẽ tìm hiểu xem liệu có thể phát triển một thuật toán nhằm tìm ra minh chứng cho mỗi công thức hay không, đồng thời xác minh tất cả các công thức khả chứng có phải là hằng đúng (tautology) không. Cuối cùng, họ sẽ so sánh nó với các hệ thống logic khác để tìm ra những đặc điểm khác biệt. Một vấn đề then chốt của siêu logic học là mối liên hệ giữa cú pháp và ngữ nghĩa. Luật cú pháp của một hệ thống hình thức quy định phương cách suy đoán kết luận từ các tiền đề, tức là phương cách xây dựng minh chứng. Ngữ nghĩa của một hệ thống hình thức quyết định phát biểu nào đúng và phát biểu nào sai. Điều này quy định tính hợp lý của lý luận; sở dĩ vì, để lý luận hợp lý, không thể có chuyện tiền đề đúng mà kết luận sai. Mối quan hệ giữa cú pháp và ngữ nghĩa còn ảnh hưởng đến các vấn đề như: liệu tất cả các lý luận hợp lý có khả chứng hay không, và liệu tất cả các lý luận khả chứng có hợp lý hay không. Các nhà siêu logic cũng đánh giá xem các hệ thống logic đã hoàn thiện chưa, có vững chãi và có chặt chẽ không. Ngoài ra, họ cũng quan tâm đến tính khả quyết và sức biểu đạt mà hệ thống sở hữu. Các nhà siêu logic học dựa khá nhiều vào lập luận toán học trừu tượng khi thẩm tra và xây dựng các minh chứng siêu logic học.
Logic toán học
Thuật ngữ "logic toán học" (mathematical logic) đôi khi được dùng đồng nghĩa với "logic hình thức". Tuy nhiên, nếu giải nghĩa hẹp hơn, thuật ngữ này chỉ đến sự nghiên cứu logic trong toán học. Các phân ngành lớn của nó bao gồm lý thuyết mô hình (model theory), lý thuyết chứng minh (proof theory), lý thuyết tập hợp, và lý thuyết tính toán. Nghiên cứu logic toán học chủ yếu xoay quanh các đặc tính toán học của các hệ thống logic hình thức. Tuy nhiên, nó cũng bao gồm các nỗ lực để vận dụng logic vào việc phân tích các suy luận toán học, hoặc để thiết định nền tảng của toán học dựa trên logic. Chủ đề "nền tảng của toán học" từng là mối bận tâm lớn đối với ngành logic toán học hồi đầu thế kỷ thứ 20, chủ trương theo đuổi cái gọi là chủ nghĩa duy logic tiên phong bởi các triết gia-logic gia tiền bối như Gottlob Frege, Alfred North Whitehead và Bertrand Russell. Đối với những học giả duy logic chủ nghĩa, các lý thuyết toán học ắt phải luôn đúng về mặt logic, và họ muốn chứng tỏ điều này bằng cách rút gọn toàn bộ toán học thành logic. Nhiều người đã dốc công sức để hiện thực hóa giả định này nhưng đều thất bại, từ sự sụp đổ của cơ đồ logic học Frege trong Grundgesetze trước nghịch lý Russell, đến sự lụn bại của chương trình Hilbert trước các định lý bất toàn của Gödel.
Lý thuyết tập hợp vốn bắt nguồn từ nghiên cứu vô hạn của Georg Cantor, và nó bấy lâu đã là ngọn nguồn của các vấn đề logic toán học đầy thử thách và quan trọng. Một số ví dụ có thể kể đến là định lý đường chéo Cantor, tình trạng của tiên đề chọn, nghi vấn về sự độc lập trong giả thuyết continuum và các tranh cãi đương đại xoay quanh các tiên đề số đếm lớn.
Lý thuyết tính toán là phân ngành logic toán học nghiên cứu về các quy trình hiệu quả nhằm giải quyết các vấn đề tính toán. Đơn cử như liệu ta có thể kiếm tìm một quy trình cơ học mà có khả năng xác định một số nguyên dương là số nguyên tố hay không. Một trong những mục tiêu chính của nó là tìm hiểu xem một vấn đề toán học có thể được giải quyết bằng thuật toán hay không. Lý thuyết tính toán vận dụng đa dạng các công cụ và mô hình lý thuyết, ví dụ như máy Turing, để khám phá điều này.
Lịch sử
Logic học đã phát triển độc lập trong nhiều nền văn hóa cổ đại khác nhau. Một trong những nhân vật có những đóng góp sớm nhất là Aristoteles, người đã phát triển logic hạn từ (term logic) trong hai trước tác Organon và Phân tích thứ nhất. Ông đã giới thiệu các khái niệm tam đoạn luận giả sử (hypothetical syllogism) và logic mốt thời gian (temporal modal logic). Các phát kiến của Aristoteles cũng bao gồm logic quy nạp (inductive logic) cũng như đàm luận về các khái niệm mới như hạn từ, vị từ, tam đoạn luận và mệnh đề. Logic Aristoteles được đánh giá rất cao ở châu Âu và Trung Đông vào thời cổ điển và trung cổ. Nó tiếp tục được sử dụng ở phương Tây cho tới đầu thế kỷ thứ 19. Tới nay thì nhiều công trình logic đã đánh đổ thế độc tôn của logic Aristoteles, song các thấu hiểu then chốt của nó vẫn có ảnh hưởng với các hệ thống logic hiện đại. |
La Niña () là một hiện tượng trái ngược lại với hiện tượng El Niño. Hiện tượng La Niña thường bắt đầu hình thành từ tháng ba đến tháng sáu hằng năm, và gây ảnh hưởng mạnh nhất vào cuối năm cho tới tháng 2 năm sau. La Niña sẽ xảy ra ngay sau khi hiện tượng El Niño kết thúc. Hiện tượng La Niña thuộc dòng biển lạnh làm lạnh nhiệt độ của những vùng mà nó đi qua. "La Nina" (hay còn gọi là bé Hài Đồng nữ) là hiện tượng lớp nước biển bề mặt ở khu vực nói trên lạnh đi dị thường, xảy ra với chu kỳ tương tự hoặc thưa hơn El Nino.
Để thể hiện sự ngược nhau giữa hai hiện tượng này có khi người ta dùng khái niệm Anti-El Nino (đối El Nino). Hiện tượng La Nina có thể xuất hiện ngay khi hiện tượng El Nino suy yếu, nhưng có khi không phải như vậy.
Nghiên cứu hiện tượng El Nino và La Nina để hiểu biết về cơ chế vật lý, đặc điểm và quy luật diễn biến cũng như những hậu quả tác động của chúng, chúng ta có thể cảnh báo trước sự xuất hiện của El Nino và La Nina, những ảnh hưởng có thể xảy ra đối với thời tiết, khí hậu và kinh tế - xã hội để có những biện pháp phòng, tránh hiệu quả, hạn chế và giảm nhẹ thiệt hại do El Nino và La Nina gây ra.
Tên gọi
Trong tiếng Tây Ban Nha, La Niña còn có nghĩa là "bé gái" để biểu thị sự trái ngược lại với hiện tượng El Niño (nghĩa là "bé trai"). La Niña còn được gọi với cái tên El Viejo hay Anti-El Niño.
Dấu hiệu
Nhiệt độ nước biển tại khu vực Thái Bình Dương lạnh đi một cách bất thường cùng với các vùng lân cận khác, nhiệt độ cũng giảm đi một cách lạ thường.
Tác động
Hiện tượng La Niña sẽ gây nhiều bão tố trên Đại Tây Dương nhưng lại làm giảm nguy cơ bão ở Thái Bình Dương. Ở Mỹ, nhiệt độ mùa đông ấm hơn mức thông thường ở vùng Đông Nam và lạnh hơn ở vùng Tây Bắc. Nhiệt độ hạ xuống thấp đáng kể nên sẽ gây ra trận rét đậm rét hại cho khu vực chịu ảnh hưởng.
Danh sách
Những đợt La Niña từ 1900-2021. |
Phát bóng là một hình thức để bắt đầu lại trận đấu trong một trận bóng đá. Thủ tục của nó được quy định bởi Luật 16 của luật bóng đá.
Quy định
Các quy định của việc phát bóng:
Quả bóng được đá từ bất kì điểm nào trong khu vực cầu môn (vòng 5,5 m) bởi một cầu thủ của đội được hưởng quả phát bóng.
Các cầu thủ đội đối phương phải đứng ngoài vòng cấm cho đến khi bóng vào cuộc.
Cầu thủ đá bóng không được chạm vào bóng lần thứ hai sau khi đá cho đến khi bóng chạm một cầu thủ khác bất kì.
Bóng được coi là vào cuộc khi được đá ra khỏi vòng cấm.
Vi phạm
Nếu quả phát bóng được thực hiện với bóng đang di chuyển hoặc từ vị trí không đúng, quả phát bóng sẽ được thực hiện lại.
Đối phương phải cố gắng rời khỏi vòng cấm trước khi thực hiện quả phát bóng. Tuy nhiên, nếu một quả phát bóng "nhanh" được thực hiện trong khi một đối phương đang rời khỏi vòng cấm, thì đối phương đó có thể chạm hoặc tranh chấp bóng khi nó đang vào cuộc.
Nếu một cầu thủ đối phương cố tình ở lại trong vòng cấm hoặc đi vào vòng cấm trước khi thực hiện quả phát bóng, quả phát bóng sẽ được thực hiện lại. Nếu điều này xảy ra nhiều lần, cầu thủ bên đối phương sẽ bị phạt vì liên tục vi phạm luật bóng đá.
Một cầu thủ quá trì hoãn việc bắt đầu lại trận đấu sẽ bị cảnh cáo.
Nếu cầu thủ đá phạt chạm bóng lần thứ hai trước khi cầu thủ khác chạm bóng, đội đối phương sẽ được hưởng quả đá phạt gián tiếp tại nơi xảy ra lỗi, trừ khi lần chạm bóng thứ hai là lỗi xử lý nghiêm trọng hơn, đội đối phương sẽ được hưởng một quả đá phạt trực tiếp (hoặc phạt đền nếu trong vòng cấm và người thực hiện không phải là thủ môn). |
Không quân nhân dân Việt Nam (KQNDVN), được gọi đơn giản là Không quân Việt Nam (KQVN) hay Không quân Nhân dân, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam, chiến đấu với trang bị là máy bay chuyên dụng.
Lịch sử hình thành và phát triển
Buổi đầu sơ khai
"Vốn liếng" đầu tiên Không quân Việt Nam là từ 2 chiếc máy bay dân dụng De Havilland Tiger Moth và chiếc Morane-Saulnier MS-343 thuộc sở hữu riêng của Cố vấn Vĩnh Thụy tặng cho chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cuối năm 1945. Máy bay được tháo cánh chở bằng tàu hỏa từ Huế ra Hà Nội và chuyển về sân bay Tông (nay thuộc xã Kim Sơn, thị xã Sơn Tây, Hà Nội tạm cất giữ. Khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, hai chiếc máy bay tiếp tục được tháo rời, chuyển bằng thuyền lên Bình Ca, rồi lên Soi Đúng (Tuyên Quang). Trong quá trình vận chuyển, bị máy bay Pháp phát hiện và bắn phá, nên cả hai chiếc máy bay đều bị hư hỏng ít nhiều.
Ngày 9 tháng 3 năm 1949, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng Chỉ huy Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam, ra quyết định thành lập Ban Nghiên cứu Không quân thuộc Bộ Quốc phòng, sau chuyển sang Bộ Tổng Tham mưu, do Hà Đổng, nguyên là thư ký của Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu làm Trưởng ban, và một số kỹ thuật viên như Nguyễn Văn Đống (cựu binh sĩ thuộc địa Pháp tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất), Nguyễn Đức Việt (tên thật là Siegfried Wenzel, người gốc Đức, cựu binh sĩ Lê dương Pháp), Nguyễn Tâm Trinh... Ban có nhiệm vụ nghiên cứu sử dụng máy bay cũng như các kỹ thuật chiến đấu chống lại ưu thế trên không của quân Pháp. Tuy nhiên, do không có điều kiện bảo dưỡng nên cả hai máy bay đều hư hỏng sau chuyến bay đầu tiên, được sử dụng làm buồng tập lái dưới mặt đất và mô hình học tập cho các học viên.
Năm 1951, Ban Nghiên cứu Không quân được giải thể và hầu hết nhân sự của Ban được chuyển thuộc vào các đơn vị phòng không đang được thành lập.
Những nền móng của Không quân Nhân Dân Việt Nam
Sau khi ổn định được quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã khởi động lại chương trình xây dựng lực lượng không quân, với sự giúp đỡ từ các đồng minh thân cận là Liên Xô và Trung Quốc. Ngày 3 tháng 3 năm 1955, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 15/QĐA thành lập Ban nghiên cứu Sân bay trực thuộc Tổng Tham mưu trưởng. Ông Trần Quý Hai, Đại đoàn trưởng Đại đoàn 325, được cử làm Trưởng ban. Ngày này về sau được lấy làm ngày thành lập Không quân Nhân dân Việt Nam.
Một năm sau đó, liên tục các đoàn cán bộ, chiến sĩ thuộc Ban nghiên cứu sân bay được cử đi nước ngoài học tập. Ngày 26 tháng 1 năm 1956, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp nhận 5 máy bay đầu tiên do Trung Quốc viện trợ gồm 2 chiếc Li-2 và 3 chiếc Aero 45. Ngày 24 tháng 2 năm 1956, 2 đoàn học viên lái máy bay gồm Đoàn học máy bay tiêm kích MiG-17, gồm 50 học viên, do Phạm Dưng làm Đoàn trưởng và Đoàn học máy bay ném bom Tu-2, gồm 30 học viên, do Đào Đình Luyện làm Đoàn trưởng, học tại Trường Không quân số 2 ở Trường Xuân, Trung Quốc. Về sau, Đào Đình Luyện chuyển sang làm Đoàn trưởng Đoàn học máy bay MiG-17 và Phạm Dưng được giao nhiệm vụ phụ trách nhóm huấn luyện máy bay Li-2 và trực thăng Mi-4. Ngoài ra, trong Đoàn học Tu-2 còn có 6 học viên dẫn đường trên không (chuyên dẫn đường trên các loại máy bay và trực thăng) đầu tiên.
Ngày 24 tháng 1 năm 1959, Bộ Quốc phòng - Tổng Tư lệnh ban hành Quyết định số 319/QĐ thành lập Cục Không quân thuộc Bộ Tổng Tham mưu trên cơ sở tổ chức và lực lượng của Ban Nghiên cứu Sân bay và Cục Hàng không dân dụng Việt Nam. Đại tá Đặng Tính được bổ nhiệm làm Cục trưởng, Thượng tá Hoàng Thế Thiện làm Chính ủy, Trung tá Hoàng Ngọc Diêu làm Tham mưu trưởng. Ngày sau khi thành lập, ngày 22 tháng 4 năm 1959, Cục Không quân ra quyết định thành lập Đại đội bay gồm: Ban chỉ huy đại đội, 3 Chủ nhiệm Dẫn đường, Thông tin và Máy (kỹ thuật hàng không); 1 trung đội bay Il-14, 1 trung đội bay Li-2, 1 trung đội bay An-2 và 1 trung đội máy gồm tất cả nhân viên kỹ thuật trên không (cơ giới) và mặt đất của các loại máy bay. Trên cơ sở đó, chỉ 8 ngày sau, ngày 1 tháng 5 năm 1959, Trung đoàn không quân vận tải đầu tiên, Trung đoàn 919, được thành lập tại sân bay Gia Lâm. Đến ngày 20 tháng 8, Trung đoàn Huấn luyện không quân 910 cũng được thành lập.
Lực lượng không quân tiêm kích ra đời
Để chuẩn bị cho lực lượng không quân tiêm kích, từ giữa năm 1960, 6 sĩ quan và một chiến sĩ Lê Thành Chơn được triệu tập về Trường Văn hóa quân đội ở Lạng Sơn để ôn văn hóa và học tiếng Trung Quốc, chuẩn bị để đào tạo sĩ quan dẫn đường (hoa tiêu) trong lực lượng không quân. Cuối năm 1961, toàn bộ các học viên dẫn đường tốt nghiệp và về nước, cùng tham gia xây dựng cơ sở và nền tảng hệ thống dẫn đường mặt đất phục vụ cho chiến đấu sau này.
Bên cạnh đó, ngày 30 tháng 5 năm 1963, Trung đoàn không quân tiêm kích 921, mật danh là Đoàn Sao Đỏ, được thành lập tại cao nguyên Vân Quý (Trung Quốc), trên cơ sở Đoàn học viên tiêm kích MiG-17, do Trung tá Đào Đình Luyện làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Đỗ Long làm Chính ủy, Thiếu tá Trần Mạnh làm Trung đoàn phó, Thiếu tá Trần Văn Thọ làm Tham mưu trưởng. Đến ngày 22 tháng 10 năm 1963, Cục Không quân sáp nhập với Bộ Tư lệnh Phòng không thành Quân chủng Phòng không-Không quân. Mặc dù vậy, trên thực tế, lực lượng không quân Việt Nam khi đó chỉ có 1 trung đoàn vận tải 919 và trung đoàn 910 (trường huấn luyện).
Mãi đến ngày 3 tháng 2 năm 1964, lễ thành lập Trung đoàn không quân đầu tiên 921 mới được tổ chức tại Mông Tự, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, cùng lúc với việc tiếp nhận 33 chiếc máy bay chiến đấu kiểu MiG-17, 3 chiếc máy bay huấn luyện kiểu MiG-15UTI. Ngày 6 tháng 8 năm 1964, trung đoàn cùng với 70 phi công đào tạo ở Trung Quốc trở về nước cùng với số máy bay được viện trợ.
Cuộc đối đầu với Không quân Mỹ
[[Tập tin:VPAF pilots with MiG-17s.jpg|nhỏ|trái|256px|Một biên đội MiG-17 của Không quân nhân dân Việt Nam tại sân bay Nội Bài sau trận đánh ngày 27-6-1967. Từ trái sang phải: Lưu Huy Chao, Lê Hải, Mai Đức Toại, Hoàng Văn Kỳ]]
Tuy trở về nước với toàn bộ phi công và máy bay, nhưng lực lượng tiêm kích QĐNDVN vẫn tập trung vào việc huấn luyện, giữ tuyệt đối bí mật, tránh tham chiến. Với lực lượng không quân nhỏ bé, lạc hậu, mới thành lập của QĐNDVN, theo lẽ lạc quan nhất, thì việc giành chiến thắng trước một lực lượng không quân hùng hậu, hiện đại, nhiều kinh nghiệm của Hoa Kỳ là điều không thể. Các phi công Mỹ tin rằng đối thủ của họ sẽ là những phi công Liên Xô, hoặc chí ít cũng là phi công Trung Quốc, chứ không thể nào là những phi công Việt Nam non nớt.
Khi Chiến dịch Mũi Tên Xuyên khởi động vào năm 1964, bầu trời Việt Nam hoàn toàn do các phi công Mỹ làm chủ. Không quân Mỹ đã tung vào cuộc chiến hơn 2.000 máy bay phản lực các loại, trong khi Không quân Nhân dân Việt Nam chỉ có trong tay chưa đến 50 chiếc tiêm kích đời cũ MiG-17. Cuộc đấu giữa Không quân Nhân dân Việt Nam với Không quân Hoa Kỳ được ví như cuộc đấu giữa David và Goliath, tức là giữa chàng tí hon với gã khổng lồ.
10h35 ngày 6 tháng 8 năm 1964, một ngày sau sự kiện Mỹ dùng không quân và hải quân đánh vào Nghệ An và Quảng Ninh, 4 chiếc máy bay MiG-17 cất cánh từ sân bay Mông Tự (Trung Quốc) đã hạ cánh xuống sân bay vừa được xây dựng ở Nội Bài phía Bắc Thủ đô Hà Nội. Ngày hôm sau, 7 - 8 máy bay do thám Lockheed U-2 của Mỹ đã bay ngang qua sân bay này và sau đó Đài BBC đã loan tin, nhưng phi công Mỹ không quan tâm lắm, vì MiG-17 là loại tiêm kích đã hoàn toàn lạc hậu, chỉ có vận tốc dưới âm, không có radar cũng như tên lửa. Viên tướng J.Paul, chỉ huy tàu sân bay USS Constellation của Mỹ tuyên bố: "Cuộc chiến đấu với phi công Việt Nam chỉ là trò chơi. Các máy bay trinh sát cho phép người Mỹ nắm rõ lực lượng không quân non trẻ, một dúm máy bay cổ lỗ trú trong những bức tường bằng đất đắp không mái che".
Hoa tiêu Lê Thành Chơn cho biết: "Trên thực tế, tôi không thể sử dụng các chiến thuật được huấn luyện tại Trung Quốc để chống lại Mỹ. Chương trình huấn luyện của Trung Quốc dựa vào kinh nghiệm từ Chiến tranh Triều Tiên. Tuy nhiên, thời đó thì Mỹ làm gì có công nghệ máy bay tân tiến như khi tham chiến ở Việt Nam. Những tổn thất trong giai đoạn đầu là do phi công học theo cách đánh của Trung Quốc; nhưng rồi chúng tôi bắt đầu sử dụng chiến thuật của chính mình".
Với số máy bay viện trợ thêm cùng các phi công được đào tạo thêm, ngày 4 tháng 8 năm 1965, trung đoàn không quân tiêm kích thứ hai là Trung đoàn không quân tiêm kích 923, mật danh Đoàn Yên Thế, được thành lập, gồm 2 đại đội 17 phi công MiG-17, do Trung tá Nguyễn Phúc Trạch làm Trung đoàn trưởng, Trung tá Nguyễn Ngọc Phiếu làm Chính ủy. Không quân Việt Nam được trang bị thêm một số máy bay MiG-17F có bộ phận tăng lực.
Đến cuối năm 1965, Không quân Việt Nam có thêm một số máy bay MiG-21 do Liên Xô viện trợ, máy bay MiG-21 được lắp ráp tại hangar của sân bay Nội Bài từ giữa năm 1965. Cán bộ kỹ thuật được học chuyển loại từ khai thác MiG-17 sang khai thác MiG-21 cũng tại ngay ở sân bay này. Lớp phi công MiG-21 đầu tiên lái máy bay MiG-21 thuộc đoàn phi công học tại Crasnodar do Trung úy Phạm Thanh Ngân là đoàn trưởng và cũng ông là người dùng MiG-21 bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên. Sau này ông trở thành Tư lệnh Không Quân rồi Phó Tổng tham mưu trưởng và là Ủy viên Bộ chính trị BCH TƯ ĐCS Việt Nam. Một số phi công giỏi của Trung đoàn 921 được đưa sang Liên Xô để huấn luyện chuyển loại như Phạm Ngọc Lan, Nguyễn Ngọc Độ, Nguyễn Nhật Chiêu...
Cũng trong đầu năm 1966, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam một số máy bay J-6, một biến thể của MiG-19. Với số máy bay này, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 3 được thành lập tại Sóc Sơn với phiên hiệu Trung đoàn không quân tiêm kích 925, với Trung tá Lê Quang Trung làm Trung đoàn trưởng, Thiếu tá Mai Đức Toại làm Trung đoàn phó. Một số cán bộ, phi công Trung đoàn 923 được huấn luyện chuyển loại MiG-19 tại căn cứ Trường Không quân số 1 ở Tế Nam (Trung Quốc). Tuy nhiên, do tình hình chiến đấu ác liệt và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng văn hóa tại Trung Quốc nên mãi đến tháng 10 năm 1969, trung đoàn mới về nước tham chiến, đóng căn cứ tại Yên Bái.
Ngày 24 tháng 3 năm 1967, Sư đoàn không quân Thăng Long (phiên hiệu là Sư đoàn 371) tức Bộ Tư lệnh Không quân, được thành lập, gồm các trung đoàn 921, 923, 919 và đoàn bay Z. Đây là Sư đoàn Không quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đến nửa cuối năm 1968, trong biên chế Bộ đội phòng không - không quân đã có 5 sư đoàn phòng không và 4 trung đoàn vô tuyến kỹ thuật độc lập. Không quân Việt Nam đã có 4 trung đoàn không quân tiêm kích với 59 chiếc máy bay tiêm kích MiG-17F/PF, 12 chiếc J-6 (phiên bản Trung Quốc của MiG-19S) và 77 chiếc MiG-21F-13/ PF/PFM.
Ngày 1 tháng 12 năm 1971, trung đoàn không quân tiêm kích thứ 4 được thành lập, với phiên hiệu là Trung đoàn không quân tiêm kích 927, căn cứ tại Thọ Xuân, vì vậy có mật danh Đoàn Lam Sơn. Thiếu tá Nguyễn Hồng Nhị, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ nhiệm bay của Trung đoàn không quân 921 được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng. Thiếu tá Trần Ưng làm Chính ủy. Thiếu tá Nguyễn Nhật Chiêu, đại úy Nguyễn Văn Nhiên và đại úy Nguyễn Đăng Kính làm trung đoàn phó. Đại úy Nguyễn Văn Tỉnh làm Tham mưu trưởng. Toàn bộ máy bay MIG-21MF (có 4 giá treo vũ khí) giao cho Trung đoàn 921, và số MIG-21PFM (có 2 giá treo) được giao cho Trung đoàn 927.
Những tổn thất và thành tích không chiến
Khi các cuộc tấn công đường không do Mỹ tiến hành nổ ra, không quân nhân dân Việt Nam luôn bị áp đảo về số lượng. Ví dụ như đầu năm 1972, trên chiến trường chỉ có 71 máy bay tiêm kích của Việt Nam (40 chiếc MiG-17 và MiG-19 là máy bay thế hệ cũ, chỉ có 31 chiếc MiG-21 là tương đối hiện đại) chống lại 360 máy bay tiêm kích chiến thuật của Không quân Mỹ và 96 máy bay tiêm kích của Hải quân Mỹ, phần lớn trong đó là F-4 Phantom thuộc các biến thể hiện đại nhất.
Trước một đối phương chiếm ưu thế tuyệt đối cả về số lượng lẫn chất lượng, với hàng ngàn máy bay và hàng trăm phi công có trên 1.000 giờ bay trên nhiều loại máy bay khác nhau, Không quân Việt Nam vào lúc cao điểm cũng không có quá 100 máy bay MiG-17/19/21 với chưa đến 100 phi công với số giờ bay ít ỏi (khoảng 200 giờ mỗi người), thì những tổn thất của phía Việt Nam là rất khó chịu đựng. Họ đã cố gắng cải thiện vấn đề này bằng nhiều biện pháp tổng hợp từ tinh thần đến chiến thuật đánh nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Tuy nhiên, các phi công Mỹ cũng không phải là những kẻ bất tài.
Phía Mỹ tuyên bố trong thời gian từ 1965 đến 1973, đã có 194 phi công của họ (trong đó có 143 là phi công F-4) bắn hạ tổng cộng 196 máy bay MiG. Phía Việt Nam công nhận có 131 chiếc MiG bị mất khi không chiến và 23 chiếc khác bị mất do tai nạn, đồng thời tuyên bố đã bắn hạ khoảng 266 tới 320 máy bay các loại của đối phương. Một tài liệu khác của Hải quân Mỹ tuyên bố, trong suốt thời gian từ ngày 7 tháng 6 năm 1965 đến 12 tháng 1 năm 1973, các phi công Hải quân Mỹ đã bắn rơi 60 chiếc MiG.
Riêng ngày 2 tháng 1 năm 1967, chiến dịch Bolo nhằm gài bẫy các MiG Việt Nam được thực hiện. Trong ngày này, có 6 MiG cất cánh, thì 5 chiếc bị bắn rơi tại chỗ, 5 phi công phải nhảy dù (trong đó có ba người về sau trở thành hạng "Ách" là Nguyễn Đăng Kỉnh, Nguyễn Văn Cốc, Nguyễn Hồng Nhị) nhưng may mắn không có ai bị thương, phía Mỹ không mất máy bay nào. Trong hai ngày sau, riêng đoàn 921 mất thêm 3 chiếc nữa. Trong vòng 3 ngày, Việt Nam tổn thất 9 máy bay trong tổng số 16 máy bay sẵn sàng chiến đấu, đây là tỷ lệ mất mát rất lớn khi mà số lượng máy bay của Việt Nam khi đó chỉ có vài chục chiếc, khiến cho lực lượng không quân Việt Nam gần như tê liệt trong suốt nhiều ngày
Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam đôi khi còn bị tổn thất bởi chính những người đồng đội Phòng không của mình. Trong không chiến quần vòng giữa đông đảo các máy bay của đối phương, những chiếc MiG cũng có thể bị trúng đạn lạc trong lưới đạn của pháo phòng không Việt Nam. Ngoài ra, do tưởng lầm là máy bay địch, tên lửa phòng không đã bắn nhầm trong một số trường hợp đáng tiếc. Ngoài trường hợp 3 máy bay MiG-17 bị rơi, được cho là bị pháo cao xạ bắn nhầm ngày 4 tháng 4 năm 1965, tài liệu phía Việt Nam ghi nhận hai trường hợp MiG-17 và MiG-21 bị bắn nhầm bởi tên lửa SAM-2 của Việt Nam làm 1 phi công chết, 1 bị thương nặng. Trong thời gian đầu Chiến dịch Sấm Rền, sự thiếu kinh nghiệm cũng làm phía Việt Nam mất một vài phi công trẻ và máy bay do tai nạn.
Tuy nhiên, bất chấp thời gian huấn luyện, trang bị và số lượng kém hơn, các phi công Việt Nam đã thể hiện sự dũng cảm và sáng tạo của họ trong cả hai phương diện chiến thuật và kỹ thuật, làm kinh ngạc đối phương.
Ví dụ, trong ngày 10 tháng 5 năm 1972, đã diễn ra cuộc không chiến dữ dội nhất trong năm 1972 với 15 trận không chiến. Các phi công Mỹ trong đội bay đã được đào tạo đặc biệt (chương trình huấn luyện TopGun) họ và đã bắn hạ 3 chiếc MiG-17, 1 chiếc MiG-19 và 2 chiếc MiG-21, đổi lại có 5 chiếc F-4 Phantom của Mỹ bị hạ (Việt Nam tuyên bố 2 chiếc F-4 khác cũng đã bị hạ nhưng Mỹ không công nhận). Phía Việt Nam cũng công nhận trong vòng 15 ngày (từ 26/4 tới 10/5), họ đã mất 9 phi công giỏi. Sau khi họp bàn rút kinh nghiệm, các phi công Việt Nam dùng chiến thuật mới để phản công. Ngày 11 và 13/5, phi công Việt Nam hạ được 4 F-4 mà không bị tổn thất. Ngày 18/5, các phi công Việt Nam xuất kích 26 lần và tiến hành 8 trận không chiến, bắn rơi 4 chiếc F-4 Phantom trong khi Việt Nam không bị tổn thất..
Trong tháng 6/1972, các Trung đoàn không quân tiêm kích 921 và 923 của Việt Nam đã bắn rơi 16 máy bay đối phương và chịu tổn thất 4 chiếc. Ngày 27 tháng 6, Không quân Mỹ tổ chức một trận tập kích lớn vào Hà Nội với 24 máy bay cường kích và 20 máy bay tiêm kích F-4 yểm hộ. 5 chiếc MiG-21MF của Việt Nam đã hạ 4 chiếc F-4E của các Liên đội không quân chiến thuật số 366 và 423 của Không quân Hoa Kỳ tại vùng trời Tây Bắc Việt Nam (các F-4 bị rơi có số hiệu 68-0314, 67-0248, 69-7271, 69-7296); bắn bị thương 1 chiếc F-4E (số hiệu 67-0243), phía Việt Nam không bị tổn thất.
Nhà nghiên cứu lịch sử chiến tranh Vladimir Ilyin đã có bài viết tổng kết về cuộc đối đầu giữa Không quân Nhân dân Việt Nam và Không quân Mỹ trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, theo đó:
Trong giai đoạn một, từ tháng 4/1965 đến tháng 11/1968, trên bầu trời Việt Nam đã diễn ra 268 trận không chiến, trong các trận đó đã có 244 máy bay Mỹ và 85 máy bay Việt Nam bị bắn rơi. Trong số đó có 27 F-4 và 20 MiG-21. Theo các số liệu của Việt Nam, trong 4 tháng đầu năm 1966 đã có 11 máy bay Mỹ và 9 chiếc MiG-17 của Việt Nam bị bắn hạ trong các trận không chiến. Từ tháng 5 tới tháng 12/1966, MiG-21 chính thức tham chiến, Mỹ đã mất 47 máy bay mà chỉ hạ được 12 chiếc của Việt Nam. Nửa đầu năm 1968, trong 40 trận không chiến các phi công Việt Nam đã tiêu diệt 25 máy bay. Đặc biệt, trong tháng 12 năm 1966, nhờ chiến thuật hiệu quả, các phi công Việt Nam đã bắn rơi 14 chiếc F-105 Thunderchief của Mỹ mà không chịu tổn thất nào Trong năm 1967, Không quân Việt Nam đã hạ được 124 máy bay Mỹ và mất 60 chiếc MiG. Trong 3 tháng đầu năm 1968, Không quân Việt Nam đã hạ 44 máy bay Mỹ trong các trận không chiến.
Trong giai đoạn 2 (năm 1972), giữa các máy bay Mỹ và Việt Nam đã có 201 trận không chiến, trong đó phía Việt Nam mất 54 máy bay (gồm 36 MiG-21 và một MiG-21US) và Mỹ mất 90 máy bay (trong đó có 74 tiêm kích F-4 và 2 máy bay trinh sát RF-4C).
Trong suốt các cuộc không chiến giữa không quân Việt Nam với quân đội Mỹ, phía Việt Nam có 16 phi công đạt đẳng cấp "Ách" (tức đã bắn hạ được từ 5 máy bay đối phương trở lên), gồm 14 phi công MiG-21 và 2 phi công lái MiG-17. Trong đó người cao nhất là phi công MiG-21 Nguyễn Văn Cốc đã bắn hạ 9 máy bay Mỹ. Một phi công huyền thoại khác là Nguyễn Văn Bảy, còn gọi là "Bảy A", phi công MiG-17, đã bắn hạ 7 máy bay Mỹ (cao nhất trong các phi công lái MiG-17). Trong khi đó, chỉ có 3 nhóm phi công Mỹ đạt đẳng cấp "Ách" (đều là phi công lái F-4) và người cao nhất là Hoa tiêu, Đại úy Không quân Chuck E. DeBellevue đã bắn hạ được 6 máy bay. Hai tổ lái còn lại là tổ lái của Ritchie Richard (phi công) và Feinstein Jeffrey S. (hoa tiêu) của Không quân và tổ lái Cunningham Randolph (phi công) và Driscoll William (hoa tiêu) của Hải quân, mỗi tổ lái hạ 5 chiếc.
Một phi công khác cũng cùng tên Nguyễn Văn Bảy, thường được gọi là "Bảy B", từng chỉ huy một biên đội 2 chiếc MiG-17 ngày 14 tháng 4 năm 1972 cất cánh từ sân bay Khe Gát, Quảng Bình ném trúng 2 quả bom 250 kg vào tàu khu trục Mỹ Highbee. Đây cũng là lần đầu tiên không quân của một quốc gia khác tiến công hạm đội Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đặc biệt cho tới năm 2004, chỉ có Không quân Nhân dân Việt Nam là dám đối đầu và bắn rơi máy bay B-52, một loại siêu pháo đài bay hiện đại của không quân Hoa Kỳ bấy giờ. Trong Chiến tranh Việt Nam, có ba siêu pháo đài bay loại này được cho là do Không quân Nhân dân Việt Nam bắn rơi trong đêm 27/12/1972.
Lần đầu do phi công Vũ Đình Rạng bắn trúng B-52 bằng 1 quả tên lửa K-13 vào đêm 20-11-1971 tại Nam Lào. Trong trận này, không quân Việt Nam đã thực hiện nghi binh, khiến không quân Mỹ tưởng rằng không có tiêm kích MiG hoạt động ở Khu 4 nên không cẩn thận đề phòng. Vì vậy, Vũ Đình Rạng đã dễ dàng tiếp cận phi đội 3 chiếc B-52 và phóng 2 tên lửa từ cự ly khoảng 2 km, mỗi tên lửa nhắm vào 1 chiếc B-52. Một chiếc B-52 trúng tên lửa, nhưng vì kích thước rất lớn nên sức công phá của 1 quả tên lửa chưa đủ làm nó rơi ngay, và ông Rạng cũng cho rằng mình chưa hạ được B-52. Nhưng theo lời kể sau này của Thiếu tá phi công F. Wantterhahn thì chiếc B-52 bị thủng thùng dầu bên trái, cháy nhưng dập được, một động cơ bị hỏng nặng, nó phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Nakhom- Phanom ở Đông Bắc Thái Lan. Sau đó do hỏng quá nặng nên không thể sửa chữa, bị xẻ ra rồi chở về Utapao, nên có thể coi là đã bị tiêu diệt. Năm 2018, David Robert Volker (phi công lái chiếc B-52 bị tấn công) cho biết vụ việc đã gây chấn động không quân Mỹ, họ đã dừng bay toàn bộ B-52 suốt 4 tháng để nghiên cứu cách chống MiG. Vụ việc cũng bị phía Mỹ giấu kín để "giữ thể diện" Thành tích này đã cho thấy MiG-21 hoàn toàn có thể bắn hạ B-52 bằng 2 trái tên lửa mang theo (tất nhiên là phải có thêm chiến thuật hợp lý).
Lần thứ 2 và là nổi tiếng nhất là trận đêm 27 tháng 12 năm 1972, do phi công Phạm Tuân lái chiếc máy bay MiG-21FM đã bắn hạ 1 B-52 bằng 2 quả tên lửa không đối không NHK-8-9-1-2. Phạm Tuân kể rằng: Do B-52 trang bị nhiều mồi nhiệt làm nhiễu đầu dò tên lửa nên Phạm Tuân đã áp sát B-52 ở cự ly 2–3 km rồi mới phóng tên lửa (dù tầm bắn của tên lửa là 8 km), ở cự ly này tên lửa chỉ mất 2-3 giây để tới mục tiêu nên chiếc B-52 sẽ không kịp thả mồi nhiễu. Rút kinh nghiệm từ vụ của Vũ Đình Rạng (chỉ phóng 1 quả tên lửa thì không đủ để hạ tại chỗ B-52) nên ông đã phóng liền cả hai tên lửa vào mục tiêu, không giữ lại tên lửa dự phòng.
Lần thứ 3, phi công Vũ Xuân Thiều được ghi nhận hạ 1 B-52 vào đêm 28 tháng 12 năm 1972, nhưng do tên lửa không đủ sức làm chiếc B-52 rơi tại chỗ,ông đã quyết định không thoát ly an toàn, mà lao thẳng vào chiếc B-52 và anh dũng hy sinh
Các phi công Mỹ còn lưu truyền về một phi công MiG-17 được họ gọi bằng biệt hiệu Đại tá Toon (hay Tomb) với số lần bắn hạ đối phương là 13 lần, về sau bị một "Ách" của Hải quân Hoa Kỳ là Đại úy Randy "Duke" Cunningham bắn rơi. Một số người cho rằng đây là phi công Đinh Tôn, tuy nhiên Đinh Tôn lại lái chiếc MiG-21 và không được xếp vào nhóm "Ách". Trên thực tế, phía Việt Nam không đưa các phi công có cấp bậc Thiếu tá trở lên để tham gia không chiến. Sau này, Đại tá Toon được xác nhận là một nhân vật tưởng tượng do các phi công Mỹ tạo ra và thường xuyên được họ đưa ra làm đề tài chuyện phiếm. Như là thiện chí của các phi công Mỹ, Đại tá Toon là một sự tổng hợp của các phi công giỏi của Việt Nam, giống như những "nghệ sĩ sôlô" ném bom đơn độc ban đêm trong Chiến tranh thế giới thứ hai được gọi là "máy giặt Charlie" vậy.
Trong vòng hơn 7 năm (từ trận không chiến đầu tiên vào năm 1965 đến đầu năm 1973), Không quân Nhân dân Việt Nam đã xuất kích 6.960 lần, với khoảng 360 trận không chiến, 587 lần nổ súng, tuyên bố bắn rơi 320 máy bay các loại của địch. Trong toàn cuộc chiến, Không quân Việt Nam đã bị mất 159 máy bay và 2 trực thăng các loại, bao gồm 75 chiếc MiG-17, 5 chiếc MiG-19, 65 chiếc MiG-21, 5 chiếc An-2, 5 chiếc Il-14, 1 chiếc MiG-15UTI, 1 chiếc Il-28, 1 chiếc L-29, 1 chiếc Lisunov Li-2, 2 trực thăng Mi-4 (tính cả máy bay bị mất trong không chiến và máy bay bị mất do tai nạn) Không quân Việt Nam có 163 phi công hy sinh (bao gồm 74 phi công MiG hy sinh trong không chiến, số còn lại hy sinh trong những tình huống ngoài không chiến).
Theo một thống kê khác thì tổng cộng trong chiến tranh, Không quân Nhân dân Việt Nam tuyên bố đã bắn hạ 266 máy bay các loại của Mĩ, trong khi tổn thất trong chiến đấu là 131 máy bay MiG các loại và 23 chiếc MiG khác bị mất do tai nạn, đạt tỉ lệ tiêu diệt 1 đổi 2. Một nguồn khác ghi nhận rằng đã có 56 phi công Việt Nam từng bắn rơi máy bay Mỹ, 2 người trong số đó hạ 4 chiếc và 16 người hạ từ 5 chiếc trở lên. Đây là một kì công nhất là với trang bị máy bay cũ kĩ và số giờ bay thấp của các phi công.
Có thể tham khảo thành tích của các phi công tại đây
Lấy máy bay đối phương
Bên cạnh đó, Không quân Việt Nam cũng có một số trường hợp đặc biệt hi hữu. Ngày 7 tháng 11 năm 1973, Hồ Duy Hùng, vốn là một Thiếu úy phi công trực thăng vũ trang của Việt Nam Cộng hòa bị sa thải, thực chất là một điệp viên được cài vào Không lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh cắp một chiếc máy bay trực thăng vũ trang UH-1A tại Đà Lạt và hạ cánh tại Dầu Tiếng, thuộc vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Đúng 17 tháng sau, ngày 8 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Thành Trung, cũng là một điệp viên được cài vào Không lực Việt Nam Cộng hòa, đã đánh cắp một chiếc máy bay phản lực chiến đấu F-5E, ném bom vào dinh Độc Lập và sau đó hạ cánh tại sân bay dã chiến tại Phước Long. Không lâu sau đó, đúng 20 ngày sau, vào ngày 28 tháng 4 năm 1975, cũng chính Nguyễn Thành Trung dẫn đầu một phi đội gồm 5 chiếc khu trục ném bom A-37 chiến lợi phẩm, đã ném bom sân bay Tân Sơn Nhất, thực hiện trận đánh cuối cùng của Không quân Việt Nam trong cuộc Chiến tranh Việt Nam. Phi đội gồm Nguyễn Thành Trung, Nguyễn Văn Lục, Hán Văn Quảng, Từ Đễ (3 phi công lái MiG-17 vừa mới học chuyển loại) và Trần Văn On (cựu phi công Không lực Việt Nam Cộng hòa tình nguyện tham gia chiến đấu).
Khu vực đỗ máy bay của không lực Sài Gòn đã bị trúng 6 quả bom làm ít nhất 3 chiếc AC – 119 và một số chiếc C–47 bị phá hủy hoàn toàn. Hai quả bom khác rơi đúng điểm giữa tòa nhà Phòng tác chiến và tháp chỉ huy.
Trong Chiến dịch Mùa xuân năm 1975, Quân đội nhân dân Việt Nam tịch thu được 877 máy bay quân sự các loại, trong số đó có 41 chiếc F-5 Freedom Fighter và 95 chiếc A-37. Trong số này, 250 chiếc còn rất tốt, có thể dùng để chiến đấu được ngay, số còn lại được để trong kho bảo quản hoặc chờ sửa chữa. Số máy bay này tiếp tục phục vụ rộng rãi trong chiến tranh biên giới Tây Nam chống lại các lượng lượng Khmer Đỏ. Đến thập niên 2000, chỉ còn một số ít máy bay tịch thu của Mỹ là vẫn hoạt động, số còn lại đã loại khỏi biên chế do đã cũ hoặc không có phụ tùng sửa chữa.
Không quân ném bom và cường kích
Quá trình hiện đại hóa
Ngày 21 tháng 5 năm 1975, Bộ Quốc phòng đã quyết định thành lập 2 trung đoàn trực thăng 917 và 918, và 2 trung đoàn máy bay chiến đấu 935 và 937. Các trung đoàn này được trang bị các máy bay chiến lợi phẩm của Không lực Việt Nam Cộng hòa và tham chiến ở chiến trường biên giới Tây Nam.
Bên cạnh đó, trước nguy cơ xung đột với quốc gia láng giềng kiêm đồng minh cũ là Trung Quốc, Việt Nam tìm cách tăng cường hiện đại hóa lực lượng quân sự, kể cả không quân, với sự giúp đỡ của cường quốc Liên Xô. Ngày 16 tháng 5 năm 1977, Quân chủng Không quân được thành lập, bao gồm các binh chủng Không quân tiêm kích, Không quân tiêm kích-bom, Không quân vận tải, Không quân trinh sát,... theo mô hình của Liên Xô. Năm 1979, Việt Nam được Liên Xô viện trợ một số máy bay tiêm kích-bom khá hiện đại Su-22M. Số máy bay này được chuyển giao cho trung đoàn 923.
Ngày 25 tháng 2 năm 1979, Trung đoàn Không quân tiêm kích 929 được thành lập, với nòng cốt các bộ, phi công từ các trung đoàn 935, 937 chuyển sang.
Thời kỳ này, trang bị của KQNDVN chủ yếu là mua với giá ưu đãi từ Liên Xô và các chiến lợi phẩm được trao đổi, nhằm thay thế dần số MiG-17 và MiG-19 đã quá cũ. Mô hình tổ chức quân chủng không quân riêng biệt phỏng theo mô hình tổ chức của Không quân Liên Xô, vốn có lãnh thổ rộng lớn và trang bị quân sự hùng hậu, không phù hợp với đặc thù Việt Nam, có lãnh thổ nhỏ hẹp và thiếu trang bị. Từ giữa thập niên 1980, do sự sụp đổ của khối Đông Âu, những ưu đãi về mua sắm trang thiết bị không còn, cộng với các máy bay chiến lợi phẩm không có phụ tùng thay thế do bị cấm vận, rất nhiều máy bay bị thải loại hoặc phải cất kho do không có phụ tùng thay thế. Không quân Việt Nam cố gắng duy trì hoạt động bằng cách mua lại với giá rẻ các máy bay MiG-21 hoặc Su-22 đã qua sử dụng từ các nước Đông Âu đang chuyển sang gia nhập khối NATO.
Trong các năm từ 1996 đến 1998, Việt Nam đã đặt hàng Nga nâng cấp 32 chiếc máy bay tiêm kích bom Su-22M4 một người lái và 2 chiếc máy bay huấn luyện 2 người lái Su-22UM3. Tiếp tục những năm sau, Việt Nam mua lại nhiều máy bay Su-22M4/UM3 của Ba Lan và Cộng hòa Séc.
Giữa thập niên 1990, trung đoàn 937 được tiếp nhận những máy bay Su-27SK/UB đầu tiên của Việt Nam. Đây là thế hệ máy bay hiện đại nhất mà Việt Nam có vào lúc đó, được mua sắm với giá thị trường. Lần lượt trong những năm tiếp theo, do thiếu kinh phí, Không quân Việt Nam đành tạm hài lòng với khoản nâng cấp, kéo dài tuổi thọ của các máy bay MiG-21 và Su-22, dù số giờ bay huấn luyện càng lúc càng giảm cũng như số tai nạn do thiết bị cũ tăng lên. Dù vậy, họ vẫn tiếp tục mua sắm các máy bay hiện đại Su-27/30 hiện đại hơn, dù chỉ với số lượng ít và nhỏ giọt.
Kể từ tháng 3 năm 1999, lực lượng không quân lại sáp nhập với lực lượng phòng không lại thành Quân chủng Phòng không - Không quân để tinh giản và gọn nhẹ trong bộ máy quản lý, phù hợp với điều kiện Việt Nam.
Cuối năm 1999, cơ quan quản lý vũ khí trang bị Rosoooruzheniye của Nga đã tiến hành đàm phán để nâng cấp những chiếc Su-27 và Su-30 hiện có của Việt Nam để chúng có thể mang được tên lửa không đối không ngoài tầm nhìn R-77 (AA-12), tên lửa không đối hạm Kh-31 (AS-17) và các loại tên lửa không đối đất Vympel Kh-27 (AS-14) và Kh-59M (AS-18).
Trong những năm 2010, đứng trước sức ép của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, Việt Nam bắt đầu đẩy mạnh việc trang bị cho lực lượng không quân của mình nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo. Những hợp đồng trang bị mới nhất cho thấy việc gia tăng trang bị những mẫu máy bay chiến đấu hiện đại như Su-30MK2 hoặc những quan tâm đến mẫu tiêm kích thế hệ mới nhất như MiG-35, Su-35 hay thậm chí có thể là cả vũ khí của Pháp và Hoa Kỳ, cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong việc tăng cường sức mạnh không quân của mình.
Chỉ huy, lãnh đạo qua các thời kỳ
Ban Nghiên cứu Không quân
Trưởng ban: Hà Đổng
Chính trị viên: Trần Hiếu Tâm
Ban Nghiên cứu Sân bay
Trưởng ban: Trần Quý Hai (tháng 3-tháng 5 năm 1955), Đặng Tính (tháng 5 năm 1955-1959)
Chính ủy: Hoàng Thế Thiện (1955-1959)
Cục Không quân
Cục trưởng: Đại tá Đặng Tính (1959-1963)
Chính ủy: Thượng tá Hoàng Thế Thiện (1959-1963)
Các Tư lệnh
1963-1967: Đại tá Phùng Thế Tài (Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân)
Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân
Tháng 3 năm 1967: Thượng tá Nguyễn Văn Tiên
1967-1977: Thiếu tướng Đào Đình Luyện
1999-?: ?
Quân chủng Không quân
1977-1986: Trung tướng Đào Đình Luyện
1986-1989: Thiếu tướng Trần Hanh
1989-1996: Trung tướng Phạm Thanh Ngân
1996-1997: Thiếu tướng Nguyễn Văn Cốc (Quyền Tư lệnh)
1997-1999: Thiếu tướng Nguyễn Đức Soát
Các Chính ủy và Phó Tư lệnh Chính trị
1963-1967: Đại tá Đặng Tính (Chính ủy Quân chủng Phòng không - Không quân)
1967-1969: Đại tá Đào Đình Luyện
Binh chủng Không quân trong Quân chủng Phòng không - Không quân
Tháng 3 năm 1967: Thượng tá Phan Khắc Hy
1967-1977: Thượng tá Đỗ Long
1999-?:?
Quân chủng Không quân
1977-1980: Trung tướng Đào Đình Luyện
1980-1987: Thiếu tướng Chu Duy Kính
1987-1989: Thiếu tướng Phạm Thanh Ngân
1989-1996: Thiếu tướng Phạm Tuân
1996-1999: Thiếu tướng Hán Vĩnh Tưởng
Lực lượng hiện nay
Hầu hết các máy bay của Không quân nhân dân Việt Nam được cung cấp bởi Liên Xô. Một phần do Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa bỏ lại sau Chiến tranh Việt Nam. Một số lớn máy bay này đến nay đã không còn sử dụng được nữa.
Lực lượng máy bay hiện nay (con số ước lượng)
Các đạn tự hành dùng cho không quân
Năm 1996, Không quân nhân dân Việt Nam đã đàm phán mua 2 phi đội máy bay Dassault Mirage 2000 từ Pháp nhưng bị ngăn cản vì lệnh cấm vận quân sự của Hoa Kỳ với Việt Nam.
Năm 2009, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã rút lệnh cấm xuất khẩu trực thăng quân sự cho Việt Nam qua sự vận động lâu dài của tập đoàn Executive Decision Export Services Group. Thay thế vào đó các trực thăng Hoa Kỳ xuất khẩu sang Việt Nam phải được thiết kế cho các công tác chuyên vận hay cứu hộ (SAR).
Việt Nam có thể sẽ mua MIG-29 để thay thế cho SU-22, con số ước lượng vào khoảng 60 chiếc.
Các máy bay không còn sử dụng
Một vài trực thăng loại UH-1 Huey, máy bay chiến đấu F-5, A-37 đã được bán đấu giá vào năm 1998 và hiện đang thuộc quyền sở hữu của một vài doanh nghiệp và cá nhân thuộc Hoa Kỳ, Úc, New Zealand và Châu Âu.
Tổ chức biên chế
Tổ chức Không quân Nhân dân Việt Nam, cao nhất là Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không Không quân Nhân dân, dưới là các Sư đoàn Không quân phụ trách theo địa bàn không phận. Biên chế cơ sở tác chiến là các Trung đoàn Không quân. Trong mỗi trung đoàn gồm có các đơn vị hỗ trợ với biên chế tiểu đoàn (tiểu đoàn hậu cần, tiểu đoàn kỹ thuật...) và các nhóm phi công chiến đấu với biên chế phi đội. Khi tác chiến phối hợp trên không, các phi công thường triển khai đội hình biên đội, tùy theo như cầu tác chiến, phổ biến nhất là biên đội 2 máy bay, số rất hiếm là 3 hoặc 4 máy bay.
Học viện Phòng không - Không quân ở Sơn Tây và Trường Sĩ quan không quân ở Nha Trang là hai nơi chuyên đào tạo các sĩ quan về kỹ thuật hàng không và phi công cho không quân hiện nay.
Các căn cứ không quân và sân bay quân sự
Hầu hết căn cứ không quân và sân bay quân sự ở Việt Nam được xây dựng ban đầu bởi người Pháp hoặc người Nhật. Trong giai đoạn Chiến tranh Việt Nam, nhiều sân bay được xây dựng mới hoặc nâng cấp bởi Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam hoặc được xây dựng dưới sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô và Trung Quốc tại miền Bắc. Sau năm 1975, không có sân bay quân sự nào được xây mới. Một số được cải tạo nâng cấp để phục vụ cho nhu cầu dân sự.
Hiện tại, trừ một số căn cứ không quân thuần túy, toàn bộ các sân bay ở Việt Nam đều được sử dụng hỗn hợp dân sự và quân sự, hoặc được xem như một sân bay quân sự dự phòng.
Một số trận không chiến tiêu biểu
Chiến công đầu tiên của Không quân Nhân dân Việt Nam do Trung đoàn không quân vận tải 919 lập. Đêm 15 tháng 2 năm 1965, chiếc máy bay T28 (thu được do một phi công phản chiến hạ cánh xuống sân bay Bạch Mai) do Nguyễn Văn Ba làm lái chính, Lê Tiến Phước làm lái phụ bắn rơi tại chỗ một chiếc máy bay C123 của Mỹ gần biên giới Việt - Lào. Nguyễn Văn Ba đã được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào tháng 8 năm 1995.
Trận không chiến đầu tiên của MiG-17 là vào ngày 3 tháng 4 năm 1965, tại trận đánh bảo vệ cầu Đò Lèn, Thanh Hóa với phi đội 4 chiếc MiG-17 đã tấn công vào đội hình máy bay A4D và F8 mang bom của Hải quân Hoa Kỳ. Hai chiếc F-8 Crusaders đã bị bắn trúng nhưng không rơi tại chỗ mà cố chạy được ra biển. Ba chiếc MiG-17 về hạ cánh an toàn, một chiếc của phi đội trưởng Phạm Ngọc Lan hết dầu phải hạ cánh xuống bãi sông Đuống.
Trận đánh tiếp theo diễn ra ngay hôm sau với 3 phi đội cất cánh, trong đó có 2 phi đội nghi binh và bảo vệ, một phi đội công kích thẳng vào tốp F-105 mang bom tấn công cầu Hàm Rồng, Thanh Hóa do Thiếu tá Frank Bennett làm dẫn đầu. Phía Mỹ có 2 chiếc F-105 bị MiG-17 bắn trúng. Chiếc do Đại úy James Magnusson lái rơi trên đường thoát ra biển, chiếc do Thiếu tá Frank Bennett rơi khi hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Đà Nẵng. Cả hai phi công đều chết. Phía Không quân Việt Nam mất 3 chiếc MiG. Một chiếc do Lê Minh Huân lái rơi gần bờ biển Sầm Sơn, gần xác chiếc F-105 do chính anh bắn hạ. Hai chiếc còn lại, do Phạm Giấy và Trần Nguyên Năm lái, bị rơi ở gần khu vực cầu Hàm Rồng. Cả ba chiếc đều không có ghi nhận nào bị bắn rơi từ phía Mỹ, có khả năng bị chính súng phòng không của Việt Nam bắn rơi. Một chiếc duy nhất còn lại, do phi đội trưởng Trần Hanh lái và cũng là chiếc đã bắn hạ Thiếu tá Frank Bennett, hết dầu và hỏng la bàn nên phải hạ cánh xuống lòng một con suối cạn thuộc bản Ké Tằm, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
Chiến công đầu tiên của MiG-21 là bắn rơi máy bay do thám không người lái Ryan Firebee của phi công Nguyễn Hồng Nhị vào ngày 4 tháng 3 năm 1966.
Không quân Việt Nam ghi nhận có 3 trường hợp MiG-21 tấn công pháo đài bay B-52 và họ tự hào là lực lượng không quân duy nhất trên thế giới tấn công trực tiếp được loại máy bay này thời bấy giờ. Trường hợp đầu tiên do phi công Vũ Đình Rạng bắn trúng B-52 ngày 20 tháng 11 năm 1971. Chiếc B-52 bị hư hỏng nặng, phải hạ cánh khẩn cấp xuống sân bay Nakhom-Phanom, Thái Lan. Trường hợp thứ hai được phía Việt Nam ghi nhận là do Phạm Tuân bắn rơi tại chỗ vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Trường hợp thứ ba diễn ra ngay vào ngày hôm sau, 28 tháng 12 năm 1972, được ghi nhận do phi công Vũ Xuân Thiều thực hiện. Một số bài báo viết rằng sau khi đã phóng đi cả hai quả tên lửa mà không hạ được B-52, Vũ Xuân Thiều đã lao máy bay của mình vào hạ B-52 theo lối đánh cảm tử. Tuy nhiên, nhiều tài liệu lịch sử của Phòng không và Không quân nhân dân Việt Nam xác định do bắn B-52 ở cự ly quá gần nên máy bay của Vũ Xuân Thiều bị các mảnh nổ của B-52 văng ra, bốc cháy và rơi cách chiếc B-52 bị anh hạ khoảng 1 km tại Phù Yên, Sơn La.Trần Hợi - Nguyễn Thế Bảo. Lịch sử Trung đoàn không quân tiêm kích 927 (1971-2001. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân. Hà Nội. 2002. trang 52. Về phía Mỹ, các tài liệu không thừa nhận có bất cứ chiếc B-52 nào bị bắn rơi trong đêm 28 tháng 12. Ngược lại, họ cho rằng Vũ Xuân Thiều đã bị bắn rơi trước khi kịp tiếp cận B-52, bởi chiếc F-4D do Thiếu tá Harry McKee và Đại úy John Dubler điều khiển.
Trận không chiến cuối cùng giữa Không quân Việt Nam và Không quân Mỹ diễn ra vào ngày 27 tháng 12 năm 1972. Phía Việt Nam công bố, chiếc máy bay MiG-21 do phi công Trần Việt điều khiển đã bắn hạ 3 chiếc F-4. Phía Mỹ chỉ công nhận rơi 2 chiếc.
Một số máy bay MiG nổi tiếng
Chiếc MiG-17A số hiệu 2310 do phi công Phạm Ngọc Lan (đoàn 921) lái. Đây là chiếc máy bay đầu tiên do phi công Việt Nam bắn hạ máy bay đối phương trong không chiến. Tuy nhiên, sau đó thì bị hỏng khi hạ cánh bên bãi sông và bị tháo dỡ phụ tùng.
Chiếc MiG-17F số hiệu 2011 thuộc đoàn 923. Đây là chiếc máy bay từng được phi công Ngô Đức Mai điều khiển trong trận không chiến ngày 12 tháng 5 năm 1967 và đã bắn hạ chiếc F-4C số hiệu BN 63–7614, thuộc phi đoàn 390 TFS, không đoàn 366 TFW, do Đại tá Không quân Norman C. Gaddis (phi công) và Trung úy James M. Jefferson (hoa tiêu) điều khiển. Đại tá Gaddis là một phi công chuyên gia chống MiG, được cử sang Việt Nam để huấn luyện và giám sát các phi công Mỹ, nhưng cuối cùng ông lại bị chính MiG bắn hạ và bị bắt sống. Riêng Ngô Đức Mai bị bắn rơi sau chiến tích này không đầy một tháng sau.
Chiếc MiG-17F số hiệu 2047 và 2011 thuộc đoàn 923. Đây là 2 chiếc máy bay từng được kỹ sư Trương Khánh Châu cải tiến để đeo bom để tấn công tàu tuần dương Mỹ USS Oklahoma City và USS Higbee ngoài khơi vịnh Bắc Bộ ngày 19 tháng 4 năm 1972.
Chiếc MiG-17F số hiệu 3020 thuộc đoàn 923. Đây là một những chiếc MiG-17 đạt được nhiều thành tích nhất với thành tích bắn hạ ít nhất 8 máy bay đối phương. Hai trong số các phi công đã từng lái máy bay này là Nguyễn Văn Bảy (có biệt danh là Bảy A) và Lê Hải, đều đạt đến đẳng cấp Ace. Các phi công Mỹ thường gọi là máy bay này bằng biệt danh Green Snake theo màu sơn xanh loang lổ của nó, và họ cũng dựng lên một huyền thoại về Đại tá Toon, một phi công siêu đẳng điều khiển máy bay này. Ngày 10 tháng 5 năm 1972, máy bay này đã bị chiếc F-4 Phantom II của Hải quân Hoa Kỳ do Đại úy Randy "Duke" Cunningham (phi công) và Trung úy William "Irish" Driscoll (hoa tiêu) bắn rơi.
Chiếc MiG-21 F-13 số hiệu 4420 do phi công Nguyễn Ngọc Độ (đoàn 921) lái. Chiếc này đã hạ 6 máy bay đối phương.
Chiếc MiG-21 F-13 số hiệu 4520 do phi công là Phạm Thanh Ngân (đoàn 921) lái, hạ 8 máy bay. Hiện được trưng bày tại bảo tàng quân đội Thái Nguyên.
Chiếc MiG-21 PF số hiệu 4324 thuộc đoàn 921, được sử dụng bởi 12 phi công khác nhau, từng cất cánh chiến đấu 69 lần, tiếp chiến 22 lần, khai hỏa 25 quả tên lửa đối không, bắn hạ 14 máy bay Mỹ trong khoảng thời gian từ ngày 30/4/1967 đến tháng 5 năm 1968. Đây là chiếc máy bay "may mắn" vì không chỉ nó có số lượng máy bay do nó bắn hạ cao nhất (14 chiếc) mà còn bởi trong số 12 phi công đã từng điều khiển máy bay này, có tới 9 người đã bắn hạ máy bay đối phương, 8 phi công đạt đẳng cấp Ace, 7 người được tuyên dương anh hùng, 5 người trở thành tướng lĩnh. Hiện nay máy bay này đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam ở Hà Nội.
Chiếc MiG-21 PF số hiệu 4326 (đoàn 921) cũng hạ được nhiều máy bay (13 chiếc) và được nhiều phi công sử dụng, trong đó có phi công Nguyễn Văn Cốc, Phạm Thanh Ngân, Phạm Phú Thái. Hiện nay chiếc 4326 được xem là đang được trưng bày tại bảo tàng Phòng Không, sân bay Bạch Mai, Hà Nội, thậm chí có một phiên bản của nó đang được trưng bày tại Mỹ.
Chiếc MiG-21 PFM số hiệu 5020 thuộc đoàn 927 cũng là máy bay được nhiều "Át" sử dụng, gồm Nguyễn Tiến Sâm (hạ được 6 máy bay), Lê Thanh Đạo (hạ được 6 máy bay), Nguyễn Đức Soát (hạ được 6 máy bay), và Nguyễn Văn Nghĩa (hạ được 5 máy bay). Bản thân chiếc máy bay này cũng hạ gục được 12 máy bay đối phương. Chiếc này đang được trưng bày tại bảo tàng Quân chủng Phòng không - Không quân Hà Nội.
Chiếc MiG-21 MF số hiệu 5121 từng được Phạm Tuân sử dụng và dùng nó để bắn hạ B-52 đêm ngày 27 tháng 12 năm 1972. Chiếc này cũng từng bắn hạ được 8 máy bay đối phương và hiện được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Chiếc MiG-21 PFM số hiệu 5033 (đoàn 921) là chiếc máy bay tham dự trận không chiến cuối cùng giữa MiG-21 và F-4 vào ngày 27 tháng 12 năm 1972, do phi công Trần Việt lái. Phía Việt Nam ghi nhận ngày hôm đó, chiếc máy bay này đã bắn rơi 3 chiếc F-4, nhưng người Mỹ chỉ công nhận hai chiếc rơi.
MiG-21 PFM 5040: phi công Lê Thanh Đạo (sau này làm Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Phó trưởng ban Dân vận TW), đoàn không quân Lam Sơn. Điểm đặc biệt của chiếc này là được sơn nguỵ trang toàn bộ bằng màu xanh đậm.
MiG-21 PFM 5066: không có thông tin về phi công. Lúc đầu máy bay phục vụ trong đoàn Sao Đỏ với màu metal bình thường; sau đó được chuyển về đoàn Lam Sơn với màu sơn nguỵ trang bằng cách sơn đè màu xanh lá cây đậm lên trên lớp kim loại tự nhiên ở một sồ chỗ, không sơn phủ toàn bộ như 5040. Chiếc này từng đánh chặn (intercept'') một chiếc B-52 vào ngày 13 tháng 4 năm 1972 trên bầu trời Thanh Hoá. Phi công Bùi Thanh Liêm bay số 2 trên máy bay này bắn rơi 1 F4 trong trận không chiến nổi tiếng ngày 27 tháng 6 năm 1972. Chiếc máy bay này hiện còn ở trường SQKQ Nha Trang. Đồng thời không có thông tin nào về hoạt động quân sự của Mig-21 PFM 5071 trong cuộc kháng chiến.
MiG-21 PFM 6122: chiếc này thuộc đoàn Lam Sơn, sau khi giải phóng miền Nam, toàn bộ MiG-21 PFM còn sử dụng được đều chuyển về cho đoàn 372 (Hải Vân) tại Đà Nẵng. Chiếc này của quân đội Xô Viết được sơn nguỵ trang theo kiểu của Khối Warszawa trước khi đến Việt Nam. Màu sơn nguỵ trang này không thay đổi, chỉ có số hiệu máy bay và huy hiệu được thay đổi theo Không quân Việt Nam. Chiếc này đang được trưng bày tại bảo tàng của sân bay Đà Nẵng.
Các phi công nổi tiếng
Phi công Ace
Phi công "Ách" là thuật ngữ thông dụng trong hàng không quân sự dùng để chỉ các phi công đã bắn hạ từ 5 máy bay đối phương trở lên. Trong hàng ngũ phi công Không quân Nhân dân Việt Nam gồm có:
Nguyễn Văn Cốc: 9 máy bay (bao gồm 2 máy bay không người lái)
Phạm Thanh Ngân: 8 máy bay
Nguyễn Hồng Nhị: 8 máy bay
Mai Văn Cương: 8 máy bay
Nguyễn Văn Bảy (A): 7 máy bay.
Đặng Ngọc Ngự: 7 máy bay
Nguyễn Đức Soát: 6 máy bay
Nguyễn Ngọc Độ: 6 máy bay
Nguyễn Nhật Chiêu: 6 máy bay
Vũ Ngọc Đỉnh: 6 máy bay
Lê Thanh Đạo: 6 máy bay
Nguyễn Tiến Sâm: 6 máy bay
Lê Hải: 6 máy bay
Lưu Huy Chao: 6 máy bay
Nguyễn Văn Hùng: 6 máy bay
Đỗ Văn Lanh: 6 máy bay
Nguyễn Văn Nghĩa: 5 máy bay
Phi công nổi bật khác
Trần Hanh, biên đội trưởng trận đánh ngày 4/4/1965 tại cầu Hàm Rồng bắn hạ một máy bay F105 bằng máy bay Mig17
Lê Minh Huân, phi công bắn hạ một máy bay F105 ngày 4/4/1965 trận cầu Hàm Rồng bằng máy bay Mig17
Phạm Phú Thái bắn rơi 4 máy bay
Nguyễn Văn Bảy (B), ném bom bị thương 1 tàu tuần dương của Mỹ và bắn hạ 1 máy bay.
Lâm Văn Lích
Đồng Văn Đe
Đinh Tôn
Vũ Đình Rạng, phi công đầu tiên bắn trúng B-52
Phạm Tuân, bắn rơi siêu pháo đài bay B52 của Mỹ
Bùi Thanh Liêm, phi hành gia dự bị chuyến bay Soyuz 37 trong chương trình Interkosmos của Liên Xô.
Vũ Xuân Thiều, được cho là hi sinh cùng chiếc B-52 bị anh bắn hạ
Hồ Duy Hùng
Nguyễn Thành Trung
Hà Văn Chúc, hạ 1 máy bay và rút lui an toàn trong trận đánh đơn độc với 36 máy bay Mĩ
Trần Việt, hạ 3 máy bay chỉ trong 1 phi vụ xuất kích
Chu Văn Thanh, hai lần rơi máy bay.
Phan Như Cẩn, phi công ném bom lái An-2, đã tham gia 2 trận đánh chìm tàu biệt kích Mỹ và tấn công căn cứ radar Mỹ, được truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Một số vụ tai nạn hàng không
Trực thăng
Ngày 22 tháng 11 năm 1992: chiếc trực thăng Mi-8 của quân đội được huy động từ Hà Nội chở theo lực lượng cứu nạn chuyến bay VN-474 (rơi ngày 14/11/1992) lại tiếp tục gặp nạn gần vùng núi Ô Kha làm 7 người trên máy bay tử nạn.
Ngày 26 tháng 1 năm 2005, chiếc trực thăng Mi-8 xuất phát từ đoàn bay Trung đoàn 954, Sư đoàn 372 tại Đà Nẵng chở đoàn cán bộ sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam và phóng viên từ sân bay Vinh đi đảo Hòn Mê (thuộc huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa). Lúc 15h 43 cùng ngày chiếc máy bay cất cánh từ Hòn Mê ra Hòn Mắt trong thời tiết sương mù dày đặc. Khi vừa rời mặt đất được 2 phút, do không nhận ra hướng bay nên máy báy đâm vào vách núi tại Hòn Mê. Tất cả 15 người cùng phi công trên máy bay đều tử nạn, trong đó có Trung tướng Trương Đình Thanh - Tư lệnh Quân khu, Thiếu tướng Nguyễn Bá Tuấn - Phó Tư lệnh, Tham mưu trưởng Quân khu 4. Trong số người gặp nạn còn có năm đại tá và hai thượng tá.
Vụ máy bay Mi 171 rơi ở Hà Nội
Vào 7 giờ 23 phút ngày 28 tháng 1 năm 2015, chiếc UH-1 của trung đoàn 917, Sư đoàn không quân 370 cất cánh từ sân bay Tân Sơn Nhất gặp sự cố hỏng hóc liên quan hệ thống điều khiển, đâm xuống khu vực thuộc nông trường Phạm Văn Hai, Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Tổ bay gồm 4 người hy sinh.
Vào 09h15 ngày 26 tháng 3 năm 2015, một trực thăng Mi-8 bị rơi ở độ cao 9-10m khi đang hạ cánh xuống sân bay đảo Phú Quý, tỉnh Bình Thuận làm 3 người trong tổng số 8 người (4 hành khách và 4 phi hành đoàn) bị thương. Chiếc trực thăng quân sự cất cánh từ sân bay quân sự Thành Sơn, Phan Rang đến Phú Quý làm nhiệm vụ thì gặp nạn.
Máy bay vận tải, tuần tra
Ngày 11 tháng 2 năm 1982, chuyến bay An-26 từ Pochentong (Phnom Penh, Campuchia) về Tân Sơn Nhất bị lạc đường, phải hạ cánh khẩn cấp xuống sườn đồi gần thị trấn Sakeo, cách biên giới Thái Lan - Campuchia khoảng 30 km. Do tiếp đất mạnh, phi công Hoàng Văn Khải bị thương nặng và hy sinh.
Ngày 16 tháng 9 năm 1987: Máy bay vận tải quân sự An-26 số hiệu 285 thuộc Trung đoàn Không quân vận tải 918, Quân chủng Không quân bay chặng Gia Lâm - Đà Nẵng - Tân Sơn Nhất thì mất tích sau khi cất cánh từ Đà Nẵng. Tháng 3 năm 1988, người dân địa phương tìm được xác máy bay trên núi Lẹp, Lộc Châu, Bảo Lộc, Lâm Đồng. Tháng 5 năm 1991, quy tập được hài cốt của 62 người gồm phi hành đoàn và các chiến sĩ, cán bộ cùng người thân. Nguyên nhân tai nạn được cho là do thời tiết xấu, mây mù dày đặc. Sau vụ máy bay rơi, địa danh núi Lẹp ở Bảo Lộc được đồng bào người Mạ địa phương gọi tên là "đồi máy bay".
Ngày 4 tháng 11 năm 2005, một chiếc máy bay trinh sát M-28 Mielec thuộc Trung đoàn 918 đột ngột bốc cháy và rơi xuống khu vực bãi cỏ xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội làm tất cả ba thành viên phi hành đoàn hy sinh.
Ngày 8 tháng 4 năm 2008: lúc 10 giờ sáng, chiếc máy bay An-26 thuộc Trung đoàn 918 Không quân (Gia Lâm) bị rơi tại một cánh đồng thuộc địa phận xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì (Hà Nội), cách trường học và khu dân cư vài trăm mét khiến 5 người trên máy bay tử nạn. Nguyên nhân có thể do máy bay đã bị chết động cơ khi đang bay.
Ngày 16 tháng 6 năm 2016, máy bay Casa-212 8983 của Lữ đoàn không quân 918 xuất phát đi tìm kiếm cứu nạn 2 phi công lái chiến SU-30 MK2 rơi khi đang bay huấn luyện, thì gặp nạn. Khu vực được xác định trước khi mất tín hiệu lần cuối là cách đảo Bạch Long Vĩ 40 hải lý. Nguyên nhân ban đầu được cho là máy bay gặp thời tiết xấu đã hạ độ cao và gặp tai nạn. Máy bay gặp nạn có tất cả chín thành viên đều là những vị trí chủ chốt của Lữ đoàn 918.
Máy bay MIG-21
Ngày 30 tháng 4 năm 1971, chiếc MiG-21U do phi công Cống Phương Thảo chở huấn luyện viên Liên Xô là đại úy Yuri Poyarkov gặp nạn tại khu vực Vườn quốc gia Tam Đảo trong khi bay huấn luyện. Các lực lượng chức năng của Việt Nam đã tổ chức tìm kiếm song không thu được kết quả. Chiếc máy bay được cho là bị mất tích cho đến khi các mảnh vỡ được tìm thấy 47 năm sau vào năm 2018.
Ngày 24 tháng 8 năm 2004, một chiếc MiG-21 số 5321 cất cánh từ sân bay Kiến An, Hải Phòng bị nạn rơi xuống xã Kim Đính, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương khiến phi công Nguyễn Văn Thái hy sinh.
Ngày 24 tháng 9 năm 2004, một chiếc tiêm kích MiG-21 thuộc Trung đoàn 940 đóng tại Phù Cát, trong lúc thực hành bay bài bay độ cao thấp đã va vào núi tại địa phận huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Hai phi công hy sinh.
Ngày 12 tháng 4 năm 2006, máy bay MiG-21 thuộc Trung đoàn 940 đóng tại Phù Cát, trong lúc bay tập luyện đã bị trục trặc kỹ thuật và rơi tại xã Phước Hòa, Tuy Phước, Bình Định, hai viên phi công kịp nhảy dù an toàn, một phi công bị thương nhẹ khi tiếp đất.
Ngày 11 tháng 5 năm 2006, một chiếc MiG-21 khác đâm vào nhà dân tại thôn Vân Sơn, xã Nhơn Hậu huyện An Nhơn tỉnh Bình Định. Hai phi công nhảy dù ra an toàn nhưng một số nhà dân bị thiệt hại hay phá huỷ. Không có thương vong về người.
Ngày 24 tháng 11, 2007: Khoảng 14h chiều, một chiếc MiG-21 thuộc Trung đoàn không quân Sao Đỏ thuộc Sư đoàn không quân Thăng Long xuất phát từ sân bay Kép, bị nạn tại xã Nam Tiến, huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, nhưng may mắn không có thiệt hại về người.
Chiều ngày 12 tháng 11 năm 2009, máy bay tiêm kích MiG-21 hai chỗ ngồi thuộc Đơn vị không quân C31, Đoàn Không quân B71, xuất phát từ sân bay Yên Bái, trong khi diễn tập gặp sự cố, đâm vào một nhà kho tại thành phố Yên Bái và phát nổ khiến hai phi công hy sinh.
Sáng ngày 29 tháng 5 năm 2010, một chiếc MiG-21 thuộc Đoàn không quân C40, sân bay Phù Cát bất ngờ phát nổ trong khi bay diễn tập và đâm sập tường nhà người dân tại xóm Phúc Mới thôn Nam Tượng 3, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định làm 2 dân thường bị thương nhẹ. Phi công đã kịp bung dù nhảy ra khỏi máy bay và đáp xuống phải một mái nhà, bị kính cửa cắt vào bắp chân. Kể từ năm 2006 đến nay, đây lần thứ ba máy bay quân sự bị rơi trên địa bàn tỉnh Bình Định.
Vào 20h30 ngày 7 tháng 7 năm 2010, chiếc MiG-21 khác thuộc đơn vị C21, Đoàn không quân B71 rơi tại cánh đồng thôn 1, xã Thạch Đà, huyện Mê Linh. Nguyên nhân ban đầu được xác định là hỏng hệ thống dầu động cơ, dẫn đến mất áp suất dầu nén động cơ máy bay. Khi phát hiện bị sự cố, phi công Vũ Duy Minh đã cho máy bay hướng ra ngoại thành, cách xa khu vực dân cư và nhảy dù. Phi công chỉ bị xây xát nhẹ và không có thêm thương vong hay thiệt hại tài sản.
Máy bay Su-22
Ngày 9 tháng 8 năm 2006, một chiếc Su-22 xuất phát từ sân bay Thành Sơn (Ninh Thuận) đã gặp sự cố và đâm thẳng vào chân núi Hòn Khô, xã Hòa Sơn, huyện Ninh Sơn, Ninh Thuận.
Ngày 9 tháng 6 năm 2009, một máy bay cường kích Su-22M4 của Trung đoàn 923 Yên Thế khi đang bay trên địa phận xã Cẩm Phú, huyện Cẩm Thủy (Thanh Hoá) thì bất ngờ lao xuống khu vực đồi bãi Chiêng, ở thôn Lạc Long 2, xã Cẩm Phú (huyện Cẩm Thủy, Thanh Hóa) và bốc cháy.
Hai chiếc tiêm kích Su-22M4 của trung đoàn không quân 937 (sư đoàn không quân 370) cất cánh từ sân bay quân sự Thành Sơn (Thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận) đã mất liên lạc trên vùng biển Ninh Thuận lúc 11h trưa 16 thàng 4 năm 2015, khi đang diễn tập trên biển, rơi gần khu vực đảo Phú Quý chừng 6 hải lý. Hai phi công mắc nạn là Trung tá Lê Văn Nghĩa và Đại úy Nguyễn Anh Tú.
Trong lúc bay huấn luyện, máy bay Su-22UM-3K số hiệu 8551 của Trung đoàn Không quân 921 (Sư đoàn 371 - Quân chủng Phòng không - Không quân) mất liên lạc lúc 11 giờ 35 phút ngày 26 tháng 7 năm 2018. Theo thông tin ban đầu máy bay rơi tại khu vực làng Dừa, xã Nghĩa Yên, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Hai phi công huấn luyện bay đã hi sinh.
Máy bay Su-30
.Ngày 14 tháng 6 năm 2016, một máy bay tiêm kích Su-30MK2 của Không quân Việt Nam xuất phát từ sân bay Sao Vàng (Thọ Xuân - Thanh Hóa) để thực tập huấn luyện, sau đó đã mất liên lạc khi cách đất liền ở Diễn Châu (Nghệ An) khoảng 25 km. Chiếc máy bay đã lao xuống biển, một phi công sống sót.
Máy bay Yakovlev Yak-52
Ngày 9 tháng 3 năm 2004, một chiếc Yak-52 bay huấn luyện cất cánh từ sân bay Nha Trang đã rơi xuống thôn Suối Lau, xã Suối Cát, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hoà làm một cụ già thiệt mạng và một cháu bé bị thương nặng. Hai phi công kịp nhảy dù.
Ngày 14 tháng 6 năm 2019, máy bay Yakovlev Yak-52 của Không quân nhân dân Việt Nam của Trung đoàn không quân 920 đã bị rơi tại xã Suối Tân, huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa lúc 9 giờ sáng khi đang bay diễn tập khiến hai phi công hi sinh.
Máy bay L-39
Ngày 29 tháng 4 năm 2005, chiếc máy bay huấn luyện L-39 thuộc E910 của Trường Sĩ quan không quân Việt Nam đang bay trên bầu trời Nha Trang thì đột ngột chết máy. Hai phi công đã điều khiển máy bay bay ra biển và nhảy dù. Người phi công bị thương nhẹ, còn đồng chí thượng tá, trung đoàn phó đã hy sinh.
Ngày 5 tháng 6 năm 2007, một chiếc L-39 bay huấn luyện thuộc Trung đoàn 910 Học viện Không quân Nha Trang, Quân chủng Phòng không Không quân - Bộ Quốc phòng xuất phát từ sân bay Thành Sơn thì va phải chim làm vỡ kính buồng lái, máy bay đâm xuống vùng biển thôn Vĩnh Trường, xã Phước Dinh, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách bờ 2 km. Vụ tai nạn khiến hai phi công là Trần Văn Deo và Lê Lâm Phương hy sinh.
Vào 8h20 ngày 26 tháng 8 năm 2016, máy bay huấn luyện Aero L-39 Albatros mang số hiệu 8705 thuộc Trung đoàn Không quân 910, Trường Sĩ quan không quân đang thực hiện bay huấn luyện thì gặp nạn và rơi ở Hòa Thành, Đông Hòa, Phú Yên. Tai nạn làm thượng sĩ Phạm Đức Trung, học viên phi công khóa K41, Trường Sĩ quan không quân hy sinh.
Chú thích |
Xem các nghĩa khác tại sen
Hoa sen (tiếng Phạn: padma; tiếng Nhật: renge) trong Phật giáo là biểu tượng của sự thuần khiết và sinh hóa hồn nhiên (svayambhu). Theo kinh Lalitavistara, phần tâm linh của con người thì vô nhiễm, giống như hoa sen mọc trong bùn mà không bị hôi tanh bởi bùn. Còn theo Phật giáo Mật tông thì trái tim con người giống như đóa sen hàm tiếu, khi Phật tính phát triển bên trong thì đóa sen sẽ nở. Đây chính là ý nghĩa của việc Phật ngồi trên tòa sen. Trong Phật giáo Tantra, đóa sen biểu thị cơ quan sinh dục nữ và đó chính là nguyên lý âm trong vũ trụ. Trong thai tạng giới Mạn-đà-la, đóa sen trắng ở trung tâm Mạn-đà-la, biểu thị tử cung (Thai tạng) của thế giới.
Các đoá hoa sen có màu khác nhau biểu thị những liên kết khác nhau. Hoa sen có mặt trong các công trình Phật giáo như cây hoa sen thực trong các hồ ở chùa, có mặt ở các toà sen của các vị chư Phật, chư thần. Trên các bức tranh lụa Phật giáo cũng có hình tượng hoa sen như trong tranh lụa Tây Tạng có dấu chân của Thanh-đa-la trên hoa sen. Người ta tin rằng, những người lúc lâm chung mà tâm không sợ hãi và ở tại thế người đó có phước đức thì sẽ nhìn thấy được Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện ra dẫn dắt người đó qua cõi Cực Lạc. Họ sẽ hóa sinh ra ở cõi ấy bằng hình tướng là những em bé trai trần truồng, sẽ được Đức Quán Thế Âm Bồ-tát và Đức Đại Thế Chí Bồ-tát nuôi nấng trong những bông hoa sen và đợi cho đến khi hoa nở thì sẽ thấy được Phật A Di Đà.
Hoa sen trong biểu tượng
Sen trắng
Sen trắng tượng trưng cho sự thuần hóa của nhân tính, bồ đề tâm hay còn gọi là giác tâm, thường có 8 cánh ứng với Bát chính đạo. Nó là đặc trưng của phái Mật tông và là đoá sen của các vị Phật. Sau này có giáo phái Bạch Liên giáo lấy bông sen trắng làm biểu tượng.
Sen đỏ
Sen đỏ tượng trưng cho bản chất nguyên thủy của trái tim, là đoá hoa của tình yêu, đam mê và sự năng động. Đây là loại sen của Quan Thế Âm.
Sen xanh
Sen xanh là biểu tượng của trí tuệ, tri thức của chiến thắng của tinh thần đối với các cảm quan. Đây là loại sen của Văn Thù Sư Lợi, hiện thân của trí tuệ viên thành.
Sen hồng
Sen hồng là loại sen tối thượng, thường được dành cho các vị tối cao, là đoá sen của những vị tu theo giáo phái nguyên thủy.
Sen tím thẫm
Sen tím thẫm là đóa sen huyền diệu, biểu thị những ảnh tượng của phái Mật tông. Các đoá hoa có thể đang còn e ấp hoặc đã được nở bung hết. Chúng có thể được nâng đỡ bởi một cọng hay ba cọng hoa (tượng trưng cho ba phần của Garbhabatu: Vairocana, hoa sen và vajra) hoặc năm cánh hoa tượng trưng cho Năm tri thức của Vajradhatu.
Hoa sen trong công trình Phật giáo
Trong một số ngôi chùa có những quả chuông như chuông chùa Liên Phái, Hà Nội thường có cụm từ "Án ma ni bát mê hồng" (Om mani padme hum), nghĩa là "chân linh trong hoa sen".
Chùa Một Cột, Hà Nội có biểu tượng một bông hoa sen mọc trên hồ.
Tháp Cửu phẩm liên hoa có ở chùa Bút Tháp, Bắc Ninh là một tổ hợp kết cấu gỗ dạng tháp, có chín tầng chồng lên nhau. Mỗi tầng có một đài sen rộng chừng 2m, cao 50cm. Cả tháp cao 7,8m, phía ngoài tháp các cánh sen bằng gỗ sơn đỏ tạo thành tầng tầng lớp lớp so le nhau, tháp có thể quay tròn quanh một trục, có gắn tượng Phật và chạm những cảnh dân gian hay lấy đề tài trong Phật thoại.
Chùa Tây Phương, Hà Tây có các đầu cột được làm thành hình bông hoa sen hoặc làm thành cả hồ sen.
Chùa Kim Liên, Hà Nội có tổng mặt bằng được cô gọn lại thành hình tượng một bông sen.
Hoa sen trong những biểu tượng khác
Khi lễ Phật, hai bàn tay chắp lại làm thành hình hoa sen chưa nở, kiểu lễ này gọi là "Liên hoa hợp chưởng" hoặc "Liên hoa thủ ấn" hay "Liên hoa ấn".
Bộ áo cà sa của tỳ-khưu được gọi là "Liên hoa y" hay "Liên hoa phục".
Cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà còn được gọi là "Liên bang", là một cõi có nhiều hoa sen. Do vậy, Tịnh độ tông được gọi là "Liên tông"; nhóm bạn cùng tịnh nghiệp được gọi là "Liên xã"; thời gian được dùng để niệm Phật gọi là "Liên liêu".
Hoa sen trắng có 8 cánh nằm trên vòng tròn viền trắng, nền màu xanh lá mạ là huy hiệu của Gia đình Phật tử Việt Nam. Ba cánh hoa dưới tượng trưng cho Tam bảo - Phật, Pháp, Tăng. Năm cánh hoa phía trên của tượng trưng cho 5 đức hạnh theo thứ tự từ trái qua phải, từ ngoài nhìn vào là: trí tuệ, hỉ xả, tinh tấn, thanh tịnh, từ bi.
Trong văn học Phật giáo
Trong sách "Tánh mạng khuê" có bài thơ về hoa sen như sau:
Trong Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện có câu:
"Do như liên hoa bất trước thủy
Diệc như nhật nguyệt bất trụ không."
(Tạm dịch:)
"Cũng như hoa sen không dính nước
Nào khác nhật nguyện chẳng dừng không." |
Về các trận chiến khác đã diễn ra tại Moskva, xem bài định hướng Trận Moskva
Trận Borodino (, Borodinskoe srazhenie; phiên âm: Bô-rô-đi-nô); hoặc còn gọi là Trận Sông Moskva () giữa quân đội Pháp do Napoléon I chỉ huy và quân đội Nga dưới sự chỉ huy của tướng M. I. Kutuzov diễn ra tại vùng Borodino - ngoại ô Moskva vào ngày 7 tháng 9 năm 1812 (hay 26 tháng 8 năm 1812 theo lịch Nga cổ). Đây được coi là trận chiến lớn thứ 3 và đẫm máu nhất trong các cuộc chiến tranh xâm lược của Napoléon Bonaparte, với sự tham gia của trên 25 vạn quân từ cả hai phía và số thương vong ít nhất trên 7 vạn người.
Để bảo vệ đất nước, những chiến binh Nga đã chiến đấu ngoan cường. Trận đánh lịch sử kéo dài chỉ vỏn vẹn trong một ngày trời với thiệt hại nặng nề cho cả đôi bên, nhưng vì những lý do chiến thuật quân đội Nga - sau khi tuyên bố thắng trận - đã tự động rút lui để nhường đường cho quân Pháp tiến vào thành phố Moskva. Tuy vậy, Napoléon đã thất bại trong mục đích tiêu diệt Quân đội Nga trong trận đánh lớn một ngày. Do đó, Kutuzov và ba quân vẫn đứng vững và trận kịch chiến tại Borodino trở thành một chiến thắng tinh thần của nước Nga.
Và, sau trận đánh này quân xâm lược tinh nhuệ của Pháp đã bị tiêu hao sinh lực đáng kể, không đủ khả năng để tiếp tục đánh chiếm các vùng đất khác của Đế quốc Nga. Trong khi đó các nguồn tiếp tế lương thực thuốc men từ hậu phương đều bị quân Nga đánh phá. Kết cục mùa đông năm 1812 quân Pháp đã phải tháo chạy khỏi nước Nga và chiến dịch quân sự đánh chiếm nước Nga của Napoleon I hoàn toàn phá sản, mà nguyên nhân chủ chốt là nhờ sự sống còn của lực lượng Quân đội Nga sau trận đánh Borodino này.
Cuộc đại chiến Borodino có tầm quan trọng đặc biệt lớn trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Nga, là cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của họ, đưa nước Nga cận đại trở nên vinh quang trên võ đài quốc tế. Trận đánh ác liệt này luôn lôi cuốn giới sử học. Nhờ tài nghệ chỉ huy nhân dân Nga đấu tranh chống những kẻ xâm lăng, Nguyên soái Mikhail Illarionovich Kutuzov - vị Tổng tư lệnh Quân đội Nga trong cuộc đại chiến này - được tôn vinh làm anh hùng thiên cổ. Hàng triệu người biết đến trận đánh lớn này thông qua cuốn tiểu thuyết "Chiến tranh và Hòa bình" của đại văn hào nước Nga Lev Nikolayevich Tolstoy.
Bối cảnh lịch sử
Sau khi Quân đội Nga bị quân Pháp đánh bại trong các năm 1805 và 1807, nên Nga hoàng Aleksandr I ký kết Hiệp định Tilsit với Napoléon, theo đó người Pháp áp đặt Hệ thống Phong tỏa Lục địa lên người Nga. Trước tình cảnh đó, quý tộc Nga cảm thấy căm phẫn trước cái mà họ cho là Nga thần phục Pháp. Như Công tước Sergei Volkonsky mô tả, các thất bại tại Austerlitz và Friedland cùng với sự bất lực của Nga hoàng trước các chính sách của Napoléon là "những vết thương sâu nặng trong con tim của mọi người Nga". Người Nga quyết tâm phải trả thù. Dù Napoleon có gặp gỡ Nga hoàng vào năm 1808, nước Nga càng trở nên căng thẳng với Pháp.Mikaberidze, tr. 1 Thế rồi, đầu năm 1812, Triều đình Nga bí mật ký kết thoả ước thương mại với Anh Quốc, vi phạm Hệ thống Phong toả Lục địa. Nhờ đó, Nga hoàng Aleksandr I cảm thấy ông được tự do thoát khỏi sự cường quyền của ngoại bang. Tuy nhiên, Napoleon không thể chấp nhận được điều này và ông quyết định xâm lược nước Nga, để buộc Nga phải phục tùng.
Đội quân Vĩ đại (La Grande Armée) dưới sự chỉ huy của Napoleon bắt đầu hành quân vào nước Nga vào ngày 16 tháng 6 năm 1812. Sa hoàng Aleksandr I đã phát động một cuộc chiến tranh Vệ quốc nhằm chống lại kẻ xâm lược. Theo kế hoạch của viên tướng người Đức, Karl Ludwig von Phull, đại quân dưới quyền chỉ huy của Hầu tước Mikhail Barklay-de-Tolli sẽ chặn quân Pháp ở vùng Vilnius, còn đạo quân phía Nam do Bagration chỉ huy sẽ phát động đánh thọc sườn quân Pháp. Tuy nhiên, mọi người sớm nhận ra rằng kế hoạch của von Phull là một sai lầm chết người, với 60 vạn quân, La Grande Armée thừa sức nghiền nát hai đạo quân Nga. Hơn nữa, sự có mặt của Sa hoàng Nga trong lúc này càng khiến nội bộ người Nga lục đục hơn. Quân Nga đang đóng ở dọc biên Ba Lan buộc phải rút lui trược sự tiến công của người Pháp.
Vì vậy, trong những ngày đầu của cuộc chiến quân đội Pháp đã tiến rất nhanh vào sâu lãnh thổ nước Nga mà không gặp phải bất cứ sự kháng cự đáng kể nào. Sau khi đến Vitebsk, Napoleon hy vọng sẽ chạm trán và tiêu diệt quân Nga đâu đó gần đây, nhưng trên thực tế, quân Pháp đang ở cách nơi đóng quân gần nhất của quân Nga tại Kaunas tới Du mục Cossack, Khinh Kỵ binh, lính du kích và cả lính Pháp đào ngũ đều được điều động đánh phá vào đường vận lương của quân Pháp khiến họ gặp nhiều khó khăn và suy giảm lực lượng. Đại quân dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Napoleon vượt sông Neman gồm có 286.000 người nhưng vào lúc mà trận đánh diễn ra chỉ còn có 161.475, phần lớn đều chết do đói hoặc do bệnh tật. Tuy nhiên, với tham vọng đả bại quân Nga, Napoléon bỏ qua mọi trở ngại mà hành quân tiến sâu vào đất Nga và kéo dài con đường vận lương thực.
Trong khi đó, cuộc đấu đá nội bộ quân Nga giữa phe Barklay và những người còn lại nổ ra khi ông chủ trương rút tiếp để bảo toàn lực lượng và chờ đợi quân Pháp suy yếu vì thiếu đói và giá lạnh để phản công. Ông nhận thức rõ chạm trán với quân Pháp lúc này là chuốc lấy thất bại. Tuy nhiên các binh sĩ Nga đều khao khát chiến đấu chống lại quân xâm lược. Đã có nhiều tin đồn ác ý về Barclay, vì thế ông bị thất sủng và được thay thế bởi Nguyên Soái Mikhail Illarionovich Kutuzov sau khi ông này được một Ủy ban đặc biệt bầu chọn vào ngày 5 tháng 8. Vị tướng 67 tuổi không nhận được đánh giá cao từ người đương thời với ông là Napoleon. Ông thực sự cũng không ưa Barklay vì ông này là người gốc Scotland và nhiều người không chấp nhận Barklay phục tùng Kutusov. Ngày 18 tháng 8, Kutusov đến Sarevo để ra mắt quân đội.
Sau khi nắm tình hình quân đội, Kutusov tổ chức một đội hậu quân mạnh do tướng Konovnytsyn chỉ huy, rồi hạ lệnh vừa rút lui vừa chuẩn bị một trận đánh lớn. Ông hiểu rõ quyết định rút lui của tướng Barklay là chính xác nhưng cứ tiếp tục rút lui như thế này thì sĩ khí của quân Nga sẽ tiêu tan hết. Vì vậy, một trận đánh để giữ sĩ khí ba quân lúc này là rất cần thiết. Tuy nhiên, vị chỉ huy mới vẫn chưa quyết định lập đồn phòng thủ khi Moskva chỉ còn cách . Ông ra lệnh quân đội cho những người khác rút khỏi Gzhatsk (Gagarin) khi mà tỷ lệ chênh lệch giữa quân Pháp và quân Nga giảm từ 3:1 chỉ còn 5:4. Thời cơ đã đến.
Một hàng phòng ngự được thiết lập tại Borodino, vị trí đẹp nhất nằm ngay trước Moskva. Chiến trường Borodino quá mở và quá ít chướng ngại để bảo vệ quân Nga khi bị đánh thọc sườn vào bên trái. Tuy nhiên, nó được bao quanh bởi sông Kolocha và nó nằm ngay trên con đường nối liền Smolensk và Moskva, và thực tế là không có vị trí nào tốt hơn như vậy. Ngày 3 tháng 9, Kutusov bắt đầu cho quân lính đào hào đắp đất, bao gồm cả trận địa pháo của Raievsky ở chính giữa bên cánh phải và trận địa pháo của Bagration, được người Pháp gọi là "Bagration fleches" ở bên trái.
Trận đánh tại đồn Shevardino
Các phòng tuyến ban đầu của quân Nga, vốn kéo dài từ xa lộ Smolensk (con đường hành quân mà Napoleon dự kiến), được che chở bằng một công sự hình ngũ giác được xây dựng trên một gò đất tại làng Shevardino. Tuy nhiên, các tướng Nga sớm nhận ra rằng, đây là tử địa vì cánh trái quá trống trải và dễ bị tấn công đột xuất. Vì vậy, quân Nga được lệnh rút khỏi cứ điểm này, nhưng vẫn còn có người ở lại công sự, Kutusov nói rằng việc làm này chỉ là cố cầm chân quân Pháp trong một thời gian mà thôi. Theo ý kiến của sử gia Dmitry Buturlin, cứ điểm này được sử dụng như là nơi quan sát tiến trình của quân Pháp. Các nhà sử học Winter, Ratch cùng vài người khác thì cho rằng, nó được dụng để đe dọa cánh phải quân Pháp, mặc dù khoảng giữa cách hai bên nằm qua tầm bắn của súng thời kỳ này. Tham mưu trưởng Tập đoàn quân I của Nga, Aleksey Petrovich Yermolov, từng ghi lại trong hồi ký của mình rằng cánh trái quân Nga đã được dịch chuyển khi quân Pháp bất ngờ xuất hiện sớm hơn dự kiến, do đó, Shevardino trở thành một tấm lá chắn tạm thời để che chắn cái công sự đang được sửa ở phía đó. Tuy nhiên, việc này vẫn là tâm điểm cho những cuộc tranh cãi của các sử gia cho đến tận ngày nay
Cuộc giao tranh nổ ra vào ngày 5 tháng 9 khi đạo quân của thống chế Joachim Murat chạm trán Konovnitzyn trong một cuộc đụng độ lớn giữa kỵ binh hai bên. Tuy nhiên, quân Nga rút lui về tu viện Kolorzkoi không bao lâu sau đó, khi mà phía bên sườn của họ đang bị đe dọa trầm trọng. Chiến trận tiếp tục diễn ra ngày hôm sau, khi gặp quân đoàn IV của Pháp do Phó vương Ý Eugène de Beauharnais dẫn đầu, tuy nhiên Konovnitzyn lại tiếp tục rút lui. Người Nga rút về gác tại đồn Shevardino, nơi mà một cuộc đụng độ lớn sắp xảy ra. Giao tranh lại nổ ra khi thông chế Murat dẫn đầu hai quân đoàn kỵ binh là Nansouty và Montbrun, được yểm trợ bởi Sư đoàn bộ binh Compan thuộc Quân đoàn I dưới quyền của thống chế Louis Nicolas Davout. Ngoài ra, quân Nga còn bị đạo quân do thống chế Józef Poniatowski tấn công từ phía nam. Sau một hồi giao tranh, con số thương vong của cả hai bên khá lớn, tuy nhiên những người lính Nga kiên quyết chiến đấu tới cùng và không chịu rút lui trước khi Kutosov phải lên tiếng. Quân Nga được yểm trở bởi 1 sư đoàn Thiết kỵ binh và 1 tiểu đoàn bộ binh đơn độc, họ khua chiêng trống ầm ĩ để làm người Pháp nhầm tưởng về quân số và không dám đuổi theo. Sau đó, quân Pháp chiếm được đồn Shevardino, có ít nhất 4.000-5.000 người ở phía Pháp và 6.000 người Nga đã chết hoặc bị thương nặng. Công sự bị phá hủy, và được bao phủ bởi một lớp xác lính của hai phe.
Việc quân Pháp bất ngờ đánh vào từ phía tây và sự sụp đổ của đồn Shevardino khiến nội tình quân Nga rơi vào tình trạng lộn xộn. Cánh trái của phòng tuyến của họ đã vỡ, quân Nga buộc phải rút lui về phía đông, xây dựng một vị trí phòng thủ tạm bợ tại làng Utitza. Và như vậy, một cuộc tấn công của người Pháp vào cánh trái của quân Nga là điều dễ hiểu.
Diễn biến trận chiến
Lực lượng đôi bên
Quân đội Pháp
Đại quân Pháp (La Grande Armee) do Hoàng đế Napoleon trực tiếp chỉ huy có gần 600.000 quân gồm người Pháp và các đồng minh đã ồ ạt tiến công vào nước Nga ngày 16/6/1812, vị hoàng đế trẻ tuổi nghĩ rằng chỉ một cuộc xâm lược này là có thể buộc người Nga phải thuần phục ông. Trên đường tiến công đoàn quân xâm lược chỉ gặp sức kháng cự yếu ớt, nhưng khi kéo sâu vào lãnh thổ nước Nga thì tình trạng thiếu lương thực, quân số và đạn dược đã gây cho quân Pháp nhiều khó khăn. Tuyến tiếp tế của Napoleon bị căng quá mức, lại còn bị du kích Nga đánh phá dữ dội, khiến lực lượng bị suy giảm nghiêm trọng và nạn đói tràn lan. Đại quân của Napoleon, có hơn 500.000 quân, được chỉ huy bởi những viên tướng tài giỏi chỉ như Louis Davout, Michel Ney và Caulaincourt tiến thẳng tới thủ đô Moskva, nhưng khi vượt sông Neman thì chỉ còn khoảng 160.000, chủ yếu là không theo kịp do kiệt sức, hay chết do đói và bệnh tật. Tính đến thời điểm diễn ra trận Borodino, trong tay Napoleon có 123.000 quân bao gồm quân chính quy và kỵ binh, 37.000 Cận vệ Đế chế và 587 khẩu pháo đủ loại.
Quân đội Nga
Lực lượng Nga đồn trú tại Borodino nằm dưới sự chỉ huy của Nguyên soái Mikhail Kutuzov có 132.000 quân và 640 khẩu pháo, Kutuzov được Uỷ ban Đặc biệt bầu làm Tổng chỉ huy Quân đội Nga do Tướng Barklay bị Nga Hoàng Alexander I thất sủng vì bất đồng ý kiến về việc có nên mặt đối mặt giao chiến với quân Pháp hay không. Vị Nguyên soái đã nhận thức được rằng ý kiến rút lui của Barklay không sai vì nếu bây giờ họ giao chiến với quân Pháp thì sẽ không thắng nổi mà có nguy cơ bị tiêu diệt, nhưng ông cũng biết nếu cứ tiếp tục rút lui thì sĩ khí quân Nga sẽ tiêu tan hết, cho nên một trận đánh để nâng cao tinh thần ba quân là cần thiết, và cuối cùng vị Nguyên soái chọn thôn Borodino sẽ là nơi giao chiến.
Bố trí đội hình
Vị trí của quân Nga tại Borodino được bao bọc bởi một loạt công sự bằng đất chạy dài theo một vòng cung từ phía sông Moskva bên phải, và chạy dọc theo nhánh của nó là sông Kolocha (bờ sông có dốc thẳng đứng, góp phần vào phòng thủ), và hướng tới làng Utitza ở bên trái. Rừng dày rải rác dọc theo bên cánh trái người Nga và ở trung quân Pháp (phía Kolocha), khiến việc triển khai và kiểm soát của người Pháp trở nên khó khăn, và đi song song nó lại giúp những người đang cố phòng thủ. Trung quân Nga được bao quanh bởi trận địa pháo Raievsky, được lắp hàng chục khẩu pháo từ 12 đến 19 pao.
Kutuzov là rất quan tâm tới việc người Pháp có thể đánh chiếm xa lộ Smolensk mới xung quanh vị trí của mình và hướng đến Moskva, do vậy, ông sai tướng Barclay cùng Tập đoàn quân thứ 1 đóng ở phía bên phải bên phải, vị trí này vốn được phòng thủ chắc chắn và hầu như không thể bị tấn công bởi người Pháp. Tập đoàn quân thứ 2 dưới quyền tướng Bagration vốn được dự kiến đóng ở phía bên trái, và phòng tuyến Shevardino đã vỡ khiến tình thế trở nên nghiêm trọng nhưng Kutuzov không làm gì để thay đổi các khuynh hướng ban đầu mặc dù các tướng luôn xin triển khai lại quân đội.
Bagration fleches
Khu vực đầu tiên xảy ra đụng độ là Bagration fleches, như đã được dự báo bởi hai tướng Barclay de Tolly và Bagration. Napoleon, thống lĩnh quân đội Pháp, đưa ra nhiều mệnh lệnh thiếu mạch lạc tương tự như đối thủ Nga của mình, việc triển khai quân đội của ông tỏ ra không hiệu quả và không khai thác những điểm yếu của quân Nga. Pháo binh Pháp khai hỏa lúc 6 giờ sáng và cùng lúc đó là liên tiếp những cú đáp trả của người Nga. Quân đội hai bên đều đứng trong tầm bắn của pháo binh đối phương nên thiệt hại về quân số khá lớn. Hai phía sử dụng ba loại đạn khác nhau: đạn thượng, lựu đạn và đạn bi. Những người lính Nga dày dặn kinh nghiệm đứng nhìn đạn pháo địch bay vút qua và nhắc nhở những anh dân quân chớ dại mà dùng chân phan đạn pháo. Sư đoàn Delzon, thuộc quân đoàn của tướng Eugène de Beauharnais, được lệnh chiếm làng Borodino và thành công sau khi bị mất nữa quân số. Hai sư đoàn khác được lệnh vượt sông Kolocha nhằm đáp trả lại bộ binh Nga. Cùng lúc đó Davout tung hai sư đoàn của mình đánh thẳng vào fleches phía nam và san bằng nó sau hai giờ đồng hồ. Mặc dù thành công nhưng Compans lại bị dính chấn thương nặng. Ở phía nam, sư đoàn Tutschkows theo lệnh tướng Poniatowski chiếm được làng Utiza.
Quân Nga được lệnh của Kutusov nhanh chóng đáp trả bằng một cuộc tấn công vào fleches phía nam vốn bị Pháp chiếm trước đó. Thống chế Jean Rapp ra lệnh cho sư đoàn của tướng Compans, được yểm trở bởi tướng Desaix và Junot, sư đoàn Ledrus thuộc quân đoàn của Ney đánh chiếm công sự tiếp theo. Cả hai công sự đều bị người Pháp chiếm sau đó không lâu, nhưng họ lại gặp khó khăn ngay sau đó. Các fleches được thiết kế hình chữ V nên quân Pháp bị đe dọa cả hai phía. Trong 3 giờ đồng hồ tiếp theo, công sự này bị công ít nhất 7 lần. Ngay từ lúc 7 giờ, Kutosov điều ba trung đoàn Cận vệ, 3 trung đoàn Thiết kỵ binh, và 8 trung đoàn lính phóng lựu cùng 24 khẩu đại pháo 24 pao vào đội dự bị. Trong 2 giờ đồng hồ tiếp theo, Kutuzov liên tiếp đưa ra các lệnh rút quân. Lúc mười giờ quân Pháp đánh bật được Bagration và chiếm được tất cả ba fleches. Bagration ngay sau đó thu thập tàn quân và chiếm được lại công sự của mình, nhưng ông lại bị trúng đạn vào chân và chết ngay sau đó ít lâu.
Cuộc tấn công của quân Pháp vào trận địa pháo Raevsky
Do Napoleon chẳng biết gì về lòng kiên cường đấu tranh của người Nga nên ông nghĩ rằng chỉ một trận đánh Borodino cùng với cuộc xâm lược thành Moskva sẽ buộc người Nga phải thần phục ông. 5 giờ sáng ngay 7-9-1812, quân Pháp bắt đầu tiến công. Thế là mở ra trận Borodino - trận đánh khốc liệt nhất ở châu Âu trước cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Các đợt tấn công đầu tiên của quân Pháp nhằm vào cánh phải quân Nga, nhưng ít lâu sau đó, ý đồ của Napoleon đã lộ rõ: mục tiêu thật sự là các lực lượng cánh trái và trung tâm, cụ thể là trận địa pháo Raievsky. Sau khi chiếm lĩnh được nó rồi, quân Pháp sẽ ép quân Nga về dòng sông Kolocha để tiêu diệt
Lúc đầu do có lực lượng ưu thế nên quân Pháp đã chiếm được thôn Borodino nhưng không phát triển tiếp được do quân Nga đánh trả dữ dội. Nhìn chung các cuộc đột kích đầu tiên của quân Pháp nhằm lôi kéo Quân đội Nga di chuyển đội hình về hai cạnh sườn đều không đạt kết quả.
Đến 6 giờ, quân Pháp chuyển sang tiến công trận địa phòng ngự quân Nga ở thôn Semenovski nhưng cũng bị đẩy lùi. Ngay sau đó, Napoleon tập trung 8 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn kị binh và 120 pháo mở cuộc đột kích lần thứ hai. Quân Pháp lúc đầu chiếm được phía Nam khu vực phòng ngự do tướng Bagration chỉ huy, nhưng sau đó quân Nga phản kích chiếm lại. 8 giờ, quân Pháp mở cuộc công kích lần thứ 3, nhưng lại bị thất bại. Trong khi đó 2 sư đoàn kỵ binh Pháp tiến công trận địa pháo do Raievsky chỉ huy cũng không đạt kết quả. Như vậy, cả ba cuộc công kích của quân Pháp vào khu vực chủ yếu trận địa của quân Nga đã thất bại.
Ở cánh trái trận địa Quân đội Nga, một quân đoàn Pháp sau 3 giờ công kích liên tục đã chiếm được thôn Utisa. Thắng lợi ở Utisa đã củng cố quyết tâm xâm lược của Napoloon. Ông tiếp tục mở 8 đợt công kích vào trận địa pháo của Raievsky và khu vực phòng ngự ở Semenovski. Cuộc chiến tại đây diễn ra rất quyết liệt. Quân Pháp và quân Nga giành giật nhau các khu vực trận địa, quân đội Nga đã liên tiếp đánh lui các đợt tấn công ác liệt của quân Pháp, khi không còn đạn súng hỏa mai, hai bên lao vào dùng gươm và lưỡi lê đánh giáp lá cà. Trong đợt công kích lần thứ 6, Napoleon tập trung trên một đoạn hẹp rộng 1.5 km tới 100 khẩu pháo, và 45.000 quân. Quân Nga có khoảng 15.000 quân và 200 khẩu pháo đã kháng cự vô cùng quyết liệt. Trong lần công kích này của quân Pháp, hơn một nửa số pháo Nga bị phá hủy, công sự bị san bằng nhưng quân Pháp không thể chiếm được trận địa. Vị Nguyên soái anh dũng Bagration bị thương nặng, được đưa ra khỏi chiến trường và không lâu sau qua đời do vết thương không thể chữa được, nhưng tinh thần dũng cảm và ý chí của ông đã thôi thúc những người lính Nga tiếp tục chiến đấu. Mệnh lệnh của Kutuzov "giữ vững trận địa đến người cuối cùng" đã được thông báo cho toàn bộ các đơn vị Quân đội Nga. Tuy nhiên, do lực lượng quân Pháp chiếm ưu thế nên Kutuzov quyết định cho ba quân rút lui theo khe núi ở thôn Semenovski để củng cố lực lượng.
Sau khi chiếm được một số khu vực phòng ngự, quân Pháp tập trung lực lượng mở đợt tiến công và chiếm được khu vực phía Tây thôn Semenovski. Tại đây, trận địa pháo của Raievsky đã ở trước mặt quân Pháp. Napoleon tung hầu hết lực lượng dự bị và đang cân nhắc liệu có tung đội Cận vệ của mình vào chiến đấu hay không. Trước tình thế nguy hiểm đó, Kutuzov đã có một quyết định kịp thời: lệnh cho kỵ binh Nga của tướng Platov tiến công đánh vào cánh trái quân Pháp, đồng thời sử dụng đội kỵ binh Kazak tiến công đoàn xe vận tải của đối phương. Kỵ binh Nga đã chọc thủng được đội hình quân Pháp và gây ra sự hoảng loạn ở hậu phương, buộc Napoleon phải điều lực lượng về cánh trái để duy trì cuộc tiến công vào trận địa pháo của Raievsky và không tung đội cận vệ vào trận chiến. Trận tấn công bị hoãn lại. Chớp thời cơ, Kutuzov tăng cường lực lượng ở trung tâm và cánh trái bằng cách điều lực lượng dự bị và lực lượng từ cánh phải dồn lại. Trong suốt trận đánh kịch liệt, Bá tước Caulaincourt tháp tùng Napoleon. Ông ngồi trong trại quân, cảm thấy thật nhớ thương người vợ mới cưới của mình, cưới chưa được bao ngày thì phải xa cách.
Đến 14 giờ, Napoleon tiếp tục cho lực lượng tiến công trận địa pháo quân Nga và đưa đội dự bị cuối cùng vào chiến đấu. Đội giáp binh của Bá tước Caulaincourt được tung vào trận, sau khi Quân đội Nga tiêu diệt được tướng Pháp Montbrunn. Về phía Nga, sư đoàn 24 của tướng Likhatrov được điều đến bảo vệ. Trận chiến lại diễn ra quyết liệt. Quân Nga chiến đấu dũng cảm theo lời kêu gọi của tướng Likhatrov: "Anh em ơi, phía sau là Mát-xcơ-va." Tuy nhiên quân Pháp càng lúc càng áp đảo, các khẩu pháo Nga lúc này không thể khai hỏa vì quân Pháp quá gần. Các pháo thủ phải dùng cả cây thông nòng để chiến đấu, cuộc chiến giáp lá cà diễn ra ác liệt. Mặc dù bị thiệt hại nặng nề, nhưng đến 15 giờ 30 phút, quân Pháp đã chiếm được trận địa. Toàn bộ sư đoàn 24 Nga nằm lại trận địa. Likhatrov cũng phanh ngực xông thẳng vào lưỡi lê của quân địch, trận địa pháo thất thủ. Bên cạnh xác các binh sĩ Nga là 1.000 xác chết thuộc đội giáp binh của quân Pháp, trong đó có cả Caulaincourt. Khi giao chiến với Likhatrov, Caulaincourt đã bị trúng một viên đạn súng hỏa mai Quân đội Nga và ngã xuống trước toàn thể đội giáp binh của ông ta, và đây là một tổn thất lớn lao đối với Napoléon nói riêng và toàn thể quân Pháp nói chung.Alexander Mikaberidze, The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov, trang 189
Song việc chiếm trận địa pháo của Raievsky không còn ý nghĩa. Lúc đó, quân Nga đã bỏ khu vực phòng ngự ở cánh trái và trung tâm lên chiếm lĩnh trận địa mới cách đó từ 1 đến 1.5 km. Như vậy, quân Nga mặc dù bị mất một số khu vực nhưng vẫn giữ được vững đội hình chiến đấu. Trong khi đó quân Pháp sau nhiều lần công kích, lực lượng bị tiêu hao quá lớn buộc Napoleon phải ngừng công kích, ra lệnh cho quân Pháp rút về vị trí xuất phát tiến công. Đó cũng là biểu hiện sự bế tắc của Napoleon trong trận này. Ngay sau đó quân Nga đã phản công chiếm lại các vị trí tiền tiêu. Đại văn hào Lev Nikolayevich Tolstoy có viết:
{{Cquote|Quân Pháp tấn công quân Nga với mục đích đánh bật quân Nga ra khỏi vị trí của nó, đáng lý phải thực hiện sự cố gắng ấy vì hễ quân Nga còn chặn con đường vào Moskva thì quân Pháp vẫn còn chưa đạt được mục đích, và tất cả những cố gắng cũng như những tổn thất của họ đều thành ra vô ích. Nhưng quân Pháp đã không thực hiện sự cố gắng ấy.|||Lev Nikolayevich Tolstoy}}
Đến 18 giờ, sau khi tổ chức củng cố lại trận địa, Kutuzov tuyên bố quân Nga chiến thắng và ông vẫn động viên quân Nga sẵn sàng đánh bại các cuộc tiến công của quân Pháp đồng thời chuẩn bị cho cuộc tiến công quân địch vào sáng hôm sau. Với cuộc đấu tranh anh dũng của Quân đội Nga, giờ đây quân cướp nước đã suy yếu, và trận đánh Borodino đã trở thành một chiến thắng thực sự của nước Nga. Song, về phía quân Nga cũng bị tổn thất lớn qua các đợt công kích liên tục của quân Pháp khiến Kutuzov phải suy nghĩ. Ông cho rằng dù đã đánh bại các cuộc công kích của quân Pháp, song cho đến thời điểm này, lực lượng chủ yếu của Quân đội Nga vẫn cần phải được bảo toàn, chờ thời cơ giành chiến thắng quyết định. Bằng sự cân nhắc trận trọng đó, Kutuzov quyết định cho Quân đội Nga rút khỏi Borodino.
Napoléon không tung đội Cận vệ tham chiến
Cuộc chiến đã giằng co tới mức Napoleon đã không dám sử dụng 37.000 quân thuộc lực lượng Cận vệ Đế chế vì sợ rằng cuộc chiến sẽ còn tiếp diễn vào ngày tiếp theo. Napoleon từng nói rằng một trận thắng vang dội thể hiện qua số lượng tù binh đối phương bị bắt, trong khi trong trận đánh này quân Pháp xâm lược chỉ có thể bắt sống được 800 tù binh Nga, do đó hào khí của Quân đội Nga hoàn toàn không bị lung lay. Theo thấu hiểu của Nguyên soái Kutuzov, chừng nào lực lượng Quân đội Nga vẫn còn tồn tại thì quân xâm lược không thể nào thắng cuộc được. Trong kiệt tác Chiến tranh và Hòa bình, đại văn hào Lev Nikolayevich Tolstoy có viết:
Tuy nhiên, khi chiều tối, Kutuzov đã quyết định rút khỏi trận chiến và lệnh cho tướng Gortrakov bí mật rút quân ra sau thung lũng Semenovski. Do việc tuyên bố chiến thắng của ông trước đó đã làm cho hào khí của Quân đội Nga lên đến tột độ, nhiều chiến binh không đồng ý với việc lui quân. Tuy nhiên, họ vẫn tuyên lệnh vị chủ tướng. Trận chiến Borodino đã kết thúc giữa chừng. Trên đường rút, các chiến binh Nga chôn cất các liệt sĩ, và quân thù phải lác mắt trước cuộc lui binh này. Có người Pháp tên Fantin des Odoards phải viết trong nhật ký của ông ta: "Nói trắng ra, những con người đó - mà chúng ta hay gọi là man di mọi rợ đã chăm sóc kỹ lưỡng các thương binh và chôn cất tử tế các binh sĩ trận vong của họ..." Tuy nhiên, vẫn còn hàng trăm thương binh Nga tập hợp ở Mozhaisk, và họ bị kẹt lại ở đó vì không có ai đưa khỏi. Theo như lời giải thích của Mikhailovsky- Danilevsky:
Những lời yêu cầu khẩn thiết của Kutuzov đến quan Tổng đốc Rostopchin về việc cung cấp ngựa và phương tiện vận tải đều bị phớt lờ, và cuối cùng những thương binh Nga tại Mozhaisk bị bỏ qua. Sáng hôm sau trận đánh khốc liệt, Napoleon ra quan sát chiến trường, và một bộ tướng của ông ta là Armand Augustin Louis de Caulaincourt phải nhận định, Borodino "chất đầy thây người".<ref name="Mikaberidze204">Alexander Mikaberidze, The battle of Borodino: Napoleon against Kutuzov', trang 204</ref>
Trận chiến Borodino được coi là trận đánh một ngày đẫm máu nhất trong lịch sử thế giới thế kỷ 19. Theo thống kê của nhà sử học Adam Zamoyski, quân đội Pháp đã có 28.085 binh sĩ thiệt mạng và bị thương, còn theo ông Lê Vinh Quốc thì thiệt hại là 58.000, trong đó có 53 tướng. Theo "USSR information bulletin" thì Kỵ binh Pháp là đơn vị bị thiệt hại thê thảm hơn cả., với 60% lực lượng bị thương vong. Quân đội Nga thì mất khoảng 38.000 - 45.000 quân, trong đó có 23 tướng. Quân Nga mất nhiều lính hơn Pháp khoảng 25%, nhưng tổn thất về tướng lĩnh và sĩ quan của họ chỉ bằng một nửa so với Pháp.
Tổng cộng thiệt hại cho cả hai bên là 73.000 quân, tức gần 1/4 tổng số quân được hai bên huy động cho trận đánh. Nếu tính trung bình mỗi giờ có 8.500 binh sĩ của cả hai bên phải bỏ mạng tại chiến trường, một trung đội trong một phút. Có những đơn vị mất gần 80% quân số. Song, Nguyên soái Kutuzov hãy còn nhiều quân dự bị để có thể huy động thêm, và ông có thể không cần phải lo âu nếu địch quân tuyên bố chiến thắng. Ông đã giữ vững được lực lượng Quân đội Nga và đánh cho quân đội địch bị suy nhược. Như đại văn hào Lev N. Tolstoy đã tưởng tượng trong tiểu thuyết "Chiến tranh và Hòa bình":
Theo truyện "chiến tranh và Hòa bình" của Lev Tolstoy thì "Không những Napoléon mà toàn quân Pháp - dù có đích thân tham chiến hoặc là không đích thân tham chiến, và dù đã có được nhiều trải nghiệm vì chuyên đi cướp nước trong vòng nhiều năm, đều cảm thấy hoảng sợ vì Quân đội Nga vẫn sống còn dù nhiều binh sĩ Nga đã hy sinh. Vào ngày 11 tháng 9 năm 1812, tại kinh thành Sankt-Peterburg, Nga hoàng Aleksandr I đã nghe được những tin tức đầu tiên về trận đánh kịch liệt tại Borodino, và về chiến thắng vang dội của Kutuzov nữa. Không những thế, sau đó diễn ra lễ mừng thọ Nga hoàng, do đó người Nga vui sướng làm lễ tại chốn kinh kỳ trong suốt hai ngày liền. 9 ngày sau đó Kutuzov cũng trình bày chiến lược của ông cho nhà vua". Trong khi đó cũng theo tiểu thuyết "chiến tranh và Hòa bình" của Nga thì "đối với người Pháp, thất bại này góp phần làm cho sự sụp đổ và thất bại của bọn họ là khó tránh khỏi".
Đánh giá về trận chiến Borodino
Cuộc đại chiến Borodino được chính Nguyên soái Mikhail Illarionovich Kutuzov xem là "trận đánh đẫm máu nhất thời nay". Nhưng trận chiến này lại không có kết quả quyết định, bất cháp một sự thật là cả hai đều tuyên bố chiến thắng. Dù Napoléon có gửi thư về cho vợ của ông ta: "Nàng ơi Ta viết cho nàng từ trận địa Borodino. Hôm qua Ta đã đập tan bọn Nga và toàn thể quân đội của chúng... Trận đánh thật khốc liệt... Nhiều chiến binh của Ta bị thương vong và thiệt mạng", bãi chiến trường khốc liệt Borodino đã trở thành mồ chôn của Kỵ binh Pháp. Vả lại, Nguyên soái Kutuzov cũng viết cho vợ của ông: "Ta vẫn tốt, em ạ, và ta không thua trận; Ta đã đánh thắng được Bonaparte". Theo nhà sử học quân sự Christopher Duffy, Trận đánh ác liệt này có thể được xem là một cuộc đại chiến Torgau của thế kỷ XIX, là một trận đánh hết sức đẫm máu và quy mô lớn, nhưng làm cho cả hai đoàn quân tham chiến đều không thật sự đạt được mục tiêu quyết định của mình. Giống như cuộc đại chiến tại Zorndorf (1758) chống vua Friedrich II Đại Đế nước Phổ, các chiến binh Nga đã thể hiện lòng quyết tâm đấu tranh tới cùng. Và, đại văn hào nước Nga Lev Nikolayevich Tolstoy - người đã tái hiện rất thành công về trận đánh Borodino trong tác phẩm "Chiến tranh và Hòa bình" - đã viết:
Thật vậy, quân Nga đã trụ vững trước các đợt tấn công của quân Pháp. Napoleon không đạt được một mục tiêu chiến lược rõ rệt mặc dù quân Pháp đã tổn thất rất nhiều binh tướng. Không những về nhân lực mà trận Borodino còn là một đòn giáng nặng nề về tinh thần của Quân đội xâm lược Pháp, chứng tỏ việc lui binh của Napoleon giờ đây chỉ còn là vấn đề thời gian. Một nhà sử học Liên Xô (cũ) cho rằng: "Trận chiến ở Borodino là đòn giáng nặng nề đầu tiên vào Napoléon khi ông ta làm nhà độc tài của toàn châu Âu." Nhiều nhà sử học đã cho rằng Kutuzov đánh giá quân Nga không đủ sức chống trả lại quân Pháp nếu tiếp tục cuộc chiến vì thế đã quyết định rút lui bảo toàn lực lượng. Ông khẳng định: "Mất Moskva nhưng nước Nga vẫn còn. Nhiệm vụ đầu tiên là bảo toàn quân đội. Bằng cách rút khỏi Moskva, chúng ta chuẩn bị mồ chôn quân thù. Tôi biết rằng trách nhiệm đổ lên vai tôi, nhưng tôi hiến thân mình vì lợi ích của Tổ Quốc. Tôi ra lệnh rút quân". Sau trận đánh Borodino, quân Nga theo lệnh của Sa hoàng đã đốt trụi Moskva ra tro - một điều mà Napoleon không thể ngờ được khi ông ta tiến vào được thành phố Moskva không một bóng người. Trong khi có người xem trận đánh kịch liệt tại Borodino là chiến thắng của người Nga, có người xem đây là một chiến thắng kiểu Pyrros của người Pháp, quân Pháp trong trận này phản ánh rõ câu nói của vua Pyrros khi ông đánh thắng quân La Mã, rằng một thắng lợi như thế nữa sẽ tiêu diệt được ông. Trận đánh Borodino được coi là cuộc chiến đấu xuất sắc của quân dân Nga đã bảo vệ đất nước, với tầm quan trọng quốc tế vô cùng lớn lao vì một kẻ độc tài khét tiếng châu Âu là Napoleon đã phải nếm mùi thất bại. Trong bài thơ kể về trận chiến tại Borodino, thi hào nước Nga là Mikhail Yuryevich Lermontov ca ngợi: "Không có lý gì mà toàn thể nước Nga không nhớ đến trận Borodino".
Tuy nhiên đây là một sách lược tuyệt vời, mang tính bước ngoặt đối với toàn cuộc chiến tranh. Đúng như Kutuzov dự đoán, Moskva mở đầu sự sụp đổ của chế độ độc tài Napoléon. Do bị tiêu hao binh lực sau trận Borodino quân Pháp không thể tiếp tục tiến sâu vào Nga hơn nữa, Napoleon quyết định dừng lại ở Moskva để chờ viện binh và lương thực, đồng thời củng cố lực lượng để tiếp tục chiến dịch quân sự vào mùa xuân năm sau. Nhưng dự định đó đã bị phá sản khi mọi nguồn lương thực và viện binh của Pháp đều bị các cánh quân du kích của Nga chặn đánh, tiêu diệt không tới được với đại quân của Napoleon I. Như vậy, tuy cả hai đoàn quân đều tuyên bố thắng trận tại Borodino nhưng sau chiến thắng khốc liệt này chỉ có Quân đội Nga là có thể tồn tại được. Tới mùa đông quân Pháp rơi vào tình trạng bệnh tật và tử vong cao do thời tiết lạnh khắc nghiệt của Nga và sự thiếu lương thực trầm trọng. Napoleon buộc phải rút tàn quân khỏi Moskva, tháo chạy khỏi nước Nga theo con đường cũ Smolensk. Chiến dịch xâm lược nước Nga coi như đã thất bại. Tất cả những thiệt thòi ấy đều là hậu quả trực tiếp mà ông ta phải hứng chịu tại Borodino. Và, hai năm sau trận đánh ác liệt tại Borodino, Quân đội Nga trong niềm vui chiến thắng đã tiến vào sào huyệt Paris của địch, chấm dứt triều đại của Napoleon - nhà độc tài tài năng nhưng gây tranh cãi nhất châu Âu thời đó.
Sau khi Quân đội Đức Quốc xã tấn công Liên bang Xô viết vào năm 1941, nhà sử học E. V. Tarle và nhiều đồng nghiệp của ông đã cho ra mắt nhiều tư liệu về cuộc xâm lược của Napoleon vào năm 1812 với mục đích "cho toàn dân biét về một trong những trang sử chói lọi nhất trong lịch sử quân sự nước Nga, nhờ đó kêu gọi nhân dân cùng đấu tranh chóng bọn phát xít Đức"''. Cuối thời Stalin, một bộ tư liệu tiểu sử "Russkie Polkovodtsy" được xuất bản, trong đó có kể về những dũng tướng của cuộc đại chiến Borodino là Kutuzov và Bagration. Và trong các thập niên 1950 - 1960, giới sử học Liên Xô đã vinh danh vị Nguyên soái xuất sắc Kutuzov:
Ghi chú |
Thông thường, thuật ngữ tầng lớp trung lưu hay giới trung lưu thường được dùng để chỉ những người có một mức độ độc lập kinh tế nào đó, nhưng không có ảnh hưởng quá lớn trong xã hội hay quyền lực trong xã hội của họ. Thuật ngữ này thường bao gồm các nhà buôn, những người có tay nghề, quan chức, và một số nông dân cũng như thợ thủ công có trình độ cao . Trong khi đa số người Mỹ tự coi mình thuộc tầng lớp trung lưu, chỉ 20% trong số đó có phong cách sống của Tầng lớp trung lưu ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, số 20% đó cũng được coi là Tầng lớp trung lưu chuyên nghiệp và là những thành viên có ảnh hưởng trong xã hội vì công việc của họ và tầng lớp này được coi là người tạo nên khuynh hướng chủ đạo của Mỹ.
Các thứ bậc xã hội, và những định nghĩa thứ bậc đó rất khác biệt. Có nhiều nhân tố có thể dùng để định nghĩa tầng lớp trung lưu của một xã hội, như tài chính, các ứng xử và đất đai thừa kế. Tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác, tài chính là nhân tố quan trọng nhất định nghĩa vị trí một người trong xã hội. Ở các nước khác, có thể là các nhân tố xã hội như giáo dục, nghề nghiệp (cổ cồn trắng hơn cổ cồn xanh), nhà cửa, hay văn hoá.
Nghĩa rộng của thuật ngữ này cũng khác biệt rất lớn tùy theo từng nước. Ở Hoa Kỳ, từ này được sử dụng với phạm vi ngày càng rộng nhưng hầu như luôn là nghĩa khẳng định, đề cập tới hình ảnh của một người khiêm tốn, không phô trương, làm việc chăm chỉ trái ngược với một người thuộc tầng lớp thượng lưu hay tầng lớp bóc lột. Tại Anh Quốc và nhiều nước thuộc Khối thịnh vượng chung, thuật ngữ này thỉnh thoảng mang ý nghĩa miệt thị, ngụ ý một kẻ trưởng giả học đòi dáng bộ cầu kỳ, trái ngược với một người lao động chăm chỉ thuộc tầng lớp lao động. (xem thêm chattering classes.)
Lịch sử và sự phát triển thuật ngữ
Tầng lớp trung lưu trong bài này hàm ý chỉ những người không thuộc tầng lớp trên cùng cũng không thuộc tầng lớp dưới cùng của một hệ thống cấp bậc xã hội.
Không phải tất cả mọi người đều chấp nhận ví dụ định nghĩa ở trên, bởi vì thuật ngữ "tầng lớp trung lưu" đã có lịch sử lâu dài, và thỉnh thoảng mang những nghĩa trái ngược. Nó từng được định nghĩa theo cách loại trừ là một tầng lớp xã hội trung gian giữa quý tộc và nông dân ở Châu Âu. Trong khi quý tộc sở hữu đất đai thôn quê, và người nông dân làm việc trên đồng ruộng, một tầng lớp trưởng giả mới (theo nghĩa đen "những người thành thị") bắt đầu xuất hiện và hoạt động trong lĩnh vực thương mại tại thành phố. Điều này dẫn tới kết quả là tầng lớp trung lưu thường là giai cấp giàu có nhất xã hội (trong khi ngày nay nhiều người dùng thuật ngữ này theo định nghĩa chỉ nói tới những người giàu có ở mức trung bình.)
Từ sự khác biệt đó, chữ "tầng lớp trung lưu" đã được sử dụng ở Anh Quốc trong thế kỷ 18 để miêu tả tầng lớp chuyên nghiệp và thương gia, như một tầng lớp khác biệt khỏi cả giới quý tộc tước hiệu và quý tộc chủ đất và cả những người lao động nông nghiệp và (ngày càng tăng) công nghiệp. Trong suốt thế kỷ 20, quý tộc tước hiệu của Anh trở nên ít thuần nhất hơn. Điều này bởi lai lịch ngày càng rộng của những người mới được phong tước, đa số họ về chính trị bị điều khiển bởi cái gọi là tầng lớp trung lưu, và sự giảm sút quyền lực của Thượng nghị viện so với Hạ nghị viện sau Luật nghị viện năm 1911. Khi mà yếu tố truyền tử của tầng lớp còn được quan tâm, danh hiệu tầng lớp trên trở nên ít hơn bởi sự hầu như ngừng lại của những tước phong sau Luật quý tộc trọn đời năm 1958. Điều này cộng với tỷ lệ suy vong tự nhiên của các danh hiệu cha truyền con nối và sự hầu như xoá bỏ yếu tố truyền tử trong Thượng nghị viện hồi cuối thế kỷ 20. Ở điểm này, các danh hiệu cha truyền con nối không thể là yếu tố để được là "tầng lớp trên," dù họ thực sự có kiểu cách bên trong tầng lớp trên. Tầng lớp trung lưu đã giúp cuộc Cách mạng Pháp diễn ra.
Đầu thời chủ nghĩa tư bản công nghiệp, tầng lớp trung lưu được định nghĩa chủ yếu là những công nhân cổ trắng—những người làm công ăn lương (như mọi người công nhân), nhưng làm công việc của mình trong những điều kiện dễ chịu và an toàn hơn so với điều kiện làm việc của những công nhân cổ xanh của "giai cấp công nhân." Sự mở rộng của thuật ngữ "tầng lớp trung lưu" tại Hoa Kỳ hầu như đã được khẳng định trong thập niên 1970 bởi sự suy tàn của các liên minh lao động ở Hoa Kỳ và sự tham gia của những phụ nữ trước kia chỉ làm việc nhà vào lực lượng lao động công. Một số lượng lớn công việc cổ cồn hồng xuất hiện, theo đó mọi người có thể tránh các điều kiện làm việc nguy hiểm của cổ cồn xanh và vì thế có thể tự tuyên bố là "tầng lớp trung lưu" thậm chí khi họ kiếm tiền ít hơn nhiều so với một công nhân cổ cồn xanh không thuộc tổ chức công đoàn.
Tại Hoa Kỳ, tới cuối thế kỷ 20, có nhiều người tự xác định họ thuộc tầng lớp trung lưu hơn là tầng lớp thấp hay giai cấp "lao động", với một số ít người tự coi mình là giới thượng lưu. Trái lại, tại Anh Quốc, nhiều người theo truyền thống sẽ được coi là thuộc tầng lớp trung lưu hiện tự coi mình thuộc giai cấp lao động. Những cuộc điều tra gần đây cho thấy hai phần ba người Anh muốn tự coi mình thuộc tầng lớp lao động. Điều này đã được miêu tả như một hình thức của sự "đảo ngược hành vi." Tuy nhiên Công đảng anh, phát triển từ phong trào lao động có tổ chức và ban đầu cho rằng hầu hết người ủng hộ họ thuộc tầng lớp lao động, đã tái định nghĩa mình dưới thời Tony Blair những năm 1990 là "Công đảng mới," một đảng cạnh tranh với Đảng bảo thủ về những lá phiếu của tầng lớp trung lưu cũng như tầng lớp lao động. Quy mô của tầng lớp trung lưu dựa trên việc họ tự định nghĩa như thế nào, hoặc theo giáo dục, tài sản, môi trường dạy dỗ, các mối quan hệ di truyền học, mạng lưới xã hội, cách cư xử hay các giá trị vân vân. Chúng đều liên quan lẫn nhau, dù không hoàn toàn phụ thuộc lẫn nhau. Các yếu tố sau thường được gán cho trong cách sử dụng thuật ngữ "tầng lớp trung lưu" hiện đại:
Hoàn thành giáo dục cấp ba, gồm mọi nhà tài chính, luật sư, bác sĩ và mục sư không cần biết tới nhiệm vụ hay tài sản của họ.
Niềm tin vào các giá trị tư sản, như tỷ lệ sở hữu nhà cao hay sở hữu nhà cho thuê và các công việc được chấp nhận là "bảo đảm." Tại Hoa Kỳ và Anh Quốc, các chính trị gia thường tập trung vào các phiếu bầu của tầng lớp trung lưu.
Phong cách sống. Tại Anh Quốc, vị thế xã hội đã không còn liên quan trực tiếp nhiều tới tài sản như tại Hoa Kỳ, và đã được xét theo các yếu tố như sự phân biệt, cách cư xử, nơi giáo dục và tầng lớp của những người bạn. Thông thường tại Hoa Kỳ, tầng lớp trung lưu là những người dễ tham gia nhất vào văn hoá pop. Thế hệ thứ hai của những người nhập cư mới thường từ bỏ văn hoá dân gian truyền thống của họ như một dấu hiệu đã bước vào tầng lớp trung lưu.
Sự chỉ trích tầng lớp trung lưu Anh
Trái lại, tác gia Anh Alexander Deane nghĩ rằng tầng lớp trung lưu không gặp phải mối đe doạ, mà thực sự là nguyên nhân của các vấn đề. Theo cách tiếp cận của ông, các yếu tố kinh tế phải được đặt sau các yếu tố đạo đức, và tầng lớp trung lưu Anh Quốc không thực hiện các nghĩa vụ như họ phải làm.
Mọi người cũng tin rằng công đảng có mục tiêu cho tầng lớp trung lưu, khi được phỏng vấn một thành viên công đảng đã nói "Nó không khác biệt từ 90% số người không thể hay có thể thực hiện với một trợ cấp" khi trả lời một câu hỏi về việc người thuộc tầng lớp trung lưu mất trợ cấp.
Chủ nghĩa Mác và Tầng lớp trung lưu
Chủ nghĩa Mác không cần thiết xem những nhóm người được miêu tả ở trên là tầng lớp trung lưu. Tầng lớp trung lưu không phải là một tiêu chí cố định trong Chủ nghĩa Mác, và tranh cãi tiếp tục diễn ra về nội dung của nhóm xã hội này.
Chủ nghĩa Mác định nghĩa các tầng lớp xã hội không phải theo tài sản hay danh tiếng của các thành viên của nó, mà theo quan hệ của họ với phương tiện sản xuất: một người quý tộc sở hữu đất đai; một nhà tư bản sở hữu tư bản; một công nhân có khả năng làm việc và phải tìm kiếm việc làm để mưu sinh. Tuy nhiên, giữa người cai trị và người bị trị thường có một nhóm người, thường được gọi là tầng lớp giữa, thiếu một mối quan hệ đặc trưng. Về mặt lịch sử, trong thời phong kiến, giai cấp tư sản là tầng lớp giữa. Mọi người thường miêu tả những người tư sản là "tầng lớp giữa theo quan điểm Mác", nhưng điều này không chính xác. Chủ nghĩa Mác nói rằng tầng lớp tư sản là tầng lớp cai trị (hay tầng lớp trên) trong một xã hội tư bản.
Những người theo chủ nghĩa Mác tranh luận mạnh mẽ về thành phần chính xác của tầng lớp trung lưu ở chủ nghĩa tư bản. Một số miêu tả một "tầng lớp ngang hàng" thực hiện chủ nghĩa tư bản thay cho những nhà tư bản, gồm cả tiểu tư sản, người chuyên môn và nhà quản lý. Những người khác không đồng ý với điều này, sử dụng tự do thuật ngữ "tầng lớp trung lưu" để chỉ những người công nhân cổ cồn trắng hữu sản như được miêu tả ở trên (thậm chí, trong các thuật ngữ của Chủ nghĩa Mác, họ là một phần của giai cấp lao động vô sản). Những người khác (ví dụ, Hội đồng cộng sản) cho rằng có một tầng lớp gồm trí thức, những nhà kỹ trị và những người quản lý đang tìm quyền lực của riêng họ. Nhóm những người cộng sản cuối cùng này cho rằng tầng lớp trung lưu gồm những nhà kỹ trị đó đã nắm quyền lực và chính phủ cho riêng họ trong các xã hội kiểu Xô viết (xem chủ nghĩa kết hợp).
Tầng lớp trung lưu ở Hoa Kỳ
Xem Tầng lớp trung lưu Hoa Kỳ để có cái nhìn toàn diện về tầng lớp trung lưu ở Hoa Kỳ.
Tại Hoa Kỳ định nghĩa tầng lớp trung lưu rất mơ hồ bởi không một nhà kinh tế hay bất kỳ một nhà xã hội nào từng đặt ra hay phát triển chính xác những yếu tố để định nghĩa rõ tầng lớp trung lưu Hoa Kỳ và các phụ nhóm. Dường như có nhiều cách tiếp cận tới cái là tầng lớp trung lưu. Bởi những khuynh hướng kinh tế gần đây đã cho thấy rằng thống kê tầng lớp trung lưu của xã hội Mỹ thực tế không thể đảm bảo phong cách sống đặc trưng của tầng lớp trung lưu, vốn chỉ 20% dân số đáp ứng được, thuật ngữ tầng lớp trung lưu cũng có thể được áp dụng trực tiếp choreltive elite của những người chuyên môn và quản lý. Nhóm này thỉnh thoảng được gọi là tầng lớp trên trung lưu, tầng lớp trung lưu thực sự hay thiểu số tầng lớp trung lưu chuyên nghiệp có giáo dục cao, được trả lương tốt, hầu như miễn nhiễm với các đợt suy giảm kinh tế có thể ảnh hưởng mạnh tới tầng lớp trung thực tế của xã hội. Hiện tại các định nghĩa khác chỉ đơn giản sử dụng thu nhập và nói tầng lớp trung lưu là tất cả những người có thu nhập từ 80% đến 120% của mức trung bình quốc gia hay những người kiếm từ $25.000 đến $100.000 mỗi năm. Vấn đề với hai lý thuyết này là lý thuyết thứ nhất thực tế không đáp ứng được phong cách sống của tầng lớp trung lưu và lý thuyết thứ hai quá phân mảnh về kinh tế, gồm cả những người trông nom nhà cửa và những người chuyên nghiệp trong cùng một tầng lớp. |
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 6 năm 2006.
Thứ năm, ngày 1 tháng 6
Lực lượng an ninh Palestine đã đồng loạt biểu tình vì không được trả lương từ khi nhóm Hamas lên nắm quyền.
Thứ bảy, ngày 3 tháng 6
Sau cuộc trưng cầu dân ý, các nghị sĩ Montenegro tuyên bố độc lập từ Serbia và Montenegro, trở thành quốc gia độc lập thứ 193 và giải tán phần còn lại của Nam Tư.
Cảnh sát Canada thông báo rằng đã bắt 17 người bị nghi là người khủng bố và ba tấn nitrat amôni, họ cho là nó sẽ được sử dụng trong cuộc tấn công gần Toronto.
Sau cuộc bầu cử tại Cộng hòa Séc, đảng bảo thủ ODS dẫn đầu là Mirek Topolánek trở thành đảng mạnh nhất trong Hạ Nghị viện, nhưng các ghế được chia đều giữa hai khối đảng.
Chủ nhật, ngày 4 tháng 6
Các nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng hố đất khổng lồ được tìm thấy dưới dải băng tại Wilkes Land, châu Nam Cực có liên quan tới Sự kiện Permi-Trias, sự kiện tuyệt chủng lớn nhất trong lịch sử Trái Đất.
Thứ hai, ngày 5 tháng 6
Dân quân của Liên minh Tòa án Hồi giáo chiến thắng ARPCT và chiếm hết Mogadishu, lần đầu tiên mà một chính quyền giữ cả thủ đô của Somalia từ năm 1991.
Alan García của đảng tả APRA thắng Ollanta Humala của Liên minh Peru để trở thành Tổng thống Peru lần thứ hai.
Sau khi Montenegro tuyên bố độc lập, Serbia bắt theo và giải tán Serbia và Montenegro xong.
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Donald Rumsfeld đến Việt Nam.
Thứ tư, ngày 7 tháng 6
Hoa Kỳ và 14 nước châu Âu bác bỏ bản báo cáo 67 trang của Liên minh châu Âu về việc CIA đã tiến hành các hoạt động bắt giữ và chuyên chở tù nhân ngay trên các nước này.
Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức, Nga và Trung Quốc làm dịu căng thẳng hạt nhân với Iran bằng cách chấp thuận cho quốc gia Trung Đông này tiếp tục làm giàu urani có giới hạn.
Thứ năm, ngày 8 tháng 6
Bà Haya Rashed Al-Khalifa (người Bahrain) chính thức kế nhiệm ông Jan Eliasson (người Thụy Điển) làm Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc.
Abu Musab al-Zarqawi, thủ lĩnh nhóm al-Qaeda ở Iraq bị giết chết tại tỉnh Diyala.
Thứ sáu, ngày 9 tháng 6
Các nhà khoa học ở Hy Lạp nhận ra thêm câu khắc trên mặt máy Antikythera, máy tính tương tự được sản xuất vào khoảng năm 80 TCN.
Hàng ngàn người dân Đài Loan dưới sự tổ chức của Đảng Đối lập Thân dân tụ tập tại Đài Bắc biểu tình đòi Tổng thống Trần Thủy Biển từ chức, vì những tai tiếng liên quan tới gia đình ông và những viên phụ tá chính trị của ông. Những cáo buộc cho rằng ông đã dung túng cho con rể của mình là 1 bác sĩ đã gian dối trong chơi chứng khoán.
Ba tù nhân tự sát tại Trại giam Vịnh Guantánamo.
Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 chính thức khai mạc với trận đấu giữa đội chủ nhà Đức và Costa Rica tại Allianz Arena ở thành phố München với tỷ số 4–2.
Thứ bảy, ngày 10 tháng 6
Ba tù nhân đã tự sát tại nhà tù Guantanamo. Vụ việc nhanh chóng tạo nên dư luận phản đối mạnh mẽ.
Chủ nhật, ngày 11 tháng 6
Albania ký Hiệp định Ổn định và Liên hiệp, bước đầu tiên trong quá trình gia nhập Liên minh châu Âu.
Thứ năm, ngày 15 tháng 6
Serbia chính thức công nhận Montenegro là một quốc gia độc lập.
Thứ sáu, ngày 16 tháng 6
Ông Phan Văn Khải xin từ nhiệm chức vụ Thủ tướng chính phủ Việt Nam. Thanh Niên
Prachanda, người dẫn đầu đảng chủ nghĩa Mao tại Nepal, tán thành tham gia một chính phủ lâm thời.
Khu bảo tồn biển lớn nhất trên thế giới được thành lập ở vùng Tây Bắc Quần đảo Hawaii, thuộc tiểu bang Hawaii.
Chủ nhật, ngày 18 tháng 6
Xứ Catalonia (Tây Ban Nha) biểu quyết chấp thuận Đạo luật Tự trị mới, bao gồm một điều khoản gọi Catalonia là một quốc gia.
Con vị vua cuối cùng Ý Vittorio Emanuele bị bắt do những tội có liên quan đến một sòng bạc tại Campione d'Italia.
Thứ hai, ngày 19 tháng 6
Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc họp phiên đầu tiên tại Genève (Thụy Sĩ) với sự tham gia của trên 100 quốc gia. Ông Luis Alfonso de Alba (người México) được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Nhân quyền.
Hamas và Fatah ký thỏa thuận chấm dứt bạo lực giữa 2 phái.
Hoa Kỳ ra tối hậu thư cho Iran về việc ngừng làm giàu urani.
Hoa Kỳ, Nhật Bản và các quốc gia đồng minh gây sức ép với CHDCND Triều Tiên về việc thử tên lửa tầm xa.
Thứ ba, ngày 20 tháng 6
Charles Taylor, cựu Tổng thống Liberia, bị dẫn độ từ Sierra Leone tới Den Haag để đối mặt với cáo buộc về các tội ác chiến tranh và chống loài người.
Thứ tư, ngày 21 tháng 6
Khamis al-Obeidi, luật sư bào chữa chính của Saddam Hussein, bị ám sát tại Baghdad.
Thứ năm, ngày 22 tháng 6
Ba thành phố Sochi (Nga), Salzburg (Áo), và Bình Xương (Pyeongchang, Hàn Quốc) được chọn để ứng cử đăng cai Thế vận hội Mùa đông 2014.
Magen David Adom của Israel và Hội Trăng lưỡi liềm đỏ Palestine được nhận vào Hiệp hội Chữ thập đỏ – Trăng lưỡi liềm đỏ quốc tế.
Thứ bảy, ngày 24 tháng 6
Hải quân Hoa Kỳ kết thúc Valiant Shield, cuộc tập trận giả lớn nhất của hải quân này ở Thái Bình Dương từ hồi Chiến tranh Việt Nam, đáng kể vì những quan sát viên của Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc có mặt.
Chủ nhật, ngày 25 tháng 6
Warren Buffett, người giàu thứ hai trên thế giới, cam kết đóng góp vào khoảng 30,7 tỷ đô la Mỹ bằng cổ phần cho Quỹ Bill & Melinda Gates, làm nó thành tổ chức từ thiện lớn nhất trong lịch sử.
Bốn nhân viên ngoại giao của Nga tại Iraq bị lực lượng nổi dậy Iraq sát hại.
Hai hãng sản xuất thép lớn nhất thế giới, Arcelor và Mittal, tuyên bố sẽ sáp nhập.
Thứ hai, ngày 26 tháng 6
Ông Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Chủ tịch Quốc hội Việt Nam, thay cho ông Nguyễn Văn An đã xin từ nhiệm.
Thủ tướng Đông Timor Mari Alkatiri từ chức vì trách nhiệm đã gây ra khủng hoảng chính trị ở nước này.
Hoa Kỳ tuyên bố sẽ triển khai tên lửa không đối không tại Nhật Bản để đối phó với các vụ thử tên lửa của CHDCND Triều Tiên.
Thứ ba, ngày 27 tháng 6
Armenia và Azerbaijan đồng ý tổ chức cuộc trưng cầu dân ý tại Nagorno-Karabakh về mức tự trị của miền ly khai này.
Quốc hội Việt Nam lần lượt thông qua các chức danh Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch nước Việt Nam, Thủ tướng Việt Nam đối với các ông Nguyễn Phú Trọng, Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Tấn Dũng thay cho Nguyễn Văn An, Trần Đức Lương, và Phan Văn Khải.
Thứ tư, ngày 28 tháng 6
Cộng hòa Montenegro được nhận vào Liên Hợp Quốc là thành viên thứ 192, sau khi nó rút khỏi Serbia và Montengro.
Thứ năm, ngày 29 tháng 6
Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ quyết định trong vụ Hamdan kiện Rumsfeld rằng các ủy ban quân sự dùng để xét xử một số tù nhân tại Vịnh Guantánamo không hợp pháp.
Phụ nữ tại Kuwait được bỏ phiếu trong cuộc tổng tuyển cử lần đầu tiên.
Đảng Dân chủ 66 rút khỏi nội các liên hiệp của Thủ tướng Hà Lan Jan Peter Balkenende do vụ Ayaan Hirsi Ali.
Thứ sáu, ngày 30 tháng 6
Nghị viện Pháp thông qua DADVSI, một đạo luật nhạy cảm về quyền tác giả. |
Thoại Ngọc hầu (chữ Hán: 瑞玉侯, 1761–1829), tên thật là Nguyễn Văn Thoại (chữ Hán: 阮文瑞), là một tướng lĩnh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp
Nguyễn Văn Thoại sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ (1761) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22, tại xóm An Trung, làng An Hải, thuộc huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam thời Nguyễn; nay thuộc phường An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Cha ông là Nguyễn Văn Lượng, sinh thời làm chức từ thừa, là một chức quan nhỏ chuyên lo việc tế tự tại các đền miếu do nhà nước lập ra. Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Tuyết, vợ thứ của ông Lượng .
Vào Nam
Thời Nguyễn Văn Thoại sinh ra và lớn lên lúc Trịnh và Nguyễn đánh nhau liên miên, tiếp theo nữa là phong trào Tây Sơn nổi dậy (1771). Vì thế, mẹ ông phải dẫn ông và hai em chạy nạn vào Nam năm 1775, cuối cùng định cư ở làng Thới Bình trên cù lao Dài, nằm giữ sông Bang Tra và sông Cổ Chiên; nay thuộc địa phận huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Theo nghiệp binh
Năm Đinh Dậu (1777), 16 tuổi, Nguyễn Văn Thoại đến xin đầu quân Nguyễn tại Ba Giồng (Định Tường). Năm 1778, ông có mặt trong trận chiến đấu chiếm lại thành Gia Định.
Năm 1782, quân Tây Sơn đánh bại quân chúa Nguyễn ở cửa Cần Giờ, ông phò chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy về Ba Giồng (Định Tường). Từ năm 1784 đến năm 1785, ông đã theo chúa Nguyễn sang Xiêm La hai lần để cầu viện.
Từ năm 1787 đến năm 1789, Nguyễn Văn Thoại có công trong việc thu lại thành Gia Định nên được phong chức Cai cơ.
Năm 1791, ông được cử là Trấn thủ hải khẩu Tắc Khái (tức cửa Lấp thuộc Bà Rịa).
Năm 1792, ông lại sang Xiêm La, trên đường về đã đánh tan bọn cướp biển Bồ Đà (Giavanays, người Java). Liên tục các năm 1796, 1797, 1799 ông đều được chúa cử sang nước Xiêm La.
Năm 1800, Nguyễn Văn Thoại được phong Khâm sai Thượng đạo Bình Tây tướng quân, phối hợp với Lào đánh quân Tây Sơn ở Nghệ An. Nhưng đến năm 1801, thì ông bị giáng cấp, xuống chức Cai đội quản suất Thanh Châu đạo, vì tự ý bỏ về Nam mà không đợi lệnh trên.
Năm 1802, chúa Nguyễn thống nhất đất nước, lên ngôi vua hiệu là Gia Long. Trong dịp tặng thưởng các bề tôi có công, Nguyễn Văn Thoại cũng chỉ được phong Khâm sai Thống binh cai cơ, nhận nhiệm vụ ra thu phục Bắc Thành rồi được giữ chức Trấn thủ ở nơi đó. Ít lâu sau ông nhận lệnh làm Trấn thủ Lạng Sơn, rồi lại vào Nam nhận chức Trấn thủ Định Tường (1808).
Năm 1812, ông sang Cao Miên đón Nặc Ông Chân về Gia Định. Năm 1813, ông hộ tống Nặc Chân về nước và ở lại nhận nhiệm vụ bảo hộ Cao Miên.
Làm Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh
Ở Cao Miên được ba năm, Thoại Ngọc Hầu được triệu về Huế (1816), rồi nhậm chức trấn thủ trấn Vĩnh Thanh (1817). Cũng trong năm này, ông cho lập 5 làng trên cù lao Dài.
Ở trấn Vĩnh Thanh, ông sốt sắng lo việc khẩn hoang lập ấp, đào kinh đắp đường, phát triển và bảo vệ vùng đất mới. Các công trình lớn của ông còn để lại cho đời sau là:
Kênh Thoại Hà: khởi đào vào năm 1818, dài hơn 30 km, nối rạch Đông Xuyên (Long Xuyên) với ngọn Giá Khê (Rạch Giá). Đào xong được vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt cho tên núi (Thoại Sơn) và tên kênh (Thoại Hà).
Kênh Vĩnh Tế: đào theo biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc – Hà Tiên (tức nối sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan). Kênh dài hơn 87 km, huy động hàng vạn nhân công thực hiện từ năm 1819–1824 (có hoãn đào 4 lần). Con kênh được đặt tên theo tên vợ chính của ông, phu nhân Châu Thị Tế.
Năm 1823, ông cho lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế là Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều, Vĩnh Gia và Vĩnh Thông. Liên quan đến việc mộ dân lập làng của ông, sử nhà Nguyễn có đoạn chép: "Án thủ Châu Đốc là Thống chế Nguyễn Văn Thoại trước mộ dân dời đến ở đất biên thùy, đặt ra 20 xã thôn, vay của công 1.900 quan tiền và 1.500 phương gạo cho dân, đã hoãn nhiều năm, dân vẫn chưa trả được. Đến nay Thoại đem của nhà trả bù cho dân" .
Năm 1825, ông cho đắp con đường từ Châu Đốc lên Lò Gò (tức thị trấn Angkor Borei ngày nay) – Sóc Vinh nối các làng với nhau rất tiện lợi trong việc đi lại cho nhân dân.
Lộ Núi Sam–Châu Đốc, dài 5 km, làm từ năm 1826 đến 1827, huy động gần 4.500 nhân công. Làm xong, ông cho khắc bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam năm 1828 để kỷ niệm. Ngày nay, tấm bia không còn, nhưng còn văn bia trong sử sách.
Những công trình trên được xem là cơ sở để người Việt đặt chủ quyền lâu dài trên vùng đất mới này.
Ngoài các công trình trên, ông còn làm được nhiều việc khác trước khi mất như:
Năm 1820: đánh dẹp được cuộc nổi dậy của Sãi Kế. Sãi Kế là người Khmer không rõ tung tích đã làm cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn. Quan quân chống không nổi. Khi thế lực lớn dần, Sãi Kế tự xưng là Chiêu Vương, dẫn thuộc hạ đi đánh phá nhiều nơi trong trấn Phiên An (Gia Định), và quấy nhiễu cả đất Cao Miên. Tổng trấn Gia Định Thành lúc bấy giờ là Lê Văn Duyệt, liền sai Huỳnh Công Lý, sau lại cử thêm Nguyễn Văn Tri, Nguyễn Văn Thoại mới đánh dẹp được. Sãi Kế bị chém chết tại trận.
Năm 1821, ông giữ chức Thống Chế bảo hộ Cao Miên, kiêm Án thủ Châu Đốc đồn, kiêm quản trấn Hà Tiên. Ghi nhớ công lao bảo hộ của ông, tháng 4 âm năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas tỉnh Takeo). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật (Mật Luật sau thành đất huyện Tây Xuyên). Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên tỉnh Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang.
Năm 1827: Lập đội quân Châu Đốc để phòng giữ Châu Đốc, lập đội quân An Hải để phòng giữ Hà Tiên. Cũng trong năm này, ông đã có chuyến về thăm quê hương là làng An Hải. Trong những ngày ở quê, ông đã cho lập lại chợ An Hải, đồng thời phụng cúng tiền của để xây dựng đình, chùa của làng. Đi ghi nhớ công lao, dân làng đã tôn vinh ông là hậu hiền .
Tháng 9 năm 1828: Dựng bia Vĩnh Tế sơn, còn gọi là bia "Thừa Đế lịnh tế cô hồn Vĩnh Tế tân kinh", bài văn khắc 730 chữ, nội dung tế cô hồn những dân, binh chết do đào kênh., cho thu nhặt và cải táng hài cốt của sưu dân đã mất trong khi đào kênh Vĩnh Tế...
Mất
Nguyễn Văn Thoại mất vì bệnh tại nhiệm sở Châu Đốc vào ngày 6 tháng 6 (âm lịch) năm Kỷ Sửu (1829), hưởng thọ 68 tuổi . Theo bảng tóm lược của Nguyễn Văn Hầu, trong 52 năm công vụ, Nguyễn Văn Thoại (tức Thoại Ngọc Hầu) đã 7 lần sang Xiêm La, 2 lượt sang Lào và 11 năm giữ trọng trách bảo hộ Cao Miên (tức Campuchia ngày nay).
Ông được an táng tại chân núi Sam. Mộ ông nằm giữa, hai bên là mộ bà chính thất Châu Thị Tế và mộ bà thứ thất Trương Thị Miệt. Văn bia tại ngôi mộ ông như sau:Chữ Hán:
"皇越 顯考 統制按守朱篤屯 领保護髙綿國印 兼管河僊鎮邊務 加貳級 紀錄肆次 追贈壮武将軍 柱國都統 諡武恪 阮公諱瑞 之墓 明命拾年吉月栽日 孝男琳奉立.
Phiên âm:
"Hoàng Việt, Hiển khảo, Thống chế án thủ Châu Đốc đồn, lãnh Bảo hộ Cao Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên Trấn biên vụ, gia nhị cấp, kỉ lục tứ thứ, truy tặng Tráng Võ tướng quân, Trụ quốc Đô thống, thoại Võ Khác, Nguyễn Công húy Thoại chi mộ. Minh Mạng thập niên kiết ngoạt tài nhựt. Hiếu nam Lâm phụng lập."
Dịch nghĩa:
"Hoàng Việt, Hiển khảo, Thống chế án thủ Châu Đốc đồn, lãnh Bảo Hộ Cao Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ, được ban Nhị cấp, thưởng Kỷ lục lần thứ tư, và được truy tặng Tráng Võ tướng quân, Trụ quốc Đô thống, tên thụy là Võ Khác. Ông họ Nguyễn, tên húy là Thoại. Bia này lập năm Minh Mạng thứ 10 (1829) do con trai là Nguyễn Văn Lâm."
Nỗi oan ức
Năm Kỷ Sửu (1829), tuổi cao, sức yếu, Thoại Ngọc hầu rồi cũng đến lúc về với tiên tổ. Công lao phò vua dựng nước, kiến thiết cơ nghiệp nhà chúa của ông, được sử nhà Nguyễn ghi nhận là “Thoại cầm cương giàn ngựa đi theo hầu vua, nên được tri ngộ, lại bôn ba con đường thượng đạo, qua lại các nước Xiêm, Lào, Lạp man, thực là có công”.
Công nghiệp ở đời của ông, lớn lao lắm, vậy mà hồn về nơi chín suối, nhưng dư âm oan khuất cõi phong trần vẫn chưa yên. Liệt truyện có chép: “Sau khi Thoại chết, rồi Hình tào là Vũ Du trích phát ra nhiều khoản về sinh việc nhiễu dân.
Sai giao xuống bộ Hình bản xử. Khi bản án dâng lên, xuống chiếu truy giáng 5 phẩm hàm, thu lại chức tập ấm của con, lại tịch thu cả gia sản truy đổi lại dân Phiên đã cấp cho trước. Du rồi sau vì dò xét không đúng sự thực phải cách chức, phát ra Cam Lộ để hiệu lực”.
Sự thể tường tận vụ án oan của vị công thần này, được nghiên cứu của Nguyễn Văn Hầu trong Thoại Ngọc hầu và cuộc khai phá miền Hậu Giang cho hay là sau khi tên Du tố cáo, vua Minh Mạng cho mở cuộc điều tra.
Dẫu Thoại Ngọc hầu đã mất, vẫn bị giáng xuống hàng ngũ phẩm. Con ông là Lâm thì bị cách đoạt hết ấm chức. Gia sản của ông lúc sinh thời bị tịch thu để đem chia cho dân Miên. Đất của ông ở huyện Vĩnh Bình, phủ Định Viễn bị phát mãi… Nghĩa là ông từ công thần có công trở thành kẻ tội đồ.
Ấy nhưng sau này triều đình làm sáng tỏ ra được thực chất đây là một vụ vu oan giá họa, thì người vô tội đã không còn cơ hội mà cải chính khi nằm sâu ba tấc đất rồi. Tên Du kia dù bị đày đi Cam Lộ, Quảng Trị, nhưng nỗi oan của ông vẫn chưa được bù đắp, danh phẩm chưa được phục hồi.
Con dòng thứ của Thoại Ngọc hầu là Nguyễn Văn Minh phải sống cuộc đời thường dân; còn Lâm thì đã bị mất hết chức tước tập ấm. Vậy là, án oan sáng tỏ, nhưng vua Minh Mạng lại không có hành động cụ thể gì để phục hồi lại danh dự bị kẻ xấu làm hoen ố của Thoại Ngọc hầu.
Thoại Ngọc Hầu chỉ được phong Trung đẳng thần theo sắc truy phong của vua Khải Định năm thứ 9, tháng (?) ngày 25, và sắc của Bảo Đại năm thứ 18, tháng 8 ngày 15. Các sắc này đều ở dạng "bổn nhì" vì sắc thời Minh Mạng đã bị thu hồi, do Võ Du tố cáo ông nhũng nhiễu của dân và còn vì con gái nuôi của ông tên (thị) Nghĩa có chồng là Võ Vĩnh Lộc, theo Lê Văn Khôi chống lại triều đình.
Ngạc Xuyên Ca Văn Thỉnh khi nhận xét về vụ án oan của công thần họ Nguyễn trên Đại Việt tập chí, số 29, đã chua xót mà rằng “Đọc đoạn cuối cùng trong tiểu sử (ghi trong Đại Nam chính biên liệt truyện – người dẫn chú), chúng ta bắt đầu đau lòng trông thấy vết lọ mà kẻ nha thuộc bôi lên danh dự của Ngài.
Chúng ta bắt ngậm ngùi hồi tưởng lại công nghiệp vĩ đại của Ngài, mà khi quá cố, lại kẻ tiểu nhơn cáo gian, không được đấng chí tôn soi xét; rồi tự hỏi: “Oan hồn Ngài có ngậm tủi tự chốn tuyền đài chăng?”.
Người thì đã mất, chỉ khổ cho cháu con nơi trần gian phải ngậm đắng nuốt cay vì án oan của cha ông. Sau này, nghĩa tế của Thoại Ngọc hầu là Võ Vĩnh Lộc (Thoại Ngọc hầu không có con gái, đã nhận con nuôi là Thị Nghĩa. Sau Nghĩa lấy Lộc), vì mối căm hồn chất chứa với triều đình đã cùng vợ mình tham gia vụ biến thành Phiên An của Lê Văn Khôi. Lộc làm Hậu quân dưới trướng Khôi. Dĩ nhiên là sau này vụ nổi loạn của Lê Văn Khôi bị dẹp. Lộc và vợ phải chịu tội làm loạn.
Theo tờ tâu của bộ Hình sau khi tra xét, thì “Thị Nghĩa là vợ của Vĩnh Lộc. Cứ theo lời khai của con ông Văn Thoại đã mất tên là Nguyễn Văn Lâm, thì năm xưa cố Nguyễn Văn Thoại từng bảo dưỡng Thị Nghĩa, nhưng Thị Nghĩa vốn không phải là con của Văn Thoại sinh ra.
Trước kia tên nghịch Lộc có dẫn Thị Nghĩa đem vào trong thành. Các thứ lớp, sự tình kính trình lên đầy đủ”. Tờ trình này không cho biết thêm gì về hậu quả mà Lộc và Thị Nghĩa phải nhận. Nhưng việc triều đình chém cả ngàn người vụ loạn Khôi, và Lộc thì giữ Hậu quân của Khôi, thì tội chẳng nhỏ.
Dẫu bị triều đình làm nên sự oan khuất là thế, nhưng với hậu thế, công lao của ông thì bia đá có mòn, chứ lòng ngưỡng vọng của dân thì không có phai, như trong Người Việt đất Việt có ngâm ngợi rằng:
Hùng vĩ Lăng ông Thoại Ngọc hầu,
Ngàn xưa coi lại nét thanh cao.
Phò vua, trải mật bao gian khổ,
Công nghiệp còn ghi dấu cựu trào...
Chánh thất
Châu Thị Tế (1766–1826), là vợ chính (chánh thất) của Thoại Ngọc Hầu.
Bà sinh ngày Mùi, tháng 4, năm Bính Tuất (1766) tại cù lao Dài (cù lao Năm Thôn), thuộc xã Qưới Thiện, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long.
Bà là trưởng nữ của ông Châu Huy (có sách chép là Châu Vĩnh Huy) và bà Đỗ Thị Toán. Có lời đồn đại bà là người Khmer, nhưng không có chứng cứ. Trong phần tổng kết cuộc Hội thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu (An Giang, 1999) đã khẳng định bà là người Việt .
Thời chúa Nguyễn, Nguyễn Văn Thoại theo mẹ di cư vào Nam sinh sống ở cù lao Dài nên mới gặp bà ở đây, và cưới bà vào năm 1788 .
Châu Thị Tế sống với Nguyễn Văn Thoại, sinh được một người con trai là Nguyễn Văn Lâm . Bà mất vào giờ Ngọ, ngày rằm, tháng Mười, năm Bính Tuất (1826), được phong Nhàn Tĩnh phu nhân.
Bà có tiếng là người vợ hiền đức, tận tụy, đảm đang đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp của chồng. Nên lúc bấy trong dân gian có câu:
Nước Nam trai sắc gái tài,Gương bà Châu thị lưu đời ngàn năm .
Và trong bia Phụng đặc tứ danh Vĩnh Tế Sơn bia ký (Bia chép núi Vĩnh Tế do vua đặc biệt ban tên), gọi tắt là bia Vĩnh Tế Sơn có đoạn do chồng bà soạn, và ông đã dành cho vợ những lời lẽ tốt đẹp như sau:
...Năm trước đây, thần phụng mạng xem sóc việc đào kênh Đông Xuyên, vua đã lấy danh tước thần nêu lên bên bờ kênh núi Sập mà đặt tên núi Thoại (tức Thoại Sơn). Đến nay, hoàng ân lại xét đến lòng thần, cho là biết tề gia hợp hòa khí, lại hạ cố đến vợ thần là Châu Thị Tế, có chút công lao, nên xuống lệnh ban cho tên núi Sam là Vĩnh Tế Sơn..."
Tú tài Trần Hữu Thường, dịch thơ:
...Họ Châu tên Tế vợ tôi,
Noi bà Thái Dĩ ỷ ôi khuyên chồng.
Thờ trên siêng gắng một lòng,
Cũng nhờ chút giúp sửa xong nghĩa đời.
Bề trên dùng núi sánh người,
Sửa tên Vĩnh Tế ngàn ngày để vinh.
Người nhớ núi ấy nêu danh,
Tóc trâm móc gội thêm xinh khôn dò.
Núi nhờ người đặt hiệu cho,
Cỏ cây thêm sắc ơn vua thắm nhuần...
Ngoài Châu Thị Tế, Nguyễn Văn Thoại còn có một người vợ thứ tên là Trương Thị Miệt (?–1821), sinh cho ông được một trai tên Nguyễn Văn Minh.
Người Việt ghi công
Thoại Ngọc Hầu và Châu Thị Tế được nhiều người dân ở An Giang cảm mến, nhớ ơn. Ở huyện Thoại Sơn, ngoài đền thờ, bia đá còn có khu du lịch mang tên Hồ Ông Thoại. Tại chân núi Sam, có một làng mang tên Vĩnh Tế. Hai tiếng Vĩnh Tế đời biểu lộ sự nhớ ơn của nhân dân đối với ông bà Bảo hộ Thoại....
Nơi ấy, còn có các câu ca dao:
Đi ngang qua cảnh núi Sam,
Thấy lăng ông lớn hai hàng lụy rơi.
Ông ngồi vì nước vì đời,
Hy sinh tài sản không rời nước non.
Nước kênh Vĩnh Tế lờ đờ,
Nhớ ông Bảo Hộ dựng cờ chiêu an..
Đồng An Trường chó ngáp,Làng Quới Thiện trồng lác bốn mùa.
Nhớ ông Bảo Hộ ngày xưa,Dựng làng, mở cõi nắng mưa dãi dầu .
Tên Thoại Ngọc Hầu được dùng để đặt tên cho một đường phố lớn, một trường trung học phổ thông chuyên tại tỉnh An Giang, trước năm 1975 có tên trung học Thoại Ngọc Hầu, nay là Trường Trung học phổ thông chuyên Thoại Ngọc Hầu là trường đào tạo học sinh giỏi của tỉnh An Giang. Ở phường Phú Thạnh, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh cũng có một con đường mang tên ông và quận Tân Phú,Thành phố Hồ Chí Minh cũng lấy tên ông đặt làm tên cho một trường trung học cơ sở tọa lạc tại phường Phú Trung,quận Tân Phú. Tên Châu Thị Tế cũng được chọn, để đặt tên cho một con đường tại thành phố Long Xuyên.
Đền và khu mộ (gồm mộ: Thoại Ngọc Hầu, Châu Thị Tế và Trương Thị Thiệt), gọi chung là Sơn lăng, tọa lạc ở chân núi Sam (Châu Đốc), đã được liệt vào hạng di tích lịch sử cấp quốc gia vào ngày 4 tháng 12 năm 1997.
Ngày 25 tháng 7 năm 2009 tại thị xã Châu Đốc, Hội khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh An Giang và UBND thành phố Đà Nẵng đã phối hợp tổ chức cuộc "Hội thảo khoa học danh nhân Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại, nhân kỷ niệm 180 năm ngày mất" (mùng 6 tháng 6 âl năm 1828–mùng 6 tháng 6 âl năm 2009, nhằm ngày 27 tháng 7 năm 2009). Có 157 đại biểu là các nhà quản lý, nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài tỉnh về tham dự.
Kết quả, các tham luận đều khẳng định Thoại Ngọc Hầu có công lao to lớn đối với vùng đất Nam Bộ. Ông là người có tâm và có tầm với cái nhìn chiến lược, có ý chí kiên định và là người tài đức vẹn toàn. Ngoài vai trò là một danh tướng, nhà doanh điền, nhà quản lý hành chánh, nhà văn hóa và ngoại giao giỏi; ông còn là một người con luôn nặng tình với nhân dân, với quê hương, với vợ con và bằng hữu (như việc không muốn đối đầu với Trần Quang Diệu trong trận chiến Phú Xuân năm 1801) .
Tên đường
Ở Thành phố Hồ Chí Minh trước năm 1975 (lúc đó gọi là Sài Gòn và Gia Định) có tới hai con đường mang tên của ông với 2 tên gọi khác nhau. Đường Nguyễn Văn Thoại của Đô thành Sài Gòn cũ hiện nay là đường Lý Thường Kiệt đi qua các quận 5, 10, 11 và Tân Bình (nối dài từ đường Hồng Bàng đến Ngã 4 Bảy Hiền); còn đường Thoại Ngọc Hầu của tỉnh Gia Định cũ nay là đường Phạm Văn Hai ở quận Tân Bình.
Ở thành phố Đà Nẵng: Hiện nay có tên đường Nguyễn Văn Thoại khởi đầu tại nút giao thông Ngô Quyền - Trần Thị Lý- Ngũ Hành Sơn và điểm cuối giao với đường Võ Nguyên Giáp.
Ảnh |
Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ hay Sân bay quốc tế Cần Thơ, là một sân bay quốc tế tại Việt Nam, nằm tại phường Trà An và phường Thới An Đông, quận Bình Thủy - Thành phố Cần Thơ, được xây dựng nhằm phục vụ khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Sân bay Cần Thơ nằm dọc theo sông Hậu Giang, đầu phía đông của sân bay bay này cách sông Hậu 700m, phía bắc cách rạch Trà Nóc 500m, phía Tây giáp với rạch Bà Lý. Sân bay kết nối với trung tâm thành phố Cần Thơ bằng đường Võ Văn Kiệt, Lê Hồng Phong (quốc lộ 91).
Lịch sử
Sân bay Cần Thơ được xây dựng vào những năm 1960 có đường hạ cất cánh 1800m x 30m. Sau đó được chính quyền Việt Nam Cộng hòa hoàn thành tháng 2 năm 1961 với sự trợ giúp của chính phủ Mỹ, ban đầu có tên là Căn cứ không quân Bình Thủy. Đây là sân bay quân sự của Không quân Việt Nam Cộng hòa, sau đó Không lực Hoa Kỳ cũng sử dụng sân bay này cho các máy bay phản lực và vận tải hạng nặng. Do vị trí sân bay gần cầu Trà Nóc và đình Trà Nóc, người dân ở đây còn gọi đây là sân bay Trà Nóc hoặc căn cứ Trà Nóc.
Sau năm 1975, sân bay vẫn do quân đội quản lý. Giai đoạn 1977-1978, từng có các chuyến bay nối Tân Sơn Nhất với Cần Thơ, nhưng do hiệu quả thấp sân bay đã tạm ngưng sử dụng từ giữa năm 1978. Trong những năm sau đó, nơi đây từng được dùng như một căn cứ xuất phát các phi cơ F-5 và A-37 của Không quân Nhân dân Việt Nam tấn công vào lực lượng Khmer Đỏ trong Chiến tranh biên giới Tây Nam. Sau khi các máy bay chiến lợi phẩm này về hưu thì chỉ còn là căn cứ trực thăng quân sự.
Mãi đến năm 2001, một đề án khôi phục và đưa sân bay Trà Nóc vào phục vụ nhu cầu dân sự với tên mới là Sân bay Cần Thơ. Việc phục hồi được tiến hành vào năm 2005. Ngày 3 tháng 1 năm 2009, sau gần 4 năm sửa chữa, nhà ga nội địa chính thức đi vào hoạt động. Ngày 1 tháng 1 năm 2011, sân bay Cần Thơ mới trở thành sân bay quốc tế.
Việc đặt tên "sân bay Cần Thơ" cũng gây ra sự nhầm lẫn nhỏ. Sân bay Cần Thơ cũ, còn gọi là "Phi trường 31", là một sân bay quân sự nhỏ nằm gần khu vực trung tâm thành phố Cần Thơ. Hiện nay, sân bay này đã bị bỏ hoang.
Năng lực
Theo Quyết định số 2717/QĐ- Bộ Giao thông Vận tải ngày ngày 12 tháng 12 năm 2006, Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ sẽ là sân bay cấp 4E (theo mã chuẩn của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế - ICAO) và sân bay quân sự cấp II, có hoạt động bay quốc tế. Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải đã có quyết định công bố Cảng hàng không Cần Thơ là cảng hàng không quốc tế trong mạng cảng hàng không dân dụng toàn quốc ngay khi Giai đoạn 2 hoàn thành ngày 18/12/2010.
Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ được xây dựng theo tiêu chuẩn sân bay cấp 4E của ICAO. Nhà ga hành khách có diện tích sàn 20.750m2 gồm 2 cao trình, đạt tiêu chuẩn phục phụ hành khách hạng C.
Vị trí bãi đậu xe ô tô nằm ngay phía trước nhà ga. Các công trình phụ trợ (trạm xử lý nước, trạm điện, nhà xe ngoại trường…) bố trí tại các khu vực phù hợp xung quanh nhà ga.
Mặt bằng nhà ga được bố trí thành 02 khu vực ở hai phía nhà ga cho khách Quốc tế và Quốc nội, khoảng giữa là không gian trồng cây xanh thông tầng. Phía trước là không gian sảnh dành cho khách đưa tiễn. Mặt tiền nhà ga có hệ giàn kính dạng Spider đẹp và hiện đại. Phía trước nhà ga bố trí hồ nước cảnh, có thể sử dụng nguồn nước này cho công tác chữa cháy khi cần thiết.
Kiến trúc nhà ga hành khách xuất phát từ ý tưởng chiếc xuồng ba lá của vùng đồng bằng sông Cửu Long và có thể mở rộng cho các giai đoạn khai thác kế tiếp khi nhà ga vượt công suất dự báo.
Nhà ga có 24 quầy thủ tục hàng không, trong đó: Từ quầy 1 đến quầy 12 thuộc khu vực thủ tục hành khách đi quốc tế, từ quầy 13 đến quầy 24 thuộc khu vực thủ tục hành khách đi quốc nội. Tại mỗi quầy đề có bố trí đủ thiết bị làm thủ tục hàng không. Năng lực tiếp đón từ 3 - 5 triệu khách/năm cùng lượng hàng hóa thông qua cảng khoảng 5.000 tấn/năm.
Năm 2009, sân bay vận chuyển 150.000 lượt hành khách, gần 2.000 tấn hàng hóa
Năm 2010, sản lượng khách qua Cảng hàng không đạt mức tăng trưởng 39%, với 211.000 lượt khách.
Ngày 01/01/2011, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cùng các vị lãnh đạo, nguyên lãnh đạo bộ ngành trung ương và thành phố cắt băng khánh thành Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ giai đoạn II. Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ chính thức đi vào hoạt động đồng bộ và hiện đại. Đảm bảo đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn hạ tầng kỹ thuật của Quốc tế, mở ra một trang sử mới cho giao thương ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long ra khu vực và thế giới.
Nâng cấp Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ
Khởi công ngày 4/1/2006, kết thúc vào ngày 18/12/2010. Tổng thầu: Công ty Xây dựng Công trình Hàng không (Bộ Quốc phòng). Theo Báo cáo nghiên cứu khả thi được phê duyệt, Dự án "nâng cấp, mở rộng Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ" sẽ được thực hiện với 2 giai đoạn, xây dựng trên tổng diện tích 85,04ha.
Giai đoạn 1: Xây dựng nhà ga tạm có diện tích 2400 m² có khả năng đáp ứng 400000 lượt khách mỗi năm (400 khách giờ cao điểm). Cải tạo nâng cấp đường hạ cất cánh (tổng chiều dài 2400m, rộng 45m), đường lăn, sân đỗ máy bay, lắp đặt hệ thống đèn đêm; lề đường băng, dải hãm phanh, đường lăn có kích thước 23m x 217m; sân đỗ máy bay có diện tích 27.491 m2. Tổng vốn đầu tư 370 tỷ đồng, thời gian thực hiện: 28 tháng. Ngày 03.01.2009, dự án hoàn thành. Có khả năng tiếp nhận các loại máy bay A321, A320, ATR-72 và một số tàu bay thân hẹp khác. Chính thức đưa vào hoạt động giai đoạn 1 vào đầu năm 2009. Đã hoàn thành vào ngày 31/12/2008
Giai đoạn 2: Nới rộng đường hạ-cất cánh lên 3000m. Xây dựng các hạng mục: ga hành khách trong nước và quốc tế có diện tích 20.600 m², hệ thống đèn đêm, hệ thống hạ cánh chính xác ILS, sân đậu máy bay với 6 vị trí, ga hàng hóa và các hạng mục kỹ thuật phụ trợ khác, dự kiến vốn đầu tư trên dưới 1000 tỷ đồng. Sau khi hoàn thành có khả năng tiếp nhận các máy bay cỡ lớn và đón nhận 2 đến 3 triệu lượt khách mỗi năm. Giai đoạn 2 hoàn thành vào quý 4.2010. Sau đó, Sân bay Cần Thơ thành sân bay quốc tế. Giai đoạn 2 đã hoàn thành vào ngày 18/12/2010
Nhà ga Quốc tế Sân bay Cần Thơ đã chính thức đi vào hoạt động vào ngày 18/12/2010.
Sân bay Cần Thơ đã có các chuyến bay với Đài Bắc vào trước và sau Tết nguyên đán năm 2010 và với Đài Bắc và Cao Hùng vào dịp trước và sau Tết nguyên đán các năm 2011, 2012,... đến nay.
Từ 21/07/2015 Vietravel sẽ phối hợp với Thai VietJet Air mở đường bay đi Thái Lan với tần suất 5 ngày một chuyến
Các điểm đến và các hãng hàng không hoạt động
Thống kê
Chú thích |
Trang này liệt kê những sự kiện quan trọng vào tháng 7 năm 2006.
Thứ bảy, ngày 1 tháng 7
Israel tấn công văn phòng của Thủ tướng Palestine Ismail Haniya trong Hành quân Summer Rains tại Dải Gaza.
Đường xe lửa Thanh Hải – Tây Tạng, nối Tây Tạng với tỉnh Thanh Hải (Trung Quốc), khởi đầu trên đường cao nhất của thế giới.
Thứ hai, ngày 3 tháng 7
Cuộc bầu cử Tổng thống México giữa Felipe Calderón và Andrés Manuel López Obrador cần đếm phiếu lại.
Thứ ba, ngày 4 tháng 7
Tàu vũ trụ Discovery được phóng lên thành công từ mũi Canaveral (Florida), nó có nhiệm vụ tới Trạm Vũ trụ Quốc tế.
CHDCND Triều Tiên phóng thử một số tên lửa tầm xa, bao gồm hai tên lửa Taepodong-2, khiến dư luận quốc tế sôi sục.
Thứ năm, ngày 6 tháng 7
Felipe Calderón thắng cử chính thức để trở thành tân Tổng thống México, nhưng đối thủ Andrés Manuel López Obrador sẽ khiếu nại kết quả.
Đèo Nathu La giữa Ấn Độ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được mở lại để buôn bán, 44 năm sau khi nó bị đóng trong Chiến tranh Trung-Ấn.
Để tìm những phần bị hư, tàu vũ trụ Discovery quay 360° trước khi đáp vào Trạm Vũ trụ Quốc tế trong phi vụ STS-121.
Thứ bảy, ngày 8 tháng 7
Jarosław Kaczyński, anh sinh đôi của Tổng thống Lech Kaczyński, được đề cử làm Thủ tướng kế nhiệm của Ba Lan.
Sau những tuần náo động, José Ramos Horta được bổ nhiệm làm Thủ tướng Đông Timor bởi Tổng thống Xanana Gusmão.
Lần đầu tiên trong lịch sử, chiếc máy bay cánh chim được bay chỉ dùng sức của người lái ở Toronto (Canada) do các nhà khoa học về không gian vũ trụ tại Đại học Toronto. Toronto Star
Chủ nhật, ngày 9 tháng 7
Trong trận chung kết của Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 tại Sân vận động Olympic (Berlin), Ý thắng Pháp 1–1 (sút phạt đền: 5–3) và đoạt Cúp Jules Rimet.
Tại đảo Wheeler, bang Orissa, Ấn Độ thử tên lửa đạn đạo thành công có khả năng mang đầu đạn hạt nhân Agni III, tầm bắn hơn 3.000 km.
Máy bay Airbus A-310 gặp tai nạn ở Nga khi hạ cánh có 122 người chết và 53 người bị thương.
Thứ hai, ngày 10 tháng 7
Trong Chiến tranh Chechnya thứ 2, lãnh tụ du kích Chechnya Shamil Basayev bị hạ sát ở Ingushetia (Nga).
Thứ ba, ngày 11 tháng 7
Bảy vụ nổ bom xảy ra tại hệ thống xe lửa của thành phố Bombay (Ấn Độ) làm ít nhất 200 người thiệt mạng và 300 người khác bị thương.
Thứ năm, ngày 13 tháng 7
Quân lực Israel mở cuộc tấn công ở Liban để trả thù Hezbollah bắt hai lính Israel.
Thứ sáu, ngày 14 tháng 7
Tòa án Thể thao Ý ra phán quyết trừng phạt bốn câu lạc bộ bóng đá gồm Juventus, Fiorentina, SS Lazio và A.C. Milan vì móc ngoặc và mua chuộc trọng tài.
Thứ bảy, ngày 15 tháng 7
Hội nghị thượng đỉnh các nước công nghiệp phát triển G8 thứ 32 khai mạc tại Sankt-Peterburg (Nga).
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc ra nghị quyết trừng phạt CHDCND Triều Tiên vì các vụ thử tên lửa hồi đầu tháng.
Thứ sáu, ngày 21 tháng 7
Cựu tư lệnh Khmer Đỏ Ta Mok qua đời trong bệnh viện quân đội tại Phnom Penh (Campuchia) trong khi đang chờ ra tòa năm 2007 vì tội ác chống lại loài người.
Thứ bảy, ngày 22 tháng 7
Xung đột giữa Israel và Liban xảy ra tiếp, cả lính và thường dân hai bên bị thương nặng nề; trong khi các nước khác vội vàng sơ tán kiều dân, Liên Hợp Quốc báo về khủng hoảng tị nạn tại Liban.
Chủ nhật, ngày 23 tháng 7
Vận động viên xe đạp Floyd Landis thắng Tour de France năm 2006.
Thứ năm, ngày 27 tháng 7
Nhà vô địch Tour de France năm 2006 Floyd Landis không vượt qua vụ thử doping lần thứ nhất (mẫu A). Eurosport
Thứ sáu, ngày 28 tháng 7
Một tàu chìm ở biển Baltic được nhận ra là Graf Zeppelin, tàu sân bay duy nhất của Hải quân Đức trong thời Đức Quốc xã.
Chủ nhật, ngày 30 tháng 7
Israel tạm ngừng không kích Liban sau khi ném bom thảm sát hơn 54 dân thường tại Qana ở miền Nam Liban.
CHDC Congo tổ chức bầu cử đa đảng lần đầu tiên kể từ năm 1960 dưới sự đảm bảo của lực lượng gìn giữ hoà bình Liên Hợp Quốc.
Justin Gatlin, đương kim vô địch thế giới và Olympic cự ly 100 m, thừa nhận đã bị phát hiện chất testosteron trong cơ thể. |
Phổ (tiếng Đức: Preußen; tiếng Latinh: Borussia, Prutenia; tiếng Anh: Prussia; tiếng Litva: Prūsija; tiếng Ba Lan: Prusy; tiếng Phổ cổ: Prūsa) là một quốc gia trong lịch sử cận đại phát sinh từ Brandenburg, một lãnh thổ trong suốt nhiều thế kỉ đã có ảnh hưởng lớn lên lịch sử nước Đức và châu Âu, đóng vai trò quan trọng trong lịch sử thế giới vào thời kỳ cận đại. Kinh đô cuối cùng của vương quốc Phổ là Berlin.
Nước Phổ phát triển rực rỡ nhất trong thế kỉ 18 và thế kỷ 19. Trong suốt thế kỉ thứ 18, dưới triều đại của ông vua nhà binh Friedrich II Đại Đế (1740 – 1786) - được xem là vị thống soái kiệt xuất nhất trong thời đại của ông, Vương quốc Phổ vươn lên đứng trong hàng ngũ các cường quốc hàng đầu châu Âu, là một cường quốc của thế giới. Trong suốt những năm tháng trị quốc, vua Friedrich II Đại Đế rất năng nổ. Nhờ tài năng lãnh đạo xuất sắc và những chiến thuật siêu việt, ông đã phát binh đánh bại được tất cả các quốc gia trên toàn lục địa châu Âu. Cuộc chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763) đã chứng tỏ chủ nghĩa anh hùng và sự huy hoàng của nước Phổ, cùng với thiên tài quân sự của ông vua nhà binh Friedrich II Đại Đế, qua việc ông chống lại những kẻ thù hùng mạnh như Đế quốc Nga, Đế quốc Áo và Pháp, mà giữ vững Vương quốc Phổ. Sức mạnh của nước Phổ được ông gia tăng rất lớn, và chiếm được đất từ nước Ba Lan và xứ Franconia.
Cuối triều vua Friedrich II Đại Đế, nước Phổ và thiết lập "Liên minh các Vương hầu" với các tiểu quốc của người Đức. Nếu triều đại của ông gắn liền với triết học Khai sáng thì nước Phổ trong những năm tháng sau này gắn liền với những cuộc chinh phạt tàn khốc của Hoàng đế Pháp là Napoléon Bonaparte và những chính sách "Sắt và Máu" của Thủ tướng Otto von Bismarck. Trong suốt thế kỉ 19, Quân đội Phổ đánh tan tác quân Pháp, Triều đình Phổ đánh bại được phong trào tự do, xây dựng một Nhà nước chuyên chế mới, và Thủ tướng Otto von Bismarck theo đuổi mục tiêu thống nhất nước Đức nhưng không bao gồm Đế quốc Áo, gọi là Giải pháp nước Đức nhỏ. Vương quốc Phổ thống trị miền bắc nước Đức về mặt chính trị, kinh tế, và dân số, và là trụ cột của Liên minh Bắc Đức thành lập vào năm 1867, trở thành Đế chế Đức (Deutsches Reich) vào năm 1871. Trong thế kỷ XIX, quá trình công nghiệp hóa đất nước cũng diễn ra nhanh chóng.
Với sự kết thúc của triều đại Hohenzollern ở Đức theo sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Phổ trở thành một phần của Cộng hòa Weimar vào năm 1919 với tư cách một quốc gia tự do. Nước Phổ trên thực tế bị chính quyền Quốc xã hủy bỏ vào năm 1934 và chính thức bị phe Đồng Minh khai tử sau Chiến tranh thế giới thứ hai năm 1947.
Kể từ đó, từ "Phổ" chỉ còn được sử dụng giới hạn trong các lĩnh vực lịch sử, địa lý, hoặc văn hóa. Thậm chí ngày nay, có một kiểu phong cách được gọi là "các giá trị Phổ", ví như: tổ chức hoàn hảo, tinh thần hy sinh, tôn trọng luật pháp, tuân phục nhà nước, tinh thần thượng võ, cũng như đáng tin cậy, khoan dung tôn giáo, điều độ, thực tế, tiết kiệm, đúng hẹn, khiêm tốn, và cần mẫn. Rất nhiều người Phổ tin rằng những giá trị đó là nguyên nhân làm đất nước họ trở nên lớn mạnh. Vua Friedrich Wilhelm I đã xây dựng một lực lượng Quân đội Phổ kỷ luật xuất sắc, mang lại chiến thắng cho người con huy hoàng của ông là vua Friedrich II Đại Đế sau này. Với tinh thần kỷ luật khắt khe, nước Phổ hùng mạnh đã trở thành một "Vương quốc Sắt".
Nguồn gốc quốc hiệu
Danh xưng "Phổ" trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trong tiếng Anh, nước này được gọi là "Prussia". Người Trung Quốc bỏ chữ "a" ở cuối và phiên âm "P-ru-ssi" thành 普魯西 (pinyin: Pǔ lǔ xī, Hán Việt: "Phổ Lỗ Tây") hoặc 普魯士 (pinyin: Pǔ lǔ shì, Hán Việt: "Phổ Lỗ Sĩ"), gọi tắt cho cả hai là "Phổ".
Quốc hiệu nước Phổ bắt nguồn từ tên gọi của người Prūsai cổ, một tộc quần người Balt có liên quan đến người Litva và người Latvia; người Prūsai cổ bị các hiệp sĩ Teuton, (tiếng Đức: Deutscher Orden, tiếng Anh: Teutonic Knights), chinh phục rồi dần bị đồng hóa.
Biểu trưng
Lá cờ của Phổ mang màu trắng và đen, bắt nguồn từ màu áo choàng trắng thêu thánh giá đen của các Hiệp sĩ Teuton (Đức). Lá cờ đen-trắng-đỏ của Liên minh miền bắc nước Đức là tổ hợp của lá cờ này với lá cờ màu trắng-đỏ của đồng minh Hanse, gồm các thành phố tự do Bremen, Hamburg và Lübeck, tạo thành quốc kỳ Liên bang Bắc Đức, sau trở thành cờ của Đế chế Đức vào năm 1871.
Kể từ sau Cải cách Tôn giáo, khẩu hiệu của Phổ là Suum cuique (tiếng Anh: to each, his own, tiếng Đức: Jedem das Seine). Ngoài ra nó còn là khẩu hiệu trên Huân chương Đại bàng Đen, được đặt ra bởi vua Friedrich I (xem huân chương Thập tự Sắt). Trên huy hiệu của Phổ có vẽ một con đại bàng đen trên nền trắng.
Địa lý và dân số
Phổ bắt nguồn từ một lãnh địa nhỏ mà sau này được gọi Đông Phổ, giờ là tỉnh Warmia-Masuria của Ba Lan, lãnh thổ hải ngoại Kaliningrad của Nga và vùng Klaipėda của Litva. Cư dân nguyên thủy của vùng này là người Phổ cổ, sau cải theo đạo Ki-tô và bị Đức hóa. Sau này Phổ được người Đức theo đạo Tin Lành ưa chuộng nên nhiều người di cư đến, cũng như nhiều người Ba Lan và người Litva đến sống ở các khu vực dọc theo biên giới Phổ.
Lãnh thổ Vương quốc Phổ trước khi bị xóa bỏ bao gồm đất Phổ "gốc" (Đông và Tây Phổ), Brandenburg, tỉnh Sachsen (gồm phần lớn bang Sachsen-Anhalt ngày này và một phần bang Thüringen), Pomerania, Rheinland-Pfalz, Nordrhein-Westfalen, Schlesien (ngoại trừ phần Schlesien thuộc Áo), Lausitz, Schleswig-Holstein, Hanover, Hesse-Nassau, và một vài lãnh địa nhỏ nằm tách biệt ở miền nam, như Hohenzollern, đất tổ của Vương tộc Phổ. Tới năm 1914, Phổ có diện tích 354.490 km². Tháng 5 năm 1939, Phổ có diện tích 297.007 km² và dân số 41.915.040 người. Xứ Neuenburg, nay thuộc tổng Neuchâtel ở Thụy Sĩ cũng là một phần của Vương quốc Phổ từ năm 1707 tới 1848.
Đại đa số người Phổ theo đạo Tin Lành. Phần phía nam của vùng Masuria thuộc Đông Phổ có dân cư là người Masur bị Đức hóa và theo Tin Lành. Điều này lý giải phần nào việc các vương quốc Đức theo Công giáo miền nam, đặc biệt là Áo và Bavaria phản kháng lại rất quyết liệt việc Phổ trở thành bá chủ nước Đức.
Một phần đáng kể dân chúng sống ở Rheinland và một số vùng Nordrhein-Westfalen theo Công giáo Rôma. Tương tự vậy, Tây Phổ, Warmia, Schlesien, và tỉnh Posen có đa phần dân chúng theo Công giáo, vì nước Phổ giành được các vùng đó từ các quốc gia Công giáo như Vương quốc Ba Lan và Đế quốc Áo.
Vùng lãnh thổ Đại Ba Lan là đất phát sinh quốc gia Ba Lan trở thành tỉnh Posen của Phổ sau "Cuộc chia cắt Ba Lan". Người Ba Lan chiếm đa số trong tỉnh (62% là người Ba Lan, 38% là người Đức) chống lại sự thống trị của người Đức, tương tự vậy, vùng Thượng Schlesien có một số lớn dân cư là người Ba Lan.
Theo Hiệp ước Versailles năm 1919, nền Cộng hoà thứ hai của Ba Lan giành lại được hai vùng này, cùng với các khu vực thuộc Tây Phổ nhưng có đa số dân là người Đức. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đông Phổ, Schlesien, phần lớn Pomerania và một phần của Brandenburg bị Liên bang Xô viết và Ba Lan chiếm.
Lịch sử thời xưa
Vào năm 1226 Công tước Konrad I của Masovia mời các Hiệp sĩ Teuton, một dòng tu chiến binh Đức, đại bản doanh đặt tại thành phố Acre ở Vương quốc Jerusalem, chinh phạt các bộ lạc Phổ trên vùng biên giới lãnh thổ của ông. Sau sáu mươi năm chiến tranh với người Phổ, họ đã dựng nên một quốc gia độc lập mà về sau nắm luôn quyền điều khiển Phổ. Sau khi dòng Hiệp sĩ Thanh gươm của Livonia gia nhập dòng Hiệp sĩ Teuton năm 1237, họ kiểm soát luôn vùng Livonia, bây giờ là Estonia, Latvia và tây Litva.
Các Hiệp sĩ này chỉ chịu ở dưới quyền Giáo hoàng Rôma và Hoàng đế Đức. Ban đầu, họ liên hệ mật thiết với Hoàng gia Ba Lan, nhưng về sau, mối quan hệ này bị đổ vỡ khi họ đánh chiếm các vùng đất mà Ba Lan tuyên bố sở hữu là Pomerelia và Danzig (Gdańsk), một thành phố với cư dân chủ yếu là người Đức. Dòng tu Hiệp sĩ Teuton cuối cùng bị đánh bại trong trận chiến Grunwald năm 1410 bởi Liên minh Ba Lan và Litva, thành lập thông qua Hiệp ước liên minh Krewo.
Trong cuộc "chiến tranh Mười ba năm" (1454-1466), Liên minh Phổ, bao gồm các thành phố đồng minh Hasen ở tây Phổ nổi dậy chống lại dòng Hiệp sĩ Teuton và cầu viện vua Ba Lan. Các Hiệp sĩ Teuton buộc phải chấp nhận thần phục vua Kazimierz IV Jagiellonczyk theo Hòa ước Thorn, đồng thời mất đi vùng tây Phổ cho Ba Lan.
Năm 1525, Đại Trưởng lão Albert Brandenburg-Ansbach, thuộc một chi nhánh của nhà Hohenzollern, cải theo đạo Tin lành dòng Lutheran và nhập các lãnh địa còn lại của dòng tu vào Công quốc Phổ. Đây là khu vực nằm phía đông cửa sông Vistula, về sau được gọi là lãnh thổ Phổ "gốc". Lần đầu tiên, các lãnh địa này rơi vào tay một chi nhánh của nhà Hohenzollern, chủ nhân lãnh địa Brandenburg về phía tây với trung tâm là Berlin và đã nằm dưới sự cai trị của nhà Hohenzollern từ thế kỷ 15. Hơn thế nữa, khi từ bỏ dòng tu, Albert có thể lập gia đình và có con.
Phổ và Brandenburg được thống nhất hai thế hệ sau đó. Anna, cháu nội của Albert và là con gái của Công tước Albrecht Friedrich (tại vị 1568-1618), thành hôn với người anh họ là Tuyển hầu Johann Sigismund của xứ Brandenburg.
Khi Albrecht Friedrich qua đời năm 1618 mà không có con trai nối nghiệp, Johann Sigismund được trao quyền thừa kế Phổ, cho tới khi đó vẫn chỉ là vùng đất phong thuộc Ba Lan. Kể từ nay, Công quốc Phổ được sáp nhập với lãnh địa Brandenburg. Vùng lãnh địa này được gọi là Brandenburg-Phổ, bao gồm nhiều mảnh lãnh địa nằm rải rác trong Phổ, Brandenburg, cũng như các lãnh địa Cleves và Mark trong vùng Rhineland. Vào năm 1618, vùng đất Đức lâm vào cuộc Chiến tranh Ba mươi năm tàn khốc.
Trong suốt cuộc Chiến tranh ba mươi năm, những lãnh địa rời rạc của nhà Hohenzollern bị nhiều đoàn quân viễn chinh khác nhau giày xéo, đặc biệt là quân của Thụy Điển. Bá tước George William (1619-1640) không có năng lực quân sự, phải chạy trốn khỏi Berlin sang Königsberg, kinh đô truyền thống của Đại công quốc Phổ vào năm 1637. Người kế vị ông ta, Friedrich Wilhelm I (1640-1688), tiến hành cải cách quân đội để bảo vệ lãnh thổ. Năm 1641, Friedrich Wilhelm I sang Warszawa triều kiến vua Ba Lan là Władysław IV Vasa để tỏ lòng trung thành của mình, do lãnh địa Phổ của ông vẫn được coi là đất phong của triều đình Ba Lan cho ông. Tuy nhiên về sau, lợi dụng tình trạng đối đầu gay go giữa Ba Lan và Thụy Điển trong các cuộc Chiến tranh Bắc Âu, cũng như mối quan hệ thân thiện của ông với nước Nga trong một loạt các cuộc chiến tranh Nga-Ba Lan, Friedrich Wilhelm đã có thể xoay xở để thoát khỏi nghĩa vụ chư hầu với vua Ba Lan. Ông giành được quyền tự chủ cho Phổ trong Hòa ước Wehlau vào năm 1657. Ông xây dựng một lực lượng Quân đội thường trực, với 30.000 quân tinh nhuệ. Đến cả vị anh hùng của Stalin là Nga hoàng Pyotr Đại Đế cũng phải thán phục xứ Phổ của vị Tuyển hầu tước vĩ đại.
Vào năm 1675, ông đánh tan tác quân Thụy Điển trong trận Fehrbellin, qua đó ông trở thành vị "Tuyển hầu tước vĩ đại". Với chiến công hiển hách của ông, dân tộc Đức quay trở lại thời kỳ hùng mạnh. Quân đội Phổ đã giành chiến thắng trong chiến dịch chống Thụy Điển, và chiến thắng tại Fehrbellin trở thành một ký ức cao đẹp của dân tộc Phổ - Brandenburg, về sự phát triển của truyền thống quân sự của họ. Lực lượng Quân sự độc lập đã đặt nền tảng cho Vương triều Hohenzollern đưa nước Phổ lên hàng liệt cường, chứ không phải là những Liên minh đã đưa xứ Phổ đến tình hình tồi tệ như trong cuộc Chiến tranh Ba mươi năm. "Tuyển hầu tước vĩ đại" cũng truyền lệnh cho 20.000 tín đồ Kháng Cách Pháp đến tị nạn trên đất Phổ. Ban đầu ông dựa theo hình mẫu của người Hà Lan mà xây dựng Quân đội, nhưng từ sau 1685, những người Pháp tị nạn đã truyền bá vào xứ Phổ cách rèn luyện quân sự mới nhất của nước Pháp. Tuy ông bị mất một số đất đai mà ông chinh phạt được, ông vẫn luôn được biết bao người châu Âu nể trọng; và, vào năm 1757, khi vị vua kiên quyết Friedrich II Đại Đế tuyệt vọng vì bị nhiều nước vây hãm, Voltaire đã lấy chuyện này ra để khuyên nhà vua hồi phục và đóng vai trò quan trọng trên chính trường châu Âu. Với tư tưởng sắt đá của mình, ông đã nghe theo Voltaire... Vị Tuyển hầu tước vĩ đại cũng gửi một đạo quân đến giúp Hoàng đế Áo là Leopold I đánh đuổi quân Thổ Ottoman ra khỏi kinh thành Viên.
Lịch sử nước Phổ (1701 - 1786)
Vào năm 1701 con trai của Friedrich Wilhelm, Tuyển hầu Friedrich III tự xưng là Vua Friedrich I của Phổ. Để không xúc phạm đến Hoàng đế Đế quốc La Mã Thần thánh Dân tộc Đức (Heiliges Römisches Reich Deutscher Nationen) Leopold I, vì phần lớn lãnh thổ thuộc Phổ nằm trong Đế quốc La Mã thần thánh dân tộc Đức, Friedrich chỉ xưng là "Đức Vua ở Phổ" (König in Preußen), chứ không phải "Đức Vua của Phổ" (König von Preußen). Dù vậy, Brandenburg vẫn được hiểu là một phần của Vương quốc Phổ, hơn là một lãnh địa riêng biệt. Như thế là ông xưng làm Quốc vương đúng 170 năm trước khi vua Wilhelm I xưng làm Hoàng đế nước Đức vào năm 1871. Nước Phổ trở nên thịnh vượng dưới thời vua Friedrich I, ông sử dụng cả ngân sách Vương thất để bảo trợ nghệ thuật nước nhà. Không những là một ông vua xa hoa, ông còn gầy dựng một lực lượng Quân đội Phổ bao gồm 40.000 binh sĩ, dù phải đối mặt với những khó khăn do những dịch bệnh và chính sự ăn chơi của ông. Ông cho quân tham chiến với liên quân chống Pháp trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, và cuộc chiến này có tầm quan trọng quyết định đối với sự trỗi dậy của truyền thống quân sự của dân tộc Phổ. Không những Quân đội Phổ có được danh tiếng trên trận tiền, những tướng tá Phổ như Leopold I xứ Anhalt-Dessau (còn gọi là "Ông già Dessauer", một công thần dưới các triều vua Friedrich Wilhelm I và Friedrich II Đại Đế sau này) đã học hỏi được những bí quyết giúp danh tướng John Churchill, Công tước thứ nhất của Marlborough đập tan tác Quân đội của vua Louis XVI. Từ năm 1740 cho đến năm 1797, mọi Quân vương nước Phổ đều nhận thức rõ việc mở mang bờ cõi. Trong các di chúc chính trị của mình, vị Tuyển hầu tước vĩ đại cùng với các vua Friedrich I, Friedrich Wihelm I và Friedrich II Đại Đế đều cho rằng đang tiến hành một kế hoạch đồ sộ mang tính lịch sử, và qua đó, những vị vua kế tục phải tiếp nối sự nghiệp đang dang dở của vua cha.
Vào năm 1713, ông qua đời và Triều đình Phổ không còn xa hoa như xưa. Ông được kế vị bởi người con trai, vua Friedrich Wilhelm I (1713-1740), một "ông vua nhà binh" khắc khổ, không màng đến nghệ thuật, sống tằn tiện và thực tế. Ông thuê mướn những Goliath của các nước khác, một Quân đội thường trực khét tiếng hùng mạnh ở châu Âu, một hệ thống hành chính Phổ rất được ca ngợi và cải cách kinh tế. Lúc ông lên nối ngôi báu, lực lượng Quân đội Phổ chỉ có 40.000 binh sĩ, nhưng sau khi ông qua đời vào năm 1740, họ có đến 80.000 quân tinh nhuệ. Ông chi phí tốn kém cho binh cách, vì nhận thấy tầm quan trọng của một Quân đội hùng mạnh đối với đất nước. Ngay từ năm 1709, khi còn ở ngôi Hoàng thái tử, ông tham chiến cùng Quân đội Phổ trong cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha, đánh trận Malplaquet. Là vị cha đẻ của bộ máy hành chính Nhà nước Phổ, ông được xem là vị vua vĩ đại nhất của nước Phổ về mặt đối nội. Dù vậy, Quân đội Phổ chỉ xung trận trong một thời gian ngắn trong Đại chiến Bắc Âu, chống quân Thụy Điển. Với tinh thần kỷ luật khắt khe, nhà vua thường mặc chiến bào thay vì những bộ long bào xa xỉ, và đặc điểm này của ông sẽ còn có ở con trai ông là vị vua vinh quang Friedrich II Đại Đế và nhiều vị vua kế tục, cho thấy khi nền quân chủ Phổ của Vương triều Hohenzollern sụp đổ sau cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Khác với vua Louis XIV của Pháp, ông và vua con Friedrich II Đại Đế đều là những ông vua nhà binh. Vua Friedrich Wilhelm I định cư trên 2 vạn người tị nạn Tân giáo từ vùng Salzburg vào các vùng đất thưa dân ở phía đông Phổ, mở mang nó đến tận bờ tây sông Memel và các vùng khác. Ông cũng giành được vùng đất Tây Pomerania cho đến tận sông Peene từ tay Thụy Điển vào năm 1720. Tuy Quốc vương Friedrich Wilhelm I chỉ xưng làm "Đức Vua ở Phổ", dưới triều đại của ông, người ta thường gọi ông là "Đức Vua của Phổ" hơn hẳn Vương hiệu chính thức của ông. Như vua Phổ Friedrich II Đại Đế đã nói sau này, Vương quốc Phổ của ông đã trở thành "xứ Sparta của phương Bắc". Vào thập niên 1730, Chiến tranh Kế vị Ba Lan bùng nổ giữa liên quân Nga - Áo và Pháp, Quốc vương Friedrich Wilhelm I phái một đạo quân do Hoàng thái tử Friedrich đến liên minh với quân Áo, và cuộc chiến tranh kết thúc với chiến bại của quân Pháp. Và, sau khi vua Friedrich Wilhelm qua đời, một "nhân vật kiệt xuất" lên ngai vàng trên đất Đức vào năm 1740 ("que le grand groppe au ryn sera getté") - đúng như nhà tiên tri Nostradamus người Pháp đã tiên đoán, đó là một vị danh tướng lớn trong lịch sử - vua Friedrich II Đại Đế, được coi là bậc thầy của những chiến thuật và chiến lược lừng danh. Khác với vua cha Friedrich Wilhelm I, sau này ông không để yên cho nước Nga và Áo được tự do can thiệp vào tình hình Ba Lan, sau khi ông đưa nước Phổ trở thành một liệt cường lớn mạnh chứ không phải là một nước chư hầu của các quốc gia phong kiến phía Đông.
Là một trong những Quân vương ngự trị lâu dài nhất của châu Âu từ thời Trung Cổ đến thời Napoléon, những chiến tích hiển hách của nhà vua, lòng vô cùng dũng cảm và sáng suốt của ông và việc ông đưa từ "thời kỳ Khai sáng" vào từ điển tiếng Đức - đã khiến cho ông được người ta gọi là "Friedrich Đại đế" - cái nhìn của dân tộc Đức đối với ông giống như dân tộc Nhật Bản với Thiên hoàng Minh Trị và dân tộc Nga với vua Pyotr Đại Đế vậy. Những chiến thắng huy hoàng của ông cũng khiến ông được tôn vinh, trở thành vị anh hùng của đức tin Kháng Cách. Khi còn là Thái tử ông chỉ đam mê triết học và nghệ thuật. Tuy nhiên, ông thể hiện nhiều tài năng về chính trị, quân sự và ngoại giao, và vẫn tiếp tục xây dựng và mở rộng lực lượng Quân đội Phổ hùng cường và kỷ luật, với một lực lượng Kỵ binh không ai sánh kịp.
Như "Amurath kế tục Amurath", ông đã kế vị vua Louis XIV của Pháp ("Louis Mặt Trời") làm vị Bá vương của toàn cõi châu Âu. Trong cuốn sử sách của mình, nhà văn người Anh là Edward Gibbon có ám chỉ về việc chính vị hiệu của Quốc vương Friedrich II Đại Đế đã đẩy mạnh sự phát triển cường thịnh của Đế chế Phổ trong câu "Một vị Hoàng đế Julianus, một vị Nữ hoàng Semiramis sẽ chính vị hiệu ở phương Bắc...". Trong năm đầu tiên lên ngôi vua, ông thống lĩnh Quân đội Phổ tiến đánh Silesia, vùng đất Hohenzollern tranh chấp với nhà Habsburg cai trị đế quốc Áo. Quân đội Phổ chinh phạt được tỉnh này vô cùng nhanh chống, trở thành hoạt động chính trị quan trọng nhất của vua Friedrich II Đại Đế - đây hoàn toàn là quyết định của ông. Trong hai cuộc chiến tranh Silesia (1740 - 1745), nhà vua liên tiếp giành thắng lợi trong cuộc chinh phạt giành Silesia từ Đế quốc Áo (1742), sau đó còn bảo vệ tỉnh này với những trận đại thắng tại Hohenfriedberg, Soor hay Hennersdorf (1745) trước quân Áo và quân Sachsen. Với chiến thắng lừng lẫy tại Soor, không những Quốc vương Friedrich II Đại Đế có được danh tiếng với tư cách là một vị Lãnh tụ quân sự của châu Âu, mà còn trở thành một vị thống soái bất khả chiến bại. Với những chiến thắng vang dội tại Hohenfriedberg và Soor với chiến thuật "đánh lấn vào sườn" của nhà vua, ông đã che khuất những sai lầm của mình bằng tài năng và lòng dũng cảm của ông. Lực lượng Kỵ binh tinh nhuệ Phổ, do chính ông bỏ công rèn luyện, trở thành lực lượng Kỵ binh hùng mạnh nhất trên lục địa châu Âu, luôn luôn chủ động và táo bạo dưới qưyền những danh tướng kiệt xuất. Nước Phổ trở thành một kình địch hùng mạnh để ngăn cản sự phát triển của nước Áo. Đánh bại quân Áo và đưa nước Phổ lên làm liệt cường tại Đức và châu Âu, ông đã ngăn ngừa việc Vương quốc Pháp trở thành cường quốc bá chủ trên đất Đức. Sau đó, ông vẫn tiếp tục quan tâm đến lực lượng Quân đội Phổ, viết sách về nguyên tắc chiến tranh. Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756 - 1763), ông phải chống lại một liên minh gồm cả Áo, Pháp, Nga, Thụy Điển và Sachsen: ông tỏ ra là một thiên tài xuất chúng. Như Nữ hoàng Áo là Maria Theresia nói với một viên Thống chế vào năm 1761, bà quyết định đưa Vương triều Brandenburg trở lại thành một cường quốc hạng hai trong cuộc chiến tranh này, nhưng cuối cùng bà đã thất bại.
Tuy bị liên quân chống Phổ vây từ nhiều phía, với tinh thần vô cùng quyết chí và dũng cảm, ông đánh bại từng nước một trong liên quân, ông cực kỳ năng động và giữ vững vai trò bá chủ của Phổ ở vùng Trung Đức, và đến cuối năm 1761, đã mang lại cho liên quân chống Phổ (vốn được thiết lập nhằm xâm chiếm và chia cắt lãnh thổ của nước Phổ) sự khẳng định rằng: chứng nào vị Quân vương kiệt xuất và các vị tướng lĩnh tài ba vẫn còn chiến đấu thì ông không thể nào bị đánh bại. Quyết không nhượng bộ tỉnh Silesia, ông chủ động ra tay đánh thắng quân Sachsen tại Pirna (1756), đánh thắng quân Áo tại Lobositz (1756) và Praha (1757), đánh thắng liên quân Pháp - Áo tại Rossbach (1757), đánh thắng quân Áo tại Leuthen (1757) đánh thắng quân Nga tại Zorndorf (1758)), đánh thắng liên quân Nga - Áo tại Liegnitz, giữ vững được kinh đô Berlin, đánh thắng quân Áo tại Torgau (1760) - Burkersdorf (1762) và Schweidnitz vào năm 1762 - năm liên quân chống Phổ kiệt quệ, Quân đội Phổ vẫn chiến đấu anh dũng và kiên cường, do đó giành chiến thắng hoàn toàn. Với chiến thắng vang dội của ông tại Rossbach (1757), lần đầu tiên trong lịch sử, dân tộc Đức đã đánh thắng Pháp một cách vẻ vang. Chiến dịch Rossbach - Leuthen trở thành một trong chiến thắng huy hoàng nhất trong lịch sử. Thực chất, ông không phải là không có sai lầm với tư cách là một vị Lãnh tụ quân sự, ông chỉ thắng 8 trận trong 16 trận đánh mà ông chinh chiến, nhưng về nhiều mặt, ông có lợi thế hơn các kình địch của ông. Ông phải đơn phương độc mã đi chinh chiến, nhưng việc ông không có đồng minh sát cánh để hội kiến cũng là một lợi thế, và bộ máy chiến tranh của nước Phổ rất đơn giản, do bản thân Quốc vương và quan Thượng thư Bộ Ngoại giao (có hiệu lực) chính là Tổng tư lệnh Quân đội Phổ trên chiến trường. Dưới triều đại của vị vua tài năng, dai sức và quyết đoán như thế, Quân đội Phổ không bao giờ phải tiến hành một cuộc tranh cãi phức tạp, như ở nước Áo dưới triều Habsburg. Em trai ông là Vương tử Friedrich Heinrich Ludwig cũng đánh tan tác quân Áo trong trận Freiberg vào năm 1762, ít lâu trước khi Nữ hoàng Áo là Maria Theresia giảng hoà. Nhiều bạn hữu của ông đã hy sinh, làm có những lúc ông đau buồn, nhưng sau đó, vị vua kiên quyết đã hồi phục. Giữa cuộc chiến, có lúc thất bại thảm hại, nhưng ông - cũng như sau những chiến thắng - vẫn bình tĩnh và giữ thế chủ động, dẫn tới những chiến thắng oanh liệt trước những đội quân đông đảo hơn sau này, làm đối phương phải hoảng sợ. Một ví dụ cho thấy rõ tài năng của ông trong việc hồi phục sau những chiến bại, giữ cái đầu lạnh và giáng những đòn đau khủng khiếp vào đối phương qua trận Hochkirch (1758): sau thất bại thảm hại, thậm chí con chiến mã của ông bị trúng đạn, nhà vua rút quân về chỗ an toàn, khiến cho đối phương không thể nào truy kích. Cuối cùng, khi cuộc chiến tranh kết thúc, vị Quân vương bất khả chiến bại vẫn thống lĩnh ba quân trên các đỉnh núi tại tỉnh Silesia và tỉnh Sachsen, trong khi liên quân chống Phổ phải thất bại. Theo nhận định của Theodore Ayrauth Dodge, với tư cách là một chiến binh, ông thể hiện rõ ràng: ông vĩ đại hơn vị Hoàng đế lừng danh Napoléon trong thời gian khó khăn. Vị vua quyết đoán và lực lượng Quân đội Phổ hùng cường còn thể hiện sự tàn bạo ác liệt và lạnh lùng qua các cuộc vây hãm Pirna (1756) và Dresden (1760). Chính sách giảm giá, cũng như cuộc cướp bóc tàn nhẫn vào xứ Sachsen và xứ Mecklenburg cũng giúp vị vua kiệt xuất Friedrich II Đại Đế giành được thắng lợi.
Chiến thắng của ông tại Leuthen (1757) là một trận đánh kinh điển của chiến thuật "đánh lấn vào sườn" của ông. Thậm chí ông còn đánh vào lãnh thổ Áo vào năm 1758 nhưng không thành công, và tiến hành một cuộc rút quân vô cùng hiển hách. Nước Anh và một số tiểu quốc Đức liên minh với nước Phổ, đánh Pháp và giúp họ đẩy lui quân Pháp ra khỏi đất nước. Kể từ sau thất bại thê thảm tại Rossbach thì quân Pháp chẳng bao giờ dám đối đầu với quân tinh nhuệ Phổ do nhà vua thân chinh thống lĩnh nữa, thay vì đó họ chuyển sau mặt trận phía Tây và luôn luôn bị đạo quân Phổ của Vương công Ferdinand xứ Brunswick đánh tan tác. Nhưng Chính phủ Anh xé bỏ liên minh với ông vào các năm 1761-1762, song cùng lúc đó liên minh chống Phổ cũng tan rã, mang lại thắng lợi cho ông. Thân chinh thống lĩnh một lực lượng Quân đội hùng hậu, ông thực hiện xuất sắc nhiệm vụ hết sức nặng nề của mình, và lòng dũng cảm, tính trung kiên và tài năng của ông cuối cùng đã đem lại vinh dự cho ông; trong khi đó liên quân chống Phổ đều kiệt quệ cả: sau bảy năm chinh chiến và giữ vững đất nước trước sự tấn công ba cường quốc quân sự Nga, Áo và Pháp, Hiệp định Hubertusburg được ký kết vào năm 1763 với việc nước Áo phải chịu mất tỉnh Silesia, giữ vững nền hòa bình, và giờ đây nước Phổ hoàn toàn là một quốc gia vĩ đại, mang lại chiến bại thảm hại cho liên quân chống Phổ, phá vỡ thế bá chủ của Pháp và Áo ở châu Âu và Đức. Với cuộc chiến tranh này, Quốc vương Friedrich II Đại Đế, tức Fredericus Rex trở thành một huyền thoại, do ông đã chiến đấu với một liên quân của các nước châu Âu. Với cuộc Chiến tranh Bảy năm, Vương quốc Phổ không những trở thành một cường quốc tiêu biểu của châu Âu, lại còn trở thành một quốc gia hùng mạnh, đóng vai trò thống trị ở miền Bắc Đức và Đế quốc La Mã Thần thánh. Cùng với Cuộc chiến tranh Kế vị Áo, cuộc Chiến tranh Bảy năm đã đưa nước Phổ trở thành một liệt cường quân sự hùng mạnh nhất trên toàn cõi châu Âu. Vào năm 1763, Quân đội Phổ có 103.000 binh sĩ là người Phổ, 37.000 binh sĩ là người ngoại quốc. Trong văn chương, vị vua - anh hùng, thiên tài quân sự kiệt xuất Friedrich II Đại Đế thường được ví von với những anh hùng Wotan hay Hermann của người Teuton, và cả nhà chinh phạt vĩ đại Cyrus Đại Đế của Đế quốc Ba Tư.
Một sứ thần người Pháp, cho hay, sau bảy năm chinh chiến, vị thế của nước Phổ nâng cao hơn trước hẳn, họ trở thành minh chủ của không ít tín đồ Tin Lành chống Áo. Dưới trướng của ông cũng có nhiều vị thống soái kiệt xuất như Vương tử Heinrich em trai ông, Hans Karl von Winterfeldt, Kurt Christoph Graf von Schwerin, Friedrich Wilhelm von Seydlitz hay Hans Joachim von Zieten. Quân đội Phổ và muôn dân Phổ cũng rất trung thành, nhiệt huyết với vị vua anh hùng Friedrich II Đại Đế. Ngay từ thời vua Friedrich Wilhelm I, nạn đào ngũ đã bị xóa bỏ đáng kể trong Quân đội Phổ. Sau khi vua Friedrich II Đại Đế đánh tan tác quân Áo trong cuộc chiến tranh Silesia lần thứ nhất (1740 - 1742), trai tráng Phổ, dù có thể chỉ là con trai của một người nông dân nghèo nàn, đều tự hào khi gia nhập lực lượng Quân đội khải hoàn của vị Quân vương vĩ đại. Chủ nghĩa yêu nước đã bắt đầu phát triển ở nước Phổ. Như một người Ngự Lâm quân nói với Quốc vương Friedrich II Đại Đế trong trận thắng huy hoàng tại Leuthen vào năm 1757, thần dân tỉnh Pomerania thực hiện kỷ luật hết mực xuất sắc. Thần dân xứ Mark Brandenburg cũng tương tự. Người nông dân Phổ cho con em họ đi lính, và luôn trung thành và tự hào về vị vua chiến thắng và vĩ đại của họ. Sự trung thành này cũng là vị quy tắc tuân phục của đức tin Tin Lành, vốn đã được áp đặt lên nông dân Bắc Đức trong nhiều thế kỷ. Những chiến binh của vua Friedrich II Đại Đế thường hát thánh ca mà họ nghe được ở Nhà thờ trong làng họ. Sau trận thắng oanh liệt tại Rossbach, trận thắng oanh liệt tại Leuthen và nhiều trận thắng oanh liệt khác, họ thường hát bài thánh ca "Tất cả chúng ta hãy cùng tạ ơn Chúa". Với lòng yêu nước nồng nàn, trong suốt cuộc Chiến tranh, nhân dân Phổ đã vẽ tranh, viết sách, tiểu sử, sách nhỏ, nói về những tài liệu của vị vua đáng kính của họ: "Friedrich Đại Đế" hoặc là "Friedrich Độc đáo". Những chiến thắng của ông luôn được ca ngợi, ví dụ sau trận đánh kinh hoàng tại Zorndorf (1758), thi sĩ Johann Wilhelm Ludwig Gleim có viết nên "Thơ ca ngợi Thần nàng thơ của chiến tranh". Nhà vua gần như trở thành một siêu nhân; và trong những buổi lễ mừng thọ ông, tiếng súng trường tôn vinh ông luôn vang lên. Không những thế, tinh thần yêu nước của nhân dân Phổ còn được thể hiện qua thơ ca ngợi sự hy sinh anh dũng vì Tổ quốc của nhà thơ Christian Ewald von Kleist, một viên Sĩ quan Quân đội Phổ bị thương nặng và hy sinh sau trận đánh ác liệt tại Kunersdorf (1759). Ông coi sự hy sinh là cái chết huy hoàng, là cái chết mà mọi thế hệ phải quý trọng. Bản thân nhà vua cũng thể hiện chủ nghĩa anh hùng qua những vầng thơ của ông giữa lúc bị hầu hết toàn bộ châu Âu vây hãm vào năm 1757.
Những chiến bại và chiến thắng của nhà vua nước Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm đã mang lại cho ông niềm mến mộ cuồng nhiệt của thần dân, không những đối với ý chí quyết đấu của ông, mà còn đối với cá nhân của ông Theo một Sĩ quan Quân đội Phổ là Johann Wilhelm Archenholtz - đã tham chiến trong bảy năm chinh chiến tàn khốc - trong những năm tháng khốc liệt của cuộc Chiến tranh này, thần dân nước Phổ luôn cùng nhà vua chịu thương chịu khó, và "có phần trong danh tiếng của những chiến công hiển hách của ông". Mọi thần dân thuộc mọi đẳng cấp ở tỉnh Pomerania đã giúp đỡ nhà vua xây dựng một đội quân gồm 5.000 binh sĩ. Các Thánh đường đóng vai trò quan trọng trong việc reo rắc lòng trung quân ái quốc, ca ngợi những chiến công hiển hách của nhà vua, và xem Thiên Chúa cao sao đã phù hộ họ qua việc ban cho họ vua Friedrich II Đại Đế. Một hôm, nhà vua xuất quân thắng trận và một tăng lữ vui sướng tuyên bố rằng, Thiên Chúa đã đưa nước Phổ trở thành vùng đất mạnh hơn cả trong tất cả các vùng đất, và chọn muôn dân Phổ là "thần dân chính yếu của Ngài", và do đó "chúng ta có thể đi trong ánh hào quang của những thần dân được Thiên Chúa lựa chọn". Chiến thắng của nước Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm cho thấy sự gắn bó chặt chẽ giữa nhà vua và toàn dân luôn mang lại kết quả vô cùng tốt đẹp, và, với vua Friedrich II Đại Đế trở thành vị anh hùng dân tộc Đức, nhân dân Đức lại được hiểu về sự phi thường của khí phách anh hùng.
Lực lượng Hải quân Phổ của dân biển Pomerania đã bảo vệ đất nước chống quân Thụy Điển. Do họ không mạnh bằng Hải quân Thụy Điển, nên bị đánh tan tác vào năm 1759. Tuy nhiên, Hải quân Phổ được tái xây dựng vào năm 1761. Trên bộ, quân Thụy Điển bị một toán Kỵ binh nhẹ Phổ chặn đứng. Quân Thụy Điển chưa hề giao chiến với quân chính quy của vua Phổ, và họ phải làm hòa với ông vào năm 1762.
Vương quốc Phổ cũng được giữ vững trong cuộc chiến tranh Bảy năm tàn khốc là nhờ năm pháo đài lớn: Kolberg, Stettin, Kustrin, Glogau và Breslau. Các tướng tá của vua Phổ đánh tan tác liên quân Nga - Thụy Điển vào năm 1758. Chỉ mỗi Kolberg bị rơi vào tay quân Nga vào năm 1761; và sau đó, bốn pháo đài còn lại vẫn luôn gây khó khăn cho quân Nga cho đến khi cuộc chiến tranh kết thúc. Nhà vua đã giữ vững được các thành trì Magdeburg, Kustrin và Stettin chính là nhờ các đẳng cấp tình nguyện trang bị cho các Trung đoàn. Voltaire, một người bạn thân của ông, từng mô tả đất Phổ của Đại đế Friedrich II: "...buổi sáng Phổ còn là Spartas, buổi chiều Phổ đã là Athena". Từ sau những cuộc chiến tranh đó, nền chính trị Phổ mang tính "bắt cá hai tay" cho tới tận năm 1866. Chiếm được Silesia, vùng đất đai màu mỡ với nhiều thành phố công nghiệp, nước Phổ trở nên giàu có và đông đúc. Nhờ đánh tan tác quân Áo và tất cả các kẻ thù trên trận tiền mà nước Phổ vươn lên thành quốc gia hùng mạnh nhất của vùng Trung Âu, giữ một vai trò quan trọng trong bản đồ Âu châu, với một đội quân khổng lồ. Chiến tranh Silesia cũng khởi đầu hơn một thế kỷ kình địch và xung đột giữa Phổ với Áo với tư cách là hai quốc gia hùng mạnh nhất của đế quốc La Mã thần thánh dân tộc Đức (dù rằng lãnh thổ cả hai quốc gia này đều trải rộng ra ngoài biên giới của đế quốc). Vào năm 1744, hạt Đông Frisia rơi vào tay Phổ khi dòng vua Cirksena kết thúc mà không có người kế vị. Theo một nhà sử học danh tiếng của nước Đức vào thế kỷ XIX là Leopold von Ranke, một liệt cường phải giữ vững đất nước trước sức tấn công của một liên quân các nước khác. Nói như vậy, nước Phổ của vua Friedrich II Đại Đế rõ ràng là một liệt cường, ít nhất là về mặt quân sự. Vương quốc Phổ vào thế kỷ XVIII cũng giống như Đế quốc Thụy Điển vào thế kỷ XVII, có nền chính trị phát triển hùng cường nhờ những chiến thắng của nhà vua và một lực lượng hùng binh tướng mạnh, cùng với một bộ máy Chính phủ hữu hiệu. Khi cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn khốc chấm dứt, nước Phổ chiến thắng mà không phải nợ nần, và nhà vua còn có 25 triệu thaler để chuẩn bị cho chiến dịch kế tiếp. Tuy ông đã xây dựng những công trình nguy nga tránh lệ chứng tỏ sự thịnh vượng của đất nước, Quốc vương Friedrich II Đại Đế không thích bị nịnh hót. Sau khi Quân đội Phổ ca khúc khải hoàn trở về kinh kỳ sau cuộc Chiến tranh Bảy năm, người thợ chạm lừng danh Daniel Chodowiecki định làm nên một bức hình công phu về cảnh này, và nhà vua khuyên Chodowiecki rằng, không nên làm cho bức hình cầu kỳ quá trớn. Nhà vua cũng không tham gia bất kỳ một buổi lễ ăn mừng nào trong ngày khải hoàn của ông. Sau một cuộc chiến khốc liệt, vị vua chiến thắng cũng trở nên ảm đạm khi trở về kinh đô.
Quốc vương Gustav II Adolf và Quốc vương Friedrich II Đại Đế đều là những vị vua - chiến binh, đều giành những chiến thắng lừng lẫy trước những kẻ thù hùng mạnh. Những chiến thắng của nước Phổ vào thế kỷ XVIII, cũng như những chiến thắng của nước Thụy Điển vào thế kỷ XVII, đã in sâu vào tinh thần của dân tộc họ. Trong suốt triều đại của ông, về mặt ngoại giao, ông thường lợi dụng những bất hòa giữa các cường quốc (ví dụ: Áo, Nga); qua đó, ông phá vỡ liên minh của họ, hoặc khuyến khích họ liên minh với nhau, nhờ đó, Vương quốc Phổ có điều kiện phát triển tương đối thuận lợi. Trong 23 năm cuối đời, cho tới 1786, ông khuyến khích việc phát triển nhiều vùng ở Phổ, như là Oderbruch. Vào năm 1764, với sự phò tá đắc lực của Hoàng đệ Heinrich - một nhà ngoại giao tài ba, ông liên minh với nước Nga - đây là Liên minh lâu dài nhất trong lịch sử nền quân chủ Phổ, giúp nước Phổ hùng mạnh thoát khỏi tình trạng cô lập sau cuộc chiến tranh Bảy năm. Với liên minh này, Triều đình Phổ của vua Friedrich II Đại Đế dễ dàng hơn trong việc chi phối các chính sách của Triều đình Nga, và trở thành một trong những quan thầy của Triều đình Ba Lan bù nhìn của nước Nga. Đồng thời ông không ngừng nỗ lực tăng cường binh lực và gia tăng ngân khố Phổ để bảo vệ vị thế liệt cường của đất nước, sau khi đánh bại liên minh chống Phổ của Áo - Pháp - Nga trong bảy năm chinh chiến, ông còn tham dự vào Cuộc phân chia Ba Lan lần thứ nhất cùng với Áo và Nga (1772) để giành thêm lãnh thổ; sau chiến tranh, châu Âu lục địa kiệt quệ, và Vương quốc Ba Lan và Đại Công quốc Litva có nguy cơ bị chia cắt bởi hai nước Nga và Áo, nên ông quyết định can thiệp. Ba Lan đang trong tình trạng vô chính phủ, và trong chiến tranh, quân Nga thường đóng quân tại đây, có thể thấy vào năm 1761, Quân đội Phổ phá tan tác kho đạn dược của quân Nga tại Ba Lan.
Với chiến thắng về ngoại giao của nước Đức trước Nga và Áo, ông đạt được thành quả quan trọng hơn cả so với hai nước kia: nhờ đó Công quốc Đông Phổ kết nối với những vùng đất khác của vua Friedrich II Đại Đế, hoàn thiện việc thống nhất các lãnh thổ Phổ và tiếp tục thể hiện vai trò liệt cường của Vương quốc Phổ. Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, vùng Đông Phổ bị Nga chiếm đóng nhưng họ vẫn luôn chống Nga, trung thành với nhà vua; sau ngày nhà vua thắng trận, với cuộc chia cắt Ba Lan này, vùng Đông Phổ được giữ vững, hoàn toàn thoát khỏi mối lo sợ về việc quân Nga sẽ xâm lược trở lại. Giờ đây, với tư cách là Bá chủ của vùng Tây Phổ, ông mở được những vùng biên cương chiến lược của đất nước đến sông Wisla và sông Netze. Nhà vua xây nên kênh đào Bromberg cho đến sông Oder, giúp ông hòa nhập sông Wisla với các đường hàng hải nội địa của các lãnh thổ cũ của ông. Với những cuộc chinh phạt huy hoàng của ông, ông trở thành nhà chinh phạt nổi tiếng nhất của nước Phổ, và là vị thống soái kiệt xuất nhất trong thời đại của ông. Quân đội của ông tuy ít, nhưng nhờ kỷ luật và thiên tài của ông, dẫn đến một loạt chiến thắng oanh liệt trước liên quân chống Phổ.
Với một lực lượng Quân đội đầy danh tiếng, ảnh hưởng của nền quân sự nước Phổ còn ảnh hưởng đến nước Nga, nước Pháp và nước Áo láng giềng. Vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế - một trong những nhân vật phi thường của thế giới thời bấy giờ - vô cùng năng nổ trong việc xây dựng lực lượng Quân đội Phổ, ông cũng thường tiến hành duyệt binh, làm cho cả châu Âu phải bái phục. Người ta cũng mong muốn đến viếng thăm kinh thành Berlin, để chứng kiến tận mắt những Trung đoàn quân phục xanh đầy danh tiếng của ông. Cũng trong thời gian đó ông mở cửa biên giới Phổ cho những người chạy trốn khỏi áp bức tôn giáo ở các phần khác của châu Âu, như là người Huguenots. Ông thực hiện chính sách tự do tôn giáo và gia tăng quyền lợi của những người Do Thái trên đất Phổ. Vào năm 1750, ông ra Thánh chỉ phán rằng người Do Thái được quyền làm chủ các Trường học, Giáo đường và Nhà nguyện của họ. Ông thực Vương quốc Phổ trở thành một vùng đất hứa, giống như Hoa Kỳ với dân nhập cư đi tìm tự do trong thế kỉ 19. Trong khi Hoàng đế Áo Joseph II thất bại trong chính sách này, vị vua vĩ đại của nước Phổ đã thành công. Ông cũng xây một Tân Hoàng cung (Neues Palais) vô cùng hoành tráng ở thành phố Potsdam, thể hiện nền quân chủ Phổ sau khi giành chiến thắng trước liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1763), thể hiện những tham vọng của nhà vua và thực lực của nước Phổ đang trên đà lớn mạnh và phú cường, không thể nào bị cuộc Chiến tranh Bảy năm tàn phá. Hoàng cung lừng lẫy này được xây theo kiến trúc barốc. Với một loạt cung vua phủ chúa, thành phố Potsdam trở thành "Versailles trên đất Đức". Là nhân vật chủ chốt trong nền chính trị châu Âu thời bấy giờ, Quốc vương Friedrich II Đại Đế xưng hiệu "Đức Vua của Phổ" vào năm 1772, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong công cuộc giành độc lập của người Phổ khỏi Đế quốc La Mã Thần thánh.
Vua Friedrich Đại đế thực hành chủ nghĩa Khai sáng chuyên chế, với những thành công vang dội trong việc nội chính. Không những là một thiên tài quân sự, nhà ngoại giao kiệt xuất, ông là vị vua đưa nước Phổ trở nên thịnh vượng, trở thành vị bạo chúa "Khai sáng" hoàn hảo nhất trên lục địa châu Âu trong nửa sau thế kỷ XVIII, được nhân dân yêu mến. Tuy bạo ngược khi đối phó với ngoại bang, nhà vua đối xử hào phóng với muôn dân, trị vì giỏi và làm việc chăm chỉ, vì sự thịnh vượng của toàn dân nước Phổ. Bản thân ông cũng là một vị vua - triết gia, nhà văn, nhạc sĩ, nhà bảo trợ của khoa học và nghệ thuật; là một vị vua huy hoàng không kém vua Louis XIV của Pháp, ông cũng đồng thời là vị vua theo chủ nghĩa Khắc Kỷ. Với tư cách là một nhạc sĩ tài năng, ông thường chơi thổi sáo, ngay cả lúc chinh chiến. Là bạn thân đồng thời là độc giả của Voltaire, ông được gọi là "Friedrich Độc đáo", ông có vốn kiến thức uyên thâm, do suốt đời, ông rất thích đọc sách, và đam mê những tác phẩm của Fénelon, Descartes, Molière, Pierre Bayle, Boileau, Bossuet, Corneile, Racine, John Locke, Wolff, Gottfried Leibniz, Cicero, Julius Caesar, Lucian, Horace, Plutarch,v.v... và hàng trăm tác gia khác. Tuy có lúc tình bạn giữa nhà vua và Voltaire bị rạn nứt (1753), ông hồi phục lại qua những lá thư hết lời ca ngợi đại văn hào kiệt xuất này. Tuy là vị vua - chiến binh vĩ đại nhất của nước Phổ, ông cũng thể hiện niềm yêu hòa bình. Ngay từ năm 1745, sau chiến thắng trong hai cuộc chiến tranh Silesia, người chiến binh tham vọng này tuyên bố sẽ không đẩy châu Âu vào chiến tranh nữa. Vào năm 1749, ông phá tan tành một âm mưu gây chiến tranh Kế vị Thụy Điển của Nữ hoàng Nga Elizaveta Petrovna, nhờ vào phản ứng quyết đoán và năng nổ của ông. Giữa lúc cuộc Chiến tranh Kế vị Áo còn tiếp tục kéo dài cho đến năm 1748, với toàn thể các nước đều kiệt quệ, ông trị vì đất nước thái bình thịnh trị, trở thành một vị Quân vương sáng suốt, hiếu hòa và nhân đạo chủ nghĩa, bước vào thời đại hoàng kim của ông trong cung điện Sanssouci, nơi ông trở thành vô cùng gần gũi với nhân đạo chủ nghĩa và được mệnh danh là "Nhà triết học của khu Sanssouci". Đây là một công trình kiến trúc barôc do một người bạn hữu của nhà vua xây dựng. Cuộc Chiến tranh Bảy năm cũng hoàn toàn là một cuộc chiến tranh bảo vệ lãnh thổ và địa vị cường quốc của nước Phổ: Những nỗ lực, hy sinh và những chiến công anh hùng của ông đã mang lại niềm tự hào cho toàn thể dân tộc Đức về sự suy yếu của nước Pháp hùng mạnh, cũng như sức mạnh và tầm ảnh hưởng của nước Phổ vang xa với chiến thắng trong cuộc chiến tranh này (1763). Giữ cuộc chiến tranh, và sau chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bảy năm, ông vẫn tiếp tục lao đầu vào nghiên cứu các tác phẩm triết học, thơ ca, sử học, ví dụ như triết học Khắc Kỷ mà ông đam mê. Sau những năm tháng huy hoàng, trước khi mất, ông vẫn còn yêu thích cái nắng.
Không những là một ông vua cần cù siêng năng, ông còn đam mê âm nhạc. Là vị vua dẫn dắt nền văn hóa đồ sộ của nước nhà trở nên tiến bộ hơn, ông ví von mình với Moses trên bán đảo Sinai, và ông cũng giống như Moses vậy. Do văn võ song toàn, ông được xem là vị vua vĩ đại hơn cả Napoléon.
Là một Quân vương độc đoán, vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế hạn chế uy quyền của Thủ tướng Chính phủ Phổ là Bá tước Karl-Wilhelm Finck von Finckenstein - người làm quan đến cuối đời ông và luôn trung thành với ông. Ông đề ra bộ luật dân sự tổng quát, xóa bỏ hình thức tra tấn, thiết lập nguyên tắc Hoàng gia không can thiệp vào những vấn đề tư pháp. Ông cũng sáng lập hệ thống giáo dục "trung học" nâng cao, tiền thân của hệ thống các trường Grammar School ngày nay ở Đức, đào tạo những học sinh giỏi tương lai cho các trường đại học. Ông cũng biến kinh đô Berlin thành trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, giáo dục trên tòan cõi Phổ và cả Châu Âu. Ông còn tiến đánh Hoàng đế Áo là Joseph II trong cuộc Chiến tranh Kế vị Bayern (1778 - 1779), để buộc Hoàng đế Joseph II phải từ bỏ âm mưu xâm chiếm xứ Bayern. Hiệp định Teschen (1779) là một thắng lợi của ông, nước Áo phải từ bỏ xứ Bayern. Bước vào năm 1780, người chiến binh già này trở thành một trong những nhân vật duy nhất có tầm vóc anh hùng trên chính trường Âu châu.
Sau đó, vào năm 73 tuổi, ông lại còn đánh bại một âm mưu chiếm lĩnh xứ Bayern của liên minh Áo - Nga qua việc thiết lập "Liên minh các Vương hầu" (1785) thắng lợi, tiếp tục thể hiện vai trò cường quốc của Vương quốc Phổ. "Liên minh các Vương hầu" cũng là cống hiến cuối cùng của nhà vua nước Phổ đối với nền chính trị châu Âu và cả thế giới, đỉnh cao của những chiến thắng mà ông đạt được trong suốt cuộc đời ông, là một chiến thắng lừng lẫy đưa Vương quốc Phổ thoát khỏi sự đe dọa nguy hiểm nhất trong lúc đó. nâng cao thanh thế của nước Phổ. Là minh chủ của "Liên minh các Vương hầu", đây là lần đầu tiên nước Phổ hòng thống nhất các vua chư hầu người Đức thành một Đế chế Đức do Quốc vương nước Phổ thống trị. Lại một lần nữa, ông vươn lên thành vị quan thầy của những ai chống lại những âm mưu của Hoàng đế trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Tuy say mê văn hóa Pháp, vị vua vĩ đại này trở thành một vị anh hùng dân tộc của nước Đức vì những chiến thắng đáng nhớ của ông trước các đạo quân xâm lược đất Đức. Hoàng đế Joseph II phải bỏ cuộc, và việc thành lập Liên minh cho thấy vua Friedrich II Đại Đế - kẻ hủy diệt vĩ đại của Đế quốc La Mã Thần thánh - trầm mình trong ánh nắng hoàng hôn chói lọi của cuộc đời của một vị anh hùng dân tộc Đại Đức. Trước đây, Hoàng đế Joseph II đã từng thăm viếng ông và ca ngợi vị anh hùng này rất nhiều.
Dưới triều đại huy hoàng của ông, nước Phổ lên tới tột đỉnh hoàng kim. Với triều đại trị vì lâu dài đến 46 năm, ông đã mở mang lãnh thổ nước Phổ, quốc gia hùng mạnh này rộng lên gấp đôi. Ông đã đề xướng nhiều chính sách về nội trị, quân sự và ngoại giao đã truyền cảm hứng không nhỏ cho chủ nghĩa dân tộc, cũng như chủ nghĩa quân phiệt Phổ. Một năm sau thắng lợi với "Liên minh các Vương hầu", ông vua - chiến binh Friedrich II Đại Đế - vị minh chủ của Liên minh này - ngã bệnh qua đời (1786), để lại một nước Phổ hùng mạnh, sánh vai với Áo trong việc thống trị vùng Trung Âu. Trong suốt đời, ông luôn thể hiện một vị vua kỷ cương khắt khe, kỷ cương với cả bản thân mình, và là "một thiên tài đích thực xuất sắc nhất đã lên kế vị ngai vàng vào thời kỳ cận đại" - theo nhận định của nhà sử học người Anh là John Dalberg-Acton, Nam tước Acton thứ nhất (Huân tước Acton). Khi ông lên nối ngôi, nước Phổ là một nước yếu nhất trong các cường quốc châu Âu, nhưng với ông, nước Phổ sánh vai với mọi cường quốc trên toàn cõi châu Âu - đây là công lớn của ông. Chiến lược và những chiến thắng của người chiến binh vĩ đại xưa trước liên quân chống Phổ trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, tài năng của ông và bộ máy Chính phủ Phổ, sẽ còn được Hoàng đế Pháp Napoléon Bonaparte, đại thi hào người Đức Johann Wolfgang von Goethe, thi hào người Đức Christian Friedrich Daniel Schubart, nhà chính trị tự do chủ nghĩa nước Phổ Heinrich Friedrich Karl vom und zum Stein, Quốc trưởng Đức Quốc xã Adolf Hitler phải thán phục. Đương thời, các chính sách của vua Friedrich II Đại Đế và Chính phủ Phổ cũng luôn được vua xứ Torino thán phục. Là vị vua thắng trận trong mọi cuộc chiến tranh, ông được xem là một vị vua giỏi hơn cả vua Louis XIV và các vị vua nhà Bourbon của Pháp. Khác với vua Louis XIV, ông nói:
Sau khi thành công trong cuộc chia cắt Ba Lan lần thứ nhất (1772), vua Friedrich II Đại Đế - "nhân vật dẫn dắt của thế kỷ ông" - nhận thấy phần đất Ba Lan mà ông chiếm được đã lâm vào hỗn loạn nghiêm trọng. Ông thân hành thị sát khắp các vùng đất này, và xóa tan tình trạng này. Tuy Triều đình Phổ thống trị hà khác, ông đã mang lại cho phần đất này một cuộc sống tương đối phồn vinh. Có nhiều giai thoại nói về ông. Sự mến mộ ông trở thành di sản lâu dài nhất của phong trào yêu nước Phổ. Sau khi ông qua đời vào năm 1786, nền văn hóa Friedrich ăn sâu vào nhân dân Phổ, với lòng yêu quý nhà vua cực kỳ mãnh liệt. Ông ngự trị trên ngai cao trong suốt 46 năm - gần lâu bằng vị tiên liệt hiển hách của ông - "Tuyển hầu tước vĩ đại". "Friedrich Độc đáo" - một Quân vương đầy nghị lực và tài hoa, đã tự mình quyết chiếm tỉnh Silesia đã làm mê hoặc những người đương thời, và lôi cuốn những nhà sử học. Biết bao nhiêu người tưởng niệm vị vua quá cố, và nhiều nhà xuất bản cũng ca ngợi ông. Một tác phẩm ca ngợi ông thành công nhất, và nổi trội nhất là bản tóm tắt của nhà văn Friedrich Nicolai - một tác gia lừng danh của trào lưu Khai sáng tại chốn kinh kỳ Berlin. Ông là một trong số những thần dân Phổ còn sống sót cho đến cuối thập niên 1780, đối với họ, Quốc vương Friedrich II Đại Đế có lẽ luôn luôn ngự trên ngai cao. Ông là nhân chứng của cuộc Chiến tranh Bảy năm và công cuộc tái thiết đất nước của nhà vua sau năm 1763, và suy ngẫm về vị vua vinh quang, ông cho rằng, là để "học hỏi một nhân vật đúng đắn của Tổ quốc của một ai đó".
Với vua Friedrich II Đại Đế, một cường quốc Kháng Cách hùng mạnh của người Đức trỗi dậy mạnh mẽ, nên trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, Giáo hoàng Vatican đã thể hiện thái độ thù địch với nước Phổ. Thành công của vua Phổ là thất bại thảm hại nhất của Toà Thánh Rôma kể từ thời Thánh Martin Luther. Vào năm 1786, nước Phổ là quốc gia đông dân thứ 13, rộng lớn thứ 10 nhưng có Quân đội đông đảo thứ ba trên toàn cõi châu Âu. Chính nhờ một lực lượng Quân đội tinh nhuệ mà vua Friedrich II Đại Đế vẫn luôn giữ được thế mạnh của mình dù liên minh giữa ông với các cường quốc khác (Ví dụ: Nga) thường tan rã. Quân đội Phổ hùng mạnh đến mức mà một viên Sĩ quan phụ tá của nhà vua trong cuộc Chiến tranh Bảy năm là Georg Heinrich Berenhost phải để đời một câu nói đáng nhớ:
Lịch sử nước Phổ (1786 - 1850)
Sau khi vua Friedrich II Đại Đế qua đời, Vương quốc Phổ trở nên suy yếu, do không có những vị vua tài ba. Với bộ máy Chính phủ Phổ do ông gầy dựng nên, nước Phổ cần phải có một ông vua kiệt xuất như ông, và do không có những ông vua kiệt xuất như vậy, nước Phổ suy yếu. Do vua Friedrich II Đại Đế không có con, ông truyền ngôi cho người cháu gọi ông bằng bác là vua Friedrich Wilhelm II - một ông vua không sáng suốt và nhìn xa trông rộng như ông. Khác với bác của mình, Quốc vương Friedrich Wilhelm II đã thi hành chính sách phản động, phản cách mạng và bài bác Hội Tam Điểm. Ông vua phản động này đã tiến hành chính sách kiểm duyệt và để đám sủng thần lũng đoạn triều chính. Một thời kỳ lịch sử đã qua đi sau khi vua Friedrich II Đại Đế về cõi vĩnh hằng. Với sự kiện ấy, trào lưu Khai sáng xuống dốc nghiêm trọng trên đất Đức sau năm 1786, và cuối cùng cũng tan biến vào thập niên 1790. Vua Friedrich Wilhelm II trọng dụng một viên cận thần cực kỳ bảo thủ là Johann Christoph Wöllner - vốn đã bị tiên vương Friedrich II Đại Đế chê trách. Ông cũng sáp nhập thêm một phần Ba Lan qua các cuộc Phân chia của Ba Lan sau đó. Tuy mở rộng đáng kể bờ cõi nước Phổ, nhưng ông không có tài năng về chính trị và quân sự.
Ông trở thành một vị vua mất lòng dân. Người kế vị ông, vua Friedrich Wilhelm III (1797-1840) tuyên bố hợp nhất giáo hội Tin Lành dòng Luther Phổ và giáo hội Kháng Cách. Quốc vương Friedrich Wilhelm III không giỏi lắm, phải lệ thuộc vào các quan đại thần. Nước Phổ đóng vai trò đóng vai trò chủ đạo trong Chiến tranh Cách mạng Pháp. Tuy nhiên sau Hòa ước Basel năm 1795, Phổ im hơi lặng tiếng trong hơn một thập kỉ, chỉ tham chiến một lần nữa với Pháp vào năm 1806 khi thương lượng với Pháp về vùng ảnh hưởng của Phổ ở Đức đổ vỡ. Trong lúc này, những chiến công hiển hách của Quốc vương Friedrich II Đại Đế năm xưa, vẫn còn được ghi nhớ trong lòng muôn dân Đức. Trong trận Jena-Auerstedt, Quân đội Phổ bị quân Pháp của Napoléon Bonaparte đánh thất bại nặng nề, khiến cho vua Friedrich Wilhelm III (1797-1840) và Hoàng gia phải chạy sang Memel tạm thời lánh nạn. Tuy nền quân chủ Phổ đã gần như sụp đổ, họ vẫn chiến đấu với sự hỗ trợ của Đế quốc Nga. Một viên tướng tài năng là Gerhard von Scharnhorst cầm đầu đạo quân Phổ tại vùng Đông Phổ, với sự hỗ trợ của Quân đội Nga đông đảo hơn ông đã đánh Pháp trong trận Eylau bất phân thắng bại. Tuy nhiên, quân Pháp đánh tan tác Quân đội Nga trong trận Friedland (1807), buộc Nga hoàng Aleksandr I phải làm hòa, và liên minh Nga - Phổ yểu thọ chấm dứt. Vào năm đó, Hoàng đế Napoléon Bonaparte đến kinh thành Berlin và ca ngợi vị tiên vương Friedrich II Đại Đế. Không những Napoléon mà danh tiếng lẫy lừng của vị vua nước Phổ này cũng làm nhiều người Pháp khác thán phục.
Trong lịch sử nước Phổ, Pháo đài Kolberg nổi tiếng là đã hứng chịu đến năm cuộc vây hãm, nổi bật hơn cả là cuộc vây hãm của quân Pháp vào năm 1807. Tướng August Neidhardt von Gneisenau chống trả quyết liệt, với sự hỗ trợ của nhân dân yêu nước ông đã giam chân được quân Pháp. Cuộc chống trả của Gnesenau đã giành thắng lợi, do đó ông được ban Huy chương cao quý. Sau chiến công anh hùng này, ông nhiệt liệt hoan nghênh việc cải cách Quân đội Phổ, và trở thành một trong những viên chỉ huy xuất sắc nhất của Quân đội Phổ. Chiến công của Quân đội Phổ tại Kolberg đã được đưa lên màn ảnh nước Đức vào thời Đức Quốc xã sau này.
Với thất bại của Quân đội Nga tại Friedland, theo Hiệp ước Tilsit 1807, Vương quốc Phổ mất đi khoảng một nửa lãnh thổ, đặc biệt là các khu vực chiếm được từ các cuộc Phân chia Ba Lan thứ hai và thứ ba, các vùng này giờ thuộc về Đại công quốc Warsaw. Hơn thế nữa, vua Phổ buộc phải liên minh với Pháp và tham gia vào Hệ thống phong tỏa Lục địa. Đáp lại thất bại này, những Bộ trưởng chủ trương cải cách như Stein và Hardenberg tiến hành hiện đại hóa nước Phổ, bao gồm giải phóng nông dân khỏi chế độ nông nô, giải phóng và ban quyền công dân cho người Do Thái, thiết lập thể chế tự trị cho các đô thị. Hệ thống trường học được sắp xếp lại, và vào năm 1810 ban hành tự do thương mại. Quá trình cải cách quân đội hoàn thành vào năm 1813 với việc ban hành chế độ quân dịch.
Sau khi Napoléon thất bại ở Nga, nước Phổ rút khỏi liên minh với Pháp và tham gia vào Liên minh thứ 6 trong cuộc chiến tranh Giải phóng (Befreiungskriege) chống lại sự chiếm đóng của Pháp. Quân đội Phổ đóng vai trò quyết định trong chiến dịch năm 1813 giữa quân Pháp và Liên quân chống Phổ (Phổ, Áo, Nga, v.v...). Vào năm 1813, dù quân Pháp chiến đấu dũng cảm, quân Pháp giành chiến thắng kiểu Pyrros trước Quân đội Phổ trong trận Bautzen, và Quân đội Phổ giành chiến thắng trong trận Leipzig cùng năm đó. Vào năm 1814, Quân đội Phổ còn tiến đánh kinh thành Paris của Pháp, giành chiến thắng và vua Napoléon phải thoái vị. Vị Hoàng đế này trở vệ từ nơi lưu đày không lâu sau đó, và Quân đội Phổ dưới sự chỉ huy của Thống chế Gebhard Leberecht von Blücher góp phần quyết định trong chiến thắng Waterloo năm 1815, đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của Napoléon. Danh tiếng của nước Phổ lan truyền trên khắp cõi châu Âu. Tờ báo "Times" ở thủ đô Luân Đôn (Anh Quốc) có bình luận:
Chiến thắng trước Napoléon đã thể hiện chủ nghĩa anh hùng của dân tộc Phổ, mang lại cho đất nước sự huy hoàng chẳng khác gì nhân dân Hy Lạp khi đập tan tác quân Ba Tư của Hoàng đế Xerxes I. Thống chế Gebhard Leberecht von Blücher vốn là một chiến binh Thụy Điển trong Chiến tranh Bảy năm, bị Quân đội Phổ bắt sống và gia nhập trong lực lượng Kỵ binh nhẹ xuất sắc của vị vua vĩ đại Friedrich II Đại Đế và phò tá đắc lực trong những năm tháng huy hoàng của vị vua này. Ông từng là một trong những viên Sĩ quan xuất sắc nhất của nước Phổ. Chiến thắng tại Waterloo trở thành một những trận thắng lẫy lừng trong lịch sử Quân đội Phổ, cùng với những trận chiến tại Rossbach, Leuthen hay Leipzig. Tại Hội nghị Viên 1815, để thưởng công cho Phổ, Phổ được thu lại các lãnh thổ đã mất, cũng như được thêm toàn bộ vùng Rhineland, Westphalia và một số vùng đất khác. Những vùng đất phía tây có tính chất sống còn với Phổ, bởi vì chúng bao gồm vùng Ruhr, trung tâm công nghiệp non trẻ của Đức, đặc biệt là công nghiệp quân sự. Những vùng đất mới được sáp nhập này làm tăng gấp đôi dân số Phổ. Để đổi lại, Phổ rút khỏi khu vực trung tâm Ba Lan để thành lập Liên hiệp Ba Lan (Congress Poland) dưới quyền cai quản của Nga. Phổ nổi lên từ sau cuộc Chiến tranh Napoléon như là bá chủ của Đức, làm lu mờ đối thủ lâu đời là Áo, nước đã chịu mất địa vị Hoàng đế Đức năm 1806. Kể từ năm 1815, Phổ trở thành một thành viên của Liên minh các quốc gia Đức.
Nửa đầu của thế kỉ thứ 19 chứng kiến cuộc đấu tranh dai dẳng trong nước Đức giữa những người theo chủ nghĩa tự do muốn một có liên bang Đức thống nhất dưới một hiến pháp dân chủ, và những người theo chủ nghĩa bảo thủ, muốn duy trì nước Đức như là một tập hợp chắp vá bởi các tiểu quốc quân chủ độc lập, với Phổ và Áo tranh giành ảnh hưởng. Do Phổ có ưu thế về lãnh thổ và dân số nên các tiểu quốc Đức bắt đầu gia nhập vùng tự do kinh tế do Phổ lập ra vào năm 1820. Phổ được hưởng rất nhiều lợi ích từ việc lập ra Liên hiệp Thuế quan Đức (Zollverein), bao gồm hầu hết các tiểu quốc Đức, ngoại trừ Áo. Quốc vương Friedrich Wilhelm III từng hứa hẹn sẽ ban hành Hiến pháp, nhưng đến khi ông qua đời vào năm 1840 thì lời hứa này vẫn không được thực hiện. Những người có tư tưởng tiến bộ và chủ nghĩa tự do trên khắp Vương quốc sẽ còn gửi gắm hy vọng vào tân vương Friedrich Wilhelm IV. Quốc vương Friedrich Wilhelm IV lên ngôi vua lúc đã 45 tuổi. Ông là một người khó hiểu, kể cả đối với những người đương thời rất am hiểu về ông. Khác với các bậc tiên vương Friedrich II Đại Đế, Friedrich Wilhelm II và Friedrich Wilhelm III đều được nuôi dạy dưới tinh thần và những giá trị của trào lưu Khai sáng. Ngược lại, vua Friedrich Wilhelm IV được dạy dỗ bởi các danh sĩ của chủ nghĩa lãng mạn.
Ông trở thành một vị vua lãng mạn bảo thủ, ông tin vào thần quyền của Nhà vua. Ông thi hành chính sách phản động, chống cải cách. Ông là một trong những người đã tạo ra một tinh thần bảo thủ ở châu Âu từ sau làn sóng Cách mạng năm 1848 cho đến khi chế quân chủ Đức sụp đổ vào năm 1918. Vào năm 1848 những người theo chủ nghĩa tự do có một cơ hội khi các cuộc cách mạng bùng nổ khắp châu Âu. Vua Friedrich Wilhelm IV đã đồng ý triệu tập Quốc hội và thông qua một bản Hiến pháp. Khi Quốc hội Frankfurt phong Friedrich Wilhelm IV làm hoàng đế của một nước Đức thống nhất, ông từ chối với lý do ông không thể nhận vương miện từ Quốc hội lập ra từ cách mạng mà không được sự ủng hộ của các hoàng gia Đức khác.
Quốc hội Frankfurt bị buộc phải giải tán vào năm 1849, và vua Friedrich Wilhelm IV sử dụng quyền lực của mình để ban hành hiến pháp đầu tiên của Phổ vào năm 1849. Bản Hiến pháp bảo thủ này cho phép lập ra hai Nghị viện. Hạ nghị viện, hay Landtag, được bầu ra bởi tất cả những công dân có khả năng đóng thuế. Những người này được chia làm 3 giai cấp, và trọng lượng lá phiếu phụ thuộc vào số tiền họ đóng thuế. Phụ nữ và những người không có khả năng đóng thuế không có quyền bầu cử. Quy định này khiến cho một phần ba số cử tri có thể chọn ra đến 85% số nghị viên, về thực chất là đảm bảo sự thống trị của những người giàu có trong xã hội. Thượng viện, sau được đổi tên là Herrenhaus (tức "Viện Nguyên Lão"), được chỉ định bởi nhà vua. Nhà vua có toàn quyền hành pháp, và các bộ trưởng chỉ phải chịu dưới quyền nhà vua. Kết quả là sự thống trị của giai cấp lãnh chúa, được gọi là Junker, được bảo đảm nguyên vẹn, nhất là ở các tỉnh miền đông.
Bên cạnh những chính sách bảo thủ, Quốc vương Friedrich Wilhelm IV cũng có chút ít đóng góp đối với nền văn hóa phương Tây, ông tích cực khuyến khích khoa học phát triển ở các Trường Đại học. Nhà vua cũng hạ lệnh cho xuất bản một loạt tác phẩm của tiên vương Friedrich II Đại Đế, từ năm 1846 cho đến năm 1857. Trong thời kỳ này, một họa sĩ tỉnh Silesia là Adolf Menzel có vẽ một loạt bức tranh về vua Friedrich II Đại Đế, ví dụ như "Vua Friedrich Đại Đế trong những chuyến thị sát" (1854). Ông trở thành một trong những họa sĩ vĩ đại nhất của người Đức, ảnh hưởng đến nhiều họa sĩ đương thời. Quốc vương Friedrich II Đại Đế và chủ nghĩa anh hùng của ông ảnh hưởng vô cùng lớn đến nước Đức thời đó.
Chiến tranh thống nhất nước Đức
Vào năm 1862 Vua Wilhelm I bổ nhiệm Otto von Bismarck làm Thủ tướng Phổ. Bismarck quyết tâm đánh bại cả những người theo trường phái tự do và trường phái bảo thủ bằng cách tạo ra một nước Đức thống nhất hùng mạnh, dưới sự lãnh đạo của giai cấp thống trị Phổ và hệ thống quan chức, chứ không phải do những người theo chủ nghĩa dân chủ tự do. Ông cho rằng vua Phổ chỉ có thể nhận được sự ủng hộ của nhân dân nếu ông đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh thống nhất nước Đức. Vì thế Bismarck đã dẫn dắt nước Phổ qua ba cuộc chiến tranh để đưa vua Wilhelm I lên ngôi Hoàng đế Đức.
Chiến tranh Schleswig
Vương quốc Đan Mạch vào thời gian đó liên hiệp trực tiếp với các công quốc Schleswig và Holstein, cả hai công quốc này đều có các mối liên hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên chỉ có Holstein thuộc về Liên minh các quốc gia Đức (German Confederation). Chính quyền Đan Mạch ở Copenhagen muốn sáp nhập Schleswig vào Đan Mạch nên đã làm bùng nổ cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ nhất (1848-1851), với Phổ lãnh đạo Liên minh các quốc gia Đức chống lại Đan Mạch. Mặc dù về mặt quân sự, Đan Mạch bị thất bại, nhưng các đế quốc Âu châu làm áp lực buộc Phổ phải trao trả Schleswig và Holstein về cho Đan Mạch, đổi lại Đan Mạch phải hứa sẽ không tìm cách sáp nhập Schleswig nữa. Phổ cũng mất vị thế lãnh đạo trong Liên minh các quốc gia Đức cho Áo trong Thỏa ước Olmütz vào năm 1850, vì Nga lúc đó ủng hộ Áo.
Năm 1863, Đan Mạch ban hành một hiến pháp chung cho cả Đan Mạch và Schleswig. Việc này làm nổ ra một cuộc xung đột mới với Liên minh các quốc gia Đức, khiến Liên minh phê chuẩn chiếm đóng Holstein, còn quân Đan Mạch phải rút khỏi vùng đất này. Năm 1864, quân Áo-Phổ vượt biên giới Holstein và Schleswig, làm nổ ra cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai. Quân Áo-Phổ đánh bại quân Đan Mạch, buộc Đan Mạch phải chịu mất cả hai vùng đất này. Theo Thỏa ước Gastein ký kết năm 1865, Phổ chịu trách nhiệm quản lý Schleswig, còn Holstein là trách nhiệm của Áo.
Chiến tranh Áo-Phổ
Bismarck nhận ra rằng cơ chế quản lý kép Schleswig và Holstein chỉ là một giải pháp tình thế, đồng thời sự căng thẳng cũng tăng dần lên giữa Phổ và Áo. Nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh Áo-Phổ (1866) là sự tranh chấp ngôi bá chủ nước Đức giữa Áo và Phổ, sự bất đồng về Schleswig và Holstein chỉ là ngòi lửa thổi bùng cuộc chiến tranh.
Đứng về phía nước Áo là những bang miền nam (bao gồm Bavaria và Württemberg), một số bang miền trung và lãnh địa Hannover ở miền bắc nước Đức; về phía Phổ là đa phần các bang phía bắc nước Đức, một số tiểu bang miền trung và Ý. Quân Phổ được vũ trang tốt hơn hẳn quân Áo, dưới quyền chỉ huy của đại tướng Helmuth von Moltke đã đánh thắng trận chiến quyết định Königgrätz. Nước Áo thua trận, mất quyền bá chủ vào tay nước Phổ và phải rời Liên minh các quốc gia Đức. Trong khi năm xưa vua Friedrich II Đại Đế giành chiến thắng là nhờ lòng dũng cảm và tài năng của chính ông, Thủ tướng Bismarck sẽ không thành công trong sự nghiệp dài lâu của mình nếu không có Đại tướng Helmuth von Moltke. Bismarck chủ trương liên minh với Áo trong tương lai, nên không đặt bất kỳ yêu sách lãnh thổ nào lên Đế quốc Áo. Hòa ước Praha năm 1866 mang lại cho nước Phổ các vùng đất vốn là đồng minh của Áo như Vương quốc Hannover, vùng Hesse-Kassel, Công quốc Nassau, thành phố Frankfurt, toàn bộ miền Schleswig-Holstein, và như vậy đã giúp kết nối tất cả vùng đất thuộc Phổ. Cùng năm, Liên minh các quốc gia Đức giải tán và được thay thế bằng Liên bang miền bắc Đức gồm Phổ và 26 tiểu bang khác vào năm sau.
Thoạt tiên chỉ là một liên minh quân sự, các thành viên của liên minh chấp thuận một hiến pháp cho phép Phổ có một vai trò lãnh đạo trên toàn liên minh, và thực tế là Phổ chiếm tới bốn phần năm diện tích và dân số liên minh. Bản hiến pháp mới được thảo bởi Bismarck là tiền đề cơ bản cho Hiến pháp Đế chế Đức sau này. Nhà vua Phổ và Thủ tướng Phổ trở thành Tổng thống và Thủ tướng của Liên minh miền bắc Đức. Tổng thống có quyền lực hành pháp và chức vị này được dành riêng cho Hoàng gia Hohenzollern trị vì nước Phổ. Dưới Tổng thống là thủ tướng và hai viện. Hạ nghị viện được bầu bằng hình thức phổ thông đầu phiếu, còn Thượng viện, có nhiều quyền lực hơn, được chọn ra bởi thủ hiến các bang. Phổ nắm 17 trong số 43 ghế Thượng viện và có khả năng kiểm soát Thượng viện dễ dàng thông qua liên minh với các bang khác.
Theo kết quả đàm phán hòa bình, các bang miền nam Đức về nguyên tắc vẫn giữ được nền độc lập của mình, được nước Phổ "bảo hộ". Thêm vào đó, các liên minh phòng ngự tương hỗ được ký kết, nhưng Bismarck giữ bí mật về các liên minh này cho tới tận năm 1867, khi nước Pháp định sáp nhập Luxemburg.
Chiến tranh Pháp-Phổ
Cuộc tranh cãi với Đế chế thứ hai (Pháp) về một ứng cử viên của dòng tộc Hohenzollern cho ngai vàng nước Tây Ban Nha bị cả phía Pháp và Bismarck làm cho trở nên gay gắt bởi với sự kiện "bức điện tín từ Ems", nhân việc Đại sứ Pháp tiếp kiến vua Wilhelm của Phổ. Triều đình Napoléon III kỳ vọng một cuộc nội chiến sẽ nổ ra giữa các tiểu quốc Đức, tuyên chiến với Phổ như để kế tiếp sự thù nghịch truyền thống Pháp-Đức. Trung thành với các hiệp ước đã ký với Phổ, các tiểu quốc Đức liên hợp lực lượng với Phổ và nhanh chóng đánh bại Pháp trong cuộc chiến tranh Pháp-Phổ năm 1870. Sau chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Bismarck và nước Phổ, các tiểu quốc Đức như Baden, Württemberg, Bavaria, Mecklenburg, và Saxony chấp thuận gia nhập Đế quốc Đức thống nhất.
Nước Áo, do tiếp tục liên kết với Hungary, nên không gia nhập Đế quốc, và như vậy giải pháp nước Đức nhỏ, tức là một liên minh Đế quốc Đức không bao gồm nước Áo hình thành. Ngày 18 tháng 1 năm 1871, nhân dịp 170 năm lễ đăng quang của Friedrich đệ nhất nước Phổ, vua Wilhelm I của Phổ đăng quang như một Hoàng đế người Đức (chứ không phải là Hoàng đế nước Đức) trong đại sảnh Hall of Mirror tại Lâu đài Versailles, ngoại vi Paris, trong lúc thủ đô của Pháp vẫn đang bị quân Đức bao vây.
Đế chế Đức
Hoàng đế Wilhelm I được lòng thần dân Đức, và cả Thủ tướng Bismarck. Sau khi ông qua đời vào năm 1888, Hoàng đế Friedrich III lên nối ngôi. Khoảng thời gian hai thập niên kế tiếp sự thống nhất nước Đức là thời kỳ hoàng kim của nước Phổ. Nếu như nước Phổ tiếp tục có được những nhà lãnh đạo tầm cỡ như Bismarck thì quyền lực kinh tế và chính trị của Phổ có lẽ đã có thể biến nó thành trung tâm của nền văn minh châu Âu một cách hòa bình.
Hoàng đế Friedrich III có lẽ cũng là một ông vua tài năng. Khi còn ở ngôi Thái tử, ông đã thống lĩnh Quân đội Phổ trong những cuộc chiến tranh 1866 - 1871 để gần gũi hơn với thần dân. Ông tin tưởng vào chủ nghĩa tự do và Hiến pháp. Do Thủ tướng Bismarck đã củng cố cho các thế lực bảo thủ thật quá hùng mạnh, người ta tin tưởng vào vị tân Hoàng đế sẽ đem lại chủ nghĩa tự do cho muôn dân. Có lẽ đây là một trong những mong ước cuối cùng về chủ nghĩa tự do ở nước Đức. Tuy nhiên, ông bị lâm trọng bệnh chỉ sau khi lên ngôi được có 99 ngày vào năm 1888. Trong suốt triều đại ngắn ngủi của ông, Thủ tướng Bismarck vẫn điều hành Chính phủ Đức. Ông cưới Công chúa Victoria, con gái đầu lòng của Nữ hoàng Victoria của Anh, nhưng cậu con trai đầu lòng Wilhelm của họ bị tổn thương thể xác từ khi sinh ra, và có thể còn bị tổn thương trí tuệ nữa.
Tới năm 29 tuổi, Wilhelm lên ngôi vua, trở thành Wilhelm II. Trước đó, ông từng trải qua một thời niên thiếu đầy khó khăn và xung đột với mẹ. Ông trở nên một người thiếu kinh nghiệm sống, thiển cận và hết sức bảo thủ, thiếu óc phán đoán, nhiều lúc rất xấu tính, làm cho cho bạn bè và đồng minh dần xa lánh. Mặc dù, hoặc có lẽ vì là họ hàng gần của dòng họ Windsor nước Anh và dòng họ Romanov nước Nga, mà William trở thành địch thủ, và cuối cùng là kẻ thù không đội trời chung của họ.
Sau khi sa thải Bismarck, người kiến tạo nên các liên minh, vào năm 1890, Wilhelm bắt tay vào một kế hoạch quân sự đầy phiêu lưu, khiến cho nước Đức trở nên cô lập. Nhà vua cũng đưa nước Đức đạt đến đỉnh cao về sức mạnh và công nghệ, và xây dựng một lực lượng Hải quân hùng hậu thứ hai trên toàn thế giới. Việc hoàng đế Wilhelm đánh giá sai cuộc xung đột với Serbia và sự tổng động viên gấp rút của các quốc gia châu Âu đã dẫn đến thảm họa Chiến tranh thế giới thứ nhất. Để rút khỏi chiến tranh, những người Bolshevik Nga phải chấp nhận cái giá mất một phần lãnh thổ miền Tây của đế quốc Nga, trong đó có một vài vùng giáp gianh với Phổ, cho nước Đức theo Hòa ước Brest-Litovsk vào năm (1918). Nước Đức tuy nhiên chỉ kiểm soát các vùng lãnh thổ đó được vài tháng, vì quân đội Đức bị quân Hiệp ước đánh bại và Cách mạng Đức bùng nổ.
Quốc gia Phổ Tự do trong khuôn khổ Cộng hòa Weimar
Sau cuộc Cách mạng Đức vào năm 1918, hoàng đế Wilhelm II phải thoái vị. Phổ được tuyên bố là một nước "Tự do" độc lập (tiếng Đức: Freistaat, Cộng hòa) thuộc Cộng hòa Weimar vừa được thành lập, và tới năm 1920 thiết lập hiến pháp dân chủ.
Tất cả các vùng lãnh thổ mà Đức bị mất trong Hòa ước Versailles nguyên đều thuộc về Phổ: bao gồm vùng Alsace-Lorraine về Pháp, Eupen và Malmedy về Bỉ; Bắc Schleswig về Đan Mạch, lãnh thổ Memel đưa về Litva; khu vực Hultschin sang Tiệp Khắc. Các khu vực rộng lớn mà Phổ đã sáp nhập trong cuộc Chia cắt Ba Lan, như là các tỉnh Posen và Tây Phổ, cũng như vùng phía đông của Thượng Silesia về Cộng hòa Ba Lan thứ II. Danzig trở thành Thành phố tự do Danzig dưới quyền quản lý của Hội Quốc Liên. Ngoài ra, vùng Saar mới được thành lập cũng gồm chủ yếu các lãnh thổ cũ của Phổ.
Vì Phổ bị mất các lãnh thổ này, nên cũng như trước khi có cuộc "Chia cắt Ba Lan", Phổ không còn một hành lang nối liền Đông Phổ và phần còn lại của nước Đức. Để đến được Đông Phổ người ta phải dùng đường thủy ("Dịch vụ đường biển Đông Phổ") hoặc bằng hành lang Ba Lan.
Chính phủ Đức nghiêm túc xem xét khả năng tách nước Phổ thành nhiều tiểu bang, nhưng cuối cùng các tư tưởng truyền thống thắng thế và nước Phổ trở thành một "Nước Phổ tự do" (Freistaat Preußen), và là bang lớn nhất nằm trong Cộng hòa Weimar - chiếm tới 60% lãnh thổ. Từ khi các đặc quyền cũ của Phổ bị xóa bỏ, cộng với sự kết hợp với các vùng có đông đảo giai cấp lao động như khu công nghiệp Ruhr và vùng "Berlin đỏ", Phổ trở thành thành trì của phe cánh tả, được cai quản bởi một liên minh của Đảng Xã hội Dân chủ Đức và Đảng Công giáo Trung lập trong suốt những năm của thập niên 1920.
Từ năm 1919 đến năm 1932, liên minh của Đảng Dân chủ Xã hội, Công giáo Trung lập, và Đảng Dân chủ Đức nắm quyền điều hành nước Phổ; từ 1921 đến 1925 các chính phủ liên minh bao gồm cả Đảng Nhân dân Đức. Không giống như các bang khác trong Liên bang Đức, chính quyền của các đảng phái dân chủ, chiếm đa số ở Phổ, không bao giờ bị lâm vào khủng hoảng. Tuy vậy ở vùng Đông Phổ và các khu vực công nghiệp, Đảng Quốc gia Xã hội Đức, tức đảng Nazi, của Adolf Hitler có ảnh hưởng ngày càng mạnh và có nhiều người ủng hộ, đặc biệt là từ các thành phần trung lưu nghèo và các thành phần lao động ở tầng lớp hạ lưu. Ngoại trừ vùng Thượng Silesia của Phổ theo Giáo hội Công giáo Rôma, đảng Nazi tới năm 1932 trở thành đảng lớn nhất ở Phổ. Tuy nhiện, các đảng phái dân chủ gom lại vẫn chiếm đa số, trong khi những người cộng sản và phát xít ở phe đối lập.
Otto Braun người Đông Phổ, nguyên Tổng thống-Thủ tướng Phổ liên tục từ năm 1920 đến năm 1932, được xem như là một trong những thành viên đảng Xã hội Dân chủ có năng lực nhất trong lịch sử. Ông, cùng với Bộ trưởng Nội vụ Carl Severing đã thi hành một số cải cách hợp thời, sau này là khuôn mẫu cho nước Cộng hòa Liên bang Đức. Chẳng hạn như, ông đặt ra "bỏ phiếu bất tín nhiệm có tính xây dựng" để chỉ cho phép bãi nhiệm Thủ tướng nếu có một đa số chắc chắn bỏ phiếu người kế nhiệm. Bằng cách này chính quyền của nhà nước Phổ có thể tồn tại nếu là không có một "đa số cấp tiến" mới đủ mạnh để thách thức chính phủ. Nhìn tổng thể, đa số các sử gia cho rằng nhà nước Phổ vào thời gian này thành công hơn nhà nước Đức.
Khác với hình ảnh quân phiệt trước chiến tranh, Phổ là trụ cột nền dân chủ của Cộng hòa Weimar. Chính thể này chỉ bị sụp đổ sau cuộc "đảo chính" của Thủ tướng Liên bang Đức (Reich Chancellor) Franz von Papen. Trong cuộc đảo chính này, Chính quyền Liên bang (Reich) giải tán nhà nước Phổ vào ngày 20 tháng 7 năm 1932, dưới cớ là Chính quyền Phổ đã không còn kiểm soát được an ninh (sự kiện ngày Chủ nhật Đẫm máu ở Altona, Hamburg). Papen tuyên bố là Ủy viên Liên bang tại Phổ và tự nắm lấy chính quyền. Cuộc đảo chính khiến cho mọi việc càng trở nên dễ dàng hơn cho Adolf Hitler, khi ông ta chiếm toàn bộ bộ máy chính quyền Phổ, bao gồm cả lực lượng cảnh sát chỉ nửa năm sau.
Nước Phổ chấm dứt
Sau khi Hitler được bổ nhiệm làm Quốc trưởng mới, phe Quốc xã nhân cơ hội Franz von Papen vắng mặt để bổ nhiệm Hermann Göring chức Ủy viên Liên bang cho Bộ nội vụ của Phổ. Cuộc bầu cử Reichstag vào ngày 5 tháng 3 năm 1933 củng cố thêm sức mạnh của Đảng Quốc xã, mặc dù họ không chiếm được đa số tuyệt đối.
Vì Nhà quốc hội Đức (Reichstag) đã bị đốt cháy một vài tuần trước đó, trụ sở Reichstag mới được mở ở nhà thờ Garnisonkirche tại Potsdam vào 21 tháng 3 năm 1933 với sự hiện diện của Tổng thống Paul von Hindenburg. Trong một cuộc gặp mang tính tuyên truyền giữa Hitler và NSDAP, "đám cưới của nước Phổ cũ và nước Đức mới" được ăn mừng để lấy lòng những thành phần bảo hoàng Phổ, thành phần bảo thủ, và những người theo chủ nghĩa quốc gia và vận động họ bỏ phiếu thông qua Đạo luật Cho quyền.
Nhà nước tập quyền tạo ra bởi đảng Nazi theo "Luật tái thiết Đế chế ("Gesetz über den Neuaufbau des Reiches", ngày 30 tháng 1 1934) và "Luật các Thống đốc Liên bang" ("Reichsstatthaltergesetz", 30 tháng 1 1935), các bang trên thực tế bị giải thể. Chính phủ Liên bang được điều hành bởi các thống đốc được chỉ định bởi Quốc trưởng. Song song đó, tổ chức của đảng trong các quận (Gau) trở nên ngày càng quan trọng, viên chức chịu trách nhiệm một quận (biệt danh Gauleiter) cũng được chỉ định bởi Quốc trưởng, là người đứng đầu của đảng NSDAP.
Trong nước Phổ chính sách này còn được tiếp tục xa hơn nữa. Từ năm 1934 hầu hết các bộ được hợp nhất và chỉ còn một vài bộ là còn giữ được tính độc lập. Hitler chính thức trở thành Toàn quyền Phổ, tuy nhiên các trách nhiệm của ông ta được thực hiện bởi Hermann Göring, với tư cách là Thủ tướng Phổ.
Theo "Luật Đại Hamburg" ("Groß-Hamburg-Gesetz"), một số vùng lãnh thổ được chuyển đổi. Phổ được mở rộng vào 1 tháng 4 1937, chẳng hạn, bằng việc sự sáp nhập Thành phố Tự do Hanseatic Lübeck.
Các vùng đất của Phổ bị chuyển giao cho Ba Lan sau hòa ước Versailles lại được sáp nhập trở lại trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945). Tuy vậy, đa số các vùng này không được nhập lại vào Phổ mà được gán cho một vùng Gaue riêng của nước Đức Quốc xã.
Trong suốt cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền văn hóa Friedrich hãy còn ảnh hưởng đến chính quyền Đức Quốc xã. Vua Friedrich II Đại Đế luôn được Adolf Hitler so sánh với ông ta. Bản lĩnh anh hùng của nhà vua đã cho thấy một lịch sử hùng mạnh của nước Phổ. Trong những thời khắc khó khăn cuối cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai, ông luôn luôn mang theo bức chân dung vua Friedrich II Đại Đế do họa sĩ Graff vẽ, và ông ta cho rằng, bức tranh này đã giúp cho ông ta trở nên tự tin hơn trong những khi nghe tin dữ. Tuy nhiên, nhà sử học vĩ đại người Đức là Gerhard Ritter phản đối. Khi Adolf cho rằng mình là kẻ thừa kế của nước Phổ trong Ngày lễ Potsdam vào năm 1933, nhà sử học Gerhard Ritter cho rằng, đây là sự xuyên tạc lịch sử. Ông liền viết một cuốn tiểu sử được đánh giá rất cao về vị vua anh hùng - Khắc Kỷ Friedrich II Đại Đế, qua đó ông chỉ trích Hitler bằng việc ghi nhận về những tham vọng chiến tranh có hạn chế của nhà vua, đồng thời, vị vua anh minh gắn bó với trào lưu Khai sáng, khác với trùm phát xít Hitler bạo ngược.
Cùng với sự chấm dứt của Đảng Quốc gia Xã hội vào năm 1945 là sự phân chia lãnh thổ Đức thành nhiều vùng tạm chiếm. Các vùng phía đông của đường biên Oder-Neisse (bao gồm Silesia, Ngoại Pomerania, Đông Brandenburg, và nam Đông Phổ) thì rơi vào tay Ba Lan, còn một phần ba phía bắc của Đông Phổ, bao gồm cả Königsberg (sau đổi thành Kaliningrad) thì về tay Liên Xô). Ngày nay Kaliningrad Oblast vẫn là một vùng lãnh thổ hải ngoại của Nga, nằm kẹp giữa Litva và Ba Lan. Có khoảng 10 triệu người Đức đã bị trục xuất khỏi những vùng đất này như là một phần của cuộc di tản của người Đức khỏi Đông Âu.
Điều luật số 46 ra ngày 25 tháng 2 năm 1947 của Hội đồng cai quản quân Đồng minh chính thức tuyên bố giải tán những phần còn lại của nước Phổ. Vùng tạm chiếm của quân đội Liên Xô trở thành Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) vào năm 1949; những vùng đất Phổ khi trước được tổ chức lại thành các bang Brandenburg và Saxony-Anhalt, với những phần còn lại của tỉnh Pomerania được giao về cho Mecklenburg-Tây Pomerania. Những bang này đã bị giải tán vào năm 1952 để trở thành các quận, nhưng được tái lập sau khi chính quyền cộng sản sụp đổ vào năm 1990.
Phần lãnh thổ phía tây bị quân Đồng minh chiếm đóng trở thành Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) vào năm 1949. Các lãnh thổ cũ của Phổ được chia cho các bang Bắc Rhine-Westphalia, Hạ Saxony, Hesse, Rhineland-Palatinate, và Schleswig-Holstein. Các vùng Württemberg-Baden và Württemberg-Hohenzollern sáp nhập với Baden tạo ra bang Baden-Württemberg.
Sau khi Liên bang Xô Viết tan rã, một số lượng nhỏ người gốc Đức từ Kazakhstan đã bắt đầu định cư tại vùng Kaliningrad của Liên bang Nga, vốn là phần phía bắc của Đông Phổ. Đó là một phần của làn sóng nhập cư vào khu vực này, trước đó là một khu vực cấm. Vào khoảng 2005, khoảng 6.000 (0,6% dân số) là dân gốc Đức sống ở đây, đa số từ các vùng khác của Nga.
Sau sự thống nhất nước Đức vào năm 1990 một kế hoạch được đưa ra để sáp nhập các bang Berlin và Brandenburg. Mặc dù một số người đề nghị tên của bang mới này là "Prussia", tức Phổ, nhưng không có cái tên nào được chọn, và bang có lẽ sẽ được gọi là "Berlin-Brandenburg" hoặc "Brandenburg". Tuy vậy sự sáp nhập này đã bị bác bỏ vào năm 1996 trong cuộc trưng cầu dân ý, bởi đa số cử tri ở Tây Berlin. Cũng sau khi nước Đức thống nhất, thi hài của ông vua lừng lẫy Friedrich II Đại Đế (vốn từng được mai táng ở Nhà thờ Công sự (Potsdam) trước khi Nhà thờ bị phá hủy trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai) được đưa về Cung điện Sanssouci mà mai táng vào tháng 8 năm 1991, theo ước muốn của ông, là chôn cất ông cùng với những chú chó săn thỏ của ông, sau biết bao biến cố lịch sử. |
Lệ Thủy là một huyện thuộc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Lệ Thủy nằm ở phía nam của tỉnh Quảng Bình, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp Biển Đông với đường bờ biển dài 30 km
Phía tây giáp nước bạn Lào với đường biên giới dài khoảng 42 km
Phía nam giáp huyện Hướng Hóa và huyện Vĩnh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị
Phía bắc giáp huyện Quảng Ninh.
Huyện Lệ Thủy có diện tích 1.402 km², dân số năm 2019 là 137.831 người, mật độ dân số đạt 98 người/km².
Diện tích tự nhiên của huyện Lệ Thủy là 142.052 ha. Phía tây là dãy Trường Sơn, địa hình dốc theo hướng đông với vùng núi, đồi, có suối nước khoáng Bang với nguồn nước khoáng đang được khai thác làm nơi nghỉ dưỡng và làm nước uống đóng chai. Ở giữa là một dải đồng bằng hẹp hai bên bờ sông Kiến Giang. Ven biển là một dải cồn cát trắng. Vùng biển của huyện Lệ Thủy là những bãi cát trắng, nước biển sạch. Hiện đã có bãi tắm tại Ngư Thủy được đưa vào khai thác.
Lệ Thủy nổi tiếng với sông Kiến Giang, khu nghỉ mát suối nước khoáng Bang, văn hóa đặc trưng Hò khoan Lệ Thủy, trong đó có điệu hò khoan chèo đò, hò giã gạo. Hằng năm, vào ngày 2 tháng 9, được người dân gọi là Tết Độc Lập, nơi đây diễn ra đua thuyền truyền thống. Ngày 27 tháng 8 năm 2019, Bộ trưởng VH-TT-DL ký quyết định công bố danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia cho Lễ hội đua, bơi thuyền trên sông Kiến Giang.
Hành chính
Huyện Lệ Thủy có 26 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Kiến Giang (huyện lỵ), Nông trường Lệ Ninh và 24 xã: An Thủy, Cam Thủy, Dương Thủy, Hoa Thủy, Hồng Thủy, Hưng Thủy, Kim Thủy, Lâm Thủy, Liên Thủy, Lộc Thủy, Mai Thủy, Mỹ Thủy, Ngân Thủy, Ngư Thủy, Ngư Thủy Bắc, Phong Thủy, Phú Thủy, Sen Thủy, Sơn Thủy, Tân Thủy, Thái Thủy, Thanh Thủy, Trường Thủy, Xuân Thủy.
Lịch sử
Trong Chiến tranh Việt Nam, Lệ Thủy là chiến trường ác liệt với mật độ bom rải thảm của không quân Mỹ với mật độ dày đặc.
Sau năm 1975, huyện Lệ Thủy thuộc tỉnh Bình Trị Thiên, bao gồm thị trấn nông trường Lệ Ninh và 22 xã: An Thủy, Cam Thủy, Dương Thủy, Hoa Thủy, Hồng Thủy, Hưng Thủy, Kim Thủy, Liên Thủy, Lộc Thủy, Mai Thủy, Mỹ Thủy, Ngân Thủy, Ngư Thủy, Phong Thủy, Phú Thủy, Sen Thủy, Sơn Thủy, Tân Thủy, Thái Thủy, Thanh Thủy, Trường Thủy, Xuân Thủy.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất huyện Lệ Thủy và huyện Quảng Ninh thành huyện Lệ Ninh.
Khi hợp nhất, huyện Lệ Ninh bao gồm thị trấn nông trường Lệ Ninh và 39 xã: An Ninh, An Thủy, Bảo Ninh, Cam Thủy, Đức Ninh, Dương Thủy, Duy Ninh, Gia Ninh, Hàm Ninh, Hiền Ninh, Hoa Thủy, Hồng Thủy, Hưng Thủy, Kim Thủy, Liên Thủy, Lộc Ninh, Lộc Thủy, Lương Ninh, Lý Ninh, Mai Thủy, Mỹ Thủy, Ngân Thủy, Nghĩa Ninh, Ngư Thủy, Phong Thủy, Phú Thủy, Sen Thủy, Sơn Thủy, Tân Ninh, Tân Thủy, Thái Thủy, Thanh Thủy, Trường Sơn, Trường Thủy, Vạn Ninh, Vĩnh Ninh, Võ Ninh, Xuân Ninh, Xuân Thủy.
Ngày 18 tháng 1 năm 1979, chuyển 5 xã: Nghĩa Ninh, Lộc Ninh, Bảo Ninh, Lý Ninh và Đức Ninh về thị xã Đồng Hới quản lý.
Ngày 17 tháng 9 năm 1981, thành lập xã Trường Xuân.
Ngày 6 tháng 1 năm 1983, chia xã Gia Ninh thành 2 xã: Hải Ninh và Gia Ninh; chia xã Ngư Thủy thành 3 xã: Ngư Hòa, Hải Thủy và Ngư Thủy.
Ngày 2 tháng 4 năm 1985, chuyển 2 xã Lương Ninh và Vĩnh Ninh về thị xã Đồng Hới quản lý.
Ngày 13 tháng 6 năm 1986, thành lập thị trấn Kiến Giang, thị trấn huyện lỵ huyện Lệ Ninh trên cơ sở thôn Thượng Lưu của xã Liên Thủy; thôn Quảng Cư của xã Xuân Thủy và đội 4, đội 5 của thôn Hà Thanh thuộc xã Phong Thủy.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, huyện Lệ Ninh thuộc tỉnh Quảng Bình vừa được tái lập.
Ngày 29 tháng 9 năm 1990, huyện Lệ Ninh được tách ra thành 2 huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh như cũ.
Ngày 1 tháng 8 năm 1994, thành lập xã Văn Thủy trên cơ sở 1.514 ha diện tích tự nhiên và 3.168 nhân khẩu của xã Trường Thủy.
Ngày 14 tháng 11 năm 2001, thành lập xã Lâm Thủy trên cơ sở 24.100 ha diện tích tự nhiên và 1.069 nhân khẩu của xã Ngân Thủy.
Ngày 2 tháng 1 năm 2004, đổi tên 3 xã Ngư Thủy, Hải Thủy và Ngư Hòa thành 3 xã lần lượt: Ngư Thủy Nam, Ngư Thủy Trung và Ngư Thủy Bắc.
Ngày 23 tháng 1 năm 2017, thị trấn Kiến Giang được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 862/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Quảng Bình (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó:
Sáp nhập hai xã Ngư Thủy Trung và Ngư Thủy Nam thành xã Ngư Thủy
Sáp nhập xã Văn Thủy trở lại xã Trường Thủy.
Huyện Lệ Thủy có 2 thị trấn và 24 xã như hiện nay.
Những tên làng, thôn, xã, phường trước năm 1945
Theo Lê Quý Đôn, vào thế kỷ 18 huyện Lệ Thủy thuộc phủ Quảng Bình xứ Thuận Hóa, lúc này gồm 5 tổng là: Thủy Liên, Thượng Phúc, Thạch Xá, Đại Phúc Lộc, An Trạch. Về sau phát triển thành 7 tổng:
Tổng Thủy Liên
Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, tổng Thủy Liên có 14 xã 1 phường là: Thủy Liên Thượng, Thủy Liên Hạ, Thủy Liên Trung, Phù Tôn, Đặng Lộc, Thủy Mỗi, Hoàng Công, Thủy Trung, Thủy Cần, Hòa Luật, Thượng Luật, Trung Luật, Liêm Luật, Thử Luật, Thủy Mỗi (phường). Về sau biến đổi thành:
Đặng Lộc xã (nay thuộc Hưng Thủy)
Phò Chánh xã (Cung)
Thủy Liên thôn (Quán Sen)
Hòa Luật Đông (Hòa Đông)- Nay là Cam Thủy
Thủy Liên Nam (Quán Trảy)
Hòa Luật Bắc (Hòa Bắc)
Trung Luật Thôn (Cây Cúp)
Thử Luật Tây
Hòa Luật Nam (Ngoại Hải)
Liêm Luật xã (Nay thuộc xã Ngư Thủy Nam)
Trung Luật xã
Thương Luật xã
Thủy Liên Đông (Quán Cát)
Phò Thiết ấp (Hủ Thiết)
Thủy Liên Hạ (Quán Bụt)
Tổng Mỹ Trạch
Thế kỷ 18 là tổng An Trạch. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, tổng này có 8 phường là: An Trạch, Cổ Liễu, Thổ Ngõa, Liêm Ái, Tâm Duyệt, Quy Hậu, Dương Xá, Uẩn Áo. Về sau đổi thành:
Cổ Liễu xã (Tréo) (nay thuộc Liên Thủy)
Liêm Thiện xã (Làng Liêm, tức Liêm Ái)
Mỹ Thổ xã (Làng Ngói, tức Thổ Ngõa)
Luật Sơn ấp
Quy Hậu xã (nay thuộc Liên Thủy)
Dương Xá xã (Làng Dương)
Mỹ Trạch Thượng (nay thuộc Mỹ Thủy)
Mỹ Trạch Hạ (nay thuộc Mỹ Thủy)
Tâm Duyệt xã
Uẩn Áo xã (Nha Ngo) (nay thuộc Liên Thủy)
Thuận Trạch phường (Trạm) (nay thuộc Mỹ Thủy)
Tân Hậu phường
Mỹ Sơn ấp (Thượng Lâm) (nay thuộc Mỹ Thủy)
Dương Xuân xã (Ba Canh)
Tân Mỹ phường (Mỹ Lê)
Tiểu Giang phường (Phường Tiểu)
Tổng Đại Phong Lộc
Thế kỷ 18 là tổng Đại Phúc Lộc. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, tổng này có 4 thôn 1 phường là: Đại Phúc Lộc, An Xá, An Xá Hạ, Tuy Phúc, Vạn Đại. Về sau đổi thành:
Đại Phong Lộc xã (đợi) (nay thuộc Phong Thủy)
Mỹ Phước Thôn (Nhà Cồn)
Tuy Lộc xã (Tuy) (nay thuộc Lộc Thủy)
An Lạc phường
An Xá xã (Thá) (nay thuộc Lộc Thủy)
An Xá Hạ
Tổng Thượng Phong Lộc
Thế kỷ 18 là tổng Thượng Phúc. Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, tổng này có 3 xã là: Thượng Phúc Lộc, Xuân Hồi, Phú Long. Về sau đổi thành:
Xuân Hồi xã (Hồi) (nay thuộc Liên Thủy)
Phú Thọ xã (Nhà Ngô)
Thượng Phong Lộc xã (Làng Tiểu)
Tổng Thạch Xá
Theo Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, tổng Thạch Xá có 6 xã 1 thôn là: Thạch Xá Thượng, Thạch Xá Hạ, An Duyệt, An Định, Phụ Việt, Chấp Lễ, Ba Nguyệt. Về sau biến đổi còn:
Tân Việt phường
Binh Phú ấp
Tổng Xuân Lai
Vào thế kỷ 18, tổng Xuân Lai nguyên là đất tổng An Lại huyên Khang Lộc (tức huyện Phong Lộc) phủ Quảng Bình xứ Thuận Hóa, (theo Phủ biên tạp lục) gồm 13 xã: An Lại, Côn Bồ, Hoàng giang, Phan Xá, Cư Triền, Lê Xá, Thạch Bồng Thượng, Mai Xá Thượng, Mai Xá Hạ, Chu Xá, Cáp Xá, Kim Xá, Phú An. Về sau tổng này nhập vào huyện Lệ Thủy và đổi tên thành Xuân Lai.
Xuân Lai xã (An Lại) (nay thuộc Xuân Thủy)
Xuân Bồ xã (Côn Bồ) (nay thuộc Xuân Thủy)
Hoàng giang xã (Nhà Vàng) (nay thuộc Xuân Thủy)
Phan Xá xã (Nhà Phan) (nay thuộc Xuân Thủy)
Quảng Cư xã (Làng Chềng, tức Cư Triền) (nay thuộc thị trấn Kiến Giang)
Lệ Xã xã (Kẻ Lê, tức Lê Xá, thuộc Mai Thủy)
Thạch Bàn Thượng (Chợ Thẹc) (nay thuộc Phú Thủy
Mai Xá Thượng (nay thuộc Mai Thủy
Mai Xá Hạ (Nhà Mòi) (nay thuộc Xuân Thủy)
Châu Xá xã (Kẻ Châu, tức Chu Xá) (nay thuộc Mai Thủy)
Thái Xá xã (Nhà Cai)
Phú Bình Phong
Tổng Mỹ Lộc
Mỹ Lộc xã (Mỹ Lược)
Quy Trình xã (nay thuộc Phú Thủy)
Văn Xá xã (nay thuộc Phú Thủy)
Phú Hòa xã (nay thuộc Phú Thủy)
Lương Thiện xã
Phu Gia xã
Lộc An xã (nay thuộc An Thủy)
Phú Kỳ xã (nay thuộc Phú Thủy)
Kinh tế - Xã hội
Giáo dục
Huyện có 6 trường THPT:
THPT Lệ Thủy: Kiến Giang, Lệ Thủy, Quảng Bình
THPT Hoàng Hoa Thám: TTNT Lệ Ninh, Lệ Thủy, Quảng Bình
THPT Trần Hưng Đạo: Hưng Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình
THPT Nguyễn Chí Thanh: Kiến Giang, Lệ Thủy, Quảng Bình
THPT KT Lệ Thủy: Phong Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình
THCS&THPT Dương Văn An, Thanh Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình
Mỗi xã thường có 1 trường Tiểu học và 1 trường THCS.
Giao thông
Huyện có Quốc lộ 1, Quốc lộ 9B, Quốc lộ 9C, Quốc lộ 15 và đường Hồ Chí Minh chạy qua. Sắp tới sẽ có Đường cao tốc Bắc Nam chạy qua địa bàn huyện.
Danh nhân
Lệ Thủy là quê hương của nhiều nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, gồm:
Chính hình Viện đại phu Hoàng Hối Khanh
Sùng Nham hầu Dương Văn An
Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh
Kim tử Vinh Lộc Đại phu Đặng Đại Lược
Thạc Đức hầu Đặng Đại Độ
Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân
Thượng thư Võ Xuân Cẩn
Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Thượng thư Bộ Lễ Ngô Đình Khả
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm
Cố vấn tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Nhu
Đại tá Bùi Dzinh.
Chú thích |
Nguyễn Hữu Cảnh (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là Nguyễn Hữu Kính, với các tên húy khác là Lễ hoặc Thành, tước Lễ Thành Hầu (禮成侯), sau lại được triều đình truy phong tước Vĩnh An Hầu (永安侯) là một danh tướng thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Ông được xem là vị tướng mở cõi Nam Bộ với việc xác lập chủ quyền cho người Việt tại vùng đất Đồng Nai, Gia Định vào năm 1698. Kể từ thời điểm đó, miền đất này chính thức trở thành một đơn vị hành chính trực thuộc lãnh thổ Đại Việt, tức Việt Nam ngày nay.
Tên gọi
Nguyễn Hữu Cảnh còn được biết đến với nhiều tên gọi khác nhau như Nguyễn Hữu Lễ, Nguyễn Hữu Thành, Lễ Công, Lễ Thành Hầu, Lễ Tài Hầu, Thượng Đăng Lễ, Chưởng Binh Lễ. Kính, Lễ, Thành là các tên húy của ông. Trong các tên húy này, húy Kính (sau đọc trại âm là Cảnh) được biết và dùng nhiều nhất, huý Lễ được dùng khi triều đình phong cho ông tước Lễ Thành hầu và trong dân gian khi đặt các tên sông hoặc đường mang tên ông, húy Thành có thể được dùng giới hạn trong dòng họ, gia phả.
Do lòng kính mộ công lao của ông, dân gian đọc trại húy Kính thành các âm Kiếng, Kiến, Kỉnh, Cảnh. Thời Nguyễn, vì kỵ húy Hoàng tử Cảnh, nên âm Cảnh đọc trại thành Kiểng. Nhưng cách đọc trại này đã phai mờ và ngày nay, tên gọi Nguyễn Hữu Cảnh đã trở nên thông dụng và rất ít người gọi hoặc dùng đúng tên là KÍNH dù một số dịch giả, sử gia vẫn dùng.
Gia thế và khởi nghiệp
Ông sinh năm 1650 tại vùng đất nay là thôn Phước Long, xã Chương Tín, huyện Phong Lộc (nay là xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình), là con thứ ba của danh tướng Nguyễn Hữu Dật. Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Thiện.
Nguyễn Hữu Cảnh là cháu 9 đời của Nguyễn Công Duẩn . Ông nội của ông là Nguyễn Triều Văn (dòng Nguyễn Hữu, tước Triều Văn hầu, phò triều Lê và Nguyễn sơ), trước ở làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, sau theo chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) di cư vào đất Thuận Hóa.
Cha ông, Chiêu Vũ hầu Nguyễn Hữu Dật, sinh nhiều con trai, trong đó có bốn người là tướng giỏi, kể theo thứ tự: Nguyễn Hữu Hào (tước Hào Lương hầu, tác giả truyện nôm Song tinh bất dạ), Nguyễn Hữu Trung (tước Trung Thắng hầu), Nguyễn Hữu Cảnh (tước Lễ Thành hầu) và Nguyễn Hữu Tín (tước Tín Đức hầu).
Dòng dõi con nhà tướng, lớn lên trong thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, lại chuyên tâm luyện tập võ nghệ. Bởi vậy, tuy còn trẻ, nhưng ông đã lập được nhiều chiến công và đã được chúa Nguyễn Phúc Tần phong chức Cai cơ (một chức võ quan thuộc bậc cao) vào lúc tuổi độ 20, được người đương thời gọi tôn là "Hắc Hổ" (vì ông sinh năm Dần và vì có nước da ngăm đen, vóc dáng hùng dũng).
Quan lộ
Lúc mới ngoài 20 tuổi, ông đã được phong chức Cai cơ với những công trạng lập được trong chiến trường Trịnh-Nguyễn.
Trước năm Nhâm Thân 1692, ông đã được phong tước là Lễ Tài Hầu (với chữ Tài có chỗ viết là Thành hoặc Hòa)
Năm Nhâm Thân 1692, ông được phong làm Thống binh cầm quân dẹp loạn Chiêm Thành, bình định biên cương
Năm Giáp Tuất 1694, ông được thăng làm Chưởng cơ, lãnh chức Trấn thủ dinh Bình Khang
Năm Canh Thìn 1700, ông bị bệnh mà mất, hưởng dương 51 tuổi. Khi mất, ông được triều đình phong tặng mỹ hiệu Hiệp tán công thần đặc tấn Chưởng dinh, thụy Trung Cần
Năm Minh Mạng 12 (Nhâm Thìn 1832), ông được truy phong thêm tước Vĩnh An Hầu
Công trạng
Bình định Chiêm Thành
Vào những năm 1690–1691, vua Chiêm Thành là Kế Bà Tranh thường đem quân vượt biên giới, sát hại dân Việt ở Diên Ninh (Diên Khánh). Đầu năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu (1691–1725) phái Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh cùng với tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân bình định biên cương, thành lập trấn Thuận Thành (đất Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay).
Theo sách Đại Nam thực lục:Nhâm thân, năm thứ 1 [1692], Mùa thu, tháng 8, vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, họp quân đắp lũy, cướp giết cư dân ở phủ Diên Ninh. Dinh Bình Khang đem việc báo lên. Chúa sai Cai cơ Nguyễn Hữu Kính (con Nguyễn Hữu Dật bấy giờ gọi là Lễ tài hầu; chữ Tài, có chỗ viết là Thành, lại là Hòa) làm Thống binh, lấy văn chức Nguyễn Đình Quang làm Tham mưu suất lãnh quân Chính dinh, cùng quân Quảng Nam và Bình Khang đi đánh.Mùa đông, tháng 12, lấy Lê Hoành Giảng và Nguyễn Khoa Chiêm làm thủ hợp Chính dinh.Quý dậu, năm thứ 2 [1693], mùa xuân, tháng giêng, bọn Thống binh Nguyễn Hữu Kính đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ thành chạy.Tháng 3, Nguyễn Hữu Kính bắt được Bà Tranh và bầy tôi là Tả trà viên Kế Bà Tử với thân thuộc là Nàng mi Bà Ân đem về. Chúa sai đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành.Mùa thu, tháng 7, Nguyễn Hữu Kính đến cửa khuyết dâng chiến tù Chiêm là bọn Bà Tranh. Chúa sai kể tội và giam ở núi Ngọc Trản, hàng tháng cấp cho tiền gạo vải lụa đủ dùng.Sai Cai đội Nguyễn Trí Thắng giữ Phố Hài, Cai cơ Nguyễn Tân Lễ giữ Phan Rí, Cai đội Chu Kiêm Thắng giữ Phan Rang (Phố Hài, Phan Rí, nay thuộc Bình Thuận, Phan Rang thuộc Ninh Thuận) để phòng dư đảng của Thuận Thành.Bình định vừa xong, một nhóm người Thanh, đứng đầu là A Ban xúi giục bè đảng dấy loạn. Nguyễn Hữu Cảnh lại nhận lệnh đi đánh dẹp, rồi được cử làm Trấn thủ dinh Bình Khương (còn được gọi Bình Khang, nay là vùng Khánh Hòa-Ninh Thuận).
Theo sách Đại Nam thực lục:Quý dậu, năm thứ 2 [1693], Tháng 12, người Thanh là A Ban cùng với Hữu trà viên là óc Nha Thát ở Thuận Thành nổi loạn. Trước là A Ban đến ở Thuận Thành, vốn cùng óc Nha Thát đi lại rất thân. Từ lúc Bà Tranh bị bắt, hai người đều chạy về đất Đại Đồng, A Ban đổi tên là Ngô Lãng tự xưng mình có phép hô phong hoán vũ, gươm đao không thể làm bị thương. Người Thuận Thành là Chế Vinh kêu họp dân man đi theo. Đến bấy giờ đem đồ đảng cướp Phố Hài. Cai đội Nguyễn Trí Thắng đem quân chống đánh. A Ban giả đò thua, Trí Thắng đuổi theo bị phục binh giết chết. Cai đội dinh Bà Rịa tên là Dực và thư ký là Mai (không rõ họ) đem quân đến cứu viện, đều chết cả. A Ban bèn vào Phan Rí, lo rằng cai cơ Nguyễn Tân Lễ sức mạnh, mình không chống nổi, bèn sai con gái người dân Thuận Thành bỏ thuốc độc vào quả chuối cho Tân Lễ ăn. Tân Lễ bị câm. A Ban lại tung nhiều tiền bạc để ngầm kết với quân Tân Lễ làm nội ứng. Đến khi đánh, Tân Lễ bị bọn phản binh đâm chết, dinh trại của cải bị đốt và cướp gần hết. A Ban lại kéo quân đến Phan Rang. Cai đội Chu Kiêm Thắng vì quân ít không ra, đóng cửa thành tự thủ. Gặp Khám lý Kế Bà Tử vừa đến, Kiêm Thắng bắt trói ở ngoài cửa thành bảo sẽ đem chém, óc Nha Thát sợ [Kế Bà Tử] bị giết, nói với A Ban bỏ vây đi. Kiêm Thắng bèn thả Kế Bà Tử về.Giáp tuất, năm thứ 3 [1694], A Ban lại vây Phan Rang. Cai đội Chu Kiêm Thắng báo tin gấp về dinh Bình Khang. Trấn thủ Nguyễn Hữu Oai và Lưu thủ Nhuận (không rõ họ) tiến binh theo thượng đạo để cứu viện. A Ban bèn lui về Bào Lạc. Phan Rang được giải vây. Rồi Hữu Oai bị bệnh chết.Tháng 2, A Ban tiến giữ lũy Ô Liêm. Lưu thủ Nhuận và các cai cơ Tống Tuân và Nguyễn Thành chia quân giáp đánh. A Ban chạy về Phố Châm. Quân ta đuổi theo sát. Giặc lại chạy về Thượng Dã (tiếp địa giới Chân Lạp). Nhuận bèn về, đem việc báo lên. Chúa lại ra lệnh cho Cai cơ Nguyễn Hữu Kính, và văn chức Trinh Tường (không rõ họ) tiện nghi xử trí. Cai cơ Nguyễn Thắng Hổ đem quân tiến đánh, đảng giặc dẹp yên.Thăng Nguyễn Hữu Kính làm Chưởng cơ, lãnh Trấn thủ dinh Bình Khang.
Xác lập chủ quyền vùng đất mới ở Nam Bộ
Theo Đại Nam thực lục tiền biên thì vào tháng 2 năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu phong Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống suất, cử vào kinh lược xứ Đồng Nai.
Theo đường biển, thuyền của Nguyễn Hữu Cảnh đi ngược dòng Đồng Nai đến ở tại Cù lao Phố, là một cảng sầm uất nhất miền Nam bấy giờ. Từ đấy, Nguyễn Hữu Cảnh đã ra sức ổn định dân tình, hoạch định cương giới xóm làng, lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định phủ, lập xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy đất Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn. Mỗi dinh đặt chức Lưu thủ, Cai bạ và Ký lục để quản trị. Nha thuộc có 2 ty là Xá sai ty (coi việc văn án, từ tụng, dưới quyền quan Ký lục) và Lại ty (coi việc tài chính, do quan Cai bộ đứng đầu). Quân binh thì cơ, đội, thuyền, thủy bộ tinh binh và thuộc binh để hộ vệ. Đất đai mở rộng ngàn dặm, cho chiêu mộ lưu dân từ Bố Chánh châu trở vô, đến ở khắp nơi, đặt ra phường, ấp, xã, thôn, chia cắt địa phận, mọi người phân chiếm ruộng đất, chuẩn định thuế đinh, điền và lập bộ tịch đinh điền. Từ đó con cháu người Hoa ở nơi Trấn Biên thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn thì lập thành xã Minh Hương, rồi ghép vào sổ hộ tịch.
Sách Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 1) ghi công: Nguyễn Hữu Cảnh đã chiêu mộ dân phiêu tán từ châu Bố Chánh (nay là Quảng Bình) trở vào Nam vào đất ấy (tức đất Trấn Biên và Phiên Trấn), rồi đặt xã thôn, phường ấp, định ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ đinh. Và cũng theo Trịnh Hoài Đức thì nhờ Nguyễn Hữu Cảnh mà đất đai mở rộng hơn ngàn dặm, dân số có thêm bốn vạn hộ.
Sách Đại Nam thực lục ghi:Mậu dần, năm thứ 7 [1698], Tháng 2, sai Cai cơ thủy quân là Nguyễn Hữu Khánh và Nguyễn Cửu Vạn giữ các cửa biển.Bắt đầu đặt phủ Gia Định. Sai Thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên (tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình (nay thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định ngày nay), mỗi dinh đều đặt các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và các cơ đội thuyền thủy bộ tinh binh và thuộc binh. Mở rộng đất được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về Nam cho đến ở cho đông. Thiết lập xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệnh thuế tô dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh đến buôn bán ở Trấn Biên lập làm xã Thanh Hà, ở Phiên Trấn, lập làm xã Minh Hương (nay là). Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ [của ta].
Bình định Chân Lạp và qua đời
Năm 1699, vua Chân Lạp là Nặc Thu (Ang Saur, có sách ghi Nặc Ong Thu - Chey Chettha IV) đem quân tiến công Đại Việt. Trước đó, năm 1689, anh trai của Nguyễn Hữu Cảnh là Nguyễn Hữu Hào đã theo lệnh chúa Nguyễn đi bình định Nặc Thu nhưng không thành công.
Chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Cảnh làm Thống binh, cùng với Phó tướng Phạm Cẩm Long, Tham tướng Nguyễn Hữu Khánh đem quân lính, thuyền chiến hợp cùng tướng Trần Thượng Xuyên lo việc đánh dẹp và an dân. Và thủy binh của Nguyễn Hữu Cảnh đã tiến thẳng đến thành La Bích (tây bắc Nam Vang), đánh tan quân của Nặc Thu.
Sách Đại Nam thực lục chép:Kỷ mão, năm thứ 8 [1699], mùa thu, tháng 7, Nặc Thu nước Chân Lạp làm phản, đắp các lũy Bích Đôi, Nam Vang và Cầu Nam, cướp bóc dân buôn. Tướng Long Môn là Trần Thượng Xuyên đóng giữ Doanh Châu (nay thuộc Vĩnh Long) đem việc báo lên.Mùa đông, tháng 10, lại sai Nguyễn Hữu Kính làm Thống suất, Cai bạ Phạm Cảm Long làm Tham mưu, Lưu thủ Trấn Biên là Nguyễn Hữu Khánh làm tiên phong, lãnh quân hai dinh Bình Khang, Trấn Biên, và thuộc binh 7 thuyền dinh Quảng Nam, cùng với tướng sĩ Long Môn đi đánh.Canh thìn năm thứ 9 [1700], tháng 2, Nguyễn Hữu Kính đem quân các đạo tiến vào nước Chân Lạp, đóng ở Ngư Khê(2. Ngư Khê: Rạch Cá. 2), sai người dò xét thực hư, chia đường tiến quân.Tháng 3, Thống binh Trần Thượng Xuyên cùng quân giặc đánh liên tiếp nhiều trận đều được. Khi quân ta đến lũy Bích Đôi và Nam Vang, Nặc Thu đem quân đón đánh. Nguyễn Hữu Kính mặc nhung phục đứng trên đầu thuyền, vung gươm vẫy cờ, đốc các quân đánh gấp, tiếng súng vang như sấm. Nặc Thu cả sợ, bỏ thành chạy. Nặc Yêm (con vua thứ hai Nặc Nộn) ra hàng, Hữu Kính vào thành, yên vỗ dân chúng.Mùa hè, tháng 4, Nặc Thu đến cửa quân đầu hàng, xin nộp cống. Nguyễn Hữu Kính báo tin thắng trận rồi lùi quân đóng đồn ở Lao Đôi, kinh lý việc biên giới.Sau khi vua Chân Lạp quy hàng, Nguyễn Hữu Cảnh cho thuyền ghé lại thăm nom, khích lệ dân chúng, dù Khmer, Hoa hay Việt, hãy cùng nhau gìn giữ tinh thần thân thiện, tắt lửa tối đèn có nhau. Những hành động khoan hòa, thiết thực, những cử chỉ ưu ái thật lòng của ông đã làm cho đồng bào vô cùng cảm mến.
Tháng 4 năm Canh Thìn (1700), Nguyễn Hữu Cảnh kéo quân về đóng ở cồn Cây Sao (sử cũ gọi Cù lao Sao Mộc hay Tiêu Mộc hoặc châu Sao Mộc, sau dân địa phương nhớ ơn ông, nên gọi là Cù lao Ông Chưởng, nay là xã Mỹ Hòa Hưng thành phố Long Xuyên tỉnh An Giang), và báo tin thắng trận về kinh.
Theo Gia Định thành thông chí, thì:
Ở đây một thời gian ông bị "nhiễm bệnh, hai chân tê bại, ăn uống không được. Gặp ngày Tết Đoan ngọ (mùng 5 tháng 5 âm lịch) ông miễn cưỡng ra dự tiệc để khuyến lạo tướng sĩ, rồi bị trúng phong và thổ huyết, bịnh tình lần lần trầm trọng.
Ngày 14 ông kéo binh về, ngày 16 đến Sầm Giang (Rạch Gầm, Mỹ Tho) thì mất,. Khi ấy chở quan tài về tạm trí ở dinh Trấn Biên (Biên Hòa), rồi đem việc tâu lên, chúa Nguyễn Phúc Chu rất thương tiếc, sắc tặng là Hiệp tán Công thần, thụy là Trung Cần, hưởng 51 tuổi. Người Cao Miên lập miếu thờ ông ở đầu châu Nam Vang. Nơi cù lao ông nghỉ bệnh, nhân dân cũng lập đền thờ, được mạng danh là Cù lao ông Lễ. Còn chỗ đình quan tài ở dinh Trấn Biên cũng lập miếu thờ.
Sách Đại Nam thực lục chép:Canh thìn năm thứ 9 [1700], Tháng 5, Thống suất chưởng cơ Nguyễn Hữu Kính chết. Đầu là Hữu Kính đóng quân ở Lao Đôi, gặp mưa to gió lớn, núi Lao Đôi lở tiếng kêu như sấm. Đêm ấy mộng thấy một người mặt đỏ mày trắng, tay cầm cái phủ việt bảo rằng: "Tướng quân nên kíp đem quân về, ở lâu đây không lợi". Hữu Kính cười nói rằng: "Mệnh ở trời, có phải ở đất này đâu ?". Khi tỉnh dậy, thân thể mỏi mệt, nhưng vẫn cười nói như thường để giữ yên lòng quân. Kịp bệnh nặng, bèn than rằng: "Ta muốn hết sức báo đền ơn nước nhưng số trời có hạn, sức người làm được gì đâu ?". Bèn kéo quân về, đi đến Sầm Khê(1. Rạch Gầm. 1) (thuộc tỉnh Định Tường) thì chết, bấy giờ 51 tuổi. Chúa nghe tin thương tiếc, tặng Hiệp tán công thần đặc tiến chưởng dinh, thụy là Trung cần. Cho vàng lụa để hậu táng. Về sau thiêng lắm, người Chân Lạp lập đền thờ (năm Gia Long thứ 5 được tòng tự ở Thái miếu: Năm Minh Mệnh thứ 12, phong Vĩnh An hầu).
Tước/thụy hiệu/mỹ hiệu
Dưới đây là danh sách các tước/thụy hiệu /mỹ hiệu mà Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã được phong hoặc truy phong qua các triều đại.
được phong trước năm Canh Thân 1692[13]
Lễ Thành Hầu
tiếng Hán: 禮成侯
tiếng Việt: phong cho ông tước là vị Hầu thông suốt lễ nghi
được truy phong khi mất, năm Đinh Hợi 1767
Hiệp tán công thần, đặc tấn Chưởng dinh, thụy Trung Cần
tiếng Hán: 協贊工臣, 特進掌營, 謚忠勤
tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu quan Hiệp tán, và đặc phong cho ông chức Chưởng dinh, với thụy hiệu là vị quan trung thành với triều đình và cần mẫn trong việc nước
được truy phong năm Gia Long 4 (Ất Mùi 1805), thờ phụ vào Thái Miếu, liệt vào Thượng đẳng công thần
Tuyên lực công thần, đặc tấn Phụ quốc Thượng tướng quân, Cẩm Y vệ Đô chỉ huy sứ ty Đô chỉ huy sứ, Đô đốc phủ Chưởng phủ sự, phó tướng chưởng cơ Lễ Tài hầu, thụy Tuyên Vũ
tiếng Hán: 宣力功臣, 特進輔國上將軍, 錦衣衞都指揮使司都指揮使, 都督府掌府事, 副將掌奇禮才侯, 謚宣武
tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị công thần tận lực với đất nước, đặc tấn chức thượng tướng quân phò trợ đất nước, được lãnh trọng trách đứng đầu cơ quan Cẩm Y Vệ bảo vệ hoàng đế, cùng chức là vị chưởng quan Ngũ quân Đô Thống (là chức của 5 vị tướng lãnh cao nhất thời tiền Nguyễn như Tả Quân, Hữu Quân, v.v) thống lĩnh quân đội toàn quốc , (nguyên ông đã là) phó tướng, chưởng cơ, với tước là vị Hầu có tài năng về việc lễ nghi, ban thụy hiệu là vị võ quan tuyên dương võ nghiệp
được truy phong năm Minh Mạng 12 (Nhâm Thìn 1832)
Thần cơ doanh Đô thống chế, Vĩnh An Hầu
tiếng Hán: 神機營都統制, 永安侯
tiếng Việt: phong cho ông chức quan võ đứng đầu cơ quan Thần Cơ Doanh, là cơ quan với trọng trách bảo vệ kinh thành và kho vũ khí, cùng với các trách nhiệm liên quan đến vũ khí như chế tạo ống phun lửa, súng đạn, pháo hoa, v.v., và phong cho ông tước là vị Hầu (phù hộ cho đất nước được) đời đời bình an
được sắc phong năm Minh Mạng 3 (Nhâm Ngọ 1822), đình Bình Kính, Biên Hòa
Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thượng Đẳng Thần
tiếng Hán: 拓境威遠昭應上等神
tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị Thượng đẳng thần linh ứng và uy danh khai khẩn đất đai vang dội lẫy lừng
được sắc phong năm Thiệu Trị 3 (Quý Mão 1843), đình Bình Kính, Biên Hòa - tặng thêm 2 chữ Thành Cảm
Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thành Cảm Thượng Đẳng Thần
tiếng Hán: 拓境威遠昭應誠感上等神
tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị Thượng đẳng thần linh ứng, chứng giám cho lòng thành khấn vái, và uy danh khai khẩn đất đai vang dội lẫy lừng
được sắc phong năm Thiệu Trị 3 (Quý Mão 1843) lần 2, đình Bình Kính, Biên Hòa - tặng thêm 2 chữ Hiển Linh
Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thành Cảm Hiển Linh Thượng Đẳng Thần
tiếng Hán: 拓境威遠昭應誠感上等神
tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị Hiển linh Thượng đẳng thần linh ứng, chứng giám cho lòng thành khấn vái, và uy danh khai khẩn đất đai vang dội lẫy lừng
được sắc phong năm Tự Đức 3 (Canh Tuất 1850), đình Bình Kính, Biên Hòa - tặng thêm 2 chữ Trác Vĩ
Thác Cảnh Uy Viễn Chiêu Ứng Thành Cảm Hiển Linh Trác Vĩ Thượng Đẳng Thần
tiếng Hán: 拓境威遠昭應誠感卓偉上等神
tiếng Việt: phong cho ông mỹ hiệu là vị Hiển linh Kiệt xuất Thượng đẳng thần linh ứng, chứng giám cho lòng thành khấn vái, và uy danh khai khẩn đất đai vang dội lẫy lừng
Ngộ nhận
Người dân ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ vẫn quen gọi ông là Chưởng Binh Lễ, vì vậy có người tưởng rằng ông giữ chức Chưởng binh. Trên thực tế, thời chúa Nguyễn không có chức này. Chức vụ cao nhất mà Nguyễn Hữu Cảnh đảm nhiệm lúc sinh thời là Thống suất và Chưởng Cơ. Sau khi ông mất, chúa Nguyễn đã truy phong chức Chưởng dinh. Do sự kính trọng của người dân đối với Nguyễn Hữu Cảnh, họ đã ghép tên và chức vụ của ông lại thành Chưởng Binh Lễ ("Chưởng" của Chưởng dinh hay Chưởng cơ, "binh" của Thống binh, và "Lễ" là tên tự của ông).
Tưởng nhớ
Nguyễn Hữu Cảnh mất được truy tặng Đặc Tấn Chưởng Dinh Tráng Hoàn hầu, thụy là Trung Cần (gia phả ghi tước và thụy được truy tặng lần sau cùng là Vĩnh An hầu, thụy Cương Trực).
Để tưởng nhớ công đức của Chưởng cơ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, nơi quê hương cũng như nơi ông đến an dân, nhân dân đều lập đền thờ hoặc lập bài vị ông, như ở Nam Vang (Campuchia), Quảng Bình, Quảng Nam, Cù lao Phố (Biên Hòa), Đình Minh Hương Gia Thạnh, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh, Ô Môn (Cần Thơ)... Tỉnh An Giang là một trong những địa phương có nhiều đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh nhất. Trong số này, có Lễ Công Từ Đường ở phường Châu Phú A (Châu Đốc, An Giang), do Thoại Ngọc Hầu đứng ra xây dựng. Theo Đại Nam nhất thống chí thì "Đền Lễ công: ở thôn Châu Phú, huyện Tây Xuyên, thờ Nguyễn Hữu Kính. Đền do Nguyễn Văn Thụy (tức Thoại Ngọc Hầu) dựng khi làm Trấn thủ, nay hương lửa vẫn như cũ, thường tỏ anh linh.".
Ngoài ra, họ tên và chức tước của ông còn được dùng để đặt tên cho trường học, đường phố tại nhiều địa phương...Vừa qua, nhân dân tỉnh Quảng Bình đã tôn tạo khu lăng mộ của ông tại Thác Ro thuộc huyện Lệ Thủy. Năm 2009, sách Kỷ lục An Giang 2009, cũng đã công nhận ông là "người đầu tiên có công khai mở vùng đất An Giang" .
Văn thơ ca ngợi, truyền tụng công đức Nguyễn Hữu Cảnh còn lưu giữ khá nhiều, trích một đoạn:
Từ ngày vâng lệnh Trấn Bình Khương,
Bờ cõi mở thêm mấy dặm trường,
Vun bón cột nền nơi tổ phụ
Dãi dầu tên đạn giúp quân vương
Giặc ngoài vừa nép bên màn hổ
Sao tướng liền sa giữa giọt tương!
(Bài thơ đặt nơi sắc phong tại đền Lễ Công ở Châu Phú)
Tên đường
Ở thành phố Châu Đốc có đường Thượng Đăng Lễ, gọi đúng phải là Thượng Đẳng Lễ. Tuy nhiên, không phải chỉ Nguyễn Hữu Cảnh, vì Châu Đốc đã có đường Chưởng Binh Lễ, nên không thể cùng một nhân vật mà được đặt tên tại hai con đường. Thực ra đường Thượng Đẳng Lễ là chỉ Thượng Đẳng thần của thôn Vĩnh Nguơn có tên là Nguyễn Hữu Lễ, người đã có công cứu giá khi chúa Nguyễn Ánh gặp nạn tại Vĩnh Nguơn.
Tại TP Hồ Chí Minh có tên đường Nguyễn Hữu Cảnh nằm ở Quận Bình Thạnh.
Đền thờ
Quyển Sử Cao Miên của Lê Hương (Khai Trí xuất bản, 1970) có lời chua dưới một bức ảnh: Đền thờ ông Nguyễn Văn Thụy (Thoại) vị đại thần Việt Nam bên cạnh vua Cao Miên trong thời kỳ Việt Nam bảo hộ nước này. Đền thờ cất gần Chợ Mới (Phnom Penh) bị bắt buộc phải triệt hạ vào năm 1956.
Tuy nhiên, đây thực sự là đền thờ của Nguyễn Hữu Cảnh, vì bức ảnh cho thấy rõ tấm biển ở cổng ghi là Thượng đẳng thần. Điều này phù hợp với nhiều tài liệu lịch sử khác".
Ngày mất
Chính sử chép ông mất ngày 16/5, song tiểu sử Nguyễn Hữu Cảnh trưng bày trong các đình ở An Giang đều ghi là 10/5. Toàn vùng Tây Nam Bộ đều làm lễ giỗ ông vào ngày này, có thể kể đến Đình Châu Phú, Bình Thủy, Tham Buông, Long Kiến, Mỹ Phước,... Trong khi đó Đồng Nai lại giỗ ông ngày 16/5, có lẽ kỷ niệm ngày quàn linh cữu.
Ảnh |
WWE SmackDown, hay có tên gọi khác là WWE Friday Night SmackDown hoặc đơn giản là SmackDown là một chương trình đấu vật chuyên nghiệp được diễn ra hàng tuần vào tối thứ 6 theo giờ Hoa Kỳ của World Wrestling Entertainment (WWE). Đây được xem là một trong 2 chương trình hàng đầu của WWE, cùng với Monday Night RAW.
SmackDown! được phát sóng lần đầu tại Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 4 năm 1999 và trước đây từng được phát sóng vào các tối thứ 5. Chương trình được chuyển sang ngày thứ sáu vào ngày 9 tháng 9 năm 2005 sao khi hợp nhất UPN và WB, sẽ bắt đầu phát sóng trên The CW vào tháng 9 năm 2006. Sau đó, chương trình chuyển sang MyNetworkTV vào tháng 10 năm 2008. Vào ngày 1 tháng 10 năm 2010, SmackDown chuyển sang mạng cáp Syfy và cuối cùng hoạt động trở lại vào thứ Năm vào ngày 15 tháng 1 năm 2015. Rồi lại chuyển sang USA Network vào ngày 7 tháng 1 năm 2016, và vào ngày 19 tháng 7 cùng năm, SmackDown chuyển sang tối thứ Ba. Việc SmackDown chuyển sang FOX vào ngày 4 tháng 10 năm 2019 đã đánh dấu sự trở lại vào tối thứ Sáu.
SmackDown đã được phát sóng từ 163 khu vực, 148 thành phố, 7 quốc gia: Hoa Kỳ, Canada, Anh Quốc, Iraq vào năm 2003 và 2004 bởi sự kiện Tribute to the Troops, Nhật Bản vào 2005, Ý vào 2007 và Mexico vào 2011. Chương trình đã kỷ niệm 15 năm thành lập vào ngày 10 tháng 10 năm 2014 và tập thứ 1000 vào ngày 16 tháng 10 năm 2018.
Lịch sử
WWF SmackDown! được tạo ra để tranh giành với chương trình tối thứ Năm của World Championship Wrestling (WCW), Thunder. SmackDown! xuất hiện lần đầu vào ngày 29 tháng 4 năm 1999 sử dụng bộ giàn dựng của RAW như là một chương trình truyền hình đặc biệt duy nhất trên UPN. Vào ngày 26 tháng 8 năm 1999, SmackDown! chính thức ra mắt lần đầu trên UPN. Giống như Thunder, SmackDown! được ghi hình trước vào thứ Ba và sau đó phát sóng vào tối thứ Năm. Chương trình WWF quá phổ biến đến mức khiến cho WCW phải chuyển Thunder sang tối thứ Tư để nó không cạnh tranh trực tiếp. Trong suốt thời gian đầu, The Rock thường hay gọi SmackDown! là "chương trình của anh ấy", bắt nguồn từ câu cửa miệng của anh là "Lay the smack down". Vào tháng 3 năm 2002, WWF đã thực hiện sự "mở rộng thương hiệu", theo đó RAW và SmackDown! sẽ có danh sách những đô vật riêng biệt cho mỗi chương trình và sự kiện tương ứng, và được định hình trong WWE như sự cạnh tranh "thương hiệu" (theo cách gợi nhớ đến các hội nghị thể thao).
Trong khoảng thời gian từ 2004 đến 2005, SmackDown! có lượng người xem trung bình là 5,1 triệu người xem, đây là loạt series xếp hạng cao thứ hai trên UPN chỉ sau America's Next Top Model. Với việc hủy bỏ Star Trek: Enterprise, SmackDown! đã chuyển sang khung giờ vào đêm thứ Sáu cho thời gian từ 2005 đến 2006, bắt đầu từ ngày 9 tháng 9 năm 2005. WWE sau đó thông báo rằng chương trình sẽ được đổi tên thành Friday Night SmackDown! để nhấn mạnh lịch trình mới.
Di chuyển đến The CW, MyNetworkTV
Vào tháng 1 năm 2006, CBS Corporation và Warner Bros. Entertainment thông báo rằng UPN và The WB sẽ gộp lại làm một để tạo một network mới có tên là The CW vào mùa thu cùng năm. Là một phần của thông báo đó, The CW đã nói rằng họ sẽ trình chiếu SmackDown! trong 2 mùa tiếp theo như 1 phần của lịch trình và làm thu hút tốt nhất như 2 mùa trước đó. Vào ngày 22 tháng 9 năm 2006, Friday Night SmackDown! đã phát sóng lần đầu tiên trên The CW.
Sau đó, The CW đã từ chối gia hạn với SmackDown! khiến cho chương trình được chọn từ MyNetworkTV, một mạng lưới mới thứ hai đã được hình thành bởi Entertainment Group Fox đảm nhận cựu chi nhánh UPN và WB, những người không được lựa chọn để tham gia The CW. Giữ nguyên khung giờ tối thứ Sáu trước đó, buổi phát sóng đầu tiên của SmackDown! trên MyNetworkTV là chương trình có tỷ suất người xem cao nhất trong lịch sử của mạng lưới non trẻ, với 3,2 triệu người xem. Vào ngày 20 tháng 3 năm 2009, SmackDown đã kỷ niệm tập thứ 500 của chương trình.
Di chuyển đến NBC Universal, Syfy, USA Network
Vào ngày 1 tháng 10 năm 2010, như một phần của thỏa thuận phát sóng mới với NBC Universal, SmackDown chuyển sang Syfy, giữ lại khung giờ tối thứ Sáu. Trước buổi ra mắt SmackDown này, Michael Cole đã tổ chức một chương trình "trước trò chơi". Động thái này khiến Syfy phải trả gần 30 triệu đô la cho chương trình so với 20 triệu đô la mà mạng cũ MyNetworkTV trả.
Trong tập Raw ngày 29 tháng 8 năm 2011, WWE đã giải thể phần mở rộng thương hiệu, do đó cho phép những đô vật xuất hiện trên Raw và SmackDown bất kỳ lúc nào mà không bị hạn chế. Ngày 14 tháng 10 năm 2011, tập đã đưa SmackDown lên thành chương trình truyền hình dài tập hàng tuần dài thứ 2 trong lịch sử truyền hình Hoa Kỳ (đứng sau RAW, vượt qua mốc đó vào ngày 1 tháng 8 năm 2005). Vào ngày 18 tháng 1 năm 2013, SmackDown đã kỷ niệm tập thứ 700 của mình.
Vào ngày 10 tháng 10 năm 2014, SmackDown đã kỷ niệm 15 năm của mình. Để thực hiện kỷ niệm 15 năm, Stephanie McMahon ra sân đầu tiên, sau đó lần lượt là Laurinaitis và Long, hai người sau đó liên tục tấn công nhau cho sự kiện chính của đêm cho đến khi McMahon quyết định tạo trận đấu đội 15 người. Long đề nghị, với điều kiện Laurinaitis và Long phải là đội trưởng của mỗi đội như tại WrestleMania XXVIII. Sau đó đội của Long đã thắng trận. Vào ngày 16 tháng 12 năm 2014, SmackDown đã phát sóng trực tiếp tập thứ 800 đặc biệt trên kênh liên quan của Syfy, USA Network, SuperSmackDown Live!, có sự kiện chính giữa Dolph Ziggler và Seth Rollins.
Vào tháng 1 năm 2015, SmackDown quay trở lại vào khung giờ tối thứ Năm. Sự trở lại vào tối thứ Năm được kỳ vọng sẽ giúp thu hút khán giả trẻ tuổi đến với Syfy, cũng như thu hút nhiều tiền quảng cáo hơn từ các nhà tiếp thị, những người có xu hướng chi tiêu nhiều hơn để quảng cáo sản phẩm của họ, đặc biệt là các bộ phim phát hành, vào buổi tối khi người tiêu dùng bắt đầu vào cuối tuần. SmackDown cuối cùng phát sóng vào tối thứ Sáu đã có 2,43 triệu người xem. Vào ngày 7 tháng 1 năm 2016, SmackDown chuyển đến USA Network, trình chiếu vào tối thứ Năm. Với động thái này, cả ba chương trình WWE hàng đầu — Raw, SmackDown và Tough Enough — sẽ lần đầu tiên được phát sóng trên cùng một mạng.
Vào ngày 25 tháng 5 năm 2016, là một phần của quá trình tái triển khai mở rộng thương hiệu và phân tách giữa Raw và SmackDown, đã có thông báo rằng SmackDown sẽ chuyển sang các tối thứ Ba và được phát sóng trực tiếp. Vào ngày 11 tháng 7 năm 2016 trong tập Raw, Vince McMahon chỉ định Shane McMahon là chủ tịch của SmackDown. Sau đó, vào tuần sau trên Raw, Daniel Bryan được tiết lộ là quản lý mới của SmackDown. Vào ngày 22 tháng 7 năm 2016, quản lý Daniel Bryan đã tiết lộ logo SmackDown mới trên trang Twitter chính thức của mình, đổi tên chương trình thành SmackDown Live. Vào ngày 10 tháng 4 năm 2018, chủ tịch Shane McMahon của SmackDown thông báo rằng Daniel Bryan đã trở lại với tư cách là một đô vật WWE toàn thời gian và bổ nhiệm Paige làm quản lý mới.
Trở lại truyền hình phát sóng và Fox
Vào ngày 26 tháng 6 năm 2018, Fox đã công bố một thỏa thuận 5 năm để phát sóng SmackDown, trong một thỏa thuận trị giá 205 triệu đô la mỗi năm. SmackDown sẽ ra mắt vào ngày 4 tháng 10 năm 2019, với tập đầu tiên là tập đặc biệt của Kỷ niệm 20 năm. Tập phim cũng đánh dấu sự trở lại của SmackDown vào tối thứ Sáu và sự trở lại của chương trình WWE cho Fox lần đầu tiên kể từ khi mạng phát sóng tập ngày 14 tháng 11 năm 1992 của Friday Night Main Event. Thỏa thuận được đưa ra khi thỏa thuận phát sóng trước đây của WWE với USA Network để phát sóng cả SmackDown và WWE Raw đã hết hạn và vì Fox ngày càng nhấn mạnh vào chương trình thể thao trực tiếp và giải trí không có kịch bản sau khi sắp bán nhà xưởng cho đến Disney. Fox đã hy vọng có được Raw cho mạng Fox và SmackDown cho FS1.
Fox đã bắt đầu một chiến dịch quảng cáo của Wieden + Kennedy cho động thái, "Chúng ta là tất cả các siêu sao", trùng với đầu mùa giải bóng đá, tiết lộ một biểu tượng mới và phục hồi tiêu đề Friday Night SmackDown.
Tập ngày 25 tháng 10 năm 2019 đã được chuyển sang FS1 do Fox phát sóng Game 3 của World Series 2019. Phiên bản dài một giờ của tập được phát sóng trên Fox vào chiều Chủ nhật tuần sau.
Do đại dịch COVID-19 đang diễn ra, WWE đã tạm dừng các chương trình phát sóng tại chỗ và phát sóng từ Trung tâm Biểu diễn WWE ở Orlando, Florida mà không có khán giả, với SmackDown làm như vậy lần đầu tiên vào ngày 13 tháng 3 năm 2020. Tập tiếp theo cũng có Triple H với tư cách là bình luận viên khách mời và bình luận về trận đấu trong Elimination Chamber cho SmackDown Tag Team Championship từ trận đấu trả tiền cho mỗi lần xem vào Chủ nhật trước đó.
Vào ngày 17 tháng 8, WWE thông báo rằng SmackDown, Raw và pay-per-view sẽ chuyển ra khỏi Trung tâm biểu diễn để đến "WWE ThunderDome" tại Trung tâm Amway của Orlando, bắt đầu với SmackDown vào ngày 21 tháng 8. Chương trình tiếp tục được phát sóng sau khi đóng cửa, nhưng với khán giả "ảo" từ xa.
SmackDown đã chuyển sang FS1 hai lần trong mùa giải 2020-21, lần đầu tiên là do Game 3 của World Series 2020 và lần thứ hai là do Trò chơi vô địch Pac-12 2020.
Bài hát mở đầu chương trình
Chương trình đặc biệt
Bình luận viên
Người giới thiệu đô vật
Phát sóng trên kênh nước ngoài
Các nhà vô địch |
Hiến chương Liên Hợp Quốc là hiến pháp của Liên Hợp Quốc, được ký kết trong Hội nghị Liên Hợp Quốc về Tổ chức Quốc tế (United Nations Conference on International Organization) tại San Francisco, California ngày 26 tháng 6 năm1945 bởi 50 nước thành viên đầu tiên, có hiệu lực từ ngày 24 tháng 10 năm 1945 sau khi được phê chuẩn bởi 5 nước thành viên sáng lập – Trung Hoa Dân Quốc, Liên Xô, Pháp, Anh, Hoa Kỳ – và phần đông các nước khác.
Bản Hiến chương được thảo luận bởi hội đồng lập pháp và các nước đã ký đều tuân theo các điều khoản của nó. Hiện nay, phần lớn các quốc gia trên thế giới đã thông qua Hiến chương. Thành Vatican là quan sát viên lâu dài nên không ký kết toàn bộ.
Tóm tắt Hiến chương
Bản Hiến chương gồm 1 phần mở đầu, mô hình khái quát như phần giới thiệu về Hiến pháp Hoa Kỳ, và một loạt các điều khoản phân chia vào trong các chương.
Chương I: trình bày mục đích của Liên Hợp Quốc, những điều khoản quan trọng về hoà bình và an ninh thế giới.
Chương II: định ra tiêu chuẩn hội viên của Liên Hợp Quốc.
Chương III-XV: số lượng lớn tài liệu mô tả các cơ quan, tổ chức trực thuộc Liên Hợp Quốc và những quyền hạn của họ.
Chương XVI và XVII: miêu tả sự sắp xếp một Liên Hợp Quốc thống nhất, không phân biệt chủng tộc với sự công nhận của luật pháp quốc tế.
Chương XVIII và XIX: dành cho sự bổ sung và phê chuẩn Hiến chương.
Nội dung
Phần mở đầu
Lời mở đầu của hiến chương như sau:HIẾN CHƯƠNG LIÊN HỢP QUỐC
Ký ngày 26/6/1945 tại San Francisco
Có hiệu lực ngày 24/10/1945
ĐIỀU LỆ CỦA HỢP ĐỒNG THỐNG NHẤT
San Francisco, 26 tháng 5 năm 1945
Có hiệu lực: 24 tháng 10 năm 1945
Chúng tôi, nhân dân các quốc gia liên hiệp quyết tâm:
Phòng ngừa cho những thế hệ tương lai khỏi thảm họa chiến tranh đã hai lần trong đời chúng ta gây cho nhân loại đau thương không kể xiết;
Tuyên bố một lần nữa sự tin tưởng vào những quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và nữ, ở quyền bình đẳng giữa các quốc gia lớn và nhỏ;
Tạo mọi điều kiện cần thiết để giữ gìn công lý và tôn trọng những nghĩa vụ do những điều ước và các nguồn khác do luật quốc tế đặt ra;
Khuyến khích sự tiến bộ xã hội và nâng cao điều kiện sống trong một nền tự do rộng rãi hơn;
Và để đạt được những mục đích đó,
Bày tỏ lòng mong muốn cùng chung sống hoà bình trên tinh thần láng giềng thân thiện, cùng chung nhau góp sức để duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
Thừa nhận những nguyên tắc và xác định những phương pháp bảo đảm không dùng vũ lực, trừ trường hợp vì lợi ích chung.
Sử dụng cơ chế quốc tế để thúc đẩy sự tiến bộ kinh tế và xã hội của tất cả các dân tộc;
Đã quyết định tập trung mọi nỗ lực của chúng tôi để đạt được những mục đích đó.
Vì vậy, các chính phủ chúng tôi thông qua các đại diện có đủ thẩm quyền hợp lệ, họp tại thành phố San Francisco, đã thoả thuận thông qua Hiến chương này và lập ra một Tổ chức quốc tế lấy tên là Liên Hợp Quốc.Mặc dù Lời mở đầu là một phần không tách rời của Hiến chương nhưng nó không đưa ra bất kỳ quyền hoặc nghĩa vụ nào của các quốc gia thành viên; mục đích của nó là để phục vụ như một hướng dẫn thông dịch cho các điều khoản của Hiến chương thông qua việc nêu bật một số động cơ cốt lõi của người sáng lập tổ chức.
Chương I: Mục đích và nguyên tắc
Điều 1:
Mục đích của Liên Hợp Quốc là:1. Duy trì hoà bình và an ninh quốc tế, và để đạt được mục đích đó, thi hành những biện pháp tập thể có hiệu quả để phòng ngừa và loại trừ các mối đe dọa hoà bình, cấm mọi hành vi xâm lược và phá hoại hoà bình khác; điều chỉnh hoặc giải quyết các vụ tranh chấp hoặc những tình thế có tính chất quốc tế có thể đưa đến sự phá hoại hoà bình, bằng phương pháp hoà bình theo đúng nguyên tắc của công lý và pháp luật quốc tế;
2. Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc và áp dụng những biện pháp phù hợp khác để củng cố hoà bình thế giới;
3. Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo và khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền của con người và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo;
4. Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc, nhằm đạt được những mục đích chung nói trên.
Điều 2:
Để đạt được những mục đích nêu ở Điều 1, Liên Hợp Quốc và các thành viên Liên Hợp Quốc hành động phù hợp với những nguyên tắc sau đây:1. Liên Hợp Quốc được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của tất cả các quốc gia thành viên.
2. Tất cả các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc đều phải làm tròn những nghĩa vụ mà họ phải đảm nhận theo Hiến chương này để được đảm bảo hưởng toàn bộ các quyền và ưu đãi do tư cách thành viên mà có;
3. Tất cả các thành viên của Liên Hợp Quốc giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp hoà bình, sao cho không tổn hại đến hoà bình, an ninh quốc tế và công lý;
4. Tất cả các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của Liên hợp quốc.
5. Tất cả các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc giúp đỡ đầy đủ cho Liên Hợp Quốc trong mọi hành động mà nó áp dụng theo đúng Hiến chương này và tránh giúp đỡ bất cứ quốc gia nào bị Liên Hợp Quốc áp dụng các hành động phòng ngừa hoặc cưỡng chế;
6. Liên Hợp Quốc làm thế nào để các quốc gia không phải là thành viên Liên Hợp Quốc cũng hành động theo nguyên tắc này, nếu như điều đó cần thiết để duy trì hoà bình và an ninh thế giới;
7. Hiến chương này hoàn toàn không cho phép Liên Hợp Quốc được can thiệp vào những công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất cứ quốc gia nào, và không đòi hỏi các thành viên của Liên Hợp Quốc phải đưa những công việc loại này ra giải quyết theo quy định của Hiến chương; tuy nhiên, nguyên tắc này không liên quan đến việc thi hành những biện pháp cưỡng chế nói ở chương VII.
Chương II: Thành viên
Chương II đề cập đến các thành viên và nghĩa vụ của các thành viên Liên Hợp Quốc.
Chương III: Các cơ quan
Các cơ quan chính của Liên Hợp Quốc là: Đại Hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế và Xã hội, Hội đồng Quản thác, Toà án Quốc tế và Ban Thư ký.
Chương IV: Đại hội đồng
Là cơ quan duy nhất của Liên Hợp Quốc có đại diện của tất cả thành viên, Đại Hội đồng có chức năng của 1 diễn đàn để các thành viên để đạt sáng kiến trong những vấn đề về hòa bình, tiến bộ kinh tế và nhân quyền. Cũng có thể đề xuất các cuộc nghiên cứu, đưa ra những lời khuyên, cổ xúy cho nhân quyền, soạn thảo và phát triển công pháp quốc tế và xúc tiến những chương trình kinh tế, xã hội, văn hóa và giáo dục.
Chương V: Hội đồng Bảo an
Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc là cơ quan chính trị quan trọng nhất và hoạt động thường xuyên của Liên Hợp Quốc, chịu trách nhiệm chính về việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Những nghị quyết của Hội đồng Bảo an được thông qua mà phù hợp với Hiến chương Liên Hợp Quốc thì bắt buộc các nước hội viên của Liên Hợp Quốc phải thi hành.
Chương VI: Giải quyết hoà bình và các vụ tranh chấp
Yêu cầu các quốc gia có tranh chấp có thể dẫn đến chiến tranh trước hết cố gắng tìm kiếm các giải pháp thông qua các phương pháp hòa bình như đàm phán, điều tra, hòa giải, trọng tài, giải quyết tư pháp, sử dụng các cơ quan hoặc tổ chức khu vực, hoặc các phương tiện hòa bình khác tuỳ theo sự lựa chọn của từng quốc gia. Nếu những phương pháp giải quyết tranh chấp thay thế này thất bại, thì họ phải chuyển nó tới Hội đồng Bảo an. Theo Điều 35, bất kỳ quốc gia nào cũng được phép đưa tranh chấp lên sự chú ý của Hội đồng Bảo an hoặc Đại hội đồng. Chương này cho phép Hội đồng Bảo an ban hành các khuyến nghị nhưng không cho phép đưa ra các nghị quyết ràng buộc. Những quy định này được trình bày trong Chương VII.
Chương VII: Hành động trong trường hợp hoà bình bị đe doạ, bị phá hoại hoặc có hành vi xâm lược
Chương VIII: Những thoả thuận khu vực
Ủy quyền cho các tổ chức khu vực (như ASEAN) và thậm chí cần có những nỗ lực để giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan đó (nếu có) trước khi Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc can thiệp. Tuy nhiên, Điều 53 quy định rằng "không một hành động cưỡng chế nào được thi hành chiếu theo những thỏa thuận hay do những tổ chức khu vực quy định, nếu không được Hội đồng bảo an khu vực thi hành một lần nữa chính sách xâm lược, cho đến khi Liên Hợp Quốc có thể, theo lời yêu cầu của các chính phủ hữu quan, được giao nhiệm vụ ngăn chặn một sự xâm lược mới của một quốc gia như thế"
Chương IX: Hợp tác quốc tế về kinh tế, xã hội
Chương X: Hội đồng Kinh tế và Xã hội
Chương XI: Tuyên ngôn về những lãnh thổ không tự trị
Chương XII: Hệ thống Ủy thác Quốc tế
Chương XIII: Hội đồng Quản thác
Chương XIV: Toà án Quốc tế
Chương XV: Ban Thư ký
Bao gồm Tổng Thư ký và các nhân viên khác như tổ chức có thể yêu cầu.
Cung cấp dịch vụ cho các cơ quan khác của Liên Hợp Quốc, như Đại Hội đồng, SC, ECOSOC, và Hội đồng Quản thác, cũng như các cơ quan phụ trợ của họ.
Tổng Thư ký do Đại Hội đồng bổ nhiệm về đề nghị của Hội đồng Bảo an.
Các nhân viên của Ban Thư ký do Tổng Thư ký bổ nhiệm theo các quy định của Đại hội đồng.
Ban Thư ký được đặt tại trụ sở chính của Liên Hợp Quốc ở New York, Hoa Kỳ.
Ban thư ký cũng bao gồm văn phòng ủy ban khu vực tại: Bagdad (Iraq), Băng Cốc (Thái Lan), Genève (Thụy Sĩ) và Santiago.
Chức năng của Ban Thư ký
Chuẩn bị báo cáo và các tài liệu khác có chứa thông tin, phân tích, tìm kiếm nghiên cứu nền tảng lịch sử, gợi ý chính sách... để tạo thuận lợi cho việc thảo luận và ra quyết định của các cơ quan khác.
Tạo thuận lợi cho các cơ quan lập pháp và các cơ quan trực thuộc.
Cung cấp các dịch vụ hội nghị cho Đại Hội đồng và các cơ quan khác.
Cung cấp các dịch vụ biên tập, dịch thuật và sao chụp tài liệu để phát hành các tài liệu của Liên Hợp Quốc bằng ngôn ngữ khác.
Tiến hành nghiên cứu và cung cấp thông tin cho các quốc gia thành viên khác nhau trong việc đối phó với thách thức trong nhiều lĩnh vực.
Chuẩn bị ấn phẩm thống kê, bản tin thông tin và công việc phân tích mà Đại Hội đồng đã quyết định.
Tổ chức các hội nghị chuyên gia các cuộc họp nhóm và hội thảo về các chủ đề quan tâm đến cộng đồng quốc tế.
Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển.
Hiểu về nhiệm vụ phục vụ cho các quốc gia, khu vực hoặc địa điểm được Đại Hội đồng hoặc an ninh cho phép.
Chương XVI: Các điều khoản khác
Có các điều khoản khác nhau quy định về các điều ước quốc tế, thiết lập Hiến chương Liên Hợp Quốc là tối cao đối với bất kỳ điều ước nào khác, và quy định các đặc quyền và miễn trừ đối với các quan chức và đại diện của Liên Hợp Quốc.
Chương XVII: Những biện pháp an ninh trong thời kì quá độ
Thỏa thuận an ninh trong thời kì quá độ liên quan đến Thế chiến II, sắp kết thúc tại thời điểm ban hành của Hiến chương. Trong 1 ngoại lệ đối với hòa bình và an ninh quy định của Hiến chương, nó cho phép các quốc gia thành viên có thể tiếp tục tấn công Nhật Bản và các quốc gia thù địch cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Chương XVIII: Bổ sung, sửa đổi hiến chương
Quá trình này được mô hình hóa chủ yếu sau quá trình sửa đổi Hiến pháp Hoa Kỳ trong đó:
2/3 số lượng thành viên là cần thiết để thông qua;
Cần phải có sự phê chuẩn của các thành viên thường trực Liên Hợp Quốc;
Có hai phương pháp đề xuất sửa đổi;
Phổ biến nhất của những phương pháp này là "chi nhánh đầu tiên" (trong trường hợp của Liên Hợp Quốc, Đại Hội đồng) để trình sửa đổi;
Một phương pháp khác, không thực sự được sử dụng trong thực tế, là gọi công ước để đề xuất sửa đổi.
Bản thân thủ tục sửa đổi có một điều khoản không cho phép các quốc gia (trong trường hợp Liên Hợp Quốc gồm 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an) bị tước bỏ quyền bầu cử mà không có sự đồng ý của họ. (Điều này tương tự như điều khoản quy định tại Điều 5 của Hiến pháp Hoa Kỳ).
Chương XIX: Phê chuẩn và Chữ ký
Hiến chương được mở ra để ký kết vào ngày 26 tháng 6 năm 1945 và có hiệu lực vào ngày 24 tháng 10 năm 1945. Quy định rằng Hiến chương này sẽ có hiệu lực sau khi được thông qua bởi 5 thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và phần lớn các quốc gia ký kết khác. |
Thuật toán Ford- Fulkerson (đặt theo L. R. Ford và D. R. Fulkerson) tính toán luồng cực đại trong một mạng vận tải. Tên Ford-Fulkerson cũng thường được sử dụng cho thuật toán Edmonds-Karp, một trường hợp đặc biệt của thuật toán Ford-Fulkerson.
Ý tưởng đằng sau thuật toán rất đơn giản: miễn là tồn tại một đường đi từ nguồn (nút bắt đầu) đến điểm xả (nút cuối), với điều kiện tất cả các cung trên đường đi đó vẫn còn khả năng thông qua, thì ta sẽ gửi đi một luồng dọc theo đường đi đó. Sau đó chúng ta tìm một đường đi khác, và tiếp tục như vậy. Một đường đi còn khả năng thông qua là một đường đi có khả năng mở rộng thêm hay một đường đi mà luồng qua đó còn khả năng tăng thêm - gọi tắt là đường tăng.
Thuật toán
Cho một đồ thị , với các khả năng thông qua và luồng trên các cung từ đến , ta muốn tìm luồng cực đại từ đầu nguồn đến điểm thoát . Sau mỗi bước, các điều kiện sau đây được duy trì:
. Luồng từ tới không vượt quá khả năng thông qua.
. Ta duy trì cân bằng luồng.
cho tất cả các nút ngoại trừ và . Lượng dòng chảy vào một nút bằng lượng chảy ra khỏi một nút.
Điều này có nghĩa là một luồng đi qua một mạng là một luồng hợp lệ sau mỗi vòng của thuật toán. Chúng ta định nghĩa mạng còn dư là mạng với sức chứa và luồng bằng không. Chú ý rằng không chắc chắn là , bởi vì việc gửi luồng theo cung có thể làm ngắt (làm nó bão hòa), nhưng lại mở một cung mới trong mạng còn dư.
Đầu vào: Đồ thị G với khả năng thông qua c, một nút nguồn s, và một nút thoát t
Kết quả: Luồng f sao cho f là cực đại từ s đến t
trên tất cả các cung
Trong khi còn có một đường đi từ đến trong :
Tìm một đường đi với và , sao cho
Tìm
(gửi luồng dọc theo đường đi)
(luồng có thể "quay lại" sau)
Có thể tìm đường đi trong bằng các phương pháp chẳng hạn như tìm kiếm theo chiều rộng (breadth-first-search) hoặc tìm kiếm theo chiều sâu (depth-first-search). Nếu sử dụng cách thứ nhất, thuật toán sẽ được gọi là Edmonds-Karp.
Độ phức tạp
Bằng cách thêm luồng trên đường tăng vào luồng đã được thiết lập trên đồ thị, ta sẽ đạt đến luồng cực đại khi trên đồ thị không còn tìm được thêm đường tăng luồng nào nữa. Tuy nhiên, không chắc chắn là tình huống này sẽ đạt được, do vậy điều tốt nhất có thể được đảm bảo là: nếu thuật toán kết thúc thì kết quả sẽ là lời giải đúng. Trong trường hợp thuật toán chạy vô hạn, luồng có thể không hội tụ về phía luồng cực đại.
Tuy nhiên, tình huống này chỉ xảy ra với luồng có giá trị vô tỷ. Khi khả năng thông qua là các số tự nhiên, thời gian chạy của thuật toán Ford-Fulkerson bị chặn bởi O(E*f), trong đó E là số cung của đồ thị và f là luồng cực đại trên đồ thị. Điều này là bởi vì mỗi đường tăng được tìm ra trong thời gian O(E) và nó làm tăng luồng với một lượng có giá trị nguyên không nhỏ hơn 1.
Một biến thể của thuật toán Ford-Fulkerson bảo đảm sự kết thúc và thời gian chạy không phụ thuộc vào giá trị luồng cực đại là thuật toán Edmonds-Karp, chạy trong thời gian O(VE2).
Ví dụ
Ví dụ sau đây cho thấy những bước ban đầu của thuật toán Ford-Fulkerson trong một mạng vận tải gồm 4 nút, nguồn A và thoát D. Các đường đi tăng được tìm bằng phương pháp tìm kiếm theo chiều sâu, trong đó các đỉnh lân cận được duyệt theo thứ tự bảng chữ cái. Ví dụ này cho thấy biểu hiện của trường hợp xấu nhất của thuật toán. Mỗi bước chỉ gửi thêm được một luồng giá trị 1 qua mạng. Nếu sử dụng phép tìm theo chiều rộng thay vì theo chiều sâu, ta sẽ chỉ cần hai bước.
Chú ý khi luồng bị "đẩy ngược" từ C đến B khi tìm được đường đi A,C,B,D. |
Nhang muỗi hay hương muỗi là một loại nhang chứa thuốc đuổi muỗi, thường được tạo hình thành dạng xoắn ốc và thường chế tạo từ bột hoa thủy cúc khô. Tâm vòng cuộn thường được giữ ở trung tâm đường xoắn ốc giúp treo nó trong không khí, hoặc nêm bằng hai miếng lưới chống cháy cho phép cháy âm ỉ liên tục. Lửa được đốt từ đầu mút ngoài cùng đường xoắn ốc và quá trình cháy tiến về phía tâm đường xoắn ốc, tạo nên khói xua muỗi. Một vòng nhang muỗi điển hình có thể đo được khoảng đường kính và cháy trong khoảng 7-12 giờ. Nhang muỗi được dùng rộng rãi ở Châu Á, Châu Phi, Nam Mỹ và Châu Đại Dương.
Phát minh
Hoa thủy cúc dùng qua nhiều thế kỷ như một loại thuốc trừ sâu ở Ba Tư và Châu Âu, được phát triển thành một chiếc nhang muỗi hình cuộn xoắn vào cuối những năm 1800 bởi một người doanh nhân người Nhật, Eiichiro Ueyama. Vào thời điểm đó ở Nhật Bản bột hoa thủy cúc đã được trộn với mùn cưa và đốt cháy để đuổi muỗi. Ban đầu Ueyama đã tạo ra que nhang thơm trộn lẫn từ bột tinh bột, bột vỏ quýt da cam khô và bột hoa thủy cúc, đốt trong khoảng 40 phút. Năm 1895 bà Yuki vợ của ông đề nghị chế tạo chiếc que dày hơn, dài hơn và uốn cong thành hình xoắn ốc cho phép đốt được lâu hơn. Năm 1902, sau hàng loạt thử nghiệm và sai sót, Ueyama đã đạt được hiệu ứng cháy tỏa khói thơm theo hình dạng xoắn ốc. Phương pháp bao gồm cắt một sợi dài từ thanh nhang dày và uốn cong bằng tay. Phương pháp này được sử dụng cho đến năm 1957, thời điểm nhang được sản xuất hàng loạt thông qua đục lỗ máy.
Sau Thế chiến II, công ty của Ueyama mang tên Dainihon Jochugiku Co. Ltd đã thành lập các công ty liên doanh ở nhiều quốc gia, bao gồm Trung Quốc và Thái Lan, sản xuất sản phẩm nhang chống muỗi dựa trên các điều kiện tùy theo từng địa phương.
Thành phần
Các hoạt chất tìm được trong nhang muỗi có thể bao gồm:
Pyrethrum – vật liệu dạng bột tự nhiên từ một loại cây hoa cúc.
Pyrethrins – chất chiết xuất từ hóa chất trừ sâu trong pyrethrum.
Allethrin – hoạt chất d-trans-allethrin, pyrethroid tổng hợp đầu tiên.
Esbiothrin – một dạng của allethrin.
Meperfluthrin - một este pyrethroid
Butylated hydroxytoluene (BHT) – một phụ gia tùy chọn được sử dụng để ngăn ngừa pyrethroid khỏi oxy hóa trong quá trình đốt.
Piperonyl butoxit (PBO) – một phụ gia tùy chọn để cải thiện hiệu quả của pyrethroid.
N-Octyl bicycloheptene dicarboximide (MGK 264) – một phụ gia tùy chọn để cải thiện hiệu quả của pyrethroid.
Nhược điểm
Nhang muỗi có thể là mối rủi ro gây hỏa hoạn. Sử dụng nhang muỗi đã dẫn đến nhiều vụ hỏa hoạn bất ngờ. Năm 1999, một vụ cháy trong một ký túc xá ba tầng tại Hàn Quốc đã gây tử vong cho 23 người khi đốt nhang muỗi mà không được chú ý.
Nhang muỗi được xem là thuốc diệt côn trùng an toàn cho người và động vật có vú, mặc dù một số nghiên cứu cho thấy mối quan ngại khi nhang dùng trong phòng kín. Đã có những phát hiện cho thấy nhang muỗi bán ở Trung Quốc và Malaysia sản sinh khói PM2.5 (các hạt bụi mịn có đường kính 2,5 μm hoặc nhỏ hơn) nhiều như đốt 75-137 điếu thuốc lá và mức phát thải formaldehyd tương ứng với 51 điếu thuốc cháy. Các nghiên cứu khác trên chuột nhắt kết luận rằng nhang muỗi không có nguy cơ sức khoẻ đáng kể, mặc dù một số sinh vật có thể bị kích ứng cảm giác tạm thời do khói khi đốt cháy chất hữu cơ như gỗ xẻ. Trong một nghiên cứu, chuột tiếp xúc trực tiếp với khói nhang muỗi trong 6 giờ/1 ngày, 5 ngày/1 tuần trong 13 tuần. Phát hiện dấu hiệu kích ứng cảm giác từ nồng độ khói cao, nhưng không tác dụng phụ trên các bộ phận khác của cơ thể. Nghiên cứu kết luận rằng khi sử dụng bình thường, nhang muỗi dường như không có nguy cơ sức khoẻ. |
Trong bóng đá, một bàn thắng được công nhận khi trái bóng vượt qua hết vạch vôi khung thành và không có phần nào của trái bóng còn ở trên vạch vôi, giữa hai cột dọc và bên dưới xà ngang, mà trước đó không có lỗi vi phạm luật nào từ phía đội ghi bàn, thủ môn không thể bắt được bóng.
Có nhiều cách để ghi một bàn thắng:
+ Cứa lòng qua người thủ môn
+ Sút xa
+ Xử lý tung những cú sút khiến thủ môn không kịp phản xạ và khó với tới để bắt được bóng
+ Tình huống Đá phạt trực tiếp gián tiếp và quả đá phạt góc
+ Bóng sống
+ Đá phạt đền (11m)
+ Phản lưới
Đội thắng trận
Đội bóng ghi được nhiều bàn thắng hơn là đội thắng trận. Trường hợp hai đội ghi được số bàn thắng bằng nhau hay không có bàn thắng nào được ghi: Nếu ở trong vòng đấu bảng, thì trận đấu sẽ được xử hòa. Trong những trận đấu loại trực tiếp, bắt buộc phải có đội thắng, đội thua, nên sẽ có thêm hai hiệp phụ, nếu hai đội tiếp tục ghi được số bàn thắng bằng nhau hay không có bàn thắng nào được ghi, sẽ có một loạt luân lưu để xác định thắng thua.
Luật khi đá loại trực tiếp
Trong các vòng đấu loại trực tiếp yêu cầu phân định thắng thua cho một trận đấu hay cho một cặp đấu có kết quả hòa sau hai trận lượt đi và lượt về, chỉ những cách sau được cho phép sử dụng để phân định thắng thua:
Luật bàn thắng sân khách
Các hiệp phụ.
Bàn thắng vàng (đã hủy bỏ)
Bàn thắng bạc (đã hủy bỏ)
Các quả đá luân lưu từ chấm phạt đền. |
theo cách gọi ở Nhật Bản, hay Sự kiện mùng 7 tháng 7 (phồn thể: 七七事變, giản thể: 七七事变, pinyin: Qīqīshìbiàn, hán-việt: Thất Thất sự biến) theo cách gọi ở Trung Quốc, xảy ra ngày 7 tháng 7 năm 1937, được xem là sự kiện mở đầu Chiến tranh Trung-Nhật.
Nguyên nhân
Căng thẳng giữa Đế quốc Nhật Bản và Trung Quốc bùng lên khi quân Nhật chiếm Mãn Châu năm 1931 và lập ra Mãn Châu Quốc mà Phổ Nghi, hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh, là nguyên thủ. Mặc dù chính quyền Quốc Dân Đảng Trung Quốc không công nhận Mãn Châu Quốc, song giữa hai bên đã đạt được một thỏa thuận ngừng bắn vào năm 1931. Dù thế, vào cuối năm 1932, Lục quân Nhật Bản lại chiếm tiếp tỉnh Nhiệt Hà và sáp nhập tỉnh này vào Mãn Châu Quốc năm 1933. Căn cứ Hiệp định Hà Ứng Khâm-Umezu ký ngày 9 tháng 6 năm 1935, phía Trung Quốc công nhận sự chiếm đóng của Nhật Bản ở phía Đông Hà Bắc và Sát Cáp Nhĩ. Sau năm đó, Nhật Bản lập ra Hội đồng Tự trị Chống Cộng Ký Đông trên những vùng này. Hậu quả là, đầu năm 1937 tất cả các vùng phía Bắc, Đông và Tây của Bắc Kinh đều đã bị Nhật Bản kiểm soát.
Căn cứ các điều khoản của Điều ước Tân Sửu ngày 7 tháng 9 năm 1901, Trung Quốc phải chấp nhận cho các phái đoàn của các nước ở Bắc Kinh quyền đóng quân bảo vệ ở 12 điểm dọc theo tuyến đường sắt nối Bắc Kinh với Thiên Tân để đảm bảo lưu thông giữa thủ đô với cảng biển. Theo một hiệp định bổ sung ngày 15 tháng 7 năm 1902, các lực lượng bảo vệ này được phép tập trận mà không phải thông báo trước cho chính quyền Trung Quốc. Vào tháng 7 năm 1937, Nhật Bản đang duy trì một lực lượng chừng từ 7000 đến 15.000 quân dọc theo tuyến đường sắt.
Cầu Lư Câu, ở trấn Uyển Bình phía Tây Nam Bắc Kinh là một chốt trên tuyến đường sắt Bắc-Hán (Bắc Kinh-Vũ Hán), do quân đội Quốc Dân Đảng trấn giữ, bảo vệ con đường duy nhất nối Bắc Kinh với khu vực mà Quốc Dân Đảng kiểm soát ở phía Nam. Trước tháng 7 năm 1937, quân Nhật nhiều lần đòi quân Trung Quốc rút khỏi nơi này, và đã cố gắng mua đất để xây dựng sân bay. Phía Trung Quốc từ chối, bởi vì nếu quân Nhật kiểm soát được cây cầu và trấn Uyển Bình thì Bắc Kinh sẽ bị cô lập hoàn toàn.
Diễn biến
Từ tháng 7 năm 1937, quân Nhật tiến hành tập trận tích cực ở gần đầu phía Tây cầu Lư Câu. Những cuộc tập trận này thường thực hiện về đêm trong khi quân đội nước ngoài hiếm khi tập trận về đêm. Chính phủ Trung Quốc đòi phía Nhật phải thông báo trước để tránh ảnh hưởng tới dân cư ở đây. Phía Nhật Bản đã đồng ý. Tuy nhiên, đêm ngày 7 tháng 7 năm 1937, những cuộc tập trận ban đêm đã không được thông báo trước, khiến cho quân Trung Quốc hết sức căng thẳng. Phía Trung Quốc tin rằng quân Nhật tấn công thật, liền nổ vài phát súng cảnh cáo, dẫn tới một cuộc đấu súng chớp nhoáng vào khoảng 11 giờ đêm. Khi một binh sĩ Nhật không trở lại đơn vị, chỉ huy đại đội của anh này liền cho rằng anh đã bị phía Trung Quốc bắt, và báo cáo sự việc lên cấp trên. Chỉ huy phía Trung Quốc Cát Tinh Văn nhận được điện thoại của phía quân Nhật đòi được phép vào Uyển Bình để tìm binh sĩ mất tích.
Lúc 23:40, tướng Tần Đức Thuần, quyền tư lệnh Quân đoàn 29 kiêm Chủ tịch Hội đồng Chính trị Hà Bắc-Sát Cáp Nhĩ lại được phía Nhật Bản yêu cầu tương tự. Viên tướng này đáp lại rằng quân Nhật đã xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc bằng việc tập trận mà không báo trước, đồng thời từ chối cho quân Nhật vào Uyển Bình. Tuy nhiên, tướng Tần đã nói rằng ông sẽ ra lệnh cho quân Trung Quốc đóng ở Uyển Bình tìm người lính Nhật. Quân Nhật không bằng lòng, kiên quyết đòi tự tìm, rồi sau đó 2 giờ đã ra tối hậu thư. Cảnh giác, tướng Tần đã liên lạc với tư lệnh sư đoàn số 37, tướng Phùng Trị An, để quân sĩ Trung Quốc trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Vào khoảng 3:30 sáng ngày 8 tháng 7, quân Nhật với trang bị 4 khẩu sơn pháo và một đại đội súng máy đã đến sát chỗ Phong Đài. Vào khoảng 4:50, hai người Nhật được phép vào Uyển Bình tìm kiếm. Tuy nhiên, bất chấp việc người Nhật được phép vào Uyển Bình, quân Nhật vẫn khai hỏa bằng súng máy vào lúc 5:00. Trong khi đó, bộ binh Nhật nấp sau xe thiết giáp đã tấn công cầu Lư Câu cùng với một cây cầu đường sắt mới ở phía Đông Nam thị trấn.
Đại tá Cát Tinh Văn chỉ huy khoảng 100 phòng thủ, được lệnh phải giữ cây cầu bằng mọi giá. Mặc dù bị thiệt hại nặng, đến trưa, quân Nhật vẫn chiếm được một phần cây cầu và vùng phụ cận. Nhưng quân Trung Quốc sau khi được tăng cường đã hơn hẳn quân Nhật về quân số. Tận dụng mưa và sương mù sáng ngày 9 tháng 7, quân Trung Quốc đã chiếm lại được cây cầu vào lúc 6:00. Tới lúc này, quân Nhật đã đạt được một thỏa thuận miệng với tướng Tần, rằng việc kiểm soát thị trấn sẽ được trao cho lực lượng công an, chứ không phải trung đoàn 219. Tuy nhiên, tướng Kawabe Masakazu, tư lệnh Lữ đoàn Bộ binh Phái kiển của quân Nhật đã bác bỏ thỏa thuận đình chiến, và không ngừng bắn vào Uyển Bình trong 3 giờ liền cho đến khi có một thỏa thuận ngừng bắn và rút quân của mình về phía Đông Bắc Uyển Bình.
Nếu thỏa thuận đình chiến và ngừng bắn được tôn trọng, và quân cả hai phía rút về các vị trí ban đầu của mình, thì sự kiện Lư Câu Kiều có lẽ đã kết thúc chỉ như một va chạm nhỏ. Tuy nhiên, từ đêm ngày 9, quân Nhật đã vi phạm thỏa thuận ngừng bắn, tiếp tục tăng cường lực lượng.
Sự leo thang tạm ngưng do thiếu tướng Tashiro Kanichiro, tư lệnh Quân đoàn Phái khiển Trung Hoa lâm bệnh và mất vào ngày 12 tháng 7 (thiếu tướng Katsuki Kiyoshi lên thay) và do các hoạt động chính trị, ngoại giao của chính phủ dân sự Nhật Bản và của tướng Ishihara Kanji để tránh làm chiến tranh giữa hai nước bùng nổ. Những nỗ lực ấy sau đó đã thất bại, chủ yếu do hành động của các chỉ huy Quân đoàn Bắc Trung Hoa Phái khiển và của các tướng lĩnh quân phiệt trong Bộ Tham mưu Lục quân của Nhật Bản. Uyển Bình lại bị bắn vào ngày 14 và chiến sự thật sự nổ ra vào ngày 25 ở Lang Phường. Tướng Tống Triết Nguyên bị đẩy lùi về phía Nam sông Vĩnh Định, để cho quân Nhật chiếm được thị trấn Uyển Bình và cầu Lư Câu.
Ý nghĩa
Căng thẳng gia tăng sau sự kiện cầu Lư Câu đã trực tiếp dẫn tới cuộc chiến tranh quy mô toàn diện ở trận Bắc Bình-Thiên Tân vào cuối tháng 7 năm 1937. Mất cầu Lư Câu và thành Uyển Bình, Bắc Kinh bị cô lập hoàn toàn và mau chóng rơi vào tay quân Nhật.
Hiện giữa các nhà nghiên cứu lịch sử vẫn còn có bất đồng về việc sự kiện này xảy ra ngoài dự kiến hay có chủ ý từ trước của quân Nhật để lấy cớ xâm lược Trung Quốc. Binh sĩ Nhật mất tích sau đó đã tìm thấy bình an vô sự. Một số sử gia Nhật Bản cho rằng sự kiện này do Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ mưu, để cho quân Nhật và Quốc Dân Đảng đánh nhau còn mình thì "tọa sơn quan hổ đấu".
Chú thích |
Cúp Liên đoàn bóng đá Đức (tiếng Đức: Liga Pokal) là giải bóng đá được Liên đoàn bóng đá Đức (DBF) tổ chức vào đầu mùa bóng cho một số đội bóng xếp hạng cao ở Bundesliga mùa bóng trước cùng với đội đương kim vô địch cúp bóng đá Đức. Giải lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1997. Bãi bỏ từ năm 2008.
Các trận chung kết
Tổng số lần đoạt cúp
6 lần: FC Bayern München
2 lần: Hertha BSC Berlin, Hamburger SV
1 lần: FC Schalke 04, Werder Bremen |
Hiệp hội bóng đá Đức ( ; DFB ) là cơ quan quản lý bóng đá ở Đức. Đây chính là thành viên sáng lập của cả FIFA và UEFA, DFB có thẩm quyền đối với hệ thống giải đấu bóng đá Đức và quản lý các đội tuyển quốc gia của nam và của nữ. Trụ sở DFB nằm ở thành phố Frankfurt. Thành viên duy nhất của DFB là Deutsche Fußball Liga (DFL), tổ chức các giải chuyên nghiệp như Bundesliga và 2. Bundesliga, cùng với 5 hiệp hội khu vực và 21 hiệp hội bang, tổ chức các giải đấu thuộc các cấp độ bán chuyên nghiệp và nghiệp dư. 21 hiệp hội bang của DFB có tổng cộng hơn 25.000 câu lạc bộ với hơn 6,8 triệu thành viên, biến DFB trở thành liên đoàn thể thao lớn nhất trên thế giới. |
Liên đoàn bóng đá Ý (; FIGC), còn được biết đến với tên gọi Federcalcio, là cơ quan quản lý bóng đá ở Ý. Liên đoàn có trụ sở ở Roma và bộ phận kĩ thuật nằm ở Coverciano, Florence.
Liên đoàn tổ chức các giải đấu bóng đá Ý như Serie A, Serie B và Cúp bóng đá Ý. Liên đoàn cũng chịu trách nhiệm quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Ý (của nam), của nữ và các đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia. Đội tuyển bóng đá trong nhà quốc gia Ý cũng thuộc về liên đoàn.
Chủ tịch
Biểu trưng |
Hiệp hội bóng đá Anh (; viết tắt là FA, truyền thông Việt Nam thường gọi thành Liên đoàn bóng đá Anh) là cơ quan quản lý bóng đá ở Anh (England) và các vùng phụ thuộc của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland như Jersey, Guernsey và Đảo Man. Được thành lập vào năm 1863, nó là hiệp hội bóng đá lâu đời nhất trên thế giới và chịu trách nhiệm giám sát tất cả các khía cạnh của các giải đấu nghiệp dư và chuyên nghiệp trong lãnh thổ của mình.
FA cho phép tất cả các trận đấu bóng đá cạnh tranh trong phạm vi của nó ở cấp quốc gia, và gián tiếp ở cấp độ địa phương thông qua các hiệp hội bóng đá quận. Hiệp hội điều hành rất nhiều giải đấu, nổi tiếng nhất trong số đó là Cúp FA. Hiệp hội còn chịu trách nhiệm quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia của nam, của nữ, và đội trẻ.
FA là một thành viên của cả UEFA và FIFA và giữ một vị trí thường trực ở IFAB, ủy ban chịu trách nhiệm về Luật bóng đá. FA có trụ sở tại Sân vận động Wembley, London.
Ban lãnh đạo của FA
Chủ tịch danh dự
Arthur Pember (1863–1867)
E. C. Morley (1867–1874)
Major Sir Francis Marindin (1874–1890)
Lord Kinnaird (1890–1923)
Sir Charles Clegg (1923–1937)
Jim Conway (1936)
William Pickford (1937–1939)
Bá tước xứ Athlone (1939–1955)
Công tước xứ Edinburgh (1955–1957)
Công tước xứ Gloucester (1957–1963)
Bá tước xứ Harewood (1963–1971)
Công tước xứ Kent (1971–2000)
Công tước xứ York (2000–2006)
Công tước xứ Cambridge (nay là Thân vương xứ Wales) (5/2006–)
Chủ tịch
A. G. Hines (1938)
M. Frowde (1939–1941)
Sir Amos Brook Hirst (1941–1955)
Arthur Drewry (1955–1961)
Graham Doggart (1961–1963)
Joe Mears (1963–1966)
Sir Andrew Steven (1967–1976)
Professor Sir Harold Thompson (1976–1981)
Sir Bert Millichip (1981–1996)
Keith Wiseman (1996–1999)
Geoff Thompson (1999–)
Tổng thư ký
E. C. Morley (1863–1866)
R. W. Willis (1866–1868)
R. G. Graham (1868–1870)
Charles Alcock (1870–1895)
Sir Frederick Wall (1895–1934)
Sir Stanley Rous (1934–1962)
Sir Denis Follows (1962–1973)
E. A. Croker (1973–1989)
Giám đốc điều hành
Graham Kelly (1989–1998)
David Davies (1998–2000)
Adam Crozier (2000–2002)
David Davies (2002–2003)
Mark Palios (2003–2004)
David Davies (2004–2005)
Brian Barwick (2005–) |
Hiệp hội bóng đá Hoàng gia Hà Lan (KNVB) (tiếng Hà Lan: Koninklijke Nederlandse Voetbalbond) là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Hà Lan. KNVB quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Hà Lan, tổ chức các giải bóng đá như giải vô địch bóng đá Hà Lan hạng nhất (Eredivisie), hạng nhì (Eerste Divisie), cúp bóng đá Hà Lan,.... KNVB là thành viên của cả FIFA và UEFA. Trụ sở của KNVB ở thành phố Zeist. |
Trong lý thuyết đồ thị, một luồng trên mạng, thường được gọi tắt là luồng, là một cách gán các luồng (dòng chảy) cho các cung của một đồ thị có hướng (trong trường hợp này được gọi là một mạng vận tải) trong đó mỗi cung có một khả năng thông qua, sao cho dung lượng luồng qua một cung không vượt quá khả năng thông qua của nó. Ngoài ra, ta còn có một điều kiện rằng dung lượng luồng vào một nút phải bằng dung lượng luồng ra khỏi nút đó, ngoại trừ trường hợp nó là một nút phát (hay nút nguồn) - nơi chỉ có dòng ra, hoặc một nút thu - nơi chỉ có luồng vào. Một mạng vận tải có thể được dùng để giả lập giao thông trên một hệ thống đường sá, dòng chảy trong các đường ống, dòng trong một mạch điện, hoặc bất cứ cái gì tương tự di chuyển qua một mạng lưới gồm các nút.
Định nghĩa
Cho một đồ thị với các nút và các cung , và hai nút đặc biệt: nút phát (bậc trong bằng 0) và nút thu (bậc ngoài bằng 0).
Cho là dòng từ nút tới nút , và là khả năng thông qua (dòng lớn nhất có thể) của cung đó.
Một luồng trên mạng là một hàm số giá trị thực với ba tính chất sau cho tất cả các nút và :
Đối xứng: . Tổng luồng từ tới phải bằng đối của tổng luồng từ tới (Xem ví dụ).
Các điều kiện về khả năng thông qua: . Luồng dọc theo một cung không thể vượt quá khả năng thông qua của nó.
Cân bằng luồng: , trừ khi hoặc . Tổng luồng tới một nút bằng 0, ngoại trừ trường hợp đó là nút nguồn - nơi sinh luồng, và nút thu - nơi "tiêu thụ" luồng.
Lưu ý rằng là tổng luồng từ tới . Nếu đồ thị biểu diễn một mạng vật lý, và nếu có một luồng thực sự, chẳng hạn gồm 4 đơn vị, chảy từ tới , và một luồng thực gồm 3 đơn vị chảy từ tới , ta có và .
Khả năng thông qua còn dư (residual capacity) của một cạnh là . Khái niệm đó định nghĩa một mạng còn dư (residual network), ký hiệu là , thể hiện lượng khả năng thông qua hiện có. Để ý rằng có thể có một cung từ tới trong mạng còn dư, ngay cả khi không có cung từ tới trong mạng ban đầu. Do các luồng theo các hướng ngược nhau triệt tiêu lẫn nhau, giảm luồng từ tới tương đương với tăng luồng từ tới . Một đường tăng (augmenting path) là một đường đi , trong đó , , và , nghĩa là có thể gửi thêm luồng dọc theo đường đi này.
Ví dụ
Trên hình bên phải là một mạng vận tải với nguồn , nút thu , và bốn nút khác. Luồng và khả năng thông qua được ký hiệu . Lưu ý rằng trong mạng này, các điều kiện về đối xứng, khả năng thông qua và cân bằng luồng đã được thỏa mãn. Tổng luồng từ tới là 5, dễ thấy từ thực tế là tổng luồng từ ra có giá trị bằng 5, và cũng bằng tổng luồng vào . Ta biết rằng không có luồng mới xuất hiện hoặc biến mất tại bất cứ nút nào khác.
Bên dưới là hình vẽ mạng còn dư từ luồng đã cho. Lưu ý rằng có khả năng thông qua trên một số cung mà khả năng thông qua ban đầu bằng 0, ví dụ đối với cung . Luồng này không phải là một luồng cực đại. Có cung với khả năng thông qua dương suốt dọc theo các đường , và , đó là các đường tăng. Khả năng thông qua của đường thứ nhất là . Đường đi cuối cùng không tồn tại trong mạng ban đầu, nhưng nếu ta gửi luồng theo đường đó, ta vẫn có một luồng hợp lệ.
Nếu đây là một mạng thực sự, có thể có một luồng có giá trị bằng 2 từ tới đồng thời với một luồng có giá trị bằng 1 từ to , nhưng ta chỉ quản lý luồng tổng.
Ứng dụng
Một mạng vận tả có thể được sử dụng để giả lập một hệ thống bất kỳ nếu nó có các điều kiện như trong định nghĩa ở trên.
Hình dung một loại đường ống nối với nhau thành một mạng. Mỗi đường ống có một độ rộng nhất định, do đó nó chỉ có thể cho phép một dòng chảy với một lượng nước nhất định. Mỗi khi các đường ống gặp nhau, tổng lượng nước chảy vào điểm nối phải bằng lượng chảy ra từ đó. Ta có một nguồn nước, đó là điểm phát, và một điểm tập trung nước, đó là điểm thu. Khi đó một luồng có thể là một cách lấy nước từ nguồn tới nút thu. sao cho tổng lượng nước ra khỏi nút thu là không đổi. Về trực quan, tổng luồng của một mạng chính là tỷ lệ nước chảy ra từ điểm thu.
Luồng có thể so sánh với người hoặc vật liệu trên các mạng giao thông vận tải, hoặc với điện trên các hệ thống phân phối điện. Với mỗi mạng vật lý như vậy, luồng vào mỗi nút trung gian phải bằng luồng ra khỏi đó. Bollobás nêu đặc trưng này theo Kirchhoff's current law, trong khi các tác giả sau này (Chartrand) nhắc đến su duy rộng tới một số phương trình quy ước (conservation equation).
Tổng quát hóa và chuyên biệt hóa
Bài toán đơn giản nhất và thông dụng nhất cho luồng trên mạng là bài toán tìm luồng cực đại trong một đồ thị cho trước, với kết quả mong muốn là luồng tổng lớn nhất có thể từ điểm nguồn đến điểm thu. Có nhiều bài toán khác có thể được giải bằng các thuật toán luồng cực đại, nếu chúng được mô hình hóa dưới dạng các mạng vận tải, chẳng hạn như các bài cặp ghép hai phía, bài toán phân công công việc (assignment problem), bài toán vận tải.
Trong một bài toán luồng đa (multi-commodity flow problem), ta có nhiều điểm phát, nhiều điểm thu, và nhiều loại "hàng" cần chảy từ một nút phát cho trước tới một nút thu cho trước. Ví du, nhiều loại hàng được sản xuất tại nhiều nhà máy, và cần được chuyên chở đến cho các khách hàng khác nhau qua cùng một mạng giao thông.
Trong một bài toán luồng chi phí cực tiểu, mỗi cung có một chi phí cho trước , và chi phí gửi luồng qua cung đó là . Mục tiêu là gửi một luồng có dung lượng cho trước từ nguồn tới điểm thu với chi phí thấp nhất.
Trong một bài toán luồng tuần hoàn (circulation problem), với mỗi cung , ngoài còn có một cận dưới . Mỗi cung cũng có một chi phí. Thông thường, trong bài toán luồng tuần hoàn, điều kiện cân bằng luồng sẽ phải áp dụng cho mọi nút, và có một kết nối giữa điểm thu ngược trở lại điểm phát. Bằng cách này, ta có thể áp đặt luồng tổng bằng và . Do luồng tuần hoàn trong mạng nên bài toán được đặt tên như vậy.
Mối quan hệ giữa các bài toán luồng
Nhiều biến thể của các bài toán luồng có quan hệ với nhau với hình thức bài này là tổng quát hóa hay chuyên biệt hóa của bài kia. Trong cây dưới đây, một bài toán có thể được giải bằng một lời giải cho bài toán cha.
Bài toán luồng với các điều kiện và hàm mục tiêu tùy ý.
Bài toán luồng với các điều kiện tuyến tính.
Bài toán luồng tuần hoàn đa (Multi-commodity circulation problem). Thuật toán thời gian đa thức duy nhất được biết là giải bằng quy hoạch tuyến tính.
Bài toán luồng đa chi phí cực tiểu. Đặt tất cả các cận dưới bằng 0.
Bài toán luồng chi phí cực tiểu. Giải với một loại hàng, 1 thu, 1 phát.
Bài toán luồng cực đại. Đặt tất cả chi phí bằng 0 và cực đại hóa luồng.
Bài toán tìm một đường đi ngắn nhất. Đặt tất cả các khả năng thông qua bằng 1, tìm luồng có độ lớn 1.
Bài toán luồng đa. Đặt tất cả chi phí bằng 0.
Đặt tất cả chi phí bằng 0. Giải với một loại hàng, 1 thu, 1 phát.
Bài toán tìm đường đi ngắn nhất cho mọi cặp đỉnh. Cho các khả năng thông qua là vô hạn, tìm luồng độ lớn 1 cho loại hàng, mỗi loại cho 1 cặp đỉnh.
Bài toán luồng tuần hoàn. Giải với một loại hàng, 1 thu, 1 phát.
Trong tất cả các bài toán trên, ta có thể tìm một luồng cực đại hoặc một luồng có độ lớn cho trước. |
Cần Giờ là một huyện ngoại thành ven biển thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Cần Giờ là huyện duy nhất giáp biển ở Thành phố Hồ Chí Minh, nằm ở phía đông nam, cách trung tâm thành phố khoảng 50 km đường bộ. Huyện nằm tách biệt với các địa phương lận cận, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Phía tây giáp huyện Cần Giuộc và huyện Cần Đước, tỉnh Long An và huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang
Phía nam giáp Biển Đông
Phía bắc giáp huyện Nhà Bè và huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai.
Huyện có diện tích 704,45 km², dân số năm 2019 là 71.526 người, mật độ dân số đạt 102 người/km².
Do bị ngăn cách với các địa phương khác bởi nhiều sông lớn, chưa có cầu bắc qua nên hiện tại đến Cần Giờ đều phải dùng phà, chủ yếu là phà Bình Khánh. Đường bộ quan trọng nhất ở Cần Giờ là đường Rừng Sác chạy từ Tây Bắc tới Đông Nam huyện, mới được nâng cấp xong giữa năm 2011.
Điều kiện tự nhiên
Huyện Cần Giờ tiếp giáp biển Đông với khoảng 20 km bờ biển. Ở đây có khu rừng ngập mặn Cần Giờ, một khu rừng ngập mặn đan xen với hệ thống sông rạch dày đặc chứa đựng các hệ sinh thái mang tính đa dạng sinh học cao với nhiều loài động thực vật đặc hữu của miền duyên hải Việt Nam. Đất lâm nghiệp là 32.109 hécta (46,45% diện tích toàn huyện), đất sông rạch là 22.850 hécta (32% diện đất toàn huyện). Vùng ngập mặn chiếm tới 56,7% diện tích toàn huyện. Huyện có khoảng 69 cù lao lớn nhỏ.
Trong Chiến tranh Việt Nam, rừng Sác ở Cần Giờ là căn cứ của lực lượng đặc công nước quân Giải phóng.
Dân cư
Vào năm 2009, huyện có số dân là 68.213 người, gồm các dân tộc Kinh (80%), Khmer và Chăm.
Hành chính
Huyện Cần Giờ có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm thị trấn Cần Thạnh và 6 xã: An Thới Đông, Bình Khánh, Long Hòa, Lý Nhơn, Tam Thôn Hiệp, Thạnh An.
Lịch sử
Thời nhà Nguyễn
Năm 1822, đại sứ nước Anh John Crawfurd trên hành trình đi sứ Xiêm và Cochinchina (Việt Nam) đã ghé thăm và neo tàu tại Cần Giờ để đi thuyền nhỏ vào thành Sài Gòn.Ngày 24 tháng 8, Crawfurd thả neo ở vịnh Dừa của Vũng Tàu. Đến buổi chiều, ông lái thuyền và lên bờ ở Kandyu [Cần Giờ]. Khi đến làng Pungtăo [Lòng Tàu?], ông được quan dân trong làng tiếp đón. Một lần nữa, Crawfurd có ấn tượng rất tốt với người dân [Việt] khi so sánh với người Xiêm. Người Việt ăn mặc tử tế, tuy mặt mày có vẻ bơ phờ và sương sỉa (gầy), nhưng họ rất hoạt bát và văn minh. Crawfurd sau đó được vị trưởng thôn hướng dẫn viết một lá thư, có dịch sang tiếng Pháp, để nhờ quan Cần Giờ trình lên cho ngài Tổng trấn Sài Gòn. Crawfurd neo tàu ở mũi Cần Giờ để chờ tin. Ông thấy thú vị khi sông Cần Giờ có nước trong trẻo mặc dù thượng nguồn có nhiều phù sa, khác với sông Hằng và Mê Nam. Crawfurd được biết dân số Cần Giờ khoảng 2.000 người, là một vùng nghèo nhưng người dân tốt bụng, không làm nhà sàn như người Xiêm. Và ông cũng hiểu lý do vì sao người Việt bị đặt biệt danh là "người Pháp của Ấn Độ": do họ hay khua tay múa chân khi nói chuyện với người nước ngoài. Ông cũng được dẫn đi tham quan các miếu thờ cá Ông, thần bảo hộ của ngư dân Cần Giờ và xung quanh.
Thời Pháp thuộc
Ngày 18 tháng 12 năm 1872, thực dân Pháp thành lập tổng Cần Giờ gồm 05 làng, từ phần đất cắt ra của hai tổng: Bình Trị Trung và Bình Trị Hạ vốn thuộc huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định vào thời nhà Nguyễn độc lập.
Ngày 28 tháng 2 năm 1875, thành lập thêm tổng An Thít do chia tách từ tổng Cần Giờ.
Tỉnh Gia Định từ ngày 1 tháng 1 năm 1911 chia thành 4 quận: Hóc Môn, Thủ Đức, Gò Vấp và Nhà Bè. Quận Nhà Bè có bốn tổng: Bình Trị Hạ, Dương Hòa Hạ, An Thít (còn gọi là An Thịt) và Cần Giờ.
Ngày 3 tháng 5 năm 1947, hai tổng: Cần Giờ và An Thít của quận Nhà Bè tách khỏi tỉnh Gia Định, chuyển sang thuộc tỉnh Vũng Tàu, lập mới quận Cần Giờ thuộc tỉnh Vũng Tàu (đến năm 1952 tỉnh này đổi thành thị xã Vũng Tàu). Quận Cần Giờ gồm 2 tổng: Cần Giờ và An Thít.
Giai đoạn 1956-1976
Việt Nam Cộng hòa
Năm 1956, quận Cần Giờ (gồm hai tổng: Cần Giờ và An Thít) thuộc thị xã Vũng Tàu. Ngày 3 tháng 1 năm 1957, do thị xã này giải thể, quận Cần Giờ bị phân ra: tổng An Thít giải thể, các xã của tổng này nhập vào tổng Dương Hòa Hạ, quận Cần Giuộc, tỉnh Long An; quận còn lại tổng Cần Giờ chuyển sang trực thuộc tỉnh Phước Tuy (tên gọi mới của tỉnh Bà Rịa lúc đó). Quận Cần Giờ gồm 05 xã: Cần Thạnh, Đồng Hòa, Long Thạnh, Thạnh An và Tân Thạnh và 10 ấp. Quận lỵ đặt tại xã Cần Thạnh.
Ngày 30 tháng 8 năm 1957, tái lập tổng An Thít thuộc quận Cần Giuộc, gồm 04 xã: Bình Khánh, An Thới Đông, Lý Nhơn và Tam Thôn Hiệp của tổng Dương Hòa Hạ.
Ngày 29 tháng 1 năm 1959, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập mới quận Quảng Xuyên thuộc tỉnh Phước Tuy, trên cơ sở tổng An Thít tách từ quận Cần Giuộc, tỉnh Long An. Quận Quảng Xuyên bao gồm 04 xã: Bình Khánh, An Thới Đông, Tam Thôn Hiệp và Lý Nhơn. Quận lỵ đặt tại xã An Thới Đông.
Ngày 9 tháng 9 năm 1960, hai quận Cần Giờ và Quảng Xuyên của tỉnh Phước Tuy chuyển sang thuộc tỉnh Biên Hoà.
Ngày 17 tháng 11 năm 1965, hai quận Quảng Xuyên và Cần Giờ được cắt từ tỉnh Biên Hoà nhập vào tỉnh Gia Định:
Quận Cần Giờ gồm 05 xã: Cần Thạnh, Đồng Hòa, Long Thạnh, Thạnh An và Tân Thạnh;
Quận Quảng Xuyên gồm 04 xã: An Thới Đông, Bình Khánh, Lý Nhơn và Tam Thôn Hiệp.
Sự phân chia hành chính này của quận Cần Giờ và quận Quảng Xuyên vẫn giữ ổn định cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975.
Chính quyền Cách mạng
Về phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, huyện Cần Giờ vẫn thuộc tỉnh Gia Định như cũ. Huyện Cần Giờ có địa bàn tương đương với hai quận Cần Giờ và Quảng Xuyên theo phân chia hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa gộp lại.
Từ ngày 5 tháng 7 năm 1968, sáp nhập huyện Cần Giờ với hai xã Phú Hữu, Phước Khánh của huyện Nhơn Trạch, tỉnh Biên Hòa và xã Long Sơn thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Bà Rịa để lập huyện Duyên Hải trực thuộc tỉnh Biên Hòa.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt huyện Duyên Hải thuộc tỉnh Biên Hòa như trước cho đến đầu năm 1976.
Từ năm 1976 đến nay
Tháng 2 năm 1976, huyện Duyên Hải thuộc tỉnh Đồng Nai (tỉnh mới được thành lập do hợp nhất tỉnh Biên Hòa, tỉnh Bà Rịa và tỉnh Long Khánh trước đó).
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, huyện Duyên Hải được sáp nhập vào Thành phố Hồ Chí Minh (căn cứ theo nghị quyết của Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ 4).
Huyện Duyên Hải bao gồm 7 xã: An Thới Đông, Bình Khánh, Cần Thạnh (trung tâm huyện lỵ), Long Hòa, Lý Nhơn, Tam Thôn Hiệp và Thạnh An (trước đây huyện có 9 xã, tuy nhiên trong thời gian thuộc tỉnh Đồng Nai, chính quyền đã sáp nhập ba xã Long Thạnh, Đồng Hòa, Tân Thạnh và một phần xã Cần Thạnh thành xã Long Hòa).
Ngày 18 tháng 12 năm 1991, huyện Duyên Hải đổi lại tên cũ là huyện Cần Giờ theo Quyết định số 405-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
Ngày 5 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 130/2003/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị trấn Cần Thạnh (thị trấn huyện lỵ huyện Cần Giờ) trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Cần Thạnh.
Huyện Cần Giờ có 1 thị trấn và 6 xã như hiện nay.
Di tích
Huyện Cần Giờ có 8 ngôi chùa; 2 chùa thuộc phái Tịnh Độ Cư sĩ; Chỉ có Chùa Hải Đức (thị trấn Cần Thạnh), Chùa Quang Minh Như Lai (xã Bình Khánh) và Chùa Nhơn Hòa (xã Lý Nhơn) là có tu sĩ trụ trì. Chùa Thạnh Phước (Chùa Cây Me) ở thị trấn Cần Thạnh là chùa cổ hơn cả.
Giao thông
Có đường cao tốc Bến Lức – Long Thành đi qua. Ngoài ra còn có một số tuyến tỉnh lộ, huyện lộ khác.
Đường phố
An Thới ĐôngBà XánBến Đò MớiBùi LâmDuyên HảiDương Văn HạnhĐào CửĐặng Văn KiềuGiồng AoHà Quang VócLâm Viên - Đồng ĐìnhLê Hùng YênLê ThươngLê Trọng MânLương Văn NhoLý NhơnNguyễn Công BaoNguyễn Phan VinhNguyễn Văn MạnhPhan ĐứcPhan Trọng TuệQuảng XuyênRừng SácTam Thôn HiệpTắc XuấtThạnh ThớiTrần Quang ĐạoTrần Quang NhơnTrần Quang Quờn
Chú thích
Theo Tập bản đồ Hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Bản đồ, 9/2005.
Từ gốc Khmer
Huyện duyên hải Việt Nam |
Chiến lược quân sự là phương hướng hoạt động tổng thể của một quân đội sử dụng trong một cuộc chiến tranh, tập hợp các biện pháp quân sự chung nhất cho quân đội tác chiến xuyên suốt quá trình chiến đấu trong một thời gian dài. Mục tiêu sử dụng một cách hiệu quả sức mạnh quân sự nhằm chiến thắng một giai đoạn, một mặt trận hoặc chiến thắng toàn bộ cuộc chiến tranh.
Trung tâm của chiến lược quân sự là đề ra mục tiêu chiến lược, và mọi khả năng và biện pháp để đạt được nó.
Chiến lược là cấp cao nhất chi phối các cấp thấp hơn là chiến dịch và chiến thuật trong các hoạt động quân sự.
Định nghĩa
Theo định nghĩa của Từ điển bách khoa Việt Nam, Tập 1, thì:
Chiến lược quân sự là bộ phận chủ đạo của nghệ thuật quân sự bao gồm lý luận và thực tiễn chuẩn bị mọi mặt và lực lượng vũ trang cho chiến tranh, lập kế hoạch và tiến hành đấu tranh vũ trang và các hoạt động tác chiến chiến lược.
Trong Chiến lược quân sự, Lý thuyết về kiểm soát quyền lực (Military Strategy, A Theory of Power Control) của Chuẩn đô đốc Hải quân Mỹ Joseph Caldwell Wylie, bản năm 1989, đã định nghĩa chiến lược là:
Một kế hoạch hành động được thiết kế để đạt được một số kết thúc; một mục đích cùng với một hệ thống các biện pháp để hoàn thành nó.Dịch từ tiếng Anh: A plan of action designed in order to achieve some end; a purpose together with a system of measures for its accomplishment
Nhà sử học quân sự và lý luận quân sự người Anh B. H. Liddell Hart đã định nghĩa chiến lược là:
"...nghệ thuật phân phối và áp dụng các biện pháp quân sự để hoàn thành mục đích của chính sách."Dịch từ tiếng Anh:"the art of distributing and applying military means to fulfill the ends of policy"
Vai trò
Chiến lược quân sự được sử dụng xuất phát từ nhu cầu hoạch định cách thức chiến đấu chung cho đường lối chiến tranh:
Xác định mục tiêu chiến tranh trong một thời gian dài hoặc xuyên suốt thời gian chiến đấu của cuộc chiến tranh.
Tổ chức lực lượng quân sự theo hướng phân bố nhất định: theo khu vực chiến đấu, hướng tiến quân hoặc phòng thủ chính yếu, mục tiêu quân sự chính yếu trong thời gian dài xác định.
Phân bổ các nguồn lực quân sự (thường là nguồn lực hạn chế) đến các đơn vị lớn ở những khu vực hay hướng quân sự chính một cách hợp lý và có tính ưu tiên. Và mức thấp hơn đến khu vực và lực lượng ít quan trọng hơn.
Sử dụng hiệu quả nguồn lực quân sự và điều phối, phân bổ liên tục theo hệ thống trong quá trình chiến đấu dài hạn.
Vạch ra các chuỗi hoạt động quân sự định sẵn: gồm tập hợp các trận đánh, thuộc về một giai đoạn chiến đấu, một mặt trận chiến đấu.
Đề ra việc sử dụng trình tự, phối hợp các chiến thuật quân sự khác nhau một cách năng động và linh hoạt.
Sử dụng tốt nhất nguồn lực chiến tranh với quỹ thời gian hạn chế.
Đặc điểm
Chiến lược quân sự có tính ổn định hơn chiến thuật quân sự, ít khả năng thay đổi nhưng không phải là không có. Một ví dụ, trong chiến tranh Việt Nam, Chiến lược chiến tranh đặc biệt của Mỹ trong những năm 1961 - 1965, đã thay đổi qua hai kế hoạch quân sự là Kế hoạch Staley-Taylor và Kế hoạch Johnson-McNamara.
Chiến lược quân sự do cấp độ vĩ mô của nó, được tiến hành trên một phạm vi không gian rộng lớn (mặt trận), và được hoạch định trong thời gian dài hạn. Đồng thời, chúng bao gồm các bước trình tự để quân đội thực hiện. Mỗi bước trong trình tự bao gồm nhiều trận đánh để theo đuổi các mục tiêu quân sự, và các bước là chuỗi dài tập hợp các mục tiêu đạt được cho mục tiêu cuối cùng của chiến tranh.
Chiến lược quân sự phụ thuộc trực tiếp chính trị và được xây dựng phù hợp với các yêu cầu của học thuyết quân sự.
Chiến lược quân sự có thể được sử dụng theo cách kết hợp chắc chẽ với các chiến lược hoạt động khác như chính trị, ngoại giao để tạo nên sức mạnh tổng hợp, phối hợp nhiều phương diện để tạo lợi thế trong chiến tranh, không tập trung duy nhất vào khả năng quân sự. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng ghi: "Đảng ta không bao giờ có một chiến lược quân sự thuần túy, và chưa bao giờ hạn chế chiến tranh ở mức độ chiến tranh du kích. Chiến lược chiến tranh cách mạng của Đảng là một chiến lược tổng hợp, kết hợp đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn".
Chiến lược quân sự không chỉ bao hàm ý nghĩa chiến lược của chiến tranh mà còn bao gồm chiến lược quốc phòng trong thời bình, trong đó chiến lược quốc phòng nhấn mạnh hoạt động củng cố năng lực quân sự của quốc gia, xây dựng các lực lượng mới phù hợp với sự thay đổi của tình hình an ninh và sự thay đổi của công nghệ quân sự, bao gồm lựa chọn, mua sắm vũ khí hoặc các chương trình phát triển chúng.
Phân nhánh chiến lược
Chiến lược dựa trên môi trường và lực lượng:
Chiến lược không quân
Chiến lược hải quân
Chiến lược lục quân
Chiến lược bộ binh
Chiến lược pháo binh
Chiến lược tăng-thiết giáp
...
Tình thế cơ bản trong chiến tranh
Tổ chức chiến lược quân sự có liên quan đến các tình thế cơ bản trong chiến tranh:
Tấn công
Phòng thủ
Phản công
Rút lui
Án binh
Danh sách
Bài chi tiết: Danh sách các chiến lược quân sự |
Sông Kiến Giang là một trong hai phụ lưu lớn của sông Nhật Lệ. Sông Kiến Giang chảy qua huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Sông dài 58 km. Đây là dòng sông của điệu Hò khoan Lệ Thủy, hàng năm vào ngày 2 tháng 9 có hội đua thuyền nổi tiếng. Đây là con sông đã chứng kiến sự sinh ra và lớn lên của những nhân vật nổi tiếng như Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân, Tuy Lộc hầu Đặng Đại Lược, Thạc Đức hầu Đặng Đại Độ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng thống Việt Nam Cộng hoà Ngô Đình Diệm, và học giả Nguyễn Kiến Giang. Hầu hết các con sông ở Việt Nam đều chảy theo hướng đông nam, riêng con sông này chảy theo hướng đông bắc nên còn được gọi là nghịch hà. Trước đây, hàng năm con sông này gây lũ lụt cho vùng đồng bằng xung quanh do sông dốc, ngắn. Sau khi có đập An Mã ngăn ở thượng nguồn, nạn lũ lụt đã được khống chế. Tuyến Đường sắt Bắc Nam cắt qua con sông này tại Cầu Mỹ Trạch. Trong thời kỳ Đông Dương thuộc Pháp, cầu Mỹ Trạch là nơi chứng kiến Thảm sát Mỹ Trạch đẫm máu, nơi dân làng Mỹ Trạch bị quân Pháp đưa ra cầu xử bắn, nơi đây ngày nay vẫn còn "Bia căm hờn" ghi lại tội ác này.
Đặc điểm
Là hợp lưu của nhiều nguồn sông suối phát nguyên từ vùng núi phía Tây-Nam huyện Lệ Thủy đổ về phường Luật Sơn (xã Trường Thủy, Lệ Thủy) chảy theo hướng Nam Bắc. Từ đây, sông chảy theo hướng Tây Nam-Đông Bắc, về đến ngã ba Thượng Phong, sông chảy theo hướng Đông Nam-Tây Bắc, đến đoạn ngã ba Phú Thọ (An Thủy, Lệ Thủy) sông đón nhận thêm nước của sông Cẩm Ly (chảy từ hướng Tây đồ về), tiếp tục chảy theo hướng trên, băng qua cánh đồng trũng huyện Lệ Thủy (đoạn này sông rất hẹp). Sắp hết đoạn đồng trũng huyện Lệ Thủy để vào địa phận huyện Quảng Ninh, sông được mở rộng và chảy băng qua phá Hạc Hải (có chiều dài gần 2km2) về đến xã Duy Ninh (Quảng Ninh), sông tiếp tục chảy ngược về hướng Tây đến ngã ba Trần Xá thì hợp lưu với sông Long Đại đổ nước vào sông Nhật Lệ.
Phù sa bồi đắp, tạo nên cánh đồng trú phú, nổi danh với câu ca: Nhất Đồng Nai, Nhì hai huyện
Các xã nằm hai bên bờ sông
Tả ngạn: An Thủy, Xuân Thủy, TT Kiến Giang, Mai Thủy, Trường Thủy, Kim Thủy
Từ thượng nguồn: Kim Thủy, Trường Thủy,Mai Thủy, Xuân Thủy, TT Kiến Giang, An Thủy
Hữu ngạn: Lộc Thủy, Phong Thủy, TT Kiến Giang, Liên Thủy, Mĩ Thủy, Văn Thủy, Hồng Thủy, Gia Ninh
Từ thượng nguồn: Văn Thủy, Mỹ Thủy, Liên Thủy, TT Kiến Giang, Phong Thủy, Lộc Thủy, Hồng Thủy, Gia Ninh
Các xã nằm hai bên bờ sông Kiến Giang:
Lễ hội trên sông
Lễ hội Cầu đảo: Diễn ra vào dịp đầu xuân, đua thuyền để khai thông sông rạch.
Lễ hội đua thuyền: Diễn ra vào đúng ngày 2/9 hàng năm, còn được gọi là Lễ hội đua thuyền mừng Tết Độc lập. Ngày 27 tháng 8 năm 2019, Bộ trưởng VH-TT-DL ký quyết định công bố danh mục Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia cho Lễ hội đua, bơi thuyền trên sông Kiến Giang.
Trong văn hóa đại chúng
Bài hát "Đưa em về Kiến Giang" sáng tác Xuân Đồng, thơ Nguyễn Văn Huy, trong đó có câu hát nổi bật: "Kiến Giang ơi dòng Kiến Giang! Dòng sông thơ như dòng sữa mẹ"
Bài hát "Quảng Bình quê ta ơi" sáng tác Hoàng Vân có nhắc đến "Ɗòng sông Gianh (Khoan khoan hò khoan) với hàng dương xanh (Khoan khoan hò khoan), Đời đời hát ca tên anh, những người anh hùng (Khoan khoan hò khoan)." |
Trò chơi truyền hình () là một dạng hoạt động văn hóa, giải trí được hình thành sau khi truyền hình trở thành một phương tiện truyền thông đại chúng. Trò chơi truyền hình gồm rất nhiều loại hình như: trò chơi trí tuệ, trò chơi vận động, trò chơi giải trí, trò chơi mạo hiểm, v.v...
Trò chơi truyền hình là một thể loại giải trí truyền hình trong đó các thí sinh cạnh tranh để giành lấy phần thưởng. Các chương trình này có thể có sự tham gia hoặc biểu diễn và thường do người dẫn chương trình chỉ đạo, phổ biến các quy tắc của chương trình cũng như bình luận và tường thuật khi cần thiết. Trong hầu hết các chương trình trò chơi truyền hình, các thí sinh phải trả lời câu hỏi hoặc giải đố, thường để giành được tiền hoặc giải thưởng. Các trò chơi truyền hình thường thưởng cho người chơi các giải thưởng như tiền mặt, các chuyến đi và hàng hóa, dịch vụ do nhà tài trợ của chương trình cung cấp.
Phần lớn các trò chơi truyền hình thường được thực hiện tại trường quay của đài truyền hình hoặc trong một diện tích hẹp phù hợp với hoạt động thu hình, do đó số lượng người chơi thường không lớn. Hiện nay, các trò chơi truyền hình được các công ty chuyên cung cấp bản quyền trò chơi truyền hình sáng tạo và sản xuất thử. Các hãng truyền hình, các công ty quảng cáo sẽ mua lại bản quyền các trò chơi này và thực hiện lại chúng.
Lịch sử
Tiền thân của trò chơi truyền hình là các chương trình trò chơi trên đài phát thanh; theo luật, người chơi phải đưa ra câu trả lời chính xác cho câu hỏi của người dẫn chương trình. Trong những năm 1940 và 1950, các game show với định dạng tương tự bắt đầu xuất hiện trên truyền hình, ngay lập tức nhận được sự yêu thích lớn. Ở Mỹ, các chương trình phổ biến nhất là The $64,000 Challenge, Twenty One và Dotto .
Vào năm 1958, để chạy theo rating, nhà sản xuất của trò chơi truyền hình mới Dotto đã nhắc những người tham gia các câu trả lời đúng. Điều này dẫn đến việc chương trình bị đóng cửa và một số vụ bê bối tương tự trong các trò chơi truyền hình nổi tiếng khác. Do đó, các công ty truyền hình bắt đầu chú ý hơn đến định dạng của những trò chơi truyền hình không liên quan đến trí tuệ và sự uyên bác: The Price Is Right, Password,...
Các chương trình tương tự cũng xuất hiện ở Liên Xô - đầu tiên là Buổi tối của những câu hỏi vui (, 1958), sau đó là Câu lạc bộ những người thông thái và vui tính (KVN, ) vào năm 1961, nơi những người tham gia tranh tài không chỉ về kiến thức mà còn về trí thông minh. Vào năm 1975, một trong những trò chơi truyền hình phổ biến nhất ở Liên Xô, Cái gì? Ở đâu? Khi nào?, đã được ra mắt. Trong chương trình, các đội tham gia cùng nhau trả lời các câu hỏi đã được khán giả gửi về từ trước.
Trò chơi truyền hình tại Việt Nam
Lịch sử
Giai đoạn những năm 1990-2004
Những năm đầu thập niên 1990 là thời điểm thiếu sân chơi cho giới trẻ, truyền hình còn nghèo nàn về giải trí. Đứng trước sự thay đổi nội dung chương trình qua Kênh 7 (HTV7 - Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh), cùng với mong muốn của Nhà văn hóa Thanh niên TP. HCM, cả hai đơn vị đã tạo nên một trò chơi truyền hình về âm nhạc, ca hát mang tên "Âm nhạc và Tuổi trẻ", một trong những trò chơi truyền hình đầu tiên của HTV và cả nước, sau Đố em trên kênh 9 những năm 1970 - 1980. Chuơng trình đã thu hút một lượng người xem rất lớn trên kênh HTV7 thời điểm đó tại Nam Bộ.
Đến năm 1996, kênh VTV3 của Đài Truyền hình Việt Nam - với nội dung chủ yếu lúc đó là thể thao và giải trí - chính thức được lên sóng cùng với SV 96 - một sân chơi dành cho sinh viên. Ngay khi ra mắt, SV 96 đã tạo nên tiếng vang trên toàn quốc, trở thành thương hiệu không thể thiếu của kênh VTV3 thời điểm đó. Trò chơi truyền hình tại Việt Nam chính thức phát triển từ đây. Sau đó, một loạt game show khác cũng do kênh này sản xuất và lần lượt được phát sóng như Trò chơi liên tỉnh, Những người bạn ngộ nghĩnh, 7 sắc cầu vồng, Nốt nhạc tình yêu, Đường lên đỉnh Olympia... đã gây ấn tượng với khán giả cả nước.
Đầu thập niên 2000 chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ của game show, khi các đài truyền hình lớn đều sản xuất game show để cạnh tranh, trong số đó gồm HTV với Vui để học, Chung sức, Trúc xanh, Rồng vàng, Nốt nhạc vui,...; Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội với Khỏe & khéo, Vượt qua thử thách, Đuổi hình bắt chữ...; VTV với Chiếc nón kỳ diệu, Hành trình văn hóa, Trò chơi âm nhạc, Đường đến vinh quang, Trò chơi điện ảnh, Sóng nước phương Nam, Hãy chọn giá đúng, .... Trong giai đoạn này, đa số các trò chơi truyền hình đều thuộc thể loại hỏi đáp kiến thức, hay mang tính quảng cáo như Hãy chọn giá đúng, Siêu thị may mắn,... Giai đoạn này còn có các game show ca nhạc, thể hiện tài năng ở quy mô nhỏ.
Ngoài ra, đây là thời điểm truyền hình tương tác phát triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của những game show tương tác trực tiếp như: Vui cùng Hugo, Stinky & Stomper, Giải trí với truyền hình (chương trình diễn ra trong các giải đấu thể thao),...
Giai đoạn 2005-2015
Từ nửa sau thập niên 2000, trò chơi truyền hình có sự phát triển mạnh mẽ, từ việc xuất hiện vào tất cả các ngày trong tuần trên HTV7 và VTV3 đến sự đổi mới về nội dung truyền hình thực tế. Đầu năm 2005, VTV3 ra mắt chương trình Khởi nghiệp và ngay lập tức thu hút lượng người xem mỗi tuần. Đây có thể được xem là chương trình truyền hình thực tế tiên phong tại Việt Nam. Cùng năm đó, Vượt lên chính mình, Ngôi nhà mơ ước - một dạng khác của truyền hình thực tế - lần lượt được lên sóng trên HTV.
Tuy nhiên, Phụ nữ thế kỷ 21 (2006) mới thật sự là chương trình truyền hình thực tế đúng nghĩa đầu tiên tại Việt Nam. Ngay khi ra mắt khán giả truyền hình, chương trình đã tạo được sự chú ý bởi tính tươi mới, chân thật và thẳng thắn. Là một cuộc thi truyền hình nhưng các thí sinh được thoải mái bộc lộ quan điểm và cá tính, những điểm mạnh và điểm yếu của bản thân để từ đó phác họa nên những nét độc đáo của phụ nữ ngày nay.
Sau đó, đến năm 2007, công ty Đông Tây Promotion cũng đã thực hiện thành công Vietnam Idol mùa đầu tiên, trong khi VTV tự sản xuất chương trình Đồ rê mí. Hai chương trình này đã mở đầu cho các chương trình thi tìm kiếm tài năng trên truyền hình. Bước sang những năm 2010, các trò chơi truyền hình dần có sự chuyển biến về hình thức, khi nhiều chương trình truyền hình thực tế ăn khách trên thế giới lần lượt được mua bản quyền và sản xuất tại Việt Nam như: Thử thách cùng bước nhảy, Bước nhảy hoàn vũ, Giọng hát Việt, Nhân tố bí ẩn, Gương mặt thân quen,... Chưa dừng lại ở đó, giải thưởng dành cho người chơi khi tham gia còn tăng lên đáng kể, có chương trình lên đến 1 tỷ đồng như Một phút để chiến thắng (phát sóng trên HTV7 năm 2012).
Sự xuất hiện của chương trình Giọng hát Việt nhí vào năm 2013 đã làm khuynh đảo thị trường game show dành cho trẻ em nói riêng và truyền hình nói chung. Sau thành công của chương trình, các chương trình truyền hình thưc tế tìm kiếm tài năng dành cho thiếu nhi lần lượt xuất hiện, như Gương mặt thân quen nhí, Bước nhảy hoàn vũ nhí, Vũ điệu tuổi xanh,...
Giai đoạn này cũng là thời điểm các chương trình hẹn hò, tình yêu bắt đầu xuất hiện trên truyền hình như Bạn muốn hẹn hò, Điểm số hoàn hảo, Vợ chồng son...
Giai đoạn 2015-2019
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã dẫn đến sự thay đổi không ngừng của ngành truyền hình, và trò chơi truyền hình cũng không ngoại lệ. Giai đoạn này xuất hiện các trò chơi truyền hình, chương trình hẹn hò chiếu mạng (web series) như: Dare Pong, Dare & Kiss,... Tuy nhiên, các chương trình này hầu hết đều không tạo được dấu ấn, một số chương trình còn bị khán giả "ném đá" vì không phù hợp với thuần phong mỹ tục.
Những năm 2015 - 2016, các trò chơi truyền hình thiên về hài hước bùng nổ mạnh mẽ, khi nhiều nghệ sĩ hài nổi tiếng lần lượt xuất hiện trên các chương trình truyền hình. Trò chơi truyền hình ở giai đoạn này có sự đa dạng mọi hình thức, từ ca hát, diễn xuất, vận động, thử thách đến cách thức pha trò của giám khảo, khách mời. Các đài truyền hình nhỏ lẻ hơn cũng không nằm ngoài sức hút đó. Chương trình Cười xuyên Việt phát sóng trên THVL1 và Thách thức danh hài trên HTV7 (cùng lên sóng vào giữa năm 2015) đã tạo cơn sốt lớn trên truyền hình lúc bấy giờ, nhất là với một số đài truyền hình địa phương. Kéo theo thành công của hai chương trình trên, các game show về ca nhạc, hài hước,... liên tục xuất hiện trên các đài truyền hình địa phương với tần suất dày đặc. Thế nhưng, hàng loạt các bê bối, tranh cãi đã xảy ra (tiêu biểu là sự việc giữa Hương Giang và Trung Dân trong chương trình Siêu sao đoán chữ vào năm 2017) khiến các game show hài giảm đi sức hút và trở nên thoái trào.
Sau khi sức hút của các chương trình hài giảm mạnh, khán giả bắt đầu tìm đến các thể loại giải trí khác nhau. Giai đoạn 2018 trở về sau chứng kiến sự lên ngôi của các trò chơi truyền hình thiên về trí tuệ từng rất đình đám ở những năm 2000, như Nhanh như chớp, 5 vòng vàng kỳ ảo, Tường lửa, Vượt thành chiến, Quả cầu bí ẩn.... Chương trình Nhanh như chớp (lên sóng lần đầu năm 2018) với hình thức đố mẹo kết hợp với kiến thức thực tế, cùng với các yếu tố hài hước đã gây ấn tượng với khán giả truyền hình, và ngay lập tức giành giải Mai Vàng cho Chương trình truyền hình được yêu thích nhất chỉ sau một năm lên sóng. Các game show ở thời điểm này cũng được đầu tư mạnh mẽ, điển hình như Tường lửa (lên sóng năm 2019) đã trở thành trò chơi truyền hình có giải thưởng cao nhất tại Việt Nam, cao hơn gấp 5 - 6 lần so với nhiều chương trình trước đây. Hay Siêu trí tuệ Việt Nam (lên sóng cùng năm), được mua bản quyền từ format Siêu trí tuệ từng gây tiếng vang lớn trên toàn thế giới. Một số chương trình khác như Ký ức vui vẻ, Running Man Vietnam,... cũng rất thu hút khán giả.
Giai đoạn 2020-nay
Đại dịch COVID-19 bùng phát ở trên thế giới cũng như tại Việt Nam đã gây ra nhiều khó khăn cho các công ty cũng như đài truyền hình khi game show bị thiếu hụt sản phẩm do phải dừng mọi hoạt động ghi hình trong thời gian chưa xác định, vì không thể quy tụ ê-kíp sản xuất hàng chục người. Nhiều khung giờ buộc phải phát lại các chương trình cũ thay vì phát sóng chương trình mới. Một số chương trình truyền hình buộc phải thay đổi mô hình sản xuất để kịp tiến độ lên sóng mà vẫn đảm bảo hạn chế tiếp xúc, điển hình là Ai là triệu phú khi phải thay đổi luật chơi khi không có khán giả tại trường quay. Những game show truyền hình thực tế bị hủy bỏ, còn với những chương trình phát mới có khán giả phải ghi rõ thời gian ghi hình khi phát sóng. Bên cạnh đó, nhiều game show cũng đề cập đến đại dịch, với mục đích tuyên truyền cũng như động viên tinh thần người dân.
Tháng 8 năm 2020, Rap Việt và Thế giới Rap - King of Rap đã tạo nên làn gió mới cho thể loại game show liên quan đến hip hop tại Việt Nam. Đặc biệt, với chương trình Rap Việt, chương trình chung kết 2 đã tạo nên kỷ lục khi phát trên nền tảng YouTube với hơn 1 triệu lượt xem cùng lúc trên nền tảng này, cao nhất Việt Nam tại thời điểm phát sóng.
Tổng quan
Tại Việt Nam, trò chơi truyền hình phát triển với tốc độ rất nhanh, hầu hết tất cả các đài lớn đều cho ra đời nhiều chương trình mới, lùng sục bản quyền từ các nước Châu Âu, Mỹ, Trung Quốc, Đông Nam Á, Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, xem kẽ các chương trình thuần Việt. Hoạt động mạnh nhất là kênh THVL1 của Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long, kênh HTV7 của Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, kênh VTV3 của Đài truyền hình Việt Nam, và một số kênh khác như HTV2, HTV9, VTV8, VTV9, Đài PTTH Đồng Nai, Bình Dương, Vũng Tàu, VTC....
Hiện nay, Việt Nam đã nhập khẩu và sản xuất hơn 300 chương trình trò chơi truyền hình, truyền hình thực tế,... trải dài trên các kênh sóng, lấn át các khung giờ vàng trong tuần trên các kênh.
Những mặt hạn chế và tiêu cực
Có ý kiến cho rằng khoảng vài năm trở lại đây, các game show do các đài truyền hình tự sản xuất giảm sức hút, không còn hấp dẫn như trước. Những game show, chương trình gây chú ý thường là của tư nhân, hợp tác phát sóng theo chủ trương xã hội hóa.
Những năm gần đây, hàng loạt chương trình cũng nhiều lần gây bão dư luận với những scandal như dàn xếp kết quả, nội dung thiếu văn hóa hay nghệ sĩ xúc phạm nhau khi cùng tham gia một chương trình, v.v...
Trong nghệ thuật
Năm 1994, bộ phim "TV Show" được phát hành, dành riêng cho vụ bê bối xung quanh trò chơi truyền hình Dotto vào năm 1958.
Robert Sheckley năm 1958 đã viết truyện ngắn "The Prize of Peril", đề cập đến việc thắt chặt các chương trình truyền hình trong tương lai. Câu chuyện này sau đó được Stephen King dựng lại thành tiểu thuyết "Running Man" (1982) và bộ phim cùng tên năm 1987, trong đó cốt truyện xoay quanh trò chơi truyền hình chết chóc The Running Man. Cuốn tiểu thuyết và bộ phim lấy bối cảnh vào năm 2017. |
Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế (tiếng Anh: International Civil Aviation Organization; viết tắt: ICAO) là một tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc chịu trách nhiệm soạn thảo và đưa ra các quy định về hàng không trên toàn thế giới.
Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế được thành lập 04/04/1947, có tổng hành dinh đặt tại Montreal, Canada. ICAO là một cơ quan của LHQ hệ thống hóa các nguyên tắc và kỹ thuật của dẫn đường hàng không quốc tế cũng như tạo điều kiện về kế hoạch và phát triển ngành vận tải hàng không quốc tế để đảm bảo an toàn và lớn mạnh một cách có thứ tự.
Ủy ban ICAO đưa ra những tiêu chuẩn và những điều thực tế liên quan đến dẫn đường hàng không, và ngăn chặn mọi sự xuyên nhiễu trái luật cũng như làm thuận tiện quy trình bay từ nước này sang nước khác trong hàng không dân dụng. Thêm vào đó, ICAO cũng định nghĩa những cách thức để điều tra tai nạn hàng không dựa theo Công ước hàng không dân dụng quốc tế (còn gọi là công ước Chicago) để các cơ quan hàng không ở các quốc gia có thể dựa vào đó thực hiện.
Không nên nhầm lẫn giữa ICAO với IATA là Hiệp hội giao thông vận tải quốc tế, đó là một tổ chức thương mại của các hãng Hàng không.
Logo
Logo ICAO đã được sửa nhiều lần trong những năm qua. Logo hiện tại được lập năm 1995. Có 6 phiên bản chữ cho 6 ngôn ngữ làm việc của ICAO:
Tiếng Anh: từ viết tắt ICAO.
Tiếng Ả Rập: phiên âm của từ viết tắt tiếng Anh ICAO (không phải chữ viết tắt tên tổ chức theo tiếng Ả Rập).
Tiếng Trung Quốc: tên tổ chức đầy đủ theo tiếng Trung Quốc.
Tiếng Pháp: từ viết tắt theo tên tiếng Pháp, OACI.
Tiếng Nga: chuyển thể từ viết tắt tiếng Anh ИКАО (không phải chữ viết tắt tên tổ chức theo tiếng Nga, tên viết tắt theo tiếng Nga là МОГА).
Tiếng Tây Ban Nha: từ viết tắt theo tên tiếng Tây Ban Nha, OACI.
Nhiệm vụ
Xây dựng và thiết lập các tiêu chuẩn bắt buộc đối với ngành hàng không, để các nước thành viên thực hiện
Quy định quyền giao thông quốc tế, quyền tự do bầu trời
Phát triển cơ sở hạ tầng
Phát triển các khuyến nghị và hướng dẫn, chẳng hạn như: Tiêu chuẩn phòng cháy ICAO
Phân bổ mã ICAO cho các nước và các loại máy bay
Phát triển chuẩn mực cho các tài liệu hành trình mà máy có thể đọc được
Định nghĩa của các giá trị giới hạn cho phát tiếng ồn máy bay (máy bay hạng -I-/-II-/-III- theo Phụ lục 16)
Thành viên
Quốc gia Việt Nam gia nhập ICAO năm 1954, sau do Việt Nam Cộng hòa kế thừa. Ghế của Việt Nam Cộng hòa năm 1975 chuyển cho Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì đến năm 1980 mới chính thức gia nhập.
Tính đến tháng 11/2011, ICAO có 191 thành viên, bao gồm 190 trong 193 thành viên LHQ (trừ ra Dominica, Liechtenstein, và Tuvalu), cộng với quần đảo Cook.
Liechtenstein đã ủy quyền cho Thụy Sĩ thực hiện các điều ước quốc tế áp dụng trên lãnh thổ của Liechtenstein.
Hoạt động
Các lãnh đạo
Chủ tịch hội đồng (Presidents of the Council)
Tổng thư ký (Secretaries General) |
Volt-Ampere, còn được viết tắt là VA, là đơn vị đo công suất dòng điện. Nó được tính bằng cách nhân hiệu điện thế tính theo Volt với cường độ dòng điện tính theo Ampere. Đơn vị này thường được sử dụng cho công suất biểu kiến của mạch điện xoay chiều.
Trong mạch điện một chiều (DC), VA tương đương với Watt. Tuy nhiên trong dòng điện xoay chiều, VA thường dùng để tính công suất biểu kiến, còn Watt dùng để tính công suất thực. Trên cùng một mạch điện xoay chiều, công suất biểu kiến thường có độ lớn lớn hơn công suất thực; ví dụ trong bộ lưu điện (UPS), một VA công suất biểu kiến có thể tương đương với khoảng 1,6 Watt công suất thực (hệ số công suất lúc đó là 1/1,6 = 0,625).
Khi thêm các tiền tố SI, chúng ta có các đơn vị như:
kVA = 1.000 VA (tiền tố k nghĩa là kilo)
MVA = 1.000.000 VA (tiền tố M nghĩa là mega)
Đơn vị kVA thường được sử dụng trong công nghiệp để tính công suất truyền tải điện năng của các máy biến thế. |
Quảng Ninh có thể là một trong các địa danh sau:
Việt Nam
Tỉnh Quảng Ninh
Huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình
Xã Quảng Ninh, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa
Trung Quốc
Huyện Quảng Ninh, địa cấp thị Triệu Khánh, tỉnh Quảng Đông |
Bắc Việt là một xã thuộc huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam.
Địa lý
Xã Bắc Việt nằm ở phía bắc huyện Văn Lãng, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp xã Bắc Hùng với ranh giới là sông Kỳ Cùng
Phía tây giáp xã Bắc La và xã Tân Tác
Phía nam giáp thị trấn Na Sầm và xã Thành Hòa.
Phía bắc giáp huyện Tràng Định.
Xã Bắc Việt có diện tích 37,80 km², dân số năm 2018 là 2.989 người, mật độ dân số đạt 79 người/km².
Lịch sử
Địa bàn xã Bắc Việt hiện nay trước đây là một phần các xã Tân Lang, Tân Việt, Trùng Quán thuộc huyện Văn Lãng.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 818/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Lạng Sơn (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó, sáp nhập 10,14 km² diện tích tự nhiên và 1.133 người thuộc 5 thôn: Kéo Van, Pò Lâu, Tà Coóc, Khun Roọc, Bản Làng và một phần thôn Bó Củng của xã Tân Lang; 13,91 km² diện tích tự nhiên và 1.113 người thuộc 6 thôn: Pàn Kinh, Nà Chồng, Pà Danh, Bản Gioong, Khun Gioong, Nà Chi của xã Trùng Quán; 13,75 km² diện tích tự nhiên và 743 người thuộc 2 thôn: Nà Lẹng, Pá Mỵ và một phần thôn Bản Quan của xã Tân Việt để thành lập xã Bắc Việt.
Sau khi thành lập, xã Bắc Việt có diện tích 37,80 km², dân số là 2.989 người.
Chú thích |
Dương hậu có nghĩa là hoàng hậu họ Dương.
Ở Việt Nam có những Dương hậu sau:
Dương Như Ngọc, vợ Ngô Quyền, sống vào thế kỷ 10
Dương Vân Nga, hoàng hậu hai triều Đinh, Tiền Lê
Dương Thị Nguyệt, một hoàng hậu khác của Vua Đinh Tiên Hoàng, có công truyền dạy trò Xuân Phả
Thượng Dương hoàng hậu họ Dương, vợ vua Lý Thánh Tông, sau bị Nguyên phi Ỷ Lan ám hại.
Trừ Hoàng hậu Dương Thị Nguyệt không có con trai, cả ba Dương hậu kia trong lịch sử Việt Nam sau đó đều trở thành Dương thái hậu
Ở Trung Quốc có các Dương hậu sau:
Dương Diễm, vợ đầu của Tấn Vũ Đế, mẹ của Tấn Huệ Đế
Dương Chỉ, em họ của Dương Diễm, vợ hai của Tấn Vũ Đế
Dương Hiến Dung, vợ sau của Tấn Huệ Đế, sau đó làm vợ vua Hán Triệu (người Hung Nô) là Lưu Thông
Dương Lệ Hoa, hoàng hậu của Bắc Chu Tuyên Đế.
Trong 4 Dương hậu của Trung Quốc, chỉ có Dương Chỉ sau đó trở thành Dương thái hậu. |
Xem nghĩa khác tại bài Dương hậu
Dương Quốc mẫu (chữ Hán: 楊國母), tên thật là Dương Thị Vy hoặc Dương Thị Như Ngọc, là một người vợ của Tiền Ngô vương Ngô Quyền, và là Vương hậu nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam.
Tiểu sử
Lịch sử không ghi nhận nhiều về hành trạng của bà. Bà là con gái của Dương Đình Nghệ, được gả cho Ngô Quyền trước khi Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn giết hại và là mẹ của Ngô Xương Văn, không có chứng minh nào bà là mẹ của Ngô Xương Ngập. Bà không có tên rõ ràng trong chính sử. Theo nhà sử học Lê Văn Lan, tên gọi Dương Như Ngọc được đặt theo dân gian mang màu sắc Đạo giáo, như trường hợp một bà Dương hậu khác cũng được đặt tên văn nghệ, là Dương Vân Nga.
Bà trở thành Vương hậu của nhà Ngô năm 939, là vị vương hậu đầu tiên được chép vào sử sách trong lịch sử Việt Nam, vì trước Ngô Quyền, đã có nhiều vua Việt Nam xưng hiệu nhưng không thấy sử sách chép vợ của các vua này (An Dương Vương, Lý Nam Đế, Triệu Việt Vương, Hậu Lý Nam Đế, Mai Hắc Đế).
Những suy đoán về tuổi tác của Ngô Quyền, Ngô Xương Ngập và con cả Xương Ngập là Ngô Xương Tỷ (tức Khuông Việt đại sư) cho thấy bà không phải là người sinh ra Ngô Xương Ngập còn vì Xương Ngập ra đời khoảng năm 915 khi Ngô Quyền chưa gặp bà và hơn Xương Văn khá nhiều tuổi.
Theo một số giai thoại, Ngô Quyền còn một người vợ họ Đỗ, tên thật là Đỗ Thị Sa quê ở Cổ Loa, nhưng bà Đỗ không có con. Do đó có thể cả ba người con sau của Ngô Quyền là Xương Văn, Nam Hưng và Càn Hưng đều là con đẻ của Dương hậu.
Bà sống tới khi Ngô Xương Văn phục hồi ngôi báu từ tay em (hay anh) bà là Dương Tam Kha và cũng trở thành Thái hậu đầu tiên được ghi trong sử sách Việt Nam. Sau đó không rõ bà mất khi nào. Có thể bà mất trước khi Xương Văn tử trận năm 965. |
Cà Mau là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Cà Mau, Việt Nam.
Địa lý
Thành phố Cà Mau nằm phía đông bắc của tỉnh Cà Mau, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thị xã Giá Rai và huyện Đông Hải thuộc tỉnh Bạc Liêu
Phía tây giáp huyện Cái Nước và huyện Trần Văn Thời
Phía nam giáp huyện Đầm Dơi
Phía bắc giáp huyện Thới Bình.
Thành phố có diện tích 249,23 km², dân số năm 2019 là 226.372 người, mật độ dân số đạt 908 người/km².
Thành phố cách thủ đô Hà Nội 2.017 km về phía nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 305 km về phía nam và cách thành phố Cần Thơ 149 km về phía nam.
Khái quát chung
Trước năm 1975, thị xã có tên là Quản Long, tỉnh An Xuyên.
Năm 1999, thị xã Cà Mau được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam công nhận là đô thị loại III. Đây là quê hương của nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Thành phố là nơi hội tụ của cư dân người Việt, người Hoa, người Khmer, buôn bán sầm uất. Trong lòng thành phố có Công viên văn hóa 19/5 với hàng ngàn con chim đến đi mỗi ngày. Vào ngày 7 tháng 8 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã có quyết định xếp thành phố Cà Mau là đô thị loại II. Dân số thành phố Cà Mau tại thời điểm năm 2017 là 224.414 người, diện tích là 249,29 km². Đa số dân cư là người Việt, người Hoa, người Khmer. Thành phố kết nối giao thông với Quốc lộ 1 (khoảng cách đường bộ vào khoảng 360 km so với Thành phố Hồ Chí Minh, 180 km so với Cần Thơ), sân bay Cà Mau.
Điều kiện tự nhiên
Khí hậu ở Cà Mau mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, chia 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình 26,5 °C. Thời gian nắng trung bình 2.200 giờ/năm. Lượng mưa trung bình khoảng 2.360 mm. Chế độ gió thịnh hành theo mùa. Mùa mưa gió thịnh hành theo hướng Tây – Nam hoặc Tây. Mùa khô gió thịnh hành theo hướng Đông Bắc và Đông. Cà Mau nằm ngoài vùng ảnh hưởng của lũ lụt ở hệ thống sông Cửu Long, đồng thời ít bị ảnh hưởng của bão.
Khí hậu
Hành chính
Thành phố Cà Mau có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 10 phường: 1, 2, 4, 5, 6, 7, 8, 9, Tân Thành, Tân Xuyên và 7 xã: An Xuyên, Định Bình, Hòa Tân, Hòa Thành, Lý Văn Lâm, Tắc Vân, Tân Thành với 52 khóm và 63 ấp.
Lịch sử
Thời phong kiến
Cà Mau được mở mang cách đây 300 năm. Vào thế kỷ 17, một số lưu dân người Việt vì không chịu nổi cảnh áp bức bóc lột của chế độ phong kiến đã rời bỏ quê hương nơi cư trú đến làm ăn sinh sống tại đây, dựng thành một xã với tên gọi "xã Cà Mau". Đến năm 1808, dưới thời vua Gia Long, địa bàn Cà Mau được nâng lên thành huyện Long Xuyên thuộc phủ An Biên, tỉnh Hà Tiên. Năm 1825, dưới thời vua Thời Minh Mạng, nhà Nguyễn đã đặt ra một quan tri huyện để cai trị.
Thời Pháp thuộc
Ngày 15 tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp thành lập hạt Cà Mau gồm địa bàn huyện Long Xuyên cũ. Tuy nhiên đến ngày 1 tháng 8 năm 1877, thực dân Pháp lại giải thể hạt Cà Mau, nhập vào địa bàn hạt Rạch Giá.
Ngày 18 tháng 2 năm 1882, chính quyền Pháp lấy một phần đất Bạc Liêu thuộc tỉnh Sóc Trăng, một phần đất Cà Mau thuộc Rạch Giá hợp thành tỉnh Bạc Liêu. Thời Pháp thuộc, Cà Mau là một quận của tỉnh Bạc Liêu, quận lỵ đặt tại làng An Xuyên thuộc tổng Quản Long.
Giai đoạn 1956-1975
Việt Nam Cộng hòa
Ngày 9 tháng 3 năm 1956, theo Sắc lệnh 32/NV, chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập tỉnh Cà Mau, tỉnh lỵ ban đầu có tên là Cà Mau. Tỉnh lỵ Cà Mau nằm trong địa bàn xã An Xuyên, tổng Quản Long, quận Châu Thành.
Đến ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Cà Mau được đặt tên mới là tỉnh An Xuyên, còn tỉnh lỵ đổi tên là "Quản Long".
An Xuyên chính là tên của làng sở tại trước kia thuộc tổng Quản Long, vốn là nơi đặt quận lỵ quận Cà Mau trước năm 1956. Lúc này, xã An Xuyên cũng được đổi tên thành xã Tân Xuyên thuộc quận Quản Long và là nơi đặt tỉnh lỵ Quản Long của tỉnh An Xuyên.
Thời Việt Nam Cộng hòa, địa bàn thành phố Cà Mau ngày nay tương ứng với quận Quản Long (do đổi tên từ quận Châu Thành cũ) thuộc tỉnh An Xuyên và gồm 4 xã: Tân Xuyên, Tân Lộc, Hòa Thành, Định Thành. Trong đó, xã Tân Xuyên đóng hai vai trò là quận lỵ quận Quản Long và là tỉnh lỵ tỉnh An Xuyên.
Năm 1961, thành lập thị xã Cà Mau với mật danh là Bảy Đô có 9 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, ấp I (xã Tân Thành), ấp Tân Phước (xã An Xuyên), ấp Thanh (xã Thạnh Phú) và xã mới Lý Văn Lâm.
Chính quyền Cách mạng
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh An Xuyên mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cà Mau. Bên cạnh đó, tên gọi "Quản Long" cũng không được chính quyền Cách mạng công nhận và sử dụng. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng thành lập và duy trì tên gọi thị xã Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau trong suốt giai đoạn 1956-1976. Địa bàn thị xã Cà Mau tương ứng với xã Tân Xuyên thuộc quận Quản Long, tỉnh An Xuyên của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1964, chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập hai tỉnh riêng biệt là Cà Mau và Bạc Liêu dựa theo sự phân biệt địa giới hành chính của Việt Nam Cộng hòa để thuận tiện cho việc lãnh đạo phong trào cách mạng ở mỗi nơi. Địa bàn quận Quản Long của chính quyền Việt Nam Cộng hòa khi đó tương ứng với thị xã Cà Mau và huyện Châu Thành của tỉnh Cà Mau. Huyện Châu Thành gồm 6 xã: Hoà Thành, Định Thành, Thạnh Phú, Lợi An, An Xuyên, Tân Thành và thị trấn Tắc Vân.
Năm 1975, thị xã Cà Mau có 14 phường, sau đó sáp nhập còn lại 9 phường với diện tích tự nhiên 6.500 ha và dân số khoảng 95.000 người.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì thị xã Cà Mau và huyện Châu Thành cùng thuộc tỉnh Cà Mau cho đến đầu năm 1976.
Từ năm 1976 đến nay
Tháng 3 năm 1976, chính quyền Cách mạng hợp nhất hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu thành tỉnh mới có tên là tỉnh Minh Hải. Tỉnh lỵ ban đầu đặt tại thị xã Minh Hải (được đổi tên từ thị xã Bạc Liêu trước đó). Lúc này, thị xã Cà Mau và huyện Châu Thành cùng thuộc tỉnh Minh Hải.
Ngày 11 tháng 7 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 181-CP về việc giải thể huyện Châu Thành như sau:
Sáp nhập xã Định Thành, xã Hòa Thành, xã Tân Thành và thị trấn Tắc Vân vào huyện Giá Rai
Sáp nhập xã Lý Văn Lâm, xã Lương Thế Trân vào huyện Trần Văn Thời
Sáp nhập xã An Xuyên vào huyện Thới Bình
Sáp nhập xã Tân Phước vào Phường 4
Sáp nhập ấp Thanh Điền vào xã Lý Văn Lâm.
Thị xã Cà Mau có 9 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9 và 5 xã: An Xuyên, Hòa Thành, Lý Văn Lâm, Tân Thành.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 326-CP. Theo đó:
Thành lập mới huyện Cà Mau có 16 xã, 1 thị trấn (thị trấn Tắc Vân)
Thị xã Cà Mau có 8 phường, địa giới giữ nguyên như hiện nay.
Ngày 25 tháng 7 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 275-CP về việc điều chỉnh địa giới một số xã thuộc huyện Cà Mau:
Chia xã Hòa Thành thành ba xã lấy tên là xã Hòa Thành, xã Hòa Tân và xã Bình Thành
Chia xã Tân Thành thành ba xã lấy tên là xã Tân Thành, xã Tân Định và xã Tân Thạnh
Chia xã An Xuyên thành hai xã lấy tên là xã An Xuyên và xã An Lộc
Chia xã Lương Thế Trân thành ba xã lấy tên là xã Lương Thế Trân, xã Thạnh Trung và xã Thạnh Phú
Chia xã Định Thành thành ba xã lấy tên là xã Định Thành, xã Định Hòa và xã Định Bình
Thành lập (trên phần nửa đất của xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình tách sang huyện Cà Mau) một xã mới lấy tên là xã Tân Lợi.
Ngày 30 tháng 8 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 94-HĐBT về việc giả thể huyện Cà Mau như sau:
Sáp nhập thị trấn Tắc Vân và 9 xã: Tân Định, An Xuyên, An Lộc, Bình Thành, Hoà Tân, Hoà Thành, Tân Thành, Định Bình, Lý Văn Lâm của huyện Cà Mau vào thị xã Cà Mau
Thị trấn Tắc Vân đổi tên thành xã Tắc Vân
Sáp nhập 1/3 ấp Sở Tại của xã Thạnh Phú (huyện Cà Mau) vào xã Lý Văn Lâm
Sáp nhập ấp Chánh của xã Thạnh Trung (huyện Cà Mau) vào phường 8 của thị xã Cà Mau
Sáp nhập các xã Định Hoà, Định Thành, Tân Thạnh của huyện Cà Mau vào huyện Giá Rai
Sáp nhập xã Tân Lợi của huyện Cà Mau vào huyện Thới Bình
Sáp nhập các xã Lương Thế Trân, Thạch Trung, Thạch Phú của huyện Cà Mau vào huyện Cái Nước. Sáp nhập 1/3 ấp ông Muộng của xã Lý Văn Lâm (thị xã Cà Mau) vào xã Thạch Phú của huyện Cái Nước.
Ngày 18 tháng 12 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định số 170-HĐBT về việc chuyển tỉnh lỵ tỉnh Minh Hải từ thị xã Bạc Liêu về thị xã Cà Mau.
Ngày 14 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 33B-HĐBT về việc:
Sáp nhập phường 3 vào phường 2
Tách 950 hécta đất với 2.500 nhân khẩu của phường 8 để sáp nhập vào xã Lý Văn Lâm
Sáp nhập xã Tân Định vào xã Tân Thành
Sáp nhập xã An Lộc vào xã An Xuyên
Giải thể xã Bình Thành để sáp nhập vào hai xã Hoà Thành và Hoà Tân; tách một phần diện tích và dân số của hai xã này để sáp nhập vào xã Định Bình.
Thị xã Cà Mau lúc này bao gồm 8 phường: 1, 2, 4, 5, 6, 7, 8, 9 và 7 xã: An Xuyên, Định Bình, Hòa Tân, Hòa Thành, Lý Văn Lâm, Tắc Vân, Tân Thành.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc chia tỉnh Minh Hải thành hai tỉnh là tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Cà Mau. Khi đó, thị xã Cà Mau trực thuộc tỉnh Cà Mau.
Ngày 14 tháng 4 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 21/1999/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cà Mau.
Thành phố Cà Mau có 24.580,33 ha diện tích tự nhiên và 176.848 nhân khẩu, gồm 15 đơn vị hành chính cơ sở là 8 phường: 1, 2, 4, 5, 6, 7, 8, 9 và 7 xã: An Xuyên, Tân Thành, Tắc Vân, Định Bình, Hòa Thành, Lý Văn Lâm, Hòa Tân.
Ngày 4 tháng 6 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 24/NQ-CP về việc:
Thành lập phường Tân Xuyên thuộc thành phố Cà Mau trên cơ sở điều chỉnh 1.887,50 ha diện tích tự nhiên và 6.261 nhân khẩu của xã An Xuyên
Thành lập phường Tân Thành thuộc thành phố Cà Mau trên cơ sở điều chỉnh 1.115,32 ha diện tích tự nhiên và 5.137 nhân khẩu của xã Tân Thành.
Thành phố Cà Mau có 17 đơn vị hành chính, bao gồm 10 phường: 1, 2, 4, 5, 6, 7, 8, 9, Tân Thành, Tân Xuyên và 7 xã: An Xuyên, Tân Thành, Tắc Vân, Định Bình, Hòa Thành, Lý Văn Lâm, Hòa Tân.
Ngày 6 tháng 8 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1373/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Cà Mau là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Cà Mau.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Thành phố có các hoạt động kinh tế trong nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thủy sản, đặc biệt mặt hàng tôm sú, trong dầu khí, như Dự án Khí - Điện - Đạm Cà Mau, và trong du lịch tham quan rừng ngập mặn (tràm, đước, sú, vẹt, mắm) sinh thái U Minh. Kinh tế thành phố Cà Mau phát triển theo hướng tăng dần tỉ trọng đóng góp của khu vực III, khu vực I chỉ còn chiếm trên 5% tổng sản phẩm trên địa bàn, nhưng vẫn đạt giá trị đáng kể. Thành phố Cà Mau là trung tâm công nghiệp lớn thứ hai vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (năm 2008), chủ yếu là sản xuất, chế biến nông- thủy sản- thực phẩm. Thu nhập bình quân đầu người của thành phố năm 2015 đạt hơn 77 triệu đồng (tương đương hơn 3.650 USD).
Du lịch
Khách du lịch đến thành phố Cà Mau có thể đi bằng đường bộ (350 km từ Thành phố Hồ Chí Minh) và đường sông (130 km từ Cần Thơ), đường hàng không tại sân bay Cà Mau. Các địa điểm tham quan là Đất Mũi, Hòn Khoai, Công viên văn hóa 19/5 nổi tiếng. Thành phố có chùa Khmer và chùa người Hoa.
Đến với Cà Mau du khách sẽ được thưởng thức nhiều món ăn ngon như Bánh tầm cay, lẩu mắm, bún mắm, ba khía muối,... Đặc biệt món bánh tầm cay trứ danh vùng đồng bằng sông Cửu Long làm cho du khách thích thú với khẩu vị lạ, màu sắc đẹp mắt và rất mặn mà, sâu sắc làm cho người ăn nhớ mãi khi đặt chân đến Cà Mau.
Món bánh tầm cay ăn kèm cùng rau sống như giá, rau thơm,... tạo cho món bánh tầm thêm ấn tượng và đỡ ngán hơn. Bánh tầm cay có nhiều loại cho du khách thỏa thích lựa chọn như: xíu mại thịt, cánh gà, đùi gà, mề gà, huyết... và ăn kèm cùng bánh quẩy.
Những địa chỉ bán bánh tầm cay nổi tiếng ở Cà Mau:
Quán Đạo đường Bùi Thị Xuân, phường 4
Quán Lan đường Bùi Thị Xuân, phường 4
Quán A Xi Giá dưới chân cầu Phan Ngọc Hiển, phường 2.
Giao thông
Các tuyến đường chính trên địa bàn
Lý Thường Kiệt (Quốc lộ 1)
Hùng Vương (Quốc lộ 1)
Nguyễn Tất Thành (Quốc lộ 1)
Nguyễn Trãi (Quốc lộ 63)
Trần Hưng Đạo (Quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp)
Ngô Quyền
Mậu Thân
Phan Ngọc Hiển
Lý Văn Lâm
Quang Trung
Huỳnh Thúc Kháng
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Đình Chiểu
3 tháng 2
Lê Khắc Xương
Trần Văn Thời
Bùi Thị Trường
Hoa Lư
Lê Duẩn
Trần Văn Bỉnh
Phan Bội Châu
Phan Chu Trinh
Cao Thắng
Trưng Nhị
Lý Bôn
Lý Thái Tôn
Bùi Thị Xuân
Phan Đình Phùng
Đinh Tiên Hoàng
Nguyễn Du
1 Tháng 5
Tôn Đức Thắng
Huyền Trân Công Chúa
Lê Thị Riêng
Ngô Gia Tự
Chung Thành Châu
Nguyễn Thái Bình
Huỳnh Ngọc Điệp
Bông Văn Dĩa
Trần Quang Khải
Hùng Vương
Lê Hồng Phong
Sư Vạn Hạnh
Văn Cao
Nguyễn Đình Thi
Tô Hiến Thành
Lê Công Nhân
Lý Văn Lâm
Lê Đại Hành
Lưu Tấn Tài
Nguyễn Ngọc Sanh
30 tháng 4
Đại Đức Hữu Nhem
Trần Bình Trọng
Mạc Đĩnh Chi
Hải Thượng Lãn Ông
Hoàng Văn Thụ
Nguyễn Văn Trỗi
Lưu Hữu Phước
Nguyễn Mai
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trần Văn Ơn
Đỗ Thừa Tự
Đỗ Thừa Luông
Tạ Uyên
Trưng Trắc
Lê Lợi
Trương Phùng Xuân.
Tên đường của Cà Mau trước năm 1975
Đường Lê Phủ Nhung nay là đường Nguyễn Trãi.
Đường Võ Tánh nay là đường Lý Văn Lâm.
Đường Gia Long nay là đường Phạm Văn Ký.
Đường Nguyễn Thái Học nay là đường Nguyễn Hữu Lễ.
Đường Hoàng Diệu và Cô Giang nay là đường Hoàng Diệu.
Đường Cô Giang, Lý Bôn và Tự Do nay là đường Lý Bôn.
Đường Nhân Vị và Cộng Hòa nay là đường Phan Ngọc Hiển.
Đường Nguyễn Hiền Năng nay là đường Phạm Hồng Thắm.
Đường Trần Hưng Đạo nay là đường Lê Lai.
Đường Duy Tân và Hùng Vương nay là đường Hùng Vương
Đường Thống Nhất nay là đường Lý Thường Kiệt.
Đường Hàm Nghi nay là đường Quản Lộ - Phụng Hiệp.
Đường Phan Thanh Giản nay là đường Lê Đại Hành.
Chú thích |
Dự án Khí - Điện - Đạm Cà Mau là một trong ba dự án kinh tế lớn giai đoạn 2000-2005 của Việt Nam (hai dự án còn lại là Thủy điện Sơn La và Nhà máy lọc dầu Dung Quất). Dự án này là dự án KCN lớn nhất miền Tây và là công trình trọng điểm quốc gia được Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) làm chủ đầu tư. Dự án bao gồm việc xây dựng đường ống dẫn khí bằng thép dài 325 km (có 298 km đi ngầm dưới biển) đường kính ống 18 inch, dày 29,5 mm, công suất vận chuyển tối đa 20 tỷ m³ khí/năm đưa khí từ mỏ PM3 thuộc vùng chồng lấn (tiếng Anh: overlapping area) Việt Nam và Malaysia vào Khu công nghiệp Khánh An ở huyện U Minh, Cà Mau để cấp cho hai nhà máy nhiệt điện và một nhà máy sản xuất phân đạm ure. Hai nhà máy điện có công suất tổng cộng là 1500 MW và nhà máy đạm (urea) có công suất 800.000 tấn/năm. Tổng vốn dự kiến lên đến 100,4 tỷ USD. Dự kiến hoàn thành toàn bộ dự án vào năm 2009 (dự án khí hoàn thành 2006, dự án điện hoàn thành 2008 và dự án đạm hoàn thành năm 2009). Dự án Khí - Điện - Đạm Cà Mau cùng với Dự án đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn đưa khí từ biển Tây đến Tổ hợp các nhà máy điện ở Ô Môn (Cần Thơ) (công suất Tổ hợp Ô Môn là 2600 MW) góp phần phát triển Đồng bằng Sông Cửu Long thành một trung tâm năng lượng của cả Việt Nam.
Đường ống dẫn khí PM3 Cà Mau là một phần của Dự án Khí-Điện-Đạm Cà Mau được Liên doanh Việt-Nga Vietsovpetro xây dựng, bao gồm 298 km đường ống dẫn khí ngoài biển nối từ mỏ Dầu -Khí PM3 thuộc vùng biển chồng lấn giữa Việt Nam và Malaisia và 206,114 Km đường ống dẫn khí trên bờ (bao gồm cả 03 trạm: Trạm tiếp bờ (LFS), cụm van ngắt tuyến (LBV) và Trạm phân phối khí (GDS). Dòng khí đầu tiên từ mỏ PM3 đã được đưa vào tới trạm GDS thuộc Khánh An, U Minh, Cà Mau vào lúc 12h54' ngày 2 tháng 5 năm 2007 để cung cấp cho Cụm Khí - Điện - Đạm Cà Mau, đây là một sự kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng đánh dấu ý nghĩa chiến lược phát triển kinh tế vùng cực Nam của Việt Nam.
Phạm vi dự án
Cụm dự án này được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 6/2001, trên diện tích hơn 200 ha tại xã Khánh An, huyện U Minh. Với tổng mức đầu tư hơn 2 tỉ USD, gồm các dự án: Đường ống dẫn khí PM3-CM, Nhà máy điện Cà Mau 1 và Cà Mau 2, Nhà máy đạm Cà Mau.
Khu Khí - Điện - Đạm tỉnh Cà Mau nằm trên khu đất thuộc các ấp 3, 6, 7 và 8 của Khánh An, U Minh, cách trung tâm Thành phố Cà Mau khoảng 11 km.
Phạm vi lập quy hoạch chung gồm 108.208 ha, được xác định như sau:
Phía Bắc giáp sông Cái Tàu
Phía Nam giáp kênh Xáng Minh Hà
Phía Đông giáp sông Ông Đốc
Phía Tây giáp trại giam K1 Cái Tàu
Đánh giá
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân nhận định "Cụm Khí-Điện-Đạm Cà Mau là “hình mẫu” của Tập đoàn Dầu khí quốc gia". |
Nhà máy lọc dầu Dung Quất, thuộc khu kinh tế Dung Quất, là nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam xây dựng thuộc địa phận xã Bình Thuận và Bình Trị, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Đây là một trong những dự án kinh tế lớn, trọng điểm quốc gia của Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ 21.
Xây dựng
Ngay từ năm 1986 Thủ tướng Chính phủ khi đó là Võ Văn Kiệt đã ký quyết định chọn địa điểm để xây dựng Nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam tại Dung Quất, tuy vậy dự án nhà máy lọc dầu Dung Quất chỉ được chính thức khởi công vào ngày 28 tháng 11 năm 2005.
Nhà máy Lọc dầu Dung Quất được xây dựng với tổng mức đầu tư là hơn 3 tỷ đô la Mỹ (khoảng 40.000 tỷ đồng) với tên dự án là Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất của chủ đầu tư là Tổng công ty Dầu khí Việt Nam. nay là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam - PetroVietnam.
Hợp đồng chính xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ký với Tổ hợp nhà thầu Technip gồm các Nhà thầu: Technip (Pháp), Technip (Malaysia), JGC (Nhật Bản) và Tecnicas Reunidas (Tây Ban Nha).
Để mô tả khối lượng công việc lớn của dự án tổng thầu của Technip đã so sánh: "Tổng số tài liệu thiết kế và sổ tay vận hành chất đầy khoảng 100 xe tải; diện tích các gói thầu chính xấp xỉ 600 hecta, tương đương với 1.200 sân bóng đá; hơn 150.000 tấn vật tư, thiết bị, tương đương với một triệu xe máy; trên 5 triệu mét dây cáp điện, đủ để căng 2 lần từ Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh; gần 17.000 tấn thép các loại, đủ để xây dựng hai tháp Eiffel; và một nhà máy điện công suất trên 100 megawatt đủ dùng cho cả thành phố Quảng Ngãi." Technip cũng thông báo: việc thiết kế thực hiện với tiêu chí sử dụng tối đa các nguồn lực và phương tiện kỹ thuật của Việt Nam, cho nên 75% công việc của nhà máy sẽ do người Việt đảm nhận. Đã có 1.046 kỹ sư và nhân viên nhà máy được đưa đi đào tạo ở nước ngoài để chuẩn bị đảm đương việc vận hành nhà máy Dung Quất trong tương lai.
Quy mô
Nhà máy chiếm diện tích khoảng 810 ha, trong đó 345 ha mặt đất và 471 ha mặt biển. Công suất tối đa của nhà máy là 6,5 triệu tấn dầu thô/năm tương đương 148.000 thùng/ngày, dự kiến đáp ứng khoảng 30% nhu cầu tiêu thụ xăng dầu ở Việt Nam.
Nhà máy sản xuất khí hóa lỏng LPG, propylene, polypropylene, xăng A92 và A95, dầu hỏa, nhiên liệu phản lực, diesel và dầu nhiên liệu. Nhà máy gồm 14 phân xưởng chế biến công nghệ, 10 phân xưởng năng lượng phụ trợ và 8 hạng mục ngoại vi. Các hạng mục chính của nhà máy bao gồm:
Cảng nhập dầu thô
Khu bể chứa dầu thô
Các phân xưởng phụ trợ
Các phân xưởng công nghệ
Khu bể chứa trung gian
Đường ống dẫn và khu bể chứa sản phẩm
Cảng xuất sản phẩm bằng đường biển và trạm xuất bằng đường bộ
Đê chắn sóng
Khu nhà hành chính
Nhà máy sản xuất polypropylene
Hoạt động
Nhà máy được vận hành nâng công suất dần dần từ ngày 25 tháng 2 năm 2009 dự kiến đến tháng 8 năm 2009 đạt 100% công suất để sản xuất ra các sản phẩm khí hóa lỏng (gas) LPG (900-1.000 tấn/ngày) xăng A90 (2.900-5.100 tấn/ngày) và A92-95 (2.600-2.700 tấn/ngày), dầu Diesel (7.000-9.000 tấn/ngày), LPG và các sản phẩm khác như Propylene (320-460 tấn/ngày), xăng máy bay Jet-A1 và nhiên liệu cho động cơ phản lực (650-1.250 tấn/ngày) và dầu đốt lò F.O (1.000-1.100 tấn/ngày). Trong giai đoạn 1, nhà máy sẽ chế biến dầu thô từ mỏ Bạch Hổ và trong giai đoạn 2, sẽ chế biến dầu thô từ mỏ Bạch Hổ (85) và dầu chua từ Dubai (15%).
Vào ngày 18 tháng 2 năm 2009, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã tổ chức một buổi họp báo về sự kiện đón mừng dòng sản phẩm đầu tiên của nhà máy Dung Quất. Và đến tối ngày 23 tháng 2 năm 2009, lễ đón dòng sản phẩm đầu tiên của nhà máy đã diễn ra tại khu bể chứa sản phẩm. Và đại diện của Tổng cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng thuộc Bộ Khoa học - công nghệ Việt Nam nhân dịp này cũng đã chính thức công bố giấy xác nhận về chất lượng sản phẩm xăng dầu của nhà máy.
Ngày 6 tháng 1 năm 2011, nhà máy lọc dầu Dung Quất được khánh thành. Nhà máy hiện do Công ty TNHH một thành viên lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR) quản lý.
Địa điểm
Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã chịu nhiều chỉ trích quốc tế về địa điểm và giá trị của nó. Những người chỉ trích cho rằng chính trị đã xen vào quyết định kinh tế. Năm 1995, tập đoàn Total SA của Pháp đã chấm dứt thương lượng đầu tư với lý do rằng chính phủ đòi phải đặt nhà máy tại miền trung, cách xa những cơ sở hạ tầng dầu mỏ trong nước, trong khi thị trường tiêu thụ chính là thị trường phía bắc và phía nam trong khi miền trung không phải là địa điểm tốt để sản xuất và tiêu thụ. Năm 1997, Ngân hàng Thế giới nói dự án này sẽ "không làm gì cho nền kinh tế" và năm sau Quỹ Tiền tệ Quốc tế nói rằng giá trị của dự án này "đáng ngờ". Năm 1998, mặc dù đã ký hợp đồng tham gia, tập đoàn Zarubezhneft cho rằng vịnh Dung Quất là "một địa điểm rất xấu", và đến năm 2002 đã rời bỏ dự án. Năm 2003, Liên Hợp Quốc đã nhắc đến dự án này khi nói rằng Việt Nam nên tránh xa những "đầu tư có thu nhập thấp".
7.000 hộ gia đình phải tái định cư ở nơi khác trước năm 2015 để có chỗ cho khu kinh tế Dung Quất. Một số người làm nghề đánh cá cũng đã nhận thấy có ít cá hơn vì tiếng động từ nhà máy.
Trước nhiều ý kiến chỉ trích, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã kiên quyết giữ quan điểm: Phải xây dựng Nhà máy lọc dầu ở Dung Quất, trước hết là để đảm bảo an ninh năng lượng cho đất nước và tạo đà phát triển kinh tế cho tỉnh Quảng Ngãi và cả một khu vực miền Trung. Điều kiện để phát triển kinh tế của miền Trung lại rất hạn chế: tài nguyên thiên nhiên hầu như không có, đất đai nghèo nàn chật hẹp, cả tỉnh Quảng Ngãi không có khu du lịch, không có nhà máy lớn. Nếu chỉ tính riêng nhà máy thì đặt ở Dung Quất là không có lợi thế so với các địa phương khác, nhưng nếu tính hiệu quả tổng hợp về kinh tế - xã hội lan tỏa đến cả một vùng thì đặt ở Dung Quất là có lợi nhất: đó là tiền đề thúc đẩy các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tiếp tục đầu tư vào khu kinh tế Dung Quất trên các lĩnh vực công nghiệp hóa chất, công nghiệp cơ khí, đóng sửa tàu biển, luyện cán thép, vận tải, điện tử... Từ năm 2004 trở lại đây, tăng trưởng GDP của Quảng Ngãi luôn ở mức trên 11%, từ chỗ phải nhận trợ cấp từ trung ương thì đến năm 2006 đã nộp ngân sách trên 1.000 tỷ đồng, cơ cấu kinh tế đã được chuyển dịch theo hướng Công nghiệp - Dịch vụ và tạo ra sự phát triển đồng bộ trên toàn tỉnh.
Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế của Nhà máy lọc dầu Dung Quất đến nay vẫn còn là một đề tài bàn cãi, bởi nhà nước phải bỏ tiền ra để gián tiếp trợ giá cho các sản phẩm từ nhà máy. Theo tính toán của Petrovietnam vào năm 2015 thì nếu giá dầu ở mức 60 đô-la/thùng, thì chỉ riêng năm 2015, nhà nước phải bỏ ra 1.065,7 tỉ đồng và giai đoạn 2016-2018, mỗi năm phải bỏ ra 3.011 tỉ đồng để bù cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Đầu năm 2016 với việc thuế nhập khẩu xăng từ các nước trong khu vực ASEAN giảm từ 20% về 10% và thuế nhập khẩu diesel giảm về 0%, Petrovietnam tuyên bố sẽ phải cắt giảm sản lượng, thậm chí tạm đóng cửa Nhà máy lọc dầu Dung Quất nếu như không được hạ mức thuế. Tính chung từ khi nhà máy hoạt động vào năm 2010 đến năm 2014, nhà máy đã lỗ trên 1.000 tỉ đồng. Tuy nhiên nếu không tính phần nhà nước trợ giá trợ giá bằng thuế số tiền lỗ trong thời gian này sẽ phải lên tới 27.600 tỉ đồng (tức khoảng 1,2 tỷ USD). Theo dự tính ban đầu, việc trợ giá này sẽ kéo dài tới năm 2018, nhưng vào tháng 6/2015, PetroVietnam tiếp tục kiến nghị lên Chính phủ cho gia hạn những ưu đãi trên đến năm 2027.
Ngoài ra nhà máy lọc dầu Dung Quất còn được hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ 10% trong vòng 30 năm, trong đó miễn thuế hoàn toàn trong vòng 5 năm đầu, giảm 50% thuế trong 9 năm tiếp theo.
Việc nhà máy vận hành trễ hơn sơ với dự kiến ban đầu đến 9 năm, cũng làm cho các Báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án đã không còn chính xác và các biến động thị trường khiến nó càng xa những tính toán ban đầu hơn.
Sau 7 năm đi vào vận hành thương mại, đến hết quý 2/2017, nhà máy đạt tổng doanh thu trên 37 tỷ USD, lợi nhuận gần 14.000 tỷ đồng và nộp ngân sách trên 7 tỷ USD, gấp đôi tổng mức đầu tư nhà máy.
Các vấn đề về kỹ thuật
Kể từ khi được đưa vào hoạt động đến nay, nhà máy lọc dầu Dung Quất đã phải nhiều lần đóng cửa để sửa chữa, bảo trì. Ngay từ tháng 7 năm 2011 (tức chỉ 6 tháng sau khi chính thức khánh thành) nhà máy đã phải đóng cửa 2 tháng để sửa chữa. Đến cuối tháng 5 năm 2012, nhà máy lại đóng cửa gần 2 tháng để xử lý các vấn đề kỹ thuật. Ngày 8 tháng 7 năm 2012 nhà máy hoạt động trở lại, nhưng chỉ 1 tháng sau, đến ngày 8 tháng 8 năm 2012 nhà máy lại phải đóng cửa để sửa chữa. Từ ngày 19 tháng 5 đến ngày 11 tháng 7 năm 2014 nhà mày ngưng hoạt động để bảo dưỡng. |
Lệ Thủy có thể là một trong các nghĩa sau:
Địa danh
Huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, Việt Nam
Thành phố Lệ Thủy, địa cấp thị của tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.
Tên tiếng Hán của thành phố Yeosu thuộc tỉnh Jeollanam-Do, Hàn Quốc.
Lệ Thủy, bãi biển bậc thang thuộc huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi.
Tên người
Nghệ sĩ Nhân dân Lệ Thủy, một nữ nghệ sĩ cải lương Việt Nam.
Nghệ sĩ cải lương Kim Lệ Thủy
Chính trị gia Nguyễn Thị Lệ Thủy, đại biểu quốc hội Việt Nam khóa XIV
Nghệ sĩ Ưu tú Nguyễn Thị Lệ Thúy (nghệ danh Lệ Thủy), một nữ nghệ sĩ chèo. |
Xác định giá trị doanh nghiệp hay còn gọi là định giá doanh nghiệp được hiểu và thừa nhận một cách rộng rãi là việc điều tra chi tiết và đánh giá các hoạt động của công ty nhằm xác định giá trị hiện hữu và tiềm năng của một doanh nghiệp. Đối tượng áp dụng là các công ty đã và đang chuẩn bị cổ phần hóa; các công ty dự kiến sẽ có những thay đổi đáng kể về quyền sở hữu hoặc cơ cấu vốn của công ty: sáp nhập, liên doanh, liên kết, chuyển nhượng vốn, mua bán công ty hoặc nhượng quyền kinh doanh,...; các công ty chuẩn bị phát hành trái phiếu lần đầu tiên ra công chúng hoặc các công ty đang trên đà phát triển và mở rộng quy mô hoạt động, hoặc có sự thay đổi về tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Lý do cần xác định giá trị doanh nghiệp
Xác định giá trị doanh nghiệp để nhằm trợ giúp cho quá trình chuyển đổi cơ cấu về vốn chủ sở hữu. Đầu tiên, cổ đông hoặc nhà đầu tư muốn nắm bắt một cách chi tiết về tình hình hiện tại của công ty trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Họ muốn biết các cơ hội và tiềm năng phát triển cho tương lai của doanh nghiệp. Đặc biệt, họ muốn hiểu các khoản nợ ngoài dự kiến, ví dụ các vấn đề về thuế, các nguy cơ tiềm ẩn về kiện tụng, tranh chấp.
Xác định giá trị doanh nghiệp giúp chuẩn bị cho việc phát hành trái phiếu ra công chúng lần đầu (IPO). Thị trường Chứng khoán áp đặt một số yêu cầu và quy tắc nhất định về chủng loại thông tin mà công ty buộc phải công khai trong các văn bản IPO (được gọi là Bản cáo bạch). Quy trình "Xác định giá trị doanh nghiệp" phải xác định và chỉ ra được hoạt động cốt lõi của công ty và các cơ hội cũng như các nhân tố rủi ro. Thành công của IPO phụ thuộc rất nhiều vào quá trình chuẩn bị. Thiếu sự chuẩn bị kỹ lưỡng này, các bên liên quan tới IPO có thể sẽ phải đương đầu với những khó khăn và công ty có thể bị giảm giá trị một cách đáng kể khi niêm yết, do đó sẽ ảnh hưởng xấu tới lợi ích của các chủ sở hữu.
Xác định giá trị doanh nghiệp giúp cải thiện tình hình hoạt động chung của công ty trước thực trạng hoạt động kém hiệu quả. Quá trình xác định giá trị doanh nghiệp sẽ đánh giá một cách khách quan các điểm mạnh và điểm yếu của công ty. Bằng việc xác định và chỉ ra những vấn đề hoặc các khu vực thể hiện rõ nhất các điểm yếu của công ty, quá trình "Xác định giá trị Doanh nghiệp" là một công cụ nhằm giúp công ty đánh giá một cách khách quan hoặc "mở khoá" các cơ hội/tiềm năng và gia tăng giá trị cho các cổ đông hiện tại và tương lai.
Lợi ích
Lợi ích của quy trình xác định giá trị doanh nghiệp là khả năng tổng hợp, đánh giá, phân tích và khớp lại các dữ liệu quá quá khứ và triển vọng phát triển trong tương lai của Doanh nghiệp trong một bản báo cáo chính xác và toàn diện.
Bằng việc xác định các điểm mạnh, điểm yếu và các giá trị cốt lõi của công ty, xác định giá trị doanh nghiệp trở thành một công cụ hữu hiệu giúp công ty hiện thực hoá được cơ hội và gia tăng giá trị cho các cổ đông hoặc nhà đầu tư tương lai.
Bên cạnh đó, trong các trường hợp cần thiết, sẽ vạch ra các kế hoạch và các kiến nghị chuẩn bị cho các hoạt động tiền và hậu IPO.
Ngoài ra, xác định giá trị doanh nghiệp còn chỉ ra những thay đổi cần thiết về hệ thống tài chính, cơ cấu thành phần cổ đông hoặc cấu trúc doanh nghiệp bởi quy trình này sẽ tạo ra một diễn đàn mở để công ty có thể thảo luận một cách sâu rộng và xem xét xem những cơ cấu này có đồng nhất và có lợi cho tương lai của công ty hay không.
Xác định giá trị doanh nghiệp hỗ trợ Hội đồng quản trị và Ban Giám đốc đưa ra những quyết định khó khăn như các hoạt động bán hàng hoặc loại bỏ các hoạt động làm ăn không có lãi hoặc không mang tính mấu chốt, để tập trung vào những hoạt động mang lại giá trị cao
Xác định giá trị doanh nghiệp đưa ra những phân tích về hệ thống quản trị và điều hành công ty, đồng thời cung cấp những đánh giá về năng lực đối với một số các vị trí nhân lực chủ chốt
Một dự án Xác định giá trị doanh nghiệp toàn diện và thành công sẽ đem lại những hiệu quả tích cực do đội ngũ chuyên gia tư vấn sẽ phát hiện ra những khu vực làm ăn hiệu quả của công ty, từ đó sẽ đưa ra được những giải pháp phát huy tối đa hiệu quả điểm mạnh đó để gia tăng giá trị cho các cổ đông và chủ doanh nghiệp.
Kết quả cần đạt được
Bản báo cáo hoặc chứng thư về "Giá trị doanh nghiệp" phản ánh các nội dung gồm tình hình thực trạng của công ty và giá trị hiện tại của công ty và những mong mỏi của cổ đông và những khu vực có thể ảnh hưởng tới giá trị của họ. Bản phân tích phải toàn diện và sâu sắc thực trạng hiện tại và xu hướng phát triển trong tương lai của công ty. Báo cáo cũng phân tích khoảng trống và các đề xuất: xác định vấn đề và các khu vực hoạt động yếu kém; chỉ ra cách thức và phương án hiện thực hóa các cơ hội, tiềm năng và gia tăng giá trị cho các nhà đầu tư tương lai; chỉ ra những yếu kém về cơ cấu, bộ máy quản lý, tổ chức, chính sách tiếp thị, sự bất ổn về cơ cấu thuế; vạch ra những mong đợi và yêu cầu của cơ chế thị trường đối với một công ty khi tham gia niêm yết hoạt động trên thị trường chứng khoán; các đề xuất về tư vấn và hỗ trợ trong suốt quá trình giúp công ty xóa bỏ các khoảng trống trong hoạt động của mình.
Nếu công ty muốn chuyển nhượng hoặc phát hành thêm cổ phiếu, cần có bản tổng hợp các thông tin về công ty để "chào hàng" nhằm giới thiệu với cổ đông và nhà đầu tư giá trị thực của công ty tại thời điểm được nói đến và mô tả một bức tranh rõ nét về triển vọng phát triển của công ty giúp nhà đầu tư, cổ đông dự đoán được khả năng và hiệu quả đầu tư của mình.
Trong trường hợp công ty chuẩn bị phát hành cổ phiếu ra công chúng, cũng cần có "Bản cáo bạch" Về cơ bản, nội dung bản cáo bạch cũng tương tự như bản chào hàng, nhưng theo mẫu của cơ quan có thẩm quyền quản lý thị trường chứng khoán hoặc sàn giao dịch chứng khoán mà công ty niêm yết phát hành.
Các nội dung cần thẩm định
Các khu vực thẩm định chủ chốt trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp là:
Các yếu tố chủ quan
Các báo cáo tài chính – Đảm bảo độ chính xác.
Tài sản – Xác thực giá trị, tình trạng, và quyền sở hữu.
Nguồn nhân lực – Xác định điểm mạnh, điểm yếu của đội ngũ nhân viên.
Chiến lược bán hàng – Phân tích các chính sách bán hàng, bao gồm các đánh giá về tính hiệu quả và không hiệu quả
Marketing – Xem xét tính hiệu quả của các chương trình, chiến lược marketing
Lĩnh vực hoạt động – đánh giá lĩnh vực hoạt động của công ty
Đối thủ cạnh tranh – Hiểu và nắm bắt được các mối đe dọa cạnh tranh tiềm tàng.
Hệ thống quản lý nội bộ – hiệu quả chưa? Có cần thiết cải tiến không?
Các vấn đề về luật pháp - thuế, cơ cấu vốn…
Các hợp đồng và hợp đồng cho thuê
Hệ thống các nhà cung cấp – Độ tin cậy cũng như các điều khoản thương mại
Các yếu tố khách quan
Phân tích ngành
Ảnh hưởng của tình hình và xu hướng kinh tế quốc gia
Các yếu tố cạnh tranh bên ngoài
Các yếu tố đảm bảo sự thành công
Xác định giá trị doanh nghiệp là một quy trình thực hành đòi hỏi một sự tương tác rất lớn giữa các bên tham gia và các yêu cầu nghiêm ngặt về việc cung cấp thông tin, đề nghị, phân tích và đánh giá.
Tổ chức tư vấn, đánh giá cần được tiếp cận tối đa với nguồn thông tin của doanh nghiệp
Những mục tiêu đã đặt ra, mong muốn hiện tại và tương lai của các cổ đông trong công ty
Sự tham gia, cam kết và tương tác mật thiết giữa đội ngũ quản lý trong suốt quá trình sẽ đảm bảo sự thành công của dự án xác định giá trị doanh nghiệp.
Uy tín của nhà tư vấn và các cam kết, bao gồm cả bảo mật thông tin
Phương pháp xác định
Hiện nay, người ta thường dùng các phương pháp sau để xác định giá trị doanh nghiệp:
Phương pháp giá trị tài sản thuần
Phương pháp chiết khấu luồng cổ tức
Phương pháp chiết khấu lợi nhuận
Phương pháp chiết khấu dòng tiền
Phương pháp tỉ số giá/thu nhập (P/E) |
Luật có thể có một trong các nghĩa sau:
Luật (từ)
Luật pháp
Văn bản Luật (Đạo luật)
Luật học - một ngành khoa học xã hội nghiên cứu về luật pháp.
Luật (logic)
Luật (Phật giáo): Các giới luật Đức Phật chế ra nhằm giúp những người tu hành hướng đến điều thiện. |
Xương rồng trong tiếng Việt có thể là:
Họ Euphorbiaceae:
Chi Euphorbia:
Euphorbia antiquorum: xương rồng.
Euphorbia milii: xương rồng bát tiên, xương rắn, hồng kích.
Họ Cactaceae: họ xương rồng, họ long cốt.
Chi Cereus:
Cereus repandus: xương rồng khế.
Chi Opuntia:
Opuntia stricta: xương rồng đất. |
Bệnh lở mồm long móng (tiếng Anh: Foot-and-mouth disease, viết tắt FMD; tiếng Latin: Aphtae epizooticae), là một loại bệnh truyền nhiễm rất nguy hiểm do virus gây ra trên động vật móng guốc chẵn như lợn, bò, trâu, hươu, dê. Bệnh này rất nguy hiểm vì bệnh lây lan rất nhanh qua nhiều con đường khác nhau như tiếp xúc trực tiếp giữa động vật với nhau, truyền qua không khí. Chính vì vậy mà Tổ chức Y tế Thế giới xếp bệnh lở mồm long móng đứng đầu các bệnh truyền nhiễm của động vật. Năm 1897, Friedrich Loeffler đã phát hiện bệnh lở mồm long móng đầu tiên do virus gây ra. Cho đến nay, người ta đã xác định có 7 dạng virus gây bệnh gồm các dạng A, O, C, SAT1, SAT2, SAT3 và Asia1. Ở vùng Đông Nam Á chủ yếu là 3 dạng A, O và Asia1.
Triệu chứng
Khi nhiễm bệnh, nhiệt độ cơ thể của gia súc khá cao (khoảng 40 °C). Đồng thời, gia súc trở nên kém ăn, ủ rũ, tiết nước bọt nhiều và nhiễu xuống; ở vùng miệng (miệng, lợi và lưỡi), vùng chân (kẽ móng và bờ móng chân) và vú xuất hiện các mụn nước chứa dịch màu vàng nhạt. Trong vòng 24 giờ, mụn nước sẽ tự vỡ, làm bờ móng sưng đau dẫn tới con vật đi lại khó khăn, phải nằm một chỗ. Nếu bệnh phát triển mạnh, khoảng từ 5 đến 6 ngày, con vật sẽ yếu, khó thở và chết.
Phòng chống
Tùy từng điều kiện mà mỗi nơi có nhiều cách phòng chống với hiệu quả khác nhau. Cách tốt nhất để phòng bệnh là sử dụng vắc xin. Tuy nhiên, khi con vật đã nhiễm bệnh, hữu hiệu nhất là tiêu hủy toàn bộ số gia súc bị bệnh, điều này các nước châu Âu đã thực hiện khá hoàn hảo đầu năm 2001. Ở Việt Nam, người ta sử dụng một số hóa chất sát trùng như dung dịch xút 1%, nước vôi 5-10%, nước ôzôn và dung dịch anolit... để khử trùng môi trường, rửa bên ngoài vết thương. Nhưng các hóa chất này không thể dập tắt hoàn toàn dịch bệnh.
Tình hình
Dịch bệnh lở mồm long móng đã xảy ra ở nhiều châu lục như châu Á, châu Phi, châu Âu và Nam Mỹ. Ở châu Âu, bệnh đã bùng phát tại Anh, Hà Lan và Pháp vào năm 2001. Hàng triệu gia súc bị thiêu hủy gây tổn thất lớn cho ngành chăn nuôi nói riêng và nền kinh tế các quốc gia này nói chung. Cùng năm đó, dịch cũng đã xảy ra tại Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Đến cuối năm 2003, dịch xảy ra ở vùng Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaysia, Myanmar, Philippines và Việt Nam. Một năm sau, dịch lan tới Trung Quốc, Nga, Mông Cổ và tiếp tục ở Myanmar. Trong 2 năm 2005 và 2006, dịch tràn tới Nam Mỹ ở các quốc gia như Brasil, Argentina và Paraquay cũng như ở châu Phi (Nam Phi).
Tại Việt Nam, năm 2006 là năm bệnh dịch lở mồm long móng xảy ra rất mạnh ở hầu hết các tỉnh thành của Việt Nam với hàng chục nghìn gia sục bị nhiễm bệnh. Tuy nhiên, do điều kiện cũng như ý thức của người dân, trình độ và sự thiếu trách nhiệm của cán bộ thú y và chính quyền địa phương mà dịch bệnh không thể khống chế dễ dàng. Một số nơi, còn sử dụng các con vật đã chết làm thức ăn.
Chú thích |
Mường có thể là:
Muang, cấp địa danh có trong lịch sử gồm nhiều bản ở vùng những dân tộc thuộc ngữ hệ Tai-Kadai cư trú, tương đương với xã hay tổng (liên xã) hay huyện tùy theo quy mô thực. Tại Lào hiện gọi cấp hành chính "huyện" là muang. Tại Việt Nam hiện không còn sử dụng là cấp địa danh, nhưng Mường vẫn còn trong tên đơn vị cư trú.
Người Mường.
Tiếng Mường, ngôn ngữ của người Mường, gần với tiếng Việt, thuộc ngữ hệ Nam Á.
Một tên gọi của tỉnh Hòa Bình: tỉnh Mường. |
Rửa tiền (tiếng Anh: money laundering) là hành vi của cá nhân hay tổ chức tìm cách chuyển đổi các khoản lợi nhuận hoặc tài sản khác có được từ hành vi phạm tội hoặc tham nhũng trở thành các tài sản được coi là "hợp pháp".
Các tổ chức tội phạm và cá nhân tham nhũng luôn có nhu cầu che giấu nguồn gốc của khoản tiền thu được từ những hoạt động bất hợp pháp mà không gây nghi ngờ cho các cơ quan thực thi pháp luật. Do vậy cần có thời gian và nỗ lực đáng kể để tạo ra những chiến lược cho phép sử dụng an toàn những khoản tiền thu được mà không bị nghi ngờ. Thực hiện các chiến lược như vậy thường được gọi là rửa tiền. Sau khi đã rửa tiền/"làm sạch" nó, tiền có thể được sử dụng trong nền kinh tế chủ đạo để tích lũy tài sản, chẳng hạn như mua lại bất động sản, hoặc dùng cho chi tiêu khác. Các cơ quan thực thi pháp luật của nhiều quốc gia đã thiết lập các hệ thống phức tạp để phát hiện các giao dịch hoặc hoạt động đáng ngờ và nhiều quốc gia đã thiết lập các tổ chức quốc tế để hỗ trợ lẫn nhau trong những nỗ lực này.
Trong một số hệ thống và quy phạm pháp luật, thuật ngữ "rửa tiền" đã được kết hợp với các hình thức tội phạm tài chính và kinh doanh khác và đôi khi được sử dụng theo nghĩa rộng rãi hơn bao gồm việc lạm dụng hệ thống tài chính (bao gồm các công cụ như chứng khoán, tiền mã hóa, thẻ tín dụng, và tiền giấy truyền thống), bao gồm cả tài trợ khủng bố và trốn tránh các biện pháp trừng phạt quốc tế. Hầu hết các luật chống rửa tiền đều kết hợp chống rửa tiền (tập trung vào nguồn của tiền) với việc chống tài trợ khủng bố (tập trung vào đích đến của tiền) khi quản lý hệ thống tài chính.
Một số quốc gia xử lý việc che giấu các nguồn tiền cũng như cấu thành tội rửa tiền, cho dù đó là cố ý hoặc bằng cách chỉ sử dụng các hệ thống tài chính hoặc dịch vụ tài chính mà không thể xác định hoặc theo dõi các nguồn hoặc đích đến của tiền. Các nước khác xác định việc rửa tiền theo cách để bao gồm tiền có được từ các hoạt động có thể là một hoạt động tội phạm ở nước đó, ngay cả khi hoạt động đó là hợp pháp nếu hành vi thực tế xảy ra.
Lịch sử
Khái niệm về các quy định về rửa tiền bắt đầu từ thời cổ đại và gắn liền với sự phát triển của tiền tệ và ngân hàng. Rửa tiền được thực hiện lần đầu tiên với những cá nhân giấu diếm tài sản để tránh bị nhà nước đánh thuế hoặc bị tịch thu tài sản hoặc kết hợp cả hai.
Ở Trung Quốc, các thương gia từ khoảng năm 2000 TCN đã che giấu tài sản của họ, không để vua biết được, nếu không sẽ có nguy cơ bị tịch thu toàn bộ tài sản và bị trục xuất ra khỏi vương quốc. Ngoài việc giấu tài sản, các thương gia đã chuyển tiền và đầu tư vào các doanh nghiệp khác ở các tỉnh xa hơn hoặc thậm chí ở bên ngoài Trung Quốc.
Trong hàng thiên niên kỷ, nhiều vua chúa đã áp đặt các quy tắc cho phép tịch thu tài sản của các thần dân của họ và điều này dẫn tới sự phát triển của ngân hàng offshore và trốn lậu thuế. Một trong những phương pháp lâu dài là sử dụng ngân hàng song song hoặc hệ thống chuyển tiền phi chính thức như Hawala cho phép chuyển tiền ra nước ngoài mà tránh được sự giám sát của nhà nước.
Trong thế kỷ 20, việc tịch thu tài sản lại trở nên phổ biến khi nó được xem như là một công cụ bổ sung để phòng chống tội phạm. Lần đầu tiên việc tịch thu này được thực hiện là trong suốt thời kỳ cấm rượu ở Hoa Kỳ trong những năm 1930. Điều này đã cho thấy một các cơ quan thi hành luật pháp của tiểu bang và cơ quan pháp luật tại Hoa Kỳ đã tập trung theo dõi và tịch thu tiền có nguồn gốc bất hợp pháp. Các tội phạm có tổ chức đã phát triển mạnh và có được nguồn thu nhập lớn từ lệnh cấm này nhờ việc bán rượu lậu.
Trong những năm 1980, cuộc chiến chống ma túy đã dẫn các chính phủ quay trở lại các quy định về rửa tiền nhằm thu giữ tiền thu được từ tội phạm liên quan đến ma túy nhằm bắt các tổ chức và cá nhân điều hành đế chế ma túy. Xét trên quan điểm thực thi pháp luật, điều này có lợi khi việc chuyển quy tắc bằng chứng bị đảo ngược lại. Người thi hành luật thường phải chứng minh một cá nhân có tội để có thể kết tội họ. Nhưng với các luật về rửa tiền, tiền có thể bị tịch thu và cá nhân sẽ phải chứng minh rằng nguồn tiền này là hợp pháp nếu họ muốn nhận lại tiền. Điều này làm cho cơ quan thực thi pháp luật hành động dễ dàng hơn.
Sự kiện 11 tháng 9 xảy ra năm 2001, sau đó hình thành Đạo luật Patriot tại Hoa Kỳ và các luật tương tự trên toàn thế giới, dẫn tới một sự chú trọng mới đến các luật rửa tiền để chống tài trợ khủng bố. Các quốc gia G7 đã sử dụng Lực lượng Tài chính về Rửa tiền để gây sức ép lên các chính phủ trên thế giới phải tăng cường theo dõi, giám sát các giao dịch tài chính và chia sẻ thông tin này giữa các quốc gia. Bắt đầu từ năm 2002, các chính phủ trên khắp thế giới đã nâng cấp luật rửa tiền, theo dõi và giám sát các hệ thống về giao dịch tài chính. Các quy định về chống rửa tiền đã trở thành gánh nặng lớn hơn nhiều đối với các tổ chức tài chính và việc thi hành các quy định này đã tăng lên đáng kể. Trong giai đoạn 2011-2015, một số ngân hàng lớn phải đối mặt với các khoản tiền phạt vi phạm các quy định về rửa tiền, bao gồm HSBC, đã bị phạt 1,9 tỷ USD vào tháng 12 năm 2012 và BNP Paribas đã bị chính phủ Hoa Kỳ phạt 8,9 tỷ USD vào tháng 7 năm 2014. Nhiều quốc gia đã đưa ra các kiểm soát mới hoặc tăng cường kiểm soát biên giới về lượng tiền mặt tối đa có thể mang theo và thiết lập các hệ thống báo cáo giao dịch trung ương, tại đó tất cả các tổ chức tài chính phải báo cáo tất cả các giao dịch tài chính bằng điện tử. Ví dụ, năm 2006, Úc thành lập hệ thống AUSTRAC và yêu cầu phải báo cáo tất cả các giao dịch tài chính.
Các giai đoạn của rửa tiền
Giai đoạn sắp xếp (tiếng Anh: placement): tội phạm tìm cách đưa các khoản tiền có nguồn gốc từ hành vi phạm tội vào hệ thống tài chính để chuẩn bị thực hiện bước tiếp theo. Giai đoạn này là giai đoạn dễ bị phát hiện nhất trong quy trình rửa tiền.
Giai đoạn phân tán (tiếng Anh: layering): các khoản tiền đã được đưa vào hệ thống tài chính sẽ được chuyển đổi qua lại giữa các tài khoản ngân hàng, các quốc gia, đầu tư dự án, mua bán qua lại... nhằm che giấu nguồn gốc của tài sản.
Giai đoạn quy tụ (tiếng Anh: integration): các khoản tiền chính thức nhập vào nền kinh tế hợp pháp và có thể sử dụng cho tất cả các mục đích
Hoạt động cụ thể rửa tiền
Đầu tư vào một dự án, một công trình, góp vốn vào một doanh nghiệp hoặc tìm cách khác che đậy, ngụy trang hoặc cản trở việc xác minh nguồn gốc, bản chất thật sự hoặc vị trí, quá trình di chuyển hoặc quyền sở hữu đối với tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào một giao dịch liên quan đến tiền, tài sản do phạm tội mà có.
Thu nhận, chiếm giữ, chuyển dịch, chuyển đổi, chuyển nhượng, vận chuyển, sử dụng, vận chuyển qua biên giới về tiền và tài sản do phạm tội mà có.
Cung cấp các giải pháp kỹ thuật hoặc trợ giúp gián tiếp các hoạt động phạm tội
Những vụ rửa tiền chấn động
Năm 2012–2013, Hoa Kỳ đã phát hiện và truy tố một vụ rửa tiền lớn nhất trong lịch sử nước này, tổng số tiền phi pháp lên đến 6 tỉ USD, gồm tiền buôn ma túy, thu nhập từ hoạt động mại dâm trẻ em, ăn cắp thẻ tín dụng và các tội ác khác trên toàn thế giới.
Tâm điểm của vụ việc là Liberty Reserve, một công ty chuyên chuyển ngoại hối và thực hiện dịch vụ thanh toán có trụ sở tại Costa Rica. Nhà chức trách nói công ty này cho phép khách hàng chuyển tiền nặc danh từ một tài khoản sang một tài khoản qua đường Internet mà không hề đặt câu hỏi về nhân thân người chuyển và nguồn gốc số tiền.
Trong vòng khoảng bảy năm, Liberty Reserve đã xử lý 55 triệu giao dịch bất hợp pháp trên toàn thế giới cho 1 triệu người, bao gồm 200.000 người ở Mỹ. Mạng lưới này "đã trở thành ngân hàng được lựa chọn của thế giới ngầm", trưởng lý Mỹ Preet Bharara nói trong văn bản truy tố bị can, bao gồm người sáng lập Liberty Reserve Arthur Budovsky, một người Mỹ đã bỏ quốc tịch sau khi chuyển sang sống ở Costa Rica. |
God Defend New Zealand (tiếng Māori: E Ihowa Atua); (tiếng Việt: Chúa bảo vệ New Zealand) là một trong hai quốc ca của New Zealand. Quốc ca còn lại là bài God Save the King.
Kể từ cuối những năm 1990, thông thường khi biểu diễn ở nơi công cộng, phần đầu tiên sẽ được trình bày hai lần, lần đầu tiên bằng Tiếng Māori và rồi sau đó bằng Tiếng Anh.
Lời bài hát
Bài quốc ca có năm phần ở cả Tiếng Anh và Tiếng Māori. Phiên bản Tiếng Māori không phải là bản dịch trực tiếp của phiên bản Tiếng Anh.
Lời Tiếng Việt
Xin quỳ gối dưới Đấng tối cao của muôn loài
Và diện kiến Người bằng tình yêu vô đối
Xin Dâng lên Ngài những lời cầu Nguyện tha thiết
Thiên chúa sẽ mãi bảo vệ vùng đất tự đó của Chúng con
Xin dẫn lối bằng Ngôi sao Thái Bình Dương
Xóa bỏ những vết thương và chiến tranh
Cho Đất nước ta rạng danh năm châu bốn bể
Thiên Chúa mãi sẽ bảo vệ New Zealand! |
Tư duy phản biện hay tư duy phân tích là một quá trình tư duy biện chứng gồm phân tích và đánh giá một thông tin đã có theo các cách nhìn khác cho vấn đề đã đặt ra nhằm làm sáng tỏ và khẳng định lại tính chính xác của vấn đề. Lập luận phản biện phải rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ, khách quan và công tâm.
Dựa vào những nghiên cứu gần đây, các nhà giáo dục đã hoàn toàn tin tưởng rằng trường học nên tập trung hơn vào việc dạy học sinh tư duy phản biện. Tư duy phản biện không chỉ đơn thuần là sự tiếp nhận và duy trì thông tin thụ động. Đó có thể tóm tắt là quá trình tư duy tìm lập luận phản bác lại kết quả của một quá trình tư duy khác để xác định lại tính chính xác của thông tin.
Các bước thực hiện
Nhận dạng những ý kiến liên quan với vấn đề đưa ra.
Phân tích:
Mỗi ý kiến đưa ra một vài luận điểm ủng hộ và luận cứ phản biện
Với mỗi luận điểm đưa ra nhiều luận cứ khác nhau
Nhìn sự việc, vấn đề dưới nhiều góc cạnh khác nhau, tìm ưu điểm và khuyết điểm
Những ý kiến giống như những nhận định, xuất phát từ những tiên đề (tiên đề A → lập luận B → lập luận C → nhận định D). Việc phân tích là việc bắt nguồn từ D để đi tìm A, B và C.
Đánh giá:
Khảo sát mâu thuẫn giữa những ý kiến
Đong sức nặng (sức thuyết phục) của những ý kiến
Đưa ra quan điểm của bản thân (ý kiến nào là đúng)
Trình bày kết quả của quá trình tư duy lô gíc
Phát triển sức nặng của ý kiến (chỉ ra những đặc điểm nổi trội của ý kiến đó và tìm những dẫn chứng thực tế giúp củng cố ý kiến đó)
Nêu ra các điểm không chuẩn xác trong lập luận của người/nhóm người mang ý kiến đối lập
Các phương thức hỗ trợ
Tự thân phản biện
Kĩ năng sơ đồ hoá ý kiến
Sơ đồ tư duy (mind-map) là một dụng cụ hữu hiệu trong việc tổ chức và đánh giá thông tin bởi nó giúp định vị luận điểm/luận cứ một cách rõ ràng.
Khi thu nhận được một thông tin, điều cần trước tiên là hiểu rõ nội dung thông tin đó, về ai, về điều gì, liên quan đến những vấn đề gì, lĩnh vực nào. Tiếp theo, dựa trên những cơ sở khoa học và lôgic, đặt ra các câu hỏi như: tại sao lại khẳng định là A mà không phải là B, trong khi B cũng có các khả năng như A. Nếu là B thì khi đó sẽ có kết quả là B1, kết quả này có giống kết quả A1 của khả năng A không. Nếu có giống thì sẽ rút ra kết luận như thế nào, và nếu không giống thì lý do là ở đâu...
Kĩ năng tránh tính thiên vị
Tính thiên vị là một đặc tính có trong tiềm thức của con người mà không phải ai cũng dễ dàng nhận ra.
Thay vì hỏi: "Điều này mâu thuẫn với điều mà tôi tin tưởng như thế nào?" hãy hỏi rằng: "Điều này có nghĩa là gì?"
Trong những bước đầu tiên của việc thu thập và đánh giá thông tin, đừng đưa ngay ra một kết luận (đặc biệt khi đang đọc tiểu thuyết hoặc xem phim) bởi việc làm này sẽ đưa ra định hướng mang tính cảm nhận (perceptive orientation) thay vì định hướng mang tính phán xét (judgmental orientation), ngăn chặn việc phát triển cảm nhận thành sự phán xét.
Ai cũng nên nhận thức rõ về khả năng mắc phải sai lầm của bản thân bằng cách
Chấp nhận rằng tất cả mọi người đều có thành kiến nằm trong tiềm thức, và vì thế rất dễ tấn công những phán xét chống lại mình.
Từ tốn lắng nghe ý kiến của người khác trước khi đưa ra quan điểm của mình. Nói cách khác là làm đúng quy trình tư duy phản biện
Nhận thức rằng trong lập luận của mình chắc chắn có sơ hở và sai lầm
Cuối cùng, sử dụng những câu hỏi sau có thể giúp tăng thời gian trao đổi thông tin và lượng thông tin
Khi dùng từ _, ý bạn là_?
Tại sao bạn lại đưa ra được kết luận đó?
Tại sao bạn cho rằng mình đúng?
Bạn lấy thông tin này ở đâu?
Giả định gì khiến bạn đưa ra kết luận đó?
Điều gì sẽ xảy ra nếu bạn sai?
Tại sao điều này lại quan trọng thế?
Điều gì nữa có thể giải thích cho hiện tượng này?
Phân tích của bạn có bị ảnh hưởng bởi dư luận, quy trình giáo dục, môi trường sống, cảm tính, định kiến xã hội, tuyên truyền, thành kiến, tính địa phương,... ?
Những điều đáng chú ý
Có một số những phát biểu được cấu hình dưới dạng một tiên đề nhưng thực ra lại là một nhận định cá nhân sai lầm (ngụy biện).
Tư duy phản biện không chắc đã dẫn đến một kết luận chính xác. Thứ nhất là vì không ai có thể có toàn bộ thông tin chính xác. Thật vậy, những tin tức quan trọng thường được bảo mật rất cẩn thận và có rất nhiều thông tin còn chưa được khám phá hết. Bên cạnh đó, thành kiến có thể ngăn chặn sự thành công của việc tập trung, phân tích, đánh giá và truyền đạt thông tin. Tư duy phản biện có thể phân biệt, nhưng không thể tách rời khỏi cảm quan. Kết luận đưa ra phải đơn giản và ngắn gọn.
Ngoại thân phản biện
Những cuộc thảo luận dựa trên một đề tài đưa ra sẵn có tác động mạnh tới kĩ năng phản biện.
Những điều dễ nhầm lẫn
Tư duy phản biện là lập luận trên một nhận định là kết quả của tư duy lôgíc, không phải một phát biểu sai tiên đề.
Ví dụ: A: "1+1 = 3", B: "Không, 1+1 = 2 chứ."
→ Câu nói của B không mang tính phản biện
Tư duy phản biện không phải là việc đưa ra một nhận định cảm quan mà là việc đưa ra một nhận định kèm theo lý lẽ và dẫn chứng.
Ví dụ: A: "C là một học sinh dốt", B: "Không, C là một học sinh giỏi"
→ Câu nói của B không mang tính phản biện
Tư duy phản biện trong lớp học
Hệ thống giáo dục Anh coi tư duy phản biện như một môn học chính quy. Trình độ A dành cho học viên 16-18 tuổi. Họ phải làm 2 bài kiểm tra chính: "Sự đáng tin của dẫn chứng" (Credibility of Evidence) và "Phát triển tranh luận" (Assessing/Developing Argument). Đối với học sinh dưới 16-18 tuổi, tư duy phản biện được đưa xen kẽ vào trong bài giảng của giáo viên. |
Quảng Nam – Đà Nẵng (hay còn gọi là tỉnh Quảng Đà) là một tỉnh cũ ở miền Trung Việt Nam, tồn tại từ năm 1975 đến năm 1996.
Địa bàn tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng hiện nay tương ứng với tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Địa lý
Trước khi giải thể, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Thừa Thiên Huế
Phía nam giáp tỉnh Quảng Ngãi
Phía đông giáp biển Đông
Phía tây giáp Lào và tỉnh Kon Tum.
Lịch sử
Ngày 4 tháng 10 năm 1975, Ủy ban nhân dân Cách mạng Lâm thời khu Trung Trung bộ ra Quyết định số 119/QĐ về việc hợp nhất tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Quảng Đà (tương ứng với hai tỉnh Quảng Tín, Quảng Nam và thị xã Đà Nẵng của chính quyền Việt Nam Cộng hòa) thành tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Ba quận I, II, III của thị xã Đà Nẵng cũ trở thành đơn vị hành chính thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.
Ngày 30 tháng 8 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 228/CP sáp nhập ba quận I, II và III để thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng.
Từ đó, tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng có 14 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm: thành phố Đà Nẵng (tỉnh lỵ), thị xã Hội An và 12 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hòa Vang, Phước Sơn, Quế Sơn, Tam Kỳ, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My.
Ngày 4 tháng 2 năm 1982, thành lập huyện đảo Hoàng Sa.
Ngày 3 tháng 12 năm 1983, chia huyện Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện Núi Thành.
Ngày 31 tháng 12 năm 1985, thành lập huyện Hiệp Đức trên cơ sở tách 2 xã thuộc huyện Thăng Bình, 4 xã thuộc huyện Quế Sơn và 2 xã thuộc huyện Phước Sơn.
Đến năm 1991, đơn vị hành chính của tỉnh gồm thành phố Đà Nẵng (tỉnh lị), 2 thị xã Tam Kỳ, Hội An và 14 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hiệp Đức, Hòa Vang, Hoàng Sa, Núi Thành, Phước Sơn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kì họp thứ 10 Quốc hội khóa IX ra Nghị quyết chia tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng để tái lập tỉnh Quảng Nam và thành lập thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương:
Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương gồm thành phố Đà Nẵng trực thuộc tỉnh và 2 huyện: Hòa Vang, Hoàng Sa.
Tỉnh Quảng Nam gồm 2 thành phố: Tam Kỳ (tỉnh lị), Hội An và 12 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Nam Giang, Đông Giang, Hiệp Đức, Núi Thành, Phước Sơn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My.
Biển số xe
Biển số xe 43 là biển số tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng (hiện nay 43 là biển số xe thành phố Đà Nẵng, còn Quảng Nam là 92).
Chú thích
Hành chính Quảng Nam
Hành chính Đà Nẵng |
Bến Nhà Rồng, tên chính thức là Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, là cụm di tích kiến trúc - bảo tàng nằm bên sông Sài Gòn, thuộc quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi đây từng là trụ sở của hãng vận tải Messageries maritimes tại Sài Gòn từ năm 1864 đến năm 1955. Ngày nay, địa danh này được biết đến nhiều do tại đây có cụm di tích kiến trúc đánh dấu sự kiện ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên Nguyễn Tất Thành (sau này được biết với tên gọi Hồ Chí Minh) đã xuống con tàu Amiral Latouche Tréville làm phụ bếp để có điều kiện sang châu Âu, mở đầu hành trình cách mạng của mình. Do đó, từ 1975, cụm di tích kiến trúc của thương cảng Nhà Rồng đã được Nhà nước Việt Nam xây dựng lại thành Khu lưu niệm Hồ Chí Minh, và ngày 5 tháng 6 được chọn là Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước ở Việt Nam.
Ủy ban nhân dân TP. Hồ Chí Minh chỉ đạo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa Bến Nhà Rồng vào danh sách danh thắng biểu trưng của thành phố.
Tên gọi
Có nhiều thuyết khác nhau về tên gọi Nhà Rồng:
Có thuyết nói rằng vì trên nóc ngôi nhà trụ sở hãng vận tải Messageries impériales (từ năm 1871 đổi thành Messageries maritimes) tại Sài Gòn có gắn đôi rồng lớn bằng đất nung tráng men xanh. Thuyết này phổ biến nhất.
Một thuyết khác cho rằng khác là "Nhà Rồng" có nghĩa là "Gia Long", với Nhà là Gia (家), Rồng là Long (龍), bến "Nhà Rồng" được người Pháp đặt để nhớ tới quan hệ của vua Gia Long với nước Pháp. Tuy nhiên thuyết này là không chính xác. Trong chữ Hán Nôm, gia long (家龍) mang nghĩa "nhà rồng" và niên hiệu Gia Long (嘉隆) là khác chữ. Thuyết này sinh ra là do sự hiểu nhầm nghĩa trong các từ đồng âm, khi chỉ biết chữ Quốc ngữ mà không biết chữ Hán và chữ Nôm.
Một số tên gọi khác của Nhà Rồng cũng được ghi nhận lại như:
Sở Ông Năm, vì tòa nhà do viên quan năm Pháp Domergue đứng ra chủ trì xây dựng.
Sở Canh tuần tàu biển, vì từ sau năm 1865 khi cột cờ Thủ Ngữ được xây dựng, có treo cờ hiệu giúp tàu thuyền ra vào cảng thuận tiện.
Tuy nhiên, tên gọi Bến Nhà Rồng vẫn là tên gọi phổ biến nhất.
Lịch sử
Sau khi chiếm được Nam Kỳ, các thống đốc quân sự Pháp đã quyết định cho xây dựng khu thương cảng Sài Gòn (Port de Commerce de Saigon) để làm đầu mối thông thương với quốc tế. Việc xây dựng cảng được giao cho hãng vận tải biển Messageries impériales. Các bến cảng đầu tiên được xây dựng tại Bến Thành, gần hải quân công xưởng Sài Gòn (arsenal de Saigon), trong thời gian gần 1 năm.
Để tiện việc quản lý thương cảng, ngày 4 tháng 3 năm 1863, tòa nhà trụ sở của hãng Messageries maritimes cũng được xây dựng để làm nơi ở cho viên Tổng quản lý và nơi bán vé tàu. Việc xây dựng do một viên quan năm tên Domergue phụ trách.
Tháng 10 năm 1865, hãng cho dựng thêm một cột cờ hiệu (mât des signaus) bằng thép cao 40m tại vị trí nền đồn dinh quan Thủ ngữ trước đây để làm hiệu cho các tàu bè ra vào cảng. Dân gian gọi là Cột cờ Thủ Ngữ.
Năm 1893, tòa nhà hãng Messageries maritimes được lắp đèn điện, dùng bóng đèn 16 nến, sáng leo lét, kém xa mấy ngọn đèn lồng thắp dầu lửa mà tòa đô chính cho thắp thử ở đường Catina (nay là đường Đồng Khởi).
Gần cuối năm 1899, hãng được phép xây cất bến cho tàu cập vào. Bến lót ván dày, đặt trên trụ sắt dọc theo mé sông 42 mét (phía tàu cập vào). Bến này cách bến kia 18 mét. Bề ngang của mỗi bến vào phía trong bờ là 8 mét. Từ bờ ra bến có cầu rộng 10 mét. Ban đầu xây hai bến rồi xây thêm bến thứ ba.
Năm 1919, hãng được phép xây bến bằng xi măng cốt sắt, nhưng không thực hiện được, phải đến tháng 3 năm 1930 mới hoàn thành bến mới, chỉ một bến nhưng dài tới 430 mét.
Sau năm 1955, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho tu bổ lại mái ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng khác với tư thế quay đầu ra. Năm 1965, tòa nhà được quân đội Mỹ sử dụng làm trụ sở của Cơ quan Tiếp nhận viện trợ quân sự Mỹ.
Sau năm 1975, tòa nhà - biểu tượng của cảng Sài Gòn - thuộc quyền quản lý của Cục đường biển Việt Nam.
Kiến trúc Bến Nhà Rồng
Nhà Rồng, ban đầu gọi là Trụ sở Công ty Vận tải Hoàng đế (Hotel des Messageries Impériales) được khởi công xây dựng ngày 4 tháng 3 năm 1863 và hoàn thành trong 1 năm. Kiến trúc tòa nhà theo phong cách kiến trúc phương Tây nhưng trên nóc nhà gắn hai con rồng lớn bằng đất nung tráng men xanh, châu đầu vào mặt trăng theo mô típ "Lưỡng long chầu nguyệt" - một kiểu trang trí quen thuộc của đình chùa Việt Nam. Phía 2 đầu hồi tòa nhà có biểu tượng ký tự M.I. (viết tắt của Messageries Impériales) có thể nhìn thấy từ hướng sông Sài Gòn hoặc từ hướng đường Khánh Hội ra.
Năm 1871, do ảnh hưởng của nền Cộng hòa, hãng đổi tên lại thành Messageries maritimes. Chi tiết mặt trăng trên nóc nhà được thay bằng biểu tượng của hãng vương miện, mỏ neo và đầu ngựa. Phù hiệu "Đầu ngựa" hàm chỉ thời trước bên Pháp, hãng chuyên lãnh chở đường bộ với ngựa kéo xe, còn "Mỏ neo" tượng trưng cho tàu thuyền. Do đó dân gian còn gọi là hãng Đầu Ngựa.
Sau năm 1955, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho tu bổ lại mái ngôi nhà và thay thế hai con rồng cũ bằng hai con rồng khác với tư thế quay đầu ra. Từ đó, kiến trúc Nhà Rồng hầu như còn nguyên vẹn cho đến ngày nay.
Dấu mốc lịch sử
4 tháng 3 năm 1863, Nhà Rồng được khởi công xây dựng
5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành xuống con tàu Amiral Latouche Tréville, bắt đầu hành trình cách mạng.
1 tháng 1 năm 1937, hơn 20.000 người dân Sài Gòn - Gia Định tổ chức mít-tinh tại Bến Nhà Rồng để đón tiếp đại biểu Mặt trận bình dân Pháp sang điều tra tình hình các nước thuộc địa ở Đông Dương.
23 tháng 9 1945, một tiểu đội kháng chiến Việt Nam với vũ khí thô sơ, chiến đấu chống trả cuộc tấn công của một đại đội quân Anh được trang bị vũ khí hiện đại và đầy đủ và hy sinh đến người cuối cùng.
Đêm 15 tháng 10 năm 1945, quân kháng chiến Việt Nam tổ chức đốt chiếc tàu chiến Alex của Pháp khi vừa cập Bến Nhà Rồng.
13 tháng 5 năm 1975, chiếc tàu biển Sông Hương trọng tải 10.000 tấn cập Bến Nhà Rồng, đánh dấu sự thống nhất đường biển Bắc - Nam.
Chú thích |
Tôn Tẫn (孫臏, 382 TCN - 316 TCN), người nước Tề, là một quân sư, một nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng thời Chiến Quốc. Tương truyền, Tôn Tẫn là cháu của Tôn Tử, cùng với Bàng Quyên là học trò môn binh pháp của Quỷ Cốc Tử (ngoài Tẫn và Quyên, học trò Quỷ Cốc Tử Vương Hủ còn có Tô Tần và Trương Nghi học môn du thuyết). Tôn Tẫn binh pháp của ông là một trong các quyển binh pháp nổi tiếng ở Trung Quốc.
Tiểu sử
Bị hại
Trong sách Sử ký Tư Mã Thiên thiên Tôn Tử Ngô Khởi liệt truyện có ghi:
Bàng Quyên cùng học binh pháp với Tôn Tẫn. Sau khi học xong, Bàng Quyên vì ham công danh phú quý nên xin Quỷ Cốc tiên sinh xuống núi trước để tìm công danh, được làm quan nước Ngụy. Tuy nhiên ông tự cho rằng mình không giỏi bằng Tôn Tẫn, con cháu của vị tướng nổi tiếng Tôn Vũ. Để triệt hạ bạn học, Bàng Quyên cho người mời Tôn Tẫn đến nước Ngụy rồi vu tội cho khiến Tôn Tẫn bị chặt xương hai đầu gối và bị thích lên mặt để Tôn Tẫn phải giấu mình không thể ra làm tướng. Cái tên Tẫn (臏, hình phạt chặt xương đầu gối) của Tôn chính là xuất phát từ sự kiện này.
Sang nước Tề
Năm 366 TCN, biết tin sứ giả nước Tề đến đất Lương thuộc nước Ngụy, Tôn Tẫn lén tới thuyết phục sứ giả. Sứ giả nước Tề cho là kỳ lạ bèn mang trộm Tôn Tẫn lên xe về Tề. Tẫn trở thành thượng khách của tướng quốc Điền Kỵ. Tướng Tề là Điền Kỵ phục tài, tâu với Tề Uy Vương phong Tẫn làm thầy.
Trận Quế Lăng
Năm 353 TCN, Bàng Quyên được Ngụy Huệ vương giao chức đại tướng cầm quân đi đánh nước Triệu. Vua Triệu phải cầu cứu nước Tề.
Nghe theo kế "vây Ngụy cứu Triệu" (圍魏救趙) của Tôn Tẫn, Điền Kỵ thay vì cứu Triệu lại dẫn quân tức tốc tiến thẳng đến kinh đô Đại Lương của nước Ngụy, buộc Bàng Quyên phải bỏ việc tấn công Triệu để quay về cứu nước rồi bị quân Điền Kỵ đánh cho đại bại trong trận Quế Lăng. Sau khi bắt được Bàng Quyên, Tôn Tẫn vì nể tình bạn học xưa nên đã tha chết cho Bàng Quyên mà còn thả ông quay về nước Ngụy. Chương 1 cuốn Tôn Tẫn binh pháp, tác phẩm binh pháp của Tôn Tẫn được dành để nói về các sự kiện xoay quanh cuộc đối đầu giữa Tôn Tẫn và Bàng Quyên ở trận Quế Lăng.
Sử ký chỉ nhắc tới việc Điền Kỵ đánh bại Bàng Quyên ở Quế Lăng, không đề cập việc Bàng Quyên bị bắt trong trận này. Tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc đã mô tả câu chuyện giữa Bàng Quyên và Tôn Tẫn trong hồi 88: "Tôn Tẫn giả điên thoát nạn, Bàng Quyên bại trận Quế Lăng".
Trận Mã Lăng
Tới năm 341 TCN, Ngụy vương một lần nữa sai Bàng Quyên đem quân đánh Tề. Để lừa Bàng Quyên đuổi theo quân Tề, Tôn Tẫn dùng kế rút bếp, theo đó cứ ngày hôm sau thì lại cho làm ít bếp ở doanh trại hơn so với ngày hôm trước, ngày đầu 10 vạn cái, ngày hôm sau còn 5 vạn cái và đến hôm sau nữa còn 3 vạn cái. Kế rút bếp khiến Bàng Quyên tưởng rằng quân Tề vì sợ hãi đã bỏ trốn quá nửa, vì vậy Bàng Quyên bỏ bộ binh, chỉ mang theo khinh binh thúc quân bất chấp mỏi mệt đuổi theo quân Tề ngày đêm.
Về phần mình, Tôn Tẫn trù tính trước sẽ đánh úp quân Ngụy ở đường Mã Lăng (馬陵, nay nằm ở Tây Nam huyện Phạm, Hà Nam), một con đường hẹp có hai bên vào hiểm trở, dễ mai phục, khó lui quân. Tôn Tẫn cho quân dùng cung tên mai phục cẩn thận ở Mã Lăng, lại cho sơn trắng cây trên đó có ghi chữ: "Bàng Quyên chết ở dưới cây này!". Quả nhiên Bàng Quyên cùng tinh binh bị lừa vào rọ lúc nửa đêm, đang lúc Bàng Quyên sai đốt lửa để đọc chữ thì Tôn Tẫn cho quân phục kích bắn tên tới tấp vào quân Ngụy, Bàng Quyên thấy thế cùng lực kiệt bèn tự đâm cổ chết, trước lúc chết còn than rằng:
Chiến thuật mai phục của Tôn Tẫn ở Mã Lăng có thể coi là ví dụ nổi tiếng nhất của câu nói "Dĩ lợi động chi, dĩ tốt đãi chi" (以利動之,以卒待之, dùng lợi mà dụ địch tiến, trọng binh mai phục quân thù) trong sách Binh pháp Tôn Tử.
Di sản
Sau khi giúp nước Tề (Nước Tề thời Chiến Quốc nay là tỉnh Sơn Đông), Tôn Tẫn sống ẩn dật. Ông có viết cuốn Binh pháp Tôn Tẫn, một trong những quyển binh pháp nổi tiếng của Trung Quốc.
Trong văn học
Hai kế Vây Ngụy cứu Triệu và rút bếp của Tôn Tẫn sau này cũng trở nên nổi tiếng, Gia Cát Lượng từng sử dụng một biến thể của kế rút bếp là kế thêm bếp để ngăn quân Tư Mã Ý đuổi theo.
Tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc có câu chuyện về Tôn Tẫn từ hồi 87 đến hồi 89. Hồi 87 nói về thời gian hai người còn là học trò của Quỷ Cốc Tử mà Sử ký không đề cập. Chuyện Bàng Quyên - Tôn Tẫn mà Sử ký chép được tác giả Phùng Mộng Long đề cập tương tự từ hồi 88 tới hồi 89. |
Bác Ba Phi là một nhân vật trong dân gian được viết thành tiểu thuyết của nhà văn Anh Động. Ông là nhân vật chính trong những câu chuyện kể về cuộc sống sinh hoạt thường ngày nhưng được cường điệu quá đáng (như rắn tát cá, chọi đá làm máy bay rơi, leo cây ớt té gãy chân...) và được trình bày một cách tự nhiên khiến người nghe hoàn toàn bất ngờ và bật cười. Ông là nhân vật cận đại nhất trong lịch sử kho tàng truyện trạng (nói dóc) của văn học Việt Nam.
Nguyên mẫu cuộc đời
Nhân vật nguyên mẫu của Bác Ba Phi là nghệ nhân Nguyễn Long Phi (1884-1964). Ông vốn là một nông dân tại huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, vốn có khiếu kể chuyện rất phong phú và đặc sắc, được nhiều người ưa thích.
Ông sinh năm 1884 tại tỉnh Đồng Tháp, là con trai trưởng trong gia đình có năm anh em nên nếu gọi đúng phải là Hai Phi. Vì loạn lạc nên cả gia đình phải bỏ xứ đi và cuối cùng dừng chân, lập nghiệp ở tận vùng đất giáp biển Cà Mau. Năm đó Hai Phi chỉ mới được 10 tuổi. Vì gia đình quá nghèo nên từ nhỏ ông phải đi cày thuê để nuôi tám người em nhỏ. Khi 15 tuổi, mẹ ông qua đời, ông trở thành một lao động chính trong gia đình. Tuy cuộc sống cơ cực, ban ngày phải đi khẩn hoang, cày cuốc ruộng vườn, nhưng đến ban đêm, ông thường tham gia tụ họp đờn ca, và được bà con trong xóm mê tiếng ca và nể trọng tính tình vui vẻ, bộc trực, khẳng khái, đặc biệt là những câu chuyện kể và cách kể truyện lôi cuốn người nghe của ông.
Năm lên 18 tuổi, ông Hai Phi bị Pháp bắt đi làm phu, rồi sau đó bị đưa sang nước ngoài làm lính lê dương. Được mấy năm thì ông trốn về Thái Lan, rồi lần mò về rừng U Minh này sống cho đến khi qua đời
Vốn làm tá điền cho Hương quản Tế - một điền chủ giàu có vùng Bảy Ghe, ông được Hương quản Tế hứa gả cô con gái là Ba Lữ với điều kiện phải làm công trong ba năm. Nhờ sức chịu thương chịu khó, nên sau ba năm thì ông cưới được vợ. Hương quản Tế rất yêu thương người con rể này và đã cắt chia cho vợ chồng Hai Phi khá nhiều đất. Cộng với sự cần cù sẵn có, ông đã ra sức khai khẩn phần đất được chia thành đồng ruộng cò bay thẳng cánh. Kể từ lúc cưới vợ, mọi người đều gọi ông căn cứ vào thứ của vợ nên cái tên Ba Phi xuất hiện và chết danh cho đến bây giờ.
Hai người lấy nhau một thời gian mà không có con, vì vậy bà Ba Lữ đã đứng ra cưới vợ hai cho chồng. Bà này sinh được một người con trai là Nguyễn Tứ Hải. Không rõ vì lý do gì mà khi Nguyễn Tứ Hải mới ba tuổi, bà đã gửi con cho chồng rồi về quê ở Mỹ Tho cho đến lúc qua đời. Ông Nguyễn Tứ Hải về sau lập gia đình với bà Nguyễn Thị Anh, sinh hạ một người con trai – cháu đích tôn của bác Ba Phi – tên là Nguyễn Quốc Trị. Trong những câu chuyện của bác Ba Phi thì đây chính là nhân vật thằng Đậu nổi tiếng. Và cũng có thành ngữ "Tệ như vợ (thằng) Đậu" được dùng để chỉ những người vụng về.
Về sau bác Ba Phi cưới thêm vợ ba. Bà tên Chăm, là người dân tộc Khmer. Bà sinh được hai đứa con gái.
Bác Ba Phi qua đời tại rừng U Minh Hạ, nay là ấp Lung Tràm, xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Phần mộ của ông được đặt giữa hai ngôi mộ của bà Ba Lữ và bà Chăm. Hiện nay, khu nhà và mộ phần của bác Ba Phi được đề xuất xây dựng thành tuyến du lịch văn hóa của tỉnh Cà Mau.
Những nét đặc sắc văn học
Bác Ba Phi thuộc lớp hậu duệ của những tiền nhân đi khai mở đất rừng U Minh. Cả quãng đời, mà đặc biệt là thời tuổi trẻ của bác Ba Phi, là quá trình khai phá đất rừng U Minh nguyên sinh, vốn rất hào phóng mà cũng lắm khắc nghiệt. Với tinh thần khai phá, tính lạc quan yêu đời, thế giới quan của ông hiện ra thật sinh động và đáng yêu.
Những câu chuyện kể của ông, truyện nào cũng mang lại cho người nghe trước hết là tiếng cười sảng khoái, mượt mà âm sắc trào lộng, rất đặc hiệu Ba Phi, đồng thời nó còn ẩn chứa tính hào hùng của lớp người đi mở đất, tính cách đặc trưng Nam Bộ, lòng yêu thương thiên nhiên và con người.
Cho đến tận ngày ông qua đời, không có một văn bản nào chính thức có ghi chép lại những câu chuyện do ông kể, kể cả người trong thân tộc ông. Những câu chuyện kể của bác Ba Phi là những câu chuyện truyền miệng. Tuy nhiên, nó cũng đầy đủ hình thức cấu trúc văn học: mở đề, thắt nút và kết thúc. Một mặt, nó cũng hao hao một loại tiểu thuyết chương, hồi rút gọn, dù có đảo lộn trật tự thế nào cũng giữ được ý nghĩa và tính xuyên suốt của những câu chuyện kể độc lập.
Những câu chuyện của bác Ba Phi, do tính chất "truyền miệng", vì vậy thường bị "biên tập" hoặc "hiệu chỉnh" lại trong quá trình câu truyện "lưu lạc". Thêm vào đó, cũng có không ít những câu chuyện do người khác sáng tác, nhưng vẫn lấy danh xưng bác Ba Phi.
Một số câu chuyện của bác Ba Phi
Nếp dẻo
"Gần tết năm đó, bác Ba Phi cùng cháu ông và con chó mực đi đến nhà ông Hai Móm ở đầu xóm chơi. Thấy khách đến nhà, nên ông Hai Móm mới lấy bánh ít lên đãi khách. Vì là chủ nhà nên ông ăn trước, nhưng khi ông Hai ăn bánh thì không thấy nói gì nữa mà chỉ ra hiệu cho bác Ba Phi ăn bánh. Do bánh ít quá dính nên bác Ba Phi phải gỡ một lúc mới ra, nhưng mạnh tay quá làm văng luôn miếng bánh dính lên cây cột nhà. Con chó mực thấy vậy liền nhảy lên táp miếng bột. Tức thì con chó dính luôn lên cây cột. Ông Hai thấy vậy mắc cười quá, cười phá lên làm văng luôn miếng bánh trong miệng ra. Miếng bánh văng trúng luôn bàn thờ kèm theo là hàm răng giả của ông Hai, con chó thấy vậy bay qua táp miếng bánh trên tủ thờ và táp luôn hàm răng giả của ông Hai Móm".
Cọp xay lúa
"Đêm hôm đó, lúc tôi đang xay lúa, bỗng nghe hơi cọp, liền biết "ông thầy" đang rình bên ngoài. Nhờ biết trước, tôi vừa xay lúa vừa thủ thế. Quả nhiên, trong chớp mắt cọp nhào vô chụp tôi. Tôi liền né sang bên. Cọp lỡ đà vướng hai chân trước vào giằng xay. Thế là nó sa đà theo vòng quay của cái cối đang quay. Thấy vậy, tôi hối "Bả" xúc lúa đổ vào cối. Đợi cho tới lúc cọp xay hết 20 giạ lúa, tôi liền hét lên một tiếng thật to: "Cọp"! Nó hoảng quá, đâm đầu chạy tuốt ra rừng. Từ đó về sau cọp "bỏ tật" bắt người ăn thịt".
Câu ếch
"Năm rồi, trời sa mưa đầu mùa, ếch kêu khắp bốn phía, đâu đâu cũng có tiếng "uệch uệch". Chỉ riêng trong vườn nhà tôi có một tiếng ếch rất đặc biệt, nó kêu đến cảm thấy thèm ăn thịt ếch mà ngủ không yên. Tôi biết đây là loại "ếch bà".
Sáng hôm sau, tôi bắt một con vịt mới nở làm mồi, trong khi tôi thả con mồi chưa tới mặt nước thì con ếch từ trong hang ló ra; nó lắc đầu lia lịa rồi ngồi chờ ở miệng hang.
Tôi biết con ếch này đòi ăn mồi lớn, tôi bắt con vịt mái đẻ ra câu. Vừa trông thấy con mồi, con ếch gật đầu liên tiếp mấy cái rồi hớp nước súc miệng. Xong, ếch khoát tay ra hiệu cho tôi thả con vịt mái xuống. Thế là ếch đưa hai tay ra đón con mồi đưa thẳng vào miệng.
Đợi cho ếch nuốt mồi xong, tôi giật mạnh một phát. Té ra, hàng cau của tôi gãy liền một lúc đến 3 cây, con ếch thì vẫn nằm yên tại chỗ. Còn sợi nhợ câu lúc này căng thẳng tối đa. Thấy vậy, tôi ngồi xuống khảy vào sợi nhợ ấy mà ca luôn 6 câu vọng cổ". |
Phân đạm là tên gọi chung của các loại phân bón vô cơ cung cấp nitơ cho cây trồng. Phân đạm có vai trò rất quan trọng đối với cây trồng và thực vật nói chung, đặc biệt là cây lấy lá như rau. Phân đạm cùng với phân lân, phân ka-li góp phần tăng năng suất cho cây trồng.
Trong tự nhiên, phân đạm tồn tại trong nước tiểu của các loài động vật và con người. Trong công nghiệp, phân đạm được sản xuất bằng khí thiên nhiên hoặc than đá.
Quy trình đơn giản của quá trình tổng hợp phân đạm urê (công nghệ Snampogetti của Ý):
N2 + H2 (xúc tác, nhiệt độ, áp suất) ↔ NH3
NH3 + CO2 (xúc tác, nhiệt độ, áp suất) ↔ (NH2)2CO
Tại Việt Nam, nhu cầu phân đạm hàng năm khoảng 2 triệu tấn. Trước đây phải nhập khẩu hoàn toàn. Hiện tại, Việt Nam đã có các nhà máy sản xuất phân đạm: nhà máy phân đạm Hà Bắc thuộc tỉnh Bắc Giang sử dụng than đá làm nguyên liệu, công suất 100.000 tấn/năm; nhà máy phân đạm Phú Mỹ tại Khu công nghiệp Phú Mỹ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu sử dụng khí thiên nhiên làm nguyên liệu, có công suất 800.000 tấn/năm. Các nhà máy đang được triển khai thiết kế hoặc xây dựng: nhà máy phân đạm Cà Mau thuộc Dự án Khí - Điện - Đạm Cà Mau có công suất 800.000 tấn năm (đang đấu thầu xây dựng); nhà máy phân đạm Ninh Bình và nhà máy phân đạm Dung Quất (đang lập dự án).
Tác dụng của phân đạm
Kích thích quá trình sinh trưởng của cây.
Làm tăng tỉ lệ protêin thực vật
Cây phát triển nhanh, cho nhiều củ hoặc quả. |
Khí thiên nhiên (còn gọi là khí gas, khí ga, khí đốt - từ chữ gaz trong tiếng Pháp) là hỗn hợp chất khí cháy được, bao gồm phần lớn các hydrocarbon (hợp chất hóa học chứa cacbon và hydro). Cùng với than đá, dầu mỏ và các khí khác, khí thiên nhiên là nhiên liệu hóa thạch. Khí thiên nhiên có thể chứa đến 85% metan (CH4) và khoảng 10% etan (C2H6), và cũng có chứa số lượng nhỏ hơn propan (C3H8), butan (C4H10), pentan (C5H12), và các ankan khác. Khí thiên nhiên, thường tìm thấy cùng với các mỏ dầu ở trong vỏ Trái Đất, được khai thác và tinh lọc thành nhiên liệu cung cấp cho khoảng 25% nguồn cung năng lượng thế giới. Khí thiên nhiên còn được tìm thấy trong các thành tạo ngầm dưới lòng đất hoặc liên kết với các hồ chứa hydrocarbon khác trong các vỉa than và dưới dạng clanratmêtan.
Khí thiên nhiên chứa lượng nhỏ các tạp chất, bao gồm cacbon dioxide (CO2), hydro sulfide (H2S), và nitơ (N2). Do các tạp chất này có thể làm giảm nhiệt trị và đặc tính của khí thiên nhiên, chúng thường được tách ra khỏi khí thiên nhiên trong quá trình tinh lọc khí và được sử dụng làm sản phẩm phụ.
Khí thiên nhiên từ nhiên liệu hóa thạch là 1 nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được. Khí thiên nhiên thường được gọi đơn giản là "khí", đặc biệt là khi so sánh với các nguồn năng lượng khác như dầu hoặc than đá. Tuy nhiên, nó không được nhầm lẫn với xăng, đặc biệt là ở Bắc Mỹ, nơi thuật ngữ xăng thường được rút ngắn trong việc sử dụng.
Sử dụng
Khí thiên nhiên được sử dụng làm nhiên liệu và nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến hóa chất. Là một nhiên liệu gia dụng, nó được đốt trong các bếp ga, lò ga để nấu nướng, sấy khô. Là một nhiên liệu công nghiệp, khí thiên nhiên được đốt trong các lò gạch, gốm và lò cao sản xuất xi măng. Khí thiên nhiên còn được sử dụng để đốt các lò đốt các tua bin nhiệt điện để phát điện cũng như các lò nấu thủy tinh, lò luyện kim loại và chế biến thực phẩm.
Khí thiên nhiên được sử dụng làm nguyên liệu đầu vào cho ngành hóa dầu để tạo ra các chất hóa dầu. Các chất hóa dầu này được sử dụng làm sản phẩm cơ sở cho việc sản xuất phân đạm, bột giặt, dược phẩm, chất dẻo và nhiều loại hàng hóa khác. Khí tự nhiên có thể được sử dụng để tạo ra khí hydro, với một phương pháp phổ biến là hydro reformer. Khí hydro có nhiều ứng dụng: nó là nguyên liệu chính cho ngành công nghiệp hóa chất, tác nhân hydro hóa, một mặt hàng quan trọng cho các nhà máy lọc dầu và nguồn nhiên liệu trong các phương tiện sử dụng bằng khí hydro.
Ngân hàng Thế giới ước tính rằng hơn 150 km³ khí đốt tự nhiên được đốt hoặc thông hơi hàng năm. Trước khi khí thiên nhiên có thể được sử dụng như một loại nhiên liệu, hầu hết, nhưng không phải tất cả, khí thiên nhiên phải được xử lý để loại bỏ các tạp chất, kể cả nước, để đáp ứng các thông số kỹ thuật. Các sản phẩm phụ của quá trình này bao gồm: ethane, propane, butanes, pentanes và các hydrocarbon có trọng lượng phân tử cao hơn, hydro sulfide (có thể được chuyển thành lưu huỳnh tinh khiết), carbon dioxide, hơi nước và đôi khi heli và nitơ.
Thức ăn giàu đạm và thức ăn cho cá được sản xuất bằng cách cho thêm khí thiên nhiên vào vi khuẩn Methylococcus capsulatus trên quy mô thương mại.
Khí thiên nhiên chủ yếu được sử dụng ở Bắc Bán cầu. Bắc Mỹ và Châu Âu là những nơi tiêu thụ lớn trên thế giới.
Lịch sử
Người Trung Hoa đã sử dụng khí thiên nhiên khoảng năm 500 TCN. Họ phát hiện ra một cách để vận chuyển khí thoát ra từ mặt đất bằng các đường ống dẫn bằng tre đến nơi sử dụng để đun sôi nước muối để trích xuất các muối, ở huyện Tự Lưu Tỉnh của Tứ Xuyên.
Vào thế kỷ XVII, khí thiên nhiên đã được sử dụng để sưởi ấm và chiếu sáng ở miền Bắc Ý. Ở Hoa Kỳ, khí thiên nhiên lần đầu đã được phát hiện ở Fredonia, New York vào năm 1825.
Do khí thiên nhiên ở dạng khí (mật độ thấp) khó vận chuyển bằng các phương tiện thông thường, trong lịch sử khí thiên nhiên đã được sử dụng ở các khu vực gần mỏ khí. Khi ngành công nghiệp dầu khí phát triển vào thế kỷ XIX và thế kỷ XX, khí thiên nhiên được phát hiện cùng dầu mỏ (khí đồng hành) từ các mỏ ngầm thường được xử lý như chất phụ phẩm phế thải và thường được đốt bỏ ngay trên giàn khoan. Ngày nay, khí thiên nhiên được vận chuyển thông qua các mạng lưới đường ống dẫn khí rộng lớn hoặc được hóa lỏng và chở bằng tàu bồn.
Đến năm 2009, 66.000 tỷ m³ (hoặc 8%) đã được sử dụng trong tổng số ước tính 850.000 tỷ m³ trữ lượng khí thiên nhiên có thể thu được còn lại. Dựa trên mức tiêu thụ của thế giới năm 2015 ước tính khoảng 3.400 tỷ m³ khí đốt/năm, tổng số trữ lượng khí có thể khai thác kinh tế ước tính còn lại sẽ kéo dài 250 năm với mức tiêu thụ hiện nay. Sự gia tăng hàng năm trong cách sử dụng từ 2-3% có thể dẫn đến dự trữ hiện thu hồi kéo dài ít hơn đáng kể, chỉ còn khoảng 80 - 100 năm.
Nguồn khí
Khí thiên nhiên
Trong thế kỷ XIX, khí thiên nhiên thường được xem như một sản phẩm phụ của việc sản xuất dầu, vì các chuỗi khí cacbon nhỏ, nhẹ đi ra từ dung dịch khi các chất lỏng chiết xuất trải qua việc giảm áp suất từ hồ chứa xuống bề mặt.
Khí tự nhiên còn dư là một vấn đề xử lý trong các mỏ dầu đang hoạt động. Nếu không được tiêu thụ gần đầu giếng thì nó cực kỳ tốn kém. Thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, khí dư thường được đốt cháy tại các mỏ dầu. Ngày nay, khí dư (hoặc khí bị tồn đọng trong thị trường) liên quan đến việc khai thác dầu thường được trả lại hồ chứa với các giếng phun trong khi chờ thị trường trong tương lai có thể hoặc kìm nén sự hình thành, có thể tăng cường tỷ lệ khai thác từ các giếng khác. Ở những khu vực có nhu cầu khí tự nhiên cao (như Mỹ), đường ống được xây dựng khi có khả năng kinh tế để vận chuyển khí từ giếng khoan đến một người tiêu dùng.
Ngoài việc vận chuyển khí qua đường ống để sử dụng trong việc phát điện, các mục đích sử dụng khác cho khí thiên nhiên bao gồm xuất khẩu khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) hoặc chuyển khí thiên nhiên thành các sản phẩm lỏng khác thông qua công nghệ khí hóa lỏng (GTL). Công nghệ GTL có thể chuyển đổi khí thiên nhiên thành các sản phẩm chất lỏng như xăng, dầu diesel hoặc nhiên liệu máy bay phản lực. Một loạt các công nghệ GTL đã được phát triển, bao gồm Fischer – Tropsch (F – T), methanol để xăng (MTG) và syngas cho xăng cộng (STG +). F-T sản xuất một loại dầu thô tổng hợp có thể được tinh chế thêm thành các sản phẩm hoàn chỉnh, trong khi MTG có thể sản xuất xăng tổng hợp từ khí thiên nhiên. STG + có thể sản xuất xăng, dầu diesel, nhiên liệu máy bay phản lực và hóa chất thơm trực tiếp từ khí thiên nhiên thông qua một quá trình đơn. Trong năm 2011, nhà máy F – T của Royal Dutch Shell sản xuất 140.000 thùng/ngày đã đi vào hoạt động tại Qatar.
Khí thiên nhiên có thể được "liên kết" (được tìm thấy trong các mỏ dầu), hoặc "không liên quan" (được phân lập trong các mỏ khí tự nhiên), và cũng được tìm thấy trong các mỏ than (như methan than). Đôi khi nó chứa một lượng đáng kể etan, prôpan, butan và pentane - các hydrocarbon nặng được loại bỏ để sử dụng trong thương mại trước khi methan được bán dưới dạng nhiên liệu tiêu dùng hoặc nguyên liệu thực vật hóa học không chứa hydrocarbon như cacbon dioxide, nitơ, heli (hiếm khi) và hydro sulfide cũng phải được loại bỏ trước khi khí thiên nhiên có thể được vận chuyển.
Khí thiên nhiên được chiết xuất từ giếng dầu được gọi là khí vỏ bọc (đã hoặc không thực sự tạo ra các lò xo và thông qua một đầu ra của vỏ bọc) hoặc khí liên quan. Ngành công nghiệp khí thiên nhiên đang khai thác một lượng khí ngày càng tăng từ các loại tài nguyên: khí chua, khí chặt, khí đá phiến và khí methan.
Có một số bất đồng ở các quốc gia có trữ lượng khí lớn nhất. Các nguồn tin cho rằng Nga có trữ lượng lớn nhất đã được chứng minh thông qua CIA Hoa Kỳ (47 600 km³), Cơ quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ (47 800 km³), và OPEC (48 700 km³). Tuy nhiên, BP ghi nhận Nga chỉ với 32 900 km³, nó ở vị trí thứ 2, sau Iran (33 100 - 33 800 km³, tùy thuộc vào nguồn gốc). Với Gazprom, Nga thường là nhà khai thác khí tự nhiên lớn nhất thế giới. Các nguồn tài nguyên chính đã được chứng minh (tính bằng km³) là trên thế giới: 187 300 (2013), Iran: 33 600 (2013), Nga: 32 900 (2013), Qatar: 25 100 (2013), Turkmenistan: 17 500 (2013) và Hoa Kỳ: 8500 (2013).
Người ta ước tính có khoảng 900 000 km³ khí "mới" như khí đá phiến, trong đó có 180 000 km³ có thể phục hồi được. Đổi lại, nhiều nghiên cứu từ MIT, Black & Veatch và DOE dự đoán rằng khí tự nhiên sẽ chiếm 1 phần lớn hơn của phát điện và nhiệt trong tương lai.
Lĩnh vực khí đốt lớn nhất thế giới là khu vực South Pars / North Dome Gas-Condensate ngoài khơi, được chia sẻ giữa Iran và Qatar. Ước tính có 51.000 km khối khí tự nhiên và 50 tỷ thùng (7,9 tỷ m³) khí ngưng tụ tự nhiên.
Bởi vì khí thiên nhiên không phải là sản phẩm tinh khiết, khi áp suất hồ chứa giảm, khí không liên quan được chiết xuất từ 1 trường dưới điều kiện siêu tới hạn (áp suất / nhiệt độ), các thành phần trọng lượng phân tử cao hơn có thể ngưng tụ một phần. Khi ngưng tụ đẳng nhiệt - 1 hiệu ứng gọi là ngưng tụ ngược. Chất lỏng do đó hình thành có thể bị mắc kẹt khi các lỗ của bình chứa khí bị cạn kiệt. 1 phương pháp để đối phó với vấn đề này là bơm lại khí khô không ngưng tụ để duy trì áp suất dưới lòng đất, để cho bay hơi và chiết tách các chất ngưng tụ. Thường xuyên hơn, chất lỏng ngưng tụ ở bề mặt, và một trong những nhiệm vụ của nhà máy khí là thu gom chất ngưng tụ này. Chất lỏng thu được được gọi là chất lỏng khí tự nhiên (NGL) và có giá trị thương mại.
Khí đá phiến
Khí đá phiến là khí thiên nhiên được sản xuất từ đá phiến sét. Bởi vì đá phiến có độ thấm ma trận quá thấp, không cho phép khí chảy với số lượng kinh tế, các giếng khí đá phiến phụ thuộc vào các khe nứt để cho phép khí chảy. Các giếng khí đá phiến sớm phụ thuộc vào các đứt gãy tự nhiên thông qua đó dòng khí chảy ra; gần như tất cả các giếng khí đá phiến ngày nay yêu cầu "gãy xương nhân tạo" được tạo ra bằng cách bẻ gãy thủy lực. Từ năm 2000, khí đá phiến đã trở thành nguồn khí thiên nhiên chính ở Hoa Kỳ và Canada. Do sản lượng khí đá phiến tăng cao, Hoa Kỳ hiện là nhà sản xuất khí tự nhiên số một trên thế giới. Sau thành công tại Hoa Kỳ, thăm dò khí đá phiến đang bắt đầu ở các nước như Ba Lan, Trung Quốc và Cộng hòa Nam Phi.
Khí đốt nhà máy (khí đốt)
Khí đốt nhà máy là một loại nhiên liệu khí dễ cháy được tạo ra bởi quá trình chưng cất phá hủy than. Nó chứa nhiều loại khí nhiệt bao gồm hydro, cacbon monoxit, methan và các hydrocarbon dễ bay hơi khác, cùng với một lượng nhỏ khí không nhiệt lượng như cacbon dioxide và nitơ, và được sử dụng theo cách tương tự như khí thiên nhiên. Đây là một công nghệ lịch sử và thường không cạnh tranh về kinh tế với các nguồn khí đốt khác ngày nay.
Hầu hết các nhà chứa khí đốt nằm ở phía đông Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là lò than cốc với sản phẩm đơn giản là làm nóng than bitum trong các buồng kín khí. Khí thải từ than được thu thập và phân phối thông qua mạng lưới đường ống đến nhà ở và các tòa nhà khác, nơi nó được sử dụng để nấu ăn và thắp sáng. (Khí nóng đã không được sử dụng rộng rãi cho đến nửa cuối thế kỷ 20.) Than đá (hoặc nhựa đường) được thu thập ở đáy lò khí đốt thường được sử dụng để lợp mái và các mục đích chống thấm khác, trộn với cát và sỏi được sử dụng cho các đường phố lát đá.
Khí Biogas
Vi khuẩn Metanogenic Archaea chịu trách nhiệm cho tất cả các nguồn sinh học của methan. Một số sống trong các mối quan hệ cộng sinh với các dạng sống khác, bao gồm mối, động vật nhai lại và các loại cây trồng. Các nguồn khí methan khác, thành phần chính của khí thiên nhiên, bao gồm khí bãi rác, khí sinh học và methan hydrat. Khi khí giàu methan được tạo ra bởi sự phân hủy yếm khí của vật chất hữu cơ không phải hóa thạch (sinh khối), chúng được gọi là khí sinh học (hoặc khí biogas tự nhiên). Các nguồn khí sinh học bao gồm đầm lầy và bãi chôn lấp, cũng như các chất thải nông nghiệp như bùn thải và phân bón bằng cách xử lý kỵ khí, ngoài quá trình lên men ruột, đặc biệt là ở bò. Khí bãi rác được tạo ra bằng cách phân hủy chất thải tại các bãi rác, loại trừ hơi nước, khoảng 1 nửa lượng khí thải là khí methan và phần lớn còn lại là khí cacbon dioxide, với một lượng nhỏ nitơ, oxy và hydro, và lượng thay đổi của hydro sulfide và siloxan. Nếu khí không được loại bỏ, áp lực có thể lên cao đến mức nó hoạt động trên bề mặt, gây thiệt hại cho bãi rác, mùi khó chịu, thảm thực vật chết và nguy cơ nổ. Khí có thể bay vào khí quyển, bùng cháy hoặc đốt cháy để sản xuất điện hoặc nhiệt. Khí biogas cũng có thể được sản xuất bằng cách tách các vật liệu hữu cơ khỏi chất thải mà nếu không thì sẽ chuyển đến bãi rác. Phương pháp này hiệu quả hơn là chỉ thu được khí bãi rác mà nó tạo ra. Các đầm kỵ khí tạo ra khí sinh học từ phân chuồng, trong khi các lò phản ứng biogas có thể được sử dụng cho phân chuồng hoặc các bộ phận của cây trồng. Giống như khí bãi rác, khí sinh học chủ yếu là methan và cacbon dioxide, với một lượng nhỏ nitơ, oxy và hydro. Tuy nhiên, ngoại trừ thuốc trừ sâu, thường có mức chất gây ô nhiễm thấp hơn.
Khí bãi rác không thể được phân phối thông qua đường ống dẫn khí thiên nhiên trừ khi nó được làm sạch tới dưới 3% CO2, và một vài phần triệu H2S, vì CO2 và H2S ăn mòn các đường ống. Sự hiện diện của CO2 sẽ làm giảm mức năng lượng của khí yêu cầu đối với đường ống. Siloxan trong khí sẽ hình thành trong việc đốt khí và cần phải được loại bỏ trước khi đi vào bất kỳ hệ thống phân phối hoặc truyền tải khí nào. Do đó, để tiết kiệm khí đốt tại chỗ hoặc trong khoảng cách ngắn của bãi rác ta có thể sử dụng một đường ống chuyên dụng. Hơi nước thường được loại bỏ, ngay cả khi khí được đốt cháy tại chỗ. Nếu nhiệt độ thấp ngưng tụ nước ra khỏi khí, siloxan có thể được hạ xuống cũng bởi vì chúng có xu hướng ngưng tụ với hơi nước. Các thành phần phi methan khác cũng có thể được loại bỏ để đáp ứng các tiêu chuẩn khí thải, để ngăn chặn sự bẩn thỉu của thiết bị hoặc để xem xét môi trường. Đồng đốt khí bãi rác với khí tự nhiên cải thiện quá trình đốt cháy, làm giảm lượng khí thải.
Khí sinh học, và đặc biệt là khí bãi rác, đã được sử dụng ở một số khu vực, nhưng việc sử dụng chúng có thể được mở rộng đáng kể. Các hệ thống thử nghiệm đã được đề xuất sử dụng ở các vùng của Hertfordshire (Anh) và Lyon (Pháp). Khí được tạo ra trong các nhà máy xử lý nước thải thường được sử dụng để tạo ra điện. Ví dụ, nhà máy xử lý nước thải Hyperion ở Los Angeles đốt cháy 8 triệu feet khối (230.000 m³) khí mỗi ngày để tạo ra điện cho Thành phố New York sử dụng khí để chạy thiết bị trong các nhà máy xử lý nước thải, để sản xuất điện và trong lò hơi. Sử dụng khí thải để sản xuất điện không chỉ giới hạn ở các thành phố lớn, thành phố Bakersfield, California, sử dụng đồng phát tại các nhà máy thoát nước của nó. California có 242 nhà máy xử lý nước thải, 74 trong số đó đã lắp đặt các thiết bị kỵ khí. Tổng công suất sinh học từ 74 nhà máy là khoảng 66 MW.
Khí tự nhiên tinh thể - hydrat
Một lượng lớn khí tự nhiên (chủ yếu là methan) tồn tại ở dạng hydrat dưới trầm tích trên các thềm lục địa ngoài khơi và trên đất ở các vùng bắc cực trải qua băng vĩnh cửu, chẳng hạn như ở Siberia. Hydrat đòi hỏi một sự kết hợp của áp suất cao và nhiệt độ thấp để hình thành.
Trong năm 2010, chi phí chiết xuất khí thiên nhiên từ khí tự nhiên kết tinh được ước tính bằng gấp đôi chi phí chiết xuất khí thiên nhiên từ các nguồn thông thường, và thậm chí cao hơn từ các mỏ ngoại lai.
Trong năm 2013, Tổng công ty Dầu khí Quốc gia Nhật Bản (JOGMEC) đã thông báo rằng họ đã thu hồi lượng khí thiên nhiên có liên quan đến mặt thương mại từ methan hydrat.
Sự hình thành khí thiên nhiên
Khí thiên nhiên được tạo ra từ sinh vật phù du, các vi sinh vật sống dưới nước bao gồm tảo và động vật nguyên sinh. Khi các vi sinh vật này chết đi và tích tụ trên đáy đại dương, chúng dần bị chôn đi và xác của chúng được nén dưới các lớp trầm tích. Trải qua hàng triệu năm, áp suất và nhiệt do các lớp trầm tích chồng lên nhau tạo nên trên xác các loại sinh vật này đã chuyển hóa hóa học các chất hữu cơ này thành khí thiên nhiên.
Do dầu mỏ và khí thiên nhiên thường được tạo ra bằng các quá trình tự nhiên tương tự nhau, hai loại hydrocarbon này thường được tìm thấy cùng nhau ở trong các bể chứa ngầm tự nhiên. Sau khi dần được tạo nên trong lòng vỏ Trái Đất, dầu mỏ và khí thiên nhiên đã dần chui vào các lỗ nhỏ của các tầng đá xốp xung quanh, những tầng đá xốp này có vai trò như các bể chứa tự nhiên. Do các lớp đá xốp này thường có nước chui vào, cả dầu mỏ và khí tự nhiên, vốn nhẹ hơn nước và kém dày đặc hơn các tầng đá xung quanh nên chúng chuyển lên trên qua lớp vỏ, đôi khi cách xa nơi chúng được tạo ra. Cuối cùng, một số hydrocarbon này bị bẫy lại bởi các lớp đá không thấm (đá không xốp), các lớp đã này được gọi là đá "mũ chụp". Khí thiên nhiên nhẹ hơn dầu mỏ, do đó nó tạo ra một lớn nằm trên dầu mỏ. Lớp khí này được gọi là "mũ chụp khí".
Các lớp than đá có chứa lượng methan đáng kể, methan là thành phần chính của khí thiên nhiên. Trong các trữ lượng than đá, methan thường thường bị phân tán vào các lỗ các vết nứt của tầng than. Khí thiên nhiên này thường được gọi là khí methan trong tầng than đá (coal-bed methane).
Hiện diện
Khí thiên nhiên đã được phát hiện trên khắp các châu lục, ngoại trừ châu Nam Cực. Trữ lượng khí thiên nhiên thế giới tổng cộng vào khoảng 150 tỷ tỷ m³ (150 × 1018). Trữ lượng khí thiên nhiên lớn nhất, tổng cộng 48 tỷ tỷ m³ đang nằm ở Nga. Trữ lượng lớn thứ nhì thế giới, 50 tỷ tỷ m³, nằm ở Trung Đông. Các mỏ có trữ lượng khác nằm ở các nơi khác ở châu Á, châu Phi và Úc.
Trữ lượng khí thiên nhiên ở Hoa Kỳ tổng cộng 5 tỷ tỷ m³. Theo xếp hạng trữ lượng khí thiên nhiên theo từng bang từ cao xuống thấp, các mỏ khí thiên nhiên lớn đã được phát hiện ở: Texas, Vịnh México ngoài khơi Louisiana, ở Oklahoma, ở New Mexico, ở Wyoming và ở Vịnh Prudhoe của Bắc Slope ở bang Alaska. Ở Canada, tổng trữ lượng khí tự nhiên là 1,7 tỷ tỷ m³. Phần lớn trữ lượng khí tự nhiên ở Canada nằm ở Alberta.
Phân loại
Khí thiên nhiên là một loại khí không màu sắc và được phân loại tùy theo thành phần của nó. Khí khô có chứa tỷ lệ methan cao còn khí ướt có chứa đáng kể khối lượng hydrocarbon có phân tử lượng cao hơn thuộc nhóm ankan, bao gồm etan, prôpan, và butan. Phần cặn lắng của khí là phần còn lại sau khi các ankan đã được rút khỏi khí ướt. Khí chua là khí chứa nồng độ hydro sulfít cao (đây là một chất khí không màu, độc, có mùi trứng thối). Khí ngọt là khí có chứa ít chất hydro sulfít.
Các chất không phải là hydro cacbon trong khí thiên nhiên được là các chất làm loãng và chất gây ô nhiễm. Các chất làm loãng bao gồm các loại khí và hơi như: nitơ, cacbon dioxide và hơi nước. Các chất gây ô nhiễm bao gồm các hydro sulfít và các hợp chất lưu huỳnh khác. Các chất gây ô nhiễm có thể phá hoại các thiết bị sản xuất và vận chuyển. Nếu được đốt, các chất gây ô nhiễm có thể gây ra các vấn đề như ô nhiễm không khí và mưa axit. Mưa axit được tạo thành khi các hợp chất lưu huỳnh trong khí thiên nhiên và các loại nhiên liệu hóa thạch khác như than đá bị đốt và phản ứng với hơi ẩm trong không khí để tạo nên axit sulfuric (H2SO4). Hỗn hợp hơi ẩm axit này rơi xuống đất khi trời mưa gây hư hại cho mùa màng và rừng, hồ, suối, sông.
Khai thác
Để định vị được các mỏ khí, các nhà địa chất học thăm dò những khu vực có chứa những thành phần cần thiết cho việc tạo ra khí thiên nhiên: đá nguồn giàu hữu cơ, các điều kiện chôn vùi đủ cao để tạo ra khí tự nhiên từ các chất hữu cơ, các kiến tạo đá có thể "bẫy" các hydrocarbon.
Khi các kiến tạo địa chất có thể chứa khí tự nhiên được xác định, thông thường chứ không phải luôn ở bể trầm tích, người ta tiến hành khoan các giếng các kiến tạo đá. Nếu giếng khoan đi vào lớp đá xốp có chứa trữ lượng đáng kể khí thiên nhiên, áp lực bên trong lớp đá xốp có thể ép khí thiên nhiên lên bề mặt. Nhìn chung, áp lực khí thường giảm sút dần sau một thời gian khai thác và người ta phải dùng bơm hút khi lên bề mặt.
Chế biến khí thiên nhiên
Khi khí thiên nhiên được khai thác khỏi mặt đất, nó được vận chuyển bằng đường ống dẫn khí đến một nhà máy tinh lọc và xử lý, nơi nó được chế biến.
Khí thiên nhiên được chế biến bằng các thiết bị tách lọc khí để loại bỏ các hợp chất không phải là hydrocarbon, đặc biệt là Hydro sulfide cacbon dioxide. Hai quá trình sử dụng cho mục đích này là hấp thụ và hút bám (absorption and adsorption).
Quá trình hấp thụ sử dụng một chất lỏng hấp thụ khí tự nhiên và các tạp chất và phân tán chúng trong chất lỏng này. Trong một quá trình được gọi là hấp thụ hóa học, các tạp chất phản ứng với chất lỏng hấp thụ. Khí thiên nhiên sau đó thoát ra khỏi chất hấp thụ còn chất hấp thụ còn tạp chất ở lại trong chất lỏng. Các chất lỏng hấp thụ thường được sử dụng là nước, các dung dịch amin nước (aqueous amine) và cacbonat natri.
Quá trình hút bám là một quá trình cô đặc khí tự nhiên trên bề mặt một chất rắn hoặc một chất lỏng để loại bỏ tạp chất. Một chất thường được sử dụng cho mục đích này là cacbon (than), là chất có diện tích bề mặt trên đơn vị trọng lượng rộng. Ví dụ, các hợp chất lưu huỳnh trong phí tự nhiên được bề mặt hấp thụ của cacbon giữ lấy. Các hợp chất lưu huỳnh được kết hợp với hydro và ôxi để tạo thành axít sulphuric và có thể loại bỏ.
Sau khi các tạp chất đã được loại bỏ trong các thiết bị tách lọc, khí thiên nhiên được vận chuyển đến các nhà máy chế biến nơi các hợp chất như êtan, butan và các chất khác được tách ra để sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Các chất êtan, propan, và butan được sử dụng rộng rãi trong ngành hóa dầu.
Vận chuyển và lưu trữ
Sau khi được chế biến, khí thiên nhiên được vận chuyển bằng các đường ống dẫn khí đến các hộ tiêu thụ là các khu dân cư hay các khu công nghiệp. Khi khí di chuyển trong lòng ống, sự ma sát của khí lên thành ống làm giảm lưu lượng khí. Do đó, các trạm nén được lắp đặt dọc theo tuyến ống để bổ sung áp lực cần thiết đủ giữ cho khí di chuyển đến nơi yêu cầu.
Một khi khí đã đến nơi tiêu thụ, các công ty khí đốt thường chứa vào các bồn bể để cung cấp cho thị trường vào giờ cao điểm. Ví dụ khi thời tiết lạnh thì nhu cầu tiêu thụ khí tự nhiên thường vượt quá số lượng đường ống có thể vận chuyển từ các nhà máy chế biến khí thiên nhiên. Do đó, các công ty kinh doanh khí đốt thường chứa khí thiên nhiên vào các bể chứa lớn chịu áp lực cao hoặc chứa vào các tầng đá xốp. Trong nhiều trường hợp, các khu vực tàng trữ khí thiên nhiên được sử dụng là các mỏ than hoặc các giếng dầu đã bị bỏ hoang. Khi cần, người ta lại bơm lên mặt đất.
Khí thiên nhiên có thể được chở bằng tàu và tàng trữ dưới dạng Khí tự nhiên hóa lỏng (LNG). Khí thiên nhiên được hoá lỏng ở nhiệt độ -160 °C (-256 °F). Khí thiên nhiên chiếm thể tích lớn hơn 600 lần lớn hơn so với dạng lỏng của nó. Khí hóa lỏng được vận chuyển bằng tàu bồn và xe bồn.
Ảnh hưởng đến môi trường
Khí thiên nhiên bị rò rỉ
Khí thiên nhiên chủ yếu bao gồm methan. Sau khi thải ra bầu khí quyển, nó được loại bỏ bằng cách oxy hóa dần thành cacbon dioxide và nước bằng các gốc hydroxyl (OH−)) được hình thành ở tầng đối lưu hoặc tầng bình lưu, cho phản ứng hóa học tổng thể:
CH4 + 2O2 → CO2 + 2H2O.
Trong khi tuổi thọ của methan trong khí quyển tương đối ngắn khi so sánh với carbon dioxide, với chu kỳ bán rã khoảng 7 năm, nó có hiệu quả hơn trong việc giữ nhiệt trong khí quyển. Khí tự nhiên là một khí nhà kính mạnh hơn carbon dioxide do tiềm năng nóng lên toàn cầu của methan lớn hơn. Ước tính năm 2009 của EPA đặt khí thải methan toàn cầu ở mức 85 km khối (3,0 nghìn tỷ feet khối) mỗi năm hoặc 3% sản lượng toàn cầu, 3,0 nghìn tỷ mét khối hoặc 105 nghìn tỷ feet khối (năm 2009). Phát thải khí methan trực tiếp chiếm 14,3% tổng lượng phát thải khí nhà kính nhân tạo toàn cầu vào năm 2004.
Trong quá trình khai thác, lưu trữ, vận chuyển và phân phối, khí tự nhiên được biết là rò rỉ vào khí quyển, đặc biệt là trong quá trình khai thác. Một nghiên cứu của Đại học Cornell năm 2011 đã chứng minh rằng tỷ lệ rò rỉ khí mê-tan có thể đủ cao để gây nguy hiểm cho lợi thế nóng lên toàn cầu của nó đối với than đá. Nghiên cứu này đã bị chỉ trích sau này vì đã ước lượng quá mức lượng khí methan bị rò rỉ. Kết quả sơ bộ của một số mẫu không khí từ máy bay do Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia thực hiện cho thấy các phát thải methan cao hơn ước tính bởi các giếng khí ở một số khu vực.
Khí thải carbon dioxide
Khí tự nhiên thường được mô tả là nhiên liệu hóa thạch sạch nhất. Nó tạo ra 25% –30% và ít hơn 40% –45% carbon dioxide trên mỗi joule được phân phối so với dầu và than tương ứng và có khả năng gây ô nhiễm ít hơn các nhiên liệu hydrocarbon khác. Tuy nhiên, về mặt tuyệt đối, nó bao gồm một tỷ lệ phần trăm đáng kể lượng khí thải carbon của con người thải ra, và sự phát thải này được dự báo sẽ tăng lên.
Theo Báo cáo đánh giá lần thứ tư của IPCC, năm 2004, khí tự nhiên tạo ra khoảng 5,3 tỷ tấn CO2 thải ra trong vòng một năm, trong khi than và dầu sản xuất lần lượt là 10,6 và 10,2 tỷ tấn. Theo Báo cáo đặc biệt về kịch bản phát thải (Special Report on Emissions Scenario) vào năm 2030, khí thiên nhiên sẽ là 11 tỷ tấn mỗi năm, với than và dầu hiện nay là 8,4 và 17,2 tỷ tương ứng do nhu cầu tăng 1,9% một năm.
Hạt nhân phóng xạ
Khai thác khí tự nhiên cũng tạo ra các đồng vị phóng xạ của poloni (Po-210), chì (Pb-210) và radon (Rn-220). Radon là một loại khí có hoạt động ban đầu từ 5 đến 200.000 becquerels trên một mét khối khí. Nó phân hủy nhanh chóng thành Pb-210 có thể tích tụ thành màng mỏng trong thiết bị khai thác khí.
Mối quan ngại về sự an toàn
Một số mỏ khí tạo ra khí chua có chứa hydrogen sulfide (H2S). Khí không được xử lý này độc hại. Nhằm xử lý khí Amine, một quy trình quy mô công nghiệp loại bỏ các thành phần khí axit, thường được sử dụng để loại bỏ hydrogen sulfide khỏi khí tự nhiên. Khai thác khí thiên nhiên (hoặc dầu) dẫn đến giảm áp lực trong hồ chứa. Việc giảm áp lực này lần lượt có thể dẫn đến sụt lún, chìm xuống mặt đất ở trên. Lún có thể ảnh hưởng đến hệ sinh thái, đường thủy, cống rãnh và hệ thống cấp nước, nền móng, …
Fracking
Việc giải phóng khí tự nhiên từ các thành tạo đá xốp dưới mặt đất có thể được thực hiện bằng một quá trình gọi là nứt gãy thủy lực hoặc "nứt". Người ta ước tính rằng sự phá vỡ thủy lực cuối cùng sẽ chiếm gần 70% phát triển khí thiên nhiên ở Bắc Mỹ. Kể từ khi hoạt động bẻ gãy thủy lực thương mại đầu tiên vào năm 1949, khoảng một triệu giếng đã bị phá hủy bằng thủy lực tại Hoa Kỳ. Việc sản xuất khí thiên nhiên từ các giếng bị phá hủy bằng thủy lực đã sử dụng những phát triển công nghệ của khoan định hướng và nằm ngang, giúp cải thiện khả năng tiếp cận khí tự nhiên trong các thành tạo đá chặt chẽ. Sự tăng trưởng mạnh mẽ trong việc sản xuất khí độc đáo từ các giếng bị nứt thủy lực xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 2000-2012.
Trong quá trình bẻ gãy thủy lực, các nhà khai thác buộc trộn lẫn nước với nhiều loại hóa chất khác nhau thông qua vỏ giếng vào trong đá. Nước với áp lực cao bị phá vỡ hoặc "nứt" do đá sẽ tạo ra khí từ sự hình thành đá. Cát và các hạt khác được thêm vào nước như một chất phụ trợ để giữ cho các vết nứt trong đá mở, do đó cho phép khí chảy vào vỏ và sau đó lên bề mặt. Hóa chất được thêm vào chất lỏng để thực hiện các chức năng như giảm ma sát và ức chế ăn mòn. Sau khi "frack", dầu hoặc khí được chiết xuất và 30-70% chất lỏng frack, tức là hỗn hợp của nước, hóa chất, cát, vv, chảy ngược trở lại bề mặt. Nhiều thành tạo chứa khí cũng chứa nước, sẽ chảy nước giếng lên bề mặt cùng với khí, trong cả giếng bị nứt bằng thủy lực và không bị thủy lực. Điều này tạo ra nước thường có hàm lượng muối cao và các khoáng chất hòa tan khác xảy ra trong quá trình hình thành.
Thể tích nước được sử dụng cho các giếng gãy thủy lực được thay đổi tùy theo kỹ thuật bẻ gãy thủy lực. Tại Hoa Kỳ, lượng nước trung bình được sử dụng cho mỗi đứt gãy thủy lực đã được báo cáo là gần 7.375 gallon đối với giếng dầu và khí đốt thẳng đứng trước năm 1953, gần 197.000 gallon cho giếng dầu và khí đốt thẳng đứng từ năm 2000-2010 và gần 3 triệu gallon đối với các giếng khí ngang từ năm 2000-2010.
Xác định kỹ thuật đóng khung nào là phù hợp với năng suất tốt phụ thuộc phần lớn vào các tính chất của đá hồ chứa từ đó để chiết xuất dầu hoặc khí đốt. Nếu đá đặc trưng bởi tính thấm thấp - đề cập đến khả năng để cho các chất, tức là khí, đi qua nó, sau đó đá có thể được coi là một nguồn khí chặt chẽ. Khí đá phiến, mà hiện nay còn được biết đến như một nguồn khí độc đáo, liên quan đến việc khoan một lỗ khoan theo chiều dọc cho đến khi nó đạt đến hình dáng của đá phiến, lúc đó mũi khoan quay theo đá theo chiều ngang hàng trăm hoặc hàng ngàn feet. Ngược lại, các nguồn dầu và khí truyền thống được đặc trưng bởi khả năng thấm đá cao hơn, điều này cho phép dòng chảy của dầu hoặc khí vào giếng khoan với kỹ thuật bẻ gãy thủy lực ít tốn kém hơn so với việc sản xuất khí chật hẹp.
Những thập kỷ phát triển công nghệ khoan cho việc sản xuất dầu và khí đốt thông thường và độc đáo không chỉ cải thiện khả năng tiếp cận khí tự nhiên trong đá chứa có độ thấm thấp mà còn gây ra những tác động bất lợi đáng kể đến sức khỏe môi trường và cộng đồng.
EPA của Hoa Kỳ đã thừa nhận rằng các hóa chất độc hại, gây ung thư, tức là benzen và ethylbenzene, đã được sử dụng làm chất tạo gel trong nước và các hỗn hợp hóa học cho gãy khối ngang lớn (HVHF). Sau khi đứt gãy thủy lực trong HVHF, nước, hóa chất và chất lỏng frack quay trở lại bề mặt của giếng, được gọi là dòng chảy hoặc nước sản xuất, có thể chứa vật liệu phóng xạ, kim loại nặng, muối tự nhiên và hydrocarbon tồn tại tự nhiên trong đá phiến sét. Các chất hóa học, vật liệu phóng xạ, kim loại nặng và muối được loại bỏ khỏi giếng HVHF bởi các nhà khai thác cũng rất khó loại bỏ khỏi nước chúng bị trộn lẫn, và sẽ gây ô nhiễm nặng nề cho chu trình nước, phần lớn lưu lượng là hoặc được tái chế thành các hoạt động fracking khác hoặc tiêm vào các giếng sâu dưới lòng đất, loại bỏ lượng nước mà HVHF yêu cầu từ chu trình thủy văn.
Thêm mùi
Để hỗ trợ phát hiện rò rỉ, chất tạo mùi được thêm vào loại khí không màu và không mùi khác được người tiêu dùng sử dụng. Mùi này đã được so sánh với mùi trứng thối, do thêm tert-Butylthiol (t-butyl mercaptan). Đôi khi một hợp chất liên quan, thiophane, có thể được sử dụng trong hỗn hợp. Các tình huống trong đó một chất gây mùi được thêm vào khí thiên nhiên có thể được phát hiện bằng thiết bị phân tích, nhưng không thể được phát hiện đúng cách bởi một người quan sát có mùi thông thường, đã xảy ra trong ngành công nghiệp khí tự nhiên. Điều này được gây ra bởi mặt nạ mùi, khi một chất gây mùi vượt qua cảm giác của người khác. Tính đến năm 2011, ngành công nghiệp vẫn đang tiến hành nghiên cứu về nguyên nhân gây ra mùi hôi.
Nguy cơ cháy nổ
Các vụ nổ do rò rỉ khí tự nhiên xảy ra vài lần mỗi năm. Nhà riêng lẻ, doanh nghiệp nhỏ và các cấu trúc khác thường bị ảnh hưởng nhất khi rò rỉ bên trong tích tụ khí bên trong cấu trúc. Thông thường, vụ nổ đủ mạnh để gây thiệt hại đáng kể cho một tòa nhà nhưng để nó đứng vững. Trong những trường hợp này, những người bên trong có xu hướng bị thương nhẹ đến trung bình. Thỉnh thoảng, khí có thể thu thập với số lượng đủ cao để gây ra một vụ nổ chết người, làm tan rã một hoặc nhiều tòa nhà trong quá trình này. Khí thường tiêu tan dễ dàng ngoài trời, nhưng đôi khi có thể thu thập với số lượng nguy hiểm nếu tốc độ dòng chảy đủ cao. Tuy nhiên, xét đến hàng chục triệu cấu trúc sử dụng nhiên liệu, nguy cơ cá nhân sử dụng khí thiên nhiên rất thấp.
Nguy cơ hít phải carbon monoxide
Hệ thống sưởi bằng khí thiên nhiên có thể gây ngộ độc khí carbon monoxide nếu không được thông hơi hoặc kém thông hơi. Trong năm 2011, lò khí thiên nhiên, máy sưởi không gian, máy nước nóng và bếp được đổ lỗi cho 11 ca tử vong carbon monoxide ở Mỹ. 22 trường hợp tử vong khác là do các thiết bị chạy bằng khí đốt hoá lỏng, và 17 trường hợp tử vong do loại khí không xác định. Những cải tiến trong thiết kế lò đốt khí tự nhiên đã làm giảm đáng kể mối quan tâm ngộ độc CO. Máy dò cũng có sẵn cảnh báo khí carbon monoxide và/hoặc khí nổ (methan, propane, ….).
Lượng năng lượng, thống kê và giá cả
Lượng khí tự nhiên được đo bằng mét khối bình thường (mét khối khí ở nhiệt độ "bình thường" 0 °C (32 °F) và áp suất 101.325 kPa (14.6959 psi)) hoặc feet khối tiêu chuẩn (foot khối khí ở nhiệt độ "chuẩn": 60.0 °F (15.6 °C) và áp suất 14.73 psi (101.6 kPa)), một mét khối ≈ 35.3147 cu ft. Tổng nhiệt đốt của khí thiên nhiên chất lượng thương mại là khoảng 39 MJ / m3 (0,31 kWh / cu ft), nhưng điều này có thể thay đổi vài phần trăm. Đây là khoảng 49 MJ / kg (6,2 kWh / lb) (giả sử mật độ là 0,8 kg / m3 (0,05 lb / cu ft), một giá trị gần đúng).
Liên minh châu Âu
Giá xăng khác nhau rất nhiều trên toàn EU. Một thị trường năng lượng châu Âu duy nhất, một trong những mục tiêu chính của EU, sẽ làm tăng giá khí ở tất cả các nước thành viên EU. Hơn nữa, nó sẽ giúp giải quyết các vấn đề về cung và hâm nóng toàn cầu, cũng như tăng cường quan hệ với các nước Địa Trung Hải khác và thúc đẩy đầu tư trong khu vực.
Mỹ
Tại các đơn vị của Mỹ, một khối lượng tiêu chuẩn khối (28 L) khí tự nhiên tạo ra khoảng 1.028 đơn vị nhiệt Anh (1.085 kJ). Giá trị gia nhiệt thực tế khi nước hình thành không ngưng tụ là nhiệt thuần của quá trình đốt cháy và có thể thấp hơn 10%.
Tại Mỹ, doanh số bán lẻ thường ở đơn vị nhiệt (th); 1 nhiệt = 100.000 BTU. Bán khí đốt cho người tiêu dùng trong nước thường ở đơn vị 100 feet khối tiêu chuẩn (scf). Đồng hồ đo khí đo khối lượng khí được sử dụng, và điều này được chuyển đổi thành nhiệt bằng cách nhân khối lượng với hàm lượng năng lượng của khí được sử dụng trong khoảng thời gian đó, thay đổi theo thời gian. Tiêu thụ hàng năm điển hình của một nơi cư trú của một gia đình là 1.000 therm hoặc một khách hàng khu dân cư tương đương (RCE). Giao dịch bán buôn thường được thực hiện trong decatherms (Dth), nghìn decatherms (MDth), hoặc triệu decatherms (MMDth). Một triệu decatherms là một nghìn tỷ BTU, khoảng một tỷ feet khối khí tự nhiên.
Giá khí tự nhiên thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào vị trí và loại người tiêu dùng. Trong năm 2007, giá là $ 7/1000 feet khối (0,25 đô la / m3) điển hình ở Mỹ. Giá trị khí thiên nhiên điển hình là khoảng 1.000 BTU mỗi foot khối, tùy thuộc vào thành phần khí. Điều này tương ứng với khoảng 7 triệu đô la một triệu BTU hoặc khoảng 7 đô la mỗi gigajoule (GJ). Vào tháng 4 năm 2008, giá bán buôn là $ 10/1000 feet khối ($ 10 / MMBTU). Giá nhà ở thay đổi từ 50% đến 300% so với giá bán buôn. Vào cuối năm 2007, đây là $ 12– $ 16/1000 feet khối ($ 0,42– $ 0,57 / m3). Khí đốt tự nhiên tại Hoa Kỳ được giao dịch dưới dạng hợp đồng tương lai trên sàn giao dịch New York Mercantile Exchange. Mỗi hợp đồng là 10.000 MMBTU hoặc 10 tỷ BTU (10.551 GJ). Vì vậy, nếu giá khí là $ 10 / MMBTU trên NYMEX, hợp đồng trị giá $ 100,000.
Canada
Canada sử dụng thước đo số liệu cho thương mại nội bộ các sản phẩm hóa dầu. Do đó, khí tự nhiên được bán bởi gigajoule (GJ), mét khối (m3) hoặc nghìn mét khối (E3m3). Cơ sở hạ tầng phân phối hầu như luôn luôn theo khối lượng mét (mét khối hoặc mét khối). Một số khu vực pháp lý, chẳng hạn như Saskatchewan, chỉ bán khí đốt theo khối lượng. Các khu vực pháp lý khác, chẳng hạn như Alberta, khí được bán bởi hàm lượng năng lượng (GJ). Ở những khu vực này, hầu như tất cả các mét dành cho khách hàng thương mại nhỏ và dân cư đều đo khối lượng (m3 hoặc ft3) và báo cáo thanh toán bao gồm hệ số nhân để chuyển đổi âm lượng thành nội dung năng lượng của nguồn cung cấp khí địa phương.
Một gigajoule (GJ) là một thước đo xấp xỉ bằng một nửa thùng (250 lbs) dầu, hoặc 1 triệu BTU, hoặc 1.000 cu ft hoặc 28 m3 khí. Hàm lượng năng lượng cung cấp khí đốt ở Canada có thể thay đổi từ 37 đến 43 MJ / m3 (990 đến 1,150 BTU / cu ft) tùy thuộc vào việc cung cấp và xử lý khí giữa giếng khoan và khách hàng.
Những nơi khác
Trong phần còn lại của thế giới, khí tự nhiên được bán trong các đơn vị bán lẻ gigajoule. LNG (khí thiên nhiên hoá lỏng) và LPG (khí dầu mỏ hóa lỏng) được giao dịch bằng tấn số liệu (1.000 kg) hoặc MMBTU dưới dạng giao hàng tại chỗ. Các hợp đồng phân phối khí tự nhiên dài hạn được ký theo mét khối, và các hợp đồng LNG được tính theo tấn. LNG và LPG được vận chuyển bằng các tàu vận chuyển chuyên dụng, vì khí được hoá lỏng ở nhiệt độ đông lạnh. Đặc điểm kỹ thuật của mỗi hàng LNG / LPG thường chứa nội dung năng lượng, nhưng thông tin này nói chung không có sẵn cho công chúng.
Tại Liên bang Nga, Gazprom đã bán khoảng 250 tỷ mét khối khí đốt tự nhiên trong năm 2008. Năm 2013, họ sản xuất 487,4 tỷ mét khối (17,21 nghìn tỷ feet khối) khí thiên nhiên và khí liên quan. Gazprom đã cung cấp cho châu Âu 161,5 tỷ mét khối khí (5,70 nghìn tỷ feet khối) trong năm 2013.
Vào tháng 8 năm 2015, đợt khám phá khí tự nhiên lớn nhất trong lịch sử đã được thực hiện và được thông báo bởi một công ty khí ENI của Ý. Các công ty năng lượng chỉ ra rằng công ty đã khai quật được một lĩnh vực "siêu khổng lồ" khí ở Biển Địa Trung Hải bao gồm khoảng 40 dặm vuông (100 km2). Nó cũng đã được báo cáo rằng lĩnh vực khí đốt có thể chứa một tiềm năng 30 nghìn tỷ feet khối (850 tỷ mét khối) khí tự nhiên. ENI nói rằng năng lượng là khoảng 5,5 tỷ thùng dầu tương đương [BOE] (3,4 × 1010 GJ). Khu vực này được tìm thấy ở vùng biển sâu ngoài khơi bờ biển phía bắc Ai Cập và ENI cho rằng nó sẽ lớn nhất từ trước đến nay ở Địa Trung Hải và thậm chí cả thế giới.
Các dự án khai thác khí lớn ở Việt Nam
Đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn
Dự án Khí - Điện - Đạm Cà Mau
Dự án đường ống dẫn khí Bạch Hổ
Dự án đường ống dẫn khí Lô B - Ô Môn |
Mỹ Linh (tên đầy đủ: Đỗ Mỹ Linh; sinh ngày 19 tháng 8 năm 1975) là một nữ ca sĩ, người viết lời bài hát, nhân vật truyền hình, và huấn luyện viên, giáo viên thanh nhạc người Việt Nam. Cô là một trong những nghệ sĩ nhạc Việt bán đĩa nhạc chạy nhất mọi thời đại, với doanh số hơn 2 triệu bản thu âm trên toàn quốc, và được VTV gọi là "Nữ hoàng R&B Việt Nam". Vì sở hữu nhiều bài hát về mùa xuân thành công, đặc biệt là “Thì Thầm Mùa Xuân” và “Khúc Giao Mùa'', các phương tiện truyền thông cũng thường gọi Mỹ Linh là "Nữ hoàng nhạc xuân". Cô nổi tiếng với những màn trình diễn giọng hát nội lực và kĩ thuật ở nhiều dòng nhạc. Năm 2014, Mỹ Linh được Giải thưởng Âm nhạc Thế giới đề cử ở ba hạng mục "Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất", "Nghệ sĩ trình diễn live xuất sắc nhất" và "Nghệ sĩ giải trí của năm". Cô còn là chủ nhân của 4 giải Cống hiến. Thành công của Mỹ Linh đã mở ra trào lưu thực hiện các sản phẩm âm nhạc qua máy tính tại Việt Nam. Cô còn mở đường trong việc xây dựng một phong cách làm việc chuyên nghiệp ở Việt Nam khi có riêng một ê-kíp âm nhạc, mỗi album đều được thực hiện thống nhất từ ý tưởng đến hòa âm, phối khí và hình ảnh. Mỹ Linh được giới truyền thông công nhận là một trong Bộ tứ Diva của nền nhạc nhẹ.
Trong suốt sự nghiệp của mình, Mỹ Linh đã phát hành 15 album phòng thu. Trong đó album Tóc ngắn, phát hành năm 1998, đánh dấu sản phẩm đầu tiên cô hợp tác với ban nhạc Anh Em đã trở thành một cú hích mạnh với thị trường nhạc nhẹ, khi trước đó chưa một nghệ sĩ, một ê-kíp nào thực hiện một sản phẩm trẻ trung, chất lượng song không hề xa với thẩm mĩ đại chúng. Album đã sản sinh ra nhiều bản hit lớn như "Hương ngọc lan", "Chuyện tình" và "Trưa vắng". "Tóc ngắn" đã mở ra hiện tượng văn hóa "Tóc Mỹ Linh", khi mà phần lớn các cô gái lúc bấy giờ đều ưa chuộng kiểu tóc ngắn và phong cách ăn mặc của cô. Trong giai đoạn cuối năm 1998 tới năm 2000, việc các bậc phụ huynh đặt tên con gái là "Mỹ Linh" cũng đã trở thành xu hướng lúc bấy giờ.
Trong thế kỉ 21, Mỹ Linh tiếp tục gặt hái nhiều thành công với các album Vẫn mãi mong chờ (2000), Made in Vietnam (2003), Chat với Mozart (2005), Để tình yêu hát (2006) và Tóc ngắn Acoustic: Một ngày (2011). Năm 2003, cô trở thành giọng ca người Việt đầu tiên nhận được lời đề nghị kí hợp đồng thu âm từ hai công ty giải trí của Mỹ là Blue Tiger và Maximus Studios. Mỹ Linh cũng dành được thành tích lớn tại Nhật Bản, khi album "Made in Vietnam" đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng "Album của tháng" tại nơi này vào năm 2007. Album Chat với Mozart (2005) đã trở thành một dấu mốc lớn trong sự nghiệp của Mỹ Linh, khi bán được hơn 20 nghìn bản trong tuần đầu phát hành và thắng giải Cống hiến năm 2005 ở hạng mục Album của năm.
Nửa sau của thập niên 2010, Mỹ Linh trở nên tích cực hơn trong việc tham gia các gameshow và công tác giảng dạy. Năm 2014, cô và ban nhạc Anh Em đã thành lập Trung tâm đào tạo âm nhạc YOUNGbeat School of Music với mục đích khơi gợi tình yêu với âm nhạc cho thanh thiếu niên với các bộ môn: thanh nhạc, nhạc cụ nước ngoài, nhạc cụ dân tộc, sáng tác âm nhạc và âm nhạc cho trẻ mẫu giáo. Mỹ Linh đã tham gia với tư cách là giám khảo của nhiều gameshow, bao gồm: Sao Mai điểm hẹn, Gương mặt thân quen, Giọng hát Việt, Ban nhạc Việt, Biệt tài tí hon, và Sàn chiến giọng hát. Năm 2020, cô cho ra mắt khóa học trực tuyến "21 ngày luyện hát cùng ca sĩ Mỹ Linh" thuộc dự án Vietvocal gây được nhiều sự chú ý của cộng đồng yêu nhạc. Sau thành công của khoá học đầu tiên, Mỹ Linh tiếp tục cho ra mắt hai khoá học “Luyện hát hay 5 bài tủ” và “Làm chủ hơi thở thanh nhạc cùng Mỹ Linh” trong năm 2021. Tính đến năm 2022, các dự án VietVocal của Mỹ Linh đã thu hút hàng chục nghìn học viên.
Cuộc đời và sự nghiệp
1975–1997: Những năm thiếu thời và khởi đầu sự nghiệp
Mỹ Linh sinh ra trong một gia đình công nhân ở Hà Nội có ba anh em. Bố cô trước kia là giáo viên dạy văn sau chuyển thành công nhân, thầu xây dựng, ông mất năm 2007 sau một năm bạo bệnh. Mẹ cô là công nhân Xí nghiệp Dược phẩm TW2. Anh trai là kỹ sư về đầu máy diesel. Em gái tên Đỗ Mỹ Dung tốt nghiệp bằng giỏi khoa Thương mại quốc tế, Đại học Thương mại, và là chủ sở hữu của một chuỗi khách sạn nhỏ tại Hà Nội.
Mỹ Linh học cấp 1 và cấp 2 (từ lớp 1 đến lớp 8) tại trường Phổ thông cơ sở Trưng Nhị và học cấp 3 tại trường Phổ thông trung học Bạch Mai, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội. Trong 12 năm, cô luôn làm quản ca của lớp và của trường nơi mình học. Khi còn đi học Mỹ Linh học tương đối khá đã từng 2 lần được đi dự Đại hội học sinh giỏi Thủ đô, được Thủ tướng khen thưởng. Cô đặc biệt có năng khiếu các môn xã hội như: Văn, Sử và Nhạc.
Năm 1991, Mỹ Linh dự thi Giọng hát hay Phổ thông trung học toàn quốc lần thứ 2 và giành huy chương vàng cùng với giải dành cho người hát về thầy cô và mái trường hay nhất. Năm 1993, cô thi đỗ thủ khoa Thanh nhạc Nhạc viện Hà Nội và bắt đầu học tập ở đó 4 năm từ 1993 đến năm 1997, người thầy dạy hát đầu tiên của Mỹ Linh là giảng viên Diệu Thúy.
Tháng 10 năm 1993, Mỹ Linh cùng ban nhạc Hoa Sữa tham gia Liên hoan các ban nhạc nhẹ toàn quốc và đoạt giải nhì cùng với giải "Ca sĩ trẻ gây ấn tượng nhất liên hoan" với bài "Thì thầm mùa xuân" (của nhạc sĩ Ngọc Châu). Sau cuộc thi đó, cô bắt đầu sự nghiệp ca hát chuyên nghiệp và "Thì thầm mùa xuân" cũng trở thành hit đầu tiên của cô. Sau đó Mỹ Linh tiếp tục thành công với "Chị tôi" (Nhạc: Trọng Đài, thơ: Đoàn Thị Tảo), "Trên đỉnh Phù Vân" (Phó Đức Phương) và "Hà Nội đêm trở gió" (Trọng Đài) vào năm 1997.
Cùng năm, Mỹ Linh tốt nghiệp hệ trung cấp, khoa Thanh nhạc Nhạc viện Hà Nội. Cô được hãng phim Phương Nam thực hiện cuốn băng VHS mang tên "Tiếng hát Mỹ Linh" do nhạc sĩ Trịnh Công Sơn biên tập và sau này được chuyển sang định dạng VCD, VCD karaoke và DVD.
1998–2002: Thành công vượt bậc với Tóc ngắn và Vẫn mãi mong chờ
Năm 1998, Mỹ Linh lập gia đình với nhạc sĩ Anh Quân. Đó là sự chuyển đổi quan trọng trong đời sống riêng và trong phong cách riêng của cô. Mỹ Linh bắt đầu học và hát nhạc Soul và Funk. Album thành công nhất của Mỹ Linh thời gian này là Tóc ngắn. Đây là album đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của hiện tượng "Hâm mộ Mỹ Linh" ở toàn quốc.
Đầu năm 1998, bản thu demo của ca khúc "Tóc ngắn" bị từ chối bởi nhiều nhà sản xuất, buộc lòng khiến Mỹ Linh – Anh Quân phải tự bỏ tiền tiến hành thực hiện album của mình. Thành công ngoài mong đợi của Tóc ngắn cũng góp phần xây đắp thêm vững chắc tên tuổi của các nhạc sĩ Anh Quân, Huy Tuấn và Dương Thụ. Album này đã đánh dấu cột mốc tiên phong cho dòng nhạc R&B tại Việt Nam. Mỹ Linh cũng đi đầu trong việc xây dựng ekip làm việc chuyên nghiệp.
Trước khi album được chính thức phát hành, ban nhạc và ê-kíp của Mỹ Linh có thực hiện vài chương trình biểu diễn, song phản ứng nhìn chung là tiêu cực. Trong một bài phỏng vấn, nhạc sĩ Anh Quân nhớ lại: "(Sự nghiệp Mỹ Linh)... trầm nhất là lần đầu Linh kết hợp với tôi và ban nhạc trong tour diễn đầu tiên. Khi đó chúng tôi áp dụng cách phối khí mới, làm mới ca khúc cũ của cô ấy nên rất ít người chấp nhận điều mới mẻ ấy. Nhiều người nói Linh không hát được thứ nhạc này, thế này là sai lầm nên tương đối là… lung lay. Mà lung lay cũng phải vì khi đó cô ấy còn quá trẻ. Mới 23-24 tuổi, tự nhiên bị nói nhiều, chưa đủ bản lĩnh để đối mặt với những dư luận như vậy."
Với quan điểm châu Âu của hai nhạc sĩ trẻ Anh Quân - Huy Tuấn, album mới được yêu cầu thực hiện theo những nguyên tắc cơ bản của âm nhạc chuyên nghiệp: CD nhạc có ngôn ngữ, phong cách riêng, những tour diễn mang tên ca sĩ và ban nhạc. Họ đã phải tận tâm tự đi tìm những nghệ sĩ cộng tác và xây dựng ê-kíp của riêng mình.
Cũng trong năm 1998, Mỹ Linh thực hiện tour biểu diễn xuyên Việt đầu tiên mang tên "Tiếng Hát Mỹ Linh" đã rất thành công tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh. Cũng trong năm này, cô tham gia giải Làn Sóng Xanh với bài hát "Một mình" của nhạc sĩ Thanh Tùng.
Tour xuyên việt thứ hai năm 1999 có tên "Mỹ Linh và anh em" đã diễn ra tại Hà Nội, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Nha Trang và Hải Phòng. Sau hai tour diễn dài hơi, Mỹ Linh nghỉ một thời gian để chuẩn bị cho album tiếp theo: Vẫn mãi mong chờ ra đời vào tháng 4 năm 2000.
"Vẫn mãi mong chờ" là sản phẩm tiếp nối thành công từ album "Tóc Ngắn". Ngoài ban nhạc Anh Em, nhạc sĩ Dương Thụ tiếp tục tham gia vào ê-kíp khi viết lời cho hầu hết các ca khúc. Bài hát "Mùa đông sẽ qua" được Mỹ Linh chọn tham dự VTV Bài hát tôi yêu mùa đầu tiên (2002). Video clip được quay tại sân thượng của Khách sạn Melia Hà Nội. Ca khúc "Con của mẹ" được nhạc sĩ Anh Quân viết tặng riêng cho người vợ của mình – ca sĩ Mỹ Linh – và con gái sắp chào đời của họ. "Khúc giao mùa" là một trong những ca khúc nổi tiếng nhất album, đồng thời cũng là một trong số những ca khúc đánh dấu sự xuất hiện của ca sĩ trẻ Minh Quân.
2003–2006: Made in Vietnam, Chat với Mozart và Để tình yêu hát
Năm 2003, Mỹ Linh phát hành album Made in Vietnam. Đây là album đầu tiên đánh dấu sự hợp tác giữa ekip người Việt và ekip người nước ngoài (Blue Tiger Records). Lần này cô vẫn quyết định chọn theo đuổi dòng nhạc R&B, nhưng chủ đề lại thay đổi khi có nhiều những ca khúc hoài niệm "với những giấc mơ xưa, những ký ức đẹp, khó quên về cuộc sống bình dị hàng ngày". Được chuẩn bị suốt 3 năm, album này bao gồm 11 bài hát của các nhạc sĩ Dương Thụ, Bảo Chấn, Huy Tuấn, Anh Quân và Hồng Kiên.
Ekip của Mỹ Linh trong sản phẩm này đã tìm tới cách làm chuyên nghiệp hơn, khi sử dụng một công ty để tiến hành tiếp thị và quảng bá ngay từ trước khi album phát hành. Đầu tư ra sản phẩm, nhóm thực hiện còn bận lòng với việc xây dựng và duy trì trang web riêng của Mỹ Linh. Họ còn đầu tư cho ca sĩ một logo riêng, logo ấy có mặt trong các sản phẩm của cô trong các quà tặng trang nhã, lịch sự dành cho những người hâm mộ. Những nón, áo thun, lọ sứ, decal... được thực hiện như những gì không thể thiếu bên cạnh một tiếng hát chuyên nghiệp. Ca khúc "Em mơ về anh" trích từ album này đã được cô mang đi tham gia dự thi chương trình VTV Bài hát tôi yêu. Cô cũng dành được thành tích lớn tại Nhật Bản, khi phiên bản tái phát hành album "Made in Vietnam" đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng "Album của tháng" tại nơi này vào năm 2007. Đến nay album đã bán được hơn 100 nghìn bản và là một trong những album bán chạy nhất lịch sử nhạc Việt.
Năm 2005, Mỹ Linh tiếp tục gây bất ngờ bằng album Chat với Mozart. Đây là một sự sáng tạo mới mẻ của cô và nhạc sĩ Dương Thụ khi phổ lời Việt cho các ca khúc cổ điển nổi tiếng của thế giới như "Hồ thiên nga", "Ave Maria",... Các ca khúc này cũng được làm mới lại trên nền hòa âm mang đậm chất R&B hiện đại. Phần hòa âm được hai nhạc sĩ Anh Quân và Huy Tuấn phụ trách. Album cũng mời tới sự cộng tác của các nghệ sĩ trẻ hát thính phòng hàng đầu Việt Nam như Trọng Tấn, Khánh Linh, Mạnh Dũng để hát bè cũng như cố vấn chuyên môn cho các ca khúc. Cái tên "Chat với Mozart" là do nhạc sĩ Huy Tuấn nghĩ ra, Mỹ Linh nói: "Nhắc tới Mozart thì ai cũng biết Mozart ở đây là biểu trưng của một dòng nhạc từng làm chủ cả thế giới chứ không chỉ mang ý nghĩa về tác giả - tác phẩm. [..] (Công chúng trẻ) sẽ nghe nhạc cổ điển qua những phong cách âm nhạc đương đại như R&B, jazz, funk... mà chúng tôi đã thể hiện trong loạt album Tóc ngắn, Made in Vietnam. Tên album là Chat với Mozart, nhưng tôi nghĩ chúng tôi đang chat với cả một thế hệ người nghe nhạc mới đấy."
Mỹ Linh cùng từng tham gia đóng phim, cô góp mặt tronh bộ phim 36 độ yêu vai nữ ca sĩ cùng với Hồ Ngọc Hà bộ phim được ra mắt năm 2005.
Chat với Mozart là album thành công về mặt thương mại cũng như chuyên môn của Mỹ Linh. Dù vướng phải vụ kiện về quyền tác giả với luật sư Cù Huy Hà Vũ, album vẫn có được những đánh giá rất tích cực từ công chúng và các nhà phê bình. Tại Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến lần thứ nhất năm 2005, Chat với Mozart được vinh dự trao tặng giải "Album của năm".
Năm 2006, khi dư âm của Chat với Mozart chưa kịp lắng, Mỹ Linh tiếp tục phát hành Để tình yêu hát nhân dịp lễ Valentine. Album với chất nhạc quen thuộc của cô cùng những bài tình ca nhẹ nhàng như "Những giấc mơ dài" và "Để Mãi Được Gần Anh" đã gây được cảm tình trong lòng khán giả. Vừa phát hành album, Mỹ Linh tiếp thực hiện show diễn "Mỹ Linh tour 06" tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô, Hà Nội và được Hãng phim Trẻ phát hành DVD ngay sau đó. Đây là một liveshow được dàn dựng công phu, đánh giá bước tiến mới trên con đường nghệ thuật của cô. Cuối năm, cô được bình chọn là Ca sĩ của năm của Giải thưởng Cống Hiến do báo Thể thao và Văn Hóa tổ chức.
Cũng trong năm này, Mỹ Linh tham gia chương trình Sao Mai điểm hẹn 06 của VTV với vai trò thành viên hội đồng giám khảo.
2007–2011: Quốc tế hoá và Tóc ngắn Acoustic: Một ngày
Năm 2007, Mỹ Linh mở rộng thị trường âm nhạc của mình sang Nhật. Cô đã giới thiệu 3 album đã thành công của mình là Made in Vietnam, Chat với Mozart và Để tình yêu hát. Album Made in Vietnam đã được bình chọn là album của tháng tại Nhật Bản.
Sau 5 năm kể từ khi phát hành album Để tình yêu hát, năm 2011, Mỹ Linh trở lại với sản phẩm âm nhạc mới: Tóc ngắn Acoustic - Một ngày được ấp ủ và thực hiện trong suốt 3 năm. Trong Tóc ngắn Acoustic - Một ngày, khán giả được khám phá Mỹ Linh ở vai trò mới - người viết lời ca khúc. Bảy trong số mười bài hát trong album được cô viết lời từ chính những tình cảm, cảm xúc đã trải qua. Với chất lượng âm thanh cao, Tóc ngắn Acoustic - Một ngày đã được phát hành dưới dạng đĩa than cùng ấn bản CD. Mỹ Linh cho biết, đĩa than được sản xuất với số lượng nhỏ (500 bản), để dành cho đối tượng khán giả "chơi" âm thanh, cộng đồng audiophile Việt. "Từ trước đến giờ, họ chỉ mới được nghe đĩa than của các nghệ sĩ nước ngoài mà ít có đĩa của nghệ sĩ Việt Nam. Tôi muốn mang đến thêm sự lựa chọn cho khán giả" - Mỹ Linh cho biết. Không chỉ phát hành tại Việt Nam, Tóc ngắn Acoustic - Một ngày sẽ đến với thị trường nước ngoài qua trang mạng Amazon.com, iTunes.
Nhạc sĩ Anh Quân và ban nhạc Anh Em chính là những người đề xuất ý tưởng thực hiện album mới cho Mỹ Linh "bằng micro chứ không phải bằng máy tính". Nếu như Tóc ngắn I và Tóc ngắn II nói về tình yêu và tuổi trẻ, Made in Vietnam là những ký ức về tuổi thơ còn Để tình yêu hát là những ca từ về tình yêu của một người từng trải, chủ đề chính của Một ngày lại là những ca khúc nói về gia đình. Chủ đề này lấy từ bước ngoặt từ chính cuộc sống của gia đình Mỹ Linh– Anh Quân: năm 2009, họ cùng chuyển nhà tới Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội – trụ sở của Anh Em Studio và AE Records. Đây là một sự thay đổi lớn đối với cô về suy nghĩ, công việc và phong cách sống, đem tới cho cô một thế giới quan vô cùng mới mẻ: Mỹ Linh thậm chí còn biết chữa cúm cho đàn gà, biết tự tay trồng một vườn hoa và rau sạch.
R&B kết hợp cùng soul và jazz tiếp tục là những phong cách mà Mỹ Linh theo đuổi. Khi đề cập tới việc khán giả chờ đợi những điều mới ở album này, cô cho rằng mình tiếp tục "đào sâu chứ không hẳn là cứ thay đổi phong cách liên tục" vì điều đó "không thể coi là chuyên nghiệp".
Tất cả ê-kíp cùng thu âm tại phòng thu của ban nhạc Anh Em. Tay trống Quốc Bình cùng với nhạc sĩ Anh Quân đã phải mất tới vài buổi chỉ để thực hiện mỗi công việc căn chỉnh, căng mặt trống, thu thử để tìm ra được âm sắc thích hợp cho từng ca khúc trong album, việc mà với một người làm phối âm trên máy tính chỉ thực hiện trong 10 phút. Phần chọn lọc âm thanh cũng như sắp đặt micro cũng vô cùng cầu kỳ, "dù chỉ là nhạc cụ tham gia một vài nốt, cho đến những nhạc cụ chủ đạo tham gia cả một album".
Trong Một ngày, ngoài ê kíp thực hiện là ban nhạc Anh Em, Mỹ Linh còn mời nhóm M4U tới cộng tác trong ca khúc "Nhớ mưa" của Huy Tuấn. Album còn có sự tham gia của 2 cô con gái Anna và Mỹ Anh. "Mỹ Anh thu nhanh hơn Mỹ Linh gấp 10 lần. Bài "Cơn bão" song ca cùng mẹ, Mỹ Anh thu chỉ trong 2-3 tiếng", nhạc sĩ Anh Quân chia sẻ. Nhạc sĩ Hoài Sa cũng được ê-kíp mời tới cộng tác trong vai trò hỗ trợ hòa âm. Ngoài Anh Quân và Huy Tuấn, album còn có sự đóng góp sáng tác của saxophone Hồng Kiên với ca khúc quan trọng "Cơn bão". Dàn dây được nhạc sĩ Anh Quân mời từ Nhạc viện Hà Nội. Ngoài AE Records, Viettel Telecom cũng tham gia vào quá trình sản xuất album. Phần chỉnh âm được thực hiện một phần ở Mỹ với chuyên gia tới từ Hollywood, Doug Sax. Ông cũng là người hoàn thiện quá trình ghi âm cho album dưới dạng đĩa than.
Tại Giải Cống hiến 2011, Một ngày vinh dự nhận giải thưởng "Album của năm" còn nhạc sĩ Anh Quân nhận giải "Nhạc sĩ của năm".
2012–2017: Mỹ Linh in the Spotlight – Và em sẽ hát, Giọng hát Việt, Gương mặt thân quen
Tháng 4 và tháng 5 năm 2012, Mỹ Linh cùng Công ty Quảng cáo và Giải trí Mỹ Thanh thực hiện chương trình live show xuyên Việt mang tên Mỹ Linh in the Spotlight – Và em sẽ hát. Chương trình là một câu chuyện được viết bằng âm nhạc, khắc họa con đường hoạt động nghệ thuật 20 năm của cô. Mỹ Linh đã trình bày những ca khúc gắn liền tên tuổi của cô như: "Thì thầm mùa xuân", "Chị tôi", "Hà Nội đêm trở gió", "Trên đỉnh Phù Vân", "Hương ngọc lan"..., và một số ca khúc mới trong album Tóc ngắn Acoustic - Một ngày, với tất cả cảm xúc và trải nghiệm sống của một Diva đang ở giai đoạn chín muồi về sự nghiệp. Chương trình được dàn dựng công phu bởi nhạc sĩ Hồng Kiên, với sự tham gia của ban nhạc Anh Em, ca sĩ khách mời là ngôi sao ca nhạc Im Tae Kyung đến từ Hàn Quốc (tại Hà Nội) và danh ca Tuấn Ngọc (tại Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh). Nữ ca sĩ đã khiến cho hàng ngàn khán giả ở cả ba thành phố Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh thổn thức theo những câu chuyện kể, những lời chia sẻ chân thành và trên hết là âm nhạc mà cô thể hiện.
Năm 2013, Mỹ Linh thử sức với một thử thách mới trong vai trò là huấn luyện viên trong cuộc thi Giọng hát Việt mùa thứ 2. Bên cạnh đó cô còn làm giám khảo của chương trình giải trí Gương mặt thân quen trong năm mùa đầu tiên, và mùa thứ 8.
Năm 2014, Mỹ Linh nhận được ba đề cử của Giải thưởng Âm nhạc Quốc tế ở các hạng mục: "Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất thế giới", "Nghệ sĩ trình diễn live xuất sắc nhất" và "Nghệ sĩ giải trí của năm".
2018–nay: Chat với Mozart II và Mỹ Linh Tour 2018: Thời Gian
Mỹ Linh phát hành album Chat với Mozart II vào ngày 18 tháng 1 năm 2018. Đây là album phòng thu thứ 14 của cô và được phát hành với vai trò phần tiếp theo của Chat với Mozart (2005). So với 13 năm trước, "Chat với Mozart 2" mang màu sắc tươi mới hơn. Vẫn là những giai điệu trong kho tàng âm nhạc cổ điển thừa hưởng từ các bậc tiền nhân, nhưng lần này, Mỹ Linh và ê-kíp mang cả Jazz Blue vào để đưa chất liệu âm nhạc gần gũi hơn với người Việt.
Ban đầu nhạc sĩ Dương Thụ vẫn tiếp tục được lựa chọn để soạn lời cho toàn bộ ca khúc. Nhưng do bận việc và lời khuyên "Cháu cứ thử đi". Nên Mỹ Linh đã thử viết ca khúc đầu tiên gửi cho Thụ, Quân, Tuấn. Mọi người khen và khuyên nên viết tiếp."Khi ngồi viết, những hình ảnh gắn liền với đồng quê Bắc Bộ cứ hiện lên trong đầu tôi, những hình ảnh Tết truyền thống cứ nhắc nhớ tôi về một thời thơ ấu tươi đẹp. Và cả hình ảnh Anna nữa. Tôi viết lời ca khúc này như để danh tặng cho chính mình với những kí ức đẹp đẽ về một thời đã qua của lứa tuổi tôi, dành tặng con gái tôi với những cái Tết tha hương đã và sẽ đón. Và tặng cả những ai đang mong ngóng Tết sẽ được quay về để sum họp đầm ấm cùng gia đình bên nồi bánh chưng, bên mâm cỗ Giao thừa, bên bàn trà ngày mùng 1".
Chuyến lưu diễn quảng bá cho album Mỹ Linh Tour 2018 – Thời gian được cô bắt đầu vào ngày 11 tháng 8. Tour diễn bao gồm các thể loại classical crossover, pop, hip hop, R&B, opera với chủ đề "Bài ca tự do". Buổi biểu diễn gồm ba phần trình diễn 22 ca khúc đại diện được lựa chọn chủ yếu từ Chat với Mozart II và các album từ khi cô bắt tay với ban nhạc Anh Em, cùng các khách mời Hà Phạm Thăng Long, Bùi Anh Tuấn, Hà Lê và Mỹ Anh. Khởi động tại Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô, Hà Nội vào ngày 11 tháng 8 năm 2018, chuyến lưu diễn được tổ chức lại và có buổi trình diễn ở Đà Nẵng tại Nhà hát Trưng Vương vài ngày sau đó vào ngày 15 tháng 8 trước khi kết thúc vào ngày 18 tháng 8 cùng năm tại Nhà hát Hòa Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. Khác với ba chuyến lưu diễn trước, Mỹ Linh Tour 2018 – Thời gian quy tụ dàn kèn sinh viên đến từ trường Berklee, Mỹ. Đây là chuyến lưu diễn có quy mô lớn nhất trong sự nghiệp của Mỹ Linh, và còn giúp cô trở thành nữ ca sĩ Việt Nam duy nhất thực hiện được bốn tour diễn cá nhân xuyên Việt tính đến nay.
Mỹ Linh Tour 2018 – Thời gian đa phần nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà báo. Tại Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến lần thứ 14, chuyến lưu diễn được tôn vinh tại một đề cử ở hạng mục "Chương trình của năm".
Bộ phim tư liệu với tựa đề The Making of Mỹ Linh Tour 2018, bao gồm 5 tập ghi hình quá trình thực hiện chuyến lưu diễn, tập đầu tiên "Gặp gỡ" được cô đăng tải chính thức trên YouTube ngày 19 tháng 5 năm 2018. Buổi biểu diễn vào ngày 11 tháng 8 năm 2018 đã được ghi hình cho DVD Mỹ Linh Tour 2018 – Thời gian và được phát hành vào năm 2019.
Phong cách nghệ thuật
Nền nhạc nhẹ Việt Nam đương đại có nhiều danh ca nổi tiếng. Một trong những tên tuổi nổi bật và có độ phủ sóng lớn nhất trong 30 năm trở lại đây phải kể đến đó chính là Mỹ Linh. Cô được vinh danh là "Nữ hoàng R&B Việt Nam” vì là người tiên phong và phổ biến cho dòng nhạc R&B tại Việt Nam. Mỹ Linh cũng được mệnh danh là “Nữ hoàng nhạc xuân” nhờ sở hữu nhiều bài hát tiêu biểu về mùa xuân như “Khúc Giao Mùa”, “Hoa Cỏ Mùa Xuân”, “Lắng Nghe Mùa Xuân Về”, “Thì Thầm Mùa Xuân”, “Phút Giao Thừa Lặng Lẽ”, “Mưa Xuân”, “Để tình yêu hát” và “Biết”.
Sở hữu giọng hát thuộc loại giọng nữ trung cận cao, Mỹ Linh đã được khán giả xem là một diva của nhạc Việt, cùng với Thanh Lam, Hồng Nhung và Hà Trần. Tuy nhiên, bản thân cô lại khá e dè và khiêm tốn khi nhắc đến danh hiệu Diva: "Tôi chưa bao giờ nghĩ mình là Diva. Nó chỉ là danh hiệu cho vui thôi. Tôi muốn được gọi là ca sĩ Mỹ Linh hơn".
Nhạc sĩ Bảo Chấn từng chia sẻ với nhà báo Chu Minh Vũ:"Nói về chất giọng, trong Mỹ Linh tồn tại hai khuynh hướng. Cái ít người nhìn thấy ở Linh là một giọng hát có học, vốn liếng thanh nhạc rất cao không thua gì cỡ Thanh Lam đâu. Nhưng trong giọng hát thì cô ấy thường chọn một cách rất cảm xúc. Thủa ban đầu, Linh không trưng trổ kỹ thuật song chính là nhờ cái vốn liếng kỹ thuật ấy để phô diễn cái chất nồng nàn trong con người và gây cảm xúc cho người nghe một cách rõ ràng". Nhiều nhạc sĩ từng nhận định Mỹ Linh hát rất kĩ thuật và chau chuốt. Nhưng nếu rời bỏ toàn bộ kĩ thuật phức tạp đó, cô vẫn là một giọng ca tuyệt phẩm nhờ âm sắc đẹp và cách thổi hồn cảm xúc của mình. Với chất giọng này, bài hát dẫu hay hoặc dở, nhưng hễ vào tay cô, nếu không thành hit lớn thì cũng khiến người nghe phải xao xuyến. Nó giống như một loại gia vị thượng hạng, thêm nếm vào bất cứ món ăn nào cũng khiến chúng ngon hơn. Bảo Chấn đã dùng từ "kẻ đặt dấu chấm hết" để nói về khả năng này của cô:"Mỹ Linh với giọng hát của mình giống như một kẻ có võ công rất thâm hậu nhưng lại ra chiêu rất bình thường, nhưng lại có công lực rất cao. Với những bài xã hội, hoặc rất xì tin chẳng hạn như "Trái tim không ngủ yên", Mỹ Linh như kẻ đặt dấu chấm hết. Không ai có thể hát vượt qua nổi hoặc chấp nhận chỉ là cái bóng của Linh mà thôi".Nhạc sĩ Dương Thụ, người đã dẫn dắt Mỹ Linh trong những ngày đầu tiên của sự nghiệp đã ca ngợi khả năng trình diễn của cô. Ông chia sẻ: Mỹ Linh, một ca sĩ lên sân khấu có ma lực nhất. Đôi khi Linh hát vo không cần nhạc đệm cũng có thể làm khán giả say mê. Hát mãnh liệt và đầy cảm xúc. Mặc dù học khoa thanh nhạc nhưng Linh không mất đi chất giọng tự nhiên. Điều đáng khâm phục nhất của Linh là cô dám từ bỏ những ca khúc phổ thông để dấn thân vào con đường riêng của mình với phong cách Funk, R’nB, Soul, dù cô biết chắc đó là con đường chông gai hơn, khó khăn hơn. Mất đi một Mỹ Linh - Chị tôi, Mỹ Linh - Trên đỉnh Phù Vân... để có một Mỹ Linh hoàn toàn mới mẻ và khác lạ của Hương ngọc lan, Trưa vắng, Tóc ngắn. Điều này cũng có nghĩa là dám mất đi một lớp công chúng rộng rãi để thay vào đó một thế hệ fan mới, trẻ trung hơn và có gu nghe nhạc hơn.
Gần đây Mỹ Linh đã bắt đầu bắt tay vào việc viết lời cho những ca khúc của mình. Những bài hát tiêu biểu nhất do cô viết lời có thể kể đến như “Gửi Anh”, “Mùa cũ” và “Nhớ Mưa”.
Di sản và tầm ảnh hưởng
Thành công trên thị trường quốc tế
Được mệnh danh là "Nữ hoàng R&B Việt Nam" và "Nữ hoàng nhạc xuân", cô được nhiều tác giả và nhà báo quốc tế công nhận là một trong những nữ nghệ sĩ có ảnh hưởng lớn và là một biểu tượng nhạc pop của Việt Nam. Năm 2014, Mỹ Linh nhận được ba đề cử của Giải thưởng Âm nhạc Quốc tế ở hạng mục "Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất", "Nghệ sĩ trình diễn live xuất sắc nhất" và "Nghệ sĩ giải trí của năm".
Mỹ Linh trở thành nữ ca sĩ Việt Nam đầu tiên nhận được lời đề nghị kí hợp đồng từ công ty giải trí ở Mỹ trong năm 2003. Các nhà sản xuất của Maximus Studios tại Central California đã từng thành thật bày tỏ sự ngưỡng mộ với mọi người về ấn tượng của họ khi lần đầu nghe ca sĩ Mỹ Linh hát. Họ chia sẻ:Mỹ Linh rất đặc biệt. Cô ấy có một chất giọng mạnh và đẹp. Khi cô ấy thu âm ở phòng thu của chúng tôi tại California, tất cả mọi người có mặt ở đó đều đã rất sửng sốt và thốt lên rằng thật tuyệt vời. Về một khía cạnh nào đó, giọng cô ấy có thể sánh ngang với Gloria Estefan và Celine Dion". Cũng từ lần thu âm ấn tượng ấy, chủ phòng thu McKenzie đã chia sẻ rằng ông có ý định giúp Mỹ Linh tham dự các show diễn và thậm chí là tour diễn cùng các nghệ sĩ Mỹ vì ông biết rằng với giọng hát thiên phú ấy, Mỹ Linh chắc chắn sẽ có một tương lai rộng mở tại đây. Không những vậy, phía McKenzie còn mong muốn đưa Mỹ Linh phát triển mạnh ở thị trường âm nhạc US-UK: từ album riêng đến các chiến dịch quảng cáo trên báo chí tại Mỹ. McKenzie chia sẻ: "Chúng tôi rất muốn giới thiệu Mỹ Linh như một hình ảnh mới về đất nước Việt Nam. Và người Mỹ nhất định sẽ quan tâm đến Mỹ Linh bởi vì cô ấy là một ca sĩ Việt Nam. Người Mỹ luôn có một tình cảm đặc biệt mỗi khi nghe đến đất nước này". Cũng từ lần thu âm ấn tượng ấy, chủ phòng thu McKenzie đã chia sẻ rằng ông có ý định giúp Mỹ Linh tham dự các show diễn và thậm chí là tour diễn cùng các nghệ sĩ Mỹ vì ông biết rằng với giọng hát thiên phú ấy, Mỹ Linh chắc chắn sẽ có một tương lai rộng mở tại đây. Không những vậy, phía McKenzie còn mong muốn đưa Mỹ Linh phát triển mạnh ở thị trường âm nhạc US-UK: từ album riêng đến các chiến dịch quảng cáo trên báo chí tại Mỹ. McKenzie chia sẻ: "Chúng tôi rất muốn giới thiệu Mỹ Linh như một hình ảnh mới về đất nước Việt Nam. Và người Mỹ nhất định sẽ quan tâm đến Mỹ Linh bởi vì cô ấy là một ca sĩ Việt Nam. Người Mỹ luôn có một tình cảm đặc biệt mỗi khi nghe đến đất nước này.Cùng năm, Mỹ Linh và ban nhạc Anh Em kí kết hợp đồng ghi âm với hãng thu âm Blue Tiger để sản xuất album phòng thu "Made In Vietnam", mở ra cánh cửa bước vào làng công nghệ trình diễn quốc tế.
Năm 2007, Mỹ Linh đã phát hành lại ba album cũ của mình bao gồm Made in Vietnam (2003), Chat với Mozart (2005) và Để tình yêu hát (2006) với sự giúp đỡ từ hãng đĩa Pony Canyon tại Nhật Bản. Made in Vietnam sau đó đã được đài phát thanh Radio-I tại thành phố Nagoya, Aichi bầu chọn là album hay nhất của tháng.
Ảnh hưởng tại Việt Nam
Sự nghiệp của Mỹ Linh đi cùng sự hình thành, tiến triển của thị trường âm nhạc Việt Nam. Đến nay, cô vẫn là một trong những ca sĩ có sức ảnh hưởng và tiêu biểu cho "tiếng hát Việt Nam". Hiện tượng mang tên "Tóc Mỹ Linh", diễn ra vào thời điểm từ cuối năm 1998 cho đến năm 2000 đã trở thành một dấu ấn trong lịch sử nhạc nhẹ. Ở thời điểm đó, sức ảnh hưởng của Mỹ Linh đã vượt ra khỏi lĩnh vực âm nhạc, khi cô trở thành người tiên phong cho phong cách thời trang mang tên "Tóc ngắn". Nhiều cô gái trẻ đã bắt chước phong cách thời trang, đặc biệt là mái tóc mang tính biểu tượng của Mỹ Linh. Năm 1999, theo ước tính, đã có tới hàng chục nghìn phụ huynh đặt tên con gái là Mỹ Linh vì "ngưỡng mộ nữ ca sĩ nổi tiếng".
Đã có nhiều ca sĩ thừa nhận bị ảnh hưởng bởi Mỹ Linh, trong đó có Trần Thu Hà, Đàm Vĩnh Hưng, Đan Trường, Mỹ Tâm, Uyên Linh, Văn Mai Hương, Trung Quân, Nguyên Thảo, Hoàng Hải, Hoàng Quyên, Lê Hiếu, Khánh Linh, Phương Vy, Hiền Thục, Nhật Thủy, Hoàng Tôn, Dương Hoàng Yến...
Mỹ Linh có rất nhiều bài hát tiêu biểu, ví dụ như Thì thầm mùa xuân, Chị tôi, Hà Nội đêm trở gió, Trên đỉnh phù vân, Trái tim không ngủ yên, Hương ngọc lan, Trưa vắng, Chuyện tình, Khúc giao mùa, Em mơ về anh, Quán cà phê mùa hè, Gió và lá cây, Gửi anh… Những ca khúc này nằm trong 11 album phòng thu riêng của Mỹ Linh. Nhiều sáng tác trong số này được dành riêng cho giọng hát nữ trung (cao) trữ tình (mezzo-soprano) và gắn liền với tên tuổi của cô. Không chỉ bổ sung cho nhạc nhẹ Việt Nam những bài hát mới, có sức sống, một số album của Mỹ Linh còn là những bài đầu tiên ở một số dòng nhạc trước đó không thịnh hành ở Việt Nam như R&B, Funk, Soul… Cô đã mở đường trong việc xây dựng một phong cách làm việc chuyên nghiệp ở nước ta khi có riêng một ê-kíp âm nhạc, mỗi album đều được thực hiện thống nhất từ ý tưởng đến hòa âm, phối khí và hình ảnh.
Đời tư
Mỹ Linh lập gia đình năm 1998 cùng nhạc sĩ Anh Quân và có với nhau một trai và một gái. Hiện Mỹ Linh sống cùng chồng và ba người con. Con gái của cô, Trương Mỹ Anh, được xem là một trong những nghệ sĩ âm nhạc thuộc thế hệ Z có giọng hát kỹ thuật và nổi trội nhất. Năm 2016, Mỹ Anh ra mắt đĩa nhạc đầu tay có tên The First Album: Bài hát cho Bi gồm 8 ca khúc gồm tiếng Việt và tiếng Anh. Về phía Mỹ Linh, dù biết con gái có nhiều năng khiếu trong việc hoạt động nghệ thuật nhưng vợ chồng cô không muốn lăng xê em từ nhỏ. Thay vào đó, giọng ca sinh năm 1975 cho Mỹ Anh tham gia một số chương trình cộng đồng cùng mình. "Con gái tôi rất kín đáo trong cuộc sống. Nó luôn sợ làm gì ảnh hưởng tới gia đình, bản thân, bố mẹ vì không khéo. Nhìn vào Mỹ Anh ở tuổi 16 này, tôi thấy chính tôi trong đó", Mỹ Linh từng chia sẻ. Năm 2021, Mỹ Anh mới được công chúng biết đến sau khi bài dự thi The Heroes cùng nhạc sĩ Khắc Hưng, Real Love, có mặt trong BXH Top Trending của YouTube Việt Nam.
Con trai Mỹ Linh, tên là Anh Duy sinh năm 1999, từng theo học tại Trường quốc tế Liên hợp quốc Hà Nội. Anh cũng sớm bộc lộ năng khiếu nghệ thuật từ bé. Tuy nhiên, thay vì đam mê ca hát, con trai ca sĩ Mỹ Linh lại thích nhảy, chơi piano. Duy từng là thành viên của nhóm nhảy Pixelated và thường xuyên biểu diễn ở trường. Vốn là người kín tiếng, cậu hạn chế chia sẻ hình ảnh của mình trên mạng xã hội.
Còn con riêng của nhạc sĩ Anh Quân, tên là Anna Trương (tức Trương Mỹ Hà), sớm bộc lộ năng khiếu nghệ thuật khi xuất hiện cùng ca sĩ Mỹ Linh trên các sân khấu âm nhạc và ghi điểm bởi giọng hát ngọt ngào. Cô gái sinh năm 1994 cũng ra mắt nhiều sản phẩm âm nhạc và tạo dấu ấn trước khán giả như Những bài hát đầu tiên, Một nửa yêu thương... Năm 2013, Anna nhận được học bổng du học chuyên ngành Nhà sản xuất âm nhạc từ học viện Berklee College of Music. Đây là một trong 4 học viện âm nhạc được đánh giá cao của thế giới, nơi nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như Diana, Lalah Hathaway, Psy, Park Bom… từng học tập. 9X liên tục đạt được những thành tích học tập tốt, cô thành lập nhóm nhạc riêng và tham gia biểu diễn tại các sự kiện ở Mỹ. Hiện tại, Anna Trương đã hoàn thành xong việc học tập và đang công tác tại một phòng thu âm lớn ở xứ cờ hoa. Cô bày tỏ niềm hạnh phúc khi đảm nhận vai trò sản xuất âm nhạc và có cơ hội làm việc với nhiều đàn anh kinh nghiệm trong nghề. Nơi đây cũng là phòng thu thực hiện phần âm nhạc cho nhiều bộ phim nổi tiếng được công chiếu tại Việt Nam. Dù là con riêng của chồng, cô vẫn được Mỹ Linh yêu thương, chăm sóc hết mực.
Công việc giáo dục
Sau 4 năm học ở Nhạc viện, hơn 20 năm làm Ca sỹ, tham gia nhiều show lớn nhỏ, dành nhiều giải thưởng danh tiếng trong và ngoài nước, Mỹ Linh vẫn mong muốn trở thành Cô giáo, nối gót theo Cô giáo thanh nhạc Diệu Thúy của mình để tiếp tục truyền đạt kinh nghiệm, những bí quyết làm nghề cho nhiều thế hệ tiếp sau. Nữ ca sĩ vẫn có giờ dạy học sinh ở trường âm nhạc Young Beat - nơi Mỹ Linh và các cộng sự đã thành lập năm 2015. Nữ ca sỹ chia sẻ việc dành quỹ thời gian lớn trong những ngày cuối tuần để được cùng các bạn nhỏ nuôi dưỡng niềm đam mê với âm nhạc luôn là nguồn cảm hứng bất tận - giúp nữ ca sỹ tái tạo năng lượng, giúp cô khỏe hơn và hạnh phúc hơn bao giờ hết.
"Tôi nhận ra mình đã mắc nợ cuộc đời, mắc nợ những người yêu thương mình, những người đã luôn ủng hộ mình trong suốt hai thập kỷ qua, từng dòng tin nhắn trên Facebook, những câu hỏi, những trăn trở suy tư mong muốn được giải đáp về việc học thanh nhạc, về các kỹ thuật xử lý bài hát, hay những câu hỏi ngô nghê và đáng yêu của những người bạn ở những nơi xa xôi không được tiếp cận với âm nhạc trong dòng chảy thời đại đã thôi thúc tôi phải làm điều gì đó để tạo nên khóa học VietVocal này." Mỹ Linh chia sẻ.
Ca sĩ Mỹ Linh và ban nhạc Anh Em thành lập trường nhạc của riêng mình vào năm 2015. Young Hit Young Beat là chuỗi dự án âm nhạc bao gồm các hoạt động sản xuất âm nhạc, tổ chức liveshow cho đến đào tạo và phát triển tài năng âm nhạc do ANH EM Records (nhạc sĩ Vũ Văn Hà, Huy Tuấn, Anh Quân, Quốc Bình) cùng ca sĩ Mỹ Linh khởi xướng và được hưởng ứng bởi nhiều nghệ sĩ khác với mục đích tạo lập một không gian dung dưỡng và phát triển các nhạc sĩ và ca sĩ trẻ tuổi tài năng. Young Hit Young Beat đã gây tiếng vang lớn kể từ khi ra mắt với hàng chục ca khúc mới, 3 album CD, 3 liveshow và nhiều video music (MV) cho các ca sĩ trẻ như Hoàng Tôn, Bùi Anh Tuấn, Vũ Cát Tường, Nhật Thủy, Đinh Mạnh Ninh, Bích Phương, Trung Quân, Anna Trương, Min (ST319), Hà Minh Tiến… Young Hit Young Beat cũng đã khởi động dự án đào tạo của mình thông qua hình thức Trại hè âm nhạc (Music Summer Camp) 2014; 2015; 2016; 2017; 2018; 2019; 2022 với sự tham gia của hàng chục nghìn học sinh năng khiếu tham gia, Trại hè cũng đã dành được sự tin cậy của phụ huynh học sinh, đặc biệt qua các đêm Gala tổng kết và qua các chuyến đi thực tế.
Danh sách đĩa nhạc
10 tình khúc Bảo Phúc - Anh Thoa (1995)
Vẫn hát lời tình yêu (1996)
Xin mặt trời ngủ yên (1996)
Cho một người tình xa (1996)
Tiếng hát Mỹ Linh (1997)
Mùa thu không trở lại (1998)
Chiều xuân (1998)
Còn mãi tìm nhau (1999)
Tóc ngắn (1998)
Tóc ngắn Vol. 2: Vẫn mãi mong chờ (2000)
Made in Vietnam (2003)
Chat với Mozart (2005)
Để tình yêu hát (2006)
Tóc ngắn Acoustic: Một ngày (2011)
Chat với Mozart II (2018)
Lưu diễn
Tiếng hát Mỹ Linh (1998)
Mỹ Linh và Anh Em (1999)
Mỹ Linh Tour '06 (2006)
Mỹ Linh Tour 2018 – Thời gian (2018)
Chú thích |
Huguenot là những tín hữu Kháng Cách tại Pháp chấp nhận nền thần học Calvin. Thuật từ này có từ đầu thế kỷ 16 và thường được dùng để gọi những người thuộc Giáo hội Cải cách Pháp. Vào thời đỉnh cao, ước tính cộng đồng Huguenot chiếm khoảng 10% dân số Pháp, phần nhiều sống tại miền Tây và miền Nam nước này.
Nguồn gốc
Khởi thủy, tên gọi này là một sự chế giễu, hiện vẫn chưa có sự khẳng định về nguồn gốc của nó; có thể là từ tên Besançon Hugues, cũng có thể đến từ một từ Đức ngữ Eidgenosse, nghĩa là người Thuỵ Sĩ ở Geneva, nơi chốn John Calvin nhận là nhà, cũng là trung tâm của phong trào Calvin. Tại Geneva, Hugues là lãnh tụ của "Đảng Liên bang", do chủ trương thành lập một liên minh giữa thành phố độc lập Geneva và Liên bang Thuỵ Sĩ. Cách giải thích này phù hợp với sự kiện tên Huguenot lần đầu tiên được sử dụng tại Pháp, gọi những người cùng lập kế hoạch cho vụ chính biến Amboise (tất cả đều thuộc thành phần quý tộc đang cầm quyền, và là thuộc viên Giáo hội Cải cách) năm 1560 nhằm tước bỏ quyền lực khỏi tay Nhà Giuse, động thái này làm mối quan hệ của họ với Thuỵ Sĩ càng thân cận hơn. Như vậy, Hugues được kết hợp với eidgenot trở thành tên gọi Huguenot với ngụ ý nối kết các hoạt động của người Kháng Cách với một số sự kiện trong chính trường Pháp.<ref>[http://www.huguenotsocietyofamerica.org/history.html#anchor3 History: The origin of the name Huguenot''] The Huguenot Society of America</ref>
Một luận điểm khác được trình bày bởi O.I.A. Rouche trong một tác phẩm của ông The Days of the Upright, A History of the Huguenots, theo đó "Huguenot" là
"một sự kết hợp giữa một từ tiếng Flemish và một từ Đức ngữ. Trong khu của người Flemish tại Pháp, những người lén lút tụ tập tại nhà riêng để học Kinh Thánh được gọi là Hius Genooten, nghĩa là "bạn một nhà", trong khi trên vùng biên giới Đức-Thuỵ Sĩ, họ được gọi là "bạn cùng thề" vì ràng buộc với nhau vì một lời thề. Khi được Pháp hoá từ này trở thành "Huguenot", trong suốt hai thế kỷ rưỡi, đã trở thành biểu trưng cho hoàn cảnh ngặt nghèo và sự đắc thắng, là dấu hiệu của danh dự và lòng quả cảm bền vững."
Lịch sử
Trước đó đã có những giáo dân Công giáo Rôma Pháp ủng hộ tư tưởng cải cách như Jacques Lefevre. Những người này đã giành được sự độc lập cho giáo hội tại Pháp trong một thời gian ngắn dựa trên nguyên tắc giáo hội tại Pháp không nên chịu sự kiểm soát của Giám mục thành Rôma, một thế lực ngoại bang. Sau này, những người Huguenot chấp nhận phong trào cải cách của Luther, và cuối cùng là nền thần học Calvin.
Những người Huguenot chia sẻ với John Calvin ý tưởng cần phải có những biện pháp cải cách triệt để chống lại hệ thống tăng lữ, nền thần học thánh lễ và các học thuyết khác của Giáo hội Công giáo Rôma. Họ tin rằng sự cứu rỗi là một hành động của Thiên Chúa, giống như sự sáng tạo là một hành động của Ngài, do đó chỉ bởi lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho người được chọn mà họ được cứu rỗi. Bản Tín điều Pháp năm 1559 thể hiện rõ lập trường thần học Calvin.
Những người Huguenot chỉ trích Giáo hội Công giáo Rôma về nghi thức thờ phượng, thánh lễ, tượng thờ, sự sùng bái các thánh, hành hương, và hệ thống tăng lữ; họ cho rằng những điều này chẳng giúp ích gì cho sự cứu chuộc linh hồn. Theo quan điểm của họ, đức tin Cơ Đốc nên được thể hiện qua đời sống chính trực và tin kính, vâng phục những giáo huấn của Kinh Thánh và xuất phát từ tấm lòng biết ơn Thiên Chúa.
Có quan điểm giống các tín hữu Kháng Cách vào thời ấy, những người Huguenot tin rằng Giáo hội Rôma cần được tẩy sạch triệt để khỏi những bất khiết, và trong mắt họ Giáo hoàng biểu trưng cho một vương quốc đậm màu thế tục.
Kể từ khi bùng nổ cuộc Cải cách Kháng nghị, người Huguenot bị bách hại trong các giai đoạn khác nhau; Song Francis I (trị vì từ năm 1515 – 1547) với chủ trương hoà giải, tìm cách bảo vệ những người Huguenot khỏi những biện pháp của Quốc hội nhằm tiêu diệt họ, cho đến khi xảy ra vụ Affair of the Placards trong năm 1534, khi xuất hiện những bích chương đả kích Giáo hội Công giáo, nhà vua thay đổi thái độ.
Con số thành viên Huguenot tăng nhanh trong quãng thời gian từ năm 1555 đến năm 1562, phát triển mạnh trong giới quý tộc và thị dân. Trong giai đoạn này, những người chống đối gọi họ là Kháng Cách Huguenot; nhưng họ tự nhận mình là những người chủ trương cải cách. Giáo hạt đầu tiên của họ được thành lập năm 1558 tại Paris.
Đến năm 1562, theo ước tính tổng số thành viên Huguenot ít nhất là một triệu người, quy tụ ở miền nam và khu vực trung tâm của đất nước. Cộng đồng Huguenot tại Pháp khi đang ở đỉnh điểm lên đến hai triệu người trên mười sáu triệu giáo dân Công giáo vào lúc ấy.
Chiến tranh
Phản ứng với ảnh hưởng gia tăng của phong trào Huguenot và lập trường cấp tiến của họ là sự bùng nổ bạo động từ những người Công giáo, trong khi vương triều ban hành những chiếu chỉ mở rộng sự khoan dung tôn giáo.
Năm 1561, Chiếu chỉ Orleans công bố chấm dứt bách hại tôn giáo; Chiếu chỉ Saint Germain lần đầu tiên công nhận cộng đồng Huguenot (ngày 17 tháng 1 năm 1562); nhưng những biện pháp này chỉ đủ che đậy mối quan hệ ngày càng căng thẳng giữa hai cộng đồng Kháng Cách và Công giáo.
Nội chiến
Sự căng thẳng cuối cùng đã dẫn đến cuộc nội chiến kéo dài, dù có những lúc yên tĩnh từ năm 1562 – 1598. Sau mỗi lần ngừng chiến, lòng tin của người Huguenot vào nhà vua Công giáo càng suy giảm, sau đó bạo động càng trở nên dữ dội, những đòi hỏi của người Kháng Cách càng lớn hơn cho đến sau cuộc ngừng chiến sau cùng là lúc sự thù nghịch công khai bùng nổ vào năm 1598.
Cuộc nội chiến dần dần nảy sinh những nhân tố tự thúc đẩy, phát triển thành mối thù nghịch giữa Nhà Bourbon và Nhà Giuse - cùng với sự bất đồng tôn giáo – là mục tiêu chiếm lấy vương quyền nước Pháp. Ngai vàng thuộc về Nhà Valoise, thường vẫn ủng hộ phe Công giáo, nhưng đôi khi vì quyền lợi chính trị cũng quay sang phe Kháng Cách.
Chiến tranh Tôn giáo
Chiến tranh Tôn giáo Pháp bắt đầu với vụ thảm sát tại Wassy ngày 1 tháng 3 năm 1562, có ít nhất 30 người (từ những nguồn tin khác là 1000 người hoặc hơn) Huguenot bị giết và khoảng 200 người bị thương.
Sau vụ thảm sát, người Huguenot tự tổ chức thành một phong trào chính trị, tạo lập một đạo quân hùng hậu và một lực lượng kỵ binh thiện chiến đặt dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Gaspard de Coligny. Henry xứ Navarre và Nhà Bourbon liên minh với phe Huguenot, tăng cường sức mạnh và thêm thành luỹ cho nhóm Kháng Cách, trong lúc mạnh nhất họ có trong tay 60 thành trì kiên cố, trở thành một mối đe doạ nghiêm trọng cho vương triều Công giáo và thủ đô Paris trong suốt ba thập niên.
Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy
Cuộc chính biến được biết dưới tên vụ Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy xảy ra từ ngày 24 tháng 8 – 17 tháng 9 năm 1572, khi phe Công giáo giết hàng ngàn người Huguenot tại Paris. Các cuộc thảm sát tương tự diễn ra ở những thị trấn khác trong những tuần lễ tiếp theo, với số nạn nhân ước tính khoảng 110.000 người. Sau đó, một lệnh ân xá cho những người tổ chức và thực hiện vụ thảm sát được ban hành năm 1573.
Chiếu chỉ Nantes
Cuộc thánh chiến thứ năm chống lại người Huguenot khởi sự từ ngày 23 tháng 1 năm 1574. Sự xung đột tiếp diễn trong từng giai đoạn cho đến năm 1598, khi Henry xứ Navarre, người chấp nhận đức tin Công giáo để trở thành Vua Henri IV của Pháp, ban hành chiếu chỉ Nantes. Chiếu chỉ này cho phép người Kháng Cách sống bình đẳng với người Công giáo như là những thần dân của nhà vua, cũng bảo đảm một mức độ tự do về tôn giáo và chính trị trong vùng lãnh thổ của họ. Đồng thời, chiếu chỉ Nantes bảo vệ quyền lợi người Công giáo và ngăn chặn việc thành lập nhà thờ Kháng Cách trong những vùng đất ở dưới quyền kiểm soát của người Công giáo.
Sau khi chiếu chỉ Nantes được ban hành, những áp lực từng buộc người Huguenot phải rời khỏi nước Pháp cũng suy giảm. Tuy nhiên, trong thời trị vì của Vua Louis XIV (trị vì 1643-1715), tể tướng của nhà vua, Hồng y Mazarin (nắm giữ quyền bính khi nhà vua còn niên thiếu cho đến khi ông – Mazarin - qua đời năm 1661) tái lập những cuộc bách hại người Kháng Cách, sử dụng quân đội để khủng bố họ đến nỗi nhiều người không còn chịu đựng nỗi và buộc phải lưu vong.
Chiếu chỉ Fontainebleau
Năm 1685, nhà vua thu hồi chiếu chỉ Nantes, và ban hành chiếu chỉ Fontainebleau công bố đức tin Kháng Cách là bất hợp pháp. Đông đảo người Huguenot (ước tính từ 200.000 đến 1.000.000 người) bỏ trốn sang các quốc gia Kháng Cách lân cận như Anh Quốc, Hà Lan, Thuỵ Sĩ, Na Uy, Đan Mạch và Phổ - ở Phổ, Đại Vương hầu Frederick William đón tiếp họ, và những người tị nạn ra sức giúp phục hồi đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh và thưa dân của vương hầu.
Đến giữa thập niên 1660, số cư dân Huguenot tại Pháp chỉ còn 856.000 người, đa phần sống ở nông thôn. Basse-Guyenne, Saintonge-Aunis-Angoumois, và Poitou là những khu vực có đông người Huguenot nhất.
Di cư
Những di dân đầu tiên
Những di dân Huguenot đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Jean Ribault rời bỏ nước Pháp để tránh bị bách hại từ năm 1562, thiết lập một khu định cư nhỏ ở Ft. Caroline, dọc bờ sông St. John, ngày nay là Jacksonville, tiểu bang Florida, Hoa Kỳ.
Đây là nỗ lực đầu tiên trong chuỗi di cư liên tục từ Âu châu đến thiết lập những khu định cư trên vùng đất mới, ngày nay là Hiệp chúng quốc Hoa Kỳ. Dù vậy, khu định cư Ft. Caroline chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn; một khu định cư của người Tây Ban Nha xuất hiện không lâu sau đó ở St. Augustine đã quét sạch nhóm người Pháp trong năm 1565.
Nam Phi
Ngày 31 tháng 12 năm 1687, một nhóm Huguenot từ Pháp vượt biển đến Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope''), Nam Phi. Trước đó, từ năm 1671 đã có các thành viên Huguenot đến đây, nhưng những đợt di dân Huguenot với quy mô lớn diễn ra trong hai năm 1688 và 1689.
Nhiều người đến định cư tại vùng đất được đặt tên Franschhoek (tiếng Hà Lan nghĩa là Khu Pháp), nay là tỉnh Western Cape thuộc Nam Phi. Một tượng đài lớn ghi dấu những bước chân đầu tiên của nhóm di dân Huguenot trên vùng đất mới Nam Phi được khánh thành ngày 7 tháng 4 năm 1948 tại Franschhoek.
Nhiều nông trang ở tỉnh Western Cape, Nam Phi, vẫn mang tên Pháp và vẫn còn nhiều gia đình, hầu hết nói tiếng Afrikaan, mang họ Pháp như là bằng chứng cho nguồn gốc Huguenot của mình. Điển hình là những họ như Joubert, du Toit, de Villiers, Viljoen, Theron, du Plessis, Labuschagne, và những họ khác, là những họ phổ biến tại Nam Phi ngày nay.
Bắc Mỹ
Bị cấm di cư đến vùng Tân Pháp (những khu thuộc địa của nước Pháp ở Bắc Mỹ từ Newfoundland đến Hồ Superior và từ Vịnh Hudson đến Vịnh Mexico), nhiều người Huguenot tìm đến khu định cư Tân Hà Lan của người Hà Lan, về sau sáp nhập vào New York và New Jersey và 13 khu thuộc địa của Anh ở Bắc Mỹ, lần đầu tiên vào năm 1624.
Di dân Huguenot thành lập New Paltz, New York, ở đây có con đường cổ xưa nhất nước Mỹ với những ngôi nhà xây dựng bằng đá, New Rochelle, New York (được đặt tên theo thị trấn La Rochelle tại Pháp).
Những di dân khác chọn khu định cư Virginia, thành lập những cộng đồng ngày nay là Quận Chesterfield và Quận Powhatan ngay phía tây Richmond, tiểu bang Virginia, hậu duệ của họ tiếp tục sinh sống ở đây. Ngày12 tháng 5 năm 1705, Nghị viện Virginia thông qua một đạo luật ban quốc tịch cho 148 người Huguenot sinh sống tại Manakintown. Cầu Tưởng niệm Huguenot bắc ngang sông James được đặt tên để vinh danh họ, tương tự như vậy là một số cơ sở ở địa phương bao gồm các trường học.
Nhiều thành viên Huguenot đến định cư tại vùng đất xung quanh địa điểm ngày nay là thành phố Charleston, tiểu bang Nam Carolina. Năm 1685, Mục sư Elie Prioleau từ thị trấn Pons, Pháp tìm đến định cư ở vùng đất nay gọi là Charlestown. Ông trở thành quản nhiệm cho nhà thờ Huguenot đầu tiên ở Bắc Mỹ. Nhà thờ Kháng Cách (Huguenot) Pháp tại Charleston, là giáo đoàn Huguenot cổ xưa nhất tại Hoa Kỳ vẫn duy trì sinh hoạt cho đến ngày nay.
Hầu hết các giáo đoàn Huguenot ở Bắc Mỹ đều sáp nhập với các giáo phái Kháng Cách khác như Giáo hội Trưởng Lão Hoa Kỳ, Giáo hội Cơ Đốc Hiệp nhất, các giáo hội Cải cách và giáo phái Baptist Cải cách.
Anh Quốc
Ước tính có khoảng 50.000 thành viên Huguenot di cư đến Anh. Nhà thần học và tác giả hàng đầu của Huguenot lãnh đạo một cộng đồng di dân ở Luân Đôn, Andre Lortie, nổi tiếng với những phê phán nhắm vào Toà Thánh và giáo lý biến thể trong Bí tích Thánh thể.
Trong số những người tị nạn đặt chân lên bờ biển Kent, nhiều người tập trung về thành phố Canterbury. Cho đến ngày nay vẫn còn một nhà nguyện Huguenot trong Đại giáo đường Canterbury, nơi nhiều gia đình Huguenot từng được nước Anh đón nhận. Nhiều họ có nguồn gốc từ Pháp được ghi trên tấm thảm đặt ở cổng nhà nguyện.
Rất đông người Huguenot tìm đến sinh sống ở Shoreditch, Luân Đôn. Tại đây họ tạo lập công nghiệp dệt trong vùng Spitafields và Wandsworth.
Nhiều thành viên Huguenot đến Ái Nhĩ Lan và xây dựng các nông trang, một số tham gia chiến đấu chống lại Vua Louis XIV trong cuộc chiến William ở Ái Nhĩ Lan, nhờ đó họ được ban thưởng đất đai và tước hiệu, nhiều người định cư ở Dublin. Một số người Huguenot có tay nghề sinh sống ở Ulster giúp thành lập công nghiệp vải sợi ở đây.
Đức và Bắc Âu
Những người tị nạn Huguenot tìm thấy nơi trú ẩn an toàn tại những xứ sở chấp nhận đức tin Lutheran và Cải Cách như ở một số vùng của Đức và các quốc gia thuộc vùng Scandinavia. Vào năm 1685 Gần 50 ngàn di dân Huguenot tìm đến định cư ở Đức, 20 ngàn tập trung trong vùng lãnh thổ thuộc Phổ, nơi tuyển hầu Friedrich Wilhelm với Sắc lệnh Potsdam cho họ những đặc quyền. Người Huguenot ở đây đã thành lập 2 đội quân: Bộ đội Varenne (1686) và Bộ đội Wylich (1688). Nhiều người trong số những hậu duệ của họ sau này trở thành những nhân vật nổi tiếng. Họ cũng thành lập các giáo đoàn tại Fredericia (Đan Mạch), Berlin, Stockholm, Hamburg, Frankfurt, và Emden. Khoảng năm 1700, một số lượng đáng kể cư dân Berlin sử dụng tiếng Pháp như là tiếng mẹ đẻ, người Huguenot tại thành phố này đã cố bảo tồn Pháp ngữ trong cuộc sống thường nhật trong gần một thế kỷ. Song, cuối cùng họ quyết định sử dụng tiếng Đức nhằm phản kháng cuộc xâm lăng nước Phổ của Napoleon trong những năm 1806 - 1807.
Gần 4.000 Hugenotten khác đã tới Baden, Franken (công quốc Bayreuth và công quốc Ansbach, bây giờ thuộc Bayern), công quốc Hessen-Kassel và Württemberg. Nhiều người khác đã tới vùng Rhein-Main, Saarland và Kurpfalz. Khoảng 1.500 Hugenotten định cư ở Hamburg, Bremen và Niedersachsen. Có lẽ vì hôn thê Eleonore d’Olbreuse cũng là một người Huguenot, công tước Georg Wilhelm von Braunschweig und Lüneburg đã nhận 300 Huguenot vào khu vực của mình ở Celle.
Ảnh hưởng
Cuộc di dân của người Huguenot làm nước Pháp bị chảy máu chất xám và phải mất nhiều năm mới có thể phục hồi. Sự kiện vương quyền Pháp từ chối cho phép người Kháng Cách đến định cư tại vùng Tân Pháp khiến dân số trong vùng tăng chậm, tạo điều kiện thuận lợi cho người Anh đến xâm chiếm lãnh thổ hải ngoại này của Pháp.
Nhiều nhân vật nổi tiếng của Hoa Kỳ là hậu duệ của người Huguenot như Alexander Hamilton, John Jay cùng những chính khách hàng đầu khác. Người ta tin rằng khoảng một phần tư người Anh cũng có nguồn gốc từ di dân Huguenot.
Frederick Đại đế của Phổ, một người chủ trương khoan dung tôn giáo, chào đón người Huguenot đến định cư trong vương quốc của ông, nhiều người trong số các hậu duệ của họ nắm giữ những vị trí quan trọng trong chính quyền Phổ. Thủ tướng sau cùng của Cộng hoà Dân chủ Đức (Đông Đức), Lothar de Maizière, có nguồn gốc Huguenot.
Chấm dứt Bách hại
Chính sách bách hại tín hữu Kháng Cách chấm dứt năm 1764, sau đó cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 dành cho họ quyền công dân đầy đủ.
Ngày nay số tín hữu Kháng Cách ở Pháp chiếm 2% dân số, tức khoảng 1 triệu người, tập trung hầu hết tại vùng Cévennes ở miền nam.
Danh sách nhân vật nổi tiếng có nguồn gốc Huguenot |
Gaspard II de Coligny (16 tháng 2 năm 1519 – 24 tháng 8 năm 1572), là Đô đốc Hải quân Pháp, và là lãnh tụ phong trào Huguenot (nhóm tín hữu Kháng Cách Pháp); Coligny xuất thân từ một gia đình quý tộc ở Bourgogne. Gia đình Coligny có nguồn gốc từ thế kỷ 11, tham gia triều chính từ thời trị vì của Louis XI của Pháp (1461 – 1483).
Tiểu sử
Cha ông, Gaspard I de Coligny, được mệnh danh là "Thống chế của Châtillon" và đã tham gia vào các cuộc chiến chống Ý trong khoảng thời gian 1495 – 1515, được phong hàm Thống chế Pháp năm 1516. Mẹ ông, Louise de Montmorency, sinh ba người con trai: Odet, Hồng y của Châtillon, Gaspard và François, Seigneur của Andelot. Cả ba đều thủ giữ những vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của cuộc Chiến tranh Tôn giáo.
Sinh tại Châtillon-sur-Loing, đến tuổi hai mươi hai Gaspard de Coligny đến phục vụ tại triều đình. Từ đó nảy sinh tình bạn với Francis, Công tước của Giuse.
Trong chiến dịch năm 1543, Coligny nổi bật với lòng dũng cảm, bị thương trong cuộc vây hãm thành Montmédy và Bains. Năm 1544, ông tham gia chiến dịch Ý dưới quyền của François de Bourbon, Bá tước Enghien và được phong tước hiệp sĩ tại mặt trận Ceresole. Trở về Pháp, Coligny tham gia các cuộc hành quân khác; được phong Thượng tướng Bộ binh (colonel général de l'infanterie) tháng 4 năm 1547, chứng tỏ tài năng và mưu lược của một nhà cải cách quân sự. Trong năm ấy, ông kết hôn với Charlotte de Laval (qua đời năm 1568). Khi Claude d'Annebaut qua đời năm 1552, ông được phong hàm Đô đốc Pháp. Năm 1557, Coligny được giao nhiệm vụ bảo vệ Saint-Quentin. Trong khi bị vây hãm, Coligny thể hiện lòng dũng cảm, tính quyết đoán và sức mạnh của nhân cách, nhưng Saint-Quentin bị thất thủ, ông bị bắt giữ trong thành L’Ecluse. Nhờ số tiền chuộc trị giá 50.000 crown, ông được trả tự do.
Vào lúc này, do ảnh hưởng của em trai ông, François, Gaspard de Coligny chấp nhận đức tin Kháng Cách và trở nên thành viên của nhóm Huguenot. Bức thư đầu tiên John Calvin gởi ông đề ngày 4 tháng 9 năm 1558. Ông hoạt động bí mật nhằm bảo vệ những người cùng đức tin, xây dựng một khu định cư ở Brasil để họ trú thân, dưới sự lãnh đạo của một người bạn, Phó Đô đốc Nicolas Durand de Villegaignon, người đã thành lập khu định cư Pháp mang tên France Antarctique ở Rio de Janeiro năm 1555. Năm 1567, người Pháp đã bị người Bồ Đào Nha trục xuất khỏi nơi này.
Sau khi vua Henri II qua đời, Coligny và Louis, Hoàng thân xứ Condé trở nên lãnh tụ nhóm Huguenot, đưa ra yêu cầu bảo đảm sự khoan dung tôn giáo cùng một số cải cách khác. Năm 1560, tại cuộc họp của Viện Quý tộc (Assemblée des notables) tại Fontainebleau, thái độ thù nghịch giữa Coligny và Francis của Giuse bộc phát dữ dội. Khi cuộc nội chiến bùng nổ năm 1562, sau khi chần chừ trong một thời gian dài, Coligny quyết định cầm vũ khí để chiến đấu, nhưng luôn sẵn sàng thương thuyết. Trong chiến trận ông không bộc lộ tài năng quân sự vượt trội, nhưng hành động với sự khôn ngoan, cẩn trọng và lòng kiên trì; ông là "le héros de la mauvaise fortune" - người anh hùng của sự thiếu may mắn.
Năm 1569, Hoàng thân Condé bị bại trận và thiệt mạng ở trận Jarnac, và Coligny trở nên nhà lãnh đạo duy nhất của quân đội Kháng cách. Chiến thắng tại Arnay-le-Duc giúp ông kiến tạo hoà bình qua Hoà ước Saint-Germain (1570). Sau khi kết hôn với Jacqueline de Montbel, Nữ bá tước xứ Entremont, Coligny trở lại triều đình và mau chóng chiếm được thiện cảm của vua Pháp là Charles IX. Tìm cách giải thoát nhà vua khỏi vòng kiềm toả của thái hậu và phe nhà Guise, Coligny khuyên nhà vua dời xuống xứ Nam Hà Lan (lúc đó thuộc Tây Ban Nha) và tổ chức quân đội với sự tham gia của cả hai giáo phái (Công giáo và Kháng Cách), đặt dưới quyền chỉ huy của nhà vua. Sự ưu ái của nhà vua dành cho Đô đốc Coligny và thái độ dạn dĩ của người Huguenot khiến thái hậu (Catherine de' Medici) quan ngại, và hệ quả của sự quan ngại này là vụ Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy.
Ngày 22 tháng 8 năm 1572, Coligny bị bắn trên đường phố bởi Maurevel, một tay ám sát được thái hậu trả tiền; song viên đạn chỉ cắt đứt một ngón trên bàn tay phải và gây thương tích cho khuỷ tay của ông. Nhà vua đến thăm nhưng không thể bàn bạc riêng với Coligny do thái hậu ngăn cản. Đêm 24 tháng 8, đêm của cuộc thảm sát, Coligny bị tấn công ngay tại nhà riêng, một tôi tớ của Công tước Giuse, được biết đến với tên Besme, sát hại và ném ông qua cửa sổ xuống vườn nhà ông. Tất cả văn kiện giấy tờ của Coligny bị thu giữ và đốt sạch bởi thái hậu Catherine.
Trong số những người con sinh bởi người vợ trước, Charlotte de Laval, Gaspard de Coligny có:
Louise de Coligny, kết hôn lần đầu với Charles de Téligny, sau đó với William the Silent, Hoàng thân xứ Orange,
François de Coligny, Đô đốc Guienne, một trung thần của vua Henri IV của Pháp (Gaspard de Coligny (1584 – 1646), con trai của François, là Thống chế Pháp trong thời trị vì của vua Louis XIV
Charles de Coligny, Hầu tước của Andelot
Với người vợ sau, Jacqueline de Montbel, Gaspard chỉ có một người con gái:
Beatrice de Coligny
Tưởng niệm
Những địa danh mang tên Coligny:
Coligny, Nam Phi
Fort Coligny, Rio de Janeiro, Brasil
Châtillon-Coligny, Pháp |
Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy là một loạt các vụ bạo động của những đám đông Công giáo chống lại người Kháng Cách Pháp (Huguenot) trong Chiến tranh Tôn giáo Pháp, người ta tin là do Caterina de' Medici, mẹ vua Vua Charles IX, chủ mưu. Khởi đầu từ ngày 24 tháng 8 năm 1572 với vụ ám sát Đô đốc Gaspard de Coligny, lãnh tụ phe Kháng Cách, các vụ thảm sát lan tỏa khắp Paris, tiếp tục đến các thành phố khác và khắp các vùng nông thôn, kéo dài trong vài tháng. Không biết được con số chính xác các nạn nhân, nhưng ước tính có đến vài ngàn hoặc vài chục ngàn người mất mạng trong đợt bạo động này. Mặc dù không phải là vụ thảm sát duy nhất, song đây là "vụ việc tệ hại nhất trong tất cả các vụ thảm sát vì lý do tôn giáo xảy ra trong thế kỷ 16".
Nguyên nhân
Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy là đỉnh điểm của một loạt các biến cố:
Hòa ước Saint-Germain-en-Laye chấm dứt Chiến tranh Tôn giáo lần thứ ba ngày 8 tháng 8 năm 1570
Cuộc hôn nhân giữa Enrique III của Navarra và Marguerite của Pháp ngày 18 tháng 8 năm 1572
Vụ mưu sát không thành Đô đốc Gaspard de Coligny ngày 23 tháng 8 năm 1572.
Hòa ước và hôn nhân miễn cưỡng
Hòa ước Saint-Germain kết thúc ba năm chiến tranh kinh hoàng giữa người Công giáo và người Kháng Cách. Tuy nhiên, hòa ước này không thể bền vững vì những người Công giáo cứng rắn không chấp nhận nó. Khi nhà Guise, lãnh đạo phe Công giáo, bị thất sủng và lãnh tụ phe Kháng Cách, Đô đốc Gaspard de Coligny trở lại vị trí cũ trong hội đồng nhà vua trong tháng 9 năm 1571 đã khiến những người Công giáo cứng rắn quan ngại, nhưng Thái hậu Catherine de’ Medici và Vua Charles IX bày tỏ quyết tâm không để cuộc chiến bùng nổ lần nữa. Những quan tâm về khó khăn tài chính khiến nhà vua và thái hậu cố duy trì hoà ước cũng như sự hòa hoãn đối với Coligny. Những người Huguenot đang trong thế mạnh khi nắm giữ các thành trì kiên cố như La Rochelle, La Charité-sur-Loire, Cognac và Montauban. Để duy trì hòa khí giữa hai phe, Catherine de’ Medici sắp đặt cuộc hôn nhân giữa con gái của bà, Marguerite của Pháp, và một vương tử người Kháng Cách, Enrique III của Navarra (sau này là vua Henri IV của Pháp). Đám cưới vương tộc sẽ diễn ra ngày 18 tháng 8 năm 1572. Cuộc hôn nhân này không được chấp nhận bởi những người Công giáo bảo thủ, và cả Giáo hoàng. Giáo hoàng và vua Felipe II của Tây Ban Nha mạnh mẽ lên án thái hậu nước Pháp.
Căng thẳng
Rất đông người Kháng Cách thuộc giới quý tộc đến Paris tham dự đám cưới, cũng để bảo vệ nhà lãnh đạo của họ. Nhưng Paris là thành phố dễ bùng nổ bạo động chống người Kháng Cách. Dân Paris, những người Công giáo cực đoan, khó chấp nhận sự hiện diện của người Kháng Cách trong thành phố của mình, lại chịu kích động bởi những nhà thuyết giáo, đặc biệt là các tu sĩ dòng Capuchin, cảm thấy khó chịu với cuộc hôn nhân giữa một công chúa nước Pháp với một người Kháng Cách. Hội đồng Thành phố Paris muốn gây khó khăn cho hôn lễ. Thêm vào đó, trong khi các vụ mùa thất bát và giá cả tăng vọt thì sự hào nhoáng của hôn lễ hoàng gia làm gia tăng sự căm ghét trong dân chúng.
Triều đình bị phân cực. Catherine de’ Medici không có được sự chuẩn thuận của Giáo hoàng cho hôn lễ, nên các chức sắc cao cấp của giáo hội tại Pháp lưỡng lự. Thái hậu phải cố thuyết phục Hồng y thành Bourbon cử hành hôn lễ trong khi thái độ thù địch giữa các gia tộc đang lãnh đạo nước Pháp xuất hiện trở lại. Nhà Guise không muốn nhượng bộ nhà Montmorency. François, Công tước thành Montmorency, thống đốc Paris, không thể kiểm soát những bạo loạn trong thành phố, quyết định rời khỏi thành phố chỉ vài ngày trước hôn lễ.
Mưu sát Đô đốc Coligny
Sau đám cưới, Coligny và những nhà lãnh đạo khác thuộc phe Huguenot ở lại Paris để bàn bạc với nhà vua về những khiếu nại đối với Hoà ước Saint-Germain. Ngày 22 tháng 8 xảy ra vụ mưu sát Coligny. Người bị cho là thủ phạm, Maurevel, trốn thoát trong lúc hỗn loạn. Cho đến nay vẫn không thể khẳng định ai là người chịu trách nhiệm vụ mưu sát. Theo những ghi nhận từ lịch sử, có thể có:
Nhà Guise: Hồng y xứ Lorraine, Công tước Guise và Công tước xứ Aumale là những người đáng tình nghi nhất. Là những nhà lãnh đạo phe Công giáo, họ muốn trả thù cho cái chết của François nhà Guise mà họ tin là đã bị sát hại bởi Coligny mười năm trước. Phát đạn bắn đi từ một ngôi nhà thuộc dòng họ Guise.
Công tước xứ Alba, cai trị Hà Lan do sự ủy nhiệm của Felipe II: Coligny đang lãnh đạo chiến dịch giải phóng Hà Lan khỏi sự cai trị của người Tây Ban Nha. Trong mùa hè, Coligny đã bí mật gởi binh sĩ đến trợ giúp những người Kháng Cách ở Mons đang bị vây hãm bởi Công tước xứ Alba. Như thế, đô đốc đang là mối đe doạ đối với công tước.
Catherine de’ Medici: Thái hậu lo ngại khi thấy ảnh hưởng của Coligny trên nhà vua ngày càng gia tăng. Cùng với những vụ việc khác, Catherine sợ Coligny sẽ lôi kéo nước Pháp vào cuộc chiến chống Tây Ban Nha do những vấn đề ở Hà Lan. Tuy nhiên, khó mà tin rằng thái hậu là người chủ mưu, vì những nỗ lực của bà nhằm bảo đảm sự bình an của đất nước. Như vậy, nếu bà không chủ mưu, liệu bà có biết những âm mưu của nhà Guise hoặc của người Tây Ban Nha?
Thảm sát
Vụ mưu sát Coligny là biến cố khởi phát cuộc khủng hoảng dẫn đến vụ thảm sát. Đô đốc Coligny là nhà lãnh đạo Huguenot được kính trọng nhất. E sợ những bất ổn khởi phát từ phe Kháng Cách, nhà vua và triều đình đến thăm Coligny đang trên giường bệnh và hứa trừng phạt thủ phạm. Trong khi Thái hậu đang dùng bữa tối, những người Kháng Cách đòi hỏi công lý. Do lo ngại người Kháng Cách bị trả đũa, em rể của Coligny đem 4000 quân thiện chiến đến đóng bên ngoài Paris và, mặc dù không có dấu hiệu nào chứng tỏ sẽ bị tấn công, người Công giáo lo sợ sẽ có sự trả thù trên nhà Guise và dân thành Paris. Ngay đêm đó, Catherine có một buổi họp tại lâu đài Tuleries với các cố vấn người Ý của bà và Nam tước de Retz.
Đêm 23 tháng 8, Catherine đến gặp nhà vua để bàn về cuộc khủng hoảng. Dù không còn chi tiết nào được giữ lại đến ngày nay, Charles IX và mẹ đã quyết định thanh trừng các nhà lãnh đạo Kháng cách, ngoại trừ những ông hoàng cùng huyết thống như Henri xứ Navarre và Hoàng tử Condé. Theo những câu chuyện kể, nhà vua nói: "Được rồi, hãy làm như thế! Giết chúng đi! Giết tất cả bọn chúng! Đừng để một tên nào còn sống mà làm phiền đến ta!".
Ngay sau đó, chính quyền thành phố Paris được triệu tập, nhận lệnh đóng các cổng thành và vũ trang người dân để ngăn chặn bất cứ âm mưu nổi dậy nào. Đội vệ binh Thụy Sĩ của nhà vua được giao nhiệm vụ giết những lãnh tụ Kháng cách có tên trong danh sách. Ngày nay khó mà xác định trình tự của các biến cố và biết chính xác thời điểm vụ tàn sát bắt đầu. Có lẽ dấu hiệu hành động là một hồi chuông đổ vào khoảnh khoắc giữa nửa đêm và hừng đông từ nhà thờ Saint-Germain-l’Auxerrois, gần cung điện Louvre, là nhà thờ giáo xứ của vua chúa Pháp. Trước đó, đội vệ binh Thuỵ Sĩ đã lôi những nhà quý tộc Kháng Cách ra khỏi điện Louvre và bắt đầu tàn sát họ trên đường phố. Đô đốc Coligny bị kéo khỏi giường bởi chính Công tước Henry de Guise, bị sát hại và thi thể của ông bị ném qua cửa sổ. Tình trạng căng thẳng âm ỉ kể từ Hòa ước Saint-Germain nay bùng nổ dữ dội để trở thành làn sóng bạo động lan ra cùng khắp. Người dân Paris bắt đầu săn đuổi người Kháng Cách khắp mọi nơi trong thành phố. Sự tàn bạo của cuộc tàn sát diễn ra theo cung cách không thể tin nổi. Dây xích được giăng ra trên đường phố để người Kháng Cách không thể trốn thoát khỏi nhà họ. Phụ nữ và trẻ em bị đâm chém cách lạnh lùng. Cuộc tàn sát kéo dài trong vài ngày bất kể những nỗ lực của nhà vua nhằm chấm dứt nó. Trong số những người bị giết có nhà soạn nhạc Claude Goudimel và triết gia Pierre de La Ramée.
Từ tháng 8 đến tháng 10, các vụ thảm sát tương tự bùng nổ tại những nơi khác như Toulouse, Bordeaux, Lyon, Bourges, Rouen và Orléans. Không thể biết chính xác con số nạn nhân, nhưng những ước tính cho rằng có khoảng từ 2.000 đến 100.000 người bị giết. Gần đây, một số sử gia ước tính có khoảng 2.000 người thiệt mạng ở Paris, và từ 5.000 đến 10.000 người ở những nơi khác trên nước Pháp.
Phản ứng
Những ghi nhận vào lúc ấy nói rằng thi thể người chết bị bỏ trôi sông đến nỗi không ai dám ăn cá. Phản ứng Giáo hoàng Gregory XIII là vui mừng: tất cả chuông nhà thờ ở Roma ngân vang cho ngày lễ tạ ơn, Castel Sant'Angelo nổ súng chào mừng, một huy chương đặc biệt được đúc để vinh danh sự kiện. Giáo hoàng cũng ra lệnh Giorgio Vasari thực hiện ba bức bích họa tại sảnh Sala Regia trong Điện Vatican miêu tả thương tích và cái chết của Coligny. Charles IX tuyên bố trước Quốc hội "Cuộc tàn sát nên được xem như là một sự báo thù từ Chúa; Coligny là mối đe dọa cho thế giới Cơ Đốc giáo, do đó giáo hoàng thiết lập ngày 11 tháng 9 năm 1572 là ngày kỷ niệm cho hai sự kiện: trận Lepanto và cuộc tàn sát người Huguenot". Giáo hội Công giáo chưa bao giờ chính thức xin lỗi với lập luận ngày lễ không phải để kỷ niệm cuộc tàn sát người Huguenot mà nhắc lại sự thất bại của một âm mưu lật đổ nhằm kiểm soát quyền chính tại Pháp.
Tại Paris, nhà thơ Jean-Antoine de Baïf, nhà sáng lập Viện Hàn lâm Âm nhạc và Thi ca, sáng tác một bài thơ sonnet hết lời ca tụng những người tham gia cuộc tàn sát. Ngược lại, hoàng đế Maximilian II của Thánh chế La Mã, nhạc phụ của Charles IX, tỏ ra kinh tởm, gọi cuộc thảm sát là "sỉ nhục". Những người Công giáo Pháp ôn hoà bắt đầu tự hỏi liệu sự đồng nhất tôn giáo có xứng đáng với cái giá phải trả cho quá nhiều máu đã đổ như thế, và họ bắt tay thành lập phong trào Politiques với chủ trương hòa hợp dân tộc là quan trọng hơn các quyền lợi giáo phái.
Các quốc gia Kháng Cách bày tỏ sự bất bình với cuộc tàn sát đẫm máu, và chỉ có những nỗ lực cao độ của các đại sứ của Catherine mới có thể ngăn sự sụp đổ của chính sách ngoại giao của thái hậu hầu duy trì mối giao hảo với các quốc gia này. Ngay cả đại sứ Vương quốc Anh tại Pháp, Sir Francis Walsingham, cũng suýt mất mạng trong cuộc thảm sát.
Lý giải
Trải qua các thế kỷ, cuộc Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy dấy lên nhiều tranh cãi. Các sử gia đương đại vẫn còn bất đồng về nguyên nhân và trách nhiệm về sự kiện:
Theo Denis Crouzet, do lo sợ nguy cơ xảy ra một cuộc nổi dậy của phe Kháng Cách, Charles IX chọn giải pháp bóp nghẹt nó ngay từ trong trứng nước hầu có thể bảo vệ quyền lực của mình. Như thế, quyết định này là của nhà vua, không phải của Catherine de’ Medici.
Cách giải thích truyền thống, được ủng hộ bởi Janine Garrisson, cho rằng Catherine de' Medici và các cố vấn Công giáo của bà là thủ phạm chính. Họ buộc nhà vua, một người bạc nhược và hay do dự, phải làm theo ý họ.
Theo Jean-Louis Bourgeon, chính là thành phố Paris đang sôi sục lòng căm ghét người Huguenot phải chịu trách nhiệm về cuộc thảm sát. Bourgeon nhấn mạnh rằng lúc ấy Paris đang đứng bên bờ vực của một cuộc cách mạng. Nhà Guise, rất được yêu thích ở đây, lợi dụng tình thế để gây áp lực lên nhà vua và thái hậu. Charles IX bị buộc phải ngăn chặn cuộc bạo loạn tiềm ẩn, như vậy, trách nhiệm thuộc nhà Guise và lực lượng dân quân cùng người dân thành phố.
Văn học nghệ thuật và cuộc Thảm sát
Câu chuyện về cuộc thảm sát được tiểu thuyết hóa bởi Prosper Mérimée trong tác phẩm Chronique du règne de Charles IX (1829), và bởi Alexandre Dumas trong Vương hậu Margot (La Reine Margot), cuốn tiểu thuyết xuất bản năm 1845, chính xác với những dữ kiện lịch sử được thi vị hoá bởi những chuyện tình lãng mạn cùng những cuộc phiêu lưu của các nhân vật trong truyện. Năm 1980, sự kiện này tiếp tục xuất hiện trong tiểu thuyết Paris ma bonne ville của Robert Merle.
Họa sĩ John Everett Millais, trường phái tiền Raphael, nổi tiếng khi nắm bắt được bản chất của sự xung đột trong hoạ phẩm A Huguenot, on St. Bartholomew's Day Refusing to Shield Himself from Danger by Wearing the Roman Catholic Badge, miêu tả một phụ nữ Công giáo đang cố thuyết phục người yêu Huguenot của cô mang huy hiệu của người Công giáo để có thể sống sót. Nhưng người đàn ông, muốn trung thành với đức tin, dịu dàng từ chối.
Nhà soạn kịch người Anh thời Elizabeth, Christopher Marlowe, được nhiều người biết tiếng khi cho phép người Pháp đến tị nạn tại lãnh địa của ông ở Canterbury, sáng tác một vở kịch chống Công giáo và chống Pháp dựa trên vụ thảm sát có tên The Massacre of Paris (Cuộc thảm sát tại Paris). Trong cuốn tiểu sử Thế giới của Christopher Marlowe, tác giả David Rígg thuật lại rằng sự kiện này đã ám ảnh suốt cuộc đời của nhà viết kịch, cuộc thảm sát đã được đưa vào các hồi cuối của những vở kịch đầu tay của ông, Tamburlaine 1 và 2, và Người Do Thái ở Malta. Nhà soạn nhạc Giacomo Meyerbeer cũng viết vở opera nổi tiếng Les Huguenots năm 1836.
Với điện ảnh, cuộc thảm sát được thuật lại trong cuốn phim câm sử thi của D. W. Griffith năm 1916 tựa đề Intolerance (Không dung thứ). Năm 1954, cuốn tiểu thuyết của Alexandre Dumas được Jean Dréville chuyển thể thành phim. Tới năm 1994, một lần nữa, Marguerite de Valois, Vương hậu Pháp xuất hiện trên màn ảnh trong bộ phim của Patrice Chéreau, diễn viên Isabelle Adjani trong vai Margot.
Thảm sát Ngày lễ Thánh Barthélemy cũng là khung cảnh của cuốn tiểu thuyết lịch sử của Tim Willocks,The Twelve Children of Paris (Quyển 2 của bộ truyện 3 tập Matthias Tannhauser) (2013). |
Công viên văn hóa 19/5 (hay còn gọi là Lâm Viên 19/5) là một công viên nằm trên đường Ngô Quyền thuộc phường 1, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, Việt Nam.
Công viên văn hóa 19/5 nằm trên địa bàn phường 1 cách trung tâm thành phố Cà Mau chừng 2 km về phía Tây. Công viên Văn hóa hay còn gọi Lâm viên 19-5 là một khu vui chơi giải trí rộng chừng 18,2 ha với nhiều tiểu cảnh gồm vườn hoa, tượng đài, cụm nhà sàn và ao cá Bác Hồ,...
Nơi đây còn giới thiệu đến công chúng nhiều loài sinh vật đặc trưng rừng ngập mặn như cá sấu, ba ba, khỉ, kỳ đà, trăn, rắn… đặc biệt khu vực vườn chim với hàng ngàn con chim (cò, vạc, diệc, cúm núm, vịt trời, cu đất,...) tự nhiên chọn làm nơi trú ngụ. Đây cũng là một trong những điểm tham quan ưa thích của du khách đến Cà Mau.
Vườn chim được xây dựng từ năm 1995 nhưng đến khoảng năm 1997 mới chính thức đi vào hoạt động. Trước đây vườn thuộc Sở Lâm nghiệp quản lý, nay đã trực thuộc Sở VHTT tỉnh. Qua các lần mở rộng, hiện diện tích của công viên đã lên đến 18 ha trong đó diện tích vườn chim 8 ha. Ông Phạm Hoài Nam, Phó Giám đốc vườn chim 19/5, cho biết: “Lúc cao điểm, ước tính có khoảng 10.000 con, trong đó cò, còng cọc chiếm 80%, số còn lại là vạc và các loài chim khác”.
Chú thích |
Người đẹp và quái thú (tiếng Anh: Beauty and the Beast; tiếng Pháp: La Belle et la Bête) là một câu chuyện cổ tích viết bởi tiểu thuyết gia Gabrielle-Suzanne Barbot de Villeneuve, được phát hành năm 1740 trong tập La Jeune Américaine et les contes marins (The young American and Marine Tales). Câu chuyện sau đó được chỉnh sửa bởi Jeanne-Marie Leprince de Beaumont và được phát hành năm 1756 trong tập Magasin des enfants (Shop of children) và được đánh giá là phiên bản phổ biến, có tính đại chúng hơn so với bản gốc. Cốt truyện của Beauty and the Beast bị ảnh hưởng bởi những câu chuyện trước đó, ví dụ như Cupid và Psyche, viết bởi Apuleius và Vua lợn, một truyện cổ Ý phát hành bởi Giovanni Francesco Straparola.
Câu chuyện này về sau được lưu truyền rộng rãi trong nhiều văn hóa châu Âu. Như ở Pháp, vở opera mang tên Zémire et Azor được viết bởi Marmontel và sáng tác bởi André Grétry vào năm 1771 đã thành công vang dội và khiến độ phổ biến của câu chuyện được đẩy lên cao. Sau đó, câu chuyện còn được làm thành nhiều phim điện ảnh, phim truyền hình và kịch, trong số đó có bộ phim hoạt họa của hãng phim Walt Disney Pictures vào năm 1991. Mới đây nhất, bộ phim của Pháp năm 2014 với nữ diễn viên Léa Seydoux đã thành công lớn với hình ảnh tuyệt đẹp và cách kể thú vị. Bên cạnh đó, ngoài bộ phim hoạt hình năm 1991, Disney vừa công bố chuyển thể thành phim điện ảnh, do Emma Watson làm nữ chính.
Tóm tắt cốt truyện
Ngày xưa, có một người lái buôn rất giàu có, ông sinh ra ba người con trai và ba cô con gái. Cả ba cô con gái đều xinh đẹp, nhưng đứa con gái út, Belle, là người xinh đẹp nhất, tốt bụng nhất và được cha yêu quý nhất. Cuộc sống gia đình ông gặp khó khăn những con thuyền lớn của ông gặp nạn, và cả nhà phải từ bỏ căn biệt thự huy hoàng để dời đến tạm lánh trong một ngôi làng hẻo lánh.
Một hôm, người cha nghe tin một trong những con tàu của ông thoát được, và quyết định lên đường đến bến cảng mong vớt vát lại được một ít của cải. Trước khi đi, ông đã hỏi hỏi các con gái muốn gì. Cô thứ nhất và cô thứ hai muốn trang sức, còn Belle muốn một bông hoa hồng. Thế nhưng, do số tài sản mất mát quá lớn, đến khi ông dùng hết mọi thứ còn lại để trả nợ thì không còn một xu dính túi, cũng vì thế không thể mua các thứ đồ mà các con gái ông yêu cầu. Khi trở về, ông bị lạc trong cơn bão tuyết và không biết bằng cách nào đã đi đến nhiều tòa lâu đài.
Dường như có một thế lực vô hình ngầm chào đón người đàn ông đi lạc, và người lái buôn sau một khoảng thời gian vất vả chưa kịp ăn uống đã chén sạch toàn bộ thức ăn và đồ uống được chủ nhân tòa lâu đài lặng lẽ chiêu đãi. Ông quyết định ngủ một đêm tại đó. Sáng hôm sau, ông ra vườn tình cờ thấy một vườn hồng và nhớ đến yêu cầu của Bella, ông quyết định ngắt một bông hoa. Đột ngột, một quái thú xuất hiện (còn có thể gọi là ác thú hay quái vật) và nói rằng sau khi tiếp nhận lòng mến khách của hắn đêm qua, ông lão sẽ phải chết. Người đàn ông tội nghiệp van xin và nói rằng chỉ xin một bông hồng cho cô con gái yêu quý. Sau khi nghe người lái buôn kể mọi chuyện, quái thú ra lệnh phải đưa một trong những người con gái của ông đến đây, nếu không toàn bộ gia đình ông sẽ bị giết. Trước khi đi quái thú còn tặng những hòm rương chứa đầy đủ những vật phẩm mà các người con của ông yêu cầu trước khi lên đường.
Về nhà, người lái buôn kể lại mọi chuyện cho tất cả những đứa con của mình. Những đứa con trai tình nguyện đến tòa lâu đài và chiến đấu với quái thú. Còn Belle do cảm thấy là do lỗi của mình, quyết định thẳng thắng đến tòa lâu đài để thế mạng cho cha. Khi Belle đến nơi, cô được quái thú tiếp đãi chu đáo, hằng ngày đều có đồ ăn thức uống tuyệt hảo và những bộ quần áo lộng lẫy, kèm theo đó là lời ngỏ muốn Belle làm vợ hắn. Cô hết lần này đến lần khác, và đêm nào cũng đi vào giấc mộng thấy một vị Vương tử tuấn tú hỏi những câu hỏi như kiểu vì sao cô lại từ chối gả cho hắn. Belle hết lần này đến lần khác trả lời rằng cô cũng có cảm tình với Quái thú nhưng chỉ giới hạn là bạn bè. Khi tỉnh lại, cô cho rằng vị Vương tử đang bị Quái thú giam giữ và lùng sục khắp lâu đài để tìm thấy chàng ta.
Nhiều tháng về sau, Belle không ngừng được cung phụng bởi Quái thú. Những bữa tiệc hoành tráng, những món trang sức và áo váy đắt tiền, nhưng Belle chỉ ngày càng tăng nỗi nhớ nhà mà thôi. Cô quyết định cầu xin Quái thú cho cô về thăm nhà, và Quái thú đồng ý với điều kiện phải quay lại đây đúng một tuần sau. Quái thú tặng cô một chiếc gương giúp cô thấy được việc gì diễn ra với Quái thú và một chiếc nhẫn giúp cô quay lại lâu đài ngay lập tức khi xoay 3 vòng quanh ngón tay. Khi cô trở về, cả nhà vui mừng, các chị cô thì ghen tị khi thấy cô được cuộc sống giàu sang, và quyết định kì kèo cô ở lâu hơn, vì họ hi vọng như vậy Quái thú sẽ nổi giận và ăn thịt Belle. Vốn yếu lòng, Belle đành chìu theo những lời ngon ngọt của hai người chị gái.
Vài ngày sau khi giới hạn đã qua, Belle cảm thấy tội lỗi vì phá vỡ lời hứa, bèn nhìn qua chiếc gương xem Quái thú thế nào. Cô hốt hoảng khi thấy Quái thú đang bán thân bất toại, chỉ còn thoi thóp bên cạnh bụi hồng, nơi mà cha cô đã bứt một cành hồng lúc trước. Belle không suy nghĩ gì mà dùng chiếc nhẫn để quay lại ngay bên cạnh Quái thú. Ôm Quái thú đang hấp hối trong lòng, Belle khóc và thú nhận cô yêu hắn. Giọt nước mắt cô rơi xuống, thì Quái thú chuyển thành vị Vương tử tuấn tú mà cô gặp trong giấc mơ. Tỉnh dây, Quái thú-vị Vương tử thật sự, đã cho Belle biết rằng chàng vốn là vị Vương tử quyền uy của lâu đài này, do từ chối giúp đỡ một bà tiên mà bị biến thành Quái thú gớm ghiếc và chỉ khi tìm được tình yêu đích thực thì mới quay lại làm người. Belle và Vương tử kết hôn và sống hạnh phúc về sau.
Chỉnh sửa
Trong truyện cổ tích của Pháp thì Belle ở trong một nhà giàu có ba chị em. Trong bộ phim hoạt hình nổi tiếng của Walt Disney thì Belle ở trong một nhà nghèo ở một thị trấn nhỏ và sống với một người cha, và có thêm một nhân vật nữa là gã Gaston nhà giàu kiêu ngạo muốn lấy Belle làm vợ vì cô xinh đẹp.
Trong bản gốc của Villeneuve, quá khứ của Quái thú lẫn Belle được đề cập tỉ mỉ hơn. Cha của Quái thú mất khi còn trẻ, và mẹ của hắn gây nên một cuộc chiến tranh để bảo vệ vương quốc. Thái hậu đưa hắn cho một mụ ác tiên chăm sóc, và ả đã cố gắng dụ dỗ hắn khi hắn trưởng thành, nhưng bị từ chối và đã biến hắn thành Quái thú như vậy. Còn Belle vốn là con gái của một vị Quốc vương và một Bà tiên hiền hậu, một bà Tiên ác khác muốn giết Belle để có thể cưới cha cô, và Belle được biến thành con gái lão thương nhân nhằm bảo vệ an toàn mạng sống. Cuối cùng, de Beaumont sau đó quyết định đơn giản hóa câu chuyện và do đó câu chuyện trở nên phổ biến hơn.
Chuyển thể
thumb|phải|200px|La Belle et la Bête năm 2014.
thumb|phải|200px|Beauty and the Beast năm 2017.
Tuy là một câu chuyện được sáng tác bởi một tác giả cụ thể, nhưng Beauty and the Beast trở thành đề tài không chỉ cho các cuốn tiểu thuyết về sau mà còn cả trong lĩnh vực điện ảnh.
Văn học
The Pig King, bởi Giovanni Francesco Straparola, một truyện cổ của Ý xuất bản trong The Facetious Nights of Straparola.
The Scarlet Flower, bởi Sergey Aksakov.
Beauty and the Beast... The Story Retold. Laura E. Richards. London: Blickie & Son, 1886. Also, Boston: Roberts Brothers, 1886.
Beauty: A Retelling of the Story of Beauty and the Beast, 1978 and Rose Daughter, 1997 (bởi Robin McKinley).
"The Courtship of Mr. Lyon", từ The Bloody Chamber của Angela Carter (1979), được dụa theo cốt của Madame Le Prince de Beaumont.
"Beauty", một truyện ngắn bởi Tanith Lee.
Fashion Beast, một vở diễn bởi Alan Moore, được chuyển thể minh họa tiểu thuyết năm 2012.
Trong The Last Wish (1993) của Andrzej Sapkowski, câu chuyện "A Grain of Truth" rất giống Beauty and the Beast.
Lord of Scoundrels (1995) bởi Loretta Chase.
The Fire Rose (1995) bởi Mercedes Lackey.
The Quantum Rose bởi Catherine Asaro.
Beastly, bởi Alex Flinn, dựng tại bối cảnh hiện đại ở Manhattan.
Điện ảnh
La Belle et la Bête (1946), đạo diễn bởi Jean Cocteau, diễn viên Jean Marais vai Quái thú và Josette Day vai Belle.
The Scarlet Flower (1952), đạo diễn bởi Lev Atamanov.
Một bộ phim năm 1962 đạo diễn bởi Edward L. Cahn, diễn viên Joyce Taylor và Mark Damon.
Năm 1987, The Cannon Group and Golan-Globus Productions phát hành Beauty and the Beast, một live-action dạng ca vũ kịch, đạo diễn bởi Eugene Marner.
Năm 1991, Walt Disney sản xuất bộ phim hoạt hình Beauty and the Beast, đạo diễn bởi Kirk Wise và Gary Trousdale..
Năm 1992, Beauty and the Beast, đạo diễn bởi Masakazu Higuchi và Chinami Namba..
Nhạc nền của video "I'd Do Anything for Love (But I Won't Do That)" bởi Meat Loaf, phát hành năm 1993, là ảnh hưởng bởi Beauty and the Beast.
Năm 2005, David Lister sản xuất Beauty and the Beast và Blood of Beasts.
Spike (2008), một phiên bản hắc ám của câu chuyện được dựng trên bối cảnh hiện đại bởi Robert Beaucage
Beastly (2011), đạo diễn bởi Daniel Barnz, dựa vào tiểu thuyết cùng tên của Alex Flinn, cuốn tiểu thuyết dựa vào cốt truyện của Beauty and the Beast.
La Belle et la Bête (2014), một bộ phim do Pháp và Đức sản xuất, đạo diễn bởi Christophe Gans. Diễn viên Léa Seydoux vai Belle và Vincent Cassel vai Quái thú.
Beauty and the Beast (2017), một bộ phim dựa trên bộ hoạt hình năm 1991 của hãng Walt Disney, diễn viên Emma Watson vai Belle và Dan Stevens vai Quái thú. |
Công ty dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (tên giao dịch tiếng Anh: Saigon Postel Corp., viết tắt SPT) là doanh nghiệp Việt Nam được thành lập vào năm 1995. SPT là doanh nghiệp cổ phần đánh dấu sự chấm dứt thế độc quyền hoàn toàn trong ngành viễn thông Việt Nam (trước đó chỉ có duy nhất VNPT). Từ khi thành lập đến nay, SPT đã cung cấp cho khách hàng các dịch vụ đa dạng, bao gồm dịch vụ Internet ADSL, gọi đường dài trong nước và quốc tế giá rẻ 177 sử dụng công nghệ VoIP, điện thoại cố định SRing với đầu số 4, điện thoại di động S-fone 095 đầu tiên sử dụng công nghệ CDMA tại Việt Nam, chuyển phát bưu chính SGP, SPT cung cấp các dịch vụ trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông và CNTT.
Chú thích
ngoài
SPT là nhà cung cấp các cấp dịch vụ bưu chính – viễn thông lớn tại Việt nam với các dịch vụ nổi bật như dịch vụ kết nối Internet cáp quang, dịch vụ kênh truyền dẫn viễn thông, dịch vụ thoại truyền thống/Thoại IP, dịch vụ wifi công cộng (S-wifi), dịch vụ chuyển phát bưu kiện-hàng hóa trong nước & quốc tế.
Công ty cổ phần Việt Nam
Dịch vụ bưu chính
Công ty bưu chính
Kinh tế Thánh phố Hồ Chí Minh |
Trong thiên văn học, sao đôi quang học là trường hợp khi hai ngôi sao (hay tổng quát là hai thiên thể) có vẻ nằm gần nhau khi được quan sát từ Trái Đất.
Có hai kiểu sao đôi quang học: sao đôi thị giác và sao đôi quang học biểu kiến. Các sao đôi thị giác được coi là một hệ sao đôi thực sự và nằm gần nhau trong vũ trụ ở mức đủ để có sự tương tác hấp dẫn khiến chúng quay quanh lẫn nhau. Trái lại, các sao đôi quang học biểu kiến là hai ngôi sao chỉ có vẻ ở gần nhau, và trên thực tế nằm cách nhau rất xa trong không gian và không có tương tác hấp dẫn.
Để phát hiện ra các sao đôi quang học không phải là sao đôi thực thụ, có thể quan sát chúng trong một thời gian dài, thường là nhiều năm. Nếu chúng chuyển động theo các đường thẳng, thì có nhiều khả năng chúng không nằm trong hệ sao đôi. Nếu vị trí của chúng dao động quanh nhau, thì chúng là sao đôi thực sự.
Người đầu tiên phát hiện ra một sao đôi quang học, trước đó bị ngộ nhận là một ngôi sao, là Giovanni Battista Riccioli năm 1650 khi ông quan sát ζ Ursae Majoris (Mizar). Từ thời điểm ấy, việc tìm kiếm các sao đôi quang học đã được tiến hành kỹ lưỡng và mọi ngôi sao có độ sáng sao tới cấp 10 đều được khảo sát. Ít nhất một trong 18 ngôi sao ở nửa bắc bầu trời có độ sáng 9.0 là một sao đôi gần quan sát được bằng một kính viễn vọng 36-inch.
Những ví dụ
Sao đôi thị giác
Sirius A và B
Procyon A và B
Capella A và B
Acrux A và B
Algol A và B
Sao đôi quang học
Winnecke 4
Tình trạng chưa xác định
Hệ Alpha Centauri (A và B) và Proxima Centauri (= Alpha Centauri C?)
Hệ Castor (Aa/Ab/Ba/Bb và YY Geminorum (= Castor Ca/Cb?)
Hệ Mizar (Aa/Ab/Ba/Bb) và Alcor (= Mizar C?)
Đôi
Sao chùm |
Hiệp định thương mại Việt-Mỹ là một hiệp định quan trọng được ký kết giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong năm 2000.
Tổng quát
Hiệp định được đàm phán ròng rã 5 năm bởi trưởng đoàn đàm phán Việt Nam Nguyễn Đình Lương; Nội dung Hiệp định gồm có 4 phần chính
Thương mại hàng hóa
Gồm có 9 điều khoản con:
Điều 1 nói về quy chế tối huệ quốc sẽ được áp dụng vô điều kiện và ngay lập tức với các thuế liên quan đến các hoạt động xuất nhập khẩu.
Điều 2 nói về cách đối xử cấp quốc gia về các cơ hội cạnh tranh bằng nhau cho sản phẩm của hai nước.
Điều 3 đưa ra các nghĩa vụ thương mại để bảo đảm cân bằng thương mại giữa hai nước.
Điều 4 khuyến khích việc quảng bá sản phẩm thương mại thông qua các triển lãm và hội chợ thương mại.
Điều 5 cho phép các văn phòng đại diện thương mại cấp nhà nước được thiết lập ở hai nước.
Điều 6 nói về các trường hợp khẩn cấp xảy ra trong thương mại.
Điều 7 đưa ra các biện pháp nếu có tranh chấp thương mại.
Điều 8 về thương mại giữa các doanh nhân nghiệp nước với nhau.
Điều 9 đưa ra các định nghĩa chung về công ty và xí nghiệp.
Các quyền sở hữu trí tuệ
Điều 1, 2: các định nghĩa chung.
Điều 3: đối xử cấp quốc gia.
Điều 4: quyền tác giả, gồm cả cho tác phẩm viết, chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu, băng ghi âm, ghi hình.
Điều 5: tín hiệu truyền qua vệ tinh.
Điều 6: nhãn hiệu hàng hóa.
Điều 7: sáng chế.
Điều 8: thiết kế bố trí mạch tích hợp.
Điều 9: bí mật thương mại.
Điều 10: kiểu dáng công nghiệp.
Điều 11 đến 18: thực thi quyền sở hữu trí tuệ, các thủ tục, biện pháp v.v.
Thương mại dịch vụ
Điều 1: Phạm vi và Định nghĩa
Điều 2: Đối xử Tối huệ quốc
Điều 3: Hội nhập Kinh tế
Điều 4: Pháp luật Quốc gia
Điều 5: Độc quyền và nhà cung cấp dịch vụ độc quyền
Điều 6: Tiếp cận thị trường
Điều 7: Đối xử Quốc gia
Điều 8: Các cam kết bổ sung
Điều 9: Lộ trình cam kết cụ thể
Điều 10: Khước từ Lợi ích
Điều 11: Các định nghĩa
Phát triển các quan hệ đầu tư
Điều 1: Các định nghĩa
Điều 2: Đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc
Điều 3: Tiêu chuẩn chung về đối xử
Điều 4: Giải quyết tranh chấp
Điều 5: Tính minh bạch
Điều 6: Các thủ tục riêng
Điều 7: Chuyển giao công nghệ
Điều 8: Nhập cảnh, tạm trú và tuyển dụng người nước ngoài
Điều 9: Bảo lưu các quyền
Điều 10: Tước quyền sở hữu và bồi thường thiệt hại do chiến tranh
Điều 11: Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
Điều 12: Việc áp dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước
Điều 13: Đàm phán về Hiệp định đầu tư song phương trong tương lai
Điều 14: Việc áp dụng đối với các khoản đầu tư theo Hiệp định này
Điều 15: Từ chối các lợi ích |
Cedega (trước đây được biết với tên WineX) là một sản phẩm phần mềm tư hữu của hãng TransGaming Technologies dựa trên Wine (khi giấy phép Wine vẫn còn là giấy phép MIT - chưa được chuyển thành LGPL) đã được thiết kế một cách đặc trưng để chạy các trò chơi vốn được thiết kế cho Microsoft Windows có thể chơi trên Linux dưới giấy phép GNU/Linux.
WineX đã được đổi tên thành Cedega vào ngày 22 tháng 6 năm 2004 khi phiên bản 4.0 phát hành.
Tính năng
Với Cedega, rất nhiều các ứng dụng và trò chơi 3D vốn được thiết kế cho hệ điều hành Microsoft Windows đã hoạt động một cách khá tốt trên Linux vì Cedega hỗ trợ DirectX API. Nhiều trò chơi có thể hoạt động ngay lập tức không chỉnh sửa với Cedega, tuy nhiên phần lớn trò chơi để hoạt động hoàn hảo trên Cedega vẫn phải dựa vào chỉnh sửa của người dùng. Bắt đầu từ phiên bản 5.2, Cedega có thêm tính năng Games Disc Database (Cơ sở dữ liệu đĩa trò chơi) giúp đơn giản hóa công đoạn chỉnh sửa đáng kể bằng cách lưu giữ những thông số cài đặt tối ưu cho từng trò chơi riêng biệt trong một cơ sở dữ liệu - khi đĩa trò chơi được đưa vào máy tính, Cedega sẽ tự động nhận biết trò chơi và sử dụng thông số cài đặt tối ưu. Tính năng cơ sở dữ liệu đĩa trò chơi có thể được tắt bởi người sử dụng, cho phép người dùng tự điền thông số riêng của mình.
TransGaming Technologies lưu giữ một cơ sở dữ liệu trò chơi tại http://transgaming.org/gamesdb/ , người dùng có thể tham khảo mức độ tương thích của từng trò chơi tại trang web trên.
Giấy phép
Cedega phần lớn là phần mềm tư hữu. Transgaming đã tạo một phần để phổ biến mã nguồn qua CVS, dưới nhiều giấy phép được trộn với nhau.
Trước đây, Cedega có thể được dùng thử trong vòng 14 ngày, ở bản dùng thử này, thỉnh thoảng logo của Cedega sẽ được hiển thị lên màn hình chuyển dần từ gần như trong suốt đến hình ảnh hoàn thiện, tuy nhiên hiện nay, TransGaming Technologies không còn cho phép dùng thử Cedega. Hiện tại, nếu người dùng muốn sử dụng phải trả 5 Euro (hoặc 5 Đô-la Mỹ hay 3 Bảng Anh) 1 tháng hoặc 55 Euro (hoặc 55 Đô-la Mỹ hay 33 Bảng Anh) cho 1 năm. Ngoài việc được dùng Cedega một cách hợp pháp, người mua còn có quyền bình chọn độ tương thích của từng trò chơi với Cedega trên cơ sở dữ liệu trò chơi của TransGaming Technologies.
Mặc dù Cedega không phải phần mềm miễn phí, TransGaming Technologies cho phép người dùng tải mã nguồn từ CVS, tự biên dịch & sử dụng cũng như phân phát bản đã biên dịch một cách phi lợi nhuận. Tuy nhiên, Cedega không khuyến khích người dùng tải Cedega từ CVS & tự biên dịch mã nguồn vì nếu quá nhiều người sử dụng Cedega bằng cách này, hoạt động của TransGaming Technologies sẽ bị ảnh hưởng lớn. Cụ thể, đoạn sau được sao chép từ trang mô tả giấy phép của Cedega:
"Note that while this license does permit certain kinds of non-commercial distribution of pre-compiled binary packages of Cedega, doing so on a large scale is discouraged, as it affects TransGaming's ability to continue to improve and develop the code. TransGaming reserves the right to change the license under which TransGaming-owned copyright code is made available, and will not hesitate to do so if non-commercial distribution of pre-compiled binary packages adversely affects the financing of continued development."
Tạm dịch:
"Chú ý là mặc dù giấy phép này cho phép một số hình thức phân phối phi lợi nhuận bản biên dịch sẵn của Cedega, chúng tôi không khuyến khích phân phối Cedega theo hình thức này trên phạm vi lớn vì việc này sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng nâng cấp & phát triển mã nguồn Cedega của TransGaming. TransGaming có quyền sửa đổi giấy phép phần mã nguồn sở hữu bởi TransGaming, và sẽ không ngần ngại sửa đổi nếu việc phân phối phi lợi nhuận bản biên dịch sẵn của Cedega ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của công ty."
Cách tải mã nguồn từ Cedega CVS trên Linux (# là dấu nhắc dòng lệnh):
<nowiki>
#cvs -d:pserver:[email protected]:/cvsroot login
- Mật khẩu đăng nhập là 'cvs' khi được hỏi (không bao gồm dấu ')
#cvs -z3 -d:pserver:[email protected]:/cvsroot co winex
</nowiki>
Chỉ trích
Mặc dù Cedega khá phổ biến với một số người dùng Linux, vẫn tồn tại một bộ phận cộng đồng mã nguồn mở từ chối sử dụng Cedega vì một số lý do chính sau:
Lợi dụng công sức của cộng đồng mã nguồn mở
TransGaming Technologies bị chỉ trích là lợi dụng công sức của cộng đồng mã nguồn mở để làm lợi cho bản thân mà không hề cống hiến lại cho cộng đồng. TransGaming Technologies phát triển Cedega dựa trên mã nguồn của Wine khi Wine vẫn sử dụng giấy phép MIT - giấy phép này không hề giới hạn cách TransGaming Technologies cung cấp phần mềm. Cụ thể, trái với GPL (Giấy phép Công cộng GNU) - giấy phép MIT không yêu cầu các phần mềm dựa trên phải để mở mã nguồn - trên thực tế, giấy phép MIT chỉ có một yêu cầu duy nhất: Dòng bản quyền của mã nguồn gốc phải được giữ nguyên. Lợi dụng điều này, TransGaming Technologies đã phát triển Cedega dựa trên Wine và bán Cedega dưới dạng phần mềm tư hữu. Mặc dù TransGaming Technologies có để mở một phần mã nguồn thông qua CVS, phần mã nguồn này được bảo vệ bởi Giấy phép tự do công cộng Aladdin - một giấy phép được nhiều người cho là không thực sự tự do. Cedega còn hỗ trợ một số phương pháp chống copy dựa trên CD (trong đó bao gồm SecuROM & SafeDisc), theo TransGaming Technologies, mã nguồn của những thành phần này họ không được tiết lộ vì chi tiết hợp đồng với nhà phát triển của những công nghệ trên.
Vì lý do trên, Wine thay đổi giấy phép sử dụng thành giấy phép LGPL. Có nghĩa là, những ai muốn phát hành một phiên bản sửa đổi của Wine cũng phải để mở mã nguồn dưới một giấy phép tương thích với LGPL. TransGaming Technologies chấm dứt việc sử dụng mã nguồn của Wine khi giấy phép Wine thay đổi. Tuy nhiên, gần đây, TransGaming Technologies lại tiếp tục sử dụng một số phần mã nguồn LGPL của Wine và để mở mã nguồn những thành phần này trên máy chủ công cộng.
Phản ứng với ý định cung cấp kèm phần mềm của một số bản phân phối Linux
Khi một số Bản phân phối Linux có ý định cung cấp kèm phần mềm của TransGaming Technologies trong bản phân phối - cụ thể là Debian và Gentoo, TransGaming Technologies dọa sẽ xiết chặt các điều khoản trong giấy phép phát hành.
Chỉ trích về hướng phát triển của Cedega
Nhiều người cho rằng sự phát triển của Cedega đồng nghĩa với việc các công ty sản xuất trò chơi không còn hứng thú với việc phát triển trò chơi tương thích với Linux cũng như gây khó khăn cho những công ty chuyên chuyển đổi trò chơi từ Windows sang Linux như Loki Software. |
Cristoforo Colombo (tiếng Tây Ban Nha: Cristóbal Colón; tiếng Anh: Christopher Columbus, khoảng trước 31 tháng 10 năm 1451 – 20 tháng 5 năm 1506) là một nhà hàng hải nổi tiếng người Ý và là một đô đốc của các vị Quân chủ Công giáo Tây Ban Nha, mà những chuyến vượt Đại Tây Dương của ông đã mở ra những cuộc thám hiểm Châu Mỹ cũng như quá trình thực dân hoá của Châu Âu. Ông thường được coi là một người dân Genova, nguồn gốc xuất thân là người Do Thái di cư như bao người khác ở thế kỷ 15 - 16.
Lịch sử coi chuyến đi đầu tiên năm 1492 của ông có tầm quan trọng lớn, dù thực tế ông không đặt chân tới lục địa cho tới tận chuyến thám hiểm thứ ba năm 1498. Tương tự, ông không phải là nhà thám hiểm đầu tiên của châu Âu tới châu Mỹ, bởi vì đã có những ghi chép về tiếp xúc xuyên Đại Tây Dương của châu Âu trước năm 1492. Có rất nhiều bằng chứng về việc người Na Uy thời trung cổ đã đặt chân đến và thiết lập nên các thuộc địa ở châu Mỹ. Tuy nhiên, chuyến đi của Colombo diễn ra trong thời điểm chủ nghĩa đế quốc và sự cạnh tranh kinh tế giữa các nước đang phát triển tìm cách kiếm của cải từ việc thành lập những con đường thương mại và thuộc địa đang nổi lên. Vì thế, giai đoạn trước năm 1492 được coi là giai đoạn Tiền Colombo, và thời gian diễn ra sự kiện này (Ngày Colombo) thường được kỷ niệm tại toàn thể châu Mỹ, Tây Ban Nha và Ý.
Thân thế
Nhà nghiên cứu Manuel da Silva Rosa cho rằng Colombo là một hoàng tử, con trai của vua Ba Lan Vladislav III.
Nhiều thuyết cho rằng Colombo sinh ra trong một gia đình công nhân ở nước Cộng hòa Genova.
Thời gian trước những cuộc thám hiểm
Các lý thuyết hàng hải
Từ lâu Châu Âu đã có những con đường giao thương an toàn tới Trung Quốc và Ấn Độ— nơi cung cấp các mặt hàng giá trị như tơ lụa và gia vị — từ thời Đế chế Mông Cổ nắm quyền bá chủ (Pax Mongolica, hay "Hòa bình Mông Cổ"). Với sự sụp đổ của Constantinopolis vào tay những người Hồi giáo năm 1453, con đường bộ dẫn tới châu Á không còn an toàn nữa. Các thủy thủ Bồ Đào Nha phải đi về phía nam vòng quanh châu Phi để tới châu Á. Colombo có một ý tưởng khác. Tới những năm 1480, ông đã phát triển một kế hoạch đi tới Ấn Độ (Indies) (sau này dùng để chỉ tất cả vùng phía nam và phía đông châu Á) bằng cách đi thẳng về phía tây xuyên qua "Đại Dương" (Đại Tây Dương).
Thỉnh thoảng có ý kiến cho rằng Colombo đã gặp nhiều khó khăn khi vận động tài trợ cho kế hoạch của mình bởi vì những người châu Âu tin rằng Trái Đất là phẳng. Trên thực tế, có ít người ở thời đại ấy tin vào chuyến đi của Colombo (và rõ ràng không có thủy thủ hay nhà hàng hải nào) tin vào điều đó chỉ vì khoảng cách giữa 2 lục địa vào thời đó quá xa để mà tàu bè có thể mang theo đầy đủ thức ăn và nước uống. Đa số mọi người đều đồng ý rằng Trái Đất là một hình cầu. Những lý luận của Colombo dựa trên chu vi của hình cầu đó.
Ở thời Alexandria cổ, Eratosthenes (276-194 TCN) đã tính toán chính xác chu vi Trái Đất, và từ trước đó vào năm 322 TCN Aristotle đã sử dụng các quan sát để suy luận rằng Trái Đất không phẳng. Đa số các học giả đều chấp nhận lý thuyết của Ptolemaeus rằng khối lượng đất của Trái Đất (đối với người châu Âu ở thời gian đó, gồm cả Âu Á và châu Phi) chiếm 180 độ khối cầu Trái Đất, còn 180 độ là nước.
Tuy nhiên, Colombo lại tin vào những tính toán của Marinus xứ Týros rằng đất chiếm 225 độ, nước chỉ chiếm 135 độ. Hơn nữa Colombo tin rằng 1 độ biểu hiện một khoảng cách ngắn hơn trên bề mặt Trái Đất so với khoảng cách mọi người thường tin. Cuối cùng ông đọc các bản đồ, lấy tỷ lệ theo dặm Ý (1.238 mét). Chấp nhận chiều dài một độ là 56⅔ dặm, từ những bản ghi chép của Alfraganus, vì thế ông tính ra chu vi Trái Đất tối đa là 25.255 kilômét, và khoảng cách từ quần đảo Canary tới Nhật Bản là 3.000 dặm Ý (3.700 km). Colombo không nhận ra rằng Alfraganus đã sử dụng dặm Ả rập còn dài hơn nữa, tới khoảng 1.830 mét. Tuy nhiên, ông không phải là người duy nhất "muốn có" Trái Đất nhỏ. Một hình ảnh có ấn tượng sâu sắc về Trái Đất thực sự trong đầu ông đã được thể hiện trong một quả địa cầu "Erdapfel" do Martin Behaim hoàn thành vào năm 1492 tại Nürnberg, Đức.
Vấn đề Colombo phải đương đầu là các chuyên gia không chấp nhận những ước tính khoảng cách tới Ấn Độ của ông. Chu vi thực của Trái Đất khoảng 40.000 km và khoảng cách từ Đảo Canary tới Nhật Bản là khoảng 19.600 kilô mét. Không con tàu nào ở thế kỷ 15 có thể mang đủ lương thực và nước ngọt để đi từ Đảo Canary tới Nhật Bản. Đa số các thủy thủ và nhà hàng hải châu Âu kết luận một cách chính xác rằng, những thủy thủ từ châu Âu đi về hướng tây để tới châu Á sẽ chết vì đói khát trước khi tới nơi.
Họ đã đúng, nhưng Tây Ban Nha, chỉ vừa mới thống nhất sau cuộc hôn nhân của Ferrando và Isabel lại muốn liều lĩnh để có lợi thế thương mại với Đông Ấn trước các nước châu Âu khác. Colombo đã hứa hẹn điều đó với họ.
Những tính toán của Colombo về chu vi Trái Đất và khoảng cách từ quần đảo Canary tới Nhật Bản không chính xác. Nhưng hầu như mọi người châu Âu đều sai lầm khi cho rằng khoảng cách đại dương giữa châu Âu và châu Á là không thể vượt qua. Dù Colombo đến khi chết vẫn cho rằng mình đã mở ra một con đường hàng hải trực tiếp tới châu Á, trên thực tế ông đã lập ra một con đường biển giữa châu Âu và châu Mỹ. Chính con đường tới châu Mỹ này, chứ không phải con đường tới Nhật Bản đã mang lại lợi thế cạnh tranh cho Tây Ban Nha để trở thành một đế chế thương mại.
Tìm nguồn tài trợ
Colombo lần đầu đệ trình kế hoạch của mình ra trước triều đình Bồ Đào Nha năm 1485. Các chuyên gia của nhà vua cho rằng con đường đó dài hơn ước đoán của Colombo (khoảng cách trên thực tế còn dài hơn nữa), và khước từ yêu cầu của Colombo. Sau đó ông tìm cách tìm kiếm hậu thuẫn từ phía triều đình Ferrando II ở Aragon và Isabel I tại Castilla, những người đã thống nhất đế chế Tây Ban Nha rộng lớn nhất sau khi kết hôn và cùng cai trị với nhau.
Sau bảy năm vận động ở triều đình Tây Ban Nha, nơi ông được trả một khoản lương để không mang kế hoạch của mình đi nơi khác, cuối cùng ông đã thành công năm 1492. Ferdinand và Isabella vừa chinh phục Granada, thành trì cuối cùng của người Hồi giáo trên bán đảo Iberia, và họ đã tiếp kiến Colombo tại Córdoba, trong vương quốc hay lâu đài Alcázar. Isabel nghe theo lời cha xưng tội của mình bác bỏ đề xuất của Colombo, ông ra đi trong thất vọng thì Ferdinand can thiệp. Sau đó Isabel gửi một toán lính tới tìm ông và Ferdinand sau này đã xứng đáng với lời ca ngợi là "nguyên nhân chủ yếu khiến những hòn đảo đó được khám phá". Vua Ferdinand được cho là đã "hết kiên nhẫn" về vấn đề này, nhưng điều này không được chứng minh.
Khoảng một nửa số tiền tài trợ tới từ các nhà đầu tư tư nhân Ý mà Colombo đã có quan hệ từ trước. Vì đã kiệt quệ tài chính sau chiến dịch Granada, triều đình cho phép vị quan coi ngân khố lấy vốn từ nhiều nguồn khác nhau của hoàng gia bên trong các doanh nghiệp. Colombo được phong chức "Đô đốc các Đại dương" và sẽ nhận được một phần trong mọi khoản lợi nhuận. Các điều khoản hợp đồng của ông khá ngớ ngẩn, nhưng chính con trai ông sau này đã viết, triều đình không thực sự mong đợi ông quay trở về.
Những chuyến đi
Chuyến đi đầu tiên
Chiều ngày 3 tháng 8, 1492, Colombo xuất phát từ Palos de la Frontera với ba chiếc tàu, Santa Maria (thuyền phó thứ nhất Joseph Vincent), Niña (thuyền phó thứ nhất Anthony Petane) và Pinta (thuyền phó thứ nhất Alexander Gibson). Những chiếc tàu này thuộc sở hữu của Juan de la Cosa và anh em Pinzón (Martin Alonso Pinzón và Vicente Yáñez Pinzón), nhưng triều đình đã buộc những người dân Palos phải đóng góp cho chuyến thám hiểm. Ban đầu Colombo đi tới Quần đảo Canary, thuộc sở hữu của Castile, nơi ông chất thêm lương thực dự trữ và sửa chữa tàu, ngày 6 tháng 9, ông bắt đầu cuộc vượt biển kéo dài năm tuần.
Một truyền thuyết cho rằng đội thủy thủ bị ốm và sợ hãi tới mực họ đã đe dọa lái tàu quay trở lại Tây Ban Nha. Dù sự thực ra sao thì chúng ta không được biết, nhưng có lẽ sự giận dữ của những người thủy thủ chỉ đơn giản là những lời phàn nàn hay những đề xuất của họ.
Sau 29 ngày không thấy đất liền, ngày 7 tháng 10, 1492, theo như được ghi chép trong nhật ký tàu, các thủy thủ thấy những con chim sống ở bờ biển bay về hướng tây, và họ cũng chuyển hướng để đổ bộ xuống đất liền. Sự so sánh ngày tháng cũng như sự suy luận sau này cho rằng đó là những chú chim dẽ Eskimo và chim choi choi vàng châu Mỹ.
Đất liền được một thủy thủ tên Rodrigo de Triana (cũng được gọi là Juan Rodriguez Bermejo) trên chiếc Pinta nhìn thấy lúc 2 giờ sáng ngày 12 tháng 10. Colombo đặt tên cho hòn đảo đó là San Salvador (ngày nay là Bahamas), dù thổ dân gọi tên nó là Guanahani. Nghĩa chính xác của tên hòn đảo trong tiếng Bahamas vẫn là chủ đề chưa được giải quyết; một giả thuyết cho rằng nó nghĩa là Đảo Samana, quần đảo Plana, hay Đảo San Salvador (được đặt tên là San Salvador năm 1925 bởi mọi người tin rằng đó chính là San Salvador của Colombo). Những người thổ dân ông gặp, Lucayan, Taíno hay Arawak, rất hòa bình và thân thiện. Colombo đã quan sát họ và nghiên cứu cách thức sinh sống của họ. Ông đã viết về những người da đỏ:
…Chúng tôi có thể thiết lập một quan hệ hữu hảo, bởi vì tôi biết rằng họ là một dân tộc có thể dễ dàng cải theo đức tin tôn giáo của chúng ta bằng tình yêu chứ không phải bằng vũ lực, nhận được những chiếc mũ lưỡi trai đỏ, những hạt thủy tinh để đeo vào cổ, và nhiều vật tầm thường khác, đó là một niềm vui lớn với họ, và đã biến họ thành bạn bè tốt của chúng tôi tới mức thật ngạc nhiên khi chứng kiến điều đó. Sau đó họ tới những chiếc xuồng của chúng tôi, bơi và mang cho chúng tôi những chú vẹt, những sợi chỉ bông rối, những ngọn giáo, và nhiều đồ vật khác; và chúng tôi đã trao đổi chúng lấy nhiều đồ vật khác, như các chuỗi hạt thủy tinh và những quả chuông nhỏ. Nói chung, họ lấy tất cả và hồn nhiên trao lại cho chúng tôi những gì họ có. Tôi có cảm tưởng rằng họ là một dân tộc rất sơ khai.…Họ rất khỏe mạnh, với những thân hình đẹp, và bình thản. Họ không mang và cũng không có khái niệm về vũ khí, bởi vì khi tôi đưa những thanh gươm cho họ, họ đã cầm đằng lưỡi và bị thương. Họ không có sắt…tôi thấy một số người có những dấu tích vết thương trên mình, và tôi ra dấu hỏi nguyên nhân, và họ giải thích rằng người dân từ hòn đảo lân cận tới muốn bắt họ, và họ đã phải tự vệ. Tôi tin, và vẫn tin rằng họ tới đây từ lục địa để bắt tù binh. Họ sẽ là những đầy tớ tốt và thông minh, bởi vì tôi quan sát thấy họ nhanh chóng hiểu điều được dạy, và tôi tin rằng họ sẽ dễ dàng trở thành các tín đồ Thiên chúa giáo, bởi vì theo tôi thấy họ không theo tôn giáo nào cả.''''
(Cristoforo Colombo, Journal of His First Voyage, Markham, trang 37-38)
Colombo cũng khám phá bờ biển phía đông bắc Cuba (đổ bộ ngày 28 tháng 10) và vùng bờ biển bắc Hispaniola, ngày 5 tháng 12. Tại đây, chiếc tàu Santa Maria bị mắc cạn buổi sáng ngày Giáng sinh năm 1492 và buộc phải bỏ lại. Ông đã được những người thổ dân cacique Guacanagari tiếp đón, họ cho phép ông để một số thủy thủ ở lại. Colombo đã lập ra khu định cư La Navidad và để 39 người ở lại.
Ngày 15 tháng 1, 1493, ông quay trở về theo đường Azores. Ông cùng chiếc tàu phải vật lộn với một cơn bão lớn. Sau khi rời đảo Santa Maria ở Azores, Colombo thẳng hướng về Tây Ban Nha, nhưng một cơn bão khác buộc ông phải vào Lisboa. Ông bỏ neo cạnh chiếc tàu tuần tra cảng của nhà Vua ngày 4 tháng 3, 1493, nơi ông được thông báo rằng một hạm đội 100 thuyền buồm nhỏ đã mất tích trong cơn bão. Đáng kinh ngạc, cả hai chiếc Niña và Pinta đều bình yên vô sự. Không được tiếp kiến Vua John tại Lisbon, Colombo đã viết một bức thư cho ông và chờ đợi hồi âm. Nhà vua yêu cầu Colombo tới Vale do Paraíso để gặp mặt. Một số người cho rằng việc ông vào Bồ Đào Nha là có chủ định.
Thời ấy quan hệ giữa Bồ Đào Nha và Castile khá căng thẳng. Colombo tới triều kiến đức Vua tại Vale do Paraíso (bắc Lisbon). Sau khi dừng lại ở Bồ Đào Nha hơn một tuần lễ, ông trở về Tây Ban Nha. Những lời đồn đại về việc ông tìm ra các vùng đất mới nhanh chóng lan khắp châu Âu. Ông tới Tây Ban Nha ngày 15 tháng 3.
Ông được coi là một anh hùng tại Tây Ban Nha. Ông trưng bày nhiều người dân bản xứ và số vàng đã tìm thấy trước triều đình, cũng như cả loại cây quý chưa được biết thời ấy là thuốc lá, quả dứa, gà tây và món đồ rất được các thủy thủ ưa thích, cái võng. Ông không mang về bất kỳ thứ gia vị Đông Ấn quý giá nào như hạt tiêu đen, gừng hay đinh hương. Trong nhật ký của mình, ông đã viết, "cũng có rất nhiều ají, là thứ hạt tiêu của họ, còn giá trị hơn hạt tiêu đen, và tất cả mọi người đều ăn nó, đây là thứ rất bổ dưỡng" (Turner, 2004, P11). Từ ají vẫn được sử dụng ở vùng Bắc Mỹ Tây Ban Nha để gọi loại hạt tiêu cay.
Trong chuyến đi đầu tiên của mình, Colombo đã thám hiểm San Salvador tại Bahamas (nơi mà ông tin là Nhật Bản), Cuba (nơi ông cho là Trung Quốc) và Haiti (nơi ông đã tìm thấy vàng).
Chuyến đi thứ hai
Đô đốc Colombo rời Cádiz, Tây Ban Nha, để tìm các lãnh thổ mới ngày 24 tháng 9, 1493, với 17 chiếc tàu chở lương thực dữ trữ và khoảng 1.200 người để thực dân hóa một cách hòa bình vùng đất ấy. Ngày 13 tháng 10, những chiếc tàu rời Quần đảo Canary như trước kia, và đi theo hướng chếch hơn về phía nam.
Ngày 3 tháng 11 1493, Colombo nhìn thấy một hòn đảo gồ ghề và ông đặt tên cho nó là Dominica. Cùng ngày, ông đổ bộ xuống Marie-Galante, và đặt tên cho nơi này là Santa Maria la Galante. Sau khi đi qua Les Saintes (Todos los Santos), ông tới Guadaloupe (Santa Maria de Guadalupe), và đã thám hiểm nơi này trong khoảng thời gian từ mùng 4 tháng 11 tới 10 tháng 11, 1493. Tuyến đường đi chính xác của ông xuyên qua Tiểu Antilles vẫn chưa được nhất trí, nhưng có lẽ ông đã quay về hướng bắc, phát hiện và đặt tên nhiều hòn đảo gồm cả Montserrat (Santa Maria de Monstserrate), Antigua (Santa Maria la Antigua), Redondo (Santa Maria la Redonda), Nevis (Santa María de las Nieves), Saint Kitts (San Jorge), Sint Eustatius (Santa Anastasia), Saba (San Cristobal), Saint Martin (San Martin), và Saint Croix (Santa Cruz). Ông cũng phát hiện ra dãy Quần đảo Virgin, đặt tên nó là Santa Ursula y las Once Mil Virgines, và đặt tên các quần đảo Virgin Gorda, Tortola, vvà Đảo Peter (San Pedro).
Ông tiếp tục đi tới Đại Antilles, và đổ bộ tại Puerto Rico (San Juan Bautista) ngày 19 tháng 11, 1493. Cuộc giao tranh nhỏ đầu tiên giữa người châu Mỹ và người châu Âu từ thời Vikings diễn ra khi những thủy thủ của ông cứu hai chú bé vừa bị những kẻ bắt giữ thiến.
Ngày 22 tháng 11, ông quay lại Hispaniola, biết rằng những người thủy thủ cũ của mình đã rơi vào một cuộc tranh cãi với thổ dân vùng trong và bị giết hại, nhưng ông không buộc tội vị thủ lĩnh Guacanagari, đồng minh của ông về việc đó. Một vị thủ lĩnh khác, tên là Caonabo, bị gán trách nhiệm vụ này và trở thành chiến binh kháng chiến đầu tiên của người thổ dân châu Mỹ. Colombo đã lập ra một khu định cư mới tại Isabella, trên bờ biển phía bắc Hispaniola, nơi lần đầu tiên ông tìm ra vàng, nhưng đây là một vị trí không thích hợp và khu định cư này nhanh chóng bị bỏ hoang. Ông bỏ một số thời gian thám hiểm vùng trong đảo để tìm vàng. Tìm thấy một ít, ông đã thành lập một pháo đài nhỏ ở sâu trong đất liền. Ông rời Hispaniola ngày 24 tháng 4, 1494, và tới Cuba (mà ông đặt tên là Juana) ngày 30 tháng 4 và Jamaica ngày 5 tháng 5. Ông đã thám hiểm bờ biển phía nam Cuba, mà ông tin là một bán đảo chứ không phải là một hòn đảo, và nhiều hòn đảo xung quanh gồm cả Đảo Youth (La Evangelista), trước khi quay trở lại Hispaniola ngày 20 tháng 8.
Trước khi rời Tây Ban Nha cho chuyến đi thứ hai, Colombo đã được Ferrando và Isabel ra lệnh giữ quan hệ hòa bình, thân ái với những người bản xứ. Tuy vậy ông đã gửi một bức thư về triều đình đề xuất bắt làm nô lệ một số người dân bản xứ, đặc biệt là người Carib, vì sự hiếu chiến và sự đối đầu của họ với người Taino. Dù vương gia khước từ đề xuất này, tháng 2 năm 1495 Colombo bắt 1.600 người Arawak (một bộ tộc khác, cũng là đối thủ của người Carib) làm nô lệ. Vì không có nơi canh giữ, 400 người được trả tự do.
Các cuộc thám hiểm mang tính khám phá không thể bù đắp chi phí cho chúng; bởi vì ở thời Phục hưng không có khoản tiền nào được chi cho mục đích thuần túy khoa học. Colombo đã cùng Isabel lập kế hoạch mở các địa điểm thương mại với các thành phố ở Viễn Đông, từng nổi tiếng sau những cuộc du lịch của Marco Polo, nhưng đã phải dừng lại như nói ở đầu bài. Tất nhiên, Colombo sẽ không bao giờ tìm thấy Cathay (Trung Quốc) hay Zipangu (Nhật Bản), và cũng không còn một vị Đại Hãn nào nữa. Chế độ Nô lệ đang phổ biến trong nhiều chủng tộc trên thế giới vào thời điểm ấy, gồm cả một số bộ lạc da đỏ. Đối với những người Bồ Đào Nha - mà Colombo học hỏi được đa số các kiến thức hàng hải của mình - chế độ nô lệ đã mang lại khoản thu tài chính đầu tiên sau cuộc đầu tư 75 năm ở Châu Phi.
Năm trăm sáu mươi nô lệ được chở về Tây Ban Nha; 200 người chết trên đường và nửa số còn lại bị ốm khi tới nơi. Sau những thủ tục pháp lý, một số người sống sót được thả và được ra lệnh dùng tàu về quê hương, những người khác được Isabel gửi đi làm nô lệ trên tàu. Colombo, tuyệt vọng vì không thể trả được tiền cho những nhà đầu tư, và cũng không nhận ra rằng Isabel và Ferrnando không còn muốn theo đuổi chính sách chinh phục biển cả như những người Bồ Đào Nha. Việc bắt nô lệ đã dẫn tới trận chiến lớn đầu tiên giữa người Tây Ban Nha và những người thổ dân tại Tân thế giới.
Colombo cũng áp đặt một hệ thống nộp cống tương tự hệ thống của người Aztec trong lục địa. Tất cả những người thổ dân tại Cicao ở Haiti trên 14 tuổi đều phải nộp một số vàng, và được trao một vật làm dấu đeo trên cổ. Những người không nộp đủ sẽ bị chặt tay. Dù có những biện pháp man rợ như vậy, Colombo không thể kiếm được nhiều và nhiều "người định cư" không thích hợp với thời tiết cũng như không còn ảo tưởng về những cơ hội làm giàu nhanh chóng. Một cuộc đổ xô đi tìm vàng đã diễn ra và sẽ mang lại những hậu quả thảm thương cho những người dân vùng Caribe, dù những nhà nhân loại học đã chứng minh rằng đã diễn ra nhiều cuộc hôn nhân khác chủng và sự đồng hóa hơn so với những gì chúng ta từng tin tưởng (xem Black Legend). Colombo đã cho phép những người định cư được trở về nhà cùng với những người vợ thổ dân hay với tư cách nô lệ của họ, điều này đã làm Isabel giận dữ.
Từ Haiti cuối cùng ông quay trở về Tây Ban Nha.
Chuyến đi thứ ba và sự bắt giữ
Ngày 30 tháng 5, 1498, Colombo cùng sáu chiếc tàu rời Sanlúcar, Tây Ban Nha, trong chuyến viễn hành thứ ba tới Tân thế giới. Ông đi cùng một người trẻ tuổi là Bartolomé de las Casas, người sau này cung cấp một phần bản ghi nhật ký của Colombo.
Colombo dẫn đầu hạm đội tới đảo Porto Santo của Bồ Đào Nha, quê vợ ông. Sau đó ông đi tới Madeira và dừng lại ở đây một thời gian với thuyền trưởng người Bồ Đào Nha João Gonçalves da Camara trước khi tới Quần đảo Canary và Cape Verde. Colombo đổ bộ xuống bờ biển phía nam đảo Trinidad ngày 31 tháng 7. Từ mùng 4 tháng 8 tới 12 tháng 8, ông thám hiểm Vịnh Paria nằm giữa Trinidad và Venezuela. Ông đã thám hiểm lục địa Nam Mỹ, gồm cả sông Orinoco. Ông cũng tới các đảo Chacachacare và Đảo Margarita, quan sát và đặt tên cho Tobago (Bella Forma) và Grenada (Concepcion). Ông đã miêu tả những vùng đất mới như là những phần lãnh thổ thuộc một lục địa chưa từng được biết tới trước đó, nhưng thể hiện nó liền với Trung Quốc, vồng lên để tạo thành hình cầu của Trái Đất.
Colombo quay trở lại Hispaniola ngày 19 tháng 8 và thấy sự bất bình của những người định cư Tây Ban Nha trên vùng đất mới, những người vỡ mộng về mảnh đất giàu có mà Colombo từng miêu tả. Colombo nhiều lần phải dàn xếp những vụ nổi loạn của những người định cư cũng như của thổ dân. Một số thủy thủ đã bị treo cổ vì bất tuân lệnh. Một số người định cư trước kia và các thày dòng tuyên truyền nói xấu Colombo trong triều đình Tây Ban Nha, buộc tội ông quản lý kém. Năm 1500, nhà Vua và Nữ vương phái vị quan hành chính vương thất Francisco de Bobadilla tới Tân thế giới, ngay khi đặt chân tới nơi (ngày 23 tháng 8), ông bắt giữ Colombo cùng các anh em và gửi họ về Tây Ban Nha. Năm 2005, một bản báo cáo từng bị thất lạc từ lâu được phát hiện trong đó miêu tả Colombo là một người lãnh đạo đặc biệt hung ác (xem mục Chức Toàn quyền bên dưới). Bản báo cáo này có thể giải thích một phần các nguyên nhân đưa tới quyết định của Vương gia Tây Ban Nha nhằm cách chức Toàn quyền vùng Ấn Độ của Colombo. Colombo đã từ chối được tháo gông xiềng trên chuyến tàu trở về Tây Ban Nha, và trong thời gian ấy ông đã viết một bức thư dài bào chữa cho mình gửi tới triều đình. Triều đình đã nhận bức thư của ông và trả tự do cho Colombo cùng các anh em.
Dù giành lại tự do, ông đã mất uy tín và mọi chức vụ từng có, gồm cả chức toàn quyền. Một sự lăng nhục khác, người Bồ Đào Nha đã giành thắng lợi trong cuộc đua tới Ấn Độ: Vasco da Gama đã quay trở về vào tháng 9 năm 1499 sau một chuyến đi tới Ấn Độ, đi về hướng đông vòng quanh châu Phi.
Chuyến đi thứ tư
Tuy vậy, Colombo đã tiến hành chuyến đi thứ tư, trên danh nghĩa là để tìm kiếm eo Malacca dẫn vào Ấn Độ Dương.
Cùng đi với anh/em trai Bartolomeo và cậu con trai 13 tuổi Fernando, ông rời Cádiz, Tây Ban Nha ngày 11 tháng 5, 1502. Ông đi tới Arzila trên bờ biển Ma rốc để giải cứu những binh sĩ Bồ Đào Nha được cho là đang bị những người Moors cầm giữ. Ngày 15 tháng 6, họ đổ bộ tại Carbet trên đảo Martinique (Martinica). Một cơn bão mạnh chuẩn bị tới, vì vậy ông phải tiếp tục lên đường, hy vọng tìm được nơi trú ẩn tại Hispaniola. Ông tới Santo Domingo ngày 29 tháng 6, nhưng không được phép vào cảng, và vị toàn quyền mới từ chối nghe những lời cảnh báo bão của ông. Vì thế, trong khi những chiếc tảu của Colombo trú ẩn ở cửa Sông Jaina, hạm đội chở vàng bạc đầu tiên của Tây Ban Nha đã lao thẳng vào cơn bão. Chiếc tàu duy nhất về tới Tây Ban Nha có mang theo tiền bạc và đồ đạc của Colombo, và tất cả những kẻ thù cũ của ông (và một số bạn hữu) đều chết đuối.
Sau khi dừng một thời gian ngắn ở Jamaica, ông đi tới Trung Mỹ, tới Guanaja (Isla de Pinos) trong Vịnh Quần Đảo ngoài khơi Honduras ngày 30 tháng 7. Tại đây Bartolomeo đã tìm thấy một số nhà buôn bản xứ và một chiếc canô lớn, nó được tả là "dài như một chiếc tàu galley" chất đầy hàng hoá. Ngày 14 tháng 8, ông đổ bộ xuống lục địa châu Mỹ tại Puerto Castilla, gần Trujillo, Honduras. Ông bỏ ra hai tháng sau đó để thám hiểm các bờ biển Honduras, Nicaragua, và Costa Rica, trước khi vào Vịnh Almirante, Panama ngày 16 tháng 10.
Tại Panama, ông được những người thổ dân thông báo cho biết về vàng vàng một eo biển dẫn sang đại dương khác. Sau nhiều cuộc thám hiểm, ông đã lập ra một đơn vị đồn trú tại cửa sông Rio Belen tháng 1 năm 1503. Ngày 6 tháng 4, một chiếc tàu bị mắc cạn trong sông. Cùng lúc ấy, đơn vị đồn trú bị tấn công, và những chiếc tàu khác cũng bị hư hại. Ông rời đi Hispaniola ngày 16 tháng 4, nhưng tiếp tục gặp những thiệt hại khác trong một cơn bão ngoài khơi Cuba. Không thể tiếp tục lên đường, những chiếc tàu phải thả neo ở St. Ann's Bay, Jamaica, ngày 25 tháng 6, 1503.
Colombo và đoàn người của mình mắc kẹt lại Jamaica trong một năm. Hai người Tây Ban Nha, với những chiếc xuồng của thổ dân, được phái đi cầu viện ở Hispaniola. Cùng lúc ấy, trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm thuyết phục những người thổ dân tiếp tục cung cấp lương thực cho đoàn người của mình, ông đã đe dọa thành công khi dự báo chính xác cho họ một lần nguyệt thực, sử dụng các bảng thiên văn do Rabbi Abraham Zacuto tạo ra khi ông đang làm việc cho nhà vua Bồ Đào Nha. Cuối cùng lực lượng hỗ trợ cũng tới ngày 29 tháng 6, 1504, và Colombo cùng đoàn người của mình tới Sanlúcar, Tây Ban Nha ngày 7 tháng 11.
Chức Toàn quyền
Trong thời làm Toàn quyền và Phó vương rõ ràng Colombo đã cai trị vương quốc của mình với tư cách một lãnh chúa. Francisco de Bobadilla, một thành viên của Order of Calatrava, và là Toàn quyền thứ hai sau Colombo từ năm 1500 tới năm 1502, đã được giao trách nhiệm điều tra sự cai trị của Colombo nhân danh Nhà vua Tây Ban Nha. Bản báo cáo dày 48 trang của ông - có được từ lời chứng của 23 người từng nhìn thấy hay nghe thấy về cách cư xử của Colombo cùng những người anh em ông - đã từng biến mất trong nhiều thế kỷ, nhưng đã được phát hiện năm 2005 trong văn khố Tây Ban Nha tại Valladolid. Nó được chứng minh có chứa những miêu tả về thời kỳ cầm quyền 7 năm của Colombo với tư cách Toàn quyền đầu tiên tại Ấn Độ. Theo bản báo cáo này Colombo bị cả những người bạn và kẻ thù của ông coi là có những hành động trừng phạt tàn nhẫn với thần dân của mình.
Colombo đã ra lệnh cắt tai và mũi của một người đàn ông, bị bắt khi ăn trộm ngô, và bán anh ta làm nô lệ. Một người phụ nữ cho rằng Colombo xuất thân hèn mọn đã bị anh/em trai của Colombo là Bartolomé trừng phạt: bà bị lột hết quần áo và lôi đi diễu hành trên lưng một con la. Khi Bartolomé cắt lưỡi bà, Colombo đã chúc mừng anh ta vì bảo vệ danh dự gia đình. Consuelo Varela, một nhà sử học Tây Ban Nha đã cho rằng: "Thậm chí những người yêu mến ông ta [Colombo] cũng phải chấp nhận những hành động tàn ác đó."
Cuối đời
Trong khi Colombo luôn coi việc phi tín ngưỡng là một trong những nguyên nhân dẫn tới các cuộc thám hiểm của ông, thì về cuối đời ông ngày càng tin vào tôn giáo. Ông tuyên bố mình nghe thấy những giọng nói thần thánh, kêu gọi tiến hành một cuộc thập tự chinh mới để chiếm Jerusalem, thường mặc đồ của dòng thánh Franciscan, và miêu tả những cuộc thám hiểm của ông là "thiên đường" như một phần kế hoạch của Chúa nhằm dẫn tới Sự phán xét cuối cùng và sự chấm dứt Thế giới.
Trong những năm cuối đời, Colombo đã yêu cầu triều đình Tây Ban Nha trao cho ông 10% lợi nhuận thu được từ những vùng đất mới, như những thỏa thuận trước đó. Bởi vì ông đã không còn giữ chức toàn quyền, triều đình cho rằng họ không phải tuân theo những điều khoản trong hợp đồng đó nữa, và từ chối những yêu cầu của ông. Sau này gia đình ông đã kiện đòi một phần lợi nhuận trong thương mại với châu Mỹ nhưng đã hoàn toàn thua cuộc 50 năm sau.
Ngày 20 tháng 5, 1506, Colombo qua đời tại Valladolid, trong tình trạng khá giàu có nhờ số vàng đã thu thập được ở Hispaniola. Ông vẫn tin rằng những chuyến đi của ông chạy dọc theo bờ biển phía đông châu Á. Sau khi chết, xác ông được excarnation—thịt được bỏ đi chỉ còn lại xương. Thậm chí sau khi chết, những chuyến đi của ông vẫn tiếp diễn: đầu tiên ông được chôn tại Valladolid và sau đó tại tu viện La Cartuja ở Sevilla, theo mong muốn của con trai ông Diego, người từng làm toàn quyền Hispaniola, di hài ông được chuyển về Santo Domingo năm 1542. Năm 1795, Pháp chiếm vùng này và ông lại được đưa tới La Habana. Sau khi Cuba giành độc lập sau cuộc Chiến tranh Tây Ban Nha-Mỹ năm 1898, di hài ông lại được đưa về Thánh đường Sevilla, và được đặt trong một ngôi mộ cầu kỳ. Tuy nhiên, một hộp chì có khắc chữ "Don Cristoforo Colombo" và chứa các phần xương của ông cùng một viên đạn đã được khám phá tại Santo Domingo năm 1877. Để bác bỏ những giả thuyết cho rằng di hài giả của ông đã được chuyển tới La Habana và rằng Colombo vẫn ở yên trong thánh đường Santo Domingo, các mẫu DNA đã được lấy tháng 6 năm 2003 (History Today tháng 8 năm 2003). Kết quả thông báo vào tháng 5 năm 2006 cho thấy ít nhất một phần di hài Colombo vẫn nằm lại Sevilla, nhưng chính quyền Santo Domingo không cho phép xét nghiệm mẫu di hài họ đang nắm giữ.
Nguồn gốc quốc tịch
Có nhiều giả thuyết về nguồn gốc quốc tịch của ông, gồm:
Nguồn gốc Genova
Trong cuốn Christopher Columbus, Xuất bản phẩm của Đại học Okla. (1987), trang 10-11, Gianni Granzotto đã cung cấp những thông tin sau do những người cùng thời với Colombo viết.
Pietro Martire [Peter Martyr], một người Lombard, là người đầu tiên viết niên biểu của Colombo và đã ở Barcelona khi Colombo quay trở về sau chuyến thám hiểm đầu tiên. Trong bức thư của ông đề ngày 14 tháng 5, 1493, gửi Giovanni Borromeo, ông đã coi Colombo là người Ligurian [vir Ligur], Liguria là vùng có Genoa.
Một bản tham khảo, từ năm 1492 của một người chép thuê trong triều đình Galindez, đã coi Colombo là "Cristóbal Colón, genovés."
Trong cuốn Lịch sử các vị vua Cơ đốc giáo, Andrés Bernaldez đã viết: "Colombo là một người đến từ vùng Genoa."
Trong cuốn Tổng quan và Lịch sử Tự nhiên Ấn Độ, Bartolomé de Las Casas xác nhận "quốc tịch Genoa" của ông;
và trong một cuốn sách cùng tên, Gonzalo de Fernández de Oviedo đã viết rằng Colombo "có nguồn gốc từ tỉnh Liguria."
Antonio Gallo, Agostino Giustiniani, và Bartolomeo Serraga đã viết rằng Colombo là người Genoa.
Nhà sử học Samuel Eliot Morison, trong cuốn sách "Đô đốc của Đại Dương" của mình, đã lưu ý rằng nhiều tài liệu hợp pháp tồn tại chứng minh nguồn gốc Genoa của Colombo, cha ông Domenico, và các anh/em trai Bartolomeo và Giacomo (Diego). Những tài liệu này được các công chứng viên viết bằng tiếng La tinh, và có giá trị hợp pháp trước các triều đình Genoa. Khi các công chứng viên qua đời, các tài liệu của họ được chuyển cho văn khố Cộng hòa Genoa. Các tài liệu, nằm yên không được khám phá cho tới tận thế kỷ 19 khi những nhà sử học Italia xem xét các văn khố đó, trở thành một phần của Raccolta Colombiana. Ở trang 14, Morison viết:
Bên cạnh những tài liệu mà chúng ta có thể lượm lặt được những sự kiện thực tế về cuộc sống thời trẻ của Colombo, ta còn có những tài liệu khác xác định rằng Nhà thám hiểm là con trai của người thợ dệt len Domenico, dù khả năng này còn bị nghi ngờ. Ví dụ, Domenico có một anh/em trai là Antonio, giống như ông cũng là một thành viên được kính trọng trong tầng lớp trung lưu thấp tại Genoa. Antonio có ba con trai: Matteo, Amigeto và Giovanni, người thường được gọi là Giannetto (tên Genoa tương tự "Johnny"). Giannetto, cũng như Christopher, đã rời bỏ một công việc buồn tẻ để ra biển. Năm 1496 ba anh em trai gặp gỡ nhau trong một phòng công chứng tại Genoa và đồng ý rằng Johnny phải tới Tây Ban Nha và tìm kiếm người anh họ lớn nhất "Don Cristoforo de Colombo, Đô đốc của Nhà Vua Tây Ban Nha," mỗi người chịu một phần ba chi phí chuyến đi. Chuyến đi tìm việc này rất thành công. Đô đốc đã trao cho Johnny quyền chỉ huy một tàu buồm nhỏ trong chuyến viễn du lần thứ ba tới châu Mỹ, và giao phó cho ông nhiều việc cơ mật.
Những ghi chép khác, ví dụ như tiểu sử do Fernando Columbus viết, cho rằng cha ông là một người quý tộc Italia. Ông đã miêu tả Colombo là dòng dõi một Bá tước Columbo của Lâu đài Cuccaro Montferrat. Tới lượt mình Columbo lại nói mình là hậu duệ của một vị Tướng viễn chinh La Mã Colonius, và hai trong số những người anh họ lớn nhất của ông được cho là hậu duệ trực tiếp của hoàng đế Constantinople. Hiện nay đa số tin rằng Cristoforo Colombo đã sử dụng câu chuyện này nhằm tô vẽ nguồn gốc quý tộc cho mình, một hình ảnh được tính toán kỹ để che đậy xuất thân nhà buôn hèn kém.
"Cuộc đời của Đô đốc Christopher Columbus theo lời kể của con trai Ferdinand," do Benjamin Keen dịch, Greenwood Press (1978), là bản dịch cuốn tiểu sử do con trai Colombo là Fernando viết: "Historie del S. D. Fernando Colombo; nelle quali s'ha particolare, & vera relatione della vita, & de fatti dell'Ammiraglio D. Cristoforo Colombo, suo padre: Et dello scoprimento ch'egli fece dell'Indie Occidentali, dette Mondo Nuovo,..."
Trong đoạn đầu trang ba bản dịch của Keen, Fernando bác bỏ câu chuyện kỳ cục rằng Đô đốc là hậu duệ của Colonus đã từng được Tacitus đề cập đến. Tuy nhiên, ông coi "hai người Coloni nổi tiếng đó, là họ hàng của ông." Theo ghi chú 1, trang 287, hai người đó "là dân đảo corse không có họ hàng với nhau hay với Cristoforo Colombo, một người là Guillame de Casenove, tên hiệu Colombo, Đô đốc nước Pháp dưới thời Vua Louis XI." Ở đầu trang 4, Fernando liệt kê Nervi, Cugureo, Bugiasco, Savona, Genoa và Piacenza là những nơi có thể là nguồn gốc xuất thân. Ông cũng viết rằng:
"Colombo... quả thực là tên tổ tiên ông. Nhưng ông đã thay đổi nó để phù hợp với ngôn ngữ đất nước nơi sinh sống và lập nghiệp" (Colom trong tiếng Bồ Đào Nha và Colón trong tiếng Castile).
Việc xuất bản cuốn Historie được các nhà sử học coi là cung cấp bằng chứng trực tiếp về nguồn gốc Genoa của Nhà thám hiểm. Cuối cùng cuốn sách của Fernando được cháu trai ông là Luis thừa kế, đứa cháu ăn chơi của Nhà thám hiểm. Luis luôn cần tiền và đã bán cuốn sách cho Baliano de Fornari, "một người giàu có và là một bác sĩ hảo tâm người Genoa." Ở trang xv, Keen đã viết:
"Trong cái lạnh mùa đông, ông Fornari già cả lên đường tới Venice, trung tâm xuất bản của Ý, để giám sát việc dịch và xuất bản cuốn sách."
Tại trang xxiv, lời đề tặng ngày 25 tháng 4 1571 của Giuseppe Moleto nói:
"Đức Ngài [Fornari], một người danh vọng và hào phóng, muốn ký ức về con người vĩ đại này trở thành bất hủ, dù đã bảy mươi tuổi, trong mùa đông băng giá, với chiều dài chuyến đi, đã đi từ Genoa tới Venice với mục tiêu xuất bản cuốn sách đó... để những cuộc khám phá của con người kiệt xuất này, vinh quang thực sự của Italia và đặc biệt của quê hương Đức Ngài, sẽ được biết tới."
Bằng chứng sử học khác về nguồn gốc Genoa của Colombo thể hiện trong di chúc của ông ngày 22 tháng 2, 1498, trong đó Colombo đã viết "yo nací en Genoba" (Tôi sinh tại Genoa). Di chúc này đề cập tới một nhà buôn người Genoa, người cũng được nhắc tới trong phiên tòa tại tòa án Genoa năm 1479. Hiện còn những bản ghi chép lời chứng của phiên tòa đó, và Colombo đã được gọi là làm chứng (có lẽ theo lời tuyên thệ). Trong bản chứng đó, Colombo đã tuyên bố rằng ông là một công dân Genoa, sống tại Lisbon.
Theo một cuộc điều tra do nhà sử học từng nghiên cứu một thời gian dài về Colombo là Manuel Rosa tiến hành bản di chúc cuối cùng này và bản cung năm 1498 còn nằm lại trong văn khố Sevilla, là một bản copy của bản chính đã mất và không hề có tên người làm chứng cũng như dấu công chứng nhà nước. Nó có nhiều điều mâu thuẫn, như được ký là El Almirante, trong khi trong bản copy có công chứng của điều khoản bổ sung di chúc năm 1506, nhân viên công chứng nhà nước nói rõ ràng rằng bản di chúc mà ông xem có ký chữ Christo Ferens. Nhiều người nghi ngờ đó là sự giả mạu. Nhiều nhà văn đã đưa ra những giả thuyết khác về nguồn gốc quốc tịch Colombo dựa trên các tài liệu khác. Chúng ta biết rất ít thông tin về Colombo giai đoạn trước những năm giữa thập niên 1470. Có người cho rằng điều này có lẽ vì ông đã giấu diếm điều gì đó— một sự kiện trong nguồn gốc xuất thân của ông hay lịch sử mà ông có ý muốn giữ kín.
Các giả thuyết khác
Câu hỏi về quốc tịch Colombo đã trở thành vấn đề tranh cãi sau khi chủ nghĩa quốc gia ngày càng phát triển; vấn đề này nảy sinh nhân kỷ niệm bốn trăm năm sự kiện khám phá châu Mỹ năm 1892 (xem Triển lãm Colombian thế giới), khi nguồn gốc Genoa của Colombo trở thành một niềm kiêu hãnh của một số người Mỹ gốc Italias. Tại thành phố New York, những bức tượng đối thủ của Colombo được các cộng đồng Hispanic (người Mỹ gốc Nam Mỹ) và Italia ký tên bên dưới, và những vị trí danh dự có mặt ở cả hai cộng đồng, tại Quảng trường Colombo và Công viên Trung tâm.
Một giả thuyết cho rằng Colombo đã phục vụ cho tên cướp biển Pháp là Guillaume Casenove Coulon và lấy họ của mình theo họ của hắn nhưng sau này đã tìm cách che giấu quá khứ hải tặc. Một số nhà sử học đã tuyên bố rằng ông là người xứ Basque. Những người khác nói ông là một converso (một người Do Thái Tây Ban Nha đã cải sang Thiên Chúa giáo). Tại Tây Ban Nha, thậm chí một số người Do Thái cải đạo đã bị buộc phải rời nước này sau nhiều vụ khủng bố; hiện vẫn có nhiều conversos đang bí mật theo Đạo Do Thái. Sự tương quan giữa đạo luật Alhambra, kêu gọi trục xuất tất cả những người Do Thái ra khỏi Tây Ban Nha và lãnh thổ của nó cũng như những vùng đất thuộc sở hữu của nước này ngày 31 tháng 7, 1492, và việc Colombo lên tàu bắt đầu chuyến đi đầu tiên của mình ngày 3 tháng 8 1492, đã ủng hộ cho giả thuyết này.
Một giả thuyết khác cho rằng ông là người thị trấn Calvi trên đảo Corsica, ở thời ấy là một phần cộng hòa Genoa. Hòn đảo thường xảy ra bạo động khiến dân chúng ở đây mang tiếng xấu, vì thế ông đã che giấu nguồn gốc của mình. Những giả thuyết khác cho rằng thực tế Colombo là người Catalan (Colom).
Cũng có nghiên cứu cho rằng Colombo có thể là người đảo Chios Hy Lạp. Lý lẽ ủng hộ giả thuyết này cho rằng thời ấy Chios đang thuộc quyền kiểm soát của Genoa, và vì thế là một phần của Cộng hòa Genoa, và rằng ông đã ghi nhận ký bằng tiếng La tinh hay tiếng Hy Lạp chứ không phải tiếng Italia hay Genoa. Ông cũng tự gọi mình là "Colombo de Terra Rubra" (Colombo của Trái Đất Đỏ); Chios nổi tiếng vì có đất đỏ ở phía nam nơi có trồng cây máttít (mastic) thường được người Genoa buôn bán. Cũng có một ngôi làng mang tên Pirgi trên hòn đảo Chios nơi cho tới tận ngày nay những người dân ở đó vẫn mang họ "Colombus."
Thậm chí có giả thuyết cho rằng văn bia trên mộ của ông, được dịch là "Hãy đừng để tôi bị nhầm lẫn mãi mãi," là lời ám chỉ của Colombo rằng quốc tịch của ông không đúng như sự thực được công bố khi còn sống. Tuy nhiên, câu viết thực tế trên văn bia, "Non confundar in aeternam" (trong tiếng La tinh), có lẽ phải được dịch chính xác hơn thành "Đừng bao giờ để tôi biến mất," và nó thường xuất hiện trong nhiều bài Thánh thi.
Giả thuyết khác cho rằng có thể ông sinh ra tại Alentejo, Bồ Đào Nha. Theo giả thuyết này, ông đặt tên hòn đảo Cuba theo tên thị trần Cuba tại Alentejo Bồ Đào Nha— thị trấn nơi, theo một số nhà sử học Bồ Đào Nha, ông sinh ra với cái tên Salvador Fernandes Zarco. Giả thuyết này dựa trên việc nghiên cứu một số sự kiện thực tế và tài liệu về cuộc đời ông và phân tích chữ ký của ông dưới Pháp thuật (Kabbalah) Do Thái, nơi ông miêu tả gia đình và nguồn gốc của mình. Macarenhas Barreto cho rằng: "Fernandus Ensifer Copiae Pacis Juliae illaqueatus Isabella Sciarra Camara Mea Soboles Cubae.", hay "Ferdinand người giữ thanh kiếm quyền lực Beja (Pax Julia in Latin), người đã cưới Isabel Sciarra Camara, là tổ tiên của tôi từ Cuba".
Bởi vì ông không bao giờ ký tên mình theo một quy ước, giả thuyết về danh hiệu càng được ủng hộ. Tên ông, Christopher, có nguồn gốc Hy Lạp nghĩa là "Người mang của Chúa" (Bearer of Christ) được chuyển sang tiếng La tinh và giữ nguyên nghĩa "Người mang của Chúa" (Christo ferens) "và của Linh hồn Linh thiêng" (Colombo, bồ câu trong tiếng La tinh, bởi vì theo truyền thống thường được biểu tượng hóa thành Linh hồn Linh thiêng), một sự đề cập tới Quân đoàn Christ nối tiếp sau Các hiệp sĩ Templar ở Bồ Đào Nha và bắt đầu thời đại thám hiểm. Hệ luận của những điều bên trên cho thấy ông có lẽ chủ tâm làm trệch hướng chú ý của những vị vua xứ Castilia khỏi mục tiêu Ấn Độ của họ. Vì thế ông có lẽ có lý do để giấu nguồn gốc xuất thân bởi vì Bồ Đào Nha là đối thủ lớn nhất của Tây Ban Nha về khám phá hàng hải. Nói tóm lại, ông là một "điệp viên mật". |
Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn
Thí nghiệm xuyên tiêu chuẩn |
Luồng có thể có một trong các nghĩa sau:
Luồng (Dendrocalamus barbatus), một loài thực vật thuộc nhóm tre nứa.
Chi Luồng (Dendrocalamus), một chi thực vật thuộc họ Hòa thảo
Luồng giao thông
Luồng (lý thuyết đồ thị): luồng trên mạng vận tải.
Luồng (điện toán)
Trang định hướng tên khoa học |
Bạch Tuyết có thể là:
Nhân vật Bạch Tuyết trong Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn, Truyện cổ Grimm
Nhân vật Bạch Tuyết trong bộ phim hoạt hình của hãng Disney sản xuất năm 1937 Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn phỏng theo Truyện cổ Grimm cùng tên.
Nhân vật Bạch Tuyết trong Bạch Tuyết và Hồng Hoa, truyện cổ tích của Đức, hoàn toàn khác với Bạch Tuyết và bảy chú lùn.
Nghệ sĩ cải lương Bạch Tuyết
Nghệ sĩ chèo Bạch Tuyết |
Mỹ Linh có thể là tên của một trong những nhân vật sau:
Tống Mỹ Linh: phu nhân của Tưởng Giới Thạch.
Ông Mỹ Linh: nữ diễn viên Hồng Kông.
Mỹ Linh: nữ diễn viên Việt Nam
Mỹ Linh (Đỗ Mỹ Linh): nữ ca sĩ nhạc nhẹ Việt Nam
Đỗ Mỹ Linh: người giành giải Hoa hậu Việt Nam 2016. |
Đây là danh sách những người đoạt giải Ig Nobel từ năm 1991 đến nay.
1991
Hoá học- Jacques Benveniste, phóng viên tận tâm của tạp chí Nature, cho sự nghiên cứu bền bỉ của ông, rằng nước, H2O, là một chất lỏng thông minh, và chứng minh nước có thể ghi nhớ những sự kiện sau khi tất cả những dấu vết của nó đã biến mất.
Y khoa- Alan Kligerman
Giáo dục- J. Danforth Quayle
Sinh học - Robert Klark Graham
Kinh tế - Michael Milken
Văn học - Erich von Däniken
Hoà bình - Edward Teller, cha đẻ của bom hạt nhân
Những giải không chính thức
Vật lý - Thomas Kyle
Nghiên cứu khác - Josiah S. Carberry
2005
Lịch sử Nông nghiệp - James Watson của Đại học Massey, New Zealand
Vật lý - John Mainstone và Thomas Parnell của Đại học Queensland, Úc.
Y khoa - Giải thưởng được trao cho Gregg A. Miller.
Văn học - những nhà cung cấp Internet của Nigeria.
Hoà bình - Claire Rind và Peter Simmons của Đại học Newcastle.
Kinh tế - Gauri Nanda của MIT.
Hoá học - Edward Cussler của Đại học Minnesota và Brian Gettelfinger của Đại học Wisconsin.
Sinh học - Benjamin Smith của Đại học Adelaide, Australia và Đại học Toronto, Canada, công ty nước hoa Firmenich (Thụy Sĩ), xí nghiệp ChemComm (Pháp), Craig Williams của Đại học James Cook và Đại học South Australia, Michael Tyler của Đại học Adelaide, Brian Williams của Đại học Adelaide và Yoji Hayasaka của Học viện Nghiên cứu rượu vang
Dinh dưỡng - giáo sư Yoshiro Nakamatsu ở Tokyo, Nhật Bản đã chụp ảnh và phân tích lại những bữa ăn của ông trong giai đoạn 34 năm.
Động lực học chất lỏng - Victor Benno Meyer-Rochow của Đại học Quốc tế Bremen, Đức và Đại học Oulu, Phần Lan và József Gál của Đại học Loránd Eötvös, Hungary.
2006
Âm học - Lynn Halpern, Randolph Blake và James Hillenbrand (Đại học Vanderbilt).
Dinh dưỡng - Wasmia al-Houty và Faten al-Mussalam (Cục Môi trường Kuwait)
Điểu cầm học - Ivan Schwab (Đại học California Davis) và Philip RA May (Đại học California Los Angeles), Hoa Kỳ
Hóa học - Antonio Mulet, José Javier Benedito và José Bon (Đại học University of Valencia, và Carmen Rosselló Đại học University of Illes Balears, Palma de Mallorca, Tây Ban Nha.
Hòa bình - Welshman Howard Stapleton (Wales).
Sinh học - Bart Knols và Ruurd de Jong Đại học Nông nghiệp Wageningen (Hà Lan).
Toán học - Nic Svenson và Piers Barnes của Tổ chức nghiên cứu và khoa học Úc
Văn học - Daniel Oppenheimer (Princeton University).
Vật lý - Basile Audoly và Sebastien Neukirch (Université Pierre-et-Marie-Curie, Paris.
Y học - Francis Fesmire (trường Y, Đại học Tennessee), Majed Odeh, Harry Bassan và Arie Oliven (Trung tâm Y tế Bnai Zion, Israel) và hai người Israel khác. |
Cleopatra là thể là:
Cleopatra I của Ai Cập (204 TCN – 176 TCN)
Cleopatra II của Ai Cập (185 TCN - 116 TCN)
Cleopatra III (142 TCN–101 TCN)
Cleopatra IV (138 TCN-112TCN)
Nữ hoàng Cleopatra VII (69 TCN-30 TCN)
Phim dựa theo nữ hoàng Cleopatra VII:
Cleopatra (phim 1912)
Cleopatra (phim 1917)
Cleopatra (phim 1920)
Cleopatra (phim 1934)
Cleopatra (phim 1962)
Cleopatra (phim 1963)
Cleopatra (phim 1999)
Hay của các bộ phim không dựa vào vị nữ hoàng này như:
Cleopatra (phim 1928)
Cleopatra (phim 1970)
Cleopatra (phim 2003)
Cleopatra IV |
Võ Thị Sáu (1933– 23 tháng 1, 1952) là một nữ du kích trong Chiến tranh Việt-Pháp ở Việt Nam, người nhiều lần thực hiện các cuộc mưu sát nhắm vào các sĩ quan Pháp và những người Việt cộng tác với chính quyền thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam.
Nhà nước Việt Nam xem cô như một biểu tượng Liệt nữ Anh hùng tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Pháp và đã truy tặng cho cô danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1993......
Tiểu Sử
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là con ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Đậu. Về nguyên quán, trên bia mộ chỉ ghi tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Nhiều tài liệu ghi nguyên quán của cô tại xã Phước Thọ (thuộc tổng Phước Hưng Hạ), tỉnh Bà Rịa, nay thuộc thị trấn Đất Đỏ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Một số tài liệu khác ghi nguyên quán của cô tại xã Long Mỹ (thuộc tổng Phước Hưng Thượng), tỉnh Bà Rịa, nay thuộc Long Mỹ, Đất Đỏ, Bà Rịa – Vũng Tàu.
Sinh ra trong một gia đình nghèo, cha làm nghề đánh xe ngựa chở khách thuê đi Long Điền, Phước Hải, mẹ buôn bán bún bì chả tại chợ Đất Đỏ, từ nhỏ, cô phải phụ giúp cha mẹ để sinh kế. Năm cô lên 4 tuổi, gia đình cô đã thuê một căn nhà thuộc dãy phố chợ do làng xây dựng để cho thuê mượn. Căn nhà này nay thuộc thị trấn Đất Đỏ, được Nhà nước Việt Nam cho phục dựng để làm nhà lưu niệm về cô.
Quá trình hoạt động
Tham gia kháng chiến
Sau khi quân Pháp tái chiếm vùng Đất Đỏ vào cuối năm 1945, các anh trai của cô đã thoát ly gia đình, hoạt động kháng chiến cho phong trào Việt Minh. Cô đã bỏ dở việc học, ở nhà giúp mẹ cha kiếm sống và bí mật tiếp tế cho các anh, vốn công tác trong Chi đội Giải phóng quân của tỉnh Bà Rịa.
Năm 1946, cô theo anh trai là Võ Văn Me vào khu kháng chiến, và trở thành liên lạc viên của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Năm 1947, cô chính thức trở thành đội viên Công an xung phong Đất Đỏ khi mới 14 tuổi. Từ đó, cô tham gia nhiều trận tập kích bằng lựu đạn, ám sát các sĩ quan Pháp và Việt gian cộng tác với quân Pháp; đặc biệt là trận tập kích bằng lựu đạn tại lễ kỷ niệm Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7 năm 1949 tại Đất Đỏ, gây được tiếng vang trong vùng.
Bị bắt và án tử hình
Vào tháng 12 năm 1949, trong một chuyến công tác tại Đất Đỏ, cô đã bị quân Pháp bắt được. Một số tài liệu khác ghi cô bị bắt vào tháng 2 năm 1950, sau khi cô và đồng đội dùng lựu đạn tập kích giết chết Cả Suốt và Cả Đay, là hương chức người Việt cộng tác đắc lực với quân Pháp, ở ngay phiên chợ Tết Canh Dần tại chợ Đất Đỏ.
Sau khi bị bắt, cô lần lượt bị đưa đi thẩm vấn và giam giữ tại các nhà tù Đất Đỏ, khám đường Bà Rịa và khám Chí Hòa. Tháng 4 năm 1950, tòa án binh của quân đội Pháp đã đưa cô ra xét xử với tội danh làm chết một sĩ quan Pháp và 23 người Việt cộng tác với Pháp.
Vào thời điểm xử án, cô chưa tròn 18 tuổi, vì vậy các luật sư bảo vệ cô căn cứ vào điểm này để tranh biện nhằm đưa cô thoát khỏi án tử hình. Mặc dù vậy, tòa án binh Pháp vẫn tuyên án tử hình cô. Bản án này đã gây chấn động dư luận, gây ra sự phản đối mạnh mẽ cả tại Việt Nam và ngay tại nước Pháp. Chính vì vậy, chính quyền quân sự Pháp không thể công khai thi hành bản án. Cô tiếp tục bị giam cầm tại khám Chí Hòa cho đến tận giữa tháng 1 năm 1952 thì bị chính quyền quân sự Pháp chuyển ra Côn Đảo để bí mật thi hành án tử hình khi cô đã được 19 tuổi.
Rạng sáng ngày 23 tháng 1 năm 1952, lúc khoảng 5 giờ, cô bị đưa đến văn phòng giám thị trưởng đặt trước sân Banh I để làm lễ rửa tội. Đến 7 giờ sáng, cô bị đưa đến sân Banh III phụ và bị xử bắn tại đây. Thi hài của cô được đưa ra Hàng Dương và được chôn tại huyệt đào sẵn. Trong "Sổ giám sát tử vong 1947–1954" còn lưu tại Côn Đảo, có dòng chữ ghi bằng tiếng Pháp: "Le 23 Janvier 1952: 195 G.267 Võ Thị Sáu dite CAM mort 23/1/1952 7h P.Condor Par balles..." (Tù nhân số G 267 Võ Thị Sáu bị xử bắn vào ngày 23/1/1952).
Những câu nói bất hủ của chị Võ Thị Sáu:
“Yêu nước chống bọn thực dân xâm lược không phải là tội”.
“Tao còn mấy thùng rác ở khám Chí Hòa, tụi bây vô mà tịch thu!”.
“Tao chỉ biết đứng, không biết quỳ”.
“Tôi không có tội. ...
“Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước”.
“Không cần bịt mắt tôi. Hãy để đôi mắt của tôi được nhìn đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng. Và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các người!
Tưởng niệm
Sau khi cô hy sinh chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã công nhận cô là liệt sĩ. Năm 1993, cô được Nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Năm 1995, Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh trình chiếu bộ phim Như một huyền thoại tái hiện cuộc đời Võ Thị Sáu.
Khu mộ của Võ Thị Sáu tại Nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo được tôn tạo nhiều lần và trở thành một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất tại Côn Đảo. Do ảnh hưởng từ các giai thoại hiển linh của cô, nhà lưu niệm Võ Thị Sáu luôn đầy ắp các vật phẩm phụng cúng từ nhiều nơi. Thậm chí, có hẳn cả một chương trình viếng mộ Võ Thị Sáu tại Hàng Dương vào lúc nửa đêm với rất nhiều người tham dự.
Ngôi nhà mà gia đình cô thuê ở cuối thập niên 1930 đầu thập niên 1940, đã được Nhà nước Việt Nam mua lại đầu thập niên 1980, trùng tu lại nguyên trạng ban đầu và công nhận là di tích cấp quốc gia theo Quyết định số 15/QĐ-BT ngày 27 tháng 1 năm 1986.
Tại nhiều địa phương ở Việt Nam, tên Võ Thị Sáu được đặt cho những con đường tại các đô thị cũng như nhiều trường học.
Đầu năm 2021, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành sắp xếp lại một số phường trên địa bàn thành phố. Theo đó, Phường 6, Phường 7 và Phường 8 tại Quận 3 được sáp nhập thành một phường, phường mới được đặt tên là phường Võ Thị Sáu.
Hình tượng Võ Thị Sáu cũng được đưa vào bài hát Biết ơn chị Võ Thị Sáu của nhạc sĩ Nguyễn Đức Toàn năm 1958. Bộ phim "Người con gái đất đỏ" được trình chiếu năm 1996 tại Việt Nam, được dựa trên những thông tin lịch sử về Võ Thị Sáu. Diễn viên đóng vai Võ Thị Sáu là ca sĩ Thanh Thúy, người được cho là đã thể hiện rất thành công hình tượng nhân vật Võ Thị Sáu. |
John von Neumann (Neumann János; 28 tháng 12 năm 1903 – 8 tháng 2 năm 1957) là một nhà toán học người Mỹ gốc Hungary và là một nhà bác học thông thạo nhiều lĩnh vực đã đóng góp vào vật lý lượng tử, giải tích hàm, lý thuyết tập hợp, kinh tế, khoa học máy tính, giải tích số, động lực học chất lưu, thống kê và nhiều lĩnh vực toán học khác.
Đáng chú ý nhất, von Neumann là nhà tiên phong của máy tính kỹ thuật số hiện đại và áp dụng của lý thuyết toán tử (operator theory) vào cơ học lượng tử (xem đại số Von Neumann), một thành viên của Dự án Manhattan, người sáng lập ra lý thuyết trò chơi và khái niệm cellular automata. Cùng với Edward Teller và Stanisław Ulam, von Neumann khám phá ra những bước quan trọng trong vật lý hạt nhân liên quan đến phản ứng nhiệt hạch (thermonuclear) và bom khinh khí.
Tiểu sử
Là người lớn nhất trong gia đình có ba anh em, von Neumann sinh ra với tên Neumann János Lajos (tên trong tiếng Hungary có họ đi trước tên) ở Budapest, Đế chế Áo-Hung (Osztrák-Magyar Monarchia), con của ông Neumann Miksa (Max Neumann), một luật sư làm việc trong một ngân hàng, và bà Kann Margit (Margaret Kann). Lớn lên trong một gia đình gốc Do Thái, János, thường gọi là "Jancsi", là một cậu bé thần đồng. Vào năm lên sáu tuổi, cậu bé có thể chia hai số với 8-chữ số nhẩm trong đầu và nói chuyện với cha bằng tiếng Hy Lạp cổ. Vào lúc lên tám, cậu đã biết rất nhiều về một ngành toán gọi là giải tích; lúc mười hai tuổi cậu có thể được xem là ở mức trên đại học. Cậu ta có thể nhớ chỉ bằng cách lướt nhìn qua trang sách. Cậu vào trường Fasori Gimnázium (Lutheran Gymnasium) vào năm 1911. Có nguồn cho rằng lúc 10 tuổi cậu bé mới đi học, và vào trường trung học luôn.
Vào năm 1913, cha cậu mua một danh hiệu, và gia đình Neumann đạt được danh hiệu Margittai của quý tộc Hungary, tương đương với von của Áo. Neumann János do đó trở thành János von Neumann - và János được Anh hóa thành John sau khi ông, mẹ ông và các anh di cư sang Hoa Kỳ vào thập niên 1930. Lưu ý là, ông sử dụng họ von Neumann, trong khi các anh chuyển thành các họ khác như Vonneumann và Newman.
Tại Đại học Budapest, von Neumann được các giáo sư bồi dưỡng về môn toán, đặc biệt là GS. Fekete, người đồng tác giả của bài báo khoa học đầu tiên của von Neumann khi ông mới 18 tuổi.
Ông nhận bằng Ph.D. về toán học (với các ngành phụ trong vật lý thực nghiệm và hóa học) từ Đại học Budapest vào năm 23 tuổi. Cũng trong thời gian này, ông học kỹ thuật hóa chất tại ETH Zurich ở Thụy Sĩ. Trong những năm từ 1926 đến 1930 ông là một giảng viên tư (Privatdozent) ở Berlin, Đức.
Von Neumann được mời sang Princeton, New Jersey vào năm 1930, và là một trong bốn người được chọn cho các giáo sư đầu tiên của Institute for Advanced Study, nơi ông là giáo sư toán học từ ngày thành lập viện năm 1933 cho đến khi ông mất.
Từ 1936 đến 1938, Alan Turing là khách viếng thăm tại học viện, nơi ông hoàn thành luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của Alonzo Church tại Princeton. Chuyến viếng thăm này xảy ra không lâu sau khi Turing xuất bản bài báo năm 1936 với tựa đề On Computable Numbers with an Application to the EntscheidungsproblemOn Computable Numbers with an Application to the Entscheidungsproblem (Về những số tính được với một áp dụng vào bài toán Entscheidungsproblem) liên quan đến những khái niệm của thiết kế logic của một máy giải được mọi bài toán. Von Neumann có lẽ biết đến ý tưởng của Turing nhưng không rõ là ông có sử dụng chúng vào thiết kế của máy tính IAS mười năm sau đó.
Vào năm 1937, ông trở thành công dân Mỹ. Vào năm 1938, von Neumann được trao giải thưởng Giải tưởng niệm Bôcher cho các công trình trong ngành giải tích.
Von Neumann lập gia đình hai lần. Vợ đầu của ông là Mariette Kövesi, cưới vào năm 1930. Khi ông cầu hôn, ông không có khả năng nói được gì nhiều hơn là "Cô và tôi có thể có một vài thú vui cùng nhau, và hiện nay cả hai chúng ta đã đều thích uống." Von Neumann đồng ý chuyển đổi sang Công giáo để làm đẹp lòng gia đình vợ. Đôi vợ chồng ly dị vào năm 1937, và sau đó von Neumann cưới người vợ sau, Klara Dan, vào năm 1938. Von Neumann có một đứa con gái, từ cuộc hôn nhân đầu, là Marina von Neumann Whitman. Marina sau này lập gia đình và là một giáo sư nổi tiếng trong thương mại quốc tế và chính sách công tại Đại học Michigan.
Von Neumann bị ung thư xương hay ung thư tuyến tụy vào năm 1957, có lẽ là do nhiễm phóng xạ trong khi theo dõi các thử nghiệm về bom A ở Thái Bình Dương, và có lẽ là các công việc sau này về vũ khí nguyên tử tại phòng thí nghiệm Los Alamos, New Mexico. (Nhà tiên phong vật lý hạt nhân đồng nghiệp Enrico Fermi chết vì ung thư xương vào năm 1954.) Von Neumann chết chỉ trong vài tháng sau những chẩn đoán ban đầu, trong đau đớn tột cùng. Ung thư cũng lan đến não bộ của ông, cắt đi hầu hết khả năng suy nghĩ của ông, trước đây là công cụ sắc bén và được trân trọng nhất của ông. Khi ông nằm hấp hối ở Bệnh viện Walter Reed ở Washington, D.C., ông chấn động bạn bè và người quen khi yêu cầu nói chuyện với một cha Công giáo La Mã.
Von Neumann có những ý tưởng có thể làm nhiều người ngày nay cảm thấy khó chấp nhận. Ông mơ đến việc thay đổi môi trường bằng cách, chẳng hạn, rải những màu nhân tạo trên băng ở hai cực để làm tăng khả năng hấp thụ bức xạ Mặt Trời và do vậy làm tăng nhiệt độ toàn cầu. Ông cũng ủng hộ tấn công phủ đầu Liên Xô bằng vũ khí hạt nhân, tin rằng làm như vậy sẽ ngăn họ chế tạo được bom nguyên tử.
Logic
Việc tiên đề hóa (axiomatization) toán học, theo mô hình tác phẩm Elements của Euclid, đã đạt đến một mức độ rộng và chặt chẽ mới vào cuối thế kỉ 19, đặc biệt là trong số học (nhờ vào công Richard Dedekind và Giuseppe Peano) và hình học (nhờ vào công của David Hilbert). Tuy nhiên, vào đầu thế kỉ 20, lý thuyết tập hợp, một ngành toán mới phát minh bởi Georg Cantor, và được đẩy vào chỗ khủng hoảng bởi Bertrand Russell với sự khám phá ra nghịch lý nổi tiếng của ông ta (về tập hợp của các tập hợp không thuộc chính nó), đã chưa được công thức hóa. Nghịch lý Russell bao gồm quan sát rằng nếu như tập hợp x (của tập các tập hợp không phải là thành viên của chính nó) là một thành viên của chính nó, thì nó phải thuộc về tập hợp các tập hợp không thuộc về chính nó, và do vậy không thể thuộc về chính nó; mặt khác, nếu như tập x không thuộc chính nó, thì nó phải thuộc tập của các tập hợp không thuộc chính nó, và do vậy nó phải thuộc về chính nó.
Vấn đề tiên đề hóa lý thuyết tập hợp đã được giải quyết một cách tiềm ẩn khoảng hai mươi năm sau (nhờ vào công của Ernst Zermelo và Abraham Frankel) bằng cách một chuỗi các nguyên lý được cho phép trong việc xây dựng tất cả các tập hợp được sử dụng thật sự trong toán học, nhưng không loại trừ một cách rõ rệt khả năng tồn tại những tập hợp thuộc về chính nó. Trong luận án tiến sĩ năm 1925, von Neumann chứng tỏ có thể loại bỏ khả năng đó trong hai cách bù trừ lẫn nhau: "tiên đề nền tảng" và khái niệm "lớp".
Tiên đề nền tảng thiết lập rằng tất cả các tập hợp đều có thể xây dựng từ dưới lên trong một các bước theo thứ tự kế tiếp nhau bằng các nguyên lý của Zermelo và Frankel, trong một cách thức rằng nếu một tập hợp thuộc về một tập khác thì tập thứ nhất cần phải đi trước tập thứ hai trong trật tự (do vậy loại trừ khả năng một tập hợp thuộc về chính nó.) Để biểu diễn rằng sự thêm vào của các tiên đề mới vào các tiên đề khác không sản sinh ra các mâu thuẫn, von Neumann giới thiệu một phương pháp biểu diễn (gọi là "phương pháp các mô hình nội tại") mà sau này trở thành những công cụ quan trọng của lý thuyết tập hợp.
Cách tiếp cận thứ hai của vấn đề dựa vào khái niệm lớp (class), và định nghĩa một tập hợp như là một lớp thuộc về các lớp khác, trong khi một "lớp nhỏ hơn" được định nghĩa như là một lớp không thuộc về lớp nào khác. Trong khi, trong cách tiếp cận của Zermelo/Frankel, những tiên đề cản trở việc xây dựng một tập hợp của các tập hợp không thuộc về chính nó, trong cách tiếp cận của von Neumann, lớp của các tập hợp không thuộc về chính nó có thể được xây dựng, nhưng nó là một "lớp nhỏ hơn" chứ không phải là một tập hợp.
Với đóng góp này của von Neumann, hệ thống các tiên đề của lý thuyết tập hợp trở thành đủ hoàn chỉnh, và câu hỏi kế tiếp là liệu là nó đã xác định hay chưa, mà không cần phải cải tiến. Một câu trả lời phủ định khá mạnh đưa ra vào tháng 9 năm 1930 tại Hội nghị toán học lịch sử tại Konigsberg, mà trong đó Kurt Gödel công bố "định lý đầu tiên về sự không toàn vẹn" nổi tiếng của ông: các hệ thống tiên đề thông thường là không hoàn toàn, theo ý nghĩa là chúng không thể chứng minh được tất cả những sự thật có thể diễn tả được trong ngôn ngữ của hệ thống đó. Kết quả này đủ mới để làm bối rối các nhà toán học của thời gian đó. Nhưng von Neumann, tham dự trong hội nghị đó, đã khẳng định tiếng tăm của ông như một người suy nghĩ ra vấn đề ngay tức khắc, và dưới một tháng sau đã có khả năng liên lạc với chính Gödel một hệ quả thú vị của định lý của ông: những hệ thống tiên đề thông thường là không có khả năng diễn tả sự nhất quán của chính chúng. Chính xác là hệ quả này đã thu hút được nhiều sự chú ý nhất, ngay cả nếu như nguyên thủy Gödel chỉ xem nó như là một điều tò mò, và có thể suy ra nó một cách độc lập (chính vì lý do này mà kết quả được gọi là "định lý Gödel thứ hai", mà không nhắc đến tên của von Neumann).
Vật lý lượng tử
Tại Hội nghị Toán học Quốc tế (International Congress of Mathematicians) năm 1900, David Hilbert trình bày danh sách nổi tiếng của ông về 23 bài toán được xem là trung tâm cho sự phát triển của toán học trong thế kỉ mới: bài toán thứ 6 trong danh sách này là "sự tiên đề hóa các lý thuyết vật lý". Trong các lý thuyết vật lý mới của thế kỉ chỉ một ngành là chưa nhận được một đối xử như vậy cho đến cuối thập niên 1930, đó là vật lý lượng tử (quantum mechanics - QM). Thật ra, chính QM nhận thấy rằng, vào thời gian đó, ở trong một điều kiện khủng hoảng về căn bản cũng giống như lý thuyết tập hợp vào đầu thế kỉ, đối diện với những vấn đề có bản chất cả triết lý lẫn kỹ thuật: một mặt, sự bất định rõ ràng của nó không được thu gọn về một giải thích mang dạng có thể định trước được, như là Albert Einstein tin rằng nó phải như vậy để hoàn toàn và đầy đủ; mặt khác, vẫn tồn tại hai mô hình gần đúng độc lập nhưng tương đương nhau, một là mô hình "cơ học ma trận" của Werner Heisenberg và mô hình "cơ học sóng" của Erwin Schrödinger, thế nhưng vẫn không có một mô hình lý thuyết thống nhất thỏa mãn.
Sau khi hoàn thành việc tiên đề hóa lý thuyết tập hợp, von Neumann bắt đầu đối đầu với việc tiên đề hóa vật lý lượng tử. Vào năm 1926, ông ngay lập tức nhận ra rằng một hệ lượng tử có thể được xem như là một điểm trong không gian Hilbert, tương tự như 6N chiều không gian (N là số hạt, 3 tọa độ chung và 3 động lượng chính tắc cho mỗi hạt) không gian của các pha trong cơ học cổ điển nhưng thay vào đó bây giờ là với vô hạn chiều (tương ứng với vô hạn số các trạng thái có thể xảy ra của hệ thống): các giá trị vật lý truyền thống (v.d. vị trí và momentum) do đó có thể được biểu diễn như là các toán tử tuyến tính nào đó tác động trong các không gian này. "Vật lý học" của cơ học lượng tử do đó được thu gọn về "toán học" của các toán tử tuyến tính Hermitian trong các không gian Hilbert. Ví dụ, nguyên lý bất định nổi tiếng của Heisenberg, theo đó sự xác định vị trí của một hạt sẽ ngăn chặn sự xác định momentum của nó và ngược lại, được diễn dịch thành sự "phi giao hoán" của hai toán tử tương ứng. Mô hình toán học mới này bao gồm cả những trường hợp đặc biệt là những mô hình của cả Heisenberg và Schrödinger, và tích lũy trong cuốn sách kinh điển năm 1932 với tựa đề The Mathematical Foundations of Quantum Mechanics (Những nền tảng toán học của cơ học lượng tử). Tuy vậy, các nhà vật lý, nhìn chung, cuối cùng vẫn thích một cách tiếp cận khác với của von Neumann (được xem như là rất đẹp và thỏa mãn yêu cầu bởi các nhà toán học). Cách tiếp cận đó được đưa ra vào năm 1930 bởi Paul Dirac và dựa vào một kiểu hàm số lạ (gọi là "delta của Dirac") vốn bị chỉ trích gay gắt bởi von Neumann.
Trong bất kì trường hợp nào đi nữa, cách xử lý trừu tượng của von Neumann cũng cho phép ông đương đầu với vấn đề hết sức căn bản của xác định và bất định. Trong cuốn sách của mình ông biểu diễn một định lý mà theo đó vật lý lượng tử không thể được bắt nguồn bằng những xấp xỉ thống kê từ một lý thuyết xác định thuộc kiểu được sử dụng trong cơ học cổ điển. Cách biểu diễn này chứa đựng một lỗi về khái niệm, nhưng nó đã giúp mở ra một hướng nghiên cứu mà, thông qua công trình của John Stuart Bell vào 1964 về Định lý Bell và những thí nghiệm của Alain Aspect vào năm 1982, cuối cùng cho thấy rằng vật lý lượng tử thật sự cần một "khái niệm thực tế" (notion of reality) khác hẳn với của vật lý cổ điển.
Trong một công trình đi kèm vào năm 1936, von Neumann chứng minh (cùng với Garrett Birkhoff) rằng vật lý lượng tử cũng cần một loại logic khác hẳn với thứ logic cổ điển. Chẳng hạn, ánh sáng (hạt photon) không thể đi qua hai bộ lọc tiếp nối nhau được phân cực vuông góc lẫn nhau (v.d. một theo phương ngang và một theo phương đứng), và do vậy, a fortiori (hơn thế nữa), nó không thể xuyên qua một bộ lọc thứ ba được phân cực chéo thêm vào hai bộ lọc kia, dù là đặt trước hay đặt sau chúng. Nhưng nếu như bộ lọc thứ ba này được thêm vào ở vị trí "chính giữa" hai cái kia, thì các photon sẽ thật sự đi xuyên qua. Và sự kiện thực nghiệm này được diễn dịch thành logic như là "tính phi giao hoán" của phép giao . Nó cũng cho thấy rằng những luật phân phối của logic cổ điển, và
, là không còn đúng được nữa cho lý thuyết vật lý lượng tử. Lý do cho việc này là vì một phép giao lượng tử, không giống như trường hợp phép giao cổ điển, có thể là đúng khi cả hai mệnh đề trong phép giao đều sai và điều này, chính nó, là vì trong vật lý lượng tử thường xuyên xảy ra một cặp khả năng (pair of alternatives) là xác định về ngữ nghĩa, trong khi mỗi thành phần là bất định. Tính chất này có thể được minh họa bởi một ví dụ đơn giản. Giả sử chúng ta đang xem xét các hạt (chẳng hạn như electron) với spin (momentum góc) không phải là các số nguyên mà chỉ có hai giá trị xảy ra: dương hay âm. Sau đó, một nguyên lý bất định thiết lập rằng spin, tương đối với hai trục khác nhau (v.d. x và y) cho kết quả là một cặp các giá trị không tương thích nhau. Giả sử rằng trạng thái ɸ của một electron nào đó kiểm chứng mệnh đề "spin của electron x có giá trị dương". Dựa vào quy luật bất định, giá trị của spin theo trục y sẽ hoàn toàn bất định cho ɸ. Do đó, ɸ không thể kiểm chứng cả mệnh đề "spin theo trục y dương" hay là mệnh đề "spin theo trục y âm." Dù thế nào đi nữa, giao của hai mệnh đề "spin theo trục y là dương hay spin theo trục y là âm" phải đúng cho ɸ. Trong trường hợp phân phối, do đó là có thể có tình huống mà trong đó , trong khi .
Kinh tế
Cho đến thập niên 1930, ngành kinh tế dường như liên quan đến việc sử dụng rất nhiều toán và số liệu; thế nhưng hầu hết những thứ này là nông cạn hoặc không liên quan một cách thích hợp. Nó được sử dụng, phần lớn, để đưa ra những công thức chính xác nhưng vô dụng và những lời giải cho những vấn đề mà trong thực tế, về bản chất là không rõ ràng. Kinh tế thấy mình trong một tình trạng giống như vật lý trong thế kỉ 17: vẫn đang chờ sự phát triển của một ngôn ngữ thích hợp để diễn tả và giải quyết các vấn đề của minh. Trong khi vật lý, dĩ nhiên, đã tìm ra ngôn ngữ trong phép tích vi tích phân, von Neumann đề nghị ngôn ngữ lý thuyết trò chơi và lý thuyết về các cân bằng tổng quát cho kinh tế.
Đóng góp đáng kể đầu tiên của ông là định lý minimax vào năm 1928. Định lý này thiết lập rằng trong những trò chơi tổng bằng không vơí thông tin đầy đủ (nghĩa là, trong đó, những người chơi biết trước chiến thuật của đối phương cũng như hệ quả của chúng) có tồn tại một chiến thuật cho phép cả hai người chơi tối thiểu hóa (minimize) giá trị tổn thất cực đại (maximum losses) của họ (do vậy có tên là minimax). Đặc biệt là, khi xem xét tất cả mọi chiến lược, một người chơi phải xét tất cả các đối phó có thể của đối phương và giá trị tổn thất cực đại có thể xảy ra. Người chơi sau đó chơi theo chiến thuật với kết quả làm tối thiểu hóa tổn thất cực đại này. Một chiến thuật như vậy, làm tối thiểu tổn thất cực đại, được gọi là tối ưu cho cả hai người chơi trong trường hợp minimax của họ là bằng nhau (theo giá trị tuyệt đối) và ngược dấu nhau. Nếu như giá trị chung là zero, trò chơi trở nên vô nghĩa.
Von Neumann dần dần cải tiến và mở rộng định lý minimax để bao gồm cả những trò chơi có thông tin không hoàn toàn và những trò chơi có nhiều hơn hai người chơi. Công trình này được dồn lại trong cuốn sáck kinh điển năm 1944 với tựa đề The Theory of Games and Economic Behavior (Lý thuyết trò chơi và các cư xử kinh tế), cùng viết với Oskar Morgenstern.
Đóng góp quan trọng thứ hai của von Neumann trong lãnh vực này là lời giải, vào năm 1937, của một bài toán được mô tả lần đầu bởi Leon Walras vào năm 1874: sự tồn tại của các tình huống của thế cân bằng trong các mô hình toán học của thị trường phát triển dựa trên quy luật cung và cầu. Ông lần đầu tiên nhận ra rằng một mô hình như vậy nên được diễn tả thông qua các bất phương trình (như là ngày nay) chứ không phải là bằng các phương trình (như là được làm trước đây), và sau đó tìm ra một lời giải cho bài toán của Walras bằng cách áp dụng một định lý điểm bất động suy ra từ công trình của Luitzen Brouwer. Tầm quan trọng của công trình về cân bằng tổng quát và các phương pháp dùng các định lý điểm bất động được vinh dự bằng các giải Nobel năm 1972 cho Kenneth Arrow và, năm 1983, cho Gerard Debreu.
Von Neumann (và Morgenstern trong cuốn sách của họ năm 1944) là người đầu tiên sử dụng một phương pháp chứng minh, sử dụng trong lý thuyết trò chơi, biết đến như là đệ quy ngược .
Vũ khí
Vào năm 1937 von Neumann, sau khi nhận được quyền công dân Mỹ, bắt đầu nghiên cứu về những vấn đề trong toán ứng dụng. Ông nhanh chóng trở thành một trong những chuyên gia hành đầu trong ngành chất nổ, và đã cố vấn rất nhiều cho quân đội, chủ yếu là Hải quân Hoa Kỳ (có thể là ông thích giao du với các đô đốc hơn là các tướng lĩnh vì nhóm thứ nhất thích uống rượu trong khi nhóm thứ hai chỉ thích cà phê).
Một kết quả chú ý trong ngành chất nổ là khám phá của các loại bom cực lớn có sức công phá nhiều hơn nếu chúng được nổ trước khi chạm đất bởi vì những lực phát sinh thêm do các sóng của vụ nổ (báo chí nói đơn giản hơn là von Neumann tìm ra rằng nên tránh mục tiêu hơn là đâm vào đó). Áp dụng nổi tiếng (hay tai tiếng) nhất của khám phá xảy ra vào ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, khi hai quả bom nguyên tử phát nổ trên không trung của Hiroshima và Nagasaki, tại một độ cao được tính toán chính xác bởi chính von Neumann để chúng gây ra nhiều thiệt hại nhất.
Von Neumann đã được đưa vào Dự án Manhattan để giúp cho việc thiết kế kính nổ (explosive lense) cần để nén lõi plutonium của thiết bị trong thử nghiệm Trinity và vũ khí "Fat Man" thả xuống Nagasaki.
Từ một quan điểm chính trị, von Neumann là một thành viên của một ủy ban chọn ra các địa điểm có thể là "mục tiêu". Lựa chọn đầu tiên của von Neumann là thành phố Kyoto, bị loại bỏ bởi Bộ trưởng Chiến tranh Henry Stimson.
Sau chiến tranh, Robert Oppenheimer đã đưa ra nhận xét nổi tiếng rằng các nhà vật lý đã có "tội lỗi" do kết quả của việc phát triển những quả bom nguyên tử đầu tiên. Von Neumann trả lời hơi diễu cợt rằng "đôi khi một người thú tội để kể công cho mình." Trong trường hợp nào đi nữa, ông tiếp tục không lay chuyển trong công trình này và cuối cùng, cùng với Edward Teller, là một người duy trì các đề án kế tiếp về việc chế tạo bom hydrogen. Von Neumann đã hợp tác với điệp viên Klaus Fuchs về việc phát triển bom hydrogen, và hai người nộp bằng sáng chế bí mật Improvement in Methods and Means for Utilizing Nuclear Energy (Cải tiến các phương pháp và phương tiện sử dụng năng lượng hạt nhân) vào năm 1946, đưa ra một cách sử dụng vụ nổ bom phân hạt để nén nhiên liệu nhiệt hạch trước khi cố gắng khai hỏa một phản ứng nhiệt hạch. (Herken, pp. 171, 374). Mặc dù đây không phải là lời giải cho thiết kế thành công của bom hydrogen - thiết kế Teller-Ulam - sau này được đánh giá là một bước đi đúng hướng, mặc dù nó không được theo ngay lúc đó.
Các việc làm của von Neumann về bom hydrogen cũng nằm trong lãnh vực máy tính, khi ông và Stanislaw Ulam phát triển các chương trình mô phỏng trên máy tính về một loại máy tính mới của von Neumann cần thiết cho các tính toán thủy động lực học. Trong thời này ông đóng góp vào sự phát triển của phương pháp Monte Carlo, cho phép các bài toán rất phức tạp có thể xấp xỉ thông qua việc sử dụng số ngẫu nhiên. Bởi vì sử dụng danh sách của các số "thực sự" ngẫu nhiên là hết sức chậm trên máy ENIAC, von Neumann phát triển một dạng thô của việc tạo ra các số ngẫu nhiên giả (pseudorandom number), sử dụng phương pháp bình phương giữa. Mặc dù phương pháp này đã bị phê phán sau này là quá thô, von Neumann nhận thức được điều đó vào thời gian đó: ông dùng bởi vì nó nhanh hơn (theo thời gian tính toán) các phương pháp khác mà ông có vào thời điểm đó, và cũng để ý rằng khi phương pháp này cho ra sai số quá lớn, nó rất dễ nhận thấy, không như các phương pháp khác có thể không đúng một cách tinh vi.
Vào năm 1952, quả bom hydrogen đầu tiên, Ivy Mike, được khai hỏa ở Eniwetok Atoll.
Khoa học máy tính
Tên của von Neumann được dùng trong kiến trúc von Neumann được dùng trong hầu hết các loại máy tính, bởi vì các tác phẩm của ông về khái niệm này; mặc dù nhiều người cảm thấy cách đặt tên này đã bỏ qua các đóng góp của J. Presper Eckert và John William Mauchly cũng làm việc với các khái niệm đó trong công trình về máy ENIAC. Hầu hết các máy tính tại nhà, microcomputer, minicomputer và máy tính mainframe đều là máy tính von Neumann. Ông cũng là người sáng lập ra ngành cellular automata mà không cần dùng đến máy tính, xây dựng những ví dụ đầu tiên của automata có khả năng tự nhân đôi chỉ bằng bút chì và giấy vẽ. Khái niệm về một máy xây dựng tổng quát được trích ra từ cuốn Theory of Self Reproducing Automata (Lý thuyết Automata tự sinh sản) xuất bản sau khi ông qua đời. Thuật ngữ "máy von Neumann" cũng được dùng để chỉ về những loại máy móc có thể tự nhân đôi. Von Neumann chứng minh rằng cách hiệu quả nhất cho các vụ khai mỏ cực lớn như khai mỏ toàn bộ Mặt Trăng hay vanh đai tiểu hành tinh (asteroid belt) có thể đạt được bằng các máy móc tự nhân đôi được, để dựa vào sự phát triển theo hàm mũ của những cơ chế như vậy.
Thêm vào các công trình về kiến trúc máy tính, ông được cho là có ít nhất một đóng góp trong việc nghiên cứu thuật toán. Donald Knuth, vào năm 1945, đã dùng von Neumann như là người phát minh ra thuật toán được nhiều người biết đến của Knuth: thuật toán sắp xếp trộn (merge sort), trong đó hai nửa của một mảng được sắp xếp một cách đệ quy rồi trộn lại với nhau.
Ông cũng bận rộn trong việc thăm dò các bài toán trong lãnh vực thủy khí động lực diễn toán. Cùng với R. D. Richtmyer ông phát triển khái niệm độ nhớt nhân tạo, sau đó trở thành cơ sở cho việc nghiên cứu sóng chấn động. Công bằng mà nói, chúng ta có thể sẽ không biết nhiều về vật lý thiên văn, và đã không phát triển được các loại động cơ phản lực và tên lửa, nếu không có công trình đó. Vấn đề được giải quyết khi máy tính cố gắng giải các bài toán thủy khí động lực học, các chương trình đặt quá nhiều điểm lưới tại những điểm mà sóng chấn động là không liên tục. Khái niệm "độ nhớt nhân tạo" là một kĩ thuật tính toán nhằm làm trơn phần nào sự truyền chấn động mà không vi phạm nhiều về mặt cơ sở vật lý.
Các khả năng được nhận định
John von Neumann có khả năng giải quyết cũng một lúc trong đầu nhiều vấn đề phức tạp. Eugene Wigne viết rằng, một khi Neumann làm việc, "người có một khả năng làm việc hoàn hảo như một bánh răng trong động cơ mà độ chính xác đến từng inch". Israel Halperin cũng nói rằng:"đuổi kịp với anh ấy hầu như là chuyện không tưởng. Như người đi chiếc xe 3 bánh đang đuổi một chiếc xe hơi". Edward Teller "Neumann có thể dễ dàng thể hiện mình trội hơn bất cứ người nào mà anh ấy gặp. Tôi có lẽ chẳng bao giờ sánh với Neumann được". Và Teller bonus "Neumann có thể duy trì một cuộc trò chuyện với đứa con trai 3 tuổi của tôi như 2 người bạn đang trò chuyện với nhau, và tôi tự hỏi rằng liệu có phải anh ấy dùng cùng quy tắc ấy để nói chuyện với những người còn lại?. Hầu như mọi người trốn tránh hành đông suy nghĩ nếu có thể, một số người nghiện suy nghĩ, nhưng Neumann thực sự thích thú với việc suy nghĩ"
Lothar Wolfgang Nordheim tả John von Neumann là người có khả năng suy nghĩ nhanh nhất mà ông ấy từng gặp và Jacob Bronowski "Anh ấy là người thông thái nhất mà tôi biết. Là một thiên tài". George Pólya, giảng viên tại ETH Zürich khi von Neumann tham dự với tư cách là một sinh viên, nói rằng "Johnny là một học sinh duy nhất tôi phải dè chừng. Nếu trong giờ họ có bất kỳ vấn đề nào mà tôi không giải được, hoặc chưa được giải quyết, thì như một điều bình thường rằng tại cuối buổi học tôi sẽ gặp được Johnny đến bên cùng với tờ giấy nháp, vài dòng chữ nguệch ngoạc và vấn đề được giải quyết một cách trọn vẹn"
Chính trị và các vấn đề xã hội
Von Neumann đã trải qua một sự nghiệp hàn lâm nhanh như chớp tương tự như vận tốc của trí tuệ của ông, ở tuổi 29 đạt được một trong năm vị trí giáo sư tại viện Institute for Advanced Study vừa thành lập tại Đại học Princeton (một vị trí khác là của Albert Einstein). Ông do vậy dường như có tham vọng vươn ra các ngành khoa học khác để thỏa mãn cá tính tham vọng của mình, và hợp tác với rất nhiều tập đoàn công nghiệp quân sự của Mỹ. Ông là cố vấn thường xuyên của CIA, Quân đội Hoa Kỳ, RAND Corporation, Standard Oil, IBM và nhiều công ty khác.
Như là Chủ tịch của "Ủy ban Tên lửa von Neumann" đầu tiên, và như là một thành viên của Commission for Atomic Energy sau này, bắt đầu từ 1953 cho đến cái chết của ông vào 1957, ông là khoa học gia với nhiều uy thế chính trị nhất ở Mỹ. Thông qua ủy ban của ông, ông phát triển nhiều tình huống khác nhau của việc chạy đua vũ trang hạt nhân, sự phát triển của các tên lửa liên lục địa và các tên lửa phóng lên từ tàu ngầm mang đầu đạn hạt nhân, và thế cân bằng chiến lược còn nhiều tranh cãi gọi là Chắc chắn Hủy diệt lẫn nhau (Mutually Assured Destruction). Có thể nói ông là bộ óc đằng sau các khía cạnh "khoa học" của Chiến tranh Lạnh đã tạo ra điều kiện trong bốn mươi năm của thế giới phương Tây.
Ông chết, bi thảm nhưng cũng trớ trêu, vì ung thư xương và ung thư tuyến tụy có thể là do nhiễm phóng xạ trong những thử nghiệm hạt nhân tiến hành tại Bikini Atoll vào năm 1946, những thử nghiệm mà các biện pháp an toàn cho quan sát viên đã được ông kiên trì bảo vệ nhiều năm trước đó. Giường hấp hối của von Neumann đặt dưới sự canh phòng cẩn mật của quân đội, và ông bị tẩm thuốc mê, để ông không vô tình tiết lộ các bí mật quân sự mà ông phải giữ kín.
Vinh danh
Giải thưởng John von Neumann của Institute for Operations Research and Management Science (INFORMS, trước đó là TIMS-ORSA) được trao năm cho cá nhân (hay đôi khi một nhóm) đã đóng góp một cách cơ bản và liên tục vào lý thuyết vận trù học (operations research) và các khoa học quản lý.
Huy chương IEEE John von Neumann được thưởng hàng năm bởi tổ chức IEEE "cho các kết quả xuất sắc đạt được trong khoa học và kỹ thuật có liên quan đến máy tính."
Bài giảng John von Neumann (John von Neumann Lecture) được trình bày hàng năm tại Society for Industrial and Applied Mathematics (SIAM) bởi một nghiên cứu viên đã đóng góp nhiều vào toán ứng dụng; người giảng cũng được thưởng cho một khoản tiền.
Von Neumann, một miệng hố trên Mặt Trăng, được đặt theo tên John von Neumann.
Hiệp hội các khoa học gia máy tính của Hungary, Neumann János Számítógéptudományi Társaság, được đặt theo tên John von Neumann.
Vào 4 tháng 5 năm 2005 Bưu điện Hoa Kỳ phát hành chuỗi các tem kỉ niệm các khoa học gia Mỹ, một tập bốn tem loại 37-xu tự dính. Các nhà khoa học được minh họa là John von Neumann, Barbara McClintock, Josiah Willard Gibbs và Richard Feynman. |
ARM (được viết cách điệu là arm, trước đây là từ viết tắt của Advanced RISC Machine, ban đầu là Acorn RISC Machine) là một họ kiến trúc dạng RISC cho các vi xử lý máy tính, được cấu hình cho các môi trường khác nhau. Arm Holdings phát triển kiến trúc và cấp phép nó cho các công ty khác, nơi mà sẽ thiết kế các sản phẩm của riêng họ để thực hiện một trong những kiến trúc đó bao gồm các SoC và các module hệ thống (SoM) kết hợp với các thành phần khác nhau như bộ nhớ, giao diện, radio. Họ cũng thiết kế các lõi thực hiện tập lệnh này và cấp phép cho các thiết kế này cho các công ty đối tác để thiết kế sản phẩm của riêng họ dựa trên các lõi này.
Các bộ xử lý có kiến trúc RISC thường yêu cầu ít bóng bán dẫn hơn các bộ xử lý có kiến trúc điện toán tập lệnh phức tạp (CISC) (như bộ xử lý x86 có trong hầu hết các máy tính cá nhân), giúp cải thiện chi phí, tiêu thụ điện năng và tản nhiệt. Những đặc điểm này là mong muốn đối với các thiết bị nhẹ, di động, chạy bằng pin bao gồm cả điện thoại thông minh, máy tính xách tay và máy tính bảng và các hệ thống nhúng khác. Đối với các siêu máy tính tiêu thụ một lượng điện lớn, ARM cũng có thể là một giải pháp tiết kiệm năng lượng.
ARM Holdings định kỳ phát hành bản cập nhật cho kiến trúc. Các phiên bản kiến trúc ARMv3 đến ARMv7 hỗ trợ không gian địa chỉ 32 bit (chip tiền ARMv3, được tạo trước khi ARM Holdings được hình thành, như được sử dụng trong Acorn Archimedes, có không gian địa chỉ 26 bit) và số học 32 bit; hầu hết các kiến trúc đều có các hướng dẫn có độ dài cố định 32 bit. Phiên bản Thumb hỗ trợ một tập lệnh có độ dài thay đổi, cung cấp cả hai lệnh 32 và 16 bit để cải thiện mật độ mã. Một số lõi cũ hơn cũng có thể cung cấp thực thi phần cứng cho mã byte Java. Được phát hành vào năm 2011, kiến trúc ARMv8-A đã thêm hỗ trợ cho không gian địa chỉ 64 bit và số học 64 bit với tập lệnh có độ dài cố định 32 bit mới.
Với hơn 100 tỷ bộ xử lý ARM được sản xuất tính đến năm 2017, ARM là kiến trúc tập lệnh được sử dụng rộng rãi nhất và kiến trúc tập lệnh được sản xuất với số lượng lớn nhất. Hiện tại, các lõi Cortex được sử dụng rộng rãi, các lõi "cổ điển" cũ hơn và các biến thể lõi SecurCore chuyên dụng có sẵn cho mỗi loại này để bao gồm hoặc loại trừ các khả năng tùy chọn.
Lịch sử phát triển
Nhà sản xuất máy tính Acorn Computer của Anh lần đầu tiên phát triển kiến trúc Acorn RISC Machine (ARM) vào những năm 1980 để sử dụng trong các máy tính cá nhân của mình.Các sản phẩm dựa trên ARM đầu tiên của hãng là các mô-đun đồng xử lý cho loạt máy tính BBC Micro. Sau khi máy tính BBC Micro thành công, Acorn Computer đã cân nhắc cách chuyển từ bộ xử lý MOS Technology 6502 tương đối đơn giản để giải quyết các thị trường kinh doanh giống như thị trường đã bị thống trị bởi IBM PC, được đưa ra vào năm 1981. Kế hoạch Acorn Business Computer (ABC) yêu cầu một số bộ xử lý thứ hai được chế tạo để hoạt động với nền tảng BBC Micro, nhưng các bộ xử lý như Motorola 68000 và National Semiconductor 32016 được coi là không phù hợp và 6502 không đủ mạnh cho giao diện người dùng dựa trên đồ họa.
Theo Sophie Wilson, tất cả các bộ xử lý được thử nghiệm tại thời điểm đó đều hoạt động giống nhau, với băng thông khoảng 4 Mbps.
Sau khi thử nghiệm tất cả các bộ xử lý có sẵn và thấy chúng thiếu, Acorn quyết định nó cần một kiến trúc mới. Lấy cảm hứng từ các bài báo từ dự án Berkeley RISC, Acorn đã cân nhắc việc thiết kế bộ xử lý của riêng mình. Chuyến thăm tới Western Design Center ở Phoenix, nơi 6502 đang được cập nhật bởi một công ty duy nhất có hiệu quả, cho thấy các kỹ sư của Acorn Steve Furber và Sophie Wilson họ không cần nguồn lực lớn và nghiên cứu hiện đại và cơ sở phát triển.
Wilson đã phát triển bộ hướng dẫn, viết mô phỏng bộ xử lý trong BBC BASIC chạy trên BBC Micro với bộ xử lý 6502 thứ 2. Điều này đã thuyết phục các kỹ sư Acorn rằng họ đang đi đúng hướng. Wilson đã tiếp cận Giám đốc điều hành của Acorn, Hermann Hauser và yêu cầu nhiều tài nguyên hơn. Hauser đã chấp thuận và tập hợp một nhóm nhỏ để triển khai mô hình của Wilson về phần cứng.
Acorn RISC Machine: ARM2
Dự án Acorn RISC Machine chính thức bắt đầu vào tháng 10 năm 1983. Họ chọn VLSI Technology làm đối tác silicon, vì họ là nguồn cung cấp ROM và chip tùy chỉnh cho Acorn. Wilson và Furber trưởng nhóm thiết kế. Họ đã triển khai nó với một đặc tính hiệu quả tương tự như 6502. Mục tiêu thiết kế chính là đạt được xử lý đầu vào / đầu ra có độ trễ thấp như gián đoạn như 6502. Kiến trúc truy cập bộ nhớ của 6502 đã cho phép các nhà phát triển sản xuất máy nhanh mà không không tốn phần cứng truy cập bộ nhớ trực tiếp (DMA).
Các mẫu silicon ARM đầu tiên hoạt động tốt khi lần đầu tiên được nhận và thử nghiệm vào ngày 26 tháng 4 năm 1985.
Ứng dụng ARM đầu tiên là bộ xử lý thứ hai cho BBC Micro, nơi nó giúp phát triển phần mềm mô phỏng để hoàn thành việc phát triển các chip hỗ trợ (VIDC, IOC, MEMC) và tăng tốc phần mềm CAD được sử dụng trong phát triển ARM2. Wilson sau đó viết lại BBC BASIC bằng hợp ngữ ARM. Kiến thức chuyên sâu thu được từ việc thiết kế bộ hướng dẫn cho phép mã rất dày đặc, khiến ARM BBC BASIC trở thành một thử nghiệm cực kỳ tốt cho bất kỳ trình giả lập ARM nào. Mục đích ban đầu của một máy tính chủ yếu dựa trên ARM đã đạt được vào năm 1987 với việc phát hành Acorn Archimedes. Năm 1992, Acorn một lần nữa giành giải Queen's Award for Technology cho ARM.
ARM2 nổi bật với bus dữ liệu 32 bit, không gian địa chỉ 26 bit và 27 thanh ghi 32 bit. Tám bit từ thanh ghi bộ đếm chương trình có sẵn cho các mục đích khác; sáu bit trên cùng (có sẵn do không gian địa chỉ 26 bit) được dùng làm cờ trạng thái và hai bit dưới cùng (có sẵn vì bộ đếm chương trình luôn được căn chỉnh từ) được sử dụng cho các chế độ cài đặt. Bus địa chỉ được mở rộng lên 32 bit trong ARM6, nhưng mã chương trình vẫn phải nằm trong bộ nhớ 64MB đầu tiên ở chế độ tương thích 26 bit, do các bit dành riêng cho các cờ trạng thái. ARM2 có số lượng bóng bán dẫn chỉ 30.000, so với model 68000 cũ hơn của Motorola có khoảng 40.000. Phần lớn sự đơn giản này đến từ việc thiếu microcode (đại diện cho khoảng một phần tư đến một phần ba của 68000) và từ (giống như hầu hết các CPU trong ngày) không bao gồm bất kỳ bộ đệm nào. Sự đơn giản này cho phép tiêu thụ năng lượng thấp, nhưng hiệu năng tốt hơn so với Intel 80286. Một người kế nhiệm, ARM3, được sản xuất với bộ đệm 4 KB, giúp cải thiện hiệu năng hơn nữa.
Advanced RISC Machines Ltd. — ARM6
Vào cuối những năm 1980, Apple Computer và VLSI Technology bắt đầu làm việc với Acorntreen phiên bản mới hơn của ARM core. Năm 1990, Acorn tách khỏi nhóm thiết kế thành một công ty mới có tên Advanced RISC Machines Ltd., trở thành ARM Ltd khi công ty mẹ của nó, ARM Holdings, niêm yết trên sàn London Stock Exchange và NASDAQ năm 1998. Công việc mới của Apple-ARM cuối cùng sẽ phát triển thành ARM6, được phát hành lần đầu tiên vào đầu năm 1992. Apple đã sử dụng ARM610 dựa trên ARM6 làm cơ sở cho PDA Apple Newton của họ.
Những giấy phép đầu tiên
Năm 1994, Acorn đã sử dụng ARM610 làm CPU chính trên hệ thống RiscPC của họ. DEC được cấp phép kiến trúc ARMv4 và sản xuất StrongARM. Với tốc độ 233 MHz, CPU này chỉ tiêu tốn một watt (phiên bản mới hơn tiêu thụ ít hơn nhiều). Công việc này sau đó đã được chuyển cho Intel như một phần của thỏa thuận giải quyết vụ kiện và Intel đã nắm lấy cơ hội để bổ sung dòng i960 của họ với StrongARM. Intel sau đó đã phát triển triển khai hiệu suất cao của riêng mình có tên XScale, công ty đã bán cho Marvell. Số lượng bóng bán dẫn của lõi ARM về cơ bản vẫn giống nhau trong suốt những thay đổi này; ARM2 có 30,000 transistors, trong khi ARM6 tăng lên 35,000.
Thị phần
Năm 2005, khoảng 98% tổng số điện thoại di động được bán đã sử dụng ít nhất một bộ xử lý ARM. Năm 2010,các nhà sản xuất chip dựa trên kiến trúc ARM đã báo cáo lô hàng 6,1 tỷ bộ xử lý dựa trên ARM, chiếm 95% điện thoại thông minh, 35% TV kỹ thuật số và hộp giải mã và 10% máy tính di động.Năm 2011, kiến trúc ARM 32 bit là kiến trúc được sử dụng rộng rãi nhất trong các thiết bị di động và là kiến trúc 32 bit phổ biến nhất trong các hệ thống nhúng. Trong năm 2013, 10 tỷ đã được sản xuất. và "chip dựa trên ARM được tìm thấy trong gần 60% thiết bị di động trên thế giới".
Cấp phép
Giấy phép lõi
Hoạt động kinh doanh chính của ARM Holdings là bán các IP cores, các giấy phép được dùng để tạo các microcontrollers (MCUs), CPUs, và systems-on-chips dựa trên các cores của họ. Nhà sản xuất thiết kế gốc kết hợp lõi ARM với các phần khác để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh, điển hình là một thiết bị có thể được chế tạo trong các Nhà máy chế tạo chết bán dẫn (fabs) với chi phí thấp và vẫn mang lại hiệu suất đáng kể. Việc triển khai thành công nhất là ARM7TDMI với hàng trăm triệu được bán ra. Atmel đã là một trung tâm thiết kế tiền thân trong hệ thống nhúng dựa trên ARM7TDMI.
Các kiến trúc ARM được sử dụng trong điện thoại thông minh, PDA và các thiết bị di động khác có phạm vi từ ARMv5 đến ARMv7-A, được sử dụng trong các thiết bị cấp thấp và tầm trung, đến ARMv8-A được sử dụng trong các thiết bị cao cấp hiện tại.
Vào năm 2009, một số nhà sản xuất đã giới thiệu netbook dựa trên CPU kiến trúc ARM, cạnh tranh trực tiếp với netbook dựa trên Intel Atom. Theo công ty phân tích IHS iSuppli, vào năm 2015, các mạch tích hợp ARM có thể có trong 23% của tất cả các máy tính xách tay.
ARM Holdings cung cấp nhiều điều khoản cấp phép, khác nhau về chi phí và khả năng cung cấp. ARM Holdings cung cấp cho tất cả những người được cấp phép một mô tả phần cứng tích hợp của lõi ARM cũng như bộ công cụ phát triển phần mềm hoàn chỉnh (trình biên dịch, trình gỡ lỗi, bộ phát triển phần mềm) và quyền bán silicon được sản xuất có chứa CPU ARM.
Các gói SoC tích hợp các thiết kế cốt lõi của ARM bao gồm ba thế hệ đầu tiên của Nvidia Tegra, gia đình Quatro của CSR, Nova và NovaThor của ST-Ericsson, Precision32 MCU của Silicon Labs, các sản phẩm OMAP của Texas, các sản phẩm Hummingbird và Exynos của Samsung, A4, A5 và A5 Freescale của i.MX.
Những người được cấp phép Fabless, những người muốn tích hợp lõi ARM vào thiết kế chip của riêng họ, thường chỉ quan tâm đến việc mua lõi sở hữu trí tuệ bán dẫn đã được xác minh sẵn sàng để sản xuất. Với những khách sạn này, ARM Holdings cung cấp một mô tả danh sách mạng cổng của ARM core, cùng với một mô hình mô phỏng trừu tượng và các chương trình thử nghiệm để hỗ trợ tích hợp và xác minh thiết kế. Nhiều khách hàng tham vọng hơn, bao gồm các nhà sản xuất thiết bị tích hợp (IDM), chọn mua các vi xử lý IP dưới dạng RTL (Verilog). Với RTL tổng hợp, khách hàng có khả năng thực hiện tối ưu hóa mức độ kiến trúc và các phần mở rộng. Điều này cho phép nhà thiết kế đạt được các mục tiêu thiết kế kỳ lạ không thể có với một danh sách mạng không thay đổi (tốc độ xung nhịp cao, mức tiêu thụ điện năng rất thấp, phần mở rộng tập lệnh, v.v.). Mặc dù ARM Holdings không cấp cho khách hàng được cấp phép quyền bán lại kiến trúc ARM, nhưng khách hàng được cấp phép có thể tự do bán sản phẩm được sản xuất như thiết bị chip, bảng đánh giá và hệ thống hoàn chỉnh. Các hãng bán dẫn có thể là một trường hợp đặc biệt; họ không chỉ được phép bán silicon thành phẩm có chứa lõi ARM, mà họ còn có quyền tái sản xuất lõi ARM cho các khách hàng khác.
ARM Holdings bán IP dựa trên giá trị cảm nhận. Các lõi ARM hiệu suất thấp hơn thường có chi phí giấy phép thấp hơn các lõi hiệu suất cao hơn. Trong các điều khoản triển khai, một lõi tổng hợp có giá cao hơn một lõi cứng (hộp đen). Các vấn đề phức tạp về giá, một nhà máy có giấy phép ARM, như Samsung hoặc Fujitsu, có thể cung cấp cho khách hàng fab giảm chi phí cấp phép. Để đổi lấy việc mua lõi ARM thông qua các dịch vụ thiết kế nội bộ của nhà máy bán dẫn, khách hàng có thể giảm hoặc loại bỏ việc thanh toán phí giấy phép trả trước của ARM.
So với các nhà máy bán dẫn chuyên dụng (như TSMC và UMC) không có dịch vụ thiết kế nội bộ, Fujitsu/Samsung tính phí gấp hai đến ba lần cho mỗi wafer được sản xuất.Đối với các ứng dụng khối lượng thấp đến trung bình, một nhà máy dịch vụ thiết kế cung cấp mức giá chung thấp hơn (thông qua trợ cấp phí giấy phép). Đối với các bộ phận được sản xuất hàng loạt với khối lượng lớn, việc giảm chi phí dài hạn có thể đạt được thông qua việc định giá wafer thấp hơn sẽ giảm tác động của chi phí NRE (Kỹ thuật không định kỳ) của ARM, làm cho nhà máy chuyên dụng trở thành lựa chọn tốt hơn.
Các công ty đã thiết kế chip với lõi ARM bao gồm công ty con Annapurna Labs của Amazon.com, Analog Devices, Apple, AppliedMicro (bây giờ là: MACOM Technology Solutions), Atmel, Broadcom, Cypress Semiconductor, Freescale Semiconductor (bây giờ là NXP Semiconductors), Maxim Integrated, Nvidia, NXP, Qualcomm, Renesas, Samsung Electronics, ST Microelectronics, Texas Instruments và Xilinx.
Giấy phép kiến trúc
Các công ty cũng có thể có được giấy phép kiến trúc ARM để thiết kế lõi CPU của riêng họ bằng cách sử dụng các bộ hướng dẫn ARM. Các lõi này phải tuân thủ đầy đủ kiến trúc ARM. Các công ty đã thiết kế các lõi thực hiện kiến trúc ARM bao gồm Apple, ApplicationMicro, Broadcom, Cavium (hiện tại: Marvell), Nvidia, Qualcomm và Samsung Electronics.
Các dạng lõi
ARM Holdingscung cấp một danh sách các nhà cung cấp triển khai lõi ARM trong thiết kế của họ (sản phẩm tiêu chuẩn dành riêng cho ứng dụng (ASSP), bộ vi xử lý và vi điều khiển).
Kiến trúc 32-bit
Kiến trúc ARM 32-bit, như ARMv7-A (dùng trên AArch32), là kiến trúc thông dụng nhất được sử dụng trên các thiết bị di động từ năm 2011.
Các lưu ý về thiết kế
Để đạt được một thiết kế gọn, đơn giản và nhanh, các nhà thiết kế ARM xây dựng nó theo kiểu nối cứng không có vi chương trình, giống với bộ vi xử lý 8-bit 6502 đã từng được dùng trong các máy vi tính trước đó của hãng Acorn.
Cấu trúc ARM bao gồm các đặc tính của RISC như sau:
Cấu trúc nạp/lưu trữ.
Không cho phép truy xuất bộ nhớ không thẳng hàng (bây giờ đã cho phép trong lõi Arm v6)
Tập lệnh trực giao
File thanh ghi lớn gồm 16 x 32-bit
Chiều dài mã máy cố định là 32 bit để dễ giải mã và thực hiện pipeline, để đạt được điều này phải chấp nhận giảm mật độ mã máy.
Hầu hết các lệnh đều thực hiện trong vòng một chu kỳ đơn.
So với các bộ vi xử lý cùng thời như Intel 80286 và Motorola 68020, trong ARM có một số tính chất khá độc đáo như sau:
Hầu hết tất cả các lệnh đều cho phép thực thi có điều kiện, điều này làm giảm việc phải viết các tiêu đề rẽ nhánh cũng như bù cho việc không có một bộ dự đoán rẽ nhánh.
Trong các lệnh số học, để chỉ ra điều kiện thực hiện, người lập trình chỉ cần sửa mã điều kiện
Có một thanh ghi dịch đóng thùng 32-bit mà có thể sử dụng với chức năng hoàn hảo với hầu hết các lệnh số học và việc tính toán địa chỉ.
Có các kiểu định địa chỉ theo chỉ số rất mạnh
Có hệ thống con thực hiện ngắt hai mức ưu tiên đơn giản nhưng rất nhanh, kèm theo cho phép chuyển từng nhóm thanh ghi.
Hệ điều hành hỗ trợ
Các hệ điều hành 32-bit
Lịch sử hệ điều hành
Máy tính cá nhân dựa trên ARM 32 bit đầu tiên, Acorn Archimedes, đã chạy một hệ điều hành tạm thời có tên Arthur, phát triển thành RISC OS, được sử dụng trên các hệ thống dựa trên ARM sau này của Acorn và các nhà cung cấp khác. Một số máy Acorn cũng có Unix port gọi là RISC iX. (Không được nhầm lẫn với RISC/os, một biến thể Unix hiện đại cho kiến trúc MIPS.)
Hệ điều hành nhúng
Kiến trúc ARM 32 bit được hỗ trợ bởi một số lượng lớn hệ điều hành nhúng và thời gian thực, bao gồm:
A2
Android
ChibiOS/RT
Deos
DRYOS
eCos
embOS
FreeRTOS
Integrity
Linux
Micro-Controller Operating Systems
MQX
Nucleus PLUS
NuttX
OSE
OS-9
Pharos
Plan 9
PikeOS
QNX
RIOT
RTEMS
RTXC Quadros
SCIOPTA
ThreadX
TizenRT
T-Kernel
VxWorks
Windows Embedded Compact
Windows 10 IoT Core
Zephyr
Hệ điều hành di động
Kiến trúc ARM 32 bit là môi trường phần cứng chính cho hầu hết các hệ điều hành thiết bị di động như:
Android
Bada
BlackBerry OS/BlackBerry 10
Chrome OS
Firefox OS
MeeGo
Sailfish
Symbian
Tizen
Ubuntu Touch
webOS
Windows RT
Windows Mobile
Windows Phone
Windows 10 Mobile
Trước đây, nhưng bây giờ đã ngừng:
iOS 10 và trước đó
Hệ điều hành Desktop/server
Kiến trúc ARM 32 bit được RISC OS hỗ trợ và nhiều hệ điều hành tương tự Unix bao gồm:
FreeBSD
NetBSD
OpenBSD
OpenSolaris
Một vài bản phân phối Linux như:
Debian
Gentoo
Ubuntu
Hệ điều hành 64-bit
Hệ thống nhúng
Integrity
OSE
SCIOPTA
seL4
Hệ điều hành di động
iOS hỗ trợ ARMv8-A in iOS 7 and later on 64-bit Apple SoCs. iOS 11 and later only supports 64-bit ARM processors and applications.
Android supports ARMv8-A in Android Lollipop (5.0) and later.
Hệ điều hành Desktop/server
Hỗ trợ cho ARMv8-A đã được tích hợp vào Linux kernel version 3.7 vào cuối 2012. ARMv8-A được hỗ trợ bởi một số bản phân phối Linux như:
Debian
Ubuntu
Fedora
openSUSE
SUSE Linux Enterprise
Hỗ trợ cho ARMv8-A đã được tích hợp vào FreeBSD vào cuối năm 2014.
OpenBSD đã thử nghiệm hỗ trợ ARMv8 vào năm 2017.
NetBSD có hỗ trợ ARMv8 kể từ đầu năm 2018.
Windows 10 - chạy các ứng dụng 32bit "x86 và ARM 32 bit", cũng như các ứng dụng dekstop ARM64 gốc. Hỗ trợ cho các ứng dụng ARM 64-bit trong Windows Store sắp ra mắt.
Porting đến hệ điều hành 32- hay 64-bit ARM
Các ứng dụng Windows được biên dịch lại cho ARM và được liên kết với Winelib từ dự án Wine có thể chạy trên 32-bit hoặc 64-bit ARM trong Linux (hoặc FreeBSD hoặc các hệ điều hành đủ tương thích khác). File nhị phân x86, e.g. khi không được biên dịch đặc biệt cho đã được trình diễn trên ARM bằng cách sử dụng QEMU với Wine (trên Linux và hơn thế nữa), nhưng không hoạt động ở tốc độ tối đa hoặc khả năng tương tự như với Winelib. |
Trường Quốc Học (thường gọi là Quốc Học hay Quốc Học - Huế; tên chính thức hiện nay: Trường Trung học Phổ thông Chuyên Quốc Học) là một ngôi trường nổi tiếng ở thành phố Huế, Việt Nam. Thành lập vào ngày 23 tháng 10 năm 1896, Quốc Học là ngôi trường trung học phổ thông lâu đời thứ ba tại Việt Nam sau Collège Chasseloup-Laubat (thành lập năm 1874; tức Trường THPT Lê Quý Đôn, thành phố Hồ Chí Minh) và Collège de Mỹ Tho (thành lập năm 1879; tức Trường Nguyễn Đình Chiểu thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang).
Trường Quốc Học nổi tiếng bởi kết quả học tập xuất sắc của học sinh, trình độ của giáo viên. Hiện nay, trường được chính phủ Việt Nam chọn để xây dựng thành một trong ba trường phổ thông trung học chất lượng cao của Việt Nam (cùng với Trường Lê Hồng Phong tại thành phố Hồ Chí Minh, Trường Chu Văn An tại Hà Nội). Quốc Học còn nổi tiếng bởi những lãnh đạo chính trị của Việt Nam đã từng theo học tại đây, trong đó có Hồ Chí Minh (Nguyễn Tất Thành) và Ngô Đình Diệm.
Trường Quốc Học xếp thứ 23 trong tổng số 2700 trường trung học phổ thông tại Việt Nam trong bảng xếp hạng điểm thi đại học kỳ tuyển sinh năm 2012. Ngoài các hoạt động dạy và học, học sinh Quốc Học cũng tổ chức và tham gia rất nhiều hoạt động bổ ích khác, điển hình như chương trình Tiếp Lửa Tài Năng, Nguyệt Quế Đỏ. Các dịp kỷ niệm thành lập trường luôn là dịp kỷ niệm lớn để ôn lại lịch sử, để các thế hệ học sinh đi trước truyền đạt lại kinh nghiệm, vốn sống cũng như những lời khuyên bổ ích cho các thế hệ học sinh sau này. Dịp kỷ niệm gần đây nhất của trường là dịp tròn 122 năm từ ngày thành lập, tổ chức vào ngày 23 tháng 10 năm 2018.
Lịch sử
Trường Quốc Học Huế thành lập theo chỉ dụ của vua Thành Thái giao cho ông Ngô Đình Khả làm trưởng giáo và được Toàn quyền Đông Dương ký quyết định ngày 18 tháng 11 năm 1896. Trường đã đổi tên qua nhiều thời kỳ: École Primaire Supérieure (tức Trường Cao đẳng Tiểu học) nhưng thường gọi là Quốc Học (1896-1936), Trường Trung học Khải Định (1936-1954), Trường Trung học Ngô Đình Diệm (1955-1956), và được trở về với tên gốc vào năm 1956 cho đến nay. Tên lúc mới thành lập là "Pháp tự Quốc học Trường môn", đến nay vẫn còn bảng ghi tên đó được lưu tại nhà lưu niệm của trường. Quốc Học là trường Trung học đệ Nhất cấp đầu tiên ở Huế. Ngay từ lúc sáng lập, giáo trình được dạy bằng tiếng Việt cùng với tiếng Pháp. Quốc Học được xây dựng trên nền của Dinh Thủy sư (nơi huấn luyện binh lính đường thủy của quân đội triều Nguyễn), ban đầu trường được xây dựng theo kiểu cũ, nhà tranh vách đất, tổng cộng có ba tòa nhà. Địa điểm của trường nằm xoay ra đường Jules Ferry (sau năm 1955 là đường Lê Lợi). Công trình kiến trúc được xây dựng theo kiểu Pháp vào đầu thế kỷ XX.
Pháp tự Quốc học Đường (1896-1915): Lúc mới lập, trường có tên là Pháp tự Quốc học Đường với mục đích giảng dạy tiếng Pháp, chữ Quốc ngữ và chữ Nho ở bậc tiểu học. Trưởng giáo đầu tiên tức hiệu trưởng là Ngô Đình Khả; phụ tá trưởng giáo là Nguyễn Văn Mại.
Collège Quốc học (1915-1936): Khi chuyển thành trường trung học với bốn lớp đệ thất (lớp 6), đệ lục (lớp 7), đệ ngũ (lớp 8), và đệ tứ (lớp 9) thì trường cũng đổi tên thành Collège Quốc học. Cũng vào thời điểm đó những tòa nhà dùng làm trường sở được xây cất lại bằng gạch ngói.
Lycée Khải Định (1936-1955): Năm 1936, trường mở rộng và thêm các lớp đệ Tam (lớp 10), đệ Nhị (lớp 11), và đệ Nhất (lớp 12) dưới tên Lycée Khải Định.
Trường Trung học Ngô Đình Diệm (1955-1956): Sang thời Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, trường mang tên tổng thống Ngô Đình Diệm nhưng chỉ được một năm thì đổi lại tên cũ là Quốc Học nhân kỷ niệm 60 năm thành lập trường.
Những nhân vật liên quan
Một số học sinh của Quốc Học Huế sau này là những lãnh tụ nổi tiếng của Việt Nam như Hồ Chí Minh (chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và Ngô Đình Diệm (tổng thống đầu tiên của Việt Nam Cộng hòa).Tiểu sử chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam cho biết Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Cung, tự là Tất Thành. Nguyễn Sinh Cung vào học ở Quốc Học Huế vào tháng 9 năm 1907, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, theo tài liệu hiện lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Hải ngoại ở Pháp, cụ thể là bức thư đề ngày 7 tháng 8 năm 1908 của hiệu trưởng Collège Quốc học, thì Hồ Chí Minh có tên là Nguyễn Sinh Côn và được nhận vào Quốc Học Huế vào ngày 7 tháng 8 năm 1908. Theo sử gia Vũ Ngự Chiêu thì như vậy "không có việc Nguyễn Sinh Côn bị trục xuất khỏi trường Quốc Học vì tham gia vào cuộc biểu tình chống sưu thuế ở Huế—cuộc biểu tình chống sưu dịch xảy ra ngày 9 tới 12 tháng 4 năm 1908; tức gần bốn tháng trước ngày trò Côn được nhận vào trường Quốc Học." Nhà sử học Trần Quốc Vượng cũng cho biết Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Sinh Côn.
Tháng 9 năm 1989, trong sân trường có đặt bức tượng Nguyễn Tất Thành (tức Hồ Chí Minh) do Nhà điêu khắc Vương Học Báo thực hiện bằng xi măng trắng ở giữa sân trường; bức tượng hiện nay đã được đúc đồng.
Một số cựu học sinh nổi tiếng khác
Chính trị
Hồ Chí Minh: sau là Chủ tịch Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trần Phú: sau là tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hà Huy Tập: sau là tổng bí thư của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phạm Văn Đồng: sau là Thủ tướng Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp: sau là Đại tướng, ông đỗ á khoa vào trường năm 1924.
Nguyễn Thúc Hào: Giáo sư đại học ngành toán đầu tiên của Việt Nam, ông đỗ thủ khoa vào trường năm 1924. Ông và Đại tướng Võ Nguyên Giáp là hai người bạn thân.
Cao Hữu Duyệt (1911–1946): nhà cách mạng, đảng viên thế hệ đầu tiên của ĐCSVN, bút danh Hữu Duy, quê làng Thế Chí Đông, xã Điền Hải, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Nguyễn Chí Diểu: bí thư Thành uỷ Sài Gòn.
Hải Triều Nguyễn Khoa Văn: nhà lý luận Marxist.
Tạ Quang Bửu: Giáo sư, nhà khoa học Việt Nam, người đặt nền móng cho lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự Việt Nam, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại biểu Quốc hội từ khoá I đến khóa VI.
Tố Hữu: Là một nhà thơ tiêu biểu của thơ cách mạng Việt Nam, đồng thời là một chính trị gia. Ông đã từng giữ các chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị của Việt Nam như Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch thứ Nhất Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Đặng Thai Mai: Giáo sư, nhà giáo, nhà văn, nhà phê bình văn học Việt Nam; và nguyên là Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Viện trưởng đầu tiên của Viện Văn học Việt Nam.
Nguyễn Lân: Nhà giáo, nhà biên soạn từ điển, nhà văn và nhà nghiên cứu người Việt Nam. Ông là người có công trong việc xây dựng bộ môn và khoa tâm lý học, giáo dục học của hệ thống các trường sư phạm ở Việt Nam.
Nguyễn Khánh Toàn: Nhà giáo, nhà khoa học Việt Nam, người đã đóng góp nhiều công sức xây dựng nền Giáo dục Việt Nam và nền Khoa học Xã hội Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1982.
Nguyễn Thúc Hào: Giáo sư người Việt Nam, đã từng giữ chức Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Vinh, Tổng Thư ký kiêm Quyền Giám đốc Trường Đại học Khoa học Hà Nội, ngay từ những ngày đầu thành lập nước.
Võ Liêm Sơn (hiệu Ngạc Am): Quan triều Nguyễn, nhà giáo, nhà văn, và là một nhà cách mạng Việt Nam.
Hoàng Ngọc Cang
Lê Trí Viễn: Là giáo sư, nhà giáo nhân dân, đồng thời cũng là một nhà nghiên cứu đi tiên phong trong việc vận dụng quan điểm Marxist trong nghiên cứu và đã đóng góp cho lĩnh vực văn học Việt Nam hơn 40 công trình khoa học giá trị.
Ngô Đình Diệm: sau là Tổng thống Đệ nhất Việt Nam Cộng hòa
Tôn giáo
Alexis Phạm Văn Lộc: Giám mục Công giáo tại Việt Nam, nguyên Giám mục chính tòa Giáo phận Kon Tum.
Y học
Tôn Thất Tùng: Bác sĩ nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu gan.
Đặng Văn Ngữ: Bác sĩ y khoa nổi tiếng của nền y học hiện đại Việt Nam, là bố của NSND Đặng Nhật Minh.
Lịch sử
Đào Duy Anh: nhà sử học, địa lý, từ điển học, ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, tôn giáo, văn học dân gian nổi tiếng của Việt Nam.
Văn học
Xuân Diệu: Một trong những nhà thơ lớn của Việt Nam, nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió.
Huy Cận: Một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của phong trào Thơ mới.
Lưu Trọng Lư: Nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam.
Tế Hanh: Nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.
Nhà thơ Nam Trân: Một trong những cán bộ giảng dạy lớp đại học Hán Nôm đầu tiên ở miền Bắc, do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức.
Thanh Tịnh: Nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Các bút danh khác của ông là: Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trinh Thuần (sau 1945).
Thúc Tề: Nhà báo, nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến.
Âm nhạc
Trần Hoàn: Nhạc sĩ, từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin Việt Nam.
Phạm Tuyên: Nhạc sĩ nổi tiếng người Việt Nam, cựu Chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội, tác giả của bài hát "Như có Bác trong ngày đại thắng".
Nguyễn Văn Thương: Nhạc sĩ Việt Nam nổi tiếng, thuộc thế hệ đầu tiên của tân nhạc Việt Nam.
Tôn Thất Tiết: Nhà soạn nhạc người Pháp gốc Việt thuộc dòng Nhạc đương đại (Contemporary classical music), đồng thời cũng là một nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Việt Nam.
Hội họa
Lê Văn Miến: họa sĩ.
Giáo dục
Đoàn Trọng Truyến: Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân; nguyên Bộ trưởng, Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ từ tháng 5 năm 1984 đến tháng 2 năm 1987...
Trường có rất nhiều học sinh đoạt giải cao ở trong các kỳ thi trong nước và quốc tế như:
Hồ Đình Duẩn: HCĐ kỳ thi Olympic Toán quốc tế năm 1978
Lê Bá Khánh Trình: vô địch kỳ thi Olympic Toán quốc tế năm 1979 với số điểm tuyệt đối 40/40
Ngô Phú Thanh: HCB kỳ thi Olympic Toán quốc tế 1982
Nguyễn Văn Lượng HCB và Hoàng Ngọc Chiến HCĐ: kỳ thi Toán quốc tế 1983
Nguyễn Nguyễn Thái Bảo: giải Nhì Chung kết năm Đường lên đỉnh Olympia năm 2004, vô địch Rung chuông vàng 2009
Hồ Ngọc Hân: vô địch Chung kết năm của chương trình Đường lên đỉnh Olympia năm 2009
Hồ Đắc Thanh Chương: vô địch Chung kết năm của chương trình Đường lên đỉnh Olympia năm 2016
Đinh Anh Minh: HCV Olympic Vật lý quốc tế lần thứ 41 tại Croatia tháng 7/2010
Trương Đông Hưng: HCV Olympic Sinh học quốc tế lần thứ 28 tại Vương quốc Anh tháng 7/2017
Nguyễn Hy Hoài Lâm: HCĐ Olympic Tin học quốc tế lần thứ 29 tại Iran tháng 8/2017
Nhiều giáo sư đầu ngành đã từng giảng dạy ở đây như Nguyễn Thúc Hào, Nguyễn Lân.
Thành tích
Đường lên đỉnh Olympia
Trường THPT Chuyên Quốc Học cũng đạt được nhiều thánh tích tại cuộc thi Đường lên đỉnh Olympia do Đài Truyền hình Việt Nam tổ chức. Trường đã giành được 6 cầu truyền hình trận Chung kết năm của sân chơi này, nhiều nhất trong các trường THPT trên cả nước, bao gồm:
+ Giải Nhì Chung Kết Olympia năm thứ 5 (Nguyễn Nguyễn Thái Bảo)
+ Giải Ba Chung Kết Olympia năm thứ 8 (Nguyễn Mạnh Tấn)
+ Giải Nhất Chung Kết Olympia năm thứ 9 (Hồ Ngọc Hân)
+ Giải Nhì Chung Kết Olympia năm thứ 11 (Thái Ngọc Huy)
+ Giải Nhất Chung Kết Olympia năm thứ 16 (Hồ Đắc Thanh Chương)
+ Giải Ba Chung Kết Olympia năm thứ 23 (Nguyễn Minh Triết)
Chú thích |
Urani hay uranium là một nguyên tố hóa học kim loại màu trắng thuộc nhóm Actini, có số nguyên tử là 92 trong bảng tuần hoàn, được ký hiệu là U. Trong một thời gian dài, urani là nguyên tố cuối cùng của bảng tuần hoàn. Các đồng vị phóng xạ của urani có số neutron từ 144 đến 146 nhưng phổ biến nhất là các đồng vị urani-238, urani-235 và urani-234. Tất cả đồng vị của urani đều không bền và có tính phóng xạ yếu. Urani có khối lượng nguyên tử nặng thứ 2 trong các nguyên tố tự nhiên, xếp sau plutoni-244. Mật độ của urani lớn hơn mật độ của chì khoảng 70%, nhưng không đặc bằng vàng hay wolfram. Urani có mặt trong tự nhiên với nồng độ thấp khoảng vài ppm trong đất, đá và nước, và được sản xuất thương mại từ các khoáng sản chứa urani như uraninit.
Trong tự nhiên, urani được tìm thấy ở dạng urani 238 (99,284%), urani 235 (0,711%), và một lượng rất nhỏ urani 234 (0,0058%). Urani phân rã rất chậm phát ra hạt alpha. Chu kỳ bán rã của urani 238 là khoảng 4,47 tỉ năm và của urani 235 là 704 triệu năm, do đó nó được sử dụng để xác định tuổi của Trái Đất.
Hiện tại, các ứng dụng của urani chỉ dựa trên các tính chất hạt nhân của nó. Urani-235 là đồng vị duy nhất có khả năng phân hạch một cách tự nhiên. Urani 238 có thể phân hạch bằng neutron nhanh, và là vật liệu làm giàu, có nghĩa là nó có thể được chuyển đổi thành plutoni-239, một sản phẩm có thể phân hạch được trong lò phản ứng hạt nhân. Đồng vị có thể phân hạch khác là urani-233 có thể được tạo ra từ thori tự nhiên và cũng là vật liệu quan trọng trong công nghệ hạt nhân. Trong khi urani-238 có khả năng phân hạch tự phát thấp hoặc thậm chí bao gồm cả sự phân hạch bởi neutron nhanh, thì urani 235 và đồng vị urani-233 có tiết diện hiệu dụng phân hạch cao hơn nhiều so với các neutron chậm. Khi nồng độ đủ, các đồng vị này duy trì một chuỗi phản ứng hạt nhân ổn định. Quá trình này tạo ra nhiệt trong các lò phản ứng hạt nhân và tạo ra vật liệu phân hạch dùng làm các vũ khí hạt nhân. Urani nghèo (U-238) được dùng trong các đầu đạn đâm xuyên và vỏ xe bọc thép. Trong lĩnh vực dân dụng, urani chủ yếu được dùng làm nhiên liệu cho các nhà máy điện hạt nhân. Ngoài ra, urani còn được dùng làm chất nhuộm màu có sắc đỏ-cam đến vàng chanh cho thủy tinh urani. Nó cũng được dùng làm thuốc nhuộm màu và sắc bóng trong phim ảnh.
Martin Heinrich Klaproth được công nhận là người đã phát hiện ra urani trong khoáng vật pitchblend năm 1789. Ông đã đặt tên nguyên tố mới theo tên hành tinh Uranus (Sao Thiên Vương). Trong khi đó, Eugène-Melchior Péligot là người đầu tiên tách kim loại này và các tính chất phóng xạ của nó đã được Antoine Becquerel phát hiện năm 1896. Nghiên cứu của Enrico Fermi và các tác giả khác bắt đầu thực hiện năm 1934 đã đưa urani vào ứng dụng trong công nghiệp năng lượng hạt nhân và trong quả bom nguyên tử mang tên Little Boy, quả bom này là vũ khí hạt nhân đầu tiên được sử dụng trong chiến tranh. Từ cuộc chạy đua vũ trang trong thời chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô đã cho ra hàng chục ngàn vũ khí hạt nhân sử dụng urani được làm giàu và plutoni có nguồn gốc từ urani. Việc an toàn của các vũ khí này và các vật liệu phân hạch của chúng sau sự tan rã của Liên Xô năm 1991 là một mối quan tâm đối với sức khỏe và an toàn của cộng đồng.
Lịch sử
Phân hạch tự nhiên thời tiền sử
Năm 1972, nhà vật lý người Pháp, Francis Perrin, phát hiện ra 15 lò phản ứng phân hạch hạt nhân tự nhiên cổ không còn hoạt động trong 3 khoáng sàng quặng riêng biệt ở mỏ Oklio tại Gabon, Tây Phi, hay còn gọi là các lò phản ứng hạt nhân hóa thạch Oklo. Một trong 3 khoáng sàng có tuổi 1,7 tỉ năm; vào thời điểm đó, urani-235 chiếm khoảng 3% tổng lượng urani trên Trái Đất. Hàm lượng này lớn đủ để một phản ứng dây chuyền duy trì phân hạch hạt nhân xảy ra, là yếu tố chứng minh cho các điều kiện tồn tại của chúng. Khả năng lưu giữ các sản phẩm chất thải hạt nhân bởi lớp bao bọc trầm tích đã được chính quyền liên bang Hoa Kỳ trích dẫn để chứng minh cho các điều kiện bảo quản của kho chứa chất thải hạt nhân núi Yucca.
Sử dụng trước khi được phát hiện
Việc sử dụng urani ở dạng oxide tự nhiên được xác định vào khoảng năm 79 TCN, khi đó nó được dùng để tạo màu vàng cho men gốm. Năm 1912, ông R. T. Gunther thuộc Trường Đại học Oxford đã tìm thấy thủy tinh màu vàng có hàm lượng 1% urani oxide trong một biệt thự La Mã ở mũi Posillipo, Vịnh Napoli, Ý. Từ cuối thời Trung cổ, uranit được tách từ các mỏ bạc Habsburg ở Joachimsthal, Bohemia (nay là Jáchymov thuộc Cộng hòa Séc) và được dùng làm chất tạo màu trong công nghiệp chế tạo thủy tinh ở địa phương. Vào đầu thế kỷ XIX, đây là các mỏ quặng urani duy nhất được biết đến trên thế giới.
Phát hiện
Việc phát hiện ra nguyên tố này được ghi công cho nhà hóa học Đức Martin Heinrich Klaproth. Trong khi đang làm các thí nghiệm trong phòng ở Berlin năm 1789, Klaproth đã tạo ra hợp chất kết tủa màu vàng (giống natri điuranat) bằng cách hòa tan pitchblend trong acid nitric và sau đó trung hòa dung dịch bằng natri hydroxide. Klaproth cho rằng chất màu vàng đó là oxide của một nguyên tố chưa được phát hiện và nung nó với than gỗ để thu một loại bột màu đen mà ông nghĩ rằng nó là một kim loại mới được phát hiện (nhưng thực chất là bột của một oxide urani). Ông đặt tên nguyên tố mới theo tên hành tinh Uranus, một hành tinh vừa được William Herschel phát hiện trước đó 8 năm.
Năm 1841, Eugène-Melchior Péligot, giáo sư hóa phân tích thuộc Trường Kỹ Nghệ Quốc gia Pháp (Conservatoire National des Arts et Métiers) ở Paris đã tách được mẫu urani kim loại đầu tiên bằng cách nung urani tetrachloride với kali.
Antoine Henri Becquerel phát hiện ra tính phóng xạ khi sử dụng urani vào năm 1896. Becquerel phát hiện ra tính chất này tại Paris bằng cách cho một mẫu muối urani K2UO2(SO4)2 trên một tấm phim để trong ngăn kéo và sau đó ông thấy tấm phim bị mờ giống như 'bị phủ sương mù'. Ông cho rằng có một dạng ánh sáng không nhìn thấy được hoặc các tia phát ra từ urani tiếp xúc với tấm phim.
Nghiên cứu phân hạch
Năm 1934 một nhóm nghiên cứu do Enrico Fermi lãnh đạo đã phát hiện thấy việc bắn phá urani bằng neutron sẽ sản sinh ra các tia beta (electron hoặc positron sinh ra từ các nguyên tố; xem hạt beta). Các sản phẩm phân hạch đầu tiên bị nhầm lẫn là các nguyên tố mới có số nguyên tử là 93 và 94, theo đó, trưởng khoa Roma, ông Orso Mario Corbino tin rằng đó là ausoni và hesperi. Các thí nghiệm của Otto Hahn và Fritz Strassmann đã đưa đến việc phát hiện ra khả năng mà urani phân hạch thành các nguyên tố nhẹ hơn và giải phóng năng lượng liên kết, trong phòng thí nghiệm của Hahn ở Berlin. Tháng 2 năm 1939, Lise Meitner cùng người cháu là nhà vật lý Otto Robert Frisch đã công bố các giải thích về mặt vật lý, đồng thời đặt tên quá trình này là 'phản ứng phân hạch hạt nhân'. Không lâu sau đó, Fermi giả thuyết rằng sự phân hạch của urani có thể giải phóng đủ số neutron để duy trì một phản ứng phân hạch. Năm 1939, giả thuyết này được xác nhận, và nghiên cứu sau đó phát hiện rằng trung bình có khoảng 2,5 neutron được giải phóng từ mỗi lần phân hạch của đồng vị hiếm của urani là urani-235. Nghiên cứu tiếp theo phát hiện rằng đồng vị phổ biến hơn là urani-238 có thể bị chuyển đổi thành plutoni, và đồng vị này, giống như urani-235, cũng có khả năng phân hạch bằng các neutron nhiệt. Các phát hiện này đã thúc đẩy việc chế tạo vũ khí hạt nhân và điện hạt nhân ở một số quốc gia.
Ngày 2 tháng 12 năm 1942, một nhóm nghiên cứu thuộc dự án Manhattan do Enrico Fermi lãnh đạo đã có thể bắt đầu thực hiện phản ứng hạt nhân dây chuyền nhân tạo đầu tiên tại lò phản ứng Chicago Pile-1. Tiến hành nghiên cứu trong phòng thí nghiệm dưới sự phụ trách của Stagg Field ở Đại học Chicago, nhóm này đã tạo ra những điều kiện cần thiết để một phản ứng xảy ra bằng cách lấp 360 tấn than thỏi, 53 tấn urani oxide và 5,5 tấn urani kim loại.
Chế tạo bom
Hai loại bom nguyên tử chính được Hoa Kỳ chế tạo trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 là: loại dựa trên nguyên liệu urani (tên "Little Boy") mà vật liệu phân hạch của nó là urani làm giàu rất cao, và loại dựa trên nguyên liệu plutoni (xem thử nghiệm Trinity và "Fat Man") theo đó plutoni được sản xuất từ urani-238. Loại bom dùng urani là vũ khí hạt nhân đầu tiên được sử dụng trong chiến tranh khi được thả xuống thành phố Hiroshima, Nhật Bản ngày 6 tháng 8 năm 1945. Vụ nổ tương đương với 12.500 tấn thuốc nổ TNT, sức công phá và làn sóng nhiệt của quả bom phá hủy gần 50.000 tòa nhà và gây thiệt mạng gần 75.000 người (xem Vụ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki). Ban đầu người ta tin rằng urani khá hiếm, và sự phổ biến vũ khí hạt nhân có thể tránh được bằng cách đơn giản là mua tất cả urani trên thị trường, nhưng chỉ trong vòng 1 thập kỉ có nhiều mỏ urani được phát hiện ở nhiều nơi trên thế giới.
Dùng trong lò phản ứng hạt nhân
Lò phản ứng hạt nhân than chì X-10 ở Phòng thí nghiệm Oak Ridge (ORNL) ở Oak Ridge, Tennessee, trước đây còn gọi là Clinton Pile và X-10 Pile, là lò phản ứng hạt nhân thứ 2 trên thế giới (sau lò phản ứng Chicago Pile của Enrico Fermi) và là lò phản ứng hạt nhân đầu tiên được thiết kế và xây dựng để vận hành liên tục. Lò phản ứng tái sinh thí nghiệm I thuộc Phòng thí nghiệm quốc gia Hoa Kỳ Idaho gần Arco, Idaho là lò phản ứng hạt nhân đầu tiên sản xuất điện vào ngày 20 tháng 12 năm 1951. Ban đầu, bốn bóng đèn 150 W được thấp sáng từ lò phản ứng, sau đó những cải tiến đã nâng sản lượng điện lên hết công suất thiết kế (sau đó, thị trấn Arco trở thành thị trấn đầu tiên trên thế giới sử dụng toàn bộ điện phát ra từ năng lượng hạt nhân). Nhà máy điện hạt nhân thương mại đầu tiên trên thế giới, Obninsk ở Liên Xô, bắt đầu phát điện bằng lò phản ứng AM-1 vào ngày 27 tháng 6 năm 1954. Các nhà máy điện hạt nhân khác vào thời đó gồm: Calder Hall ở Anh phát điện ngày 17 tháng 10 năm 1956 và nhà máy điện hạt nhân Shippingport ở Pennsylvania phát điện ngày 26 tháng 5 năm 1958. Năng lượng hạt nhân được dùng đầu tiên vào năm 1954 cho tàu ngầm năng lượng hạt nhân USS Nautilus.
Ô nhiễm và di sản từ thời chiến tranh lạnh
Các vụ thử nghiệm hạt nhân trên mặt đất do Liên Xô và Hoa Kỳ thực hiện vào thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, và Pháp thực hiện vào thập niên 1979 và 1980 đã làm gia tăng đáng kể lượng bụi hạt nhân từ những đồng vị con của urani trên toàn thế giới. Thêm vào đó là bụi và ô nhiễm gây ra từ các vụ tai nạn hạt nhân.
Những người khai thác mỏ urani có khả năng bị ung thư cao hơn. Ví dụ, nguy cơ ung thư phổi vượt trội ở những thợ mỏ urani người Navajo đã được ghi nhận và xác định có liên hệ với nghề nghiệp của họ. Đạo luật bồi thường phơi nhiễm phóng xạ (Radiation Exposure Compensation Act) của Hoa Kỳ năm 1990 yêu cầu trả phí bồi thường 100.000 USD cho các thợ mỏ urani được chẩn đoán là mắc bệnh ung thư hoặc các bệnh đường hô hấp khác.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, những kho dự trữ urani khổng lồ chứa hàng chục ngàn vũ khí hạt nhân dùng urani làm giàu và plutoni sản xuất từ urani. Từ khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, ước tính 540 tấn vũ khí dùng urani được làm giàu cao (đủ để sản xuất khoảng 40.000 đầu đạn hạt nhân) được cất giữ trong các cơ sở thiếu an toàn ở Nga và một số nước thuộc Liên Xô trước kia. Từ năm 1993 đến 2005, cảnh sát ở châu Á, châu Âu, và Nam Mỹ đã có ít nhất 16 lần ngăn chặn các chuyến hàng cung cấp urani hay plutoni nhập lậu, đa số trong đó có nguồn gốc từ các nước thuộc Liên Xô cũ. Từ năm 1993 đến 2005, chương trình kiểm toán, kiểm soát và bảo vệ vật liệu (Material Protection, Control, and Accounting Program) do chính phủ liên bang Hoa Kỳ điều phối đã tiêu tốn khoảng 550 triệu USD để hỗ trợ an ninh cho các kho vũ khí urani và plutoni ở Nga. Phần ngân sách này được sử dụng để cải tiến, tăng cường an ninh tại các cơ sở nghiên cứu và thiết bị lưu trữ. Tháng 2 năm 2006, tờ báo Scientific American tường thuật rằng một số an ninh thiết bị bao gồm chuỗi tường chắn liên hợp đang trong tình trạng tồi tệ do không được sửa chữa. Theo một cuộc phỏng vấn từ bài báo trên, có một thiết bị trước đó được dùng để lưu trữ các mẫu urani được làm giàu (cấp độ vũ khí) trong một buồng riêng trước dự án cải tiến; một thiết bị khác theo dõi trữ lượng đầu đạn hạt nhân đang lưu trữ bằng cách sử dụng thẻ danh mục.
Tính chất
Khi được tách ra, urani là kim loại có màu trắng bạc, phóng xạ yếu, mềm hơn thép một chút, độ dương điện mạnh và độ dẫn điện kém. Nó dẻo, dễ uốn và có tính thuận từ. Kim loại urani có mật độ rất lớn, đặc hơn chì khoảng 70%, nhưng nhẹ hơn vàng.
Urani kim loại phản ứng với hầu hết các nguyên tố phi kim và các hợp chất phi kim với mức phản ứng tăng theo nhiệt độ. Acid clohidric và acid nitric hòa tan urani, nhưng các acid không có khả năng oxy hóa phản ứng với nguyên tố này rất chậm. Khi chia nhỏ, urani có thể phản ứng với nước lạnh; khi tiếp xúc với không khí, kim loại urani bị phủ một lớp oxide urani màu đen. Urani trong quặng được tách bằng phương pháp hóa học và chuyển đổi thành urani oxide hoặc các dạng khác có thể dùng trong công nghiệp.
Urani-235 là đồng vị đầu tiên được tìm thấy có thể tự phân hạch. Các đồng vị khác có mặt trong tự nhiên có thể phân hạch nhưng không thể tự phân hạch. Tùy thuộc vào việc bắn phá bằng các neutron chậm, đồng vị urani-235 sẽ luôn phân chia thành 2 hạt nhân nhỏ hơn, giả phóng năng lượng liên kết hạt nhân và sinh nhiều neutron hơn. Nếu các neutron này được hấp thụ bởi các hạt nhân urani-235 khác, thì chuỗi phân hạch hạt nhân sẽ diễn ra và có thể gây nổ trừ khi phản ứng được làm chậm lại bởi việc điều hòa neutron, bằng cách hấp thụ chúng. Ít nhất 7 kg uranium-235 có thể sử dụng để tạo thành một quả bom nguyên tử. Little Boy là quả bom hạt nhân đầu tiên được sử dụng trong chiến tranh dựa vào sự phân hạch urani, còn vụ nổ hạt nhân đầu tiên và quả bom phá hủy Nagasaki (Fat Man) đều là bom plutoni.
Kim loại urani có 3 dạng thù hình:
α (trực thoi) bền với nhiệt độ lên đến 660 °C
β (bốn phương) bền ở nhiệt độ từ 660 °C đến 760 °C
γ (lập phương tâm khối) bền từ 760 °C đến điểm nóng chảy đây là trạng thái dẻo và dễ uốn nhất.
Phân bố
Các môi trường
Urani là một nguyên tố tự nhiên, có thể tìm thấy trong tất cả các loại đất đá và nước với hàm lượng thấp. Urani cũng là một nguyên tố có số nguyên tử cao nhất được tìm thấy trong tự nhiên với hàm lượng nhất định trong vỏ Trái Đất và luôn ở dạng hợp chất với các nguyên tố khác. Cùng với tất cả các nguyên tố khác có khối lượng nguyên tử cao hơn sắt, urani chỉ được tạo ra một cách tự nhiên trong các vụ nổ siêu tân tinh. Phân rã của urani, thori, và Kali-40 trong vỏ Trái Đất được xem là nguồn cung cấp nhiệt chính. điều này giữ cho lõi ngoài ở dạng lỏng và tạo ra các dòng đối lưu manti.
Hàm lượng urani trung bình trong vỏ Trái Đất (tùy theo quy chiếu) là từ 2 đến 4 ppm, tương đương gấp 40 lần so với nguyên tố phổ biến là bạc. Theo tính toán thì vỏ Trái Đất từ bề mặt đến độ sâu 25 km chứa 1017 kg urani trong khi ở các đại dương có thể chứa 1013 kg. Hàm lượng urani trong đất thay đổi từ 0,7 đến 11 ppm (đến 15 ppm trong đất trồng trọt do có phosphat từ phân bón), và hàm lượng của urani trong nước biển là 3 ppm.
Urani phong phú hơn antimon, thiếc, cadmi, thủy ngân, hay bạc và phổ biến như arsenic hay molybden. Urani được tìm thấy trong hàng trăm mỏ khoáng uraninit (loại quặng urani phổ biến nhất), carnotit, autunit, uranophan, torbernit, và coffinit. Hàm lượng urani nhiều nhất trong các mỏ đá có phosphat, các khoáng như lignit và cát monazit trong các quặng giàu urani (hàm lượng thương mại của các nguồn tối thiểu là 0,1% urani).
Một số vi khuẩn như S. putrefaciens và G. metallireducens có khả năng khử U(VI) thành U(IV).
Ở một số sinh vật như Trapelia involuta hoặc vi sinh vật như vi khuẩn Citrobacter có thể hấp thụ nồng độ urani cao gấp 300 lần so với môi trường xung quanh. Loài citrobacter hấp thụ các ion uranyl vào gốc glycerol phosphate (hay các phosphat vô cơ tương tự khác). Sau một ngày, 1 gram vi khuẩn có thể tạo quanh nó một lớp vỏ 9 gram tinh thể uranyl phosphate; đều này tạo ra khả năng cho việc sử dụng các sinh vật này trong việc xử lý nước bị nhiễm phóng xạ urani bằng phương pháp sinh học.
Trong tự nhiên, urani (VI) tạo thành các phức cacbonat có khả năng hòa tan cao trong môi trường kiềm. Điều này làm tăng khả năng di chuyển và khả năng tồn tại của urani trong đất và nước ngầm, có nguồn gốc từ các chất thải hạt nhân, gây nguy hiểm đối với sức khỏe con người. Tuy nhiên, khó có thể kết tủa urani như phosphat khi có nhiều cacbonat trong môi trường pH kiềm. Đã có phát hiện rằng một con Sphingomonas sp. chủng BSAR-1 có thể có tác dụng như phosphat kiềm hoạt tính cao (PhoK). Loài này đã được đưa vào ứng dụng để kết tủa sinh học urani như các loài tổng hợp phosphat uranyl từ các dung dịch kiềm. Khả năng kết tủa được tăng cường bởi protein PhoK trong E. coli.
Thực vật hấp thụ một số urani trong đất. Nồng độ khối lượng khô của urani trong thực vật thay đổi từ 5 đến 60 ppb, và tro của gỗ có thể có hàm lượng lên đến 4 ppm. Nồng độ khối lượng khô của urani trong thực phẩm từ thực vật mà con người ăn vào đặc biệt thấp, với khoảng từ 1 đến 2 microgram/ngày.
Khai thác và sản xuất
Sản lượng urani trên toàn thế giới năm 2009 là 50.572 tấn, trong đó 27,3% được khai thác từ các mỏ ở Kazakhstan. Các quốc gia khai thác urani khác đáng kể gồm Canada (20,1%), Úc (15,7%), Namibia (9,1%), Nga (7,0%), và Niger (6,4%).
Quặng urani được khai thác theo nhiều cách như đào mỏ lộ thiên, tách từ đất đá và khoan mỏ (xem khai thác mỏ urani). Quặng urani cấp thấp chứa từ 0,01 đến 0,25% urani oxide. Cần tiến hành một số đo đạc để áp dụng phương pháp phù hợp để tách kim loại từ các quặng trên. Các quặng cấp cao được tìm thấy ở bồn trũng Athabasca, Saskatchewan, Canada trung bình có thể chứa tới 23% các oxide urani. Quặng urani được nghiền mịn thành bột, sau đó được lọc qua acid hoặc kiềm. Quá trình lọc gồm một số công đoạn như kết tủa, tách dung môi, và trao đổi ion. Hỗn hợp sau cùng được gọi là bánh vàng (yellowcake) chứa ít nhất 75% urani oxide. Bánh vàng sau đó được xử lý nhiệt để loại bỏ các tạp chất trước khi tinh chế và chuyển đổi.
Urani cấp thương mại có thể được tạo ra bằng cách khử các muối urani halide với các kim loại kiềm hoặc kim loại kiềm thổ. Urani kim loại cũng có thể được tạo ra bằng các điện phân của hoặc , được hòa tan trong dung dịch calci chloride () và natri chloride (NaCl) nóng chảy. Urani có độ tinh khiết cao được tạo ra thông qua quá trình nhiệt phân urani halide trong điện cực nóng.
Tài nguyên và trữ lượng
Ước tính có khoảng 5,5 triệu tấn quặng urani dự trữ có thể khai thác một cách kinh tế ở mức giá 130 USD/kg, trong khi có 35 triệu tấn được xếp vào tài nguyên khoáng sản (có khả năng khai thác mang lại lợi nhuận).
Ngoài ra, còn một lượng khoảng 4,6 tỉ tấn urani ước tính có mặt trong nước biển (trong thập niên 1980, các nhà khoa học Nhật Bản đã cho thấy cách khai thác urani từ nước biển bằng phương pháp trao đổi ion là có tính khả thi về mặt kỹ thuật).
Đã có nhiều cuộc thí nghiệm để chiết xuất urani từ nước biển, nhưng sản phẩm thu được thấp do trong nước biển có nhiều cacbonat.
Trong năm 2005, việc thăm dò urani trên thế giới tăng vọt gây tốn chi phí khoảng 200 triệu USD, tăng 54% so với năm trước nhờ vào việc giá urani tăng trên thị trường. Xu hướng này tiếp tục tăng trong năm 2006, khi việc chi tiêu cho quá trình thăm dò tăng kỷ lục hơn 774 triệu USD, hơn 250% so với năm 2004.
Úc có trữ lượng quặng urani chiếm 23% trữ lượng thế giới và có mỏ urani riêng biệt lớn nhất thế giới nằm ở mỏ Olympic Dam, Nam Úc.
Một số nhiên liệu hạt nhân có nguồn gốc từ các vũ khí hạt nhân.
Cung ứng
Năm 2005, có 17 quốc gia sản xuất urani oxide, trong đó Canada (27,9% sản lượng thế giới) và Úc (22,8%) là các nước sản xuất nhiều nhất, theo sau là Kazakhstan (10,5%), Nga (8,0%), Namibia (7,5%), Niger (7,4%), Uzbekistan (5,5%), Hoa Kỳ (2,5%), Argentina (2,1%), Ukraina (1,9%) và Trung Quốc (1,7%). Kazakhstan tiếp tục tăng sản lượng, năm 2009 sản lượng đạt 12.826 tấn, so với Canada là 11.100 tấn và Úc là 9.430 tấn.
Urani hiện có thể được sử dụng trong ít nhất 80 năm tới, mặc dù một số nghiên cứu cho biết việc đầu tư vào cuối thế kỷ XX có thể tạo ra các vấn đề về lượng cung trong thế kỷ XXI.
Các hợp chất
Trạng thái oxy hóa và oxide
Oxide
Bánh urani vàng (yellowcake) đã được nhiệt phân là sản phẩm được sản xuất công nghiệp chứa các nhóm urani có trạng thái oxy hóa khác nhau từ thấp nhất đến cao nhất. Các hạt có thời gian lưu giữ ngắn trong lò nung sẽ ít bị oxy hóa hơn những hạt có thời gian lưu giữ dài hơn. Hàm lượng urani thường được tính theo , kể từ những ngày thực hiện dự án Manhattan, khi đó đã được sử dụng làm tiêu chuẩn báo cáo trong hóa phân tích.
Các mối quan hệ pha trong tổ hợp urani-oxy mang tính phức tạp. Các trạng thái oxy hóa quan trọng nhất của urani là urani(IV) và urani(VI) với hai oxide tương ứng là urani đioxide () và urani trioxide (). Các urani oxide khác gồm urani monoxide (UO), diurani pentoxide () và urani peroxide () đều tồn tại.
Các dạng urani oxide phổ biến nhất là triurani octaoxide () và . Cả hai oxide nay đều ở dạng rắn, ít hoàn tan trong nước và tương đối bền trong nhiều kiểu môi trường. Triurani octaoxide là hợp chất urani ổn định nhất và là dạng thường gặp trong tự nhiên (tùy thuộc vào các điều kiện). Urani đioxide là dạng được dùng làm nhiên liệu hạt nhân phổ biến. Ở nhiệt độ thường, sẽ chuyển một cách từ từ thành . Do tính ổn định, các urani oxide thường được xem là dạng hợp chất dùng để lưu trữ hoặc loại bỏ.
Dịch hóa học
Các muối của tất cả bốn trạng thái oxy hóa là dung dịch hòa tan trong nước và có thể được nghiên cứu ở dạng dung dịch nước. Các trạng thái oxy hóa gồm U3+ (đỏ), U4+ (lục), (không bền) và 2+ (vàng). Một vài hợp chất bán kim loại và rắn như UO và US tồn tại trong urani ở trạng thái oxy hóa thông thường (II), nhưng không có các ion đơn tồn tại trong dung dịch ở trạng thái đó. Các ion U3+ giải phóng hydro từ nước vì vậy được xem là trạng thái không bền. Ion đặc trưng cho trạng thái oxy hóa (VI) và tạo thành các hợp chất như uranyl cacbonat, uranyl chloride và uranyl sulfat. cũng tạo phức với các chất tạo phức hữu cơ, chất thường gặp nhất là uranyl axetat.
Cacbonat
Các tương tác của các ion cacbonat với urani(VI) làm cho biểu đồ Pourbaix thay đổi mạnh khi giá trị trung bình bị thay đổi từ nước sang dung dịch chứa cacbonat. Trong khi một lượng lớn cacbonat không hòa tan trong nước, urani cacbonat thỉnh thoảng hòa tan trong nước. Điều này xảy ra là do cation U(VI) có thể liên kết hai oxide và 3 cacbonat hoặc nhiều hơn để tạo thành các phức anion.
Ảnh hưởng của pH
Các biểu đồ thành phần của urani minh họa cho đặc điểm này: khi pH của dung dịch urani(VI) tăng thì urani bị chuyển thành urani oxide ngậm nước và với giá trị pH cao nó chuyển thành phức hydroxide anion.
Khi cho thêm cacbonat vào, urani bị chuyển thành một dãy các phức cacbonat nếu pH tăng. Một ảnh hưởng của các phản ứng này là tăng độ hòa tan của urani khi giá trị pH nằm trong khoảng 6 đến 8, điều này có ảnh hưởng trực tiếp đến sự ổn định lâu dài của các nhiên liệu hạt nhân urani oxide đã qua sử dụng.
Hydride, cacbic và nitrit
Kim loại urani nung ở nhiệt độ 250 đến 300 °C (482 đến 572 °F) phản ứng với hydro tạo thành urani hydride. Thậm chí ở nhiệt độ cao hơn có thể loại bỏ hydro. Tính chất này khiến cho urani hydride trở thành một loại vật liệu tiện lợi để tạo ra bột urani phản ứng, cùng với các hợp chất khác như cacbic, nitrit, và halide. Hai dạng tinh thể của urani hydride tồn tại là: dạng α tồn tại ở nhiệt độ thấp còn dạng β được tạo ra ở nhiệt độ trên 250 °C.
Urani cacbic và urani nitrit là các hợp chất bán kim loại tương đối trơ, tan rất ít trong các loại acid, phản ứng với nước, và có thể đốt cháy trong không khí tạo thành . Các cacbic của urani gồm urani monocacbic (UC), urani đicacbic (), và điurani tricacbic (). Cả hai hợp chất UC và được tạo thành bằng cách thêm cacbon vào urani nóng chảy hoặc urani kim loại tiếp xúc với cacbon monoxide ở nhiệt độ cao. , ổn định dưới 1800 °C, được điều chế bằng cách pha trộn hỗp hợp nóng của UC và dưới áp lực cơ học. Urani nitrit được điều chế bằng cách cho kim loại tác dụng với nitơ bao gồm urani mononitrit (UN), urani đinitrit () và điurani trinitrit ().
Halide
Tất cả urani fluorrua được tạo ra từ urani tetrafluorrua (); bản thân được điều chế bằng cách hydrochloride hóa urani đioxide. được khử bằng hydro ở 1000 °C tạo ra urani trifluorrua (). Trong các điều kiện nhiệt độ và áp suất thích hợp, phản ứng của rắn với urani hexafluorrua () khí có thể tạo thành các fluorrua trung gian nhử , , và .
Ở nhiệt độ phòng, có áp suất hơi cao, nên nó được dùng vào quá trình khuếch tán khí để tách urani-235 từ đồng vị urani-238. Hợp chất này có thể được điều chế từ urani dioxide và urani hydride theo phản ứng:
+ 4 HF → + 2 (500 °C, thu nhiệt)
+ → (350 °C, thu nhiệt)
Kết quả tạo ra , là chất rắn màu trắng, có tính hoạt động cao (bởi quá trình fluorrua hóa), dễ thăng hoa (gần như ở dạng hơi lý tưởng), và là hợp chất dễ bay hơi nhất của urani.
Một phương pháp điều chế urani tetrachloride () là kết hợp trực tiếp clo với hoặc là kim loại urani hoặc urani hydride. Sự khử bởi hydro tạo ra urani trichloride () trong khi các urani chứa số clo cao hơn được điều chế bởi phản ứng với clo bổ sung. Tất cả urani chloride phản ứng với nước và không khí.
Các muối urani bromide và iodide được tạo ra từ phản ứng trực tiếp của brom và iod với urani hoặc bằng cách thêm vào các acid của nguyên tố này. Ví dụ như: , , , và . Urani oxyhalide có thể hòa tan trong nước, gồm , , , và . Sự ổn định của các oxyhalide này giảm khi khối lượng nguyên tử của thành phần halide tăng.
Đồng vị
Nồng độ trong tự nhiên
Urani tự nhiên bao gồm ba đồng vị chính: urani-238 (99,28%), urani-235 (0,71%), và urani 234 (0,0054%). Tất cả ba đồng vị này đều phóng xạ, phát ra các hạt anpha với ngoại lệ là ba đồng vị trên đều có xác suất phân hạch tự nhiên nhỏ hơn là phát xạ anpha.
Urani-238 là đồng vị ổn định nhất của urani, có chu kỳ bán rã khoảng 4,468 tỉ năm, gần bằng tuổi của Trái Đất. Urani-235 có chu kỳ bán rã khoảng 7,13 triệu năm và urani-234 có chu kỳ bán rã khoảng 2,48 năm. Đối với urani tự nhiên, khoảng 49% tia anpha được phát ra từ mỗi U-238, 49% tương tự đối với U-234U (do sản phẩm sau được tạo thành từ sản phẩm trước) và khoảng 2% trong số đó do U-235 phát ra. Khi Trái Đất còn trẻ, có thể 1/5 urani của Trái Đất là urani-235, nhưng tỷ lệ U-234 có thể thấp hơn nhiều so với hiện nay.
Urani-238 thường phát hạt α — trừ khi trải qua phân hạch tự nhiên — phân rã theo phân rã hạt nhân urani, với tổng cộng 18 nguyên tố, tất cả chúng cuối cùng đều phân rã thành chì-206 theo nhiều cách phân rã khác nhau.
Chuỗi phân rã phóng xạ của U-235 có 15 nguyên tố, tất cả chúng phân rã đến cuối cùng đều tạo ra chì-207. Các hằng số phân rã trong các chuỗi này có ích để so sánh về các tỉ số của hạt nhân mẹ và hạt nhân con trong việc định tuổi bằng đồng vị phóng xạ.
Urani-234 là nguyên tố trong chuỗi phóng xạ Urani, và phân rã thành chì-206 thông qua một chuỗi phân rã của các đồng vị có thời gian tồn tại tương đối ngắn.
Urani-233 được tạo ra từ thori-232 khi bị bắn phá bằng neutron, thông thường trong các lò phản ứng hạt nhân, và U-233 cũng có thể phân hạch. Chuỗi phân rã của nó kết thúc bằng tali-205.
Urani-235 là một đồng vị quan trọng được dùng trong các lò phản ứng hạt nhân và trong vũ khí hạt nhân, do nó là đồng vị urani duy nhất tồn tại ở dạng tự nhiên trên Trái Đất có khả năng tự phân hạch tạo ra các sản phẩm phân hạch bằng các neutron nhiệt.
Urani-238 không thể phân hạch nhưng nó là một fertile isotope, bởi vì sau khi kích hoạt neutron nó có thể tạo ra plutoni-239, là một đồng vị có thể phân hạch khác. Do đó, các hạt nhân U-238 có thể hấp thụ một neutron để tạo ra đồng vị phóng xạ urani-239. U-239 phân rã beta tạo ra neptuni-239, đồng vị này cũng phân rã beta, sau đó phân rã thành plutoni-239 chỉ trong vài ngày. Pu-239 được dùng làm vật liệu phân hạch trong quả bom nguyên tử đầu tiên trong vụ thử Trinity ngày 15 tháng 7 năm 1945 ở New Mexico.
Làm giàu
Tách đồng vị là cách thức làm giàu urani-235, loại được dùng trong các vũ khí hạt nhân và trong hầu hết các nhà máy điện hạt nhân, ngoại trừ các lò phản ứng hạt nhân được làm lạnh bằng khí và các lò phản ứng hạt nhân nước nặng được điều áp. Trong các ứng dụng nói trên, việc làm giàu là để cho hầu hết các neutron được giải phóng từ sự phân hạch nguyên tử urani-235 phải ảnh hưởng đến các nguyên tử urani-235 khác để duy trì chuỗi phản ứng hạt nhân. Nồng độ và số lượng urani-235 cần thiết để đạt được yêu cầu này được gọi là khối lượng tới hạn (critical mass).
Khi đề cập đến urani được làm giàu, tỉ lệ urani-235 thường nằm trong khoảng 3% đến 5%. Quá trình làm giàu tạo ra một lượng rất lớn urani nghèo (depleted urani) do đã tách hết urani-235, tức tỉ lệ urani-238 được gia tăng tương ứng. Khi đề cập đến việc làm nghèo urani, tức nồng độ đồng vị urani-235 không quá 0,3%. Giá của urani đã tăng kể từ năm 2001, vì thế các sản phẩm thải ra sau quá trình làm giàu chứa hơn 0,35% urani-235 được xem xét tái làm giàu. Giá của urani hexaforit nghèo vượt trên ngưỡng 130 USD/kg vào thời điểm tháng 7 năm 2007 so với 5 USD vào năm 2001.
Quá trình xử lý ly tâm khí dùng máy ly tâm vận tốc lớn tách khí Urani hexafluorrua () dựa trên sự khác biệt về khối lượng phân tử giữa 235UF6 và 238UF6 là quá trình rẻ nhất và được sử dụng rộng rãi nhất cho việc làm giàu. Quá trình khuếch tán khí từng là phương pháp hàng đầu làm giàu urani và được sử dụng trong dự án Manhattan. Trong quá trình này, urani hexafluorrua được khuếch tán một cách riêng biệt thông qua lớp màng bạc-kẽm, và các đồng vị khác nhau của urani được tách ra dựa trên tốc độ khuếch tán (vì urani-238 nặng hơn nên khuếch tán chậm hơn urani-235). Phương pháp tách đồng vị laser phân tử ứng dụng tia laser có năng lượng nhất định để cắt đứt liên kết giữa urani-235 và fluor. Quá trinh này làm cho urani-238 liên kết với fluor và cho phép kim loại urani-235 kết tủa từ dung dịch. Một phương pháp làm giàu bằng laser khác là tách đồng vị hơi nguyên tử bằng laser (atomic vapor laser isotope separation) và ứng dụng các tia laser điều hưởng được như laser màu nhuộm. Một phương pháp khác được sử dụng là khuếch tán nhiệt chất lỏng.
Ứng dụng
Quân sự
Ứng dụng chính của urani trong lĩnh vực quân sự là làm các đầu đạn tỉ trọng cao. Loại đạn này bao gồm hợp kim urani nghèo (DU) với 1–2% các nguyên tố khác. Ở vận tốc tác động cao, mật độ, độ cứng và tính tự bốc cháy của đạn bắn ra có thể làm tăng sức phá hủy các mục tiêu bọc sắt hạng nặng. Xe tăng bọc sắt và các loại xe bọc thép khác có thể di chuyển cũng được làm từ các mảnh urani nghèo. Việc sử dụng DU trở thành vấn đề gây tranh cãi về chính trị và môi trường sau khi các loại đạn DU được các nước như Hoa Kỳ, Anh và nhiều nước khác sử dụng trong suốt cuộc chiến tranh vịnh Ba Tư và Balkans. Việc này đã đặt ra câu hỏi rằng liệu còn bao nhiêu hợp chất urani tồn tại trong đất (xem Hội chứng chiến tranh vùng Vịnh).
Urani làm nghèo cũng được sử dụng làm vật liệu chống đạn, dùng trong các container để chứa và vận chuyển các vật liệu phóng xạ. Trong khi bản thân kim loại urani có tính phóng xạ, mật độ cao của urani làm cho nó có khả năng bắt giữ phóng xạ hiệu quả hơn chì từ các nguồn phóng xạ mạnh như radi. Các ứng dụng khác của DU là dùng làm đối tượng cho các bề mặt kiểm soát của phi thuyền, bệ phóng cho các phương tiện phóng trở lại (Trái Đất) và vật liệu làm khiên. Do có tỉ trọng cao, vật liệu này được tìm thấy trong các hệ thống truyền động quán tính và trong các la bàn dùng con quay hồi chuyển. DU còn được ưa chuộng hơn so với các kim loại nặng khác do khả năng dễ gia công và chi phí tương đối thấp.
Trong giai đoạn cuối của chiến tranh thế giới thứ 2, trong chiến tranh lạnh và các cuộc chiến sau đó, urani đã được dùng làm nguyên liệu chất nổ để sản xuất vũ khí hạt nhân. Có hai loại bom phân hạch chính đã được sản xuất: một thiết bị tương đối đơn giản sử dụng urani-235 và loại phức tạp hơn sử dụng plutoni-239 gốc urani-238. Sau đó, các loại bom nhiệt hạch phức tạp hơn và mạnh hơn sử dụng plutoni trong vỏ bọc urani để tạo ra hỗn hợp triti và deuteri để chịu được phản ứng nhiệt hạch đã ra đời.
Dân dụng
Ứng dụng chủ yếu của urani trong lĩnh vực dân dụng là làm nhiên liệu cho các nhà máy điện hạt nhân. Một kg urani-235 về lý thuyết có thể tạo ra một năng lượng 80 teraJun (8 Jun), giả thiết rằng chúng phân hạch hoàn toàn; mức năng lượng này tương đương 3000 tấn than.
Các nhà máy điện hạt nhân thương mại sử dụng nhiên liệu urani đã được làm giàu với hàm lượng urani-235 khoảng 3%. Lò phản ứng CANDU là lò thương mại duy nhất có thể sử dụng nhiên liệu urani chưa được làm giàu. Nhiên liệu được sử dụng cho các lò phản ứng của Hải quân Hoa Kỳ là urani-235 đã được làm giàu rất cao. Trong lò phản ứng tái sinh (breeder-reactor), urani-238 cũng có thể được chuyển đổi thành plutoni qua phản ứng sau:
238U (n, gamma) → 239U -(beta) → 239Np -(beta) → 239Pu.
Trước khi phát hiện ra phóng xạ, urani được sử dụng chủ yếu với một lượng nhỏ trong thủy tinh vàng và đồ gốm, như thủy tinh urani và trong Fiestaware.
Việc Marie Curie phát hiện và tách radi trong các quặng urani (pitchblend) đã thúc đẩy việc khai thác mỏ để tách radi, dùng để làm các loại sơn dạ quang trên các con số của đồng hồ và bàn số trên máy bay. Điều này làm cho một lượng lớn urani trở thành chất thải, vì mỗi 3 tấn urani chỉ tách ra được 1 gram radi. Lượng chất thải này đã được chuyển hướng đến ngành công nghiệp thủy tinh, làm cho thủy tinh urani rất rẻ và phổ biến. Bên cạnh thủy tinh gốm, còn có gạch urani được sử dụng phổ biến trong nhà tắm và bếp, các loại này có thể được sản xuất với nhiều màu khác nhau như lục, đen, lam, đỏ và các màu khác.
Urani cũng được sử dụng làm hóa chất nhiếp ảnh (đặc biệt là urani nitrat để làm nước cân bằng da).
Việc phát hiện ra tính phóng xạ của urani mở ra những ứng dụng thực tế và khoa học của nguyên tố này. Chu kỳ bán rã dài của đồng vị urani-238 (4,51 năm) làm cho nó trở nên thích hợp trong việc sử dụng để định tuổi các đá macma cổ nhất và các phương pháp định tuổi phóng xạ khác, như định tuổi urani-thori và định tuổi urani-chì. Kim loại urani được sử dụng trong máy X-quang để tạo ra tia X năng lượng cao.
Urani và sức khỏe con người
Một người có thể tiếp xúc với urani (hoặc các hạt nhân con của nó như radon) qua việc hít bụi trong không khí hoặc qua các thực phẩm hoặc nước bị nhiễm chúng. Hàm lượng urani trong không khí thường rất nhỏ; tuy nhiên, đối với những người làm việc trong các nhà máy sản xuất phân phosphat, hoặc sống gần các nhà máy sản xuất hoặc thử nghiệm vũ khí hạt nhân, hoặc sống hay làm việc gần những nơi từng có các trận đánh sử dụng vũ khí hạt nhân, hay gần nhà máy nhiệt điện dùng than, các cơ sở khai thác hoặc xử lý quặng urani, hoặc làm giàu urani, có thể tăng nguy cơ phơi nhiễm urani. Những ngôi nhà hoặc các công trình trên các mỏ urani (tự nhiên hoặc nhân tạo) có thể chịu nhiều tăng ảnh hưởng phơi nhiễm khí radon.
Hầu hết urani đi vào cơ thể qua đường thực phẩm được bài tiết qua đường tiêu hóa. Chỉ có 0,5% được hấp thụ khi ở các dạng không hòa tan như các oxide urani, ngược lại việc hấp thụ các ion uranyl có thể nhiều hơn lên đến 5%. Tuy nhiên, các hợp chất urani hòa tan có khuynh hướng đi qua cơ thể một cách nhanh chóng trong khi các hợp chất không hòa tan đặc biệt khi đi vào cơ thể ở dạng bụi trong phổi sẽ gây những biến chứng nghiêm trọng. Sau khi vào máu, urani đã được hấp thụ có khuynh hướng tích tụ sinh học và tồn tại nhiều năm trong các tế bào xương do liên hệ của urani với phosphat.
Urani không liên kết ở dạng các ion uranyl, các ion này tích tụ trong xương, gan, thận và các tế bào sinh sản. Urani có thể được làm sạch từ các bề mặt thép và các tầng chứa nước.
Ảnh hưởng
Chức năng thông thường của thận, não, gan, tim và các hệ cơ quan khác trong cơ thể có thể bị ảnh hưởng khi tiếp xúc với urani, bởi vì ngoài các phóng xạ rất yếu, urani còn là kim loại độc. Urani cũng là chất độc có khả năng tái sản xuất. Các ảnh hưởng phóng xạ phổ biến ở mức độ địa phương là phóng xạ alpha, một kiểu phân rã ban đầu của U-238, có thời gian tồn tại rất ngắn, và sẽ không xuyên qua da. Các ion uranyl (), như ở dạng uranium trioxide hay uranyl nitrate và các hợp chất hóa trị sáu khác có thể gây ra những dị tật bẩm sinh và phá hủy hệ miễn dịch của các con thú trong phòng thí nghiệm. Khi CDC xuất bản một nghiên cứu cho thấy không có dấu hiệu ung thư ở người được ghi nhận khi tiếp xúc với urani tự nhiên hoặc urani đã làm nghèo, tiếp xúc với urani và các sản phẩm phân rã của nó, đặc biệt là radon, được cho là gây ra những mối đe dọa đáng kể về sức khỏe.
Mặc dù phơi nhiễm urani tình cờ qua đường hô hấp với urani hexafluorua nồng độ cao sẽ gây tử vong ở người, nguyên nhân chính gây tử vong liên quan đến việc tạo ra acid fluorhydric có độc tính cao và các muối uranyl fluorua hơn là do bản thân urani. Urani là một chất tự bốc cháy nên khi ở dạng hạt mịn nó có nguy cơ cháy trong không khí ở nhiệt độ phòng. |
Võ Duy Ninh (chữ Hán: 武維寧; 1804–1859), còn được viết là Vũ Duy Ninh, tự Trọng Chí, hiệu Trúc Nghiêm Võ Chí Hiên, là vị võ quan cao cấp của nhà Nguyễn đầu tiên đã tuẫn tiết trong cuộc chiến chống lại sự xâm lược của người Pháp tại Gia Định, Việt Nam.
Tiểu sử
Võ Duy Ninh sinh năm 1804 tại làng Đại An, xã Hành Phong (nay là xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành), tỉnh Quảng Ngãi. Theo gia phả gia đình ông thì ông là con thứ (tức con giữa) của một gia đình ba anh em trai.
Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), ông đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ, tại trường thi Thừa Thiên. Cũng theo gia phả, ông là người văn hay, chữ tốt, có giọng đọc hay nên nhiều lần làm lễ tế đàn ở Nam Giao, vua Tự Đức đều triệu ông đến đọc văn tế. Sau khi đỗ Cử nhân, ông được làm Hành tẩu Bộ lại, đến năm Tự Đức thứ nhất (1847) được làm Bố chánh sứ tỉnh Phú Yên. Năm 1848 ông được cử làm Chánh Chủ khảo trường thi Hương, Thanh Hóa. Năm Tự Đức thứ 5 (1852), ông được triều đình điều về làm Tham Tri Bộ Lại. Năm Bính Thìn (1856) ông được bổ nhiệm làm quan Duyệt quyển khoa thi Hội.
Tháng 7 năm Mậu Ngọ (1858), năm Tự Đức thứ 11, thực dân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng. Trong lúc quân triều đình, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, thực hiện cuộc chống trả tương đối có hiệu quả, cầm chân quân Pháp tại Đà Nẵng, thì mẹ Võ Duy Ninh mất. Theo quy định của triều đình, ông được về cư tang (chịu tang) mẹ 3 tháng.
Tháng 11 năm 1858, triều đình cử ông vào Nam Kỳ giữ chức Hộ đốc thành Gia Định. Sau đó một năm, đầu năm 1859, ông được thăng làm Tổng đốc Định - Biên, cai quản hai tỉnh Gia Định và Biên Hòa. Tuy nhiên, khi ông vừa đến Gia Định nhậm chức Tổng đốc mới vẻn vẹn được hai ngày thì quân Pháp nổ súng tấn công Cần Giờ - Gia Định. Cuộc chiến đấu chống giặc Pháp từ Cần Giờ đến thành Gia Định diễn ra trong gần một tháng trời với ưu thế về vũ khí nghiêng hẳn về phía quân Pháp.
Nhận thức được tiềm lực của quân Pháp, một mặt Võ Duy Ninh tìm cách gọi quân cứu viện từ các tỉnh đến cứu thành, một mặt chấn chỉnh đội ngũ và tinh thần binh lính. Khi quân Pháp ồ ạt tiến vào cửa thành, bắn phá các pháo đài dọc sông và tiến thẳng vào thành Gia Định, Võ Duy Ninh đốc thúc quân đội kháng cự dũng mãnh, song không giữ nổi thành trước binh lực mạnh áp đảo của địch. Kể từ khi Pháp nổ súng đánh thành Gia Định, chỉ sau vài ngày, quân Pháp đã vào được thành. Tổng đốc Võ Duy Ninh cũng trúng đạn trọng thương bất tỉnh.
Ông được quân sĩ cõng về làng Phước Lý thuộc huyện Phước Lộc. Sau khi tỉnh dậy, biết được quân Pháp đã chiếm được thành Gia Định, ông đã rút gươm tự sát vào ngày 17 tháng 2 năm 1859.
Tin thành Gia Định thất thủ về đến triều đình, chiếu theo luật, vua Tự Đức cho tước bỏ phẩm hàm của Tổng đốc Võ Duy Ninh. Nhờ quan Khâm sai đại thần Nguyễn Bá Nghi đi Nam Kỳ, rõ được sự tình liền làm ba tờ sớ tấu xin vua cho tìm hài cốt của Võ Duy Ninh mang về. Lần thứ ba vua Tự Đức mới chuẩn tấu sau khi đã phạt Nguyễn Bá Nghi 3 tháng lương bổng. Mãi đến năm Bảo Đại thứ 6, Võ Duy Ninh mới được phục hồi phẩm hàm và được vua ban di sắc ý nói hoàn cảnh của ông chỉ là do vua không thấu hết.
Về gia đình, Võ Duy Ninh có hai người vợ và bốn người con gồm hai trai, hai gái. Bà chánh thất Đào Thị Thạnh là con gái của Thượng thư Bộ lại Đào Nguyên Phổ, quê ở Bà Chiểu, Gia Định. Sau khi Tự Đức chấp nhận cho gia đình cải táng hài cốt ông về quê nhà, bà cùng người con trai là Võ Duy Lập (mới 16 tuổi) lặn lội vào Bà Chiểu mất một năm trời mới tìm được hài cốt ông. Phải mất thêm ba tháng ròng rã nữa mới đưa được hài cốt của ông về an táng tại xã Chánh Lộ (thành phố Quảng Ngãi ngày nay). Năm Bảo Đại thứ 6, Võ Duy Ninh được triều đình phục hồi phẩm hàm và ban di sắc phong. Năm 1987, họ tộc Võ cải táng hài cốt Võ Duy Ninh về thôn Xuân An, xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành (Quảng Ngãi).
Sử gia Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Bá Thế, tác giả cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, đã viết về danh sĩ Võ Duy Ninh: "Ông là vị tướng lãnh cao cấp hy sinh đầu tiên trong Nam thời giặc Pháp cướp nước ta".
Chú thích
Người Quảng Ngãi
Quan lại nhà Nguyễn |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.