text
stringlengths
82
354k
Vizzini đã nhảy từ mái nhà tự sát vào mùa đông năm 2013, ở tuổi 32. Vizzini lớn lên chủ yếu ở khu Park Slope của Brooklyn ở Thành phố New York. Anh theo học tại trường trung học Stuyvesant ở Manhattan, tốt nghiệp năm 1999. Tên khai sinh của anh là Edison Price Vizzini, nhưng mẹ anh thường gọi anh với cái tên "Ned" và những người khác cũng bắt chước gọi theo. Cho đến năm 1986, có quá nhiều người sử dụng cái tên này khiến giấy tờ trên trường lẫn lộn, anh đã chính thức đổi pháp lý tên của mình thành Ned Price Vizzini. Các nhân vật và tình huống trong tác phẩm của Vizzini được cho là dựa trên quãng thời gian anh ở Stuyvesant. Xuất bản đầu tiên của Vizzini là truyện ngắn "Horrible Mention" gửi cho tuần báo New York Press năm 1996. Anh đóng góp cho tờ báo với tư cách là một cây bút tự do, anh viết về mọi thứ, từ những kỳ nghỉ gia đình cho đến việc say xỉn trên đường phố với những đứa trẻ khác. Thành công trong công việc của Vizzini đã giúp anh nhận được lời mời đóng góp một bài báo tập trung vào thanh thiếu niên cho tạp chí The New York Times Magazine. Tháng 5 năm 1998, bài viết ngắn "Teen Angst? Nah!" của Vizzini xuất hiện trên tờ The New York Times. Tiếp nối theo đó, một số loạt bài viêt trên New York Press của anh đã trở thành nội dung cốt lõi cho cuốn sách đầu tay "Teen Angst? N" một xuất bản hồi ký viết về thời niên thiếu. Đây là một tuyển tập truyện ngắn, hầu hết đều được đăng trước đó trên New York Press và The New York Times Magazine. Cuốn sách được chia nhỏ theo các năm từ trung học cơ sở đến trung học phổ thông và trở về sau. Năm 2004, cuốn tiểu thuyết đầu tiên "Be More Chill" được xuất bản. Một bài đánh giá trên tờ New York Times Book Review cho rằng "Be More Chill", kể về một học sinh trung học tên Jeremy Heere, bị tiêm một viên thuốc siêu máy tính vào não khiến anh ấy trở nên ngầu, "chính xác đến mức nó phải kèm theo một lời cảnh báo," nói thêm rằng "Nếu không vì hài hước đến thế, cuốn tiểu thuyết đầu tay [của Vizzini] có thể sẽ quá đau đớn để đọc." "Be More Chill" về sau được cải biên thành nhạc kịch vào năm 2015, nhạc và lời do Joe Iconis sáng tác và mở màn tại Nhà hát Two River ở New Jersey. Ba năm sau, bản off-Broadway được khai mạc tại Nhà hát Signature ở New York, nối tiếp là một bản Broadway ra mắt vào tháng 2 năm sau đó. Năm 2006, cuốn tiểu thuyết thứ hai "It's Kind of a Funny Story" của Vizzini được xuất bản. Tác phẩm dựa trên năm ngày lưu trú nhà tâm thần của ở Brooklyn. Cuốn sách kể về nhân vật Craig Gilner mười lăm tuổi chiến đấu với chứng trầm cảm muốn tự tử, khi bước vào viện tâm thần, cậu gặp gỡ những người khác đang đấu tranh với các vấn đề sức khỏe tâm thần tương tự và cậu bắt đầu cảm thấy như mình không còn đơn độc. Một bài đánh giá của Los Angeles Times gọi cuốn tiểu thuyết là "ấn tượng", ghi chép rằng "Cảm giác về nhịp văn, cấu trúc và nhân vật của Vizzini rất trọn vẹn, và ngôn ngữ đời thường của anh ấy rất chuẩn xác, đồng thời nắm bắt được chứng hoang tưởng và sự tiêu cực ám ảnh của bệnh trầm cảm cũng như sự sự tò mò về tình dục của tuổi mới lớn." Năm 2012, cuốn tiểu thuyết thứ ba "The Other Normals" của Vizzini được xuất bản. Viết theo dòng văn "viễn tưởng alternative", tác phẩm nói về một thiếu niên rơi vào một thế giới giả tưởng vốn là nền tảng của trò chơi nhập vai yêu thích của cậu ấy. Một bài đánh giá trên The Austin American-Statesman cho hay, "Sự thông minh sắc sảo từ các tác phẩm trước đó của tác giả Ned Vizzini cũng được hiện diện rõ trong này." Cùng với Nick Antosca, Vizzini đã viết kịch bản cho hai tập của phim truyền hình siêu nhiên Teen Wolf mùa 2012 trên kênh MTV. Vizzini và Antosca từng làm biên tập cốt truyện cho bộ phim truyền hình dài tập "Last Resort" năm 2013 của ABC. Cả hai có tên trong danh sách cuối phim của tập phim "Nuke It Out" với vai trò biên kịch. Năm 2013, Vizzini và nhà làm phim Chris Columbus xuất bản cuốn tiểu thuyết "House of Secrets", tác phẩm đầu tiên trong bộ sách giả tưởng cho lứa tuổi thiếu nhi. Cuốn sách ra mắt trong danh sách bán chạy nhất của New York Times và giữ nguyên vị trí đó trong bốn tuần. Entertainment Weekly đã đánh giá cuốn sách ở mức A−. Nhiều bài tham luận và phê bình của Ned Vizzini đã được lên The New York Times, The Los Angeles Review of Books, và Salon. Vizzini đã đi phát biểu tại nhiều trường học và thư viện trên khắp thế giới, nói về sức khỏe tâm thần, sáng tác và chỉ dạy cho những học sinh cách có thể dùng con chữ như một liều thuốc tâm thần. Anh đã từng phát biểu tại UCLA; ; Thư viện Công cộng , New York và ; Đại học Tiểu bang Murray; Đại học New York; ; và sự kiện Master's Tea của Yale. Từ năm 2006 đến 2012, Vizzini đã đứng ra tổ chức một lớp giao lưu viết sáng tác cho thanh thiếu niên địa phương. Các buổi giao lưu được tổ chức hàng tháng tại hiệu sách Barnes Noble ở Park Slope. Những bạn trẻ tham dự có cơ hội được xuất bản tác phẩm của mình trên blog của nhóm, "Give Us Money". Ngày 19 tháng 12 năm 2013, tại Brooklyn, New York, Ned Vizzini đã tự sát ở độ tuổi 32, để lại người vợ Sabra và một người con trai. Văn phòng giám định của thành phố New York cho biết anh có nhiều chấn thương do va đập mạnh. Người anh trai Daniel nói với phóng viên rằng Vazzini đã nhảy từ nóc nhà nơi cha mẹ họ sinh sống. Người thân nói rằng Vazzini đã chiến đấu với căn bệnh trầm cảm trong một thời gian dài.
Short Brothers plc, thường hay gọi tắt là Shorts hay Short, là một công ty Hàng không vũ trụ có trụ sở đặt tại Belfast, Bắc Ireland. Shorts được thành lập vào năm 1908 tại London, và là công ty đầu tiên trên thế giới chế tạo động cơ máy bay. Công ty nổi tiếng với thiết kế Thủy phi cơ vào những năm 1950. Năm 1943, Shorts được quốc hữu hóa và sau đó được tư nhân hóa, vào năm 1948 công ty dời trụ sở đến Belfast. Vào những năm 1960s, Shorts chủ yếu chế tạo động cơ Động cơ tuốc bin cánh quạt máy bay chở khách, các bộ phận chính trong hàng không vũ trụ, và chế tạo tên lửa cho Quân đội Anh. Shorts thuộc quyền sở hữu của Chính phủ Anh trước khi được Bombardier mua lại vào năm 1989, hiện nay Shorts là doanh nghiệp lớn nhất của Bắc Ai Len. Tháng Mười một năm 2020, Bombardier đã bán Short Brothers tại Belfast cho Spirit AeroSystems. Công ty tập trung chế tạo các sản phẩm bao gồm các bộ phận của máy bay, động cơ và hệ thống điều khiển bay cho công ty mẹ là Bombardier Aerospace, và cho Boeing, Rolls-Royce Deutschland, General Electric và Pratt Whitney. Short Brothers được thành lập vào năm 1897, khi Eustace Short (1875 – 1932) mua một khinh khí cầu chứa đầy khí than đã qua sử dụng cùng anh trai Oswald, công ty mới thành lập phát triển và sản xuất khinh khí cầu. Năm 1900, hai anh em Short và Oswald đã thăm triển lẵm 1900 Paris Exposition ('Hội chợ quốc tế'), và hai ông đã chiêm ngưỡng khinh khí cầu của Édouard Surcouf (Société Astra), người đã phát triển lý thuyết để chế tạo khinh khí cầu hình tròn. Năm 1902, hai anh em bắt đầu bán khí cầu. Công ty sản xuất khí cầu được đặt tại Hove, Sussex. Năm 1903, khi Horace rời đi cùng với Charles Parsons để phát triển động cơ tuốc bin hơi nước, Eustace và Oswald đã tiến hành chuyển cơ sở của mình đến London và sau đó đến Battersea, nằm cạnh nhà máy khí đốt Battersea. Năm 1905, công ty dành được hợp đồng cung cấp ba khinh khí cầu cho Quân đội Ấn Độ thuộc Anh. Chất lượng khinh khí cầu của công ty đã gây ấn tượng với Đại tá James Templer, người đứng đầu Nhà máy chế tạo khinh khí cầu Hoàng gia, người đã giới thiệu Short và Oswald với Charles Rolls, người sáng lập công ty Rolls Royce. Rolls đã ủy quyền cho hai anh em nhà Short chế tạo một khinh khí cầu cỡ lớn để tham gia giải khinh khí cầu Gordon Bennett năm 1906. Qua đó, công ty nhận nhiều đơn đặt hàng chế tạo khinh khí cầu hơn sau khi tham gia Câu lạc bộ hàng không Vương quốc Anh. Năm 1908, khi nghe tin về buổi trình diễn của mẫu máy bay do anh em nhà Wight chế tạo tại Le Mans, Pháp, Oswald Short đã nói với Eustace, "Đây là dấu chấm hết của thời đại khinh khí cầu; chúng ta cần bắt đầu chế tạo máy bay, và chúng ta không thể làm điều đó nếu thiếu Horace!" Oswald đã thuyết phục thành công Horace để rời bỏ công việc cùng Parsons, và vào tháng Mười một năm 1908, họ đã đăng ký thương hiệu dưới cái tên Short Brothers. Cuối năm 1908, Horace bắt đầu làm việc trên hai bản thiết kế, đầu năm 1909, việc chế tạo máy bay của McClean được bắt đầu, tháng 3 năm 1909 nó được trưng bày tại triển lãm Hàng không Anh tổ chức tại Olympia. Trong khi đó, hai anh em nhà Short đã dành được quyền chế tạo các bản sao thiết kế của Wright tại Anh. Tháng Hai năm 1909, công ty Shorts bắt đầu mở thêm một xưởng mới tại Leysdown, gần Shellbeach trên đảo Sheppy. Nơi này đã được Câu lạc bộ Hàng không mua lại để sử dụng làm sân bay, cùng với Trang viên Manor ("Muswell Manor"), về sau đã trở thành hội quán của Câu lạc bộ. Ngay lập tức việc chế tạo sáu chiếc máy bay đầu tiên được tiến hành, đánh dấu lần đầu tiên có một công ty trên thế giới thực hiện được đơn hàng lớn như vậy. Tại đây, chiếc Dunne D.5 - loại máy bay đầu tiên không có cánh đuôi cũng được chế tạo theo hợp đồng. Năm 1910 câu lạc bộ Royal Aero Club cùng với Short Brothers đã chuyển đến khu đất rộng hơn và ít đầm lầy tại Eastchurch, cách trụ sở cũ 2,5 dặm (4 km). Năm 1911, Shorts đã chế tạo mẫu máy bay hai động cơ rất thành công là Triple Twin. Việc chế tạo máy bay thủy phi cơ được bắt đầu với mẫu Short S.26.
Chặng đua MotoGP Nhật Bản 2023 Chặng đua MotoGP Nhật Bản 2023 là chặng đua thứ 14 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 29/09/2023 đến ngày 01/10/2023 ở trường đua Motegi, Nhật Bản. Jorge Martin của đội đua Pramac Racing đã giành chiến thắng cả hai cuộc đua Sprint race và đua chính của thể thức MotoGP. Sau chặng đua, Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 319 điểm. Kết quả đua chính thể thức MotoGP. Do thời tiết xấu nên cuộc đua chính đã kết thúc sớm ở vòng đua 12.
Phạm Thị Hồng Lệ Phạm Thị Hồng Lệ (sinh năm 1998) là một vận động viên điền kinh chuyên nghiệp người Việt Nam. Cô đang là tuyển thủ của đội tuyển điền kinh quốc gia Việt Nam, từng giành huy chương vàng Sea Games. Sở trường của Phạm Thị Hồng Lệ là các cự ly trung bình (5km, 10km) và dài (marathon). Thành tích nổi bật. Ở Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2019, Phạm Thị Hồng Lệ thi đấu cự ly marathon, cô đã bị ngất xỉu sau khi nỗ lực cán đích ở vị trí thứ ba. Ở Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021, Phạm Thị Hồng Lệ quyết định không thi đấu cự ly marathon để tập trung cho cự ly 10.000m. Chiến thuật này đã phát huy hiệu quả giúp cho cô giành được tấm huy chương vàng tại SEA Games đầu tiên trong sự nghiệp. Ở các giải đấu cấp quốc gia, Phạm Thị Hồng Lệ thi đấu cho đoàn thể thao Bình Định. Cô từng nhiều lần tham gia và đạt thành tích cao ở các giải marathon quy mô lớn ở Việt Nam như VnExpress Marathon hay Tiền Phong Marathon.
Odontanthias wassi là một loài cá biển thuộc chi "Odontanthias" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2006. Từ định danh "wassi" được đặt theo tên của Richard C. Wass (s. 1942), nhân viên kiểm ngư Cục Cá và Động vật hoang dã Hoa Kỳ, người đã thu thập mẫu định danh của loài cá này và tặng lại cho Bảo tàng Bishop (Honolulu). "O. wassi" mới chỉ được biết đến ở ngoài khơi cụm đảo Ofu-Olosega (Samoa thuộc Mỹ), được thu thập ở độ sâu khoảng 100 m. Theo trang "Fishes of Australia" thì loài này đã được phát hiện tại đảo san hô Holmes ở trên biển San Hô (Úc). Chiều dài chuẩn (SL: "standard length") lớn nhất được ghi nhận ở "O. wassi" là 12,3 cm. Cá có phần thân trước phía trên gốc vây ngực là màu vàng, bụng và thân sau chủ yếu là màu hồng. Đầu có các vệt sọc vàng và hồng. Vây lưng màu vàng với dải viền rìa màu hồng tím. Vây đuôi xẻ thuỳ, hơi bo tròn ở đầu, có màu hồng tím với một dải vàng dọc theo mỗi thùy. Vây bụng và vây hậu môn màu vàng, có viền tím. Mắt vàng tươi, có viền tím ở trên và dưới. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 16 (tia thứ hai vươn dài nhất); Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số tia vây ở vây ngực: 17; Số vảy đường bên: 42.
Stephen P. Synnott (sinh năm 1946) là một nhà thiên văn học người Mỹ và là nhà khoa học của chương trình Voyager làm việc tại Phòng Thí nghiệm Sức đẩy Phản lực. Ông còn là một chuyên gia về kỹ thuật dẫn đường quang học của tàu vũ trụ. Ông có công trong việc phát hiện một số vệ tinh tự nhiên của các hành tinh nằm ở vòng ngoài của Hệ Mặt Trời như Metis, Puck, Larissa (phát hiện lại), Cressida, Thebe và Proteus. Tiểu hành tinh 6154 Stevesynnott, khám phá bởi Henry E. Holt vào năm 1990, được đặt theo tên của Synnott để vinh danh ông. Tên gọi này đã được thông qua và công bố bởi Trung tâm Hành tinh Vi hình vào ngày 1 tháng 6 năm 1996 (#đổi ).
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23 Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23 là một sự kiện do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng tổ chức từ ngày 21 tháng 11 đến ngày 25 tháng 11 năm 2023, với chủ đề "Xây dựng công nghiệp điện ảnh Việt Nam giàu bản sắc dân tộc, hiện đại và nhân văn". Với 177 bộ phim tham dự, Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 23 có số lượng phim tham dự nhiều nhất từ trước tới nay. Hội đồng tuyển chọn đã chọn được 147 bộ phim, gồm 91 bộ phim dự thi, 56 bộ phim trong chương trình toàn cảnh. Đêm khai mạc Liên hoan phim diễn ra tại Quảng trường Lâm Viên, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng và lễ bế mạc tổ chức tại Nhà hát Opera House, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Danh sách Ban giám khảo bao gồm:
Sầu riêng Mon Thong Sầu riêng Mon Thong hay Monthong là giống sầu riêng thuộc loài "Durio zibethinus" trong chi "Durio". Tên và mã số của giống là D159, tên trong tiếng Thái là "หมอนทอง" – Mon Thong ] nghĩa là "Chiếc gối vàng". Giống có nguồn gốc từ Thái Lan và hiện là giống sầu riêng được trồng phổ biến nhất tại nhiều nước châu Á. Người Việt Nam thường đọc là "Mõm thon", "Mon thon". Sầu riêng Mon Thong là một giống trồng thuộc loài "D. zibethinus", thuộc phân loài "Palatadurio" của chi "Durio". Đây là một trong 3 giống sầu riêng trồng cho mục đích thương mại phổ biến nhất tại Thái Lan bao gồm Xà Ni, Kan Yao và Mon Thong. Mon Thong và Xà Ni chiếm đến 90% diện tích trồng sầu riêng tại Thái Lan. Vùng Nonthaburi là vùng đất trồng sầu riêng Mon Thong nổi tiếng nhất Thái Lan. Tại Việt Nam, Mon Thong, Ri6 và Cơm vàng hạt lép là ba giống phổ biến nhất. Mon Thong được trồng ở các tỉnh miền Tây Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh L, Bình Phước. Cho đến 2023, diện tích trồng sầu riêng ở Việt Nam là 131.000 ha, trong đó tốc độ trồng nhanh nhất là ở Tây Nguyên, hiện tại đã chiếm gần 70.000 ha. Giống sầu riêng Mon Thong chiếm 50% diện tích trồng, giống Ri6 cũng có diện tích gần tương đương, cả hai là các giống sầu riêng trồng nhiều nhất Việt Nam. Tại Tiền Giang, diện tích sầu riêng là 17.000 ha, tập trung ở Thị xã Cai Lậy, huyện Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành. Đối với giống sầu riêng Mon Thong có thể trồng bằng phương pháp chiết ghép. Điểm yếu của Mon Thong là cây trồng không có khả năng kháng các bệnh như thối rễ, thối thân, ung thư thân, trong đó cây dễ bị thối các phần trên thân và chảy mạch nhựa, hay còn gọi là xì mủ, nguyên dân do nấm "Phytophthora palmivora" gây ra. Cây sẽ chết khi tình trạng chuyển biến nghiêm trọng. Hoa của Mon Thong có khả năng sống sót tương đối cao, khoảng 90%, cao hơn giống sầu riêng Kradumthong (Kradoomthong), chỉ khoảng 83%, nhưng thấp hơn giống Xà Ni, 94% và Kan Yao 96%. Các thay đổi thời tiết mạnh như mưa, sương và nhiệt độ dưới 18°C sẽ làm hỏng khả năng tồn tại của phấn hoa. Mon Thong giống như một số giống sầu riêng chẳng hạn như giống Kob và giống E - Nak, chúng mất nhiều thời gian, thường là 120 đến 140 ngày để trái phát triển đầy đủ từ khi đậu quả thành công. Trong khi đó, các giống Kan Yao, Chompoose, Tongyoichat mất 105 đến 120 ngày; các giống Kradoomthong, Xà Ni, Luang, Khcow Sa-ard chỉ mất 95 đến 105 ngày. Cây trồng đến năm thứ 4 hoặc thứ 5 là đã có thể bắt đầu thu hoạch quả mùa đầu tiên. Sầu riêng Xà Ni có thời gian chín quả sớm hơn Mon Thong, quả khi chín có màu vàng đậm và có mùi nồng hơn Mon Thong. Tuy nhiên, quả của Mon Thong có thịt quả chứa hàm lượng polyphenol cao hơn các giống sầu riêng khác, trong khi các giống có hàm lượng polyphenol từ 21,44 đến 374,30 mg thì Mon Thong có hàm lượng cao nhất 374,30 mg cho mỗi 100 g thịt quả tươi. Quả có cân nặng trung bình 2,5 đến 3 kg. Thịt quả của Mon Thong ngọt, giòn, thơm và mùi không hăng quá mức. Thu hoạch và bảo quản. Trong ba giống Xà Ni, Kan Yao và Mon Thong thì Mon Thong là giống được nông dân chuộng trồng hơn, sau đó là đến giống Xà Ni. Do Mon Thong có nhiều lợi ích, quả thơm bùi, hạt nhỏ và bảo quản được lâu hơn. Ngoài ra, thời gian thu hoạch có thể kéo dài. Điều này có lợi cho việc chờ và nắm bắt giá cả thị trường. Nó đã được xử lý để có thêm mùa vụ nghịch quả. Mon Thong được thu hoạch khi quả chín 75-85%, rồi được xử lý sau thu hoạch bằng ethephon hoặc methylcyclopropene, sau đó bảo quản ở nhiệt độ thấp. Nhiệt độ bảo quản là 14°C khi cần bảo quản 20 ngày, 20°C khi bảo quản 10-15 ngày, 25°C khi cần bảo quản 7 ngày và 30°C khi cần bảo quản 4-5 ngày. Vùng Nonthaburi- vùng đất trồng sầu riêng Mon Thong nổi tiếng nhất ghi nhận giống cây được trồng ở đây lần đầu vào năm 1983. Một thông tin về giống trồng này cho biết tại miền Nam Thái Lan vào năm 1992 có 1 triệu cây Mon Thong. Mon Thong đã được đăng ký Chỉ dẫn địa lý (GI) với Cục Sở hữu trí tuệ Thái Lan ngày 21 tháng 02 năm 2011. Vào năm 2022, nghành sầu riêng Thái Lan cho ra mắt sầu riêng Pak Chong-Khao Yai, một giống thuộc dòng sầu riêng Mon Thong ở tỉnh Nakhon Ratchasima phía đông bắc Thái Lan. Giống con này cho quả có thịt không mùi, thành quả giống cây trồng này nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường tiêu thụ của thực khách không thích mùi quá nồng. Mon Thong được ưa chuộng do thịt quả dày, béo ngậy, vị ngọt nhẹ, mùi tương đối vừa phải và hạt nhỏ. Quả có thể dùng ăn tươi hoặc chế biến thịt quả thành các thành phẩm khác. Theo tiêu chuẩn xuất khẩu của Thái Lan, một quả sầu riêng Xà Ni hàng loại I phải nặng từ 2-3 kg, Kan Yao và Mon Thong thì tiêu chuẩn cao hơn, một quả tươi hàng loại I phải nặng từ 3 đến 4,5 kg mới được xuất khẩu. Mon Thong được đánh giá cao nhất trên thị trường, và được ưa chuộng tại nhiều nước, đặc biệt được ưa chuộng tại thị trường Trung Quốc. Năm 2021, Thái Lan xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc hơn 800.000 tấn sầu riêng, đạt giá trị 3,1 tỷ USD. Nông dân Việt Nam ưa chuộng trồng Mon Thong hơn Ri6 dù chất lượng gần như nhau nhưng do trọng lượng quả nặng hơn nên có lợi về thương mại. Sầu riêng Mon Thong là mặt hàng sầu riêng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Trung Quốc, đem đến giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, việc xuất khẩu thường xuyên biến động chủ yếu do việc đóng cửa khẩu của Trung Quốc. Điều này dẫn đến giá cả lên xuống mạnh và ngành sản xuất liên tục thăng trầm. Vào khoảng tháng 11 năm 2022, giá sầu riêng Mon Thong là gần 100.000 VND/kg. Đến tháng 4 năm 2023, giá chung tụt xuống chạm mức 85.000 VND/kg, Hàng loại 1 giá từ 120.000 tụt xuống 95.000 trong thời gian chỉ có 2 tuần. So với tháng 2 năm 2023, giá giảm gần 50%. Năm 2022, Thái Lan xuất khẩu sang Trung Quốc 825.000 tấn sầu riêng, chiếm 94,55% sầu riêng nhập vào Trung Quốc, và đạt trị giá 4,03 tỷ USD. Tuy nhiên, thị trường thương mại của sầu riêng cũng bắt đầu có sự cạnh tranh mạnh mẽ giữa nhiều nước Đông Nam Á. Hàng các nước đều hướng đến Trung Quốc. Việc xuất khẩu của Thái Lan đang dần bị đe dọa bởi sự cạnh tranh từ Việt Nam và Philippine. Giá sầu riêng giữa các nước biến động không ngừng, đồng thời cũng có sự biến động của sản lượng.
Vệ binh Quý tộc Vệ binh Quý tộc (tiếng Ý: "Guardia Nobile") là một trong những đơn vị cận vệ phục vụ Giáo hoàng, và là một phần của quân đội ở Thành Vatican. Nó được thành lập bởi Giáo hoàng Pius VII vào năm 1801 với tư cách là một trung đoàn kỵ binh hạng nặng, và bị Giáo hoàng Paul VI bãi bỏ vào năm 1970 sau Công đồng Vaticanô II. Được coi là đội cận vệ riêng của Giáo hoàng, đơn vị này cung cấp một đoàn hộ tống cho Giáo hoàng khi ông di chuyển quanh Rome trên xe ngựa của mình và bố trí lính gác bên ngoài các nơi cư trú của ông trong các cung điện của Giáo hoàng. Các lính canh cũng sẵn sàng thực hiện các nhiệm vụ đặc biệt trong Lãnh thổ Giáo hoàng theo lệnh của Giáo hoàng. Một trong những nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của họ là hộ tống Đức Piô VII tới Paris dự Lễ đăng quang của Napoléon và Joséphine vào năm 1804. Năm 1801, một cuộc vận động đã bắt đầu ở Rome trong giới quý tộc để thành lập Đội vệ binh cho Giáo hoàng, và một địa chỉ đã được gửi đến Giáo hoàng Plus VII để cung cấp dịch vụ một cách miễn phí. Để đáp lại, Đội cận vệ Quý tộc được thành lập vào ngày 11 tháng 5 năm 1801. Riêng với tư cách là vệ binh cung điện, Đội cận vệ Quý tộc không tham gia nghĩa vụ quân sự hoặc chiến đấu tích cực trong một số chiến dịch quân sự hướng đến Lãnh địa Giáo hoàng từ năm 1801 đến năm 1870. Với sự thống nhất của Bán đảo Ý và việc bãi bỏ Lãnh địa Giáo hoàng vào năm 1870, Đội cận vệ Quý tộc hạn chế hoạt động của mình trong các tòa nhà và khuôn viên của đồi Vatican. Mặc dù trên danh nghĩa vẫn là một đơn vị kỵ binh, đơn vị này có rất ít cơ hội triển khai trên lưng ngựa trong phạm vi giới hạn của Vatican, mặc dù hai người lính cưỡi ngựa sẽ đi cùng xe ngựa của Giáo hoàng khi Giáo hoàng được chở quanh các khu vườn ở Vatican. Năm 1904, dịch vụ cưỡi ngựa bị bãi bỏ hoàn toàn và những con ngựa cuối cùng đã được bán hết. Ban đầu được trang bị súng carbine, súng lục và kiếm, sau năm 1870, lính canh chỉ mang theo một thanh kiếm. Các thành viên đội vệ binh luôn là tình nguyện viên và không được trả lương cho sự phục vụ của họ, mặc dù họ nhận được trợ cấp cho đồng phục của mình. Những tân binh được tuyển chọn từ các gia đình quý tộc ở Rome, mặc dù trong thế kỷ XX, các yêu cầu trên thực tế đã được nới lỏng để cho phép giới quý tộc từ các vùng khác của Ý gia nhập đội vệ binh. Những người lính canh được cho là sẽ nắm giữ những danh hiệu có niên đại ít nhất 100 năm. Người chỉ huy quân đoàn được gọi là Đại úy. Quyền chỉ huy được truyền lại trong gia tộc Barberini và gia tộc Altieri, nhưng sau đó được truyền cho gia tộc Rospigliosi. Sau năm 1870, Đội cận vệ Quý tộc giảm số lượng xuống dưới 70 người, chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ nghi lễ với tư cách là đội cận vệ danh dự. Các vệ binh thường xuất hiện trước công chúng nhiều nhất khi Giáo hoàng chủ trì các nghi lễ tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Khi giáo hoàng được khiêng trong "sedia gestatoria", các Vệ binh Quý tộc đi dọc theo ghế Giáo hoàng. Trong những giờ dành riêng cho buổi tiếp kiến Giáo hoàng, lính canh cũng đứng ở tiền sảnh của các căn phòng của Giáo hoàng và, trong những dịp trang trọng, họ cũng đứng ở hai bên ngai vàng của Giáo hoàng. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Đội cận vệ Quý tộc đã chia sẻ trách nhiệm với Đội cận vệ Thụy Sĩ về vấn đề an ninh cá nhân của Giáo hoàng Pius XII. Lần đầu tiên kể từ năm 1870, súng lục được cấp cho nhân viên trực ban. Trong suốt cuộc chiến, các Vệ binh Quý tộc canh gác bên ngoài căn hộ của Giáo hoàng cả ngày lẫn đêm và lính canh đi theo Đức Pius XII khi ngài đi dạo hàng ngày trong Vườn Vatican. Đội cận vệ Quý tộc đã bị Giáo hoàng Paul VI bãi bỏ vào năm 1970 như một phần của cuộc cải cách Giáo hội sau Công đồng Vatican II. Hình ảnh tinh hoa của một đoàn nghi lễ đặc quyền được coi là không còn thiện cảm với một thời đại đơn giản và hòa nhập hơn. Cuộc tiếp kiến chia tay theo kế hoạch của các vệ binh với Giáo hoàng đã không diễn ra và tài sản của đơn vị đã bị Văn phòng Quốc vụ Giáo hoàng trưng dụng trong thời gian ngắn. Các cựu thành viên của Đội cận vệ Quý tộc có một hiệp hội cựu chiến binh, "La Compagnia delle Lance Spezzate" (The Company of the Broken Lances).
Odontanthias caudicinctus là một loài cá biển thuộc chi "Odontanthias" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1986. Từ định danh "caudicinctus" được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: "caudi" ("đuôi") và "cinctus" ("thắt lưng"), hàm ý có lẽ đề cập đến vạch nâu sẫm bao quanh cuống đuôi và gốc vây đuôi của cá đực. "O. caudicinctus" mới chỉ được biết đến ở bờ biển Kenya và ngoài khơi tỉnh Đông Cape (Nam Phi), được thu thập ở độ sâu khoảng 100–300 m. Chiều dài chuẩn (SL: "standard length") lớn nhất được ghi nhận ở "O. caudicinctus" là 10 cm. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 14; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7–8.
Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2000 Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2000, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia - Cúp báo Thanh Niên 2000, là mùa giải thứ tư của Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) phối hợp với báo Thanh Niên tổ chức. Vòng chung kết của giải diễn ra trên sân vận động Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 30 tháng 7 đến ngày 10 tháng 8 năm 2000. Đương kim vô địch U-21 Thể Công không tham dự giải lần này và được thay thế bằng đội U-21 Hải Phòng. Đội U-21 Sông Lam Nghệ An giành chức vô địch sau khi thắng U-21 Gạch Đồng Tâm Long An 3-2 trong trận chung kết. Bảng C diễn ra từ ngày 13 đến 27 tháng 5 năm 2000 tại 3 sân Long An, Kiên Giang và Tiền Giang. 16 đội chia thành 4 nhóm, thi đấu vòng tròn một lượt; 4 đội đứng đầu mỗi nhóm sẽ tranh 3 vé vào vòng chung kết.
Ga Yeosu–EXPO (Tiếng Hàn: 여수엑스포, Hanja: 麗水엑스포驛) là ga đường sắt và ga cuối trên Tuyến Jeolla ở Deokchung-dong, Yeosu-si, Jeollanam-do. Có một Depot Yeosu gần đó. KTX, SRT, ITX-Saemaeul, ITX-Maum, Mugunghwa-ho và Tàu biển Namhae dừng ở đây và các chuyến tàu của Tuyến Jeolla hoạt động tại ga này là điểm xuất phát và kết thúc. Nó được đăng ký là YeosuEXPO (Tiếng Anh: Yeosu–EXPO)  trong mạng máy tính của Tổng công ty Đường sắt Hàn Quốc và là Expo trong Hệ thống thông tin hậu cần đường sắt. Cùng với dự án điện khí hóa đường đôi Tuyến Jeolla, nhà ga đã được chuyển về phía bắc của địa điểm hiện tại vào ngày 23 tháng 12 năm 2009 và địa điểm Ga Yeosu hiện tại đã bị phá bỏ và sử dụng làm địa điểm tổ chức Triển lãm Thế giới 2012. Ga Yeosu cũ cũng là địa điểm quay bộ phim ‘Vinh quang gia tộc’. Tất cả các đoạn từ ga này đến Ga Iksan đều ở trên mặt đất. KTX khai thác một chuyến tàu vào đêm khuya. KTX-Sancheon có hai chuyến tàu đỗ vào đêm khuya. ITX-Saemaeul vận hành một chuyến tàu vào đêm khuya. Có 6 chuyến tàu trên chuyến tàu Mugunghwa-ho vào đêm khuya. Hầu hết các chuyến tàu chạy qua ga này đều bắt đầu từ Ga Yongsan và Ga Iksan. Nó hoạt động 4 lần một ngày đến Ga Haengsin.
Bức tượng Sư tử Belfort là một công trình điêu khắc ở Belfort, Pháp. Được hoàn thành năm 1880, đây là sản phẩm của Frédéric Auguste Bartholdi, nhà điêu khắc Tượng Nữ thần Tự do. Hoàn thành vào năm 1880, bức tượng được làm hoàn toàn bằng đá sa thạch đỏ. Các phần của tượng được điêu khắc riêng lẻ, sau đó được chuyển đến vách đá bên dưới lâu đài Belfort để lắp ráp. Với chiều dài 22 mét và chiều cao 11 mét, công trình khổng lồ này là điểm nhấn cho cảnh quan địa phương.
Rauenberg là một thị trấn thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg 15 km về phía nam. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Schönau là một đô thị thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm bên dãy núi Odenwald, cách Heidelberg 10 km về phía đông bắc. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Chặng đua MotoGP Ấn Độ 2023 Chặng đua MotoGP Ấn Độ 2023 là chặng đua thứ 13 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 22/09/2023 đến ngày 24/09/2023 ở trường đua Buddh, Ấn Độ. Đây cũng là lần đầu tiên Ấn Độ tổ chức một chặng đua MotoGP. Jorge Martin của đội đua Pramac Racing đã giành chiến thắng cuộc đua Sprint race, còn Marco Bezzecchi của đội đua VR46 giành chiến thắng đua chính thể thức MotoGP. Ở cuộc đua chính thì Francesco Bagnaia phải bỏ cuộc nhưng anh vẫn dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 292 điểm.
Danh sách nhân vật trong Spy × Family "Spy × Family", một bộ truyện tranh được viết và minh họa bởi  và sau đó được chuyển thể thành anime cùng tên, có một dàn nhân vật sống trong một phiên bản hư cấu của thế giới thực. Câu chuyện lấy bối cảnh ở hai quốc gia láng giềng: Westalis và Ostania.[ch. 1] Hai nước gần đây đã thiết lập hòa bình sau một cuộc chiến tranh tàn khốc. Bất chấp nỗ lực duy trì tình hữu nghị, vẫn có những tia lửa châm ngòi cho cuộc chiến một lần nữa.[ch. 1,18–22,41] Một điệp viên đến từ Westalis với mật danh "Hoàng hôn" (黄昏, Tasogare), có khả năng chiến đấu, trí nhớ và xử lý thông tin phi thường. Anh sử dụng nhiều khuôn mặt và tên khác nhau cho mỗi nhiệm vụ khác nhau (Loid Forger cũng là tên giả dùng cho nhiệm vụ). Nhiệm vụ gần đây nhất của anh là "Chiến dịch Strix", yêu cầu anh đăng ký cho một đứa trẻ vào ngôi trường danh tiếng và cần "cả bố lẫn mẹ đều có mặt" để tiếp cận mục tiêu. Thế nên, anh tạo ra một gia đình giả bằng cách nhận nuôi Anya và kết hôn với Yor, ngụy trang thành một bác sĩ tâm thần tại Bệnh viện Đa khoa Berlint. Anh khéo nấu ăn và dọn dẹp. Vốn là trẻ mồ côi trong chiến tranh, anh quyết định trở thành một điệp viên để tạo ra một "thế giới nơi trẻ em không phải khóc". Một nữ sát thủ chuyên nghiệp với mật danh "Công chúa gai" (いばら姫, Ibara Hime), ẩn thân phận thành nhân viên tại Tòa thị chính Berlint. Họ của Yor trước khi kết hôn là Briar (ブライア, Buraia) cô 27 tuổi. Cô đồng ý kết hôn mà không cần biết lý lịch thực sự của Loid và tin rằng Anya là con gái ruột của anh từ cuộc hôn nhân trước. Là một sát thủ, Yor giỏi dọn dẹp, nhưng không biết làm việc nhà, đặc biệt là nấu ăn. Vì vậy, Loid làm hầu hết các công việc nấu nướng, mặc dù gần đây cô ấy đã bắt đầu học nấu ăn từ đồng nghiệp. Cô có một người em trai tên là Yuri, là một công chức và rất gắn bó với chị mình. Một cô bé có thể đọc được suy nghĩ của người khác, Anya là người duy nhất biết được tình hình chung của gia đình mình. Tuổi thật sự của cô bé tầm khoảng 4 hoặc 5 tuổi, nhưng lại nói là 6 tuổi vì trường chỉ nhận trẻ 6 tuổi trở lên. Ban đầu, cô bé là một đối tượng thử nghiệm trên người được đặt tên là "Vật thí nghiệm 007" (被検体007, "Vật thí nghiệm 007"), cô đã trốn đi bởi vì ở đó cô phải học mà không được chơi. Sau đó tự đặt tên là "Anya." Do năng lực ngoại cảm, Anya không khỏe khi đi vào đám đông. Ngoài ra, vì không chịu học hành đàng hoàng nên Anya học không giỏi và bù lại bằng cách đọc suy nghĩ của những người khác để tìm câu trả lời. Tuy nhiên, có vẻ như cô không thể sử dụng khả năng ngoại cảm của mình trong thời kỳ trăng non. Cô bé thích anime "Spy Wars" và nghĩ rằng bất cứ điều gì liên quan đến "bí mật" và "nhiệm vụ" đều thú vị. Thú cưng của gia đình, thuộc giống Chó núi Pyrenees, vốn là đối tượng chó thử nghiệm của Dự án Apple có tên "Số 8" (8号, "Số 8"). Chú có thể nhìn thấu tương lai mà chỉ Anya biết bằng cách sử dụng thần giao cách cảm. Chú gặp Anya và gia đình Forger khi bị lợi dụng trong một vụ đánh bom khủng bố và sau đó được gia đình nhận nuôi. Chú chó sợ lúc Yor nấu ăn (chú thấy trong tương lai chú sẽ bị lìa đời vì chuyện này) và cố gắng hết sức để tránh điều đó. Chú được đặt tên theo nhân vật hoạt hình yêu thích của Anya, Bondman. Bộ truyện tranh "Spy × Family".
Odontanthias randalli là một loài cá biển thuộc chi "Odontanthias" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2011. Từ định danh "randalli" được đặt theo tên của John E. Randall, cố nhà ngư học người Mỹ, người đã có những đóng góp kiến thức đáng kể về những loài cá khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương nói chung. "O. randalli" mới chỉ được phát hiện ở ngoài khơi phía đông đảo Lombok (thuộc quần đảo Sunda Nhỏ, Indonesia). Toàn bộ mẫu vật được thu thập từ chợ cá Tanjung Luar ở địa phương. "O. randalli" có chiều dài chuẩn ("standard length") lớn nhất là 12,6 cm (tổng chiều dài của mẫu này là 21,2 cm). Cá màu hồng, mỗi vảy cá ở nửa thân trên có đốm vàng tươi. Đầu hồng nhạt hơn với các vệt chữ V xoay ngang màu vàng kéo dài từ chóp mõm ra sau thành hai sọc tới rìa nắp mang (sọc trên băng qua mắt, sọc dưới ngay cạnh dưới ổ mắt). Gáy hơi vàng, 4 đốm hồng nhạt ở bên dưới gốc vây lưng. Vây lưng có màu vàng, lốm đốm vài chỗ màu hồng. Vây hậu môn màu hồng nhạt, có sắc vàng giữa gai thứ hai và thứ ba kéo dài đến phần màng vây liền kề phía sau. Vây đuôi có màu hồng với sắc vàng ở gốc, và kéo dài dọc theo hai thùy. Vây ngực phớt hồng với sọc vàng kéo dài từ gốc vây đến khoảng 1/3 khoảng cách của tia dài nhất. Vây bụng cũng hồng với sắc vàng trên màng tia mềm thứ nhất và thứ hai. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 16–17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia vây ngực: 15–16; Số vảy đường bên: 37–39.
Gò mộ, gò mả hay còn gọi là "nấm mộ", "nấm mồ", "đồi mộ" hoặc Tumulus là một gò đất và đá được nâng lên trên một hoặc nhiều ngôi mộ, hoặc mô đất đắp trên mả, có thể được tìm thấy trên khắp thế giới. Còn được gọi là kurgan (ở Siberia và Trung Á). Từ tumulus (số nhiều "tumuli", trong tiếng Latin có nghĩa là 'gò đất' hay 'ngọn đồi nhỏ', bắt nguồn từ gốc Ấn-Âu nguyên thủy. Kurgan là thuật ngữ Turk cho gò mộ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sầu riêng Xà Ni Sầu riêng Xà Ni hay Cha Nị, là giống sầu riêng thuộc loài "Durio zibethinus" trong chi "Durio". Tên và mã số của giống là D123, tên trong tiếng Thái là "ชะนี" – Chanee ] nghĩa là "Vượn". Giống có nguồn gốc Thái Lan. Cùng với Mon Thong, chúng là hai giống sầu riêng được trồng nhiều nhất Thái Lan, chiếm đến 90% diện tích trồng. Xà Ni có thể trồng qua phương pháp chiết ghép chồi hoặc nhánh và có thể bắt đầu cho trái khi đạt 4-5 năm trồng. Giống cây này có thể trồng dễ dàng trong nhiều môi trường khác nhau, nhưng điểm yếu là khả năng kháng bệnh thấp. Hoa của Xà Ni có khả năng sống sót cao, tới 94%. Thời gian để trái phát triển đầy đủ từ khi đậu quả thành công là 95 đến 105 ngày. Quả có hình dạng như quả khế, ngắn hơn và nhiều gai hơn Mon Thong. Thịt quả màu vàng đậm, ngọt và mềm. Sầu riêng Xà Ni là một giống trồng thuộc loài "D. zibethinus", thuộc phân loài "Palatadurio" của chi "Durio".
Chặng đua MotoGP Bồ Đào Nha 2023 Chặng đua MotoGP Bồ Đào Nha 2023 là chặng đua đầu tiên của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 24/03/2023 đến ngày 26/03/2023 ở trường đua Algarve, Bồ Đào Nha. Đây là chặng đua đầu tiên tổ chức cuộc đua Sprint race MotoGP và người đã giành chiến thắng cuộc đua này là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse. Bagnaia sau đó tiếp tục thắng tiếp cuộc đua chính để vươn lên dẫn đầu bảng tổng sắp với số điểm tuyệt đối ở chặng đua đầu tiên là 37 điểm. Chặng đua này cũng chứng kiến rất nhiều tay đua bị chấn thương nặng phải nghỉ thi đấu một vài chặng đua tiếp theo như Pol Espargaro, Enea Bastinaini, Miguel Oliveira và Marc Marquez. Riêng Marquez còn bị phạt lỗi gây tai nạn cho Oliveira.
Hội Cựu Công an nhân dân Việt Nam Hội Cựu Công an nhân dân Việt Nam là một tổ chức chính trị – xã hội của các cựu Công an nhân dân Việt Nam. Hoạt động của Hội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an, cấp ủy Công an các cấp; sự quản lý nhà nước của Bộ Nội vụ, chính quyền địa phương và theo quy định thống nhất của Điều lệ Hội. Ngày 19 tháng 2 năm 1993, Bộ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) ký Quyết định số 58/QĐ/BNV (X13) thành lập Câu lạc bộ sĩ quan Công an hưu trí. Ngày 27 tháng 11 năm 2014, Bộ trưởng Bộ Công an ban hành Chỉ thị số 15/CT-BCA-X11 về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Công an các cấp đối với Câu lạc bộ Công an hưu trí, trong đó, thống nhất thành lập Câu lạc bộ Công an hưu trí từ Trung ương đến quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Từ năm 2015 đến nay, các đồng chí công an hưu trí sinh hoạt theo hình thức các câu lạc bộ, ban liên lạc… Ở Bộ Công an có 2 câu lạc bộ và 3 ban liên lạc, các địa phương có 63 câu lạc bộ hưu trí công an tỉnh, 554 câu lạc bộ công an hưu trí công an cấp huyện, 407 câu lạc bộ công an hưu trí cấp công an xã, phường, thị trấn; các đơn vị công an trực thuộc Bộ, viện, trường… có 53 câu lạc bộ. Từ năm 2004, Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an đã có chủ trương củng cố nâng cấp các Câu lạc bộ, Ban liên lạc công an hưu trí, làm thủ tục báo cáo với Ban Bí thư và Thủ tướng Chính phủ xin thành lập Hội Cựu Công an Việt Nam. Sau khi được Ban Bí thư đồng ý chủ trương, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Nội vụ khẩn trương triển khai thực hiện Đề án thành lập. Ngày 1 tháng 8 năm 2023, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành Quyết định số 567/QĐ-BNV về việc cho phép thành lập Hội Cựu Công an nhân dân Việt Nam. Ngày 17 tháng 8 năm 2023, Đại hội thành lập Hội Cựu Công an nhân dân Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội. Tại Đại hội, Thượng tướng Lê Quý Vương, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XI, XII, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Công an đã được bầu làm Chủ tịch Hội Cựu Công an nhân dân Việt Nam. Các kỳ đại hội. Đại hội thành lập Hội Cựu Công an nhân dân Việt Nam lần thứ nhất, diễn ra tại Hội trường Bộ Công an đã bầu Ban Chấp hành Hội nhiệm kỳ 2023 - 2028 gồm 89 Ủy viên, 21 Ủy viên Ban Thường vụ. Nội dung đại hội bao gồm: Bầu Ban Chấp hành Hội, Ban Thường vụ, Ban Kiểm tra và lãnh đạo Hội nhiệm kỳ 2023 - 2028, thảo luận và thông qua dự thảo Điều lệ Hội; xây dựng phương hướng hoạt động của Hội trong nhiệm kỳ.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Garabogazköl (có tên gọi khác là Kara-Bogaz-Gol; "Black Strait Lake"), hoặc Garabogazköl Aylagy ("Black Strait Lake Bay"), là một đầm nước nông, có độ mặn cao ngoài khơi biển Biển Caspi ở tây bắc Turkmenistan. Đầm nước có diện tích bề mặt thay đổi thường khoảng . Nó được ngăn cách với Biển Caspi bởi một sườn núi đá hẹp có cửa mở rất hẹp để nước biển Caspi chảy vào. Có khả năng xuất hiện dòng nước ngầm có độ mặn cao khi lượng bốc hơi ít hơn vào mùa đông. Thể tích của đầm dao động theo mùa. Thành phố Garabogaz nằm gần đó, cách kênh giữa lưu vực Caspi chính và đầm Garabogazköl khoảng về phía bắc.
Nhà Barberini là một gia đình quý tộc Ý nổi lên ở Rome thế kỷ XVII. Ảnh hưởng của họ lên đến đỉnh điểm khi một người trong gia tộc là Hồng y Maffeo Barberini được bầu làm Giáo hoàng vào năm 1623, với giáo hiệu là Giáo hoàng Urban VIII. Cung điện đô thị của họ là Palazzo Barberini, được Gian Lorenzo Bernini hoàn thành vào năm 1633, ngày nay là "Galleria Nazionale d'Arte Antica" (Phòng trưng bày Nghệ thuật Cổ đại Quốc gia) của Ý. Barberini vốn là một gia đình quý tộc nhỏ ở Toscana và định cư tại Cộng hòa Florence vào thế kỷ XI, nhiều đời làm nghề buôn ngũ cốc, len và dệt may. Sau khi nền cộng hòa ở Florence thất thủ, Gia tộc Medici trở lại nắm quyền, những người thuộc gia tộc Barberini rời Florence để đến định cư ở Rome. Sau khi đến định cư ở Rome được 86 năm, một thành viên của gia tộc Barberini được bầu làm giáo hoàng và chính vị giáo hoàng này đã đưa các thành viên trong nhà Barberini lên hàng quý tộc cao cấp ở Bán đảo Ý với 2 thân vương và một công tước đến từ gia tộc này. Những thành tựu về giáo hội, ngoại giao và văn hóa dưới triều đại của Giáo hoàng Urban đã bị lu mờ bởi chủ nghĩa gia đình trị mà giáo hoàng thực hiện.
Sầu riêng Lá quéo Sầu riêng Lá quéo là giống sầu riêng bản địa của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở Tiền Giang, cùng với nhóm sầu riêng Khổ qua từng chiếm diện tích trồng chủ yếu ở các huyện Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành. Cây sinh trưởng chậm nhưng có khả năng sống lâu phát triển thành cây cổ thụ. Thân cây thường "cục mịch" chứ không thẳng như các giống sầu riêng khác. Cây có khả năng chịu ngập cao, và có khả năng kháng bệnh xì mủ do nấm "Phytophthora". Giống cũng được dùng để lai tạo hoặc dùng làm gốc ghép với các giống khác. Quả có kích thước không lớn lắm, trung bình 2 kg, so với Khổ qua thì vỏ quả dày và cứng hơn. Phần thịt quả vàng, thơm, nhưng hột to. Địa phương trồng nổi tiếng nhất của giống sầu riêng này là Tam Bình, thuộc huyện Cai Lậy. Lá quéo được trồng cho mục đích thương mại với năng suất cao, được thu hoạch hai mùa, mùa thuận và mùa nghịch. Mùa nghịch phải xử lý bằng các biện pháp nông nghiệp. Ngành trồng sầu riêng Việt Nam từ những năm 2010 gần như tập trung vào các giống Mon Thong (của Thái Lan) và Ri6 (của Myanmar), các giống khác bao gồm Lá quéo chỉ có diện tích trồng quy mô nhỏ.
Sầu riêng khổ qua Sầu riêng Khổ qua là giống sầu riêng bản địa của Việt Nam, phân bố chủ yếu ở Tiền Giang. Khổ qua cùng với giống sầu riêng Lá quéo từng chiếm diện tích trồng chủ yếu ở các huyện Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành. Chúng từng là mặt hàng sầu riêng quan trọng trên thị trường nhưng dần bị thay thế bởi các giống trồng chất lượng hơn có nguồn gốc từ Thái Lan như Mon Thong hay từ Myanmar như Ri6. Giống sầu riêng này có loại quả mang vẻ ngoài giống trái khổ qua. Nguồn gốc của giống trồng này được xem là xuất phát từ cù lao Ngũ Hiệp. Tuy nhiên, một nguồn khác chỉ ra rằng giống trồng có nguồn gốc ở Tam Bình, địa phương nằm cạnh cù lao, chúng đã được trồng vào những năm 1930 bởi ông Chánh bái Mẫn. Cho đến những năm 1960 giống trồng này mới được bắt đầu trồng trên cù lao Ngũ Hiệp bởi một nông dân gốc Tam Bình tên là Hai Tôn. Từ đó, sầu riêng Khổ qua trồng khắp cù lao này. Giống Khổ qua gồm hai giống nhỏ: Cây là cây thân gỗ có thể đạt chiều cao lên đến 40 m, đối với cây trồng bằng biện pháp chiết ghép chúng có chiều cao thấp hơn, không quá 20 m. Giống Khổ qua dễ trồng, sinh trưởng khá nhanh và thân cây thẳng. Khổ qua mang một số đặc điểm phổ biến của sầu riêng, tương tự như nhiều giống trồng khác. Tán cây thấp và khi cây còn nhỏ thì tán phân bổ khiến cây trông giống cây thông. Cây chỉ có thể sống trong vùng khí hậu nóng ẩm, với nhiệt độ thích hợp 22-36 độ C. Nó cần nhiều nước nhưng không chịu được úng. Thổ nhưỡng thích hợp là đất thịt, đất thịt phù sa. Cây được trồng theo hàng thẳng, các hàng được gọi là liếp cây. Không nên trồng quá dày vì sẽ hạn chế sự quang hợp. Giữa các liếp là mương nước chạy dài xen lẫn, dọc theo liếp cây. Hoa có số lượng lớn, dễ thụ phấn và đậu trái. Tuy nhiên, Khổ qua rất khó tự thụ phấn, do đó nông dân can thiệp bằng thụ phấn nhân tạo, được gọi là "quẹt phấn" hay "quét phấn". Hoa bắt đầu trổ vào ban đêm trong khoảng thời gian 19 đến 21 giờ. Một người nông dân sẽ dùng đèn pin để rọi, một người khác sẽ cầm chổi nylon quét vào các chùm hoa và quét từ chùm hoa này sang chùm hoa khác, để nhụy phấn có thể trao đổi. Nếu cây quá cao họ sẽ dùng những thanh chổi dài. Trước khi quét phấn, nông dân có thể tỉa bớt các chùm hoa ở những vị trí nhánh quá nhỏ, vì để thì chúng sẽ khó nuôi và giữ chặt được quả. Sau khi quả non hình thành, nông dân sẽ tiến hành tỉa bớt quả do các chùm quả rất nhiều, chỉ chừa số lượng quả non vừa phải để chúng có thể lớn. Thông thường là tỉa thưa thớt dọc theo nhánh cho quả dàn đều. Khi quả lớn thì dùng tre, sậy chống đẩy cố định các nhánh để hỗ trợ sức nặng của quả mà nhánh mang. Một cây có thể cho 130-140 trái/năm. Quả Khổ qua xanh có trọng lượng trung bình 1-2,5 kg, Khổ qua vàng có trọng lượng trung bình lớn hơn, khoảng 2-2,5 kg. Lớp vỏ quả Khổ qua vàng dày hơn lớp vỏ quả Khổ qua xanh, nhưng cả hai có điểm chung là vỏ mềm dễ tách. Tỉ lệ thịt quả 16-18%, thịt quả có màu vàng, thơm và ngọt, vị đắng nhẹ nhưng hột to. Tên sầu riêng Khổ qua được người Việt gọi do hình dáng của quả giống trái khổ qua. Khổ qua có một mùa vụ thu hoạch thường vào tháng 5, thường được gọi là mùa thuận. Tuy nhiên, nông dân thường xử lý canh tác để có thêm một mùa vụ nữa, gọi là mùa nghịch. Điều này phụ thuộc vào sức khỏe của cây, vì biện pháp xử lý sẽ rất khắc nghiệt. Việc đầu tiên là dọn dẹp làm sạch và nhẵn bề mặt đất, sau đó đậy mủ nylon khắp vườn cho kín bề mặt đất. Tiếp theo, xiết nước bằng việc bơm nước ra khỏi các hệ thống mương, rãnh cho cạn nước. Bằng việc ép khô và làm nóng bề mặt đất, phối hợp với xịt thuốc chuyên dụng, thường được nông dân gọi là "thuốc bông" thì cây sẽ ra hoa. Ngoài ra, nông dân sẽ ngăn chặn việc ra đọt non bằng việc xịt thuốc đọt, vì nếu cây ra đọt nó sẽ không ra hoa. Sầu riêng trong mùa vụ nghịch quả có giá bán cao hơn mùa thuận do ít hàng nhưng công sức xử lý canh tác sẽ rất lớn. Bệnh thực vật và chữa trị. Điểm yếu lớn của Khổ qua là dễ nhiễm bệnh xì mủ. Cây dễ mắc bệnh này khi suy kiệt nếu canh tác lấy quả quá mức, đặc biệt nếu nông dân canh tác thêm mùa vụ nghịch trái. Để có thể chạy chữa, phương pháp chích thuốc được áp dụng. Trên thân cây, nông dân sẽ đục một lỗ tương đối to và sâu, nhưng phải tránh chạm vào lõi giữa thân cây. Sau đó, đầu tiêm các ống chích nhựa được cắm vào để tiêm thuốc cho cây. Thuốc là phân lân dạng nước. Phần đuôi ống chích là một lò so kéo để đẩy nước thuốc vào, và ống chích được đặt trong nhiều giờ cho đến khi thuốc trong ống rút cạn hết. Khổ qua có điểm yếu là hột to, phần thịt quả quá mỏng nên mau chóng không thể cạnh tranh với các giống quả sầu riêng có cơm dày hạt lép. Khi thời tiết thất thường, mưa nhiều, thường dẫn đến thịt quả nhiều nước và bị chảy nhão không còn chắc thịt. Quả cũng dễ bị tình trạng "cơm trắng" và "sượng cơm", tức phần thịt quả ăn không có màu vàng bình thường mà chỉ có màu trắng và hương vị rất nhạt. Với các vấn đề về chất lượng quả, sầu riêng Khổ qua không có khả năng xuất khẩu ra ngoài thị trường Việt Nam. Ngoài ra do năng suất kém, một cây cho trung bình 130-140 trái/năm, lớn hơn giống Mon Thong chỉ cho trung bình 60-80 trái/năm, nhưng tổng cân nặng lẫn giá cả đều thua kém. Do đó, diện tích trồng cho mục đích thương mại ngày càng thu hẹp. Vào năm 2004, giá được thương lái thu mua tại vườn đối với sầu riêng Chín Hóa là 18.000 VND/kg thì sầu riêng Khổ qua xanh chỉ được mua với giá 7-8.000 VND/kg. Khổ qua cũng như các giống sầu riêng khác ở đồng bằng sông Cửu Long, chúng thường xuyên trải qua tình trạng thị trường "mất mùa được giá", có lúc "trúng mùa mất giá". Một thời điểm vào tháng 4 năm 2006, giá Khổ qua xanh bán tại vườn là 9-10.000 VND/kg chỉ sau một tháng đã tụt xuống còn 5-6.000 VND/kg. Bên cạnh giá bán và năng suất thấp, chi phí vật tư nông nghiệp ngày càng cao đối với nông dân, nên việc trồng các giống sầu riêng kém hiệu quả kinh tế như Khổ qua trở nên tốn kém. Ngoài phân bón, cây trồng cần được xịt thuốc diệt rầy định kỳ, thuốc đọt, thuốc bông, thuốc dưỡng lá, thuốc sâu cho bông, thuốc sâu cho quả. Do đó, lợi nhuận không bù nổi chi phí. Từ trước năm 2020, nông dân trồng sầu riêng thu được lợi nhuận rất lớn, về sau do hạn mặn làm chết cây, và do khủng hoảng bởi mùa dịch COVID khiến thị trường Trung Quốc đóng cửa, nên ngành sản xuất trở nên khó khăn. Khổ qua tuy không phải mặt hàng xuất khẩu như Mon Thong và Ri6 nhưng vẫn chịu cuộc khủng hoảng chung. Ngay từ khoảng năm 2010-2015, nông dân trồng sầu riêng từng bước loại bỏ các giống chất lượng thua kém trên thị trường sầu riêng như Khổ qua, chuyển sang trồng các giống năng suất cao hơn.
Nghĩa vụ quân sự tại Hoa Kỳ Lịch sử chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc tại Hoa Kỳ Tại Hoa Kỳ, nghĩa vụ quân sự, thường được gọi là quân dịch (), đã được chính quyền liên bang huy động tuyển quân trong tất cả 6 cuộc giao tranh quân sự bao gồm: Chiến tranh Cách mạng Mỹ, nội chiến Hoa Kỳ, Thế chiến thứ nhất, Thế chiến thứ hai, Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. Sự hiện hữu lần thứ tư của chế độ quân dịch bắt buộc được hiện thực hóa vào năm 1940, thông qua ; đây là chế độ quân dịch đầu tiên của đất nước trong thời bình. Từ 1940 cho đến năm 1973, trong suốt cả thời bình lẫn những giai đoạn xảy ra xung đột, những nam giới được gọi đi quân dịch để lấp đầy những vị trí còn trống trong Quân đội Hoa Kỳ vốn không thể lấp đầy quân số bằng các biện pháp tình nguyện. Chế độ quân dịch bắt buộc ở Mỹ chấm dứt vào năm 1973, khi quân đội nước này chuyển sang đội ngũ hoàn toàn đi lính tự nguyện. Định nghĩa của quân dịch tại Wiktionary
What I? (mùa 2) Jeffrey Wright lồng tiếng cho vai the Watcher, người dẫn lời cho loạt phim, cùng với nhiều diễn viên điện ảnh MCU đảm nhận vai trò lồng tiếng của họ. Quá trình phát triển cho mùa bắt đầu từ tháng 12 năm 2019. Mùa hai dự kiến ​​​​ra mắt vào ngày 22 tháng 12 năm 2023 trên Disney+ và sẽ phát hành từng tập trong số 9 tập cho đến ngày 30 tháng 12, như một phần Giai đoạn 5 của MCU. Một tập phim do Ryan Little viết kịch bản và Andrews đạo diễn sẽ giới thiệu một nhân vật gốc của MCU tên là Kahhori, một phụ nữ trẻ người Mohawk đang tìm cách khám phá sức mạnh của mình sau khi khối Tesseract rơi xuống Haudenosaunee ở nước Mỹ thời tiền thuộc địa. Vai diễn và nhân vật. Bộ truyện được thuật lại bởi Jeffrey Wright trong vai the Watcher, một thành viên của chủng tộc Watcher, người quan sát đa vũ trụ. Mỗi tập phim có các phiên bản khác nhau của các nhân vật trong phim MCU, với nhiều diễn viên đảm nhận vai trò của họ trong loạt phim. Cynthia McWilliams và Mick Wingert tiếp tục đảm nhận vai Gamora và Tony Stark tương ứng của họ từ phần cuối của mùa đầu tiên trong một tập đã bị cắt khỏi mùa đầu tiên do sự chậm trễ trong sản xuất, cũng như Hayley Atwell và Lake Bell trong vai Peggy Carter và Natasha Romanoff, trong tập đầu tiên của mùa thứ hai, trong khi Cate Blanchett lồng tiếng cho nhân vật MCU Hela của cô ấy, cùng với Laurence Fishburne lồng tiếng cho Bill Foster / Giant-Man, và Atandwa Kani lồng tiếng cho T'Chaka thời trẻ / Black Panther. Phần này có sự giới thiệu của một phụ nữ trẻ Mohawk tên là Kahhori, một nhân vật gốc của MCU. Vào tháng 12 năm 2019, chủ tịch Marvel Studios Kevin Feige tiết lộ rằng công việc đã bắt đầu cho phần thứ hai dài 10 tập của "What I?". Tuy nhiên, do sự chậm trễ trong quá trình sản xuất do đại dịch COVID-19 gây ra trong mùa đầu tiên, hai mùa đầu tiên sẽ có chín tập. Nhà sản xuất điều hành Brad Winderbaum giải thích rằng tập thứ 10 được đề xuất của mùa đầu tiên, tập trung vào các phiên bản của Tony Stark và Gamora được nhìn thấy lần đầu trong phần cuối của mùa đầu tiên, sẽ không được hoàn thành kịp thời và sẽ không được hoàn thành kịp thời. được đưa vào mùa thứ hai. Các tập phim có độ dài khoảng 30 phút. AC Bradley và Bryan Andrews lần lượt trở lại với vai trò biên kịch và đạo diễn. Trong khi phần thứ hai đang bắt đầu phát triển, đội trưởng Carter đã trở thành nhân vật mà các nhà biên kịch muốn tiếp tục quay lại mỗi mùa để tiếp tục câu chuyện của cô sau khi cô đã "nổi lên" trong mùa đầu tiên với tư cách là một nhân vật nổi bật.  Một số trong số 20 khái niệm không được chọn từ 30 khái niệm ban đầu của phần đầu tiên sẽ xuất hiện trong phần thứ hai, Winderbaum lưu ý rằng kể từ khi những khái niệm đó được hình thành ban đầu, "thế giới đã thay đổi và Vũ trụ Marvel hư cấu đã thay đổi" điều này sẽ cho phép những ý tưởng mới xuất hiện. cũng sắp được trình bày.  Andrews lưu ý rằng sau mùa đầu tiên, trong đó khái niệm "điều gì sẽ xảy ra nếu" chỉ là những thay đổi nhỏ so với những gì đã được thiết lập, các mùa tiếp theo có thể "mở rộng" ra ngoài những khoảnh khắc nhỏ này và "có được kỳ quặc hơn một chút". Phần này giới thiệu một nhân vật MCU gốc tên là Kahhori, một phụ nữ Mohawk trẻ tuổi đang tìm cách khám phá sức mạnh của mình sau vụ tai nạn Tesseract ở Liên minh Haudenosaunee ở nước Mỹ thời tiền thuộc địa. Vai diễn và thu âm. Kế hoạch của Marvel cho loạt phim này là để các diễn viên đóng vai các nhân vật trong phim MCU đóng lại vai diễn của họ trong "What I?" Vào tháng 1 năm 2021, Frank Grillo tiết lộ rằng anh phải quay lại vào tháng sau để ghi nhiều tập hơn với vai Brock Rumlow. Jeffrey Wright quay lại kể lại bộ truyện với tư cách là the Watcher. Hayley Atwell và Lake Bell lần lượt đóng lại vai Peggy Carter và Natasha Romanoff từ mùa đầu tiên, cũng như Cynthia McWilliams và Mick Wingert lần lượt trong vai Gamora và Tony Stark. Cate Blanchett, Laurence Fishburne và Atandwa Kani lần lượt đảm nhận các vai diễn trong MCU của họ là Hela, Bill Foster / Giant Man và T'Chaka / Black Panther trong mùa phim. Laura Karpman trở lại với tư cách là nhà soạn nhạc và có sự tham gia của Nora Kroll-Rosenbaum. Tập Kahhori mang âm nhạc Mohawk truyền thống. Mùa 2 này đã được thảo luận trong hội thảo hoạt hình của Marvel Studios tại San Diego Comic-Con năm 2022, nơi tập đầu tiên "Sẽ ra sao nế?" đã được chiếu. Đoạn giới thiệu cho mùa thứ hai được phát hành vào ngày 15 tháng 11 năm 2023. Bradley Russell tại "Total Film" cảm thấy mùa này "phục vụ khía cạnh kỳ lạ nhất, hoang dã nhất cho MCU"". Mùa hai dự kiến ​​​​sẽ ra mắt trên Disney + vào ngày 22 tháng 12 năm 2023, với 9 tập phát hành hàng ngày cho đến ngày 30 tháng 12. Đây sẽ là dự án truyền hình đầu tiên của Marvel Studios phát hành các tập mới hàng ngày.
Phạm Tiến Sản (sinh ngày 21 tháng 10 năm 1991) là một vận động viên điền kinh và duathlon người Việt Nam. Phạm Tiến Sản từng nhiều lần được gọi vào đội tuyển quốc gia và từng giành được huy chương vàng Sea Games. Thành tích nổi bật. Phạm Tiến Sản quê ở Bắc Giang. Trong những năm đầu sự nghiệp thì Phạm Tiến Sản thi đấu nội dung chạy vượt chướng ngại vật, từng giành huy chương bạc ở 3 kỳ Sea Games liên tiếp từ 2013 đến 2017. Những năm sau đó Phạm Tiến Sản chuyển sang thi đấu nội dung duathlon (xe đạp kết hợp chạy đường trường). Nội dung này đã giúp đã anh giành được 2 tấm huy chương vàng ở hai kỳ Sea Games liên tiếp 2021 và 2023. Các giải đấu khác. Phạm Tiến Sản đã tham gia và giành được nhiều thành tích cao ở các giải marathon quy mô lớn ở Việt Nam như VNExpress Marathon hay giải VPbank marathon quốc tế.
Robert Service (sử gia) Robert John Service (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1947) là một sử gia, học giả, và tác giả người Anh thuộc trường phái hậu xét lại về lịch sử Liên Xô, chuyên sâu về giai đoạn từ Cách mạng Tháng Mười tới cái chết của Stalin. Tính tới năm 2013, ông là Giáo sư khoa lịch sử Nga của Đại học Oxford, thành viên danh dự của St Antony's College, Oxford, và viện sĩ kỳ cựu Viện Hoover (một think-tank bảo thủ) thuộc Đại học Stanford. Ông nổi tiếng với các công trình sử học về cuộc đời của Vladimir Lenin, Iosif Stalin, và Lev Trotsky. Từ năm 1998, ông là viện sĩ Viện Hàn lâm Anh. Cuốn tiểu sử về Trotsky của Service bị đồng nghiệp Bertrand Mark Patenaude tại Viện Hoover chỉ trích kịch liệt trên tạp chí "American Historical Review". Patenaude, nhận xét về cuốn sách của Service cùng với một phản bác của David North theo chủ nghĩa Trotsky ("In Defence of Leon Trotsky"), cáo buộc Service đã viết nhiều điều sai sự thật, diễn giải sai bằng chứng sử học, và "thất bại trong việc xem xét các ý tưởng chính trị của Trotsky. Service cho rằng những lỗi sai đó không quá lớn lao và rằng cuốn sách của Patenaude về Trotsky miêu tả quá đáng ông ta như một "kẻ chết vì đạo cao quý". Service cũng hứng chịu sự chỉ trích của nhà sử học về chủ nghĩa cộng sản người Đức, Hermann Weber, người mà sau đó đã vận động ngăn cản nhà in Suhrkamp Verlag xuất bản cuốn sách ở Đức. Trong bức thư gửi tới nhà in, 14 người ký tên cho rằng cuốn sách chứa 'một đống lỗi sai sự thực,' cùng 'các dụng ý đáng kinh tởm' hòng bôi nhọ gốc gác Do Thái của Trotsky, theo đó họ cáo buộc Service là có tư tưởng bài Do Thái và vận dụng 'các công thức tuyên truyền kiểu Stalinist' để đả kích Trotsky. Tuy vậy, Suhrkamp thông báo vào tháng 2 năm 2012 rằng họ sẽ xuất bản bản dịch tiếng Đức của cuốn sách vào tháng 7 cùng năm. Cuốn sách giành Giải Duff Cooper vào năm 2009.
Stephen Mark Kotkin (sinh ngày 17 tháng 2 năm 1959) là một sử gia, học giả và tác giả người Mỹ. Ông là viện sĩ cao cấp Kleinheinz tại Viện Hoover và viện sĩ cao cấp tại khoa Nghiên cứu quốc tế thuộc Viện Spogli Freeman tại Đại học Stanford. Ngoài ra, ông là giám đốc Viện Princeton về Nghiên cứu quốc tế và địa phương và đồng giám đốc chương trình chứng chỉ về Lịch sử và Thực hành ngoại giao. Ông đã giành về nhiều giải thưởng của Guggenheim Fellowship, American Council of Learned Societies và National Endowment for the Humanities Fellowship. Công trình nghiên cứu đồ sộ nhất của Kotkin phải kể đến là ba tập tiểu sử về Iosif Stalin, trong đó mới chỉ xuất bản hai tập lần lượt mang tên ' (2014) và ' (2017), còn tập ba vẫn đang trong quá trình phát triển.
Dmitry Antonovich Volkogono (; 22 tháng 3 năm 1928 – 6 tháng 12 năm 1995) là một nhà sử học và thượng tương người Nga, từng làm trưởng ban tâm lý chiến của quân đội Liên Xô. Tuy gắn bó với chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Marx-Lenin suốt phần lớn sự nghiệp, Volkogonov về sau trở nên thù địch với chủ nghĩa cộng sản và hệ thống Xô viết trong những năm cuối đới cho tới cái chết vì ung thư của ông vào năm 1995. Trong quá trình nghiên cứu tư liệu mật của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, Volkogonov đã phát hiện ra nhiều chi tiết trái ngược với chính sử Liên Xô và nền sùng bái cá nhân mà đã được xây dựng xung quanh Lenin và Stalin. Tư tưởng sử học của ông là đặc trưng của thời kỳ Glasnost ở Liên Xô vào những năm 1980 và hậu Xô viết trong những năm 1990.
Denílson Pereira Júnior (sinh ngày 18 tháng 7 năm 1995), hay còn được gọi đơn giản là Dení Jr hoặc Denílson, là một cầu thủ bóng đá người Brasil hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Hà Nội tại V.League 1. Sự nghiệp thi đấu. Sinh ra tại Rio de Janeiro, Denílson thi đấu cho đội trẻ của Fluminense. Anh ra mắt đội 1 tại Série A vào ngày 9 tháng 6 năm 2013, khi thay thế cho Biro-Biro ở hiệp 2 và ghi bàn ấn định chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Goiás. Denílson chỉ xuất hiện trong một trận đấu nữa trước khi trở lại đội trẻ. Vào ngày 31 tháng 1 năm 2015, anh gia nhập Granada CF, nhưng được đưa vào đội dự bị thi đấu tại Segunda División B. Vào ngày 9 tháng 8 năm 2016, Denílson ký hợp đồng cho mượn kéo dài một mùa giải với câu lạc bộ Neftçi PFK tại Azerbaijan, ghi một bàn trong chín lần ra sân trước khi đội bóng ký hợp đồng dài hạn vào ngày 18 tháng 11 năm 2016. Sau đó, anh trở lại Brasil và thi đấu theo dạng cho mượn tại Avaí, São Paulo và Vitória từ năm 2017 đến 2018. Vào ngày 20 tháng 6 năm 2018, Denílson gia nhập Atlético Mineiro theo bản hợp đồng kéo dài 5 năm. Vào ngày 3 tháng 1 năm 2019, Denílson gia nhập câu lạc bộ Al-Faisaly tại Ả Rập Xê Út theo hợp đồng cho mượn sáu tháng từ Atlético. Vào ngày 30 tháng 1 năm 2023, Denílson trở lại Bồ Đào Nha và ký hợp đồng có thời hạn một năm rưỡi với Famalicão. Vào ngày 2 tháng 11 năm 2023, Denílson gia nhập câu lạc bộ Hà Nội tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam, ký hợp đồng có thời hạn đến cuối mùa giải 2023–24. Anh bị treo giò hai trận khi còn thi đấu tại Avaí vì phải nhận thẻ đỏ ở trận thua 0–2 trên sân nhà trước Atlético Goianiense vào tháng 9 năm 2023, nên không thể thi đấu trong trận gặp Becamex Bình Dương vào ngày 24 tháng 11 năm 2023. Vào ngày 10 tháng 12, Denílson ra mắt và ghi bàn cho đội bóng trong chiến thắng 2–0 trước Sông Lam Nghệ An.
Thể thao nhiều môn phối hợp Thể thao nhiều môn phối hợp là loại hình thi đấu thể thao yêu cầu các vận động viên tham gia phải thi đấu nhiều môn thể thao khác nhau. Thể thao nhiều môn phối hợp tính thời gian. Ở các cuộc thi đấu thể thao nhiều môn phối hợp tính thời gian thì kết quả sẽ được xác định căn cứ vào thời gian hoàn thành tất cả nội dung thi. Các nội dung thi thường là các môn thể thao thuộc nhóm đua tốc độ như chạy, bơi lội và đạp xe. Các loại hình thi đấu nhiều môn phối hợp tính thời gian được nhiều người tham gia có thể kể đến: Thể thao nhiều môn phối hợp tính điểm. Ở các cuộc thi đấu thể thao nhiều môn phối hợp tính điểm thì kết quả sẽ được xác định căn cứ vào tổng điểm hoàn thành tất cả nội dung thi. Trong mỗi nội dung thi, căn cứ vào kết quả thì các vận động viên sẽ được thưởng điểm số để tính thành tích tổng. Ngoài các môn thể thao thuộc nhóm đua tốc độ, sẽ có thêm các môn điền kinh như nhảy cao, nhảy xa, nhảy sào và một số môn thể thao khác như bắn súng, đấu kiếm Một số nội dung thi đấu nhiều môn phối hợp tính điểm đã từng có mặt trong chương trình thi đấu của Thế vận hội:
Aston Martin DBX là một mẫu SUV crossover hạng sang được sản xuất bởi thương hiệu xe hơi Aston Martin kể từ năm 2020. Đây là chiếc SUV đầu tiên của hãng xe đến từ Anh Quốc, đồng thời còn được định vị ở cả phân khúc "cỡ lớn" lẫn "cỡ trung". DBX là mẫu xe đầu tiên được sản xuất tại nhà máy mới của Aston Martin nằm ở làng St Athan, xứ Wales. Theo phó chủ tịch điều hành kiêm giám đốc sáng tạo Marek Reichman, chiều dài cơ sở của DBX được kéo dài đến mức tối đa để các bánh xe có thể đặt ở bốn góc, cộng với phần mui thấp sẽ làm cho người xem lầm tưởng rằng xe nhỏ hơn so với kích thước thật, qua đó giúp DBX mang dáng dấp giống một chiếc Aston Martin truyền thống hơn. DBX sử dụng loại cửa thiên nga đặc trưng, bên cạnh đó là bộ lưới tản nhiệt lớn nhất từng xuất hiện trên các dòng xe Aston Martin. BBC và Daily Telegraph đã miêu tả DBX là "mẫu xe 5 chỗ cỡ lớn đầu tiên" mà Aston Martin phân phối. Tuy nhiên, các nguồn tin khác bên ngoài Anh Quốc lại định vị nó ở phân khúc "crossover cỡ trung". Về phần nội thất, ghế ngồi của DBX được bọc da cao cấp đi cùng với vải Alcantara, trang bị rèm che điện, cửa sổ trời toàn cảnh bằng kính. Ngoài ra, xe còn cung cấp hệ thống thông tin giải trí 10,25 inch hỗ trợ kết nối điện thoại thông minh, Apple CarPlay hay camera 360 độ, cụm công cụ kỹ thuật số 12,3 inch thông báo cho người lái xe mọi thông tin. Aston Martin cũng bổ sung gói trang bị và trang trí mang tên The Exclusive 1913 độc quyền. Hơn nữa, hãng xe Anh Quốc còn cung cấp dịch vụ cá nhân hóa bespoke cho DBX. Xe có khoang hành lý phía sau đạt 832 lít và tăng khoảng trống lên 1.540 lít khi gập phẳng hàng ghế thứ hai. Thông số kỹ thuật và hiệu suất. Mặc dù được thiết kế dựa trên chiếc Vantage, thế nhưng DBX lại sử dụng nền tảng khung gầm riêng. Tương tự như những mẫu Aston Martin khác, xe được chế tạo bằng các tấm nhôm liên kết dính và áp dụng công nghệ ép đùn. Bên cạnh đó, hệ truyền động và công nghệ giải trí trên xe đều được vay mượn từ Mercedes-Benz. DBX trang bị động cơ V8 tăng áp kép 4.0 lít M177 do Mercedes AMG cung cấp, sản sinh công suất và mô-men xoắn . Xe có khả năng tăng tốc từ trong vòng 4.5 giây trước khi đạt tốc độ tối đa . Hộp số tự động 9 cấp là trang bị mặc định trên xe và có thể tạo ra lực kéo lên tới 2.700 kg (6.000 lb). Lượng khí thải CO2 đạt mức 269g/km theo Chu trình Lái mới của Châu Âu (NEDC), trong khi mức tiêu thụ trung bình ở Vương quốc Anh là 19,73 mpg. DBX trang bị hệ thống cân bằng thân xe - chống lật điện tử sử dụng nguồn điện 48 volt chống lật khi vào cua và có 5 chế độ lái: GT (đường trường), Sport (thể thao), Sport Plus, Terrain (địa hình) và Terrain Plus với tính năng Access bổ sung. Bộ chuyển số trung tâm chủ động sẽ truyền mô-men xoắn tới cầu trước khi cần thiết, đồng thời còn có thêm vi sai chống trượt giới hạn cầu sau điện tử. Ngoài ra, DBX còn có bộ giảm chấn và lò xo khí nén ba buồng thích ứng, cung cấp khả năng điều chỉnh độ cao gầm đáng kể. Vào tháng 11 năm 2021, một động cơ mới dành cho DBX đã được trình làng tại Trung Quốc. Loại động cơ I6 tăng áp 3.0 lít M256 của Mercedes AMG này cho ra công suất cũng như mô-men xoắn . Aston Martin DBX707 (2022–nay). Vào ngày 1 tháng 2 năm 2022, Aston Martin đã giới thiệu mẫu crossover chạy xăng mạnh mẽ nhất của hãng mang tên Aston Martin DBX707. Động cơ "M177" trên xe đã được hãng tinh chỉnh vài chỗ và nhận được bộ tăng áp mới kết hợp ổ bi, tạo ra công suất tối đa và mô-men xoắn . Hộp số MCT 9G-Tronic của AMG cũng được nâng cấp và bổ sung thêm bộ ly hợp ướt cũng như thay đổi tỷ số truyền. Tổng cộng, tất cả những thay đổi đó đã cho phép chiếc SUV thể thao tăng tốc từ trong vòng 3.1 giây trước khi đạt tốc độ tối đa tới , nhanh nhất thế giới năm 2023. Ngoài ra, chúng cũng tác động đến hệ thống treo và điều khiển hướng. Phía sau xe là cánh gió và tấm chỉnh độ ngẩng làm từ sợi carbon, bên cạnh cụm ống xả đôi đối xứng. DBX707 được trang bị bộ mâm 22 inch tiêu chuẩn và mâm 23 inch tuỳ chọn. Xe y tế Công thức 1. Vào năm 2021, có thông báo rằng DBX sẽ trở thành mẫu xe y tế Công thức 1 chính thức, bên cạnh chiếc Mercedes C63S AMG Estate (sau đó là Mercedes -AMG GT 4-Door trong mùa giải 2022). Xe y tế DBX có màu sơn British Racing Green với những điểm nhấn màu vàng neon. Xe sẽ nhập đội cùng Aston Martin Vantage trong nhóm xe an toàn mới của giải Công thức 1. Bắt đầu từ mùa giải 2023, DBX707 đã thay thế mẫu DBX tiêu chuẩn thành Xe y tế Công thức 1.
Chặng đua MotoGP Argentina 2023 Chặng đua MotoGP Argentina 2023 là chặng đua thứ 2 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 31/03/2023 đến ngày 02/04/2023 ở trường đua Termas de Rio Hondo, Argentina. Brad Binder của đội đua KTM đã giành chiến thắng cuộc đua Sprint race. Marco Bezzecchi của đội đua VR46 vượt lên dẫn dầu bảng xếp hạng tổng với 50 điểm sau khi giành chiến thắng cuộc đua chính thể thức MotoGP.
Huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam Huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam là một giải thưởng bóng đá được trao cho các huấn luyện viên có thành tích xuất sắc trong mỗi tháng của từng mùa giải Vô địch Quốc gia. Người chiến thắng giải thưởng này được quyết định thông qua sự kết hợp giữa các lá phiếu của đại diện ban tổ chức giải đấu, của các huấn luyện viên trưởng của các đội bóng tại V.League 1 và của chủ tịch Hội đồng Huấn luyện viên Quốc gia. Kể từ mùa giải 2023, giải thưởng Huấn luyện viên xuất sắc nhất tháng được tài trợ bởi tập đoàn Casper Việt Nam. Giải thưởng được giới thiệu lần đầu vào mùa giải 1999–2000, nằm trong hệ thống các giải thưởng bầu chọn hàng tháng của Liên đoàn bóng đá Việt Nam (cùng với các giải thưởng khác cho thủ môn, hậu vệ, cầu thủ xuất sắc nhất và bàn thắng đẹp nhất tháng) tại hai giải đấu là giải vô địch quốc gia và Cúp Quốc gia. Từ đó đến nay, giải thưởng dành cho huấn luyện viên hay nhất tháng đã được trao trong tất cả các mùa giải, ngoại trừ các mùa 2003, 2005 (không thuộc hệ thống các giải bình chọn) và 2007 (không tổ chức trao các giải thưởng tháng). Đoạt giải nhiều lần. Dưới đây là thống kê về các huấn luyện viên đã giành danh hiệu xuất sắc nhất tháng nhiều hơn một lần. Những huấn luyện viên được in đậm vẫn còn hoạt động tại V.League 1. "Tính đến giải thưởng tháng 10 năm 2023" "Tính đến giải thưởng tháng 10 năm 2023"
Chặng đua MotoGP Americas 2023 Chặng đua MotoGP Americas 2023 là chặng đua thứ 3 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 14/04/2023 đến ngày 16/04/2023 ở trường đua Americas, Mỹ. Tay đua giành chiến thắng cuộc đua Sprint race là Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse. Tay đua giành chiến thắng cuộc đua chính là Alex Rins của đội đua LCR. Sau chặng đua Marco Bezzecchi giữ được ngôi đầu bảng với 64 điểm.
Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2001 Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2001, tên gọi chính thức là Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia - Cúp báo Thanh Niên 2001, là mùa giải thứ năm của Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) phối hợp với báo Thanh Niên tổ chức. 38 đội bóng tham dự giải thi đấu theo hai giai đoạn: vòng loại từ ngày 30 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6 và vòng chung kết từ ngày 21 tháng 6 đến ngày 1 tháng 7 năm 2001. 36 đội bóng đã đăng ký tham dự mùa giải lần này từ vòng loại. Đội đương kim vô địch Sông Lam Nghệ An và đội chủ nhà của vòng chung kết Đà Nẵng được miễn thi đấu vòng loại. Các đội bóng được sắp xếp sẵn vào các bảng đấu dựa theo khu vực địa lý. Những đội bóng đóng vai trò là chủ nhà của bảng đấu vòng loại được in đậm. Vòng loại diễn ra từ ngày 31 tháng 5 đến ngày 15 tháng 6 năm 2001. Năm đội đứng đầu năm bảng/nhóm đấu và đội thắng trong trận nhì bảng A gặp nhì bảng B giành quyền vào vòng chung kết. Các đội được xếp hạng theo điểm (3 điểm cho 1 trận thắng, 1 điểm cho 1 trận hòa, 0 điểm cho 1 trận thua), và nếu bằng điểm, các tiêu chí sau đây được áp dụng theo thứ tự, để xác định thứ hạng: Bảng A (khu vực miền Bắc). Các trận đấu của bảng A diễn ra tại sân vận động Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh. Bảng B (khu vực miền Trung). Các trận đấu của nhóm 1 bảng B diễn ra tại sân vận động Tự Do, Huế. Các trận đấu của nhóm 2 bảng B diễn ra tại sân vận động Nha Trang, Khánh Hòa. Bảng C (khu vực miền Nam). 6 đội bóng thi đấu vòng tròn một lượt từ ngày 6 đến 14 tháng 6 năm 2001 tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đội đứng đầu sẽ giành vé vào vòng chung kết. Các trận đấu của nhóm 2 bảng C diễn ra từ ngày 31 tháng 5 đến 15 tháng 6 năm 2001. Đội xếp thứ nhì của bảng A sẽ đối đấu với đội xếp thứ nhì của bảng B trong trận đấu play-off. Đội thắng trong cặp đấu sẽ giành vé tham dự vòng chung kết.#đổi Vòng chung kết diễn ra từ ngày 21 tháng 6 đến ngày 1 tháng 7 năm 2001 tại sân vận động Chi Lăng, thành phố Đà Nẵng. 8 đội tham dự được chia thành hai bảng, thi đấu vòng tròn một lượt để chọn ra hai đội đứng đầu mỗi bảng vào bán kết. Lễ bốc thăm chia bảng đã diễn ra vào ngày 19 tháng 6 tại khách sạn Bamboo Green, Đà Nẵng.
Thị trường đại chúng "Về hình thức đóng sách, xem Bìa mềm § Thị trường đại chúng." Thuật ngữ "thị trường đại chúng" dùng để chỉ thị trường hàng hóa được sản xuất trên quy mô lớn với một số lượng đáng kể cho người dùng trực tiếp. Thị trường đại chúng khác với thị trường ngách ở chỗ thị trường đại chúng tập trung vào những người tiêu dùng có hoàn cảnh khác nhau, không có sở thích và mong đợi rõ ràng trong một phân khúc thị trường lớn. Theo truyền thống, các doanh nghiệp tiếp cận thị trường đại chúng bằng các thông điệp quảng cáo thông qua nhiều phương tiện truyền thông khác nhau bao gồm đài phát thanh, TV, báo chí và Web. Các học giả đã lưu ý rằng việc xác định bản chất chính xác của thị trường đại chúng là một vấn đề khó khăn. Khó khăn này phát sinh, ít nhất một phần, từ sự chú ý của giới học thuật đối với quá trình tiếp thị đại chúng hơn là thị trường đại chúng. Ngoài ra, khái niệm thị trường đại chúng có nghĩa là những thứ khác nhau trong các bối cảnh khác nhau và đã phát triển theo thời gian, tạo thêm một lớp phức tạp khác. "Từ điển tiếng Anh thương mại Cambridge định nghĩa thị trường đại chúng là: một thị trường gồm càng nhiều người càng tốt, không chỉ những người có nhiều tiền hoặc có nhu cầu, sở thích cụ thể [hoặc] một sản phẩm nhằm mục đích bán cho càng nhiều người càng tốt, không chỉ cho những người có nhiều tiền hoặc những sở thích đặc biệt. Thị trường đại chúng hay còn gọi là thị trường không phân biệt là một nhóm lớn khách hàng hiện tại và/hoặc khách hàng tiềm năng, trong đó các cá nhân riêng lẻ có chung nhu cầu. Quy mô của thị trường đại chúng phụ thuộc vào loại sản phẩm. Các nhà tiếp thị đại chúng thường nhắm tới khoảng 50% đến 100% tổng tiềm năng của thị trường. Ví dụ: bột giặt Tide được cho là đã chiếm 65% thị phần tại cửa hàng (ở Mỹ) bằng cách phát triển sản phẩm “tốt cho mọi người” và nhắm đến thị trường trung lưu rộng rãi. Đến những năm 1980, Coca-Cola chiếm lĩnh gần 70% thị phần ở Mỹ các sản phẩm và thương hiệu trên Thị trường đại chúng có chất lượng thấp hơn có thể chấp nhận được, được sản xuất hàng loạt, phân phối rộng rãi và thường các phương tiện thông tin đại chúng để tạo ra mức độ nhận biết cao. nhận thức về thị trường và cuối cùng là thâm nhập thị trường. Ngược lại, một thương hiệu cao cấp kết hợp các yếu tố của thị trường đại chúng và sự sang trọng, thu hút thị trường rộng lớn bằng các sản phẩm chất lượng cao hơn, thường được thiết kế bởi các nhà thiết kế nổi tiếng, có điểm khác biệt độc đáo hoặc uy tín và được cung cấp ở mức giá hợp lý. Các thương hiệu cao cấp cung cấp một giải pháp thay thế cho hàng hóa xa xỉ. Khái niệm “thị trường đại chúng” tương đối hiện đại. Trước cuộc cách mạng công nghiệp, thị trường được dùng để chỉ một địa điểm vật chất (tức là khu chợ). Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 18, mọi người có thể tham gia thị trường mà không cần đến chợ. Đến thế kỷ 20, khái niệm này có thể được sử dụng để mô tả một quá trình (sản xuất hàng loạt/ tiếp thị đại chúng), một nhóm người tiêu dùng cũng như một địa điểm vật chất. Ở quá trình này, tiếp thị đại chúng, bao gồm việc theo đuổi toàn bộ thị trường hoặc một phần lớn thị trường với một sản phẩm duy nhất và một chương trình tiếp thị duy nhất. Trong tiếp thị đại chúng, không có sự khác biệt hóa thị trường và không có sự khác biệt hóa sản phẩm. Thuật ngữ “thị trường đại chúng” xuất hiện vào thế kỷ 19 và có nguồn gốc từ những biến đổi xã hội, chính trị và kinh tế xảy ra trên khắp thế giới phát triển trong suốt thế kỷ 17, 18 và đầu thế kỷ 19. Tăng trưởng dân số kết hợp với mức lương tăng, mức sống cao hơn, dân số tập trung, đô thị hóa ngày càng tăng, tính biến đổi xã hội tăng lên và sự gia tăng của tầng lớp trung lưu đã thúc đẩy sự gia tăng nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ. Để đáp ứng nhu cầu này, ngành công nghiệp đã được tái cơ cấu: các nhà sản xuất cần hệ thống sản xuất, phân phối và buôn bán mới để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về hàng hóa và dịch vụ giá cả phải chăng. Như một số nhà sử học đã lưu ý, 'cuộc cách mạng công nghiệp' - bên cung đã đi kèm với 'cuộc cách mạng tiêu dùng' - bên cầu. Đến thế kỷ 17, nguyên liệu thô, hàng hóa sản xuất và thực phẩm đã được vận chuyển khắp thế giới. Tuy nhiên, để tiếp cận thị trường đại chúng, hệ thống giao thông và thông tin liên lạc nội địa hiệu quả, như đường sắt và điện báo là điều kiện tiên quyết. Các học giả coi nửa sau thế kỷ 19 là thời kỳ hình thành một 'cuộc cách mạng trong phân phối' với những đổi mới trong vận chuyển, lưu trữ và đóng gói, cho phép vận chuyển hàng hóa nhanh chóng, hiệu quả trên những khoảng cách rộng lớn. Kỹ thuật sản xuất hàng loạt, được hỗ trợ bởi sự phát triển công nghệ, cho phép sản xuất các sản phẩm tiêu chuẩn hóa, chi phí thấp, được thiết kế để thu hút nhiều bộ phận thị trường. Đến thế kỷ 20, các hệ thống phân phối mới dần thay thế những người bán hàng rong (peddles), và các nhà bán lẻ nhỏ, độc lập vốn là đặc trưng của các kênh cung ứng tiền công nghiệp. Khi thế kỷ đi lên, những cải tiến trong chuỗi cung ứng đã tạo ra vô số nhà bán lẻ sáng tạo trên thị trường đại chúng - từ các cửa hàng bách hóa cho đến nhượng quyền thương mại và chuỗi cửa hàng. Những ví dụ ban đầu đáng chú ý về các nhà tiếp thị đại chúng bao gồm: Sự trỗi dậy và sụp đổ của thị trường đại chúng. "Bài chi tiết: " Mục đích chính của tiếp thị đại chúng là cung cấp các sản phẩm được tiêu chuẩn hóa cho số lượng khách hàng lớn nhất với mức chất lượng tối thiểu có thể chấp nhận được và ở mức giá thấp nhất có thể. Để đạt được điều này, các công ty thiết kế các sản phẩm đơn giản, áp dụng quy trình sản xuất dài hạn và dựa vào tỷ suất lợi nhuận thấp cũng như doanh số bán hàng theo khối lượng để duy trì chi phí đơn vị thấp. Trên thị trường đại chúng, “người chơi” phải cạnh tranh với các nhà sản xuất số lượng lớn khác. Kết quả là, sản phẩm có giá thấp nhất, với chất lượng có thể chấp nhận được, sẽ có lợi thế trên thị trường. Điều này có xu hướng dẫn đến việc tập trung vào giá cả, nghĩa là các công ty phải không ngừng theo đuổi việc tiết kiệm chi phí trên mọi khía cạnh của hoạt động kinh doanh – thiết kế sản phẩm đơn giản hóa, chuỗi cung ứng hợp lý và chất lượng dịch vụ có thể chấp nhận được ở mức tối thiểu. Ở các nước phát triển, các nhà tiếp thị thường xuyên tạo ra một thị trường đại chúng cho hàng hóa và dịch vụ. Ví dụ, một sản phẩm mới phức tạp như máy nghe nhạc MP3, trước tiên có thể thu hút những người chấp nhận sớm ở nhóm thu nhập cao hơn và sau đó đơn giản hóa việc cung cấp và giảm giá để được phần lớn thị trường tiềm năng chấp nhận. Ở các nền kinh tế phát triển, tiếp thị đại chúng đang trở nên ít phổ biến hơn. Tuy nhiên, nó vẫn là một phần quan trọng của tiếp thị ở các nền kinh tế phát triển cho đến tận thế kỷ 21. Tiếp thị đại chúng chủ yếu được sử dụng trong các thị trường hàng hóa (ví dụ: đường, muối, trái cây và rau quả, ); các thị trường rất nhỏ (nơi mà việc phân khúc sẽ dẫn đến các phân khúc quá nhỏ để có thể sinh lời); dành cho các sản phẩm và nhãn hiệu đáp ứng nhu cầu phổ biến (ví dụ: bút, bút chì, báo) và ở các thị trường ít cạnh tranh hơn. Khi thị trường ở Mỹ và Châu u ngày càng trở nên phân mảnh, người tiêu dùng ngày càng thể hiện mong muốn lựa chọn, tùy chỉnh và khác biệt hóa sản phẩm. Điều này đã dẫn đến việc một số công ty chuyển từ phục vụ một thị trường đại chúng sang phục vụ một số thị trường hoặc phân khúc nhỏ hơn. Tuy nhiên, quy mô của các phân khúc này vẫn còn tương đối lớn. Các công ty đa quốc gia như và Coca-Cola có khả năng tiếp cận rất lớn trên các thị trường toàn cầu. Trong khi đó, Coke, chẳng hạn, trước đây chỉ có một hương vị và kích cỡ chai duy nhất, thì giờ đây nó được cung cấp vô số hương vị khác nhau, chai có kích cỡ khác nhau và với nhiều lựa chọn không đường khác nhau. Khi tốc độ tăng trưởng ở các bắt đầu chậm lại, các tập đoàn đa quốc gia đang hướng tới các thị trường mới nổi để có tăng trưởng mới và kinh tế quy mô. Thị trường ở các khu vực Châu Á, Châu Phi, Nam Mỹ và Đông Âu, với tốc độ tăng trưởng dân số nhanh chóng, dân số trẻ, nền kinh tế đang phát triển, mức sống ngày càng cao và tầng lớp trung lưu mới nổi mang đến cho các công ty những cơ hội dài hạn đáng kể. Đối với các công ty mong muốn thâm nhập vào các thị trường mới nổi, quyết định kinh doanh quan trọng là nhắm tới phân khúc nào trong hai phân khúc thu nhập – tầng lớp nhỏ nhưng giàu có () hoặc thị trường đại chúng lớn nhưng tương đối nghèo. Các nguồn lực và khả năng cần thiết để cạnh tranh ở các nền kinh tế mới nổi khá khác so với những nguồn lực và năng lực được sử dụng ở các thị trường phát triển. Đặc biệt, các công ty cần có kiến ​​thức sâu rộng về địa phương, bao gồm hiểu biết sâu rộng về mạng lưới phân phối địa phương và hiểu biết sâu sắc về thói quen mua hàng của người tiêu dùng. Hành vi của người tiêu dùng ở các thị trường đại chúng mới nổi khá khác biệt so với hành vi được quan sát ở những nơi khác. Nhu cầu của thị trường đại chúng xoay quanh những nhu cầu cơ bản và sản phẩm chức năng. Mặc dù có sự khác biệt rõ ràng giữa các khu vực nhưng vẫn có một số điểm chung được ghi nhận: người tiêu dùng cực kỳ quan tâm đến giá cả; thích hàng hóa không có nhãn hiệu, mua với số lượng nhỏ hơn, chỉ mua số lượng vừa đủ theo yêu cầu để sử dụng ngay và thường thể hiện sự ưa thích đối với các cửa hàng bán lẻ địa phương nơi họ có thể mua một mặt hàng duy nhất, chẳng hạn như một cục xà phòng, từ những gói bị vỡ. Các công ty đa quốc gia như Unilever và Colgate-Palmolive đã thâm nhập thành công vào các thị trường đại chúng mới nổi, trong khi các công ty khác lại gặp khó khăn. vào Ấn Độ đã thất bại trong việc tạo dựng sự chấp nhận của thị trường đối với ngũ cốc như một loại thực phẩm ăn sáng thay thế. Bột giặt của Unilever, Ala, đã đạt được thành công trên thị trường ở miền nam Brazil, nhưng không thể có được chỗ đứng ở phía đông bắc, nơi phụ nữ tiếp tục giặt đồ ở suối và ưa thích xà phòng cục. Tại Paraguay, nhà khai thác viễn thông Tigo ban đầu miễn cưỡng giảm mức nạp tiền tối thiểu cho thẻ điện thoại. Tuy nhiên, doanh số bán hàng của nó đã tăng gấp ba lần khi cho phép người dùng nạp tiền chỉ với vài xu. Công ty được biết rằng khách hàng đang sử dụng thẻ như một hình thức tiết kiệm và cũng thực hiện các cuộc gọi vào ban đêm khi giá cước thấp hơn, từ đó thúc đẩy lượng sử dụng cao điểm. Các nhà bán lẻ trên thị trường đại chúng. Nhà bán lẻ trên thị trường đại chúng là một tổ chức bán một lượng lớn sản phẩm một cách hợp lý để thu hút nhiều loại người mua. Các nhà bán lẻ trên thị trường đại chúng không thực sự nổi tiếng với việc bán hàng ổn định, chất lượng tốt hoặc có dịch vụ hỗ trợ khách hàng đặc biệt, nhưng họ đáp ứng rất nhiều nhu cầu của khách hàng với mức giá hợp lý. Một số ví dụ về các nhà bán lẻ đại chúng là các như Target, Sam's Club và Best Buy, cũng như các thương hiệu như Levi Strauss và Gap, và các nhà bán lẻ điện tử như Amazon. Nhà bán lẻ trên thị trường đại chúng với Nhà bán lẻ cao cấp. Xét về Thị trường đại chúng và Nhà bán lẻ cao cấp, Nhà bán lẻ cao cấp bán sản phẩm của họ cho người tiêu dùng cụ thể. Thị trường mục tiêu của họ là dành cho những người tiêu dùng giàu có thường xuyên mua những sản phẩm cao cấp, những sản phẩm mà người tiêu dùng thông thường khó có thể tiếp cận được. Một số ví dụ về Nhà bán lẻ cao cấp bao gồm Barney, Tiffany Co, Saks F “Công nghệ đã cho phép người tiêu dùng bỏ qua những mặt hàng mang mẫu mã đại chúng này. Amazon và Google cho phép họ tìm kiếm nhanh chóng và dễ dàng các sản phẩm cụ thể phù hợp với họ.” Mọi người không liên kết hoặc cam kết với một thương hiệu nhất định, thay vào đó, bất cứ điều gì thuận tiện hơn cho họ khi xem xét chất lượng, giá cả và tính sẵn có. Khi nhìn vào thị trường đại chúng, chúng ta có thể coi truyền hình là một yếu tố đóng góp. Các chương trình truyền hình được tạo ra để thu hút bất kỳ ai muốn theo dõi và thu hút bao nhiêu người mà sự chú ý đó mang lại. Số lượng người xem mà các chương trình truyền hình lớn nhất đang thu hút đã giảm đáng kể so với khoảng 25 năm trước. Sự sụt giảm này phần lớn là do sự hiện diện của mạng xã hội, các ứng dụng tự xuất bản và dịch vụ phát trực tuyến như Netflix, Hulu, HBO... "Oprah, ở thời kỳ đỉnh cao của bà, có 48 triệu người xem mỗi tuần. Giờ đây, những nghệ sĩ được phát sóng trên truyền hình lớn nhất vào ban ngày , như Ellen DeGeneres hay Tiến sĩ Phil, chỉ thu hút ít hơn 1/10 con số đó mỗi tuần." Kênh truyền hình vào ban ngày sẽ không bao giờ thu hút được lượng khán giả lớn như vậy nữa, vì mọi người thường lựa chọn dựa tren những thứ có sẵn ngày nay. Đây là một trong nhiều trường hợp mà khiến cho thị trường đại chúng đang trở nên lỗi thời.
Bầu cử Thượng nghị viện Việt Nam Cộng hòa 1967 Bầu cử Thượng nghị viện được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 3 tháng 9 năm 1967 cùng ngày bầu cử tổng thống. Cuộc bầu cử này có tổng cộng 48 danh sách tranh cử, trong đó sáu danh sách được bầu (mỗi cử tri có sáu phiếu) và mỗi danh sách nhận được 10 ghế. Tỷ lệ cử tri đi bầu được báo cáo là 83,8%. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bầu cử Thượng nghị viện Việt Nam Cộng hòa 1970 Bầu cử Thượng nghị viện được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 30 tháng 8 năm 1970. Cuộc bầu cử này có tổng cộng 16 danh sách tranh cử, trong đó ba danh sách có số phiếu bầu cao nhất sẽ được bầu và nhận được 10 ghế mỗi danh sách. Mỗi cử tri có ba phiếu bầu, trong đó danh sách chiến thắng nhận được 1.149.597 phiếu bầu (11,7%), trong khi danh sách đứng thứ ba giành được 882.274 phiếu bầu (9,0%). Tỉ lệ cử tri đi bầu được báo cáo là 65,4%. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Bầu cử Thượng nghị viện Việt Nam Cộng hòa 1973 Bầu cử Thượng nghị viện được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 26 tháng 8 năm 1973. Cuộc bầu cử có tổng cộng bốn danh sách tranh cử, trong đó hai danh sách được bầu và tiếp nhận 15 ghế mỗi danh sách. Mỗi cử tri có hai phiếu bầu. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu được báo cáo là 92,7%. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Murder Drones (tạm dịch: Robot sát thủ) là bộ phim hoạt hình hành động khoa học viễn tưởng kinh dị được sản xuất vào năm 2021 với tác giả là Liam Vickers và Kevin Bruner, lấy bối cảnh tương lai và hậu tận thế, nơi hành tinh Copper 9, một hành tinh giả tưởng được khám phả bởi con người, do một sai lầm nên con người tại đây đã hoàn toàn tuyệt diệt. Các robot, hay Worker Drone, không bị ảnh hưởng vởi sự kiện tận thế, đã cùng nhau sinh tồn tại chốn đồng không mông quạnh này. Nhưng cuộc sống họ không mấy êm ả vì luôn phải đối mặt với mối hiểm họa mang tên Murder Drone, một loại robot được trang bị đủ chủng loại vũ khí, được Trái Đất cử đến nhằm tiêu diệt toàn bộ các Worker Drone. Tưởng chỉ có vậy, nhưng bộ phim đã mở ra những câu chuyện, những bí ẩn hoàn toàn khác mà ngay cả khi phản diện Murder Drone cũng phải bắt tay với Worker Drone để đào sâu những sự thật đang bị vùi lấp lâu nay. Murder Drones được công bố lần đầu tiên vào ngày 9 tháng 10 năm 2021. Cốt truyện phim về những Worker Drone, những robot làm các công việc "khai thác các hành tinh trong vũ trụ" có tri giác, chiến đấu chống lại những Murder Drone cũng như mối đe dọa mới. Phim kể về câu chuyện của Uzi, một Worker Drone đang tuổi mới lớn, trước đây tìm cách chống lại cac Murder Drone, nhưng hiên đang hợp tác với họ (và đang có tình cảm với một trong số họ) để tỉm hiểu những bí ẩn chưa có lời giải đáp. Phần đầu tiên, khởi chiếu vào năm 2021, đã được người xem cũng như các nhà phê bình đón nhận nồng nhiệt, nhận được nhiều lời khen ngợi về hoạt hình, lồng tiếng và cách kể chuyện. Murder Drones nhìn chung được các nhà phê bình cũng như khán giả đón nhận nồng nhiệt. Bộ phim đạt điểm 8,2/10 trên IMDB và tập thử nghiệm đã nhận được hơn 3 triệu lượt xem trên YouTube. Các nhà phê bình đã khen ngợi bộ phim vì hoạt hình sống động, các nhân vật độc đáo và sự hài hước mang tính châm biếm. Phim sẽ có 2 tập cuối mùa 1 và mùa 2 vào năm 2024.
Schwetzingen (]#đổi ) là một thị trấn của Đức nằm ở phía tây bắc bang Baden-Württemberg, cách Heidelberg khoảng về phía tây nam và cách Mannheim về phía đông nam. Đây là một trong năm đô thị lớn nhất của huyện Rhein-Neckar-Kreis. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sinsheim (], Nam Franconia: "Sinse") là một thị trấn nằm ở tây nam nước Đức, thuộc bang Baden-Württemberg. Nơi đây cách Heidelberg khoảng về phía đông nam của và cách Heilbronn khoảng phía tây bắc. Tư liệu liên quan tới Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Weinheim () là một thị trấn ở phía tây bắc Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm trong vùng đô thị Rhine-Neckar, cách Heidelberg khoảng phía bắc và cách Mannheim phía đông bắc. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Wiesloch (], ]; Nam Franconia: "Wissloch") là một thị trấn nằm ở phía bắc Baden-Württemberg, Đức, cách Heidelberg 13 km về phía nam. Sau Weinheim, Sinsheim và Leimen, đây là đô thị lớn thứ tư ở huyện Rhein-Neckar-Kreis. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Angelbachtal là một đô thị ở Kraichgau, nằm giữa Sinsheim và Bruchsal. Được thành lập năm 1972 bởi sự hợp nhất của Eichtersheim và Michelfeld, cái tên "Angelbachtal" xuất phát từ thung lũng Waldangelbach, chảy qua Kraichgau. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Chặng đua MotoGP Tây Ban Nha 2023 Chặng đua MotoGP Tây Ban Nha 2023 là chặng đua thứ 4 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 28/04/2023 đến ngày 30/04/2023 ở trường đua Jerez, Tây Ban Nha. Ở thể thức MotoGP, tay đua chiến thắng cuộc đua Sprint race là Brad Binder của đội đua Red Bull KTM, còn Francesco Bagnaia của đội đua Ducati Corse chiến thắng cuộc đua chính. Sau chặng đua Bagnaia đòi lại vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 87 điểm. Kết quả đua chính thể thức MotoGP. Đây là kết quả cuộc đua thứ hai. Cuộc đua thứ nhất có cờ đỏ do vụ tai nạn của Fabio Quartararo và Miguel Oliveira. Oliveira bị chấn thương không thể tham gia cuộc đua thứ hai.
Edingen-Neckarhausen là một xã thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm ở tả ngạn con sông Neckar. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Epfenbach là một xã nằm ở tây nam nước Đức. Ở giữa Heidelberg và Sinsheim, nơi đây thuộc huyện Rhein-Neckar, bang Baden-Württemberg. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Eschelbronn là một xã thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nằm cạnh Sinsheim, nơi đây có khoảng 2.597 cư dân. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Heddesheim là một đô thị thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Mannheim 9 km về phía đông và cách Weinheim 7 km về phía tây nam. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Heiligkreuzsteinach là một xã thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg của Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg khoảng 25 km về phía đông bắc. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Hirschberg an der Bergstraße Hirschberg an der Bergstraße là một đô thị thuộc huyện Rhein-Neckar, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm giữa Weinheim ở phía bắc và Schriesheim ở phía nam. Hirschberg bao gồm hai phường: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Ketsch (]#đổi ) là một xã thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm ở hữu ngạn sông Rhine, cách Heidelberg 14 km về phía nam. Phát triển dân số: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Mauer là một xã ở tây nam nước Đức. Nơi đây nằm giữa Heidelberg và Sinsheim, thuộc huyện Rhein-Neckar, bang Baden-Württemberg. Phát triển dân số: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Mecksheim là một xã nằm ở tây nam nước Đức, giữa Heidelberg và Sinsheim. Nơi đây thuộc vào huyện Rhein-Neckar của bang Baden-Württemberg. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Neidenstein là một thị xã nằm ở tây nam nước Đức, giữa Heidelberg và Sinsheim. Nơi đây thuộc vào huyện Rhein-Neckar của bang Baden-Württemberg. Phát triển dân số: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
là một xã thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg của Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg khoảng 10 km về phía nam. Phát triển dân số: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Oftersheim là một đô thị thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg 8 km về phía tây nam. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sandhausen (]) là một đô thị thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg về phía nam. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Schönbrunn (]#đổi ) là một xã thuộc huyện Rhein-Neckar, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm ở phía nam của sông Neckar, cách Eberbach khoảng 7 km về phía tây nam và cách Heidelberg 18 km về phía đông. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Sankt Leon-Rot là một đô thị thuộc huyện Rhein-Neckar-Kreis, bang Baden-Württemberg của Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg 16 km về phía nam. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Wilhelmsfeld là một thị xã nằm ở huyện Rhein-Neckar-Kreis, thuộc bang Baden-Württemberg của Đức. Địa phương kết nghĩa. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Chặng đua MotoGP Pháp 2023 Chặng đua MotoGP Pháp 2023 là chặng đua thứ 5 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 12/05/2023 đến ngày 14/05/2023 ở trường đua Le Mans, Pháp. Đây cũng là chặng đua thứ 1000 trong lịch sử giải đua xe MotoGP. Tay đua chiến thắng cuộc đua Sprint race là Jorge Martin của đội đua Pramac Racing. Tay đua chiến thắng cuộc đua chính thể thức MotoGP là Marco Bezzecchi của đội đua VR46. Sau chặng đua Francesco Bagnaia tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 94 điểm.
Sao Thiên Vương trong tác phẩm giả tưởng Không lâu sau khi được phát hiện vào năm 1781, Sao Thiên Vương đã bắt đầu trở thành bối cảnh cho các tác phẩm giả tưởng, dù không thường xuyên. Những tác phẩm thời kỳ đầu miêu tả nó như một hành tinh có bề mặt rắn, dần dần các tác giả chuyển sang mô tả nó là một hành tinh khí, vốn chính xác với thực tế hơn. Những vệ tinh tự nhiên của Sao Thiên Vương cũng xuất hiện trong rất nhiều tác phẩm. Cả hành tinh và các vệ tinh của nó đều có xu hướng gia tăng dần sự hiện diện trong thể loại giả tưởng theo thời gian. Dù đã được phát hiện từ năm 1781, Sao Thiên Vương vẫn xuất hiện tương đối hiếm trong các tác phẩm viễn tưởng. Theo catalog về những tác phẩm viễn tưởng thời kỳ đầu trong các sách tham khảo "Science-Fiction: The Early Years" (1990) và "Science-Fiction: The Gernsback Years" (1998) do E. F. Bleiler và Richard Bleiler biên soạn, Sao Thiên Vương chỉ xuất hiện trong 6 (trên 2475) và 9 (trên 1835) tác phẩm tương ứng, so với Sao Hỏa là 194 và Sao Kim là 131 (chỉ tính riêng trong cuốn "The Gernsback Years"). Có nhiều lời giải thích được đưa ra bao gồm việc hành tinh được phát hiện tương đối trễ, khoảng cách đến Trái Đất quá xa, điều kiện môi trường khắc nghiệt, cũng như vẻ ngoài kém thú vị khi quan sát bằng kính viễn vọng. Những mô tả đầu tiên. Lần xuất hiện đầu tiên trong thể loại viễn tưởng của Sao Thiên Vương là tác phẩm năm 1784 của Monsieur Vivenair tên "A Journey Lately Performed Through the Air, in an Aerostatic Globe, Commonly Called an Air Balloon, from this Terraqueous Globe to the Newly Discovered Planet, Georgium Sidus". Tác phẩm là một lời châm biếm đối với quân chủ Anh đương nhiệm là George III cùng với triều đình. Trong các tác phẩm mang thể loại du hành qua nhiều địa điểm của Hệ Mặt Trời đã xuất hiện xuyên suốt thế kỷ 19, Sao Thiên Vương cũng ít khi được đề cập đến. Một ngoại lệ hiếm hoi là cuốn tiểu thuyết được xuất bản ẩn danh năm 1837 tên "Journeys into the Moon, Several Planets and the Sun". Các tác phẩm thời kỳ đầu đều mô tả sai lầm rằng Sao Thiên Vương là một hành tinh đất đá, do đó những chủ đề thường thấy khi nhắc đến Sao Thiên Vương là con người định cư trên hành tinh này và người ngoài hành tinh sống trên bề mặt. Trong truyện ngắn năm 1935 "The Planet of Doubts" của tác giả Stanley G. Weinbaum, con người khi đổ bộ lên Sao Thiên Vương đã phải đối mặt với những giống loài ngoài hành tinh thù địch. Truyện ngắn "Code of Spaceways" của tác giả Clifton B. Kruse được xuất bản năm 1936 cũng mô tả Sao Thiên Vương có bề mặt rắn, nơi những tên hải tặc vũ trụ với vũ khí gây tê liệt đã chiếm lấy một căn cứ quân sự. Trong truyện ngắn của Raymond Z. Gallun được xuất bản năm 1937 là "The Long Winter", tuyết methane rơi xuống bề mặt Sao Thiên Vương trong một mùa đông dài hàng thập kỷ. Các mô tả thời kỳ đầu về Sao Thiên Vương còn có tác phẩm "Clouds over Uranus" xuất bản năm 1937 của Russell R. Winterbotham và series "Buck Rogers" của Philip Francis Nowlan. Những mô tả sau này. Khi hiểu biết về Sao Thiên Vương ngày càng được mở rộng nhờ những tiến bộ trong lĩnh vực khoa học hành tinh, các tác giả thể loại viễn tưởng dần mô tả nó là một hành tinh khí để phù hợp với thực tế. Do đó, truyện ngắn năm 1942 của Donald A. Wollheim là "Planet Passage" miêu tả một tàu vũ trụ bay xuyên qua Sao Thiên Vương, truyện ngắn năm 1962 của Fritz Leiber là "The Snowbank Orbit" lấy bối cảnh bầu khí quyển của hành tinh này được dùng cho kỹ thuật aerobraking, còn tác phẩm "Floating Worlds" được xuất bản năm 1976 của Cecelia Holland thì khắc họa về những thành phố nổi trên bầu khí quyển của Sao Thiên Vương cũng như của Sao Thổ. Sao Thiên Vương còn xuất hiện trong truyện ngắn năm 1971 của Barry N. Malzberg "Ah, Fair Uranus", loạt phim truyền hình "Doctor Who" của Mark Brandis và nhiều sách truyện tranh khác. Vào cuối thế kỷ 20, có sự gia tăng nhẹ về số lần xuất hiện của Sao Thiên Vương trong thể loại khoa học viễn tưởng, gồm có truyện ngắn năm 1985 "Dies Irae" của Charles Sheffield kể về sự sống trong bầu khí quyển, truyện ngắn năm 1999 "Into the Blue Abyss" của Geoffrey A. Landis có nói về sự sống bên dưới đại dương của hành tinh, và truyện ngắn được xuất bản cùng năm của G. David Nordley là "Mustardseed". Sao Thiên Vương cũng xuất hiện thoáng qua trong tiểu thuyết "The Memory of Whiteness" được xuất bản năm 1985 của Kim Stanley Robinson. Hành tinh này còn là nơi cung cấp deuterium và helium-3 trong trò chơi nhập vai trên bàn "Transhuman Space" và xuất hiện trong loạt video game "Mass Effect". Các mặt trăng của Sao Thiên Vương. Những vệ tinh tự nhiên của Sao Thiên Vương cũng xuất hiện trong không ít tác phẩm và vẫn đang ngày càng trở nên phổ biến khi người ta dần biết nhiều hơn về chúng. Các vệ tinh được giữ trong trạng thái tự nhiên ở một số tác phẩm như tiểu thuyết "Blue Mars" của nhà văn Kim Stanley Robinson vào năm 1996, và là nơi để khai thác tài nguyên không gian trong một số tác phẩm khác như video game "Descent". Trong series "Durna Rangue" của Neil R. Jones mở đầu bằng truyện ngắn năm 1936 "Little Hercules", một giáo phái cùng tên đã bị đày đến một trong những mặt trăng của Sao Thiên Vương. Vệ tinh Ariel được phát hiện vào năm 1851 cũng xuất hiện trong truyện ngắn năm 1933 của J. Harvey Haggard "Evolution Satellite", nơi mà sự tiến hóa trên mặt trăng nhanh đến nỗi nó diễn ra ngay trong phạm vi thời gian sống của một cá thể sinh vật. Miranda được phát hiện năm 1948 và xuất hiện trong truyện ngắn năm 1993 "Into the Miranda Rift" của nhà văn G. David Nordley, là nơi những nhà thám hiểm bị mắc kẹt trên bề mặt. Titania, vốn được phát hiện chỉ vài năm sau Sao Thiên Vương (1787), cũng xuất hiện trong trò chơi nhập vai trên bàn "Eclipse Phase", nơi mà hệ thống hẻm núi Messina Chasmata của nó trở thành một địa điểm thu hút khách du lịch.
Ga Xuân Sơn Nam Ga Xuân Sơn Nam là nhà ga xe lửa có vị trí ở huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Nhà ga là một điểm trên tuyến đường sắt Bắc Nam nối ga La Hai và ga Chí Thạnh. Ga Xuân Sơn Nam nằm tại Km 1162 + 200, có tổng diện tích sử dụng đất hơn 1,1 hecta. Nhà ga này hiện đang trong quá trình xây dựng.
Segunda División 2022–23 (được gọi là LaLiga SmartBank vì lý do tài trợ), là mùa giải thứ 92 của giải bóng đá hạng nhì Tây Ban Nha kể từ khi thành lập. Thăng hạng và xuống hạng (trước mùa giải). Tổng cộng có 22 đội tham gia giải đấu, bao gồm 15 đội ở mùa giải 2021–22, ba đội xuống hạng từ La Liga 2021–22 và bốn đội thăng hạng từ Primera División RFEF 2021–22. Hai đội đầu tiên được thăng hạng từ Segunda División là Almería và Valladolid, lần lượt đứng thứ nhất và thứ hai vào ngày thi đấu cuối cùng của mùa giải. Almería trở lại La Liga sau 7 năm vắng bóng trong khi Valladolid là 1 năm. Đội thứ ba và cuối cùng được thăng hạng là Girona sau khi giành chiến thắng 3–1 trong trận chung kết play-off trước Tenerife, trở lại sau ba năm vắng bóng. Đội đầu tiên xuống hạng La Liga là Levante, sau trận thua 0–6 trước Real Madrid vào ngày 12 tháng 5 năm 2022, kết thúc 5 năm thi đấu ở giải đấu cao nhất. Đội thứ hai phải xuống hạng là Alavés sau khi thua 1-3 trước Levante vào ngày 15 tháng 5 năm 2022, kết thúc sáu năm ở La Liga. Đội thứ ba và cuối cùng xuống hạng là Granada vào ngày 22 tháng 5 năm 2022, có trận hòa trước Espanyol trong ngày thi đấu cuối cùng, cùng với chiến thắng cho Cádiz và Mallorca, kết thúc ba năm duy trì vị trí cao nhất của họ. Vào ngày 16 tháng 4 năm 2022, Alcorcón trở thành đội đầu tiên xuống hạng khỏi Segunda División sau khi bị Cartagena đánh bại, kết thúc 12 năm ở giải hạng hai. Đội thứ hai xuống hạng là Fuenlabrada vào ngày 7 tháng 5 năm 2022 sau khi thua Real Sociedad B, kết thúc ba năm thi đấu ở giải hạng hai. Hai đội cuối cùng phải xuống hạng là Real Sociedad B và Amorebieta, đều vào ngày 21 tháng 5 năm 2022, trở lại hạng ba sau chỉ một mùa giải ở Segunda División. Vào ngày 1 tháng 5 năm 2022, Racing Santander trở thành đội đầu tiên thăng hạng lên hạng hai sau trận hòa 2–2 trước Celta Vigo B, kết thúc hai mùa ở giải hạng ba. Đội thứ hai được thăng hạng là Andorra sau chiến thắng trước UCAM Murcia vào ngày 21 tháng 5 năm 2022, lần đầu tiên trong lịch sử câu lạc bộ lên hạng hai. Vào ngày 11 tháng 6 năm 2022, Albacete và Villarreal B đều được thăng hạng sau khi lần lượt đánh bại Deportivo La Coruña và Gimnàstic trong trận chung kết play-off thăng hạng. Albacete trở lại Segunda División sau một năm vắng bóng còn Villarreal B sau mười năm ở giải hạng ba. Vị trí theo vòng. Bảng liệt kê vị trí của các đội sau mỗi tuần thi đấu. Để duy trì diễn biến theo trình tự thời gian, bất kỳ trận đấu bù nào (do bị hoãn) đều không được đưa vào vòng đấu mà chúng được lên lịch ban đầu, mà được thêm vào vòng đấu diễn ra ngay sau đó. Cúp Zamora được tờ báo Marca trao cho thủ môn có tỷ lệ bàn thua/trận thấp nhất. Một thủ môn phải chơi ít nhất 28 trận từ 60 phút trở lên mới đủ điều kiện nhận cúp.
Rosalind là một vệ tinh vòng trong của Sao Thiên Vương. Nó được phát hiện từ các bức ảnh chụp bởi tàu "Voyager 2" vào ngày 13 tháng 1 năm 1986 và được đặt cho một danh xưng tạm thời là S/1986 U 4. Tên gọi Rosalind bắt nguồn từ người con gái của vị Công tước bị trục xuất trong vở "Xin tùy ý thích" của William Shakespeare. Nó còn có tên định danh là Uranus XIII. Rosalind nằm trong nhóm vệ tinh Portia, gồm có Bianca, Cressida, Desdemona, Portia, Juliet, Cupid, Belinda và Perdita. Các vệ tinh này có quỹ đạo và tính chất trắc quang tương tự nhau. Ngoài những đặc điểm như quỹ đạo, bán kính 36 km và suất phản chiếu hình học là 0,08, hầu như con người không còn biết gì về vệ tinh này. Trong các bức ảnh chụp của "Voyager 2", Rosalind xuất hiện như một vật thể hình gần cầu. Tỷ lệ trục của hình dạng phỏng cầu dài của Rosalind là 0,8-1,0. Bề mặt của nó có màu xám. Rosalind rất gần cộng hưởng quỹ đạo 3:5 với Cordelia.
Chặng đua MotoGP Đức 2023 Chặng đua MotoGP Đức 2023 là chặng đua thứ 7 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 16/06/2023 đến ngày 18/06/2023 ở trường đua Sachsenring, Đức. Tay đua Jorge Martin của đội đua Pramac Racing chiến thắng cả hai cuộc đua Print race và đua chính của thể thức MotoGP. Sau chặng đua Francesco Bagnaia tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 160 điểm.
Chặng đua MotoGP San Marino 2023 Chặng đua MotoGP San Marino 2023 là chặng đua thứ 12 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 08/09/2023 đến ngày 10/09/2023 ở trường đua Misano, Ý. Tay đua Jorge Martin của đội đua Pramac Racing là người giành chiến thắng cả hai cuộc đua Sprint race và đua chính của thể thức MotoGP. Sau chặng đua Francesco Bagnaia tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 283 điểm.
Trung Quốc v Hồng Kông (1985) Trung Quốc v Hồng Kông là một trận đấu thuộc khuôn khổ vòng loại thứ nhất Giải vô địch bóng đá thế giới 1986 khu vực châu Á diễn ra vào ngày 19 tháng 5 năm 1985, trận đấu này trở nên nổi bật bởi kết quả bất ngờ của nó, vốn đã gây ra sự bất mãn sâu sắc và những phản ứng quá khích từ những người hâm mộ bóng đá Trung Quốc đại lục, dẫn đến việc trận đấu này về sau được mệnh danh là Sự kiện 19 tháng 5 () hay Cuộc vây hãm Sân vận động Công nhân (). Cần một chiến thắng để đi tiếp vào vòng loại thứ hai, Hồng Kông đã bất ngờ có được thắng lợi ấn tượng 2–1 trước Trung Quốc ngay trên sân khách để loại Trung Quốc khỏi cuộc đua giành tấm vé đến vòng chung kết, với các bàn thắng của Trương Chí Đức ở phút 19 và Cố Cẩm Huy ở phút 60. Trận đấu được điều hành bởi trọng tài người Ấn Độ Melvyn D'Souza và được các nhà phân tích vào thời điểm đó mô tả là diễn ra với sự căng thẳng bất thường (so với những trận đấu thông thường ở vòng loại Giải vô địch bóng đá thế giới khu vực châu Á). Sau trận thua, các cổ động viên đội chủ nhà bất mãn đã gây náo loạn ở sân vận động Công nhân và phải cần đến Cảnh sát Vũ trang Nhân dân để lập lại trật tự. Trận đấu là một trong những lần đối đầu đáng chú ý nhất giữa đội tuyển bóng đá quốc gia Trung Quốc và Hồng Kông trong lịch sử. Trung Quốc là á quân của Cúp bóng đá châu Á 1984 và được kỳ vọng là đội tuyển mạnh nhất ở Vòng loại châu Á – Khu vực B của Giải vô địch bóng đá thế giới 1986. Trung Quốc và Hồng Kông trước đó đã gặp nhau trong trận lượt đi trên sân vận động Chính phủ (nay là sân vận động Hồng Kông) tại quận Loan Tể, Hồng Kông khi hai đội hòa nhau không bàn thắng. Họ cùng bước vào trận tái đấu ở lượt trận cuối cùng với số điểm ngang bằng nhau, tuy nhiên, Trung Quốc nắm lợi thế về hiệu số bàn thắng bại do có được chiến thắng đậm hơn khi đối đầu với hai đội còn lại của bảng đấu là Brunei và Ma Cao. Vì vậy, để đi tiếp vào vòng tiếp theo, Hồng Kông sẽ cần phải có một chiến thắng ngay trên sân vận động Công nhân tại thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc, một điều khó lòng có thể xảy ra. Tình hình bảng đấu trước trận đấu. Sau ngày 12 tháng 5 năm 1985, thứ hạng các đội ở bảng 4A như sau: "Trung Quốc cần ít nhất kết quả hòa để giành quyền vào vòng hai." "Hồng Kông buộc phải có kết quả thắng để giành quyền vào vòng hai." Diễn biến trận đấu. Trong bầu không khí ồn ào được tạo ra từ 80.000 người hâm mộ tại sân vận động Công nhân ở Bắc Kinh, đội tuyển Trung Quốc bắt đầu trận đấu với thế trận tấn công, quyết tâm giành chiến thắng thay vì chỉ một kết quả hòa nhằm củng cố vị trí nhất bảng để vượt qua vòng loại thứ nhất. Tuy nhiên, trong khi đội chủ nhà đang tỏ ra bế tắc trong quãng thời gian đầu trận thì chính các vị khách Hồng Kông mới là những người tung ra đòn phủ đầu bất ngờ đầu tiên ở phút 19. Trong một quả đá phạt trực tiếp, tiền vệ Hồ Quốc Hùng lén lút đưa bóng về phía sau cho tuyến hai, nơi mà hậu vệ Trương Chí Đức đã đợi sẵn để đón đường chuyền và tung ra cú sút "sấm sét" từ ngoài vòng cấm đưa bóng găm thẳng vào góc trên khung thành, hạ gục thủ môn Lạc Kiến Nhân bên phía chủ nhà, mở tỉ số 1–0 cho đội khách. Không nản lòng sau khi phải nhận bàn thua sớm, Trung Quốc gia tăng áp lực và có bàn gỡ hòa 12 phút sau đó khi tiền đạo Lý Huy lập công trong một pha phản công xuất phát từ một tình huống phát động tấn công không tốt của thủ môn Trần Vân Nhạc của Hồng Kông. Tuy nhiên, các cầu thủ Trung Quốc bất ngờ tiếp tục dồn lên ép sân trong hiệp hai, mở ra nhiều cơ hội tấn công hơn cho Hồng Kông khi hầu hết nhân sự của Trung Quốc đều đã ở bên phía phần sân đội khách, để lại một khoảng sân nhà mênh mông không có ai án ngữ, đỉnh điểm của sự kịch tính xảy ra khi trung vệ Cố Cẩm Huy ghi bàn từ một cú sút bồi để đưa Hồng Kông một lần nữa vượt lên dẫn trước sau 60 phút bóng lăn. Trong nửa giờ thi đấu cuối cùng, Trung Quốc đã tung ra rất nhiều cú sút trúng đích trong nỗ lực tìm kiếm bàn gỡ hòa trong tuyệt vọng, nhưng bàn thắng đã không bao giờ đến dù chỉ một lần và Hồng Kông rời sân với chiến thắng lịch sử 2–1. Tình hình bảng đấu sau trận đấu. "Hồng Kông tiến vào vòng loại thứ hai – Khu vực B." Tại vòng loại thứ hai – Khu vực B (bán kết Vòng loại châu Á), Hồng Kông tiếp tục phải đối mặt với một đối thủ nặng ký khác là Nhật Bản trong cặp trận hai lượt đi-về. Họ nhanh chóng để thủng lưới sớm hai bàn trong trận lượt đi trên đất Nhật Bản ngay từ đầu hiệp một, sau đó tiếp tục thua thêm một bàn nữa trong hiệp hai, cuối cùng chịu thất thủ với tỉ số 0–3. Hồng Kông đã thi đấu tốt hơn trong trận lượt về trên sân nhà, nhưng lại đá hỏng một quả phạt đền và thua sát nút 1–2. Qua đó Nhật Bản tiến vào vòng chung kết "–" Khu vực B, khi chiến thắng với tổng tỉ số cách biệt là 5–1 sau hai lượt trận.#đổi v #đổi Đối với Trung Quốc, kết quả này lại là một thất bại đáng thất vọng khác trong nỗ lực giành quyền tham dự vòng chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên của họ. Trước đó ở vòng loại cho giải đấu năm 1982, Trung Quốc đã thua New Zealand cũng với tỉ số 1–2 trong trận play-off của vòng loại châu Á và châu Đại Dương để tìm ra đại diện thứ hai và cũng là cuối cùng của khu vực này (cùng với Kuwait) giành quyền đến Tây Ban Nha tham dự vòng chung kết. Phải đến tận giải đấu năm 2002, Trung Quốc mới có thể đủ điều kiện tham dự "ngày hội bóng đá lớn nhất hành tinh" lần đầu tiên của mình, một phần cũng là do họ không cần phải cạnh tranh với hai người hàng xóm là Hàn Quốc và Nhật Bản ở vòng loại châu Á để tìm kiếm tấm vé do hai đội này đã được đặc cách thẳng vào vòng chung kết với tư cách là hai nước đồng chủ nhà của giải đấu. Sự cố bạo loạn. Trận đấu này còn dẫn tới "vụ bạo loạn bóng đá đầu tiên trong lịch sử nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa". Trong khi đội tuyển Hồng Kông nhận được sự chào đón như những người hùng ở sân bay Khải Đức khi họ trở về, thì những người hâm mộ Trung Quốc đại lục bất mãn đã gây ra một cuộc bạo loạn cả trong và xung quanh sân vận động Công nhân sau khi trận đấu khép lại, Lực lượng Cảnh sát Vũ trang Nhân dân Trung Quốc cũng đã được huy động để lập lại trật tự. Tổng cộng có 127 người đã bị bắt. Tằng Tuyết Lân, huấn luyện viên đội tuyển Trung Quốc và Lý Phượng Lâu, chủ tịch Hiệp hội bóng đá Trung Quốc đều đã từ chức sau vụ việc.
Premana Wardayanti Premadi (sinh ngày 13 tháng 7 năm 1964) là một nhà thiên văn học người Indonesia, là giáo sư tại Viện Công nghệ Bandung. Bà là người đứng đầu Đài quan sát Bosscha từ năm 2018. Đầu đời và học vấn. Premadi sinh ra ở Surabaya, Đông Java vào ngày 13 tháng 7 năm 1964. Cha bà là một bác sĩ phẫu thuật còn mẹ là y tá. Bà học tiểu học một thời gian ngắn ở Palembang trước khi tiếp tục học ở Jakarta. Trong một cuộc phỏng vấn, Premadi chia sẻ rằng nguồn cảm hứng nghiên cứu thiên văn học của bà bắt nguồn từ các giáo viên trung học và từ những hình ảnh của chương trình Voyager. Bà đạt bằng cử nhân thiên văn học từ Viện Công nghệ Bandung (ITB) năm 1988, sau đó nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Texas ở Austin năm 1996. Bà là người phụ nữ Indonesia đầu tiên nhận bằng tiến sĩ vật lý thiên văn. Theo Premadi, bà là người phụ nữ và người châu Á duy nhất theo học vật lý thiên văn ở Austin vào thời điểm đó. Luận án của Premadi mang tên, "The Study of Light Propagation in Inhomogeneous Universes Using the Gravitational Lensing Method". Richard Matzner là người hướng dẫn luận án của Premadi và Hugo Martel là cố vấn. Bà được Cécile DeWitt-Morette giới thiệu với Matzner. Sau khi hoàn thành bằng tiến sĩ ở Texas, bà quay về Indonesia và bắt đầu giảng dạy thiên văn học tại ITB. Bà giúp phát triển chương trình giảng dạy về thiên văn học ở trường này. Bà là người đứng đầu Đài quan sát Bosscha ở Lembang, Tây Java vào năm 2018. Dưới sự lãnh đạo của Premana, đài quan sát tập trung vào quan sát mặt trời do thiếu trang thiết bị. Bà còn tham gia xây dựng Đài thiên văn Timau ở Timor. Bà còn hoạt động tiếp cận khoa học, sáng lập chi nhánh Nhận thức Vũ trụ của Indonesia vào năm 2007 để dạy thiên văn học cho trẻ nhỏ và chủ tịch tổ chức đến năm 2013. Premadi là chủ tịch Hiệp hội Thiên văn Indonesia từ năm 2001 đến năm 2010. Bà được bổ nhiệm làm giáo sư về tiến hóa cấu trúc vũ trụ tại ITB vào tháng 8 năm 2023. Bà kết hôn với Yudi Soeharyadi, giảng viên toán học tại ITB. Năm 2010, Premadi được chẩn đoán mắc bệnh xơ cứng. Bà sau đó thành lập Quỹ ALS Indonesia giữ chức chủ tịch tổ chức này. Vành đai tiểu hành tinh 12937 Premadi, do C. J. van Houten phát hiện vào năm 1960, được đặt theo tên bà vào năm 2017. Bà là nhà thiên văn học nữ đầu tiên ở Indonesia được đặt tên cho một tiểu hành tinh. Bà được trao học bổng danh dự của Hội Thiên văn Hoàng gia vào năm 2023.
Odontanthias flagris là một loài cá biển thuộc chi "Odontanthias" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1975. Từ định danh "flagris" trong tiếng Latinh nghĩa là "roi da", hàm ý đề cập đến gai vây lưng thứ ba vươn rất dài ở loài cá này. "O. flagris" được biết đến ở ngoài khơi đảo Okinawa và quần đảo Ogasawara (Nhật Bản), sau này được ghi nhận thêm ở phía nam Sulawesi. Loài này được thu thập ở độ sâu đến ít nhất là 200 m. Chiều dài chuẩn (SL: "standard length") lớn nhất được ghi nhận ở "O. flagris" là 20 cm. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 17–18; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 40–46.
Chặng đua MotoGP Catalunya 2023 Chặng đua MotoGP Catalunya 2023 là chặng đua thứ 11 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 01/09/2023 đến ngày 03/09/2023 ở trường đua Barcelona Catalunya, Tây Ban Nha. Tay đua Aleix Espargaro của đội đua Aprilia đã giành chiến thắng cả hai cuộc đua Sprint race và đua chính của thể thức MotoGP. Trong khi đó Francesco Bagnaia gặp tai nạn ở cuộc đua chính lần 1, không tham gia cuộc đua chính lần 2 vẫn giữ được ngôi đầu bảng tổng sắp với 260 điểm. Kết quả đua chính thể thức MotoGP. Cuộc đua chính lần 1 có cờ đỏ ở vòng đua đầu tiên. Hai tay đua của đội Ducati Corse là Enea Bastianini và Francesco Bagnaia không tham gia cuộc đua chính lần 2.
Thọ giới (chữ Hán: 受戒; chữ Nhật: "Jukai"/受戒; "thọ khai"; chữ Triều Tiên: "Sugye"/수계) là nghi lễ thụ phong khi xuất gia hay quy y, trong đó một người cư sĩ (Upāsaka hay Upāsikā) phái Phật giáo Thiền tông sẽ thụ nhận giới luật Phật giáo, sau khi "Thọ giới"/"quy y" thì họ sẽ được ban một pháp danh. Các nghi thức của lễ thọ giới rất khác nhau tùy theo quốc gia và trường phái Phật giáo. Ở Trung Quốc, nghi lễ này được gọi là "Thọ giới" ("Shòu-jiè"/受戒). Trong đó chữ "Thọ" hay "Thụ" (受) có nghĩa là ""nhận", trong khi chữ "Giới" (戒) có nghĩa là "giới luật", khi gộp lại với nhau, thì chữ Thọ giới được gọi là "thụ phong". Nhiều người tin vào Phật giáo nhưng không trải qua bất kỳ nghi lễ nhập môn nào, những Phật tử như vậy chiếm đại đa số, chỉ một bộ phận nhỏ Phật tử đã trải qua nghi lễ quy y Tam Bảo để những người thọ giới sẽ trở thành Upāsaka và Upāsikā (Tỳ Kheo và Tỷ Kheo ni) và chấp nhận năm giới luật ("Ngũ giới"), họ chính là những Phật tử chính thức. Lewis Hodous, trong cuốn sách "Phật giáo và Phật tử ở Trung Quốc" xuất bản năm 1920 của ông cũng nhận xét về nghi lễ của Trung Quốc, sau khi ghi lại nghi lễ nhập môn cho cả những người bước vào đời sống xuất gia và cư sĩ: "Việc nhập môn ít riêng tư hơn, các anh chị em phật tử, được khắc nhẹ hơn trên cổ tay phải, trong khi tất cả đều có âm điệu Nam mô Bổ sư Thích Ca Mâu Ni Phật (Námó Běnshī Shìjiāmóunífó/Na-mah Pen-shih Shih-chia-mou-ni Fo/南無本師釋迦牟尼佛)". Trong trường phái Sōtō ở Hoa Kỳ, các cư sĩ quy y Tam Bảo (hay Tam quy y—Phật, Pháp và Tăng), Tam giới Tịnh độ và Ngũ Giới. Trong trường phái Rinzai thì môn sinh quy y Tam Bảo (hoặc Tam Quy) và, tương tự như các thực hành của Trung Quốc và Hàn Quốc bắt nguồn từ Ấn Độ, họ sẽ thọ nhận Ngũ giới dành cho cư sĩ. Ở Mỹ, trong "Tăng đoàn Kim Cang" ("Diamond Sangha") thì Thọ giới hay "Jukai" hay Nghi lễ nhập môn Phật giáo ("Buddhist initiation ritual") được "thực hành phổ biến"" mặc dù một số thành viên không bao giờ trải qua buổi lễ vì họ là thành viên của một tôn giáo khác cấm những lễ điểm đạo như vậy. Do đó, một số người sẽ nói, theo định nghĩa này thì họ không phải là Phật tử.
Odontanthias elizabethae là một loài cá biển thuộc chi "Odontanthias" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1923. Từ định danh "elizabethae" được đặt theo tên gọi của Elizabeth, vợ của tác giả Fowler, vì sự hỗ trợ của bà trong quá trình nghiên cứu về cá Hawaii của ông. "O. elizabethae" là loài đặc hữu của quần đảo Hawaii và cả đảo Johnston không xa đó. "O. elizabethae" thường xuất hiện trên nền đáy cứng có hang hốc, được tìm thấy trong khoảng độ sâu 107–291 m. Chiều dài chuẩn (SL: "standard length") lớn nhất được ghi nhận ở "O. elizabethae" là 11 cm. Cá có màu nâu ở phần thân sau (giữa phần mềm của vây lưng và vây hậu môn), cuống đuôi có dải trắng bao quanh. Vây bụng có các tia sợi vươn dài. "O. elizabethae" cũng là loài duy nhất trong chi có hai thùy đuôi rất dài với các tia sợi. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 16–17; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số vảy đường bên: 38–42; Số lược mang: 44–47.
Gabriel Silva Moscardo de Salles, sinh ngày 28 tháng 9 năm 2005, được biết đến với nghệ danh Gabriel Moscardo, là một cầu thủ bóng đá người Brazil, đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cho đội bóng Corinthians. Sự nghiệp câu lạc bộ. Sinh ra tại Taubaté, Moscardo bắt đầu sự nghiệp bóng đá tại Atleta Cidadão vào năm 2015 và gia nhập đội trẻ của Corinthians vào năm 2017. Anh có trận ra mắt đội một vào ngày 28 tháng 6 năm 2023, khi thay thế Giuliano trong hiệp hai trong trận đấu đối đầu với Liverpool, nơi Corinthians giành chiến thắng 3-0 trong khuôn khổ Copa Libertadores năm đó. Moscardo cũng trải qua trận ra mắt ở giải Série A cùng với việc đá chính lần đầu tiên cho đội một vào ngày 2 tháng 7 năm 2023, trong trận thua 0-1 trước Red Bull Bragantino trên sân nhà. Sự nghiệp quốc tế. Vào tháng 9 năm 2023, Moscardo được triệu tập vào U23 Brazil để thi đấu một số trận giao hữu.
Thuyết thông linh hay còn gọi là học thuyết Thông linh luận (tiếng Anh: "Spiritism"; tiếng Pháp: "Spiritisme"; tiếng Bồ Đào Nha: "Espiritismo") là một học thuyết luân hồi tái sinh được hình thành ở Pháp vào giữa thế kỷ XIX do nhà giáo Allan Kardec với bút danh "Hippolyte Léon Denizard Rivail" sáng lập nên. Thuyết thông linh giải thích từ góc độ Cơ Đốc giáo về chu kỳ mà một linh hồn được cho là quay trở lại tồn tại vật chất sau cái chết sinh học của cơ thể trước đây mà linh hồn này cư trú, cũng như quá trình tiến hóa mà linh hồn trải qua trong quá trình này. Khái niệm linh hồn bất tử này cũng tương tác với các quan niệm triết học và khoa học về mối quan hệ giữa vật chất và đạo đức. Thuyết thông linh nổi lên như một phong trào tôn giáo mới xuất phát từ Thuyết duy linh ("Spiritualism") khi những quan niệm và thực hành liên quan đến giao tiếp tâm linh đã phổ biến khắp Bắc Mỹ và Châu Âu kể từ những năm 1850. Các khái niệm và thuật ngữ đáng chú ý trong thuyết thông linh có thể kể đến như: Các hiện tượng siêu linh ("Psychic phenomena"), Thị kiến thông linh ("Spiristic visions") là hiện tượng tự thấy khải tượng siêu nhiên ở một số người, nói trong lúc xuất hồn ("Excursions of the spyche"), Thuật hiện biến ("Materializations"), Cơ ly ("Tumbler moving"). Ngày nay, để truyền bá giáo điều thì những tín nhân thuyết Thông linh còn thiết lập những Trung tâm thông linh ("Spiritist centre") hay còn gọi là Hiệp hội thông linh ("Spiritist society") là đơn vị tổ chức cơ bản của những tín nhân Thuyết thông linh. Allan Kardec đề ra thuật ngữ "thuyết thông linh" hay "thông linh luận" vào năm 1857 và định nghĩa nó là "học thuyết dựa trên sự tồn tại, biểu hiện và lời dạy của các linh hồn". Mặc dù không được công nhận là một khoa học nhưng Kardec tuyên bố rằng thuyết thông linh kết hợp các khía cạnh khoa học, triết học và tôn giáo nhằm kiếm tìm sự hiểu biết tốt hơn không chỉ về vũ trụ hữu hình mà còn về vũ trụ vượt ra ngoài sự siêu việt. Học thuyết này dựa trên năm tác phẩm cơ bản, được gọi là "Bộ luật thông linh", được Allan xuất bản từ năm 1857 đến năm 1868. Bộ sách này bao gồm "Sách của các linh hồn" (The Spirits' Book), "Sách của đồng cốt" ("The Mediums' Book"), "Phúc âm theo thuyết thông linh" ("The Gospel According to Spiritism"), sách "Thiên đường và địa ngục", và sách "Sáng thế ký" . Ngoài ra, còn có những tác phẩm được gọi là bổ sung chẳng hạn như "Thuyết thông linh là gì"? ("What is Spiritism?"), "Tạp chí thông linh học" ("Spiritist Review") và "Tác phẩm di cảo" ("Posthumous Works"). Những tín nhân coi thuyết thông linh là một học thuyết tập trung vào việc cải thiện đạo đức của con người và tin vào sự tồn tại của một vị thần duy nhất, khả năng giao tiếp hữu ích với các linh hồn thông qua các phương tiện và sự tái sinh như một quá trình phát triển tâm linh và công lý thiêng liêng. Theo "Hội đồng Thông linh Quốc tế" ("International Spiritist Council") thì thuyết thông linh có mặt ở 36 quốc gia, với hơn 13 triệu người theo dõi trên toàn thế giới phổ biến nhất ở Brazil, nơi nó có khoảng 3,8 triệu người theo dõi theo dữ liệu từ Viện Địa lý và Thống kê Brazil ("Brazilian Institute of Geography and Statistics"), và hơn 30 triệu người đồng tình về học thuyết này, theo "Liên đoàn Tinh thần Brazil" ("Brazilian Spiritist Federation"). Các nhà thông linh cũng được biết đến vì có ảnh hưởng và thúc đẩy phong trào trợ giúp xã hội và từ thiện. Học thuyết này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều dòng tôn giáo khác, chẳng hạn như Santería, Umbanda và các phong trào thời đại mới (New Age). Theo Joseph McCabe, trích dẫn tuyên bố của Arthur Conan Doyle về việc các nhà khoa học xác nhận các hiện tượng tâm linh được cho là trong 30 năm, các phương tiện truyền thông đã đánh lừa các nhà nghiên cứu, ông cho rằng những sự lừa dối này đã dẫn đến ngôn ngữ kiêu ngạo của văn học tâm linh. Luận thuyết chính của thông linh luận là các linh hồn bất tử luân chuyển từ cơ thể này sang cơ thể khác trong nhiều kiếp để cải thiện bản thân về mặt đạo đức và trí tuệ. Nhưng khác với sự luân hồi, thì theo Thông linh học thì các linh hồn không thể quay trở lại dưới dạng động vật hoặc bất kỳ dạng sống thấp hơn nào. Sự luân chuyển của linh hồn luôn hướng về phía trước, và linh hồn luôn hiện diện trong cơ thể con người. Những tín nhân theo thuyết thông linh tin rằng điều này giải thích sự khác biệt về tính khí và trí tuệ ở con người. Thuyết thông linh cũng phán rằng các linh hồn quái gở có thể có những tác động nhân từ hoặc ác tâm đối với người sống và con người có thể giao tiếp với các linh hồn thông qua những buổi lễ cầu hồn hay buổi gọi hồn.
Quân đoàn 12, Quân đội nhân dân Việt Nam Quân đoàn 12 là một quân đoàn chủ lực cơ động, trực thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam. Đây là đơn vị cấp quân đoàn đầu tiên được tổ chức lại của Quân đội nhân dân Việt Nam trên cơ sở hợp nhất hai Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2, được thành lập ngày 21 tháng 11 năm 2023 tại Ninh Bình. Quá trình phát triển. Ngày 21 tháng 11 năm 2023, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký quyết định số 6012/QĐ-BQP về việc thành lập Quân đoàn 12. Ngày 28/11/2023, tại Thành phố Tam Điệp (Ninh Bình), Đảng ủy Quân đoàn 12 tổ chức họp phiên thứ nhất và công bố quyết định của Quân ủy Trung ương về việc thành lập Đảng bộ Quân đoàn 12 nhiệm kỳ 2020-2025. Ngày 29/11/2023, tại Ninh Bình, Bộ Quốc phòng tổ chức hội nghị tiếp nhận nguyên trạng các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 và Phân viện 5 (Bệnh viện 7, Quân khu 3) về Quân đoàn 12. Sáng ngày 2/12/2023, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Quân đoàn 12 tổ chức Lễ công bố Quyết định thành lập Quân đoàn. Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng dự và phát biểu chỉ đạo. Quân đoàn 12 là Quân đoàn đầu tiên của Việt Nam được tổ chức theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại. Quy mô, tổ chức, lực lượng của Quân đoàn 12 sẽ lớn hơn; chức năng, nhiệm vụ nặng nề hơn; được trang bị nhiều loại vũ khí, phương tiện mới, hiện đại hơn với phuơng pháp bố trí mới. Quân đoàn phải đảm nhận nhiệm vụ mở các chiến dịch có quy mô vừa, và sẵn sàng đánh bại mọi hình thái tác chiến mới của địch trong tương lai. [[Thể loại:Quân đoàn 12, Quân đội nhân dân Việt Nam|*]] [[Thể loại:Quân đoàn của Quân đội nhân dân Việt Nam]] [[Thể loại:Đơn vị quân sự thành lập năm 2023]]
Thuyết xuyên hồn ("Dianetics", tiếng Hy Lạp: "dia" có nghĩa là ""xuyên qua"/"thấu suốt" và "nous", nghĩa là "tâm trí""/"linh hồn"/"tinh thần") là một tập hợp các luận thuyết ngụy khoa học ("Pseudoscience") về những ý tưởng và thực tiễn liên quan đến mối quan hệ siêu hình giữa tâm trí và cơ thể được hững nhà văn khoa học viễn tưởng và người sáng lập Khoa luận giáo ("Scientology") là L. Ron Hubbard sáng tác ra. Thuyết xuyên hồn này được lưu truyền thông qua những người theo Khoa luận giáo và Quốc gia Hồi giáo (tính đến năm 2010). Mặc dù nó được trình bày như một hình thức điều trị tâm lý, nhưng thuyết xuyên hồn và các khái niệm cốt lõi của nó đã bị các nhà tâm lý học và các nhà khoa học khác bác bỏ ngay từ đầu vì không được hỗ trợ từ những bằng chứng đáng tin cậy. Giáo thuyết này cho rằng sẽ giúp con người hiểu được thể linh hồn chính mình và đó là một phương pháp giúp con người có thể giảm nhẹ những cảm giác và cảm xúc, nỗi sợ hãi (xuyên qua nỗi sợ) và trạng thái căng thẳng tâm thần. Theo diễn nghĩa của Khoa luận giáo thì nó sẽ giúp người ta thấu suốt xuyên qua linh hồn. Thuyết xuyên hồn chia tâm trí thành ba phần: ""tâm trí phân tích" có ý thức, "tâm trí phản ứng" tiềm thức và tâm trí somatic. Mục tiêu của Thuyết xuyên hồn là xóa bỏ nội dung của "tâm trí phản ứng", thứ mà các học viên tin rằng có thể cản trở đạo đức, nhận thức, hạnh phúc và sự tỉnh táo của một người. Quy trình xuyên qua để đạt được sự xóa bỏ này được gọi là "kiểm toán". Trong quá trình kiểm toán thì kiểm toán viên khoa luận giáo sẽ hỏi một loạt câu hỏi (hoặc mệnh lệnh) nhằm giúp một người xác định và giải quyết những trải nghiệm đau đớn trong quá khứ. Những người thực hành thuyết xuyên hồn của Khoa luận giáo tin rằng "nguyên tắc cơ bản của sự tồn tại là để tồn tại"" và tính cách cơ bản của con người là chân thành, thông minh và tốt bụng. Động lực hướng tới sự tốt đẹp và sinh tồn bị bóp méo và ức chế bởi những sai lầm. Hubbard đề xuất mô hình này và sau đó phát triển thuyết xuyên hồn với tuyên bố rằng nó có thể loại bỏ những quang sai này. Khi Hubbard xây dựng luận thuyết xuyên hồn, ông ta mô tả nó là "sự kết hợp giữa công nghệ phương Tây và triết học phương Đông". Hubbard tuyên bố rằng thuyết xuyên hồn có thể tăng cường trí thông minh, loại bỏ những cảm xúc không mong muốn và làm giảm bớt nhiều loại bệnh lý mà ông cho là tâm thần. Trong số các tình trạng được cho là được điều trị có chủ đích là viêm khớp, dị ứng, hen suyễn, một số vấn đề về mạch vành, bệnh về mắt, lở loét, đau nửa đầu, lệch lạc tình dục (đối với Hubbard nó bao gồm cả đồng tính luyến ái), và thậm chí cả tử vong. Hubbard ban đầu mô tả thuyết xuyên hồn như một nhánh của tâm lý học. Jon Atack cho rằng các kỹ thuật "Thuyết xuyên hồn" ban đầu có thể bắt nguồn gần như hoàn toàn từ các bài giảng của Sigmund Freud:374. Ông Hubbard đã thành lập ""Quỹ Freud Hoa Kỳ" ("Freudian Foundation of America") và cấp chứng chỉ kiểm toán viên sau đại học, trong đó có chứng chỉ "Nhà phân tâm học Freud"" ("Freudian Psychoanalyst"). Hubbard cũng bị ảnh hưởng trong việc hình thành nên Thuyết xuyên hồn từ nhiều nhà tâm lý học chẳng hạn như công trình của William Sargant, Carl Jung, Roy Grinker, John Spiegel, Nandor Fodor, Otto Rank và những người khác:109.
Bầu cử Hạ nghị viện Việt Nam Cộng hòa 1971 Bầu cử Hạ nghị viện được tổ chức tại Việt Nam Cộng hòa vào ngày 29 tháng 8 năm 1971. Chỉ có một số ứng cử viên có liên kết với các chính đảng. Đây là cuộc bầu cử cuối cùng được tổ chức ở miền Nam Việt Nam, khi chính phủ Việt Nam Cộng hòa bị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lật đổ năm 1975 và thống nhất với miền Bắc vào năm 1976. Hệ thống bầu cử. Để bầu các dân biểu Hạ nghị viện, mỗi tỉnh, thành phố đóng vai trò là khu vực bầu cử, ngoại trừ thủ đô Sài Gòn được chia thành 3 khu vực bầu cử và tỉnh Gia Định được chia thành 2 khu vực bầu cử. Cử tri có số phiếu bầu bằng số ghế cần lấp đầy. Ở các khu vực bầu cử một thành viên thì áp dụng chế độ bầu cử theo đa số: riêng những khu vực bầu cử có nhiều hơn một ghế cần được bầu thì áp dụng chế độ bầu cử theo đa số phi chuyển nhượng. Tỷ lệ cử tri đi bầu là 78,5%, với 5.567.446 trong số 7.085.943 cử tri đã đăng ký bỏ phiếu. Thành viên được bầu theo tỉnh. Vì cử tri ở các khu vực bầu nhiều hơn một thành viên có nhiều hơn một phiếu bầu nên tỷ lệ phần trăm có thể không lên tới 100%.
Manna (tiếng Do Thái: מָן/ mān, có nghĩa là “"cái gì đó"”, tiếng Hy Lạp: μάννα, tiếng Ả rập: اَلْمَنُّ, đôi khi gọi là Mana) theo Kinh thánh là một thứ có thể ăn được mà Đức Chúa Trời đã ban phát cho người Do Thái trong chuyến hành trình của họ trên sa mạc trong khoảng thời gian 40 năm sau Cuộc Xuất Hành và trước cuộc chinh phục Ca-na-an. Thứ thức ăn Manna cũng được đề cập trong Kinh Qur'an đến ba lần. Nhiều mô tả nó có hình dáng giống bdellium nói thêm rằng người Do Thái đã nghiền nó và giã thành bánh, sau đó nướng, tạo ra thứ gì đó có vị giống như bánh nướng với dầu. Sách Xuất hành (Exodus) nói rằng Manna thô có vị giống như bánh quế được làm bằng mật ong. Manna xuất hiện mỗi buổi sáng sau khi sương đã tan và nó phải được nhặt trước khi sức nóng của mặt trời khiến nó tan chảy, Đồ đó giống như giá đọng, trắng đục, mỏng manh và rời rạc nhưng đó không phải là giá đọng, đó là thức ăn. Dân Y-sơ-ra-ên được hướng dẫn chỉ ăn ma-na mà họ đã thu thập được mỗi ngày. Nếu đem trữ Ma-na thì nó sẽ sinh giòi và hôi thối. Chuyện kể rằng, sau khi rời khỏi đất Ai Cập, tiến vào sa mạc Sinai, những người dân Do Thái than trách với Mô-sê: “"Phải chi chúng tôi chết bởi tay Thiên Chúa trên đất Ai-cập, khi còn ngồi bên nồi thịt và ăn bánh thoả thuê. Giờ các ông đã đưa chúng tôi ra khỏi đó mà vào sa mạc khô cằn này để rồi sớm muộn sẽ phải chết đói ở đây".” Thiên Chúa nghe biết liền phán với ông Mô-sê: “"Ta sẽ làm cho bánh từ trời mưa xuống cho các ngươi ăn. Dân sẽ ra lượm lấy khẩu phần cho mình, ngày nào cho ngày đó; Ta muốn thử lòng chúng như vậy xem chúng có tuân theo Luật của Ta hay không. Riêng ngày thứ sáu, sẽ có gấp đôi phần cho chúng lượm mỗi ngày để ăn vào ngày thứ Bảy – ngày Sabbath – ngày nghỉ ngơi của Thiên Chúa".” Ông Mô-sê và ông A-ha-ron nói với những người dân Do Thái: “"Thiên Chúa sẽ cho chúng ta thức ăn, Người đã nghe thấy những lời anh em kêu trách"”. Chiều đến, chim cút đất bay đến rợp cả trại. Và buổi sáng thì có lớp sương phủ quanh trại. Đến khi sương tan, người ta phát hiện trên mặt đất một thứ gì nho nhỏ mịn màng như sương muối phủ mặt đất. Khi những người dân Do Thái thấy thế, họ liền hỏi nhau: “"Man hu"? ” Nghĩa là: “"Cái gì đây"?”. Manna phủ trắng trước trại của người Do Thái trong sa mạc Sinai. Bánh này có mùi vị giống bánh ngọt mỏng làm bằng mật ong. Ông Mô-sê bảo họ: “"Đó là bánh Thiên Chúa ban cho anh em làm đồ ăn"”. Ông Mô-sê cũng nói với họ: “"Đừng có ai để dành cho đến sáng mai"”. Một số người đã không nghe lời ông Mô-sê mà họ để dành cho đến sáng hôm sau, kết quả bánh đó đã có giòi bọ và xông ra mùi hôi thối. Bấy giờ ông Mô-sê nổi giận với họ vì họ không nghe lời Thiên Chúa. Sáng nào cũng vậy, mỗi người lượm tuỳ theo sức mình ăn được bao nhiêu. Và khi mặt trời toả sức nóng, thì nó tan ra. Những người dân Do Thái đặt tên cho vật ấy là Man-na. Nó giống như hạt ngò, màu trắng và mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong. Tuy nhiên có một ngày trong tuần thì Đức Giê-hô-va dặn dân sự phải nhặt bánh ma-na nhiều gấp đôi. Đó là ngày thứ sáu. Và Đức Giê-hô-va dặn để dành một phần bánh ấy qua ngày hôm sau, vì Ngài sẽ không khiến cho bánh ấy rơi xuống ngày thứ bảy. Khi để dành bánh ma-na qua ngày thứ bảy, bánh không có giòi và không hôi thối. Con dân Israel đã ăn man-na suốt bốn mươi năm, cho đến khi họ tới miền đất hứa, họ đã ăn man-na cho đến khi tới ranh giới đất Ca-na-an. Những người hoài nghi đã cố gắng giải thích Manna như một chất tự nhiên, chẳng hạn như một loại nhựa bị côn trùng bỏ thừa lại hoặc một sản phẩm của cây Tamarisk. Tuy nhiên, chất Tamarisk chỉ xuất hiện vào tháng 6 và tháng 7 và không làm hỏng đêm. Một số người tin rằng Zohar là một tập hợp các bình luận tinh thần và giải thích của Torah và là trung tâm của niềm tin Kabbalah huyền bí được viết vào thế kỷ XIII có thể cung cấp thêm chi tiết về nguồn thực phẩm bí ẩn này. Trong Zohar, người ta tìm thấy mô tả về những gì được gọi là "Ancient of Days" cung cấp Manna dẫn đến suy đoán của những người không tin vào Thiên Chúa rằng đó có thể là một loại máy bằng cách nào đó sản xuất manna một nguồn thực phẩm bí ẩn mà vẫn chưa được xác định. Năm 1978, George Sassoon và Rodney Dale đã viết một cuốn sách dựa trên bản dịch của Zohar được gọi là “"The Ancient of Days"”. Trong cuốn sách, các tác giả kết luận rằng Manna được sản xuất từ một cỗ máy đã tạo ra thực phẩm từ tảo. Tuy nhiên, họ cũng kết luận rằng một lò phản ứng hạt nhân được sử dụng để cấp nguồn cho máy sản xuất Manna. Đây là điều không dễ thực hiện vì người Do Thái di rời rất gấp khỏi Ai Cập sau đó di chuyển liên tục trong sa mạc Sinai trong suốt 40 năm, họ không thể mang theo một thứ như thế. Nên những gì trong truyền thuyết vẫn khả thi hơn. Theo Sách của Daniel có tên Ancient of Days là tên của Đức Chúa Trời. Trong các bài thánh ca và biểu tượng Kitô giáo chính thống phía Đông, Ancient of Days đôi khi được xác định với Chúa Cha hoặc thỉnh thoảng là Chúa Thánh Thần. Theo ghi nhận của các nhà lý thuyết nhà du hành vũ trụ cổ đại thì Zohar mô tả các bộ não có kích thước khác nhau, các khuôn mặt có kích thước khác nhau được nối với các ống khác nhau và các nguồn ánh sáng khác nhau những thứ gợi ý rằng đây là mô tả về Thượng đế. Năng lực do Người xuất ra có thể dễ dàng tổng hợp, thay đổi cấu trúc phân tử các các hợp chất hữu cơ, các nguyên tố như Hydro, Oxy, Carbon, Nitơ vốn dĩ tràn ngập trong tự nhiên, bao hàm cả không khí thành thức ăn.
Văn hóa châu Âu Văn hóa châu Âu ("Culture of Europe") hay Văn hóa Âu châu rất đa dạng, có bề bày và bắt nguồn từ nghệ thuật, hội họa, kiến trúc, truyền thống, ẩm thực, âm nhạc, văn hóa dân gian, nghề thêu, phim ảnh, văn học, kinh tế, triết học và phong tục tôn giáo ở châu Âu (châu Âu lục địa và quần đảo Anh). Văn hóa châu Âu đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nên văn hóa khác (đặc biệt là ở châu Mỹ và châu Á) cũng như văn hóa đương đại ngày nay. Những giá trị của văn hóa châu Âu cũng như sự vượt trội của văn minh phương Tây đã hình thành nên cái gọi là Âu tâm luận ("Chủ nghĩa trọng Âu") ăn sâu vào tâm thức của nhiều người dân châu lục khác từ thời thuộc địa vốn có tâm lý sùng bái phương Tây. Mặc dù có rất nhiều quan điểm có thể được đưa ra về chủ đề này, nhưng không thể hình thành một khái niệm duy nhất, bao quát về văn hóa châu Âu Tuy nhiên, có những yếu tố cốt lõi được mọi người nhất trí chung là hình thành nên nền tảng văn hóa của châu Âu hiện đại. Một danh sách các yếu tố này được đưa ra K. Bochmann đưa ra và Berting nói rằng những điểm này phù hợp với "những nhận thức tích cực nhất của Châu Âu". Các yếu tố này bao gồm: Khái niệm văn hóa châu Âu được cho là có liên quan đến định nghĩa cổ điển về thế giới phương Tây. Theo định nghĩa này, văn hóa phương Tây là tập hợp của văn học phương Tây, khoa học, chính trị hiện đại, nghệ thuật châu Âu và Triết học châu Âu khiến nó khác biệt với các nền văn minh khác. Phần lớn tập hợp truyền thống và kiến thức này được xếp trong Phương Tây cổ điển. Thuật ngữ này đã được áp dụng cho các quốc gia có lịch sử được ghi dấu đậm nét từ sự xâm chiếm, nhập cư hoặc định cư của người châu Âu trong thế kỷ XVIII và XIX, chẳng hạn như Châu Mỹ (đặc biệt là Bắc Mỹ) và Châu Úc, và không bị giới hạn ở Châu Âu. Văn hóa châu Âu đôi khi cũng lẫn lộn với Văn minh phương Tây. Khái niệm sớm nhất về châu Âu như một phạm vi văn hóa (thay vì chỉ đơn giản là một thuật ngữ địa lý) được Alcuin xứ York đề ra trong Phục hưng Carolingian vào thế kỷ thứ IX, giới hạn ở các lãnh thổ của Kitô giáo phương Tây. Châu Âu ở đây như một thuật ngữ văn hóa không bao gồm các vùng lãnh thổ nơi "Giáo hội Chính thống" đại diện cho tôn giáo thống trị cho đến thế kỷ XIX. Cơ đốc giáo là tôn giáo lớn nhất ở Châu Âu với 76,2% dân số Châu Âu tự coi mình là Cơ đốc nhân vào năm 2010. Nga là quốc gia Cơ đốc giáo lớn nhất ở châu Âu tính theo dân số, tiếp theo là Đức và Ý. Ẩm thực châu Âu hay cụ thể hơn là ẩm thực "lục địa", được sử dụng để nói rõ hơn về ẩm thực của các phần phía tây của lục địa châu Âu. Bản thân ẩm thực của các nước châu Âu rất đa dạng, phong phú cũng như đầy sự tinh tế, mặc dù có những đặc điểm chung giúp phân biệt ẩm thực châu Âu với ẩm thực châu Á và các quốc gia khác, chẵng hạn so với cách nấu ăn truyền thống của các nước châu Á thì món thịt nổi bật hơn và có khẩu phần lớn hơn. Chế phẩm sữa thường được sử dụng trong quá trình nấu nướng. Bột mì, bánh mì từ lâu đã là nguồn cung cấp tinh bột phổ biến nhất của bữa ăn trong nền ẩm thực này, mặc dù khoai tây từ thế kỷ XVI đã trở thành một loại cây cung cấp tinh bột chính trong chế độ ăn uống của người châu Âu và cộng đồng người hải ngoại.
Rãnh nền cầu não Rãnh nền cầu não (rãnh động mạch nền, tiếng Anh: "basilar sulcus") là một rãnh ở cầu não, một phần của thân não . Rãnh nền có hướng thẳng đứng và nằm ở đường giữa, mặt trước của cầu não. Động mạch nền chạy trong rãnh nền. Hai bên rãnh nền là chỗ lồi lên do các sợi từ não đến tủy đi xuống qua cầu não. "Bài viết này kết hợp văn bản trong phạm vi công cộng từ trang , sách Gray's Anatomy tái bản lần thứ 20 (1918)."
Tôn giáo ở Mỹ Latinh Tôn giáo ở Mỹ Latinh ("Religion in Latin America") được đặc trưng với ưu thế áp đảo của Giáo hội Công giáo trong suốt lịch sử và số lượng tín hữu cũng như ảnh hưởng ngày càng tăng của một số lượng lớn các nhóm tôn giáo thuộc Tin Lành, cũng như sự hiện diện của nhóm dân Phi tôn giáo. Theo số liệu khảo sát từ Statista năm 2020 thì 57% dân số Mỹ Latinh theo đạo Công giáo và 19% theo đạo Tin lành. Tín ngưỡng bản địa và các nghi lễ truyền thống vẫn được thực hành ở các quốc gia có tỷ lệ lớn người Mỹ bản địa (người da đỏ), chẳng hạn như Bolivia, Guatemala, Mexico và Peru. Các truyền thống nghi lễ khác nhau của người Mỹ Latinh gốc Phi như Santería, Candomblé, Umbanda, Macumba và Haiti Vodou cũng được thực hành, chủ yếu ở Cuba, Brazil và Haiti. Đất nước Argentina có cộng đồng người Do Thái theo Do Thái giáo lớn nhất (khoảng 180.000-300.000 tín hữu) và cộng đồng Hồi giáo (khoảng 500.000-600.000 tín hữu). Ở Mỹ Latinh thì Brazil là quốc gia có nhiều học viên theo Thuyết thông linh của Allan Kardec]. Những người theo Do Thái giáo, Mặc Môn giáo, Nhân chứng Giê-hô-va, Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo ở Nam Mỹ, Tín ngưỡng Bahá'í và Thần đạo cũng có mặt ở Châu Mỹ Latinh. Phần lớn người Mỹ Latinh là Kitô hữu (90%), chủ yếu là Giáo hội Công giáo La Mã Vương cung thánh đường Quốc gia Đức Mẹ Aparecida ở Brazil là lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Nhà thờ Thánh Phêrô ở Thành phố Vatican. Số tín nhân là thành viên trong các giáo phái Tin lành đang gia tăng, đặc biệt là ở Brazil, Honduras, Guatemala, Nicaragua, El Salvador và Puerto Rico, Đặc biệt, Phong trào Ngũ tuần (Pentecostalism) đã có sự phát triển vượt bậc. Phong trào này ngày càng thu hút tầng lớp trung lưu ở Mỹ Latinh. Theo cuộc khảo sát chi tiết tại nhiều quốc gia của Trung tâm nghiên cứu Pew vào năm 2014, có đến 69% dân số Mỹ Latinh là người Công giáo và 19% là người theo đạo Tin lành, tỷ lệ này tăng lên 22% ở Brazil và hơn 40% ở phần lớn Trung Mỹ. Hơn một nửa trong số này là những người cải đạo. Theo khảo sát của Pew năm 2014, tổng số 46 quốc gia và vùng lãnh thổ của Châu Mỹ Latinh và Caribe bao gồm về mặt tuyệt đối với dân số Cơ đốc giáo lớn thứ hai thế giới (với tỷ lệ 24%; bao gồm Hoa Kỳ, Anh, Hà Lan và lãnh thổ thuộc Pháp), sau 50 quốc gia và vùng lãnh thổ của Châu Âu (26%, bao gồm Nga, ngoại trừ Thổ Nhĩ Kỳ), nhưng ngay trước 51 quốc gia và vùng lãnh thổ của Châu Phi cận Sahara (24%, bao gồm Mauritania, ngoại trừ Sudan)
Nanbu (南部町, Nanbu-chō) là thị trấn thuộc huyện Sannohe, tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 12 năm 2023, dân số ước tính thị trấn là 16.576 người và mật độ dân số là 110 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 153,12 km2. Theo dữ liệu điều tra dân số Nhật Bản, dân số thị trấn Nanbu đạt đỉnh vào năm 1950. Từ năm 1960 đến nay, dân số có xu hướng giảm dần.
Chặng đua MotoGP Anh 2023 Chặng đua MotoGP Anh 2023 là chặng đua thứ 9 của mùa giải đua xe MotoGP 2023. Chặng đua diễn ra từ ngày 04/08/2023 đến ngày 06/08/2023 ở trường đua Silverstone, Vương quốc Anh. Ở thể thức MotoGP, tay đua Alex Marquez của đội đua Gresini chiến thắng cuộc đua Sprint race, còn Aleix Espargaro của đội đua Aprilia chiến thắng cuộc đua chính. Sau chặng đua Francesco Bagnaia dẫn đầu bảng xếp hạng tổng với 214 điểm.
Văn hóa Mỹ Latinh Văn hóa Mỹ Latinh ("Latin American culture") là sự biểu hiện các khía cạnh văn hóa chính thức hoặc không chính thức của người dân châu Mỹ Latinh và bao gồm cả văn hóa cao cấp (văn học và nghệ thuật cao cấp) và văn hóa đại chúng (nhạc Mỹ Latinh, nghệ thuật dân gian và khiêu vũ), cũng như tôn giáo ở Mỹ Latinh, phép xã giao vùng Mỹ Latinh và các phong tục, tập quán khác. Người dân Mỹ Latin thường có nguồn gốc văn hóa châu Âu, nhưng có mức độ ảnh hưởng khác nhau Người Mỹ bản địa (người da đỏ), người Châu Phi và người Châu Á. Các định nghĩa về Mỹ Latinh rất khác nhau. Từ góc độ văn hóa, châu Mỹ Latinh thường đề cập đến những khu vực của Châu Mỹ có di sản văn hóa, tôn giáo và ngôn ngữ có thể bắt nguồn từ văn hóa Latinh của Đế chế La Mã. Điều này sẽ bao gồm các khu vực nơi tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Pháp và nhiều ngôn ngữ khác, có thể theo dõi nguồn gốc của chúng là tiếng Latinh thông tục được nói vào thời kỳ cuối Đế chế La Mã, là ngôn ngữ bản địa. Các lãnh thổ như vậy bao gồm hầu hết toàn bộ Mexico, Trung Mỹ và Nam Mỹ, ngoại trừ các lãnh thổ nói tiếng Anh hoặc tiếng Hà Lan. Về mặt văn hóa, nó cũng có thể bao gồm văn hóa bắt nguồn từ Pháp ở Bắc Mỹ, vì cuối cùng nó cũng bắt nguồn từ ảnh hưởng của tiếng Latinh La Mã. Ngoài ra còn có sự hiện diện văn hóa Mỹ Latinh quan trọng tại Hoa Kỳ kể từ thế kỷ 16 tại các khu vực như California, Texas và Florida, vốn là một phần của Đế quốc Tây Ban Nha. Gần đây hơn, tại các thành phố như New York, Chicago, Dallas, Los Angeles và Miami. Giáo hội Công giáo trong suốt lịch sử là tôn giáo có ưu thế áp đảo ở Mỹ Latin và số lượng tín hữu cũng như ảnh hưởng ngày càng tăng của một số lượng lớn các nhóm tôn giáo thuộc Tin Lành, cũng như sự hiện diện của nhóm dân Phi tôn giáo. Theo số liệu khảo sát từ Statista năm 2020 thì 57% dân số Mỹ Latinh theo đạo Công giáo và 19% theo đạo Tin lành. Phần lớn người Mỹ Latinh là Kitô hữu (90%), chủ yếu là Giáo hội Công giáo La Mã. Số tín nhân là thành viên trong các giáo phái Tin lành đang gia tăng, đặc biệt là ở Brazil, Honduras, Guatemala, Nicaragua, El Salvador và Puerto Rico, Đặc biệt, Phong trào Ngũ tuần (Pentecostalism) đã có sự phát triển vượt bậc. Phong trào này ngày càng thu hút tầng lớp trung lưu ở Mỹ Latinh. Theo cuộc khảo sát vào năm 2014, có đến 69% dân số Mỹ Latinh là người Công giáo và 19% là người theo đạo Tin lành, tỷ lệ này tăng lên 22% ở Brazil và hơn 40% ở phần lớn Trung Mỹ. Tín ngưỡng bản địa và các nghi lễ truyền thống vẫn được thực hành ở các quốc gia có tỷ lệ lớn người Mỹ bản địa (người da đỏ), chẳng hạn như Bolivia, Guatemala, Mexico và Peru. Các truyền thống nghi lễ khác nhau của người Mỹ Latinh gốc Phi như Santería, Candomblé, Umbanda, Macumba và Haiti Vodou cũng được thực hành, chủ yếu ở Cuba, Brazil và Haiti. Đất nước Argentina có cộng đồng người Do Thái theo Do Thái giáo lớn nhất (khoảng 180.000-300.000 tín hữu) và cộng đồng Hồi giáo (khoảng 500.000-600.000 tín hữu). Ở Mỹ Latinh thì Brazil là quốc gia có nhiều học viên theo Thuyết thông linh của Allan Kardec. Những người theo Do Thái giáo, Mặc Môn giáo, Nhân chứng Giê-hô-va, Phật giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo ở Nam Mỹ, Tín ngưỡng Bahá'í và Thần đạo cũng có mặt ở Châu Mỹ Latinh. Lịch sử châu Mỹ Latinh chính là tính hỗn chủng, đa nguyên và đa lai mạnh mẽ. Mỹ Latinh là nơi gặp gỡ của nhiều nền văn minh. Trước khi bị thực dân châu Âu xâm chiếm, hàng trăm bộ tộc người da đỏ sinh sống ở Nam Mỹ. Những bộ tộc này có một nền văn hoá riêng biệt, độc đáo. Ba nền văn minh lớn Aztec, Inca và Maya có lịch sử lâu đời và gắn bó nhau. Di vật được kể đến hàng đầu là kinh điển Popol Vuh của tộc người Maya cho thấy tộc người ở khu vực này từng sáng tạo nên một nền văn minh độc đáo. Không chỉ có người da đỏ bản địa và người da trắng thực dân, châu lục này còn có sự xuất hiện của những người da đen châu Phi và người da vàng châu Á. Trong sự phức tạp, đa nguyên của văn hóa, những điểm tương đồng của văn hóa ngoại lai đã hòa vào nền văn hóa bản địa của người Anh-Điêng (da đỏ). Tín ngưỡng đa thần, niềm tin vào huyền thoại và kỳ ảo vẫn ảnh hưởng đến văn hóa Mỹ Latinh thời hậu thực dân sau này. Văn hóa châu Âu hiện diện trên bề mặt chính thống của châu Mỹ Latinh, nhưng đời sống tâm linh của cộng đồng cư dân vẫn quen thuộc với truyền thống lâu đời. Văn học Mỹ Latinh có sự pha trộn giữa thực và ảo bắt nguồn từ tư duy huyền thoại hóa hiện thực của hầu hết các nhà văn Mỹ Latinh, nó hòa vào dòng chảy phát đạt của văn học huyền ảo thế kỷ XX, đã mang đến hơi thở của tâm linh, đậm bản sắc của châu lục. Các nhà văn khai thác từ tầng vỉa văn hóa dân gian, những chất liệu dân gian sẵn có với những bối cảnh xã hội ngày nay, sử dụng những chất liệu văn hóa sẵn có với nhiều phương thức khác nhau. Văn hóa dân gian Maya của người da đỏ trở lại đậm nét trong sáng tác của các nước ở Nam Mỹ, trong khi đó văn hóa châu Phi cổ xưa lại trỗi lên trong sáng tác các nhà văn khu vực bờ biển Caribe. Một số huyền thoại tâm linh trong văn học châu Mỹ Latinh hiện đại, motif hay hình tượng mang tính tâm linh như giấc mơ, điềm báo, tiên tri, dự ngôn, mê cung, mê lộ ("Labyrinthe"), Phế tích vòng tròn, cái chết, xác chết, linh hồn, bóng ma, thiên nhiên linh thiêng, những linh ảnh. Văn xuôi Mỹ Latinh hiện đại theo đuổi kỹ thuật tự sự vừa mới mẻ, vừa tinh tế huyền ảo, tâm linh từ đó mở ra một thế giới nghệ thuật mới, một thế giới thứ ba nằm giữa hiện thực và hư vô. Tâm thức Mỹ Latinh phản chiếu rõ nét trong văn học, đặc biệt là văn học hiện đại trỗi lên từ thập niên 30 của thế kỷ XX. Một trong những thành tựu quan trọng nhất của văn học Mỹ Latinh chính là trào lưu văn học Hiện thực huyền ảo (Magic realism) mở ra một phong cách pha trộn giữa hiện thực và huyền ảo. Dòng văn học này nỗ lực khám phá đời sống tâm hồn, tâm linh con người, đồng thời, khôi phục lại bản sắc nguyên thủy của châu lục trước sự đàn áp của các đế quốc. Hiện thực huyền ảo châu Mỹ Latinh trải cho qua nhiều thế hệ nhà văn. Thế hệ tiên phong nổi tiếng nhất với bốn tên tuổi như Jorges Luis Borges (Argentina), Miguel Angel Asturias (Guatemala), Alejo Carpentier (Cuba) và Juan Rulffo (Mexico). Từ sự mở đầu thành công của thế hệ tiên phong, một loạt nhà văn tiếp tục khai thác miền văn chương huyền ảo như Sebastian Salazar Bondy (Peru), Jose Donoso (Chile), Gabriel Garcia Marquez (Colombia), Carlos Fuentes (Mexico), Manuel Puig (Argentina), Elena Poiatowska (Mexico), Mario Vargas Llosa (Peru), Fernando del Paso (Mexico), những tên tuổi này tạo thế hệ thứ hai, thế hệ Bùng nổ (Boom). Điện ảnh Mỹ Latinh phát triển mạnh mẽ sau khi có âm thanh lồng vào, điều này đã tạo thêm rào cản ngôn ngữ đối với việc xuất khẩu phim Hollywood về phía nam biên giới. Những năm 1950 và 1960 chứng kiến phong trào hướng tới Rạp chiếu phim thứ ba, được các nhà làm phim người Argentina Fernando Solanas và Octavio Getino dẫn đầu phong trào này. Gần đây hơn, một phong cách đạo diễn và quay phim mới đã được gắn thẻ là "Điện ảnh Mỹ Latinh mới". Điện ảnh Mexico từ thời kỳ hoàng kim của điện ảnh Mexico vào những năm 1940 là những ví dụ quan trọng của điện ảnh Mỹ Latinh với một ngành công nghiệp khổng lồ đem lại lợi nhuận và cạnh tranh. Thể loại phim truyền hình Telenovela của Mỹ Latin lần đầu tiên được xem tại nhiều quốc gia khác nhau với bộ phim "Đơn giản, tôi là Maria" ("Simplemente Maria", Perú, 1969). Sau đó là bộ phim "Người giàu cũng khóc" ("Los ricos también lloran", Mexico, 1979) đã được trình chiếu tại Nga, Trung Quốc, Hoa Kỳ và ngay cả Việt Nam thời kỳ đầu giai đoạn Đổi Mới. Phim Brasil "Escrava Isaura" ("Nô tì Isaura", 1976), cũng thành công rực rỡ vì đã được 450 triệu người tại Trung Quốc xem, đưa tên tuổi của nữ diễn viên Lucélia Santos vào đất nước này. Ngày nay, các dòng phim truyền hình Telenovela này càng hấp dẫn người xem truyền hình với các bộ phim như "Khi bình minh đến, Pasión de Gavilanes, Hành trình trở về, Chuyện tình Marina". Các dòng phim Telenovela nổi tiếng nhất đến từ Mexico, Brasil, Colombia, và Venezuela nhưng chúng có cốt truyện, tình tiết, diễn biến dài dòng và thoại vòng vo khó hiểu. Ẩm thực Mỹ Latinh là các loại thực phẩm, đồ uống và phong cách nấu ăn đặc trưng phổ biến ở nhiều quốc gia và nền văn hóa ở Mỹ Latinh. Châu Mỹ Latinh là một quốc gia rất đa dạng về chủng tộc, sắc tộc và địa lý với các nền ẩm thực đa dạng. Một số món đặc trưng của ẩm thực Mỹ Latinh bao gồm các món làm từ ngô Arepas, Empanadas, Pupusas, Tacos, Tamales, Tortilla và nhiều loại salsas cùng các loại gia vị khác (guacamole, Pico de gallo, Chimichurri, ớt, aji, pebre). Sofrito là một thuật ngữ ẩm thực ban đầu dùng để chỉ sự kết hợp cụ thể của các chất thơm xào hoặc om, tồn tại trong ẩm thực Mỹ Latinh. Nó đề cập đến nước sốt cà chua, ớt chuông nướng, tỏi, hành và rau thơm. Gạo, ngô, mì ống, bánh mì, chuối, khoai tây, yucca và đậu cũng là những món chủ yếu trong ẩm thực Mỹ Latinh. Đồ uống của Mỹ Latinh cũng khác biệt như thực phẩm của họ. Một số đồ uống có trước thời thuộc địa. Một số đồ uống phổ biến bao gồm cà phê, mate, guayusa, Horchata, Chicha, atole, cacao và aguas frescas. Món tráng miệng ở Mỹ Latinh rất đa dạng. Chúng bao gồm Dulce de leche, alfajor, pudding gạo, bánh tres leches, teja, beijinho và flan.
Động đất Caraga 2023 Động đất Caraga 2023 là trận động đất xảy ra vào lúc 22:37 (theo giờ địa phương), ngày 2 tháng 12 năm 2023. Trận động đất có cường độ 7.6 (theo USGS) hoặc 7.4 richter (theo PHIVOLCS), tâm chấn độ sâu khoảng 32,8 km. Sau trận động đất, Trung tâm Cảnh báo sóng thần Thái Bình Dương, Viện Nghiên cứu Núi lửa và Địa chấn Philippines và Cục Khí tượng Nhật Bản đã phát cảnh báo sóng thần. Hậu quả trận động đất đã làm 3 người chết, 67 người bị thương, 9 người mất tích. Theo Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ, trận động đất có cường độ 7.6 richter với thang đo Mercalli VII ("Rất mạnh"). Trong khi Viện Nghiên cứu Núi lửa và Địa chấn Philippines (PHIVOLCS) đo được cường độ địa chấn là 7.4 richter với thang đo mức V ("mạnh"), tâm chấn nằm ngoài khơi thành phố Bislig và Cabadbaran, Philippines. Trung tâm Cảnh báo sóng thần Thái Bình Dương. Trung tâm Cảnh báo sóng thần Thái Bình Dương (PTWC) đã phát tín hiệu cảnh báo sóng thần sau khi động đất xảy ra. Cụ thể, chiều cao sóng thần có thể đạt 1-3 m tại Philippines; 0,3-1 m tại Palau; và dưới 0,3 m tại Samoa thuộc Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Polynesia, Micronesia, quần đảo Hawaii, Indonesia, Nhật Bản, Đài Loan, Malaysia. Viện Nghiên cứu Núi lửa và Địa chấn Philippines. Viện Nghiên cứu Núi lửa và Địa chấn Philippines (PHIVOLCS) đã phát cảnh báo sóng thần cho hai khu vực Surigao del Sur và Davao Oriental. Cục Khí tượng Nhật Bản. Vào lúc 23:27 (theo giờ địa phương), ngày 2 tháng 12, Cục Khí tượng Nhật Bản và NHK đã phát cảnh báo sóng thần tại Chiba (bờ biển Uchibo), quần đảo Izu, quần đảo Ogasawara, Shizuoka, Aichi (giáp Thái Bình Dương), phía Nam tỉnh Mie, Wakayama, Tokushima, Kōchi, Miyazaki, bờ biển phía Đông của tỉnh Kagoshima, Miyako-jima, quần đảo Yaeyama. Dự báo các khu vực trên, chiều cao sóng thần có thể lên đến 1 m. Lúc 3:19, ngày 3 tháng 12 (theo giờ địa phương), JMA mở rộng cảnh báo sóng thần đến quần đảo Amami và Tokara. Một cơn sóng thần cao 40 cm đã được ghi nhận tại đảo Hachijō-jima. Vào lúc 9:00, JMA đã gỡ bỏ cảnh báo sóng thần, nhưng vẫn khuyến cáo mực nước thủy triều có thể thay đổi.
Obite Evan Ndicka (sinh ngày 20 tháng 8 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Roma tại Serie A. Sinh ra tại Pháp, anh thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Bờ Biển Ngà. Đầu đời và đời tư. Ndicka sinh ngày 20 tháng 8 năm 1999 ở Paris, Pháp. Cha anh là người Cameroon và mẹ anh là người Bờ Biển Ngà. Sự nghiệp câu lạc bộ. Ndicka gia nhập Auxerre tại Ligue 2 ở tuổi 13 và đã từng qua học viện của câu lạc bộ. Anh ra mắt chuyên nghiệp vào ngày 27 tháng 1 năm 2017 trong chiến thắng 1–0 trước Clermont. Anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với câu lạc bộ vào ngày 5 tháng 2. Anh đã ra sân 14 lần cho câu lạc bộ trong vòng một năm rưỡi trước khi ký hợp đồng với Eintracht Frankfurt tại Bundesliga với mức phí được báo cáo là 5,5 triệu euro. Vào ngày 5 tháng 7 năm 2018, trước thềm mùa giải 2018–19, Ndicka gia nhập câu lạc bộ Eintracht Frankfurt tại Bundesliga và ký hợp đồng 5 năm với câu lạc bộ này. Anh trở thành cầu thủ chính ngay lập tức dưới huấn luyện viên trưởng lúc đó, Adi Hütter, và thường được thường xuyên sử dụng trong hàng hậu vệ của Frankfurt cùng với David Abraham, Hasebe Makoto hoặc Martin Hinteregger. Trong mùa giải đầu tiên của anh với Eintracht, anh đã ra sân 27 lần tại Bundesliga và ghi bàn thắng đầu tiên trong sự nghiệp bóng đá chuyên nghiệp của anh và cho Eintracht trong chiến thắng 4–1 trên sân nhà trước Hannover 96 vào ngày 30 tháng 9 năm 2018. Vào tháng 2 năm 2019, anh đã giành được giải thưởng Tân binh của tháng Bundesliga, danh hiệu hàng tháng được trao cho cầu thủ dưới 23 tuổi có thành tích ấn tượng nhất trong một tháng cụ thể, vì màn trình diễn ấn tượng của anh. Anh đã ra sân chín lần tại Europa League và tại giải đấu này, đội của anh đã giành chiến thắng trước Shakhtar Donetsk, Inter Milan và Benfica trước khi bị loại bởi Chelsea ở vòng bán kết. Kể từ đó, anh chỉ bỏ lỡ một trận đấu trong phần còn lại của mùa giải khi Eintracht suýt chút nữa đã có thể tham gia vòng loại Champions League. Trong mùa giải 2019–20, Ndicka có mặt thường xuyên trong đội hình chính của Frankfurt. Anh ra sân 34 lần trên mọi đấu trường. Cũng trong mùa giải này, Eintracht Frankfurt lọt vào vòng 16 ở Europa League và lọt vào bán kết DFB-Pokal. Anh cùng đồng đội tại Eintracht đã kết thúc mùa giải 2020–21 ở vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng và qua đó giúp Eintracht một lần nữa tham dự Europa League. Anh đã ra sân tổng cộng tại 25 trận trên mọi đấu trường và ghi ba bàn thắng trong mùa giải 2020–21. Dưới tân huấn luyện viên trưởng Oliver Glasner, Ndicka thường chơi cùng với Hinteregger và Tuta trong sơ đồ ba người trong mùa giải 2021–22. Anh đã ra sân 44 lần trên mọi đấu trường và ghi được bốn bàn thắng ở Bundesliga. Cũng trong mùa giải này, anh đã giành chức vô địch Europa League sau khi đánh bại Rangers trên chấm luân lưu sau khi hòa 1–1 sau hiêp phụ. Vào tháng 6 năm 2023, Ndicka chính thức rời Eintracht Frankfurt sau khi hợp đồng 5 năm của anh với câu lạc bộ này hết hạn. Vào ngày 21 tháng 6 năm 2023, Ndicka ký hợp đồng 5 năm với câu lạc bộ Roma tại Serie A theo dạng chuyển nhượng tự do. Sự nghiệp quốc tế. Ndicka đại diện cho Pháp ở cấp độ U-16 và U-17 và được HLV Bernard Diomède triệu tập vào đội U-18 lần đầu tiên vào tháng 3 năm 2017. Sau đó, anh tiếp tục chơi cho mọi đội trẻ Pháp cho đến đội tuyển U-21 quốc gia. Vào tháng 6 năm 2023, anh chính thức chuyển sang chơi cho Bờ Biển Ngà. Ngay sau đó, anh được gọi lên đội tuyển quốc gia lần đầu tiên cho trận đấu Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2023 trước Zambia. Tuy nhiên, anh cuối cùng bị buộc phải rút khỏi đội vì các vấn đề quan liêu. Cuối cùng, anh đã ra mắt cho Bờ Biển Ngà trong chiến thắng 1–0 Vòng loại Cúp bóng đá châu Phi 2023 trước Lesotho vào ngày 9 tháng 9 năm 2023. "Tính đến 30 tháng 11 năm 2023" "Tính đến 20 tháng 11 năm 2023"
Moudja Sié Ouattara (sinh ngày 20 tháng 5 năm 2002) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bờ Biển Ngà hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cho câu lạc bộ Cholet tại Championnat National. Sự nghiệp thi đấu. Gia nhập từ Paris FC vào năm 2017, Ouattara ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với Bordeaux vào tháng 6 năm 2020, kéo dài đến tháng 6 năm 2023. Vào ngày 2 tháng 1 năm 2022, anh có trận ra mắt chuyên nghiệp cho câu lạc bộ trong trận thua 3–0 trước Brest tại Cúp bóng đá Pháp. Vào ngày 13 tháng 6 năm 2022, Ouattara ký hợp đồng với câu lạc bộ Cholet tại Championnat National.
クラクラ (bài hát của Ado) "Kura Kura" (クラクラ, Kurakura) là một bài hát của Ado. Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn của riêng cô ấy vào ngày 5 tháng 10 năm 2023 dưới dạng kỹ thuật số có thể tải xuống từ hãng đĩa . Được sáng tác bởi , cũng là người viết lời và soạn nhạc, được cải biên bởi Kanno Yoko và ban nhạc SEATBELTS. Bài hát được sử dụng làm bài hát chủ đề mở đầu mùa 2 của bộ anime truyền hình "Spy × Family". SEATBELTS, một ban nhạc được dẫn đầu bởi Yoko Kanno, người đã tham gia sản xuất bài hát, đã biểu diễn bài hát chủ đề của "Cowboy Bebop" và "Tank!" trong quá khứ. Ado nhận xét về bài hát, "Tôi hy vọng sẽ thể hiện được sự lạnh lùng cổ điển của "Spy × Family" và niềm vui của cuộc sống hàng ngày như một gia đình". MV được phát hành trên YouTube vào ngày 7/10/2023. Video sử dụng hình ảnh minh họa của s!on, họa sĩ minh họa.
Ô Đồng Lầm, tên chữ là Kim Hoa sau đổi thành Kim Liên, là một cửa ô của Hà Nội xưa. Cửa ô này được mở qua đoạn tường phía nam của tòa thành đất bao bọc khu đông dân cư của kinh thành Thăng Long xưa, tại vị trí ngày nay là ngã tư đường Lê Duẩn (phố Kim Liên cũ) – Đại Cồ Việt. Cửa ô nằm cạnh làng Kim Liên, tên nôm là làng Đồng Lầm, do đó cũng là cổng làng. Cổng này được xây theo hướng đường đi sang ô Cầu Dền, kiến trúc được cho là giống với cửa ô Quan Chưởng. Từ cửa ô đi ngược lên là hồ Bảy Mẫu và hồ Ba Mẫu, người dân làng Đồng Lầm xưa phơi vải ven bờ hai hồ này. Bùn dưới hồ được người dân vớt lên để nhuộm vải (gọi là "nhấn bùn") để vải màu nâu ngã sang màu đen. Theo sử gia Trần Quốc Vượng, ô Đồng Lầm hình thành muộn hơn các cửa ô khác, vào khoảng cuối thế kỷ XIX khi chính quyền lúc bấy giờ cho nắn lại con đường thiên lý từ ngã ba Đuôi Cá theo đường Giải Phóng – Lê Duẩn hiện nay, xẻ đôi đầm nước lớn thành hồ Bảy Mẫu và hồ Ba Mẫu nằm hai bên tuyến đường. Trước đó, khu vực này địa hình còn rất lầy lội, nhiều đầm hồ, mùa mưa thường ngập úng nên không thuận tiện để đi lại. Ngày 4 tháng 12 năm 2019, Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội quyết định đặt tên cho con đường chạy vòng quanh hồ Ba Mẫu, dài 1.000 m và rộng 15–19 m là phố Ô Đồng Lầm.
Odontanthias cauoh là một loài cá biển thuộc chi "Odontanthias" trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 2016. Từ định danh "cauoh" bắt nguồn từ “Carolina”, tên thường gọi bởi các ngư dân đặt cho loài cá này, rút ngắn thành biệt danh Cauó của con gái (tên Ana Carolina) của tác giả Carvalho-Filho. "O. cauoh" là loài đặc hữu của quần đảo São Pedro và São Paulo (Brasil) ở Trung Đại Tây Dương. Chiều dài chuẩn (SL: "standard length") lớn nhất được ghi nhận ở "O. cauoh" là 16,75 cm. Cá có màu đỏ cam, phớt hồng ở bụng, ngực, hàm trên và hàm dưới. Mống mắt đỏ, có vòng màu vàng tươi bao quanh con ngươi. Đầu có 3 sọc ngang màu vàng, đứt đoạn ở cuối. Vây ngực có màu đỏ cam. Vây lưng màu đỏ với màng bao từ gai thứ nhất đến gai thứ năm màu trắng. Vây bụng đỏ cam, có nhiều đốm trắng ở màng giữa tia thứ tư và tia thứ năm và viền trắng ở gai trước. Vây hậu môn chủ yếu có màu đỏ, hơi ánh cam. Vây đuôi có màu đỏ cam pha chút vàng. Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 1517; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 7; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số tia vây ở vây ngực: 20; Số vảy đường bên: 38.
Người mẫu webcam ("Webcam model", "Camgirl", "Cammodel") là người biểu diễn trong video phát trực tuyến trên Internet bằng chương trình phát sóng trực tiếp trên webcam. Người mẫu webcam cũng thường thực hiện các hành vi khiêu dâm trực tuyến, chẳng hạn như cởi quần áo, thủ dâm hoặc các hành vi gạ gẩm tình dục để đổi lấy tiền, hàng hóa hoặc sự chú ý để nổi tiếng. Họ cũng có thể bán video về buổi biểu diễn của mình. Theo Alec Helmy, nhà xuất bản của "XBIZ" là tạp chí ngành công nghiệp tình dục từng được xem như một phân khúc nhỏ trong thế giới giải trí người lớn thì Camming từ lâu đã trở thành "động lực của ngành công nghiệp khiêu dâm". Vì nhiều người mẫu webcam hoạt động thoải mái tại nhà riêng của họ nên họ có thể tự do lựa chọn lượng nội dung khiêu dâm cho chương trình phát sóng của mình. Trong khi hầu hết các người mẫu Webcam đều hiển hiện lồ lộ ảnh khỏa thân và hành vi gợi dục, một số người mẫu chọn cách hầu như chỉ mặc quần áo và chỉ nói về các chủ đề khác nhau, trong khi vẫn đòi tiền từ người hâm mộ của họ dưới dạng tiền boa (tiền típ). Người mẫu webcam chủ yếu là phái nữ và cũng bao gồm những người biểu diễn nổi tiếng thuộc mọi giới tính và giới. Jenny Ringley được coi là Camgirl đầu tiên khi vào năm 1996, khi còn là sinh viên tại Dickinson College, Ringley đã tạo ra một trang web có tên "JenniCam". Webcam của cô được đặt trong phòng ký túc xá và tự động chụp ảnh cô vài phút một lần. Ringley xem trang web của cô như một tài liệu đơn giản về cuộc đời cô. Cô ấy không muốn lọc các sự kiện được chiếu trên máy ảnh của mình, vì vậy đôi khi cô ấy bị cho là khỏa thân hoặc tham gia vào các trò làm tình, bao gồm quan hệ tình dục và thủ dâm, những hình ảnh này sau đó được phát sóng trực tiếp trên Internet. Hai năm sau, vào năm 1998, cô chia quyền truy cập trang web của mình giữa phần miễn phí và nội dung phải trả phí.
Lexus LBX (レクサス・LBX, Rekusasu LBX) là một mẫu SUV crossover hạng sang cỡ nhỏ được sản xuất bởi Lexus, thương hiệu con của tập đoàn Toyota. Chủ yếu nhắm đến thị trường châu Âu và Nhật Bản, LBX đã được giới thiệu vào tháng 6 năm 2023 tại Milan, Ý với vai trò là mẫu xe nhỏ nhất trong dải sản phẩm của Lexus, xếp dưới UX thuộc phân khúc C. Đây cũng là mẫu Lexus đầu tiên sử dụng nền tảng GA-B, tương tự với Toyota Yaris Cross XP210 và Toyota Yaris XP210. Xe dự kiến sẽ được đưa vào sản xuất vào cuối năm 2023 và chính thức có mặt tại các showroom ở châu Âu cùng một số thị trường khác vào đầu năm 2024. Theo Lexus, cái tên "LBX" là viết tắt của các từ "Lexus Breakthrough X(cross)-over". Đây là mẫu xe thứ hai của hãng có ba chữ cái trong tên gọi, sau Lexus LFA ra mắt vào năm 2011. Xe được đặt tên là LBX thay vì BX nhằm tránh xung đột nhãn hiệu với Citroën, hãng sản xuất của dòng BX ở Châu Âu từ năm 1982 đến 1994. Quá trình phát triển LBX do kỹ sư trưởng Endo Kunihiko chỉ đạo. Theo Endo, để đạt được độ tinh tế mong muốn trong LBX nhằm theo kịp các tiêu chuẩn của Lexus là điều không hề dễ dàng, vì họ phải thực hiện cách tiếp cận khác đối với việc lắp đặt vật liệu cách âm truyền thống. So với pin NiMH thông thường thì loại pin mới sử dụng trên xe có phần nhẹ hơn và nhỏ gọn hơn, đồng thời có khả năng sạc và xả. Kết quả, công suất pin có thể được cực đại hóa để tận dụng động cơ điện lớn hơn so với người anh em Yaris Cross. Phần trước của LBX được trang bị hệ thống treo MacPherson, trong khi hệ thống treo sau có thanh dầm xoắn vốn được sử dụng phổ biến trên các dòng xe dẫn động cầu trước hạng A, B phổ thông, đồng thời còn có hệ thống treo tay đòn kép dành cho loại dẫn động toàn bộ bánh. Để tăng cường khả năng kiểm soát thân xe và độ ổn định, Lexus đã tích hợp thêm công nghệ Kiểm soát tư thế phanh, một hệ thống sử dụng phanh tự động để giảm thiểu độ chếch của xe khi thắng gấp. LBX là mẫu xe Lexus đầu tiên sử dụng hệ dẫn động cầu trước và nền tảng GA-B thuộc phân khúc B. Khác với những chiếc Lexus khác, lưới tản nhiệt hình con suốt truyền thống đã có sự cải tiến, không bo viền, với họa tiết hình tổ ong hòa vào cản va, tương tự như phong cách của dòng RX thế hệ thứ năm. LBX là sản phẩm kế thừa triết lý "Resolute Look" của Lexus, đã xuất hiện trên chiếc LF-S vào năm 2003 và được coi là phong cách thiết kế được áp dụng lên các dòng xe Lexus từ đầu những năm 2000. Tuân theo nguyên tắc thiết kế của "Next Chapter Design", các trụ trước được kéo về phía sau khiến cho cabin trông có phần nhỏ gọn, đồng thời còn làm nắp ca-pô dài hơn mang lại dáng vẻ thể thao. Phần đuôi xe LBX sở hữu đèn hậu LED được bao quanh bằng dải đèn có thiết kế xuyên suốt, phong cách gần giống với đàn anh Lexus RX. LBX có bộ lưới tản nhiệt không viền làm nổi bật lên những đường nét của thiết kế hình con suốt đặc trưng. Thiết kế của xe tỏ ra hiệu quả về mặt khí động học, giúp tạo ra đủ luồng khí chạy khắp và xung quanh xe. Đèn chạy ban ngày và đèn báo rẽ được tích hợp chung vào các cụm đèn đa năng. Những chi tiết hình chữ L hướng ra ngoài thay vì hướng vào trong để hài hòa với hướng của đèn rẽ. Xe có sẵn bộ vành loại 17 hoặc 18 inch, cùng với các tùy chọn phiên bản gồm Emotion, Cool, Elegant và Relax. Mục tiêu chính mà các nhà thiết kế của Lexus muốn hướng tới là phần nội thất đơn giản và tinh tế. LBX có sẵn rất nhiều loại nệm bọc, đồ trang trí và da bán aniline chất lượng cao, với phần nội thất thân thiện với người ăn chay sử dụng da tổng hợp và vật liệu thuần chay cho bọc ghế, vô lăng, cần số cũng như viền cửa. Ánh sáng xung quanh xe làm bật nổi hiệu ứng "Omotenashi", có nghĩa là lòng hiếu khách trong tiếng Nhật. Hiệu ứng này nhằm gợi lên sự chào đón và làm cho người sử dụng có cảm giác như đang ở nhà. Hệ thống chiếu sáng trên xe cung cấp 50 tùy chọn màu sắc, với các chủ đề phù hợp với những tâm trạng khác nhau. Phần khoang lái mang triết lý thiết kế 'tazuna' đã từng có dịp được người xem diện kiến trên mẫu xe concept LF-30 Electrified hồi 2019. Từ tazuna có nghĩa là "dây cương" dùng để điều khiển ngựa. LBX được bổ sung bảng đồng hồ kỹ thuật số có kích thước 12,3 inch, lớn nhất từ trước đến nay trên các dòng xe Lexus. Ngoài ra, màn hình hiển thị thông tin kính lái HUD là một tùy chọn dành cho khách hàng, đồng thời xe còn có sẵn nhiều chế độ lái khác nhau. LBX có những miếng đệm ghế cùng với hai ngăn đựng cốc, nhiều khu vực chứa đồ và cổng sạc USB cho điện thoại thông minh. Khoang chứa có dung tích đối với phiên bản dẫn động cầu trước có phần ghế cố định. Ngoài các chi tiết trên, LBX còn cung cấp màn hình cảm ứng trung tâm cỡ 9,8 inch phục vụ hệ thống giải trí - thông tin Lexux Link Connect có hỗ trợ cập nhật trực tuyến, kết nối Apple CarPlay không dây và Android Auto có dây. Trợ lý "Hey Lexus" sẽ phản hồi lệnh của cả hành khách lẫn người lái ngồi ở ghế trước. Xe được trang bị hệ thống âm thanh cao cấp Mark Levinson 13 loa cùng với một loa siêu trầm đặt ở phía sau xe. LBX sử dụng loại pin nickel hydride kim loại, mà theo lời kỹ sư trưởng Endo Kunihiko, nó cho ra mật độ năng lượng cũng như tiềm năng tiêu thụ lớn hơn so với loại lithium-ion truyền thống. Xe có tổng công suất và mô-men xoắn cực đại . LBX tăng tốc từ 0–100 km/h trong 9,2 giây, theo kết quả thử nghiệm của Lexus. Mục tiêu doanh số của Lexus đối với mẫu LBX là 3.500 chiếc mỗi tháng (bao gồm 2.000 chiếc đối với châu Âu, 1.200 chiếc tại Nhật Bản và 300 chiếc ở những thị trường khác như Úc và Đông Nam Á).
Fantasy Fest là một bữa tiệc đường phố được tổ chức hàng năm vào tuần cuối cùng của tháng 10 trong năm tại Key West, Florida ở Hoa Kỳ. Sự kiện Fantasy Fest được Bill Conkle, Tony Falcone, Joe Liszka và Frank Romano đồng khởi xướng vào năm 1979 nhằm mục đích để thu hút khách du lịch khi vào mùa thấp điểm mà cần phải hâm nóng bầu không khí sôi động trở lại. Năm 1995, sự kiện này đã có hơn 60.000 người đã tham dự và có 70 xe hoa, ban nhạc, nhóm hóa trang và "nhóm diễn tập không chính thức" ("Drill team") trong cuộc diễu hành. Năm 2001, Fantasy Fest ước tính mang lại 35 triệu USD cho khu vực Key West, Florida mỗi năm. Điểm nổi bật của Fantasy Fest là cuộc diễu hành hài hước, bao gồm cả một chiếc xe vương miện mang Vua và Nữ hoàng ốc xà cừ được bầu chọn hàng năm với thiết kế khá phức tạp mà chi phí có thể là $10.000 đến $15.000, chi phí sẽ do các nhóm tham gia và các nhà tài trợ của họ chịu hoàn toàn việc tài trợ và đài thọ. Vào tháng 10 năm 2005, sự kiện này bị hoãn lại do sự tàn phá của cơn bão Wilma trên hòn đảo Key West, do đó, thay vì được tổ chức vào thời điểm thông thường gần Halloween, sự kiện này được dời sang tháng 12 cùng năm và được tổ chức ngay trước lễ Giáng sinh, chủ đề năm đó là "Những kẻ lập dị, quái đản và những nữ thần". Sự kiện Fantasy Fest đã được so sánh về quy mô với New Orleans Mardi Gras và Rio Carnival, giống như với New Orleans Mardi Gras được tổ chức tại Bourbon Street ở New Orleans thì sự kiện Fantasy Fest có xu hướng thu hút nhiều người đến tập trung các quán bar dọc theo Phố Duval. Hầu hết các sự kiện đều hướng đến người lớn, tuy nhiên, có những sự kiện thân thiện với gia đình. Hành vi khỏa thân là bất hợp pháp ở Key West nhưng vào hai ngày cuối cùng của sự kiện Fantasy Fest, Thành phố này chỉ định một "Khu vực ảo" trong thành phố nơi phụ nữ có thể để lộ ngực nếu được che phủ thân thể bằng cách vẽ Body Painting. Trang phục mặc tại sự kiện Fantasy Fest thường có hình ảnh khỏa thân và biểu tượng tình dục.