text
stringlengths
82
354k
Ỷ Thiên Đồ Long ký (phim truyền hình 1994) Ỷ thiên đồ long ký là một bộ phim truyền hình Đài Loan chuyển thể từ bộ tiểu thuyết kiếm hiệp cùng tên của nhà văn Kim Dung. Bộ phim lần đầu phát sóng trên các kênh truyền hình Đài Loan vào năm 1994. Bộ phim sử dụng nhiều bài hát nổi tiếng như Yêu giang sơn càng yêu mỹ nhân (愛江山更愛美人) hay Đao kiếm như mộng (刀劍如夢). Đặc biệt vai diễn Chu Chỉ Nhược của Châu Hải My được chính nhà văn Kim Dung đánh giá là phiên bản Chu Chỉ Nhược hoàn hảo nhất khi lột tả được nét đoan trang, hiền thục, nhưng lại có phần tà khí của nhân vật.
Nianzou Tanguy-Austin Kouassi (sinh ngày 7 tháng 6 năm 2002), hay còn được gọi là Tanguy Nianzou, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Sevilla tại La Liga. Nianzou Tanguy-Austin Kouassi sinh ngày 7 tháng 6 năm 2002 tại Paris và cha mẹ là người Bờ Biển Ngà. Sự nghiệp câu lạc bộ. Sau khi tốt nghiệp học viện bóng đá Paris Saint-Germain (PSG), Nianzou ra mắt đội một vào ngày 7 tháng 12 năm 2019 trong chiến thắng 3–1 trước Montpellier. Vài ngày sau, anh chơi trận đầu tiên tại UEFA Champions League khi PSG giành chiến thắng 5–0 trước Galatasaray. Nianzou ghi bàn thắng đầu tiên cho PSG trong chiến thắng 3–0 tại Coupe de France trước Reims vào ngày 22 tháng 1 năm 2020. Ngoài ra, bàn thắng này cũng là bàn thắng thứ 4.000 trong lịch sử PSG. Anh ghi hai bàn thắng đầu tiên tại Ligue 1 trong trận hòa 4–4 trên sân khách trước Amiens vào ngày 15 tháng 2 năm 2020. Vào ngày 11 tháng 3, Nianzou chơi trận đấu cuối cùng cho PSG trong chiến thắng 2–0 tại UEFA Champions League trước Borussia Dortmund. Anh rời câu lạc bộ Paris sau khi hợp đồng của anh với câu lạc bộ hết hạn và sau đó, anh ký hợp đồng với Bayern Munich theo dạng chuyển nhượng tự do. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Nianzou ký hợp đồng có thời hạn bốn năm với Bayern Munich tại Bundesliga. Anh có trận ra mắt cho Bayern Munich trong chiến thắng 3–1 trước VfB Stuttgart vào ngày 28 tháng 11. Vào ngày 12 tháng 12, Nianzou bị chấn thương cơ khiến anh phải nghỉ thi đấu một đến hai tháng. Chấn thương này kéo dài do một pha chấn thương trước đó xảy ra vào đầu mùa giải 2020–21. Anh trở lại thi đấu muộn hơn dự kiến khi anh vào sân thay người trong trận hòa 1–1 trước Union Berlin vào ngày 10 tháng 4 năm 2021. Vào ngày 19 tháng 3 năm 2022, anh ghi bàn thắng duy nhất cho câu lạc bộ trong chiến thắng 4–0 trước Union Berlin. Vào ngày 17 tháng 8 năm 2022, Nianzou gia nhập câu lạc bộ Tây Ban Nha Sevilla theo bản hợp đồng 5 năm. Hai ngày sau, Nianzou có trận ra mắt cho Sevilla trước Real Valladolid tại La Liga. Vào ngày 11 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League trong trận hòa 1–1 trên sân khách trước Borussia Dortmund. Vào ngày 14 tháng 1 năm 2023, anh ghi bàn thắng La Liga đầu tiên trong trận thua 2-1 trên sân khách trước Girona. Sự nghiệp quốc tế. Nianzou là tuyển thủ trẻ của Pháp. Anh là thành viên của Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Pháp, đội đã lọt vào bán kết Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu 2019 do UEFA tổ chức. Anh là cầu thủ quan trọng của Đội tuyển bóng đá U-17 quốc gia Pháp, đội đã đứng thứ ba tại Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2019. Anh đá chính cả bảy trận cho Pháp trong giải đấu này và ghi bàn gỡ hòa trong chiến thắng 6–1 của đội mình trước Tây Ban Nha ở tứ kết. "Tính đến 9 tháng 9 năm 2023"
Trung tâm LGBT Bắc Kinh Trung tâm LGBT Bắc Kinh ( hay còn được biết đến với tên gọi 北同文化 "Bắc Đồng văn hóa") là một tổ chức phi lợi nhuận nhằm cải thiện môi trường sống cho cộng đồng LGBT tại Trung Quốc. Tổ chức này đã được thành lập vào năm 2008 cho đến khi đóng cửa vào năm 2023, tổ chức này đã cung cấp nhiều dịch như tư vấn sức khỏe tâm lý giá rẻ, danh sách các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe thân thiện với cộng đồng LGBTQ+ và đường dây nóng khẩn cấp dành cho người chuyển giới. Ngoài việc vận động, tuyên truyền, trung tâm còn có các văn phòng vật lý hoạt động làm nơi gặp gỡ cộng đồng với các buổi chiếu phim và thảo luận. Trung tâm LGBT Bắc Kinh được thành lập vào năm 2008 như một điểm văn hóa cho các tổ chức dịch vụ LGBT khác nhau có mặt tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Trong những ngày đầu, nhiệm vụ chính của tổ chức là xây dựng các hoạt động văn hóa, nhằm giải quyết sự thiếu ổn định và thống nhất được nhận thức trong cộng đồng LGBT địa phương. Sau khi các nhà tài trợ ban đầu rời đi, Trung tâm đã có nhiều đợt tuyển dụng nhân sự mới và chuyển đổi thành một tổ chức độc lập với trọng tâm đổi mới vào việc ủng hộ quyền LGBT. Một trong những phát kiến vận động đầu tiên của trung tâm liên quan đến việc giáo dục các nhà tâm lý học ở Trung Quốc về liệu pháp chuyển đổi. Vào năm 2014, trung tâm đã giúp Yang Teng, một người đồng tính nam, chuẩn bị một vụ án chống lại một phòng khám ở Trùng Khánh đã đưa ra liệu pháp chuyển đổi bao gồm liệu pháp sốc điện và thôi miên. Vụ án đã thành công và một tòa án địa phương ở Bắc Kinh sau đó đã tuyên bố liệu pháp chuyển đổi để "chữa trị" người đồng tính là bất hợp pháp. Tuy nhiên, thực tế của việc liệu pháp chuyển đổi vẫn tồn tại ở Trung Quốc. Nhân viên của trung tâm là John Shen cùng nhiều người khác sau đó đã điều tra bí mật cho một tập phim vào năm 2018 trong chương trình Unreported World trên Channel 4, tiết lộ các bệnh viện vẫn tiếp tục điều trị liệu pháp chuyển đổi bằng sốc điện. Những nỗ lực nghiên cứu của trung tâm bao gồm việc thực hiện Cuộc khảo sát Sức khỏe Tâm lý của Nhóm giới tính và Tình dục ở Trung Quốc cũng như một cuộc khảo sát năm 2017 với Đại học Bắc Kinh về sức khỏe tâm lý của người chuyển giới Trung Quốc. Các hoạt động khác do trung tâm tổ chức đa phần nhằm thay thế các cuộc diễu hành tự hào thường xuyên bị chính quyền cấm. Một ví dụ là cuộc biểu tình chống lại kế hoạch cấm nội dung đồng tính trên Sina Weibo trong đó các tình nguyện viên đeo băng che mắt và áo phông có dòng chữ "Tôi là người đồng tính" đứng dang hai tay và chào đón cái ôm từ những người đi đường. Trung tâm cũng đã hợp tác với nhiếp ảnh gia Teo Butturini để tạo nên bức tranh chân dung theo phong cách "Humans of New York" của những người LGBT sống tại Trung Quốc. Đàn áp và đóng cửa. Trung tâm LGBT Bắc Kinh đã phải đối mặt nhiều thách thức để duy trì hoạt động với những trở ngại xuất phát từ hạn chế tài chính cũng như áp lực từ chính trị. Các nhóm LGBTQ đã không thể đăng ký thành lập tổ chức phi chính phủ tại Trung Quốc, gây khó khăn trong việc nhận được sự cho phép để tổ chức sự kiện từ chính phủ cũng như có được tài trợ từ bên ngoài. Để khắc phục những rào cản tài chính, trung tâm đã tổ chức nhiều cuộc gây quỹ ở các quán bar địa phương hay từ sự hỗ trợ tài chính trực tiếp của Trung tâm LGBT Los Angeles ở Hoa Kỳ. Trong bối cảnh chính quyền siết chặt đối với các tổ chức có chứa tên "đồng tính", "hiệp hội" và "quyền", trung tâm đã phải đổi tên chính thức tiếng Trung của mình thành "北同文化" ("Bắc Đồng Văn Hóa", #đổi ) vào năm 2021. Trung tâm cũng đã phải đối mặt với áp lực từ các chủ văn phòng và buộc họ phải chuyển đến nhiều địa điểm khác nhau. Vào tháng 5 năm 2023, Trung tâm LGBT Bắc Kinh đã công bố trên tài khoản Weibo về việc tạm dừng hoạt động sau 15 năm, với lý do duy nhất bởi "những yếu tố ngoài tầm kiểm soát". Việc đóng cửa này đã diễn ra đột ngột trong bối cảnh một tuần sau khi trung tâm đăng tải bài viết kỷ niệm 15 năm tận tâm công việc của mình. ShanghaiPRIDE, một trong những nhóm tự hào đồng tính lâu đời nhất tại Trung Quốc và các trung tâm LGBT sinh viên ở các trường đại học trên khắp Trung Quốc cũng đã phải đối mặt với việc đóng cửa đột ngột tương tự kể từ năm 2020.
Rolls-Royce Spectre là một mẫu xe điện hạng sang cỡ lớn được sản xuất bởi Rolls-Royce Motor Cars. Đây là mẫu ô tô chạy điện đầu tiên trong lịch sử của hãng, được xây dựng trên cùng nền tảng kiến trúc với Phantom, Ghost và Cullinan. Những đợt giao xe đầu tiên dự kiến sẽ diễn ra vào quý cuối của năm 2023. Rolls-Royce Spectre có phạm vi hoạt động trong thành phố là tuân theo quy chuẩn EPA, trong khi quãng đường di chuyển của xe đạt mức nếu xét theo tiêu chuẩn WLTP. Với hệ số cản chỉ ở mức 0.25, đây chính là mẫu Rolls-Royce có thiết kế mang tính khí động học cao nhất từng được chế tạo. Spectre được trang bị động cơ kép giúp sản sinh công suất và mô-men xoắn , tăng tốc từ chỉ trong vòng 4.2 giây. Phía trên phần lưới tản nhiệt của Spectre chính là biểu tượng huyền thoại "Spirit of Ecstasy" được thiết kế lại, với chiếc áo choàng bay phấp phới (thường bị nhiều người lầm tưởng là đôi cánh đang dang rộng) có tư thế thấp hơn, kiểu cách năng động hơn và tạo hình chân thật hơn, phát triển theo hướng tăng tính khí động học. Phiên bản mới của biểu tượng "Spirit of Ecstasy" có chiều cao , thấp hơn so với mẫu tiền nhiệm với thông số đạt mức . Thiết kế này đã giúp nó mang nét gần gũi hơn so với bản phát họa được họa sĩ người Anh Charles Robinson Sykes thảo ra hồi đầu thế kỷ 20. Giám đốc điều hành Torsten Müller-Ötvös cho biết, ""Spirit of Ecstasy" là biểu tượng nhãn hiệu xe hơi dễ nhận biết nhất trên thế giới. Tương tự như công ty và những chiếc xe hơi động cơ của hãng, biểu tượng đã thay đổi liên tục theo thời gian, nhưng vẫn giữ nguyên vẹn nguồn gốc và nguồn cảm hứng của mình". Theo hãng Rolls-Royce, biểu tượng "Spirit of Ecstasy" kiểu mới sẽ xuất hiện trên tất cả những mẫu xe kế nhiệm của Spectre trong tương lai. Vào tháng 9 năm 2021, Rolls-Royce đã thông báo về sự xuất hiện của mẫu Spectre và xác nhận rằng xe đã bắt đầu đi vào giai đoạn thử nghiệm. Ông Torsten Muller-Otvos khẳng định Spectre sẽ không kế nhiệm Wraith mà thay vào đó kế thừa tinh thần của dòng Phantom Coupe được sản xuất từ năm 2008 đến 2016. Ngày 18 tháng 10 năm 2022, hãng xe đã chính thức công bố mẫu xe chạy điện đầu tiên của mình trên các trang truyền thông. Với tên gọi mang ý nghĩa "Bóng ma", Spectre đã tiếp tục nối tiếp truyền thống lâu đời của Rolls-Royce trong việc đặt những cái tên có phần ma quái, siêu nhiên cho những sản phẩm của hãng.
Trưng cầu dân ý độc lập Bosna 1992 Một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập được tổ chức tại Bosnia và Herzegovina từ ngày 29 tháng 2 đến ngày 1 tháng 3 năm 1992, sau cuộc tổng tuyển cử tự do đầu tiên vào năm 1990 và tình trạng gia tăng căng thẳng sắc tộc cuối cùng dẫn đến Nam Tư tan rã. Các cử tri người Bosniak và người Croat Bosnia ủng hộ mạnh mẽ độc lập, trong khi người Serb Bosnia tẩy chay cuộc trưng cầu dân ý hoặc bị nhà cầm quyền người Serb tại Bosnia ngăn cản tham gia. Tổng số cử tri đi bỏ phiếu là 63,4%, trong đó 99,7% bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Vào ngày 3 tháng 3, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Bosnia và Herzegovina Alija Izetbegović tuyên bố nền độc lập của Cộng hòa Bosnia và Herzegovina và quốc hội phê chuẩn hành động này. Bằng việc tuyên bố độc lập, Bosnia và Herzegovina rời khỏi liên minh với Serbia sau gần 74 năm. Vào ngày 6 tháng 4, Hoa Kỳ và Cộng đồng Kinh tế châu Âu công nhận Bosnia và Herzegovina là một quốc gia độc lập, và nước này được kết nạp vào Liên Hợp Quốc vào ngày 22 tháng 5. Vào tháng 11 năm 1990, các cuộc bầu cử tự do lần đầu tiên được tổ chức tại Bosnia và Herzegovina, đưa ba đảng dân tộc chủ nghĩa lên nắm quyền. Đó là Đảng Hành động Dân chủ (SDA) do Alija Izetbegović lãnh đạo, Đảng Dân chủ người Serb (SDS) do Radovan Karadžić lãnh đạo, và Liên minh Dân chủ người Croat (HDZ) do Stjepan Kljuić lãnh đạo. Izetbegović được bầu làm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Bosnia và Herzegovina. Jure Pelivan của HDZ được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Bosnia và Herzegovina. Momčilo Krajišnik của SDS được bầu làm Chủ tịch Quốc hội Bosnia và Herzegovina. Trong suốt năm 1990, Kế hoạch RAM do một nhóm sĩ quan người Serb của Quân đội Nhân dân Nam Tư (JNA) và các chuyên gia từ Cục Điều hành Tâm lý của JNA phát triển nhằm tổ chức người Serb bên ngoài Serbia, củng cố quyền kiểm soát SDS và chuẩn bị vũ khí và đạn dược. Năm 1990 và 1991, người Serb tại Croatia và tại Bosnia và Herzegovina tuyên bố thành lập một số tỉnh tự trị người Serb (SAO) để sau này thống nhất chúng nhằm tạo ra một Đại Serbia. Ngay từ tháng 9 hoặc tháng 10 năm 1990, Quân đội Nhân dân Nam Tư đã bắt đầu trang bị vũ khí cho người Serb tại Bosnia và tổ chức họ thành lực lượng dân quân. Cùng năm đó, Quân đội Nhân dân Nam Tư giải giáp Lực lượng phòng thủ lãnh thổ của nước Cộng hòa Bosnia và Herzegovina (TORBiH). Đến tháng 3 năm 1991, Quân đội Nhân dân Nam Tư đã phân phối ước tính khoảng 51.900 khẩu súng cho lực lượng bán quân sự người Serb và 23.298 khẩu súng cho SDS. Trong suốt năm 1991 và đầu năm 1992, SDS tiến hành "Serb hoá" mạnh mẽ lực lượng cảnh sát nhằm tăng cường kiểm soát chính trị của người Serb. Theo Noel Malcolm, "các bước đi của Karadžić và đảng của ông ta - tuyên bố về các khu tự trị của người Serb, việc trang bị vũ khí cho người Serb, các sự cố nhỏ tại địa phương, tuyên truyền không ngừng nghỉ, yêu cầu quân đội liên bang "bảo hộ" – trùng khớp chính xác với những gì được thực hiện tại Croatia. Ít nhà quan sát nào có thể nghi ngờ rằng một kế hoạch duy nhất đang được thực hiện." Trong một phiên họp vào ngày 15 tháng 10 năm 1991, trong bối cảnh được cảnh báo trước về Kế hoạch RAM, Quốc hội Bosnia thông qua "Bản ghi nhớ về chủ quyền", sử dụng một phong trào nghị viện để mở lại quốc hội sau khi Krajišnik đóng cửa cơ quan này, và sau khi các đại biểu người Serb bước ra bên ngoài. Vào ngày 24 tháng 10 năm 1991, SDS thành lập Đại hội người Serb tại Bosnia và Herzegovina và đến tháng 11 họ tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về việc ở lại Nam Tư. Đồng thời, họ ban hành "Chỉ thị về tổ chức và hoạt động của các cơ quan của người Serb tại Bosnia và Herzegovina trong điều kiện khẩn cấp", yêu cầu các quan chức SDS thành lập các hội đồng khu tự quản người Serb và các ban tham mưu khủng hoảng, đảm bảo nguồn cung cấp cho người Serb và tạo ra các mạng lưới truyền thông rộng khắp. Vào tháng 1 năm 1992, Đại hội tuyên bố thành lập Cộng hòa người Serb tại Bosnia và Herzegovina và việc ly khai. Chính phủ Bosnia tuyên bố cuộc trưng cầu dân ý này là vi hiến và thực thể tự xưng này chỉ được Nam Tư công nhận. Vào cuối tháng 12 năm 1991, các chính trị gia người Bosniak và Croat yêu cầu Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) công nhận Bosnia và Herzegovina cùng với Slovenia, Croatia và Macedonia là các quốc gia có chủ quyền. Ủy ban Trọng tài Badinter do EEC thành lập ban đầu từ chối công nhận Bosnia và Herzegovina vì "không có trưng cầu dân ý", trong khi xác định rằng Nam Tư đang trong quá trình giải thể và ranh giới nội bộ của các nước cộng hòa không thể thay đổi nếu không có thỏa thuận. Vào tháng 1 năm 1992, EEC ra phán quyết rằng "ý chí của người dân Bosnia Herzegovina muốn thành lập Cộng hòa Xã hội Bosnia Herzegovina với tư cách là một quốc gia có chủ quyền và độc lập không thể được cho là đã được thiết lập đầy đủ" và đề xuất "một cuộc trưng cầu dân ý của tất cả công dân của SRBH mà không có sự phân biệt"; điều này không thể được tổ chức một cách bình thường vì giới cầm quyền người Serb ngăn cản người dân của họ tham gia. Trong tháng đó, Slobodan Milošević ban hành một mệnh lệnh bí mật chuyển tất cả các sĩ quan Quân đội Nhân dân Nam Tư sinh ra tại Bosnia và Herzegovina đến Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia và đưa họ vào một đội quân người Serb Bosnia mới. Vào ngày 23 tháng 1, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng EEC João de Deus Pinheiro nói rằng EEC sẽ công nhận Bosnia và Herzegovina nếu một cuộc trưng cầu dân ý về độc lập được thông qua. Vào ngày 25 tháng 1, cuộc tranh luận về một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức tại Quốc hội, nó kết thúc khi các đại biểu người Serb rút lui sau khi các đại biểu người Bosniak và Croat bác bỏ một đề nghị của người Serb, đó là điều này phải được xác định bởi một Hội đồng Bình đẳng Dân tộc chưa được thành lập. Sau khi Momčilo Krajišnik cố gắng hoãn phiên họp, ông bị thay thế bằng một thành viên Đảng Hành động Dân chủ, và đề xuất tổ chức trưng cầu dân ý được thông qua trong tình trạng không có mặt Đảng Dân chủ người Serb. Cuộc trưng cầu dân ý nhằm mục đích thay đổi quy chế của Bosnia và Herzegovina từ một quốc gia của Liên bang Nam Tư thành một quốc gia có chủ quyền, điều này vi phạm Hiến pháp Nam Tư (vì Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosnia và Herzegovina không có thẩm quyền này, và vượt quá quyền hạn của họ). Theo Hiến pháp Nam Tư, việc thay đổi biên giới Nam Tư là không thể nếu không có sự đồng thuận của tất cả các nước cộng hòa. Cuộc trưng cầu dân ý cũng vi hiến theo Hiến pháp của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosnia và Herzegovina. Bản sửa đổi LXX của hiến pháp thành lập một hội đồng được giao nhiệm vụ thực thi quyền bình đẳng của các dân tộc và quốc tịch tại Bosnia và Herzegovina. Đề xuất trưng cầu dân ý về "tình trạng của Bosnia và Herzegovina" cần phải được Hội đồng này xem xét, vì cuộc trưng cầu dân ý như vậy tác động trực tiếp đến "các nguyên tắc bình đẳng giữa các dân tộc và quốc tịch". Công dân của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Bosnia và Herzegovina bỏ phiếu ủng hộ độc lập trong cuộc trưng cầu dân ý tổ chức vào ngày 29 tháng 2 và ngày 1 tháng 3 năm 1992. Nền độc lập được các cử tri người Bosniak (người Hồi giáo Bosnia) và người Croat Bosnia ủng hộ mạnh mẽ, trong khi phần lớn người Serb Bosnia tẩy chay cuộc trưng cầu dân ý hoặc bị giới cầm quyền người Serb tại Bosnia ngăn cản việc tham gia. Theo SDS, độc lập sẽ khiến người Serb trở thành "một dân tộc thiểu số trong một nhà nước Hồi giáo". Họ sử dụng các đơn vị vũ trang không chính quy để ngăn cản việc vận chuyển các thùng phiếu, và thả truyền đơn khuyến khích tẩy chay, nhưng hàng nghìn người Serb tại các thành phố lớn vẫn bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Đã xảy ra các vụ đánh bom và xả súng trong suốt thời gian bỏ phiếu, đáng chú ý nhất là cuộc tấn công một đám cưới tại Sarajevo. Tỷ lệ cử tri đi bầu là 63,4%, trong đó 99,7% bỏ phiếu ủng hộ độc lập. Tuy nhiên, cuộc trưng cầu dân ý không đạt được đa số 2/3 theo yêu cầu của hiến pháp vì chỉ có 63,4% cử tri đủ điều kiện tham gia. Vào ngày 3 tháng 3, Alija Izetbegović tuyên bố nền độc lập của Cộng hòa Bosnia và Herzegovina và quốc hội Bosnia phê chuẩn hành động của ông. Vào ngày 4 tháng 3, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ James Baker kêu gọi EEC công nhận Bosnia và Herzegovina, và vào ngày 6 tháng 3, Izetbegović yêu cầu được quốc tế công nhận. Vào ngày 10 tháng 3, một tuyên bố chung giữa Hoa Kỳ và EEC nhất trí công nhận Slovenia và Croatia. Họ cũng đồng ý rằng Macedonia và Bosnia và Herzegovina sẽ được công nhận nếu Bosnia và Herzegovina "thông qua, không chậm trễ, các thỏa thuận hiến pháp nhằm mang lại sự phát triển hòa bình và hài hòa cho nước cộng hòa này trong phạm vi biên giới hiện có của họ." Vào ngày 7 tháng 4, Hoa Kỳ và EEC công nhận Bosnia và Herzegovina là một quốc gia độc lập, và các thành viên khác trong cộng đồng quốc tế cũng công nhận nước này vào đầu tháng 4. Ngày hôm đó, các nhà lãnh đạo người Serb Bosnia tuyên bố độc lập và đổi tên thực thể tự xưng của họ thành Republika Srpska. Vào ngày 12 tháng 5, Đại hội người Serb Bosnia thông qua "Sáu mục tiêu chiến lược của quốc gia người Serb"; Radovan Karadžić nói "Mục tiêu đầu tiên là tách hai cộng đồng dân tộc - tách biệt các quốc gia, tách biệt khỏi những kẻ thù của chúng ta và những kẻ đã tận dụng mọi cơ hội, đặc biệt là trong thế kỷ này, để tấn công chúng ta, và những ai sẽ tiếp tục những hoạt động như vậy nếu chúng ta ở trong cùng một nhà nước." Vào ngày 22 tháng 5, Bosnia và Herzegovina được kết nạp vào Liên Hợp Quốc. Trong vòng một tháng kể từ khi được công nhận, cuộc vây hãm Sarajevo bắt đầu, vào thời điểm đó Quân đội Republika Srpska (VRS) của người Serb Bosnia kiểm soát 70% lãnh thổ Bosnia và Herzegovina. VRS được Nam Tư hỗ trợ, còn Quân đội Bosnia được hỗ trợ từ Cộng hòa Croatia mới thành lập cũng như từ thực thể Herzeg-Bosnia. Cuộc chiến kéo dài ba năm, với tổng số thương vong là hơn 100.000 người. Các vụ thảm sát Bijeljina, Srebrenica và Markale được đưa tin rộng rãi trên các phương tiện truyền thông và thu hút chú ý đến cuộc xung đột.
Chuyến bay 251 của Faucett Perú Chuyến bay 251 của Faucett Perú sử dụng một máy bay Boeing 737-200 khai thác dịch vụ chở khách theo lịch trình Lima–Arequipa–Tacna và bị rơi vào ngày 29 tháng 2 năm 1996, khi đang hoàn thành chặng đầu tiên lúc tiếp cận Sân bay quốc tế Rodríguez Ballón.:34 Toàn bộ 123 hành khách và phi hành đoàn trên máy bay đều thiệt mạng trong vụ tai nạn.:34 Đây là vụ tai nạn hàng không chết chóc nhất xảy ra trên lãnh thổ Peru. Máy bay và phi hành đoàn. Chiếc máy bay liên quan đến vụ tai nạn là Boeing 737-222, số đuôi OB-1451, c/n 19072, có chuyến bay đầu tiên vào ngày 21 tháng 10 năm 1968. Được trang bị động cơ Pratt Whitney JT8D-7B, chiếc máy bay này bắt đầu hoạt động thương mại vào ngày 28 tháng 10 năm 1968, khi nó được giao mới cho United Airlines và có số đăng ký N9034UE. Khi Aloha Airlines sở hữu chiếc máy bay, nó được đăng ký lại với số N73714 vào ngày 14 tháng 6 năm 1971 cho đến cuối #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. , khi đó nó được chuyển giao cho Air California với số đăng ký tương tự. Air California được đổi tên thành AirCal vào #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. và máy bay được đăng ký lại thành N459AC. Sau khi sáp nhập AirCal vào American Airlines, chiếc máy bay này tiếp tục hoạt động cho hãng này cho đến khi Braniff Inc. tiếp nhận nó với cùng một số đăng ký vào ngày 2 tháng 3 năm 1989, sau đó nó được chuyển cho AL AC 2 Corp vào ngày 15 tháng 5 năm 1990. Cuối cùng, chiếc máy bay được giao cho Faucett vào ngày 15 tháng 7 năm 1991 và được đăng ký là OB-1451. Khung máy bay có tuổi hơn 27 năm vào thời điểm xảy ra tai nạn. Trong chuyến bay cuối cùng, người điều khiển máy bay là Cơ trưởng Juan Mayta Basurto và Cơ phó Julio Paz Castillo, cả hai phi công đều đủ tiêu chuẩn để lái chiếc 737.:1 Chuyến bay bắt đầu từ sân bay quốc tế Jorge Chávez, khi đang tiếp cận VOR/DME tới đường băng 09 của sân bay quốc tế Rodríguez Ballón, vào ban đêm, trong mưa và sương mù, có báo cáo về sấm sét trong khu vực. Tổ bay yêu cầu bật đèn của đường băng vì họ không thể nhìn thấy chúng giống như những lần tiếp cận bình thường khác, và nhận được phản hồi từ kiểm soát viên không lưu rằng đèn đang ở cường độ tối đa. Máy bay lao vào vùng đồi cao —độ cao của sân bay là —, lúc 20:25, cách đường băng khoảng và cách khoảng bên ngoài Arequipa. Phần phía sau bị gãy lìa do va chạm, còn phần thân chính tiếp tục bay qua rặng núi ban đầu và va chạm gần đỉnh của rặng núi thứ hai. Phần đuôi rơi vào một khe hở giữa hai rặng núi. Trên máy bay có 123 người, trong đó có 117 hành khách.:34 Quốc tịch của các nạn nhân như sau: Trong số những người thiệt mạng có Juan Lorenzo de Szyszlo, người có hai quốc tịch Mỹ và Peru 36 tuổi, và là con trai thứ hai của họa sĩ nổi tiếng người Peru Fernando de Szyszlo với vợ ông là nhà thơ Blanca Varela. Lorenzo được cho là đang tới Arequipa để giám sát cuộc triển lãm tác phẩm của cha ông tại đó. Cuộc điều tra có các đại diện từ Ủy ban An toàn Giao thông Quốc gia và Cục Hàng không Liên bang của Hoa Kỳ, cũng như từ Boeing và Pratt Whitney, tất cả đều đến hiện trường vụ tai nạn vào ngày 1 tháng 3. Bộ lưu dữ liệu chuyến bay (FDR) và bộ ghi âm buồng lái (CVR) của máy bay được lấy ra từ đống đổ nát và đến ngày 5 tháng 3 chúng được gửi đến Washington D.C. để NTSB phân tích.:2 Thông tin sớm từ báo chí tường thuật rằng FDR và CVR đã cung cấp thông tin. Tuy nhiên, trong khi FDR có thể sử dụng được thì CVR bị cháy một phần và hư hỏng một phần khi đã bị đứt băng từ ngay từ đầu, và chỉ có thể nghe thấy những giọng nói tiếng Tây Ban Nha biệt lập. Những thứ này dường như được ghi lại bên trong một nhà chứa máy bay, có thể là trong quá trình bảo trì, và do đó không có bản ghi âm giọng nói cuối cùng của tổ bay trước khi vụ tai nạn xảy ra. Hãng hàng không tuyên bố đã mua CVR vào tháng 7 năm 1995 và họ từng bảo trì nó hai lần ngay trước khi xảy ra vụ tai nạn (tháng 12 năm 1995 và tháng 2 năm 1996), tuy nhiên CVR đã không được bảo trì trong sáu năm trước đó, thể hiện ở phần đăng ký bên trong của máy bay rằng ngày mở ra cuối cùng là vào tháng 12 năm 1989.:8–9 Nhóm điều tra phát hiện ra rằng phi hành đoàn đã được cấp một thiết lập máy đo độ cao khí áp lỗi thời vì bỏ qua tín hiệu ILS, khiến họ bay thấp hơn gần so với độ cao mà họ tin rằng mình đang bay. Trên thực tế, họ có ấn tượng sai lầm rằng chiếc máy bay đang bay ở độ cao , trong khi thực tế nó đang ở độ cao , khoảng bên dưới đường trượt hạ cánh.
Tuyển hầu xứ Württemberg Tuyển hầu xứ Württemberg (tiếng Đức: "Kurfürstentum Württemberg") là một nhà nước tồn tại trong thời gian ngắn trong Đế chế La Mã Thần thánh ở hữu ngạn sông Rhein. Năm 1803, Đệ Nhất Tổng tài Napoléon Bonaparte đã nâng Công quốc Württemberg lên thành Tuyển hầu quốc Württemberg, hình thức lãnh địa thân vương cao nhất trong Đế chế La Mã Thần thánh. Tuy nhiên, ngay sau đó, vào ngày 1 tháng 1 năm 1806, Tuyển đế hầu cuối cùng đảm nhận danh hiệu Vua của Württemberg. Sau đó, vị Hoàng đế cuối cùng của Thánh chế La Mã là Francis II, đã bãi bỏ đế chế trên thực tế vào ngày 6 tháng 8 năm 1806. Tuyển hầu chỉ tồn tại trong 3 năm thì được nâng lên thành Vương quốc Württemberg và chính thể này tồn tại cho đến năm 1918, khi Đế quốc Đức bị bãi bỏ sau Thế chiến thứ nhất. Charles Eugene, Công tước xứ Württemberg không để lại người thừa kế hợp pháp và công quốc được kế vị bởi 2 người em trai của ông, Louis Eugene (mất năm 1795), không có con, và Frederick II Eugene (mất năm 1797). Frederick II Eugene phục vụ trong quân đội của Frederick Đại đế, người mà ông có quan hệ thông qua hôn nhân, và sau đó quản lý các điền trang của gia đình mình xung quanh Montbéliard. Ông giáo dục các con mình theo đạo Tin Lành và nói tiếng Pháp, và tất cả các thành viên của hoàng gia Württemberg sau này đều là hậu duệ của ông. Vì vậy, khi con trai ông trở thành công tước vào năm 1797 với hiệu là Frederick III, đạo Tin Lành đã quay trở lại với gia đình công tước, và hoàng gia sau đó vẫn tuân theo đức tin này. Trong thời gian trị vì ngắn ngủi của Frederick II Eugene, Đệ Nhất Cộng hòa Pháp đã xâm lược Württemberg và buộc công tước phải rút quân khỏi quân đội Hoàng gia và trả tiền bồi thường. Mặc dù chỉ cai trị được 2 năm, Frederick II Eugene đã quản lý một cách hiệu quả để giữ được nền độc lập của công quốc. Thông qua các cuộc hôn nhân của các con mình, ông đã có những mối quan hệ đáng chú ý trên khắp châu Âu, bao gồm cả các gia đình hoàng gia Nga, Áo và Anh. Con trai của ông là Công tước Frederick III (1754–1816), là một thân thương noi gương Frederick Đại đế. Ông tham gia Chiến tranh Liên minh thứ Hai chống lại Pháp bất chấp mong muốn của người dân và khi người Pháp lại xâm lược và tàn phá đất nước, ông rút lui về Erlangen, nơi ông ở lại cho đến sau khi ký kết Hiệp ước Lunéville vào ngày 9 tháng 2 năm 1801 Sau khi Đức hòa giải với Pháp, được ký vào tháng 3 năm 1802, ông đã nhượng lại tài sản của mình ở tả ngạn sông Rhein cho Pháp, và nhận lại 9 thành bang đế quốc tự do, trong đó có Reutlingen và Heilbronn cùng các vùng lãnh thổ khác, tổng cộng có diện tích khoảng 850 dặm vuông và bao gồm khoảng 124.000 dân. Ông cũng nhận tước hiệu Tuyển đế hầu từ Đệ Nhât tổng tài Napoléon vào năm 1803. Sau đó, công quốc được nâng lên thành Tuyển hầu quốc Württemberg (1803–1805). Các quận mới không được hợp nhất vào công quốc mà vẫn tách biệt. Họ được biết đến với cái tên "New Württemberg" và được cai trị mà không cần nghị viện. Các khu vực khác đã được mua lại vào năm 1803–1806 như một phần của quá trình Hòa giải Đức. Năm 1805, Württemberg đứng về phía Đệ Nhất Đế chế Pháp, và trong Hòa ước Pressburg vào tháng 12 năm 1805, Tuyển đế hầu đã được thưởng nhiều phần lãnh thổ của Đế quốc Áo xa hơn trong Vùng đế chế Swabia và các vùng đất khác trong khu vực. Vào ngày 1 tháng 1 năm 1806, Công tước Frederick III được nâng lên hàng quốc vương và trở thành Vua của Vương quốc Württemberg, với vương hiệu Frederick I của Württemberg. Vua Frederick I đã bãi bỏ hiến pháp và thống nhất lãnh thổ Cựu và Tân Württemberg. Sau đó, ông đặt tài sản của nhà thờ dưới sự kiểm soát của nhà nước. Ông cũng gia nhập Liên bang Rhein và nhận thêm lãnh thổ.
Daniel Isaac "Danny" Schechter(Tiếng Anh: Daniel Isaac "Danny" Schechter, 27 tháng 6 năm 1942 - 19 tháng 3 năm 2015) là một nhà báo nhân quyền người Mỹ với hơn ba mươi năm kinh nghiệm làm nhà báo, nhà bình luận và diễn giả quốc tế về các vấn đề truyền thông. Làm việc tại CNN và ABC; trong thời gian làm việc tại ABC, ông là nhà sản xuất và phóng viên điều tra của chương trình nổi tiếng nhất "20/ 20" trong tám năm Nhà báo, người đoạt hai giải Báo chí Quốc gia Giải Emmy. Ông đã được mời giảng dạy ở nhiều trường đại học và là giáo sư tại Trường Báo chí Columbia với khóa học "Báo cáo Nhân quyền". Các bài viết của ông đã được đăng trên nhiều tờ báo quan trọng hàng đầu ở Hoa Kỳ như: The Nation, Newsday, Boston Globe, Columbia Journalism Review, Detroit Free Press, Media Studies Journal và Z Magazine。 Ông từ lâu đã quan ngại về hiện tượng các tập đoàn kiểm soát truyền thông và thúc đẩy cải cách truyền thông. Ông là biên tập viên điều hành của "MediaC", trang web về các vấn đề truyền thông trực tuyến lớn nhất thế giới. Ông tổng hợp các báo cáo quan trọng từ các phương tiện truyền thông chính thống của Mỹ và chỉ trích việc tính chuyên nghiệp của phương tiện truyền thông trong việc đưa tin về các sự kiện lớn như 911 và Chiến tranh vùng Vịnh. Tiêu điểm Châu Phi. Ông bắt đầu liên hệ với "Ngọn giáo của các quốc gia" châu Phi vào năm 1967, và sau đó tổ chức "Nhóm nghiên cứu châu Phi" tại Boston, Hoa Kỳ và làm việc với Đại hội toàn quốc châu Phi Đợi Tổ chức Giải phóng Nam Phi cùng hợp tác. Ông là nhà làm phim tài liệu người Mỹ duy nhất được coi là một trong những người thân của Mandela. Trong thời gian Mandela ra tù và giữ chức Tổng thống Nam Phi, Mandela coi Danny như một thành viên trong nhóm của mình. Ông đã tạo ra chương trình "Nam Phi ngay bây giờ" cho kênh "Tầm nhìn toàn cầu", được phát sóng hàng tuần trong ba năm trên truyền hình công cộng ở Hoa Kỳ và hơn 30 quốc gia.
Tanner Emmanuel Buchanan (sinh ngày 8 tháng 12 năm 1998) là một diễn viên người Hoa Kỳ. Anh được biết đến với vai diễn Leo Kirkman trong bộ phim chính trị ABC "Tổng thống bất đắc dĩ" và Robby Keene trong loạt phim "Cobra Kai" của Netflix. Anh cũng được biết đến với vai diễn Cameron Kweller trong bộ phim hài lãng mạn "He's All That". Buchanan sinh ra ở Lima, Ohio, với Steve và Marlona Buchanan. Anh lớn lên trong một gia đình theo đạo Thiên chúa và theo học tại trường tiểu học Glandorf ở Ohio. Anh chuyển đến Los Angeles cùng gia đình vào năm 2007 để theo đuổi sự nghiệp diễn xuất.
Con ngoan trò giỏi Con ngoan trò giỏi ở Việt Nam, hay Cảng hài () ở Hồng Kông, là hiện tượng chỉ đến một số lượng nhỏ thanh thiếu niên, nhi đồng tại Việt Nam cũng như Hồng Kông được đánh giá là chăm ngoan, học tốt tuy nhiên lại quá phụ thuộc vào gia đình và luôn vâng lời thầy cô ở trường, trong lớp. Họ thường có kết quả học tập thuộc loại Khá - Giỏi và điểm hạnh kiểm thuộc loại Tốt, đồng thời cũng có chỉ số cảm xúc thấp và thiếu đi các kỹ năng tự làm chủ bản thân. Ở trường trong lớp, trong gia đình cũng như ngoài xã hội, họ được biểu dương là tấm gương mẫu mực, là hình mẫu tốt để bạn bè đồng trang lứa noi theo. Ở khía cạnh khác, họ thường được gọi với những cái tên không chính thức như "con nhà người ta", hoặc "gà công nghiệp", một thuật ngữ ẩn dụ với nghĩa gốc chỉ đến những con gà được sinh ra và nuôi dưỡng theo quy trình công nghiệp thay vì trong môi trường tự nhiên. Về thuật ngữ "Cảng hài" (, viết tắt của "Hong Kong Kids") thì nó được ra đời vào năm 2009, xuất hiện trong cuốn sách có tựa đề "Kong Kids: The Nightmares for Parents and Teachers" (tạm dịch: Hiện tượng con ngoan trò giỏi ở Hồng Kông: Nỗi lo lắng của thầy cô và các bậc phụ huynh) do tờ ấn hành. Cuốn sách tranh luận về việc tồn tại 5 đặc điểm tiêu cực thường thấy ở những đứa trẻ sinh ra tại Hồng Kông kể từ sau thập niên 1990. Hiện tượng con ngoan trò giỏi chủ yếu được sinh ra trong hai thập niên 90 và 2000, thuộc các gia đình ở tầng lớp trung lưu, luôn được cha mẹ nuông chiều và thầy cô tuyên dương.
Trồng rồi lại chặt Trồng rồi lại chặt hay Trồng - chặt là hiện tượng xảy ra trong lĩnh vực nông nghiệp để chỉ hành động trồng trọt một loại cây nông sản do thấy nhu cầu mua lớn, lợi nhuận cao dẫn đến nông dân chặt bỏ cây trồng hiện có. Nông dân chuyển sang trồng loại cây được xem là có kinh tế hơn. Một thời gian sau đó lại chặt bỏ diện tích cây mới trồng và lại trồng loại cây khác, trồng rồi lại chặt cứ thế lặp lại. Hiện tượng này liên quan đến nguyên lý cung - cầu trong nông nghiệp và biến động thị trường nông sản. Tại miền Bắc Việt Nam, ở các tỉnh Bắc Giang, Hòa Bình, Yên Bái, Phú Thọ, bưở, đến 2022 diện tích chỉ còn 1.700 ha. Nông dân chuyển sang trồng chuối, mía, dứa. Tại miền Đông Nam Bộ, nông dân Đồng Nai đua nhau chặt chôm chôm tróc để trồng chôm chôm nhãn, rồi đến năm 2016 lại chặt để trồng chôm chôm Thái. Nguyên nhân là do giá cả, trong khi chôm chôm tróc chỉ có giá 5.000 - 6.000 VND/kg, chôm chôm nhãn có giá 15.000 VND/kg thì chôm chôm Thái có giá 18.000 VND/kg. Vào năm 2018 ở Trảng Bom, Đồng Nai, nhiều diện tích hồ tiêu bị chặt để trồng chuối cấy mô, do nông dân thấy giá tiêu quá thấp còn giá chuối lại quá cao. Vào năm 2022, nhiều diện tích thanh long ở Bà Rịa - Vũng Tàu bị đốn để chuyển sang cây trồng khác. Tại Bình Phước, người dân chặt điều, hồ tiêu, cao su, cà phê...để trồng sầu riêng. Đến năm 2022, diện tích trồng sầu riêng là 4.802 ha, trong khi đó diện tích cà phê giảm 604 ha, diện tích trồng hồ tiêu giảm 1.144 ha. Tháng 9 năm 2022, sầu riêng của Việt Nam chính thức được xuất khẩu chính ngạch sang Trung Quốc dẫn đến việc chặt để trồng sầu riêng diễn ra mạnh hơn. Năm 2016, người dân ở Mang Yang và một số huyện khác ở Gia Lai, đã ồ ạt chặt cây cao su trên 10 năm tuổi và chặt cây cà phê để trồng chanh dây. Điều này do giá mủ cao su hiện tại thấp, trong khi chanh dây có giá 20.000 VND/kg. Tuy nhiên, đến 2023, giá chanh dây tuột xuống mạnh khiến người trồng bị lỗ nặng. Năm 2022, ở Bình Thuận có 2.500 ha thanh long bị chặt để chuyển sang cây trồng khác, 1.500 ha khác ngừng canh tác. Từ những năm 2010, tại các tỉnh khu vực Tây Nam Bộ, như Tiền Giang, diễn ra việc phá bỏ lúa trồng mít, sau đó chặt bỏ các vườn mít để trồng sầu riêng. Một số vùng trồng trực tiếp từ lúa lên vườn sầu riêng. Năm 2012 ở Vĩnh Long, Hậu Giang, nông dân bỏ lúa trồng cam sành do họ thấy giá cam sành tăng cao. Giá lên đến 33.000 VND/kg, thậm chí vẫn có lợi nhuận nếu giá chỉ ở mức 7.000 VND/kg, vì chi phí chỉ khoảng 4.000 VND. Theo một đánh giá, một hecta lúa mang đến lợi nhuận 50 triệu VND nhưng cùng diện tích lợi nhuận trồng cam sành là 500 triệu. Tuy nhiên, đến năm 2018, nông dân lại phải chặt cam để trồng các loại cây ăn quả khác do hàng quá nhiều, giá cả không ổn định trong khi vật tư nông nghiệp lớn. Nông dân Vĩnh Long đã chuyển sang trồng mít Thái siêu sớm khi giá loại quả lên đến 50.000 VND/kg vào dịp Tết. Diện tích mít huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang tăng nhanh từ hơn 600 ha trong năm 2017 lên gần 1.000 ha trong năm 2018. Năm 2012, mặc dù sản lượng dừa của Bến Tre gia tăng nhưng Trung Quốc chỉ nhập ít hơn, giảm 70%, cùng thời điểm giá dừa toàn cầu sụt giảm, khiến nông dân ồ ạt chặt dừa, nhiều người chuyển sang trồng bưởi da xanh. Vào năm 2015 ở Hậu Giang và Sóc Trăng, giá thanh long tuột xuống chỉ còn 3.000 VND/kg, giá đu đủ là 500-1.000 VND/kg, dẫn đến nông dân chặt bỏ để trồng chanh không hạt khi giá loại quả này lên đến 20.000 VND/kg. Ở Bến Tre, vào năm 2018, nông dân chặt vườn cây măng cụt sau nhiều năm chúng có giá cao, nhưng họ không trồng lại loại cây ăn trái khác mà trồng các loại hoa kiểng và cây giống. Năm 2022, nhiều khu vực ở Long An nông dân cũng bắt đầu chặt thanh long để trồng các loại cây khác. Sầu riêng hiện đang là nông sản giá trị kinh tế cao, theo Đề án "Phát triển bền vững cây ăn quả chủ lực" do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thực hiện diện tích sẽ là 75.000 ha đến năm 2030 nhưng đến năm 2022 diện tích trồng đã tăng lên đến 110.000 ha, phân bổ khắp miền Tây, miền Đông và Tây Nguyên. Điều này dẫn đến rủi ro rất lớn do vấn đề đầu ra hàng hóa. Nguyên nhân lớn ảnh hưởng đến hiện tượng "Trồng rồi lại chặt" là từ Trung Quốc. Phần lớn nông sản Việt Nam xuất khẩu sang nước này, có thời điểm thị trường Trung Quốc nhập số lượng lớn hàng nông sản, chẳng hạn mít. Vào một số thời điểm họ không nhập hàng dẫn đến hàng hóa dồn ứ. Một nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đó là hậu quả của Đại dịch COVID-19 khiến tình trạng lỗ lã, phá sản trên diện rộng nhiều ngành nghề, bao gồm cả lĩnh vực nông nghiệp. Nông sản của nhiều nước như Thái Lan, C"trồng - chặt", điều đó cho thấy sự phụ thuộc nặng nề của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc, thị trường xuất khẩu nông sản gần như duy nhất của Việt Nam. Năm 2016, Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mang Yang Phạm Ngọc Cơ cho biết "Ngay cả cây cao su, khoai mì cũng bán sang thị trường [Trung Quốc] là chủ yếu". Một dữ liệu về thanh long, hơn 80% trong sản lượng 1,4 triệu tấn thanh long của Việt Nam được xuất sang Trung Quốc. Vấn đề lớn của hiện tượng "trồng - chặt" không chỉ là số lượng nông sản mà là vấn đề chất lượng. Sản phẩm không được chú trọng chất lượng dẫn đến bị ngừng xuất khẩu. Đầu năm 2023, thanh long ruột đỏ của Việt Nam xuất sang Nhật Bản bị đình chỉ. Yêu cầu chất lượng cần được đáp ứng đầy đủ, điều này minh chứng thông qua chứng nhận mã vùng nông sản xuất khẩu. Việc thiếu quản lý về giá cả gây thiệt hại nặng cho người nông dân. Tại Bến Tre, giá măng cụt mua tại vườn có thời điểm 40.000 VND/kg nhưng giá bán trôi nổi bên ngoài chỉ có 30.000 VND/kg, từ đó gây thiệt hại cho họ. Như thế, giá cả hoàn toàn chi phối hiện tượng "trồng - chặt" này chứ không phải sự đảm bảo của các hợp đồng thương mại. PGS.TS Nguyễn Văn Huỳnh - nguyên giảng viên khoa nông nghiệp Trường Đại học Cần Thơ đã có đánh giá người nông dân chạy theo phong trào, trồng trọt đánh liều, chỉ thấy cái lợi trong ngắn hạn. Không chỉ giá bán mà còn giá vật tư nông nghiệp quá cao, chi phí của phân bón, thuốc trừ sâ, do đó dẫn đến chặt - trồng. Năm 2023, nông dân nhiều địa phương ở Bến Tre vẫn chặt bỏ bưởi da xanh dù giá nông sản loại quả này đã có dấu hiệu tăng lại. Họ chuyển sang trồng loại cây khác như dừa xiêm xanh, điều. Hiện tại thì chính quyền không thể kiểm soát nổi nông dân. Năm 2011, chính quyền Hậu Giang cố gắng tìm cách khống chế việc bỏ lúa trồng cam sành, nhưng quá muộn. Chỉ riêng xã Tân Thành thuộc Ngã Bảy đã có 1.043 ha trồng cam, trong khi lúa chỉ còn diện tích 4,4 ha. Tại xã Phú Hữu huyện Châu Thành, 400 ha bưởi năm roi chỉ còn 80 ha. Chúng cũng bị chặt để trồng cam. Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Mang Yang Phạm Ngọc Cơ cho biết "Người dân thấy trồng cây gì có lợi thì họ trồng, không cản được". Năm 2023, Cục trưởng Cục Trồng trọt Nguyễn Như Cường cho biết Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hay UBND cấp tỉnh không thể bắt buộc người dân, "Cơ quan nhà nước chỉ đứng trên góc độ tổng thể như thị trường trong và ngoài nước, điều kiện tự nhiên, thị trường cạnh , cảnh báo nông dân chứ không thể cấm nông dân không được trồng cây này hay phải trồng cây khá" Trồng - chặt diễn ra không đồng bộ, "mạnh ai nấy làm", dẫn đến sản xuất manh mún, quy mô nhỏ lẻ, thiếu liên kết, thiếu thông tin thị trường. Dẫn đến trồng rồi lại khó khăn đầu ra thị trường tiêu thụ. Các giống cây trồng mới cho ra nông sản có nhiều ưu điểm vượt trội nên nhất thời thu hút khách hàng tiêu thụ trên thị trường. Việc trồng chúng cũng có nhiều thuận lợi. Một ví dụ, chanh không hạt có nguồn gốc từ Mỹ. Quả chanh không có hạt, vỏ mỏng, nước ít chua, không có vị đắng như chanh giấy. Cây cho trái quanh năm, cây ít gai, năng suất cao, khả năng kháng bệnh tốt. Trồng sau 18 tháng là đã có thể thu hoạch. Lợi nhuận do giống cây mới mang lại rất lớn cũng khiến nông dân nhất thời chạy theo, chẳng hạn, việc trồng chanh dây ở Gia Lai trong năm 2016 được tính toán chỉ đầu tư 100 triệu VND vào 1 ha đất có thể mang về lợi nhuận 1 tỷ VND. Ông Phạm Ngọc Cơ cho biết "Rất khó thực hiện quy hoạch loại cây trồng vì phải phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ". Một nguyên nhân bất khả kháng của chặt rồi trồng là do tình trạng xâm nhập mặn khiến các vườn cây bị mất mùa hoặc chết, điều này thấy rõ tại Tiền Giang, Bến Tre. Tại xã Tam Bình, Cai Lậy, Tiền Giang, thiên tai kép gồm đợt hạn hán và nước nhiễm mặn nghiêm trọng nhất chưa từng có vào năm 2020, hơn 70 % diện tích canh tác sầu riêng bị chết, số còn lại cũng đang chết dần. Tình trạng "trồng - chặt" bắt đầu từ việc chạy theo nhu cầu thị trường, khi một loại sản phẩm nông nghiệp đang giai đoạn giá trị cao nhiều nông dân đổ xô mua cây giống về trồng. Việc trồng cây chạy theo giá cả cao và cây bị chặt khi giá cả thị trường loại nông sản đó sụt giảm. Tuy nhiên đã diễn ra hiện tượng giá cả tăng trở lại thì thị trường thiếu hàng, người nông dân thì đã chặt sạch cây trong vườn của họ. Trong năm 2022 nông dân Tiền Giang chặt mít, nhưng sang năm 2023 giá mít tăng trở lại. Tại Bến Tre, chỉ trong vài năm khó khăn, không chỉ giá dừa tuột quá thấp, thương lái cũng không mua hàng nên nhiều nông dân chặt vườn dừa của họ, đến khi giá dừa tăng mạnh trở lại thì lại không có dừa để bán. Việc giá cả không ổn định, biến động liên tục dẫn đến hệ quả là thói quen ép giá của thương lái, thu mua với giá chênh lệch lớn. Tuy chính quyền có kêu gọi và doanh nghiệp đã có tham gia giữ giá thu mua "giải cứu" nhưng không thể kéo dài quá lâu. Việc chặt rồi trồng mất rất nhiều thời gian để có thể thu hoạch lại. Chẳng hạn sầu riêng mất từ 4 đến 5 năm thì cây sầu riêng mới đủ mức trưởng thành để thu hoạch. Trong thời gian đó, người nông dân có thể sẽ không có bất kỳ khoản thu nhập nào để trang trải cuộc sống. Các vấn đề khác là kỹ thuật trồng sầu riêng khá cao, chi phí vật tư nông nghiệp rất lớn. Đồng thời rủi ro về dịch bệnh, thiên tai. Măng cụt cũng cần thời gian dài tương ứng, khoảng 5 năm mới có thể cho trái vụ mùa đầu tiên. Đối với vấn nạn của dừa ở Bến Tre vào năm 2012, nhiều ý kiến đưa ra cũng cho thấy, chặt dừa rồi phải chờ rất nhiều năm, trong thời gian đó nông dân sống bằng gì. Việc trồng lại cũng là khoản tốn kém vì đòi hỏi phải có vốn, vốn trồng lại và chi phí chăm sóc trong thời gian dài cho đến khi có thể thu hoạch. Việc giá cả bấp bênh và tổn thất từ chặt rồi trồng dẫn đến đời sống nông dân trở nên khó khăn, nhất là về y tế, giáo dục. Trong các trường hợp khác, nông dân tiến hành chặt cây trồng cũ rồi trồng cây trồng mới trên những vùng đất không phù hợp cho cây trồng mới về mặt khí hậu, thổ nhưỡng gây kém chất lượng nông sản và sản lượng thấp. Do đó, hiệu quả kinh tế thấp. Nông sản chất lượng kém xuất phát từ nông dân trồng loại cây mới mà họ không chuyên. Một ví dụ, việc trồng thanh long tại Cà Mau, người nông dân chưa làm tốt việc canh tác do không am hiểu kỹ thuật trồng, chăm sóc, chống sâu bệnh nên năng suất thấp, chất lượng quả không cao. Lợi nhuận lớn của một số nông sản không chỉ khiến người nông dân chặt bỏ cây trong vườn của họ để trồng lại mà thúc đẩy họ đi thuê thêm nhiều đất đai để trồng loại cây đang có giá trị cao. Chẳng hạn việc thuê đất trồng cam từ năm 2012 ở một số tỉnh Vĩnh Long, Hậu Giang. Khi diện tích trồng của một loại cây nông nghiệp gia tăng dẫn đến sản lượng tăng lên, cung ứng vượt nhu cầu thị trường dẫn đến hàng hóa nông sản tràn ngập và giá cả bắt đầu sụt giảm. Thương lái không thu mua hoặc thu mua với giá mua thấp, dẫn đến nông dân bị lỗ do không bù nổi chi phí vật tư nông nghiệp, gồm phân bón, thuốc trừ sâ, nông dân tiến hành chặt bỏ cây trồng và bắt đầu trồng cây trồng khác khi họ thấy sản phẩm của loại cây đó đang được giá trên thị trường. Hiện tượng chạy theo cầu, cung thừa được lặp đi lặp lại dẫn đến việc trồng rồi lại chặt. Hiện tượng "trồng- chặt" liên tục cuối cùng đã đẩy nông dân vào khó khăn khiến nhiều người buộc phải bán đất để thanh toán nợ nần. Việc khuyến khích hạn chế trồng - chặt của nông dân là giải pháp đầu tiên. Võ Hữu Thoại, Viện trưởng Viện Cây ăn quả miền Nam Việt Nam đưa ra ý kiến: "Chúng tôi khuyên người dân trong quá trình trồng khi nông sản gặp giá thấp đừng vội phá bỏ, cần tìm hiểu thị trường và giảm đầu tư để hạ chi phí sản xuất, đợi giá tăng lại sẽ chăm sóc đầu tư. Như vậy sẽ giảm thiệt hại hơn so với việc vội vã chặt và đầu tư trồng mới" Năm 2012, Cục phó Cục Trồng trọt Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là Phan Văn Dư nói về ngành dừa Bến Tre "Mặc dù giá dừa liên tục giảm từ đầu năm 2012 đến nay và đang ở mức “thấp không tưởng”, nhưng đây là chuyện nóng lạnh của thị trường. Một thời gian ngắn nữa thôi, kinh tế thế giới hồi phục thì sức tiêu thụ tăng trở lại, giá dừa sẽ tăng. Chính vì thế, người dân Bến Tre cần bình tĩnh, cố gắng chịu đựng thêm một thời gian". Nông dân cần canh tác ổn định, bền vững, tránh chạy theo trào lưu. Việc chuyển đổi cây trồng cần xem xét kỹ khả năng thích ứng thời tiết, thổ nhưỡng, như khả năng chịu phèn cao, cây giống phù hợp với địa phương. Giải pháp thứ hai là liên kết với doanh nghiệp để họ có biện pháp bao tiêu sản phẩm ổn định cho người nông dân, nông dân cần có Hợp tác xã và mô hình này sẽ liên kết với doanh nghiệp, và liên kết với quản lý của nhà nước. Việc liên kết gắn với nhiều khâu, từ cây giống, kỹ thuật canh tác, tiêu thụ, chế biến, xuất khẩu. Chính phủ xác định 4 liên kết: nhà nông, doanh nghiệp, nhà nước, nhà khoa học để nông nghiệp phát triển bền vững, hạn chế tình trạng cung vượt cầu. Giải pháp thứ ba là hình thành các vùng đã được gắn với mã số vùng trồng xuất khẩu để giữ ổn định sản lượng nông sản xuất khẩu. Khi có mã vùng trồng xuất khẩu thì thị trường nhập từ Trung Quốc mới không bấp bênh, cũng như việc quản lý của nhà nước (Việt Nam) trước các biến động thị trường nông sản mới hiệu quả. Như thế, các vấn đề chính là đầu ra tiêu thụ của nông sản, chỉ cần giải quyết vấn đề này thì hiện tượng trồng - chặt sẽ chấm dứt. Tuy nhiên, đòi hỏi việc mở rộng vùng trồng được cấp mã số, cũng như đàm phán tăng số lượng hàng được xuất khẩu. Đồng thời, chất lượng hóa nông sản theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Giải pháp thứ tư là chế biến, đóng gói, đa dạng hóa sản phẩm, tránh việc phụ thuộc hình thức bán tươi nông sản. Giải pháp thứ năm là mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản sang nhiều nước, tổ chức các sự kiện festival Trái cây, chẳng hạn festival Dừa vào tháng 5 năm 2012. Giải pháp thứ sáu là kết hợp du lịch sinh thái và kết hợp sản xuất, như việc nuôi thủy sản ở các mương nước trong vườn. Chính quyền cũng đã xác định, Việt Nam cần thay đổi tư duy, từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp. Bên cạnh giải pháp dài hạn còn có giải pháp khẩn cấp là giải cứu nông sản. Việc chuyển sang trồng loại cây khác có nhiều khó khăn, người nông dân thiếu kinh nghiệm về loại cây trồng mới, cũng như đối mặt khó khăn chưa có kinh nghiệm tìm thị trường tiêu thụ. Điều này khiến một số nông dân có sự cẩn trọng trong quá trình chuyển đổi cây trồng, họ "chặt - trồng" một cách từ từ. Họ tiếp tục canh tác cây trồng hiện có, nhưng trồng xen loại cây mà họ đánh giá có giá trị cao, đang có sức hút trên thị trường tiêu thụ. Việc trồng xen từng bước một số phần đất một cách từ từ, bên cạnh đó là học hỏi và nghiên cứu kiến thức, kinh nghiệm về loại cây trồng mới. Tại Phú Tân, An Giang, khoảng 2012, nông dân được khuyến khích trồng xen cam và bưởi.
Thỏa thuận Hoa Kỳ–Taliban comment/* Hiệp định *//comment Hiệp định về mang lại hòa bình cho Afghanistan (), thường được gọi là Thỏa thuận Hoa Kỳ-Taliban hay Hiệp định Doha, là một hiệp định hòa bình được Hoa Kỳ và Taliban ký kết vào ngày 29 tháng 2 năm 2020 tại Doha, Qatar, nhằm chấm dứt chiến tranh 2001–2021 tại Afghanistan. Nhà ngoại giao Hoa Kỳ Zalmay Khalilzad thương thảo hiệp định, và nó không liên quan đến chính phủ Afghanistan khi đó. Thỏa thuận này cũng có các phụ lục bí mật, là một trong những sự kiện quan trọng gây ra sự sụp đổ của Các lực lượng an ninh quốc gia Afghanistan (ANSF). Tuân thủ các điều kiện trong hiệp định, Hoa Kỳ giảm đáng kể số lượng các cuộc không kích của họ, khiến ANSF không còn một lợi thế quan trọng trong việc ngăn chặn Taliban. Điều này dẫn đến 'cảm giác bị bỏ rơi trong ANSF và người dân Afghanistan'. ANSF không được chuẩn bị tốt để duy trì an ninh sau khi Hoa Kỳ rút quân, điều này tạo điều kiện cho Taliban nổi dậy, cuối cùng dẫn đến việc Taliban tiếp quản Kabul vào ngày 15 tháng 8 năm 2021. Hiệp định quy định các hạn chế về chiến đấu đối với cả Hoa Kỳ và Taliban, đồng thời quy định rút toàn bộ lực lượng NATO khỏi Afghanistan để đổi lấy các cam kết chống khủng bố của Taliban. Hoa Kỳ đồng ý giai đoạn đầu sẽ giảm số lượng quân từ 13.000 xuống 8.600 trong vòng 135 ngày (tức là trước tháng 7 năm 2020), sau đó là rút quân hoàn toàn trong vòng 14 tháng (tức là trước ngày 1 tháng 5 năm 2021) nếu Taliban giữ đúng cam kết. Hoa Kỳ cũng cam kết đóng cửa 5 căn cứ quân sự trong vòng 135 ngày, và bày tỏ ý định chấm dứt trừng phạt kinh tế đối với Taliban trước ngày 27 tháng 8 năm 2020. Thỏa thuận này được Pakistan, Trung Quốc, Nga và Ấn Độ hoan nghênh, và được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhất trí tán thành. Tuy nhiên, các cuộc tấn công của quân nổi dậy chống lại các lực lượng an ninh Afghanistan gia tăng sau hiệp định, khiến hàng nghìn người thiệt mạng. Tuy nhiên, việc rút quân vẫn tiếp tục theo thỏa thuận. Đến tháng 1 năm 2021, chỉ còn 2.500 lính Hoa Kỳ ở lại quốc gia này, và lực lượng NATO sơ tán hoàn toàn vào cuối mùa hè cùng năm. Hoa Kỳ hoàn tất việc sơ tán toàn bộ vào ngày 30 tháng 8 năm 2021, trong khi Taliban dùng vũ lực để nắm quyền kiểm soát đất nước. Các cuộc đàm phán nội bộ Afghanistan dự kiến bắt đầu vào ngày 10 tháng 3 năm 2020 tại Oslo, Na Uy. Thành phần của nhóm đàm phán chính phủ Afghanistan chưa được xác định, vì kết quả của cuộc bầu cử tổng thống Afghanistan 2019 còn bị tranh chấp. Hiệp định yêu cầu chính phủ Afghanistan trả tự do cho 5.000 tù nhân Taliban trước khi bắt đầu cuộc đàm phán, trong một cuộc trao đổi tù binh để đổi lấy 1.000 binh sĩ chính phủ bị Taliban giam giữ. Các điều khoản của thỏa thuận bao gồm rút toàn bộ quân NATO khỏi Afghanistan, Taliban cam kết ngăn chặn al-Qaeda hoạt động tại các khu vực nằm dưới quyền kiểm soát của Taliban, và tổ chức các cuộc đàm phán giữa Taliban và chính phủ Afghanistan. Hoa Kỳ đồng ý đợt cắt giảm ban đầu lực lượng của mình từ 13.000 xuống 8.600 vào tháng 7 năm 2020, sau đó là rút quân hoàn toàn trong vòng 14 tháng nếu Taliban giữ đúng cam kết. Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg cam kết sẽ giảm quân số của NATO xuống còn khoảng 12.000 từ khoảng 16.000 quân. Hoa Kỳ cũng cam kết đóng cửa 5 căn cứ quân sự trong vòng 135 ngày, và bày tỏ ý định chấm dứt các lệnh trừng phạt kinh tế đối với Taliban trước ngày 27 tháng 8 năm 2020. Đối thoại và đàm phán nội bộ Afghanistan. Thỏa thuận Hoa Kỳ-Taliban kêu gọi đối thoại và đàm phán nội bộ Afghanistan về "một lệnh ngừng bắn lâu dài và toàn diện" bắt đầu vào ngày 10 tháng 3. Chính phủ Afghanistan không phải là một bên trong thỏa thuận Hoa Kỳ-Taliban và đến ngày 1 tháng 3, Tổng thống Afghanistan Ashraf Ghani từ chối trao đổi tù binh, nói rằng: "Chính phủ Afghanistan không đưa ra cam kết phóng thích 5.000 tù nhân Taliban. [...] Việc thả tù binh không phải là thẩm quyền của Hoa Kỳ, mà là thẩm quyền của chính phủ Afghanistan." Ghani cũng tuyên bố rằng bất kỳ cuộc trao đổi tù binh nào cũng "không thể là điều kiện tiên quyết cho các cuộc đàm phán", mà phải là một phần của cuộc đàm phán. Vào ngày 2 tháng 3, một phát ngôn viên của Taliban tuyên bố rằng họ "hoàn toàn sẵn sàng" cho các cuộc đàm phán nội bộ Afghanistan, nhưng sẽ không có cuộc đàm phán nào nếu khoảng 5.000 tù nhân của họ không được thả ra. Ông cũng nói rằng thời gian giảm bạo lực theo thỏa thuận đã kết thúc và các hoạt động chống lại lực lượng chính phủ Afghanistan có thể lại tiếp tục. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán giữa chính phủ Afghanistan và Taliban về việc thả tù nhân vẫn bắt đầu như dự kiến vào ngày 10 tháng 3 năm 2020. Trong cùng ngày, Ghani cũng ký sắc lệnh thả 1.500 tù nhân Taliban vào ngày 14 tháng 3, nhưng chỉ khi họ đồng ý ký vào cam kết cam đoan họ sẽ không quay lại chiến trường. Cùng ngày, Hoa Kỳ bắt đầu rút một số binh sĩ. Mặc dù các điều khoản của hiệp định hòa bình được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc nhất trí ủng hộ, các nguồn tin thân cận với Taliban, bao gồm cả người phát ngôn của Taliban Suhail Shaheen, sau đó thông báo rằng nhóm này đã bác bỏ sắc lệnh trao đổi tù nhân của Ghani và vẫn nhất quyết yêu cầu thả 5.000 tù nhân Taliban. Vào ngày 14 tháng 3 năm 2020, phát ngôn viên của Hội đồng An ninh Quốc gia là Javid Faisal tuyên bố rằng Ghani đã trì hoãn việc thả tù nhân Taliban, dẫn lý do cần phải xét lại danh sách tù nhân, do đó gây nguy hiểm cho hiệp định hòa bình giữa chính phủ Hoa Kỳ và Taliban. Ngày 27 tháng 3 năm 2020, chính phủ Afghanistan tuyên bố thành lập nhóm đàm phán gồm 21 thành viên để tham gia các cuộc đàm phán hòa bình. Tuy nhiên, vào ngày 29 tháng 3, Taliban từ chối nhóm này, nói rằng "chúng tôi sẽ chỉ ngồi đàm phán với một nhóm đàm phán tuân thủ các hiệp định của chúng tôi và được thành lập theo các nguyên tắc đã đặt ra." Đến ngày 31 tháng 3 năm 2020, một phái đoàn Taliban gồm ba người đến Kabul để thảo luận về việc thả tù nhân. Họ là các đại biểu Taliban đầu tiên đến thăm Kabul kể từ năm 2001. Chính phủ Afghanistan trước đó cũng đồng ý tổ chức các cuộc đàm phán tại nhà tù Bagram. Tuy nhiên, cùng ngày, chính phủ Afghanistan thông báo rằng việc Taliban từ chối đồng ý một lệnh ngừng bắn khác và việc phái đoàn Taliban từ chối có mặt tại nhà tù vào thời gian đã định đều đã dẫn đến hoãn lại việc trao đổi tù nhân. Sau khi phái đoàn Taliban xuất hiện, một quan chức cấp cao của chính phủ Afghanistan nói với Reuters "việc thả tù nhân có thể diễn ra trong vài ngày tới nếu mọi việc diễn ra theo đúng kế hoạch." Ngày 31 tháng 3 năm 2020, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc kêu gọi tất cả các bên tham chiến tuyên bố lệnh ngừng bắn để tiến trình hòa bình tiến triển hơn nữa. Vào ngày 1 tháng 4 năm 2020, có thông tin tiết lộ rằng cả Taliban và chính phủ Afghanistan trên thực tế đã tổ chức các cuộc đàm phán trực tiếp tại Kabul vào ngày hôm trước, không giống như các cuộc đàm phán hội nghị video trước đó và chúng được Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế (ICRC) giám sát. Tuy nhiên, Văn phòng Hội đồng An ninh Quốc gia Afghanistan tuyên bố rằng tiến bộ duy nhất đạt được cho đến nay là "về các vấn đề kỹ thuật" và người phát ngôn của Taliban Zabihullah Mujahid sau đó tuyên bố "sẽ không có cuộc đàm phán chính trị nào ở đó." Bên ngoài cuộc đàm phán, căng thẳng giữa chính phủ Afghanistan và Taliban còn bộc lộ khi chính quyền Afghanistan đổ lỗi cho Taliban về vụ nổ ngày 1 tháng 4 năm 2020 khiến nhiều trẻ em thiệt mạng tại Helmand. Vào ngày đàm phán thứ hai, có sự thống nhất rằng vào ngày 2 tháng 4 năm 2020, có 100 tù nhân Taliban sẽ được trả tự do để đổi lấy 20 quân nhân Afghanistan. Vào ngày 7 tháng 4 năm 2020, Taliban rời khỏi các cuộc đàm phán trao đổi tù nhân, người phát ngôn của Taliban Suhail Shaheen mô tả chúng là "không có kết quả". Shaheen cũng tuyên bố trong một tweet rằng nhóm đàm phán của Taliban được triệu hồi khỏi Kabul vài giờ sau khi rời khỏi cuộc đàm phán. Taliban cũng không đảm bảo được việc thả bất kỳ ai trong số 15 chỉ huy mà họ yêu cầu trả tự do. Những tranh cãi về việc tù nhân nào được trao đổi cũng dẫn đến chậm trễ trong việc trao đổi tù nhân theo kế hoạch. Ngày hôm sau, Faisal khẳng định chỉ có 100 tù nhân Taliban sẽ được thả. Faisal sau đó tuyên bố rằng 100 tù nhân bị giam giữ tại Bagram đã được thả. Taliban từ chối xác minh những thông tin được công bố này, một phần là do việc Taliban rút khỏi Kabul đã ngăn cản "đội ngũ kỹ thuật" của họ xác minh danh tính tù nhân. Do chỉ có chính phủ Afghanistan xác định tù nhân nào được thả nên cũng không thể xác nhận liệu họ có nằm trong danh sách ưu tiên của Taliban hay không. Vào ngày 17 tháng 5 năm 2020, Ghani đã ký một thỏa thuận chia sẻ quyền lực với đối thủ Abdullah Abdullah, chấm dứt tranh chấp kéo dài về kết quả của bầu cử tổng thống Afghanistan năm 2019 và giao trách nhiệm đàm phán hòa bình cho Abdullah. Đến tháng 8 năm 2020, chính phủ Afghanistan thả 5.100 tù nhân, và Taliban thả 1.000 người. Tuy nhiên, chính phủ Afghanistan từ chối thả 400 tù nhân trong danh sách của Taliban, vì 400 người đó bị cáo buộc phạm tội nghiêm trọng. Ghani tuyên bố rằng theo hiến pháp ông không có thẩm quyền trả tự do cho những tù nhân này, vì vậy ông triệu tập "loya jirga" (hội đồng thủ lĩnh) từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 8 để thảo luận về vấn đề này. Jirga đồng ý trả tự do cho 400 tù nhân còn lại. Vào ngày 14 tháng 8 năm 2020, một trong 21 thành viên của nhóm đàm phán Afghanistan, là Fawzia Koofi và chị gái bà Maryam Koofi bị các tay súng tấn công gần Kabul. Fawzia Koofi là một nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng tại Afghanistan, là người hay lên tiếng tố cáo Taliban. Các quan chức Taliban cáo buộc chính phủ Afghanistan cố tình trì hoãn thả 100 tù nhân Taliban nhằm cản trở các cuộc đàm phán. Chính phủ Afghanistan phủ nhận những tuyên bố này, nhấn mạnh rằng tất cả tù nhân Taliban đã được trả tự do. Tính đến tháng 9 năm 2020, chính phủ Afghanistan đã trả tự do cho khoảng 5.000 tù nhân Taliban sau yêu cầu từ chính quyền Trump. Một nhóm hòa giải của chính phủ vẫn sẵn sàng tới Doha để đàm phán với Taliban, nhưng sự trì hoãn vẫn tiếp diễn. Nối lại cuộc nổi dậy. Sau khi ký kết thỏa thuận Hoa Kỳ-Taliban vào ngày 29 tháng 2 năm 2020, các cuộc tấn công nổi dậy chống lại Lực lượng an ninh Afghanistan tăng lên. Taliban nối lại các hoạt động tấn công chống lại quân đội và cảnh sát Afghanistan vào ngày 3 tháng 3 năm 2020, tiến hành các cuộc tấn công tại các tỉnh Kunduz và Helmand. Ngày 4 tháng 3, Hoa Kỳ tiến hành không kích các tay súng Taliban tại tỉnh Helmand. Tuy nhiên, sau thỏa thuận này Hoa Kỳ đã ngừng hỗ trợ quân đội Afghanistan trong các hoạt động tấn công, buộc lực lượng này phải đảm nhiệm hầu hết các vị trí phòng thủ trên khắp đất nước. Theo thỏa thuận, máy bay quân sự Hoa Kỳ không thể tấn công các nhóm Taliban đang chờ cách đó trên 500 mét, giúp Taliban có lợi thế trong việc nhắm mục tiêu vào các đơn vị quân đội Afghanistan. Hiệp định này cũng làm trầm trọng thêm tinh thần của quân đội và cảnh sát Afghanistan, khiến họ cởi mở hơn trong việc chấp nhận thương lượng với Taliban. Do thiếu thông tin và các phụ lục bí mật trong thỏa thuận, là điều thậm chí không được chia sẻ với chính phủ Afghanistan khi đó, Taliban đã có thể tuyên truyền và đưa thông tin sai lệch về thỏa thuận, bao gồm cả việc thuyết phục cảnh sát địa phương và các đơn vị quân đội rằng Hoa Kỳ đã giao các vùng lãnh thổ cho Taliban và họ nên từ bỏ vị trí của mình. Trong 45 ngày sau hiệp định (từ 1/3 đến 15/4/2020), Taliban tiến hành hơn 4.500 cuộc tấn công tại Afghanistan, tăng hơn 70% so với cùng kỳ năm trước. Hơn 900 binh sĩ lực lượng an ninh Afghanistan thiệt mạng trong giai đoạn này, tăng so với khoảng 520 người cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, do số lượng các cuộc tấn công và không kích của lực lượng Afghanistan và Mỹ chống lại Taliban giảm đáng kể, thương vong của Taliban giảm xuống còn 610 trong cùng kỳ, giảm từ khoảng 1.660 trong cùng kỳ năm trước. Người phát ngôn của Lầu Năm Góc là Jonathan Hoffman nói rằng mặc dù Taliban ngừng tiến hành các cuộc tấn công chống lại lực lượng liên minh do Mỹ lãnh đạo tại Afghanistan, bạo lực vẫn "cao đến mức không thể chấp nhận được" và "không có lợi cho một giải pháp ngoại giao." Ông nói thêm: "Chúng tôi đã tiếp tục thực hiện các cuộc tấn công phòng thủ để giúp bảo vệ các đối tác của chúng tôi trong khu vực và chúng tôi sẽ tiếp tục làm điều đó." Vào ngày 22 tháng 6 năm 2020, Afghanistan báo cáo "tuần đẫm máu nhất trong 19 năm", trong đó 291 thành viên ANSF thiệt mạng và 550 người khác bị thương trong 422 cuộc tấn công do Taliban thực hiện. Ít nhất 42 thường dân, bao gồm cả phụ nữ và trẻ em, cũng thiệt mạng và 105 người khác bị thương do Taliban trên khắp 18 tỉnh. Trong tuần, Taliban bắt cóc 60 thường dân trong tỉnh miền trung Daykundi. Lực lượng NATO rút lui. Hiệp định Hoa Kỳ-Taliban cũng quy đinh việc rút khỏi Afghanistan của "tất cả các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, các đồng minh của họ, và các đối tác của Liên minh, bao gồm tất cả các nhân viên dân sự phi ngoại giao, nhà thầu an ninh tư nhân, người huấn luyện, người cố vấn và nhân viên dịch vụ hỗ trợ". Chính quyền Donald Trump đồng ý mức giảm ban đầu quân đội Mỹ ở Afghanistan từ 13.000 xuống 8.600 trong vòng 135 ngày (tức là trước tháng 7 năm 2020), sau đó là rút quân hoàn toàn trong vòng 14 tháng (tức là trước ngày 1 tháng 5 năm 2021), nếu Taliban giữ đúng cam kết của họ. Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg cam kết sẽ giảm quân số của NATO xuống còn khoảng 12.000 từ khoảng 16.000 quân. Hoa Kỳ cũng cam kết đóng cửa 5 căn cứ quân sự trong vòng 135 ngày. Vào ngày 10 tháng 3 năm 2020, Hoa Kỳ bắt đầu rút một số binh sĩ. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Ủy ban Quân vụ Hạ viện Hoa Kỳ bỏ phiếu áp đảo ủng hộ việc sửa đổi Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng để hạn chế khả năng của Tổng thống Trump trong việc rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Afghanistan xuống dưới mức 8.600 đã thực hiện xong. Vào ngày 20 tháng 1 năm 2021, tại thời điểm buổi lễ nhậm chức của Joe Biden, có 2.500 lính Mỹ vẫn còn ở Afghanistan. Cố vấn an ninh quốc gia của Biden là Jake Sullivan nói rằng chính quyền sẽ xem xét lại hiệp định rút quân. Vào ngày 14 tháng 4 năm 2021, chính quyền Biden cho biết Hoa Kỳ sẽ không rút số binh sĩ còn lại trước ngày 1 tháng 5 mà sẽ rút họ trước ngày 11 tháng 9. Vào ngày 8 tháng 7, Biden chỉ định mốc rút quân của Hoa Kỳ là 31 tháng 8. Các lực lượng phương Tây khác tự đặt ra thời gian rút lui. Đức và Ý rút quân khỏi Afghanistan vào ngày 2 tháng 7 năm 2021. Úc hoàn tất việc rút quân vào ngày 15 tháng 7. Chuyến bay cuối cùng của Anh diễn ra vào ngày 28 tháng 8. Trong suốt tháng 8 năm 2021, Taliban nhanh chóng nắm quyền kiểm soát đất nước bằng vũ lực. Số lính Mỹ còn lại được rút trước ngày 30 tháng 8 năm 2021.
Phép thuật (thuật ngữ trò chơi) Magic points, mana points, MP hoặc ma pháp là thuộc tính được gán cho các ký tự trong đóng vai hoặc trò chơi điện tử cho thấy khả năng sử dụng của họ khả năng phép thuật đặc biệt hoặc "phép thuật". Phép thuật thường được đo bằng điểm ma thuật hoặc điểm năng lượng, viết tắt là MP. Khi MP của một nhân vật cạn kiệt, nhân vật sẽ không thể sử dụng các khả năng đặc biệt cho đến khi một phần MP của họ được phục hồi. Giống như sức khỏe, ma thuật có thể được hiển thị dưới dạng giá trị số, chẳng hạn như "50/100". Ở đây, số đầu tiên cho biết lượng MP hiện tại mà một nhân vật có trong khi số thứ hai cho biết lượng MP tối đa của nhân vật. Trong trò chơi điện tử, phép thuật cũng có thể được hiển thị một cách trực quan, chẳng hạn như với một thước đo tự hết khi nhân vật sử dụng khả năng của mình. Tùy thuộc vào trò chơi, thanh mana có thể hồi phục từ từ theo thời gian hoặc chỉ tái tạo khi người chơi nghỉ ngơi hoặc uống rượu. Trong trò chơi trực tuyến, người chơi có mana có thể nói OOM (hết mana) khi họ không còn mana. Đề cập đến trạng thái mana của bạn đặc biệt quan trọng đối với người chữa lành vì họ không thể chữa lành vết thương cho những người chơi khác trừ khi họ có mana. Vì các kỹ năng và khả năng thường không bị mất nên người thiết kế trò chơi có thể quyết định hạn chế sử dụng khả năng đó bằng cách liên kết việc sử dụng nó với điểm ma thuật. Bằng cách này, sau khi sử dụng một khả năng, người chơi được yêu cầu nghỉ ngơi hoặc sử dụng một vật phẩm để bổ sung MP cho nhân vật của họ'. Điều này được thực hiện để cân bằng, sao cho mỗi kỹ năng không có khả năng thi triển vô hạn với kết quả như nhau ở mọi lần. "Phép thuật" có thể được thay thế bằng sức mạnh tâm linh, sức mạnh tâm linh, công nghệ tiên tiến hoặc các khái niệm khác cho phép một nhân vật ảnh hưởng đến thế giới xung quanh mà không có trong đời thực. Phép thuật thường bị giới hạn ở một loại nhân vật cụ thể, chẳng hạn như "pháp sư" hoặc "spellcaster", trong khi các lớp nhân vật khác phải dựa vào chiến đấu cận chiến hoặc đạn vật lý. Các lớp nhân vật khác, chẳng hạn như những lớp dựa vào trong các cuộc tấn công cận chiến, cũng có thể có "ma thuật"; thanh giới hạn khả năng đặc biệt của họ, mặc dù chúng thường được gọi bằng cái gì đó khác, chẳng hạn như "Fury" của Barbarian; trong "Diablo 3". Trong trò chơi điện tử, MP thường có thể được phục hồi bằng cách sử dụng thuốc ma thuật hoặc có thể phục hồi theo thời gian. Hiệu ứng trạng thái là sự sửa đổi tạm thời đối với bộ chỉ số ban đầu của nhân vật trong trò chơi. Một nhân vật có thể sử dụng một câu thần chú gây ra hiệu ứng trạng thái tích cực hoặc tiêu cực lên một nhân vật khác. Trong trò chơi nhập vai. Trong cả trò chơi nhập vai trên máy tính bảng và trò chơi điện tử nhập vai, phép thuật thường được sử dụng nhiều nhất để thi triển phép thuật trong trận chiến. Tuy nhiên, trong game nhập vai trên máy tính bảng, không giống như trong trò chơi điện tử, phép thuật có nhiều công dụng ngoài tình huống chiến đấu, chẳng hạn như sử dụng bùa yêu trên NPC để thu thập thông tin. Một số trò chơi dựa trên sức mạnh và lượng phép thuật của nhân vật trên chẳng hạn như "sự khôn ngoan" hoặc "trí thông minh". Những số liệu thống kê này được sử dụng vì chúng dễ theo dõi và phát triển trong các game nhập vai bằng giấy bút. Trong trò chơi thần thánh. Trong godgame, sức mạnh của người chơi thường được gọi là mana và tăng trưởng cùng với số lượng và sự thịnh vượng của người chơi những người tôn thờ 39; Ở đây, quy mô dân số ảnh hưởng đến lượng mana tối đa mà người chơi có và tốc độ mana của họ tự phục hồi khi nó ở dưới mức tối đa đó. Sử dụng "sức mạnh thần thánh" tiêu tốn mana, nhưng những hành động như vậy là cần thiết để tăng số lượng và sự thịnh vượng của dân số. Hệ thống phép thuật trong trò chơi nhập vai trên máy tính bảng chẳng hạn như "Dungeons Những con rồng" phần lớn dựa trên các khuôn mẫu được thiết lập trong tiểu thuyết "Trái đất hấp hối" của tác giả Jack Vance. Trong hệ thống này, nhân vật của người chơi chỉ có thể ghi nhớ một số phép thuật cố định từ danh sách các phép thuật. Khi phép thuật này được sử dụng một lần, nhân vật sẽ quên nó và không thể sử dụng lại. "Mana" là một từ xuất phát từ ngôn ngữ Polynesia có nghĩa là thứ gì đó gần giống "sức mạnh siêu nhiên". Khái niệm mana được nhà truyền giáo Robert Henry Codrington giới thiệu ở Châu Âu vào năm 1891 và được phổ biến rộng rãi bởi Mircea Eliade vào những năm 1950. Nó lần đầu tiên được giới thiệu như một loại nhiên liệu ma thuật dùng để niệm phép trong truyện ngắn năm 1969, "Không lâu trước khi kết thúc", của Larry Niven, là một phần của và sau đó được phổ biến nhờ bối cảnh "The Magic Goes Away" của anh ấy. Kể từ đó, nó đã trở thành một yếu tố phổ biến trong cả trò chơi nhập vai và trò chơi điện tử.
Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010 được tổ chức tại Quảng Châu, Trung Quốc từ ngày 18 đến ngày 20 tháng 11 năm 2010. Tất cả các nội dung đều được diễn ra tại Hồ Thuyền rồng Tăng Thành. Quốc gia tham dự. Tổng cộng có 407 vận động viên đến từ 11 quốc gia tranh tài bộ môn Thuyền rồng tại Đại hội Thể thao châu Á 2010:
Hòa giải Đức (; ) là quá trình tái cơ cấu lãnh thổ lớn diễn ra từ năm 1802 đến năm 1814 ở Đế chế La Mã Thần thánh và khu vực xung quanh bằng phương tiện hòa giải đại chúng và thế tục hóa của một số lượng lớn các Điền trang Đế chế. Hầu hết các Thân vương giáo hội, các thành bang đế chế tự do, các thân vương quốc thế tục và các thực thể tự trị nhỏ khác của Đế quốc La Mã Thần thánh đều mất tư cách độc lập và bị sáp nhập vào các nhà nước còn lại. Đến cuối quá trình hòa giải, số nhà nước ở Đức đã giảm từ gần 300 xuống chỉ còn 39. Theo nghĩa chặt chẽ của từ này, hòa giải bao gồm việc gộp một lãnh thổ với quyền đế chế trực tiếp (unmittelbar) vào một lãnh thổ khác, do đó trở thành trạng thái trung gian (mittelbar), trong khi để lại cho người cai trị bị phế truất các tài sản riêng của mình cùng một số đặc quyền và quyền phong kiến, chẳng hạn tước vị và quyển tư pháp thấp. Để thuận tiện, các nhà sử học sử dụng thuật ngữ hòa giải cho toàn bộ quá trình tái cơ cấu diễn ra vào thời điểm đó, cho dù các trạng thái được hòa giải có tồn tại dưới một hình thức nào đó. Quá trình thế tục hóa các nhà nước giáo hội diễn ra đồng thời với quá trình trung gian hóa các thành bang đế chế tự do và các nhà nước thế tục khác. Quá trình hòa giải đại chúng và thế tục hóa các quốc gia Đức diễn ra vào thời điểm đó không phải do người Đức khởi xướng. Nó chịu áp lực quân sự và ngoại giao không ngừng từ nước Pháp cách mạng, sau là Đệ Nhất Đế chế Pháp và Napoléon. Nó tạo ra quá trình phân phối lại tài sản và lãnh thổ rộng rãi nhất trong lịch sử Đức trước năm 1945. Mặc dù hầu hết các quốc gia láng giềng đã liên kết thành các nhà nước tương đối tập trung trước thế kỷ XIX, nhưng Đức đã không đi theo con đường đó. Thay vào đó, Đế chế La Mã Thần thánh phần lớn duy trì cấu trúc chính trị thời trung cổ của mình bao gồm "các liên minh cá nhân đa ngôn ngữ gồm hàng trăm nhà nước và lãnh thổ gần như có chủ quyền, có quy mô từ đáng kể đến rất nhỏ". Từ con số gần 400, gồm 136 lãnh thổ giáo hội, 173 lãnh chúa thế tục cộng với 85 thành bang đế chế tự do – vào đêm trước cuộc Cải cách, con số này chỉ giảm xuống dưới 300 một chút vào cuối thế kỷ XVIII. Lời giải thích truyền thống cho sự phân mảnh này ("Kleinstaaterei") tập trung vào việc các hoàng đế Thánh chế La Mã bị mất quyền lực dần dần bởi các Thân vương Đế chế trong thời kỳ Staufen (1138–1254), đến mức theo Hòa ước Westphalia (1648), Hoàng đế đã trở thành một người đứng đầu trong số những người ngang hàng. Trong những thập kỷ gần đây, nhiều nhà sử học vẫn khẳng định rằng sự phân mảnh của Đức - khởi đầu là một chính thể lớn trong khi các nước láng giềng bắt đầu với quy mô nhỏ - có thể bắt nguồn từ phạm vi địa lý của Đế quốc - Phần Đế quốc Đức có diện tích gấp đôi lãnh thổ do vua Pháp kiểm soát vào nửa sau thế kỷ 11 - và sức mạnh của các thân vương giáo hội và quý tộc địa phương từ rất sớm trong thời kỳ trung cổ. Ngay trong thế kỷ XII, các Thân vương thế tục và tinh thần không coi mình là cấp dưới của Hoàng đế, càng không phải là thần dân của ông, mà là những người cai trị theo quyền riêng của họ - và họ bảo vệ phạm vi thống trị đã được thiết lập của mình. Vào thời điểm Hoàng đế Frederick II qua đời vào năm 1250, đã quyết định rằng Vương quốc Đức là "một tầng lớp quý tộc có người đứng đầu theo chế độ quân chủ". Trong số các nhà nước và vùng lãnh thổ đó, các Giáo phận vương quyền là duy nhất ở Đức. Trong lịch sử, các Hoàng đế của Vương triều Otto và thời kỳ đầu của Vương tộc Salier, những người bổ nhiệm các giám mục và tu viện trưởng, đã sử dụng họ làm đặc vụ của vương quyền hoàng gia - vì họ đáng tin cậy hơn các công tước mà họ bổ nhiệm và là những người thường cố gắng thiết lập các công quốc cha truyền con nối độc lập. Các hoàng đế đã mở rộng quyền lực của Giáo hội, và đặc biệt là của các giám mục, bằng việc ban tặng đất đai và vô số đặc quyền miễn trừ và bảo vệ cũng như các quyền tư pháp rộng rãi, cuối cùng hợp nhất thành một công quốc tạm thời đặc biệt: "Hochstift". Giám mục người Đức đã trở thành "Thân vương của Đế chế" và là chư hầu trực tiếp của Hoàng đế cho Hochstift của mình, trong khi tiếp tục chỉ thực hiện quyền mục vụ đối với giáo phận lớn hơn của mình. Việc Hoàng đế bổ nhiệm cá nhân các giám mục đã gây ra tranh cãi về việc tấn phong vào thế kỷ XI, và sau đó, quyền kiểm soát của hoàng đế đối với việc lựa chọn và cai trị của các giám mục đã giảm đi đáng kể. Các giám mục, hiện được bầu chọn bởi các giáo đoàn có tư tưởng độc lập chứ không phải do hoàng đế hay Giáo hoàng lựa chọn, được xác nhận là lãnh chúa ngang hàng với các Thân vương thế tục. Thế tục hóa sớm. Phải đối mặt với chủ nghĩa bành trướng lãnh thổ của các Thân vương thế tục ngày càng hùng mạnh, địa vị của các Giám mục vương quyền càng trở nên bấp bênh theo thời gian. Trong quá trình Cải cách, một số giám mục ở phía Bắc và Đông Bắc đã bị thế tục hóa, chủ yếu phục vụ lợi ích của các Thân vương theo đạo Tin Lành. Vào cuối thế kỷ XVI, Phong trào Phản Cải cách đã cố gắng đảo ngược một số xu hướng thế tục hóa này, và câu hỏi về số phận của các vùng lãnh thổ bị thế tục hóa đã trở thành một vấn đề quan trọng trong Chiến tranh Ba mươi năm (1618–1648). Cuối cùng, Hòa ước Westphalia xác nhận việc thế tục hóa một loạt các Giáo phận vương quyền, bao gồm các tổng giám mục Bremen và Magdeburg và sáu giám mục có toàn bộ quyền lực chính trị, được giao cho Thụy Điển, Brandenburg và Mecklenburg. Mặt khác, Giáo phận vương quyền Hildesheim và Paderborn – dưới sự quản lý của đạo Tin Lành trong nhiều thập kỷ và bị bỏ rơi – đã được phục hồi và trở thành Giáo phận vương quyền. Ngoài ra, Hoà ước đã tái khẳng định một cách dứt khoát tính trực tiếp của đế quốc, và do đó, tính độc lập trên thực tế của các Giám mục vương quyền và Tu viện trưởng hoàng gia, các thành bang đế chế, các Bá tước Đế quốc, cũng như các Hiệp sĩ hoàng gia. Theo một cơ quan có thẩm quyền, 65 nhà cai trị giáo hội khi đó đã kiểm soát 1/7 tổng diện tích đất đai và khoảng 12% dân số của Đế chế, có lẽ là 3,5 triệu thần dân. Do trải nghiệm đau thương trong Chiến tranh Ba mươi năm và để tránh lặp lại thảm họa này, các nhà cai trị Đức dù lớn hay nhỏ giờ đây có xu hướng coi trọng luật pháp và các cấu trúc pháp lý hơn bao giờ hết trong lịch sử của Đế chế. Điều này giải thích phần lớn lý do tại sao các nhàn nước vừa và nhỏ, cả giáo hội và thế tục, đều có thể tồn tại và thậm chí thịnh vượng ở vùng lân cận các quốc gia hùng mạnh có quân đội thường trực như Brandenburg/Phổ, Bayẻn và Áo. Kế hoạch thế tục hóa thế kỷ XVIII. Mặc dù không có quá trình thế tục hóa thực sự diễn ra trong suốt thế kỷ rưỡi sau Hòa ước Westphalia, nhưng vẫn có một lịch sử lâu dài về những tin đồn và kế hoạch nửa vời về khả năng thế tục hóa. Sự tồn tại liên tục của các Giám mục vương quyền độc lập, một hiện tượng dị thường chỉ có ở Đế quốc La Mã Thần thánh, ngày càng bị coi là lỗi thời, đặc biệt, nhưng không chỉ riêng, bởi các Thân vương theo đạo Tin Lành, những người cũng thèm muốn những vùng lãnh thổ không có khả năng tự vệ này. Do đó, các đề xuất bí mật của Vương quốc Phổ nhằm chấm dứt Chiến tranh Kế vị Áo kêu gọi tăng cường cơ sở lãnh thổ không đủ của Hoàng đế thuộc Vương tộc Wittelsbach là Karl VII thông qua việc sáp nhập một số Giáo phận vương quyền. Năm 1743, Bộ trưởng Heinrich von Podewils của Friedrich II của Phổ đã viết một bản ghi nhớ đề nghị trao cho Hoàng đế Wittelsbach các Giáo phận Passau, Augsburg và Regensburg, cũng như các thành bang hoàng gia Augsburg, Regensburg và Ulm. Friedrich II đã thêm tổng giáo phận Salzburg vào danh sách và Karl VII còn đi xa hơn khi bổ sung các tổng giáo phận Eichstätt và Freising. Kế hoạch này đã gây chấn động và phẫn nộ trong các Giám mục vương quyền, các thành bang đế quốc tự do và các điền trang nhỏ khác của đế quốc, đồng thời các giám mục đã thảo luận về việc huy động một đội quân 40.000 người để tự vệ trước Hoàng đế đang có ý định chiếm đất của giáo hội mà khi lên ngôi ông ấy đã thề là sẽ bảo vệ. Mặc dù cái chết đột ngột của Karl VII đã đặt dấu chấm hết cho âm mưu này, nhưng ý tưởng về thế tục hóa vẫn không hề phai nhạt. Nó đã được thảo luận tích cực trong Chiến tranh Bảy năm, và một lần nữa trong quá trình Hoàng đế Joseph II điều động quyền thừa kế xứ Bayern và trong kế hoạch trao đổi sau này của ông để đổi Tuyển hầu xứ Bayern lấy Hà Lan thuộc Áo, trong đó bao gồm một điều khoản bí mật về việc thế tục hóa Tổng giáo phận vương quyền Salzburg và Berchtesgaden Provostry. Tuy nhiên, không có kế hoạch nào trong số này được thực hiện bởi vì cuối cùng, các tác nhân chủ chốt đánh giá cao rằng việc thế tục hóa một Giám mục vương quyền duy nhất sẽ mở ra chiếc hộp Pandora và gây ra những tác động nghiêm trọng đến sự ổn định thể chế của Đế quốc La Mã Thần thánh. Tác động của Cách mạng Pháp. Vào cuối thế kỷ XVIII, sự tồn tại liên tục của Đế chế La Mã Thần thánh, bất chấp hiến pháp đầu sỏ, không bị đe dọa nghiêm trọng từ bên trong. Cần có một yếu tố bên ngoài - Cách mạng Pháp - để làm rung chuyển nền tảng của Đế chế và đưa đến sự sụp đổ của nó. Sau khi nước Pháp Cách mạng tuyên chiến với Phổ và Áo vào tháng 4 năm 1792, quân đội của nước này đã xâm chiếm và cuối cùng củng cố quyền kiểm soát của họ đối với Hà Lan thuộc Áo và phần còn lại của tả ngạn sông Rhein vào cuối năm 1794. Đến lúc đó, các nhà lãnh đạo Pháp đã có đã quyết định ít nhiều một cách công khai để sáp nhập những vùng đất đó vào Đệ Nhất Cộng hòa Pháp ngay khi hoàn cảnh cho phép. Thuyết phục các nhà nước và Thân vương Đức có số phận sẽ mất tài sản ở phía Tây sông Rhine chấp nhận điều tương tự như việc Pháp chiếm đoạt đất Đức trên diện rộng bằng cách tự bồi thường bằng đất ở hữu ngạn đã trở thành mục tiêu thường xuyên của các nhà cách mạng Pháp và sau này là Napoléon Bonaparte. Hơn nữa, vì nước Đức Công giáo và Tin Lành ở mọi cấp độ là những kẻ thù không đội trời chung của Cộng hòa vô thần vì nhà nước thế tục đã đặt ra ngoài vòng pháp luật những ngôi nhà thờ, không được nhà nước thừa nhận nhưng thực tế lại là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến chiến tranh giữa Pháp và Đế chế La Mã Thần thánh thông qua các hành động như cho phép người tị nạn, quý tộc và thường dân Pháp lưu vong tiến hành các hoạt động phản cách mạng từ vùng đất của họ, các nhà lãnh đạo Pháp ước tính rằng cả nhà thờ và những người cai trị thế tục – nói chung là những người bị thiệt hại nhiều nhất ở bờ trái – nên bị loại trừ khỏi bất kỳ khoản bồi thường nào trong tương lai. Mặt khác, những nhà cai trị thế tục được quyền bồi thường phải được bồi thường bằng "thế tục hóa", trên thực tế việc giải thể và chiếm đoạt đất đai của nhà thờ tương tự như việc nhà nước Anh giải thể các tu viện trong thời kỳ cải cách, đất giáo hội và tài sản nằm ở hữu ngạn. Trớ trêu thay, việc giải tán và chiếm đoạt một cách dân chủ như đã tuyên bố đối với các tổ chức và tài nguyên của nhà thờ đã thanh lý một cách hiệu quả tổ chức từ thiện và an toàn xã hội duy nhất của Châu Âu. Thế tục hóa sẽ dẫn đến việc Tây Âu không có khả năng đối phó với giai đoạn thứ hai của kỷ nguyên công nghiệp và tình trạng nghèo đói hàng loạt mà nó tạo ra sẽ dẫn đến tình trạng nhập cư hàng loạt khỏi lục địa để đến thế giới mới. Hòa ước Basel của Pháp-Phổ vào tháng 4 năm 1795 đã nói đến "sự đền bù" trong trường hợp nền hòa bình chung trong tương lai với Đế quốc La Mã Thần thánh đã đầu hàng Pháp các lãnh thổ của Đức ở phía Tây sông Rhein, bao gồm cả các tỉnh của Phổ. Một công ước bí mật của Pháp-Phổ được ký vào tháng 8 năm 1796 quy định rằng khoản bồi thường như vậy sẽ thuộc về Giáo phận vương quyền Münster và Vest Recklinghausen. Ngoài ra, điều 3 quy định rằng Thân vương xứ Orange-Nassau, có quan hệ huyết thống với vua Phổ, người tích cực bảo vệ lợi ích của mình, sẽ được bồi thường bằng Giáo phận vương quyền Würzburg và Bamberg nếu ông mất quyền nắm giữ quyền sở hữu tước hiệu thế tục ở Hà Lan, điều này theo sau sự thành lập Cộng hòa Batavia do Pháp hậu thuẫn, đã trở thành lâu dài. Tương tự như vậy, các hiệp ước hòa bình mà Pháp đã ký với Công quốc Württemberg và Bá quốc Baden trong cùng tháng có chứa các điều khoản bí mật, theo đó Pháp cam kết can thiệp để được nhượng lại các lãnh thổ giáo hội cụ thể như một khoản bồi thường cho họ trong trường hợp họ bị tổn thất. Được ký kết sau những chiến thắng lớn của Pháp trước quân đội Áo, Hiệp ước Campo Formio tháng 10 năm 1797, do Tướng Napoleon Bonaparte ban hành, với điều kiện Áo sẽ được bồi thường cho sự mất mát của Hà Lan thuộc Áo và Lombardy của Áo với Venice và Dalmatia. Một điều khoản bí mật, chưa được thực hiện vào thời điểm đó, đã bổ sung thêm khoản bồi thường bổ sung cho Tổng giáo phận vương quyền Salzburg và một phần Tuyển hầu xứ Bayern. Hiệp ước cũng quy định việc tổ chức một đại hội tại Rastatt, nơi các đại biểu của Nghị viện Hoàng gia sẽ đàm phán một nền hòa bình chung với Pháp. Người ta đã dự đoán một cách rộng rãi và chính xác rằng Pháp sẽ yêu cầu nhượng lại chính thức toàn bộ bờ tây sông Rhein, rằng các thân vương thế tục bị tước đoạt sẽ được bồi thường bằng các lãnh thổ giáo hội ở phía Đông sông Rhein, và một kế hoạch bồi thường cụ thể sẽ được thảo luận và thông qua. Thật vậy, vào ngày 9 tháng 3 năm 1798, các đại biểu tại đại hội ở Rastatt đã chính thức chấp nhận hy sinh toàn bộ bờ trái sông Rhein và, vào ngày 4 tháng 4 năm 1798, đã chấp thuận việc thế tục hóa tất cả các quốc gia giáo hội ngoại trừ 3 Tuyển đế hầu giáo hội Mainz, Cologne và Trier, nơi tiếp tục tồn tại là một ranh giới đỏ tuyệt đối đối với Hoàng đế Francis II. Đại hội kéo dài đến tận năm 1799 đã thất bại trong các mục tiêu khác do sự bất đồng giữa các đại biểu về việc phân chia lại các lãnh thổ bị thế tục hóa và sự kiểm soát không đủ của Pháp đối với quá trình do cuộc tranh giành quyền lực ngày càng gia tăng ở Paris gây ra. Vào tháng 3 năm 1799, Áo liên minh với Nga, nối lại cuộc chiến chống Pháp. Một loạt thất bại quân sự và sự rút lui của Nga khỏi cuộc chiến đã buộc Áo phải tìm kiếm một hiệp định đình chiến và vào ngày 9 tháng 2 năm 1801 ký Hiệp ước Lunéville, trong đó phần lớn tái xác nhận Hiệp ước Campo Formio và các thoả thuận đặt ra tại Rastatt. Điều 7 của hiệp ước quy định rằng "theo các nguyên tắc được chính thức thiết lập tại đại hội Rastatt, đế chế sẽ buộc phải trao cho các thân vương thế tục, những người sẽ bị tước quyền sở hữu ở bờ trái sông Rhein, một khoản bồi thường, số tiền này sẽ được được lấy từ toàn bộ đế quốc, theo những thỏa thuận mà dựa trên những căn cứ này sẽ được xác định cuối cùng." Lần này, Francis II đã ký hiệp ước không chỉ thay mặt cho Áo mà còn thay mặt cho Đế chế, quốc gia đã chính thức thừa nhận mất Hà Lan thuộc Áo và tả ngạn sông Rhein. Quyết định cơ bản tháng 2 năm 1803. Quyết định cơ bản của Phái đoàn Hoàng gia (tiếng Đức: "Reichsdeputationshauptschluss") ngày 25 tháng 2 năm 1803 thường được gọi là luật Hoàng gia dẫn đến việc tái cơ cấu lãnh thổ của Đế quốc bằng cách phân bổ lại các nhà nước giáo hội và các thành bang đế chế cho các điền trang đế quốc khác. Trên thực tế, cả Quyết định cơ bản và Phái đoàn Hoàng gia soạn thảo nó đều không đóng một vai trò quan trọng nào trong quá trình này vì nhiều quyết định quan trọng đã được đưa ra sau cánh cửa đóng kín ở Paris trước khi Phái đoàn bắt đầu công việc của mình. Tuy nhiên, Quyết định cơ bản là không thể thiếu vì nó mang lại sự phê chuẩn theo hiến pháp đối với việc tái cơ cấu chính trị và lãnh thổ lớn mà lẽ ra sẽ thiếu tính hợp pháp. Bị thúc ép mạnh mẽ bởi Napoleon Bonaparte, hiện đang nắm quyền lãnh đạo ở Pháp với tư cách là Đệ Nhất tổng tài, Thánh chế La Mã ngay sau Hiệp ước Lunéville buộc phải nhận nhiệm vụ vạch ra một kế hoạch bồi thường dứt khoát (Entschädigungsplan). Đại hội đế chế quyết tâm giao nhiệm vụ đó cho Hoàng đế, với tư cách là toàn quyền của Đế quốc, trong khi có ý định dành quyền quyết định cuối cùng cho chính mình. Không muốn gánh chịu toàn bộ trách nhiệm về những thay đổi chắc chắn sẽ xảy ra dưới mệnh lệnh của Pháp, Hoàng đế Francis II đã từ chối. Sau nhiều tháng cân nhắc, một thỏa hiệp đã đạt được vào tháng 11 năm 1801 để giao nhiệm vụ bồi thường cho Cơ quan Hoàng gia (Reichsdeputation), với Pháp đóng vai trò 'người hòa giải'. Phái đoàn bao gồm các đại diện toàn quyền của các Tuyển đế hầu Mainz, Sachsen, Brandenburg-Phổ, Bohemia và Tuyển hầu xứ Bayern, và của Công tước xứ Württemberg, Bá tước xứ Hessen-Cassel và Grand Master của Hiệp sĩ dòng Teuton. Ngay sau Hiệp ước Lunéville, các nhà cầm quyền chủ chốt của Đức có quyền đòi bồi thường đã nhanh chóng đảm bảo khoản bồi thường trực tiếp với Pháp, và Paris nhanh chóng tràn ngập các phái viên mang theo danh sách các vùng lãnh thổ mà họ thèm muốn. Chính phủ Pháp khuyến khích phong trào này. Napoleon Bonaparte để lại chi tiết cho Ngoại trưởng Talleyrand, người nổi tiếng nhét đầy túi tiền hối lộ, tham gia với tư cách là người đồng hòa giải. Vào ngày 19 tháng 10 năm 1801, hai nước đã ký một thỏa thuận cùng hoạt động với tư cách là "các cường quốc hòa giải". Về cơ bản, Nga hoàng Alexander I, có vợ và mẹ thuộc các gia đình quý tộc ở Bá quốc Baden và Công quốc Württemberg, muốn ưu ái những người họ hàng người Đức khác nhau của mình và điều này vừa khớp với mục tiêu lâu dài của Pháp nhằm củng cố các nhà nước miền nam Baden, Württemberg, Hessen-Darmstadt và Bayern, nằm ở vị trí chiến lược giữa Pháp và Áo, kẻ thù không đội trời chung của nhau. Các cuộc thảo luận và giao dịch sôi nổi đã diễn ra không chỉ với các Quyền lực trung gian và giữa các thân vương thế tục khác nhau mà còn với cả các chính phủ khác nhau. Trong nội các Phổ, một nhóm thúc đẩy việc mở rộng về phía Tây tới Westphalia trong khi một nhóm khác ủng hộ việc mở rộng về phía Nam tới Franconia, với nhóm ủng hộ Westphalia cuối cùng đã chiếm ưu thế. Từ tháng 7 năm 1801 đến tháng 5 năm 1802, các thỏa thuận bồi thường sơ bộ đã được ký kết với Tuyển hầu xứ Bayern, Württemberg và Phổ và những thỏa thuận khác được ký kết ít chính thức hơn với Baden, Hessen-Darmstadt, Hesse-Cassel và các nhà nước cấp trung khác. Các cuộc thảo luận và giao dịch sôi nổi diễn ra đồng thời ở Regensburg, nơi Đại hội Đế chế và Cơ quan của nó đang họp. Đặc biệt, nhiều nhà cai trị cấp trung và cấp thấp thiếu ảnh hưởng ở Paris - các Công tước xứ Arenberg, Croy và Looz, Thân vương xứ Salm-Kyrburg, các Bá tước xứ Sickingen và Wartenberg, cùng những người khác - đã thử cơ hội với các nhà ngoại giao Pháp được cử đến Regensburg, người có thể đề xuất bổ sung hoặc sửa đổi kế hoạch bồi thường, nói chung là để đổi lấy hối lộ. Tuy nhiên, tất cả các khiếu nại đều đã được kiểm tra và có nỗ lực phát hiện các khiếu nại hư cấu hoặc phóng đại. Cơ quan Hoàng gia rất hiếm khi xem xét các khiếu nại, chúng gần như được tự động chuyển đến các quan chức địa phương của Pháp để quyết định hoặc chuyển đến Bộ trưởng Ngoại giao Talleyrand ở Paris. Kế hoạch bồi thường chung. Một "kế hoạch bồi thường chung" kết hợp các hiệp định chính thức và không chính thức khác nhau được ký kết ở Paris được Nhà ngoại giao Talleyrand soạn thảo vào tháng 6 năm 1802, được Đế quốc Nga chấp thuận với những thay đổi nhỏ,[40] và được đệ trình gần như như một tối hậu thư cho Phái đoàn Hoàng gia khi họ được triệu tập cuối cùng tại Regensburg cho cuộc họp đầu tiên vào ngày 24 tháng 8 năm 1802. Trong phần mở đầu có nêu rằng các Quyền lực hòa giải đã buộc phải đưa ra một kế hoạch bồi thường do "những khác biệt không thể hòa giải giữa các Thân vương Đức" liên quan đến chi tiết bồi thường và sự chậm trễ của Phái đoàn Hoàng gia trong việc bắt đầu công việc của mình. Người ta nói rằng kế hoạch này "dựa trên những tính toán về tính công bằng không thể nghi ngờ" đã nỗ lực thực hiện việc bồi thường cho những tổn thất đã được thừa nhận trong khi "duy trì sự cân bằng quyền lực như trước chiến tranh giữa các nhà cai trị chủ chốt ở Đức", hai mục tiêu có phần mâu thuẫn nhau. lý do ban đầu cho việc bồi thường, vốn là để bù đắp cho lãnh thổ bị mất, đã được thay thế bằng các mục tiêu chính trị: ủng hộ những người cai trị có quyền lực hoặc có quan hệ tốt và thu hút các đồng minh tiềm năng. Vì Áo đã bị loại khỏi các cuộc thảo luận nên phái viên của họ tại Paris chỉ biết về kế hoạch này khi đọc nó trên tờ "Le Moniteur Universel". Họ nhanh chóng đàm phán những sửa đổi nhằm xác nhận cả các đặc quyền của Hoàng đế Francis II và các quyền của ông với tư cách là người cai trị Áo. Gói bồi thường của Habsburg cũng được tăng cường với các giáo phận vương quyền được thế tục hóa bổ sung. Francis II có thái độ thù địch với việc thế tục hóa, nhưng khi thấy rõ rằng việc thế tục hóa gần như hoàn toàn là không thể tránh khỏi, ông đã chiến đấu hết mình như bất kỳ nhà cai trị nào khác để giành được phần chiến lợi phẩm của mình. Ông đặc biệt kiên quyết yêu cầu em trai ông là Đại công tước Ferdinand, người đã bị quân Pháp xâm lược tước đoạt quyền sở hữu Tuyển đế hầu Maximilian IV Joseph]] viết thư cho các Giám mục vương quyền tương ứng để thông báo về việc sắp chiếm đóng các giáo phận của họ. Trong mùa thu, Bayern, Baden, Hessen-Darmstadt, và Württemberg, và thậm chí cả Áo, tiến hành chiếm giữ các [[Giáo phận vương quyền]], tu viện hoàng gia và các [[Thành bang đế chế]] đã được giao cho họ. Việc sáp nhập chính thức và thành lập cơ quan hành chính dân sự thường diễn ra trong vòng vài tuần. Sự vội vàng như vậy một phần là do lo ngại rằng kế hoạch tháng 6 có thể không dứt khoát và dẫn đến việc chiếm các lãnh thổ được phân bổ và đặt các nhà cai trị trước sự việc đã rồi. Tuy nhiên, chiến lược đó không phải là dễ dàng và [[Tuyển hầu xứ Bayern]], nơi đã chiếm giữ Giám mục vương quyền Eichstätt kể từ tháng 9, đã buộc phải sơ tán nó khi hội nghị Pháp-Áo ngày 26 tháng 12 năm 1802 tái phân bổ phần lớn Eichstätt cho [[Quân chủ Habsburg]]. Về phần mình, các Thân vương cấp thấp hơn và các bá tước, với ít nhân lực và nguồn lực, thường phải đợi cho đến khi Quyết định cơ bản được ban hành trước khi họ có thể chiếm hữu các lãnh thổ - nếu có - được trao cho họ như một khoản đền bù, thường là một lãnh thổ thế tục hóa hoặc một trong những thành bang đế chế nhỏ hơn. Phê duyệt và phê chuẩn Quyết định cơ bản (Final Recess). [[Tập tin:Titelseite des Reichsdeputationshauptschlusses vom 25. Februar |thumb|250px|Trang đầu tiên của Quyết định cơ bản tháng 2 năm 1803]] Vào ngày 8 tháng 10 năm 1802, các Quyền lực hòa giải đã chuyển cho Nhóm kế hoạch bồi thường chung thứ hai của họ với nhiều sửa đổi phản ánh số lượng đáng kể các khiếu nại, kiến nghị và quan sát mà họ đã nhận được từ tất cả các bên. Kế hoạch thứ ba được gửi đi vào tháng 11 và kế hoạch cuối cùng vào giữa tháng 2 năm 1803. Nó làm cơ sở cho Quyết định cơ bản mà Phái đoàn đưa ra tại cuộc họp lần thứ 46 vào ngày 25 tháng 2 năm 1803. [[Đại hội Đế quốc (Thánh chế La Mã)|Đại hội Đế chế]] đã phê chuẩn nó vào ngày 24 tháng 3 và Hoàng đế đã phê chuẩn nó vào ngày 27 tháng 4. Tuy nhiên, Hoàng đế đã chính thức bảo lưu việc phân bổ lại số ghế và phiếu bầu trong Đại hội Đế chế. Trong khi ông chấp nhận Hội đồng [[Tuyển đế hầu]] gồm 10 thành viên mới, nơi lần đầu tiên có đa số là các tuyển hầu theo đạo Tin Lành, ông phản đối đa số Tin Lành mạnh mẽ trong Viện Thân vương mới (77 Lãnh đạo theo đạo Tin lành so với 53 lãnh đạo Công giáo, cộng với 4 phiếu luân phiên), theo truyền thống, ảnh hưởng của Hoàng đế được cảm nhận mạnh mẽ nhất, và thay vào đó ông đề xuất sự bình đẳng tôn giáo. Các cuộc thảo luận về vấn đề này vẫn đang tiếp diễn khi Đế quốc bị giải thể vào năm 1806. Các Thân vương quốc Giáo hội giải thể đồng loạt. Theo các điều khoản của "Quyết định cơ bản", tất cả các cơ quan Thân vương quốc Giáo hội – tổng giám mục, giám mục và tu viện vương quyền – đều bị giải thể ngoại trừ Tổng giám mục- [[Tuyển hầu xứ Mainz]], [[Hiệp sĩ Teuton|Dòng Teuton]] và [[Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta|Dòng Malta]]. [[Karl Theodor Anton Maria von Dalberg|Tổng giám mục Karl Theodor von Dalberg]] của Mainz đã cứu được lãnh thổ của mình bằng cách thuyết phục [[Napoleon Bonaparte]] rằng vị trí Tổng Thủ hiến Hoàng gia của ông là điều cần thiết cho hoạt động của Đế chế. Do phần lớn lãnh thổ [[Tuyển đế hầu]] của ông, bao gồm cả thành phố [[Mainz]], đã bị Pháp sáp nhập, tổng giáo phận được chuyển sang [[Regensburg]] và được bổ sung thêm một số tàn tích của [[Thân vương quốc Aschaffenburg|Tuyển hầu xứ ở phía Đông sông Rhein và Wetzlar]]. Dalberg, người được xác nhận là Tuyển đế hầu và Tổng Thủ hiến Hoàng gia và đạt được tước hiệu mới là [[Giáo trưởng Đức]], đã chứng tỏ là một đồng minh liên tục và hữu ích của Napoléon trong những năm tới. Ngoài ra, dưới sự nài nỉ kiên quyết của Hoàng đế, Dòng Teutonic, mà Grand Master nói chung là một đại công tước người Áo, cũng như các Hiệp sĩ của St John (Hiệp sĩ Malta), cũng được tha và các lãnh địa nhỏ rải rác của họ được tăng cường thêm một số tu viện gần đó. Mục đích ở đây là cung cấp cuộc sống cho một số trong tổng số 700 thành viên quý tộc của các giáo đoàn nhà thờ mà tài sản của họ đã bị tịch thu khi các [[Giáo phận vương quyền]] bị thế tục hóa. Một số Giáo phận vương quyền đã được chuyển giao toàn bộ cho chủ sở hữu mới trong khi những nơi khác, chẳng hạn như Münster, Trier, Cologne, Würzburg, Augsburg, Freising, Eichstätt, Passau và Constance, được phân chia giữa hai hoặc một số chủ sở hữu mới hoặc được phân bổ một số quận hoặc vùng ngoại ô cho các chủ sở hữu mới khác nhau. Tài sản đáng kể của các nhà thờ của tòa giám mục cũng bị tịch thu. [[Tập tin:Salem |thumb|right|250px|Binh lính và tu sĩ Áo tại [[Tu viện Salem]] vào thời điểm thế tục hóa]] [[Tập tin:Säkularisation.JPG|thumb|250px|Chứng thư cấp tu viện thế tục hóa Ochsenhausen cho Bá tước Georg Karl von Metternich, cha của Hoàng thân [[Klemens von Metternich]] để đền bù cho việc [[Lãnh địa Winneburg và Beilstein]] của [[Nhà Metternich]] bị Pháp sáp nhập.]] Quyết định cơ bản nêu chi tiết các nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác của những người cai trị mới đối với những người cai trị cũ, các quan chức, người quản lý và các nhân viên dân sự và quân sự khác của các Thân vương quốc Giáo hội đã bị bãi bỏ. Các cựu Giám mục vương quyền và Tu viện trưởng vương quyền vẫn nhận được quyền "Reichsfreiheit" (Trực tiếp đế chế). Họ nắm giữ quyền lực rộng rãi, bao gồm cả quyền tài phán tư pháp trong các vấn đề dân sự và hình sự đối với người hầu của họ (điều 49). Họ giữ tước hiệu và cấp bậc [[Giám mục vương quyền]] hoặc Tu viện trưởng vương quyền suốt đời và được hưởng một số danh hiệu và đặc quyền (điều 50). Tuy nhiên, các dinh thự nguy nga của các Giám mục vương quyền, chẳng hạn như [[Dinh thự Würzburg]] và [[Lâu đài Nordkirchen|Schloss Nordkirchen]], đã được chuyển cho chủ sở hữu mới và các giám mục được cấp chỗ ở khiêm tốn hơn cũng như quyền sử dụng nơi ở mùa hè. Các cựu Giám mục vương quyền, Tu viện trưởng vương quyền và các viện trưởng hoàng gia được hưởng lương hưu hàng năm lần lượt là từ 20.000 đến 60.000 gulden, 6.000 đến 12.000 gulden và 3.000 đến 6.000 gulden, tùy thuộc vào thu nhập trước đây của họ (điều 51). Trong khi quá trình thế tục hóa tước bỏ quyền lực chính trị của các Giám mục vương quyền và bãi bỏ lãnh thổ của họ, họ vẫn là giám mục và vẫn giữ quyền mục vụ bình thường đối với giáo phận, giáo xứ và giáo sĩ của mình. Một số, chẳng hạn như Giám mục [[Christoph Franz von Buseck]] xứ Bamberg, đã điều chỉnh theo hoàn cảnh khó khăn của họ và ở lại giáo phận của họ để thực hiện nhiệm vụ mục vụ; những người khác, chẳng hạn như Tổng giám mục [[Hieronymus von Colloredo]] xứ Salzburg, đã từ bỏ nhiệm vụ mục vụ của mình cho các giám mục phụ tá và đến sống ở [[Viên]] hoặc trên khu đất của gia đình họ. Sự chấm dứt tồn tại của các Thành bang đế chế tự do. 51 [[Thành bang đế chế]] [chú thích 7] với tổng diện tích lãnh thổ 7.365 km2 (2.844 dặm vuông Anh) và dân số 815.000 người, tuy ít hơn so với các nhà nước giáo hội nhưng các Giám mục vương quyền từ lâu đã phẫn nộ với nền độc lập của những thành phố bị bao vây trong lãnh thổ của họ. Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, họ còn mang tiếng là suy tàn và quản lý yếu kém hơn cả các nhà nước giáo hội. Một số thành bang đế chế đã được đưa vào một số kế hoạch thế tục hóa còn non trẻ của thế kỷ XVIII, chủ yếu là vì chúng tiếp giáp hoặc nằm trong một chế độ Giáo phận vương quyền được nhắm mục tiêu cho việc thế tục hóa. Trong khi các điều khoản bồi thường bí mật trong các hiệp ước năm 1796 với Phổ, Baden và Württemberg chỉ nhắm vào các lãnh thổ giáo hội, thì vào thời điểm Đại hội Rastatt khai mạc vào cuối năm 1797, đã có tin đồn lan rộng về việc giải thể ít nhất một số thành bang. Cảnh nhận được trước những tin đồn như vậy, các thành bang đế chế của Vùng đế chế Swabia, nơi tọa lạc khoảng một nửa số thành bang đế chế, đã tổ chức một hội nghị đặc biệt tại [[Ulm]] vào đầu tháng 3 năm 1798 để xem xét tình hình mà họ cảm thấy bất lực. Tuy nhiên, do ngay từ đầu người ta đã mong đợi rằng một số ít các thành bang lớn nhất và giàu có nhất sẽ duy trì được nền độc lập của mình, nên sự hòa giải được mong đợi của các thành bang đế quốc đã không thu hút được nhiều sự quan tâm của công chúng. Sự sống còn của một thành bang hoàng gia thường bị treo lơ lửng: trong khi [[Regensburg]] và [[Wetzlar]], lần lượt là các trụ sở của Đại hội đế chế và Tòa án Cameral Hoàng gia, vẫn nằm trong danh sách ngắn các thành bang hoàng gia sẽ tồn tại trong kế hoạch bồi thường chung tháng 6 năm 1802, chúng được thế tục hóa vài tháng sau đó nhằm củng cố [[Thân vương quốc Aschaffenburg]] mới được thành lập, vốn sẽ tạo thành căn cứ lãnh thổ của Tổng giám mục von Dalberg, Tổng Thủ hiến Đế chế cuối cùng, chỉ có Hamburg, Bremen, Lübeck, Frankfurt, Augsburg và Nuremberg sống sót sau quá trình hoà giải năm 1803. Tấn công các hiệp sĩ hoàng gia và bá tước hoàng gia. Sau Quyết định cơ bản, các điền trang rải rác của khoảng 300 [[hiệp sĩ hoàng gia]] tự do và 99 [[Bá tước hoàng gia]], tổng cộng lãnh thổ có lẽ khoảng 4.500 dặm vuông, lẽ ra vẫn được giữ nguyên. Nhưng đến mùa đông năm 1803, những người cai trị [[Tuyển hầu xứ Bayern]], [[Bá quốc Hessen-Kassel]] và [[Công quốc Württemberg]] bắt đầu chiếm hữu những vùng đất nhỏ bé này thông qua sự kết hợp giữa Sắc lệnh đầu hàng và chuyển giao (Abtretungs- und Überweisungspatenten) và lực lượng quân sự. Những người cai trị nhỏ hơn khác, chẳng hạn như [[Thân vương xứ Leiningen]], cũng làm theo. Sau này nó được gọi là "[[Rittersturm]]". Đến mùa thu năm 1803, phần lớn các điền trang của hiệp sĩ hoàng gia trên thực tế đã bị các nước láng giềng lớn hơn sáp nhập. Vào tháng 1 năm 1804, việc tịch thu bị Hoàng đế Francis II tuyên bố là bất hợp pháp. Mặc dù Hoàng đế không thể đảo ngược hiện trạng, nhưng lời đe dọa bằng vũ lực đã ngăn chặn các cuộc thôn tính tiếp theo. Tuy nhiên, bạo lực này đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho các Thân vương nhỏ của Đế chế. Với việc chấm dứt quyền quản lý của đế quốc một cách hiệu quả sau [[Hòa ước Pressburg (1805)|Hiệp ước Pressburg]] năm 1805, bạo lực đối với các hiệp sĩ và bá tước hoàng gia đã lan rộng đến các Thân vương không có khả năng tự vệ, dẫn đến cuộc hòa giải lớn thứ hai vào năm 1806. Việc hòa giải chính thức của các hiệp sĩ và bá tước hoàng gia đã được hợp pháp hóa theo Điều 25 của Hiệp ước Liên bang Rhein (Rheinbundakte), trong đó trừng phạt hành động đơn phương của các lãnh thổ. Những hậu quả sâu rộng về chính trị và tôn giáo. Mặc dù mục đích ban đầu là chỉ bồi thường cho những nhà cai trị thế tục bị mất lãnh thổ vào tay người Pháp, nhưng tiêu chí đó chỉ được áp dụng cho các Thân vương hay bá tước nhỏ và các, những nhà cai trị đôi khi chỉ nhận được một khoản tiền niên kim hoặc một khoản bồi thường lãnh thổ khiêm tốn đến mức phải tăng thêm một khoản tiền hàng năm được trả bởi các thân vương được cung cấp tốt hơn để tổng thu nhập của họ không thấp hơn thu nhập trước đây của họ. Trong trường hợp của các nhà nước lớn hơn, họ thường nhận được nhiều hơn số lãnh thổ mà họ đã mất. [[Karl Friedrich xứ Baden]] nhận được lãnh thổ nhiều gấp 7 lần số đã mất, [[Vương quốc Phổ]] nhận được gần gấp 5 lần. [[Tuyển hầu xứ Hannover]] đã giành được [[Giáo phận vương quyền Osnabrück]], mặc dù nước này chẳng mất gì cả. [[Công quốc Oldenburg]], có mối quan hệ huyết thống chặt chẽ với Sa hoàng Alexander I, đã nhận được một phần lãnh thổ đáng kể của [[Giáo phận vương quyền Münster]] mặc dù nó chỉ mất thu nhập từ một trạm thu phí. Áo cũng nhận được nhiều lãnh thổ mới. Ngoài ra, [[Quân chủ Habsburg]] đã bị 2 lãnh thổ ở Bán đảo Ý, gồm có [[Đại công quốc Toscana]] và [[Công quốc Modena và Reggio|Công quốc Modena]] cũng được bồi thường mặc dù lãnh thổ của họ không thuộc [[Đế chế La Mã Thần thánh]]. Tương tự như vậy, Vua Phổ đã có thể nhận được một khoản bồi thường lãnh thổ hào phóng cho Thân vương quốc Orange-Nassau có liên quan đến triều đại, người đã bị tổn thất ở [[Cộng hòa Hà Lan]] không còn tồn tại. Tổng cộng có 112 điền trang của đế chế đã biến mất. Ngoài lãnh thổ được nhượng lại cho Pháp, đất đai và tài sản của họ được phân chia cho 72 nhà cai trị có quyền được bồi thường. Kết quả của quá trình bồi thường được xác nhận bởi Quyết định cơ bản vào tháng 2 năm 1803 là sự phân phối lại tài sản rộng rãi nhất trong lịch sử nước Đức trước năm 1945. Khoảng 73.000 km2 (28.000 dặm vuông) lãnh thổ giáo hội, với khoảng 2,36 triệu dân và 12,72 triệu guilden mỗi năm doanh thu đã được chuyển giao cho những nhà cai trị mới. Vị thế của Giáo hội Công giáo La Mã được thành lập ở Đức, Reichskirche, không những bị suy giảm mà còn gần như bị phá hủy. Nhà thờ mất đi vai trò hiến pháp quan trọng trong Thánh chế La Mã; hầu hết các trường đại học Công giáo đều đóng cửa, cũng như hàng trăm tu viện và cơ sở tôn giáo. Người ta nói rằng Cuộc suy thoái cuối cùng năm 1803 đã ảnh hưởng đến quyền sở hữu đất đai của Đức giống như Cách mạng đã làm với Pháp. Hòa giải từ năm 1806. Vào ngày 12 tháng 6 năm 1806, [[Napoleon I|Hoàng đế Napoléon]] thành lập [[Liên bang Rhein]] để mở rộng và giúp bảo đảm an toàn cho biên giới phía Đông của [[Đệ Nhất Đế chế Pháp]]. Để miễn cưỡng thừa nhận việc Napoléon chia cắt lãnh thổ Thánh chế La Mã, vào ngày 6 tháng 8 năm 1806, Hoàng đế La Mã Thần thánh Francis II [[Sự giải thể của Đế quốc La Mã Thần thánh|tuyên bố bãi bỏ Đế quốc]] và tuyên bố nắm giữ nhiều quyền lực nhất có thể với tư cách là người cai trị [[Quân chủ Habsburg|Các vương quốc Habsburg]]. Để nhận được sự ủng hộ từ các quốc gia Đức hùng mạnh hơn, cựu Hoàng đế La Mã Thần thánh đã chấp nhận, và Napoléon khuyến khích, sự hòa giải của các nhà nước nhỏ lân cận của họ. Hòa giải đã chuyển giao chủ quyền của hơn 100 nhà nước thế tục nhỏ cho các nước láng giềng lớn hơn, hầu hết trong số đó đã trở thành thành viên sáng lập của Liên bang để tham gia vào các cuộc sáp nhập. Giữa lần [[Hiệp ước Fontainebleau (1814)|thoái vị đầu tiên của Napoléon]] vào năm 1814 và [[Trận Waterloo]] cũng như lần thoái vị cuối cùng của Napoléon vào năm 1815, [[Đại hội Viên]] đã được các cường quốc thắng trận triệu tập để vẽ lại biên giới [[châu Âu]]. Trong thời gian này, người ta đã quyết định rằng các công quốc hòa giải, các thành bang tự do và các quốc gia thế tục hóa sẽ không được khôi phục lãnh thổ. Thay vào đó, những người cai trị trước đây được quyền bỏ phiếu trong Đại hội đế chế sẽ được hưởng địa vị quý tộc, được coi là ngang hàng với các vị quân chủ vẫn đang trị vì và có quyền yêu cầu bồi thường cho những tổn thất của họ. Nhưng mỗi quốc gia sáp nhập được giao quyền bồi thường cho các triều đại được hòa giải, và triều đại sau không có quyền bồi thường quốc tế nếu không hài lòng với các quyết định hoàn trả của chế độ mới. Vào năm 1825 và 1829, những gia tộc từng được chỉ định là "[[Các nhà hòa giải]]" đã được chính thức hóa, theo quyết định riêng của các quốc gia cầm quyền, và không phải tất cả các gia tộc cai trị các quốc gia được hòa giải đều được công nhận như vậy. Kết quả của Đại hội Viên là chỉ còn lại 39 Nhà nước của Đức. Những nhà nước và lãnh thổ bị sáp nhập. Các tu viện và cung điện hoàng gia. Các thực thể giáo hội duy nhất ở Đức không bị bãi bỏ vào năm 1803, gồm có: Các Thành bang đế chế và các làng. Các thành phố tự do duy nhất ở Đức không bị bãi bỏ vào năm 1803, gồm có: Các nhà nước có chủ quyền được tái thành lập. Sau khi bị bãi bỏ hoặc hòa giải, rất ít nhà nước được tái lập. Những lãnh thổ được tái lập bao gồm:
Quốc kỳ Campuchia Dân chủ Quốc kỳ Campuchia Dân chủ bao gồm Angkor Wat vàng trên nền đỏ. Nó được thông qua vào ngày 5 tháng 1 năm 1976 dưới thời Khmer Đỏ cai trị đất nước Campuchia. Lá cờ này giống với quốc kỳ Việt Nam. Tuy nhiên, điều bất thường là quốc kỳ của các quốc gia cộng sản không có ngôi sao màu đỏ, vàng hoặc búa liềm mang tính biểu tượng. Quốc kỳ Campuchia Dân chủ thay quốc kỳ Cộng hòa Khmer, trở thành lá cờ chính thức của Campuchia vào ngày 5 tháng 1 năm 1976 sau khi Khmer Đỏ lên nắm quyền ở nước này vào ngày 17 tháng 4 năm 1975. Trong thời kỳ đó, Khmer Đỏ vẫn sử dụng lá cờ cũ của Vương quốc Campuchia cũng được treo tại trụ sở Liên Hợp Quốc từ tháng 4 năm 1975 đến tháng 1 năm 1976. Lá cờ này từng bị bãi bỏ nhiều lần ở các tỉnh giáp ranh với Việt Nam của Campuchia, nhưng chính phủ mới của nước này đã tính ngày giải phóng thủ đô (7 tháng 1 năm 1979) mới là ngày chính thức hủy bỏ quốc kỳ Campuchia Dân chủ. Mặc dù quốc kỳ Cộng hòa Nhân dân Campuchia đã trở thành lá cờ chính thức ở Campuchia sau khi chính phủ Khmer Đỏ lật đổ, quốc kỳ Campuchia Dân chủ vẫn được Chính phủ Liên minh Campuchia Dân chủ và Liên Hợp Quốc sử dụng. Hầu hết các quốc gia đều giữ quan hệ ngoại giao với Chính phủ Liên minh Campuchia Dân chủ vì Cộng hòa Nhân dân Campuchia không giành được sự công nhận rộng rãi của quốc tế. Màu đỏ tượng trưng cho cách mạng và máu và Angkor Wat tượng trưng cho nhà nước của nhân dân, công nhân và nông dân.
Quốc kỳ Cộng hòa Khmer Quốc kỳ Cộng hòa Khmer (, #đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. [tɔŋ ciət sathiəreaʔnaʔrɔət kʰmae]; #đổi ) là một trong những lá cờ lịch sử của Campuchia. Nó bao gồm một trường màu xanh lam với một vùng hình chữ nhật màu đỏ. Hình chữ nhật màu đỏ mang hình bóng Angkor Wat. Ba ngôi sao lớn màu trắng được xếp theo chiều ngang ở góc trên của trường màu xanh lam. Quốc kỳ Cộng hòa Khmer được chính quyền Lon Nol giới thiệu vào ngày 9 tháng 10 năm 1970 thay thế cho Quốc kỳ Hoàng gia. Nó là lá cờ chính thức của Campuchia trong gần 5 năm và được trưng bày tại Thế vận hội Mùa hè năm 1972, khi Campuchia chính thức thi đấu dưới chính phủ mới sau một thời gian dài vắng bóng. Quốc kỳ này bị hủy bỏ vào ngày 17 tháng 4 năm 1975 khi Khmer Đỏ lật đổ Cộng hòa Khmer và thành lập Campuchia Dân chủ và thay thế lá cờ bằng một lá cờ mới của riêng họ. Nơi cuối cùng lá cờ này được treo lên là vào tháng 5 năm 1975 tại khu vực sau cùng do Quân đội Quốc gia Khmer nắm giữ trên vách đá của Đền Preah Vihear ở Dãy núi Dângrêk. Mặc dù chính phủ của họ đã đầu hàng nhưng những người lính trung thành của Cộng hòa Khmer vẫn tiếp tục kiên cường giữ vững vị trí của mình trong gần một tháng sau khi Phnôm Pênh thất thủ. Cuối cùng tiền đồn đó rơi vào tay Khmer Đỏ vào ngày 22 tháng 5 năm 1975. Quốc kỳ Campuchia Dân chủ trở thành lá cờ của Campuchia sau khi chính phủ cộng hòa bị lật đổ. Quốc kỳ Cộng hòa Khmer về sau vẫn được các nhóm đối lập Campuchia lưu vong sử dụng, chẳng hạn như Đảng Quyền lực Khmer (KPP), và bởi một số chính đảng ở Campuchia, chẳng hạn như Đảng Cộng hòa Khmer (KRP), mặc dù ở quy mô nhỏ hơn nếu so sánh với quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa. Học giả Keng Vannsak nhận xét rằng theo mê tín của người Campuchia thì việc chọn ba ngôi sao cho lá cờ này là điềm gở. Đảng Tự do Campuchia (CLP), Đảng Phong trào Dân chủ Hang Dara (HDMP), Đảng Mặt trận Khmer, Đảng Cải cách Khmer, Đảng Khmer Yêu Khmer và Đảng Xã hội Công lý cũng sử dụng cờ này. Quân đội Hoàng gia Campuchia sử dụng lá cờ này làm quân kỳ. Quốc kỳ của Cộng hòa Khmer vẫn giữ hình bóng Angkor Wat ba tháp màu trắng, cũng như màu xanh và đỏ của lá cờ hoàng gia trước đó, nhưng theo một kiểu khác. Theo Điều 4 của Luật Hiến pháp Cộng hòa Khmer được Quốc hội biểu quyết ngày 7 tháng 10 năm 1970, ba ngôi sao trong vùng màu xanh tượng trưng cho những nội dung sau:
Trương Công Cừu (1 tháng 1 năm 1917 – 8 tháng 3 năm 2022) là giáo sư và chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng giữ chức Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa vào cuối thời Đệ Nhất Cộng hòa. Trương Công Cừu sinh năm 1917, quê quán làng Thanh Quýt, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, và là hậu duệ của Thượng thư nhà Tây Sơn Trương Công Hy. Ông là người Công giáo. Năm 1952, ông tham gia thành lập Giáo xứ Việt Nam tại Paris cùng với Cha Cao Văn Luận. Ông cũng là một trong những người sáng lập và là trưởng khoa đầu tiên của Trường Đại học Sư phạm Sài Gòn, giảng dạy triết học và văn học Pháp. Dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, ông giữ chức Bộ trưởng Đặc nhiệm Phối hợp Văn hóa Xã hội. Tháng 8 năm 1963, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Văn Mẫu xin từ chức do xảy ra cuộc khủng hoảng Phật giáo, Tổng thống Ngô Đình Diệm bác bỏ việc từ chức nhưng cho phép ông nghỉ phép 3 tháng để hành hương sang Ấn Độ, và để Trương Công Cừu lên thay làm Quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa, ông giữ chức Chủ tịch Việt Nam Nhân xã Cách mạng Đảng, lúc bấy giờ được coi là kế thừa của Đảng Cần lao Nhân vị thời Ngô Đình Diệm, tổ chức đảng này do đảng viên Cần lao ban đầu lãnh đạo. Năm 1973, ông bỏ trốn sang Pháp trái phép, được cho là để giúp cậu con trai 17 tuổi né tránh đi lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông qua đời ngày 8 tháng 3 năm 2022 ở Ronny-sur-Seine nước Pháp, hưởng thọ 105 tuổi. ! colspan="3" style="border-top: 5px solid #ccccff;" | Chức vụ chính trị
Trương Tiến Đạt (8 tháng 12 năm 1933 – 19 tháng 7 năm 2020) là nhà báo, luật sư, thẩm phán và chính khách Việt Nam Cộng hòa, từng đắc cử chức Thượng nghị sĩ dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa. Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, ông rời quê hương tị nạn và định cư tại Mỹ, rồi về sau thành công trong nghề kinh doanh bất động sản ở tiểu bang California. Trương Tiến Đạt chào đời ngày 8 tháng 12 năm 1933 tại Thái Bình dưới thời Pháp thuộc. Năm 1957, ông thi đậu lấy bằng luật của Khoa Luật Viện Đại học Sài Gòn. Từ năm 1960 đến năm 1961, ông ra làm Thẩm phán, Phó Kiểm sát viên Trị an Tòa Sơ thẩm Sài Gòn. Từ năm 1961 đến năm 1962 là Chánh án Tòa Lao động Biên Hòa. Từ năm 1962 đến năm 1966 là Chánh án Tòa Sơ thẩm Trị an Rộng quyền tỉnh Bình Dương và An Xuyên. Từ năm 1966 đến năm 1967, ông đảm nhận chức vụ Tổng Thư ký Quốc hội Lập hiến. Ngày 3 tháng 9 năm 1967, ông được bầu làm Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ thứ nhất dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa. Sau đó, lại làm tiếp Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ thứ hai từ năm 1970 đến năm 1975. Trương Tiến Đạt từng chỉ trích gay gắt nạn tham nhũng trong nước, ông nói với tờ "New York Times" vào năm 1972 rằng tham nhũng đã trở thành một "chính sách quốc gia". Năm 1974, ông dám đứng lên tố cáo sáu tướng lĩnh quân đội cao cấp trục lợi thông qua chiến tranh và kêu gọi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cách chức họ. Trước khi Sài Gòn thất thủ vào cuối tháng 4 năm 1975, ông kịp thời đưa gia đình mình đến nơi an toàn và trở về thành phố. Sau đó, với chiếc đồng hồ và cây bút mang theo bên mình, ông leo lên một chiếc thuyền đánh cá tiếp nhận người tị nạn, và được chuyển giao thành công cho một tàu chiến Mỹ rồi rời khỏi đất nước. Ông qua đời vào ngày 19 tháng 7 năm 2020 tại một nhà dưỡng lão ở thị trấn Woodland, quận Yolo, bang California.
Câu lạc bộ bóng đá Empoli, thường được gọi là Empoli, là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Empoli, Thành phố đô thị Florence. Được thành lập vào năm 1920, đội bóng là một phần của một nhóm chọn lọc các câu lạc bộ bóng đá Ý không có trụ sở tại một thành phố thủ phủ của tỉnh đã tham gia Serie A. Empoli đã dành phần lớn lịch sử của mình cho bóng đá chuyên nghiệp. Empoli đã thi đấu ở các giải đấu châu Âu một lần, trong đó họ bị loại ở vòng loại của UEFA Cup 2007–08. "Tính đến ngày 8/9/2023" "Tính đến ngày 8/9/2023" "Tính đến ngày 18/12/2023"
Liên họ Sẻ đồng Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Liên họ Sẻ đồng (danh pháp khoa học: Emberizoidea) là một liên họ thuộc phân thứ bộ Sẻ (Passerida). Nhánh này bao gồm khoảng 892 loài đặc hữu của Tân Thế giới. Các loài thuộc liên họ này còn được gọi là New World nine-primaried oscines. Nhánh này khởi nguồn sau một sự kiện hình thành loài nhanh chóng ở Bắc Mỹ, bắt nguồn từ các loài ở lục địa Á-Âu qua eo biển Bering trong suốt thế Miocen. Hai nhóm thuộc liên họ này tiếp tục đa dạng hóa hơn nữa ở vùng Tân nhiệt đới (Neotropics). Trong đó, một nhánh bao gồm một số loài đặc hữu nhỏ xuất hiện ở vùng Caribe, và một nhóm khác ở Nam Mỹ. Hai họ khác, Emberizidae (sẻ đồng) và Calcariidae, quay trở lại và phân bố phủ khắp lục địa Á-Âu. Mối quan hệ giữa các đơn vị trong liên họ vẫn gây tranh cãi do một số chi đã được thay đổi trong nhiều nghiên cứu phát sinh gen. Sơ đồ phát sinh chủng loại bên dưới chủ yếu dựa trên phân tích công bố vào năm 2019 của Carl Oliveros và các đồng nghiệp. Nghiên cứu này coi Spindalidae và Nesospingidae đều là một phần của Phaenicophilidae, và Icteriidae là một phần của Icteridae, nhưng chúng được thể hiện là khác biệt trong cây phát sinh này. Ngoài ra, mặc dù Teretistridae hông được phân tích trong nghiên cứu này, các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng chúng có quan hệ họ hàng với Zeledoniidae.
EmSphere là một trung tâm thương mại ở Băng Cốc, Thái Lan mở cửa vào ngày 1 tháng 12 năm 2023. Nó là trung tâm thương mại thứ ba thuộc khu phức hợp "EM District" gần Ga Phrom Phong BTS cùng với Emporium và EmQuarter. Cả ba trung tâm thương mai được quản lý bởi The Mall Group 15 tỉ baht được đầu tư để phát triển trung tâm thương mại liền kề với Công viên Benchasiri. Nó là nơi có IKEA trong trung tâm thành phố đầu tiên của Thái Lan, the và lớn nhất thế giới đặt tại trung tâm thành phố, cũng như nhà thi đấu với 6.000 chỗ ngồi "EM Live" được tài trợ bởi UOB và quản lý bởi AEG ngoài ra còn có nhiều cửa hàng và nhà hàng. Địa điểm này trước đây từng là một khu giải trí có tên gọi là Washington Square.
Albert John Dunlap (26 tháng 7 năm 1937 – 25 tháng 1 năm 2019) là một giám đốc điều hành công ty người Mỹ. Ông được biết đến ở đỉnh cao sự nghiệp với tư cách là một chuyên gia quản lý cải tổ và thu hẹp quy mô chuyên nghiệp. Việc sa thải hàng loạt tại các công ty của ông đã mang lại cho ông biệt danh "Al Lưỡi Cưa" và "Rambo Áo Sọc", sau khi ông chụp một bức ảnh đeo đai đạn ngang ngực. Sau đó người ta phát hiện ra rằng những cuộc xoay chuyển tình thế nổi tiếng của ông ta là những vụ lừa đảo phức tạp và sự nghiệp của ông ta đã kết thúc sau khi ông ta dàn dựng một vụ bê bối kế toán lớn tại Sunbeam Products, hiện là một bộ phận của Newell Brands, khiến công ty phải phá sản. Dunlap nằm trong danh sách "CEO tồi tệ nhất mọi thời đại" do một số ấn phẩm kinh doanh công bố. "Fast Company" lưu ý rằng Dunlap "có thể ghi điểm ấn tượng trong danh sách kiểm tra Bệnh tâm thần doanh nghiệp" và trong một cuộc phỏng vấn, Dunlap thoải mái thừa nhận sở hữu nhiều đặc điểm của một kẻ thái nhân cách, nhưng coi chúng là những đặc điểm tích cực như khả năng lãnh đạo và tính quyết đoán. Ông là một nhà hảo tâm lớn của Đại học Bang Florida. Thời niên thiếu và học vấn. Dunlap sinh ra ở Hoboken, New Jersey vào năm 1937. Ông vào West Point năm 1956 và tốt nghiệp kỹ sư năm 1960. Sau đó, ông phục vụ trong Quân đội Hoa Kỳ trong ba năm, đủ tiêu chuẩn trở thành lính nhảy dù và được đưa vào Lực lượng Tên lửa Hạt nhân. Năm 1963, Dunlap bước vào thế giới kinh doanh tại Kimberly-Clark như một phần của hoạt động sản xuất. Ông ấy đã làm việc ở đó bốn năm trước khi được nhận vào Sterling Pulp Paper, nơi ông ấy được giao phụ trách công việc kinh doanh do gia đình điều hành. Ông ta đã dàn dựng một vụ gian lận kế toán lớn tại Nitec, một công ty sản xuất giấy ở Thác Niagara, New York. Ông là chủ tịch công ty từ năm 1974 đến năm 1976, khi ông bị sa thải do phong cách quản lý thô lỗ của mình. Cuộc kiểm toán của Arthur Young (hiện là một phần của Ernst Young) đã tiết lộ nhiều điểm bất thường, bao gồm hàng tồn kho tăng cao và doanh số bán hàng không tồn tại - một tình huống tương tự như các hoạt động sau này của ông tại Sunbeam. Kết quả cuối cùng là lợi nhuận 5 triệu USD của Nitec trong năm 1976 thực chất là khoản lỗ 5,5 triệu USD. Nitec đã kiện Dunlap về tội lừa đảo nhưng cuối cùng bị buộc phải phá sản. Dunlap chưa bao giờ đề cập đến Nitec trong lý lịch của mình, và vụ bê bối không được biết đến rộng rãi cho đến khi được The New York Times đưa tin sau khi tiết lộ hành vi không trung thực của ông ta tại Sunbeam. Dunlap vẫn khăng khăng mình vô tội ngay cả sau khi phó chủ tịch Nitec tuyên thệ làm chứng rằng Dunlap đã đích thân ra lệnh cho anh ta báo cáo những số liệu sai lệch. Lily Tulip Cup đã thuê ông làm chủ tịch kiêm giám đốc điều hành vào năm 1983. Năm 1985, ông được bổ sung thêm chức danh chủ tịch công ty. Từ năm 1991 đến năm 1993, ông là Giám đốc điều hành của công ty Consolidated Press Holdings (CPH) của Australia, một công ty tư nhân thuộc gia đình Packer, sau khi Kerry Packer nghỉ phép vì lý do sức khỏe. Vào thời điểm đó, CPH có danh mục đầu tư đa dạng trong lĩnh vực truyền thông và xuất bản cũng như các hoạt động hóa chất và nông nghiệp. Trong ba năm làm việc tại công ty, Dunlap đã cố vấn cho James Packer. Năm 1994, Dunlap trở thành Giám đốc điều hành của Scott Paper sau khi Philip E. Lippincott từ chức. Năm 1995, ông bán Scott Paper cho Kimberly-Clark với giá 9 tỷ USD, kiếm được 100 triệu USD từ thương vụ này thông qua quyền chọn cổ phiếu và sự đánh giá cao cổ phiếu của ông. Dunlap đảm nhận chức chủ tịch và CEO của Sunbeam vào năm 1996. Phương pháp của ông đã mang lại lợi nhuận kỷ lục cho Sunbeam là 189 triệu USD vào năm 1997. Dunlap đảm nhận vị trí chủ tịch và giám đốc điều hành của Sunbeam vào năm 1996. Phương pháp của ông đã mang lại lợi nhuận kỷ lục cho Sunbeam là 189 triệu USD vào năm 1997. Tuy nhiên, đến cuối năm ông vẫn không tìm được người mua. Vào ngày 3 tháng 3 năm 1998, Sunbeam công bố việc mua lại nhà sản xuất dụng cụ cắm trại Coleman Company, nhà sản xuất máy pha cà phê Signature Brands (nổi tiếng với sản phẩm Mr. Coffee) và nhà sản xuất máy dò khói First Alert. Cổ phiếu của Sunbeam tăng 9% sau tin tức này; trong vòng hai ngày, nó đã tăng lên mức cao nhất mọi thời đại là 52 USD một cổ phiếu. Tuy nhiên, những người trong ngành tỏ ra nghi ngờ khi họ phát hiện ra một số mặt hàng theo mùa đang được bán với số lượng cao hơn bình thường vào thời điểm đó trong năm. Ví dụ, một số lượng lớn đồ nướng đã được bán trong quý 4. Hóa ra Dunlap đã bán sản phẩm cho các nhà bán lẻ với mức chiết khấu lớn. Các sản phẩm được lưu trữ trong kho của bên thứ ba để được giao sau. Chiến lược này, được gọi là "lập hoá đơn và giữ", là một phương pháp kế toán được chấp nhận miễn là doanh số bán hàng được ghi nhận sau khi giao hàng. Tuy nhiên, Dunlap đã đặt hàng ngay lập tức. Nhiều cổ đông cảm thấy họ đã bị lừa mua cổ phiếu có giá trị thấp hơn nhiều so với thực tế và họ đã đệ đơn kiện tập thể chống lại Dunlap và Sunbeam. Khi một nhà phân tích hỏi Dunlap về vấn đề này vào tháng 5 năm 1998, Dunlap được cho là đã nắm lấy vai anh ta và nói, "Đồ chó đẻ, nếu như mày muốn nhờn với tao, tao sẽ đáp trả mày gấp đôi." Vào quý 2 năm 1998, ban giám đốc Sunbeam đã điều tra các hoạt động kế toán táo bạo và chiết khấu cực đoan được thực hiện theo chỉ đạo của Dunlap. Hóa ra Dunlap đã bán cho các nhà bán lẻ nhiều hàng hóa hơn mức họ có thể xử lý. Với việc các cửa hàng chứa quá nhiều hàng một cách vô vọng, hàng tồn kho chưa bán được chất đống trong các kho của Sunbeam. Kết quả là Sunbeam phải đối mặt với khoản lỗ lên tới 60 triệu đô la trong quý 2 năm 1998. Việc Dunlap tìm kiếm người mua Sunbeam vào năm 1997 đã được sắp xếp thời gian sao cho khoản lỗ khổng lồ liên quan đến hàng tồn kho sẽ được đưa ra ánh sáng sau khi cuộc mua bán kết thúc. Kiểm soát viên của công ty cũng nói với hội đồng quản trị rằng Dunlap đã yêu cầu ông phải vượt qua các giới hạn của các nguyên tắc kế toán. Ngày 13 tháng 6 năm 1998, Dunlap bị sa thải. Theo Charles Elson, một trong số các giám đốc được Dunlap bổ nhiệm, hội đồng quản trị đã rất tức giận khi Dunlap cố gắng giải thích tình hình tài chính mờ nhạt bằng cách tuyên bố năm 1998 là một "năm chuyển tiếp". Elson đã đề nghị chấm dứt hợp đồng với Dunlap, một động thái được nhất trí thực hiện. Theo một giám đốc điều hành Sunbeam thân cận với hội đồng quản trị, các giám đốc cảm thấy rằng Dunlap đã lừa dối họ về các con số của Sunbeam và có ý định giữ lại chiếc dù vàng trị giá 35 triệu đô la của ông ta. Khi vụ lừa đảo tiếp tục bị phát hiện vào cuối năm 1998, Sunbeam đã nhiều lần bị buộc phải trình bày lại kết quả tài chính từ năm 1996.
Học viện tên lửa chiến lược Thánh Peter Học viện tên lửa chiến lược Pyotr I của Nga () là một học viện quân sự của Nga chuyên đào tạo nhân lực cho Lực lượng tên lửa chiến lược của Quân đội Nga. Từ năm 2015, Học viện được đặt tại Balashikha, Moscow Oblast. Học viện trực thuộc Tư lệnh Lực lượng Tên lửa Chiến lược. Lịch sử ra đời. Lịch sử của Lực lượng Tên lửa Chiến lược (RVSN) gắn liền với lịch sử của học viện, là một trong những cơ sở giáo dục quân sự lâu đời nhất ở Nga. Cơ sở giáo dục này có lịch sử từ Trường Pháo binh của Quân đội Đế quốc Nga, được mở tại St. Petersburg theo sáng kiến ​​của Đại công tước Michael Pavlovich vào năm 1820. Năm 1845, trường được trao tặng danh hiệu kính trọng là "Mikhailovsky" theo tên Đại công tước. Năm 1925, trường trở thành Học viện Kỹ thuật Quân sự của Hồng quân. Năm 1934, trường mang tên Học viện pháo binh Felix Dzerzhinsky, sau bốn năm được chuyển về Moskva. Trong Chiến tranh thế giới 2, trường được chuyển đến thành phố Samarkand, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan. Tháng Tám năm 1944, Cục tên lửa đã thành lập phòng huấn luyện tên lửa để huấn luyện các kíp vận hành tên lửa. Sau đó Viện được chuyển tên thành Cục Vũ khí tên lửa trực thuộc Học viện Pháo binh. Năm 1958, nó được chuyển về lại Moskva. Tháng Ba năm 1960, học viện trở thành một phần của Lực lượng tên lửa chiến lược của Hồng quân. Nó được đổi tên hai lần dưới thời Xô Viết (Học viện kỹ thuật quân sự Dzerzhinsky năm 1963 và Học viện quân sự Dzerzhinsky năm 1972). Dưới thời Xô Viết, trụ sở của Học viện được đặt tại số 9/5 Kitayskiy Proyezd cùng khối nhà Rossiya Hotel cạnh Quảng trường đỏ, Tháng Tám năm 1997, Tổng thống Boris Yeltsin, trong một tuyên bố đã dựa trên truyền thống của quân đội Nga và dựa trên công lao của thánh Pyotr I là người đã thành lập quân đội Nga, đã đổi tên Học viện theo tên của Thánh Peter. Năm 2015, Học viện đã được bố trí lại ở thành phố Balashikha nhằm hướng tới việc mở rộng trong tương lai của Học viện. Kỷ niệm 200 năm thành lậo. Học viện đánh dấu 200 năm thành lập vào tháng 12 năm 2020.. Hiện tại, học viện có hơn 150 chương trình đào tạo nâng cao và chuẩn bị cho các sĩ quan phục vụ trong Lực lượng Tên lửa Chiến lược, cũng như phục vụ trong Tổng cục 12 và GRU (GU). Sinh viên của học viện sau khi tốt nghiệp sẽ trở thành sĩ quan thuộc Lực lượng Tên lửa Chiến lược của Liên Xô và Nga. Học viện Lực lượng Tên lửa Chiến lược có một trung tâm đào tạo đặt tại thị trấn Balabanovo, Vùng Kaluga.. Giám đốc học viện. Giám đốc học viện kể tử năm 1953:
Cơ quan Cảnh sát thủ đô Seoul Cơ quan Cảnh sát thủ đô Seoul (SMPA; Tiếng Hàn: 서울지방경찰청, Hanja: 서울地方警察廳) là một tổ chức giám sát các vấn đề an ninh công cộng ở Seoul. Bản thân nó không phải là lực lượng cảnh sát độc lập mà là một trong 16 phân khu cấp tỉnh của Cơ quan Cảnh sát Quốc gia. SMPA có trụ sở chính cùng với Trụ sở Cảnh sát Quốc gia tại Seoul. Trong khi các cơ quan cảnh sát hiện đại của Seoul có thể theo dõi lịch sử của họ từ năm 1945 với việc thành lập lực lượng cảnh sát Hàn Quốc, thì Cơ quan Cảnh sát Thủ đô hiện đại ở Seoul ra đời vào ngày 1 tháng 8 năm 1991 và hiện đang quản lý hơn 10 triệu dân. Lực lượng cảnh sát ở Seoul là Sở cảnh sát Kyunggi-do, được thành lập vào ngày 15 tháng 8 năm 1945. Tiếp theo đó nhanh chóng là việc thành lập Lực lượng cảnh sát quốc gia vào ngày 21 tháng 10 và Lực lượng cảnh sát thủ đô Seoul chuyên trách hơn vào tháng 9. Ngày 17 tháng 1 năm 1946. Tổ chức này đã trải qua một loạt hoặc nhiều cải cách, bao gồm đổi tên thành Cục Cảnh sát Thủ đô vào năm 1948, thành lập Đội Cảnh sát An ninh Quốc hội năm 1951, Thành lập Quân đoàn Cảnh sát Cơ động Seoul năm 1961, Đội Cảnh sát An ninh Khu phức hợp Chính quyền Trung ương năm 1971 , nhanh chóng được gia nhập bởi Lực lượng Cảnh sát An ninh Sân bay vào năm 1973 và Lực lượng Bảo vệ Olympic vào năm 1985. Cùng với nhau, các đơn vị này trở thành Cơ quan Cảnh sát Thủ đô Seoul ngày nay vào năm 1991, với "1 Phó Tổng ủy viên, 7 phòng ban, 2 giám đốc, 17 sư đoàn [và] 7 đội kiểm soát trực tiếp." Sự kiện kể từ năm 1993. Năm 1993, SMPA được giao nhiệm vụ điều tra về mối đe dọa đánh bom có ​​thể xảy ra đối với Tổng thống Mỹ Bill Clinton, đang đến thăm, vì điều mà sau này được gọi là một vụ nổ ống dẫn khí đốt đã xảy ra tại khách sạn Grand Hyatt Seoul, nơi ông dự định ở lại. Năm 1999, các sĩ quan chống bạo động SMPA với hơi cay và vòi rồng phải đối mặt với "vài trăm" người tuần hành ủng hộ thống nhất tại Đại học Quốc gia Seoul, tuy nhiên, mặc dù ném đá vào cảnh sát nhưng không có phản ứng nào và không có vụ đụng độ nghiêm trọng nào được báo cáo. SMPA đã được giao quyền giám sát hai binh sĩ Quân đội Hoa Kỳ bị buộc tội vô ý giết chết hai cô gái tuổi teen vào năm 2002. Năm 2006, SMPA đã bắt giữ một người đào tẩu Triều Tiên và cựu vệ sĩ của Kim Jong-il, cũng như ba người khác vì buôn bán thuốc kích thích tình dục giả ở Seoul. Năm 2007, SMPA bị giám sát chặt chẽ sau khi cảnh sát trưởng Hong Young-ki từ chức sau một cáo buộc tấn công trả thù. Các cáo buộc được đưa ra rằng SMPA đã bỏ qua vụ tấn công của cảnh sát trưởng nhằm vào một trong những người đàn ông giàu nhất Hàn Quốc. Văn phòng cảnh sát. Do sự thay đổi về thẩm quyền và tên của đồn cảnh sát có hiệu lực vào tháng 3 năm 2006, các đồn cảnh sát trực thuộc như sau SMPA vận hành nhiều thiết bị được tiêu chuẩn hóa trong toàn bộ lực lượng Cảnh sát Quốc gia Hàn Quốc. Các khu vực đô thị đặc biệt sử dụng hệ thống Nhận dạng số phương tiện tự động, tuy nhiên hệ thống điều phối máy tính của SMPA, Hệ thống định vị phương tiện tự động và Thiết bị đầu cuối dữ liệu di động là các tính năng tiêu chuẩn trên toàn quốc, cũng như chính sách sử dụng cảnh sát vũ trang chuyên dụng thay vì cấp súng cho mỗi sĩ quan. SMPA cũng vận hành một tỷ lệ đáng kể trong số 4.891 xe cảnh sát của Lực lượng Cảnh sát Quốc gia, 1.685 xe bán tải của cảnh sát, 765 xe tải cảnh sát, 865 xe đặc nhiệm và 9.181 xe máy cảnh sát. Tuy nhiên, SMPA sử dụng một số công nghệ nhất định dành riêng cho lực lượng của mình. Với dân số đông như vậy, SMPA đã ký hợp đồng với Sepura để trang bị 5.000 bộ đàm TETRA và thiết bị liên lạc cho các sĩ quan vào tháng 7 năm 2007. Bộ đàm cầm tay Sepura SRH3800 sGPS, bộ đàm SRM3500 và SRG3500 trên xe đã được cung cấp, cùng với công nghệ mới ra mắt lần đầu tiên với SMPA. SMPA cũng sử dụng hệ thống Xác định tốc độ đường bộ để thu thập thông tin giao thông theo thời gian thực cho mạng lưới đường bộ của Seoul thông qua GPS để cung cấp cho các đơn vị đường bộ SMPA và người dân.
Tàu ngầm lớp ''Skipjack'' Skipjack là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng nguyên tử (SSN) của Hải quân Hoa Kỳ đi vào hoạt động năm 1959-61. Tên của lớp tàu ngầm được đặt theo tàu ngầm đầu tiên được chế tạo, USS "Skipjack". Tàu ngầm có thiết kế mới, mũi tàu dạng giọt nước và sử dụng lò phản ứng S5W. "Skipjack"s là lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân có tốc độ nhanh nhất của Hải quân Mỹ trước khi tàu ngầm lớp Los Angeles được đưa vào trang bị vào năm 1974. Thiết kế của "Skipjack" (project SCB 154) được dựa trên thiết kế của tàu ngầm USS "Albacore". Phần thân tàu và các hệ thống bên trong tương tự như lớp tàu ngầm Barbel năng lượng điện-diesel cũng đang được chế tạo cho Hải quân Mỹ vào thời điểm đó. Thiết kế của lớp "Skipjack" rất khác so với các tàu ngầm lớp "Skate" trước đó. Không giống như tàu ngầm "Skate", thiết kế mới tối ưu hóa cho tốc độ bơi dưới nước bằng cách sắp xếp hợp lý và thiết kế giống như một khinh khí cầu.Cũng giống như "Albacore" , "tàu Skipjack" sử dụng thép cường độ cao HY-80, với cường độ chịu uốn 80.000 psi (550 MPa), mặc dù điều này ban đầu không được sử dụng để tăng độ sâu lặn so với các tàu ngầm khác của Mỹ. HY-80 vẫn là thép tàu ngầm tiêu chuẩn cho đến khi tàu ngầm lớp Los Angeles ra đời. Một cải tiến khác giống lớp "Barbel" là sự kết hợp giữa tháp chỉ huy, phòng điều khiển và trung tâm tấn công trong một không gian. Cách bố trí tổng thể giúp việc phối hợp vũ khí và hệ thống điều khiển tàu dễ dàng hơn trong các hoạt động chiến đấu. Phần lớn sự sắp xếp bên trong tổng thể được tiếp tục trên các tàu ngầm lớp "Thresher" và "Sturgeon" tiếp theo. Năm khoang của Skipjack được gọi là Phòng Ngư lôi, Phòng Điều hành, Phòng Lò phản ứng, Phòng Máy Phụ trợ (AMS) và Phòng Động cơ"." Với việc bổ sung khoang tên lửa, việc bố trí trên 41 tàu ngầm tên lửa đạn đạo chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN) đầu tiên của Mỹ cũng tương tự. Thiết kế chủ yếu là thân đơn với thân đôi bao quanh phòng chứa ngư lôi và AMS dành cho két dằn. Thiết kế này đã được cải tiến trên những tàu ngầm "Thresher" và "Tullibee" độc ​​nhất vô nhị và các tàu ngầm tấn công tiếp theo bằng cách di dời phòng chứa ngư lôi vào khoang tác chiến thông qua các ống phóng ngư lôi có góc cạnh giữa tàu để nhường chỗ cho sonar dạng cầu lớn ở mũi tàu. Các cánh lặn đằng mũi được bố trí lại, đưa lên gắn vào cột tàu ngầm giúp giảm tiếng ồn thủy âm gần mũi sonar. Skipjack là lớp tàu ngầm đầu tiên có cánh lặn";" sau đó chúng đợc sử dụng trên tàu ngầm lớp "Barbel". Đặc điểm thiết kế này được áp dụng trên tất cả các tàu ngầm hạt nhân của Mỹ cho đến khi lớp Los Angeles ra đời năm 1988. "Skipjack" cũng là lớp tàu ngầm đầu tiên sử dụng lò phản ứng S5W của Mỹ. Lò phản ứng S5W được sử dụng trên 98 tàu ngầm hạt nhân của Hoa Kỳ và tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Anh, HMS  "Dreadnought", khiến nó trở thành thiết kế lò phản ứng được sử dụng nhiều nhất của Hải quân Hoa Kỳ cho đến nay. "Skipjack" được đưa vào hoạt động vào tháng 4 năm 1959. Mỗi thân tàu có giá khoảng 40 triệu USD. "Skipjack" được chứng nhận là "tàu ngầm nhanh nhất thế giới" sau những cuộc chạy thử nghiệm đầu tiên trên biển vào tháng 3 năm 1959, mặc dù tốc độ thực tế đạt được vẫn chưa được xác định. Skipjack vẫn là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân nhanh nhất của Mỹ cho đến khi chiếc đầu tiên thuộc lớp "Los Angeles" "được" đưa vào sử dụng vào năm 1974. Skipjack đã phục vụ trong Chiến "tranh" Việt Nam và phần lớn thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Các tàu ngầm lớp "Skipjack" đã được rút khỏi hoạt động vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, ngoại trừ chiếc USS Scorpion (SSN-589), bị chìm vào ngày 22 tháng 5 năm 1968 về phía tây nam Azores khi đang trở về sau chuyến tuần tra ở Địa Trung Hải, với toàn bộ 99 thủy thủ đoàn thiệt mạng..
Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế 2024 Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế 2024 là cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế lần đầu tiên được tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam vào ngày tháng 9 năm 2024. Cuộc thi "Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế" lần đầu tiên được sáng lập và thực hiện bởi UNI Media bởi ông Trần Việt Bảo Hoàng. Bên cạnh đó "Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế" tìm kiếm và tôn vinh những người phụ nữ ưu tú, xuất sắc với sự tự tin, khả năng ngoại giao, có sức ảnh hưởng tích cực đến cộng đồng và thế giới thông qua nhan sắc, trí tuệ, bản lĩnh, từ đó thúc đẩy sự phát triển và giải quyết các vấn đề của thế giới. Ban tổ chức cho biết, mở ra kỷ nguyên nhan sắc mới, tân Hoa hậu Hoàn vũ Quốc tế sẽ tạo ra những giá trị tích cực thông qua tiếng nói và hành động, bằng tư duy tiên phong và cam kết bền vững. Người đẹp sở hữu vương miện "Miss Cosmo" danh giá với tầm ảnh hưởng của mình thông qua những hành động cụ thể trước các vấn đề toàn cầu - sẽ góp phần giúp cho mọi người có cuộc sống tốt đẹp hơn, đặc biệt là việc tôn vinh nữ quyền, tác động thay đổi nhận thức của thế giới về giá trị của phụ nữ, nhất là ở những quốc gia vẫn chưa coi trọng phụ nữ. Ngoài ra, Miss Cosmo còn đề cao giá trị kết nối và đoàn kết giữa cộng đồng người hâm mộ sắc đẹp, góp phần mở ra một cộng đồng văn minh và tiến bộ" - ban tổ chức cuộc thi Miss Cosmo cho biết. §: Thí sinh được vào thẳng Top 20 do chiến thắng giải thưởng "The Most Popular of Cosmo". Thí sinh tham gia. Đã có 1 thí sinh chính thức:
Sở Hà là con trai cả của Trần Khải Lễ , không lâu sau khi anh được sinh ra, cha mẹ anh chia tay nên anh ở với ông bà ngoại. Anh học du lịch tại Đại học Văn hóa Trung Quốc ở Đài Bắc . Dù đam mê với con đường nghệ thuật nhưng vì nhiều lý do mà Trần Sở Hà vào nghề khá trễ. Năm 27 tuổi anh mới bắt đầu đi học diễn xuất tại Bắc Ảnh và có vai diễn đầu tay. Năm 32 tuổi, anh đã nghe theo tiếng gọi của đam mê và bay từ Đài Loan sang Trung Quốc để thi vào Học viện nghệ thuật Bắc Kinh - nơi đào tạo diễn viên nổi tiếng. Vai diễn đầu tiên của anh chính là vai nam phụ trong bộ phim Kung Fu Bóng Rổ. Đây cũng chính là lúc mà Trần Sở Hà và Châu Kiệt Luân bắt đầu tình bạn khắng khít với nhau. Nhờ vào tài diễn xuất ấn tượng cũng như nhan sắc đỉnh cao, Trần Sở Hà đã nhận được lời mời vào vai nam chính trong phim Hạ Gia Tam Thiên Kim từng cực hot 1 thời. Tuy vậy, cho đến bộ phim Định Mệnh Anh Yêu Em thì cái tên của ngôi sao này mới có thể thực sự tỏa sáng dù chỉ là vai diễn phụ. Nhân vật của anh là 1 chàng trai không chỉ có vẻ ngoài hoàn hảo mà lại còn tốt bụng và rất chung tình. Từ bộ phim này, cái tên Trần Sở Hà đã khiến khán giả Trung Quốc phải ghi nhớ. Năm 2016, mỹ nam Đài Loan này bất ngờ gặp tai nạn trong khi đang tham gia 1 show truyền hình thực tế tại Trung Quốc. Anh bị gãy xương đùi và phải tạm rời xa ánh đèn sân khấu 1 thời gian để tịnh dưỡng. Mãi đến vài năm sau, Trần Sở Hà mới có thể lại tái xuất để tiếp tục theo đuổi đam mê nghệ thuật của mình. Khi anh vừa chân ướt chân ráo bước vào giới giải trí, truyền thông Hoa ngữ đã rất tò mò về xuất thân của anh. Dù vậy mọi thứ đều là bí mật. Năm 2007, khi các tay săn ảnh đã đưa ra bằng chứng về việc anh xuất hiện tại đám tang của ông trùm xã hội đen của bang hội Trúc Liên Bang khét tiếng - Trần Khởi Lễ thì mọi người mới biết được hóa ra anh lại là "thái tử" của giới hắc đạo. Sina còn gọi anh bằng danh xưng "showbiz ai cũng sợ", và là "thái tử hắc bang" hàng thật giá thật. Đứng sau bảo vệ Trần Sở Hà là người cha và bang hội hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người. Đến khi cha qua đời, Trần Sở Hà xuất hiện tại tang lễ với nhiều người tháp tùng, từ đó mới lộ thân phận khủng. Tuy có cha là đại ca xã hội đen danh tiếng lẫy lừng nhưng Trần Sở Hà đã lựa chọn tiến vào giới diễn viên, hứa với cha mình tự thân đứng trên đôi chân của mình, tự mình giành lấy vai diễn, chuyên tâm nghe lời nhắc nhở của cha không được phép nhiễm thói đánh bạc, chơi ma túy. Điều khiến tất cả công chúng phải khâm phục là Trần Sở Hà mặc định là người thừa kế nhưng trong tang lễ của cha, anh đã chấp nhận ký tên từ bỏ quyền thừa kế khối tài sản hơn 2 tỷ Nhân Dân Tệ trong khi những người khác đều tranh giành đến sứt đầu mẻ trán. Anh lựa chọn vào showbiz, trở thành diễn viên và theo đuổi đam mê, khẳng định chỉ cần với những gì cha anh chỉ dạy cùng với khả năng của mình, anh đủ khả năng tạo ra tất cả những gì mà anh muốn. Sự nổ lực, kiên trì của Trần Sở Hà trong con đường diễn xuất ngày càng nghiêm túc hơn và được khán giả công nhận. Dù phía sau là 1 thế lực khổng lồ nhưng mỹ nam này chưa bao giờ dựa dẫm vào bất kì ai mà chỉ cố gắng đi lên bằng chính sức lực của mình. Tuy vậy, showbiz không dám đối xử tệ với anh. Ngay cả thiếu gia khét tiếng Vương Tư Thông cũng phải nhường Trần Sở Hà một bước. Sở Hà xuất hiện lần đầu tiên trong bộ phim "Kungfu Bóng Rổ" , nhưng được biết đến nhiều hơn với vai Dylan trong bộ phim truyền hình Đài Loan, "Định mệnh anh yêu em". Anh cũng xuất hiện trong hai video âm nhạc của Châu Kiệt Luân cho các bài hát "Sứ Thanh Hoa" trong album "On the Run" và "Biển Hoa" của "Capricorn" . Sau đó, anh nổi tiếng hơn nhờ các vai diễn trong bộ phim truyền hình "Hạ gia tam thiên" và "Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao", bộ phim đã giúp anh giành được giải Nam diễn viên được yêu thích nhất tại LeTV Awards.
NEC Nijmegen ("Nijmegen Eendracht Combinatie"), thường được gọi là NEC (]), là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp của hiệp hội bóng đá Hà Lan có trụ sở tại Nijmegen. Câu lạc bộ hiện đang thi đấu ở Eredivisie, giải đấu hàng đầu của bóng đá Hà Lan, sau khi thăng hạng từ Eerste Divisie 2020–21. Câu lạc bộ đã lọt vào trận chung kết KNVB Cup bốn lần - vào các năm 1973, 1983, 1994 và 2000 - nhưng chưa bao giờ giành được bất kỳ danh hiệu bạc lớn nào. "Tính đến ngày 27/10/2023"
Ngày Quốc khánh Canada có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với người Canada. Đây là ngày lễ lớn nhất và toàn bộ lãnh thổ Canada đều có những sự kiện ý nghĩa để mừng sự kiện này. Khi đến Canada định cư hay du học, việc tìm hiểu những ngày lễ lớn trong năm rất quan trọng và nhất là những người nhập cư. Những người sẽ trở thành công dân của đất nước lá phong này cần tìm hiểu và thuộc về lịch sử, địa lý hay những điều khác cho một cuộc thi Quốc tịch. Ngày lễ không chỉ là dịp để được nghỉ làm xả stress. Nó còn là dịp đặc biệt để bạn hiểu thêm về lịch sử văn hóa Canada cũng như hòa mình vào bầu không khí lễ hội của quốc gia đa sắc tộc này. Hôm nay, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về Canada Independence Day hay Ngày Lễ Canada với những điều thú vị ngay sau nhé. CÓ RẤT NHIỀU HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA LỄ HỘI LIÊN QUAN ĐẾN NGÀY LỊCH SỬ CANADA Quốc khánh Canada vào ngày nào ? Quốc khánh Canada có tên tiếng anh là Canada Independence Day. Ngày này được ấn định vào 1/7 hàng năm. Với người Canada, ngày Quốc khánh cũng tương tự như Lễ Quốc khánh của người Việt, cũng là ngày ghi dấu nền độc lập của Canada rất trang trọng và thiêng liêng Ngày Quốc khánh được tổ chức trang trọng ở tất cả các tỉnh bang toàn quốc. Vào ngày này, gần như mọi người đều không đi làm. Tất cả hòa chung bầu không khí lễ hội sôi nổi. Mọi người dân sẽ mặc trang phục có 2 màu trắng đỏ (màu quốc kỳ Canada). Mọi người cùng hát vang bài quốc ca “O Canada” để kỉ niệm ngày độc lập của quốc gia mình. Vào ngày quốc khánh Canada họ những người dân sẽ được nghỉ 1 ngày trọn vẹn và được nghỉ thêm nếu rơi vào ngày Chủ nhật. Hãy dành vài phút lắng nghe qua bài hát quốc thiều Canada ngay sau. Hoàn cảnh ra đời của ngày QK. Tuyên ngôn tự trị của Canada bắt nguồn từ liên minh của Nova Scotia, New Brunswick, và các tỉnh bang Ontario và Quebec trong tương lai, được Vương quốc Anh chính thức công nhận với việc thông qua Đạo luật Bắc Mỹ của Anh.Ngày 1 tháng 7 sau này được gọi là Ngày Canada.Trong thế kỷ 19, sự phụ thuộc thuộc địa đã nhường chỗ cho quyền tự chủ ngày càng tăng cho một Canada đang phát triển. Năm 1841, Thượng và Hạ Canada – nay được gọi là Ontario và Quebec – được thành một tỉnh duy nhất theo Đạo luật Liên minh. Vào những năm 1860, một phong trào đấu tranh cho một liên bang lớn hơn của Canada đã phát triển vì nhu cầu phòng thủ chung, mong muốn có một hệ thống đường sắt quốc gia và sự cần thiết của việc tìm kiếm giải pháp cho vấn đề xung đột giữa Pháp và Anh. Khi các tỉnh Hàng hải, nơi tìm kiếm sự hợp nhất với nhau, được gọi là hội nghị vào năm 1864, các đại biểu từ các tỉnh khác của Canada đã tham dự. Cuối năm, một hội nghị khác được tổ chức tại Quebec, và vào năm 1866, các đại diện của Canada đã đến London để gặp chính phủ Anh. Vào ngày 1 tháng 7 năm 1867, 4 vùng khác nhau (Ontario, Quebec, Nova Scotia và New Brunswick) thống nhất với nhau để thành lập đất nước Canada trong một hành động liên minh. Mặc dù vẫn còn là thuộc địa của Anh, Canada đã trở nên độc lập hơn vào ngày này, có nhiều tiếng nói hơn trong các vấn đề chính trị. Mãi đến năm 1982, Canada mới chính thức và hoàn toàn độc lập khỏi Anh. Các tỉnh ở Tây Canada gia nhập Canada sau đó (Alberta gia nhập vào năm 1905). Hai năm sau, Canada mua lại tài sản khổng lồ của Hudson’s Bay Company, và trong vòng một thập kỷ, các tỉnh Manitoba và Prince Edward Island đã gia nhập liên bang Canada. Năm 1885, Đường sắt Thái Bình Dương Canada được hoàn thành, giúp cho việc định cư hàng loạt trên toàn lãnh thổ Canada rộng lớn trở nên khả thi. Họ làm gì vào ngày đó ? Lễ Canada Independence Day được diễn ra hoành tráng với rất nhiều hoạt động: Chính vì vậy, không chỉ là một ngày lễ đặc trưng và được mong chờ với người dân bản địa. Với các công dân toàn cầu đến định cư Canada, đây cũng là ngày lễ đặc biệt quan trọng. Ngày lễ này ghi dấu sự kiện họ được chính thức nhập tịch Canada, trở thành công dân Canada. Có thể nói rằng, Ngày Quốc Khánh là ngày lễ lớn nhất nhì Canada. Nó đặc biệt và quan trọng đến nỗi hàng năm chính phủ chi không dưới 6 triệu CAD để tổ chức hàng loạt hoạt động khắp đất nước. Thậm chí chính phủ còn tổ chức khảo sát mức độ hài lòng của người dân về việc tổ chức lễ hội. Đa phần ý kiến đều đồng tình với cách mà chính phủ Canada trân trọng ngày quốc lễ của đất nước này. Vào ngày Quốc khánh, người dân Canada sẽ ăn những món ăn truyền thống đặc trưng như Syrup lá phong, thịt hun khói, bánh sandwich và bánh tart bơ. Họ cũng cùng nhau tổ chức nhiều buổi họp mặt, vui chơi và uống bia để mừng kỷ niệm. Ngoài lễ Quốc khánh, mỗi tỉnh bang ở Canada cũng có riêng ngày tỉnh bang/thành phố của mình. Nó được gọi là Civic day. Thường thì ngày lễ này sẽ rơi vào thứ 2 đầu tiên của tháng 8. UCA sẽ có 1 đề tài riêng về ngày Civic day ở những bài viết sau. Người dân cũng được hưởng một kỳ nghỉ lễ dài và đây cũng là thời điểm tổ chức hàng loạt lễ hội văn hóa, hoạt động thể thao của Canada. Đây cũng là giai đoạn mà hàng triệu du khách quốc tế có thể chiêm ngưỡng được một Canada đầy sắc màu văn hóa tại bất cứ tỉnh bang nào. Vì vậy, trung bình người Canada dự định chi tiêu bao nhiêu để kỷ niệm Ngày Quốc khánh này ? Cùng xem qua ngày lễ Canada ngay sao Video sau: Nguồn Video: ZT Canada 3 Điều thú vị ngày quốc khánh Canada ? Bên cạnh những sự kiện thường niên, thì ngày Quốc khánh Canada cũng gắn với nhiều điều thú vị, điển hình như: Những câu hỏi thường gặp về ngày Quốc khánh là ? Hỏi: Canada giành được độc lập khi nào? Đáp: Nó có hiệu lực vào ngày 1 tháng 7 năm 1867 – nay được kỷ niệm là Ngày Canada. Hỏi: Canada đã bao giờ tuyên bố độc lập? Đáp: Canada vẫn tự trị cho đến khi Quy chế Westminster được thông qua vào ngày 11 tháng 12 năm 1931. Hỏi: Canada có còn nằm dưới sự cai trị của Anh không? Đáp: Năm 1982, nó thông qua hiến pháp của riêng mình và trở thành một quốc gia hoàn toàn độc lập. Mặc dù nó vẫn là một phần của Khối thịnh vượng chung Anh – một chế độ quân chủ lập hiến chấp nhận quân chủ Anh là của riêng mình. Elizabeth II là Nữ hoàng Canada. Nhưng chỉ mang ý nghĩa biểu tượng. Hỏi: Nữ hoàng có sở hữu đất ở Canada không? Đáp: Đất đai ở Canada thuộc sở hữu duy nhất của Nữ hoàng Elizabeth II của Anh, người cũng là nguyên thủ quốc gia. Luật của Canada ở hầu hết các tỉnh phát triển từ thông luật của Anh, vì vậy thay vì trực tiếp sở hữu đất, người Canada có quyền sở hữu đất. Điều đó có nghĩa là họ chỉ có thể sở hữu quyền lợi trong một bất động sản Hỏi: Canada có trả thuế cho Anh không? Đáp: Câu trả lời là Không. Người Canada không cung cấp bất kỳ hỗ trợ tài chính nào cho Nữ hoàng trong vai trò Người đứng đầu Khối thịnh vượng chung, Nữ hoàng Vương quốc Anh hoặc Chủ quyền của các Vương quốc khác của cô ấy. Cô ấy cũng không nhận bất kỳ khoản lương nào từ chính phủ liên bang. Hỏi: Ai đang điều hành Canada ? Đáp: Không phải nữ hoàng mà chính là Justin Trudeau là thủ tướng thứ 23 và hiện tại của Canada. Hỏi: Tại sao Canada muốn độc lập? Đáp: Ước nguyện của người dân Canada. Với tư cách là sự thống trị của Anh, các tỉnh thống nhất không còn là thuộc địa và Canada được tự do hành động như một quốc gia của mình với luật pháp và quốc hội của riêng mình. Nó cũng giành được sự độc lập về tài chính và trách nhiệm tự bảo vệ mình. Hãy bắt đầu chặng đường đầu tiên trở thành công dân Canada. Tham gia chương trình Định cư Canada nhận ngay thẻ xanh cùng gia đình vĩnh viễn
Trung tâm Nghiên cứu Pew Trung tâm Nghiên cứu Pew (tiếng Anh: Pew Research Center, thường được gọi tắt là Pew) là một viện nghiên cứu phi đảng phái Hoa Kỳ có trụ sở tại Washington, D.C. Trung tâm này cung cấp thông tin về các vấn đề xã hội, dư luận và các xu hướng nhân khẩu học đang định hình Hoa Kỳ và thế giới. Nó cũng tiến hành các cuộc thăm dò dư luận, nghiên cứu nhân khẩu học, nghiên cứu khảo sát mẫu ngẫu nhiên và khảo sát dựa trên số liệu, phân tích nội dung truyền thông và nghiên cứu các khoa học xã hội thực nghiệm khác. Trung tâm Nghiên cứu Pew không đảm nhận bất kỳ vị trí chính trị nào, và là một công ty con của The Pew Charitable Trusts. Năm 1990, Công ty Times Mirror thành lập Trung tâm Times Mirror về Nhân dân Báo chí ("Times Mirror Center for the People the Press") như một dự án nghiên cứu, có nhiệm vụ tiến hành các cuộc thăm dò về chính trị và chính sách. Andrew Kohut trở thành giám đốc trung tâm vào năm 1993. Năm 1996, The Pew Charitable Trusts trở thành nhà tài trợ chính và đơn vị đổi tên thành Trung tâm Nghiên cứu Pew về Nhân dân Báo chí. Năm 2004, quỹ tín thác thành lập Trung tâm Nghiên cứu Pew ở Washington, D.C. Năm 2013, Kohut từ chức chủ tịch và trở thành giám đốc sáng lập, và Alan Murray kế nhiệm trở thành chủ tịch thứ hai. Tháng 10 năm 2014, Michael Dimock, một người có thâm niên 14 năm làm việc tại Trung tâm tính đến thời điểm được chọn, được bổ nhiệm làm chủ tịch. Trung tâm Nghiên cứu Pew là một tổ chức phi lợi nhuận, được miễn thuế theo Tổ chức 501(c)(3) và là công ty con của The Pew Charitable Trusts, nhà tài trợ chính của tổ chức này. Đối với các nghiên cứu tập trung vào nhân khẩu học của các tôn giáo trên thế giới, Trung tâm Nghiên cứu Pew được Quỹ Templeton đồng tài trợ. Đề tài nghiên cứu. Trung tâm nghiên cứu các lĩnh vực chủ đề sau:
Nhà nước Mahdi (), còn được gọi là Sudan thời Mahdi hay Mahdiyya Sudan, là một nhà nước dựa trên một phong trào tôn giáo và chính trị được phát động vào năm 1881 bởi Muhammad Ahmad bin Abdullah (sau này là Muhammad al-Mahdi) chống lại Phó vương Ai Cập, quốc gia đã cai trị Sudan kể từ năm 1821. Sau bốn năm đấu tranh, quân nổi dậy Mahdi lật đổ chính quyền Ottoman-Ai Cập và thành lập chính phủ "Hồi giáo và quốc gia" của riêng họ với thủ đô tại Omdurman. Từ năm 1885, chính phủ Mahdi duy trì chủ quyền và quyền kiểm soát các vùng lãnh thổ của Sudan cho đến khi bị lực lượng Anh-Ai Cập đánh bại vào năm 1898. Mohammed Ahmed al-Mahdi kêu gọi người dân Sudan tham gia vào cuộc thánh chiến mà ông tuyên bố chống lại chính quyền có trụ sở tại Khartoum do người Ai Cập và Thổ Nhĩ Kỳ thống trị. Chính quyền Khartoum ban đầu bác bỏ cuộc cách mạng của Mahdi, nhưng ông đã đánh bại hai đoàn thám hiểm được cử đến để bắt mình trong vòng một năm. Quyền lực của Mahdi tăng lên và lời kêu gọi của ông lan rộng khắp Sudan, trong đó phong trào của ông được gọi là Ansar. Cùng thời gian đó, cuộc cách mạng 'Urabi nổ ra ở Ai Cập, khiến người Anh chiếm đóng đất nước này vào năm 1882. Anh bổ nhiệm Charles Gordon làm Toàn quyền Sudan. Nhiều tháng sau khi ông đến Khartoum và sau nhiều trận chiến, lực lượng Mahdi đã chiếm được thành phố và giết chết Gordon trong cung điện của mình. Mahdi không sống lâu sau chiến thắng này; người kế nhiệm ông là Abdallahi ibn Muhammad đã củng cố nhà nước mới, với hệ thống hành chính và tư pháp dựa trên cách giải thích luật Hồi giáo của họ. Dù chiếm một phần đáng kể dân số đất nước, những người Nubia bản địa theo Cơ đốc giáo Copt đã bị cưỡng bức chuyển sang đạo Hồi. Nền kinh tế Sudan bị hủy hoại trong Chiến tranh Mahdi và nạn đói; chiến tranh và bệnh tật đã khiến dân số Sudan giảm một nửa. Muhammad Ahmad al-Mahdi tuyên bố tất cả những người không chấp nhận ông là Mahdi đều là kẻ ngoại đạo ("kafir"), ra lệnh giết họ, lấy đi phụ nữ và tài sản của họ. Người Anh tái chiếm Sudan vào năm 1898, sau đó cai trị nơi này trên lý thuyết là một quốc gia chung với Ai Cập nhưng trên thực tế là một thuộc địa. Tuy nhiên, tàn dư của Nhà nước Mahdi vẫn tồn tại ở Darfur cho đến năm 1909. Từ đầu thế kỷ 19, Ai Cập đã bắt đầu chinh phục Sudan và biến nước này thành thuộc địa của mình. Thời kỳ này được người dân địa phương gọi là Turkiyya, tức là thời kỳ cai trị "Thổ Nhĩ Kỳ" của Eyalet và sau đó là Phó vương Ai Cập. Người Ai Cập chưa bao giờ có thể chinh phục hoàn toàn khu vực này, nhưng quyền thống trị và thuế cao khiến họ không được lòng dân. Khi sự bất mãn ở Sudan ngày càng gia tăng, chính Ai Cập cũng bắt đầu rơi vào khủng hoảng. Đây là hệ quả của những thay đổi kinh tế và chính trị có sự tham gia của các cường quốc châu Âu, quan trọng nhất là Đế quốc Anh. Năm 1869, kênh đào Suez được khai trương và nhanh chóng trở thành huyết mạch kinh tế của Anh tới Ấn Độ và Viễn Đông. Để bảo vệ tuyến đường thủy này, Anh bắt đầu can thiệp sâu hơn vào các vấn đề của Ai Cập. Vào năm 1873, chính phủ Anh do đó đã ủng hộ một chương trình trong đó một ủy ban nợ Anh-Pháp đảm trách việc quản lý các vấn đề tài chính của Ai Cập. Ủy ban này cuối cùng đã buộc Khedive Ismail phải thoái vị để nhường ngôi cho người con trai được chấp nhận hơn về mặt chính trị của ông, Tawfiq (1877–1892). Sau khi Ismail bị loại bỏ vào năm 1877, người đã bổ nhiệm ông vào chức vụ này, Charles George Gordon từ chức toàn quyền Sudan vào năm 1880. Những người kế nhiệm ông thiếu sự chỉ đạo từ Cairo và lo ngại tình trạng hỗn loạn chính trị đã nhấn chìm Ai Cập. Kết quả là họ không thể tiếp tục các chính sách mà Gordon đã đưa ra. Việc buôn bán nô lệ bất hợp pháp hồi sinh, mặc dù không đủ để làm hài lòng các thương gia. Quân đội Sudan bị thiếu nguồn lực và binh lính thất nghiệp từ các đơn vị giải tán gây khó khăn cho các thị trấn đồn trú. Người thu thuế tùy tiện tăng thuế. Giữa bầu không khí rắc rối này, Muhammad Ahmad ibn as Sayyid Abd Allah, người kết hợp sức thu hút cá nhân với sứ mệnh tôn giáo và chính trị đã xuất hiện, quyết tâm trục xuất người Thổ Nhĩ Kỳ và khôi phục Hồi giáo trở lại sự thuần khiết ban đầu. Là con trai của một thợ đóng thuyền Dongola, Muhammad Ahmad đã trở thành đệ tử của Muhammad ash Sharif, người đứng đầu dòng Sufi Sammaniyah. Sau đó, với tư cách là một Sheikh của dòng, Muhammad Ahmad đã sống ẩn dật vài năm và nổi tiếng là một nhà thần bí và một giáo viên. Năm 1881, Muhammad Ahmad tự xưng là Mahdi ("người được mong đợi"). Một số tín đồ tận tâm nhất của ông coi ông là người được Allah truyền cảm hứng trực tiếp. Ông muốn người Hồi giáo lấy lại Kinh Qur'an và hadith làm nguồn nền tảng của đạo Hồi, tạo ra một xã hội công bằng. Cụ thể liên quan đến Sudan, ông khẳng định sự nghèo đói của nước này là một đức tính tốt và tố cáo sự giàu có và xa hoa của thế gian. Đối với Muhammad Ahmad, Ai Cập là một ví dụ về sự giàu có dẫn đến hành vi vô đạo đức. Lời kêu gọi nổi dậy của Muhammad Ahmad đã được các cộng đồng nghèo nhất dọc sông Nin hưởng ứng mạnh mẽ, vì nó kết hợp giữa chương trình nghị sự theo chủ nghĩa dân tộc, chống Ai Cập với sự chắc chắn về tôn giáo chính thống. Ngay cả sau khi Mahdi tuyên bố thánh chiến chống lại người Ai Cập, Khartoum vẫn coi ông là một kẻ cuồng tín tôn giáo. Chính phủ Ai Cập để mắt tới Mahdi hơn khi lòng nhiệt thành tôn giáo của ông chuyển sang tố cáo những người thu thuế. Để tránh bị bắt, Mahdi và một nhóm những người theo ông, được gọi là Ansar, đã thực hiện một cuộc hành quân dài đến Kurdufan, nơi ông thu hút được một số lượng lớn tân binh, đặc biệt là từ người Baggara. Từ một nơi ẩn náu trong khu vực, ông đã viết đơn kháng cáo tới các sheikh của các dòng tu và giành được sự ủng hộ tích cực hoặc sự đảm bảo trung lập từ tất cả mọi người ngoại trừ Khatmiyyah thân Ai Cập. Các thương gia và bộ lạc Ả Rập phụ thuộc vào buôn bán nô lệ cũng phản ứng, cùng với bộ lạc Beja Hadendoa, những người được đội trưởng Ansar Osman Digna tập hợp lại với Mahdi. Các cuộc tiến công. Đầu năm 1882, quân Ansar được trang bị giáo và kiếm đã áp đảo lực lượng 7.000 người Ai Cập do Anh lãnh đạo cách Al Ubayyid không xa và tịch thu súng trường, súng dã chiến và đạn dược của họ. Mahdi tiếp nối chiến thắng này bằng cách bao vây và chiếm giữ Al Ubayyid sau bốn tháng. Với 30.000 người, Ansar sau đó đánh bại viện binh Ai Cập gồm 8.000 người tại Sheikan. Ở phía tây, cuộc nổi dậy của quân Mahdi có thể dựa vào các phong trào kháng chiến hiện có. Sự cai trị Darfur của Thổ Nhĩ Kỳ đã khiến người dân địa phương phẫn nộ và một số phiến quân đã bắt đầu cuộc nổi dậy. Phiến quân Baggara dưới sự chỉ huy của thủ lĩnh Rizeigat Madibo đã cam kết với Mahdi và bao vây Toàn quyền Darfur Rudolf Carl von Slatin, một người Áo phục vụ phó vương, tại Dara. Slatin bị bắt vào năm 1883, thúc đẩy nhiều bộ lạc Darfur tham gia cách mạng. Lực lượng Mahdi nhanh chóng nắm quyền kiểm soát phần lớn Darfur. Lúc đầu, việc thay đổi chế độ rất được hoan nghênh ở Darfur. Cuộc tiến công của Ansar và Hadendowa lan rộng ở phía đông đã gây nguy hiểm cho việc liên lạc với Ai Cập và đe dọa cắt đứt các đồn trú tại Khartoum, Kassala, Sennar, Suakin và ở phía nam. Để tránh bị lôi kéo vào một cuộc can thiệp quân sự tốn kém, chính phủ Anh đã ra lệnh rút quân Ai Cập khỏi Sudan. Vừa được tái bổ nhiệm làm toàn quyền, Gordon đã sắp xếp giám sát việc sơ tán quân đội và quan chức Ai Cập cũng như tất cả người nước ngoài khỏi Sudan. Phản ứng của Anh. Sau khi đến Khartoum vào tháng 2 năm 1884, Gordon nhanh chóng nhận ra rằng ông không thể giải phóng các đồn trú. Do đó, ông kêu gọi quân tiếp viện từ Ai Cập để giải vây Khartoum. Gordon cũng đề nghị Zubayr, một kẻ thù cũ mà ông công nhận là một chỉ huy quân sự xuất sắc, nên kế nhiệm mình để trao cho những người Sudan bất mãn một nhà lãnh đạo khác ngoài Mahdi để tập hợp lại phía sau. Luân Đôn bác bỏ kế hoạch này. Khi tình hình trở nên xấu đi, Gordon lập luận rằng Sudan rất cần thiết vì an ninh của Ai Cập và để Ansar giành chiến thắng tại đây sẽ giúp phong trào lan rộng ra nơi khác. Nhà nước Mahdi cùng quân đội không có cờ thống nhất nhưng vẫn sử dụng nhiều lần một số thiết kế nhất định. Hầu hết các lá cờ đều mang bốn dòng chữ tiếng Ả Rập thể hiện lòng trung thành với Thượng Đế, Muhammad và Mahdi. Các lá cờ thường có màu trắng với viền màu và văn bản với nhiều màu sắc khác nhau. Hầu hết các đơn vị quân đội đều có cờ riêng.
Cờ vua lục giác Bàn cờ vua lục giác là một biến thể của bàn cờ vua truyền thống, được thiết kế với hình dạng lục giác thay vì hình vuông. Bạn có thể tạo ra bàn cờ lục giác bằng cách chia bàn cờ truyền thống thành 5 lớp ô lục giác, với mỗi lớp có số ô từ nhỏ đến lớn (ví dụ: lớp ngoài có 6 ô, lớp thứ 2 có 12 ô, lớp thứ 3 có 18 ô, lớp thứ 4 có 24 ô, và lớp trong cùng có 30 ô). Tổng cộng, bàn cờ vua lục giác có 90 ô. Bàn cờ vua lục giác là một lựa chọn thú vị cho những người yêu thích cờ vua và muốn trải nghiệm một biến thể mới. Nó mang lại một cách thức chơi và chiến thuật khác biệt, đòi hỏi người chơi phải nắm vững các quy tắc mới và định hình lại chiến lược của mình. Lưu ý rằng bàn cờ vua lục giác không phổ biến như bàn cờ vua truyền thống, vì vậy bạn có thể gặp khó khăn trong việc tìm kiếm bàn cờ và đối thủ để chơi. Tuy nhiên, nếu bạn quan tâm và muốn thử sức với biến thể này, bạn có thể tìm hiểu thêm trên internet hoặc các cửa hàng chuyên về cờ vua để có thể tìm được bàn cờ và người chơi ứng viên. Cờ vua lục giác thực chất là cờ vua bình thường, nhưng có thêm một người chơi thứ ba tham chiến. Bàn cờ thường sẽ có dạng lục giác, và đôi lúc là một số hình dạng hiếm gặp khác. Vì có 3 người chơi, nên cũng sẽ có 3 màu cờ khác nhau, và mỗi người chơi sẽ có một vị trí riêng để dàn quân. Bạn có lẽ sẽ thắc mắc rằng liệu cờ vua ba người chơi có công bằng hay không? Bạn có được dồn toàn lực tấn công một người chơi hay không? Trên lý thuyết là có thể, và đó là lý do tại sao đảm bảo tính công bằng trong một trò chơi như cờ vua ba người là rất khó. Đối với hầu hết những trò đánh cờ ba người phổ biến, người chiến thắng đơn giản là người chơi đầu tiên chiếu tướng được một người khác. Có nghĩa là trận cờ sẽ kết thúc ngay  khi một người chơi hạ gục được một người chơi khác, và người chơi còn lại sẽ xếp ở vị trí thứ hai. Nói cách khác, người đầu tiên chiếu tướng sẽ về nhất, người đầu tiên bị chiếu tướng sẽ về…bét, và người còn lại sẽ về nhì. Nếu bạn yêu thích chơi cờ nhưng chưa bao giờ thử chơi cờ vua 3 người, bạn có thể vào website , hoặc đấu với máy tính. Khi đấu với máy tính, bạn có thể thiết lập độ khó tùy ý muốn. Những người từng chơi cờ vua ba người đều thừa nhận rằng nó thú vị hơn nhiều so với cờ vua thông thường. Bạn không chỉ phải liên tục lo lắng vì bị đến hai đối thủ nhăm nhe tấn công, mà còn có thể rung đùi thích thú quan sát cuộc tàn sát giữa hai người chơi còn lại này. Có thể nói, cờ vua ba người là sự kết hợp giữa trải nghiệm tự chơi cờ và trải nghiệm xem người khác chơi cờ.
Christian views on hell = Hỏa Ngục (tiểu thuyết) = Bách khoa toàn thư mở Wikipedia Bài này nói về một tiểu thuyết. Để biết về bộ phim chuyển thể cùng tên, xin xem bài Hỏa ngục (phim 2016) Hỏa ngục là một tiểu thuyết của tác giả người Mỹ Dan Brown, cuốn sách thứ tư trong loạt tiểu thuyết Robert Langdon của ông, sau "Thiên thần và ác quỷ", "Mật mã Da Vinci" và "Biểu tượng thất truyền" .Cuốn sách được xuất bản vào ngày 14 tháng 5 năm 2013 bởi nhà xuất bản Doubleday  và đã trở thành ấn phẩm bán chạy nhất trên danh sách New York Times Best Seller đối với tiểu thuyết bìa cứng và tiểu thuyết e-book, lần lượt trong vòng 11 và 17 tuần kể từ khi ra mắt. Cốt truyện[sửa | sửa mã nguồn]. Giáo sư của trường đại học Harvard Robert Langdon tỉnh dậy trong một bệnh viện với một vết thương ở đầu và bị mất trí nhớ về vài ngày vừa qua. Ký ức cuối cùng của ông là về việc đi trong khuôn viên trường Harvard, nhưng ông nhanh chóng nhận ra rằng mình đang ở Florence. Sienna Brooks, một trong các bác sĩ đang chăm sóc cho Robert, cho ông biết rằng ông bị chấn thương sọ não do một viên đạn bay sượt qua đầu và đã tự mình đến phòng cấp cứu. Đột nhiên, Vayentha, một nữ sát thủ đang đuổi theo Robert, xông vào bệnh viện, bắn chết bác sĩ phụ trách việc chăm sóc Robert và tiến đến phòng của ông. Robert cùng Sienna chạy trốn đến căn hộ của cô. Sau khi Sienna kể lại chi tiết về việc ông nhập viện như thế nào, Robert tìm thấy một ống trụ với biểu tượng biohazard trong túi áo khoác của mình. Ông quyết định gọi điện cho lãnh sự quán Mỹ và được cho biết rằng họ đang tìm ông. Theo sự chỉ dẫn của Sienna, Robert cho họ biết địa chỉ đối diện với căn hộ của cô để tránh khiến cho Sienna bị nhúng sâu vào chuyện này. Ngay sau đó Robert và Sienna nhìn thấy Vayentha đỗ xe trước địa chỉ mà ông đã cho lãnh sự quán biết, khiến họ tin rằng chính phủ Mỹ đang tìm cách giết ông. Robert quyết định mở chiếc ống và tìm thấy một ống trụ làm bằng xương từ thời trung cổ có gắn một thiết bị máy chiếu mà khi được bật lên chiếu ra một phiên bản đã bị chỉnh sửa của bức vẽ của Botticelli. Ở phía dưới cùng của bức vẽ là dòng chữ "Sự thật chỉ có thể được nhìn thấy qua cặp mắt của cái chết." Binh lính bất ngờ đột kích căn hộ; Sienna và Robert trốn thoát trong gang tấc. Tin rằng ống trụ có liên quan tới Dante, Robert và Sienna đi về phía thành cổ. Tuy nhiên, họ phát hiện ra rằng cảnh sát đã phong tỏa các cây cầu và đang tìm kiếm tung tích của họ. Họ chạy vào một công trường ở gần Vườn Boboli, ở đó Robert chiếu bức vẽ "Bản đồ địa ngục" một lần nữa và để ý thấy các chữ cái trong từ "CATROVACER" đã được thêm vào 10 lớp trong tầng thứ 8 của địa ngục, đồng thời thứ tự các lớp đó cũng đã bị đảo lộn. Sắp xếp chúng lại như cũ khiến cho các chữ cái đánh vần từ "CERCA TROVA". Robert nhận ra rằng đó chính là từ được viết trên bức vẽ "Trận Marciano" của Vasari, được trưng bày ở Cung điện Vecchio. Robert và Sienna tránh được binh lính và lọt vào thành cổ bằng cách đi qua hành lang Vesari. Khi Robert đang xem xét bức "Trận Marciano" để tìm ra manh mối tiếp theo, một nhân viên của viện bảo tàng nhìn thấy ông và báo cho Marta Alvarez, giám đốc của viện bảo tàng. Marta nhận ra Robert vì đã gặp ông và Ignazio Busoni, giám đốc Il Duomo, từ tối ngày hôm trước. Cô dẫn Robert và Sienna lên một dãy cầu thang ở bên cạnh bức "Trận Marciano" và Robert nhận ra rằng đỉnh cầu thang nằm ngang hàng với vị trí của từ "cerca trova" trong bức vẽ. Marta cho Robert biết rằng cô đã cho họ xem mặt nạ người chết của Dante, được đặt trong một căn phòng ở cuối hành lang từ đỉnh cầu thang, vào tối hôm trước. Marta dẫn Robert và Sienna đến chỗ chiếc mặt nạ nhưng phát hiện ra rằng nó đã biến mất. Họ xem lại đoạn băng an ninh và thấy cảnh chính Robert lấy cắp chiếc mặt nạ cùng với Ignazio. Bảo vệ của viện bảo tàng ngay lập tức chĩa súng vào Robert và Sienna, Trong khi đó Mara gọi cho văn phòng của Ignazio để tra hỏi ông ta nhưng thư ký của Ignazio cho Marta biết rằng ông đã qua đời vì trụy tim từ tối hôm trước, và ông để lại cho Robert một lời nhắn ngay trước khi chết. Cô thư ký yêu cầu được nói chuyện với Robert và bật đoạn ghi âm, trong đó Ignazio cho Robert biết nơi chiếc mặt nạ được cất giấu một cách bí mật bằng cách gọi nơi đó là "Thiên đường 25." Robert và Sienna thoát khỏi các bảo vệ nhưng binh lính đã đến nơi. Họ băng qua tầng gác mái phía trên bức vẽ "Lễ phong thánh của Cosimo đệ nhất", ở đó Vayentha bị Sienna đẩy xuống và ngã chết. Robert liên hệ cụm từ "Thiên đường 25" tới nhà rửa tội Florence, nơi ông và Sienna tìm thấy chiếc mặt nạ của Dante cùng với một câu đố do người sở hữu hiện tại của nó, một nhà khoa học tỷ phú tên là Bertrand Zobrist, để lại. Sau đó Sienna giải thích cho Robert rằng Zobrist là một nhà di truyền học chủ trương việc ngừng sự tăng dân số ngoài tầm kiểm soát của loài người, và bị đồn là đang phát triển một căn bệnh để thực hiện điều đó. Một người đàn ông tên là Jonathan Ferris, với một vết thâm tím lớn trên ngực và một khuôn mặt bị nổi mẩn nghiêm trọng, tự xưng là người của tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và giúp họ thoát khỏi các binh lính. Họ lần theo câu đố đến Venice, ở đó Ferris đột ngột bất tỉnh. Sienna khẳng định rằng hắn bị xuất huyết nội, khiến Robert nghi ngờ rằng hắn đã bị nhiễm căn bệnh của Zobrist. Robert bị một nhóm người đàn ông mặc đồ đen bắt giữ còn Sienna thì trốn thoát. Robert được đưa đến gặp Elizabeth Sinskey, Tổng Giám đốc WHO, và nhận được lời giải thích về những gì đang diễn ra: Zobrist, người vừa tự sát một tuần trước, từng là một nhà di truyền học thiên tài và được cho là đã phát triển một dịch bệnh mà sẽ tiêu diệt một phần lớn dân số thế giới nhằm giải quyết một cách nhanh chóng vấn đề bùng nổ dân số. Elizabeth đã tìm thấy ống trụ trong hộp két của Zobrist và đưa Robert tới Florence để lần theo các manh mối. Tuy nhiên, Robert đã ngừng liên lạc với Elizabeth sau khi gặp Marta và Ignazio, nên WHO lo ngại rằng ông đã phản bội họ và hợp tác với Zobrist để phát tán dịch bệnh. Các binh lính là đội phản ứng khẩn cấp của WHO và không hề muốn giết ông. Zobrist đã trả tiền cho một tổ chức bí ẩn tên là The Consortium để bảo vệ chiếc ống cho đến một thời hạn được định trước. Hắn cũng để lại một đoạn băng chứa đầy những hình ảnh có liên quan tới Dante cũng như hình ảnh của chính dịch bệnh, được chứa trong một chiếc túi đang dần phân hủy ở một địa điểm dưới lòng nước. Đoạn băng tuyên bố rằng thế giới sẽ thay đổi vào sáng ngày hôm sau. WHO bắt cóc Robert sau cuộc gặp gỡ của ông với Marta và Ignazio, nhưng lúc đó ông vẫn chưa giải được toàn bộ câu đố. Họ dùng benzodiazepine để xóa đi ký ức ngắn hạn của Robert, tạo ra một vết thương giả và dàn dựng mọi chuyện để thúc đẩy ông giải đố. Sienna, Vayentha và Ferris đều là các diễn viên làm việc cho The Consortium; cả cuộc gọi đến lãnh sự quán Mỹ cũng là dàn dựng. Lãnh đạo The Consortium, sau khi nhận ra âm mưu khủng bố sinh học của Zobrist, đã hợp tác với WHO. Khuôn mặt nổi mẩn của Ferris là do dị ứng với chất keo mà anh ta dùng để cải trang thành vị bác sĩ mà Vayentha đã "sát hại". Vết bầm tím trên ngực anh ta là do phát súng giả. Ở Venice, Ferris được lệnh ngăn cản Sienna, người nhận ra điều này và đấm vào vết thương của anh ta, khiến anh ta bất tỉnh. The Consortium nhận ra rằng Sienna từng là người ủng hộ bí mật và người tình của Zobrist. Cô biết được vị trí của dịch bệnh sau khi Robert giải được câu đố và đi đến đó trước trên một chiếc phi cơ riêng. Robert, WHO và The Consortium phối hợp với nhau để ngăn cản cô. Sau khi xem đoạn băng của Zobrist, họ kết luận rằng chiếc túi chứa dịch bệnh sẽ phân hủy hoàn toàn vào ngày được chỉ ra trong đoạn băng, và các manh mối mà hắn để lại cho biết vị trí của nó: Hagia Sophia ở Istanbul, nơi Enrico Dandolo được chôn cất. Họ phát hiện ra rằng dịch bệnh nằm trong bể chứa nước ngầm Basilica nhưng Sienna đã đến đó từ trước. Chiếc túi chứa dịch bệnh đã bị vỡ và được cho là đã lây lan ra bên ngoài thông qua các du khách. Sienna chạy ra khỏi Cistern và la hét điều gì đó bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, khiến các du khách trở nên hỗn loạn, trong khi Robert đuổi theo cô. Sienna hóa ra không phải là người đã đâm thủng chiếc túi; mà nó tan được trong nước và đã phân hủy từ một tuần trước, nghĩa là cả thế giới đã bị lây nhiễm. Ngày được chỉ ra trong đoạn băng của Zobrist là sự tính toán của hắn về thời điểm mà toàn thế giới sẽ bị lây nhiễm. Chính Sienna cũng đã tìm cách ngăn cản con virus nhưng cô không tin tưởng WHO vì lo sợ con virus sẽ lọt vào tay các chính phủ đang nghiên cứu vũ khí sinh học. Lãnh đạo The Consortium tìm cách trốn thoát nhưng sau đó bị cảnh sát Thổ Nhĩ Kỳ bắt giữ. Sienna nhận được sự ân xá để đổi lấy việc hợp tác với WHO trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng, vì cô là một bác sĩ có nhiều kiến thức về những nghiên cứu của Zobrist. Dịch bệnh mà Zobrist tạo ra là một con virus hoạt hóa một cách ngẫu nhiên và làm biến đổi DNA để gây ra sự vô sinh trong 1/3 loài người. Dù với công nghệ kỹ thuật di truyền của tương lai, việc thay đổi bộ gen của con người trở lại như cũ vẫn sẽ rất nguy hiểm. Loài người do đó bị buộc phải bước sang một kỷ nguyên mới. Quảng bá[sửa | sửa mã nguồn]. Dan Brown công bố tên của cuốn sách trên trang web của mình vào ngày 15 tháng 1 năm 2013 , và sau đó tiết lộ trang bìa vào cuối tháng 2 năm 2013 . Nhà văn đã đăng tải chương đầu tiên của "Hỏa ngục" vào ngày 17 tháng 3 năm 2013, đồng thời xuất bản một phiên bản e-book miễn phí của "Mật mã Da Vinci" thông qua các cửa hàng e-book trực tuyến như Amazon, Google Play và Barnes Noble cho đến ngày 24 tháng 3 năm 2013. Transworld, nhà xuất bản chính thức các tác phẩm của Dan Brown tại Anh, cũng đã đăng tải đoạn trailer chính thức của cuốn sách lên YouTube. "Hỏa ngục" đã được dịch sang tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Đức, tiếng Hà Lan, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Catala, tiếng Ý, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, tiếng Phần Lan, tiếng Na Uy, tiếng Thụy Điển và tiếng Đan Mạch để xuất bản đồng thời với phiên bản gốc. Các nhà xuất bản đã thuê một đội ngũ bao gồm 11 người để thực hiện việc này tại trụ sở của Mondadori ở Milan từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2012. "Hỏa ngục" cũng đã được dịch sang tiếng Ba Tư , tiếng Bosnia, tiếng Serbia, tiếng Croatia và tiếng Azerbaijan. Doanh số[sửa | sửa mã nguồn]. "Hỏa ngục" bán được 369.000 bản trong tuần đầu tiên sau khi xuất bản tại các cửa hàng được Nielsen BookScan thống kê và trở thành cuốn sách bán chạy nhất tại Mỹ. "Hỏa ngục" cũng bán được 228.961 bản và đứng đầu các bảng xếp hạng sách tại Anh. Cuốn sách tiếp tục chiếm vị trí đầu bảng trên Nielsen BookScan trong tuần tiếp theo với 211.000 bản. Phim[sửa | sửa mã nguồn]. Sony Pictures đã công bố rằng bộ phim chuyển thể từ "Hỏa ngục" sẽ ra mắt vào ngày 14 tháng 10 năm 2016 , do Ron Howard đạo diễn, David Koepp chuyển thể kịch bản và Tom Hanks tiếp tục đảm nhận vai Robert Langdon . Việc quay phim bắt đầu vào ngày 27 tháng 4 năm 2015.
Fortuna Sittard (]; [fɔʀˈtyːnaː ˈzɪtəʀt])#đổi là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp ở Sittard, Hà Lan. Câu lạc bộ hiện đang thi đấu tại Eredivisie với sân nhà là sân vận động Fortuna Sittard có sức chứa 12.500 chỗ ngồi. Câu lạc bộ được thành lập thông qua việc sáp nhập các câu lạc bộ cũ "Fortuna 54" và "Sittardia", được sáp nhập thành "Fortuna Sittardia Combinatie" vào ngày 1 tháng 7 năm 1968. "Tính đến ngày 19/9/2023"
Myripristis pralinia là một loài cá biển thuộc chi "Myripristis" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1829. Từ định danh "pralinia" có thể là cách viết biến thể hoặc không chính xác của "praslin", được đặt theo tên gọi của cảng Praslin (trên đảo New Britain, mặc dù Cuvier vẫn viết chính xác là Praslin), cũng là nơi thu thập mẫu định danh của loài cá này (hậu tố "ía" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp cổ đại là ία, cũng gần nghĩa là "thuộc về"). Phạm vi phân bố và môi trường sống. "M. pralinia" có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Line và quần đảo Marquises (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), về phía nam đến Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, "M. pralinia" được ghi nhận tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, gần đây được biết đến ở ngoài khơi phía bờ bắc đèo Hải Vân. "M. pralinia" sống tập trung trên các rạn san hô, gần hang hốc hoặc dưới gờ đá, cũng như trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 50 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "M. pralinia" là 20 cm. "M. pralinia" có màu đỏ tươi như nhiều loài "Myripristis" khác. So với "Myripristis kuntee", vệt sẫm màu trên nắp mang của "M. pralinia" chỉ kéo dài xuống dưới ngạnh mang một chút (không dài như "M. kuntee"). Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 14–17; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 13–15. "M. pralinia" có thể tạo ra âm thanh nghe như tiếng lầm bầm khi chúng đang gặp nguy hiểm. "M. pralinia" được khai thác làm nguồn thực phẩm ở một số quốc gia.
Các cột Hình thành Các cột Hình thành (còn được gọi là "Các ngón tay Khỉ") là một hình ảnh khí liên sao hình ngà voi và bụi được chụp bởi kính viễn vọng không gian Hubble trong tinh vân Đại Bàng, chòm sao Cự Xà, cách Trái Đất . Các ngà voi này được John Carles Duncan tìm thấy trên đĩa làm bằng kính viễn vọng 60 inch của đài thiên văn Núi Wilson vào năm 1920. Chúng được đặt tên như vậy vì khí và bụi đang trong quá trình tạo ra những ngôi sao mới, đồng thời cũng bị ăn mòn bởi ánh sáng từ những ngôi sao gần đây mới hình thành. Vào ngày 1 tháng 4 năm 1995, bức ảnh này được chụp và đặt tên là một trong mười bức ảnh đẹp nhất chụp từ kính viễn vọng Hubble bởi S, vùng này đã được chụp ảnh lại bởi kính thiên văn không gian Herschel của ESA (sau đó là kính Hubble với máy ảnh mới vào năm 2014, và James Webb vào năm 2022). Bức ảnh này ra mắt vào năm 2007, kính viễn vọng tia X Chandra (AXAF) đã quan sát khu vực vào năm 2011. Kính viễn vọng này không tìm thấy nhiều nguồn tia X trong các tòa tháp nhưng có thể quan sát được các nguồn ở mức năng lượng tia X khác nhau trong khu vực từ các ngôi sao trẻ.. Bức ảnh được chú ý vì tác động văn hóa toàn cầu, với "National Geographic" lưu ý vào kỉ niệm 20 năm thành lập là bức ảnh này đã xuất hiện trên mọi thứ, từ "áo phông đến cốc cà phê".
Happy (nhân vật manga) Happy (ハッピー, Happī) là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong bộ manga "Fairy Tail" và "Edens Zero" do Mashima Hiro sáng tạo. Cậu được miêu tả là một con mèo xanh nhân hóa đồng hành cùng các nhân vật chính trên chiếu phiêu lưu của họ, cậu thường đem đến yếu tố hài giải trí cho truyện. Trong "Fairy Tail", Happy là thành viên của chủng tộc phép thuật Exceed với năng lực biến thành một chú mèo có cánh và lông màu trắng, có vai trò làm người bạn và cộng sự của Natsu Dragneel. Trong "Edens Zero", nhân vật được tái dựng thành một android ngoài hành tinh và cộng sự của nhân vật nữ chính Rebecca Bluegarden, với chức năng làm cặp súng laser cho cô sử dụng. Happy đã xuất hiện trên nhiều sản phẩm truyền thông liên quan tới "Fairy Tail", gồm một bản chuyển thể anime, các bộ phim chiếu rạp, OVA, light novel và trò chơi video. Người lồng tiếng Nhật cho cậu là diễn viên Kugimiya Rie, còn người lồng tiếng Anh cho cậu là Tia Ballard. Sáng tạo và xây dựng nhân vật. Sau khi hoàn thành bộ truyện "Rave Master", ý tưởng xây dựng Happy lúc đầu của Mashima Hiro là tạo ra một nhân vật linh vật "cực kỳ nhiều chuyện" - trái ngược với Plue (linh vật của "Rave Master") - nhân vật từng làm anh gặp khó khi sáng tác vì Plue không biết nói. Ở giai đoạn tiền sáng tác "Fairy Tail", Mashima vẽ một bức minh họa miêu tả hai sinh vật giống mèo (tương đồng với Happy về sau) với đôi chân của chim và đôi cánh có lông vũ. Lúc đầu Mashima định đặt tên nhân vật theo vị thần Bắc Âu Freyr, song xem đấy là "quá trớn" đối với nhân vật và điều chỉnh chút để "phù hợp hơn". Khi được hỏi về khâu sáng tạo các nhân vật, Mashima đáp rằng mỗi nhân vật thể hiện một phần tính cách của anh, khi Happy tượng trưng cho hành động khi làm biếng của anh, rồi sau thừa nhận rằng Happy dựa trên sở thích yêu mèo của mình. Sau khi giới thiệu Carla (bản thể nữ của Happy), ý định đầu tiên của Mashima dành cho Happy đã phải "điều chỉnh nhiều", từ đó truyền cảm hứng cho tác giả xây dựng một tiểu phần nhân vật cho riêng cậu ngay sau đó. Mashima cũng có nói rằng trận chiến trên không của cặp Natsu-Happy đối đầu với Cobra là "điều [anh] luôn muốn làm", bình luận rằng đây là lần đầu tiên Happy dấn thân trực tiếp vào một cảnh chiến đấu trong bộ truyện. Nói về bản chuyển thể anime của "Fairy Tail", Mashima bình luận rằng anh thích thú xem Natsu và Happy "bay nhảy": "Những hiệu ứng mà tôi có thể vẽ nhằm miêu tả phép thuật trong manga có phần hạn chế, vì thế việc xem phép thuật trong anime rất là thú vị, và nó trông thật là đẹp trên màn ảnh. Nó làm tôi nhận ra các nhân vật của mình thú vị cỡ nào khi chứng kiến chúng bay nhảy." Anh coi Happy là nhân vật được thể hiện tốt nhất trên anime trong số toàn bộ các nhân vật của manga. Ito Yohei (nhà sản xuất bộ phim "") miêu tả Happy là vừa "thú vị" vừa "cực kỳ hữu dụng", vì cậu "phù hợp cả ở những cảnh dễ thương lẫn nghiêm túc." Người lồng tiếng Happy bản tiếng Nhật là Kugimiya Rie, còn người lồng tiếng Anh cho cậu là Tia Ballard. Trong khâu phát triển "Edens Zero", Mashima quyết định tái sử dụng Happy thay thế cho nhân vật linh vật chính của bộ truyện là E.M. Pino; ban đầu anh định cho cô ra mắt ngay ở chương đầu tiên của bộ manga cho đến khi khâu phát triển sau đó buộc Mashima phải lùi thời điểm mà cô xuất hiện; trước khi chọn được Happy, Mashima đã vẽ nhiều ý tưởng về các nhân vật động vật khác nhau, song anh thấy nỗ lực ấy là vô ích vì thấy nhân vật nhất định phải là Happy. Ở lần tái dựng này, nhân vật có đầu đuôi màu đen (trái ngược với đầu đuôi trắng trong "Fairy Tail") và đeo một cái vòng cổ có hình trái tim "B-Cube" thay cho chiếc túi màu xanh lá. Kugimiya và Ballard lần lượt tái thể hiện vai diễn bằng tiếng Nhật và tiếng Anh. Trong "Fairy Tail", Happy là thành viên chuyên mỉa mai của hội pháp sư tiêu đề và là bạn đồng hành của pháp sư "Sát Long Nhân" Natsu Dragneel; sau đấy tiểu đội của họ được mở rộng với việc kết nạp nữ tân binh Lucy Heartfilia cùng hai người bạn thời thơ ấu, Gray Fullbuster và Erza Scarlet. Cậu là một sinh vật họ mèo thuộc chủng tộc có tên Exceed, sở hữu năng lực bẩm sinh là bay bằng cách mọc ra đôi cánh có lông vũ màu trắng trên lưng với phép thuật tên Aera, đồng thời tình bạn với Natsu khiến cho Happy xách Natsu trên không mà không bị say tàu xe. Trong tuyến truyện của mình (hầu hết được nêu trong một chương omake), Happy được cặp đôi Exceed gồm Lucky và Marl ấp trong một quả trứng, rồi sáu năm trước khi bộ truyện bắt đầu, Natsu tìm thấy nó và ấp nở; sự ra đời của cậu ngay lập tức làm ngưng cuộc tranh cãi giữa các thành viên trong hội về quả trứng, qua đó truyền cảm hứng Natsu đặt cái tên Happy cho cậu giống như một biểu tượng chim xanh hạnh phúc. Tiếp đó trong bộ truyện, Happy gặp một Exceed nữ tên là Carla, cô tiết lộ rằng mình và Happy xuất thân từ Edolas - thế giới song song với Earth-land (bối cảnh chính của truyện); Edolas là nơi Exceed được tôn sùng thành những sinh vật thần thánh nhờ sở hữu sức mạnh phép thuật bẩm sinh, trong khi các cư dân khác của Edolas lại không có. Happy bị sốc khi biết 100 Exceed chưa chào đời (tính cả cậu và Carla) bị chuyển đến Earth-land cùng chỉ thị cho họ tiêu diệt các Sát Long Nhân như Natsu; về sau cả hai biết được nhiệm vụ ấy thực chất là để che đậy cho nỗ lực sơ tán theo sắp xếp của Chagot (nữ chúa Exceed sở hữu năng lực linh cảm) sau khi cô dự đoán rằng vương quốc của họ sẽ bị diệt vong, và hành động giả vờ đi săn lùng Sát Long Nhân xuất phát từ viễn cảnh nhìn trước được các sự kiện trong tương lai của cô. Happy tiếp tục hỗ trợ Natsu và hội của họ xuyên suốt bộ truyện, sau cùng Happy giúp Natsu biến thành dạng người sau khi phát hiện ra cậu bạn mình là một con quỷ Etherious do hắc pháp sư Zeref tạo ra, để rồi hỗ trợ Fairy Tail và các đồng minh giăng bẫy và chung cuộc tiêu diệt được hắc long Acnologia bên trong phép phòng thủ Tiên Cầu. Ở cuối "Fairy Tail", Happy cùng tiểu đội của mình thực hiện "nhiệm vụ thế kỷ" - một nhiệm vụ mà chưa ai trong hội từng hoàn thành trong vòng 100 năm qua. Trong bối cảnh của "Edens Zero", Happy là một chủng tộc mèo ngoài vũ trụ từ một hành tinh tên là Excede. Cậu là người bạn lâu năm và cộng sự của nhân vật nữ chính trong truyện, Rebecca Bluegarden; cô là người đặt tên cho cậu sau khi tìm thấy cậu lúc mồ côi. Sau khi Happy bị một tài xế say xỉn tông phải lúc Rebecca còn nhỏ, giáo sư chuyên máy móc Weisz Steiner đã hồi sinh cậu bằng cách chuyển trí thức của cậu vào cơ thể một android tân tiến. Những tính năng người máy của Happy giúp cậu tự biến mình thành một cặp súng laser để cho Rebecca sử dụng trong chiến đấu, với tên gọi Happy Blasters, có thể bắn ra những viên đạn "Ether" không gây chết người nhằm vô hiệu hóa mục tiêu; cậu có thêm một số chức năng nữa ở giai đoạn sau của bộ truyện, như chế độ súng trường tấn công, dạng lưỡi kiếm laser ở đuôi, và khẩu pháo "chế độ cận chiến" trên lưng. Happy và Rebecca cùng quản lý một tài khoản có tên "Aoneko Channel" trên nền tảng video trực tuyến B-Cube, với mục tiêu đạt được một triệu người theo dõi bằng cách đăng tải video về những hành tinh khác nhau mà họ từng ghé thăm trong thời gian làm thành viên của hội mạo hiểm giả Shooting Starlight. Ngay sau khi bộ truyện bắt đầu, Happy and Rebecca gia nhập hội phi hành đoàn của tàu chiến tiêu đề "Edens Zero" (với thủ lĩnh là nam chính Shiki Granbell) nhằm tìm kiếm nữ thần vũ trụ Mother, qua đó đạt được mục tiêu. Happy đã nhận được những bình luận tích cực từ giới phê bình khi đánh giá bộ manga "Fairy Tail" và những sản phẩm truyền thông liên quan. Carl Kimlinger của "Anime News Network" ("ANN") miêu tả Happy là "đứa con hoang của một chú mèo nhà hoang và một vật chơi đầu to" trong bài đánh giá tập manga đầu tiên, và gọi cậu là "một phụ tá xuất sắc" ở tập hai. Dale North của "Japanator" khen ngợi tính hài hước của nhân vật bằng bình luận: "Những trò đùa làm nền của Happy sẽ làm bạn cười khúc khích từ chương này qua chương khác." Ở bản chuyển thể anime, Carlo Santos của "ANN" xem Happy là một "trò tiêu khiển thú vị", khen ngợi vai trò phụ tá động vật của cậu là "nghe đã thấy thú vị và không hề gây phiền hà cần thiết". Cây viết thấy câu chuyện Happy chào đời trong anime thật "thú vị", song bình phẩm rằng nó "có thể được chèn vào bất kì đâu trong truyện". Kimlinger tán dương vai trò của Happy cùng với Carla trong tiểu phần Edolas, trong phần ấy vai phụ tá của họ lần lượt cho Natsu và Wendy Marvell đã được lý giải; cây viết xem đấy là "chi tiết gắn kết đầy cảm xúc của tiểu phần". Dẫu có viết rằng trong khi tình đồng đội của Happy với Natsu và Lucy thật kỳ cục, Kimlinger lại thấy "màn phối hợp kỳ quặc ấy" đại diện cho phần chính của truyện phim. Rebecca Silverman của "ANN" dành lời khen những khoảnh khắc người hùng của Happy và nhận thấy cậu bị các phản diện trong truyện đánh giá thấp: "Với một nhân vật chỉ làm yếu tố pha trò, đây là sự thay đổi tốt và cách hay để làm cậu ấy phù hợp hơn với vai trò nhân vật thay vì chỉ là phương tiện vận chuyển Natsu." Ở bài đánh giá bộ phim , Robert Prentice của "Three If by Space" coi đoạn phim lông của Happy biến thành màu đỏ là một "chi tiết nhỏ thú vị". Độ nổi tiếng và vật phẩm thương mại. Ở cuộc bình chọn độ nổi tiếng của "Fairy Tail" in trong số báo thứ 26 của "Weekly Shōnen Magazine", Happy xếp thứ tư với tổng cộng 4238 lượt bầu chọn. Những vật phẩm thương mại dựa trên Happy đã được bày bán trên thị trường, gồm một cục ghim và vật kỷ niệm cho quán cà phê.
Máy bay tiện ích Máy bay tiện ích là loại máy bay hạng nhẹ đa năng hoặc trực thăng đa năng thường được sử dụng để vận chuyển người, hàng hóa hoặc các loại vật tư khác, ngoài ra còn có thể sử dụng cho những nhiệm vụ mà không cần hoặc bị thiếu máy bay chuyên dụng phù hợp. Thuật ngữ máy bay tiện ích cũng có thể đề cập đến loại máy bay được cấp chứng nhận theo quy định của Mỹ, Canada, Châu Âu hoặc Úc. Chứng nhận này gọi là "Máy bay Hạng Tiện ích", cho phép thực hiện các màn nhào lộn trên không có giới hạn. Các thao tác bay được phê duyệt gồm: bay kết hợp quay đầu 180° và tăng độ cao (chandelle), bay dạng một nửa số tám (lazy eight), bay xoay tròn xoắn lò xo từ trên xuống (spin) và bay rẽ cua dốc (steep turn) với độ nghiêng hơn 60°.
Em muốn làm người nổi tiếng Em muốn làm người nổi tiếng là bộ phim điện ảnh thể loại âm nhạc, chính kịch của Việt Nam phát hành năm 2008, phim được đạo diễn bởi Nghệ sĩ ưu tú Nguyễn Đức Việt từ kịch bản của cựu ca sĩ Hà Anh Thu. Bộ phim giành được giải khuyến khích của Giải Cánh diều 2007. Ba nhân vật chính của phim do những người lần đầu tham gia đóng phim thể hiện: Đan Lê, Hồng Kim Hạnh, Thanh Vân cùng một số nam diễn viên đã có đôi chút ấn tượng với khán giả: Minh Tiệp, Lê Văn Anh và Thanh Tùng. "Em muốn làm người nổi tiếng" được tổ chức họp báo ra mắt vào ngày 26 tháng 01 năm 2008 tại Diamond Plaza, Thành phố Hồ Chí Minh. Ba nữ ca sĩ trẻ Nhung, Trang, Vân vừa tốt nghiệp Trường Nhạc và lập thành một ban nhạc, khi không tìm được thành công cả nhóm đã tách ra tìm sự nghiệp riêng cho mỗi người. Nhung dựa vào bầu sô đầy uy lực để được xuất hiện nhiều trước khán giả. Trang thì bám vào một đại gia, để chọn con đường hát ở phòng trà. Riêng Vân chọn con đường ca nhạc thính phòng với một nhạc sĩ có tên tuổi. Mỗi người đều phải trả giá cho con đường đến với thành công của riêng mình. Đội ngũ sản xuất. Ban đầu, Giám đốc sản xuất Nguyễn Thị Hồng Ngát định mời Vũ Xuân Hưng làm đạo diễn bộ phim, vì tiến độ sản xuất chậm chạp nên Giám đốc sản xuất quyết định thay đạo diễn khác. Nhà quay phim NSƯT Nguyễn Đức Việt được chọn vào vị trí đạo diễn, đây là lần đầu ông giữ vai trò đạo diễn một bộ phim điện ảnh. Kịch bản gốc của tác giả Hà Anh Thu, người từng có thời gian 6 năm là ca sĩ. Kịch bản đã bị hội đồng kiểm duyệt của Cục Điện ảnh lãng quên suốt 3 năm, đến khi bà Nguyễn Thị Hồng Ngát gần về hưu, kịch bản mới được bà phát hiện ra. Ban đầu ca sĩ Nhã Kỳ được chọn vào nhân vật Nhung, nhưng vì cô bận lưu diễn tại Đức nên Đan Lê - biên tập viên "Dự báo thời tiết" của Đài Truyền hình Việt Nam lúc bấy giờ, cũng từng là một ca sĩ - được chọn thay thế. Trước đấy, Đan Lê được mời đóng vai Vân, nhưng vì trong phim nhân vật này mới 16 tuổi, khá trẻ so với cô nên cô đã từ chối. Ngoài Đan Lê, Thanh Vân cũng là một ca sĩ, họ từng là thành viên của nhóm Ước mơ đến vào khoảng năm 2003-2004. Ê kíp đã đi tìm bối cảnh trong suốt ba tháng, tiêu tốn khoảng 50 triệu. Bối cảnh do họa sĩ Vũ Huy thiết kế, bộ phim được quay tại chùa Trầm, những tụ điểm ca nhạc lớn ở Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh, phù hợp với hoàn cảnh sống của giới ca sỹ thời hiện đại. Kịch bản gốc khi được duyệt thì chỉ có bối cảnh tại Hà Nội, nhưng trong quá trình làm phim, đoàn làm phim nhận thấy rõ phải đưa các nhân vật của phim vào bối cảnh miền Nam như đúng tình hình thực tế. Phần âm nhạc do nhạc sĩ Huy Tuấn đảm nhiệm với ca khúc anh sáng tác mới, dành riêng cho bộ phim: "Khúc giao mùa." Ngoài ra, một vài ca khúc của Võ Thiện Thanh cũng được sử dụng trong phim. Mức cát xê cho Huy Tuấn khoảng gần 100 triệu đồng. Bọn phim sử dụng trực tiếp các ca khúc "Anh Trôi Về Em, Trái Tim Luôn Gần Nhau, Hãy Cho Em Gần Bên Anh" do các ca sĩ Phương Linh, Phương Anh, Phương Thu và Kim trình bày. Âm thanh của phim được làm hậu kỳ tại Thái Lan với kinh phí khoảng 400 triệu đồng. Tổng kinh phí sản xuất phim ước tính 2,7 tỷ đồng, trong đó Nhà nước hỗ trợ 1,8 tỷ đồng (70%). Bộ phim khởi quay ngày 15 tháng 7 năm 2007 và dự định ra mắt vào dịp Tết Nguyên Đán 2008. Bộ phim chỉ giữ lại 50% đến 60% tình tiết của kịch bản gốc, bộ phim theo đó cũng chứa đựng góc nhìn tích cực hơn về giới nghệ thuật. Quá trình quay phim diễn ra trong hai tháng. Khi bộ phim "Giấc mơ" không kịp chiếu Tết thì bộ phim "Em muốn làm người nổi tiếng" mới được đôn ngày chiếu từ 14 tháng 2 sang 7 tháng 2 năm 2008. Phim do BHD độc quyền phát hành trong 5 năm. Từ khi chưa ra rạp, bộ phim đã bán được tám bản cho quân đội. Cũng như một số phim điện ảnh ra cùng năm, "Em muốn làm người nổi tiếng" cũng được phát hành Album CD riêng.
USS "Triton" (SSRN/SSN-586), là chiếc tàu ngầm duy nhất thuộc lớp Triton của Hải quân Mỹ, tàu được trang bị radar và sử dụng động cơ năng lượng hạt nhân. Đây là chiếc tàu ngầm duy nhất của Hải quân các nước Phương Tây được trang bị hai lò phản ứng hạt nhân. "Triton" là tàu ngầm thứ hai và là phương tiện thứ tư của Hải quân Mỹ được đặt tên theo vị thần Hy Lạp Triton, Được đưa vào hoạt động vào năm 1959, "Triton" là tàu ngầm lớn nhất, mạnh nhất và đắt nhất từng được chế tạo với giá 109 triệu USD (tương đương 1.094 triệu USD vào năm 2022) chưa kể đến chi phi nhiên liệu hạt nhân và lò phản ứng. Đầu năm 1960, con thuyền trở thành con tàu đầu tiên thực hiện chuyến đi vòng quanh Trái đất dưới nước trong Chiến dịch Sandblast. "Triton" đã hoàn thành mục tiêu này trong hành trình chạy thử dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Edward L. "Ned" Beach Jr. Nhiệm vụ của "Triton" với tư cách là tàu ngầm mang radar đã trở nên lỗi thời sau khi ra đời máy bay cảnh báo sớm tàu sân bay Grumman WF-2 Tracer. Tàu sau đó được chuyển đổi thành tàu ngầm tấn công vào năm 1962 và trở thành tàu ngầm chỉ huy của Hạm đội Đại Tây Dương vào năm 1964. Tàu được loại biên vào năm 1969, đánh dấu việc nó là tàu ngầm hạt nhân đầu tiên của Hải quân Mỹ bị loại biên. Dù vậy nó vẫn ở trong trạng thái dự bị cho đến năm 1993, sau đó nó được tháo dỡ theo chương trình tháo dỡ tàu ngầm hạt nhân. Lịch sử thiết kế. Fire control and electronics. "Triton"'s keel was laid down on 29 May 1956 in Groton, Connecticut, by the Electric Boat Division of the General Dynamics Corporation. Her length presented Electric Boat with many problems during her construction. She was so long her bow obstructed the slipway's railway facility, used for transporting material around the yard. Consequently, the lower half of her bow was cut away to facilitate yard operations and was re-attached just days prior to her launch. Similarly, the last of her stern was built on an adjoining slip and attached to the rest of the hull before "Triton"'s launch. Her sail was found to be too high to go under the scaffolding, so the top was cut away and re-attached later. Decommissioning and final disposition. 50th anniversary of Operation Sandblast.
Mohsin Khan (tên khai sinh là Waseem Khan, sinh ngày 26 tháng 10 năm 1991 tại Nadiad, Gujarat, Ấn Độ) là một nam diễn viên người Ấn Độ. Anh được biết đến qua vai diễn Kartik Goenka trong bộ phim "Tình yêu diệu kỳ". Mohsin Khan sinh ngày 26 tháng 10 năm 1991 trong một gia đình theo đạo Hồi ở Nadiad, Gujarat, Ấn Độ. Khi sinh ra, anh tên là Waseem, tuy nhiên sau đó, cha anh quyết định đổi tên anh thành Mohsin Khan. Anh từng học tại Học viện Trẻ em ở Mumbai và học ngành kỹ thuật tại Đại học Bách khoa Thakur, Mumbai, nhận bằng Kỹ thuật Điện tử Viễn thông, đồng thời anh cũng có bằng Cử nhân Nghiên cứu quản lý tại Trường Cao đẳng Mithibai. Mohsin Khan bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật với tư cách là trợ lý đạo diễn cho bộ phim "Koyelaanchal". Anh có vai chính đầu tay trong bộ phim "Nisha Aur Uske Cousins" nhưng anh trở nên nổi tiếng qua vai diễn Kartik Goenka trong bộ phim "Tình yêu diệu kỳ" và đóng chung với Shivangi Joshi. Sự nổi tiếng trong giới truyền thông. Mohsin Khan được tạp chí Eastern Eye đưa vào danh sách 50 người đàn ông quyến rũ nhất châu Á, xếp hạng thứ 17 vào năm 2017 và hạng 6 vào năm 2018. Anh cũng được tạp chí "The Times of India" đưa vào danh sách những người đàn ông được khao khát nhất màn ảnh nhỏ với vị trí thứ 46 vào năm 2018, thứ 43 vào năm 2019 và hạng 5 vào năm 2020.
comment/* Liên kết ngoài *//comment Câu lạc bộ bóng đá Utrecht (]) là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Hà Lan có trụ sở tại Utrecht. Câu lạc bộ thi đấu ở Eredivisie, giải đấu hàng đầu của bóng đá Hà Lan và chơi các trận đấu trên sân nhà tại sân vận động Galgenwaard. Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1970 dưới hình thức sáp nhập giữa các câu lạc bộ địa phương "VV DOS", "USV Elinkwijk" và "Velox". Kể từ đó câu lạc bộ đã vô địch ba giải cúp quốc gia KNVB Cup vào các năm 1985, 2003 và 2004, đồng thời giành được Johan Cruyff Shield vào năm 2004 với tư cách là câu lạc bộ đầu tiên ngoài "Bộ ba" truyền thống của Hà Lan. Utrecht cũng là câu lạc bộ duy nhất ngoài "Bộ ba" chưa bao giờ bị xuống hạng ở giải đấu hàng đầu Eredivisie. Utrecht đã thi đấu 15 mùa giải ở châu Âu, lọt vào vòng bảng của UEFA Cup 2004–05 và UEFA Europa League 2010–11, kết quả tốt nhất ở châu Âu của họ. "Tính đến ngày 15/9/2023"
Jeanne của Pháp hay Jeanne của Valois (tiếng Pháp: "Jeanne de France/Jeanne de Valois"; tiếng Tây Ban Nha: "Juana de Francia/Juana de Valois"; tiếng Anh: "Joan of France/Joan of Valois"; sinh 13 tháng 12 và mất 16 tháng 9 năm 1371 tại Béziers) là người con duy nhất của Philippe VI của Pháp vàZuria của Navarra. Dù đã có hai con trai và bốn cháu trai để kế vị ngai vàng nước Pháp, nhưng Philippe VI của Pháp vẫn tái hôn với người vợ thứ hai là Zuria của Navarra. Zuria vốn được hứa hôn cho Vương tử Jean, sau là Jean II của Pháp. Tuy nhiên, vì bị hấp dẫn trước vẻ đẹp của nàng Vương nữ kém mình gần 40 tuổi, Phillippe VI đã kết hôn với Zuria vào ngày 29 tháng 1 năm 1350, chỉ một tháng rưỡi kể từ khi người vợ đầu là Jeanne xứ Bourgogne qua đời. Tuy nhiên cuộc hôn nhân giữa hai người kéo dài không lâu khi Philippe VI qua đời vào ngày 22 tháng 8 cùng năm, để lại người vợ góa đang mang thai. Chín tháng sau, vào tháng 5 năm 1351 , Zuria của Navarra đã hạ sinh một cô con gái là Jeanne. Jeanne, cùng với người anh cùng cha khác mẹ Jean II của Pháp và Philippe xứ Orléans, là những người con sống qua tuổi ấu thơ của Philippe VI của Pháp. Zuria của Navarra sau đó cùng con gái định cư ở Neaufles-Saint-Martin, gần Gisors. Theo chứng thư ngày 16 tháng 7 năm 1370, Jeanne được hứa hôn với với Vương tử Chuan, Công tước xứ Girona, sau là Chuan I của Aragón . Tuy nhiên, Jeanne đã qua đời vào ngày 16 tháng 9 năm 1371 tại Béziers khi đang trên đường tới Perpignan để tiến hành lễ cưới. Một bà đỡ người Aragón tên là Bonanada bị buộc tội vô căn cứ rằng đã đầu độc Jeanne, nhưng Bonanada không bị kết tội. Jeanne được đặt trong một ngôi mộ ở Thánh đường Thánh Nazaire , sau đó được chuyển đến Nghĩa địa Vương thất của Vương cung thánh đường Thánh Denis. Tượng đài tưởng niệm ở Béziers đã bị phá hủy trong các cuộc chiến tranh tôn giáo vào ngày 6 tháng 5 năm 1562 , trong khi đó lăng mộ của Saint-Denis bị những người cách mạng xâm phạm vào ngày 17 tháng 10 năm 1793.
Anne Marie của Orléans Anne Marie của Orléans (27 tháng 8 năm 1669 – 26 tháng 8 năm 1728) là Vương hậu Sardegna thông qua hôn nhân với Vittorio Amadeo II của Sardegna. Anne Marie từng là nhiếp chính của Savoia trong thời gian chồng vắng mặt vào năm 1686 và trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Anne Marie cũng là một nhân vật quan trọng trong lịch sử nước Anh khi có quyền kế vị nước Anh theo phái Jacobite. Anne Marie của Orléans là con gái của Philippe của Pháp, Công tước xứ Orléans, em trai của Louis XIV của Pháp, và Henrietta của Anh, con gái út của Charles I của Anh và Henriette Marie của Pháp. Mẹ của Anne Marie, Henrietta đã qua đời tại Lâu đài Saint-Cloud chỉ mười tháng sau khi Anne Marie chào đời. Một năm sau, cha của Anne Marie tái hôn với Tuyển hầu Thân vương nữ 19 tuổi Elisabeth Charlotte xứ Pfalz, thường gọi là Liselotte. Liselotte có mối quan hệ rất thân thiết với các con gái riêng của chồng. Anne Marie có một người em trai khác mẹ là Philippe II, Công tước xứ Orléans, Nhiếp chính tương lai của Pháp, được sinh ra từ cuộc hôn nhân thứ hai của cha. Với tư cách là cháu nội của Louis XIII của Pháp, Vương tôn nữ Anne Marie được hưởng địa vị và đãi ngộ của Petite-fille de France (Cháu gái nước Pháp), đồng thời cũng là một Princess du sang (Tông nữ Pháp). Anne Marie được mẹ kế mô tả là "một trong những người phụ nữ đáng yêu và đức hạnh nhất". Để duy trì ảnh hưởng của Pháp đối với các bang của Ý, bác của Anne Marie là Louis XIV đã sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa Anne Marie, bấy giờ được 14 tuổi, với Vittorio Amadeo II của Savoia, bấy giờ là Công tước xứ Savoia, sau này là Quốc vương Sicilia và Sardegna. Cả hai người đều là chắt của Henri IV của Pháp và Maria de' Medici thông qua ba người con của hai vợ chồng . Ngoài ra, Vittorip Amadeo II còn là chắt của Henri IV thông qua người con trai ngoại hôn là César de Bourbon. Louis XIV là đồng minh của mẹ chồng tương lai của Anne Marie là Marie Jeanne, và ủng hộ Marie Jeanne tiếp tục nhiếp chính ngay cả khi thời kỳ nhiếp chính thực sự của Marie Jeanne đã chấm dứt vào năm 1680: Marie Jeanne, trên thực tế, đã không tự bỏ vị trí nhiếp chính cho đến trước đám cưới của con trai không lâu. Cuộc hôn nhân ủy nhiệm của Anne Marie và Vittorio Amadeo diễn ra tại Versailles vào ngày 10 tháng 4 năm 1684, một ngày sau khi thỏa thuận hôn nhân được ký kết. Chồng sắp cưới của Vương tôn nữ được đại diện bởi người anh họ là Louis-Auguste, Công tước xứ Maine. Louis XIV đã tặng cho Anne Marie một khoản hồi môn trị giá 900.000 đồng livres. Philippe I xứ Orléans đã đi cùng con gái đến tận Juvisy-sur-Orge (cách Paris 18 km về phía nam), và Bá tước phu nhân xứ Lillebonne đi cùng Anne Marie đến tận Savoia. Anne Marie gặp chồng tại Chambéry vào ngày 6 tháng 5, lễ cưới trực tiếp được cử hành tại lâu đài bởi Tổng giám mục Grenoble. Hai ngày sau, cặp vợ chồng mới cưới thực hiện nghi thức "Lễ rước Hân hoan " tiến vào Torino. Anne Marie đã sinh được tám người con, bắt đầu với Maria Adelaide, chỉ vài tháng sau sinh nhật thứ 16 của Anne Marie. Ca sinh nở gần như khiến Anne Marie phải mất mạng, thậm chí phải nhận lấy của ăn đàng. Maria Adelaide kết hôn với Louis của Pháp, Tiểu Trữ quân, cháu trai của Louis XIV vào năm 1697, và là mẹ của Louis XV của Pháp. Cuộc hôn nhân giữa Maria Adelaide và Louis được sắp xếp với sự hỗ trợ của Nguyên soái xứ Tessé và của Jeanne Baptiste d'Albert de Luynes, Bá tước phu nhân xứ Verrué, tình nhân của Vittorio từ năm 1689 đến năm 1700. Công tước phu nhân và Vương hậu. Sau khi đến Savoia, Anne Marie chịu ảnh hưởng của người mẹ chồng thân Pháp cũng như là đồng minh quyền lực của Pháp tại triều đình Savoia. Anne Marie được miêu tả là một người con dâu ngoan ngoãn và khiêm tốn, luôn trung thành tuân theo những mong muốn của mẹ chồng Marie Jeanne.  Mối quan hệ thân thiết của Anne Marie với mẹ chồng không được chồng coi trọng, thậm chí coi đó là một mối đe dọa chính trị, vì từ lâu Vittorio Amadeo đã phản đối những ảnh hưởng của mẹ trong chính trị. Mối quan hệ cá nhân giữa Anne Marie và Vittorio Amadeo được cho là có phần nguội lạnh trong những năm đầu của cuộc hôn nhân, một phần do Vittorio Amadeo ngoại tình và phần vì Vittorio thất vọng khi vợ không sinh được con trai trong vài năm đầu cuộc hôn nhân. Anne Marie lần đầu nắm giữ chức vụ nhiếp chính khi Vittorio Amadeo vắng mặt khỏi Công qưốc vào năm 1686, và được cho là đã xử lý tốt công việc dù còn trẻ tuổi. Khi Vittorio Amadeo cắt đứt quan hệ với Pháp vào năm 1690, Anne Marie và các con đã đi cùng mẹ chồng rời thủ đô để phản đối. Bất chấp mối quan hệ hôn nhân với Pháp, Vittorio Amadeo vẫn gia nhập phe chống Pháp trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Anne Marie được chồng bổ nhiệm làm nhiếp chính của Savoia trong thời gian Vittorio vắng mặt vì chiến tranh, một nhiệm vụ mà Anne Marie đã đảm nhiệm một cách chín chắn và sáng suốt. Năm 1706, Torino bị quân Pháp bao vây dưới sự chỉ huy của Philippe II xứ Orléans, em trai cùng cha khác mẹ của Anne Marie, và lực lượng Tây Ban Nha của người cháu họ cũng như là con rể Felipe V của Tây Ban Nha. Anne Marie và các con trai Vittorio Amadeo Giovanni và Carlo Emanuele bị buộc phải trốn sang Genova. Khi chiến tranh kết thúc vào năm 1713 theo Hiệp ước Utrecht, Vittorio Amadeo nhận được Vương quốc Sicilia vốn trước đây thuộc sở hữu của Tây Ban Nha. Mẹ kế của Anne Marie đã viết rằng: "Ta sẽ không được cũng không mất trong hòa bình, nhưng có một điều ta sẽ thích thú là được nhìn thấy Công tước phu nhân xứ Savoia của chúng ta trở thành Vương hậu, bởi vì ta yêu con bé như thể con bé là con ruột của " Khi Vittorio Amadeo lên đường đến Sicilia để đăng quang, ban đầu Anne Marie sẽ ở lại Savoia đảm nhiệm vai trò nhiếp chính, nhưng vì anh sợ rằng vợ của nghe theo mẹ, Vittorio Amadeo đã đưa vợ đi cùng. Do đó, Anne Marie đã đăng quang cùng chồng ở Sicilia. Sau cái chết của con trai cả vào năm 1715, Anne Marie và Vittorio Amadeo đều rơi vào tình trạng trầm cảm nặng và rời thủ đô để tang cho con trai, để lại Marie Jeanne đảm đương chính sự của hai vợ chồng. Năm 1720, tuy vẫn giữ tước hiệu Quốc vương nhưng Vittorio Amadeo buộc phải đổi Sicilia mà lấy Công quốc Sardegna có vị thế ít quan trọng hơn. Với tư cách là phối ngẫu của Vương tộc Savoia, Anne Marie được quyền sử dụng Cung điện Vương thất Torino, Palazzina di caccia di Stupinigi rộng lớn bên ngoài thủ đô và Vigna di Madama Reale. Vương hậu Anne Marie qua đời vì bị suy tim tại biệt thự của mình vào ngày 26 tháng 8 năm 1728, một ngày trước sinh nhật lần thứ 59. Anne Marie được chôn cất tại Vương cung thánh đường Superga ở Torino, nơi mà tất cả các con của Anne Marie, ngoại trừ hai người con gái Maria Adelaide và Maria Luisa, cũng được chôn cất. Người thừa kế của phái Jacobite. Từ năm 1714 đến năm 1720, Anne Marie của Orléans là người thừa kế lâm thời của ngai vàng Anh, Scotland và Ireland của phái Jacobite. Yêu sách này được đưa ra bởi người anh họ của Anne Marie là James Francis Edward Stuart ("The Old Pretender", con trai của James II). Anne Marie trở thành nữ thừa kế lâm thời sau cái chết của con gái James II là Nữ vương Anne vào năm 1714, khiến Anne Marie và anh họ James là những người cháu duy nhất còn sống của Charles I của Anh. Vị trí người thừa kế của Anne Marie bị thay thế bởi sự ra đời của Charles Edward Stuart ( "Bonnie Prince Charlie", con trai của James Francis Edward Stuart) vào ngày 31 tháng 12 năm 1720. Khi Charles Edward và em trai Henry Benedict Stuart, đều qua đời mà không có hậu duệ hợp pháp, hậu duệ của Anne Marie của Orléans do đó đứng đầu trong thứ tự kế vị theo lập trường của phái Jacobite, tức là họ sẽ được thừa kế vương miện nước Anh nếu không có Đạo luật Dàn xếp, trong đó loại trừ những người theo đạo Công giáo là hậu duệ từ Vương tộc Stuart và Orléans và do đó, ngai vàng được kế vị bởi Vương tộc Hannover từ Đức. Anne Marie của Orléans và chồng có với nhau tám người con, trong đó chỉ có ba người con sống đến tuổi trưởng thành và chỉ có một người lâu hơn Anne Marie:
Tiền phong phụ, viết tắt trong tiếng Anh là SF (small forward), còn được gọi là cầu thủ số ba, là một trong năm vị trí trong một trận bóng rổ. Tiền phong phụ thường nhỏ con và nhanh nhẹn hơn so với tiền phong chính và trung phong, nhưng cao lớn hơn so với hai vị trí hậu vệ. Họ là những vị trí mang tính chiến lược và thường được giao nhiệm vụ ghi điểm, phòng thủ, tạo khoảng trống, và bắt bóng bật bảng cho đội. Tiền phong phụ có thể được xem như là vị trí đa dụng nhất trong cả năm vị trí vì họ có khả năng tấn công lẫn phòng thủ. Trung bình tiền phong phụ ở NBA cao khoảng 2 mét; trong khi ở thì họ cao khoảng 1,8 mét. Vì vậy nên đa phần tiền phong phụ đều ở mức chiều cao trung bình, tức cao to hơn hậu vệ dẫn bóng và hậu vệ ghi điểm, nhưng thấp bé hơn tiền phong chính và trung phong. Tiền phong phụ đảm nhận nhiệm vụ ghi điểm lẫn phòng thủ, và thường hỗ trợ trong việc bắt bóng bật bảng, sau tiền phong chính và trung phong. Ở cấp độ chuyên nghiệp, một số tiền phong phụ còn giỏi cả việc chuyền bóng, nhiều cầu thủ còn là những cỗ máy ghi điểm. Tiền phong phụ có thể ghi điểm bằng nhiều cách đa dạng. Có cầu thủ thiên về những cú ném chuẩn xác, như Kevin Durant, và có cầu thủ thiên về va chạm với cầu thủ đối phương, như LeBron James. Một số các tiền phong phụ khác sở hữu khả năng nhảy ném và chủ yếu dùng lối chơi băng bổ. Cũng có trường hợp họ hoạt động chủ yếu ở đường biên ngang hoặc chuyên về phòng ngự. Các tiền phong phụ chuyên phòng thủ cũng rất đa dạng, họ thường có khả năng bảo vệ nhiều vị trí khác nhau nhờ vào vóc dáng, tốc độ cũng như sức mạnh của họ. Khả năng di chuyển tốt kèm với thủ thế vững chắc chính là thứ giúp họ thành công. Khi bàn về chỉ số, tiền phong phụ có mặt trên toàn sân đấu và thường có chỉ số trong tất cả các hạng mục.
Ảnh hưởng văn hóa của Taylor Swift Ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác ca khúc người Mỹ Taylor Swift đã gây ảnh hưởng đến văn hóa đại chúng bằng tài năng sáng tác âm nhạc, nghệ thuật chuyên môn sâu sắc, màn trình diễn ấn tượng, hình tượng nổi bật, góc nhìn trên mọi phương diện và các hoạt động tiêu biểu của cô. Các ấn phẩm thường gọi đây chính là Hiệu ứng Taylor Swift. Sau khi Swift ra mắt công chúng với tư cách là ca sĩ kiêm nhạc sĩ độc lập 16 tuổi vào năm 2006, cô đã dần dần tạo dựng được danh tiếng, thành công và sự tò mò của công chúng nhờ vào hoạt động sự nghiệp của bản thân, khiến cô trở thành một nhân vật mang biểu tượng văn hóa. Swift được vinh danh là người tiên phong của thế kỷ 21, nhờ vào khả năng làm nhạc đa dạng màu sắc, năng lực sáng tác bài hát và tầm quan sát nhạy bén trong các hoạt động kinh doanh. Cô chính là tấm gương truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ và doanh nhân trên toàn thế giới. Swift khởi nghiệp bằng chất nhạc đồng quê, rồi qua thời gian sau cô chuyển sang lấn sân vào thị trường nhạc pop và khám phá các phong cách alternative rock, indie folk cũng như điện tử, góp phần xóa mờ ranh giới giữa các thể loại âm nhạc. Các nhà phê bình đã đánh giá cô là một tinh hoa văn hóa sở hữu sự kết hợp hiếm thấy giữa thành công về mặt thương mại trên các bảng xếp hạng lớn nhỏ, và cô luôn nhận được không ít lời khen ngợi từ phía nhà phê bình cũng như sự ủng hộ nhiệt liệt của những người hâm mộ cô. Chính vì lẽ đó, Swift được cho là đã tác động rộng rãi trong và ngoài ngành công nghiệp âm nhạc. Nhờ vào chính đòn bẩy chính trị và kinh tế mạnh mẽ đó của bản thân, Swift đã tận dụng truyền thông xã hội để làm bật lên các vấn đề trong ngành công nghiệp âm nhạc nói riêng và trong xã hội muôn thuở nói chung. Chẳng hạn như: thúc đẩy cải cách Spotify, Apple Music, Ticketmaster, các bản hợp đồng thu âm và phân phối cũng như thu hút sự quan tâm đông đảo đến quyền của nghệ sĩ, quyền sở hữu tác phẩm, luật sở hữu trí tuệ, phê phán chủ nghĩa tư bản, lên án nạn phân biệt giới tính và phân biệt chủng tộc. Đồng thời, bản thân cô cũng là đối tượng bị truyền thông đeo bám và giật tít gây tranh cãi. Từ giai đoạn từ cuối kỷ nguyên album cho đến sự bùng nổ của mạng Internet, Swift đã là động lực thúc đẩy sự phát triển của việc phân phối, nhận thức và tiêu thụ âm nhạc xuyên suốt những thập kỷ 2000, 2010 và 2020. Các nhà báo đã nhận định những thành công thương mại liên tục và ổn định lâu dài của Swift là tiền lệ chưa bao giờ có, bởi Swift là người nắm trong tay những kỷ lục vô tiền khoáng hậu ở các khía cạnh doanh số bán album, doanh số bán kỹ thuật số, số lần phát trực tuyến, số lượt phát thanh, doanh số bán vinyl, thành tích bảng xếp hạng âm nhạc và doanh thu lẫn khâu tổ chức chuyến lưu diễn. "Bloomberg Businessweek" đã hô vang Swift là "The Music Industry" (Cả ngành công nghiệp âm nhạc), và đó cũng chính một trong nhiều danh hiệu âm nhạc đại chúng tiêu biểu nhất của cô. Theo lời mô tả của tạp chí "Billboard", Swift là "một người kêu gọi ủng hộ, một biểu tượng phong cách, một chuyên gia tiếp thị, một nhạc sĩ xuất sắc, một người tạo động lực thúc đẩy các ranh giới về hình tượng sự nghiệp và một chiến binh đường trường phá từng kỷ lục một." Swift là chủ đề của nhiều nhà nghiên cứu học thuật, nghiên cứu truyền thông và phân tích ảnh hưởng văn hóa. Chủ đề xoay quanh cô thường tập trung vào chủ nghĩa nhạc pop lạc quan (poptimism), chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa tư bản, văn hóa mạng internet, văn hóa người nổi tiếng, chủ nghĩa tiêu dùng, chủ nghĩa Mỹ, chủ nghĩa hậu hiện đại và các hiện tượng âm nhạc xã hội khác nhau. Nhiều học giả hàn lâm giải thích rằng Swift có thể thống trị nền văn hóa nhờ vào nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan. Các yếu tố này gồm có khả năng cảm thụ âm nhạc của Swift, chủ đề nghệ thuật chặt chẽ, sự nổi tiếng trên toàn thế giới và cho đến hình tượng trước công chúng đầy sức hấp dẫn ở mọi thế hệ và sự nhạy bén trong việc quảng bá âm nhạc của cô. Nhiều viện nghiên cứu học thuật và các trường đại học đã tổ chức những khóa học giảng giải về Taylor Swift. Các tác giả viết bài đã sử dụng tính từ "Swiftian" để mô tả các những tác phẩm dễ gợi nhớ đến Swift. Nổi tiếng và trở thành ngôi sao. Taylor Swift chính là một trong những nghệ sĩ bán chạy nhất mọi thời đại. Cô là nữ ca-nhạc sĩ giàu nhất và là tỷ phú đầu tiên trong lịch sử âm nhạc có nguồn thu nhập chính đến từ âm nhạc (1,1 tỷ đô la Mỹ, tính đến cuối năm 2023). Cô đã phát hành tổng cộng 10 album phòng thu, "Taylor Swift" (2006), "Fearless" (2008), "Speak Now" (2010), "Red" (2012), "1989" (2014), "Reputation" (2017), "Lover" (2019), "Folklore" (2020), "Evermore" (2020) và "Midnights" (2022); cộng thêm với bốn album tái thu âm—"Fearless (Taylor's Version)" (2021), "Red (Taylor's Version)" (2021), "Speak Now (Taylor's Version)" và "1989 (Taylor's Version)" (2023). Toàn bộ sản phẩm vừa kể đều được các đĩa đơn tiếp sức quảng bá và phát hành trừ các bài hát và hợp tác không album của cô. Tất cả album của Swift đều đạt được thành quả thương mại và được nhiều cây viết đánh giá âm nhạc tán dương. "Billboard" tuyên bố rằng rất ít nghệ sĩ nào có được ba thế mạnh của Swift là thành công trên bảng xếp hạng, được giới chuyên môn đánh giá cao và cả sự hỗ trợ nhiệt tình của người hâm mộ, và nhờ những nhân tố đó mà cô lại càng thêm lan tỏa và có ảnh hướng mạnh mẽ với công chúng. Một số ấn phẩm đã từng công nhận tốc độ nổi tiếng và sức chạy đường dài của Swift là thuộc dạng "không biết mệt mỏi là gì" và "gây ảnh hưởng lên toàn cầu", và những nhận định ấy chưa bao giờ có thể được chứng kiến kể từ thế kỷ 20. Theo như CNN, Swift đã khởi động thập niên 2010 dưới danh nghĩa là ngôi sao hát nhạc đồng quê và kết thúc thập niên ấy với cương vị là "bà hoàng âm nhạc của mọi thời đại". Jody Rosen viết cho "New York" và cây viết Steve Chapman của "Chicago Tribune" đã gọi Swift là ngôi sao nhạc pop và ngôi sao ca nhạc lớn nhất thế giới, theo như Rosen là đến mức khiến cho những người đồng nghiệp cạnh tranh của cô phải "giành giật nhau ở hàng thứ hai". Một số lời diễn tả khác về Swift có thể nhắc đến gồm có "siêu sao nhạc pop ở cấp độ thiên thể" ("Elle"), và "nữ tiên phong dẫn đầu vĩ đại nhất thế giới" ("Fortune"). Hiện diện trong văn hóa. Taylor Swift chính là điều lớn nhất đang diễn ra trong công nghiệp giải trí. Cứ mở TV hoặc radio, lướt mạng xã hội, lắng nghe người ta trò chuyện qua đường, là bạn cũng bắt gặp được cô ấy ở đó. Các nhà báo đều phong tặng Swift là một biểu tượng văn hóa. Greg Jericho làm ngòi bút chuyên mục của "The Guardian" đã gọi Swift là một người có "sức sống văn hóa" nổi tiếng bền bỉ lâu dài dưới triều đại bùng nổ của mạng Internet, thậm chí còn vượt qua cả the Rolling Stones, Bob Dylan, David Bowie, Bruce Springsteen và U2. Toàn bộ những đại diện kể trên được tác giả nhận định chỉ có thành tích thương mại ngắn hạn và yếu tố nổi tiếng quan trọng tức thời, trong khi đó, Swift vẫn tiếp tục trên đà thắng lớn ở sự nghiệp năm thứ 18 của cô với album bom tấn "Midnights". Jericho đã trích dẫn số liệu năm 2022 và cho biết thêm, chỉ có những nghệ sĩ như Drake, Kanye West và Beyoncé mới có thể đủ khả năng cạnh tranh Swift về mặt danh tiếng, trong khi Swift thì đang là nữ nghệ sĩ nổi tiếng nhất thế kỷ 21. Đến cả, Drake còn phải nhắc đến sự áp đảo về mặt thương mại của Swift trong bài hát năm 2023 "Red Button" của anh, qua phần lời "Taylor Swift the only nigga that I ever rated / Only one could make me drop the album just a little later". Chris Molanphy bên phía "Slate" khẳng định rằng giai đoạn sự nghiệp của Swift có khi còn dài lâu hơn cả the Beatles và phá cả kỷ lục mà trước đó mọi người vẫn cho rằng "chẳng một ai làm vỡ được" của ban nhạc. Nhiều tay viết báo còn so sánh danh tiếng của cô với những siêu sao nhạc pop thế hệ cũ Michael Jackson hoặc Madonna; Tác giả "The New York Times" là Ben Sisario cảm thấy tầm cỡ thống trị nền văn hóa của Swift hoàn toàn có thể cạnh tranh một mất một còn với Jackson và Madonna ở thập niên 1980, và gọi đây là điều gì đó mà "cả doanh nghiệp giải trí phải mặc nhiên chấp nhận rộng rãi là không còn người nào được như vậy xuyên suốt những giai đoạn của thế kỷ 21." Nhiều cây viết phê bình gồm có Sam Lansky bên tờ "Time," đã cho rằng Swift là một trong những thực thể độc văn hóa cuối cùng trên thế giới. Chính âm nhạc, cuộc đời và hình tượng công chúng của Swift là tâm điểm thu hút dư luận và cánh báo giới trong lĩnh vực văn hóa người nổi tiếng. Swift trở thành thần tượng teen ngay sau khi vừa mới cho phát hành album đầu tay cùng tên tuổi cô vào năm 2006, và từ đó trở về sau cô hóa thành gương mặt thống trị của nền văn hóa đại chúng, nên cô thường được mệnh danh là biểu tượng nhạc pop hoặc diva. Gayle Pamerleau bên Đại học Pittsburgh tại Greensburg đã lấy ví dụ tên tuổi lớn mạnh của Swift trong việc lý giải toàn cầu hóa và gọi cô là một cơn gây sốt của xã hội đã tận dụng "khả năng tồn tại trong vòng 24 tiếng đồng hồ, cầu nối toàn cầu lại với nhau, và khi đó từng người đều biết mọi người khác đang nghĩ gì và làm gì." Kristy Fairclough đến từ Đại học Salford nhấn mạnh Swift là "trung tâm của cả vũ trụ văn hóa". Kate Knibbs bên chuyên trang "The Ringer" gọi Swift là "chạy trời không khỏi nắng" vì cả công trình sáng tác âm nhạc đồ sộ của Swift đã lún "sâu vào đời sống dân chúng đương đại dù chúng ta có thích hay là không thích." Lẽ đó, sự nghiệp của Swift đã dẫn tới sự định hình của ngành công nghiệp âm nhạc. Trong bài viết năm 2016, "Billboard" lập luận cho rằng dù sự nghiệp tuy chỉ mới kéo dài có một thập kỷ nhưng Swift đã tác động văn hóa "không thể phủ nhận được". "Time" xướng danh Swift trong bảng xếp hạng năm 2010, 2015 và 2019 vào trong danh sách xếp hạng 100 người có ảnh hưởng lớn nhất. Năm 2014, cô được liệt vào danh sách 30 Under 30 của "Forbes" ở hạng mục âm nhạc. Swift trở thành người phụ nữ trẻ nhất nằm trong danh sách 100 người phụ nữ quyền lực nhất thế giới theo "Forbes" vào 2015, tại vị trí thứ 64, và nghệ sĩ biểu diễn đầu tiên từng lọt vào top 5 danh sách ấy vào năm 2023. Cô trở thành người phụ nữ được tìm kiếm Google nhiều nhất vào năm 2019 và với tư cách nhạc sĩ vào năm 2022, cũng như là nhạc sĩ sáng tác ca khúc được Google nhiều nhất mọi thời đại, và "The Guardian" vinh danh cô trở thành người phụ nữ quyền lực nhất ở truyền thông Anh Quốc. Nhiều tờ báo truyền thông cũng công nhận cô là đỉnh cao danh vọng mới vào năm 2023, cùng với "Glamour" bảo rằng cô "đã chính thức xâm lược mọi phương diện của văn hóa đại chúng." Những người soạn tạp chí cho "Billboard" cảm tưởng rằng "sự hiện diện của cô ấy trong âm nhạc phổ biến cũng giống như chính bản thân nhạc đại chúng vậy. Cô ấy đang công phá với năng suất khủng khiếp nhất, trên nhiều phương tiện và thời đại, và không có đối thủ nào ở cùng trình độ của cô ấy", còn N"có lẽ chưa có ai trên hành tinh này có ý nghĩa về mặt văn hóa như Swift." Trong lúc mô tả những ý kiến đồng thuận quan trọng, người viết bài Jeff Yang đã bảo rằng Swift "ngày càng được nhắc đến giống hệt như một lực lượng kinh tế của tự nhiên, một người ủng hộ, tổ chức và đổi mới sáng tạo và được cho là nhân vật có ảnh hưởng nhất, thậm chí là quyền lực nhất trong ngành công nghiệp âm nhạc." Billie Schwab Dunn phía "Newsweek" nhận xét, "Swift đã cai trị cả thị trường, mà bên trong chính là phần lớn những người theo chủ nghĩa tư tưởng văn hóa và sự chú ý của giới truyền thông, giống trước khi có cô ấy thì chẳng có nghệ sĩ nào được như vậy." "Billboard" khẳng định rằng "sự phổ biến của Internet đã làm suy yếu nền văn hóa độc canh bằng cách mang đến cho chúng ta nhiều lựa chọn giải trí hơn để tập trung và bàn tán cùng nhau, nhưng vị thế văn hóa của Swift đã khơi gợi lại cả thời kỳ mà tất cả chúng ta đều nghe những đĩa đơn ăn khách giống nhau và xem những thứ giống nhau trên truyền hình, những khoảnh khắc văn hóa có tầm ảnh hưởng sâu rộng đến mức không thể tránh khỏi." Người viết chuyên mục Michael A. Cohen bên "MSNBC" gọi Swift là "biểu tượng nổi tiếng nhất và ảnh hưởng văn hóa nhất nước Mỹ." Cây bút Jeff Haden tạp chí Inc. phát biểu rằng, "Swift chính là Elvis Presley hoặc The Beatles của thế hệ này, Howard Schultz thành công trong kinh doanh tự thân, và Oprah Winfrey có sức ảnh hưởng văn hóa." Biểu tượng của nước Mỹ. Các nhà báo đã gắn kết sự nghiệp nổi tiếng của Swift với chủ nghĩa Mỹ. Theo Knibbs, chỉ cần trong tay một album "Fearless", Swift đã từ một "người nổi tiếng chuyên hát đồng quê thì nay đã trở thành ngôi sao nổi tiếng cấp công nghiệp của Mỹ" nhờ tài nghệ thuật khéo léo của cô. Jack Dickey chắp bút cho "Time" đã viết, Swift đã trở thành "nhạc sĩ quan trọng nhất nước Mỹ" từ năm 2014. "Maxim" gọi sự nghiệp của cô là "một câu chuyện thành công tinh túy của nước Mỹ". Cây bút đóng góp cho trang "Collider" Shaina Weatherhead đã viết rằng "Dù cô ấy có thích hay không thì Taylor Swift cũng đã trở thành trụ cột của hệ tư tưởng văn hóa" bằng cách bày tỏ tình cảm chân thành, tấm lòng tận tụy cho sự nghiệp và chủ nghĩa nữ quyền. Weatherhead còn nói thêm, tiếng tăm của Swift đã biến cô trở thành tượng đài của nền văn minh nước Mỹ thay vì chỉ giới hạn trong khuôn khổ ngành công nghiệp âm nhạc. Ann Jamieson của "Tampa Bay Times" đã xem Swift là "báu vật của Mỹ". Nhà phê bình văn hóa Greil Marcus nhấn mạnh rằng Swift "đang dán trên gương mặt lá cờ nước Mỹ" nhờ vào đôi môi đỏ mọng, nước da trắng trẻo và cặp mắt màu lam quyền lực. Theo nhà soạn báo cho "Vulture" Nate Jones, Swift đang "sở hữu chất nhạc là hiện thân của quyền bá chủ nước Mỹ", còn chuyên gia đề mục Peggy Noonan của tập báo "The Wall Street Journal" thì cảm thấy rằng người Mỹ phải nên biết ơn Swift vì sự nghiệp của cô là "câu chuyện nước Mỹ hoành tráng". Emily St. James của "Vox" từng viết, Swift đã thể hiện từng câu chuyện của người Mỹ thuộc thế hệ Millennials thông qua các bài hát của cô theo cách Springsteen đại diện cho thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh ở Hoa Kỳ. Swift cũng ẩn ý tự gọi chính bản thân cô là "Miss Americana" (Tiểu thư nước Mỹ) trong bài hát năm 2019 "Miss Americana the Heartbreak Prince", và cho ra mắt một bộ phim tài liệu năm 2020 cùng tên tự gọi đó để lột tả từng bước tiến trong cuộc đời và sự nghiệp của cô. Tri ân và vinh danh. Swift được trao tặng rất nhiều danh hiệu nhạc đại chúng nhờ vào sức ảnh hưởng văn hóa mạnh mẽ của cô. "Cục cưng của nước Mỹ" (America's Sweetheart) là danh hiệu mà truyền thông dùng để nhắc khéo đến Swift, nhờ vào hình tượng "cô gái toàn nước Mỹ" (All-American girl) trong những năm tháng đầu sự nghiệp của cô. Biệt hiệu "Công chúa nhạc đồng quê" (Princess of Country) của Swift thực chất bắt nguồn từ việc cô lấn sân vào thị trường đại chúng bằng những bài hát đồng quê hợp thị hiếu và với tư cách là một ngôi sao nhạc đồng quê. Một số tạp chí còn gọi cô là "Nữ quái nhạc pop" (Tạm dịch của Pop Titan) hoặc "Bà hoàng nhạc pop" (Queen of Pop) nhờ vào quyền lực thống trị nền nhạc pop của cô. "Time" và "PopSugar" sử dụng "Nữ hoàng viết Bridge" (Queen of Bridges) để bày tỏ khen ngợi trước năng lực của Swift trong việc viết đoạn bridge được công chúng lẫn giới chuyên môn đón nhận rộng rãi của cô. Swift còn được gọi là "Bà chúa thả Easter Egg" (Queen of Easter Eggs) vì cô lừng danh trong việc đặt easter egg và nội dung ẩn ý xuyên suốt video âm nhạc và các ca khúc trong album của cô. Ngoài ra, cô được tạp chí "Bloomberg Businessweek" và người đưa tin người Mỹ Barbara Walters trao tặng danh hiệu là "Cả ngành công nghiệp âm nhạc" (The Music Industry) nhằm tôn vinh tài chi phối ngành công nghiệp âm nhạc đến từng sợi tơ mỏng của cô. Năm 2019, Swift trở thành người đầu tiên được nhận giải thưởng Phụ nữ của thập kỷ (thập kỷ 2010) từ "Billboard" vì là "một trong những nghệ sĩ âm nhạc thành công nhất mọi thời đại trong suốt thập kỷ 2010". Giải thưởng âm nhạc Mỹ xướng tên cô là Nghệ sĩ của thập kỷ nhờ vào những kỷ lục giải thưởng cô đoạt được trong thập kỷ 2010. Năm 2021, Giải Brit phong tặng Swift chiếc cúp Biểu tượng toàn cầu "để ghi nhận tác động to lớn của cô đối với âm nhạc trên toàn thế giới". Năm 2022, Nashville Songwriters Association International vinh danh Swift là nhạc sĩ sáng tác ca khúc của thập kỷ nhằm ca tụng thành công của cô với tư cách là một người viết lời. Năm 2023, cô được trao Giải thưởng sáng tạo tại Giải thưởng Âm nhạc iHeartRadio nhờ vào "sức ảnh hưởng của cô đối với văn hóa nhạc pop trên toàn cầu", còn "Time" thì đã đưa tên cô vào danh sách Nhân vật của năm, và Swift trở thành nghệ sĩ giải trí đầu tiên trong lịch sử 96 năm của danh sách nhận được danh hiệu này. Nhiều sự vật và địa điểm đã được đặt theo tên của Swift. Bảo tàng và Đại sảnh Danh vọng nhạc đồng quê tại Nashville, Tennessee đã thành lập trung tâm giáo dục Taylor Swift nhằm tổ chức các hoạt động liên quan đến chương trình giảng dạy cho các nhóm trường, chương trình âm nhạc, hội thảo và tọa đàm về sách xuất bản. Swift đã được Đại học New York trao bằng danh dự Tiến sĩ ngành Mỹ thuật vào năm 2022 vì là "một trong những nghệ sĩ thành công và nổi tiếng nhất trong thế hệ của cô". Cô đã có hai loài sinh vật được đặt theo tên của mình: "Nannaria swiftae", một loài cuốn chiếu đặc hữu ở quê hương Tennessee của cô, và "Castianeira swiftay", một loài nhện được phát hiện tại Costa Rica. Các nhà thực vật học đặt tên cho một chiếc máy cảm biến từ xa giám sát kiểu hình ở thực vật là TSWIFT (loại máy quang phổ hình tháp có lắp bánh xe chuyên dụng trong việc quan sát liên tục theo thời gian). Jerry Weiers, thị trưởng của thành phố Glendale, đã thông báo Glendale sẽ đổi tên thành "thành phố Swift" trong các ngày 17 và 18 tháng 3 năm 2023 nhằm chào đón sự kiện mở màn cho chuyến lưu diễn The Eras Tour của Swift. Santa Clara, thành phố công nghệ nằm ở Bắc California, đã được đổi tên thành "Swiftie Clara" trong những ngày diễn ra chuyến lưu diễn đó của cô. Sự nghiệp âm nhạc. Hồi sinh nhạc đồng quê. Swift là người có công lớn trong việc tái định hình và hồi sinh lại bối cảnh dòng nhạc đồng quê của thế kỷ 21. Theo Tom Roland của "Billboard", khung cảnh nhạc đồng quê ngày nay "đã khác hơn rất nhiều" nhờ vào công lao trong sự nghiệp của Swift, và một số nhà phê bình đã xem việc đó là "không chính thống". Rosen đã công nhận Swift là nghệ sĩ nhạc đồng quê đầu tiên có danh tiếng vươn ra xa nước Mỹ và ghi dấu ấn trên toàn thế giới, vì cô đã thể hiện chất liệu "hiện đại, chủ nghĩa quốc tế và tuổi trẻ" ở ngay chính thể loại âm nhạc mà theo truyền thống là luôn đại diện chủ nghĩa bảo thủ, chủ nghĩa địa phương và chỉ dành cho người già hay nghe. Thậm chí, thành tích bảng xếp hạng của cô còn vươn tới châu Á và Anh Quốc trong khi ở những nơi đó thì nhạc đồng quê kiểu Mỹ gần như vô danh. Tính đến tháng 2 năm 2011, "Fearless" đã tẩu tán 400 nghìn bản thuần ở Hồng Kông, Đài Loan, Indonesia và Philippines. Sau khi Swift nổi tiếng, các hãng thu âm nhạc đồng quê bắt đầu đổ xô đi ký hợp đồng với những ca sĩ trẻ có khả năng sáng tác nhạc cho riêng bản thân. Vào năm 2008, Sasha Frere-Jones của "The New Yorker" gọi Swift là "sinh viên có kỹ năng phi thường về các giá trị đã được thiết lập". Frere-Jones viết thêm, khi còn là người mở đầu chương trình cho Rascal Flatts, Swift đã hiên ngang "[sải bước] ở khắp sân khấu và biểu diễn nhạc cụ gõ song ca bên thùng rác và chuyển đổi màn biểu diễn không ngừng nghỉ. Giọng ca của cô ấy luôn nhẹ nhàng, dễ thở và không hề có chút ảnh hưởng nào. Cô ấy đã đáp lại niềm phấn khích của đám đông bằng tác phong chuyên nghiệp mà cô ấy đã luôn thể hiện tính từ năm 14 tuổi." "Rolling Stone" cho biết thể loại nhạc đồng quê của Swift đã có tác động lớn đến dòng nhạc pop ở những năm 2010. Theo tin từ Roland, Swift đã luôn nằng nặc đòi tự viết lời cho các bài hát của mình, và ca từ nhất quyết phải khai thác cảm hứng từ cuộc đời cô. Cô đã bước vào làng nhạc đồng quê, một thứ thể loại mà trước đây từng được người ta coi là "chỉ có người cao tuổi hát những bài nhạc sến cho những người cao tuổi khác nghe". Chỉ với những bài hát tự truyện lãng mạn và đau khổ chia tay, Swift đã lan tỏa thể loại nhạc đồng quê đến với các thế hệ trẻ có cùng lý tưởng. Mặc dù các trạm phát thanh nhạc đồng quê ở Mỹ luôn hướng đối tượng nghe nằm trong độ tuổi khoảng 25 đến 54, tuy nhiên đối tượng khán giả trẻ thưởng thức vẫn còn quá ít, và độ tuổi trung bình bị hạn chế lên đến trên 35 tuổi. Nhiều nghệ sĩ nhạc đồng quê, giám đốc điều hành nhãn hiệu ghi âm, và những người quản lý đài phát thanh đã tìm đủ mọi cách nhưng vẫn thất bại trong việc giảm độ tuổi trung bình xuyên suốt từ thập niên 1980 cho đến khi Swift xuất hiện. Một khi danh tiếng của Swift bắt đầu xúc tiến từ giai đoạn giữa cho đến cuối thập niên 2000, cùng với gam màu âm nhạc và chủ đề gây cảm hứng, khi đó độ tuổi trung bình nghe đài nhạc đồng quê bắt đầu giảm xuống quá 25 và thu hút rất nhiều bạn trẻ và thanh thiếu niên lắng nghe. Theo thông tin từ lập trình phát thanh viên John Shomby, Swift đã "gầy dựng nên thứ độ tuổi ấy và là người đầu tiên lại có thể làm được điều đó." Swift là một trong số nghệ sĩ nhạc đồng quê đầu tiên biết tận dụng mạng Internet để làm công cụ tiếp thị, chẳng hạn như quảng bá âm nhạc của cô qua trang MySpace, đây từng là một trang mạng xã hội lớn nhất trên thế giới từ năm 2005 cho đến năm 2009. Swift đã tạo trang MySpace vào hôm trước lúc hãng thu sau này của cô, Big Machine Records, được lập ra (ngày 31 tháng 8 năm 2005), và cuối cùng là thu hút 45 triệu lượt phát nhạc qua MySpace mà theo như CEO Scott Borchetta của hãng thu đã từng kể lại là nhằm thuyết phục các đài phát thanh đồng quê "mang bản tính đa nghi" về đối tượng khán giả thích hợp của Swift. Kể từ đó, lượng theo dõi trên mạng xã hội và dữ liệu dịch vụ phát trực tuyến đã được sử dụng "để chứng minh khả năng tạo tiếng của một nghệ sĩ đối với đài phát thanh". Sisario đã ghi công Swift trong hoạt động mở rộng sức hấp dẫn của âm nhạc đồng quê, giới thiệu thể loại ấy cho nhiều khán giả trẻ hơn, và góp sức cho đài phát thanh nhạc đồng quê vượt qua Top 40 định dạng lớn nhất ở Hoa Kỳ. Chủ nghĩa nhạc pop lạc quan. Các nhà báo đã chỉ ra rõ cách thức Swift tái định nghĩa hướng đi của nhạc pop thế kỷ 21: Đó chính là mở rộng ranh giới nhận thức của nhạc pop nhằm mang lại sự gắn kết về mặt cảm xúc và tham vọng nghệ thuật mà không đánh mất thành công về mặt thương mại, bất chấp chỉ trích phê phán. Năm 2013, Rosen đã gọi Swift ở kỷ nguyên "Red" là một nhân vật đúng đắn: "Một người được các nhà phê bình nhạc rock yêu quý, và họ vốn không hề có chút cảm giác phản văn hóa nào với cô ấy cả", khiến cô trở nên khác biệt với những ngôi sao nhạc pop đi theo xu hướng "rực cháy" của kỷ nguyên đó. Năm 2016, Roland nói rằng Swift "đã chinh phục được dòng nhạc đồng quê, và thực hiện một động thái chưa từng có đó chính là chuyển tiếp cuộc đời sang một nghệ sĩ nhạc pop hoàn toàn với album phòng thu "1989" mới nhất của cô ấy mà không hề có bất cứ vết sạn nào cả." Nhờ chính thành công về mặt thương mại của "1989" mà đã thay đổi hình tượng cô gái trẻ hát nhạc đồng quê của Swift thành một ngôi sao nhạc pop hoàn toàn chính thức. Các đĩa đơn trong album vừa kể được phát đi phát lại rất nhiều lần ở nhiều trạm phát thanh Mỹ suốt một năm rưỡi tính từ ngày được cho ra mắt, và đến cả "Billboard" còn phải công nhận đây là "một kiểu văn hóa hiện diện khắp nơi" hiếm có đối với một album được ra lò vào những năm 2010. Học giả nhân văn Shaun Cullen mô tả Swift là hình mẫu của "đỉnh cao nhạc pop hậu thiên niên kỷ". Theo lời kể của Jay Willis đến từ trang "GQ", Sasha Geffen của "Vulture" và Hannah Mylrea phía bên "NME", họ đều nhận định công trình "1989" đã tránh né các thể loại hay hòa trộn với thể loại khác như hip hop và RB đương đại, và truyền cảm hứng cho những nghệ sĩ trẻ tuổi khai phá "nhạc pop thuần khiết" và xu hướng âm thanh hoài cổ theo phong cách những năm 1980. Ian Gormely của "The Guardian" gọi Swift là người tiên phong chủ nghĩa nhạc pop lạc quan (poptimism), thay thế xu hướng dance và urban bằng niềm đam mê tham vọng. Anh viết rằng quá trình chuyển đổi sang nhạc pop của Swift đã là minh chứng cho "sự thành công trên bảng xếp hạng và tầm nhìn nghệ thuật rõ ràng, hai đặc điểm này vốn dĩ không hề loại trừ lẫn nhau." Geffen cho rằng sự thành công trong quá trình chuyển đổi nhạc pop của Swift là nhờ vào ca từ của cô bắt nguồn từ sự gắn kết cảm xúc thành nhiều tầng lớp, còn hơn là những chủ đề hời hợt vô nghĩa đang thống trị nhạc pop chính thống. Theo cây bút Lucy Harbron bên tạp chí "Clash", các siêu sao nhạc pop như Dua Lipa sẽ chẳng bao giờ tồn tại nếu như Swift đã không bình thường hóa việc pha trộn nhiều thể loại nhạc pop khác nhau trong "1989", đương nhiên cũng nhờ album này mà đã kéo theo những xu hướng rõ rệt ở những nghệ sĩ nhạc pop khác từ đó. Theo Neil Smith bên BBC, "1989" đã mở đường cho những nghệ sĩ "không muốn bị dồn vào những thể loại âm nhạc tách biệt". Năm 2022, các nhà phê bình Sam Sanders và Ann Powers coi Swift là "sự kết hợp thành công đáng ngạc nhiên giữa ngôi sao nhạc pop sáng chói tới hàng megawatt và ca sĩ kiêm nhạc sĩ sáng tác ca khúc trong phòng thu tại nhà tựa như phòng ngủ." "Tắc kè hoa" đa dạng thể loại. Swift đã mạo hiểm khám phá nhiều thể loại khác nhau và thực hiện những đổi mới nghệ thuật trong suốt sự nghiệp của mình. "Pitchfork" cho rằng vào năm 2021, Swift đã vĩnh viễn thay đổi bối cảnh hòa nhạc bằng một loạt bản ghi âm "nghe độc đáo" thích ứng với những chuyến biến trong xu hướng âm nhạc và văn hóa. Harbron cho biết sự nghiệp trải dài trên nhiều thể loại âm nhạc của Swift đã tạo động lực cho các đồng nghiệp của cô thử nghiệm những chất liệu đa dạng. BBC và "Time" gọi Swift là "tắc kè hoa của âm nhạc" vì lẽ đó. Swift cho hay, ngay cả cô cũng tự "biết mình phải liên tục đổi mới" trước khi các hãng thu âm kịp thời tìm cách thay thế đào thải cô. Chính album phòng thu thứ tư "Red" của Swift đã góp dầu vào lửa cho các cuộc tranh luận gay gắt về việc phân thể loại nhạc của Swift, vì vào thời điểm đó cô vẫn còn là một nghệ sĩ hát nhạc đồng quê, nhưng "Red" lại chứa đựng các yếu tố pop, nhạc điện tử và nhạc rock nặng nề. Bản thân Swift cũng cho biết, cô luôn sẵn sàng để cho người khác mặc sức dán nhãn thể loại cho sản phẩm của cô. Nhiều ngòi bút đánh giá nhận định rằng, "Red" đã cho thấy biểu hiện chuyển đổi tất yếu của Swift sang nhạc pop chính thống. Người đưa tin Randall Roberts của "Los Angeles Times" đã công nhận "Red" chính là "tác phẩm ca nhạc đại chúng nước Mỹ được kết xuất hoàn hảo", chẳng cần quan tâm đó là nhạc pop hay là nhạc đồng quê. Jon Caramanica bên "The New York Times" mệnh danh Swift là "ngôi sao nhạc pop trong bối cảnh đồng quê". Theo Harbron, "Red" chính là minh chứng để cho công nghiệp âm nhạc nhận thấy rõ: avant-garde không chỉ là phương thức tiếp cận âm nhạc đầy tính thử nghiệm mà đó còn là cách Swift "mở đường cho mọi nghệ sĩ khác" kết hợp nhiều thể loại vào một album ngay từ năm 2012. Hậu kỷ nguyên album "1989", Swift cho phát hành đột xuất "Folklore" và "Evermore", và lần này là hỗn hợp của các phong cách thể loại nhạc indie, dân gian đương đại, chamber pop, và alternative rock. Hai album đó đã kéo giãn gu nhận thức của công chúng đối với âm nhạc của Swift ra xa hơn, và nhiều cây viết đánh giá đã diễn tả bộ sưu tập của Swift giống như tập hợp những bản ca đa thể loại đa trường phái và không đồng nhất. Sau khi Swift chứng minh sức hút của phong cách emo trong nhạc rock, nhiều bài hát của Swift được nhiều nghệ sĩ chuyên pop punk và metalcore hát lại. "Billboard" còn nhấn mạnh rằng Swift có khả năng "lôi kéo bất kỳ âm thanh nào đi vào quỹ đạo âm nhạc đại chúng mà cô ấy muốn" và "cho thấy một nghệ sĩ hoàn toàn có thể thay đổi (gu thể loại) tùy ý". Sáng tác ca từ. Swift có khả năng sáng tác những bài nhạc cùng với lời ca từ rất mau chóng tức thời. Các sáng tác của cô ấy hoàn toàn có thể chạm đến những cảm xúc và trải nghiệm phổ quát, đồng thời cũng tương xứng với hình tượng trước công chúng theo cách tạo ra vòng lặp quan tâm và phân tích âm nhạc của cô ấy, và kéo dài như thế này mãi mãi. Nate Sloan, "The Independent" (2022) Swift về cơ bản là một nhạc sĩ sáng tác bài hát giàu có ở Nashville mà theo Rosen là đã "đắm chìm trong kỹ thuật và cách kể chuyện của Music Row". Những bài hát của cô nổi tiếng đem lại cảm xúc đam mê và rạo rực điên cuồng. Theo Zoya Raza-Sheikh bên "The Independent", Swift hoàn toàn có thể cân bằng các chủ đề phổ quát với tính đặc thù cao độ, và cô còn sở hữu "tài năng kỳ lạ trong việc phản ánh nỗi đau cảm xúc của thế giới qua lăng kính của chính cô ấy." Nhờ vào lời bài nhạc đầy cảm xúc cá nhân và dễ bị tổn thương, cây bút viết báo âm nhạc Nick Catucci cho rằng Swift đã tạo tiền đề giúp cho những ca sĩ thế hệ tiếp theo như Ariana Grande, Halsey và Billie Eilish bắt chước theo phong cách đó. Giáo sư Hannah Wing của Đại học bang Wichita cho rằng yếu tố đưa Swift nổi tiếng là nhờ vào sự quen thuộc đời thường, hay nói cách khác là cô đã khai thác triệt để "cảm giác gần gũi" vào trong âm nhạc của cô. Theo giáo sư sáng tác ca khúc Scarlet Keys tại Cao đẳng âm nhạc Berklee, Swift đã "nhào trộn thơ ca với lối nói thông tục và hiện đại", và thường sử dụng các thủ pháp văn thơ nhưng vẫn giữ bản chất "thực tế", chẳng hạn như trong các bài hát "Mean" (2011) hoặc "Shake It Off" (2014). Theo Raza-Sheikh, Swift đã lột tả tính cách ngây thơ thời niên thiếu của bản thân thông qua các album như "Fearless" và "Speak Now" và gây tiếng vang lớn đến đông đảo khán giả. Nối tiếp sau đó, cô đã cho ra mắt các đĩa nhạc trưởng thành đày đặn kinh nghiệm như "Red" và "1989", nhằm thể hiện sự tự tin của cô trong việc xác định câu chuyện của mình và hoàn toàn "không hề sợ làm đảo lộn thực trạng và khiến giới chuyên môn bất bình". Swift đã "nhập vai phản diện" trong "Reputation", và phải đến "Folklore" và "Evermore", một số nhà phê bình mới bắt đầu để ý đến tính nghệ thuật âm nhạc của Swift. Các nhà bình luận coi cả hai album "Folklore" và "Evermore" là những tác phẩm thi ca và bối cảnh hóa thành "những dự án giãn cách xã hội do đại dịch COVID-19" hoặc là hoặc "album cách ly". "Uproxx" nhấn mạnh "Folklore" đã làm đổi thay cả tông màu âm nhạc trong năm 2020. Cây bút Tom Hull viết rằng Swift "đã bắt kịp được tinh thần của thời đại" với "Folklore". "The New York Times và Vogue" xướng tên "Folklore" là một trong những khoảnh khắc tuyệt vời nhất "trong kỷ nguyên COVID". Học giả người Anh Jonathan Bate đã tuyên dương Swift là "nhà thơ thực thụ" và ưu ái so sánh cô với những nhân vật trong làng văn học như William Shakespeare, Ernest Hemingway, William Wordsworth, Charlotte Brontë và Emily Dickinson, và chắp bút rằng cô đã có trí óc "cảm thụ văn chương" mà nhiều ngôi sao nhạc pop khác hoàn toàn không có. Giáo sư người Anh Stephanie Burt tại Đại học Harvard cho rằng kỹ năng sáng tác của Swift rất hiếm thấy "ở cả cấp độ vĩ mô của việc sáng tác, trình bày tự sự hoặc một ý tưởng, cũng như cấp độ vi mô trong việc lồng ghép các nguyên âm và phụ âm lại với nhau." Swift trở thành nhạc sĩ sáng tác bài hát được tìm kiếm Google nhiều nhất mọi thời đại. Từ khóa "Swiftian" đã được nhiều nhà làm báo âm nhạc sử dụng để miêu tả các công trình tác phẩm có liên quan hoặc làm gợi nhớ đến Swift. Theo lời nhận định của Andrew Unterberger viết cho tạp chí "Billboard", Swift đã nâng "mức trần thương mại" cho ca-nhạc sĩ nhằm đem lại lợi ích cho các nghệ sĩ vốn chú trọng vào các chủ đề cá nhân như Zach Bryan và SZA. Các bài hát cùng ca từ của Swift cũng đã tạo động lực giúp cho nhiều người học tiếng Anh, đặc biệt là những người hâm mộ bên ngoài vùng văn hóa tiếng Anh ("anglosphere"). Thành công thương mại. Những con số này đặc biệt khó xảy ra nếu như bạn chỉ xem xét bài nhạc và nhạc sĩ sáng tác trình diễn ở đằng sau nó. Swift là một mẫu người độc lạ. Trước cô ấy thì chẳng có tiền lệ lịch sử nào cả. Hành trình trở thành ngôi sao của cô ấy đã thách thức những mẫu mực sẵn có: cô ấy va chạm với những thể loại âm nhạc, những kỷ nguyên, nhiều loại đối tượng khán giả, các mô phạm và đại đa số trào lưu. Cô ấy là người Mỹ tiểu bang Pennsylvania hóa thành ca sĩ nhạc pop đồng quê dành cho lứa teen, một ngôi sao Nashville sẵn sàng lọt vào Top 40, một ca-nhạc sĩ đầy tâm tư luôn hóa trang thành diva nhạc pop toàn cầu. Chất nhạc của cô ấy là một sự kết hợp giữa phong cách quê nhà lập dị và phong cách công nghiệp đại chúng tỏa sáng lấp lánh, giữa Etsy và Amazon lại với nhau theo cách thức mà chúng tôi chưa từng được nghe kể qua. Jody Rosen bàn về thành công của Swift, "New York" (2013) Swift nổi tiếng là "người đứng đầu bảng xếp hạng trường tồn qua thời gian" theo "Time". Các đĩa nhạc của Swift đã đạt thành công thương mại vang dội ở mọi định dạng và chuyên mục thể loại. Rosen đã cảm thấy đây là điều chưa từng có trong lịch sử và đã bác bỏ những quan niệm thường hay bảo ban về thành công thương mại ở âm nhạc trong thế kỷ 21. "Billboard" cũng coi Swift là "tấm gương cho sự thành công về mặt thương mại với vai trò là một nghệ sĩ thu âm". Vào cuối những năm 2010, nhiều ấn phẩm đã nhìn nhận các album bán được hàng triệu bản của Swift là một điều đặc thù trong ngành công nghiệp âm nhạc dưới triều đại streaming lên ngôi, bởi kỷ nguyên album đã đi đến hồi kết sau khi doanh số tiêu thụ album sụt giảm nặng nề trong khi ngược lại, các album của Swift vẫn luôn trong tình trạng "cháy hàng". Do vậy, các nhà âm nhạc học Mary Fogarty, Gina Arnold và Paul Théberge gọi Swift là "người bất thường". Spencer Kornhaber bên "The Atlantic" đã phát biểu vào năm 2021 rằng "triều đại" của Swift đã đặt dấu chấm hỏi to lớn cho một trong những quy luật chung rằng: Thời kỳ đỉnh cao về mặt thương mại của một nghệ sĩ chỉ kéo dài trong một vài năm. Swift là một nghệ sĩ cực kỳ thành công trên nhiều bảng xếp hạng "Billboard" và ghi lại nhiều dấu ấn trong việc kéo giãn ranh giới thành công thương mại ra xa hơn. Cô được xếp thứ 8 trong danh sách Nghệ sĩ xuất sắc nhất mọi thời đại của "Billboard" dựa trên diễn biến thương mại của một nghệ sĩ âm nhạc, và cô còn là nghệ sĩ thế kỷ 21 duy nhất lọt vào top 15 của danh sách này. Swift là nghệ sĩ đứng đầu "Billboard" Artist 100 lâu nhất (78 tuần liên tục); nghệ sĩ solo có số tuần quán quân trên bảng xếp hạng "Billboard" 200 nhiều nhất (62); phụ nữ có nhiều album quán quân trên "Billboard" 200 nhất (12); có số bài hát lọt vào Hot 100 nhất (212); có số bài hát lọt vào top 10 của Hot 100 nhất (42); có nhiều tuần đứng đầu bảng xếp hạng Top Country Albums nhất (99); nghệ sĩ có nhiều bài hát số một trên Digital Songs nhất (26); có nhiều bài hát quán quân trên Pop Airplay nhất (12); và có bài hát thời lượng dài nhất đứng đầu Hot 100 ("All Too Well (10 Minute Version)"). Swift là nghệ sĩ âm nhạc đầu tiên và cũng là người duy nhất độc chiếm top 10 bảng xếp hạng Hot 100, và được xếp số một trong các danh sách nghệ sĩ "Billboard" Year-End ở ba thập kỷ liên tiếp (2009, 2015 and 2023). Các nhà phê bình khẳng định sức mạnh thương mại của Swift là vô song không ai cạnh tranh được, bởi vì cô rất thành công trong việc phân bố đều đặn công trình âm nhạc của mình ở nhiều định dạng như phát trực tuyến, doanh số bán album thuần túy và doanh số bán bản nhạc. Cô là nghệ sĩ duy nhất trong lịch sử Luminate Data có tới sáu album (hoặc nhiều hơn hai album) gồm có "Speak Now", "Red", "1989", "Reputation," và "Midnights" đã được tẩu tán hơn một triệu bản thuần chỉ trong vòng một tuần lễ. Theo tạp chí "New York", chính những số liệu bán hàng vừa kể đã chứng tỏ Swift là người "đang điều khiển ngành công nghiệp âm nhạc theo ý muốn của cô ấy". "Financial Times" và "I-D" gọi Swift là "siêu sao nhạc pop cuối cùng" có khả năng tạo ra con số doanh thu chưa từng thấy kể từ kỷ nguyên "nhóm nhạc nam thập niên 1990" – kỷ nguyên mà được coi là đỉnh cao thương mại của sự nghiệp kinh doanh âm nhạc tại Hoa Kỳ. Liên đoàn Công nghiệp ghi âm Quốc tế (IFPI) đã xướng tên Swift là Nghệ sĩ thu âm toàn cầu của năm vào các năm 2014, 2019 và 2022 vì cô chính là nghệ sĩ có sản phẩm ca nhạc được tiêu thụ nhiều nhất trên toàn cầu trong những năm đó, và cô còn là nghệ sĩ duy nhất đạt được danh hiệu này ba lần. Charlotte Kripps bên "The Independent" cho biết Swift đã người đã hồi sinh thể loại nhạc đồng quê ở quốc tế và đưa đến thể loại này với khán giả mới ở Anh Quốc. Swift cũng trở thành nghệ sĩ nhạc đồng quê đầu tiên đạt được thành công trên bảng xếp hạng ngoài Anglosphere. Rosen mô tả cô là "ngôi sao toàn cầu thực sự đầu tiên" của thể loại này, và đang xây dựng cộng đồng những người hâm mộ tận tâm ở các thị trường nước ngoài như Ireland, Brazil và Đài Loan, mà vốn dĩ nhạc đồng quê kiểu Mỹ không phổ biến ở những nước đó. Jakarta, Thành phố Quezon và Singapore là những thành phố lớn nhất của cô ở các nền tảng phát trực tuyến. Swift đang nắm giữ một số thành tích độc nhất trên bảng xếp hạng mọi thời đại ở Úc, Ireland và Anh Quốc. Năm 2021, cô trở thành nghệ sĩ đầu tiên có ba album quán quân trên U.K. Albums Chart trong vòng dưới một năm, phá kỷ lục 54 tuổi đời của The Beatles. Trên các nền tảng âm nhạc Trung Quốc, các album của cô là một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại và đã mang lại cho cô thu nhập cao nhất đối với một nghệ sĩ nước ngoài (). Cô là nghệ sĩ nữ lưu diễn có doanh thu cao nhất thế giới trong thập niên 2010. Trên trang Spotify, Swift là nghệ sĩ nữ được phát nhạc trực tuyến nhiều nhất trên toàn cầu, nghệ sĩ duy nhất nhận được hơn 200 triệu lượt nghe trong một ngày, và là nghệ sĩ nữ đầu tiên đạt 100 triệu lượt nghe hàng tháng. "Midnights" là album được phát nhiều nhất trong một ngày với con số 186 triệu lượt stream, và là album đầu tiên thu về 700 triệu lượt phát trên toàn cầu chỉ trong vòng một tuần. "Variety" gọi Swift là "Nữ hoàng streaming" (Queen of Stream). Swift cũng là nghệ sĩ nữ được phát nhiều nhất trên nền tảng Apple Music và đồng thời lập kỷ lục mọi thời đại về số lượng người nghe nhiều nhất đối với bất kỳ nghệ sĩ nào trong một năm tại nền tảng đó. Phó chủ tịch của Apple Music, Oliver Schusser, đã tuyên bố, "Cô ấy là một nghệ sĩ định nghĩa thế hệ và là tác nhân thay đổi thực sự trong ngành công nghiệp âm nhạc. Cũng như, chắc chắn tác động và sức ảnh hưởng của cô ấy sẽ còn cảm nhận được trong nhiều năm tới." Các sản phẩm ca nhạc ở định dạng truyền thống. Swift nổi tiếng nhờ vào doanh số "khủng" trong việc tiêu thụ đĩa CD và đĩa than vinyl ở thế kỷ 21, trong khi thị trường âm nhạc đã phần lớn chuyển sang định dạng kỹ thuật số. Cô đã góp phần thúc đẩy sự hồi sinh của đĩa than và được coi là nhà vô địch của các cửa hàng băng đĩa độc lập nhỏ lẻ. Swift đã sản xuất và cung cấp các phiên bản đĩa LP album của mình độc quyền tại các doanh nghiệp nhỏ nhằm thúc đẩy doanh số bán hàng cho họ. Trong đại dịch COVID-19, cô đã quyên góp miễn phí LP của cô cho các cửa hàng băng đĩa. "Evermore" đã nắm giữ kỷ lục bán đĩa vinyl LP trong tuần lớn nhất ở Hoa Kỳ tính từ thời điểm Luminate Data thành lập vào năm 1991, và kể từ đó đã bị "Red (Taylor's Version)" của Swift vượt qua với doanh số 112.000 đĩa vinyl LP, và "Midnights" với 575.000 bản LP. "Midnights" là album thế kỷ 21 đầu tiên bán được hơn một triệu đĩa than LP tại Hoa Kỳ. và hơn 80.000 đĩa LP tại Anh Quốc trong một năm. "1989 (Taylor's Version)" đã giúp cho doanh số tiêu thụ đĩa than hàng năm ở Anh Quốc đạt gần sáu triệu bản, cao nhất trong vòng 33 năm vừa qua. Nhờ sự ủng hộ của Swift đối với các cửa hàng băng đĩa độc lập mà lễ hội Record Store Day (RSD) đã ghi danh Swift là đại sứ toàn cầu đầu tiên của họ. Nhạy bén trong kinh doanh. Swift nổi tiếng là một nữ doanh nhân thông thái. Các nhà báo mô tả cô là một "thiên tài tiếp thị vô địch" có "siêu năng lực nhạy bén trong kinh doanh" và là một hình mẫu doanh nhân. Theo Steele, chính sự nghiệp "đầy sóng gió và thắng thế" của Swift đã rút ra được những bài học về quản lý bên ngoài ngành công nghiệp âm nhạc. Chuyên gia kinh tế Paul Krugman đã phản biện, "Là một người hay hoài nghi bẩm sinh như tôi đây, tôi muốn gán sự nổi tiếng của cô ấy với cường điệu tiếp thị. Sự thật đáng buồn thay, cô ấy là một người viết bài hát kiêm nhạc sĩ tài năng với nhiều hiện diện đáng chú ý trên sân khấu." Tên và thương hiệu. Nhiều tác giả đã so sánh Swift với các thương hiệu truyền thông, tập đoàn và thương hiệu phụ nữ. Theo "The Ringer", Swift là một "sinh quyển âm nhạc có mặt khắp nơi đối với chính cô ấy" và cô đã đạt được một kiểu thành công mà "có thể biến một con người thành một tổ chức, thành một đề tài không thể tránh khỏi." Người viết lách Elamin Abdelmahmoud đồng tình và bảo rằng, Swift là một tổ chức có những kết quả kinh tế, thương mại và văn hóa. Nhà xuất bản âm nhạc Matt Pincus ví Swift giống như "một thương hiệu sở hữu trí tuệ" hệt Vũ trụ Mở rộng DC, còn "Fortune" thì so sánh cô với Vũ trụ Điện ảnh Marvel. Nhà kinh tế lao động Carolyn Sloan ví Swift là "một tập đoàn lớn về cơ bản hoạt động trong nhiều lĩnh vực". Theo công ty khảo sát Internet AskPro, "Nếu Taylor Swift là một nền kinh tế thì cô ấy sẽ lớn hơn 50 quốc gia. Hễ cô ấy là một tập đoàn thì số điểm Net Promoter Score của cô ấy sẽ khiến cô ấy trở thành thương hiệu được ngưỡng mộ thứ tư." Theo Giáo sư R. Polk Wagner tại Đại học Luật Pennsylvania, nhờ việc Swift gắn kết ca từ với nhiều loại hàng hóa và dịch vụ thông qua đơn đăng ký nhãn hiệu đã cho thấy mức độ hiểu biết của cô rằng "cô ấy lớn hơn cả âm nhạc". Ông cho biết thêm, "Điều đó giống như một quyền xây dựng thương hiệu hơn nếu như xem Taylor Swift là một tập đoàn." Ngoài ra, để ngăn chặn những hoạt động "chiếm đoạt tên miền" trên không gian mạng gây ảnh hưởng tới bản thân, Swift đã mua lại tên miền của trang web khiêu dâm "" và "". Sự hiện diện trên mạng xã hội. Swift chính là "một trong những người được theo dõi nhiều nhất trên các dịch vụ mạng xã hội" kiêm "cường quốc về truyền thông tấn xã", theo "Entrepreneur". Cô là người được theo dõi nhiều nhất Instagram từ tháng 9 năm 2015 cho đến tháng 3 năm 2016, là người liên tục có ảnh hưởng trên Twitter, và là người đứng đầu xếp hạng Brandwatch năm 2018, 2019, và 2021. Giám đốc điều hành bán vé Nathan Hubbard bảo rằng Swift là nhạc sĩ đầu tiên "chỉ bán vé gần như trực tuyến." Nhà phê bình văn hóa Brittany Spanos cho rằng sự hiện diện trên mạng xã hội của Swift là một trong những lý do khiến cô vẫn "luôn luôn hợp thời" suốt nhiều năm liền: Swift "đã phát triển lực lượng người hâm mộ của mình trên Myspace. Cô ấy đã sử dụng Tumblr ngay từ thuở hoàng kim của nền tảng đó. Khỏi bàn đến Twitter và hiện nay, cô ấy đang sử dụng TikTok để bình luận video của mọi người." Swift là người tiếp thị theo kiểu kết hợp giữa tương tác mạng xã hội với truyền hình. Brandwatch và Cision gọi Swift là "bậc thầy ra mắt sản phẩm âm nhạc" nhờ vào tầm hiểu biết sâu rộng về "chiến dịch giao tiếp đầy tính chiến lược và cân đối". Học giả chuyên về PR Sinead Norenius-Raniere cho hay, nghệ thuật tích hợp chiến thuật marketing của Swift gồm có: Thông báo theo lịch trình từng thời điểm trên các kênh tiếp thị, khai thác tiềm năng của cả phương tiện truyền thông dạng truyền thống và dạng số, giao tiếp đời thực "thân cận" với những người nghe nhạc để tạo niềm tin tưởng, và tận dụng đa phương tiện để tung "hé lộ" (sneak peek) cho các sản phẩm âm nhạc của cô. "Billboard" cho rằng Swift "luôn phù hợp lâu dài" một phần là nhờ cô "thấu hiểu khán giả của mình" và biết vận dụng các chiến dịch vốn dĩ "không hoàn toàn phù hợp với tiếng nói trong ngành". Cách thức quảng bá mới lạ của cô thông qua "Midnights Mayhem with Me" đã trở thành chủ đề được giới phê bình khen ngợi cho sự đổi mới. Swift nổi tiếng nhờ vào công trình album ca nhạc đa dạng chủ đề và phương thức tung album đậm tính truyền thống, đây thường được gọi là "Những kỷ nguyên" (Eras). Mỗi kỷ nguyên album trong đó là gồm có một loạt các hoạt động quảng bá đi kèm. "Rolling Stone" mô tả các kỷ nguyên của cô là "sự thịnh vượng về mặt truyền thông đa phương tiện" không thể tránh khỏi. Swift được ghi nhận là người đã hô biến hình thức "chu kỳ album hai năm" (bao gồm phát hành và quảng bá album) trở thành tiêu chuẩn chung của ngành công nghiệp âm nhạc. Đồng thời, cô còn giúp phổ biến thuật ngữ và khái niệm "kỷ nguyên" trong bối cảnh truyền thông rộng hơn. Dẫu thế, các nhà báo cũng khen ngợi việc Swift phát hành "Evermore" và đạt được thành công thương mại nhanh chóng, bất chấp chưa đầy 5 tháng sau khi vừa mới ra "Folklore". "Variety" đã so sánh động thái này của Swift là hoàn toàn tương tự với The Beatles và U2, còn "Rolling Stone" thì liên tưởng cô với Prince năm 1987 và David Bowie năm 1977. Chiến thuật tung easter egg (trứng phục sinh) cùng với những đoạn giới thiệu khó hiểu của Swift đã trở thành thông lệ trong dòng nhạc pop ngày nay. Các ấn phẩm đã so sánh đĩa hát của cô giống như một "vũ trụ" âm nhạc để những người hâm mộ, các nhà phê bình và nhà báo mổ xẻ suy đoán. Trang phục, phụ kiện, cách nói chuyện, mã màu, những con số "bí ẩn" và bao bì album tinh tế cũng có thể được Swift tận dụng làm easter egg. Cây bút đánh giá Iker Seisdodos bên "El País" gọi cô là "bậc thầy nghệ thuật hồi hộp". Theo nhà báo Ashley Lutz, phong cách tiếp thị của cô là "một hành động khôi hài luôn thay đổi nhằm tiết lộ các chi tiết có chọn lọc, trong khi vẫn duy trì bầu không khí bí ẩn và phấn khích", hay còn là một chiến thuật vươn xa khỏi ngành công nghiệp âm nhạc và giải trí. Mỗi kỷ nguyên của Swift được đặc trưng theo từng thiết kế chủ đề thẩm mỹ, bảng màu, phong cách thời trang độc đáo, cùng tâm trạng và cảm xúc đi kèm theo đấy. Cô luôn đổi mới hình tượng và phong cách của mình xuyên suốt sự nghiệp và phổ biến một vài trào lưu aesthetic chẳng hạn như đính kèm ảnh chụp Polaroid trong album "1989", và phong cách cottagecore đồng quê, thơ mộng, cổ kính bên căn nhà gỗ với "Folklore" và "Evermore". Lutz cho rằng những lần Swift chuyển đổi kỷ nguyên đã giúp mở rộng lượng người hâm mộ và sức hấp dẫn của giới phê bình. Nhà bình luận văn hóa đại chúng Jeetendr Sehdev khẳng định Swift đã cố gắng duy trì yếu tố thú vị bằng cách liên tục đổi mới bản thân "trong khi vẫn giữ được tính chân thực". Tuy nhiên, trong phần phản biện, Fairclough viết rằng "kiểu chuyển đổi đầy thẩm mỹ" của Swift cho thấy cô đang vật lộn với việc thiếu bản sắc. Hợp tác thương hiệu. Swift là người nắm giữ trong tay nhiều bản hợp đồng nhà tài trợ doanh nghiệp. Quá trình quảng bá ca nhạc của cô có sự tác hợp với các đối tác kinh doanh chiến lược từ phía các công ty, và chuyện này vốn từng được các nhạc sĩ coi là "cấm kỵ". Chuyên gia tiếp thị Christopher Ming đã viết, "Dĩ nhiên rồi, làm việc với những nhãn hàng như Apple Music, Elizabeth Arden và Diet Coke thì bị xem là lười động não suy nghĩ. Nhưng để mà thực hiện các chiến dịch cùng với NCAA Football, Dịch vụ bưu chính Hoa Kỳ ["sic"] và công trình của Papa John thì cần phải có sự khéo léo tiếp thị nhất định. Dẫu thế, họ đã làm được tất." Swift đã quảng bá "Red (Taylor's Version)" và "1989 (Taylor's Version)" bằng cách lần lượt tận dụng Starbucks và Google Tìm kiếm. Các nhà báo cho biết tác động của quá trình phát hành album của Swift "có thể cảm nhận được trên khắp cõi mạng", cùng với các thương hiệu công ty vẫn hay xác nhận rằng họ đã tận dụng "động lực" của Swift. Điều đó đã giúp kéo dài độ hợp thời về mặt văn hóa của Swift lâu hơn nữa. Tác động đến kinh tế. Các nhà kinh tế học và nhà phê bình công nghiệp đã nghiên cứu tầm ảnh hưởng của Swift với các doanh nghiệp trên toàn thế giới, và so sánh tác động kinh tế của Swift với các vùng lãnh thổ. Theo ấn phẩm thương mại "Pollstar", nếu Swift là một quốc gia thì cô sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 199 trên Trái Đất giống như một quốc gia ở vùng Caribe nhỏ. QuestionPro ước tính tổng ngân sách kinh tế năm 2023 của Swift đạt đến 5 tỷ đô la Mỹ, cao hơn tổng sản phẩm nội địa (GDP) của 50 nước. Tên tuổi và mức độ hiện diện của Swift đã mang lại vô vàn lợi ích cho nhiều doanh nghiệp và thị trường khác nhau, được MarketWatch gọi đấy là "hiệu ứng thị trường chứng khoán Taylor Swift". Mỗi đợt lưu diễn của Swift là mỗi một kênh "làm giàu kinh tế" của các nước. Theo tác giả Peggy Noonan, Swift đã làm thay đổi "các quy luật kinh tế giải trí". Nhiều bản phân tích các tác động kinh tế Swift đều tập trung nghiên cứu vào nền kinh tế "bùng nổ" xoay quanh chuyến lưu diễn của Swift, và cho rằng Swift đã thúc đẩy doanh thu du lịch, lưu trú, mỹ phẩm, thời trang, thực phẩm và du lịch của nhiều thành thị lên đến hàng triệu đô la Mỹ. Theo phóng sự của một người từng gọi tác động kinh tế của Swift là "Swiftonomics" tên Augusta Saraiva bên phía Bloomberg L.P., chính doanh số bán vé chưa từng có của The Eras Tour đã cho thấy "cú sốc cầu hậu COVID ở Hoa Kỳ" bất chấp những hậu quả suy thoái kinh tế mà đại dịch COVID-19 đã gây ra trên toàn thế giới. "Los Angeles Times" ví đây giống như một mô hình kinh tế thu nhỏ bao gồm nhu cầu tăng vọt, nguồn cung hạn chế, giá cả tăng cao và khách hàng "sẵn sàng chi tiêu hầu hết mọi thứ." Về sau, "The Wall Street Journal" gọi hiện tượng đó là "Taylornomics". Thách thức tiêu chuẩn công nghiệp âm nhạc. Swift chính là người đã thực hiện một loạt cải cách trong việc kinh doanh mảng âm nhạc, và cô thường được coi là người cầm cờ cho quyền lợi của nghệ sĩ. Các nhà báo ca ngợi Swift vì cô luôn luôn đặt ra những câu hỏi cho ngành công nghiệp âm nhạc và thực hiện các động thái thay đổi chính sách nền tảng phát trực tuyến, giúp đỡ nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ cho các nhạc sĩ sắp nổi, định hình lại mô hình bán vé buổi hòa nhạc, và đàm phán mức bồi thường tài chính hợp lý hơn từ phía hãng thu âm cho tất cả nghệ sĩ âm nhạc. "Elle" cho rằng những cải cách do Swift áp đặt lên các dịch vụ phát trực tuyến là "một cột mốc đáng quan trọng trong lịch sử âm nhạc". Cải cách phát nhạc trực tuyến. Swift đã tranh cãi với các dịch vụ phát nhạc trực tuyến để điều chỉnh các chính sách nhằm giữ gìn tính toàn vẹn nghệ thuật. Cô cho biết các dịch vụ phát trực tuyến kỹ thuật số đã trở thành một hình thức tiêu thụ phương tiện truyền thông thống trị kể từ năm 2013, khiến doanh số bán album truyền thống giảm dần. Vào tháng 11 năm 2014, Swift thông báo rằng album tiếp theo "1989" của cô sẽ không được phát hành lên Spotify gây nên xôn xao dư luận lúc bấy giờ, nhằm phản đối khoản thanh toán "bèo bọt" của nền tảng cho các nghệ sĩ (từ 0,006 đến 0,0084 đô la Mỹ cho mỗi lượt phát trực tuyến). Ở phía mặt sau trang xã luận ("op-ed") của "The Wall Street Journal" có viết, Swift tin rằng rằng giá trị của các tác phẩm nghệ thuật nên được các nghệ sĩ tự quyền xác định: Hai giáo sư ngành quản trị kinh doanh tại Trường Kinh doanh Harvard là Karim R. Lakhani và Marco Iansiti đã xem xét vấn đề và ủng hộ quan điểm của Swift rằng các nhạc sĩ nên được tự do định giá tác phẩm của mình. Với học giả Jessica Searle, Swift đã biến âm nhạc trở thành một "hành hóa phi công cộng". Nilay Patel viết cho "Vox" đã chỉ trích những suy nghĩ của Swift về album và bảo rằng cô "chẳng hiểu gì về nguyên lý cung - cầu". Patel còn phản biện thêm, chính Internet đã "giết chết" định dạng album và khẳng định nhiều người tiêu thụ nhạc sẽ không còn đi ra cửa hàng mua CD của Swift nữa. Cuối cùng, Swift đã rút toàn bộ danh sách đĩa hát của mình ra khỏi Spotify, khiến hãng phải nói "Chúng tôi hy vọng cô ấy sẽ thay đổi quyết định và cùng chúng tôi xây dựng một nền kinh tế âm nhạc mới phù hợp với tất cả mọi người." "1989" đã trở thành một album thành công mỹ mãn về mặt thương mại ngay từ khi mới ra mắt, và một cây viết báo khác bên "Vox" Constance Grady công nhận đây hẳn là "một cú tát đầy đau đớn" cho Spotify, khiến cho dịch vụ phải kéo Swift trở về bằng việc tung một danh sách phát gửi riêng cho cô. Các công trình của Swift vẫn biến mất khỏi Spotify tận ba năm sau, Swift quyết định đưa trở lại vào ngày 9 tháng 6 năm 2017 nhân dịp cô được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) chứng nhận cột mốc 100 triệu đơn vị. CEO Daniel Ek của Spotify phát biểu qua "CBS This Morning" rằng anh đã thuyết phục Swift đưa âm nhạc của cô trở lại Spotify sau khi trực tiếp gặp cô ở Nashville để "giải thích mô hình dịch vụ, tại sao phát trực tuyến lại quan trọng" và người hâm mộ của cô muốn nhạc của cô trở lại Spotify đến nhường nào. Vào tháng 6 năm 2015, Swift viết một lá thư công khai gửi đến Apple Inc. trên nền tảng Tumblr nhằm nêu rõ vấn đề cho nghe thử miễn phí ba tháng mà Apple Music chọn cung cấp cho người dùng, nhưng lại không hề trả công các nghệ sĩ nếu người dùng đang stream nhạc của họ trong khoảng thời gian dùng thử. Cô đã cực kỳ "sốc nặng" khi hay tin Apple lại không hề trả một xu nào cho "những người sáng tác, những nhà sản xuất và những người nghệ sĩ" đối với việc người dùng nghe thử ba tháng miễn phí như vừa kể. Swift giải thích: Swift nhấn mạnh album "1989" cũng sẽ không được đưa lên Apple Music và kêu gọi công ty thay đổi chính sách trước khi ra mắt vào ngày 30 tháng 6 năm 2015. Giám đốc điều hành của Apple Eddy Cue đã xin lỗi và hứa sẽ đảo ngược chỉnh sách. Cue nói với Associated Press rằng, "Lúc tôi vừa mới tỉnh dậy sáng nay và đọc được bức thư của Taylor viết thì chúng tôi buộc lòng phải thay đổi lại ngay." Kết cục, Apple Music chính thức ra mắt và hãng sẽ trả tiền bản quyền cho các nghệ sĩ, bất kể người dùng đang trong thời gian dùng thử ba tháng. Nhiều nhạc sĩ, tổ chức âm nhạc và nhà bình luận trong ngành đã bày tỏ lòng biết ơn với Swift sau việc đó. Sau khi hết hạn hợp đồng sáu album với Big Machine vào năm 2018, Swift đã ký một hợp đồng toàn cầu mới với hãng thu Republic Records do Universal Music Group sở hữu. Cô tiết lộ rằng, vì là một phần của hợp đồng nên bất kỳ việc bán cổ phần nào của Universal tại Spotify sẽ dẫn đến cổ phần sở hữu không thể thu hồi được, dành cho tất cả các nghệ sĩ của Universal. Grady gọi đó là một lời hứa to lớn từ Universal "còn lâu mới được đảm bảo" cho đến khi Swift chính thức can thiệp. Jamie Powell của "Financial Times" phát biểu, "Một mình Swift còn quyền lực hơn cả công đoàn", và gọi cuộc đàm phán vốn cổ phần là "cổ tức đặc biệt của đồng chí Swift". Yang cho rằng hành động trên đã thể hiện "toàn bộ sức mạnh của Swift: Trong một động thái chưa từng có đã đánh dấu địa vị của cô ấy là một phiên bản của Jeanne d'Arc đang kêu gọi quyền của người sáng tạo". Năm 2023, doanh nhân người Mỹ Elon Musk đã yêu cầu Swift phát hành video âm nhạc hoặc buổi hòa nhạc của cô trực tiếp lên Twitter. Trước lời cầu xin của Ek, Cue và Musk, "Fast Company" cho rằng Swift là "người quyền lực nhất trong lĩnh vực công nghệ". Nêu cao vấn đề sở hữu trí tuệ. Quá trình Swift "chiến đấu" với các bản hợp đồng thu âm đầy bóc lột từ phía Big Machine để giành lại quyền sở hữu các bản hoàn chỉnh ("master") đã trở thành một cuộc "cách mạng" của công nghiệp âm nhạc. Tháng 6 năm 2019, sau khi Swift dứt áo ra đi khỏi hãng thu âm cũ để chuyển đến Republic Records thì Scooter Braun đã mua lại Big Machine với giá 330 triệu đô la Mỹ, khiến cho anh ta trở thành chủ nhân của toàn bộ bản thu âm gốc do Big Machine nắm giữ, đồng nghĩa với việc sáu album đầu tiên của Swift tại Big Machine cũng lọt vào danh sách đó. Swift đã lên tiếng rằng cô đã tìm cách mua lại bản quyền các bản thu âm hoàn chỉnh gốc nhưng lại bị đặt ra những điều kiện khó chấp nhận được (chẳng hạn, đổi một album mới lấy một album cũ), và ông Borchetta đã xác nhận chính cô đã từ chối cơ hội đó. Swift đã lên tiếng cáo buộc Big Machine đã cấm cô biểu diễn các bài hát đang bị tranh chấp tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ năm 2019, và tuyên bố Borchetta và Braun đang "thực hiện quyền kiểm soát đầy độc tài" đối với cô. Tiếp đến, Big Machine tung ra album trực tiếp "Live from Clear Channel Stripped 2008" (2020) mà không hề có sự đồng ý của Swift. Cuộc tranh cãi đã biến thành scandal tai tiếng, trở thành một trong những chủ đề tin tức được bàn cãi nhiều nhất và lan truyền với tốc độ chóng mặt trong suốt hai năm liền 2020 và 2021. "Evening Standard" hô lên rằng đó là "mối thù lớn nhất của âm nhạc". Rốt cuộc, Swift cho rằng chỉ còn mỗi việc tái thu âm các album là lựa chọn khả thi nhất để giành lại toàn bộ quyền sở hữu âm nhạc của cô. Braun đã tiếp tục bán các bản thu hoàn chỉnh của Swift vào tháng 10 năm 2020 cho Shamrock Holdings với giá khoảng 405 triệu đô la Mỹ với điều kiện là anh ta vẫn sẽ tiếp tục thu lợi. Swift bày tỏ bất bình, khước từ trước lời đề nghị hợp tác từ phía Shamrock và cô quyết định sẽ tái thu âm album với Republic. Các album thu âm lại đã đạt được thành công về mặt thương mại và xếp hạng, được giới chuyên môn khen ngợi và phá vỡ rất nhiều kỷ lục. Sau khi "All Too Well (10 Minute Version)" trở thành bài hát có thời lượng dài nhất leo lên vị trí đầu bảng Hot 100, nhà sản xuất kiêm người hợp tác thân thiết với Swift là Jack Antonoff đã bảo "Rolling Stone" rằng bài hát dài hơn 10 phút leo lên Hot 100 đã dạy cho nhiều nghệ sĩ một bài học rằng "đừng nên nghe theo" ngành công nghiệp nói. Nhiều nghệ sĩ âm nhạc, chính trị gia, nhà báo và chuyên gia pháp lý đã ủng hộ hành động tranh chấp quyền sở hữu của Swift và cho rằng sự việc ấy mang tính tiên phong và truyền cảm hứng. Các ấn phẩm đã nhận thấy rằng, các vấn đề về quyền sở hữu bản gốc và xung đột giữa các hãng và nghệ sĩ thì đã từng có tiền lệ với Prince, the Beatles, Janet Jackson và Def Leppard. Swift là một trong số ít người dám đưa ra phát biểu công khai về quyền của nghệ sĩ, vốn cổ phần tư nhân và đạo đức trong ngành. Các nhà báo bên "Rolling Stone" đã gọi vụ việc tranh chấp là 1 trong 50 "dấu ấn quan trọng nhất" của thập niên 2010 và ghi nhận vai trò của Swift trong việc thay đổi nhận thức của công chúng về khái niệm tái thu âm hoặc làm chủ lại. Dominic Rushe viết cho "The Guardian" đã phát biểu, cuộc chiến của Swift đã đánh dấu sự thay đổi trong kỷ nguyên nhạc số, giúp cho các nghệ sĩ nhận thức rõ hơn về quyền lợi của mình mà không cần phải lệ thuộc vào quyết định của các hãng thu âm nữa. Cây bút phê bình "Pitchfork" là Sam Sodomsky đã công nhận tầm nhìn mà Swift mang lại và nói rằng Swift "có thể tạo ra những bước ngoặt bằng cách sử dụng đòn bẩy độ tin cậy từ sự thành công của cô ấy" và việc cô đưa ra tiếng nói là nhằm mục đích "sinh lợi tài chính cho ngành công nghiệp lắng nghe". "The A.V. Club" và MarketWatch đã lấy lời phát biểu của Swift để chỉ trích vốn cổ phần tư nhân, đồng thời nhấn mạnh điều đó với một trong những nhà đầu tư của Braun là The Carlyle Group. Các thành viên Quốc hội Hoa Kỳ như Elizabeth Warren và Alexandria Ocasio-Cortez đã ủng hộ Swift và tuyên bố rằng cô là "một trong nhiều" doanh nghiệp sáng tạo bị các công ty cổ phần tư nhân đe dọa gây tổn hại đến kinh tế Hoa Kỳ. Luật sư âm nhạc James Sammataro đã nhận xét, "bất cứ khi nào Taylor thu hút sự chú ý đến một vấn đề thì vấn đề ấy sẽ được phóng đạ" Các kết quả vượt ngoài mong đợi của dự án tái thu âm được cho là chưa từng xảy ra từ trước. Kornhaber cho rằng bản thu âm lại đã bác bỏ những luận điểm mà các nhà phê bình đã nghi ngờ về Swift. "Billboard" viết rằng Swift "đã thay đổi cách thức một người nghệ sĩ sẽ soạn thảo bản hợp đồng với các hãng thu âm", còn các luật sư âm nhạc thì nhận thấy rằng việc Swift tái thu âm thành công đã khuyến khích các hãng thu âm "đại tu các hợp đồng có chứa những từ ngữ: cấm người mới ký đơn tái thu âm lại nhạc của họ trong vòng 30 năm". Hình thức bán vé. Ngành công nghiệp lưu diễn hòa nhạc đã chuyển sang "mô hình bán vé chậm" sau khi Swift, một người vốn nổi tiếng tổ chức buổi hòa nhạc tại sân vận động và "thống trị của ngành lưu diễn" về mặt thương mại, lần đầu thiết kế và áp dụng chiến lược đó với chuyến lưu diễn Reputation Stadium Tour (2018) của cô. Swift đã giải quyết được thực trạng cháy vé chỉ trong vòng vài phút bằng cách áp dụng hình thức bán vé theo nhu cầu, buộc những người thực sự có nhu cầu tham dự phải đăng ký trước và được phép mua vé bất kỳ lúc nào, ở mức giá nào sau khi đăng nhập. Theo David Marcus bên Ticketmaster, mô hình này hoạt động theo quy luật rằng những ngày đầu mở bán vé sẽ rất cao nhưng sẽ từ từ giảm xuống cho đến giá chót gần sát ngày lưu diễn, đánh đổi "cơn sốt nhằm đem lại quyền lựa chọn và trải nghiệm cho khách hàng" và khống chế tình trạng đầu cơ tích trữ vé hòa nhạc. Mô hình bán vé của Swift ban đầu bị các nhà báo chỉ trích thậm tệ, cho rằng Swift tham lam vô độ, cố lấp liếm doanh số vé "ế chỏng gọng" sau vụ việc truyền thông không mấy tốt đẹp vào năm 2016. Thế nhưng, Reputation Stadium Tour vẫn bán hết vé, thậm chí còn vượt qua The Beatles để trở thành chuyến lưu diễn có doanh thu tại Bắc Mỹ cao nhất mọi thời đại, khiến cho các nhà phê bình phải quay đầu ngưỡng mộ "mô hình bán vé chậm" của Swift. Tháng 11 năm 2022, câu chuyện Ticketmaster quản lý yếu kém đợt mở bán vé trước The Eras Tour tại chặng Hoa Kỳ đã vấp phải chỉ trích rộng rãi từ phía công chúng và chính trị. Do nhu cầu mua vé "khủng" với hơn 3,5 triệu đã đăng ký mua trước, trang web Ticketmaster đã bị sập chỉ trong vòng một tiếng sau khi mở bán nhưng vẫn bán được tới 2,4 triệu vé, khiến cho Swift phá kỷ lục trở thành nghệ sĩ bán được nhiều vé hòa nhạc nhất trong một ngày. Ticketmaster cho rằng sự cố xảy ra là do lưu lượng truy cập trang web khổng lồ "chưa từng có trong lịch sử". Những người hâm mộ và các nhóm người tiêu dùng đã cáo buộc Ticketmaster lừa dối và độc quyền. Một số thành viên Quốc hội Hoa Kỳ tuyên bố rằng Ticketmaster và công ty mẹ Live Nation Entertainment nên được tách ra riêng biệt, vì việc sáp nhập của hai phía đã dẫn đến dịch vụ không đạt tiêu chuẩn và đẩy giá vé cao. Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã tổ chức điều tra bên phía Live Nation–Ticketmaster, trong khi một số người hâm mộ đã đâm đơn kiện các công ty về tội cố ý lừa dối, gian lận, ấn định giá và vi phạm luật chống độc quyền. Các thành viên lưỡng đảng bên Ủy ban Tư pháp Thượng viện Hoa Kỳ đã tổ chức kiểm duyệt các công ty tại một phiên điều trần. Dưới sức ép của Hội đồng Kinh tế Quốc gia, Ticketmaster và các công ty bán vé khác đã đồng ý chấm dứt phí rác ("junk fees"), tức là các khoản phí bổ sung được tiết lộ khi kết thúc quá trình mua vé. Học giả pháp luật người Mỹ William Kovacic gọi đây là "hành động điều chỉnh chính sách của Taylor Swift". Đối với bộ phim hòa nhạc năm 2023 của chuyến lưu diễn, Swift đã áp dụng chiến lược phát hành độc đáo bằng cách hợp tác trực tiếp với các rạp chiếu phim để vượt qua các hãng phim lớn. "Pitchfork" đã thắc mắc rằng, "Liệu có còn nghệ sĩ nào khác [ngoài Swift] gây sức ép khẩn trương điều tra liên bang về vụ độc quyền ngành công nghiệp âm nhạc chỉ nhờ việc đi lưu diễn nữa hay không?" "Entertainment Weekly" và "The A.V. Club" đã liệt kê "Swifties vs. Ticketmaster" vào danh sách một trong những câu chuyện tin tức văn hóa lớn nhất năm 2022. Allaire Nuss đã viết, "Nếu còn một nghệ sĩ nào có đủ năng lực văn hóa đại chúng để hạ bệ cảnh tượng độc quyền đáng ghét nhất của ngành công nghiệp âm nhạc thì chỉ có mỗi Taylor Swift." "The Washington Post" tuyên bố rằng Swift đang "nắm giữ cả thế giới ngày càng rạn nứt của chúng ta và không thể buông rời, nói trắng ra, theo cách hầu như không một ai khác có thể làm được." Truyền thông, thời trang và chính trị. Phương tiện thông tin đại chúng luôn ưu ái chọn Swift để đưa tin rộng rãi, khiến cho cô trở nên nổi tiếng với công chúng trên nhiều phương diện. Cô và âm nhạc của cô đã từng được đề cập hoặc sử dụng trong nhiều sách xuất bản, phim ảnh và chương trình truyền hình. Bên cạnh đó, Swift vốn dĩ là một chủ đề luôn được báo chí săn đón không ngừng, và các cây bút đánh giá gọi mối quan hệ giữa cô và phương tiện truyền thống đại chúng là ví dụ của sự phức tạp giữa người nổi tiếng và công nghiệp. Suốt cả sự nghiệp, Swift được cho là "trái chiều" giữa nhận được tán dương cũng như những lời chê bai chỉ trích từ báo chí. Swift được coi là một nhân vật nữ quyền. Cô đã luôn chỉ trích cách truyền thông miêu tả phụ nữ, vì câu chuyện hẹn hò và những tranh chấp của chính cô đã thu hút sự giám sát của báo lá cải và sự chú ý rộng rãi trên mạng xã hội. Cô đã chỉ rõ những tác động của việc đưa tin trên báo chí đối với sức khỏe cá nhân, và bàn về các vấn đề như rối loạn ăn uống, tự trọng và bắt nạt trên mạng. Nhiều học giả và nhà báo đã cho rằng sự cởi mở của Swift đối với những chủ đề này đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về sức khỏe tâm thần. Ngoài ra, Swift thường được mệnh danh là nhân vật biểu tượng văn hóa của thế hệ Millennials, đồng thời là người có ảnh hưởng đến thời trang. Quá trình thay đổi kiểu cách của cô đã trở thành chủ đề được các phương tiện truyền thông đưa tin và phân tích. Cô đã đổi mới hình ảnh và gu thẩm mỹ trong suốt sự nghiệp của mình, kết hợp các chu kỳ album tương ứng với các chủ đề riêng biệt, đồng thời tác động đến các xu hướng thời trang. Đặc biệt, phong cách đường phố của cô đã nhận được nhiều lời khen ngợi. Các tác giả coi Swift là ca sĩ quyền lực nhất trong chính trị nước Mỹ. Chính Swift đã tận dụng danh tiếng của mình để kêu gọi kích động hành động chính trị và trở thành người nổi tiếng có sức ảnh hưởng dẫn đến Joe Biden đắc cử trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 2020, sau LeBron James. Nhiều cuộc khảo sát đã xem Swift là nhân tố quyết định trong các cuộc bầu cử, trong đó có một cuộc khảo sát đã cho rằng cô có thể thu hẹp sự phân cực trong nền chính trị Mỹ. Swift đã truyền cảm hứng cho một số đề xuất lập pháp, bao gồm: Bối cảnh hóa để gây hiệu ứng. Một số ấn phẩm đã luôn tìm tòi để xác định và phân tích tác động của Swift trên nhiều lĩnh vực khác nhau, và đặt tên cho những tác động văn hóa của Swift là "Hiệu ứng Taylor Swift". Giáo sư marketing tại Trường Kinh doanh Ross thuộc Đại học Michigan là Marcus Collins, đã gọi Swift là hiệu ứng mạng. Ông nói rằng tầm vóc của Swift lớn "đến mức khi cô ấy làm điều gì đó thì mọi người sẽ làm theo [...] Cô ấy đang gây ảnh hưởng đến một nhóm người và những người đó đang ảnh hưởng lẫn nhau và những người khác." Bên chuyên trang Yahoo! Finance, Chris Bibey đã đồng tình rằng Hiệu ứng Taylor Swift "có thể có tác động đến nỗ lực đầu tư và kinh doanh trong tương lai của bạn" bất kể lợi ích của mỗi người đối với Swift. Nhiều hiện tượng khác nhau đã được cho là do hiệu ứng này, chẳng hạn như: Theo người viết báo Sam Lansky cho "Time", Hiệu ứng Taylor Swift "quả thực" đã có tác động đến tâm lý và ảnh hưởng đến mọi người, đặc biệt là những phụ nữ "có điều kiện chấp nhận sa thải, những lời mắng nhiếc và ngược đãi từ một xã hội coi cảm xúc của họ là thứ tầm thường" cũng như tin rằng cảm xúc lẫn nhận thức của họ là điều quan trọng. Lan truyền cảm hứng sáng tạo. Swift đã có sức ảnh hưởng đến nhiều nghệ sĩ âm nhạc ở nhiều thể loại kể từ khi ra mắt cho đến nay. Các nhà phê bình bắt đầu nhận thấy ảnh hưởng của cô đối với âm nhạc đại chúng vào năm 2013, và ghi nhận album của cô đã truyền cảm hứng cho cả một thế hệ ca-nhạc sĩ. Ngay cả Paul McCartney cũng đã lấy cảm hứng từ nghệ thuật và người hâm mộ của Swift để viết bài hát năm 2018 "Who Cares". Những nghệ sĩ khác đã coi Swift là người có ảnh hưởng bao gồm: Nhiều nhạc sĩ khác nhau đã được Swift truyền cảm hứng ở nhiều khía cạnh trong sự nghiệp, chẳng hạn như đạo đức làm việc và sức hấp dẫn khán giả của cô. Chính lời phát biểu của Swift về quyền của nghệ sĩ đã ảnh hưởng đến Olivia Rodrigo, Joe Jonas, Bryan Adams, the Departed, Snoop Dogg, Ashanti, Niki, Paris Hilton, SZA, Rita Ora, và Offset. SZA đã nói, "Taylor đã mạnh dạn từ bỏ bản thu âm hoàn chỉnh gốc của cô ấy, sau đó bán rẻ tất cả những đĩa nhạc chết dẫm đó. Đó là hành động 'đi chết đi' lớn nhất đối với cơ sở mà tôi từng thấy trong đời và tôi vô cùng hoan nghênh điều đó." Ashanti đã phát biểu, "Taylor đã làm nhiều việc thật tuyệt vời và có thể trở thành một phụ nữ trong ngành công nghiệp do nam giới thống trị này. [Cô ấy] đạt được điều đó thì quả thực là vô cùng tuyệt vời. Sở hữu tài sản của bạn và có cơ hội sở hữu sức sáng tạo của bạn là điều vô cùng quan trọng. Nam, nữ, ca sĩ, rapper, hay gì cũng được, tôi mong đây là bài học cho các nghệ sĩ bước vào và làm chủ." "Vulture" đã nêu ra Swift rất có thể chính là cảm hứng của album remix năm 2023 của Lovato là "Revamped". Swift cũng đã giúp các nghệ sĩ đạt được danh tiếng đại chúng bằng cách mời họ tham gia các chuyến lưu diễn của cô với tư cách là người biểu diễn mở màn; ví dụ gồm có Bieber, Ed Sheeran, Mendes, Cabello, và Charli XCX. Ca sĩ người Anh gốc Philippines Beabadoobee mở màn cho The Eras Tour, nói rằng đi lưu diễn cùng Swift là một trong những ước mơ của cô khi còn nhỏ cho đến lúc lớn. Các nhạc sĩ người Mỹ Jack Antonoff và Aaron Dessner đã thừa nhận Swift đã giúp cho sự nghiệp sản xuất thu âm của họ thăng tiến. Antonoff nói, "Taylor là người đầu tiên để tôi sản xuất một bài hát. Trước khi có Taylor, mọi người đều nói: 'Bạn không phải là nhà sản xuất'. Phải đến khi Taylor Swift xuất hiện thì mới quay qua nói: 'Tôi thích âm thanh của bài hát này'." Cộng đồng người hâm mộ. Việc Swift luôn trao gửi yêu thương tới những người hâm mộ của cô gọi là Swifties, được nhiều nhà báo gọi đây là điều chỉ có thấy một lần duy nhất đối với một nghệ sĩ tầm cỡ lớn như cô. Swifties từ lâu được cho là một nhóm người hâm mộ trung thành với mức độ tham gia và sáng tạo cùng thần tượng tràn đầy nhiệt huyết. Tác giả Amanda Petrusich cho biết, lòng trung thành của Swifties vừa "mạnh mẽ vừa đáng sợ". Fandom của Swift đã là chủ đề được báo chí và giới học thuật quan tâm, và những phân tích quan trọng về Swift được các phương tiện truyền thông gọi là "Swiftology". Đối với các nhà khoa học kinh doanh Brendan Canavan và Claire McCamley, mối quan hệ giữa Swift và Swifties đại diện cho chủ nghĩa tiêu dùng hậu hiện đại. Sự cuồng nhiệt của người hâm mộ mang tên "Swiftmania", được các cánh báo giới cho là phiên bản thế kỷ 21 của Beatlemania. Chẳng hạn như Jon Bream bên "Star Tribune" đã nói, "Swift đã đạt được một nền văn hóa độc canh không thể tưởng tượng được, một sự đảo lộn theo chủ nghĩa tư tưởng của Beatlemania". Chính vì Swift trở thành nguồn gốc của các huyền thoại trong văn hóa đại chúng nên các nhà báo mô tả các tác phẩm, người nổi tiếng và sự phô trương xung quanh những hiện tượng đó là một thế giới riêng. "Glamour" và "The Washington Post" gọi đó là Vũ trụ Điện ảnh Taylor Swift; còn "Entertainment Weekly" thì gọi là Vũ trụ Âm nhạc Taylor Swift. Ở phía "The Guardian", Adrian Horton gọi "Swiftverse" là một loại hình tiểu văn hóa của phương tiện truyền thông đại chúng được "xây dựng nhiều năm và thần thoại Swiftian" gầy dựng nên, còn Alim Kheraj và "Billboard" thì viết rằng Swift đã biến nhạc pop thành một "câu đố dành cho nhiều người chơi" với cam kết về lượng người hâm mộ áp đảo, một điều mà các nghệ sĩ khác đã cố gắng tạo dựng bấy lâu nay. Chủ đề gây hứng thú trong học thuật. Swift là một chủ đề nghiên cứu học thuật, nổi tiếng ở lĩnh vực nghệ thuật âm nhạc và danh tiếng. Theo giáo sư văn học Elizabeth Scala, người mệnh danh Swift là cây cầu nối giữa tiểu thuyết đương đại và lịch sử, khả năng sáng tạo của Swift có tính "lây lan" và được giới học thuật đặc biệt quan tâm. Trong bài viết "The New York Times" mang tựa đề "Taylor Swift is Singing Us Back to Nature", nhà khoa học bảo tồn Jeff Opperman cho rằng các bài hát của Swift "chứa đầy ngôn ngữ và hình ảnh của thế giới tự nhiên", làm sống lại các chủ đề về thiên nhiên trong văn hóa đại chúng vốn bị suy giảm trong ca từ lẫn nhạc khí. Các bài hát như "Love Story" được các nhà tâm lý học tiến hóa nghiên cứu để hiểu rõ mối quan hệ giữa âm nhạc đại chúng và chiến lược tình dục của con người. Khi giải thích tại sao Swift lại trở thành một chủ đề nghiên cứu học thuật, học giả văn học Burt đã nói, "nhân loại có đầu óc trí khôn phải nghiên cứu văn hóa, bao gồm cả văn hóa hiện đại, và Taylor Swift cũng quan tâm đến nền văn hóa đó" và tuyên bố rằng các nhà sử học và nhân chủng học trong tương lai sẽ nghiên cứu nghệ thuật, danh tiếng và quá trình đón nhận của Swift để hiểu xã hội đương thời và suy ra các mô hình giao thoa văn hóa. Các chương trình học thuật. Nhiều cơ sở giáo dục đại học khác nhau đã mở các khóa học đại học và tự chọn tập trung vào nghiên cứu Swift. Nhiều khóa học đã nhìn nhận việc mổ xẻ tác phẩm của Swift là "một điểm khởi đầu cho việc phê bình, phân tích cũng như hiểu biết các vấn đề văn hóa và tiêu chuẩn rộng hơn." Để kiểm tra tác động nhiều mặt của Swift, Đại học Indiana Bloomington đã tổ chức một hội nghị học thuật kéo dài ba ngày vào năm 2023, và Đại học Melbourne chuẩn bị tổ chức một hội nghị chuyên đề quốc tế mang tên Swiftposium 2024, được các học giả trên khắp các trường đại học Úc và New Zealand đứng ra tổ chức. templatestyles src="Bản mẫu:Đầu tham khảo/" /
RS-24 Yars (РС-24 Ярс – ракета стратегическая (tên lửa chiến lược)-modification 24-phiên bản 24) còn được gọi là Topol-MR, tên ký hiệu NATO SS-29#đổi Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. hoặc SS-27 Mod 2), là một loại tên lửa đạn đạo liên lục địa trang bị đầu đạn nhiệt hạch MIRV của Nga, có lần bay thử nghiệm lần đầu vào ngày 29 tháng Năm năm 2007, sau một quá trình nghiên cứu phát triển bí mật. Ban đầu nó được thiết kế giống như Topol-M trừ việc tải trọng đầu đạn của nó được điều chỉnh để có thể mang theo nhiều đầu đạn MIRV. Mỗi tên lửa được cho là có khả năng mang tới 4 đầu đạn, mặc dù thông tin chính xác về số đầu đạn của chúng mang theo là bí mật quân sự. RS-24 có trọng lượng nặng hơn loại tên lửa đạn đạo RT-2PM2 Topol-M, và có khả năng mang tới 10 đầu đạn phân ly độc lập. Cuộc thử nghiệm năm 2007 được công khai như một câu trả lời của Nga cho Lá chắn tên lửa của Mỹ đang được triển khai tại Châu Âu. Tên lửa RS-24 được triển khai hoạt động từ năm 2010 với hơn 50 bệ phóng tính đến tháng 6 năm 2017. Theo Sergey Karakaev, chỉ huy Lực lượng Tên lửa Chiến lược, "Yars" là từ viết tắt của " Yadernaya Raketa Sderzhivaniya", , có nghĩa là "Tên lửa răn đe hạt nhân". Theo chính phủ Nga, tên lửa được thiết kế để vượt qua các hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo hiện tại và tương lai. Tên lửa có lần thử nghiệm đầu tiên phóng từ xe mang phóng tự hành tại Trung tâm vũ trụ Plesetsk Tây Bắc nước Nga vào 11:20 GMT, 29 tháng Năm, 2007, và đầu đạn đánh trúng mục tiêu cách tại Trường bắn thử nghiệm Kura Viễn Đông, Bán đảo Kamchatka. Vụ phóng tên lửa thứ hai từ Plesetsk tới Trường bắn thử nghiệm Kura diễn ra vào ngày 25 tháng Mười hai năm 2007, 13:10 GMT. Vụ phóng thành công khi đầu đạn đánh trúng mục tiêu. Vụ phóng thứ ba cũng từ Plesetsk tới Trường bắn thử nghiệm Kura diễn ra vào ngày 26 tháng Mười một năm 2008, 13:20 GMT. Buổi thử nghiệm diễn ra thành công. Vụ phóng thứ tư diễn ra ngày 24 tháng 12 năm 2013 từ Trung tâm vũ trụ Plesetsk. Vào ngày 26 tháng 12 năm 2014, Lực lượng Tên lửa Chiến lược đã tiến hành phóng thành công tên lửa RS-24 Yars. Tên lửa được phóng từ bệ phóng di động được triển khai tại bãi thử Plesetsk. Đầu đạn tên lửa được cho là đã tiếp cận thành công mục tiêu tại bãi thử Kura ở Kamchatka. Vụ phóng được thực hiện với sự hỗ trợ của Lực lượng Phòng không và Vũ trụ, diễn ra lúc 11:02 MSK (08:02 UTC). Hơn 10 lần phóng thành công đã diễn ra từ năm 2012 đến năm 2022. Một lần phóng nữa được thực hiện vào ngày 25 tháng 10 năm 2023. Tên lửa RS-24 Yars đã được triển khai tại Sư đoàn tên lửa cận vệ số 54 ở Teykovo. Nga đã triển khai đầy đủ trung đoàn Yars đầu tiên gồm ba tiểu đoàn vào tháng 8 năm 2011 và đưa hai tiểu đoàn của trung đoàn thứ hai vào làm nhiệm vụ chiến đấu vào ngày 27 tháng 12 năm 2011. Việc triển khai tiểu đoàn thứ ba của trung đoàn thứ hai đã hoàn thành việc tái vũ trang sư đoàn Teikovo bằng loại tên lửa mới RS-24 Yars. Hai trung đoàn này bao gồm tổng cộng 18 hệ thống tên lửa và một số sở chỉ huy di động. Sư đoàn tên lửa cận vệ số 39, tại Paskino, tỉnh Novosibirsk, Siberia, sẽ nhận được các hệ thống Yars di động, trong khi Sư đoàn tên lửa cận vệ số 28 tại Kozelsk (miền trung nước Nga) sẽ được trang bị phiên bản tên lửa phóng từ silo. Theo Sergey Karakaev, chỉ huy Lực lượng Tên lửa Chiến lược Nga, tính đến tháng 11 năm 2019, đã có "hơn 150" bệ phóng của tổ hợp "Yars" (silo và di động) đang được triển khai. Các trung đoàn ở Yoshkar-Ola, Teykovo, Nizhny Tagil và Novosibirsk đã được trang bị đầy đủ phiên bản RS-24 phóng từ xe mang phóng tự hành và việc tái vũ trang các trung đoàn tên lửa Irkutsk sẽ hoàn tất cho đến cuối năm 2019. Theo Karakaev, Lực lượng tên lửa chiến lược nhận được khoảng 20 tổ hợp tên lửa RS-24 Yars mới mỗi năm. 3 lữ đoàn tên lửa tại Barnaul sẽ đi vào trực chiến năm 2019-2020 và một trung đoàn nữa ở khu vực Tver năm 2022. Vào ngày 29 tháng 3 năm 2023, tên lửa Yars đã được diễn tập đồng thời ở ba khu vực. Trung tâm Tình báo Vũ trụ và Hàng không Quốc gia Hoa Kỳ NASIC luôn tin rằng Yars chỉ là một phiên bản tên lửa Topol M vi phạm Hiệp ước START. Đều này được phản ánh trong cả tên gọi Mod 2 và các hình minh họa cho thấy SS-27 Mod 1 và Mod 2 giống hệt nhau. Tính đến năm 2022, hơn 136 xe phóng tên lửa tự hành và 16 hầm phóng tên lửa được triển khai với 7 sư đoàn tên lửa: Phóng từ giếng phóng: Phóng từ bệ phóng di động:
Nghị quyết 132 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc Nghị quyết 132 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, được thông qua ngày 7 tháng 9 năm 1959 đã quyết định bổ nhiệm một tiểu ban gồm Argentina, Ý, Nhật Bản và Tunisia, đồng thời chỉ đạo tiểu ban này xem xét các tuyên bố trước Hội đồng liên quan đến Lào và tiếp nhận những lời phát biểu và tài liệu tiếp theo, đồng thời thẩm vấn và báo cáo lên Hội đồng trong thời gian sớm nhất. Đó là nghị quyết duy nhất được Hội đồng Bảo an thông qua năm 1959. Lào trước đây từng tố cáo quân đội Bắc Việt vượt qua biên giới chung và thực hiện các cuộc tấn công quân sự chống lại Lào; Chủ tịch Hội đồng Bảo an bèn triệu tập một cuộc họp khẩn cấp. Nghị quyết 132 được thông qua với 10 phiếu thuận và một phiếu chống từ Liên Xô. Tiểu ban kết luận rằng các cuộc vượt biên có tính chất du kích và không thể xác định rõ ràng rằng quân đội Bắc Việt phải chịu trách nhiệm.
Nghị quyết 189 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc Nghị quyết 189 của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, được nhất trí thông qua ngày 4 tháng 6 năm 1964 lên án sự cố do các đơn vị quân của Việt Nam Cộng hòa xâm nhập vào lãnh thổ Campuchia và yêu cầu bồi thường cho người Campuchia. Nghị quyết sau đó đề nghị tất cả các quốc gia và chính quyền công nhận và tôn trọng tính trung lập và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia, quyết định cử 3 thành viên của nước này tới những nơi xảy ra sự cố gần đây nhất để báo cáo lại Hội đồng sau 45 ngày kèm theo các đề xuất. Campuchia trước đây từng phàn nàn về các hành động xâm lược và xâm nhập của quân lực Việt Nam Cộng hòa và quân đội Mỹ vào lãnh thổ của mình. Ngày 24 tháng 7 năm 1964, phái đoàn do Hội đồng cử đến báo cáo tình hình biên giới vẫn căng thẳng và chưa tìm ra được giải pháp nào cả.
Vụ xả súng tại Praha 2023 Vào ngày 21 tháng 12 năm 2023, 14 người thiệt mạng trong một vụ xả súng hàng loạt tại Đại học Charles của Quảng trường Jan Palach ở trung tâm Praha, Cộng hòa Séc. 25 người khác bị thương, trong đó có 3 người nước ngoài. Thủ phạm đã cho là đã chết sau vụ tấn công. Trước khi xảy ra vụ nổ súng, người ta tìm thấy cha của hung thủ đã chết tại nhà riêng ở Hostouň.
Cooper Flagg (sinh ngày 21 tháng 12 năm 2006) là cầu thủ bóng rổ người Mỹ đang theo học tại Học viện Montverde ở Montverde, Florida. Đã cam kết với Duke, anh ấy đang được các tuyển trạch viên của NBA đánh giá 5 sao và sẽ có tiềm năng nằm trong top đầu của NBA Draft 2025. Tuổi thơ và sự nghiệp cấp trung học. Flagg lớn lên ở Newport, Maine và ban đầu theo học tại trường trung học Nokomis. Anh trở thành học sinh năm nhất đầu tiên được vinh danh là Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Maine Gatorade sau khi ghi trung bình 20,5 điểm, 10 rebound, 6,2 kiến ​​tạo, 3,7 cướp bóng và 3,7 cản bóng mỗi trận. Nokomis đã giành chức vô địch tiểu bang Class A khi Flagg ghi được 22 điểm và 16 rebound trong chiến thắng 43–27 trước Trường Trung học Falmouth trong trận chung kết cấp bang. Flagg chuyển đến Học viện Montverde ở Montverde, Florida, vào cuối năm thứ nhất trung học. Trước khi bắt đầu năm đầu tiên tại trường mới, anh ấy đã chơi ở Giải bóng rổ trẻ Nike Elite (EYBL) cho Florida Eagles, một đội thể thao nghiệp dư của Montverde. Flagg được vinh danh là MVP của Hoophall Classic 2023 sau khi ghi được 21 điểm với 5 cướp bóng, 5 rebound và 3 kiến ​​tạo trong chiến thắng 85–63 của Montverde trước Học viện La Lumiere. Anh cũng lọt vào danh sách thứ chính cho Giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Naismith Prep. Flagg ghi trung bình 9,8 điểm, 5,2 rebound và 3 kiến ​​tạo mỗi trận trong mùa giải đầu tiên tại Montverde. Sau mùa giải, anh chơi cho Maine United ở EYBL và ghi trung bình 25,4 điểm, 13 rebound, 5,7 kiến ​​tạo và 6,9 block trong 7 trận tại giải Peach Jam. Cầu thủ được đánh giá 5 sao. Flagg được xếp hạng là người có triển vọng tốt thứ ba của đợt tuyển mộ NBA năm 2025 sau khi kết thúc mùa giải trung học năm nhất. Anh ấy được xếp hạng lại là tuyển thủ xuất sắc thứ 2 vào tháng 8 năm 2022 sau màn trình diễn xuất sắc tại Giải bóng rổ U17 thế giới FIBA ​​năm 2022. Flagg đã nhận được học bổng NCAA Division I đầu tiên từ Bryant khi đang học lớp 8. Anh ấy được phân loại lại vào lớp 2024 vào mùa hè sau năm thứ 2. Flagg hiện là tuyển thủ được đánh giá cao nhất lứa 2025 ở Mỹ. Vào ngày 30 tháng 10 năm 2023, Flagg đã cam kết miệng sẽ chơi cho Duke sau khi xem xét lời đề nghị từ UConn. Ban đầu anh ấy dự định công bố cam kết của mình vào ngày 27 tháng 10, nhưng đã đẩy lùi nó sau vụ xả súng ở Lewiston năm 2023 tại bang Maine, quê hương anh ấy. Flagg sẽ chơi cho đội bóng rổ của Duke vào ngày 8 tháng 11 năm 2023. Sự nghiệp tuyển quốc gia. Flagg đã chơi cho đội bóng rổ U17 Hòa Kỳ tại Giải bóng rổ U17 thế giới FIBA ​​năm 2022. Anh alotj vào Đội hình tiêu biểu của giải đấu sau khi ghi trung bình 9,3 điểm, 10 rebound, 2,9 block và 2,4 cuố bóng mỗi trận và Hoa Kỳ giành huy chương vàng. Flagg ghi được 10 điểm với 17 rebound, 8 cướp bóng và 4 block trong chiến thắng 79–67 trước Tây Ban Nha trong trận chung kết. Anh được vinh danh là Vận động viên bóng rổ nam của năm 2022 của Hoa Kỳ nhờ thành tích tại U17 World Cup và là cầu thủ trẻ nhất giành được giải thưởng này. Cuộc sống cá nhân. Mẹ của Flagg, Kelly, chơi bóng rổ đại học tại Maine, nơi bà là đội trưởng khi còn là học sinh cuối cấp. Cha của anh, Ralph, chơi bóng rổ NJCAA tại Cao đẳng Cộng đồng Đông Maine. Flagg có một người anh em sinh đôi, Ace, từng là đồng đội ở Nokomis và được chuyển đến Montverde. Anh trai của Flagg, Hunter cũng là một cầu thủ bóng rổ của Nokomis và là sinh viên năm cuối khi anh còn là sinh viên năm nhất. Phong cách chơi bóng. Flagg được dự báo sẽ là một cầu thủ NBA ưu tú nên không quá khi so sánh anh ấy với một số cầu thủ vĩ đại nhất mọi thời đại. Ví dụ như Scottie Pippen. Giống như Pippen, Flagg là một cầu thủ phòng ngự đặc biệt, người có thể bao quát khắp sân, đồng thời có tác động lớn đến mặt trận tấn công. Cả hai đều cao khoảng 2 mét 06 với sải tay dài. Ở đỉnh cao sự nghiệp, Pippen là một trong những cầu thủ phòng ngự giỏi nhất (nếu không muốn nói là giỏi nhất) giải đấu và Flagg có thể tiến gần đến đẳng cấp đó. Ngoài ra, một cầu thủ lớn khác cũng có phong cách chơi bóng tương đồng với Flagg là Andrei Kirilinko.
Chứng chỉ Kế toán viên, Kiểm toán viên (Việt Nam) Chứng chỉ Kế toán viên, Kiểm toán viên là các chứng chỉ nghề nghiệp được cấp bởi Bộ Tài chính (Việt Nam). Chứng chỉ này nhằm mục đích đăng ký hành nghề hoạt động dịch vụ kế toán và kiểm toán, theo quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. Trong giới kế toán, kiểm toán tại Việt Nam, chứng chỉ này còn được gọi bằng tên gọi không chính thức là chứng chỉ CPA (Certified Public Accountant), tương tự như chứng chỉ hành nghề được cấp bởi Mỹ và Australia. Chứng chỉ kế toán viên. Theo Luật Kế toán 2015 của Việt Nam, người được cấp chứng chỉ kế toán viên phải đáp ứng được 3 điều kiện sau: Chứng chỉ kiểm toán viên. Theo Luật Kiểm toán độc lập 2011 của Việt Nam, kiểm toán viên là người đáp ứng được các tiêu chuẩn sau: Kỳ thi kế toán viên, kiểm toán viên. Lịch sử kỳ thi. Kỳ thi này được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1994 theo quyết định số 237/TC/QĐ/CĐKT của Bộ Tài chính Việt Nam. Khi đó, kỳ thi gồm 8 môn thi, bao gồm: Luật kinh tế, Tài chính doanh nghiệp, Tiền tệ tín dụng, Lý thuyết và thực hành kế toán, Lý thuyết và thực hành kiểm toán, Phân tích hoạt động kinh tế, Tin học và Ngoại ngữ. Lúc này, kỳ thi không giới hạn số năm làm việc trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính của người dự thi. Tới năm 2002, Bộ Tài chính sửa đôi quy chế thi của Kỳ thi, nhưng vẫn giữ cơ bản 8 môn thi như quy định của năm 1994. Riêng môn Phân tích hoạt động kinh tế đổi thành Phân tích hoạt động tài chính. Tuy nhiên, kỳ thi bắt đầu đặt ra quy định người dự thi phải có tối thiểu kinh nghiệm 5 năm làm việc trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, tài chính để được tham gia dự thi và cấp chứng chỉ. Người dự thi năm đầu tiên được yêu cầu phải tham gia tối thiểu 4 môn thi. Tổng điểm của 8 môn thi để đủ điều kiện cấp chứng chỉ là 50 điểm. Năm 2004, lần đầu tiên xuất hiện khái niệm về chứng chỉ kế toán viên. Bộ Tài chính tổ chức một kỳ thi duy nhất nhằm mục đích cấp chứng chỉ kế toán viên và kiểm toán viên cho các thí sinh tham dự kỳ thi. Trong đó thí sinh dự thi chứng chỉ kế toán viên phải tham dự 5 môn thi gồm Pháp luật về kinh tế, Tài chính, Tiền tệ - tín dụng, Kế toán và Tin học. Thí sinh dự thi chứng chỉ kiểm toán viên ngoài 5 môn nêu trên phải tham dự thêm 3 môn thi nữa là Kiểm toán, Phân tích hoạt động tài chính và Ngoại ngữ. Kỳ thi cũng cho phép thí sinh đã có chứng chỉ kế toán viên được thi chuyển tiếp sang chứng chỉ kiểm toán viên . Năm 2012, Bộ Tài chính đặt ra quy định mới về các môn thi. Trong đó, môn Tin học bị loại bỏ khỏi chương trình thi, trong khi môn Ngoại ngữ loại bỏ phần thi vấn đáp. Như vậy thí sinh chỉ còn phải tham gia dự thi 4 môn đối với chứng chỉ kế toán viên và 7 môn đối với chứng chỉ kiểm toán viên. Từ năm 2017, Bộ Tài chính thay đổi quy định về số năm kinh nghiệm tối thiểu để được dự thi, giảm từ 5 năm (60 tháng) xuống còn 36 tháng tính từ thời điểm được cấp bằng tốt nghiệp Đại học. Kỳ thi từ đó được giữ ổn định cho tới nay. Đối tượng dự thi. Đối tượng dự thi là người Việt Nam hoặc nước ngoài, đáp ứng đủ các điều kiện sau: Trong các điều kiện nêu trên, điều kiện thứ 3 là có ý nghĩa "đồng thời". Tức là người muốn tham gia dự thi phải tốt nghiệp tối thiểu 36 tháng kể từ ngày được cấp bằng tốt nghiệp và đã có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực kế toán, tài chính, kiểm toán tối thiểu 36 tháng. Ví dụ, một người đăng ký dự thi tốt nghiệp Đại học chuyên ngành kế toán vào tháng 08/2020, bắt đầu đi làm liên tục trong lĩnh vực kế toán từ tháng 09/2020. Nếu tại kỳ thi năm 2023, thời gian nhận hồ sơ dự thi là tháng 08/2023, người này sẽ không đủ điều kiện 36 tháng công tác thực tế về kế toán nên không đủ tư cách dự thi. Trường hợp thời gian nhận hồ sơ đăng ký dự thi là tháng 10/2023 và người này đi làm liên tục trong lĩnh vực kế toán từ tháng 09/2020, đủ yêu cầu về số tháng kinh nghiệm, nhưng thực tế bằng Đại học chuyên ngành kế toán được cấp vào tháng 11/2020 thì người này cũng không đủ điều kiện dự thi, do thời điểm đăng ký dự thi chưa tốt nghiệp Đại học đủ 36 tháng. Người dự thi lấy chứng chỉ Kế toán viên cần phải tham gia 4 môn thi sau: Người dự thi lấy chứng chỉ Kiểm toán viên, ngoài 4 môn thi của chứng chỉ kế toán viên cần phải tham gia thêm 3 môn thi sau: Thi sát hạch với người đã có chứng chỉ kế toán, kiểm toán của nước ngoài. Người có chứng chỉ kế toán, kiểm toán viên nước ngoài của tổ chức nghề nghiệp nước ngoài được Bộ Tài chính Việt Nam thừa nhận (cụ thể là tổ chức đó là thành viên của IFAC) và nội dung học và thi để lấy được chứng chỉ đó tương đương hoặc cao hơn nội dung học và thi của chứng chỉ Kế toán viên, Kiểm toán viên tại Việt Nam thì được tham dự kỳ thi sát hạch. Bài thi sát hạch bao gồm các nội dung liên quan đến luật Việt Nam như sau: Riêng phần Kiểm toán và dịch vụ bảo đảm chỉ áp dụng đối với người muốn lấy chứng chỉ Kiểm toán viên. Nội dung thi và cấu trúc đề thi của từng môn thi. Hằng năm, Bộ Tài chính Việt Nam sẽ công khai nội dung kỳ thi và tài liệu ôn thi trên cổng thông tin điện tử của Bộ. Các thí sinh có thể tự do tải về đê ôn tập cho kỳ thi. Nội dung thi ứng với từng môn thi về cơ bản được giữ ổn định qua các năm và được cập nhật, bổ sung cho phù hợp với văn bản pháp luật được ban hành mới nhất, nhằm đảm bảo tính thực tiễn cho các nội dung thi, đặc biệt là đối với các môn Pháp luật về kinh tế và Luật doanh nghiệp, Thuế và quản lý thuế nâng Dưới đây là nội dung thi của kỳ thi 2023 . Pháp luật về Kinh tế và Luật Doanh nghiệp. Gồm các 7 nội dung cơ bản sau: Môn Pháp luật về Kinh tế và Luật Doanh nghiệp thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Kỳ thi 2018 trở về trước, môn này gồm 2 câu hỏi lý thuyết và 3 câu hỏi bài tập xử lý tình huống pháp lý. Kỳ thi năm 2019, cấu trúc đề thi thay đổi thành chỉ còn 1 câu hỏi lý thuyết và tăng số lượng câu hỏi bài tập xử lý tình huống lên thành 4. Từ kỳ thi 2020 trở đi, môn thi này bỏ hẳn các câu hỏi lý thuyết và toàn bộ là 5 câu hỏi bài tập. Tài chính và quản lý tài chính nâng cao. Gồm 12 nội dung cơ bản sau: Môn Tài chính và Quản lý Tài chính nâng cao thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Kỳ thi 2018 trở về trước, môn này gồm 2 câu hỏi lý thuyết và 3 câu hỏi bài tập tính toán. Kỳ thi năm 2019, cấu trúc đề thi thay đổi thành chỉ còn 1 câu hỏi lý thuyết và tăng số lượng câu hỏi bài tập tính toán lên thành 4. Từ kỳ thi 2020 trở đi, môn thi này bỏ hẳn các câu hỏi lý thuyết và toàn bộ là 5 câu hỏi bài tập. Thuế và quản lý thuế nâng cao;. Gồm 1 phần về tổng quan, 5 sắc thuế chính và 3 nội dung liên quan đến quản lý thuế như sau: Môn Thuế và Quản lý thuế nâng cao thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Kỳ thi 2018 trở về trước, môn này gồm 2 câu hỏi lý thuyết và 3 câu hỏi bài tập xác định số thuế phải nộp cho một hoặc nhiều sắc thuế, tuỳ thuộc vào câu hỏi trong đề thi. Kỳ thi năm 2019, cấu trúc đề thi thay đổi thành chỉ còn 1 câu hỏi lý thuyết và tăng số lượng câu hỏi bài tập xác định tiền thuế phải nộp lên thành 4. Từ kỳ thi 2020 trở đi, môn thi này bỏ hẳn các câu hỏi lý thuyết và toàn bộ là 5 câu hỏi bài tập. Kế toán tài chính, kế toán quản trị nâng cao. Chuyên đề này gồm 6 nội dung cơ bản sau: Chuyên đề Kế toán được đánh giá là một trong những chuyên đề có phạm vi kiến thức rộng và đa dạng vấn đề nhất trong kỳ thi, đòi hỏi người dự thi phải có kiến thức chắc chắn về Kế toán và tốc độ làm bài nhanh để giải quyết được hết các câu hỏi và yêu cầu của đề bài. Môn thi này có thời gian làm bài 180 phút với hình thức thi tự luận trên giấy, cũng gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Trong đó, có 1 câu hỏi về kế toán quản trị, 4 câu hỏi về Kế toán tài chính, bao gồm cả lý thuyết và bài tập. Kiểm toán và dịch vụ bảo đảm nâng cao. Gồm nội dung cơ bản sau: Phần 1: Tổng quan về Kiểm toán và dịch vụ đảm bảo Phần 2: Các chuẩn mực kiểm toán và dịch vụ đảm bảo - Các vấn đề chung: "Mục tiêu tổng thể của Kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán; Hợp đồng kiểm toán; Trách nhiệm của Kiểm toán viên liên quan đến gian lận, hành vi không tuân thủ pháp luật; Kiểm soát chất lượng doanh nghiệp thực hiện kiểm toá" - Lập kế hoạch kiểm toán - Thực hiện kiểm toán: "Bằng chứng kiểm toán; Lấy mẫu kiểm toán; Thủ tục phân tích; Kiểm toán ước tính kế toán; Các bên liên quan; Sự kiện phát sinh sau ngày khoá sổ; Hoạt động liên tục; Đánh giá sai sót phát hiện trong quá trình kiểm toá" - Kết thúc kiểm toán - Dịch vụ soát xét báo cáo tài chính thông tin tài chính quá khứ - Dịch vụ bảo đảm ngoài dịch vụ kiểm toán và soát xét thông tin tài chính quá khứ - Các dịch vụ liên quan Phần 3: Thực hành kiểm toán các khoản mục chủ yếu của báo cáo tài chính Môn Kiểm toán và Dịch vụ bảo đảm nâng cao thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Phân tích hoạt động tài chính nâng cao. Gồm các nội dung cơ bản sau: Phần 1: Tổng quan về Phân tích hoạt động tài chính nâng cao Phần 2: Nội dung phân tích hoạt động tài chính doanh nghiệp Môn Phân tích hoạt động tài chính nâng cao thi theo hình thức tự luận, viết trên giấy với tổng thời gian làm bài là 180 phút, gồm 5 câu hỏi, mỗi câu 2 điểm. Môn ngoại ngữ (tiếng Anh) chỉ kiểm tra 2 kỹ năng là đọc (Reading) và viết (Writing), thi theo hình thức tự luận trên giấy với tổng thời gian 120 phút, bao gồm các câu hỏi như sau: Phần I. Đọc hiểu Bài 1: Thí sinh lựa chọn từ 25 từ/cụm từ cho sẵn để điền vào 15 câu chưa hoàn chỉnh. Mỗi từ cho sẵn chỉ được dùng 1 lần. Bài 2: Gồm 2 bài khoá, mỗi bài 80-100 từ. Thí sinh phải trả lời 5 câu hỏi cho mỗi bài khoá, gồm 5 câu tự luận (tự viết câu trả lời) ứng với bài khoá số 1 và 5 câu lựa chọn đáp án đúng ứng với thông tin của bài khoá số 2. Bài 3: Gồm 1 bài khoá 150 từ. Thí sinh phải tự tìm từ/cụm từ thích hợp để điền vào 10 chỗ trống còn thiếu trong bài. Bài 1: Gồm 5 câu dùng dạng thích hợp của từ cho sẵn trong ngoặc điền vào chỗ trống để hoàn thành câu. Bài 2: Dựa trên các từ cho sẵn, thí sinh phải sắp xếp và thêm các từ, giới từ để viết câu hoàn chỉnh. Có tất cả 10 câu. Bài 3: Thí sinh phải viết lại câu bằng các từ gợi ý sao cho câu viết lại giữ nguyên ý nghĩa so với câu gốc. Có tất cả 5 câu. Bài 4: Thí sinh phải dịch 5 câu tiếng Việt ra tiếng Anh và 5 câu tiếng Anh ra tiếng Việt. Nội dung các câu văn ở bài thi này thường về lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Điều kiện đạt yêu cầu thi. Đối với môn thi. Một môn thi được xem là "đạt yêu cầu" khi điểm môn thi đó từ 5 trở lên. Thí sinh được bảo lưu điểm thi của môn thi đạt yêu cầu trong vòng 3 năm liên tiếp kể từ năm bắt đầu dự thi môn đó. Điều này được diễn giải là, điểm thi đạt yêu cầu (trên 5 điểm) chỉ được sử dụng để xét kết quả cho kỳ thi đó và 2 kỳ thi liền kề sau đó. Ví dụ, một thí sinh đạt điểm 6 của môn Thuế và quản lý thuế nâng cao năm 2023 nhưng chưa đạt yêu cầu đối với các môn thi khác, hoặc tổng điểm thi không đạt yêu cầu, thí sinh này được bảo lưu điểm của môn này cho kỳ thi của năm 2024 và 2025. Tức là năm 2024, thí sinh này không cần thi môn Thuế và quản lý thuế nâng cao nữa, và chỉ thi các môn còn lại để vượt qua kỳ thi. Trường hợp thí sinh các năm trước thi chứng chỉ kế toán viên và đã đạt yêu cầu một số môn nhưng chưa đủ điều kiện để được cấp chứng chỉ kế toán viên, năm sau không đăng ký thi chứng chỉ kế toán viên mà đăng ký thi chứng chỉ kiểm toán viên thì thí sinh sẽ không được bảo lưu điểm của các môn đã thi mà buộc phải thi lại đủ 7 môn của chứng chỉ kiểm toán viên. Ví dụ: Năm 2023, thí sinh đăng ký dự thi chứng chỉ kế toán viên và có kết quả các môn Kế toán - 8 điểm, Thuế - 9 điểm, Tài chính là 9 điểm, nhưng môn Luật chỉ đạt 4 điểm, chưa đạt yêu cầu thi nên chưa đủ điều kiện được cấp chứng chỉ kế toán viên. Năm 2024, nếu thí sinh đó đăng ký dự thi chứng chỉ kiểm toán viên, thí sinh không được sử dụng điểm bảo lưu của các môn Kế toán, Thuế và Tài chính, mà phải đăng ký dự thi từ đầu. Trường hợp thí sinh muốn bảo lưu điểm của 3 môn đã đạt yêu cầu, thí sinh phải tiếp đăng ký dự thi chứng chỉ kế toán viên. Sau khi có chứng chỉ kế toán viên thì đăng ký thi chuyển tiếp sang chứng chỉ kiểm toán viên. Đối với chứng chỉ kế toán viên. Nếu thí sinh có cả 4 môn thi của chứng chỉ kế toán viên còn được bảo lưu đều đạt yêu cầu (trên 5 điểm), đồng thời tổng điểm 4 môn còn được bảo lưu đạt tối thiểu 25 điểm, thí sinh đó sẽ được tính là đạt yêu cầu thi và được cấp chứng chỉ kế toán viên. Ví dụ: Thí sinh đạt 5 điểm cho cả 4 môn thi, tuy đã đạt yêu cầu với cả 4 môn, nhưng tổng điểm là 20 điểm, chưa đủ điều kiện để cấp chứng chỉ kế toán viên. Thí sinh này cần tiếp tục đăng ký dự thi để nâng tổng điểm lên tối thiểu 25 điểm để được cấp chứng chỉ. Tuy nhiên, nếu thí sinh đăng ký dự thi chứng chỉ kiểm toán viên, và đạt đủ điều kiện nêu trên với 4 môn của chứng chỉ kế toán viên, nhưng chưa đủ điều kiện để lấy được chứng chỉ kiểm toán viên, thì thí sinh đó cũng không được xét cấp chứng chỉ kế toán viên. Đối với chứng chỉ kiểm toán viên. Nếu thí sinh có cả 7 môn thi của chứng chỉ kiểm toán viên còn được bảo lưu đều đạt yêu cầu (trên 5 điểm), đồng thời tổng điểm 6 môn còn được bảo lưu (trừ môn Ngoại ngữ) đạt tối thiểu 38 điểm, thí sinh đó sẽ được tính là đạt yêu cầu thi và được cấp chứng chỉ kiểm toán viên. Nếu thí sinh đã có chứng chỉ kế toán viên và thi chuyển tiếp sang chứng chỉ kiểm toán viên, nếu có cả 3 môn thi còn lại của chứng chỉ kiểm toán viên còn được bảo lưu đều đạt yêu cầu (trên 5 điểm), đồng thời tổng điểm 2 môn còn được bảo lưu (trừ môn Ngoại ngữ) đạt tối thiểu 12,5 điểm, thí sinh đó sẽ được tính là đạt yêu cầu thi và được cấp chứng chỉ kiểm toán viên. Các kỳ thi kế toán viên, kiểm toán viên. Kỳ thi năm 2023. Vào ngày 01/12/2023, Bộ Tài chính Việt Nam thông báo sẽ tổ chức kỳ thi kế toán viên, kiểm toán viên năm 2023 vào các ngày 16,17,23,24/12/2023. Trong đó, địa điểm thi tại khu vực Miền Bắc là Học viện Tài Chính, 69 Đức Thắng, Phường Đức Thắng, Quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. Địa điểm thi khu vực Miền Nam là Trường Đại học Tài chính - Marketing, B2/1A đường 385, Tăng Nhơn Phú A, Thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Theo danh sách công bố của Bộ Tài Chính, số lượng thí sinh đăng ký dự thi như sau:
Nguyễn Đức Việt (sinh năm 1961) là nghệ sĩ ưu tú, nhà quay phim, đạo diễn điện ảnh Việt Nam. Ông được biết đến khi giành giải Quay phim xuất sắc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 11 với bộ hai phim "Cây bạch đàn vô danh", "Nước mắt thời mở cửa". Từ năm 2007, ông chuyển sang làm đạo diễn và có được một số tác phẩm xuất sắc như: "Những đứa con của làng, Vũ điệu đam mê", "Em muốn làm người nổi tiếng".. Nguyễn Đức Việt sinh năm 1961, trong một gia đình trí thức thuộc dòng họ Nguyễn Đức ở Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An. Cha ông là Nguyễn Đức Nam nhà giáo, nhà lý luận phê bình văn học, nguyên giám đốc Nhà xuất bản Giáo dục. Tốt nghiệp ngành Quay phim, Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội năm 1987, Nguyễn Đức Việt về công tác tại Hãng phim truyện Việt Nam. Năm 1996, ông giành giải Quay phim xuất sắc với hai bộ phim điện ảnh "Cây bạch đàn vô danh" của đạo diễn Nguyễn Thanh Vân và "Nước mắt thời mở cửa" của đạo diễn Lưu Trọng Ninh. Năm 1999, Đức Việt tiếp tục hợp tác với Nguyễn Thanh Vân qua bộ phim điện ảnh "Đời cát", bộ phim này giành được khá nhiều giải thưởng trong và ngoài nước. Năm 2007, Đức Việt được nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát mời làm đạo diễn bộ phim điện ảnh âm nhạc "Em muốn làm người nổi tiếng", bộ phim giành giải Khuyến khích tại Giải Cánh diều 2007. Năm 2009, khi đang thực hiện bộ phim truyền hình "Men say" - cũng lấy đề tài về âm nhạc - cho Đài Truyền hình Hà Nội, đạo diễn Đức Việt được gặp tác giả Vũ Ly Ly và đọc kịch bản "Bụi đường tinh khôi" của cô. Trong cùng năm, ông làm đạo diễn, thực hiện bộ phim điện ảnh âm nhạc đề tài Hip hop đầy tiên tại Việt Nam "Vũ điệu đam mê" dựa theo kịch bản "Bụi đường tinh khôi", bộ phim sau đó giành giải Cánh diều Bạc năm 2010 và Bông sen Bạc năm 2011. Nguyễn Đức Việt là thành viên Ban giám khảo hạng mục Phim truyện điện ảnh của Giải Cánh diều 2012 và 2018. Năm 2015, bộ phim "Những đứa con của làng" do ông đạo giành được giải Cánh diều Bạc cùng với "Lạc giới" của đạo diễn Phi Tiến Sơn và "Hương ga" của đạo diễn Cường Ngô; bộ phim còn nhận được giải cho Nam diễn viên phụ, Kịch bản xuất sắc và giải thưởng do Báo chí bình chọn. Cuối năm 2015, "Những đứa con của làng" tiếp tục giành thêm giải Bông sen Bạc cùng với "Cuộc đời của Yến" tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 19. Năm 2019, Đức Việt đạo diễn bộ phim ngắn tập "Vương tơ" của Kênh truyền hình Đài Tiếng nói Việt Nam. Năm 2021, Nguyễn Đức Việt nghỉ hưu nhưng vẫn tiếp tục làm phim trong đó có phim điện ảnh "Hồng Hà nữ sĩ" năm 2022"."
Myripristis woodsi là một loài cá biển thuộc chi "Myripristis" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1974. Từ định danh "woodsi" được đặt theo tên của Loren Paul Woods (1913–1979), nhà ngư học người Mỹ từng làm việc tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Field (Chicago), người đầu tiên nhận ra loài này khác biệt. Phạm vi phân bố và môi trường sống. "M. woodsi" có phân bố tập trung ở các đảo quốc trên Thái Bình Dương (trừ quần đảo Hawaii, nhóm Pitcairn và đảo Phục Sinh), từ các đảo thuộc Micronesia trải dài về phía đông nam đến quần đảo Tuamotu (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ogasawara và đảo Minami Tori-shima (Nhật Bản), về phía nam đến Nouvelle-Calédonie. "M. woodsi" sống tập trung trên các rạn san hô ngoài khơi cũng như trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 20 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "M. woodsi" là 26,5 cm. "M. woodsi" có một đốm trắng ở phía trên của gốc vây ngực, gần kề với đốm màu đỏ sẫm (gần như đen) ở gốc vây ngực. Viền trước màu trắng ở vây bụng và các vây mềm khác. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 12–13; Số vảy đường bên: 30–34. Thức ăn của "M. woodsi" là các loài động vật phù du.
Lý Thông (cổ tích) Lý Thông là nhân vật phản diện trọng truyện cổ tích Thạch Sanh. Trong những câu truyện thì nhân vật phản diện luôn bị ghét nhất, Lý Thông trong truyện Thạch Sanh cũng là một người vô cùng ác độc. Truyện cổ tích dân gian về Thạch Sanh thuộc một câu chuyện dân gian rất hấp dẫn. Trong đó có hai nhân vật đại diện cho hai phe Thạch Sanh và Lý Thông, tượng trưng cho cái thiện và cái ác. Nhân vật Lý Thông là một nhân vật phản diện, đại diện cho sự mưu mô nham hiểm, đại diện cho những kẻ độc ác, ham muốn vinh hoa phú quý, giàu có và thường xuyên cướp công của người khác một cách xảo quyệt. Qua từng chi tiết của câu chuyện, tội ác của nhân vật Lý Thông lại tăng lên một bậc, hắn ngày càng lún sâu vào tội ác, đôi bàn tay nhuốm đầy máu của người anh em kết nghĩa là nhân vật chính Thạch Sanh. Nhân vật Lý Thông là một người làm nghề buôn bán rượu. Có lần  hắn gặp Thạch Sanh đang gánh củi về gốc cây đa. Biết Thạch Sanh là mồ côi và cô đơn, hắn đã giả làm anh em kết nghĩa với Thạch Sanh để lợi dụng chàng. Việc kết nghĩa huynh đệ với Thạch Sanh rồi mời về ở nhà mình sinh sống, hắn chỉ muốn lợi dụng sức lực của chàng, muốn trong nhà mình có một nô lệ không công mà thôi chứ không có tình nghĩa anh em nào cả. Ở làng Lý Thông có một con chằn tinh chuyên ăn thịt người. Mỗi năm dân làng phải cống cho nó một mạng người thì nó mới đẻ yên cho cả làng sinh sống. Năm nay đến lượt Lý Thông phải nạp mạng. Lý Thông âm mưu để Thạch Sanh đi thay mình tới miếu của chằn tinh. Nhưng Thạch Sanh là người khỏe mạnh và dũng cảm nên khi đối mặt với chằn tinh, không những không bị chằn tinh ăn thịt mà còn giết chết chằn tinh, chặt đầu rồi vác về nhà Lý Thông. Khi Lý Thông thấy Thạch Sanh trở về bình an vô sự, tưởng là ma sắp đòi mạng mình, nhưng khi nghe Thạch Sanh nói mình đã giết chằn tinh, hắn lên kế hoạch cướp đi công của Thạch Sanh vì quan trên có ai giết được chằn tinh tính sẽ thưởng tiền cho làm quan. Nghĩ vậy, Lý Thông lập mưu nói với Thạch Sanh rằng chằn tinh hoàn toàn không phải là yêu quái mà là con vật được nhà vua nuôi dưỡng. Nếu Thạch Sanh giết nó, nhà vua sẽ trị tội. Sau đó hắn khuyên Thạch Sanh bỏ trốn vào rừng. Mọi chuyện còn lại hắn sẽ gánh vác cho người em kết nghĩa của mình vì dù sao hắn cũng là huynh trưởng. Thạch Sanh ngây thơ đến khờ khạo tin ngay vào điều đó. Anh từ biệt mẹ con Lý Thông rồi trốn vào rừng sinh sống như trước. Về phần Lý Thông, hắn đi cầm đầu chằn tinh tính đi lãnh thưởng rồi trở thành quan lớn. Lý Thông trở thành quân công quyền hành, có kẻ hầu người hạ, có nhà lớn để ngủ, tiền bạc rủng rảnh vô cùng. Lòng tham của nhân vật này thực sự là vô đáy. Để thu được một chút bổng lộc, hắn ta đã lừa trên dối dưới, lừa dối nhà vua và phản bội người anh em kết nghĩa của mình. Một ngày nọ, con gái của nhà vua, Công chúa Quỳnh Nga, bị một con đại bàng tinh bắt cóc. Thạch Sanh đang ngủ nhìn thấy liền bắn một mũi tên khiến con đại bàng bị thương và chảy máu từng giọt. Nhà vua mất con liền triệu Lý Thông nói rằng anh hùng giết được chằn tinh tính lẽ nào không bắt được đại bàng. Nếu Lý Thông có thể giết được đại bàng và cứu được công chúa thì gả công chúa chúa cho hắn và hắn được làm phò mã. Lý Thông rất khôn ngoan đã tổ chức tìm hiểu và sau đó phát hiện ra Hang Đại Bàng và gặp được Thạch Sanh tại đây. Hắn đã nhờ Thạch Sach đi xuống hang sâu để cứu công chúa. Khi Thạch Sanh cứu công chúa, hắn kéo công chúa ra khỏi cửa hang, sau đó lập tức trở mặt và dùng đá chặn lối ra. Kế hoạch của Lý Thông là bỏ Thạch Sanh chết trong hang sâu không lối thoát. Chỉ khi đó hắn mới có thể cưới công chúa và trở thành phò mã được. Chuyện hắn không cứu công chúa mà là Thạch Sanh sẽ được giữ kín mãi mãi không ai biết được. Nhưng trong bất kỳ câu chuyện cổ tích nào, người tốt bụng luôn được ông trời phù hộ, gặp may mắn và cứu giúp. Và những kẻ ác luôn phải trả giá cho hành động của mình. Lý Thông là một kẻ phản diện có âm mưu xấu xa, cuối cùng mọi chuyện bại lộ và hắn ta bị cách chức. Hắn ta tuy không bị giết mà lại phải trở thành người bán rượu tay không như trước. Hắn và mẹ hắn trở về ngôi nhà cũ nhưng trên đường đi bị sét đánh và biến thành con bọ hung hôi hám, xấu xí. Chàng trai tốt bụng Thạch Sanh cuối cùng đã trở thành phò mã, kết hôn với công chúa Quỳnh Nga và sống hạnh phúc mãi mãi. Chàng còn làm được nhiều việc có ích cho dân cho nước. Phân tích nhân vật Lý thông trong truyện cổ tích Thạch Sanh ấn tượng. Truyện Thạch Sanh là một câu chuyện cổ tích huyền ảo và hấp dẫn. Những kịch tính và cao trào đều xoay quanh Thạch Sanh, đại diện cho vai chính diện và Lý Thông, nhân vật phản diện vô cùng độc ác. Lý Thông là nhân vật giúp câu chuyện trở nên lôi cuốn, kịch tính hơn. Lý Thông là người nấu rượu và bán rượu. Hắn là người rất âm mưu, độc ác, xảo quyệt và chà đạp người khác vì lợi ích của mình. Hắn gặp Thạch Sanh khi chàng đang gánh củi đến cây đa. Khi thấy Sanh khỏe mạnh, tốt bụng và cô đơn, hắn liền nghĩ đến việc lợi dụng chàng. Hắn mời Thạch Sanh về nhà sống cùng và trở thành anh em kết nghĩa. Khi đến lượt hắn phải nộp mạng sống của mình cho chằn tinh. Tên hèn nhát này đã để Thạch Sanh thế mạng cho mình. Chi tiết này chứng tỏ sự hèn nhát và thiếu trách nhiệm của hắn. Một con người sẵn sàng hãm hại người khác để sống. Tuy nhiên, hắn không ngờ rằng Thạch Sanh lại có thể sống sót trở về và tiêu diệt chằn tinh. Tên hèn nhát này đã có một kế hoạch khác trong đầu. Đó là tước đoạt mọi công lao của Thạch Sanh. Bộ mặt tà ác của hắn hiện rõ khi hắn  “giả nhân giả nghĩa” “nhận tội” giết chằn tinh thay cho Thạch Sanh, mọi hậu quả hắn sẽ chịu hết. Lý Thông sau đó nộp đầu chằn tinh được nhà vua trọng thưởng, phong làm quận công. Lòng tham vô đáy, vì danh lợi mà mờ mắt bán đứng anh em, tên bán rượu đã chấp nhận đánh đổi lương tâm của mình để có được vinh hoa phú quý. Vì vậy, phạm hết tội này đến tội khác, hắn lại một lần nữa chiếm đoạt công lao của Thạch Sanh để được trở thành phò mã. Hắn ta tuyên bố đã giết chết đại bàng và cứu công chúa khỏi móng vuốt của con đại bàng. Tên Lý Thông càng khiến người đọc căm hận hắn hơn khi sau khi cứu được công chúa, hắn đã tàn nhẫn ra lệnh cho quân lính của mình lấp đá vào hang để giết Thạch Sanh. Càng ngày hắn càng lún sâu vào tội ác. Hắn đã bán linh hồn cho quỷ dữ để đạt được những gì hắn mong muốn. Mọi chuyện lẽ ra đã tốt đẹp với tên mưu mô này nếu không có tiếng đàn ai oán của Thạch Sanh vạch trần tội ác của hắn. Tiếng đàn thần là một yếu tố hoang đường kỳ diệu tạo nên sức mạnh hấp dẫn của câu truyện cổ tích này. Nó có ý nghĩa về sức mạnh của công lý. Đây cũng chính là yếu tố mà người xưa đã cố gắng chứng minh. “Ở hiền gặp lành”, “Gieo nhân nào gặp quả đấy”. Cái kết của câu chuyện thực sự làm hài lòng người đọc. Mẹ con Lý Thông bị tước chức và phải về quê. Tuy nhiên, ngay cả với sự tha thứ này, ông trời cũng không thể tha thứ cho tội ác tày đình của họ. Trên đường về nhà, Lý Thông và mẹ đã bị sét đánh chết và biết thành bọ hung. Thật xứng đáng! Dù mưu có sâu, kế có rộng đến đâu thì tội ác vẫn là tội ác. Lý Thông cuối cùng đã bị trừng phạt. Cái tên Lý Tông đáng bị người đời phỉ nhổ, trừng phạt.
Croque monsieur (]) là món bánh mì kẹp giăm bông và phô mai nóng của Pháp. Tên gọi xuất phát từ các từ tiếng Pháp c"roque" (giòn) và "monsieur" ("quý ông"). Croque monsieur được cho rằng xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1910 trong thực đơn của một quán cà phê ở Boulevard des Capucines, Paris. Dù vậy, nguồn gốc của cách gọi này vẫn chưa được biết, giả thuyết phổ biến hơn là chủ quán cà phê, Michel Lunarca, đã đùa rằng thịt bên trong chiếc bánh kẹp là thịt người. Trước đó, croque monsieur được nhắc đến vào cuối thế kỷ 19, có thể thấy rõ nhất qua những ghi chép trong cuốn "La Revue athlétique" năm 1891. Croque monsieur theo truyền thống được làm với giăm bông nướng hoặc luộc và phô mai cắt lát, phủ phô mai bào và muối và tiêu nhẹ, sau đó nướng trong lò hoặc chiên lên. Bánh mì có thể được làm chín vàng tùy ý bằng cách nướng sau khi nhúng vào trứng đánh đều. Theo truyền thống người ta sẽ dùng phô mai Gruyère nhưng đôi khi cũng dùng phô mai Comté hoặc Emmental. Một số quán bia còn thêm sốt béchamel. Croque monsieur có thể được nướng hoặc chiên lên để lớp phô mai tan chảy và tạo thành lớp vỏ. Món croque monsieur được phục vụ với toping là món trứng chiên phủ lên trên được gọi là "croque madame". Ở Vương quốc Anh, món ăn nhẹ nóng hổi có giăm bông và pho mát được gọi là "bánh mì nướng" và có sẵn máy làm bánh mì nướng để mua. Tại Hoa Kỳ, món Sandwich Monte Cristo là một loại bánh sandwich giăm bông và phô mai thường được kèm trứng và chiên, là món ăn phổ biến trong những bữa ăn tối
Myripristis xanthacra là một loài cá biển thuộc chi "Myripristis" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1981. Từ định danh xanthacra được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "xanthós" (ξανθός; “vàng óng”) và "ákros" (ἄκρος; “đỉnh, chóp”), hàm ý đề cập đến các vùng màu vàng ở rìa vây lưng, vây hậu môn và hai thùy đuôi của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "M. xanthacra" có phân bố giới hạn ở Biển Đỏ và trải dài đến vịnh Aden thuộc bờ biển Djibouti. "M. xanthacra" sống trên các rạn san hô ở độ sâu đến ít nhất là 18 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "M. xanthacra" là 20 cm.
Constanza của Aragón, Vương hậu Sicilia Constanza của Aragón (tiếng Aragón: "Constanza d'Aragón"; tiếng Ý: "Costanza d'Aragona"; tiếng Catalan: "Constança d'Aragó i Navarra"; tiếng Tây Ban Nha: "Constanza de Aragón y Navarra"; tiếng Anh: "Constance of Aragon"; 1343 – 18 tháng 2 năm 1363), là Vương nữ Aragón, con cả của Pero IV của Aragón và María của Navarra. Constanza còn là Vương hậu đầu tiên của Federico III của Sicilia. Cha của Constanza đã không thành công khi đề cử con gái làm người thừa kế ngai vàng vào đầu năm 1347 vì không có người nam duệ thừa kế. Ngày 8 tháng 2 năm 1351 tại Perpignan, lễ đính hôn giữa Constanza và Louis I xứ Anjou, con trai của Quốc vương Jean II của Pháp và Jutta của Bohemia, đã được cử hành. Tuy nhiên Constanza và Louis không tiến tới hôn nhân. Ngày 11 tháng 4 năm 1361 tại Catania, Constanza kết hôn với Quốc vương Federico III của Sicilia. Hai người có một con gái là Maria (2 tháng 7 năm 1363 - 25 tháng 3 năm 1401), sau này kế vị cha trở thành Nữ vương Sicilia vào năm 1377 và kết hôn với Martín của Aragón. Năm 136, Constanza qua đời ở Catania, Sicilia, có thể do bệnh dịch hạch, hoặc do các biến chứng sau khi sinh con. Constanza được chôn cất tại Thánh đường Catania.
Alionor là người con út và là con gái duy nhất của Pero IV của Aragón và Eleonora của Sicilia. Alionor là em gái của Chuan I của Aragón và Martín I của Aragón cũng như là em gái cùng cha khác mẹ của Constanza của Aragón, Vương hậu Sicilia, Chuana của Aragón, Bá tước phu nhân xứ Empúries và là chị gái khác mẹ của Isabel của Aragón, Bá tước phu nhân xứ Urgell. Ngày 18 tháng 6 năm 1375 tại Soria, Alionor kết hôn với Juan I của Castilla. Cuộc hôn nhân của Alionor và Juan I được sắp xếp như một phần của thỏa thuận hòa bình giữa Aragón và Castilla được ký kết tại Almazán vào ngày 12 tháng 4 năm 1374 và tại Lleida vào ngày 10 tháng 5 năm 1375. Alionor và Juan I có với nhau ba người con: Sau bảy năm chung sống, vào ngày 13 tháng 8 năm 1382, Alionor qua đời khi sinh con gái mang tên Leonor. Con trai của Alionor là Fernando sau đó đã giành lấy quyền cai trị Vương quốc Aragón thông qua quyền thừa kế từ mẹ khi cả hai anh trai của Alionor đều qua đời mà không có con trai còn sống.
Myripristis violacea là một loài cá biển thuộc chi "Myripristis" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1851. Tính từ định danh "violacea" trong tiếng Latinh có nghĩa là "có màu tím", hàm ý đề cập đến màu tím sẫm ở phần thân trên của loài cá này. Phân bố và môi trường sống. "M. violacea" có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Line cùng quần đảo Marquises và Tuamotu (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), về phía nam đến bãi cạn Aliwal (Nam Phi), Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, "M. violacea" được ghi nhận ở nhiều vùng biển như cù lao Chàm (Quảng Nam), đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), hòn Cau (Bình Thuận), bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. "M. violacea" sống tập trung trên các rạn san hô ngoài khơi cũng như trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 30 m. Chúng thường tập trung gần các cụm san hô nhánh "Acropora" hoặc "Porites rus", có khi ẩn mình dưới các gờ đá. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "M. violacea" là 35 cm. Vảy của "M. violacea" ánh màu bạc, vảy ở thân trên đường bên có viền nâu đen, vảy ngang đường bên viền nâu đỏ sẫm, vảy thân dưới còn lại viền đỏ. Màng nắp mang nâu đỏ. Gốc vây ngực có đốm đen sẫm. Vây ngực trong mờ phớt đỏ. Vây đuôi cùng chóp vây lưng và vây hậu môn có màu đỏ tươi. Rìa trước của vây lưng, vây hậu môn, vây đuôi và vây bụng có màu trắng. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 13–16; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 12–14; Số vảy đường bên: 27–29; Số tia ở vây ngực: 14–15. Thức ăn chủ yếu của "M. violacea" là các loài động vật phù du. "M. violacea" có thể tạo ra hai dạng âm thanh nghe như tiếng đập và tiếng gõ, có vẻ như đó là âm thanh giao tiếp khi cạnh tranh cùng loài. Ít thấy hơn là tiếng gầm gừ, chỉ xảy ra khi chúng đang gặp nguy hiểm đe dọa, nên có lẽ là tín hiệu cảnh báo. "M. violacea" được khai thác trong nghề cá quy mô nhỏ.
Nam Linh (Người dẫn chuơng trình) MC Nam Linh (tên đầy đủ: Vũ Trần Nam Linh) là một nam MC (người dẫn chương trình) người Việt Nam. Anh sống và làm việc tại Thành phố Hà Nội, Việt Nam, đến năm 2023 anh chuyển vào Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam làm việc và tiếp tục phát triển nghề nghiệp, hiện nay anh đang cộng tác tại HTV - Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Sen Vàng - Công ty nổi tiếng là đơn vị tổ chức các cuộc thi hoa hậu lớn tại Việt Nam. Anh được nhiều người biết đến như là một MC song ngữ trẻ tài năng, năng động và là ban giám khảo của nhiều cuộc thi lớn về tìm kiếm tài năng dẫn chương trình trên lãnh thổ Việt Nam. Tên đầy đủ: Vũ Trần Nam Linh, sinh ngày 01-01-1993, tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Anh sinh ra trong một gia đình có bố là quân nhân, mẹ là giáo viên nhưng lại có đam mê và tố chất nghệ thuật từ nhỏ. Thời đi học của MC Nam Linh gắn liền với các cuộc thi, buổi biểu diễn nghệ thuật. Bên cạnh thành tích học tập, Nam Linh luôn tham gia tích cực các hoạt động ngoại khóa, giữ các vị trí chủ chốt của trường và lớp cũng như đạt nhiều giải thưởng, thành tích. Hiện nay anh đang làm việc như một người dẫn chương trình chuyên nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngôn ngữ dẫn chương trình: song ngữ bao gồm tiếng Anh và tiếng Việt Năm 2011, sau khi tốt nghiệp Trường Trung học Phổ thông Chuyên Phan Bội Châu, Nam Linh thi đỗ vào Khoa Phát thanh - Truyền hình của Học viện Báo chí và Tuyên truyền Hà Nội, từ đây theo đuổi ước mơ trở thành Người dẫn chương trình chuyên nghiệp. Năm 2013, anh tham gia cuộc thi Cầu Vồng lĩnh vực Người dẫn chương trình truyền hình do Ban Thanh Thiếu Niên VTV6 tổ chức và bén duyên với các chương trình của Đài truyền hình Việt Nam. Năm 2021, sau gần 10 năm làm nghề, anh quyết định thử sức mình với sân chơi Én Vàng (Cuộc thi Người dẫn chương trình truyền hình do Đài Truyền hình Thành Phố Hồ Chí Minh HTV tổ chức). Với kinh nghiệm và sự khác biệt của mình, các phần thi của Nam Linh gây được nhiều sự chú ý và đánh giá cao từ Ban giám khảo và khán giả. Anh tiến vào Chung kết xếp hạng và đạt ngôi vị Én Bạc (Á quân 1). Từ đây mở ra cơ hội hợp tác với Đài truyền hình Thành Phố Hồ Chí Minh (HTV) và các sự kiện tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2023, anh quyết định Nam tiến để tiếp tục phát triển sự nghiệp của mình và xuất hiện liên tục tại các sự kiện giải trí lớn. Các giải thưởng đạt được. Sau hơn 10 năm hoạt động trong lĩnh vực dẫn chương trình, Nam Linh không ngừng cố gắng cải thiện kỹ năng chuyên môn và truyền lửa đến thế hệ trẻ có niềm đam mê MC, anh cũng đã đạt những thành tựu nhất định. Những chương trình đã dẫn. Với phong cách dẫn riêng biệt cùng khả năng tiếng Anh nổi trội, Nam Linh không chỉ là MC quen thuộc trên sóng Truyền hình mà anh còn là người dẫn dắt các sự kiện lớn nổi tiếng tầm cỡ quốc gia và quốc tế tại Việt Nam, có thể kể đến:
Giếng phóng tên lửa đạn đạo liên lục địa Giếng phóng tên lửa đạn đạo, hay đầy đủ hơn là tổ hợp phóng tên lửa đạn đạo (missile launch facility), hay giếng phóng ngầm (underground missile silo), tổ hợp phóng tên lửa launch facility (LF), hoặc nuclear silo, là một cấu trúc hình trụ thẳng đứng đặt ngầm dưới mặt đất, có nhiệm vụ lưu trữ và phóng tên lửa đạn đạo liên lục địa ICBM, tên lửa đạn đạo tầm trung-xa (IRBM), tên lửa đạn đạo tầm trung (MRBM). Cấu trúc tương tự cũng được sử dụng cho các tổ hợp tên lửa chống tên lửa đạn đạo ABM. Thông thường, tên lửa sẽ đặt ngầm dưới đất, cách mặt đất một khoảng, được bảo vệ bởi cửa sập chống vụ nổ hạt nhân phía trên. Chúng thường được kết nối, vật lý hoặc bằng điện với trung tâm điều khiển phóng tên lửa. Sau khi Liên Xô đưa vào trang bị UR-100 còn Mỹ đưa vào trang bị dòng tên lửa LGM-25C Titan II, giếng phóng tên lửa đã được thay đổi vào năm 1960s. Cả hai loại tên lửa ICBM này đều sử dụng nhiên liệu là hypergolic propellant, với khả năng tích trữ trong thân tên lửa, giúp tên lửa có thể phóng ngay lập tức. Cả Liên Xô và Hoa Kỳ đều đưa các hệ thống tên lửa nhiên liệu lỏng xuống dưới các giếng phóng ngầm. Với việc ra đời hệ thống tên lửa ICBM sử dụng chất đẩy rắn, vào cuối những năm 1960s, việc di chuyển nạp tên lửa vào giếng phóng và phóng tên lửa được diễn ra dễ dàng hơn. Các giếng phóng tên lửa ngầm vẫn là hệ thống phóng tên lửa Đạn đạo chủ yếu và các cơ sở phóng tên lửa vẫn còn hoạt động kể từ những năm 1960s. Việc tăng độ chính xác của hệ thống dẫn đường quán tính đã làm các giếng phóng trở nên dễ bị tổn thương hơn thời những năm 1960s. Ngoài các cơ sở dưới lòng đất, tên lửa đạn đạo có thể được phóng từ các cơ sở trên mặt đất hoặc có thể được phóng từ các bệ di động, ví dụ như xe mang phóng tự hành (TEL), tàu hỏa, tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo hoặc máy bay. Tổ hợp ngầm La Coupole là tổ hợp phóng tên lửa đạn đạo đầu tiên được Đức quốc xã phát triển và là thiết kế khởi đầu cho các giếng phóng hiện nay. Vị trí tổ hợp này nằm phía Bắc nước Pháp bị quân Đức chiếm, từ năm 1943 đến 1944 nó đã là tổ hợp phóng tên lửa V-2. Tổ hợp được thiết kế để làm bệ phóng tên lửa V-2. Tổ hợp được thiết kế với mái vòm làm bằng bê tông cốt thép giúp lưu trữ số lượng lớn đạn tên lửa V-2 cùng đầu đạn và nhiên liệu. Hàng tá tên lửa được nạp nhiên liệu trong ngày, chuẩn bị và được đưa ra ngoài trời, phóng đi từ một trong hai bệ phóng tên lửa ngoài trời nhằm vào mục tiêu là London và miền Nam nước Anh. Một tổ hợp tương tự là Blockhaus d'Eperlecques, được xây dựng cách 14,4 km Bắc-Tây Bắc La Coupole. Sau khi bị đánh bom nặng nề trong các cuộc không kích của quân Đồng minh trong Chiến dịch Crossbow, người Đức đã không thể hoàn thành việc xây dựng và tổ hợp không thể đưa vào hoạt động. Ý tưởng của người Anh về việc triển khai hệ thống phóng tên lửa ngầm đã được người Mỹ phát triển xa hơn để áp dụng cho các cơ sở phóng tên lửa đạn đạo liên lục địa. Phần lớn các giếng phóng ngầm được đặt tại các Bang như Colorado, Nebraska, North Dakota, South Dakota, Missouri, Montana, Wyoming và một số Bang khác. Có ba lý do chính để chọn địa điểm đặt giếng phóng tên lửa: giúp giảm đường bay giữa Mỹ và Liên Xô, do tên lửa sẽ đi vòng qua Canada qua Bắc Cực; tăng thời gian cảnh báo tên lửa tấn công trong một cuộc chiến tranh tổng lực hạt nhân. Các tổ hợp này có một vài hệ thống cảnh báo để tránh bị xâm nhập và một vài hệ thống phòng thủ (Xem Safeguard Program). Bổ sung cho ba lí do bên trên, Không quân Hoa Kỳ cũng có một số yêu cầu đối với tổ hợp phóng tên lửa đạn đạo là phải đủ gần với khu dân cư 50.000 dân để có sự hỗ trợ cộng đồng, và đủ xa để đảm bảo khi bị tấn công bởi vụ nổ 10 MT sẽ không làm thiệt hại đối với cơ sở phóng gần nhất. Từ năm 1961 đến năm 1966, quân đội Mỹ đã xây dựng tổng cộng 1.000 hầm chứa tên lửa Minuteman. Hoa Kỳ bố trí nhiều giếng phóng tên lửa ở vùng Trung Tây nước Mỹ, cách xa các vùng dân cư lớn. Nhiều silo được xây dựng tại Colorado, Nebraska, South Dakota, và Bắc Dakota. Hoa Kỳ đã dành nỗ lực và kinh phí đáng kể trong những năm 1970 và 1980 để thiết kế một hệ thống thay thế, nhưng không có thiết kế tổ hợp phóng mới nào được xây dựng. Hoa Kỳ có nhiều đầu đạn hạt nhân đặt trong hầm ngầm đang được biên chế, tuy nhiên, số lượng đầu đạn phóng từ tên lửa ICBM silo đã giảm số lượng xuống còn khoảng 1800, chuyển sang tập trung đầu đạn hạt nhân cho tên lửa đạn đạo phóng từ tàu ngầm hạt nhân và tập trung vào các loại vũ khí thông thường tiên tiến hơn. Ngày nay các tổ hợp giếng phóng tên lửa vẫn còn tồn tại dù nhiều tổ hợp đã ngừng hoạt động và loại bỏ các vật liệu nguy hiểm. Sự gia tăng các hầm chứa tên lửa ngừng hoạt động đã khiến chính phủ phải bán một số giếng phóng tên lửa các cá nhân. Một số người mua chuyển đổi chúng thành những ngôi nhà độc đáo, hầm trú ẩn hoặc sử dụng chúng cho các mục đích khác. Chúng là những địa điểm thu hút khách du lịch khám phá. Tên lửa Atlas sử dụng bốn phiên bản tổ hợp phóng tên lửa khác nhau. Tổ hợp phóng tên lửa Titan. Tên lửa Titan I sử dụng cùng loại silo với Atlas phiên bản thứ tư. ICBM LGM-25C Titan II đã ngừng hoạt động có một trung tâm điều khiển phóng ICBM. Tên lửa Titan (cả phiên bản I và II) được đặt gần nhân viên điều hành và chỉ huy. Việc tiếp cận tên lửa được thực hiện thông qua các đường hầm nối trung tâm điều khiển phóng và cơ sở phóng. Một ví dụ về điều này có thể được nhìn thấy tại Bảo tàng Tên lửa Titan, nằm ở phía nam Tucson, Arizona. Các vụ tai nạn nổi tiếng Cơ sở phóng tên lửa Minuteman. Tên lửa đạn đạo nhiên liệu rắn LGM-30 series Minuteman I, II, III, và LGM-118 Peacekeeper bao gồm một trung tâm chỉ huy phóng tên lửa có khả năng điều khiển 10 giếng phóng. Năm trung tâm điều khiển và 50 bệ phóng tên lửa tạo thành một Lữ đoàn tên lửa. Ba lữ đoàn tạo thành một Phi đoàn tên lửa liên lục địa. Các biện pháp được thực hiện sao cho nếu bất kỳ trung tâm chỉ huy nào bị vô hiệu hóa, một trung tâm điều khiển khác trong Phi đoàn sẽ nắm quyền kiểm soát 10 ICBM của nó. Các giếng phóng LGM-30 và Trung tâm chỉ huy chỉ cách nhau vài dặm, chỉ được kết nối bằng điện tử. Khoảng cách này đảm bảo rằng một cuộc tấn công hạt nhân chỉ có thể vô hiệu hóa một số lượng rất nhỏ ICBM, khiến số còn lại có khả năng được phóng ngay lập tức. Cơ sở phóng tên lửa Peacekeeper. Dense Pack là cấu hình được Mỹ dự kiến sử dụng làm cấu hình triển khai bệ phóng tên lửa LGM-118 Peacekeeper, được phát triển dưới thời Tổng thống Reegan, với thiết kế được tối đa hóa khả năng sống sót của bệ phóng tên lửa trong trường hợp bị tấn công phủ đầu bất ngờ bằng vũ khí hạt nhân. Theo chiến lược này, một sê ti mười đến mười hai giếng phóng tên lửa sẽ được đặt thẳng hàng cạnh nhau. Ý tưởng là để vô hiệu hóa tổ hợp phóng tên lửa, kẻ thù sẽ buộc phải phóng nhiều tên lửa, và các tên lửa sẽ bắn tới vào thời điểm khác nhau. Các tên lửa bắn tới muộn hơn sẽ có thể bay xuyên qua đám mây mảnh vụn từ vụ nổ hạt nhân ban đầu, làm tổn hại đến các tên lửa phóng tới sau đó và làm hạn chế năng lượng nổ của chúng. Tuy nhiên cấu hình này chưa bao giờ được triển khai. Liên Xô cũ cũng triển khai giếng phóng tên lửa ICBM trên lãnh thổ Nga và các nước thuộc Liên Bang trong Chiến tranh Lạnh, điển hình như Căn cứ tên lửa Plokštinė tại Lithuania. Trung tâm cảnh báo sớm tên lửa đạn đạo gần Solnechnogorsk ngoại ô Moskva, được hoàn thiện vào năm 1971, và vẫn còn được Liên Bang Nga vận hành.
Maria Carolina của Sardegna Maria Carolina của Sardegna (Maria Carolina Antonietta Adelaide; 17 tháng 1 năm 1764 – 28 tháng 12 năm 1782) là Vương nữ Sardegna, con gái út của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha. Thông qua hôn nhân năm 1781 với Anton I của Sachsen, bấy giờ là Tuyển hầu Trữ quân xứ Sachsen, Maria Carolina là Tuyển hầu Trữ phi xứ Sachsen. Maria Carolina qua đời vì bệnh đậu mùa ở tuổi mười tám. Maria Carolina được sinh ra tại Cung điện Vương thất Torino, là người con thứ mười và con gái thứ sáu của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha, bấy giờ là Công tước và Công tước phu nhân xứ Savoia. Maria Carolina có năm người chị gái, trong đó có hai người chị gả cho cháu nội của Louis XV của Pháp: Maria Giuseppina kết hôn với Louis XVIII của Pháp (bấy giờ là Bá tước xứ Provence) vào năm 1771 và Maria Teresa kết hôn với Charles X của Pháp (bấy giờ là Bá tước xứ Artois) vào năm 1773. Anh chồng của hai người chị gái của Maria Carolina là vị Quốc vương xấu số Louis XVI của Pháp. Trng sáu người anh em của Maria Carolina, có ba người trở thành Quốc vương Sardegna thuộc dòng chính của Vương tộc Savoia: Carlo Emanuele IV, Vittorio Emanuele I và Carlo Felice I của Sardegna. Cha của của Maria Carolina trở thành Quốc vương Sardegna vào năm 1773 sau khi ông nội Vương nữ là Carlo Emanuele III của Sardegna, người đã cai trị Vương quốc trong 43 năm, qua đời. Vittorio Emanuele III quyết định rằng Maria Carolina sẽ kết hôn với Anton của Sachsen, bấy giờ là Tuyển hầu Trữ quân xứ Sachsen, người thừa kế tước hiệu Tuyển hầu xứ Sachsen. Anton là con trai thứ năm của Friedrich Christian I xứ Sachsen và Maria Antonia xứ Bayern. Thông qua cha, Anton cũng là anh họ của Louis XVIII của Pháp và Charles X của Pháp, hai người anh rể của Maria Carolina. Bản thân Maria Carolina và Anton cũng là anh em họ của Carlos IV của Tây Ban Nha và Ferdinando I của Hai Sicilie, trong đó Maria Carolina có họ hàng thông qua mẹ là María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha và Anton có họ hàng thông qua cha. Maria Carolina còn có một người họ hàng trứ danh là "Maria Teresa Luisa của Savoia, Thân vương phi xứ Lamballe." Bất chấp lời cầu xin của Maria Carolina, Vương nữ đã phải kết hôn ủy nhiệm tại Palazzina di caccia di Stupinigi vào ngày 29 tháng 9 năm 1781, sau đó là một buổi lễ khác ở Dresden vào ngày 24 tháng 10 năm 1781 với sự tham gia của chú rể. Lễ mừng đám cưới ở Savoia được tổ chức rất xa hoa với các bữa tiệc tại Cung điện Torino nơi Vương nữ được sinh ra và tại Cung điện Gontieri. Maria Carolina rời quê nhà một cách miễn cưỡng vào tháng 9 năm 1781. Gia đình Vương nữ đã đi cùng Maria Carolina đến Vercelli khi cô phải đẩy ra khỏi xe để khởi hành. Nó đến Augsburg, nước Đức ngày nay vào ngày 14 tháng 10. Tại Sachsen, Maria Carolina được liệt vào hàng những quý phu nhân có địa vị cao quý nhất trong triều đình. Người phụ nữ có địa vị cao nhất là Amalie xứ Zweibrücken-Birkenfeld-Bischweiler, vợ của Friedrich August I của Sacchsen, bấy giờ là Tuyển hầu xứ Sachsen với trị hiệu là Friedrich August III. Không hạnh phúc tới tại nơi ở mới, Maria Carolina mắc bệnh đậu mùa và qua đời ở Dresden vào ngày 28 tháng 12 năm 1782. Được yêu mến tại quê nhà, Maria Carolina được nhớ đến trong một bài hát dân ca xưa được sáng tác để vinh danh Vương nữ sau khi qua đời: Sau khi Maria Carolina qua đời, Anton tái hôn với Maria Theresa Josepha của Áo và có bốn người con nhưng tất cả đều qua đời khi còn nhỏ. Anton trở thành Quốc vương Sachsen vào năm 1827 ở tuổi 71. Maria Carolina được chôn cất tại hầm mộ số 30 ở Thánh đường Dresden, Dresden. Tư liệu liên quan tới
Maria Anna Carolina của Sardegna Maria Anna Carolina của Sardegna ("Maria Anna Carolina Gabriella"; 17 tháng 12 năm 1757 – 11 tháng 10 năm 1824) là Vương nữ Savoia, con gái của Vittorio Amadeo III của Sardegna và María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha và là Công tước phu nhân xứ Chablais thông qua cuộc hôn nhân với chú của Vương nữ là Benedetto của Sardegna. Những năm đầu đời. Maria Anna Carolina Sinh ra tại Cung điện Vương thất Torino, bà là con thứ sáu của Vittorio Amadeo III của Sardegna và Maria Antonia Ferdinanda của Tây Ban Nha, bấy giờ là Công tước và Công tước phu nhân xứ Savoia. Maria Anna là người con gái thứ tư nhưng là con gái thứ ba sống qua tuổi ấu thơ của Vittorio Amadeo và María Antonia. Hai chị gái của Vương nữ sau này là "cháu dâu" của Louis XV của Pháp. Trong đó người chị lớn hơn là Maria Giuseppina kết hôn với Louis XVIII của Pháp (bấy giờ là Bá tước xứ Provence) vào năm 1771, người chị còn lại là Maria Teresa kết hôn với Charles X của Pháp (bấy giờ là Bá tước xứ Artois) vào năm 1773. Người em gái út Maria Carolina kết hôn với Anton I của Sachsen (bấy giờ là Tuyển hầu Trữ quân xứ Sachsen). Ba trong sáu người anh em trai của Maria Anna Carolina là ba vị Quốc vương cuối cùng của Sardegna thuộc dòng trưởng của Vương tộc Savoia, trong đó bao gồm: Carlo Emanuele IV tương lai, Vittorio Emanuele I và Carlo Felice I. Sau cái chết của Carlo Delice I vào năm 1831 mà không có hậu duệ, ngai vàng được truyền cho Carlo Alberto của Savoia, Thân vương xứ Carignano và là nam duệ hợp pháp tiếp theo. Sau đám cưới của các chị gái Vương nữ với các Vương tôn Pháp, cuộc hôn nhân đã được sắp đặt giữa Maria Anna và chú ruột của Vương nữ là Benedetto của Sardegna, em trai cùng cha khác mẹ của Vittorio Amadeo III (con trai của Carlo Emanuele III của Sardegna và người vợ cuối cùng là Élisabeth-Thérèse xứ Lorraine). Đám cưới diễn ra vào ngày 19 tháng 3 năm 1775 tại Nhà nguyện Khăn liệm Thánh ở Torino. Hai vợ chồng không có con nhưng có một cuộc sống hạnh phúc với nhau. Và dù có mối quan hệ gần gũi, Maria Anna chỉ luôn coi Benedetto đơn thuần là chú của mình. Hai vợ chồng sinh sống chính thức ở là Cung điện Chiablese và Lâu đài Công tước Agliè. Vương nữ có mối quan hệ tốt với các chị dâu Marie Clotilde của Pháp, Thân vương phi xứ Piemonte và Maria Theresa của Austria-Este, Công tước phu nhân xứ Aosta. Khi vào tháng 12 năm 1798, khi Cộng hòa Pháp xâm chiếm Vương quốc Sardegna, toàn bộ Vương thất lâm vào cảnh sống lưu vong. Maria Anna Carolina và chồng rời Torino và chuyển đến Sardegna và ở lại đây cho đến cuối năm 1799. Sau đó, hai vợ chồng rời hòn đảo và định cư ở Roma thuộc Lãnh địa Giáo hoàng. Năm 1805, hai vợ chồng dành vài tháng ở Firenze với tư cách là khách mời của Quốc vương Ludovico I và Vương hậu Maria Luisa của Etruria. Tại Ý, Công tước xứ Chablais được trao quyền chỉ huy Quân đội Ý, trong đó có sự tham gia của quân đội Pháp và có ý định khôi phục chế độ quân chủ ở Pháp sau khi Louis XVI của Pháp bị hành quyết vào năm 1793. Benedetto cũng tham chiến ở Trận Loano . Benedetto, Công tước xứ Chablais qua đời vào ngày 4 tháng 1 năm 1808 tại Roma. Năm 1816, Thái Công tước phu nhân Chablais đã gặp em trai Carlo Felice cùng em họ Carlo Alberto. Vào thời điểm đó, các lãnh địa và tài sản của Vương tộc Savoia đã trở về với Vương tộc. Trong thời gian Maria Anna vắng mặt, Cung điện Chiablese trở thành nơi ở của Camillo II Borghese, Thân vương thứ 6 xứ Sulmona và vợ là Pauline Bonaparte. Tuy nhiên, Maria Anna không trở về quê nhà ngay lập tức: vào năm 1820, Vương nữ mua lại Biệt thự Rufinella ở Frascati gần Roma từ Lucien Bonaparte. Năm 1822, bất chấp sự phản đối của anh trai và em họ, Maria Anna định cư ở Firenze, bất chấp thực tế là thành phố này đã có những động thái tạo nên thời kỳ hỗn loạn ở Vương quốc Sardinia một năm trước đó. Mãi đến đầu năm 1824, Maria Anna mới quay trở lại Piemonte và gặp lại các anh em trai là cựu vương Vittorio Emanuele I và đương kim Quốc vương Carlo Felice I của Sardegna tại Lâu đài Moncalieri. Mùa hè cùng năm, cùng với Carlo Felice I và em dâu là Maria Cristina, Maria Anna Carolina đã có chuyến đi đến Savoia và đến thăm Đan viện Hautecombe . Maria Anna qua đời tại Palazzina di caccia di Stupinigi ở Torino vào năm 1824 ở tuổi 66 và được chôn cất tại Vương cung thánh đường Vương thất Superga. Vương nữ để lại tất cả tài sản của mình, bao gồm Cung điện Chiablese, Lâu đài Ducal xứ Agliè và Biệt thự Rufinella ở Frascate cho em trai Carlo Felice I.
Chương trình Nhập khẩu Thương mại Chương trình Nhập khẩu Thương mại () đôi khi gọi là Chương trình Nhập khẩu Hàng hóa (; viết tắt CIP) là một thỏa thuận viện trợ kinh tế giữa Việt Nam Cộng hòa và đối tác hỗ trợ chính là Hoa Kỳ. Chương trình này kéo dài từ tháng 1 năm 1955 cho đến khi Sài Gòn thất thủ năm 1975 và sự giải thể của Việt Nam Cộng hòa sau cuộc xâm lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi quân đội Mỹ buộc phải rút khỏi nước này theo thỏa ước đình chiến năm 1973. Sáng kiến này là một kế hoạch thương mại được thiết kế để bơm một lượng lớn vốn của Mỹ vào nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa nhằm giúp thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, tăng trưởng và tự cung tự cấp của miền Nam Việt Nam mà không gây ra mức lạm phát cao thường xảy ra khi bơm vốn mạnh mẽ như vậy. CIP là một kế hoạch theo đó đô la Mỹ được chuyển vào kho bạc chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Một số doanh nhân được chọn đã được cấp giấy phép nhập khẩu cho phép họ mua đô la Mỹ bằng tiền của Việt Nam Cộng hòa với tỷ giá thấp hơn nhiều so với giá trị thị trường. Sau đó, các nhà nhập khẩu sử dụng đồng tiền Mỹ của họ để mua hàng hóa Mỹ, trong khi chính quyền Sài Gòn giữ đồng tiền Việt Nam Cộng hòa do các doanh nhân trả để tài trợ cho quân đội và dịch vụ công. Mục tiêu của cơ chế này là bơm một lượng tiền lớn vào nền kinh tế một cách gián tiếp thông qua hàng hóa vật chất để tránh lạm phát. Tuy nhiên, sáng kiến này không tạo ra nhiều sự phát triển kinh tế vì những người được cấp phép đã chi phần lớn tiền của họ vào hàng tiêu dùng. Tác dụng chính của gói viện trợ này là sự gia tăng nhanh chóng tầng lớp trung lưu và thượng lưu ở thành thị, trong khi cuộc sống của đa số nông thôn miền Nam Việt Nam hầu như không thay đổi. Điều này làm tăng thêm sự bất mãn chống đối chính phủ trong nông dân, đồng thời củng cố sự ủng hộ của thành thị đối với chính quyền Sài Gòn. Giới quan chức Mỹ nhận thức được sự thất bại của chương trình thúc đẩy phát triển kinh tế, nhưng không cố gắng chuyển hướng chi tiêu sang đầu tư vì họ coi việc củng cố sự ủng hộ từ đô thị dành cho chính phủ là rất quan trọng. Họ còn lợi dụng sự phụ thuộc của tầng lớp đô thị vào CIP để đạt được những thay đổi chính trị ở Việt Nam Cộng hòa. Năm 1963, khi Mỹ tìm cách gây áp lực với chính phủ Ngô Đình Diệm sau khi liên minh bắt đầu suy thoái, họ đã cắt nguồn tài trợ như một cử chỉ đối với tầng lớp công chức và sĩ quan quân đội thành thị mà họ không tán thành Diệm. Sau khi nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng hòa bị lật đổ và sát hại trong một cuộc đảo chính do Mỹ hậu thuẫn, CIP đã hoạt động trở lại. Trong Thế chiến thứ hai, Đế quốc Nhật Bản tấn công Liên bang Đông Dương và giành quyền kiểm soát từ tay thực dân Pháp, nhưng khi họ bị quân Đồng Minh đánh bại vào năm 1945, đã dẫn đến tình trạng khoảng trống quyền lực. Lực lượng Việt Minh của Hồ Chí Minh do cộng sản thống trị đã chiến đấu vì nền độc lập của Việt Nam, trong khi người Pháp cố gắng giành lại quyền kiểm soát thuộc địa của họ bằng cách thành lập Quốc gia Việt Nam liên kết với khối Liên hiệp Pháp. Cho đến năm 1954, Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất nổ ra. Năm 1954, Pháp thua trận Điện Biên Phủ và Hội nghị Genève được tổ chức để quyết định tương lai của Liên bang Đông Dương. Việt Minh được trao quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam, trong khi Quốc gia Việt Nam kiểm soát lãnh thổ miền Nam Việt Nam thuộc vĩ tuyến 17. Hiệp định Genève mà Quốc gia Việt Nam không ký kết kêu gọi tổ chức tổng tuyển cử thống nhất vào năm 1956. Quốc gia Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ và các nước chống cộng khác trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, vốn xem Quốc gia Việt Nam đối tác trong cuộc chiến chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản. Chương trình Nhập khẩu Thương mại được thành lập vào tháng 1 năm 1955, ngay sau khi chuyển giao ảnh hưởng trực tiếp còn lại của Pháp đối với Quốc gia Việt Nam cho Cựu Hoàng Bảo Đại và Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Người Mỹ và Diệm lo sợ cộng sản sẽ thắng cử và các cuộc bầu cử toàn quốc không bao giờ diễn ra. Ngày 23 tháng 10 cùng năm, Diệm tự xưng là tổng thống của nước Việt Nam Cộng hòa mới thành lập sau khi ông giành chiến thắng trong một cuộc trưng cầu dân ý gian lận, và viện trợ vẫn tiếp tục khi Mỹ muốn xây dựng một nhà nước chống cộng mạnh mẽ và ổn định ở Đông Nam Á. Khi chương trình lần đầu tiên được giới thiệu, nó đã tạo ra nhiều sóng gió cho các nhà nhập khẩu thương mại tại Việt Nam. Do phần lớn hàng nhập khẩu cho đến thời điểm đó là từ Pháp, nên giới thương nhân phụ thuộc vào việc bán các sản phẩm của Pháp gặp khó khăn vì hàng hóa của họ giờ đây sẽ đắt hơn so với hàng của những người có giấy phép nhập khẩu hiện có quyền tiếp cận sản phẩm thay thế rẻ hơn của Mỹ. Các nhà cung cấp hàng hóa của Pháp đe dọa tổ chức đình công nhưng điều này chẳng bao giờ thành hiện thực. Vào lúc đó, miền Nam Việt Nam cũng đang thiếu dự trữ ngoại tệ và CIP được coi là một cơ chế cấp bách nhằm khắc phục vấn đề này. Sự ra đời của CIP đã mang lại một cấp độ mới chưa từng có về chủ nghĩa tự do kinh tế và chủ nghĩa tư bản, và lúc đầu, tầng lớp doanh nhân phải vật lộn để đáp ứng những thách thức của một thị trường phi điều tiết, dẫn đến một loạt tình trạng thiếu hụt và dư thừa đáng kể nhiều loại hàng hóa do họ thiếu kinh nghiệm trong đánh giá lực lượng thị trường và sự mất cân bằng dẫn đến trong nền kinh tế. Ban đầu có 25.000 đơn xin giấy phép nhập khẩu được nhận mà nhiều đơn lại đến từ giới đầu cơ. Trong những năm đầu của sáng kiến này, một phần tài trợ của Hoa Kỳ cho CIP đến từ số tiền thu được từ việc bán sản phẩm nông nghiệp dư thừa của Mỹ cho Pháp. Khi khởi đầu chương trình vào năm 1955, khoảng 20.000 giấy phép CIP đã được cấp, nhưng người ta xác định rằng tiến độ quá khó để quản lý nên số lượng giấy phép giảm dần và mọi người buộc phải tập hợp thành các công ty hợp doanh để tiếp cận chương trình này. Lúc đầu, lạm phát được coi là mối lo ngại cấp bách đến mức có rất ít hạn chế đối với những mặt hàng nhập khẩu, hạn chế đáng chú ý nhất là rượu và đồ trang sức. Người ta cho rằng việc hạn chế nhập khẩu nhiều hơn sẽ gây ra tình trạng thiếu nguồn cung hàng hóa, khiến giá cả tăng cao. Tuy vậy, trong ba năm tiếp theo, các hạn chế đã tăng lên mức trung bình là 75. Năm 1955, Washington bơm 322,4 triệu USD vào miền Nam Việt Nam và nhà sử học George McTurnan Kahin tính toán rằng 87% trong số này đến từ CIP. Từ cuối năm 1955, khi Diệm nắm toàn quyền cai trị đất nước sau khi lật đổ Bảo Đại và tự xưng là tổng thống, cho đến năm 1961, Mỹ đã viện trợ cho Sài Gòn 1,447 tỷ USD, chủ yếu thông qua CIP. Ngoài ra, còn có khoản vay trị giá 95,6 triệu USD. Năm 1958 và 1959, CIP chiếm khoảng 80% hỗ trợ kinh tế. Đến năm 1960, Diệm đã tích lũy được 216,4 triệu USD dự trữ. Dưới thời Diệm cầm quyền, khoảng 43% doanh thu của CIP được dùng vào chi tiêu quân sự. Số tiền viện trợ của CIP đạt đỉnh điểm là 398 triệu USD vào năm 1966 và bắt đầu giảm dần về sau, đạt 233 triệu USD vào năm 1973. Chương trình này sử dụng trợ cấp nhập khẩu để bơm đô la Mỹ vào kho bạc Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền đã bán số đô la này cho những doanh nhân có giấy phép nhập khẩu hàng hóa Mỹ. Các doanh nhân mua đô la Mỹ từ kho bạc Sài Gòn bằng đồng tiền Nam Việt Nam với giá bằng một nửa tỷ giá hối đoái chính thức; sau đó họ sử dụng đồng tiền Mỹ mua được với giá rẻ này để nhập khẩu hàng hóa Mỹ. Điều này có nghĩa là các nhà sản xuất Mỹ vẫn sẽ nhận được số tiền Mỹ tương đương mà họ sẽ nhận được khi bán hàng hóa của mình trên thị trường tự do, trong khi các nhà nhập khẩu Việt Nam Cộng hòa có thể nhận được số lượng hàng hóa gấp đôi với cùng một số tiền. Số tiền mà chính quyền Sài Gòn thu được từ việc bán đô la viện trợ của Hoa Kỳ sẽ được đưa vào một quỹ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nắm giữ, quỹ này được sử dụng để tài trợ cho việc mở rộng và huấn luyện quân đội, cảnh sát quốc gia và cơ quan dân sự Việt Nam Cộng hòa. Dưới thời Diệm, phần lớn chi phí quân sự, cảnh sát và dịch vụ công được Mỹ chi trả thông qua CIP. Vì số tiền tăng thêm không thực sự được lưu thông trong nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa và cạnh tranh để giành được cùng một nguồn cung hàng hóa và dịch vụ nên lạm phát không được kích thích. Một công cụ tài chính tương tự đã được sử dụng trong gói viện trợ của Kế hoạch Marshall nhằm tái thiết Tây Âu sau sự tàn phá trong Thế chiến thứ hai. Một nhà kinh tế học người Mỹ từng mô tả CIP là "phát minh vĩ đại nhất kể từ lúc bánh xe ra đời". Mặc dù kế hoạch này đúng đắn về mặt lý thuyết nhưng nó không có hiệu quả trong việc kích thích tăng trưởng kinh tế. Dưới thời Diệm, có rất ít đầu tư kinh tế hoặc phát triển cơ sở hạ tầng đầy ý nghĩa. Các doanh nhân chủ yếu sử dụng trợ cấp nhập khẩu để mua hàng tiêu dùng như tàu thuyền, xe máy, tủ lạnh, radio, hệ thống âm nhạc và các hàng hóa tương tự khác vốn là những mặt hàng xa xỉ vào thời điểm đó. Do đó, chương trình này có hiệu quả trong việc mở rộng quy mô tầng lớp trung lưu thành thị nhưng không tạo ra nhiều đầu tư kinh tế. Năm 1957, người ta ước tính rằng ít nhất 75% hàng hóa nhập khẩu là hàng tiêu dùng hoặc nguyên liệu dùng để sản xuất ra chúng. Chỉ một phần nhỏ số tiền mua là hàng hóa cơ bản như thiết bị sản xuất và vật tư cho sản xuất của nhà máy. Kết quả là không có nhiều khoản trợ cấp tạo ra hiệu quả sản xuất mang tính kinh tế hơn. Năm 1959, lượng quần áo nhập khẩu (24 triệu USD) chỉ thấp hơn một chút so với lượng máy móc nhập khẩu (28 triệu USD). Nguồn vốn của chính phủ thu được từ việc bán giấy phép nhập khẩu cũng trở thành một vấn đề, với tình trạng tham nhũng và trộm cắp rõ ràng đang cản trở tính hiệu quả của nó như một phương tiện tài trợ cho quân đội và cơ quan dân sự. Ngoài ra, một số quan chức chính phủ không thèm bán giấy phép đáng mơ ước cho giới doanh nhân trừ phi họ nhận được khoản hối lộ. Một lời chỉ trích khác đối với CIP là số tiền mà chính phủ thu được không được sử dụng cho bất kỳ khoản đầu tư kinh tế đáng kể nào thuộc khu vực chính phủ mà chủ yếu để tài trợ cho quân đội. Diệm biện minh bằng cách tuyên bố rằng an ninh quốc gia là trên hết. Theo thời gian, sự kém hiệu quả của CIP bắt đầu khiến chính quyền Eisenhower lo ngại về tình hình thiếu công nghiệp hóa. Tình trạng tham nhũng tràn ngập sáng kiến này vẫn là một vấn đề. Nông dân vùng nông thôn Việt Nam, chiếm hơn 80% dân số, không được ảnh hưởng bởi gói viện trợ ngoại trừ sự bất bình mà nó gây ra cho họ khi họ quan sát thấy mức sống tương đối sung túc của người dân thành thị so với tình trạng nghèo khó của họ. Người ta ước tính rằng vào năm 1961, tỷ lệ thất nghiệp ở mức 25% và đầu tư tư nhân vào nền kinh tế chưa đến 10%. Tuy vậy, chương trình này được ghi nhận là đã làm thay đổi ngành dệt may khi 25.000 máy may được nhập khẩu ngay trong năm đầu tiên hoạt động. Phan Quang Đán, vị chính khách đối lập chống cộng, đối thủ nổi bật nhất của Diệm, và là một trong hai nhà bất đồng chính kiến duy nhất giành được một ghế trong cuộc bầu cử quốc hội lập pháp năm 1959 nhưng bị Diệm cầm tù và cấm đảm nhận chức vụ, nói rằng "Chương trình Nhập khẩu Thương mại của Mỹ—mà chúng ta không tốn một xu nào—mang lại đủ loại hàng hóa xa xỉ trên quy mô lớn, đưa đến cho chúng ta một xã hội nhân tạo—những điều kiện vật chất được nâng cao chẳng để lại ý nghĩa gì cả và không có sự hy sinh; nó mang lại sự xa hoa cho nhóm cầm quyền và tầng lớp trung lưu của chúng ta, và sự xa hoa đồng nghĩa với tệ nạn tham nhũng". Một trong những tác động chính trị của việc truyền ồ ạt vào nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa là mở rộng tầng lớp trung lưu thành thị và giảm bớt áp lực lên chính phủ trong việc thu thuế. Điều này là do chính phủ đã đặt ra thuế nhập khẩu cao, thực tế bằng 50% tỷ giá hối đoái giảm giá được sử dụng theo CIP; các quỹ này cũng là một phần của doanh thu thông thường và không chịu sự giám sát của Mỹ, không giống như chính sách quỹ đối giá. Do số tiền thu được từ thuế nhập khẩu nên thuế thu nhập rất thấp và không có thuế suất thuế thu nhập lũy tiến ở trên toàn quốc, tầng lớp thượng lưu không bị ảnh hưởng nhiều bởi thuế như tầng lớp thượng lưu ở các quốc gia khác, và do đó họ ủng hộ Diệm khá mạnh. Tỷ lệ thuế thu nhập thực tế không quá 5%, và Tổng thống Việt Nam Cộng hòa đã nói riêng với một cố vấn thuộc Phái đoàn Đại học Tiểu bang Michigan rằng ông rất vui vì CIP đã cho phép ông xây dựng một cơ sở ủng hộ lớn trong tầng lớp trung lưu và thượng lưu vừa mới hình thành. Giới quản lý viện trợ kinh tế Mỹ cũng nhận thức được tác động của CIP đối với sự ủng hộ chính trị ở đô thị đối với Diệm và những người kế nhiệm ông. Họ biết rằng CIP đã không mang lại lợi ích đáng kể trong quá trình phát triển kinh tế và ghi nhận điều này trong hàng đống báo cáo của mình, nhưng cho rằng chương trình này vẫn nên được tiếp tục bất kể vì nó có hiệu quả trong việc làm giàu cho tầng lớp trung lưu thành thị và đảm bảo sự ủng hộ chính trị của họ, từ đó giành được lòng trung thành từ sĩ quan quân đội, lãnh đạo doanh nghiệp và công chức. Một báo cáo năm 1959 kết luận rằng nếu CIP không có hoặc bị pha loãng ở mức kinh tế cân bằng, thì mức sống giảm sút tạo ra "vấn đề chính trị nghiêm trọng" do sự ủng hộ của chính phủ đối với những nhóm thiểu số thành thị bị xói mòn. Vì CIP cho phép người được cấp phép nhập khẩu hàng hóa với giá chỉ bằng một nửa nên nó được coi là gần như đảm bảo cho sự thành công trong kinh doanh, bất kể kỹ năng kinh doanh. Kết quả là những giấy phép này được đánh giá cao. Đối với ai không tự tin vào khả năng bán hàng của mình, lợi nhuận tốt thường kiếm được bằng cách bán giấy phép của họ cho những doanh nhân có thiện chí khác, đặc biệt khi nhu cầu vượt xa nguồn cung. Một báo cáo của Chính phủ Hoa Kỳ năm 1966 kết luận rằng có thể đảm bảo 100% lợi nhuận nội địa từ đồng piastre và có thể đạt được lợi nhuận 50% một cách an toàn bằng cách sử dụng tỷ giá hối đoái ở chợ đen và gửi tiền vào ngân hàng Mỹ. Các quan chức cũng đánh thuế thêm 18 piastre trên mỗi đô la đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước này. Bất chấp những lợi ích chính trị ngắn hạn, chính phủ Việt Nam Cộng hòa cũng phàn nàn về cách người Mỹ thiết lập CIP. Diệm và Nhu cho rằng thủ tục giấy tờ liên quan đến đơn xin nhập khẩu khiến quá trình này diễn ra quá chậm và cản trở sự phát triển của một nền kinh tế mới nổi nơi mà tình hình thị trường thay đổi nhanh chóng. Đặc biệt, bất kỳ khoản đầu tư nào vào hàng hóa cơ bản của các nhà nhập khẩu có giá trên 500.000 USD đều cần có sự xem xét chính thức của Mỹ trước khi phê duyệt. Ngô Đình Nhu cũng nhiều lần công khai chỉ trích chính sách xem xét lại khi trích dẫn một số khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng tư nhân đã bị giới quản lý người Mỹ chặn đứng. Nhu và Diệm cảm thấy rằng những quy định mà người Mỹ đưa ra về việc sử dụng quỹ piastre thu được từ các nhà nhập khẩu Việt Nam đang cản trở khả năng đẩy nhanh sự phát triển của họ, đặc biệt là khi việc xem xét quy hoạch và phê duyệt mất nhiều thời gian. Dù cho thực tế CIP có tác dụng xây dựng cơ sở tầng lớp trung lưu thành thị cho chế độ của ông thông qua sự phát triển của hàng tiêu dùng, Diệm không hài lòng với tình hình này, lo ngại những tác động bất lợi lâu dài mà việc thiếu đầu tư vào hàng hóa cơ bản gây ra đối với đất nước của mình. Ông đặc biệt phản đối điều khoản trong quy định nhập khẩu hạn chế việc mua hàng hóa cơ bản cho các doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn. Điều này tỏ ra là một trở ngại lớn trong một số lĩnh vực, vì chính phủ Việt Nam Cộng hòa có chính sách sở hữu đa số đối với bất kỳ ngành nào được coi là có tầm quan trọng sống còn của quốc gia, cũng như cấm người nước ngoài có cổ phần trong những liên doanh như vậy. Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Hoa Kỳ Trần Văn Chương từng bày tỏ sự phản đối người Mỹ về điều khoản này nhưng không thành công. Chương viết rằng việc hạn chế nhập khẩu hàng hóa cơ bản của Mỹ "kéo dài sự phụ thuộc vào nguồn viện trợ này", và "viện trợ của Mỹ sẽ có giá trị nhất nếu nó được dành một phần để thúc đẩy năng lực công nghiệp của [đất nước]". Theo thời gian, các nhà kinh tế trong chính quyền Eisenhower trở nên thất vọng với việc Diệm từ chối phá giá đồng piastre một khi Việt Nam Cộng hòa đã trở thành một quốc gia ổn định. Diệm từ chối đưa ra tỷ giá hối đoái CIP tương đương với tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do cho hai đồng tiền này. Mặc dù tỷ giá hối đoái cố định có nghĩa là người Mỹ đang tài trợ rất nhiều cho nền kinh tế Việt Nam Cộng hòa và các công ty nhập khẩu có thể kiếm được nhiều hàng hóa hơn bằng tiền của họ, nhưng tỷ giá này cũng có nghĩa là hàng hóa Việt Nam Cộng hòa sẽ không có tính cạnh tranh kinh tế trên thị trường xuất khẩu. Diệm không muốn tỷ giá tiền tệ, được cố định ở mức 35 piasters đổi một đô la Mỹ, cho rằng điều đó sẽ làm giảm giá trị viện trợ của Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa và làm suy yếu sự ủng hộ của tầng lớp trung lưu thành thị đối với chế độ của ông vì họ phẫn nộ do để mất đi hàng tiêu dùng giá rẻ và hàng xa xỉ của mình. Qua cuộc tiếp kiến ở Washington trong chuyến thăm cấp nhà nước năm 1957, Diệm nói với Ngoại trưởng John Foster Dulles và Đại sứ Elbridge Durbrow rằng phá giá sẽ gây ra hoảng loạn, và một động thái như vậy là không thể thực hiện được ở một quốc gia có sản lượng thấp như Việt Nam. Năm 1963, Đại sứ Mỹ Frederick Nolting và các cố vấn kinh tế của ông đã khuyến khích Diệm chi nhiều hơn quỹ CIP dành cho phát triển nông thôn hòng cố gắng củng cố sự ủng hộ của nông dân trước áp lực cộng sản ngày càng gia tăng, nhưng thảy đều bị Diệm từ chối. Ngày 5 tháng 10 năm 1963, CIP đã bị Hoa Kỳ đình chỉ một thời gian ngắn sau phái bộ McNamara–Taylor, một chuyến đi tìm hiểu thực tế tình hình miền Nam Việt Nam do Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Tướng Maxwell D. Taylor tiến hành để điều tra tiến trình trong cuộc chiến chống nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Báo cáo kết luận rằng Diệm không tập trung vào việc chống nổi dậy mà thay vào đó bận tâm đến việc dập tắt các cuộc biểu tình đòi bình đẳng tôn giáo của Phật giáo, chẳng hạn như đột kích chùa chiền và xả súng vào những Phật tử bất đồng chính kiến. Một trong những lý do dẫn đến việc đình chỉ CIP là để gửi tín hiệu cho giới sĩ quan quân đội rằng Washington không hài lòng với Diệm và do vậy làm tăng khả năng xảy ra một cuộc đảo chính, cũng như cố gắng thúc đẩy sự phẫn nộ của người dân thành thị đối với Diệm trong số những kẻ trước đây từng được hưởng lợi từ CIP. Một vấn đề khác là Diệm có thể thay đổi đường lối chính sách của mình phù hợp với mong muốn của Mỹ dù họ cho rằng điều này khó có thể xảy ra. Nguồn tài chính này chỉ được khôi phục vào đầu tháng 11 năm 1963 sau vụ lật đổ và sát hại Tổng thống Diệm trong một cuộc đảo chính quân sự. CIP tiếp tục cho đến khi chính thể Việt Nam Cộng hòa tan rã vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 khi quân đội cộng sản tràn vào miền Nam Việt Nam kể từ lúc người lính Mỹ rút lui sau thỏa ước đình chiến năm 1973. Kahin nói rằng "cùng với các yếu tố hỗ trợ kinh tế khác của Hoa Kỳ...đã mở rộng đáng kể tầng lớp trung lưu ở Việt Nam Cộng hòa và giúp mua chuộc lòng trung thành về mặt chính trị của họ đối với cả chế độ Sài Gòn và nhà tài trợ Mỹ" và nó "cung cấp phương tiện cho một lối sống cũng nhân tạo như nền kinh tế mà nó dựa dẫm". Kahin cho biết sáng kiến này có tác dụng ngược lại với các mục tiêu đã nêu ở chỗ nó thúc đẩy sự phụ thuộc ngày càng tăng về mặt kinh tế.
Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc (, viết tắt MTGTAQ) là chiến dịch đen kéo dài bắt nguồn từ CIA và được Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam – Đoàn Nghiên cứu và Quan sát (MACV-SOG) tiến hành trong chiến tranh Việt Nam. Nó liên quan đến sự kết hợp giữa tâm lý chiến (PSYWAR) và chiến dịch tâm lý (PSYOP) mà nay gọi là hoạt động hỗ trợ thông tin quân sự (MISO). Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc được "lên kế hoạch và thực thi bắt đầu từ tháng 4 năm 1963," mặc dù nó vẫn tiếp tục phát triển cho đến tận năm 1968. Mặt trận này hình thành nên trung tâm của nhiều PSYOP khác nhau nhằm chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vốn có mật danh là Humidor. Nó cố gắng thuyết phục người dân—và đôi khi là chính phủ—Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về sự tồn tại của một xã hội tự trị, phi cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Việc tạo dựng và ban hành "huyền thoại" Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc đòi hỏi Lực lượng Đặc nhiệm Hoa Kỳ xây dựng dựa trên các kỹ thuật PSYWAR do Cơ quan Tình báo Chiến lược (OSS) thiết lập trong Thế chiến thứ hai. Một số nhà sử học tin rằng MTGTAQ đã tìm cách chuyển hướng sự chú ý của các quan chức Bắc Việt đủ để biện minh cho chi phí và nhân lực của mình. Tuy nhiên, chương trình này không được biết đến với bất kỳ thành công đặc biệt đáng chú ý nào và nó thiếu định hướng về các mục tiêu cuối cùng. Những bất đồng liên tục giữa một số nhà lãnh đạo quân sự ở Việt Nam và các nhà hoạch định chính sách ở Washington đã khiến chương trình này không bao giờ trở thành một lực lượng phản cách mạng thực sự ở miền Bắc Việt Nam. Nó gần như bị giải tán vào năm 1968 sau vòng đàm phán ban đầu về Hiệp định Hòa bình Paris năm 1973. Tiền lệ lịch sử của Mỹ. MTGTAQ rút ra từ lịch sử ngắn ngủi về những vụ lừa dối phức tạp trong lịch sử quân sự Mỹ. Nhà sử học John Plaster khẳng định rằng chi nhánh MACV-SOG điều hành MTGTAQ "theo khuôn mẫu của "Ban Chiến dịch Tinh thần OSS" cũ do William Donavan thành lập vào năm 1943. Sự so sánh này là phù hợp, vì cả hai đều chủ yếu dựa vào các hoạt động vô tuyến gian dối, những lá thư lừa bịp và việc phân phát truyền đơn. MTGTAQ cũng được hưởng lợi từ kinh nghiệm của Herbert Weisshart vừa được bổ nhiệm làm Phó Giám đốc PSYOP thuộc MACV-SOG khi mới thành lập. Không giống như hầu hết các chỉ huy SOG, Weisshart đến với kinh nghiệm PSYOP. "Là thành viên của đội chiến tranh tâm lý gồm sáu người được cử đến Đài Loan vào năm 1952, ông ấy đóng vai trò điều phối việc thả truyền đơn và phát thanh trên đài phát thanh chống lại Trung Quốc để hỗ trợ cho một trong những chiến dịch phản kháng giả định đầu tiên của Cục Tình báo Trung ương". Vẫn hoạt động vào năm 1963, phong trào phản kháng hư cấu của Weisshart chống lại Trung Quốc đại lục đã trở thành "chiến dịch giả định kéo dài nhất" của CIA". "Huyền thoại" Gươm thiêng Ái quốc. Những nhà sáng lập Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc người Mỹ đã chọn việc gắn chương trình này với lịch sử phổ thông Việt Nam. Nó được đặt theo tên của vị Hoàng đế Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Minh vào đầu thế kỷ 15. Chiến thuật chiến tranh du kích của ông đã thành công trong việc giành lại nền độc lập cho Việt Nam khỏi tay Trung Quốc sau 20 năm Bắc thuộc lần thứ tư. Một thời gian sau chiến tranh, thanh kiếm nổi tiếng của Lê Lợi đã bị một con rùa lấy đi. Hoàng đế tuyên bố rằng thanh kiếm này được trao cho ông trong suốt thời gian chiến tranh chỉ bị con rùa của Hồ Hoàn Kiếm lấy lại sau khi khởi nghĩa thắng lợi. Câu chuyện về Lê Lợi đã hoàn thành mục tiêu theo như lời tuyên bố của Weisshart là theo đuổi "huyền thoại và biểu tượng dễ nhận biết để làm cơ sở cho một phong trào phản kháng lý tưởng ở miền Bắc Việt Nam". Đó là câu chuyện mà "Mọi học sinh miền Bắc Việt Nam đều biết tới". Biết rằng Bắc Việt dựa vào viện trợ của Trung Quốc, SOG coi Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc là phong trào dân tộc chủ nghĩa chống Trung Quốc, đồng thời chỉ đạo rõ ràng việc đưa ra những lời lẽ mang tính ý thức hệ có thể làm mất đi một số sự ủng hộ của người dân miền Bắc. Truyền thuyết này cũng nhấn mạnh đến sự thống nhất lịch sử giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam chống lại bất kỳ hình thức xâm lược nào của đế quốc. Theo truyền thuyết này thì Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc do Lê Quốc Hùng, người ngưỡng mộ Lê Lợi lập ra hòng đáp lại cuộc cải cách ruộng đất của cộng sản vào năm 1953. Nó được cho là có 10.000 thành viên và tổ chức Đại hội toàn quốc đầu tiên vào năm 1961. Mặt trận phản đối mọi sự can thiệp của nước ngoài vào miền Bắc và miền Nam Việt Nam. Quá trình phát triển ban đầu. Tháng 4 năm 1961, Tổng thống John F. Kennedy đã đề nghị gầy dựng "mạng lưới kháng chiến" ở miền Bắc Việt Nam. Giới quan chức chính phủ phải mất một thời gian để xây dựng các nguồn lực cần thiết hòng vượt qua Khu phi quân sự vĩ tuyến 17. Trách nhiệm về PSYOP chống lại Bắc Việt ban đầu thuộc về CIA, cơ quan tiếp tục đóng vai trò hỗ trợ trong suốt cuộc chiến. Năm 1962, CIA xác định người dân tộc Hmong là những tân binh xứng đáng cho cuộc kháng chiến tại Bắc Việt. Nhưng đến mùa xuân năm 1963, chương trình thí điểm của họ chỉ có tổng cộng 8 tân binh. Phó Giám đốc CIA kiêm Trưởng ban Điều hành tại Sài Gòn là William Colby đã chọn Herbert Weisshart để mở rộng hoạt động kháng chiến tại Bắc Việt và PSYWAR được bắt đầu từ tháng 3 năm 1963. Weisshart đóng vai trò thực hiện Kế hoạch Tác chiến CINCPAC (OPLAN) 34-63 cho PSYOP hướng tới miền Bắc Việt Nam, kế hoạch này về sau được Bộ trưởng Quốc phòng Robert McNamara thông qua. "McNamara cũng mong muốn phát triển một phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trên danh nghĩa (hư cấu), vốn sẽ là nhà tài trợ bề ngoài cho các hoạt động này. Suy cho cùng thì đó chính là những gì Bắc Việt đang làm ở miền Nam." Kế hoạch cuối cùng mang tên OPLAN 34Alpha kêu gọi quân đội "sử dụng tất cả các phương tiện truyền thông sẵn có và thiết thự". Một lá thư năm 1966 của Thiếu tướng Richard Abbey, Phó Tham mưu trưởng MACV, truyền tải rõ ràng quá trình suy nghĩ đằng sau các hoạt động của MTGTAQ. "MTGTAQ là cơ chế miễn trừ trách nhiệm sự tài trợ của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa cho các hoạt động của Kế hoạch Chiến dịch 34A... Câu chuyện bình phong cho MTGTAQ sẽ là cánh tay hành động của mặt trận và nó nhận được [các] quỹ từ mặt trận này. Bằng cách tránh thông báo công khai về trách nhiệm đối với các hoạt động của OPLAN 34A, nhóm MTGTAQ sẽ không bị buộc phải đưa ra câu trả lời cho những câu hỏi kiểu như: Những chiếc thuyền này đến từ đâu? Ai đã trả tiền cho họ? Họ đóng trụ sở tại đâu? Các chương trình phát thanh MTGTAQ mà người dân Sài Gòn địa phương dễ nghe thấy có thể được giải thích bằng cách nói rằng MTGTAQ thuê máy phát sóng từ một đài địa phương". MTGTAQ được hình thành như một biện pháp đối phó bí mật của Mỹ trước sự chi viện được công nhận của Bắc Việt dành cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Sự khác biệt chính là sự tồn tại của MTGTAQ là "ý tưởng, trong khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng là có thật. Khi nhiệm vụ của PSYOP chống lại miền Bắc Việt Nam được mở rộng, các quan chức Mỹ quyết định rằng lực lượng lớn cần thiết tốt hơn nên giao cho Lầu Năm Góc thay vì CIA. Việc chuyển giao diễn ra vào tháng 11 năm 1963, được gọi là Chiến dịch Switchback. Herb Weisshert được chuyển giao cho MACV-SOG mới thành lập, với hoạt động được mô tả trong OPLAN 34Alpha bắt đầu vào ngày 1 tháng 2 năm 1964. Nhiệm vụ của MTGTAQ và MACV-SOG. Theo Gordon L. Rottman, cựu nhân viên MACV-SOG, Lực lượng Đặc nhiệm Mỹ có năm nhiệm vụ chính trong chiến tranh Việt Nam: MTGTAQ là tâm điểm của Black PSYOP trong MACV-SOG, một đơn vị biệt kích tinh nhuệ được tập hợp từ tất cả các nhánh của quân đội cũng như CIA. MACV-SOG truyền bá thông điệp MTGTAQ bằng đường hàng không, tàu thuyền, lục quân và viễn thông. Liên đoàn Tác chiến Tâm lý đã phát triển MTGTAQ được chỉ thị "tư vấn, hỗ trợ và kiểm soát các hoạt động tâm lý của Cục Kỹ thuật Chiến lược nhằm mục đích thiết lập một bầu không khí quan điểm ở miền Bắc Việt Nam -- [Từ ngữ khó đọc] -- các hoạt động SO/STS, hỗ trợ những hoạt động phá hủy vật chất của SOG/STS và gây áp lực PSYOP lên miền Bắc Việt Nam nhằm xóa bỏ sự chi viện cho các hoạt động ở Việt Nam Cộng hòa". Đến năm 1967, SOG cử khoảng 150 nhân viên của mình sang làm công tác tuyên truyền bí mật, bên cạnh việc tuyển mộ thêm nhiều công dân Việt Nam vì kỹ năng ngôn ngữ, hiểu biết văn hóa và khả năng hoạt động với tư cách là thành viên của Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc. Hoạt động tuyên truyền của MTGTAQ. Chiến dịch rải truyền đơn của MTGTAQ. MACV-SOG đã dành nguồn lực đáng kể để phân phát truyền đơn bất cứ nơi nào kẻ thù có thể tìm thấy chúng. Truyền đơn chủ yếu nhằm mục đích làm mất tinh thần của kẻ thù. Trong chiến tranh Việt Nam, điều này đã được thực hiện ít nhất bằng số lượng cũng như chất lượng của các thông điệp. Một "Bản tin MACV PSYOP/POLWAR" điển hình từ tháng 8 năm 1969 ghi nhận 683 triệu truyền đơn được thả chỉ riêng trong tháng đó, mặc dù số tờ rơi do SOG thả xuống miền Bắc Việt Nam có thể lên tới hàng chục triệu. Truyền đơn có thể được để lại trên xác chết, bắn ra từ những khẩu đại bác hẹn giờ hoặc thả từ trên máy bay xuống. (Gián điệp và Biệt kích 106) Trong khi nhiều truyền đơn trong số này là một phần của chiến dịch Chiêu Hồi, những truyền đơn khác đặc biệt đề cập đến cuộc kháng chiến của MTGTAQ. SOG nhờ đến một đội ngũ người dân Bắc Việt đã đào tẩu để dịch và hoàn thiện nốt những thông điệp này. Đánh giá về hiệu quả của truyền đơn rất đa dạng. Sử gia Charles Reske chuyên chú thích lịch sử chỉ huy của MACV-SOG, nhận xét: "Việc thả truyền đơn là một trong những PSYOP kém thành công nhất. Từ đầu đến cuối MACV-SOG đã thả hàng tấn truyền đơn ở Lào, Campuchia và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà hầu như chẳng có tác dụng gì cả". Để làm vấn đề trở nên phức tạp hơn, lực lượng SOG đôi khi lại dùng tay thả truyền đơn MTGTAQ từ máy bay Mỹ. Tuy nhiên, truyền đơn MTGTAQ có thể hiệu quả hơn những truyền đơn khác vì chúng được sử dụng theo những cách đặc biệt sáng tạo. Một số được đặt trên xác lính Bắc Việt với hy vọng đồng đội sẽ mất tinh thần khi biết đồng đội của họ là thành viên MTGTAQ. Ngoài truyền đơn, SOG còn phát triển tem bưu chính MTGTAQ để tạo ấn tượng về sự lan rộng của phong trào kháng chiến trên khắp miền Bắc Việt Nam. Bất chấp hiệu quả của truyền đơn trong việc giành được sự ủng hộ, chúng đã thông báo cho người dân Bắc Việt rằng việc phản kháng chế độ là có thể làm được và giúp chính phủ của họ đánh lạc hướng khỏi cuộc chiến thực sự. Đài Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc (ĐMTGTAQ). Đài Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc (ĐMTGTAQ) bắt đầu phát sóng ở miền Bắc Việt Nam vào tháng 4 năm 1965. Chi nhánh chịu trách nhiệm phát sóng, SOG OP-33, sau này gọi là OP-39, được cho là sẽ phát sóng từ bên trong miền Bắc Việt Nam. Thay vào đó, tín hiệu đến từ máy phát 20 kW ở Thủ Đức, gần Sài Gòn. ĐMTGTAQ đã tìm ra hai cách chính để tăng lượng thính giả của mình. Đầu tiên, thông qua dự án Peanuts, SOG đã phân phát hàng nghìn chiếc radio cho miền Bắc Việt Nam. Họ đã phân phát 10.000 cái chỉ trong năm 1968. Những chiếc radio do Nhật Bản sản xuất này được thiết kế để bắt sóng các đài ĐMTGTAQ và các đài khác của Mỹ đồng thời xuyên tạc các đài Bắc Việt. Chúng được đưa vào bằng nhiều phương pháp khác nhau bao gồm đội trinh sát, máy bay thả dù và tàu thuyền. Thứ hai, ĐMTGTAQ đã sử dụng nhiều phương pháp vô tuyến lừa đảo để phá hoại các chương trình phát sóng thực sự của Bắc Việt. Chúng bao gồm "lướt sóng" ("truyền dọc theo tần số của trạm thực") và "quá giang" ("phát [đi] cùng tần số với trạm thực đang đăng xuất và sử dụng dấu hiệu cuộc gọi của nó"). Đúng với thông điệp dân tộc chủ nghĩa của MTGTAQ, đài đã áp dụng cách tiếp cận phi ý thức hệ, nhấn mạnh các giá trị truyền thống của Việt Nam. Sau khi phát triển các đặc điểm tâm lý của người Bắc Việt, chương trình nhắm tới "nhiều đối tượng khác nhau như ngư dân, người Công giáo, nông dân và cán bộ cấp dưới. [Nó] kêu gọi các hành động được lên kế hoạch và thực hiện cẩn thận, hầu hết đều thụ động, như truyền bá tin tức về MTGTAQ...Nó cũng đưa ra quan điểm của MTGTAQ về những diễn biến ở các vùng khác nhau của miền Bắc Việt Nam". ĐMTGTAQ nhằm mục đích dần dần phá vỡ sự tôn trọng đối với giới lãnh đạo Bắc Việt. Một cựu điều hành ĐMTGTAQ nhận xét: "Trạm 'Patriot' công kích không ngừng vào những cán bộ Cộng sản dễ mua chuộc và vô đạo đức, những kẻ không chỉ chiếm đoạt tiền bạc mà còn dụ dỗ những người vợ trẻ của lính Bắc Việt ở miền N". Ngoài việc công kích chính quyền Bắc Việt, các chương trình phát thanh khác còn hướng tới việc khuyến khích những lực lượng MTGTAQ giả tưởng ở miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, để tôn trọng các nhà hoạch định chính sách, ĐMTGTAQ chưa bao giờ chủ trương thay đổi chế độ ở miền Bắc Việt Nam. Đài đã đạt được một số thành công trong việc thu hút được sự chú ý của người dân và cả binh lính miền Bắc Việt Nam. Một sĩ quan Bắc Việt đào tẩu vào miền Nam cho biết, "anh ta và các thành viên khác trong đơn vị của mình thường xuyên nghe Đài Cờ Đỏ, Đài Sài Gòn và Đài MTGTAQ trên đài phát thanh của đơn vị họ. Các chương trình phát sóng của Cờ Đỏ và ĐMTGTAQ không cần biết có phải là thật hay không. Cá nhân anh ta tin rằng ĐMTGTAQ do Đại tá Lý Văn Quốc, sĩ quan QĐNDVN đào tẩu sang Liên Xô cầm đầu và được phía Liên Xô cung cấp phương tiện phát sóng". Bắc Việt đáp trả lại PSYOP của phía Mỹ bằng cách phản truyền bá và ngăn cản bất kỳ đề cập nào đến lời tuyên truyền của kẻ địch. Đài này vẫn tiếp tục hoạt động nhiều năm sau khi phần lớn MTGTAQ bị giải thể vào ngày 1 tháng 11 năm 1968. Song song với Đài Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc, Kế hoạch 39 đã tạo nên nhiều đài phát thanh đen khác, như Đài Tiếng nói Tự do ("Voice of Freedom"). Đài này thường đọc tin tức, thông qua các diễn đàn văn hóa để tuyên truyền về đời sống và lối sống tự do theokiểu Mỹ. Trung bình mỗi tuần, đài này phát thanh tới 75 giờ. Bên cạnh đó, còn đài phát thanh Cờ Đỏ ("Red Flag"), tập hợp những phần tử chống cộng quyết liệt, chuyên xuyên tạc, vu khống lãnh đạo và chế độ xã hội ở miền Bắc Việt Nam. Đồng thời, đài còn cố tình xuyên tạc gây hiềm khích giữa các nước xã hội chủ nghĩa với nhau, hoặc giữa các nước yêu chuộng hòa bình với dân tộc Việt Nam. CIA còn lập đài phát thanh Sao Đỏ (Red Star) để chống lại Mặt trận Dân tộc Gải phóng miền Nam Việt Nam. Đài này đưa ra khẩu hiệu "Miền Nam Việt Nam là của người miền Nam". Tất cả những hoạt động ngoài vĩ tuyến 17 được lệnh chấm dứt vào tháng 11 năm 1968, sau khi chính quyền Johnson quyết định chấp nhận đề nghị của Hà Nội, tìm giải pháp cho hòa bình. Những lá thư đen. Một kỹ thuật ưa thích của SOG là gửi những bức thư giả mạo cho giới quan chức và những người trung thành với phía Bắc Việt nhằm gây nghi ngờ đối với họ. Nhiều bức thư, đôi khi được gọi là thư bút độc, liên quan đến những lời tố cáo trợ giúp cho các hoạt động của MTGTAQ. SOG đã gửi 50–100 bức thư như vậy qua địa chỉ Hồng Kông mỗi tuần và lên tới 7.000 bức thư qua Bangkok mỗi năm. SOG đã nhận được một thông tin liên lạc cho biết rằng một vị tướng Bắc Việt nhận được lá thư "bị rời khỏi chiến dịch cấp sư đoàn của mình và triệu tập về Hà Nội mà không cho lý do". Khối lượng thư tín khổng lồ cho phép SOG có khả năng buộc tội nhiều người Bắc Việt đồng thời nâng cao nhận thức rằng MTGTAQ có nhiều thành viên tích cực. Hoạt động hàng hải và mưu toan lật đổ liên quan. Ngăn chặn tiếp tế. SOG tuyển mộ thành viên MTGTAQ bằng cách bắt cóc ngư dân ngoài khơi miền Bắc Việt Nam. Chiến dịch này mang mật danh là Mint (Ngăn chặn Hàng hải) kéo dài từ tháng 5 năm 1964 đến tháng 11 năm 1968. SOG đã thuê những người từng sinh sống ở miền Bắc Việt Nam nói được phương ngữ miền Bắc, cho đóng giả làm thành viên MTGTAQ rồi dùng súng bắt giữ đám ngư dân không chút nghi ngờ nào cả. Trong khi đó, các thành viên người Mỹ của SOG có thể di chuyển bên dưới boong tàu mà không bị ai khác nhìn thấy. Thiếu tá Roger McElroy, một trong số rất ít người Mỹ đã từng xâm nhập vùng biển Bắc Bộ, kể lại rằng: "Những chiếc tàu đó được đóng bằng gỗ để tránh bị radar phát hiện và giấu ở Đà Nẵng chứ không phải để cho ngư dân trên đảo sử dụng. Thỉnh thoảng tôi đi theo toán biệt hải. Lúc lên tàu tôi mặc quần áo ngụy trang, đội lưới che mặt và không đem theo bất cứ loại giấy tờ tùy thân nào hay vật dụng gì chứng minh tôi là người Mỹ". Khi vào đến hải phận miền Bắc Việt Nam, McElroy không được lên trên boong tàu, nhiệm vụ của ông ta là liên lạc với lực lượng hải quân Mỹ đang có mặt ngoài khơi vịnh Bắc Bộ. Lịch sử Chỉ huy SOG viết: "Những hoạt động của đội tàu thuyền và đội đổ bộ bí mật được tiến hành dọc theo bờ biển miền Bắc để ngăn chặn tàu bè ven biển của địch, bắt giữ tù binh để thẩm vấn và khai thác tâm lý chiến, đồng thời buộc miền Bắc Việt Nam phải tăng cường phòng thủ ven biển". SOG tuần tra vùng biển Bắc Việt Nam bằng tàu "Nasty" tốc độ cao của Na Uy. Bất chấp thành công vừa phải của chương trình, chiến dịch Mint đôi khi gây ảnh hưởng đến các chương trình khác. Ví dụ, trong sứ mệnh Loki, SOG đã sử dụng những con tàu Nasty giống hệt nhau để đánh chìm những chiếc thuyền nhỏ của người Việt Nam, mặc dù việc làm đó chẳng đạt được kết quả gì ngoại trừ việc khiến ngư dân tức giận. Vấn đề này tồn tại cho đến tận năm 1968, chứng tỏ rằng MTGTAQ không phải lúc nào cũng được tích hợp đầy đủ trong những nỗ lực rộng lớn hơn của SOG. SOG đã tăng cường đáng kể hoạt động hàng hải của mình vào năm 1967 thông qua sáng kiến Forae, trong đó bao gồm cả chiến dịch Urgency. Trong suốt chiến dịch Urgency, Đội Cố vấn Hải quân đã mua thêm tàu tuần tra, cho phép rà soát bờ biển miền Bắc Việt Nam để tìm kiếm những chiếc thuyền buồm dễ bị đánh đắm gần như mỗi ngày. Những hoạt động này cũng nhằm mục đích kích động sự hoang tưởng ở miền Bắc Việt Nam và buộc chính phủ phải phân bổ thêm nguồn lực nhằm bảo vệ bờ biển của họ. Nằm dưới vĩ tuyến 17, dọc theo hải phận Việt Nam, đến ngoài khơi biển Đà Nẵng có một đảo nhỏ. phương ngữ gọi là Cù lao Chàm. Khi người Mỹ đến Đà Nẵng, họ gọi là "Đảo Thần Tiên" ("Paradise Island"). Đảo nhỏ này đã trở thành "vùng đất tự do" cho những ngư dân vùng biển Bắc Bộ bị biệt kích bắt cóc đem đến dựa theo sách lược của Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc. Theo Kế hoạch 39 (OP 39), trước tiên SOG xây dựng trên đảo những làng nhỏ theo khuôn mẫu những làng chài dọc theo bờ biển Bắc Bộ. SOG để ý đến từng chi tiết nhỏ, sao cho giống hệt khuôn mẫu. Vấn đề còn lại là làm sao đem được những người dân chài miền Bắc đến đảo, mà họ tin rằng vẫn còn sống trên đất Bắc. Để làm được điều đó, SOG lập một đơn vị biệt kích biển cho Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc. Bắt đầu từ tháng 5 năm 1964, những chiếc tàu vũ trang không tên sẽ xâm nhập vào hải phận miền Bắc Việt Nam để bắt cóc ngư dân đem đến cù lao Chàm. Nhân viên, thủy thủ trên những chiếc tàu bí mật đó đều nói giọng miền Trung hoặc Bắc Việt Nam, nhiều người di cư vào Nam từ năm 1954. Tàu nào cũng treo cờ của Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc và thủy thủ đoàn tự xưng là hội viên của phong trào trên. Theo Đại tá Don Blackburn, một trong những ông trùm của SOG thì hoạt động này như sau: "Mục đích của Kế hoạch 39 này là làm cho họ tin rằng đang ở trong một làng giải phóng tại miền Bắc. Khi trả họ về, họ sẽ loan tin là lực lượng kháng chiến có thật và đã giải phóng nhiều vùng ở ngoài Bắc". Những người bị bắt cóc sẽ sống trên đảo khoảng ba tuần lễ. Trong khoảng thời gian đó, họ chỉ gặp những người nói giọng miền Bắc, họ ăn uống, nói chuyện về đời sống dưới chế độ cộng sản, những điều về Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc. Lại có người được đưa đi thăm những làng ở trên đồi, gây cho họ ý tưởng về những căn cứ kháng chiến nằm sâu trong vùng rừng núi ngoài Bắc". Jack Singlaub, (người thay Blackburn) kể thêm: "Chúng tôi lo cho họ rất chu đáo. người nào cũng mập ra, chữa bệnh cho họ và làm cho họ cảm thấy sống trong vùng kháng chiến sướng hơn dưới chế độ cộng sản. Chúng tôi lấy tin tức từ những người bị bắt cóc và cho họ biết một số biểu hiện suy đồi của giới lãnh đạo Hà Nội. Những ngư dân đôi khi cũng cho biết tên tuổi của một số viên chức tham nhũng trong chính quyền Hà Nội. Đài Gươm thiêng Ái quốc theo đó mà nêu đích danh tên tuổi những giới chức tham ô, lạm dụng quyền lực ở đói phương khá chính xác, gây sự nghi ngờ trong nội bộ chính quyền Hà Nội". Sau khi bắt được những ngư dân dành cho việc "giáo dục", MTGTAQ bèn đưa họ đến hòn đảo này, nằm trong vùng biển Nam Việt Nam một cách an toàn. Để tạo cho những người bị bịt mắt ảo tưởng rằng họ vẫn đang ở ngoài khơi miền Bắc Việt Nam, họ nhanh chóng được chuyển lên tàu cao tốc. Đảo Thần Tiên được SOG chọn vì nó có vẻ ngoài gần giống với vùng cao nguyên Việt Nam. Các tù nhân chỉ được phép nhìn thấy một phần hòn đảo và được thông báo rằng họ đang ở trong "vùng giải phóng" ngoài Bắc. Khi vừa mới đến đây, đám ngư dân liền bị kết tội tử hình nhưng MTGTAQ đã cho họ được khoan hồng. Những người bị bắt cảm thấy đời sống của họ dưới quyền MTGTAQ tốt hơn về mọi mặt so với đời sống dưới chính thể cộng sản. Họ được cung cấp thực phẩm có hàm lượng calo cao, chăm sóc răng miệng và có nhiều thời gian nghỉ ngơi trong khoảng ba tuần lễ.) Kế đến, ngư dân được MTGTAQ giảng dạy về lịch sử của phong trào kháng chiến, cho phép họ có cơ hội giải thích những hành vi lạm quyền và tham nhũng của Chính quyền Hà Nội và khuyến khích họ truyền bá thông điệp MTGTAQ tới các nước láng giềng. Thông tin tình báo nhân lực thu thập được trong các hoạt động này về sau đều được sử dụng cho những chương trình phát thanh, tạo cho người nghe ảo tưởng rằng MTGTAQ có kiến thức sâu sắc về các sự kiện ở miền Bắc Việt Nam và các chương trình phát sóng buộc phải hợp pháp. Đến cuối chương trình này, hơn 1.000 người Bắc Việt đã đến thăm Đảo Thần Tiên. Du khách đến hòn đảo này đều được cung cấp radio và gói quà tặng bị điều chỉnh hướng theo ĐMTGTAQ trước khi rời đi. Cuối cùng, họ đưa cho du khách hai gói quà: một gói được cho là sẽ bị chính quyền cộng sản đánh cắp và gói còn lại được giấu kín. Những khóa huấn luyện kéo dài cho phép giới lãnh đạo MTGTAQ có nhiều thời gian để đánh giá động cơ và lòng trung thành của ngư dân, cũng như các tù nhân khác được đưa đến Đảo Thần Tiên tham dự khóa huấn luyện của MTGTAQ. Theo dự án Borden, một số được gửi trở lại nhằm thu thập thông tin tình báo cho MTGTAQ. Ngay cả khi họ quyết định kể câu chuyện của mình cho chính quyền Bắc Việt, làm như vậy sẽ chỉ nâng cao hình ảnh của MTGTAQ và truyền bá kiến thức về lịch sử huyền thoại của nó. Tuy vậy, ai mà MTGTAQ đánh giá là những người cộng sản có niềm tin chân chính sẽ bị coi là đặc vụ tình báo giả. Tù nhân được thả ra mà chẳng hề hay biết, quần áo và hành lý của họ được nhét kèm theo thẻ chứng minh thư MTGTAQ hoặc tờ truyền đơn mà chắc chắn chính quyền Bắc Việt sẽ tìm thấy. Bất kỳ nỗ lực nào của cựu tù nhân nhằm giải thích lòng trung thành của mình đương nhiên sẽ bị đối phương nghi ngờ gay gắt. Những ngư dân đặt chân đến Đảo Thần Tiên đôi khi được đưa ra lựa chọn đào tẩu sang Việt Nam Cộng hòa. Người nào chọn làm như vậy phải đồng ý xuất hiện trên các cơ quan báo chí như tờ "Saigon Daily News" hoặc ĐMTGTAQ. Tương tự như chương trình Chiêu Hồi, việc đào tẩu của họ sẽ bị lợi dụng để làm suy sụp tinh thần của binh lính Bắc Việt. Người ta đặt câu hỏi liệu các ngư dân đã thật sự bị lừa hay chỉ giả bị lừa. Ít nhất một ngư dân bị bắt cóc tuyên bố đã biết mình không ở miền Bắc Việt Nam khi sờ thấy cát trên bãi biển của hòn đảo này. Và hồ sơ về một số ngư dân bị bắt cóc ba lần khác nhau có thể cho thấy rằng những ngư dân này đã cố ý bị bắt để được hưởng các tiện ích do MTGTAQ cung cấp. MTGTAQ đã phát triển các hoạt động khác liên quan đến Đảo Thần Tiên nhưng bị giới chức hoạch định chính sách từ chối. Những hoạt động này bao gồm việc huấn luyện du khách ám sát giới quan chức Bắc Việt và khuyến khích họ phát triển các kế hoạch chiến tranh du kích khi trở về miền Bắc. Đội ngũ nhân viên SOG nhiệt tình tiếp tục nêu ra triển vọng biến MTGTAQ thành lực lượng chống đối cách mạng. Năm 1966 được coi là năm hoạt động hiệu quả, 353 ngư dân và thường dân ngoài Bắc được đưa đến Cù lao Chàm. Từ năm 1964 đến năm 1968, tổng cộng có 1003 ngư dân và dân thường bị bắt cóc đưa đến Cù lao Chàm để Mặt trận Gươm thiêng Ái quốc "truyền giáo". Quả thực, Kế hoạch 39 có cách thức hoạt động y như trong tiểu thuyết. Sự chấm dứt của MTGTAQ. Sự sụp đổ đột ngột. Các hoạt động của MTGTAQ được mở rộng đáng kể vào năm 1968 với việc triển khai chiến dịch nghi binh Forae. Forae bao gồm nhiều hoạt động liên kết nỗ lực thu thập thông tin tình báo và lật đổ của SOG với huyền thoại về MTGTAQ, bao gồm cả việc gửi các điệp viên tình báo giả đến miền Bắc Việt Nam để làm ra vẻ như họ bị bắt giữ. Các nhà đàm phán Hà Nội tại Hội nghị Hòa bình Paris yêu cầu Mỹ chấm dứt PSYOP nhắm vào miền Bắc Việt Nam, bao gồm cả việc hỗ trợ cho MTGTAQ. Giới quan chức Mỹ đã đồng ý với chính sách này và thực thi nó. SOG được thông báo rằng mặc dù đài ĐMTGTAQ có thể tiếp tục vận hành nhưng hầu như các công tác khác của MTGTAQ xung quanh MTGTAQ, bao gồm cả Đảo Thần Tiên, đều phải ngừng hoạt động. Giới chỉ huy SOG tỏ ra rất kinh ngạc trước quyết định này. Theo đánh giá của một nhà sử học, "Việc Mỹ công bố ngừng hoạt động và sự biến mất đột ngột của tàu MTGTAQ chắc chắn đã được cả chính quyền và người dân miền Bắc chú ý và liên tưởng." MTGTAQ trên thực tế đã chấm dứt vào ngày 1 tháng 11 năm 1968. Một lý do có thể dẫn đến việc dẹp bỏ này là do các thành viên lãnh đạo quân đội và chính phủ Mỹ coi thường SOG. Tướng Westmoreland, cùng nhiều người khác, chưa bao giờ đầu tư nhiều vào SOG và các hoạt động bí mật của nó. Tuy nhiên, SOG đã phải chịu trách nhiệm về phần lớn việc này; chi nhánh Nghiên cứu và Phân tích của nó chưa bao giờ tiến hành đánh giá PSYWAR xuyên suốt lịch sử chiến tranh Việt Nam. Kháng chiến trên danh nghĩa và thực tế. Trong suốt lịch sử của MTGTAQ, các chỉ huy SOG từng đề xuất một số cách thức hòng mở rộng lực lượng kháng chiến trên danh nghĩa, nhiều cách trong số đó đã bị giới chức hoạch định chính sách bác bỏ. Phe ủng hộ việc mở rộng chương trình có thể chỉ ra sự hoang tưởng ngày càng gia tăng ở Hà Nội, tâm lý phản gián của Bắc Việt, và việc tạo ra 19 tội danh mới về các tội liên quan đến hoạt động của MTGTAQ. Tuy nhiên, nếu MTGTAQ muốn đạt được nhiều mục đích hơn là chuyển hướng nguồn lực của Hà Nội thì nó sẽ phải được kích hoạt. Trong con mắt của một nhà sử học SOG, sự tồn tại đơn thuần trên danh nghĩa của nó đã tạo ra "hạn chế gần như tê liệt". Đại tá Donald D. Blackburn, thủ trưởng SOG vào tháng 6 năm 1965, đã thiết kế kế hoạch kích hoạt MTGTAQ trên danh nghĩa. Blackburn nghĩ rằng làm như vậy sẽ đòi hỏi phải tạo ra cả một mạng lưới hỗ trợ bao gồm các nhóm tôn giáo và liên đoàn lao động ở miền Nam Việt Nam nhằm trợ giúp mặt trận hành động MTGTAQ. Mặt trận hành động được đặt tại một hòn "Đảo Thần Tiên" thực sự ở phía tây bắc Bắc Việt Nam. Kế hoạch này từng được đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Henry Cabot Lodge chấp thuận. Thế nhưng kế hoạch này cuối cùng đã bị bác bỏ. Một bản đánh giá khác về SOG do Tướng William Westmoreland ủy quyền vào năm 1967. Sự đánh giá này được gọi là Báo cáo Brownfield vì nó do Chuẩn tướng Albert Brownfield chỉ đạo biên soạn. Được công bố vào ngày 14 tháng 2 năm 1968, bản báo cáo này kết luận rằng "MTGTAQ lẽ ra phải có mục tiêu lập kế hoạch cuối cùng nhằm lật đổ Chế độ Hà Nội." Cả Tướng Westmoreland và các quan chức ở Washington đều không ủng hộ kết luận này. Giới lãnh đạo quân sự và quan chức Washington đều bác bỏ đề xuất này có bốn mối quan ngại chính: Đằng sau tất cả những phản đối này ẩn chứa ký ức về Cách mạng Hungary năm 1956. Các chương trình phát sóng được giám sát chặt chẽ từ Đài Âu châu Tự do do Mỹ tài trợ có lẽ đã mang lại cho người Hungary niềm tin nhằm khởi đầu một cuộc cách mạng. Các nhà cách mạng Hungary đã hành động với giả định hợp lý rằng người Mỹ sẽ hỗ trợ quân sự. Giới chức hoạch định chính sách không muốn lịch sử lặp lại. Sẽ là liều lĩnh nếu khuyến khích đám tân binh MTGTAQ bắt đầu một cuộc đảo chính ngay từ đầu, nếu những nhà hoạch định chính sách thiếu quyết tâm đẩy chiến tranh Việt Nam qua khu phi quân sự vĩ tuyến 17.
Nhanh như chớp (mùa 5) Mùa thứ năm của chương trình Nhanh như chớp do Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh và công ty Đông Tây Promotion phối hợp thực hiện, được phát sóng trên kênh HTV7 và ứng dụng VieON từ ngày 23 tháng 12 năm 2023. Trường Giang và Hari Won đảm nhiệm vai trò MC cho mùa này. Thể thức thi đấu. Mỗi tập sẽ có 6 thí sinh tham gia, chia làm 2 đội A và B, mỗi đội 3 thí sinh. Các đội sẽ thi đấu với nhau theo thể thức đấu loại trực tiếp. Đội thắng của một tập sẽ thi đấu ở vòng tiếp theo. Dưới đây là thể thức thi đấu của chương trình ở mùa 5. Mùa này có 2 đợt phát sóng gồm 15 tập cho mỗi đợt và một số trận giao hữu ở cuối mùa. Trong mỗi lượt đấu, mỗi đội cử một thành viên đại diện cho đội thi đấu với một thành viên của đội khác. Hai thí sinh thi đấu đối kháng với nhau bằng một bộ câu hỏi chung với thứ tự giống nhau cho cả 2 người. Một người sẽ được chơi trước còn người kia bước vào phòng cách âm để không nghe thấy câu hỏi của chương trình. Thí sinh sẽ ngồi lên một "cỗ máy tia chớp" và có 2 phút để trả lời nhanh một bộ câu hỏi gồm nhiều câu (bao gồm câu hỏi chuẩn và câu đố mẹo). Thời gian chỉ được tính từ khi MC bắt đầu đọc câu hỏi đến lúc người chơi chốt câu trả lời và không được tính khi các thí sinh và MC trò chuyện. Mỗi lần trả lời đúng thì được lên một nấc của con dốc, trả lời sai sẽ bị đẩy xuống đáy dốc (nấc số 0); điểm được tính bằng số lượng câu trả lời đúng liên tiếp và nhiều nhất (ví dụ, một thí sinh trả lời được đến mốc số 5 rồi trả lời sai và không trả lời được liên tiếp quá 5 câu sau đó thì điểm số sẽ là 5 điểm). Thí sinh không được quyền bỏ qua bất kỳ câu hỏi nào mà phải trả lời tất cả các câu hỏi dù sai và tuyệt đối không nghe theo đồng đội. Nếu trả lời theo gợi ý của đồng đội thì đáp án sẽ không được chấp nhận và bị tính là trả lời sai. Nếu trả lời đúng đến mốc số 10 (đúng 10 câu liên tiếp), thí sinh sẽ ngay lập tức nhận được 20.000.000 đồng. Chỉ có một giải 20.000.000 đồng duy nhất trong mỗi chương trình, nghĩa là dù người đó lần thứ hai hay những người chơi khác có trả lời đúng 10 câu liên tiếp thì vẫn sẽ không được nhận 20.000.000 đồng mà chỉ tính là 10 điểm. Khi cả 2 thí sinh trong lượt đấu đã hoàn thành phần thi, đội có số đáp án đúng liên tiếp cao hơn sẽ giành điểm ở lượt đó. Nếu hai đội có số đáp án đúng liên tiếp như nhau thì mỗi đội giành 1 điểm. Sau lượt 3, nếu tỉ số của 2 đội là 3-0 (1 đội thắng cả 3 lượt đầu) hoặc 3-1 (thắng 2 trong 3 lượt, lượt còn lại hòa) thì trận đấu sẽ kết thúc ngay lập tức; đội dẫn trước sẽ là đội chiến thắng và bước vào vòng đặc biệt. Với các trường hợp còn lại, trận đấu sẽ tiếp tục với lượt thứ 4 (khi đó 2 người vừa tham gia lượt 3 sẽ không được tham gia lượt này). Nếu sau lượt 4 mà vẫn chưa có đội chiến thắng, sẽ có một câu hỏi phụ và mỗi đội chọn ra một thành viên bất kỳ để đại diện đứng trước một cây cột. Sau khi nghe câu hỏi, người chơi giành quyền trả lời bằng cách đặt tay lên cột. Trả lời đúng thì đội có thành viên đó giành chiến thắng, nếu sai thì thành viên của đội kia sẽ trả lời, nếu đúng thì thắng. Nếu cả thành viên không trả lời được câu hỏi, một câu hỏi khác sẽ được đưa ra cho đến khi có đội thắng. Kết thúc vòng thi, đội chiến thắng sẽ lọt vào vòng đặc biệt và giành quyền đi tiếp vào vòng sau, còn đội thua cuộc sẽ nhận phần thưởng 15.000.000 đồng. Đội chiến thắng sẽ đứng trước một cây cột. Trong vòng 1 phút, đội phải liệt kê 20 đáp án theo chủ đề do chương trình đưa ra. Để được xác nhận, mỗi người chơi cần đặt tay lên cột và nói. Các thành viên phải nói luân phiên nhau và không được nói trùng ý. Sau 1 phút, nếu đội liệt kê đủ hoặc hơn 20 đáp án thì chiến thắng và nhận giải thưởng cao nhất (xem cơ cấu giải thưởng ở dưới). Danh sách các đội tham gia. Đây là danh sách các khách mời đã tham gia mùa 5 của chương trình. Danh sách này không bao gồm các khách mời trong trận giao hữu.
Vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024 Vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024 là quá trình vòng loại của Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024, mùa giải thứ 19 của Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) tổ chức. Tổng cộng có 12 đội sẽ đủ điều kiện để tham dự vòng chung kết, bao gồm cả những đội được đặc cách tham dự giải đấu với tư cách chủ nhà. Một số lượng kỷ lục 35 đội bóng đăng ký tham dự đã được ghi nhận cho giải đấu lần này. Các đội bóng được sắp xếp sẵn vào các bảng đấu dựa theo khu vực địa lý. Những đội bóng đóng vai trò là chủ nhà của bảng đấu vòng loại sẽ được kí hiệu bởi chữ (H) vào phía sau Lễ bốc thăm xếp lịch thi đấu vòng loại Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024 đã diễn ra vào ngày 20 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở VFF, Hà Nội. Thể thức thi đấu. Các đội thi đấu vòng tròn hai lượt tại địa điểm tập trung, tính điểm xếp hạng ở mỗi bảng. 7 đội xếp thứ nhất, 4 đội xếp thứ nhì có thành tích tốt nhất ở 7 bảng đấu sẽ lọt vào vòng chung kết. Trường hợp đội chủ nhà vòng chung kết kết thúc vòng loại với vị trí trong nhóm 11 đội nêu trên, đội nhì bàng có thành tích tốt tiếp theo cũng sẽ giành quyền tham dự vòng chung kết. Các đội được xếp hạng theo điểm (3 điểm cho 1 trận thắng, 1 điểm cho 1 trận hòa, 0 điểm cho 1 trận thua), và nếu bằng điểm, các tiêu chí sau đây được áp dụng theo thứ tự, để xác định thứ hạng: Các cầu thủ sinh từ ngày 1 tháng 1 năm 2005 đến ngày 31 tháng 12 năm 2008 có đủ điều kiện để tham dự giải đấu. Mỗi đội bóng phải đăng ký một đội hình tối thiểu 18 cầu thủ và tối đa 30 cầu thủ. Trong đó, danh sách phải có tối thiểu 2 thủ môn và tối đa 1 cầu thủ nước ngoài gốc Việt Nam (Quy định mục 7.1). Bảng xếp hạng các đội xếp thứ nhì. Các đội vượt qua vòng loại. Dưới đây là các đội đã vượt qua vòng loại để thi đấu tại vòng chung kết Giải bóng đá Vô địch U-19 Quốc gia 2024. section begin="qual table" / 1 Chữ đậm là những đội vô địch năm đó. "Chữ nghiêng" là những đội chủ nhà năm đó.
Pastel de nata (] (số nhiều: "pastéis de nata"; ])) hay pastel de Belém là một món bánh truyền thống của Bồ Đào Nha, thường được phủ một lớp quế ở trên. Bên ngoài lãnh thổ Bồ Đào Nha, chúng đặc biệt phổ biến ở các khu vực khác ở Tây Âu, Châu Á và các thuộc địa của Bồ Đào Nha trước đây, chẳng hạn như Brasil, Mozambique, Ma Cao, Goa và Đông Timor. "Pastel de nata" kiểu Ma Cao đã được chuỗi cửa hàng KFC áp dụng và có sẵn ở các khu vực như Hồng Kông, Đài Loan, Thái Lan và Trung Quốc. Ở Indonesia, món bánh ngọt này đặc biệt phổ biến ở Kampung Tugu, Jakarta. Lịch sử ra đời. "Pastéis de nata" được tạo ra trước thế kỷ 18 bởi các tu sĩ Công giáo tại tu viện Jerónimos () ở giáo xứ dân sự của Belém, Lisbon. Vào thời điểm đó, các tu viện và tu viện đã sử dụng một lượng lớn lòng trắng trứng để làm cứng quần áo, chẳng hạn như đồ mặc của các tu sĩ và nữ tu. Việc các tu viện sử dụng lòng đỏ trứng còn sót lại để làm bánh ngọt là điều khá phổ biến, dẫn đến sự phổ biến của các công thức làm bánh ngọt trên khắp đất nước. Sau Cách mạng Tự do năm 1820, việc các dòng tu giải tán và nhiều tu viện sắp đóng cửa, các tu sĩ bắt đầu bán "pastéis de nata" tại một nhà máy đường gần đó để mang lại doanh thu. Năm 1834, tu viện bị đóng cửa và công thức này được bán cho nhà máy đường vào năm 1837, mở Fábrica de Pastéis de Belém. Con cháu đời sau cũng sở hữu nhà máy này cho đến ngày nay. Kể từ khi Fábrica de Pastéis de Belém được khai trương, công thức ban đầu của "pastel de nata" được lưu giữ trong một căn phòng bí mật. Fábrica de Pastéis de Belém là nơi phổ biến nhất để mua "pastéis de nata"; cửa hàng nằm cách tu viện Jerónimos chỉ 3 phút đi bộ ngắn ngủi. Cửa hàng cung cấp cả dịch vụ mang đi và ăn tại chỗ, trung bình bán hơn 20.000 chiếc "pastéis de nata" một ngày. Thông thường, bánh tart được rắc canela (quế) và thường đi kèm với bica (một loại cà phê espresso đậm đà). Vào năm 2009, báo "The Guardian" đưa "pastéis de Belém" vào danh sách 50 món ăn ngon nhất thế giới. Năm 2011, sau kết quả của một cuộc bỏ phiếu, món bánh ngọt này đã được công bố là một trong 7 kỳ quan của ẩm thực Bồ Đào Nha, từ đó tiếp tục củng cố vị thế của một trong những món ăn phổ biến nhất đất nước. "Pastel de nata" trên toàn thế giới. Nền ẩm thực Nhật Bản chịu ảnh hưởng của các thương nhân Bồ Đào Nha trong thế kỷ 16 và các món nướng Nhật Bản có tầm quan trọng về mặt văn hóa, bao gồm pan (パン, pan) (xuất phát từ tiếng Bồ Đào Nha: , nghĩa là bánh mì) và castella có nguồn gốc từ thời kỳ này. "Pastel de nata" cũng là một trong số đó. Ngoài bánh ngọt truyền thống, một số biến thể đã được phát triển đặc biệt cho thị trường Nhật Bản bằng cách thêm hương vị trà xanh. "Pastel de nata" trà xanh đã được xuất khẩu sang Hàn Quốc và các thị trường khác ở châu Á.
Với thành tích học tập xuất sắc, Lý Đông Hằng tốt nghiệp 3 trường khác nhau là "Học viện đào tạo diễn xuất Bắc Anh", "Cao đẳng Ngoại Ngữ", "Đại học Khoa học Điện tử và Công nghệ Trung Quốc". Ngoài ra, anh cò thành thạo 3 thứ tiếng là Anh - Pháp - Trung. Hiện tại, anh đang công tác tại Qua Hữu Đinh Ảnh thị. Sở Hà xuất hiện lần đầu tiên trong bộ phim "Kungfu Bóng Rổ" , nhưng được biết đến nhiều hơn với vai Dylan trong bộ phim truyền hình Đài Loan, "Định mệnh anh yêu em". Anh cũng xuất hiện trong hai video âm nhạc của Châu Kiệt Luân cho các bài hát "Sứ Thanh Hoa" trong album "On the Run" và "Biển Hoa" của "Capricorn" . Sau đó, anh nổi tiếng hơn nhờ các vai diễn trong bộ phim truyền hình "Hạ gia tam thiên" và "Thiên Nhai Minh Nguyệt Đao", bộ phim đã giúp anh giành được giải Nam diễn viên được yêu thích nhất tại LeTV Awards.
Book of the SubGenius The Book of the SubGenius: Being the Divine Wisdom, Guidance, and Prophecy of J.R. "Bob" Dobbs, High Epopt of the Church of the SubGenius, Here Inscribed for the Salvation of Future Generations and in the Hope that Slack May Someday Reign on This Earth (tạm dịch: "Sách SubGenius - Trí tuệ, sự chỉ dẫn và lời tiên tri thiêng liêng của J.R. "Bob" Dobbs, Epopt cấp cao của Giáo hội SubGenius, được ghi ở đây để cứu rỗi các thế hệ tương lai và với hy vọng rằng một ngày nào đó Slack có thể ngự trị trên Trái Đất này"; ISBN ) được xem là bộ "Kinh Thánh" của Giáo hội SubGenius. Nó được biên soạn từ ấn phẩm zine đang được xuất bản của Giáo hội có nhan đề "The Stark Fist of Removal". Nó thường được đặt trong mục hài hước của hầu hết các hiệu sách, mặc dù một số Thành viên SubGenius được phép xếp bộ sách này vào mục tôn giáo.#đổi Cuốn sách này từng được ít nhất hai nhà xuất bản riêng biệt tái bản nhiều lần. Ấn bản gốc do hãng McGraw-Hill xuất bản vào năm 1983, trong khi việc tái phát hành cuốn sách (với hình minh họa bìa hiện tại) vào năm 1987 là do ấn hiệu Fireside Books của nhà xuất bản Simon Schuster thực hiện (ISBN , "ấn bản Fireside thứ nhất").
J. R. Bob Dobbs J. R. "Bob" Dobbs là kẻ đứng đầu bù nhìn tôn giáo nhại Giáo hội SubGenius. Hình ảnh của ông bắt nguồn từ một bộ sưu tập clip art do Công ty Điện thoại Bell Tây Texas phân phối vào năm 1946. Theo giáo điều của SubGenius, "Bob" là một nhân viên bán hàng mà vào năm 1953, đã tận mắt chứng kiến linh ảnh của vị thần JHVH-1 trên chiếc tivi mà ông từng chế tạo. Linh ảnh này đã truyền cảm hứng cho ông viết hoặc đọc "PreScriptures" (như được mô tả trong "Sách SubGenius") và thành lập Giáo hội. Thần học cho rằng "Bob" là người bán hàng vĩ đại nhất lúc sinh thời và đã nhiều lần thoát khỏi cái chết. Ông cũng được tôn kính vì những hành động điên rồ của mình và được cho là vị cứu tinh của "Slack". Ông bị ám sát ở San Francisco vào năm 1984, mặc dù Giáo hội tuyên bố rằng ông từng chết đi sống lại nhiều lần kể từ đó. Tiểu sử cá nhân. Theo kinh sách "Revelation X; The "Bob" Apocryphon", "Bob" chào đời tại Dallas, Texas, có cha tên là Xinucha-Chi-Xan M. Dobbs (một dược sĩ) và mẹ tên là Jane McBride Dobbs. Lúc còn nhỏ, ông đã có biệt tài kiếm được số tiền lớn bằng cách chơi chứng khoán qua điện thoại. Về sau ông lấy cô vợ tên gọi Constance "Connie" Marsh ở Las Vegas vào năm 1955 và làm người mẫu cho một nhiếp ảnh gia đồng thời phát minh và cấp bằng sáng chế cho những món đồ bịt miệng mới lạ. Năm 1957, ông làm việc vào cuối tuần để rao giảng Phúc Âm Cơ đốc giáo "nghiêm túc vì tiền". Truyện ngắn "The Horror on Howth Hill" của Robert Anton Wilson có kể về cuộc trò chuyện giữa Dobbs và nhà khoa học điên De Selby. Constance "Connie" Marsh Dobbs, vợ của "Bob", gần như đã trở thành huyền thoại trong giới SubGenius giống như "Bob". Mặc dù "Bob" đã kết hôn với những người phụ nữ, linh hồn, thần linh và đồ vật vô tri khác, Connie vẫn được mô tả trong bộ phim tài liệu "Arise!" là "người vợ đầu tiên và "vẫn" là chính thất của ông". Connie, vốn là nữ diễn viên và người mẫu, đã lập nên Nhà dành cho Trẻ em không Slack ("Home for Slackless Children"), là người bảo trợ cho phụ nữ SubGenius và được coi là kẻ có tầm nhìn về sự giải phóng thực sự đối với phụ nữ. Connie tỏ ra không chịu khuất phục trước bất kỳ ai (đặc biệt là "Bob"). Và cô ấy cũng phóng túng và lăng nhăng như chồng mình, mặc dù cô ấy có cái đầu điềm tĩnh hơn khi đề cập đến các vấn đề gia đình. Connie được mô tả là "bộ não" của cặp đôi viết bài ở lớp 4 hồi còn học lớp 1 và để "Bob" chép bài tập về nhà của mình khi họ còn nhỏ. Cô ấy cũng được cho là một người biến hình, từng tổ chức sinh nhật lần thứ 100 của mình và hát hò, nhảy nhót rồi trò chuyện tại một cuộc họp mặt vào năm 2022. Theo truyền thuyết của Giáo hội, "Bob" và "Connie" đã từng đặt chân đến Sarawak, Malaysia và gầy dựng trụ sở chính của mình, một vùng đất bí mật ở đó mang tên Dobbstown mà họ thường lưu trú mỗi khi có dịp qua đây. Hình ảnh của "Bob". Hình ảnh của "Bob" xuất hiện lần đầu trong ấn phẩm gốc của SubGenius nhan đề "Tập sách nhỏ SubGenius #1" (còn gọi là "The World Ends Tomorrow and You May Die"; "Thế giới kết thúc vào ngày mai và bạn có thể chết") (1979). Kể từ lần xuất hiện đầu tiên, khuôn mặt của ông đã hiện diện ở nhiều nơi trên thế giới và nó đã xuất hiện trên mọi thứ, từ nghệ thuật graffiti trên cầu vượt xa lộ và như một phần của bộ ký tự đồ họa của hệ điều hành Atari ST, đến các album nhạc của nhiều ban nhạc ngầm (và một số ban nhạc rock chính thống nổi tiếng, từ Devo đến Sublime) và bộ phim không thường xuyên ("The Wizard of Speed and Time"), chương trình truyền hình ("Pee-wee's Playhouse") và phim hoạt hình ("SpongeBob SquarePants"). Ngoài ra còn có hai bộ truyện tranh Đức có mặt "Bob" ("Future Subjunkies" và "Space Bastards", đều của Gerhard Seyfried và Ziska Riemann). Giáo hội SubGenius duy trì nhãn hiệu và bản quyền đối với hình ảnh của "Bob", mặc dù họ đã cố gắng tránh thực hiện các hành động pháp lý trừ khi thực sự cần thiết. Hình ảnh của "Bob" thường thấy trên nhóm tin Usenet "", nơi ông xuất hiện thường xuyên trong những bức hình của nhiều nghệ sĩ. Nghi thức phù hợp trên nhóm tin quy định rằng sự ghi nhận công lao phải được cung cấp khi đến hạn và việc Giáo hội thừa nhận quyền sở hữu hình ảnh của "Bob" được những người tham gia nhóm tin thường xuyên chấp nhận. J.R. "Bob" Dobbs là nguồn cảm hứng cho nhân vật Giáo sư Utonium trong phim hoạt hình "The Powerpuff Girls". Nhân vật Doc Magnus của DC Comics cũng có hình ảnh rất giống "Bob." Biểu tượng thiêng liêng. Khoảng năm 2002, Giáo hội đã thông qua một biểu tượng mới gọi là "Biểu tượng thiêng liêng", là một cây thánh giá cách điệu gồm ba thanh và một ống, được đặt theo hoa văn phù hợp với mắt, mũi, miệng, và ống tẩu trong hình ảnh của "Bob". Cuộc thăm dò ý kiến ​​của "Time". Trong số ra ngày 1 tháng 1 năm 2000, một cuộc thăm dò trên Internet của tờ "Time" đã vinh danh J. R. "Bob" Dobbs là "kẻ lừa đảo hay giả mạo" số 1 của thế kỷ 20.
Chính sách xã hội Chính sách xã hội ("Social policy") là một kế hoạch hoặc chương trình hành động của chính phủ hoặc chính quyền (các cơ quan thiết chế) nhằm cải thiện hoặc cải cách xã hội. Một số chuyên gia và trường đại học coi chính sách xã hội là một tập hợp con của chính sách công trong khi những người thực hành khác mô tả chính sách xã hội và chính sách công là hai cách tiếp cận riêng biệt, cạnh tranh cho cùng một lợi ích công, với Chính sách xã hội được coi là toàn diện hơn chính sách công. Chính sách xã hội cũng có thể được mô tả là những hành động ảnh hưởng đến phúc lợi xã hội của các thành viên trong xã hội thông qua việc định hình sự phân phối và tiếp cận hàng hóa và tài nguyên trong xã hội đó. Chính sách xã hội thường đề cập đến những vấn nạn xã hội. Cho dù trường đại học tuân theo luận điểm nào thì chính sách xã hội đều bắt đầu bằng việc nghiên cứu nhà nước phúc lợi và dịch vụ xã hội. Nó bao gồm chủ trương, đường lối, định hướng (Guideline), nguyên tắc, luật pháp và các hoạt động liên quan ảnh hưởng đến điều kiện sống có lợi cho phúc lợi con người, chẳng hạn như chất lượng cuộc sống của một người. Khoa Chính sách xã hội thuộc Trường Kinh tế Luân Đôn định nghĩa chính sách xã hội là ""một chủ đề liên ngành và ứng dụng liên quan đến việc phân tích các phản ứng của xã hội đối với nhu cầu xã hội", nhằm mục đích bồi dưỡng cho sinh viên của mình khả năng hiểu lý thuyết và bằng chứng được rút ra từ nhiều ngành khoa học xã hội, bao gồm kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, địa lý học, lịch sử, luật học, triết học và khoa học chính trị. Chính sách xã hội nhằm mục đích cải thiện phúc lợi con người và đáp ứng nhu cầu con người về giáo dục, y tế, nhà ở và an ninh kinh tế. Các lĩnh vực quan trọng của chính sách xã hội là phúc lợi và hưởng phúc lợi, chế độ sính sách, chính sách xóa đói, giảm nghèo, chính sách an sinh xã hội, công bằng xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, điều kiện sống, quyền động vật, chế độ chính sách lương hưu, chăm sóc sức khỏe, nhà ở xã hội, chính sách gia đình, chăm sóc xã hội, bảo vệ trẻ em, loại trừ xã hội, chính sách giáo dục, các vấn đề về tội phạm và tư pháp hình sự, phát triển đô thị và lao động. Trung tâm Chính sách xã hội Malcolm Wiener tại Đại học Harvard mô tả chính sách xã hội là "chính sách công và thực tiễn trong các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, dịch vụ con người, công lý hình sự, bất bình đẳng, giáo dục và lao động"". Những cuộc thảo luận về chính sách xã hội ở Hoa Kỳ và Canada cũng có thể áp dụng cho chính sách của chính phủ về các vấn đề xã hội như giải quyết phân biệt chủng tộc, vấn đề LGBT vấn đề (chẳng hạn như hôn nhân đồng giới), và tình trạng pháp lý của phá thai, súng ống, việc an tử (quyền được chết), thuốc an thần, chất hướng thần (chất gây nghiện các loại) và tệ nạn mại dâm. Ở các quốc gia khác, những vấn đề này sẽ được phân loại theo chính sách y tế và chính sách trong nước. Khái niệm Chính sách xã hội lần đầu tiên được hình thành vào thập niên 1940 do Richard Titmuss đưa ra khi công tác trong lĩnh vực quản lý xã hội ở Anh. Nữ thần công lý mô tả công lý được trang bị ba biểu tượng là một thanh kiếm tượng trưng cho sức mạnh cưỡng chế của triều đình; một chiếc cân của con người đang cân nhắc những tuyên bố cạnh tranh trong mỗi bàn tay; và bịt mắt thể hiện sự công bằng
Louis Henri, Công tước xứ Bourbon Louis Henri, Công tước xứ Bourbon ("Louis Henri Joseph"; 18 tháng 8 năm 1692 – 27 tháng 1 năm 1740), là một quý tộc và nhà chính trị gia người Pháp, từng giữ chức Tể tướng đại thần vương quốc Pháp từ năm 1723 đến năm 1726. Là thành viên của Vương tộc Bourbon trị vì, ông giữ tôn hiệu là "prince du sang". Louis Henri là con thứ hai và là con trai cả của Louis III, Thân vương xứ Condé, và Louise Françoise de Bourbon, con gái lớn của Vua Louis XIV và tình nhân của ông là Madame de Montespan. Sau cái chết của cha mình vào năm 1710, ông trở thành người đứng đầu chi nhánh Bourbon-Condé của Nhà Bourbon. Vì vậy, ông được giữ tước hiệu Thân vương xứ Condé, nhưng thay vào đó ông lại sử dụng tước hiệu Công tước xứ Bourbon và được biết đến tại triều đình với tôn hiệu "Monsieur le Duc". Sau khi ông ngoại qua đời năm 1715, Louis Henri trở thành thành viên của hội đồng nhiếp chính do Philippe II, Công tước xứ Orléans, người nhiếp chính cho vị vua nhỏ Louis XV lãnh đạo. Năm 1723, Louis Henri kế vị Công tước xứ Orléans làm Tể tướng đại thần cho triều đình của Vua Louis XV. Ông đã đàm phán về cuộc hôn nhân của Nhà vua với công chúa Ba Lan là Marie Leszczyńska. Năm 1726, Louis XV bãi nhiệm chức tể tướng của Louis Henri và thay thế ông bằng Hồng y de Fleury. Louis Henri qua đời tại trang viên của ông, Château de Chantilly, vào năm 1740. Các tước vị của ông được thừa kế bởi đứa con trai 4 tuổi của ông là Louis Joseph.
Mahamadou Susoho Sissoho (sinh ngày 20 tháng 1 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Manchester City tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh. Anh đã từng đại diện cho Anh và Tây Ban Nha trên đấu trường quốc tế. Sussoho sinh ra ở Tây Ban Nha với cha mẹ là người Gambia và chuyển đến Anh sinh sống vào năm 11 tuổi. Anh nói thông thạo tiếng Catalunya. Sự nghiệp thi đấu. Anh gia nhập học viện Manchester City vào năm 2017 từ RCD Espanyol, và ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với đội bóng vào tháng 7 năm 2022. Anh được đôn lên đội U-21 Man City trong mùa giải 2023-24, thi đấu tại EFL Trophy vào nửa cuối năm 2023. Anh được có tên trong đội hình đội 1 của Man City cho trận gặp Red Star Belgrade tại UEFA Champions League vào ngày 14 tháng 12 năm 2023, vào sân ở phút 76 của hiệp 2 để thay cho đàn anh Mateo Kovačić. Anh cùng với 5 cầu thủ trẻ khác của Manchester City có tên trong danh sách tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới các câu lạc bộ 2023 tại Ả Rập Xê Út. Sự nghiệp quốc tế. Từng chơi cho U-16 Anh, Susoho là cầu thủ trẻ thi đấu cho Tây Ban Nha trên đấu trướng quốc tế, từng chơi cho đội U-17 và U-18. Phong cách chơi bóng. Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự.
Louis Henri, Thân vương xứ Condé Louis Henri Joseph de Bourbon (13 tháng 4 năm 1756 – 30 tháng 8 năm 1830) là Thân vương xứ Condé từ năm 1818 cho đến khi qua đời. Ông là anh rể của Louis Philippe II xứ Orléans và là cháu trai của Victoire de Rohan. Ông là thành viên của Nhà Bourbon, vương tộc đang cai trị nước Pháp. Khi sinh ra đời đã giữ tôn hiệu "prince du sang" và phong cách "Serene Highness" và nhận tước hiệu Công tước xứ Enghien và Lãnh chúa xứ Chantully, năm 16 tuổi ông được nhận thêm tước vị Công tước xứ Bourbon. Sau khi kế vị cha mình giữ tước hiệu Hoàng thân xứ Condé, ông nhận được phong cách Royal Highness. Ngày 27/8/1830, người ta phát hiện Louis Henri đã chết với một sợi dây quanh cổ nhưng chân vẫn ở trên mặt đất. Nhiều tin đồn và thuyết âm mưu đã xoay quanh cái chết của ông, trong đó, người ta nghi ngờ có sự tham gia của vị vua dang tại nhiệm của Pháp là Louis-Philippe I. Tư liệu liên quan tới
Chàng quỷ của tôi Chàng quỷ của tôi (My Demon) (tiếng Hàn: ) là một bộ phim truyền hình Hàn Quốc đang phát sóng với sự tham gia của Kim Yoo-jung, Song Kang, Lee Sang-yi và Kim Hae-sook. Phim được công chiếu trên SBS TV vào 24 tháng 11 năm 2023 và phát sóng vào thứ Sáu và thứ Bảy hàng tuần lúc 22:00 (KST). Bộ phim cũng có sẵn để phát trực tuyến trên Wavve ở Hàn Quốc và trên Netflix ở một số khu vực được chọn. Bộ phim là câu chuyện về cuộc hôn nhân hợp đồng giữa nữ thừa kế của một tập đoàn Do Do-hee (Kim Yoo-jung) và Jeong Gu-won (Song Kang), một con quỷ tạm thời mất đi sức mạnh của mình. Nhờ sự mất mát nhất thời này mà họ đã có những phút giây hạnh phúc bên nhau nhưng cuối cùng điều chờ đợi họ sau cùng lại là một bi kịch. Ngày 18 tháng 1 năm 2023, có thông tin cho rằng cả Kim Yoo-jung và Song Kang đều đang xem xét lời đề nghị đóng vai chính trong bộ phim này. Ngày 14 tháng 4 năm 2023, có thông tin cho rằng nam diễn viên Lee Sang-yi đã xác nhận rằng sẽ tham gia bộ phim này và đang chuẩn bị quay phim. Ngày 12 tháng 4 năm 2023, buổi đọc kịch bản đầu tiên đã được tổ chức.
Cố Viêm Vũ (; 15 tháng 7 năm 1613 – 15 tháng 2 năm 1682), vốn tên là Cố Giáng (), tự Trung Thanh (忠清), sau đổi tên thành Viêm Vũ (炎武), tự Ninh Nhân (寧人), ngoại hiệu Đình Lâm tiên sinh (亭林先生), là một nhà tư tưởng Trung Quốc sống vào cuối thời Minh, đầu thời Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã trải qua tuổi trẻ của mình trong cuộc chinh phục Trung Quốc của người Mãn Châu trong các hoạt động phản Thanh phục Minh sau khi nhà Minh bị lật đổ. Ông không phục vụ nhà Thanh mà đi ngao du toàn quốc và cống hiến hết mình cho học vấn. Cố Viêm Vũ, Vương Phu Chi, Hoàng Tông Hi được hậu thế gọi là "Ba nhà nho lớn cuối thời Minh" (明末三大儒, "Minh mạt tam đại nho"), "Minh mạt tam tiên sinh" (明末三先生) hoặc "Ba nhà tư tưởng lớn cuối thời Minh" (明末三大思想家, "Minh mạt tam đại tư tưởng gia"). Cố Giáng quê ở huyện Côn Sơn, phủ Tô Châu, Trực Lệ, sinh năm 1613 dưới thời Vạn Lịch trong một gia tộc lớn ở Giang Đông. Cụ của ông là Nam Kinh Binh bộ Hữu thị lang #đổi . Ông nội tên là Cố Thiệu Phất (顾绍芾), từng là Giám sinh Quốc tử giám. Cha đẻ tên là Cố Đồng Ứng (顧同應), mẹ đẻ họ Hà. Em gái ông gả cho người cùng huyện là Từ Khai Pháp (徐開法), sinh ra ba anh em #đổi , #đổi , #đổi , đều đỗ đạt thời Thanh. Từ nhỏ, Cố Giáng đã được #đổi cho chú họ Cố Đồng Cát (顧同吉) làm con thừa tự. Mẹ kế của ông là con gái nhà họ Vương, mới 16 tuổi, chưa kết hôn đã thành quả phụ, thủ tiết không tái giá. Nàng Vương ban ngày thì dệt vải, tối đến thì đọc sách đến canh hai mới đi ngủ, tự mình nuôi nấng Cố Giáng trưởng thành, thường giảng cho ông những tấm gương trung nghĩa của Nhạc Phi, Văn Thiên Tường, #đổi . Vì lý do đó, nên sau này nhà Minh sụp đổ, Cố Giáng đổi tên thành Viêm Vũ, lấy theo tên của #đổi , một học sinh của Văn Thiên Tường cả đời ẩn cư không ra làm quan cho người Mông Cổ. Năm 1626, Cố Giáng trở thành Tú tài vào năm 14 tuổi, từ đó kết bạn với đồng hương #đổi , gia nhập #đổi . Cố Giáng và Quy Trang đều có cá tính độc lập, chính trực, không câu nệ lễ giáo cứng nhắc, bị những người bảo thủ đương thời gọi là Quy kỳ Cố quái (歸奇顧怪). Năm 1631, Cố Giáng cùng Quy Trang thi hương ở Ứng Thiên. Năm 1632, Cố Giáng thi tuế khảo, được Đốc học ngự sử #đổi xếp hạng nhất đẳng, tên đứng thứ mười bốn. Năm 1641, Cố Thiệu Phất qua đời, Cố Giang ở nhà chịu tang. Sau nhiều lần thi mà không đỗ, lại chịu ảnh hưởng từ ông nội, Cố Giáng cảm thấy nội dung khoa cử chỉ chú trọng văn chương bát cổ khô khan mà không chú trọng đến thực tài, bèn bỏ việc theo đuổi công danh, về nhà nghiền ngẫm Nhị thập nhất sử, #đổi mười ba triều, sách địa lý, văn xuôi, tùy bút có liên quan tới dân sinh, trên cơ sở đó bắt đầu sáng tác hai tác phẩm "Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư" và "Triệu vực chí". Năm 1644, Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh, kế đó quân Thanh tiến vào Trung Nguyên. Cố Giáng lo sợ binh tai, dẫn mẹ kế đến Thường Thục lánh nạn, ẩn cư ở suối Ngữ Liêm (语濂涇). Sau đó, ông được Huyện lệnh Côn Sơn Dương Vĩnh Ngôn (杨永言) tiến cử, được triều đình Nam Minh bổ nhiệm chức Tư vụ Bộ binh. Trong thời gian này, ông biên soạn "Quân chế luận", "Tình thế luận", "Điền công luận", "Tiền pháp luận" đề xuất cải cách kinh tế và quân đội, dâng lên triều đình Hoằng Quang, nhưng không được để ý. Thất vọng với triều đình, ông bỏ quan về quê, cùng Quy Trang và #đổi (người Gia Định) tham gia nghĩa quân của #đổi , trấn giữ Côn Sơn, xem #đổi là lãnh tụ của nghĩa quân toàn phủ Tô Châu. Năm 1645, Nam Kinh thất thủ, Cố Giáng đổi tên thành Viêm Vũ để tỏ chí. Tháng 6, quân Thanh tấn công Tô Châu, Gia Định thất thủ, #đổi , #đổi , #đổi ... tử nạn, #đổi , #đổi , #đổi ... tự vẫn. Tháng sau, Côn Sơn bị bao vây, Dương Vĩnh Ngôn bỏ trốn, Cố Viêm Vũ cùng Quy Trang liên hiệp quân của Ngô Chí Quỳ (吳志葵), #đổi đến cứu, nhưng sắp thành lại bại. Ngô Kỳ Hãng tử trận, mẹ đẻ của Cố Viêm Vũ bị quân Thanh chặt tay, hai em trai Cố Toản và Cố Thằng bị giết. Kế đó, Thường Thục cũng thất thủ, mẹ nuôi của ông (đã ngoài 60 tuổi) tuyệt thực mà chết, để lại di ngôn yêu cầu ông không được phục vụ triều đình nhà Thanh. Đường vương Chu Duật Kiện lên ngôi ở Phúc Châu tiếp tục chống Thanh. Đại học sĩ #đổi lại tiến cử Cố Viêm Vũ, nhưng lần này ông không nhận chức vì đang để tang. Năm 1646, Cố Viêm Vũ quyết định đến Phúc Châu nhận chức, nhưng lại nghe theo lời của Lộ Chấn Phi, bí mật liên hệ các hào kiệt vùng Hoài Tứ, tập hợp các lực lượng nổi dậy về với triều đình. Năm 1647, #đổi , #đổi , Cố Hàm Chính (顾咸正)... âm thầm liên hệ tướng Thanh là #đổi nổi dậy, Cố Viêm Vũ có khả năng cũng tham dự. Cuộc nổi dậy thất bại, Cố Viêm Vũ đang lưu vong, liền quay về tìm cách cứu giúp nhưng bất lực. Các chính quyền Nam Minh ở phương nam lần lượt sụp đổ, dù Cố Viêm Vũ không hề nản lòng, nhưng mất đi chỗ dựa tinh thần, công cuộc kháng Thanh của ông cũng đổ bể. Do ông và anh trưởng đã qua đời, nên Cố Viêm Vũ được kế thừa gia sản. Nhưng gặp năm thiên tai, mất mùa, nên ông phải cầm cố 800 mẫu ruộng cho cường hào Côn Sơn là Diệp Phương Hằng (葉方恆). Họ Diệp muốn biến ruộng của họ Cố thành của mình, bèn tìm cách hãm hại. Trong gia tộc có chú họ Cố Diệp Thự (顧葉墅) cùng anh họ Cố Duy (顧維) lấy cớ trong nhà khó khăn để đòi chiếm đoạt gia sản không thành, liền cấu kết với họ Diệp, cho gia nô Lục Ân (陸恩) tố cáo Cố Viêm Vũ cấu kết nghĩa quân. Viêm Vũ nổi giận, giết chết Lục Ân nên bị bắt giam hỏi tội. Nhờ người bạn #đổi giúp nên vụ án mới có thể được giải quyết. Trong khoảng thời gian này, con trai độc nhất của Cố Viêm Vũ là Cố Di Cốc (顧詒榖) chết yểu khi mới 5 tuổi. Năm 1655, mất chốn dung thân, Cố Viêm Vũ âm thầm về nhà bán hết gia sản, lấy tên giả Tưởng Sơn Dung (蔣山傭), giả làm thương nhân rời quê hương, một đi không trở lại. Hành trình của Cố Viêm Vũ trải qua Giang Tô, Sơn Đông, Hà Bắc, Bắc Kinh, Sơn Tây, Hà Nam, Thiểm Tây, tổng cộng 7 tỉnh, hơn 70 huyện, trên 3 vạn dặm đường. Đi đến đâu, ông lại khảo sát địa hình, hỏi thăm và ghi chép lại dân tình thế thái, âm thầm liên hệ với các trí thức vẫn còn tư tưởng phản Thanh. Trong chuyến hành trình này, Cố Viêm Vũ cũng nhiều lần đến viếng Thập tam lăng, nhiều lần vào Bắc Kinh và một lần đến Sơn Hải quan (1659). Năm 1668, Cố Viêm Vũ bị bắt giam 7 tháng do liên lụy tới vụ #đổi , nhờ người bạn Lý Nhân Đốc giúp đỡ mới được ra tù. Năm 1671, nhân lúc Cố Viêm Vũ đang nghỉ lại tại nhà của cháu ngoại Từ Càn Học (đang làm quan ở Bắc Kinh), #đổi #đổi mời ông chủ trì việc biên soạn "Minh sử", nhưng ông kiên quyết từ chối, thà như Giới Chi Thôi, Khuất Nguyên lấy cái chết để tỏ chí. Năm 1678, vua Khang Hi nhà Thanh mở khoa Bác học hồng nho để thu hút kẻ sĩ cũ của nhà Minh, Cố Viêm Vũ dứt khoát rời khỏi Bắc Kinh, từ đó không quay lại. Năm 1679, triều đình nhà Thanh mở #đổi , Hùng Tứ Lý một lần nữa mời chào Cố Viêm Vũ nhưng ông tiếp tục lấy cái chết ra cự tuyệt. Rời khỏi Bắc Kinh, Cố Viêm Vũ nhiều lần tới Khúc Ốc khảo sát, giao lưu với các kẻ sĩ đất Tấn như Lý Ngung (tức #đổi ), #đổi , Vệ Hao (衛蒿)... Ở Khúc Ốc, Cố Viêm Vũ đã khảo chứng lịch sử nước Tấn, sáng tác mười mấy bài văn thơ, đồng thời hoàn thiện tác phẩm để đời "Nhật tri lục". Tháng 8 năm 1681, Cố Viêm Vũ mang theo con thừa tự Cố Diễn Sinh (顧衍生) đến Khúc Ốc lần cuối, không may bị bệnh. Trên đường đi, Cố Viêm Vũ nhận thấy vùng Thiểm Cam đang xảy ra nhiều mâu thuẫn xã hội, liền gửi thư cho Tuần phủ Trực Lệ Vu Thành Long để phản ánh thực trạng cho vua Khang Hi. Mùng 8 tháng Giêng (1682), Cố Viêm Vũ quyết định đi thăm bạn bè, khi đi qua Hoa Âm, ông không may bị ngã ngựa và mất vào ngày hôm sau, thọ 70 tuổi. Cố Viêm Vũ là người phản đối Lý học và Tâm học Tống-Minh chỉ bàn suông về "Tâm, Lý, Tính, Mệnh", đề xướng "Kinh thế trí dụng" (經世致用), dùng học vấn thực tế đề nghiên cứu sự vật cụ thể, đề xuất dùng chủ trương "Phổ học" (樸學) để thay thế "Lý học". Cố Viêm Vũ được xem là thủy tổ ngành khảo chứng học thời Thanh. Nhiều học giả giữa thời Thanh bắt đầu noi theo Cố Viêm Vũ, tiến hành phê khảo toàn bộ lại lịch sử Trung Quốc từ tư liệu thành văn cho đến hiện vật bi ký, từ lịch sử cho đến địa lý, thiên văn, được xưng là #đổi . Mặt khác, Cố Viêm Vũ còn là một nhà nghiên cứu tiếng Hán cổ, được coi là người nối bước #đổi . Về tư tưởng, Cố Viêm Vũ đề xướng "Chúng trị" (众治, cai trị tập thể) thay vì "Độc trị" (独治). Cố Viêm Vũ từng viết trong quyển 13 sách "Nhật tri lục": "Bảo thiên hạ giả, thất phu chi tiện, dữ hữu trách yên." (Nguyên văn: 保天下者,匹夫之賤,與有責焉。). Học giả Lương Khải Siêu cuối thời Thanh đã tổng kết lại thành: "Thiên hạ hưng vong, thất phụ hữu trách" (Nguyên văn: 天下興亡,匹夫有責), hiểu theo nghĩa rộng là "Sự suy thịnh quốc gia là đại sự của mọi người" hoặc "Ai ai cũng trách nhiệm cho sự thịnh vượng của xã hội". Ở quê hương Côn Sơn, có #đổi và Bảo tàng Cố Viêm Vũ (顾炎武纪念馆) trong khuôn viên công viên. Năm 2005, Bảo tàng được Bộ Tuyên truyền Trung ương Trung Quốc xếp vào danh sách các "địa chỉ giáo dục lòng yêu nước" cấp quốc gia. Nhà cũ của Cố Viêm Vũ nằm ở trấn cổ Thiên Đăng (Côn Sơn, Tô Châu) ngày nay, được kiến tạo từ thời cụ của Cố Viêm Vũ là Cố Tế (顧濟). Thời Gia Tĩnh, nhà bị quân Oa phá hủy, được vua cấp phép dựng lại. Đây một khu phức hợp thời nhà Minh với sảnh chính, khu sinh hoạt, nghiên cứu và một khu vườn. Ngôi mộ của Cố Viêm Vũ nằm ở một góc yên tĩnh của khu vườn.
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 được tổ chức tại Sân khúc côn cầu trên cỏ của Công viên thể thao Kênh Củng Thự ở Củng Thự, Hàng Châu, từ 24 tháng 9 đến 7 tháng 10 năm 2023. Đội vô địch đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024. Giải đấu bao gồm hai giai đoạn; vòng sơ loại, sau đó là vòng chung kết. Giải đấu bao gồm hai giai đoạn; vòng sơ loại, sau đó là vòng chung kết.
Kh-38/Kh-38M () là một dòng tên lửa không đối đất do Nga chế tạo để kế thừa dòng tên lửa Kh-25 và Kh-29. Thiết kế và phát triển. Cấu hình cơ bản của Kh-38M đã được tiết lộ tại Triển lãm Hàng không Moskva (MAKS) năm 2007. Các nguyên mẫu đầu tiên trang bị cánh gấp và vây đuôi để thuận tiện trong việc vận chuyển. Tên lửa có nhiều loại đầu dò cho các biến thể khác nhau, và có thể trang bị nhiều loại đầu đạn như phân mảnh, đạn chùm, xuyên giáp. Nó có thể được phóng từ máy bay chiến đấu Sukhoi Su-34 và Sukhoi Su-57, cũng như được lên kế hoạch trang bị trên trực thăng Kamov Ka-52K. Lần bắn thử đầu tiên diễn ra vào năm 2010 từ một chiếc Su-34, việc sản xuất hàng loạt bắt đầu vào năm 2015. Trong phiên bản ra mắt tại MAKS 2017, cả hai bề mặt điều khiển của Kh-38 đều được thay thế bằng bề mặt cố định dài và hẹp hơn - điều tương tự từng được áp dụng với tên lửa Aspide của công ty Selenia. Lịch sử hoạt động. Kh-38M được sử dụng lần đầu ở chiến trường Syria khi Nga can thiệp quân sự vào cuộc nội chiến, và sau đó là trong cuộc xâm lược Ukraina năm 2022. Cả hai phiên bản Grom đều có khối lượng 600 kg, được chế tạo dựa trên cơ sở tên lửa chiến thuật tầm ngắn Kh-38M nên Grom cũng có cấu trúc mô đun, đầu đạn và đầu dò với nhiều cơ chế dẫn đường khác nhau. Loại vũ khí này lần đầu tiên được nhìn thấy tại MAKS 2015, và dự kiến sẽ trang bị trên tất cả các loại máy bay tiêm kích, bao gồm cả MiG-35 và Su-57.
Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Trần Đăng Ly (sinh ngày 20 tháng 1 năm 1941) là Nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty cổ phần cơ khí xăng dầu. Ông Trần Đăng Ly sinh ngày 20 tháng 1 năm 1941, tại xã Đồng Việt, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang, là người dân tộc Kinh, không theo tôn giáo nào. Ông gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 5 năm 1960 đến tháng 1 năm 1962, ông là Chiến sĩ E224, F351, Bộ Tư lệnh Pháo binh. Tháng 2 năm 1962 đến tháng 9 năm 1966, ông công tác tại Chi cục xăng dầu Hà Bắc, là ủy viên Chi bộ. Tháng 10 năm 1966 đến tháng 8 năm 1975, ông công tác tại Công ty xăng dầu Bắc Giang, là cán bộ tổ chức, Bí thư Chi bộ, Bí thư Đoàn Thanh niên Tháng 9 năm 1975 đến tháng 11 năm 1977, ông là Phó phòng Tổ chức cán bộ Công ty xăng dầu 176 tại Hà Bắc, là Bí thư Chi bộ Từ tháng 12 năm 1977 đến tháng 6 năm 1979, ông là cán bộ tổ chức Công ty xăng dầu Khu vực II. Từ tháng 7 năm 1979 đến tháng 3 năm 1982, ông là Phó phòng Tổ chức, Chi ủy viên, Phó Bí thư Chi Bộ Công ty xăng dầu khu vực II. Từ tháng 3 năm 1982 đến tháng 1 năm 1985, ông là Trưởng phòng Tổ chức cán bộ, Đảng ủy viên, Phó Bí thư Chi bộ Công ty xăng dầu khu vực II. Từ tháng 2 năm 1985 đến tháng 2 năm 1990, ông là Bí thư Chi bộ, Phó Giám đốc Xí nghiệp cơ khí xăng dầu. Từ tháng 3 năm 1990 đến tháng 9 năm 1999, ông là Giám đốc Công ty cơ khí xăng dầu thuộc Tổng Công ty Xăng dầu Việt Nam. Từ tháng 10 năm 1999 đến tháng 8 năm 2001, ông là Chủ tịch Hội đồng Quản trị Công ty Cổ phần cơ khí xăng dầu. Từ tháng 9 năm 2001 đến tháng 1 năm 2008, ông nghỉ hưu theo chế độ và chuyển sinh hoạt Đảng bộ về Đảng phường 2, quận Bình Thạnh. Từ tháng 2 năm 2008 đến nay, ông chuyển sinh hoạt Đảng về Chi bộ khu phố 2, Đảng bộ phường Tân Định. Quá trình công tác. Trong suốt thời gian tham gia công tác, trên nhiều lĩnh vực và nghĩa vụ khác nhau, ông luôn là người Đảng viên Cộng sản kiên trung, giữ vững phẩm chất, đạo đức cách mạng, hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao và đạt được nhiều thành tích cao. Ông đã được Đảng và Nhà nước trao tặng Huân chương Kháng Chiến hạng Nhì, Huân chương Lao động hạng Ba, Huân chương Vì sự nghiệp Công đoàn, Huy chương Cựu chiến binh, Huy chương ngành Thương mại, Huy hiệu 55 tuổi Đảng và nhiều huy hiệu, bằng khen của các bộ, ban ngành địa phương.
Myripristis vittata là một loài cá biển thuộc chi "Myripristis" trong họ Cá sơn đá. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1831. Tính từ định danh "vittata" trong tiếng Latinh có nghĩa là "có dải quấn quanh", theo Valenciennes thì hàm ý đề cập đến 5-6 dải sọc đen ở hai bên thân của loài cá này, tuy nhiên loài này có màu đỏ cam gần như đồng nhất, thật ra chỉ có các sọc mờ do tâm vảy cá nhạt màu hơn tạo thành. Phân bố và môi trường sống. "M. vittata" có phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii cùng quần đảo Marquises (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ogasawara và miền nam Nhật Bản, về phía nam đến bãi cạn Aliwal (Nam Phi), Úc và Nouvelle-Calédonie. Ở Việt Nam, "M. vittata" được ghi nhận tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. "M. vittata" sống tập trung gần các hang hốc trên rạn san hô hay dưới các gờ đá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 100 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "M. vittata" là 25 cm. Cá có màu đỏ hoặc đỏ cam. Rìa trước của vây lưng, vây hậu môn, vây đuôi và vây bụng có màu trắng. Chóp gai vây lưng màu trắng. Số gai ở vây lưng: 11; Số tia ở vây lưng: 13–15; Số gai ở vây hậu môn: 4; Số tia ở vây hậu môn: 11–13; Số vảy đường bên: 35–40; Số lược mang ở cung thứ nhất: 33–38. "M. vittata" thường hợp thành đàn và ăn chủ yếu các loài động vật phù du. Chúng thường bơi lộn ngược, ngay cả khi hòa vào các đàn cá khác. "M. vittata" được khai thác trong nghề cá quy mô nhỏ.
Myripristis là một chi cá biển thuộc phân họ Myripristinae trong họ Cá sơn đá. Chi này được lập ra vào năm 1829 bởi Georges Cuvier. Tên chi được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: "mūríos" (μυρίος; “số 10000, vô hạn”) và "prístis" (πρίστις; “cưa”), hàm ý đề cập đến lớp vảy cá có răng cưa bao phủ toàn bộ má và nắp mang ở các loài thuộc chi này. Tính đến hiện tại, có 28 loài được ghi nhận trong chi này, bao gồm: Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ. Chỉ duy nhất "M. jacobus" có phân bố rộng khắp Đại Tây Dương. Ba loài "M. clarionensis", "M. gildi" và "M. leiognathus" có phân bố ở Đông Thái Bình Dương. Các loài còn lại có phân bố ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Thức ăn chủ yếu của các loài "Myripristis" là động vật phù du. Chúng còn có thể bơi lộn ngược. Một số loài được ghi nhận là có thể tạo ra âm thanh.
Danh sách tập phim Yurucamp Yuru Camp, là một loạt anime truyền hình dựa trên manga cùng tên của Afro. Phim kể về Shima Rin trong chuyến cắm trại một mình, cô đã gặp Kagamihara Nadeshiko và được cô truyền cảm hứng để tận hưởng cắm trại. Bộ phim phát sóng 25 tập trong hai mùa. Mùa đầu tiên phát sóng trên AT-X và Tokyo MX từ ngày 4 tháng 1 đến ngày 22 tháng 3 năm 2018, với tổng cộng 12 tập. Mùa thứ hai phát hành trên AT-X, Tokyo MX, BS11, Sun TV và KBS Kyoto từ ngày 7 tháng 1 đến ngày 1 tháng 4 năm 2021, trong tỏng số 13 tập. Cả 2 mùa đề có sẵn đối với Blu-ray và DVD, cũng nhứ các dịch vụ phát trực tuyến. Mùa thứ ba dự kiến ​​sẽ phát sóng vào tháng 4 năm 2024.
Dulce de leche ([ˈdulse ðe ˈletʃe, ˈdulθe ðe ˈletʃe]; ), sốt caramel sữa hoặc mứt sữa, là một sản phẩm mứt kẹo phổ biến ở Mỹ Latinh, cũng được tìm thấy trong các món ăn Pháp ("confiture de lait") và Ba Lan ("kajmak"), được chế biến bằng cách đun nóng từ từ đường và sữa trong khoảng thời gian vài giờ. Chất tạo thành có độ đặc giống như nước xốt, dễ phết, có hương vị và màu sắc phong phú nhờ sự chuyển hóa thành màu nâu không có enzym. Nó thường được dùng để phủ lên trên hoặc làm nhân cho các món ngọt. "Dulce de leche" là thuật ngữ tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "vị ngọt được [làm] từ sữa". Các tên khác của thuật ngữ này bao gồm manjar ("món ngon") và "arequipe"; ở México và một số quốc gia Trung Mỹ " dulce de leche" làm bằng sữa dê được gọi là 'cajeta'. Chuẩn bị và tiêu dùng. Công thức cơ bản nhất yêu cầu đun từ từ sữa và đường, khuấy gần như liên tục cho đến khi đường tan (sau đó có thể thêm baking soda) trong khoảng 1,5 – 2 giờ, cho đến khi hỗn hợp đặc lại và cuối cùng chuyển sang màu nâu vàng đậm. Phương pháp khác yêu cầu để một gallon sữa ở nhiệt độ phòng trong suốt 24 giờ. Khí sẽ làm hỏng sữa và những gì còn lại là sữa đông và váng sữa. Sau đó nó được đun sôi, làm cho chất rắn chảy lên trên. Chất rắn được loại bỏ và đường được thêm vào. Hỗn hợp này được khuấy cho đến khi cứng lại, sau đó lấy ra khỏi bếp và để nguội. Sau khi nguội, nó được chia nhỏ để tiêu thụ. Với một gallon, phương pháp này mang lại khoảng hai cốc. Các thành phần khác như vani có thể được thêm vào để tạo hương vị. Phần lớn nước trong sữa bay hơi và hỗn hợp đặc lại; sản phẩm "dulce de leche" thường bằng khoảng 1/6 thể tích sữa được sử dụng. Sự biến đổi này xảy ra trong quá trình chuẩn bị là do sự kết hợp của hai phản ứng chuyển hóa thành nâu không enzym phổ biến được gọi là caramel hóa và Phản ứng Maillard. Một phương pháp chế biến khác, tương tự như sữa đặc đun sôi của Nga được gọi là "varyonaya sgushchyonka", bao gồm việc sử dụng sữa đặc có đường đóng lon hoặc đóng hộp và nấu trong nồi áp suất trong 20 đến 25 phút để có màu nhạt và hơi mềm, hoặc 40 đến 25 phút, 45 phút để có màu đậm hơn và độ đặc chắc hơn. Nếu dùng sữa đặc đóng hộp thì nên bọc trong khoảng 5 đến 6 lớp giấy nhôm để tránh bị vỡ. Cũng có thể cho sữa đặc vào lọ thủy tinh rồi đun sôi trong nồi áp suất. Trong phương pháp này, các thành phần khác nhau cũng có thể được thêm vào, chẳng hạn như dừa vụn hoặc đậu phộng. Tuy nhiên, cần phải thực hiện một số biện pháp phòng ngừa nhất định, chẳng hạn như bọc bình bằng khăn bếp và lót nồi áp suất bằng một chiếc khăn bếp khác để đáy bình không chạm vào nồi (vì tiếp xúc có thể làm vỡ kính). Thời gian nấu tương tự như phương pháp trước (khoảng 35 đến 40 phút). Nên cho nước vào nồi áp suất – đủ ngập lon hoặc hộp sữa đặc. Có thể cho một lượng nhỏ giấm vào nước trong nồi áp suất để nước không bị đổi màu ở đáy. Trong mọi trường hợp, khi đã sẵn sàng, điều quan trọng là phải để dulce de leche nguội hoàn toàn, khoảng 2 giờ. "Dulce de leche" có thể ăn trực tiếp, nhưng thường được dùng để phết hoặc nhân cho các món ngọt khác, chẳng hạn như bánh ngọt, churro, bánh quy (xem "alfajor"), bánh tổ ong, bánh flan (còn được gọi là "crème caramel" (được gọi là "pudim" ở những nước nói tiếng Bồ Đào Nha) (đừng nhầm với bánh nướng flan của Anh), thêm vào các loại trái cây như chuối, vả tây, và kem lạnh; nó cũng có thể ăn kèm với crêpe (panqueques), oblea (bánh xốp) và bánh mì nướng. Ở Pháp, chúng được gọi là "confiture de lait" và có truyền thống ở vùng Normandie và Savoy. Biến thể này thường được dùng kèm với "fromage blanc" hoặc crêpe. Một biến thể tương tự còn được gọi là kajmak trong nền ẩm thực Ba Lan, nơi nó được tạo ra một cách độc lập (dựa trên kaymak một loại kem đông ở Thổ Nhĩ Kỳ). Kajmak được sử dụng phổ biến nhất cho bánh xốp hoặc bánh mazurek. Theo truyền thống, chúng được ăn vào dịp Lễ Phục sinh.
Sada Masashi (さだ まさし, Sada Masashi) (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1952) là ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên và nhà văn người Nhật Bản. Ông còn được gọi thân mật với biệt danh Mattsan. Ông bắt đầu sự nghiệp âm nhạc chính thức với ban nhạc dân gian Grape vào năm 1972. Nhờ vào bản hit "精霊流し" (Shourou Nagashi), do bản thân sáng tác, ông trở nên nổi tiếng tại Nhật Bản. Ban nhạc tan rã vào năm 1976, sau khi sản xuất một số đĩa đơn nổi tiếng bao gồm "縁切寺" (En-kiri Dera) và "無縁坂" (Muen Zaka). Sau khi trở thành ca sĩ solo, ông tiếp tục sáng tác và biểu diễn nhiều ca khúc nổi tiếng như "雨やどり" (Amayadori), "案山子" (Kakashi), "関白宣言" (Kanpaku Sengen), "道化師のソネット" (Doukeshi no Sonnet), "親父の一番長い日" (Oyaji no Ichiban Nagai Hi), "北の国から〜遥かなる大地より〜" (Kita no Kuni Kara - Haruka naru Daichi yori). Đến thời điểm tháng 10 năm 2019, ông là nghệ sĩ có số lượng concert solo lớn nhất tại Nhật Bản, với hơn 4.400 buổi biểu diễn. Sự hài hước hóm hỉnh trong cách nói chuyện tự nhiên đã giúp ông thu hút khán giả trong các buổi hòa nhạc của mình và cũng làm việc trong vai trò người dẫn chương trình truyền hình, radio. Ông cũng hoạt động làm nhà văn với việc xuất bản các tác phẩm như "解夏" (Kaika) và "眉山" (Meizan). Masashi Sada, sinh năm 1952 tại Nagasaki, Nhật Bản. Ông là con trai lớn của Masato Sada và Kiyoko. Cha ông từng làm gián điệp tại Trung Quốc và Viễn Đông Nga trước khi trở thành thư ký của Bộ Công thương Nhật Bản. Mẹ ông là một phụ nữ Nhật Bản quản lý nhà hàng ở Vladivostok, Nga. Masashi có thời thơ ấu giàu đẹp, học chơi violin từ 3 tuổi. Sau khi tốt nghiệp trung học, ông trải nghiệm nhiều ngành nghề khác nhau trước khi quyết định trở thành nghệ sĩ âm nhạc. Năm 1972, cùng với bạn học trung học Masami Yoshida, ông thành lập ban nhạc "Grape." Sau khi phát hành đĩa đơn "Shourou Nagashi," nhóm nhanh chóng nổi tiếng. Tuy nhiên, vấn đề sức khỏe và sự hiểu lầm về hình ảnh âm nhạc đã dẫn đến sự tan rã của nhóm vào năm 1976. Sự nghiệp ca sĩ solo. Sau khi ban nhạc Grape tan rã vào năm 1976, Masashi Sada tạm thời rời xa ngành công nghiệp âm nhạc. Với sức khỏe suy giảm, ông bắt đầu hoạt động solo vào tháng 11 cùng năm với đĩa đơn "線香花火" (Senkou Hanabi). Lúc đó, ông rời khỏi công ty quản lý của mình The Bird Corporation, và thành lập công ty sản xuất của riêng mình, Sada Kikaku. Năm 1977, ông phát hành đĩa đơn "雨やどり" (Amayadori), một ca khúc hài hước về chuyện tình dưới mưa, trở thành một hit lớn đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Oricon. Điều này là một thành công đáng kể so với "精霊流し" (Seirei Nagashi), đĩa đơn bán chạy nhất trước đó, chỉ đạt vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng. Sau đó, những bài hát như "秋桜" (Aki Sakura) và "案山子" (Kakashi) cũng đạt được sự thành công. Năm 1978, ông thành lập hãng đĩa cá nhân "Free Flight" và tháng 1 năm 1979 phát hành đĩa đơn đầu tiên từ hãng này, "天までとどけ" (Amemade Todoke). Đĩa đơn "関白宣言" (Kanpaku Sengen) phát hành vào tháng 7, trở thành một bản hit lớn với hơn 1,5 triệu bản bán ra. Sau đó, ông ra mắt tác phẩm nổi tiếng khác như "親父の一番長い日" (Oyaji no Ichiban Nagai Hi), "道化師のソネット" (Dōkeshi no Sonetto), "防人の詩" (Bōnin no Uta), "驛舎" (Ekisha). Năm 1980, ông đóng vai chính và làm nhạc cho bộ phim "The Wings of Icarus." Ông cũng sản xuất và đạo diễn một bộ phim tài liệu về dòng sông Trường Giang ở Trung Quốc, "長江" (Chang Jiang) vào năm 1982. Trong giai đoạn này, với sự thất bại của bộ phim và không hòa hợp với tinh thần "lạnh lùng và mạnh mẽ" của thập kỷ 1980, cùng với sự chỉ trích về tính chất "cánh hữu" của một số bản nhạc, Sada đã trải qua giai đoạn khó khăn. Tuy nhiên, ông tiếp tục sự nghiệp và kỷ niệm nhiều sự kiện đặc biệt như buổi hòa nhạc số 1,000 vào năm 1985 và buổi hòa nhạc solo thứ 4,000 vào năm 2013. Ông cũng tham gia các hoạt động xã hội như tổ chức sự kiện "夏・長崎から" (Natsu Nagasaki Kara) để hòa mình vào nghệ thuật và công việc từ thiện. Năm 2018, ông chuyển sang hãng đĩa mới là JVC Kenwood Victor Entertainment và tiếp tục sự nghiệp sáng tác và biểu diễn.
Amblygobius phalaena là một loài cá biển thuộc chi "Amblygobius" trong họ Cá bống trắng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1837. Từ định danh "phalaena" cũng là tên một chi lỗi thời được Carl Linnaeus đặt cho hầu hết các loài bướm đêm, hàm ý không rõ, có lẽ đề cập đến tông màu nâu sẫm của loài cá này như những loài bướm đêm. Tình trạng phân loại. Do kích thước bé nhỏ và khó tiếp cận nên việc sử dụng các đặc điểm hình thái kết hợp với phương pháp mã vạch DNA giúp xác định và phân loại các loài cá bống trắng dễ dàng hơn. Kết quả phân tích gen của Daniel và cộng sự (2018) cho thấy, "A. phalaena" và "Amblygobius albimaculatus" là hai loài khác biệt, phù hợp với các nghiên cứu bác bỏ "A. phalaena" là đồng nghĩa của "A. albimaculatus" trước đây. Phân bố và môi trường sống. "A. phalaena" có phân bố rộng khắp khu vực Đông Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương, từ bang Tamil Nadu (cực nam Ấn Độ, gồm cả quần đảo Andaman) và quần đảo Cocos (Keeling) trải dài về phía đông đến quần đảo Marquises và Tuamotu (Polynésie thuộc Pháp), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản), về phía nam đến Úc (bao gồm đảo Lord Howe) và đảo Rapa Iti. Ở Việt Nam, "A. phalaena" được ghi nhận ở vùng biển ven bờ Bắc Trung Bộ, hòn Cau (Bình Thuận), cũng như cả quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. "A. phalaena" sống trên các rạn san hô hoặc trong đầm phá, nền đáy cát và đá vụn, đôi khi trong thảm cỏ biển, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 52 m. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "A. phalaena" là 15 cm. Cá có màu nâu lục sẫm với 5 vạch màu nâu đen. Đầu có nhiều vệt đốm màu xanh óng. Có một sọc sẫm màu viền nhạt băng qua mắt và một sọc khác ngang qua má. Các đốm trắng nhỏ xếp thành 3–4 hàng ngang trên thân. Vây lưng trước có đốm đen và một đốm khác ở gốc vây đuôi trên. Số gai ở vây lưng: 7; Số tia ở vây lưng: 13–15; Số gai ở vây hậu môn: 1; Số tia ở vây hậu môn: 14. Thức ăn của "A. phalaena" là tảo, động vật giáp xác và vụn hữu cơ. "A. phalaena" sống theo cặp hoặc đơn độc. Mỗi cặp đôi hoặc cá thể đơn độc có một hoặc nhiều hang trong phạm vi lãnh thổ của chúng. Hầu hết các cặp đôi vẫn ở bên nhau qua những lần sinh sản nối tiếp, chỉ một số ít cá thể là thay đổi bạn đời. Theo quan sát của Takegaki (2000), khi một con "A. phalaena" cái xâm phạm lãnh thổ của một cặp đôi, con đực có cơ hội giao phối với con cá cái xâm phạm đó nhưng bị ngăn cản bởi chính con cá cái trú ngụ trong lãnh thổ. Sự cạnh tranh giữa những con cái đó rất kịch liệt đến nỗi con đực không thể khống chế được chúng. Trứng hoàn toàn chỉ được chăm sóc bởi cá đực. Cá đực dùng vây ngực quạt vào cửa hang nơi chứa trứng có lẽ để cung cấp oxy vào hang. Thỉnh thoảng, cá đực nhẹ nhàng ngậm một phần trứng vào miệng rồi nhổ ra ngay. Khi có loài khác xâm phạm lãnh thổ, cá cái cũng cùng cá đực tấn công chúng, nhưng chưa có ghi nhận cho thấy cá cái vào hang chăm sóc trứng. Trong một thí nghiệm loại bỏ cá đực từ 5 cặp "A. phalaena" của Takegaki (2005), sau khi phát hiện bạn đời vắng mặt (khoảng 1–6 phút), cá cái ngay lập tức chui vào hang và bắt đầu quạt cho trứng như cá đực đã làm. Chỉ 2 cá thể cái lớn nhất trong số này (tổng chiều dài đều hơn 13 cm) là tiếp tục chăm sóc trứng cho đến khi chúng nở, còn những cá thể cái nhỏ hơn (11,6–12,3 cm) còn lại đều rời bỏ tổ trước khi trứng nở. Điều này cho thấy, kích thước có ảnh hưởng đến khả năng làm cha mẹ ở nhiều loài cá, vì kích thước lớn cho phép chúng chịu đựng về mặt thể chất cao hơn và khả năng chiến đấu chống lại kẻ săn trứng tốt hơn. Việc chuyển đổi sự chăm sóc của cá đực sang cá cái không biết chăm sóc trứng như "A. phalaena" có thể được giải thích bởi sự gần gũi thường xuyên về mặt không gian giữa bạn đời của chúng. "A. phalaena" có thể sống được hơn 14 tháng, cũng là tuổi thọ cao nhất được ghi nhận ở loài này. Cá đực trưởng thành sớm hơn so với cá cái. "A. phalaena" được đánh bắt trong ngành buôn bán cá cảnh.
Khu trung tâm hay phố trung tâm ("Downtown") là một thuật ngữ chủ yếu được sử dụng ở Bắc Mỹ chỉ về trung tâm thương mại, trung tâm văn hóa và thường là trung tâm lịch sử, trung tâm chính trị, trung tâm hành chính và địa lý của một thành phố. Nó thường đồng nghĩa với khu thương mại trung tâm (CBD). Thông thường, các khu trung tâm thành phố được vây quanh với mật độ dân số thấp hơn và thu nhập thấp hơn vùng ngoại ô. Ở một số khu vực khu vực đô thị, nó được đánh dấu bằng một cụm các tòa nhà cao tầng, các thiết chế văn hóa và sự hội tụ của các tuyến đường sắt và xe buýt. Trích dẫn đầu tiên của "Từ điển Oxford" về ""Downtown" hoặc "trung tâm thành phố" có từ năm 1770, liên quan đến trung tâm của thành phố Boston. Một số người cho rằng thuật ngữ "trung tâm thành phố"" được đặt ra ở Thành phố New York, nơi nó được sử dụng vào những năm 1830 để chỉ thị trấn ban đầu ở mũi phía nam của đảo Manhattan. Khu trung tâm Downtown được hiểu là những khu vực trung tâm của thành phố hoặc các khu đô thị quy mô lớn hiện đại có dân cư đông đúc. Và nơi nào có khu đô thị càng phát triển thì sẽ xuất hiện trung tâm thương mại sầm uất. Thường trung tâm thương mại có lợi thế bởi sự hoàn thiện, phát triển của hệ thống giao thông, cơ sở hạ tầng và có sự xuất hiện của các dự án căn hộ, sản phẩm nhà ở cao cấp như nhà phố, biệt thự. Khu trung tâm cũng có đầy đủ tiện ích dân sinh như trường học, bệnh viện, trung tâm thương mại, khu mua sắm, khu vui chơi, giải trí đủ để dáp ứng nhu cầu tìm được nơi an cư, di chuyển dễ dàng mà ít bị kẹt xe, khói bụi. Cư dân nơi đây sẽ hưởng trọn vẹn các động vui chơi, giải trí, mua sắm sầm uất. Còn là nơi thu hút du khách mọi nơi đến trải nghiệm là cho khu vực ngày càng sôi động náo nhiệt.
Tháng 8 năm 2023, do những chậm trễ trong việc phát triển tên lửa Starship, các quan chức của NASA đã để ngỏ về khả năng phóng Artemis 3 mà không thực hiện đổ bộ cùng phi hành đoàn. Trong trường hợp này, sứ mệnh có thể chuyển đổi thành một chuyến thăm có người lái tới trạm Lunar Gateway. Mục tiêu của Artemis 3 là đưa phi hành đoàn đổ bộ xuống vùng cực nam của Mặt Trăng. Dự tính đây sẽ là sứ mệnh đầu tiên đưa một phụ nữ cùng một người da màu lên vệ tinh tự nhiên của Trái Đất. Mặc dù sẽ có tới 4 phi hành gia bay trên tàu Orion, chỉ hai trong số đó đổ bộ lên bề mặt bằng Starship HLS và ở lại trong khoảng một tuần, trong khi những người khác sẽ tiếp tục ở trên Orion. Hai phi hành gia trong nhóm hạ cánh sẽ tiến hành lên đến bốn cuộc đi bộ trên bề mặt và thực hiện nhiều loại quan sát khoa học, bao gồm lấy mẫu băng nước. Trước khi Artemis 3 hạ cánh, một số thiết bị bổ sung sẽ được chuẩn bị sẵn trên bề mặt, bao gồm một xe tự hành Mặt Trăng không điều áp có khả năng điều khiển từ xa để các phi hành gia sử dụng trong quá trình du ngoạn. Một vài khu vực bóng tối vĩnh cửu có thể được tiếp cận bằng các quãng di chuyển ngắn từ 5 đến 15 km, vốn nằm trong phạm vi của xe tự hành. Hệ thống tên lửa đẩy vũ trụ (SLS). SLS là một tên lửa đẩy hạng siêu nặng được dùng để phóng tàu Orion từ Trái Đất đến quỹ đạo chuyển tiếp Mặt Trăng. Đây sẽ là sứ mệnh cuối cùng sử dụng SLS Block 1, thiết kế được dùng cho ba sứ mệnh đầu tiên. Kể từ Artemis 4 cho đến Artemis 8, SLS Block 1B, sở hữu một tầng tên lửa tốt hơn là EUS cùng với một khoang chứa hàng để vận chuyển đồ, sẽ được sử dụng. Orion là một phương tiện vận chuyển có người lái được sử dụng trong toàn bộ chương trình Artemis. Nó sẽ vận chuyển phi hành đoàn từ Trái Đất đến quỹ đạo Mặt Trăng rồi cập bến Starship, và đưa phi hành đoàn về lại Trái Đất. Starship HLS, kho chứa và các tàu chở thuốc phóng. Sau khi trải qua nhiều giai đoạn thiết kế, ngày 16 tháng 4 năm 2021, NASA đã lựa chọn SpaceX để phát triển Starship HLS và vận chuyển nó tới quỹ đạo halo cận tuyến tính (NRHO) xung quanh Mặt Trăng trước khi phi hành đoàn đến để sử dụng cho sứ mệnh Artemis 3. Quá trình vận chuyển yêu cầu Starship HLS phải được tiếp nhiên liệu ngay trên quỹ đạo Trái Đất trước khi được đẩy đến NRHO. Việc tiếp nhiên liệu lại cần phải có một kho thuốc phóng được đặt sẵn trên quỹ đạo và đã được lấp đầy bằng các (ít nhất 14) chuyến bay. Hai phi hành gia sẽ di chuyển từ Orion đến Starship HLS, sau đó họ sẽ được đưa xuống bề mặt Mặt Trăng và ở lại đó vài ngày trước khi quay trở lại Orion. Sau khi đưa các phi hành gia trở về, Starship HLS sẽ được xử lý bằng cách phóng vào quỹ đạo nhật tâm. Quá trình phát triển. Đầu năm 2020, các kế hoạch cho Orion và HLS gặp nhau với trạm Gateway đã bị hủy bỏ. Thay vào đó, Orion sẽ kết nối trực tiếp với HLS, và trạm Gateway sẽ được vận chuyển lên sau Artemis 3. Ngày 10 tháng 8 năm 2021, một cuộc kiểm tra của Văn phòng Tổng Thanh tra báo cáo kết luận rằng những bộ đồ du hành vũ trụ sẽ không thể sẵn sàng trước tháng 4 năm 2025, dẫn tới khả năng trì hoãn sứ mệnh so với kế hoạch trước đó là vào cuối năm 2024. Prada, cùng với Axiom Space, sẽ giúp thiết kế bộ đồ du hành. Ngày 9 tháng 11 năm 2021, Trưởng quản lý của NASA Bill Nelson xác nhận rằng Artemis 3 sẽ khởi động sớm nhất là vào năm 2025. Đến tháng 3 năm 2023, Artemis 3 được lên lịch phóng sớm nhất là vào tháng 12 năm 2025. Tháng 6 năm 2023, Jim Free, trưởng quản lý liên kết của NASA trong việc phát triển hệ thống thăm dò, nói rằng phi vụ phóng "có thể" sẽ không sớm hơn năm 2026.
Ngân hàng Trung ương Nga Ngân hàng Trung ương Nga (tiếng Nga: "Центральный банк Российской Федерации", tiếng Anh: "Central Bank of the Russian Federation", viết tắt là CBR), tên giao dịch là Ngân hàng Nga ("Банк России") là ngân hàng trung ương của Liên bang Nga. Ngân hàng Trung ương Liên bang Nga được thành lập vào ngày 13 tháng 7 năm 1990. Tiền thân của ngân hàng Trung ương Liên bang Nga có thể bắt nguồn từ Ngân hàng Nhà nước Đế quốc Nga được thành lập vào năm 1860 khi Quyết định thành lập Ngân hàng Nhà nước của Đế quốc Nga được Hoàng đế Peter III của Nga ban ra vào tháng 5 năm 1762. Hiện nay, Ngân hàng Nga có trụ sở chính tại Phố Neglinnaya ở Moscow. Chức năng của nó được quy định cụ thể tại Điều 75 Hiến pháp Nga. Theo hiến pháp, đây là một thực thể độc lập, có trách nhiệm chính trong việc bảo vệ sự ổn định của đồng tiền quốc gia là đồng rúp Nga (rúp), chức năng và quyền hạn của CBR đã được mở rộng đáng kể và ngân hàng trung ương đã nhận được tư cách là cơ quan quản lý quy mô về mọi mặt đối với thị trường tài chính của Nga.
Ngân hàng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (tiếng Lào: ທະນາຄານ ແຫ່ງ ສ. ປ. ປ. ລາວ) là ngân hàng trung ương của Lào thuộc sở hữu 100% vốn của Nhà nước Lào. Đây cũng là ngân hàng cấp cuối cùng, kiểm soát nguồn cung tiền, quản lý dự trữ quốc gia và giám sát các ngân hàng thương mại hoạt động tại Lào. Ngân hàng được quản lý dưới quyền một ban điều hành gồm một Thống đốc và một Phó thống đốc. Thống đốc hiện tại là Xonexay Sithphaxay. Ngân hàng Lào được thành lập vào ngày 7 tháng 10 năm 1968 và đã hoạt động tại thủ đô Vientiane cho đến nay. Ngân hàng Lào kế thừa từ Ngân hàng Quốc gia Lào vốn đã được tiếp quản vào đầu năm 1955 từ Institut d'Émission des États du Cambodge, du Lào et du Việt Nam do Pháp kiểm soát. Vào ngày 16 tháng 12 năm 1979, đồng kip "Giải phóng" Pathet Lào cũ được thay thế bằng đồng kip Lào mới với tỷ lệ 100 ăn 1.
Ngân hàng Palestine (tiếng Ả rập: بنك فلسطين, tiếng Anh: "Bank of Palestine", viết tắt: BoP) là một tổ chức ngân hàng đa quốc gia của Nhà nước Palestine được thành lập tại Dải Gaza vào năm 1960. Ngân hàng Palestine có trụ sở chính tại Ramallah, Bờ Tây và là tổ chức tài chính hàng đầu ở Palestine với giá trị tài sản ròng là 6,5 tỷ USD Đô la Mỹ (USD). Ngân hàng Palestine là tập đoàn ngân hàng phân bố theo địa lý nhất ở Palestine với 74 chi nhánh và chi nhánh công ty con. Trụ sở chính của ngân hàng đặt tại Ramallah của Bờ Tây Palestine. Ngân hàng Palestine cũng có văn phòng đại diện tại Dubai thuộc Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất (UAE) và Santiago của Chile. Ngân hàng được thành lập tại Thành phố Gaza vào năm 1960 là ngân hàng đầu tiên ở Palestine. Hasheem Atta Shawa thành lập một nhà băng với tư cách là một ngân hàng nông nghiệp để giúp nông dân phát triển hoạt động kinh doanh cây có múi (citrus) vì gia đình Shawa cũng kinh doanh cây có múi vào thời điểm đó. Ngân hàng hỗ trợ nông dân vay mua thiết bị nông nghiệp, nông cụ canh tác. Đầu những năm 1990, Tiến sĩ Hani Shawa tiếp quản việc điều hành ngân hàng. Hashim Shawa vào năm 31 tuổi đã trở thành chủ tịch kiêm giám đốc điều hành ngân hàng sau khi cha anh qua đời năm 2007. Kể từ đó, ngân hàng có khoảng 1.980 nhân viên và phục vụ hơn 900.000 khách hàng. Vào năm 2019, ngân hàng là bị đơn của một Khiếu nại trong vụ kiện với án lệ " Singer v. Bank of Palestine " (số vụ việc: 1:19-cv-00006) tuyên bố rằng ngân hàng này đã hỗ trợ cho tổ chức Hamas bằng cách cung cấp các dịch vụ tài chính và duy trì tài khoản cho “"tổ chức khủng bố"” Hamas. Ngân hàng Palestine tuyên bố rằng không có cơ sở pháp lý đằng sau yêu cầu của nguyên đơn và họ đã và đang thực hiện “"các biện pháp nhanh chóng và mạnh mẽ"” để bác bỏ vụ kiện này với cáo buộc vô căn cứ này.
Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Giải đấu Nam Giải đấu nam nội dung khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 là giải đấu lần thứ 17 của nội dung khúc côn cầu trên cỏ dành cho nam tại Đại hội thể thao châu Á. Giải đấu được tổ chức cùng với giải đấu nữ tại Sân khúc côn cầu trên cỏ của Công viên thể thao Kênh Củng Thự ở Hàng Châu, Trung Quốc từ 24 tháng 9 đến 6 tháng 10 năm 2023. Ấn Độ đã giành chức vô địch Đại hội Thể thao châu Á lần thứ tư khi đánh bại đương kim vô địch Nhật Bản 5–1 trong trận chung kết. Hàn Quốc giành huy chương đồng sau khi đánh bại chủ nhà Trung Quốc 2–1. Với tư cách là đội vô địch, Ấn Độ đủ điều kiện trực tiếp tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024. section begin=A /section end=A / section begin=B /section end=B / Trận tranh hạng 11. section begin=11PM /#đổi section end=11PM / Trận tranh hạng 9. section begin=9PM /#đổi section end=9PM / Trận tranh hạng 7. section begin=7PM /#đổi section end=7PM / Trận tranh hạng 5. section begin=5PM /#đổi section end=5PM / Vòng tranh huy chương. section begin=SF1 /#đổi section end=SF1 / section begin=SF2 /#đổi section begin=SF2 / Tranh huy chương đồng. section begin=BMM /#đổi section end=BMM / Tranh huy chương vàng. section begin=GMM /#đổi section end=GMM / Số liệu thống kê. Bảng xếp hạng cuối cùng.
Kinh tế Palestine ("Economy of the State of Palestine") đề cập đến hoạt động kinh tế của Nhà nước Palestine. Kinh tế Palestine được xếp hạng là những nền kinh tế đang phát triển, thuộc nhóm nền kinh tế thu nhập trung bình thấp. Năm 2019 thì GDP tăng trưởng −2.5% (2019) và đạt 2.1% (2020). Nông nghiệp là trụ cột trong nền kinh tế của Palestine. Sản xuất nông sản hỗ trợ nhu cầu sinh hoạt của người dân và thúc đẩy nền kinh tế xuất khẩu của Palestine. Theo Hội đồng Quan hệ Palestine ở Châu Âu, ngành nông nghiệp sử dụng chính thức 13,4% dân số và sử dụng không chính thức 90% dân số. Đây là nền kinh tế dựa vào viện trợ nhân đạo, từ thiện từ nước ngoài để duy trì và còn bị phụ thuộc kiểm soát, chèn ép bởi Israel mà có thể bóp nghẹt bất cứ lúc nào. GDP bình quân đầu người ở các vùng lãnh thổ Palestine tăng 7% mỗi năm từ năm 1968 đến năm 1980 nhưng chậm lại trong những năm 1980. Từ năm 1970 đến 1991, tuổi thọ người Palestin tăng từ 56 lên 66 tuổi, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh trên 1.000 trẻ giảm từ 95 xuống 42, số hộ gia đình có điện để dùng tăng từ 30% lên 85%, số hộ có nước sạch tăng từ 15% lên 90%, số hộ có tủ lạnh tăng từ 11% lên 85% và số hộ gia đình có máy giặt tăng từ 23% năm 1980 lên 61% năm 1991. Trong 10 năm qua, tỷ lệ thất nghiệp ở Palestine đã tăng lên và ngành nông nghiệp trở thành ngành nghèo nàn nhất ở Palestine và tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh điểm vào năm 2008 khi lên tới 41% ở dải Gaza. Viện trợ nước ngoài và thâm hụt ngân sách cũng là vấn đề của kinh tế Palestine. Vì những điều kiện trong lãnh thổ mà họ quản lý, Chính quyền Palestine (PA) đã nhận được khoản hỗ trợ tài chính chưa từng có từ cộng đồng quốc tế. Theo Ngân hàng Thế giới, USD $929 triệu đã được cộng đồng quốc tế trao cho Chính quyền Dân tộc Palestine (PNA) năm 2001, $891 triệu năm 2003 và $1.1 tỷ năm 2005 (chiếm 53% ngân sách năm 2005). Các mục đích chính là hỗ trợ cho ngân sách, viện trợ phát triển và y tế công cộng. Năm 2003, Hoa Kỳ cung cấp $224 triệu, EU $187 triệu, Liên đoàn Ả Rập $124 triệu, Na Uy $53 triệu, Ngân hàng Thế giới $50 triệu, Anh Quốc là $43 triệu, Ý là $40 triệu và $170 triệu cuối cùng đến từ các quốc gia và tổ chức khác. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì thâm hụt ngân sách là khoảng $800 triệu năm 2005, với gần một nửa số này được các nhà tài trợ cung cấp. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới cho biết rằng tình hình tài chính của Palestine đã ngày càng trở nên mất ổn định chủ yếu di sự chi tiêu không kiểm soát của chính phủ, đặc biệt tăng nhanh trong khoản chi trả lương, mở rộng các cơ cấu di chuyển xã hội và tăng cho vay thực. Tham nhũng chính phủ được nhiều người coi là nguyên nhân của hầu hết tình hình tài chính khó khăn của Chính quyền Palestine. Sự trừng phạt kinh tế sau cuộc bầu cử lập pháp tháng 1 năm 2006 cũng đã tác động mạnh mẽ đến kinh tế Palestine. Sau cuộc bầu cử lập pháp tháng 1 năm 2006, với thắng lợi của Hamas, Nhóm bộ tứ (Hoa Kỳ, Nga, Liên minh châu Âu và Liên hiệp quốc) đã đe doạ cắt những khoản viện trợ cho Chính quyền Palestine. Ngày 2 tháng 2 năm 2006, theo AFP, thì Chính quyền dân tộc PNA đã cáo buộc Israel ""tiến hành trừng phạt tập thể sau khi họ không quan tâm tới những kêu gọi của Hoa Kỳ nhằm giải toả các khoản tiền thuộc sở hữu của người Palestine". Thủ tướng Ahmed Qorei cho biết rằng rằng ông hy vọng tìm kiếm được những khoản tiền thay thế khác để đáp ứng sự thiếu hụt ngân sách khoảng 50 triệu dollar, cần thiết để trả lương các nhân viên công, và số tiền này đáng lẽ đã phải được Israel trao cho PA vào ngày đầu tiên của tháng. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chỉ trích Israel vì không nhanh chóng dỡ bỏ phong toả khoản tiền được trông chờ này. Khoản tiền này sau đó đã được dỡ bỏ phong toả. Tuy nhiên, tờ "New York Times" đã công bố vào ngày 14 tháng 2 năm 2006 rằng một "kế hoạch bất ổn hoá" của Hoa Kỳ và Israel, với mục đích chống Hamas, bên giành chiến thắng trong cuộc bầu cử lập pháp tháng 1 năm 2006, tập trung "chủ yếu nhờ vào tiền bạc"" và cắt mọi khoản tiền cho Chính quyền Palestine một khi phe Hamas lên nắm quyền lực, để làm họ mất đi tính hợp pháp trong con mắt người dân Palestine. Theo bài báo của tờ Thời báo Nữu Ước thì Chính quyền Palestine có khoản thâm hụt tiền mặt hàng tháng khoảng $60 triệu tới $70 triệu sau khi họ nhận khoảng $50 triệu tới $55 triệu mỗi tháng từ Israel về các khoản thuế và phí hải quan do các quan chức Israel thu tại biên giới nhưng thuộc sở hữu của người Palestine. Bắt đầu từ tháng 3 năm 2006, Chính quyền Palestine sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt tiền mặt ít nhất $110 triệu mỗi tháng, hay hơn $1 tỷ mỗi năm, là khoản tiền cần thiết để trả đủ lương cho 140.000 nhân viên, là những người lao động chính cung cấp cho ít nhất một phần ba dân số Palestine. Con số nhân viên gao gồm khoảng 58.000 thành viên các lực lượng an ninh, chủ yếu trong số đó thuộc về phong trào Fatah vừa thất bại trong cuộc bầu cử. Từ cuộc bầu cử ngày 25 tháng 1 năm 2006 thì thị trường chứng khoán Palestine đã giảm khoảng 20% điểm, trong khi Chính quyền đã cạn kiệt khả năng vay mượn với các ngân hàng địa phương. Những cáo buộc về việc sử dụng hỗ trợ của Liên minh châu Âu không đúng mục đích tài trợ. Tháng 2 năm 2004, có thông báo rằng văn phòng chống gian lận của Liên minh châu Âu (EU) (OLAF) đang nghiên cứu các tài liệu cho thấy Yasser Arafat và Chính quyền Palestine đã chuyển hướng hàng triệu dollar từ các khoản tài trợ của EU tới các tổ chức liên quan tới các cuộc tấn công khủng bố, như Lữ đoàn Tử vì đạo Al-Aqsa. Tuy nhiên, vào tháng 8 năm 2004, một đánh giá tạm thời nói rằng "Tới thời điểm hiện tại, chưa có bằng chứng rằng những khoản tiền từ khoản Ngân sách Hỗ trợ Trực tiếp không mục tiêu của EU cho Chính quyền Palestine đã bị sử dụng cung cấp cho các hoạt động bất hợp pháp, gồm cả khủng bố." Một Nhóm công tác độc lập của EU cũng đã ra một báo cáo vào tháng 4 năm 2004, được thông qua với số phiếu 7-6, đề cập tới giai đoạn từ cuối năm 2000 tới cuối năm 2002, nói rằng viện trợ của EU đã không bị chuyển tới cho các chiến binh Palestine đang tiến hành các cuộc tấn công vào người dân Israel: "Không có bằng chứng xác định, cho tới thời điểm hiện tại, rằng khoản hỗ trợ ngân sách trực tiếp không mục tiêu của EU đã bị sử dụng cung cấp cho các hoạt động bất hợp pháp, gồm cả cung cấp cho Chủ nghĩa khủng bố". Hơn nữa, EU đã thay đổi cách thức tài trợ cho người Palestine và hiện sử dụng viện trợ có mục đích cho các mục đích cụ thể. Từ tháng 4 năm 2003, tiền chỉ được chuyển nếu nhiều điều kiện được đáp ứng, như việc xuất trình các hoá đơn cho các khoản người Palestine cần trả. EU vẫn là nhà tài trợ lớn nhất cho Chính quyền Palestine. Các khoản chi trả cho các tù nhân Palestine tại các nhà tù của Israel cũng chiếm tỷ trọng thâm hụt ngân sách. Dù người Palestine bị Israel tùy ý bắt giữ nhưmg chính quyền Palestine vẫn phải chi trả các chi phí cho Israel. Ngày 22 tháng 7 năm 2004, Salam Fayyad, Bộ trưởng Tài chính Chính quyền dân tộc Palestine PNA, trong một bài báo trên tờ tuần báo Palestine có tên "The Jerusalem Times" đã chỉ rõ các khoản chi trả sau cho những người Palestine bị chính quyền Israel giam giữ gồm:: Sau cuộc bầu cử lập pháp năm 2006, với thắng lợi của Hamas thì ngay lập tứng Israel đã ngừng chuyển giao $55 triệu tiền thuế cho Chính quyền Palestine, vì rằng bởi Chính quyền Palestine không có điểm tiếp cận (cảng, sân bay) để thu thuế, mà do chính Israel đảm nhiệm điều này chứ không ai khác. Những khoản tiền đó chiếm một phần ba ngân sách của Palestine, hai phần ba ngân sách riêng của chính quyền Palestine và là nguồn đảm bảo trả lương bổng cho 160.000 nhân viên dân sự Palestine (trong số đó có 60.000 nhân viên an ninh và cảnh sát), đây còn là số tiền mà một phần ba dân số Palestine sống phụ thuộc vào nó. Israel cũng đã tăng việc kiểm soát tại các điểm gác, là một lý do chính dẫn tới cuộc giảm phát kinh tế 2001-2002 từ đầu cuộc Intifada lần thứ hai mà Ngân hàng Thế giới đã so sánh với cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929. Hơn nữa, Hoa Kỳ và EU đã ngừng viện trợ trực tiếp cho Palestine, trong khi Hoa Kỳ áp đặt một lệnh phong toả tài chính với các ngân hàng của Palestine (Ngân hàng Palestine), treo một số khoản tiền của Liên đoàn Ả Rập (ví dụ Ả Rập Xê Út và Qatar) được chuyển cho Palestine Ngày 6 và 7 tháng 5 năm 2006, hàng trăm người Palestine đã biểu tình tại dải Gaza và Bờ Tây yêu cầu được trả lương. Căng thẳng giữa Hamas và Fatah đã gia tăng với sự "túng quẫn kinh tế" của Palestine. Tổ chức Liên hiệp quốc đã lưu ý rằng thất nghiệp của nước này được ước tính ở mức 23% năm 2005, sẽ tăng lên thành 39% năm 2006, trong khi tỷ lệ nghèo khổ, được ước tính ở mức 44%, sẽ tăng lên 67% năm 2006. Sản xuất kinh tế của Dải Gaza đã giảm một phần ba từ 1992 đến 1996. Sự sụt giảm này phần lớn vì tham nhũng và quản lý kém của Yasser Arafat và các chính sách phong tỏa của Israel—sự ép buộc đóng cửa biên giới để trả đũa các vụ tấn công khủng bố vào Israel—đã phá vỡ các mối quan hệ thị trường lao động và hàng hóa được lập nên trước đó giữa Israel và Dải Gaza. Hậu quả tồi tệ nhất của sự suy giảm này là tình trạng thất nghiệp gia tăng. Việc áp dụng biện pháp phong tỏa toàn diện của Israel đã giảm bớt trong những năm gần đây và vào năm 1988, Israel đã đưa ra các biện pháp mới nhằm giảm bớt các hậu quả của việc phong tỏa và các biện pháp an ninh khác đối với việc di chuyển hàng hòa và lao động của Palestine vào Israel. Những thay đổi đó đã khiến cho nền kinh tế Dải Gaza phục hồi đáng kể trong ba năm liền. Sự phục hồi kinh tế này chỉ chấm dứt khi phong trào al-Aqsa Intifada nổ ra vào ba tháng cuối năm 2000. Phong trào ném đá al-Aqsa Intifada chỉ khiến cho các lực lượng an ninh Israel (IDF) kiểm soát và phong tỏa chặt chẽ biên giới cũng như thường xuyên hạn chế việc đi lại bên trong những vùng tự trị của người Palestine, gây ảnh hưởng lớn đến di chuyển thương mại và lao động. Năm 2001, và thậm chí còn nghiêm trọng hơn vào đầu năm 2002, sự xáo động quốc tế và những biện pháp quân sự của Israel trong những vùng tự trị của Palestine đã phá hủy các cơ sở kinh tế và hành chính của vùng này, mở rộng việc phong tỏa khiến GDP của Dải Gaza giảm mạnh. Một nhân tố chính khác khiến giảm sút thu nhập của vùng là việc hạn chế số người Palestine được phép vào làm việc tại Israel. Sau khi Israel rút quân khỏi Dải Gaza, một lần nữa họ lại cho phép công nhân Palestine vào Israel làm việc nhưng từ sau khi Hamas lên nắm quyền sau cuộc bầu cử nghị viện năm 2006., Israel đang có ý định giảm bớt và thậm chí là chấm dứt cho phép người Palestine được vào Israel làm việc. Trong thời gian những người định cư Israel còn ở tại Dải Gaza, họ đã xây dựng những nhà kính và thực nghiệm những biện pháp canh tác mới. Những nhà kính đó cũng là nơi cung cấp hàng trăm việc làm cho người Palestine ở Gaza. Khi Israel rút quân khỏi Dải Gaza vào mùa hè năm 2005, các nhà kính đó được Ngân hàng thế giới mua lại và trao cho người dân Palestine để khôi phục nền kinh tế của họ. Đa số những nhà kính đó hiện được các nông dân Palestine sử dụng, dù đã có những vụ cướp phá xảy ra ở vài nơi. Theo CIA World Factbook, GDP năm 2001 giảm 35% xuống mức thu nhập trên đầu người còn $625 một năm, và 60% dân số hiện sống dưới mức nghèo khổ. Các ngành công nghiệp tại Dải Gaza nói chung là nhỏ và đều là kiểu sản xuất gia đình với các sản phẩm dệt may, xà phòng, điêu khắc trên gỗ cây ô liu và các đồ thủ công mỹ nghệ làm từ vỏ trai; người Israel đã thành lập một số ngành công nghiệp ở mức độ nhỏ tại một trung tâm công nghiệp. Điện do Israel cung cấp. Các sản phẩm nông nghiệp chính là ô liu, chanh, các loại rau, thịt bò, và các sản phẩm sữa. Xuất khẩu chính là chanh và hoa, trong khi nhập khẩu gồm thực phẩm, các loại hàng tiêu thụ, và các vật liệu xây dựng. Đối tác thương mại chính của Dải Gaza là Israel, Ai Cập, và Bờ Tây.
Toà nhà trung tâm thương mại có 5 tầng với hơn 100 cửa hàng với diện tích hơn 12.600 mét vuông. Hầm gửi xe dành cho 416 xe hơi, bao gồm dịch vụ gác cửa và đậu xe. Gaysorn được quản lý bởi Gaysorn Land Asset Management Co., Ltd., một đối tác giữa Gaysorn Group Hongkong Land Limited. Trung tâm thương mại Gaysorn là một phần của quận mua sắm Ratchaprasong tại Băng Cốc.
Chủ tịch Hội đồng nhân dân Chủ tịch Hội đồng nhân dân (nói ngắn gọn hơn là Chủ tịch HĐND) là người đứng đầu, lãnh đạo, quản lí các công việc tại Hội đồng nhân dân, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Chủ tịch Hội đồng nhân dân được Hội đồng nhân dân bầu ra trong số các đại biểu Hội đồng nhân dân, có nhiệm kì 5 năm và chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Quyền hạn và nghĩa vụ. Theo Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Hội đồng nhân dân có các nhiệm vụ và quyền hạn chung như sau:
Safeguard Program là một hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo của Lục quân Hoa Kỳ được thiết kế để bảo vệ các giếng phóng tên lửa đạn đạo ICBM Minuteman của Không quân Mỹ khỏi các cuộc tấn công, từ đó giúp duy trì khả năng răn đe hạt nhân của Mỹ. Nó sẽ là công cụ chính để bảo vệ Mỹ trước lực lượng tên lửa đạn đạo tương đối nhỏ của Trung Quốc, trong khi có khả năng hạn chế thiệt hại trước các cuộc tấn công hạt nhân của Liên Xô. Trong khi đó một cuộc tấn công hạt nhân tổng lực của Liên Xô sẽ dễ dàng đánh bại hệ thống phòng thủ này. Safeguard là sự phát triển cuối cùng của một loạt thiết kế tên lửa phòng thủ tên lửa đạn đạo do Bell Labs phát triển, bắt đầu từ những năm 1950 với Nike Zeus. Đến năm 1960, người ta nhận thấy hệ thống Nike Zeus hầu như không thể bảo vệ trước một cuộc tấn công bằng ICBM có sử dụng mồi nhử. Một thiết kế mới xuất hiện, Nike-X, với khả năng đối phó với các cuộc tấn công hạt nhân bằng hàng trăm đầu đạn và hàng nghìn mồi nhử, nhưng chi phí của hệ thống này rất lớn. Một giải pháp thay thế là Sentinel program cung cấp khả năng phòng thủ trước các cuộc tấn công hạt nhân giới hạn. Sentinel bắt đầu được xây dựng vào năm 1968 nhưng vấp phải làn sóng phản đối dữ dội về việc các căn cứ của nó được đặt ở khu vực ngoại ô. Vào tháng 3 năm 1969, Tổng thống sắp nhậm chức Richard M. Nixon tuyên bố hủy bỏ chương trình Sentinel, đồng thời các căn cứ của hệ thống phòng thủ tên lửa sẽ được đặt cách xa khu vực dân cư. Các cuộc bàn luận liên quan đến hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo tiếp tục diễn ra hơn một thập kỷ sau khi chương trình Safeguard được thành lập, vànhững lập luận chống lại một hệ thống như vậy đã được biết đến rộng rãi cả trong giới quân sự và dân sự. Trong giới quân sự, lập luận cơ bản nhất chống lại hệ thống Safeguard là việc bổ sung hệ thống ABM sẽ khiến Liên Xô phải chế tạo thêm ICBM để vượt qua hệ thống phòng thủ ABM, nhưng điều này cũng đúng nếu thay vào đó Mỹ chế tạo thêm ICBM. Lực lượng Không quân muốn chế tạo thêm nhiều tên lửa đạn đạo ICBM hơn là dựa vào hệ thống phòng thủ ABM do Lục quân phát triển, và Không quân Mỹ tiến hành vận động hành lang để chống lại Lục quân Mỹ tiếp tục triển khai Safeguard. Nixon vẫn tiếp tục ủng hộ chương trình ABM Safeguard bất chấp sự phản đối và phàn nàn về hiệu quả hạn chế, và lý do cho sự ủng hộ mạnh mẽ của ông vẫn là chủ đề tranh luận giữa các nhà sử học và nhà bình luận chính trị. Trong suốt kỷ nguyên Bảo vệ, các cuộc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, ban đầu do Tổng thống Lyndon B. Johnson khởi xướng vẫn tiếp tục. Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo năm 1972 giới hạn Mỹ và Liên Xô mỗi nước có hai địa điểm ABM. Safeguard được thu hẹp quy mô triển khai ở các địa điểm ở Bắc Dakota và Montana, từ bỏ dự định triển khai tại Missouri và hủy bỏ tất cả các địa điểm đã được lên kế hoạch khác. Việc xây dựng hai căn cứ còn lại tiếp tục cho đến năm 1974, khi một thỏa thuận bổ sung giới hạn Liên Xô và Mỹ chỉ triển khai một địa điểm ABM duy nhất. Do đó, căn cứ Safeguard tại Montana bị bỏ hoang với radar chính đã hoàn thành một phần. Căn cứ còn lại ở Bắc Dakota, Căn cứ phòng thủ Stanley R. Mickelsen, bắt đầu hoạt động vào ngày 1 tháng 4 năm 1975 và hoạt động đầy đủ vào ngày 1 tháng 10 năm 1975. Vào thời điểm đó, Ủy ban Thẩm định Hạ viện đã bỏ phiếu hủy kích hoạt nó. Căn cứ này bị ngừng hoạt động vào ngày 10 tháng Hai năm 1976.
Zucca (rượu khai vị) Zucca ([ˈdzukka; ˈtsukka]) là một loại rượu khai vị của Ý. trong tiếng Ý có nghĩa là "bí" hoặc "bí ngô", nhưng tên của loại rượu này lại thực sự được đặt theo "Caffè Zucca", nằm ở Galleria Vittorio Emanuele II, Milano. Thành phần cơ bản của món đồ uống này là đại hoàng, có danh pháp khoa học là "Rheum rhabarbarum," do đó thức uống có một cái tên dài hơn là "Rabarbaro Zucca." Thành phần của Zucca còn có vỏ cam chanh bào, hạt bạch đậu khấu và các loại thảo dược chữa bệnh khác. Zucca có vị đắng tinh tế và dễ chịu và thường được pha với nước có ga và đá. Zucca có liên quan chặt chẽ với các loại rượu khai vị truyền thống khác của Ý, như Campari, Punt e Mes, và Cynar, vì nó tương đối nhẹ, với 30 độ cồn. Đây là một đổi hướng từ một trang đó đã được . Trang này được giữ lại dưới dạng một trang đổi hướng để tránh phá vỡ các liên kết, cả bên trong và bên ngoài, có thể đã được liên kết tới tên trang cũ.
Cấu trúc đô thị Cấu trúc đô thị ("Urban structure") là sự sắp xếp, bố trí, quy hoạch sử dụng đất (hệ số sử dụng đất K) trong khu đô thị, hay nói cách khác là việc sử dụng đất của một thành phố được hoạch định quy cũ như thế nào. Các Nhà quy hoạch đô thị, nhà kinh tế và nhà địa lý đã phát triển một số mô hình giải thích nơi những cư dân và doanh nghiệp khác nhau có xu hướng tồn tại trong môi trường đô thị. Cấu trúc đô thị cũng có thể đề cập đến yếu tố "Cấu trúc không gian đô thị" ("Urban spatial structure") liên quan đến việc sắp xếp công cộng và không gian riêng tư trong thành phố cũng như mức độ khả năng kết nối và khả năng tiếp cận. Cấu trúc đô thị là bộ khung góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển đô thị. Đô thị được xem như là một hệ thống và mỗi hệ thống luôn gắn liền với hình thức tổ chức nhất định của các khu chức năng. Mỗi một đô thị cần có một cấu trúc đô thị nhằm định hướng phát triển đô thị theo một nguyên tắc đảm bảo sự cân đối hài hòa các thành phần của đô thị. Cấu trúc đô thị chính là bộ khung góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển đô thị. Thành phần cấu tạo nên cấu trúc đô thị bao gồm: Hệ thống giao thông đô thị và Hệ thống các khu chức năng trong đô thị (các đơn vị chức năng đô thị được bố trí thành hệ thống). Cấu trúc đô thị có vai trò quyết định các giải pháp quy hoạch các thành phần đất đai đô thị và hướng đến sự phát triển lâu dài và bền vững cho đô thị. Vai trò của hệ thống giao thông được xác định là bộ khung của đô thị, dựa vào nó, các khu vực chức năng đô thị được bố trí gắn kết với nhau, giữ vai trò liên kết giữa các khu vực chức năng, vừa giữ vai trò giới hạn các khu vực này. Khả năng định hướng và lựa chọn vị trí các khu vực chức năng như khu trung tâm, các công trình dịch vụ, các khu công nghiệp sản xuất đều được nghiên cứu trên sự thuận lợi của hệ thống giao thông. Giải pháp thiết kế các khu vực chức năng đều chịu ảnh hưởng của hệ thống giao thông: Cấu trúc đô thị là bộ khung hạ tầng kỹ thuật để bảo đảm cho chức năng hạ tầng xã hội đô thị hoạt động hiệu quả. Hạ tầng xã hội đô thị được hiểu là hệ thống các công trình phục vụ cho những nhu cầu và dịch vụ của cư dân, của bộ máy hành chính và các cơ sở sản xuất. Hệ thống công trình này bao gồm hành chính, y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, du lịch, dịch vụ thương mại, mảng cây xanh, công viên và các công trình khác (trừ các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị), được tổ chức cân đối và liên kết với nhau trong không gian đô thị. Việc đáp ứng các nhu cầu hạ tầng kỹ thuật như đi lại, giao thông, cấp nước, thoát nước, cấp điện là những nhu cầu vật chất quan trọng, các nhu cầu về hạ tầng xã hội như học tập, chữa bệnh, văn hóa, thể thao là những nhu cầu cần thiết. Hạ tầng xã hội là một căn cứ quan trọng hình thành cấu trúc chức năng, như linh hồn tạo dựng nên đô thị phát triển. Quy hoạch đô thị và hạ tầng xã hội được liên kết với các hoạt động nghiên cứu – lập quy hoạch – quản lý đầu tư – khai thác đô thị. Các hoạt động này được thực hiện trong một chuỗi thống nhất, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng của đồ án quy hoạch. Quy hoạch công trình hạ tầng xã hội cần xác định được mô hình liên kết giữa hạ tầng xã hội với các chức năng khác trong đô thị. Xác định được các vùng chức năng chính, đề xuất được các yêu cầu, chỉ tiêu, quy mô công trình hạ tầng xã hội phù hợp với các giai đoạn phát triển đô thị, dự báo quy mô công trình hạ tầng xã hội trên cơ sở chiến lược phát triển hạ tầng xã hội, xác định các công trình đầu mối, mạng lưới, vị trí và quy mô mang tính chất vùng hoặc liên vùng. Việc xây dựng đô thị nén (Compact) và tránh dàn trải là một nội dung quan trọng trong chiến lược đô thị tăng trưởng. Khái niệm về đô thị nén hay nhỏ gọn ra đời trong bối cảnh các thành phố mở rộng dàn trải cùng với bùng nổ của xe hơi. Yếu tố Thu nhập cá nhân tăng nhanh và tầng lớp trung lưu mở rộng cổ súy cho phong cách sống biệt lập thúc đẩy quá trình đô thị hóa ở ngoại vi ("Suburbanization"). Sự lan tỏa nhanh chóng của các dự án nhà ở mật độ thấp được hỗ trợ bởi lợi nhuận của ngành bất động sản, xe hơi, và quản lý quy hoạch. Nhiều khu ngoại vi thành phố lớn trở thành các thị trấn chỉ để ngủ được gọi là phố qua đường, phố qua đêm ("Bed town", tiếng Nhật: ベッドタウン, Beddotaun) còn dịch vụ ngày càng xa nơi có việc làm. Người dân phải di chuyển ngày càng xa hơn để đi làm với sự lệ thuộc vào xe hơi cá nhân là biểu hiện của các đô thị dàn trải ("Urban sprawl"). Đô thị hóa dàn trải dựa trên nền tảng xe hơi đã được chứng minh thiếu tính bền vững vì khi kết nối lệ thuộc vào xe ô tô cá nhân gây ách tắc giao thông tại các cửa ngõ trung tâm và các trục chính. Các khu đô thị ngoại vi mật độ ở thấp làm tăng cự ly di chuyển, tăng phát thải khí nhà kính và khí gây ô nhiễm môi trường, tăng chi phí xã hội do tắc nghẽn, tốn kém nhiên liệu. Các khu vực được nén thường là trung tâm dịch vụ, dọc hành lang giao thông công cộng nơi có thể khai thác phương thức đi lại phi cơ giới như đi bộ và xe đạp, dành thêm không gian công cộng, cho cây xanh, và mặt nước, tăng khả năng tiếp cận đến tự nhiên, tạo điều kiện để tạo sự đa dạng trong hệ sinh thái định cư, đem nhiều việc làm đến gần chỗ ở. Đô thị càng lớn và nén càng cao ở trung tâm cần có vùng ngoại vi càng rộng để dự trữ nước (hồ điều hòa), để làm nông nghiệp đô thị, và không gian sinh thái rừng và đất ngập nước đảm bảo cân bằng sinh thái. Mức độ nén ở khu vực trung tâm cần đi kèm với không gian công cộng. Các khu vực chức năng như trung tâm thương mại, nhà ở, đầu mối giao thông, kho vận logistics, hay khu công nghiệp cần chỉ số nén về xây dựng là hệ số sử dụng đất chứ không đo bằng dân số. Khu trung tâm (CBD) có thể kết hợp ở và mức độ nén cần cao để phục vụ kinh doanh nhưng cũng cần nhiều không gian dành cho giao thông và công trình công cộng. Tỷ lệ nén ở khu vực trung tâm có mật độ cao phụ thuộc vào năng lực hệ thống hạ tầng giao thông và vận tải hành khách công cộng. Mô hình nhà ở có tác động lớn tới mức độ nén tổng thể của đô thị, cách thức xây dựng nhà ở có tác động lớn tới mật độ xây dựng. Các dự án bất động sản ở ngoại ô thường đầu tư theo cơ hội (theo phạm vi dự án) chủ yếu để giao dịch bất động sản (mua đi bán lại, phân lô bán nền) nên các khu đất bên ngoài ít có nhu cầu kết nối với làng xóm cũ và để lại nhiều diện tích xen kẹt, hay tranh chấp. Với sự lên ngôi của xe hơi, các thành phố mất dần cấu trúc nén cùng đường cao tốc và phòng cách sống ngoại vi biệt lập. Khi các đô thị tổ chức lại theo phương thức tiếp cận việc làm và dịch vụ, mỗi đô thị sẽ có các giới hạn về cấu trúc không gian gắn với phương tiện chủ lực. Các kết nối gần giúp giảm khoảng cách di chuyển để đáp ứng yêu cầu kết nối xã hội và giảm thiểu ô nhiễm và cải thiện sức khỏe cộng đồng, tháo gỡ nhiều vướng mắc trong tiếp cận đến nơi có giao thông công cộng, đến nơi có dịch vụ, và nhiều vướng mắc khác với sự tổ hợp hệ thống hai cấp gồm các tuyến đường được phục vụ linh hoạt, các tuyến đường xe đạp riêng, làn đường xe máy, các hành lang ưu tiên vận tải công cộng, và chương trình kết nối thẳng không qua trung chuyển, và vai trò của hệ thống Metro.