id
int64 0
23k
| passage
stringlengths 27
4.61k
| metadata
dict |
---|---|---|
22,100 |
Title: Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó
Về tệ nạn sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó (tiếng Nga:"О культе личности и его последствиях"), thường được biết là Diễn văn bí mật hoặc Báo cáo của Khrushchyov về Stalin, là bài báo cáo trước Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 ngày 25 tháng 2 năm 1956 của nhà lãnh đạo Xô Viết Nikita Sergeyevich Khrushchyov mà trong đó ông đã phê phán những hành động được thực hiện dưới chế độ của Stalin, đặc biệt là những vụ thanh trừng các lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô và quân đội, trong khi vẫn ra vẻ ủng hộ lý tưởng cộng sản bằng việc viện dẫn chủ nghĩa Lenin.
Bài diễn văn là một cột mốc lịch sử chính trong thời kỳ tan băng Khrushchyov. Nó cũng chính là một dấu hiệu tranh chấp quyền lực nghiêm trọng trong hàng ngũ lãnh đạo Xô Viết mà Khrushchyov đã làm hết sức mình để tấn công uy thế của những người còn tồn tại trong một thời kỳ thống trị của chủ nghĩa Stalin, đặc biệt là Lavrentiy Pavlovich Beria. Bề ngoài thì bài diễn văn được trình bày như nỗ lực kéo Đảng Cộng sản Liên Xô lại gần hơn chủ nghĩa Lenin. Tuy nhiên mục tiêu của Khrushchyov chủ yếu là thu hút sự ủng hộ của mọi người về chuyện ông đã cho bắt giữ và hành quyết Beria vào mùa hè năm 1953, cũng như hợp thức hóa quyền lực mới giành lại từ tay những người trung thành với Stalin là Vyacheslav Mikhailovich Molotov và Georgy Maximilianovich Malenkov.
Bài diễn văn được biết đến như là bài diễn văn bí mật vì nó được đọc tại một phiên họp kín, và bài viết thực sự của nó chỉ được in ra vào năm 1989 trong tạp chí "Izvestiya TseKa KPSS" (Các báo cáo của Ủy ban Trung ương Đảng), số 3, tháng 3 năm 1989, mặc dù nhiều đảng viên đã được thông báo về bài diễn văn một tháng sau khi Khrushchyov đọc nó.
Vào tháng 4 năm 2007, tờ báo Anh "The Guardian" đã đưa diễn văn này vào loạt bài "Những diễn văn quan trọng nhất trong thế kỷ 20" của họ.
Lịch sử.
|
{
"split": 0,
"title": "Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó",
"token_count": 488
}
|
22,101 |
Title: Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó
Cảm hứng cho bài "Diễn văn Bí mật" đến cả từ sự hiểu biết khôn khéo về chính trị của Khrushchyov và những sự thật đang hé lộ về các trại lao động khổ sai và các tù nhân của chúng. Viên chức cao cấp của Đảng Cộng sản là Anastas Mikoyan, một đồng minh của Khrushchyov, đã gặp mặt các tù nhân trại lao động khổ sai vừa mới được thả ra và nhận thấy rằng hiện tượng bắt người vô cớ càng ngày càng thịnh hành và rộng khắp hơn là người ta tưởng; ông lập tức chuyển các thông tin này đến cho Khrushchyov, người đang chuẩn bị tạo động thái hành động chính trị của mình. Nói chuyện với Mikoyan, một trong các tù nhân là Alexei Snegov phát biểu rằng "nếu ông [Mikoyan và Khrushchyov] không tự ly khai với Stalin tại Đại hội Đảng lần đầu tiên sau khi ông ta chết, và nếu ông không kể tội của ông ấy ra thì ông sẽ trở thành người đồng lõa tự nguyện trong những tội ác này". Một tù nhân khác, Olga Shatunovskaya, kể lại câu chuyện bà gặp một điệp viên của Nhật Bản, người đã nói với bà rằng "bọn Bolshevik khốn kiếp của bà ở tù mà chẳng biết lý do vì sao" trong khi công nhận tội của mình là quá rõ ràng.
Bài diễn văn được soạn thảo dựa vào các kết quả của một ủy ban đặc biệt của Đảng Cộng sản (Petr Nikolaevich Pospelov - chủ tịch, P. D. Komarov, Averky Aristov, Nikolay Mikhailovich Shvernik), được biết như là Hội đồng Pospelov, được sắp xếp tại một khóa họp của đoàn chủ tịch Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô vào ngày 31 tháng 1 năm 1955. Mục đích trực tiếp của ủy ban là điều tra những vụ trấn áp các đại biểu của Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 17 năm 1934.
Đại hội đảng lần thứ 17 được chọn cho các cuộc điều tra là vì nó được biết đến như là "Đại hội của kẻ chiến thắng" trong đất nước của chủ nghĩa xã hội "toàn thắng", và vì thế con số to lớn những "kẻ thù" trong số những người tham dự đại hội cần phải giải thích.
|
{
"split": 1,
"title": "Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó",
"token_count": 504
}
|
22,102 |
Title: Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó
Vấn đề trấn áp hàng loạt đã được công nhận trước khi bài diễn văn được đọc. Ủy ban này trưng bằng chứng là trong thời gian từ 1937–1938 (đỉnh điểm của thời kỳ được biết đến như là Đại thanh trừng) trên 1,5 triệu cá nhân đã bị bắt vì "các hoạt động chống Xô Viết" trong số đó trên 680.000 bị hành quyết.
Trong khi Khrushchyov không do dự chỉ ra những thủ đoạn xấu xa của chủ nghĩa Stalin về những vụ thanh trừng quân đội, đảng và ban lãnh đạo trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, ông rất cẩn thận tránh né bất cứ lời chỉ trích nào về chính sách công nghiệp hóa của Stalin hoặc lý thuyết của Đảng Cộng sản. Khi thảo luận về những cuộc trấn áp hàng loạt thì cũng thấy rõ ràng rằng có sự thiếu vắng, phải nói là cố tình, bất cứ một lời đề cập nào về các vụ bắt bớ ngẫu nhiên các công dân bình thường, bởi vì những sự cố này cũng giống như sự tàn bạo của việc tập thể hóa đã phục vụ lợi ích Đảng và nhà nước. Khrushchyov, nói cho cùng, thì cũng là một người trung thành của Đảng Cộng sản, và ông luôn miệng tán dương chủ nghĩa Lenin và lý tưởng cộng sản trong bài diễn văn của mình như ông luôn miệng kết tội các hành động của Stalin. Theo lý lẽ của Khrushchyov, Stalin là nạn nhân chủ yếu của hiệu quả độc hại của sự tôn sùng cá nhân mà qua các sai trái của ông đã đưa đẩy ông từ một phần tử quan trọng của những chiến thắng của Lenin thành một người mang bệnh hoang tưởng, dễ dàng bị ảnh hưởng bởi "kẻ thù điên dại của Đảng ta" đó là Beria.
Cho dù có tố cáo các cuộc trấn áp chính trị nhưng việc xúc tiến phục hồi lại danh dự cho các nạn nhân của các cuộc trấn áp chính trị thì lại chậm chạp tuy việc phóng thích các tù nhân chính trị từ các trại lao động được khởi sự chẳng bao lâu sau khi Stalin qua đời. Tuy nhiên, các nạn nhân của Vụ án Moskva chỉ được giải oan tất cả mọi tội lỗi vào năm 1988.
Các báo cáo của bài diễn văn.
|
{
"split": 2,
"title": "Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó",
"token_count": 470
}
|
22,103 |
Title: Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó
Khrushchyov mở đầu bài diễn văn ngay sau khi nửa đêm; mất đến 4 tiếng đồng hồ để đọc bài diễn văn. Ngay sau đó, các báo cáo trong bài diễn văn đã được chuyển ra Tây phương bởi thông tín viên John Rettie của hãng thông tấn Reuters, người đã được Kostya Orlov cho biết về bài diễn văn này vài giờ trước khi Rettie đến giờ rời Liên Xô đi Stockholm; vì thế nó được tường thuật trong hệ thống truyền thông của phương Tây vào đầu tháng 3. Rettie tin rằng bài diễn văn này là từ chính Khrushchyov qua một người trung gian.
Ngày 5 tháng 3 năm 1956, Đoàn chủ tịch Đảng ra lệnh đọc Báo cáo của Khrushchyov tại các cuộc họp của các tổ chức cộng sản và Komsomol với lời mời đến các người không phải là thành viên. Như thế toàn văn bài báo cáo đã được biết đến rộng rãi tại Liên Xô vào năm 1956, và cái tên "Bài diễn văn bí mật" là một cái tên nhầm lẫn. Nhưng, toàn văn bài diễn văn không được chính thức phổ biến ra công chúng cho đến năm 1989. Có thể là, mặc dù không có bằng chứng, Mikoyan và Khrushchyov là kiến trúc sư của những cuộc đọc lại bài diễn văn tại các địa phương cũng như tiết lộ bài diễn văn cho Rettie qua Orlov; con trai của Mikoyan là Sergo, và con trai của Khrushchyov là Sergi đã đưa ra những lời làm chứng mặc dù khó mà xác minh được lời làm chứng về ý định của hai người cha.
Tuy nhiên, lời văn của bài diễn văn chỉ từ từ được tiết lộ tại các quốc gia Đông Âu. Nó cũng chưa bao giờ được những người lãnh đạo tiết lộ đến thành viên của các đảng cộng sản Tây phương của mình, và đa số những người cộng sản Tây phương chỉ được biết đến chi tiết của lời văn sau khi một tờ báo của Mỹ xuất bản một phiên bản của nó vào giữa năm 1956.
|
{
"split": 3,
"title": "Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó",
"token_count": 424
}
|
22,104 |
Title: Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó
Nội dung của bài diễn văn tới được phương Tây qua một con đường vòng quanh. Như đã có nói ở trên, một vài bản của bài diễn văn được gởi đi theo lệnh của Bộ Chính trị Liên Xô đến các nhà lãnh đạo các quốc gia Khối phía Đông. Ngay sau khi bài diễn văn đã được phổ biến, một nhà báo Ba Lan Viktor Grayevsky đến viếng thăm bạn gái của mình là Lucia Baranowski đang làm việc với tư cách là một thư ký cấp thấp tại văn phòng của đệ nhất bí thư của Đảng Cộng sản Ba Lan Edward Ochab. Trên bàn làm việc của bà là một sách nhỏ dày với rìa màu đỏ và dòng chữ: "Đại hội đảng lần thứ 20, diễn văn của Đồng chí Khrushchyov". Grayevsky đã có nghe qua lời đồn về bài diễn văn và vì là nhà báo nên ông rất hứng thú để đọc nó. Baranowski cho phép ông mang tài liệu này về nhà đọc.
Thật ngẫu nhiên khi Grayevsky lại là người Do Thái và vừa thực hiện một chuyến đi đến Israel để thăm người cha đang bị bệnh của mình. Ông đã có ý di cư đến đó. Sau khi đọc xong bài diễn văn, ông mang nó đến tòa đại sứ Israel và đưa cho Yaakov Barmor, người đã giúp Grayevsky thực hiện chuyến đi thăm người cha đang bịnh của mình. Barmor là một đại diện của Shin Bet (cơ quan tình báo Israel); ông chụp hình tài liệu và gởi các bức ảnh chụp về Israel.
Vào trưa ngày 13 tháng 4 năm 1956, Shin Bet tại Israel nhận được các bức ảnh chụp. Trước đó hai cơ quan tình báo Israeli và Hoa Kỳ đã bí mật đồng ý hợp tác về các vấn đề an ninh. James Jesus Angleton là trưởng ban phản gián của CIA và đặc trách liên hệ bí mật với tình báo Israel. Các bức ảnh chụp được đưa đến ông. Vào này 17 tháng 4 năm 1956, sau khi các bức ảnh chụp tới tay giám đốc CIA Allen Dulles, ông này nhanh chóng thông báo cho Tổng thống Dwight D. Eisenhower. Sau khi xem xét bài diễn văn có phải là thật hay không, CIA tiết lộ bài diễn văn này cho báo "The New York Times" vào đầu tháng 6.
Tóm lược và trích đẫn.
|
{
"split": 4,
"title": "Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó",
"token_count": 503
}
|
22,105 |
Title: Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó
Cơ cấu cơ bản của bài diễn văn như sau:
Hậu quả.
Bài diễn văn của Khrushchyov đã phơi bày nhiều sự thật và gây ấn tượng mạnh mẽ đến hàng triệu tâm trí con người. Theo như một số tường thuật, một số người có mặt bị nhồi máu cơ tim, một số người khác sau đó đã tự tử. Bài báo cáo đã làm thay đổi bầu không khí chính trị của Chiến tranh Lạnh bằng sự chung sống hòa bình và đã ảnh hưởng đến sự giải tỏa và hòa hoãn, được biết đến như là thời tan băng của Khrushchyov. Tuy nhiên nó cũng gây ra một cú sốc trong tinh thần của một số công dân Xô Viết bị tuyên truyền về khả năng siêu việt của Stalin dẫn tới những cuộc biểu tình và bạo loạn tại quê hương Stalin, Gruzia, bị quân đội Liên Xô dập tắt ngày 9 tháng 3 năm 1956.
Năm 1961, xác của Stalin bị đưa ra khỏi lăng Lenin và được chôn bên ngoài bức tường của Điện Kremli.
Năm 1956, một vài tháng sau đại hội lần thứ 20, bài diễn văn bí mật này của Khrushchyov được xuất bản khắp thế giới.
Vào lúc đó, tướng Moshe Dayan, một nhà quân sự chính trị Israel, người sau này đã chiến thắng liên quân Ai Cập - Syria đã nói rằng Liên Xô sẽ biến mất trong vòng 30 năm, và ông chỉ dự đoán với sai lệch 5 năm về sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1991.
Bài báo cáo là một trong những nguyên nhân chính đưa đến việc chia rẽ giữa Trung Quốc và Liên Xô, trong đó Trung Quốc (dưới thời Mao Trạch Đông) và Albania (dưới thời Enver Hoxha) lên án Khrushchev theo chủ nghĩa xét lại. Để trả đũa, họ thành lập phong trào chống chủ nghĩa xét lại, chỉ trích các lãnh tụ hậu Stalin, cho là họ đã xa rời con đường của Lenin và Stalin.
|
{
"split": 5,
"title": "Về sùng bái cá nhân và những hậu quả của nó",
"token_count": 428
}
|
22,106 |
Title: Vệ Thước
Vệ Thước (, 272 – 349), tự Mậu Y (茂猗), hiệu Hòa Nam (和南), nhưng thông thường được gọi là Vệ phu nhân (衛夫人), là một nữ thư pháp gia có tiếng thời Đông Tấn, người đã lập ra các quy tắc cho khải thư.
Học trò nổi tiếng nhất của bà là Vương Hi Chi, một trong những thư pháp gia vĩ đại nhất văn hóa Trung Hoa.
Tiểu sử.
Sinh ra tại An Ấp, Hà Đông (ngày nay là huyện Hạ tỉnh Sơn Tây), Vệ Thước là con gái của Vệ Triển (衛展), em gái của Vệ Hằng (衛恆). Tộc tổ Vệ Quán, làm quan đến Tư không của Tây Tấn, Lục thượng thư sự, cùng Tác Dĩnh (索靖) oàn thiện lới viết chữ thảo thư, gọi là "Nhất đài nhị Diệu" (一台二妙).
Thiếu thời, bà là học trò của Chung Do. Tuy nhiên, kiểu viết chữ của Vệ Thước hẹp hơn so với kiểu viết chữ rộng của Chung Do. Tác phẩm "Bút trận đồ" (筆陣圖) của bà mô tả "Thất thế" (七勢) và sau này đã trở thành "Vĩnh tự bát pháp" (永字八法) nổi tiếng. Khi trưởng thành, Vệ Thước lấy Lý Củ (李矩), Thứ sử Đinh Châu. Vệ Thước và Lý Củ sinh ra Lý Sung (李充), cũng là một thư pháp gia và từng đảm nhận chức vụ "Trung thư thị lang" (中書侍郎).
Tác phẩm.
Các tác phẩm nổi tiếng của bà bao gồm:
Người thời nhà Tống là Trần Tư (陈思), dẫn lại đánh giá của người đời Đường về thư pháp của bà:"Như cắm hoa vũ nữ, lên xuống mỹ dung; lại như mỹ nữ lên đài, tiên nga lộng ảnh, hồng liên ánh thủy, bích chiểu phù hà".
|
{
"split": 0,
"title": "Vệ Thước",
"token_count": 436
}
|
22,107 |
Title: Vệ binh Tình nguyện Serbia
<ns>0</ns>
<revision>
<parentid>70482749</parentid>
<timestamp>2023-07-26T04:12:13Z</timestamp>
<contributor>
<username>AnsterBot</username>
</contributor>
<minor />
<comment>(Bot) , thêm thể loại, Executed time: 00:00:08.7499792, replaced: accessdate → access-date, ’ → '</comment>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Vệ binh Tình nguyện Serbia (tiếng Serb: "Српска добровољачка гарда", СДГ, chuyển tự: "Srpska dobrovoljačka garda", SDG, tiếng Anh: "Serb Volunteer Guard" hay còn gọi là Nguyện Vệ quân người Serb còn được gọi là "Những con hổ Arkan"-"Арканови тигрови", chuyển tự "Arkanovi tigrovi" hay những "con hổ"-"Тигрови"/"Tigrovi", cũng được gọi những người đàn ông của Arkan-"Аркановци"/"Arkanovci") là một đơn vị bán quân sự tình nguyện của Serbia do Arkan ("Željko Ražnatović") thành lập và lãnh đạo đã chiến đấu ở chiến trường Croatia (1991–93), trong chiến tranh Bosnia (1992–95) trong cuộc Chiến tranh Nam Tư và theo cáo buộc của phương Tây thì đơn vị này được cho phải chịu trách nhiệm về nhiều tội ác chiến tranh và những vụ thảm sát. Đội quân này có bài hành khúc là "Arkan's Delije". Lúc còn tồn tại thì quân số lực lượng này khoảng từ 500–1.000 người.
|
{
"split": 0,
"title": "Vệ binh Tình nguyện Serbia",
"token_count": 478
}
|
22,108 |
Title: Vệ binh Tình nguyện Serbia
Theo báo cáo từ phương Tây thì các đơn vị bán quân sự chịu trách nhiệm về một số khía cạnh tàn bạo của cuộc thanh trừng sắc tộc và đây là hai trong số các đơn vị đóng vai trò chính trong chiến dịch thanh lọc sắc tộc ở BiH, Chetniks có mối quan hệ với với Vojislav Šešelj và Lực lượng những con Hổ dưới sự chỉ huy của Željko Ražnatović (Arkan) đã hoạt động ở Cộng hòa Serbia cũng vậy. Lực lượng hổ Arkan đã tổ chức các cuộc tập trận huấn luyện quân sự được cho là nhằm đe dọa cư dân Albania ở Kosovo. Đội quân tình nguyện Serb dưới sự chỉ huy của Arkan đã tàn sát hàng trăm người ở miền đông Croatia và Bosnia và Herzegovina, trong khi ở giai đoạn đầu các chiến dịch thanh trừng sắc tộc ở miền đông Bosnia thì đơn vị này giữ vai trò chính.
|
{
"split": 1,
"title": "Vệ binh Tình nguyện Serbia",
"token_count": 198
}
|
22,109 |
Title: Vệ binh Tình nguyện Serbia
Đội dân quân tình nguyện này được thành lập vào ngày 11 tháng 10 năm 1990 dưới sự sáng lập hai mươi thành viên của đội Sao đỏ Belgrade một câu lạc bộ bóng đá Ultra nhóm Delije Sever. Lực lượng Vệ binh nằm dưới sự chỉ huy của lực lượng Phòng thủ Lãnh thổ Nam Tư là một quân đội chính quy phụ trách các vùng lãnh thổ của Croatia có dân cư chủ yếu là người Serb trong thời kỳ đầu nửa thập niên 1990. Lực lượng Vệ binh Tình nguyện Serb được tổ chức như một băng nhóm tội phạm và được Belgrade trang bị vũ khí. Vào mùa thu năm 1995, quân đội của Arkan đã chiến đấu trong khu vực Banja Luka, Sanski Most và Prijedor. Arkan đã đích thân chỉ đạo hầu hết các hành xử trong chiến tranh và đã ban thưởng cho các sĩ quan và binh lính của mình bằng cấp bậc, huy hiệu và cuối cùng là chiến lợi phẩm. Lực lượng này chính thức bị giải tán vào tháng 4 năm 1996. Ngoài Arkan, một thành viên đáng chú ý của Lực lượng Vệ binh là cánh tay phải của ông ta là Đại tá Nebojša Djordjević người đã bị sát hại vào cuối năm 1996. Một thành viên đáng chú ý khác là Milorad Ulemek là người hiện đang thụ án 40 năm tù vì dính líu đến vụ Ám sát Zoran Đinđić thủ tướng thân phương Tây của Serbia Zoran Đinđić vào năm 2003. Hiện nay có đồn đoán rằng nhóm Wagner đang tuyển dụng những thành viên từ lực lượng này. Wagner có một đơn vị biên chế toàn người Serb do Yashrakh Scherhathes là một người Serb Bosnia và từng là thành viên của Nguyện Vệ quân Serbia (được gọi là "Con hổ xứ Shaqanshi") trong Chiến tranh Bosnia.
|
{
"split": 2,
"title": "Vệ binh Tình nguyện Serbia",
"token_count": 387
}
|
22,110 |
Title: Vệ tinh thông tin
Vệ tinh thông tin (tiếng Anh: communications satellite, đôi khi viết tắt là SATCOM), hay còn được gọi là vệ tinh truyền thông, là vệ tinh nhân tạo đặt trong không gian dùng cho viễn thông. Vệ tinh thông tin hiện đại có nhiều loại quỹ đạo như quỹ đạo địa tĩnh, quỹ đạo Molniya, quỹ đạo elip, quỹ đạo (cực và phi cực) Trái Đất thấp.
Vệ tinh thông tin là kỹ thuật tiếp sức vô tuyến vi ba bên cạnh thông tin cáp quang biển trong truyền dẫn điểm điểm cố định. Nó cũng được dùng trong các ứng dụng di động như thông tin cho tàu xe, máy bay, thiết bị cầm tay và cho cả tivi và quảng bá khi mà các kỹ thuật khác như cáp không thực tế hoặc không thể.
Lịch sử.
Sứ mệnh ban đầu.
Vệ tinh nhân tạo đầu tiên là Sputnik 1 của Liên Xô, được dẫn lên vào ngày 4 tháng 10 năm 1957, và được trang bị cùng với máy phát radio làm việc trên hai tân số 20,005 và 40,002 MHz. Vệ tinh đầu tiên để liên lạc của Mĩ là kế hoạch SCORE năm 1958 sử dụng băng từ để ghi tin nhắn âm thanh. Nó được sử dụng để ghi và gửi một lời chúc mừng giáng sinh đến thế giới của tổng thống Mĩ Dwight D. Eisenhower. NASA phóng vệ tinh Echo vào năm 1960; một quả cầu 30m được mạ lớp PETfilm năm 1960; để phục vụ như là một gương phản xạ bị động cho việc liên lạc vô tuyến. Courier 1B được xây dựng bởi Philco cũng được phóng lên vào năm 1960 và là vệ tinh nhắc chủ động đầu tiên trên thế giới.
Telstar là vệ tinh liên lạc tiếp âm trực tiếp và động đầu tiên. Thuộc về công ty điện thoại, điện báo Mỹ (AT&T) như là một phần của hợp đồng đa quốc gia giữa AT&T, phòng thí nghiệm điện thoại Bell, NASA, bưu điện Anh, viễn thông Pháp để phát triển vệ tinh liên lạc, nó được phóng lên bởi NASA từ mũi Canaveral vào ngày 10 tháng 7 năm 1962, là cuộc phóng vào không gian của tư nhân đầu tiên. Telstar được đặt trên một quỹ đạo elip (hoàn thành một chu kỳ sau 2 giờ và 37 phút), quay ở một góc 45° trên xích đạo.
|
{
"split": 0,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 508
}
|
22,111 |
Title: Vệ tinh thông tin
Một tiền lệ trực tiếp của vệ tinh địa tĩnh là Huges Syncom 2 được phóng lên vào 26 tháng 7 năm 1963. Syncom 2 quay quanh Trái Đất mỗi lần một ngày với tốc độ không đổi, nhưng do vẫn còn có sự vận động bắc-nam, vẫn cần có thiết bị đặc biệt để theo dõi nó.
Quỹ đạo địa tĩnh.
Một vệ tinh trên quỹ đạo địa tĩnh xuất hiện trên một điểm cố định nhìn từ Trái Đất. Một vệ tinh địa tĩnh quay quanh Trái Đất với tốc độ không đổi mỗi lần một ngày trên xích đạo.
Quỹ đạo đĩa tĩnh có hữu ích cho ứng dụng liên lạc vì mặt đất được bố trí những ăngten, những cái phải trục tiếp hướng tới vệ tinh, có thể tổ điều hành hiệu quả không cần những thiết bị đắt tiền để theo dõi chuyển động của vệ tinh. Đặc biệt là những nhiệm vụ yêu câu số lượng lớn những ăng ten mặt đất như (truyền hình trực tiếp TV), tiết kiệm thiết bị mặt đất còn được nhiều hơn cả chi phí đắt đỏ đưa vệ tinh lên quỹ đạo địa tĩnh cao.
Ý tưởng nền tảng của vệ tinh liên lạc địa tĩnh được đề xuất lần đầu bởi Arthur C. Clarke, xây dựng hoạt động bởi Kóntantin Tsiolkovsky và năm 1929 thực hiện bởi Herman Potočnik. Vào tháng 10 năm 1945 Clarke xuất bản một bài viết mang tựa đề "Extra-terrestrial Relays " trên tạp chí Anh "Wireless World". Bài báo đã miêu tả nền tảng đằng sau sự pháp triển của vệ tinh nhân tạo trên quỹ đạo địa tĩnh nhằm mục đích tiếp âm cho tín hiệu radio. Vì vậy Arthur C.Clacke thường được bầu là người phát minh ra vệ tinh địa tĩnh.
|
{
"split": 1,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 377
}
|
22,112 |
Title: Vệ tinh thông tin
Vệ tinh đĩa tĩnh đầu tiên thực sự được phóng lên quỹ đạo là Syncom 3, được phóng vào ngày 19 tháng 8 năm 1964. Nó được đặt vào quỹ đạo 180° đông (kinh độ), phía trên đường thời gian quốc tế (international date line). Nó được sử dụng trong năm đó để tiếp âm cho việc đưa tin truyền hình thí nghiệm của thế vận hội mùa hè năm 1964 ở Tokyo tới Mĩ, đây là thế vận hội đầu tiên được phát sóng quốc tế. Mặc dù Syncom 3 một vài lần được tán thành cùng với chương trình phát sóng tivi đầu tiên qua Thái Bình Dương, nhưng vệ tinh Relay 1 đã phát sóng từ Mĩ đến Nhật vào 22 tháng 11 năm 1963.
Thời gian ngắn sau Syncom 3, Intelsat I, Early Bird được phóng lên vào ngày 6 tháng 4 năm 1965 và được đặt ở quỹ đạo 28° kin độ tây. Nó là vệ tinh địa tĩnh đầu tiên dùng cho liên lạc viễn thông qua Đại Tây Dương
Ngày 9 tháng 11 năm 1972, vệ tinh địa tĩnh đầu tiên phục vụ cho trong lục địa Anik A1 được phóng lên bởi Telesat Canada, cùng với Mĩ phóng Westar 1 bởi Western Union vào 13 tháng 4 năm 1974.
Ngày 19 tháng 12 năm 1974, vệ tinh liên lạc địa tĩnh đầu tiên trên thế giới được ổn định 3 trục phóng lên: Franco-German Symphonie/
Sau khi phóng Telstar, Syncom3, Early Bird, Anik A1 và Westar 1, RCA Americon (Sau GE americom bây giờ là SES Americom) Satcom 1 được phóng năm 1975. Nó là phương tiện cáp sớm giúp các kênh TV nhưHBO, CBN, ABC Family và kênh thời tiết (của Mĩ) trở nên thành công, bởi vì những kênh này phát các chương trình của họ đến tất cả các cáp TV địa phương sử dụng vệ tinh. Thêm nữa, đó là vệ tinh phát sóng lần đầu được sử dụng bởi mạng phát tivi ở Mĩ, giống như ABC, NBC, CBS, để đưa các kênh tới các trạm chi nhánh. Satcom 1 được sử dụng rộng rãi vì gấp đôi khả năng liên lạc của competing Westar 1 ở Mĩ, kết quả là giá thành hệ thống nhận phát tín hiệu rẻ hơn. Vệ tinh trong thập kỷ sau đó còn có nhiều hơn những hệ thống nhận phát.
|
{
"split": 2,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 503
}
|
22,113 |
Title: Vệ tinh thông tin
Đến năm 2000, Hughes Space and Communications (bây giờ là Boeing Satellite Development Center) đã xây dựng gần 40 phần trăm của một trăm vệ tinh đang hoạt động toàn cầu. Nhánh nhà sản xuất vệ tinh khác gồm có Space Systems/Loral, Lockheed Martin Space Systems, Northrop Grumman, Alcetel Space, bây giờ là Thales Alenia Space, cùng với dòng Spacebus, và EADS Astrium.
Vệ tinh quỹ đạo Trái Đất thấp.
Vệ tinh quỹ đạo Trái Đất tầm thấp (Low Earth Orbit hay là LEO) có quỹ đạo tròn điển hình cao 400 km so với bề mặt Trái Đất và tương ứng với chu kỳ (thời gian quay quanh Trái Đất) là khoảng 90 phút. Vì độ cao thấp của nó, những vệ tinh này chỉ có thể nhìn thấy trong vòng bán kính 1000 km từ điểm chiếu xuống của vệ tinh. Thêm nữa, những vệ tinh thấp thay đổi vị trí của chúng so với bề mặt Trái Đất rất nhanh. Vì vậy cho một ứng dụng tại một nơi, cần số lượng lớn các vệ tinh này để kết nối không bị ngắt quãng.Việc phóng vệ tinh Quỹ đạo Trái Đất tầm thấp không tốn phí bằng việc phóng vệ tinh địa tĩnh, và vì ở gần mặt đất nên không đòi hỏi tín hiệu có cường độ lớn (nhớ rằng cường độ tín hiệu giảm tỉ lệ với bình phương khoảng cách). Do vậy sẽ có một sự cân nhắc giữa số lượng vệ tinh và giá cả. Ngoài ra, cũng có một sự khác biệt quan trọng trong việc lựa chọn các thiết bị dùng cho vệ tinh và thiết bị kết nối trên mặt đất để có thể hỗ trợ được hai loại yêu cầu nhiệm vụ.
Một nhóm các vệ tinh làm việc nhịp nhàng được gọi là một chòm vệ tinh. Hai chòm vệ tinh dự kiến sẽ cung cấp dịch vụ điện thoại vệ tinh, trực tếp đến nơi xa là hệ thống vệ tinh Iridium và Globarsatr. Hệ thống Iridium có 66 vệ tinh. Chòm vệ tinh khác tên là Teledesic, đứng sau là chủ hãng Microsoft Paul Allen có trên 840 vệ tinh. Chòm này sau này được giảm xuống còn 288 vệ tinh và đến cuối cùng kết thúc chỉ có một vệ tinh thử nghiệm được phóng.
|
{
"split": 3,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 490
}
|
22,114 |
Title: Vệ tinh thông tin
Người ta còn có khả năng yêu cầu gián đoạn việc đưa tin, sử dụng một vệ tinh quỹ đạo thấp của việc lưu dữ liệu nhận được trong khi đi ngang qua một phần của Trái Đất và chuyển nó muộn hơn trong khi nó sang phần kia của Trái Đất. Đó là hệ thống CASCADE của CASSIOPE Canada. Một hệ thống khác sử dụng phương pháp này là Orbcomm
Vệ tinh Molniya.
Như đã nói, vệ tinh địa tĩnh được đặt để hoạt động trên đường xích đạo. Hệ quả là không phải lúc nào nó cũng thích hợp để cung cấp các dịch vụ ở các vĩ độ cao. Vệ tinh địa tĩnh thấp sẽ xuất hiện ở các đường chân trời, ảnh hưởng đến khả năng kết nối và là nguyên nhân của hiện tượng nhiễu đa đường (do giao thoa của sóng tới và sóng phản xạ từ mặt đất vào ăng-ten). Vệ tinh đầu tiên của họ vệ tinh Molniya được phóng vào 23 tháng 4 năm 1965 và được sử dụng để thí nghiệm truyền sóng TV đường dài từ Moscow đến một trạm thu tại Siberia và vùng viễn đông của Nga như Norilsk, Khabarovsk, Magada, Vladivostok. Tháng 11 năm 1967, các kỹ sư Xô Viết tạo ra hệ thống mạng TV quốc gia được truyền phát qua vệ tinh gọi là Orbita. Đó chính là cơ sở của vệ tinh Molniya.
Quỹ đạo Molniya có thể là một sự thay thế trong những trường hợp đó. Quỹ đạo Molniya có độ nghiêng cao, đảm bảo được độ cao (độ cao của vệ tinh so với đường chân trời. Một vệ tinh có độ cao bằng 0 tức là nằm trên đường chân trời, nếu có độ cao là 90° tức là vuông góc với đường chân trời) trên những điểm được chọn trong cả phần cực bắc của quỹ đạo.
Xa hơn nữa, Quỹ đạo Molniya được thiết kế để vệ tinh di chuyển phần lớn thời gian của nó trên những vĩ tuyến bắc xa, trong khi đó đường chiếu xuỗng đất của quỹ đạo chỉ di chuyển nhỏ. Chu kỳ của nó là một nửa ngày, vì vậy vệ tinh có mặt cho mỗi nhiệm vụ trên một vùng 8h mỗi vòng. Theo cách này, một chòm 3 vệ tinh Molniya (cả dự phòng) có thể cung cấp độ phủ sóng không bị ngắt quãng.
|
{
"split": 4,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 506
}
|
22,115 |
Title: Vệ tinh thông tin
Vệ tinh Molniya được sử dụng điển hình cho điện thoại và các dịch vụ TV xuyên Nga. Một chức năng khác là sử dụng chúng cho hệ thống radio di động (cả khi ở vĩ độ thấp) từ khi mà những chiếc xe đi xuyên qua các vùng thành phố cần truy cập tới vệ tinh ở độ cao lớn nhằm mục đích đảm bảo khả năng kết nối (ví dụ khi ở dưới các tòa nhà cao).
Ứng dụng.
Điện thoại.
Ứng dụng lịch sử đầu tiên và quan trọng nhất cho liên lạc vệ tinh là điện thoại xuyên lục địa. Mạng lưới điện thoại cố định công cộng tiếp âm những cuộc gọi từ đường dây dưới đất lên trạm trên không, nơi mà sau đó được chuyển đến vệ tinh địa tĩnh. Đường xuống là một đường analog. Sự cải tiến trong liên lạc bằng dây dưới biển, qua đó việc sử dụng sợi cáp quang, là nguyên nhân của một vài sự suy tàn trong việc sử dụng vệ tinh cho điện thoại cố định trong thế kỷ 20, nhưng chúng vẫn phục vụ những đảo xa như đảo Ascension, Saint Helena, Diego Gảcia, và Easter Island, nơi mà viễn thông chưa có nhiều, ví dụ như vùng rộng lớn của nam Mĩ, châu Phi, Canada, Trung Quốc, Nga, và Australia. Liên lạc vệ tinh còn cung cấp sự kết nối cho rìa của Antarctica và Greenland.
Điện thoại vệ tinh kết nối trực tiếp đến một chòm của vệ tinh địa tĩnh hoặc vệ tinh quỹ đạo thấp. Cuộc gọi được chuyển đến cổng vệ tinh viễn thông kết nối được với mạng điện thoại công cộng.
Truyền hình vệ tinh.
Ti vi trở thành thị trường chính, nhu cầu của nó cho sự phát đông thời tương đối ít tín hiệu băng thông rộng đến rất nhiều các máy thu trở nên chính xác hơn với năng lực của vệ tinh địa tĩnh. Hai kiểu vệ tinh được sử dụng cho truyền và radio hình bắc Mĩ là vệ tinh truyền phát trực tiếp (Direct Broadcast Satllite DBS) và vệ tinh dịch vụ cố định (Fixed Service Satellite FSS).
|
{
"split": 5,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 440
}
|
22,116 |
Title: Vệ tinh thông tin
Định nghĩa của vệ tinh FFS và DBS bên ngoài bắc Mĩ, đặc biệt là ở châu Âu còn mơ hồ. Hầu hết các vệ tinh được sử dụng trực tiếp đến ti vi gia đình ở châu Âu có cùng công suất phát ra như lớp vệ tinh DBS ở bắc Mĩ, nhưng sử dụng cùng sự phân cực tuyến tính như lớp vệ tinh FFS. Ví dụ những vệ tinh SÉ Átra, Eutelsat, và Hotbird nằm trên quỹ đạo trên lục địa châu Âu. Bởi vậy, khái niệm FFS và DBS được sử dụng ở khắp lục địa bắc Mĩ mà nhưng không quen thuộc ở châu Âu.
Vệ tinh dịch vụ cố định.
Vệ tinh dịch vụ cố định sử dụng giải sóng C và phần thấp của giả K. Chúng được sử dụng để cung cấp tin tức truyền hình đến và từ mạng ti vi và các trạm liên kết địa phương (như chương trình cung cấp cho mạng truyền hình và các kênh), phát sóng trực tiếp, gián tiếp, cũng như được sử dụng cho đào tạo từ xa ở bởi nhà trường và trường đại học, ti vi thương mại, BTV, hội thảo video, các viễn thông qảng cáo bình thường. Vệ tinh FFS còn được sử dụng để phát kênh cáp quang quốc gia.
Các kênh ti vi vệ tinh miễn phí còn phát trên vệ tinh FFS ở giải K. Các vệ tinh Intersat Americas 5, Galaxy 10R, và AMC 3 trên lục địa bắc Mĩ còn cung cất một lượng lớn các kênh miễn phí ở giải tần K.
Vệ tinh phát sóng trực tiếp.
Một vệ tinh phát sóng trực tiếp là một vệ tinh liên lạc mà truyền đến đĩa vệ tinh DSB nhỏ (thường là 18 đến 24 inches hay 45 to 60 cm in diameter). Vệ tinh phát trực tiếp thường hoạt động ở phần trên của vi sóng giải Ku. Công nghệ DBS được sử dụng cho dịch vụ vệ tinh định hướng DTH (Direct To Home), như truyền hình trực tiếp, mạng ăng ten chảo ở Mĩ, Bell TV và Shaw Diẻct ở Canada, Freesat và Sky Digital ở Anh, cộng hòa Ireland, New Zealand.
|
{
"split": 6,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 470
}
|
22,117 |
Title: Vệ tinh thông tin
Hoạt động ở dải tần thấp hơn và công suất thấp hơn DBS, Vệ tinh FFS đòi hỏi nhiều chảo lớn hơn để nhận tín hiệu (đường kính thường là 3 đến 8 feet (1 to 2.5m) for Ku,và12 feet (3.6m) hoặc lớn hơn cho giải C) Chúng sử dụng phân cực tuyến tính cho mỗi hệ thống bộ tách sóng RF (trái với phân cực tròn sử dụng bởi vệ tinh DSB), nhưng đâu là sự khác nhau không đáng kể và người dùng không để ý tới. Công nghệ vệ tinh FSS còn được sử dụng từ đầu cho TV vệ tinh DTH từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1990 ở Mĩ dưới dạng máy thu TVRO (TeleVision Receive Only) và chảo. Nó còn được sử dụng ở dải tần Ku.
Công nghệ vệ tinh di động.
Ban đầu
Initially available for broadcast to stationary TV receivers, by 2004 popular mobile direct broadcast applications made their appearance with that arrival of two satellite radio systems in the United States: Sirius and XM Satellite Radio Holdings. Một số nhà sản xuất còn giới thiệu những ăng ten đặc biệt cho việc thu ti vi DBS di động. Sử dụng công nghệ GPS như là một sự tham khảo, những ăng ten này tự động nhắm tới vệ tinh không quan trọng nó ở đâu và được gắn trên phương tiện nào. Những ăng ten vệ tinh di động này được phổ biến với một số phương tiện giải trí. Ăng ten di động DBS còn được sử dụng bởi JetBlue Airline cho truyền hình trực tiếp, mà hành khách có thể xem trên màn hình LCD trên khoang được gắn với ghế ngồi.
Radio vệ tinh.
Radio vệ tinh mang đến dịch vụ âm thanh cho một số quốc gia, đáng chú ý là Mĩ. Dịch vụ di động cho phép người nghe bắt sóng trên đất liền, nghe cùng một chương trình ở bất kỳ đâu.
Radio vệ tinh hay SR (Subscription Radio) là tín hiệu radio kỹ thuật số mà được phát bởi sự liên lạc vệ tinh, có thể bao phủ một vùng rộng lớn hơn rất nhiều so với tín hiệu radio trên mặt đất.
|
{
"split": 7,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 459
}
|
22,118 |
Title: Vệ tinh thông tin
Radio vệ tinh cung cấp sự thay thế đầy ý nghĩa cho dịch radio mặt đất trên một số quốc gia, đáng chú ý là Mĩ. Dịch vụ di động như Sirius, XM, và Worldspace, cho phép người nghe bắt sóng qua cả lục địa, nghe cùng chương trình phát thanh bất kỳ đâu họ tới. Trong mọi trường hợp anten phải có một tầm nhìn thông thoáng tới vệ tinh. Trên các vùng mà có nhà cao, cầu, hay gara ô tô tín hiệu bị che khuất, thiết bị nhắc có thể đặt lại để làm cho có tín hiệu tới người nghe.
Dịch vụ radio thường được cung cấp bằng những dự án và trên cơ sở khuyên góp. Một vài dịch vụ khác sở hữu độc quyền tín hiệu, yêu cầu phần cứng đặc biệt để giải mã và chơi. Nhà cung cấp thường mang đến những thông tin đa dạng, thời tiết,thể thao, kênh ca nhạc, cùng với kênh ca nhạc bình dân được miễn phí do quảng cáo.
Trong những vùng mật độ dân số cao phát sóng mặt đất sẽ dễ hơn và rẻ hơn để tiếp cận phần lớn dân số. Vì vậy ở UK và một số quốc gia khác cuộc cách mạng của dịch vụ radio tập trung vào phát sóng âm thanh kĩ thuật số DAB (Digital Audio Broadcasting) hay HD radio hơn là radio vệ tinh.
Radio nghiệp dư.
Những nhà hoạt động radio nghiệp dư phải truy cập tới những vệ tinh OSCAR được thiết kế đặc biệt để mang sự truyền phát của radio nghiệp dư. Hầu hết các vệ tinh như thế hoạt động như là những thiết bị nhắc không gian, và thường được truy nhập những người nghiệp dư được trang bị bằng thiết bị radio siêu cao tần UHF (Ultra High Frequency) hoặc VHF và ăng ten định hướng cao như ăng ten Yagi, hay ăng ten chảo. Vì chi phí phóng, hầu hết những vệ tinh không chuyên được phóng ở những quỹ đạo Trái Đất thấp, và được thiết kế để phân phối một số lượng có hạn các liên lạc trong một thời gian cho trước nào đó. Một số vệ tinh còn cung cấp dịch vụ chuyển dữ liệu sử dụng AX.25 hay các giao thức tương tự.
Vệ tinh Internet.
|
{
"split": 8,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 466
}
|
22,119 |
Title: Vệ tinh thông tin
Sau những năm 1990, kỹ thuật thông tin vệ tinh đã được sử dụng như là tiềm lực để kết nối internet thông qua giải truyền kết nối dữ liệu. Điều này có thể rất hữu ích cho người dùng ở những nơi rất xa và không thể truy cập được đường truyền băng thông rộng.
Ứng dụng trong quân đội.
Liên lạc vệ tinh được sử dụng trong các ứng dụng thông tin liên lạc quân đội, như "hệ thống chỉ huy và điều khiển toàn cầu" (Global command and control systems). Một số ví dụ về hệ thống sử dụng liên lạc vệ tinh trong quân đội như: MILSTAR, DSCS, FLTSATCOM của quân đội Mĩ, những vệ tinh NATO, những vệ tinh của Anh, những vệ tinh của liên bang Sô Viết. Rất nhiều các vệ tinh quân sự hoạt động ở giả tân X, và một số còn sử dụng sóng radio UHF, trong khi đó MILSTAR còn tận dụng giải Ka.
Dẫn đường.
Một trong những ứng dụng lôi cuốn của vệ tinh là hệ thống định vị toàn cầu GPS (Global Positioning System). Nó là ứng dụng trực tiếp cho dẫn đường. Có một mạng lưới 24 đến 32 vệ tinh trong quỹ đạo trung bình Trái Đất quay đều vòng quanh Trái Đất trong những đường bay chồng chéo lên nhau cho mục đích này. Chúng sử dụng vi sóng tần số khoảng 1,57542 GHz và 1,2276 GHz. Máy thu trên Trái Đất nhận lấy tín hiệu từ 4 vệ tinh đồng thời. Máy thu sử dụng bộ vi xử lý tính toán và hiển thị chính xác vị trí theo dạng kinh độ và vĩ độ.
|
{
"split": 9,
"title": "Vệ tinh thông tin",
"token_count": 346
}
|
22,120 |
Title: Vị trí biểu kiến
Vị trí biểu kiến của một vật thể là vị trí của nó trong không gian mà người quan sát nhìn thấy. Do các hiệu ứng vật lý và hình học, nó có thể khác với vị trí "thật" hoặc "hình học".
Thiên văn học.
Trong thiên văn học, có sự phân biệt được thực hiện giữa "vị trí trung bình", "vị trí biểu kiến" và "vị trí địa tâm" của một vật thể.
Vị trí của một ngôi sao.
Vị trí trung bình của một ngôi sao (liên quan đến hệ tọa độ được thông qua của người quan sát) có thể được tính từ giá trị của nó tại một kỷ nguyên tùy ý, cùng với chuyển động thực tế của nó theo thời gian (được gọi là chuyển động riêng). Vị "trí biểu kiến" là "vị trí" của nó được nhìn thấy bởi một nhà quan sát lý thuyết ở trung tâm của Trái Đất đang chuyển động. Một số hiệu ứng khiến vị trí rõ ràng khác với vị trí trung bình:
"Địa điểm biểu kiến của các ngôi sao cơ bản" là một niên giám thiên văn, được xuất bản trước một năm bởi Viện tính toán thiên văn (Đại học Heidelberg) ở Heidelberg, Đức. Nó liệt kê vị trí rõ ràng của khoảng 1000 ngôi sao cơ bản trong mỗi 10 ngày và được xuất bản dưới dạng một cuốn sách và trong một phiên bản rộng lớn hơn trên Internet.
Thiên thể hệ mặt trời.
Vị trí biểu kiến của một hành tinh hoặc thiên thể khác trong Hệ Mặt Trời cũng bị ảnh hưởng bởi hiệu chỉnh ánh sáng-thời gian, nguyên nhân là do thời gian hữu hạn cần ánh sáng từ một thiên thể chuyển động để đến được người quan sát. Nói một cách đơn giản, người quan sát nhìn thấy thiên thể ở vị trí của nó khi ánh sáng rời khỏi nó.
|
{
"split": 0,
"title": "Vị trí biểu kiến",
"token_count": 386
}
|
22,121 |
Title: Vị trí biểu kiến
Về mặt lý thuyết, hiệu chỉnh ánh sáng-thời gian cũng có thể được tính cho các thiên thể ở xa hơn, chẳng hạn như các ngôi sao, nhưng trong thực tế, nó bị bỏ qua. Chuyển động của một vật kể từ khi ánh sáng rời khỏi nó là không cần thiết bởi vì vị trí trung bình là vị trí trung bình của nơi nó xuất hiện, không phải là nơi nó từng ở. Không giống như các hành tinh, các thiên thể này về cơ bản dường như di chuyển theo đường thẳng, vì vậy để sử dụng bình thường, không cần tính toán phức tạp để tìm vị trí trung bình của chúng.
Vị trí địa hình.
Vị "trí" trên cùng của một cơ thể được nhìn thấy bởi một người quan sát thực tế trên Trái Đất và khác với vị trí rõ ràng là kết quả của các hiệu ứng sau:
|
{
"split": 1,
"title": "Vị trí biểu kiến",
"token_count": 181
}
|
22,122 |
Title: Vị trí của Mặt Trời
Vị trí của Mặt Trời trên bầu trời là một hàm phụ thuộc vào cả thời gian và vị trí địa lý nơi quan sát trên bề mặt Trái Đất. Giống như quỹ đạo của Trái Đất quay quanh Mặt Trời trong một năm, Mặt Trời dường như di chuyển so với các ngôi sao cố định trên bầu trời, dọc theo một đường tròn được gọi là mặt phẳng hoàng đạo.
Sự quay của Trái Đất quanh trục của nó gây ra chuyển động ngày, do đó Mặt Trời trông như chuyển động trên bầu trời theo đường Mặt Trời phụ thuộc vào vĩ độ địa lý của người quan sát. Thời điểm Mặt Trời đi qua kinh tuyến của người quan sát phụ thuộc vào kinh độ địa lý.
Để tìm vị trí của Mặt Trời cho một vị trí nhất định tại một thời điểm nhất định, do đó, người ta có thể tiến hành theo ba bước như sau:
Tính toán này rất hữu ích trong thiên văn học, định hướng, khảo sát xây dựng, khí tượng học, khí hậu học, năng lượng Mặt Trời và thiết kế đồng hồ Mặt Trời.
Vị trí gần đúng.
Tọa độ hoàng đạo.
Các phương trình này, từ "Almanac Thiên văn học", có thể được sử dụng để tính tọa độ biểu kiến của Mặt Trời, điểm phân và hoàng đạo trung bình của ngày, đến độ chính xác khoảng 0°0,01 (36″), cho các ngày thuộc khoảng giữa năm 1950 và 2050.
Bắt đầu bằng cách tính "n", số ngày (dương hoặc âm, kể cả ngày phân số) kể từ trưa ở Greenwich, Giờ trên mặt đất, vào ngày 1 tháng 1 năm 2000 (J2000.0). Nếu bạn biết ngày Julian cho thời gian bạn muốn thì
Kinh độ Mặt Trời trung bình, có hiệu chỉnh quang sai là:
Sự dị thường trung bình của Mặt Trời (thực ra là của Trái Đất trong quỹ đạo)
Cho formula_4 và formula_5 nằm trong phạm vi 0° đến 360° bằng cách thêm hoặc bớt bội số của 360° khi cần.
Cuối cùng, kinh độ hoàng đạo của Mặt Trời là:
Vĩ độ hoàng đạo của Mặt Trời được cho là gần:
vì vĩ độ hoàng đạo của Mặt Trời không bao giờ vượt quá 0,00033°,
và khoảng cách từ Mặt Trời đến Trái Đất theo đơn vị thiên văn:
Tọa độ xích đạo.
|
{
"split": 0,
"title": "Vị trí của Mặt Trời",
"token_count": 491
}
|
22,123 |
Title: Vị trí của Mặt Trời
Các giá trị formula_9, formula_10 và formula_11 tạo thành một tọa độ hoàn chỉnh của Mặt Trời trong hệ tọa độ hoàng đạo, và có thể được chuyển đổi sang hệ tọa độ xích đạo bằng cách đưa vào độ nghiêng của hoàng đạo, formula_12, rồi tiếp tục tính:
Xích kinh:
Để có được xích kinh ở góc phần tư đúng trên các chương trình máy tính, sử dụng hàm Arctan đối số kép như ATAN2(y, x)
và xích vĩ:
Tọa độ xích đạo chữ nhật.
Trong tọa độ xích đạo chữ nhật định hướng phải (tọa độ xích đạo Descartes), trong đó trục formula_18 chỉ vào điểm xuân phân, trục formula_19 trực giao với nó và hướng về phía Đông, hai trục này nằm trong mặt phẳng xích đạo thiên cầu, còn trục cao formula_20 hướng lên thiên cực Bắc, tính theo đơn vị thiên văn:
Độ nghiêng của hoàng đạo.
Độ nghiêng của hoàng đạo có thể được xấp xỉ bằng:
để sử dụng trong các phương trình trên.
Xích vĩ của Mặt Trời khi nhìn từ Trái Đất.
Tổng quan.
Mặt Trời có xu hướng di chuyển lệch dần về phía bắc trong mùa xuân ở Bán cầu Bắc, và tiếp xúc với xích đạo thiên cầu vào tháng Ba. Xích vĩ của nó đạt cực đại bằng góc nghiêng của trục Trái Đất (23,44°) vào ngày Hạ chí, sau đó giảm dần cho đến khi đạt đến mức cực tiểu (−23,44°) vào ngày Đông chí, khi giá trị xích vĩ là là âm độ nghiêng trục. Sự thay đổi này tạo ra các mùa.
Đường đồ thị thể hiện xích vĩ của Mặt Trời trong một năm trông giống như một sóng sin với biên độ 23,44°, nhưng một bầu của sóng dài hơn vài ngày so với bầu còn lại, với một vài khác biệt khác.
|
{
"split": 1,
"title": "Vị trí của Mặt Trời",
"token_count": 412
}
|
22,124 |
Title: Vị trí của Mặt Trời
Hiện tượng sau sẽ xảy ra giả sử Trái Đất là một hình cầu hoàn hảo, di chuyển trên quỹ đạo tròn quanh Mặt Trời và nếu trục của nó nghiêng góc 90°, khi đó trục đó sẽ nằm trên mặt phẳng quỹ đạo (tương tự Thiên Vương Tinh). Vào một ngày trong năm, Mặt Trời sẽ lên thiên đỉnh tại Bắc Cực, do đó xích vĩ của nó lúc đó sẽ là +90°; nói cách khác, hạ điểm Mặt Trời đang ở Bắc Cực. Trong vài tháng tới, hạ điểm Mặt Trời sẽ di chuyển về phía Nam Cực, vượt qua các vòng vĩ độ với tốc độ không đổi, do đó xích vĩ của Mặt Trời sẽ giảm "tuyến tính" với thời gian. Cuối cùng, Mặt Trời sẽ ở ngay trên đỉnh đầu tại Nam Cực, với xích vĩ −90°; sau đó nó lại sẽ bắt đầu di chuyển về phía Bắc với tốc độ không đổi. Do đó, đồ thị xích vĩ Mặt Trời nhìn từ Trái Đất với độ nghiêng cao này, sẽ giống như sóng tam giác chứ không phải là sóng hình sin, một đường gấp khúc giữa cộng và trừ 90°, với các đoạn thẳng đan xen giữa hai biên cực đại và cực tiểu.
Nếu độ nghiêng trục giảm từ 90° thì biên độ của xích vĩ cũng giảm và luôn bằng với độ nghiêng trục. Ngoài ra, hình dạng của lân cận biên cực đại và biên cực tiểu trên đồ thị sẽ trở nên ít sắc (nhọn) hơn, dần dần bị cong để giống với hình dạng các biên cực đại và cực tiểu của sóng hình sin. Tuy nhiên, ngay cả khi độ nghiêng trục bằng với độ nghiêng trục của Trái Đất trong thực tế, biên cực đại và cực tiểu vẫn còn khá nhọn hơn so với sóng hình sin.
|
{
"split": 2,
"title": "Vị trí của Mặt Trời",
"token_count": 390
}
|
22,125 |
Title: Vị trí của Mặt Trời
Trong thực tế, quỹ đạo của Trái Đất là hình elip, dẫn đến hiện tượng sau đây: Trái Đất di chuyển nhanh hơn xung quanh Mặt Trời khi nó gần điểm cận nhật, vào đầu tháng 1, hơn là gần điểm viễn nhật, vào đầu tháng 7. Điều này làm cho các quá trình như sự thay đổi của xích vĩ Mặt Trời xảy ra nhanh hơn vào tháng 1 so với tháng 7. Trên biểu đồ, điều này làm cho biên cực tiểu trông nhọn hơn so với biên cực đại. Ngoài ra, do điểm cận nhật và viễn nhật không xảy ra vào các ngày chính xác như các điểm chí, nên biên cực đại và biên cực tiểu hơi bất đối xứng: tỉ lệ thay đổi ở thời điểm trước và sau không hoàn toàn bằng nhau.
Do đó, biểu đồ xích vĩ Mặt Trời rõ ràng là khác biệt theo nhiều cách so với một sóng hình sin. Tính toán xích vĩ chính xác cần xét đến một số điều phức tạp, được trình bày dưới đây.
Tính toán cụ thể.
Xích vĩ của Mặt Trời, δ☉, là góc giữa các tia của Mặt Trời và mặt phẳng xích đạo của Trái Đất. Độ nghiêng trục quay của Trái Đất (được các nhà thiên văn học gọi là "độ nghiêng của hoàng đạo") là góc giữa trục Trái Đất và đường thẳng vuông góc với quỹ đạo của Trái Đất. Độ nghiêng trục của Trái Đất thay đổi chậm trong hàng ngàn năm nhưng giá trị hiện tại của nó vào khoảng ε = 23° 26' là gần như không đổi, do đó, sự thay đổi xích vĩ Mặt Trời trong một năm gần như tương đương với năm sau.
Xích vĩ của Mặt Trời tại bất kỳ ngày nào có thể được tính bằng công thức chính tắc:
|
{
"split": 3,
"title": "Vị trí của Mặt Trời",
"token_count": 377
}
|
22,126 |
Title: Vị trí của Mặt Trời
Trong đó EL là giá trị kinh độ hoàng đạo (về cơ bản, chính là vị trí của Trái Đất trong quỹ đạo của nó). Do độ lệch tâm quỹ đạo của Trái Đất nhỏ, nên quỹ đạo của nó có thể được coi gần đúng như là một đường tròn, với sai số chỉ lên tới 1°. Xấp xỉ đường tròn có nghĩa là tại các điểm phân, EL sẽ đi trước 90° so với các điểm chí trong quỹ đạo Trái Đất, do đó: sin(EL) có thể được viết là sin(90+NDS) = cos(NDS), trong đó NDS là số ngày tính từ sau ngày đông chí. Bằng cách sử dụng phép tính gần đúng arcsin[sin(d)·cos(NDS)] ≈ d·cos(NDS), thu được công thức thường được sử dụng sau đây:
Trong đó N là số ngày trong năm bắt đầu với N = 0 vào lúc nửa đêm theo Giờ Quốc tế (UT) khi ngày 1 tháng 1 bắt đầu (tức là số thứ tự ngày trong năm trừ đi 1). Số 10 trong (N + 10) là số ngày gần đúng kể từ sau ngày Đông chí đến ngày 1 tháng 1. Vấn đề là, phương trình này đánh giá quá cao xích vĩ gần điểm phân tháng 9 lên tới +1,5°. Bản thân việc xấp xỉ hàm sin đã gây ra sai số lên tới 0,26° và không được khuyến nghị để sử dụng trong các ứng dụng về năng lượng mặt trời. Công thức Spencer năm 1971 (dựa trên chuỗi Fourier) cũng không được khuyến nghị vì có sai số lên tới 0,28°. Một sai số bổ sung lên tới 0,5° có thể xảy ra đối với tất cả các phương trình tại xung quanh các điểm phân nếu không sử dụng số thập phân khi chọn N để điều chỉnh thời gian sau nửa đêm (UT) vào đầu ngày hôm đó. Vì vậy, phương trình trên có thể có sai số tổng cộng lên tới 2,0°, gấp khoảng bốn lần chiều rộng góc của Mặt Trời, tùy thuộc vào cách nó được sử dụng.
Xích vĩ có thể được tính toán chính xác hơn nếu không thực hiện hai phép tính gần đúng đó, sử dụng các tham số của quỹ đạo Trái Đất để ước tính chính xác hơn EL:
có thể được đơn giản hóa bằng cách tính trước các hằng số thành:
|
{
"split": 4,
"title": "Vị trí của Mặt Trời",
"token_count": 498
}
|
22,127 |
Title: Vị trí của Mặt Trời
N là số ngày kể từ lúc nửa đêm (UT) khi ngày 1 tháng 1 bắt đầu (tức là số thứ tự ngày trong năm −1) và có thể bao gồm số thập phân để điều chỉnh với thời gian địa phương muộn hơn hoặc sớm hơn trong ngày. Số 2, trong (N-2), là số ngày gần đúng sau ngày 1 tháng 1 tới ngày điểm cận nhật của Trái Đất. Con số 0,0167 ở trên là giá trị hiện tại của độ lệch tâm của quỹ đạo Trái Đất. Độ lệch tâm thay đổi rất chậm theo thời gian, nhưng đối với những ngày khá gần với hiện tại, nó có thể được coi là không đổi. Các sai số lớn nhất trong phương trình này nhỏ hơn ±0,2°, nhưng có thể nhỏ hơn ±0,03° trong một năm nhất định nếu số 10 được hiệu chỉnh tăng hoặc giảm thêm bằng số ngày phân số xác định bởi thời điểm chính xác của ngày Đông chí năm trước xảy ra bao lâu trước hoặc sau trưa ngày 22 tháng 12. Những độ chính xác này được so sánh với các tính toán tiên tiến của NOAA dựa trên thuật toán Jean Meeus 1999 với độ chính xác trong khoảng 0,01°.
Các thuật toán phức tạp hơn tìm cách tính cực kỳ chính xác các thay đổi đối với kinh độ hoàng đạo bằng cách sử dụng thêm vào một vài số hạng, bên cạnh việc hiệu chỉnh độ lệch tâm bậc nhất ở trên. Các thuật toán cũng hiệu chỉnh độ nghiêng 23,44° thay đổi rất ít theo thời gian. Sự hiệu chỉnh cũng có thể bao gồm các tác động của Mặt Trăng bù vào vị trí của Trái Đất đối với tâm quỹ đạo xung quanh Mặt Trời của hệ. Sau đã khi có được xích vĩ đối với tâm Trái Đất, một sự hiệu chỉnh tiếp theo cho thị sai được áp dụng, điều này phụ thuộc vào khoảng cách giữa người quan sát và tâm Trái Đất là bao xa. Hiệu chỉnh này nhỏ hơn 0,0025°. Sai số trong việc tính toán vị trí tâm Mặt Trời giờ chỉ có thể nhỏ hơn 0,00015°. Để so sánh, nó thấp hơn rất nhiều chiều rộng góc biểu kiến của Mặt Trời là khoảng 0,5°.
Khúc xạ khí quyển.
|
{
"split": 5,
"title": "Vị trí của Mặt Trời",
"token_count": 465
}
|
22,128 |
Title: Vị trí của Mặt Trời
Các tính toán xích vĩ được mô tả ở trên chưa bao gồm các hiệu ứng khúc xạ ánh sáng trong khí quyển, chúng khiến cho độ cao góc biểu kiến của Mặt Trời mà người quan sát nhìn thấy cao hơn độ cao góc thực tế, đặc biệt là khi Mặt Trời ở độ cao thấp gần đường chân trời. Ví dụ, khi Mặt Trời ở độ cao 10°, nó trông như ở mức 10,1°. Xích vĩ cùng với xích kinh của Mặt Trời có thể được sử dụng để tính góc phương vị và độ cao thực sự của nó, sau đó có thể được điều chỉnh về khúc xạ để đưa ra vị trí biểu kiến của nó trên bầu trời.
Phương trình thời gian.
Ngoài sự dao động theo hướng Bắc-Nam hàng năm của vị trí biểu kiến của Mặt Trời, tương ứng với sự thay đổi xích vĩ của nó được mô tả ở trên, còn có một dao động nhỏ hơn nhưng phức tạp hơn theo hướng Đông-Tây. Nó là hệ quả của độ nghiêng của trục Trái Đất và cũng do sự thay đổi tốc độ chuyển động quỹ đạo của nó quanh Mặt Trời do hình dạng elip của quỹ đạo. Các tác động chính của dao động Đông-Tây này là sự thay đổi thời gian của các sự kiện hàng ngày như Mặt Trời mọc và Mặt Trời lặn, và sự khác nhau khi đối chiếu số giờ đọc được từ đồng hồ Mặt Trời so với đồng hồ hiển thị thời gian địa phương trung bình. Như đồ thị bên cho thấy, một đồng hồ Mặt Trời có thể nhanh hoặc chậm lên đến khoảng 16 phút so với đồng hồ thường. Do Trái Đất tự quay với tốc độ trung bình khoảng một độ cứ sau bốn phút, so với Mặt Trời, sự dịch chuyển 16 phút này tương ứng với một sự dịch chuyển khoảng bốn độ về phía Đông hoặc Tây của vị trí trông thấy của Mặt Trời, so với vị trí trung bình của nó. Cụ thể là một sự dịch chuyển về phía Tây sẽ làm cho đồng hồ Mặt Trời đi trước đồng hồ thường.
|
{
"split": 6,
"title": "Vị trí của Mặt Trời",
"token_count": 429
}
|
22,129 |
Title: Vị trí của Mặt Trời
Vì tác động chính của dao động này liên quan đến thời gian, nó được gọi là phương trình thời gian, sử dụng từ "phương trình" theo nghĩa hơi cổ xưa có nghĩa là "hiệu chỉnh" hơn là nghĩa "bằng nhau". Dao động được đo bằng các đơn vị thời gian, phút và giây, tương ứng với lượng mà đồng hồ Mặt Trời sẽ đi trước đồng hồ thường. Phương trình thời gian có thể dương hoặc âm.
Biểu đồ analemma.
Một biểu đồ analemma là một sơ đồ cho thấy sự thay đổi hàng năm của vị trí của Mặt Trời trên thiên cầu, so với vị trí trung bình của nó khi nhìn từ một vị trí cố định trên Trái Đất. (Từ "analemma" cũng thỉnh thoảng, nhưng hiếm khi, được sử dụng trong các bối cảnh khác.) Nó có thể được coi là một hình ảnh của các chuyển động biểu kiến của Mặt Trời trong một năm và trông giống như hình con số 8. Biểu đồ analemma còn có thể được hình dung là một loạt các bức ảnh chồng chất được chụp vào cùng một thời điểm trong ngày, cách nhau vài ngày trong một năm.
Biểu đồ analemma cũng có thể được coi là một biểu đồ kết hợp của xích vĩ của Mặt Trời, thường được vẽ theo chiều dọc, so với phương trình thời gian, được vẽ theo chiều ngang. Thông thường, các tỉ lệ được chọn sao cho khoảng cách bằng nhau trên biểu đồ biểu thị các góc bằng nhau theo cả hai hướng trên thiên cầu. Do đó, 4 phút (hay chính xác hơn là 3 phút, 56 giây) theo phương trình thời gian, được biểu thị bằng cùng khoảng cách 1° theo xích vĩ, vì Trái Đất tự quay với tốc độ trung bình 1° cứ sau 4 phút, so với Mặt Trời.
Một số biểu đồ analemma được vẽ như nó sẽ được nhìn thấy trên bầu trời bởi một người quan sát nhìn lên trên. Nếu hướng Bắc được hiển thị ở trên cùng, thì hướng Tây là ở "bên phải". Điều này thường được thực hiện ngay cả khi analemma được biểu diễn trên một quả địa cầu địa lý, trên đó các lục địa, v.v., được hiển thị với hướng Tây ở bên trái.
|
{
"split": 7,
"title": "Vị trí của Mặt Trời",
"token_count": 474
}
|
22,130 |
Title: Vị trí của Mặt Trời
Một số analemma được đánh dấu ngày để hiển thị vị trí của Mặt Trời trên biểu đồ vào các ngày khác nhau, cách nhau vài ngày, trong suốt cả năm. Điều này cho phép analemma được sử dụng để thực hiện các phép tính định lượng tương tự đơn giản như thời gian và góc phương vị của các sự kiện Mặt Trời mọc và Mặt Trời lặn. Các analemma không có dấu ngày được sử dụng để chỉnh thời gian được chỉ bởi các đồng hồ Mặt Trời.
|
{
"split": 8,
"title": "Vị trí của Mặt Trời",
"token_count": 110
}
|
22,131 |
Title: Vị trí của Trái Đất
Kiến thức về vị trí của Trái Đất đã được định hình bằng 400 năm quan sát bằng kính thiên văn, và đã mở rộng triệt để kể từ đầu thế kỷ 20. Ban đầu, Trái Đất được cho là trung tâm của Vũ trụ, chỉ bao gồm những hành tinh có thể nhìn thấy bằng mắt thường và một quả cầu xa xôi của các ngôi sao cố định. Sau khi chấp nhận mô hình nhật tâm vào thế kỷ 17, các quan sát của William Herschel và những nhà khoa học khác cho thấy Mặt trời nằm trong một thiên hà rộng lớn, hình đĩa. Đến thế kỷ 20, các quan sát về tinh vân xoắn ốc cho thấy thiên hà Milky Way là một trong hàng tỷ thiên hà trong vũ trụ đang giãn nở, được nhóm lại thành các cụm và siêu đám thiên hà. Vào cuối thế kỷ 20, cấu trúc tổng thể của vũ trụ hữu hình đã trở nên rõ ràng hơn, với các siêu đám mây hình thành thành một mạng lưới rộng lớn các dây và lỗ rỗng. Siêu đám, dây và lỗ rỗng là những cấu trúc mạch lạc lớn nhất trong Vũ trụ mà chúng ta có thể quan sát được. Ở quy mô lớn hơn (hơn 1000 megaparsec), Vũ trụ trở nên đồng nhất, có nghĩa là tất cả các phần của nó có trung bình cùng mật độ, thành phần và cấu trúc.
|
{
"split": 0,
"title": "Vị trí của Trái Đất",
"token_count": 293
}
|
22,132 |
Title: Vị trí của Trái Đất
Vì Vũ trụ được tin là không có "trung tâm" hay "rìa" nên không có điểm tham chiếu cụ thể nào để vẽ sơ đồ vị trí tổng thể của Trái Đất trong vũ trụ. Bởi vì vũ trụ quan sát được được định nghĩa là khu vực của Vũ trụ có thể nhìn thấy đối với các nhà quan sát trên mặt đất, bởi vì sự bất biến của tốc độ ánh sáng nên Trái Đất là trung tâm của vũ trụ có thể quan sát được của Trái Đất. Tham chiếu có thể được thực hiện đối với vị trí của Trái Đất đối với các cấu trúc cụ thể, tồn tại ở các quy mô khác nhau. Vẫn chưa xác định được liệu Vũ trụ là vô hạn hay không. Đã có nhiều giả thuyết cho rằng vũ trụ được biết đến có thể chỉ là một ví dụ nằm trong một đa vũ trụ cao hơn; tuy nhiên, không có bằng chứng trực tiếp về bất kỳ loại đa vũ trụ nào đã được quan sát, và một số người đã lập luận rằng giả thuyết này không phải là không có căn cứ.
Chi tiết.
Trái Đất là hành tinh thứ ba tính từ Mặt trời với khoảng cách xấp xỉ và được du hành với thông qua không gian bên ngoài.
|
{
"split": 1,
"title": "Vị trí của Trái Đất",
"token_count": 263
}
|
22,133 |
Title: Vịnh Botany
Vịnh Botany, một vịnh nhỏ đại dương mở, tọa lạc ở Sydney, New South Wales, Australia, cách khu kinh doanh trung tâm Sydney 13 km về phía nam. Nguồn của nó là nơi hợp lưu của Georges River at mũi Taren và sông Cooks tại Kyeemagh, và chảy về phía đông trước khi gặp miệng tại biển Tasman, giữa La Perouse và Kurnell.
Tổng diện tích lưu vực của vịnh là khoảng 55 km2 (21 dặm vuông). Mặc dù tương đối khó chịu, vịnh này phục vụ như là cảng biển hàng hóa chính của Sydney, nằm ở Port Botany, với các cơ sở do Tổng công ty Cảng Sydney quản lý. Hai đường băng của Sân bay Sydney kéo dài ra vịnh. Vườn quốc gia vịnh Botany nằm trên mũi phía bắc và phía nam của vịnh. Khu vực xung quanh vịnh thường được quản lý bởi Cục Đường bộ và Dịch vụ Hàng hải.
Vùng đất liền kề Vịnh Botany đã có cư dân thổ dân Tharawal và Eora định cư hàng ngàn năm và các gia tộc liên quan của họ. Vào ngày 29 tháng 4 năm 1770, Vịnh Botany là địa điểm đổ bộ đầu tiên của James Cook về HMS Endeavour trên vùng đất của Úc, sau sự hoạt động hàng hải rộng lớn của New Zealand. Sau đó, người Anh đã lên kế hoạch Botany Bay làm địa điểm cho một thuộc địa hình sự. Trong số các kế hoạch này là nơi cư trú đầu tiên của Châu Âu tại Úc tại Sydney Cove. Mặc dù vụ án hình sự đã gần như ngay lập tức được chuyển đến Sydney Cove, một thời gian ở Anh vận chuyển đến "Vịnh Botany" là một tên ẩn danh để vận chuyển đến bất kỳ khu định cư nào của Úc.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịnh Botany",
"token_count": 389
}
|
22,134 |
Title: Vịnh Chesapeake
Vịnh Chesapeake (tiếng Anh:"Chesapeake Bay") là một vịnh nằm bên bờ Đại Tây Dương, đông Maryland và Virginia. Vịnh này có lưu vực rộng 166.534 km² ở Quận Columbia và một phần của 6 bang: New York, Pennsylvania, Delaware, Maryland, Virginia và Tây Virginia. Hơn 150 sông và suối chảy vào vịnh này. Vịnh này có chiều dài 310 km và chiều rộng thay đổi từ 6 đến 40 km. Cửa vịnh là một dải nước giữa mũi Charles, Virginia, bên bờ bắc và mũi Henry, Virginia, bên bờ nam, rộng 19 km. Có nhiều sông suối đổ vào vịnh này, trong đó có các sông James, York, Rappahannock, Potomac, Patuxent và sông Susquehanna. Đầu của vịnh được nối vào sông Delaware bằng kênh Chesapeake và Delaware, một con kênh dài 31 km tạo lối vào cho tàu bè đến khu vực cảng Wilmington-Philadelphia. Đường hầm cầu vịnh Chesapeake dài 28 km được hoàn thành năm 1964, chạy xuyên suốt dưới lối vào vịnh giữa mũi Henry và mũi Charles. Cầu qua vịnh Chesapeake được xây dựng đầu thập niên 1950 từ mũi Sandy, Maryland, gần Annapolis, tây đảo Kent, Maryland. Các cảng quan trọng trong vịnh này có thể tiếp tàu nước sâu là: Newport News, Norfolk, và Portsmouth ở Virginia và Baltimore ở Maryland. Vịnh này là nơi cung cấp các loại hải sản quan trọng như sò, cua.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịnh Chesapeake",
"token_count": 355
}
|
22,135 |
Title: Vịnh Giao Châu
Vịnh Giao Châu (Trung văn giản thể: 胶州湾) là một vịnh ở phía nam của Thanh Đảo, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Nó là nhượng địa của Đức từ năm 1898 đến năm 1914. Người Đức đã xây dựng ở vịnh này một căn cứ hải quân lớn.
Trong lịch sử, Giao Châu là đô thị chính của vùng vịnh, có tên Latinh hóa là Kiaochow, Kiauchau hoặc Kiao-Chau trong tiếng Anh và Kiautschou trong tiếng Đức.
Địa lý.
Vịnh nằm trên bờ biển phía nam của bán đảo Sơn Đông ở Đông Trung Quốc. Nó tách quận Hoàng Đảo khỏi thành phố Thanh Đảo và là ranh giới của thành phố Giao Châu và thành phố Giao Nam.
Vịnh có chiều dài bắc-nam 32 km, đông-tây rộng 27 km với diện tích 352 km², xấp xỉ hai phần ba diện tích của 100 năm trước đây. Theo số liệu chính thức, diện tích bề mặt đã được giảm từ 560 km² trong thời gian 1928 đến 362 km² năm 2003 do đất khai hoang duy trì hoạt động trong những thập kỷ gần đây. Các loài sinh vật biển cũng giảm hai phần ba trong suốt 50 năm qua do phát triển đô thị và công nghiệp và tăng trưởng của khu vực lân cận xung quanh vịnh. Dù vịnh nằm ở phía bắc Trung Quốc nhưng quanh năm không đóng băng, dễ phòng thủ, khó tấn công, được coi là một trong những quân cảng hàng đầu thế giới. Năm 1894, trong cuộc chiến tranh Giáp Ngọ, Hạm đội Bắc Dương của nhà Thanh bị Hải quân Đế quốc Nhật Bản tiêu diệt hoàn toàn.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịnh Giao Châu",
"token_count": 364
}
|
22,136 |
Title: Vịnh Suez
Đầu phía bắc của Biển Đỏ chia thành hai nhánh bởi Bán đảo Sinai, tạo thành Vịnh Suez (; latin hóa: Khalīǧ as-Suwais) ở phía tây và Vịnh Aqaba ở phía đông. Vịnh Suez được hình thành trong một "lũng hẹp dài" ("rift") tương đối còn mới, nhưng nay không còn hoạt động gọi là "Lũng hẹp vịnh Suez" ("Gulf of Suez Rift"), cách đây khoảng 28 triệu năm.
Vịnh Suez trải dài khoảng 300 km về phía bắc hơi chệch phía tây bắc, chấm dứt ở thành phố Suez của Ai Cập và lối vào Kênh Suez. Dọc theo đường giữa vịnh này là ranh giới giữa 2 lục địa châu Phi và châu Á. Lối vào vịnh Suez nằm ở đỉnh của mỏ dầu và khí đốt Gemsa.
Vịnh Suez choán nhánh tây bắc của Biển Đỏ giữa lục địa châu Phi (phía tây) và bán đảo Sinai (phía đông) của Ai Cập. Đây là nhánh thứ của nơi gặp nhau của hệ lũng hẹp ba nhánh. Nhánh thứ hai của hệ nối 3 lũng này là Vịnh Aqaba.
Chiều dài của vịnh, từ cửa vào ở Eo biển Jubal tới đầu cuối ở thành phố Suez, là 314 km, và chiều rộng từ 19 tới 32 km.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịnh Suez",
"token_count": 309
}
|
22,137 |
Title: Vịnh xướng
Vịnh xướng hay bài ca phụng vụ (tiếng Anh: "chant", từ tiếng Pháp: "chanter", có từ điển dịch là "xướng ca") là việc hát hoặc đọc theo tiết tấu, thường chủ yếu dựa trên một hoặc hai cao độ được gọi là tông ngâm tụng. Vịnh xướng khá đa dạng, từ các giai điệu đơn giản bao gồm một khúc cố định các nốt nhạc cho tới các cấu trúc nhạc phức tạp. Vịnh xướng có thể coi là lời thoại, âm nhạc hoặc một dạng lời thoại được nâng cao độ hoặc cách điệu hóa. Vào Hậu kỳ Trung cổ, một số vịnh xướng tôn giáo đã phát triển thành các bài hát hình thành nên một trong số các nguồn gốc của nền âm nhạc phương Tây sau này. Trong phụng vụ Kitô giáo, vịnh xướng là các bài ca thuộc về nghi thức phụng vụ, khác với các thánh ca điểm tô cho - nhưng không thuộc về - buổi phụng vụ. Vịnh xướng trong Giáo hội Tây phương được gọi là bình ca ("cantus planus"), trong đó nổi bật nhất là bình ca Gregoriano.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịnh xướng",
"token_count": 246
}
|
22,138 |
Title: Vịt đầu đỏ Bắc Mỹ
Vịt trời đầu đỏ hay Vịt trời Mỹ (danh pháp khoa học: Aythya americana) là một loài chim trong họ Vịt. Vịt trời đầu đỏ sinh sống tại các khu vực đầm lầy và đồng cỏ ở Bắc Mỹ. Vịt trống trưởng thành có mỏ màu xanh, biển, cái đầu và cổ màu đỏ, ngực màu đen, mắt vàng. Vịt mái trưởng thành có cơ thể và đầu màu nâu và mỏ xanh biển tối hơi xanh với đầu màu đen.
Chúng trú đông đông trong Nam và phía đông bắc Hoa Kỳ, khu vực Ngũ Đại Hồ, phía bắc México và Caribbean.
Hiện tại số lượng trong tự nhiên của loài chim này đã suy giảm nghiêm trọng do bị mất môi trường sinh sống và làm tổ. Những con chim mái của loài này thường đẻ trứng vào trong tổ của những loài chim khác. Chúng thay đổi bạn tình hàng năm và thường bắt đầu ghép đôi vào cuối mùa đông. Trong mùa sinh sản, những con chim trống thường thay lông, bộ lông cũ rụng sạch khiến chúng không bay được trong vòng một tháng. Chúng cũng là một loài chim di cư.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịt đầu đỏ Bắc Mỹ",
"token_count": 253
}
|
22,139 |
Title: Vịt Anh Đào
Vịt Anh Đào hay còn gọi là vịt Cherry Valley hay vịt Thung lũng Anh Đào, vịt siêu thịt là giống vịt công nghiệp có nguồn gốc từ thung lũng Anh Đào của nước Anh, chúng là giống vịt được tạo ra từ Hãng Cherry Valley Farms Ltd. của nước Anh, gồm rất nhiều dòng, mang nhiều tên khác nhau có nguồn gốc do chọn lọc lai tạo từ các dòng vịt Bắc Kinh, chúng là giống vịt kiêm dụng thịt - trứng. Vịt Anh Đào đã được Nhà nước Việt Nam công nhận là một giống vật nuôi được phép sản xuất, kinh doanh, lưu hành trên lãnh thổ Việt Nam.
Lịch sử.
Giống vịt Anh Đào (Cherry Vatley) này được tạo ra ở Anh hơn 30 năm gần đây. Những năm đầu tiên, số lượng vịt lên đến trên bốn vạn con mái, hãng này đã trở thành nguồn cung cấp vịt thịt lớn nhất không những ở nước Anh mà còn cả trên thế giới, chúng được nhập vào miền Nam Việt Nam năm 1975. Trang trại Cherry Valley, trại giống đặt tại Vương Quốc Anh, có hơn 50 năm kinh nghiệm trong sản xuất giống Vịt siêu thịt (Supper Meal) nổi tiếng và có quy mô thuộc loại lớn nhất thế giới. Với năng lực cung cấp 8 triệu con giống hàng năm cho các Trung tâm lớn tại châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước Đông Nam Á.
Vịt Anh Đào được nhập vào Việt Nam nhiều đợt, từ nhiều nguồn khác nhau. Năm 1980 nhập từ Hungari (vịt Anh Đào Hungary), năm 1982 - 1983 vịt Cherry Valley lại được nhập vào Việt Nam từ Anh. Cho đến nay vịt Anh Đào vẫn được nuôi ở một số địa phương và vịt Anh Đào được đưa vào Việt Nam chủ yếu từ Hungari. Sau đó, tại Việt Nam thông qua chương trình FAO, Công ty Cherry Valley đã có mặt từ năm 1992 và hiện nay được nuôi giữ tại các Trung tâm giống vịt Quốc gia thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thông như Trại Vigova, trại Thụy Phương, trại Đại Xuyên.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịt Anh Đào",
"token_count": 445
}
|
22,140 |
Title: Vịt Anh Đào
Là giống vịt chuyên thịt có năng suất khá cao, vịt được nhập vào Việt Nam nhiều đợt, từ nhiều nguồn khác nhau. Các tác giả nghiên cứu đầu tiên về giống vịt này đã đặt cho nó một cái tên Việt Nam dịch theo nghĩa từ tiếng Anh và vì vậy vịt có tên là vịt Anh Đào. Giống vịt Anh Đào trước đây đã mất, hiện giống vịt Anh Đào của nhiều người đang nuôi chính là do quá trình lai tạo, trong các văn bản pháp luật Việt Nam vẫn gọi song song tên con giống này là "vịt Cherry Valley" (đối với giống nhập về) và "vịt Anh Đào" (nhân nuôi tại Việt Nam), xếp chúng vào nhóm vịt nội địa
Đặc điểm.
Vịt Anh Đào có nhiều dòng khác nhau. Nhìn chung vịt có hình dáng nặng nề, đầu to và rộng, mình dài, ngực rộng, lông màu trắng tuyền, chân, mỏ màu da cam. Khả năng cho thịt của Vịt Anh Đào rất lớn, lúc 49 ngày tuổi có thể đạt 2,7-3,2 kg. Tiêu tốn thức ăn cho l kg thịt là 2,4 - 2,8 kg. Sản lượng trứng đạt 150 - 155 quả/mái/năm. Trong điều kiện nuôi dưỡng tại Việt Nam vịt đạt khối lượng cơ thể 2,2 - 2,3 kg lúc 75 ngày tuổi, sản lượng trứng đạt 120 - 130 quả/mái/năm. Theo khảo sát khác, vịt Anh Đào có màu lông màu trắng, mỏ, chân có màu da cam. Sản lượng trứng 125 - 160 quả/mái/năm. Tỉ lệ 1 trống 5 mái cho 85 - 90% phôi. Trứng vịt ấp 28 ngày. Giết thịt lúc 60 ngày tuổi đạt 1,9 - 2,3 kg, Vịt đực trưởng thành nặng trên 4 kg, vịt mái nặng trên 3,5 kg, sản lượng trứng 100-110 quả/năm,
|
{
"split": 1,
"title": "Vịt Anh Đào",
"token_count": 409
}
|
22,141 |
Title: Vịt Anh Đào
Việt Nam chỉ nhập vào những dòng vịt thịt màu trắng nặng cân trung bình nên chúng đều dài, ngực rộng và hơi nhô ra, bụng sâu và rộng, lông màu trắng tuyền, chân và mỏ đều có màu vàng da cam. Những đặc điểm này khá giống với vịt Bắc Kinh, là giống gốc tạo ra vịt Anh Đào. Vịt Anh Đào rất dễ béo. Tại Việt Nam vịt đạt trọng lượng 2,2 - 2,3 kg lúc 75 ngày tuổi, năng suất trứng thấp, chỉ đạt từ 100 -120 trứng/mái/năm. Tiêu tốn thức ăn cho 1 kg thịt hơi là 3,3 -3,7 kg. Cũng qua chăn nuôi tại một số nơi cho thấy đặc điểm của dòng vịt Anh Đào này là to con, dày thịt, thịt nó thơm như vịt cỏ, người dân rất ưa chuộng, nếu nuôi dưỡng tốt, thời tiết thuận lợi thì vịt Anh Đào đẻ khoảng 60%.
Chăm sóc.
Vịt nuôi lấy thịt thì lấy con giống từ nơi sản xuất giống đạt tiêu chuẩn, chọn những con lông bông và mịn, mắt sáng, to, lanh lợi, chân bóng mượt, nhanh nhẹn khỏe mạnh. Không chọn con bị dị tật, quá bé hoặc quá to so với trung bình của con giống như hở rốn, yếu, khèo chân, nặng bụng bết lông. Cách nuôi vịt này hiệu quả phải nắm bắt nhu cầu dinh dưỡng của vịt nuôi qua các giai đoạn. Nhu cầu dinh dưỡng cho các giống này ở giai đoạn 1-28 ngày tuổi là 2890 Kcal năng lượng/kg, thức ăn hỗn hợp với tỷ lệ protein 22%. Lúc 28 ngày tuổi cân đàn vịt. Nếu khối lượng trung bình đạt bằng khối lượng chuẩn ta giữ nguyên mức ăn như ở 28 ngày tuổi.
|
{
"split": 2,
"title": "Vịt Anh Đào",
"token_count": 380
}
|
22,142 |
Title: Vịt Anh Đào
Nếu khối lượng thấp hơn tăng thêm lượng thức ăn lên 5g/con/ngày trong cả tuần tiếp theo. Cứ như vậy mỗi tuần ta cân vịt 1 lần 10% tổng đàn để xác định lượng thức ăn cho tuần tiếp theo cho đến 8 tuần tuổi. Từ 9-22 tuần tuổi đối với vịt Anh Đào yêu cầu thức ăn đạt protein 15,5%, năng lượng 2890 Kcal. Từ 23-24 tuần tuổi, đối với vịt Anh Đào cho ăn khẩu phần vịt đẻ có 2700 Kcal/kg thức ăn và 19,5% protein thô. Từ 25-26 tuần tuổi, đối với vịt Super M cũng cho ăn khẩu phần vịt đẻ như trên. Điều chỉnh thức ăn sao cho vịt đạt khối lượng của giống lúc 24 tuần tuổi đạt 2,4-2,6 kg/con đối với vịt Anh Đào.
Giống lai.
Vịt Anh Đào là con giống nền để tạo ra giống vịt Anh Đào Hungary (vịt Szarvas), là giống vịt nhập khẩu từ Hungary vào tháng 6 năm 1990, nuôi nhân giống ở trại vịt giống Cẩm Bình - Hải Dương. Năm 1993 giống vịt Szarvas đã được Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn cho phép đưa ra nuôi đại trà, đến nay đã qua 7 thế hệ. Giống vịt Szarvas được nuôi phổ biến ở Đồng bằng Bắc bộ. Năng suất tăng trưởng lúc 8 tuần tuổi đạt trọng lượng bình quân 2,615 kg.
Trong đó con trống đạt 2,875 kg và mái 2,455 kg. Mức tiêu tốn thức ăn từ 2,8 đến 3 kg cho mỗi kg tăng trọng. Vịt thích nghi tốt với điều kiện khí hậu Việt Nam, sức đề kháng bệnh tốt, đẻ trứng nhiều, đỉnh cao sản xuất ở tuần 35 – 40, tỉ lệ đẻ có thể lên đến 80 -90%, vịt này chạy đồng tốt hơn Super M. Ở miền Bắc dùng giống vịt này làm dòng mái lai với Super M cho kết quả nuôi thịt rất tốt. Vịt Szarwas đã được công nhận là một giống vật nuôi tại Việt Nam
|
{
"split": 3,
"title": "Vịt Anh Đào",
"token_count": 430
}
|
22,143 |
Title: Vịt Anh Đào
Vịt Nông nghiệp Gồm vịt Nông nghiệp 1 và vịt Nông nghiệp 2 là nhóm vịt lai được tạo ra do kết quả lai giữa vịt Tiệp dòng 1822 và vịt Anh Đào hiện vẫn còn nuôi ở miền Nam Việt Nam. Vịt Nông nghiệp có tầm vóc to, lúc 7 tuần tuổi có trọng lượng 2,2 - 2,3 kg, thức ăn tiêu tốn cho một kg thịt hơi là 2,8 - 2,9. Hiện nay vịt Nông nghiệp đang được nuôi với mục đích lấy thịt ở một số vùng miền Nam. Vịt được coi như một trong những nguồn tiềm năng để sản xuất thịt vịt ở miền Nam.
|
{
"split": 4,
"title": "Vịt Anh Đào",
"token_count": 141
}
|
22,144 |
Title: Vịt Kỳ Lừa
Vịt Kỳ Lừa là một giống vịt nhà có nguồn gốc tại tỉnh Lạng Sơn. Được nuôi rộng rãi ở các tỉnh trung du, miền núi phía bắc và một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, nơi có khí hậu lạnh. Đây là giống vật nuôi quý ở Việt Nam và đang được nằm trong diện bảo tồn nguồn gen quý. Chúng là giống vịt kiêm dụng thịt trứng. Nhìn chung giống vịt này chưa được phổ biến rộng rãi và số lượng không lớn.
Đặc điểm.
Mô tả.
Vịt Kỳ Lừa có thân hình không dài, ngực sâu, bụng sâu vừa phải.Dáng đi của vịt lúc lắc sang 2 bên, thân hơi dốc so với mặt đất. Vịt có đầu hơi to, mỏ xám hoặc vàng, con trống có màu xanh nhạt hoặc xám đen, mắt sáng nhanh nhẹn. Cổ ngắn, thân mình hơi rộng; ngực khá sâu và nhô ra, bụng sâu. Đùi to, ngắn, bàn chân có màu xám hoặc vàng, một số con chân có đốm đen, nâu.
Vịt có màu lông không đồng nhất, và không thuần nhất ở con mái mỏ màu xám hoặc vàng, còn con trống có mỏ màu xanh nhạt và cổ có màu lông xanh biếc, vịt mái có lông bụng màu trắng, cổ vịt trống có lông màu xanh biếc. Đa số có màu nâu sẫm hoặc xám nhạt, có một số con đen tuyền hoặc trắng xỉn, loang trắng đen hoặc trắng nâu. Khối lượng vịt trưởng thành một năm tuổi con mái 2,2 - 2,5 kg, con trống 2,8 - 3,0 kg. Thịt vịt ngon, thơm, hơi dai, giàu axit glutamic.
Tập tính.
Vịt Kỳ Lừa thích nghi với mùa đông giá rét, chịu đựng được điều kiện nuôi dưỡng thấp, tính hợp đàn cao, được chăn thả ngoài đồng, bãi. Vịt đẻ tương đối sớm: 150 - 160 ngày tuổi, khi cân nặng 1,7 - 1,9 kg. Sản lượng trứng 110 - 130 quả/mái/năm. Khối lượng trứng 70 - 75 g. Trứng vịt sẽ nở sau 28 ngày được ấp.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịt Kỳ Lừa",
"token_count": 474
}
|
22,145 |
Title: Vịt Kỳ Lừa
Vịt kỳ lừa thành thục sinh dục sớm thường là 150 - 160 ngày. Sản lượng trứng đạt trung bình 110 - 120 quả/mái/năm. Khối lượng trứng đạt trung bình 70-75 gam. Tỉ lệ trứng có phôi và tỉ lệ nở khá cao. Khả năng sinh trưởng và phát triển của giống vịt này trung bình. Khối lượng cơ thể lúc 63 ngày đạt bình quân 1,2 - 1,6 kg và lúc trưởng thành con trống đạt 2,8 - 3,0 kg, con mái 2,2 - 2,5 kg.
Chăn nuôi.
Chăm sóc.
Vịt con từ lúc mới nở đến 1 tháng tuổi là thời gian "gột vịt", giai đoạn này kéo dài hay ngắn tùy theo giống vịt, mùa vụ, điều kiện nuôi dưỡng và chăm sóc. Không nên nhốt vịt quá đông, chúng dễ chen chúc xô đẩy đè lên nhau ảnh hưởng đến sức sinh trưởng, vịt sẽ còi cọc và chết. Chỗ nuôi vịt cần phải đảm bảo đủ ấm, đủ ánh sáng, không ẩm ướt và mật độ nuôi phù hợp.
Vịt mới nở mua về thường cho nhịn đói, sau 4 giờ mới cho ăn. Nếu vịt chưa khô lông có thể cho nhịn lâu hơn, vì sau khi nở trong bụng vịt con còn chứa một khối lượng lòng đỏ có tác dụng tiếp tục cung cấp chất dinh dưỡng. Không nên cho vịt ăn ngay thì khối lượng lòng đỏ không tiêu được dễ làm cho vịt chết trong tuần đầu.
Bệnh tật.
Các bệnh vịt Kỳ Lừa hay gặp như Bệnh dịch tả vịt: do virut dịch tả vịt gây nên. Khi mắc, vịt bỏ ăn ít vận động, khi lùa đi ăn thường rớt lại phía sau. Sốt cao trong 2-3 ngày liền. Chảy nước mắt. Đầu sưng do phù ở tổ chức liên kết dưới da.Vịt ỉa chảy phân loãng màu trắng xanh, mùi thối khắm, lỗ hậu môn dính nhiều phân.Sợ ánh sáng một số con có triệu chứng liệt 2 chân nằm một chỗ, cánh rủ xuống.
|
{
"split": 1,
"title": "Vịt Kỳ Lừa",
"token_count": 454
}
|
22,146 |
Title: Vịt Kỳ Lừa
Bệnh tụ huyết trùng vịt: do vi khuẩn Pasteurella multocida gây ra. Triệu chứng là ủ rũ, kém ăn, xiêu vẹo, bại cánh, liệt chân, khò khè.Phân lỏng vàng xám đôi khi lẫn máu, chảu máu mũi miệng; sốt, Khát nước, nằm bẹp, giẫy chết sau 2-5 ngày. Bệnh nấm phổi ở vịt: Kém ăn, thở khó và nhanh, khi thở vịt vươn cổ dài, mũi chảy nước. Thân nhiệt tăng, con vật ủ rũ, ỉa phân rất hôi thối. Vịt suy nhược nhanh và có trường hợp vịt có triệu chứng co giật. Một số con bị rối loạn tiêu hóa do độc tố của nấm tiết ra gây viêm ruột, chảy máu ruột, tiêu chảy, bại liệt.
Bệnh viêm gan do virut: Bệnh này vịt con dễ mẫn cảm nhất. Vịt ủ rũ, kém ăn, không theo kịp các con khác trong đàn. Đầu nghẹo về phía sau và ch ân đi co giật. Sau thời gian ngắn thì vịt không vận động nữa mà nằm ngửa nhắm mắt 2 chân đạp ngửa về phía sau. Đối với Bệnh sưng phù đầu thì vịt sốt cao, Sưng phù đầu, sưng mặt. Dịch viêm chảy nhiều ở mắt và mũi.Giảm ăn, giảm đẻ.
Bệnh phó thương hàn: Vịt ốm bị tiêu chảy, phân loãng có bọt khí, lông đít dính muối urat. Đi lại ít, chúng tách khỏi đàn tụ tập thành nhóm tìm chỗ ấm. Vịt khát nước, mệt mỏi, ủ rũ, mắt nửa nhắm nửa mở hoặc nhắm hẳn do viêm màng kết mạc có mủ. Bệnh có chứng thần kinh ở dạng lên cơn, lúc đó vịt lăn quay ra run rẩy hai chân, đầu ngoẹo. Vịt bệnh trước khi chết nằm ngửa, chân co giật trên không. Đối với Bệnh nhiễm khuẩn E.Coli: Vịt bị rút cổ, lông xù, mắt lim dim như buồn ngủ, sổ mũi và khó thở. Co giật, quay đầu, ngoẹo cổ, vịt đẻ chết lai rai, giảm đẻ, vỏ trứng dính máu.
|
{
"split": 2,
"title": "Vịt Kỳ Lừa",
"token_count": 494
}
|
22,147 |
Title: Vịt Mốc Bình Định
Vịt Mốc là giống vịt hướng trứng, có màu lông nâu nhạt giống như mốc nên gợi là vịt Mốc, được hình thành do quá trình lai tạo tự nhiên và đã có từ lâu đời ở vùng Gò Bồi, huyện Tuy Phước, ở phía Đông của tỉnh Bình Định. Hiện nay, vịt có ở nhiều nơi của vùng duyên hải miền trung..
Đặc điểm.
Lúc mới nở, vịt con có hình dáng thon, dài; lông màu lang như bị mốc; mỏ và chân vàng nhạt. Khi trưởng thành, vịt có mình thon, ngực lép, đầu thon, cổ thon dài, hình dáng tạo với mặt đất 1 góc 45°; lông màu nâu nhạt, vàng có đốm nâu, vàng hoe và vàng, ở con trống có 1 - 2 lông móc; mỏ và chân có màu xám đen (chì), đỏ hoặc vàng; khối lượng 1,4 - 1,5 kg/con. Khả năng sản xuất: Vịt đẻ bói lúc 140 ngày tuổi, năng suất trứng đạt 90 quả/25 tuần, khối lượng trứng đạt 55 gram/quả.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịt Mốc Bình Định",
"token_count": 243
}
|
22,148 |
Title: Vịt cao su
Vịt cao su ("Rubber duck") là một món đồ chơi có hình dạng như một con vịt cách điệu, chú vịt này thường có màu vàng với đế bằng. Món đồ chơi này có thể được làm bằng vật liệu cao su hoặc cao su như nhựa vinyl. Với màu sắc tươi sáng, kết cấu trơn tròn và một số món bóp vào đều phát ra âm thanh và có thể phun nước. Vịt cao su là món đồ chơi ưa thích trong bồn tắm của nhiều gia đình. Những chú vịt làm từ cao su được thả bơi trong chậu nước chơi đùa cùng các em bé. Vịt cao su làm món đồ chơi rất ưa thích cho trẻ con, bỏ chúng chúng trong bồn tắm làm dịu nỗi sợ nước và nước của những em bé và tạo sự hứng thú cho trẻ mỗi khi tắm. Những chú vịt ngộ nghĩnh là người bạn cùng bé vui chơi khi tắm và phát triển trí tưởng tượng.
Nguy cơ.
Các nhà khoa học đã chứng minh vịt cao su bạn hay dùng trong nhà tắm thực sự rất bẩn. Nhiều con vịt cao su từng bị phát hiện có hàm lượng quá cao chất gây hại cho hệ sinh sản, theo đó, phát hiện sản phẩm chứa đến 21% phthalate (DEHP) là chất phụ gia cực độc gây ung thư, dậy thì sớm và biến dị thường được dùng trong các sản phẩm nhựa. Sự kết hợp từ chất dẻo sản xuất vịt tắm và nước tắm bẩn có thể trở thành môi trường lý tưởng cho các loại vi khuẩn gây hại đến mắt, tai. Chỉ một thời gian ngắn sau khi sử dụng chúng sẽ xuất hiện các chất cặn khó tẩy màu đen, sờ vào có cảm giác nhầy, dính, do đó, cọ rửa đồ chơi của trẻ thường xuyên bằng nước sạch và xà phòng.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịt cao su",
"token_count": 390
}
|
22,149 |
Title: Vịt cao su
Cơ quan chức năng Tây Ban Nha đã ban hành quyết định tịch thu và cấm bán trên toàn quốc đối với loại sản phẩm đồ chơi phòng tắm hình con vịt vàng được làm bằng cao su của Trung Quốc. Bởi sản phẩm này chứa lượng lớn hóa chất phthalate nguy hiểm tới sức khỏe người tiêu dùng nhất là trẻ em. Ở Việt Nam, trên thị trường những con vịt vàng không rõ nguồn gốc xuất xứ này nhập lậu từ Trung Quốc vẫn được bày bán công khai tràn lan và dập dềnh trôi nổi trong các chậu tắm của các em bé. Chỉ trong một thời gian ngắn, liên tiếp các sản phẩm đồ chơi trẻ nhỏ như thú nhún, búp bê đầu trái cây và giờ là vịt cao su của Trung Quốc bị phát hiện là chứa chất cực độc gây ung thư, vô sinh cho trẻ nhỏ.
|
{
"split": 1,
"title": "Vịt cao su",
"token_count": 180
}
|
22,150 |
Title: Vịt mắt vàng thường
Vịt mắt vàng thường, tên khoa học Bucephala clangula, là một loài chim trong họ Vịt.
Môi trường sống và sinh sản.
Môi trường sinh sản của chúng là rừng taiga. Chúng được tìm thấy trong các hồ và sông của các khu rừng sâu trên khắp Canada và miền bắc Hoa Kỳ, Scotland, Scandinavia, các nước vùng Baltic và miền bắc nước Nga. Chúng di cư và sống đông nhất ở các vùng nước ven biển được bảo vệ hoặc các vùng nước nội địa mở ở vĩ độ ôn hòa hơn. Theo tự nhiên, chúng làm tổ trong các hốc trên cây lớn, nơi chúng quay trở lại năm này qua năm khác, mặc dù chúng cũng dễ dàng sử dụng các hộp làm tổ.
|
{
"split": 0,
"title": "Vịt mắt vàng thường",
"token_count": 164
}
|
22,151 |
Title: Vỏ não vận động
Vỏ não vận động là một vùng thuộc vỏ đại não tham gia vào việc lên kế hoạch, kiểm soát và thực hiện các cử động có chủ ý. Theo cổ điển thì vỏ não vận động là một khu vực ở thùy trán nằm ở hồi trán lên phía sau ngay phía trước rãnh trung tâm.
Sự tiến hóa của vỏ não vận động.
Động vật có vú tiến hóa từ những loài bò sát giống động vật có vú khoảng hơn 200 triệu năm trước. Những loài động vật có vú đầu tiên này phát triển một vài chức năng não mới mà khả năng cao là do những quá trình cảm giác mới, những thứ cần thiết cho ổ ban đêm mà những động vật có vú này cư ngụ. Những loài vật này nhiều khả năng có một vỏ não vận động bản thể (somatomotor), trong đó các thông tin cảm giác bản thể và thông tin vận động được xử lý trong cùng một khu vực vỏ não giống nhau. Điều này chỉ có thể cho phép thực hiện những kĩ năng vận động đơn giản, ví dụ như di chuyển bằng bốn chân và tấn công kẻ săn mồi hoặc con mồi. Các loài động vật có vú có nhau thai tiến hoá thêm một vỏ não vận động riêng rẽ vào khoảng 100 triệu năm trước. Sự phát triển của một vỏ não vận động riêng biệt là một lợi thế của động vật có vú có nhau thai, và các kĩ năng vận động của các sinh vật này có được thì phức tạp hơn tổ tiên có vú ban đầu của chúng. Hơn nữa, vỏ não vận động này là cần thiết cho lối sống ở trên cây của tổ tiên linh trưởng của chúng ta.
|
{
"split": 0,
"title": "Vỏ não vận động",
"token_count": 350
}
|
22,152 |
Title: Vốn văn hóa
Trong lĩnh vực xã hội học, vốn văn hóa bao gồm các tài sản xã hội của một người (giáo dục, trí tuệ, phong cách nói, phong cách ăn mặc, v.v.) thúc đẩy sự di chuyển xã hội trong một xã hội phân tầng. Vốn văn hóa có chức năng như một mối quan hệ xã hội trong một nền kinh tế thực tiễn (hệ thống trao đổi), và bao gồm tất cả các hàng hóa vật chất và tượng trưng, không có sự phân biệt, mà xã hội coi là hiếm và đáng để tìm kiếm. Là một mối quan hệ xã hội trong một hệ thống trao đổi, vốn văn hóa bao gồm kiến thức văn hóa tích lũy, thể hiện địa vị xã hội và quyền lực.
Trong tác phẩm "Tái sản xuất văn hóa và tái sản xuất xã hội" (1977), Pierre Bourdieu và Jean-Claude Passeron đã diễn giải "vốn văn hóa" để giải thích một cách khái niệm sự khác biệt giữa mức độ thành tích và thành tích học tập của trẻ em trong hệ thống giáo dục của Pháp trong những năm 1960; và tiếp tục phát triển khái niệm này trong bài tiểu luận "Các hình thức vốn" (1985) và trong cuốn sách "Nhà nước quý tộc: Trường học Élite trong lĩnh vực quyền lực" (1996).
|
{
"split": 0,
"title": "Vốn văn hóa",
"token_count": 279
}
|
22,153 |
Title: Vợ, người yêu, người tình
Vợ, người yêu, người tình (tựa gốc: The Other Woman) là một phim hài của Mỹ năm 2014 do Nick Cassavetes đạo diễn và Melissa Stack viết kịch bản. Phim có sự tham gia của Cameron Diaz, Leslie Mann và Kate Upton. Nikolaj Coster-Waldau, Nicki Minaj và Taylor Kinney là những người đảm nhận vai phụ. Phim kể về ba người phụ nữ là Carly (Diaz), Kate (Mann) và Amber (Upton) cùng theo đuổi tình yêu với một người đàn ông, Mark (Coster-Waldau). Sau khi phát hiện yêu cùng một người, bộ ba lên kế hoạch để trả thù Mark
|
{
"split": 0,
"title": "Vợ, người yêu, người tình",
"token_count": 158
}
|
22,154 |
Title: Vụ ám sát Abraham Lincoln
Tổng thống thứ 16 của Hoa Kỳ là Abraham Lincoln bị ám sát vào Thứ sáu Tuần Thánh, ngày 14 tháng 4 năm 1865, khi ông đang xem vở kịch, "Our American Cousin" tại Nhà hát Ford khi cuộc nội chiến Mỹ đã sắp kết thúc. Vụ ám sát xảy ra 5 ngày sau khi chỉ huy của Binh đoàn Bắc Virginia thuộc Quân đội Liên minh miền Nam là Robert E. Lee đầu hàng trước Binh đoàn Potomac của Quân đội Liên bang dưới sự chỉ huy của trung tướng Ulysses Simpson Grant.
Lincoln là vị Tổng thống Mỹ đầu tiên bị ám sát. Trước đó đã từng xảy ra vụ ám sát tổng thống thứ 7 của Hoa Kỳ là Andrew Jackson vào năm 1835, tức là 30 năm trước tuy nhiên đã không thành công. Và Lincoln đã từng trở thành mục tiêu của một vụ ám sát trước đó bởi một kẻ tấn công không rõ lai lịch vào tháng 8 năm 1864. Vụ ám sát của Lincoln đã được lên kế hoạch và thực hiện bởi John Wilkes Booth, một diễn viên kịch chuyên nghiệp như là một phần của một âm mưu lớn hơn trong nỗ lực làm thay đổi cục diễn của cuộc chiến của Liên minh miền Nam Hoa Kỳ.
Ba đồng phạm của Booth là Lewis Powell, David Herold là người được giao nhiệm vụ giết Bộ trưởng Ngoại giao William H. Seward, và George Atzerodt, người được giao nhiệm vụ giết Phó Tổng thống Andrew Johnson. Bằng cách đồng thời loại bỏ ba người đứng đầu trong hàng ngũ lãnh đạo, Booth và đồng phạm của hắn hy vọng sẽ cắt đứt sự liên tục của Chính phủ Hoa Kỳ. Trong khi xem vở kịch tại tại Nhà hát Ford với vợ là Mary Todd, Lincoln đã bị bắn. Ông qua đời vào sáng sớm hôm sau. Tuy nhiên, một phần của âm mưu đã thất bại khi Seward chỉ bị thương nhẹ, trong khi Phó Tổng thống đã chạy thoát được. Đám tang và lễ an táng tổng thống Abraham Lincoln được tiến hành theo nghi lễ quốc tang.
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ ám sát Abraham Lincoln",
"token_count": 425
}
|
22,155 |
Title: Vụ án H122
Vụ án H122 là một vụ án gián điệp tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1948, xảy ra khi cơ quan an ninh Việt Nam thu được một báo cáo của một gián điệp với bí danh H122. Báo cáo của gián điệp này đã cho Pháp biết kế hoạch quân sự Thu - Đông của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Báo cáo cho thấy gián điệp là một cán bộ cao cấp trong Liên khu Việt Bắc. Trong một tháng sau đó, hàng trăm cán bộ và dân thường đã bị bắt và thẩm vấn trong quá trình truy quét gián điệp H122. Dưới sự tra tấn và ép cung, nhiều người đã khai rằng họ là điệp viên của Phòng Nhì do Pháp cài vào hay là thành viên của các tổ chức "phản động" như Việt Nam Quốc dân Đảng hay Đại Việt Quốc dân đảng.
Với việc bắt bớ diễn ra làm liên lụy đến nhiều người gây hoang mang nhiều đơn vị, Trần Đăng Ninh được trao nhiệm vụ điều tra tường tận vụ án. Vụ án kết thúc sau khi Trần Đăng Ninh kết luận rằng đây chỉ là một kế hoạch ly gián của Pháp nhằm gây chia rẽ nội bộ, như đã diễn ra. Đến nay, phía Pháp vẫn chưa thừa nhận có kế hoạch ly gián này.
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ án H122",
"token_count": 270
}
|
22,156 |
Title: Vụ án Lê Văn Luyện
Vụ án Lê Văn Luyện là một vụ án giết người cướp của đặc biệt nghiêm trọng xảy ra tại tiệm vàng Ngọc Bích (Phương Sơn, Lục Nam) vào ngày 24 tháng 8 năm 2011. Trong vụ án này, Lê Văn Luyện đã sát hại vợ chồng chủ tiệm vàng cùng con 18 tháng tuổi. Con gái lớn của họ 8 tuổi bị chém đứt lìa bàn tay. Đây là một vụ án rất nghiêm trọng, gây xôn xao trong dư luận và ảnh hưởng đến trật tự an ninh tại địa phương cũng như những ý kiến về việc sửa đổi luật phòng chống tội phạm. Vụ án cũng đáng lưu ý ở tình tiết tại thời điểm phạm tội, Lê Văn Luyện chỉ còn 54 ngày nữa là tròn 18 tuổi. Do vậy khi kết án, Luyện chịu mức án cao nhất dành cho người dưới 18 tuổi là 18 năm tù theo luật pháp của Việt Nam tại thời điểm đó. Đây là vụ án giết người cướp của nghiêm trọng nhất gây ra bởi một tội phạm chưa đủ tuổi vị thành niên tại Việt Nam.
Tiểu sử.
Lê Văn Luyện sinh năm 1993, là con trai của ông Lê Văn Miên và bà Trương Thị Thơm, tại Sơn Đình 2 (xã Thanh Lâm, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang). Theo hàng xóm, thuở nhỏ, Luyện không phải là đứa con hư, thậm chí có người còn nói Luyện "rất hiền lành, ngoan ngoãn". Gia đình Luyện bán thịt lợn trong thôn. Nhà Luyện không giàu nhưng cũng thuộc loại khá giả trong vùng vì cha mẹ Luyện chăm chỉ làm ăn.
Sau khi học hết lớp 9, Luyện không thi đậu tốt nghiệp nên bỏ học. Năm lớp 9, học lực và hạnh kiểm của Luyện chỉ đạt mức trung bình.
Vụ án.
Vì lỡ cầm cố mất chiếc xe máy đi mượn, mang tiền tiêu mất nên Luyện không còn tiền để chuộc xe. Đó là động cơ tiến hành vụ cướp tiệm vàng.
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ án Lê Văn Luyện",
"token_count": 452
}
|
22,157 |
Title: Vụ án Lê Văn Luyện
Theo lời khai của bị cáo, vào rạng sáng 24/8, khi trời còn mờ tối, Luyện nấp cách tiệm vàng một quãng. Khi không thấy bóng người, Lê Văn Luyện nhanh chóng đột nhập lên tầng ba ngôi nhà. Công cụ của Luyện là một con dao nhọn và một con dao phớ. Sau khi dùng đèn pin soi tầng ba không tìm thấy gì, Luyện xuống tầng 2. Suy tính vàng và nữ trang giấu ở tầng 2 nên Luyện ngắt cầu dao và camera. Lúc 5 giờ rưỡi, thấy anh Trịnh Thành Ngọc - chủ nhà - lên phơi quần áo tầng 3, Lê Văn Luyện vung dao đâm. Anh Ngọc tuy bị thương nhưng vẫn cố đoạt vũ khí và kêu cứu. Vợ anh Ngọc là chị Chín chạy lên bị chém thêm nhiều nhát. Chủ nhà sau đó cướp được con dao nhọn. Luyện liền rút dao phớ đâm tiếp. Anh Ngọc ngã lăn xuống tầng 2. Luyện tiếp tục chém nhiều nhát đến khi anh bất tỉnh.
Con gái lớn là bé Ngọc Bích nghe thấy tiếng kêu bật dậy và tìm điện thoại liên lạc bên ngoài. Lê Văn Luyện sợ bị bắt nên vung dao chém đứt lìa bàn tay cô bé rồi đâm thêm nhiều nhát. Vì tưởng rằng cô bé đã chết nên Luyện bỏ đi.
Cô con gái út 18 tháng tuổi là bé Thảo khóc to nên Luyện dùng dao phớ sát hại.
Sau đó, Luyện đi lấy ba lô và cất vũ khí vào trong rồi xuống tầng 1. Luyện phá tủ kính và lấy vàng rồi mở cửa bếp thoát ra ngoài. Lúc này, trời đã sáng, khu phố đã bắt đầu nhiều người qua lại. Sợ bị phát hiện, Luyện gọi điện cho người anh họ đến đón rồi bỏ trốn.
|
{
"split": 1,
"title": "Vụ án Lê Văn Luyện",
"token_count": 430
}
|
22,158 |
Title: Vụ án Lê Văn Luyện
Lúc chạy trốn, hành trang của Luyện chỉ có một bộ quần áo, vài bao thuốc lá với 200.000 đồng. Ngày 31 tháng 8 năm 2011, sau 6 ngày lẩn trốn, Luyện bị lực lượng biên phòng bắt giữ ở Thụy Hùng, Văn Lãng, Lạng Sơn. Luyện định chạy trốn sang Trung Quốc nhưng không kịp, bị bắt đưa về Bắc Giang giao cho công an.
Xét xử.
Lê Văn Luyện chịu án sơ thẩm 18 năm tù. Khi đưa ra xét xử phúc thẩm thì án vẫn giữ nguyên (18 năm tù tội giết người, 18 năm tù tội cướp tài sản, 9 tháng tù tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, do bị cáo gây án khi chưa đến tuổi thành niên (17 tuổi, 10 tháng 6 ngày) nên tổng hợp các hình phạt không quá 18 năm tù), còn cha đẻ Lê Văn Miên chịu 48 tháng tù do che giấu Lê Văn Luyện. Anh họ Trương Thanh Hồng và Lê Thị Định bị phạt lần lượt 30 tháng, 15 tháng do tòng phạm. Lê Thành Nghi bị phạt 15 tháng, Trương Văn Hợp 12 tháng và Dương Thị Lược 9 tháng vì không muốn phản bội, tố giác Luyện. Mẹ đẻ của Luyện thì không bị khởi tố. Trong quá trình xét xử có nghi vấn đặt ra liệu Lê Văn Luyện có đồng phạm hay không. Tuy nhiên hội đồng xét xử đã quyết định rằng Luyện hành động một mình
Vụ án này được báo điện tử Việt Nam VNExpress xếp trong những vụ án giết người gây phẫn nộ bị xét xử năm 2012, cùng với Đặng Trần Hoài phạm tội hiếp dâm trẻ em và giết người, Nguyễn Đức Tiềm gài thuốc nổ vào xe máy, hại chết chị dâu, và Trần Thị Thúy Liễu thiêu chết chồng.
Ảnh hưởng đến các nhóm tội phạm khác.
|
{
"split": 2,
"title": "Vụ án Lê Văn Luyện",
"token_count": 412
}
|
22,159 |
Title: Vụ án Lê Văn Luyện
Lê Văn Luyện giết ba người chém trọng thương một người khi chưa đến 18 tuổi và chỉ chịu án 18 năm đã gây ảnh hưởng đến các tội phạm/nhóm tội phạm khác. Họ coi Lê Văn Luyện như thần tượng khi thừa nhận mình là "đàn em Lê Văn Luyện" và ""có họ hàng với Lê Văn Luyện" khi họ phạm tội, thậm chí là giết người khi chưa đến 18 tuổi. Hai tội phạm trẻ tuổi cướp tiệm vàng, giết người ở Hà Tĩnh thì thừa nhận có nghe về Luyện nhưng "không dám học theo" vì "quá dã man"".
Ảnh hưởng đến hệ thống luật pháp Việt Nam.
Hành vi của Lê Văn Luyện đã khiến các nhà làm luật phải xem xét lại có nên giảm tuổi chịu án tử hình xuống hay không. Ông Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp - Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì cho rằng nên giảm tuổi cả về hình sự và dân sự do đủ sự chín chắn và có thể chịu trách nhiệm về hành vi. Tại thời điểm phỏng vấn nhân vật này cho biết vấn đề chưa đem ra Quốc hội Việt Nam bàn nhưng qua ý kiến của nhiều cử tri thì vấn đề này cũng có thể được đặt ra trong thời gian tới.
Trong khi đó, ông Nguyễn Công Hồng ở Ủy ban Tư pháp Quốc hội cho rằng, không nên đặt vấn đề sửa luật để áp dụng án tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Theo ông Hồng, Nhà nước Việt Nam đang tiến tới xu hướng giảm dần và loại bỏ án tử hình, đối tượng dưới 18 tuổi vẫn có thể hối cải.
Các luật sư Trần Đình Triển, Văn phòng Luật Vì dân và luật sư Vũ Văn Thiệu, Công ty Luật Incip thì cho rằng với các trường hợp như Luyện, gây án có tính chất quá man rợ và tàn ác, phạm tội nhiều lần (giết nhiều người) thì cần phải có hình phạt cao hơn mức hiện nay, đồng nghĩa với việc nên sửa luật.
Đánh giá.
Tướng Phan Văn Vĩnh (Tổng cục trưởng Tổng cục cảnh sát phòng chống tội phạm, Bộ Công an) cho rằng vụ thảm án do Lê Văn Luyện gây ra là dã man, tàn bạo nhất.
Mẹ hắn, bà Trương Thị Thơm đã nói:
Báo Công lý thì nhận xét:
Quá trình thụ án.
|
{
"split": 3,
"title": "Vụ án Lê Văn Luyện",
"token_count": 506
}
|
22,160 |
Title: Vụ án Lê Văn Luyện
Ngày 4 tháng 6 năm 2012, Lê Văn Luyện đến Trại giam số 3 thuộc Tổng cục 8, Bộ Công an để thụ hình cải tạo. Khi mới nhập trại, Luyện không chấp hành kỷ luật. Theo Luyện, điều này là do "những suy nghĩ tiêu cực" do các "đại ca" trong trại giam gây ảnh hưởng lên Luyện. Sau đó Luyện có nhiều thay đổi. Ngoài giờ lao động cải tạo, anh ta còn đọc sách về đạo Phật, Kinh Dịch và Khí công. Luyện cũng bày tỏ mong muốn sau khi ra trại được làm nghề Đông y, chữa bệnh cứu người, chuộc lại lỗi lầm. Hưởng ứng việc phát động "viết lời xin lỗi", Luyện viết một bức thư dài hai trang A4 gửi nhân thân của bị hại. Luyện đã có rất nhiều biến đổi tích cực trong quá trình thụ án.
|
{
"split": 4,
"title": "Vụ án Lê Văn Luyện",
"token_count": 215
}
|
22,161 |
Title: Vụ án MobiFone mua AVG
Vào tháng 1 năm 2016, Tổng công ty Viễn thông MobiFone thông báo hoàn thành việc mua cổ phần của AVG. Thương hiệu truyền hình An Viên của AVG sau đó đổi tên thành MobiTV. MobiFone giải thích rằng họ mua AVG là "để đa dạng dịch vụ cung cấp cho khách hàng, bước chân vào mảng truyền hình trả tiền" và nó sẽ nâng giá trị thương hiệu của họ khi cổ phần hóa. Việc mua AVG diễn ra sau khi Thủ tướng nhiệm kỳ trước Nguyễn Tấn Dũng chấp thuận về chủ trương cho phép Mobifone tham gia đầu tư cung cấp dịch vụ truyền hình. MobiFone đã mua lại 95% cổ phần AVG với số tiền lên đến 8.900 tỉ đồng. Một số chuyên gia cho rằng, MobiFone đã mua với mức giá cao gấp gần 9 lần giá trị thực sự của AVG.
Ngày 1 tháng 8 năm 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc giao Thanh tra Chính phủ "khẩn trương tiến hành thanh tra toàn diện về Dự án Mobifone mua 95% cổ phần của AVG". Việc điều tra xảy ra vì MobiFone tuy là hoạt động kinh doanh bình thường liên quan đến quốc phòng, an ninh, nhưng không công khai, minh bạch thông tin theo quy định Chính phủ (Nghị định 81 và Nghị định 87, ban hành trong tháng 9 và 10 năm 2015).
Ngày 31 tháng 07 năm 2017, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng khẩn trương thanh tra, kết luận rõ đúng sai về trách nhiệm trong dự án Mobifone mua 95% cổ phần của AVG.
Ngày 8 tháng 03 năm 2018, Ban Bí thư dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị Thường trực Chính phủ, Thanh tra Chính phủ chỉ đạo và chịu trách nhiệm về kết luận thanh tra, sớm công bố kết luận thanh tra dự án Tổng Công ty Viễn thông Mobifone mua 95% cổ phần của AVG. Ban Bí thư cho rằng đây là một vụ việc rất nghiêm trọng, phức tạp, nhạy cảm, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm.
Ngày 12-3 tại trụ sở Bộ Thông tin - truyền thông, lãnh đạo Tổng công ty Viễn thông Mobifone và các cổ đông AVG ký biên bản cam kết hủy thỏa thuận chuyển nhượng cổ phần.
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ án MobiFone mua AVG",
"token_count": 481
}
|
22,162 |
Title: Vụ án MobiFone mua AVG
Ngày 14-3, Thanh tra Chính phủ chỉ ra nhiều sai phạm đặc biệt nghiêm trọng trong vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG, vi phạm từ việc đề xuất đầu tư, đánh giá thực trạng tài chính kinh doanh của công ty AVG, và đề nghị Thủ tướng Chính phủ chuyển cơ quan công an khởi tố điều tra.
Trách nhiệm bộ TT-TT.
Theo báo Thanh Niên, thương vụ MobiFone mua 95% cổ phần AVG thực chất là một màn kịch thổi phồng giá trị thực của doanh nghiệp nhằm lấy tiền nhà nước. Theo kết luận của Thanh tra Chính phủ, tại thời điểm đề xuất mua AVG thì hãng này đang thua lỗ hàng nghìn tỉ đồng, âm gần 50% vốn điều lệ, các số liệu, phương án trong kinh doanh hoàn toàn là giả định mơ hồ, thiếu thực tế, Lãnh đạo Bộ TT-TT (Bộ trưởng vào thời điểm đó là ông Nguyễn Bắc Son) không chỉ gạt bỏ ý kiến phản biện của cấp dưới, báo cáo sai sự thật với Thủ tướng về tình trạng bết bát của AVG. Quyết định phê duyệt dự án đầu tư dịch vụ truyền hình của MobiFone, mà thứ trưởng Trương Minh Tuấn ký vào ngày 21.12.2015, vi phạm quy định tại điều 31, điều 33 và điều 34 của luật Đầu tư; vi phạm điều 28 của luật số 69/2014/QH13. Thanh tra Chính phủ cho là, "Như vậy, Bộ TT-TT đã thiếu trách nhiệm, có biểu hiện cố ý làm trái các quy định của pháp luật trong việc quyết định phê duyệt đầu tư".
Kết luận Thanh tra chính phủ.
Thanh tra Chính phủ tiến hành chuyển giao hồ sơ điều tra vụ Mobifone mua cổ phần của AVG cho Bộ Công an hôm 24/4/2018. Theo kết luận của họ, AVG chỉ có giá trị ròng khoàng 1.900 tỷ đồng, vì vậy Mobifone làm thất thoát ngân sách khoảng 7.000 tỷ đồng trong đó thiệt hại do mua nợ phải trả của AVG 1.134 tỉ đồng.
Thi hành kỷ luật Đảng.
|
{
"split": 1,
"title": "Vụ án MobiFone mua AVG",
"token_count": 434
}
|
22,163 |
Title: Vụ án MobiFone mua AVG
Ngày 30-6 Ủy ban Kiểm tra trung ương kết luận thi hành kỷ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng đối với ông Lê Nam Trà, nguyên là ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ Khối doanh nghiệp Trung ương, nguyên Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tổng công ty Mobifone.và ông Phạm Đình Trọng, đảng ủy viên, Bí thư Chi bộ, vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp, Bộ Thông tin và Truyền thông. Ông Cao Duy Hải, phó Bí thư Đảng ủy, thành viên Hội đồng thành viên, Tổng Giám đốc Tổng công ty Mobifone, bị cách chức tất cả các chức vụ trong Đảng. Ông Phạm Hồng Hải, Ủy viên Ban cán sự Đảng, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông bị khiển trách. Ngoài ra Ủy ban Kiểm tra trung ương đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, thi hành kỷ luật đối với ông Nguyễn Bắc Son, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, nguyên bí thư Ban cán sự Đảng, nguyên bộ trưởng và ông Trương Minh Tuấn, ủy viên Trung ương Đảng, bí thư Ban cán sự Đảng, bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông.
Giao dịch mật.
Theo cáo trạng, ông Phạm Đình Trọng (cựu vụ trưởng Vụ Quản lý doanh nghiệp) đưa giao dịch đó vào danh mục "mật" của Nhà nước, việc này đều được 2 cựu bộ trưởng Nguyễn Bắc Son và Trương Minh Tuấn đồng ý. Ông Trương Minh Tuấn là người ký văn bản gửi Bộ Công an liên quan đề xuất này.
Tòa cũng có gửi văn bản tới một số cơ quan đề nghị giải mật một số tài liệu chưa được giải mật, song chưa nhận được kết quả.
Tòa sơ thẩm.
Trưa ngày 28 tháng 12 năm 2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án và tuyên án phạt 14 tội phạm như sau:
Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng và tội Nhận hối lộ:
Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng:
Đưa hối lộ:
|
{
"split": 2,
"title": "Vụ án MobiFone mua AVG",
"token_count": 442
}
|
22,164 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Vụ án Năm Cam và đồng phạm hay Chuyên án Z5.01 là vụ án về tội phạm có tổ chức đặc biệt, có tính đặc thù, đây là một vụ án lớn và phức tạp, liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều địa phương. Quá trình hình thành và phát triển tổ chức tội phạm theo kiểu "xã hội đen" do Trương Văn Cam cầm đầu đã được phanh phui và phơi bày trước ánh sáng, được Việt Nam và thế giới quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau, sự quan tâm ở đây bao hàm cả hai góc độ kinh tế và chính trị. Trương Văn Cam là đối tượng hình sự đặc biệt nguy hiểm, hoạt động phạm tội có tổ chức theo kiểu "xã hội đen", liên tục gây ra nhiều tội ác trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh thành trong nước trong một thời gian dài với nhiều hành vi dã man, tàn bạo; thủ đoạn trắng trợn, thâm độc gây nên phẫn nộ lớn trong dư luận dân cư.
Quá trình điều tra.
Năm 1995, Bộ Công an Việt Nam đã đánh giá Vụ án Năm Cam và đồng bọn là một vụ án hình sự đặc biệt nghiêm trọng, Năm Cam và đồng bọn đã có những hành vi cực kỳ nguy hiểm đối với an ninh quốc gia và tầng lớp dân cư trong đời sống xã hội. Bộ Công an đã bắt giam, tập trung cải tạo tội phạm nguy hiểm Năm Cam nhằm mục đích củng cố hồ sơ truy tố Năm Cam. Bằng các thủ đoạn mua chuộc bằng tiền, quan hệ với các quan chức cơ quan công an, kiểm sát và cả Văn phòng Chính phủ, cùng các thủ đoạn khác, Năm Cam lại được thả trước thời hạn. Sau khi được trả tự do, Năm Cam hoạt động mạnh hơn, trắng trợn hơn rất nhiều so với trước năm 1995. Cuối năm 1999, Bộ Công an đã thành lập một ban chuyên án để điều tra giải quyết. Song thực tế, ban chuyên án này đã hoạt động không có tác dụng hiệu quả, không ngăn chặn được hoạt động tội phạm của Năm Cam và đồng bọn. Hơn thế nữa, các hoạt động tội phạm của Năm Cam và đồng phạm ngày càng tàn bạo hơn, coi thường pháp luật.
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 462
}
|
22,165 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Tháng 5 năm 2001, để điều tra quá trình hình thành và hoạt động tội phạm có tổ chức theo kiểu "xã hội đen" của Năm Cam và đồng phạm, Bộ Công an Việt Nam đã thành lập một chuyên án mới gọi là Chuyên án "Năm Cam và đồng bọn" với bí số là Z5.01. Chỉ huy Chuyên án là Thiếu tướng Nguyễn Việt Thành, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Nhân dân. Sau khi kết thúc chuyên án, ông Thành được phong quân hàm Trung tướng, chuyển sang làm Phó Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng cho đến khi ông nghỉ hưu từ ngày 1 tháng 1 năm 2009. Tháng 12 năm 2001, cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành khởi tố Vụ án Năm Cam và đồng bọn. Tháng 10 năm 2002, cơ quan cảnh sát điều tra đã kết thúc điều tra, và chuyển hồ sơ sang Viện Kiểm sát Nhân dân để đưa ra xét xử. Ðây là một vụ án kỷ lục về số lượng bị can, tội danh và cả về tính chất nguy hiểm.
Quá trình xét xử.
Phiên tòa sơ thẩm.
|
{
"split": 1,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 236
}
|
22,166 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Ngày 25 tháng 2 năm 2003, tại Thành phố Hồ Chí Minh, phiên tòa xét xử Vụ án Năm Cam và đồng phạm khai mạc, 155 bị can với 24 tội danh khác nhau phải ra trước vành móng ngựa cùng với 238 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã được tống đạt quyết định triệu tập có mặt tại phiên tòa; 39 bị hại; 3 phiên dịch cùng hàng trăm phóng viên của các cơ quan báo chí trong, ngoài nước và các lực lượng: Công an, Điện lực, Y tế, thanh niên xung phong, Công ty Công trình công cộng quận 1... để đảm bảo an ninh, trật tự và các vấn đề hậu cần cho phiên tòa; cùng với hàng nghìn bút lục về vụ án này đã được diễn giải tại phiên tòa. Trong đó, 107 bị can đang tạm giam; 48 bị can tại ngoại. Trong số 155 bị can có 21 người nguyên là cán bộ công chức nhà nước và cơ quan bảo vệ pháp luật (13 cán bộ công an, ba cán bộ Viện kiểm sát và 5 cán bộ cơ quan hành chính); 17 đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (đã khai trừ khỏi Đảng: 10, đình chỉ sinh hoạt Đảng: 6). Để bảo đảm đủ điều kiện cho công tác xét xử, do đây là vụ án lớn có số bị can quá đông, một số kinh phí tám trăm triệu đồng Việt Nam đã được chi ra để nhằm mục đích mở rộng và nâng cấp trang thiết bị cho phòng xử án.
Chủ tọa phiên tòa là Thẩm phán Bùi Hoàng Danh, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; Tham dự phiên tòa còn có 80 luật sư bảo vệ quyền lợi cho các bị cáo và hai người bị hại là Phan Lê Sơn và Hồ Phước Hưng. Tòa án đã quyết định triệu tập thêm một số người khác có liên quan tới vụ án (ngoài số 238 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã được tống đạt quyết định triệu tập), là các ông Lê Thanh Ðạo, nguyên Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao; Thân Thành Huyện và Võ Văn Măng, nguyên Phó Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Bông, nguyên Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cùng một số nhà báo khác.
|
{
"split": 2,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 489
}
|
22,167 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Phiên khai mạc được truyền hình trực tiếp trên kênh VTV1 và HTV9 và các Đài Phát Thanh - Truyền hình địa phương và Các Hãng Truyền hình trên thế giới Tường thuật trực tiếp & tiếp sóng toàn bộ phiên tòa .
Thời gian xét xử vụ án từ ngày 25 tháng 2 năm 2003 đến ngày 5 tháng 6 năm 2003, phiên tòa kéo dài 57 ngày không kể thứ bảy, chủ nhật và ngày nghỉ, từ 8 giờ 00 đến 17 giờ 00 hằng ngày, (dự kiến lúc đầu là 55 ngày, kết thúc ngày 30/5/2003).
Tuyên án sơ thẩm.
Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát Điều tra tiếp tục điều tra và xử lý các trường hợp:
Ngoài ra, Hội đồng Xét xử còn áp dụng các loại hình phạt bổ sung gồm phạt tiền, bồi thường thiệt hại cho người bị hại, cấm đảm nhiệm những chức vụ có liên quan đến công việc nhà nước trong thời hạn được quy định sau khi mãn hạn tù.
Phiên tòa phúc thẩm.
Ngày 15 tháng 9 năm 2003, tại Thành phố Hồ Chí Minh, khai mạc phiên tòa phúc thẩm xét xử Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn. Chủ tọa phiên tòa là Thẩm phán Bùi Ngọc Hòa - chính tòa Phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Phiên phúc thẩm được mở ra để xét xử theo đơn kháng cáo của 69 bị cáo, 6 người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; trong đó có 6 bị cáo bị án sơ thẩm tuyên tử hình: Trương Văn Cam, Nguyễn Việt Hưng, Nguyễn Hữu Thịnh, Hồ Thanh Tùng, Phạm Văn Minh và Châu Phát Lai Em. Có 13 bị cáo kêu oan toàn bộ hoặc kêu oan một phần mà mức án đã tuyên của phiên tòa sơ thẩm. Tất cả các bị cáo còn lại đều kháng cáo xin giảm án.
Thời gian xét xử vụ án từ ngày 15 tháng 9 năm 2003 đến ngày 30 tháng 10 năm 2003, phiên tòa kéo dài 26 ngày không kể thứ bảy, chủ nhật và ngày nghỉ, từ 8 giờ 00 đến 17 giờ 00 hằng ngày.
Nội dung Vụ án Năm Cam và đồng phạm.
Vụ giết hại Dung Hà.
|
{
"split": 3,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 451
}
|
22,168 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Dung Hà tên thật là Vũ Thị Hoàng Dung sinh năm 1965, thường trú tại 2/23 Trạng Trình, phường Phan Bội Châu, quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng; Dung Hà là đối tượng hình sự có nhiều tiền án, tiền sự cầm đầu một băng nhóm tội phạm xã hội đen. Tháng 10 năm 1998, Dung Hà chuyển vào làm ăn tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngay từ khi đặt chân vào Thành phố Hồ Chí Minh, Dung Hà đã có ý định tranh giành lãnh địa, đe dọa vị trí "thống lĩnh giang hồ" của Năm Cam. Năm Cam đã ra lệnh cho Hải "bánh" tức Nguyễn Tuấn Hải phải tiêu diệt Dung Hà. Đêm khuya ngày 1 tháng 10 năm 2000, Hải "bánh" cùng Nguyễn Việt Hưng và Nguyễn Xuân Trường thực hiện việc sát hại Dung Hà; vào lúc 23 giờ 30 Nguyễn Việt Hưng tiến sát tới Dung Hà khi đang ngồi uống nước trước cửa nhà 17 Bùi Thị Xuân, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, Hưng rút súng Rulo (loại súng bắn đạn cỡ 9 mm) kê sát vào đầu từ trái qua phải bắn một phát, Dung Hà gục xuống chết ngay tại chỗ.
Vụ tạt axít Lê Ngọc Lâm.
|
{
"split": 4,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 268
}
|
22,169 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Lê Ngọc Lâm (Lâm "chín ngón") sinh năm 1945 tại tỉnh Hà Tây (nay là Hà Nội). Năm 1954 cùng mẹ đẻ và cha dượng di cư vào miền Nam và sinh sống tại thành phố Sài Gòn. Năm 1957, Lê Ngọc Lâm đã bị cha dượng đuổi ra khỏi nhà và từ đó sống cuộc đời lang thang giao du với phần tử xấu hoạt động phạm pháp và bị chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt giam nhiều lần về các tội trộm cắp, cưỡng đoạt, giết người... Lâm "chín ngón" được giới tội phạm tôn sùng như một "đại ca". Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, vì Lâm là đối tượng nguy hiểm nên bị tập trung đi cải tạo đến năm 1988 mới được trả tự do. Biết Lâm là đối tượng nhiều năm ra tù vào tội, lợi dụng lúc Lâm mới đi cải tạo về gặp nhiều khó khăn, Năm Cam đã tạo cơ hội "hợp tác" cho Lâm, giúp Lâm cùng hùn vốn mở sạp bán đồ điện tử tại chợ Huỳnh Thúc Kháng, quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1990, Năm Cam cùng Lâm hùn vốn thuê mặt bằng tại 49 Huỳnh Thúc Kháng buôn bán hàng điện tử. Khi làm ăn phát đạt, Lê Ngọc Lâm kiếm chuyện nói qua lại những điều không hay của Năm Cam "là kẻ cờ bạc, tù tội, có gì mà phải tôn sùng, dựa hơi...", xem thường và hạ uy tín của Năm Cam với giới giang hồ, do vậy giữa Năm Cam và Lâm đã phát sinh mâu thuẫn.
|
{
"split": 5,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 342
}
|
22,170 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Năm Cam đã bàn bạc và chỉ đạo Dung Hà dùng axít để gây thương tích nhằm để cảnh cáo Lê Ngọc Lâm. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 14 tháng 7 năm 1999 tại trước cửa quán phở "Lài" số 8 bis đường Cửu Long, cư xá Bắc Hải, phường 15, quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, khi Lê Ngọc Lâm đang dựng xe vào quán ăn phở thì có hai thanh niên khoảng 30 tuổi đi xe máy dừng ở bên kia đường. Thanh niên ngồi sau bê ca a xít đến chỗ Lê Ngọc Lâm, hắt vào vùng mặt, đầu Lâm, sau đó vứt lại chiếc ca nhựa đỏ nhảy lên xe chờ sẵn tẩu thoát. Lê Ngọc Lâm đã được vợ và Công an phường 15 đưa cấp cứu tại Bệnh viện Trưng Vương. Sau đó chuyển sang điều trị tại Khoa Bỏng Bệnh viện Chợ Rẫy. Tổn thương để lại cho Lê Ngọc Lâm là bỏng mặt, cổ, thân, hai mắt; sẹo mềm rải rác ở mặt, cổ, vai, ngực phải và hai tay, giảm thị lực nghiêm trọng.
Hành vi tổ chức đánh bạc.
Hồi 18 giờ ngày 9 tháng 10 năm 2001, Công an quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh bắt quả tang tại nhà của Trương Thoại ở số 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8; có 31 đối tượng đang đánh bạc xóc đĩa ăn tiền, cùng nhiều tang vật phục vụ cho việc đánh bạc. Trên cơ sở điều tra đã xác định được hệ thống sòng bạc do Trương Văn Cam tổ chức có quy mô lớn, có phương tiện đánh bài gian lận như máy camera, máy rung hoạt động trên địa bàn quận 5, quận 3, quận 8 và nhiều địa bàn khác trong Thành phố Hồ Chí Minh.
Hành vi đưa hối lộ.
|
{
"split": 6,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 390
}
|
22,171 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Đầu năm 1995, Năm Cam phát hiện đang bị Công an điều tra về hoạt động tội phạm của mình, nên rất lo sợ và tìm cách lo chạy các cơ quan pháp luật để giảm thoát tội. Năm Cam đã ra Hà Nội nhờ Nguyễn Văn Thắng (Thắng Tài Dậu) dẫn đến nhà Trần Văn Thuyết lo chạy giúp (vì biết Thuyết quen biết nhiều công chức pháp luật và nhà báo), Thuyết hướng dẫn Năm Cam đến nhà Cao Huy Phước (Công an hưu trí) ở 111 Hàng Bông, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tại đây, Thuyết đặt vấn đề nhờ ông Phước chuyển đơn kêu oan của Năm Cam đến Bộ trưởng Bộ Nội vụ là Thượng tướng Bùi Thiện Ngộ, ông Phước đồng ý. Năm Cam đã đưa cho Trần Văn Thuyết 10.000 USD để lo chạy tội.
Tháng 6 năm 1995, Trúc cùng Hiệp ra Hà Nội thông qua Thắng Tài Dậu dẫn đến gặp Thuyết tại 91 Nguyễn Thái Học, quận Ba Đình. Tại đây Hiệp đặt vấn đề tiếp tục nhờ Thuyết lo "chạy tội" cho Năm Cam thoát khỏi việc tập trung giáo dục cải tạo. Thuyết đồng ý và yêu cầu Hiệp đưa tiền, đồng thời cũng yêu cầu Phan Thị Trúc viết đơn kêu oan gửi các cấp lãnh đạo, cơ quan pháp luật và báo chí để lên tiếng gây áp lực. Thuyết nhờ Nguyễn Thập Nhất (Trưởng phòng Kiểm sát giam giữ Viện Kiểm sát Nhân dân Hà Nội) thảo đơn và sắp xếp trình tự gửi các cơ quan bảo vệ pháp luật và công luận, sau đó đưa cho Dương Ngọc Hiệp đánh máy và ký tên Phan Thị Trúc gửi qua đường bưu điện đến các nơi cần thiết. Phan Thị Trúc, Dương Ngọc Hiệp và Trần Văn Thuyết đã đưa hối lộ cho quan chức, nhà báo bằng tiền và hiện vật có giá trị cao (như đồng hồ Rolex...).
|
{
"split": 7,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 412
}
|
22,172 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Khoảng tháng 9 năm 1999 sau khi đi tập trung cải tạo về (tháng 10 năm 1997), Năm Cam cùng Tô Văn Tốt, Nguyễn Văn Nhã, Nguyễn Khánh Quốc, Phạm Văn Minh, Lê Thị Thu Hà và Thành Chân đã phục hồi lại sòng bạc xóc đĩa tại địa bàn quận 8. Theo sự phân công, để đảm bảo an ninh cho sòng bạc, Năm Cam chủ trương trích từ nguồn xâu thu của người thắng bạc mỗi ván 5% để mua chuộc cảnh sát công an bao che sòng bạc.
Cuối tháng 1 năm 2001, Cô Đệ (tức Tư Râu) và Nguyễn Văn Thọ (Thọ "đại úy") tổ chức sòng bạc bằng hình thức đánh tài xỉu tại nhà của Lương Trung, số 62/2B Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8; đến cuối tháng 10 năm 2001 do bị tố cáo, sòng bạc chuyển sang hoạt động tại hẻm 41 Cần Giuộc, phường 12, quận 8. Việc đưa hối lộ được lấy từ nguồn tiền xâu của sòng bạc để hối lộ công an phường, đội cảnh sát hình sự quận.
Cuối năm 2001, Năm Cam và đồng bọn bị bắt giam về tội giết người, tổ chức đánh bạc, cưỡng đoạt tài sản... Sau khi Năm Cam bị bắt khoảng 5 ngày, Trương Thị Lan (con gái Năm Cam) nhờ Tôn Vĩnh Đắc (Long "đầu đinh") tìm người chạy tội cho Năm Cam và Dương Ngọc Hiệp. Tại Hà Nội Long "đầu đinh" kết hợp với Nguyễn Thập Nhất đã đưa hối lộ cho Phạm Sỹ Chiến (Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao) cùng nhiều quan chức khác.
Hành vi nhận hối lộ và làm lộ bí mật của Trần Mai Hạnh.
|
{
"split": 8,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 387
}
|
22,173 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Trần Mai Hạnh, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Tổng Giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam là quan chức cấp cao và là bị cáo trong vụ án. Khi còn làm việc tại Thông tấn xã Việt Nam, bị tai nạn điều trị tại Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức năm 1992, với danh nghĩa cùng quê Hải Dương, Trần Văn Thuyết đã đến thăm và sau đó Thuyết đến nhà riêng Trần Mai Hạnh ở tập thể Đài VOV chơi, từ đó Thuyết quan hệ thân thiết với Trần Mai Hạnh cho đến khi Thuyết bị cơ quan cảnh sát điều tra bắt ngày 6 tháng 4 năm 2002 tại Khách sạn Empress số 5 Nguyễn Thái Học, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Cơ quan điều tra đã có bằng chứng về quan hệ thân thiết của Trần Mai Hạnh với Trần Văn Thuyết, Tôn Vĩnh Đắc, Nguyễn Thập Nhất, Dương Ngọc Hiệp và Phạm Sỹ Chiến. Thuyết và Hiệp đã quan hệ với nhóm người này để chạy tội cho Năm Cam trong các năm 1995 - 1997. Trần Mai Hạnh đã nhận tổng cộng 6.000 USD và nhiều quà có giá trị cao từ Trần Văn Thuyết và Dương Ngọc Hiệp để chạy tội cho Năm Cam; ngoài ra Trần Mai Hạnh còn cho đăng trên công luận một số tài liệu có đóng dấu "Mật" của Chính quyền Việt Nam. Trần Mai Hạnh lúc phạm tội đang giữ cương vị Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Nhà báo Việt Nam, Tổng Biên tập báo "Nhà báo và công luận".
Hành vi nhận hối lộ của Phạm Sỹ Chiến.
Khi phạm tội, Phạm Sỹ Chiến đang giữ cương vị Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Tháng 6 năm 1995, được Nguyễn Thập Nhất dẫn đường, Trần Văn Thuyết cùng Dương Ngọc Hiệp, Tôn Vĩnh Đắc đã đến nhà Phạm Sỹ Chiến (phụ trách kiểm sát hình sự) ở số 3, ngõ 25 An Dương, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, Hà Nội để nhờ chạy án; Phạm Sỹ Chiến đã dùng nhiều thủ đoạn nhằm gỡ tội cho Năm Cam và ký kiến nghị gửi Bộ trưởng Bộ Nội vụ yêu cầu hủy bỏ việc tập trung cải tạo của Năm Cam. Phạm Sỹ Chiến đã nhận quà biếu trả công cho việc giúp Năm Cam tương đương 3.000 USD.
|
{
"split": 9,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 506
}
|
22,174 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Hành vi lợi dụng người khác để trục lợi của Nguyễn Thập Nhất và Tôn Vĩnh Đắc.
Tháng 3 năm 1993, Nguyễn Thập Nhất được điều về Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố Hà Nội, được bổ nhiệm giữ chức Phó trưởng phòng và đến tháng 10 năm 1994, được đề bạt chức Trưởng phòng Kiểm sát giam giữ cải tạo.
Tháng 5 năm 1995, sau khi Năm Cam bị bắt giam tại Trại Tạm giam Bộ Công an, thì Dương Ngọc Hiệp (con rể của Năm Cam) theo lời dặn của cha vợ đã ra Hà Nội gặp Nguyễn Văn Thắng để Thắng dẫn đến gặp Trần Văn Thuyết nhờ Thuyết tiếp tục giúp đỡ chạy tội cho Năm Cam, trước đó ngày 20 tháng 5 năm 1995, Thuyết đã dẫn Năm Cam đến nhà ông Phước và Thuyết đã nhận 10.000 USD của Năm Cam. Trần Văn Thuyết đã điện thoại mời Nguyễn Thập Nhất đến nhà riêng của Thuyết ở 91 Nguyễn Thái Học, Hà Nội - Trần Văn Thuyết quen biết Nguyễn Thập Nhất từ năm 1993 - để nhờ Nhất xem đơn của vợ Năm Cam (Phan Thị Trúc). Sau khi xem xét đơn khiếu nại, nghe Thuyết và Hiệp nói lại, Nguyễn Thập Nhất đã nói với Thuyết: Hiệp có cơ sở để khiếu kiện. Thuyết đã nhờ Nhất thảo hộ đơn mang tên Phan Thị Trúc. Thuyết đã thảo hộ đơn đó, rồi đưa cho Hiệp đi đánh máy. Sau đó, Thuyết và Hiệp đã nhờ Nhất đưa đơn đến Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao. Đồng thời Nguyễn Thập Nhất đã đưa Thuyết và Hiệp đến nhà riêng của lãnh đạo Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao để kêu oan cho Năm Cam.
Tôn Vĩnh Đắc (tức Long "đầu đinh") có quan hệ từ trước với Nguyễn Thập Nhất, Đắc đã tích cực chạy tội cho Năm Cam bằng các quan hệ của mình, đã nhiều lần nhận tiền của Năm Cam và đồng bọn.
|
{
"split": 10,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 440
}
|
22,175 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Trong việc này, Nguyễn Thập Nhất đã nhận một phong bì 2.000, USD; trong hai năm 1995 - 1996, Nhất đã nhiều lần nhận tiền của Thuyết để tiếp khách, tổng cộng là 3.000, USD. Ngoài ra, Thuyết còn lắp cho Nhất tại nhà riêng một bộ dàn nghe nhạc trị giá 4.200, USD. Trong những năm Năm Cam đi cải tạo, Nguyễn Thập Nhất đã nhiều lần nhận tiền để chạy tội cho Năm Cam (khoảng hơn 10.000, USD).
Hành vi lợi dụng người khác để trục lợi của Trần Văn Thuyết.
Tháng 5 năm 1995, khi biết bị cơ quan công an lập hồ sơ bắt giam, Năm Cam đã ra Hà Nội và được Nguyễn Văn Thắng (Thắng Tài Dậu) dẫn đến nhà riêng Trần Văn Thuyết nhờ quan hệ chạy tội cho mình. Trần Văn Thuyết đã dẫn Năm Cam gặp một số quan chức để chạy tội cho Năm Cam. Riêng Trần Văn Thuyết đã nhận của Năm Cam 67.000, USD., 10, triệu đồng Việt Nam cùng đồng hồ Rolex trị giá 5.000, USD. Trần Văn Thuyết cũng đã nhiều lần nhận tiền (hàng chục ngàn USD) của Năm Cam và đồng bọn để đút lót chạy tội.
Hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của Bùi Quốc Huy.
Bùi Quốc Huy nguyên Trung tướng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an; bị điều tra các vi phạm trong thời gian làm Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 27 tháng 9 năm 1997, Năm Cam được tha trước thời hạn sau khi cải tạo được hơn 2 năm; khi tha Năm Cam, Cục V 26, Bộ Công an đã có công điện yêu cầu Công an Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục theo dõi và quản lý giám sát Năm Cam. Với chức năng, nhiệm vụ là Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, từ tháng 4 năm 1996 đến tháng 7 năm 2001, Bùi Quốc Huy đã buông lỏng công tác quản lý cán bộ nhân viên dưới quyền, từ đó nhiều cảnh sát công an cấp dưới đã bị tổ chức tội phạm của năm Cam mua chuộc, lôi kéo làm tha hóa, biến chất, thậm chí một số cảnh sát cấp lãnh đạo phòng, quận của Công an thành phố có hành vi tiếp tay hoặc bao che cho hoạt động phạm tội.
|
{
"split": 11,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 505
}
|
22,176 |
Title: Vụ án Năm Cam và đồng phạm
Quan chức phạm tội trong vụ án.
Quan chức liên quan.
Các quan chức liên quan đến việc nhận tiền của Trần Văn Thuyết, Dương Ngọc Hiệp và Trương Văn Cam bị tòa án kiến nghị tiếp tục điều tra, gồm:
|
{
"split": 12,
"title": "Vụ án Năm Cam và đồng phạm",
"token_count": 57
}
|
22,177 |
Title: Vụ án tướng Trần Văn Thanh
Vụ án tướng Trần Văn Thanh là một vụ án gây xôn xao dư luận Đà Nẵng từ năm 2007. Trong những người bị đưa ra xét xử có Thiếu tướng Trần Văn Thanh, Chánh Thanh tra Bộ Công an, nguyên Giám đốc Công an Thành phố Đà Nẵng, với cáo buộc "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" (theo Khoản 1, Điều 258, Bộ luật Hình sự Việt Nam).
Khởi tố.
Năm 2007, một vụ án "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân" (theo Khoản 1, Điều 258, Bộ luật Hình sự Việt Nam) gây xôn xao dư luận Đà Nẵng. Cuối năm, Đinh Công Sắt, một người từng là thiếu tá công an, bị bắt vì tội "rải truyền đơn và tố cáo sai sự thật nhằm hạ uy tín lãnh đạo Đà Nẵng". Ngày 2 tháng 3 năm 2008, Công an thành phố Đà Nẵng đã bắt trung tá công an Dương Ngọc Tiến, Trưởng Đại diện "Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh" tại Hà Nội, với tội danh "lợi dụng các quyền tự do, dân chủ, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân". Cùng bị bắt với Dương Ngọc Tiến còn có ông Nguyễn Phi Duy Linh. Theo các cơ quan điều tra của thành phố Đà Nẵng thì "tổng đạo diễn" của vụ tố cáo sai sự thật và rải truyền đơn để hạ uy tín lãnh đạo Đà Nẵng này là Thiếu tướng Trần Văn Thanh, Chánh Thanh tra của Bộ Công an, và ông này cũng bị khởi tố.
Xét xử.
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ án tướng Trần Văn Thanh",
"token_count": 383
}
|
22,178 |
Title: Vụ án tướng Trần Văn Thanh
Ngày 20 tháng 7 năm 2009, mặc dù ông Trần Văn Thanh bị tai biến và có hai bệnh viện của công an xác nhận là tướng Thanh không đủ sức khỏe để dự phiên tòa, thế nhưng vị thiếu tướng công an vẫn bị đưa đến tòa, tổ chức tại Nhà hát Trưng Vương, trên xe cứu thương trong tình trạng hôn mê, thở oxy và phải truyền dịch, để kiểm tra sức khỏe trước khi đưa ra tòa, - một việc mà Tiến sĩ Luật học Cù Huy Hà Vũ cho là "hành động vô cùng tàn bạo và man rợ, một phiên tòa chưa từng có trong lịch sử thế giới". Tuy nhiên theo Vụ trưởng Vụ Thông tin Báo chí Văn phòng Chính phủ Dương Đức Quảng, đây là kịch bản được dàn dựng để triệt hạ uy tín ông Nguyễn Bá Thanh: "Cụ thể ông Trần Văn Thanh đã được một cô bác sĩ tiêm thuốc gây mê, cho thở oxy và truyền dịch rồi cùng một vài người mượn một chiếc xe cấp cứu của Bệnh viện Đà Nẵng để đưa ông Thanh trong tình trạng cấp cứu đến bên ngoài nơi xét xử để chụp ảnh rồi đưa tin trên báo, chứ không có chuyện lãnh đạo thành phố chỉ đạo phải đưa ông Trần Văn Thanh trong tình trạng sức khỏe như thế lại phải ra tòa".
|
{
"split": 1,
"title": "Vụ án tướng Trần Văn Thanh",
"token_count": 267
}
|
22,179 |
Title: Vụ án tướng Trần Văn Thanh
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 7 tháng 8 năm 2009, Luật sư Phạm Hồng Hải phản đối việc ông Nguyễn Thành đã đề nghị các cơ quan điều tra khởi tố tướng Trần Văn Thanh, nay chính ông Nguyễn Thành lại ngồi vào ghế chủ tọa thì "không khác nào vừa đá bóng vừa thổi còi", thế nhưng ông Nguyễn Thành không chấp thuận các đề nghị trên của các luật sư vì "không có căn cứ, cơ sở". Tòa án Đà Nẵng đã xử vắng mặt ông Trần Văn Thanh 18 tháng tù treo, các ông Nguyễn Phi Duy Linh bị phạt 36 tháng tù, Đinh Công Sắt 12 tháng tù treo, riêng ông Dương Ngọc Tiến 17 tháng 5 ngày tù, ngang với thời gian bị tạm giam nên được trả tự do ngay tại tòa. Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2009/HSST thì các bị cáo đã "lợi dụng quyền tự do báo chí để viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền thành phố Đà Nẵng". Tuy nhiên "cán bộ lãnh đạo của Đà Nẵng" bị ảnh hưởng uy tín, bị tố cáo sai sự thật chính xác là ai thì không được nhắc đến.
Phúc thẩm.
|
{
"split": 2,
"title": "Vụ án tướng Trần Văn Thanh",
"token_count": 265
}
|
22,180 |
Title: Vụ án tướng Trần Văn Thanh
Cho đến khi vụ án được đưa ra xử phúc thẩm, nhân vật bí ẩn "có dấu hiệu bị xâm hại uy tín" mới được hé mở chính là ông Nguyễn Bá Thanh, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng, Ủy viên Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội. Trong phiên tòa phúc thẩm, luật sư của ông Dương Ngọc Tiến, bà Nguyễn Thị Dương Hà, đại diện Văn phòng Luật sư Cù Huy Hà Vũ, cũng xác định người bị Đinh Công Sắt tố cáo là Nguyễn Bá Thanh. Những tài liệu "truyền đơn" mà Tòa án Nhân dân thành phố Đà Nẵng kết luận là ông Dương Ngọc Tiến đưa cho Đinh Công Sắt đem đi rải là Công văn số 73/KSĐT-KT (ngày 31/10/2000) và Công văn số 77/KSĐT/KT (ngày 01/11/2000) của Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố Đà Nẵng gửi lãnh đạo Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao và ông Phan Diễn (lúc đó là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng). Theo RFA (Đài Á Châu Tự do) thì cả hai công văn số 73 và 77 nói trên đều đề cập đến việc ông Nguyễn Bá Thanh đã "nhận hối lộ" của Phạm Minh Thông 4,4 tỷ đồng trong các công trình xây dựng Cầu Sông Hàn và đường Bắc Nam ở Đà Nẵng. Ngoài ra, Báo cáo số 73/BC-VPBCĐ (ngày 26/10/2007) và Báo cáo số 38/BC-VPBCĐ (ngày 07/4/2008) của Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về Phòng chống Tham nhũng gửi Thủ tướng Chính phủ và Ban Bí thư Trung ương Đảng, xác nhận các đơn tố cáo về hành vi tham nhũng của ông Nguyễn Bá Thanh của một số công dân thành phố Đà Nẵng (trong đó có đơn tố cáo của Đinh Công Sắt) là có cơ sở. Và Kết luận thanh tra số 524/KLTT-BCA (V24) ngày 06/6/2008 của Bộ Công an xác định có đủ căn cứ để "khởi tố" vụ án và bị can, nhưng Công an thành phố Đà Nẵng không khởi tố ông Nguyễn Bá Thanh để điều tra.
|
{
"split": 3,
"title": "Vụ án tướng Trần Văn Thanh",
"token_count": 455
}
|
22,181 |
Title: Vụ án tướng Trần Văn Thanh
Luật sư Dương Hà đã đọc tại tòa rằng Công văn số 77/KSĐT/KT ghi rõ: "Thông khai có đưa cho ông Nguyễn Bá Thanh (Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng) nhiều lần số tiền là 4.425 triệu đồng theo yêu cầu của ông Thanh là "Công ty muốn được thanh toán vốn nhanh phải trích lại cho ông 5% trên số vốn do công trình xây dựng bằng vốn ngân sách và 150.000đ/m² trên số mét vuông đất do Ủy ban Nhân dân thanh toán bằng quỹ đất đường Bắc Nam"... Chiều ngày 31/10/2000 sau khi phân tích một cách sâu sắc và có trách nhiệm, thì có 5/7 thành viên Ủy ban Kiểm sát thống nhất Phạm Minh Thông phạm tội: Đưa hối lộ, Nguyễn Bá Thanh phạm tội: Nhận hối lộ". Theo lời của ông Cù Huy Hà Vũ, chồng của bà Dương Hà, thì micro của luật sư đã bị tòa án tắt đi khi bà luật sư nhắc đến hành vi tham nhũng của ông Nguyễn Bá Thanh. Được biết trong vụ án Phạm Minh Thông, Thông khai đã dùng tiền "tham ô" được để "đi quà biếu một số cá nhân và tập thể", và đi "chúc tết" một số người nào đó, nhưng đó là những ai thì không bao giờ được làm sáng tỏ. Cuối cùng chỉ mình Phạm Minh Thông bị tù, còn đối tượng nhận tiền và đòi hối lộ không được xác định.
Tất cả các bị cáo đều kháng án lên tòa phúc thẩm trừ Đinh Công Sắt, người đã được thả trước phiên xử. Tại tòa, Dương Ngọc Tiến khẳng định hoàn toàn không quen biết các ông Trần Văn Thanh và Nguyễn Duy Phi Linh. Ông nói đã bị điều tra viên ép viết lời khai, và theo lời trung tá công an này thì "Điều tra viên bảo tôi "anh viết một bài báo gây chấn động Đà Nẵng nên anh phải ngồi tù bảy năm"".
Bị cáo Trần Văn Thanh.
|
{
"split": 4,
"title": "Vụ án tướng Trần Văn Thanh",
"token_count": 412
}
|
22,182 |
Title: Vụ án tướng Trần Văn Thanh
Trước đó, Viện Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm tại Đà Nẵng (Viện Phúc thẩm II) thuộc Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã kháng nghị Tòa phúc thẩm Đà Nẵng tuyên ông Trần Văn Thanh không phạm tội và đình chỉ vụ án với bị cáo này. Như vậy, ngay cả cơ quan buộc tội (Viện Kiểm sát) cũng cho là bị cáo vô tội, nhưng Chánh án Trần Mẫn vẫn tuyên án Thiếu tướng Trần Văn Thanh có tội, dù không có bằng chứng nhưng vẫn nhất quyết cho rằng ông Trần Văn Thanh là "người cầm đầu, đã chủ động hướng dẫn các bị cáo". Thay vì tuyên vô tội như kháng nghị của Viện Phúc thẩm II, tòa chỉ giảm án xuống 12 tháng tù treo vì bị cáo có nhân thân tốt.
Bị cáo Dương Ngọc Tiến.
Thượng tá Đặng Xuân Dũng, Tổng Biên tập "Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh" cũng đề nghị xem xét lại bản án đối với ông Dương Ngọc Tiến, cho rằng bản án sơ thẩm hình sự ghi: "bị cáo đã lợi dụng quyền tự do báo chí để viết bài không đúng sự thật về tình hình Đà Nẵng nhằm gây ảnh hưởng xấu đến uy tín của cán bộ lãnh đạo cũng như chính quyền Tp Đà Nẵng" là không đúng, bởi bài báo về Đà Nẵng tựa đề "Nguyên nhân nào một số công dân khiếu kiện gay gắt?" (đăng ngày 10-5-2007, nội dung phản ánh một số bức xúc của người dân Đà Nẵng trong đền bù, giải phóng mặt bằng) không hề bị một cơ quan hay cá nhân nào ở Tp Đà Nẵng khiếu nại về nội dung, các cơ quan chức năng nhà nước có liên quan cũng không hề có ý kiến với bài báo. Tuy nhiên, tòa phúc thẩm vẫn giữ nguyên mức án đối với Trung tá Dương Ngọc Tiến.
Bị cáo Nguyễn Duy Phi Linh.
|
{
"split": 5,
"title": "Vụ án tướng Trần Văn Thanh",
"token_count": 401
}
|
22,183 |
Title: Vụ án tướng Trần Văn Thanh
Tương tự, bị cáo Nguyễn Duy Phi Linh cũng phủ nhận những lời khai tại cơ quan điều tra: "Khi lấy lời khai, điều tra viên bảo tôi "nếu nhận tội sẽ được khoan hồng, chỉ xử lý hành chính thôi". Tôi nghĩ xử lý hành chính thì cũng được nên mới nhận". Khi bị chủ tọa Trần Mẫn vặn hỏi: "Thế bị cáo lừa dối điều tra viên à?" thì bị cáo Linh trả lời: "Tôi không lừa dối mà do điều tra viên buộc tôi phải lừa". Cuối cùng tòa cũng tuyên y án với ông Linh.
Giám đốc thẩm.
Hai ông Trần Văn Thanh (cựu tướng công an) và Dương Ngọc Tiến (cựu trung tá công an) đều đã gởi đơn lên giám đốc thẩm.
Ngày 29 tháng 12 năm 2010, báo Quân đội Nhân dân đưa tin Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao đã ra kháng nghị giám đốc thẩm yêu cầu đình chỉ vụ án đối với ông Trần Văn Thanh và tuyên bố ông vô tội với lý do không đủ căn cứ kết luận ông Trần Văn Thanh phạm tội.
Trước đó, trong phiên xử phúc thẩm, Viện Phúc thẩm II thuộc Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao cũng đã từng kháng nghị tuyên ông Trần Văn Thanh không phạm tội và đình chỉ vụ án với bị cáo, tuy nhiên Tòa phúc thẩm Đà Nẵng đã không chấp nhận.
Tại phiên tòa phúc thẩm xét xử lại ngày 22/06/2012, TAND Tối cao tại Đà Nẵng chấp nhận một phần kháng nghị của Viện KSND Tối cao, tuyên miễn tội, đình chỉ vụ án đối với ông Trần Văn Thanh. Tòa kết luận: ông Trần Văn Thanh bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội "Lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích của công dân" (theo Điểm 2, Khoản 2 Điều 258 Bộ luật Hình sự) là đúng. Tuy nhiên, đây là loại tội phạm ít nghiêm trọng, đồng thời theo luật đã hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự.
Quan điểm của ông Cù Huy Hà Vũ.
|
{
"split": 6,
"title": "Vụ án tướng Trần Văn Thanh",
"token_count": 443
}
|
22,184 |
Title: Vụ án tướng Trần Văn Thanh
Ông Cù Huy Hà Vũ đã cho rằng phiên tòa xử tướng công an Trần Văn Thanh "mang hàm ý đe dọa người dân, đe dọa những người chống tham nhũng". Theo ông Vũ, vụ án này "được tạo nên nhằm tiêu diệt tướng Thanh" vì ông Trần Văn Thanh "là viên tướng chống tham nhũng". Cù Huy Hà Vũ nêu dẫn chứng là Thiếu tướng Trần Văn Thanh đã từng "chỉ đạo điều tra vụ án tham nhũng liên quan trực tiếp đến ông Nguyễn Bá Thanh lúc đó là Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng và hiện nay là Bí thư Thành ủy Đà Nẵng". Ông Vũ cho rằng đây "là hành vi trả thù đối với việc chống tham nhũng". Theo Tiến sĩ Luật sư Cù Huy Hà Vũ thì "không có bất kỳ đơn tố cáo hay lời khai nào của người bị hại, mà theo pháp luật về hình sự của Việt Nam thì tội phạm được xác định bởi người bị hại, vậy, nếu không có người bị hại tức là không có tội phạm". Theo ông, Chánh án Trần Mẫn đã tìm mọi cách để buộc tội khi tuyên bố là vụ án "không cần bị hại vẫn có thể xét xử những người được coi là tội phạm", một tuyên bố mà ông Vũ cho là "tâm thần".
|
{
"split": 7,
"title": "Vụ án tướng Trần Văn Thanh",
"token_count": 267
}
|
22,185 |
Title: Vụ án tướng Trần Văn Thanh
Cù Huy Hà Vũ còn nói trong cuộc trả lời phỏng vấn rằng cho đến phút cuối cùng người ta đã "bí mật thay đổi Hội đồng Xét xử", thay một chánh án tên Diệm bằng ông Trần Mẫn, ngay cả các luật sư cũng không được biết. Theo ông Đỗ Xuân Hiền, nguyên Trưởng ban Kinh tế Đà Nẵng, huyện ủy thường vụ Đà Nẵng, một người có liên quan trong vụ án thì "Ông Trần Mẫn là em ruột bà Trần Thị Thủy. Bà Trần Thị Thủy là vợ ông Nguyễn Văn Chi. Ông Nguyễn Văn Chi là Ủy viên Bộ Chính trị kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương, là bạn thân của ông Nguyễn Bá Thanh". Ông cho biết nhiều người đến dự phiên tòa đều bị ức chế do công an không cho ai vào, đến chiều mới cho vào do nhân dân đấu tranh la lên. Ông Hiền cũng nói rằng "Nguyễn Bá Thanh lấy đất của dân, mỗi mét vuông đất đền bù cho dân có 19.500 đ/m² trong khi bản thân ông Nguyễn Bá Thanh lấy của chủ nhà thầu đất là 150.000 đ/m², thử hỏi là gấp bao nhiêu lần. Như vậy có phải là tham nhũng, hối lộ hay không?"
|
{
"split": 8,
"title": "Vụ án tướng Trần Văn Thanh",
"token_count": 264
}
|
22,186 |
Title: Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries 1974
Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries năm 1974 () là vụ đánh bom khủng bố trụ sở tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries ở Tokyo, Nhật Bản vào ngày 30 tháng 8 năm 1974, giết chết 8 người và làm bị thương 376 người khác. Vụ đánh bom này do một tổ chức cực tả chống Nhật mang tên Mặt trận Vũ trang chống Nhật Đông Á thực hiện nhằm chống lại Tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries vì đã cung cấp vũ khí quân sự cho nước Mỹ dùng để đối đầu với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến tranh Việt Nam. Sự kiện này từng được coi là vụ tấn công khủng bố đẫm máu nhất ở Nhật Bản cho đến vụ tấn công bằng khí sarin trên tàu điện ngầm Tokyo năm 1995.
Bối cảnh.
Mặt trận Vũ trang chống Nhật Đông Á (; EAAJAF) là một tổ chức cực tả của Nhật Bản, chịu ảnh hưởng của phong trào Cánh tả Mới. Được thành lập vào năm 1972, nhóm này tán thành thuyết vong quốc phản Nhật của cộng sản, với khuynh hướng vô chính phủ. EAAJAF coi Đế quốc Nhật Bản là "ác quỷ hoàn toàn" và lên án chiến tranh Thái Bình Dương là một "cuộc chiến tranh xâm lược" do Nhật Bản gây ra. Năm 1971, tổ chức tiền thân của EAAJAF đã phát động chiến dịch ném bom phi sát thương chống lại nhà nước Nhật Bản, đặc biệt là nhắm vào các biểu tượng gắn liền với chủ nghĩa đế quốc Nhật Bản, nhưng vào năm 1974 họ đã leo thang chiến dịch bao gồm cả việc sử dụng bạo lực.
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries 1974",
"token_count": 335
}
|
22,187 |
Title: Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries 1974
Ngày 14 tháng 8 năm 1974, EAAJAF đã cố gắng cho nổ cây cầu mà đoàn tàu hoàng gia của Thiên hoàng Hirohito đang đi qua, mà họ đặt cho mật danh "Chiến dịch Cầu Vồng" nhưng kế hoạch này liền bị hủy bỏ vì có một thành viên để lộ tung tích trước khi khởi sự. Ngày hôm sau Mun Se-gwang, thành viên người Nhật gốc Hàn thuộc Chongryon và một tổ chức chiến binh cực tả gắn liền với EAAJAF, mưu toan ám sát Tổng thống Park Chung-hee của Hàn Quốc. Bất chấp việc Mun không giết được Park, cuộc tấn công đã làm xấu đi mối quan hệ Nhật Bản – Hàn Quốc vốn đã mong manh và khuyến khích chi bộ Sói của EAAJAF thực hiện các vụ đánh bom khủng bố mới để gây thiện cảm với Mun. EAAJAF bèn nhắm mục tiêu vào Mitsubishi Heavy Industries, một tập đoàn lớn của Nhật Bản chuyên sản xuất vũ khí quân sự mà sau này được phía Mỹ sử dụng để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong chiến tranh Việt Nam vào đầu thập niên 1970.
Diễn biến.
|
{
"split": 1,
"title": "Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries 1974",
"token_count": 243
}
|
22,188 |
Title: Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries 1974
Các thành viên thuộc chi bộ 'Sói' () của EAAJAF đã đặt hai quả bom hẹn giờ tự chế cực mạnh (chứa 45 kg chất nổ) trong một chậu hoa ở lối vào khu trụ sở chính của tập đoàn Mitsubishi Heavy Industries ở quận Marunouchi sầm uất của Tokyo. EAAJAF đã cảnh báo qua điện thoại cho những người bên trong tòa nhà tám phút trước khi vụ nổ xảy ra nhưng liền bị bác bỏ vì họ coi đây chỉ là trò đùa, và thêm một lời cảnh báo khác được đưa ra bốn phút sau khi lời cảnh báo đầu tiên bị phớt lờ, nhưng tổng đài điện thoại vẫn không thực hiện thủ tục sơ tán. Một trong những quả bom không phát nổ nhưng quả còn lại thì phát nổ lúc 12 giờ 45 phút (UTC+9), lúc đó là khoảng giờ ăn trưa. Tám người chết: năm người thiệt mạng ngay lập tức (bao gồm hai nhân viên của Mitsubishi) trong khi ba người khác chết sau khi nhập viện ngay sau đó. Ước tính có khoảng 376 người bị thương trong vụ nổ, với khoảng 330 người được đưa đến bệnh viện, trong đó có 116 người là nhân viên của Mitsubishi. Vụ nổ đã làm nổ tung tất cả kính của tòa nhà văn phòng cao 11 tầng, cũng như kính của các tòa nhà đối diện bao gồm trụ sở của Mitsubishi Electric, và đủ lớn để có thể nghe thấy từ Shinjuku, cách đó hơn . Xe cộ và một số cây cối trên đường phố cũng bị phá hủy.
Hậu quả.
Vụ đánh bom gây ra nhiều thiệt hại hơn EAAJAF dự kiến do không có sơ tán, gây ra sự phẫn nộ trong giới truyền thông. Một biên tập viên cho biết "Vụ việc này là một thách thức nghiêm trọng nhất đối với xã hội của chúng ta. Bản thân xã hội là mục tiêu và nạn nhân". Tờ "Japan Times" đã kích động nhằm "thể hiện sự phẫn nộ của công chúng" đối với những kẻ khủng bố. Tuy nhiên, Thủ tướng cánh hữu Tanaka Kakuei cũng như lãnh đạo các đảng cánh tả vẫn giữ im lặng về vụ việc. Sự lo lắng của người dân Tokyo tăng lên sau hai vụ đánh bom khác do nhóm này thực hiện trong thành phố vào năm 1974, mà cảnh sát vẫn chưa thể bắt giữ được.
|
{
"split": 2,
"title": "Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries 1974",
"token_count": 505
}
|
22,189 |
Title: Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries 1974
Các thành viên của EAAJAF mãi về sau mới bị bắt vào ngày 19 tháng 5 năm 1975. Năm 1987, Daidoji Masashi và Masunaga Toshiaki bị kết án tử hình. Daidoji, thủ lĩnh nhóm chi bộ Sói trước đây, cho biết trong các phiên tòa rằng vụ đánh bom này là "một sai lầm". Tháng 5 năm 1999 khi đang chờ đợi tử hình, lần đầu tiên anh ta xin lỗi các nạn nhân, nói rằng "Việc chúng tôi gây ra thương vong là điều tôi không thể biện minh được. Tôi muốn xin lỗi từ tận đáy lòng mình". Daidoji qua đời vào ngày 24 tháng 5 năm 2017 tại Nhà giam Tokyo.
Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries năm 1974 là vụ tấn công khủng bố nguy hiểm nhất dựa theo định nghĩa của tiêu chuẩn hiện đại đã xảy ra ở Nhật Bản vào thời điểm đó và vẫn là vụ tấn công nguy hiểm nhất trong hơn hai thập kỷ cho đến khi xảy ra vụ tấn công bằng khí sarin trên tàu điện ngầm Tokyo vào ngày 20 tháng 3 năm 1995 khiến 12 người thiệt mạng.
|
{
"split": 3,
"title": "Vụ đánh bom Mitsubishi Heavy Industries 1974",
"token_count": 239
}
|
22,190 |
Title: Vụ đánh bom xe buýt Côn Minh 2008
Đánh bom xe buýt 2008 diễn ra vào ngày 21.7.2008, vụ đánh bom diễn ra trên chiếc xe buýt công cộng ở trung tâm thành phố Côn Minh, thủ phủ của tỉnh Vân Nam, tây nam Trung Quốc, làm hai người thiệt mạng. Theo cảnh sát thì các vụ nổ là có chủ ý. Các vụ tấn công xảy ra giữa lúc căng thẳng tăng cao do Thế vận hội Bắc Kinh. Trung Quốc sau đó cho biết các vụ nổ là "không phải là một hành động khủng bố".
Diễn biến.
Các vụ nổ xảy ra cách nhau khoảng một giờ trong buổi sáng giờ giao thông cao điểm tại trung tâm thành phố Côn Minh, sở cảnh sát thành phố cho biết trong một tuyên bố. Vụ nổ đầu tiên xảy ra vào lúc khoảng 7:00 pm (2300 GMT ngày chủ nhật), giết chết một phụ nữ và làm bị thương 10 người khác, báo cáo của cảnh sát Côn Minh cho biết. "kính trên cả hai bên của chiếc xe đã vở tan và một số ghế ngồi đã bị biến dạng". Vụ nổ thứ hai đến khoảng một giờ sau đó trên cùng một tuyến đường và giết chết một người đàn ông, bốn người khác bị thương, theo báo cáo.
Đoạn phim phát sóng trên truyền hình nhà nước cho thấy một lỗ lớn bị hất tung đi ở phía bên của một trong các xe buýt và thiệt hại lớn tới nội thất của nó. Bức ảnh đăng trên Vân Nam Daily Trang web cho thấy một trong các cửa sổ của xe bị mất bởi vụ nổ và kính vỡ trên đường.
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ đánh bom xe buýt Côn Minh 2008",
"token_count": 334
}
|
22,191 |
Title: Vụ Khoa học, giáo dục, tài nguyên và môi trường
Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường là cơ quan trực thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư phát triển ngành, lĩnh vực: khoa học và công nghệ; giáo dục đào tạo và giáo dục nghề nghiệp; điều tra cơ bản; tài nguyên và môi trường; ứng phó với biến đổi khí hậu; phát triển ít phát thải; tăng trưởng xanh; đóng góp do quốc gia tự quyết định và phát triển bền vững.
Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường thành lập ngày 1/11/1995, theo Nghị định số 75-CP ngày 1/11/1995 của Chính phủ, với tiền thân là Vụ Khoa học giáo dục môi trường.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường được quy định tại Quyết định số 1872/QĐ-BKHĐT ngày 22/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Nhiệm vụ và quyền hạn.
Theo Điều 2, Quyết định số 1872/QĐ-BKHĐT ngày 22/12/2017 của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường có các nhiệm vụ, quyền hạn chính:
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ Khoa học, giáo dục, tài nguyên và môi trường",
"token_count": 279
}
|
22,192 |
Title: Vụ Nhã Thuyên
Vụ Nhã Thuyên là những sự việc liên quan đến luận văn thạc sĩ văn chương của bà Đỗ Thị Thoan. Cụ thể, năm 2010, hội đồng bảo vệ luận văn thạc sĩ đã chấm luận văn thạc sĩ văn chương của bà Đỗ Thị Thoan loại xuất sắc, sau đó đến năm 2014 luận văn này được đưa ra chấm lại, dẫn đến việc bà Đỗ Thị Thoan lúc đó đã là giảng viên Đại học Sư phạm Hà Nội, bị tước bằng thạc sĩ, giáo sư hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Bình, nguyên Chủ nhiệm Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, bị 'cho về hưu non' (bị Trường ĐH Sư phạm Hà Nội cho nghỉ hưu sớm 5 năm mà không có lý do xác đáng). Trước đó bà Thoan đã bị cắt hợp đồng, bà Bình bị cách chức. Nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội, phe cấp tiến, cho đây là một quyết định hành chính 'chính trị hóa' và 'phi khoa học'.. Trong giới bảo thủ, như PGS.TS. Phan Trọng Thưởng, thì lại cho đó là "luận văn nguy hiểm", " gây tác hại không chỉ đến văn học, nghệ thuật mà còn gieo rắc những tư tưởng nổi loạn, chống đối, gây mất bình ổn trong đời sống chính trị, tư tưởng, tác động tiêu cực tới thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh, sinh viên trong nhà trường."
Diễn biến.
Đỗ Thị Thoan.
Đỗ Thị Thoan (sinh năm 1986 có bút danh là Nhã Thuyên) là sinh viên Khoa Ngữ Văn, trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp ĐH, bà tiếp tục theo học khóa cao học tại trường này (năm học 2009 – 2010).
|
{
"split": 0,
"title": "Vụ Nhã Thuyên",
"token_count": 384
}
|
22,193 |
Title: Vụ Nhã Thuyên
Vào năm 2010 bà đã viết một luận văn thạc sĩ bàn về nhóm "Thơ Mở Miệng" với đề tài "Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa". Đây là một nhóm thi sĩ này gồm bốn tác giả: Khúc Duy, Bùi Chát, Lý Đợi và Nguyễn Quán, từng xuất bản chui tập thơ "Mở Miệng" vào tháng 06/2002, được phổ biến bằng cách chuyền tay nhau tại Sài Gòn, nhưng không lâu sau đã bị thu hồi và tiêu hủy. Bà Thoan đã được bộ môn Lý luận văn học của khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội, chấp nhận cho làm luận văn này. Luận văn của Đỗ Thị Thoan đã được chấm điểm 10, tức là điểm tuyệt đối. Cũng nhờ vậy bà được ký hợp đồng ngắn hạn làm giảng viên giảng dạy môn Văn học Việt Nam hiện đại tại khoa Ngữ Văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội từ tháng 9/2012. Theo sự phân công của lãnh đạo khoa Ngữ văn và tổ trưởng tổ bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, Nhã Thuyên dạy chuyên đề Văn học người Việt ở hải ngoại cho sinh viên năm thứ 3.
Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa.
Luận Văn Nhã Thuyên: "Vị trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa" đã được chấm điểm 10/10 và đã được Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thuộc bộ Giáo dục và Đào tạo cho in ra năm 2010. Toàn văn có thể đọc được và lấy xuống ở đây: hay vào trực tiếp trang PDF
Nhóm Mở Miệng.
Theo Lý Đợi nhóm được hình thành từ ý tưởng của Bùi Chát, cái tên Mở Miệng lấy từ Thánh kinh: "Khởi thủy là lời", vào cuối năm 2000, nhóm xuất hiện chính thức từ năm 2001 gồm có Lý Đợi, Khúc Duy, Nguyễn Quán và Bùi Chát. Lý do chính của việc thành lập Mở Miệng là phản ứng lại vấn đề kiểm duyệt và cấp phép xuất bản. Sau đó, thì cả nhóm muốn bình thường hoá việc tự do ngôn luận, tự do sáng tác và xuất bản.
|
{
"split": 1,
"title": "Vụ Nhã Thuyên",
"token_count": 503
}
|
22,194 |
Title: Vụ Nhã Thuyên
Theo Bùi Chát, cả bốn người còn rất trẻ (ngoài 20), mới tốt nghiệp đại học, đầy nhiệt huyết và dự định trong việc cống hiến cho xã hội, cho nghệ thuật... khao khát Mở Miệng càng thấy rõ sự phi lý, trì trệ, sự cam chịu đến khó hiểu trong sinh hoạt văn hoá ở Việt Nam. Không thể nào khác được, những người trẻ này đã phải quyết tâm để Mở Miệng.
Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc viết: "Nhóm Mở Miệng...có bốn đặc điểm nổi bật: Một, họ hoạt động trong khá nhiều lãnh vực, từ làm thơ… chui đến lập nhà xuất bản… chui (Giấy Vụn); và tuy chui, nhưng, về chất lượng, rất chọn lọc; về hình thức, rất đẹp; và về uy tín, rất lớn, không những được giới cầm bút Việt Nam yêu thích mà còn thu hút sự chú ý của nhiều tổ chức quốc tế. Hai, họ không những sáng tác mà còn thích phát ngôn về quan điểm sáng tác với những cách nói rất ấn tượng, đặc biệt trong giai đoạn đầu. Ba, họ đều là những người có tài, không những có tài về văn học mà còn có tài khuấy động dư luận, khiến họ trở thành hình ảnh tiêu biểu nhất của giới cầm bút trẻ ngoài luồng tại Việt Nam hiện nay. Và bốn, họ táo bạo và can đảm, dám nói thẳng nhiều điều vốn bị xem là cấm kỵ trong xã hội Việt Nam, kể cả những cấm kỵ về phương diện chính trị." Thơ của nhóm Mở Miệng có hai đặc điểm chính: Một, phá cách về ngôn ngữ (đặc biệt dùng khá nhiều từ tục tĩu vốn bị cấm kỵ ở Việt Nam) và hình thức (đặc biệt họ sử dụng khá nhiều hình thức giễu nhại), và hai, táo bạo về nội dung (họ không ngần ngại chế giễu cả Hồ Chí Minh cũng như đảng Cộng sản).
Mục đích chiến dịch.
|
{
"split": 2,
"title": "Vụ Nhã Thuyên",
"token_count": 443
}
|
22,195 |
Title: Vụ Nhã Thuyên
Theo nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc, mục tiêu của giới tuyên huấn Việt Nam không phải tập trung vào Nhã Thuyên. Nhã Thuyên chỉ là một cái cớ và có lẽ, sẽ là nạn nhân gánh chịu nhiều đòn trừng phạt, vì đó là "luận văn Thạc sĩ mỏng mảnh chỉ hơn 100 trang".
Theo ông mục tiêu thứ nhất là nhóm mở miệng, có thể vì ban tuyên huấn đã coi đó "chỉ là những trò nghịch ngợm vô hại của những nhà thơ trẻ tuổi ngỗ ngáo". Bây giờ có thể là việc đáng ngại khi họ trở thành đề tài nghiên cứu trong đại học.
Cũng theo ông Quốc, mục tiêu thứ hai là mục tiêu chính nhắm vào giới đại học đã được khá tự do, làm cho giới tuyên huấn dần cảm thấy là "những giá trị họ xây dựng và bảo vệ chung quanh cái gọi là văn học cách mạng dường như sắp sửa bị lật đổ."
Cuộc phê phán luận văn thạc sĩ.
Nhã Thuyên cho biết: "Khoảng tháng 4/2013 trong khoa bắt đầu có thông tin cơ quan an ninh đến kiểm tra việc giảng dạy của bà." và "đến cuối tháng 5/2013 thì khoa cho biết phải chịu một sức ép từ cơ quan an ninh nên họ không thể ký tiếp hợp đồng để bà có thể tiếp tục giảng dạy tại khoa nữa". Sau đó có một làn sóng phê phán gay gắt luận văn này, với nhiều bài viết chỉ trích cả người làm, người hướng dẫn, lẫn người chấm và cơ quan chủ quản trong việc này. Trong hội nghị lý luận phê bình lần thứ ba của Hội nhà văn Việt Nam tại Tam Đảo (4, 5/6/2013), nhà phê bình Chu Giang (tức nhà văn Nguyễn Văn Lưu) đăng đàn để cảnh báo hiện tượng kích động phản loạn của luận văn thạc sĩ "Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa" của tác giả Đỗ Thị Thoan (Nhã Thuyên). Quan điểm này được GS Phong Lê hưởng ứng bằng cách "hai lần lên diễn đàn đề nghị các cơ quan chức năng phải làm việc nghiêm khắc và xử lý thích đáng đối với tác giả bản luận văn cũng như hội đồng chấm luận văn".
|
{
"split": 3,
"title": "Vụ Nhã Thuyên",
"token_count": 484
}
|
22,196 |
Title: Vụ Nhã Thuyên
Mô tả về chiến dịch "đánh" Nhã Thuyên, GS Trần Đình Sử, nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội viết: "Cuộc phê phán luận văn thạc sĩ năm 2010 của giảng viên đại học Đỗ Thị Thoan hiện đang rầm rộ khắp cả nước, trên các báo lớn, báo nhỏ với đủ các từ quy kết nặng nề như "phản văn hóa", "phản động", "mượn danh khoa học để làm chính trị", "ngụy khoa học", "sự lệch chuẩn", "sự nổi dậy của rác thối", "tham vọng soán ngôi của rác thối"… Một đám cháy đang bùng lên dữ dội trên văn đàn. (…)
Thu hồi bằng thạc sĩ.
Bốn năm sau khi được chấm điểm 10/10, luận văn của giảng viên Đỗ Thị Thoan bỗng bị một hội đồng khác đưa ra thẩm định lại. Kết quả là bằng thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan bị thu hồi theo các quyết định ngày 11/03/2014 và 14/03/2014, mà tác giả luận văn và người hướng dẫn không được cho cơ hội để phản biện. Lý do dẫn đến các quyết định này cũng không được công bố, và nhất là không có bằng cớ nào chứng tỏ luận văn đã có sai phạm đáng kể về học thuật.
Một công văn của Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã bị tung ra trong cộng đồng mạng trên đó yêu cầu báo chí không được loan tải những tin tức mà Ban Tuyên giáo thấy cần phải định hướng. Công văn có nội dung như sau: "Về luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên (tức Đỗ Thị Thoan) "Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở miệng từ góc nhìn văn hóa" do PGS TS Nguyễn Thị Bình hướng dẫn, tuần qua, căn cứ Luật Giáo dục 2005 và Điều lệ trường đại học năm 2010, Hiệu trưởng Trường Đại học sư phạm Hà Nội đã ra quyết định thành lập Hội đồng khoa học để thẩm định lại chất lượng luận văn này. Hội đồng ra quyết định thu hồi luận văn và không công nhận học hàm (sic) thạc sĩ của chị Đỗ Thị Thoan. Đề nghị báo chí không đang tải ý kiến, đơn thư trái chiều."
Văn thư kiến nghị trong và ngoài nước.
|
{
"split": 4,
"title": "Vụ Nhã Thuyên",
"token_count": 498
}
|
22,197 |
Title: Vụ Nhã Thuyên
Ngày 28/04/2014, các văn bản của giới học thuật trong và ngoài nước (văn thư của 166 người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam và văn thư của 100 người là "những người quan tâm về giáo dục Việt Nam", chủ yếu là các học giả quốc tế gốc Việt trên khắp thế giới phản đối việc thẩm định luận văn và thu hồi bằng Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan), được chính thức trao bởi Nhà giáo Phạm Toàn, TS. Đặng Thị Hảo, TS. Nguyễn Xuân Diện, HS Mai Xuân Dũng và Luật gia Nguyễn Kim Môn cho người đại diện của Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Hai văn bản đó đề nghị Hiệu trưởng ĐHSPHN hủy hai quyết định về việc không công nhận luận văn và thu hồi bằng Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan. Lý do: hai quyết định đó vi phạm Quy chế Đào tạo Trình độ Thạc sĩ ban hành kèm theo Thông tư số 10/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo, ký ngày 28 tháng 2 năm 2011; và vi phạm Quy chế văn bằng, chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân ban hành kèm theo QĐ số: 33/2007/QĐ-BGDĐT, của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, ký ngày 26 tháng 6 năm 2007. Cho đến thời điểm 25.10.2014, không có bất kỳ một phản hồi nào từ Hiệu trưởng ĐHSPHN.,
Vi phạm Quy chế đào tạo.
Ngày 15/05/2014, Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hành Thông tư số 15/2014/TT-BGDĐT (Thông tư 15) để ban hành Quy chế đào tạo trình độ thạc sĩ (mới), có hiệu lực từ ngày 01/07/2014.. Thông tư được xem như như một cách trả lời cho các thư ngỏ của giới học thuật trong nước và quốc tế về vụ việc Nhã Thuyên. Bộ Giáo dục được cho là làm vậy để hợp thức hóa những quyết định sai luật của Hiệu trưởng ĐHSP bằng cách ra một luật khác cho phép phủ định những luật cũ. Tuy nhiên những quyết định của Hiệu trưởng ĐHSPHN được ban hành khi mà thông tư mới chưa ra, tức là trong thời gian luật cũ vẫn có hiệu lực, tức là vẫn phạm luật.
Phản ứng.
Đỗ Thị Thoan.
|
{
"split": 5,
"title": "Vụ Nhã Thuyên",
"token_count": 498
}
|
22,198 |
Title: Vụ Nhã Thuyên
Trong một cuộc phỏng vấn với đài RFA nhà văn Nhã Thuyên cho biết về việc bị cho nghỉ việc: "Câu chuyện một người bị thôi việc, tất nhiên mọi người sẽ thấy ngay đó là một sự bất công, bất công ở chỗ là bản thân tôi không được quyền biết rõ ràng về mặt thông tin, tôi chỉ nhận được một cái thông báo dừng ký hợp đồng.", bị tước bằng: "...chưa hề nhận được một quyết định về việc hủy bằng hay là không công nhận học vị đó.", về người hướng dẫn làm luận văn: "tôi rất mong thấy được thêm nhiều của tiếng nói công luận để có thể có một sự giúp đỡ hoặc có hướng giải quyết nào đó công bằng đối với trường hợp cô Nguyễn Thị Bình là người giúp tôi trong luận văn thạc sĩ của tôi."
Ngày 27/3/2014, trên blog của mình, Nhã Thuyên thông báo về việc cô bị Phòng Sau ĐH của Trường ĐH Sư phạm Hà Nội mời đến để nhận các quyết định các quyết định thu hồi bằng và hủy luận văn thạc sĩ. "Tôi không đồng ý nhận các quyết định này vì tôi cho rằng hai quyết định này hoàn toàn thiếu cơ sở pháp lý và minh bạch về các thông tin: như hội đồng chấm, các biên bản nhận xét của hội đồng, v.v". Bà đề nghị được cung cấp thông tin về các giấy tờ và hồ sơ có thể kèm theo như biên bản thành lập hội đồng thẩm định, các nhận xét của từng thành viên hội đồng, v.v… nhưng không được đáp ứng.
Trong nước.
Ngày 19/04, một « Bản phản đối và yêu cầu » của 166 người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam gởi Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã được phổ biến trên mạng. Trong bản phản đối này, những người ký tên yêu cầu hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội hủy các quyết định không công nhận luận văn và thu hồi bằng Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của cô Đỗ Thị Thoan. Theo họ, các quyết định này là « phi pháp và phi lý », vì trái với các quy chế đào tạo thạc sĩ và quy chế văn bằng, chứng chỉ hiện hành ở Việt Nam.
Ngoài nước.
|
{
"split": 6,
"title": "Vụ Nhã Thuyên",
"token_count": 475
}
|
22,199 |
Title: Vụ Nhã Thuyên
Ngày 20/04, đến lượt giới học thuật Việt Nam ở nước ngoài lên tiếng về vụ này qua một thư ngỏ « Về sự vi phạm Tự do học thuật trong vụ thu hồi bằng thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan », cũng được phổ biến trên mạng. Bức thư ngỏ, với chữ ký của 100 nhà trí thức người Việt ở nhiều nước như Mỹ, Pháp, Úc, Canada, Bỉ..., phản đối việc thu hồi bằng thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan và ủng hộ các đồng nghiệp trong giới giáo dục và nghiên cứu Việt Nam trong việc đòi hủy bỏ các quyết định này. Đặc biệt, họ nhấn mạnh rằng việc thu hồi bằng Thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan/Nhã Thuyên là một sự « vi phạm nghiêm trọng » quyền tự do học thuật. Theo bức thư ngỏ, « các đại học chỉ có thể đóng góp hữu hiệu cho sự phát triển của đất nước, nếu các giảng viên và sinh viên có quyền nghiên cứu bất cứ đề tài nào ».
Ngày 2 tháng 5 năm 2014, Committee of Concerned Scientists (Ủy ban các nhà Khoa học Quan tâm) đã gửi đến ông Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội một bức thư để bày tỏ mối quan tâm về vụ bà Đỗ Thị Thoan (bút danh Nhã Thuyên) bị thu hồi bằng thạc sĩ và để yêu cầu rút lại quyết định thu hồi bằng thạc sĩ của bà Thoan
Hồ sơ - Tư liệu.
Trang mạng Văn Việt cho là "Vụ luận văn Đỗ Thị Thoan đã nhanh chóng đi vào lịch sử văn hoá-giáo dục Việt Nam với tên gọi tắt là "Vụ Nhã Thuyên". Để cho việc tìm hiểu được dễ dàng, họ đã lập mục lục các bài viết về đề tài này trong hai năm 2013 – 2014, cụ thể hơn rong năm 2013 đã có 67 bài, và năm 2014 có 84 bài chuyên khảo, chuyên luận, bài báo của các tiến sĩ, giáo sư, nhà nghiên cứu liên quan đến vụ này.. Ngoài ra mạng Viet-Studies của tiến sĩ Trần Hữu Dũng đã sưu tập thành một "hồ sơ – tư liệu", riêng tập I đã tới 663 trang A4, gồm 89 bài phê bình của những người chống đối cũng như đồng tình hoặc tiếp tay trong chiến dịch.
|
{
"split": 7,
"title": "Vụ Nhã Thuyên",
"token_count": 483
}
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.