id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
11190
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B4%20m%C3%B4n%20quan
|
Vô môn quan
|
Vô môn quan (zh. wúmén-goān/ wu-men-kuan 無門關, ja. mumonkan), nghĩa là "ải không cửa vào", là tên của một tập công án do Thiền sư Vô Môn Huệ Khai biên soạn. Cùng với Bích nham lục, đây là hai tập công án lừng danh nhất của Thiền tông. Vô môn quan ghi lại 48 công án, mỗi công án được bổ sung thêm một lời bình và một bài kệ. Những bài kệ tụng trong đây là những kiệt tác của văn chương Phật giáo tại Trung Quốc.
Vô môn quan ra đời khoảng một thế kỉ sau Bích nham lục. Cấu trúc của tập này đơn giản hơn nhiều so với Bích nham lục, và sự việc này chứng tỏ là sư Huệ Khai chú trọng đến việc sử dụng những tắc công án trong đây làm phương tiện thực hành, tu tập. Sư xem nó là những "viên gạch gõ cửa tâm" của các thiền sinh và viết như sau trong lời tựa:
"Phật dạy tâm là tông chỉ, cửa Không là cửa pháp. Đã không cửa, thì sao qua? Há chẳng nghe 'từ cửa mà vào thì không phải là của báu trong nhà, nhờ duyên mà thành đạt tất phải có thành hoại.' Nói như vậy thật chẳng khác chi khi không dậy sóng, thịt da đang lành đem ra mổ mụt. Huống chi chấp vào văn tự để tìm mong lý giải, vác gậy quơ trăng, gãi ngứa ngoài giày, có dính líu gì đến sự thật đâu!...
Trong bài kệ đầu, lời tựa của tác phẩm, Huệ Khai viết như sau (Trần Tuấn Mẫn dịch):
Mỗi công án bao gồm ba phần:
Công án, nói về một sự kiện, lời nói, dạy của các vị Tổ;
Lời bình của sư Huệ Khai
Kệ tụng.
Tắc công án thứ 12 sau đây sẽ nêu rõ cấu trúc này (Chân Nguyên dịch Hán-Việt).
Thuỵ Nham Sư Ngạn gọi ông chủ
Tắc công án
Hoà thượng Thuỵ Nham Sư Ngạn (zh. 瑞巖師彥, ja. zuigan shigen) mỗi ngày tự gọi:
"Ông chủ!"
Rồi tự trả lời:
"Dạ."
Lại nói:
"Tỉnh táo nhé!"
"Dạ!"
"Mai kia mốt nọ chớ để người gạt nhé!"
"Dạ, dạ!"
Lời bình của Huệ Khai
Ông già Thuỵ Nham tự biên tự diễn, bày vẻ ra nhiều đầu thần mặt quỷ. Vì sao lại một ông gọi, một ông đáp, một ông tỉnh, một ông không bị người gạt? Biết ra rồi thì thật là chẳng phải. Nếu bắt chước ông ta thì đó cũng là kiến giải của loài chồn hoang.
Kệ tụng
Mặc dù nguồn tài liệu của những tập công án danh tiếng đều như nhau nhưng trong tập Vô môn quan, người ta có thể thấy một dấu ấn đặc biệt của sư Vô Môn Huệ Khai, những nét đặc sắc, thật dụng chỉ có ở riêng đây và có lẽ vì thế Vô môn quan được ưa chuộng và phổ biến rộng rãi đến ngày nay.
Tham khảo
Vô Môn Quan 無門關, Taishō Tripitaka Vol. 48, No. 2005 (294b18-294b27)
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Trần Tuấn Mẫn (dịch & chú): Vô Môn Quan. NHX Thành phố Hồ Chí Minh 1995.
Triết lý Phật giáo
Thiền tông
Thiền ngữ
|
11191
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ACnh%20D%C6%B0%C6%A1ng
|
Bình Dương
|
Bình Dương là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam.
Tỉnh lỵ của Bình Dương là thành phố Thủ Dầu Một, cách trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh 30 km theo đường Quốc lộ 13. Đây là tỉnh có dân số đông thứ 6 trong tổng số 63 tỉnh thành và cũng là tỉnh có tỷ lệ gia tăng dân số cơ học rất cao do có nhiều người nhập cư, hơn 50% dân số của tỉnh Bình Dương là dân nhập cư.
Năm 2020 là đơn vị hành chính đông thứ sáu về dân số và là tỉnh có dân số đông thứ tư cả nước, xếp thứ ba về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ ba về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 8 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 2.465.000 người dân, GRDP đạt 389.500 tỉ Đồng (tương ứng với 16,81 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người năm 2023 đạt 172 triệu đồng (tương ứng với 7012 USD, cao nhất Việt Nam), tốc độ tăng trưởng GRDP dự kiến đạt 9,5%
Bình Dương là vùng đất chiến trường năm xưa với những địa danh đã đi vào lịch sử như Phú Lợi, Bàu Bàng, Bến Súc, Lai Khê, Nhà Đỏ và đặc biệt là chiến khu Đ với trung tâm là huyện Tân Uyên (nay là huyện Bắc Tân Uyên và thành phố Tân Uyên), vùng Tam giác sắt trong đó có ba làng An. Ngoài ra còn có khu du lịch Đại Nam là khu du lịch lớn nhất Đông Nam Á.
Địa lý
Tỉnh Bình Dương thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có tọa độ là 10°51'46"B – 11°30'B, 106°20' Đ – 106°58'Đ và có vị trí địa lý:
Phía đông giáp tỉnh Đồng Nai
Phía tây giáp tỉnh Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh
Phía nam giáp Thành phố Hồ Chí Minh
Phía bắc giáp tỉnh Bình Phước.
Tỉnh Bình Dương có diện tích 2.694,4 km², xếp thứ 4 trong vùng Đông Nam Bộ. Địa hình Bình Dương tương đối bằng phẳng, hệ thống sông ngòi và tài nguyên thiên nhiên phong phú. Khí hậu mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm với 2 mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ khoảng tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình hàng năm 1.800 mm đến 2.000 mm. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 26,5°C.
Bình Dương là cửa ngõ giao thương với Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế – văn hóa của cả nước, có các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia chạy qua như quốc lộ 13, quốc lộ 14, đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên Á … cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và các cảng biển chỉ từ 10 km – 15 km… thuận lợi cho phát triển kinh tế và xã hội toàn diện. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao, GRDP tăng bình quân khoảng 14,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, công nghiệp, dịch vụ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng cao, năm 2010, tỷ lệ công nghiệp – xây dựng 63%, dịch vụ 32,6% và nông lâm nghiệp 4,4%. Hiện nay, Bình Dương có 28 khu công nghiệp và cụm công nghiệp tập trung có tổng diện tích hơn 8.700 ha với hơn 1.200 doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động có tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ đôla Mỹ.Năm 2019, tổng GRDP trên địa bản tỉnh tăng 9,5%. Tổng thu ngân sách ước đạt 57.300 tỷ đồng, đạt 105% dự toán HĐND tỉnh, tăng 14% so với cùng kỳ. Tổng chi cân đối ngân sách địa phương ước đạt 20.535 tỷ đồng, đạt 100% dự toán HĐND tỉnh, tăng 12% so với cùng kỳ. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,86% so với cùng kì. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 27 tỷ 781 triệu đô la Mỹ, tăng 15,6%. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 20 tỷ 795 triệu đô la Mỹ, tăng 10,6%; thặng dư thương mại của tỉnh năm 2019 đạt gần 07 tỷ đô la Mỹ. Tính đến 27/11/2019, tỉnh đã thu hút 56.702 tỷ đồng vốn đăng ký kinh doanh trong nước (tăng 3,3%); lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 42.269 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, tổng vốn đăng ký 357.680 tỷ đồng. Thu hút đầu tư nước ngoài đạt 03 tỷ 067 triệu đô la Mỹ (vượt 119% kế hoạch năm, tăng 49% cùng kỳ); lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 3.753 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 34,23 tỷ đô la Mỹ.
Điều kiện tự nhiên
Bình Dương là một tỉnh nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa sườn phía nam của dãy Trường Sơn, nối nam Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh bình nguyên có địa hình lượn sóng từ cao xuống thấp dần từ 10m đến 15m so với mặt biển. Địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ bắc xuống nam. Nhìn tổng quát, Bình Dương có nhiều vùng địa hình khác nhau như:
Vùng thung lũng bãi bồi: phân bố dọc theo các sông Đồng Nai, sông Sài Gòn và sông Bé. Đây là vùng đất thấp, phù sa mới, khá phì nhiêu, bằng phẳng, cao trung bình 6 – 10m.
Vùng địa hình bằng phẳng: nằm kế tiếp sau các vùng thung lũng bãi bồi, địa hình tương đối bằng phẳng, có độ dốc 3 – 120, cao trung bình từ 10 – 30m.
Vùng địa hình đồi thấp có lượn sóng yếu: nằm trên các nền phù sa cổ, chủ yếu là các đồi thấp với đỉnh bằng phẳng, liên tiếp nhau, có độ dốc 5 – 120, độ cao phổ biến từ 30 – 60m.
Khí hậu: Bình Dương cũng như chế độ khí hậu của khu vực miền Đông Nam Bộ, nắng nóng và mưa nhiều, độ ẩm khá cao. Vào những tháng đầu mùa mưa, thường xuất hiện những cơn mưa rào lớn, rồi sau đó dứt hẳn. Những tháng 7, 8, 9, thường là những tháng mưa dầm. Có những trận mưa dầm kéo dài 1–2 ngày đêm liên tục. Đặc biệt ở Bình Dương hầu như không có bão, mà chỉ bị ảnh hương những cơn bão gần. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Bình Dương từ 26 °C–27 °C. Nhiệt độ cao nhất có lúc lên tới 39,3 °C và thấp nhất từ 16 °C–17 °C (ban đêm) và 18 °C vào sáng sớm. Vào mùa khô, độ ẩm trung bình hàng năm từ 76%–80%, cao nhất là 86% (vào tháng 9) và thấp nhất là 66% (vào tháng 2). Lượng mùa mưa trung bình hàng năm từ 1.800–2.000 mm. Chế độ gió tương đối ổn định, Bình Dương có hai hướng gió chủ đạo trong năm là gió Tây – Tây Nam và gió Đông – Đông Bắc. Gió Tây – Tây Nam là hướng gió thịnh hành trong mùa mưa và hướng gió Đông – Đông Bắc là hướng gió thịnh hành trong mùa khô. Tốc độ gió bình quân khoảng 0,7m/s, tốc độ gió lớn nhất quan trắc được là 12m/s thường là Tây – Tây Nam. Với khí hậu nhiệt đới mang tính chất cận xích đạo, nền nhiệt độ cao quanh năm, ẩm độ cao và nguồn ánh sáng dồi dào, rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng cây công nghiệp ngắn và dài ngày. Khí hậu Bình Dương tương đối hiền hoà, ít thiên tai như: bão, lụt,..
Chế độ thủy văn: Bình Dương có các con sông chảy qua tỉnh và trong tỉnh Bình Dương thay đổi theo mùa: mùa mưa nước lớn từ tháng 5 đến tháng 11 (dương lịch) và mùa khô (mùa kiệt) từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau, tương ứng với 2 mùa mưa nắng. Bình Dương có ba con sông lớn, nhiều rạch ở các địa bàn ven sông và nhiều suối nhỏ khác. Về hệ thống giao thông đường thủy, Bình Dương nằm giữa ba con sông lớn, nhất là sông Sài Gòn. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Tài nguyên đất: Bình Dương rất đa dạng và phong phú về chủng loại. Các loại đất như đất xám trên phù sa cổ, có diện tích 200.000 ha phân bố trên các huyện Dầu Tiếng, thị xã Bến Cát, thành phố Thuận An, thành phố Thủ Dầu Một. Đất nâu vàng trên phù sa cổ, có khoảng 35.206 ha nằm trên các vùng đồi thấp thoải xuống, thuộc các thị xã Tân Uyên, huyện Phú Giáo, khu vực thành phố Thủ Dầu Một, thành phố Thuận An và một ít chạy dọc quốc lộ 13. Đất phù sa Glây (đất dốc tụ), chủ yếu là đất dốc tụ trên phù sa cổ, nằm ở phía bắc thị xã Tân Uyên, huyện Phú Giáo, thị xã Bến Cát, huyện Dầu Tiếng, thành phố Thuận An, thành phố Dĩ An, đất thấp mùn Glây có khoảng 7.900 ha nằm rải rác tại những vùng trũng ven sông rạch, suối.
Tài nguyên rừng: Do đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm và đất đai màu mỡ, nên rừng ở Bình Dương xưa rất đa dạng và phong phú về nhiều chủng loài. Có những khu rừng liền khoảnh, bạt ngàn. Rừng trong tỉnh có nhiều loại gỗ quý như căm xe, sao, trắc, gõ đỏ, cẩm lai, giáng hương... Rừng Bình Dương còn cung cấp nhiều loại dược liệu làm thuốc chữa bệnh, cây thực phẩm và nhiều loài động vật, trong đó có những loài động vật quý hiếm.
Khoáng sản: Cùng với những giá trị quý giá về tài nguyên rừng, Bình Dương còn là một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi chứa đựng nhiều loại khoáng sản phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất. Đó chính là cái nôi để các ngành nghề truyền thống ở Bình Dương sớm hình thành như gốm sứ, điêu khắc, mộc, sơn mài,... Bình Dương có nhiều đất cao lanh, đất sét trắng, đất sét màu, sạn trắng, đá xanh, đá ong nằm rải rác ở nhiều nơi, nhưng tập trung nhất là ở các thành phố Dĩ An, Tân Uyên, thành phố Thuận An và thành phố Thủ Dầu Một.
Môi trường: Với tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng của Bình Dương, môi trường ở Bình Dương đang bị ô nhiễm trầm trọng. Bình Dương có lượng nước thải rất lớn và rất ô nhiễm. Tổng lượng nước thải một ngày của Bình Dương khoảng 190.000 m³ trong đó có tới 1/3 là nước thải công nghiệp. Môi trường nước tiếp nhận các nguồn nước này là hồ, kênh, mương và sông gây nên tình trạng ô nhiễm phải thông cống nghẹt Bình Dương. Hầu hết các cơ sở đều xả nước thải xuống các sông thoát nước chính của thành phố. Nhiều tài liệu cho thấy nước Bình Dương xuất hiện các chất có chứa chất lơ lửng, nước bị ô nhiễm hóa học, cơ học các kim loại nặng rất cao. Tầng nước ngầm cung cấp nước cho các nhà máy hiện nay cũng đã bị ô nhiễm và phải sử dụng biện pháp hút hầm cầu Bình Dương. Từ kết quả quan trắc cho thấy nồng độ bụi lơ lửng của các khu công nghiệp đang có xu hướng tăng dần.
Theo số liệu thống kê năm 2012, trung bình mỗi ngày trên địa bàn tỉnh thải ra khoảng 900-1.000 tấn chất thải rắn sinh hoạt từ các hộ dân, các cơ quan, xí nghiệp (bình quân mỗi ngày một người thải ra khoảng 0,56 - 0,62 kg chất thải rắn đô thị), khoảng 7.700 tấn chất thải rắn công nghiệp từ các cơ sở công nhiệp, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp (trong đó có khoảng 290 tấn chất thải nguy hại). Với hiện trạng thu gom rác tại thời điểm này thì tỷ lệ chất thải rắn thông thường được thu gom xử lý khoảng 87%, tỷ lệ chất thải nguy hại được thu gom xử lý khoảng 78%, tỷ lệ chất thải bệnh viên được thu gom xử lý khoảng 97%. Vào thời điểm này, lượng chất thải rắn được thu gom tái chế khoảng 90-100 tấn/ngày (chiếm 10%), lượng chất thải công nghiệp được thu gom tái chế khoảng 5.390 tấn/ngày (chiếm 70%), lượng chất thải công nghiệp nguy hại được thu gom tái chế khoảng 87 tấn/ngày (chiếm 30%), riêng đối với chất thải y tế thì không có khả năng tái chế.
Sự hình thành các khu đô thị, các KCN, cụm sản xuất cùng với quá trình khai thác khoáng sản với quy mô lớn (chủ yếu tập trung tại phía Đông của thành phố Dĩ An, phía Nam của thị xã Tân Uyên và phường Mỹ Phước của thị xã Bến Cát) đã làm biến đổi bề mặt địa hình của khu vực, làm mất đi những đường nét tự nhiên, gây nhiều tác động tiêu cực như thúc đẩy quá trình rửa trôi bề mặt và xâm thực bào mòn các bề mặt sườn.
Để đảm bảo phát triển hài hòa giữa kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, tỉnh Bình Dương đã đặt ra các mục tiêu cụ thể về môi trường đến 2015 như sau: tỷ lệ chất thải rắn được thu gom và xử lý đạt 95%, tỷ lệ chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt 100%; hộ dân thành thị sử dụng nước sạch đạt tỷ lệ 99%, các hộ nông dân được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt tỷ lệ 98% và tỷ lệ che phủ rừng, cây lâm nghiệp, cây lâu năm đạt 57%. Chú trọng gắn kết quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch ngành với quy hoạch khai thác tài nguyên và chiến lược bảo vệ môi trường. Quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên chặt chẽ, tiết kiệm phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của địa phương, tiến dần đến việc hạn chế và cấm dần việc khai thác tài nguyên. Ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường, phục hồi và nâng cao chất lượng môi trường nước trên các sông Sài Gòn, Đồng Nai.
Hành chính
Tỉnh Bình Dương có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 5 thành phố và 4 huyện với 91 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 47 phường, 5 thị trấn và 39 xã.
Hiện nay, Bình Dương là tỉnh có nhiều thành phố nhất cả nước với 5 thành phố.
Lịch sử
Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một xưa kia. Tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập tháng 12 năm 1899 từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa.
Tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể tỉnh Thủ Dầu Một để thành lập các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Như vậy Bình Dương là một trong 22 tỉnh của Nam Phần được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thiết lập theo Sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956. Tỉnh lị là thị xã Phú Cường. Tỉnh Bình Dương bao gồm 5 quận, 10 tổng, 60 xã:
Quận Châu Thành, có 3 tổng là Bình Điền, Bình Phú, Bình Thiện; quận lỵ: Phú Cường.
Quận Lái Thiêu, có 1 tổng là Bình Chánh; quận lị: Tân Thới.
Quận Bến Cát, có 2 tổng là Bình An, Bình Hưng; quận lỵ: Mỹ Phước.
Quận Trị Tâm (Dầu Tiếng), có 1 tổng là Bình Thạnh Thượng; quận lỵ: Định Thành.
Quận Củ Chi, có 3 tổng là Long Tuy Hạ, Long Tuy Trung, Long Tuy Thượng; quận lỵ: Tân An Hội. Quận Củ Chi vốn trước đây là một phần quận Hóc Môn, tỉnh Gia Định, đến năm 1963 chuyển sang tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập.
Năm 1959, cắt một phần đất, cùng với phần đất của các tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Phước Long, để lập tỉnh Phước Thành. Tỉnh này tồn tại đến năm 1965 thì giải thể.
Ngày 18 tháng 12 năm 1963, tách một phần quận Củ Chi về tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập. Phần còn lại của quận Củ Chi lập thành quận Phú Hòa, quận lị đặt tại Bến Cỏ, xã Phú Hòa Đông, sau dời về xã Tân Hòa. Sau năm 1975, quận Phú Hòa lại nhập với quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa thành huyện Củ Chi thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 1965, quận Phú Giáo của tỉnh Phước Thành vừa giải thể được nhập vào tỉnh Bình Dương.
Năm 1976, chính quyền mới hợp nhất 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long cũ thành tỉnh Sông Bé, đến ngày 6 tháng 11 năm 1996 lại tách ra thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước.
Khi vừa tái lập, tỉnh Bình Dương có diện tích 2.718,5 km², dân số 646.317 người, gồm thị xã Thủ Dầu Một và 3 huyện: Bến Cát, Tân Uyên, Thuận An. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Thủ Dầu Một.
Ngày 23 tháng 7 năm 1999, huyện Thuận An được chia thành 2 huyện Thuận An và Dĩ An, huyện Bến Cát được chia thành 2 huyện Bến Cát và Dầu Tiếng, huyện Tân Uyên được chia thành 2 huyện Tân Uyên và Phú Giáo.
Bình Dương có 7 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thị xã Thủ Dầu Một (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Bến Cát, Dầu Tiếng, Dĩ An, Phú Giáo, Tân Uyên, Thuận An.
Ngày 13 tháng 1 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-CP về việc thành lập hai thị xã Dĩ An và Thuận An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của hai huyện có tên tương ứng.
Ngày 2 tháng 5 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về việc thành lập thành phố Thủ Dầu Mộttrên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Thủ Dầu Một.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 136/NQ-CP về việc chia huyện Bến Cát thành thị xã Bến Cát và huyện Bàu Bàng, chia huyện Tân Uyên thành thị xã Tân Uyên và huyện Bắc Tân Uyên.
Bình Dương có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 4 thị xã và 4 huyện.
Ngày 8 tháng 7 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1120/QĐ-TTg công nhận thành phố Thủ Dầu Một là đô thị loại II.
Ngày 27 tháng 4 năm 2017, Bộ xây dựng công nhận thị xã Dĩ An và thị xã Thuận An là đô thị loại III.
Ngày 6 tháng 12 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1959/QĐ-TTg công nhận thành phố Thủ Dầu Một là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Dương.
Ngày 24 tháng 10 năm 2018, Bộ Xây dựng công nhận thị xã Bến Cát và thị xã Tân Uyên là đô thị loại III.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, thành lập hai thành phố Dĩ An và Thuận An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của hai thị xã có tên tương ứng.
Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 725/NQ-UBTVQH15 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 10 tháng 4 năm 2023). Theo đó, thành lập thành phố Tân Uyên trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Tân Uyên.
Ngày 19 tháng 3 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua nghị quyết (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 2024). Theo đó, thành lập thành phố Bến Cát trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Bến Cát.
Tỉnh Bình Dương có 5 thành phố và 4 huyện như hiện nay.
Kinh tế
Bình Dương là một trong những địa phương năng động trong kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Với chủ trương tạo ra một môi trường đầu tư tốt nhất hiện nay tại Việt Nam, tính đến tháng 10/2006, tỉnh đã có 1.285 dự án FDI với tổng số vốn 6 tỷ 507 triệu USD. Năm 2007, tỉnh Bình Dương đặt mục tiêu thu hút trên 900 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tăng hơn 2,5 lần so với năm 2006. Theo bảng xếp hạng Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2006, tỉnh Bình Dương đứng đầu cả nước với 76,23 điểm, trong khi thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, lần lượt xếp thứ thứ 40 với 50,34 điểm và xếp thứ 7 với 63,39 điểm.
Bình Dương có nhiều khu công nghiệp (KCN) đang hoạt động, trong đó nhiều KCN đã cho thuê gần hết diện tích như KCN Sóng Thần I, KCN Sóng Thần II, KCN Đồng An, KCN Nam Tân Uyên, KCN Tân Đông Hiệp A, KCN Việt Hương, KCN VSIP 1,2,3 - Việt Nam Singapore, các KCN Mỹ Phước 1, 2, 3, 4 và 5. Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã thu hút 938 dự án đầu tư, trong đó có 613 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 3,483 triệu USD và 225 dự án đầu tư trong nước có số vốn 2.656 tỷ đồng. Nhằm tăng sự thu hút đầu tư, địa phương này đang tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ thi công các khu công nghiệp mới để phát triển công nghiệp ra các huyện phía bắc của tỉnh. Trong năm 2019, chủ đầu tư các khu công nghiệp đã đầu tư cơ sơ hạ tầng với tổng vốn trên 300 tỷ đồng; cho thuê lại đât và nhà xưởng với tông diện tích 273 ha (bằng 37,2% so với cùng kỳ), thu hút đầu tư nước ngoài đạt 02 tỷ 507 triệu đô la Mỹ (chiếm 81,7% toàn tỉnh) và 3.342 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đã giải ngân 2,2 tỷ đô la Mỹ đê đâu tư nhà xưởng, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh. Toàn tỉnh hiện có 29 khu công nghiệp (trong đó 27 khu công nghiệp đi vào hoạt động), diện tích 12.743 ha, tỷ lệ cho thuê đạt 83,3%. Năm 2019, Bình Dương thành lập thêm các cụm công nghiệp: Thanh An, Tân Thành và An Lập; rà soát, đôn đốc chủ đầu tư các cụm công nghiệp hoàn thiện cơ sở hạ tầng; đến 2019 toàn tỉnh có 12 cụm công nghiệp, với tổng diện tích 790 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 67,4%.
Năm 2019, kim ngạch xuất, nhập khẩu duy trì tăng trưởng; cơ cấu hàng hóa xuất khẩu được cải thiện theo hướng tăng các sản phẩm chế tạo, chế biến, hàng nông sản; bên cạnh giữ vững các thị trường xuất khẩu truyền thống (Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, ASEAN), nhiều doanh nghiệp có bước tiếp cận, phát triển một số thị trường mới như: Cuba, Mexico, các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan; đến nay sản phẩm xuất khẩu của tỉnh đã có mặt 88 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 27 tỷ 781 triệu đô la Mỹ, tăng 15,6% (năm 2018 tăng 9,7%, KH tăng 15,5%). Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 20 tỷ 795 triệu đô la Mỹ, tăng 10,6%; thặng dư thương mại của tỉnh năm 2019 đạt gần 07 tỷ đô la Mỹ. Theo thống kê cuối năm 2019 của tỉnh, ước tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 114.669 tỷ đồng, tăng 15,8% (năm 2018 tăng 12,2%, KH tăng 10,02%); trong đó: vốn nhà nước tăng 15,2% (chiếm 16,3%), vốn ngoài nhà nước tăng 21,4% (chiếm 35,5%) và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 12,1% (chiếm 48,3%).
Thu hút đầu tư:
Đầu tư trong nước (đến 27/11/2019): Đã thu hút 56.702 tỷ đồng vốn đăng ký kinh doanh (tăng 3,3%), gồm: 6.100 doanh nghiệp đăng ký mới (40.142 tỷ đông), 835 doanh nghiệp điều chỉnh tăng vốn (22.470 tỷ đồng) và 44 doanh nghiệp giảm vốn (3.707 tỷ đồng); có 372 doanh nghiệp giải thể (2.202 tỷ đông). Lũy kế đến 2019, toàn tỉnh có 42.269 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, tổng vốn đăng ký 357.680 tỷ đồng.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (đến 27/11/2019): Đã thu hút 03 tỷ 067 triệu đô la Mỹ (vượt 119% kế hoạch năm, tăng 49% cùng kỳ), gồm: 222 dự án đầu tư mới (1.480 triệu đô la Mỹ), 143 dự án điều chỉnh tăng vốn (893 triệu đô la Mỹ), 427 dự án góp vốn (701 triệu đô la Mỹ); có 03 dự án điều chỉnh giảm vốn (7 triệu đô la Mỹ). Lũy kế đến 2019, toàn tỉnh có 3.753 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 34,23 tỷ đô la Mỹ.
Kinh tế tập thể: Thành lập 25 hợp tác xã, vốn điều lệ 19 tỷ đồng (với 186 thành viên). Lũy kế đên 2019, toàn tỉnh có 137 tổ họp tác (1-314 thành viên) và 176 họp tác xã (26.253 thành viên). Nhiều mô hình hợp tác xã kiểu mới được mở rộng đầu tư, kinh doanh có hiệu quả, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho các thành viên.
Năm 2019, tình hình sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển, chuyển dịch nội bộ ngành theo hướng tích cực; công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò quan trọng của ngành; một số ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh (gỗ, dày dép, dệt may, điện tử, linh kiện,...) có quy mô lớn, năng lực cạnh tranh, đạt giá trị xuất khẩu cao. Có 1.261 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đi vào hoạt động góp phần đưa chỉ sô phát triển công nghiệp tăng 9,86% (năm 2018 tăng 9,8%, KH 2019 tăng 9,5%).
Sản lượng điện thương phẩm 2019 ước đạt 13,6 tỷ KWh, tăng 9,1% so với cùng kỳ, duy trì tỷ lệ hộ dân sử dụng điện đạt 99,998%.
Theo thống kê cuối năm 2019, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDRP) ước tăng 9,5% (kế hoạch 8,5-8,7%), bình quân đầu người đạt 146,9 triệu đồng (kế hoạch 140,6 triệu đồng). Cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp - thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm với tỉ trọng tương ứng là 66,8% - 22,4% - 2,6% - 8,2% (kế hoạch 63,7% - 25% - 3,2% - 8,1%).
Nông nghiệp
Tính đến trung tuần tháng 9, toàn tỉnh đã gieo trồng được 6.780,7 ha các loại cây hàng năm vụ mùa, bằng 97,4% cùng kỳ. Trong đó diện tích cây lúa gieo cấy 2.407 ha, bằng 93,9% cùng kỳ; cây ngô và cây lương thực có hạt khác 127,4 ha, tăng 0,2%; cây lấy củ có chất bột 1.665 ha, tăng 0,1%; cây rau, đậu, hoa các loại 1.735 ha, tăng 0,2%; diện tích cây hàng năm khác 382 ha, tăng 0,4% so cùng kỷ. Cùng với việc gieo trồng vụ mùa, toàn tỉnh đã thu hoạch lúa vụ hè thu được 1.321 ha, bằng 93,6% cùng kỳ, sản lượng lúa đạt 5,3 ngàn tấn, bằng 95,6% cùng kỳ. Ước tính diện tích các loại cây hàng năm, năm 2019 thực hiện 21.693 ha, bằng 98,8% cùng kỳ. Diện tích một số loại cây hàng năm (lúa, mỳ,...) giảm so với cùng kỳ là do người dân chuyển sang trồng cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao hơn. Mặc dù diện tích có giảm nhưng được người dân áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng giống mới, cũng như được đầu tư chăm sóc tốt nên năng suất một số cây trồng tăng so với cùng kỳ.
Năm 2019, chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao tiếp tục phát triển với 133 trang trại gà; 141 trang trại heo; 10 trang trại vịt; 01 trang tại bò sữa; 2.870 hộ đầu tư sản xuất các mô hình nông nghiệp đô thị. Trước diễn biến phức tạp của bệnh dich tả heo Châu phi 2019 và các trang trại chăn nuôi theo phương thức truyền thống (trại hở) không tái đàn sau khi xuất bán nên tổng đàn lợn ước tính giảm so với cùng kỳ. Ước tính tổng đàn lợn hiện có: 615.789 con, giảm 1,3% so với cùng kỳ, giảm 7% so với thời điểm 01/4/2019; tổng đàn trâu: hiện có 5.321 con, bằng 91,8% so cùng kỳ; tổng đàn bò: 24.412 con, bằng 98,4% cùng kỳ; gia cầm: 10.289 ngàn con, tăng 5,5% so cùng kỳ, trong đó gà 10.072 ngàn con, tăng 5,4% so cùng kỳ.
Lâm nghiệp
Ước tính 9 tháng năm 2019, diện tích rừng trồng chăm sóc 3.998 ha, tăng 0,6% so cùng kỳ. Khai thác lâm sản chủ yếu khai thác từ rừng trồng của lâm trường và các loại cây trồng phân tán, sản lượng gỗ khai thác là 8.536,1 m³, tăng 1,5% so cùng kỳ; sản lượng củi khai thác 9.013,4 Ste, tăng 1,4% so cùng kỳ.
Thủy sản
Năm 2019, tiếp tục tổ chức hướng dẫn các cơ sở, trang trại và các hộ nuôi trồng thủy sản thực hiện vệ sinh ao hồ và các qui trình nuôi thả đúng quy định trên diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản hiện có là 364,9 ha, bằng 98,1% cùng kỳ. Sản lượng thủy sản 9 tháng năm 2019 thực hiện 2.425,6 tấn, tăng 2,2% so cùng kỳ, trong đó: sản lượng thủy sản khai thác 205,1 tấn, tăng 1,6%; sản lượng thủy sản nuôi trồng 2.220,5 tấn, tăng 2,2%.
Truyền thông
Bình Dương đưa vào hoạt động Tổng đài đường dây nóng (1022) để tiếp nhận và xử lý những phản ánh của người dân và tổ chức, triển khai phòng họp không giấy (e-cabinet), cổng dịch vụ công mới với 600 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 97 dịch vụ cổng trực tuyến mức độ 4.
Chợ
Tỉnh Bình Dương có một số chợ nổi tiếng như: Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, Bình An, Tân Uyên, Bình Mỹ,...
Làng nghề
Nghề sơn mài truyền thống tại Bình Dương (Tương Bình Hiệp).
Nghề chạm khắc gỗ trên đất Thủ Bình Dương.
Làng nghề gốm Bình Dương.
Chính trị
Cơ quan chính trị cao nhất của tỉnh Bình Dương là Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương, hay Đảng ủy tỉnh Bình Dương, gọi tắt Tỉnh ủy Bình Dương, là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Tỉnh Bình Dương giữa hai kỳ đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh. Đứng đầu Tỉnh ủy là Bí thư Tỉnh ủy và thường là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng. Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương hiện nay là Nguyễn Văn Lợi.
Tháng 2 năm 1936 thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ nhất đồng thời để đáp ứng nhiệm vụ trong thời kỳ hiện tại Xứ ủy Nam Kỳ đã chỉ định Ban Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một gồm 5 ủy viên. Đến tháng 1 năm 1937, Trung ương Đảng chính thức công nhận Tỉnh ủy lâm thời, với tên gọi chính thức là Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một.
Khi Thế chiến II bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp trấn áp các phòng trào đòi độc lập. Tháng 11 năm 1940, Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra bất thành, chính quyền thực dân Pháp khủng bố ác liệt, nhiều đảng viên phải lẩn tránh nhiều nơi. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một bị xóa sổ.
Giữa năm 1942, nhiều đảng viên tập hợp quay trở lại, tháng 3 năm 1943 Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được tái lập. Tháng 5 năm 1943, Bí thư các Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Tây Ninh họp lại thành lập Liên Tỉnh ủy miền Đông để chỉ đạo chung các phong trào tại địa phương.
Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra, Tỉnh ủy chức tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh và thành lập Ủy ban nhân dân tỉnh. Giữa tháng 9, Ủy ban nhân dân tỉnh đổi tên thành Ủy ban Hành chánh kháng chiến tỉnh.
Cuối tháng 9 năm 1945, Liên quân Anh - Pháp nổ súng quân tái chiếm Nam Bộ. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Nam BỘ quyết định Nam Bộ kháng chiến. Thực hiện chủ trương "giải tán" của Đảng ngày 11/11/1945, Tỉnh ủy cũng tiến hành tự "giải tán", thực chất phát triển phong trào cách mạng dưới tên Việt Minh.
Theo chủ trương tháng 3 năm 1951 của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Tỉnh ủy Biên Hòa sáp nhập thành Tỉnh ủy Thủ Biên, hoạt động đưới sự chỉ đạo của Phân liên khu ủy miền Đông gồm đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, và 5 tỉnh Gia Định Ninh, Thủ Biên, Bà Rịa – Chợ Lớn, Mỹ Tho, Long Châu Sa. Đại diện cho Trung ương là cơ quan Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo hoạt động trên toàn miền Nam.
Sau khi Hiệp định Geneve được ký, Tỉnh ủy Thủ Biên chuẩn bị lực lượng thi hành Hiệp định. Theo các thảo thuận về tập kết 2 bên, Xứ ủy Nam Bộ quyết định phân chia lại địa bàn các tỉnh để phù hợp với tình hình mới. Cuối năm 1954, Tỉnh Thủ Biên tách lại 2 tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa. Tháng 1/1955 Hội nghị Ban Chấp hành tỉnh Thủ Dầu Một được tổ chức.
Sau khi Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại làm Tổng thống, thực hiện chính sách "tố cộng, diệt cộng". Từ năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm nhiều cuộc càn quét quy mô lớn khiến cho Tỉnh ủy Thủ Dầu Một tổn thất rất lớn. Đầu năm 1960, phong trào Đồng khởi tại Bến Tre nổ ra. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một thành lập Ban chỉ đạo đồng khởi của tỉnh và tiến hành đồng khởi tại tỉnh tháng 2 năm 1960 và giành thắng lợi, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.
Để phù hợp tình hình mới, Xứ ủy Nam Bộ sáp nhập 2 tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên. Tháng 9/1960 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Biên được chỉ định. Đầu năm 1961 Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay thế cho Xứ ủy Nam Bộ. Trung ương Cục quyết định tách ra, tái lập lại 2 tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một và thành lập tỉnh Phước Thành để phù hợp với chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ. Tháng 6/1961 Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Tỉnh ủy Phước Thành được thành lập.
Tháng 10/1967 Bộ Chính trị phê chuẩn Nghị quyết của Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền về tiến hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa, còn gọi "Nghị quyết Quang Trung". Trung ương Cục quyết định sắp xếp lại các lực lượng để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Tổ chức thành 5 phân khu hướng tiến công Sài Gòn-Gia Định và khu vực xung quanh. Căn cứ vào tình hình chiến trường, Trung ương Cục quyết định thành lập Ban Chấp hành các phân khu thay cho các Tỉnh ủy. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được sáp nhập vào Ban chấp hành Phân khu ủy Phân khu 5.
Tháng 6/1969 Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Để đáp ứng nhiệm vụ mới, tháng 5/1971 Trung ương Cục quyết định sáp nhập Phân khu 5 và tỉnh Biên Hòa thành Phân khu Thủ Biên, Trung ương Cục chỉ định Ban chấp hành Phân khu ủy Thủ Biên. Đến cuối năm 1972, Trung ương Cục quyết định tổ chức lại chiến trường miền Đông Nam Bộ, giải thể các Phân khu, thành lập lại các tỉnh. Tháng 9/1972 Phân khu Thủ Biên được giải thể, tỉnh Thủ Dầu Một được tái lập. Trung ương cục chỉ định Tỉnh ủy Thủ Dầu Một.
Tháng 12/1975 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về phát triển đất nước sau chiến tranh. Thực hiện Nghị quyết, Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đã ban hành các nghị quyết giải thể khu, hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam. Tháng 2/1976 tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước được sáp nhập thành tỉnh Sông Bé, đồng thời Trung ương Cục cũng chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Sông Bé. Tháng 11/1976, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ nhất (vòng 1) diễn ra từ ngày 10-20/11/1976, nhiệm vụ chính là tham gia thảo luận ý kiến chính trị, bầu đại biểu tham dự Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Ngày 19/4/1977, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ nhất (vòng 2) được khai mạc. Đại hội đã chính thức bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé với nhiệm kỳ 1976-1979. Sau Đại hội, Tỉnh ủy tiến hành đại hội Đảng vòng 2 ở các Đảng bộ trực thuộc tỉnh ủy.
Tại kỳ họp thứ 10 (15/10-12/11/1996) Quốc hội khóa IX ra nghị quyết về việc chia tách tỉnh và điều chỉnh địa giới hành chính, trong đó có tỉnh Sông Bé. Ngày 1/11/1997 tỉnh Bình Dương được tái lập. Trước đó ngày 12/12/1996 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 118-QĐNS/TW thành lập Đảng bộ Bình Dương và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Bình Dương.
Thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW của Ban Bí thư và Hướng dẫn 06-HD/TC-TW ngày 23/7/1997 của Ban Tổ chức Trung ương về việc chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đảng bộ các tỉnh, thành phố mới được chia tách. Tỉnh ủy lâm thời tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VI từ 17-19/12/1997. Đại hội chính thức bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương khóa VI gồm 47 ủy viên.
Các đời Bí thư Tỉnh ủy
Giai đoạn 1936-1976
Giai đoạn 1976-1997
Giai đoạn 1997 - nay
Xã hội
Giáo dục
Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Dương có hơn 250 ngôi trường công lập đã đi vào hoạt động gồm các cấp: TH-THCS-THPT-CĐ-ĐH. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn các trường tư thục đã liên thông lên đại học, các Trung tâm giáo dục thường xuyên, các trường nghề và các trường trung cấp đã đi vào hoạt động nhằm mục đích phát triển trong việc học tập của học sinh cũng như việc giáo dục của tỉnh Bình Dương.
Danh sách các trường Cao đẳng, Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề:
Đại học Bình Dương
Đại học Thủ Dầu Một
Đại học Kinh tế- Kỹ thuật Bình Dương
Đại học quốc tế Miền Đông
Đại học Việt - Đức
Đại học Mở Tp.HCM (Cơ sở Bình Dương)
Đại học Thủy lợi (Cơ sở Bình Dương)
Trường Sĩ quan Công binh - Đại học Ngô Quyền (Quyết định số 1359/QĐ-TTg).
Cao đẳng Y tế Bình Dương
Cao đẳng Nghề Việt Nam - Singapore
Cao đẳng nghề Đồng An
Cao đẳng nghề kỹ thuật công nghệ
Trường Trung cấp nghề tỉnh Bình Dương
Trường Trung cấp nghề Thủ Dầu Một
Trường Trung cấp Nông Lâm nghiệp
Trường Trung cấp Kinh tế Tài chính
Trường Trung cấp Bách Khoa
Trường Trung cấp nghề Việt - Hàn Bình Dương
Trường trung cấp kinh tế và công nghệ Đông Nam
Trường Trung cấp Mỹ thuật Văn hóa Bình Dương.
Tính vào thời điểm cuối tháng 11 năm 2019, trên địa bàn toàn tỉnh có khoảng 180 nhà trẻ - mầm non - mẫu giáo, 136 trường tiểu học, 67 trường trung học cơ sở, 35 trường trung học phổ thông, 7 trung tâm giáo dục thường xuyên, 9 trường đại học và cao đẳng.. Theo số liệu sơ bộ của ngành Giáo dục và Đào tạo, tổng số học sinh các cấp học từ mầm non đến trung học phổ thông toàn tỉnh năm học 2019-2020 có 493.347 học sinh, tăng thêm 34.933 học sinh (tăng 7%) so với năm học trước, số học sinh tăng cơ học (tuyển sinh vào lớp 1) là 8.926, chủ yếu tại Thuận An (2.788), thị xã Bến Cát (2.695). Một số địa phương vượt quy định số học sinh cấp tiểu học (35 học sinh/lớp) như thị xã Bến Cát (trung bình 48 học sinh/lớp), Dĩ An (trung bình 47 học sinh/lớp), Thuận An (trung bình 46 học sinh/lớp).
Y tế
Công tác khám chữa bệnh được quan tâm thực hiện, đáp ứng nhu cầu phục vụ nhân dân. Theo thống kê tháng 9 năm 2019, tổng số lần khám bệnh của các bệnh viện trên địa bàn tỉnh là 4.210.714 lượt người, đạt 67% kế hoạch (trong đó: các bệnh viện ngoài công lập khám 1.688.455 lượt người, chiếm tỷ lệ 40%).
Dân cư
Dân số trung bình năm 2021 của tỉnh Bình Dương là 2.685.513 người, tăng 104.963 người, tương đương tăng 4,07% so với năm 2020, bao gồm: dân số thành thị 2.266.771 người, chiếm 84,4%; dân số nông thôn 418.742 người, chiếm 15,6%; dân số nam là 1.373.424 người, chiếm 51,1%; dân số nữ là 1.312.089 người, chiếm 48,9%; mật độ dân số là 997 người/km2. Tổng tỷ suất sinh năm 2021 đạt 1,62 con/phụ nữ. Tỷ suất sinh thô là 18,22%; tỷ suất chết thô là 3,6%. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 8,7%. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 14,35%. Tuổi thọ trung bình của dân số tỉnh năm 2021 là gần 75 năm, trong đó, nam hơn 72 năm, nữ gần 78 năm. Tỷ lệ tăng dân số chung của tỉnh là 4,54%, trong đó, cả 02 khu vực thành thị và nông thôn đều có tỷ lệ tăng dân số chụng là 4,5%.
Trên địa bàn Bình Dương có khoảng 15 dân tộc, nhưng đông nhất là người Kinh và sau đó là người Hoa, người Khmer,... Bình Dương cũng là tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước với tỷ lệ 84,95% (tính đến năm 2024).
Theo thông cáo báo chí Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 thì toàn quốc có 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ suất di cư thuần dương, nghĩa là người nhập cư nhiều hơn người xuất cư. Trong đó, tỉnh Bình Dương có tỷ suất di cư thuần dương cao nhất (200,4‰) với hơn 489 nghìn người nhập cư nhưng chỉ có khoảng 38 nghìn người xuất cư khỏi tỉnh này trong 5 năm trước. Như vậy, cứ 5 người từ 5 tuổi trở lên ở tỉnh Bình Dương thì có 1 người đến từ tỉnh khác. Hơn nữa theo thông cáo này, Bình Dương cũng là tỉnh có tỷ lệ người di cư phải thuê/mượn nhà cao nhất cả nước (74,5%).
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 13 tôn giáo khác nhau đạt 186.021 người, nhiều nhất là Công giáo có 108.260 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 58.220 người, Phật giáo Hòa Hảo có 10.619 người, đạo Cao Đài có 5.962 người, đạo Tin Lành chiếm 1.962 người, Hồi giáo có 745 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 110 người. Còn lại các tôn giáo khác như Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 85 người, Bà La Môn có 20 người, Minh Lý Đạo có 13 người, Minh Sư Đạo có 12 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 7 người và 6 người theo Baha'i giáo.
Văn hóa - du lịch
Bình Dương có các làng nghề truyền thống, như điêu khắc gỗ, làm đồ gốm và tranh sơn mài. Từ xa xưa các sản phẩm gốm mỹ nghệ, sơn mài và điêu khắc của Bình Dương đã tham gia hội chợ quốc tế, đồng thời cũng đã xuất khẩu sang Pháp và nhiều nước trong khu vực.
Tổ chức các chương trình quảng bá thông tin, hình ảnh du lịch tỉnh Bình Dương tại các sự kiện Du xuân Bình Dương 2019, Lễ hội Hương Bưởi Bạch Đằng, Lễ hội “Lái Thiêu mùa trái chín”, Hội chợ du lịch Quốc tế Việt Nam - VITM Ha Noi 2019, Ngày hội du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Lễ hội bánh dân gian Nam bộ lần thứ 8 năm 2019 tại Thành phố cần Thơ và Hội chợ Du lịch Quốc tế ITE - Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019. Trong 9 tháng năm 2019, ước tính có gần 26 triệu lượt khách đến tham quan du lịch, tăng 5,2% so cùng kỳ, doanh thu ước đạt 955 tỷ đồng, tăng 14% so cùng kỳ; riêng Khu du lịch Đại Nam Văn hoá, Du lịch, Thể thao thu hút hon 560 ngàn lượt khách với doanh thu đạt 188 tỷ đồng. Bình Dương tuyên truyền, cổ động và tổ chức các hoạt động biểu diễn nghệ thuật chào mừng năm mới và các ngày Lễ, kỷ niệm lớn của đất nước, các sự kiện chính trị của địa phương diễn ra sôi nổi, rộng khắp; các thiết chế văn hóa, thể thao và di tích từ cấp tỉnh đến cơ sở tiếp tục được quan tâm đầu tư xây dựng, tu bổ và khai thác phát huy; hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận 22 hiện vật “Bộ dụng cụ dệt Phú Chánh” là bảo vật quốc gia; tổ chức lễ đón nhận xếp hạng di tích quốc gia đối với Đình thần Dĩ An (phường Dĩ An, thành phố Dĩ An); công tác tổ chức và quản lý lễ hội được thực hiện đảm bảo chu đáo, đúng quy định, trong đó Lễ hội Chùa Bà - Rằm tháng Giêng và các lễ hội mang đặc trưng văn hóa của địa phương như: “Trái cây mùa trái chín”, “Hương bưởi Bạch Đằng” đã tạo những nét đẹp văn hoá, nhiều ý nghĩa trong cộng đồng, được dư luận xã hội đồng tình hưởng ứng.
Địa điểm tham quan, khu vui chơi
Lạc Cảnh Đại Nam Văn Hiến
Nhà thờ Chánh Tòa Phú Cường
Công viên nước Bình Dương
Khu du lịch Đại Nam
Khu du lịch Dìn Ký
Sân golf Sông Bé
Sân golf Phú Mỹ
Thành phố mới Bình Dương
Mekong golf Villas
Công viên du lịch nghỉ dưỡng Mắt Xanh.
Di tích danh thắng
Địa đạo Tam giác sắt Tây Nam Bến Cát
Chợ Thủ Dầu Một
Núi Cậu Lòng Hồ Dầu Tiếng
Sở chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh
Chiến khu Đ
Nhà ông Trần Văn Hổ (Tự Đẩu)
Nhà cổ Trần Công Vàng
Chùa Hội Khánh
Núi Châu Thới
Nhà tù Phú Lợi
Di tích Cù Lao Rùa (Cù Lao Thạch Hội)
Di tích Dốc Chùa
Di tích Mỹ Lộc (gò Đá, gò Chùa)
Di tích Phú Chánh
Nhà máy xe lửa Dĩ An
Chiến khu Thuận An Hòa
Di tích lịch sử rừng Kiến An
Di tích Bộ chỉ huy tiền phương chiến dịch Hồ Chí Minh
Lễ hội
Lễ hội chùa Bà Thiên Hậu hay còn được gọi là lễ hội chùa Bà, được diễn ra vào rằm tháng giêng mỗi năm. Lễ hội chùa Bà Bình Dương được tổ chức tại chùa Bà Thiên Hậu ở Thủ Dầu Một, là nơi mà hàng nghìn du khách thập phương từ nhiều tỉnh đổ về. Lễ hội chùa Bà Bình Dương độc đáo hơn ở các tỉnh khác ở chỗ tất cả các dịch vụ nước uống, đồ ăn, vá xe, khăn lạnh đều được người dân địa phương hỗ trợ miễn phí.
Lễ hội Miếu Ông Bổn (được diễn ra là vào mùa xuân là ngày 2 tháng Giêng âm lịch và vào mùa thu là ngày 4 tháng 7 âm lịch)
Lễ hội Kỳ Yên
Lễ hội Nhật Bản (diễn ra tại thành phố mới Bình Dương do tập đoàn Becamex tổ chức)
Liên hoan ẩm thực đường phố tỉnh Bình Dương
Giao thông
Bình Dương là một tỉnh có hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy rất quan trọng nối liền giữa các vùng trong và ngoài tỉnh.
Đường bộ
Trong hệ thống đường bộ, Quốc lộ 13 là con đường chiến lược cực kỳ quan trọng xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh, chạy suốt chiều dài của tỉnh từ phía nam lên phía bắc, qua tỉnh Bình Phước và nối Vương quốc Campuchia xuyên đến biên giới Thái Lan và Lào. Đây là con đường có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự và kinh tế. Đường Quốc lộ 14, từ Tây Ninh qua Dầu Tiếng đi Chơn Thành, Đồng Xoài, Bù Đăng thuộc tỉnh Bình Phước xuyên suốt vùng Tây Nguyên, là con đường chiến lược quan trọng cả trong chiến tranh cũng như trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước. Ngoài ra còn có Tỉnh lộ 741 từ Thủ Dầu Một đi Phước Long, đường vành đai 3 vùng đô thị TP.HCM... và hệ thống đường nối thị xã với các thị trấn và điểm dân cư trong tỉnh.
Đường thủy
Về hệ thống giao thông đường thủy, Bình Dương nằm giữa ba con sông lớn, nhất là sông Sài Gòn. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Đường sắt
Trên địa tỉnh có hai nhà ga là ga Sóng Thần và ga Dĩ An theo tuyến đường sắt Bắc Nam. Từ ngày 5 tháng 6 năm 2019, ga Dĩ An chính thức được đón khách thay cho ga Sóng Thần vì ga Dĩ An gần với khu dân cư, khu công nghiệp nên được nhiều hành khách lựa chọn là điểm đến hơn so với ga Sóng Thần. Cũng từ ngày này, ngành đường sắt dừng việc nhận và trả khách tại ga Sóng Thần.
Theo chiến lược phát triển giao thông vận tải đường sắt đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tuyến đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh sẽ được khôi phục và xây dựng lại. Đây cũng là một phần trong dự án đường sắt Xuyên Á mà Chính phủ đã cam kết trong thỏa thuận chung ASEAN nhưng dự án đã bị trì hoãn dài làm kèm theo nhiều hệ lụy.
Đường hàng không
Vào thời điểm năm 2011, sân bay Phú Lợi và sân bay Phú Giáo là hai sân bay còn lại duy nhất của tỉnh này, tuy nhiên cả hai đều được dùng để khai khác dự trữ quân sự. Bình Dương cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất từ 10 đến 15 km. Năm 2012, trong đồ án Quy hoạch tổng thể GTVT tỉnh Bình Dương đến năm 2020 và định hướng 2030, Trung tâm Nghiên cứu phát triển GTVT đã đề xuất xây dựng 2 sân bay ở Bến Cát và Dầu Tiếng, nhưng Phó chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Nam cho rằng cần phải nghiên cứu, bổ sung sân bay ở một số nơi khác vì đến năm 2020 kinh tế - xã hội của Bình Dương nói riêng và cả nước nói chung đã đổi khác, nhu cầu đi lại, du lịch bằng đường hàng không là cần thiết.
Giao thông công cộng
Xe buýt
Năm 2015, Bình Dương có 13 tuyến xe buýt Becamex Tokyu (37, 38, 39, 51, 52, 53, 55, 66, 67, 68, 70), 8 tuyến xe buýt nội tỉnh (1, 2, 3, 6, 5, 8, 10, 11), 11 tuyến xe buýt liên tỉnh (4, 7, 9, 15, 16, 18, 21, 611, 613, 614, 616).
Đường sắt đô thị.
Theo Quyết định 893/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bỉnh Dương đến năm 2020, bổ sung quy hoạch đến năm 2025, hệ thống đường sắt đô thị tại Bình Dương sẽ bao gồm 6 tuyến trên cao và 1 tuyến mặt đất.
Danh nhân
Linh mục Phêrô Đoàn Công Quí, một trong 117 thánh tử đạo Việt Nam
Nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng Phan Văn Hùm
Nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ
Nhà văn Bình Nguyên Lộc
Diễn viên Johnny Trí Nguyễn
AHLLVTND Hồ Văn Mên
Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết
Ca sĩ gốc Việt Tâm Đoan
Cầu thủ bóng đá Nguyễn Anh Đức
Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương, Đại biểu Quốc hội khóa XI, XII, XIII Mai Thế Trung
Nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Nai, Đại biểu Quốc hội khóa XIV Phan Thị Mỹ Thanh
Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân tỉnh Đồng Nai Nguyễn Phú Cường
Nguyên Phó bí thư Thường trực Tỉnh ủy Đồng Nai Lê Hồng Phương
Ủy viên Ủy ban Pháp luật của Quốc hội khóa XIV Bùi Xuân Thống
Nguyên Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh Lê Hoàng Quân
Nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước Nguyễn Văn Trăm
Kết nghĩa
Bình Dương hiện tại có một thành phố kết nghĩa : Daejeon, Hàn Quốc (17 tháng 5 năm 2005)
Hợp tác, hữu nghị
Ngoài ra, Bình Dương hiện tại đã kí kết các thỏa thuận hợp tác, hữu nghị với các thành phố hoặc vùng sau đây:
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Đông Nam Bộ
|
11192
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ACnh%20Ph%C6%B0%E1%BB%9Bc
|
Bình Phước
|
Bình Phước là tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh có diện tích lớn nhất Nam Bộ. Tỉnh lỵ của Bình Phước là thành phố Đồng Xoài, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 121 km theo đường Quốc lộ 13 và Quốc lộ 14 và 102 km theo đường Tỉnh lộ 741. Bình Phước là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ có 240 km đường biên giới với Vương quốc Campuchia trong đó 3 tỉnh biên giới gồm Tbong Khmum, Kratie, Mundulkiri, tỉnh là cửa ngõ đồng thời là cầu nối của vùng với Tây Nguyên và Campuchia.
Năm 2020, Bình Phước là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 43 về số dân, xếp thứ 36 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 24 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 5 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 979,6 nghìn dân, GRDP đạt 43.650 tỉ Đồng (tương ứng với 1,898 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 44,56 triệu đồng (tương ứng với 1.937 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,51%.
Bình Phước là nơi định cư và sinh sống của những dân tộc khác nhau, trong đó dân tộc ít người chiếm 17,9%, đa số là người Khmer, và Xtiêng, 1 số người Hoa, Nùng, Tày,... vì vậy Bình Phước có những nét văn hóa của người Xtiêng. Tỉnh có những lễ hội truyền thống như Liên hoan văn hóa các dân tộc thiểu số vào tháng 12 hằng năm, lễ hội cầu mưa của người Xtiêng, lễ bỏ mả, lễ hội đánh bạc bầu cua, đánh liêng tố xả láng ở điểm 2, lễ mừng lúa mới của người Khmer.
Địa lý
Tổng diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh Bình Phước chiếm 51,3% tổng diện tích đất toàn tỉnh.
Phía đông giáp tỉnh Đắk Nông và tỉnh Lâm Đồng
Phía tây giáp tỉnh Tây Ninh và tỉnh Tbong Khmum của Campuchia
Phía nam giáp tỉnh Bình Dương và tỉnh Đồng Nai
Phía bắc giáp các tỉnh Mondulkiri và Kratié của Campuchia
Tỉnh có khoảng 91 mỏ, điểm quặng, điểm khoáng với 20 loại khoáng sản có tiềm năng triển vọng khác nhau thuộc 4 nhóm gồm nguyên liệu phân bón, kim loại, phi kim loại, đá quý và bán quý. Trong đó nguyên vật liệu xây dựng, cao lanh, đá vôi… là loại khoáng sản "có triển vọng và quan trọng nhất" của tỉnh.
Nằm trong vùng mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa là mùa mưa và mùa khô, Vào mùa mưa, thời tiết mát mẻ hơn, lượng mưa lớn hơn, vào mùa khô, lượng mưa ít hơn, độ ẩm không khí giảm, thời tiết se lạnh hơn vào đầu mùa khô đến giữa mùa khô đến cuối mùa khô thời tiết khô nóng hơn, nhiệt độ bình quân trong năm đều và ổn định từ 25,8 ⁰C - 26,2 °C. Và thấp kỷ lục là 10⁰C cao kỷ lục là 38⁰C.
Giao thông
Trên địa bàn tỉnh giao thông thông suốt nối trong và ngoài tỉnh, hầu hết bị nhựa hóa. Với các tuyến đường chính như Quốc lộ 13 từ cầu Tham Rớt đi theo hướng Nam – Bắc qua trung tâm huyện Chơn Thành, Bình Long đến cửa khẩu Hoa Lư với tổng chiều dài là 79,90 km, Quốc lộ 14 nối các tỉnh Tây Nguyên qua Bình Phước về Thành phố Hồ Chí Minh với 112,70 km.
Các tuyến đường khác như tỉnh lộ 741 kết nối trung tâm tỉnh với huyện Đồng Phú và thị xã Phước Long, các tuyến đường liên huyện đã được láng nhựa, gần 90% đường đến trung tâm các xã đã được láng nhựa, các tuyến đường nối với tỉnh Tây Ninh, tỉnh Lâm Đồng đã được láng nhựa. Đường nối với tỉnh Đồng Nai được nâng cấp mở rộng.
Tháng 11 năm 2012, về doanh thu vận tải hành khách tháng này ước thực hiện 48,94 tỷ đồng, tăng 1,4% so tháng 10, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu vận tải hàng hoá tháng này ước thực hiện 30,38 tỷ đồng, tăng 3,3% so tháng trước và tăng 15,5% so cùng kỳ năm 2011.
Dự kiến đến năm 2020-2025 có tuyến đường sắt xuyên Á đi qua cửa khẩu Hoa Lư với tuyến đường sắt đi Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền Tây Nam Bộ. Tuyến đường xuyên Á sẽ nối với các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Malaysia, Thái Lan cho lưu thông hàng hóa và người qua lại giữa các nước trong khu vực.
Biển số xe các huyện thuộc tỉnh Bình Phước
Biển số xe hay còn gọi là biển đăng ký xe các huyện thuộc tỉnh Bình Phước, cụ thể như sau:
- Thành phố Đồng Xoài: 93-P1
- Thị xã Bình Long: 93-E1
- Thị xã Phước Long: 93-K1
- Huyện Bù Đăng: 93-L1
- Huyện Bù Đốp: 93-G1
- Huyện Bù Gia Mập: 93-H1
- Thị xã Chơn Thành: 93-B1
- Huyện Đồng Phú: 93-M1
- Huyện Hớn Quản: 93-C1
- Huyện Lộc Ninh: 93-N1 & 93-F1
- Ký hiệu biển số xe ô tô ở tỉnh Bình Phước bao gồm: 93A, 93B, 93C, 93D, 93LD.
Lịch sử
Thời nhà Nguyễn, địa bàn Bình Phước thuộc trấn Biên Hòa. Đến giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bassac lúc này Bình Phước thuộc khu vực Sài Gòn. Năm 1889, thực dân Pháp đổi các tiểu khu thành các tỉnh, Bình Phước thuộc địa phận tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một.
Từ năm 1956, Việt Nam Cộng hòa thiết lập 1 số tỉnh ở miền Nam. 2 tỉnh Bình Long và Phước Long là tiền thân của tỉnh Bình Phước. Ngày 30 tháng 1 năm 1971, Trung ương Cục miền Nam thành lập phân khu Bình Phước. Cuối năm 1972, phân khu Bình Phước giải thể, tỉnh Bình Phước chính thức được thành lập.
Ngày 2 tháng 7 năm 1976, tại kỳ họp thứ 1 quốc hội khóa VI, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thành lập tỉnh Sông Bé gồm Thủ Dầu Một, Bình Phước và 3 xã thuộc huyện Thủ Đức, chia thành 7 huyện, thị và 1 thị xã. Ngày 9 tháng 2 năm 1978, tái lập huyện Lộc Ninh từ 1 số xã của 2 huyện Bình Long và Phước Long. Ngày 4 tháng 7 năm 1988, tái lập huyện Bù Đăng từ 1 phần huyện Phước Long.
Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Sông Bé tách thành 2 tỉnh là Bình Dương và Bình Phước, lúc này tỉnh Bình Phước được tái lập, gồm 5 huyện phía bắc của tỉnh Sông Bé là: Bình Long, Bù Đăng, Đồng Phú, Lộc Ninh, Phước Long.
Ngày 1 tháng 9 năm 1999, thành lập thị xã Đồng Xoài - thị xã tỉnh lỵ tỉnh Bình Phước trên cơ sở tách 1 phần diện tích và dân số của huyện Đồng Phú.
Ngày 20 tháng 2 năm 2003, tái lập huyện Chơn Thành từ 1 phần huyện Bình Long và tái lập huyện Bù Đốp từ 1 phần huyện Lộc Ninh.
Ngày 11 tháng 8 năm 2009, theo Nghị quyết số 35/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ, chia huyện Bình Long thành thị xã Bình Long và huyện Hớn Quản; chia huyện Phước Long thành thị xã Phước Long và huyện Bù Gia Mập.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 931/NQ-UBTVQH14, thành lập huyện Phú Riềng trên cơ sở tách 1 số xã thuộc huyện Bù Gia Mập.
Ngày 16 tháng 10 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 587/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2018), thành lập thành phố Đồng Xoài trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồng Xoài.
Ngày 11 tháng 8 năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 570/NQ-UBTVQH15 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2022), thành lập thị xã Chơn Thành trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Chơn Thành.
Hành chính
Tỉnh Bình Phước có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 3 thị xã và 7 huyện, chia thành 111 đơn vị hành chính cấp xã gồm 20 phường, 5 thị trấn và 86 xã.
Dân cư
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Bình Phước đạt 994.679 người, mật độ dân số đạt 132 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 235.405 người, chiếm 23,7% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 759,274 người, chiếm 76,3% dân số. Dân số nam đạt 501.473 người, trong khi đó nữ đạt 493.206 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 1,3 ‰.
Tôn giáo
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, tỉnh có 13 tôn giáo khác nhau đạt 323.818 người, nhiều nhất là Công giáo có 169.226 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 86.996 người, đạo Tin lành có 84.687 người, đạo Cao Đài có 33.092 người, Hồi giáo chiếm 481 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 345 người. Còn lại các tôn giáo khác như Baha'i giáo có 25 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 15 người, Minh Lý Đạo có 10 người, Bà La Môn có 9 người, Minh Sư Đạo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi đạo 5 người và 2 người theo Bửu Sơn Kỳ Hương.
Kinh tế
Về thu hút đầu tư, năm 2020 có 35 dự án đăng ký đầu tư vào Bình Phước với số vốn 252 triệu USD. Tính lũy kế hiện nay Bình Phước có 273 dự án với 2,65 tỉ USD đăng ký đầu tư. Các nhà đầu tư trong nước đăng ký 7.000 tỉ đồng để phát triển 110 dự án. Tính lũy kế đến nay, có 1.081 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư là 90.700 tỷ đồng.
Nông nghiệp
Năm 2020, tỉnh gieo trồng được: 27.663 ha cây hàng năm, giảm 19,02% so cùng kỳ năm trước; 429.801 ha cây lâu năm, tăng 1,36% so cùng kỳ. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2020 đạt 51.726 tấn, giảm 6,42% so với cùng kỳ năm 2019..
Ước tính đến hết năm 2020, toàn tỉnh có 13.260 con trâu, tăng 10,28% so với cùng kỳ năm 2019. Bò có 39.418 con, tăng 6,02%. Heo 1.080.000 con, tăng 20,21%. Gia cầm 7.556 ngàn con, tăng 9,06%. Sản lượng thịt trâu xuất chuồng năm 2020 ước 1.126 tấn, tăng 10,39%, bò 39.418 tấn, tăng 6,48%, heo 130.890 tấn, tăng 74,98%; gia cầm 27.880 tấn, tăng 47,64%; so cùng kỳ năm 2019.
Năng suất hạt điều Bình Phước dao động ở mức 600 kg/ha cao hơn mức bình quân của thế giới. Ngành điều là ngành mũi nhọn trong việc phát triển kinh tế của tỉnh Bình Phước.
Lâm nghiệp
Ước tính năm 2012, diện tích rừng bị chăm sóc bảo vệ 26,95 km², giảm 10,1% so với cùng kỳ năm trước, diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh là 115 ha, đạt kế hoạch, bằng năm 2011, diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 32.183 ha, đạt kế hoạch, giảm 1,9% so với năm 2011. Tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2012, các ngành chức năng đã phát hiện 65 vụ khai thác rừng trái phép, 213 vụ vận chuyển lâm sản trái pháp luật, 178 vụ mua, bán, cất giữ, chế biến kinh doanh lâm sản trái pháp luật, 79 vụ phá rừng làm thiệt hại 35,42 ha rừng.
Công nghiệp
Tháng 12 năm 2020, Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 4,87% so với tháng trước và tăng 25,4% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó ngành công nghiệp khai thác khoáng sản giảm 3,38%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,41%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 6,69%.
Ngoại thương
Trong 11 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện được 550.696 ngàn USD, giảm 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 11 năm 2012, ước thực hiện 56.776 ngàn USD, tăng 1,5% so tháng trước và giảm 14,1% so cùng kỳ năm 2011. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, kinh tế nhà nước ước thực hiện 16.490 ngàn USD, chiếm 29%, tăng 12,8% so tháng trước và giảm 12,9% so với cùng kỳ, kinh tế tư nhân 29.536 ngàn USD, chiếm 52%, giảm 5,9% so tháng trước và giảm 25,9% so với cùng kỳ, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 10.750 ngàn USD, chiếm 18,9%, tăng 8,5% so tháng trước và tăng 47,4% so với cùng kỳ. Trong đó, Hạt điều nhân ước thực hiện 1.417 tấn (trị giá 9.280 ngàn USD), Mủ cao su thành phẩm ước thực hiện 11.050 tấn (trị giá 32.618 ngàn USD), Hàng nông sản khác ước thực hiện 2.370 ngàn USD, Hàng dệt may ước thực hiện 1.359 ngàn USD, Hàng điện tử ước thực hiện 3.000 ngàn USD, sản phẩm bằng gỗ ước thực hiện 2.066 ngàn USD, Hàng hóa khác ước thực hiện 4.440 ngàn USD.
Trong 11 tháng năm 2012, kim ngạch nhập khẩu ước thực hiện được 103.939 ngàn USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 11 năm 2012 ước thực hiện 14.810 ngàn USD, tăng 11,8% so tháng trước và tăng 43,7% so cùng kỳ năm trước. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, kinh tế nhà nước ước không thực hiện, kinh tế tư nhân 5.098 ngàn USD chiếm 34,4%, giảm 16,3% so tháng trước và giảm 15,4% so với cùng kỳ, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 9.712 ngàn USD chiếm 65,6%, tăng 35,7% so tháng trước và tăng 126,8% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vải may mặc ước thực hiện 4.900 ngàn USD, hàng điện tử ước thực hiện 2.600 ngàn USD, hàng hóa khác ước thực hiện 7.212 ngàn USD.
Giáo dục
Năm học 2011 đến 2012, toàn tỉnh có 429 trường học. Toàn tỉnh có 26/111 xã, phường, thị trấn bị huyện, thị xã công nhận phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và THCS, học sinh tốt nghiệp THCS đạt 99,7%. 1 năm học có tỷ lệ học sinh bỏ học các cấp giảm còn 0,5% (giảm so với các năm trước từ 2 - 3%).
Năm 2018, tỉnh có 517 trường học, 237.476 học sinh. Cán bộ, giáo viên, nhân viên công tác tại các trường đạt 15.304 cán bộ. 1 số địa phương khó khăn về cơ sở vật chất trường, lớp học.
Hình ảnh
Địa phương kết nghĩa
Kratié (Campuchia)
Mondulkiri (Campuchia)
Stung Treng (Campuchia)
Jeolla Nam (Hàn Quốc)
Liên kết ngoài
Cổng thông tin điện tử Bình Phước
Tin Bình Phước
SỐ LIỆU TÌNH HÌNH KT - XH GIAI ĐOẠN 1996 - 2011
Trường Chính trị tỉnh Bình Phước
Sở Thông tin và Truyền thông
Báo Bình Phước
Chú thích
Đông Nam Bộ
|
11193
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%ACnh%20Thu%E1%BA%ADn
|
Bình Thuận
|
Bình Thuận là tỉnh ven biển cực nam của vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Thiết.
Năm 2018, Bình Thuận là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 32 về số dân, xếp thứ 34 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 26 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 35 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.231.000 người dân, GRDP đạt 81.325 tỷ Đồng (tương ứng với 3,3 tỷ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 66 triệu đồng (tương ứng với 2.881 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 11,09%.
Tỉnh Bình Thuận nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của địa bàn Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Tỉnh lỵ của Bình Thuận là thành phố Phan Thiết nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 166 km về phía đông theo đường cao tốc và 188km theo Quốc lộ 1, cách thành phố Nha Trang 241 km về phía tây nam và cách thủ đô Hà Nội 1.538 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1. Bình Thuận có biển dài 192 km kéo dài từ mũi Đá Chẹt giáp Cà Ná thuộc Ninh Thuận đến bãi bồi Bình Châu thuộc địa phận tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Trong sách giáo khoa, Từ điển Bách khoa Việt Nam hay Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam đều xếp Bình Thuận vào vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, Tổng cục Thống kê Việt Nam và Website của Bộ Kế hoạch & đầu tư Việt Nam lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận vào Đông Nam Bộ . Một phần khác Bộ Kế hoạch & đầu tư Việt Nam lại xếp Bình Thuận và Ninh Thuận vào vùng Duyên hải miền Trung.
Vị trí địa lý
Bình Thuận là tỉnh có dãy đất bắt đầu chuyển hướng từ Nam sang Tây của phần còn lại của Việt Nam trên bản đồ hình chữ S, có tọa độ địa lý từ 10o33'42" đến 11o33'18" vĩ độ Bắc, từ 107o23'41" đến 108o52'18" kinh độ Đông.
Phía bắc giáp tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Lâm Đồng
Phía đông và phía nam giáp Biển Đông
Phía tây giáp tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Bình Thuận thuộc vùng nào của Việt Nam?
Địa giới của tỉnh Bình Thuận hiện tại bao gồm diện tích của 2 tỉnh cũ: tỉnh Bình Tuy (nửa phía tây nam) và tỉnh Bình Thuận (nửa phía đông bắc). Trước năm 1975, tỉnh Bình Tuy thuộc miền Đông Nam Bộ, và tỉnh Bình Thuận thuộc Nam Trung Bộ. Vì thế, đến khi hai tỉnh cũ này hợp nhất thành tỉnh Bình Thuận thì mới đặt ra vấn đề là tỉnh Bình Thuận hiện nay thuộc Đông Nam Bộ hay Nam Trung Bộ?
Quan điểm thuộc Đông Nam Bộ
Tổng cục Thống kê Việt Nam (và một số tài liệu lấy số liệu của Tổng cục Thống kê) xếp Bình Thuận cùng Ninh Thuận vào Đông Nam Bộ. Còn website của Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam cũng xếp 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận vào Đông Nam Bộ trong số liệu thống kê vùng Đông Nam Bộ. Bình Thuận thuộc quân khu 7 (quân khu thuộc Đông Nam Bộ mở rộng). Ngoài ra, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng xếp Bình Thuận vào Đông Nam Bộ theo tọa độ địa lý các đơn vị hành chính (Bình Thuận có vĩ tuyến cùng Bắc với Đồng Nai, Bình Dương, thấp hơn vĩ tuyến Bắc so với Bình Phước, Tây Ninh, trung tâm tỉnh lỵ là Thành phố Phan Thiết nằm cùng vĩ tuyến Bắc so với Thành phố Hồ Chí Minh, thấp hơn đôi chút so với Biên Hòa, Thủ Dầu Một.) Về mặt thông tin và truyền thông, Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Thuận thuộc hệ thống các đài truyền hình miền Đông Nam Bộ. Về mặt văn hóa, Bình Thuận là một trong 21 tỉnh, thành phía nam có lịch sử đờn ca tài tử rất phát triển mà đờn ca tài tử là dòng nhạc mang đặc trưng của riêng vùng Nam Bộ. Hơn nữa, Bình Thuận được xếp vào vùng có xổ số miền Nam lưu hành, Công ty Điện lực Bình Thuận trực thuộc Tổng công ty Điện lực miền Nam.
Quan điểm thuộc Nam Trung Bộ
Phần lớn sách báo, trong đó có các sách giáo khoa, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, website chính thức của tỉnh Bình Thuận và người dân địa phương xếp Bình Thuận vào vùng duyên hải Nam (hoặc cực Nam) Trung Bộ. Về địa lý Bình Thuận có rất nhiều điểm chung với các tỉnh Nam Trung bộ khác, ít điểm chung với các tỉnh Đông Nam Bộ. Chẳng hạn như, Bình Thuận có chế độ khí hậu mang nét đặc trưng của khí hậu bán khô hạn của vùng cực Nam Trung Bộ, nhiều nắng, gió, mùa mưa Bình Thuận đến trễ hơn vùng Đông Nam Bộ (thực tế từ tháng 8 tháng 9 mới mưa nhiều) không giống các tỉnh Đông Nam Bộ đã mưa nhiều từ tháng 5 (riêng vùng tiếp giáp Đông Nam Bộ và Tây Nguyên có khí hậu giao thoa), ngoài ra vùng biển Bình Thuận vùng biển miền Trung và khí hậu của vùng biển miền Trung, địa hình của Bình Thuận theo dạng "đồng bằng chân núi nhỏ hẹp" có thể dễ dàng thấy những dãy núi cao chạy xuyên suốt từ bất kỳ đâu giống như các tỉnh Nam Trung Bộ khác trong khi Đông Nam Bộ đất lượn sóng trên bậc thêm phù sa cổ và bazan chỉ có vài ngọn núi sót cao không quá 1000m. Về văn hóa và con người, giọng nói của người Bình Thuận tuy có phần nhẹ hơn các tỉnh Nam Trung Bộ khác nhưng vẫn mang nét rất đặc trưng của con người vùng biển Nam Trung Bộ. Bình Thuận có văn hóa Chăm Pa lâu đời giống như các tỉnh Nam Trung Bộ khác còn Đông Nam Bộ thì không. Ngoài ra, tổ chức cấp nhỏ ở địa phương Bình Thuận sử dụng thôn trong khi các tỉnh Nam Bộ lại dùng [ấp. Xét về mặt lịch sử Bình Thuận chỉ được xếp vào Nam Kỳ trong thời gian khoảng 1 năm (1883-1884), sau đó lại trả về Trung Kỳ cho tới nay. Bình Thuận được xếp vào chi hội cấp thoát nước miền Trung, du lịch miền Trung,...
Điều kiện tự nhiên
Địa hình Bình Thuận chủ yếu là đồi núi thấp, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp, địa hình hẹp ngang kéo theo hướng đông bắc - tây nam, phân hoá thành 4 dạng địa hình chính gồm đất cát và cồn cát ven biển chiếm 18,22%, đồng bằng phù sa chiếm 9,43%, vùng đồi gò chiếm 31,65% và vùng núi thấp chiếm 40,7% diện tích đất tự nhiên.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhiều nắng, nhiều gió, không có mùa đông và khô hạn nhất cả nước. Khí hậu nơi đây phân hóa thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. nhưng trên thực tê mùa mưa chỉ tập trung vào 3 tháng 8, 9 và tháng 10, vì vậy mùa khô thực tế thường kéo dài.
Bình Thuận có 10 loại đất với 20 tổ đất khác nhau, có kiểu rừng gỗ lá rộng, kiểu rừng rụng lá, kiểu rừng hỗn giao lá kim chiếm ưu thế, kiểu rừng hỗn giao và tre nứa thuần loại. Bên cạnh đó, Bình Thuận có nhiều tích tụ khoáng sản đa dạng về chủng loại như vàng, wolfram, chì, kẽm, nước khoáng và các phi khoáng khác. Trong đó, nước khoáng, sét, đá xây dựng có giá trị thương mại và công nghiệp.
Sông ngòi tại Bình Thuận đều ngắn, lượng nước không điều hòa, mùa mưa thì nước sông chảy mạnh, mùa nắng làm sông bị khô hạn. Tỉnh có sáu sông lớn là sông Lũy, sông Lòng Sông, sông Cái và Sông Cà Ty, sông La Ngà, sông Phan,.
Sông Lòng Sông phát nguyên từ dãy núi ranh giới hai tỉnh Ninh Thuận-Bình Thuận, chảy theo chiều Bắc-Nam dọc theo ranh giới hai quận Tuy Phong và Phan Lý Chàm. Sông này dài khoảng 40 cây số (từ nguồn ra đến cửa biển).
Sông Lũy phát nguyên từ cao nguyên Tuyên Đức.Từ nguồn đến ranh giới quận Hòa Đa, sông chảy theo hướng Bắc-Nam, dài 40 cây số; rồi rẽ ra đến biển, sông chảy theo hướng Tây-Đông và dài hơn 20 cây số, lòng sông hẹp, quanh co, vào mùa mưa thường gây lụt lội.
Sông Cái phát nguồn từ cao nguyên Lâm Đồng chảy qua địa phận Thiện Giáo, rồi chảy theo hướng Bắc-Nam và dài khoảng 40 cây số.
Sông Cà Ty phát nguồn từ cao nguyên phía Tây và chảy theo hướng Đông-Nam, dài 27 cây số.
Lịch sử
Đất Bình Thuận khi xưa thuộc tiểu quốc Panduranga của Chiêm Thành. Vì chiến tranh liên miên nên Chiêm Thành mất dần đất đai.
Tên gọi Bình Thuận bắt nguồn từ tên gọi tắt của từ Bình yên Thuận hòa có nghĩa là sự bình yên và thuận hòa của một vùng đất
Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần đánh chiếm đất Phan Lang (sau gọi là Phan Rang), để lại mảnh đất phía Tây cho Chiêm Thành. Năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu lấy luôn mảnh đất còn lại đặt tên là Thuận Phủ và năm 1694 đặt là Thuận Thành trấn.
Năm 1697, Lập Bình Thuận phủ gồm 2 huyện An Phước và Hòa Đa. Sau cải thành Bình Thuận Dinh. Đời vua Gia Long vẫn giữ Bình Thuận dinh, đến vua Minh Mạng đổi lại Bình Thuận phủ.
Năm 1827: Minh Mạng đặt ra hai phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận và hai huyện Tuy Phong và Tuy Định. Bình Thuận được đặt thành tỉnh và giao cho quan Tuần phủ Thuận Khánh kiêm nhiệm luôn tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1883: Hòa ước ký với Pháp (ngày 23 tháng 7) sáp nhập Bình Thuận vào Nam Kỳ. Năm 1884: Hòa ước Patenôtre (ngày 6 tháng 6) lại đưa Bình Thuận về Trung Kỳ. Năm 1888, lúc E. Aymonier làm công sứ Bình Thuận (1886 - 1889), vua Đồng Khánh chuyển phủ Ninh Thuận vào Khánh Hòa.
Năm 1900, vua Thành Thái đặt huyện Tuy Lý và lấy huyện Tánh Linh trước thuộc Đồng Nai Thượng sáp nhập vào Bình Thuận, do công sứ M. Gaietta (1900 - 1902) quản lý. Năm 1905, Phủ Di Linh được nhập vào Bình Thuận, do công sứ L. Garnier (1904 - 1913) quản lý.
Năm 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống nhất hành chính trên toàn quốc, bãi bỏ các cấp phủ và tổng. Phủ Hàm Thuận được đổi thành huyện Hàm Thuận.
Năm 1955-1975, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia Bình Thuận làm 8 Quận: Hàm Thuận, Phú Quý, Thiện Giáo, Hải Long, Hải Ninh, Hòa Đa, Tuy Phong và Phan Lý Chàm.
Năm 1976: Bình Thuận sáp nhập với Bình Tuy và Ninh Thuận thành tỉnh Thuận Hải.
Ngày 15 tháng 12 năm 1977, thành lập huyện đảo Phú Quý.
Ngày 30 tháng 12 năm 1982, chia huyện Bắc Bình thành 2 huyện: Bắc Bình và Tuy Phong; chia huyện Hàm Thuận thành 2 huyện: Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận Nam; chia huyện Đức Linh thành 2 huyện: Đức Linh và Tánh Linh.
Đến tháng 4 năm 1992, tỉnh Thuận Hải được chia thành 2 tỉnh mới lấy tên là Ninh Thuận và Bình Thuận theo Quyết định chia tách ghi ngày 26 tháng 12 năm 1991. Khi tách ra, tỉnh Bình Thuận có 9 đơn vị hành chính gồm: thị xã Phan Thiết (tỉnh lỵ) và 8 huyện: Bắc Bình, Đức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Phú Quý, Tánh Linh, Tuy Phong.
Ngày 25 tháng 8 năm 1999, chuyển thị xã Phan Thiết thành thành phố Phan Thiết.
Ngày 5 tháng 9 năm 2005, thành lập thị xã La Gi trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Hàm Tân.
Tình Bình Thuận có 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện như hiện nay.
Hành chính
Tỉnh Bình Thuận có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện với 124 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 19 phường, 12 thị trấn và 93 xã.
Hiện nay tỉnh Bình Thuận có 15 đô thị gồm:
1 đô thị loại II: thành phố Phan Thiết (2009)
1 đô thị loại III: thị xã La Gi (2017)
1 đô thị loại IV: thị trấn Phan Rí Cửa (2011)
12 đô thị loại V là các thị trấn: Tân Nghĩa, Tân Minh, Võ Xu, Đức Tài, Lạc Tánh, Thuận Nam, Ma Lâm, Phú Long, Chợ Lầu, Lương Sơn, Liên Hương và khu vực trung tâm hành chính huyện Phú Quý.
Kinh tế
Theo sự sắp đặt về kinh tế, hiện nay, Bình Thuận là tỉnh thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Phần đất liền của Bình Thuận nằm trong giới hạn 10°35'-11°38' Bắc và 107°24'-108°53' Đông.
Năm 2019, kinh tế tỉnh Bình Thuận tiếp tục tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh tăng 11,09% (đây mức tăng trưởng cao nhất từ năm 2010 đến nay), khẳng định được vai trò là năm tăng tốc của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2016-2020). GRDP bình quân đầu người đạt 62 triệu đồng, tương đương 2.681 USD, tăng 12,94% so với cùng kỳ năm 2018. Công nghiệp chế biến-chế tạo và sản xuất, phân phối điện chiếm tỷ trọng lớn, tăng trưởng liên tục, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Thu ngân sách Nhà nước là điểm sáng, năm 2019 đạt 13.203 tỷ đồng, vượt 40,75% dự toán HĐND tỉnh Bình Thuận giao, trong đó, thu nội địa là 9.400 tỷ đồng, vượt 49,68% dự toán HĐND tỉnh giao. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2019 đạt 33.152 tỷ đồng (tăng 38,13% so cùng kỳ năm trước), chiếm 43,45% GRDP; trong đó vốn ngoài Nhà nước chiếm 74,07% (tăng 35,92% so với cùng kỳ năm 2018).
Đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân tiếp tục được nâng lên; thu nhập bình quân đầu người năm 2019 ước đạt 43,6 triệu đồng/năm, tăng 8,36%. Công tác xóa đói giảm nghèo, chăm sóc các gia đình, những người có công với nước được tiếp tục quan tâm; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh theo chuẩn đa chiều năm 2019 giảm 0,7%, còn 2,02%. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế có nhiều cố gắng, ước đạt 86%.
Thủy hải sản
Nhiều sông suối bắt nguồn từ cao nguyên Di Linh thuộc Lâm Đồng đã chảy qua Bình Thuận để ra biển. Tính chung, các đoạn sông qua Bình Thuận có tổng chiều dài 663 km, trong đó có sông Cà Ty (76 km), sông La Ngà (74 km), sông Quao (63 km), sông Lòng Sông (43 km), sông Phan (40 km), sông Mao (29 km) và sông Luỹ (25 km).
Bình Thuận có vũng lãnh hải rộng 52 nghìn km² nên Bình Thuận là một trong ba ngư trường lớn của Việt Nam trữ lượng khai thác đánh bắt hải sản đạt 240.000 tấn hải sản các loại, là điều kiện chế biến thủy sản xuất khẩu. Sò điệp là đặc sản của biển Bình Thuận, tập trung ở 4 bãi chính là: La Khế, Hòn Rơm, Hòn Cau và Phan Rí, cho phép đánh bắt 25-30 nghìn tấn/năm.
Nông - Lâm nghiệp
Tỉnh Bình Thuận có 151.300 ha đất canh tác nông nghiệp, trong đó có trên 50.000 ha đất lúa. Sẽ phát triển thêm 100.000 ha đất sản xuất nông nghiệp.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm khá phát triển. Đang đầu tư để hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả với:
30.000 ha thanh long
9.000 ha điều
15.000 ha bông vải
20.000 ha cao su
2.000 ha tiêu
Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào để phát triển các ngành công nghiệp chế biến từ cây công nghiệp, lương thực, thực phẩm... Với diện tích 400.000 ha rừng và đất lâm nghiệp, trữ lượng gỗ 25 triệu m³ và thảm cỏ là tiền đề thuận lợi để lập các nhà máy chế biến gỗ và phát triển các trang trại chăn nuôi đại gia súc và lập nhà máy chế biến thịt bò, heo...
Trong vài năm trở lại đây, diện tích cây điều bị sụt giảm đáng kể do giá hạt điều bị giảm, cây thanh long và cây cao su liên tục tăng diện tích.
Khoáng sản
Tỉnh Bình Thuận có nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn:
Nước khoáng thiên niên bicarbonat: hơn 10 mỏ trữ lượng cao, chất lượng tốt (trong đó có cả mỏ nước khoáng nóng 700 độ C) có thể khai thác trên 300 triệu lít/năm. Trong đó, 2 mỏ đang được khai thác và kinh doanh đó là Vĩnh Hảo và Đa Kai.
Cát thủy tinh: 4 mỏ ở Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình và Hàm Tân với trữ lượng trên 500 triệu m³, chất lượng đạt tiêu chuẩn để xuất khẩu, phù hợp để sản xuất thủy tinh cao cấp, kính xây dựng, gạch thủy tinh.
Đá granít: trữ lượng rất lớn, phân bố khắp nơi.
Sét bentonit: dùng trong công nghiệp hóa chất và khai thác dầu mỏ, trữ lượng khoảng 20 triệu tấn. Quặng Sa khoáng nặng để sản xuất titan, zircon, trữ lượng khoảng một triệu tấn. Tại Vĩnh Hảo có diện tích trên 1.000 ha, sản lượng 150.000 tấn/năm...
Zircon 4 triệu tấn dẫn đầu cả nước về trữ lượng này.
Dầu khí đang được xem là thế mạnh kinh tế mới của tỉnh Bình Thuận, với nhiều mỏ dầu có trữ lượng lớn đã được phát hiện cách đất liền 60 km; có 3 mỏ dầu Rạng Đông, Sư Tử Đen và Rubi đang khai thác. Hai mỏ: Sư Tử Trắng và Sư Tử Vàng chuẩn bị khai thác. Chính phủ và các bộ, ngành trung ương đang quan tâm đầu tư phát triển công nghiệp dầu khí tại Bình Thuận để hình thành trung tâm dự trữ dầu mỏ nhằm đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và xuất khẩu.
Dân cư
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số của tỉnh đạt 1.230.808 người. 44% dân số sống ở đô thị và 56% dân số sống ở nông thôn.
Dân cư tỉnh phân bố không đồng đều giữa các huyện, thị xã, thành phố. Tập trung đông nhất tại Thành phố Phan Thiết dân số (2015): 272.457 chiếm gần 1/4 dân số toàn tỉnh, tiếp đến là Phan Rí Cửa, Thị xã La Gi. Thưa thớt tại các huyện Bắc Bình, Tánh Linh, Hàm Tân.
Có 34 dân tộc cùng sinh sống ở Bình Thuận, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh; tiếp đến là các dân tộc Chăm, Ra Glai, Hoa (tập trung nhiều ở phường Đức Nghĩa - thành phố Phan Thiết, Xã Hải Ninh và xã Sông Lũy- huyện Bắc Bình), Cơ Ho, Tày, Chơ Ro, Nùng, Mường.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 12 tôn giáo khác nhau đạt 386.223 người, nhiều nhất là Công giáo có 188.996 người, tiếp theo là Phật giáo có 130.016 người, Hồi giáo có 29.550 người, Bà La Môn có 25.110 người, đạo Tin Lành có 9.956 người, đạo Cao Đài có 2.403 người. Còn lại các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 90 người, Baha'i giáo có 63 người, Minh Sư đạo có 17 người, Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 13 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có sáu người và Minh Lý đạo có ba người.
Giao thông
Bình Thuận nằm trên trục giao thông trọng yếu Bắc - Nam. Bình Thuận có Quốc lộ 1, Quốc lộ 55, Quốc lộ 28...và các tuyến đường đến các trung tâm huyện, xã, vùng núi và các vùng kinh tế quan trọng khác.
Đường sắt Bắc - Nam qua tỉnh với chiều dài 190 km và qua 11 ga, quan trọng nhất là ga Bình Thuận. Ga Phan Thiết đã được xây dựng và đưa vào sử dụng từ năm 2012.
Đường biển: Là một tỉnh duyên hải có vùng biển rộng, bờ biển dài 192 km, có hải đảo và nằm cạnh đường hàng hải quốc tế. Hiện tại, cảng biển Phú Quý đã xây dựng xong, tiếp nhận tàu 10.000 tấn ra vào. Cảng Phan Thiết đang được xây dựng tiếp nhận tàu 2.000 tấn.
Đường hàng không: Ngày 18/1/2015, khởi công xây dựng sân bay Phan Thiết tại xã Thiện Nghiệp.
Các dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, đường cao tốc Bắc Nam đều đi qua Bình Thuận
Xe buýt
Hiện đang hoạt động các tuyến:
Tiến Lợi - Mũi Né - Hòn Rơm
Tiến Lợi - Ma Lâm - Hàm Trí
Phan Thiết - Phú Long - Ngã ba Gộp - Lương Sơn - Phan Rí Thành
Tà Cú - Phan Thiết - Phú Long
Phan Thiết - Mương Mán - Hàm Cần
La Gi - Tân Hải - Bình Châu (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Bến xe Nam Phan Thiết – Bệnh viện tỉnh – Mũi Né – du lịch Gành
Biển số xe
Biển số xe hay còn gọi là biển đăng ký xe của các huyện trên địa bàn tỉnh Bình Thuận như sau:
- Thành phố Phan Thiết: 86-C1, 86-C2
- Huyện Tuy Phong: 86-B1
- Huyện Bắc Bình: 86-B2
- Huyện Hàm Thuận Bắc: 86-B3
- Huyện Hàm Thuận Nam: 86-B4
- Huyện Hàm Tân: 86-B5
- Thị xã La Gi: 86-B6
- Huyện Tánh Linh: 86-B7
- Huyện Đức Linh: 86-B8
- Huyện Phú Quý: 86-B9
Biển số xe trên là biển số xe dành cho xe từ 50 phân khối đến dưới 175 phân khối được cấp cho người dân trước ngày 15/08/2023. Từ ngày 15/08/2023, biển số xe máy (tất cả phân khối) cấp cho người dân tại Bình Thuận có ký hiệu là 86 kèm 2 chữ cái, Ví dụ 86-AA
Hạ tầng
Mạng lưới điện
Có 3 nguồn điện chính:
Từ nhà máy thủy điện Đại Ninh qua lưới truyền tải 110 KV
Từ nhà máy thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi qua lưới truyền tải 110 KV
Trạm phát điện diesel 3800 KW
Đang xây dựng thử nghiệm nhà máy phong điện (năng lượng điện từ sức gió) tại huyện Tuy Phong.
Nhà máy phong điện tại Phú Quý
Trong đó, cung cấp điện cho khu vực thành phố Phan Thiết có trạm biến áp trung tâm Phan Thiết công suất 50 MVA, và sẽ được nâng cấp mở rộng lên 80-100 MVA. Hệ thống lưới điện tại Thành phố Phan Thiết cũng đang được nâng cấp cải tạo, đáp ứng đủ các nhu cầu khu dân cư và khu công nghiệp Phan Thiết.
Cung cấp nước
Nhà máy nước Phan Thiết có công suất 25.000 m³/ngày đêm, hiện đang nâng cấp, mở rộng hệ thống đường ống bằng nguồn vốn ADB, đảm bảo đáp ứng đủ các nhu cầu sinh hoạt và sản xuất. Tại các huyện đều có trạm cấp nước quy mô nhỏ 500–2000 m³/ngày đêm.
Văn hoá
Bình Thuận có bề dày lịch sử, văn hoá lâu đời, nhất là văn hoá Chăm pa với nhóm di tích Tháp Po Sha Nư, đền thờ Po Klong Mơhnai và hơn 100 bảo vật hoàng tộc Chăm nguyên gốc quý hiếm được bà Nguyễn Thị Thềm, hậu duệ vua Chăm lưu giữ, trong đó có vương miện, áo bào, hia hài, vòng xuyến của vua và hoàng hậu.
Người Chăm là một trong những người đầu tiên phát hiện ra công dụng của nước khoáng Bình Thuận. Họ đã dùng nước khoáng này chữa bệnh và chế nước thơm rửa tượng thánh. Bằng nước khoáng Bình Thuận, vào thế kỷ 13, người Chăm đã chữa khỏi bệnh phong cho vua Chế Mân của họ. Công chúa Huyền Trân, con gái vua Trần và cũng là hoàng hậu của vua Chế Mân rất ngạc nhiên về sự màu nhiệm, huyền bí của suối nước này nên đã đặt tên suối là Vĩnh Hảo (nghĩa là "đời đời tốt đẹp"). Người Pháp cũng khai thác nước khoáng Vĩnh Hảo từ năm 1920. Đến nay, nước khoáng Vĩnh Hảo đã nổi tiếng trong nước và đang từng bước vươn ra xuất khẩu trên thị trường các nước trong khu vực và thế giới.
Du lịch
Ngày 24 tháng 10 năm 1995, hàng vạn người bao gồm các nhà khoa học, khách du lịch trong nước và quốc tế đổ về núi Tà Dôn (huyện Hàm Thuận Bắc) và Mũi Né - Phan Thiết để chiêm ngưỡng và nghiên cứu hiện tượng nhật thực toàn phần cũng đồng thời nhận ra nơi này có nhiều cảnh quan kỳ thú và tiềm năng du lịch phong phú. Đây được coi là mốc thời gian mà Bình Thuận bắt đầu có tên trên bản đồ du lịch Việt Nam.
Là một tỉnh ven biển, khí hậu quanh năm nắng ấm, nhiều bãi biển sạch đẹp, cảnh quan tự nhiên và thơ mộng, giao thông thuận lợi, Bình Thuận đang là một trong những trung tâm du lịch lớn của Việt Nam.
Bình Thuận đã đầu tư xây dựng các quần thể du lịch - nghỉ mát - thể thao - leo núi - du thuyền - câu cá - đánh gôn - nghỉ dưỡng - chữa bệnh tại khu vực phường Mũi Né (thành phố Phan Thiết), Hàm Tân, Tuy Phong phục vụ du khách. Hiện nay, thành phố Phan Thiết đang có sân golf 18 lỗ: và Sealinks mang tầm vóc quốc tế; các khách sạn lớn, nhiều khu resort cao cấp, hệ thống nhà nghỉ ven biển... sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu ăn nghỉ, vui chơi giải trí của du khách và các nhà đầu tư. Bình Thuận còn có nhiều di tích văn hóa - lịch sử, danh làm thắng cảnh hấp dẫn.
Mũi Né, Phan Thiết được công nhận là khu du lịch Quốc Gia.
Kết nghĩa
Hưởng ứng phong trào kết nghĩa Bắc - Nam, tỉnh Tuyên Quang kết nghĩa với tỉnh Bình Thuận. Tại thành phố Phan Thiết có một con đường và một trường tiểu học mang tên "Tuyên Quang" và tại thành phố Tuyên Quang có một phường, một trường tiểu học và một trường trung học cơ sở mang tên "Phan Thiết"; một trường tiểu học và một trường trung học cơ sở mang tên "Bình Thuận".
Những cái nhất
Tháp nước có kiến trúc đẹp (cao 32m, do Hoàng thân Lào Xuvanuvông thiết kế). (Phan Thiết)
Có bộ xương cá voi dài nhất ĐÔNG NAM Á (22m) được trưng bày ở dinh Vạn Thủy Tú (Phan Thiết)
Ngọn hải đăng Kê Gà bằng đá cao nhất (cao 100 m). (Hàm Thuận Nam)
Tượng Phật trên núi Tà Cú là tượng Phật nằm lớn và dài nhất (49 m). (Hàm Thuận Nam)
Bãi đá Cổ Thạch nhiều hình hài màu sắc nhất.
Bình Thuận còn là vùng trồng cây thanh long nhiều và ngon nhất, sò điệp nhiều và có giá trị nhất.
Bình Thuận là địa phương có nhiều cuộc thi, lễ hội dân gian độc đáo nhất như: đua thuyền trên sông Cà Ty (mồng 2 Tết hằng năm), lướt ván - đua thuyền buồm hàng năm (Mũi Né), chinh phục núi Tà Cú, chạy việt dã vượt đồi cát Mũi Né và lễ hội rước đèn Trung thu (Phan Thiết) có quy mô lớn nhất dành cho trẻ em được ghi vào sách Kỉ lục Guinness Việt Nam. Lễ hội Nghinh Ông(Quan Thánh Đế Quân: vào tháng 7 âm lịch vào năm chẳn), Lễ hội cầu ngư, lễ hội Ka-tê (Phan Thiết).
Khu vực được mệnh danh là "Vương quốc Resort" của cả nước
Tháp cao nhất trên các đảo của Việt Nam (tháp của Chùa Linh Quang, huyện đảo Phú Quý)
Quốc lộ 1 dài nhất Việt Nam với chiều dài 178,5 Km
Hoang tưởng về kho báu Núi Tàu
Những năm gần đây, có lời đồn về kho báu 4.000 tấn vàng do Quân đội Nhật Bản cất giấu hồi cuối Thế chiến thứ hai, tại núi Tàu, xã Phước Thể, huyện Tuy Phong . Từ năm 1993 đến năm 2015 Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đã nhiều lần cấp phép và gia hạn phép cho ông Trần Văn Tiệp (100 tuổi, ngụ Thành phố Hồ Chí Minh) tìm kiếm kho vàng 4.000 tấn đó, song việc tìm kiếm không có kết quả . Năm 2016 một người khác là ông Nguyễn Văn Đợi (ngụ Thành phố Hồ Chí Minh) thì khai báo về 3 giếng cổ chứa kho báu ở sát biển và cách núi Tàu chừng 1 km .
Tuy nhiên tháng 4 năm 2016 sau khi thẩm tra thì UBND tỉnh khẳng định thông tin kho báu là hoàn toàn không có căn cứ, và yêu cầu không để tình trạng lợi dụng "hoang tin" tiếp diễn. Tính hoang tưởng về kho báu hiện rõ ở chỗ vàng có khối lượng riêng (tỷ trọng) là 19,3 g/cm³ tức 19,3 tấn/m³, khối vàng 4.000 tấn có thể tích hơn 200 m³, to như một căn hộ 5m x 16m x 2,5m. Đào được cái hầm hơn 200 m³ trong núi đá hoa cương rất cứng, rồi dùng hơn 1000 chuyến xe loại 4 tấn để vận chuyển, là một công trường ầm ỹ, để lại rất nhiều dấu vết như đường đi, bãi thải đá, và cửa hầm cũng đủ rộng cho người xe ra vào. Nó đâu đơn giản chỉ là "thuê người dân tộc địa phương chôn giấu" ở khe núi hay vùi ở cái giếng cổ .
Hình ảnh
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11194
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A0%20Mau
|
Cà Mau
|
Cà Mau là một tỉnh ven biển ở cực nam của Việt Nam, nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Toàn bộ địa phận tỉnh Cà Mau nằm trên Bán đảo Cà Mau.
Năm 2019, Cà Mau là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 26 về số dân, xếp thứ 41 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 38 về GRDP bình quân đầu người. Với 1.229.600 người dân, GRDP đạt 159.300 tỉ Đồng (tương ứng với 2,3118 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 47,1 triệu đồng (tương ứng với 2.028 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,00%.
Cà Mau là một vùng đất trẻ, mới được khai phá khoảng trên 300 năm. Vùng đất Cà Mau ngày xưa được Mạc Cửu dẫn người Hoa đến khai phá. Sau khi Mạc Cửu dâng toàn đất này thần phục Nhà Nguyễn, Mạc Thiên Tứ con của Mạc Cửu đã vâng lệnh triều đình Chúa Nguyễn lập ra đạo Long Xuyên. Qua nhiều lần thay đổi về hành chính, đến ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Cà Mau được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10, ngày 6 tháng 11 năm 1996 về việc điều chỉnh địa giới hành chính, chia tách tỉnh Minh Hải thành tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu.
Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi Cà Mau (chính tả cũ: Cà-mau) được hình thành do người Khmer gọi tên vùng đất này là "Tưk Kha-mau" (tiếng Khmer: តឹកខ្មៅ), có nghĩa là nước đen. Do Nước đen là màu nước đặc trưng do lá tràm của thảm rừng tràm U Minh bạt ngàn rụng xuống làm đổi màu nước. Cà Mau là xứ đầm lầy ngập nước, có nhiều bụi lác mọc tự nhiên và hoang dã. Chính vì lẽ đó từ thuở xưa đã có câu ca dao:
Địa lý
Khái quát
Tỉnh Cà Mau là mảnh đất tận cùng của tổ quốc với 3 mặt tiếp giáp với biển, cách thành phố Cần Thơ 180 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp Biển Đông với đường bờ biển 107 km
Phía tây và phía nam giáp Vịnh Thái Lan với đường bờ biển 147 km
Phía bắc giáp tỉnh Bạc Liêu và tỉnh Kiên Giang.
Phần lãnh thổ đất liền của tỉnh Cà Mau nằm trong tọa độ từ 8o34' - 9o33' vĩ Bắc và 105o25' - 104o43' kinh Đông.
Toạ độ các điểm cực của tỉnh Cà Mau:
Điểm cực Đông tại 105o25' kinh Đông thuộc xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi.
Điểm cực Tây tại 104o43' kinh Đông thuộc xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển.
Điểm cực Nam tại 8o34’ vĩ Bắc thuộc xã Viên An, huyện Ngọc Hiển.
Điểm cực Bắc tại 9o33' vĩ Bắc thuộc xã Biển Bạch, huyện Thới Bình.
Thành phố Cà Mau nằm trên trục đường Quốc lộ 1 và quốc lộ 63. Là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đường bờ biển của tỉnh Cà Mau có độ dài gần 254 km (dài thứ 2 cả nước), trong đó có 107 km bờ Biển Đông và 147 km bờ Biển Tây. Biển Cà Mau tiếp giáp với vùng biển các nước như Thái Lan, Malaysia, Indonesia và là trung tâm của vùng biển quốc tế ở Đông Nam Á.
Điều kiện tự nhiên
Cà Mau là vùng đất thấp, khu vực rìa phía nam thường xuyên bị ngập nước. Cà Mau có 5 nhóm đất chính gồm: đất phèn, đất than bùn, đất bãi bồi, đất mặn và đất kênh rạch.
Rừng Cà Mau là loại hình sinh thái đặc thù, rừng sinh thái ven biển ngập mặn được phân bố dọc ven biển với chiều dài 254 km. Bên cạnh đó, Cà Mau còn có hệ sinh thái rừng tràm nằm sâu trong lục địa ở các huyện U Minh, Trần Văn Thời, Thới Bình quy mô 35.000 ha. Diện tích rừng ngập mặn ở Cà Mau chiếm 77% rừng ngập mặn của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tính đến ngày 31/12/2022, tổng diện tích đất có rừng 93.093 ha; trong đó diện tích rừng tự nhiên là 11.535 ha, diện tích rừng trồng 81.557 ha, tỷ lệ che phủ rừng là 14.74%. Rừng tại Cà Mau góp phần quan trọng ngăn chặn biến đổi khí hậu, chống xói mòn, xâm nhập mặn và bảo vệ đường bờ biển.
Tỉnh Cà Mau mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với nền nhiệt độ cao vào loại trung bình trong tất cả các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Khí hậu Cà Mau được chia thành 2 mùa là mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa ở Cà Mau trung bình có 165 ngày mưa/năm, với 2.360 mm. Độ ẩm trung bình năm là 85,6%, nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,50C. Trong đó, nhiệt độ trung bình cao nhất trong năm là vào tháng 4, khoảng 27,60C, nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1, khoảng 250C. Biển nhiệt độ trung bình trong 1 năm là 2,70C. Năm 2014, nhiệt độ thấp nhất ở đây đã xuống tới 20 độ C (tháng 1) (trước đó vào tháng 12 năm 2013 đã xuống còn 18 độ C). Nhiệt độ cao nhất là 38 độ C khi đang trong mùa khô vào tháng 4 năm 2016.
Bán đảo Cà Mau
Cà Mau là một dải đất hình tam giác, có chiều dài tối đa là 130 dặm và độ cao trung bình là 7 feet so với mực nước biển. Sự hình thành của nó gần như hoàn toàn là kết quả của trầm tích của sông Mekong, cũng là kết quả của quá trình hình thành Mũi Bai ở cuối bán đảo.
Khí hậu Cà Mau là nhiệt đới xa-van (Koppen: Aw) với lượng ẩm quanh năm trừ hai đến ba tháng mùa đông khí hậu tương đối khô hạn.
Quần đảo thuộc Cà Mau
Quần đảo Hòn Khoai
Quần đảo Hòn Khoai bao gồm 5 hòn đảo sát nhau:
Hòn Khoai (tên khác: Giáng Tiên, Độc Lập, Hòn Lớn)
Hòn Sao là hòn đảo lớn thứ hai nằm về phía đông Hòn Khoai với khoảng cách 1,35 km, có diện tích khoảng 64 ha.
Hòn Đồi Mồi, hay Hòn Rùa , nằm cạnh Hòn Sao, chỉ cách 400 mét về đông bắc, diện tích nhỏ chỉ khoảng 2,6 ha.
Hòn Tương , hay Hòn Thỏ nằm sát bờ cực bắc Hòn Khoai, diện tích nhỏ bé chỉ khoảng 1,5 ha.
Hòn Đá Lẻ nằm vị trí cách xa so với 4 hòn của cụm đảo, cách đảo Hòn Khoai 7,7 km về phía đông nam, chỉ là 1 cụm đá đen trơ trọi dài khoảng 125 m, rộng nhất 34m và cao nhất khoảng 7 m. Đây là vị trí Điểm A2 của Đường cơ sở của Việt Nam.
Tổng diện tích 4 km².
Cụm đảo Hòn Đá Bạc
Hòn Đá Bạc ở xã Khánh Bình Tây huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau.
Hòn Trọi (Hòn Đá Bạc Lẻ, Hòn Đá Lẻ)
Hòn Lớn (Hòn Đá Bạc)
Hòn Ông Ngộ
Cụm đảo Hòn Chuối
Hòn Chuối
Hành chính
Tỉnh Cà Mau có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 8 huyện. Được phân chia thành 101 đơn vị hành chính cấp xã gồm có 9 thị trấn, 10 phường và 82 xã.
Lịch sử
Thời phong kiến
Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức có chép "Thời Gia Long, những giồng đất cao ráo ở ven sông Ông Đốc, sông Gành Hào, sông Bảy Háp và một vài phụ lưu mới có người khai khẩn, lập thành xóm, ấp. Tuy vậy, đến thời Tự Đức Cà Mau vẫn là vùng rừng đước, vẹt, tràm, không mấy ai đến lập nghiệp vì thiếu nước ngọt và ruộng quá nhiều phèn".
Cuối thế kỷ 17, Mạc Cửu là tướng của nhà Minh do không chấp nhận triều đình nhà Thanh nên đã dẫn một số người Trung Hoa đến vùng Hà Tiên sinh sống. Sau khi Mạc Cửu dâng toàn bộ phần đất này thần phục nhà Nguyễn, Mạc Thiên Tứ con của Mạc Cửu đã vâng lệnh triều đình chúa Nguyễn lập ra đạo Long Xuyên.
Vào năm 1808, Thời Gia Long thứ 7, đổi tên đạo Long Xuyên thành huyện Long Xuyên, thuộc trấn Hà Tiên. Năm 1825, Thời Minh Mạng thứ 6, nhà Nguyễn đã đặt ra một quan tri huyện để cai trị.
Thời Pháp thuộc
Ngày 15 tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp thành lập hạt Cà Mau gồm địa bàn huyện Long Xuyên cũ. Tuy nhiên đến ngày 1 tháng 8 năm 1877, thực dân Pháp lại giải thể hạt Cà Mau, nhập vào địa bàn hạt Rạch Giá.
Ngày 18 tháng 2 năm 1882, chính quyền Pháp lấy một phần đất Bạc Liêu thuộc tỉnh Sóc Trăng, một phần đất Cà Mau thuộc Rạch Giá hợp thành tỉnh Bạc Liêu. Thời Pháp thuộc, Cà Mau là một quận của tỉnh Bạc Liêu, quận lỵ đặt tại làng An Xuyên thuộc tổng Quản Long.
Năm 1903, thực dân Pháp lập đại lý hành chính Cà Mau gồm 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thủy. Ngày 16 tháng 5 năm 1911, Toàn quyền Đông Dương quyết định nâng lên thành quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu. Ngày 5 tháng 10 năm 1917, quận Cà Mau gồm 2 tổng Quảng Xuyên, Quảng Long và các làng Tân Lộc, Tân Lợi, Tân Phú, Thới Bình của tổng Long Thủy.
Ngày 6 tháng 4 năm 1923, tách các làng Tân Lợi, Tân Lộc, Thới Bình của tổng Long Thủy lập tổng mới Long Thới, thuộc quận Cà Mau (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1924). Ngày 24 tháng 9 năm 1938, tách tổng Quảng Xuyên khỏi quận Cà Mau lập quận mới Quảng Xuyên. Ngày 14 tháng 9 năm 1942, lập cơ sở hàng chính Tân An thuộc quận Cà Mau. Ngày 5 tháng 4 năm 1944, lập quận Thới Bình bao gồm tổng Thới Bình. Ngày 6 tháng 10 năm 1944, đổi tên quận Thới Bình thành quận Cà Mau Bắc, đổi tên quận Quảng Xuyên thành quận Cà Mau Nam. Sau đó lại hợp nhất 2 quận này thành một quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Giai đoạn 1956-1975
Ngày 9 tháng 3 năm 1956, theo Sắc lệnh 32/VN, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lấy quận Cà Mau và 4 xã của quận Giá Rai là Định Thành, Hoà Thành, Tân Thành, Phong Thạnh Tây lập thành tỉnh Cà Mau, tỉnh lỵ ban đầu có tên là Cà Mau.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Cà Mau được đặt tên mới là tỉnh An Xuyên, còn tỉnh lỵ đổi tên là "Quản Long". An Xuyên chính là tên của làng sở tại trước kia thuộc tổng Quản Long, vốn là nơi đặt quận lỵ quận Cà Mau trước năm 1956. Lúc này, xã An Xuyên cũng được đổi tên thành xã Tân Xuyên thuộc
quận Quản Long và là nơi đặt tỉnh lỵ Quản Long của tỉnh An Xuyên.
Tỉnh An Xuyên khi đó gồm 6 quận: Quản Long, Thới Bình, Sông Ông Đốc, Cái Nước, Đầm Dơi và Năm Căn.
Tuy nhiên, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh An Xuyên mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cà Mau.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Cà Mau cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Tỉnh Cà Mau lúc bấy giờ có 6 huyện: Thới Bình, Trần Văn Thời, Cái Nước, Ngọc Hiển, Châu Thành, Duyên Hải và thị xã Cà Mau.
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu và hai huyện Vĩnh Thuận, An Biên (ngoại trừ 2 xã Đông Yên và Tây Yên) của tỉnh Rạch Giá sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu được tiến hành hợp nhất vào ngày 1 tháng 1 năm 1976 với tên gọi ban đầu là tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu.
Tỉnh Minh Hải giai đoạn 1976-1996
Ngày 10 tháng 3 năm 1976, Ban đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ đổi tên tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu thành tỉnh Minh Hải, đồng thời thị xã Bạc Liêu cũng được đổi tên thành thị xã Minh Hải và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Minh Hải. Tuy nhiên, đến năm 1984, thị xã Minh Hải được đổi về tên cũ là thị xã Bạc Liêu và tỉnh lỵ cũng được dời về thị xã Cà Mau.
Tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến nay
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc chia tỉnh Minh Hải thành hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau, nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1997.
Tỉnh Cà Mau có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị xã Cà Mau (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Cái Nước, Đầm Dơi, Ngọc Hiển, Thới Bình, Trần Văn Thời, U Minh.
Ngày 14 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/1999/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cà Mau.
Ngày 17 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 138/2003/NĐ-CP. Theo đó, điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Ngọc Hiển để tái lập huyện Năm Căn; điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Cái Nước để tái lập huyện Phú Tân.
Tỉnh Cà Mau có 1 thành phố và 8 huyện như hiện nay.
Ngày 6 tháng 8 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1373/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Cà Mau là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Cà Mau.
Ngày 26 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 891/QĐ-TTg của về việc công nhận xã An toàn khu thuộc tỉnh Cà Mau.
Kinh tế
Tuy Cà Mau có nhiều tiềm năng, thế mạnh, nhưng khi mới chia tách, xuất phát điểm về kinh tế - xã hội rất thấp kém. Kinh tế thuần nông với cơ cấu nông - lâm - thủy sản chiếm tỷ trọng 63,40%, công nghiệp - xây dựng chỉ đạt 16,96%, dịch vụ chỉ đạt 19,64%. Kết cấu hạ tầng kinh tế yếu kém, thu nhập bình quân đầu người 296 USD, đời sống người dân còn rất nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 27,9%, lao động qua đào tạo, dạy nghề 15%, hộ sử dụng điện 16%, sử dụng máy điện thoại bình quân 4,5 máy cho 100 dân. Sau hơn 20 năm tái lập (1997 - 2018), thu nhập bình quân đầu người tăng 4,75 lần, năm 2018 đạt 2.000 USD. Từ cơ cấu nông nghiệp chiếm đến 63,40%, công nghiệp 16,96%, dịch vụ 19,64% vào năm 1997, đến năm 2018 cơ cấu nông nghiệp chỉ còn 8%, công nghiệp tăng lên 43%, dịch vụ 49%.
Năm 2011, diện tích gieo trồng lúa của tỉnh ước đạt 128 ngàn hécta, chiếm 82,7% diện tích cây trồng của tỉnh. Sản lượng lúa ước đạt 532.000 tấn. Hoạt động chăn nuôi gia súc và gia cầm phát triển chậm, chủ yếu là chăn nuôi nhỏ lẻ, chưa mang tính chất công nghiệp, do đó chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân trong tỉnh và còn gặp nhiều khó khăn. Tổng đàn heo năm 2011 ước đạt 221,2 ngàn con. Đàn gia cầm ước đạt 1.521,2 ngàn con đang có xu hướng giảm, nguyên nhân chủ yếu một phần là do tác động của chuyển dịch một phần diện tích đất trồng lúa sang nuôi tôm, ở vùng nuôi tôm do thiếu thức ăn và nguồn nước bị nhiễm mặn nên hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm khó phát triển.
Năm 2011, diện tích rừng tập trung của tỉnh đạt 102.973 ha, Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản khoảng 296.300 ha. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2011 ước đạt 248,4 ngàn tấn, tăng gần 4,4 lần so với năm 1997, tăng bình quân 12,8%/năm. Giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản không ngừng tăng, năm 2011 ước đạt 47,2 triệu đồng/ha, tăng 4,8 lần so với năm 1997, tăng bình quân 13,4%/năm. Diện tích nuôi tôm chiếm 90% diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh. Sản lượng thủy sản đánh bắt tuy tăng chậm so với nuôi trồng nhưng cơ cấu sản xuất cũng chuyển dịch theo hướng tăng sản lượng khai thác xa bờ, giảm khai thác gần bờ có nguy cơ làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản và ô nhiễm môi trường nước ven biển. Sản lượng thủy hải sản khai thác đạt 155 ngàn tấn vào năm 2011, bình quân mỗi năm tăng 4,3%. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2011 trên địa bàn tỉnh đạt 17.500 tỷ đồng, gấp 10,5 lần năm 1997 và gấp 6,1 lần năm 2000, tăng bình quân hằng năm trên 18%.
Từ đầu năm 2012 đến ngày 30 tháng 1 năm 2013, thu ngân sách được 309 tỷ đồng, đạt 6,2% dự toán năm, bằng 90,2% so với cùng kỳ. Chi ngân sách 587 tỷ đồng, Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 372 tỷ đồng, Sản lượng điện ước đạt 155 triệu KWh, Sản lượng đạm 10.000 tấn. Sản lượng chế biến thủy sản xuất khẩu khoảng 1.069 tấn. Kim ngạch xuất khẩu đạt 11 triệu USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu 1,28 triệu USD. Năm 2018, giá trị sản xuất của thủy sản so với Tổng giá trị sản xuất của Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản là 59,1%.
Năm 2019, tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 7% so với năm 2018. Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 29,2% GRDP; công nghiệp, xây dựng chiếm 26,1%; dịch vụ chiếm 40,9%; thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm chiếm 3,8%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 13.810 tỉ đồng. Thu ngân sách đạt 5.654 tỉ đồng, vượt 23,7% dự toán, tăng 19,9% so với cùng kì. Chi ngân sách đạt 10.066 tỉ đồng, bằng 103% dự toán, tăng 11% so với cùng kì. Kim ngạch xuất khẩu đạt 1.168 triệu USD, bằng 97,3% kế hoạch, tăng 3,6% so với cùng kì.
Xã hội
Giáo dục
Hiện nay toàn tỉnh Cà Mau có 2 trường Đại học và 4 trường Cao đẳng. Danh sách các trường Đại học, Cao đẳng ở Cà Mau:
Trường Đại học Bình Dương (phân hiệu Cà Mau)
Trường Đại học Tôn Đức Thắng (phân hiệu Cà Mau)
Cao đẳng Sư phạm Cà Mau
Cao đẳng Y tế Cà Mau
Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau
Cao đẳng nghề Việt Nam - Hàn Quốc Cà Mau
Y tế
Bệnh viện đa khoa tỉnh Cà Mau: 16, đường Hải Thượng Lãn Ông, Phường 6, TP. Cà Mau
Bệnh viện Sản - Nhi Cà Mau: 85 Lý Thường Kiệt, Phường 6, Tp. Cà Mau, tỉnh Cà Mau
Bệnh viện Mắt và Da liễu tỉnh Cà Mau: đường Hải Thượng Lãn Ông, Phường 6, TP Cà Mau
Bệnh viên Lao và Bệnh phổi tỉnh Cà Mau: đường Hải Thượng Lãn Ông, Phường 6, TP Cà Mau
Dân số
Cà Mau là tỉnh có dân số đứng thứ 9 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (hơn các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang và Bạc Liêu). Sau 10 năm, quy mô dân số Cà Mau giảm 12.462 người. Bình quân dân số qua các giai đoạn giảm dần: Dân số bình quân giai đoạn 1989 - 1999 tăng 2,32%/năm; dân số bình quân giai đoạn 1999 - 2009 tăng 0,76%/năm; dân số bình quân giai đoạn 2009 - 2019 giảm 0,10%/năm.
Tính vào thời điểm 00 giờ ngày 01/4/2019, tổng số dân của tỉnh Cà Mau là 1.194.476 người. Trong đó, dân số nam là 604.901 người, chiếm 50,64%; dân số nữ là 589.575 người, chiếm 49,36%. Dân số khu vực thành thị là 271.063 người, chiếm 22,69%; dân số khu vực nông thôn là 923.413 người, chiếm 77,31% dân số toàn tỉnh. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 28,4%.
Trong tổng dân số trên địa bàn tỉnh Cà Mau, người Kinh chiếm đa số, chiếm 97,19% với 1.160.852 người; kế tiếp là dân tộc Khmer, chiếm 2,19% với 26.110 người; tiếp theo là dân tộc Hoa, chiếm 0,53% với 6.343 người; còn lại các dân tộc khác, chiếm 0,1% với 1.171 người (chủ yếu là các dân tộc Tày 148 người, Thái 119 người, Mường 198 người, Gia Rai 299 người, Ba Na 108 người, Chăm 91 người, Nùng 58 người, Ê Đê 36 người,...).
Đến thời điểm Tổng điều tra năm 2019, trên địa bàn tỉnh Cà Mau có 26.356 người theo tôn giáo, chiếm 2,21 % tổng dân số toàn tỉnh. Trong đó, số người theo Công giáo là đông nhất với 15.421 người, chiếm 58,51% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 1,29% tổng dân số toàn tỉnh. Xếp thứ hai là số người theo Phật giáo với 6.795 người, chiếm 25,78% những người theo tôn giáo và chiếm 0,57% dân số toàn tỉnh, xếp thứ 3 là số người theo đạo Cao Đài với 2.310 người, chiếm 8,76% những người theo tôn giáo và chiếm 0,19% dân số toàn tỉnh. Các tôn giáo còn lại chiếm tỷ trọng nhỏ, không đáng kể.
Mật độ dân số của tỉnh Cà Mau năm 2019 là 229 người/km2, tăng 3 người/km2 so với năm 2009. Với kết quả này, Cà Mau là tỉnh có mật độ dân số thấp hơn mật độ dân số chung vùng Đồng bằng sông Cửu Long (423 người/km2); thấp nhất so với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và thấp hơn mật độ dân số chung của cả nước (290 người/km2). Thành phố Cà Mau là đơn vị có mật độ dân số đông nhất 908 người/km2. Huyện Ngọc Hiển là đơn vị có mật độ dân số thấp nhất so với các đơn vị với 94 người/km2; kế đến là huyện Năm Căn 118 người/km2 và huyện U Minh 131 người/km2.
Tỷ số giới tính của dân số Cà Mau là 102,6 nam/100 nữ. Tỷ số giới tính của Cà Mau cao hơn tỷ số giới tính chung của cả nước và cao hơn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy tỉnh Cà Mau có cơ cấu dân số vàng, vì tỷ trọng dân số từ 15 – 64 tuổi chiếm 68,78%; tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi và từ 65 tuổi trở lên chiếm lần lượt là 23,45% và 7,7%. Như vậy, Cà Mau là tỉnh đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” khi có hai người trong độ tuổi lao động thì có một người phụ thuộc.
Tỷ suất sinh thô năm 2019 là 11,2 trẻ sinh sống/1.000 dân và tỷ số giới tính khi sinh là 102 bé trai/100 bé gái. Tỷ suất sinh thô và tỷ số giới tính khi sinh của tỉnh thấp hơn tỷ suất sinh thô và tỷ số giới tính khi sinh chung của cả nước và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tuổi thọ trung bình năm 2019 của người dân là 75,0 tuổi, nam giới là 72,6 tuổi, nữ giới là là 77,5 tuổi. Tuổi thọ trung bình của người Cà Mau cao hơn tuổi thọ trung bình chung của cả nước kể cả nam và nữ và bằng tuổi thọ trung bình chung của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên là 96,6%, tăng 1,11 điểm phần trăm so với năm 2009. Tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn so với cả nước và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Số người có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên chiếm 18,2% tổng dân số từ 15 tuổi trở lên, tăng 3,26% so với năm 2009.
Đến đầu năm 2017, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, người Kinh chiếm đại đa số, với khoảng 1.180.000 người, chiếm trên 96% dân số và sinh sống hầu hết ở các nơi trong tỉnh. Tiếp theo là người Khmer khoảng 33.439 người, chiếm 2,73% dân số, sống tập trung tại các ngôi chùa ở cả thành thị và nông thôn, tạo thành các xóm người Khmer, sinh sống bằng nghề trồng lúa, rau màu, chăn nuôi, khai thác thủy sản, mua bán nhỏ. Người Hoa có 9.418 người, chiếm 0,76% dân số, chủ yếu sống ở khu vực thành thị, sinh sống bằng nghề mua bán. Còn lại là các dân tộc khác như: Mường, Thái, Tày, Nùng, Giao, Gia rai, Ê đê, Chăm, Chu ru, Si la, người nước ngoài.
Tổng số hộ nghèo và cận nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số khoảng 3.940 hộ, chiếm 32,93%; trong đó, hộ nghèo khoảng 3.073 hộ, chiếm 25,68%; hộ cận nghèo khoảng 867 hộ, chiếm 7,25%.
Đồng bào các dân tộc trong tỉnh Cà Mau đều có bản sắc văn hóa, phong tục, tạp quán riêng nhưng luôn đoàn kết, hòa quyện với nhau, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú đậm đà bản sắc dân tộc.
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm đầu tư sửa chữa, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới các ngôi chùa, nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, lò hỏa táng, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số tập trung sinh hoạt vào các dịp lễ, Tết.
Đến nay, đời sống đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh có bước phát triển đáng kể. Nhiều hộ được cấp đất ở, đất sản xuất, tặng nhà ở, cung cấp nước sạch, giải quyết việc làm, học sinh được cử tuyển; các nơi sinh hoạt văn hóa, lễ hội cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, dạy chữ Khmer… được quan tâm giải quyết. Kết cấu hạ tầng nhất là về điện nông thôn, đường giao thông, trường học, trạm y tế, hệ thống cung cấp nước sạch…được đầu tư xây dựng.. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân mỗi năm từ 3-4%/năm.
Đến đầu năm 2017, tỉnh Cà Mau có 373.327 tín đồ, chiếm 30,7% so với dân số; 1.132 chức sắc; 1.913 chức việc. Có tổng số 142 tổ chức tôn giáo cơ sở; 134 cơ sở thờ tự. Bao gồm:
- Phật giáo gồm: Phật giáo Bắc Tông, Phật giáo Hoa Tông, Phật giáo Nam Tông. Trong đó:
+ Phật giáo Bắc tông có tổng số 41 cơ sở thờ tự; 277.865 phật tử, tu sĩ, chức sắc, chức việc, hoàn thượng, thượng tọa, ni trưởng, ni sư, đại đức, sư cô, sadi, sadini, thức xoa mana.
+ Phật giáo Hoa Tông có 02 cơ sở thờ tự; 2.180 phật tử, cư sĩ.
+ Phật giáo Nam Tông có 07 cơ sở thờ tự; 25.215 phật tử, sư, hòa thượng, thượng tọa, đại đức, chức việc.
- Công giáo: có 19 cơ sở thờ tự; 22.360 giáo dân, linh mục.
- Tin lành gồm: Tin lành Việt Nam (miền Nam), Tin lành BaptitVN, Tin lành Liên hữu Cơ đốc, Tin lành Chứng nhân Giê-hô-va, Tin lành Cơ đốc Phục lâm. Trong đó:
+ Tin lành Việt Nam (miền Nam) có 08 cơ sở thờ tự; 4.472 tín hữu, mục sư, truyền đạo.
+ Tin lành BaptitVN có 34 điểm nhóm; 1.105 tín hữu, mục sư, nữ truyền đạo, chức việc.
+ Tin lành Liên hữu Cơ đốc có 01 điểm nhóm; 49 tín hữu, mục sư.
+ Tin lành Chứng nhân Giê-hô-va có 01 điểm nhóm; 136 tín hữu, chức việc.
+ Tin lành Cơ đốc Phục lâm có 01 điểm nhóm; 32 tín hữu, chức việc.
- Cao đài gồm có: Cao Đài Minh Chơn đạo, Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Tiên Thiên. Trong đó:
+ Cao Đài Minh Chơn đạo có 23 cơ sở thờ tự; 13.436 nhơn sanh, chức sắc, chức việc.
+ Cao Đài Tây Ninh có 09 cơ sở thờ tự; 13.277 nhơn sanh, chức sắc, chức việc.
+ Cao Đài Tiên Thiên có 02 cơ sở thờ tự; 715 nhơn sanh, chức sắc, chức việc.
- Tịnh độ cư sĩ phật hội: có 22 cơ sở thờ tự; 14.691 tín đồ, chức sắc, chức việc.
- Phật giáo Hòa Hảo: có 01 cơ sở thờ tự; 1.056 đồng đạo, chức việc.
Đồng bào các tôn giáo ở Cà Mau tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội như: hỗ trợ đồng bào nghèo nhân dịp lễ, tết, bắc cầu giao thông nông thôn, khám và cấp phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân nghèo, hỗ trợ mổ tim cho người nghèo....
Du lịch
Do đặc điểm tự nhiên, Cà Mau là tỉnh cuối cùng nơi cực Nam Tổ quốc, Mũi Cà Mau có cột mốc tọa độ quốc gia nên du lịch địa lý rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Với 2 hệ sinh thái rừng ngập mặn, ngập lợ đan xen giữa những rừng cây là những dòng sông uốn lượn, từng là điểm mở đường Hồ Chí Minh trên biển (bến Vàm Lũng, huyện Ngọc Hiển); nơi chứng kiến, tiễn đưa những đứa con miền Nam tập kết ra Bắc, mang theo cây vú sữa miền Nam gởi tặng Bác Hồ (cửa sông Ông Đốc, huyện Trần Văn Thời); những dòng sông với nhiều chiến công hiển hách (Tam Giang, Cái Lớn, Cái Tàu, sông Ông Đốc, Đầm Dơi).
Dưới tán rừng là những đầm tôm, ruộng lúa cùng các vườn cây ăn trái, sân chim tự nhiên, với nhiều loại chim quý hiếm… tạo nên các tuyến du lịch sinh thái hấp dẫn. Các đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, Hòn Buông, bãi Khai Long… là những nơi còn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy của tự nhiên.
Ngoài ra, Cà Mau còn có nhiều di tích lịch sử cấp Quốc gia, cấp tỉnh; nhiều lễ hội truyền thống như lễ hội nghinh Ông, vía Bà, đua ghe ngo… mang đậm bản sắc văn hoá của 3 dân tộc anh em kinh – hoa – khmer.
Về Cà Mau du khách còn nghe kể chuyện Bác Ba Phi, đơn ca tài tử, đi thuyền trên sông nước, thưởng thức những món ăn đặc sản của rừng, của biển…
Giao thông
Tỉnh Cà Mau có Quốc lộ 1, quốc lộ 63, đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 380 km và thành phố Cần Thơ 180 km. Từ Thành phố Cà Mau có thể đi lại các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long dễ dàng. Các sông lớn như sông Bảy Háp, sông Gành Hào, sông Đốc, sông Trẹm... rất thuận tiện cho giao thông đường thủy đi lại khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh
Cảng Năm Căn là cảng quan trọng trong hệ thống cảng ở đồng bằng sông Cửu Long. Cảng được đầu tư xây dựng ở vị trí vòng cung đường biển của vùng Đông Nam Á. Cảng Năm Căn có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao thương với các nước trong vùng như: Singapore, Indonesia, Malaysia... Hiện nay, năng lực hàng hóa thông qua cảng trên 10.000 tấn/năm.
Cảng hàng không Cà Mau là sân bay vệ tinh, trực thuộc Cụm cảng Hàng không miền Nam. Đây là sân bay hàng không dân dụng cấp 4C có khả năng tiếp nhận các loại máy bay như ATR-72, AN-2, MI-17,Airbus A220, KingAir B200 và các loại máy bay khác có trọng tải cất cánh tương đương.
Tỉnh kết nghĩa
Tỉnh Ninh Bình, Việt Nam.
Tỉnh Bạc Liêu, Việt Nam
Ở Ninh Bình có các công trình phục vụ phát triển kinh tế xã hội mang tên các địa danh của tỉnh Cà Mau như: rạp Kim Mau, cống Tân Hưng, cống Biện Nhị, đường Cà Mau, sông Cà Mau, cầu Cà Mau, trạm bơm Rạch Ráng, cầu Chà Là, đê Năm Căn.
Ở Cà Mau có khoảng 100.000 người quê gốc ở Ninh Bình đang sinh sống. Ban Liên lạc đồng hương Ninh Bình tại Cà Mau họp mặt mỗi năm 1 lần. Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vì "Đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước".
Văn hóa
Âm nhạc
Áo mới Cà Mau
Bài ca đất phương Nam
Cà Mau thành phố trẻ
Cà Mau thắm đẹp mùa xuân
Dịu dàng Cà Mau
Đất mũi Cà Mau
Giữ mãi màu xanh đất mũi
Gởi về nơi cuối đất
Hát từ xóm biển Cà Mau
Hương rừng Cà Mau
Hương tràm
Kiện tướng anh hùng Đầm Dơi
Lãng mạn Cà Mau
Lời thề đất mũi
Người vợ Cà Mau
Nhớ Đầm Dơi
Ơi Cà Mau
Thương lắm Cà Mau
Thương người em gái Cà Mau
Thương nhớ Cà Mau
Thương về Cà Mau
Văn học
Kí Đất mũi mù xa
Kí Cà Mau quê xứ
Tiểu thuyết Đất rừng phương Nam
Truyện ngắn Cánh đồng bất tận
Truyện ngắn Cỏ dại
Truyện ngắn Đất Viên An
Truyện ngắn Hương rừng Cà Mau
Truyện ngắn Mối tình năm cũ
Truyện ngắn Ngủ ở mũi
Phim ảnh
Đất phương Nam (phim truyền hình)
Đất rừng phương Nam (phim điện ảnh)
Danh nhân
Nguyễn Tấn Dũng: Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Thủ tướng Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam
Nguyễn Thiện Nhân: Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh
Lê Phước Thọ: Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
Huỳnh Đảm: Nguyên Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam
Dương Thanh Bình:Trưởng Ban Dân nguyện Quốc hội Việt Nam
Nhà cách mạng Trần Văn Thời: Bí thư tỉnh ủy Bạc Liêu thời Pháp thuộc
Anh hùng Liệt sĩ Phan Ngọc Hiển: Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai
Các anh hùng Liệt sĩ tiêu biểu: Hồ Thị Kỷ, Quách Văn Phẩm, Lý Văn Lâm, Nguyễn Việt Khái, Lương Thế Trân
Nhà thơ Lê Giang
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư
Diễn viên hài kịch Lê Vũ Cầu
Diễn viên điện ảnh-truyền hình Quách Ngọc Ngoan
MC người Mỹ gốc Việt Việt Thảo
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
https://ipec.camau.gov.vn/wps/portal/gioi-thieu/tochucbomay/ubndtinh
http://camau.dcs.vn/
https://camau.gov.vn/wps/portal
Từ gốc Khmer
Vịnh Thái Lan
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11195
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%AFk%20L%E1%BA%AFk
|
Đắk Lắk
|
Đắk Lắk (trước đây là Darlac) là tỉnh miền núi nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Buôn Ma Thuột.
Năm 2019, Đắk Lắk là đơn vị hành chính Việt Nam có diện tích lớn thứ 4, đông thứ 10 về dân số, xếp thứ 22 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 41 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 37 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1,87 triệu người dân, số liệu kinh tế - xã hội thống kê GRDP đạt 78.686 tỉ Đồng (tương ứng với 3,4175 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 41,00 triệu đồng (tương ứng với 1.781 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,82%.
Thành phố Buôn Ma Thuột, nằm cách Hà Nội 1.410 km, cách thành phố Đà Nẵng 520 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, tỉnh Đắk Lắk được tách thành hai tỉnh là Đắk Lắk và Đắk Nông.
Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi dưỡng Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại.
Tên gọi
Bắt nguồn từ tiếng M'nông Đắk Lắk [daːk laːk] (phát âm gần giống như "đác lác") nghĩa là "hồ Lắk", với dak nghĩa là "nước" hay "hồ".
Địa lý
Vị trí địa lý
Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, đầu nguồn của hệ thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, nằm trong khoảng tọa độ địa lý từ 107°28'57"Đ- 108°59'37"Đ và từ 12°9'45"B - 13°25'06"B. Tỉnh Đắk Lắk có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Gia Lai và tỉnh Phú Yên
Phía đông giáp tỉnh Khánh Hoà
Phía nam giáp tỉnh Lâm Đồng và tỉnh Đắk Nông
Phía tây giáp tỉnh Mondulkiri của Campuchia với đường biên giới dài 193 km.
Độ cao trung bình 400 – 800 mét so với mặt nước biển, cao nhất là đỉnh núi Chư Yang Sin có độ cao 2442 m so với mực nước biển, đây cũng chính là đỉnh núi cao nhất ở Đắk Lắk.
Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử chia tách và sáp nhập nên 9.300 ha nằm giữa xã Ea Trang (huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk) và xã Ninh Tây (thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) nằm trong diện tranh chấp để phân định địa giới hành chính giữa hai tỉnh.
Điều kiện tự nhiên
Đắk Lắk có địa hình có hướng thấp dần từ đông nam sang tây bắc: nằm ở phía tây và cuối dãy Trường Sơn, là một cao nguyên rộng lớn, địa hình dốc thoải, khá bằng phẳng xen kẽ với các đồng bằng thấp ven các dòng sông chính. Khí hậu toàn tỉnh được chia thành hai tiểu vùng. Vùng phía tây bắc có khí hậu nắng nóng, khô hanh về mùa khô, vùng phía đông và phía nam có khí hậu mát mẻ, ôn hoà. thời tiết chia làm 2 mùa khá rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 kèm theo gió tây nam thịnh hành, các tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 7,8,9, lượng mưa chiếm 80-90% lượng mưa năm. Riêng vùng phía đông do chịu ảnh hưởng của đông Trường Sơn nên mùa mưa kéo dài hơn tới tháng 11. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trong mùa này độ ẩm giảm, gió đông bắc thổi mạnh, bốc hơi lớn, gây khô hạn nghiêm trọng. Lượng mưa trung bình nhiều năm toàn tỉnh đạt từ 1600–1800 mm.
Rừng Đắk Lắk có diện tích và trữ lượng lớn nhất nước với nhiều chủng loại gỗ quý hiếm, nhiều loại cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế vừa có giá trị khoa học, phân bố trong điều kiện thuận lợi nên tái sinh rừng có mật độ khá lớn. Khoáng sản với trữ lượng khác nhau, trong đó một số loại khoáng sản đã được xác định là sét cao lanh, sét gạch ngói, ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có nhiều loại khoáng sản khác như vàng, phosphor, than bùn, đá quý… có trữ lượng không lớn phân bố ở nhiều nơi trong tỉnh .
Hệ thống sông suối trên địa bàn tỉnh khá phong phú, phân bố tương đối đồng đều, tuy nhiên do địa hình dốc nên khả năng trữ nước kém, những khe suối nhỏ hầu như không có nước trong mùa khô. Bên cạnh hệ thống sông suối khá phong phú, trên địa bàn tỉnh hiện nay còn có rất nhiều hồ tự nhiên và hồ nhân tạo như hồ Lắk, Ea Kao, Buôn Triết, Ea So...
Nạn phá rừng
Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn có hơn 720.000 ha. Trong đó, diện tích đất có rừng hơn 526.000 ha, độ che phủ rừng đạt hơn 39,3% (tính cả cây cao su). Rừng được giao cho 15 công ty lâm nghiệp, 7 ban quản lý rừng đặc dụng, 4 ban quản lý rừng phòng hộ, 69 doanh nghiệp có chức năng quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh, khoanh nuôi bảo vệ rừng và một phần giao cho UBND cấp huyện, cấp xã quản lý, Thống kê của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk, trong năm 2020, các lực lượng chức năng đã phát hiện, xử lý 1.407 vụ vi phạm lâm luật, tịch thu 2.441,7 m3 gỗ và 717 phương tiện các loại, thu nộp ngân sách nhà nước hơn 18,8 tỷ đồng. So với năm 2019, số vụ vi phạm lâm luật giảm 217 vụ. Tuy số vụ giảm, nhưng những vụ phá rừng với quy mô lớn và táo bạo vẫn diễn ra.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến nạn phá rừng là do chính quyền địa phương có rừng chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm được giao trong quản lý bảo vệ rừng. Một số cán bộ, công chức trong lực lượng bảo vệ rừng còn thiếu trách nhiệm, thậm chí bao che, tiếp tay cho lâm tặc nên còn sơ hở để các đối tượng làm ăn phi pháp lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm.
Lịch sử
Đắk Lắk (còn ghi theo tiếng Pháp là Darlac) được thành lập theo nghị định ngày 22 tháng 11 năm 1904 của Toàn quyền Đông Dương.
Từ DAK có những từ tương đồng như Dar, đạ, đà. Các từ này tương ứng với các từ chỉ nơi chốn như Đà Nẵng, Đà Lạt, Đạ Tẻn, Đak Hà....v.v....Từ Dak = Dar = Đạ = Đà có nghĩa như một vùng lãnh thổ xuất hiện trong vùng đất của quốc gia Chăm Pa cổ xưa. Ngoài ra từ (Dar = Dak = Đạ = Đà) cũng có nghĩa là nước (như Đạ Lạch = dòng sông/suối của người Lạch (Đà Lạt), hay Đa Gui (Ma-đa-gui) = dòng sông "vàng" của người Mạ tại khu vực giáp ranh với Đồng Nai trên quốc lộ 20, nơi có rất nhiều người Mạ sinh sống), "Đạ / Đà" ám chỉ một nguồn nước như sông/suối thuộc quyền cai quản của một dân tộc thiểu số tại một khu vực nhất định. Trong các nghiên cứu về Chăm Pa, một số nhận định của các nhà nghiên cứu cũng cho rằng Champa quản lí đất nước giống như các tiểu bang thời nay ở nước ngoài.
Từ LAK có từ tương đồng LAC là tiếng của người bản địa ( Người M'nông R'Lăm ) Dak Lak có nghĩa là Nước mênh mông, Người M'nông từ họ sinh sống quanh hồ Lak. Theo các già làng ở vùng cao nguyên cũng cho rằng từ LAC là phiên âm của từ LẠCH. Theo dân gian thì người Lạch là các nhà buôn và trao đổi hàng hóa gốm xứ ở vùng cao nguyên (thương gia người dân tộc Lạch) trong thời Chăm Pa cổ. Các sử thi như sử thi Đăm Săn cũng nói về người Lạch. Từ DAKLAK hay DARLAC hoặc ĐẠ LẠCH ý nói như vùng đất hay địa bàn mà người Lạch hay trao đổi hàng hóa tại đây.
Các công sứ Pháp từ 1900 - 1930 là:
Leon Bourgeois (1899 - 1904)
Charles J. Bardin (1904 - 1905)
Henri Besnard (1905 - 1909)
Antoine G. Groslier (1909 - 1912)
Louis Cottez (1912 - 1913)
Leopold Sabatier (1913 - 1925)
Paul E. Giran (1925 - 1931)
Desteney (1931 - 1934; về sau làm Công sứ tỉnh Thừa Thiên)
Henri Gerbinis (1935 - 1938)....
Đến ngày 9 tháng 2 năm 1913 thì tỉnh này trở thành một đại lý hành chính trực thuộc tỉnh Kon Tum được thành lập cùng ngày. Mãi đến ngày 2 tháng 7 năm 1923 tỉnh Đắk Lắk mới được thành lập lại. Lúc mới thành lập, Đắk Lắk chưa chia huyện, tổng mà chỉ có đơn vị làng (còn gọi là buôn hay bon), người Ê Đê có 151 làng, người Bih có 24 làng, người Gia Rai có 11 làng, người Krung có 28 làng, người M'dhur có 120 làng, người M'Nông có 117 làng, người Xiêm có 1 làng. Năm 1931, trong cuộc cải cách hành chính toàn Đông Dương, tỉnh Đắk Lắk được chia làm 5 quận, gồm có Ban Mê Thuột, Buôn Hồ, Đăk Song, Lắk và M'Drắk, dưới có 440 làng.
Ngày 15 tháng 4 năm 1950, Bảo Đại ban hành Dụ số 6 đặt Cao nguyên Trung phần, trong đó có Đắk Lắk, làm Hoàng triều Cương thổ, có quy chế cai trị riêng.
Nghị định số 356-BNV/HC/NĐ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ngày 2 tháng 7 năm 1958 ấn định tỉnh Đắk Lắk (được ghi là Darlac) có 5 quận, 21 tổng và 77 xã. Trong đó, Quận Ban Mê Thuột có 4 tổng, Quận Lạc Thiện (đổi tên từ quận Lăk) có 7 tổng, Quận M'Đrak có 4 tổng, Quận Đak Song có 2 tổng và Quận Buôn Hồ có 4 tổng.
Ngày 23 tháng 1 năm 1959, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 24/NV, tách gần như toàn bộ quận Đak Song của tỉnh Darlac, lập ra tỉnh Quảng Đức. Như vậy tỉnh Darlac còn lại 4 quận. Sau đó quận M'Đrak lại bị xé lẻ, một phần nhập vào tỉnh Khánh Hòa và một phần nhập vào tỉnh Phú Yên. Tháng 12 năm 1960, Chính phủ cách mạng chính thức thành lập tỉnh Quảng Đức dựa trên sự phân chia ranh giới của địch, lấy mật danh là B4.
Ngày 20 tháng 12 năm 1963, lập thêm một quận mới tên là Phước An, quận lỵ đặt tại Phước Trạch, đến ngày 1 tháng 9 năm 1965 chuyển về Thuận Hiếu. Sau này lại bỏ cấp tổng, nên chỉ còn cấp quận (4 quận) và xã.
Sau năm 1975, tỉnh Đắk Lắk gồm thị xã Buôn Ma Thuột và 6 huyện: Đắk Mil, Đắk Nông, Krông Búk, Krông Pắc, Lắk và Buôn Hồ
Ngày 30 tháng 8 năm 1977, chia huyện Krông Búk thành 2 huyện: Krông Búk và Ea Súp; chia huyện Krông Pắk thành 2 huyện: Krông Pắc và M'Drắk.
Ngày 3 tháng 4 năm 1980, chia huyện Krông Búk thành 2 huyện: Krông Búk và Ea H'leo.
Ngày 19 tháng 9 năm 1981, thành lập huyện Krông Ana trên cơ sở tách ra từ huyện Krông Pắk và thị xã Buôn Ma Thuột; chia huyện Krông Pắk thành 2 huyện: Krông Pắk và Krông Bông.
Ngày 23 tháng 1 năm 1984, chia huyện Ea Súp thành 2 huyện: Ea Súp và Cư M'gar.
Ngày 22 tháng 2 năm 1986, chia huyện Đắk Nông thành 2 huyện: Đắk Nông và Đắk R'lấp.
Ngày 13 tháng 9 năm 1986, thành lập huyện Ea Kar trên cơ sở tách ra từ 2 huyện Krông Pắc và M'Drắk.
Ngày 9 tháng 11 năm 1987, chia huyện Krông Búk thành 2 huyện: Krông Búk và Krông Năng; thành lập huyện Krông Nô trên cơ sở tách một số xã thuộc các huyện Đắk Mil, Đắk Nông và Lắk.
Ngày 19 tháng 6 năm 1990, thành lập huyện Cư Jút trên cơ sở tách ra từ huyện Đắk Mil và thị xã Buôn Ma Thuột.
Ngày 21 tháng 1 năm 1995, chuyển thị xã Buôn Ma Thuột thành thành phố Buôn Ma Thuột.
Ngày 7 tháng 10 năm 1995, chia huyện Ea Súp thành 2 huyện: Ea Súp và Buôn Đôn.
Ngày 21 tháng 6 năm 2001, thành lập huyện Đắk Song trên cơ sở tách ra từ 2 huyện Đắk Nông và Đắk Mil.
Đến cuối năm 2002, tỉnh Đắk Lắk có diện tích 19.576,4 km², dân số 2.029.972 người, có tỉnh lị là thành phố Buôn Ma Thuột và 18 huyện: Buôn Đôn, Cư Jút, Cư M'gar, Đắk Mil, Đắk Nông, Đắk R'Lấp, Đắk Song, Ea H'leo, Ea Kar, Ea Súp, Krông Ana, Krông Bông, Krông Búk, Krông Năng, Krông Nô, Krông Pắc, Lắk, M'Drắk.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ra Nghị quyết số 22/2003/QH.11, tỉnh Đắk Lắk tách thành hai tỉnh mới là Đắk Lắk và Đắk Nông, nên số huyện giảm xuống còn 12:
Tỉnh Đắk Lắk gồm thành phố Buôn Ma Thuột và 12 huyện: Buôn Đôn, Cư M'gar, Ea H'leo, Ea Kar, Ea Súp, Krông Ana, Krông Bông, Krông Búk, Krông Năng, Krông Pắc, Lắk, M'Drắk, các xã Ea R'Bin và Nam Ka của huyện Krông Nô; các xã Hòa Khánh, Hòa Xuân và Hòa Phú của huyện Cư Jut.
Tỉnh Đắk Nông gồm 6 huyện: huyện Đắk R'Lấp; huyện Đắk Nông; huyện Đắk Song; huyện Đắk Mil; huyện Krông Nô (trừ các xã Ea R'Bin và Nam Ka); huyện Cư Jut (trừ các xã Hòa Khánh, Hòa Xuân và Hòa Phú).
Ngày 28 tháng 2 năm 2005, thành phố Buôn Ma Thuột được công nhận là đô thị loại II.
Ngày 27 tháng 8 năm 2007, chia huyện Krông Ana thành 2 huyện: Krông Ana và Cư Kuin.
Ngày 23 tháng 12 năm 2008, thành lập thị xã Buôn Hồ trên cơ sở tách ra từ huyện Krông Búk.
Tỉnh Đắk Lắk có 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện như ngày nay.
Ngày 9 tháng 2 năm 2010, thành phố Buôn Ma Thuột được công nhận là là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đắk Lắk.
Hành chính
Tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện, với 184 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 20 phường, 13 thị trấn và 151 xã.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Kinh tế chủ đạo của Đắk Lắk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nông sản, lâm sản. Tỉnh có tiềm năng về du lịch sinh thái. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2017, tỉnh Đắk Lắk xếp ở vị trí thứ 31/63 tỉnh thành. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích và sản phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả nước, với diện tích 182.343ha và sản lượng thu hoạch hàng năm đạt trên 400.000 tấn, chiếm 40% sản lượng cả nước. Tỉnh cũng là nơi trồng bông, cacao, cao su, điều lớn của Việt Nam. Đồng thời, là nơi phát triển các loại cây ăn trái khác, như cây bơ, sầu riêng, chôm chôm, xoài...
Năm 2016, Đánh giá về việc thực hiện 18 chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2016 cho thấy, có 12 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra, nổi bật nhất là chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, tổng sản phẩm xã hội (GRDP - theo giá so sánh 2010) khoảng 44.571 tỷ đồng, đạt 101,3% kế hoạch; tăng trưởng kinh tế 7,02%. Cơ cấu kinh tế (theo giá hiện hành): nông - lâm - thủy sản đạt 44,81%; công nghiệp - xây dựng đạt 14,48%; dịch vụ đạt 38,68% (kế hoạch năm 2016 tương ứng là: 43 - 44%, 16 - 17%, 36 - 37%).
-Ngành nông, lâm, thủy sản ước đạt 18.892 tỷ đồng, bằng 107,6% KH, tăng trưởng 4,25% (KH: 17.559 tỷ đồng, tăng 3,5-4%). Giá trị sản xuất của các loại cây trồng lâu năm và hằng năm trên địa bàn tỉnh tăng khoảng 250,4 tỷ đồng, tương ứng giá trị tăng thêm 118 tỷ đồng
-Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 4.100 tỷ đồng, bằng 97,6% kế hoạch do HĐND tỉnh giao (kế hoạch: 4.200 tỷ đồng) và đạt 120,2% kế hoạch Trung ương giao (kế hoạch: 3.671 tỷ đồng), tăng 20,2% so với thực hiện năm 2015
-Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) năm 2016 thực hiện 13.750 tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2015, đạt 108,2% kế hoạch.
Phấn đấu năm 2018, UBND tỉnh Đắk Lắk đề ra chỉ tiêu: Tổng sản phẩm xã hội đạt khoảng 51.480 tỷ đồng, tăng trưởng kinh tế 7,8-8%, thu nhập bình quân đầu người 41 triệu đồng, huy động vốn đầu tư toàn xã hội 27.720 tỷ đồng, tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 600 triệu USD, thu ngân sách nhà nước khoảng 5.000 tỷ đồng.
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Đắk Lắk có 695 trường học ở cấp phổ, trong đó có Trung học phổ thông có 53 trường, Trung học cơ sở có 221 trường, Tiểu học có 417 trường và 5 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 235 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.
Danh sách các trường Trung học Phổ thông
{|class= "wikitable"
|-
!width= "1%" |Stt
!width= "3%" |Mã trường
!width= "35%" |Tên trường
!width= "1%" |Stt
!width= "3%" |Mã trường
!width= "35%" |Tên trường
|-
|<center> 1
|<center> 001
|Sở Giáo dục - Đào tạo Đắk Lắk
|<center> 38
|<center> 038
|Trung học Phổ thông Lê Hữu Trác
|-
|<center> 2
|<center> 002
|Trung học Phổ thông Buôn Ma Thuột
|<center> 39
|<center> 039
|Trung học Phổ thông Trần Nhân Tông
|-
|<center> 3
|<center> 003
|Trung học Phổ thông Chu Văn An
| 40
|<center> 040
|Trung học Phổ thông Lê Quý Đôn
|-
|<center> 4
|<center> 004
|Trung học Phổ thông Quang Trung
|<center> 41
|<center> 041
|Trung tâm Giáo dục từ xa M’Drăk
|-
|<center> 5
|<center> 005
|Trung học Phổ thông Trần Phú
|<center> 42
|<center> 042
|Trung tâm Giáo dục từ xa Ea Kar
|-
|<center> 6
|<center> 006
|Trung học Phổ thông Dân tộc nội trú Nơ Trang Lơng
|<center> 43
|<center> 043
|Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng
|-
|<center> 7
|<center> 007
|Trung Tâm Giáo dục từ xa Đắk Lắk
|<center> 44
|<center> 044
|Trung tâm Giáo dục từ xa Krông Bông
|-
|<center> 8
|<center> 008
|Trung học Phổ thông Nguyễn Bỉnh Khiêm
|<center> 45
|<center> 045
|Trung tâm Giáo dục từ xa Buôn Ma Thuột
|-
|<center> 9
|<center> 009
|Trung học Phổ thông Lê Hồng Phong
|<center> 46
|<center> 046
|Trung học Phổ thông Hùng Vương
|-
|<center> 10
|<center> 010
|Trung học Phổ thông Buôn Hồ
|<center> 47
|<center> 047
|Trung cấp dạy nghề Đắk Lắk
|-
|<center> 11
|<center> 011
|Trung học Phổ thông Cư M’Gar
|<center> 48
|<center> 048
|Cao đẳng Nghề Thanh niên Dân tộc, Đắk Lắk
|-
|<center> 12
|<center> 012
|Trung học Phổ thông Krông Ana
|<center> 49
|<center> 049
|Trung học Phổ thông Phú Xuân
|-
|<center> 13
|<center> 013
|Trung học Phổ thông Việt Đức
|<center> 50
|<center> 050
|Trung học Phổ thông Phan Chu Trinh
|-
|<center> 14
|<center> 014
|Trung học Phổ thông Phan Bội Châu
|<center> 51
|<center> 051
|Trung học Phổ thông Nguyễn Trường Tộ
|-
|<center> 15
|<center> 015
|Trung học Phổ thông Ngô Gia Tự
|<center> 52
|<center> 052
|Trung học Phổ thông Lý Tự Trọng
|-
|<center> 16
|<center> 016
|Trung học Phổ thông Trần Quốc Toản
|<center> 53
|<center> 053
|Trung tâm Giáo dục từ xa Buôn Đôn
|-
|<center> 17
|<center> 017
|Trung học Phổ thông Krông Bông
|<center> 54
|<center> 054
|Trung tâm Giáo dục từ xa Ea Súp
|-
|<center> 18
|<center> 018
|Trung học Phổ thông Nguyễn Tất Thành
|<center> 55
|<center> 055
|Trung cấp Kinh tế Kỹ thuật Đắk Lắk
|-
|<center> 19
|<center> 019
|Trung học Phổ thông Ea H’leo
|<center> 56
|<center> 056
|Trường Văn hóa Nghệ thuật Đắk Lắk
|-
|<center> 20
|<center> 020
|Trung học Phổ thông huyện Lăk
|<center> 57
|<center> 057
|Trường Văn Hóa 3
|-
|<center> 21
|<center> 021
|Trung học Phổ thông Ea Sup
|<center> 58
|<center> 058
|Trung học Phổ thông Dân tộc nội trú Tây Nguyên
|-
|<center> 22
|<center> 022
|Trung học Phổ thông Hồng Đức (Buôn Ma Thuột)
|<center> 59
|<center> 059
|Trung học Phổ thông Thực hành Cao Nguyên
|-
|<center> 23
|<center> 023
|Trung học Phổ thông Nguyễn Trãi
|<center> 60
|<center> 060
|Trung học Phổ thông Nguyễn Huệ
|-
|<center> 24
|<center> 024
|Trung học Phổ thông Chuyên Nguyễn Du
|<center> 61
|<center> 061
|Trung học Phổ thông Nguyễn Văn Cừ
|-
|<center> 25
|<center> 025
|Trung học Phổ thông Cao Bá Quát
|<center> 62
|<center> 062
|Trung học Phổ thông Lê Duẩn
|-
|<center> 26
|<center> 026
|Trung học Phổ thông Phan Đình Phùng
|<center> 63
|<center> 063
|Trung học Phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai
|-
|<center> 27
|<center> 027
|Trung học Phổ thông Buôn Đôn
|<center> 64
|<center> 064
|Trường năng khiếu Thể dục Thể thao
|-
|<center> 28
|<center> 028
|Trung tâm Giáo dục từ xa Krông Ana
|<center> 65
|<center> 065
|Trung học Phổ thông Phan Đăng Lưu
|-
|<center> 29
|<center> 029
|Trung tâm Giáo dục từ xa Krông Pắk
|<center> 66
|<center> 066
|Trung học Phổ thông Trường Chinh
|-
|<center> 30
|<center> 030
|Trung tâm Giáo dục từ xa Buôn Hồ
|<center> 67
|<center> 067
|Trung học Phổ thông Trần Quang Khải
|-
|<center> 31
|<center> 031
|Trung tâm Giáo dục từ xa huyện Lăk
|<center> 68
|<center> 068
|Trung học Phổ thông Nguyễn Thái Bình
|-
|<center> 32
|<center> 032
|Trung tâm Giáo dục từ xa Cư M’Gar
|<center> 69
|<center> 069
|Trung học Phổ thông Trần Đại Nghĩa
|-
|<center> 33
|<center> 033
|Trung tâm Giáo dục từ xa Ea H’Leo
|<center> 70
|<center> 070
|Trung tâm Giáo dục từ xa Cư Kuin
|-
|<center> 34
|<center> 034
|Trung tâm Giáo dục từ xa Krông Năng
|<center> 71
|<center> 071
|Trung học Phổ thông Phạm Văn Đồng
|-
|<center> 35
|<center> 035
|Trung học Phổ thông Hai Bà Trưng
|<center> 72
|<center> 072
|Trung học Phổ thông Ea Rốk
|-
|<center> 36
|<center> 036
|Trung học Phổ thông Nguyễn Công Trứ
|<center> 73
|<center> 073
|Trung học Phổ thông Trần Hưng Đạo
|-
|<center> 37
|<center> 037
|Trung học Phổ thông Y Jut
|
|
|
|-
|}
Trường Đại Học / Cao đẳng / Trung cấp
Trường Đại học Tây Nguyên
Trường Đại học Buôn Ma Thuột
Trường Đại học Đông Á
Trường Đại học Luật Hà Nội phân hiệu Đắk Lắk
Học viện Hành chính Quốc gia khu vực Tây Nguyên
Trường Cao đẳng Văn Hóa - Nghệ thuật Tỉnh Đắk Lắk
Trường Cao đẳng Thực Hành FPT Polytechnic Tây Nguyên
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Đắk Lắk
Trường Cao đẳng Bách Khoa Tây Nguyên
Trường Cao đẳng Công nghệ Tây Nguyên
Trường Cao đẳng Y tế Đắk Lắk
Trường Cao đẳng Sư Phạm Đắk Lắk
Trường Cao đẳng Công Thương
Trường Trung cấp Đắk Lắk (Sáp nhập Trung cấp Đắk Lắk+Trung cấp Kinh tế kỹ thuật Đắk Lắk)
Trường Trung cấp Trường Sơn
Trường Trung cấp Tây nguyên
Dân cư
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2023, dân số toàn tỉnh Đắk Lắk đạt 2.207.244người, mật độ dân số đạt 135 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 462.013 người, chiếm 24,7% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 1.407.309 người, chiếm 75,3% dân số. Dân số nam đạt 942.578 người, trong khi đó nữ đạt 926.744 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,75 ‰ Đây cũng là tỉnh đông dân nhất vùng Tây Nguyên với hơn 1,8 triệu dân. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2023 đạt 25,76%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Đắk Lắk có 13 Tôn giáo khác nhau chiếm 577.920 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo với 265.760 người, thứ hai là Đạo Tin Lành với 181.670 người, thứ ba là Phật giáo với 126.660, thứ tư là Đạo Cao Đài có 3.572 người, cùng với các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 162 người, Hồi giáo có 65 người, Bửu sơn kỳ hương có 23 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có ba người, Bahá'í có hai người, ít nhất là Minh Sư Đạo, Minh Lý Đạo và Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa mỗi đạo có một người.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh chiếm đông nhất với 1.161.533 người, thứ hai là Người Ê Đê có 298.534 người, thứ ba là Người Nùng có 71.461 người, thứ tư là Người Tày có 51.285 người. Cùng các dân tộc ít người khác như M'nông có 40.344 người, Người Mông có 22.760 người, Người Thái có 17.135 người, Người Mường có 15.510 người...
Văn hóa
Đắk Lắk có bản sắc văn hóa đa dạng như các trường ca truyền miệng lâu đời Đam San, Xinh Nhã dài hàng nghìn câu, như các ngôn ngữ của người Ê Đê, người M'Nông...như các đàn đá, đàn T'rưng, đàn k'lông pút... Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi dưỡng Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại.
Các lễ hội đáng chú ý gồm có Lễ mừng lúa mới, Lễ bỏ mả, Lễ hội đâm trâu, Lễ cúng Bến nước, Lễ hội đua voi, Lễ hội Cồng chiêng và Lễ hội cà phê… được tổ chức đều đặn hàng năm như một truyền thống. Các Di tích lịch sử tại Đắk Lắk như Đình Lạc Giao, Chùa Sắc tứ Khải Đoan, Nhà đày Buôn Ma Thuột, Khu Biệt điện Bảo Đại, Toà Giám mục tại Đắk Lắk, Hang đá Đắk Tur và Tháp Yang Prong...
Y tế
Đắk Lắk là trung tâm về Y tế vùng Tây Nguyên. Với một số bệnh viện lớn cấp Vùng như Bệnh viện Đa khoa Vùng Tây Nguyên với quy mô 800 giường bệnh nội trú. Với nỗ lực của các Y - Bác sĩ, bệnh viện đã hạn chế được một phần về tình trạng bệnh nhân cấp cứu phải chuyển tuyến đến các bệnh viện tuyến trên như: Bệnh viện Chợ Rẫy (Hồ Chí Minh), Bệnh viện Đà Nẵng (Đà Nẵng), Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội).
Thể thao
Đắk Lắk có Câu lạc bộ bóng chuyền Đắk Lắk hiện đang thi đấu tại giải vô địch và câu lạc bộ bóng đá Đắk Lắk thi đấu ở giải hạng nhất Quốc gia
Du lịch
Du lịch Đắk Lắk đang có lợi thế với nhiều địa danh cho phép khai thác theo hướng kết hợp cảnh quan, sinh thái, môi trường và truyền thống văn hóa của nhiều dân tộc trong tỉnh như hồ Lắk, Thác Gia Long, cụm du lịch Buôn Đôn, Thác Krông Kmar, Diệu Thanh, Tiên Nữ… bên cạnh các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên Chư Yang Sin, Easo…
Giao thông
Đắk Lắk có Sân bay Buôn Ma Thuột tuyến từ Buôn Ma Thuột đến các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Vinh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Cần Thơ Ngoài ra, 14 tỉnh lộ với tổng chiều dài 460 km, có quốc lộ 14 chạy qua nối với thành phố Đà Nẵng qua các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và nối với Thành phố Hồ Chí Minh qua Bình Phước và Bình Dương...Song song với biên giới Campuchia có quốc lộ 14C. Quốc lộ 27 nối thành phố Buôn Ma Thuột với thành phố Phan Rang đi qua tỉnh Lâm Đồng có đoạn chung với quốc lộ 20. Quốc lộ 26 từ Đắk Lắk đi tỉnh Khánh Hòa, nối với Quốc lộ 1 tại phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hòa. Quốc lộ 29 nối thị xã Buôn Hồ với tỉnh Phú Yên tại cảng Vũng Rô. Đường cao tốc Khánh Hòa – Buôn Ma Thuột từ thị xã Ninh Hòa của Khánh Hòa đến điểm cuối tại huyện Cư Kuin của Đắk Lắk.
Hình ảnh
<center>
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tin tức Đắk Lắk
Tỉnh Đắk Lắk
Đài truyền hình và phát thanh Đắk Lắk
Đắk Lắk
Tây Nguyên
|
11197
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng%20Th%C3%A1p
|
Đồng Tháp
|
Đồng Tháp là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Vùng đất Đồng Tháp đã được Chúa Nguyễn khai phá vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII. Tỉnh Đồng Tháp được thành lập trên cơ sở hợp nhất tỉnh Kiến Phong và tỉnh Sa Đéc vào năm 1976.
Năm 2018, Đồng Tháp là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 15 về số dân, xếp thứ 30 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 43 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 57 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Năm 2022, với 1.624.100 người, GRDP đạt 100.184 tỉ Đồng (tương ứng với 4,36 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 62,3 triệu đồng (tương ứng với 2.678 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,11%.
Tỉnh Đồng Tháp là nơi sông Tiền chảy vào địa phận Việt Nam, có đường biên giới giáp với Campuchia có chiều dài hơn 50 km với 4 cửa khẩu, trong đó có 2 cửa khẩu quốc tế là Thường Phước và Dinh Bà. Đồng Tháp nổi tiếng với những ruộng sen, hiện diện khắp nơi ở Đồng Tháp. Ngó và hạt sen trở thành đặc sản của vùng này. Ngoài ra, Đồng Tháp rất thích hợp cho loại hình du lịch sinh thái.
Lịch sử
Thời nhà Nguyễn độc lập
Đất Đồng Tháp được khai phá vào khoảng thế kỷ 17, thế kỷ 18 dưới thời các Chúa Nguyễn. Từ đầu thế kỷ 17, đã có lưu dân Việt đến vùng Sa Đéc khẩn hoang, lập ấp. Thời Gia Long, Sa Đéc thuộc huyện Vĩnh An, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh.
Từ năm 1832, sau cải cách hành chính của Minh Mạng, phần đất tỉnh Đồng Tháp ngày nay nằm trên địa bàn hai tỉnh Định Tường nhà Nguyễn (phần phía Bắc tỉnh Đồng Tháp, cũng là phần phía bờ Bắc sông Tiền Giang) và tỉnh An Giang nhà Nguyễn (phần phía bờ Nam sông Tiền, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu, nay là phần phía Đông Nam tỉnh Đồng Tháp). Phần đất Đồng Tháp nằm trên đất tỉnh Định Tường nhà Nguyễn thì trực thuộc tỉnh Định Tường này (một trong 3 tỉnh miền Đông của Nam Kỳ lục tỉnh) cho đến khi Pháp chiếm Định Tường năm 1861. Phần đất Đồng Tháp nằm trên đất tỉnh An Giang nhà Nguyễn thì trực thuộc tỉnh An Giang này (một trong 3 tỉnh miền Tây của Nam Kỳ lục tỉnh) cho đến khi Pháp chiếm tỉnh An Giang năm 1867.
Thời Pháp thuộc
Thời Pháp thuộc, địa bàn tỉnh Đồng Tháp ngày nay bao gồm toàn bộ đất đai tỉnh Sa Đéc, quận Hồng Ngự của tỉnh Châu Đốc, tổng Phong Thạnh Thượng thuộc quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên và một phần nhỏ đất đai thuộc quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho.
Trước năm 1900
Sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ vào năm 1862, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh Định Tường cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Lúc bấy giờ, hạt Thanh tra Kiến Tường được thành lập trên địa bàn huyện Kiến Phong thuộc phủ Kiến Tường, tỉnh Định Tường cũ. Trụ sở hạt Thanh tra Kiến Tường đặt tại Cao Lãnh. Lúc đầu, hạt Thanh tra tạm gọi tên theo tên các phủ huyện cũ, sau mới đổi tên gọi theo địa điểm đóng trụ sở. Về sau, trụ sở được dời từ Cao Lãnh (thuộc thôn Mỹ Trà) đến Cần Lố (thuộc thôn Mỹ Thọ). Chính vì vậy, hạt Thanh tra Kiến Tường cũng được đổi tên thành hạt Thanh tra Cần Lố; bao gồm 3 tổng: Phong Hòa, Phong Phú và Phong Thạnh.
Vào các ngày 20, 22 và 24 tháng 6 năm 1867, Pháp vi phạm hòa ước 1862, chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Lúc này, thực dân Pháp cũng xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn ở khu vực này, đồng thời cũng đặt ra các hạt Thanh tra. Ngày 16 tháng 8 năm 1867, Pháp lập hạt Thanh tra Sa Đéc, là một trong 24 hạt thanh tra trên toàn cõi Nam Kỳ. Lúc bấy giờ, hạt Thanh tra Sa Đéc được thành lập trên địa bàn phủ Tân Thành thuộc tỉnh An Giang cũ. Ngày 4 tháng 12 năm 1867, huyện Phong Phú được tách ra để lập hạt Thanh tra mới. Ngày 1 tháng 1 năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bãi Sào (Sóc Trăng) lập thành quận đặt dưới sự cai trị của người Pháp, lập Tòa Bố tại Sa Đéc. Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành) đặt lỵ sở tại Sa Đéc gồm có 3 huyện: Vĩnh An, An Xuyên và Phong Phú.
Ngày 20 tháng 9 năm 1870, giải thể hạt Thanh tra Cần Lố, đưa hai tổng Phong Hòa và Phong Phú vào hạt Thanh tra Cái Bè; đồng thời đưa tổng Phong Thạnh qua hạt Thanh tra Sa Đéc. Ngày 5 tháng 6 năm 1871, giải thể hạt Thanh tra Cái Bè nhập vào địa bàn hạt Thanh tra Mỹ Tho. Đồng thời, địa bàn tổng Phong Thạnh cũng được chia cho 3 hạt thanh tra Châu Đốc, Long Xuyên và Sa Đéc:
Hạt Châu Đốc: lấy phần đất 3 làng An Bình, An Long và Tân Thạnh thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong. Phần đất này nằm ở phía tây bắc Đồng Tháp Mười, sau gọi là tổng An Phước thuộc hạt Châu Đốc.
Hạt Long Xuyên: lấy địa phận các làng Tân Phú, Tân Thạnh của tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong để lập tổng mới gọi là tổng Phong Thạnh Thượng thuộc hạt Long Xuyên.
Hạt Sa Đéc: lấy địa phận các làng Mỹ Ngãi, Mỹ Trà, Nhị Mỹ, Phong Mỹ (trước đây thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong) để lập tổng mới cũng lấy tên là tổng Phong Thạnh. Lại lấy địa phận các làng Mỹ Long, Bình Hàng Tây (nguyên thuộc tổng Phong Phú, huyện Kiến Phong) để lập tổng mới gọi là tổng Phong Nẫm. Hai tổng Phong Thạnh (mới) và Phong Nẫm đều thuộc về hạt Sa Đéc.
Ngày 05 tháng 6 năm 1871, hạt Sa Đéc nhận thêm hạt Cần Thơ vừa bị giải thể. Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định tách huyện Phong Phú thuộc hạt Sa Đéc và hợp với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành một hạt, đặt Tòa Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Tòa Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng. Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang).
Ngày 05 tháng 1 năm 1876, hạt Thanh tra Sa Đéc đổi thành hạt tham biện Sa Đéc, các thôn đổi thành làng. Sa Đéc trở thành một hạt tham biện (arrondissement) thuộc khu vực hành chính (circonscription) Vĩnh Long do thực dân Pháp đặt ra. Địa hạt Sa Đéc trong giai đoạn 1876–1899 không còn chia cấp huyện nữa mà trực tiếp quản lý từ cấp tổng trở xuống. Hạt Sa Đéc lúc này bao gồm 9 tổng: An Hội, An Mỹ, An Phong, An Thới, An Tịnh, An Trung, An Thạnh, Phong Nẫm, Phong Thạnh.
Giai đoạn 1900–1945
Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương vào ngày 20 tháng 12 năm 1899 thì kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, đổi tất cả các hạt ở Nam Kỳ thành tỉnh. Lúc bấy giờ, các hạt tham biện Sa Đéc, Long Xuyên và Châu Đốc lần lượt trở thành các tỉnh sau: tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc. Tình hình đó kéo dài cho đến đầu năm 1956. Ban đầu, các tổng trực thuộc tỉnh. Về sau, thực dân Pháp mới tiến hành lập các quận trực thuộc tỉnh, quận vốn là đơn vị hành chính trung gian giữa cấp tỉnh và cáp tổng.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, thực dân Pháp lập tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc nằm ở hai bên sông Tiền Giang, giáp các tỉnh Long Xuyên, Tân An, Vĩnh Long, Cần Thơ và Mỹ Tho. Dân số tỉnh Sa Đéc theo số liệu thống kê năm 1901 là 182.924 người và năm 1920 là 203.588 người. Năm 1903, tỉnh Sa Đéc có 10 tổng với 79 làng trực thuộc như sau: An Hội (6 làng), An Mỹ (15 làng), An Phong (8 làng), An Thới (9 làng), An Tịnh (4 làng), An Trung (6 làng), An Thạnh Thượng (6 làng), An Thạnh Hạ (6 làng), Phong Nẫm (11 làng), Phong Thạnh (6 làng).
Tỉnh lỵ Sa Đéc ban đầu đặt tại làng Vĩnh Phước thuộc quận Châu Thành (kể từ năm 1924). Sau này, thực dân Pháp hợp nhất ba làng Tân Phú Đông, Vĩnh Phước và Hòa Khánh lại thành một làng lấy tên là Tân Vĩnh Hòa. Từ đó, tỉnh lỵ Sa Đéc thuộc địa bàn làng Tân Vĩnh Hòa.
Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Sa Đéc bị chính quyền thực dân Pháp giải thể, toàn bộ diện tích tỉnh bị sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Long. Ngày 10 tháng 12 năm 1913, thực dân Pháp thành lập quận Cao Lãnh thuộc tỉnh Vĩnh Long. Ngày 1 tháng 4 năm 1916, thực dân Pháp cho thành lập thêm quận Sa Đéc và quận Lai Vung cùng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Sau năm 1924, tỉnh Sa Đéc được tái lập với 3 quận trực thuộc: Châu Thành (đổi tên từ quận Sa Đéc), Cao Lãnh, Lai Vung.
Năm 1917, thực dân Pháp lập quận Chợ Mới thuộc tỉnh Long Xuyên. Lúc này tổng Phong Thạnh Thượng trực thuộc quận Chợ Mới. Ngày 19 tháng 12 năm 1929, thực dân Pháp lập thêm quận Hồng Ngự thuộc tỉnh Châu Đốc do tách ra từ quận Tân Châu cùng tỉnh. Quận Hồng Ngự gồm có 2 tổng trực thuộc: Cù Lao Tây và An Phước.
Giai đoạn 1945–1954
Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc nằm trong danh sách 21 tỉnh ở Nam Bộ. Lúc này, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Đồng thời, chính quyền Việt Minh cũng cho thành lập thị xã Sa Đéc trực thuộc tỉnh Sa Đéc trên cơ sở tách đất làng Tân Vĩnh Hòa và các vùng lân cận.
Ngày 19 tháng 5 năm 1947, Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ tự trị thân Pháp quyết định tách đất quận Thốt Nốt để lập thêm quận Lấp Vò ban đầu cùng thuộc tỉnh Long Xuyên. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, tỉnh Sa Đéc nhận thêm quận Lấp Vò từ tỉnh Long Xuyên. Ngày 12 tháng 9 năm 1947, theo chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), lúc bấy giờ có sự thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên, thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu. Theo đó, tỉnh Long Châu Tiền nằm ở phía bờ trái (tả ngạn) sông Hậu, hai bên sông Tiền, thuộc khu 8 và có 5 huyện: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B và Lấp Vò. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, huyện Lấp Vò được trả về tỉnh Sa Đéc. Cũng trong năm đó, huyện Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền chia thành 2 huyện mới là Phú Châu và Tân Châu.
Tháng 6 năm 1951, tỉnh Long Châu Tiền hợp nhất với tỉnh Sa Đéc thành tỉnh Long Châu Sa, gồm 7 huyện: Châu Thành (của tỉnh Sa Đéc cũ), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân Hồng, Tân Châu, Phú Châu, Chợ Mới. Trong đó, hai huyện Tân Hồng và Tân Châu vốn là hai huyện Hồng Ngự và Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền trước đó. Tháng 7 năm 1951, nhập huyện Lấp Vò vào tỉnh Long Châu Sa. Tuy nhiên, tên các tỉnh Long Châu Tiền, Long Châu Sa lại không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Đến cuối năm 1954, tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc đều được chính quyền Việt Minh tái lập trở lại.
Giai đoạn 1956–1976
Việt Nam Cộng hòa
Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Sa Đéc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc như thời Pháp thuộc. Năm 1955, quận Cao Lãnh vẫn thuộc tỉnh Sa Đéc; tổng Phong Thạnh Thượng vẫn thuộc quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên và quận Hồng Ngự vẫn thuộc tỉnh Châu Đốc như cũ. Ngày 17 tháng 2 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh 22–NV thành lập tỉnh Phong Thạnh bao gồm đất đai của quận Cao Lãnh thuộc tỉnh Sa Đéc, quận Hồng Ngự thuộc tỉnh Châu Đốc, tổng Phong Thạnh Thượng thuộc quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên và một phần nhỏ đất đai thuộc quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho trước đó. Tỉnh lỵ tỉnh Phong Thạnh đặt tại Cao Lãnh. Thời gian này, tỉnh Sa Đéc vẫn còn tồn tại với 3 quận trực thuộc còn lại: Châu Thành, Lai Vung, Lấp Vò.
Đến ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh 143–NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Thạnh được đổi tên thành tỉnh Kiến Phong; còn toàn bộ phần còn lại tỉnh Sa Đéc bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Tỉnh lỵ tỉnh Kiến Phong có tên là "Cao Lãnh", về mặt hành chính thuộc xã Mỹ Trà, quận Cao Lãnh. Năm 1957, tỉnh Kiến Phong gồm 4 quận ban đầu: Cao Lãnh, Mỹ An, Thanh Bình và Hồng Ngự. Trong đó, quận Mỹ An được thành lập mới trên phần đất phía đông bắc thuộc quận Cao Lãnh và một phần đất đai thuộc quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho trước đó. Quận Thanh Bình được thành lập mới bao gồm toàn bộ đất đai của tổng Phong Thạnh Thượng, toàn bộ Cù Lao Tây (trước thuộc quận Hồng Ngự) và một phần nhỏ đất đai thuộc quận Hồng Ngự trước đó.
Ngày 13 tháng 7 năm 1961, lại tách đất quận Cao Lãnh để lập mới quận Kiến Văn cùng thuộc tỉnh Kiến Phong. Năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho lập mới quận Đồng Tiến thuộc tỉnh Kiến Phong trên cơ sở tách phần lớn vùng đất phía đông của quận Thanh Bình hợp với một phần nhỏ đất đai phía bắc trước đó thuộc quận Cao Lãnh. Năm 1973, tỉnh Kiến Phong có 6 quận: Cao Lãnh, Mỹ An, Kiến Văn, Thanh Bình, Đồng Tiến, Hồng Ngự. Ngày 12 tháng 7 năm 1974, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lập quận mới có tên là quận Hậu Mỹ thuộc tỉnh Định Tường (trước năm 1956 là tỉnh Mỹ Tho). Lúc này, xã Mỹ Đa thuộc quận Mỹ An của tỉnh Kiến Phong được giao về cho quận Hậu Mỹ của tỉnh Định Tường quản lý. Các đơn vị hành chính của quận Hậu Mỹ chưa sắp xếp xong thì chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Địa bàn tỉnh Sa Đéc vừa bị giải thể tương ứng với quận Sa Đéc và quận Lấp Vò cùng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Trong đó, quận Châu Thành thuộc tỉnh Sa Đéc cũ được đổi tên thành quận Sa Đéc, riêng quận Lai Vung trước đó cũng bị giải thể và sáp nhập vào quận Lấp Vò. Ngày 8 tháng 10 năm 1957, theo Nghị định số 308–BNV/NC/NĐ của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa, quận Sa Đéc và quận Lấp Vò cùng trực thuộc tỉnh Vĩnh Long. Lúc này, xã Tân Vĩnh Hòa chỉ còn giữ vai trò là quận lỵ quận Sa Đéc. Ngày 11 tháng 7 năm 1962, tỉnh Vĩnh Long cho thành lập mới hai quận là Đức Tôn và Đức Thành, do lần lượt tách ra từ quận Sa Đéc và quận Lấp Vò.
Ngày 24 tháng 9 năm 1966, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 162–SL/ĐUHC quyết định tái lập tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc mới tách ra từ tỉnh Vĩnh Long, chỉ gồm phần đất nằm giữa hai con sông Tiền Giang và Hậu Giang, với diện tích khoảng 900 km². Tỉnh lỵ tỉnh Sa Đéc có tên là "Sa Đéc", về mặt hành chính thuộc xã Tân Vĩnh Hòa, quận Châu Thành (từ sau năm 1968 thuộc quận Đức Thịnh). Tỉnh Sa Đéc khi đó bao gồm 4 quận trực thuộc: Châu Thành (do đổi tên từ quận Sa Đéc trước đó), Lấp Vò, Đức Tôn và Đức Thành. Đến ngày 14 tháng 3 năm 1968, lại đổi tên quận Châu Thành thành quận Đức Thịnh thuộc tỉnh Sa Đéc. Năm 1973, tỉnh Sa Đéc vẫn gồm 4 quận trực thuộc như cũ: Đức Thịnh, Đức Tôn, Đức Thành, Lấp Vò.
Chính quyền Cách mạng
Chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng phân chia, sắp xếp lại các đơn vị hành chính trong tỉnh như bên chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Cuối năm 1956, chính quyền Cách mạng thành lập cũng tỉnh Kiến Phong, đến giữa năm 1957 giải thể và sáp nhập phần còn lại của tỉnh Sa Đéc vào tỉnh Vĩnh Long.
Chính quyền Cách mạng khi đó cũng đồng thời tách xã Mỹ Trà và các vùng lân cận để thành lập thị xã Cao Lãnh thuộc tỉnh Kiến Phong. Như vậy, lúc bấy giờ thị xã Cao Lãnh và huyện Cao Lãnh cùng là hai đơn vị hành chính cấp huyện ngang bằng nhau. Sau đó, chính quyền Cách mạng cũng cho thành lập thêm huyện Kiến Văn, huyện Mỹ An và huyện Thanh Bình như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh Kiến Phong khi đó gồm các đơn vị hành chính trực thuộc: thị xã Cao Lãnh, huyện Cao Lãnh, huyện Mỹ An (ngày nay là huyện Tháp Mười), huyện Kiến Văn, huyện Thanh Bình, huyện Hồng Ngự. Tháng 12 năm 1965 tỉnh Kiến Phong nhận thêm huyện Chợ Mới từ tỉnh An Giang (trước năm 1956 thuộc tỉnh Long Xuyên).
Ngày 5 tháng 5 năm 1969, tỉnh Kiến Phong thành lập thêm huyện Tam Nông, tương ứng với địa bàn quận Đồng Tiến của chính quyền Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ. "Tam Nông" vốn là tên một huyện của tỉnh Phú Thọ kết nghĩa với tỉnh Kiến Phong trong thời kỳ đấu tranh chống lại quân đội Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam.
Năm 1957, chính quyền Cách mạng cũng giải thể và sáp nhập tỉnh Sa Đéc vào tỉnh Vĩnh Long. Đồng thời, huyện Châu Thành cũ cũng đổi tên thành huyện Sa Đéc. Như vậy, lúc bấy giờ thị xã Sa Đéc và huyện Sa Đéc là hai đơn vị hành chính cấp huyện ngang bằng nhau và cùng thuộc tỉnh Vĩnh Long. Địa bàn thị xã Sa Đéc của chính quyền Cách mạng khi đó tương ứng với xã Tân Vĩnh Hòa thuộc quận Sa Đéc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Bên cạnh đó, huyện Lai Vung trước đó cũng bị giải thể và sáp nhập vào huyện Lấp Vò cùng thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Trong giai đoạn 1963–1968, chính quyền Cách mạng lại tách đất huyện Châu Thành để thành lập thêm huyện Lê Hà (lấy tên một người chiến sĩ cộng sản đã hy sinh trước đó) thuộc tỉnh Vĩnh Long có địa giới hành chính trùng với quận Sa Đéc sau năm 1962 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Huyện Lê Hà sau năm 1968 bị giải thể. Trong giai đoạn 1966–1974, địa bàn tỉnh Sa Đéc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Vĩnh Long của chính quyền Cách mạng quản lý. Do đó, huyện Lấp Vò, huyện Sa Đéc và thị xã Sa Đéc vẫn thuộc tỉnh Vĩnh Long trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, tên gọi các quận Đức Thịnh, Đức Tôn và Đức Thành cũng không được phía chính quyền Cách mạng công nhận và sử dụng.
Tháng 8 năm 1974, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể các tỉnh Kiến Phong và An Giang để tái lập các tỉnh Long Châu Tiền và tỉnh Sa Đéc. Tỉnh Sa Đéc gồm các huyện Chợ Mới, Cao Lãnh, Kiến Văn, Mỹ An và thị xã Cao Lãnh của tỉnh Kiến Phong cũ; đồng thời cũng nhận lại các huyện Lấp Vò, Châu Thành, thị xã Sa Đéc của tỉnh Vĩnh Long giao lại; tỉnh lỵ tỉnh Sa Đéc khi đó đặt tại thị xã Sa Đéc. Tỉnh Long Châu Tiền gồm các huyện: Hồng Ngự, Thanh Bình, Tam Nông của tỉnh Kiến Phong cũ và các huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân A và Phú Tân B của tỉnh An Giang cũ; tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Tân Châu, huyện Tân Châu (ngày nay là thị xã Tân Châu).
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Sa Đéc và tỉnh Long Châu Tiền như trước đó cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chính tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245–NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Long Châu Tiền, tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Tường sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Sa Đéc và tỉnh Kiến Phong cũ thời Việt Nam Cộng hòa được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh.
Từ năm 1976 đến nay
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định hợp nhất tỉnh Kiến Phong và tỉnh Sa Đéc thời Việt Nam Cộng hòa để thành lập tỉnh mới có tên gọi là tỉnh Đồng Tháp, có tỉnh lỵ ban đầu đặt tại thị xã Sa Đéc. Tỉnh Đồng Tháp lúc này gồm thị xã Sa Đéc, và 5 huyện: Cao Lãnh, Châu Thành, Hồng Ngự, Lấp Vò, Tam Nông. Ngày 5 tháng 1 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 4–CP về việc chia huyện Cao Lãnh thành hai huyện lấy tên là huyện Cao Lãnh và huyện Tháp Mười; đồng thời đổi tên huyện Lấp Vò thành huyện Thạnh Hưng thuộc tỉnh Đồng Tháp.
Ngày 23 tháng 2 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 13–HĐBT, điều chỉnh địa giới hành chính một số huyện của tỉnh Đồng Tháp. Trong đó, chia huyện Tam Nông thành hai huyện lấy tên là huyện Tam Nông và huyện Thanh Bình. Đồng thời, thành lập thị xã Cao Lãnh trên cơ sở tách thị trấn Cao Lãnh và các xã Hòa An, Mỹ Trà, Mỹ Tân của huyện Cao Lãnh. Ngày 22 tháng 4 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 41–HĐBT, chia huyện Hồng Ngự thành hai huyện lấy tên là huyện Hồng Ngự và huyện Tân Hồng. Đến ngày 27 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam tiếp tục quyết định chia huyện Thạnh Hưng thành hai huyện lấy tên là huyện Thạnh Hưng và huyện Lai Vung.
Ngày 29 tháng 4 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 36–CP về việc di chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Tháp từ thị xã Sa Đéc về thị xã Cao Lãnh. Ngày 6 tháng 12 năm 1996, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 81–CP về việc đổi tên huyện Thạnh Hưng thuộc tỉnh Đồng Tháp thành huyện Lấp Vò. Cuối năm 2003, tỉnh Đồng Tháp có thị xã Cao Lãnh, thị xã Sa Đéc, và các huyện là Tân Hồng, Hồng Ngự, Tam Nông, Thanh Bình, Tháp Mười, Cao Lãnh, Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành.
Ngày 16 tháng 1 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 10/2007/NĐ–CP về việc thành lập thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Cao Lãnh. Ngày 23 tháng 12 năm 2008, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 08/NĐ–CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Hồng Ngự để thành lập thị xã Hồng Ngự, thành lập phường thuộc thị xã Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp. Ngày 14 tháng 10 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 113/NQ–CP về việc thành lập thành phố Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ 5.981 ha diện tích tự nhiên, 152.237 nhân khẩu và 09 đơn vị hành chính cấp xã của thị xã Sa Đéc.
Ngày 10 tháng 2 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 210/QĐ–TTg công nhận thành phố Sa Đéc là đô thị loại II. Ngày 22 tháng 1 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 155/QĐ–TTg công nhận thành phố Cao Lãnh là đô thị loại II. Ngày 18 tháng 9 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1003/NQ–UBTVQH14 về việc thành lập thành phố Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ 121,84 km² diện tích tự nhiên và 100.610 người của thị xã Hồng Ngự (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 năm 2020).
Tỉnh Đồng Tháp có 3 thành phố và 9 huyện như hiện nay.
Địa lý
Vị trí địa lý
Đồng Tháp là một trong 13 tỉnh của vùng Đồng bằng sông Cửu Long và là tỉnh duy nhất có địa bàn ở cả hai bờ sông Tiền. Lãnh thổ của tỉnh Đồng Tháp nằm trong giới hạn tọa độ 10°07’ – 10°58’ vĩ độ Bắc và 105°12’ – 105°56’ kinh độ Đông. Tỉnh có vị trí địa lý:
Phía đông giáp với tỉnh Long An và tỉnh Tiền Giang
Phía tây giáp tỉnh An Giang
Phía nam giáp với tỉnh Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ
Phía bắc giáp tỉnh Prey Veng của Campuchia và tỉnh Long An.
Tỉnh Đồng Tháp có đường biên giới quốc gia giáp với Campuchia với chiều dài khoảng 50 km từ Hồng Ngự đến Tân Hồng, với 4 cửa khẩu là Thông Bình, Dinh Bà, Mỹ Cân và Thường Phước. Hệ thống đường Quốc lộ 30, 80, 54 cùng với Quốc lộ N1, N2 gắn kết Đồng Tháp với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong khu vực.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình Đồng Tháp tương đối bằng phẳng với độ cao phổ biến 1–2 mét so với mặt biển. Địa hình được chia thành 2 vùng lớn là vùng phía bắc sông Tiền và vùng phía nam sông Tiền. Đồng Tháp nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, đồng nhất trên địa giới toàn tỉnh, khí hậu ở đây được chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm trung bình năm là 82,5%, số giờ nắng trung bình 6,8 giờ/ngày. Lượng mưa trung bình từ 1.170 – 1.520 mm, tập trung vào mùa mưa, chiếm 90 – 95% lượng mưa cả năm. Những đặc điểm về khí hậu như trên tương đối thuận lợi cho phát triển nông nghiệp toàn diện.
Đất đai của Đồng Tháp có kết cấu mặt bằng kém bền vững lại tương đối thấp, nên làm mặt bằng xây dựng đòi hỏi kinh phí cao, nhưng rất phù hợp cho sản xuất lương thực.
Đất đai tại tỉnh Đồng Tháp có thể chia làm 4 nhóm đất chính là nhóm đất phù sa (chiếm 59,06% diện tích đất tự nhiên), nhóm đất phèn (chiếm 25,99% diện tích tự nhiên), đất xám (chiếm 8,67% diện tích tự nhiên), nhóm đất cát (chiếm 0,04% diện tích tự nhiên). Nguồn rừng tại Đồng Tháp chỉ còn quy mô nhỏ, diện tích rừng tràm còn dưới 10.000 ha. Động vật, thực vật rừng rất đa dạng có rắn, rùa, cá, tôm, trăn, cò, cồng cộc, đặc biệt là sếu cổ trụi.
Đồng Tháp là tỉnh rất nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu có: Cát xây dựng các loại, phân bố ở ven sông, cồn hoặc các cù lao, là mặt hàng chiến lược của tỉnh trong xây dựng. Sét gạch ngói có trong phù sa cổ, trầm tích biển, trầm tích sông, trầm tích đầm lầy, phân bố rộng khắp trên địa bàn tỉnh với trữ lượng lớn. Sét cao lanh có nguồn trầm tích sông, phân bố ở các huyện phía bắc tỉnh. Than bùn có nguồn gốc trầm tích từ thế kỷ thứ IV, phân bố ở huyện Tam Nông, Tháp Mười với trữ lượng khoảng 2 triệu m³.
Đồng Tháp Mười ở đầu nguồn sông Cửu Long, có nguồn nước mặt khá dồi dào, nguồn nước ngọt quanh năm không bị nhiễm mặn. Ngoài ra còn có hai nhánh sông Sở Hạ và sông Sở Thượng bắt nguồn từ Campuchia đổ ra sông Tiền ở Hồng Ngự. Phía nam còn có sông Cái Tàu Hạ, Cái Tàu Thượng, sông Sa Đéc… hệ thống kênh rạch chằng chịt. Đồng Tháp có nhiều vỉa nước ngầm ở các độ sâu khác nhau, nguồn này hết sức dồi dào, mới chỉ khai thác, sử dụng phục vụ sinh hoạt đô thị và nông thôn, chưa đưa vào dùng cho công nghiệp.
Hành chính
Tỉnh Đồng Tháp có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 3 thành phố và 9 huyện với 143 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 9 thị trấn, 19 phường và 115 xã.
Kinh tế
Tình hình kinh tế – xã hội của tỉnh Đồng Tháp trong 9 tháng đầu năm 2012 được triển khai thực hiện trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới và cả nước, nhưng tình hình kinh tế – xã hội trong tỉnh vẫn duy trì và phát triển. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 463 triệu USD, bằng 71,3% kế hoạch và tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 467,4 triệu USD bằng 66,7% kế hoạch. Thực hiện vốn đầu tư xây dựng cơ bản ước đạt 1.629 tỷ đồng, huy động vốn tín dụng tăng 27,8% và dư nợ cho vay tăng 10,46% so với đầu năm. Sản lượng lúa 2 vụ đông xuân và hè thu đạt 2,6 triệu tấn, vượt kế hoạch 2,3% sản lượng, thủy sản ước đạt 334.300 tấn, bằng 79,5% kế hoạch. Về thương mại, dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước đạt 30.468 tỷ đồng, bằng 70,3% kế hoạch. Công tác xã hội hóa đầu tư được đẩy mạnh, tập trung vào các công trình nước sạch, vệ sinh môi trường, cầu đường nông thôn, trường học, y tế... góp phần thực hiện có hiệu quả chương trình xây dựng nông thôn mới.
Trong 10 tháng đầu năm 2012 do chịu hậu quả từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và khủng hoảng nợ công khu vực Châu Âu kéo dài, trong nước hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp tục bị áp lực lãi suất vay cao, mức tiêu thụ sản phẩm đạt thấp. Tuy nhiên kinh tế tỉnh Đồng Tháp vẫn ổn định, đời sống dân cư, an sinh xã hội, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững.
Cây lúa vẫn là loại cây trồng chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong diện tích gieo trồng và trong giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp. Diện tích gieo trồng lúa cả năm ước tính 487.623 ha, sản lượng lúa cả năm 2012 ước tính 3.036 ngàn tấn thấp hơn mục tiêu kế hoạch. Do thay đổi cơ cấu cây trồng nên sản lượng một số nông sản trong năm 2012 giảm so với năm 2011. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2012 vẫn tăng 15,89% so với năm trước và đạt 436 ngàn tấn, vượt 9,81% kế hoạch năm. Năm 2018, giá trị sản xuất của thủy sản so với Tổng giá trị sản xuất của Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản là 19,5%. Ước tính tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản các đơn vị thuộc nhà nước quản lý năm 2012 là 2.380 tỷ đồng đạt 98,61% kế hoạch năm. Tổng trị giá hàng nhập khẩu năm 2012 ước tính 695 triệu USD, bằng 109,72% so với năm 2011. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu vẫn là xăng dầu, ước tính khối lượng nhập khẩu 633 ngàn tấn, với trị giá nhập khẩu 640 triệu USD, tăng 17,87% về khối lượng và tăng 5,88% về giá trị so với năm 2011.
Đồng Tháp là tỉnh có đàn gia cầm (vịt) chăn thả khá lớn so với nhiều tỉnh thành trong cả nước, số hộ nuôi vịt đẻ là 899 hộ với số lượng vịt nuôi là 650.512 con, số hộ nuôi vịt thịt là 152 hộ với số lượng vịt nuôi là 126.788 con. Trong tháng 10, sản lượng cá tra đạt khoảng 33.145 tấn, giá trị sản xuất toàn ngành Công nghiệp đạt 1.231.517 triệu đồng, tổng mức vốn đầu tư thực hiện tháng 10 là 231.093 triệu đồng. Ước tính 10 tháng đầu năm, tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện 1.851.540 triệu đồng. Trong tháng 10, tính tổng mức bán lẻ đạt 34.375 tỷ đồng, khối lượng hàng hóa vận chuyển là 213 ngàn tấn. Khối lượng vận chuyển hàng hóa 10 tháng đầu năm 2012 ước tính 2.415 ngàn tấn tăng 3,99% so với cùng kỳ 2011.
Ước tính trong tháng 10 hoạt động xuất khẩu đạt 74.584 ngàn USD. Trong khi nhập khẩu dự kiến đạt 60.555 ngàn USD. Nếu không tính hàng tạm nhập tái xuất thì kim ngạch xuất khẩu tháng 10 ước đạt 57.084 ngàn USD. Trong 10 tháng đầu năm 2012, nếu không tính hàng tạm nhập tái xuất thì kim ngạch xuất khẩu ước đạt 539.558 ngàn USD, đạt 83% so với kế hoạch xuất khẩu năm 2012. Kim ngạch nhập khẩu ước tính đạt 547.651 ngàn USD, bằng 88,9% so với cùng kỳ năm 2011 và đạt 78,24% kế hoạch năm. Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP năm 2012 đạt 9,66%. GDP bình quân đầu người năm 2012 ước tính đạt 24,8 triệu đồng.
Năm 2019, tình hình kinh tế – xã hội của Đồng Tháp đạt 14/17 chỉ tiêu theo Nghị quyết của tỉnh đề ra, trong đó tốc độ tăng trưởng GRDP ước đạt 6,45%; GRDP/người đạt 50,19 triệu đồng/người. Đáng chú ý, khu vực nông nghiệp duy trì tăng trưởng trong tình hình nhiều khó khăn, kim ngạch xuất khẩu nông sản ước đạt trên 1 tỉ USD. Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá, trong đó công nghiệp chế biến tiếp tục giữ vai trò động lực tăng trưởng chung của tỉnh. Hoạt động du lịch có nhiều khởi sắc, thu hút trên 3,9 triệu lượt khách, trong đó có 95.000 lượt khách quốc tế, tổng doanh thu từ du lịch ước tăng 15% so với năm 2018. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch tích cực, tạo thêm gần 31.000 việc làm; tỷ lệ hộ nghèo ước giảm còn 2,78%.
Xã hội
Giáo dục
Tính đến ngày 1 tháng 11 năm 2018, tỉnh Đồng Tháp có 172 trường Mẫu giáo, 506 trường phổ thông trong đó có 321 trường Tiểu học, 130 trường Trung học cơ sở, 41 trường Trung học phổ thông, 12 trường phổ thông cơ sở, 2 trường trung học phổ thông chuyên, 4 trường Đại học và Cao đẳng, 1 trường chính trị, 1 trường quân sự.
Y tế
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2008, tỉnh Đồng Tháp có 168 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 12 bệnh viện, 13 phòng khám đa khoa khu vực, 1 bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng và 142 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 3.458 giường, trong đó các bệnh viện có 2.440 giường, phòng khám đa khoa khu vực có 150 giường, bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng có 80, trạm y tế có 888 giường. Cũng theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2008, tỉnh có 762 bác sĩ, 990 y sĩ, 1029 y tá, 414 nữ hộ sinh, 183 dược sĩ cao cấp, 838 dược sĩ trung cấp và 492 dược tá.
Dân cư
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Đồng Tháp đạt 1.599.504 người, mật độ dân số đạt 495 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 290.201 người, chiếm 18,1% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 1.309.303 người, chiếm 81,9% dân số. Dân số nam đạt 799.230 người, trong khi đó nữ đạt 800.274 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương giảm 0,41 ‰. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 38%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Đồng Tháp có 21 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh có 1.663.718 người, người Hoa có 1855 người, người Khmer có 657 người, còn lại là những dân tộc khác như Chăm, Thái, Mường, Tày...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 12 tôn giáo khác nhau đạt 336.598 người, nhiều nhất là Phật giáo Hòa Hảo đạt 100.661 người, tiếp theo là đạo Cao Đài có 83.600 người, Phật giáo có 82.826 người, Công giáo có 50.226 người, đạo Tin Lành có 6.717 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 953 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 746 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đạt 727 người, Hồi giáo đạt 126 người. Còn lại các tôn giáo khác như Minh Sư Đạo có chín người, Minh Lý Đạo có sáu người và Baha'i giáo chỉ có một người.
Du lịch
Tỉnh Đồng Tháp có nhiều điểm du lịch và di tích lịch sử, trong đó có 1 di tích quốc gia đặc biệt là khu di tích Gò Tháp, có 12 di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia và 49 di tích cấp tỉnh. Các địa điểm tham quan như khu di tích Gò Tháp, khu di tích Xẻo Quýt, Lăng cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Đền thờ Thượng tướng Quận công Trần Văn Năng, Vườn quốc gia Tràm Chim, Nhà cổ Huỳnh Thủy Lê, Vườn cò Tháp Mười, Làng hoa cảnh Tân Quy Đông (Vườn hồng Sa Đéc)… Các điểm tham quan, du lịch của tỉnh mới được đầu tư, tôn tạo một phần, hệ thống cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chưa đồng bộ nhất là giao thông, nên còn nhiều hạn chế, chưa tạo được sức hấp dẫn mạnh đối với du khách, chưa khai thác tốt tiềm năng, thế mạnh của vùng sông nước Đồng Tháp Mười và biên giới đất liền với Campuchia. Bên cạnh đó, tỉnh còn có các tuyến du lịch liên tỉnh, đưa khách nước ngoài từ Thành phố Hồ Chí Minh về Đồng Tháp, đi An Giang, Cần Thơ, về Thành phố Hồ Chí Minh, tuyến ngoại tỉnh, chủ yếu đưa khách trong tỉnh đi tham quan các tỉnh khác như Vũng Tàu, Đà Lạt, Nha Trang.
Giao thông
Hệ thống giao thông trên địa phận tỉnh Đồng Tháp khá phong phú với quốc lộ 30 và đường cao tốc Hồng Ngự – Trà Vinh giáp Quốc lộ 1 tại ngã ba An Hữu (Cái Bè – Tiền Giang) chạy dọc theo bờ Bắc sông Tiền, quốc lộ 80 từ cầu Mỹ Thuận nối Hà Tiên đi qua các tỉnh Vĩnh Long, Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ và Kiên Giang, quốc lộ 54 chạy dọc theo sông Hậu nối Đồng Tháp với Vĩnh Long và Trà Vinh, tuyến đường N2 nối quốc lộ 22 và quốc lộ 30 xuyên qua khu vực Đồng Tháp Mười là một phần của tuyến đường Hồ Chí Minh xuyên suốt Bắc Nam. Mạng giao thông thủy trên sông Tiền, sông Hậu nối Đồng Tháp với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi trong giao thương với các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long và mở rộng đến các tỉnh của Vương quốc Campuchia. Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và đường cao tốc Bắc – Nam phía Tây chạy xuyên qua tỉnh từ bắc đến nam.
Đặc sản
- Bánh phồng tôm Sa Giang
- Nem chua Lai Vung
- Quýt hồng Lai Vung
- Xoài Cao Lãnh
- Chuột đồng Đồng Tháp
- Hủ tiếu Sa Đéc
- Cá linh
- Bánh xèo Cao Lãnh
- Khô cá lóc
- Lẩu mắm cá linh
- Cá lóc nướng trui cuốn lá sen non
- Sen Tháp Mười, rượu sen
- Nhãn Châu Thành
- Cá tra, cá ba sa
- Ốc nướng tiêu
- Gà đập đất, vịt hoàng đế
- Vịt nướng Sa Đéc, Cao Lãnh
- Bì mắm ở Bình Thạnh Trung, Lấp Vò.
- Mứt chuối phồng.
- Chả bía Hồng Ngự
- Bì lợn Tân Hồng
- Hến một nắng Tam Nông
- Lẩu gà nồi Cao Lãnh
- Rượu hoa cúc Sa Đéc
- Bánh tét Cao Lãnh
Hình ảnh
Danh nhân
Nguyễn Văn Mậu (?–1809): một hào phú có công giúp Nguyễn Ánh. Quê huyện Lấp Vò.
Nguyễn Văn Nhơn (1753–1822): danh tướng thời vua Gia Long, Tổng trấn đầu tiên của Gia Định thành, thụy Kinh Môn Mục Hiến quận công. Quê thành phố Sa Đéc.
Nguyễn Thị Nhậm (?–?): Lệnh phi của vua Thiệu Trị, con gái Nguyễn Văn Nhơn.
Đoàn Minh Huyên (1807–1856): Người sáng lập ra giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Quê huyện Lấp Vò.
Đỗ Thừa Luông (?–?): Lãnh tụ cuộc nổi dậy chống Pháp ven rừng U Minh. Quê huyện Lai Vung.
Trần Hữu Thường (1844–1921): nhà giáo nổi tiếng ở Nam Bộ vào cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Quê huyện Hồng Ngự.
Diệp Văn Cương (1862–1929): nhà giáo, nhà báo Việt Nam. Quê huyện Cao Lãnh.
Lưu Văn Lang (1880–1969): kỹ sư đầu tiên của Đông Dương. Quê thành phố Sa Đéc.
Minh Trí (1886–1958): cư sĩ Phật giáo Việt Nam. Quê huyện Lấp Vò.
Trần Thị Nhượng (1896–1988): Bí thư Tỉnh ủy Sa Đéc đầu tiên. Quê thành phố Cao Lãnh.
Tạ Thu Thâu (1906–1945): Nhà cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ 20. Quê huyện Lấp Vò.
Thích Trí Tịnh (1917–2014): cao tăng Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN. Quê huyện Lấp Vò.
Nguyễn Vĩnh Bảo (sinh 1918): nhà nghiên cứu âm nhạc. Quê thành phố Cao Lãnh.
Đinh Văn Đệ (sinh 1924): thượng úy, điệp viên tình báo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được tặng Huân chương chiến công hạng nhất, từng giữ chức Phó chủ tịch Hạ viện Việt Nam Cộng hòa, đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Quê huyện Hồng Ngự
Nguyễn Thị Bình (sinh 1927): nguyên Phó chủ tịch nước Việt Nam. Sinh tại huyện Châu Thành.
Lâm Ngươn Tánh (1928–2018): Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Quê huyện Lai Vung.
Hồ Phú Hoảnh (sinh 1934): Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Quê huyện Cao Lãnh.
Nguyễn Văn Bảy (1936–2019): Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Quê huyện Lai Vung.
Dương Công Thuấn (sinh 1941): NSND, nghệ sĩ cải lương với nghệ danh Diệp Lang. Quê huyện Châu Thành.
Nguyễn Văn Vóc (1942–1968): Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Quê huyện Tháp Mười.
Lê Minh Châu (1944–2014): Nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X. Quê huyện Lấp Vò.
Tô Thanh Tùng (1944–2017): nhạc sĩ trước năm 1975. Anh trai nhạc sĩ Tô Thanh Sơn. Quê huyện Hồng Ngự.
Bùi Quốc Huy (sinh 1945): Nguyên thiếu tướng (đã bị tước quân tịch, quân hàm và đi tù). Quê tỉnh Sa Đéc (nay là huyện Lấp Vò, huyện Lai Vung, huyện Châu Thành và thành phố Sa Đéc).
Nguyễn Việt Thắng (sinh 1948): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV. Quê thành phố Cao Lãnh.
Nguyễn Cẩm Lũy (sinh 1948): thợ xây dựng nổi tiếng với biệt danh "thần đèn" vì có khả năng di dời nhà. Quê huyện Hồng Ngự.
Nguyễn Tấn Đạt (sinh 1949): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XI, XII, XIII. Quê huyện Lấp Vò.
Tô Thanh Sơn (1949–2018): nhạc sĩ trước năm 1975. Em trai nhạc sĩ Tô Thanh Tùng. Quê huyện Hồng Ngự.
Thích Nữ Tín Liên (sinh 1951): nữ tu sĩ Phật giáo Việt Nam, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV. Quê huyện Tân Hồng.
Kim Anh (sinh 1953): ca sĩ hải ngoại. Quê huyện Lai Vung.
Huỳnh Minh Đoàn (sinh 1953): Nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh Đồng Tháp. Quê huyện Tân Hồng.
Tống Anh Hào (sinh 1956): nguyên Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Việt Nam. Quê thành phố Sa Đéc.
Lê Vĩnh Tân (sinh 1958): Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp. Quê huyện Lai Vung.
Bùi Thành Nhơn (sinh 1958): Doanh nhân, từng là tỷ phú USD trên sàn chứng khoán Việt Nam. Quê huyện Hồng Ngự.
Phan Văn Sáu (sinh 1959): Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng, nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ, nguyên Bí thư Tỉnh ủy An Giang, nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh An Giang. Quê huyện Hồng Ngự.
Nguyễn Minh Thuấn (sinh 1959): Thiếu tướng, Giám đốc Công an tỉnh Đồng Tháp. Quê huyện Lấp Vò.
Nguyễn Văn Quang (sinh 1959): nguyên Phó Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Vĩnh Long. Quê huyện Châu Thành.
Võ Anh Kiệt (sinh 1960): Chủ tịch HĐND tỉnh An Giang, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy An Giang. Quê huyện Hồng Ngự.
Lê Dân Khiết (sinh 1960): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII. Quê huyện Hồng Ngự.
Phạm Thành Tâm (sinh 1960): Thiếu tướng, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV.
Nguyễn Thanh Hùng (sinh 1961): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII.
Lê Minh Hoan (sinh 1961): Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, XIV, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp. Quê thành phố Cao Lãnh.
Nguyễn Thành Thơ (sinh 1961): Chánh án tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Quê huyện Lai Vung.
Nguyễn Văn Dương (sinh 1961): Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, Phó Bí thư Tỉnh ủy Đồng Tháp. Quê huyện Cao Lãnh.
Phạm Văn Hòa (sinh 1962): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV. Quê thành phố Sa Đéc.
Phan Huỳnh Sơn (sinh 1963): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV. Quê thành phố Cao Lãnh.
Phan Nguyễn Như Khuê (sinh 1964): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV, Trưởng Ban tuyên giáo Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh. Quê huyện Cao Lãnh.
Minh Nhí (sinh 1964): diễn viên điện ảnh, hài và kịch nói. Quê thành phố Sa Đéc.
Nguyễn Hữu Đức (sinh 1966): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII. Quê huyện Lai Vung.
Nguyễn Văn Thể (sinh 1966): Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Sóc Trăng. Quê huyện Tháp Mười.
Nguyễn Hoàng Việt (sinh 1966): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII. Quê huyện Cao Lãnh.
Phượng Hằng (sinh 1967): NSƯT, nghệ sĩ cải lương. Quê huyện Lai Vung.
Phan Văn Thắng (sinh 1967): Chủ tịch HĐND tỉnh Đồng Tháp. Quê huyện Hồng Ngự.
Phạm Công Lộc (sinh 1969): cựu cầu thủ bóng đá, huấn luyện viên bóng đá Việt Nam. Quê huyện Lấp Vò.
Cát Phượng (sinh 1970): diễn viên hài, kịch và điện ảnh. Quê thành phố Sa Đéc.
Trần Công Minh (sinh 1970): cựu cầu thủ bóng đá đội tuyển quốc gia Việt Nam, huấn luyện viên bóng đá. Quê huyện Lai Vung.
Huỳnh Quốc Cường (sinh 1972): cựu cầu thủ bóng đá Việt Nam. Quê thành phố Sa Đéc.
Nguyễn Thanh Thảo (sinh 1974): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII. Quê thị xã Hồng Ngự.
Lê Tứ: NSƯT, nghệ sĩ cải lương. Quê huyện Lai Vung.
Trần Trí Quang (sinh 1977): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIV, Giám đốc Sở giao thông vận tải, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp.
Đào Thiên Hải (sinh 1978): đại kiện tướng cờ vua đầu tiên của Việt Nam.
Đặng Xuân Huy (sinh 1979): Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII. Quê huyện Tam Nông.
Duy Trường (sinh 1981): ca sĩ hải ngoại. Quê huyện Hồng Ngự.
Phan Thanh Bình (sinh 1986): cầu thủ bóng đá Việt Nam. Quê huyện Lai Vung.
Bùi Tấn Trường (sinh 1986): cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp Việt Nam. Quê tỉnh Đồng Tháp.
Dương Trương Thiên Lý (sinh 1989): Á hậu 2 Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam năm 2008. Đại diện Việt Nam tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2008. Cựu Giám đốc tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ tại Việt Nam.
Nguyễn Công Thành (sinh 1997): cầu thủ bóng đá. Quê huyện Tam Nông.
Trần Công Minh (sinh 1999): cầu thủ bóng đá Việt Nam. Quê huyện Cao Lãnh.
Chú thích
Liên kết ngoài
Website chính thức tỉnh Đồng Tháp
Thông tin về Đồng Tháp của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam
Đồng bằng sông Cửu Long
|
11198
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%ADu%20Giang
|
Hậu Giang
|
Hậu Giang là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Năm 2018, Hậu Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 54 về số dân, xếp thứ 52 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 48 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 52 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 776.700 người dân, GRDP đạt 29.763 tỉ Đồng (tương ứng với 1,2926 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 38,32 triệu đồng (tương ứng với 1.664 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,08%.
Địa lý
Hậu Giang là tỉnh thuộc khu vực nội địa của đồng bằng sông Cửu Long. Lãnh thổ của tỉnh nằm trong tọa độ từ 9030'35 đến 10019'17 Bắc và từ 105014'03 đến 106017'57 kinh Đông. Hậu Giang là tỉnh ở trung tâm châu thổ sông Mê Kông, thuộc khu vực nội địa của Đồng bằng sông Cửu Long nên có vị trí địa lý:
Phía đông giáp tỉnh Sóc Trăng
Phía tây giáp tỉnh Kiên Giang
Phía nam giáp tỉnh Bạc Liêu
Phía bắc giáp thành phố Cần Thơ và tỉnh Vĩnh Long.
Tỉnh lỵ hiện nay là thành phố Vị Thanh cách Thành phố Hồ Chí Minh 240 km về phía tây nam, cách thành phố Cần Thơ 60 km theo Quốc lộ 61 và chỉ cách 40 km theo đường nối Vị Thanh – thành phố Cần Thơ
Tỉnh nằm ở hạ lưu sông Hậu, giữa một mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Hậu Giang tiếp giáp với thành phố Cần Thơ, trung tâm của vùng Tây Nam Bộ. Hậu Giang là một trong những trung tâm lúa gạo của miền Tây Nam Bộ. Tỉnh có thế mạnh về cây lúa và cây ăn quả các loại, có nguồn thủy sản phong phú, chủ yếu tôm cá nước ngọt và chăn nuôi gia súc. Sông Mái Dầm có đặc sản cá ngát nổi tiếng. Tỉnh nổi tiếng với chợ nổi Ngã Bảy và nhiều di tích lịch sử cấp quốc gia như di tích Khởi Nghĩa Nam Kỳ, di tích Liên Hiệp Đình Chiến Nam Bộ, Căn cứ Tỉnh Ủy Cần Thơ, di tích Tầm Vu, đền Bác Hồ, v.v...
Điều kiện tự nhiên
Hậu Giang là tỉnh ở Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, địa hình thấp trũng, độ cao trung bình dưới 2 mét so với mực nước biển. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Khu vực ven sông Hậu cao nhất, trung bình khoảng 1 - 1,5 mét, độ cao thấp dần về phía Tây. Bề mặt địa hình bị chia cắt mạnh bởi hệ thống kênh rạch nhân tạo.
Tỉnh Hậu Giang nằm trong vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, gần xích đạo, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa mưa có gió Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô có gió Đông Bắc từ tháng 12 đến tháng 4 hàng năm. Nhiệt độ trung bình là 27 0C không có sự chênh lệch quá lớn qua các năm. Tháng có nhiệt độ cao nhất (35 0C) là tháng 4 và thấp nhất vào tháng 12 (20,3 0C). Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, chiếm từ 92 - 97% lượng mưa cả năm. Lượng mưa ở Hậu Giang thuộc loại trung bình, khoảng 1800 mm/năm, lượng mưa cao nhất vào khoảng tháng 9 (250,1 mm). Ẩm độ tương đối trung bình trong năm phân hoá theo mùa một cách rõ rệt, chênh lệch độ ẩm trung bình giữa tháng ẩm nhất và tháng ít ẩm nhất khoảng 11%. Độ ẩm trung bình thấp nhất vào khoảng tháng 3 và 4 (77%) và độ ẩm trung bình trong năm là 82%.
Tỉnh Hậu Giang có một hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài khoảng 2.300 km. Mật độ sông rạch khá lớn 1,5 km/km, vùng ven sông Hậu thuộc huyện Châu Thành lên đến 2 km/km. Hậu Giang nằm trong vùng trũng của khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Cấu tạo của vùng có thể chia thành hai vùng cấu trúc rõ rệt là Tầng cấu trúc dưới và Tầng cấu trúc bên, trong đó Tầng cấu trúc dưới gồm Nền đá cổ cấu tạo bằng đá Granit và các đá kết tinh khác, bên trên là đá cứng cấu tạo bằng đá trầm tích biển hoặc lục địa và các loại đá mắcma xâm nhập hoặc phun trào.
Hành chính
Tỉnh Hậu Giang có 8 đơn vị hành chính, gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 5 huyện được chia làm 51 xã, 13 phường và 11 thị trấn.
Lịch sử
Trước năm 1976, Hậu Giang là tên gọi theo âm Hán - Việt của sông Hậu. Vùng đất thuộc tỉnh Hậu Giang ngày nay trước năm 1956 nằm rải rác thuộc tỉnh Cần Thơ và tỉnh Rạch Giá. Từ năm 1957, toàn bộ vùng đất tỉnh Hậu Giang ngày nay đều thuộc về tỉnh Cần Thơ (về phía chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là thuộc các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện). Tháng 3 năm 1976, tỉnh Hậu Giang (cũ) được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau trước đó là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Hậu Giang được chia thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, tỉnh Cần Thơ lại được chia thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang ngày nay.
Thời Pháp thuộc
Tỉnh Hậu Giang ngày nay vào thời Pháp thuộc bao gồm quận Long Mỹ của tỉnh Rạch Giá; quận Phụng Hiệp và một phần quận Châu Thành của tỉnh Cần Thơ.
Năm 1939, quận Long Mỹ có 3 tổng là An Ninh, Thanh Tuyên, Thanh Giang. Quận Phụng Hiệp năm 1939 có 2 tổng là Định Hòa, và Định Phước. Riêng quận Châu Thành có 2 tổng là Định Bảo và Định An.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975.
Năm 1951, chính quyền Việt Minh quyết định giải thể tỉnh Rạch Giá, sáp nhập địa bàn vào các tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ và Sóc Trăng. Trong đó, huyện Long Mỹ được giao về cho tỉnh Cần Thơ. Tuy nhiên, việc giải thể tỉnh Rạch Giá lại không được phía chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp của Bảo Đại và sau này là chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận.
Đến năm 1954, chính quyền Việt Minh lại quyết định tái lập tỉnh Rạch Giá. Tháng 10 năm 1954, huyện Long Mỹ cũng trở lại thuộc tỉnh Rạch Giá.
Giai đoạn 1956-1976
Việt Nam Cộng hòa
Sau Hiệp định Geneve năm 1954, Pháp rút, Hoa Kỳ can thiệp vào miền Nam Việt Nam, thiết lập chính thể Việt Nam Cộng hòa. Lúc này vùng đất Long Mỹ, Phụng Hiệp lại có nhiều thay đổi. Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Cần Thơ như thời Pháp thuộc.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, theo Sắc lệnh số 143-NV, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh.
Năm 1957, quận Long Mỹ được chính quyền Việt Nam Cộng hòa chuyển giao cho tỉnh Phong Dinh quản lý.
Ngày 12 tháng 3 năm 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức khánh thành Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu.
Ngày 18 tháng 3 năm 1960, quận Long Mỹ được tách ra, thành lập một quận mới có tên là quận Đức Long. Hai quận này ban đầu đều trực thuộc tỉnh Phong Dinh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 244-NV thành lập tỉnh Chương Thiện, bao gồm những vùng được tách ra từ các tỉnh Phong Dinh (trước năm 1956 là tỉnh Cần Thơ), Kiên Giang (trước năm 1956 là tỉnh Rạch Giá) và Ba Xuyên (trước năm 1956 là tỉnh Sóc Trăng). Sau đó, lễ khánh thành tỉnh Chương Thiện được tổ chức trọng thể vào ngày 3 tháng 1 năm 1962. Tỉnh lỵ tỉnh Chương Thiện có tên là "Vị Thanh", do lấy theo tên xã Vị Thanh thuộc quận Đức Long là nơi đặt tỉnh lỵ.
Tỉnh Chương Thiện ban đầu bao gồm 5 quận: Đức Long, Long Mỹ, Kiên Hưng, Kiên Long, và Phước Long. Trong đó, quận Đức Long nhận thêm một số xã tách từ quận Kiên Hưng vốn trước năm 1962 thuộc tỉnh Kiên Giang nhưng lúc bấy giờ cũng chuyển sang cùng thuộc tỉnh Chương Thiện; phần đất này trước năm 1956 lại thuộc về quận Giồng Riềng của tỉnh Rạch Giá.
Ngày 18 tháng 4 năm 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm lại ban hành Sắc lệnh 38-NV về việc thay đổi hành chính ở tỉnh Chương Thiện. Theo đó, thành lập mới quận Kiến Thiện trên cơ sở tách một phần đất đai của các quận Phước Long và Long Mỹ, quận lỵ đặt tại Ngan Dừa. Lúc này, tỉnh Chương Thiện bao gồm 6 quận trực thuộc: Đức Long, Long Mỹ, Kiên Long, Kiên Hưng, Phước Long, Kiên Thiện.
Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh 254-NV quy định kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu. Lúc này, quận Phước Long trở lại thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Kể từ đó cho đến năm 1975, tỉnh Chương Thiện còn lại 5 quận: Đức Long, Long Mỹ, Kiên Long, Kiên Hưng, Kiên Thiện.
Song song với tỉnh Chương Thiện, tại phần đất thuộc tỉnh Phong Dinh cũng có một số thay đổi hành chính.
Ngày 2 tháng 7 năm 1962, tỉnh Phong Dinh có thêm quận Khắc Nhơn, được thành lập do tách đất từ quận Châu Thành và quận Phong Phú (trước năm 1958 là quận Ô Môn) cùng tỉnh.
Ngày 20 tháng 4 năm 1964, đổi tên quận Khắc Nhơn thành quận Thuận Nhơn.
Ngày 23 tháng 4 năm 1968, lại lập thêm quận Phong Thuận, gồm các xã do tách đất từ quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh và quận Kế Sách, tỉnh Ba Xuyên.
Chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi "Phong Dinh" mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ.
Sau năm 1961, chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng không công nhận tên gọi "Chương Thiện" cùng với sự sắp xếp, phân chia hành chính như trên. Khu vực tỉnh Chương Thiện vẫn thuộc tỉnh Cần Thơ và tỉnh Rạch Giá chỉ đạo như cũ. Huyện Long Mỹ, thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ; các huyện Gò Quao, Giồng Riềng, Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Rạch Giá. Riêng huyện Hồng Dân (tức huyện Phước Long cũ) vẫn thuộc tỉnh Sóc Trăng, đến tháng 11 năm 1973 thì chuyển sang thuộc tỉnh Bạc Liêu.
Cho đến năm 1966, khu vực quận Long Mỹ và quận Đức Long của Việt Nam Cộng hòa vẫn cùng thuộc địa phận huyện Long Mỹ của chính quyền Cách mạng.
Từ năm 1957, chính quyền Cách mạng cũng đặt huyện Long Mỹ thuộc tỉnh Cần Thơ nhưng giữ lại xã Vị Thanh và nhập vào huyện Giồng Riềng của tỉnh Rạch Giá.
Tháng 7 năm 1960, huyện Giồng Riềng giao xã Vị Thanh về cho huyện Long Mỹ của tỉnh Cần Thơ quản lý.
Ngày 9 tháng 3 năm 1961, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Vị Thanh bao gồm khu vực chợ Cái Nhum và các ấp xung quanh, bên cạnh xã Vị Thanh.
Tháng 6 năm 1966, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tách thị trấn Vị Thanh và một số ấp của xã Vị Thanh ra khỏi huyện Long Mỹ để thành lập thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ.
Bên cạnh đó, tại vùng đất tỉnh Cần Thơ, chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng không công nhận tên gọi các quận sau này do chính quyền Việt Nam Cộng hòa lập ra như Đức Long, Kiên Thiện (cùng thuộc tỉnh Chương Thiện), Thuận Nhơn, Phong Thuận (cùng thuộc tỉnh Phong Dinh).
Tháng 10 năm 1966, huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ được chia ra thành hai huyện là Châu Thành A và Châu Thành B.
Cuối năm 1967 nhập lại là Châu Thành. Sau nhiều lần chia tách rồi sáp nhập Châu Thành Vòng Cung vào Châu Thành A, Châu Thành B nhập lại là huyện Châu Thành. Trong đó, địa bàn huyện Châu Thành A lúc bấy giờ cũng chính là huyện Châu Thành A ngày nay, còn địa bàn huyện Châu Thành B chính là huyện Châu Thành cùng thuộc tỉnh Hậu Giang ngày nay.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chính tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Cần Thơ (ngoại trừ huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cần Thơ (có cả huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh.
Tỉnh Hậu Giang cũ, giai đoạn 1976-1992
Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Hậu Giang. Tỉnh lỵ khi đó lại đặt tại thành phố Cần Thơ, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hậu Giang.
Khi mới thành lập, tỉnh Hậu Giang gồm có thành phố Cần Thơ, thị xã Sóc Trăng, thị xã Vị Thanh và 11 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Long Phú, Thạnh Trị, Vĩnh Châu.
Ngày 15 tháng 12 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 330-CP về việc hợp nhất huyện Long Mỹ và thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang thành một đơn vị hành chính lấy tên là huyện Long Mỹ thuộc tỉnh Hậu Giang. Thị xã Vị Thanh chuyển xuống thành thị trấn Vị Thanh thuộc huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.
Ngày 26 tháng 10 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng của ban hành Quyết định số 119-HĐBT về việc tách huyện Long Mỹ thành hai huyện Long Mỹ và huyện Mỹ Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang.
Ngày 6 tháng 4 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng của ban hành Quyết định số 64-HĐBT về việc đổi tên huyện Mỹ Thanh thành huyện Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang.
Từ đó cho đến cuối tháng 3 năm 1992, tỉnh Hậu Giang lúc này bao gồm thành phố Cần Thơ, thị xã Sóc Trăng và 6 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị Thanh, Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Long Phú, Vĩnh Châu. Tỉnh lỵ lúc đó lại là thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Hậu Giang.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Cần Thơ có 7 đơn vị hành chính gồm: thành phố Cần Thơ và 6 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh, có diện tích tự nhiên 3.022,30 km² với số dân 1.614.350 người. Tỉnh lỵ: thành phố Cần Thơ.
Tỉnh Cần Thơ cũ, giai đoạn 1992-2003
Tỉnh Cần Thơ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động trở lại từ tháng 4 năm 1992. Tỉnh Cần Thơ lúc đó có diện tích 2.965,36 km², dân số là 1.832.045 người, bao gồm thành phố Cần Thơ và 6 huyện là Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh. Tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Địa bàn tỉnh Hậu Giang ngày nay lúc đó thuộc tỉnh Cần Thơ.
Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 45/1999/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Vị Thanh, đổi tên huyện Vị Thanh thành huyện Vị Thủy và thành lập các phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh và huyện Vị Thủy, tỉnh Cần Thơ.
Ngày 6 tháng 11 năm 2000, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 64/2000/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành để thành lập huyện Châu Thành A thuộc tỉnh Cần Thơ. Theo đó, tái lập huyện Châu Thành A trên cơ sở 22.139 ha diện tích tự nhiên và 163.357 nhân khẩu của huyện Châu Thành.
Từ đó cho đến cuối năm 2003, tỉnh Cần Thơ gồm 9 đơn vị hành chính trực thuộc: thành phố Cần Thơ, thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Châu Thành A, huyện Phụng Hiệp, huyện Vị Thủy, huyện Long Mỹ, huyện Ô Môn, huyện Thốt Nốt.
Tỉnh Hậu Giang từ năm 2004 đến nay
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang như sau:
Thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương có diện tích tự nhiên là 138.959,99 ha và dân số hiện tại là 1.112.121 người, bao gồm: diện tích và số dân của thành phố Cần Thơ cũ; huyện Ô Môn; huyện Thốt Nốt; một phần của huyện Châu Thành, bao gồm: thị trấn Cái Răng; các ấp Thạnh Mỹ, Thạnh Huề, Thạnh Thắng, Yên Hạ và 176 ha diện tích cùng với 2.216 người của ấp Phú Quới thuộc xã Đông Thạnh; các ấp Thạnh Hóa, Thạnh Hưng, Thạnh Thuận, An Hưng, Thạnh Phú, Phú Khánh, Khánh Bình và 254,19 ha diện tích cùng với 1.806 người của ấp Phú Hưng thuộc xã Phú An; các ấp Phú Thành, Phú Thạnh, Phú Thuận, Phú Thuận A và 304,61 ha diện tích cùng với 1.262 người của ấp Phú Lợi thuộc xã Đông Phú; một phần của huyện Châu Thành A, bao gồm: xã Trường Long; xã Nhơn ái; xã Nhơn Nghĩa; ấp Tân Thạnh Đông và 84,7 ha diện tích cùng với 640 người của ấp Tân Thạnh Tây thuộc xã Tân Phú Thạnh.
Tỉnh Hậu Giang có diện tích tự nhiên là 160.772,49 ha và dân số hiện tại là 766.105 người, bao gồm: diện tích và số dân của thị xã Vị Thanh; huyện Phụng Hiệp; huyện Long Mỹ; huyện Vị Thủy; phần còn lại của huyện Châu Thành và huyện Châu Thành A, trừ phần diện tích và số dân của hai huyện này đã được điều chỉnh về thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương quy định như trên. Tỉnh lỵ tỉnh Hậu Giang đặt tại thị xã Vị Thanh.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2004, tỉnh Hậu Giang chính thức được tái lập và đi vào hoạt động trở lại. Ban đầu, tỉnh Hậu Giang bao gồm thị xã Vị Thanh và 5 huyện: Châu Thành, Châu Thành A, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thủy.
Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 98/2005/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Phụng Hiệp để thành lập thị xã Tân Hiệp, tỉnh Hậu Giang; thành lập phường, xã thuộc thị xã Tân Hiệp.
Ngày 27 tháng 10 năm 2006, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 124/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh, huyện Long Mỹ; đổi tên thị xã Tân Hiệp thành thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang.
Ngày 23 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP thành lập thành phố Vị Thanh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vị Thanh.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 933/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập thị xã Long Mỹ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Long Mỹ.
Ngày 19 tháng 12 năm 2019, thành phố Vị Thanh mở rộng được công nhận là đô thị loại II.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 869/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, thành lập thành phố Ngã Bảy trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Ngã Bảy.
Tỉnh Hậu Giang có 2 thành phố, 1 thị xã và 5 huyện như hiện nay.
Kinh tế
Trong 6 tháng đầu năm 2012, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục phát triển, các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm được tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện và đạt kết quả tốt, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 14,08%, trong đó thu nhập bình quân đầu người đạt 12,39 triệu đồng/người, tăng 17,5% so cùng kỳ năm 2011, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn 6.251 tỷ đồng, đạt 54,8%, tổng thu ngân sách nhà nước đạt trên 3457 tỷ đồng, đạt 97% chỉ tiêu Hội đồng nhân dân tỉnh giao, tăng 29,5% so cùng kỳ, Năng suất vụ lúa Đông xuân đạt 7,1 tấn/ha, tăng 0,4 tấn/ha so với cùng kỳ, sản lượng đạt 554.182 tấn, giảm 2.156 tấn so cùng kỳ, xuống giống vụ lúa Hè Thu 77.381 ha, năng suất ước đạt 5,3 tấn/ha. Thực hiện chủ trương của Chính phủ về mua tạm trữ gạo năm 2012, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã thu mua tạm trữ 15.000 tấn gạo, đạt 100% KH.
Đến tháng 10 năm 2012, tình hình kinh tế xã hội có sự chuyển biến, các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm được tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện và đạt kết quả tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp trong tháng thực hiện được 544,3 tỷ đồng, Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong tháng ước thực hiện được 912,1 tỷ đồng, tổng nguồn vốn xây dựng cơ bản được phân bổ 2.753,8 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trong tháng ước thực hiện được 2.090 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và dịch vụ thu ngoại tệ thực hiện 26,3 triệu USD, Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 0,29% so với tháng trước. Tính đến ngày 24 tháng 10 năm 2012, tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh thực hiện được 4.796,8 tỷ đồng, Tổng chi ngân sách trên địa bàn tỉnh thực hiện 3.535,7 tỷ đồng.
Đánh giá tình hình kinh tế xã hội trong tháng 10 năm 2012, có chuyển biến và tiếp tục phát triển, các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm được tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện và đạt kết quả tích cực, nổi bật là, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12,6% so với tháng trước, tăng 6% so với cùng kỳ, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 4,1% so với tháng trước, tăng 22% so với cùng kỳ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 3% so với tháng trước, tăng 45,3% so cùng kỳ; tổng kim ngạch xuất và dịch vụ thu ngoại tệ tăng so với tháng trước, tăng 29,3% so với cùng kỳ, chỉ số giá tiêu dùng tăng nhưng tỉ lệ thấp hơn tháng trước và thấp hơn bình quân chung cả nước.
Năm 2019, tăng trưởng kinh tế đạt 6,5%, đặc biệt khu vực 1 có mức tăng hơn 2,7%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tốt.
Xã hội
Giáo dục
Hệ thống giáo dục tỉnh Hậu Giang bao gồm đầy đủ các cấp học, ngành học từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học. Tiêu biểu như trường Đại học Cần Thơ (khu Hòa An), trường Đại học Võ Trường Toản, trường cao đẳng cộng đồng Hậu Giang, trường trung cấp Luật Vị Thanh, trường trung cấp nghề Hậu Giang, trường cao đẳng nghề Trần Đại Nghĩa và các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, tiểu học, mầm non...Giáo dục mầm non hiện nay đã có các cơ sở ở tất cả các huyện thị, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2008, toàn tỉnh Hậu Giang có 250 trường học ở các cấp phổ thông, đứng thứ 12 ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long.
Y tế
Tại Hậu Giang có một số bệnh viện lớn như Bệnh viện đa khoa Hậu Giang với quy mô 500 giường, ngoài ra còn có các bệnh viện khác như Bệnh viện Sản - Nhi Hậu Giang, Bệnh viện Thành phố Vị Thanh, Bệnh viện Tâm thần tỉnh Hậu Giang, Bệnh viện Lao phổi tỉnh Hậu Giang...và nhiều cơ sở y tế tại các xã phường, thị trấn thuộc tỉnh Hậu Giang. Đến năm 2008, toàn tỉnh có 80 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 8 bệnh viện, 8 phòng khám đa khoa khu vực và 64 trạm y tế phường xã. Tổng số giường bệnh là 1.692 giường, trong đó các bệnh viện có 1.135 giường, phòng khám đa khoa khu vực có 65 giường, trạm y tế có 492 giường, với 293 bác sĩ, 558 y sĩ, 387 y tá, 188 nữ hộ sinh, 17 dược sĩ cao cấp, 249 dược sĩ trung cấp và 2 dược tá.
Văn hóa
Tỉnh có một đài truyền hình địa phương, lớn thứ 2 ở Đồng bằng Sông Cửu Long chỉ sau Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long và trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Hậu Giang.
Dân số
Hậu Giang có nhiều dân tộc khác nhau cư trú trên địa bàn tỉnh. Tính đến tháng 10 năm 2009, tỉnh Hậu Giang có 7.533 hộ đồng bào dân tộc thiểu số với 35.268 khẩu, chiếm 3,16% dân số, trong đó nhiều nhất là đồng bào dân tộc Khmer với 5.537 hộ, 25.536 khẩu, đồng bào Hoa 1.977 hộ với 9.530 khẩu, các dân tộc Chăm, Ê Đê, Mường có 58 hộ với 202 khẩu.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Hậu Giang đạt 733.017 người, mật độ dân số đạt 480 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 213.887 người, chiếm 28% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 519.130 người, chiếm 72% dân số. Dân số nam đạt 366.206 người, trong khi đó nữ đạt 366.811 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương giảm 0,33 ‰ Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long với hơn 733.000 dân. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2023 đạt 30,05%.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 11 tôn giáo khác nhau đạt 152.031 người, nhiều nhất là Phật giáo đạt 116.996 người, tiếp theo là Công giáo có 16.772 người, đạo Cao Đài có 8.751 người, đạo Tin Lành có 4.226 người, Phật giáo Hòa Hảo chiếm 3.226 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đạt 1.315 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 682 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 48 người, Minh Sư Đạo có 13 người, Minh Sư Đạo và Bà La Môn mỗi đạo chỉ có một người.
Theo thống kê năm 2020, tỉnh Hậu Giang có diện tích 1.621,70 km², dân số năm 2020 là 726.792 người, mật độ dân số đạt 448 người/km².
Dân số trung bình năm 2021 của tỉnh Hậu Giang là 729.888 người, tăng 108 người, tương đương tăng 0,01% so với năm 2020, bao gồm dân số thành thị 204.813 người, chiếm 28,06%; dân số nông thôn 525.075 người, chiếm 71,94%; dân số nam 367.453 người, chiếm 50,34%; dân số nữ 362.435 người, chiếm 49,66%.
Tỉnh Hậu Giang có tổng diện tích tự nhiên hơn 1.622 km², dân số năm 2022 là 728.873 người, trong đó: dân số thành thị là 206.690 người (chiếm %).
Văn hóa
Bên cạnh đó, Hậu Giang còn có các làng nghề truyền thống đa dạng và phong phú, thể hiện những nét văn hóa đặc sắc của vùng đất, con người. Đặc sản về cây ăn trái của Hậu Giang cũng được nhiều người ưa chuộng như khóm Cầu Đúc, bưởi Phú Hữu, quýt đường Long Trị....Ngoài ra, tỉnh còn có đặc sản về thủy sản, cá thác lác Vị Thanh ngon nổi tiếng khắp vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Tỉnh cũng có nhiều di tích văn hóa lịch sử như Căn cứ Tỉnh Ủy Cần Thơ, đền Bác Hồ, di tích Chiến thắng 75 Tiểu đoàn, di tích Tầm Vu,.... Hàng năm, mỗi khi có dịp lễ lộc, du khách các nơi tìm về không ít. Ngoài ra, còn có các lễ hội, đặc biệt là lễ hội đua ghe ngo truyền thống thu hút khá nhiều du khách đến xem.
Du lịch
Tỉnh Hậu Giang có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, tuy nhiên vẫn còn hạn chế, Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn hạn chế, chưa có sản phẩm du lịch đặc trưng. Xu hướng của khách du lịch trong nước lẫn quốc tế là tìm về với thiên nhiên, với miệt vườn sông nước, với rừng, núi, biển càng hoang sơ, ruộng đồng heo hút, chính vì lẽ đó Hậu Giang đang có nhiều dự án phát triển du lịch hướng vào xây dựng du lịch sinh thái miệt vườn kết hợp với khu vui chơi giải trí, ăn uống, nghỉ ngơi,....
Giao thông
Hệ thống giao thông Hậu Giang thuận tiện, nối liền các mạch giao thông với các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Trên địa bàn tỉnh, có bảy trục giao thông huyết mạch là Quốc lộ 1, Quốc lộ 61, Quốc lộ 61B, Đường Nam Sông Hậu, Quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp, đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông, đường cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng. Ngoài ra, tuyến đường bộ nối Vị Thanh-Cần Thơ, tuyến đường Bốn Tổng-Một Ngàn là cầu nối quan trọng giữa Hậu Giang, thành phố Cần Thơ với tỉnh Kiên Giang. Đường nội bộ tỉnh, gồm các tuyến 924 đến 933 với tổng chiều dài khoảng 400 km. Mạng lưới đường thủy, gồm có hai trục giao thông quốc gia kênh Xà No, kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp. Hệ thống kênh, rạch hình thành mạng lưới đường thủy chằng chịt, trải đều địa bàn tỉnh đảm bảo cho việc vận tải thủy thuận lợi.
Năm 2020, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra tổng cộng 89 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 87 vụ, đường thủy 02 vụ), làm chết 65 người (đường bộ 63 người, đường thủy 02 người) và làm bị thương 33 người (tập trung ở đường bộ). So với cùng kỳ năm trước giảm 05 vụ, số người chết giảm 11 người và số người bị thương giảm 02 người (tất cả đều tập trung ở đường bộ).
Biển số xe
Thành phố Vị Thanh: B1
Thành phố Ngã Bảy: F1
Thị xã Long Mỹ: B1, D1
Huyện Châu Thành: G1
Huyện Châu Thành A: H1
Huyện Vị Thủy: C1
Huyện Phụng Hiệp: E1
Huyện Long Mỹ: G1.
Hình ảnh
Danh nhân
Chính trị
Lê Nam Giới (sinh 1946) - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng đoàn ĐBQH tỉnh Cần Thơ (nay là tỉnh Hậu Giang và Thành phố Cần Thơ). Quê Phụng Hiệp
Trần Công Chánh (sinh 1959) - nguyên Chủ tịch UBND tỉnh, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang. Quê ở huyện Châu Thành
Trần Quốc Trung (sinh 1960) - Nguyên Bí thư Thành ủy Cần Thơ. Quê ở huyện Phụng Hiệp
Huỳnh Thanh Tạo (sinh 1961) - Nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh Hậu Giang. Quê ở huyện Phụng Hiệp
Trần Thanh Mẫn (sinh 1962) - Phó Chủ tịch thường trực Quốc hội Việt Nam. Quê ở huyện Châu Thành A
Lữ Văn Hùng (sinh 1963) - Bí thư Tỉnh ủy Bạc Liêu, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang. Quê ở thành phố Ngã Bảy
Huỳnh Phong Tranh (sinh 1955) - Nguyên Tổng Thanh tra Chính phủ, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân Dân tỉnh Hậu Giang. Quê ở huyện Long Mỹ.
Trần Việt Trường (sinh 1971) - Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Thành phố Cần Thơ. Quê ở Phụng Hiệp
Trung tướng Trần Thị Ngọc Đẹp (sinh 1960) - Nữ Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam đầu tiên, nguyên Cục trưởng Cục Xây dựng Phong trào Toàn dân Bảo vệ An ninh Tổ quốc. Quê ở Châu Thành A
Nghệ sĩ
NSND Thanh Nam (quê huyện Châu Thành)
NSND Thanh Điền (quê thành phố Vị Thanh)
Diễn viên Khả Như (quê thành phố Ngã Bảy)
Siêu mẫu Ngọc Thạch (quê thành phố Vị Thanh)
Chú thích
Liên kết ngoài
Đồng bằng sông Cửu Long
|
11199
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ki%C3%AAn%20Giang
|
Kiên Giang
|
}}%)
| mật độ dân số = 286 người/km²
| vùng = Đồng bằng sông Cửu Long
| dân tộc = Kinh, Khmer, Hoa
| tỉnh lỵ = thành phố Rạch Giá
| thành lập = 1976
| chủ tịch UBND = Lâm Minh Thành
| hội đồng nhân dân = 60 đại biểu
| chủ tịch HĐND = Mai Văn Huỳnh
| chủ tịch UBMTTQ = Lê Thị Vệ
| chánh án TAND = Lê Thị Minh Hiếu
| viện trưởng VKSND = Nguyễn Ngọc Phúc
|bí thư = Đỗ Thanh Bình
| trụ sở UBND = Số 06 Nguyễn Công Trứ, phường Vĩnh Thanh, thành phố Rạch Giá
| đại biểu quốc hội = *Nguyễn Thị Kim Bé
Đỗ Thanh Bình
Châu Quỳnh Dao
Lê Thành Long
Lý Anh Thư
Nguyễn Việt Thắng
Nguyễn Danh Tứ
Nguyễn Phương Tuấn
| phân chia hành chính = 3 thành phố, 12 huyện
| mã địa lý = VN-47
| mã hành chính = 91
| mã bưu chính = 92xxxx
| mã điện thoại = 297
| biển số xe = 68
| web =
|GRDP=151.492 tỉ đồng (6,31 tỉ USD)|GRDP bình quân đầu người=78,1 triệu đồng (3.320 USD)|biệt danh=Vùng đất bên bờ biển Tây}}
Kiên Giang là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
Phần lớn diện tích Kiên Giang ngày nay bao gồm thành phố Rạch Giá và toàn bộ tỉnh Hà Tiên cũ. Đây là tỉnh có diện tích lớn nhất vùng Tây Nam Bộ và lớn thứ hai ở Nam Bộ (sau Bình Phước). Tuy nhiên, vào thời nhà Nguyễn toàn bộ diện tích tỉnh Kiên Giang ngày nay đều thuộc tỉnh Hà Tiên. Tỉnh lị của tỉnh hiện nay là thành phố Rạch Giá cách Cần Thơ khoảng 120 km và Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km. Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 2018, Kiên Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 11 về số dân, xếp thứ 19 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 31 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 39 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.723.067 người dân , GRDP đạt 101.887,58 tỉ Đồng (tương ứng với 4,4 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 58,13 triệu đồng (tương ứng với 2.527 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP 2021 đạt 0,58%.
Địa lý
Vị trí địa lý
Kiên Giang nằm tận cùng phía Tây Nam của Việt Nam, trong đó lãnh thổ bao gồm đất liền và hải đảo. Phần đất liền nằm trong tọa độ từ 9°23'50 - 10°32'30 vĩ Bắc và từ 104°26'40 - 105°32'40 kinh Đông.
Tỉnh Kiên Giang có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Kampot của Campuchia, đường biên giới dài 56,8 km
Phía nam giáp tỉnh Cà Mau
Phía tây giáp vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 200 km
Phía đông giáp tỉnh An Giang, tỉnh Hậu Giang, tỉnh Bạc Liêu và thành phố Cần Thơ.
Phần hải đảo nằm trong vịnh Thái Lan bao gồm hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo Phú Quốc và xa nhất là quần đảo Thổ Chu, tập trung thành 5 quần đảo là quần đảo Hà Tiên (Hải Tặc), quần đảo Bà Lụa, quần đảo An Thới, quần đảo Nam Du và quần đảo Thổ Chu.
Cực Bắc thuộc địa phận xã Tân Khánh Hoà, huyện Giang Thành.
Cực Nam nằm ở xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận.
Cực Tây tại phường Mỹ Đức, thành phố Hà Tiên
Cực Đông nằm ở xã Hoà Lợi thuộc địa phận huyện Giồng Riềng.
Trung tâm tỉnh là thành phố Rạch Giá, cách Thành phố Hồ Chí Minh 250 km về phía Tây. Kiên Giang tiếp giáp Campuchia ở phía Bắc với đường biên giới dài 54 km. Vịnh Thái Lan ở phía Tây có đường bờ biển dài hơn 200 km. Ngoài ra Kiên Giang có hơn 100 đảo lớn nhỏ.
Kiên Giang nằm ven biển thuộc phía Tây Nam của Việt Nam, là vùng đất thuộc trấn Hà Tiên cũ do Tổng trấn Mạc Cửu khai phá vào thế kỷ 17. Đầu thế kỷ 18, Mạc Cửu được chúa Nguyễn thuần phục. Vào thời vua Minh Mạng Hà Tiên là một trong sáu tỉnh Nam Kỳ. Sau năm 1975 thành lập tỉnh Kiên Giang cho đến ngày nay.
Kiên Giang được nhiều người biết đến là vùng đất văn hóa và du lịch nổi tiếng bậc nhất ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Cảnh đẹp của Kiên Giang ngày xưa từng được ca ngợi qua "Hà Tiên thập vịnh". Đến ngày nay Kiên Giang được nhiều người biết đến qua danh thắng du lịch nổi tiếng là Hòn Phụ Tử (gãy hòn Phụ, còn hòn Tử) và đảo Phú Quốc. Ngoài ra, Kiên Giang còn có tiềm năng kinh tế với nguồn lợi vô cùng to lớn về thủy sản. Tỉnh lỵ của Kiên Giang là thành phố Rạch Giá, một trong hai thành phố biển ở Đồng bằng sông Cửu Long (Hà Tiên & Rạch Giá).
Kiên Giang có vị trí chiến lược quan trong, nằm trong vùng vịnh Thái Lan, gần với các nước thuộc Đông Nam Á như Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Chính vì vậy Kiên Giang có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực, đồng thời đóng vai trò cầu nối các tỉnh miền Tây Nam Bộ với bên ngoài.
Điều kiện tự nhiên
Kiên Giang có đủ các dạng địa hình từ đồng bằng, núi rừng và biển đảo. Trong đó, phần đất liền có địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ đông bắc xuống tây nam. Do nằm ở vĩ độ thấp và giáp biển nên Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 27 – 27,50C. Kiên Giang không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão nhưng lượng nước mưa do bão chiếm một tỷ trọng đáng kể, nhất là vào cuối mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.600 – 2.000 mm ở đất liền và 2.400 – 2.800 mm ở vùng đảo Phú Quốc. Khí hậu Kiên Giang rất ít thiên tai, không rét, không có bão đổ bộ trực tiếp, ánh sáng và nhiệt lượng dồi dào, nên rất thuận lợi cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi sinh trưởng.
Kiên Giang có 4 vùng đất đai chính là vùng phù sa ngọt thuộc tây sông Hậu, vùng phèn ngập lũ thuộc tứ giác Long Xuyên, vùng nhiễm mặn thuộc bán đảo Cà Mau và vùng đồi núi, hải đảo ở Phú Quốc và Kiên Hải. Trong đó, Đất nông nghiệp, chiếm 64,2% diện tích tự nhiên, đất rừng chiếm 122,8 nghìn ha, đất chuyên dùng 35,4 nghìn ha, đất ở 10,1 nghìn ha. Ngoài ra tỉnh còn có trên 70 nghìn ha đất hoang hoá và sản xuất chưa ổn định với hơn 25 nghìn ha vườn tạp. Rừng tại Kiên Giang rất ít, chủ yếu là rừng phòng hộ. Kiên Giang là tỉnh có tiềm năng khoáng sản tương đối lớn mặc dù đang ở mức thăm dò, nghiên cứu nhưng bước đầu đã xác định được 152 điểm quặng và 23 mỏ khoáng sản các loại khác. Trữ lượng đá vôi toàn tỉnh hiện có 440 triệu tấn, có khả năng khai thác 342 triệu tấn, trong đó trữ lượng khai thác công nghiệp là 235 triệu tấn, đủ nguyên liệu để sản xuất 4,6 triệu tấn clinker/năm trong suốt 40 năm. Than bùn, ước tính còn khoảng 150 triệu tấn .
Nền nông nghiệp của Kiên Giang là nông nghiệp trồng lúa nước. Đất canh tác không tập trung nhưng phần lớn phân bố ở ven các trung tâm huyện. Trên Quốc lộ 61 có một vùng trồng lúa ven nội ô huyện Giồng Riềng ngoài ra còn có đất canh tác của các gia đình nằm sâu trong những xóm nhỏ. Xen kẽ với việc trồng lúa nước là các loại hoa màu và một số cây có giá trị công nghiệp cao như dừa, khóm,...
Kiên Giang là tỉnh có nghề đánh bắt hải sản phát triển. Với bờ biển dài trên 200 km, có diện tích biển khoảng 63.000 km², Kiên Giang tiềm năng rất phong phú để phát triển kinh tế biển. Đây là một lĩnh vực mà tỉnh có lợi thế hơn hẳn so với nhiều tỉnh khác trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nước mắm Phú Quốc là một thương hiệu nước mắm nổi tiếng không những trong phạm vi cả nước mà còn trên bình diện quốc tế.
Lịch sử
Tỉnh Hà Tiên thời nhà Nguyễn độc lập
Năm 1757, Kiên Giang được biết là một đạo ở vùng Rạch Giá thuộc Trấn Hà Tiên do Mạc Thiên Tích thành lập. Đến năm 1808, đạo Kiên Giang được đổi thành huyện Kiên Giang. Năm 1832, vua Minh Mạng đặt ra tỉnh Hà Tiên (một trong [[Nam Kỳ Lục tỉnh), gồm 1 phủ là Quan Biên (đổi tên từ phủ An Biên) thống lĩnh 8 huyện: Hà Châu (đổi tên từ huyện Hà Tiên), Long Xuyên (sau này là địa bàn Cà Mau) và Kiên Giang (sau này là địa bàn tỉnh Rạch Giá), Sài Mạt, Linh Quỳnh, Châu Sum (có thể là Chhuk, mà cũng có thể là Bảy Núi), Cần Vọt, Vũng Thơm. Thời vua Tự Đức cho đến khi Pháp chiếm Hà Tiên (1847-1867), tỉnh Hà Tiên gồm 1 phủ (là phủ An Biên) với 3 huyện: Hà Châu, Kiên Giang và Long Xuyên. Các huyện trước thuộc phủ Quảng Biên (đất Cần Bột (Kampot), Vũng Thơm) trả về cho nước Cao Miên.
Phủ An Biên (thời Tự Đức), gồm:
Huyện Hà Châu nguyên có tên là Hà Tiên, gồm 5 tổng (tổng Hà Nhuận, tổng Nhuận Đức, tổng Hà Thanh, tổng Thanh Di, tổng Phú Quốc) với 63 làng xã, phía Tây giáp biển Tây, phía Nam giáp huyện Kiên Giang (Rạch Giá), phía Đông giáp huyện Hà Âm tỉnh An Giang, phía Bắc giáp nước Cao Miên. Đất huyện Hà Châu (phần các tổng Hà Thanh, Thanh Di) nay là phần đất thuộc các huyện, thành phố phía Bắc của tỉnh Kiên Giang: Hà Tiên, Kiên Lương, Hòn Đất, Giang Thành, và (có thể phần các tổng Hà Nhuận, Nhuận Đức) là phần đất Campuchia ngày nay ở giáp biên giới: (tại các huyện Banteay Meas, Kampong Trach của tỉnh Kampot), huyện Kiri Vong của tỉnh Takeo và thành phố Kep.
Huyện Kiên Giang nguyên là đất Rạch Giá (được Mạc Cửu mở mang), gồm 4 tổng (Kiên Định, Giang Ninh, Kiên Hảo, Thanh Giang) với 66 làng xã, phía Tây giáp biển Tây (qua núi Tật Lệ), phía Nam giáp lâm phận rừng huyện Long Xuyên, phía Đông giáp huyện Phong Phú tỉnh An Giang, phía Bắc giáp huyện Hà Châu. Đất huyện Kiên Giang nay có thể là phần đất thuộc thành phố Rạch Giá và các huyện phía Nam của tỉnh Kiên Giang.
Huyện Long Xuyên nguyên là đất Cà Mau (được Mạc Cửu mở mang), gồm 2 tổng (là Long Thủy và Quảng Xuyên) với 55 làng xã, phía Tây giáp biển Tây (qua núi Bạch Thạch (Đá Bạc)), phía Nam (đến cửa Hàu (Gành Hào)) giáp biển Đông, phía Đông giáp huyện Phong Thịnh tỉnh An Giang, phía Bắc giáp lâm phận rừng huyện Kiên Giang. Đất huyện Long Xuyên có thể nay là phần đất thuộc các tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu, nhưng cũng có thể bao gồm thành phố Long Xuyên của tỉnh An Giang, vì theo lời chú thích trong Đại Nam nhất thống chí (bản quốc ngữ) thì: Thời Pháp thuộc, tỉnh Hà Tiên chia cho 4 tỉnh: tỉnh Hà Tiên thời Pháp (đất huyện Hà Châu cũ), tỉnh Rạch Giá (huyện Kiên Giang cũ), tỉnh Long Xuyên (tức huyện Long Xuyên cũ), tỉnh Bạc Liêu (cũng đất huyện Long Xuyên) (có lẽ lời chú này lầm với tỉnh An Xuyên, tức Cà Mau ngày nay).
Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán nhà Nguyễn thì vào thời vua Tự Đức, cương vực tỉnh Hà Tiên như sau: "...Đông-Tây cách nhau 37 dặm, Nam-Bắc cách nhau 25 dặm, phía Đông đến địa giới huyện Hà Dương tỉnh An Giang (35 dặm), phía Tây đến biển (2 dặm), phía Nam vượt qua núi Tô Châu đến biển (5 dặm), phía Bắc đến địa giới Cao Miên (25 dặm), phía Đông Nam đến địa giới huyện Phong Thịnh tỉnh An Giang (150 dặm linh), phía Tây Nam đến biển (chừng 1 dặm), phía Đông Bắc đến địa giới Cao Miên (25 dặm), phía Tây Bắc vượt qua núi Bạch Ô đến biển (20 dặm). Từ tỉnh lỵ đi về phía Đông đến Kinh 1.325 dặm..."
Như vậy, tỉnh Hà Tiên nhà Nguyễn nằm kéo dài bên bờ vịnh Thái Lan (biển Tây), suốt từ Cà Mau đến Hà Tiên, có thời kỳ tới tận tỉnh Kampot và thành phố Sihanoukville (Kompong Som) của Campuchia, phía Đông giáp với tỉnh An Giang nhà Nguyễn, phía Tây Bắc, phía Bắc và phía Đông Bắc tiếp giáp Cao Miên.
Trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, xem xét về các địa danh trấn Hà Tiên, Đào Duy Anh viết: "... Chúng ta đã biết Vũng Thơm, Cần Bọt, Sài Mạt là dải đất từ lỵ sở Hà Tiên đến Sài Mít. Tức dải đất bờ biển phía tây nam nước Cao Miên. Còn Chân Sum thì Nhất thống chí (An Giang) chép là núi ở phía nam huyện Hà Âm cách 10 dặm, cách bờ sông Vĩnh Tế ở phía Nam 10 dặm. Huyện Hà Âm là huyện ở phía bắc sông Vĩnh Tế (phía âm của sông) nên gọi tên là thế, đối với huyện Hà Dương là huyện ở phía nam (phía dương của sông). Có thể đất Chân Sum là đất Sóc Sum của tỉnh KamPot. Về Linh Quỳnh thì Nhất thống chí chép rằng núi Linh Quỳnh thuộc huyện Hà Châu cách 120 dặm và ở phía bắc sông Giang Thành, sông này có hai nguồn ra từ núi Linh Quỳnh. Linh Quỳnh tức địa điểm Linh Quỳnh của tỉnh KamPot nước Cao Miên. (Xem thế thì thấy rằng năm phủ Vũng Thơm, Cần Bọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh ở đời Nguyễn còn là đất của huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên và của huyện Hà Âm tỉnh An Giang, đến đời Tự Đức triều Nguyễn mới trả về nước Cao Miên)."
Từ ngày 15 tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp đặt hạt Thanh tra Kiên Giang. Ngày 16 tháng 8 năm 1967, đổi tên thành hạt Kiên Giang tỉnh Rạch Giá
Tỉnh Rạch Giá và tỉnh Hà Tiên thời Pháp thuộc
Trước năm 1900
Ngày 24 tháng 6 năm 1867, tỉnh thành Hà Tiên bị thực dân Pháp chiếm. Sau nhiều năm do dự và phân thiết, địa bàn Hà Tiên được phân bổ ra các đơn vị hành chánh khá phức tạp, theo từng thời điểm khác nhau. Ngày 15 tháng 6 năm 1867, sau khi chiếm xong tỉnh Hà Tiên, thực dân Pháp cho thành lập hạt Thanh tra Kiên Giang bao gồm hai huyện Kiên Giang và Long Xuyên cũ. Ngày 16 tháng 8 năm 1867, hạt Thanh tra Rạch Giá được thành lập do đổi tên từ hạt Thanh tra Kiên Giang trước đó.
Năm 1868, tỉnh Hà Tiên cũ được chia ra làm hai hạt Thanh tra: Hà Tiên và Rạch Giá
Hạt Thanh tra Hà Tiên, nguyên là huyện Hà Châu với 5 tổng và 16 thôn: tổng Hà Thanh (5 thôn), tổng Thanh Di (3 thôn), tổng Nhuận Đức (1 thôn), tổng Hà Nhuận (5 thôn), tổng Phú Quốc (5 thôn)
Hạt Thanh tra Rạch Giá, nguyên là hai huyện Kiên Giang và Long Xuyên với 7 tổng và 110 thôn: tổng Kiên Định (14 thôn), tổng Thanh Giang (11 thôn), tổng Kiên Hảo (26 thôn), tổng Giang Ninh (11 thôn), tổng Long Thủy (25 thôn), tổng Quảng Xuyên (13 thôn).
Ngày 5 tháng 6 năm 1871, Pháp tách vùng Cà Mau ra khỏi Rạch Giá. Ngày 18 tháng 12 năm 1871, Pháp lại nhập Cà Mau vào Rạch Giá. Năm 1874, hạt Thanh tra Phú Quốc được thành lập, nhưng vì kinh tế không phát triển được nên một năm sau phải giải thể.
Ngày 5 tháng 1 năm 1876, thực dân Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement administratif) thì tỉnh Hà Tiên cũ bị chia thành hai hạt tham biện là Hà Tiên và Rạch Giá, đồng thời các thôn cũng đổi thành các làng.
Năm 1882, thiết lập hạt tham biện Bạc Liêu trên cơ sở tách 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên và Long Thủy của hạt tham biện Rạch Giá hợp với 2 tổng Thạnh Hòa và Thạnh Hưng tách từ hạt tham biện Sóc Trăng chuyển sang. Lỵ sở Bạc Liêu thuộc địa bàn tổng Thạnh Hòa vốn trước đó thuộc hạt tham biện Sóc Trăng. Ngày 12 tháng 8 năm 1888, hạt tham biện Rạch Giá bị giải thể, nhập vào hạt tham biện Long Xuyên. Ngày 27 tháng 12 năm 1892, thực dân Pháp lại tái lập hạt tham biện Rạch Giá.
Năm 1888, Hà Tiên cho thuộc về hạt tham biện Châu Đốc, đến cuối năm 1892 được phục hồi. Hạt tham biện Hà Tiên thuộc khu vực Bát Xắc (Bassac) chỉ còn đất huyện Hà Châu của tỉnh Hà Tiên cũ.
Giai đoạn 1900-1945
Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hai hạt tham biện Rạch Giá và Hà Tiên trở thành tỉnh Rạch Giá và tỉnh Hà Tiên. Năm 1903, đảo Phú Quốc được đặt dưới quyền của đại diện chủ tỉnh Hà Tiên.
Ngày 20 tháng 5 năm 1920, thực dân Pháp cho thành lập ở tỉnh Rạch Giá 5 quận trực thuộc: Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, Long Mỹ, Phước Long.
Tỉnh lỵ Rạch Giá đặt tại làng Vĩnh Thanh Vân thuộc quận Châu Thành. Ngày 18 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thị xã hỗn hợp Rạch Giá trực thuộc tỉnh Rạch Giá trên cơ sở cải biến khu đô thị Rạch Giá, trụ sở tại làng Vĩnh Thanh Vân dưới quyền một viên Thị trưởng và một Hội đồng thị xã. Ngày 16 tháng 1 năm 1930, Pháp chia địa bàn thị xã Rạch Giá thành 5 khu vực để đánh thuế. Ngày 30 tháng 4 năm 1934, Pháp nâng thị xã Rạch Giá lên thành thành phố Rạch Giá và chia thành 3 khu phố trực thuộc.
Ngày 1 tháng 1 năm 1936, thực dân Pháp lập đại lý hành chánh An Biên thuộc tỉnh Rạch Giá, trụ sở đặt tại chợ Thứ Ba trên cơ sở tách ra từ quận Phước Long. Đến ngày 1 tháng 8 năm 1939, Toàn quyền Đông Dương ban hành Nghị định nâng lên thành quận An Biên, đặt dưới quyền một quan chức người Pháp.
Tỉnh Hà Tiên từ năm 1913 đến năm 1924 bị giải thể, sáp nhập vào tỉnh Châu Đốc. Ngày 9 tháng 2 năm 1924, Hà Tiên lại trở thành một tỉnh độc lập. Từ năm 1924, tỉnh Hà Tiên gồm 4 quận: Châu Thành, Giang Thành, Hòn Chông và Phú Quốc. Tỉnh lỵ Hà Tiên đặt tại làng Mỹ Đức thuộc quận Châu Thành.
Giai đoạn 1945-1954
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Lúc bấy giờ, tỉnh Rạch Giá và tỉnh Hà Tiên nằm trong danh sách 21 tỉnh ở Nam Bộ.
Năm 1947, quận Phước Long được chính quyền thực dân Pháp giao cho tỉnh Bạc Liêu. Cũng trong năm này, chính quyền kháng chiến của lực lượng Việt Minh quyết định đổi tên huyện Phước Long thành huyện Hồng Dân, ban đầu thuộc tỉnh Rạch Giá, do lấy theo tên người chiến sĩ cộng sản Trần Hồng Dân (1916 - 1946) đã hy sinh tại địa phương trước đó. Năm 1951, huyện Hồng Dân được chính quyền Việt Minh giao về cho tỉnh Bạc Liêu.
Năm 1951, chính quyền Việt Minh quyết định giải thể tỉnh Rạch Giá, sáp nhập địa bàn vào các tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ và Sóc Trăng. Trong đó, thị xã Rạch Giá và các huyện Châu Thành, Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng được giao về cho tỉnh Cần Thơ, các huyện Hồng Dân và An Biên được giao về cho tỉnh Bạc Liêu. Bên cạnh đó, một phần nhỏ đất đai tỉnh Rạch Giá cũng được giao về cho tỉnh Sóc Trăng quản lý.
Tuy nhiên, việc giải thể tỉnh Rạch Giá, cũng như đổi tên gọi huyện Phước Long thành huyện Hồng Dân lại không được phía chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp của Bảo Đại và sau này là chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Đến năm 1954, chính quyền Việt Minh lại quyết định tái lập tỉnh Rạch Giá. Tháng 10 năm 1954, các huyện Hồng Dân và Long Mỹ cũng trở lại thuộc tỉnh Rạch Giá. Sau năm 1956, chính quyền Cách mạng lại quyết định giao huyện Hồng Dân cho tỉnh Sóc Trăng và giao huyện Long Mỹ cho tỉnh Cần Thơ quản lý trở lại như cũ.
Ngày 29 tháng 12 năm 1952, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp quyết định công nhận đô thị tỉnh lỵ Rạch Giá trở thành thị xã hỗn hợp (commune mixte) Rạch Giá trực thuộc tỉnh Rạch Giá.
Song song đó, tỉnh Hà Tiên cũng bị giải thể giống như tỉnh Rạch Giá. Tháng 10 năm 1950, chính quyền Việt Minh quyết định thành lập tỉnh Long Châu Hà trên cơ sở hợp nhất tỉnh Hà Tiên với tỉnh Long Châu Hậu (bao gồm một phần tỉnh Châu Đốc và một phần tỉnh Long Xuyên cũ) trước đó. Tuy nhiên, tên gọi tỉnh Long Châu Hà cũng không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa công nhận. Tỉnh Long Châu Hà tồn tại cho đến năm 1954 thì cũng bị giải thể, phân chia lại cho tỉnh Hà Tiên, tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên như cũ.
Như vậy, sau năm 1954, tỉnh Rạch Giá và tỉnh Hà Tiên đều được khôi phục trở lại như cũ.
Tỉnh Kiên Giang (tỉnh Rạch Giá) giai đoạn 1956-1976
Việt Nam Cộng hòa
Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Rạch Giá và tỉnh Hà Tiên như thời Pháp thuộc.
Ngày 15 tháng 2 năm 1955, Thủ hiến Nam Việt của chính quyền Quốc gia Việt Nam quyết định tạm sáp nhập vùng Chắc Băng và quận An Biên thuộc tỉnh Rạch Giá vào tỉnh Sóc Trăng. Ngày 24 tháng 5 năm 1955, quyết định sáp nhập ba quận An Biên, Phước Long và Chắc Băng để thành lập đặc khu An Phước thuộc tỉnh Sóc Trăng, nhưng không lâu sau lại cho giải thể đặc khu này. Sau đó, quận An Biên và vùng Chắc Băng lại trở về thuộc tỉnh Rạch Giá như cũ.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Hà Tiên bị bãi bỏ và 4 quận là Châu Thành, Hòn Chông, Giang Thành, Phú Quốc được sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá để thành lập tỉnh Kiên Giang. Tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang đặt tại Rạch Giá và vẫn giữ nguyên tên là "Rạch Giá", về mặt hành chánh thuộc xã Vĩnh Thanh Vân, quận Kiên Thành.
Sau năm 1956, thành phố Rạch Giá bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn xã Vĩnh Thanh Vân thuộc quận Kiên Thành của tỉnh Kiên Giang.
Năm 1957, theo Nghị định số 281-BNV/HC/NĐ, tỉnh Kiên Giang gồm 6 quận là Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên Bình, Kiên An, Hà Tiên, Phú Quốc. Ngày 27 tháng 12 năm 1957, Nghị định số 368-BNV/HC/NĐ bổ túc Nghị định số 281-BNV/HC/NĐ ấn định các đơn vị hành chánh tỉnh Kiên Giang. Quận Kiên An gồm thêm xã Vĩnh Tuy. Trong đó, quận Kiên An đổi tên từ quận An Biên cũ, quận Kiên Thành đổi tên từ quận Châu Thành cũ, quận Kiên Tân tách ra từ quận Châu Thành cũ, quận Kiên Bình thành lập trên phần đất hai quận Gò Quao và Giồng Riềng cũ.
Ngày 13 tháng 6 năm 1958, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành ban hành Nghị định 314-BNV/HC/NĐ về việc sửa đổi đơn vị hành chính tỉnh Kiên Giang. Trong đó quận Kiên Bình được tách thành quận Kiên Bình và quận Kiên Hưng. Năm 1958, tỉnh Kiên Giang có 7 quận: Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên An, Kiên Bình, Kiên Hưng, Hà Tiên, Phú Quốc. Sau đó lại lập thêm quận Kiên Long. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lập thêm quận Kiên Lương do tách đất từ hai quận Kiên Thành và Hà Tiên (địa bàn quận Kiên Lương lúc bấy giờ khác hẳn huyện Kiên Lương ngày nay). Ngày 24 tháng 12 năm 1961, lại giao hai quận Kiên Long và Kiên Hưng cho tỉnh Chương Thiện vừa mới thành lập.
Năm 1968, tỉnh Kiên Giang có 7 quận là: Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên Bình, Kiên An, Kiên Lương, Hà Tiên, Phú Quốc. Sau năm 1968, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lại lập thêm quận Hiếu Lễ, do tách đất từ quận Kiên An.
Năm 1971, tỉnh Kiên Giang có 8 quận là: Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên Bình, Kiên An, Kiên Lương, Hà Tiên, Phú Quốc, Hiếu Lễ.
Quận Hà Tiên gồm 3 xã: Mỹ Đức, Phú Mỹ, Thuận Yên;
Quận Hiếu Lễ gồm 4 xã: Đông Hưng, Đông Thạnh, Tân Bằng, Vân Khánh Đông;
Quận Kiên An gồm 4 xã: Đông Hòa, Đông Thái, Đông Yên, Tây Yên;
Quận Kiên Bình gồm 8 xã: Bàn Tân Định, Hóa Quản, Long Thạnh, Ngọc Chúc, Thạnh Hòa, Thạnh Hưng, Thới An, Vĩnh Thạnh;
Quận Kiên Tân gồm 5 xã: Giục Tượng, Mông Thọ, Tân Hiệp, Tân Hội, Thạnh Đông;
Quận Kiên Thành gồm 7 xã: An Phước, Bình An, Lại Sơn, Minh Hòa, Mỹ Lâm, Sóc Sơn, Vĩnh Hòa Hiệp;
Quận Kiên Lương gồm 6 xã: An Bình, An Hòa, Bình Trị, Dương Hòa, Đức Phương, Tín Đạo;
Quận Phú Quốc gồm 3 xã: An Thới, Dương Đông, Hàm Ninh.
Ngày 20 tháng 11 năm 1970, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tái lập thị xã Rạch Giá, là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang. Thị xã Rạch Giá được tái lập trên cơ sở các xã Vĩnh Thanh Vân và An Hòa cùng thuộc quận Kiên Thành trước đó. Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Rạch Giá và tỉnh Kiên Giang là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa.
Chính quyền Cách mạng
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn giữ nguyên tên gọi tỉnh Rạch Giá từ năm 1956 cho đến năm 1976, đồng thời vẫn duy trì thị xã Rạch Giá trực thuộc tỉnh Rạch Giá. Năm 1957, chính quyền Cách mạng quyết định giải thể tỉnh Hà Tiên, đổi thành huyện Hà Tiên và huyện Phú Quốc cùng trực thuộc tỉnh Rạch Giá. Tỉnh Rạch Giá khi đó gồm thị xã Rạch Giá và các huyện: Châu Thành, Gò Quao, Giồng Riềng, An Biên, Hà Tiên và Phú Quốc. Về sau, chính quyền Cách mạng lại cho thành lập thêm huyện Tân Hiệp trên cơ sở tách đất từ huyện Châu Thành và huyện Giồng Riềng. Bên cạnh đó, huyện Châu Thành cũng được chia thành huyện Châu Thành A và huyện Châu Thành B cùng thuộc tỉnh Rạch Giá.
Năm 1964, chính quyền Cách mạng thành lập huyện Vĩnh Thuận trên cơ sở tách ra từ huyện An Biên. Huyện Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Rạch Giá có địa giới hành chính trùng với quận Kiên Long thuộc tỉnh Kiên Giang của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Năm 1965, giao huyện Hà Tiên và huyện Phú Quốc cho tỉnh An Giang quản lý. Đến năm 1967 lại trả hai huyện Hà Tiên và Phú Quốc về cho tỉnh Rạch Giá như trước. Tuy nhiên, năm 1971 khi Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh An Giang, trên phần đất tỉnh Châu Đốc và tỉnh Hà Tiên trước đó thì huyện Hà Tiên, huyện Phú Quốc cùng với huyện Châu Thành A của tỉnh Rạch Giá lại được giao về cho tỉnh Châu Hà quản lý. Đến năm 1974 ba huyện này lại cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà.
Sau khi đã bàn giao huyện Châu Thành A về cho tỉnh Châu Hà và sau đó là tỉnh Long Châu Hà quản lý, huyện Châu Thành B cũng được đổi tên lại thành huyện Châu Thành thuộc tỉnh Rạch Giá như cũ. Từ đó cho đến năm 1976, tỉnh Rạch Giá còn lại thị xã Rạch Giá và các huyện: Châu Thành, Gò Quao, Giồng Riềng, An Biên, Tân Hiệp, Vĩnh Thuận.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Rạch Giá như trước đó cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, địa bàn tỉnh Rạch Giá sẽ được chia ra vào sáp nhập vào các tỉnh mới, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Cụ thể như sau:
Tỉnh Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu và hai huyện Vĩnh Thuận, An Biên (ngoại trừ 2 xã Đông Yên và Tây Yên) của tỉnh Rạch Giá sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh.
Phần còn lại của tỉnh Rạch Giá cùng với toàn bộ diện tích tỉnh Long Châu Hà và huyện Thốt Nốt của tỉnh Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Rạch Giá cũ (bao gồm cả ba huyện Hà Tiên, Phú Quốc, Châu Thành A hiện cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà nhưng trước năm 1971 lại cũng đều thuộc tỉnh Rạch Giá) vẫn để thành một tỉnh riêng biệt.
Tỉnh Kiên Giang từ năm 1976 đến bây giờ.
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định tái lập tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tỉnh Rạch Giá và ba huyện: Châu Thành A, Hà Tiên, Phú Quốc vốn thuộc tỉnh Long Châu Hà trước đó. Lúc này, huyện Châu Thành A bị giải thể và sáp nhập trở lại vào huyện Châu Thành như trước. Tỉnh Kiên Giang lúc đó gồm thị xã Rạch Giá và 8 huyện: An Biên, Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, Hà Tiên, Phú Quốc, Tân Hiệp, Vĩnh Thuận. Tỉnh lỵ là thị xã Rạch Giá.
Ngày 3 tháng 6 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 125-CP về việc chia huyện Châu Thành thuộc tỉnh Kiên Giang thành hai huyện lấy tên là huyện Hòn Đất và huyện Châu Thành thuộc tỉnh Kiên Giang. Theo đó, huyện Hòn Đất gồm có các xã Nam Thái Hoa, Mỹ Lâm, Sóc Sơn của huyện Châu Thành cũ và xã Bình Sơn của huyện Hà Tiên cắt sang. Địa bàn huyện Hòn Đất thuộc tỉnh Kiên Giang ngày nay chính là địa bàn huyện Châu Thành A thuộc tỉnh Rạch Giá và sau đó thuộc tỉnh Long Châu Hà trước năm 1976, còn địa bàn huyện Châu Thành phần còn lại sau khi chia tách cũng chính là địa bàn huyện Châu Thành B thuộc tỉnh Rạch Giá cũ.
Ngày 14 tháng 1 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 4-HĐBT về việc thành lập huyện Kiên Hải thuộc tỉnh Kiên Giang.
Ngày 13 tháng 1 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 7-HĐBT về việc chia huyện An Biên thuộc tỉnh Kiên Giang thành hai huyện lấy tên là huyện An Biên và huyện An Minh.
Ngày 8 tháng 7 năm 1998, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 47/1998/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Hà Tiên và thành lập các phường thuộc thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Theo đó, thành lập thị xã Hà Tiên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Hà Tiên, xã Thuận Yên (trừ 2.732 ha diện tích tự nhiên và 3.302 nhân khẩu giao về xã Phú Mỹ quản lý), xã Mỹ Đức và xã Tiên Hải thuộc huyện Hà Tiên. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập thị xã Hà Tiên, huyện Hà Tiên còn lại 89.548,5 ha diện tích tự nhiên và 62.162 nhân khẩu, gồm 6 xã và 1 thị trấn.
Ngày 21 tháng 4 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 28/1999/NĐ-CP về việc đổi tên huyện Hà Tiên thành huyện Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang.
Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 97/2005/NĐ-CP' về việc thành lập thành phố Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của thị xã Rạch Giá.
Ngày 6 tháng 4 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 58/2007/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện; thành lập huyện U Minh Thượng và thành lập xã thuộc các huyện Vĩnh Thuận, Kiên Lương và Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang.
Sau khi điều chỉnh, tỉnh Kiên Giang có 14 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các huyện: Kiên Lương, Hòn Đất, Giồng Riềng, Gò Quao, Châu Thành, Tân Hiệp, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, Kiên Hải, Phú Quốc, thị xã Hà Tiên và thành phố Rạch Giá.
Ngày 29 tháng 6 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 29/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường, thuộc các huyện, thành lập xã thuộc thị xã Hà Tiên và các huyện: Kiên Lương, Tân Hiệp, Giồng Riềng, Vĩnh Thuận; đồng thời điều chỉnh địa giới hành chính huyện Kiên Lương để thành lập huyện Giang Thành.
Tỉnh Kiên Giang có 634.833,32 ha diện tích tự nhiên và 1.726.026 nhân khẩu, có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các huyện: Kiên Lương, Hòn Đất, Châu Thành, Tân Hiệp, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, Kiên Hải, Phú Quốc, Giang Thành, thị xã Hà Tiên và thành phố Rạch Giá.
Ngày 18 tháng 2 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 268/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Rạch Giá là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Kiên Giang.
Ngày 17 tháng 9 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1676/QĐ-TTg công nhận huyện đảo Phú Quốc là đô thị loại II.
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 573/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập thành phố Hà Tiên trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Hà Tiên (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 năm 2018).
Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1109/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập thành phố Phú Quốc trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Phú Quốc (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021).
Tỉnh Kiên Giang có 3 thành phố và 12 huyện như hiện nay.
Hành chính
Tỉnh Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính cấp huyện được chia thành 3 thành phố và 12 huyện với 144 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 thị trấn, 18 phường và 116 xã.
Kinh tế
Năm 2012 Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 11,81%, mục tiêu đề ra là 12,5% xếp hạng thứ 3 trong các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long sau Hậu Giang với 14,13%, Bạc Liêu đạt 12,57%, GDP bình quân đầu người năm 2012 là 2026 USD/người/năm, sản lượng lương thực của tỉnh đạt 4,28 triệu tấn cao nhất từ trước đến nay và là năm thứ 2 đứng đầu cả nước về sản lượng lương thực, trong đó sản lượng lúa đạt 4.287.175 tấn, tăng 366.026 tấn so cùng kỳ, đây là năm sản lượng lương thực đạt cao nhất từ trước đến nay. Sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản ước 548.182 tấn, đạt 100,95% kế hoạch, tăng 8,24%, trong đó sản lượng khai thác 421.201 tấn, đạt 100,29% kế hoạch và tăng 6,11%, sản lượng nuôi trồng thủy sản 126.981 tấn, đạt 103,24% kế hoạch và tăng 15,96% so với năm 2011.
Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2012 ước đạt 16.055,3 tỷ đồng, đạt 99,11% kế hoạch, tăng 10,01% so với cùng kỳ năm 2011. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước 41.710 tỷ đồng, tăng 18,02% cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 620 triệu USD. Trong đó, hàng nông sản 438 triệu USD và hàng hải sản đạt 157 triệu USD. Kim ngạch nhập khẩu ước 35 triệu USD. Tình hình đầu tư và hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch được đẩy mạnh thực hiện, thu hút có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển của tỉnh. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước 24.406,9 tỷ đồng, Vốn ngân sách do địa phương quản lý giá trị khối lượng hoàn thành ước thực hiện 3.269 tỷ đồng, giải ngân 3.214 tỷ đồng.
Tổng thu ngân sách nhà nước ước 4.406 tỷ đồng, đạt 97,9% dự toán điều chỉnh. Tổng chi ngân sách ước 8.357 tỷ đồng, đạt 105,4% dự toán điều chỉnh, trong đó chi đầu tư phát triển 2.742 tỷ đồng chưa kể nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, chi thường xuyên 4.558,8 tỷ đồng. Hoạt động ngân hàng, nguồn vốn hoạt động tiếp tục tăng trưởng 14,28%, huy động vốn tại địa phương tăng 20,59% so với năm 2011, đảm bảo vốn tín dụng cho yêu cầu phát triển kinh tế xã hội địa phương. Doanh số cho vay ước đạt 49.950 tỷ đồng tăng 8,8% so năm trước, dư nợ cho vay là 25.650 tỷ đồng tăng 6,39% so năm trước, tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng được kiểm soát, tỷ lệ nợ xấu không vượt quá 3%. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 11 tháng tăng 6,3% so với tháng 12 năm 2011, ước CPI tháng 12 năm 2012 so với tháng 12 năm 2011 tăng 6,5-7,5%, thấp hơn so với mức bình quân chung của cả nước (8%).
Kinh tế biển
Kiên Giang là tỉnh có vùng biển rộng khoảng 63.290 km², với 5 quần đảo, trong đó có 3 thành phố ven biển: Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc cùng với 5 huyện: An Biên, An Minh, Hòn Đất, Kiên Hải và Kiên Lương
Kiên Giang cũng là tỉnh nằm trong ngư trường Kiên Giang - Cà Mau. Đây là ngư trường lớn nhất nước ta. Năm 2020, bất chấp đại dịch COVID-19, tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản của tỉnh Kiên Giang ước đạt 836.175 tấn, vượt 10,75% kế hoạch, gồm: Khai thác đánh bắt hơn 572.000 tấn, nuôi trồng 264.105 tấn, trong đó tôm nuôi 92.490 tấn, vượt 8,8% kế hoạch, tăng 11,7% so với năm 2019
Giao thông
Kiên Giang nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km đường bộ về phía tây nam, hệ thống giao thông ở tỉnh tương đối thuận tiện, bao gồm đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Trong đó, hệ thống giao thông đường bộ không ngừng phát triển. Giao thông nội bộ các thành phố, thị xã được nâng cấp và tráng nhựa. Các tuyến đường huyết mạch trên địa bàn tỉnh là Quốc lộ 80, Quốc lộ 61, Quốc lộ 63, Tỉnh lộ 11, đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và đường cao tốc Lộ Tẻ – Rạch Sỏi,... Mạng lưới giao thông đường thủy của tỉnh cũng tương đối hoàn chỉnh. Về giao thông vận tải theo đường hàng không thì Kiên Giang có Sân bay Rạch Giá và Sân bay Quốc tế Phú Quốc, rất thuận lợi về việc lưu thông trong tỉnh và trong nước.
Biển số xe
Thành phố Rạch Giá: 68-X1-S1
Thành phố Hà Tiên: 68-H1
Thành phố Phú Quốc: 68-P1
Huyện An Biên: 68-B1
Huyện An Minh: 68-M1
Huyện Châu Thành: 68-C1
Huyện Giang Thành: 68-F1
Huyện Giồng Riềng: 68-G1 G2
Huyện Gò Quao: 68-E1
Huyện Hòn Đất: 68-D1
Huyện Kiên Hải: 68-S1
Huyện Kiên Lương: 68-K1
Huyện Tân Hiệp: 68-T1
Huyện U Minh Thượng: 68-L1
Huyện Vĩnh Thuận: 68-N1
Biển số xe ô tô: 68A, 68B, 68C, 68D, 68LD
Biển số xe kinh doanh vận tải: 68E, 68H, 68F.
Dân số
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Kiên Giang đạt 1.923.067 người, mật độ dân số đạt 272 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 587.800 người, chiếm 28,3% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 1.335.267 người, chiếm 71,7% dân số. Dân số nam đạt 973.236 người, trong khi đó nữ đạt 949.831 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 10,8 ‰ Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 35,6%.
Về dân tộc và tôn giáo, Kiên Giang là địa bàn cư trú của hơn 15 dân tộc khác nhau. Trong đó, người Kinh chiếm khoảng 85,5%, Người Khmer chiếm khoảng 12,2% dân số tập trung chủ yếu ở các huyện Châu Thành, Gò Quao. Người Hoa chiếm khoảng 2,2% dân số sinh sống ở thành phố Rạch Giá và huyện Châu Thành. Còn lại là một số dân tộc khác như: Chăm, Tày, Mường, Nùng....
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 12 tôn giáo khác nhau đạt 513.283 người, nhiều nhất là Phật giáo có 272.662 người, tiếp theo là Công giáo đạt 136.789 người, đạo Cao Đài có 49.697 người, Phật giáo Hòa Hảo có 45.920 người, đạo Tin Lành chiếm 5.697 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 1.791 người, Hồi giáo đạt 419 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đạt 218 người. Còn lại các tôn giáo khác như Baha'i giáo có 39 người, Minh Sư Đạo có 26 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 22 người và Bà La Môn chỉ có ba người.
Giáo dục
Tính đến năm 2018, toàn tỉnh Kiên Giang có 485 trường học ở các cấp phổ thông, trong đó có 43 trường THPT, 167 trường THCS và 275 trường tiểu học, ngoài ra còn có 236 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Kiên Giang tương đối ổn đinh, góp phần làm giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Hiện nay Kiên Giang có 1 trường Đại học và 5 trường Cao đẳng. Danh sách các trường Đại học, Cao đẳng tại Kiên Giang:
Đại học Kiên Giang (QL61, TT Minh Lương, H Châu Thành, tỉnh Kiên Giang)
Trường Cao đẳng Y tế Kiên Giang (14 Phạm Ngọc Thạch, P Vĩnh Thanh, TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang)
Trường Cao đẳng Nghề Kiên Giang (Nguyễn Trung Trực, P An Hoà, TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang)
Cao đẳng Kiên Giang (425 Mạc Cửu, P Vĩnh Thanh, TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang)
Cao đẳng Sư phạm Kiên Giang (449 Nguyễn Chí Thanh, P Rạch Sỏi, TP Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang)
Văn hóa
Kiên Giang nằm tận cùng về phía tây nam của Việt Nam, nơi giao thoa văn hóa của nhiều vùng miền cả nước, bản sắc văn hoá tỉnh nhà cũng vì thế mà rất phong phú, đa dạng, thể hiện qua các lĩnh vực văn học, nghệ thuật, ẩm thực, lễ hội, làng nghề truyền thống... Văn hóa ẩm thực ở đây cũng rất phong phú, đa dạng với hàng trăm món ăn các loại với các đặc sản như Cá nhồng, Nước mắm Phú Quốc, Cháo môn, Sò huyết Hà Tiên, Bún cá Kiên Giang...
Hằng năm trên địa bàn tỉnh diễn ra nhiều lễ hội, nhưng đặc sắc nhất là lễ hội anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực diễn ra vào tháng tháng Tám âm lịch thu hút hàng ngàn lượt khách trong và ngoài tỉnh đến tham gia. các làng nghề truyền thống rất đặc sắc như đan đệm bàng, dệt chiếu Tà Niên, nắn nồi Hòn Đất, làm hàng thủ công mỹ nghệ bằng đồi mồi, làm huyền phách ở Hà Tiên…
Du lịch Kiên giang tiềm tàng nhiều tài năng chưa được khai thác hoặc khai thác chưa đúng mức.
Du lịch
Khu dự trữ sinh quyển ven biển và biển đảo Kiên Giang đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới vào tháng 10/2006. Khu DTSQ Kiên Giang chứa đựng sự phong phú, đa dạng và đặc sắc về cảnh quan và hệ sinh thái như rừng tràm trên đất ngập nước, rừng trên núi đá, hệ sinh thái biển mà trong đó tiêu biểu là thảm cỏ biển gắn liền với loài động vật quý hiếm là bò biển. Khu DTSQ Kiên Giang trùm lên địa phận Phú Quốc, An Minh, Vĩnh Thuận, Kiên Lương và Kiên Hải, có ba vùng lõi thuộc các Vườn quốc gia U Minh Thượng, VQG Phú Quốc, và Rừng phòng hộ ven biển Kiên Lương - Kiên Hải.
Thắng cảnh chùa Hang (Kiên Lương) với hòn Phụ Tử nổi tiếng. Tháng 8 năm 2006, một bên của hòn Phụ Tử (hòn Phụ) đã bị đổ xuống biển. Nguyên nhân ban đầu được xác định là do những tác động tự nhiên của gió, sóng và nước biển. Hiện nay các ngành chức năng ở địa phương đang họp bàn về cách phục dựng.
Thạch Động: Cách biên giới Campuchia chưa được 3 km đường chim bay, từ xa hình giống như nón của người lính kỵ binh Anh thời xưa. Được hình thành từ đá vôi bị xâm thực, bên trong Thạch Động đủ rộng để du khách có thể viếng chùa, ngắm nhìn biên giới bên tay gió biển thổi lộng vào (xem thêm Hà Tiên thập vịnh).
Đảo Phú Quốc, hòn đảo lớn nhất Việt Nam, là hòn đảo ngọc hiện đang được chú ý bởi những ai thích vẻ hoang sơ của nó. Hiện nay tốc độ tăng trưởng du lịch của Phú Quốc được coi như là cao nhất với mức tăng luôn từ 100% trở lên so với năm trước đó.
Chú thích
Liên kết ngoài
Vịnh Thái Lan
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11200
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kon%20Tum
|
Kon Tum
|
Kon Tum là tỉnh nằm ở phía bắc Tây Nguyên, Việt Nam.
Năm 2018, Kon Tum là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 61 về số dân, xếp thứ 59 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 53 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 28 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 535.000 người dân, số liệu kinh tế - xã hội thống kê GRDP đạt 20.057 tỉ Đồng (tương ứng với 0,8711 tỉ USD).
Địa lý
Tỉnh lỵ của Kon Tum là thành phố Kon Tum cách Thành phố Hồ Chí Minh 654 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 320 km về phía Nam và cách thủ đô Hà Nội 1.095 km (theo Google Map) km về phía Nam.
Tỉnh Kon Tum nằm ở ngã 3 Đông Dương, phần lớn nằm ở phía Tây dãy Trường Sơn, có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam
Phía nam giáp tỉnh Gia Lai
Phía đông giáp tỉnh Quảng Ngãi
Phía tây giáp các tỉnh Sekong, Attapeu của Lào và Ratanakiri của Campuchia
Địa hình
Địa hình Kon Tum chủ yếu là đồi núi, chiếm khoảng 2/5 diện tích toàn tỉnh, gồm những đồi núi liền dải có độ dốc 150 trở lên. Địa hình núi cao liền dải phân bố chủ yếu ở phía bắc - tây bắc chạy sang phía đông tỉnh Kon Tum, với gò đồi, núi, cao nguyên và vùng trũng xen kẽ nhau, tạo ra những cảnh quan vừa mang tính đặc thù của tiểu vùng, vừa mang tính đan xen và hoà nhập, Kon Tum có độ cao trung bình từ 500 mét đến 700 mét, riêng phía Bắc có độ cao từ 800 mét - 1.200 mét, có đỉnh Ngọc Linh cao nhất với độ cao 2.596 mét.
Khí hậu
Khí hậu Kon Tum có nét chung của khí hậu vùng nhiệt đới gió mùa của phía Nam Việt Nam, mang tính chất của khí hậu cao nguyên. Khí hậu Kon Tum chia thành 2 mùa là mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm vào khoảng 2.121 mm, lượng mưa năm cao nhất 2.260 mm, năm thấp nhất 1.234 mm, 3 tháng 7, 8, 9 có lượng mưa cao nhất. Mùa khô, gió chủ yếu theo hướng đông bắc, vào mùa mưa, gió chủ yếu theo hướng tây nam. Nhiệt độ có sự chênh lệch giữa các khu vực trong tỉnh, khu vực miền núi cao trải dài phía Đông Bắc gồm các huyện Kon Plong, Tu Mơ Rông và Đăk Glei thời tiết mát mẻ và ôn hòa hơn, trong khi đó khu vực đất thấp phía Tây Nam như huyện Ia H'Drai, Sa Thầy và thung lũng thành phố Kon Tum thời tiết nóng và oi ả hơn.
Tài nguyên
Kon Tum nằm trên khối nâng Kon Tum, vì vậy đa dạng về cấu trúc địa chất và khoáng sản. Trên địa bàn có 21 phân vị địa tầng và 19 phức hệ mắc ma đã bị các nhà địa chất nghiên cứu xác lập, hàng loạt các loại hình khoáng sản như sắt, crôm, vàng, nguyên liệu chịu lửa, đá quý, bán quý, kim loại phóng xạ, đất hiếm, nguyên liệu phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng,... đã bị phát hiện.
Rừng Kon Tum phần lớn là rừng nguyên sinh có gỗ như cẩm lai, dáng hương, pơ mu, thông… tỉnh Kon Tum có khoảng hơn 300 loài thực vật, thuộc hơn 180 chi và 75 họ thực vật có hoa. Động vật nơi đây gồm chim có 165 loài, 40 họ, 13 bộ. Thú có 88 loài, 26 họ, 10 bộ, chiếm 88% loài thú ở Tây Nguyên. Bên cạnh các loài thú, Kon Tum còn có những loại chim "quý cần được bảo vệ" như công, trĩ sao, gà lôi lông tía và gà lôi vằn.
Lịch sử
Kon Tum có sự sinh sống của các dân tộc bản địa gồm Xơ Đăng, Bana, Gia Rai,Giẻ Triêng, Brâu, Rơ Măm. Mỗi dân tộc gắn với một vùng cư trú khác nhau. Thiết chế xã hội cổ truyền của người dân bản địa nơi đây là tổ chức làng (kon), mang tính biệt lập, do 1 già làng là người có uy tín nhất trong làng, đứng đầu.
Ngày 10 tháng 10 năm 1978, thành lập huyện Sa Thầy trên cơ sở tách 4 xã thuộc huyện Đăk Tô và 1 xã thuộc thị xã Kon Tum.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Kon Tum bị tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh Gia Lai - Kon Tum thành 2 tỉnh: Gia Lai và Kon Tum.
Ngày 15 tháng 10 năm 1991, thành lập huyện Ngọc Hồi trên cơ sở tách 3 xã thuộc Sa Thầy, 1 xã thuộc huyện Đăk Tô và 1 xã thuộc huyện Đăk Glei.
Ngày 24 tháng 3 năm 1994, thành lập huyện Đăk Hà trên cơ sở tách 4 xã thuộc thị xã Kon Tum và 2 xã thuộc huyện Đăk Tô.
Ngày 31 tháng 1 năm 2002, chia huyện Kon Plông thành 2 huyện: Kon Plông và Kon Rẫy.
Ngày 9 tháng 6 năm 2005, chia huyện Đăk Tô thành 2 huyện: Đăk Tô và Tu Mơ Rông.
Ngày 11 tháng 3 năm 2015, thành lập huyện Ia H'Drai trên cơ sở tách 3 xã thuộc huyện Sa Thầy.
Hành chính
Tỉnh Kon Tum có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 102 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 7 thị trấn, 10 phường và 85 xã.
Kinh tế - xã hội
Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2010, cơ cấu kinh tế chuyển đổi "cơ bản tiến bộ", công nghiệp xây dựng đạt 32%, nông, lâm nghiệp 25%, dịch vụ 43%, GDP bình quân đầu người đạt 507 USD, nhu cầu vốn đầu tư cả thời kỳ 476,6 triệu USD. Tình hình xuất nhập khẩu đến năm 2010 đạt 70 triệu USD. Đồng thời năm 2010 có 50.000 lượt khách du lịch, trong đó có 10.000 khách nước ngoài.
Năm 2012, năm thứ 2 triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Kon Tum lần thứ XIV. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 13,77% so với cả nước. Trong đó, các ngành nông - lâm - thủy sản tăng 7,3%, ngành công nghiệp - xây dựng tăng 17,49%, ngành dịch vụ tăng 18,34% và chỉ số giá tiêu dùng tăng 9,88%. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.632,2 tỷ đồng, vượt 0,5% so với kế hoạch. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 38,2%, đồng thời giải quyết việc làm cho khoảng 6.200 lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 22,12 triệu đồng, và tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 22,77%.
Ước tính đến cuối năm 2012, toàn tỉnh có 13.794 hợp tác xã, tăng 504 so với năm 2011. Danh thu bình quân của Hợp tác xã năm 2012 ước đạt 1,74 tỷ đồng/HTX/Năm, Lợi nhuận bình quân của hợp tác xã đạt 370,87 triệu đồng/HTX/Năm. Thu nhập bình quân của các xã viên hợp tác xã ước đạt 18,26 triệu đồng/xã viên/năm. Thu nhập của lao động thường xuyên trong các hợp tác xã, Liên hiệp hợp tác xã ước đạt 17,83 triệu đồng/lao động/năm.
Tỉnh Kon Tum đã thực hiện đẩy mạnh phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn và sản phẩm chủ lực của tỉnh như Sâm Ngọc Linh, rau hoa xứ lạnh, nuôi cá tầm, cá hồi... gắn với tìm kiếm thị trường tiêu thụ. Tỉnh phấn đấu trong năm 2013, thu ngân sách nhà nước tại địa bàn đạt trên 1.830 tỷ đồng và kim ngạch xuất khẩu đạt trên 100 triệu USD.
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Kon Tum có 259 trường học ở cấp phổ trong đó có Trung học phổ thông có 14 trường, Trung học cơ sở có 94 trường, Tiểu học có 131 trường, trung học có 10 trường, có 10 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó có 108 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Kon Tum góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.
Y tế
Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Kon Tum có 121 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 4 Bệnh viện, 13 Phòng khám đa khoa khu vực, 97 Trạm Y tế phường xã, và 1 Bệnh viện Điều dưỡng - Phục hồi chức năng. Tỉnh có 1770 giường bệnh và 354 bác sĩ, 350 y sĩ, 694 y tá.
Dân cư
Theo thống kê năm 2020, tỉnh Kon Tum có diện tích 9.674,18 km², dân số năm 2020 là 561.742 người.
Theo kết quả điều tra ngày 1 tháng 4 năm 1999, tỉnh Kon Tum có 316.600 người. Toàn tỉnh có 25 dân tộc, trong đó đông nhất là dân tộc Kinh có 145.681 người chiếm 46,36%. Các dân tộc thiểu số gồm dân tộc Xơ Đăng có 78.741 người, chiếm 25,05%. dân tộc Ba Na có 37.519 người, chiếm 11,94%. dân tộc Giẻ- Triêng có 25.463 người, chiếm 8,1%. dân tộc Gia Rai có 15.887 người, chiếm 5,05%. các dân tộc khác chiếm 3,5 %.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Kon Tum đạt 540.438 người, mật độ dân số đạt 55 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 172.712 người, chiếm 32% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 367.726 người, chiếm 68% dân số. Dân số nam đạt 271.619 người trong khi đó nữ đạt 268.819 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 2,28 ‰
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, tỉnh Kon Tum có 42 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh có 201.153 người, người Xơ Đăng có 104.759 người, người Ba Na có 53.997 người, Người Giẻ Triêng có 31.644 người, người Gia Rai có 20.606 người, người Mường có 5.386 người, Người Thái có 4.249 người, Người Tày có 2.630, cùng các dân tộc ít người khác như Nùng, Hrê, Brâu, Rơ Măm...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, tỉnh Kon Tum có 5 Tôn giáo khác nhau chiếm 262.856 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo có 218.511 người, Phật giáo có 26.012 người, Tin Lành có 17.744 người, cùng các tôn khác như Cao Đài có 499 người, Đạo Bahá'í có 15 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có bốn người, và Hồi giáo có 1 người.
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin điện tử của UBND tỉnh Kon Tum
Sở giáo dục Kon Tum
|
11201
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1o%20Nguy%C3%AAn%20Hi%20Huy%E1%BB%81n
|
Đạo Nguyên Hi Huyền
|
Đạo Nguyên Hi Huyền , 1200-1253 - cũng được gọi là Vĩnh Bình Đạo Nguyên vì Sư có công khai sáng Tào Động tông (ja. sōtō) tại Nhật Bản và lập Vĩnh Bình tự một trong hai ngôi chùa chính của tông này. Ngoài ra, sư còn là một trong những Thiền sư quan trọng nhất của Phật giáo Nhật Bản. Sư được Phật tử của tất cả các tông phái Phật giáo tại Nhật Bản thờ phụng như một Đại Bồ Tát.
Sư thường bị hiểu lầm là một triết gia với quan điểm "thâm sâu và quái dị nhất" nhưng những gì Sư viết không xuất phát từ những suy luận về thật tại mà từ sự trực chứng thực tại.
Cơ duyên
Sư sinh ra trong một gia đình quý phái, thời thơ ấu đã chứng tỏ có một đầu óc xuất sắc. Lên bốn Sư đã đọc thơ Đường và lên chín đã đọc được một bài luận về A-tì-đạt-ma. Cha mẹ mất sớm làm Sư ngộ lẽ vô thường và trở thành tăng sĩ. Mới đầu, Sư học giáo pháp của Thiên Thai tông. Năm mười lăm tuổi, Sư bị câu hỏi sau đây dày vò: "Nếu quả thật, như kinh dạy, thể tính của ta đã là Bồ-đề, thì sao Chư Phật còn phải tu học để giác ngộ?" Sư tìm học với Thiền sư Minh Am Vinh Tây, người đã đưa dòng Thiền Lâm Tế từ Trung Quốc qua Nhật Bản. Vinh Tây trả lời câu hỏi của Sư: "Chư Phật không ai biết mình có Phật tính, chỉ có súc sinh mới biết mình có Phật tính." Sư nghe đây có chút tỉnh ngộ và sau đó học đạo với Vinh Tây, nhưng học không được lâu vì Vinh Tây tịch ngay trong năm đó.
Dù đã tiến xa, Sư vẫn khắc khoải và cuối cùng, vào năm 1223, cất bước lên đường sang Trung Quốc bằng đường biển, một chuyến đi đầy hiểm nguy thời đó. Sư tham vấn nhiều Thiền sư, học hỏi nhiều phép tu nhưng chỉ tại chùa Thiên Đồng, Sư mới được Thiền sư Trường Ông Như Tịnh (zh. 長翁如淨) ở Thiên Đồng sơn (zh. 天童山), Minh Châu (zh. 明州) hướng dẫn đạt tông chỉ của dòng Tào Động, và (có thể nói là) giác ngộ
Hai năm sau ngày đại ngộ, Sư trở về Nhật và thành lập dòng Tào Động ở đây. Sư sống 10 năm ở Kinh Đô (ja. kyōto). Nhằm tránh ảnh hưởng của triều đình Nhật, Sư rút về sống viễn li trên núi.
Pháp ngữ và ảnh hưởng
Trong buổi lễ khánh thành thiền viện đầu tiên tại Nhật là Hưng Thánh Pháp Lâm tự (zh. 興聖法林寺, ja. kōshōhōrin-ji), Sư thượng đường với những câu sau:
"Ta chẳng tu học tại nhiều thiền viện. Nhưng khi ta yết kiến Đại sư Như Tịnh thì ta thông hiểu tường tận, trực nhận rằng: lỗ mũi đứng thẳng và hai con mắt nằm ngang. Từ bấy giờ ta chẳng còn bị ai lừa bịp. Với hai bàn tay trắng ta trở về cố hương và vì vậy ta chẳng có chút gì có thể gọi là Phật pháp cả. Ta sống theo nhịp điệu của thời gian: buổi sáng mặt trời mọc ở hướng Đông và buổi tối trăng lặn ở phía Tây. Mây tan núi hiện, sau cơn mưa thì núi có vẻ thấp hơn bình thường—là thế nào?... Hễ bốn năm thì có một năm nhuận, gà gáy buổi sáng."
Sư đứng im một lúc rồi bước xuống pháp toà.
Tác phẩm chính và nổi tiếng nhất của Sư là Chính pháp nhãn tạng (zh. 正法眼藏, ja. shōbōgenzō) - được xem là một kiệt tác của Thiền tông Nhật Bản. Theo quan điểm của dòng Tào Động, Đạo Nguyên cho rằng phép im lặng toạ thiền (mặc chiếu thiền) rất quan trọng. Mặt khác Sư cũng không hề từ chối phép tham quán công án được truyền dạy trong dòng Lâm Tế (ja. rinzai). Bản thân Sư cũng góp nhặt khoảng 300 công án Thiền, luận giải cho từng công án đó trong tác phẩm Niêm bình tam bách tắc (zh. 拈評三百則, ja. nempyo sambyaku-soku). Các tác phẩm khác của Sư - khác với Chính pháp nhãn tạng - chỉ mang tính chất nhập môn. Môn đệ kế thừa Sư là Cô Vân Hoài Trang (zh. 孤雲懷奘, ja. koun ejō).
Năm 1243, Sư rời Hưng Thánh tự và đến vùng Ichizen để một năm sau đó thành lập Vĩnh Bình tự. Năm 1253, Sư viên tịch.
Các tác phẩm quan trọng của Sư còn được lưu lại:
Phổ khuyến toạ thiền nghi (zh. 普勸坐禪儀, ja. fukanzazengi)
Học đạo dụng tâm tập (zh. 學道用心集, ja. gakudōyōjinshū)
Điển toạ giáo huấn (zh. 典座教訓, ja. tenzōkyōkun)
Vĩnh Bình quảng lục (zh. 永平廣錄, ja. eihei kōroku), cũng được gọi là Đạo Nguyên Hoà thượng quảng lục (zh. 道元和尚廣錄, ja. dōgen ōshō kōroku)
Chính pháp nhãn tạng tuỳ văn ký (zh. 正法眼藏隨聞記, ja. shōbōgenzō-zuimonki)
Chính pháp nhãn tạng tam bách tắc (zh. 正法眼藏三百則, ja. shōbōgenzō sambyakusoku)
Chính pháp nhãn tạng (zh. 正法眼藏, ja. shōbōgenzō), 95 quyển.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Thuần Bạch (dịch): Phổ khuyến tọa thiền nghi
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Sinh năm 1200
Nhà triết học Nhật Bản
Mất năm 1253
Tào Động tông
|
11202
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lai%20Ch%C3%A2u
|
Lai Châu
|
Lai Châu là một tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam .
Năm 2018, Lai Châu là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 62 về số dân, xếp thứ 61 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 58 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 46 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 456.300 người dân, GRDP đạt 14.998 tỉ Đồng (tương ứng với 0,6540 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 33 triệu đồng (tương ứng với 1.433 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,23%.
Lai Châu là một tỉnh biên giới, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, phía tây và phía tây nam giáp tỉnh Điện Biên, phía đông giáp tỉnh Lào Cai, phía đông nam giáp tỉnh Yên Bái, và phía nam giáp tỉnh Sơn La. Đây là tỉnh có diện tích lớn thứ 10/63 tỉnh thành Việt Nam .
Địa lý
Trung tâm hành chính của tỉnh là Thành phố Lai Châu, cách Thủ đô Hà Nội 397 km
Nằm ở phía tây bắc của Việt Nam, có toạ độ địa lý từ 21°41' đến 22°49' vĩ độ Bắc và 102°19' đến 103°59' kinh độ Đông.
Phía đông giáp tỉnh Lào Cai và tỉnh Yên Bái
Phía tây giáp tỉnh Điện Biên
Phía nam giáp tỉnh Điện Biên và tỉnh Sơn La
Phía bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc
Các điểm cực của tỉnh Lai Châu:
Điểm cực bắc tại: xã Sì Lở Lầu, huyện Phong Thổ.
Điểm cực đông tại: xã Mường Than, huyện Than Uyên.
Điểm cực tây tại: xã Mù Cả, huyện Mường Tè.
Điểm cực nam tại: xã Khoen On, huyện Than Uyên.
Lai Châu có 265,165 km đường biên giới (theo Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc) với cửa khẩu song phương Ma Lù Thàng - Kim Thủy Hà và nhiều đường mòn qua lại trên tuyến biên giới Việt – Trung trực tiếp giao lưu với các lục địa rộng lớn phía tây nam Trung Quốc. Lai Châu có tiềm năng để phát triển dịch vụ – thương mại, xuất nhập khẩu và du lịch, đồng thời, cũng có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Lai Châu nằm trong khu vực đầu nguồn và phòng hộ đặc biệt xung yếu của sông Đà, sông Nậm Na và sông Nậm Mu, điều tiết nguồn nước trực tiếp cho các công trình thủy điện lớn trên sông Đà, đảm bảo sự phát triển bền vững cả vùng châu thổ sông Hồng.
Địa hình được tạo bởi những dãy núi chạy dài theo hướng tây bắc - Đông Nam, có nhiều đỉnh núi cao như đỉnh Pu Ta Leng cao 3.096 m (đỉnh núi cao thứ 2 tại Việt Nam), đỉnh Bạch Mộc Lương Tử cao 3.046 m. Núi đồi cao và dốc, xen kẽ nhiều thung lũng sâu và hẹp, có nhiều cao nguyên, sông suối. Sông có nhiều thác ghềnh, dòng chảy lưu lượng lớn nên tiềm năng thủy điện rất lớn. Lai Châu có đặc điểm địa hình với nhiều dãy núi và cao nguyên, phía đông là dãy núi Hoàng Liên Sơn. Giữa hai dãy núi đồ sộ trên là phần đất thuộc vùng núi thấp tương đối rộng lớn và lưu vực sông Đà với nhiều cao nguyên đá vôi (dài 400 km, rộng từ 1 – 25 km, cao 600 – 1.000 m). Trên 60% diện tích có độ cao trên 1.000 m, trên 90% diện tích có độ dốc trên 25°, bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi chạy dài theo hướng tây bắc – Đông Nam, xen kẽ là các thung lũng có địa hình tương đối bằng phẳng như: Mường So, Tam Đường, Bình Lư, Than Uyên… Có đỉnh núi Fansipan cao 3.143 m, Pu Sam Cáp cao 1.700 m… Núi đồi cao và dốc, xen kẽ nhiều thung lũng sâu và hẹp, có nhiều sông suối, nhiều thác ghềnh, dòng chảy lưu lượng lớn nên có nhiều tiềm năng về thủy điện.
Lai Châu có khí hậu cận nhiệt đới ẩm. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 21 °C-23 °C chia làm hai mùa theo độ ẩm là mùa mưa và mùa khô, chia làm 4 mùa theo nhiệt độ: xuân, hè, thu, đông.
Lịch sử
Xưa kia Lai Châu hay Mường Lai được đặt dưới quyền điều hành của tù trưởng các dân tộc Thái, quy phục triều đình Việt Nam. Đây vốn là một châu thuộc phủ Điện Biên, tỉnh Hưng Hóa xưa.
Tiểu quân khu phụ Lai Châu gồm châu Lai (trung tâm tại thị xã Mường Lay ngày nay), châu Luân (Tủa Chùa), châu Quỳnh Nhai, châu Phong Thổ được thành lập theo Nghị định ngày 5 tháng 6 năm 1893 của Toàn quyền Đông Dương và trực thuộc tỉnh Vạn Bú từ ngày 10 tháng 10 năm 1895. Tỉnh Vạn Bú đổi tên thành tỉnh Sơn La năm 1904, do đó Lai Châu lại thuộc tỉnh Sơn La.
Tỉnh Lai Châu được thành lập theo Nghị định ngày 28 tháng 6 năm 1909 của Toàn quyền Đông Dương. Lúc đó tỉnh Lai Châu gồm các châu Lai, châu Quỳnh Nhai, châu Điện Biên tách ra từ tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Lai Châu (nay là thị xã Mường Lay thuộc tỉnh Điện Biên), quản lý đầu tiên là công sứ E. Gilles. Ngày 16 tháng 1 năm 1915 tỉnh Lai Châu bị thay thế bằng Đạo Quan binh 4 Lai Châu dưới sự cai trị quân sự.
Năm 1948, Lai Châu thuộc Khu tự trị Thái trong Liên bang Đông Dương đến năm 1950 thì gộp và Hoàng triều Cương thổ của Quốc trưởng Bảo Đại.
Thời kỳ 1953-1955, khi Việt Minh tiếp quản thì tỉnh Lai Châu thuộc Khu tây bắc, tách khỏi Liên khu Việt Bắc.
Ngày 29 tháng 4 năm 1955, tỉnh Lai Châu giải thể, 6 châu của tỉnh Lai Châu cũ (Mường Tè, Mường Lay, Sình Hồ, Điện Biên, Quỳnh Nhai, Tuần Giáo) trực thuộc Khu tự trị Thái Mèo.
Ngày 18 tháng 10 năm 1955, thành lập châu Tủa Chùa gồm 8 xã, tách từ châu Mường Lay.
Ngày 27 tháng 10 năm 1962, đổi tên Khu tự trị Thái Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc, đồng thời tái lập tỉnh Lai Châu, gồm 7 huyện: Mường Tè, Mường Lay, Sình Hồ (nay là Sìn Hồ), Điện Biên, Quỳnh Nhai, Tuần Giáo, Tủa Chùa. Đến cuối năm 1975, giải thể cấp Khu tự trị.
Sau năm 1975, tỉnh Lai Châu có tỉnh lị là thị xã Lai Châu và 7 huyện: Điện Biên, Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tủa Chùa, Tuần Giáo.
Năm 1979, Trung Quốc đã xâm lăng, đánh chiếm thị trấn Phong Thổ huyện Phong Thổ, phá hủy nhiều cơ sở trước khi rút quân về bên kia biên giới. Sau này tỉnh lỵ chuyển về thị xã Điện Biên Phủ.
Năm 1990, cơ sở hạ tầng của thị xã Lai Châu bị phá huỷ nặng nề bởi trận lũ lịch sử.
Ngày 18 tháng 4 năm 1992, thành lập thị xã Điện Biên Phủ và chuyển tỉnh lỵ từ thị xã Lai Châu về thị xã Điện Biên Phủ.
Ngày 14 tháng 1 năm 2002, thành lập huyện Tam Đường trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Phong Thổ; thành lập huyện Mường Nhé trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Mường Tè và Mường Lay.
Ngày 26 tháng 9 năm 2003, thành lập thành phố Điện Biên Phủ trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Điện Biên Phủ.
Trước khi tách tỉnh, tỉnh Lai Châu có diện tích lớn nhất miền Bắc Việt Nam, thứ hai cả nước (sau tỉnh Đắk Lắk cũ); có diện tích 18.619,22 km², dân số 753.811 người, có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh lị), thị xã Lai Châu và 10 huyện: Điện Biên, Điện Biên Đông, Mường Lay, Mường Nhé, Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường, Tủa Chùa, Tuần Giáo.
Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ra Nghị quyết trong đó chia tỉnh Lai Châu thành tỉnh Lai Châu (mới) và tỉnh Điện Biên, đồng thời chuyển huyện Than Uyên của tỉnh Lào Cai về tỉnh Lai Châu mới quản lý:
Tỉnh Điện Biên gồm thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh lị), thị xã Lai Châu và 6 huyện: Điện Biên, Điện Biên Đông, Mường Lay, Mường Nhé, Tủa Chùa, Tuần Giáo.
Tỉnh Lai Châu gồm 5 huyện: Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường, Than Uyên.
Tỉnh Lai Châu mới có diện tích tự nhiên là 906.512,30 ha và dân số vào thời điểm đó là 313.511 người, bao gồm các huyện Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường; các xã Pú Đao, Chăn Nưa, Nậm Hàng và bản Thành Chử, xã Xá Tổng của huyện Mường Lay; phường Lê Lợi của thị xã Lai Châu; huyện Than Uyên của tỉnh Lào Cai. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Phong Thổ, huyện Tam Đường.
Ngày 2 tháng 1 năm 2004, địa giới các huyện Mường Tè và Sìn Hồ được điều chỉnh lại.
Ngày 10 tháng 10 năm 2004, thành lập thị xã Lai Châu mới trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Tam Đường. Còn thị xã Lai Châu cũ thuộc tỉnh Điện Biên được đổi tên thành thị xã Mường Lay vào năm 2005.
Ngày 30 tháng 10 năm 2008, thành lập huyện Tân Uyên trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Than Uyên.
Ngày 2 tháng 11 năm 2012, thành lập huyện Nậm Nhùn trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Mường Tè và Sìn Hồ.
Ngày 27 tháng 12 năm 2013, chuyển thị xã Lai Châu thành thành phố Lai Châu. Tỉnh Lai Châu có 1 thành phố và 7 huyện như hiện nay.
Hành chính
Tỉnh Lai Châu có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 7 huyện với 106 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 5 phường, 7 thị trấn và 94 xã.
Dân số
Tỉnh Lai Châu là địa phương có mật độ dân số thấp nhất với 53 người/km2 (diện tích hơn 9.068 km2; dân số 478,4 nghìn người). Mật độ dân số trung bình của Việt Nam (297 người/km2) gấp 5,6 lần mật độ dân số của tỉnh Lai Châu.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 5 tôn giáo khác nhau đạt 60.892 người, nhiều nhất là đạo Tin Lành có 57.226 người, tiếp theo là Công giáo đạt 3.577 người, Phật giáo có 80 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có bảy người và Phật giáo Hòa Hảo có hai người.
Cơ sở hạ tầng
Lai Châu là một tỉnh vùng cao biên giới, núi đồi dốc, địa hình chia cắt, xen kẽ nhiều thung lũng sâu và hẹp, lại có nhiều cao nguyên, sông suối nên khó khăn cho việc phát triển giao thông. Nhưng Lai Châu lại có đường biên giới dài 265,095 km giáp tỉnh Vân Nam, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với cửa khẩu song phương Ma Lù Thàng - Kim Thủy Hà là điều kiện thuận lợi cho việc giao thương hàng hoá và dịch vụ du lịch.
Với mạng lưới giao thông chủ yếu là đường bộ. Tỉnh Lai Châu có quốc lộ 12 chạy qua nối từ thành phố Điện Biên Phủ tới Trung Quốc (qua cửa khẩu Ma Lù Thàng), có quốc lộ 4D nối tới thị trấn SaPa (Lào Cai), quốc lộ 32 nối với tỉnh Yên Bái, có đường thủy sông Đà giao lưu với các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Tính đến nay đã có 95/98 xã, phường có đường ô tô đến tận trung tâm các xã, phường trên địa bàn toàn tỉnh và 3 xã đang trong giai đoạn xây dựng.
Hạ tầng mạng lưới điện: Tính đến cuối năm 2009, 80/98 xã và 74% số hộ được sử dụng điện. Nhiều công trình thủy điện lớn đã và đang được xây dựng trên địa bàn như thủy điện Sơn La (2400MW), Huội Quảng (520MW), Bản Chát (220MW), Nậm Na 3 (84MW) và đặc biệt là thủy điện Lai Châu (1.200MW) được khởi công vào cuối năm 2010, cùng với 60 dự án thủy điện vừa và nhỏ khác…
Hạ tầng mạng lưới cấp thoát nước: Tính đến cuối năm 2009, 50% dân số đô thị trên địa bàn tỉnh được sử dụng nước sạch, 74% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Tính đến cuối năm 2009, Lai Châu có 11 bưu cục, 68/89 xã có điểm bưu điện văn hoá xã, 22 đại lý bưu điện và điểm chuyển phát; có 29/89 xã, 06 thị trấn, 03/03 phường có báo phát hàng ngày; có 221 trạm BTS, tăng 111 trạm so với năm trước; mật độ điện thoại cố định là 16,2 máy/100 dân, tăng 143% so với năm 2008; dịch vụ Internet tiếp tục phát triển nhanh, mật độ 1,21 thuê bao/ 100 dân, tăng 162% so với năm 2008
Năm học 2009-2010 có 392 trường với 5.759 lớp, tăng 27 trường, 306 lớp so với năm 2008-2009. Tổng số học sinh ra lớp là 104.209 học sinh, tăng 6.117 học sinh so với năm học trước. Tính đến cuối năm 2009, đã hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở 23 xã, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.
Kinh tế
Sau khi tách tỉnh, Lai Châu là một trong những tỉnh khó khăn. Tuy nhiên, nền kinh tế Lai Châu đã phát triển và đạt được những kết quả quan trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển khá.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân 13%/ năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 8 triệu đồng, tăng 2,4 lần so với năm 2005. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông, lâm nghiệp đạt 34% (giảm 11,3%); công nghiệp – xây dựng 35% (tăng 9,6%); dịch vụ 31% (tăng 1,7%). Các ngành, lĩnh vực kinh tế đều có sự phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Đã hình thành một số vùng sản xuất nông, lâm nghiệp tập trung, có triển vọng về hiệu quả kinh tế và xã hội; Sản xuất lương thực tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 157 nghìn tấn, lương thực bình quân đầu người đạt 400 kg/ người/ năm. Cây cao su được đầu tư trồng mới gần 7000 ha, tiếp tục thâm canh vùng chè và đưa thêm giống mới vào sản xuất. Kinh tế rừng phát triển với việc đã thu hút được một số doanh nghiệp đến đầu tư, phát triển rừng kinh tế. Trong 5 năm đã khoán bảo vệ 141 nghìn ha, khoanh nuôi tái sinh 117 nghìn ha, trồng mới trên 19 nghìn ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt 41%, tăng 9,3% so với năm 2005; Văn hóa - xã hội tiếp tục có bước chuyển biến rõ nét, dân trí được nâng lên, công tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tích cực; Quốc phòng - An ninh được đảm bảo, quan hệ đối ngoại được mở rộng; Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên…Được gắn với khu vực tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh bằng các tuyến Quốc lộ 4D, Quốc lộ 70, Quốc lộ 32 và đường thủy sông Đà.
Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản: Xây dựng các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, có những vùng đạt 30–50 triệu đồng/ha/năm tại các cánh đồng Mường So, Bình Lư, Mường Than. Duy trì và cải tạo, thâm canh và phát triển cây chè và cây thảo quả, đây là hai loại cây có thế mạnh trong việc xuất khẩu hàng hoá của tỉnh. Xã hội hoá nghề rừng, chuyển cơ bản từ lâm nghiệp truyền thống sang phát triển lâm nghiệp xã hội mang tính cộng đồng, phát triển rừng kinh tế để phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến. Tổ chức sản xuất nông thôn theo hướng phát triển kinh tế trang trại, lấy kinh tế hộ làm đơn vị tự chủ, các DN, hợp tác xã nông lâm nghiệp là đơn vị dịch vụ hai đầu cho kinh tế hộ phát triển.
Công nghiệp: Đối với Lai Châu có thể coi đây là một ngành kinh tế mũi nhọn, kết hợp phục vụ sản xuất nông – lâm nghiệp. Tỉnh đã thông qua quy hoạch chi tiết các điểm có thể xây dựng nhà máy thủy điện, đặc biệt là công trình thủy điện Lai Châu. Công nghiệp chế biến nông lâm sản cũng cần được quan tâm đúng mức. Công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng tránh làm theo phương thức vụn vặt để dễ quản lý và khai thác có hiệu quả. Tiểu thủ công nghiệp với các ngành nghề truyền thống của địa phương như: mây tre đan, dệt thổ cẩm, lương thực thực phẩm…
Ngày 06 tháng 10 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1182/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh Lai Châu
Ẩm thực
Các đặc sản, ẩm thực ở Lai Châu như: lợn cắp nách, bánh bỏng San Thàng, gạo nếp Tan, mắc cọp Sìn Hồ, pa tỉnh tộp, chè san tuyết Sà Dề Phìn, rêu đá, rượu ngô Sùng Chô, bánh chưng đen, chè dây Ka Lăng, thịt sấy gác bếp, rau dớn, mật ong rừng Mường Tè, thắng cố, ớt trung đoàn Thu Lũm, gỏi cá, mắc khén, hạt dổi, cá bống vùi tro Vàng Pheo, gạo Dâu, chè san tuyết Tả Lèng, ve sầu rán, canh gà lá thuốc Dao Khâu Sìn Hồ, quả mắc có, đậu phụ nhự, rau ngót rừng, lam nhọ Lai Châu, rượu sâu chít, nấm hương rừng Phong Thổ, xôi màu xôi tím, sâu măng Sin Súi Hồ, quả óc cho, lá chua trộn thịt, tam thất đen Mường Tè, lòng tiết nhồi gạo nếp Sìn Hồ, thảo quả, phở nhắng Lai Châu, hoa đu đủ, đường phên Tả Lèng, canh tiết lá đắng, mận Sìn Hồ, măng, cá đắng Sàng Mà Pho, rau lá ngón Mường So, măng nộm hoa ban, chè xanh, gạo séng cù Than Uyên, miến rong Bình Lư, khâu nhục, lợn đen Mường Tè, dưa chuột mèo, măng lay chấm chéo.
Du lịch
Du lịch văn hoá
Lai Châu có 20 dân tộc, mỗi dân tộc đều có những nét riêng trong đời sống văn hoá truyền thống.
Chợ phiên vùng cao là nơi biểu hiện rất rõ những nét văn hoá đặc trưng đó.
Dinh thự Đèo Văn Long thuộc xã Lê Lợi – huyện Nậm Nhùn, là khu dinh thự của vị chúa Thái thời Chiến tranh Đông Dương. Dinh thự trở thành di tích lịch sử, giáo dục lòng tự hào dân tộc và là nơi tham quan tìm hiểu những nét kiến trúc đặc trưng, mang bản sắc văn hóa Thái.
Bia Lê Lợi: được khắc trên vách đá bờ Bắc sông Đà, nay thuộc xã Lê Lợi – huyện Nậm Nhùn.
Di chỉ khảo cổ học nền văn minh của người Việt cổ như di tích Nậm Phé, Nậm Tun ở Phong Thổ; đã tìm thấy công cụ của thời kỳ đồ đá; những công cụ bằng đồng của nền văn hoá Đông Sơn thời đại Hùng Vương, như trống đồng .
Lễ hội
Lễ hội Then Kin Pang: là lễ hội của người Thái trắng ở Phong Thổ được tổ chức vào ngày 13 - 15 tháng Ba âm lịch hàng năm. Lễ hội thu hút nhiều cư dân trong vùng đến vui chơi, múa hát. Lễ hội còn là dịp thi đánh đàn Tính Tẩu. Các nhạc cụ hòa âm với các quả nhạc đồng tạo nên không khí vui tươi, rộn rã.
Ngoài ra còn có lễ Hạn Khuống của người Thái, lễ cơm mới của người La Hủ, lễ hội xuân Căm Mường của người Lào, lễ hội bắt cá của người Kháng ở Than Uyên, lễ hội hoa ban, lễ hội mừng măng mọc...
Cảnh quan thiên nhiên
Lai Châu có nhiều cao nguyên cao trên 1.500m, mây, sương phủ bốn mùa, khí hậu trong lành, mát lạnh quanh năm như: cao nguyên Sìn Hồ, hồ Thầu, Dào San...
Lai Châu có nhiều đỉnh núi cao, sông suối nhiều thác ghềnh, như: dãy Pu Sam Cáp (cao trên 1.700 m), sông Đà, sông Nậm Na, sông Nậm Mu …
Suối nước nóng, nước khoáng là sản vật thiên nhiên tặng cho Lai Châu như núi đá Ô, động Tiên (Sìn Hồ); động Tiên Sơn (Bình Lư - Tam Đường), thác Tắc Tình (TT Tam Đường), suối nước nóng Vàng Bó (Phong Thổ); suối nước nóng Nà Đông, Nà Đon (Tam Đường); suối nước khoáng (Than Un);… và các hồ thủy điện lớn khác.
Pú Đao: Một bản người Mông nhỏ với 887 người dân ở tỉnh Lai Châu được khách hàng của một hãng lữ hành nước Anh bầu là một trong năm điểm đến hấp dẫn nhất ở Đông Nam Á. Xã Pú Đao (tiếng Mông có nghĩa là "điểm cao nhất") thuộc huyện Sìn Hồ, cách thị xã Mường Lay 13 km.
Chỉ dẫn
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cổng giao tiếp điện tử tỉnh Lai Châu
Tây Bắc Bộ
|
11203
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2m%20%C4%90%E1%BB%93ng
|
Lâm Đồng
|
Lâm Đồng là một tỉnh miền núi nằm ở cực nam của vùng Tây Nguyên, miền Trung của Việt Nam, đồng thời là tỉnh có diện tích lớn thứ 7 cả nước, tiếp giáp với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Đà Lạt.
Năm 2022, Lâm Đồng là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 23 về số dân, xếp thứ 23 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 18 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 26 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.321.800 người dân, số liệu kinh tế - xã hội thống kê GRDP đạt 103,4 nghìn tỉ Đồng (tương ứng với 3,406 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 77,67 triệu đồng (tương ứng với 3,338 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 12.09%.
Nằm trên 3 cao nguyên cao nhất của Tây Nguyên là Lâm Viên - Di Linh - Bảo Lộc (tên cũ là B'Lao) với độ cao 1500 mét so với mực nước biển và là tỉnh duy nhất ở Tây Nguyên không có đường biên giới quốc tế. Tỉnh lỵ là thành phố Đà Lạt nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 300 km về hướng Đông Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 658 km về phía nam, cách thủ đô Hà Nội 1.414 km tính theo đường Quốc lộ 1. Năm 2010, Lâm Đồng là tỉnh đầu tiên của Tây Nguyên có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Đà Lạt, Bảo Lộc).
Địa lý
Vị trí
Lâm Đồng thuộc Nam Tây Nguyên, có tọa độ địa lý từ 11˚12’- 12˚15’ vĩ độ bắc và 107˚45’ kinh độ đông.
Phía đông giáp tỉnh Khánh Hoà và tỉnh Ninh Thuận
Phía tây giáp tỉnh Bình Phước và tỉnh Đồng Nai
Phía nam giáp tỉnh Bình Thuận
Phía bắc giáp tỉnh Đắk Lắk và tỉnh Đắk Nông.
Phía bắc tỉnh là dãy núi Yang Bông có đỉnh cao 1749 mét. Dãy núi phía nam có đỉnh Đan Sê Na cao 1950 mét, đỉnh Langbiang cao 2163 mét, Hòn Giao cao 1948 mét. Phía nam hai dãy núi là cao nguyên Lang Biang, trên đó có thành phố Đà Lạt ở độ cao 1475 mét. Phía đông và nam tỉnh có cao nguyên Di Linh cao 1010 mét, phía tây nam tỉnh có cao nguyên Bảo Lộc cao từ 900 ÷ 1100m địa hình khá bằng phẳng và đông dân cư, là nơi đầu nguồn của sông La Ngà.
Những liên kết với Nam Bộ
Tuy thuộc vùng Tây Nguyên nhưng Lâm Đồng vẫn có những liên kết nhất định với vùng Nam Bộ ở một vài lĩnh vực:
Về mặt quân sự, Lâm Đồng được xếp vào Quân khu 7 (quân khu Đông Nam Bộ mở rộng).
Địa hình
Nằm ở phía nam Tây Nguyên, trên 3 cao nguyên (cao nguyên Lâm Viên, cao nguyên Di Linh, cao nguyên Bảo Lộc) và là khu vực đầu nguồn của hệ thống sông suối lớn, địa hình đa số là núi và cao nguyên với độ cao trung bình từ 800 đến 1.000 mét so với mực nước biển, đồng thời cũng có những thung lũng nhỏ bằng phẳng. Đặc điểm nổi bật của địa hình tỉnh Lâm Đồng là sự phân bậc khá rõ ràng từ bắc xuống nam.
Khí hậu
Do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa biến thiên theo độ cao, chính vì vậy khí hậu Lâm Đồng được chia làm 2 mùa riêng biệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 kéo dài đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ cũng thay đổi rõ rệt giữa các khu vực, càng lên cao nhiệt độ càng giảm. Nhiệt độ trung bình năm của tỉnh dao động từ 18 – 250C, thời tiết ôn hòa và mát mẻ quanh năm, thường ít có những biến động lớn trong chu kỳ năm. Lượng mưa trung bình 1.750 – 3.150 mm/năm, độ ẩm tương đối trung bình cả năm 85 – 87%. Đặc biệt Đà Lạt thuộc Lâm Đồng có khí hậu cận nhiệt đới núi cao ngay trong vùng khí hậu nhiệt đới savan điển hình và nằm không xa các trung tâm đô thị lớn và vùng đồng bằng đông dân.
Nằm trong hệ thống sông Đồng Nai, có nguồn nước rất phong phú, mạng lưới suối khá dày đặc, tiềm năng thủy điện rất lớn, với 73 hồ chứa nước, 92 đập dâng. Sông suối trên địa bàn Lâm Đồng phân bố khá đồng đều, phần lớn sông suối chảy từ hướng đông bắc xuống tây nam, hầu hết các sông suối ở đây đều có lưu vực khá nhỏ và có nhiều ghềnh thác ở thượng nguồn.
Lịch sử
Ngày 1 tháng 11 năm 1899, chính quyền Pháp lập tỉnh Đồng Nai Thượng (Province de Haut Donnai), tỉnh lỵ đặt tại Di Linh (Djiring), do Ernest Outrey làm công sứ đầu tiên
Năm 1903, bãi bỏ tỉnh Đồng Nai Thượng, chuyển thành đại lý hành chính Di Linh, do đại diện của Công sứ Bình Thuận cai trị. Cai trị đại lý Di Linh là đại biện Laugier, đại diện của viên công sứ Lucien L. Garnier của Bình Thuận.
Năm 1913, nhập đại lý Đà Lạt với đại lý Di Linh, gọi chung là đại lý Di Linh và vẫn thuộc tỉnh Bình Thuận, đặt Élie Joseph Marie Cunhac làm đại biện.
Ngày 6 tháng 1 năm 1916: thành lập tỉnh Lâm Viên, gồm đại lý Đà Lạt mới lập lại và đại lý Di Linh, tách từ tỉnh Bình Thuận. Tỉnh lỵ đặt tại Đà Lạt, Cunhac làm công sứ đầu tiên. Tỉnh Lâm Viên còn được gọi là Langbiang hay Lâm Viên
Ngày 31 tháng 10 năm 1920: xóa bỏ tỉnh Lâm Viên, một phần lập ra thành phố Đà Lạt, phần còn lại lập lại tỉnh Đồng Nai Thượng, tỉnh lỵ đặt tại Di Linh, công sứ lúc này là L Garnier. Năm 1928 chuyển tỉnh lỵ tỉnh Đồng Nai Thượng về Đà Lạt, do L'Helgoach làm công sứ
Ngày 8 tháng 1 năm 1941, lập lại tỉnh Lâm Viên, tỉnh lỵ đặt tại Đà Lạt, De Redon làm công sứ đầu tiên. Tỉnh lị tỉnh Đồng Nai Thượng chuyển về Di Linh.
Ngày 19 tháng 5 năm 1958, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng, đồng thời tách một phần đất sáp nhập với thành phố Đà Lạt, thành lập tỉnh Tuyên Đức. Tỉnh Lâm Đồng gồm 2 quận Bảo Lộc (B'Lao) và Di Linh, tỉnh lỵ đặt tại Bảo Lộc.
Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nhập tỉnh Lâm Viên với tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng. Như vậy tỉnh Lâm Đồng do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt bao gồm 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức do Việt Nam Cộng hòa đặt.
Tháng 2 năm 1976, 2 tỉnh Lâm Đồng và Tuyên Đức hợp nhất thành tỉnh Lâm Đồng mới, gồm thành phố Đà Lạt và 4 huyện: Bảo Lộc, Di Linh, Đơn Dương, Đức Trọng.
Ngày 14 tháng 3 năm 1979, chia huyện Bảo Lộc thành 2 huyện: Bảo Lộc và Đạ Huoai; chia huyện Đơn Dương thành 2 huyện: Đơn Dương và Lạc Dương.
Ngày 6 tháng 6 năm 1986, chia huyện Đạ Huoai thành 3 huyện: Đạ Huoai, Đạ Tẻh và Cát Tiên.
Ngày 28 tháng 10 năm 1987, chia huyện Đức Trọng thành 2 huyện: Đức Trọng và Lâm Hà.
Ngày 11 tháng 7 năm 1994, chia huyện Bảo Lộc thành thị xã Bảo Lộc và huyện Bảo Lâm.
Ngày 24 tháng 7 năm 1999, thành phố Đà Lạt được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại II.
Ngày 17 tháng 11 năm 2004, thành lập huyện Đam Rông trên cơ sở tách 3 xã thuộc huyện Lạc Dương và 5 xã thuộc huyện Lâm Hà.
Ngày 23 tháng 3 năm 2009, thành phố Đà Lạt được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Lâm Đồng.
Ngày 8 tháng 4 năm 2010, chuyển thị xã Bảo Lộc thành thành phố Bảo Lộc. Tỉnh Lâm Đồng có 2 thành phố và 10 huyện như hiện nay.
Hành chính
Tỉnh Lâm Đồng có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố trực thuộc tỉnh và 10 huyện với 142 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 111 xã, 18 phường và 13 thị trấn.
Kinh tế
Lâm Đồng có diện tích trồng Trà lớn nhất Việt Nam. Tuy nhiên một phần lớn doanh thu của tỉnh là nhờ vào phát triển du lịch và xuất khẩu cà phê. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Lâm Đồng xếp ở vị trí thứ 61/63 tỉnh thành, đến năm 2015 xếp hạng 20/63 tỉnh thành Việt Nam.
Giai đoạn 9 tháng đầu năm 2012, GDP theo giá so sánh năm 1994 đạt 7.247 tỷ đồng tăng 15,6% so với cùng kỳ 2011. Trong đó Nông lâm thủy sản 1.752 tỷ đồng, công nghiệp - xây dựng đạt 2.760,8 tỷ đồng, dịch vụ 2.733,7 tỷ đồng. Cũng trong giai đoạn này, GDP theo giá hiện hành đạt 19.366 tỷ đồng tăng 24% so với cùng kỳ 2011. Trong đó Nông lâm thủy sản 6.104 tỷ đồng, công nghiệp - xây dựng đạt 4.515 tỷ đồng, dịch vụ 8.747 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 197.7 tỷ đồng tăng 9,6 %, tổng mức đầu tư xã hội đạt 8.550 tỷ đồng, Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 2.886,5 tỷ đồng, thu hút du lịch đạt 2,98 triệu lượt đồng thời giải quyết cho 22.663 lao động.
Dân cư và Tôn giáo
Dân cư
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Lâm Đồng đạt 1.296.906 người, mật độ dân số đạt 125 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 508.755 người, chiếm 39,2% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 788.151 người, chiếm 60,8% dân số. Dân số nam đạt 653.074 người, trong khi đó nữ đạt 643.832 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,88 ‰ Lâm Đồng cũng là tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất Tây Nguyên (42,7%; tính đến năm 2022).
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên địa bàn toàn tỉnh có 43 dân tộc cùng 18 người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh là đông nhất với 901.316 người, xếp ở vị trí thứ hai là người Kaho với 145.665 người, người Mạ đứng ở vị trí thứ 3 với 31.869 người, thứ 4 là người Nùng với 24.526 người, người Tày có 20.301 người, Chu Ru có 18.631 người, người Hoa có 14.929 người, Mnông có 9.099 người, người Thái có 5.277 người, người Mường có 4.445 người cùng các dân tộc ít người khác như Mông với 2.894 người, Dao với 2.423 người, Khơ Me với 1.098 người... ít nhất là Lô Lô, Cơ Lao và Cống mỗi dân tộc chỉ có duy nhất 1 người.
Tôn giáo
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Lâm Đồng có 12 Tôn giáo khác nhau chiếm 741.836 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo có 380.996 người, Phật giáo có 200.560 người, Tin Lành có 113.536 người, Cao Đài có 46.220 người, cùng các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo với 330 người, Hồi Giáo có 75 người, Bà La Môn có 72 người, 27 người theo Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, 11 người theo Minh Sư Đạo, 5 người theo đạo Bahá'í, 3 người theo Minh Lý Đạo, 1 người Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam.
Y tế & giáo dục
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Lâm Đồng có 459 trường học ở cấp phổ trong đó có 37 trường Trung học phổ thông, Trung học cơ sở có 133 trường, Tiểu học có 251 trường, trung học có 22 trường, có 16 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 200 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Lâm Đồng cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.
Tỉnh có 4 trường đại học là Trường Đại học Đà Lạt, Trường Đại học Yersin Đà Lạt, Trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh cơ sở Đà Lạt, Trường Đại học Tôn Đức Thắng cơ sở Bảo Lộc và 2 học viện là Học viện Lục quân, Phân viện Học viện Hành chính Quốc Gia (Việt Nam) khu vực Tây Nguyên.
Y tế
Theo thống kê về y tế năm 2022, trên địa bàn toàn tỉnh Lâm Đồng có 189 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 14 Bệnh viện, 22 phòng khám đa khoa khu vực và 142 Trạm y tế phường xã, 1 bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, với 3015 giường bệnh và 582 bác sĩ, 596 y sĩ, 859 y tá và khoảng 483 nữ hộ sinh.
Giao thông
Mặc dù địa hình chủ yếu là đèo, núi, tuy nhiên hệ thống giao thông đường bộ vẫn phân bố đều khắp các vùng trong tỉnh. Các tuyến đường Quốc lộ tại Lâm Đồng như Quốc lộ 20, Quốc lộ 28, Quốc lộ 55, Quốc lộ 27.
Các con sông lớn chảy qua địa bàn tỉnh như sông Đa Dâng, sông Đồng Nai, sông La Ngà, sông Đa Nhim, nhưng vì tốc độ chảy khá cao, ngắn và dốc nên không thuận lợi cho giao thông đường thủy. Mặt khác đối với đường hàng không thì tỉnh có sân bay Liên Khương, với các hãng Vietnam Airlines, Air Mekong và Vietjet Air,Bamboo Airways,AirAsia,.. có các chuyến bay thẳng nối Đà Nẵng, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh và một số sân bay quốc tế trong khu vực tới Sân bay quốc tế Liên Khương, nằm ở ngoại ô thành phố Đà Lạt.
Tỉnh Lâm Đồng không nằm trên trục giao thông chính của nước ta là Quốc lộ 1A, vì thế để di chuyển đến địa phận tỉnh Lâm Đồng phải rẽ vào Quốc lộ 20 từ Quốc lộ 1A.
Đường bộ
Có ba tuyến đường bộ có lưu lượng giao thông lớn trên địa bàn tỉnh là Quốc Lộ 20 kết nối Lâm Đồng với Đồng Nai và đi tuyến TP. Hồ Chí Minh. Quốc Lộ 27 kết nối Lâm Đồng với Khánh Hòa mà lưu lượng chính chủ yếu là tuyến Đà Lạt - Nha Trang. Đường cao tốc Liên Khương – Prenn kết nối sân bay Liên Khương đến Đà Lạt.
Xe Buýt
Xe buýt đóng vai trò quan trọng trong việc di chuyển tham quan du lịch tại Lâm Đồng. Theo đó, có một số tuyến xe buýt chính bao gồm:
Tuyến Đà Lạt - Đơn Dương
Tuyến Đà Lạt - Lạc Dương
Tuyến Đà Lạt - Bảo Lộc
Tuyến Đà Lạt - Xuân Trường
Tuyến Đà Lạt - Tân Thanh
Tuyến Đà Lạt - Đại Lào
Tuyến Đà Lạt - Phú Sơn
Tuyến Đà Lạt - Thái Phiên
Tuyến Đà Lạt - Đức Trọng
Ngoài các tuyến trên còn một số tuyến xe buýt khác được khai thác nhằm tạo thuận lợi cho di chuyển giữa các địa điểm và cả phục vụ cho tham quan du lịch các địa điểm nổi tiếng của Lâm Đồng.
Biển số xe
Biển số xe của các huyện, thành phố trực thuộc tỉnh Lâm Đồng như sau:
Biển số ô tô: 49A, 49B, 49C, 49D, 49LD
Biển Thành phố Đà Lạt: 49-B1, 49-M8
Biển số Đơn Dương: 49-F1
Biển số Lạc Dương: 49-P1
Biển số Đức Trọng: 49-E1
Biển số Lâm Hà: 49-D1
Biển số Đam Rông: 49-C1
Biển số Di Linh: 49-G1
Biển số Đạ Huoai: 49-L1
Biển số Đạ Tẻh: 49-M1
Biển số Cát Tiên: 49-N1
Biển số Thành phố Bảo Lộc: 49-K1; 49-S1
Biển số Bảo Lâm: 49-H1
Đường không
Trước đây, sân bay Liên Khương chỉ khai thác tuyến Đà Lạt - Hà Nội với tần suất bay 02 chuyến/tuần. Những năm trở lại đây, giao thông bằng đường hàng không dần trở nên phổ biến hơn khi các hãng hàng không mở rộng khai thác thêm các tuyến bay kết nối Sân Bay Liên Khương với các địa điểm khác.
Du lịch
Lâm Đồng có nhiều thắng cảnh nổi tiếng như các thác nước tại huyện Đức Trọng và những thắng cảnh thiên nhiên tại Đà Lạt như Hồ Than Thở, Hồ Xuân Hương.
Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, do không được quan tâm bảo trì đúng mức, cảnh quan nhiều thắng cảnh đang bị phá hủy. Ngày nay 10 trong số 17 thắng cảnh quốc gia xuống cấp, trong đó có ba ngọn thác ở huyện Đức Trọng đã được xếp hạng quốc gia tại Lâm Đồng đã biến mất gồm: thác Gougah, thác Liên Khương và thác Bảo Đại. Lý do là vì các đơn vị được giao đầu tư thiếu năng lực và chỉ lo khai thác kinh doanh bán vé . Ông Đinh Bá Quang - Trưởng phòng Quản lý di sản văn hóa (Sở VH-TT-DL) Lâm Đồng cho biết: "Theo quy định, hằng năm các đơn vị trích từ 3 - 5% lãi suất kinh doanh để tu bổ, tôn tạo và tổ chức các hoạt động văn hóa tại di tích. Thế nhưng thực tế qua kiểm tra thì các điểm này không thực hiện được như vậy".
Chú thích
Liên kết ngoài
Hoat dong cua Doan Dai bieu Quoc hoi va Hoi dong Nhan dan tinh Lam Dong
Van phong UBND tinh Lam Dong - Portal
Lâm Đồng
Tây Nguyên
|
11204
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Long%20An
|
Long An
|
Long An là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Là địa phương nằm ở cửa ngõ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long liền kề với Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2021, Long An là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 13 về số dân, trong danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP, xếp thứ 12 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 14 về GRDP bình quân đầu người. Với 1.763.754 người dân GRDP đạt 138.198 tỉ đồng, GRDP bình quân đầu người đạt gần 81 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,41%.
Long An là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ và là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nhất là có chung đường ranh giới với Thành phố Hồ Chí Minh, bằng hệ thống các quốc lộ: 1, 50, 62, N1, N2 (Đường Hồ Chí Minh). Tỉnh được xem là thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản lớn nhất của Đồng bằng Sông Cửu Long.
Địa lý
Vị trí, địa hình
Tỉnh Long An thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có tọa độ địa lý từ 105030' 30 đến 106047' 02 kinh độ Đông và 10023'40 đến 11002' 00 vĩ độ Bắc, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 45 km theo Quốc lộ 1, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp Thành phố Hồ Chí Minh
Phía tây giáp tỉnh Đồng Tháp
Phía nam giáp tỉnh Tiền Giang
Phía bắc giáp tỉnh Tây Ninh và các tỉnh Svay Rieng, Prey Veng của Campuchia.
Dù được xếp vào vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng Long An nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Sở hữu vị trí địa lý khá đặc biệt bên cạnh đó còn thuộc vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ, Long An được xác định là vùng kinh tế động lực có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam.
Trước năm 1975, tỉnh Long An (không bao gồm các huyện thị thuộc vùng Đồng Tháp Mười ngày nay) thuộc vùng Đông Nam Bộ. Hiện nay, dù được xếp vào vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng Long An là phần đất chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, nên địa hình có xu hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Phía Bắc và Đông Bắc tỉnh có một số gò đồi thấp; giữa tỉnh là vùng đồng bằng và phía Tây Nam tỉnh là vùng trũng Đồng Tháp Mười, trong đó có khu rừng tràm ngập phèn rộng 46.300 ha.
Các điểm cực của tỉnh:
Điểm cực bắc tại xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng
Điểm cực nam tại xã An Lục Long, huyện Châu Thành
Điểm cực đông tại xã Tân Tập, huyện Cần Giuộc
Điểm cực tây tại xã Hưng Điền, huyện Tân Hưng.
Địa chất, thủy văn
Tỉnh có 6 nhóm đất chính, nhưng phần lớn là dạng phù sa bồi lắng lẫn nhiều tạp chất hữu cơ, cấu tạo bở rời, tính chất cơ lý kém, nhiều vùng bị chua phèn và tích tụ độc tố.
Địa hình Long An bị chia cắt nhiều bởi hệ thống sông và kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài lên tới 8.912 km, sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây hợp thành sông Vàm Cỏ, kênh Dương Văn Dương,... trong đó lớn nhất là sông Vàm Cỏ Đông.
Long An chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều từ biển Đông qua cửa sông Soài Rạp. Thời gian một ngày triều là 24 giờ 50 phút, một chu kì triều là 13 - 14 ngày. Vùng chịu ảnh hưởng của triều nhiều nhất là các huyện phía Nam Quốc lộ 1, đây là nơi ảnh hưởng mặn từ 4 đến 6 tháng trong năm. Triều biển Đông tại cửa sông Soài Rạp có biên độ lớn từ 3,5 đến 3,9 m, đã xâm nhập vào sâu trong nội địa với cường độ triều mạnh nhất là mùa khô. Biên độ triều cực đại trong tháng từ 217 đến 235 cm tại Tân An và từ 60 đến 85 cm tại Mộc Hóa. Do biên độ triều lớn, đỉnh triều mùa gió chướng đe doạ xâm nhập mặn vào vùng phía nam. Trong mùa mưa có thể lợi dụng triều tưới tiêu tự chảy vùng ven 2 sông Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây làm giảm chi phí sản xuất.
Bị ngập mặn chủ yếu là từ biển Đông qua cửa sông Soài Rạp do chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều. Trước đây, sông Vàm Cỏ Tây mặn thường xâm nhập trên Tuyên Nhơn (huyện Thạnh Hóa) khoảng 5 km. Mặn xâm nhập bắt đầu từ tháng một đến tháng sáu với mức 2 đến 4 gam/lít. Đất phèn tập trung với 2084,49 km2, chiếm 69,8% diện tích toàn vùng Đồng Tháp Mười và bằng 46,41% diện tích tự nhiên của tỉnh. Lũ thường bắt đầu vào trung tuần tháng 8 và kéo dài đến tháng 11, mưa tập trung với lưu lượng và cường độ lớn nhất trong năm gây khó khăn cho sản xuất và đời sống. Lũ đến tỉnh Long An chậm và mức ngập không sâu.
Khí hậu
Long An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ẩm. Do tiếp giáp giữa 2 vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long cho nên vừa mang các đặc tính đặc trưng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long lại vừa mang những đặc tính riêng biệt của vùng Đông Nam Bộ.
Nhiệt độ trung bình hàng tháng 27,2 - 27,7 °C. Thường vào tháng 4 có nhiệt độ trung bình cao nhất 28,9 °C, tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất là 25,2 °C.
Lượng mưa hàng năm biến động từ 966–1325 mm. Mùa mưa chiếm trên 70-82% tổng lượng mưa cả năm. Mưa phân bổ không đều, giảm dần từ khu vực giáp ranh Thành phố Hồ Chí Minh xuống phía tây và Tây Nam. Các huyện phía Đông Nam gần biển có lượng mưa ít nhất. Cường độ mưa lớn làm xói mòn ở vùng gò cao, đồng thời mưa kết hợp với cường triều, với lũ gây ra ngập úng, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của dân cư.
Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm là 80 - 82%. Thời gian chiếu sáng bình quân ngày từ 6,8 - 7,5 giờ/ngày và bình quân năm từ 2.500 - 2.800 giờ. Tổng tích ôn năm từ 9.700 - 10.100 °C. Biên độ nhiệt giữa các tháng trong năm dao động từ 2-4 °C.
Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 có gió Đông Bắc, tần suất 60 - 70%. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 có gió Tây Nam với tần suất 70%.
Tỉnh Long An nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo có nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ dài, nhiệt độ và tổng tích ôn cao, biên độ nhiệt ngày đêm giữa các tháng trong năm thấp, ôn hòa.
Những khác biệt nổi bật về thời tiết khí hậu như trên có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội và sản xuất nông nghiệp.
Lịch sử
Các di chỉ khảo cổ học cho thấy, ngay từ thời cổ đại, Long An đã là địa bàn quan trọng của vương quốc Phù Nam - Chân Lạp. Khi Nguyễn Hữu Cảnh vào khai phá miền Nam, đất Long An thuộc phủ Gia Định. Thời Minh Mạng, đất Long An thuộc tỉnh Gia Định và một phần tỉnh Định Tường. Đầu thời Pháp thuộc, Nam Kỳ được chia thành 21 tỉnh, đất Long An nằm trong địa bàn 2 tỉnh Tân An và Chợ Lớn.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Sài Gòn lập tỉnh Long An trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Chợ Lớn và Tân An. Tỉnh lỵ đặt tại Tân An, về mặt hành chánh thuộc xã Bình Lập, quận Châu Thành.
Ngày 24 tháng 4 năm 1957, tỉnh Long An bao gồm 7 quận như sau:
Quận Bến Lức có 2 tổng với 12 xã.
Quận Đức Hòa có 2 tổng với 13 xã.
Quận Cần Đước có 3 tổng với 16 xã.
Quận Cần Giuộc có 4 tổng với 24 xã.
Quận Châu Thành có 3 tổng với 15 xã.
Quận Thủ Thừa có 2 tổng với 9 xã.
Quận Tân Trụ có 2 tổng với 12 xã.
Ngày 3 tháng 10 năm 1957, quận Châu Thành đổi tên thành quận Bình Phước.
Ngày 3 tháng 3 năm 1959, lập quận mới Đức Huệ, gồm 3 xã.
Ngày 7 tháng 2 năm 1963, đổi tên quận Cần Đước thành quận Cần Đức, quận Cần Giuộc thành quận Thanh Đức.
Ngày 15 tháng 10 năm 1963, tách 2 quận Đức Hòa, Đức Huệ nhập vào tỉnh Hậu Nghĩa.
Ngày 17 tháng 11 năm 1965, đổi tên quận Cần Đức thành quận Cần Đước, quận Thanh Đức thành quận Cần Giuộc như cũ.
Ngày 7 tháng 1 năm 1967, lập mới quận Rạch Kiến, gồm 9 xã.
Sau năm 1975, quận Bình Phước đổi về tên cũ là Châu Thành, quận Rạch Kiến giải thể.
Năm 1976, tỉnh Long An hợp nhất với tỉnh Kiến Tường và 2 quận Đức Hòa, Đức Huệ của tỉnh Hậu Nghĩa thành tỉnh Long An mới. Toàn bộ đất của tỉnh Kiến Tường cũ trở thành huyện Mộc Hoá của tỉnh Long An. Cùng năm, xã Bình Lập, huyện Châu Thành được tách ra để thành lập thị xã Tân An - thị xã tỉnh lỵ tỉnh Long An. Tỉnh Long An bao gồm gồm thị xã Tân An và 9 huyện: Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành, Đức Hòa, Đức Huệ, Mộc Hoá, Tân Trụ, Thủ Thừa.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Thủ Thừa và Bến Lức thành huyện Bến Thủ, hợp nhất 2 huyện Tân Trụ và Châu Thành thành huyện Tân Châu.
Ngày 30 tháng 3 năm 1978, chia huyện Mộc Hoá thành hai huyện: Mộc Hoá và Vĩnh Hưng.
Ngày 19 tháng 9 năm 1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 298-CP, chia huyện Mộc Hoá thành 2 huyện: Mộc Hoá và Tân Thạnh, đổi tên huyện Tân Châu thành huyện Vàm Cỏ.
Ngày 14 tháng 1 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 05-HĐBT, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh Long An như sau:
Chia huyện Bến Thủ thành 2 huyện: Bến Lức và Thủ Thừa.
Mở rộng thị xã Tân An trên cơ sở nhập 3 xã của huyện Vàm Cỏ và 3 xã của huyện Bến Thủ, với tổng điện tích tự nhiên 7.794 ha.
Ngày 4 tháng 4 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 36/HĐBT, chia huyện Vàm Cỏ thành 2 huyện: Châu Thành và Tân Trụ.
Ngày 26 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 74/HĐBT, thành lập huyện Thạnh Hóa từ một phần các huyện Mộc Hóa và Tân Thạnh.
Ngày 24 tháng 3 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 27-CP, chia huyện Vĩnh Hưng thành 2 huyện: Vĩnh Hưng và Tân Hưng.
Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 38/NQ-CP, thành lập thành phố Tân An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Tân An.
Ngày 18 tháng 3 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP, thành lập thị xã Kiến Tường trên cơ sở điều chỉnh 20.428,20 ha diện tích tự nhiên và 64.589 nhân khẩu của huyện Mộc Hoá.
Ngày 5 tháng 9 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1140/QĐ-TTg công nhận thành phố Tân An là đô thị loại II.
Ngày 25 tháng 8 năm 2023, Bộ Xây dựng ra quyết định số 879/QĐ-BXD về việc công nhận thị xã Kiến Tường đạt tiêu chí đô thị loại III thuộc tỉnh Long An.
Tỉnh Long An có 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện như hiện nay.
Hành chính
Tỉnh Long An có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện với 188 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 12 phường, 15 thị trấn và 161 xã.
Kinh tế
Nổi tiếng với nhiều sản phẩm nông nghiệp như gạo tài nguyên, gạo nàng thơm Chợ Đào, rượu đế Gò Đen, dưa hấu Long Trì, dứa Bến Lức, đậu phộng Đức Hòa, mía Thủ Thừa, thanh long Châu Thành,... Đặc biệt, lúa gạo chất lượng cao là sản phẩm nông nghiệp chủ lực phục vụ xuất khẩu.
Công nghiệp đạt khoảng 50% giá trị trong nền kinh tế tỉnh, được biết đến với những sản phẩm như dệt may, thực phẩm chế biến, xây dựng... Trong bảng xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Việt Nam năm 2018, tỉnh Long An xếp ở vị trí thứ 2 trong 13 tỉnh miền Tây và thứ 3 cả nước.
Giá trị sản xuất công nghiệp cả năm 2019 ước đạt 315.200 tỷ đồng. Tổng sản phẩm GRDP ước đạt 123.000 tỷ đồng. Thu ngân sách đạt 18.000 tỷ đồng.
Xã hội
Y tế
Đến ngày 05 tháng 11 năm 2008, hệ thống y tế của tỉnh bao gồm: 1 bệnh viện tuyến tỉnh, 11 bệnh viện tuyến huyện, 8 phòng khám khu vực và có 183/188 xã, phường, thị trấn có trạm y tế. Năm 2009, tỉnh Long An có 211 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 16 bệnh viện, 5 phòng khám đa khoa khu vực, và 190 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 2.807 giường, trong đó các bệnh viện có 1.980 giường, phòng khám đa khoa khu vực có 95 giường, trạm y tế có 732 giường.
Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh có 211 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 16 bệnh viện, 5 phòng khám đa khoa khu vực, 190 trạm y tế phường xã, với 3.332 giường bệnh và 751 bác sĩ, 1.034 y sĩ, 907 y tá và khoảng 455 nữ hộ sinh.
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh có hơn 500 trường học ở cấp phổ thông trong đó trung học phổ thông có 48 trường, trung học cơ sở có 122 trường, tiểu học có 246 trường, bên cạnh đó còn có 183 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Long An cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Hệ thống trường tiêu biểu như:
Trường Chính trị Long An (1005, QL.1, phường Tân Khánh, TP. Tân An, Long An - Tel: 0272 3511 574)
Hệ thống trường Đại học:
Trường Đại học Kinh tế Công nghiệp Long An (Quốc lộ 1, Khánh Hậu, TP. Tân An)
Trường Đại học Tân Tạo (Khu công nghiệp Tân Đức, xã Đức Hòa Hạ 824, Đức Hòa, Long An)
Hệ thống trường Cao đẳng:
Trường Cao đẳng Long An (trường công lập - 60 QL1, phường 5, TP. Tân An, Long An)
Trường Cao đẳng Sư phạm Long An (trường công lập - QL1, Khánh Hậu, TP. Tân An, Long An)
Trường Cao đẳng Nghề kỹ thuật công nghệ Ladec (trường tư thục - 164 Châu Thị Kim, phường 3, TP. Tân An, Long An)
Trung cấp:
Trường Trung cấp Kinh tế - Kỹ thuật Long An (277, Quốc lộ 1, Voi Lá, thị trấn Bến Lức, Bến Lức, Long An)
Trường Trung cấp Y tế Long An (93 QL62, phường 6, TP. Tân An, Long An)
Trường Trung cấp Phật học Long An
Trường Trung cấp Nghề Đồng Tháp Mười (QL62, phường 3, thị xã Kiến Tường, Long An)
Ngoài ra, Long An còn có xây dựng thêm rất nhiều trường trung học phổ thông, cơ sở, tiểu học và rất nhiều trường mầm non trong địa bàn toàn tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu về giáo dục cho người dân.
Dân số
Tính đến ngày 9 tháng 11 năm 2021, dân số toàn tỉnh Long An đạt 1.763.754 người, mật độ dân số đạt 392 người/km². Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 36%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Long An có 36 dân tộc cùng 110 người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh có 1.672.776 người, người Hoa có 3.801 người, 9.980 người Khơ Me cùng nhiều dân tộc khác,...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Toàn tỉnh Long An có 11 Tôn giáo khác nhau chiếm 163.710 người. Trong đó, nhiều nhất là đạo Cao Đài với 70.991 người, thứ 2 là Công giáo 53.607 người, thứ 3 là Phật giáo với 47.226 người cùng các tôn giáo ít người khác như Đạo Tin Lành có 6.660 người, Phật giáo Hòa Hảo có 4.226 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 440 người, Hồi Giáo có 430 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 43 người Minh Sư Đạo và Minh Lý Đạo mỗi đạo có 38 người, ít nhất là Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với chỉ 11 người.
Văn hoá
Long An có nhiều di tích lịch sử từ cổ tới kim, nổi bật là văn hóa Óc Eo tại Đức Hòa, đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại Tân An, Chùa Tôn Thạnh ở Cần Giuộc và Nhà trăm cột tại Cần Đước. Hiện tỉnh có khoảng 186 di tích lịch sử, có 16 di tích được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia và 63 di tích được xếp hạng cấp tỉnh.
Di tích lịch sử
Phong tục tập quán
Long An còn có các lễ hội như lễ Kỳ Yên, lễ cầu mưa, lễ tống phong với nhiều trò chơi dân gian như đua thuyền, kéo co, đánh vật, có khả năng thu hút được nhiều khách du lịch. Các nghề thủ công truyền thống của tỉnh như nghề chạm gỗ (Cần Đước, Bến Lức), nghề kim hoàn (Phước Vân), nghề đóng ghe (Cần Đước), nghề làm trống (Tân Trụ),...
Các lễ hội là một phần trong văn hóa và đời sống xã hội của Long An như: Kỳ Yên, lễ hội cầu mưa và Tòng Phóng. Du khách sẽ hết sức thú vị với mô hình du lịch sinh thái Đồng Tháp Mười, nghe đờn ca tài tử cải lương – một loại hình dân ca đặc sắc của Nam Bộ mà Long An là chiếc nôi của dòng dân ca này.
Thể thao
Câu lạc bộ bóng chuyền Bình Điền Long An là một đội bóng chuyền nữ đang thi đấu tại Giải vô địch bóng chuyền quốc gia Việt Nam
Câu lạc bộ bóng chuyền Long An là một đội bóng chuyền nam đang thi đấu tại Giải vô địch bóng chuyền quốc gia Việt Nam
Câu lạc bộ bóng đá Long An đang thi đấu tại Giải bóng đá hạng nhất quốc gia (Việt Nam).
Giao thông
Long An là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ với đồng bằng sông Cửu Long, có chung đường ranh giới với Thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống giao thông kết nối tỉnh với khu vực khá hoàn chỉnh, bao gồm đường bộ lẫn đường thủy.
Các tuyến quốc lộ - cao tốc:
Hiện hữu: 1, 50, 62, đường Hồ Chí Minh, đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương.
Dự kiến: 50B (Đường động lực TPHCM – Long An – Tiền Giang), N1, Đường cao tốc Bến Lức - Long Thành, Đường Vành đai 3, Đường Vành đai 4.
Các tuyến đường tỉnh được đánh số từ 816 - 840.
Ngoài hệ thống giao thông đường bộ Long An cũng là tỉnh có hệ thống giao thông đường thủy chằng chịt với các tuyến giao thông như sông Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây, sông Rạch Cát (sông Cần Giuộc). Các tuyến đường thủy quan trọng như Thành phố Hồ Chí Minh - Kiên Lương, Thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau, Thành phố Hồ Chí Minh - Tây Ninh đều qua Long An theo kênh Nước Mặn, sông Rạch Cát, sông Vàm Cỏ Đông. Các loại phương tiện vận tải thủy trên 100 tấn có thể theo các kênh rạch như Phước Xuyên, Dương Văn Dương, Trà Cú, Kinh Xáng, sông Bến Lức, sông Rạch Cát, kinh Thủ Thừa... đi từ miền Tây đến Thành phố Hồ Chí Minh.
Dọc theo tuyến biên giới ở Long An, hiện nay có 3 cửa khẩu chính, bao gồm:
Cửa khẩu quốc tế Bình Hiệp (Prây-Vo) – Thị xã Kiến Tường
Cửa khẩu quốc gia Mỹ Quý Tây (Xòm-Rông) - Đức Huệ
Cửa khẩu phụ Long Khốt (Vĩnh Hưng)
Ngoài ra, còn có các điểm trao đổi hàng hoá khác như Voi Đình, Sóc Rinh thuộc huyện Đức Huệ, Tà Lọt thuộc huyện Mộc Hoá, Hưng Điền A, Tà Nu, Cả Trốt (Kênh 28) thuộc huyện Vĩnh Hưng, Trâm Dồ (Tân Hưng).
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2008, khối lượng vận chuyển hành khách của tỉnh là 38,5 triệu lượt người, khối lượng luân chuyển hành khách đạt 1176,8 triệu lượt người/km, khối lượng vận chuyển hàng hoá đạt 12.972,0 nghìn tấn (đường bộ đạt 4.147 nghìn tấn, đường thủy đạt 8.798 nghìn tấn), khối lượng luân chuyển hàng hoá đạt 483,2 triệu tấn/km (đường bộ đạt 51,9 triệu tấn/km, đường thủy đạt 431,3 triệu tấn/km).
Biển số xe
Thành phố Tân An: 62-AA(1) (B1)(2)
Huyện Tân Hưng: 62-AB (C1)
Huyện Vĩnh Hưng: 62-AC (D1)
Huyện Mộc Hoá: 62-AD (T1)
Huyện Tân Thạnh: 62-AE (E1)
Huyện Thạnh Hoá: 62-AF (F1)
Thị xã Kiến Tường : 62-AH (U1)
Huyện Thủ Thừa: 62-AG (G1)
Huyện Tân Trụ: 62-AK (H1)
Huyện Châu Thành: 62-BL (K1)
Huyện Cần Đước: 62-AM (L1)
Huyện Cần Giuộc: 62-AN (M1/M2)
Huyện Bến Lức: 62-AP (N1)
Huyện Đức Hoà: 62-AR (P1/P2)
Huyện Đức Huệ: 62-AS (S1)
GHI CHÚ:
(1) Biển số định danh (hai chữ cái) áp dụng từ ngày 15/8/2023
(2) Biển số cũ (1 chữ, 1 số) áp dụng trước ngày 15/8/2023
Biển số xe ô tô: 62A (ôtô cá nhân), 62B (ôtô khách), 62C (ôtô tải, bán tải), 62D (xe du lịch), 62E (xe dịch vụ), 62LD (liên doanh), 62R (rơ-moóc).
Chú thích
Liên kết ngoài
Cổng thông tin điện tử tỉnh Long An
|
11205
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ninh%20Thu%E1%BA%ADn
|
Ninh Thuận
|
Ninh Thuận là một tỉnh ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 340 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 642 km về phía nam, cách thủ đô Hà Nội 1.380 km về phía Nam và cách Nha Trang 100 km theo đường Quốc lộ 1 và cách Đà Lạt 110 km theo đường Quốc lộ 27, đồng thời nằm cách sân bay Cam Ranh khoảng 60 km, thuận tiện cho việc giao lưu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Năm 2018, Ninh Thuận là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 58 về số dân, xếp thứ 57 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 45 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 10 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 611,8 nghìn dân, GRDP đạt 24.288 tỉ Đồng (tương ứng với 1,0549 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 39,7 triệu đồng (tương ứng với 1.724 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 10,25%.
Trong suốt lịch sử Văn minh Chăm Pa - Chiêm Thành, lãnh thổ Ninh Thuận ngày nay luôn là trung tâm của Tiểu quốc Panduranga. Trong đó, dưới thời kỳ nhà nước Hoàn Vương, Ninh Thuận còn là đất định đô của một nhà nước Chăm thống nhất trong hơn 1 thế kỷ. Từ thế kỷ XV, người Chăm mất 4/5 lãnh thổ và chỉ còn giữ lại Kauthara và Panduranga (bao gồm Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay), thì Ninh Thuận lại tiếp tục trở thành trung tâm chính trị của người Chăm. Sang thế kỷ XVIII, kinh đô Chiêm Thành mới được dời xuống khu vực Phan Rí Thành thuộc Bình Thuận ngày nay, vì lúc đó phía Bắc Ninh Thuận đã mất vào tay các chúa Nguyễn.
Địa danh Ninh Thuận lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1832, khi vua Minh Mạng cho xoá bỏ Thuận Thành trấn để lập ra tỉnh Bình Thuận, gồm 2 phủ là Ninh Thuận và Hàm Thuận. Địa giới phủ Ninh Thuận lúc bấy giờ bao gồm phần lãnh thổ phía Nam của sông Phan Rang cho đến phía Bắc tỉnh Bình Thuận hiện nay. Phần lãnh thổ phía Bắc Ninh Thuận vào thời điểm đó vẫn thuộc phủ Diên Khánh của tỉnh Khánh Hoà. Ngày 20 tháng 5 năm 1901, tỉnh Phan Rang được thành lập. Năm 1913, tỉnh Phan Rang bị xóa bỏ, phần phía Bắc nhập vào tỉnh Khánh Hòa, còn phần phía Nam thuộc tỉnh Bình Thuận như trước đây. Năm 1958, dưới thời Việt Nam Cộng hoà, tỉnh Ninh Thuận được thành lập với địa giới tương đương với tỉnh Ninh Thuận hiện nay. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tỉnh Ninh Thuận dự kiến sáp nhập với Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng để thành lập một tỉnh mới có tên là Thuận Lâm. Nhưng đến tháng 2 năm 1976, Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã điều chỉnh việc sáp nhập cho sát với thực tế. Theo đó, các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Chia tỉnh Thuận Hải thành 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận.
Trong Từ điển Bách khoa nước Việt Nam hay Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam đều xếp Ninh Thuận vào vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, Tổng cục Thống kê Việt Nam và Website của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận vào Đông Nam Bộ. Một phần khác Bộ Kế hoạch & đầu tư Việt Nam lại xếp Bình Thuận và Ninh Thuận vào vùng Duyên hải miền Trung.
Các nhà khảo cổ đã phát hiện được ở Nhơn Hải của Ninh Thuận các mộ cổ chôn cùng với đồ đá, đồ sắt thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh cách đây khoảng 2500 năm. Ninh Thuận còn là nơi gìn giữ được nhiều di sản quý báu của nền văn hoá Chămpa, bao gồm chữ viết, dân ca và nghệ thuật múa, trang phục và nghề dệt thổ cẩm, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc.
Tỉnh có 22 làng người Chăm, trong đó có những làng vẫn duy trì các tập quán của chế độ mẫu hệ. Ninh Thuận có gần như còn nguyên vẹn hệ thống tháp Chăm xây dựng trong nhiều thế kỷ trước, tiêu biểu là cụm tháp Hòa Lai (Ba Tháp) xây dựng thế kỷ thứ 9, cụm tháp Po Klong Garai xây dựng thế kỷ 13 và cụm tháp Po Rome xây dựng thế kỷ 17.
Địa lý
Ninh Thuận thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có hình thể giống như một hình bình hành, hai góc nhọn ở về phía tây bắc và đông nam với toạ độ địa lý từ 11o18'14" đến 12o09'15" vĩ độ Bắc, 108o09'08" đến 109o14'25" kinh độ Đông, có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Khánh Hòa
Phía nam giáp tỉnh Bình Thuận
Phía tây giáp tỉnh Lâm Đồng
Phía đông giáp Biển Đông.
Khi gió mùa Tây Nam mang mưa vào đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, thì hệ thống núi ở Tây Nguyên, Bình Thuận đã làm cho những cơn gió mùa tây nam này không đến được Ninh Thuận. Cũng như cơn gió mùa đông bắc, cơn gió mùa tây nam vào Ninh Thuận cũng bị tù túng. Cho nên trong khi nó mang mưa đến các vùng trong nước nhưng vào Ninh Thuận thì biến thành khô hanh.
Điều kiện tự nhiên
Ninh Thuận là vùng đất cuối của dãy Trường Sơn với nhiều dãy núi đâm ra biển Đông, có địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Lãnh thổ tỉnh được bao bọc bởi 3 mặt núi với 3 dạng địa hình gồm núi, đồi gò bán sơn địa và đồng ven biển. Trong đó, đồi núi chiếm 63,2% diện tích của tỉnh, chủ yếu là núi thấp, cao trung bình từ 200 – 1.000 mét. Vùng đồi gò bán sơn địa chiếm 14,4% và vùng đồng bằng ven biển chiếm 22,4% diện tích đất tự nhiên.
Ninh Thuận có từ khí hậu nhiệt đới Xavan đến cận hoang mạc với đặc trưng khô nóng, gió nhiều, bốc hơi mạnh. Chính vì vậy thời tiết Ninh Thuận phân hóa thành 2 mùa rõ rệt gồm mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26-270C, lượng mưa trung bình 700–800 mm. Nguồn nước phân bổ không đều, tập trung chủ yếu ở khu vực phía Bắc và trung tâm tỉnh. Nguồn nước ngầm trong địa bàn tỉnh chỉ bằng 1/3 mức bình quân cả nước. Nên Ninh Thuận mệnh danh là vùng đất của nắng và gió.
Ninh Thuận có 3 cửa khẩu ra biển là Đông Hải, Cà Ná, Khánh Hải, có đường bờ biển dài 105 km với vùng lãnh hải rộng trên 18.000 km2, có trên 500 loài cá, tôm. Do thuộc vùng có nhiệt độ cao, cường độ bức xạ lớn nên Ninh Thuận có điều kiện lý tưởng để sản xuất muối công nghiệp. Khoáng sản nơi đây tương đối phong phú về chủng loại bao gồm nhóm khoáng sản kim loại có wolfram, molipđen, thiếc gốc. Nhóm khoáng sản phi kim loại có thạch anh tinh thể, cát thủy tinh, muối khoáng thạch anh. Nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng có cát kết vôi, sét phụ gia, đá xây dựng…
Lịch sử
Thời kỳ văn hoá Sa Huỳnh
Văn minh Champa – Chiêm Thành
Đến nửa đầu thế kỷ XVII, phần lãnh thổ tỉnh Ninh Thuận hiện nay vẫn nằm dưới quyền cai trị của các vua người Chăm và vùng đất này được gọi là Panduranga, địa giới của nó bao trùm 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay. Panduranga là một tiểu quốc/địa khu tồn tại trong giai đoạn từ 757–1832, nó cùng với các địa khu khác như Kauthara, Vijaya, Amaravati và Indrapura cấu thành nên Nhà nước Champa thống nhất, và cũng là phần lãnh thổ cuối cùng mất vào tay người Việt trong quá trình Nam tiến.
Nhà nước Hoàn Vương (757–859)
Sau khi nhà nước Lâm Ấp phân rả, năm 757, tiểu vương Panduranga đã lật đổ vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là Bhadravarman II, lên ngôi vua tự xưng là Prithi Indravarman và chấm dứt sự cai trị của triều đại Gangaraja ở phía Bắc. Theo bia ký đọc được, Prithi Indravarman là người đã thống nhất lãnh thổ Chăm Pa một cách chính danh nhất, vì được triều thần công nhận là "người thống lãnh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần". Tên của vương quốc thống nhất này được đặt là Hoàn Vương (tức vương quyền trở về quê cũ), kinh đô được dời từ Thành phố Sư tử (Trà Kiệu, Quảng Nam ngày nay) về Hùng Tráng thành, địa điểm đó ngày nay là xã Phước Nam, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập quốc, người Chăm đặt kinh đô trên lãnh thổ tỉnh Ninh Thuận. Hoàn Vương được lịch sử ghi nhận là một nhà nước giàu có và phát triển thịnh trị, nhưng nó lại trở thành nạn nhân của chính sự giàu có này. Các vương quốc xứ Nam Đảo và cả Đế quốc Khmer đã liên tục xua quân xâm lược và cướp phá. Sau cái chết của vua Vikrantavarman III vào năm 854, không để lại người kế vị, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp. Một vị tướng có nhiều chiến công người Chăm được đưa lên ngôi vua vào năm 859, lấy vương hiệu là Jaya Indravarman II, quốc hiệu từ Hoàn Vương đổi thành Chiêm Thành (theo tiếng Phạn cổ có nghĩa là: Đất nước của người Chăm), cho dời đô từ Hùng Tráng thành về Lôi Điện thành, ngày nay là Đồng Dương, Thăng Bình, Quảng Nam. Năm 1190, vương quốc Chiêm Thành bị chia thành 2 tiểu quốc riêng: Vương quốc Vijaya và Vương quốc Panduranga, nhưng đến năm 1192 thì lại hợp nhất.
Nhà nước Chiêm Thành – Panduranga (1471–1832)
Năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông của Đại Việt thân chinh đi đánh Chiêm Thành, hạ thành Đồ Bàn, bắt vua Trà Toàn, cho sáp nhập lãnh thổ phía Bắc Chiêm Thành từ Phú Yên đến Quảng Nam vào Đế chế Đại Việt. Tướng Chiêm là Bồ Trì Trì ở Phan Rang tự xưng vương vào năm 1472, giữ được 1/5 lãnh thổ cũ của Chiêm Thành từ đèo Cù Mông đến hết xứ Panduranga và kinh đô được đặt ở Băl Cau, được xác định là Tp. Phan Rang-Tháp Chàm ngày nay. Vương triều Chiêm Thành-Panduranga định đô ở đây trong gần 1,5 thế kỷ (từ năm 1471–1613).
Năm 1611, do quân Chiêm Thành liên tục quấy nhiễu vùng biên giới Hoa Anh thuộc Bắc tỉnh Phú Yên ngày nay. Chúa Nguyễn Hoàng sai tướng người Chăm là Văn Phong đi dẹp. Quân Chăm nhanh chóng bị đánh bại, Vua Po Nit đã cho rút quân xuống phía Nam đèo Cả, bỏ lại đất Phú Yên cho Chúa Nguyễn.. Sau sự kiện này, đúng 2 năm sau, triều đình Chiêm Thành cho dời đô từ Phan Rang/Băl Cau về Băl Canar thuộc Phan Rí Cửa, Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận ngày nay, và đây cũng là kinh đô cuối cùng của người Chiêm, trước khi bị người Việt sáp nhập toàn bộ. Phan Rang/Băl Cau thuộc Ninh Thuận trở thành kinh đô áp chót của một nhà nước độc lập do người Chăm dựng lên ở miền Trung (Việt Nam).
Thời Chúa Nguyễn
Năm Qúy Tỵ (1653), Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai cai cơ Hùng Lộc dẫn theo 3000 quân đánh sang đất Chiêm Thành. Quân đến đất Phú Yên, tiếp tục vượt Núi Đá Bia đánh thẳng vào thành, vua Chiêm Po Nraup sai con là Xác Bà Ân dâng thư xin hàng. Chúa Hiền Vương ưng thuận, cho lấy bờ Bắc sông Phan Rang (phía Bắc tỉnh Ninh Thuận ngày nay) làm ranh giới giữa 2 nước. Để cai quản vùng đất mới này, Chúa cho lập Dinh Thái Khang, gồm hai phủ: phủ Thái Khang và phủ Diên Ninh, đồng thời khuyến khích di dân vào vùng đất mới này. Tất cả đất ấy được giao cho tướng Hùng Lộc làm Thái thú. Lãnh thổ phía Bắc tỉnh Ninh Thuận cùng với Diên Khánh, Cam Lâm, Khánh Sơn, Tp. Cam Ranh, Tp. Nha Trang (tỉnh Khánh Hoà ngày nay) thuộc quyền quản hạt của Phủ Diên Ninh. Phía Nam sông Phan Rang cho đến hết tỉnh Bình Thuận ngày nay vẫn thuộc quyền cai quản của các chúa Chiêm Thành.
Tháng 8 năm Nhâm Thân (1692), vua Chiêm là Po Saot (Bà Tranh), hợp quân cướp giết lưu dân ở phủ Diên Ninh. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh mang quân chinh phạt. Năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh bắt được vua Chiêm và nhiều thân thuộc của hoàng gia Chiêm đưa về Phú Xuân. Chúa Nguyễn cho đổi đất Chiêm Thành thành trấn Thuận Thành và lập ra phủ Bình Thuận, có nghĩa là phần phía Nam của tỉnh Ninh Thuận hiện nay thuộc về trấn Thuận Thành, trong khi đó phần phía Bắc thì thuộc phủ Diên Ninh. Năm 1742, phủ Diên Ninh được đổi tên thành Diên Khánh.
Thời Nhà Nguyễn
Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long, chính thức lập ra Nhà Nguyễn. Để đền đáp công lao cho một số người Chăm dấn thân vào phong trào chống Tây Sơn, Gia Long quyết định tái lập lại vương hiệu Panduranga và phong cho Po Saong Nyung Ceng, một chiến sĩ gốc người Chăm (tức là tổ tiên của Bà Thềm ở Phan Rí) đã từng theo ông trong buổi ban đầu chống quân Tây Sơn, lên làm vua của tiểu vương quốc này. Bên cạnh đó, vua Gia Long còn ban cho Lê Văn Duyệt chức Tổng Trấn Gia Định Thành và giao cho ông quyền bảo trợ vương quốc Champa ở phía nam của triều đình Huế. Kể từ đó, nền hòa bình và thịnh vượng trở lại trên vương quốc Champa, một quốc gia đặt dưới quyền bảo hộ của triều đình Huế qua trung gian của Lê Văn Duyệt. Nhưng tình hình dần thay đổi khi Minh Mạng lên ngôi, vị vua trẻ xung đột với Lê Văn Duyệt trong việc đưa ai lên kế vị sau cái chết của Po Saong Nyung Ceng, đặc biệt là sau cái chết của Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt, Vua Minh Mạng đã xoá bỏ tiểu quốc của người Chăm, biến lãnh thổ này thành đất được cai trị trực tiếp của Nhà Nguyễn.
Năm 1832, niên hiệu Minh Mạng thứ 12 của Nhà Nguyễn, trấn Thuận Thành đổi thành tỉnh Bình Thuận, gồm 2 phủ: Ninh Thuận và Hàm Thuận. Cột mốc này cũng đánh dấu sự ra đời của địa danh "Ninh Thuận" như hiện nay. Phủ Ninh Thuận gồm 2 huyện là An Phước và Tuy Phong. Năm 1886, niên hiệu Đồng Khánh thứ nhất thì triều đình Huế lấy các tổng thượng du (miền núi) của huyện An Phước đặt thành 2 huyện gọi là Huyện Man (huyện người dân tộc thiểu số miền núi) và Huyện Thổ An Phước (huyện người Chăm), có nghĩa là Phủ Ninh Thuận từ 2 huyện ban đầu được nâng lên thành 4 huyện.
Năm 1888, niên hiệu Đồng Khánh thứ 3, Nhà Nguyễn cho cắt huyện An Phước, 7 xã của huyện Tuy Phong (thuộc phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận) và 2 tổng của huyện Hòa Đa (phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận) nhập vào tỉnh Khánh Hòa.
Thời Pháp thuộc
Ngày 20 tháng 5 năm 1901, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Phan Rang, tỉnh lị cũng có tên là Phan Rang. Công sứ đầu tiên là Odend'hal. Năm 1913, thời viên Công sứ Paul Giran, tỉnh Phan Rang bị xóa bỏ, phần phía bắc nhập vào tỉnh Khánh Hòa, còn phần phía nam gọi là đại lý hành chính Phan Rang, thuộc tỉnh Bình Thuận.
Ngày 5 tháng 7 năm 1922, tỉnh Phan Rang, còn gọi là tỉnh Ninh Thuận, được tái lập. Tỉnh gồm phủ Ninh Thuận và huyện An Phước (nơi người Chăm cư trú), do một Công sứ Pháp cai trị. Dưới Công sứ còn có một Quản đạo. Năm 1945, Pháp và chính quyền Trần Trọng Kim thay lần lượt các công sứ: De Maystre (1942? - 1945), Ưng Phố và Phan Văn Phúc. Tháng 11/1948 Pháp cho sáp nhập Ninh Thuận gồm 4 quận: Tháp Chàm, Ninh Chử, Đồng Mé, Phan Rang vào Chi khu Nha Trang.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Năm 1958, tỉnh Ninh Thuận gồm có 3 quận (24 xã): Thanh Hải (quận lỵ Khánh Hải), An Phước (quận lỵ Hậu Phước), Bửu Sơn (quận lỵ An Sơn). Ngày 6 tháng 4 năm 1960, thành lập quận Du Long, do tách một phần đất quận Bửu Sơn và một phần đất của quận Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, quận lị đặt tại Karom, xã Cam Ly (nay thuộc xã Công Hải, huyện Thuận Bắc).
Trước ngày 16 tháng 4 năm 1975, Ninh Thuận gồm có 5 quận là Thanh Hải, An Phước, Bửu Sơn, Du Long và Sông Pha.
Quận An Phước gồm các xã: Diêm Hải, Đại Phước, Định Hải, Hậu Phước, Hữu Phước, Phước Hải, Tà Dương, Thái Sơn.
Quận Bửu Sơn gồm các xã: An Sơn, Mỹ Sơn, Phú Sơn, Phước Sơn, Tân Sơn, Tri Phước.
Quận Du Long gồm các xã: Cam Ly, Cam Thọ, Cát Hải, É Lâm hạ.
Quận Sông Pha gồm các xã: Bửu Lâm, É Lâm thượng.
Quận Thanh Hải gồm các xã: An Hải, Đông Hải, Hộ Hải, Khánh Hải, Mỹ Hải, Phan Rang, Tân Hải, Vĩnh Hải.
Tỉnh lỵ đặt tại Phan Rang, về mặt hành chính thuộc xã Phan Rang, quận Thanh Hải.
Sau giải phóng
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tỉnh Ninh Thuận dự kiến sáp nhập với các tỉnh Bình Thuận, Tuyên Đức và Lâm Đồng để thành lập tỉnh mới Thuận Lâm. Nhưng đến tháng 2 năm 1976, do có sự điều chỉnh từ trung ương cho sát với thực tế, các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải. Địa bàn tỉnh Ninh Thuận cũ bao gồm thị xã Phan Rang và 3 huyện: Ninh Sơn, Ninh Hải, An Phước.
Ngày 27 tháng 4 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 124-CP về việc giải thể thị xã Phan Rang và 3 huyện: An Phước, Ninh Hải, Ninh Sơn để thành lập 2 huyện: An Sơn (huyện lỵ là thị trấn Tháp Chàm, được thành lập từ một phần thị xã Phan Rang cũ) và Ninh Hải mới (huyện lỵ là thị trấn Phan Rang, được thành lập từ phần còn lại của thị xã Phan Rang cũ).
Ngày 1 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 45-HĐBT, chia lại huyện An Sơn và huyện Ninh Hải thành 4 đơn vị hành chính: thị xã Phan Rang – Tháp Chàm và 3 huyện: Ninh Hải, Ninh Phước và Ninh Sơn.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội thông qua nghị quyết chia lại tỉnh Thuận Hải thành hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận.
Khi tách ra, tỉnh Ninh Thuận có thị xã Phan Rang – Tháp Chàm (tỉnh lỵ) và 3 huyện: Ninh Hải, Ninh Phước, Ninh Sơn.
Ngày 6 tháng 11 năm 2000, chia huyện Ninh Sơn thành 2 huyện: Ninh Sơn và Bác Ái. Ngày 7 tháng 7 năm 2005, chia huyện Ninh Hải thành 2 huyện: Ninh Hải và Thuận Bắc.
Ngày 8 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 21/2007/NĐ-CP chuyển thị xã Phan Rang – Tháp Chàm thành thành phố trực thuộc tỉnh Ninh Thuận. Ngày 10 tháng 6 năm 2009, chia huyện Ninh Phước thành 2 huyện: Ninh Phước và Thuận Nam.
Tỉnh Ninh Thuận có 1 thành phố và 6 huyện như ngày nay.
Ngày 26 tháng 2 năm 2015, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Ninh Thuận.
Hành chính
Tỉnh Ninh Thuận có 7 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố và 6 huyện; 65 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 47 xã, 15 phường và 3 thị trấn.
Kinh tế
Về nông nghiệp, Ninh Thuận nổi tiếng với những sản phẩm như: Nho, táo, hành, tỏi, tôm giống, muối,... đây là địa phương có quy mô trồng nho nhiều nhất nước, được trồng chủ yếu tại huyện Ninh Phước và huyện Thuận Nam. Hành và tỏi cũng là một trong những thế mạnh của Ninh Thuận, được trồng nhiều tại thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và huyện Ninh Hải. Ngoài ra, địa phương này còn là trung tâm tôm giống lớn của cả nước với quy mô sản xuất trong năm 2019 ước đạt 33,9 tỷ con tôm giống.
Về công nghiệp, Ninh Thuận hiện có cụm công nghiệp Thành Hải (đang hoạt động). Khu công nghiệp Du Long đang được đầu tư xây dựng. Ngoài ra còn có quy hoạch khu công nghiệp Phước Nam và Cà Ná.
Trong năm 2012, GDP tăng 10,3%, thu nhập bình quân đầu người đạt 19,1 triệu đồng/người/năm, thu ngân sách đạt 1.320 tỷ đồng, đạt 100,2% dự toán…
Năm 2014, tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt 12,4%;Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 1.700 tỷ đồng (đạt 113,3% kế hoạch); GDP bình quân đầu người 26,8 triệu đồng; về cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 38,5%, công nghiệp và xây dựng chiếm 23,8%, dịch vụ chiếm 37,7%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 7.615 tỷ đồng; giá trị kim ngạch xuất khẩu ước đạt 55 triệu USD (đạt 78,6% kế hoạch).
Tổng sản phẩm trong Tỉnh (GRDP) năm 2019 ước tăng 13,18% so với năm 2018; trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6%, đóng góp 2,14 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 39,7%, đóng góp 7,29 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,87%, đóng góp 2,67 điểm phần trăm; thuế sản phẩm tăng 14,95%, đóng góp 1,08 điểm phần trăm.
Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; ngành nông nghiệp tăng 6,22% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,05 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; ngành lâm nghiệp giảm 19,26%, đóng góp giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 6,2%, đóng góp 1,14 điểm phần trăm.
Trong khu vực công nghiệp và xây dựng; ngành công nghiệp tăng 34,92% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 0,5%, đóng góp giảm 0,01 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,7%, đóng góp giảm 0,04 điểm phần trăm; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện,khí đốt… tăng 217,6%, đóng góp 3,2 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 44,61%, đóng góp 4,04 điểm phần trăm.
Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,47% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,51 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; vận tải kho bãi tăng 9,38%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 6,56%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm; hoạt động thông tin và truyền thông tăng 7,73%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,36%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm; hoạt động giáo dục và đào tạo, đạt mức tăng 5,01%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm…
Về cơ cấu kinh tế (VA) năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 36,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 24,7%; khu vực dịch vụ chiếm 38,34%; (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2018 là: 39,72%; 19,37% và 40,91%).
+ Kim ngạch xuất khẩu đạt 100 triệu USD, tăng 17,65% so cùng kỳ 2018.
+ Chỉ số giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2019 tăng 2,66% so với cùng kỳ năm 2018.
+ Dân số trung bình là 591nghìn người, tăng 0,37% so với năm 2018.
+ Tỉ lệ tăng tự nhiên 11,25%o, giảm 0,05% so cùng kỳ năm 2018.
Dân cư
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh đạt 590.467 người, mật độ dân số đạt 181 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 211.109 người, chiếm 35,8% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 379.358 người, chiếm 64,2%. Dân số nam đạt 296.026 người, trong khi đó nữ đạt 294.441 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,44 ‰. Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng duyên hải Nam Trung Bộ với gần 600.000 dân. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 44%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, Trên địa bàn toàn tỉnh có 34 dân tộc và 3 người nước ngoài cùng sinh sống. Trong đó, người Kinh đông nhất với 432.399 người, tiếp sau đó là người Chăm với 67.274 người, xếp ở vị trí thứ ba là Raglay với 58.911 người, người Cơ Ho có 2.860 người, 1.847 người Hoa, cùng một số dân tộc ít người khác như Chu Ru, Nùng, Tày....
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Toàn tỉnh Ninh Thuận có 10 Tôn giáo khác nhau chiếm 251.292 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo với 97.560 người, tiếp theo đó là Phật giáo với 44.226 người, thứ 3 là Bà La Môn 62.699 người, Hồi Giáo có 44.990 người, Tin Lành có 11.220 người, cùng các tôn giáo ít người khác như Cao Đài 1.784 người, Bahá'í có 26 người, Minh Sư Đạo có năm người, Phật giáo Hòa Hảo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi đạo có một người.
Các làng Chăm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận
Hiện nay, ở Ninh Thuận còn 22 làng Chăm, phân bố ở 12 xã và 6 huyện thị: Thuận Bắc, Ninh Hải, Ninh Sơn, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Phước, Thuận Nam. Trong đó, hai huyện có người Chăm cư trú đông nhất là huyện Ninh Phước và huyện Thuận Nam (tách lập từ huyện Ninh Phước năm 2009), với dân số là 51.527 người (1/4/2009).
Phần lớn các làng Chăm đều theo đạo Bà-la-môn, số còn lại là Hồi giáo với 2 nhánh Bàni và Islam.
Du lịch
Bờ biển Ninh Thuận có nhiều bãi tắm đẹp nổi tiếng và nhiều sông suối phục vụ du lịch như suối Vàng, thác Tiên,... Các bãi biển tại Ninh Thuận như Bãi biển Bình Tiên, Bãi biển Ninh Chử, Bãi biển Bình Sơn, Bãi biển Cà Ná.
Nơi đây còn lưu giữ, bảo tồn nhiều công trình văn hóa kiến trúc cổ Chămpa gắn với các lễ hội văn hóa dân tộc Chăm. Nhiều tháp Chăm như Pôklong Grai (Tháp Chăm), tháp Pôrômê (Ninh Phước). Hiện Ninh Thuận còn 3 tháp Chăm, được xây dựng cách đây khoảng 400–1100 năm gồm có Tháp Hòa Lai (Ba Tháp), Tháp Po Klong Garai, Tháp Po Rome. Các làng nghề Chăm cổ gồm Làng gốm Bàu Trúc và Làng thổ cẩm Mỹ Nghiệp.
Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có 2 khu du lịch sinh thái gồm Vườn quốc gia Núi Chúa và Vườn quốc gia Phước Bình.
Y tế - Văn hoá & Giáo dục
Giáo dục
Trên địa bàn toàn tỉnh có 288 trường học ở cấp phổ thông, trong đó Trung học phổ thông có 18 trường, Trung học cơ sở có 63 trường, Tiểu học có 147 trường, bên cạnh đó còn có 110 trường mẫu giáo.
Bậc đào tạo cao sau cấp phổ thông gồm có:
Trường Trung cấp Y tế Ninh Thuận
Trường Cao đẳng Nghề Ninh Thuận
Trường Cao đẳng Sư phạm Ninh Thuận
Trường Đại học Nông Lâm TPHCM – Phân hiệu Ninh Thuận
Viện Đào tạo và Khoa học ứng dụng Miền Trung – Trường Đại học Thủy Lợi
Bậc đào tạo sau đại học gồm có:
Viện Đào tạo và Khoa học ứng dụng Miền Trung – Đại học Thủy Lợi
Đại học Nông Lâm – Phân hiệu Ninh Thuận
Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Ninh Thuận cũng đang dần tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Xây dựng nguồn nhân lực bản địa có trình độ khoa học cao, cho mục tiêu phát triển của tỉnh Ninh Thuận.
Y tế
Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Ninh Thuận có 80 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 6 Bệnh viện, 7 phòng khám đa khoa khu vực và 65 Trạm y tế phường xã, 1 Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, với 1.565 giường bệnh và 298 bác sĩ, 454 y sĩ, 482 y tá và khoảng 209 nữ hộ sinh.
Bảo vật quốc gia
Tính đến tháng 1 năm 2024, Ninh Thuận có 4 hiện vật được công nhận Bảo vật quốc gia, tất cả hiện vật đều thuộc về văn hoá Champa của người Chăm, gồm có:
Bia Phước Thiện có niên đại từ thế kỷ thứ VIII, được phát hiện vào năm 1992 tại một cánh đồng thuộc thôn Phước Thiện, xã Phước Sơn, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận, cách thành phố Phan Rang - Tháp Chàm 10km về phía Tây.
Tượng Pô Klong Garai có niên đại từ thế kỷ XVI, hiện được thờ trong Tháp Po Klong Garai, phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm.
Bia Hòa Lai
Phù điêu Pô Rôme
Thể thao
Sân vận động tỉnh Ninh Thuận là một sân vận động đa năng nằm ở phường Phước Mỹ, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm. Sân thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Và Thi Đấu Thể Thao Tỉnh Ninh Thuận. Sân có sức chứa 16.000 khán giả. Đây là sân nhà của Câu lạc bộ bóng đá Ninh Thuận vào năm 2012. Sân từng được chọn để làm nơi tổ chức Giải bóng đá Vô địch U-21 Quốc gia 2012 và Giải Bóng đá U-21 Quốc tế báo Thanh niên 2013. Câu lạc bộ bóng đá Bình Thuận cũng đã mượn sân vận động Ninh Thuận để thi đấu tại giải bóng đá hạng nhất Quốc gia 2023.
Giao thông
Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm là nơi giao nhau của 3 trục giao thông chiến lược là Quốc lộ 1, đường sắt Bắc Nam và Quốc lộ 27.
Tỉnh Ninh Thuận có Quốc lộ 1, Quốc lộ 27, Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và các tuyến đường khác như tỉnh lộ 702, tỉnh lộ 703 đều đạt tiêu chuẩn cấp IV, các tuyến đường huyện và liên xã được nâng cấp và đảm bảo giao thông cơ giới thuận tiện quanh năm.
Quốc lộ 1A được mở rộng đạt quy mô 4 làn xe cơ giới + 2 làn xe hỗn hợp, bề rộng nền đường 20,5m. Đoạn qua đô thị có hệ thống thoát nước dọc. Đoạn ngoài đô thị theo tiêu chuẩn đường cấp III – đồng bằng; tốc độ thiết kế 80 km/h; đoạn qua khu đô thị theo tiêu chuẩn đường phố chính đô thị thứ yếu, tốc độ thiết kế 60 km/h.
Trước đây trên địa bàn tỉnh còn có tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt được người Pháp thiết kế và xây dựng từ năm 1908 đến năm 1932, trong toàn tuyến có 16 km đường ray trên đèo Ngoạn Mục với hệ thống răng cưa rất độc đáo, giúp tàu không bị tuột phanh khi vượt độ cao 1.600m với độ dốc thường xuyên là 12%. Năm 1986, Liên hiệp Đường sắt Việt Nam đã cho công nhân tháo ray và tà vẹt để phục vụ sửa chữa đường sắt Thống Nhất. Hiện nay, một phần của tuyến đường sắt đoạn Đà Lạt – Trại Mát dài 7 km vẫn còn hoạt động để phục vụ khách du lịch.
Về hàng không thì tỉnh có sân bay Thành Sơn là sân bay quân sự cấp 1.
Người Ninh Thuận nổi tiếng
Jaya Prithindravarman (?–?), là tiểu vương của vùng Panduranga, người đã lật đổ Lâm Ấp để lập ra nhà nước Hoàn Vương vào năm 757, đây là vương quốc thống nhất đầu tiên tồn tại liên tục và lâu dài của người Chăm ở miền Trung Việt Nam. Ông đặt kinh đô tại Virapura (Hùng Tráng thành), vị trí ngày nay thuộc huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận. Vương triều này tồn tại hơn 1 thế kỷ và phát triển thịnh trị với trung tâm là vùng Phan Rang và Nha Trang ngày nay.
Po Klong Garai (1151–1205), là vua của Vương quốc Champa trong 50 năm, ông đã lãnh đạo người Chăm đánh đuổi ách đô hộ của Đế quốc Khmer, chiến tích này đã được lưu lại bằng các bức điêu khắc trên đá ở Đền Bayon, trung tâm của quần thể Angkor Thom, (Campuchia ngày nay). Người Chăm đã suy tôn Po Klong Garai làm thần thủy lợi, vì ông đã có công trị thủy, những công trình do ông xây dựng vẫn còn được sử dụng cho đến tận ngày nay, điển hình như Đập Nha Trinh trên sông Cái Phan Rang.
Nguyễn Nhược Thị Bích (1830–1909), là con gái của quan đại thần Nguyễn Nhược Sơn, bà được tuyển vào cung làm phi tần của vua Tự Đức và được phong đến Tam giai Lễ tần (三階禮嬪), đứng thứ ba trong hậu cung. Bà nổi tiếng tài sắc và giỏi thơ phú nên rất được vua Tự Đức yêu mến giao cho coi sóc và dạy học cho các hoàng tử (tương lai là các vua Dục Đức, Đồng Khánh, Kiến Phúc), cung nhân kính trọng gọi bà là Tiệp dư phu tử(婕妤夫子). Bà là tác giả của Hạnh Thục ca trong Văn học Việt Nam.
Phan Cư Chánh (1814–1885), là một chí sĩ yêu nước, chiêu mô quân tham gia cùng Phó lãnh binh Trương Định kháng Pháp sau khi Đại đồn Chí Hòa thất thủ. Ông cũng là một nhà khoa bảng, đỗ Cử nhân ra làm quan Nhà Nguyễn, thăng đến chức Thị giảng Học sĩ, rồi Thị lang Bộ Hộ..
Nguyễn Văn Thiệu (1923–2001), là Trung tướng bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, được Hội đồng tướng lĩnh bầu làm Chủ tịch Uỷ ban Lãnh đạo Quốc gia năm 1965. Sau cuộc bầu cử dân sự năm 1967, ông trở thành Tổng thống đầu tiên của Đệ Nhị Việt Nam Cộng hòa và giữ chức này cho đến ngày 21/04/1975, trước khi Miền Nam được giải phóng đúng 9 ngày.
Pinăng Tắc (1910–1977), người Raglai là một chiến sĩ cách mạng, đã được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân và là cha đẻ của Bẫy đá Pinăng Tắc.
Nguyễn Ánh 9 (1940–2016), là một nhạc sĩ và nhạc công dương cầm nổi tiếng Việt Nam. Ông là tác giả của những nhạc phẩm trứ danh như: Không, Buồn ơi chào mi, Tình khúc chiều mưa, Ai đưa em về... Sau khi qua đời, Trung tâm Thuý Nga đã tổ chức đại nhạc hội Paris By Night 83 – Những Khúc Hát Ân Tình để vinh danh ông cùng 2 nhạc sĩ Xuân Tiến và Thanh Sơn.
Chế Linh (1942), người Chăm, là một ca sĩ hải ngoại nổi tiếng với dòng nhạc trữ tình lãng mạn, được xem là một trong bốn giọng ca nam đình đám nhất của nhạc vàng thời kỳ đầu, cùng với Duy Khánh, Nhật Trường và Hùng Cường.
Từ Công Phụng (1942), người Chăm, là một nhạc sĩ tiêu biểu của tân nhạc Việt Nam trong thập niên 1960, 1970. Ông nổi tiếng với các ca khúc "Bây giờ tháng mấy", "Mắt lệ cho người"... Trung tâm Thúy Nga tổ chức đại nhạc hội Paris By Night 64 – Đêm Văn Nghệ Thính Phòng nhằm vinh danh ông, cùng với hai nhạc sĩ Tuấn Khanh và Vũ Thành An.
Đỗ Quang Em (1942–2021), là một hoạ sĩ theo phong cách siêu thực. Ông nổi tiếng với bức tranh Ấm và tách trà được bán đấu giá vào năm 1995 với giá 50.000 USD, là hoạ sĩ Việt Nam có tác phẩm bán được giá cao nhất thời bấy giờ. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam năm 2000, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton, có nhắc tới việc tranh của Đỗ Quang Em bán được giá cao, như một thí dụ về ảnh hưởng của sự toàn cầu hóa tới Việt Nam.
Po Dharma – Nguyễn Văn Đủ (1945–2019), người Chăm, là một nhà nghiên cứu văn hoá sử Champa. Ông từng là sĩ quan của Quân đội FULRO, được Hoa Kỳ ở Miền Nam Việt Nam đào tạo tình báo quân sự, sau được Thống tướng Lon Nol, lúc này là Tổng thống của Cộng hòa Khmer cử đi Pháp du học tại Đại học Sorbonne chuyên ngành Lịch sử và Văn tự học, tốt nghiệp Tiến sĩ năm 1986.
Thương Tín (1956), là một diễn viên điện ảnh Việt Nam, ông là người tham gia nhiều phim truyện nhựa và video nhất Việt Nam với vai trò là diễn viên, bao gồm cả vai chính và vai phụ (tính đến năm 2015) với hơn 200 phim, ngoài ra ông còn diễn tổng cộng trên 100 vai kịch, 2/3 số đó là vai chính, vai kép độc. Ông nỗi tiếng qua các bộ phim Ván bài lật ngửa, Biệt động Sài Gòn, Chiến trường chia nửa vầng trăng...
Inrasara (1957), người Chăm, là một nhà nghiên cứu văn hoá Chăm và nhà thơ nổi tiếng gốc Chăm.
Hoàng Duy Hùng (1962), là một luật sư và chính trị gia người Việt tại Mỹ, từng đắc cử nghị viên hội đồng thành phố Houston, thuộc tiểu bang Texas năm 2009. Ông từng là một người chống Cộng sản cực đoan, nhưng sau này thì lại tiên phong trong việc ủng hộ chính sách Hòa giải và hòa hợp dân tộc ở Việt Nam.
Nguyễn Thời Trung (1976), là một nhà khoa học Việt Nam có uy tín trên thế giới, hiện là Giáo sư và Viện trưởng Viện Khoa học tính toán thuộc Trường Đại học Tôn Đức Thắng. Ông đã công bố hơn 250 công trình trên các tạp chí uy tín của quốc tế, có hơn 10.000 trích dẫn khoa học liên quan đến các nghiên cứu và báo cáo khoa học của ông.
Dương Anh Vũ (1988), nắm giữ 4 kỷ lục thế giới về trí nhớ học thuật và 1 kỷ lục quốc gia, là chuyên gia tham vấn dự án cho các tổ chức như Google châu Á, IIEP-UNESCO... Được mời giữ các vị trí Trưởng ban cố vấn khoa học và giám khảo của một số chương trình truyền hình thực tế tại Việt Nam như Siêu trí tuệ Việt Nam (mùa 1 và 2), Siêu thử thách (mùa 1), Trạng nguyên tuổi 13 (mùa 9).
Huỳnh Minh Kiên (2004), là Á hậu 2 của Miss World Vietnam 2023 (Hoa hậu Thế giới Việt Nam).
Đặc sản Ninh Thuận
Theo Quyết định số 1493/QĐ-UBND ngày 10 tháng 9 năm 2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Thuận:
12 sản phẩm đặc thù:
Nho Ninh Thuận (Có chỉ dẫn địa lý)
Rượu nho (nhãn hiệu chứng nhận)
Măng tây Ninh Thuận (Nhãn hiệu chứng nhận)
Nha đam Ninh Thuận (Nhãn hiệu Chứng nhận)
Tỏi Phan Rang (Nhãn hiệu tập thể), trồng tập trung tại Nhơn Hải, Thanh Hải, Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải và phường Văn Hải thành phố Phan Rang – Tháp Chàm
Táo Ninh Thuận (Nhãn hiệu tập thể)
Rong sụn Ninh Thuận (Nhãn hiệu chứng nhận), hiện có hơn 10 sản phẩm được chế biến Agar-Agar (nhà máy tại huyện Thuận Bắc), mứt rong,... (chế biến tại Phan Rang)
Tôm giống Ninh Thuận (Nhãn hiệu chứng nhận). Có 2 vùng sản xuất tôm giống tập trung tại xã An Hải, Ninh Phước và xã Nhơn Hải, Ninh Hải; là trung tâm sản xuất tôm giống của cả nước; là nơi duy nhất trên cả nước sản xuất được tôm sú giống bố mẹ (Công ty MOANA) và tôm thẻ giống bố mẹ (Công ty Việt Úc – Ninh Thuận)
Cừu Ninh Thuận (chỉ dẫn địa lý)
Dê Ninh Thuận (Nhãn hiệu chứng nhận)
Nước mắm: Nước mắm nhĩ, mắm ruốc, mắm nêm. Đặc biệt nước mắm Cà Ná có nhãn hiệu chứng nhận
Thổ cẩm Mỹ Nghiệp (Nhãn hiệu tập thể)
Gốm Bàu Trúc (Nhãn hiệu tập thể).
các đặc sản:
bánh canh phan rang
chả cá
bánh căn
bánh tráng nướng phan rang
nem nướng
chả lụa phan rang
4 sản phẩm tiềm năng đặc thù:
Heo đen Thuận Bắc, Bác Ái
Bò vàng Ninh Thuận
Trái cây Ninh Sơn – kết hợp tham quan.
Ngoài ra, Ninh Thuận còn có những đặc sản đặc trưng nổi tiếng khác, như:
Gà Sông Pha (Krongpha), gà Thuận Bắc
Heo đen Thuận Bắc
Mực khô, mực một nắng, Dông, cá bè cu
Bưởi da xanh và chuối hột mồ côi Phước Bình (trồng khu vực Vườn Quốc gia Phước Bình)
Muối – sản lượng lớn nhất cả nước. Đặc biệt đồng muối Cà Ná, Thuận Nam tại nơi nước biển có độ mặn lớn nhất Đông Dương; đồng muối Đầm Vua; đồng muối Phương Cựu.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang chủ của Ủy ban Nhân dân tỉnh Ninh Thuận
Thông tin kinh tế xã hội tỉnh Ninh Thuận trên trang chủ Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam
Ban Xây dựng Năng lực Quản lý tài nguyên nước và dịch vụ công Ninh Thuận
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11218
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BB%87%20N%C4%83ng
|
Huệ Năng
|
Huệ Năng (zh. huìnéng/ hui-neng 慧能, ja. enō) (638-713), hay Lục Tổ Huệ Năng, là một vị Thiền sư vĩ đại trong lịch sử Thiền Tông Trung Hoa. Sư kế tiếp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, trở thành vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Quốc.
Trước Huệ Năng, Thiền còn mang nặng ảnh hưởng Ấn Độ, nhưng đến đời Sư, Thiền bắt đầu có những đặc điểm riêng của Trung Quốc. Vì vậy mà có người cho rằng sư mới thật sự là người Tổ khai sáng dòng Thiền tại đây. Huệ Năng không chính thức truyền y bát cho ai, nên sau đó không còn ai chính thức là truyền nhân. Tuy nhiên sư có nhiều học trò xuất sắc. Môn đệ chính là Thanh Nguyên Hành Tư và Nam Nhạc Hoài Nhượng là hai vị Thiền sư dẫn đầu hầu như toàn bộ các dòng Thiền về sau.
Sư được coi là người sáng lập Thiền Đốn Ngộ (Thiền Nam Tông)- với chủ trương đạt giác ngộ trực tiếp, nhanh chóng. Sư là tác giả của tác phẩm chữ Hán duy nhất được gọi là "Kinh", một danh từ thường chỉ được dùng chỉ những lời nói, bài dạy của chính Phật Thích-ca, đó là Lục tổ đại sư pháp bảo đàn kinh, một tác phẩm với ý nghĩa rất sâu xa về thiền. Cũng nhờ Pháp bảo đàn kinh mà người ta biết được ít nhiều về Huệ Năng.
Đạo nghiệp
Sư họ Lư (zh. 盧), người Tân Châu, sinh trong một gia đình nghèo. Cha sư làm quan bị giáng chức tới Tân Châu, Nam Hải và định cư tại đây.
Khi sư lên 3 tuổi thì cha mất, lớn lên giúp mẹ bằng cách bán củi. Một hôm, trong lúc bán củi, nghe người ta tụng kinh Kim cương, sư bỗng nhiên có ngộ nhập. Nghe người đọc kinh nhắc đến Hoằng Nhẫn, sư liền đến tìm học. Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ghi chép việc Sư yết kiến Hoằng Nhẫn như sau: Trong thời Hàm Hanh, có một cư sĩ họ Lư, tên Huệ Năng, từ Tân Châu đến ra mắt sư.
Tổ hỏi:
- Ông từ đâu tới ?
Lư đáp:
- Lĩnh Nam.
Tổ hỏi:
- Đến muốn cầu việc gì ?
Lư đáp:
- Chỉ cầu làm Phật.
Tổ hỏi:
- Người Lĩnh Nam không có Phật tánh, làm sao làm Phật được?
Lư nói:
- Người thì có Nam - Bắc, Phật tánh há cũng vậy sao ?
Tổ biết là dị nhân, liền nạt rằng:
- Thâu nhận xuống nhà sau đi.
Lư đảnh lễ chân Tổ lui ra, rồi vào nhà giã gạo, nhận việc đạp cối lao nhọc, ngày đêm không nghỉ.Hoằng Nhẫn biết tới lúc mình phải tìm người kế thừa nên ra lệnh cho học trò mỗi người viết kệ trình bày kinh nghiệm giác ngộ. Cuối cùng chỉ có Thần Tú, một đệ tử với tri thức uyên bác mới dám làm. Thần Tú viết bài kệ lên vách tường hành lang, so sánh thân người như cây Bồ-đề và tâm như tấm gương sáng, người tu hành phải lo lau chùi, giữ tấm gương luôn luôn được trong sáng. Ngũ Tổ thấy bài kệ, biết là Thần Tú chưa vào cửa được, nhưng vẫn khen ngợi bảo đại chúng thường ngày trì tụng, sẽ được kiến tánh. Sư đang làm việc trong bếp, nghe tăng đọc bài kệ, biết liền kệ này chưa thấy Bản Tánh, vì không biết chữ nên nhờ người viết bài kệ của mình như sau:
Nghe bài kệ, Hoằng Nhẫn biết căn cơ của sư vượt hẳn Thần Tú, nhưng sợ người di hại nên bôi bài kệ đi, bảo rằng cũng chưa thấy tánh. Hôm sau, Tổ lén đến nhà bếp, thấy Huệ Năng lưng đeo đá giã gạo, nói rằng: "Người cầu đạo cần phải như thế". Lại hỏi: "Gạo trắng chưa?". Huệ Năng đáp: "Trắng đã lâu, chỉ chờ người sàng thôi". Tổ lấy gậy gõ ba cái trên cối đá rồi bỏ đi. Huệ Năng hiểu ý Tổ, nên canh ba vào thất. Tổ dùng Ca Sa che lại không cho người thấy, rồi thuyết kinh Kim cương cho Sư. Đến câu "Đừng để tâm vướng víu nơi nào" (ưng vô sở trụ nhi sinh kì tâm 應無所住而生其心), sư hoát nhiên đại ngộ, bèn bạch Tổ rằng:
Ngũ Tổ nói: "Chư Phật xuất thế là một việc trọng đại, nên tùy theo căn cơ cao thấp khác nhau mà hướng dẫn, cho nên mới có các chỉ ý mười địa, ba thừa, nhanh chậm làm Giáo môn. Nhưng Thế Tôn đã đem pháp môn vô thượng thâm diệu, trong sáng sâu xa là Chánh pháp nhãn tạng chân thực truyền đạt cho đệ tử thứ nhất là Đại Ca-diếp Tôn giả, lần lượt truyền qua 28 đời. Đến Tổ Đạt Ma thì sang tới Đông Độ này, được Khả đại sư nối tiếp đến hôm nay. Nay ta đem Pháp bảo cùng với Cà-sa trao lại cho ông. Hãy khéo giữ gìn, đừng để pháp đứt đoạn". Rồi đọc kệ truyền pháp:Phiên âm:
Hữu tình lai hạ chủng
Nhân địa quả hoàn sinh
Vô tình diệc vô chủng
Vô tính diệc vô sanh.
Tạm dịch:
Hữu tình đến gieo mầm
Nhờ đất trái nẩy sinh
Vô tình đã không giống
Không tính cũng không sinh.Sư quỳ xuống nhận y và pháp, nói: "Pháp, con đã nhận, còn y sẽ trao cho ai?".
Tổ nói: "Xưa, lúc đầu Tổ Đạt Ma đến đây, vì chưa ai tin nên phải truyền y làm biểu minh đắc pháp. Nay tín tâm mọi người đã muồi, chiếc y sẽ là đầu mối tranh giành. Vậy nên đến ông thì dừng lạy không truyền nữa. Ông nên đi xa ẩn lánh, đợi thời cơ mà hành đạo, bởi lẽ người nhận y, mạng như tơ mành".
Sư hỏi: "Nên ẩn nơi đâu?", Tổ nói: "Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn". Khi tiễn sư xuống thuyền, Tổ muốn tự chèo đưa sư sang sông, sư bèn nói: "Khi mê thầy độ, ngộ rồi tự độ" và tự chèo qua sông.
Suốt 15 năm sau, sư ở ẩn, và trong thời gian này vẫn là cư sĩ. Sau đó, sư đến chùa Pháp Tính ở Quảng Châu. Đó là nơi sản sinh công án nổi tiếng "chẳng phải gió, chẳng phải phướn" (Vô môn quan, công án 29). Sau khi sư chen vào nói "tâm các ông động" thì Ấn Tông, vị sư trụ trì của chùa hỏi sư: "Nghe nói y pháp Hoàng Mai đã truyền về phương Nam, phải chăng là hành giả?" Sư không thể giấu giếm, bèn thuật nguyên do việc đắc Pháp. Ấn Tông bèn tự chấp lễ đệ tử, thỉnh cầu được nhận pháp yếu của Thiền và nói với chúng: "Ấn Tông ta đây thực là phàm phu, nay mới được gặp Bồ-tát thân phàm" Và thỉnh sư đưa y bát ra để cho chúng được chiêm ngưỡng.
Ngày 15 tháng Giêng, Ấn Tông mời các bậc danh đức đến làm lễ cạo tóc cho sư. Đến ngày 8 tháng 2, Trí Quang Luật sư chùa Pháp Tính đứng ra làm lễ thọ cụ túc giới cho sư. Giới đàn này do Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà-la triều (Lưu) Tống thiết lập. Ngài Bạt-đà-la từng thọ ký: "Sau này sẽ có Bồ- tát thân phàm thọ giới tại đàn này". Và cuối thời Lương, Tam Tạng Chân Đế đã từng tự tay trồng hai cây Bồ-đề bên cạnh đàn và nói với chúng: "Sau 120 năm, sẽ có bậc Đại pháp sĩ dưới cội cây này diễn pháp vô thượng thừa độ vô số chúng sinh", tức là chỉ cho Lục Tổ Huệ Năng vậy.
Hoằng Pháp
Sau khi thọ giới cụ túc xong, sư ở lại chùa Pháp Tính giảng về giáo pháp của Thiền Tông, chúng học giả tăng tục đến dự nghe pháp rất đông.
Sang năm, vào ngày 8 tháng 2, Sư nói với môn nhân: "Ta không định lưu tại đây mà muốn trở về nơi ẩn khi xưa". Ấn Tông cùng hơn ngàn người cả tăng lẫn tục làm lễ tiển đưa sư về chùa Bảo Lâm.
Quan Thứ sử Thiều Châu là Vi Cứ đã thỉnh sư đến chùa Đại Phạn thuyết giảng pháp vi diệu và thọ giới vô tướng tâm địa. Môn đồ là Pháp Hải Thiền sư đã chép lại thành sách tên gọi Đàn Kinh, truyền bá rộng rãi trong đời.
Sau đó, Sư trở về Tào Khê, thuyết giảng Pháp môn Đốn Ngộ. Học giả thường không dưới ngàn người.
Vua Võ Tắc Thiên từng sai sứ là Tiết Giản đem thư chiếu đến mời sư vào cung thuyết pháp. Sư dâng thư từ chối vì đau yếu, nguyện chung thân ở nơi rừng núi. Vua bảo Tiết Giản đến gặp sư hỏi đạo rồi truyền lại cho vua nghe, Giản nghe sư nói pháp liền đại ngộ, đỉnh lễ từ biệt về triều, dâng thư tâu lại lời dạy của sư. Vua hạ chiếu kính tạ và cúng dường cà-sa ma nạp rất quý và 500 xấp lụa, một chiếc bát vàng.
Đầu niên hiệu Tiên Thiên, Sư báo cùng tứ chúng: "Ta nhận y - pháp của Nhẫn đại sư, nay vì các ông mà nói pháp, nhưng không truyền lại y. Ấy cũng vì gốc tin các ông đã đủ, cứ nhất định chẳng nghi là đã đủ xác nhận sự nghiệp hoằng pháp lợi sanh của ta". Và đọc kệ:
Nói kệ xong, Sư bảo: "Pháp này không hai, tâm ấy cũng như vậy. Đạo ấy thanh tịnh cũng không có các tướng. Các ông chớ nên chấp quán tịnh và ngoan không cái tâm. Tâm vốn đã tịnh, không thể giữ - bỏ. Mọi người hãy gắng lên, tùy duyên mà đi tới!".
Sư giảng pháp hóa độ chúng sinh qua 40 năm, đến ngày 6 tháng 7 năm ấy, sư bảo đệ tử đến chùa Quốc Ân Tân Châu lập tháp Báo Ân.
Thị tịch
Niên hiệu Tiên Thiên năm thứ hai, ngày mùng 1 tháng 7, Sư bảo cùng môn đồ: "Ta muốn về Tân Châu, các ông mau chuẩn bị thuyền". Lúc ấy, mọi người buồn bã quyến luyến cầu xin sư ở lại. Sư nói: " Chư Phật ra đời vẫn phải thị hiện vào Niết-bàn. Có đến ắt có đi, lẽ thường là vậy. Hình hài này của ta tất cũng phải có chỗ quay về". Chúng nói: "Sư ra đi, xin mau mau trở lại". Sư đáp: "Lá rụng về cội, ngày trở lại không nói được". Chúng lại hỏi: "Pháp nhãn của thầy, truyền lại cho người nào?" Sư nói: "Có đạo thì được, vô tâm thì thông". Chúng hỏi: "Sau này có nạn gì không?" Sư nói: "Sau khi ta tịch diệt năm sáu năm, sẽ có người đến lấy đầu ta!". Rồi nói: khi ta tịch diệt 70 năm sẽ có hai Bồ-tát từ phương Đông tới, một tại gia, một xuất gia. Cả hai cùng dựng lập pháp ta, làm hưng thịnh tông phái ta! (tức là Thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất và cư sĩ Bàng Long Uẩn sau này)
Ngày mùng 3 tháng 8 năm ấy, sư đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu, tắm rửa xong vào ngồi xếp bằng an nhiên thị tịch. Ngày 13 tháng 11, mọi người cùng đưa sư đến nhập tháp tại nơi này, thọ 76 tuổi. Vua Đường Hiến Tông thụy tặng sư là Đại Giám Thiền Sư. Tháp hiệu Nguyên Hòa Linh Chiếu.
Tư tưởng
Lục Tổ Huệ Năng nói rằng mọi chúng sinh từ ngu dốt đến thông minh đều có sẵn Phật tính, bởi do có phiền não nên mới thành chúng sinh, chỉ cần ngộ thì lập tức thành Phật, Sư nói: "Trí Bát Nhã (Phật tính), người đời vốn tự có, Chỉ bởi tâm mê, không thể tự thấy, nên phải nhờ bậc đại thiện tri thức chỉ ra mới thấy được tính. Nên biết người ngu kẻ trí đều sẵn có tính Phật, chẳng khác chi nhau. Chỉ bởi mê ngộ chẳng đồng, nên mới có người ngu kẻ trí" (trích Pháp bảo đàn kinh, Đoàn Trung Còn dịch). Tư tưởng này vốn đã được nhắc đến nhiều trong các kinh điển Đại Thừa về đề tài Phật tính và trong bài kệ về Tông chỉ Thiền Tông của Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma.
Lục Tổ Huệ Năng chủ trương đốn ngộ, tức là cái ngộ ngay tức khắc, trực nhận bản thể Phật tính, thanh tịnh, tuyệt đối ngay chính mình, không phải do đọc hiểu văn tự, ghi nhớ, hiểu biết mà được, và cũng không cần phải trải qua nhiều cấp bậc tu chứng như trong các Kinh Điển Đại Thừa (thập tín, thập nguyện, thập hạnh, thập trụ, thập hồi hướng..) hay Nam Tông (4 cấp bậc A-la-hán), và đối với thuyết này, Lục Tổ là nhân vật ví dụ điển hình, sư tuy không biết chữ nghĩa, cũng không được tiếp cận với Kinh điển nhiều, nhưng lại có cái ngộ siêu việt. Từ học thuyết này hình thành nên Thiền Nam Tông để đối lập với tư tưởng của Đại sư Thần Tú và các môn đệ của ông, cho rằng người tu hành phải Tiệm Tu, trải qua nhiều cấp bậc tu chứng, phá ngã chấp, diệt trừ phiền não, thiền định trong nhiều kiếp tu hành thì mới thành Phật được, tư tưởng này tạo nên Thiền Bắc Tông.
Các môn đệ của Thần Tú phía Thiền Bắc Tông thường chê Lục Tổ rằng: "Chẳng biết một chữ, có chi là giỏi" (trích Pháp bảo đàn kinh, Đoàn Trung Còn dịch). Tuy nhiên đại sư Thần Tú có cái nhìn ôn hòa hơn các đệ tử của mình vốn mang tư tưởng cố chấp, tiêu cực. Sư Thần Tú nói rằng: "Vị ấy (tức Lục Tổ) được trí vô sư, ngộ sâu pháp Thượng Thừa, ta chẳng bằng được". Và sư Thần Tú cũng công nhận Lục Tổ là người được Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn truyền tâm ấn và y bát kế tiếp Tổ vị. Sư cũng khuyên các môn đệ của mình nên đến yết kiến Lục Tổ. Trong số các môn đệ của Thần Tú, có các vị như Chí Thành, Hành Xương từng đến tu học với Lục Tổ và được truyền tâm ấn.
Về Thiền Định và Trí Huệ, Lục Tổ cho hai thứ này vốn là một, không có phân biệt. Sư nói: " Thiện tri thức, pháp môn này lấy Định - Huệ làm gốc. Các ngươi chớ lầm rằng Định với Huệ có khác; Định Huệ vốn nhất thể, chẳng phải là hai. Định là thể của Huệ, Huệ là dụng của Định, ngay trong lúc Huệ có Định, ngay trong lúc Định có Huệ, thấu được nghĩa này tức là Định Huệ đồng nhau. Các ngươi học đạo chớ cho là trước phát Định sau phát Huệ, hay trước Huệ sau Định có khác, kiến giải như vậy thành ra pháp có nhị tướng. Miệng tuy nói lành mà trong tâm chẳng lành, tuy có Định Huệ mà Định Huệ chẳng đồng nhau. Nếu tâm miệng đều lành, trong ngoài nhất thể, tức là Định Huệ đồng nhau" (Trích Kinh Pháp bảo đàn, Hòa thượng Thích Duy Lực dịch)
Về vấn đề Tọa Thiền (ngồi thiền), Lục Tổ cho rằng đối với cảnh giới bên ngoài: tâm niệm chẳng khởi lên gọi là Tọa (ngồi), đối với bên trong thấy tự tánh mình chẳng động gọi là Thiền. Còn Thiền Định, Lục Tổ nói rằng bên ngoài lìa tất cả các tướng (hình tướng) gọi là Thiền, bên trong tâm chẳng loạn (động) gọi là Định.
Trong số môn đệ của Thần Tú, có ba người được phong Quốc sư, trong đó sư Phổ Tịch là danh giá nhất, từng làm quốc sư cho ba đời vua, pháp môn tiệm tu của Thiền Bắc Tông phát triển, Phổ Tịch tự tôn Thần Tú làm Lục Tổ Thiền Tông và tự xưng là Thất Tổ, và dùng danh tiếng, mối quan hệ với triều đình để lấy sự ủng hộ. Thiền sư Hà Trạch Thần Hội là người đã đính chính lại vấn đề này, chỉ trích phía Thần Tú không phải Thiền chính thống của Tổ sư Đạt Ma. Ngày 15 tháng Giêng năm thứ 20 niên hiệu Khai Nguyên (năm 732 thời Đường Huyền Tông), Thiền sư Thần hội ở Hoạt Đài (hiện là huyện Hoạt, tỉnh Hà Nam), Chùa Đại Vân lập đại hội vô giá, xác định pháp thống Thiền Tông do Tổ Đạt Ma truyền. Năm thứ 8 niên hiệu Thiên Bảo (749), một lần nữa xác định Tông chỉ Nam Tông tại Lạc Dương, từ đó Thiền của Lục Tổ được chính thức công nhận là Thiền chính tông.
Dưới Lục Tổ có 33 môn đệ đắc pháp, trong đó nổi bật nhất là 5 vị làm cho Thiền Tông đời sau được hưng thịnh và ảnh hưởng lớn trong Phật Giáo Trung Quốc:
Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng, từ pháp mạch này sinh ra Tông Lâm Tế, Quy Ngưỡng.
Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư, từ pháp mạch này sinh ra Tông Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn.
Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, tác giả của Chứng Đạo Ca và quyển Thiền Tông Vĩnh Gia Tập nổi tiếng
Thiền sư Nam Dương Tuệ Trung, từng làm Quốc Sư.
Thiền sư Hà Trạch Thần Hội, người định tông chỉ, đưa Thiền Nam Tông trở thành chính thống.
Đặc biệt, từ hai vị Nam Nhạc Hoài Nhượng và Thanh Nguyên Hành Tư, Thiền Tông sản sinh vô số các Thiền sư danh tiếng truyền bá tư tưởng Đốn Ngộ, Thiền Tông trở thành Pháp môn phổ biến, thịnh hành nhất vào các thời Đường, Tống. Được truyền qua nhiều nước như Việt nam, Nhật Bản, Hàn Quốc. Đên thời Minh, Thanh, Thiền bắt đầu suy yếu và nhường chỗ cho Tịnh Độ Tông. Ngày nay, tuy Thiền Tông đã phần nhiều phai nhạt và không còn ảnh hưởng mấy nữa, nhưng nó vẫn là một đề tài cuốn hút đối với các tăng, ni và cư sĩ, phật tử.
Tham Khảo
Lục Tổ đại sư pháp bảo đàn kinh 六祖大師法寶壇經, Taishō Vol. 48, No. 2008.
Kinh Pháp Bảo đàn trong Thích Duy Lực (dịch): Chư Kinh Tập Yếu, Thành Hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành, 1994.
Đàn Kinh tinh hoa & trí tuệ, Giả Đề Thao, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, Hà Nội. 2012
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Trung Quốc
Sinh năm 638
|
11219
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%C3%AAn%20t%E1%BA%AFc%20t%E1%BA%ADp%20trung%20d%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7
|
Nguyên tắc tập trung dân chủ
|
Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản được trình bày trong điều lệ chính thức của các đảng phái cộng sản theo chủ nghĩa Marx-Lenin. Lenin, người đầu tiên nhắc tới khái niệm "Tập trung dân chủ", giải thích rằng tập trung dân chủ là tự do trong thảo luận nhưng thống nhất trong hành động. Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng là nguyên tắc mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kêu gọi thực thi mặc dù có thể có cách định nghĩa khác.
Theo điều lệ chính thức của các đảng cộng sản, tất cả các cơ quan lãnh đạo và các bí thư các cấp được bầu bởi các đảng viên, trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua đại hội toàn thể đảng viên hay đại hội đại biểu đảng viên. Theo quy định chính thức, tổ chức được xây dựng từ dưới lên nghĩa là các đại biểu cấp dưới sẽ quyết định trong việc bầu chọn lãnh đạo cấp trên. Ý nghĩa dân chủ của nguyên tắc này là các cơ quan và chức vụ lãnh đạo được hình thành thông qua bầu cử, các nghị quyết của Đảng chỉ có thể thông qua bởi cơ quan được bầu. Ý nghĩa của tập trung là quyết định của tổ chức Đảng cấp trên là bắt buộc với các tổ chức Đảng cấp dưới và cuối cùng là bắt buộc mỗi đảng viên phải chấp hành. Mỗi vấn đề của Đảng sẽ được thảo luận cho đến khi ra nghị quyết. Sau khi có nghị quyết, mỗi đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết. Đảng viên dù có ý kiến khác khi phát biểu công khai vẫn phải nói theo nghị quyết chứ không được theo ý mình. Trên thực tế, ý nghĩa tập trung thể hiện rất mạnh mẽ vì nó tạo ra sự lãnh đạo thống nhất, có thể tập trung sức mạnh của tập thể vào một mục tiêu cụ thể và che giấu những bất đồng trong nội bộ.
Việc thực hiện nguyên tắc này được một số nhà nghiên cứu về chính trị cho rằng đã làm cho chủ nghĩa xã hội mà các đảng cộng sản theo đuổi biến thành chủ nghĩa toàn trị . Một số nhà nghiên cứu khác phủ nhận giả thuyết này. Karl Popper, nhà triết học người Áo cho rằng đây chính là nguyên nhân làm cho xã hội do các Đảng Cộng sản nắm quyền trở thành một "xã hội đóng" đối lập với "xã hội mở" (xã hội cho phép người dân bày tỏ sự bất đồng chính kiến) mà ông đề xướng. Tuy nhiên các học giả cánh tả lại cho rằng quy tắc Tập trung dân chủ là một phương pháp phù hợp để duy trì sự dân chủ nhưng vẫn đảm bảo sự thống nhất cao trong Đảng, tránh những tình trạng chia rẽ gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng. Có thể hiểu quy tắc Tập trung dân chủ là một mô hình thu nhỏ của hình thức bầu cử nghị viện khi người dân bầu ra quốc hội và quốc hội ra luật để khống chế hành vi của nhân dân, ở đây, Nhân dân là Đảng viên.
Hồ Chí Minh thì viết "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, thế là vừa dân chủ, vừa tập trung."
Nguồn gốc
Nguyên tắc tập trung dân chủ được Lenin phát triển trong tác phẩm "Làm gì?" (1901/1902), mà dựa vào đảng SPD ở Đế chế Đức. Lenin đòi hỏi trong cuốn sách này:
Một mặt tập trung hóa bộ máy đảng, có nghĩa là, cấp dưới phải tuân theo cấp trên (cấp trên có quyền ra lệnh cho cấp dưới),
Mặt khác những người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước cử tri, và cử tri phải có quyền hạ bệ giới lãnh đạo.
Một kỷ luật đảng nghiêm túc, tại mọi cấp theo đó thiểu số phải tuân theo đa số.
Cấu trúc của đảng theo Lenin được viết chính xác hơn trong tác phẩm "Ein Schritt vorwärts, zwei Schritte zurück" (Một bước tiến, hai bước lùi) (1904). Trong đó Lenin viết, cấu trúc đảng thì có một phần nào quan liêu, bởi vì nó được tổ chức từ trên xuống dưới.
Đường lối chính trị tập trung này được gọi là dân chủ, vì các cấp cao hơn được bầu từ các cấp dưới, và phải chịu trách nhiệm trước cấp dưới và như vậy đại diện cho quyết định của đa số đảng viên, trong khi cấp dưới chỉ đại diện cho một số đảng viên mà thôi. Do sự bầu cử và hạ bệ do bầu cử mà có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào, nó tránh được tình trạng lợi dụng quyền lực.
Việc kiểm soát này tuy nhiên bị các nguyên tắc khác cản trở: mặc dù Lenin cho mỗi người có quyền chỉ trích, nhưng lại cấm hình thành các nhóm. Điều này gây lợi thế cho người đang có quyền lãnh đạo đối với người đối lập và cuối cùng đưa tới việc lựa chọn những người ứng cử theo ý người lãnh đạo đảng.
Ý tưởng của đường lối tập trung dân chủ, mà được bàn thảo tại đại hội thứ 2 đảng Công nhân Xã hội Dân chủ Nga vào 30 tháng 7 năm 1903 tại Luân Đôn, có lẽ đã góp phần đưa tới việc phân chia ra thành nhóm Bolshevik (Đa số), mà ủng hộ, và Menshevik (thiểu số), chống lại học thuyết Lenin. Theo thời gian học thuyết không thỏa hiệp và quá khích này đã lôi cuốn rất nhiều người theo nhóm Bolshevik. Đặc biệt Rosa Luxemburg 1918 (và sau này cả Lev Davidovich Trotsky) đã chỉ trích việc lợi dụng từ tập trung dân chủ. Theo bà Lenin và Trotsky đã loại trừ dân chủ, làm cho chế độ trở thành chế độ độc tài của một vài chính trị gia.
Tại Cộng hòa Weimar 1919 những cuộc thảo luận về tập trung dân chủ cũng góp phần đưa tới việc tách rời khỏi Đảng Cộng sản Đức và thành lập Đảng Công nhân Cộng sản Đức, phát triển thành chủ nghĩa Cộng sản Hội đồng Công nhân.
Dưới sự tham dự của Lenin tại hội nghị thứ hai của Đệ Tam Quốc tế 1920, đường lối tập trung dân chủ được chấp thuận là nguyên tắc tổ chức đảng và có hiệu lực cho tất cả các đảng cộng sản.
Tập trung dân chủ tại Liên Xô
Theo như Marx, một cuộc thay đổi trật tự xã hội và nhà nước chỉ thực sự xảy ra với một cuộc cách mạng của nhân dân, một cuộc cách mạng từ dưới lên trên. Dưới thời Stalin vì nguyên tắc tập trung dân chủ càng được thi hành chặt chẽ hơn, nó trở thành một cuộc cách mạng từ trên xuống dưới, vì chỉ có nhóm nhỏ với quyền lực nhà nước trong tay cải tạo xã hội theo ý riêng của họ. Và sau cuộc đại thanh trừng quyền lực đó chỉ nằm trong tay mỗi Stalin.
Tập trung dân chủ tại Đông Đức
Dưới chế độ Đông Đức tập trung dân chủ được hiểu như là một hình thức tổ chức các tổ chức quần chúng và chính quyền khác hẳn với Nguyên tắc lãnh tụ (Führerprinzip) và dân chủ tư sản. Nó gồm có các nguyên tắc dưới đây:
Các nhà lãnh đạo được lựa chọn từ dưới lên trên
Các ứng cử viên được nhóm lãnh đạo chọn ra trước
Tất cả các cơ quan lãnh đạo phải chịu trách nhiệm và có thể bị hạ bệ
Các cơ quan lãnh đạo phải luôn được kiểm soát bởi người dân bầu
Quyền ra lệnh từ cấp trên xuống cấp dưới
Quyền tham dự của mọi người để giải quyết những vấn đề chủ yếu
Trên thực tế thì quyền ra lệnh của cấp trên là điểm chủ yếu. Những quyết định về nội dung và nhân viên của cấp trên phải được tuân theo. Việc lựa chọn các nhà lãnh đạo chỉ có trên mặt giấy tờ. Được chọn qua cuộc bầu cử mở là những ứng cử viên mà cấp trên đưa ra. Được thực hiện không phải yếu tố dân chủ mà là nguyên tắc tập trung..
Các cấp gồm có tổ chức căn bản (hãng xưởng, trường học, các lãnh thổ), huyện, tỉnh và trung ương. Các người lãnh đạo được bầu được hỗ trợ bởi các nhân viên chính thức. Nhóm lãnh đạo tự chọn lấy người từ dưới vào nhóm, cho nên các hình thức dân chủ chỉ là rỗng tếch vô nghĩa.
Tập trung dân chủ tại Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ).
Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.
Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Chú thích
Đảng cộng sản
Thuật ngữ cộng sản
Thuật ngữ chính trị
Học thuyết chính trị
Chủ nghĩa toàn trị
Dân chủ
|
11220
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9%20%C4%90%C4%83ng%20H%E1%BB%99i%20Nguy%C3%AAn
|
Ngũ Đăng Hội Nguyên
|
Ngũ Đăng Hội Nguyên thuộc loại Đăng lục, 20 quyển, do Phổ Tế (zh. 普濟) soạn vào đời nhà Tống, được xếp vào Tục Tạng kinh tập 138. Ngũ đăng là:
Cảnh Đức Truyền đăng lục (景德傳燈錄)
Thiên Thánh Quảng Đăng lục (zh. 天聖廣燈錄)
Kiến Trung Tịnh Quốc Kế Đăng lục (zh. 建中靖國續燈錄)
Liên Đăng Hội Yếu (zh. 聯燈會要)
Gia Thái Phổ Đăng lục (zh. 嘉泰普燈錄)
Mỗi bộ gồm 30 quyển, số lượng bề bộn, nhiều chỗ trùng lặp. Phổ Tế bỏ rườm rà lấy tinh giản, gom năm bộ lại thành một nên gọi là Ngũ Đăng Hội Nguyên. Nguyên 5 bộ (Ngũ Đăng) gồm 150 quyển, trong khi Ngũ Đăng Hội Nguyên chỉ có 20 quyển, số quyển phần lớn được rút ngắn, nội dung thực tế chỉ giảm đi khoảng phân nửa. Ngũ Đăng vốn chỉ phân biệt hai hệ phái lớn là Nam Nhạc và Thanh Nguyên, từ đó trở xuống không chia tông lập phái nữa. Nhưng thế hệ càng lâu xa thì chi phái càng nhiều thêm, pháp tự rải rác, rất khó nắm được tất cả, nên tác giả cùng với việc rút gọn đã chỉnh lại đầu mối, dưới hệ chia tông, dưới tông chia phái, tương đối tập trung, sắp xếp có thứ tự, mạch lạc lớp lang rất tiện cho người đọc. Hơn nữa sách được trình bày sáng sủa dễ tra cứu. Về chiều rộng thời gian của nội dung sách này gồm thời kì phát triển Thiền tông Trung Quốc từ sơ kì đến lúc cực thịnh và cũng phản ánh chỗ dần dần tiến đến suy vi. Lấy việc ghi chép pháp ngữ của thiền sư làm chính, tinh hoa thiền ngữ phần lớn được thu vào sách này. Ngôn ngữ trong sách thông suốt tự nhiên, tươi tắn hoạt bát, đơn giản cô đọng. Công án, ngữ lục tràn đầy thú vị khiến cho kẻ tăng người tục đều thích đọc. Thế nên từ đời nhà Nguyên, nhà Minh cho đến nay giới trí thức yêu thích thiền học không ai không có sách này, và nó cũng là phương tiện thẳng tắt giúp cho tăng chúng tham thiền được ngộ. Vì bị lược bỏ khá nhiều nên tài liệu được trích dẫn chẳng đầy đủ như sách Cảnh Đức Truyền đăng lục, đó là khuyết điểm của sách này. Sách được Tô Uyên Lôi hiệu đính, Trung Hoa Thư Cục xuất bản vào năm 1984.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Từ điển Thiền Tông Hán Việt. Hân Mẫn & Thông Thiền biên dịch. TP HCM 2002.
Thiền tông
Thiền ngữ
|
11229
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4ng%20tr%C3%B9ng%20h%E1%BA%A1%20th%E1%BA%A3o
|
Đông trùng hạ thảo
|
Đông trùng hạ thảo là một loại đông dược quý có bản chất là dạng ký sinh của loài nấm Ophiocordyceps sinensis thuộc nhóm nấm Ascomycetes trên cơ thể ấu trùng của một vài loài bướm trong chi Thitarodes Viette, 1968 (trước đây phân loại trong chi Hepialus Fabricius, 1775). Phần dược tính của thuốc đã được chứng minh là do các chất chiết xuất từ nấm Ophiocordyceps sinensis. Nó được sử dụng từ lâu trong y học cổ truyền Trung Hoa và y học cổ truyền Tây Tạng.
Tên gọi "đông trùng hạ thảo" (tiếng Tạng: yartsa gunbu hay yatsa gunbu, tiếng Trung: 冬虫夏草, dōng chóng xià cǎo) là xuất phát từ quan sát thực tế khi thấy vào mùa hè nấm Ophiocordyceps sinensis mọc chồi từ đầu con sâu nhô lên khỏi mặt đất. Vào mùa đông thì nhìn cặp cá thể này giống con sâu (côn trùng), còn đến mùa hè thì chúng trông giống một loài thực vật (thảo mộc) hơn.
Hiện nay, do sự săn lùng và hoạt động khai thác quá mức Đông trùng hạ thảo tại Nepal, loại nấm này đang có nguy cơ tuyệt diệt .
Phân loại và tên gọi
Loài này được Miles Berkeley miêu tả khoa học lần đầu tiên năm 1843 như là Sphaeria sinensis. Pier Andrea Saccardo chuyển loài này sang chi Cordyceps vào năm 1878. Từ nguyên của tên khoa học xuất phát từ tiếng Latinh cord "dùi cui, gậy tày", ceps "đầu" và sinensis "từ Trung Quốc". Loài này được biết đến như là Cordyceps sinensis cho tới năm 2007, khi phân tích phát sinh chủng loài phân tử được sử dụng để sửa đổi phân loại của 2 họ Cordycipitaceae và Clavicipitaceae, với kết quả là tạo ra tên gọi cho một họ mới là Ophiocordycipitaceae và việc chuyển một số loài Cordyceps sang chi Ophiocordyceps.
Trong tiếng Tạng nó được biết đến như là (, , "hạ thảo(cỏ), đông trùng (sâu bọ)"), và đây là nguồn gốc của các tên gọi trong tiếng Nepal यार्शागुम्बा, yarshagumba, yarchagumba hay yarsagumba. Chuyển tự sang tiếng Bhutan là Yartsa Guenboob. Nó còn được biết đến như là keera jhar, keeda jadi, keeda ghas hay 'ghaas fafoond trong tiếng Hindi. Tên gọi tiếng Trung Dōng chóng xià cǎo (冬蟲夏草) nghĩa là "đông trùng, hạ thảo" (nghĩa là "sâu mùa đông, [trở thành] cỏ mùa hè"). Tên gọi tiếng Trung là dịch theo nghĩa đen của tên gọi gốc tiếng Tạng, được thầy lang người Tạng là Zurkhar Namnyi Dorje ghi chép lại lần đầu tiên trong thế kỷ XV. Trong ngôn ngữ thông tục tiếng Tạng thì Yartsa gunbu thường được gọi tắt là "bu" hay "yartsa".
Trong y học cổ truyền Trung Hoa, tên gọi của nó thường được viết tắt là chong cao (蟲草 "trùng thảo"), một tên gọi cũng áp dụng cho các loài Cordyceps khác, như C. militaris. Trong tiếng Nhật, nó được gọi là tōchūkasō (冬虫夏草).
Điều ngạc nhiên là đôi khi trong các tài liệu Trung Hoa tiếng Anh thì Cordyceps sinensis được nhắc tới như là aweto [Hill H. Art. XXXVI: The Vegetable Caterpillar (Cordiceps robertsii). Transactions and Proceedings of the Royal Society of New Zealand 1868-1961. Quyển 34, 1901;396-401], và đó là tên gọi trong tiếng Māori để chỉ Cordyceps robertsii, một loài nấm chỉ có ở New Zealand.
Nguồn gốc
Vị thuốc này thực chất là hiện tượng ấu trùng các loài bướm thuộc chi Thitarodes bị nấm thuộc chi Ophiocordyceps và/hoặc Cordyceps ký sinh. Đó là một dạng ký sinh giữa một loài nấm túi có tên khoa học là Ophiocordyceps sinensis(Berk.) G.H.Sung, J.M.Sung, Hywel-Jones & Spatafora (2007), 1878 với sâu non (ấu trùng) của một loài côn trùng thuộc chi Thitarodes. Thường gặp nhất là sâu non của loài Thitarodes baimaensis hoặc Thitarodes armoricanus. Ngoài ra còn 46 loài khác thuộc chi Thitarodes cũng có thể bị Ophiocordyceps sinensis ký sinh. Các loài nấm này phân bố rộng ở châu Á và châu Úc với trung tâm đa dạng là vùng Đông Á, đó là các cao nguyên cao hơn mặt biển từ 4.000 đến 5.000 m như: Tây Tạng, Tứ Xuyên, Thanh Hải, Cam Túc, Vân Nam.
Cơ chế xâm nhiễm của loài nấm này vào cơ thể sâu hiện giờ vẫn chưa rõ. Vào mùa đông, nấm bắt đầu ký sinh vào sâu non và làm chết sâu non vì ăn hết chất dinh dưỡng của chúng. Những con sâu này có thể đã ăn phải bào tử nấm hoặc chúng mắc bệnh nấm ký sinh từ các lỗ thở. Đến khi sợi nấm phát triển mạnh, chúng xâm nhiễm vào các mô vật chủ, sử dụng hoàn toàn các chất dinh dưỡng trong cơ thể sâu. Đến một giai đoạn nhất định thường là vào mùa hè ấm áp, nấm bắt đầu mọc ra khỏi sâu như một ngọn cỏ và vươn lên khỏi mặt đất phát triển thành dạng cây (hình dạng giống thực vật) và phát tán bào tử.
Đông trùng hạ thảo chủ yếu tìm thấy vào mùa hè vùng núi cao trên 4.000m ở cao nguyên Thanh Tạng (Thanh Hải-Tây Tạng) và Tứ Xuyên (Trung Quốc). Tuy nhiên, hiện nay nhiều loài nấm thuộc chi Ophiocordyceps và Cordyceps được nuôi trồng trên quy mô công nghiệp để tinh chế các cơ chất có dược tính.
Mô tả
Hai chi nấm Ophiocordyceps và Cordyceps tương ứng có khoảng 170/570 loài khác nhau, và chỉ riêng ở Trung Quốc đã tìm thấy khoảng 60 loài. Tuy nhiên cho đến nay người ta mới chỉ nghiên cứu nhiều nhất được về hai loài Ophiocordyceps sinensis (Berk.) Sacc. và Cordyceps militaris (L. ex Fr.) Link.. Loài thứ hai được gọi là Nhộng trùng thảo.
Đông trùng hạ thảo khi còn sống, người ta có thể trông rõ hình con sâu, với đuôi là một cành nhỏ, mọc lá. Khi sấy khô, nó có mùi tanh như cá, đốt lên có mùi thơm. Phần "lá" hình dạng giống ngón tay, dài khoảng 4 – 11 cm do sợi nấm mọc dính liền vào đầu sâu non mà thành. Đầu sâu non giống như con tằm, dài chừng 3–5 cm, đường kính khoảng 0,3 - 0,8 cm. Bên ngoài có màu vàng sẫm hoặc nâu vàng với khoảng 20-30 vằn khía, vằn khía ở gần đầu nhỏ hơn. Phần đầu có màu nâu đỏ, đuôi giống như đuôi con tằm, có tất cả tám cặp chân, nhưng 4 đôi ở giữa là rõ nhất. Chất đệm nấm hình que cong mọc ra từ mình sâu non, dài hơn sâu non một chút. Sâu non dễ bẻ gãy, ruột bên trong căng đầy, màu trắng hơi vàng; chất đệm nấm khá dai và bên trong ruột hơi rỗng, có màu trắng ngà.
Thành phần
Các phân tích hoá học cho thấy trong sinh khối của đông trùng hạ thảo có 17 amino acid khác nhau, D-mannitol, lipid, nhiều nguyên tố vi lượng (Al, Si, K, Na v.v..). Quan trọng hơn là trong sinh khối đông trùng hạ thảo có nhiều chất có hoạt tính sinh học mà các nhà khoa học đang phát hiện dần dần ra nhờ các tiến bộ của ngành hoá học các hợp chất tự nhiên. Nhiều hoạt chất này có giá trị dược liệu cao. Trong đó phải kể đến axít cordiceptic, cordycepin, adenosin, hydroxyethyl-adenosin. Đáng chú ý hơn cả là nhóm hoạt chất HEAA (Hydroxy-Etyl-Adenosin- Analogs). Đông trùng hạ thảo còn chứa nhiều loại vitamin (trong 100 g đông trùng hạ thảo có 0,12 g vitamin B12; 29,19 mg vitamin A; 116,03 mg vitamin C, ngoài ra còn có vitamin B2 (riboflavin), vitamin E, vitamin K...)
Công dụng
Theo các ghi chép về đông dược cổ, đông trùng hạ thảo là một vị thuốc bồi bổ hết sức quý giá, có tác dụng tích cực với các bệnh như thận hư, liệt dương, di tinh, đau lưng mỏi gối, ho hen do phế hư hoặc cả phế, thận đều hư, và có tác dụng tốt đối với trẻ em chậm lớn.
Đông trùng hạ thảo là một trong những vị thuốc quý của đông y, được khai thác khó khăn, có khả năng bồi bổ và tăng cường sức khỏe, cải thiện đời sống tình dục, tăng cường khả năng miễn dịch. Mặt khác các nghiên cứu cổ truyền cũng như các thực nghiệm hiện đại đều xác định đông trùng hạ thảo hầu như không có tác dụng phụ đối với cơ thể người và động vật. Liều uống Đông trùng hạ thảo an toàn đối với chuột thí nghiệm là trên 45 g/1 kg thể trọng.
Sử dụng
Tuỳ theo từng bài thuốc mà đông trùng hạ thảo tham gia, người ta có các chế biến nó khác nhau. Phổ biển nhất là hầm lên hoặc ngâm rượu. Cần phải phân biệt loại đông trùng hạ thảo dùng trong đông y và các chất có dược tính được tinh chế từ các chi nấm Cordyceps được nuôi trồng trên quy mô công nghiệp.
Chú thích
Liên kết ngoài
Tiếng Anh
Chinese Cordyceps (Cordyceps sinensis)
Tiếng Việt
Đông trùng hạ thảo tại Việt Nam , Trang thông tin Bộ Y tế (Việt Nam).
GS. VS. TSKH. BS. Đái Duy Ban (Chủ Biên), TS. Lưu Tham Mưu (2009). Đông trùng hạ thảo và nghiên cứu phát hiện loài đông trùng hạ thảo mới ở Việt Nam . NXB Y Học (Việt Nam).
Nấm châu Á
S
S
S
Nấm được mô tả năm 2007
Hypocreales
|
11231
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong%20c%C3%B9i
|
Phong cùi
|
Bệnh phong, lại gọi thêm bệnh ma phong, bệnh hủi, phong cùi, bệnh Hansen, là một thứ bệnh truyền nhiễm mãn tính do vi khuẩn Mycobacterium leprae gây ra, chủ yếu biến hoá bệnh lí ở da thịt và hệ thống thần kinh ngoại biên. Biểu hiện lâm sàng là tổn thương da thịt tính tê liệt, thần kinh sơ sài và to lên, người nghiêm trọng thậm chí tàn phế các đầu thượng chi và hạ chi.
Nguyên nhân phát sinh bệnh tật
Vi khuẩn gây phát bệnh là loài vi khuẩn Mycobacterium leprae (giảng nghĩa: tế khuẩn hình dạng que phân nhánh bệnh ma phong). Khuẩn Mycobacterium leprae sau khi trích xuất và phân li (in vitro), ngay lập tức mất đi lực sinh sôi nẩy nở của nó vào thời điểm mùa hạ ánh sáng Mặt Trời chiếu xạ từ 2 đến 3 giờ đồng hồ, hoặc xử lí một giờ đồng hồ ở nhiệt độ hoặc dùng tia tử ngoại chiếu xạ 2 giờ đồng hồ, có thể mất đi hoạt lực của nó. Thông thường ứng dụng các cách xử lí như nấu sôi, bốc hơi áp suất cao, tia tử ngoại chiếu xạ, v.v liền giết chết chúng ngay.
Bệnh nhân ma phong là túc chủ thiên nhiên của loài vi khuẩn Mycobacterium leprae. Tế khuẩn Mycobacterium leprae phân bố tương đối rộng khắp ở bên trong thân thể bệnh nhân, thấy chủ yếu ở bên trong một ít tế bào nào đó có hệ thống nội bì hình dạng lưới như da thịt (da mặt ngoài và da dính thịt ở mặt trong), màng nhầy, hệ thống thần kinh ngoại biên, hạch bạch huyết, lá lách và gan, v.v Ở da thịt chủ yếu phân bố ở các nơi như đuôi mút thần kinh, đại thực bào, cơ trơn phẳng, khu vực tóc lông, vách mạch máu, v.v Ở màng nhầy là thường hay thấy nhất. Ngoài ra các nơi như tuỷ xương, cao hoàn, tuyến thượng thận, phần não trước mắt, v.v cũng là một phần vị trí mà khuẩn Mycobacterium leprae dễ dàng xâm lấn và tồn tại, trong dịch máu chung quanh và cơ vân ngang cũng có thể phát hiện số lượng ít vi khuẩn Mycobacterium leprae. Vi khuẩn Mycobacterium leprae chủ yếu thông qua da thịt lở loét và màng nhầy mà bài tiết ra ngoài cơ thể, mặt khác ở trong sữa, nước mắt, tinh dịch và chất rỉ ở âm đạo, cũng có vi khuẩn Mycobacterium leprae, nhưng mà lượng vi khuẩn rất ít.
Nguồn gốc truyền nhiễm của bệnh ma phong là bệnh nhân bệnh ma phong chưa trải qua chữa trị, trong đó da thịt và màng nhầy của nhiều người bệnh tật kiểu vi khuẩn có chứa số lượng nhiều vi khuẩn Mycobacterium leprae, là nguồn truyền nhiễm trọng yếu nhất. Phương thức truyền nhiễm chủ yếu là truyền nhiễm do tiếp xúc trực tiếp, sau nó là truyền nhiễm do tiếp xúc gián tiếp.
Truyền nhiễm do tiếp xúc trực tiếp
Thông qua sự tiếp xúc thương tổn da thịt và màng nhầy có chứa vi khuẩn Mycobacterium leprae và da thịt hoặc màng nhầy của người khoẻ mạnh có thương tổn mà gây ra, mức độ mật thiết của tiếp xúc có quan hệ với phát bệnh truyền nhiễm, đây là phương thức chủ yếu mà truyền thống cho biết là bệnh ma phong lan truyền rộng khắp. Trước mắt là bọt bay trong không khí và giọt treo lơ lửng mà người mang vi khuẩn ho và hắt hơi thông qua màng nhầy ở đường hô hấp trên của người khoẻ mạnh mà tiến vào thân thể người, là đường lối chủ yếu mà tế khuẩn Mycobacterium leprae lan truyền rộng khắp.
Truyền nhiễm do tiếp xúc gián tiếp
Loại phương thức này là người khoẻ mạnh và người bệnh ma phong tính truyền nhiễm trải qua môi giới lây truyền nhất định cho nên bị truyền nhiễm. Thí dụ tiếp xúc áo quần, đệm chăn, khăn tay, đồ ăn, v.v mà người bệnh truyền nhiễm dùng qua. Tính khả năng của truyền nhiễm do tiếp xúc gián tiếp là rất ít.
Cần phải chỉ ra rằng, sức đề kháng của cơ thể tin chắc là nhân tố phát sinh tác dụng chủ đạo trong quá trình truyền nhiễm. Sau khi tế khuẩn Mycobacterium leprae tiến vào cơ thể có phải là quá trình và biểu hiện phát bệnh và sau phát bệnh hay không, chủ yếu lấy quyết định ở sức đề kháng của người bị truyền nhiễm, cũng chính là trạng thái miễn dịch của cơ thể. Mấy năm gần đây không ít người cho biết là, bệnh ma phong cũng đồng dạng với rất nhiều bệnh truyền nhiễm khác, có tồn tại truyền nhiễm á lâm sàng, tuyệt đại đa số người tiếp xúc sau khi bị nhiễm đã thiết lập khả năng miễn dịch đặc tính đối với tế khuẩn Mycobacterium leprae, chấm dứt lây nhiễm bằng phương thức truyền nhiễm á lâm sàng.
Trị liệu
Cần chữa bệnh vào thời kì đầu, đúng lúc, đủ lượng, đủ hạn và có quy tắc, có thể khiến cho sự khoẻ mạnh phục hồi khá nhanh, giảm bớt tàn phế dị hình và tái phát xuất hiện. Để cho giảm bớt sản sinh tính kháng thuốc, bây giờ chủ trương liệu pháp hợp nhất nhiều tầng thuốc (MDT), tức là dược phẩm hoá học kháng bệnh ma phong kết hợp trị liệu.
1) Dược phẩm hoá học
Dapsone (DDS) là dược phẩm hoá học chọn lựa đầu tiên. Tác dụng phụ có thiếu máu, viêm da do thuốc, giảm thiểu tế bào hạt và làm cản trở chức năng gan và thận, v.v Mấy năm gần đây, bởi vì xuất hiện biến gốc vi khuẩn Mycobacterium leprae chịu đựng thuốc dapsone, phần nhiều chủ trương chọn dùng liệu pháp kết hợp.
Clofazimine (B633) không những khống chế được vi khuẩn Mycobacterium leprae lại còn chống lại bệnh ma phong loại II. Uống lâu dài có thể xuất hiện hoá đỏ da thịt và sạm dần sắc tố.
Rifampicin (RFP) có tác dụng sát diệt mau lẹ đối với vi khuẩn Mycobacterium leprae.
2) Liệu pháp miễn dịch
Liệu pháp miễn dịch đặc biệt đang nghiên cứu vắc-xin sống BCG làm chết thêm vi khuẩn Mycobacterium leprae tiến hành đồng thời với hoá học trị liệu kết hợp. Mặt khác, như nhân tố chuyển di, levamisole, v.v có thể được coi là trị liệu phụ trợ.
3) Trị liệu phản ứng phong
Xem xét chọn dùng các loại thuốc như thalidomide, kích tố corticosteroid, clofazimine, lôi công đằng, đóng kín tĩnh mạch và thuốc kháng histamin.
4) Xứ lí bệnh biến chứng
Người lở loét ung nhọt đáy bàn chân, chú ý tẩy sạch cục bộ, phòng ngừa và ngăn cấm bị nhiễm khuẩn, nghỉ ngơi thích hợp, lúc tuyệt đối phải cần thì phải mở tách nhọt hoặc cấy da. Người dị hình, tăng cường tập luyện, vật lí trị liệu, châm cứu, lúc tuyệt đối phải cần thì làm phẫu thuật chỉnh hình.
Mô tả
Da thịt người mắc bệnh thường phát nhọt, lở loét. Khi nặng hơn vết thương lõm vào da thịt. Lông mày rụng, mắt lộ ra, thanh quản bị lở nên giọng nói khàn. Người bệnh cũng không còn cảm giác nóng, lạnh và đau.
Tình trạng mất cảm giác xuất hiện ở một vài bộ phận trên cơ thể do dây thần kinh bị nhiễm trùng. Sau đó các bắp thịt tiêu đi, gân cốt co làm hai bàn tay co quắp. Ở mức độ nặng móng tay móng chân rụng dần.
Góc độ xã hội và sự lây nhiễm
Trước kia, bệnh phong là bệnh nan y, không thể chữa được nên người ta rất khiếp sợ nó. Trong xã hội, người bị nhiễm bệnh thường chịu thành kiến, chịu sự hắt hủi, xa lánh thậm chí bị ngược đãi (trôi sông, chôn sống, bỏ vào rừng cho thú dữ ǎn thịt).
Thực ra bệnh chỉ lây khi tiếp xúc lâu dài với các thể phong nặng (phong hở) như phong ác tính, phong đang tiến triển, chảy nước mũi nhiều và có tổn thương lở loét ở da, ở bàn tay, bàn chân. Các thể phong nhẹ khác như phong bất định, phong củ ít có khả nǎng lây hơn nhiều.
Cơ chế lây nhiễm của bệnh phong vẫn chưa được hiểu biết thấu đáo, nhưng người ta cho rằng bệnh lây qua các dịch nhầy (nước mũi...) của người bệnh, nhưng đòi hỏi phải có tiếp xúc gần và kéo dài. Tuy nhiên, nếu người bệnh đã bắt đầu điều trị thì khả năng truyền bệnh của họ giảm tới 99%. Đồng thời, khoảng 95% dân số có miễn nhiễm tự nhiên với bệnh này. Theo thông tin mới nhất của Tổ chức Y tế Thế giới, hiện nay ngày càng có sự ủng hộ quan điểm cho rằng bệnh phong có thể lây qua đường hô hấp, đồng thời cũng không thể loại trừ hoàn toàn khả năng lây truyền qua côn trùng.
Tỷ lệ lây giữa vợ chồng chỉ là 2-3%. Bệnh không di truyền và có thể chữa khỏi.
Hiện có nhiều loại thuốc điều trị rất có hiệu quả. Trong đó khi dùng thuốc Rifampicine sau 5 ngày sẽ hạn chế khả năng lây lan của vi khuẩn tới 99,9%.
Tại Việt Nam
Trong quá khứ, rất nhiều người Việt Nam đã bị cướp đi sinh mạng từ căn bệnh này. Trong số đó, có nhà thơ nổi tiếng Hàn Mặc Tử.
Việt Nam có các trại phong ở Quỳnh Lập (Nghệ An), Vǎn Môn, Sóc Sơn (Hà Nội), Phú Bình, Sơn La, Quy Hòa, Bến Sắn, Đắc Nông, Chư Prông, Đức Cơ - thuộc tỉnh Gia Lai (chỗ này thực chất không phải là một trại phong chính thức (được tổ chức qui củ, cụ thể và có kèm theo bệnh viện, trạm xá, nhân viên y tế). Đây là một làng, nằm ở trong rừng, có cư dân là những bệnh nhân phong sống với nhau. Hiện nay có vài tu sĩ Công giáo đang cùng họ chiến đấu với bệnh phong ở đây).
Hiện nay ở Việt Nam, con số bệnh nhân phong cùi tiềm tàng có từ 120.000 đến 150.000, 23.371
đã được chữa lành, 18.000 còn biểu hiện di chứng, tỷ lệ mắc phải 0,1/10.000 (1/100.000 dân), tổng
số làng phong đếm được là 13.
(1): lâu đời nhất cả nước và đông nhất miền bắc Việt Nam.
(2): do linh mục Paul Maheu sáng lập (Ngày 3 tháng 3 năm 1930, một buổi diễn thuyết
được BS Lemoine và cha Maheu tổ chức ở Sài Gòn, do các Giám mục địa phận Saigon
(Dumortier), Quy Nhơn (Tardieu), Gouin (Lào) và Blois (Thẩm Dương) bảo trợ ngõ hầu vận động đóng góp tài chánh cho công trình xây dựng trại phong Quy Hòa cho
hơn 1500 bệnh nhân.
(3): do linh mục (sau là giám mục) Jean Cassaigne (1895-1973), Hội Thừa Sai sáng lập.
(4): do Giáo hội Tin Lành và mạnh thường quân Na Uy sáng lập.
Chú thích
Tham khảo
"A Saigon dans les annees 30, un journal militant:<<La Lutte>> (1933-1937): Daniel Hémery
"Prevention et traitement de la lèpre en Indochine": Exposition coloniale internationale. Paris 1931, par les Drs Gaide, medecin-géneral, inspecteur géneral des Services sanitaires et médicaux en Indochine et Bodet, médecin lieutenant-colonel, adjoint à l'Inspecteur géneral. Éd. IDEO (Imprimeries d'Extreme-Orient), in-8o, 47 pp, Hanoi, 1930 [ở Đông dương vào năm 1900, có từ 12.000 đến 15.000 bệnh nhân phong trên tổng dân số 13 triệu, ước tính riêng ở VN là trên dưới 10.000, chia ra, Bắc kỳ (5000), Trung kỳ (2000), Nam kỳ (5000) ].
"Étude sur la Lèpre dans la péninsule Indochinoise et dans le Yunnan" Edouard Jeanselme Éd G.Carre et C.Naud, 1900 (Năm 1898, Édouard Jeanselme được chính phủ Pháp phái qua Đông Dương, Miến Điện, Indonesia, Xiêm và Trung Quốc để nghiên cứu và khảo sát thổ nhưỡng của bệnh phong cùi trong 18 tháng).
"La Lèpre" Édouard Jeanselme, 700 pages, Paris, 1934.
"La protection de la maternite et de l'enfance dans les colonies: la Lèpre" Chronique documentaire 80 II, Chap.IV, BIU Sante, Drs Grosfilez et Lefevre, 1938 [năm 1938, theo tư liệu này, số bệnh nhân phong cùi ở VN là 8.104, gồm, Bắc kỳ (2.772), Nam kỳ (4.132), nghĩa là, Nam kỳ chiếm xấp xỉ 55%, Bắc kỳ chiếm 35%, Trung kỳ 10%], con số thực tế lẽ ra phải cao hơn nhiều, do chưa tính số bệnh tiềm tàng lẩn trốn tăng vọt từ khi có quyết định xây dựng trại phong, theo chính sách bản xứ của tân Toàn quyền Đông Dương Albert Sarrault (1911-1914) rồi (1916-1919), vì sợ bị đầy ải vào đó và mặc cảm bị phân biệt, kỳ thị).
Chú thích
Tham khảo
Da liễu học
Phong cùi
Bệnh vi khuẩn
Bệnh nhiệt đới
|
11232
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%A9nh%20Long
|
Vĩnh Long
|
Vĩnh Long là một tỉnh nằm ở trung tâm của Đồng bằng sông Cửu Long, phía nam Việt Nam. Tỉnh lỵ là thành phố Vĩnh Long, một trung tâm kinh tế và văn hóa của khu vực.
Ý nghĩa tên gọi
Vĩnh Long viết theo chữ Hán là (永隆). (Vĩnh trong vĩnh viễn, vĩnh hằng, nghĩa là "mãi mãi"; Long trong long trọng, nghĩa là "thịnh vượng, giàu có"). Tên Vĩnh Long thể hiện mong muốn nơi đây luôn được thịnh vượng muôn đời.
Địa lý
Tỉnh Vĩnh Long nằm giữa hai nhánh sông chính của sông Cửu Long là sông Tiền và sông Hậu. Tỉnh lỵ Vĩnh Long cách Thành phố Hồ Chí Minh 100 km về phía Nam theo Quốc lộ 1, cách Cần Thơ 33 km về phía Bắc theo Quốc lộ 1. Tỉnh Vĩnh Long nằm trong tọa độ từ 9°52’40’’ đến 10°19’48’’ độ vĩ bắc và 105041’18’’ đến 106017’03’’ độ kinh đông. Nhìn bao quát, tỉnh Vĩnh Long như một hình thoi nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng châu thổ hạ lưu sông Cửu Long:
Phía đông giáp tỉnh Bến Tre
Phía tây giáp thành phố Cần Thơ
Phía nam giáp tỉnh Trà Vinh, tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Hậu Giang
Phía bắc giáp tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Tiền Giang
Điều kiện tự nhiên
Tỉnh Vĩnh Long có dạng địa hình khá bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 2°, có cao trình khá thấp so với mực nước biển, Với dạng địa hình đồng bằng ngập lụt cửa sông, tiểu địa hình của tỉnh có dạng lòng chảo ở giữa trung tâm tỉnh và cao dần về 2 hướng bờ sông Tiền, sông Hậu, sông Mang Thít và ven các sông rạch lớn. Tỉnh Vĩnh Long nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Lượng mưa bình quân hàng năm từ 1.400 - 1.450 mm kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11, chiếm 85% lượng mưa cả năm, nhiệt độ tương đối cao, ổn định, nhiệt độ trung bình là 27 °C, biên độ nhiệt trung bình năm nhỏ, độ ẩm trung bình 79,8%, số giờ nắng trung bình năm lên tới 2.400 giờ.
Vĩnh Long có cấu trúc địa chất tương đồng với khu vực, chủ yếu là trầm tích biển của kỉ Đệ Tứ trong Đại Tân sinh. Vĩnh Long tuy có diện tích đất phèn lớn, tầng sinh phèn ở rất sâu, tỉ lệ phèn ít, song đất có chất lượng cao, màu mỡ vào bậc nhất so với các tỉnh trong vùng. Đặc biệt tỉnh có hàng vạn ha đất phù sa ngọt ven sông Tiền và sông Hậu (lượng phù sa trung bình là 374 g/m³ nước sông vào mùa lũ), đất tốt, độ phì nhiêu cao, trồng được hai vụ lúa trở lên, cho năng suất cao, sinh khối lớn lại thuận lợi về giao thông kể cả thủy và bộ. Vĩnh Long còn có lượng cát sông và đất sét làm vật liệu xây dựng khá dồi dào. Cát sông với trữ lượng khoảng 100 - 150 triệu m³, được sử dụng chủ yếu cho san lấp và đất sét với trữ lượng khoảng 200 triệu m³, là nguyên liệu sản xuất gạch và làm gốm.
Vĩnh Long là tỉnh đặc biệt nghèo về tài nguyên khoáng sản, cả về số lượng lẫn chất lượng. Tỉnh chỉ có nguồn cát và đất sét làm vật liệu xây dựng, đây là nguồn thu có ưu thế lớn nhất của tỉnh Vĩnh Long so với các tỉnh trong vùng về giao lưu kinh tế và phát triển thương mại - du lịch. Tỉnh Vĩnh Long nằm giữa hai con sông lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long, nên có nguồn nước ngọt quanh năm, đó là tài nguyên vô giá mà thiên nhiên ban tặng. Vĩnh Long có mạng lưới sông ngòi chằng chịt, hình thành hệ thống phân phối nước tự nhiên khá hoàn chỉnh, cùng với lượng mưa trung bình năm lớn đã tạo điều kiện cho sản xuất và sinh hoạt của người dân..
Lịch sử
Năm 1732, vùng đất Vĩnh Long thời ấy được Nguyễn Phúc Chú thành lập, với tên gọi đầu tiên của tỉnh là Châu Định Viễn, thuộc dinh Long Hồ. Năm 1779, đổi tên thành Hoằng Trấn dinh. Giai đoạn từ năm 1780 đến năm 1805, đổi thành Vĩnh Trấn, từ năm 1806 đến năm 1832, Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Từ năm 1832 đến năm 1950, tên gọi Vĩnh Long được hình thành với vai trò là một tỉnh. Giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1954, Vĩnh Long được đổi thành tỉnh Vĩnh Trà. Từ năm 1954 đến 1975, tỉnh Vĩnh Long được tái lập lần thứ 2. Từ năm năm 1976 đến tháng 5 năm 1992, mang tên là tỉnh Cửu Long, Cuối cùng là từ ngày 5 tháng 5 năm 1992 tỉnh Vĩnh Long được sử dụng đến ngày hôm nay.
Năm 1698, khi Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, toàn bộ vùng đất mới phương Nam chính thức trở thành một đơn vị hành chính mang tên phủ Gia Định.
Năm 1714, đời chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu), lúc này Vĩnh Long là trung tâm của châu Định Viễn, bao gồm một phần của Bến Tre ở mạn trên và Trà Vinh ở mạn dưới thuộc Long Hồ Dinh.
Năm 1732, dưới thời Nguyễn Phúc Chú đã lập ở phía nam dinh Phiên Trấn đơn vị hành chính mới là Dinh Long Hồ, Châu Định Viễn, đất Vĩnh Long thuộc Dinh Long Hồ.
Đến năm Đinh Sửu (1757) thì chuyển đến xứ Tầm Bào (thuộc địa phận thôn Long Hồ, nay là Thành phố Vĩnh Long). Thành Long Hồ được xây dựng tại xứ Tầm Bào là thủ phủ của một vùng rộng lớn. Nhờ đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc, việc buôn bán thông thương phát đạt, địa thế trung tâm…, dinh Long Hồ trở thành một trung tâm quan trọng thời bấy giờ. Để bảo đảm an ninh quốc gia, Chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây nhiều đồn binh như: Vũng Liêm, Trà Ôn,...
Đến giữa thế kỷ XVIII, dinh Long Hồ là thủ phủ của vùng đất phía nam và là đại bản doanh của quân đội chúa Nguyễn có nhiệm vụ phòng thủ, ổn định và bảo vệ đất nước. Sử cũ còn ghi:
Nơi đây, trong khoảng 10 năm (1776–1787), cũng từng là chiến trường diễn ra nhiều cuộc giao chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn với quân (chúa Nguyễn và Nguyễn Ánh), từ trận đầu tiên là trận tập kích Long Hồ của Nguyễn Lữ. Năm 1784, tại sông Mang Thít (Vĩnh Long) nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh thắng trận Rạch Gầm – Xoài Mút (Tiền Giang), làm liên quân Xiêm La do Nguyễn Ánh cầu viện đại bại.
Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Ánh đổi dinh Long Hồ, châu Định Viễn thành dinh Vĩnh Trấn. Năm Mậu Thân (1788), sau khi lấy lại đất Nam Bộ từ tay nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lập 2 đạo Long Xuyên và Kiên Giang của trấn Hà Tiên nhập vào dinh Vĩnh Trấn.
Thời nhà Nguyễn, năm Quý Hợi (1803), Gia Long (Nguyễn Ánh) cắt đất dinh Long Hồ xưa lập thành dinh Hoằng Trấn.
Năm Gia Long thứ 7 (1808), Vĩnh Trấn, Hoằng Trấn được đổi làm trấn Vĩnh Thanh thuộc tổng trấn Gia Định, đồng thời thăng châu Định Viễn làm phủ với 3 huyện: Vĩnh Bình, Vĩnh An và Tân An.
Năm 1810, lại cắt 2 đạo Kiên Giang với Long Xuyên về trấn Hà Tiên như cũ.
Năm 1813, Gia Long lập thêm huyện Vĩnh Định thuộc trấn Vĩnh Thanh. Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là quan Hiệp trấn Vĩnh Thanh, với chức phó là quan Tham Hiệp. Các quan Trấn thủ Vĩnh Thanh gồm: Nguyễn Văn Thoại.
Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Minh Mạng chia huyện Tân An thành 2 huyện Tân An và Bảo An thuộc phủ mới lập tên là Hoằng An.
Năm 1832, Minh Mạng đổi tên trấn Vĩnh Thanh thành Vĩnh Long, lấy thêm 2 huyện Tuân Nghĩa, Trà Vinh của phủ Lạc Hóa thành Gia Định nhập vào Vĩnh Long và đổi trấn thành tỉnh Vĩnh Long (chữ Hán:永隆). Nhưng đồng thời, lại cắt các huyện Vĩnh Định, An Định và đạo Châu Đốc sang tỉnh An Giang. Cùng năm 1832, Minh Mạng cho lập thêm huyện Vĩnh Trị thuộc phủ Định Viễn tỉnh Vĩnh Long. Đặt chức tổng đốc Long-Tường để thống lĩnh 2 tỉnh Vĩnh Long và Định Tường, cùng với các chức Án sát và Bố chính lo các công việc thuộc chức năng của Bộ Hình và Bộ Hộ ở cấp tỉnh, giúp cho Tổng đốc. Quần đảo Côn Lôn (tức Côn Đảo) thuộc tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn.
Năm 1833, tỉnh Vĩnh Long bị quân Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm đóng, nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp, cuối cùng án sát Vĩnh Long là Doãn Uẩn lấy lại được tỉnh thành (thành Long Hồ) từ tay quân của Khôi.
Năm 1837, Minh Mạng lập thêm ở Vĩnh Long 1 phủ Hoằng Trị và 2 huyện (Bảo Hựu, Duy Minh).
Năm Tự Đức thứ 4 (1851), nhà Nguyễn bỏ phủ Hoằng An, gộp các huyện của phủ này vào phủ Hoằng Trị. Thời vua Tự Đức cho đến khi Pháp chiếm Vĩnh Long (1851-1862), tỉnh Vĩnh Long gồm 3 phủ là Hoằng An, Định Viễn, Lạc Hóa, Cùng với 8 huyện là huyện Vĩnh Bình, huyện Vĩnh Trị, huyện Bảo Hựu, huyện Tân Minh, huyện Bảo An, huyện Duy Minh, huyện Tuân Nghĩa, huyện Trà Vinh, đồng thời Quần Đảo Côn Lôn (Côn Đảo) cũng thuộc sự quản hạt của tỉnh Vĩnh Long.
Ngày 6 tháng 8 năm 1867, hạt thanh tra Định Viễn đổi thành hạt thanh tra Vĩnh Long.
Từ ngày 5 tháng 1 năm 1876, hạt thanh tra Vĩnh Long được đổi thành hạt tham biện Vĩnh Long, có 14 tổng.
Ngày 12 tháng 5 năm 1879, giải thể tổng Vĩnh Trung, nhập các làng vào tổng Bình Long. Chánh tham biện lúc này là Luro.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, hạt tham biện Vĩnh Long được đổi thành tỉnh Vĩnh Long, do G. Bertin làm chủ tỉnh đầu tiên.
Ngày 25 tháng 1 năm 1908, địa bàn tỉnh Vĩnh Long được chia thành 5 quận là Long Châu, Chợ Lách, Cái Nhum, Vũng Liêm, Ba Kè. Chủ tinh Vĩnh Long lúc này là G. Caillard (1908 - 1909)
Ngày 9 tháng 2 năm 1913, tỉnh Vĩnh Long nhận thêm địa bàn tỉnh Sa Đéc giải thể.
Ngày 1 tháng 12 năm 1913, lập thêm 2 quận Cao Lãnh, Sa Đéc.
Ngày 1 tháng 4 năm 1916, lập quận Lai Vung.
Ngày 29 tháng 6 năm 1916, đổi tên quận Ba Kè thành quận Chợ Mới.
Ngày 9 tháng 2 năm 1917, địa bàn tỉnh Vĩnh Long được sắp xếp lại, gồm 7 quận gồm có Châu Thành, Chợ Lách, Vũng Liêm, Chợ Mới, Sa Đéc, Cao Lãnh, Lai Vung.
Ngày 7 tháng 11 năm 1917, quận Chợ Mới được đổi thành quận Tam Bình.
Ngày 29 tháng 2 năm 1924, tách 3 quận Sa Đéc, Lai Vung, Cao Lãnh ra khỏi tỉnh Vĩnh Long để lập lại tỉnh Sa Đéc, tỉnh Vĩnh Long lúc này còn 4 quận.
Ngày 11 tháng 8 năm 1942, tỉnh Vĩnh Long còn 3 quận là Châu Thành, Tam Bình, Vũng Liêm.
Trước năm 1948, hai huyện Cầu Kè, Trà Ôn thuộc tỉnh Cần Thơ, từ năm 1948 đến năm 1950, hai huyện này thuộc tỉnh Vĩnh Long. Từ năm 1951 đến năm 1954, thuộc tỉnh Vĩnh Trà (Chính quyền Cách Mạng).
Từ năm 1954 đến năm 1971, Trà Ôn thuộc huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh.
Thời kỳ 1971 đến năm 1975 huyện Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Sang thời Việt Nam Cộng hòa, chính quyền Đệ Nhất Cộng hòa chia tỉnh Vĩnh Long làm 6 quận, 22 tổng, 81 xã (Nghị định số 308-BNV/NC/NĐ của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 8 tháng 10 năm 1957): Các quận là Châu Thành, Chợ Lách, Tam Bình, Bình Minh, Sa Đéc.
Ngày 10 tháng 3 năm 1961, quận Cái Nhum được tái lập và đến ngày 31 tháng 5 năm 1961 thì đổi tên thành quận Minh Đức.
Ngày 11 tháng 7 năm 1962, 2 quận là Đức Tôn, Đức Thành được thành lập.
Ngày 24 tháng 9 năm 1966, 4 quận gồm Lấp Vò, Sa Đéc, Đức Tôn, Đức Thành được tách ra để tái lập tỉnh Sa Đéc.
Ngày 14 tháng 1 năm 1967, tỉnh Vĩnh Long nhận thêm quận Trà Ôn, Vũng Liêm từ tỉnh Vĩnh Bình.
Đến ngày 2 tháng 8 năm 1969, Theo Nghị định số 856-NĐ/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, thì Vĩnh Long có 7 quận, 18 tổng, 65 xã. Các quận là Châu Thành - Vĩnh Long, Chợ Lách, Tam Bình, Bình Minh, Minh Đức, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Đầu năm 1976, Vĩnh Long đã sáp nhập với Trà Vinh thành tỉnh Cửu Long.
Nhưng đến ngày 26 tháng 12 năm 1991 lại tách ra thành hai tỉnh riêng như cũ. Khi tách ra, tỉnh Vĩnh Long, gồm thị xã Vĩnh Long và 5 huyện: Bình Minh, Long Hồ, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Ngày 13 tháng 2 năm 1992, tái lập huyện Mang Thít trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của huyện Long Hồ.
Ngày 31 tháng 7 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 125/2007/NĐ-CP, thành lập huyện Bình Tân trên cơ sở tách 11 xã phía bắc của huyện Bình Minh, huyện lị đặt tại xã Tân Quới.
Ngày 10 tháng 4 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP, về việc thành lập thành phố Vĩnh Long trực thuộc tỉnh Vĩnh Long, trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Vĩnh Long.
Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết 89/NQ-CP thành lập thị xã Bình Minh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Bình Minh.
Tỉnh Vĩnh Long có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Vĩnh Long, thị xã Bình Minh và các huyện: Bình Tân, Long Hồ, Mang Thít, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Hành chính
Tỉnh Vĩnh Long có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện với 107 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 thị trấn, 14 phường và 87 xã.
Kinh tế
Năm 2018, Vĩnh Long là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 41 về số dân, xếp thứ 42 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 35 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 62 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.051.800 người dân, GRDP đạt 47.121 tỉ Đồng (tương ứng với 2,0465 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 44,8 triệu đồng (tương ứng với 1.946 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,17%.
Năm 2011, GRDP tỉnh Vĩnh Long tăng trưởng hơn 10% và cao hơn bình quân cả nước, GDP bình quân đầu người của tỉnh đạt gần 24 triệu đồng. Lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt mức cao nhất từ trước đến nay với gần 390 triệu USD, tăng 50% so kế hoạch năm. Các ngành hàng nông sản tiếp tục khẳng định là thế mạnh chủ lực của tỉnh như: nấm rơm, trứng vịt muối, thủy sản đông lạnh, v.v … Trong đó lúa gạo là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu. Lần đầu tiên sau nhiều năm Vĩnh Long có sản lúa vượt trên 1 triệu tấn. Năng suất lúa bình quân 5,6 tấn/ha, theo định hướng của chính phủ và đưa Vĩnh Long trở thành một trong những tỉnh xuất khẩu gạo lớn của cả nước với sản lượng xuất khẩu đạt gần 438.000 tấn.
Trong năm 2011, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu tiêu dùng xã hội ước thực hiện đạt 21.000 tỷ đồng. Vĩnh Long đã đón 750.000 lượt khách đến tham quan. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt gần 6.500 tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay năm 2011 là 13.350 tỷ đồng, nguồn vốn huy động ước đạt 12.000 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh đạt hơn 1.500 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách ước đạt hơn 2.200 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách ước thực hiện được trên 3.600 tỷ đồng.
Năm 2012, mặc dù gặp nhiều khó khăn như lạm phát tăng cao, thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh xuất hiện nhiều, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 vẫn đạt khá, ước đạt 10,2%. Tỉnh Vĩnh Long thực hiện đạt và vượt 17/23 chỉ tiêu đề ra. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh ước đạt 9.255 tỷ đồng, tăng gần 8% so với năm 2011, GDP bình quân đầu người đạt gần 32 triệu đồng trên năm. Giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn khá lạc quan, với mức tăng trên 15%. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện gần 400 triệu USD. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, cơ cấu nội bộ ngành tiếp tục chuyển dịch đúng hướng và hiệu quả. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản ước đạt 6.552 tỷ đồng, tăng hơn 3% so với năm 2011. Diện tích vườn cây ăn trái của tỉnh hiện có trên 47.000 ha,trong đó hơn 40.000 ha đang cho sản phẩm. Sản lượng thu hoạch cả năm đạt trên 493 ngàn tấn.
Năm 2019, nền kinh tế của tỉnh Vĩnh Long duy trì đà tăng trưởng, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng 6,22%.
Các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 của tỉnh Vĩnh Long cơ bản được hoàn thành, ước có 20/22 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch đề ra, trong đó có 7 chỉ tiêu vượt kế hoạch. Cụ thể, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm ước đạt 6.794 tỷ đồng, đạt 110,1% dự toán và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 14.117 tỷ đồng, đạt 102,29% kế hoạch và tăng 8,46% so với năm 2018.
Cùng với đó, tạo thêm việc làm mới cho 25.242 lao động, đạt 126,21% kế hoạch và tăng 8,82% so với năm 2018; thu nhập bình quân đầu người (theo giá thực tế) đạt 50,65 triệu đồng, tăng 2,55 triệu đồng so với năm 2018 (năm 2018 là 48,1 triệu đồng)...
Xã hội
Y tế
Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2008, tỉnh Vĩnh Long có 116 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 17 bệnh viện, 101 trạm y tế phường xã và 6 phòng khám đa khoa khu vực. Năm 2008, tỉnh có 471 bác sĩ, 500 y tá, 623 y sĩ, 51 dược sĩ cao cấp, 192 dược sĩ trung cấp và 80 dược tá. Các địa phương có trạm y tế đạt chuẩn đặc biệt là tại thành phố Vĩnh Long, thị xã Bình Minh, Vĩnh Long, các huyện Mang Thít và Trà Ôn.
Danh sách các bệnh viện thuộc tỉnh Vĩnh Long:
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Long
Bệnh viện Y Dược Cổ truyền Vĩnh Long
Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Vĩnh Long
Bệnh viện Tâm thần Vĩnh Long
Bệnh viện Đa khoa khu vực kết hợp Quân dân y Tân Thành
Bệnh viện Đa khoa khu vực Hoà Phú
Bệnh viện Triều An - Loan Trâm
Bệnh viện Xuyên Á Vĩnh Long
Bệnh viện Đa khoa Nguyễn Văn Thủ (TTYT huyện Vũng Liêm)
Trung tâm Y tế TP. Vĩnh Long, TX. Bình Minh và các huyện: Bình Tân, Trà Ôn, Mang Thít, Tam Bình, Long Hồ.
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Vĩnh Long có 371 trường học ở cấp phổ thông trong đó có Trung học phổ thông có 31 trường, Trung học cơ sở có 92 trường, Tiểu học có 239 trường, trung học có 9 trường, bến cạnh đó còn có 124 trường mẫu giáo và 3 trường Đại học, 5 trường Cao đẳng và 1 trường văn hóa nghệ thuật. Dưới đây là danh sách các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long:
Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh phân hiệu Vĩnh Long
Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long
Trường Đại học Cửu Long
Trường Đại học Xây dựng Miền Tây
Trường Cao đẳng Cộng đồng Vĩnh Long
Trường Cao đẳng Kinh tế - Tài chính Vĩnh Long
Trường Cao đẳng Sư phạm Vĩnh Long
Trường Cao đẳng Nghề Vĩnh Long
Trường Trung cấp Y tế Vĩnh Long
Trường Chính trị Phạm Hùng
Trường Văn hóa Nghệ thuật Vĩnh Long
Tỷ lệ người lớn biết chữ là 94,6%, cao hơn mức trung bình của khu vực và cả nước. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn tỉnh Vĩnh Long tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.
Dân cư
Theo thống kê năm 2020, tỉnh Vĩnh Long có diện tích 1.525,73 km², dân số năm 2019 là 1.022.619 người, mật độ dân số đạt 670 người/km².
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Vĩnh Long đạt 1.023.069 người (xếp thứ 10 trong tổng số 13 tỉnh thành Đồng bằng sông Cửu Long), mật độ dân số đạt 687 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 169.862 người, chiếm 16,6% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 852.929 người, chiếm 83,4% dân số. Dân số nam đạt 503.878 người, trong khi đó nữ đạt 518.913 người. Nhóm tuổi từ 15 đến 59 tuổi chiếm 69,83% dân số Vĩnh Long, hai nhóm tuổi còn lại là từ 0 đến 14 tuổi và trên 60 tuổi lần lượt chiếm 9,09% và 21,08% dân số toàn tỉnh. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương giảm 0,02‰, tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên là 0,87%. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 là 23,26%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Vĩnh Long có 20 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh có 997.792 người, người Khmer có 21.820 người, người Hoa có 4.987 người, còn lại là những dân tộc khác như Tày, Thái, Chăm, Mường...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Toàn tỉnh Vĩnh Long có 11 tôn giáo khác nhau chiếm 262.280 người, nhiều nhất là Phật giáo có 77.660 người, Phật giáo Hòa Hảo có 66.269 người, Công giáo có 66.220 người, đạo Cao Đài có 46.226 người, các tôn giáo khác như Tin Lành có 3.641 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 1.842 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 327 người, Hồi giáo 56 người, Minh Sư Đạo có 22 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 16 người, còn lại là đạo Bà-la-môn chỉ có một người.
Văn hóa
Do địa thế và lịch sử hình thành, từ ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa cùng sinh sống lâu đời ở đây đã hòa quyện và tạo nên một nền văn hóa đặc trưng cho vùng đất này. Vĩnh Long có khá nhiều loại hình văn học dân gian như: nói thơ Vân Tiên, nói tuồng, nói vè, hát Huê Tình, cải lương... Vĩnh Long cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa như: thành Long Hồ, Công Thần Miếu Vĩnh Long, đình Tân Giai, đình Tân Hoa, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long, Khu tưởng niệm cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng.
Truyền thông
Là đài phát thanh và truyền hình trực thuộc Tỉnh ủy, Sở thông tin truyền thông & Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Tên viết tắt của đài là THVL và có trong biểu trưng của đài. Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long được rất nhiều khán giả tại Nam Bộ yêu thích với các chương trình giải trí và phim truyện hấp dẫn. Nhạc hiệu của đài là bài hát "Nam Bộ kháng chiến", được sử dụng tới năm 2012.
Giao thông
Vĩnh Long có Quốc lộ 1, đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông đi ngang qua, cùng với các quốc lộ khác như Quốc lộ 53, Quốc lộ 54, Quốc lộ 57, Quốc lộ 80 và đường cao tốc Hồng Ngự – Trà Vinh. Các tuyến đường tỉnh: 901, 902, 903, 904, 905, 906, 907, 908, 909 và 910.
Các tuyến giao thông đường thủy của tỉnh cũng khá thuận lợi, các tuyến giao thông này nối liền tỉnh Vĩnh Long với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, tạo cho Vĩnh Long một vị thế rất quan trọng trong chiến lược phát triển và hợp tác kinh tế với cả vùng.
Danh nhân
Vùng đất Vĩnh Long đã sản sinh ra nhiều chính khách và lãnh đạo của nhiều chế độ khác nhau trong lịch sử, ví dụ như:
Võ Văn Kiệt (1922-2008): quê ở huyện Vũng Liêm, Nguyên Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 1991 đến 1997, ông được đánh giá là người đẩy mạnh công cuộc Đổi mới ở Việt Nam
Võ Văn Thưởng (1970): Quê ở huyện Mang Thít, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Phạm Hùng (1912-1988): quê ở huyện Long Hồ, Nguyên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 1987 đến 1988, và là nguyên Bí thứ Trung ương Cục miền Nam từ 1967 đến 1975
Phan Văn Đáng (1918-1997): quê ở huyện Tam Bình, là cựu Phó Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam từ 1976 đến 1981
Cao Văn Bổn (?-1971): quê ở huyện Tam Bình, nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế - Tài chính của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam từ 1969 đến 1971
Phùng Văn Cung (1909-1987): quê ở thành phố Vĩnh Long, nguyên Phó Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (tương đương Phó Thủ tướng) kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam từ 1969 đến 1976
Trần Đại Nghĩa (1913-1997): quê ở huyện Tam Bình, là giáo sư, kỹ sư quân sự và Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam
Nguyễn Văn Lộc (1922-1992): quê ở thành phố Vĩnh Long, là cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa từ 1967 đến 1968
Trần Văn Hương (1903-1982): quê ở thành phố Vĩnh Long, là cựu Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa từ 1964 đến 1965 và từ 1968 đến 1969, đồng thời cũng là cựu Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa từ 1971 đến 1975, rồi là cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa trong 7 ngày vào năm 1975
Trần Văn Hữu (1895-1985): quê ở huyện Long Hồ, là cựu Thủ tướng Quốc gia Việt Nam kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Quốc gia Việt Nam từ 1950 đến 1952
Phan Khắc Sửu (1905-1970): quê ở thị xã Bình Minh, là cựu Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa từ 1964 đến 1965
Lê Thanh Bạch (1959-): quê ở huyện Long Hồ, là một nghệ sĩ hài, biên đạo múa, người dẫn chương trình, giám khảo người Việt Nam
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang chủ Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long
Trang chủ Đài Truyền hình Vĩnh Long
Trang chủ Báo Vĩnh Long
Nam Kỳ lục tỉnh
Đồng bằng sông Cửu Long
|
11240
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/ISO%203166-2
|
ISO 3166-2
|
ISO 3166-2 là phần thứ hai của tiêu chuẩn ISO 3166. Nó là hệ thống mã địa lý được tạo ra để mã hóa các tên gọi của các đơn vị hành chính thuộc các quốc gia (Đơn vị hành chính quốc gia) và các vùng lãnh thổ độc lập. Mục đích chính của tiêu chuẩn này là thiết lập cách viết tắt có phạm vi toàn thế giới cho các địa điểm để sử dụng trên các tem mác đóng gói, công ten nơ, và ở những chỗ mà cách viết tắt có thể chỉ ra rõ ràng hơn vị trí của khu vực một cách thuận tiện hơn và ít nhầm lẫn hơn so với khi viết tên gọi đầy đủ của khu vực đó. Có khoảng 3.700 mã khác nhau.
Định dạng
Các mã của ISO 3166-2 bao gồm hai phần, cách nhau bằng dấu gạnh nối. Phần đầu của nó là thành phần mã của ISO 3166-1 alpha-2, phần thứ hai là số hay chữ cái và có một, hai hoặc ba ký tự. Phần thứ hai thông thường dựa trên các tiêu chuẩn quốc gia.
Thay đổi/Ấn hành
Các thay đổi đã được thông báo trong sáu bản tin
ISO 3166-2:2000-06-21
ISO 3166-2:2002-05-21
ISO 3166-2:2002-08-20
ISO 3166-2:2002-12-10
ISO 3166-2:2003-09-05
ISO 3166-2:2004-03-08
Các danh sách mã hóa/giải mã
Để tìm mã ISO 3166-2 cho mỗi quốc gia, xem ISO 3166-1, là danh sách các quốc gia. Nếu đã biết mã quốc gia bao gồm hai chữ cái (tương tự như mã vùng internet của quốc gia) thì có thể sử dụng bảng ma trận định dạng dưới đây.
Cả hai cách đều dẫn tới các mục tương tự như ISO 3166-2:XX, trong đó XX là mã ISO 3166-1, ví dụ ISO 3166-2:AU dẫn tới danh sách mã cho Úc (Australia).
Ma trận định dạng với liên kết tới các mã
Một số mã được phát triển bởi ISO 3166/MA, chúng là thuộc bản quyền. Một số khác đã được một số quốc gia sử dụng.
Các chủ đề liên quan
Đơn vị hành chính quốc gia
Danh sách các đơn vị hành chính quốc gia
Danh sách các thủ phủ các đơn vị hành chính quốc gia
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bằng tiếng Anh:
Track changes , sorted by country
http://www.iso.org/iso/en/prods-services/iso3166ma/04background-on-iso-3166/iso3166-2.html
http://www.unece.org/cefact/locode/service/sublocat.htm
This says that it has permission to reproduce all codes. Some codes and names are outdated.
Uses ISO codes internally in the free geolocation database download
http://www.mindspring.com/~mjfriedman/countrysubentity.txt
ISO-3166
ISO 3166-2
ISO 3166
|
11242
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/ISO%203166-2%3AVN
|
ISO 3166-2:VN
|
ISO 3166-2:VN là tiêu chuẩn ISO để xác định mã địa lý: nó là một tập hợp con của ISO 3166-2 được áp dụng cho Việt Nam.
Bản tin
ISO 3166-2:2000-06-21
ISO 3166-2:2002-05-21
ISO 3166-2:2005-09-13
Mã
Các mã còn được tiếp tục bổ sung
Xem thêm
ISO 3166-2, bảng tham chiếu cho mã quốc gia và khu vực.
ISO 3166-1, bảng tham chiếu mã quốc gia, được sử dụng làm tên miền trên Internet.
Các tỉnh Việt Nam
Tham khảo
Địa lý Việt Nam
2:VN
Tiêu chuẩn Việt Nam
Tỉnh thành Việt Nam
|
11244
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%ABa%20Thi%C3%AAn%20Hu%E1%BA%BF
|
Thừa Thiên Huế
|
Thừa Thiên Huế (còn được viết là Thừa Thiên – Huế, trước năm 1975 được gọi là tỉnh Thừa Thiên) là một tỉnh ven biển nằm ở cực nam của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam.
Năm 2018, Thừa Thiên Huế là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 36 về số dân, xếp thứ 39 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 42 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 52 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.163.500 người dân, GRDP đạt 47.428 tỉ Đồng (tương ứng với 2,0600 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 40,76 triệu đồng (tương ứng với 1.770 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,08%.
Diện tích của tỉnh là 4.902,42 km², dân số tính đến năm 2020 là 1.133.700 người. Thành phố Huế từng là kinh đô Phú Xuân thời kỳ cận đại của Việt Nam từ năm 1802 đến năm 1945 dưới triều Nguyễn.
Địa lý
Vị trí địa lý
Tỉnh Thừa Thiên Huế nằm ở dải đất ven biển miền Trung Việt Nam, thuộc Bắc Trung Bộ, bao gồm phần đất liền và phần lãnh hải thuộc thềm lục địa biển Đông, có tọa độ địa lý ở 16° – 16,8° vĩ độ Bắc và 107,8° – 108,2° kinh độ Đông. Thừa Thiên Huế cách thủ đô Hà Nội 675 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 94 km về phía Nam với ranh giới tự nhiên là dãy núi Bạch Mã. Có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Quảng Trị
Phía đông giáp biển Đông
Phía tây giáp các tỉnh Salavan và Sekong của Lào
Phía nam giáp tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Các điểm cực của tỉnh Thừa Thiên Huế:
Điểm cực Bắc: 16044'30 vĩ Bắc và 107023'48 kinh Đông tại thôn Giáp Tây, xã Điền Hương, huyện Phong Điền.
Điểm cực Nam: 15059'30 vĩ Bắc và 107041'52 kinh Đông tại vùng núi thượng nguồn khe Cha Moong, xã Thượng Nhật, huyện Nam Đông.
Điểm cực Tây: 16022'45 vĩ Bắc và 107000'56 kinh Đông tại bản Paré, xã Hồng Thủy, huyện A Lưới.
Điểm cực Đông: 16013'18 vĩ Bắc và 108012'57 kinh Đông tại bờ phía Đông đảo Sơn Chà, thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc.
Giới hạn, diện tích
Phía Bắc, từ Đông sang Tây, Thừa Thiên Huế có đường ranh giới dài 111,671 km tiếp giáp với các huyện Hải Lăng, Đakrông, tỉnh Quảng Trị.
Từ mặt Nam, tỉnh có ranh giới chung với huyện các huyện Đông Giang và Tây Giang, tỉnh Quảng Nam dài 56,66 km, với huyện Hòa Vang và Quận Liên Chiểu của thành phố Đà Nẵng dài 55,82 km.
Ở phía Tây, ranh giới tỉnh (cũng là biên giới quốc gia) kéo dài từ điểm phía Bắc (ranh giới tỉnh Thừa Thiên Huế với tỉnh Quảng Trị và tỉnh Saravane của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào) đến điểm phía Nam (ranh giới tỉnh Thừa Thiên Huế với tỉnh Quảng Nam và tỉnh Sekong của nước CHDCND Lào) dài 87,97 km.
Phía Đông, tiếp giáp với biển Đông với đường bờ biển dài 120 km (có 21 xã, phường, thị trấn thuộc 4 huyện (Phong Điền, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc) và thành phố Huế giáp biển, bắt đầu từ xã Điền Hương, huyện Phong Điền ở phía Bắc đến thị trấn Lăng Cô, huyện Phú Lộc ở phía Nam).
Phần đất liền, Thừa Thiên Huế có diện tích 503.320,52 ha (theo niên giám thống kê năm 2010), kéo dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, nơi dài nhất 120 km (dọc bờ biển), nơi ngắn nhất 44 km (phần phía Tây); mở rộng chiều ngang theo hướng Đông Bắc – Tây Nam với nơi rộng nhất dọc tuyến cắt từ xã Quảng Công (Quảng Điền), thị trấn Tứ Hạ (Hương Trà) đến xã Sơn Thủy – Ba Lé (A Lưới) 65 km và nơi hẹp nhất là khối đất cực Nam chỉ khoảng 2–3 km.
Vùng nội thủy: rộng 12 hải lý
Vùng đặc quyền kinh tế mở rộng đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trên thềm lục địa biển Đông ở về phía Đông Bắc cách mũi cửa Khém nơi gần nhất khoảng 600 m có đảo Sơn Ca. Tuy diện tích đảo không lớn (khoảng 160 ha), nhưng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng đối với nước ta nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng.
Thừa Thiên Huế nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc – Nam, trục hành lang Đông – Tây nối Thái Lan – Lào – Việt Nam theo đường 9. Thừa Thiên Huế ở vào vị trí trung độ của cả nước, nằm giữa thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm lớn của hai vùng kinh tế phát triển nhất nước ta. Thừa Thiên Huế cách Hà Nội 660 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.080 km.
Bờ biển của tỉnh dài 120 km, có cảng Thuận An và cảng nước sâu Chân Mây với độ sâu 18 – 20 m đủ điều kiện để đón các tàu trọng tải lớn, có Sân bay quốc tế Phú Bài nằm trên đường Quốc lộ 1 và đường sắt xuyên Việt chạy dọc theo tỉnh.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Khu vực phía tây của tỉnh nằm trên dãy núi Trường Sơn. Những ngọn núi đáng kể là: núi Động Ngai cao 1.774 m, Động Truồi cao 1.154 m, Co A Nong cao 1.228 m, Bol Droui cao 1.438 m, Tro Linh cao 1.207 m, Hói cao 1.166 m (nằm giữa ranh giới tỉnh Quảng Nam), Cóc Bai cao 787 m, Bạch Mã cao 1.444 m, Mang cao 1.708 m, Động Chúc Mao 514 m, Động A Tây 919 m.
Sông ngòi thường ngắn nhưng lại lớn về phía hạ lưu. Những sông chính là Ô Lâu, Rào Trăng, Rào Lau, Rào Mai, Tả Trạch, Hữu Trạch, An Cựu, An Nong, Nước Ngọt, Lăng Cô, Bồ, Rau Bình Điền, Đá Bạc, Vân Xá, Sông Truồi,... Đặc biệt có Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai rộng lớn nhất Đông Nam Á. Và hai cửa biển quan trọng là cửa Thuận An và cửa Tư Hiền.
Khí hậu
Khí hậu Thừa Thiên Huế gần giống như Quảng Trị với kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Những tháng đầu năm có nắng ấm. Thỉnh thoảng lụt vào tháng 5. Các tháng 6, 7 và 8 có gió mạnh. Mưa lũ và có gió đông vào tháng 9 và 10. Tháng 11 thường có lụt. Cuối năm mưa kéo dài. Nhưng hiện nay do chịu tác động của biến đổi khí hậu nên từ tháng 3 đến tháng 8 nắng nóng lên đến đỉnh điểm. Các tháng 9, 10, 11 thường xuyên có bão. Từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau là giai đoạn gió mùa đông bắc kéo về gây mưa to kèm theo đó lũ trên các sông tăng nhanh. Khí hậu có 2 mùa chính:
Mùa nóng: từ tháng 5 đến tháng 9, nắng nóng lên đến đỉnh điểm với nhiệt độ khá cao từ 35 đến 40 °C (95 đến 104 °F), chịu ảnh hưởng gió phơn tây nam
Mùa lạnh: kéo dài từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chịu ảnh hưởng gió mùa đông bắc nên mưa nhiều, trong khoảng thời gian này sẽ xuất hiện lũ lụt vào khoảng tháng 10 trở đi. Nhiệt độ trung bình về mùa lạnh ở vùng đồng bằng là 20 °C - 22 °C
Chế độ mưa ở Thừa Thiên Huế lớn, trung bình trên 2700 mm, tập trung từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, có nơi trên 4000 mm, chiếm 70% tổng lượng mưa trong năm, riêng tháng 11 chiếm 30% lượng mưa cả năm. Mùa mưa ở Huế lệch với hai miền Nam – bắc, khi 2 miền này mưa thì Huế nắng nóng và ngược lại. Đặc điểm mưa ở Huế là mưa không đều, lượng mưa tăng dần từ Đông sang Tây, từ Bắc vào Nam và tập trung vào một số tháng với cường độ mưa lớn do đó dễ gây lũ lụt, xói lở. Độ ẩm trung bình 85%-86%.
Hành chính
Tỉnh Thừa Thiên Huế có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã, 6 huyện với 141 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 95 xã, 39 phường, 7 thị trấn.
Lịch sử
Vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân
Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế là vùng đất có lịch sử lâu đời. Những phát hiện khảo cổ học gần đây cho thấy rõ dấu vết của người xưa trên mảnh đất này. Những di vật như rìu đá, đồ gốm được tìm thấy ở Phụ Ổ, Bàu Đưng (Hương Văn, Hương Trà) cho phép khẳng định đây là các di tích có niên đại cách đây trên dưới 4.000 năm. Những chiếc rìu đá được phát hiện trên nhiều địa bàn khác nhau, đặc biệt tại các xã Hồng Bắc, Hồng Vân, Hồng Hạ, Hồng Thủy, Bắc Sơn (A Lưới); Phong Thu (Phong Điền) đã chứng minh sự có mặt của con người ở vùng đất này trên dưới 5.000 năm. Di tích khảo cổ quan trọng gắn liền với nền văn hóa Sa Huỳnh được tìm thấy lần đầu tiên tại Thừa Thiên Huế năm 1987 là di tích Cồn Ràng (Phụ Ổ, Hương Chữ, Hương Trà) nói lên rằng chủ nhân của nền văn hóa này đã đạt đến trình độ cao trong đời sống vật chất lẫn tinh thần cách đây trên dưới 2.500 năm. Dấu ấn này còn được tìm thấy ở Cửa Thiềng năm 1988 (Phú Ốc, Tứ Hạ, Hương Trà). Cùng với văn hóa Sa Huỳnh, tại Thừa Thiên Huế còn có sự hiện diện của văn hóa Đông Sơn. Năm 1994, trống đồng loại một đã được phát hiện ở Phong Mỹ, Phong Điền. Đây là một trong những di vật độc đáo của nền văn hóa Việt cổ.
Các cứ liệu xưa cho biết, từ xa xưa, Thừa Thiên Huế từng là địa bàn giao tiếp của những cộng đồng cư dân mang nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, cùng cư trú và cùng phát triển... Trong thời kỳ phát triển của Văn Lang – Âu Lạc, tương truyền Thừa Thiên Huế vốn là một vùng đất của bộ Việt Thường. Trong thời kỳ nước Nam Việt lại thuộc về Tượng Quận. Năm 116 TCN, quận Nhật Nam ra đời thay thế cho Tượng Quận. Thời kỳ Bắc thuộc, trong suốt thời gian dài gần 12 thế kỷ, vùng đất này là địa đầu phía Bắc của Vương quốc Chămpa độc lập. Sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử của Ngô Quyền (năm 938), Đại Việt trở thành quốc gia độc lập và qua nhiều thế kỷ phát triển, biên giới Đại Việt đã mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, công chúa Huyền Trân, em gái vua Trần Anh Tông, "nước non ngàn dặm ra đi" làm dâu vương quốc Chămpa, vua Chế Mân dâng hai châu Ô, Rí (Lý) để làm sính lễ. Năm sau, vua Trần đổi hai châu này thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thừa Thiên Huế trở thành địa bàn giao thoa giữa hai nền văn hóa lớn của phương Đông với nền văn hóa của các cư dân bản địa.
Từ khi trở thành một phần của Đại Việt, Châu Hóa và vùng đất Thuận Hóa đã từng là nơi ghi dấu những công cuộc khai phá mở làng, lập ấp, nơi Đặng Tất xây dựng đồn lũy chống quân Minh, nơi cung cấp "kho tinh binh" cho Lê Thái Tổ bình định giang sơn. Với lời sấm truyền "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dải Hoành sơn, có thể yên thân muôn đời); năm 1558, Nguyễn Hoàng xin vào trấn giữ xứ Thuận Hoá mở đầu cho cơ nghiệp của các chúa Nguyễn. Sự nghiệp mở mang của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã gắn liền với quá trình phát triển của vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân. Hơn 3 thế kỷ từ khi trở về với Đại Việt, Thuận Hóa là vùng đất của trận mạc, ít có thời gian hòa bình nên chưa có điều kiện hình thành được những trung tâm sinh hoạt sầm uất theo kiểu đô thị. Sự ra đời của thành Hóa Châu (khoảng cuối TK XV, đầu TK XVI) có lẽ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn với tư cách là một tòa thành phòng thủ chứ chưa phải là nơi sinh hoạt đô thị của xứ Thuận Hóa thời ấy. Mãi cho đến năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Huế sau này.
Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi là Phú Xuân, ở vị trí Tây Nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712–1738) phủ chúa dời ra Bác Vọng, song khi Võ Vương lên ngôi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân nhưng dựng ở "bên tả phủ cũ", tức góc Đông Nam của Kinh thành Huế hiện nay. Sự nguy nga bề thế của Đô thành Phú Xuân dưới thời Nguyễn Phúc Khoát đã được Lê Quý Đôn mô tả trong Phủ biên tạp lục năm 1776 và trong Đại Nam nhất thống chí, với tư cách là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ Sông Hương, từ Kim Long – Dương Xuân đến Bao Vinh – Thanh Hà. Phú Xuân là thủ phủ của xứ Đàng Trong (1687–1774); rồi trở thành Kinh đô của nước Đại Việt thống nhất dưới triều đại Quang Trung (1788–1801) và cuối cùng là Kinh đô của nước Việt Nam gần hai thế kỷ dưới triều đại nhà Nguyễn (1802–1945). Phú Xuân đã trở thành trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa quan trọng của đất nước từ những thời kỳ đó.
Lịch sử hành chính
Năm Tân Dậu 1801, Nguyễn Ánh lấy lại được Phú Xuân từ nhà Tây Sơn, ông cho tách ba huyện Hương Trà, Quảng Điền và Phú Vang thuộc phủ Triệu Phong đặt làm dinh Quảng Đức. Năm Gia Long thứ năm (1806), Quảng Đức và Quảng Trị được đặt làm dinh trực lệ. Đến năm 1822, vua Minh Mạng đổi dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên, địa danh Thừa Thiên có từ đây. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), tách một số tổng của ba huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền để lập thêm ba huyện Hương Thủy, Phú Lộc và Phong Điền.
Năm Tự Đức thứ 6 (1853), tỉnh Quảng Trị hạ xuống thành đạo Quảng Trị thuộc phủ Thừa Thiên. Tuy nhiên đến năm 1876, tỉnh Quảng Trị lại được tái lập.
Ngày 20 tháng 10 năm 1898, vua Thành Thái ban hành dụ thành lập thị xã Huế. Ngày 30 tháng 8 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ này.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ Thừa Thiên đổi thành tỉnh Thừa Thiên (còn có bí danh là tỉnh Nguyễn Tri Phương), gồm thị xã Thuận Hóa (Huế) và 6 huyện: Hương Thủy, Hương Trà, Phong Điền, Phú Lộc, Phú Vang, Quảng Điền. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Thừa Thiên ban đầu gồm 9 quận: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc, Vinh Lộc, Nam Hòa và 3 tổng: Nguồn Hữu, Nguồn Tả, Nguồn Bồ. Đến năm 1965 thành lập thêm quận Phú Thứ trên cơ sở 7 xã phía nam của quận Phú Vang. Thị xã Huế lúc này là đơn vị hành chính độc lập và ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên, tuy nhiên tỉnh lỵ Thừa Thiên vẫn đặt tại Huế.
Sau năm 1975, tỉnh Thừa Thiên hợp nhất với hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và khu vực Vĩnh Linh thành tỉnh Bình Trị Thiên, với tỉnh lỵ là thành phố Huế.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ban hành nghị quyết chia tách lại tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh như cũ: Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Tỉnh Thừa Thiên Huế hiện tại chính là tỉnh Thừa Thiên trước đây
Tỉnh Thừa Thiên Huế có 5 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thành phố Huế (tỉnh lỵ) và 4 huyện: A Lưới, Hương Điền, Hương Phú, Phú Lộc.
Ngày 29 tháng 9 năm 1990, điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Huế; chia huyện Hương Phú thành hai huyện Hương Thủy và Phú Vang; chia huyện Hương Điền thành ba huyện Hương Trà, Phong Điền và Quảng Điền; chia huyện Phú Lộc thành hai huyện Phú Lộc và Nam Đông.
Ngày 24 tháng 9 năm 1992, thành phố Huế được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng công nhận là đô thị loại II và đến ngày 24 tháng 8 năm 2005 được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Ngày 9 tháng 2 năm 2010, thành lập thị xã Hương Thủy trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Thủy. Ngày 15 tháng 11 năm 2011, thành lập thị xã Hương Trà trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Trà.
Tỉnh Thừa Thiên Huế có 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện như hiện nay.
Dân cư
Theo kết quả điều tra dân số toàn quốc, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019 toàn tỉnh có 1.128.620 người. Trên địa bàn tỉnh có 10 tôn giáo khác nhau đạt 746.935 người, nhiều nhất là Phật giáo có 680.290 người, tiếp theo là Công Giáo có 65.997 người, đạo Tin Lành có 392 người, đạo Cao Đài có 220 người. Còn lại các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 18 người, Hồi giáo, Minh Sư đạo mỗi tôn giáo có sáu người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam, Baha'i giáo và Bà La Môn mỗi tôn giáo có hai người. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 56%.
Văn hoá
Thừa Thiên Huế là trung tâm văn hoá lớn và đặc sắc của Việt Nam. Thừa Thiên Huế có 5 danh hiệu UNESCO (1 di sản văn hoá thế giới, 1 di sản văn hóa phi vật thể, 3 di sản tư liệu thế giới) là:
Quần thể di tích Cố đô Huế.
Nhã nhạc cung đình Huế.
Mộc bản triều Nguyễn.
Châu bản triều Nguyễn.
Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế.
Hiện nay, tỉnh đang xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc và bản sắc văn hoá Huế gắn với bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, là khâu đột phá để phát triển du lịch. Nghiên cứu, từng bước hoàn thiện bản sắc văn hoá Huế, đặc trưng văn hoá Huế để xây dựng Huế trở thành trung tâm văn hoá đặc sắc của Việt Nam; xem đây là lợi thế so sánh lâu dài để phát triển Huế, làm cho Huế ngày càng đặc sắc, thúc đẩy các ngành du lịch, dịch vụ phát triển. Trong đó quy hoạch, xây dựng hệ thống công viên, tượng, các công trình văn hoá, trọng tâm là: Trung tâm hội nghị, Bảo tàng Lịch sử Cách mạng, Bảo tàng thiên nhiên các tỉnh Duyên hải miền Trung, Trung tâm Điện ảnh, Địa đạo Khu ủy Trị Thiên. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tập trung đầu tư hoàn thành cơ bản trùng tu Đại Nội và một số di tích quan trọng để xứng đáng là trung tâm du lịch đặc sắc của Việt Nam. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của các kỳ Festival Huế, các hoạt động đối ngoại để tăng cường quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam, văn hoá Huế, nhất là Nhã nhạc cung đình Huế, quần thể di tích Cố đô Huế, Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, vịnh đẹp Lăng Cô.
Giao thông
Đường bộ
Toàn tỉnh có hơn 2.500 km đường bộ, Quốc lộ 1 và đường cao tốc Bắc - Nam chạy xuyên qua tỉnh từ Bắc xuống Nam cùng với các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ chạy song song và cắt ngang như quốc lộ 49 (tuyến đường huyết mạch nối từ cảng Thuận An qua thành phố Huế lên huyện miền núi A Lưới, quốc lộ 49B (kết nối các xã, phường ven biển), tỉnh lộ 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8A, 8B, 10A, 10B, 10C, 11A, 11B, 15, 18 và các tỉnh lộ khác.
Đường biển và đường thủy
Tổng chiều dài 563 km sông, đầm phá. Tỉnh có cảng biển là cảng nước sâu Chân Mây và cảng Thuận An. Cảng Thuận An nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 13 km về phía đông bắc. Trong nhiều năm tỉnh đã tập trung đầu tư cho cảng Thuận An 5 cầu tầu dài 150m, có khả năng tiếp nhận tầu 1.000 tấn, được nhà nước công nhận là cảng biển quốc gia. Cảng nước sâu Chân Mây cách thành phố Huế 49 km về phía Nam đang được triển khai xây dựng một số hạng mục hạ tầng kỹ thuật đầu tiên nhằm khai thác lợi thế trục giao thông Bắc – Nam và tuyến hành lang Đông – Tây, tạo động lực phát triển kinh tế những năm sau.
Đường hàng không
Thừa Thiên Huế có Sân bay Quốc tế Phú Bài nằm trên Quốc lộ 1, cách phía Nam thành phố Huế khoảng 15 km. Những năm qua, bộ mặt và cơ sở hạ tầng của sân bay Phú Bài đã có những thay đổi đáng kể; đảm bảo cho máy bay Airbus A320, Boeing 747 cất hạ cánh an toàn.
Đường sắt
Tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua tỉnh Thừa Thiên Huế dài 101,2 km đóng một vai trò quan trọng trong giao thông của tỉnh.
Kinh tế
Thừa Thiên Huế là một cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền trung. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp (năm 2008, tỷ trọng ngành Công nghiệp – Xây dựng chiếm 36,5%, ngành dịch vụ 45,3%, ngành nông nghiệp giảm còn 18,2%). Thu ngân sách tăng bình quân đạt 18,3%/năm. Tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt trên 12%, xếp thứ 20/63 tỉnh, thành cả Việt Nam. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nằm trong nhóm 20 tỉnh, thành dẫn đầu toàn quốc. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh từ vị thứ 15 (năm 2007) đã vươn lên đứng thứ 10 toàn quốc trong năm 2008. Quy mô doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh còn nhỏ, và siêu nhỏ. Ngân sách đạt thấp, thu ngân sách chưa bền vững, đến nay chưa cân đối được ngân sách, hằng năm ngân sách nhà nước phải bù vào ngân sách địa phương khoảng 1.500 (tỷ đồng).
Thừa Thiên Huế quan tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá. Thành phố Huế vừa mang dáng dấp hiện đại, vừa mang nét đẹp cổ kính với di sản văn hoá thế giới, đóng vai trò hạt nhân đô thị hoá lan toả và kết nối với các đô thị vệ tinh. Môi trường thu hút đầu tư lành mạnh và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có năng lực. Hạ tầng giao thông ngày càng hiện đại, chống được chia cắt vùng miền, tạo ra động lực phát triển giữa nông thôn và thành thị. Năng lực sản xuất mới hình thành và mở ra tương lai gần sẽ có bước tăng trưởng đột phá: phía Bắc có các khu công nghiệp Phong Điền, Tứ Hạ, xi măng Đồng Lâm; phía Nam có khu công nghiệp Phú Bài, Khu Kinh tế – Đô thị Chân Mây – Lăng Cô sôi động; phía Tây đã hình thành mạng lưới công nghiệp thủy điện Tả Trạch, Hương Điền, Bình Điền, A Lưới, xi măng Nam Đông; phía Đông phát triển mạnh khai thác và nuôi trồng thủy sản và Khu kinh tế tổng hợp Tam Giang – Cầu Hai.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2019 ước đạt 7,18% với giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh – GRDP ước đạt gần 31.330,53 tỷ đồng (theo giá so sánh 2010), chưa đạt kế hoạch đề ra. Đây là mức tăng khá so với các tỉnh trong khu vực miền Trung nói chung, cao hơn mức tăng trưởng bình quân của 5 tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước 6,8%/năm.
Khu vực dịch vụ duy trì đà tăng trưởng ổn định, ước đạt 7,39%, đóng góp lớn nhất là khu vực dịch vụ du lịch khoảng 30–40% tổng giá trị tăng thêm của ngành.
Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng trưởng khá, đạt khoảng 11,32%, nhờ đóng góp của các dự án mới và mở rộng công suất của một số nhà máy.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng tình hình thời tiết hạn hán và dịch tả lợn Châu Phi lây lan trên diện rộng, tăng trưởng âm ước đạt – 4,13%. Trong đó, thủy sản ước tăng 4%; ngành lâm nghiệp tăng khoảng 3%; nông nghiệp giảm 10%, trong đó chăn nuôi giảm 42%.
Cơ cấu các khu vực kinh tế: dịch vụ chiếm ưu thế với tỷ trọng 48,40%; công nghiệp – xây dựng 31,81%; nông, lâm, thủy sản 11,38%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,41%.
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) bình quân đầu người đến năm 2019 ước đạt 46,7 triệu đồng, tương đương 2.007 USD, vượt kế hoạch (1.915 USD/người).
Thu ngân sách ước đạt 7.787 tỷ đồng, bằng 108% dự toán, bằng cùng kỳ, trong đó thu nội địa 7.300 tỷ đồng (chiếm 94% tổng thu NS), bằng 110,1% so với dự toán, tăng 7,3%[3]; thu thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 455 tỷ đồng, bằng 82% dự toán, giảm 17%. Chi ngân sách ước đạt 10.044,11 tỷ đồng, bằng 99,2% dự toán, trong đó chi đầu tư phát triển 2.779,6 tỷ đồng, bằng 93% dự toán; Chi sự nghiệp 6.809 tỷ đồng, bằng 105,1% dự toán.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 22.700 tỷ đồng, tăng 15%, đạt kế hoạch. Trong đó, Vốn ngân sách Nhà nước (chiếm 20% tổng vốn), bằng kế hoạch, tăng 29%; Vốn tín dụng (chiếm 44%), đạt 99% kế hoạch, tăng 14%; Vốn đầu tư của doanh nghiệp (chiếm 14%), đạt 103% KH, tăng 11%; Vốn viện trợ (chiếm 5%), bằng 76% kế hoạch, giảm 13%; Vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 5%), đạt 60% kế hoạch, tăng 48%.
Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 950 triệu USD, đạt 90% kế hoạch, tăng 10%.
Y tế
Thừa Thiên Huế là trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung – Tây Nguyên và cả nước với 3 đơn vị đang được nhà nước đầu tư triển khai thực hiện dự án Trung tâm Y tế chuyên sâu khu vực miền Trung – Tây Nguyên và cả nước là: Bệnh viện Trung ương Huế, Trường Đại học Y Dược Huế và Trung tâm Kiểm nghiệm dược phẩm, hóa mỹ phẩm Trung ương.
Các bệnh viện trên địa bàn tỉnh
Bệnh viện Trung ương Huế: Bệnh viện tuyến Trung ương, trực thuộc Bộ Y Tế (hơn 3000 giường): Là bệnh viện hạng đặc biệt duy nhất của khu vực miền Trung và Tây Nguyên
Bệnh viện Quốc tế Huế (200 giường)
Bệnh viện Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế Bệnh viện hạng I tuyến trung ương (gần 700 giường)
Bệnh viện Trung ương Huế cơ sở 2 (huyện Phong Điền) (500 giường)
Bệnh viện Đa Khoa Hoàng Viết Thắng (90 giường).
Bệnh viện Ngoại khoa Nguyễn Văn Thái (30 giường).
Bệnh viện Giao thông Vận tải Huế
Bệnh viện Y học cổ truyền
Bệnh viện Điều Dưỡng và Phục hồi chức năng
Bệnh viện Răng Hàm Mặt Huế
Bệnh viện Mắt Huế
Bệnh viện Tâm thần
Bệnh viện Đa Khoa Chân Mây
Bệnh viện Bình Điền
Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình – Phẫu thuật tạo hình
Bệnh viện Quân y 268
Bệnh viện Hương Trà
Bệnh viện Lao và Bệnh phổi Thừa Thiên Huế
Bệnh viện Phong và Da liễu Huế
Giáo dục và đào tạo
Thừa Thiên Huế từ lâu đã được biết đến là một trung tâm giáo dục đào tạo lớn của khu vực miền trung và cả nước.
Đại học Huế có bề dày lịch sử trên 63 năm, là một trung tâm đào tạo đại học đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao, có quy mô đào tạo khu vực miền Trung – Tây Nguyên. Đại học Huế đang chuẩn bị nâng cấp thành Đại học Quốc gia Huế theo Nghị quyết 54 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam
Phân viện Học viện hành chính quốc gia tại tỉnh Thừa Thiên Huế, Học viện Âm nhạc Huế, Trường Đại học Phú Xuân và hệ thống các trường Đại học tư thục, quốc tế, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên và cả nước. Đây là một lợi thế rất lớn của Thừa Thiên Huế trong việc cung cấp nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao.
Mạng lưới trường học từ mầm non đến trung học phổ thông ở Thừa Thiên Huế rộng khắp trên địa bàn với các loại hình công lập, dân lập, tư thục, quốc tế được phân bố theo điều kiện phù hợp với thành thị, nông thôn, miền núi và gắn với địa bàn dân cư. Trong đó, Trường THPT chuyên Quốc Học đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xây dựng thành một trong ba trường trung học phổ thông trọng điểm chất lượng cao của cả nước.
Mạng lưới giáo dục thường xuyên với các Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm kỹ thuật thực hành hướng nghiệp và Trung tâm học tập cộng đồng (TTHTCĐ) đang hoạt động ở các xã/phường, thị trấn có hiệu quả, góp phần vào thực hiện mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, bồi dưỡng kiến thức, chuyển giao công nghệ và đào tạo nghề cho người lao động, đào tạo tại chức...
Các trường đại học – cao đẳng – trung cấp trên địa bàn:
Các trường, khoa, viện thành viên trực thuộc Đại học Huế
Trường Đại học Sư phạm
Trường Đại học Khoa học
Trường Đại học Y Dược
Trường Đại học Nông Lâm
Trường Đại học Nghệ thuật
Trường Đại học Kinh tế
Trường Đại học Ngoại ngữ
Trường Đại học Luật
Trường Du lịch
Khoa Kỹ thuật và Công nghệ
Khoa Quốc tế
Khoa Giáo dục thể chất
Các trường đại học, cao đẳng, phân hiệu đại học/trường đại học, phân viện độc lập
Học viện Âm nhạc Huế
Trường Đại học Phú Xuân
Phân viện Học viện Hành chính (Việt Nam)
Phân hiệu Trường Đại học Tài chính – Kế toán
Phân hiệu Trường Đại học Văn Hiến
Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế.
Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế (định hướng lên Đại học Công nghiệp thời gian sắp tới)
Trường Cao đẳng Y tế Huế
Trường Cao đẳng Sư phạm Thừa Thiên Huế
Trường Cao đẳng Giao thông Huế
Trường Cao đẳng Du lịch Huế (thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch)
Trường Cao đẳng Âu Lạc Huế.
Trường Cao đẳng Thực hành FPT Huế
Trường Cao đẳng Nghề Thừa Thiên Huế
Trường Cao đẳng nghề số 23 Bộ Quốc phòng Việt Nam
Trường Cao đẳng nghề Nguyễn Tri Phương Huế
Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật.
Trường Trung cấp Công nghệ số 10 (Tổng Liên đoàn Lao động).
Trường Trung cấp Thể dục thể thao Huế.
Các trường THPT
Tính đến ngày 10/8/2022, toàn tỉnh có 35 trường THPT công lập:
Thành phố Huế có 13 trường:
Trường THPT chuyên Quốc Học
Trường THPT chuyên Khoa học (thuộc Đại học Khoa học - Đại học Huế)
Trường THPT Hai Bà Trưng (trường Nữ sinh Đồng Khánh cũ)
Trường THPT Nguyễn Huệ (trường Nữ sinh Thành Nội cũ)
Trường THPT Phan Đăng Lưu (trường cấp 3 Phú Vang cũ)
Trường THPT Nguyễn Trường Tộ
Trường THPT Cao Thắng
Trường THPT Gia Hội
Trường THPT Bùi Thị Xuân
Trường THPT Đặng Trần Côn
Trường THPT Hương Vinh
Trường THPT Thuận An
Trường PT Dân tộc Nội trú tỉnh
Thị xã Hương Trà có 3 trường:
Trường THPT Hương Trà
Trường THPT Đặng Huy Trứ
Trường THPT Bình Điền
Thị xã Hương Thủy có 2 trường:
Trường THPT Hương Thủy
Trường THPT Phú Bài
Huyện Phú Vang có 3 trường:
Trường THPT Nguyễn Sinh Cung
Trường THPT Hà Trung
Trường THPT Vinh Xuân
Huyện Phú Lộc có 4 trường:
Trường THPT Phú Lộc
Trường THPT An Lương Đông
Trường THPT Thừa Lưu
Trường THPT Vinh Lộc
Huyện Nam Đông có 1 trường:
Trường THPT Nam Đông
Huyện A Lưới có 3 trường:
Trường THPT A Lưới
Trường THCS & THPT Trường Sơn
Trường THCS & THPT Hồng Vân
Huyện Phong Điền có 4 trường:
Trường THPT Phong Điền
Trường THPT Nguyễn Đình Chiểu
Trường THPT Trần Văn Kỷ
Trường THPT Tam Giang
Huyện Quảng Điền có 3 trường:
Trường THPT Nguyễn Chí Thanh
Trường THPT Hóa Châu
Trường THPT Tố Hữu
Ngoài ra, còn có:
Trường THPT Thuận Hóa (thuộc Đại học Sư phạm - Đại học Huế)
Trường THPT Tư thục Chi Lăng
Hệ THPT trong các Trung tâm GDNN-GDTX của thành phố Huế, 6 huyện và 2 thị xã.
Thành phố kết nghĩa
Qua các kì festival và nhiều hoạt động hợp tác,ngày càng nhiều thành phố, tỉnh, vùng kết nghĩa với Thừa Thiên Huế như:
Thành phố Québec, Canada
Gyeongju, Hàn Quốc
Nord Pas de Calais, Pháp
Poitou Charentes, Pháp
Chiết Giang, Trung Quốc
Shizuoka, Nhật Bản
Quảng Châu, Trung Quốc
Rennes, Pháp
Blois, Pháp
Moskva,Nga
Người nổi tiếng
Thời Quân chủ
Phần lớn các vua, chúa nhà Nguyễn
Thời hiện đại
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh
Chủ tịch nước, Đại tướng Lê Đức Anh
Nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh
Nhà báo Hải Triều
Nhà thơ Tố Hữu
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
Nhà thơ Thanh Hải
Nhà thơ Tôn Nữ Thu Hồng
Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường
Nhạc sĩ Nguyễn Hải Phong
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
Nhạc sĩ Bảo Chấn – Bảo Phúc
Diễn viên Cát Tường
Ca sĩ Hồ Ngọc Hà
Ca sĩ Long Nhật
Ca sĩ Quang Linh
Ca sĩ Quang Lê
Ca sĩ Bảo Yến
Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng
Giáo sư, bác sĩ Hồ Đắc Di
Giáo sư, bác sĩ Đặng Văn Ngữ
Phó giáo sư Tôn Thất Bách
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tỉnh Thừa Thiên Huế
Đại học Huế
Quy hoạch tổng thể Cảng hàng không quốc tế Phú Bài, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Bắc Trung Bộ
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11246
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%A2n%20Gi%C3%AA-xu%20Gi%C3%A1o%20h%E1%BB%99i
|
Chân Giê-xu Giáo hội
|
Chân Giê-xu Giáo hội hay Hội thánh Chúa Giêsu thật là một giáo hội tự trị Trung Hoa và là một nhánh của Hội thánh Tin Lành Ngũ Tuần của Kitô giáo. Ngụy Bảo La, Trương Linh Sanh và Trương Ba-na-ba thành lập hội thánh này vào năm 1917 tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Đến năm 1996, các tín điều đã lan truyền sang Việt Nam. Hiện nay hội thánh này có khoảng 1,5 triệu tín đồ ở 5 châu lục.
Mười tín điều chính
Chúa Thánh Linh
"Đón nhận Chúa Thánh Linh, biểu hiện bằng cách nói tiếng lạ, là sự bảo đảm cho chúng ta thừa hưởng Nước Trời."
Rửa tội
"Nước rửa tội là bí tích giải trừ tội lỗi để tái sinh. Lễ rửa tội phải được thi hành bằng nước thiên nhiên, như nước sông, nước biển, hoặc mạch nước ngầm.Người làm phép rửa, là người đã lãnh nhận phép rửa trong nước và Thánh Thần, tiến hành phép rửa trong danh của Chúa Giêsu Kitô. Và người nhận lãnh phép rửa phải được dìm ngập trong nước với tư thế cúi đầu úp mặt."
Rửa chân
"Bí tích rửa chân giúp cho một người có được tác vụ của Chúa Giêsu. Đây cũng đóng vai trò như là một lời nhắc nhở liên lỉ rằng người ta nên có lòng yêu thương, sự thánh thiện, tính khiêm tốn, lòng tha thứ, và đức phục vụ.Người nào đã lãnh phép rửa bằng nước đều phải rửa chân của họ trong thánh danh Giêsu Kitô. Rửa chân cho nhau phải được thi hành bất cứ khi nào thích hợp."
Lãnh nhận thánh thể
"Lãnh nhận thánh thể là bí tích để tưởng niệm cái chết của Chúa Giêsu Kitô.Việc này cho chúng ta kết hiệp với mình và máu của Chúa chúng ta và được hiệp thông với Người để chúng ta có được cuộc sống vĩnh cửu và được sống lại vào Ngày sau hết. Bí tích này nên được cử hành thường xuyên nếu có thể. Chỉ sử dụng bánh mì không men và rượu nho tinh khiết."
Ngày Sabbath
Ngày Sabbath, ngày thứ bảy trong tuần, là Ngày Thánh, được chúc phúc và thánh hoá bởi Thiên Chúa. Ngày này được tuân giữ trong ân điển của Thiên Chúa để tưởng nhớ sự sáng tạo và cứu rỗi của Thiên Chúa và với niềm hy vọng cuộc sống vĩnh cửu sẽ đến.
"Giêsu Kitô, Ngôi Lời trở nên xác phàm, chết trên thập giá để cứu chuộc tội nhân, phục sinh vào ngày thứ ba và lên trời. Người là vị cứu tinh của loài người, Đấng Sáng tạo nên trời và đất, và là Thiên Chúa thật".
"Bộ Kinh Thánh, bao gồm Tân Ước và Cựu Ước, được thần hứng bởi Thiên Chúa, chân lý được ghi lại duy nhất, và là tiêu chuẩn cho đời sống Kitô hữu."
"Sự cứu rỗi được trao ban bởi ân điển của Thiên Chúa thông qua niềm tin. Người tin phải trông cậy vào Chúa Thánh Linh để được thánh hóa, để tôn vinh Thượng đế, và yêu mến tha nhân."
"Hội thánh Chúa Giêsu thật, được thành lập bởi Chúa Giêsu Kitô, thông qua Chúa Thánh Linh trong thời gian 'latter rain', là Hội thánh thật vào thời các tông đồ được khôi phục lại."
"Ngày Tái lâm của Thượng đế sẽ xảy ra vào Ngày sau hết khi Người từ trời xuống phán xét thế gian: người công chính sẽ nhận cuộc sống vĩnh cửu, trong khi kẻ dữ sẽ bị xử phạt đời đời."
Tham khảo
Hệ phái Ngũ Tuần
Kitô giáo tại Trung Quốc
Khởi đầu năm 1917 ở Trung Quốc
Chân Giê-xu Giáo hội
|
11247
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%A0%20Vinh
|
Trà Vinh
|
Trà Vinh là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
Địa lý
Vị trí địa lý
Trà Vinh là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long; vị trí địa lý giới hạn từ 9°31'46" đến 10°4'5" vĩ độ Bắc và từ 105°57'16" đến 106°36'04" kinh độ Đông. Trà Vinh cách Thành phố Hồ Chí Minh 200 km đi bằng quốc lộ 53 qua tỉnh Vĩnh Long, khoảng cách rút ngắn thời gian chỉ còn 130 km nếu đi bằng quốc lộ 60 qua tỉnh Bến Tre, cách thành phố Cần Thơ 50 km. Được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu với 02 cửa Cung Hầu và Định An nên giao thông đường thủy có điều kiện phát triển.
Trà Vinh là tỉnh duyên hải Đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí địa lý:
Phía Đông giáp Biển Đông với 65 km bờ biển.
Phía Tây giáp Vĩnh Long.
Phía Nam giáp Sóc Trăng với ranh giới là sông Hậu.
Phía Bắc giáp Bến Tre với ranh giới là sông Cổ Chiên.
Địa hình
Trà Vinh nằm ở cuối cù lao, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Địa hình chủ yếu là đất bằng phẳng với độ cao dưới 1m so với mực nước biển. Vì nằm ở vùng đồng bằng ven biển, có nhiều giồng cát chạy dọc theo bờ biển, tạo thành các đường cong song song. Các giồng càng gần biển càng cao và rộng hơn.
Với sự chia cắt bởi các giồng và mạng lưới đường lộ, kinh rạch, địa hình Trà Vinh khá phức tạp. Có các vùng trũng xen kẹp giữa các giồng cao, và độ dốc chỉ thể hiện trên từng cánh đồng. Đặc biệt, phần nam tỉnh có đất thấp, bị chia cắt bởi các giồng cát hình cánh cung thành nhiều vùng trũng nhỏ, với độ cao chỉ từ 0,5-0,8m. Do đó, hàng năm, vùng này thường bị ngập mặn trong khoảng thời gian từ 3-5 tháng.
Sông ngòi
Trên địa bàn Trà Vinh có hệ thống sông chính với tổng chiều dài 578 km, trong đó có các sông lớn là sông Hậu và sông Cổ Chiên. Các sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn Trà Vinh hợp lưu đổ ra biển chủ yếu qua hai cửa sông chính là cửa Cổ Chiên hay còn gọi là cửa Cung Hầu và cửa Định An.
Khí hậu
Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh cũng có những thuận lợi chung như: có điều kiện ánh sáng bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, Tuy nhiên, do đặc thù của vùng khí hậu ven biển, tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít.
Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình từ 20 - 27 °C, độ ẩm trung bình 80 - 8000%/năm, ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ. Mùa mưa từ tháng 5 - tháng 11, mùa khô từ tháng 12 - tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình từ 1.400 - 1.600mm, có điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư sản xuất, kinh doanh và du lịch.
Hàng năm, hạn hán thường xảy ra gây khó khăn cho sản xuất với số ngày không mưa liên tục từ 10 đến 18 ngày, trong đó các huyện như Cầu Kè, Càng Long, Trà Cú là các huyện ít bị hạn. Huyện Tiểu Cần hạn đầu vụ khoảng tháng 6 và tháng 7 là quan trọng, trong khi các huyện còn lại như Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải hạn giữa vụ nhưng tháng 7 và 8 thường nghiêm trọng hơn.
Trà Vinh cũng gặp một khó khăn hiện nay đó chính là bị ngập mặn vào một số mùa khô trong năm.
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên rừng
Tỉnh Trà Vinh có khoảng 9.539ha diện tích có rừng, trong đó rừng tự nhiên là 2.955 ha rừng tự nhiên và 6.584 rừng trồng. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 4,1%.
Năm 2022, diện tích rừng trồng mới tập trung toàn tỉnh đạt 80 ha, so cùng kỳ năm 2021 tăng 27,28%, tương ứng tăng 17 ha, (trong đó: rừng sản xuất đạt 1,2 ha, giảm 89,81%; rừng phòng hộ đạt 79 ha, tăng 54,29% so cùng kỳ). Sản lượng gỗ khai thác đạt 72.935 m3 .
Tài nguyên đất
Tỉnh có 5 nhóm đất (đất cát, đất mặn, đất phèn, đất phù sa và đất lập líp) và 18 loại đất. Trong đó, nhóm đất mặn có diện tích lớn nhất, 47.362 ha chiếm 19,81%, gồm 4 loại đất; Nhóm đất Líp với diện tích 35.838 ha; Nhóm đất phù sa có 3 loại với 34.180 ha (14,30%); Nhóm đất phèn 32.910 ha tương đương 13,77% diện tích; (v) Nhóm đất cát với 8.250 ha tương đương 3,45% diện tích tự nhiên và nhóm này cũng chỉ có một loại duy nhất là đất cát giồng.
Tài nguyên nước
Tỉnh Trà Vinh có tài nguyên nước mặt khá dồi dào.Bao gồm nước mặt và nước dưới đất.
Tài nguyên khoáng sản: chủ yếu là titan sa khoáng ven biển, nước khoáng và khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường: cát lòng sông, cát ven biển, cát giồng, đất sét,…
Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có Mỏ nước khoáng đạt tiêu chuẩn khoáng cấp quốc gia, nhiệt độ 38,5oC, khả năng khai thác cấp trữ lượng 211 đạt sản lượng 240m3/ngày, cấp tài nguyên 333 đạt 19.119m3/ngày phân bổ tại thị xã Duyên Hải.
Tài nguyên thủy hải sản:
Tỉnh Trà Vinh có chiều dài bờ biển 65 km với 03 cửa sông lớn là Cung Hầu và Định An đủ điều kiện cho các loại tàu có công suất lớn neo đậu, ra vào thuận tiện; cho phép hoạt động khai thác hải sản diễn ra quanh năm với sản lượng ổn định. Tỉnh có diện tích ngư trường khai thác lên tới 45.536 hải lý vuông với nhiều bãi cá, tôm, mực tự nhiên; trữ lượng thủy hải sản có khả năng khai thác từ 65.000 - 70.000 tấn/năm, với nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao như cá ngừ, cá hồng, cá thu, cá chim, mực, tôm tạo tiềm năng lớn cho việc phát triển ngành khai thác, chế biến hải sản của địa phương.
Sản lượng thủy sản năm 2022 đạt 221,541 nghìn tấn, tăng 0,08% so với năm 2021. Chia ra, sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 165,837 nghìn tấn, tăng 8,75%; sản lượng khai thác đạt 55,704 nghìn tấn, giảm 19,13% so cùng kỳ. Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng chủ yếu ở tôm thẻ chân trắng do giá tôm thẻ chân trắng trong thời gian qua vẫn ở mức cao nên người nuôi đã mở rộng diện tích thả nuôi, năng suất đạt khá cao. Ngoài ra, những tháng đầu năm mô hình nuôi tôm siêu thâm canh mật độ cao trên địa bàn tỉnh đang phát triển, hình thức nuôi này đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, tuy nguồn vốn đầu tư nhiều nhưng tình hình thiệt hại giảm, lợi nhuận đem lại khá nên nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư mở rộng diện tích thả nuôi.
Lịch sử
Nguồn gốc tên gọi
Trước đây, vùng đất Trà Vinh còn được gọi là xứ Trà Vang. Tên Trà Vang vốn có nguồn gốc từ ngôn ngữ Nam Á cổ mà dân gian thường gọi là Trah Păng. Tên gọi ấy phản ánh đặc điểm cảnh quan thuở xa xưa của một vùng đất mới được bồi đắp ở ven sông, ven biển, có nhiều vùng trũng, đầm lầy,... Vì vậy, Trà Vinh là tỉnh còn tương đối non trẻ.
Thời nhà Nguyễn độc lập
Thời nhà Nguyễn, Trà Vinh là tên 1 huyện (trước đó là phủ) thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long được lập ra năm 1832.
Vùng đất và tên gọi "Trà Vang", tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã có từ trước khi Chúa Nguyễn lập Châu Định Viễn, dựng Dinh Long Hồ vào năm 1732. Như vậy, lúc bấy giờ đất Trà Vinh thuộc Châu Định Viễn.
Năm 1802, sau khi lên ngôi, vua Gia Long bắt tay ngay vào việc sắp xếp và phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính trên toàn quốc. Từ đó, Gia Định phủ được đổi thành Gia Định Trấn. Lãnh thổ Gia Định Trấn được phân chia thành 4 dinh và 1 trấn phụ, vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Vĩnh Trấn.
Năm 1803, vua Gia Long cho lập địa đồ các dinh thuộc Gia Định Trấn và đổi Dinh Vĩnh Trấn thành Dinh Hoằng Trấn. Vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Hoằng Trấn.
Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định Trấn thành Gia Định Thành, Dinh Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh thuộc Trấn Vĩnh Thanh.
Năm 1825, vùng đất Trà Vinh được Vua Minh Mạng lập thành Phủ Lạc Hóa trực thuộc Gia Định Thành gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Mỹ.
Đến năm 1832, Trấn Vĩnh Thanh được đổi tên là Trấn Vĩnh Long. Sau đó, Vua Minh Mạng cho đổi các trấn thành tỉnh. Vùng đất Nam Bộ được chia thành sáu tỉnh, gọi là "Nam Kỳ lục tỉnh" gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Lúc này, Trà Vinh là một huyện thuộc Phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long.
Thời Pháp thuộc
Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn. Trên cơ sở phân chia đó, khu vực hành chính lớn Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc. Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này.
Trà Vinh được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) thành tỉnh (province) kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Tỉnh Trà Vinh là một trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.
Năm 1917, tỉnh Trà Vinh có năm quận là Châu Thành, Bắc Trang, Bàng Đa, Càn Long (ban đầu chữ Càn Long được viết như vậy) và Ô Lắc.
Tháng 8 năm 1928, Thống đốc Nam kỳ ra Nghị định phân chia lại địa giới hành chính. Theo đó, tỉnh Trà Vinh bãi bỏ quận Bàng Đa (nhập vào quận Châu Thành) - lỵ sở đặt tại làng Minh Đức, đổi thành Long Đức); đổi tên quận Ô Lắc thành quận Cầu Ngan (ban đầu chữ Cầu Ngan viết như vậy) - lỵ sở dời từ Ô Lắc về làng Minh Thuận; lập quận Tiểu Cần, lỵ sở đặt tại làng Tiểu Cần; dời lỵ sở quận Bắc Trang từ Bắc Trang về Thanh Xuyên; lỵ sở của quận Càng Long đặt tại An Trường (phần đất này nay thuộc thị trấn Càng Long).
Tháng 11 năm 1940, Thống đốc Nam kỳ lại có Nghị định đổi tên quận Bắc Trang thành quận Trà Cú.
Ngày 27 tháng 6 năm 1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ thuộc chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định nhập 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh thành một tỉnh có tên là tỉnh Vĩnh Trà. Huyện Tiểu Cần được nhập vào huyện Càng Long. Tuy nhiên, tên gọi tỉnh Vĩnh Trà không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Tỉnh Vĩnh Trà tồn tại đến năm 1954, sau đó lại trả về tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh như cũ.
Thời Việt Nam Cộng hòa
Sau năm 1954, theo phân cấp hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Trà Vinh vẫn gồm 5 huyện là: Càng Long, Châu Thành, Cầu Ngang, Tiểu Cần và Trà Cú. Trong khi đó, theo sự phân chia hành chính của chính quyền kháng chiến ngoài 5 huyện này, tỉnh Trà Vinh lại có thêm thị xã Trà Vinh.
Ngày 9 tháng 2 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh 16-NV thành lập tỉnh Tam Cần trên cơ sở các quận Vũng Liêm, Trà Ôn, Cầu Kè của tỉnh Vĩnh Long (Trà Ôn, Cầu Kè được tách ra từ tỉnh Cần Thơ và nhập về tỉnh Vĩnh Long từ năm 1948) và quận Tiểu Cần của tỉnh Trà Vinh.
Ngày 21 tháng 7 năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập quận Long Toàn thuộc tỉnh Trà Vinh, quận lỵ đặt tại xã Long Toàn.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh 143-NV về việc giải thể và sáp nhập tỉnh Tam Cần vào tỉnh Trà Vinh, đồng thời đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình; đổi tên xã Long Đức thành xã Phú Vinh và chọn làm lỵ sở của quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Bình. Theo đó, Vĩnh Bình là một trong 43 tỉnh của "lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa" và là một trong 22 tỉnh của Nam phần Việt Nam Cộng hòa. Lúc này, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Bình cũng bị đổi tên tên là "Phú Vinh", do lấy theo tên xã Phú Vinh thuộc quận Châu Thành là nơi đặt tỉnh lỵ.
Năm 1957, tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh) có 9 quận là Trà Ôn, Vũng Liêm, Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Đến ngày 14 tháng 1 năm 1967 theo sắc lệnh số 06/SL/ĐUHC chính quyền Đệ Nhị Cộng hoà, tách hai quận Vũng Liêm và Trà Ôn ra khỏi tỉnh Vĩnh Bình để nhập vào tỉnh Vĩnh Long, do đó tỉnh Vĩnh Bình cho đến năm 1975 chỉ còn lại bảy quận: Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Đồng thời, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Bình vẫn giữ nguyên tên là "Phú Vinh" cho đến năm 1975.
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Vĩnh Bình mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Trà Vinh.
Tháng 4 năm 1957, xuất phát từ yêu cầu củng cố lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định sáp nhập huyện Tiểu Cần vào huyện Cầu Kè. Tháng 2 năm 1961, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định tách xã Long Đức (chính quyền Việt Nam Cộng Hòa gọi là xã Phú Vinh) ra khỏi huyện Châu Thành để nhập vào thị xã Trà Vinh. Tháng 2 năm 1962, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định thành lập huyện Duyên Hải có địa giới trùng với quận Long Toàn của chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1967, Liên Tỉnh ủy Miền Tây cũng quyết định tách hai huyện Vũng Liêm và Trà Ôn từ tỉnh Trà Vinh để nhập về tỉnh Vĩnh Long. Từ giai đoạn này, tỉnh Trà Vinh cơ bản có địa giới hành chính trùng với hiện nay, bao gồm 8 đơn vị hành chính cấp huyện là thị xã Trà Vinh và 7 huyện: Cầu Kè, Càng Long, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Duyên Hải.
Thời Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn duy trì tỉnh Trà Vinh cho đến đầu năm 1976.
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất tỉnh Trà Vinh và tỉnh Vĩnh Long để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Cửu Long, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Vĩnh Long. Năm 1986, sau nhiều lần sáp nhập và chia tách, tỉnh Cửu Long bao gồm thị xã Vĩnh Long (tỉnh lỵ tỉnh Cửu Long), thị xã Trà Vinh và 12 huyện: Bình Minh, Cầu Kè, Cầu Ngang, Càng Long, Châu Thành, Duyên Hải, Long Hồ, Tam Bình, Tiểu Cần, Trà Cú, Trà Ôn, Vũng Liêm.
Ngày 05 tháng 5 năm 1992, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết giải thể tỉnh Cửu Long để tái lập tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh như cũ. Khi tách ra, tỉnh Trà Vinh có diện tích 2363,03 km², dân số 961.638 người, bao gồm thị xã Trà Vinh và 7 huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú..
Ngày 4 tháng 3 năm 2010, chuyển thị xã Trà Vinh thành thành phố Trà Vinh trực thuộc tỉnh Trà Vinh.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, thành lập thị xã Duyên Hải trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Duyên Hải.
Ngày 15 tháng 2 năm 2016, thành phố Trà Vinh được công nhận là đô thị loại II.
Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Trà Vinh, thị xã Duyên Hải và các huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú.
Hành chính
Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện với 106 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 11 phường, 10 thị trấn và 85 xã.
Ngày 20 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 859/QĐ-TTg về việc công nhận xã An toàn khu tại tỉnh Trà Vinh
Ngày 27 tháng 7 năm 2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định 1372/QĐ-UBND về việc công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành hết hiệu lực toàn bộ
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Với 1.019.258 người dân, năm 2022, GRDP đạt 72.440,944 tỉ đồng (tăng trưởng 3,45% so với năm 2021), GRDP bình quân đầu người đạt 70,72 triệu đồng.
Quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành ước đạt 72.440 tỷ đồng, tăng 8.440 tỷ đồng so với năm 2021. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 chiếm tỷ trọng 32,78% giảm còn 30,29% năm 2022; khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ từ 67,22% tăng lên 69,71% ; GRDP bình quân đầu người năm 2022 ước đạt 71,072 triệu đồng/người. (tăng 8,242 triệu đồng so với năm 2021).
Năm 2023, tỉnh đặt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 7,5% trở lên (có tính giá trị nhiệt điện) hoặc 7,75% nếu không tin giá trị nhiệt điện. GRDP bình quân đầu người đạt 75,96 triệu đồng/người/năm (có nhiệt điện) và 62,04 triệu đồng/người/năm (không nhiệt điện); tỉ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GRDP đạt 70,58% (có nhiệt điện), 63,98% (không nhiệt điện).
Ngoài ra, tỉnh đặt mục tiêu một số chỉ tiêu xã hội như tạo việc làm mới cho 23.000 lao động, trong đó có 900 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ lệ lao động qua đào tạo, bồi dưỡng chiếm 69,3%. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo 1,47%..
Giáo dục
Đầu năm học 2022-2023, cả tỉnh có 120 trường mầm non; 297 trường phổ thông, giảm, bao gồm: 160 trường tiểu học, 96 trường trung học cơ sở, 29 trường trung học phổ thông, 05 trường phổ thông cơ sở và 07 trường trung học. Đầu năm học 2022-2023, cả tỉnh có 179.274 học sinh phổ thông, tăng 0,93% so với đầu năm học trước.
Năm 2022, trên địa bàn tỉnh có 02 trường cao đẳng và 01 trường đại học. Số giảng viên là 1.104 người, bao gồm 102 giảng viên cao đẳng và 1.002 giảng viên đại học. Số học sinh trung cấp chuyên nghiệp là 281 người.
Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trên địa bàn tỉnh Trà Vinh cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần làm giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Dưới đây là danh sách các trường Đại học, Cao đẳng và một số trường nổi tiếng tại Trà Vinh:
Trường Đại học Trà Vinh
Trường Cao đẳng Y tế Trà Vinh (07 Nguyễn Thiện Thành, Phường 5, Tp. Trà Vinh)
Trường Cao đẳng Nghề Trà Vinh (01 Vũ Đình Liệu, xã Long Đức, Tp. Trà Vinh)
Trường THPT Phạm Thái Bường (358 Phạm Ngũ Lão, Phường 1, Tp. Trà Vinh)
Trường THPT chuyên Nguyễn Thiện Thành (ấp Long Bình, Phường 4, Tp. Trà Vinh)
Trường Thực hành Sư phạm Trà Vinh (287 Phạm Ngũ Lão, Phường 1, Tp. Trà Vinh)
Trường THCS Lý Tự Trọng (01 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 1, Tp. Trà Vinh)
Trường Tiểu học Lê Văn Tám (41 Tô Thị Huỳnh, Phường 1, Tp. Trà Vinh)
Trường THPT Dương Quang Đông (khóm Minh Thuận B, thị trấn Cầu Ngang, huyện Cầu Ngang)
Trường THPT Nguyễn Đáng (Khóm 6, thị trấn Càng Long, huyện Càng Long)
Trường THPT Duyên Hải (02 Đường 3/2, Phường 1, Tx. Duyên Hải)
Trường THPT Đại An (DT. 914, xã Đại An, huyện Trà Cú)
Trường THPT Trần Văn Long (Đường 30/4, thị trấn Trà Cú, huyện Trà Cú).
Dân cư
Cộng đồng dân cư tỉnh Trà Vinh gồm các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa và một số dân tộc thiểu số khác. Trong đó, người Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất (trên 67%), người Khmer chiếm 32%, là tỉnh có người Khmer sinh sống đông thứ 2 ở vùng ĐBSCL cũng như cả nước (sau tỉnh Sóc Trăng), người Hoa và dân tộc thiểu số khác chiếm tổng số gần 1%.
Đây là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc đặc trưng tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù.
Quá trình hình thành và phát triển của các dân tộc gắn liền với các đặc điểm sinh sống, lao động, văn hóa và tôn giáo. Mỗi dân tộc ở Trà Vinh có phong tục tập quán, tiếng nói, chữ viết và món ăn đặc thù riêng, tạo nên những phong tục tập quán rất phong phú và đa dạng.
Trà Vinh là một tỉnh có dân số thấp trong vùng ĐBSCL, đứng thứ 11/13 tỉnh thành trong khu vực, quy mô dân số khoảng 1.019.258 người, mật độ dân số bình quân đạt 426 người/km2 (thấp hơn mật độ dân số trung bình của vùng ĐBSCL).
Tỉnh có nguồn lao động dồi dào, dân số trong tuổi lao động chiếm khoảng 55% tổng dân số toàn tỉnh, trong đó, đa phần vẫn là lao động nông thôn, chiếm trên 80% và lao động trong khu vực nông nghiệp cao trên 40%; tỷ lệ lao động trong công nghiệp - xây dựng và dịch vụ còn thấp.
*Ngôn ngữ phổ biến ở Trà Vinh là tiếng Việt, mặc dù có các dân tộc khác nhưng tiếng nói chung vẫn là tiếng Việt.
Toàn tỉnh có 465 cơ sở tín ngưỡng với các loại hình như: Thờ thành hoàng, thờ anh hùng dân tộc, thờ tổ tiên, thờ mẫu...; về tôn giáo có 09 tôn giáo như: Phật giáo, Công giáo, Cao Đài, Tin Lành, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam, Hồi giáo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật giáo Hòa Hảo, với 4.373 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và 596.925 tín đồ, chiếm 59,15% so với dân số chung của tỉnh. Ngoài ra, còn có 11 hiện tượng tôn giáo mới chưa được Nhà nước công nhận.
Văn hóa
Tuy là vùng đất trẻ nhưng Trà Vinh có kho tàng văn hóa đa dạng, đặc biệt là văn hóa vật thể và phi vật thể của người Khmer. Người Khmer có chữ viết riêng, các lễ hội truyền thống như Chol chnam thmay (mừng năm mới), Dolta (lễ cúng ông bà), Ok Om Bok (lễ cúng trăng), Dâng bông, Dâng phước và các phong tục tập quán có giá trị văn hóa khác của người Kinh, người Hoa như Lễ hội nghinh Ông tại Mỹ Long (lễ hội nghinh ông diễn ra vào ngày 10 đến 12 tháng 5 hằng năm), Vu lan thắng hội, Tiết Trùng Cửu,...
Người Khmer còn xây dựng trên địa bàn Trà Vinh nhiều chùa có kiến trúc độc đáo và hòa quyện thiên nhiên, tiêu biểu là chùa Âng, toạ lạc trên khu đất rộng 4ha, trong thắng cảnh Ao Bà Om. Theo thống kê, trên địa bàn Trà Vinh có tới 142 chùa Khmer, vượt xa số lượng của người Kinh, người Hoa và của các dân tộc khác hiện có trên địa bàn Trà Vinh cộng lại. Đặc điểm chung của văn hóa người Khmer Trà Vinh thường gắn bó với các ngôi chùa Nam tông Khmer và sống rất gần gũi với cây xanh.
Riêng tại Thành phố Trà Vinh, có tới trên dưới 15.000 cây, với nhiều chủng loại và trong số đó có rất nhiều cây cổ thụ, với khoảng gần 1.000 cây trên trăm tuổi, được trồng từ thời Pháp. Nhờ cây cối bao bọc, khí hậu ở đây rất mát mẻ, dễ chịu. Vì vậy, với nền văn hóa gắn liền với cây xanh, Trà Vinh được mệnh danh là “thành phố trong rừng xanh”, “thành phố công viên” hay “thành phố cây cổ thụ”.Ngoài ra có chùa Hang, ở khu đất 10ha với những cây cổ thụ xum xuê rộn tiếng chim gọi bầy; chùa Nôdol còn gọi là chùa Cò vì trên khuôn viên chùa rộng 3ha đã hơn 100 năm nay trở thành nơi cư trú của hàng ngàn con cò và nhiều loại con chim quý khác; chùa Samrônge, tương truyền được xây dựng lần đầu vào năm 642 và xây dựng lại năm 1850 với nhiều biểu tượng bằng đá quý và những tấm bia cổ khắc chữ Khmer.
Lễ hội cúng ông (Phúc Đức Chính Thần, địa phương gọi là "ông Bổn", tiếng Hoa là Bửng Thào Côn) của người Hoa gốc Triều Châu vào rằm tháng 7 hàng năm tại huyện Cầu Kè.
Vài nơi tập trung khu xóm theo Thiên Chúa Giáo như Bãi San, Đức Mỹ... Nhà thờ tại thành phố Trà vinh có kiến trúc đẹp và cổ điển. Giáo xứ Nhị Long huyện Càng Long.
Đặc sản ẩm thực
Trà Vinh có nhiều món ăn và thức uống đã trở thành đặc sản địa phương như rượu Xuân Thạnh; bánh tét Trà Cuôn; dừa sáp Cầu Kè; bún nước lèo; tôm khô Vinh Kim; bánh canh Bến Có; bánh ống lá dứa; mắm rươi; bánh xèo; cốm dẹp trộn dừa Khmer; các món đuông như đuông chà là, đuông đất và đuông dừa; bánh tráng Ba Se; mắm kho; lươn um lá cách; cá cháy Cầu Quan; tôm càng nấu lẩu chua cơm mẻ; chuột đồng khìa nước dừa; vọp chong nướng lụi; bánh tráng nướng Giáo Loan (bánh tráng béo kèm nước cốt dừa); v.v.
Các loại trái cây đặc sản gồm có: dừa sáp, chuối tá quạ.
Giao thông
Giao thông đường bộ
Trà Vinh có 04 tuyến Quốc lộ chính là 53, 53B, 54 và 60, kết nối tỉnh Trà Vinh thông suốt với Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long (cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 130 km theo hướng Quốc lộ 60 và cách thành phố Cần Thơ khoảng 90 km theo hướng Quốc lộ 53). Quốc lộ 53 nối liền các thị trấn trong tỉnh với Thành phố Trà Vinh và thành phố Vĩnh Long. Đây là một trong những tuyến đường bộ nối Trà Vinh với các tỉnh thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
Hai tuyến cầu nối tỉnh Sóc Trăng - Trà Vinh - Bến Tre bao gồm Cầu Đại Ngãi ( chưa hoàn thành) nối 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, Cầu Cổ Chiên ( đã hoàn thành) nối 2 tỉnh Trà Vinh và Bến Tre. Đồng thời cũng là 2 trong 4 cầu quan trọng trên tuyến quốc lộ 60, các cầu khác là cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông.
Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kỳ 2021-2030, tỉnh Trà Vinh được đầu tư 02 dự án cao tốc và tuyến đường hành lang ven biển:
Tuyến cao tốc: Hồng Ngự (Đồng Tháp) - Trà Vinh (đến Khu kinh tế Định An).
Tuyến cao tốc: Thành phố Hồ Chí Minh - Tiền Giang - Bến Tre - Trà Vinh - Sóc Trăng và Tuyến đường hành lang ven biển kết nối với các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Tiền Giang và Thành phố Hồ Chí Minh quy mô cấp 3 đồng bằng, đảm bảo lưu thông đường bộ.
Giao thông đường thủy
Trà Vinh có bờ biển dài trên 65 km, được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu với 02 cửa Cổ Chiên (Cung Hầu) và Định An rất thuận lợi để phát triển giao thông đường thủy. Từ Trà Vinh đi Bến Tre, Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh theo tuyến sông Tiền rất thuận lợi, từ biển Đông đi qua kênh đào Trà Vinh đến cảng Cần Thơ là tuyến vận tải đường thủy chính của cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long để thông thương với quốc tế.
Nhờ lợi thế địa lý, Trà Vinh còn là cửa ngõ thông quan của khu vực đồng bằng sông Cửu Long với hệ thống cảng sông, cảng biển và đường luồng cho tàu biển có trọng tải lớn vào sông Hậu. Tuyến luồng này đóng vai trò là huyết mạch ổn định lâu dài, nâng cao thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, khu kinh tế và trở thành cửa ngõ giao thương quan trọng của khu vực đồng bằng sông Cửu Long đến các khu vực khác trong nước và trên thế giới bằng đường thủy, tạo động lực mới trong phát triển kinh tế địa phương.
Theo quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 thì hệ thống cảng biển Trà Vinh là cảng biển loại I, bao gồm: Khu bến Duyên Hải - Định An (tiếp nhận tàu trọng tải đến 50.000 tấn), Khu bến cảng Trà Cú - Kim Sơn (tiếp nhận tàu trọng tải đến 20.000 tấn) và các bến phao, khu neo đậu chuyển tải, tránh, trú bão. Trong đó, Khu bến Duyên Hải - Định An là bến tổng hợp, container, hàng lỏng/khí với chức năng phục vụ vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Biển số xe cơ giới trong tỉnh
Biển kiểm soát xe môtô
Thành phố Trà Vinh: 84-B1 XXX.XX; 84-B2 XXX.XX; 84-C1 XXX.XX
Huyện Châu Thành: 84-D1 XXX.XX
Huyện Cầu Ngang: 84-E1 XXX.XX
Thị xã Duyên Hải: 84-F1 XXX.XX
Huyện Trà Cú: 84-G1 XXX.XX
Huyện Tiểu Cần: 84-H1 XXX.XXX
Huyện Cầu Kè: 84-K1 XXX.XX
Huyện Càng Long: 84-L1 XXX.XX
Huyện Duyên Hải: 84-M1 XXX.XX.
Tỉnh kết nghĩa
Tỉnh Thái Bình, Việt Nam
Phong trào kết nghĩa Bắc - Nam là động viên dân và quân miền Bắc thi đua sản xuất và chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam. Tỉnh Trà Vinh( lúc bấy giờ là tỉnh Vĩnh Trà bao gồm tỉnh Trà Vinh và tỉnh Vĩnh Long ngày nay) trở thành tỉnh kết nghĩa của tỉnh Thái Bình vào ngày 20 tháng 3 năm 1960.
Hình ảnh
Danh nhân
Chính trị, quân sự
Nguyễn Thiện Thành (1919 - 2013), quê ở huyện Càng Long, một cựu sỹ quan cao cấp Quân đội, hàm đại tá, nguyên Phó Chủ nhiệm quân y, cục Hậu cần Quân giải phóng miền Nam, Anh hùng Lao động, Thầy thuốc Nhân dân, Giáo sư - Bác sĩ trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh, giám đốc đầu tiên của Bệnh viện Thống Nhất (Tân Bình, TP. HCM). Ông là người đầu tiên nghiên cứu và ứng dụng thành công phương pháp Filatov (bào chế nhau thai thành thuốc) trị sốt rét cho bệnh binh (1951), ông cũng là người đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển chuyên ngành Lão khoa.
Phạm Thái Bường (1915 - 1974), bí danh Lê Thành Nhân, quê ở huyện Càng Long, là một nhà cách mạng Việt Nam. Ông từng giữ các chức vụ Bí thư Tỉnh ủy Trà Vinh, Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, Ủy viên thường vụ Trung ương Cục miền Nam, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Út Tịch (1931 - 1968), tên thật là Nguyễn Thị Út, quê ở huyện Cầu Kè, là nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, được nhà văn Nguyễn Thi xây dựng thành nhân vật chính trong tác phẩm Người mẹ cầm súng. Bà là tác giả của câu nói nổi tiếng: "Còn cái lai quần cũng đánh".
Nguyễn Đáng (1925 - 1984), quê ở huyện Càng Long, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, Trưởng Phân ban chỉ đạo Binh vận hai tỉnh Vĩnh Long – Trà Vinh, Phó Tư lệnh Mặt trận miền Tây, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V và liên tục trong ba nhiệm kỳ Đại hội Tỉnh Đảng bộ (I, II, III), Bí thư Tỉnh ủy Cửu Long. Ông được Nhà nước Liên Xô trao tặng Huân chương "Lao động quên mình".
Dương Quang Đông (1902 - 2003), tên thường gọi Năm Đông, quê ở huyện Cầu Ngang, là một nhà cách mạng người Việt Nam, nguyên Bí thư Xứ ủy Nam Kì. Ông là người đầu tiên tham gia Công hội đỏ do Tôn Đức Thắng thành lập, ông cũng là vị thuyền trưởng đầu tiên lái "Con tàu không số" mở đường biển sang Thái Lan (con đường xuyên Tây huyền thoại - tiền thân của Đường Hồ Chí Minh trên biển) để thu mua vũ khí chuyển về Nam Bộ.
Thạch Thị Thanh (1901 - 1972), quê ở huyện Cầu Kè, tên thường gọi Ba Thanh, là nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, bà hy sinh trong lúc đưa du kích sang sông do địch ném bom.
Huỳnh Văn Sao (1912 - ?), quê ở thành phố Trà Vinh, là Máy trưởng của các "Con tàu không số" Đoàn 759, ông được truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2011.
Lê Văn Lòng (1921 - ?), bí danh Hai Tranh, quê ở huyện Duyên Hải, là người lãnh đạo đơn vị B22 - Bến Trà Vinh (Đoàn Tàu Không Số) tiếp nhận, đảm bảo an toàn cho vũ khí và thiết bị phục vụ chiến trường miền Nam (số vũ khí này được chuyển đến chiến trường Vĩnh Trà và Bến Tre). Ông được truy tặng Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2011.
Hồ Đức Thắng (? - 2005), bí danh Hồ Thọ (Hồ Lộc), quê ở thị xã Duyên Hải, nguyên Phó chính ủy công tác ở Công xưởng Nhà Bè thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân đóng tại TP. HCM, ông là một trong ba người đầu tiên của Đoàn Tàu Không Số được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1967.
Hồ Thị Nhâm (1947 - 1972), quê ở huyện Càng Long, tên thường dùng Tám Nhâm, là nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. "Ai về Trà Vinh, có nghe tiếng mìn của Hồ Thị Nhâm" là lời của nhạc sĩ Huỳnh Thanh Hải ngợi ca những chiến công bất tử của người chiến sĩ 25 tuổi đời, 6 tuổi quân Hồ Thị Nhâm.
Thạch Ngọc Biên (1917 - 1953), quê ở huyện Trà Cú, ông được truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2008.
Sơn Ton (1930), quê ở huyện Trà Cú, được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân khi mới 25 tuổi.
Lâm Sắc (1919 - 2008), quê ở huyện Trà Cú, bí danh Hai Dựng, ông từng là đại biểu HĐND khóa II, đại biểu Quốc hội khóa IX. Năm 1976, ông được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Kiên Thị Nhẫn (1950 - 1971), quê ở huyện Châu Thành, là nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, bà bị trúng đạn pháo kích của địch bắn chặn và hy sinh trên đường dự Đại hội Anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn Miền.
Thạch Thị Phinh (1932 - 1962), quê ở huyện Duyên Hải, nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân trung kiên, bất khuất đã dũng cảm hy sinh ở độ tuổi 30.
Trung tướng Sơn Cang (1948 - 2022), quê ở huyện Duyên Hải, ông từng giữ chức Phó tổ trưởng tổ chuyên gia Công an thuộc Đoàn chuyên gia Việt Nam giúp chính quyền tỉnh Kom-pong-speu (Cam-pu-chia), ông được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 2014.
Nguyễn Thiện Nhân (1953), quê ở huyện Càng Long, là một chính trị gia, Giáo sư Kinh tế và Tiến sĩ chuyên ngành Tự động hóa, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông cũng từng giữ chức Bí thư Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013 - 2017), Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006 - 2010), Phó Chủ tịch thường trực Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Giám đốc Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh. Ông là con trai của Đại tá, Giáo sư, Tiến sĩ, Bác sĩ Nguyễn Thiện Thành.
Văn học, nghệ thuật
NSND - Soạn giả Viễn Châu (1924 - 2016), hay Danh cầm Bảy Bá, tên thật là Huỳnh Trí Bá, quê ở xã Đôn Châu, huyện Trà Cú (nay thuộc huyện Duyên Hải). Ông được mệnh danh là ông "Vua Vọng cổ", là người khai sinh ra thể loại Tân cổ giao duyên. Sáng tác của ông lên đến 2000 bài vọng cổ, 50 vở cải lương cùng nhiều bài vọng cổ hài, trong đó tiêu biểu có thể kể đến các bài vọng cổ như Tình anh bán chiếu, Cô gái bán sầu riêng, Lá trầu xanh, Anh đi xa cách quê nghèo, Võ Đông Sơ - Bạch Thu Hà, Tư Ếch đại chiến Văn Hường... cùng các vở cải lương như Chuyện tình Lan và Điệp, Chuyện tình Hàn Mạc Tử, Tình mẫu tử, Nát cánh hoa rừng... Nhờ sự sáng tác "đo ni đóng giày" của Viễn Châu mà nghệ sĩ được nhiều khán giả chú ý hơn như NSND Út Trà Ôn, NSND Ngọc Giàu, NSND Lệ Thủy, NSUT Mỹ Châu, Vua vọng cổ hài Văn Hường, Hề Sa...
NSƯT Thanh Thúy, chị quê ở xã Nhị Long, huyện Càng Long. Chị là một ca sĩ, diễn viên, chính khách và cũng là sĩ quan quân đội nhân dân Việt Nam... tên tuổi của chị gắn liền với vai diễn nữ anh hùng Võ Thị Sáu và các bài ca cách mạng, đặc biệt là các bài hát về Bác Hồ kính yêu... Chị là Trung tá, Phó Trưởng đoàn Đoàn văn công Quân khu 7, hiện nay chị là Phó giám đốc Sở văn hóa và thể thao TPHCM...
Ngọc Trinh, là một hoa hậu, người mẫu, diễn viên và doanh nhân thành đạt người Việt Nam. Cô từng đăng quang Hoa hậu Việt Nam Hoàn cầu 2011.
Ngô Thanh Vân (hay còn gọi là NTV, NTV Virus, Chị Ba) (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1979 tại xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh), còn được biết đến với nghệ danh tiếng Anh là Veronica Ngo, là một nữ đạo diễn, nhà sản xuất phim, diễn viên, ca sĩ, vũ công, người mẫu ảnh và giám đốc sáng tạo người Việt Nam.
Thanh Thức (tên đầy đủ là Phạm Thanh Thức, sinh ngày 10 tháng 4 năm 1984) là một nam người mẫu và diễn viên người Việt Nam.
Huỳnh Như (sinh ngày 28 tháng 11 năm 1991) là một cầu thủ bóng đá nữ đá cho Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia Việt Nam.
Phi Phụng (sinh ngày 16 tháng 7 năm 1964) là một nữ diễn viên điện ảnh, diễn viên truyền hình, diễn viên kịch nói và nghệ sĩ hài nổi tiếng người Việt Nam. Bà được giới trẻ biết đến nhiều hơn qua loạt phim truyền hình, phim Điện ảnh Việt Nam và sitcom hài như Cái bóng bên chồng, Tiệm bánh Hoàng tử bé, Gia đình là số 1.
Chú thích
Liên kết ngoài
Trà Vinh
Website Tỉnh Trà Vinh
Từ gốc Khmer
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11248
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B3c%20Tr%C4%83ng
|
Sóc Trăng
|
Sóc Trăng là một tỉnh ven biển, nằm trong vùng hạ lưu Nam sông Hậu thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam.
Năm 2018, Sóc Trăng là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 22 về số dân, xếp thứ 38 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 51 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 47 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.315.900 người dân, GRDP đạt 49.346 tỉ Đồng (tương ứng với 2,1432 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 37,5 triệu đồng (tương ứng với 1.628 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,20%.
Nguồn gốc tên gọi
Tên gọi Sóc Trăng do từ Srok Kh'leang của tiếng Khmer mà ra. Srok (ស្រុក) tức là "xứ", "cõi", Kh'leang (ឃ្លាំង) là "kho", "vựa", "chỗ chứa bạc". Srok Kh'leang (ស្រុកឃ្លាំង) mang ý nghĩa là xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Việt phiên âm ra là "Sóc-Kha-Leng" rồi sau đó thành Sóc Trăng. Dưới triều Minh Mạng, Sóc Trăng đổi thành Sông Trăng, dịch theo Hán tự là Nguyệt Giang (月江), nên Sóc Trăng gọi là Nguyệt Giang tỉnh.
Đại Nam nhất thống chí viết về sông Ba Xuyên thuộc địa bàn tỉnh An Giang nhà Nguyễn như sau:
Theo vài ý kiến khác:
- Theo Lê Hương tên gọi Sóc Trăng đọc trại từ Srok Tréang trong tiếng Khmer, có nghĩa là "vùng đất lau sậy" hay "Bãi Sậy". Lí do là vì xưa kia lau sậy hoang mọc nhiều ở vùng này..
- Theo Triều Dương (một học giả ở địa phương) thì đó là cách gọi dựa trên sự kết hợp tự nguyện và đồng thuận giữa người khmer và người kinh, giữa cái cũ và cái mới. Bởi nơi đây tên cũ là Sóc-Kh-Leng từ lúc Minh Mạng tiếp quản vùng này có thêm tên mới là Sông Trăng. Người ta gọi tên cũ lẫn tên mới thành Sóc-kh-leng_Sông-Trăng... sau đó vì thấy dài, người ta gọi ngắn gọn lại thành Sóc Trăng.
Địa lý
Vị trí địa lý
Tỉnh Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 231 km, cách Cần Thơ 62 km, nằm trên tuyến Quốc lộ 1 nối liền các tỉnh Hậu Giang, Thành phố Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau. Tỉnh Sóc Trăng có vị trí tọa độ 9012’ - 9056’ vĩ Bắc và 105033’ - 106023’ kinh Đông. Đường bờ biển dài 72 km và 3 cửa sông lớn là Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra Biển Đông. Tỉnh Sóc Trăng có vị trí địa lý:
Phía đông và đông nam giáp Biển Đông
Phía đông bắc giáp tỉnh Trà Vinh và tỉnh Vĩnh Long
Phía tây nam giáp tỉnh Bạc Liêu
Phía bắc và tây bắc giáp tỉnh Hậu Giang.
Các điểm cực của tỉnh Sóc Trăng:
Điểm cực Bắc tại: xã Xuân Hòa, huyện Kế Sách
Điểm cực Nam tại: xã Lai Hòa, thị xã Vĩnh Châu
Điểm cực Tây tại: xã Vĩnh Quới, thị xã Ngã Năm
Điểm cực Đông tại: xã An Thạnh 3, huyện Cù Lao Dung.
Địa hình
Địa hình trong tỉnh Sóc Trăng thấp và tương đối bằng phẳng, có dạng lòng chảo, cao ở phía sông Hậu và biển Đông thấp dần vào trong, vùng thấp nhất là phía Tây và Tây Bắc, với Độ cao cốt đất tuyệt đối từ 0,4 - 1,5m, độ dốc thay đổi khoảng 45 cm/km chiều dài. Tiểu địa hình có dạng gợn sóng không đều, xen kẽ là những giồng cát địa hình tương đối cao và những vùng thấp trũng nhiễm mặn, phèn. Sóc Trăng có hệ thống kinh rạch chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m. Thủy triều vùng biển gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cư dân địa phương, đồng thời còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Khí hậu
Sóc Trăng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng gió mùa, chia thành mùa là mùa khô và mùa mưa, trong đó:
Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10
Mùa khô kéo dài từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau
Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 26,8 °C, ít khi bị bão lũ
Lượng mưa trung bình trong năm là 1.864 mm, tập trung chủ yếu vào các tháng 8, 9, 10
Độ ẩm trung bình là 83%.
Các điều kiện khí hậu như trên thuận lợi phát triển trồng cây lúa và các loại hoa màu khác.
Sông ngòi
Sóc Trăng có hệ thống kênh rạch chịu ảnh hường của chế độ thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m. Thủy triều vùng biển không những gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cư dân địa phương, mà còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên.
Nhờ vào địa thế đặc biệt, nơi dòng sông Hậu đổ ra biển Đông, vùng có nhiều trữ lượng tôm cá, Sóc Trăng có đủ điều kiện thuận lợi để cũng như phát triển kinh tế biển tổng hợp.
Tài nguyên đất
Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát triển cây lúa nước, cây công nghiệp ngắn ngày như: mía, đậu nành, bắp,... các loại rau màu như: hành, tỏi,... các loại cây ăn trái như: bưởi, xoài, sầu riêng,...
Hiện đất nông nghiệp chiếm 82,89%, trong đó:
Đất sản xuất nông nghiệp chiếm 62,13%
Đất lâm nghiệp có rừng 11.356 ha chiếm 3,43%
Đất nuôi trồng thủy sản 54.373 ha chiếm 16,42%
Đất làm muối và đất nông nghiệp khác chiếm 0,97%.
Đất nông nghiệp trong địa bàn tỉnh chủ yếu sử dụng cho canh tác lúa, cây hàng năm khác và diện tích đất còn lại dùng trồng cây lâu năm và cây ăn trái, ngoài ra cũng có nhiều diện tích đất tự nhiên chưa được sử dụng. Đất đai tại Sóc Trăng có thể chia thành 4 nhóm chính: nhóm đất cát, nhóm đất phù sa, nhóm đất mặn, nhóm đất nhân tác.
Điều kiện tự nhiên trong địa bàn tỉnh nhìn chung cũng đang gặp phải khó khăn như thiếu nước ngọt và bị xâm nhập mặn trong Mùa khô, một số khu vực bị nhiễm phèn, nhưng việc sử dụng đất ở Sóc Trăng lại có nhiều thuận lợi cơ bản để phát triển nông, ngư nghiệp đa dạng và trên cơ sở đó hình thành những khu du lịch sinh thái phong phú. Đặc biệt, Sóc Trăng còn có dải cù lao thuộc huyện Kế Sách, Long Phú và Cù Lao Dung chạy dài ra tận cửa biển với nhiều cây trái nhiệt đới, không khí trong lành như cồn Mỹ Phước, Khu du lịch Song Phụng, Cù Lao Dung,... là địa điểm lý tưởng để phát triển loại hình du lịch sinh thái.
Tài nguyên rừng
Sóc Trăng còn có nguồn tài nguyên rừng với các loại cây chính như Tràm, bần, giá, vẹt, đước, dừa nước. Rừng của Sóc Trăng thuộc hệ rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm phèn.
Tài nguyên biển
Sóc Trăng còn có 72 km bờ biển với 2 cửa sông lớn là sông Hậu và sông Mỹ Thanh, có nguồn hải sản đáng kể bao gồm cá đáy, cá nổi và tôm. Sóc Trăng có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế biển tổng hợp, thủy hải sản, nông - lâm nghiệp biển, công nghiệp hướng biển, thương cảng, cảng cá, dịch vụ cảng biển, xuất nhập khẩu, du lịch và vận tải biển.
Hành chính
Tỉnh Sóc Trăng có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện với 109 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 17 phường, 12 thị trấn và 80 xã.
{| class="wikitable sortable" align="center" width="100%" cellspacing="6" cellpadding="0" style="background: #f9f9f9; border: 1px #aaa solid; margin-top: 16px"
! style="background: #E6E6FA; font-size: 95%;" | Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Sóc Trăng
|-
| valign="top" style="background: #f9f9f9;" |
|-
| colspan="8" |{{center|<small>Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Sóc Trăng năm 2022</small>}}
|}
Lịch sử
Thời phong kiến
Vùng Sóc Trăng tiền thân vốn là đất Ba Thắc, nửa cuối thế kỷ 18 đã bắt đầu được sáp nhập vào lãnh thổ xứ Đàng Trong của Việt Nam. Ban đầu vùng Sóc Trăng (Ba Thắc) thuộc dinh Vĩnh Trấn, (sau đổi thành trấn Vĩnh Thanh), phủ Gia Định của Đàng Trong.
Đại Nam nhất thống chí viết rằng: Đất Ba Thắc (sau là phủ Ba Xuyên tỉnh An Giang) nguyên là đất Cao Miên, đến đầu thời trung hưng cơ nghiệp chúa Nguyễn của Nguyễn Ánh (tức là khoảng sau năm 1788, sau khi lấy được vùng đất Nam Hà do họ Mạc dâng tặng, cùng việc quản lí các vùng đất còn lại của các thế lực người Man ở phía Nam. Nguyễn Ánh lập đất đó thành phủ An Biên và cho người Man (người Cao Miên) lập đồn điền ở đây. Đến năm Nhâm Tý (1792) Nặc Ấn (Ang Eng tức Narayanaraja III (1779-1796)) từ Xiêm La trở về Cao Miên. Nguyễn Ánh cắt đất Ba Thắc trả về cho Nặc Ấn. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), quan phiên (người Cao Miên) là Trà Long xin đặt quan cai trị [đất ấy], Minh Mạng liền đổi tên phủ là Ba Xuyên và cho đặt chức an phủ sứ để quản phủ này.Đại Nam nhất thống chí, bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, trang 41. (Phủ An Biên (thuộc dinh Vĩnh Trấn (Long Hồ)) này là khác với phủ An Biên của tỉnh Hà Tiên nhà Nguyễn chỉ mới đặt ra vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826))
Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu viết:
Như vậy, đất Ba Thắc của Cao Miên, bắt đầu thuộc chúa Nguyễn (do Nặc Ong Nhuận (Ang Tong tức vua Ramathipadi II), (khoảng năm 1756-1757) dâng cho chúa Nguyễn Phúc Khoát cùng với đất Trà Vinh) giai đoạn 1757-1792; rồi lại về Cao Miên giai đoạn 1792-1835 (cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19); từ sau năm 1835 vùng đất Ba Thắc (Trung tâm là Bãi xàu cũ nay thuộc huyện Mỹ Xuyên hiện còn Đình thờ) tức tỉnh Sóc Trăng mới hoàn toàn thuộc vào lãnh thổ Đại Nam (tức Việt Nam) (giai đoạn 1835-1867 đất Ba Thắc trở thành phủ Ba Xuyên thuộc tỉnh An Giang nhà Nguyễn). Năm 1840, vua Minh Mạng đổi chức An phủ sứ thành Tri phủ, cử người Kinh đảm trách. Phủ Ba Xuyên lúc này tục gọi là Sóc Trăng, có 3 huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định.
Trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam viết:
Thời Pháp thuộc
Đầu thời Pháp thuộc, phủ Ba Xuyên đổi thành hạt thanh tra Ba Xuyên. Ngày 15 tháng 7 năm 1867, Pháp đổi hạt thanh tra Ba Xuyên thành hạt thanh tra Sóc Trăng, gồm 11 tổng; do Bertaux Levillain làm Chủ hạt đầu tiên (1867 - 1868). Ngày 05 tháng 6 năm 1871, Chủ hạt Sóc Trăng là Lahagre đồng ý nhận thêm hạt Long Xuyên tách ra từ hạt Rạch Giá. Ngày 18 tháng 12 năm 1871, hạt Long Xuyên được trả về cho hạt Rạch Giá. Từ ngày 05 tháng 1 năm 1876, các hạt thanh tra được đổi thành hạt tham biện, các thôn được gọi là làng. Chủ tỉnh lúc đó là Rossigneux.
Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Sóc Trăng trở thành tỉnh Sóc Trăng.. Tỉnh lỵ Sóc Trăng đặt tại làng Khánh Hưng thuộc tổng Nhiêu Khánh, quận Châu Thành. Viên chủ tỉnh đầu tiên là Gustave H. Delanoue (1900 - 1901).
Ngày 10 tháng 9 năm 1906, tỉnh Sóc Trăng có 3 quận là Phú Lộc, Kế Sách, Bàng Long; chủ tỉnh là Laffont. Ngày 30 tháng 8 năm 1916, quận Châu Thành thuộc tỉnh Sóc Trăng được thành lập. Ngày 01 tháng 3 năm 1926, quận Bàng Long được đổi tên thành quận Long Phú. Ngày 10 tháng 12 năm 1926, Chủ tỉnh Sóc Trăng là Maurice Esquivillon đổi tên quận Phú Lộc thành quận Thạnh Trị.
Ngày 19 tháng 11 năm 1929, Pháp hủy bỏ tất cả các Nghị định thành lập quận trước đó, giao cho một ban nghiên cứu chia lại các quận. Ngày 1 tháng 1 năm 1930, tỉnh Sóc Trăng được chia thành 3 quận là Châu Thành, Kế Sách và Long Phú. Năm 1941, Thống đốc Nam Kỳ quyết định thành lập lại quận Thạnh Trị thuộc tỉnh Sóc Trăng.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Năm 1948, tỉnh Sóc Trăng nhận thêm huyện Vĩnh Châu do tỉnh Bạc Liêu giao cho. Chính quyền Việt Minh nhập huyện Vĩnh Châu vào địa bàn huyện Thạnh Trị.
Trong kháng chiến chống Pháp, tỉnh Sóc Trăng còn nhận thêm một số xã của tỉnh Rạch Giá và tỉnh Cần Thơ giao qua như: Mỹ Qưới, Hương Qưới, Vĩnh Qưới, Lộc Hòa, Long Trị, Long Tân, Tân Long, Long Phú, Phương Bình, Phương Phú (của tỉnh Rạch Giá) và Tân Phước Hưng (của tỉnh Cần Thơ). Năm 1954, tỉnh Sóc Trăng lại trao trả huyện Vĩnh Châu về cho tỉnh Bạc Liêu quản lý trở lại như trước.
Giai đoạn 1954-1975
Việt Nam Cộng hòa
Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Sóc Trăng và tỉnh lỵ Sóc Trăng như thời Pháp thuộc. Năm 1955, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia tỉnh Sóc Trăng thành 8 quận: Châu Thành, Kế Sách, Long Phú, Thạnh Trị, Long Mỹ, Bãi Xàu, Bố Thảo và Lịch Hội Thượng. Trong đó, quận Long Mỹ được tỉnh Sóc Trăng nhận từ tỉnh Rạch Giá. Tuy nhiên, không lâu sau quận Long Mỹ lại được giao cho tỉnh Cần Thơ quản lý.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 143-NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Ba Xuyên được thành lập bao gồm phần đất tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Bạc Liêu trước đó, tỉnh lỵ đặt tại Sóc Trăng nhưng lúc này lại đổi tên là Khánh Hưng. Tỉnh lỵ Khánh Hưng lấy theo tên xã Khánh Hưng thuộc quận Châu Thành (sau năm 1958 là quận Mỹ Xuyên) vốn là nơi đặt tỉnh lỵ tỉnh Ba Xuyên.
Năm 1957, tỉnh Ba Xuyên gồm 8 quận: Châu Thành, Thạnh Trị, Long Phú, Lịch Hội Thượng, Bố Thảo (cùng thuộc tỉnh Sóc Trăng cũ), Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Phước Long (cùng thuộc tỉnh Bạc Liêu cũ). Ngày 23 tháng 2 năm 1957, tỉnh trưởng Ba Xuyên là Huỳnh Văn Tư giao quận Kế Sách cho tỉnh Phong Dinh (tức tỉnh Cần Thơ trước đó) quản lý.
Ngày 13 tháng 1 năm 1958, theo Nghị định số 9-BNV/NC/NP của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, địa giới hành chính tỉnh Ba Xuyên có sự điều chỉnh. Theo đó, quận Châu Thành đổi tên thành quận Mỹ Xuyên, quận Bố Thảo đổi tên thành quận Thuận Hoà, giải thể quận Lịch Hội Thượng và quận Vĩnh Châu. Các tổng và xã của các quận cũng có sự điều chỉnh quận Thạnh Trị còn 2 tổng Thạnh An, Thạnh Lộc, quận Long Phú có thêm tổng Định Phước.
Ngày 16 tháng 9 năm 1958, tỉnh trưởng Ba Xuyên là Trần Thanh Bền nhận lại quận Kế Sách từ tỉnh Phong Dinh. Ngày 5 tháng 12 năm 1960, tái lập quận Vĩnh Châu.
Ngày 21 tháng 12 năm 1961, quận Phước Long được chính quyền Việt Nam Cộng hòa giao cho tỉnh Chương Thiện. Lúc này, quận Phước Long cũng bị chia ra thành hai quận có tên là quận Phước Long và quận Kiến Thiện cùng thuộc tỉnh Chương Thiện.
Sắc lệnh số 245-NV ngày 8 tháng 9 năm 1964 của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa quy định kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu, trên cơ sở tách các quận Vĩnh Lợi, Giá Rai, Vĩnh Châu của tỉnh Ba Xuyên và quận Phước Long của tỉnh Chương Thiện. Phần đất còn lại tương ứng với tỉnh Sóc Trăng trước năm 1956, tuy nhiên Việt Nam Cộng hòa vẫn giữ tên tỉnh Ba Xuyên cho vùng đất này đến năm 1975.
Ngày 11 tháng 12 năm 1965, tái lập quận Lịch Hội Thượng. Ngày 11 tháng 7 năm 1968, lập quận Hòa Tú. Ngày 16 tháng 6 năm 1969, lập quận Ngã Năm. Năm 1973, tỉnh Ba Xuyên gồm 8 quận: Mỹ Xuyên, Thuận Hòa, Long Phú, Thạnh Trị, Kế Sách, Ngã Năm, Lịch Hội Thượng, Hòa Tú. Tỉnh lỵ tỉnh Ba Xuyên vẫn giữ nguyên tên là "Khánh Hưng" cho đến năm 1975.
Các viên Chủ tỉnh Ba Xuyên (1950 - 1975):
Lê Văn Thọ: Đốc Phủ Sứ Đặc hạng được bổ nhiệm từ ngày 23.02.1950 đến ngày 04.03.1953.
Lương Khắc Nhạc: Đốc Phủ Sứ Đặc hạng, từ ngày 04.03.1953 đến 18.05.1954.
Nguyễn Văn Ngân: Đốc Phủ Sứ Đặc hạng, từ ngày 18.05.1954 đến 12.04.1955.
Dương văn Đức: Đại tá, từ 122.04.1955 đến ngày 12.03.1956.
Huỳnh Văn Tư: Trung tá, từ ngày 12.03.1956 đến 05.03.1957.
Lê Quang Hiền: Trung tá, từ 05.03.1957 đến 24.03.1958.
Trần Thanh Bền: Thiếu tá, từ 24.03.1958 đến 20.01.1959.
Hoàng Mạnh Thường: Thiếu tá, từ 20.01.1959 đến 12.10.1961.
Nguyễn Ngọc Tháng: Thiếu tá, từ ngày 12.10.1961 đến 17.07.1962.
Nguyễn Linh Chiêu: Trung tá, từ ngày 17.07.1962 đến 27.11.1963.
Nguyễn Thanh Hoàng: Trung tá,từ 27.01.1963 đến 14.04.1964.
Đào Ngọc Diệp: Thiếu tá, từ ngày 14.04.1964 đến 29.10.1964.
Phạm Văn Út: Đại tá, từ 29.10.1964 đến 08.07.1965.
Nguyễn Ngọc Điệp: Trung tá, từ 08.07.1965 đến 11.11.1965.
Huỳnh Thao Lược: Trung tá, từ 11.11.1965 đến 11.03.1968.
Quách Huỳnh Hà: Trung tá, từ 11.03.1968 đến 1972.
Liêu Quang Nghĩa: Đại tá, từ 1972 đến 30.04.1975.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Ba Xuyên mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Sóc Trăng.
Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây giải thể tỉnh Bạc Liêu, đồng thời đưa các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu về tỉnh Sóc Trăng quản lý. Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định hợp nhất huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, lấy tên là huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu. Năm 1958, huyện Kế Sách của tỉnh Sóc Trăng được giao về cho tỉnh Cần Thơ quản lý đến năm 1976.
Đầu năm 1961, chính quyền Cách mạng thành lập thêm huyện Mỹ Xuyên trên cơ sở tách một số xã của huyện Thạnh Trị và huyện Châu Thành. Năm 1962, huyện Giá Rai được giao cho tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định giải thể huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu, tái lập huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi. Tháng 8 năm 1966, huyện Long Phú được chia thành 2 huyện: Long Phú và Lịch Hội Thượng.
Trong giai đoạn 1964-1973, địa bàn tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Sóc Trăng của chính quyền cách mạng quản lý. Tháng 11 năm 1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm 4 đơn vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu. Tuy nhiên, chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng cho đến năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Sóc Trăng cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa).
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên.
Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh.
Từ năm 1976 đến nay
Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Hậu Giang. Lúc này, huyện Châu Thành (thuộc tỉnh Sóc Trăng cũ) được đổi tên thành huyện Mỹ Tú, do tỉnh Hậu Giang lúc này đã có huyện Châu Thành vốn trước đó thuộc tỉnh Cần Thơ.
Tỉnh Hậu Giang lúc này gồm có thành phố Cần Thơ (tỉnh lỵ), thị xã Sóc Trăng và 12 huyện: Châu Thành, Kế Sách, Long Mỹ, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Ô Môn, Phụng Hiệp, Thạnh Trị, Thốt Nốt, Vị Thanh, Vĩnh Châu. Tỉnh lỵ tỉnh Hậu Giang lúc đó là thành phố Cần Thơ.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội ban hành nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành hai tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Sóc Trăng có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị xã Sóc Trăng (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Kế Sách, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Vĩnh Châu.
Ngày 11 tháng 1 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 04/2002/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Phú để thành lập huyện Cù Lao Dung.
Ngày 31 tháng 10 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 127/2003/NĐ-CP về việc thành lập huyện Ngã Năm trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Thạnh Trị.
Ngày 8 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2007/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sóc Trăng.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/NĐ-CP về việc thành lập huyện Châu Thành trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Mỹ Tú.
Ngày 23 tháng 12 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 64/NQ-CP về việc thành lập huyện Trần Đề trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của hai huyện Long Phú và Mỹ Xuyên.
Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP về việc thành lập thị xã Vĩnh Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Vĩnh Châu.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 133/NQ-CP về việc thành lập thị xã Ngã Năm trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Ngã Năm.
Tỉnh Sóc Trăng có 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện như hiện nay.
Kinh tế
Năm 2018, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh chuyển biến tích cực; tăng trưởng kinh tế đạt 7,2%; có 16/20 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt và vượt chỉ tiêu nghị quyết và 3/20 chỉ tiêu đạt 99% chỉ tiêu nghị quyết năm. Sản xuất nông nghiệp tương đối ổn định, trong đó diện tích lúa đặc sản chiếm 50% tổng diện tích, tổng sản lượng lúa cả năm là 2,13 triệu tấn; chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng tập trung, ứng dụng công nghệ cao, quy mô đàn giảm nhưng tập trung phát triển và chất lượng; sản lượng thủy, hải sản đều tăng so với cùng kỳ.
Giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội đều tăng so cùng kỳ; hoạt động thu hút đầu tư có nhiều khởi sắc, năm 2018 tỉnh đã tiếp xúc và làm việc với 141 lượt nhà đầu tư đến tìm hiểu, đăng ký thực hiện 141 dự án; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh vượt dự toán.
Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; các hoạt động văn hóa được tổ chức sôi nổi, thiết thực chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm và sự kiện chính trị quan trọng của tỉnh và cả nước; chất lượng dạy và học từng bước được nâng lên; giáo dục mầm non, giáo dục dân tộc tiếp tục được quan tâm đầu tư và đẩy mạnh; công tác phòng, chống dịch, khám chữa bệnh được chủ động triển khai thực hiện, tình hình dịch bệnh ở người cơ bản được kiểm soát.
Các chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công, người nghèo, người dân tộc thiểu số được quan tâm thực hiện; giải quyết việc làm, giảm nghèo vượt chỉ tiêu kế hoạch; trong năm 2018 toàn tỉnh có 11.281 hộ thoát nghèo, hiện nay còn 27.267 hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 8,43%. An ninh - quốc phòng, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững; công tác thanh tra, tư pháp, cải cách hành chính được các ngành, các cấp quan tâm thực hiện.
Năm 2019, tỉnh đạt và vượt 20 chỉ tiêu kinh tế - xã hội, trong đó có 12 chỉ tiêu vượt Nghị Quyết, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,3%. Cơ cấu kinh tế khu vực I - II - III tương ứng là 37,77% - 17,82% - 44,41%; trong đó, khu vực I tăng 4,8%, khu vực II tăng 10,82%, khu vực III tăng 8,14%. Các địa phương gieo trồng 61.004 ha hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày, tăng 2,62% so cùng kỳ; diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP tăng 11,6 ha. Diện tích cây ăn trái 31.370 ha, tăng 6,37%; trong đó có 265,8 ha áp dụng mô hình sản xuất VietGAP, với 5 ha vú sữa và 10 ha bưởi áp dụng mô hình liên kết tiêu thụ. Trên địa bàn tỉnh có 302 trang trại chăn nuôi; trong đó có 2 trang trại nuôi gà và 1 trang trại nuôi heo ứng dụng công nghệ cao. Toàn tỉnh có trên 687 ha diện tích nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao với mật độ khoảng 200-500 con/m2. Tổng sản lượng thủy sản 281.352 tấn, tăng 7,81%, trong đó sản lượng tôm nước lợ là 150.350 tấn, tăng 12,4%. Trong năm, tỉnh tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; tính đến nay, toàn tỉnh có 42 xã đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới, có 26 xã đạt từ 15 tiêu chí trở lên; 12 xã còn lại đạt từ 12 đến 14 tiêu chí. Tính bình quân trên toàn tỉnh, mỗi xã đạt 16,85 tiêu chí.
Xã hội
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Sóc Trăng đạt 1.199.555 người, mật độ dân số đạt 300 người/km².Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 388.550 người, chiếm 32,4% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 811.103 người, chiếm 67,6% dân số. Dân số nam đạt 597.922 người, trong khi đó nữ đạt 601.731 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương giảm 0,75 ‰
Sóc Trăng là địa bàn cư trú của ba dân tộc chính là dân tộc Kinh (774.807 người), Hoa, Khmer cùng với nhiều dân tộc khác
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 10 tôn giáo khác nhau đạt 688.461 người, nhiều nhất là Phật giáo có 662.990 người, tiếp theo là Công giáo đạt 13.607 người, đạo Cao Đài có 7.260 người, đạo Tin Lành có 3.770 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam chiếm 468 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 255 người. Còn lại là các tôn giáo khác như Hồi giáo có 99 người, Minh Lý Đạo có tám người, Minh Sư Đạo và Bửu Sơn Kỳ Hương mỗi đạo chỉ có hai người.
Y tế
Ngành y tế tại tỉnh Sóc Trăng tương đối đồng nhất. Ở các đơn vị hành chính cấp huyện đều có các trung tâm y tế, trạm y tế. Các bệnh viện lớn và Trung tâm y tế huyện như:
Các bệnh viện Đa khoa Sóc Trăng, Chuyên khoa Sản - Nhi Sóc Trăng, Bệnh viện Chuyên Khoa 27 tháng 2, bệnh viện 30 tháng 4 Sóc Trăng, Quân Dân Y Sóc Trăng.
Các Trung tâm y tế các huyện, thị xã, thành phố: Kế Sách, Châu Thành, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Trần Đề, Long Phú, Cù Lao Dung, thị xã Vĩnh Châu, thị xã Ngã Năm và thành phố Sóc Trăng.
Trên địa bàn toàn tỉnh có 125 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 05 bệnh viện, 11 trung tâm y tế và 109 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 2.231 giường, trong đó các bệnh viện có 1.460 giường, phòng khám phòng khám đa khoa khu vực có 190 giường, trạm y tế có 581 giường .
Giáo dục - đào tạo
Hệ thống giáo dục - đào tạo tại Sóc Trăng có cơ sở hạ tầng khá đầy đủ, đáp ứng giảng dạy cho nhiều đối tượng khác nhau.
Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2008, toàn tỉnh Sóc Trăng có 422 trường học ở các cấp phổ thông, đứng thứ 4 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2008:
Tổng số học sinh phổ thông đạt 206.550 học sinh, trong đó:
Cấp TH là 114.639 học sinh
Cấp THCS là 64.216 học sinh
Cấp THPT là 27.695 học sinh
Tổng số giáo viên phổ thông trực tiếp giảng dạy đạt 12.286 người, trong đó:
Giáo viên TH là 6.373 người
Giáo viên THCS là 4.091 người
Giáo viên THPT là 1.822 người.
Các trường Cao đẳng ở Sóc Trăng gồm:
Trường Cao đẳng Nghề Sóc Trăng.
Trường Cao đẳng Cộng đồng Sóc Trăng.
Văn hóa
Với một nền văn hóa đặc sắc và khá riêng biệt mà có thể gọi là: "văn hoá xứ giồng"'', thể hiện qua các mặt trong đời sống hằng ngày của người Sóc Trăng, từ ngôn ngữ, mối quan hệ xã hội, tên đất, tên làng đến tín ngưỡng tôn giáo, ẩm thực và lễ hội của người Kinh, Hoa, Khmer và số ít người Chăm.
Lễ hội
Năm 2013, tỉnh Sóc Trăng tổ chức Festival Đua Ghe Ngo Đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức 2 năm một lần.
Lễ hội Ooc Om Boc - Đua Ghe Ngo (Cúng trăng), được tổ chức đua ghe vào Rằm tháng 10 Âm lịch hàng năm, cùng với lễ hội Loi -Pro tip - lễ hội thả đèn nước trên sông Maspero tại trung tâm thành phố Sóc Trăng
Lễ Sen Đôlta (thờ cúng tổ tiên của người Khmer)
Lễ Chol Chnăm Thmây (Vào năm mới),...
Lễ Nghinh Ong (ở Trần Đề)
Thanh minh (của người Kinh và Hoa).
Lễ hội thí vàng (tháng 7), chủ yếu là tại các khu vực có nhiều người Hoa sinh sống.
Lễ kỳ yên ở các đình chùa. Mỗi làng xã người Việt, người Hoa thường có đình chùa và được tổ chức vào khoảng 3 ngày liên tiếp trong năm tùy đình chùa đó. Lễ hội chính là cúng thần và trình diễn cải lương.
Di tích
Sóc Trăng là tỉnh có hơn 200 ngôi chùa của cả ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer. Nổi tiếng thì phải kể đến Chùa Dơi (chùa Mã Tộc, Mahatup), Chùa Đất Sét (Bửu Sơn tự), Chùa Khléang, chùa Chén Kiểu (chùa Salon), chùa La Hán, chùa Bốn Mặt (chùa Barai), chùa Quan Âm linh ứng, Chùa Khánh Sơn, chùa Hương Sơn, chùa Đại Giác... Ngoài ra còn còn có đền thờ, đình, miếu, nhà thờ, thánh thất...
Bửu Sơn tự (hay chùa Đất Sét): Đây là một am thờ đã qua nhiều đời của dòng tộc họ Ngô, có tất cả tượng Phật đến linh thú, bảo tháp, đỉnh trầm đều được làm từ đất sét. Phần lớn do ông Ngô Kim Tòng sáng tạo trong suốt 42 năm (1928-1970).
Ngoài ra, trong chùa còn có 6 cây nến lớn hai cây nặng 200 kg hai cây nến nhỏ nặng 100 kg và ba cái đỉnh bằng đất mỗi cái cao 2m. Hai cây nến nhỏ đã đốt liên tục trong 40 năm kể từ năm 1970 khi ông Ngô Kim Tòng qua đời. Sáu cây nến lớn chưa đốt, mỗi cây sẽ có thời gian cháy liên tục khoảng 70 năm.
Chùa Mã Tộc (hay chùa Dơi): Chùa được xây dựng cách đây hơn 400 năm . Chùa còn có tên là chùa Dơi vì ngôi chùa này từ lâu đã là nơi trú ẩn của khoảng 1 triệu con dơi, phần lớn có sải cánh 1-1h,2 m, những con lớn nhất có sải cánh lên tới 1,5 m. chúng treo mình trên những cành cây chung quanh chùa để ngủ suốt ngày,đến chiều tối mới bắt đầu lần lượt bay đi kiếm ăn ở những nơi có nhiều vườn trái cây cách xa
Hòa An Hội Quán (chùa Ông Bổn): Chùa được xây dựng vào năm 1875, chùa thờ ông bổn (Bổn Đầu Công).Chùa được xây dựng với kiến trúc độc đáo của người Hoa chất liệu toàn bằng đá, gỗ quý từ Trung Quốc chở qua. Di tích này được trải qua 7 đợt trùng tu nhưng vẫn giữ được những giá trị nghệ thuật kiến trúc.Rằm tháng giêng hàng năm nhân tết nguyên tiêu chùa đều có tổ chức lễ hội đấu đèn lồng.
Khu căn cứ tỉnh ủy Sóc Trăng, xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú.
Đền thờ Bác Hồ, xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung
Đặc sản
Sóc Trăng có nền văn hóa ẩm thực hết sức phong phú và đa dạng, trong đó có thể kể đến như:
Các loại quà - bánh: Bánh pía Vũng Thơm, bánh phồng tôm, bánh ống, bánh dứa, cốm dẹp, mè láo, bánh in Cổ Cò, bánh cống Đại Tâm, bánh gừng, xá bấu (củ cải muối Vĩnh Châu, có ba loại là xá bấu mặn, xá bấu ngọt, xá bấu chua ngọt), lạp xưởng
Bún: Bún nước lèo, bún xào, bún gỏi dà (bún gỏi già), bò nướng ngói Mỹ Xuyên.
Khô: Khô trâu Thạnh Trị, khô heo Lịch Hội Thượng, khô cá Trần Đề
Mắm: Mắm chiên Ngã Năm, mắm cá rô không xương
Nông thủy sản: hành tím Vĩnh Châu, nhãn tím Kế Sách, cá bống sao Cù Lao Dung
Âm nhạc
Bài hát "Sóc sờ bai Sóc Trăng" (Chào buổi sáng Sóc Trăng) được sáng tác bởi nhạc sĩ Thanh Sơn.
Du lịch
Ngoài chùa chiền và các lễ hội đặc sắc. Sóc Trăng còn có những địa điểm tham quan như:
Hồ Nước Ngọt: khu công viên văn hóa này rộng khoảng 20ha, tọa lạc trên đường Hùng Vương, thành phố Sóc Trăng.
Chợ nổi Ngã Năm: nằm tại trung tâm thị xã Ngã Năm.
Vườn cò Tân Long: nằm tại xã Long Bình, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, vườn cò này do gia đình ông Huỳnh Văn Mười quản lý. Với diện tích rộng khoảng 1,5ha, được che phủ bởi những bụi tre, hàng dừa đã tạo nên một môi trường tự nhiên lí tưởng cho loài cò. Cùng với sự chăm nom của ông Mười, nơi này hình thành một sân chim với hàng vạn con cò, vạc sinh sống hòa thuận. Đại gia đình chim gồm: cò gà, cò trắng tinh, cò đầu đỏ, cò trâu, cồng cộc, vạc,...
Cồn Mỹ Phước: nằm gần cuối hạ lưu sông Hậu, thuộc địa phận xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách. Với khí hậu, thổ nhưỡng, sông nước đặc thù khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên cồn Mỹ Phước là môi trường thích hợp để các loại cây ăn trái phát triển. Thời điểm cồn Mỹ Phước đón nhiều du khách nhất là dịp diễn ra Lễ hội Sông nước Miệt vườn (trong 2 ngày mồng 4 và mồng 5 tháng 5 (âm lịch) hàng năm), với các hoạt động như: nghi thức, nghi lễ cúng Tết Đoan Ngọ, hội thi làm bánh xèo, hội chợ đưa hàng Việt về nông thôn, hội thảo về cây ăn trái, hội thảo sông nước miệt vườn, đua thuyền rồng, đua ca nô, đua vỏ lãi, nhảy bao, đập nồi...
Hồ Bể: Thuộc xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu, Hồ Bể là một bãi biển vừa được khai phá giữa vùng trồng rừng phòng hộ ven biển. Bãi biển dài 5 cây số, vẫn còn mộc mạc, hoang sơ, thích hợp cho những chuyến thư giãn cuối tuần. Khu vực Hồ Bể còn là nơi trú ngụ và sinh sản của nhiều giống loài thủy sản có giá trị. Từ lâu, khu vực này đã hình thành nên những bãi cua biển, nghêu, sò huyết giống... đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân địa phương. Sự phong phú về nguồn lợi thủy sản nơi đây luôn được gắn liền với công tác trồng và bảo vệ rừng phòng hộ ven biển.
Điểm du lịch sinh thái Mỏ Ó cách trung tâm tỉnh lỵ Sóc Trăng khoảng 30km về phía Đông Nam, nằm gần cửa sông Mỹ Thanh và Trần Đề thuộc khu vực biển Đông, thuộc xã Trung Bình, huyện Trần Đề, nơi đây có diện tích rừng tự nhiên trên 260 ha, là nơi trú ngụ của nhiều loài chim chóc, bò sát và hải sản quý hiếm (rắn, rùa, cua, cò, cá...).
Giao thông
Sóc Trăng là tỉnh có vị trị địa lý khá thuận lợi cho việc giao thương và phát triển kinh tế, xã hội.
Trên địa bàn có 7 tuyến Quốc lộ: Quốc lộ 1, Quốc lộ 60, Đường Nam Sông Hậu, Quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp, Quốc lộ 61B, đường cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng và 14 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài hơn 600 km, hệ thống đường huyện, đường giao thông nông thôn có hơn 3.700 km. Mạng lưới đường ô tô khá dài chiếm khoảng 129 km.
Toàn tỉnh hiện có 8 tuyến xe buýt, trong đó các tuyến gồm:
Tuyến 1: TP. Sóc Trăng - Thạnh Trị - TX. Ngã Năm
Tuyến 2: TP. Sóc Trăng - Châu Thành - TP. Ngã Bảy (Hậu Giang)
Tuyến 3: TP. Sóc Trăng - Long Phú - Đại Ngãi
Tuyến 4: TP. Sóc Trăng - Mỹ Xuyên - Kinh Ba (Trần Đề)
Tuyến 5: TP. Sóc Trăng - Kế Sách
Tuyến 6: TP. Sóc Trăng - Mỹ Tú
Tuyến 7: TP. Sóc Trăng - TX. Vĩnh Châu
Tuyến 8: TP. Sóc Trăng - Đại Ngãi - Nhơn Mỹ (Kế Sách) - An Lạc Thôn - TP. Cần Thơ.
Toàn tỉnh có 72 km bờ biển, có 3 cửa sông lớn là Định An, Trần Đề của Sông Hậu và Mỹ Thanh của Sông Mỹ Thanh đổ ra biển Đông rất thuận lợi cho giao thông đường thủy, đường bộ và phát triển kinh tế du lịch.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
S
Từ gốc Khmer
Đồng bằng sông Cửu Long
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11249
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3ng%20Ng%C3%A3i
|
Quảng Ngãi
|
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Tỉnh lỵ là Thành phố Quảng Ngãi, cách thành phố Hồ Chí Minh 820 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 146 km về phía Nam và cách Hà Nội 908 km về phía Nam tính theo đường Quốc lộ 1.
Năm 2018, Quảng Ngãi là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 19 về số dân, xếp thứ 27 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 20 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 13 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.272.800 người dân, GRDP đạt 73.568 tỉ đồng (tương ứng với 3,1951 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 57,8 triệu đồng (tương ứng với 2.510 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,60%
Đường bờ biển Quảng Ngãi có chiều dài khoảng 129 km với vùng lãnh hải rộng lớn 11.000 km2 và 6 cửa biển vốn giàu nguồn lực hải sản với nhiều bãi biển đẹp. Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Nam Trung Bộ được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất (Bình Sơn - Quảng Ngãi) để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam. Tỉnh được tái lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1989 trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định.
Tỉnh Quảng Ngãi bao gồm 1 thành phố trực thuộc (Quảng Ngãi), 1 thị xã (Đức Phổ) và 11 huyện trong đó có 1 huyện đảo (Lý Sơn), 5 huyện đồng bằng, 5 huyện miền núi. Các huyện của Quảng Ngãi gồm huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tây, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa.
Địa lý
Vị trí địa lý
Tỉnh Quảng Ngãi trải dài từ 14°32′B đến 15°25′B, từ 108°06′Đ đến 109°04′Đ, tựa vào dãy núi Trường Sơn và có vị trí địa lý:
Phía đông giáp Biển Đông
Phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam
Phía nam giáp tỉnh Bình Định và tỉnh Gia Lai
Phía tây giáp tỉnh Kon Tum.
Nằm ở vị trí trung độ của cả nước, Quảng Ngãi cách thủ đô Hà Nội 884 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 836 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1.
Điều kiện tự nhiên
Quảng Ngãi có địa hình tương đối phức tạp, có xu hướng thấp dần từ tây sang đông với các dạng địa hình đồi núi, đồng bằng ven biển, phía tây của tỉnh là sườn Đông của dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng, có nơi núi chạy sát biển. Khí hậu ở Quảng Ngãi là khí hậu nhiệt đới và gió mùa, nên nhiệt độ cao và ít biến động. Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú, nhiệt độ trung bình 25-26,9 °C. Khí hậu nơi đây phân hóa thành 2 mùa rõ rệt, gồm có mùa mưa và mùa nắng. Đất đai trong địa bàn tỉnh được chia làm 9 nhóm đất chính với 25 đơn vị đất và 68 đơn vị đất phụ. Các nhóm đất chính là cồn cát, đất cát ven biển, đất mặn, đất phù sa, đất giây, đất xám, đất đỏ vàng, đất đen, đất nứt nẻ, đất xói mòn trơ trọi đá. Trong đó, nhóm đất xám có vị trí quan trọng với hơn 74,65% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu, chăn nuôi gia súc và nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sông chiếm 19,3% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu… Đất Quảng Ngãi có thành phần cơ giới nhẹ, hơi chặt, thích hợp với trồng mía và các cây công nghiệp ngắn theo ngày.
Dân cư
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số tỉnh Quảng Ngãi là 1.231.697 người, mật độ dân số đạt 237 người/km² trong đó dân sống tại thành thị là 201.019 người, chiếm 16,3% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn là 1.030.678 người, chiếm 83,7%. Dân số nam là 611.914 người, trong khi đó nữ là 619.783 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,12 ‰ Tỷ lệ đô thị hóa ở Quảng Ngãi tính đến năm 2023 là 37%.
Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 29 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống, trong đó dân tộc Việt chiếm đông nhất với 1.055.154 người, thứ hai là người Hrê với 115.268 người, thứ ba là người Co với 28.110 người, người Xơ Đăng có 17.713 người, cùng với các dân tộc ít người khác như Hoa, Mường, Tày, Thái...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 10 tôn giáo khác nhau chiếm 70.454 người, trong đó nhiều nhất là Đạo Tin Lành có 31.996 người, Phật giáo với 23.220 người, Công giáo có 9.226 người, Đạo Cao Đài có 6.000 người, còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo mỗi đạo có ba người, Bà la môn và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi đạo có hai người, ít nhất là Bửu sơn kỳ hương và Bahá'í mỗi đạo có một người..
Lịch sử
Thời nhà Lê
Năm 1471, quân Đại Việt lấy lại Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chiếm kinh đô Chà Bàn (nay thuộc tỉnh Bình Định) của Vương quốc Chămpa. Tháng 6 âm lịch, thiết lập đạo thừa tuyên Quảng Nam (nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng), gồm 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhân. Tỉnh Quảng Ngãi thuộc Phủ Tư Nghĩa.
Năm 1527, Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê, lập nên nhà Mạc.
Năm 1533, Nguyễn Kim nổi lên chống nhà Mạc, tôn Lê Ninh lên làm vua, lấy hiệu là vua Lê Trang Tông, hình thành cục diện Nam- Bắc triều.
Năm 1545, Tướng của Nguyễn Kim là Bùi Tá Hán được giao nhiệm vụ trấn thủ Quảng Nam (nay là vùng đất thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng).
Năm 1558, Nguyễn Hoàng nhận nhiệm vụ trấn thủ Thuận Hóa.
Năm 1602, Trấn Quảng Nam đổi thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng Nghĩa (Ngãi) (danh xưng Quảng Nghĩa (Ngãi) lần đầu tiên xuất hiện, phủ Quảng Nghĩa nay là tỉnh Quảng Ngãi).
Năm 1771, Khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1776, Nhà Tây Sơn đổi tên phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hòa Nghĩa.
Năm 1803, Nhà Nguyễn đổi phủ Hòa Nghĩa trở lại tên cũ là phủ Quảng Nghĩa.
Năm 1807, Xã Cù Mông (sau đổi là xã Chánh Mông rồi Chánh Lộ) được chọn làm nơi xây dựng tỉnh Quảng Ngãi.
Năm 1831, Tỉnh Quảng Ngãi được thành lập. Cả nước lúc này có 30 tỉnh và 1 phủ (kinh đô Thừa Thiên).
Năm 1831, Lấy kinh sư (Thừa Thiên) làm trung tâm, triều đình nhà Nguyễn chia cả nước thành các trực kỳ trong đó tả trực gồm 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Năm 1884, với 2 hiệp ước Quý Mùi và Giáp Thân, nước Việt Nam, trong đó có tỉnh Quảng Ngãi, đã trở thành thuộc địa của Pháp.
Từ thời các chúa Nguyễn (lúc còn là cấp phủ) đến thời nhà Nguyễn độc lập (thời đã là tỉnh Quảng Ngãi), thì Quảng Ngãi luôn là địa phương quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (thời đó còn chưa được phân biệt rõ ràng và trực thuộc huyện Bình Sơn Quảng Ngãi), bằng các đội Hoàng Sa và Bắc Hải.
Thế kỷ 20
Từ năm 1909 (thời M. Dodey làm công sứ Quảng Ngãi từ 1907 - 1912) đến cuối của triều Nguyễn (1945) miền Trung châu Quảng Ngãi được chia thành 4 phủ là Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa và Mộ Đức, 2 huyện Nghĩa Hành, Đức Phổ gồm 21 tổng, 403 làng. Miền thượng được chia thành 4 nha gồm Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long và Ba Tơ với 27 tổng, 199 "nóc". Từ ngày 9 tháng 3 năm 1945 đến 19 tháng 8 năm 1945, tổ chức hành chánh ít thay đổi, nhưng thay đổi trên danh từ Tuần vũ gọi là tỉnh trưởng (lúc này gồm Bửu Trưng, Lê Văn Định), ở huyện gọi là huyện trưởng, chức Chánh, Phó sứ thời Pháp do một cơ quan hiến binh Nhật đảm trách.
Thời kỳ đầu của cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân năm 1945, tỉnh Quảng Ngãi được đổi tên là tỉnh Lê Trung Đình, phủ Tư Nghĩa đổi thành phủ Nguyễn Thụy(Sụy), xã Chánh Lộ lấy tên xã Nguyễn Viện v.v... Về tổ chức, lập liên xã, bỏ các làng cũ. Nhưng, sau một thời gian thay danh hiệu tỉnh, huyện, tổng, xã đều lấy lại tên cũ. Các phủ, huyện, nha trong tỉnh đều gọi tên thống nhất là huyện, gồm tất cả 10 huyện, tổng, 124 liên xã. Đảo Lý Sơn nhập vào huyện Bình Sơn nhưng năm 1952 bị quân Pháp chiếm đóng sáp nhập hải đảo vào thị xã Đà Nẵng.
Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa
Từ 26 tháng 6 năm 1954 đến năm 1971, tỉnh Quảng Ngãi được chia thành 10 quận gồm Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ. Số xã trong toàn tỉnh có thay đổi, năm 1968 có 158 xã, năm 1970 theo sự sáp nhập của Bộ Nội vụ 122 xã, 319 ấp.
Giải phóng tỉnh Quảng Ngãi và sau Thống nhất đất nước năm 1975
Ngày 24 tháng 3 năm 1975, tỉnh lỵ Quảng Ngãi và các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ được giải phóng. Ngày 29 tháng 3 năm 1975, tiếp tục giải phóng các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh. Ngày 31 tháng 3 năm 1975, đảo Lý Sơn nay là huyện Lý Sơn cũng giải phóng.
Tỉnh Nghĩa Bình
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, theo Nghị quyết số 245/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc bãi bỏ cấp khu, hợp nhất các tỉnh, hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình. Tháng 12 năm 1975, Quốc hội khoá V thông qua Nghị quyết thành lập các tỉnh hợp nhất, trong đó có tỉnh Nghĩa Bình. Đồng thời, thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã Quảng Nghĩa, hai huyện Nghĩa Hành và Minh Long hợp nhất thành huyện Nghĩa Minh.
Lúc này, địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũ có thị xã Quảng Nghĩa và 8 huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Mộ Đức, Nghĩa Minh, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng.
Ngày 24 tháng 8 năm 1981, chia thị xã Quảng Nghĩa thành thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa, chia lại huyện Nghĩa Minh thành hai huyện Nghĩa Hành và Minh Long.
Tái lập tỉnh Quảng Ngãi
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi.
Khi tách ra, tỉnh Quảng Ngãi có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị xã Quảng Ngãi và 10 huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa.
Ngày 1 tháng 1 năm 1993, thành lập huyện đảo Lý Sơn trên cơ sở tách 2 xã thuộc huyện Bình Sơn.
Ngày 6 tháng 8 năm 1994, chia huyện Sơn Hà thành hai huyện Sơn Hà và Sơn Tây.
Ngày 1 tháng 12 năm 2003, chia huyện Trà Bồng thành hai huyện Trà Bồng và Tây Trà.
Ngày 26 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 112/2005/NĐ-CP chuyển thị xã Quảng Ngãi thành thành phố Quảng Ngãi.
Ngày 24 tháng 9 năm 2015, thành phố Quảng Ngãi được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 1 tháng 2 năm 2020, chuyển huyện Đức Phổ thành thị xã Đức Phổ; sáp nhập huyện Tây Trà vào huyện Trà Bồng.
Tỉnh Quảng Ngãi có 1 thành phố, 1 thị xã và 11 huyện như hiện nay.
Hành chính
Tỉnh Quảng Ngãi có 13 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 11 huyện (gồm 1 huyện đảo, 5 huyện đồng bằng, 5 huyện miền núi) với 173 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 17 phường, 8 thị trấn và 148 xã.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của cả nước, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 ước đạt 51.224,84 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 9,6% so với năm 2017 và đạt 103,47% kế hoạch năm. Mức tăng trưởng GRDP năm 2018 khá cao nguyên nhân chính là do trong năm 2018 Nhà máy lọc dầu Dung Quất đảm bảo thời gian hoạt động 24/24, không tạm dừng để bảo trì, bảo dưỡng tổng thể như năm 2017 (làm cho sản lượng sản phẩm lọc hoá dầu năm 2017 đạt thấp, kéo theo GRDP năm 2017 đạt thấp). Ngoài ra, các ngành còn lại cũng đạt được những kết quả tích cực, đóng góp đáng kể vào mức tăng chung GRDP năm 2018 của tỉnh. Trong mức tăng chung 9,6% của toàn nền kinh tế năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 8.629,25 tỷ đồng, tăng 4,5%, đóng góp 0,80 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 26.868,27 tỷ đồng, tăng 12,07%, đóng góp 6,19 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ ước đạt 15.727,3 tỷ đồng, tăng 8,4%, đóng góp 2,61 điểm phần trăm. 1 Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 không tính sản phẩm lọc hóa dầu ước đạt 34.157,2 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 8,51% so với năm 2017 và đạt kế hoạch năm (KH: 8,5-9%).
Quy mô GRDP theo giá hiện hành năm 2018 ước đạt 73.618,48 tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 57,81 triệu đồng/năm (tương đương 2.514 USD). Cơ cấu kinh tế năm 2018 có sự chuyển dịch nhưng chậm, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 17,82% trong GRDP, giảm 1,15 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 52,01%, tăng 1,65 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 30,17%, giảm 0,50 điểm phần trăm
Về ngành đánh cá, tỉnh có gần 5.500 tàu cá với 7 nghiệp đoàn nghề cá gồm 2.350 đoàn viên (2014). Trong đó 405 tàu đánh bắt tại Hoàng Sa, Trường Sa.
Giai đoạn 6 tháng đầu năm 2012, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đạt 4.880 tỷ đồng, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2011 và bằng 47,3% so với kế hoạch năm 2012. Trong đó, sản xuất nông lâm thủy sản đạt 806,4 tỷ đồng, công nghiệp - xây dựng đạt 2.721,0 tỷ đồng, khu vực dịch vụ đạt 1.352,6 tỷ đồng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 12.780,25 tỷ đồng, Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 196,07 triệu USD, Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 6 tháng ước đạt 9.070 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 3.342,34 tỷ đồng. Ước đến ngày 30 tháng 6 năm 2012, trên địa bàn tỉnh có 3.638 doanh nghiệp, trong đó có 3.529 doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Về lĩnh vực chăn nuôi, tại thời điểm ngày 01 tháng 4 tháng 2012, đàn lợn của Quảng Ngãi ước đạt 481 ngàn con, đàn trâu có 60.889 con, đàn bò có 270.395 con, đàn gia cầm có 3,37 triệu con. So với thời điểm 01 tháng 4 năm 2011, đàn lợn giảm 3,9%, đàn trâu tăng 6,8%, đàn bò giảm 3,2%. Bò lai chiếm 48,3% tổng đàn.
Năm 2019, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) theo giá so sánh 2010 ước đạt 55.102 tỷ đồng tăng 6,7% so với năm 2018, đạt kế hoạch năm. Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 29.162,9 tỷ đồng, tăng 7,3%; khu vực dịch vụ ước đạt 16.948,8 tỷ đồng, tăng 7,3%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 8.990,3 tỷ đồng, tăng 3,5% so với năm 2018. GRDP không tính sản phẩm lọc hóa dầu ước đạt 37.710,5 tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 2018.
GRDP bình quân đầu người đạt 67,4 triệu đồng/người, tương đương 2.868 USD/người, vượt kế hoạch (kế hoạch: 2.682 USD). Về cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 53,64%; dịch vụ 29,17%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 17,19%.
Thu ngân sách nhà nước ước đạt 20.496 tỷ đồng, vượt 2,5% so với dự toán HĐND tỉnh giao. Công tác xúc tiến đầu tư, huy động vốn cho đầu tư phát triển đạt kết quả khá. Công tác phát triển doanh nghiệp đạt kết quả tích cực, đã thành lập mới 756 doanh nghiệp.
Giáo dục
Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2012, số trường trên địa bàn tỉnh được công nhận trường đạt chuẩn Quốc gia gồm có Mầm non 23/206 trường, tiểu học 121/224 trường, Trung học cơ sở là 63/165 trường, Trung học phổ thông là 13/39 trường. Thực hiện phổ cập mầm non cho trẻ em 05 tuổi đạt 97% kế hoạch.
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Quảng Ngãi có 437 trường học ở cấp phổ, trong đó có Trung học phổ thông có 35 trường, Trung học cơ sở có 166 trường, Tiểu học có 222 trường, trung học có 4 trường và 10 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 210 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Quảng Ngãi cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.
Hệ thống giáo dục Đại học của tỉnh Quảng Ngãi bao gồm:
Trường Đại học Phạm Văn Đồng (thuộc UBND tỉnh Quảng Ngãi);
Trường Đại học Tài chính Kế toán (thuộc Bộ Tài chính);
Trường Đại học Công nghiệp TP HCM chi nhánh Quảng Ngãi (thuộc Bộ Công Thương).
Ngoài ra còn có các Trường Cao đẳng bao gồm:
Trường Cao đẳng Y tế Đặng Thùy Trâm;
Trường Cao đẳng Công nghệ Dung Quất;
Trường Cao đẳng Việt - Hàn;
Trường Cao đẳng Quảng Ngãi;
Trường Cao đẳng nghề Cơ giới;
Trường Cao đẳng Công thương TP. HCM Chi nhánh Quảng Ngãi.
Đặc biệt, tỉnh Quảng Ngãi có Trường IEC (thành phố giáo dục quốc tế) với cơ sở hạ tầng hiện đại với triết lý giáo dục lãng mạn, hiện đại và có tính quốc tế hóa cao.
Ngoài ra còn có một số trường Trung cấp nghề khác...
Giao thông
Quảng Ngãi là đầu mối giao thông quan trọng xuyên suốt trên địa bàn tỉnh, có Quốc lộ 1, đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông, tuyến đường sắt Bắc - Nam (gồm 10 ga trên địa bàn tỉnh) và đường cao tốc Quảng Ngãi - Đà Nẵng chạy qua tỉnh. Trong đó chiều dài Quốc lộ 1 qua tỉnh dài 98 km. Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông qua tỉnh dài 125 km. Quốc lộ 24 nối liền Quốc lộ 1 đoạn qua nút giao tại thôn Thạch Trụ, xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, qua thị xã Đức Phổ, huyện Ba Tơ nối với tỉnh Kon Tum dài 69 km và Quốc lộ 24B dài 18 km, đây là tuyến giao thông quan trọng đối với Kon Tum và Quảng Ngãi trong quan hệ kinh tế, văn hoá giữa duyên hải và Tây Nguyên, giao lưu trao đổi hàng hoá, phát triển kinh tế miền núi gắn với an ninh quốc phòng. Phía Bắc tỉnh, giáp sân bay Chu Lai thuộc huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam). Tỉnh Quảng Ngãi có cảng Dung Quất (Bình Sơn). Đây là cảng biển tổng hợp Quốc gia có độ sâu và kín gió lý tưởng, có tổng sản lượng hàng hóa xếp dỡ lớn thứ 5 toàn quốc (năm 2019), có khả năng xếp dỡ hàng lỏng (lọc hóa dầu) và hàng rời. Cụm cảng này có khả năng cho phép đón các loại tàu với các kích cỡ khác nhau tùy theo bến. Đặc biệt, Cảng Hòa Phát Dung Quất đã cho phép cập cảng với tàu có kích thước lên đến đến 200000 DWT nhờ độ sâu và luồng tàu lý tưởng. Ngoài ra, với bờ biển dài 144 km, Quảng Ngãi có nhiều cửa biển, cảng quy mô nhỏ như Sa Kỳ, Sa Cần, Cửa Đại, Mỹ Á, Sa Huỳnh, Bến Đình (Lý Sơn)… có tiềm năng về giao thông đường thủy, thương mại và du lịch.
Biển số xe các huyện thuộc tỉnh Quãng Ngãi
Biển số xe hay còn gọi là biển đăng ký xe các huyện thuộc tỉnh Quãng Ngãi chi tiết như sau:
- Biển số xe Thành phố Quảng Ngãi: 76-B1, 76-U1, 76-V1
- Huyện Bình Sơn: 76-C1
- Huyện Sơn Tịnh: 76-D1
- Huyện Tư Nghĩa: 76-E1
- Huyện Nghĩa Hành: 76-F1
- Huyện Mộ Đức: 76-G1
- Thị Trấn Đức Phổ: 76-H1
- Huyện Trà Bồng: 76-P1
- Huyện Tây Trà: 76-S1
- Huyện Sơn Hà: 76-M1
- Huyện Sơn Tây: 76-N1
- Huyện Minh Long: 76-L1
- Huyện Ba Tơ: 76-K1
- Biển số xe Huyện Lý Sơn: 76-T1
- Biển số xe ô tô của tỉnh Quảng Ngãi: 76A, 76B, 76C, 76D, 76LD.
Văn hóa
Quảng Ngãi là mảnh đất có bề dày lịch sử về Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Chăm Pa, đặc biệt là hệ thống thành lũy Chàm. Bên cạnh đó là hai danh thắng nổi tiếng là "núi Ấn sông Trà". Quảng Ngãi là quê hương của Tả Tướng Lê Văn Duyệt, người đã 2 lần làm Tổng Trấn Thành - Gia Định; Anh hùng Dân tộc Trương Định, Trương Đăng Quế, Bạch Văn Vĩnh, Lê Trung Đình; nhiều nhà trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ tên tuổi: Nguyễn Vĩ, Bích Khê,Thanh Thảo, Tế Hanh, Trà Giang, Trương Quang Lục, Thế Bảo, Nhất Sinh; Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng; các vị tướng trong Quân đội Nhân dân Việt Nam như: Trung tướng Phạm Kiệt, Thượng tướng Trần Văn Trà, Nguyễn Chánh, Thiếu tướng Võ Bẩm ...
Các Lễ hội gồm Lễ hội nghinh cá Ông, Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa (Lý Sơn), Lễ hội đâm trâu, Lễ hội cầu ngư, Lễ hội đua thuyền truyền thống...
Du lịch
Quảng Ngãi là vùng đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá lâu đời như khu du lịch văn hoá Sa Huỳnh, dấu vết văn hoá cổ xưa như thành cổ Châu Sa, Gò Vàng…, có di tích lịch sử Ba Tơ, Sơn Mỹ, Ba Gia, Trà Bồng, Vạn Tường, nhiều cảnh đẹp như Thiên Ấn Niêm Hà, Thiên Bút Phê Vân, Thạch Bích Tà Dương, Cổ Luỹ Cô Thôn, Nước Trong – Cà Đam…, nhiều bãi biển như Mỹ Khê, Sa Huỳnh,… những tiềm năng trên là điều kiện để phát triển du lịch nghỉ dưỡng với nhiều loại hình, sản phẩm du lịch đa dạng.
Năm 2015 nhà đầu tư Vingroup đầu tư Trung tâm Thương mại Vincom tại Thành phố Quảng Ngãi nay đã hoàn thành. Năm 2019, nhà đầu tư FLC đã khởi công xây Khu nghỉ dưỡng vùng đất ven biển xã Bình Phú, Bình Châu, huyện Bình Sơn. Dự án này của FLC hiện nay đang bị UBND Tỉnh Quảng Ngãi tiến hành thu hồi.
Ngày 23/06/2022, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức lễ công bố biểu trưng (logo) du lịch Quảng Ngãi. Bộ nhận diện thương hiệu du lịch Quảng Ngãi với khẩu hiệu thương hiệu (Tagline) “KHÁM PHÁ QUẢNG NGÃI” - “EXPLORE QUANG NGAI” cùng với hình ảnh đặc trưng du lịch Quảng Ngãi là đảo Lý Sơn và Văn hóa Sa Huỳnh được xây dựng nhằm tạo ra nhận biết về thương hiệu du lịch Quảng Ngãi; tạo ra tương tác, trải nghiệm của du lịch Quảng Ngãi với các nhóm khách hàng mục tiêu trên nhiều nền tảng, nhiều hoạt động, sự kiện thu hút truyền thông; tăng cường liên kết, quảng bá thương hiệu du lịch; lan tỏa hình ảnh du lịch Quảng Ngãi và duy trì hiệu ứng truyền thông dài hạn.
Tỉnh kết nghĩa
Tỉnh Nghệ An
Tỉnh Champasack
Tỉnh Attapeu
Ghi chú
Liên kết ngoài
Báo Quảng Ngãi
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11252
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3ng%20B%C3%ACnh
|
Quảng Bình
|
Quảng Bình là một tỉnh ven biển nằm ở phía nam khu vực Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Nơi đây cũng là nơi có con sông Gianh - chia tách Đàng Trong, Đàng Ngoài và Luỹ Thầy do chúa Nguyễn xây dựng trong thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh.
Tỉnh Quảng Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện (6 huyện, 1 thành phố và 1 thị xã), 159 đơn vị hành chính cấp xã (136 xã, 16 phường và 7 thị trấn).
Địa lý
Vị trí địa lý
Tỉnh Quảng Bình nằm trải dài từ 16°55’ đến 18°05’ vĩ Bắc và từ 105°37’ đến 107°00’ kinh Đông, cách thủ đô Hà Nội 500 km về phía Nam, cách thành phố Đà Nẵng 267 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1. Có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Hà Tĩnh
Phía nam giáp tỉnh Quảng Trị
Phía tây giáp tỉnh Khammuane, tỉnh Savannakhet, Lào với đường biên giới 201,87 km
Phía đông giáp Biển Đông.
Các điểm cực của tỉnh Quảng Bình:
Điểm cực bắc tại: khu vực rừng phòng hộ Hương Hóa, xã Hương Hóa, huyện Tuyên Hóa.
Điểm cực đông tại: thôn Tây Thôn, xã Ngư Thủy, huyện Lệ Thủy.
Điểm cực tây tại: xã Trọng Hóa, huyện Minh Hóa.
Điểm cực nam tại: xã Kim Thủy, huyện Lệ Thủy.
Tỉnh Quảng Bình có diện tích 8.065,3 km², dân số là 936.607 (2018), mật độ dân số đạt 110 người/km².
Tỉnh lị của Quảng Bình là thành phố Đồng Hới. Tỉnh nằm ở nơi hẹp nhất theo chiều đông - tây của Việt Nam (50 km theo đường ngắn nhất tính từ biên giới Lào ra biển Đông). Tỉnh Quảng Bình giáp Hà Tĩnh về phía bắc với dãy Hoành Sơn là ranh giới tự nhiên; giáp Quảng Trị về phía nam; giáp Biển Đông về phía đông; phía tây là tỉnh Khăm Muộn và tây nam là tỉnh Savannakhet của Lào với dãy Trường Sơn là biên giới tự nhiên.
Địa hình
Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. 85% Tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển.
Địa hình có đặc trưng chủ yếu là hẹp và dốc, nghiêng từ tây sang đông, đồi núi chiếm 85% diện tích toàn tỉnh và bị chia cắt mạnh. Hầu như toàn bộ vùng phía tây tỉnh là núi cao 1.000-1.500 m, trong đó cao nhất là đỉnh Phi Co Phi 2017 m, kế tiếp là vùng đồi thấp, phân bố theo kiểu bát úp. Gần bờ biển có dải đồng bằng nhỏ và hẹp. Sau cùng là những tràng cát ven biển có dạng lưỡi liềm hoặc dẻ quạt.
Khí hậu
Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt:
Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm 2.000 - 2.300mm/năm. Thời gian mưa tập trung vào các tháng 9, 10 và 11.
Mùa khô từ tháng 4 đến tháng 8 với nhiệt độ trung bình 24 °C - 25 °C. Ba tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, 7 và 8.
Nhiệt độ bình quân các tháng trong năm của thành phố Đồng Hới, tỉnh lỵ tỉnh Quảng Bình.
Sông ngòi
Trên địa bàn tỉnh có 5 sông lớn là sông Gianh, sông Roòn, sông Nhật Lệ (là hợp lưu của sông Kiến Giang và sông Long Đại), sông Lý Hòa và sông Dinh với tổng lưu lượng 4 tỷ m³/năm. Các sông này do nhiều lưu vực hợp thành và đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn đổ ra biển.
Đất đai
Diện tích tự nhiên của tỉnh Quảng Bình năm 2007 là 8.065,27 km² (tổng diện tích: 806.527 ha), chia ra như sau:
Đất ở: 4.946 ha
Đất nông nghiệp: 71.381 ha
Đất lâm nghiệp: 601.388 ha
Đất chuyên dùng: 23.936 ha
Đất phi nông nghiệp khác: 20.670 ha
Đất chưa sử dụng: 72.619 ha.
Tài nguyên đất được chia thành hai hệ chính: Đất phù sa ở vùng đồng bằng và hệ pheralit ( nhóm đất đỏ vàng ) ở vùng đồi và núi với 15 loại và các nhóm chính như sau: nhóm đất cát, đất phù sa và nhóm đất đỏ vàng. Trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, chủ yếu ở địa hình đồi núi phía Tây, đất cát chiếm 5,9% và đất phù sa chiếm 2,8% diện tích.
Hệ động, thực vật
Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng.
Về động vật có: 493 loài, 67 loài thú, 48 loài bò sát, 297 loài chim, 61 loài cá... có nhiều loài quý hiếm như voọc Hà Tĩnh, gấu, hổ, sao la, mang lớn, gà lôi lam đuôi trắng, gà lôi lam mào đen, trĩ,...
Về đa dạng thực vật: Với diện tích rừng 486.688 ha, trong đó rừng tự nhiên 588.582,92 ha, rừng 543.048,92 ha, rừng trồng chưa thành rừng 45.534,07 ha. Thực vật ở Quảng Bình đa dạng về giống loài: có 138 họ, 401 chi, 640 loài khác nhau. Rừng Quảng Bình có nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, mun, huỵnh, thông và nhiều loại mây tre, lâm sản quý khác. Quảng Bình là một trong những tỉnh có trữ lượng gỗ cao trong toàn quốc. Hiện nay trữ lượng gỗ là 31 triệu m3.
Biển, đảo
Tỉnh có bờ biển dài 116,04 km (dài thứ 3 cả nước) ở phía Đông với 5 cửa sông, trong đó có hai cửa sông lớn, có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh, cảng Hòn La, Vịnh Hòn La có diện tích mặt nước 4 km², có độ sâu trên 15 mét và xung quanh có các đảo che chắn: Hòn La, Hòn Cọ, Hòn Chùa có thể cho phép tàu 3-5 vạn tấn vào cảng mà không cần nạo vét. Trên đất liền có diện tích khá rộng (trên 400 ha) thuận lợi cho việc xây dựng khu công nghiệp gắn với cảng biển nước sâu
Quảng Bình có vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 2 vạn km². Ngoài khơi lại có các đảo Hòn La, Hòn Gió, Hòn Nồm, Hòn Cỏ, Hòn Chùa nên đã hình thành các ngư trường với trữ lượng 10 vạn tấn hải sản các loại.
Bờ biển có nhiều thắng cảnh đẹp, cùng với thềm lục địa rộng gấp 2,6 lần diện tích đất liền tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn với trữ lượng khoảng 10 vạn tấn và phong phú về loài (1650 loài), trong đó có những loại quý hiếm như tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, san hô. Phía Bắc Quảng Bình có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha, đó là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất hàng mỹ nghệ và tạo ra vùng sinh thái của hệ san hô. Điều đó cho phép phát triển nền kinh tế tổng hợp vùng ven biển.
Mặt nước nuôi trồng thủy sản: Với 5 cửa sông, Quảng Bình có vùng mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản khá lớn. Tổng diện tích 15.000 ha. Độ mặn ở vùng mặt nước từ cửa sông vào sâu khoảng 10–15 km dao động từ 8-30%o và độ pH từ 6,5- 8 rất thuận lợi cho nuôi tôm cua xuất khẩu. Chế độ bán nhật triều vùng ven biển thuận lợi cho việc cấp thoát nước cho các ao nuôi tôm cua.
Thủy văn
Quảng Bình có hệ thống sông suối khá lớn với mật độ 0,8 - 1,1 km/km². Có năm sông chính là sông Roòn, sông Gianh, sông Lý Hòa, sông Dinh và sông Nhật Lệ. Có khoảng 160 hồ tự nhiên và nhân tạo với dung tích ước tính 243,3 triệu m3.
Khoáng sản
Quảng Bình có nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt, titan, pyrit, chì, kẽm... và một số khoáng sản phi kim loại như cao lanh, cát thạch anh, đá vôi, đá mable, đá granit... Trong đó, đá vôi và cao lanh có trữ lượng lớn, đủ điều kiện để phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng với quy mô lớn. Có suối nước khoáng nóng 105 °C. Trữ lượng vàng tại Quảng Bình có khả năng để phát triển công nghiệp khai thác và chế tác vàng.
Hành chính
Tỉnh Quảng Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã, 6 huyện với 151 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 8 thị trấn, 15 phường và 128 xã.
{|cellpadding= "0" cellspacing= "6" width= "100%" align= "center" style= "background: #f9f9f9; border: 1px #aaa solid; margin-top: 16px"
!colspan= "4" style= "background: #E6E6FA; font-size: 95%;" |Danh sách các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng Bình
|-
|width= "50%" valign= "top" style= "background: #f9f9f9;"|
{|cellpadding= "1" cellspacing= "1" style= "background: #f9f9f9; font-size: 90%; text-align: right;" width="100%"
|-
!align= "left" style= "border-bottom: 2px solid #CCCCFF; padding-left: 10px; white-space:nowrap"|Tên!! style= "border-bottom: 2px solid #CCCCFF;"|Dân số (người)!!style= "border-bottom: 2px solid #CCCCFF;" |Hành chính
|-
|colspan= "3" align= "left" style= "background: #F5F5DC; padding-left: 30px;"|Thành phố (1)
|-bgcolor= "#f5f5f5"
|align= "left" style= "padding-left: 6px; white-space:nowrap" | Đồng Hới || 133.672 ||9 phường, 6 xã
|-
|colspan= "3" align="left" style= "background: #F5F5DC; padding-left: 30px;"|Thị xã (1)
|-bgcolor= "#f5f5f5"
|align= "left" style= "padding-left: 6px; white-space:nowrap" | Ba Đồn || 106.413 ||6 phường, 10 xã
|-
|colspan= "3" align= "left" style= "background: #F5F5DC; padding-left: 30px;" |Huyện (6)
|-
|align= "left" style= "padding-left: 6px; white-space:nowrap" | Bố Trạch|| 188.375 ||3 thị trấn, 25 xã
|}
|width= "50%" valign="top" style= "background: #f9f9f9;"|
|valign= "top" style= "background: #f9f9f9; font-size: 90%" |
|-
|colspan="14" style="text-align: center; font-size:90%;"|Nguồn: Dân số tỉnh Quảng Bình năm 2019
|}
Lịch sử
Trong phương ngữ tiếng Việt ở Quảng Bình, Quảng Bình từng được phát âm là Quảng Bường.
Trong thời kỳ Bắc thuộc, khu vực ngày nay là Quảng Bình có giai đoạn thuộc quận Tượng Lâm, có giai đoạn thuộc quận Nhật Nam. Năm 192, Quảng Bình nằm trong lãnh thổ Lâm Ấp. Đến năm 758 Lâm Ấp đổi tên là Chiêm Thành, Quảng Bình nằm trong 2 châu: Châu Bố Chính và Châu Địa Lý. Khu vực này đã thuộc về Đại Việt sau cuộc chiến tranh Việt Chiêm 1069. Lý Thường Kiệt là người đã xác định và đặt nền móng đầu tiên của vùng đất Quảng Bình trọn vẹn trong cương vực lãnh thổ Đại Việt.
Trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước bị chia cắt tại sông Gianh phía bắc tỉnh Quảng Bình. Đồng Hới đã trở thành tiền đồn quan trọng của chúa Nguyễn với Lũy Thầy và thành Đồng Hới. Từ ngày 20 tháng 9 năm 1975 đến ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Bình được sáp nhập vào tỉnh Bình Trị Thiên (xứ Thuận Hóa cũ). Ngày 30 tháng 6 năm 1989, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Bình Trị Thiên để tái lập tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên Huế. Tỉnh Quảng Bình mang tên từ đó đến nay.
Các khai quật khảo cổ ở khu vực đã chứng tỏ rằng đã có loài người sinh sống ở khu vực này từ thời kỳ đồ đá. Nhiều hiện vật như bình sử, sành, công cụ lao động đã được phát hiện ở đây.
Năm 1926, một vị nữ khảo cổ người Pháp Madeleine Colani đã phát hiện nhiều di vật ở các hang động phía tây Quảng Bình. Bà đã kết luận rằng đã có sự hiện diện của văn hóa Hòa Bình ở khu vực này.
Thời nhà nước Văn Lang, Quảng Bình nói riêng và vùng Bình Trị Thiên nói chung thuộc bộ Việt Thường, là địa điểm cực nam của nước Văn Lang. Thời Hán, Quảng Bình thuộc quận Nhật Nam. Sau khi nhà nước Lâm Ấp (tiền thân của nhà nước Chăm Pa) giành được độc lập năm 192 (thuộc Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), các triều vua Champa thường vượt đèo Hải Vân tiến ra cướp phá đất Nhật Nam và Cửu Chân và họ đã làm chủ vùng đất từ đèo Ngang trở vào khi nhà Tấn (Trung Quốc) suy yếu. Từ đó Quảng Bình là vùng đất địa đầu của Champa đối với các triều đại Trung Hoa cũng như các triều đại Việt khi người Việt đã giành được độc lập.
Năm 1069, Lý Thánh Tông - vua của Đại Việt đánh Champa bắt được vua Champa đưa về Thăng Long, để được tha vua Champa đã dâng đất (Địa Ly, Bố Chính, Ma Linh) tương ứng với tỉnh Quảng Bình và các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, bắc Hướng Hóa của Quảng Trị ngày nay cho Đại Việt và Quảng Bình chính thức thuộc về Đại Việt từ năm 1069.
Đời Lê Trung Hưng có tên là Tiên Bình. Năm 1604, đổi tên là Quảng Bình.
Chúa Nguyễn Phúc Khoát chia Quảng Bình thành 3 dinh: dinh Bố Chính (trước là dinh Ngói), dinh Mười (hay dinh Lưu Đồn), dinh Quảng Bình (hay dinh Trạm).
Tỉnh được thành lập năm 1831, đặt phủ Quảng Ninh, sau đặt thêm phủ Quảng Trạch.
Năm 1976 ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên, đến năm 1989 lại tách ra như cũ.
Khi tách ra, tỉnh Quảng Bình có 5 đơn vị hành chính gồm thị xã Đồng Hới và 4 huyện Bố Trạch, Lệ Ninh, Quảng Trạch, Tuyên Hóa.
Ngày 1 tháng 6 năm 1990, chia huyện Lệ Ninh thành 2 huyện: Lệ Thủy và Quảng Ninh; tái lập huyện Minh Hóa từ huyện Tuyên Hóa.
Ngày 16 tháng 8 năm 2004, chuyển thị xã Đồng Hới thành thành phố Đồng Hới.
Ngày 20 tháng 12 năm 2013, thành lập thị xã Ba Đồn trên cơ sở tách một số diện tích và dân số của huyện Quảng Trạch. Tỉnh Quảng Bình có 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện như hiện nay.
Ngày 30 tháng 7 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1270/QĐ-TTg công nhận thành phố Đồng Hới là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Bình.
Kinh tế - xã hội
Năm 2018, Quảng Bình là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 47 về số dân, xếp thứ 50 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 51 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 55 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 887,6 nghìn dân, GRDP đạt 29.600 tỉ Đồng (tương ứng với 1,274 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 60 triệu đồng (tương ứng với 2.582 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,2 %.
Cơ cấu kinh tế: năm 2016: nông, lâm nghiệp và thủy sản: 22,9%, công nghiệp - xây dựng: 25,7%, dịch vụ: 51,4%. Tổng mức đầu tư toàn tỉnh năm 2016 là 10.824 tỷ đồng.
Tỉnh Quảng Bình có dự án cảng Hòn La và khu công nghiệp Hòn La đang xây dựng, khi hoàn thành sẽ là động lực phát triển kinh tế cho tỉnh này. Cảng Hòn Là được xây dựng trên diện tích 32,3 ha với công suất thiết kế 10-12 triệu tấn/năm. Ngoài ra, ở đây còn có khu công nghiệp Hòn La, Nhà máy đóng tàu với tổng mức đầu tư 4.500 tỷ đồng; Nhà máy Nhiệt điện có tổng mức đầu tư hơn 1 tỷ USD có công suất 1.200 MW.
Tỉnh Quảng Bình có hai khu kinh tế đặc biệt, Khu kinh tế Hòn La và Khu Kinh tế cửa khẩu Cha Lo và 6 khu công nghiệp khác.
Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,01%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 45.976 tỉ đồng, trong đó thu nội địa đạt 34.323 tỉ đồng, thu xuất nhập khẩu đạt 11.600 tỉ đồng (không bao gồm 365 tỉ đồng ghi thu ghi chi và 53 tỉ đồng thu huy động đóng góp).
Giáo dục
Quảng Bình xếp thứ 22 về tỉ lệ hộ nghèo của cả nước, dân số không đông, nhưng lại là nơi mà con người luôn chịu khó, cần cù học tập từ đời này sang đời khác, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau để tạo nên truyền thống hiếu học, học có hiệu quả để mong thoát cảnh nghèo khổ, phục vụ cho quê hương, phụng sự quốc gia.
Năm học 2017 - 2018 toàn tỉnh có 590 trường. Trong đó có 182 trường và cơ sở giáo dục mầm non; 209 trường tiểu học; 147 trường trung học cơ sở; 19 trường phổ thông cơ sở; 6 trường phổ thông trung học và 27 trường trung học phổ thông. Tổng số phòng học các cấp học mầm non và phổ thông 7.205 (trong đó, có 5.146 phòng kiên cố, tỷ lệ 71,4%; 1.940 phòng bán kiên cố, tỷ lệ 26,9%). Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên cấp học mầm non và phổ thông có: 19.435 người (cán bộ quản lý: 1.472 người, giáo viên 14.055 người và nhân viên 3.908 người). Quy mô học sinh đầu năm học các cấp học mầm non và phổ thông, toàn tỉnh có 219.791 học sinh; trong đó, giáo dục mầm non 61.620 cháu; tiểu học 73.754 học sinh; trung học cơ sở 54.647 học sinh; trung học phổ thông 29.770 học sinh.
Về phổ cập giáo dục trung học cơ sở: Kết thúc năm học 2016 - 2017, đã có 159/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên, trong đó, có 154/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 trở lên (tỷ lệ 96,9%); có 90/159 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 3 (tỷ lệ 56,6 %); có 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1 trở lên; trong đó, có 5/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn PCGD THCS mức độ 2 trở lên (tỷ lệ 62,50%) và thành phố Đồng Hới đạt chuẩn mức độ 3. Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 1.
Về phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi: Kết thúc năm học 2016 - 2017, đã có 158/159 xã, phường, thị trấn (đạt tỷ lệ 99,4%) và 8/8 huyện, thị xã, thành phố đạt chuẩn. Tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi.
Về công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia: Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia được quan tâm chỉ đạo, thực hiện lồng ghép xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia gắn với tiêu chí nông thôn mới và xây dựng trường học thân thiện; tổng số trường mầm non, phổ thông được công nhận đạt chuẩn Quốc gia lên 325/589 trường, đạt tỷ lệ 55,2% (trong đó, có 67/180 trường mầm non, đạt tỷ lệ 37,2%; 168/211 trường tiểu học, đạt tỉ lệ 79,6%; 77/165 trường trung học cơ sở, đạt tỉ lệ 46,67% và 13/33 trường trung học phổ thông và trường phổ thông trung học, đạt tỉ lệ 39,39%).
Về kết quả thi học sinh giỏi cấp Quốc gia năm học 2016 - 2017: có 36/58 học sinh dự thi đạt giải. Trong đó, Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp đã giành được 2 giải Nhất, 8 giải Nhì, 18 giải Ba và 8 giải Khuyến khích, nổi lên có ba học sinh là em Hầu Hải Phong đạt giải Nhất môn Sinh học, em Hoàng Thị Như Quỳnh đạt giải Nhất môn Địa lý và em Nguyễn Thế Quỳnh đạt giải Nhì môn Vật lý.
Về kết quả thi học sinh giỏi Quốc tế: Kỳ thi Olympic Vật Lý châu Á lần thứ 18 năm 2017 được tổ chức tại Yakutsk, Cộng hòa Sakha, Liên bang Nga, em Nguyễn Thế Quỳnh học sinh Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp đã xuất sắc giành Huy chương Bạc với số điểm cao nhất trong số Huy chương Bạc của đoàn Việt Nam và được chọn là 1 trong 5 đại diện tiêu biểu Việt Nam tham gia kỳ thi Olympic Vật Lý thế giới được tổ chức từ ngày 17-24/7 tại Indonesia. Kết quả, cả năm em đều đoạt giải, với 4 huy chương vàng, 1 huy chương bạc; trong đó em Nguyễn Thế Quỳnh đã xuất sắc giành huy chương vàng. Nguyễn Thế Quỳnh là học sinh đầu tiên giành 2 huy chương vàng thế giới trong lịch sử Giáo dục và Đào tạo Quảng Bình.
- Đào tạo: Quảng Bình có 1 trường Đại học, 4 trường Cao đẳng, 2 trường Trung cấp:
Năm học 2017 - 2018 Trường Đại học Quảng Bình, trường Đại học duy nhất có trụ sở ở tỉnh này có chỉ tiêu tuyển sinh là 2.090 chỉ tiêu, bao gồm 1.330 chỉ tiêu đại học và 300 cao đẳng sư phạm và 460 chỉ tiêu cao đẳng ngoài sư phạm; thời gian xét tuyển được trình tự theo kế hoạch hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo. Qua các đợt xét tuyển từ kết quả của kỳ thi Quốc gia, Trường Đại học Quảng Bình đã tuyển mới và nhập học tại trường là 833 sinh viên; trong đó: hệ đại học 412 sinh viên, hệ cao đẳng 110 sinh viên, hệ liên thông 291 sinh viên và học văn bằng hai hệ đại học là 20 sinh viên. Sinh viên Đại học, Cao đẳng chính quy chỉ tuyển được khoảng 1/3 so với chỉ tiêu được giao.
Trường Cao đẳng Luật miền Trung
Trường Cao đẳng Y tế Quảng Bình
Trường Cao đẳng Kỹ thuật Công - Nông nghiệp Quảng Bình
Trường Cao đẳng Nghề Quảng Bình
Trường Trung cấp nghề Bình Minh - Quảng Bình
Trường Trung cấp Du lịch - Công nghệ số 9
Trường THPT Chuyên Võ Nguyên Giáp
Dân cư
Theo tổng điều tra dân số tính đến ngay 1 tháng 4 năm 2019, dân số Quảng Bình đạt 895.430 người. Trên địa bàn tỉnh có 24 dân tộc anh em cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là người Kinh, khoảng 97%. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-Vân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hóa và Minh Hóa và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy. Dân cư phân bố không đều do địa hình dốc hẹp, 60% sống ở vùng nông thôn và 30% sống ở thành thị.
Quảng Bình có nguồn lao động dồi dào với 530.064 người, chiếm khoảng 60,72% dân số. Trong đó tỷ lệ lao động nam/ nữ lần lượt là 265.206/ 264.858 người. Về chất lượng nguồn nhân lực cho đến cuối năm 2016: có 4 Phó giáo sư, 63 Tiến sĩ, 69 Bác sĩ Chuyên khoa II, 168 Bác sĩ Chuyên khoa I, 2015 Thạc sĩ, 30653 người có trình độ Đại học, 20664 có trình độ Cao đẳng-Trung cấp. Lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 63,1 % tổng số lao động.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 6 tôn giáo khác nhau đạt 101.946 người, nhiều nhất là Công giáo có 101.246 người, tiếp theo là Phật giáo có 680 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 16 người, Hồi giáo có hai người, Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài mỗi tôn giáo chỉ có một người.
Văn hóa
Quảng Bình là vùng đất văn vật, nổi tiếng với di chỉ văn hóa Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền văn hóa Hòa Bình,Đông Sơn và Sa Huỳnh, nhiều di tích lịch sử như: Quảng Bình Quan, Luỹ Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, Thành Khu Túc-Chămpa, thành quách của thời Trịnh - Nguyễn, nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đại, đường Hồ Chí Minh v.v... Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hóa nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác như "Bát danh hương": "Sơn- Hà- Cảnh - Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim". Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hoă - xã hội như Dương Văn An, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Tuy Lộc hầu Đặng Đại Lược, Lãnh Đức hầu Đặng Đại Độ, Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ Nguyên Giáp, Ngô Đình Diệm,
Quảng Bình là vùng giao thoa của hai nền văn hóa cổ Việt - Chămpa, thể hiện ở những di chỉ có niên đại 5 nghìn năm đã khai quật được ở Bàu Tró, phía bắc Đồng Hới.
Ẩm thực
Các đặc sản Quảng Bình đậm nét ẩm thực vùng miền như: hải sản Quảng Bình, khoai deo, nhút tép Lệ Thủy, bánh mè xát Tân An, cam mật Hiền Ninh, ốc đực, sò huyết sông Ròn, muối cheo, rượu sim Lệ Thủy, bánh xoài, rượu cần Ma Coong Thượng Trạch, bánh gai Lệ Thủy, cơm gà thúng Lạc Sơn, măng, nước mắm Bảo Ninh, bánh khoái, rượu Võ Xá, gỏi cá nghéo, nếp than Ngân Thủy, bánh bột lọc, nhộng tằm lá sắn Xuân Hóa, thịt lợn khùa, bánh xèo Quảng Hòa, đẻn biển, mật mía làng Khiên, bánh cuốn ruốc tôm, dưa hấu Hàm Ninh, mật ong rừng, chắt chắt sông Gianh, rượu đoác, trứng kiến nấu lá bún Minh Hóa, sim rừng, nước mắm Cảnh Dương, cá mát, cháo hàu Quán Hàu, rau dớn, sâm Bố Chính, thịt trâu lá trơng, cháo canh Quảng Bình, bánh bèo, cơm bồi Minh Hóa, hạt tiêu, cháo măng rừng Lâm Hóa, tỏi tía Quảng Minh, cá trắm sông Son, nấm tràm, bánh bèo tôm chấy.
Danh lam thắng cảnh
Quảng Bình nổi tiếng với di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và Hang Sơn Đoòng - Hang động tự nhiên lớn nhất thế giới
Hang Sơn Đoòng cách Đồng Hới 70 km và là một dải kỳ quan nằm sâu trong lòng núi, cách đỉnh núi 800 – 900 m. Dài 7729 m, động có 14 hang do dòng sông ngầm dài 13.969 m hòa tan đá vôi tạo thành.
Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đã UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới năm 2003. Động Phong Nha là một động đẹp có sông ngầm và có bảy cái nhất: (1) Hang nước dài nhất; (2) Cửa hang cao và rộng nhất; (3) Bãi cát, đá rộng và đẹp nhất; (4) Hồ ngầm đẹp nhất; (5) Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất; (6) Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam; (7) Hang khô rộng và đẹp nhất.
Di tích lịch sử
Hiện vật Bàu Tró
Thành Đồng Hới
Lũy Thầy
Thành Nhà Ngo
Thành Khu Túc
Các di tích lịch sử - văn hóa và thắng cảnh nổi tiếng:
Quảng Bình có nhiều di tích danh thắng cấp Quốc gia được Nhà nước công nhận, nhiều di tích được UBND tỉnh ra quyết định bảo vệ, và nhiều di tích ở địa phương cơ sở chưa được xếp hạng.
Có thể phân theo các loại hình sau đây:
Di tích khảo cổ học gồm có:
- Di tích cấp Quốc gia: Di chỉ Bàu Tró (Đồng Hới),
- Di tích UBND tỉnh ra QD bảo vệ: Hang Minh Cầm
- Các di tích đưa vào danh mục kiểm kê: - Di chỉ Thóc Lóc (Bố Trạch), Di chỉ Hang Trăn (Minh Hóa), Di chỉ Hóa Tiến - Hóa Hợp (Minh Hóa), Di chỉ Minh Cầm (Tuyên Hóa), Di chỉ Ba Đồn I, II (Ba Đồn), Di chỉ Bàu Khê (Bố Trạch), Di chỉ Cồn Nền (Ba Đồn), Di chỉ Gốm sành Mỹ Cương (Đồng Hới)...Di tích kiến trúc (Thành lũy đền, chùa, đình, miếu) gồm có:
- Di tích cấp Quốc gia: Thành Đồng Hới, Lũy Thầy (Lũy Đào Duy Từ- Quảng Ninh, Đồng Hới), Đình Hòa Ninh (Ba Đồn), Đình Minh Lệ (Ba Đồn), Đình Đồng Dương (Quảng Trạch), Đình Lý Hòa (Bố Trạch), Chùa An Xá (Lệ Thủy), Quảng Bình quan (Đồng Hới), Đình Lũ Phong (Ba Đồn), Đình Phù Trịch (Ba Đồn), Điện Thành Hoàng Vĩnh Lộc (Ba Đồn). Đình Tượng Sơn và lăng mộ danh tướng Nguyễn Dụng (Ba Đồn)...
- Di tích UBND ra QĐ bảo vệ: Hoành Sơn Quan (Quảng Trạch), Đền Công chúa Liễu Hạnh (Quảng Trạch), Đình Thọ Linh (Ba Đồn), Đình La Hà (Ba Đồn), Đình Lộc Điền (Quảng Trạch), Chùa Quan Âm tự (Bố Trạch), Đền Truy Viễn Đường (Ba Đồn), Đình Thuận Bài (Ba Đồn)...
- Di tích ở các địa phương chưa xếp hạng được đưa vào danh mục kiểm kê: Thành Nhà Ngo (Lệ Thủy), Thành Kẻ Hạ (Bố Trạch), Lũy Hoàn Vương (Quảng Trạch).Di tích lưu niệm danh nhân gồm có:
- Các di tích cấp Quốc gia: - Lăng mộ và miếu thờ Hoàng Hối Khanh (Lệ Thủy), Lăng mộ Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Lệ Thủy), Lăng mộ Hồ Hồng (Hồ Cưỡng - Bố Trạch), Nhà thờ và mộ Đề đốc Lãnh binh Hà Nội Lê Trực (Tuyên Hóa), Lăng mộ và nhà bia tưởng niệm Mai Lượng (Ba Đồn).
- Các di tích UBND tỉnh ra QĐ bảo vệ và di tích đưa vào danh mục kiểm kê: Lăng mộ Hoàng Kế Viêm (Quảng Ninh), Song Trung miếu bia (Quảng Trạch), Lăng mộ Nguyễn Hàm Ninh (Quảng Trạch), Lăng mộ danh tướng Lê Sỹ (Quảng Ninh), Lăng mộ Võ Xuân Cẩn (Lệ Thủy), Đền thờ và lăng mộ Lê Mộ Khởi (Bố Trạch), Nhà thờ Vĩnh An hầu Nguyễn Hữu Cảnh (Quảng Ninh).Các di tích lịch sử gồm có:
- Các di tích cấp Quốc gia: Các điểm di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Quảng Bình (Đồng Hới), Di tích làng chiến đấu Cảnh Dương (Quảng Trạch), Di tích Chiến khu Trung Thuần (Quảng Trạch), Di tích làng chiến đấu Cự Nẫm (Bố Trạch), Di tích chiến thắng Xuân Bồ (Lệ Thủy), Di tích Bến đò Mẹ Suốt (Đồng Hới), Di tích Trận địa đại đội nữ pháo binh Ngư Thủy (Lệ Thủy), Di tích miếu Mỹ Thổ -Trung Lực (Lệ Thủy), Di tích Bến phà Gianh (Ba Đồn - Bố Trạch), Di tích Nhà nhóm thôn Trung (Quảng Ninh), Di tích Bến phà Long Đại (Quảng Ninh), Di tích Ga Kẻ Rấy (Bố Trạch), Di tích Khu Giao tế (Đồng Hới), Di tích Trận địa pháo lão dân quân Đức Ninh (Đồng Hới), Hang Lèn Hà (Thanh Hóa-Tuyên Hóa).Các di tích Đường Hồ Chí Minh cấp Quốc gia: Di tích A 72 (Lệ Thủy), Các hang động Hóa Thanh, Hóa Tiến (Minh Hóa), Di tích cụm chỉ huy Đoàn 559 ở Hiền Ninh (Quảng Ninh), Các di tích trọng điểm trên đường 12 A (Minh Hóa): La Trọng, Bãi Dinh, Khe Tang, Đồi 37, Cha Lo, Cổng Trời, Hang Dơi, Hang Tiên; Các trọng điểm trên Đường 20 Quyết Thắng, Khu di tích Xuân Sơn Phong Nha. -Các di tích Đường Hồ Chí Minh UBND tỉnh ra QĐ bảo vệ: Ngã tư Thạch Bàn, Bang- Ho (Lệ Thủy), Bến phà Quán Hàu, Km0 Đường 10 Quảng Ninh), Cảng cá Thanh Khê, Sân bay Khe Gát (Bố Trạch)
- Các di tích UBND tỉnh ra QĐ bảo vệ và di tích đưa vào danh sách kiểm kê: Di tích nhà lao Đồng Hới (Đồng Hới), Di tích Trụ sở Tỉnh ủy (Đồng Hới), Di tích Xưởng chế tạo vũ khí Quy Hậu (Lệ Thủy), Di tích Ngôi nhà ông Lê Bá Tiệp (Đồng Hới), Di tích Bãi Đức (UBND- Tuyên Hóa), Di tích Điểm chiến thắng Giếng Hóc (Bố Trạch), Địa điểm Đại hội Đảng bộ Đồng Hới- Lầu Thuận Long (Đồng Hới), Di tích Địa điểm Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ II Đình Kim Bảng và Lèn Cây Quýt (Minh Hóa), Di tích Trung tâm xã chiến đấu Hưng Đạo (Lệ Thủy), Di tích Tiếng bom Lộc Long (Quảng Ninh), Di tích làng chiến đấu Quảng Xá (Quảng Ninh), Di tích Ga Thuận Lý (Đồng Hới), Di tích Sở Chỉ huy BCH Quân sự tỉnh 1965-1973 (Đồng Hới), Di tích Hang lèn Đại Hòa (Tuyên Hóa), Di tích làng chiến đấu Hiển Lộc (Quảng Ninh), Di tích địa điểm thành lập Trung đoàn 18 (Tuyên Hóa), Di tích chi bộ Ngọa Cương- Thanh Thủy (Quảng Trạch), Di tích Trận chiến thắng Phù Trịch (Ba Đồn), Di tích trận địa pháo Quang Phú (Đồng Hới), Di tích Nhà lưu niệm Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Lệ Thủy), Di tích Địa đạo Văn La (Quảng Ninh), Di tích Chiến khu Thuận Đức (Đồng Hới), Chứng tích tội ác địch trong chiến tranh: Đồn Hòa Luật Nam (Lệ Thủy), Tháp nước, Cây đa Chùa Ông, Tháp chuông Nhà thờ Tam Tòa (Đồng Hới)Các di tích gắn với thắng cảnh nổi tiếng:
- Cấp quốc gia: Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Khu Danh thắng Đá Nhảy - Lý Hòa (Bố Trạch), Khu thắng cảnh Cửa biển Nhật Lệ' (Đồng Hới)
- Khu danh thắng UBND tỉnh ra Quyết định: Chùa Non núi Thần Đinh (Quảng Ninh)
- Các khu danh thắng khác: Suối Moọc, Vịnh Hòn La Quảng Trạch, Khu nước khoáng nóng Bang Lệ Thủy.
Du lịch
Dải đất Quảng Bình như một bức tranh tuyệt đẹp, có rừng, có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Khe Nét, cửa bãi biển Nhật Lệ, Bãi biển Đá nhảy, phá Hạc Hải, Cổng Trời… và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới đây cũng được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam. Hang Sơn Đoòng được công nhận là hang động lớn nhất thế giới. Với hệ thống hang động phong phú tìm thấy cho đến nay, Quảng Bình đã được mọi người gọi là Vương quốc hang động. Ngày 13/5/2015, Hang Sơn Đoòng của Quảng Bình xuất hiện trên chương trình Good Morning American trên kênh ABC của nước Mỹ đã đưa Quảng Bình và du lịch Quảng Bình đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Gần đây đoàn làm phim bom tấn nổi tiếng thế giới Kong: Skull Island đến từ Hollywood Mỹ đã thực hiện nhiều cảnh quay tại hệ thống hang động Quảng Bình ra mắt những thước phim mãn nhãn vào ngày 10/3/2017.
Quảng Bình có một dải dài bãi biển tuyệt đẹp với cát trắng, nước biển xanh, song do quy hoạch chưa rõ ràng và giao thông chưa tốt nên chưa phát huy được tiềm năng.
Tháng 1 năm 2009, báo Los Angeles Times của Mỹ đã chọn Đồng Hới và vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng vào danh sách 29 điểm đến trong năm 2009 Năm 2014 cùng với Động Sơn Đoòng, Quảng Bình đã được The New York Times bầu chọn là điểm đến hấp dẫn nhất châu Á. Quảng Bình cũng được nhiều tờ báo nổi tiếng bầu chọn là một trong những điểm đến hấp dẫn và giá rẻ. Năm 2015, Quảng Bình đón trên 3 triệu tăng 8,9% và doanh thu đạt 3.300 tỷ đồng tăng 8% so với cùng kỳ 2014.
Hang Sơn Đoòng là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới, là kỳ quan thiên nhiên và địa chất của nhân loại,thuộc quần thể hang động Phong Nha - Kẻ Bàng, tọa lạc tại xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình nước ta. Cho tới nay, đây luôn được coi là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới từng được phát hiện. Kích thước của hang Sơn Đoòng rất lớn với chiều dài ít nhất là 5 km, tương đương sức chứa khoảng 68 chiếc máy bay Boeing 777.
Thậm chí, con số này có thể lớn hơn bởi theo các nhà khoa học, những phương tiện hiện đại nhất ngày nay cũng chưa khám phá được hết chiều dài thực sự của hang động này.Trong hang Sơn Đoòng, các chuyên gia phát hiện những vị trí có kích thước rất lớn. Một bức ảnh do nhiếp ảnh gia Carten Peter chụp tháng 5/2010 ghi nhận đoạn hang có bề rộng 91,44m và vòm cao gần 243,84m - hoàn toàn “nhét” vừa một tòa nhà cao 40 tầng ở New York.Trang National Geographic thậm chí còn so sánh rằng, hang cao tới mức xếp chồng 25 chiếc xe bus hai tầng vào vẫn thoải mái.Sự hùng vĩ và đồ sộ về cảnh quan của hang Sơn Đoòng khiến nó được thế giới vinh danh là “The Great Wall of Viet Nam” (hiểu là "Vạn Lý Trường Thành" của Việt Nam, giống như “The Great Wall of China” là Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc).
Đồng Hới là thành phố trẻ được ví như là Nha Trang ở phía bắc Đèo Hải Vân, có đường bờ biển dài 14 km với hàng loại Khách sạn Và Resort Cao cấp ven biển.Trong tương lai gần đây sẽ là Thành phố du lịch Mới của Việt Nam.Cùng với Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đây sẽ là một tổ hợp du lịch hấp dẫn hàng đầu Châu Á.
Giao thông
Giao thông Quảng Bình gần như hội tụ đầy đủ tất cả các loại hình giao thông quan trọng, bao gồm:
Đường bộ:
Huyết mạch: Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông đang xây dựng, Quốc lộ 1, Đường Hồ Chí Minh, Đường ven biển
Trong tỉnh: Quốc lộ 12C, Quốc lộ 12A, Quốc lộ 9B, Quốc lộ 9C, Quốc lộ 9E, Quốc lộ 15
Đường sắt: Đường sắt Bắc Nam
Đường biển: Cảng Hòn La, Cảng Gianh, Cảng Nhật Lệ
Đường hàng không: sân bay Đồng Hới
Quảng Bình là đầu mối giao thông, nằm ở trung điểm và nơi hẹp nhất của Việt Nam với khoảng cách chưa đến 50 km từ mép biển Đông đến biên giới Việt - Lào. Giao thông đường thủy có Cảng Hòn La (12 triệu tấn/năm) do Tổng công ty Dịch vụ kỹ thuật Dầu khí (PTSC) thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam quản lý vận hành và phát triển. Ngoài ra còn có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh.. Giao thông đường bộ có Quốc lộ 1 dài 122 km (dài thứ 5 cả nước), Đường Hồ Chí Minh (dài nhất nước) với nhánh Đông dài 200 km và nhánh Tây dài 197 km, Quốc lộ 12A, Quốc lộ 12C, Quốc lộ 9B, Quốc lộ 15A. Giao thông đường sắt có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua tỉnh tổng cộng 174,5 km (một trong hai tỉnh dài nhất nước) với 21 ga trong đó có ga Đồng Hới là một trong 8 ga chính của cả nước và 3 ga:Đồng Lê, Minh Lệ và Mỹ Đức có tàu Thống Nhất dừng đổ đón trả khách. Giao thông đường hàng không có Sân bay Đồng Hới, cùng với Sân bay quốc tế Phú Bài, Sân bay Vinh và Sân bay Thọ Xuân là một trong bốn sân bay chính của Vùng Bắc Trung Bộ, với tuyến bay nối Sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội), và Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh, sân bay Cát Bi (Hải Phòng), sân bay quốc tế Chiang Mai (Chiang Mai) của các hãng hàng không: Vietnam Airlines, VietJet Air, Jetstar Pacific Airlines, Bamboo Airways. Năm 2016, Sân bay Đồng Hới đón 365.820 lượt khách (tăng 39,96% so với 261.372 lượt khách năm 2015), năm 2017 đạt 468.000 lượt khách.
Năm 2018, Tập đoàn FLC đã đề xuất thực hiện dự án đầu tư nâng cấp mở rộng sân bay Đồng Hới. Dự án đầu tư nâng cấp sân bay này sẽ được tiến hành từ quý 4/2018 và hoàn thành công tác nâng cấp vào năm 2020, lúc đó đường băng sân bay này sẽ đạt cấp 4E với chiều dài 3.600m và chiều rộng 45 m, có thể phục vụ các loại tàu bay dân dụng lớn nhất như A350, Boeing 787 Dreamliner, với hai nhà ga (quốc tế và nội địa), tổng công suất thiết kế 10 triệu lượt khách/năm. Sau khi hoàn thành nâng cấp, sẽ có nhiều tuyến bay nội địa và quốc tế sẽ được mở tại sân bay này.
Quốc lộ 12A, Quốc lộ 12C, Quốc lộ 9B là những tuyến đường chính nối với Lào - Thái Lan qua cửa khẩu quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ khác đến các cảng biển Vũng Áng, Gianh, Hòn La...
Danh nhân
Một số người Quảng Bình nổi tiếng: Dương Văn An, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh, Trung tướng Phạm Hồng Thanh, Trung tướng Nguyễn Hoa Thịnh, Trung tướng Võ Minh Lương, Trung tướng Cao Ngọc Oánh, Đại tá Trần Đình Xu, Giáo sư Trần Thanh Vân, Giáo sư Hoàng Tuệ, Giáo sư Phan Ngọc Minh, Nhà thơ Hàn Mặc Tử, Nhà văn Nguyễn Quang Lập, Kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa, Nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ ... Bài chi tiết về các chính trị gia, tướng lĩnh, nhà khoa học, tác gia, nghệ sĩ,... sinh ra ở Quảng Bình xin xem ở Danh nhân Quảng Bình.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
Cổng thông tin điện tử Quảng Bình
Quảng Bình trên trang Trung tâm thông tin của Bộ Tài nguyên và Môi trường
Khởi đầu năm 1831
Bắc Trung Bộ
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11253
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2y%20Ninh
|
Tây Ninh
|
Tây Ninh là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam.
Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh, vương quốc Campuchia và là một trong những tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tỉnh có thành phố Tây Ninh nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 99 km theo đường Quốc lộ 22, cách biên giới Campuchia 40 km về phía Tây Bắc. Tỉnh lỵ của Tây Ninh nằm ở thành phố Tây Ninh.
Vùng đất Tây Ninh từ thời xưa vốn là một vùng đất thuộc Thủy Chân Lạp, với tên gọi là Romdum Ray, có nghĩa là "Chuồng Voi" vì nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn thú dữ như cọp, voi, beo, rắn,... cư ngụ. Những người thổ dân ở đây sống rất thiếu thốn, cơ cực cho đến khi người Việt đến khai hoang thì vùng đất này mới trở nên phát triển.
Địa lý
Tây Ninh nối cao nguyên Nam Trung Bộ với đồng bằng sông Cửu Long, vừa mang đặc điểm của một cao nguyên, vừa có dáng dấp, sắc thái của vùng đồng bằng, tọa độ của tỉnh từ 10°57’08’’ đến 11°46’36’’ vĩ độ Bắc và từ 105°48’43" đến 106°22’48’’ kinh độ Đông, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp tỉnh Bình Phước, tỉnh Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh
Phía tây giáp các tỉnh Prey Veng và Svay Rieng của Campuchia
Phía nam giáp tỉnh Long An
Phía bắc giáp tỉnh Tbong Khmum của Campuchia
Tỉnh Tây Ninh có đường biên giới dài 240 km với 3 cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, Xa Mát và Tân Nam, các cửa khẩu quốc gia: Chàng Riệc, Kà Tum, Phước Tân và nhiều cửa khẩu tiểu ngạch.
Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Như các tỉnh thành Đông Nam Bộ khác, Tỉnh Tây Ninh cũng là vùng có địa hình chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ xuống đồng bằng sông Cửu Long, đất đai tương đối bằng phẳng. Địa hình vừa mang đặc điểm của một cao nguyên, vừa có dáng dấp, sắc thái của vùng đồng bằng, Tây Ninh có nhiều vùng địa hình khác nhau như:
Vùng địa hình núi (núi Bà Đen cao 986 m, cao nhất Nam Bộ Việt Nam; núi Phụng: 435 m; núi Heo: 289 m và đồi 82: 82 m)
Vùng bán bình nguyên < 50 m lượn sóng yếu xen lẫn bưng bàu trũng ở các huyện phía Nam như Gò Dầu, thị xã Trảng Bàng.
Vùng gò đồi dưới 150m có đỉnh rộng dốc thoải nối tiếp nhau phân bố tại thượng nguồn Hồ Dầu Tiếng, Tân Châu, Tân Biên và phía bắc thành phố Tây Ninh.
Vùng địa hình thung lũng bãi bồi dưới 2 m tập trung dọc sông Vàm Cỏ Đông và phía tây huyện Bến Cầu.
Nhìn chung địa hình của Tây Ninh bằng phẳng hơn so với các tỉnh thuộc Đông Nam Bộ khác (trừ thành phố Hồ Chí Minh), cao độ trung bình toàn tỉnh khoảng 35m so với mực nước biển.
Khí hậu
Khí hậu Tây Ninh tương đối ôn hoà thuộc dạng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô thường kéo dài từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11. Nhiệt độ tương đối ổn định, đầu mùa khô đến giữa mùa thời tiết thường se lạnh và khô hanh ở phía bắc và trung tâm ở mức ban đêm thường dưới 20 °C ở tỉnh cuối mùa thời tiết nóng khô có thể lên trên 38 °C biên độ nhiệt ngày và đêm cao khoảng 10~14 °C vào mùa mưa độ ẩm cao mưa nhiều nhiệt độ ban ngày thường ở mức 30~34 °C và ban đêm ở mức 23~ 26 °C biên độ nhiệt thấp, với nhiệt độ trung bình năm là 25,5– 27 °C, thấp kỷ lục là 11,3 °C và cao kỷ lục là 40 °C và thấp nhất là 17,6 °C vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau cao nhất là 38 °C kéo dài từ tháng 4 đến tháng 5 ít thay đổi,nhiệt độ thấp gần đây 11,3 độ C năm 1999 và gần đây nhất là 2021 với nhiệt độ đo được là 16 độ C Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1800 – 2200 mm. Mặt khác, Tây Ninh nằm sâu trong lục địa, có địa hình cao núp sau Dãy Trường Sơn chính vì vậy ít chịu ảnh hưởng của bão vào tháng 6 -> 8 gió tây nam hoạt động mạnh kéo theo nhưng cơn bão, gió rất mạnh kèm theo mưa đá ở những vùng cao phía bắc và trung tâm và những yếu tố thuận lợi khác. Với lợi thế đó là những điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp đa dạng, đặc biệt là các loại cây ăn quả, cây công nghiệp, cây dược liệu và chăn nuôi gia súc.
Thổ nhưỡng
Tây Ninh có tiềm năng dồi dào về đất, trên 96% quỹ đất thuận lợi cho phát triển cây trồng các loại, từ cây trồng nước đến cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, cây ăn quả các loại. Đất đai Tây Ninh có thể chia làm 5 nhóm đất chính với 15 loại đất khác nhau. Trong đó, nhóm đất xám chiếm trên 84%, đồng thời là tài nguyên quan trọng nhất để phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, còn có nhóm đất phèn chiếm 6,3%, nhóm đất cỏ vàng chiếm 1,7%, nhóm đất phù sa chiếm 0,44%, nhóm đất than bùn chiếm 0,26% tổng diện tích. Đất lâm nghiệp chiếm hơn 10% diện tích tự nhiên.
Sông ngòi
Tây Ninh có hồ Dầu Tiếng giúp cân bằng sinh thái, phục vụ tưới tiêu trong nông nghiệp, cung cấp nước cho nuôi trồng thủy sản, sinh hoạt tiêu dùng và cho sản xuất công nghiệp. Nguồn nước ngầm ở Tây Ninh phân bố rộng khắp trên địa bàn, bảo đảm chất lượng cho sản xuất và đời sống của người dân. Cách thành phố Tây Ninh 20 km là điểm du lịch nằm tuyến liên hoàn giữa thành phố Tây Ninh - Toà Thánh Tây Ninh - núi Bà Đen. Hồ có diện tích 27.000 ha, có sức chứa 1,5 tỷ m³ nước tưới cho đồng ruộng tỉnh và các tỉnh lân cận.
Lịch sử
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, đồng thời đổi tên phủ Gia Định thành trấn Gia Định.
Năm 1808, trấn Gia Định đổi lại đổi là thành Gia Định, gồm có 5 trấn là Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên.
Năm 1832, vua Minh Mạng định tiếp tục tổ chức hành chánh ở Gia Định, từ 5 trấn chia thành 6 tỉnh gồm có Phiên An tỉnh thành (tức trấn Phiên An cũ), Tỉnh Biên Hòa (trấn Biên Hòa cũ), Tỉnh Định Tường (trấn Định Tường cũ), Tỉnh Vĩnh Long (trấn Vĩnh Thanh cũ), Tỉnh An Giang, Tỉnh Hà Tiên. Lúc bấy giờ, vùng đất Tây Ninh thuộc Phiên An tỉnh thành.
Năm 1836, chuẩn tấu lời tâu của đình thần Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định gồm có 3 phủ, 7 huyện. Các phủ là Phủ Tân Bình có 3 huyện, Phủ Tân An có 2 huyện, Phủ Tây Ninh có 2 huyện là: huyện Tân Ninh và huyện Quang Hóa.
Phủ Tây Ninh: phía Bắc giáp Cao Miên (qua núi Chiêng, tức núi Bà Đen), phía Đông giáp huyện Bình Long phủ Tân Bình, phía Nam giáp huyện Bình Dương phủ Tân Bình và huyện Cửu An phủ Tân An, nguyên là đạo Quang Phong. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), bỏ đạo lập phủ với tên gọi phủ Tây Ninh, quản lý 2 huyện (với 7 tổng có 56 làng xã):
Huyện Tân Ninh, lỵ sở kiêm phủ thành nằm ở thôn Khang Ninh (nay thuộc thị xã Tây Ninh), phía Bắc giáp Cao Miên (qua núi Chiêng), phía Đông giáp huyện Bình Long phủ Tân Bình, phía Nam giáp huyện Bình Long phủ Tân Bình và huyện Quang Hóa cùng phủ Tây Ninh, phía Tây giáp huyện huyện Kiến Hưng tỉnh Định Tường và giáp nước Cao Miên. Huyện Tân Ninh, được đặt ra năm Minh Mạng thứ 17 (1836), theo Đại Nam nhất là quản lý 2 tổng (nhưng có lẽ là 3 tổng), là tổng Hàm Ninh Thượng và tổng Kiếm Hoa với 24 làng xã. Phần đất huyện Tân Ninh phủ Tây Ninh nhà Nguyễn nay có thể là địa phận phía Bắc của tỉnh Tây Ninh ngày nay (tức năm 2011) (thành phố Tây Ninh, huyện Tân Biên, huyện Châu Thành,...) và có thể bao gồm cả một phần đất phía Bắc của tỉnh Svay Rieng (khúc giữa tỉnh Svay Rieng) Campuchia, vì mô tả trên theo Đại Nam nhất thống chí: Tân Ninh còn tiếp giáp với cả huyện Kiến Hưng phủ Kiến An tỉnh Định Tường nhà Nguyễn, vốn chỉ nằm bên bờ Tây sông Vàm Cỏ Tây, cách địa bàn tỉnh Tây Ninh ngày nay (phần từng là đất huyện Tân Ninh) qua địa bàn tỉnh Svay Rieng.
Năm 1890, sau khi lập Liên bang Đông Dương, người Pháp trích một phần đất hạt Tây Ninh (hạt Tây Ninh nguyên là toàn bộ phủ Tây Ninh) là phần đất dọc theo rạch Ngã Bát cho Campuchia thuộc Pháp, trong đó có lẽ gồm cả phần đất tỉnh Svay Rieng (tức tỉnh Soài Riêng) đề cập đến ở trên. Các bản đồ của người Pháp thể hiện xứ Nam Kỳ thuộc Pháp, vẽ với kỹ thuật Tây phương khá chính xác, vào các năm 1872 và 1886 (trước khi thành lập Liên bang Đông Dương năm 1887) đều thể hiện vùng lồi Svay Rieng thuộc đất Nam Kỳ (Cochinchine).
Huyện Quang Hóa, phía Bắc giáp huyện Tân Ninh cùng phủ Tây Ninh, phía Đông giáp huyện Tân Ninh, phía Nam giáp huyên Tân Ninh và huyện Cửu An phủ Tân An, phía Tây giáp huyện Kiến Hưng phủ Kiến An tỉnh Định Tường nhà Nguyễn. Lỵ sở trước đặt ở thôn Cẩm Giang sau chuyển sang thôn Long Giang, quản lý 4 tổng (Hàm Ninh Hạ (Ham Ninh Ha tong), Mộc Hóa (Moc Hoa tong), Giải Hóa (Giải Hoa tong), Mỹ Ninh (Mi Nin tong)) với 32 làng xã. Đất huyện Quang Hóa phủ Tây Ninh nhà Nguyễn nay có thể là địa phân các huyện phía Nam tỉnh Tây Ninh (như Bến Cầu, Gò Dầu, Trảng Bàng,...), các huyện Đông Bắc tỉnh Long An (như Đức Huệ, Hậu Nghĩa, Mộc Hóa,...) và phần phía Nam của tỉnh Svay Rieng Campuchia.
Theo Đại Nam thực lục thì vào khoảng tháng 3 âm lịch năm 1845, Cao Hữu Dực (quyền Tuyên phủ sứ Tây Ninh) cho chiêu mộ dân trong phủ Tây Ninh lập ra 26 thôn làng: Tiên Thuận, Phúc Hưng, Phúc Bình, Vĩnh Tuy, Phúc Mỹ, Long Thịnh, Long Khánh, Long Giang, Long Thái, An Thịnh, Khang Ninh, Vĩnh An, An Hòa, Gia Bình, Long Bình, Hòa Bình, Long Định, Phú Thịnh, Thái Định, Hòa Thuận, An Thường, Thuận Lý, Thiên Thiện, Hướng Hóa, Định Thái, Định Bình, đều thuộc phủ Tây Ninh. Vua Thiệu Trị phê chuẩn quyết định này.
Năm 1861, Sau khi thực dân Pháp chiếm Tây Ninh, việc cai quản ở 2 huyện được thay thế bằng 2 Đoàn Quân sự đặt tại Trảng Bàng và Tây Ninh.
Năm 1868, hai đoàn Quân sự được thay thế bằng hai Ty Hành chánh. Sau nhiều lần thay đổi, năm 1897 Tây Ninh gồm có 2 quận là Thái Bình, Trảng Bàng, trong đó có 10 tổng, 50 làng. Đứng đầu tỉnh Tây Ninh lúc này (1897) là chánh tham biện Seville.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer cho áp dụng nghị định ký ngày 20 tháng 12 năm 1899 đổi các khu tham biện (inspections) là tỉnh (province). Thời Pháp thuộc, Nam Kỳ được chia làm 20 tỉnh để cai trị và sau đó Cap St. Jacques (Vũng Tàu) tách ra thành tỉnh thứ 21. Tây Ninh lúc đó là tỉnh thứ 12. Chủ tỉnh đầu tiên là O. de Lalande-Calan.
Ngày 9 tháng 12 năm 1942, Thống đốc Nam kỳ ban hành Nghị định số 8345 ấn định ranh giới Tây Ninh.
Sau Cách mạng Tháng Tám tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên ranh giới cũ.
Năm 1950, cắt một phần đất của xã Thái Hiệp Thạnh cũ thành lập thị xã Tây Ninh, nhưng do chưa đủ điều kiện hoạt động nên sau đó giải thể.
Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, thành lập lại Thị xã Tây Ninh trên địa bàn cũ, do Võ Văn Truyện làm Bí thư Đảng kiêm Chủ tịch Uỷ ban hành chính.
Năm 1957, tỉnh Tây Ninh chia thành 3 quận gồm có Châu Thành, Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng.
Năm 1959, quận Châu Thành chia thành 2 quận Phước Ninh và Phú Khương; quận Gò Dầu Hạ chia thành 2 quận Hiếu Thiện và Khiêm Hanh.
Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam được thành lập tại làng Tân Lập, Tây Ninh. Đây cũng là trụ sở của Mặt trận từ năm 1960 đến 1966
Năm 1961, quận Trảng Bàng đổi tên thành quận Phú Đức.
Năm 1963, quận Phú Đức được giao cho tỉnh Hậu Nghĩa và đổi lại tên cũ là Trảng Bàng. Từ đó đến năm 1975, tỉnh Tây Ninh có 4 quận:
Quận Phước Ninh có 15 xã; quận lỵ đặt tại Bến Sỏi, sau dời đến ngã ba Tầm Long
Quận Phú Khương có 11 xã; quận lỵ đặt tại Suối Đá, sau dời đến chợ Long Hoa
Quận Hiếu Thiện có 15 xã; quận lỵ đặt tại Gò Dầu Hạ
Quận Khiêm Hanh có 5 xã; quận lỵ đặt tại Bàu Đồn.
Năm 1968, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam cũng được thành lập tại Tây Ninh
Năm 1969, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra đời tại Tây Ninh và được xem là thủ đô đầu tiên.
Sau năm 1975, tỉnh Tây Ninh có thị xã Tây Ninh và 7 huyện: Bến Cầu, Châu Thành, Dương Minh Châu, Gò Dầu, Phú Khương, Tân Biên, Trảng Bàng.
Ngày 14 tháng 3 năm 1979, đổi tên huyện Phú Khương thành huyện Hòa Thành.
Ngày 13 tháng 5 năm 1989, tách một phần các huyện Tân Biên và Dương Minh Châu để thành lập huyện Tân Châu.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 135/NQ-CP thành lập thành phố Tây Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tây Ninh.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 865/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, thành lập hai thị xã Hòa Thành và Trảng Bàng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của hai huyện có tên tương ứng. Kể từ ngày hôm đó, tỉnh Tây Ninh có 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện như hiện nay.
Hành chính
Tỉnh Tây Ninh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện với 94 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 17 phường, 6 thị trấn và 71 xã.
Theo quyết định Quy hoạch số 241/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trong giai đoạn 2021 – 2025: thành phố Tây Ninh sẽ từ đô thị loại III lên đô thị loại II; thị xã Hòa Thành và thị xã Trảng Bàng từ đô thị loại IV lên đô thị loại III; thị trấn Gò Dầu huyện Gò Dầu và thị trấn Bến Cầu huyện Bến Cầu sẽ đô thị loại IV. Trong đó, huyện Bến Cầu sẽ thành lập thị xã Bến Cầu. Đến giai đoạn 2026 – 2030, thị trấn Gò Dầu huyện Gò Dầu tiếp tục tiến lên đô thị loại III và huyện Dương Minh Châu thành lập thị xã Dương Minh Châu.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Năm 2018, Tây Ninh là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 37 về số dân, xếp thứ 28 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 14 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 32 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.133.400 người dân, GRDP đạt 71.166 tỉ Đồng (tương ứng với 3,0908 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 62,79 triệu đồng (tương ứng với 2.727 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,01%.
Trong kỳ họp đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2022, tổng sản phẩm trong tỉnh ước tính đạt 55.914 tỷ đồng, tăng 8,84% so với cùng kỳ. GRDP bình quân đầu người đạt 3.700 USD. Định hướng phát triển thời gian tới, tỉnh Tây Ninh xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng và đến năm 2030 phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Tỉnh Tây Ninh được xem là một trong những cửa ngõ giao lưu về quốc tế quan trọng giữa Việt Nam với Campuchia, Thái Lan,… Đồng thời tỉnh có vị trí quan trọng trong mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Trong năm 2022, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của Tây Ninh đạt 9,56%, xếp thứ 16 cả nước và đứng thứ nhất trong các vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ. Trong đó, tổng doanh thu du lịch tăng 130%, đạt 1.400 tỷ đồng và lượng khách du lịch tăng 200%, đạt 4,5 triệu lượt. Khu du lịch quốc gia núi Bà Đen cũng trở thành 1 trong 5 điểm đến thu hút nhiều khách du lịch nhất cả nước.
Nông nghiệp
Trong 3 tháng đầu năm 2012, phát triển ở mức tương đối, lĩnh vực nông nghiệp vẫn tiếp tục là thế mạnh, một số lĩnh vực đạt kết quả khả quan như thu ngân sách đạt dự toán, đảm bảo tiến độ thực hiện và đáp ứng các nhiệm vụ chi theo dự toán được giao, chỉ số giá tiêu dùng được kéo giảm, đầu tư phát triển trên địa bàn do được tập trung chỉ đạo nên thực hiện có hiệu quả, các dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai. Thu ngân sách nhà nước đạt trên 1.133 tỷ đồng, Tổng nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng ước trên 21.880 tỷ đồng, tăng 27% so với cùng kỳ, Tổng kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện 287 triệu USD, tăng trên 22% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của Tây Ninh hàng năm đạt 14%, GDP bình quân đầu người đạt năm 2010 đạt 1.390 USD.
Công nghiệp
Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Tây Ninh ngày càng phát triển vững chắc đồng thời đã xây dựng được hệ thống các nhà máy chế biến nông sản tại các vùng chuyên canh như các nhà máy mía đường, các nhà máy chế biến bột củ mì, các nhà máy chế biến mủ cao su, từng bước xây dựng các khu công nghiệp trong tỉnh.
Giáo dục
Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Tây Ninh có 410 trường học ở cấp phổ trong đó có Trung học phổ thông có 31 trường, Trung học cơ sở có 106 trường, Tiểu học có 271 trường, chuyên 1 trường, bên cạnh đó còn có 116 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Tây Ninh cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh.
Có một trường chuyên là THPT chuyên Hoàng Lê Kha tại số 368 Trường Chinh, phường 3, thành phố Tây Ninh (địa chỉ cũ là 23 Võ Thị Sáu, phường 3, thành phố Tây Ninh).
Trường THPT loại 2 có chất lượng tốt nhất là THPT Lý Thường Kiệt tại 354, Đường Lý Thường Kiệt, Khu phố 4, Phường Long Hoa, Thị xã Hòa Thành, Tỉnh Tây Ninh.Trường là một trong những cơ sở giáo dục lâu đời đã và đang đào tạo ra nhiều thành phần trí thức cho tỉnh.
Một số trường đứng top đầu của tỉnh:
Trường THPT chuyên Hoàng Lê Kha
Trường THPT Lý Thường Kiệt
Trường THPT Tây Ninh
Trường THPT Nguyễn Trãi
Trường THPT Nguyễn Chí Thanh
Văn hóa
Kiến trúc Chàm, nền văn minh Chàm và dân tộc Khmer được đánh giá cao như là một xã hội văn minh sớm xuất hiện ở miền Nam Việt Nam. Tây Ninh hiện còn 2 trong 3 tháp cổ ở vùng đất nam bộ của nền văn hóa Óc Eo (Vương quốc Phù Nam tồn tại từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII) hầu như còn nguyên vẹn là tháp Chót Mạt ở xã Tân Phong huyện Tân Biên và tháp Bình Thạnh ở xã Phước Bình thị xã Trảng Bàng. Theo thống kê của ban Dân tộc tỉnh Tây Ninh hiện Tây Ninh có 21 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc Tà Mun (được cho là hậu duệ của Vương quốc Phù Nam) ở Tây Ninh đang làm thủ tục để công nhận là dân tộc thứ 55 của Việt Nam.
Tây Ninh còn nổi tiếng với các lễ hội:
Hội Xuân núi Bà Đen (mùng 4 tháng Giêng âm lịch đến hết tháng Giêng).
Hội Yến Diêu Trì Cung (tổ chức hàng năm tại Tòa Thánh Tây Ninh vào ngày 15 tháng 8 âm lịch).
Đại lễ vía Đức Chí Tôn (tổ chức hàng năm tại Tòa Thánh Tây Ninh vào ngày 9 tháng 1 âm lịch).
Du lịch
Định hướng phát triển thời gian tới, đến năm 2030, Tây Ninh sẽ phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Thậm chí, trong dịp Tết Nguyên đán 2022, ngành du lịch Tây Ninh đứng đầu cả nước. Theo báo cáo từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tây Ninh, du lịch Tây Ninh có đến gần 90% du khách đến Tây Ninh để thăm quan Khu du lịch Núi Bà Đen và Tòa Thánh Tây Ninh. Tây Ninh nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ và những công trình nhân tạo hoành tráng:
Núi Bà Đen cao 986 m, là ngọn núi cao nhất miền Nam Việt Nam
Vườn quốc gia Lò Gò - Xa Mát
Hồ Dầu Tiếng
Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh
Trung ương Cục Miền Nam
Khu địa đạo An Thới Trảng Bàng
Ngoài ra còn nhiều địa điểm du lịch khác như: thung lũng Ma Thiên Lãnh, chùa Cao Sơn Tự ở huyện Gò Dầu...
Ẩm thực
Tây Ninh nổi tiếng với các loại đặc sản sau đây:
Bánh Tráng phơi sương: Loại đặc sản này ngày nay đã được sản xuất ở nhiều địa phương trong tỉnh và được sản xuất công nghiệp, nhưng nó vẫn gắn liền với địa danh Trảng Bàng. Trước năm 1980, Bánh Tráng Trảng Bàng được sản xuất từ củ sắn (khoai mì). Nhưng ngày nay thì chỉ được sản xuất từ lúa gạo. Để làm ra Bánh Tráng phơi sương phải qua nhiều công đoạn khá công phu và cầu kỳ.
Bánh Canh thịt heo Trảng Bàng: Bánh Canh Trảng Bàng là một loại thức ăn nổi tiếng của Tây Ninh có từ rất lâu đời. Nó đã trở thành một sản phẩm du lịch, một điểm dừng chân thân thuộc đối với khách du lịch.
Muối tôm: là một đặc sản rất nổi tiếng của Tây Ninh.Ban đầu chỉ có vài hộ gia đình sản xuất nhỏ lẻ, đến nay đã có hơn 100 cơ sở làm các loại sản phẩm muối Tây Ninh, tập trung chủ yếu trên địa bàn huyện Gò Dầu, thị xã Trảng Bàng và thành phố Tây Ninh. Mảnh đất Tây Ninh khắc nghiệt khô cằn chỉ có núi mà không có biển, thiếu cả muối lẫn tôm mà lại sản sinh ra thứ đặc sản nức tiếng này, thật vô cùng kì lạ, đó là một bí quyết, một niềm tự hào của người dân Tây Ninh. Muối tôm, giống như tên gọi có thành phần chính là sự kết hợp giữa tôm và muối. Người dân Tây Ninh nhập nguồn nguyên liệu này về từ các tỉnh ven biển, được chế biến theo một công thức riêng để cho ra đời những hạt muối đậm màu gạch, thơm ngon nổi tiếng trong và ngoài nước.
Mãng cầu Bà Đen (trái na): được trồng tại khu vực gần núi Bà Đen của Tây Ninh. Cùng với việc chọn thời vụ canh tác, xử lý ra hoa vào các tháng khác nhau mà trái mãng cầu có quanh năm. Ngay cả các tháng 3-4-5, sản lượng cũng đạt gần 1.000 tấn/tháng. Tỉnh Tây Ninh đã tiến hành đăng ký với Cục Sở hữu Trí tuệ về bảo hộ địa danh dưới hình thức chỉ dẫn địa lý "Bà Đen" cho sản phẩm mãng cầu được trồng ở khu vực núi Bà Đen và vùng phụ cận núi Bà.
Thằn lằn núi và ốc núi cũng là đặc sản nỗi tiếng của Tây Ninh
Cá Cầy trên sông Vàm cỏ Đông hay cá Lăng trong lòng hồ Dầu Tiếng cũng là những món ăn đặc sản khi đến Tây Ninh.
Bánh xèo Lò Gò- Xa Mát: đặc biệt bánh xèo ở đây khác ở các nơi khác là bột làm bằng gạo từ giống lúa xưa của dân tộc Khơ me, nhân bánh là hổn hợp của măng rừng và gà rừng lai, kết hợp với hơn 18 loại rau rừng đặc sản của Vườn Quốc gia.
Bò tơ 5 Sánh: Hiện có hơn 25 chi nhánh từ Miền Đông đến Miền tây, bạn sẽ được thưởng thức món thăn tái chanh và bò nướng y không nơi nào sánh bằng. Thịt bò ở đây rất tươi, bò được chọn kỷ lưỡng được vỗ béo theo công thức riêng nên miếng thịt có vị thơm ngon đặc biệt.
Bánh tráng trộn: Có lẽ ít ai ngờ tới, món Bánh tráng trộn đang được bày bán ở hầu khắp các nẻo đường trong Nam và ngoài Bắc là một món ăn được chế biến một cách đầy ngẫu nhiên và tình cờ của người dân ở Trảng Bàng.
Mãng cầu Bác Ba Sơn (trái na): được trồng tại ngã tư núi quẹo bên tay trái (đường lên Long Điền Sơn), mãng cầu bác ba sơn khác mãng cầu các vườn khác là ngon, ngọt, dai, chắc thịt hơn, được người dân tỉnh Tây Ninh và ngoài tỉnh rất ưa, nếu có dịp đến Tây Ninh đừng quên ghé sang rẫy bác ba sơn để tìm mua mãng cầu tốt, dai, ngon nhất Tây Ninh.
Dân cư
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Tây Ninh đạt 1.169.165 người, mật độ dân số đạt 268 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 207.569 người, chiếm 17,8% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 961.596 người, chiếm 82,2% dân số. Dân số nam đạt 584.180 người, nữ đạt 584.985 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,92 % Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2021 đạt 42%.
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Tây Ninh có 9 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Đạo Cao Đài có 415.920 người, Công giáo có 45.992 người, Phật giáo có 38.336 người, các tôn giáo khác như Hồi giáo 3.337 người, Tin Lành có 684 người, Phật giáo hòa hảo có 236 người, Minh Sư Đạo có bốn người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có hai người, Bà-la-môn có một người.
Theo thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Tây Ninh có đủ 29 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh có 1.050.376 người, người Khmer có 7.578 người, người Chăm có 3.250 người, người Xtiêng có 1.654 người, người Hoa có 2.495 người, còn lại là những dân tộc khác như Mường, Thái, Tày......
Giao thông
Tây Ninh có đường Xuyên Á đi qua với chiều dài gần 28 km, nối Thành phố Hồ Chí Minh với Campuchia thông qua cửa khẩu Mộc Bài. Tây Ninh có 2 tuyến sông chính là tuyến sông Sài Gòn và tuyến sông Vàm Cỏ Đông. Ngoài ra địa bàn tỉnh Tây Ninh còn có cảng sông Bến Kéo nằm trên sông Vàm Cỏ Đông.
Hiện nay, Tây Ninh còn có hai tuyến cao tốc đã được Thủ tướng phê duyệt và đang chờ xây dựng bao gồm: Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Mộc Bài và Đường cao tốc Gò Dầu – Xa Mát.
Năm 2022, UBND tỉnh Tây Ninh đã trình Thủ tướng và Bộ Giao thông vận tải đề xuất bổ sung quy hoạch sân bay Tây Ninh vào quy hoạch sân bay toàn quốc thời kỳ 2030, tầm nhìn 2050.
Danh nhân
Chú thích
Liên kết ngoài
Trang thông tin điện tử chính thức của tỉnh Tây Ninh
Báo Tây Ninh điện tử
Điểm du lịch Tây Ninh
Danh sách các dự án bất động sản tại Tây Ninh
Đông Nam Bộ
|
11254
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%BA%20Y%C3%AAn
|
Phú Yên
|
Phú Yên là tỉnh ven biển nằm ở trung tâm khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Tuy Hòa.
Năm 2018, Phú Yên là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 45 về số dân, xếp thứ 43 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 30 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 25 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 961,1 nghìn dân, GRDP đạt 36.352 tỉ Đồng (tương ứng với 1,5790 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 39,97 triệu đồng (tương ứng với 1.736 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,3%.
Địa lý
Phú Yên trải dài từ 12°42'36" đến 13°41'28" vĩ Bắc và từ 108°40'40" đến 109°27'47" kinh Đông.
Phía bắc giáp tỉnh Bình Định
Phía tây giáp tỉnh Gia Lai
Phía nam giáp tỉnh Khánh Hoà và tỉnh Đắk Lắk
Phía đông giáp Biển Đông
Phú Yên có vị trí địa lý và giao thông tương đối thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Phú Yên nằm ở miền Trung Việt Nam, tỉnh lỵ Phú Yên là thành phố Tuy Hòa, cách thủ đô Hà Nội 1.160 km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 560 km về phía Nam và cách Đà Nẵng 438 km về phía Bắc theo đường Quốc lộ 1.
Diện tích tự nhiên: 5.045 km², chiều dài bờ biển: 189 km.
Địa hình
Phú Yên có 3 mặt là núi, phía Bắc có dãy Đèo Cù Mông, phía Nam là dãy Đèo Cả, phía Tây là mạn sườn đông của dãy Trường Sơn, và phía Đông là biển Đông.
Phú Yên được biết đến nơi có đồng bằng Tuy Hòa, được xem là vựa lúa của miền Trung.
Khí hậu
Khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm và chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương. Có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa nắng từ tháng 1 đến tháng 8. Nhiệt độ trung bình hằng năm 26,5 °C, lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.600 - 1.700mm.
Sông, suối
Có hệ thống Sông Đà Rằng, sông Bàn Thạch, sông Kỳ Lộ với tổng diện tích lưu vực là 16.400 km², tổng lượng dòng chảy 11.8 tỷ m3, đảm bảo đủ nước tưới cho nông nghiệp, thủy điện và sinh hoạt.
Phú Yên có nhiều suối nước khoáng nóng như: Phú Sen, Triêm Đức, Trà Ô, Lạc Sanh. Ngoài ra còn có nhiều tài nguyên trong lòng đất như Diatomite (90 triệu m3), đá hoa cương nhiều màu (54 triệu m3), vàng sa khoáng (300 nghìn tấn) (số liệu năm 2006 theo Cẩm nang xúc tiến thương mại du lịch Phú Yên)
Hành chính
Tỉnh Phú Yên có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện với 110 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 21 phường, 6 thị trấn và 83 xã.
Lịch sử
Phú Yên là nơi có các di tích từ thời Văn hóa Hòa Bình , Sa Huỳnh.
Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm quân đánh Chăm Pa đến tận đèo Cả. Tuy nhiên sau đó Lê Thánh Tông chỉ sáp nhập vùng đất từ đèo Hải Vân tới đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên) vào lãnh thổ Đại Việt. Vùng đất Phú Yên vẫn thuộc quyền quản lý của Chăm Pa với tên gọi Ayaru (Êa Ryu).
Từ năm 1570, Nguyễn Hoàng là trấn thủ vùng Thuận Hóa và Quảng Nam của Đại Việt. Năm 1578 ông sai tướng dưới quyền Lương Văn Chánh tấn công vào thành Hồ, là thủ phủ của Chăm Pa tại vùng Ayaru "Êa Ryu" (Phú Yên), thành Hồ bị thất thủ, từ đó vùng đất Ayaru là nơi tranh chấp thường xuyên giữa người Việt và người Chăm. Theo chính sách của chúa Nguyễn ông đã chiêu tập và đưa lưu dân từ các vùng Thanh - Nghệ, Thuận - Quảng vào đây để khẩn hoang lập ấp, tạo dựng cơ nghiệp.
Năm 1611, Nguyễn Hoàng sai viên tướng dưới quyền là Văn Phong tấn công vào Aryaru, Chăm Pa thất bại. Nguyễn Hoàng sáp nhập Ayaru vào lãnh thổ Đàng Trong với tên gọi Phú Yên và giao cho Văn Phong cai quản đất Phú Yên. Tên gọi nầy do chúa Nguyền Hoàng đặt với ước nguyện về một miến đất trù phú, thanh bình trong tương lai.
Tới năm 1629, Văn Phong chống lại chính quyền Đàng Trong, lúc này Nguyễn Hoàng đã chết, người nối nghiệp là Nguyễn Phúc Nguyên đã sai tướng Nguyễn Phúc Vinh vào đánh dẹp. Sau khi đánh bại được Văn Phong, Phúc Vinh được giao cai quản đất Phú Yên
Với một vị trí chiến lược quan trọng, vào thế kỷ 18 Phú Yên là nơi đối đầu quyết liệt giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn; nơi Nguyễn Huệ, vào tháng 7 năm 1775, đã đánh bại 2 vạn quân ngũ dinh (Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ) của Tống Phước Hiệp.
Năm Minh Mạng thứ 13, tại Gia Định Thành 1832, vua đã lập 12 tỉnh phía Nam đèo Hải Vân, trong đó có Phú Yên.
Năm 1954, Phú Yên chịu sự quản lý của Chính thể Việt Nam Cộng Hoà.
Năm 1976, sau khi thống nhất đất nước, Phú Yên nằm trong địa phận tỉnh Phú Khánh.
Ngày 1 tháng 7 năm 1989, tỉnh Phú Yên được tái lập và tồn tại cho đến ngày nay. Khi tách ra, tỉnh Phú Yên có 7 đơn vị hành chính gồm thị xã Tuy Hòa và 6 huyện: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Cầu, Sông Hinh, Tuy An, Tuy Hòa.
Ngày 4 tháng 3 năm 2002, chia thị xã Tuy Hòa thành thị xã Tuy Hòa và huyện Phú Hòa.
Ngày 5 tháng 1 năm 2005, chuyển thị xã Tuy Hòa thành thành phố Tuy Hòa.
Ngày 16 tháng 5 năm 2005, chia huyện Tuy Hòa thành 2 huyện: Đông Hòa và Tây Hòa.
Ngày 27 tháng 8 năm 2009, chuyển huyện Sông Cầu thành thị xã Sông Cầu.
Ngày 11 tháng 3 năm 2013, thành phố Tuy Hòa được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Phú Yên.
Ngày 4 tháng 3 năm 2019, Bộ Xây dựng quyết định công nhận thị xã Sông Cầu là đô thị loại III.
Ngày 1 tháng 6 năm 2020, chuyển huyện Đông Hòa thành thị xã Đông Hòa.
Tỉnh Phú Yên có 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện như hiện nay.
Dân số
Dân số Phú Yên là 874.071 người (2020) trong đó thành thị 28,7%, nông thôn 71,3%, lực lượng lao động chiếm 71,5% dân số. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 38,5% (tính đến năm 2020).
Phú Yên có gần 30 dân tộc sống chung với nhau. Chăm, Êđê, Ba Na, Hrê, Hoa, Raglai là những tộc người đã sống lâu đời trên đất Phú Yên.
Sau ngày miền Nam được giải phóng, sau khi thành lập huyện Sông Hinh (1986) có những dân tộc từ miền núi phía Bắc di cư vào vùng đất Sông Hinh như Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu,...
Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 67.594 người, nhiều nhất là Công giáo có 35.206 người, tiếp theo là Phật giáo có 27.290 người, tiếp theo là đạo Tin Lành có 2.928 người, đạo Cao Đài có 2.006 người, Phật giáo Hòa Hảo có 113 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 20 người, Bà La Môn có 13 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 10 người và Baha'i
Kinh Tế
Diện tích đất nông nghiệp 72.390 ha, đất lâm nghiệp khoảng 209.377 ha, đất chuyên dùng 12.297 ha, đất dân cư 5.720 ha, đất chưa sử dụng 203.728 ha; có nhiều loại gỗ và lâm sản quý hiếm. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Phú Yên xếp ở vị trí thứ 50/63 tỉnh thành.
Phú Yên nằm ở sườn Đông dãy Trường Sơn, đồi núi chiếm 70% diện tích đất tự nhiên. Địa hình dốc mạnh từ Tây sang Đông, dải đồng bằng hẹp và bị chia cắt mạnh, có hai đường cắt lớn từ dãy Trường Sơn là cánh đèo Cù Mông và cánh đèo Cả. Bờ biển dài gần 200 km có nhiều dãy núi nhô ra biển hình thành các eo vịnh, đầm phá có lợi thế phát triển du lịch, vận tải đường thủy, đánh bắt và nuôi trồng hải sản xuất khẩu.
Ngoài ra còn có Khu bảo tồn thiên nhiên Quốc gia Krông-Trai rộng 20.190 ha với hệ động vật và thực vật phong phú đa dạng.
Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,94%, trong đó: khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,26%; Công nghiệp và xây dựng tăng 18,73%; dịch vụ tăng 5,72%. Tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) trên địa bàn tỉnh năm 2019 là 6.993 tỷ đồng, vượt 27,1% dự toán tỉnh giao, tăng gấp 1,5 lần so năm 2018. Trong đó: Thu nội địa 6.414 tỷ đồng, vượt 18,2% dự toán, tăng 42% so năm trước; thu thuế xuất nhập khẩu 578,8 tỷ đồng, gấp 8 lần dự toán (do nhập khẩu thiết bị để triển khai các dự án điện mặt trời). Trong đó, khối tỉnh thực hiện thu 4.821 tỷ đồng (vượt 26,1% dự toán tỉnh và tăng 68% so với năm 2018), khối huyện thực hiện thu 2.171 tỷ đồng (vượt 29,4% dự toán, tăng 27,4% so với cùng kỳ); có 9/9 huyện, thị xã, thành phố thu đạt và vượt dự toán giao, đặc biệt huyện Phú Hòa thu vượt 92,7%, thị xã Sông Cầu thu vượt 136,1%. Tổng chi ngân sách địa phương năm 2019 là 9.231 tỷ đồng, bằng 85,1% dự toán chi điều hành, tăng 14,4% so với năm 2018. Nhìn chung, các lĩnh vực chi đều đảm bảo theo dự toán giao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi, đảm bảo đúng mục đích, đúng nội dung, có hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của tỉnh.
Giao thông
Hệ thống giao thông đường bộ trọng yếu gồm có:
Quốc lộ 1 nối với Bình Định và Khánh Hòa.
Quốc lộ 25 nối với Gia Lai.
Quốc lộ 1D nối Thị xã Sông Cầu với thành phố Quy Nhơn.
Quốc lộ 29 nối thị xã Đông Hòa (từ Vũng Rô) với thị xã Buôn Hồ Đăk Lăk.
Quốc lộ 19C khởi đầu từ nút giao với Quốc lộ 1 ở thị trấn Diêu Trì của huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định chạy dọc theo đường sắt Bắc - Nam qua thị trấn La Hai, huyện Đồng Xuân rồi rẽ lên huyện Sơn Hòa tới thị trấn Hai Riêng huyện Sông Hinh, kết thúc tại nút giao với Quốc lộ 26 ở thị trấn M'Drắk của huyện M'Drắk tỉnh Đắk Lắk.
Đường Phước Tân-Bãi Ngà chạy từ khu công nghiệp Hòa Hiệp đến cảng Vũng Rô.
Phú yên cũng có đường sắt Bắc-Nam đi qua với ga chính là Ga Tuy Hòa.
Về hàng không, Phú Yên hiện đang vận hành Sân bay Đông Tác (Hoạt động từ tháng 4/2003) với 2 đường bay chính: Tuy Hòa - Hà Nội và Tuy Hòa - Thành phố Hồ Chí Minh.
Cơ sở hạ tầng
Hệ thống điện:
Nhà máy Thủy điện Sông Hinh với công suất 72 MW và hệ thống đường dây 500 KVA Bắc - Nam đi qua tỉnh đảm bảo cung cấp nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất, sinh hoạt.
Nhà máy Thủy điện Sông Ba Hạ có công suất 220 MW với hai tổ máy nối với hệ thống điện Quốc gia hoàn thành vào tháng 11 năm 2009.
Nhà máy Điện Mặt trời Hòa Hội có công suất 257 MWp (tương đương công suất phát 214MW) đưa vào vận hành tháng 6 năm 2019.
Hệ thống cấp nước: Nhà máy cấp thoát nước Phú Yên với công suất 28.500 m3/ngđ, phục vụ cho khu vực Thanh Pho Tuy Hòa, các vùng lân cận và khu công nghiệp Hòa Hiệp. Đồng thời xây dựng mới một số nhà máy cấp nước cho các thị trấn huyện lỵ với công suất khoảng 13.000 m³/ngđ.
Hệ thống thông tin liên lạc: Phú Yên có mạng lưới viễn thông khá tốt. Bưu điện trung tâm Tỉnh, huyện, xã được trang bị: Vi ba, cáp quang... đảm bảo liên lạc thông suốt.
Hệ thống Internet qua đường truyền ADSL cũng là một kênh liên lạc quan trọng hiện nay đối với sự phát triển của toàn tỉnh.
Tổng số bưu cục, đại lý, kiốt trên toàn Tỉnh là 133 đơn vị, tổng số máy điện thoại 14.716 máy; dịch vụ bưu chính cũng phát triển mạnh.
Phú Yên nằm trong vùng ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền trung, trong các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, Phú Yên là nơi có điều kiện thuận lợi nhất trong việc xây dựng tuyến đường sắt lên Tây Nguyên. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi đưa Phú Yên trở thành đầu mối giao lưu kinh tế Bắc Nam và Đông Tây; cụ thể: Giao thông đường bộ, có mạng lưới giao thông rộng khắp, gồm Quốc lộ 1, Quốc lộ 1D, Quốc lộ 25, Quốc lộ 29 và các tuyển tỉnh lộ nối vùng đồng bằng với vùng miền núi. Có trục giao thông phía Tây nối 03 huyện miền núi Phú Yên với huyện Vân Canh (tỉnh Bình Định) và huyện Ma D'răk (tỉnh Đắk Lắk); có trục giao thông ven biển nằm trong tuyến đường bộ ven biển Việt Nam nối các huyện vùng biển và ven biển; Giao thông đường sắt, có tuyến đường sắt Bắc - Nam đi qua với chiều dài đoạn tuyến là 117 km, có 2 ga chính là Tuy Hòa và Đông Tác, trong tương lai khi tuyến đường sắt lên Tây Nguyên được hình thành mở ra triển vọng hợp tác, giao thương hàng hóa giữa Phú Yên và các tỉnh Tây Nguyên; Hàng không, Phú Yên có sân bay Tuy Hòa cách thành phố Tuy Hòa 5 km về phía Đông Nam, diện tích sân bay: 700ha, hiện đang nâng cấp cảng hàng không Tuy Hòa theo tiêu chuẩn 4C; Cảng Vũng Rô, Vũng Rô là cảng biển nước sâu có thể đón nhận tàu trọng tải 30 nghìn DWT.
Du lịch
Du lịch là một trong những ngành ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong quá trình đi lên của Phú Yên. Mặc dầu có xuất phát điểm thấp, nhưng đến nay du lịch Phú Yên đã vươn lên trở thành một trong những mũi nhọn kinh tế của tỉnh. Với thương hiệu "Xứ sở hoa vàng trên cỏ xanh".
Phú Yên được ban tặng cho một hệ thống cảnh quan thiên nhiên khá đa dạng, đầy đủ với núi, cao nguyên, đồng bằng châu thổ, sông, hồ, đầm, vịnh, hải đảo... Một số danh thắng tiêu biểu là Gành Đá Đĩa, đầm Ô Loan, núi Đá Bia, vịnh Xuân Đài, bãi Môn- mũi Điện, di tích lịch sử cấp quốc gia như vũng Rô, núi Nhạn- sông Đà Rằng,..v.v...
Cơ sở hạ tầng du lịch của Phú yên được đầu tư mạnh.
Phú Yên hiện có 1 khách sạn 5 sao (Cendeluxe), 3 khách sạn 4 sao (Kaya, Sài Gòn- Phú Yên, Long Beach), và nhiều khách sạn khác như Hương Sen, khách sạn Công Đoàn... Cơ sở vui chơi, nghỉ dưỡng thì có khu giải trí - sinh thái Thuận Thảo, Vincom Plaza Tuy Hòa, khu resort Sao Việt, bãi Tràm hideaway...
Năm 2018, tổng lượt khách du lịch đến Phú Yên hơn 1,6 triệu lượt khách, đạt 111% kế hoạch, tăng 14,6% so với năm 2017, trong đó có 41.005 lượt khách quốc tế, tăng 15,5% so với năm 2017.
Nông nghiệp
Chủ yếu là lúa, mía,cây hoa màu với trình độ thâm canh khá.
Với cánh đồng Tuy Hòa, cánh đồng lúa rộng nhất miền Trung, lương thực, đặc biệt là lúa, nhân dân đã tự túc và có phần sản xuất ra các tỉnh lân cận. Sản lượng lúa bình quân hàng năm ước trên 320000 tấn, đáp ứng nhu cầu địa phương và bán ra tỉnh ngoài. Mặc dù không phải là trọng tâm nhưng đây là ngành kinh tế thu hút nhiều lao động của tỉnh, giải quyết công ăn việc làm cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo.
Do khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương và chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa nắng từ tháng 1 đến tháng 8, thích hợp nhiều loại cây lương thực và hoa màu như: lúa, bắp, đậu, rau, dưa, bầu, bí, khoai, sắn, mía,...; phát triển tốt ở Tây Hòa, Tuy An, Phú Hòa. Cây mía trồng nhiều ở Sông Hinh, Sơn Hòa, Đồng Xuân, Tuy An, và Tây Hòa. Dừa là loại cây công nghiệp trồng nhiều ở Sông Cầu.
Thủy - hải sản
Phú Yên có diện tích vùng biển trên 6.900 km² với trữ lượng hải sản lớn: trên 500 loài cá, 38 loài tôm, 15 loài mực và nhiều hải sản quý.
Sản lượng khai thác hải sản của Phú Yên năm 2005 đạt 35.432 tấn, tăng bình quân 5%/năm. Trong đó sản lượng cá ngừ đạt 5.040 tấn (thông tin từ Cẩm nang xúc tiến thương mại - du lịch Phú Yên).
Nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành kinh tế mạnh của tỉnh, với tổng diện tích thả nuôi là 2.950ha, sản lượng thu hoạch 3.570 tấn, bên cạnh đó có nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao như sò huyết, cá ngừ đại dương, tôm sú, tôm hùm.
Các địa phương nuôi trồng hải sản tập trung ở khu vực đầm Cù Mông, Vịnh Xuân Đài (Thị xã Sông Cầu), Đầm Ô Loan (Huyện Tuy An),... Đây là những địa phương nuôi trồng có tình chiến lược của tỉnh, thu hút nhiều lao động. Đặc biệt, ngay tại Đầm Cù Mông, việc nuôi trồng và chế biến được thực hiện khá đầy đủ các công đoạn nhờ Khu công nghiệp Đông bắc Sông Cầu nằm ngay tại đó.
Môi trường - Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên đất
Tài nguyên đất Phú Yên khá đa dạng về nhóm, các loại đất phân bố trên nhiều dạng địa hình khác nhau tạo ra những tiểu vùng sinh thái nông – lâm nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây trồng lâu năm vùng đồi núi. Có 8 nhóm đất chính: Nhóm đất đỏ vàng: Là nhóm đất có diện tích lớn nhất. 336.579 ha, chiếm tỷ lệ 66,71%; Nhóm đất cát biển: 15.009 ha chiếm 2,97%. Nhóm đất mặn, phèn: 7.899 ha, chiếm 1,57%. Nhóm đất Phù sa: 55.752 ha, chiếm 11.05%. Nhóm đất xám: 39.552 ha, chiếm 7,84%, Nhóm đất đen: 18.831 ha, chiếm 3,73%.. Nhóm đất vàng đỏ trên núi: 11.300 ha, chiếm 2,5%. Nhóm đất thung lũng dốc tụ: 1.246 ha; Các loại đất khác: 21.192 ha, chiếm tỷ lệ 4,21%.
Sông ngòi - Biển
Sông
Phú Yên có hệ thống sông ngòi phân bổ tương đối đều trên toàn tỉnh, các sông đều bắt nguồn từ phía Đông của dãy Trường Sơn, chảy trên địa hình đồi, núi ở trung và thượng lưu, đồng bằng nhỏ hẹp ở hạ lưu rồi đổ ra biển. Phú Yên có trên 50 con sông lớn nhỏ, đáng chú ý là 3 con sông chính: sông Kỳ Lộ, Sông Ba, Sông Bàn Thạch với với tổng diện tích lưu vực là 16.400 km², tổng lượng dòng chảy 11.8 tỷ m³, phục vụ nước tưới cho nông nghiệp, thủy điện và sinh hoạt của người dân Phú Yên.
Nguồn nước mặt: Mạng lưới sông suối ở Phú Yên phần lớn bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn ở phía Tây, dãy Cù Mông ở phía Bắc và dãy đèo Cả ở phía Nam. Sông suối của tỉnh thường ngắn, dốc nên tốc độ dòng chảy lớn. Nguồn nước sông Ba có trữ lượng lớn nhất tỉnh, lượng nước đổ ra biển hàng năm là 9,7 tỷ m³. Nguồn nước sông Bàn Thạch với tổng lượng dòng chảy của sông 0,8 tỷ m3/năm. Sông Kỳ Lộ là con sông lớn thứ 2 trong tỉnh, diện tích lưu vực sông Kỳ Lộ là 1.950 km², trong đó phần trong tỉnh là 1.560 km².
Nguồn nước ngầm: Trữ lượng động tự nhiên khai thác tiềm năng nguồn nước ngầm của tỉnh khoảng 1,2027 x 106m³/ngày.
Nước khoáng: Nguồn tài nguyên nước khoáng ở Phú Yên khá phong phú, trên địa bàn tỉnh có 4 điểm nước khoáng nóng ở Sơn Thành (huyện Tây Hòa), Phước Long ở xã Xuân Long, Triêm Đức (huyện Đồng Xuân) và Phú Sen (huyện Phú Hòa).
Biển
Với bờ biển dài 189 km, có nhiều vịnh, bãi, vũng, đầm phá, gành còn mang vẻ đẹp hoang sơ tạo nên những cảnh quan sinh thái phong phú, đa dạng là tiềm năng rất lớn cho du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, Phú Yên có nhiều vùng bãi triều nước lợ, cửa sông, đầm phá, vịnh rất thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản xuất khẩu. Đây là tiềm năng, lợi thế để Phú Yên phát triển kinh tế biển.
Tài nguyên rừng
Huyện Sơn Hòa có hàng vạn hecta rừng với nhiều gỗ quí như: Bằng Lăng, Chang gà, Côn, Ba thưa, Chò, Gõ, Sơn, Kiền kiền, Lim, Trắc,... cùng nhiều loại thú như: gấu, nai, mang, hươu, cheo, chồn, thỏ, nhím,...; đang là nơi phát triển các giống cây công nghiệp như: cà phê, điều, thuốc lá cùng nhiều loại cây ăn trái (thơm, mít, chuối, cam, bưởi,...).
Toàn tỉnh có 3 kiểu rừng chính là rừng kín lá rộng thường xanh, đây là kiểu rừng phổ biến ở Phú Yên chiếm 96,5% diện tích rừng tự nhiên; rừng rụng lá (khộp), kiểu rừng này chiếm tỷ lệ 3,5% diện tích rừng tự nhiên toàn tỉnh; rừng trồng, hiện có 20.963,0 ha rừng trồng và khoảng 8,4 triệu cây phân tán (tương đương 4.200 ha), gồm các loại cây chủ yếu như keo tai tượng, xà cừ, phi lao, điều, dầu rái, sao đen, gõ đỏ, muồng đen, giáng hương và một số loại khác. Hệ động thực vật rừng Phú Yên khá phong phú có 43 họ chim với 114 loài (trong đó có 7 loài quý hiếm). Thú có 20 họ với 51 loài (trong đó có 21 loài quý hiếm), Bò sát có 3 họ với 22 loài (trong đó có 2 loài quý hiếm).
Phú Yên có nguồn khoáng sản dồi dào, trữ lượng lớn như đá Granite màu, Diatomite, Bauxit, Fluorit, nước khoáng, than bùn vàng sa khoáng.
Thực trạng
Ngày 26-4, thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho biết Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa chỉ đạo Thanh tra Chính phủ kiểm tra, làm rõ các vấn đề báo Tuổi trẻ phản ánh về vấn đề phá rừng phòng hộ ở Phú Yên. Theo đó, hơn 100ha rừng phòng hộ ở Phú Yên đang bị phá để làm sân golf, khách sạn, resort nhưng đến nay vẫn chưa có hồ sơ xin phép Thủ tướng Chính phủ cho chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định. Ngoài ra, Phú Yên còn dành hơn 1.000ha rừng cho 20 dự án đầu tư khác. Phá rừng nhiều nhất là các dự án nuôi bò, thủy điện, trường đua ngựa và nhà máy lọc dầu.
Giáo dục
Phú Yên có hệ thống các trường đại học (Phú Yên, xây dựng số 3) đào tạo 300 SV, Cao đẳng (Công nghiệp) mỗi năm đào tạo khoảng 1200 học viên, 1 chi nhánh học viện ngành tài chính ngân hàng đào tạo trên 300 học viên và các trường và trung tâm đào tạo nghề (mỗi năm đào tạo khoảng 1.400 kỹ thuật viên và trên 800 công nhân có tay nghề cao - từ bậc 3/7 trở lên). Trường Đại học Xây dựng Miền Trung đào tạo Kỹ sư xây dựng và Kiến trúc (mỗi năm đào tạo 1500 học viên).
Các trường
Hệ Đại học:
Đại học Phú Yên
Đại học Xây dựng Miền Trung
Học viện Ngân hàng - Phân viện Phú Yên
Hệ Cao đẳng:
Trường Cao đẳng Nghề Phú Yên
Trường Cao đẳng Công nghiệp Tuy Hoà
Trường Cao đẳng Y tế Phú Yên
Giao thông
Biển số xe
Thành phố Tuy Hòa: 78-C1 XXX.XX
Thị xã Sông Cầu: 78-D1 XXX.XX
Thị xã Đông Hòa: 78-G1 XXX.XX
Huyện Tây Hòa: 78-F1 XXX.XX
Huyện Tuy An: 78-H1 XXX.XX
Huyện Phú Hòa: 78-E1 XXX.XX
Huyện Sơn Hòa: 78-L1 XXX.XX
Huyện Đồng Xuân: 78-K1 XXX.XX
Huyện Sông Hinh: 78-M1 XXX.XX
Văn hóa
Dân Phú Yên thường được gọi là dân xứ "nẫu", đó là tiếng nói đặc trưng của họ, tiếng nẫu (nẫu = người ta).
Dân Phú Yên còn có thể loại hát chòi, đó là một thể loại hát dân gian từng rất phổ biến ở Phú Yên.
Phú Yên cũng chính là nơi đã phát hiện ra nhiều di sản văn hoá, như bộ trường ca quý giá của các dân tộc thiểu số, bộ đàn đá Tuy An có độ chuẩn về cung bậc thuộc loại chính xác nhất và những chiếc kèn đá có một không hai.
Lễ hội
Ngoài các lễ hội chung của cả nước, còn có nhiều lễ hội riêng biệt, đặc trưng của vùng, được nhà nước công nhận như là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam:
Lễ hội đánh bài chòi, với các bài hát chòi dân gian, đậm bản sắc văn hóa của Phú Yên.
Lễ hội đầm Ô Loan được tổ chức tại đầm Ô Loan thuộc huyện Tuy An
Lễ đâm trâu của người Ba Na
Lễ bỏ mả của người Êđê
Lễ cúng đất của người Kinh
Lễ hội cầu ngư của người Kinh
Lịch một số lễ hội ở Phú Yên (cấu trúc: Tên lễ hội: thời gian (âm lịch), địa điểm.)
Hội đua thuyền đầm Ô Loan: 07/01, xã An Cư, huyện Tuy An.
Hội Sông nước Đà Nông: 08/01 (âm lịch), phường Hòa Hiệp Nam, Thị xã Đông Hòa.
Hội đua thuyền sông Đà Rằng: 07/01, phường 6, Thành phố Tuy Hòa.
Lễ hội Đồng Cam: 08/01, xã Hòa Hội, huyện Phú Hòa.
Hội đua ngựa: 09/01, xã An Xuân, huyện Tuy An.
Lễ hội chùa Từ Quang: 11/01, xã An Dân, huyện Tuy An.
Hội chùa Ông (của người Hoa): 13/01, phường 1, Thành phố Tuy Hòa.
Hội bài chòi: tết nguyên đán, vùng nông thôn Phú Yên.
Lễ hội Sông nước Tam Giang: tết nguyên đán, thị xã Sông Cầu.
Lễ hội cầu ngư: từ tháng 1 đến tháng 6, khắp các vùng ven biển.
Hội thơ đêm nguyên tiêu: rằm tháng giêng hàng năm, Sân tháp Nhạn, phường 1, tp Tuy Hòa.
Lễ hội đền Lê Thành Phương:28/01, xã An Hiệp, huyện Tuy An.
Lễ hội đền Lương văn Chánh: 19/09, xã Hòa Trị, huyện Phú Hòa.
Lễ hội cầu an: Tháng 3 và tháng 8, ở khắp các chùa.
Lễ hội bỏ mả: tháng 3 đến tháng 5, huyện: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh.
Lễ hội mừng sức khỏe: tháng 3 đến tháng 5, các huyện Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh.
Lễ hội đâm trâu: từ tháng 2 đến tháng 6: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh.
Lễ hội mừng nhà mới: từ tháng 3 đến tháng 5, các huyện: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh
Lễ hội mừng lúa mới: từ tháng 3 đến tháng 5: các huyện Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Hinh
Ẩm thực ở Phú Yên
Bánh xèo: Cùng với bánh tráng, bánh xèo món ăn truyền thống của người dân ở Phú Yên. Bánh xèo ở Phú Yên được làm từ bột gạo, giá đỗ, thịt băm và tôm hoặc mực; nếu thực khách có yêu cầu thì chủ quán có thể cho trứng vào để tăng thêm hương vị. Khi khuôn đúc nóng, người ta cho mỡ, sau đó là thịt, tôm, giá đỗ và nước bột gạo xay vào, đậy nắp chờ khoảng 1 phút là bánh chín. Bánh đổ xong vừa mềm, vừa nóng, có hương vị của hải sản biển. Người ta ăn bánh xèo với rau sống bao gồm xà lách, giá đỗ và nhiều loại rau thơm khác. Nước chấm gồm có hai loại, người địa phương gọi là mắm đục và mắm trong. Mắm đục gần giống như mắm niêm, cho thêm gia vị và ớt. Mắm trong là nước mắm bình thường có thêm ớt tỏi,... Công thức pha nước mắm cũng là một bí quyết của các quán ăn ở đây vì nó ảnh hưởng rất nhiều đến hương vị của món ăn. Bánh xèo có thể ăn bằng đĩa hoặc dùng bánh tráng cuốn lại chấm với nước mắm sẽ rất ngon. Ở Phú Yên đặc biệt là tại Thành phố Tuy Hòa, du khách có thể thưởng thức bánh xèo ở nhiều nơi, từ gánh hàng rong của các chị cho đến những địa điểm có danh tiếng bánh xèo ngon lâu năm tại khu Đại nam cũ trên đường Nguyễn Công Trứ.
Bánh canh: Bánh canh là một món ăn bình dân ở Phú Yên, tuy vậy chủng loại bánh canh ở Phú Yên rất phong phú như: bánh canh bột gạo, bánh canh bột lọc, bánh canh chả cá, bánh canh hẹ,... chỉ cần đi lòng vòng 10 phút cũng có thể đếm được tới 4-5 quán bán bánh canh bên vỉa hè, nhiều nhất là xung quanh bưu điện thành phố Tuy Hòa. Mỗi món bánh canh là một loại hương vị khác nhau, không quán nào giống quán nào. Bánh canh có thể được nấu với các vị cá dằm, chả cá là phổ biến, đặc biệt người ta dùng lá hẹ như một loại phụ gia đặc biệt thêm vào bánh canh để tăng thêm mùi vị.
Bánh hỏi, bánh ướt: Đây là hai món bánh khá quen thuộc của người dân Việt Nam, cách chế miến hai món ăn này ở Phú Yên không khác lắm so với nhiều vùng khác trên cả nước.
Bánh bèo nóng: Bánh được làm chín xông để nóng trong nồi hơi nước nóng. Nếu thực thách đến ăn thì bánh sẽ dùng với chà bông, bánh mì vụn chung rồi sau đó chan nước mắm có ớt, tỏi.
Bánh ướt ở Phú Yên có cách tráng mỏng tương tự như cách tráng bánh cuốn nóng ở miền Bắc. Bánh ướt thường được phục vụ nóng ngay tại chỗ. Ngoài ra còn có bánh bèo nóng, ăn khi bánh vừa xuống lò. Bánh được hấp cách thủy trong chén nhỏ và được phục vụ tại chỗ. Các loại bánh trên thường được rải chà bông tôm (hay ruốc tôm theo cách gọi người miền Bắc), phục vụ cùng nước mắm ớt pha ngọt và nếu có yêu cầu có thêm lòng lợn đi kèm và cháo lòng.
Bánh ít lá gai: Cũng là một nét văn hóa ẩm thực độc đáo ở Phú Yên vào những ngày giỗ tổ tiên. nhân bánh được làm từ nhiều thứ như: đậu phộng và dừa; đậu xanh; đậu đen...Bánh này được bọc bằng lá gai và khi cho ra lò có màu xanh thẫm và tương tự như bánh gai của miền Bắc. Nhưng người Phú Yên không cho một miếng mỡ vào nhân bánh như bánh gai và bánh ít còn được làm với nhiều loại nhân chứ không chỉ là nhân đậu xanh.
Chả dông: là món chả ram (chả giò) nhưng nguyên liệu làm từ thịt của con dông nên gọi là chả dông. Thịt dông được băm nhuyễn trộn với xã và ớt dùng làm nguyên liệu. Dùng chả dông được ăn với rau sống nước mắm tỏi ớt trộn đâu phụng đăm nhuyễn rất ngon. Món chả dông làm nên dánh tiếng của các cửa hàng ăn trên đường Nguyễn Công Trứ khu Đại Nam cũ ở Thành phố Tuy Hòa. Ở đây thực khách có thể gọi một phần chả dông có thêm nem nướng được phục vụ cùng rau sống và bánh tránh để cuốn ăn kèm.
Các món ăn từ Cá ngừ đại dương(Cá bò gù): Phú Yên là nơi khởi phát nghề câu cá ngừ đại dương từ những đầu của thập kỷ 90 vì vậy các món đặc sản từ cá ngừ ở đây mang những nét rất riêng đặc trưng cho con người miền biển.
- Trong đó có thể kể đến các món:
+ Cá ngừ cắt lát ăn với mù tạt. Món ngày được chế biến từ các lát cá ngừ sống cắt nhở đường kính 4, 5 cm sau khi được đông lạnh để sắc cá chuyển từ đỏ sang hồng sẽ được dọn ra ăn kèm với các loại rau thường thấy là: cải xanh, ngò tàu, ngổ, é quế, é ta, húng dũi, húng đứng...và cùng món nước chấm đặc biệt được pha bởi xì dầu, mù tạt và tương ớt. Thực khách có thể ăn lát cá với nước chấm kể trên hoặc cuộn lát cá với cải ăn cùng nước chấm.
+ Mắt cá ngừ chưng cách thủy:(món "đèn biển") Cách chế biến: Mắt cá mua về rửa sạch. Chú ý cát lẫn vào mắt. Ướp các loại gia vị như hành, tiêu, ớt, tỏi, muối, bột ngọt... để cho thấm đều khoảng 15 - 20 phút thì cho vào nồi đất chưng cách thủy độ nửa giờ thì ăn được. Khi chưng cho thêm mấy vị thuốc bắc để khử mùi tanh và tăng chất bổ dưỡng. Ăn món này thường kèm với các loại rau thơm và kèm một vài ly rượu mạnh thì càng hợp khẩu...
+ Gỏi bao tử cá ngừ: Đây là món hiếm, ít được bày bán ở hàng quán, bởi ngư dân đánh bắt cá ngừ thường dùng món này trong lúc họ còn lênh đênh trên biển hoặc về "lưu hành nội bộ". Chỉ cần rửa sạch bao tử rồi bỏ vào nước lã luộc chín, sau đó rửa lại nước lạnh cho giòn, xắt thành miếng vừa ăn ướp với hành tây, tiêu, ớt, muối đường, mì chính... trộn đều là có món gỏi bao tử cá ngừ.
+ Cháo đầu cá: Đầu cá mua về rửa sạch, xẻ làm tư rồi cho vào nồi nấu cháo như các loại cá khác. Sau những lúc chén tạc, chén thù với bạn bè mà có được chén cháo đầu cá ngừ đang bốc hơi thì không mấy chốc hơi men sẽ thoát ra khỏi người và có được giấc ngủ sâu, khi dậy cảm thấy người vô cùng khoan khoái...
+ Ức cá ngừ: Ức cá ngừ sau khi tẩm ướt được hấp, kho và thậm chí xào và có mùi vị như thịt bò hoặc thịt lợn nếu có nhiều mỡ cá.
Các truyền thuyết, huyền thoại
Phú Yên có rất nhiều câu chuyện truyền thuyết và huyền thoại gắn liền với lịch sử hơn 400 năm của minh.
Một số truyện tiêu biểu:
Chiếc bánh nậm của Nữ Nhi Phù Quốc - nói về tấm lòng nhân hậu của người phụ nữ nông thôn Phú Yên
Gành Đá Đĩa và huyền thoại về kho báu biến thành đá
Truyền thuyết về con lươn ở buôn Đức
Du lịch
Phú Yên được biết đến là một vùng đất hoang sơ, xinh đẹp với nhiều bãi biển, đầm vũng, di tích lịch sử văn hoá như Núi Nhạn, Núi Đá Bia,Vũng Rô, Bãi Môn - Mũi Điện, Đầm Ô Loan,Gành Đá Đĩa, Nhà thờ Mằng Lăng, Vịnh Xuân Đài, Đập Đồng Cam. Ngoài ra Phú Yên còn rất nhiều danh thắng khác như Bãi Xép, biển Vịnh Hoà, đồi cát Từ Nham, hòn Nưa, hòn Chùa, Nhất Tự Sơn, bãi Bàu, hòn Yến, Gành Đèn, thác Cây Đu, thác H’Ly, Cao nguyên Vân Hòa... Sự kiện bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đã tạo động lực cho du lịch Phú Yên phát triển mạnh mẽ và đang trở thành điểm dừng chân đầy thú vị trên bản đồ du lịch Việt Nam.
Hiện tại Tp. Tuy Hoà và Tx. Sông Cầu có nhiều nhà hàng, khách sạn, Resort tiêu chuẩn du lịch phục vụ du khách.
Năm 2019, Phú Yên đón gần 1,8 triệu lượt khách tham quan.
Kết nghĩa
tỉnh Hải Dương
Hình ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tỉnh Phú Yên
Các khu Công nghiệp của tỉnh Phú Yên
Báo Phú Yên Điện tử
Tỉnh ven biển Việt Nam
|
11255
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/O%C3%A1nh%20S%C6%A1n%20Thi%E1%BB%87u%20C%E1%BA%A9n
|
Oánh Sơn Thiệu Cẩn
|
Oánh Sơn Thiệu Cẩn (zh. 瑩山紹瑾, ja. keizan jōkin), 1268-1325, là một vị Thiền sư Nhật Bản, Tổ thứ tư của tông Tào Động (ja. sōtō) sau Đạo Nguyên Hi Huyền (ja. dōgen kigen). Sư nối pháp Thiền sư Triệt Thông Nghĩa Giới (ja. tettsū gikai, 1219-1309), thành lập Tổng Trì tự (ja. sōji-ji), một trong hai ngôi chùa quan trọng nhất của dòng Tào Động song song với Vĩnh Bình tự (eihei-ji). Sư viết sách Truyền quang lục (zh. 傳光錄, ja. denkōroku), một tác phẩm được tất cả các dòng thiền Nhật Bản ưa chuộng và sử dụng cho đến ngày nay. Sư được các đệ tử trong tông môn Tào Động cung kính gọi là Đại Tổ (zh. 大祖, ja. daiso), Đạo Nguyên được gọi là Cao Tổ (zh. 高祖, ja. kōso).
Cơ duyên
Sư quê tại Echizen, sớm được bà mẹ sùng tín gửi đến Vĩnh Bình tự để tu học. Sư thụ giới lần đầu (1280) nơi Thiền sư Cô Vân Hoài Trang (zh. 孤雲懷奘, ja. koun ejō, 1198-1280) - vị Tổ thứ hai của tông Tào Động. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, Hoài Trang quy tịch và Sư lưu lại tu học với Thiền sư Nghĩa Giới đến năm 17 tuổi. Sau đó, Sư bắt đầu một cuộc hành cước kéo dài bốn năm (1285-1288), thu thập kiến thức cho cuộc đời hoằng hoá vinh quang của mình. Sư yết kiến nhiều vị cao tăng của nhiều tông phái khác nhau, tu tập Thiền theo Thiền sư Tịch Viên (zh. 寂圓, ja. jakuen, 1207-1299, bạn đồng học với Đạo Nguyên nơi Thiên Đồng Như Tịnh) tại Bảo Khánh tự (zh. 寶慶寺, ja. hōkyō-ji). Tại Kinh Đô (kyōto), Sư tu tập Thiền theo tông Lâm Tế dưới sự hướng dẫn của hai vị Đông Sơn Trạm Chiếu (zh. 東山湛照, ja. tōzan tanshō, 1231-1291) và Bạch Vân Huệ Hiểu (zh. 白雲慧曉, ja. hakuun egyō, 1228-1297), cả hai đều là môn đệ của Viên Nhĩ Biện Viên (zh. 圓爾辨圓, ja. enni ben' nen, 1202-1280). Một cuộc viếng thăm núi Tỉ Duệ (ja. hieizan) được Sư sử dụng để nghiên cứu giáo lý của Thiên Thai tông (zh. 天台宗, ja. tendai-shū). Sư cũng đến tham vấn Thiền sư Tâm Địa Giác Tâm (zh. 心地覺心, ja. shinchi kakushin, 1207-1298) - người đã đem tập công án quan trọng Vô môn quan sang Nhật.
Khi trở về học với Nghĩa Giới - lúc bấy giờ trụ trì chùa Đại Thừa (ja. daijō-ji) - Sư đại ngộ (1294) khi Nghĩa Giới trao cho môn đệ công án thứ 17 của Vô môn quan để tham cứu. Trong cuộc vấn đáp trong công án này, Thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện trả lời sư Triệu Châu Tòng Thẩm "Tâm bình thường là Đạo" (bình thường tâm thị đạo). Khi Sư suy nghĩ trình Nghĩa Giới 'Bình thường tâm', Nghĩa Giới liền đánh ngay vào miệng Sư. Ngay lúc này, mắt tâm Sư liền mở sáng. Không bao lâu sau, Nghĩa Giới phó chúc Sư là người nối dõi tông đường và từ đây, Sư bắt đầu cuộc đời giáo hoá của mình.
Sự nghiệp hoằng pháp
Sau khi thừa kế Nghĩa Giới trụ trì chùa Đại Thừa (1303), học chúng từ khắp nơi đến tham học và ngôi chùa này trở thành một trung tâm Phật giáo quan trọng của các miền Đông bắc Nhật Bản. Nơi đây, Sư hoàn tất hai tác phẩm quan trọng của mình là Truyền quang lục và Toạ thiền dụng tâm ký (zh. 坐禪用心記, ja. zazenyōjinki). Trong Toạ thiền dụng tâm ký, Sư khuyên mọi người chú tâm đến việc Toạ thiền (ja. zazen) và đặc biệt nhấn mạnh sự quan trọng của tư tưởng người đang toạ thiền. Tập này bắt đầu bằng những câu:
"Toạ thiền giúp con người khai sáng tâm lực và an trụ nơi cội nguồn. Đó chính là sự thấy rõ Bản lai diện mục, là sự phát minh tâm địa. Thân tâm đều biến mất, không còn vướng mắc vào những hành động như ngồi, nằm. Vì thế nên hành giả không nên nghĩ thiện, ác, vượt hẳn ngôn ngữ như phàm, thánh, vô minh, giác ngộ, rời bỏ cõi của chúng sinh và Phật."
Dựa trên các giáo lý nền tảng, Sư hướng dẫn rất tỉ mỉ về việc thực hành toạ thiền:
"Các buổi lễ long trọng và những ngôi chùa vĩ đại thờ Phật đều rất có ý nghĩa, nhưng nếu ai muốn toạ thiền rốt ráo, người ấy không được tham gia tổ chức các lễ này... Không nên toạ thiền ở nơi nào quá sáng hoặc quá tối, quá nóng hoặc quá lạnh, cũng không nên toạ thiền gần những người say đắm vào việc vui chơi hoặc kĩ nữ! Thiền đường, bên cạnh một vị thầy uy tín, cao vút trên núi hoặc tận sâu dưới thung lũng là những nơi thích hợp. Bên cạnh suối xanh, trên đỉnh núi cao là những nơi thuận tiện để kinh hành... Hành giả không được quên việc quán tất cả các pháp đều vô thường vì việc ấy giúp trau dồi tâm kiên cường... Lúc nào cũng giữ lòng từ bi và chuyển tất cả những phúc đức thu thập được đến tất cả chúng sinh! Không được phát tâm kiêu mạn, không được khinh thường Phật pháp! Những phong cách này chính là phong cách của phàm phu, ngoại đạo. Nếu lúc nào cũng chú tâm đến lời nguyện đoạn tất cả phiền não để đạt Giác ngộ thì phải toạ thiền và vô tác (không làm). Đây là quy luật quan trọng của việc toạ thiền."
Một trong những thành công lớn của Sư là việc thành lập hai ngôi chùa lớn của tông Tào Động, đó là Vĩnh Quang tự (ja. yōkō-ji) và Tổng Trì tự (ja. sōji-ji, 1322). Hậu Đề Hồ (ja. go-daigo) Thiên hoàng nâng cấp Tổng Trì tự ngang hàng với Vĩnh Bình tự (ja. eihei-ji) và gọi là Đại bản sơn (ja. daihonzan) của tông Tào Động.
Trong khoảng thời gian cuối đời, Sư lui về Vĩnh Quang tự và giao phó việc quản lý chùa Tổng Trì cho vị đại đệ tử là Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki, 1275-1365). Trước khi tịch, Sư còn soạn tập Oánh Sơn thanh quy (zh. 瑩山清規, ja. keizan shingi). Hài cốt của Sư được chia ra và thờ cúng tại bốn ngôi chùa: Đại Thừa, Vĩnh Quang, Tổng Trì và Tịnh Trụ (淨住寺, ja. jōjū-ji).
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Tào Động tông
Thiền sư Nhật Bản
Sinh năm 1268
Mất năm 1325
Người Fukui
|
11257
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%ADt%20Phong%20L%C6%B0%C6%A1ng%20T%C3%BA
|
Thật Phong Lương Tú
|
Thật Phong Lương Tú (zh. 實峰良秀, ja. jippō ryōshū), 1318-1405, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (zh. 峨山韶碩, ja. gasan jōseki, 1275-1365). Sư là một người rất tài năng uyên bác. Tương truyền rằng, khi nhìn thấy Thập mục ngưu đồ, Sư phát tâm quyết chí tu học thiền. Sư lưu lại nơi Nga Sơn hơn mười năm giữ chức thị giả. Sư có công khai sáng Vĩnh Trường tự (ja. eishō-ji) tại Bitchū. Môn đệ của Sư hoằng hoá khắp nước Nhật.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Tào Động tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
|
11258
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%B4ng%20Huy%E1%BB%85n%20T%E1%BB%8Bch%20Linh
|
Thông Huyễn Tịch Linh
|
Thông Huyễn Tịch Linh (zh. 通幻寂靈, ja. tsūgen jakurei) 1322-1391, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (zh. 峨山韶碩, ja. gasan jōseki, 1275-1365). Trong năm vị đại đệ tử này thì Sư là thượng thủ. Lúc còn nhỏ Sư đã đọc kinh và năm lên 17, Sư xuất gia cầu đạo. Ban đầu, Sư đến học với Thiền sư Minh Phong Tố Triết (1277-1350) tại chùa Đại Thừa (ja. daijō-ji). Nơi đây, Sư tu tập không kể ngày đêm và vì vậy được tăng chúng cũng như dân dã xung quanh tôn kính. Sau hơn mười năm tu tập với Minh Phong, Sư chuyển sang Tổng Trì tự (ja. sōji-ji) tu học với Thiền sư Nga Sơn và ngay tại đây, Sư triệt ngộ và được Nga Sơn ấn khả.
Song song với bạn đồng học Thái Nguyên Tông Chân (zh. 太源宗真, ja. taigen sōshin, ?-1370), Sư rất thành công trong việc truyền bá dòng thiền Tào Động. Sư khai sáng và trụ trì nhiều thiền viện lớn và nhiều thiền sinh đến tham học dưới sự hướng dẫn của Sư—khắt khe nhưng nhiệt tình. Trong số các vị đệ tử thì Liễu Am Huệ Minh (zh. 了菴慧明, ja. ryōan emyō) trội hơn hết. Liễu Am lần lượt trụ trì Tổng Trì tự, Vĩnh Trác tự (ja. yōtaku-ji) và sau khai sáng Tối Thừa tự (ja. saijō-ji) tại Sagami.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Tào Động tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
|
11259
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Jakushitsu%20Genk%C5%8D
|
Jakushitsu Genkō
|
Tịch Thất Nguyên Quang (zh. 寂室元光, ja. jakushitsu genkō), 1290-1367, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, sau Thiền sư Lan Khê Đạo Long (zh. 蘭溪道隆) hai đời.
Cơ duyên
Sư xuất gia năm 12 tuổi, thụ giới cụ túc năm 15 tuổi và sau đó tham học với Thiền sư Ước Ông Đức Kiệm (zh. 約翁德儉, ja. yakuō tokken, 1244-1320), một môn đệ đắc pháp của Thiền sư Lan Khê Đạo Long. Một hôm, Sư thỉnh Ước Ông nói lời cuối (mạt ngữ 末語, ja. matsugo). Ước Ông không nói gì, chỉ dùng tay tát Sư một cái. Sư nhân đây đại ngộ, vào năm 18 tuổi.
Nghe lời khuyên của thầy, Sư yết kiến nhiều vị Thiền sư khác và đặc biệt là Sư thường tham học với các vị Thiền sư Trung Quốc giáo hoá tại Nhật, trong đó có Nhất Sơn Nhất Ninh (zh. 一山一寧). Nơi Nhất Sơn, Sư lưu lại hai năm để học cách làm thơ (thi pháp học) và chính vì vậy, các bài thơ, kệ tụng của Sư được đánh giá rất cao, nếu không nói là nổi danh nhất của thời đại này.
Sau, Sư đến Trung Quốc học hỏi nơi Thiền sư Trung Phong Minh Bản (zh. 中峰明本) và nhiều vị khác. Cuộc du học này kéo dài sáu năm và sau khi trở về Nhật, Sư tiếp tục cuộc đời du tăng của mình, 25 năm liền không trụ trì chùa nào. Năm 1361, Sư nhận lời thỉnh cầu, khai sơn trụ trì chùa Vĩnh Nguyên (ja. eigen-ji). Nhiều ngôi chùa lớn tại Kinh Đô (kyōto) và Liêm Thương (kamakura) thỉnh Sư về trụ trì nhưng Sư đều từ chối.
Đặc điểm
Lối sống đơn giản, cơ hàn không phụ thuộc, bác bỏ coi thường những nghi lễ long trọng, những ngôi chùa to lớn, từ chối những chức vụ cao quý, đó chính là những đức tính làm cho Sư nổi bật lên trong những vị Thiền sư thời bấy giờ. Mặc dù tên của Sư không nổi tiếng bằng những vị khác đồng thời, nhưng những phong cách cao quý trên nêu rõ tinh thần Thiền thuần tuý của Sư.
Sư viên tịch năm 1367.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Mất năm 1367
Sinh năm 1290
Nhà thơ Nhật Bản
Lâm Tế tông
|
11261
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%C3%AAn%20Nhai%20Ngh%C4%A9a%20Ph%E1%BA%A1m
|
Tiên Nhai Nghĩa Phạm
|
Tiên Nhai Nghĩa Phạm (zh. 仙崖義梵, ja. sengai gibon), 1751-1837, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế (ja. rinzai-shū), hệ phái Diệu Tâm tự (ja. myōshin-ji). Sư nối pháp Thiền sư Nguyệt Thuyền Thiền Huệ (zh. 月船禪慧, ja. gessen zenne, 1702-1781).
Sư xuất gia năm 11 tuổi và Hành cước năm lên 19. Sau khi yết kiến Nguyệt Thuyền, Sư lưu lại tu học nơi đây và được Nguyệt Thuyền ấn khả. Sau đó Sư lại cất bước du phương, nhận lời trụ trì chùa Thánh Phúc (ja. shōfuku-ji), Thiền viện đầu tiên tại Nhật - được Thiền sư Minh Am Vinh Tây khai sáng năm 1195 - và trở thành vị trụ trì thứ 123 của thiền viện này.
Sư nổi danh vì phương pháp giáo hoá nghiêm khắc nhưng vô cùng hiệu nghiệm, những đặc tính được phản ánh lại trong những tác phẩm nghệ thuật thiền như Mặc tích và những bức tranh mực tàu của Sư—hiện rất được ưa chuộng trong giới hâm mộ Thiền trên khắp hoàn cầu.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Lâm Tế tông
Thiền sư Nhật Bản
|
11269
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A1ch%20Am%20T%C3%B4ng%20B%C3%A0nh
|
Trạch Am Tông Bành
|
Trạch Am Tông Bành (zh. 澤庵宗彭, ja. takuan sōhō), 1573-1645, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, dòng Nam Phố Thiệu Minh (ja. nampo jōmyō). Sư không những là một vị Thiền sư lỗi lạc, tinh thông kinh điển mà còn là một nghệ sĩ trứ danh, một thi hào với những tác phẩm còn được nhắc đến ngày nay.
Sư sinh ra trong một gia đình mộ đạo, sớm xuất gia tu học với nhiều vị Thiền sư nổi danh lúc bấy giờ như Hi Tiên Tây Đường (zh. 希先西堂, ja. kisen seidō), Đổng Phủ Tông Trọng (zh. 董甫宗仲, ja. tōho sōchū). Sau, Sư đến học với Thiền sư Nhất Đống Thiệu Đích (zh. 一凍紹滴, ja. ittō shōteki, 1539-1612) và ngộ đạo nơi đây.
Song song với việc tu tập Thiền, Sư cũng chú tâm đến việc nghiên cứu các môn học thuộc ngoại điển như Nho giáo, Thư đạo (zh. 書道, ja. shōdō), thi pháp… Đặc biệt là những bài dạy cho những vị kiếm sĩ theo Kiếm đạo (zh. 道劍, ja. kendō) đương thời của Sư thường được nhắc nhở đến, nổi danh nhất là tác phẩm Bất động trí thần diệu lục (zh. 不動智神妙錄, ja. fudōchishinmyōroku). Trong những bài khuyên này, Sư phân tích tư tưởng, tâm trạng của một kiếm sĩ theo quan niệm của Thiền tông.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Liên kết ngoài
Giới thiệu bất động trí thần diệu lục
Lâm Tế tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Mất năm 1645
Sinh năm 1573
|
11270
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tri%E1%BB%87t%20%C3%94ng%20Ngh%C4%A9a%20%C4%90%C3%ACnh
|
Triệt Ông Nghĩa Đình
|
Triệt Ông Nghĩa Đình (zh. 徹翁義亭, ja. tettō gikō), 1295-1369, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế hệ phái Đại Đức tự (ja. daitokuji-ha), môn đệ của Thiền sư Tông Phong Diệu Siêu (ja. shūhō myōchō).
Sư quê ở Izumo, ban đầu tu tập tại Kiến Nhân tự (ja. kennin-ji). Sau, vì không hài lòng với phong cách của Ngũ Sơn (ja. gozan) tại đây, Sư đến tham học với Thiền sư Tông Phong và được Ấn khả. Sư giáo hoá rất thành công tại chùa Đại Đức (ja. daitoku-ji). Nối pháp của Sư và là người kế thừa trụ trì Đại Đức tự là Thiền sư Ngôn Ngoại Tông Trung (zh. 言外宗忠, ja. gongai sōchū, 1315-1390) và một thế hệ sau đó là Thiền sư Hoa Tẩu Tông Đàm (zh. 花叟宗曇, ja. kesō sōdon, 1352-1428).
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Lâm Tế tông
Đại sư Phật giáo
Người Shimane
Thiền sư Nhật Bản
|
11271
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung%20Phong%20Minh%20B%E1%BA%A3n
|
Trung Phong Minh Bản
|
Trung Phong Minh Bản (zh. zhōngfēng míngběn/ chung-feng ming-pen 中峰明本, ja. chūhō myōhon, 1263-1323) là một vị Thiền sư Trung Quốc, thuộc dòng Hổ Khâu, phái Dương Kỳ, đời thứ 19 Tông Lâm Tế. Sư là đệ tử nối pháp vượt trội nhất của Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu, và có các pháp tử như Thiên Như Duy Tắc, Thiên Nham Nguyên Trường...
Cuộc đời hoằng hóa của sư đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Tông Lâm Tế tại Trung Quốc thông qua việc tích cực truyền bá phương pháp Thiền thoại đầu, cũng như truyền bá tông này sang Nhật dưới thời nhà Nguyên. Bên cạnh đó, sư cũng nổi bật với tư tưởng Thiền - tịnh song tu và Tam giáo nhất nguyên.
Cơ duyên ngộ đạo
Sư họ Tôn, quê ở Tiền Đường, Hàng Châu, Tỉnh Triết Giang. Lúc còn nhỏ đã có chí hướng tu Phật, vào năm 9 tuổi thì mẹ mất. Năm 15 tuổi, sư có ý muốn xuất gia. Một hôm sư xem quyển Truyền Đăng Lục, đến công án Am-ma-la nữ hỏi Bồ tát Văn Thù: "Đã biết rõ sinh là lý bất sinh, tại sao lại bị sinh tử lưu chuyển?" bèn khởi nghi tình rất sâu.
Sau, sư đến tham học với Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu ở ngọn Sư Tử Nham (獅子巖) trên núi Tây Thiên Mục. Thiền sư Cao Phong bình thường rất nghiêm khắc, khi nói chuyện ngài thường không để lộ biểu cảm nhưng khi thấy sư, ngài Cao Phong tỏ vẻ rất vui và cho sư xuống tóc xuất gia liền.
Một hôm sư đọc Kinh Kim Cang đến câu "Gánh vác việc Như-lai" liền có chổ thâm nhập. Sau đó, lúc đi dạo nhân nhìn thấy suối nước đang chảy mà tỏ ngộ, liền đến gặp ngài Cao Phong cầu ấn chứng, nhưng bị Cao Phong đánh một gậy, đuổi ra ngoài. Về sau, triều đình tuyển mộ thanh niên nam nữ, sư hỏi Thiền sư Cao Phong: "Nếu có người đến hỏi hòa thượng bắt thanh niên nam nữ thì thầy sẽ chọn ai?" Ngài đáp: " Ta cứ đưa cây trúc bề (thiền bản) cho họ". Sư nghe câu này xong liền triệt ngộ và được Thiền sư Cao Phong ấn khả.
Thiền sư Cao Phong Nguyên Diệu trao cho sư bức họa chân dung của mình và nói kệ phó chúc truyền pháp:Ngã tướng bất tư nghì
Phật, Tổ chẳng thể biết
Chỉ hứa thằng du côn
Được thấy nửa bên mũi
Có người hỏi Thiền sư Cao Phong: "Trong các đệ tử của Ngài, ai hơn, ai kém?". Ngài đáp: "Thủ-tọa Nghĩa giống như là cây trúc già, nhưng vẫn còn bảy tám đốt cong. Chỉ Duy-na Bản (Minh Bản) mới thật là cây tre xuất sắc trong rừng tre. Sau này thành đạt không thể đếm được".
Hoằng pháp
Sau khi được ấn khả, sư không định cư, trụ trì tại bất kỳ một ngôi chùa nào nhất định mà lúc thì sống ở trên thuyền, có khi trong túp lều tranh đơn sơ và tự xưng là Huyễn Trú Lão Nhân, nơi am tranh đặt bảng là Huyễn Trụ am. Từng có rất nhiều vị tăng đến tham vấn và ngưỡng mộ gọi sư là Cổ Phật Giang Nam..
Sư được rất nhiều người đương thời tôn kính vì phong cách đơn giản, tu tập thiền thuần tuý của mình. Vua Nguyên Nhân Tông kính mến và mời sư vào cung thuyết pháp nhưng sư từ chối nên vua ban y ca sa tơ vàng và phong danh hiệu Phật Từ Viên Chiếu Quảng Huệ Thiền sư. Đến đời vua Nguyên Anh Tông cũng quy y theo sư.
Nhiều vị Thiền sư Nhật đã đến nơi sư tham học và trong số này trội hơn hết là Cổ Tiên Ấn Nguyên (zh. 古先印元, ja. kosen ingen, 1295-1374) và Cô Phong Giác Minh (zh. 孤峰覺明, ja. kohō kakumyō, 1271-1361). Và những vị này khi trở lại Nhật hoằng pháp cũng giữ phong cách giản dị như sư, lập am tranh đơn sơ để ẩn cư và không trú trì nhất định tại bất kỳ ngôi chùa nào.
Vào ngày 14 tháng 8 năm thứ 3 niên hiệu Chí Trị (至治), sư nói kệ từ biệt đại chúng rồi an nhiên tọa Thiền thị tịch, hưởng thọ 61 tuổi, chúng đệ tử xây tháp thờ nhục thân ở núi Thiên Mục. Vua Nguyên Văn Tông sắc phong thụy hiệu là Trí Giác Thiền Sư, đến đời vua Nguyên Thuận Tông ban thêm thụy hiệu là Phổ Ứng Quốc Sư. Bài kệ thị tịch của sư:Ta có một câu
Phó chúc Đại-chúng
Lại hỏi thế nào
Vốn chẳng căn cứ.Tác phẩm của sư lưu truyền trong đời rất nhiều, ví dụ như Trung Phong Quảng Lục (3 quyển), Huyễn Trú Am Thanh Quy (1 quyển), Nhất Hoa Ngũ Diệp (5 quyển)... Trong đó quyển Trung Phong Pháp Ngữ và Tín Tâm Minh Tịch Giải Nghĩa của sư đã được sư Thích Duy Lực dịch Việt.
Pháp ngữ
Sư thường dạy chúng rằng: "Nay người tham-thiền không được linh nghiệm là vì: 1. Không có chí khí chân thực như người xưa; 2. Không lấy sinh tử vô thường cho là việc lớn; 3. Tập khí từ nhiều kiếp đã không buông xuống được, lại không giữ được quyết tâm bền vững, không lui sụt. Bệnh tại sao? Đó chỉ vì không nhận biết được căn bản của sinh tử."
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Như Sơn, Thiền Uyển Kế Đăng Lục, Thích Thiện Phước dịch 2015.
Lâm Tế tông
Đại sư Phật giáo
Người Chiết Giang
Thiền sư Trung Quốc
Sinh năm 1263
Mất năm 1323
Người nhà Nguyên
|
11273
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%E1%BA%BFt%20Th%C3%B4n%20H%E1%BB%AFu%20Mai
|
Tuyết Thôn Hữu Mai
|
Tuyết Thôn Hữu Mai (zh. 雪村有梅, ja. sesson yūbai), 1288-1346, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế. Ban đầu, Sư thụ giáo nơi Thiền sư Nhất Sơn Nhất Ninh tại thiền viện Kiến Trường (ja. kenchō-ji) ở Liêm Thương (ja. kamakura). Năm 1307, Sư cất bước sang Trung Quốc tu học nhưng không may, bị nghi là gián điệp và phải ngồi tù 10 năm liền. Sau khi được thả, Sư chu du đây đó, tham vấn nhiều vị Thiền sư danh tiếng bấy giờ. Năm 1328, Sư trở về Nhật và theo lời thỉnh cầu của vị tướng quân (shōgun) Túc Lợi Tôn Thị (Ashikaga Takauji) trụ trì chùa Vạn Thọ (ja. manju-ji). Năm 1345, Sư được cử trụ trì chùa Kiến Nhân (ja. kennin-ji). Cùng với Nhất Sơn Nhất Ninh, Sư được xem là người khai sáng phong trào Ngũ Sơn văn học (ja. gosan bungaku) tại Nhật.
Chú thích
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Nhà thơ Nhật Bản
Lâm Tế tông
|
11275
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B4%20%C4%90oan%20T%E1%BB%95%20Ho%C3%A0n
|
Vô Đoan Tổ Hoàn
|
Vô Đoan Tổ Hoàn (zh. 無端祖環, ja. mutan sokan), ?-1387, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki, 1275-1365).
Sư khai sáng rất nhiều Thiền viện ở các tỉnh Echizen, Noto và Iwami. Môn đệ của Sư sau truyền bá tông Tào Động tại miền Bắc Nhật Bản.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Tào Động tông
Thiền sư Nhật Bản
|
11276
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B4%20H%E1%BB%8Dc%20T%E1%BB%95%20Nguy%C3%AAn
|
Vô Học Tổ Nguyên
|
Vô Học Tổ Nguyên (zh. wúxué zǔyuán 無學祖元, ja. mugaku sogen), 1226-1286, là một vị Thiền sư Trung Quốc, thuộc tông Lâm Tế, đắc pháp nơi Thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm ở Kính Sơn. Năm 1279, sư được mời sang Nhật giáo hoá và nối dõi Thiền sư Lan Khê Đạo Long trụ trì chùa Kiến Trường (ja. kenchō-ji). Sau, sư thành lập chùa Viên Giác (ja. engaku-ji). Cả hai chùa đều được xếp vào Ngũ sơn của Liêm Thương (kamakura), trung tâm của Thiền tông tại Nhật.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Trung Quốc
Mất năm 1286
Sinh năm 1226
|
11277
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B4%20Tr%E1%BB%A5%20%C4%90%E1%BA%A1o%20Hi%E1%BB%83u
|
Vô Trụ Đạo Hiểu
|
Vô Trụ Đạo Hiểu (zh. 無住道曉, ja. mujū dōkyō), 1226-1313; còn được gọi là Nhất Viên (ja. ichien), là một vị Thiền sư Nhật Bản dòng Lâm Tế, môn đệ của Thiền sư Viên Nhĩ Biện Viên. Sư diêu du khắp nước Nhật và tham vấn nhiều Thiền sư. Sư có một tác phẩm rất hay, được gọi là Sa thạch tập (zh. 沙石集, ja. shasekishū, được dịch ra Việt ngữ với tên Góp nhặt cát đá). Tác phẩm này là một bản sưu tầm những ngụ ngôn, lời dạy của các chư Phật, Tổ và những Thiền sư, rất được ưa chuộng trong giới thiền.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Lâm Tế tông
Sinh năm 1227
Mất năm 1312
|
11279
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20Tri%E1%BB%87t%20T%C3%B4ng%20Linh
|
Đại Triệt Tông Linh
|
Đại Triệt Tông Linh (zh. 大徹宗令, ja. daisetsu sōrei), 1333-1408, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki, 1275-1365).
Sư khai sáng nhiều Thiền viện như Diệu Ứng Giáo tự (ja. myō' ōkyō-ji) tại Mino, Lập Xuyên tự (ja. rissen-ji) tại Etchū.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Tào Động tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
|
11280
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20V%C3%A2n%20T%E1%BB%95%20Nh%E1%BA%A1c%20Nguy%C3%AAn%20%C4%90i%E1%BB%81n
|
Đại Vân Tổ Nhạc Nguyên Điền
|
Đại Vân Tổ Nhạc Nguyên Điền (zh. 大雲祖嶽原田, ja. daiun sōgaku harada), 1870-1961, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, một trong những Thiền sư quan trọng nhất của Nhật Bản hiện đại.
Sư vào chùa tu học năm lên bảy và ban đầu tu tập theo tông Tào Động. Sau, Sư đến tu tập tại một Thiền viện khác theo quy tắc của tông Lâm Tế. Năm lên 40, Sư được cử làm thị giả cho Độc Trạm Lão sư (ja. dokutan rōshi), vị trụ trì Nam Thiền tự (ja. nanzen-ji) và cũng là một trong những vị Thiền sư danh tiếng nhất thời đó.
Sau khi được Độc Trạm ấn khả, Sư được mời đến trụ trì Pháp Tâm tự (ja. hosshin-ji) tại tỉnh Obama và dưới sự quản lý của Sư, Thiền viện này trở thành một trung tâm tu học quan trọng của Thiền tông tại Nhật.
Các bài thuyết pháp của Sư cho những người mới nhập môn tu học thiền đạo được môn đệ chính của Sư là Bạch Vân An Cốc (ja. hakuun yasutani) phổ biến rộng rãi tại phương Tây.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Thiền sư Nhật Bản
Lâm Tế tông
|
11281
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minh%20Phong%20T%E1%BB%91%20Tri%E1%BA%BFt
|
Minh Phong Tố Triết
|
Minh Phong Tố Triết (zh. 明峰素哲, ja. meihō sotetsu) (1277-1350), đạo hiệu Diệu Phong, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Tào Động, nối pháp Thiền sư Oánh Sơn Thiệu Cẩn (ja. keizan jōkin) và là bạn đồng học của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki).
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Tào Động tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
|
11282
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%99c%20Am%20T%C3%ADnh%20Thao
|
Mộc Am Tính Thao
|
Mộc Am Tính Thao (zh. mùān xìngtāo 木菴性瑫, ja. mokuan shōtō), 1611-1684, là một vị Thiền sư Trung Quốc, thuộc tông Hoàng Bá (ja. ōbaku-shū). Sư nối pháp Thiền sư Ẩn Nguyên Long Kì, và cùng với thầy sang Nhật giáo hoá.
Tại Nhật, Ẩn Nguyên khai sáng tông Hoàng Bá và cử sư làm vị Tổ thứ hai (1664). Sư thành lập Thuỵ Thánh tự (ja. zuishō-ji) tại Đông Kinh (tōkyō), góp công rất nhiều trong việc truyền bá tông này tại Nhật.
Tham khảo
Hoàng Bá tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Thiền sư Trung Quốc
Mất năm 1684
Ngày mất không rõ
Ngày sinh không rõ
Sinh năm 1611
Người Tuyền Châu
|
11283
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BB%99ng%20Song%20S%C6%A1%20Th%E1%BA%A1ch
|
Mộng Song Sơ Thạch
|
Mộng Song Sơ Thạch (zh. 夢窗疏石, ja. musō soseki), 1275-1351, là một vị Thiền sư Nhật Bản danh tiếng thuộc tông Lâm Tế. Sư là người rất có công trong việc truyền bá tông phong Lâm Tế tại Nhật, sau được Nhật hoàng phong danh hiệu Quốc sư.
Sư sinh ra trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc, mất mẹ năm bốn tuổi. Vừa lên tám, Sư đã xuất gia và ban đầu chuyên tu tập theo Mật giáo (zh. 密教, ja. mikkyō). Trong khoảng thời gian 10 năm, Sư thu thập tất cả những ấn tượng huyền bí của Mật giáo tại đây. Một năm sau khi thụ giới cụ túc (1292), Sư chuyển sang tu tập theo phương pháp của Thiền tông. Nguyên nhân của sự thay đổi này chính là cái chết bi thảm của một vị thầy. Sư tự thấy rằng, vấn đề chính của cuộc sống là sinh tử luân hồi không thể giải quyết được bằng tri thức uyên bác, kiến thức của một học giả. Trong thời gian 100 ngày sau khi thầy mình lâm chung, Sư tụng kinh cầu an cho thầy và nhân đây, Sư có một giấc mộng rất quan trọng. Trong giấc mộng này, Sư được gặp hai vị Thiền sư Trung Quốc quan trọng đời nhà Đường là Thạch Đầu Hi Thiên (zh. 石頭希遷, ja. sekitō kisen) và Sơ Sơn Quang Nhân (zh. 疏山光仁, ja. sozan kōnin), một môn đệ của Động Sơn Lương Giới (zh. 洞山良價). Thạch Đầu xuất hiện dưới dạng một vị tăng của Chân ngôn tông, Sơ Sơn dưới dạng Bồ-đề-đạt-ma. Sau giấc mộng này, Sư tự đặt tên cho mình là Sơ Thạch (疏石, ja. so-seki) - ghép từ hai chữ đầu của Sơ Sơn và Thạch Đầu. Mộng Song, 'Cửa sổ của giấc mộng' (zh. 夢窗, ja. musō) đã mở rộng, hướng dẫn Sư trên con đường Thiền.
Sau đó, Sư yết kiến nhiều vị Thiền sư danh tiếng đương thời - một trong những vị này là Nhất Sơn Nhất Ninh (zh. 一山一寧, ja. issan ichinei), một vị Thiền sư Trung Quốc danh tiếng - nhưng không hài lòng với những phương pháp tu tập của những vị này. Nghe danh của Thiền sư Cao Phong Hiển Nhật (zh. 高峰顯日, ja. kōhō kennichi), Sư liền đến tham học. Sư học không lâu nơi Cao Phong nhưng vẫn được xem là môn đệ vì sau này Cao Phong chính là người ấn khả cho Sư.
Vào một ngày tháng năm (1305), đang trên đường trở về am và trong lúc mệt mỏi, Sư vừa muốn dựa lưng vào tường thì có cảm giác bức tường bỗng nhiên biến mất, Sư té xuống và nhân đây ngộ được yếu chỉ thiền.
Sau sự việc quan trọng này, Sư vẫn chu du đây đó, chú tâm đến việc Toạ thiền (ja. zazen). Cuối cùng, Sư nhận lời mời trụ trì Thiên Long tự (zh. 天龍寺, ja. tenryū-ji) tại Kinh Đô - một ngôi chùa được xếp vào hệ thống Ngũ sơn thập sát (五山十剎, ja. gozan jissetsu) - và trở thành một nhân vật quan trọng của nền văn hoá Phật giáo tại đây.
Sư cũng là một trong những tác giả đứng hàng đầu của phong trào Ngũ sơn văn học (zh. 五山文學, ja. gosan bungaku), một phong trào rất quan trọng trong việc truyền bá văn hoá, khoa học và nghệ thuật của Trung Quốc sang Nhật. Tên của Sư gắn liền với nhiều việc khai sơn, sáng lập thiền viện và đích thân Sư cũng trụ trì nhiều thiền viện danh tiếng, trong đó có Nam Thiền tự (zh. 南禪寺, ja. nanzen-ji), một ngôi chùa với những kiến trúc, vườn cảnh nổi danh trên thế giới. Dưới sự chỉ đạo của Sư, một vị Tướng quân (shōgun) với tên Túc Lợi Tôn Thị (ja. ashikaga takauji) truyền lệnh lập 66 ngôi chùa ở 66 nơi khác nhau với tên An Quốc tự (zh. 安國寺, ja. ankoku-ji) và từ đây, Thiền tông được truyền bá khắp nước Nhật. Một trong những tác phẩm quan trọng của Sư là Mộng trung vấn đáp tập (zh. 夢中問答集, ja. muchūmondō-shū), trong đó, Sư trình bày các yếu chỉ của Thiền tông qua các câu hỏi và trả lời. Ngoài ra, Sư cũng nổi danh trong nghệ thuật Thư đạo (zh. 書道, ja. shodō). Sư được bảy vị Nhật hoàng tôn làm thầy và được phong bảy danh hiệu khác nhau. Dưới danh hiệu Mộng Song Quốc sư, Sư đi vào lịch sử của Phật giáo Nhật Bản.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Lâm Tế tông
Sinh năm 1275
Mất năm 1351
|
11288
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quan%20S%C6%A1n%20Hu%E1%BB%87%20Huy%E1%BB%81n
|
Quan Sơn Huệ Huyền
|
Quan Sơn Huệ Huyền (zh. 關山慧玄, ja. Kanzan Egen). 1277-1360, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế, nối pháp Tông Phong Diệu Siêu (ja. shūhō myōchō). Sư kế thừa và trụ trì Đại đức tự (ja. daitoku-ji), sau lại trụ trì Diệu Tâm tự (ja. myōshin-ji). Cả hai đều là những thiền viện danh tiếng nhất của tông Lâm Tế tại Kinh Đô (kyōto).
Sư sinh tại Shinano (phủ Nagano), sớm đã được cha gửi đến một người chú tại Liêm Thương (kamakura) để học Phật pháp. Nơi đây, Sư may mắn được học với Thiền sư Nam Phố Thiệu Minh (ja. nampo jōmyō, 1235-1309). Sau khi Nam Phố tịch, Sư trở về quê nhà tu học khổ hạnh. Khi nghe danh tiếng của Thiền sư Tông Phong tại Liêm Thương, Sư liền đến Đại đức tự tại Kinh Đô đến tham học. Tông Phong giao cho Sư công án "Quan" (Bích nham lục, công án 8) của Thiền sư Vân Môn Văn Yển để tham cứu. Sau hai năm quán công án này—một thời gian tu tập cực kì khắt khe với một công án nổi danh là khó giải—Sư ngộ được yếu chỉ của Thiền tông. Tông Phong liền làm một bài kệ ấn chứng cho môn đệ của mình, năm đó Sư đã vượt ngoài năm mươi (1329).
Sau đó, theo lời khuyên của thầy, Sư lên núi ẩn cư tám năm để tiếp tục tu luyện và trong thời gian này, Sư làm việc hằng ngày trên đồng ruộng, đêm thì tọa thiền trên những tảng đá. Sau thời gian này, Sư nhận lời trụ trì chùa Diệu Tâm. Phong cách giảng dạy của Sư rất nghiêm khắc và cũng nhờ đó mà Lâm Tế chính mạch được truyền đến những đời sau qua dòng thiền này. Sư chẳng chú trọng đến đồ vật trang trí trong thiền viện và cũng không thích những nghi lễ rườm rà. Sư đòi hỏi nơi đệ tử một ý chí, một tâm trạng tinh tiến tuyệt đối. Một trong những công án Sư thường đưa ra để tham quán là "Đối với Huệ Huyền, nơi đây không có sinh tử." Chỉ những thiền sinh đầy ý chí quyết định mới dám ở lại đây, phần lớn đều rời Sư sau một thời gian. Dưới sự hoằng hóa của Sư, Diệu Tâm tự cũng được gọi là "Địa ngục tột cùng của Phật pháp." Sư cũng được gọi là Ẩn đức tổ sư (隱德[の]祖師, ja. intoku (no) soshi), "Tổ sư với những đức tính thầm kín".
Trước khi tịch, Sư trao pháp y lại cho vị kế thừa duy nhất là Thụ Ông Tông Bật (授翁宗弼, ja. jūo sōhitsu, 1296-1380), chuẩn bị hành lý và đứng mà tịch. Dòng thiền của Sư sau trở thành dòng chính của tông Lâm Tế Nhật Bản.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Lâm Tế tông
Thiền sư Nhật Bản
Sinh năm 1277
Mất năm 1360
|
11289
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam%20Ph%E1%BB%91%20Thi%E1%BB%87u%20Minh
|
Nam Phố Thiệu Minh
|
Nam Phố Thiệu Minh (zh. 南浦紹明, ja. nampo shōmyō), 1235-1309, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế dòng Dương Kì. Sư lúc đầu học pháp nơi Lan Khê Đạo Long nhưng sau đích thân sang Trung Quốc tham học với Thiền sư Hư Đường Trí Ngu (zh. 虛堂智愚) và được Ấn khả. Trong dòng Thiền của Sư có nhiều vị nổi danh như Nhất Hưu Tông Thuần (ja. ikkyū sōjun) và Bạch Ẩn Huệ Hạc (ja. hakuin ekaku). Sư được Nhật hoàng ban hiệu Đại Ứng Quốc sư (ja. daiō kokushi).
Khác với các vị tiền nhân đưa Thiền tông sang Nhật như Minh Am Vinh Tây (ja. myōan eisai), Viên Nhĩ Biện Viên (ja. enni ben'en), Sư không hoà nhập Thiền tông với những giáo lý của các tông khác như Thiên Thai tông, Chân ngôn tông. Môn đệ danh tiếng nhất của Sư là Tông Phong Diệu Siêu (ja. shūhō myōchō, cũng được gọi là Đại Đăng Quốc sư).
Mặc dù đã nổi danh lúc còn hoằng hoá nhưng vai trò thật sự quan trọng của Sư cho Thiền Lâm Tế tại Nhật chính là hệ thống truyền thừa vô song với các môn đệ lừng danh. Qua đó, người ta có thể xem Sư là vị Tổ chính của Thiền Lâm Tế tại Nhật vì hầu hết tất cả những vị Thiền sư danh tiếng của tông Lâm Tế của Nhật sau này đều xuất phát từ hệ phái của Sư với tên gọi là Ứng Đăng Quan phái (ja. ō-tō-kan-ha) - viết tắt từ ba danh hiệu Đại Ứng (ō 應) Quốc sư, Đại Đăng (tō 燈) Quốc sư và Quan (kan 關) Sơn Huệ Huyền. Với sự hoằng hoá của Sư, giai đoạn du nhập của Thiền tông từ Trung Quốc sang Nhật đã kết thúc.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Lâm Tế tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
|
11290
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nga%20S%C6%A1n%20Thi%E1%BB%81u%20Th%E1%BA%A1c
|
Nga Sơn Thiều Thạc
|
Nga Sơn Thiều Thạc (zh. 峨山韶碩, ja. gasan jōseki), 1275-1365, là một vị Thiền sư Nhật Bản lỗi lạc thứ ba của tông Tào Động (ja. sōtō-shū) sau hai vị Đạo Nguyên Hi Huyền (ja. dōgen kigen) và Oánh Sơn Thiệu Cẩn (ja. keizan jōkin). Sư nối Pháp Thiền sư Oánh Sơn Thiệu Cẩn.
Sư sinh trong một gia đình tại Noto, sớm xuất gia (1290) tu học giáo lý của Thiên Thai tông trên núi Tỉ Duệ. Một cuộc gặp gỡ với Thiền sư Oánh Sơn đã thay đổi quan niệm tu học của Sư và từ đây, Sư tôn Oánh Sơn làm thầy và chú tâm vào việc Toạ thiền và quán công án. Dưới sự hướng dẫn của Oánh Sơn, Sư ngộ đạo và được ấn khả.
Sư trụ trì Tổng Trì tự (ja. sōji-ji) - với một cuộc gián đoạn ngắn (trong thời gian này Sư trụ trì Vĩnh Quang tự (ja. yōkō-ji)) - gần 40 năm liền và đã đưa danh tiếng của ngôi chùa này lên đến tuyệt đỉnh. Sư rất chú trọng đến việc thuyết pháp, hoằng hoá quần chúng, nhất là những người thuộc những tầng cấp thấp của xã hội và cố gắng gieo vào tâm của các vị đệ tử tư tưởng của một vị Bồ Tát, quên mình, vì người, một tư tưởng mà Thiền sư Oánh Sơn Thiệu Cẩn đã phát huy trong tông Tào Động.
Sư cũng là người đầu tiên đưa thuyết Ngũ vị quân thần của Thiền sư Động Sơn Lương Giới (Động Sơn ngũ vị) vào chương trình giảng dạy của tông Tào Động tại Nhật. Sư có rất nhiều đệ tử nhưng nổi danh nhất là năm vị, đó là:
Thái Nguyên Tông Chân (zh. 太源宗眞, ja. taigen sōshin, ?-1370);
Thông Huyễn Tịch Linh (zh. 通幻寂靈, ja. tsūgen jakurei, 1322-1391);
Vô Đoan Tổ Hoàn (zh. 無端祖環, ja. mutan sokan, ?-1387);
Đại Triệt Tông Linh (zh. 大徹宗令, ja. daisetsu sōrei, 1333-1408);
Thật Phong Lương Tú (zh. 實峯良秀, ja. jippō ryōshū, 1318-1405).
Với sự nghiệp hoằng hoá của năm vị này, tông Tào Động được truyền bá khắp nước Nhật.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Tào Động tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Sinh năm 1275
Mất năm 1366
|
11291
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A1i%20Nguy%C3%AAn%20T%C3%B4ng%20Ch%C3%A2n
|
Thái Nguyên Tông Chân
|
Thái Nguyên Tông Chân (zh. 太源宗真, ja. taigen sōshin), ?-1370, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Tào Động, một trong năm vị đại đệ tử của Thiền sư Nga Sơn Thiều Thạc (ja. gasan jōseki, 1275-1365). Sư kế thừa Nga Sơn trụ trì Tổng Trì tự (ja. sōji-ji) và cũng như thầy mình, Sư lấy thuyết Động Sơn ngũ vị làm lý thuyết căn bản của tông phong. Dòng thiền của Sư được truyền bá rất rộng với hơn trăm lần khai sơn lập tự tại Trung và Đông Nhật Bản. Về cuối đời, Sư trụ tại Vĩnh Quang tự (ja. yōkō-ji) và sáng lập Phật-đà tự (ja. budda-ji) tại tỉnh Kaga.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Tào Động tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Mất năm 1370
Năm sinh không rõ
|
11292
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%99t%20Am%20Ph%E1%BB%95%20Ninh
|
Ngột Am Phổ Ninh
|
Ngột Am Phổ Ninh (zh. wūān pǔníng 兀菴普寧, ja. gottan funei), 1197-1276, là một vị Thiền sư Trung Quốc thuộc tông Lâm Tế hệ phái Dương Kì. Sư nối pháp thiền sư Vô Chuẩn Sư Phạm.
Sư được Thiền sư Lan Khê Đạo Long khuyến khích sang Nhật năm 1260. Trước tiên, sư đến Kinh Đô (kyōto) và một thời gian trụ trì chùa Kiến Trường (kenchōji) theo lời mời của Tướng quân Bắc Điều Thời Lại (ja. shōgun hōjō tokiyori). Sư cũng hướng dẫn vị Tướng quân này trên con đường tu thiền và vị này sau cũng được sư ấn khả. Sau đó sư trở về Trung Quốc và tịch tại đây.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Lâm Tế tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Thiền sư Trung Quốc
|
11293
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lan%20Kh%C3%AA%20%C4%90%E1%BA%A1o%20Long
|
Lan Khê Đạo Long
|
Lan Khê Đạo Long (zh. lánxī dàolóng 蘭溪道隆, ja. rankei dōryū), 1208-1268 hoặc 1213-1278, là một vị Thiền sư Trung Quốc, thuộc nhánh Dương Kì, tông Lâm Tế.
Sư người Tây Thục, 13 tuổi xuất gia, sau tham học với nhiều Thiền sư danh tiếng ở Chiết Giang. Năm 33 tuổi (1246), sư sang Nhật truyền pháp. Trong thời gian này, các tông phái cũ ở Nhật đã có những triệu chứng suy đồi, chỉ lo chạy theo danh lợi và vì vậy, phong cách của Thiền gia chất phác, không cầu kì ham muốn, nhẫn nhục tu hành rất được kính trọng. Sư được mời đến Liêm Thương (kamakura), lập chùa Kiến Trường (ja. kenchō-ji) nơi đây.
Sư là một trong những Thiền sư góp phần quan trọng cho sự hưng thịnh của Thiền tông tại Nhật. Sư tịch tại chùa Kiến Trường, được ban hiệu là Đại Giác Thiền sư. Đây là lần đầu Nhật Bản có danh hiệu Thiền sư.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Lâm Tế tông
Đại sư Phật giáo
Người Tứ Xuyên
Thiền sư Trung Quốc
|
11294
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%87t%20Am%20T%C3%B4ng%20Quang
|
Nguyệt Am Tông Quang
|
Nguyệt Am Tông Quang (zh. 月菴宗光, ja. gettan sōkō), 1326-1389, là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế, dòng Nam Phố Thiệu Minh (ja. nampo jōmyō), hệ phái Diệu Tâm tự (ja. myōshin-ji).
Sư sống cùng thời với Thiền sư Bạt Đội Đắc Thắng (zh. 拔隊得勝, ja. bassui tokushō), sớm xuất gia và tham học với nhiều vị Thiền sư Nhật danh tiếng đương thời như Cổ Tiên Ấn Nguyên (zh. 古先印元, ja. kosen ingen), Mộng Song Sơ Thạch (zh. 夢窗疏石, ja. musō soseki) và Cô Phong Giác Minh (zh. 孤峰覺明, ja. kohō kakumō). Nơi Thiền sư Đại Trùng Tông Sầm (大蟲宗岑, ja. daichū sōshin), Sư triệt ngộ. Sau một thời gian dài chu du đây đó, Sư khai sáng thiền viện Đại Minh (ja. daimyō-ji) tại Tajima, tỉnh Hyōgo và bắt đầu cuộc đời giáo hoá vinh quang của mình.
Pháp ngữ của Sư được các môn đệ biên tập và lưu lại đến ngày nay và trong số đó có rất nhiều bài thuyết pháp dành cho giới Cư sĩ. Sư cho rằng, cư sĩ cũng có thể tu tập thiền với những kết quả khả quan và nếu họ tu tập với tất cả tấm lòng thì có thể vượt qua cả những vị tăng ni vì trong thời của Sư, rất nhiều vị xuất gia tu hành chỉ chú trọng đến việc học suông. Sư được xem là một tấm gương sáng, là một vị Thiền sư sống với quần chúng, sống vì quần chúng ngoài tăng đoàn. Ví dụ như Sư chẳng ngần ngại gì khi thuyết pháp cho một nữ Cư sĩ, vốn theo đuổi thực hành những nghi lễ rườm rà, ôm ấp nhiều khái niệm về thiên đường, địa ngục, cõi Phât... Chẳng đi quanh co, Sư giảng ngay về Tâm và Phật tính cho vị nữ cư sĩ này:
Tâm này chính là Phật. Tâm này từ vô thủy vô minh đến giờ chưa từng vướng mắc Phiền não. Nếu phiền não chẳng có thì cũng chẳng có pháp nào được chứng đắc khi đạt đạo. Và nếu như Giác ngộ cũng như phiền não không thật có thì tâm này chẳng bao giờ liên quan gì đến sinh tử Luân hồi... Chẳng có Vô minh để vượt qua, chẳng có vọng niệm nào phải đoạn diệt. Vì không có thiện ác nên thiên đường địa ngục cũng không tìm đâu ra. Vì phải cũng như trái đều không có nên cũng chẳng có Tịnh độ cũng như không có trần cảnh.
Sư tịch năm 1389.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Lâm Tế tông
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
|
11295
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A5t%20H%C6%B0u%20T%C3%B4ng%20Thu%E1%BA%A7n
|
Nhất Hưu Tông Thuần
|
Nhất Hưu Tông Thuần (chữ Hán: 一休宗純, ja. ikkyū sōjun) (1394 - 1481) là một vị Thiền sư Nhật Bản thuộc tông Lâm Tế (ja. rinzai-shū), hệ phái Đại đức tự (ja. daitokuji-ha). Sư là một trong những Thiền sư danh tiếng nhất của Thiền tông Nhật Bản. Với phong điệu của một "Cuồng Thánh", Sư đả phá những phong cách tệ mạt trong những thiền viện lớn mà Sư cho rằng đang trên đường tàn lụi. Cách sống và giáo hoá của Sư vượt trên tất cả những tục lệ và vì vậy có rất nhiều tích nói về Sư, phần đúng, phần huyền hoặc.
Tiểu sử
Ikkyu ra đời vào lúc bình minh của ngày đầu của năm 1394. Mặc dù có lời đồn rằng Ikkyu là con trai của vị hoàng đế trẻ Go-Komatsu (1377—1433), vào lúc chào đời cậu bé được ghi vào sổ bộ thường dân. Mẹ của Ikkyu, một phụ nữ chờ việc trong cung đình và được Go-Komatsu yêu chuộng, đã bị sa thải bất công ra khỏi cung điện vì guồng máy của vị hoàng hậu ghen tuông và tay chân bà này. Do vậy, hoàn cảnh ra đời của Ikkyu thì khiêm tốn, mặc dù bản tiểu sử sớm nhất của sư viết rằng ngay cả khi sơ sinh, sư “mang dấu hiệu của một con rồng và dấu ấn của một phượng hoàng.”
Vào lúc 5 tuổi, Ikkyu được gửi vào làm chú tiểu tại Ankoku-ji (An Quốc), một ngôi chùa Thiền Tông ở Kyoto. Nơi đây, sư được bảo đảm có nền học vấn tốt, cũng như được bảo vệ trước các viên chức triều đình lắm mưu và các tướng quân đa nghi. Điều này quan trọng trong thời trung cổ Nhật Bản, vì ngay cả đứa con hoang của vị hoàng đế – với hoàn cảnh đúng thời và với những người ủng hộ có quyền lực – vẫn có thể ra giành ngôi vua. Tại chùa Ankoku-ji, Ikkyu được học kinh điển Phật giáo và các sách giáo khoa tại Trung Hoa và Nhật Bản. Là một học trò sáng dạ mà thiên tài của mình được mọi người công nhận, Ikkyu cũng là một cậu bé quá quắt và nhanh trí.
Gia thế & Cơ duyên
Tương truyền Sư là con của một cung phi, bị Nhật hoàng hất hủi khi mang thai Sư. Lên năm tuổi, Sư được mẹ gửi vào một ngôi chùa gần nhà. Năm lên mười ba, Sư đến Kiến Nhân tự (ja. kennin-ji) nhưng chỉ khoảng bốn năm sau đó, Sư rời chùa này vì không hài lòng với phong cách sinh hoạt quá phàm tục của những vị tăng tại đây. Sư đến tham học với Khiêm Ông (ja. gen'ō) - một vị tăng độc cư tu tập - và cũng có chút sở đắc nơi đây nhưng không bao lâu, Khiêm Ông tịch và Sư lại phải lên đường cầu đạo.
Chỉ một năm sau, Sư tìm được vị chân sư của mình là Hoa Tẩu Tông Đàm (zh. 華叟宗曇, ja. kesō sōdon, 1352-1428), vị trụ trì của Đại đức tự. Hoa Tẩu không ở tại chùa Đại đức mà lại ngụ tại một am gần đó để tránh sự náo nhiệt, phong cách quá nhập thế của một Thiền viện thời đó. Sư lưu lại đây chín năm và kiên nhẫn chịu đựng phương pháp tu tập rốt ráo của Hoa Tẩu. Nhân khi tham công án thứ 15 của tập Vô môn quan - với tên Động Sơn (Thủ Sơ) ba hèo (Động Sơn tam đốn) - Sư có ngộ nhập. Không bao lâu sau, trong khi toạ thiền trên một chiếc thuyền, Sư nhân nghe một con quạ kêu to bỗng nhiên ngộ đạo. Sư bèn trình Hoa Tẩu và được vị này ấn khả. Sư không nhận ấn chứng này và có thuyết bảo rằng Sư xé bỏ bản ấn chứng này ngay sau khi nhận. Sư tự tin rằng kinh nghiệm giác ngộ của ai chỉ có người ấy biết và không ai có thẩm quyền quyết định được cái thật hoặc giả của kinh nghiệm giác ngộ của Sư. Với những hành động này, Sư đảo ngược truyền thống ấn chứng của Thiền tông và chính Sư cũng không ấn chứng cho ai trong cả cuộc đời hoằng hoá của mình. Mặc dù vậy, Sư ở lại hầu cho đến lúc Hoa Tẩu viên tịch (1428).
Cơ phong hoằng pháp
Trong suốt một thời gian khoảng 30 năm, Sư không dừng chân nơi nào, chỉ chu du tuỳ duyên hoằng hoá nơi quần chúng. Sư tiếp xúc với mọi tầng cấp của xã hội Nhật thời bấy giờ như quan tước, võ sĩ, văn hào, nghệ sĩ... và cả kĩ nữ, và Sư đặc biệt đề cao tính tình chất phác của họ. Con đường hoằng hoá quần chúng của Sư đi xa, cũng có nhiều người cho rằng đi quá xa so với giáo lý của nhà Phật. Sư không để ý gì đến giới luật, ăn thịt cá, mê rượu, gái. Một mặt Sư chê bai, than trách về tư cách đạo đức giả, gian trá của các vị tăng tại những Thiền viện lớn bấy giờ, mặt khác Sư lại rất chú tâm đến việc phổ biến Phật pháp trong quần chúng và các hành động "phá giới" của Sư nêu trên đều có thể xem là trùng hợp với việc thực hành Phật pháp của phần lớn của Phật tử nằm ngoài Tăng-già thời bấy giờ. Sư viết:
"Thời xưa, mọi người có tín tâm đều vào cửa chùa, nhưng ngày nay tất cả đều rời chùa. Nếu nhìn kĩ thì người ta sẽ thấy rằng, các phường chủ không biết gì - không tham thiền, chẳng quán công án mà chỉ chú tâm đến vật chất, trang trí bồ đoàn. Họ rất tự hào về ca-sa của họ nhưng mặc dù họ mang ca-sa, họ cũng chỉ là phàm phu thay áo. Dù họ mang ca-sa, ca-sa cũng trở thành dây xích, gậy sắt trói buộc, hành hạ thân họ".
Sư chỉ trích mạnh mẽ sự tôn thờ và ham muốn thác sinh nơi Cực lạc Tịnh độ của Phật tử. Sư dạy: "Nếu ai thanh lọc tâm địa và kiến tính, người ấy chẳng còn muốn tái sinh cõi Phật, chẳng còn sợ địa ngục, chẳng còn phiền não phải đoạn, chẳng còn phân biệt thiện ác; người ấy đã đạt tự do tự tại trong sinh tử luân hồi, muốn tái sinh vào nơi nào cũng được - chỉ khi tâm người ấy mong cầu". Vì thế mà Sư chế nhạo tất cả những phong tục có tính chất mê tín dị đoan như đốt đèn, cầu cúng, dâng lễ vật cho người chết và tụng kinh cầu siêu cầu an.
Sư tự gọi mình là "Cuồng Vân" (狂雲, ja. kyōun) và rất nhiều câu chuyện thú vị về việc tuỳ cơ hoằng hoá và nhạo đời của Sư được lưu truyền. Mẩu chuyện sau đây được lưu lại:
Một lần nọ, Sư khất thực tại một nhà giàu sang với quần áo rách rưới dơ bẩn và chỉ nhận được nửa xu. Sau đó, Sư thay y phục, mặc ca-sa tía đến khất thực và được mời ngay vào nhà dùng cơm cùng với gia đình. Sư liền cởi áo tía ra, đặt nó vào ngay chỗ ngồi ăn và bảo rằng "Bữa ăn thịnh trọng ngày hôm nay không phải dành cho ta mà là áo ca-sa tía này".
Tính tình chân chính, phong cách tự do, bất lệ thuộc của Sư chính là nguyên do vì sao Sư rất được quần chúng mộ đạo yêu thích. Sư là một trong những vị Thiền sư nổi danh nhất thời trung cổ của Nhật Bản. Năm 1456, Sư nhận lời trụ trì Diệu Tâm tự (ja. myōshinji) và sống tại một am gần đó. Từ đây, Sư được các vị tăng dần dần chấp nhận, tôn kính, ngay cả những vị mà ngày xưa Sư chỉ trích thậm tệ. Vào những năm cuối đời, Sư được cử trụ trì Đại đức tự (ja. daitoku-ji). Không bao lâu sau, vào năm 1481, Sư viên tịch, thọ 87 tuổi.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Lâm Tế tông
Thiền sư Nhật Bản
Mất năm 1481
Sinh năm 1394
Nhà thơ Nhật Bản
|
11296
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A5t%20S%C6%A1n%20Nh%E1%BA%A5t%20Ninh
|
Nhất Sơn Nhất Ninh
|
Nhất Sơn Nhất Ninh (zh. yīshān yīníng 一山一寧, ja. issan ichinei), 1247-1317, là một vị Thiền sư Trung Quốc thuộc tông Lâm Tế. Sau khi nhà Tống bị Mông Cổ lật đổ, sư được Nguyên Thành Tông cử đến Nhật Bản để nối lại mối quan hệ - vốn bị gián đoạn từ khi Mông Cổ cố gắng xâm lấn nhiều lần. Sư vừa đặt chân lên đất Nhật (1299) liền bị nghi là gián điệp, bị bắt giam. Sau khi được tha, sư được cử trụ trì Kiến Trường tự (ja. kenchō-ji), năm 1302 trụ trì Viên Giác tự (ja. engaku-ji) và năm 1312, Thiên hoàng Hậu Đề Hồ (ja. go-daigo) cử sư làm Phương trượng chùa Nam Thiền (ja. nanzen-ji) tại Kinh Đô (kyōto).
Sư nổi danh không chỉ là một Thiền sư mà còn là một nghệ sĩ xuất trần, một họa sĩ tinh thông Thư pháp (thư đạo, ja. shōdō).
Cùng với môn đệ người Nhật là Tuyết Thôn Hữu Mai (ja. sesson yūbai, 1290-1346), sư được xem là vị Khai tổ của phong trào Ngũ sơn văn học. Thiền sư Mộng Song Sơ Thạch (ja. musō soseki) - cũng một thời gian tu học với sư - là người đã góp phần lớn trong việc giúp đỡ các Thiền viện tại Kinh Đô trở thành những trung tâm của văn hoá, nghệ thuật và khoa học với sắc thái Trung Quốc rõ rệt.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Trung Quốc
Nhà thơ Nhật Bản
Lâm Tế tông
Nhà thơ Chiết Giang
Nhà văn từ Thai Châu
Thiền sư Nhật Bản
|
11297
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ABu%20h%C3%ACnh
|
Mẫu hình
|
Mẫu hình, hệ hình, hay mô phạm (tiếng Anh: Paradigm) là một khái niệm có nhiều nghĩa hơi khác nhau.
Từ cuối thế kỷ 19, từ này có nghĩa là nề nếp dạng thức suy nghĩ trong một khuôn khổ thực nghiệm khoa học hay các ngữ cảnh khác của tri thức.
Trong tiếng Anh, khái niệm này (paradigm) đặc biệt để chỉ văn phạm: Từ điển 1900 Merriam-Webster định nghĩa đó là kỹ thuật chỉ dùng trong ngữ cảnh của văn phạm hay trong nghệ thuật tu từ, như là một cách gọi cho một truyên ngụ ngôn hay một truyện cổ dân gian có minh hoạ.
Trong ngôn ngữ học, Ferdinand de Saussure dùng từ mẫu hình để chỉ một lớp các phần tử có nhiều tính chất tương tự nhau.
Triết gia Thomas Kuhn đã cho từ này một ý nghĩa hiện tại khi ông ta dùng nó để chỉ tập hợp các thực hành và thao tác mà chúng xác định nên một khuôn khổ thực nghiệm khoa học trong suốt một giai đoạn của thời gian. Ý nghĩa mà Kuhn dùng đã và đang bị lạm dụng rộng rãi. Chính Kuhn dùng các từ như là "mẫu" (exemplar) và "khoa học thủ thuật" (normal science) để xác định chính xác hơn nghĩa triết học của nó. Mặc dù vậy, trong cuốn sách The Structure of Scientific Revolutions, Kuhn lại định nghĩa mẫu hình như là:
Cái gì để được quan sát và nghiên cứu kỹ lưỡng. (đối tượng)
Các loại câu hỏi mà chúng cần được giả thiết và thử nghiệm (hay chứng minh) cho các câu trả lời trong quan hệ tới các chủ thể.
các câu hỏi đó được đặt ra như thế nào.
các kết quả của sự điều tra nghiên cứu nên được diễn giải như thế nào.
Xem thêm dịch chuyển mẫu hình, xã hội học và triết học
Các ví dụ
Trong Vật lý học
Các sự dịch chuyển của mẫu hình có xu hướng trở nên đột ngột nhất ở những nơi mà người ta ít nghi ngờ nhất, chẳng hạn như trong ngành vật lý. Vào cuối thế kỉ 19 các nhà vật lý dường như bị lấp đầy bởi khuôn khổ (ý tưởng) rằng không còn nhiều chi tiết nữa của một hệ thống nghiên cứu lớn. Cụ thể là trong năm 1900, Lord Kelvin có một khẳng định nổi tiếng là:
There is nothing new to be discovered in physics now. All that remains is more and more precise measurement.
(Ngày nay, không còn gì mới để mà khám phá trong vật lý nữa. Tất cả việc còn lại là sự đo đạc ngày càng chính xác).
Chỉ 5 năm sau, Albert Einstein xuất bản nghiên cứu của ông về lý thuyết tương đối hẹp, lý thuyết này đã phủ nhận tập họp các quy luật rất đơn giản đã được đặt ra bởi cơ học Newton mà vốn dĩ được dùng để miêu tả lực và chuyển động trong nhiều thế kỉ trước đó. Trong trường hợp này, các mẫu hình mới thu nhỏ cái (mẫu hình) cũ thành một trường hợp đặc biệt. (Vì cơ học Newton là một cách tính gần đúng cho các hệ có vận tốc chậm so với vận tốc ánh sáng).
Trong kỹ nghệ đồng hồ
Từ cuối thế kỷ thứ 18, Thụy Sĩ đã trở thành cường quốc về đồng hồ đeo tay. Cho đến thập niên 1950 và ngay cả đến đầu thập niên 1970 thì ít ai dám nghĩ rằng sự thống lĩnh thị trường đồng hồ đeo tay của Thụy Sĩ có thể bị thay đổi nhanh chóng. Và cũng ít ai biết rằng, đồng hồ đeo tay điện tử dùng tinh thể thạch anh mà ngày nay Nhật chiếm phần lớn thị phần của thế giới lại là một phát minh của kĩ sư vốn làm việc tại các hãng đồng hồ Thụy Sĩ—năm 1967 Trung tâm Horloger (CEH) của Thụy Sĩ đã phát triển đồng hồ điện tử đeo tay dùng tinh thể thạch anh đầu tiên; trong khi đó, mãi đến tháng 12 năm 1969 hãng Seiko Nhật mới cho ra đời đồng hồ thạch anh đeo tay đầu tiên với giá cao hơn 1000 Mỹ kim một chiếc! Các nhà kỹ nghệ đồng hồ đeo tay Thụy Sĩ đã đánh mất cơ hội khi mẫu hình của đồng hồ đeo tay dịch chuyển từ dạng cơ khí sang dạng quartz.
Trong chính khái niệm mẫu hình
Trong cuốn The Structure of Scientific Revolutions, Kuhn viết rằng Sự chuyển tiếp thành công từ một mẫu hình sang một mẫu hình khác thông qua cuộc cách mạng là dạng thức phát triển thông thường của khoa học khi đã chín mùi. (trang 12) Ý kiến của Kuhn tự nó thời bấy giờ đã là một cuộc cách mạng, như là một nguyên do của một sự thay đổi chính yếu trong cách thức mà các viện sĩ nói về khoa học. Do đó, nó gây ra hay đã tự là một phần của một sự "dịch chuyển mẫu hình" trong lịch sử và trong khoa học xã hội.
Các triết gia và các sử gia về ngành khoa học, bao gồm cả Kuhn, một cách tối hậu, đã chấp nhận một phiên bản điều chỉnh mô hình của chính Kuhn, trong đó, nó tổng hợp hoá quan niệm nguyên thủy với mô hình tiếp cận theo sau đó. Mô hình nguyên thủy của Kuhn giờ đã trở nên quá giới hạn. Chỗ mà Kuhn tin tưỏng ban đầu chỉ có thể là một mẫu hình trong thời điểm đó mà thôi. Đây cũng là một ví dụ tiếp theo của việc dịch chuyển mẫu hình trong cách nhận thức hàn lâm về khái niệm dịch chuyển mẫu hình.
Các cách dùng khác
Nghĩa thông thường
Có thể việc sử dụng thông thường nhất của từ mẫu hình là trong ý nghĩa của Weltanschauung. Ví dụ, trong khoa học xã hội, từ này dùng để miêu tả tập họp các kinh nghiệm, các tin tưởng, và các giá trị mà nó ảnh hưởng tới phương cách để một cá nhân nhận thức thực tế và trả lời cho nhận thức đó. Các nhà khoa học xã hội tiếp thu cụm thừ "dịch chuyển mẫu hình" của Kuhn để bao hàm một hiện tượng xã hội đặc thù hơn là cái ý nghĩa ban đầu trong nghiên cứu của Kuhn về các thực nghiệm và phát triển của khoa học.
Nghĩa thiết kế
Từ mẫu hình cũng được dùng để chỉ một dạng thức hay một mô hình (nguồn: dictionary.com), một sự trong sáng rõ ràng, một Ví dụ điển hình, hay là một kiểu nguyên thủy (nguồn: m-w.com). Danh từ này thường được dùng trong ý nghĩa của các chuyên môn về thiết kế. Thiết kế các mẫu hình hay các kiểu nguyên thủy, bao gồm các mẫu mực tốt cho các giải đáp về thiết kế. Tham khảo nổi tiếng về các mẫu hình thiết kế là Design Paradigms: A Sourcebook for Creative Visualization (Một cuốn sách nguồn về sự hình dung sáng tạo), của Wake, và Design Paradigms (Thiết kế các mẫu hình) của Petroski.
Trong khoa điều khiển học
Danh từ này cũng được dùng trong khoa điều khiển học (cybernetics). Ở đây nó có nghĩa (trong một ý bao quát) là một (khái niệm) chương trình sơ khai để giảm thiểu khối hỗn độn sang một dạng có trật tự. Hãy lưu ý những sự tương tự của từ này với khái niệm entropy trong hóa học và vật lý. Một mẫu hình là một hình thức ngăn cấm tiến hành các tương tác nhằm làm tăng tổng entropy của hệ thống. Để tạo được một mẫu hình cần có một hệ thống kín lại chấp nhận được mọi thay đổi. Do đó, một mẫu hình có thể chỉ áp dụng cho một hệ thống mà nó chưa đạt đến giai doạn cuối của nó.
Trong tin học
Trong tin học, một mẫu hình về lập trình là một kiểu lập trình mà nó là kiểu có tính mẫu hình trong tiến hành về công nghệ phần mềm.
Nguồn gốc
Chữ paradigm có gốc từ παράδειγμα (paradeigma) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "mô hình" hay "Ví dụ"; từ chữ παραδεικνύναι (paradeiknunai) có nghĩa là "làm mẫu".
Trích dẫn
Paradigm "is a word too often used by those who would like to have a new idea but cannot think of one."— Mervyn King, then Deputy Governor, Bank of England
Tham khảo
Clarke, Thomas and Clegg, Stewart (eds) (2000) "Changing Paradigms" London: HarperCollins ISBN 0006387314
BBC -- The History of the Digital Watch
Xem thêm
:en:Macrocosm and microcosm
Triết học
Khoa học thông tin
Mẫu hình lập trình
Mỹ học
Nhận thức luận của khoa học
|
11298
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A5t%20s%C6%B0%20%E1%BA%A5n%20ch%E1%BB%A9ng
|
Nhất sư ấn chứng
|
Nhất sư ấn chứng (zh. 一師印證, ja. isshi-injō) nghĩa là "sự ấn khả chứng minh của một vị thầy", chỉ sự tu tập của một thiền sinh dưới sự hướng dẫn của một vị thầy duy nhất. Sự cần thiết của nhất sư ấn chứng được Thiền tông - nhất là tông Tào Động (ja. sōtō-shū) - tại Nhật Bản đề cao từ khoảng thế kỉ 17 để chống lại khuynh hướng chạy tới chạy lui qua nhiều vị thầy của các thiền sinh thời bấy giờ.
Việc tu học trong Thiền tông dưới một vị thầy khác với cái học nơi thế tục ở một điểm: nơi đây thiền sinh không được học suông (tri) rồi truyền cái học suông này cho người khác mà còn phải thực hiện cái chân lý đã được học qua lý thuyết ngay ở chính mình, cứ như người khát nước uống nước (hành). Chỉ khi nào tri và hành hợp nhất thì thiền sinh mới có thể hi vọng một ngày nào đó sẽ kiến tính (ja. kenshō) ngộ đạo. Vì lý do này mà niềm tin và sự tu tập nơi một vị thầy - trong một tông phái tự gọi là Phật tâm tông và chủ trương việc Dĩ tâm truyền tâm - được xem là tối trọng. Mà cũng có khi một vị thầy nhìn nhận ra khả năng cao tột của một thiền sinh mới đến - nhưng thấy cơ duyên của thiền sinh này không hợp nơi mình thì vị này cũng gửi thiền sinh này đi nơi khác. Việc gửi các môn đệ đi học qua lại nhau của hai vị Mã Tổ Đạo Nhất và Thạch Đầu Hi Thiên là những ví dụ hay nhất của phương pháp giảng dạy này.
Vì trong Thiền tông không có bản quy định, thước đo cụ thể cho việc ấn chứng nên các Lão sư (ja. rōshi) chỉ có thể hướng dẫn và ấn chứng cho một đệ tử theo khả năng, trình độ đã đạt của mình và một sự hướng dẫn gần gũi trực tiếp. Một khi sự hướng dẫn của một vị thầy bị gián đoạn thì vị thầy sau không thể tiếp nối việc này một cách hoàn hảo. Thiền sinh vì vậy phải có niềm tin vững chắc nơi vị thầy - sau khi đã tìm được vị thích hợp - và chỉ học với vị này mà thôi. Sau khi thiền sinh đã đạt mức độ giác ngộ của vị thầy thì có thể Hành cước đây đó để trau dồi kinh nghiệm qua những cuộc vấn đáp (ja. mondō), cũng thường được gọi là pháp chiến (ja. hossen) với các vị Thiền sư khác.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Thiền tông
Phật học
Triết lý Phật giáo
|
11299
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n%20%C4%90%E1%BA%A1t-ma%20t%C3%B4ng
|
Nhật Bản Đạt-ma tông
|
Nhật Bản Đạt-ma tông (zh. 日本達磨宗, ja. nihon (nippon) darumashū) là một trường phái thiền nhỏ của Nhật Bản được Thiền sư Đại Nhật Năng Nhẫn (ja. dainichi nōnin) sáng lập. Tông này được thành lập dựa vào tông Lâm Tế của Trung Quốc và nổi danh là một tông với phương pháp tu tập chân chính.
Tông này không tồn tại được bao lâu vì sau khi thiền đường của họ bị thiêu huỷ (1928) sau một sự tranh chấp với các vị tăng chùa Hưng Phúc (ja. kōfukuji) và sau khi Thiền sư Cô Vân Hoài Trang (ja. koun ejō) đến Đạo Nguyên Hi Huyền (ja. dōgen kigen) tham học. Một thời gian sau, các vị đệ tử quan trọng của Giác Yển (ja. kakuan) - vị kế thừa thứ hai của tông này - như Triệt Thông Nghĩa Giới (ja. tettsū gikai), Nghĩa Diễn (zh. 義演, ja. gi'en), Hàn Nham Nghĩa Doãn (zh. 寒巖義尹, ja. kangan gi'in),... đều đến gia nhập dòng thiền Tào Động của Đạo Nguyên.
Tông này chủ trương "Kiến tính thành phật" (zh. 見性成佛, ja. kenshō jōbutsu) và "Kiến tính linh tri" (zh. 見性靈知, ja. kenshō reichi), rất chú tâm đến hai bộ kinh Viên Giác (ja. engakkyō) và Thủ-lăng-nghiêm (ja. shuryōgongyō). Thiền sư Giác Yển thường trích những phần trong hai bộ kinh này làm tài liệu giảng dạy. Một đặc điểm của tông này nữa là sự tu tập thiền thuần tuý, tránh không pha trộn với những khuynh hướng tu tập thịnh hành khác thời bấy giờ như niệm danh Phật A-di-đà, thực hành các nghi lễ theo Chân Ngôn tông (ja. shingon-shū). Tuy vậy, họ cũng không tránh được các ảnh hưởng của các tông giáo khác biệt này và chính sự pha trộn giáo lý của Thiền sư Triệt Thông Nghĩa Giới (ja. tettsū gikai) sau này tại Vĩnh Bình tự (ja. eihei-ji) - Thiền Tào Động của Đạo Nguyên và Mật giáo - là nguyên do chính của sự chia rẽ sau này của tông Tào Động, ở thế hệ thứ ba.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Tông phái Phật giáo
Thiền tông
Phật giáo Nhật Bản
|
11300
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%B4ng%20Phong%20Di%E1%BB%87u%20Si%C3%AAu
|
Tông Phong Diệu Siêu
|
Tông Phong Diệu Siêu (zh. 宗峰妙超, ja. shūhō myōchō), 1282-1338, cũng được gọi là Đại Đăng Quốc sư (ja. daitō kokushi), là một vị Thiền sư Nhật Bản lỗi lạc thuộc tông Lâm Tế. Sư nối pháp Nam Phố Thiệu Minh (ja. nampo jōmyō) và là thầy của Quan Sơn Huệ Huyền (ja. kanzan egen). Sư là người thành lập và trụ trì đầu tiên của Đại Đức tự (zh. 大德寺, ja. daitoku-ji) ở Kinh Đô (kyōto), một trong những ngôi chùa quan trọng nhất của Nhật Bản.
Cơ duyên
Sư sinh trưởng tại Harima, cách thành phố Osaka không xa. Lúc còn nhỏ Sư đã có những dấu hiệu lạ thường, lên mười đã không thích chơi với trẻ con cùng lứa. Sư bắt đầu nghiên cứu tu tập Phật pháp rất sớm và chu du viếng thăm nhiều thiền viện. Năm 22 tuổi, Sư đến tham học với Thiền sư Cao Phong Hiển Nhật (ja. kōhō kennichi) tại Vạn Thọ tự (ja. manju-ji) ở Liêm Thương (kamakura) và nơi đây có ngộ nhập. Sau, Sư đến học nơi Thiền sư Nam Phố Thiệu Minh và được vị này ấn khả. Nam Phố khuyên Sư tu tập thêm hai mươi năm nữa trước khi nhập thế hoằng hoá thế gian.
Sau khi Nam Phố tịch (1308), Sư trở về Kinh Đô sống ẩn dật hai mươi năm. Trong thời gian này, Sư sống cùng với những kẻ ăn xin và ngủ dưới cầu. Tin truyền về một kẻ ăn xin lạ thường đồn đến tai Thiên hoàng Hoa Viên (ja. hanazono) và ông đích thân đến cầu để tìm cho ra lai lịch của vị khất sĩ phi thường này. Ông mang theo một giỏ dưa và nói trước các khất sĩ: "Ta sẽ tặng quả dưa cho người nào đến đây mà không sử dụng đôi chân." Mọi người đều suy nghĩ chần chừ, Sư liền bước ra nói: "Đưa quả dưa cho ta mà không được dùng đôi tay!" Ngay sau sự việc này, Nhật hoàng thỉnh Sư về cung điện tham vấn.
Sau đó, Sư dựng một cái am trên đồi gần Kinh Đô, học chúng đua nhau đến rất đông, đến nỗi Thiền viện Đại đức được xây dựng để đáp ứng nhu cầu của học khách. Sư được Cựu Thiên hoàng Hoa Viên phong là Hưng Thiền Đại Đăng Quốc sư (zh. 興禪大燈國師, ja. kōzen daitō kokushi).
Pháp ngữ
Tông phong của Sư nổi tiếng là uy nghiêm dũng mãnh. Nổi danh nhất là bản Di giới (zh. 遺誡, ja. yuikai) của Sư—được viết hai năm trước lúc Sư quy tịch. Bản Di giới này nêu rõ phong cách của dòng thiền Ứng-Đăng-Quan và truyền thống của Thiền tông từ Trung Quốc đến Nhật Bản nói chung. Bản này—thỉnh thoảng được biến đổi đôi chút—vẫn còn được treo trước mỗi Thiền viện của tông Lâm Tế tại Nhật. Nội dung bản này như sau:
Dù các thiền viện được hưng thịnh thế nào sau khi lão tăng qua đời đi nữa, dù tượng hình Phật và các bộ kinh được tạo bằng vàng ròng đi nữa, dù thiền sinh tham học đông đảo, tụng kinh, phát nguyện, toạ thiền suốt đêm, ăn chỉ một bữa, chuyên cần giữ giới đi nữa,—nếu họ không chú tâm tìm cho bằng được diệu pháp nằm ngoài kinh điển của chư Phật, Tổ thì họ không thể nào đoạn diệt lưới nghiệp, tông chỉ sẽ bị hoại, họ sẽ theo nhà ma. Dù khoảng thời gian từ khi lão tăng qua đời có dài thế nào đi nữa thì cũng không được gọi họ là con cháu của lão tăng.
Nhưng—nếu có người nào tại đây, ở nhà lá, ăn rau cỏ từ nồi nghiêng bếp hỏng để sống qua ngày, nếu người này tự tìm hiểu nguồn gốc của chính mình thì ngày ngày sẽ thấy được lão tăng và sẽ là người báo ân chân thật.
Sư lâm bệnh nặng năm 55 tuổi và phó chúc công việc cai quản thiền viện cho môn đệ là Triệt Ông Nghĩa Hanh (ja. tettō gikō). Sư căn dặn không được xây tháp cho Sư sau khi Sư tịch. Câu chuyện rất cảm động sau được truyền lại, tả lúc Sư quy tịch. Như phần lớn các vị Thiền sư, Sư muốn ngồi kết già viên tịch mặc dù chân của Sư bị thương và trước đó Sư cũng không thể nào ngồi kết già toạ thiền. Biết thời điểm đã đến, Sư dùng hết sức mình kéo chân trái đặt trên chân phải. Xương chân của Sư gãy, máu tuôn đầy ca-sa. Sư an nhiên ngồi thẳng và viết những dòng kệ sau:
Phật, Tổ ta đã đoạn
Tóc bay đã hết rối
Bánh xe tự tại chuyển
Chân không bèn nghiến răng.
Với sự xuất hiện của Sư, Thiền Nhật Bản đã vượt qua giai đoạn du nhập, các Thiền sư Nhật đã đạt được phong độ của các tiền bối tại Trung Quốc đời Đường, đời Tống.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Lâm Tế tông
Đại sư Phật giáo
Người Hyōgo
Thiền sư Nhật Bản
|
11301
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%C3%AAn%20Nh%C4%A9%20Bi%E1%BB%87n%20Vi%C3%AAn
|
Viên Nhĩ Biện Viên
|
Viên Nhĩ Biện Viên (zh. 圓爾辨圓, ja. enni ben'en), 1202-1280, cũng được gọi là Thánh Nhất Quốc sư, là một vị Thiền sư Nhật Bản, thuộc tông Lâm Tế, hệ phái Dương Kì. Sau một cuộc du học bảy năm tại Trung Quốc, Sư được Thiền sư Vô Chuẩn Sư phạm ấn khả. Trở về Nhật, Sư khai sáng và trụ trì nhiều chùa và được Hoa Viên Thiên hoàng (ja. hanazono) sắc phong là Thánh Nhất Quốc sư (zh. 聖一國師, ja. shōichi kokushi). Đây là lần đầu tiên Nhật Bản có danh hiệu Quốc sư.
Sư xuất gia năm lên năm và sớm học giáo lý của Thiên Thai tông. Năm lên mười tám, Sư thụ giới cụ túc và sau đó, trong một khoảng thời gian ba năm, Sư chuyên học Nho giáo. Song song với các giáo lý trên, Sư cũng tu tập theo Mật giáo của Thiên Thai tông và được ấn chứng theo nghi lễ tông này năm 1228.
Năm 1235, Sư sang Trung Quốc và may mắn gặp được một trong những vị Thiền sư danh tiếng nhất thời là Vô Chuẩn Sư phạm ở Kính Sơn, trụ trì Vạn Thọ Thiền tự. Sau một thời gian tu tập không lâu, Sư được Vô Chuẩn ấn khả và tặng một bức tranh. Bức tranh này ngày nay vẫn còn được trưng bày tại Đông Phúc tự (ja. tōfuku-ji) tại Kinh Đô (kyōto).
Trở về Nhật, Sư sáng lập chùa Đông Phúc và trụ trì nơi đây. Ngoài ra, Sư còn quản lý hai thiền viện khác là Thụ Phúc (ja. jufuku-ji) và Kiến Nhân (ja. kennin-ji), cả ba đều là những thiền viện quan trọng nằm trong hệ thống Ngũ sơn thập sát của Liêm Thương và Kinh Đô.
Phương pháp dạy đệ tử của Sư bao gồm giáo lý của Thiên Thai, Chân ngôn và Thiền tông nhưng khác với Minh Am Vinh Tây (ja. myōan eisai), Thiền được xếp cao hơn hẳn hai giáo môn kia. Trong Thánh Nhất pháp ngữ (ja. shōichi hōgo), Sư trả lời câu hỏi:
"Tông này được gọi là nền tảng của tất cả các pháp, hiểu thế nào?":
"Thiền là Phật tâm, Giới luật chỉ là bề ngoài, giáo pháp là giảng nghĩa bằng văn tự, niệm Phật là Phương tiện (ja. hōben), cả ba đều xuất phát từ Phật tâm, vì thế tông này được xem là căn bản."
Hỏi: "Làm thế nào học để hiểu được 'Kiến tính thành Phật'?"
Sư đáp: "Cái hiểu biết qua Kinh (sa. sūtra), Luận (sa. śāstra) là thấy, nghe, thụ tưởng và nhận thức. Đó là cái hiểu biết của Phàm phu (sa. pṛthagjana, ja. bonpu), không phải cái hiểu biết chân thật. Ai biết xoay ánh sáng của tâm rọi chiếu trở lại sẽ nhìn ra Phật tính, người ta gọi là có huệ nhãn. Với huệ nhãn người ta kiến tính và thành Phật."
Sư mất năm 1280 tại Đông Phúc tự, thọ 80 tuổi. Đệ tử đắc pháp của Sư hơn 30 người.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Sinh năm 1202
Mất năm 1280
Lâm Tế tông
|
11302
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20Nh%E1%BA%ADt%20N%C4%83ng%20Nh%E1%BA%ABn
|
Đại Nhật Năng Nhẫn
|
Đại Nhật Năng Nhẫn (zh. 大日能忍, ja. dainichi nōnin), thế kỷ 12-13, là một vị Thiền sư Nhật Bản, là người khai sáng Nhật Bản Đạt-ma tông (ja. nihon darumashū). Dòng thiền của Sư tồn tại không lâu vì sau này phần lớn các môn đệ chính đều gia nhập tông Tào Động (ja. sōtō) của Thiền sư Đạo Nguyên Hi Huyền (ja. dōgen kigen). Người kế thừa Sư là Giác Yển (ja. kakuan).
Sư tu tập thiền không có sự hướng dẫn của thầy nhưng vẫn tự mình chứng ngộ. Vì không ai ấn chứng nên Sư không được chấp nhận. Thế nên, Sư viết một bức thư nhờ hai vị đệ tử sang Trung Quốc tìm thầy ấn chứng. Đệ tử của Sư đến yết kiến Thiền sư Phật Chiếu Đức Quang (ja. busshō tokkō, 1121-1203) thuộc tông Lâm Tế và được vị này thừa nhận, ấn khả.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Đại sư Phật giáo
Thiền sư Nhật Bản
Lâm Tế tông
|
11304
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9%20s%C6%A1n%20th%E1%BA%ADp%20s%C3%A1t
|
Ngũ sơn thập sát
|
Ngũ sơn thập sát (zh. wǔshān shíshā 五山十剎, ja. gozan jissetsu), nghĩa là "năm núi và mười chùa", chỉ một giáo hội bao gồm năm ngọn núi và mười chùa tại hai thành phố Hàng Châu và Minh Châu, được Tống Ninh Tông sáng lập. Ngũ sơn thập sát tại Trung Quốc được theo gương của Ngũ tinh xá thập tháp tại Ấn Độ mà thành lập. Thiền tông Nhật Bản cũng theo cách tổ chức này mà thành lập Ngũ sơn thập sát tại hai thành phố lớn là Kinh Đô (kyōto) và Liêm Thương (kamakura). Ngũ sơn thập sát tại Nhật đã trở thành những trung tâm quan trọng của văn hoá và nghệ thuật tại đây (Ngũ sơn văn học). Tất cả năm núi và mười chùa tại Trung Quốc và Nhật Bản đều thuộc về tông Lâm Tế.
Danh từ "sơn" ở đây được sử dụng như một chùa, một Thiền viện bởi vì hầu hết các thiền viện đời xưa đều được thành lập trên một ngọn núi và các vị Thiền sư trụ trì tại đây cũng thường được gọi dưới tên ngọi núi này.
Ngũ sơn thập sát tại Trung Quốc
Ngũ sơn
Kính sơn (徑山) tại Hàng Châu với Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền tự (興聖萬壽禪寺)
A-dục vương sơn (阿育王山) tại Ninh Ba với Mậu Phong Quảng Lợi tự (廣利寺)
Thiên Đồng Sơn (天童山) tại Hàng Châu (杭州) với Thiên Đồng Sơn Cảnh Đức tự (天童山景德寺)
Linh Ẩn sơn (靈隱山) tại Hàng Châu (杭州) với Cảnh Đức Linh Ẩn tự (景德靈隱寺)
Nam Bình sơn (南屏山) với chùa Tịnh Từ Báo Ân Quang Hiếu Thiền tự (淨慈報恩光孝禪寺’).
Thập sát
Thiên Ninh Vạn Thọ Vĩnh Tộ tự (天寧萬壽永祚寺), tỉnh Chiết Giang
Hộ Thánh Vạn Thọ tự (護聖萬壽寺), tỉnh Chiết Giang
Thái Bình Hưng Quốc tự (太平興國寺, cũng gọi Linh Cốc tự 靈谷寺), tỉnh Giang Tô
Báo Ân Quang Hiếu tự (報恩光孝寺), tỉnh Giang Tô
Tư Thánh (資聖寺), tỉnh Chiết Giang
Long Tường tự (龍翔寺, cũng gọi Giang Tâm tự 江心寺), tỉnh Chiết Giang
Sùng Thánh tự (崇聖寺), tỉnh Phúc Kiến
Bảo Lâm tự (寶林寺), tỉnh Chiết Giang
Vân Nham tự (雲巖寺), tỉnh Giang Tô
Quốc Thanh tự (國清忠寺), tỉnh Chiết Giang
Ngũ sơn thập sát tại Nhật Bản
Ngũ sơn thập sát tại Nhật Bản thì thay đổi theo thời đại, vương triều. Mãi đến năm 1386 thì danh sách của Ngũ sơn tại đây mới có thể được gọi là hoàn chỉnh, cố định.
Chùa Nanzen, một ngôi chùa lớn tại Kyoto cũng có khi được đặt trên địa vị cao hơn Ngũ sơn tại đây.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Thiền tông
Phật học
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
Tự viện Phật giáo
Địa danh Phật giáo
Chùa Trung Quốc
Chùa Nhật Bản
Kamakura
ja:鎌倉五山
|
11305
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9%20s%C6%A1n%20v%C4%83n%20h%E1%BB%8Dc
|
Ngũ sơn văn học
|
Ngũ sơn văn học (zh. 五山文學, ja. gozan bungaku) là tên gọi chung của những tác phẩm của các vị Thiền sư Nhật Bản thuộc hệ thống Ngũ sơn tại Kinh Đô (kyōto) trong thời Túc Lợi (ashikaga hoặc muromachi, 1338-1573). Thiền sư Trung Quốc Nhất Sơn Nhất Ninh - đến Nhật năm 1299 - và môn đệ người Nhật của sư là Tuyết Thôn Hữu Mai (zh. 雪村有梅, ja. sesson yūbai) được xem là Khai tổ của phong trào văn học này.
Các tác giả nổi danh nhất của Ngũ sơn văn học là:
Mộng Song Sơ Thạch (zh. 夢窗疏石, ja. musō soseki), không những là một Thiền sư trứ danh mà còn là một nghệ sĩ xuất chúng;
Hổ Quan Sư Luyện (zh. 虎關師鍊, ja. kokan shiren, 1278-1346), một môn đệ khác của Nhất Sơn Nhất Ninh;
Nghĩa Đường Châu Tín (zh. 義堂周信, ja. gidō shūshin, 1325-1388) và Tuyệt Hải Trung Tân (zh. 絕海中津, ja. zekkai chūshin, 1336-1405), cả hai đều là môn đệ của Mộng Song Sơ Thạch.
Các tác giả nêu trên chuyên nghiên cứu và phổ biến cách làm thơ (thi pháp) và triết lý của Tân nho giáo. Vì vậy, trong thời gian này, văn hoá, nghệ thuật và khoa học của Trung Quốc được truyền sang Nhật rất mạnh. Nhiều vị còn nổi danh trong các lĩnh vực nghệ thuật như Thư đạo (ja. shōdō),...
Qua những bài văn rõ ràng mạch lạc của mình - tất cả đều được viết bằng tiếng Nhật - Thiền sư Mộng Song Sơ Thạch đã góp công rất nhiều trong việc phổ biến Thiền học tại Nhật.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Thiền tông
Phật giáo Nhật Bản
Phật học
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
Lịch sử văn học Nhật Bản
Thiền ngữ
Lâm Tế tông
|
11306
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20S%C5%8Dji
|
Chùa Sōji
|
Chùa Sōji (kanji: 總持寺, romaji: Sōji-ji) tại Yokohama là một trong hai Thiền viện chính của tông Tào Động tại Nhật Bản. Thiền viện này được một vị cao tăng tên Gyōgi (668-749) sáng lập, với tính cách là một ngôi chùa của tông Pháp tướng. Ngôi chùa này ban đầu nằm tại tỉnh Ishikawa. Từ khi Thiền sư Keizan Jyōkin (1268-1325) trụ trì ở đây, chùa này trở thành một thiền viện. Năm 1898, chùa Sōji được dời về Yokohama sau một cơn hoả hoạn.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Yokohama
Sōji
Chấm dứt năm 1898
|
11307
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Eihei
|
Chùa Eihei
|
Chùa Eihei (kanji: 永平寺, romaji: Eihei-ji, phiên âm Hán-Việt: Vĩnh Bình tự) là một trong hai ngôi chùa chính của tông Tào Động ở Nhật Bản, được Thiền sư Dogen, người sáng lập phái Tào Động ở Nhật Bản thành lập năm 1243. Eihei nằm cách thành phố Fukui 10km về phía Đông.
Chú thích
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Fukui
Eihei
|
11308
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C3%BAi%20Hiei
|
Núi Hiei
|
là một ngọn núi phía đông bắc thành phố Kyōto, nằm trên ranh giới giữa hai tỉnh Kyoto và Shiga.
Đây là nơi Đại sư Tối Trừng (ja. saichō) cho xây dựng Nhất Thừa Chỉ Quán viện (sau được đổi tên là chùa Diên Lịch) của tông phái Thiên Thai Nhật Bản vào đầu thế kỷ 9. Chùa này trở thành một trung tâm quan trọng của Phật giáo Nhật Bản vào thời Trung cổ, từng tiếp đón nhiều cao tăng của các trường phái khác như Chân ngôn tông (ja. shingon) và Thiền tông (ja. zen-shū).
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Kyōto (thành phố)
Núi Nhật Bản
|
11314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%BF%20qu%E1%BB%91c%20Qu%C3%BD%20S%C6%B0%C6%A1ng
|
Đế quốc Quý Sương
|
Đế quốc Quý Sương, tức Đế quốc Kushan (vào khoảng thế kỷ thứ 1–3), là một cường quốc cổ đại tại Trung Á. Vào thời đỉnh cao (105-250), đế chế này trải dài từ Tajikistan tới Biển Caspi và từ Afghanistan xuống đến lưu vực sông Hằng. Đế chế này được thành lập từ bộ lạc Quý Sương của dân Nguyệt Chi 月氏) đến từ Tân Cương (Trung Quốc) ngày nay, một dân tộc có thể có liên hệ với người Tochari. Do nằm tại trục giao thông huyết mạch của Trung Á, họ có quan hệ ngoại giao với Đế chế La Mã, Ba Tư Sassanid và nhà Hán Trung Quốc, và trong vài thế kỷ họ là trung tâm trao đổi giữa Đông Phương và Tây Phương.
Trong thế kỷ 1 và đầu thế kỉ 2 SCN, người Quý Sương bành trướng nhanh chóng trên phần phía bắc của khu vực Nam Á ít nhất là xa tới tận Saketa và Sarnath gần Varanasi (Benares), nơi mà các chữ khắc đã được tìm thấy với niên đại tới những năm đầu của thời đại của vị vua Quý Sương nổi tiếng nhất, Kanishka, mà dường như bắt đầu khoảng năm 127 SCN.
Các vị vua Quý Sương là một nhánh của liên minh Nguyệt Chi. Trước đó họ là một dân tộc du mục cư trú tại các thảo nguyên phía tây bắc của Trung Quốc, họ di chuyển về phía tây nam và định cư ở Bactria cổ đại. Họ cũng đã có quan hệ ngoại giao với Đế chế La Mã, nhà Sassanid của Ba Tư và nhà Hán ở Trung Quốc. Đế chế này suy yếu từ thế kỷ thứ 3 và sụp đổ bởi đế chế Sassanid và Đế chế Gupta.
Nguồn gốc
Tên Quý Sương từ tiếng Hoa 貴霜 để chỉ một trong năm bộ lạc người Nguyệt Chi, một liên minh lỏng lẻo của những dân tộc Ấn-Âu dùng các ngôn ngữ Tochari. Họ là người Ấn-Âu sống ở phía cực đông, trên những đồng cỏ khô cằn của lưu vực sông Tháp Lý Mộc ở Tân Cương ngày nay, đến khi dân Hung Nô đuổi họ về phía tây vào khoảng từ năm 176 TCN đến năm 160 TCN. Trong lịch sử Trung Quốc, năm bộ lạc Nguyệt Chi được gọi là Hưu Mật (休密), Quý Sương (貴霜), Song Mỹ (雙靡), Hật Đốn (肸頓), và Đô Mật (都密).
Dân Quý Sương tới Vương quốc Hy Lạp-Bactria, thuộc địa hạt Đại Hạ (miền bắc Afghanistan và Uzbekistan) vào khoảng năm 135 TCN, và chiếm đất và đẩy những triều đại Hy Lạp ở đấy tái định cư tại lưu vực sông Ấn Độ (ở nước Pakistan ngày nay) thuộc miền tây của Vương quốc Ấn-Hy Lạp.
Thời kì đầu
Một số dấu vết về sự hiện diện của người Quý Sương vẫn còn lại trong khu vực của Bactria và Sogdiana. Các công trình khảo cổ học được biết đến ở Takht-I-Sangin, Surkh Kotal (một ngôi chùa hoành tráng), và trong cung điện của Khalchayan. Một loạt các tác phẩm điêu khắc và những trụ gạch khác nhau đã được biết đến, đại diện là những cung thủ cưỡi ngựa, và đáng kể là một người đàn ông với hộp sọ nhân tạo bị biến dạng, chẳng hạn như hoàng tử Quý Sương của Khalchayan (một thực tế cũng chứng thực về nguồn gốc du mục Trung Á). Người Trung Quốc đầu tiên gọi những người này là Nguyệt Chi và nói rằng họ thành lập đế quốc Quý Sương, mặc dù mối quan hệ giữa người Nguyệt Chi và Quý Sương vẫn còn chưa rõ ràng. Trên đống đổ nát của thành phố cổ đại Hy Lạp cổ đại như Ai-Khanoum, Người Quý Sương được biết đến vì đã xây dựng pháo đài bảo vệ. Vị vua trong thư tịch đầu tiên, và là một trong những người đầu tiên tuyên bố mình là một vị vua Quý Sương, tên là Heraios. Ông tự gọi chính mình là một "bạo chúa" trên đồng tiền của mình. Ông có thể là được một đồng minh của người Hy Lạp, và ông đã chia sẻ cùng một phong cách của tiền đúc. Heraios có thể là cha của quốc vương Quý Sương đầu tiên, Kujula Kadphises.
Tài liệu Hậu Hán Thư của Trung Quốc ghi lại về sự hình thành của đế chế Quý Sương dựa trên một bản tấu của tướng Ban Dũng (con Ban Siêu) dâng lên Hán An Đế vào năm 125:
"Hơn một trăm năm sau [sau khi người Đại Nguyệt Chi chiếm Bactria], hấp hậu (nguyên văn chép 翕候, có lẽ là phiên âm từ thủ lĩnh theo ngôn ngữ địa phương) của Quý Sương (Badakhshan) là Khâu Tựu Tức (丘就卻, Kujula Kadphises) đã tấn công và tiêu diệt bốn hấp hậu khác, tự lập làm vương, quốc hiệu là Quý Sương (Kushan) vương. [Y] xâm chiếm An Tức (Indo-Parthia) và chiếm khu vực Cao Phụ (高附 - tức Kabul). [Y] diệt Bộc Đạt (濮达, Paktiya), Kế Tân (罽賓, Kapisha và Gandhara), mở rộng vương quốc. Khâu Tựu Tức ngoài 80 tuổi thì chết, con trai Diêm Cao Trân (閻高珍, có thể là Vema Tahktu hoặc em trai ông ta, Sadaṣkaṇa) kế nghiệp xưng vương. [Y] tiếp tục chinh phục Thiên Trúc (天竺 - Tây bắc Ấn Độ) và đặt một tướng cai quản ở đó. Người Nguyệt Chi từ đó trở nên giàu mạnh, các nước lân cận đều gọi là Quý Sương vương. Ở Hán vẫn theo tên cũ, gọi là Đại Nguyệt Chi". (Hậu Hán Thư,).
Ảnh hưởng văn hóa đa dạng
Trong thế kỷ 1 trước Công nguyên, người Quý Sương (贵霜) đã trở nên hùng mạnh hơn các bộ lạc Nguyệt Chi khác, và thống nhất họ thành một liên minh chặt chẽ dưới quyền yabgu Kujula Kadphises. Tên Quý Sương đã được chấp nhận ở phương Tây và sửa đổi thành Kushan để chỉ liên minh này, mặc dù người Trung Quốc tiếp tục gọi họ là Nguyệt Chi.
Dần dần giành giật quyền kiểm soát của khu vực từ các bộ tộc Scythia, người Quý Sương bành trướng về phía nam tiến vào các khu vực theo truyền thống được biết đến là Gandhara và thiết lập hai kinh đô song song ở Kabul ngày nay và Peshawar mà sau đó được gọi là Kapisa và Pushklavati.
Người Quý Sương chấp nhận các yếu tố của văn hóa Hy Lạp cổ đại của Bactria. Họ đã chấp nhận bảng chữ cái Hy Lạp cho phù hợp với ngôn ngữ riêng của họ (với sự phát triển thêm các chữ Þ "sh", như trong "Kushan") và sớm bắt đầu đúc tiền đúc theo kiểu Hy Lạp. Trên đồng tiền của họ họ sử dụng truyền thuyết ngôn ngữ Hy Lạp kết hợp với truyền thuyết Pali (trong chữ viết Kharoshthi), cho đến những năm đầu của triều đại Kanishka.
Người Quý Sương được cho chủ yếu là theo Hỏa Giáo.Tuy nhiên, từ triều đại Vima Takto, nhiều người Quý Sương bắt đầu chấp nhận các khía cạnh của văn hóa Phật giáo. Giống như Ai Cập, họ tiếp thụ các tàn dư của văn hóa Hy Lạp của các vương quốc Hy Lạp, ít nhất một phần bị Hy Lạp hóa. Đại đế Quý Sương Vima Kadphises có thể đã chấp nhận đạo Saivism, như phỏng đoán từ tiền xu đúc trong thời gian này.
Sự cai trị của người Quý Sương liên kết thương mại biển Ấn Độ Dương với thương mại của Con đường tơ lụa thông qua văn minh sông Ấn. Tại thời điểm đỉnh cao của triều đại, Người Quý Sương cai trị cai trị một vùng lãnh thổ lỏng lẻo mở rộng tới biển Aral ngày nay từ Uzbekistan, Afghanistan, và Pakistan tới miền bắc Ấn Độ.
Sự thống nhất lỏng lẻo và nền hòa bình tương đối của một vùng rộng lớn như vậy khuyến khích thương mại đường dài, mang lụa Trung Quốc tới La Mã, và tạo ra chuỗi các trung tâm đô thị phát triển.
Bành trướng lãnh thổ
Bằng chứng khảo cổ trực tiếp về sự thống trị của người Quý Sương suốt một thời gian dài về cơ bản có sẵn trong một khu vực trải dài từ Surkh Kotal, Begram, kinh đô mùa hè của người Quý Sương, Peshawar kinh đô dưới thời Kanishka I, Taxila và Mathura, kinh đô mùa đông của người Quý Sương.
Các khu vực khác có thể nằm dưới sự cai trị của họ bao gồm Khwarezm Kausambi (các cuộc khai quật của trường Đại học Allahabad), Sanchi và Sarnath (chữ khắc với tên và ngày tháng của các vị vua Quý Sương), Malwa và Maharashtra, Orissa.
Văn bia Rabatak mới được phát hiện xác nhận ghi chép của Hậu Hán Thư, Weilüe, và những chữ khắc có niên đại vào đầu thời đại Kanishka (có thể khởi đầu năm 127 CN), rằng lãnh thổ Quý Sương đã mở rộng sang khu trung tâm của miền bắc Ấn Độ vào đầu thế kỷ thứ 2.Các dòng 4-7 của văn bia mô tả những thành phố trực thuộc dưới sự cai trị của Kanishka, trong đó có sáu tên được nhận biết: Ujjain, Kundina, Saketa, Kausambi, Pataliputra, và Champa Về phía bắc, trong thế kỷ thứ 2 CN, người Quý Sương dưới thời Kanishka đã tiến hành những cướp phá khác nhau vào các lưu vực Tarim, dường như là đất đai ban đầu của tổ tiên của họ, người Nguyệt Chi,nơi họ đã có một số sự tiếp xúc với Trung Quốc. Cả hai phát hiện khảo cổ học và bằng chứng văn học cho thấy sự cai trị của người Quý Sương, tại Kashgar, Yarkand và Khotan.
Những vị vua Quý Sương chủ yếu
Kujula Kadphises (khoảng năm 30 – 80 CN)
Như đã nêu ở trên, Hậu Hán thư nhắc qua lời tấu của Ban Dũng vào năm 125"
Những cuộc chinh phục có thể diễn ra vào khoảng giữa năm 45 và 60, và đặt cơ sở cho Đế quốc Quý Sương mà đã nhanh chóng được mở rộng bởi các con cháu của ông.
Kujula đã ban hành rộng rãi một loạt tiền xu và là cha của ít nhất người hai con trai, Sadaṣkaṇa (người được biết đến chỉ từ hai câu khắc, đặc biệt là văn bia Rabatak, và dường như không bao giờ cai trị), và dường như là Vima Takto.
Kujula Kadphises là ông cố nội của Kanishka.
Vima Taktu hay Sadashkana (khoảng năm 80 – 95)
Vima Takto (tiếng Trung Quốc cổ: 阎膏珍 Diêm Cao Trân) không được đề cập trong văn bia Rabatak. Ông là tiên vương của Vima Kadphises, và Kanishka I. Ông đã mở rộng đế quốc Quý Sương về phía tây bắc của khu vực Nam Á. Hậu Hán Thư ghi lại:
Vima Kadphises (khoảng năm 95 – 127)
Vima Kadphises (tiếng Quý Sương: Οοημο Καδφισης) là một hoàng đế Quý Sương vào khoảng năm 90-100 CN, ông là con trai của Sadashkana và cháu trai của Kujula Kadphises, và cha của Kanishka I, theo ghi chép từ văn bia Rabatak.
Vima Kadphises đã mở rộng thêm lãnh thổ Quý Sương bằng những cuộc chinh phục của mình ở Afghanistan và tây bắc Pakistan. Ông cũng đã ban hành rộng rãi một loạt tiền xu và chữ khắc. Ông là người đầu tiên phát hành tiền đúc bằng vàng ở Ấn Độ, ngoài tiền đồng hiện có và tiền đúc bằng bạc
Kanishka I (khoảng năm 127-140)
Khoảng năm 127, vị vua thứ năm của Vương triều Quý Sương là Kanishka I (tức Ca Nị Sắc Vương) lên ngôi báu và trị nước phồn thịnh trong suốt 13 năm. Khi lên ngôi, Kanishka cai trị một vùng lãnh thổ lớn (hầu như tất cả miền bắc Ấn Độ), phía nam Ujjain và Kundina và phía đông vượt qua Pataliputra, theo văn bia Rabatak:
Lãnh thổ của ông được quản lý từ hai kinh đô: Purushapura (nay là Peshawar ở miền bắc Pakistan) và Mathura, ở miền bắc Ấn Độ. Ông cũng được ghi nhận (cùng với Raja Thoa) đã xây dựng pháo đài lớn, pháo đài Bathinda cổ(Qila Mubarak), tại thành phố Bathinda ngày nay, thuộc vùng Punjab của Ấn Độ.
Người Quý Sương cũng có một kinh đô mùa hè ở Bagram (sau đó được gọi là Kapisa), nơi mà "kho báu Begram ", bao gồm các tác phẩm nghệ thuật từ Hy Lạp tới Trung Quốc, đã được tìm thấy. Theo văn bia Rabatak, Kanishka là con trai của Vima Kadphises, cháu trai của Sadashkana, chắt nội của Kujula Kadphises. Thời đại Kanishka nói chung được ngày nay chấp nhận là bắt đầu vào năm 127 dựa trên cơ sở nghiên cứu đột phá của Harry Falk Thời đại Kanishka của sử dụng như là một lịch đối chiếu bởi người Quý Sương khoảng một thế kỷ, cho đến giai đoạn suy vong của vương quốc Quý Sương.
Vāsishka (khoảng năm 140 –160)
Vāsishka là một hoàng đế Quý Sương mà dường như đã trị vì 20 năm sau thời Kanishka. Sự cai vì của ông được ghi nhận là phía nam đến tận Sanchi (gần Vidisa), nơi một số chữ khắc tên của ông đã được tìm thấy, ngày tháng là năm 22 (văn bia Sanchi của "Vaksushana" - tức là Vasishka Kushana) và năm 28 (văn bia Sanchi của Vasaska - tức là Vasishka) của thời đại Kanishka.
Huvishka (khoảng năm 160 –190)
Huvishka (Tiếng Quý Sương Οοη ϸ κι, "Ooishki") là một hoàng đế Quý Sương khoảng 20 năm sau khi Kanishka qua đời (giả định trên các bằng chứng tốt nhất có sẵn trong năm 140 CN) cho đến khi Vasudeva I lên kế vị khoảng ba mươi năm sau đó. Thời kì trị vì của ông là một khoảng giai đoạn xây dựng và củng cố cho Đế quốc. Đặc biệt, ông dành thời gian và công sức vào giai đoạn đầu triều đại của ông cho các nỗ lực của kiểm soát thành phố Mathura tốt hơn.
Vasudeva I (khoảng năm 190 – 230)
Vasudeva I (tiếng Quý Sương: Βαζοδηο "Bazodeo", chữ Hán: 波调, "Ba Điệu") là vị đại đế Quý Sương cuối cùng. Các chữ khắc tên ông có niên đại từ năm 64 đến năm 98 của thời đại Kanishka, đưa ra giả thuyết là triều đại của ông kéo dài từ ít nhất năm 191 đến 225 CN. Ông là hoàng đế Quý Sương vĩ đại cuối cùng, và sự cai trị của ông kết thúc trùng hợp với cuộc xâm lược của nhà Sassanid xa tới tận Tây Bắc Ấn Độ, và thành lập triều đại Ấn-Sassanid hoặc Kushanshahs từ khoảng năm 240 CN.
Các vị thần của người Quý Sương
Hệ thần trong tôn giáo của người Quý Sương là cực kỳ đa dạng, như tiết lộ từ các đồng tiền của họ và con dấu của họ, mà trên đó có hơn 30 vị thần khác nhau xuất hiện, của người Hy Lạp, Iran, và một mức độ thấp hơn từ Ấn Độ. Các vị thần Hy Lạp, với những cái tên Hy Lạp xuất hiện trên các đồng xu vào giai đoạn đầu. Trong thời gian trị vì của Kanishka, ngôn ngữ của các tiền đúc thay đổi thành tiếng Bactria (mặc dù nó vẫn còn những chữ khắc Hy Lạp cho tất cả các vị vua). Sau thời Huvishka, chỉ có hai vị thần xuất hiện trên các đồng tiền: Ardoxsho và Oesho.
Đại diện cho sự xuất hiện của các thần từ thần thoại Hy Lạp và thuyết hỗn mang Hy Lạp cổ đại là:
Ηλιος (Helios), Ηφαηστος (Hephaistos), Σαληνη (Selene), Ανημος (Anemos). Hơn nữa, các đồng tiền của Huvishka cũng miêu tả hai bán-thần: erakilo Heracles, và sarapo Sarapis.
Các vị Phật, thần Ấn Độ xuất hiện trên tiền đúc bao gồm:
Βοδδο (boddo, Phật Thích-ca Mâu-ni)
Μετραγο Βοδδο (metrago boddo, Bồ tát Di-lặc)
Mαασηνo (maaseno, Mahasena)
Σκανδo koμαρo (skando komaro, Skanda Kumara)
þακαμανο Βοδδο (shakamano boddho, Phật Thích-ca Mâu-ni)
Các vị thần Iran xuất hiện trên tiền xu bao gồm:
Αρδοχþο (ardoxsho, Ashi Vanghuhi)
Aþαειχþo (ashaeixsho, Asha Vahishta)
Αθþο (athsho, Atar)
Φαρρο (pharro, Khwarenah)
Λροοασπο (lrooaspa, Drvaspa)
Μαναοβαγο, (manaobago, Vohu Manah)
Μαο (mao, Mah)
Μιθρο, Μιιρο, Μιορο, Μιυρο (mithro and variants, Mithra)
Μοζδοοανο (mozdooano, Mazda *vana "Mazda thần chiến thắng?")
Νανα, Ναναια, Ναναϸαο (variations of pan-Asiatic nana, Sogdian nny, in a Zoroastrian context Aredvi Sura Anahita)
Οαδο (oado Vata)
Oαxþo (oaxsho, "Oxus")
Ooρoμoζδο (ooromozdo, Ahura Mazda)
Οραλαγνο (orlagno, Verethragna)
Τιερο (tiero, Tir)
Người Quý Sương và Đạo Phật
Giao lưu văn hóa cũng phát triển mạnh mẽ, khích thích sự phát triển của Hy Lạp-Phật giáo, một sự hợp nhất của các yếu tố Hy Lạp với các yếu tố văn hóa Phật giáo, mà đã mở rộng vào vùng trung và phía bắc châu Á.
Vua Kanishka đã nổi tiếng trong truyền thuyết Phật giáo vì ông đã triệu tập một Hội đồng Phật giáo lớn ở Kashmir.
Nghệ thuật Quý Sương
Nghệ thuật và văn hóa Gandhara, ở giai đoạn bước ngoặt người Quý Sương nắm quyền bá chủ, là sự biểu hiện tốt nhất được biết đến của ảnh hưởng Quý Sương với người phương Tây. Một số miêu tả trực tiếp của người Quý Sương được biết đến từ Gandhara, nơi họ được thể diện với một đai lưng, áo dài và quần dài và đóng vai các tín đồ của Đức Phật, cũng như Bồ Tát và Phật Di Lặc tương lai.
Trong hình tượng, tuy nhiên,họ không có liên quan với những bức tượng "Phật Đứng" rất Hy Lạp (xem hình ảnh), do đó có thể tương ứng với một giai đoạn lịch sử trước đó. Phong cách của những trụ gạch kết hợp tín đồ Quý Sương đã được Ấn Độ hóa mạnh mẽ, khác xa những miêu tả theo kiểu Hy Lạp cổ đại trước đó của Đức Phật:
Tiếp xúc với La Mã
Một vài nguồn La Mã cổ đại đã mô tả chuyến thăm của sứ thần từ các vua Bactria và Ấn Độ trong thế kỷ thứ 2, có thể đề cập đến người Quý Sương.
Historia Augusta, khi nói về Hoàng đế Hadrian (117-138), có ghi:
"Reges Bactrianorum legatos ad eum, amicitiae petendae causa, supplices miserunt"
"Các vị vua của người Bactria đã gửi những sứ thần nhún nhường tới chỗ ngài, thỉnh cầu tình hữu nghị với ngài."
Cũng trong năm 138, theo Aurelius Victor (Epitome, XV, 4), và Appian (Praef., 7), Antoninus Pius, người kế vị Hadrian, cũng đã tiếp đón một số người Ấn Độ, những sứ thần người Bactria Hyrcania.
Tiếp xúc với Trung Hoa
Trong thế kỷ 1 và 2, Vương triều Quý Sương đã mở rộng các chiến dịch quân sự về phía bắc và chiếm đóng các phần của lòng chảo Tarim, vùng đất ban đầu của họ, đặt nó vào trung tâm của thương mại Trung Á đang sinh lợi với Đế chế La Mã. Họ có liên quan đến việc liên kết quân sự với người Trung Quốc để chống lại sự xâm nhập của các bộ lạc du cư, cụ thể là khi họ liên kết với tướng Trung Quốc là Ban Siêu để chống lại người Sogdian năm 84, khi những người này cố gắng ủng hộ cuộc nổi dậy của vua Kashgar. Khoảng năm 85, họ cũng hỗ trợ người Trung Quốc trong cuộc tấn công Thổ Phồn, ở miền đông lòng chảo Tarim.
Để đòi hỏi sự ghi nhận việc ủng hộ của mình với người Trung Quốc, người Quý Sương đã đòi hỏi (nhưng bị từ chối) các công chúa người Hán, ngay sau khi họ gửi các tặng phẩm cho triều đình Trung Quốc. Để trả thù, họ đã tấn công Ban Siêu năm 86 bằng một lực lượng tới 70.000 quân, nhưng, bị mệt mỏi do cuộc hành quân, cuối cùng họ đã bị lực lượng Trung Quốc ít người hơn đánh bại. Người Quý Sương phải rút lui và cống nộp cho hoàng đế Trung Hoa trong thời gian trị vì của Hán Hòa Đế (89-106).
Sau này, khoảng năm 116, người Quý Sương dưới thời Kanishka thành lập một vương quốc đóng đô ở Kashgar, cũng nắm quyền kiểm soát của Khotan và Yarkand, mà là những chư hầu của Trung Quốc trong lưu vực Tarim, Tân Cương hiện nay. Họ đã giới thiệu văn tự Brahmi, ngôn ngữ Prakrit của người Ấn Độ cho việc cai trị, và mở rộng ảnh hưởng của nghệ thuật Hy Lạp-Phật giáo mà đã phát triển thành nghệ thuật Serindia. Nhà sư Quý Sương Lokaksema là người đầu tiên được biết đến là đã dịch kinh Phật Đại thừa sang tiếng Hán, khoảng năm 170.
Suy yếu
Sau khi Vasudeva I qua đời năm 225, đế quốc Quý Sương chia thành nửa phía tây và phía đông. Người Tây Quý Sương (Afghanistan) đã nhanh chóng bị khuất phục bởi đế quốc Sassanid của Ba Tư và mất Bactria và các vùng lãnh thổ khác. Năm 248, họ bị đánh bại một lần nữa bởi người Ba Tư, những người đã lật đổ triều đại phía Tây và thay thế họ bằng các chư hầu Ba Tư được gọi là người Kushansha (Ấn-Sassanid).
Vương quốc Đông Quý Sương có căn cứ tại Punjab. Khoảng năm 270, vùng lãnh thổ của họ trên vùng đồng bằng Gangetic đã giành độc lập dưới triều đại địa phương như người Yaudheyas. Sau đó, vào giữa thế kỷ thứ 4, họ đã bị chinh phục bởi Đế chế Gupta dưới thời Samudragupta.
Năm 360 một chư hầu Quý Sương tên là Kidara đã lật đổ triều đại Quý Sương cũ và thành lập Vương quốc Kidarite. Phong cách Quý Sương của tiền xu Kidarite cho biết họ coi bản thân mình là người Quý Sương. Kidarite dường như đã khá thịnh vượng, mặc dù trên một quy mô nhỏ hơn so với những người Quý Sương tiền nhiệm của họ.
Những tàn tích của đế chế Quý Sương cuối cùng đã bị xóa sổ trong thế kỷ thứ 5 bởi cuộc xâm lược của người Hun trắng, và sau đó là sự mở rộng của đạo Hồi.
Các vị vua
Heraios (khoảng năm 1 – 30), vị vua Quý Sương đầu tiên
Kujula Kadphises (khoảng năm 30 – khoảng năm 80)
Vima Takto, (khoảng năm 80 – khoảng năm 95) biệt hiệu là Soter Megas hoặc "Vị cứu tinh Vĩ Đại."
Vima Kadphises (khoảng năm 95 – khoảng năm 127) vị hoàng đế Quý Sương vĩ đại đầu tiên
Kanishka Đại Đế (127 – khoảng 140)
Vāsishka (khoảng năm 140 – khoảng năm 160)
Huvishka (khoảng năm 160 – khoảng năm 190)
Vasudeva I (khoảng năm 190 – tối thiểu là tới năm 230), Vị hoàng đế Quý Sương vĩ đại cuối cùng
Kanishka II (khoảng năm 230 – 240)
Vashishka (khoảng năm 240 – 250)
Kanishka III (khoảng năm 250 – 275)
Vasudeva II (khoảng năm 275 – 310)
Vasudeva III được cho là con của Vasudeva II, không chắc chắn.
Vasudeva IV được cho là con của Vasudeva III, cai trị ở Kandahar, không chắc chắn.
Vasudeva V, hoặc "Vasudeva của Kabul" được cho là con của Vasudeva IV, cai trị ở Kabul, không chắc chắn.
Chhu (khoảng năm 310? – 325?)
Shaka I (khoảng năm 325 – 345)
Kipunada (khoảng năm 345 – 375)
Chú thích
Tham khảo
Falk, Harry. 2001. "The yuga of Sphujiddhvaja and the era of the Kuşâņas." Silk Road Art and Archaeology VII, trang 121–136.
Foucher, M. A. 1901. "Notes sur la geographie ancienne du Gandhâra (commentaire à un chaptaire de Hiuen-Tsang)." BEFEO Số 4, tháng 10 năm 1901, trang 322–369.
Hargreaves, H. (1910–11): "Excavations at Shāh-jī-kī Dhērī"; Archaeological Survey of India, 1910–11, trang 25–32.
Harmatta, János, chủ bút, 1994. History of civilizations of Central Asia, Volume II. The development of sedentary and nomadic civilizations: 700 B.C. to A.D. 250. Paris, UNESCO Publishing.
Hill, John E. 2004. The Western Regions according to the Hou Hanshu. Bản dịch chú thích phác thảo bằng tiếng Anh.
Hill, John E. 2004. The Peoples of the West from the Weilue 魏略 by Yu Huan 魚豢: A Third Century Chinese Account Composed between 239 and 265 CE. Bản dịch chú thích phác thảo bằng tiếng Anh.
Konow, Sten, chủ bút, 1929. Kharoshthī Inscriptions with Exception of those of Asoka. Corpus Inscriptionum Indicarum, Tập 2, Đoạn 1. In lại: Indological Book House, Varanasi, 1969.
Litvinsky, B. A., chủ bút, 1996. History of civilizations of Central Asia, Volume III. The crossroads of civilizations: A.D. 250 to 750. Paris, UNESCO Publishing.
Liu, Xinru 2001. "Migration and Settlement of the Yuezhi-Kushan: Interaction and Interdependence of Nomadic and Sedentary Societies." Journal of World History, Tập 12, Số 2, mùa thu năm 2001. University of Hawaii Press, trang 261–292. .
Sarianidi, Victor. 1985. The Golden Hoard of Bactria: From the Tillya-tepe Excavations in Northern Afghanistan. Harry N. Abrams, New York.
Spooner, D. B. 1908–9. "Excavations at Shāh-jī-kī Dhērī."; Archaeological Survey of India, 1908–9, trang 38–59.
Watson, Burton, dịch, 1961. Records of the Grand Historian of China: Dịch từ Sử Ký của Tư Mã Thiên. Chương 123: Truyện Đại Uyên, trang 265. Columbia University Press. ISBN 0-231-08167-7
Xem thêm
Afghanistan thời trước Hồi giáo
Vương quốc Hy Lạp-Bactria
Vương quốc Ấn-Hy Lạp
Người Ấn-Tái Tây
Vương quốc An Tức
Hy Lạp-Phật giáo
Liên kết ngoài
Tiếng Anh:
Vương quốc Quý Sương – lịch sử từ Bảo Tàng Nghệ thuật Thành phố tại New York
Những văn kiện mới xác định rõ niên đại Quý Sương
Tiền Ấn Độ cổ
Tóm tắt về lịch sử Quý Sương
Đế quốc Quý Sương
Thị tộc thống trị Ấn Độ
Đế quốc Ấn Độ cổ
Dân du cư Âu-Á
Cựu quốc gia châu Á
Lịch sử Iran
Lịch sử Afghanistan
Lịch sử Trung Á
Phật giáo Ấn Độ
Ấn Độ cổ đại
Lịch sử Phật giáo
Lịch sử Pakistan
Bộ lạc du mục Á-Âu
|
11347
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20s%E1%BA%A5u%20Xi%C3%AAm
|
Cá sấu Xiêm
|
Cá sấu Xiêm (danh pháp hai phần: Crocodylus siamensis), còn gọi là cá sấu Thái Lan hay cá sấu nước ngọt, là loài cá sấu nước ngọt sinh sống ở Indonesia (Borneo và có thể là Java), Brunei, Đông Malaysia, Lào, Campuchia, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam.
Trong điều kiện tự nhiên chúng thích sống ở các vùng nước chảy chậm như đầm, sông và hồ. Phần lớn cá sấu trưởng thành không dài quá 3 m (10 ft), mặc dù trong điều kiện chăn nuôi có những con lai có thể dài hơn. Cá sấu Xiêm thuần chủng nói chung không gây nguy hiểm cho con người, và không có trường hợp cá sấu tấn công người khi không bị khiêu khích nào được ghi nhận.
Tập tính và kích thước
Đây là 1 loài có khích thước trung bình, đa số cá thể đều đạt kích thước dưới 3,5 mét. Việc làm tổ cảu loài này không được ghi chép đầy đủ và cho đến nay đã có vài chục tổ trứng đã được ghi nhận. Các tổ trứng hoang dã đã được ghi nhận ở Lào, Campuchia, Thái Lan ở các gò đất nằm trên thảm thực vật nổi, bên bờ hồ hoặc sông. Chúng thường làm tổ vào cuối mùa khô và mùa mưa. Theo quan sát, số lượng trứng được đẻ ra dao động từ 11 đến 26 trứng. Con non xuất hiện sau 70 đến 80 ngày ấp vào mùa mưa. Chúng thường ăn các loài động vật không xương sống, ếch, bò sát, chim và động vật có vú, bao gồm cả xác thịt.
Tình trạng bảo tồn
Vì bị săn bắt cực kỳ thái quá nên loài cá sấu này đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng và nó được xếp vào trong danh sách các loài đang cực kỳ nguy cấp. Năm 1992, người ta tin là loài này đã tuyệt chủng, hoặc gần tuyệt chủng trong tự nhiên. Kể từ đó, các cuộc khảo sát đã phát hiện ra những quần thể rất nhỏ tại Thái Lan (2 con). Các nhà bảo tồn đã tìm thấy ổ các cá sấu Xiêm con ở tỉnh miền nam của Lào là Savannakhet và ở khu vực xã Ea Lâm (Sông Hinh, Phú Yên) (ít hơn 100 con). Điều này làm tăng hy vọng cho loài gần như tuyệt chủng này có cơ hội sống sót.
Tại Công viên Quốc gia Bang Sida tại Thái Lan, gần Campuchia, hiện có một chương trình đưa cá sấu Xiêm trở lại tự nhiên. Một số cá sấu con đã được thả vào các vùng nước hẻo lánh trong tự nhiên trong khu vực công viên quốc gia, mà khách tham quan không tới được.
Tại Trung tâm cứu hộ động vật hoang dã Phnom Tamao ở Campuchia, người ta đã tiến hành nghiên cứu DNA của 69 cá sấu năm 2009, và xác nhận rằng 35 trong số đó thuộc họ C. Siamensis thuần chủng. Những nhà bảo tồn thuộc tổ chức Fauna and Flora International and Wildlife Alliance đã có kế hoạch sử dụng những cá sấu này để nhân giống, hợp tác với Bộ quản lý rừng Campuchia.
Phân bố
Cá sấu Xiêm từng có phạm vi phân bố rộng, trải dài phần lớn Đông Nam Á và một số vùng ở Indonesia. Tuy nhiên, phạm vi sinh sống đã giảm đi rất nhiều và phân mảnh kể cả ở các quần thể còn lại thuộc Việt Nam, Campuchia, CHHCND Lào, Thái Lan và Indonesia. Ở Việt Nam, nơi mà sự kiện tuyệt chủng đã xảy ra, khiến cho chúng gần như tuyệt chủng, sau đó 1 vài cá thể đã được tái thả vào Bàu Sấu. Hầu hết nơi chúng sinh sống là ở độ cao 50 đến 200 mét nhưng chúng có thể phân bố ở độ cao 560 mét ở Đầm lầy Veal Ven và thượng nguồn Sông Tatai. Tóm tắt về phân phối quốc gia như sau:
Campuchia: Khảo sát thực địa từ năm 2000 đã xác nhận cá sấu Xiêm phân bố ở 35 địa điểm thuộc 21 hệ thống sông của 11 tỉnh, chủ yếu là các khu vực xa xôi về phía tây nam và đông bắc của Campuchia. Các quần thể lớn nhất còn lại phân bố ở các con sông Srepok, Sekong, Sre Ambel / Kampong Saom, Pursat, Koi, Kep, Tatai, Areng và Đầm lầy Veal Ven.
Indonesia: Tại hồ Mesangat thuộc hệ thống sông Mahakam, tỉnh Đông Kalimantan (Borneo), có hỗ trợ 1 quần thể nằm ngoài lục địa Đông Nam Á. Theo nghiên cứu từ năm 2010 đến 2011 của N. Behler đã xác nhận sự tồn tại của quần thể này. Có một vài báo cáo địa phương về sự hiện diện của chúng tại Trung Kalimantan nhưng chưa được xác định. Một vài mẫu vật cũng được thu giữ ở Java cho thấy phạm vị phân bố trước đây của chúng, nhưng với sự mất mát nghiêm trọng của các môi trường đất ngập nước ở đó, không có khả năng quần thể nào còn lại.
CHDCND Lào: Các cuộc khảo sát từ năm 2003 đến 2008 cho thấy cá sấu Xiêm phân bố ở 9 hệ thống sông ở 5 tỉnh nhưng các quần thể còn tồn tại chỉ được biết đến từ bảy hệ thống sông ở bốn tỉnh. Các cuộc điều tra đã xác nhận các báo cáo trước đây cho thấy nhiều quần thể địa phương hiện đã bị tiêu diệt. Các quần thể còn lại ở hệ thống sông Xe Champhone, Xe Banghiang, Se Bangfai và Xe Xangxoy (tỉnh Savannakhet), hệ thống sông Xe Pian-Xe Khampho (tỉnh Attapu), sông Xe Don (tỉnh Saravane) và Khu bảo tồn quốc gia Phou Khaokhouay (Tỉnh Bolikhamxay). Hầu hết các vùng đất ngập nước ở CHDCND Lào vẫn chưa có cá sấu và có vẻ như Các địa phương của cá sấu Xiêm sẽ được ghi lại.
Malaysia: Một tài liệu tham khảo duy nhất về 'cá sấu nước ngọt' ở phía bắc Bán đảo Malaysia (Robinson và Annandale 1904 được Smith trích dẫn 1919) được Smith (1919) coi là 'có thể có giá trị đối với loài này'. Không có hồ sơ nào về loài này được biết đến từ Sarawak hoặc Sabah. Không có thông tin nào khác cho thấy cá sấu Xiêm xuất hiện ở Malaysia.
Myanmar: Một ghi chép về cá sấu và trứng, từ sông Mekong, không có hồ sơ nào khác được biết đến, mặc dù hầu hết các vùng đất ngập nước ở Myanmar vẫn không có cá sấu. Đoạn sông Mekong ở Myanmar (dài ~ 200 km) hiện đang bị hạn chế tiếp cận và bị giới hạn đối với các cuộc khảo sát quốc tế. Hình ảnh vệ tinh của Google chỉ ra rằng phần lớn diện tích vẫn giữ được rừng ven sông và mật độ người thấp: có thể một số loài cá sấu vẫn tồn tại.
Thái Lan: Lịch sử phổ biến và phân bố rộng rãi của loài này. Các quần thể ít tồn tại ở một số các địa phương ở miền trung và miền tây Thái Lan. Các địa điểm đã được xác nhận bao gồm Vườn quốc gia Pang Sida và Kaengkrachan.
Việt Nam: Lịch sử hiện diện của loài này có ở miền Nam Việt Nam nơi mà chúng đã tuyệt chủng. Các quần thể hoang dã có thể bị tuyệt chủng. Các cuộc khảo sát trong hơn hai thập kỷ qua đã không phát hiện được cá sấu ở các địa điểm mà chúng được báo cáo là đã xuất hiện, ngoài trừ ngoại trừ một địa điểm là hồ Hà Lầm (tỉnh Phú Yên), nơi có ít nhất hai cá thể vào năm 2005 nhưng hiện tai cũng đã tuyệt chủng. Một quần thể được giới thiệu lại duy nhất là tại Vườn Quốc gia Cát Tiên, nơi mà chúng đã sinh sản.
Chú thích
Tham khảo
Listed as Critically Endangered (CR A1ac v2.3)
Crocodylus siamensis - The Crocodile Specialist Group.
Action Plan for Crocodylus siamensis. IUCN/SSC Crocodile Specialist Group - Status Survey and Conservation Action Plan, 2nd edition.
Những chuyện chưa biết về cá sấu Xiêm khổng lồ
Huyền thoại về đầm lầy nhiều cá sấu nhất Đông Nam Bộ
Liên kết ngoài
Sách đỏ Việt Nam
S
Động vật bò sát Campuchia
Động vật bò sát Malaysia
Động vật bò sát Myanmar
Động vật bò sát Thái Lan
Động vật bò sát Việt Nam
Động vật được mô tả năm 1801
Động vật Borneo
Động vật bò sát Indonesia
Động vật bò sát Lào
Động vật bò sát châu Á
|
11349
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1%20s%E1%BA%A5u%20s%C3%B4ng%20Nin
|
Cá sấu sông Nin
|
Cá sấu sông Nin, tên khoa học Crocodylus niloticus là một loài cá sấu trong họ Crocodylidae. Loài này được Laurenti mô tả khoa học đầu tiên năm 1768.<ref>{{Chú thích web| url=http://reptile-database.reptarium.cz/species?genus=Crocodylus&species=niloticus| tiêu đề=Crocodylus niloticus | ngày truy cập=ngày 1 tháng 6 năm 2013}}</ref> Chúng là loài cá sấu châu Phi lớn nhất và là động vật ăn thịt thượng hạng trong khu vực sinh sống của chúng, là khu vực bao gồm phần lớn miền nam sa mạc Sahara cũng như đảo Madagascar. Được biết đến như là động vật ăn thịt người, chúng vừa bị ghét vừa được sùng kính, đặc biệt là ở Ai Cập cổ đại khi mà các con cá sấu đã được ướp xác và tôn thờ như là thánh thần. Trong khi chúng chưa bị đe dọa tuyệt chủng thì quần thể tại nhiều quốc gia vẫn đang bị nguy hiểm do số lượng sụt giảm.
Đặc điểm
Chuyên khảo lớn và hiện đại đầu tiên về cá sấu là Các kết quả khoa học về yêu cầu trong sinh thái học và địa vị kinh tế của cá sấu sông Nin (Crocodilus niloticus) ở Uganda của Hugh B. Cott. Kích thước, danh tiếng, phạm vi sinh sống rộng và quan hệ với loài người của chúng vẫn tiếp tục làm cho chúng nổi tiếng hơn cả trong các loài cá sấu.
Giống như mọi loài cá sấu khác, chúng là động vật tứ chi với 4 chân ngắn và bàn chân bẹt; đuôi dài và rất khỏe; da có vảy với các hàng mai hóa xương chạy dọc theo lưng và đuôi của chúng; và các quai hàm khỏe. Chúng có màng nhầy để bảo vệ mắt của mình, và mặc dù có huyền thoại "về nước mắt cá sấu" nhưng chúng có tuyến lệ và có thể làm vệ sinh mắt bằng nước mắt.
Các lỗ mũi, mắt và tai nằm ở phần đỉnh của đầu chúng, vì thế các phần còn lại của cơ thể có thể che giấu dưới nước. Màu sắc cũng giúp chúng ngụy trang rất tốt: Những con non có màu xám, xanh ôliu sẫm hoặc nâu, với các dải màu nằm ngang sẫm hơn tên cơ thể và đuôi. Khi chúng trưởng thành thì màu của chúng sẫm hơn và các dải màu nằm ngang mờ dần đi, đặc biệt là các dải màu trên cơ thể. Lớp da dưới bụng màu vàng và được sử dụng để chế tạo da cá sấu chất lượng cao.
Cá sấu sông Nin thông thường trườn dọc theo bụng của chúng, nhưng chúng có thể "nhảy cao". Các cá thể nhỏ hơn có thể phóng nhanh, và thậm chí cả các cá thể lớn hơn cũng có khả năng tăng tốc độ đột biến đáng ngạc nhiên, đạt tới 12–14 km/h (7,5-8,5 dặm/h). Chúng có thể bơi khá nhanh bằng cách chuyển động cơ thể và đuôi của chúng theo đường hình sin, và chúng có thể duy trì kiểu chuyển động này khá lâu.
Chúng có tim 4 ngăn, giống như chim, điều đó rất có hiệu quả trong việc chuyên chở và cung cấp oxy cho máu của chúng. Thông thường chúng chỉ lặn trong vài phút, nhưng có thể ẩn mình dưới nước tới 30 phút nếu gặp nguy hiểm, và nếu chúng ngừng hoạt động thì có thể giữ cho hơi thở kéo dài tới 2 giờ dưới nước. Chúng có sự trao đổi chất thuộc hệ máu lạnh, vì thế chúng có thể sống rất lâu giữa hai lần có thức ăn — vì thế khi ăn, chúng có thể ăn một khối lượng thức ăn bằng một nửa khối lượng cơ thể mỗi lần.
Chúng có thể phát ra các âm thanh trong một khoảng rộng và có cơ quan thính giác tốt. Trên da của chúng có một loạt các giác quan mà con người vẫn chưa hiểu hết, giúp cho chúng có phản ứng kịp thời với các thay đổi trong áp lực nước.
Quai hàm của chúng có khả năng tạo ra một lực mạnh khi chúng bắt giữ con mồi. Miệng của chúng có tổng cộng 64 - 68 răng hình nón. Trên mỗi hàm có 5 răng cửa, 13 hay 14 răng trên mỗi bên của hàm trên, và 14 hay 15 răng trên mỗi bên của hàm dưới. Cá sấu mới sinh nhanh chóng mất đi mảnh da cứng trên đỉnh miệng của chúng (gọi là răng trứng, do chúng sử dụng cái này để phá vỡ vỏ trứng để chui ra khi mới sinh).
Kích thước
Cá sấu sông Nin có thể dài tới 5 m (16 ft), ít khi thấy chúng dài tới 5,5 m (18 ft). Cá sấu trưởng thành nặng khoảng 225 kg (500 lb), và có một số cá thể có thể nặng tới 700 kg (1.500 lb). Giống như các loài cá sấu khác, chúng là lưỡng hình theo giới, với con đực thông thường to hơn con cái khoảng 30%, mặc dù khác biệt này là nhỏ hơn so với các loài cá sấu khác, chẳng hạn cá sấu nước mặn.
Người ta cũng thông báo là có các cá thể dài tới 7 m (23 ft) và lớn hơn, nhưng điều này bị nghi ngờ do người ta thường hay thổi phồng các số liệu tổng thể. Người ta vẫn chưa biết tại sao một số cá sấu sông Nin to lớn hơn các cá sấu sông Nin khác, nhưng có lẽ là do chúng có môi trường sống thích hợp hơn. Vì thế cá sấu sông Nin ngày nay trong hoang dã khó có thể phá vỡ các kỷ lục: trước khi diễn ra các cuộc săn bắt trên quy mô lớn trong những năm thập niên 1940 và 1950, các quần thể lớn hơn sinh sống ở các môi trường đầm đất lầy có thể to lớn hơn bây giờ.
Có một số chứng cứ cho thấy cá sấu sông Nin ưa thích khí hậu mát mẻ. Các cá sấu sông Nin ở miền nam châu Phi nhỏ hơn, và chỉ dài khoảng 4 m (13 ft). Cá sấu sông Nin lùn cũng tồn tại ở Mali và sa mạc Sahara, chúng chỉ dài từ 2 – 3 m (6,5 – 10 ft). Chúng suy giảm kích thước có lẽ là do không có môi trường sống lý tưởng, chứ không phải do di truyền.
Trưởng thành và sinh sản
Con đực đạt đến độ tuổi trưởng thành sinh dục khi chúng dài khoảng 3 m (10 ft); trong khi con cái thì khi chúng dài 2 - 2,5 m (6,5 – 8 ft). Điều này diễn ra vào khoảng năm thứ 10 cho cả hai giới trong các điều kiện bình thường.
Trong mùa sinh sản, con đực hấp dẫn con cái bằng cách gầm rống, đập mõm của chúng xuống nước, phun nước ra từ mũi, và phát ra đủ mọi thứ tiếng động. Các con đực to lớn có xu hướng thắng thế hơn. Khi con cái bị hấp dẫn thì cặp cá sấu này cọ xát mặt bên dưới của quai hàm của chúng với nhau. Con cái đẻ trứng khoảng 2 tháng sau khi giao phối.
Việc làm ổ đẻ diễn ra trong tháng 11 hoặc tháng 12, là mùa khô ở miền bắc châu Phi, và là mùa mưa ở miền nam. Các chỗ ưa thích làm ổ là các bờ cát, bờ sông hay các chỗ khô ráo. Con cái đào lỗ cách bờ sông vài mét và sâu khoảng 50 cm (20 inch) và đẻ từ 25 đến 80 trứng. Số lượng trứng dao động theo từng quần thể, nhưng trung bình khoảng 50 quả. Các ổ trứng cá sấu có thể rất gần nhau.
Khi đẻ trứng xong, con cái phủ lấp trứng bằng cát và bảo vệ chúng khoảng 3 tháng của thời kỳ ấp trứng. Con đực thường nằm gần đó và cả hai sẵn sàng tấn công bất kể người hay động vật nào đến gần trứng của chúng. Con cái chỉ rời ổ khi chúng cần điều chỉnh thân nhiệt bằng cách ngâm mình rất nhanh xuống nước hay tìm chỗ có bóng râm. Mặc dù các ổ trứng được cha mẹ chúng bảo vệ kỹ lưỡng nhưng chúng vẫn bị con người hay các loài thằn lằn (các loài bò sát thuộc chi Varanus) hay các động vật khác lấy đi khi con mẹ tạm thời vắng mặt.
Trước khi chào đời con non bao giờ cũng phát ra các tiếng kêu nhỏ, đây là tín hiệu để con mẹ phá bỏ ổ. Cả hai con mẹ và cha có thể đưa trứng vào miệng và lăn chúng giữa lưỡi và vòm miệng trên của chúng để giúp con sơ sinh phá vỡ lớp vỏ trứng để chui ra. Sau khi chúng sinh ra, con mẹ sẽ dẫn chúng xuống nước hoặc đem chúng xuống trong miệng của mình.
Cá sấu sông Nin có sự xác định giới tính phụ thuộc nhiệt độ (TSD), có nghĩa là giới tính của con sơ sinh sẽ không phụ thuộc vào di truyền mà phụ thuộc vào nhiệt độ trung bình trong khoảng giữa của thời kỳ ấp trứng của chúng. Nếu nhiệt độ trong ổ là thấp hơn 31,7 °C (89,1 °F), hay cao trên 34,5 °C (94,1 °F), con non sinh ra sẽ là con cái. Con đực chỉ có thể sinh ra khi nhiệt độ nằm trong khoảng hẹp chỉ 2,8 độ (31,7 - 34,5).
Con non dài khoảng 30 cm (12 inch) khi mới sinh. Con mẹ sẽ bảo vệ chúng cho đến khi chúng được 2 năm tuổi, và nếu có nhiều ổ trứng trong cùng một khu vực, các con mẹ có thể tạo ra crèche. Trong thời gian này, các con mẹ có thể bảo vệ các con của mình bằng cách cho chúng vào trong miệng hoặc trong cổ họng. Vào cuối năm thứ hai, con non sẽ dài khoảng 1,2 m (4 ft), và sẽ dời bỏ khu vực ổ, tránh xa lãnh thổ của các con cá sấu già và lớn hơn.
Tuổi thọ của cá sấu sông Nin chưa được xác định rõ, nhưng các loài to lớn như cá sấu sông Nin thường sống lâu hơn và có tuổi thọ khoảng 70 năm.
Thức ăn và thói quen ăn uống
Con sơ sinh ăn côn trùng và các loài động vật không xương sống nhỏ dưới nước, và nhanh chóng thích nghi với các thức ăn từ động vật lưỡng cư, bò sát và chim. Tuy nhiên, 70% thức ăn của cá sấu sông Nin là cá, mặc dù những con cá sấu lớn có khả năng ăn thịt gần như bất kỳ động vật có xương sống nào khi chúng đi uống nước, ngoại trừ chỉ có voi và hà mã trưởng thành. Chúng cũng ăn thịt ngựa vằn, hà mã non, trâu, linh dương như gnu (phát âm nu - các loài động vật thuộc chi Connochaetes, trông giống như bò), và thậm chí cả các động vật lớn thuộc họ Mèo và các con cá sấu khác.
Cá sấu sông Nin trưởng thành sử dụng thân hình và đuôi của chúng để dồn cá thành một bầy về phía bờ sông để ăn thịt chúng với những cú cắn ngang đầu chúng. Chúng cũng hợp tác để ngăn chặn cá di cư bằng cách tạo ra các cung tròn ngang trên sông. Những con cá sấu to lớn nhất được ăn đầu tiên.
Khả năng ngụy trang bằng cách ngâm mình dưới nước cùng với tốc độ cao trong những khoảng cách nhỏ giúp chúng có hiệu quả trong việc săn bắt các con mồi lớn. Chúng ngoạm các con mồi như thế bằng trong các hàm cực khỏe và kéo con mồi xuống nước, và cố gắng giữ con mồi ở đó cho đến khi chúng bị chết đuối vì ngạt thở. Chúng cũng sẽ ăn thịt các loài chết đã lâu, mặc dù chúng tránh không ăn thịt thối rữa. Các nhóm cá sấu sông Nin có thể bò hàng trăm mét xa nguồn nước để săn tìm thức ăn tươi sống.
Khi con mồi của chúng đã chết, chúng xé toạc và ăn từng tảng thịt to. Khi nhóm cá sấu sông Nin chia sẻ thức ăn, chúng sử dụng nhau như là đòn bẩy, cắn sâu vào cơ thể con mồi và sau đó vặn xoắn cơ thể chúng để tách ra những lớp thịt lớn. Chúng cũng có thể tạo ra đòn bẩy cần thiết bằng cách hãm con mồi ở dưới các tảng đá hay cành cây, trước khi cắn xé và vặn mình.
Cá sấu sông Nin còn nổi tiếng với quan hệ cộng sinh với một số loài chim như choi choi. Theo các báo cáo, cá sấu há miệng rộng và sau đó các con chim choi choi sẽ rỉa các miếng thịt nhỏ còn rắt trong răng của cá sấu. Điều này rất khó kiểm chứng, nó có lẽ không phải là quan hệ cộng sinh thực thụ.
Khu vực sinh sống
Khu vực sinh sống ưa thích của cá sấu sông Nin là dọc theo các con sông, trong các đầm lầy nước ngọt hoặc trong các hồ; trong một số trường hợp chúng sinh sôi ở các vùng nước lợ chẳng hạn dọc theo các cửa sông hay ở các vùng ngập lụt có đước mọc.
Chúng được tìm thấy ở các vùng của châu Phi về phía nam sa mạc Sahara, ở Madagascar và dọc theo lưu vực sông Nin. Theo dòng lịch sử thì chúng đã từng tồn tại trên quần đảo Comoros (nằm giữa Madagascar và Mozambique), nhưng ngày nay không còn. Gần đây thôi cá sấu sông Nin còn hiện diện ở Israel, Jordan và Algérie. Sự vắng mặt của chúng ở nhiều nơi được quy cho là do sự mở rộng của khí hậu khô cằn và tương ứng với nó là sự suy giảm của các vùng đất ẩm ướt. Người ta gần như không còn tìm thấy chúng ở vùng đồng bằng châu thổ sông Nin hay dọc theo các vùng ven bờ biển Địa Trung Hải. Khu vực sinh sống của chúng đã bị thu hẹp chỉ còn trong vùng sinh thái nhiệt đới châu Phi.
Tình trạng môi trường
Từ những năm 1940 đến cuối thập niên 1960, cá sấu sông Nin đã bị săn bắn rất nhiều, chủ yếu để lấy da cá sấu có chất lượng cao được ưa thích trên thị trường hàng tiêu dùng bằng da, ngoài ra còn để lấy thịt và các chất làm thuốc chữa bệnh. Quần thể cá sấu sông Nin đã bị suy giảm mạnh và loài này gần như đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng. Luật pháp các quốc gia trong khu vực cũng như các quy định của thương mại quốc tế đã giúp cho loài này hồi sinh ở nhiều khu vực và loài này trên tổng thể đã thoát khỏi họa diệt chủng.
Hiện nay, người ta ước tính còn khoảng từ 250.000 đến 500.000 cá thể còn sống trong tự nhiên. Cá sấu sông Nin cũng phân bổ rộng rãi với các quần thể đã được xác định ở nhiều quốc gia ở miền đông và nam châu Phi, chẳng hạn ở Ethiopia, Kenya và Zambia. Các chương trình chăn nuôi cá sấu để lấy da đã được thực hiện với kết quả tốt trong khu vực này và thậm chí các quốc gia có hạn ngạch cho xuất khẩu cũng dịch chuyển sang việc chăn nuôi cá sấu. Năm 1993, 80.000 cá sấu sông Nin đã được sử dụng để sản xuất da, chủ yếu từ chăn nuôi ở Zimbabwe và Nam Phi.
Tình trạng của cá sấu sông Nin ở miền tây và trung châu Phi là nguy ngập hơn, dù đây là 2/3 diện tích khu vực sinh trưởng của chúng. Quần thể cá sấu sông Nin ở đây thưa thớt hơn và vẫn chưa được khảo sát chính xác. Quần thể cá sấu sông Nin trong khu vực này có thể ít hơn vì điều kiện môi trường ít thuận lợi hơn cũng như do có sự cạnh tranh của các loài cá sấu khác cùng khu vực sinh sống như cá sấu mõm thon và cá sấu lùn, do vậy tình trạng tuyệt chủng có thể nguy cấp hơn so với các khu vực khác. Các yếu tổ bổ sung cho vấn đề này là sự suy giảm nghiêm trọng của các vùng đất ẩm ướt cũng như sự săn bắn của con người trong những năm thập niên 1970. Các chương trình khảo sát sinh thái và quản lý bổ sung là cần thiết cho vấn đề này.
Cá sấu sông Nin là động vật ăn thịt hàng đầu trong môi trường của chúng và chúng duy trì quần thể các loài khác chẳng hạn cá da trơn có râu (cũng là động vật ăn thịt có thể ăn thịt hết các loài cá khác), cũng như các loài chim. Cá sấu sông Nin còn ăn cả động vật đã chết, mà nếu không thì các xác chết này có thể gây ô nhiễm môi trường nước. Đe dọa chủ yếu đối với cá sấu sông Nin lại là con người. Trong khi việc săn bắn trộm không còn là vấn đề chính thì chúng lại bị đe dọa bởi ô nhiễm, săn bắn cũng như bị mắc vào các lưới đánh cá.
Phần lớn lý do săn bắn chúng nảy sinh từ tiếng tăm của chúng như những động vật ăn thịt người, điều này vẫn chưa lý giải được hoàn toàn. Không giống như các loài cá sấu "ăn thịt người" khác, chẳng hạn cá sấu nước mặn, cá sấu sông Nin sinh sống gần với các tụ điểm dân cư, vì thế sự va chạm với chúng cũng là thường xuyên. Tuy chưa có con số chính xác, nhưng cá sấu sông Nin có thể đã giết chết vài trăm người trong một năm, con số này lớn hơn so với tất cả các loài cá sấu khác cộng lại.
Tình trạng bảo tồn của cá sấu sông Nin theo sách đỏ năm 1996 của liên minh bảo tồn thế giới (IUCN) là "ít nguy cấp". Công ước về thương mại quốc tế các loài động, thực vật đang nguy cấp (CITES) liệt kê cá sấu sông Nin vào Phụ lục I (đe dọa tuyệt chủng) ở phần lớn các khu vực sinh sống của chúng cũng như vào Phụ lục II (không bị đe dọa, nhưng cần kiểm soát việc buôn bán) ở các khu vực còn lại, điều này hoặc là cho phép chăn nuôi hay thiết lập hạn ngạch hàng năm về sản lượng da thu hoạch từ cá sấu sống hoang dã.
Thánh thần, xác ướp và bùa chú
Những người Ai Cập cổ đại tôn thờ Sobek, một vị thần liên quan đến độ màu mỡ của đất đai, bảo vệ và sức mạnh của Pharaôn (vua Ai Cập). Họ có quan hệ nước đôi với Sobek, giống như họ đối xử với cá sấu sông Nin; đôi khi họ săn bắt cá sấu sông Nin và chửi rủa Sobek, nhưng đôi khi họ lại coi ông như là người bảo vệ và là nguồn sức mạnh của Pharaôn.
Sobek được mô tả như một con cá sấu, cũng như là một con cá sấu đã ướp xác, hoặc như là một người với đầu là đầu cá sấu. Trung tâm thờ cúng ông là thành phố Arsinoe của Ai Cập cổ đại (khoảng từ năm 1986 TCN đến năm 1633 TCN) ở ốc đảo Faiyum (hiện nay là El Faiyûm), được người Hy Lạp cổ đại biết đến như là "Crocodopolis". Một đền thờ lớn của Sobek khác ở Kom-Ombo và các đền thờ khác nằm rải rác khắp nước này.
Theo Herodotus (thế kỷ 5 TCN), một số người Ai Cập cổ đại giam hãm cá sấu như là con vật nuôi. Trong đền thờ Sobek ở Arsinoe, cá sấu được nuôi giữ trong ao của đền thờ, chúng được cho ăn, được trang sức và thờ cúng. Khi các con cá sấu chết, chúng được tẩm chất thơm và ướp xác cũng như đặt vào trong quan tài đá, và sau đó được hỏa thiêu trong hầm mộ thánh thần. Rất nhiều xác ướp cá sấu đã được tìm thấy trong các hầm mộ Ai Cập, thậm chí còn tìm thấy cả trứng cá sấu.
Bùa chú được sử dụng ở Ai Cập cổ đại bằng các xác ướp cá sấu thậm chí cả những ngư dân Nubia cận đại cũng nhồi xác các con cá sấu và đặt ở cửa ra vào để phòng ma quỷ.
Cá sấu đôi khi cũng được gắn liền với Sutekh (tên khác: Set, Setesh), vị thần của ma quỷ.
Truyện viễn tưởng
Cá sấu cũng xuất hiện trong các phim ảnh và truyện kinh dị. Ví dụ, một kẻ xấu trong phim loại B Crocodile (sản xuất năm 2000) là một con cá sấu sông Nin 100 năm tuổi dài 9 m (30 ft) được gọi là "Flat Dog" (con chó bẹp), chuyên môn ăn thịt những đứa trẻ từ 13 đến 19 tuổi (tuổi teen).
Trong thế giới viễn tưởng Discworld, được mô tả trong sách của Terry Pratchett, một trong những vị thần của Discworld là Offler là vị thần cá sấu. Ông được thờ cúng chủ yếu ở Klatch và các quốc gia nóng bức khác gần các con sông lớn.
Tên gọi khác
Cá sấu sông Nin được gọi là Mamba ở Swahili, Garwe ở Shona, Ngwenya ở Ndebele và Olom ở Nubia.
tên gọi khoa học Crocodylus niloticus có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp kroko ("đá cuội"), deilos ("bọ", hay "người"), để chỉ tới lớp da sần sùi của chúng; và niloticus, có nghĩa là "từ sông Nin".
Phân loại
Cá sấu là các archosaur; được hình thành sớm từ sự chia tách ra khỏi phần còn lại của lớp bò sát khoảng 230 triệu năm trước đây, trong thời kỳ của kỷ Triassic. Họ hàng gần nhất của chúng còn tồn tại đến ngày nay là hậu duệ duy nhất còn sống sót của archosaur: chim. Giống như chim, chúng có mề và tim 4 ngăn. Không giống như chim, (là hậu duệ của khủng long (dinosaur)), hình dạng cơ thể cơ bản của cá sấu thay đổi rất ít theo thời gianCrocodylus niloticus sinh sống trong một khu vực rộng lớn và vì thế có nhiều khác biệt giữa các quần thể của loài này. Tuy nhiên, không có phân loài chính thức, mặc dù có ít nhất 7 phân loài đã được đưa ra. Đó là:
C. n. africanus: Cá sấu sông Nin ở Đông Phi
C. n. chamses: Cá sấu sông Nin ở Tây Phi
C. n. corviei: Cá sấu sông Nin ở Nam Phi
C. n. madagascariensis: Cá sấu sông Nin ở Malagasy, cá sấu alligator Malagasy, hay Croco Mada
C. n. niloticus: cá sấu sông Nin ở Ethiopia
C. n. pauciscutatus: cá sấu sông Nin ở Kenya, cá sấu alligator Kenya hay cá sấu caiman Kenya
C. n. suchus'': cá sấu sông Nin ở Trung Phi
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Bằng tiếng Anh:
Nile crocodile , from SeaWorld/Busch Gardens Animal Bytes. Truy cập 16 tháng 12 năm 2004.
Creature feature: Nile crocodiles, from National Geographic.com Kids. Truy cập 16 tháng 12 năm 2004.
Crocodylus niloticus (Laurenti, 1768) , by Adam Britton, from Crocodilian Species List. Truy cập 16 tháng 12 năm 2004.
Crocodiles: Species accounts: Crocodylus niloticus, from Status Survey and Conservation Action Plan, Second Edition, edited by James Perran Ross. Truy cập 16 tháng 12 năm 2004.
The crocodile god, Sobek, by Catherine C. Harris, from Tour Egypt. Truy cập 16 tháng 12 năm 2004.
Sobek, god of crocodiles, power, protection and fertility , by Caroline Seawright. Truy cập 16 tháng 12 năm 2004.
Lord of the Nile , by Amira El-Noshokaty from Al-Ahram Weekly On-line. Truy cập 16 tháng 12 năm 2004.
Nile crocodiles: temperature dependent sex determination , from Pulse of the Planet, program #2075, tháng 2 năm 2000. Truy cập 16 tháng 12 năm 2004.
Crocodylus niloticus Laurenti, 1768 , from the Nonindigenous Aquatic Species Database of the United States Geologic Survey, by Louis A. Somma. Truy cập 16 tháng 12 năm 2004.
Uganda Nabs 16-Foot-Long, Man-Eating Croc "Tue Mar 8 KAMPALA, Uganda (Reuters) - A 5-meter-long (16 ft) crocodile said to have eaten more than 80 people has been caught alive in Uganda and transferred to a sanctuary, officials said Tuesday. The giant beast -- weighing about a ton-- was captured by wildlife experts who spent three nights camping in the bush before locating their target. "
N
Động vật được mô tả năm 1768
Động vật ăn xác chết
Động vật bò sát châu Phi
Động vật bò sát Madagascar
Động vật bò sát Tây Phi
Động vật Đông Phi
Động vật Tây Phi
Thú ăn thịt
|
11350
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8B%20x%C3%A3%20%28Vi%E1%BB%87t%20Nam%29
|
Thị xã (Việt Nam)
|
Thị xã là một đơn vị hành chính cấp huyện ở Việt Nam, dưới tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Theo cách phân loại đô thị hiện nay, thị xã là đô thị loại IV hoặc loại III.
Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2008, Việt Nam có 47 thị xã. Đến ngày 1 tháng 5 năm 2024, Việt Nam có 51 thị xã.
Tất cả các tỉnh lỵ của Việt Nam hiện nay trước kia đều là thị xã, đến nay các thị xã tỉnh lỵ đều đã được nâng cấp lên thành phố thuộc tỉnh.
Về quy mô, thị xã thường nhỏ hơn các thành phố và lớn hơn thị trấn; là nơi tập trung đông dân cư, sinh sống chủ yếu nhờ các hoạt động trong các lĩnh vực như: công nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Về loại hình, thị xã là một đô thị và dân cư tại đó được xếp là dân thành thị; mặc dù có thể vẫn còn một phần dân cư sống bằng nông nghiệp.
Một thị xã được chia thành nhiều phường (phần nội thị) và xã (phần ngoại thị). Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ là thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An với tất cả các đơn vị hành chính chỉ có phường mà không có xã trực thuộc.
Quy định trong luật pháp
Cấp hành chính
Trong Hiến pháp 2013, Chương IX: Chính quyền địa phương, Khoản 1 Điều 110 có viết:
1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
Trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019), quy định tại Điều 2: Đơn vị hành chính, Chương I: Những quy định chung:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Như vậy, thị xã nằm ở cấp hành chính thứ hai trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) của Việt Nam.
Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính
Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại Điều 6, Mục 2: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị, Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính thì một thị xã cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau:
Điều 6. Tiêu chuẩn của thị xã
1. Quy mô dân số từ 100.000 người trở lên.
2. Diện tích tự nhiên từ 200 km² trở lên.
3. Đơn vị hành chính trực thuộc:
a) Số đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc có từ 10 đơn vị trở lên;
b) Tỷ lệ số phường trên tổng số đơn vị hành chính cấp xã từ 50% trở lên.
4. Đã được công nhận là đô thị loại III hoặc loại IV; hoặc khu vực dự kiến thành lập thị xã đã được phân loại đạt tiêu chí của đô thị loại III hoặc loại IV.
5. Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Danh sách thị xã
Số liệu về dân số chủ yếu lấy theo kết quả sơ bộ của cuộc tổng điều tra dân số ngày 1/4/2019 (không tính dân số quy đổi).
{|class= "wikitable sortable" style="text-align:center;"
|-
!style="width:24%;" rowspan="2" |Thị xã (Năm thành lập)
!style="width:20%;" rowspan="2" |Thuộc tỉnh (Vùng)
!style="width:8%;" rowspan="2" |Diện tích (km²)
!style="width:8%;" rowspan="2" |Dân số (người)
!style="width:8%;" rowspan="2" |Mật độ dân số (người/km²)
!style="width:10%;" colspan="2" |Hành chính
!style="width:10%;" rowspan="2" |Loại đô thị (Năm công nhận)
!style="width:12%;" rowspan="2" |Hình ảnh
|-
!style="width:5%;" |Phường
!style="width:5%;" |Xã
|-
|An Khê2003
|Gia LaiTây Nguyên
|200,65
|81.600
|407
|6 phường
|5 xã
|2003
|
|-
|An Nhơn2011
|Bình ĐịnhDuyên hải Nam Trung Bộ
|242,70
|178.709
|736
|5 phường
|10 xã
|2021
|
|-
|Ayun Pa2007
|Gia LaiTây Nguyên
|287,00
|39.936
|139
|4 phường
|4 xã
|2007
|
|-
|Ba Đồn2013
|Quảng BìnhBắc Trung Bộ
|162,30
|106.413
|656
|6 phường
|10 xã
|2013
|
|-
|Bỉm Sơn1981
|Thanh HóaBắc Trung Bộ
|63,86
|58.378
|914
|6 phường
|1 xã
|2015
|
|-
|Bình Long2009
|Bình PhướcĐông Nam Bộ
|126,28
|57.598
|456
|4 phường
|2 xã
|2009
|
|-
|Bình Minh2012
|Vĩnh LongĐồng bằng sông Cửu Long
|93,63
|94.862
|1.013
|3 phường
|5 xã
|2020
|
|-
|Buôn Hồ2008
|Đắk LắkTây Nguyên
|282,61
|108.413
|384
|7 phường
|5 xã
|2008
|
|-
|Cai Lậy2013
|Tiền GiangĐồng bằng sông Cửu Long
|140,20
|143.050
|1.020
|6 phường
|10 xã
|2020|
|-
|Chơn Thành2022
|Bình PhướcĐông Nam Bộ
|390,34
|121.083
|310
|5 phường
|4 xã
|2020|
|-
|Cửa Lò1994
|Nghệ AnBắc Trung Bộ
|27,81
|55.668
|2.002
|7 phường
|0 xã
|2009
|
|-
|Duy Tiên2020
|Hà NamĐồng bằng sông Hồng
|120,92
|152.700
|1.263
|9 phường
|7 xã
|2017
|
|-
|Duyên Hải2015
|Trà VinhĐồng bằng sông Cửu Long
|193,40
|69.961
|362
|2 phường
|5 xã
|2013
|
|-
|Điện Bàn2015
|Quảng NamDuyên hải Nam Trung Bộ
|214,28
|226.564
|1.057
|12 phường
|8 xã
|2015
|
|-
|Đông Hòa2020
|Phú YênDuyên hải Nam Trung Bộ
|265,62
|119.991
|452
|5 phường
|5 xã
|2019
|
|-
|Đông Triều2015
|Quảng NinhĐông Bắc Bộ
|396,58
|171.673
|433
|10 phường
|11 xã
|2020
|
|-
|Đức Phổ2020
|Quảng NgãiDuyên hải Nam Trung Bộ
|372,76
|150.927
|405
|8 phường
|7 xã
|2018
|
|-
|Giá Rai2015
|Bạc LiêuĐồng bằng sông Cửu Long
|354,49
|145.340
|410
|3 phường
|7 xã
|2015
|
|-
|Hòa Thành2020
|Tây NinhĐông Nam Bộ
|82,92
|147.666
|1.781
|4 phường
|4 xã
|2018
|
|-
|Hoài Nhơn2020
|Bình ĐịnhDuyên hải Nam Trung Bộ
|420,84
|212.063
|504
|11 phường
|6 xã
|2019
|
|-
|Hoàng Mai2013
|Nghệ AnBắc Trung Bộ
|169,75
|113.360
|668
|5 phường
|5 xã
|2013
|
|-
|Hồng Lĩnh1992
|Hà TĩnhBắc Trung Bộ
|58,95
|36.940
|627
|5 phường
|1 xã
|1992
|
|-
|Hương Thủy2010
|Thừa Thiên HuếBắc Trung Bộ
|426,96
|95.299
|223
|5 phường
|5 xã
|2010
|
|-
|Hương Trà2011
|Thừa Thiên HuếBắc Trung Bộ
|392,32
|72.677
|185
|5 phường
|4 xã
|2011
|
|-
|Kiến Tường2013
|Long AnĐồng bằng sông Cửu Long
|204,36
|51.620
|253
|3 phường
|5 xã
|2023
|
|-
|Kinh Môn2019
|Hải DươngĐồng bằng sông Hồng
|165,33
|203.638
|1.232
|14 phường
|9 xã
|2019
|
|-
|Kỳ Anh2015
|Hà TĩnhBắc Trung Bộ
|280,25
|82.955
|296
|6 phường
|5 xã
|2020
|
|-
|La Gi2005
|Bình ThuậnDuyên hải Nam Trung Bộ
|185,40
|107.820
|582
|5 phường
|4 xã
|2017
|
|-
|Long Mỹ2015
|Hậu GiangĐồng bằng sông Cửu Long
|149,27
|61.781
|414
|4 phường
|5 xã
|2019
|
|-
|Mường Lay1971
|Điện BiênTây Bắc Bộ
|114,03
|11.162
|98
|2 phường
|1 xã
|2005
|
|-
|Mỹ Hào2019
|Hưng YênĐồng bằng sông Hồng
|79,37
|115.608
|1.457
|7 phường
|6 xã
|2018
|
|-
|Ngã Năm2013
|Sóc TrăngĐồng bằng sông Cửu Long
|242,15
|74.115
|306
|3 phường
|5 xã
|2010
|
|-
|Nghi Sơn2020
|Thanh HóaBắc Trung Bộ
|455,61
|307.304
|674
|16 phường
|15 xã
|2019
|
|-
|Nghĩa Lộ1995
|Yên BáiTây Bắc Bộ
|107,78
|68.206
|633
|4 phường
|10 xã
|1995
|
|-
|Ninh Hòa2010
|Khánh HòaDuyên hải Nam Trung Bộ
|1.195,70
|245.100
|192
|7 phường
|20 xã
|2010
|
|-
|Phú Mỹ2018
|Bà Rịa – Vũng TàuĐông Nam Bộ
|333,84
|179.688
|538
|5 phường
|5 xã
|2020
|
|-
|Phú Thọ1903
|Phú ThọĐông Bắc Bộ
|64,60
|70.653
|1.094
|4 phường
|5 xã
|2010
|
|-
|Phước Long2009
|Bình PhướcĐông Nam Bộ
|119,38
|53.992
|452
|5 phường
|2 xã
|2009
|
|-
|Quảng Trị1989
|Quảng TrịBắc Trung Bộ
|74,00
|23.356
|316
|4 phường
|1 xã
|1989
|
|-
|Quảng Yên2011
|Quảng NinhĐông Bắc Bộ
|333,70
|180.028
|539
|11 phường
|8 xã
|2020
|
|-
|Quế Võ2023
|Bắc NinhĐồng bằng sông Hồng|155,11
|219.929
|1.418
|11 phường
|10 xã
|2022
|
|-
|Sa Pa2019
|Lào CaiTây Bắc Bộ
|681,37
|81.857
|120
|6 phường
|10 xã
|2012
|
|-
|Sông Cầu2009
|Phú YênDuyên hải Nam Trung Bộ
|492,80
|120.780
|245
|4 phường
|9 xã
|2019
|
|-
|Sơn Tây1884
|Hà NộiĐồng bằng sông Hồng
|117,20
|151.090
|1.289
|9 phường
|6 xã
|2006
|
|-
|Tân Châu2009
|An GiangĐồng bằng sông Cửu Long
|176,43
|175.211
|989
|5 phường
|9 xã
|2019
|
|-
|Thái Hòa2007
|Nghệ AnBắc Trung Bộ
|135,14
|66.127
|489
|4 phường
|5 xã
|2007
|
|-
|Thuận Thành2023
|Bắc NinhĐồng bằng sông Hồng
|117,83
|199.577
|1.694
|10 phường
|8 xã
|2020
|
|-
|Tịnh Biên2023
|An GiangĐồng bằng sông Cửu Long
|354,67
|143.098
|403
|7 phường
|7 xã
|2018
|
|-
|Trảng Bàng2020
|Tây NinhĐông Nam Bộ
|340,14
|161.831
|476
|6 phường
|4 xã
|2018
|
|-
|Việt Yên2024
|Bắc GiangĐông Bắc Bộ
|171,0
|205.900
|1.204
|9 phường
|8 xã
|2021
|
|-
|Vĩnh Châu2011
|Sóc TrăngĐồng bằng sông Cửu Long
|468,71
|164.663
|351
|4 phường
|6 xã
|2010
|
|-
|}
Thống kê
Tính đến ngày 1 tháng 5 năm 2024, cả nước có:
2 tỉnh có 3 thị xã trực thuộc:Bình Phước: Bình Long, Phước Long, Chơn ThànhNghệ An: Cửa Lò, Thái Hòa, Hoàng Mai
11 tỉnh có 2 thị xã trực thuộc:An Giang: Tân Châu, Tịnh BiênBắc Ninh: Quế Võ, Thuận ThànhBình Định: An Nhơn, Hoài NhơnGia Lai: An Khê, Ayun PaHà Tĩnh: Hồng Lĩnh, Kỳ AnhPhú Yên: Sông Cầu, Đông HòaQuảng Ninh: Quảng Yên, Đông TriềuSóc Trăng: Vĩnh Châu, Ngã NămTây Ninh: Hòa Thành, Trảng BàngThanh Hóa: Bỉm Sơn, Nghi SơnThừa Thiên Huế: Hương Thủy, Hương Trà
23 tỉnh, thành phố có 1 thị xã trực thuộc:Bà Rịa – Vũng Tàu: Phú MỹBạc Liêu: Giá RaiBắc Giang: Việt YênBình Thuận: La GiĐắk Lắk: Buôn HồĐiện Biên: Mường LayHải Dương: Kinh MônHà Nam: Duy TiênHà Nội: Sơn TâyHậu Giang: Long MỹHưng Yên: Mỹ HàoKhánh Hòa: Ninh HòaLào Cai: Sa PaLong An: Kiến TườngPhú Thọ: Phú ThọQuảng Bình: Ba ĐồnQuảng Nam: Điện BànQuảng Ngãi: Đức PhổQuảng Trị: Quảng TrịTiền Giang: Cai LậyTrà Vinh: Duyên HảiVĩnh Long: Bình MinhYên Bái'': Nghĩa Lộ
27 tỉnh, thành phố không có thị xã trực thuộc: Bắc Kạn, Bến Tre, Bình Dương, Cao Bằng, Cà Mau, Cần Thơ, Đà Nẵng, Đắk Nông, Đồng Nai, Đồng Tháp, Hải Phòng, Hà Giang, Hòa Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lạng Sơn, Lâm Đồng, Nam Định, Ninh Bình, Ninh Thuận, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
Thị xã có diện tích lớn nhất: thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa) với 1.195,7 km².
Thị xã có diện tích nhỏ nhất: thị xã Cửa Lò (Nghệ An) với 27,81 km².
Thị xã có dân số đông nhất: thị xã Nghi Sơn (Thanh Hoá) với 302.210 người.
Thị xã có dân số ít nhất: thị xã Mường Lay (Điện Biên) với 11.162 người.
Thị xã có nhiều đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc nhất: thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) với 16 phường và 15 xã.
Thị xã có ít đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc nhất: thị xã Mường Lay (Điện Biên) với 2 phường và 1 xã.
Thị xã có nhiều xã nhất: thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa) với 20 xã.
Thị xã Cửa Lò (Nghệ An) là thị xã duy nhất ở Việt Nam hiện nay chỉ có phường, không có xã trực thuộc.
Thị xã có nhiều phường nhất: thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) với 16 phường.
Thị xã có ít phường nhất: thị xã Mường Lay (Điện Biên) và thị xã Duyên Hải (Trà Vinh) với 2 phường ở mỗi thị xã.
Lịch sử
Trước năm 1945
Giai đoạn 1945 - 1975
Thị xã của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà
Thị xã của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (1955-1975)
Tại miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa, các xã ở trung tâm tỉnh lỵ có mức độ đô thị hóa cao được gọi là thị xã (xã thành thị) và tất cả đều trở thành các thị xã tự trị (không còn phụ thuộc vào đơn vị cấp "quận trực thuộc tỉnh"). Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không xây dựng quy chế thành phố mà thành lập hai cấp tương đương là Đô thành Sài Gòn và 10 thị xã tự trị trong đó có Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá
Về phân cấp hành chính các thị xã tự trị được tổ chức không giống nhau tùy theo ý nghĩa về quân sự và văn hóa.
Các thị xã là những đô thị trực thuộc trung ương gồm Đà Nẵng, Cam Ranh và Vũng Tàu
Các thị xã vừa là đô thị trực thuộc trung ương đồng thời là tỉnh lị một tỉnh gồm Huế (tỉnh lị tỉnh Thừa Thiên) và Đà Lạt (tỉnh lị tỉnh Tuyên Đức đến 7/9/1967)
Các thị xã là đô thị trực thuộc tỉnh nhưng hưởng quy chế tự trị cao tương đương các đô thị trực thuộc trung ương gồm Nha Trang (tỉnh Khánh Hòa), Quy Nhơn (tỉnh Bình Định), Mỹ Tho (tỉnh Định Tường), Cần Thơ (tỉnh Phong Dinh) và Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang)
Đơn vị hành chính trong các thị xã
Các thị xã được chia thành các quận đô thị (khác quận trực thuộc tỉnh vì thị xã tương đương quận trực thuộc tỉnh, có khi tương đương cấp tỉnh):
Thị xã độc lập trực thuộc trung ương được chia thành vài quận (khi đó quận đô thị tương đương cấp quận trực thuộc tỉnh vì thị xã có cấp bậc tương đương tỉnh)
Thị xã trực thuộc tỉnh được chia thành vài quận (quận đô thị).
Một số thị xã chỉ có một quận (quận đô thị).
Sau năm 1975
Sau năm 1975, cả nước có 64 thị xã, bao gồm: Bạc Liêu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Bến Tre, Biên Hòa, Buôn Ma Thuột, Cà Mau, Cam Đường, Cam Ranh, Cao Bằng, Cẩm Phả, Châu Đốc, Cao Bằng, Đà Lạt, Đồ Sơn, Đông Hà, Đồng Hới, Gò Công, Hà Đông, Hà Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hòa Bình, Hồng Gai, Hội An, Huế, Hưng Yên, Kiến An, Kon Tum, Lai Châu (cũ), Lạng Sơn, Lào Cai, Long Xuyên, Nghĩa Lộ, Nha Trang, Ninh Bình, Phan Rang, Phan Thiết, Phú Thọ, Phúc Yên, Pleiku, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Sơn La, Sơn Tây, Tam Kỳ, Tân An, Tây Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Tuy Hòa, Tuyên Quang, Uông Bí, Vị Thanh, Vĩnh Long, Vĩnh Yên, Vũng Tàu, Yên Bái.
Tháng 6 năm 1975, chuyển thị xã Huế thành thành phố Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế.
Năm 1976, thành lập thành phố Biên Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Biên Hòa.
Ngày 10 tháng 3 năm 1976, tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau đổi tên thành tỉnh Minh Hải, đồng thời thị xã Bạc Liêu cũng được đổi tên thành thị xã Minh Hải thuộc tỉnh Minh Hải.
Ngày 26 tháng 6 năm 1976, sáp nhập thị xã Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phú vào huyện Yên Lãng.
Ngày 20 tháng 11 năm 1976, sáp nhập thị xã Tam Kỳ với hai huyện Bắc Tam Kỳ và Nam Tam Kỳ thành huyện Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng.
Ngày 10 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 49-CP. Theo đó, thành lập thành phố Nha Trang thuộc tỉnh Phú Khánh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Nha Trang cùng với 7 xã thuộc huyện Vĩnh Xương, hợp nhất thị xã Cam Ranh và huyện Khánh Sơn thành huyện Cam Ranh, hợp nhất thị xã Tuy Hòa với huyện Tuy Hòa thành huyện Tuy Hòa.
Đồng thời, ngày 10 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 51-CP. Theo đó, thành phố Đà Lạt gồm có 6 phường và xã Lát thuộc huyện Đức Trọng chuyển sang.
Ngày 26 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 77-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang vào huyện Gò Công.
Ngày 27 tháng 4 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành 2 quyết định:
Quyết định số 124-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Phan Rang thuộc tỉnh Thuận Hải vào hai huyện Ninh Hải và An Sơn.
Quyết định số 125-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Hà Nam thuộc tỉnh Hà Nam Ninh với 2 huyện Kim Bảng và Thanh Liêm thành huyện Kim Thanh, sáp nhập thị xã Ninh Bình với huyện Gia Khánh thành huyện Hoa Lư.
Ngày 30 tháng 8 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 228-CP. Theo đó, thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng từ ba quận I, II, III của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (các quận này trước đây thuộc thị xã Đà Nẵng trực thuộc trung ương, sau khi thị xã sáp nhập với tỉnh Quảng Nam thì ba quận trên trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng).
Ngày 15 tháng 12 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 330-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang (cũ) vào huyện Long Mỹ.
Ngày 4 tháng 3 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 56-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn vào huyện Văn Chấn.
Ngày 22 tháng 9 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 241-CP. Theo đó, tái lập thị xã Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Khánh từ huyện Tuy Hòa.
Ngày 17 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 168-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Cam Đường thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn vào thị xã Lào Cai.
Ngày 30 tháng 5 năm 1979, Quốc hội ban hành Nghị quyết thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo trực thuộc trung ương. Theo đó, thị xã Vũng Tàu sáp nhập với một số đơn vị hành chính khác thành đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo.
Đến cuối năm 1979, cả nước có 48 thị xã.
Ngày 5 tháng 3 năm 1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 72-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng với một phần huyện An Thụy để thành lập huyện Đồ Sơn, sáp nhập thị xã Kiến An với phần còn lại của huyện An Thụy thành huyện Kiến An.
Ngày 9 tháng 4 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 151-CP. Theo đó, tái lập thị xã Hà Nam thuộc tỉnh Hà Nam Ninh từ huyện Kim Thanh, tái lập thị xã Ninh Bình từ huyện Hoa Lư.
Ngày 24 tháng 8 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 41-HĐBT. Theo đó, chia thị xã Quảng Nghĩa thuộc tỉnh Nghĩa Bình thành thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa.
Ngày 1 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 145-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Phan Rang thuộc tỉnh Thuận Hải từ hai huyện Ninh Hải và An Sơn với tên gọi mới là thị xã Phan Rang – Tháp Chàm.
Ngày 18 tháng 12 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 157-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Quảng Xương và thành lập thị xã Bỉm Sơn trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hà Trung.
Ngày 18 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 200-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Tam Điệp thuộc tỉnh Hà Nam Ninh trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Tam Điệp.
Ngày 23 tháng 2 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 13-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Cao Lãnh.
Ngày 3 tháng 12 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 144-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng từ huyện Tam Kỳ.
Ngày 17 tháng 5 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 75-HĐBT. Theo đó, đổi tên thị xã Minh Hải thành thị xã Bạc Liêu thuộc tỉnh Minh Hải.
Ngày 11 tháng 4 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 113-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Sông Công thuộc tỉnh Bắc Thái trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Phổ Yên.
Ngày 23 tháng 12 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 284-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Vĩnh An thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Vĩnh Cửu.
Đến cuối năm 1985, cả nước có 56 thị xã.
Ngày 3 tháng 7 năm 1986, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định số 81-HĐBT. Theo đó, thành lập thành phố Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Quy Nhơn.
Ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 37-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang từ hai huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây.
Ngày 6 tháng 6 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 100-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng từ huyện Đồ Sơn và tái lập thị xã Kiến An từ huyện Kiến An.
Ngày 16 tháng 9 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 134-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Quảng Trị thuộc tỉnh Quảng Trị trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Triệu Hải.
Đến cuối năm 1989, cả nước có 59 thị xã.
Ngày 16 tháng 7 năm 1990, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định số 262-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Bắc Kạn thuộc tỉnh Bắc Thái trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Bạch Thông.
Ngày 2 tháng 3 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 67-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Hồng Lĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Đức Thọ và Can Lộc.
Ngày 18 tháng 4 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 130-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Điện Biên.
Ngày 9 tháng 6 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 205-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Cam Đường thuộc tỉnh Lào Cai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của thị xã Lào Cai.
Ngày 27 tháng 12 năm 1993, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 102-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Gai.
Ngày 1 tháng 5 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 37-CP. Theo đó, thành lập thành phố Thanh Hóa thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thanh Hóa.
Ngày 2 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 45-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bà Rịa thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Châu Thành.
Ngày 11 tháng 7 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 65-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Bảo Lộc.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành 3 nghị định:
Nghị định số 100-CP. Theo đó, thành lập quận Kiến An thuộc thành phố Hải Phòng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Kiến An.
Nghị định số 109-CP. Theo đó, giải thể thị xã Vĩnh An thuộc tỉnh Đồng Nai để tái lập huyện Vĩnh Cửu.
Nghị định số 113-CP. Theo đó, thành lập thị xã Cửa Lò thuộc tỉnh Nghệ An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Nghi Lộc.
Ngày 21 tháng 1 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 08-CP. Theo đó, thành lập thành phố Buôn Ma Thuột thuộc tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Buôn Ma Thuột.
Ngày 15 tháng 5 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 31-CP. Theo đó, tái lập thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Yên Bái trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Văn Chấn.
Đến cuối năm 1995, cả nước có 62 thị xã.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, tái lập tỉnh Hà Nam và đổi tên thị xã Hà Nam thành thị xã Phủ Lý.
Ngày 6 tháng 8 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 88-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hải Dương thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hải Dương.
Ngày 8 tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 47/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hà Tiên.
Ngày 20 tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 52/NĐ-CP. Theo đó, tái lập thị xã Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hải Ninh.
Ngày 1 tháng 3 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 09/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Long Xuyên thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Xuyên.
Ngày 14 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cà Mau.
Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Vị Thanh.
Ngày 24 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Pleiku thuộc tỉnh Gia Lai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Pleiku.
Ngày 25 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 81/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phan Thiết.
Ngày 1 tháng 9 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Đồng Xoài thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Đồng Phú.
Đến cuối năm 1999, cả nước có 61 thị xã.
Ngày 7 tháng 7 năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Cam Ranh.
Ngày 11 tháng 1 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Yên Bái thuộc tỉnh Yên Bái trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Yên Bái.
Ngày 31 tháng 1 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Cam Đường thuộc tỉnh Lào Cai vào thị xã Lào Cai.
Ngày 17 tháng 10 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Lạng Sơn thuộc tỉnh Lạng Sơn trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Lạng Sơn.
Ngày 21 tháng 8 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Long Khánh.
Ngày 26 tháng 9 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2003/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Điện Biên Phủ.
Ngày 9 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 153/NĐ-CP. Theo đó, tái lập thị xã Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Mê Linh.
Nghị định số 155/2003/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã An Khê thuộc tỉnh Gia Lai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện An Khê.
Ngày 29 tháng 4 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 117/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Thái Bình thuộc tỉnh Thái Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thái Bình.
Ngày 16 tháng 8 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 156/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồng Hới.
Ngày 10 tháng 10 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 176/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Lai Châu (mới) thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Tam Đường.
Ngày 30 tháng 11 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 195/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Lào Cai.
Ngày 5 tháng 1 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 03/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tuy Hòa.
Ngày 2 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 25/NĐ-CP. Theo đó, đổi tên thị xã Lai Châu cũ thuộc tỉnh Điện Biên thành thị xã Mường Lay.
Ngày 7 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành nghị định số 75/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bắc Giang thuộc tỉnh Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bắc Giang.
Ngày 27 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2005/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Gia Nghĩa thuộc tỉnh Đắk Nông trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Đắk Nông.
Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 97/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Rạch Giá.
Nghị định số 98/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Tân Hiệp thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Phụng Hiệp.
Ngày 26 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 112/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Quảng Ngãi.
Ngày 5 tháng 9 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 114/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã La Gi thuộc tỉnh Bình Thuận trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hàm Tân.
Đến cuối năm 2005, cả nước có 58 thị xã.
Ngày 26 tháng 1 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bắc Ninh thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bắc Ninh.
Ngày 29 tháng 9 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 113/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Tam Kỳ.
Ngày 27 tháng 10 năm 2006, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 124/NĐ-CP. Theo đó, đổi tên thị xã Tân Hiệp thuộc tỉnh Hậu Giang thành thị xã Ngã Bảy.
Nghị định số 126/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hòa Bình thuộc tỉnh Hòa Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hòa Bình.
Ngày 1 tháng 12 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 146/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vĩnh Yên.
Ngày 27 tháng 12 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 155/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Đông.
Ngày 16 tháng 1 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cao Lãnh.
Ngày 7 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Ninh Bình thuộc tỉnh Ninh Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Ninh Bình.
Ngày 8 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 21/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Phan Rang – Tháp Chàm thuộc tỉnh Ninh Thuận trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phan Rang – Tháp Chàm.
Nghị định số 22/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sóc Trăng thuộc tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sóc Trăng.
Ngày 26 tháng 4 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 50/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ayun Pa thuộc tỉnh Gia Lai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Ayun Pa.
Ngày 28 tháng 5 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 89/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Tĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Tĩnh.
Ngày 2 tháng 8 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 130/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sơn Tây.
Ngày 12 tháng 9 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 145/NĐ-CP. Theo đó, thành lập quận Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng
trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồ Sơn.
Ngày 15 tháng 11 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 164/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Thái Hòa thuộc tỉnh Nghệ An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Nghĩa Đàn.
Ngày 9 tháng 1 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hội An.
Ngày 9 tháng 6 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 72/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Phủ Lý thuộc tỉnh Hà Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phủ Lý.
Ngày 3 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 98/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sơn La thuộc tỉnh Sơn La trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sơn La.
Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 101/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Từ Sơn.
Nghị định số 103/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Móng Cái.
Ngày 23 tháng 12 năm 2008, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 107/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Buôn Hồ thuộc tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Krông Búk.
Nghị định số 108/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hồng Ngự.
Ngày 19 tháng 1 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 04/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hưng Yên thuộc tỉnh Hưng Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hưng Yên.
Ngày 10 tháng 4 năm 2009, Chính phủ ban hành 2 nghị định:
Nghị định số 15/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Kon Tum thuộc tỉnh Kon Tum trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Kon Tum.
Nghị quyết số 16/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Vĩnh Long thuộc tỉnh Vĩnh Long trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vĩnh Long.
Ngày 8 tháng 5 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP. Theo đó, chuyển thành phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây trực thuộc thành phố Hà Nội.
Ngày 11 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành 3 nghị quyết:
Nghị quyết số 33/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Đông Hà thuộc tỉnh Quảng Trị trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đông Hà.
Nghị quyết số 34/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bến Tre thuộc tỉnh Bến Tre trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bến Tre.
Nghị quyết số 35/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bình Long và thị xã Phước Long thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Bình Long và Phước Long.
Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành 2 nghị quyết:
Nghị quyết số 38/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tân An thuộc tỉnh Long An trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tân An.
Nghị quyết số 40/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Tân Châu thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Tân Châu và điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Phú Tân.
Ngày 27 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Sông Cầu thuộc tỉnh Phú Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Sông Cầu.
Đến cuối năm 2009, cả nước có 46 thị xã.
Ngày 9 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 08/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hương Thủy thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Thủy.
Ngày 12 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Chí Linh.
Ngày 4 tháng 3 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Trà Vinh thuộc tỉnh Trà Vinh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Trà Vinh.
Ngày 8 tháng 4 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bảo Lộc.
Ngày 2 tháng 7 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tuyên Quang thuộc tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tuyên Quang.
Ngày 27 tháng 8 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 32/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bạc Liêu thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bạc Liêu.
Ngày 23 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vị Thanh.
Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Giang thuộc tỉnh Hà Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Giang.
Ngày 25 tháng 10 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 41/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ninh Hòa thuộc tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Ninh Hòa.
Ngày 23 tháng 12 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 65/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cam Ranh.
Ngày 13 tháng 1 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Dĩ An và thị xã Thuận An thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của các huyện Dĩ An và Thuận An.
Ngày 25 tháng 2 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Uông Bí.
Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Vĩnh Châu.
Ngày 15 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 99/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Trà.
Ngày 25 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Quảng Yên thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Yên Hưng.
Ngày 28 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 101/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã An Nhơn thuộc tỉnh Bình Định trên cơ sở toàn bộ diên tích và dân số của huyện An Nhơn.
Ngày 21 tháng 2 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cẩm Phả thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cẩm Phả.
Ngày 2 tháng 5 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thủ Dầu Một.
Ngày 22 tháng 8 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 43/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bà Rịa thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bà Rịa.
Ngày 25 tháng 8 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 60/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cao Bằng thuộc tỉnh Cao Bằng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cao Bằng.
Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 89/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bình Minh thuộc tỉnh Vĩnh Long trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân só của huyện Bình Minh.
Ngày 18 tháng 3 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Kiến Tường thuộc tỉnh Long An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Mộc Hóa.
Ngày 3 tháng 4 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 47/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hoàng Mai thuộc tỉnh Nghệ An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Quỳnh Lưu.
Ngày 19 tháng 7 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Châu Đốc.
Ngày 14 tháng 10 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 113/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sa Đéc.
Ngày 20 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 125/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Quảng Trạch.
Ngày 26 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 130/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Cai Lậy thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Cai Lậy.
Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 131/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Lai Châu thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Lai Châu.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành 3 nghị quyết:
Nghị quyết số 133/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ngã Năm thuộc tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Ngã Năm.
Nghị quyết số 135/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tây Ninh thuộc tỉnh Tây Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tây Ninh.
Nghị quyết số 136/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bến Cát và thị xã Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở một phần diện tích của các huyện Bến Cát và Tân Uyên.
Ngày 11 tháng 3 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 3 nghị quyết:
Nghị quyết số 889/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Điện Bàn.
Nghị quyết số 891/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Đông Triều thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Đông Triều.
Nghị quyết số 892/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thành phố Bắc Kạn thuộc tỉnh Bắc Kạn trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bắc Kạn.
Ngày 10 tháng 4 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết:
Nghị quyết số 903/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Kỳ Anh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Kỳ Anh.
Nghị quyết số 904/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thành phố Tam Điệp thuộc tỉnh Ninh Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tam Điệp.
Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết:
Nghị quyết số 930/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Giá Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Giá Rai.
Nghị quyết số 932/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thành phố Sông Công thuộc tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sông Công và thành lập thị xã Phổ Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Phổ Yên.
Nghị quyết số 933/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Long Mỹ thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Long Mỹ.
Nghị quyết số 934/NQ-UBTVQH13. Theo đó, thành lập thị xã Duyên Hải thuộc tỉnh Trà Vinh trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Duyên Hải.
Cuối năm 2015, cả nước có 51 thị xã.
Ngày 19 tháng 4 năm 2017, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 368/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sầm Sơn.
Ngày 7 tháng 2 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 484/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phúc Yên.
Ngày 12 tháng 4 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 492/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Phú Mỹ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Tân Thành.
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 573/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Tiên.
Ngày 16 tháng 10 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 587/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Đồng Xoài thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồng Xoài.
Ngày 10 tháng 1 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 623/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Chí Linh.
Ngày 12 tháng 3 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 656/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Mỹ Hào thuộc tỉnh Hưng Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Mỹ Hào.
Ngày 10 tháng 4 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 673/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Khánh.
Ngày 11 tháng 9 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết:
Nghị quyết số 767/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Sa Pa thuộc tỉnh Lào Cai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Sa Pa.
Nghị quyết số 768/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Kinh Môn thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Kinh Môn.
Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết:
Nghị quyết số 829/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Duy Tiên thuộc tỉnh Hà Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Duy Tiên.
Nghị quyết số 835/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Gia Nghĩa thuộc tỉnh Đắk Nông trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Gia Nghĩa.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết:
Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Dĩ An và thành phố Thuận An thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Dĩ An và thị xã Thuận An.
Nghị quyết số 865/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Hòa Thành và thị xã Trảng Bàng thuộc tỉnh Tây Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hòa Thành và huyện Trảng Bàng.
Nghị quyết số 867/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Đức Phổ thuộc tỉnh Quảng Ngãi trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Đức Phổ.
Nghị quyết số 869/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Ngã Bảy thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Ngã Bảy.
Ngày 22 tháng 4 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 3 nghị quyết:
Nghị quyết số 931/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Đông Hòa thuộc tỉnh Phú Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Đông Hòa.
Nghị quyết số 932/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Hoài Nhơn thuộc tỉnh Bình Định trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hoài Nhơn.
Nghị quyết số 933/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Nghi Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Tĩnh Gia.
Ngày 18 tháng 9 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1003/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Ngự.
Ngày 22 tháng 9 năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 387/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thành phố Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Từ Sơn.
Ngày 15 tháng 2 năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 469/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thành phố Phổ Yên thuộc tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phổ Yên.
Ngày 11 tháng 8 năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 570/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thị xã Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Chơn Thành.
Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 3 nghị quyết:
Nghị quyết số 721/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thị xã Tịnh Biên thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Tịnh Biên.
Nghị quyết số 723/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thị xã Quế Võ và thị xã Thuận Thành thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Quế Võ và huyện Thuận Thành.
Nghị quyết số 725/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thành phố Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tân Uyên.
Ngày 13 tháng 12 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 938/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thị xã Việt Yên thuộc tỉnh Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Việt Yên.
Ngày 19 tháng 3 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 2 nghị quyết:
Nghị quyết về việc thành lập thành phố Bến Cát thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bến Cát.
Nghị quyết về việc thành lập thành phố Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Gò Công.
Cả nước có 51 thị xã như hiện nay.
Trường hợp đặc biệt là huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang được nâng cấp lên thẳng thành phố mà không trải qua cấp thị xã như các thành phố trực thuộc tỉnh khác trên cả nước.
Phát triển
Một số huyện đã được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV và đang định hướng trở thành thị xã:
Huyện Diên Khánh (Khánh Hòa)
Huyện Núi Thành (Quảng Nam)
Huyện Yên Phong (Bắc Ninh)
Huyện Kim Bảng (Hà Nam).
Một số huyện đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch nâng cấp đô thị giai đoạn 2021 - 2030 và cũng có định hướng thành lập thị xã:
Huyện Hiệp Hòa (Bắc Giang)
Huyện Lương Sơn (Hoà Bình)
Huyện Mai Châu (Hòa Bình)
Huyện Thanh Ba (Phú Thọ)
Huyện Thanh Sơn (Phú Thọ)
Huyện Phù Ninh (Phú Thọ)
Huyện Tiên Du (Bắc Ninh)
Huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc)
Huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc)
Huyện Lập Thạch (Vĩnh Phúc)
Huyện Tam Đảo (Vĩnh Phúc)
Huyện Bình Giang (Hải Dương)
Huyện Phong Điền (Thừa Thiên - Huế)
Huyện Bình Sơn (Quảng Ngãi)
Huyện Tư Nghĩa (Quảng Ngãi)
Huyện Tây Sơn (Bình Định)
Huyện Vạn Ninh (Khánh Hòa)
Huyện Ngọc Hồi (Kon Tum)
Huyện Chư Sê (Gia Lai)
Huyện Cư Jút (Đắk Nông)
Huyện Đắk Mil (Đắk Nông)
Huyện Đắk R'lấp (Đắk Nông)
Huyện Đức Trọng (Lâm Đồng)
Huyện Bến Cầu (Tây Ninh)
Huyện Dương Minh Châu (Tây Ninh)
Huyện Gò Dầu (Tây Ninh)
Huyện Trảng Bom (Đồng Nai)
Huyện Long Thành (Đồng Nai)
Huyện Ba Tri (Bến Tre)
Huyện Bình Đại (Bến Tre)
Huyện Mỏ Cày Nam (Bến Tre)
Huyện Hòa Vang (Đà Nẵng)
Huyện Tiểu Cần (Trà Vinh),...
Xem thêm
Phân cấp hành chính Việt Nam
Chú thích
Liên kết ngoài
Nghị định 72/2001/NĐ-CP phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị
Nghị định số 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ: Về việc phân loại đô thị
Phân vùng quốc gia châu Á
Phân cấp hành chính Việt Nam
Đơn vị hành chính cấp huyện Việt Nam
Danh sách phân cấp hành chính Việt Nam
Đơn vị hành chính đô thị tại Việt Nam
|
11352
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8B%20tr%E1%BA%A5n%20%28Vi%E1%BB%87t%20Nam%29
|
Thị trấn (Việt Nam)
|
Thị trấn là một đơn vị hành chính cấp xã tại Việt Nam.
Tất cả thị trấn tại Việt Nam đều trực thuộc các huyện. Thị trấn có thể là huyện lỵ nếu các cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện được đặt tại thị trấn đó. Tuy nhiên, không phải thị trấn nào cũng là huyện lỵ và không phải huyện nào cũng có thị trấn. Đặc biệt, có một số huyện lỵ không đặt ở thị trấn cùng tên với chính mình, chủ yếu do giao thông không thuận lợi với các xã khác trong huyện như huyện Nhà Bè (Thành phố Hồ Chí Minh), huyện Tam Đảo (Vĩnh Phúc), huyện Chi Lăng (Lạng Sơn), huyện Đức Hòa (Long An). Hầu hết những huyện không có thị trấn nào là những huyện mới chia tách.
Quy định trong luật pháp
Cấp hành chính
Trong Hiến pháp 2013, Chương IX: Chính quyền địa phương, Khoản 1 Điều 110 có viết:
1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:
Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;
Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường.
Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập.
Trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 (sửa đổi, bổ sung 2019), quy định tại Điều 2: Đơn vị hành chính, Chương I: Những quy định chung:
Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:
1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);
3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);
4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
Như vậy, thị trấn nằm ở cấp hành chính thứ ba trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) của Việt Nam.
Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính
Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại Điều 9, Mục 2: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị, Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính thì một thị trấn cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau:
Điều 9. Tiêu chuẩn của thị trấn
1. Quy mô dân số từ 8.000 người trở lên.
2. Diện tích tự nhiên từ 14 km² trở lên.
3. Đã được công nhận là đô thị loại IV hoặc loại V; hoặc khu vực dự kiến thành lập thị trấn đã được phân loại đạt tiêu chí của đô thị loại IV hoặc loại V.
4. Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Thống kê
Tính đến ngày 1 tháng 2 năm 2024, Việt Nam có 10.597 đơn vị hành chính cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn), trong đó có 619 thị trấn.
Tỉnh có nhiều thị trấn nhất là Thanh Hóa với 31 thị trấn, tiếp theo là thành phố Hà Nội với 21 thị trấn. Tỉnh Ninh Thuận có 3 thị trấn còn thành phố Đà Nẵng là đơn vị hành chính cấp tỉnh duy nhất không có thị trấn nào.
Danh sách các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xếp theo số lượng thị trấn:
Thanh Hóa (31 thị trấn)
Hà Nội (21 thị trấn)
An Giang, Vĩnh Phúc (18 thị trấn)
Nghệ An (17 thị trấn)
Nam Định (16 thị trấn)
Bắc Giang, Long An (15 thị trấn)
Cao Bằng, Gia Lai, Lạng Sơn, Quảng Nam (14 thị trấn)
Đắk Lắk, Hà Giang, Hà Tĩnh, Lâm Đồng (13 thị trấn)
Bình Thuận, Sóc Trăng (12 thị trấn)
Bình Định, Hậu Giang, Phú Thọ, Quảng Trị (11 thị trấn)
Bến Tre, Hải Dương, Hải Phòng, Hòa Bình, Kiên Giang, Thái Nguyên, Trà Vinh, Yên Bái (10 thị trấn)
Cà Mau, Đồng Tháp, Lào Cai, Sơn La, Thái Bình (9 thị trấn)
Đồng Nai, Hưng Yên, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Thừa Thiên Huế, Tiền Giang (8 thị trấn)
Bắc Kạn, Kon Tum, Lai Châu, Ninh Bình, Quảng Ninh (7 thị trấn)
Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nam, Khánh Hòa, Phú Yên, Tây Ninh, Tuyên Quang, Vĩnh Long (6 thị trấn)
Bạc Liêu, Bình Dương, Bình Phước, Cần Thơ, Đắk Nông, Điện Biên, Thành phố Hồ Chí Minh (5 thị trấn)
Bắc Ninh (4 thị trấn)
Ninh Thuận (3 thị trấn)
Đà Nẵng (không có thị trấn nào).
Hiện nay, cả nước có:
1 huyện có 5 thị trấn, đó là huyện Bình Xuyên (Vĩnh Phúc)
2 huyện có 4 thị trấn, đó là các huyện:
Châu Thành A (Hậu Giang).
Yên Định (Thanh Hóa).
18 huyện có 3 thị trấn, đó là các huyện:
Quảng Hòa (Cao Bằng)
Thọ Xuân (Thanh Hóa)
Phụng Hiệp (Hậu Giang)
Đức Hòa (Long An)
Thoại Sơn, Chợ Mới, An Phú, Tri Tôn (An Giang)
Hải Hậu, Nghĩa Hưng, Trực Ninh (Nam Định)
Tam Đảo, Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc)
Bảo Thắng (Lào Cai)
Văn Chấn (Yên Bái)
Bố Trạch (Quảng Bình)
Vĩnh Linh (Quảng Trị)
Đồng Hỷ (Thái Nguyên)
89 huyện có 2 thị trấn, đó là các huyện:
Hiệp Hòa, Lạng Giang, Lục Nam, Sơn Động, Tân Yên, Yên Dũng, Yên Thế (Bắc Giang)
Hà Quảng, Nguyên Bình, Trùng Khánh (Cao Bằng)
Bắc Quang, Đồng Văn, Vị Xuyên (Hà Giang)
Cao Lộc, Chi Lăng, Đình Lập, Lộc Bình (Lạng Sơn)
Lâm Thao (Phú Thọ)
Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên)
Lạc Thủy (Hòa Bình)
Ngân Sơn (Bắc Kạn)
Mộc Châu (Sơn La)
Yên Bình (Yên Bái)
Chương Mỹ, Gia Lâm, Mê Linh, Phú Xuyên (Hà Nội)
Kim Bảng, Thanh Liêm (Hà Nam)
Cẩm Giàng (Hải Dương)
An Lão, Cát Hải, Thủy Nguyên (Hải Phòng)
Giao Thủy (Nam Định)
Kim Sơn (Ninh Bình)
Hưng Hà, Quỳnh Phụ (Thái Bình)
Lập Thạch, Tam Dương, Yên Lạc (Vĩnh Phúc)
Thạch Thành, Thiệu Hóa, Triệu Sơn (Thanh Hóa)
Cẩm Xuyên, Hương Sơn, Nghi Xuân, Can Lộc (Hà Tĩnh)
Lệ Thủy (Quảng Bình)
Gio Linh, Hướng Hóa (Quảng Trị)
Phú Lộc (Thừa Thiên Huế)
Quế Sơn (Quảng Nam)
Tư Nghĩa (Quảng Ngãi)
Phù Cát, Phù Mỹ, Tuy Phước (Bình Định)
Bắc Bình, Đức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc, Tuy Phong (Bình Thuận)
Chư Păh (Gia Lai)
Cư M'gar, Ea Kar (Đắk Lắk)
Cát Tiên, Đạ Huoai, Đơn Dương, Lâm Hà (Lâm Đồng)
Bắc Tân Uyên (Bình Dương)
Đất Đỏ, Long Điền (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Châu Phú, Châu Thành, Phú Tân (An Giang)
Trần Văn Thời (Cà Mau)
Vĩnh Thạnh (Cần Thơ)
Châu Thành (Hậu Giang)
Hòn Đất (Kiên Giang)
Kế Sách, Long Phú, Thạnh Trị, Trần Đề (Sóc Trăng)
Gò Công Đông (Tiền Giang)
Cầu Ngang, Tiểu Cần, Trà Cú (Trà Vinh)
Ba Tri, Châu Thành (Bến Tre)
39 huyện không có thị trấn, đó là các huyện:
Mường Nhé, Nậm Pồ, Điện Biên (Điện Biên)
Quỳnh Nhai, Sốp Cộp, Vân Hồ (Sơn La)
Pác Nặm (Bắc Kạn)
Tân Sơn (Phú Thọ)
Bạch Long Vĩ (Hải Phòng)
Kỳ Anh (Hà Tĩnh)
Quảng Trạch (Quảng Bình)
Cồn Cỏ (Quảng Trị)
Hòa Vang, Hoàng Sa (Đà Nẵng)
Tây Giang, Nam Trà My (Quảng Nam)
Sơn Tịnh, Sơn Tây, Minh Long, Lý Sơn (Quảng Ngãi)
Tu Mơ Rông, Ia H'Drai (Kon Tum)
Ia Pa (Gia Lai)
Buôn Đôn, Cư Kuin (Đắk Lắk)
Đắk Glong, Tuy Đức (Đắk Nông)
Bác Ái, Thuận Bắc, Thuận Nam (Ninh Thuận)
Phú Quý (Bình Thuận)
Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu)
Đam Rông (Lâm Đồng)
Bù Gia Mập, Phú Riềng (Bình Phước)
Tân Phú Đông (Tiền Giang)
Giang Thành, Kiên Hải, U Minh Thượng (Kiên Giang)
374 huyện có 1 thị trấn.
Thông thường tên các thị trấn thường có 2 âm tiết, nhưng có một số thị trấn mà tên gọi chỉ có 1 âm tiết, chủ yếu tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng:
Thắng (Hiệp Hòa), Vôi, Kép (Lạng Giang), Chũ (Lục Ngạn)
Đu (Phú Lương)
Bo (Kim Bôi)
Thứa (Lương Tài), Lim (Tiên Du), Chờ (Yên Phong)
Phùng (Đan Phượng)
Vương (Tiên Lữ)
Quế (Kim Bảng)
Cồn (Hải Hậu), Gôi (Vụ Bản), Lâm (Ý Yên)
Me (Gia Viễn)
Nưa (Triệu Sơn)
Nghèn (Can Lộc)
Sịa (Quảng Điền)
Prao (Đông Giang)
Kbang (Kbang)
M'Drắk (M'Drắk)
D'Ran (Đơn Dương).
Thị trấn có diện tích lớn nhất: thị trấn Thạnh Mỹ (huyện Nam Giang) với 206,58 km².
Thị trấn có diện tích nhỏ nhất: thị trấn Trường Sa (huyện Trường Sa) với 0,15 km².
Phân loại đô thị
Đa số thị trấn tại Việt Nam được xếp vào đô thị loại V. Một số thị trấn lớn được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV như:
Phân biệt với xã
Tiêu chí để xét một khu vực dân cư là thị trấn hay xã thông thường gắn với tỷ lệ ngành nghề. Tại khu vực xã, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp (lâm nghiệp, ngư nghiệp) cao hơn so với một thị trấn. Tại địa bàn một huyện, mật độ dân số tại các thị trấn thông thường cũng cao hơn so với mật độ dân số tại các xã. Các tiêu chí khác như số lượng dân số, đóng góp cho ngân sách (qua thuế chẳng hạn), diện tích đất đai không rõ nét trong trường hợp này. Một thị trấn có thể đông dân và nộp ngân sách nhiều hơn một xã, song cũng không ít trường hợp ngược lại.
Thị tứ
Các sách báo gần đây đề cập nhiều đến khái niệm thị tứ. Tuy nhiên, thị tứ không phải là một đơn vị hành chính nhà nước chính thức. Một thị tứ thông thường được hiểu là trung tâm của một tiểu vùng kinh tế (bao gồm phạm vi nhiều xã với lượng dân cư khoảng 4-5 nghìn người, nhưng không phải trong phạm vi toàn huyện); trong đó các ngành nghề như thương mại, dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển hơn so với các vùng phụ cận. Dân cư sống trong khu vực đó cũng sống tập trung và có mật độ cao hơn. Một thị tứ được hình thành khi ở khu vực đó có sự thuận lợi về các điều kiện hạ tầng cơ sở hơn so với khu vực phụ cận. Nó có thể nằm trong khu vực thuộc nhiều xã giáp ranh. Nó là tiền đề để hình thành nên các thị trấn mới trong tương lai, khi nó phát triển đủ lớn để chính quyền có thể công nhận.
Chú thích
Xem thêm
Phân cấp hành chính Việt Nam
Liên kết ngoài
Nghị định 72/2001/NĐ-CP về Phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị
Nghị định 159/2005/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam về việc phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Phân vùng quốc gia châu Á
Phân cấp hành chính Việt Nam
Đơn vị hành chính địa phương cấp 3 theo quốc gia
Đơn vị hành chính đô thị tại Việt Nam
|
11353
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Huy%E1%BB%87n
|
Huyện
|
Huyện là thuật ngữ để chỉ một đơn vị hành chính bậc hai của một quốc gia (đơn vị bậc một là tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương như ở Việt Nam). Huyện được chia thành các xã và ít nhất là một thị trấn nơi chính quyền huyện đặt cơ quan hành chính.
Cấp huyện là một thuật ngữ khác được dùng để chỉ các đơn vị hành chính tương đương với huyện gồm có huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh.
Gần như trong tiếng Việt, "huyện" được dùng để chỉ đơn vị hành chính ở Việt Nam, Trung Quốc và có thể các quốc gia láng giềng như Lào, Campuchia trong khi "quận" được dùng khá rộng rãi hơn để chỉ các đơn vị hành chính tương đương ở các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Pháp.
Việt Nam
Phân chia cấp đơn vị hành chính
Hiện nay, tại Việt Nam thì các đơn vị hành chính được phân chia một cách chính thức thành 3 cấp là cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
Các đơn vị hành chính tương đương
Tại các thành phố trực thuộc trung ương, huyện ngang cấp với:
Quận (nội thành).
Thị xã (nếu có)
Tại các tỉnh, huyện tương đương với:
Thành phố thuộc tỉnh (nếu có)
Thị xã (nếu có)
Các đơn vị hành chính cấp dưới
Một huyện thông thường được chia ra thành nhiều xã và có thể có một vài thị trấn.
Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam cũng có trường hợp huyện không có các đơn vị hành chính cấp dưới như:
Bạch Long Vĩ, thuộc thành phố Hải Phòng.
Côn Đảo, thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Cồn Cỏ, thuộc tỉnh Quảng Trị.
Hoàng Sa, thuộc thành phố Đà Nẵng.
Lý Sơn, thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Phân loại đơn vị hành chính cấp huyện
Theo nghị định của Chính phủ số 15/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 1 năm 2007 "Về phân loại đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện" thì dơn vị hành chính cấp huyện được phân làm ba loại: loại I, loại II và loại III.
Thành phố thuộc tỉnh, quận thuộc thủ đô Hà Nội và quận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh là các đơn vị hành chính cấp huyện loại I. Quận thuộc Thủ đô Hà Nội và quận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có dân số và mật độ dân số cao, tính chất quản lý nhà nước về đô thị phức tạp và khó khăn, đạt tỷ lệ thu chi cân đối ngân sách hàng năm cao, là đơn vị hành chính cấp huyện thuộc đô thị loại đặc biệt.
Các đơn vị hành chính cấp huyện còn lại được tính điểm để phân loại theo các tiêu chí:
Dân số
Diện tích tự nhiên
Các yếu tố đặc thù
Trung Quốc
Trong phân cấp hành chính của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, huyện là cấp hành chính thứ ba sau cấp tỉnh và cấp địa khu, các đơn vị "cấp huyện" bao gồm huyện, huyện tự trị, thành phố cấp huyện, kỳ, kỳ tự trị, và khu. Có 1467 huyện ở Trung Quốc đại lục trong tổng số 2861 đơn vị cấp huyện.
Nhật Bản
Hàn Quốc
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
Đài Loan
Xem thêm
Quận
Phân cấp hành chính Việt Nam
Danh sách các đơn vị hành chính cấp huyện của Việt Nam
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nghị định của Chính phủ số 15/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 1 năm 2007 "Về phân loại đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện"
Phân cấp hành chính
|
11354
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%89nh%20l%E1%BB%B5%20%28Vi%E1%BB%87t%20Nam%29
|
Tỉnh lỵ (Việt Nam)
|
Tỉnh lỵ là trung tâm hành chính của một tỉnh ở Việt Nam, tức là nơi các cơ quan hành chính nhà nước của tỉnh đó đóng trụ sở. Thông thường, mỗi tỉnh sẽ chọn tỉnh lỵ (trung tâm hành chính tỉnh) là một thị xã hoặc thành phố trực thuộc tỉnh đó, nhưng không nhất thiết là thị xã hay thành phố lớn nhất.
Đối với các thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan hành chính của nó cũng thường đặt trụ sở tại một quận (hoặc một vài quận) trực thuộc. Quận này được coi là quận trung tâm của thành phố trên thực tế, nhưng không hề có khái niệm công nhận chính thức nó là "quận trung tâm" hoặc "thành phố lỵ".
Danh sách các tỉnh lỵ ở Việt Nam
Xem thêm
Thủ đô
Thủ phủ
Tham khảo
Phân cấp hành chính Việt Nam
|
11402
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BB%81n%20trong%20Ph%E1%BA%ADt%20gi%C3%A1o
|
Thiền trong Phật giáo
|
Trong Phật giáo, có nhiều phương pháp và kĩ thuật thiền khác nhau. Một trong những mục tiêu chính của thiền là giúp cho sự bất động của "sáu căn" không phóng dật, không bị dụ dỗ lôi kéo dính mắc sáu pháp trần gian bên ngoài thân ngũ uẩn, gây nên sự ham muốn thích thú đam mê.
Từ nguyên
Thiền (zh. chán 禪, ja. zen), gọi đầy đủ là Thiền-na (zh. chánna 禪那, sa. dhyāna, pi. jhāna, ja. zenna, en. meditation), là thuật ngữ Hán-Việt được phiên âm từ dhyāna trong tiếng Phạn. Dhyāna là danh từ phái sinh từ gốc động từ √dhyā (hoặc √dhyai). Bộ Sanskrit-English Dictionary của Monier-Williams ghi lại những nghĩa chính như sau: to think of, imagine, contemplate, meditate on, call to mind, recollect.
Tất cả các trào lưu triết học Ấn Độ đều hiểu dưới gốc động từ này là sự tư duy, tập trung lắng đọng và vì vậy, ta cũng tìm thấy từ dịch ý Hán-Việt là Tĩnh lự (zh. 靜慮). Các cách phiên âm Hán-Việt khác là Đà-diễn-na (zh. 馱衍那), Trì-a-na (持阿那). Có thể coi Thiền là sự kết hợp giữa thân thể và ý niệm trong thời gian – không gian hiện tại để nhận biết sự vật, hiện tượng và ý niệm. Thiền là để tĩnh tâm, gạt bỏ mọi tạp niệm để nhận thức bản ngã và thế giới xung quanh một cách đúng đắn, sáng suốt nhất.
"Định" là sự hướng tâm của Ý thức để tác động chỉ đạo sáu căn nghe theo sự xuất nhập đóng mở và an trú vào một điểm trên cơ thể, nhằm tạo sự lớn dần về nội lực thân tâm thanh thản an lạc giải thoát hoàn toàn sau khi đã ly được dục và ác pháp trên thân tâm. "Thiền Định" của Phật giáo Thích Ca là sự bất động của tâm và thân theo từng cấp độ tăng dần theo nội lực của Ý thức cho đến đỉnh cao của sự giải thoát hoàn toàn của thân và tâm "định" vào một khối sau khi Ý thức lực tác động làm cho hơi thở ngừng hoàn toàn một cách tự nhiên mà không bị ức chế hay rối loạn thân tâm.
Trong đạo Phật
Ý chí cương quyết tu tập Thiền sẽ dẫn hành giả đến một tâm trạng Bất nhị, nơi mà những ý nghĩ nhị nguyên như "ta đây vật đó" được chuyển hoá; hành giả chứng ngộ cái "Tuyệt đối", mở ra những khả năng của Chân Như, những khái niệm về không gian và thời gian đều được chuyển biến thành cái "hiện tại thường hằng", hành giả chứng ngộ được sự đồng nhất của thế giới hiện hữu và bản tính. Nếu kinh nghiệm này được trau dồi thâm sâu và hành giả áp dụng nó vào những hành động của cuộc sống hằng ngày thì đó chính là trạng thái mà tất cả những tôn giáo đều gọi chung là "Giải thoát".
Theo đạo Phật, hành giả nhờ Định (sa. samādhi) mà đạt đến một trạng thái sâu lắng của tâm thức, trong đó toàn bộ tâm thức chỉ chú ý đến một đối tượng thiền định thuộc về tâm hay vật. Tâm thức sẽ trải qua nhiều chặng, trong đó lòng tham dục dần dần suy giảm. Một khi hành giả trừ năm chướng ngại (ngũ cái五蓋, sa. nīvaraṇa) thì đạt được bốn cõi thiền (tứ thiền định) của sắc giới (sa. rūpadhātu, xem Tam giới), đạt Lục thông (sa. ṣaḍabhijñā) và tri kiến vô thượng. Tri kiến này giúp hành giả thấy rõ các đời sống trước của mình, thấy diễn biến của sinh diệt và dẫn đến giải thoát mọi lậu hoặc (sa. āsrava). Hành giả đạt bốn cõi thiền cũng có thể chủ động tái sinh trong các cõi Thiên (sa. deva) liên hệ.
Trong giai đoạn một của thiền định, hành giả buông xả lòng tham dục và các pháp bất thiện, nhờ chuyên tâm suy tưởng mà đạt đến. Trong cấp này, hành giả có một cảm giác hỉ lạc. Trong giai đoạn hai, tâm suy tưởng được thay thế bằng một nội tâm yên lặng, tâm thức trở nên sắc sảo bén nhọn vì bao hàm nhân tố chú tâm quán sát. Hành giả tiếp tục ở trong trạng thái hỉ lạc. Qua giai đoạn ba, tâm hỉ lạc giảm, tâm xả bỏ hiện đến, hành giả tỉnh giác, cảm nhận sự nhẹ nhàng khoan khoái. Trong giai đoạn bốn, hành giả an trú trong sự xả bỏ và tỉnh giác.
Tại Trung Quốc, Thiền có một ý nghĩa rộng hơn rất nhiều. Nó bao gồm tất cả phép tu như quán niệm hơi thở Nhập tức xuất tức niệm (zh. 入息出息念, pi. ānāpānasati), Tứ niệm xứ (pi. satipaṭṭhāna)... với mục đích nhiếp tâm và làm tâm tỉnh giác. Từ phép Thiền do Bồ-đề-đạt-ma truyền, Thiền Trung Quốc đã phát triển rất mạnh (Thiền tông).
Trong một ý nghĩa bao quát, Thiền cũng không phải là những phương pháp đã nêu trên. Thiền là một trạng thái tâm thức không thể định nghĩa, không thể miêu tả và phải do mỗi người tự nếm trải. Trong nghĩa này thì Thiền không nhất thiết phải liên hệ với một tôn giáo nào cả — kể cả Phật giáo. Trạng thái tâm thức vừa nói đã được các vị thánh nhân xưa nay của mọi nơi trên thế giới, mọi thời đại và văn hoá khác nhau trực nhận và miêu tả bằng nhiều cách. Đó là kinh nghiệm giác ngộ về thể sâu kín nhất của thật tại, nó vừa là thể của Niết-bàn và vừa của Luân hồi, sinh tử. Vì vậy, Toạ thiền không phải là một phương pháp đưa con người đi từ vô minh đến giác ngộ, mà là giúp con người khám phá bản thể thật sự của mình đang mỗi lúc hiện diện.
Tham khảo
Sách tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Xem thêm
Tứ thiền
Thiền tông
Thiền tông
Triết lý Phật giáo
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
Thuật ngữ thiền
|
11403
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam%20gi%E1%BB%9Bi
|
Tam giới
|
Tam giới (, , , ), cũng được gọi là Tam hữu (), là ba cõi giới của vòng sinh tử. Các khái niệm về ba thế giới (tri-loka) xuất hiện trong Ấn Độ giáo và Kỳ Na giáo, cũng như các kinh điển Phật giáo thời kì sơ khai.
Phật giáo
Khái niệm Tam giới này có thể hiểu là Vũ trụ quan của đạo Phật. Tam giới bao gồm: cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc. Tất cả chúng sanh ở trong Tam Giới, gọi là loài Hữu tình, đều tái sinh theo hướng Lục đạo ().
Cõi Dục
Dục giới hay cõi Dục (zh. 欲界; s, p: kāmaloka, kāmadhātu, bo. dö kham འདོད་ཁམས་, dö pé kham འདོད་པའི་ཁམས་): có ham muốn về thể xác, giới tính và đầy đủ những ham muốn khác.
Trong Dục giới có sáu loại hữu tình sau:
Địa ngục (zh. 地獄, sa. naraka)
Ma đói (zh. 餓鬼, sa. preta)
Loài vật (zh. 畜生, sa. paśu)
Loài người (zh. 人世, sa. nāra)
Cõi thần (zh. 阿修羅, sa. asura)
6 Cõi trời dục (lục dục thiên 六欲天):
Trời Tứ thiên vương (zh. 四天王, sa. cāturmahārājika);
Trời Đao lợi (忉利) hay trời Ba mươi ba (zh. 三十三天, sa. trayastriṃśa);
Trời Dạ ma (zh. 夜摩, sa. yāmadeva) hoặc trời Tu dạ ma (zh. 須夜摩天, sa. suyāma);
Trời Đâu suất (zh. 兜率天, sa. tuṣita);
Trời Hoá lạc (zh. 化樂天, sa. nirmāṇarati);
Trời Tha hoá tự tại (zh. 他化自在天, sa. paranirmitavaśavarti);
Chúng sinh ở cõi Dục giới tuy hưởng dục lạc khác nhau (ở cõi trên thì sung sướng hơn cõi dưới), nhưng nói chung đều chịu những nỗi khổ: hành khổ (không thoát được luân hồi, đã sinh ra thì phải có lúc chết đi), hoại khổ (thể xác và những dục lạc được hưởng rồi sẽ mất đi chứ không duy trì được mãi), bất tác ý khổ (không đạt được ham muốn nên buồn khổ). Những chúng sinh ở 3 cõi thấp tức tam ác đạo (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh) thì gần như không có sung sướng mà chỉ có khổ đau. Trừ cõi người, địa ngục, súc sanh tất cả chúng sinh cõi khác đều có Ngũ thông bẩm sinh. Cõi người và súc sanh không có vì bị chướng ngại thân xác vật lí, cõi quỷ thần không có thân, cõi trời là do phước báu nên có cả thân và thần thông. Người có thần thông do tu luyện chứng đắc thiền định hoặc do nghiệp tiền kiếp, phước báu đời trước, tu phước cầu thần thông. Thần thông từ thiền định nếu thối quả vị sẽ mất thần thông, tâm ô nhiễm mất thanh tịnh sẽ hết khả năng cảm ứng tâm linh, thần thông tự tại từ phước báu khi hết phước thì sẽ mất tất cả. Người hay có cảm ứng tâm linh là do đời trước từng làm loài trời, a tu la nên nay còn dư phước, kiếp trước từng tu thiền, tu đạo, tu tiên hoặc luyện phép bùa chú hoặc là người sống giản dị, chất phác có đức và có phước, giữ năm giới hay siêng năng làm mười điều thiện thần thông sẽ khai mở vì nó là thiên tính ai cũng có thể được, nhưng muốn có Nhân thì phải có Quả, nếu cầu không thì sẽ không có. Nhưng tuyệt đối chẳng có chuyện làm loài quỷ đọa lạc kiếp này đầu thai mà được, dù có chắc hẳn là do phước đời trước còn sót lại nay dễ dùng vào việc tà. Thiên mục cũng dễ dàng có được nhờ cúng dường đèn, nến, ánh sáng nhất là cúng dường Phật, Tam Bảo. Phóng sinh nhiều dễ luyện có phép xuất hồn, hồi hướng khắp tất cả nhanh thành Phật đạo phước báu càng nhanh tăng trưởng. Ít nhất cõi trời Tứ Thiên Vương trở lên tất cả chúng sanh đều có thần thông.
Cõi Sắc
Sắc giới hay cõi Sắc (zh. 色界, sa. rūpaloka, rūpadhātu, bo. zug kham གཟུགས་ཁམས་): thuộc tầng trời sắc giới, các chúng sinh ở đây đều đã chấm dứt mọi ham muốn giới tính, không cần ăn uống, nhưng còn có thân xác và khoái lạc tinh thần, sắc. Đây là thế giới của những người đã đạt tới Thiền định (sa. dhyāna) nếu chỉ có phước báu sẽ không thể sinh lên cảnh giới này, không bị bát phong (8 loại gió) làm lay động tâm gồm: “lợi-suy, hủy-dự, xưng-cơ, khổ-lạc”, là lợi dưỡng - suy hao, hủy báng - tán thán, tôn kính - chê bai, đau khổ - vui mừng, hay còn gọi là được - mất, khen - chê, tốt - xấu, khổ đau - sung sướng, càng lên tầng trời cao công phu thiền định càng sâu, hỷ lạc thiền sinh ra ở tâm càng lớn. Thức ăn hoặc yếu tố để duy trì sinh mạng là hỉ lạc vô dục nơi nội tâm của thiền. Không có già bệnh, nhưng vẫn còn tuổi thọ và khổ. Thể xác không được cấu tạo bằng vật chất như dục giới mà là hình sắc của ánh sáng giống như linh hồn, khi chết thì thân xác sẽ biến mất mà không trải qua già bệnh, sau đó luân hồi sang cõi khác.
Sắc giới gồm bốn cõi, mỗi cõi lại được chia thành nhiều cõi trời khác nhau. Những người tu thiền đã đạt đến Tứ thiền định, khi thọ mạng hết thì tùy mức chứng đắc mà có thể sinh vào 1 trong 4 xứ này (ví dụ: người chứng đắc được Nhị thiền thì sẽ tái sinh vào cõi Nhị thiền trong Sắc giới).
Trời Sơ thiền (zh. 初禪天) với ba cõi sau:
Trời Phạm thiên (zh. 梵身天, sa. brahmakāyika);
Trời Phạm phụ (zh. 梵輔天, sa. brahmapurohita);
Trời Đại phạm (zh. 大梵天, sa. mahābrahmā).
Có hệ thống ghi thêm cõi trời thứ tư của trời Sơ thiền là trời Phạm chúng (zh. 梵眾天, sa. brahmaparśadya).
Trời Nhị thiền (zh. 二禪天) với ba cõi sau:
Trời Thiểu quang (zh. 少光天, sa. parīttābha);
Trời Vô lượng quang (zh. 無量光天, sa. apramāṇābha);
Trời Cực quang tịnh (zh. 極光淨天, sa. abhāsvara, kiểu dịch cũ là trời Quang âm (zh. 光音天).
Trời Tam thiền (zh. 三禪天) bao gồm:
Trời Thiểu tịnh (zh. 少淨天, sa. parīttaśubha);
Trời Vô lượng tịnh (zh. 無量淨天, sa. apramāṇaśubha);
Trời Biến tịnh (zh. 遍淨天, sa. śubhakṛtsna).
Trời Tứ thiền (zh. 四禪天) gồm có:
Trời Vô vân (zh. 無雲天, sa. anabhraka);
Trời Phúc sinh (zh. 福生天, sa. puṇyaprasava);
Trời Quảng quả (zh. 廣果天, sa. bṛhatphala);
Trời Vô tưởng (zh. 無想天, sa. asāṃjñika);
Trời Vô phiền (zh. 無煩天, sa. avṛha);
Trời Vô nhiệt (zh. 無熱天, sa. atapa);
Trời Thiện kiến (zh. 善見天, sa. sudarśana);
Trời Sắc cứu cánh (zh. 色究竟天, sa. akaniṣṭha);
Trời Hoà âm (zh. 和音天, sa. aghaniṣṭha);
Trời Đại tự tại (zh. 大自在天, sa. mahāmaheśvara).
Có sách xếp trời Vô tưởng, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt, trời Thiện kiến, trời Sắc cứu kính, trời Hoà âm thuộc trời Tịnh phạm (zh. 淨梵天), không thuộc về trời Tứ thiền.
Chúng sinh ở cõi Sắc giới không phải chịu bất tác ý khổ (không đạt được ham muốn nên buồn khổ) bởi họ đã trừ hết những ham muốn về giới tính, thể xác. Nhưng họ vẫn chịu hành khổ (không thoát được luân hồi), hoại khổ (do vẫn có thể xác nên thể xác đó rồi cũng tới lúc phải hư hoại rồi chết).
Cõi Vô sắc
Vô sắc giới hay cõi Vô sắc (zh. 無色界, sa. arūpaloka, arūpadhātu, bo. zuk mé kham གཟུགས་མེད་ཁམས་, zuk mé kyi kham གཟུགས་མེད་ཀྱི་ཁམས་): thế giới này được tạo dựng thuần tuý bằng tâm thức và gồm bốn xứ (sa. arūpasamādhi). Các chúng sinh ở đây không còn thân xác vật chất mà chỉ tồn tại dưới dạng ý thức, họ đã chấm dứt mọi ham muốn và khoái lạc tinh thần, ngoại trừ vọng tưởng, chấp trước, phiền não. Chúng sinh ở đây đã loại bỏ được sự phiền toái của thân xác, sự lệ thuộc và chướng ngại vật lý nên họ không có và không cần thân xác. Họ vẫn cần thức ăn hay cách để duy trì sự tồn tại theo chu kỳ đó là ý niệm tịnh tĩnh mông lung, bao la, đó là nhập vào đại định. Nếu chúng sinh nào tu lên tầng này họ sẽ không thể tiếp thu Phật pháp, không nghe chánh pháp Như Lai: họ không biết khổ vì lục căn của họ đã xả đi, thân xác họ cũng không có, họ không nghe được giáo pháp Như Lai mà chỉ hưởng thụ chìm đắm khoái lạc của thiền định, tịnh tĩnh trong khoảng thời gian cực dài - đại kiếp nên Phật có thuyết pháp cho họ cũng không được, không thể tiếp nhận, có thể nói ngần ấy thời gian không gặp Phật pháp, rất khó đi đến giải thoát, cuối cùng vẫn phải đọa lạc.
Vô sắc giới gồm các tầng trời:
Xứ Không vô biên (zh. 空無邊處, sa. ākāśanantyāyatana);
Xứ Thức vô biên (zh. 識無邊處, sa. vijñānanantyāyatana);
Xứ Vô sở hữu (zh. 無所有處, sa. ākiṃcanyāyatana);
Xứ Phi tưởng phi phi tưởng (zh. 非想非非想處, sa. naivasaṃjñā-nāsaṃjñāyatana).
Hành giả tu học thiền đến cảnh giới cao, trên mức tứ thiền định (từ Không vô biên xứ trở lên) có thể sinh vào bốn xứ này.
Chúng sinh ở cõi Vô Sắc không phải chịu bất tác ý khổ (không đạt được ham muốn nên buồn khổ) bởi họ đã trừ hết những ham muốn về giới tính, thể xác. Họ cũng không phải chịu hoại khổ (do không còn thể xác nên không lo bản thân bị hư hoại). Nhưng họ vẫn chịu hành khổ (không thoát được luân hồi), tức là đến lúc hết phước báu, thọ mạng của họ sẽ hết và họ sẽ phải chết đi, luân hồi sang kiếp khác vì cảnh giới này cao nhất Phi tưởng Phi-Phi tưởng tâm không có phiền não trong 84 000 Đại kiếp (84000×1.334.240.000 năm) cũng là thọ mạng của họ, hết thời hạn lập tức đọa xuống tầng trời thấp hơn, cảnh giới này không duy trì vĩnh viễn và nằm trong luân hồi.
Phi Tam giới
Trên tam giới còn có các cõi phi tam giới như: Thinh Văn Giác, Phật Độc Giác và Phật Toàn Giác, đây là cõi của những chúng sinh đã chấm dứt phiền não và thoát khỏi luân hồi vĩnh viễn.
Tham khảo
佛光大辭典. 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren'', Bern 1986.
Xem thêm
Thiên (Phật giáo)
Triết lý Phật giáo
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
|
11404
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam%20th%E1%BB%ABa
|
Tam thừa
|
Tam thừa (sa. triyāna, Hán tự: 三乘) theo quan niệm Phật giáo Đại thừa là ba con đường tu hành giúp hành giả đạt đến sự giải thoát hay chứng được Niết-bàn ở các cấp độ khác nhau. Ba phương pháp tu đó là: Thanh Văn thừa (sa. śrāvakayāna), Duyên Giác thừa (sa. pratyekabuddhayāna) và Bồ-tát thừa (sa. bodhisattvayāna). Theo kinh Diệu Pháp Liên Hoa, hành trình đến sự giải thoát chỉ có duy nhất một con đường là Phật thừa (hay Nhất thừa, sa. Ekayāna), tuy nhiên do căn cơ chúng sinh khác nhau mà từ một Phật thừa phân biệt giảng nói thành ba thừa (Phẩm 2. Phương Tiện) để cho mọi chúng hữu tình đều có thể giác ngộ.
Thanh Văn thừa (Śrāvakayāna)
Thanh Văn thừa là phương pháp tu hành của những vị đệ tử xuất gia (gồm tỳ-kheo, tỳ-kheo-ni) tu học theo Phật toàn giác (như Phật Thích Ca) với mục đích tột cùng là đắc quả A-la-hán (sa. Arhat hay trong một số văn bản dùng là Sāvakabuddha). Nhiều học giả gọi Thanh Văn thừa là Tiểu thừa (sa. Hinayana) vì cho rằng con đường này không thể độ được các chúng sinh khác đắc đạo (tha lực) mà chỉ có thể giúp người tu hành chứng ngộ và bản thân A-la-hán chưa phải là Phật quả. Nội dung tu học của Thanh Văn thừa chủ yếu xoay quanh chân lý Tứ diệu đế (Sa. catvāry āryasatyāni) bao gồm Khổ đế (chỉ ra khổ của mọi chúng sinh bao gồm bát khổ, tam khổ), Tập đế (chỉ ra nguyên nhân của sự khổ đau: do vô minh), Diệt đế (chỉ ra phương pháp tiêu trừ khổ đau) và Đạo đế (hay Bát chính đạo: cách thức tu tập để thoát khỏi khổ đau). Người tu hành theo Thanh Văn thừa có thể đốn ngộ (chứng đạt Niết-bàn ngay tức khắc) hoặc tiệm ngộ (chứng đạt Niết-bàn qua một quá trình dài lâu). Có bốn cấp bậc đạo quả mà hành giả đạt được khi tu theo Thanh Văn thừa (tức Tứ thánh quả), bao gồm:
Sơ quả Nhập Lưu hay Thất Lai: tức quả Tu-đà-hoàn (Sotāpatti) là quả đầu tiên do hành giả chứng được sau khi phá được ba kiết sử: Thân kiến, Giới cấm thủ, và Nghi. Người đã đắc quả Nhập Lưu sẽ không còn bị đọa sinh vào ba cõi ác: địa ngục (sa. Naraka), Ngạ quỷ, Súc sinh trong đời vị lai và chắc chắn sẽ đắc quả A-la-hán sau bảy kiếp nữa.
Nhị quả Nhất Lai: tức quả Tư-đà-hàm (Sakadāgāmī), người chứng nhị quả này làm giảm nhẹ 2 kiết sử tham, sân và sẽ là Người đắc nhị quả, chỉ còn tái sinh thêm một lần nữa thì đắc quả A-la-hán.
Tam quả Bất Lai: tức quả A-na-hàm (Anāgāmī), người đắc quả A-na-hàm đã phá xong 2 kiết sử tham, sân (dù hai kiết sử này vẫn ở trạng thái vi tế). không tái sinh cõi người nữa mà được sinh lên tầng thiên rồi tu đến khi đắc đạo.
Tứ quả A-la-hán: tức quả vị cuối cùng của bốn thánh quả khi tu hạnh Thanh Văn, vị này đã phá xong 10 kiết sử, những vị đã chứng quả A-la-hán đã thoát khỏi vòng quay luân hồi mà hưởng sự tĩnh tịch nơi Niết-bàn. Các vị A-la-hán được gọi là các vị vô học vì các ngài đã thông suốt chân lý nên không cần học thêm nữa trong khi các quả khác gọi là bậc hữu học vì còn phải học tập để đạt tới sự giải thoát.
Tuy nhiên, quả vị A-la-hán chưa phải là sự giác ngộ viên mãn, tột cùng theo quan niệm Đại thừa. Theo Tạp A Tì Đàm Tâm (quyển 5) và Câu Xá Luận (quyển 25), tùy theo căn tính nhanh hay chậm thì A-la-hán được chia thành sáu bậc:
Thoái Pháp A La Hán, cũng gọi là Thoái Tướng A La Hán: chỉ những vị mới chỉ gặp một ít ác duyên đã dễ dàng đánh mất quả vị đã chứng được.
Tư Pháp A La Hán, cũng gọi là Tử Tướng A La Hán: chỉ những vị lo sợ bị mất quả vị A La Hán mà nghĩ đến việc tự sát.
Hộ Pháp A La Hán, cũng gọi Thủ Tướng A La Hán: chỉ những vị có khả năng giữ gìn, không để mất quả vị.
An Trụ Pháp A La Hán, cũng gọi là Trụ Tướng A La Hán, chỉ những vị không lui cũng không tiến mà ở yên nơi quả vị.
Kham Đạt Pháp A La Hán, cũng gọi là Khả Tiến Tướng A La Hán, chỉ những vị có khả năng tiến tới nhanh chóng mà đạt đến pháp Bất Động.
Bất Động Pháp A La Hán, cũng gọi là Bất Hoại Tướng A La Hán, chỉ những vị vĩnh viễn không đánh mất pháp đã chứng được.
Duyên Giác thừa (Pratyekabuddhayāna)
Bích Chi Phật (Sa. Pratyekabuddha) là một vị Phật đã giác ngộ nhưng không có khả năng giáo hóa chúng sinh đắc quả Vô thượng nên kém hơn Phật Toàn Giác (Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác). Duyên Giác thừa thuộc hạng Trung thừa (nằm giữa Thanh Văn thừa và Bồ-tát thừa). Hành giả trên con đường này chủ yếu tu theo thuyết Thập Nhị Nhân Duyên (Duyên khởi) mà đắc đạo. Có hai nhóm Bích Chi Phật đó là
Duyên Giác Phật: những vị do căn tu hành nhờ nghe theo Phật Toàn giác mà chứng được Phật quả.
Độc Giác Phật: những vị tự chứng ngộ lý Duyên khởi mà không thầy chỉ dạy mà chứng được Phật quả. Theo một số học giả, Độc Giác Phật thực ra là Duyên Giác Phật là do các vị này đã từng được thụ giáo thuyết Duyên khởi bởi Phật Toàn giác, sau đó sinh lên cõi Thiên tiếp tục tu. Sau đó hóa về kiếp người (khi Phật Toàn Giác đã diệt độ), do căn tu đã được gieo trồng từ trước nên chứng được thuyết Thập nhị nhân duyên, đắc Phật quả.
Bồ-tát thừa (Bodhisattvayāna)
Bồ-tát thừa (Bodhisattvayāna) hay Bồ tát đạo được xem là Đại thừa vì những chúng sinh nào tu theo con đường này sẽ đưa đến quả Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác (A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, Sa. Anuttara-samyak-sambodhi), bất kỳ ai cũng có thể thụ giới Bồ-tát (gồm 10 giới trọng, 48 giới khinh trong kinh Phạm Võng Bồ Tát Giới) và tu theo Bồ-tát thừa dù là bậc xuất gia (Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni) hay bậc tại gia/hàng bạch y (ưu-bà-tắc/ cận sự nam như trưởng giả Duy-ma-cật trong Duy-ma-cật sở thuyết kinh, ưu-bà-di/ cận sự nữ). Phương pháp tu hạnh chính của con đường này là thực hành các ba-la-mật-đa (sa. paramita), theo dòng văn Bát-nhã và một số kinh điển khác như kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì có lục độ: Bố thí (dana), Trì giới (śīla), Nhẫn (kṣānti), Tinh tấn (vīrya), Thiền định (dhyāna), Trí huệ (prajñā); trong phẩm Thập Địa, kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm có bổ sung thêm bốn ba-la-mật đó là Phương Tiện, Nguyện, Lực, Trí.
Bồ-tát hay gọi đầy đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (sa. Bodhisattva) là những chúng sinh có nguyện lực lớn muốn vừa tự giải thoát chính mình (tự giác) vừa cứu độ những chúng sinh khác (tha giác). Một vị Bồ-tát có thể phát nguyện thành Phật mới độ chúng sinh (như Phật Vô Lượng Thọ, Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương, Phật Bất Động...) hoặc độ chúng sinh rồi mới thành Chính quả (như ngài Địa Tạng Vương Bồ-tát); một số trường hợp thì dù đã đắc quả Vô thượng nhưng vì thương xót chúng sinh nên mới hiện thân làm Bồ-tát (như ngài Quán Thế Âm Bồ-tát trong kinh Đại Bi Tâm Đà-la-ni). Theo kinh Phạm Võng, kinh Anh Lạc thì có 52 cấp bậc của Bồ-tát (xếp từ thấp lên cao) là:
Thập Tín vị: Tín tâm, Niệm tâm, Tinh tấn tâm, Huệ tâm, Định tâm, Bất thoái tâm, Hồi hướng tâm, Hộ pháp tâm, Giới tâm và Nguyện tâm.
Thập Trụ vị: Phát tâm trụ, Trị địa tâm trụ, Tu hành tâm trụ, Sinh quý tâm trụ, Phương tiện cụ trúc tâm trụ, Chánh tâm trụ, Bất thoái tâm trụ, Đồng chân tâm trụ, Pháp vương tử tâm trụ và Quán đảnh tâm trụ.
Thập Hạnh vị: Hoan hỷ tâm hạnh, Nhiêu ích tâm hạnh, Vô sân hận tâm hạnh, Vô tận tâm hạnh, Ly si loạn tâm hạnh, Thiện hiện tâm hạnh, Vô trước tâm hạnh, Tôn trọng tâm hạnh, Thiện pháp tâm hạnh và Chân thật tâm hạnh.
Thập Hồi hướng vị: Cứu độ nhất thiết chúng sinh ly chúng sinh tướng hồi hướng tâm, Bất hoại hồi hướng tâm, Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng tâm, Chí nhất thiết xứ hồi hướng tâm, Vô tận công đức hồi hướng tâm, Tuỳ thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng tâm, Tuỳ thuận đẳng quan nhất thiết chúng sinh hồi hướng tâm, Như tướng hồi hướng tâm, Vô phược giải thoát hồi hướng tâm, Pháp giới vô lượng hồi hướng tâm.
Thập Địa: Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Diệm huệ địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Viễn hành địa, Bất động địa, Thiện huệ địa và Pháp vân địa.
Ngoài ra trên bậc Thập Địa là Đẳng Giác Bồ Tát, sau khi mãn được Đẳng Giác thời thành Diệu Giác (tức Phật Chính Đẳng Chính Giác).
Thập Trụ vị, Thập Hạnh vị, Thập Hồi hướng vị được gọi chung là 30 bậc Hiền; Thập địa được gọi là 10 bậc thánh. Thông thường, những vị đã chứng được Viễn hành địa trở lên được gọi là Đại Bồ-tát, Đại sĩ hay Ma-ha-tát-đỏa (Mahasattva) như Quán Thế Âm Bồ-tát, Địa Tạng Vương Bồ-tát, Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Phổ Hiền Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát (A-dật-đa Bồ-tát), Hư Không Tạng Bồ-tát, Trừ Cái Chướng Bồ-tát...
Nhất thừa (Ekayāna)
Trong Phẩm 2. Phương tiện của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật Thích-ca có thuyết rằng chỉ có một Phật thừa duy nhất. Tuy nhiên, chúng sinh có căn tính khác nhau nên sự lĩnh hội cũng khác nhau do đó mới từ một Phật thừa mà nói thành tam thừa là Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Bồ-tát thừa để mọi chúng sinh đều có thể giác ngộ, thoát khỏi khổ đau. Trong phẩm 3. Thí dụ, Phật có đưa ra thí dụ minh họa cho ý niệm trên: nhà một vị trưởng giả bị cháy (tượng trưng cho cõi Ta-bà sa. Saha), ông trưởng giả (ẩn dụ cho đức Phật) chạy thoát được ra ngoài trong khi ba đứa con của ông (ẩn dụ cho chúng sinh) vẫn mẩn mê chơi bời trong ngôi nhà cháy rực ấy. Biết căn tính các con thích đồ chơi mới lạ trưởng giả nói lớn với các con rằng sẽ cho các con, mỗi người một trong ba cỗ xe (con đường tu thoát): cỗ xe dê, xe hươu và xe trâu, thế là các con vì phấn khích nên mới chạy ra khỏi ngôi nhà cháy. Sau đó, trưởng giả biết mình giàu có nên những cỗ xe tầm thường ấy không xứng với các con do đó ông quyết định cho mỗi người con cỗ xe đẹp, lớn, giăng châu báu giống nhau, mà không phân biệt (ẩn dụ cho Nhất thừa).
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Xem thêm
Đại thừa
Tiểu thừa
Kim cương thừa
Kinh điển Phật giáo
Triết lý Phật giáo
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
|
11406
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%ADp%20nh%E1%BB%8B%20b%E1%BB%99%20kinh
|
Thập nhị bộ kinh
|
Thập nhị bộ kinh (chữ Hán: 十二部經), còn gọi là Thập nhị phần giáo (十二分教), Thập nhị phần thánh giáo (十二分聖教; tiếng Phạn:dvādaśāṅga-dharma-pravacana), Thập nhị phần kinh (十二分經), Thập nhị Phật ngữ (十二佛語; tiếng Phạn: dvādaśānga-buddhavacana), là một thuật ngữ phân loại kinh điển Phật giáo trung kỳ. Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ và Phật giáo Đại thừa cùng sử dụng cách phân loại Thập nhị phần giáo.
Cách phân loại Thập nhị bộ kinh được xem là bắt nguồn từ thời kỳ Phật giáo Bộ phái, phát triển từ cách phân loại Cửu phần giáo. Do sự bất đồng từ hệ thống kinh điển của các bộ phái mà Thập nhị bộ kinh cũng có những khác biệt.
Cách phân loại Mười hai bộ kinh như sau:
Kinh chỉ những bài kinh chính Phật thuyết;
Trùng tụng một dạng kệ tụng mà trong đó nhiều câu được lặp đi lặp lại;
Thọ ký chỉ những lời do Phật thọ ký, chứng nhận cho các vị Bồ Tát, đệ tử mai sau thành Phật và những việc sẽ xảy ra…;
Kệ-đà những bài thơ ca không thuật lại văn trường hàng, xem Kệ;
Tự thuyết chỉ những bài kinh mà Phật tự thuyết, không phải đợi người thỉnh cầu mới trình bày;
Nhân duyên chỉ những bài kinh nói về nhân duyên khi Phật thuyết pháp và người nghe pháp…;
Thí dụ chỉ những loại kinh mà trong đó Phật sử dụng những thí dụ, ẩn dụ để người nghe dễ hiểu hơn;
Như thị pháp hiện chỉ những bài kinh nói về sự tu nhân chứng quả của các vị đệ tử trong quá khứ, vị lai;
Bản sinh kinh còn gọi chuyện tiền thân đức Phật, truyện tái sanh của Bồ Tát, Túc sanh truyện, những kinh nói về đời trước của đức Phật khi còn là Bồ Tát, tu các pháp khổ hạnh, trong những kiếp đó đức Phật đã từng làm hươu, gấu, thỏ, chim, rồng… cũng có lúc làm người, làm vua. Là loại Kinh nói về các đời trước của đức Phật khi ngài thực hành thập độ hay lục độ. Thường mỗi Kinh Bổn Sanh gồm có bốn phần: 1) Câu chuyện hiện tại 2) Câu chuyện quá khứ có liên hệ đến những nhân vật trong câu chuyện hiện tại. 3) Giải thích bài kệ hay một vài danh từ trong câu chuyện quá khứ. 4) Phần kết hợp chỉ rõ sự liên hệ giữa những nhân vật chính trong hai câu chuyện quá khứ và hiện tại.
Phương quảng Thuộc loại kinh điển đại thừa là phần kinh có nghĩa lý sâu xa bí mật. Theo Từ điển Phật Hoc (tg: Đặng Trung Còn) "Trong mười hai bộ kinh, nếu chỉ đọc tụng, thơ tả, giảng thuyết phương quảng kinh, thì người ấy cũng có thể gọi là Bồ Tát Đa Văn."
Hi pháp kinh nói về thần lực chư Phật và thánh đệ tử, cảnh giới kì diệu, hi hữu mà phàm phu không hội nổi;
Luận nghị chỉ những bài kinh có tính cách vấn đáp với lý luận cho rõ lý tà, chính.
Chú thích
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
"Phật học từ Điển Tác" giả Đặng Trung Còn
Đại Tạng Kinh Việt Nam
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
Kinh điển Phật giáo
Triết lý Phật giáo
|
11423
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A9%20di%E1%BB%87u%20%C4%91%E1%BA%BF
|
Tứ diệu đế
|
Trong Phật giáo, Tứ Diệu Đế (hay Tứ Thánh Đế) là "những sự thật của bậc thánh", là những sự thật hay những cái có thật cho "những người xứng đáng về mặt tâm linh". Các sự thật bao gồm:
khổ đế (dukkha sự không thỏa mãn, sự đau đớn) là một tính chất bẩm sinh khi tồn tại trong các cảnh luân hồi;
tập đế (samudaya: nguồn gốc, sự sanh khởi hay là "nguyên nhân"): dukkha khởi cùng với taṇhā (ái). Trong khi taṇhā được dịch một cách truyền thống trong các ngôn ngữ phương tây là 'nguyên nhân' của khổ (dukkha), taṇhā còn có thể được xem là yếu tố buộc chúng ta vào khổ, hoặc là một phản ứng với khổ, cố gắng để thoát khỏi nó;
diệt đế (nirodha: sự đoạn diệt, sự chấm dứt, sự giam cầm): khổ có thể được chấm dứt hoặc được ngăn chặn bằng sự từ bỏ hoặc cắt đứt quan hệ với ái (taṇhā); sự từ bỏ ái sẽ giải thoát khỏi sự trói buộc của khổ;
đạo đế (magga: Bát chánh đạo) là con đường dẫn đến sự từ bỏ, sự đoạn diệt ái (tanha) và khổ (dukkha).
Bốn sự thật
Bộ đầy đủ – Dhammacakkappavattana Sutta
Tứ diệu đế được biết đến nhiều nhất qua sự giải thích của chúng trong bài kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkappavattana) mà nó bao gồm hai bộ về tứ diệu đế, trong khi một vài bộ khác có thể được tìm thấy ở tạng kinh tiếng Pali, một bộ sưu tập các bản miêu tả trong truyền thống Phật giáo Thượng tọa bộ. Bộ đầy đủ, là bộ được sử dụng nhiều nhất trong các bản giải thích hiện đại, bao gồm nhiều lỗi ngữ pháp, dẫn đến nhiều nguồn khác cho bộ này và có vài vấn đề liên quan đến việc phiên dịch trong cộng đồng Phật giáo cổ đại. Tuy nhiên, những điều trên đã được xem như là đúng bởi truyền thống tiếng Pali, mà nó đã không sửa lại những lỗi trên.
Dựa theo truyền thống Phật giáo, Kinh Chuyển pháp luân, "Thiết lập chuyển động cho bánh xe của chánh Pháp", chứa đựng các phương pháp giảng dạy đầu tiên mà Đức Phật đã đưa ra sau khi đạt đến sự giác ngộ hoàn toàn, và giải thoát khỏi sự tái sinh. Theo L. S. Cousins, rất nhiều học giả xem rằng "bài kinh này đã được xác định như là bài giảng đầu tiên của Đức Phật chỉ ở thời gian sau này," và theo giáo sư về tôn giáo Carol S. Anderson thì bốn sự thật có lẽ lúc ban đầu không phải là một phần của bài kinh này, nhưng chúng đã được thêm vào sau đó thông qua một vài phiên bản chỉnh sửa. Trong bài kinh này, tứ diệu đế được trình bày như sau ("tỳ-kheo" thường được dịch là "tu sĩ Phật giáo"):
Cũng theo bài kinh này, với sự thấu hiểu hoàn toàn về bốn sự thật này thì việc giải thoát khỏi vòng luân hồi (saṃsāra) đã được Đức Phật đạt được:
Việc thấu hiểu bốn sự thật đối với những người nghe pháp của Đức Phật sẽ dẫn đến sự mở ra Con mắt chánh pháp (Dhamma Eye: pháp nhãn), đó là, sự đạt được chánh kiến:
Bộ cơ bản
Theo K.R. Norman, bộ cơ bản được trình bày như sau:
idam dukkham, "đây là khổ"
ayam dukkha-samudayo, "đây là sự tập khởi của khổ"
ayam dukkha-nirodha, "đây là sự đoạn diệt của khổ"
ayam dukkha-nirodha-gamini patipada, "đây là con đường đưa đến sự đoạn diệt của khổ." Các thuật ngữ chính trong phiên bản dài hơn của câu này là dukkha-nirodha-gamini Patipada, có thể được dịch như sau:
Gamini: dẫn tới, làm đến
Patipada: con đường, lối đi, hướng đi; là một phương tiện để đạt đến một mục tiêu hoặc một đích đến.
Bộ ghi nhớ
Theo K. R. Norman, tạng kinh tiếng Pali chứa nhiều dạng rút gọn của tứ diệu đế. "Bộ ghi nhớ" là bộ được "dùng để nhắc nhở người nghe về dạng đầy đủ của tứ diệu đế." Dạng sớm nhất của bộ ghi nhớ là "dukkham samudayo nirodho magga", mà không đề cập đến các thuật ngữ sacca hay arya vì chúng được thêm vào trong công thức về sau. Bốn thuật ngữ ghi nhớ có thể được hiểu như sau:
Dukkha - "không thỏa mãn", "bản chất không thỏa mãn và sự không an toàn của tất cả các pháp hữu vi"; "đau đớn". Dukkha thường hay được dịch là "đau đớn" (suffering). Theo Khantipalo, đây là một bản dịch chưa chính xác, bởi vì nó chỉ cho bản chất không thỏa mãn tột cùng của những trạng thái và thứ tạm thời, bao gồm những trải nghiệm mang tính hài lòng nhưng tạm thời. Theo Emmanuel, Dukkha là đối lập với sukha, "hài lòng", và nó nên được dịch như là "khổ".
Samudaya - "nguồn gốc", "nguồn", "sự sinh khởi", "đưa đến sự tồn tại"; "tổng các yếu tố hay phần tử của một cá thể hoặc sự tồn tại", "nhóm", "đi cùng với nhau", "sự kết hợp", "sản sinh ra nguyên nhân", "sự sinh khởi". Nó bao gồm:
sam - "với, cùng với";
udaya - "sự sinh khởi," "sự gia tăng"; "sự vươn lên, sự đến trước"; "sự nâng cao, sự đề cao, sự gia tăng; sự phát triển"; "kết quả, hậu quả";
Nirodha - sự đoạn diệt; sự giải phóng; để hạn chế; "sự ngăn chặn, sự đàn áp, sự xây tường, sự kiểm soát"
Marga - "con đường".
Xem thêm
Duyên khởi
Bát chánh đạo
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn
Nguồn in
Sutta Pitaka
(See also Anguttara Nikaya)
Buddhist teachers
Scholarly sources
Nguồn web
Đọc thêm
Historical background and development
, chapter 8
Theravada commentaries
Walpola Rahula (1974), What the Buddha Taught, Grove Press
Ajahn Sucitto (2010), Turning the Wheel of Truth: Commentary on the Buddha's First Teaching, Shambhala.
Ajahn Sumedho (2002), The Four Noble Truths, Amaravati Publications.
Bhikkhu Bodhi (2006), The Noble Eightfold Path: Way to the End of Suffering, Pariyatti Publishing.
Tibetan Buddhism
Chögyam Trungpa (2009), The Truth of Suffering and the Path of Liberation, Shambhala.
Dalai Lama (1998), The Four Noble Truths, Thorsons.
Geshe Tashi Tsering (2005), The Four Noble Truths: The Foundation of Buddhist Thought, Volume I, Wisdom, Kindle Edition
Ringu Tulku (2005), Daring Steps Toward Fearlessness: The Three Vehicles of Tibetan Buddhism, Snow Lion. (Part 1 of 3 is a commentary on the four truths)
Modern interpretations
Epstein, Mark (2004), Thoughts Without A Thinker: Psychotherapy from a Buddhist Perspective. Basic Books. Kindle Edition. (Part 1 examines the four truths from a Western psychological perspective)
Moffitt, Phillip (2008), Dancing with Life: Buddhist Insights for Finding Meaning and Joy in the Face of Suffering, Rodale, Kindle Edition. (An explanation of how to apply the Four Noble Truths to daily life)
Thich Nhat Hanh (1999), The Heart of the Buddha's Teaching, Three Rivers Press
Other scholarly explanations
Gethin, Rupert (1998), Foundations of Buddhism, Oxford University Press, (Chapter 3 is a commentary of about 25 pages.)
Lopez, Donald S. (2001), The Story of Buddhism, HarperCollins. (pp. 42–54)
Liên kết ngoài
" What are the Four Noble Truths?"
" The Four Noble Truths: an overview", Berzin Archives
The Four Noble Truths. A Study Guide, Thanissaro Bikkhu
Four Noble Truths, Rigpa Wiki
Tứ diệu đế - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Buddhist philosophical concepts
4 Four Noble Truths
|
11424
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/My%C5%8Dshin-ji
|
Myōshin-ji
|
Chùa Myōshin (kanji: 妙心寺, romaji: Myōshin-ji, phiên âm Hán-Việt: Diệu Tâm tự) là một ngôi chùa danh tiếng, thuộc tông Lâm Tế tại Kyoto, Nhật Bản, được Thiền sư Kanzan Egen (Quan Sơn Huệ Huyền, 1277-1360) sáng lập.
Kanzan Egen vâng lệnh Nhật hoàng Hanazono sửa đổi một li cung của ông mà thành chùa Myōshin. Ban đầu, chùa này chỉ là một ngôi nhà nhỏ, sụp nát, mưa chảy cả vào trong. Tại đây, Kanzan Egen đã dẫn dắt môn đệ rất kĩ lưỡng, nghiêm khắc. Có lần, Quốc sư Musō Sōseki đến viếng thăm và khi trở về, sư bảo các vị đệ tử của mình rằng "tương lai của Thiền Lâm Tế nằm tại chùa Myōshin".
Dòng Lâm Tế sau chủ yếu lấy chùa này làm trung tâm mà phát triển. Đến pháp tôn đời thứ sáu là Sekkō Sōshin (1408-1486) thì chia thành 4 phái và trở thành chủ lực lớn nhất của Thiền tông Nhật Bản.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Kyōto (thành phố)
Myoshin
Khởi đầu năm 1342
|
11425
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20ch%C3%BAng%20b%E1%BB%99
|
Đại chúng bộ
|
Đại chúng bộ (chữ Hán: 大眾部, tiếng Phạn: महासांघिक, ; bo. ཕལ་ཆེན་པའི་སྡེ་པ་, phiên âm THL: pel chen pé dé pa), còn gọi là Ma-ha-tăng-kỳ bộ (摩訶僧祇部), giản lược thành Tăng-kỳ bộ (僧祇部), Thánh đại chúng bộ (聖大眾部), là một trong hai bộ phái hình thành đầu tiên thời Phật giáo Bộ phái. Danh xưng của phái này, "đại chúng", nhằm để chỉ đến đặc điểm được hình thành bởi phái đa số, chủ yếu là các tăng sĩ trẻ, cấp tiến, của Tăng-già nguyên thủy, sau khi phái thiểu số, chủ yếu là các trưởng lão, tách ra để hình thành Trưởng lão bộ (sa. sthaviravāda).
Theo các ghi chép của Dị bộ tông luân luận và Dị bộ tông luân luận thuật ký, Đại chúng bộ chủ trương Đức Phật đã hoàn toàn ly tình tuyệt dục, uy lực vô biên, thọ lượng vô cùng. Những lời của Đức Phật là chánh pháp giáo lý, nên được tiếp thu trọn vẹn. Hiện tại là có thực, quá khứ vị lai là không có thực. Pháp vô vi có 9 loại. Bản tính của Tâm vốn thanh tịnh, ban đầu bị ô nhiễm bởi phiền não, tu tập Phật pháp có thể loại bỏ ô nhiễm và trở về thanh tịnh.
Nguồn gốc hình thành
Các tài liệu Phật giáo ghi chép việc chia rẽ Tăng đoàn nguyên thủy theo những thuyết khác nhau:
Đại Tỳ-bà-sa luận (bản Hán dịch Huyền Trang) chép nguyên nhân chia rẽ do Đại Thiên nêu lên Năm việc gây tranh cãi, từ đó dẫn đến phân liệt.
Dị bộ tông luân luận (bản Hán dịch Huyền Trang) ghi rằng sự chia rẽ cơ bản là do bất đồng quan điểm từ Năm việc do Đại Thiên nêu lên. Sư phân liệt này xảy ra dưới thời Ashoka, sau đó khoảng 100 năm thì có một Đại Thiên thứ hai cũng đề xuất Năm việc, từ đó thành lập Chế-đa bộ ở Nam Ấn.
Đảo sử liên kết việc chia rẽ đến Đại hội kết tập lần thứ hai tại Vaishali (Tỳ-xá-ly) phê phán Mười điều phi Pháp.
Xá-lợi-phất vấn kinh (bản Hán dịch khuyết danh đời Tấn) cho rằng nguyên nhân chia rẽ từ việc sau thời kỳ bị Vương triều Shunga bức hại, Phật giáo được phục hưng, một số trưởng lão trong Tăng đoàn muốn tăng thêm giới luật dẫn đến sự phân liệt.
Đại Đường Tây Vực ký (tác giả Huyền Trang) ghi chép một truyền thuyết của phái Đại chúng bộ, nói rằng những người không được tham dự Đại hội kết tập lần thứ nhất đã tự tổ chức một đại hội kết tập riêng gần với địa điểm 500 trưởng lão kết tập. Do số lượng lớn lên đến hàng nghìn người nên có danh xưng là "Đại chúng bộ kết tập".
Các nhà nghiên cứu hiện đại như André Bareau, Paul Demiéville, Nalinaksha Dutt... đều thiên về một trong các thuyết chính trên, nhưng tất cả đều thống nhất quan điểm bản chất sự chia rẽ liên quan đến giới luật (vinaya). Theo đó, sự chia rẽ là do phái đa số (Mahāsaṃgha) từ chối chấp nhận đề nghị bổ sung thêm các giới luật vào Luật tạng của phái thiểu số (Sthavira). Thông tin này được củng cố bởi chính các nguồn về giới luật, vì các giới luật liên quan đến Sthavira chứa đựng nhiều quy tắc hơn giới luật trong Luật tạng Mahāsāṃghika. Ví dụ, Mahāsāṃghika Prātimokṣa có 67 giới luật trong phần Chúng học pháp (sa. śaikṣa-dharma), trong khi phiên bản Theravāda có đến 75 giới. Học giả hiện đại nói chung đều đồng ý rằng Luật tạng Đại chúng bộ là lâu đời nhất.
Các mô tả
Nhà sư Parthia An Thế Cao khi đến Trung Quốc đã dịch Đại Tỳ-kheo Tam thiên Uy nghi (大比丘三千威儀), một tác phẩm mô tả màu sắc của y phục tăng nhân (kāṣāya) được sử dụng trong năm bộ phái Phật giáo lớn của Ấn Độ. Tài liệu Xá-lợi-phất vấn kinh (Śāriputraparipṛcchā) được dịch sau này cũng có những đoạn mô tả xác nhận thông tin này. Trong cả hai nguồn, các tăng nhân Mahāsāṃghika được mô tả là mặc y vàng.
Theo Dudjom Rinpoche, tăng y của các tu sĩ Mahāsāṃghika thọ giới cụ túc phải được may từ hơn 7 mảnh, nhưng không quá 23 mảnh. Các biểu tượng được may trên y là chữ Vạn (sa. śrīvatsa) và ốc loa (sa. śaṅkha), hai trong số Tám Dấu hiệu Tốt lành (Ashtamangala) trong Phật giáo.
Nhà sử học Tây Tạng Buton Rinchen Drub (1290-1364) đã viết rằng các Mahāsāṃghika sử dụng ngôn ngữ Prākrit, Sarvāstivādin sử dụng Phạn ngữ, Sthaviravādin sử dụng Paiśācī và Saṃmitīya sử dụng Apabhraṃśa.
Tông nghĩa
Quan điểm của Đại chúng bộ được xem là tiền thân của giáo pháp Đại thừa sau này. Người ta đã tìm thấy nơi Đại chúng bộ quan điểm cho rằng, tất cả đều chỉ là giả danh, cái tuyệt đối cũng như tương đối, Niết-bàn hay Luân hồi, thế gian hay xuất thế gian. Tất cả những danh tự đó không hề có một thật chất trường tồn. Thời đó, quan điểm này đã ngược hẳn giáo lý của Trưởng lão bộ (sa. sthaviravādin, pi. theravādin).
Các vị thuộc Đại chúng bộ xem đức Phật là con người siêu thế, với thân tâm hoàn toàn thanh tịnh. Đó là khái niệm đầu tiên dẫn đến quan điểm "Phật siêu việt" sau này của Đại thừa Phật giáo. Đại chúng bộ xem đức Phật là sống vô tận, đã đạt Nhất thiết trí, toàn năng, thể nhập đại định vĩnh cửu.
Kinh văn
Hầu hết tài liệu kinh văn của Đại chúng bộ không còn được lưu truyền cho đến ngày nay, chỉ còn sót lại Ma-ha-tăng-kỳ luật (摩訶僧祇律) Hán dịch của Đại chúng bộ, Đại sự (Mahāvastu) Phạn ngữ lai của Thuyết xuất thế bộ và Giới kinh (Pratimokṣa) Phạn ngữ lai của Đại chúng bộ.
Phân nhánh
Theo thời gian, Đại chúng bộ lại tách ra thành các phái Nhất thuyết bộ (Ekavyāhārika), Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravāda) và Kê dận bộ (Kukkuṭika), Đa văn bộ (bahuśrutīya), Thuyết giả bộ (Prajñaptivāda), Chế Đa Sơn bộ (Caityasaila), Tây Sơn trú bộ (Aparasaila) và Bắc Sơn trú bộ (Uttarasaila).
Chú thích
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Hirakawa, Akira: A History of Indian Buddhism. From Śākyamuni to Early Mahāyāna. Translated and Edited by Paul Groner. University of Hawaii Press, 1990.
Harrison, P.M.: "Sanskrit Fragments of a Lokottaravādin Tradition" in Hercus et al. (1982): Indological and Buddhist Studies. Canberra: Australian National University, Faculty of Asian Studies.
Thích Tâm Hải, "Bài 1: Sơ lược lịch sử Phật giáo Ấn Độ sau thời đức Phật", Phần 2: Lịch sử Phật giáo, Phật học cơ bản - tập 2.
Bộ phái Phật giáo
|
11427
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i%20c%E1%BB%A9u%20c%C3%A1nh
|
Đại cứu cánh
|
Đại cứu cánh (zh. 大究竟, bo. rdzogs chen རྫོགས་ཆེན་, rdzogs pa chen po རྫོགས་པ་ཆེན་པོ་, sa. atiyoga), cũng gọi là Đại viên mãn (zh. 大圓滿), Đại thành tựu (zh. 大成就), là giáo pháp chủ yếu của tông Ninh-mã (bo. nyingmapa) trong Phật giáo Tây Tạng. Giáo pháp này được xem là Mật giáo cao nhất được Thích-ca Mâu-ni chân truyền. Giáo pháp này được gọi là "Đại cứu cánh" vì nó cùng tột, không cần bất cứ một phương tiện nào khác. Theo giáo pháp này, tâm thức luôn luôn thanh tịnh, hành giả chỉ cần trực nhận điều đó. Theo truyền thuyết, Đại cứu cánh được Liên Hoa Sinh (sa. padmasambhava) và Tì-ma-la-mật-đa (sa. vimalamitra) đưa vào Tây Tạng trong thế kỉ 8 và sau đó được Lũng-cần Nhiêu-ráng-ba (zh. 隴勤饒絳巴, bo. klong chen pa ཀློང་ཆེན་པ་) tổng kết trong thế kỉ 14. Cuối cùng, tông phái này được Jigme Lingpa (1730-1798) kết tập và truyền đến ngày nay.
Giáo pháp Đại cứu cánh xuất phát từ Bản sơ Phật Phổ Hiền, từ Pháp thân (Tam thân) siêu việt thời gian và không gian. Pháp thân truyền trực tiếp cho Báo thân là Kim Cương Tát-đỏa (sa. vajrasattva), truyền đến Ứng thân là Garab Dorje (sinh năm 55). Garab Dorje truyền lại giáo pháp này cho đệ tử là Diệu Đức Hữu (sa. mañjuśrīmitra) với hơn 6 triệu câu kệ. Vị đệ tử này chia các câu kệ này làm 3 phần: Semde (tâm thức), Longde (hư không) và Mengagde (khai thị). Học trò của Diệu Đức Hữu là Cát Tường Sư Tử (sa. śrīsiṃha) hoàn chỉnh thêm phần khai thị và giao cho Kì-na-tu-đa-la (sa. jñānasūtra) và Tì-ma-la-mật-đa (Vô Cấu Hữu). Sau đó Tì-ma-la-mật-đa đưa giáo pháp này qua Tây Tạng.
Một dòng khác của giáo pháp này được Liên Hoa Sinh Đại sư phát triển hơn nữa. Sư là người được các vị Không hành nữ (sa. ḍākinī) truyền pháp Đại cứu cánh. Giáo pháp này xuất phát từ nhận thức, thể của tâm thức vốn thanh tịnh, không ô nhiễm, nhưng vì con người không nhận ra điều đó nên cứ mãi trầm luân trong sinh tử. Một phương cách đột phá được vòng sinh tử này là nhận cho được tâm thức "trần trụi", "tự nhiên" là thể tính của mọi hoạt động tâm lý. Sư trình bày cánh cửa dẫn đến "Tri kiến uyên nguyên", là sự thống nhất giữa tính Không (sa. śūnyatā) và Cực quang (sa. ābhāsvara, en. clear light, ánh sáng rực rỡ). Bên cạnh các cách thể nhận Không, còn có cách dựa vào ánh sáng của tri kiến uyên nguyên mà giác ngộ. Đây chính là cơ sở của các lời khai thị trong Tử thư, một trong những luận giải quan trọng của Phật giáo Tây Tạng.
Một phép tu khác là thực hiện được sự tan rã của tứ đại đã tạo thành thân thể không để lại dấu vết (biến mất), đạt được "thân cầu vồng" (sa. indracāpakāya).
Tham khảo
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Phật học
Mật tông
Phật giáo Tây Tạng
Triết lý Phật giáo
Nghi thức Phật giáo
|
11434
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Daitoku
|
Chùa Daitoku
|
Chùa Daitoku (kanji: 大徳寺, romaji: Daitoku-ji, phiên âm Hán-Việt: Đại đức tự) là một ngôi chùa nổi danh thuộc tông Lâm Tế tại thành phố Kyoto, Nhật Bản. Chùa thờ Thích Ca Như Lai và do Thiền sư Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超, shūhō myōchō) sáng lập. Daitoku là một trong thập sát Kyoto.
Năm 1315, Thiền sư Diệu Siêu tự lập cho mình một cái am nhỏ mang tên Đại đức, nằm ở hướng Tây Bắc của Kyōto. Sau một thời gian, danh tiếng của Sư lan truyền khắp nơi và Nhật hoàng Godaigo mời Sư vào cung tham hỏi Phật pháp. Nhân dịp này, Sư được Thiên hoàng ban cho một khoảnh đất rất lớn để xây dựng một ngôi chùa to (1324). Dưới sự hướng dẫn của một vị tăng thuộc tông Thiên Thai, công trình xây dựng ngôi chùa lớn này được xúc tiến. Tháng ba năm 1327, ngôi chùa này—mang tên am cũ của Sư là Đại đức—được khánh thành dưới sự hiện diện của cựu Nhật hoàng Hanazono và Nhật hoàng Godaigo.
Ngay từ sau khi thành lập, chùa Daitoku là một trung tâm văn hoá quan trọng của Nhật. Với thời gian, ngôi chùa này trở thành một công trình với nhiều chùa nhỏ xung quanh với những vị trụ trì riêng biệt. Một hệ phái thiền quan trọng cũng mang tên của ngôi chùa này, đó là phái Daitokuji (Daitokuji-ha).
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Dumoulin, Heinrich:
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Daitoku
Khởi đầu năm 1325
Quốc bảo của Nhật Bản
|
11435
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1c%20ng%E1%BB%99%20trong%20Ph%E1%BA%ADt%20gi%C3%A1o
|
Giác ngộ trong Phật giáo
|
Giác ngộ (zh. 覺悟, sa., pi. bodhi), danh từ được dịch nghĩa từ chữ bodhi (bồ-đề) của Phạn ngữ, chỉ trạng thái tỉnh thức trong Phật giáo.
Giải nghĩa của bodhi và Phật thành
Phật giáo giai đoạn đầu
Thượng tọa bộ
Đại thừa
Một trong các giải nghĩa của bodhi là lúc con người bỗng nhiên trực nhận tính Không (sa. śūnyatā), bản thân nó là Không cũng như toàn thể vũ trụ cũng là Không. Chỉ với trực nhận đó, con người mới thấu hiểu được thể tính mọi hiện tượng. Tính Không hiểu ở đây không phải sự trống rỗng thông thường mà nói về một thể tính vô biên không thể dùng suy nghĩ, cảm nhận để đo lường, nằm ngoài cặp đối đãi có-không. Tính Không này không phải là một đối tượng để một chủ thể tiếp cận đến vì bản thân chủ thể cũng thuộc về nó. Vì vậy, giác ngộ là một kinh nghiệm cá nhân không thể giãi bày. Con người chỉ đạt trạng thái giác ngộ khi họ đã biết tất cả (toàn giác), hiểu biết rõ ràng, đúng đắn bản ngã và thế giới xung quanh, đã nhận thức được tận cùng bản thể của vạn vật do đó không còn chấp thủ, hoài nghi và đạt đến một trình độ nhận thức được gọi là giác ngộ. Phương Tây dịch giác ngộ thành khai sáng (enlightenment) vì trong triết học phương Tây khai sáng là tự sử dụng trí tuệ của mình để nhận thức đúng đắn thế giới cũng giống như giác ngộ trong Phật giáo.
Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói với đạo sĩ Brahmàyu:
"Những gì cần biết rõ, Ta đã biết rõ.
Những gì cần từ bỏ, Ta đã từ bỏ.
Những gì cần tu tập. Ta đã tu tập.
Do vậy, này Vị đạo sĩ, Ta là Phật"
Trích Trung bộ kinh, kinh Brahmàyu
Dù rằng cái thể của tính Không là một, nhưng người ta cho rằng có nhiều mức độ giác ngộ khác nhau. Nếu so sánh giác ngộ như phá vỡ một bức tường, thì có mức giác ngộ như chỉ hé mở một lỗ nhỏ và giác ngộ như Phật Thích-ca là phá vỡ hoàn toàn bức tường đó. Có vô vàn khác nhau giữa các mức giác ngộ, biểu hiện bằng sự rõ ràng chính xác của thiền giả đạt được. Dựa trên kinh nghiệm của các bậc giác ngộ, thế giới của sự giác ngộ không hề khác với thế giới hiện tượng của chúng ta, tất cả đều là một, Hiện tượng-Tính không, Tương đối-Tuyệt đối. Kinh nghiệm về cái tất cả là một này chính là kinh nghiệm về thể tính tuyệt đối đó. Trong Bát-nhã ba-la-mật-đa tâm kinh (sa. mahāprajñāpāramitā-hṛdaya-sūtra) chỉ rõ "sắc tức là không, không tức là sắc", tức là không hề có hai thế giới. Nhờ tình trạng giác ngộ sâu xa, hành giả từ bỏ được cái Ngã. Trong Thiền tông, một khi cái ngã đã chết ("đại tử") thì "đời sống" mới bắt đầu, đó là một cuộc sống tự tại và an lạc. Người điển hình đã giác ngộ hoàn toàn mà tất cả các Phật tử đều công nhận là vị Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni, cũng là người bắt đầu giáo hoá cho nên đạo Phật cũng được gọi là "đạo giác ngộ".
Mặc dù Thần thông, Tất-địa (sa. siddhi) là một dấu hiệu của sự tiến triển trong quá trình tu tập nhưng Phật khuyên không nên sử dụng - nếu có khả năng - và không nên coi trọng nó - nếu đang trên đường tìm Đạo, vì nó vẫn nằm trong thế giới hữu vi, chưa là biểu hiện của cái tuyệt đối, của chân như.
Xem thêm
Đại ngộ triệt để
Ngộ
Kiến tính
Vô thượng du-già
Vô ngã
Vô thường
Luân hồi
Tham khảo
Đọc thêm
Chung
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Phật giáo thời kỳ đầu
Thượng tọa bộ
Shankman (2008), The Experience of Samadhi
Keren Arbel (2017), Early Buddhist Meditation, Taylor & Francis
Đại thừa
Thiền tông
Các giai đoạn giác ngộ trong Phật giáo
Triết lý Phật giáo
Tâm linh
|
11440
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%93-%C4%91%E1%BB%81%20%C4%91%E1%BA%A1o%20%C4%91%C4%83ng%20lu%E1%BA%ADn
|
Bồ-đề đạo đăng luận
|
Bồ-đề đạo đăng luận (zh. 菩提道燈論, sa. bodhipathapradīpa) là một tác phẩm quan trọng của Đại sư A-đề-sa, người truyền Phật pháp sang Tây Tạng trong thời kì truyền pháp thứ hai. Tác phẩm này là nền tảng tu học của hầu hết các tông phái Phật giáo tại đây.
Đại ý của tác phẩm này là việc chia ra thứ bậc trong việc tu hành Phật pháp do căn cơ của người ta không giống nhau. Người phát đại tâm là Đại thừa, người chỉ phát tâm xuất li là Tiểu thừa. Vì vậy cùng là Bố thí, trì Giới (sa. śīla), Định (sa., pi. samādhi), Huệ (sa. prajñā) nhưng kết quả lại không giống nhau. Căn cơ kém của con người ta là do tu tập mà thành, không phải do chủng tộc từ vô thủy đến nay đã có sẵn, không thể thay đổi được. Ngay cả con đường tu tập cũng phải tuần tự theo các thứ bậc mà tiến lên, không thể bỏ nhảy vượt qua được, nếu không thì không bao giờ đạt phúc đức vô thượng cả.
Bài tụng từ thứ 2 đến thứ 5 mở đầu của bài luận này là làm rõ hành tướng và thứ bậc ba hạng người được gọi là "Tam sĩ hành tướng thứ đệ" (三士行相次第):
Người lang thang trong Vòng sinh tử, nhưng không cho là khổ, cho là vui, lấy việc cầu mong tư lợi làm mục đích. Loại người này được gọi là "hạ sĩ";
Người tuy chán ghét luân hồi sinh tử, xa rời ác nghiệp, nhưng vẫn còn tâm tư lợi. Loại người này được gọi là "trung sĩ";
Người đã dứt hết được mọi đau khổ của mình, muốn cứu giúp chúng sinh, nguyện dứt bỏ mọi nỗi đau khổ cho các loài hữu tình. Loại người này được gọi là "thượng sĩ".
Trong ba hạng người trên chỉ thượng sĩ có thể đảm nhiệm Đại thừa nhưng thiện nghiệp của hạng phàm phu, bậc nhị thừa cũng không vứt bỏ. Cái sau hơn cái trước, cái trước được thu nhiếp trong cái sau, đó chính là thứ bậc của sự tu hành.
A-đề-sa chia hạnh của Bồ Tát thành hai loại Hiển-Mật: lấy Bát-nhã của Hiển giáo làm nhân, lấy Vô thượng du-già đát-đặc-la (sa. anuttarayogatantra) làm quả. Giữa khoảng nhân quả thì lấy việc phát Bồ-đề tâm (sa bodhicitta) để kết nối quán thông. Thứ bậc trong khoảng đó thì trước hết là Hiển-Mật cùng tu hành, lấy Tam quy y, Tam học làm cơ sở. Từ giới đạt định, từ định phát huệ rồi sản sinh những hạnh lợi tha. Sau đó cùng vận dụng cả trí huệ và phương tiện. Đó chính là phát tâm đại dũng, thực hiện chính hạnh Bồ Tát. Do vận dụng đủ cả bi và trí để tích tập công đức trí huệ, sau đó lại tu hành riêng theo Mật thừa, Bồ Tát nhanh chóng chứng đắc Vô thượng bồ-đề.
Tam quy y đây tức là yếu chỉ giải thoát, là chỗ sở y để phát tâm Bồ-đề. Bồ Tát phải cúng dường tài vật cho Tam bảo. Đến khi thành Phật thì vẫn phải lấy tâm bất thoái chuyển bảy lần cúng dường nữa, rồi lại lấy cái tâm kiên quyết dứt khoát ấy ba lần dâng Tam bảo nữa thì mới được gọi là thành tựu quy y. Lấy Tam quy đó làm căn bản, nảy nở tâm đại bi (sa. mahākaruṇā) với tất cả các loài Hữu tình, quán sát suy nghĩ vì sao các loài chúng sinh đang trôi lăn trong vòng sinh tử. Sau khi hiểu rõ thì lại thi hành phương tiện cứu độ họ và nảy nở tâm Bồ-đề không lay chuyển (vô đảo 無倒). Tam học đây chính là "Tam tăng thượng học" (zh. 三增上學) được giới thiệu như sau:
Tăng thượng giới học (zh. 增上戒學, sa. adhiśīlaśikṣā): Luật nghi của bảy hàng Thanh văn nên thực hành song song với Bồ Tát giới, tuân thủ theo nghi quỹ trong Du-già sư địa luận (sa. yogācārabhūmi-śāstra) của Vô Trước và Tập Bồ Tát học luận (sa. śikṣāsamuccaya) của Tịch Thiên (sa. śāntideva);
Tăng thượng định học (zh. 增上定學, sa. adhicittaśikṣā): Do giới mà sinh định, định được sản sinh thì có rất nhiều phần, tuân theo chín phần của Giác Hiền (sa. buddhabhadra), tức là: 1. Lìa ma nghiệp; 2. Lấy việc nghe pháp để hướng dẫn; 3. Vứt bỏ lý luận; 4. Không tham nói rộng; 5. Dựa vào tướng mà tác ý; 6. Niệm định phúc đức; 7. Chăm chỉ đối trị; 8. Hoà hội chỉ quán, 9. Hiểu rõ ở, ăn chỉ là phương tiện. Sau khi đầy đủ chín điều kiện này rồi dùng Phương tiện thiện xảo (善巧方便, sa. upāyakauśalya) như thế nào để thật tế tu định thì phải có thầy đích thân truyền cho, vì đó không phải là điều văn tự trình bày được hết;
Tăng thượng huệ học (zh. 增上慧學, sa. adhiprajñāśikṣā): Định (sa. samādhi) là một loại công phu của Chỉ (sa. śamatha) nhưng tu chỉ vẫn chưa đủ để cắt đứt các chướng ngại như nghiệp, hoặc,... Vì vậy phải thêm công phu Quán (sa. vipaśyanā).
Đó chính là Huệ học mà Bát-nhã và Du-già đã nói nhưng chỉ có trí huệ không thôi thì chưa đạt được cứu cánh, phải có thêm phương tiện mới thành tựu được. Trong đây, A-đề-sa dựa vào kiến giải của Giác Hiền (không phải Giác Hiền qua Trung Quốc dịch kinh), chia Lục ba-la-mật-đa thành hai loại:
Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định là thuộc phương tiện;
Bát-nhã là thuộc trí huệ. Lấy phương tiện giúp tăng thượng để tu trí huệ, chứng đắc Bồ-đề, tức là không còn chướng ngại.
Đây mới chỉ là nói về phương pháp tu hành chung cho Hiển và Mật giáo. Từ Hiển vào Mật giáo thì không cần phải phát tâm nào khác, chỉ cần tuân theo tất cả nghi quỹ chung mà bắt đầu tu tập theo những Tantra. Còn như Mật pháp tu hành cụ thể như thế nào phải đích thân Đạo sư truyền giảng cho, vì đây là điều không miêu tả bằng văn tự được.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-Guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Kinh văn Phật giáo Đại thừa
Phật giáo Tây Tạng
Triết lý Phật giáo
en:Bodhipathapradīpa
zh:菩提道灯论
|
11441
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%93%20%C4%91%E1%BB%81%20%28Moraceae%29
|
Bồ đề (Moraceae)
|
Bồ đề hay còn gọi cây đề, cây giác ngộ (danh pháp khoa học: Ficus religiosa) là một loài cây thuộc chi Đa đề (Ficus) có nguồn gốc ở Ấn Độ, tây nam Trung Quốc và Đông Dương, về phía đông tới Việt Nam. Nó là một loài cây rụng lá về mùa khô hoặc thường xanh bán mùa, cao tới 30 m và đường kính thân tới 3 m.
Lá của chúng có hình trái tim với phần chóp kéo dài đặc biệt; các lá dài 10–17 cm và rộng 8–12 cm, với cuống lá dài 6–10 cm. Quả của cây bồ đề là loại quả nhỏ giống quả vả đường kính 1-1,5 cm có màu xanh lục điểm tía.
Tín ngưỡng, tôn giáo
Cây Bồ-đề được gọi trong một số ngôn ngữ khác là cây Bo, Pipul hay Aśvattha, Assattha (tiếng Pali). Từ Aśvattha là tiếng Phạn; Śvaḥ có nghĩa là "ngày mai", a chỉ sự phủ nhận, và tha có nghĩa là "người hay vật dừng lại hay tồn tại". Nhà triết học nổi danh thuộc hệ phái Advaitavedānta (Bất nhị phệ-đà) là Śaṅkara diễn giải tên gọi này là "Người hay vật không thể tồn tại giống như thế vào ngày mai", cũng giống như toàn thể vũ trụ.
Loài cây này được cho là thiêng liêng bởi những người theo Ấn Độ giáo, Kì-na giáo và Phật giáo. Tương truyền thái tử Tất-đạt-đa Cồ-đàm ngồi thiền định dưới một gốc cây như vậy và đạt giác ngộ, trở thành một vị Phật. Qua đó mà cây này có tên bồ đề, vì Bồ-đề có nghĩa là Giác ngộ.
Hiện tại người ta có thể chiêm ngưỡng một cây Bồ-đề rất lớn tại chùa Đại Bồ-đề (Mahābodhi) tại Bồ-đề đạo trường (Bodhgayā), khoảng 96 km (60 dặm) từ Patna thuộc bang Bihar) của Ấn Độ. Đây là con của cây Bồ-đề mà ngày xưa Phật Thích-ca Mâu-ni đã ngồi thiền định 49 ngày sau khi thành tựu Vô thượng chính đẳng chính giác. Cây này là điểm dừng chân của những người hành hương, là tụ điểm quan trọng nhất trong bốn khu vực thiêng liêng đối với những người theo đạo Phật.
Cây Bồ-đề thời Phật thành Đạo đã bị vua Bengal là Śaṣaṅka phá hủy hồi thế kỉ thứ 7. Cây con được trồng kế nó cũng bị bão thổi trốc gốc năm 1876. Cây con ngày nay được lấy từ một nhánh của cây Bồ-đề gốc được vua A-dục tặng vua Tích Lan vào khoảng 288 TCN. Nó mang tên Śrī Mahā ("điềm lành và to lớn"). Ngày nay, tại cố đô Anurādhapura của Tích Lan (Sri Lanka), cây Bồ-đề đó vẫn còn xanh tốt và thời điểm trồng này làm cho nó trở thành cây già nhất trong số các thực vật có hoa có thể kiểm chứng được tuổi.
Trong văn học
"Cây đa, cây đề" là chỉ những người đã có tên tuổi thành danh.
Tên gọi trong các ngôn ngữ khác nhau
Tiếng Việt — bồ-đề
Tiếng Kannada — araLi mara ಅರಳಿ ಮರ
Tiếng Malayalam — അരയാല് arayaal
Tiếng Tamil — அரசு, அரச மரம் arasa maram (Literally "king" or "king's tree"; arasu or arasan is Tamil for "king")
Tiếng Telugu — రావి చెట్టు raavi chettu
Tiếng Bengal — অশ্বথ, i.e. ashwath, পিপুল, i.e. pipul
Tiếng Bhojpuri — pippar
Tiếng Gujarati — પિપળો (pipdo)
Tiếng Hindi - Peepal - पीपल
Tiếng Konkani — pimpalla rook/jhadd
Tiếng Mahal — އަޝްވަތި ގަސް (aśvati gas)
Tiếng Maithili (मैथिली) — पीपर (peepar)
Tiếng Marathi — पिंपळ pimpaL (where L is as in for example Nagold)
Tiếng Nepal (नेपाली) — पीपल (peepal or pipal)
Tiếng Odia — ଅଶ୍ୱତ୍ଥ (ashwatth)
Tiếng Pali — assattha; rukkha
Tiếng Punjab — Pippal - ਪਿੱਪਲ/ پپل
Tiếng Phạn — अश्वत्थः aśvatthaḥ vṛksha, pippala vṛksha (vṛksha means "tree")
Tiếng Sinhala — ඇසතු esathu
Tiếng Urdu — peepal پیپل
Tiếng Nhật —
Tiếng Triều Tiên —
Tiếng Tây Ban Nha Cuba - alamo
Tiếng Tagalog - ballete
Tiếng Miến Điện — ဗောဓိညောင်ပင် (Bodhi nyaung pin), ဗောဓိပင် (Bodhi pin)
Tiếng Hoa — 菩提樹 (pútíshù, bodhi tree)
Tiếng Thái — โพธิ์ (pho)
Ảnh
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Liên kết ngoài
Bằng tiếng Anh:
Cây Bồ Đề - Các điểm đến thiêng liêng.
Hệ thống du lịch tới cây Bồ Đề Sri Maha
Phẩm bồ đề trong kinh Phật tự thuyết
Chuyện cây bồ đề và Thánh đế Kalinga
Biểu tượng Phật giáo
R
Thực vật Ấn Độ
Thực vật Bangladesh
Thực vật Sri Lanka
Thực vật Trung Quốc
Thực vật Pakistan
Thực vật biểu sinh
Thực vật Đông Dương
Cây trang trí
Thực vật vườn châu Á
Thực vật được mô tả năm 1753
Thực vật được sử dụng trong Đông y
Cây châu Á
|
11444
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%ADch-ca%20M%C3%A2u-ni
|
Thích-ca Mâu-ni
|
Siddhartha Gautama (, chữ Hán: 悉達多瞿曇, phiên âm Hán-Việt: Tất-đạt-đa Cồ-đàm) hay Gautama Buddha, còn được gọi là Sakyamuni (, chữ Hán: 釋迦牟尼, phiên âm Hán-Việt: Thích-ca Mâu-ni, trong khẩu ngữ thường gọi là Phật, Bụt, Phật Tổ, Đức Thế Tôn hoặc Đức Phật) là một nhà tu hành và nhà truyền giáo, người sáng lập ra Phật giáo.
Ông xuất thân là thái tử vương tộc Gautama của tiểu quốc Shakya ở vùng Kapilavastu. Tuy nhiên, ông sớm từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý để lên đường đi tìm chánh đạo. Sau 6 năm tu đạo, ông đạt được giác ngộ chính pháp vào năm 35 tuổi và giành tiếp 45 năm cho việc truyền bá, giảng dạy giáo lý Phật pháp trên khắp tiểu lục địa Ấn Độ. Đức Phật đề xướng con đường Trung đạo - tức vừa từ bỏ đời sống xa hoa nhưng cũng không đi theo lối tu hành ép xác khổ hạnh vốn rất thịnh hành trong các học thuyết tôn giáo Ấn Độ thời đó. Giáo pháp của ông đặt nền tảng cho sự hình thành và phát triển của giáo lý đạo Phật ngày nay.
Ông được coi là đạt tới giác ngộ để thành Phật. Chi tiết về cuộc đời và sự nghiệp của Đức Phật được nhiều thế hệ học trò ghi nhớ và tổng hợp lại sau khi ông nhập niết bàn. Hàng loạt bản kinh ghi lại lời dạy của ông được lưu giữ qua nhiều thế hệ và dần bắt đầu được viết thành sách 200 năm sau đó.
Cuộc đời
Các cách phiên âm tên
Tất-đạt-đa Cồ-đàm; đôi khi cũng được phiên âm là Sĩ-đạt-ta Cồ-đàm (悉達多 瞿曇) đều là các kiểu phiên âm trong Hán-Việt (dùng tiếng Trung Quốc phiên âm tiếng Phạn ra chữ Hán, rồi dùng âm Hán-Việt đọc các chữ Hán đó sang tiếng Việt), còn được người đương thời và các Phật tử sau này tôn xưng là Shakyamuni (शाक्यमुनि), tiếng Hán phiên âm thành 释迦牟尼, Hán-Việt đọc là "Thích-ca-mâu-ni", hay thường gọi đơn giản là Bụt; Devanagari: बुद्ध, phiên âm Hán-Việt từ tiếng Trung: 佛 (Phật). Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành (一切義成), Thành tựu chúng sinh (成就眾生, dịch từ dạng dài của tên Phạn ngữ là Sarvārthasiddha).
Bối cảnh và gia thế
Dù có nhiều hoài nghi và do dự trước đây, nhưng sau các khám phá khảo cổ vào đầu thế kỷ 20, hầu hết các học giả ngày nay đều công nhận Ngài đã sống và truyền dạy giáo lý trong thời Mahajanapada dưới thời cai trị của vua Tần-bà-sa-la (Bimbisāra) (558 - 491 TCN) và qua đời trong thời gian đầu của triều đại A-xà-thế (Ajātaśatru), người kế thừa của Tần-bà-sa-la. Cuộc đời của Tất-đạt-đa không những trùng hợp với thời kỳ phát triển của Bà-la-môn mà còn trùng với sự phát triển của trường phái tu khổ hạnh Sramana như Kỳ-na giáo, Ājīvika, Ajñana, Cārvāka (triết học duy vật khoái lạc).
Thời điểm chính xác năm sinh theo lịch hiện đại của ông không được ghi nhận rõ, dao động trong khoảng từ 624 tới 563 trước Công nguyên. Tuy nhiên, Đại hội Phật giáo Thế giới đã thống nhất cho rằng Tất-đạt-đa sinh khoảng năm 624 trước Công nguyên và qua đời khi 80 tuổi (năm 544 TCN).
Cha ông là vua Tịnh-phạn (Suddhodana), người đứng đầu tiểu quốc Thích-ca (Shakya), một tiểu quốc nằm ở vùng biên giới Ấn Độ - Nepal ngày nay, có kinh đô là Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu). Mẹ ông là hoàng hậu Ma-da (Maya), người tiểu quốc Koli láng giềng.
Cuộc sống ban đầu và hôn nhân
Thái tử Tất-đạt-đa được sinh ra tại vườn Lumbini (Lâm-tì-ni), nay thuộc Nepal.
Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm thân mẫu Phật của bà Ma-da như sau: cách đây 91 đại kiếp Trái Đất, đã có 1 vị Phật Chánh Đẳng Giác tên là Phật Tỳ Bà Thi (Vipassī) ra đời. Có một công nương (con một vị đại thần trong triều đình) đã cúng dường Phật Tỳ-bà-thi với lòng chí thành và ước nguyện rằng trong tương lai, cô sẽ được làm mẹ của 1 vị Phật. Đức Phật Tỳ-bà-thi đã thọ ký cho cô sẽ được như nguyện. Công nương đó chính là tiền kiếp của hoàng hậu Ma-da
Tiền kiếp của Thái tử Tất-đạt-đa là bồ-tát Setaketu, cư trú ở cõi trời Đâu-suất, trong khi theo quan niệm của đạo Bà La Môn, Setaketu là thái tử được thần Vishnu sai xuống làm con. Sau khi quán xét thấy nhân duyên và Ba-la-mật-đa đã chín muồi để đạt tới quả vị Phật, vị này quyết định biến hình thành một con voi trắng, nhập thai vào bà Maya cho lần luân hồi chuyển kiếp cuối cùng để thành Phật ở nhân gian.
Trong 10 tháng trước đó, hoàng hậu Maya được vua cho phép giữ 8 giới thanh tịnh nhân dịp lễ cầu mưa (Asadh Utsav). Một đêm tại thành Ca-tì-la-vệ (Kapilavastu), hoàng hậu Maya nằm mộng thấy được chở đi bởi 4 thiên thần đến hồ Anotatta bên dãy Himalaya (Hy Mã Lạp Sơn). Sau khi tắm trong hồ, các thiên thần đã mặc cho bà bộ quần áo của cõi trời, xức dầu thơm cho bà, và trang điểm cho bà bằng những bông hoa tuyệt đẹp. Một con voi trắng sáu ngà, vòi cuốn một hoa sen lớn màu trắng, từ trên trời bay xuống chui vào hông phải của bà, lúc đó bà cảm thấy thân tâm an lạc, sáng chói như ánh trăng rằm. Thức dậy, bà đem chuyện giấc mộng kỳ lạ kể cho nhà vua nghe. Nhà vua liền cho mời 64 nhà tiên tri Bà-la-môn đến giải mộng; các vị này đoán là hoàng hậu đã mang thai và hoàng tử sắp được sinh ra sẽ là một bậc thánh nhân, là Chuyển luân Thánh vương (vua của các vị vua) hoặc một bậc Thánh giác ngộ.
Khoảng mười tháng sau giấc mơ kỳ lạ đó, ngày sinh nở của Hoàng hậu Maya ngày càng đến gần. Một ngày nọ, Hoàng hậu Maya đến bên vua và thưa: "Bệ hạ, thiếp phải trở về quê để chuẩn bị sinh con". Theo tập quán thời đó, người vợ phải về sinh con tại nhà cha mẹ của mình. Vua đồng ý, nói rằng: "Rất tốt, ta sẽ chuẩn bị chu đáo để hoàng hậu về quê". Nhà vua sai binh lính đi trước để dọn đường và cho người chuẩn bị kiệu cho hoàng hậu trở về quê. Hoàng hậu rời kinh đô Ca-tỳ-la-vệ bằng một đoàn rước kiệu của những người lính trở về thủ đô vương quốc Koliya nơi vua cha Anjana trị vì.
Trên đường trở về quê hương Koliya, đoàn rước kiệu đi qua một khu vườn gọi là Lâm-tỳ-ni. Khu vườn này gần vương quốc Nepal, dưới chân dãy núi Himalaya. Lâm Tỳ Ni có nhiều cây sala (Ta-la) che bóng mát tỏa hương thơm ngát, chim chóc và bướm ong bay lượn làm hoàng hậu phải chú ý. Bởi nơi này thuận lợi cho nghỉ ngơi, hoàng hậu đã ra lệnh cho mọi người dừng chân. Khi hoàng hậu nghỉ dưới một gốc cây sala, bà chuyển dạ và sinh hạ một người con trai. Người con trai đó sau này là Đức Phật. Đó là rạng sáng ngày mồng 8 tháng Tư âm lịch theo Phật giáo Bắc tông hoặc vào ngày trăng tròn tháng Vesak theo Phật giáo Nam tông.
Theo các kinh điển Phật giáo, ngay từ lúc sinh ra, ông đã có đầy đủ tướng tốt (Ba mươi hai tướng tốt). Tên được chọn là Tất-Đạt-Đa (Siddhartha) có nghĩa là "người thành đạt mọi nguyện vọng".
Sau khi 2 mẹ con về cung, vua Tịnh-phạn nghe tin có 1 vị cao nhân đến thăm. Người đó là tu sĩ A-tư-đà (Asita), người có tài tiên tri do đã chứng thiền tới cấp rất cao - Phi tưởng phi phi tưởng. Khi xem các tướng của thái tử thì thái tử giơ 2 chân lên đầu A-tư-đà, ông nhìn xuống lòng bàn chân và nói "Dưới 2 lòng bàn chân của thái tử, có hình bánh xe ngàn căm và 32 tướng tốt, sau này chắc chắc thái tử sẽ là một nhà tu hành đắc đạo, hoặc là một chuyển luân thánh vương (vua của các vị vua) cai trị toàn Ấn Độ". Khi tiên nhân A-tư-đà vừa nói xong ông bật khóc, vua Tịnh-phạn hỏi tại sao khóc thì tiên nhân A-tư-đà đáp lại rằng "sau này tôi không thể nghe 1 bậc thánh nhân giảng pháp vì tôi đã quá già rồi" (tu sĩ A-tư-đà đã tiên tri được rằng thọ mạng của ông sắp hết, ông sẽ qua đời trước khi Tất-đạt-đa thành đạo). Nói xong vua cha Tịnh-phạn bực tức, nói rằng "Con ta sẽ là 1 bậc chuyển luân thánh vương, và sẽ là 1 Sát-đế-lỵ (Kshastriya), nên tôi xin mời tiên nhân về cho, tôi còn phải cho các thần dân xem con tôi đã". Lúc này tiên nhân A-tư-đà đi về và nén lại giữa đám đông để nhìn mặt của thái tử. Khi đệ tử ông cũng có hỏi rằng "tại sao ông không về", A-tư-đà đáp "Vì ta đang nhìn cả 1 vũ trụ lần cuối".
Bảy ngày sau khi sinh thì hoàng hậu Ma-da - mẹ của Tất-đạt-đa mất, ông được người dì ruột là Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Kiều-đàm-di) (Mahāpajāpatī Gotamī) - Đại-Ái-Đạo Kiều Đàm Di chăm sóc. Bà Kiều-đàm-di (Gotamī) là em gái của hoàng hậu Ma-da (cả hai cùng kết hôn với vua Tịnh-phạn) đã tình nguyện nhận nuôi dưỡng Thái tử Tất-đạt-đa, còn con ruột của mình là Nan-đà (Nanda) thì giao lại cho người vú chăm sóc. Về sau, khi Tất-đạt-đa đã đắc đạo, bà Kiều-đàm-di đã xin Phật cho phép xuất gia, trở thành nữ đệ tử (Tỳ-kheo ni) đầu tiên của Phật giáo và sau này đã đắc quả A-la-hán:
Kinh Phật nói rằng mẹ của mọi vị Phật đều sẽ qua đời vào 7 ngày sau khi sinh (bởi phúc báu quá lớn của việc đản sinh ra Phật sẽ giúp người mẹ xả bỏ thân xác yếu ớt và thọ mạng ngắn ngủi của con người để tái sinh làm thần trên cõi Trời). Sau khi qua đời, bà Ma-da đã tái sinh làm 1 vị thần trên cõi trời Đâu-suất có tên là Ma-da-đức-ngoá-phổ-đa (Māyādevaputta). Sau này khi thành đạo, Phật Thích Ca đã dùng thần lực để thuyết Vi diệu pháp cho vị thần tiền kiếp là mẹ mình trên cõi trời này để tỏ lòng biết ơn thân mẫu.
Về bà Kiều-đàm-di, Kinh Bản Sinh (Jataka) ghi về nhân duyên làm dưỡng mẫu Phật của bà như sau: cách đây 100.000 đại kiếp Trái Đất, đã có Phật Thượng Liên Hoa (Padumuttara) truyền đạo trên thế gian. Có một công chúa đã cúng dường Phật với lòng chí thành, một hôm khi đang nghe Phật Liên Hoa thuyết pháp, công chúa nhận thấy có một Tỳ kheo ni thật đáng tôn quý, đứng đầu hội chúng Tỳ kheo ni, và là người nữ đệ tử đạt giác ngộ sớm nhất. Bà liền lập nguyện rằng, trong tương lai, do công đức tu tập, bà sẽ được như vị Tỳ kheo ni ấy. Lời nguyện của bà đã được Đức Phật Thượng Liên Hoa ấn chứng là sẽ thành tựu trong thời kỳ của Đức Phật Thích-ca (Shakya). Công chúa đó chính là tiền kiếp của bà Kiều-đàm-di.
Do lời tiên đoán rằng thái tử sẽ bỏ đi tu hành "sau khi thấy một người già, một người bệnh, một xác chết và một Sa môn" ở bốn cửa thành đông-tây-nam-bắc nên vua Tịnh-phạn tìm đủ mọi cách cho Tất-đạt-đa hưởng đầy đủ lạc thú trong hoàng cung, không bao giờ phải nhìn thấy các cảnh khổ đau, bệnh hoạn, già chết ở đời.
Tất-đạt-đa đã sống một cuộc sống thanh tịnh. Vua Tịnh-phạn vốn muốn con ông trở thành quân vương vĩ đại nên không muốn thái tử đi tu. Ông đã cho nhiều người danh tiếng dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, cho thái tử hưởng đầy đủ vinh hoa phú quý, nhất là không để thái tử tiếp xúc với cảnh khổ của cuộc đời. Sau này, Phật kể lại: "Đời sống của ta (lúc bấy giờ) thật là tế nhị, vô cùng tinh tế. Trong hoàng cung, chỗ ta ở, phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen. Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây thì sen đỏ vươn mình phô sắc phía bên kia, và trong đầm bên cạnh sen trắng đua nhau khoe vẻ đẹp dưới ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng đều là loại thượng hảo hạng từ xứ Ca-tây (Kāsi) đưa về. Khăn và xiêm áo của ta cũng may toàn bằng hàng lụa bậc nhất từ Ca-tây chở đến".
Năm lên 18 tuổi, Tất-đạt-đa kết hôn với công chúa Da-du-đà-la (Yaśodharā) của thị tộc Khoa-lợi (Koli). Dù đã kết hôn, Tất-đạt-đa vẫn sống cùng công chúa Da-du-đà-la như đôi bạn thanh tịnh, đều yêu thích thiền định (Thiền), thực hành thiền định và lòng thấy an lạc.
Theo Kinh Bản Sinh, cách đây 4 A tăng kỳ và 100.000 đại kiếp Trái Đất, tiền thân của Tất-đạt-đa là tu sĩ Thiện Huệ (Sumedha). Khi đó có đức Phật tại thế là Phật Nhiên Đăng (Dīpankara). Thiện Huệ nhìn thấy Nhiên Đăng Cổ Phật tận mắt, liền phát nguyện sẽ cố gắng tu học cho đến khi được hoàn toàn giác ngộ như Phật. Sau đó, Thiện Huệ còn nằm sát đất, lấy thân mình để giúp Phật bước qua vũng lầy. Thiện Huệ xin được 5 bông hoa sen của 1 cô gái tên là Trụ-điền (Sumita), chàng chí thành tung năm hoa sen của mình lên không trung để cúng dường Phật. Trụ-điền cũng trao cho chàng 2 bông hoa sen nhờ dâng cúng giùm, với tâm nguyện rằng đời đời kiếp kiếp luân hồi về sau sẽ luôn là vợ của Thiện Huệ, trợ giúp chàng trong muôn kiếp luân hồi cho tới khi chàng thành Phật. Đức Phật Nhiên Đăng quán xét tương lai rồi hoan hỉ thọ ký rằng 2 người sẽ đạt tâm nguyện: sau 4 A tăng kỳ và 100.000 đại kiếp Trái Đất nữa, Thiện Huệ sẽ thành Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni (Sākyamuni) trong đời Hiền kiếp (Bhadra kalpa), còn cô gái Trụ-điền sẽ thường xuyên là vợ của chàng trong các kiếp luân hồi, cho tới khi chàng thành Phật.
Tu sĩ Thiện Huệ thời xa xưa đó chính là tiền kiếp của thái tử Tất-đạt-đa, còn cô gái Trụ-điền chính là tiền kiếp của công chúa Da-du-đà-la.
Nhận thấy con trai vẫn còn ưu tư, vua Tịnh-phạn đã cho xây dựng 3 lâu đài: Lâu đài mùa xuân, lâu đài mùa thu, lâu đài mùa đông để thái tử hưởng thụ, nhằm lung lay ý định xuất gia của ông. Ngoài ra, vua cũng đưa ra điều kiện: thái tử phải sinh được một người con trai thì mới được xuất gia. Nhưng Thái tử và công chúa Da-du-đà-la chỉ sống thanh tịnh như đôi bạn thì không thể đáp ứng yêu cầu của vua cha.
Theo kinh điển, công chúa Da-du-đà-la đã cầu nguyện các vị Chư thiên ban cho mình một đứa con. Do nhân duyên hội đủ để đáp ứng yêu cầu của vua Tịnh-phạn và sự đầy đủ tâm thành trong lời cầu nguyện của công chúa, một vị Chư thiên đã chấp nhận thỉnh cầu đó, một vị đã nhập thai và trở thành con của thái tử. Trong 32 tướng tốt của Đức Phật, có một quý tướng là Âm mã tàng, đây là quý tướng chỉ xuất hiện ở người đã rất nhiều tiền kiếp sống chánh hạnh mới có.
Theo mô tả của các kinh điển Phật giáo, các dục lạc cũng không thể giữ chân Tất-đạt-đa. Do nhân duyên không thể tránh khỏi, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh, người chết và một vị tu sĩ, thái tử Tất-đạt-đa phát tâm tu hành. Rồi trong một đêm, ông lặng lẽ từ biệt hoàng cung, quyết định sống cảnh không nhà của một tu sĩ.
Tương truyền rằng, cả bốn người trong cảnh ngộ vừa kể là do các vị thần trên thiên giới biến hóa thành nhằm nhắc nhở ông lên đường tu thành Phật quả. Tất-đạt-đa thấy rằng ba cảnh đầu tượng trưng cho cái Khổ trong thế gian và hình ảnh tu sĩ chính là sứ mệnh cuộc đời của ông.
Xuất gia
Năm 29 tuổi, công chúa Da-du-đà-la hạ sinh một bé trai. Tất-đạt-đa thấy rằng việc có con khiến cho mong muốn rời nhà đi tu trở nên khó khăn hơn, nên đặt tên đứa trẻ là La-hầu-la (nghĩa là Chướng ngại).
Một đêm, Tất-đạt-đa hạ quyết tâm từ bỏ cuộc sống xa hoa, lìa cung điện bất chấp nỗ lực ngăn cản của cha mình. Trong đêm tối, Tất-đạt-đa gọi người nô bộc trung thành là Sa-nặc (Channa) lấy con ngựa Kiền Trắc (Kanthaka) rồi ra đi. Khi tới bờ sông A-nặc-mã (Anomà), Thái tử dừng lại, bỏ ngựa, cạo râu, cắt tóc, trao y phục và đồ trang sức cho Sa-nặc, lệnh cho Sa-nặc trở về thông báo việc này cho phụ hoàng. Sử sách Phật giáo xác định rằng đó là rạng ngày mồng 8 tháng 2 năm 595 trước công nguyên, và gọi đó là cuộc "Đại xả li" hoặc "Đại xuất hành" (cuộc ra đi vĩ đại)
Tương truyền rằng, các vị trời trên thiên giới đã phù phép để các lính canh ngủ gục, giúp chuyến ra đi của thái tử Tất-đạt-đa diễn ra thuận lợi. Khi tới bờ sông A-nặc-mã, Thái tử dừng lại, cắt tóc và ném mớ tóc lên trời, mớ tóc không rơi xuống mà bay vút lên không trung rồi biến mất, do vua trời Đế Thích (Śakra) đã hứng lấy mớ tóc đó đem về thờ phụng trong bảo tháp trên cõi trời Đao Lợi (Tavatimsa) (một cung trời trong quan điểm Phật giáo). Sau khi trở về, ngựa Kiền Trắc vô cùng buồn bã, bỏ ăn mấy ngày rồi chết. Nhờ thiện nghiệp đưa thái tử đi xuất gia, ngựa Kiền Trắc được tái sanh làm một vị tiên nam trên cung trời Đao Lợi, về sau vị thần này đã được gặp tôn giả Mục-kiền-liên (Moggallāna) - 1 trong 2 đại đệ tử của Phật, và kể lại chuyện tái sinh của mình.
Khi kể lại câu chuyện, vị thần Kiền Trắc có những vần thơ mô tả lại cảnh tượng này như sau:
Vào nửa đêm vương tử xuất gia.
Đi tìm giác ngộ, giã từ nhà
Ngài bảo tôi, vừa thúc mạn sườn:
"Hãy mang ta, hỡi bạn hiền thương
Khi nào giác ngộ đường vô thượng
Ta sẽ giúp người khắp thế gian".
Khi biết hoàng nam Tịnh Phạn Vương,
Đại danh lừng lẫy, cưỡi lưng mình
Với tâm phấn khởi, đầy hoan hỉ
Ta rước người vô thượng chí tôn.
Vượt qua đất nước khắp của người,
Khi mặt trời lên đã quá xa,
Ngài bước đi, lòng không luyến tiếc
Bỏ ta cùng với chú Sa-nặc.
Và ta kêu khóc nhìn theo mãi,
Khi thấy Ngài đi, bậc Đại hùng.
Tất-đạt-đa bắt đầu thử cùng tu khổ hạnh với nhiều nhóm tăng sĩ khác nhau. Ông quyết tâm tìm cách diệt khổ và tìm mọi đạo sư với các giáo phái khác nhau. Theo truyền thống Ấn Độ bấy giờ chỉ có con đường khổ hạnh mới đưa đến đạt đạo. Các vị đạo sư khổ hạnh danh tiếng thời đó là A-la-la Ca-lam (阿羅邏迦藍, sa. ārāda kālāma, pi. āḷāra kālāma) và Ưu-đà-la La-ma tử (優陀羅羅摩子, sa. rudraka rāmaputra, pi. uddaka rāmaputta). Nơi A-la-la Ca-lam, Tất-đạt-đa nhanh chóng đạt đến cấp Thiền Vô sở hữu xứ (sa. ākimcanyāyatana, pi. ākiñcaññāyatana), nơi Ưu-đà-la La-ma tử thì học đạt đến cấp Phi tưởng phi phi tưởng xứ (sa. naivasamjñā-nāsaṃñāyatana, pi. nevasaññā-nāsaññāyatana), là trạng thái siêu việt nhất của thiền định.
Nhưng Tất-đạt-đa cũng không tìm thấy nơi các vị đó lời giải cho thắc mắc của mình. Ngay cả cấp độ thiền định cao nhất là "Phi tưởng phi phi tưởng xứ" cũng chưa đạt đến mức độ triệt để cho việc giải thoát khỏi khổ đau, không phải là chân lý tối hậu, nên ông quyết tâm tự mình tìm đường giải thoát. Có 5 Tỳ-kheo (năm anh em ngài Kiều Trần Như, (Kondañña) đồng hành cùng ông.
Sau 5 năm tu khổ hạnh, có lúc gần kề cái chết, Tất-đạt-đa nhận ra đó không phải là cách tu dẫn đến giác ngộ, nên ông bắt đầu ăn uống bình thường, 5 Tỳ-kheo kia thất vọng bỏ đi. Cách tu cực khổ được Phật nhắc lại sau khi thành đạo như sau:
Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hạt hay súp đậu nhỏ". Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như súp đậu xanh, súp đậu đen hay súp đậu hột hay súp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những cọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn chân của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã quỵ, úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít. Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Cồ-đàm có da đen". Một số người nói như sau: "Sa-môn Cồ-đàm, da không đen, Sa-môn Cồ-đàm có da màu xám". Một số người nói như sau: "Sa-môn Cồ-đàm da không đen, da không xám". Một số người nói như sau: "Sa-môn Cồ-đàm da không đen, da không xám, Sa-môn Cồ-đàm có da màu vàng sẫm". Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít".
Ông có thể bền bỉ vượt qua 6 năm khổ hạnh một phần nguyên nhân là do từ bé, ông đã được sự dạy dỗ về võ thuật và đặc biệt là bộ môn Yoga. Ngoài ra, do sự tập luyện của ông đã đạt đến mức độ xuất sắc, nên mới đủ để vượt qua những thử thách khốc liệt về sức khỏe.
Không đạt giải thoát với cách tu khổ hạnh, ông từ bỏ cách tu này. Quả quyết rằng mình đã đi đến chỗ cùng cực của công phu tu khổ hạnh và khổ hạnh không dẫn đến giác ngộ, ông tìm phương pháp khác, và nhớ lại một kinh nghiệm thời thơ ấu, lúc đang ngồi thiền dưới gốc cây mận:
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc dòng Thích-ca (Shakya) đang cày và Ta đang ngồi thiền dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta li dục, li pháp bất thiện chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỉ lạc do li dục sinh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ". Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không sợ lạc thụ này, một lạc thọ li dục, li pháp bất thiện".
Đạt tới giác ngộ
Sau 6 năm tu khổ hạnh không đạt kết quả, Tất-đạt-đa quyết định ăn uống bình thường trở lại và đi đến Giác Thành. Tất-đạt-đa thường đến bờ sông Nairanjana (Ni-liên-thiền, hiện nay là sông Phalgu) ngồi thiền định trên bãi cát. Một hôm, có hai cô bé chăn bò tên: Nan-đà Nanda và Ba-lạp (Balap) đang dắt bò xuống sông tắm thì thấy Tất-đạt-đa đang ngồi thiền định, họ sanh lòng kính mến liền tự tay vắt lấy sữa bò, nấu chín rồi dâng lên. Tất-đạt-đa ăn xong cảm thấy thân thể khoẻ mạnh.
Đến ngày thứ 49, Tất-đạt-đa ngồi thiền định dưới gốc cây cổ thụ Ni-câu-đà (cách cây Bồ-đề khoảng 150 m về hướng đông), sắp đi khất thực, thì có hai chị em nàng Tu-Xà-Đề (Sujata), con ông trưởng làng Senani, mang bát cháo sữa (kheer) đến cúng vị Thần gốc cây để tạ ơn. Khi thấy Tất-đạt-đa đang tĩnh tọa, hào quang của ông sáng tỏa làm cho Sujata tưởng rằng vị Thần cây đang hiện thân, hai nàng đặt bát cháo sữa bằng vàng trước mặt, cung kính đảnh lễ rồi ra về. Sau khi ăn xong bát cháo sữa, Tất-đạt-đa thấy cơ thể khỏe mạnh lạ thường nên không đi khất thực mà xuống sông Ni-liên-thiền tắm, tâm trạng ông vô cùng phấn chấn, cảm thấy sắp đạt thành tựu viên mãn.
Tương truyền rằng sau khi rửa bát xong, ông để cái bát bằng vàng trên dòng nước và nguyện rằng: "Nếu hôm nay ta được chứng quả thành Phật, thì nguyện cho cái bát nầy nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông". Quả nhiên cái bát nổi trên mặt nước và trôi ngược lại dòng sông 80 sải tay, đến khi gặp phải một xoáy nước mạnh thì chìm xuống đáy sông, làm chấn động cả Long cung, đúng nơi có 3 chiếc bát vàng của 3 vị Phật đắc đạo trước Tất-đạt-đa trong Hiền kiếp này (Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp)
Sau đó, Tất-đạt-đa đi trở lên bờ, đến cội Bồ-đề ở Bồ-đề Đạo Tràng hay Bồ Đề Già Da (Bodh Gaya) và phát nguyện rằng: sẽ nhập định không rời chỗ ngồi cho đến lúc đắc đạo, tìm ra nguyên nhân và cơ chế của Khổ. Trước khi ngồi, ông thầm nghĩ làm thế nào có một tòa ngồi cho yên tĩnh, trang nghiêm. Bỗng một em bé tên là Sotthiya (hoặc Svastika, nghĩa là Cát-Tường) gánh cỏ đi ngang qua đó, ông gọi lại hỏi xin một mớ cỏ để làm tòa ngồi. Em bé cung kính dâng ông sáu bó cỏ sắc (kusha) mềm mại và có hương thơm. Ông xấp cỏ thành tọa cụ và bồ đoàn, ngồi kiết già, lưng thẳng đứng hướng về phía gốc cây, mặt hơi cúi xuống nhìn về hướng đông, phía bờ sông Ni-liên-thiền.
Đêm hôm đó, Tất-đạt-đa bắt đầu thực hành các pháp thiền định. Cuối cùng, ông đạt Diệt-Thọ-Tưởng định (Nirodha-samapatti), tỏa ra uy năng chiếu khắp Tam giới (Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới). Ma vương Thiên ma (Ba-tuần - vua cõi trời Tha Hóa Tự Tại) không muốn ông đắc đạo, đã quấy nhiễu bằng nhiều phương thức nhưng cuối cùng đều thất bại. Ba cô con gái của ma vương tên là Ái Dục (Tanhā), Bất Mãn (Aratī) và Tham Vọng (Ragā) hóa ra ba nàng tiên tuyệt đẹp để quyến rũ nhưng cũng chịu thất bại.
Sau khi hàng phục ma vương xong, Tất-đạt-đa tiếp tục nhập Diệt-Thọ-Tưởng định và bắt đầu chứng đắc các đạo quả:
Tận diệt các vi tế phiền não (Kammavasa) còn ẩn náu trong tâm làm nghiệp nhân cho Sinh Tử Luân Hồi (Samsara). Đến canh một đêm đó, ông chứng Túc Mạng Minh (Pubbe-nivasanussati-nana), biết rõ tất cả các tiền kiếp của ông (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết thế nào, rồi tái sinh thế nào...)
Tận diệt các vi tế vô minh (Avidyasava). Đến canh ba, ông chứng Thiên Nhãn Minh (Cutupapata-nana), biết rõ tất cả sự biến chuyển của vạn vật qua các giai-đoạn thành, trụ, hoại, không; và biết rõ tất cả chúng sanh (ở thời đại nào, tên gì, sanh trưởng thế nào, sinh sống ra sao, vui thích và đau khổ thế nào, tạo nghiệp gì, chết cách nào, rồi tái sinh thế nào...). Ông biết rõ tất cả nhân duyên nghiệp báo của chúng sinh, từ đó nhìn thấu được luật Nhân-Quả và Luân hồi.
Tìm ra phương cách giúp chúng sinh chấm dứt phiền não và vô minh, đạt đến giác ngộ hoàn toàn, thoát ra khỏi vòng Sinh Tử Luân Hồi. Đến canh năm, ông chứng Lậu Tận Minh (Asavakkhaya-nana): Do đã biết rõ tất cả các tiền kiếp của chính bản thân mình và của mỗi chúng sinh, nên ông nhận thấy rõ ràng đâu là khổ, đâu là nguyên nhân của khổ, đâu là hạnh phúc chân thật vĩnh cửu và làm thế nào để đạt được nó. Ông đã tìm ra Tứ Thánh Đế (Khổ, Tập, Diệt, Đạo).
Theo sử Phật giáo, đó là ngày mùng 8 tháng chạp âm lịch năm 589 TCN. Ở tuổi 35, Tất-đạt-đa đã đạt tới giác ngộ, trở thành Phật toàn giác, là bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác (anuttara samma sambodhi), là đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) với Thập hiệu:
Như Lai (如來) (tathāgata), là "Người đã đến như thế" hoặc "Người đã đến từ cõi Chân như"; tuệ giác của Đức Phật như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
Ứng Cúng (應供) (arahant), dịch nghĩa là A La Hán, là "Người đáng được cúng dường", đáng được tôn kính.
Chánh Biến Tri (正遍知) (samyaksaṃbuddha), dịch theo âm là Tam-miệu-tam-phật-đà, là "Người hiểu biết đúng tất cả các pháp".
Minh Hạnh Túc (明行足) (vidyācaraṇasaṃpanna), nghĩa là "Người có đủ trí huệ và đức hạnh", tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
Thiện Thệ (善逝) (sugata), là "Người đã đi một cách tốt đẹp"
Thế Gian Giải (世間解) (lokavid), là "Người đã thấu hiểu thế giới"
Vô Thượng sĩ (無上士) (anuttarapuruṣa), là "bậc tu hành tối cao, không ai vượt qua"
Điều Ngự Trượng Phu (調御大丈夫) (puruṣadamyasārathi), nghĩa là "Người đã chế ngự được bản ngã và nhân loại", có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
Thiên Nhân Sư (天人師) (devamanuṣyānāṃ śāstṛ), là "Bậc thầy của cõi người và cõi trời"
Phật Thế Tôn (佛世尊) (buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), là "Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính"
Từ thời điểm đó, Siddhārtha biết mình là Phật, là một bậc Giác ngộ, và biết rằng mình sẽ không còn tái sinh một lần nào nữa. Kinh nghiệm giác ngộ được ghi lại trong kinh sách theo chính lời của Siddhārtha như sau:
"... Sau khi hoàn lại sinh lực (sau khi tu khổ hạnh vô ích), ta chú tâm giải thoát khỏi những tư tưởng tham ái, bất thiện và đạt được sơ thiền, sau đó nhị thiền, tam thiền và tứ thiền, nhưng những cảm giác hỉ lạc này không để lại dấu vết gì trong tâm ta.
Khi tâm ta được an tịnh, thanh lọc, không bị dục vọng cấu uế, nhạy bén, chắc chắn, bất động, ta hướng nó về những ký ức và nhận thức về các kiếp trước. Ta nhớ lại nhiều tiền kiếp, một, hai, ba, bốn, năm,..., trăm ngàn kiếp trước, nhớ những chu kì của thế giới. 'Nơi đó ta đã sống, tên của ta đã như thế, gia đình của ta là như thế, nghề nghiệp của ta, giai cấp xã hội của ta... Ta đã chết như vầy...' Sự hiểu biết (sa. vidyā, pi. vijjā) đầu tiên này ta đã đạt được trong canh đầu...
Sau đó ta chú tâm đến sự sinh thành và hoại diệt của chúng sinh. Với con mắt của chư thiên, trong sáng, siêu việt mọi giới hạn nhân thế, ta thấy chúng sinh hình thành và tiêu hoại,... chúng sinh tái sinh theo nghiệp lực. Ta nhận ra rằng 'Chúng sinh tạo nghiệp bất thiện qua ba ải thân khẩu ý đều chìm đắm sau khi chết, tái sinh trong đoạ xứ, địa ngục. Các chúng sinh nào tạo thiện nghiệp bằng thân khẩu ý được tái sinh trong thiện đạo, sau khi chết được lên cõi thiên'... Sự hiểu biết thứ hai này ta đã đạt được trong canh hai.
Sau đó ta chú tâm nhận thức về sự tiêu diệt các lậu hoặc (漏, sa. āsrava, pi. āsava) và nhìn nhận như thật: 'Đây là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây là phương pháp tiêu diệt khổ, đây là con đường tiêu diệt khổ', và khi ta nhận thức được điều này, tâm ta thoát khỏi dục vọng, ham muốn tồn tại, vô minh. Ta tự hiểu chân lý 'Tái sinh ta đã đoạn, cuộc sống tu tập của ta đã hoàn tất, ta đã hoàn thành những gì phải làm. Cuộc sống (khổ đau) này ta đã vượt qua'... Sự hiểu biết thứ ba này ta đã đạt được trong canh ba..."
Tất-đạt-đa lúc đó biết rằng kinh nghiệm giác ngộ của mình không thể dùng ngôn từ hay bất cứ một cách nào khác để truyền đạt, cũng như ông thấy con người đã bị áp đảo bởi vô minh, tham lam và thù hận nên họ rất khó có thể nhận ra "con đường giác ngộ", vốn rất sâu sắc và khó nắm bắt. Tất-đạt-đa nghĩ rằng: "Giáo pháp mà Ta đã chứng ngộ quả thật thâm diệu, khó nhận thức, khó lãnh hội, vắng lặng, cao siêu, không nằm trong phạm vi lý luận, rất tế nhị, chỉ có bậc hiền thánh mới thấu hiểu. Nếu Như Lai truyền dạy giáo pháp ấy thì kẻ khác sẽ không hiểu được. Thật hoài công! Người còn mang nặng tham ái và sân hận không dễ gì thấu triệt. Người tham ái chìm đắm trong đêm tối, không thấy được giáo pháp, vì bị tham ái bao phủ như đám mây đen kịch. Giáo Pháp đi ngược dòng đời, sâu kín, thâm diệu, khó nhận thức và rất tế nhị". Nên ông tiếp tục yên lặng ngồi quán chiếu tâm chúng sinh dưới gốc cây Bồ-đề một thời gian là 7 tuần lễ.
Sau đó, có một vị thiên vương Phạm Thiên là Sahampati đã thỉnh cầu Tất-đạt-đa hoằng dương chánh pháp (trong thời xa xưa, tiền kiếp của vị Phạm Thiên này là bạn của Jotipala - tiền kiếp của Tất-đạt-đa vào đời Phật Ca Diếp). Ông sử dụng Thiên nhãn và nhận thấy một số chúng sinh có duyên lành với ông có thể được hóa độ và trở thành những bậc Thánh. Với lòng thương yêu chúng sinh, Ông chấm dứt sự yên lặng và quyết định chuyển Pháp Luân, dựa vào căn cơ của chúng sinh để thuyết Pháp cứu độ. Từ đó ông có danh hiệu Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) — "Trí giả của dòng dõi Thích-ca".
Thành lập tăng đoàn và truyền giảng giáo lý
Xem thêm: Trapusa và Bahalika, Thập đại đệ tử
49 ngày sau khi đắc đạo, Phật chỉ thiền định, không ăn uống. Đến ngày từ 49, có hai thương gia người Miến Điện tên Tapassu và Bhallika từ Ukkala (hiện nay là Orissa) đến. Hai thương gia sửa soạn bột rang và mật ong rồi đến trước Phật rồi cung kính dâng lên. Phật nhận lãnh rồi khuyên 2 thương gia quy y Phật và quy y Pháp, thọ trì năm giới để được phước báo lâu dài. Hai thương gia đồng ý, xin Phật thu nhận vào hàng thiện tín (Upāsaka, nam cư sĩ). Đó là hai thiện tín đầu tiên đã quy y Nhị Bảo (Phật và Pháp, khi đó chưa có Tăng) và là hai vị Phật tử Tại gia đầu tiên. Sau khi đã được Đức Phật ban pháp quy y và truyền năm giới (không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không uống rượu, không nói dối), hai vị thương gia xin ông ít vật lưu niệm để luôn luôn tưởng nhớ đến ông. Đức Phật tặng cho hai vị 8 sợi tóc và móng tay, rồi ban lời tiên tri: "Các ông vậy là có đại nhân duyên. Mấy sợi tóc của Như Lai không phải đơn giản. Sau này, lúc Như Lai nhập diệt rồi, ở xứ các ông sẽ thịnh hành giáo pháp diệt khổ nhiều ngàn năm". Hai vị cung kính nhận lãnh, lạy tạ rồi mang về Miến Điện xây tháp thờ. Hiện nay, Phật giáo là quốc giáo của Miến Điện, 8 sợi tóc bảo vật này vẫn còn được giữ gìn cẩn thận trong bảo tháp của chùa Shwedagon tại thủ đô Rangoon (Ngưỡng Quang) của Miến Điện, được người Myanmar xem là quốc bảo.
Sau khi giác ngộ, Phật có ý định gặp 2 vị thầy cũ của mình là Alara Kalama và Uddaka Ramaputta (Uất-đầu-lam-phất) để truyền đạo, bởi 2 người đều là bậc tu sĩ đã đạt cảnh giới thiền rất cao, không còn bị che mắt bởi dục lạc. Nhưng cả hai vị đều đã qua đời cách đó ít lâu.
Ông quyết định tới gặp năm người bạn đồng tu xưa kia của mình đang ở tại vườn Nai gần Benarès (Ba-la-nại) và truyền dạy giáo lý của mình cho họ. Tất cả năm vị sau đó đều trở thành A-la-hán. Sự kiện này diễn ra vào một ngày trăng rằm, đúng hai tháng sau khi Tất-đạt-đa thành đạo. Trong bài thuyết pháp đầu tiên này, ông đề xướng con đường Trung đạo, một sự bác bỏ đối với hai thái cực khác nhau của các học thuyết của Ấn Độ thời đó:
Đức Phật bắt đầu giảng pháp bằng cách trình bày con đường dẫn đến kinh nghiệm giác ngộ và giải thoát. Trên cơ sở kinh nghiệm giác ngộ của mình, ông đã giảng Tứ diệu đế, Bát chính đạo, Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Duyên khởi, quy luật Nhân quả (Nghiệp) và nhiều bài pháp khác mở rộng phù hợp với căn cơ của nhiều người. Tại vườn Lộc Uyển ở Sarnath gần Ba-la-nại (Benares hay còn gọi là Varanasi), ông bắt đầu những bài giảng đầu tiên, gọi là "Chuyển Pháp luân".
Trong 45 năm tiếp đó, ông đi nhiều nơi, nhiều vùng miền ở lục địa Ấn Độ, giảng giải giáo pháp và điều này diễn ra liên tục từ năm này qua năm khác. Ông hay lưu trú tại Vương-xá (zh. 王舍城, sa. rājagṛha), Xá-vệ (zh. 舍衛城, sa. sāvatthī) và Phệ-xá-li (zh. 吠舍釐, sa. vaiśālī), sống bằng khất thực, không nhà ở cố định.
Thông qua những lời dạy của mình về chân lý, Tất-đạt-đa đã dần dần gây dựng được một đội ngũ đệ tử lớn gồm 4 thành phần: tỳ-kheo (nam tu sĩ), tỳ-kheo-ni (nữ tu sĩ), ưu-bà-tắc (nam cư sĩ, cận sự nam), ưu-bà-di (nữ cư sĩ, cận sự nữ). Trong hàng đệ tử tại gia của ông có những nhân vật quyền thế như vua Tần-bà-sa-la (zh. 頻婆娑羅, sa. bimbisāra) và vương hậu Vi-đề-hi (Vaideli) của xứ Ma-kiệt-đà, vua Ba-tư-nặc và vương hậu Mạt-lợi (Mallika) nước Kiều-tát-la. Chính Vua Tần-bà-sa-la đã dâng cung cho Tăng đoàn ngôi tu viện đầu tiên trong lịch sử Phật giáo, đó là Tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana) tại kinh đô Vương-xá. Ngoài ra trưởng giả Cấp Cô Độc, một thương gia giàu có ở kinh thành Xá-vệ, cũng cúng dường cho giáo đoàn của Phật Thích-ca một ngôi tịnh xá trong khu vườn của Thái tử Kỳ-đà tại Xá-vệ, được kinh điển gọi là tịnh xá Kỳ Viên (Jetavana). Kinh Phật cho biết Cấp Cô Độc đã chở nhiều xe vàng và lót vàng khắp sân vườn để mua lại nó từ tay Thái tử Kỳ-đà, con trai quốc vương Ba-tư-nặc.
Các đệ tử quan trọng của ông là Thập đại đệ tử, trong đó có A-nan-đà (thị giả của Phật), Xá-lợi-phất (trí huệ đệ nhất), Mục-kiền-liên (thần thông đệ nhất), Ma-ha-ca-diếp (hạnh đầu đà đệ nhất), A-na-luật (thiên nhãn đệ nhất) và Phú-lâu-na. Trong đó, A-nan-đà gia nhập giáo hội 2 năm sau ngày thành lập, vào hạ thứ 19 thì tôn giả trở thành thị giả thân cận của Đức Phật. Tôn giả A-nan-đà nổi tiếng với trí nhớ phi thường, đã ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy. Chính tôn giả là người đã đọc tụng lại tạng Kinh trong lần Kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất để các chư tăng ghi nhớ, do đó kinh Phật được bảo tồn tới ngày nay chính là bắt nguồn từ công lao của tôn giả (các đoạn kinh Phật được lưu truyền tới nay thường bắt đầu bằng cụm từ "Tôi nghe như vậy" hay âm Hán việt là "Như thị ngã văn", "tôi" ở đây chính là tôn giả A-nan-đà). Ngoài ra, tôn giả cũng là người đầu tiên cung Phật phát minh ra "áo cà sa" - trang phục thường ngày về sau của các chư tăng, chư ni nhà Phật
Cũng trong thời gian này, đoàn Tỳ-kheo-ni (sa. bhikṣuṇī, gồm các vị nữ tu) được thành lập do kế mẫu của Tất-đạt-đa là bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề làm ni trưởng. Ban đầu, Phật Thích Ca không đồng ý nhận người nữ vào tăng đoàn, không phải vì ghét phụ nữ hoặc cho rằng nữ giới không thể tu đắc đạo, mà vì ông biết rằng điều này dễ làm phát sinh các vi phạm về sắc giới trong tăng đoàn. Phật tiên đoán rằng sự có mặt của nữ giới sẽ làm Tăng-già khó tu hành và dự đoán là thời mạt pháp vì lý do đó mà sẽ tới sớm hơn. Nếu tiếp nhận nữ giới, thời kỳ tượng pháp (thời kỳ giáo pháp của Phật được chư tăng duy trì vững vàng, chưa bị biến hoại) thay vì kéo dài 1000 năm, sẽ chỉ còn 500 năm mà thôi. Mặc dù vậy, nhờ sự cầu xin của A-nan-đà (Ananda) mà Phật chấp nhận thành lập ni đoàn, nhưng ông cũng chế định ra 8 giới luật nghiêm khắc với các Tỉ-khâu-ni để ngăn chặn việc phạm sắc giới trong tăng đoàn. Phật dạy đại đức A-nan-đà rằng:
"Này A-nan-đà, nếu phụ nữ không được phép xuất gia và sống trong Pháp và Luật của Ta, thì cuộc sống Thánh hạnh của các đệ tử của Ta có thể giữ vững dài lâu, Chánh pháp cao cả của Ta có thể duy trì 1.000 năm, nhưng vì phụ nữ được phép xuất gia, cuộc sống Thánh của các đệ tử Ta sẽ không duy trì dài lâu, và từ nay Chánh pháp cao cả của Ta sẽ chỉ còn duy trì được 500 năm nữa mà thôi".
"Cũng thế, này A-nan-đà, có những ngôi nhà có nhiều phụ nữ và ít đàn ông, những ngôi nhà đó rất dễ bị mất trộm. Nếu để phụ nữ xuất gia, sống trong Pháp và Luật của Như Lai, cuộc sống Thánh của các đệ tử sẽ khó mà duy trì dài lâu. Cũng như một người đắp một con đê để ngăn một bể nước lớn, không để cho nước tràn qua. Ta cũng vậy, Ta chế định ra 8 giới điều nghiêm khắc trên là để ngăn ngừa không để cho Tỳ kheo ni vi phạm".
Cuộc đời ông cũng gặp nhiều người xấu muốn ám hại. Trong số đó có Đề-bà-đạt-đa, là người em họ, muốn giành quyền thống lĩnh Tăng-già nên rắp tâm tìm cách giết hại ông nhiều lần nhưng không thành. Tuy thế Đề-bà-đạt-đa đã chia rẽ được một số thành viên khỏi Tăng-già ở Phệ-xá-li. Tất-đạt-đa đi con đường trung đạo và tùy thuận chúng sinh, ngược lại Đề-bà-đạt-đa chủ trương một cuộc sống khổ hạnh cực đoan. Cho nên đến cuối đời, Đề-bà-đạt-đa vì phạm 2 trong 5 đại tôi là 'Làm thân Phật chảy máu' và 'Phá hòa hợp Tăng' cho nên Địa Cầu không thể dung chứa ông, mặt đất đã nứt ra và hút ông xuống địa ngục.
Nhập Niết bàn
Trong kinh điển Pali, Phật Thích Ca tại thế tám mươi năm. Tuy trải qua suốt phần đời còn lại - 45 năm đi giảng dạy, nhưng ông lại lưu ý với các đệ tử rằng: Đối với chân lý, Như Lai chưa từng nói lời nào. Ý nghĩa của câu này là: giáo pháp của Phật là một phương tiện để người tu hành đạt tới giác ngộ chân lý, chứ chính nó không thể mô tả hoàn toàn chân lý. Chân lý rất vi diệu, không thể dùng lời nói để diễn tả đầy đủ mà phải tự mình chứng đắc, những lời dạy của Phật chỉ là phương tiện để giúp người tu hành tự mình đạt tới chân lý mà thôi. Phật xem những bài thuyết pháp của ông cũng như ngón tay chỉ tới mặt trăng, chứ không phải là mặt trăng. Người ta phải nương vào ngón tay để thấy được mặt trăng, còn nếu chỉ cố chấp vào ngón tay, chỉ tập trung nhìn ngón tay thì sẽ không bao giờ thấy được mặt trăng. Như Lai dạy cho người khác con đường giác ngộ chân lý, nhưng mỗi người phải tự bước trên con đường giác ngộ chân lý cho mình.
Theo kinh Đại bát-niết-bàn (pi. mahāparinibbāna-sutta), vào mùa mưa năm 80 tuổi, Phật Thích Ca đã dự đoán trước rằng ông sẽ nhập diệt sau 3 tháng nữa. Ông qua đời tại thành phố Câu-thi-na (zh. 拘尸那, sa. Kuṣinagara) của bộ tộc Malla vào năm 544 trước Công nguyên, địa điểm này được các nhà khảo cổ nhận dạng là Kasia ở quận Deoria của xứ Uttar Pradesh ngày nay. Vào một ngày trước, sức khoẻ của ông đã trở nên rất yếu sau khi dùng bữa cúng dường tại nhà người thợ rèn Thuần-đà (zh. 純陀, pi. cunda), một số kinh sách ghi rằng do nguyên liệu nấu ăn có lẫn nấm độc. Tuy nhiên sau đó Phật đã nhấn mạnh cho tôn giả A-nan-đà hiểu là Tăng chúng không nên khiển trách Thuần-đà bởi ông ta đã có thiện ý tối thượng, còn việc Phật trở bệnh nặng là quả báo đến lúc phải trả, điều này đã được Phật dự đoán từ 3 tháng trước rồi.
Trước khi qua đời, Tất-đạt-đa tạo điều kiện cho các tỳ-kheo cơ hội cuối cùng để chất vấn hay hỏi đáp nếu như có những vấn đề hay những điểm nào còn chưa sáng tỏ có thể đưa đến các kiến giải khác nhau về sau, các vị đã im lặng vì thương Thế Tôn đang rất yếu. Lời dạy cuối cùng của ông: "Tất cả các pháp hữu vi đều vô thường, chịu biến hoại, hãy tinh tấn tu học !"
Theo các Phật tử, ông đã nhập Niết-bàn thông qua các mức thiền định, một trạng thái giải thoát hoàn toàn khổ đau của cuộc sống.
Trưởng lão tỳ-kheo Anuruddha (A-nậu-lâu-đà) nói pháp thoại ca ngợi công hạnh của Đức Phật Gautama, rồi kết luận:
Thế Tôn cũng là một con người như chúng ta, nhưng nhờ phát đại nguyện cứu khổ chúng sanh, rồi dũng mãnh tinh tấn tu Bát Chánh Đạo, thực tập thiền quán mà trở thành bậc Đại Giác, có đầy đủ trí huệ rộng lớn, đại hùng, đại lực, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, có đầy đủ phương tiện thiện xảo chỉ dạy và hướng dẫn chúng sanh hết mê được ngộ, thoát khổ được vui, biết phương pháp tu tập để tự giải thoát khỏi cảnh sanh tử luân hồi, vào cảnh niết-bàn an lạc thanh tịnh. Này các huynh đệ, để đền đáp ơn Thế Tôn, chúng ta hãy nương theo lời giáo huấn của Thế Tôn và noi theo gương sáng của Thế Tôn mà tinh tấn tu tập Bát Chánh Đạo, cố đạt cho kỳ được mục tiêu giải thoát.
Tương truyền rằng trong buổi trà tỳ kim thân Phật có nhiều hiện tượng lạ xảy ra: hoa mạn đà la bay đầy trời (do các chư thiên cúng dường), và người ta không thể thắp ngọn lửa để làm lễ trà tỳ cho Ngài cho tới khi trưởng lão Tỷ-kheo Maha Kassapa (Ma-Ha Ca-Diếp, một trong các vị học trò Tối thắng của Phật, người đã được Phật truyền lại y bát) tới nơi để làm lễ.
Mặc dù cuộc đời Thái tử Tất-đạt-đa có nhiều huyền thoại bao phủ nhưng các nhà khảo cổ học và nhân chủng học - vốn hay có nhiều hoài nghi và thành kiến - cũng đều nhất trí công nhận ông là một nhân vật lịch sử có thật và là người đã thành lập ra Phật giáo.
Di tích
Xá lợi Phật
Sau khi qua đời, Xá lợi của Tất-đạt-đa Cồ-đàm được chia thành 8 phần, gồm: Xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) xây tháp thờ xá lợi Phật ở Rajagriha, xứ Vajji xây tháp ở Vesali, xứ Sakya xây tháp ở Mungali, xứ Koliya xây tháp ở Ramagama, xứ Buliya xây tháp ở Allakappa, vị Bà-la-môn xây tháp thờ ở Vethadipa, xứ Malla nhận hai phần xá lợi, xây một tháp ở thủ đô Pava và một tháp khác tại Kushinagar. Riêng vị Bà-la-môn Dona xin thỉnh cái chậu vàng dùng để chia xá lợi, đem về khu vườn nhà mình xây tháp thờ. Sứ giả xứ Moriya đến trễ, xin thỉnh phần tro còn lại về xây tháp thờ tại thủ đô Pipphalivana.
Nhiều thế kỷ sau đó, vua Ashoka (A-sô-ka) đã tập hợp các xá lợi, cho xây cất và tôn thờ thành 84.000 tháp.
Trước đây nhiều người không phải tín đồ Phật giáo đã không tin là có xá-lợi Phật, họ cho đó chỉ là huyền thoại. Mãi đến năm 1898, ông W. C. Peppé, người Pháp, tiến hành khảo cổ tại vùng Pīprāvā, phía Nam nước Népal, đã tìm thấy một cái hộp bằng đá khá lớn, trong đó có chứa hai chiếc bình bằng đá và vài dụng cụ bằng đá khác như tách trà. Hai bình đá một lớn một nhỏ đều có chứa những viên xá-lợi. Bình đá nhỏ dạng hình cầu, chia thành hai phần thượng hạ. Nửa phần trên có hình tay cầm, khắc niên đại của vua Ashoka và nội dung của nó như sau: "Đây là xá-lợi của Đức Phật. Phần xá-lợi này do bộ tộc Śākya, nước Śrāvastī phụng thờ". Chiếc bình đã chứng minh nội dung trong kinh Trường A-hàm và rải rác ở những kinh khác về việc phân chia xá-lợi của Phật thành 8 phần cho 8 quốc gia cổ đại Ấn Độ sau khi Phật nhập Niết-bàn hoàn toàn là sự thật.
Kinh Phật
Sau khi Phật nhập diệt ít lâu, Thượng tọa Maha Ca Diếp đã triệu tập 500 vị A-la-hán họp tại động Sattapanni (động Thất Diệp, còn gọi là động Tất-bát-la) ở Rajagriha để ôn tụng và ghi nhớ tất cả những lời Phật dạy. Đó chính là Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ nhất.
Khoảng 300 năm sau là thời Asoka (A Dục) là hoàng đế của đế chế Mauryan, khoảng năm 240 TCN. Trước khi trở thành Phật tử, ông có tính khí rất hung bạo, đã giết nhiều anh em của mình để cướp ngôi vua cũng như đã xua quân đánh chiếm nhiều lãnh thổ. Nhưng ngay sau đó nhờ gặp được Sa di Nigrodha, ông theo Phật giáo cải hối và làm rất nhiều điều thiện, chống lại bạo lực. Từ thời điểm đó, vua A-dục, người đã từng được miêu tả như là "A-dục ác vương" (Chandashoka), bắt đầu được mô tả như là "A-dục sùng đạo" (Dharmashoka). Ông là người có công lớn khuyến khích Phật giáo, xây dựng hàng chục ngàn chùa chiền, bảo tháp Phật giáo. Nhiều đoàn truyền giáo đạo Phật đã được ông tài trợ và cử đến khắp nơi, từ Âu sang Á, đến tận Hy Lạp, các nước tại Trung Á, Trung Đông, cũng như Trung Quốc, Đông Nam Á, Miến Điện và Sri Lanka. Ngoài ra, vua Asoka còn là người bảo trợ cho kì Kết tập kinh điển lần thứ III.
Phật giáo ngày nay phát triển mạnh ở Sri Lanka, Đông Á và Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam, Singapore) và bao gồm nhiều phân nhánh nhỏ hơn. Mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay Đạo Phật được tìm thấy ở khắp thế giới. Ước tính số người chính thức theo đạo Phật (đã làm lễ Quy y Tam Bảo) vào khoảng 350 triệu đến 700 triệu người, số người chưa làm lễ Quy y Tam Bảo nhưng có niềm tin vào đạo Phật thì còn đông hơn gấp mấy lần con số đó.
Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni đã nhập niết-bàn hơn 2.500 năm, nhưng các bài kinh Phật còn được chư tăng gìn giữ cẩn thận cho đến ngày nay. Dù đạo Phật đã bị hủy hoại ở Ấn Độ do sự tấn công của các tôn giáo khác, nhưng tín đồ Phật giáo đã trải khắp các nước, đặc biệt là ở Đông Á. Tam Tạng Pháp Bảo gồm những lời dạy của Đức Phật vẫn còn đó, hiện được các chư tăng, tín đồ lưu giữ và truyền tụng ở khắp năm châu, bất kỳ ai mong muốn theo Đạo hoặc nghiên cứu giáo lý đạo Phật đều có thể dễ dàng tìm đọc.
Các thánh tích
Đối với tín đồ Phật giáo, có 4 thánh tích liên quan đến cuộc đời Phật Thích Ca. Bodh Gaya (tiếng Việt là Bồ Đề Đạo Tràng), nơi Phật Thích Ca thành đạo là nơi quan trọng nhất, ngoài ra còn 3 nơi khác đó là:
Kushinagar (Câu-thi-na): Đây là nơi mà Phật nhập niết bàn. Qua các khai quật thì người ta đã tìm thấy được các mảnh vỡ của các tượng Phật và các cột trụ mà vua Asoka đã xây dựng. Nơi này ngày nay là Kasia, thuộc về Deoria của bang Uttar Pradesh.
Lâm-tỳ-ni (Lumbini) - nơi Phật đản sinh. Trước đây người ta không xác định được địa danh này, nhiều người coi đây chỉ là huyền thoại. Mãi đến ngày 1 tháng 12 năm 1886, nhà khảo cổ người Đức Alois A. Fuhrer mới tìm thấy cột tháp của vua Asoka xác nhận đây là nơi ra đời của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Sarnath (vườn Nai, hay Lộc Uyển) - nơi Phật thuyết pháp lần đầu tiên. Di tích còn sót lại là tháp Dhamekh được xây vào triều đại Gupta thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên. (Chữ Phạn "dharmekh" nghĩa là chánh pháp).
Bodh Gaya là trái tim của văn hóa Phật giáo trong suốt hàng thế kỷ cho đến khi nó bị người Hồi giáo đánh chiếm và tàn phá vào thế kỷ 12. Năm 1875, vua Mindon Min của Miến Điện đã đề nghị và được sự đồng ý của chính phủ Ấn Độ và giáo hội Ấn giáo Mahant để sửa sang lại ngôi tháp Đại Giác bị hoang phế nhiều năm. Nhưng kỳ sửa chữa đầu tiên của người Miến Điện diễn ra không đúng theo truyền thống nên chính phủ Ấn Độ đã quyết định bổ nhiệm ông J.D Beglar vào năm 1880 trùng tu lại hoàn toàn ngôi tháp. Nhưng sau khi được khôi phục, ngôi tháp Đại Giác và vùng đất xung quanh vẫn tiếp tục thuộc về giáo hội Ấn giáo Mahant, họ chỉ giữ Thánh Tích với mục đích hưởng lợi qua sự thăm viếng của Phật tử chứ không có ý muốn tu sửa hay cung kính. Sự vận động giành lấy lại quyền điều hành tại khu vực Tháp Đại Giác bắt đầu vào tháng 1 năm 1891 khi đại sư Anagarika Dharmapala đến đảnh lễ thánh địa này. Ông Dharmapala ghi trong nhật ký ngày 21/1/1891 như sau: "Tại ngôi đền của ông Mahant hai bên cửa có những tượng Đức Thế Tôn đang thiền định hay đang thuyết pháp. Ôi! Tôn nghiêm làm sao ngôi tháp quý báu này! Đức Thế Tôn ngồi trên pháp tòa và sự tôn nghiêm tỏa khắp làm cho Phật tử chí thành phát khóc. Ôi sung sướng biết bao! Khi vầng trán của tôi chạm đến Kim Cương Tòa, một ý niệm phát ra rồi đánh mạnh vào tâm trí tôi. Ý niệm ấy bảo tôi dừng lại đây và gìn giữ thánh tích tôn nghiêm nầy, tôn nghiêm đến nỗi không gì trên đời này sánh bằng, vì đây là chỗ mà dưới gốc Bồ Đề, Thái tử Tất-đạt-đa đã giác ngộ thành Phật."'
Ông Dharmapala từng bước ngăn chặn những việc làm của ngoại đạo tại thánh địa này và đã sáng lập ra "Hội Đại Giác Ngộ, Bồ-đề Đạo Tràng" (The Buddha Gaya Mahabodhi Society) vào ngày 31 tháng 5 năm 1891. Sau nhiều năm đấu tranh, vận động sự ủng hộ từ Phật tử các nước, năm 1952, chính phủ Ấn Độ đã thành lập một ủy ban điều hành quản lý khu vực Bồ-đề Đạo Tràng và những di sản khác. Ủy ban này gồm có 8 thành viên, 4 vị Ấn giáo và 4 vị Phật giáo, với một vị quận trưởng Gaya làm chủ tịch. Năm 2002, ngôi chùa Mahabodhi (Đại Giác Ngộ tự) ở Bodh Gaya đã trở thành Di sản thế giới.
Tại Bodh Gaya còn có cội Bồ-đề, là nơi có cây bồ đề đã che bóng mát cho Đức Phật khi ông ngồi thiền và đạt tới giác ngộ. Một cành chiết từ cây bồ đề nguyên thủy đã được vua Asoka gửi tặng cho vua Devanampiya Tissa (Thiên-Ái-Đế-Tu) tại Sri Lanka vào năm 247 TCN. Con gái của vua Asoka là Tỳ-kheo-ni Sanghamitta (Tăng-già-mật-đa) đã sang Sri Lanka với mục đích thành lập ni đoàn Phật giáo đã mang nhánh bồ-đề này qua Tích Lan, đem đến trồng ở Anuradhapura, tại đây nó đã phát triển thành một cây to. Sau này người Sri Lanka đã gọi cây bồ-đề này là "Sri-Maha Bodhi", nghĩa là "Cây Bồ Đề Cát Tường Vĩ Đại". Cho tới nay, trải qua gần 2.300 năm, Cây Bồ Đề Vĩ Đại vẫn sống tươi tốt và được người Sri Lanka coi là quốc bảo. Rất nhiều nhánh từ cây này đã được chiết để gửi đi trồng ở chùa chiền khắp nơi trên thế giới.
Cùng chung với số phận thăng trầm của lịch sử Phật giáo ở Ấn Độ, cây bồ-đề ở Bodh Gaya đã nhiều lần bị chặt đốt, thiêu hủy do thiên tai vô thường tác động và do những người thù ghét đạo Phật muốn xóa tan vết tích của nó. Thế nhưng trải qua bao nguy khốn, dòng dõi hậu duệ của cây bồ đề vẫn không tuyệt diệt mà vẫn tiếp tục bám trụ và đâm chồi nảy lộc, đời sau nối tiếp đời trước che bóng mát cho nơi Phật đã ngồi khi thành đạo. Cây bồ đề hiện nay ít nhất đã là đời thứ sáu của cây bồ-đề nguyên thủy đã che mát cho Đức Phật. Mặc dù trải qua nhiều lần sinh diệt, nhưng vị trí cây bồ đề ngày nay so với gốc cây ban đầu vẫn không có sự thay đổi chuyển dịch, vẫn định vị như gốc cây bồ đề nguyên thủy, nơi khoảng 2.600 năm về trước, thái tử Tất-đạt-đa đã ngồi trong đêm giác ngộ thành Phật. Với lịch sử hiển hách này, có thể nói cây bồ-đề tựa như một biểu tượng cao cả cho những tín đồ Phật giáo đã truyền đời nhau suốt 2.600 năm bảo tồn Chánh pháp mà Phật Thích Ca truyền dạy cho thế gian.
Ngoại hình
Có nhiều miêu tả về ngoại hình của Tất-đạt-đa trong các kinh điển Phật giáo. Là một vị hoàng tử có đầy đủ 32 tướng tốt, ông đã được tập huấn, rèn luyện sức mạnh, được nuôi dạy rất chu đáo về cả văn lẫn võ. Từ năm 13 tuổi ông được truyền thụ võ nghệ và có sở trường bắn cung. Từ lúc trước khi ra đi tìm đạo, ông đã là người có cơ thể cường tráng, phi phàm hơn người.
Một người Bà la môn Sonadanda miêu tả ngoại hình ông là "đẹp trai, ưa nhìn, cùng với một làn da rất đẹp. Ông ta có vẻ ngoài thần thái và oai nghiêm... Ông đẹp đẽ, xinh tươi, dễ nhìn, một hình sắc tốt đẹp nhất, hình thể và nét trang nghiêm của ông như Phạm Thiên, ngoại hình của Ông đẹp đẽ (Digha Nikaya, Kinh số 4).
Ông đẹp đẽ, gây được niềm tin, với ý thức điềm tĩnh và tâm trí thanh tịnh, trầm tĩnh và tự chủ, như một con voi được thuần phục một cách hoàn hảo (Anguttara Nikaya, Kinh số 36).
Có những đệ tử của ông đang trong quá trình tu tập chưa trở thành A la hán, bị mê hoặc bởi vẻ ngoài của ông, nhưng đã được ông khuyên chấm dứt việc đó, và nhắc nhở rằng không nên nhìn ông bằng hình tướng bên ngoài, mà nên nhìn vào giáo pháp của ông truyền dạy thì mới thấy được một Như Lai chân thật. Trong kinh Kim cang có bài kệ: "Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai", tức là nếu dùng sắc thấy Ta, dùng âm thanh cầu Ta, người đó hành đạo tà, không thể thấy Như Lai.
Không có một tác phẩm, văn bản nào miêu tả rõ ngoại hình Tất-đạt-đa Cồ-đàm dưới dạng con người cho đến khoảng thế kỷ thứ I TCN, sau thời gian đó thì mới bắt đầu có những mô tả về hình dáng được cho là của ông trong Kinh Lakkhaṇa Sutta. Ngoài ra, Yasodhara mô tả sơ lược hình dáng của Tất-đạt-đa Cồ-đàm sau khi ông lần đầu tiên trở lại cung điện của mình trong kinh điển Pali, Narasīha Gāthā. Trong 32 tướng tốt, người ta nói ông có đôi mắt xanh biếc.
Ngoài ra, khác với hình tượng tóc dày và xoăn trên các bức tượng khắc họa ông, Đức Phật được tả là đã cạo đầu khi tu để giải thoát khỏi trần đời thế tục.
Nhận định
Danh xưng khác (Thập hiệu)
Như Lai (zh. 如來, sa., pi. tathāgata), là "Người đã đến như thế" hoặc "Người đến từ cõi Chân như". Phật giáo Mật Tông còn gọi là "Tỳ Lô Giá Na", dịch ý nghĩa là "Đại Nhật Như Lai". Theo tiếng Phạn, "Tỳ Lô Giá Na" là tên gọi khác của Mặt Trời. Dùng danh hiệu "Tỳ Lô Giá Na" có nghĩa coi Tất-đạt-đa Cồ-đàm là Mặt Trời hồng không bao giờ tắt; tuệ giác của ông như Mặt Trời soi sáng khắp thế gian, xóa tan đêm tối vô minh.
Ứng Cúng (zh. 應供) dịch nghĩa là A La Hán (zh. 阿羅漢, sa. arhat, pi. arahant), là "Người đáng được cúng dường", đáng được tôn kính.
Chánh Biến Tri (zh. 正遍知, sa. samyaksaṃbuddha), dịch theo âm là Tam-miệu-tam-phật-đà (zh. 三藐三佛陀), là "Người hiểu biết đúng tất cả các pháp".
Minh Hạnh Túc (zh. 明行足, sa. vidyācaraṇasaṃpanna), nghĩa là "Người có đủ trí huệ và đức hạnh", tức là có đầy đủ tam minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) và ngũ hạnh (Thánh Hạnh, Phạm Hạnh, Thiên Hạnh, Anh Nhi Hạnh, Bệnh Hạnh).
Thiện Thệ (zh. 善逝, sa. sugata), là "Người đã ra đi một cách tốt đẹp".
Thế Gian Giải (zh. 世間解, sa. lokavid), là "Người đã thấu hiểu thế giới".
Vô Thượng sĩ (zh. 無上士, sa. anuttarapuruṣa), là "Đấng tối cao, không ai hơn".
Điều Ngự Trượng Phu (zh. 調御大丈夫, sa. puruṣadamyasārathi), nghĩa là "Người chế ngự được bản ngã và nhân loại". Điều Ngự Trượng Phu còn một nghĩa khác nữa là đức Phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm có khả năng điều phục những người hiền và ngự phục những kẻ ác theo về chính đạo.
Thiên Nhơn Sư (zh. 天人師, sa. devamanuṣyānāṃ śāstṛ), là "Bậc thầy của cõi người và cõi trời".
Phật Thế Tôn (zh. 佛世尊, sa. buddhalokanātha, buddhalokajyeṣṭha, bhagavān), là "Bậc giác ngộ được thế gian tôn kính".
Trong các tôn giáo khác
Nhiều người theo Ấn Độ giáo cho rằng Tất-đạt-đa Cồ-đàm là hóa thân thứ 9 của thần Vishnu. Tuy nhiên nhiều lời dạy của Phật Thích Ca vốn đi ngược lại giáo điều tôn giáo của Ấn Độ giáo, điển hình là Phật phủ nhận quyền năng của kinh Vệ Đà (Vedas) và phủ nhận sự tồn tại của Ngã, linh hồn trường tồn, bất biến (Atman). Phật cũng phủ nhận địa vị tối cao của Brahma trong Ấn Độ giáo, Phật nói rằng các vị thần cũng chỉ là một chúng sinh trong tam giới mà thôi, họ không phải toàn năng và cũng không bất tử. Do vậy, chi tiết này có lẽ là do Ấn Độ giáo hư cấu ra để thuyết phục những tín đồ Phật giáo chuyển sang Ấn Độ giáo.
Tất-đạt-đa Cồ-đàm được một giáo phái Hồi giáo của dân tộc Ahmadiyya coi như là một nhà tiên tri. Một số tín đồ Phật giáo Trung Quốc thời sơ khai từng nghĩ Tất-đạt-đa Cồ-đàm là hóa thân của Lão Tử trong Đạo giáo.
Các tín đồ của Đạo Cao Đài tôn thờ ông như một bậc thầy tôn giáo lớn của họ. Hình ảnh của Tất-đạt-đa Cồ-đàm có thể được tìm thấy trong cả Tòa Thánh và trên bàn thờ ở nhà. Ông cũng được họ cho là có mối liên hệ với những người sáng lập tôn giáo lớn khác như Lão Tử hoặc Khổng Tử.
Kể từ thời kỳ Nara ở Nhật Bản, thuyết "bản địa thùy tích" được khởi xướng với quan điểm rằng các vị thần của Nhật Bản thực tế là hóa thân của Phật, và người ta đã xác định "nguồn gốc Phật" của nhiều vị thần và tạo tác các tượng thần dưới hình dáng tăng lữ.
Trong giáo phái Gnostic cổ Mani giáo, Tất-đạt-đa Cồ-đàm được cho là một trong số những vị thầy giảng đạo của Đức Chúa Trời trước khi Mani xuất hiện.
Trong đạo Sikh, Phật được đề cập như là đại diện thứ 23 của Vishnu trong Chaubis Avtar, một tác phẩm Dasam Granth theo truyền thống được viết bởi Guru Gobind Singh.
Hình tượng Barlaam và Josaphat trong Cơ Đốc giáo được các nhà nghiên cứu xem là chịu ảnh hưởng từ cuộc đời thành đạo của Tất-đạt-đa Cồ-đàm.
Trong nghệ thuật và điện ảnh
Phim
Little Buddha, bộ phim của Bernardo Bertolucci năm 1994
Prem Sanyas, bộ phim câm 1925, đạo diễn bởi Franz Ostenn và Himansu Rai
Con đường giác ngộ, bộ phim nhựa Việt Nam do Công Hậu làm đạo diễn. Phim được chùa Hoằng Pháp (huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh) và Công ty Nghiệp Thắng sản xuất vào năm 2013. Diễn viên Tuấn Phương diễn vai Đức Phật. Ngày 8 tháng 6 năm 2014, phim đạt Giải nhất trong Liên hoan phim Vesak, được tiến hành nhân dịp Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc Vesak lần thứ 11 ở Việt Nam với sự tham dự của 95 quốc gia.
Buddha, phim hoạt hình anime do Toei sản xuất dựa trên manga Buddha của Osamu Tenzuka.
Record Of Ragnarok
Phim truyền hình
Buddha, phim truyền hình lịch sử của Ấn Độ năm 2013, diễn viên Himanshu Soni đảm nhận vai Tất-đạt-đa Cồ-đàm.
Văn học
The Light of Asia, một bài thơ sử thi của Edwin Arnold năm 1879.
Buddha, một loạt truyện manga từ 1972-1983 được hư cấu, thêm thắt lại từ câu chuyện của Đức Phật của Osamu Tenzuka.
Tất-đạt-đa hay Câu chuyện dòng sông, bộ tiểu thuyết của Hermann Hesse, viết bằng tiếng Đức vào năm 1922.
Lord of Light, một cuốn tiểu thuyết của Roger Zelazny, nói về một con người trong tương lai xa ở Trái Đất, sẽ dùng Phật pháp để giảng dạy con người, chống đối lại các vị thần.
Câu nói Lù khù có ông Cù độ mạng: Lù khù là chỉ hạng người khờ dại, ngây thơ, không biết chút gì về cuộc đời, trình độ văn hóa giới hạn, không biết đua chen với đời, cứ sống buông trôi cho qua ngày đoạn tháng, nhưng không biết tại sao họ lại được rất nhiều may mắn ngoài khả năng của họ. Còn Cù chính là Cù-đàm, tức tên Gotama của Phật Thích Ca trong Câu chuyện dòng sông. Câu này ý nói những người khờ khạo sở dĩ được may mắn là nhờ Đức Phật Thích Ca độ mạng.
Âm nhạc
Ánh sáng Á Châu, một vở kịch diễn xướng của Dubley Buck năm 1886.
Karuna Nadee, một vở kịch diễn xướng của Dinesh Subasinghe năm 2010.
Tranh vẽ
Xem thêm
Nhiên Đăng Cổ Phật
Tỳ Lô Giá Na Phật
Phật Tỳ Bà Thi
Phật Thi Khí
Phật Tỳ Xá Phù
Phật Câu Lưu Tôn
Phật Câu Na Hàm Mâu Ni
Phật Ca Diếp
Phật Di Lặc
Phật A Di Đà
Phật
Phật giáo
Phật giáo Nguyên thủy
Lịch sử Phật giáo
Thập đại đệ tử
Thập hiệu
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Schumann, H.W.:
Buddhismus: Stifter, Schulen und Syteme, Olten 1976.
Der historische Buddha: Leben und Lehren des Gotama, Köln, 1982.
Hirakawa, Akira: A History of Indian Buddhism. From Śākyamuni to Early Mahāyāna. Translated and Edited by Paul Groner. University of Hawaii Press, 1990.
Thích Minh Châu (dịch): Trung bộ kinh 36 (MN 36)
, 1120 pp.
.
.
, 231 pp.
Liên kết ngoài
Thiền sư Ấn Độ
Phật giáo
Nhà triết học cổ đại
Người Nepal
Triết lý Phật giáo
Lịch sử Ấn Độ
Bài cơ bản dài trung bình
Nhân vật Tây du ký
Nhà triết học Ấn Độ
Sinh năm 624 TCN
Mất năm 544 TCN
Phật Thích-ca
Người sáng lập tôn giáo
Ấn Độ cổ đại
Khổ tu
Hệ quả luận
Lịch sử Phật giáo
Lịch sử Bihar
Yoga
Thế kỷ 5 TCN
Tín đồ Phật giáo Ấn Độ
|
11454
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%B9%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Hẹ (định hướng)
|
Hẹ trong tiếng Việt có thể là:
Hẹ, một loài thực vật thuộc họ Hành (Alliaceae), chi Hành (Allium), có danh pháp khoa học là Allium orodum.
Tên gọi khác của dân tộc Ngái.
Tên gọi khác của người Khách Gia.
|
11481
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%82
|
Ă
|
Ă (chữ in) hoặc ă (chữ thường), là một mẫu tự trong chính tả tiếng Việt và tiếng Rumani chuẩn. Trong tiếng Rumani, nó được dùng để đại diện cho nguyên âm giữa không uốn lưỡi, trong khi trong tiếng Việt nó đại diện cho âm a ngắn. Nó là mẫu tự thứ hai trong cả bảng mẫu tự tiếng Rumani và tiếng Việt.
Ă/ă còn được dùng để chuyển tự mẫu tự Ъ/ъ trong tiếng Bulgaria trong ngôn ngữ Slovak, Séc, và Thụy Điển.
'Ă' trong tiếng Rumani
Âm đại diện cho ă trong tiếng Rumani, mặc dù được gọi là schwa (có thể tưởng nhầm là âm lỏng không trọng âm), lại là một nguyên âm. Không giống như tiếng Anh hay tiếng Pháp, nhưng lại tương tự tiếng Bulgaria và tiếng Afrikaans, nó có thể được đọc có trọng âm. Có những từ mà nó chỉ đóng vai trò là nguyên âm, như "măr" (táo) hoặc "văd" (Ra thế). Hơn nữa, một số từ cũng chứa những nguyên âm khác có thể nhấn âm ở ă, như trong ví dụ "cările" (những cuốn sách) và "odăi" (những cái phòng).
'Ă' trong tiếng Việt
Ă là chữ cái thứ hai trong Bảng chữ cái tiếng Việt và đại diện cho âm , khi được phát âm riêng lẻ trong bản chữ cái sẽ được phát âm như á. Vì tiếng Việt là ngôn ngữ âm, mẫu tự này có thể có 5 dấu thanh ở dưới hoặc trên nó. Xem ngữ âm tiếng Việt.
Thanh Huyền:,
Thanh Sắc:,
Thanh Hỏi:,
Thanh Ngã:,
Thanh Nặng:.
Xem thêm
A có dấu móc (Cyrillic), mẫu tự Cyrillic có dấu móc, rất khó phân biệt với chữ này bằng mắt
Dấu móc
Cách phát âm
Trong tiếng Việt, "ă" được phát âm là "á".
Tham khảo
Chữ cái Latinh
Mẫu tự nguyên âm
Chữ cái Latinh có dấu phụ
|
11482
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%B9
|
Hẹ
|
Xin xem các mục từ khác có cùng tên ở Hẹ (định hướng).
Hẹ có tên gọi khác là cửu thái, cửu thái tử, khởi dương thảo và nhiều tên khác. Danh pháp khoa học là Allium ramosum L. (dạng hoang dã, đồng nghĩa: Allium odorum L.) hay Allium tuberosum Rottler ex Spreng. (dạng gieo trồng), thuộc họ Hành (Alliaceae). Các văn bản gần đây chỉ liệt kê nó dưới tên gọi Allium ramosum. Một số nhà thực vật học còn đặt cả các giống hoang dã và giống gieo trồng vào A. ramosum do có nhiều dạng trung gian tồn tại. Cây mọc thành từng khóm, lá dài hình kiếm giống lá cây tóc tiên (nhưng mỏng hơn lá tóc tiên), hoa có màu trắng. Mùi vị của nó là trung gian giữa tỏi và hành tăm.
Hẹ là loại rau được dùng nhiều trong các món ăn. Ngoài ra người ta còn dùng hẹ như hành hay tỏi để chữa nhiều bệnh từ thông thường đến phức tạp.
Dược lý
Đông y
Hẹ là thức ăn - vị thuốc có tác dụng tốt nhất về mùa xuân. Vào thời điểm này, chất lượng làm thuốc của hẹ cao hơn. Sách Nội kinh có viết: "Xuân hạ dưỡng dương", nghĩa là mùa xuân cần ăn các món ôn bổ dương khí. Hẹ nằm trong nhóm thức ăn đó. Còn Bản thảo thập di viết: "Rau hẹ là ấm nhất, có ích cho người, nên ăn thường xuyên". Sách Lễ ký viết củ hẹ trị chứng di mộng tinh, đau lưng rất công hiệu. Lá hẹ có vị cay hơi chua, hăng, tính ấm, có tác dụng trợ thận, bổ dương, ôn trung, hành khí, tán huyết, giải độc, cầm máu, tiêu đờm. Hẹ kỵ với mật ong và thịt trâu. Không nên sử dụng lâu dài và đối với những người bị các chứng âm hư hỏa vượng, vị hư có nhiệt.
Tây y
Trong 1 kg lá hẹ có 5-10 g đạm, 5-30 g đường, 20 mg vitamin A, 89 g vitamin C, 263 mg calci, 212 mg phosphor, nhiều chất xơ.
Nếu ăn 86 g hẹ sẽ thu được 1,9 g protid, 5,1g glucid và 25 calo năng lượng. Chất xơ có tác dụng tăng tính nhạy cảm với insulin làm giảm đường huyết, giảm mỡ máu, ngừa xơ mỡ động mạch, bảo vệ tuyến tụy. Chất Odorin là một kháng sinh mạnh chống tụ cầu và các vi khuẩn khác.
Các bài thuốc chủ yếu
Ho khò khè ở trẻ em: Lá hẹ hấp cơm lấy nước cho trẻ uống.
Rôm sẩy: Rễ hẹ 60g sắc nước uống.
Cảm mạo, ho do lạnh: Hẹ 250 g, gừng tươi 25 g, cho thêm ít đường hấp chín, ăn cái, uống nước.
Táo bón: Hạt hẹ rang vàng, giã nhỏ. Mỗi lần uống 5 g. Hòa nước sôi uống ngày 3 lần.
Phòng táo bón, tích trệ: Hàng sáng dậy, chưa ăn sáng, uống nước hẹ giã đã lọc bã.
Đái dầm, ỉa chảy lâu ngày ở trẻ em: Nấu cháo rễ hẹ. Rễ hẹ tươi 25 g, gạo 50 g, rễ hẹ vắt lấy nước cho vào cháo đang sôi, thêm ít đường, ăn nóng, dùng liên tục trong 10 ngày.
Nấc do lạnh: Uống một bát nước hẹ đã giã nát và lọc bỏ bã.
Thổ tả: Cấp cứu bằng một nắm rau hẹ giã lấy nước cốt, chưng cách thủy cho uống.
Đau răng: Lấy 1 nắm hẹ (cả rễ) giã nhuyễn, đặt vào chỗ đau, đặt liên tục cho đến khi khỏi.
Đau họng: Lá và củ hẹ giã đắp lên cổ, băng lại, nhai củ cải, lá húng chanh và nuốt nước.
Suyễn (khó thở): Lá hẹ một nắm giã nát, lấy nước uống hay sắc lên để uống.
Sơn ăn lở loét: Lá hẹ giã nát đắp lên chỗ tổn thương.
Ghẻ: Lá hẹ 50 g, rau cần 30 g, giã nát đắp lên chỗ tổn thương. Ngày 2 lần.
Giun kim: Rễ hẹ giã lấy nước cho uống.
Thối tai (Viêm tai giữa): Lá hẹ 1 nắm rửa kỹ, giã nhuyễn lấy nước nhỏ vào tai cho đến khi khỏi. Còn dùng cho trường hợp kiến, muỗi bò vào tai.
Trĩ sưng đau: Một nắm to lá hẹ cho vào nồi đất cùng với nước, dùng lá chuối bịt kín nồi, đun đến khi sôi thì nhấc xuống, chọc một lỗ thủng trên lá chuối cho hơi bay lên để xông trĩ. Khi thấy hết hơi bay lên thì đổ hẹ ra chậu ngâm rửa hậu môn. Còn có cách giã nhuyễn lá hẹ cho vào chậu, rồi ngồi và để trực tiếp trĩ lên lá hẹ.
Thoát giang (lòi dom): Một nắm lá hẹ giã nhỏ trộn dấm, đảo nóng: Dùng 2 miếng vải sô sạch gói hẹ để chườm và chấm hậu môn thay đổi lẫn nhau.
Càng cua chín mé (nhiễm trùng sưng tấy đầu móng tay): Hẹ dùng cả củ và rễ, giã nát, xào rượu chườm, bó, băng lại. Thay băng nhiều lần.
Tâm hãn (mồ hôi ra không ngớt, chỉ khu trú ở vùng ngực): Dùng 49 cây hẹ cả gốc rửa sạch, đổ vào 2 bát nước, nấu còn 1 bát, uống liên tục nhiều ngày cho đến khi khỏi.
Viêm loét dạ dày thể hàn, đau vùng thượng vị, buồn nôn hoặc nôn do lạnh: Lá hẹ 250 g, gừng tươi 25 g. Tất cả thái vụn, giã nát, lọc lấy nước đổ vào nồi cùng với 250 g sữa bò. Đun nhỏ lửa cho đến khi sôi, uống nóng.
Đái tháo đường: Củ hẹ 150 g, thịt sò 100 g. Nấu chín, nêm gia vị. Ăn thường xuyên. Trường hợp ra mồ hôi trộm (âm hư tự hãn) dùng món này cũng tốt.
Gan đọng mỡ ở người béo phì: Hải đới 100 g ngâm nước cho nở, cắt sợi. Lá hẹ 200 g cắt đoạn dài, cùng nhúng nước sau 5 phút vớt ra. Cho tỏi giã nhuyễn, dấm, dầu vừng, tương và một ít đường trộn đều. Ăn hàng ngày và kéo dài trong một tháng.
Lỵ amíp: Nấu canh hẹ cá diếc (ngày một con), ăn cái uống nước, dùng trong 1 tuần.
Ung thư thực quản: Nên dùng nước rau hẹ pha với sữa.
Bế kinh:
Hạt hẹ 10g, hạt dành dành 10 g, sắc nước uống ngày 2 lần.
Lá hẹ 250g giã lấy nước hòa với đường đỏ, đun sôi để uống.
Di mộng tinh, xuất tinh sớm, liệt dương: 0,5 kg lá hẹ tươi giã lấy nước, uống ngày 2 lần trong một tuần.
Chữa đi tiểu nhiều lần: Lá hẹ, cây tơ hồng xanh, ngũ vị tử, phúc bồn tử, câu kỷ tử, nữ trinh tử. Lượng bằng nhau. Phơi khô tán bột, mỗi lần uống 6 g. Ngày uống 2 lần với nước ấm.
Lá hẹ 30 g, phúc bồn tử 1,5 g, dây tơ hồng xanh 20 g. Sấy khô tán bột hoàn viên. Dùng mỗi lần 3 g, ngày 3 lần.
Cung đình hồi xuân tửu: Hạt hẹ 20 g, câu kỷ 30 g, ba kích 15 g, hồng sâm 20 g, lộc nhung lát 10 g, đường phèn 200 g, rượu trắng 200 g. Ngâm nửa tháng trở ra thì dùng được.
Trong các sách y học nói chung và Nam dược thần hiệu của Tuệ Tĩnh nói riêng còn nhiều bài thuốc dùng hẹ. Tuy nhiên, vẫn có một số vấn đề chưa được kiểm chứng khoa học, ví dụ: chữa đau ngực như dùi đâm, chó dại cắn, sản hậu bất tỉnh v.v.
Trong Thiên kim tập ký có kể lại chuyện: Thiên hoàng tự nhiên bị nấc suốt ngày. Các ngự y đã đến khám và sau đó thiên hoàng khỏi bệnh chỉ bằng bài thuốc dùng nước hẹ pha rượu hùng hoàng.
Ẩm thực
Bánh nhân hẹ: Lá hẹ 200 g, đậu phụ 100 g, bột mì 500 g, miến 50 g ngâm cắt vụn, rau hẹ thái nhỏ, đậu thái quân cờ. Xào khô già với nước tương, muối, bột ngọt, hành, gừng, dầu vừng trộn đều viên làm nhân. Bột mì nhồi làm viên rồi cán mỏng, bọc nhân chưng chín.
Các món xào
Hẹ 200 g cắt đoạn dài, xào với giá đậu xanh.
Hẹ xào tôm nõn tươi: Lá hẹ 200 g, tôm nõn 200 g, xào ăn.
Hẹ xào gan dê: Lá hẹ 150 g, gan dê 150 g. Có tác dụng làm sáng mắt.
Hẹ xào lươn: Lươn 500 g lọc bỏ xương, cắt đoạn xào qua, thêm gia vị, gừng, tỏi và nước, vừa cạn cho thêm 300 g lá hẹ cắt đoạn, xào thêm 5 phút. Ăn nóng.
Hẹ xào: Hẹ 240 g, hồ đào nhục (quả óc chó) 60 g. Xào với dầu vừng và ít muối. Ăn ngày 1 lần lúc đói hoặc vào bữa cơm trong 2 tuần đến 1 tháng. Còn dùng chữa táo bón, đau lưng, gối, tiểu tiện luôn, nữ giới bị khí hư, lãnh cảm.
Món canh: người miền tây nam bộ có món canh hẹ với hến.
Các món cháo
Cháo hẹ: Hẹ 20 g, gạo 90 g. Nấu cháo ăn nóng ngày 2 lần. Còn dùng chữa đau lưng, gối mỏi, ăn uống kém, phân sống nát, chân tay lạnh; nữ giới bị đới hạ, lãnh cảm.
Cháo hạt hẹ: Hạt hẹ (xào chín) 15 g, gạo tẻ 50 g, ăn hàng ngày.
Trồng
Cây hẹ dễ trồng và ít phải chăm sóc, gieo một lần có thể thu hoạch nhiều lần, cây phát triển xanh tốt quanh năm, vừa cho lá để ăn vừa có thể dùng làm thuốc những khi cần thiết.
Thành ngữ
Tham khảo
Miller, Sally G (14/6/2014). "Garlic Chives- Great In the Garden, But...", Dave's Garden (Tiếng Anh).
"Bạn đã từng ăn hoa hẹ - món ngon chồng ăn, vợ khen chưa? ", Tin tức 24h (26/11/2019).
"Hẹ là gì? Dinh dưỡng, lợi ích và thay thế", Vinmec.
Liên kết ngoài
T
Cây thuốc
Thảo mộc
Thực vật Ấn Độ
Thực vật Nepal
Thực vật Nga
Thực vật Nhật Bản
Thực vật Pakistan
Thực vật Thái Lan
Thực vật Trung Quốc
Thực vật Bắc Mỹ
Thực vật châu Âu
Thực vật Philippines
Thực vật được mô tả năm 1825
Thực vật châu Á
|
11492
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%82
|
Â
|
(a-mũ) là một ký tự của tiếng Rumani và tiếng Việt. Ký tự này còn xuất hiện trong tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tây Frisia, tiếng Friuli và tiếng Wallon như là một biến thể của ký tự "a".
Cách dùng trong những ngôn ngữ khác nhau
Tiếng Rumani
 là ký tự thứ ba của bảng mẫu tự tiếng Rumani và đại diện cho âm . Âm này còn được đại diện bởi ký tự î.
Tiếng Việt
 là chữ cái thứ ba của bảng chữ cái tiếng Việt và đại diện cho âm . Trong âm vị học tiếng Việt, những dấu thanh có thể thêm vào để hình thành nên 5 dạng sau đây để đại diện cho 5 ngữ điệu khác nhau của â.
Thanh Huyền: ,
Thanh Hỏi: ,
Thanh Ngã: ,
Thanh Sắc ,
Thanh Nặng: .
Tiếng Ukraina
 được sử dụng trong hệ thống ISO 9:1995 dùng để chuyển tự tiếng Ukraina cho ký tự Я.
Tiếng Bồ Đào Nha
 được sử dụng để biểu thị trọng âm. Phiên âm IPA của nó là (trong tiếng Bồ Đào Nha của Brasil là khi nó được dùng trước 1 phụ âm mũi).
Tiếng Wales
 để đại diện cho âm /ɑː/.
Bảng mã
Cách phát âm
Trong tiếng Việt, "â" được phát âm là "ớ".
Xem thêm
Dấu mũ
Tham khảo
Liên kết ngoài
Omniglot - writing systems & languages of the world
Romanian language
Vietnamese language
Chữ cái Latinh
Chữ cái Latinh có dấu phụ
|
11493
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%8A
|
Ê
|
Ê, ê là một ký tự trong bảng chữ cái Latin. Chữ cái này được sử dụng trong các tiếng Afrikaans, tiếng Hà Lan, tiếng Pháp, tiếng Friuli, tiếng Kurd, tiếng Na Uy, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Việt và tiếng Wales.
Ê trong tiếng Việt có thể dùng như một tiếng gọi "Ê, mày đang đi đâu đó?"
Ê còn có nghĩa là cảm giác tê ở trên cơ thể: ê răng, ê lưng..
Tham khảo
Chữ cái Latinh
Chữ cái Latinh có dấu phụ
|
11494
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tam%20t%E1%BA%A1ng
|
Tam tạng
|
Tam tạng (chữ Hán: 三藏; ,;) là thuật ngữ truyền thống để chỉ tổng tập kinh điển Phật giáo. Tùy theo mỗi truyền thống Phật giáo sẽ tồn tại những bộ Tam tạng tương ứng như Tam tạng Pali được duy trì bởi truyền thống Theravāda ở Sri Lanka và Đông Nam Á, Tam tạng Hán ngữ được duy trì bởi truyền thống Phật giáo Đông Á và Tam tạng Tạng ngữ được duy trì bởi truyền thống Phật giáo Tây Tạng. Những bộ Tam tạng này giữ vị trí quan trọng nhất trong thế giới Phật giáo đương đại. Ngoài ra, còn tồn tại những bộ tổng tạng được phiên dịch sang ngôn ngữ địa phương. .
Trong lịch sử, Tam tạng được sử dụng như một thuật ngữ chung cho các bộ tổng tạng tông phái Phật giáo khác nhau, dù sự phân chia chung của chúng không hoàn toàn phù hợp với sự phân chia nghiêm ngặt thành ba tạng như truyền thống. Trong một thời gian dài, thuật ngữ Đại tạng kinh được xem là tương đương với thuật ngữ Tam tạng theo truyền thống (Đại tạng Pali, Đại tạng Hán văn, Đại tạng Tạng văn). Tuy nhiên, các học giả hiện đại chỉ ra rằng cách đặt tên như thế là sai lệch vì Đại tạng kinh thực tế có quy mô lớn hơn nhiều so với Tam tạng. Do các phiên bản Đại tạng Hán văn có số lượng lớn nhất, với các phiên bản Càn Long tạng, Gia Hưng tạng..., một số học giả phương Tây thường dùng thuật ngữ Đại tạng kinh theo nghĩa hẹp để chỉ riêng các bộ tổng tạng chữ Hán, sử dụng phổ biến ở Đông Á và Việt Nam. Sự khác biệt lớn nhất giữa hái niệm Tam tạng và Đại tạng chính là Đại tạng kinh không chỉ bao gồm Tam tạng với các kinh văn A-hàm (Āgama), Tỳ-nại-da (Vinaya) và A-tì-đạt-ma (Abhidharma) từ các bộ phái Phật giáo sơ kỳ; mà còn bổ sung thêm các kinh điển Đại thừa và Mật thừa, các tập du ký, kinh văn bản địa, từ điển chú giải, cũng như tiểu sử các cao tăng.
Từ nguyên
Tripiṭaka (tiếng Phạn: त्रिपिटक), hay Tipiṭaka (trong tiếng Pāli), có nghĩa là "Ba cái giỏ". Nó là từ ghép tiếng Phạn của tri (त्रि) hoặc từ Pāli ti, nghĩa là "ba", và piṭaka (पिटक) hoặc piṭa (पिट), nghĩa là "cái giỏ". Theo truyền thống, nó hàm chỉ đến phương pháp phân loại kinh điển Phật giáo thành 3 phần tạo thành kinh điển Phật giáo, gồm: Kinh tạng (zh. 經藏, sa. sūtra-piṭaka, pi. sutta-piṭaka), gồm các bài giảng của chính đức Phật hoặc các đại đệ tử; Luật tạng (zh. 律藏; sa., pi. vinaya-piṭaka) chứa đựng lịch sử phát triển của Tăng-già cũng như các giới luật của người xuất gia; và Luận tạng (zh. 論藏, sa. abhidharma-piṭaka, pi. abhidhamma-piṭaka), chứa đựng các kiến thức về phương pháp luận triết học Phật giáo.
Truyền thống Phật giáo Hán truyền còn sử dụng thuật ngữ "Tam tạng" (三藏) như một danh hiệu danh dự cho những vị cao tăng tinh thông kinh điển Tam tạng. Theo đó, những vị thông thạo cả Kinh, Luật, Luận, thường được xưng tụng là Tam tạng pháp sư (三藏法师) hoặc Tam tạng trì giả (三藏持者). Vị Tam tạng pháp sư nổi tiếng nhất là cao tăng Trần Huyền Trang đời nhà Đường, người đã hành hương đến Ấn Độ để nghiên cứu và mang kinh điển Phật giáo trở về Trung Quốc. Do ảnh hưởng của tiểu thuyết Tây du ký, nhiều người hiểu lầm danh xưng "Đường Tam Tạng" chính là tên của nhà sư Huyền Trang.
Lược sử
Hình thành
Theo truyền thống Phật giáo, ngay sau khi Đức Phật nhập diệt, 500 đệ tử cao đệ của Ngài, dưới sự lãnh đạo của Ma-ha Ca-diếp, đã tổ chức kết tập nhằm đúc kết lại những lời dạy của thầy. Tại lần kết tập này, Ưu-bà-li tụng về Luật và A-nan-đà tụng về Pháp. Nếu như phần Kinh tạng gần như hoàn chỉnh, thì phần giới luật chỉ mới là những tập hợp rời rạc mà truyền thống Phật giáo Hán truyền gọi là Bát thập tụng luật (八十誦律). Khoảng 100 năm sau, các trưởng lão của Tăng đoàn đã tổ chức kết tập lần thứ hai, hoàn chỉnh thêm phần Luật tạng.
Mặc dù tất cả 6 truyền thống giới luật Phật giáo còn sót lại đều có ghi chép, toàn bộ hoặc một phần, về các kỳ kết tập thứ nhất và thứ hai, nhưng hầu hết các học giả hiện đại đều đặt câu hỏi về tính lịch sử của những lần kết tập đầu tiên này. Trong khi đó, các ghi chép về kỳ kết tập thứ ba lại có sự khác biệt đáng kể giữa các tài liệu. Tuy nhiên, hầu hết chúng đều thống nhất rằng nó đã được diễn ra tại Pataliputra, kinh đô của hoàng đế Ashoka bấy giờ. Phần tạng Luận, tập hợp từ các phần A-tì-đạt-ma, cũng được hệ thống hóa và trở thành phần thứ 3 trong Tam tạng. Các học giả hiện đại cũng ghi nhận kỳ kết tập thứ ba đánh dấu sự hình thành hệ kinh điển bằng chữ viết thay cho hình thức khẩu truyền trước đó, cũng như sự ra đời của các phái bộ truyền giáo. Kỳ kết tập này cũng ghi dấu mốc chính thức mở đầu thời kỳ Phật giáo Bộ phái dẫn đến sự hình thành các bộ phái cũng như các hệ tổng tạng kinh điển khác nhau sau đó.
Các thành phần
Luật tạng
Giai đoạn đầu hình thành Tăng đoàn, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã đưa ra những khuyến cáo những việc xấu nên tránh và những việc tốt nên làm, nhằm định hướng mục tiêu cho các đệ tử theo đuổi để đạt đến Niết-bàn. Những khuyến cáo đó được gọi là Thi-la (शील, sa. Śīla; pi. Sīla; zh. 戒, Giới), mang tính chất khuyến khích mọi người theo đưởi nó càng nhiều càng tốt tùy theo khả năng, hoàn cảnh và phán đoán của chính họ. Khi Tăng đoàn phát triển lớn số lượng tăng nhân, Đức Phật bắt đầu chế định những cách thức sinh hoạt trong cộng đồng tăng đoàn. Những chế định quan trọng nhất được tập hợp thành các bài kệ, và chúng được đọc trong các buổi Uposatha để nhắc nhở tăng chúng, hình thành các Tỳ-nại-da (विनय, sa., pi. Vinaya; zh. 律, Luật). Khác với Thi-la mang tính chất tự giác, Tỳ-nại-da mang tính chất chế tài. Những tăng nhân nào không tuân thủ sẽ bị Tăng đoàn trừng phạt tùy theo mức độ nghiêm trọng của vụ việc, lỗi nhẹ có thể sám hối trước tăng chúng, lỗi nặng sẽ bị trục xuất khỏi Tăng đoàn. Cả hai thành phần này thường đi chung với nhau trong đời sống tăng đoàn, nên thường được gọi chung là những giới luật.
Truyền thống Phật giáo đều cho rằng, giới luật được hệ thống ngay từ kỳ kết tập thứ nhất, do tôn giả Ưu-bà-ly tuyên đọc, tập hợp tất cả các giới luật từng được Đức Phật chế ra, gồm các quy tắc và quy định, hoặc luân lý và đạo đức, của đời sống tu sĩ, từ quy định về trang phục và chế độ ăn uống đến các điều cấm đối với một số hành vi cá nhân. Sau kỳ kết tập thứ hai, vì quan điểm khác nhau về giới luật, nên các bộ phái Phật giáo bị chia rẽ, Tăng đoàn của các bộ phái khác nhau đều có giới luật riêng, hình thành Luật tạng đặc thù của từng bộ phái.
Theo các nhà nghiên cứu hiện đại, Luật tạng dường như đã phát triển dần dần như một bản phân tích cho các quy tắc tu viện (Prātimokṣa), giả định trước một sự chuyển đổi từ một cộng đồng hành khất lang thang (thời kỳ Sūtra Piṭaka) sang một cộng đồng tu sĩ ít vận động hơn (thời kỳ Vinaya Piṭaka). Chính sự cách biệt về mặt địa lý là yếu tố quan trọng hình thành sự khác biệt về giới luật. Truyền thống Thượng tọa bộ phụng hành Luật tạng Pali, xuất phát từ Luật tạng của Xích đồng diệp bộ. Truyền thống Đại thừa phụng hành theo Bồ tát giới, rải rác trong các kinh, luận Đại thừa như Du-già sư địa luận (phần "Bồ tát địa", giới phẩm), Phạm võng Bồ tát giới kinh, Hư không tạng Bồ tát kinh... Truyền thống Tạng truyền thì phụng hành Luật tạng của Căn bản thuyết nhất thiết hữu bộ (xuất xứ từ Thuyết nhất thiết hữu bộ).
Truyền thống Phật giáo Hán truyền trước thời nhà Đường có 3 truyền thống phụng hành Luật tạng, gồm Tứ phần luật (từ Pháp Tạng bộ), Thập tụng luật (từ Thuyết nhất thiết hữu bộ) và Ma-ha-tăng-kỳ luật (từ Đại chúng bộ). Về sau, do sự ủng hộ của đại sư Đạo Tuyên và các đệ tử, luật Tứ phần được đánh giá là "phân thông Đại thừa" (分通大乘), nên từ thời Đường, nghiên cứu về luật Tứ phần đã trở thành xu hướng chủ đạo, được xưng là "Nam Sơn luật học" hoặc "Tứ phần luật tông". Đạo Tuyên cũng được xưng tụng là Sơ tổ của Luật tông Trung Quốc.
Kinh tạng
Trong cuộc đời hoằng pháp của mình (khoảng 40 hoặc 45 năm tùy theo truyền thống Phật giáo), Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã giảng thuyết với số lượng bài giảng đồ sộ ở dạng cách ngôn hoặc tường thuật. Sau khi Ngài nhập diệt, các đệ tử đã kết tập chúng ngay trong kỳ kết tập thứ nhất, nhằm bảo tồn trọn vẹn những giáo thuyết của thầy mình. Những bài giảng ấy được gọi chung là Tu-đa-la (सूत्र, sa. Sūtra; pi. Sutta; zh. 經, Kinh), theo truyền thống, do thị giả của Đức Phật là A-nan tụng đọc, được các trưởng lão duy trì bằng cách truyền khẩu qua nhiều thế hệ trước khi được lập thành văn tự vào thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Trong suốt quá trình đó, các kinh văn liên tục được điều chỉnh và bổ sung, nên ngay cả trong King tạng cũng có thể tìm thấy những kinh văn cũ hơn và muộn hơn.
Trong kinh điển Pali, Kinh tạng được phân thành các Bộ kinh (pi. nikāya), gồm 5 phần: Trường Bộ kinh (pi. dīgha-nikāya), Trung Bộ kinh (pi. majjhima-nikāya), Tương ưng Bộ kinh (pi. saṃyutta-nikāya), Tăng chi Bộ kinh (pi. aṅguttara-nikāya), và Tiểu Bộ kinh (pi. khuddaka-nikāya). Truyền thống Phật giáo Hán truyền chủ yếu sắp xếp phần Kinh tạng thành 4 A-hàm (sa. āgama), gồm Trường a-hàm (zh. 長阿含, sa. dīrghāgama), Trung a-hàm (zh. 中阿含, sa. mādhyamāgama), Tăng nhất a-hàm (zh. 增壹阿含, sa. ekottarikāgama), và Tạp a-hàm (zh. 雜阿含, sa. saṃyuktāgama). Ngoài ra, một số truyền thống bộ phái còn có thêm phần Tạp tạng, chứa các phần Pháp cú kinh, Xuất diệu kinh, Bản sự kinh, Bản sinh kinh... như là phần phụ lục của 4 bộ A-hàm.
Kinh điển Đại thừa còn bổ sung vào Kinh tạng các bộ kinh Đại thừa như Bát-nhã, Bảo tích, Đại tập, Hoa nghiêm, Niết-bàn, và các bộ kinh khác ngoài 5 bộ kinh chính trên (như Pháp hoa kinh, Duy-ma-cật sở thuyết kinh, Giải thâm mật kinh, Lăng-già kinh, A-di-đà kinh, Kim quang minh kinh...
Luận tạng
Thời Đức Phật tại thế, Ngài đã sử dụng một phương pháp luận mà Ngài gọi là A-tì-đạt-ma (अभिधम्म, sa. Abhidharma; pi. Abhidhamma) để truyền thụ chủ thuyết của mình, thông qua việc sử dụng các mẫu đề (sa. mātŗkā; pi. mātikā). Tuy nhiên, trong kỳ kết tập thứ nhất, các A-tì-đạt-ma chưa thực sự được tập hợp thành hệ thống riêng, mà vẫn còn nằm rải rác trong phần Kinh tạng. Những văn bản sớm nhất của Kinh điển Pali đã không đề cập đến các văn bản của Luận tạng. Theo các học giả hiện đại, niên đại nguồn gốc của Luận tạng thường được xác định vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, xấp xỉ 100 đến 200 năm sau khi Đức Phật nhập diệt. Nó cũng được bổ sung phần Ưu-bà-đề-xá (उपदेश, sa. upadeśa; zh. 論議, Luận nghị), những bình luận và rút ra ý nghĩa từ kinh điển do chính Đức Phật thuyết giảng. Văn học A-tì-đạt-ma có thể bắt nguồn từ việc biên soạn và giải thích kinh điển, nhưng sau đó đã phát triển thành các học thuyết độc lập. Vì vậy, các học giả khẳng định A-tì-đạt-ma không phải là những lời của chính Đức Phật, mà là của các đệ tử và đại sư hậu thân.
Chính sự phát triển của những bộ luận giải như thế sau đó đã phát triển thành các bộ luận của các bộ phái khác nhau. Trong đó, hai bộ Luận tạng còn được bảo tồn gồm:
Luận tạng của Xích đồng diệp bộ có 7 bộ luận chính:
Pháp tập luận (Dhamma-saṅganī)
Phân biệt luận (Vibhaṅga)
Giới luận (Dhātu-kathā)
Nhân thi thiết luận (Puggala-paññatti)
Luận sự (Kathā-vatthu)
Song luận (Yamaka)
Phát thú luận (Paṭṭhāna)
Luận tạng của Thuyết nhất thiết hữu bộ cũng có 7 bộ:
Pháp uẩn luận (Dharma-skandha)
Tập dị môn luận (Saṃgīti-paryāya)
Thi thiết luận (Prajñapti)
Thức thân luận (Vijñānakāya)
Phẩm loại luận (Prakaraṇa)
Giới thân luận (Dhātukāya)
Phát trí luận (Jñāna-prasthāna)
Ngoài ra, các bộ luận khác đã được lưu truyền bao gồm Xá-lợi-phất A-tì-đàm luận (Śāriputrābhidharma) của Pháp Tạng bộ, tương truyền do Ma-ha Ca-diếp sáng tác từ thời D(ức Phật tại thế, nằm trong bộ Tạng thích (Petakopadesa). Hay như bộ Nghĩa thích và Vô ngại giải đạo của Đồng diệp bộ, tuy được xếp vào King tạng, nhưng nội dung lại thuộc thể loại Ưu-ba-đề-xá hoặc A-tì-đạt-ma.
Do các bộ Luận tạng lớn và khó hiểu, các thế hệ luận sư về sau đã phát triển nhiều tác phẩm "tập đại thành" cho mục đích toàn diện, chẳng hạn như Tạp tâm luận của Pháp Cứu, Thành thực luận của Ha-lê-bạt-ma, Câu-xá luận của Thế Thân, Thanh tịnh đạo luận của Phật Âm.
Các bộ luận quan trọng của Phật giáo Đại thừa gồm có Trung luận của Long Thọ, Bách luận và Tứ bách luận của Đề-bà, Du-già sư địa luận, Đại thừa Trang nghiêm kinh luận và Biện trung biên luận của Duy thức tông, Nhiếp Đại thừa luận của Vô Trước, Duy thức nhị thập luận và Duy thức tam thập tụng của Thế Thân, Bảo tính luận của Kiên Huệ...
Truyền thống Bộ phái
Mặc dù có cùng nguồn gốc, nhưng mỗi bộ phái đều phát triển những các phiên bản Tam tạng kinh điển của riêng mình, mà theo Nghĩa Tịnh, chỉ khác nhau ở một số điểm dị biệt cố ý hoặc vô ý. Theo một số tài liệu, từ cách phân loại Tam tạng theo truyền thống, một vài bộ phái còn phát triển thành 5 hoặc 7 bộ tạng. Chẳng hạn theo ghi ghép trong Tam luận huyền nghĩa (三論玄義), kinh điển của Pháp Tạng bộ, ngoài Tam tạng, còn có thêm Bồ tát tạng và Chú tạng, hợp thành Ngũ tạng. Vãn kỳ Phật giáo Đại thừa cũng có tồn tại một cách phân loại Ngũ tạng, như ghi chép của Đại thừa Lý thú lục Ba-la-mật-đa kinh (大乘理趣六波羅蜜多經), ngoài Tam tạng, còn có Bát-nhã tạng, Đà-la-ni tạng, hợp thành Ngũ tạng.
Trong các ghi chép của mình, Nghĩa Tịnh từng lưu ý rằng mặc dù có rất nhiều bộ phái chính và nhánh phụ, nhưng các bộ phái này đều chia sẻ kinh điển Tam tạng của truyền thống mẹ (mà ông gọi là "bốn bộ phái truyền thừa chính" hoặc truyền thống "arya"). Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là các nhánh bộ phái phụ khác nhau không sở hữu Tam Tạng độc đáo của riêng họ.
Sau chuyến du hành Ấn Độ, Nghĩa Tịnh được cho là đã mang về Trung Quốc 4 bộ Tam tạng của 4 bộ phái phi Đại thừa là Đại chúng bộ, Nhất thiết hữu bộ, Thượng tọa bộ và Chính lượng bộ. Huyền Trang sau đó cũng mang về ngoài 4 bộ Tam tạng của 4 bộ phái trên, còn mang thêm được 3 bộ Tam tạng của các bộ phái Pháp Tạng bộ, Ca-diếp bộ và Hóa địa bộ.
Dẫn theo AK Warder, nhà sử học Tây Tạng Bu-ston cho rằng vào khoảng hoặc trước thế kỷ thứ nhất, có 18 bộ phái Phật giáo, mà mỗi bộ phái đều có kinh điển Tam tạng của riêng mình được phiên âm thành văn tự. Tuy nhiên, ngoại trừ phiên bản của Thượng tọa bộ còn tồn tại đầy đủ và những phiên bản khác còn tồn tại một phần, tất cả các kinh văn của các bộ phái đều bị thất lạc trong lịch sử hoặc vẫn chưa được tìm thấy.
Đại chúng bộ
Theo Chân Đế (Paramārtha), 200 năm sau khi Đức Phật nhập diệt, phần lớn phái Đại chúng bộ (Mahāsāṃghika) đã di chuyển về phía bắc Rājagṛha, bị chia rẽ về việc liệu các kinh văn Đại thừa có nên được chính thức đưa vào Tam tạng của họ hay không. Theo đó, Đại chúng bợ chia thành ba nhánh dựa trên cách thức và mức độ tương đối chấp nhận thẩm quyền của các bản kinh văn Đại thừa này. Chân Đế viết rằng phái Kê-dận bộ (Kukkuṭika) không chấp nhận kinh Đại thừa là Buddhavacana ("Phật ngôn"), trong khi phái Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravāda) và Nhất thuyết bộ (Ekavyāvahārika) lại chấp nhận kinh điển Đại thừa như là lời Phật dạy. Cũng trong thế kỷ thứ 6, tài liệu Avalokitavrata viết về Đại chúng bộ đã sử dụng thuật ngữ "Đại tạng kinh", sau đó được liên kết với các kinh Đại thừa như Bát-nhã-ba-la-mật-đa kinh (Prajñāparamitā) và Thập địa kinh (Daśabhūmika Sūtra).
Theo một số tài liệu, các bản A-tì-đạt-ma không được phái Đại chúng bộ xem là kinh điển. Tài liệu Đảo sử (Dīpavaṃsa) của Thượng tọa bộ ghi lại rằng Đại chúng bộ không có phần A-tì-đạt-ma. Tuy nhiên, các tài liệu khác lại chỉ ra tự tồn tại của những bộ Luận tạng như vậy, cụ thể là cả Pháp Hiển lẫn Huyền Trang đều có đề cập đến Luận tạng của Đại chúng bộ. Trên cơ sở bằng chứng văn bản cũng như bia ký ở Nāgārjunakoṇḍā, Joseph Walser kết luận rằng ít nhất một số nhánh Đại chúng bộ có lẽ đã có một tuyển tập A-tỳ-đạt-ma, và nó có thể bao gồm năm hoặc sáu quyển.
Phần Luật tạng của Đại chúng bộ đã được Phật-đà-bạt-đà-la (Buddhabhadra) và Pháp Hiển dịch ra Hán văn vào năm 416. Chúng hiện được bảo tồn và được xếp trong bộ Taishō Tripiṭaka, đánh số 1425.
Nhất thiết hữu bộ
Pháp Tạng bộ
Hóa Địa bộ
Ca-diếp bộ
Các truyền thống phát triển
Kinh điển Pali
Kinh điển Hán văn
Kinh điển Tạng văn
Hình ảnh
Xem thêm
Kinh điển Phật giáo
Đại tạng kinh
Kinh điển Pali
Chú thích
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Liên kết ngoài
Kinh điển Pali
British Library has digitised four Sinhalese palm leaf manuscripts (Sinhalese Manuscripts Pilot Digitisation Project)
Access to Insight has many suttas translated into English
Sutta Central Early Buddhist texts, translations, and parallels (Multiple Languages)
Tipiṭaka Network
List of Pali Canon Suttas translated into English (ongoing)
The Pali Tipiṭaka Project (texts in 7 Asian languages)
The Sri Lanka Tripiṭaka Project Pali Canons has a searchable database of the Pali texts
The Vietnamese Nikaaya (continuing, text in Vietnamese)
Search in English translations of the Tipiṭaka
New Guide to the Tipiṭaka has summaries of the entire Tipiṭaka in English
Tipiṭaka Online
Tam tạng Lankan
Buddha Jayanthi Edition of Tipiṭaka in Sinhala (Sri Lankan version)
Tipiṭaka in Sinhala (Sri Lankan version)
Tam tạng Myanmar (chỉnh lý lần thứ 6)
Buddhist Bible Myanmar Version (without original Pali text)
Đại tạng kinh Hán văn
Buddhist Text Translation Society: Sutra Texts
BuddhaNet's eBook Library (English PDFs)
WWW Database of Chinese Buddhist texts (English index of some East Asian Tripiṭakas)
Tripiṭaka Titles and Translations in English
CBETA: Full Chinese language canon and extended canon (includes downloads)
Đại tạng kinh Tạng văn
Kangyur & Tengyur Projects (Tibetan texts)
Kangyur & Tengyur Translating Projects (Tibetan texts)
Các bộ Tam tạng khác
Extensive list of online Tripiṭakas
Theravada Buddhism Tipiṭaka
Đại Tạng Kinh Việt Nam
Danh vị Phật giáo
Thuật ngữ và khái niệm Phật giáo
|
11497
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BA%20ph%C3%A1p%20ng%C3%B4n%20ng%E1%BB%AF%20C
|
Cú pháp ngôn ngữ C
|
Cú pháp ngôn ngữ (lập trình) C là tập hợp các quy tắc nhằm xác định cách thức để viết và dịch trong ngôn ngữ lập trình C.
Thí dụ:
// Dòng này sẽ được bỏ qua (không đọc) bởi trình dịch.
/* Các dòng này
cũng được bỏ qua
bởi trình dịch */
... (Tiếp tục mã C)
Các hàm
Cú pháp
Một hàm C phải bao gồm một kiểu trả về (kiểu đó trả về void nếu không có giá trị trả về), một tên xác định, một danh sách các tham số để trong ngoặc đơn (nếu danh sách này không có tham số nào thì ghi là void bên trong dấu ngoặc), sau đó là khối các câu lệnh (hay khối mã) và/hay các câu lệnh return. (Nếu kiểu trả về là void thì mệnh đề này không bắt buộc phải có. Ngược lại, cũng không bắt buộc chỉ có một câu lệnh return mà tùy theo kỹ thuật, người lập trình có thể dẫn dòng mã sao cho mọi hướng chẻ nhánh đều được trả về đúng kiểu.)
<kiểu_trả_về> tên_hàm(<danh sách tham số>)
{
<các_câu_lệnh>
return <biến (hay giá trị) có kiểu là kiểu_trả_về>;
}
Trong đó, <danh sách tham số> của N biến thì được khai báo như là kiểu dữ liệu và tách rời nhau bởi dấu phẩy ,:
<kiểu_dữ_liệu> var1, var2,..., varN;
Toàn bộ danh sách này được đặt trong ngoặc đơn ngay sau tên_hàm.
Thí dụ
Hàm add tính tổng hai số có kiểu integer, hàm abs tính trị tuyệt đối của số có kiểu integer, và chương trình (hàm main) hiển thị hai dòng 1 + 1 = 2 và absolute value of -2 is 2
#include <stdio.h>; //Chú giải: dòng này khai báo thư viện là stdio.h
int add(int x, int y)
{
return x + y;
}
int abs(int x)
{
if (x > 0) return x;
if (x < 0) return -x;
if (x == 0) return 0;
/* đây chỉ là thí dụ cho thấy C có khả năng dùng nhiều hơn 1 câu lệnh <code>return</code>
hoàn toàn có thể dùng các câu lệnh khác đơn giản hon. */
}
int main(void)
{
{
int z;
int y;
printf("nhap z:");
scanf("%d",&z);
printf("nhap y:");
scanf("%d",&y);
printf("%d + %d = %d\n", z, y,add(z, y));
printf ("gia tri tuyet doi cua %d la %d", y, abs(y));
}
}
Chú ý: phần mã trên đã được thử thành công dùng trình dịch GNU (cho ANSI C và C99)
Mô tả
Trong các câu lệnh tiền xử lý, ở cấp độ cao nhất, một chương trình ngôn ngữ C luôn có một chuỗi các khai báo cho các tập tin bao gồm.
Sau đó là các khai báo của phạm vi tập tin. Các khai báo này giới thiệu các hàm, các biến và các kiểu biến. Các hàm trong C nhìn tương tự với các chương trình con của Fortran hay các thủ tục của Pascal. Định nghĩa của hàm xuất hiện trong phần thân của nó (phần giữa bộ dấu ngoặc { và } theo sau nguyên dạng của hàm).
Các chương trình trong C để tạo các ứng dụng trực tiếp đều cần phải có một hàm đặc biệt tên là main, đây sẽ là hàm đầu tiên được gọi khi chương trình bắt đầu thực thi. Sau đây là một chương trình đầy đủ mặc dù không có mấy ứng đụng thiết thực.
int main (void)
{
return 0;
}
Hàm code>main</code> thường gọi các hàm khác để giúp nó hoàn tất công việc (tuỳ theo sự lập trình của người dùng).
Trọng một số trường hợp C được dùng không phải để tạo ra các ứng dụng trực tiếp mà để dùng với hệ điều hành hay các nơi khác (như là phát triển các bộ điều vận, các phần sụn, hay các thư viện...). Những trường hợp như vậy thì người lập trình hoàn toàn tự do trong việc giải quyết làm sao để xử lý khởi động chương trình, đặc biệt nó sẽ không cần định nghĩa hàm main.
Các hàm có thể được viết ra bởi người lập trình hay được cung cấp sẵn bởi các thư viện. Các thư viện cần được khai báo (sử dụng) bằng cách nêu tên các tập tin tiêu dề trong câu lệnh dạng #include tập tin tiêu đề. Một số hàm thư viện như là printf đã được định nghĩa bởi chuẩn C, chúng được tham chiếu như là các hàm thư viện chuẩn.
Một hàm có thể trả về một giá trị cho môi trường gọi nó. Khi hàm main trả về giá trị 0 chỉ dấu cho rằng toàn bộ chương trình đã hoàn tất thành công và kết thúc. Hàm printf cùng có giá trị trả về, đó là số lượng ký tự đã hiển thị, nhưng giá trị này thường bị bỏ qua không dùng.
Truyền các biến
Các biến trong C được truyền qua các hàm bằng giá trị trong khi nhiều ngôn ngữ khác lại được truyền bằng tham chiếu (hay bằng địa chỉ). Điều này có nghĩa là hàm chỉ chép lại các giá trị và không thể thay đổi các giá trị đó của các biến (hay đối số) đưa vào. Để có thể thay đổi được giá trị của các biến truyền vào, người lập trình có thể truyền địa chỉ của nó vào hàm và tham chiếu ngược nó trong hàm được dùng (xem thêm kiểu tham chiếu)
void incInt(int *x)
{
(*x)++; // tăng giá trị của x trong <code>main<code> 1 đơn vị
}
int main(void)
{
int x = 0;
incInt(&x); // chuyển một tham chiếu vào incInt cho 'x'
return 0;
}
Để có thể chuyển một con trỏ (mà có thể cần đổi địa chỉ nó chỉ đến), có thể chuyển một tham chiếu cho con trỏ (tham chiếu này chỉ đến địa chỉ của con trỏ):
void setInt(int **p, int n)
{
*p = (int *) malloc(sizeof(int)); // đăng ký một vùng nhớ
*p = n; // cài giá trị vào
}
int main(void)
{
int *p; //khai báo một con trỏ kiểu integer
setInt(&p, 42); // chuyển giá trị của 'p' vào.
return 0;
}
int **p sẽ định nghĩa một con trỏ chỉ đến con trỏ (thay vì chỉ đến các kiểu dữ liệu thông thường) tức là chỉ đến địa chỉ của con trỏ p.
Hàm scanf làm việc theo cùng một cách thức:
int x;
scanf("%d", &x);
Các cấu trúc dòng điều khiển
Một cách cơ bản thì C là ngôn ngữ dạng tự do. Trong phần này, tất cả các chữ "mệnh đề" có nghĩa tương đương với chữ "câu lệnh".
Các mệnh đề phức hợp
Câu lệnh phức hợp được bọc trong dấu ngoặc { và } còn được gọi là khối mã. Các câu lệnh phức hợp trong C có dạng.
{ <danh sách khai báo tùy chọn> <danh sách câu lệnh tùy chọn> }
Khối mã được dùng như là phần thân của một hàm hay được đặt bất kì ở vị trí nào mà một câu lệnh đơn giản có thể đặt. Nghĩa là, về ý nghĩa văn phạm thì câu lệnh đơn giản và câu lệnh phức hợp là tương đương nhau.
Các mệnh đề biểu thức
Một câu lệnh (hay một mệnh đề) của C có dạng:
<biểu thức tùy chọn>;
là một mệnh đề biểu thức. Nếu biểu thức này không có nội dung (mà chỉ còn lại dấu ; thì biểu thức được gọi là mệnh đề null (hay mệnh dề rỗng). (Theo ngôn ngữ máy Assembler thì mệnh đề null sẽ tương đương với câu lệnh NOP; chiếm 1 byte chỉ làm nhiệm vụ tăng địa chỉ của chồng (stack) lên 1 đơn vị.)
Các mệnh đề lựa chọn (hay điều kiện)
Có ba loại mệnh đề lựa chọn: hai loại dùng từ khóa if và một loại dùng từ khóa switch. Đó là:
Dạng dùng từ khóa if
if (<biểu thức>)
<mệnh đề1>;
if (<biểu thức>)
<mệnh đề1>;
else
<mệnh đề2>;
Trong dạng này, nếu phần trong ngoặc đơn có giá trị khác 0 hay có giá trị "đúng" (true) thì dòng điều khiển sẽ chuyển vào để thực thi <mệnh đề1>. Nếu trong câu lệnh if có thêm từ khóa else thì <mệnh đề2> sẽ được thực thi một khi <biểu thức> có giá trị 0 hay giá trị "sai".
Nhắc lại: như trên thì vị trí mỗi mệnh đề đều có thể thay bằng một khối mã.
Trong cách viết mã lồng nhau phức tạp bao gồm nhiều mệnh đề if thì từ khóa else sẽ được gán vào mệnh đề if phía trên gần nhất nào chưa được ghép. Để tránh sự nhầm lẫn cách tốt nhất là lồng chúng vào trong các dấu { và }.
Dạng dùng từ khóa switch
Mệnh đề switch sẽ gây ra việc chuyển dòng điều khiển sang một trong những mệnh đề con kế tiếp tùy theo giá trị của một biểu thức X (biểu thức này phải có kiểu nguyên). Các mệnh đề con này thường là các mệnh đề phức hợp. Đứng trước mỗi mệnh đề con sẽ là một từ khóa case, sau đó là một biểu thức hằng Hi, và dấu hai chấm : gắn liền tiếp theo đó là mệnh đề con Mi.
Khi giá trị của X trùng với một giá trị Hi được nêu ở đâu thì mệnh đề con đi gắn liền với hằng tại đó (tức là Mi) sẽ được thực thi.
Nếu X không bằng với bất kì giá trị Hi nào thì người lập trình có thể dùng thêm từ khóa default, sau đó là dấu hai chấm : và tiếp theo là một mệnh đề con Mdefault. Mệnh đề con này sẽ được thực thi khi mà giá trị của X khác với mọi giá trị hằng Hi.
Lưu ý:
Trong câu lệnh switch thì không cho phép có hai giá trị hằng bằng nhau. Nghĩa là khi X được đánh giá thì chỉ có tối đa một mệnh đề con được thực thi.
Các câu lệnh switch có thể được dùng trong dạng lồng vào nhau (nest), một từ khóa case hay default sẽ thuộc vào câu lệnh switch bên trong nhất (hay nhỏ nhất) chứa nó.
Một khi dòng điều khiển hoàn tất câu lệnh con Mi thì nó sẽ tiếp tục thi hành các câu lệnh con Mi+1 theo sau cho đến khi nó bị yêu cầu ngưng bởi câu lệnh nhảy (mà thường dược dùng nhiều nhất là câu lệnh break)
Trong dạng thí dụ dưới đây, nếu <biểu thức X> có giá trị bằng <hằng H2> thì mệnh đề các biểu thức <mệnh đề M2>,<mệnh đề M3>, và <mệnh đề Mdefault> sẽ lần lần lượt được thực thi theo thứ tự nếu như trong chúng không có câu lệnh break. Nhưng vì trong mã thí dụ có câu lệnh break nên dòng điều khiển sẽ ngưng và kết thúc câu lệnh switch khi thi hành lệnh break này.
switch (<biểu thức X>)
{
case <hằng H1>:
<mệnh đề M1>
case <hằng H2>:
<mệnh đề M2>
break;
case <hằng H3>:
<mệnh đề M3>
default:
<mệnh đề Mdefault>
}
Các mệnh đề tái lặp (hay vòng lặp)
C có 3 dạng câu lệnh vòng lặp:
Vòng lặp do
do
<mệnh đề>
while (<biểu thức>);
Trong mệnh đề này thì mệnh đề được thực thi lặp lại cho tới khi nào <biểu thức> được đánh giá (hay có giá trị) là true. Một khi <biểu thức> không còn có giá trị true nữa thì vòng lặp sẽ bị kết thúc.
Vòng lặp while
while (<biểu thức>)
<mệnh đề>
<mệnh đề> chỉ được thực thi hay thực thi lặp lại khi <biểu thức> có giá trị là true. Nếu <biểu thức> có giá trị false thì câu lệnh sẽ bị kết thúc ngay lập tức.
Vòng lặp for
Dạng C89 của vòng lặp for là:
for (<biểu thức 1>; <biểu thức 2>; <biểu thức 3>)
<câu lệnh>
Nó đã được tổng quát hóa trong C99 thành:
for (<khai báo> <biểu thức 1>; <biểu thức 2>)
<câu lệnh>
Khi cả ba biểu thức đều hiện diện trong một câu lệnh for, thì mệnh đề:
for (e1; e2; e3)
s;
sẽ tương đương với
e1;
while (e2) {
s;
e3;
}
Bất kì biểu thức nào trong vòng lặp for có thể được loại bỏ. Một biểu thức bị mất (e2 chẳng hạn) có thể làm cho vòng lặp biến thành vòng lặp vô hạn.
Thí dụ: vòng lặp for sau đây 3 biểu thức ở dạng phức hợp và ngăn cách nhau bởi dấu chấm phẩy ;:
for (x=10,y=1;((x>4) && (y<8)); x--,y+=2)
printf("x = %d, y = %d \n", x,y);
Kết quả thực thi màn hình sẽ hiển thị như sau:
x = 10, y = 1
x = 9, y = 3
x = 8, y = 5
x = 7, y = 7
Vòng lặp kết thúc vì điều kiện trong biểu thức thứ nhì ((x>4) && (y<8)) không còn đúng nữa.
Các mệnh đề nhảy (hay bước nhảy)
Các lệnh nhảy sẽ thay đổi dòng điều khiển một cách vô điều kiện. có 4 kiểu mệnh đề nhảy trong C là goto, continue, break, và return.
goto
câu lệnh goto sẽ có dạng:
goto <nhãn>;
nhãn phải có mặt trong hàm có chứa câu lệnh goto. Khi đọc đến lệnh này, dòng điều khiển sẽ chuyển đến mệnh đề nhãn.
continue
Mệnh đề continue chỉ có thể xuất hiện trong một vòng lặp và có tác dụng làm cho dòng điều khiển chuyển sang chu kì mới của vòng lặp trong cùng nhất (có chứa câu lệnh). Các dạng sử dụng bao gồm
while (expression) {
/*... */
cont:;
}
do {
/*... */
cont:;
} while (expression);
for (optional-expr; optexp2; optexp3) {
/*... */
cont:;
}
break
Mệnh đề break dùng để kết thúc một câu lệnh vòng lặp hay câu lệnh switch ngay lập tức và chuyển tiếp đến câu lệnh tiếp theo sau của vòng lặp đó.
return
Một hàm trả dòng điều khiển về nơi gọi nó bằng câu lệnh return. Khi lệnh return được theo sau bởi một biểu thức thì biểu thức đó sẽ được đánh giá và giá trị này sẽ được trả về cho nơi đã gọi hàm. Khi return được gọi mà không có biểu thức đi kèm thì giá trị trả về là không xác định.
Các phép toán
Xem thêm bài chính Phép toán trong C và C++
Để tham khảo, sau đây là bảng thứ tự ưu tiên của các phép toán theo C89:
Nguồn: C Operator Precedence and Associativity
Khai báo dữ liệu
Các kiểu dữ liệu cơ bản
Nhiều ngôn ngữ lập trình kể cả C, biểu thị các số trong hai dạng: nguyên và thực (hay không nguyên). Sự khác nhau này hình thành từ khía cạnh kỹ thuật của các cách thức xử lý và lưu trữ các giá trị trong bộ nhớ.
Kiểu nguyên viết dưới dạng int được dùng để biểu thị các số nguyên. Kiểu nguyên có trong nhiều kích cỡ khác nhau tùy theo phân lượng bộ nhớ được dùng và độ lớn cao nhất. Các từ khóa, có tên là các định tính, được dùng thêm vào để điều chỉnh lại kích cỡ là: short, long và long long. Kiểu ký tự mà từ khóa của nó là char, biểu thị đơn vị nhỏ nhất có thể địa chỉ hóa được (bởi kiến trúc máy tính) thường là một byte với 8 bit.
Dạng thực được dùng để biểu thị các số thập phân hay các bộ phận hữu tỉ. Mặc dù vậy chúng không hoàn toàn chính xác mà chỉ là các biểu thị gần đúng.
Có 3 kiểu giá trị thực bao gồm: loại có độ chính xác đơn (có đặc tả là float), loại có độ chính xác kép (có đặc tả là double), và loại có độ chính xác kép mở rộng (có đặc tả là long double). Mỗi loại dùng để biểu thị các giá trị không nguyên trong một dạng khác nhau.
Các kiểu nguyên có thể hoặc là có dấu (signed) hay không dấu (unsigned). Nếu không chỉ rõ khi khai báo thì mặc định (hiểu ngầm) sẽ là loại có dấu. Một ngoại lệ là các kiểu char, signed char và unsigned char đều khác nhau, và kiểu char có thể là loại có dấu hay không có dấu.
Đối với loại có dấu, thì bit có nghĩa cao nhất được dùng để biểu thị dấu (dương hay âm). Thí dụ một số nguyên 16-bit loại có dấu thì chỉ dùng 15 bit để biểu thị giá trị (tuyệt đối) của nó còn bit có nghĩa cao nhất lại được dùng để cho biết đó là số dương hay âm. Đối với loại không dấu thì bit này lại được dùng thêm vào để biểu thị giá trị.
= Trong các kiểu nguyên, độ lớn cao nhất biểu thị giá trị lớn nhất (tùy theo có dấu hay không) mà nó biểu thị. (Xem thêm bản dưới đây)
= Từ khóa long long được đưa thêm vào trong chuẩn C99.
Các hằng số xác định các giá trị biên
Tập tin tiêu đề chuẩn limits.h sẽ xác định các giá trị nhỏ nhất và lớn nhất của các kiểu nguyên cơ bản cũng như là xác định các giới hạn khác. Tập tin tiêu đề chuẩn float.h sẽ xác định các giá trị nhỏ nhất và lớn nhất của các kiểu float, double, và long double. Nó cũng xác định các giới hạn khác liên quan tới việc xử lý các giá trị của dấu chấm động (floating-point) có độ chính xác đơn hay có độ chính xác kép như là chúng được định nghĩa trong chuẩn IEEE 754.
— Định tính long long chỉ được hỗ trợ trong các trình dịch thỏa mãn chuẩn C99.
— Các hằng LLONG_MIN, LLONG_MAX, và ULLONG_MAX chỉ được định nghĩa trong limits.h nếu trình dịch tương ứng thỏa mãn chuẩn C99.
Các giá trị biên điển hình
Sau đây là danh sách kích cỡ và các biên điển hình của các kiểu nguyên. Các giá trị này có thể khác nhau tùy theo kiến trúc (máy và trình dịch). ISO C cung cấp tiêu đề inttypes.h, trong đó, có xác định các kiểu nguyên có dấu và không có dấu nhưng điều chắc chắn là kích cỡ đều nằm trong khoảng 8 đến 64 bit.
— Định tính long long chỉ được hỗ trợ trong các trình dịch thỏa mãn chuẩn C99.
Kích cỡ và giới hạn của kiểu cơ bản int (mà không có các định tính short, long, hay long long) có thể thay đổi khác nhau (nhiều hơn các kiểu nguyên khác) tùy theo sư thiết lập (của trình dịch hay của kiến trúc máy). Cho nên, một thao tác thông thường là định nghĩa nó như là một đồng nghĩa của size_t — trong tập tin sys/types.h — và do đó, đủ sức để thích ứng với giá trị lớn nhất khả dĩ của con trỏ mà có thể được cấp phát bởi hệ thống. Đặc tả UNIX đơn chỉ ra rằng kiểu int phải có ít nhất 32 bit, mặc dù chuẩn ISO C chỉ yêu cầu có 16 bit.
Các kiểu tham chiếu
Tiền tố ký tự * được dùng để biểu thị kiểu tham chiếu, mà thường được biết đến như là một con trỏ. Nếu như đặc tả int biểu thị một kiểu nguyên cơ bản thì đặc tả int * lại biểu thị một tham chiếu kiểu nguyên, tức là một loại con trỏ. Các giá trị tham chiếu tương quan sẽ bao gồm hai phần thông tin: đó là địa chỉ của vùng nhớ và một kiểu dữ liệu. Câu lệnh sau đây khai báo một biến tham chiếu nguyên có tên là ptr:
<nowiki>int *ptr;</nowiki>
Sự tham chiếu
Khi một con trỏ địa phương được khai báo, thì chưa có một địa chỉ nào gán cho nó cả. Địa chỉ tương quan với một con trỏ có thể được thay đổi (hay hình thành) qua phép gán. Trong thí dụ sau, biến ptr sẽ cài cho nó chỉ tới cùng một dữ liệu như là biến nguyên cơ bản a:
<nowiki>int *ptr;
int a;
ptr = &a;</nowiki>
Để làm được việc này, toán tử tham chiếu (hay còn gọi là tham chiếu ngược) & đã được dùng tới. Nó trả về vị trí của biến trong bộ nhớ (tức là địa chỉ) hay là chỗ chứa thực thể theo sau (trong thí dụ thì thực thể đó là a). Toán tử này như là công việc nó làm thường được gọi là toán tử "địa chỉ".
Trong trường hợp tổng quát, cụm từ giá trị tham chiếu được dùng để nói về địa chỉ trong bộ nhớ của sự tham chiếu (hay tham chiếu ngược).
Sự tham chiếu ngược
Cùng một biểu hiện, giá trị có thể đọc về từ một giá trị tham chiếu. Trong thí dụ sau, biến nguyên cơ bản b sẽ được gán đến dữ liệu mà dữ liệu đó được tham chiếu bởi ptr:
<nowiki>int *ptr;
int a, b;
a = 10; //gán cho a giá trị là 10
ptr = &a; //phép gán địa chỉ của a (tức là &a) lên con trỏ 'ptr'
//để ptr bây giờ chỉ đến địa chỉ có nội dung là 10
b = *ptr //phép gán này cho b một giá trị nằm ở địa chỉ mà 'ptr'
//chỉ tới tức là giá trị của b sẽ là 10
</nowiki>
Để hoàn tất được thao tác này, toán tử tham chiếu ngược (&) đã được dùng. Nó trả về dữ liệu cơ bản. Dữ liệu này có giá trị là một tham chiếu chỉ tới (tức là một địa chỉ). Biểu thức *ptr là một cách viết khác của giá trị 10 (gán cho b).
Việc quá tải của ký tự * có hai biểu hiện liên hệ mà có thể gây ra sự nhầm lẫn. Hiểu được sự khác nhau giữa việc dùng nó như là một tiền tố trong một khai báo (con trỏ) và việc xem nó là toán tử tham chiếu trong một biểu thức là rất quan trọng.
Sự tham chiếu tương đương và các mệnh đề cơ bản
Bảng sau đây là danh sách các mệnh đề tương đương giữa kiểu cơ bản và kiểu tham chiếu (hay tham chiếu ngược). Trong đó, biến cơ bản d và biến tham chiếu ptr được hiểu ngầm.
Các mảng
Khai báo mảng tĩnh
Trong C, mảng được dùng để biểu thị một cấu trúc của một dãy nhiều giá trị có cùng một kiểu được xếp thứ tự. Một mảng gọi là tĩnh nếu độ dài của dãy mảng này cố định. Sự khai báo của mảng tĩnh có cú pháp sau:
<nowiki>int array[n];</nowiki>
trong đó, tên của mảng là array sẽ có thể chứa được n giá trị của kiểu cơ bản int. Trong thực hành, phần bộ nhớ cho n giá trị nguyên này được để dành riêng và được gán cho mảng này (mặc dù giá trị của các phần tử trong mảng chưa được xác định). Biến array thực chất là một kiểu tham chiếu của kiểu nguyên; nó khởi thủy sẽ chỉ tới địa chỉ của giá trị đầu tiên trong mảng.
Truy cập các phần tử
Các giá trị của một mảng được gọi là các phần tử trong mảng.
Một cách để truy cập đến các phần tử này là dùng đến cặp ký tự ngoặc vuông dạng [k]. Trong đó k là chỉ số (hay vị trí thứ tự đếm từ 0). Như vậy, phần tử thứ k trong mảng array sẽ có cú pháp
array[k]
Giá trị trả về của array[k] chính là giá trị mà nó chứa ở vị trí k. Thoạt nhìn thì cú pháp của việc truy cập này trông giống như cú pháp khi mảng array được khai báo nhưng về chức năng thì hoàn toàn khác nhau.
Chỉ số bắt đầu của một mảng là 0. Như vậy, chỉ số lớn nhất của một mảng bằng tổng số các phần tử trong mảng trừ đi 1. Thí dụ mảng A có 10 phần tử thì giá trị của phần tử đầu tiên của A là A[0] và của phần tử cuối dùng là A[9].
Một cách truy cập khác là dùng con trỏ số học để tham chiếu đến giá trị của các phần tử trong mảng.
Bảng sau đây sẽ minh họa cách dùng của cả hai phương pháp:
Các mảng động
C không cung cấp phương tiện để kiểm tra biên cho các mảng. Nghĩa là nó không thể bắt được các lỗi khi gán cho một mảng chỉ số âm hay chỉ số vượt quá độ đài của mảng đó. Và hơn thế nữa các chỉ số trong một mảng có thể vượt khỏi độ dài sẵn có của mảng đó.
Vì các mảng là thuần nhất, tức là nó chỉ chứa các dữ liệu có chung một kiểu nên hai thành phần thông tin cần nhớ là địa chỉ của phần tử đầu tiên và kiểu của dữ liệu.
Nhắc lại về cú pháp để khai báo một mảng tĩnh, tức là tạo ra một biến tham chiếu nguyên và cấp phát một vùng nhớ tương ứng cho nó:
<nowiki>int array[n];</nowiki>
Cách biểu hiện này có thể được tái lập với sự giúp đỡ của thư viện chuẩn C. Hàm calloc cung cấp một cách đơn giản để cấp phát một vùng nhớ. Hai tham số dùng đến sẽ là số lượng các phần tử và kích cỡ (độ lớn) của mỗi phần tử. Khi việc cấp phát bộ nhớ hoàn thành, calloc trả về một con trỏ chỉ tới phần tử đầu tiên và gán cho mọi phần tử giá trị khởi động là 0. Nếu sự cấp phát vùng nhớ không thành công (vì bộ nhớ không đủ chỗ trống hạn) thì calloc trả về con trỏ rỗng. Thí dụ: đoạn mã sau đây có chức năng tương đương với việc khai báo một mảng tĩnh của n phần tử có kiểu int:
<nowiki>int *array;
array = calloc(n, sizeof(int));</nowiki>
Tuy nhiên, điểm vượt trội của cách khai báo này là việc sử dụng cấp phát vùng nhớ động . Kích cỡ của mảng (tức là lượng không gian nhớ được cấp phát một cách an toàn cho mảng) lại có thể được thay đổi sau khi đã khai báo.
Một khi việc cấp phát vùng nhớ động không còn cần thiết nữa thì phần bộ nhớ đó nên được trả về cho hệ điều hành. Thao tác này có thể tiến hành bằng hàm free. Nó cần một tham số: tên của con trỏ mà trước đây đã xin cấp phát vùng nhớ. Một cách an toàn hơn là sau khi đã trả vùng nhớ về cho hệ điều hành, người lập trình cũng nên cài (hay gán) cho con trỏ liên đới giá trị NULL để hủy bỏ địa chỉ mà nó đang chỉ tới (nhằm tránh gây ra các hiệu ứng phụ do việc tham chiếu của con trỏ này có thể gây ra).
<nowiki>
free(array);
array = NULL;</nowiki>
Các mảng đa chiều
C có hỗ trợ việc dùng mảng đa chiều. Việc định nghĩa chúng giống như là tạo ra mảng của các mảng , mặc dù vậy trong thực tế nó không hoàn toàn đúng. Cú pháp sau:
<nowiki>int array2D[số_hàng][số_cột];</nowiki>
sẽ định nghĩa một mảng hai chiều; chiều thứ nhất có số_hàng phần tử. Chiều thứ hai sẽ có số_hàng * số_cột các phần tử—một tập hợp của số_cột các phần tử mà mỗi phần tử là một chiều thứ nhất.
Các mảng đa chiều hoàn toàn có thể được xem như là dãy của các con trỏ. Trong thí dụ trên, array2D (nếu số_hàng là 1) sẽ là một tham chiếu giá trị nguyên mà nó chỉ tới một mảng của số_cột các phần tử.
Dãy ký tự
Dãy ký tự có thể được thay đổi nội dung của nó mà không cần đến thư viện chuẩn. Tuy nhiên, thư viện này có nhiều hàm có thể dùng cho cả dãy ký tự có kết thúc 0 và mảng không có ký tự kết thúc kiểu char. Trong phần này từ "dãy" được để chỉ dãy ký tự.
Các hàm thường dùng là:
strcat(dest, source) - nối một dãy ký tự source tiếp vào vị trí cuối của dãy ký tự dest
strchr(source, c) - tìm vị trí sự xuất hiện đầu tiên của c trong dãy ký tự source và trả về con trỏ chỉ tới vị trí đó hay con trỏ trống nếu c không tìm thấy trong source
strcmp(a, b) - so sánh hai dãy ký tự a và b (theo thứ tự từ điển); trả về số âm nếu a nhỏ hơn b, 0 nếu chúng bằng nhau, dương nếu a lớn hơn
strcpy(dest, source) - chép và thay các ký tự của dãy source vào dãy dest
strlen(st) - trả về độ dài của st
strncat(dest, source, n) - nối tối đa n ký tự từ dãy source tiếp vào vị trí cuối của dãy dest; các ký tự sau dấu kết thúc null sẽ không được chép vào
strncmp(a, b, n) - so sánh từ ký tự đầu cho đến tối đa n ký tự từ hai dãy a và b (theo thứ tự từ điển); hàm trả về số âm nếu phần so sánh của a nhỏ hơn b, 0 nếu bằng nhau, và dương nếu lớn hơn
strncpy(dest, source, n) - chép từ đầu đến tối đa n ký tự từ dãy source vào dãy dest
strrchr(source, c) - tìm vị trí hiện lần cuối cùng của ký tự c trong dãy source và trả về một con trỏ chỉ vào vị trí đó hay con trỏ trống nếu không tìm thấy c trong đó
Các hàm ít dùng tới hơn là:
strcoll(s1, s2) - so sánh hai dãy theo một trình tự địa phương đặc thù
strcspn(s1, s2) - trả về chỉ số của ký tự đầu tiên trong s1 trùng với ký tự bất kì nào trong s2
strerror(err) - trả về một dãy ký tự dưới dạng một thông báo lỗi ứng với mã (câu viết) trong err
strpbrk(s1, s2) - trả về một con trỏ chỉ vào ký tự đầu tiên nào trong s1 mà trùng với ký tự bất kì trong s2 hay một con trỏ trống nếu không tìm thấy
strspn(s1, s2) - trả về chỉ số của ký tự đầu tiên trong s1 mà nó không xuất hiện trong s2
strstr(source, subst) - trả về một con trỏ chỉ tới vị trí của dãy subst trong dãy source hay trả về một con trỏ rỗng nếu không tồn tại một dãy như vậy bên trong source
strtok(s1, s2) - trả về một con trỏ chỉ đến một token bên trong s1 mà được phân chia ra bởi các ký tự trong s2
strxfrm(s1, s2, n) - chuyển đổi s2 thành s1 dùng các quy tắc địa phương đặc thù
Tập tin I/O
Trong C, I/O được tiến hành qua một nhóm các hàm trong thư viện chuẩn. Trong ANSI/ISO C, những hàm đó được định nghĩa trong stdio.h.
fopen
fclose
Tiêu chuẩn I/O
Ba tiêu chuẩn dòng I/O được định nghĩa sẵn là:
stdin đầu vào chuẩn
stdout đầu ra chuẩn
stderr lỗi chuẩn
Các dòng này được tự động mở và đóng lại bởi môi trường của thời gian thi hành, chúng không cần và không nên được mở một cách rõ ràng.
Thí dụ sau minh họa làm thế nào một chương trình bộ lọc được cấu trúc một cách điển hình:
<nowiki>
#include <stdio.h>
int main()
{
int c;
while ((c = getchar()) != EOF) {
/* do various things
to the characters */
if (anErrorOccurs) {
fputs("an error eee occurred\n", stderr);
break;
}
/*... */
putchar(c);
/*... */
}
return 0;
}
</nowiki>
Việc chuyển các đối số qua dòng lệnh
Các tham số được gõ vào một dòng lệnh thì được chuyển vào một chương trình C với hai biến sẵn có - một để đếm số đối số là argc và biến kia là một mảng con trỏ có tên là argv, mà mỗi con trỏ chỉ đến một đối số (các đối số được xem như là mảng ký tự)
Thí dụ mệnh lệnh
myFilt p1 p2 p3
(Lưu ý: không có gì bảo đảm rằng các dãy ký tự riêng lẻ là liền nhau)
Đối với thí dụ này, các giá trị riêng lẻ của các tham số có thể được truy cập bằng argv[1], argv[2], và argv[3] như là được chỉ ra trong chương trình sau:
<nowiki>
#include <stdio.h>
int main(int argc, char *argv[])
{
int i;
printf ("argc\t= %i\n", argc);
for (i = 0; i < argc; i++)
printf ("argv[%i]\t= %s\n", i, argv[i]);
return 0;
}
</nowiki>
Thứ tự đánh giá
Một trình dịch C có thể đánh giá các biểu thức theo thứ tự bất kì giữa dãy các điểm. Dãy các điểm được định nghĩa bởi:
Các kết thúc của mệnh đề tại các dấu chấm phẩy.
Toán tử dãy: dấu phẩy.
Các toán tử ngắn mạch: gồm phép và (&&) và phép hoặc (||).
Toán tử điều kiện (A?B:C): Giá trị của biểu thức A được đánh giá trước. Nếu A là đúng thì B sẽ được đánh giá bỏ qua biểu thức C. Nếu A sai thì B bị bỏ qua và chỉ có C được đánh giá tiếp.
Lưu ý: Các biểu thức đứng trước trong một dãy điểm sẽ luôn luôn được đánh giá trước các biểu thức theo sau. Trong trường hợp đánh giá của các ngắn mạch, biểu thức thứ hai có thể sẽ không cần được đánh giá. Thí dụ, trong biểu thức (a() || b()), nếu a() trả về giá trị đúng thì trình dịch sẽ không cần đánh giá b() nữa (vì lúc đó đã đủ để kết luận mệnh đề (a() || b()) là đúng). Trong thực hành viết mã, nhiều lập trình viên thiếu kinh nghiệm rất dễ bị lọt vào tình huống rằng trình dịch không chịu tiến hành những gì họ muốn mà bỏ qua nhiều bước dẫn tới các kết quả không chính xác mặc dù về lô gíc họ không hề sai sót. Trong trường hợp như vậy, cách tốt nhất là hãy xem lại thật kỹ các mệnh đề Bool và đặc tính đánh giá này của trình dịch. Các lỗi này thuộc loại rất khó tìm ra bởi vì nó hoàn toàn chính xác về mặt cú pháp, về mặt toán học và ngay cả về mặt thuật toán xử lý và rất dễ dẫn đến nhiều kết quả sai về mặt tính toán mà người lập trình không ngờ. Đây cũng là điểm khác nhau giữa ngôn ngữ toán học thuần túy (dùng trong các mã giả --pseudo code ) và thực tế của ngôn ngữ lập trình.
Ứng xử không xác định
Một khía cạnh thú vị (mặc dù chắc không đơn nhất) của tiêu chuẩn C là ứng xử của một số dạng mã chắc chắn dẫn tới tình trạng không xác định. Trong thực tế, điều này có nghĩa là chương trình tạo ra từ mã này có thể làm bất kì gì từ việc thực thi đúng theo ý muốn cho đến việc hư hỏng mỗi lần nó chạy.
Thí dụ: mã sau đây gây ra ứng xử không xác định, vì biến b được dùng tới nhiều hơn một lần (đồng thời lại có sự biến đổi của chính b trong lúc tính toán) qua biểu thức a = b + b++;:
<nowiki>
#include <stdio.h>
int main (void)
{
int a, b = 1;
a = b + b++;
printf ("%d\n", a);
return 0;
}
</nowiki>
Vì không có dãy điểm giữa việc truy cập của b trong b + b++, nó tạo nên tình trạng là trình dịch có thể tự quyết định tăng b trước hay sau khi cộng (tùy theo trình dịch và trạng thái máy!) dẫn đến kết quả là 2 hay 3. Mặc dù vậy, vì để cho phép trình dịch thực hiện tốt các quá trình tối ưu, tiêu chuẩn này (của C) còn có thể tạo ra tình hình tệ hơn như trình bày trên. Một cách tổng quát, mọi sự diều chỉnh (hay thay đổi giá trị) và truy cập giữa các dãy điểm có thể gây ra tình huống bất định.
Xem thêm
Kiểu và khai báo biến trong C
C (ngôn ngữ lập trình)
Tham khảo
Kernighan, Brian W. and Dennis M. Ritchie. The C Programming Language.
Liên kết ngoài
The syntax of C in Backus-Naur form
Programming in C
C (ngôn ngữ lập trình)
Mã nguồn
|
11498
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BB%81n%20T%C3%B4ng%20V%C4%A9nh%20Gia%20t%E1%BA%ADp
|
Thiền Tông Vĩnh Gia tập
|
Thiền Tông Vĩnh Gia tập (zh. chánzōng yŏngjiā jí 禪宗永嘉集, ja. zenshūyōkashū) là một tác phẩm được Thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác (zh. 永嘉玄覺), đệ tử của Lục tổ Huệ Năng (zh. 慧能) soạn. Tập sách đề cập đến việc tu tập giác ngộ qua 10 chương. Lời tựa do Ngụy Tĩnh (zh. 魏静), một vị quan triều nhà Đường soạn. Sách giải thích vị trí của Thiền tông phương Nam, trong sự phối hợp với giáo lý tông Thiên Thai và tông Hoa Nghiêm. Tập sách này rất thông dụng trong Thiền tông Triều Tiên, đã được Kỉ Hoà (zh. 己和) chú giải. Tập sách này thường được gọi ngắn là Vĩnh Gia tập (永嘉集.)
Mười chương tóm tắt nội dung như sau:
Chương 1: Nghi thức mộ đạo (Mộ đạo chí nghi) - Phàm muốn tu đạo, trước nên lập chí, cùng hầu thầy đúng lễ, làm sáng điều thầy dạy. Do đó, đặt để hàng thứ nhất để làm sáng tỏ Nghi thức mộ đạo.
Chương 2: Giới ý kiêu sa (Giới kiêu xa ý) - Ban đầu tuy lập chí tu đạo, khéo biết nghi thức phép tắc, nếu ba nghiệp kiêu sa, vọng tâm xáo động thì sao được định. Do đó, đặt để hàng thứ hai để nêu rõ giới ý kiêu sa.
Chương 3: Tịnh tu ba nghiệp (Tịnh tu tam nghiệp) - Trước, giới kiêu sa để lược nêu cương yếu. Nay kiểm trách lại kỹ lưỡng, khiến sự lỗi lầm không nảy sanh. Do đó, đặt để hàng thứ ba là làm rõ ba nghiệp tịnh tu, giữ giới thân, khẩu, ý.
Chương 4: Bài tụng Xa-ma-tha (Xa-ma-tha tụng) - Đã kiểm trách thân, miệng, khiến lỗi chẳng nảy sanh. Thứ đến vào cửa tu đạo dần theo thứ tự trước sau năm loại khởi tâm, không ra khỏi định huệ năm loại khởi tâm sáu khoa liệu lường. Do đó, đặt để hàng thứ tư để làm rõ bài tụng Xa-ma-tha.
Chương 5: Bài tụng Tì-bà-xá-na (Tì-bà-xá-na tụng) - Không giới thì chẳng có Thiền, không Thiền thì chẳng có huệ. Trên đã tu định, định lâu thì huệ sáng. Do đó, đặt để hàng thứ năm làm rõ bài tụng Tì-bà-xá-na.
Chương 6: Bài nghĩa tụng Ưu-tất nghĩa (Ưu-tất nghĩa tụng) - Thiên tu về định, định lâu tất chìm sâu. Thiên học về huệ, huệ nhiều tâm động. Do đó, đặt để hàng thứ sáu là nêu rõ các bài tụng Ưu-tất, nghĩa nơi định huệ, khiến chẳng chìm động, làm cho định huệ quân bình, buông bỏ hai bên.
Chương 7: Lần lượt của ba thừa (Tam thừa tiệm thứ) - Định huệ đã quân bình ắt lặng lẽ mà thường soi. Tam quán nhất tâm thì có nghi nào chẳng dứt, có sáng chiếu nào chẳng tròn đầy ? Dù đã tự hiểu rõ ràng nhưng thương kẻ khác chưa ngộ, ngộ có nông sâu. Do đó, đặt để hàng thứ bảy là nói rõ thứ bậc lần lượt của ba thừa.
Chương 8: Sự lý không hai (Sự lý bất nhị) - Ba thừa thấy lý, lý chẳng không cùng. Lý cùng ở tại sự, rõ sự tức lý. Do đó, đặt để hàng thứ tám là làm rõ sự lý không hai, tức sự mà chân, dùng loại trừ kiến chấp.
Chương 9: Sách khuyên bạn hữu (Khuyên hữu nhân thư) - Sự lý đã dung thông, trong tâm tự sáng, lòng lại thương xót người học về sau, phí mất thời gian. Do đó, đặt để hàng thứ chín là tỏ rõ sách khuyên bạn.
Chương 10: Văn phát nguyện (Phát nguyện văn) - Khuyên bạn tuy là thương xót kẻ khác nhưng chỉ chú tâm vào một người, thì tình vẫn chưa cùng khắp. Do đó, đặt để hàng thứ mưới là tỏ rõ văn pháp nguyện, thề nguyện độ tất cả.
Tham khảo
Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.
Dumoulin, Heinrich:
Geschichte des Zen-Buddhismus I. Indien und China, Bern & München 1985.
Geschichte des Zen-Buddhismus II. Japan, Bern & München 1986.
Thiền ngữ
Thiền tông
|
11499
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%C6%A1ng%20Ba-na-ba
|
Trương Ba-na-ba
|
Trương Ba-na-ba (tiếng Trung: 張巴拿巴; 1882-1961), người Trung Quốc, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1882 tại tỉnh Sơn Đông. Lúc sinh ra có tên là Diện Cử (殿舉). Ông là một nông dân và cũng là một người sưu tập đồ cổ.
Tương truyền rằng vào ngày 16 tháng 3 năm 1911, khi đang đi trong một vùng hoang vu, đột nhiên ông nghe thấy lời phán truyền từ trên trời như sau: "Mạt thế cứu ân do đông nhi tây, phổ cứu vạn dân" ().
Năm 1926, trong vòng 40 ngày Trương Ba-na-ba đã thiết lập được ba nhà thờ để truyền giáo ở Đài Loan.
Năm 1927 do những người tin theo đạo này ở Đông Nam Á yêu cầu, ông đã sang Singapore, Malaysia để thiết lập giáo hội và truyền đạo. Sau này, do kiêu ngạo, không hối cải trong nhận thức, năm 1930 Trương Ba-na-ba đã bị khai trừ khỏi giáo hội.
Tham khảo
Người Sơn Đông
Tín hữu Kitô giáo Trung Quốc
Chân Giê-xu Giáo hội
Người họ Trương tại Trung Quốc
|
11505
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%94
|
Ô
|
Ô, ô là ký tự thứ 18 trong bảng chữ cái tiếng Việt. Chữ cái o được dùng để biểu thị cho âm Nguyên âm tròn lưng mở miệng vừa phải /o/ trong tiếng Việt. Mượn từ kí tự O with circumflex trong bảng chữ cái Tiếng Bồ Đào Nha và Tiếng Pháp.
Lịch sử
Chữ Quốc ngữ được hình thành bởi các tu sĩ Dòng Tên trong quá trình truyền đạo Công giáo tại Việt Nam đầu thế kỷ 17 dưới quy chế bảo trợ của Bồ Đào Nha. Francisco de Pina là nhà truyền giáo đầu tiên thông thạo tiếng Việt, ông đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh.
Chú thích
Tham khảo
Chữ cái Latinh
|
11506
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%E1%BB%AF%20Qu%E1%BB%91c%20ng%E1%BB%AF
|
Chữ Quốc ngữ
|
Chữ Quốc ngữ là một loại chữ viết tiếng Việt, được ghi bằng tập hợp các chữ cái Latinh và dấu phụ được dùng cùng với các chữ cái đó.. Chữ Quốc ngữ được tạo ra bởi các tu sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha, Ý và Pháp, bằng việc cải tiến bảng chữ cái Latinh và ghép âm dựa theo quy tắc chính tả của văn tự tiếng Bồ Đào Nha và một chút tiếng Ý.
Tên gọi
Muộn nhất là từ năm 1867 đã có người gọi chữ Latinh cho tiếng Việt là chữ quốc ngữ. Trong năm này, Trương Vĩnh Ký xuất bản hai quyển sách về ngữ pháp. Quyển đầu là sách tiếng An Nam viết bằng chữ quốc ngữ về ngữ pháp tiếng Pha Lang Sa (tiếng Pháp) có tên gọi là Mẹo luật dạy học tiếng pha-lang-sa. Trong sách có tên gọi chữ quốc ngự (ngự chứ không phải là ngữ) được dùng để chỉ văn tự Latinh tiếng Việt. Quyển sách thứ hai là sách ngữ pháp tiếng An Nam viết bằng tiếng Pha Lang Sa, có tên gọi là Abrégé de grammaire annamite (Khái yếu ngữ pháp tiếng An Nam). Trong quyển sách tiếng Pha Lang Sa, chữ Latinh tiếng Việt được gọi bằng tiếng Pha Lang Sa là l’alphabet européen (bảng chữ cái châu Âu), les caractères latins (chữ Latinh). Trên Gia Định báo số phát hành ngày 15 tháng 4 cùng năm, khi đề cập tới quyển sách ngữ pháp tiếng An Nam viết bằng tiếng Pha Lang Sa của Trương Vĩnh Ký, tên gọi chữ quốc ngữ đã được sử dụng để chỉ chữ Latinh cho tiếng Việt.
Lịch sử
Hình thành
Chữ Quốc ngữ được hình thành bởi các tu sĩ Dòng Tên trong quá trình truyền đạo Công giáo tại Việt Nam đầu thế kỷ 17 dưới quy chế bảo trợ của Bồ Đào Nha. Francisco de Pina là nhà truyền giáo đầu tiên thông thạo tiếng Việt, ông đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người có công hệ thống hóa và định chế hóa chữ quốc ngữ qua cuốn từ điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum in năm 1651 tại Roma. Ông cho biết mình đã biên soạn cuốn từ điển này dựa trên hai từ điển (nay đã thất truyền) của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa. Các nhà truyền giáo khác đóng góp trong lịch sử sơ khởi của chữ Quốc ngữ có thể kể đến Francesco Buzomi, Christoforo Borri, Girolamo Maiorica, và Antonio de Fontes.
Theo soạn giả Alexandre de Rhodes, ông mượn dấu sắc, huyền, ngã từ tiếng Cổ Hy Lạp mà vẫn không đủ nên phải thêm iota subscriptum (dấu nặng) và dấu hỏi để biểu lộ thanh giọng của tiếng Việt. So sánh ký tự thì âm nh, ch theo tiếng Bồ Đào Nha; gi theo tiếng Ý; còn ph theo tiếng Cổ Hy Lạp. Dấu lưỡi câu ◌᷄ được dùng để thể hiện phụ âm cuối mũi hóa.
Các văn bản thời kỳ này là tài liệu ghi chép quan trọng về cách phát âm của tiếng Việt trung đại. Bên cạnh mục đích thực tiễn là để các nhà truyền giáo học tiếng Việt thuận lợi hơn, chữ Quốc ngữ còn giúp một vài giáo hữu Việt Nam thông qua mẫu tự Latinh làm quen với tiếng Latinh, ngôn ngữ hoàn vũ của Giáo hội Công giáo.
Linh mục Giovanni Filippo de Marini chép lại biên bản hội nghị năm 1645 về mô thức rửa tội có ghi: "Tau rữa mầï nhân danh Cha, uà Con, uà Spirito Santo. Taü lấÿ tên Chuá, tốt tên, tốt danh, tốt tiẽng..."
Chỉnh lý
Cuối thế kỷ 18 tại Đàng Trong diễn ra cuộc chỉnh lý khiến chữ Quốc ngữ hầu như giống với ngày nay. Các giáo hữu Đàng Trong đã biên soạn từ điển chữ Quốc ngữ, dưới sự điều phối của Giám mục Bá Đa Lộc Bỉ Nhu (Pierre Pigneau de Behaine). Căn cứ vào bản thảo này, giáo sĩ Jean-Louis Taberd đã biên tập và cho xuất bản năm 1838.
Cuốn tự điển của Bá Đa Lộc được soạn quãng năm 1772–1773 có tên Dictionarium Anamatico-Latinum mới chỉ là bản viết tay (nay còn giữ ở Văn khố Hội Truyền giáo Paris) chứ chưa được in ra. Trong khi đó tự điển của Taberd mang tên Nam Việt–Dương Hiệp Tự vị (tựa Latinh giống với tựa cuốn của Bá Đa Lộc) được in ở Serampore, Ấn Độ. Nó phản ảnh một biến chuyển quan trọng của tiếng Việt trong khoảng thế kỷ XVIII và XIX. So sánh tự điển của Taberd và De Rhodes thì âm "ꞗ" () biến mất, thay thế bằng âm "v" hoặc "b". Những âm "bl", "ml", "pl", "sl", và "tl" cũng biến mất, thay thế bằng "tr", "nh", "l", "s". Lưu ý một số cách viết chính tả cũ vẫn còn gặp ở các văn bản của João de Loureiro đương thời tại Đàng Trong và của Philipphê Bỉnh tại Lisboa vào đầu thế kỷ 19.
Cuốn tự điển có phần phụ lục tựa là "Lời Chúa Tàu và Người Annam vấn đáp cùng nhau" (Dialogus Inter Unum Navis Praevectum et Unum Cocincinensem), trong đó có đoạn như sau:
- Ông đi viếng Quan lớn thì được song thói nước nầy chẳng cho phép thăm đờn bà.
- Tôi cam lòng chìu theo quốc pháp, tôi chẳng có ý làm đều gì nghịch cùng thói phép đất nầy, có tục ngữ rằng: nhập giang tùy khúc nhập gia tùy tục.
Như vậy, dạng chính tả của chữ Quốc ngữ ở lần chỉnh lý này với cách viết không khác mấy thời nay là bước chuẩn hóa chính cuối cùng, các phương án sửa đổi chính tả sau này đều không phổ biến được. Trong hơn 200 năm, Công giáo tại Việt Nam tuy lưu hành chữ Quốc ngữ nhưng vẫn sử dụng chữ Nôm là chủ yếu.
Địa vị chính thức
Do sự thống trị của Hán học ở Việt Nam, chữ Quốc ngữ trên chặng đường hơn 300 năm hình thành và phát triển nhưng chưa đủ phổ biến để coi là văn tự chính thức. Chữ Nôm và chữ Hán vẫn là dạng văn tự chính của tiếng Việt trong mấy trăm năm qua, đang được mọi người trong xã hội sử dụng phổ biến nên không có lý do gì phải bị thay thế. Phải cho tới khi người Pháp xâm lăng, chiếm Nam Kỳ vào cuối thế kỷ XIX, thì tên gọi và vị trí "chữ Quốc ngữ" của chữ Latinh cho tiếng Việt mới được xác lập, lúc đó chữ Quốc ngữ mới được bảo hộ để phổ biến, nhằm khiến tiếng Việt đồng văn tự Latinh với tiếng Pháp, giúp phổ biến tiếng Pháp và văn hoá Pháp ở Việt Nam. Ngày 22 tháng 2 năm 1869 Phó Đề đốc Marie Gustave Hector Ohier ký nghị định "bắt buộc dùng chữ Quốc ngữ thay thế chữ Hán" trong các công văn ở Nam Kỳ.
Nghị định 82 ký ngày 6 tháng 4 năm 1878 do Thống đốc Nam Kỳ Lafont ký cũng đề ra mốc hẹn trong bốn năm (tức năm 1882) thì phải chuyển hẳn sang chữ Quốc ngữ:
Kể từ mồng một Tháng Giêng năm 1882 tất cả văn kiện chánh thức, nghị định, quyết định, lịnh, án tòa, chỉ thị... sẽ viết, ký tên và công bố bằng chữ quốc ngữ; nhân viên nào không thể viết thơ từ bằng chữ quốc ngữ sẽ không được bổ nhậm và thăng thưởng trong ngạch phủ, huyện và tổng...
Ngày 1 Tháng Giêng năm 1879 thì lại có lệnh khẳng định các văn kiện chính thức phải dùng chữ Quốc ngữ. Cũng năm đó chính quyền Pháp đưa chữ Quốc ngữ vào ngành giáo dục, bắt đầu ở các thôn xã Nam Kỳ phải dạy lối chữ này. Để khuyến khích việc truyền bá chữ Quốc ngữ, nhà chức trách thuộc địa Nam Kỳ còn ra nghị định ngày 14 Tháng 6 năm 1880 giảm hoặc miễn thuế thân và miễn sưu dịch cho thân hào hương lý nếu họ biết viết chữ Quốc ngữ.
Gia Định Báo, một tờ báo do Trương Vĩnh Ký làm chủ biên phát hành, là tờ báo đầu tiên viết bằng chữ Quốc ngữ ra mắt năm 1865; so với ngày nay thì câu văn đã thêm phần mạch lạc, chính tả không mấy khác biệt. Ví dụ như bản thông báo ngày 22 tháng 12 năm 1888 sau đây:
Sở Thuế Chánh Ngạch. Các người thiếu thuế... đặng hay: các sổ phụ trong tháng Octobre 1888 thuế đất, thuế sanh ý, thuế ghe biển, thuế ghe sông, cùng thuế thân đã lập theo phép để trong tay quan Kho Bạc Sài Gòn và Chợ Lớn hay về việc thâu thuế. Bởi đó sức cho các người ấy phải y theo hạn trong luật dạy mà đóng các món thuế biên trong sổ ấy, bằng không thì phải cứ phép mà bắt buộc...
Nửa đầu thế kỷ XX
Sang thế kỷ XX thì chính phủ Đông Pháp mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ, giao cho Nha Học chính giảng dạy ở Bắc Kỳ từ năm 1910. Thượng thư bộ Học là Cao Xuân Dục có công văn trả lời Toàn quyền Đông Dương với ý tán đồng:
<blockquote>... cả nước cùng học chữ Quốc ngữ Latinh, tuyển chọn các vị cử nhân, tú tài, tôn sinh, ấm sinh người bản quốc sung làm giáo sư và thành lập viện dịch chữ Quốc ngữ... Nay vâng mệnh Hoàng đế bản quốc lập ra trường chuyên dạy thứ chữ này chính là muốn thống nhất một lối dùng làm thứ chữ dạy học phổ thông.</blockquote>
Năm 1915 thì kỳ thi Hương cuối cùng diễn ra ở Bắc Kỳ mặc cho sự chống đối của giới sĩ phu. Ở Trung Kỳ thì đạo dụ của vua Khải Định ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28 tháng 12 năm 1918) chính thức bãi bỏ khoa cử và năm 1919 là năm cuối mở khoa thi ở Huế. Chữ Quốc ngữ từ đó trở thành văn tự diễn đạt phổ biến ở Việt Nam, trong khi đó người Việt đang dần "mù chữ" với Chữ Hán và chữ Nôm, hai dạng văn tự này trở nên ít được sử dụng.
Trong khi đó cũng có thành phần theo Nho học nhưng hiểu được ưu điểm dễ viết dễ đọc của chữ Quốc ngữ và cổ động việc thâu nhận chữ Quốc ngữ như là một cách nâng cao trình độ kiến thức đại chúng, canh tân xã hội, thức tỉnh tinh thần yêu nước và huy động động lực phản kháng của người Việt trước quyền lực của thực dân Pháp. Trong đó có nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục. Việc theo học chữ Quốc ngữ theo đó thì không chỉ là phương tiện đọc và viết mà còn hàm ý vận động chính trị và vận mệnh dân tộc.
Chữ Quốc ngữ qua những tác phẩm biên khảo, phóng sự, bình luận, du ký của những Nam Phong Tạp chí, Đông Dương Tạp chí, cùng một loạt tiểu thuyết và thơ mới của nhóm Tự lực Văn đoàn với tư tưởng mới, phong cách mới cũng và nhiều tác giả khác giúp ưu điểm dễ viết dễ đọc của chữ Quốc ngữ được thể hiện.
Từ giữa thế kỷ XX
Nửa cuối thế kỷ XX diễn ra các chỉnh sửa chữ Quốc ngữ, trong đó có sửa đổi chữ viết liên quan đến các cuộc cải cách giáo dục của nước CHXHCN Việt Nam thực hiện. Do lúc này có hơn 4 triệu người Việt ở nước ngoài, cùng với những hay dở của cải cách giáo dục trong nước, dẫn đến quan niệm và sử dụng chữ Quốc ngữ có sự khác nhau nhất định, tùy theo từng người được thụ hưởng nền giáo dục nào.
Từ những năm 1950 tại miền Bắc, chữ Quốc ngữ được giản lược bằng cách bỏ dấu gạch nối giữa từ ghép và tên riêng, ví dụ: tự-do thành tự do, Họ-Văn-Tên thành Họ Văn Tên. Tuy nhiên điều đặc biệt là năm 1973 khi xây dựng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội, thì lại có yêu cầu có dùng gạch nối trong dòng tên ở mặt chính là Hồ-Chí-Minh.
Những người không thụ hưởng cải cách giáo dục, gồm những người ở nước ngoài hoặc đã học phổ thông trước cải cách giáo dục.
Thế hệ thụ hưởng cải cách giáo dục với tên chữ "a bờ cờ" (đọc thêm âm).
Thế hệ thụ hưởng cải cách giáo dục thứ hai với tên chữ "a bê xê" (đọc theo tên tiếng Pháp).
Thế hệ thụ hưởng cải cách giáo dục thứ ba với tên chữ "âi bi xi" (đọc theo phát âm tiếng Anh).
Bảng chữ cái
Bảng chữ cái hiện tại
Bảng chữ cái Latinh cho tiếng Việt hiện tại có 29 chữ cái:Quyết định Số 31/2002/QĐ-BGD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 14/6/2002 về Ban hành kèm theo Quyết định này "Mẫu chữ viết trong trường tiểu học". Thuvien Phapluat Online, 2005.
So với bảng chữ cái tiếng Anh, bảng chữ cái tiếng Việt giống 22 chữ cái. Có 7 chữ cái biến thể bằng cách thêm dấu là Ă-Â-Đ-Ê-Ô-Ơ-Ư. 4 chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Anh chưa có trong bảng chữ cái tiếng Việt là F-J-W-Z.
Mỗi chữ cái đều có hai hình thức viết lớn và nhỏ. Kiểu chữ lớn gọi là "chữ hoa" (chữ in hoa, chữ viết hoa). Kiểu chữ nhỏ gọi là "chữ thường" (chữ in thường, chữ viết thường).
Chữ quốc ngữ có 11 chữ ghép biểu thị phụ âm gồm:
10 chữ ghép đôi: ch, gh, gi, kh, ng, nh, ph, qu, th, tr
1 chữ ghép ba: ngh
Chữ ghép là tổ hợp gồm từ hai chữ cái trở lên được dùng để ghi lại một âm vị hoặc một chuỗi các âm vị có cách phát âm không giống với âm vị mà các chữ cái trong tổ hợp chữ cái đó biểu thị. Chữ ghép đôi là chữ ghép có hai chữ cái, chữ ghép ba là chữ ghép có ba chữ cái.
Bảng chữ cái tiếng Việt trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La-tinh
Bảng chữ cái La-tinh tiếng Việt trong Từ điển An Nam – Bồ Đào Nha – La-tinh in năm 1651 của Đắc Lộ (dưới đây gọi tắt là Từ điển) có 23 chữ cái là:
Bảng chữ cái tiếng Việt trong Từ điển có ít chữ cái hơn bảng chữ cái tiếng Việt đương đại. Các ký hiệu ă, â, ê, ô, ơ, ư, được xem là chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Việt đương đại, đều đã có trong Từ điển nhưng tác giả của Từ điển không xem chúng là chữ cái độc lập. Trong Từ điển, mọi ký hiệu được cấu thành từ một tự mẫu nguyên âm và một hoặc hai dấu phụ, thí dụ như à, ạ, ă, ằ, ặ, đều không được xem là một tự mẫu riêng biệt khác với tự mẫu nguyên âm xuất hiện trong ký hiệu đó,à, ạ, ă, ằ, ặ đều chỉ được xem là tự mẫu a mang dấu phụ chứ không được xem là những tự mẫu khác với tự mẫu a.
Trong bảng chữ cái tiếng Việt trong Từ điển có một chữ cái nay không còn được sử dụng để ghi chép tiếng Việt và không có trong bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành là chữ b đuôi quặp ꞗ. Chữ này được dùng để ghi âm sát đôi môi hữu thanh /β/.
Hai tự mẫu ꞗ và đ trong Từ điển không có hình thức chữ hoa và chữ thường. ꞗ và đ không phải là chữ thường mà cũng chẳng phải là chữ hoa của hai chữ. Nếu chỉ viết hoa địa danh bằng chữ hoa có trong Từ điển thì tên gọi của hai tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng ở Việt Nam sẽ phải viết là đồng Nai và Lâm đồng. Hiện nay, tự mẫu đ đã có hình thức chữ hoa và chữ thường, đ được xem là hình thức chữ thường của tự mẫu đ, còn hình thức chữ hoa của tự mẫu này là Đ.
Chữ s thường trong Từ điển có hai kiểu là chữ s dài ſ và chữ s ngắn s.Kenneth J. Gregerson. "A study of Middle Vietnamese phonology". Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Nouvelle Série – Tome XLIV, Nº 2, năm 1969, trang 160. Trong chữ quốc ngữ đương đại, chữ s dài ſ không còn được dùng nữa, chữ s ngắn s là hình thức chữ thường duy nhất của chữ s.
Chữ v thường trong Từ điển có hai kiểu là chữ v đáy nhọn v và chữ v đáy cong u.Kenneth J. Gregerson. "A study of Middle Vietnamese phonology". Bulletin de la Société des Études Indochinoises, Nouvelle Série – Tome XLIV, Nº 2, năm 1969, trang 151, 173. Vào thế kỷ 17, v và u chưa được xem là hai chữ cái riêng biệt, u chỉ được xem là biến thể của chữ v.
Thêm hay không thêm bốn tự mẫu f, j, w, z vào bảng chữ cái tiếng Việt?
Bốn chữ cái F, J, W, Z vốn có trong bảng chữ cái tiếng Pháp, tiếng Anh hiện không được coi là chính thức trong tiếng Việt cũng như trong quy ước chung về tiếng phổ thông.
Tuy nhiên trong văn bản hành chính chính thức thì các chữ cái này vẫn được sử dụng để viết các tên riêng theo tiếng của các dân tộc khác nhau. Ví dụ như tên các xã Zuôih, Jơ Ngây, Za Hung,... ở huyện Nam Giang, Quảng Nam, xã Ea Wy huyện Ea H'leo, xã Cư Ê Wi huyện Cư Kuin,... ở tỉnh Đắk Lắk, huyện Cư Jút ở tỉnh Đăk Nông. Ngoài ra là cách ghép vần "phi Việt ngữ" như uôih, uôp, h'l, k't, kr,... cũng tùy nghi được sử dụng.
Hay như chính Chủ tịch Hồ Chí Minh khi tự tay viết di chúc đã sử dụng chữ F thay chữ PH.Điều này thể hiện sự thiếu chặt chẽ về pháp lý, nhưng tại Việt Nam vẫn được mặc nhiên thừa nhận. Đã có ý kiến cho rằng "F, J, W, Z không thể nằm ngoài bảng chữ cái" . Nó cần thiết trong việc xây dựng tiếng phổ thông bao quát được các thành tố cơ bản trong ngôn ngữ của đất nước, đảm bảo chặt chẽ trong các văn bản pháp lý, cũng như cần đưa vào giảng dạy để học sinh đọc đúng tên quê mình. Tuy nhiên sự việc không thuộc nhóm cấp thiết và không gây chết người nên chưa có cấp nào quan tâm chỉ đạo và giải quyết. Cá biệt có học giả hàn lâm thì cho rằng tiếng Việt có chữ viết là đầy đủ rồi.
Tên gọi các chữ cái
Tất cả tên gọi các chữ cái trong tiếng Việt đều được bắt nguồn từ tiếng Pháp. Chúng thường được dùng để đánh vần hoặc gọi tên viết tắt như VTV (vê-tê-vê), HTV (hắt-tê-vê),...
Tên gọi của hai cặp chữ cái nguyên âm "a", "ă" và "ơ", "â" chỉ khác về thanh điệu. Chúng biểu thị các biến thể dài ngắn của cùng một nguyên âm, với "a", "ă' là nguyên âm , với "ơ" và "â" là nguyên âm . Vì trong tiếng Việt khi và là âm tiết thì không có sự phân biệt về độ dài của nguyên âm nên tên gọi của hai cặp chữ cái "a", "ă" và "ơ", "â" phải mang thanh điệu khác nhau để tránh cho chúng trở thành đồng âm.
Bốn chữ cái F, J, W và Z hiện tại được coi là không có trong bảng chữ cái quốc ngữ, nhưng trong đời sống có thể bắt gặp chúng trong các từ ngữ có nguồn gốc từ các ngôn ngữ khác. Trong tiếng Việt bốn chữ cái này có tên gọi như sau:
F-f: ép/ép-phờ. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là "effe" /ɛf/. Chữ này thường mang âm tương ứng với cặp chữ PH trong tiếng Việt.
J-j: gi. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là "ji" /ʒi/. Chữ này thường mang âm tương ứng với cặp chữ GI trong tiếng Việt.
W-w: vê kép, vê đúp (cũ), đáp-lưu. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là "double vé" /dubləve/. Chữ này thường mang âm tương ứng với chữ O và U nếu sau 2 chữ này là nguyên âm trong tiếng Việt.
Z-z: dét. Bắt nguồn từ tên gọi của chữ cái này trong tiếng Pháp là "zède" /zɛd/. Chữ này thường mang âm tương ứng với chữ D trong tiếng Việt.
Hiện đang có ý kiến cho rằng, cần bổ sung thêm bốn chữ cái F, J, W và Z vào bảng chữ cái quốc ngữ để hợp thức hóa cách sử dụng để đáp ứng sự phát triển của tiếng Việt hiện đại (như F thay PH, J thay GI để giảm ký tự, tránh nhầm sang âm "ghi", Z thay D để tránh nhầm sang âm "đờ" của Đ). Mặc dù không có các chữ cái F, J, W và Z trong bảng chữ cái, người Việt khi gặp các chữ cái này trong các từ họ thường phiên âm từ ra để đọc chính xác hoặc họ đọc theo kiểu tiếng Anh.
Chữ viết tay
Thể chữ viết tay của chữ cái Latinh gồm hai loại loại lớn là thể chữ in và thể chữ thảo, mỗi thể chữ này lại bao gồm nhiều thể chữ khác nhau. Trong thể chữ in tự hình của các chữ cái gần giống như các chữ được in trên sách báo, các chữ cái được viết tách rời, không nối với nhau. Trong thể chữ thảo các chữ cái được nối liền với nhau. Thể chữ in dễ đọc nhưng viết chậm, thể chữ thảo viết nhanh hơn nhưng khó đọc hơn. Các trường học ở Việt Nam không dạy thể chữ in, chỉ dạy thể chữ thảo. Trong thực tế, không như những gì được dạy ở nhà trường, hầu hết người Việt Nam viết một thứ chữ pha trộn gồm cả chữ thảo lẫn chữ in. Các chữ hoa thường được viết theo thể chữ in vì chúng dễ viết hơn.
Thể chữ thảo được dạy trong các trường học ở Việt Nam là thể chữ tròn Anh quốc. Thể chữ tròn Anh quốc ra đời ở Anh cuối thế kỷ XVII, trên cơ sở cải biến thể chữ tròn Pháp quốc (còn gọi là thể "chữ rông" ["rông" là phiên âm từ Pháp "ronde" có nghĩa là tròn, hình tròn]). Như tên gọi của nó thể chữ tròn Pháp quốc do người Pháp tạo ra. Đến thế kỷ thứ XVIII thể chữ tròn Anh quốc được truyền bá và sử dụng rộng rãi khắp châu Âu, trong đó có nước Pháp, nơi cung cấp chất liệu để tạo nên thể chữ tròn Anh quốc.
Chính tả
Chính tả chữ Quốc ngữ là một quy định xã hội thống nhất cần tuân theo. Ý thức viết đúng chính tả là ý thức văn hóa. Những quy tắc chính tả dưới đây đã được tham khảo rất nhiều qua những thảo luận về chính tả tiếng Việt, thậm chí đã quay ngược lại lịch sử từ năm 1902 khi Hội nghị Khảo cứu Viễn Đông được tổ chức tại đây, vấn đề về chữ Quốc ngữ đã được Ủy ban Cải cách chữ Quốc ngữ đề nghị lên chính phủ Toàn quyền lúc bấy giờ. Từ đó tới nay, đã có rất nhiều thảo luận được tổ chức nên đã giúp quy tắc chính tả tiếng Việt dần được điển chế hoá tới một mức độ khả quan hơn. Song song đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự chuẩn hoá của mã chữ Unicode đã mang tính quyết định trong việc hệ thống hoá những quy tắc về chính tả tiếng Việt.
Hiện nay phần lớn các văn bản trong nước được viết chủ yếu là theo những "Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt" áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984 do những người thụ hưởng giáo dục đó sau này ra làm việc trong mọi lĩnh vực xã hội.
Quan hệ đối ứng giữa chính tả chữ quốc ngữ và ngữ âm tiếng Việt
Chữ cái phụ âm đứng đầu từ chính tả và âm đối ứng
Phụ âm đầu trong chữ quốc ngữ là các chữ cái phụ âm và chữ ghép đứng đầu từ. Ví dụ: xem có phụ âm đầu là x, phim có phụ âm đầu là ph. Chữ quốc ngữ có 17 chữ cái phụ âm (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x) và 11 chữ ghép (ch, gh, gi, kh, ng, ngh, nh, ph, qu, th, tr). Tất cả các chữ cái phụ âm và chữ ghép trong chữ quốc ngữ đều có thể làm phụ âm đầu.
Vần chính tả chữ quốc ngữ
Tiếng Việt hiện đại có khoảng 200 vần, tiếng là một âm thanh được ghi lại gọi là chữ gồm năm yếu tố: Phụ âm đầu, Âm đệm, Âm chính, Âm cuối, và thanh điệu. Vần hay còn gọi âm vận nên không có phụ âm đầu và có thể vắng mặt nhiều yếu tố trên, nhưng âm chính và thanh điệu luôn luôn phải có. Vần được chia ra như sau:
Vần đơn: Chỉ có một nguyên âm và thanh điệu (a,e,o,u,..)
Vần ghép: Do nhiều nguyên âm hợp lại và thanh điệu mà thành (ai, ay, oai,...).Vần ghép có thể là nguyên âm đôi hoặc nguyên âm ba.
Vần trơn: Có nguyên âm ở cuối và thanh điệu (ai, êu, oai, ươi,...).
Vần cản: Có phụ âm theo sau và thanh điệu (ac, ach, am, an, ang, anh, ap, at,...).
+ A
- a, ac, ach, ai, am, an, ang, anh, ao, ap, at, au, ay.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý: âm đầu /ʔ/ không được thể hiện trên chính tả.
+ Ă
- ăc, ăm, ăn, ăng, ăp, ăt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.
+ Â
- âc, âm, ân, âng, âp, ât, âu, ây.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.
+ E
- e, ec, em, en, eng, eo, ep, et.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, ch, d, đ, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.
+ Ê
- ê, êch, ênh, êm, ên, êp, êt, êu.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, ch, d, đ, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý: gi chỉ thực sự đứng trước 3 vần: ê, ênh, êch. Khi ghép với các vần còn lại nó gây ra tranh cãi về cách đọc (chẳng hạn giền có thể hiểu là gi+iền hoặc gi+ền nhưng cũng có thể lưu ý là chữ gen đọc là (gi+en) lược mất đi chữ i nên gên có thể đọc là (gi+ên))
+ I
Gồm các vần:
1. i, ich, im, in, inh, ip, it, iu.
2. ia, iêc, iêm, iên, iêng, iêp, iêt, iêu.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, ch, d, đ, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ngh, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý:
Khi gi ghép với các vần bắt đầu với i thì một chữ i bị giản lược, trừ trường hợp gi+ia=gia.
Khi qu ghép với i thì chuyển i thành y, ví dụ: qu+i=quy, qu+iên=quyên. qu không ghép với vần ia+ O
- Gồm các vần:
1. o, oc, oi, om, on, ong, op, ot, oong, ooc.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý: Âm đệm không đứng trước nguyên âm o, trừ ngoại lệ: "quọ".
2. oa, oac, oach, oai, oam, oan, oang, oanh, oao, oap, oat, oay,
- oăc, oăm, oăn, oăng, oăt,
- oe, oen, oeo, oet; oem, oeng (hiếm gặp).
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.+ Ô
- ô, ôc, ôi, ôm, ôn, ông, ôp, ôt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.+ Ơ
- ơ, ơi, ơm, ơn, ơp, ơt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x.+ U
- Gồm các vần:
1. u, uc, ui, um, un, ung, up, ut.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.2. ua, uôc, uôi, uôm, uôn, uông, uôt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, q, r, s, t, th, tr, v, x.Lưu ý: Âm /k/ khi đứng trước nguyên âm đôi ua/uô được ghi lại bằng c, ngoại lệ duy nhất là "quốc" được ghi lại bằng q để khu biệt ý nghĩa: q+uốc = quốc
3. uây, uân, uâng, uât
- uơ.
- uê, uênh, uêch.
- uy, uych, uynh, uyt, uyu; uyn, uyp. (chỉ gặp trong từ mượn).
- uya, uyên, uyêt.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.+ Ư
- Gồm các vần:
1. ư, ưc, ưi, ưu, ưng, ưt, ưm (hiếm gặp; có ừm (ừ; biểu thị ý kiến tán thành), hừm (tiếng phát ra khi người ta suy nghĩ, trầm ngâm)).
2. ưa, ươc, ươi, ươm, ươn, ương, ươp, ươt, ươu.
Phụ âm đầu: /ʔ/, b, c, ch, d, đ, g, gi, h, kh, l, m, n, ng, nh, ph, r, s, t, th, tr, v, x.
+ Y
- Gồm các vần:
1. y.
Phụ âm đầu: /ʔ/, h, k, l, m, qu, t, n, s, th, v (hiếm gặp - chỉ xuất hiện trong tên riêng như: Ny, Sỹ, Thy, Vy, Vỹ).2. yêm, yên, yêng, yêt, yêu.
Phụ âm đầu: /ʔ/.Danh sách trên chỉ gồm các vần có mặt trong tiếng Việt toàn dân, một số vần cổ như: ơng (cơng cơng), uyêc (tuyếc-bin), ơu (nớu),... hay chỉ xuất hiện tại một vùng phương ngữ nào đó như: ôông, ôôc, ưn, êng,... không được liệt kê.
Chữ cái nguyên âm trong vần chính tả và âm đối ứng
Có 11 ký tự nguyên âm đơn A, Ă, Â, E, Ê, I/Y, O, Ô, Ơ, U, Ư.Ngoài các nguyên âm đơn, trong tiếng Việt còn có: 26 nguyên âm đôi, còn gọi là trùng nhị âm (AI, AO, AU, ÂU, AY, ÂY, EO, ÊU, IA/IÊ (còn viết là: YA/YÊ), IU, OA, OĂ, OE, OI, ÔI, ƠI, OO, ÔÔ, UA/UÔ, UÂ, ƯA/ƯƠ, UÊ, UI, ƯI, UƠ, ƯU, UY) và 12 nguyên âm ba hay trùng tam âm (IÊU/YÊU, OAI, OAO, OAY, OEO, UAO, UÂY, UÔI, ƯƠI, ƯƠU, UYA/UYÊ, UYU).Có các nguyên âm: Ă, Â, IÊ/YÊ, OĂ, OO, ÔÔ, UÂ, UÔ, ƯƠ, UYÊ bắt buộc phải thêm phần âm cuối được chia theo quy tắc đối lập bổ sung như sau:
Bắt buộc thêm nguyên âm cuối, hoặc phụ âm cuối: Â, IÊ/YÊ, UÂ, UÔ, ƯƠ. Bắt buộc thêm phụ âm cuối: Ă, OĂ, OO, ÔÔ, UĂ, UYÊ.
Có 4 nguyên âm ghép có thể đứng tự do một mình hoặc thêm âm đầu, cuối, hoặc cả đầu lẫn cuối: OA, OE, UÊ, UY.Như vậy ta chỉ có 29 nguyên âm ghép không thêm được phần âm cuối là: AI, AO, AU, ÂU, AY, ÂY, EO, ÊU, IA (Dạng biến thể của IÊ), IÊU/YÊU, IU, OI, ÔI, ƠI, OAI, OAO, OAY, OEO, UA (Dạng biến thể của UÔ), UI, ƯA (Dạng biến thể của ƯƠ), ƯI, ƯU, UÂY, UÔI, ƯƠI, ƯƠU, UYA (Dạng biến thể của UYÊ) và UYU. Trong phát âm và viết thành chữ Quốc ngữ thì việc lên xuống, kéo dài âm từ để biểu hiện từ tượng thanh, tượng hình và lớn, nhỏ... luôn là việc cần thiết.
Có mối liên hệ phức tạp giữa nguyên âm và cách phát âm của chúng. Một nguyên âm có thể biểu thị cho vài cách phát âm khác nhau, tùy theo nó nằm trong nguyên âm đơn, đôi hay ba, và nhiều khi các cách viết nguyên âm khác nhau tượng trưng cho cùng một cách phát âm.
Bảng sau cho biết các cách phát âm có thể tương ứng với từng cách viết nguyên âm:
Hiện nay các nhà ngôn ngữ học chưa có sự thống nhất hoàn toàn về số lượng nguyên âm trong tiếng Việt. Tuy nhiên, quan điểm phổ biến cho rằng tiếng Việt có 13 nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi và không có nguyên âm ba, gồm: /i, e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, ă, u, o, ɔ, ɔˇ, εˇ, ie, ɯɤ, uo/.
Bảng sau cho biết các cách viết có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đơn:
Bảng sau cho biết các cách viết có thể tương ứng với từng cách phát âm nguyên âm đôi và ba:
* Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) i.
** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) u.
*** Nhiều khi không được công nhận là nguyên âm mà là vần, gồm nguyên âm chính và âm cuối (bán nguyên âm) o.
Chữ cái phụ âm đứng cuối vần chính tả và âm đối ứng
Thanh điệu chính tả và thanh điệu ngữ âm đối ứng
Tiếng Việt là ngôn ngữ thanh điệu, mọi âm tiết của tiếng Việt đều luôn mang một thanh điệu nào đó. Phương ngôn tiếng Việt miền Bắc có sáu thanh điệu, phương ngôn tiếng Việt miền Trung và miền Nam có năm thanh điệu.
{| class="wikitable" style="text-align: center;"
|+ So sánh điệu trị thanh điệu các phương ngôn tiếng Việt
! rowspan="2" | Thanh điệu
! rowspan="2" | Bắc Bộ
! colspan="3" | Bắc Trung Bộ
! rowspan="2" | Trung Bộ
! rowspan="2" | Nam Bộ
|- style="font-size: small; line-height: 1.1em;"
! Vinh!! ThanhChương!! Hà Tĩnh
|-
! style="text-align: left;" | ngang| || || || || ||
|-
! style="text-align: left;" | huyền| || || || || ||
|-
! style="text-align: left;" | sắc| || || || || ||
|-
! style="text-align: left;" | hỏi| ||
| rowspan="2" |
|
| rowspan="2" |
| rowspan="2" |
|-
! style="text-align: left;" | ngã| ||
| rowspan="2" |
|-
! style="text-align: left;" | nặng| || || || ||
|}
Trừ thanh ngang không có ký hiệu riêng để biểu thị (vì vậy mà một số người gọi nó là "thanh không dấu"), chữ quốc ngữ dùng năm ký hiệu gọi là "dấu thanh" hoặc "dấu", để biểu thị thanh điệu của tiếng Việt.
Quy tắc sử dụng i và y
Hai chữ "i" và "y" đều được gọi là "i", khi cần phân biệt thì dựa theo hình dạng của chúng chữ "i" được gọi là "i ngắn" (vì chiều cao in thường của nó ngắn hơn chữ "y"), chữ "y" được gọi là "y dài". Cái tên "i grec" của chữ "y" là do nó được vay mượn từ chữ Upxilon của bảng chữ cái Hy Lạp, nên tên gọi của nó trong tiếng Latinh, tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Pháp đều có nghĩa là "chữ i Hy Lạp". Trong tiếng Hy Lạp hiện đại (thường được tính mốc là bắt đầu từ năm 1453 khi Đế quốc Đông La Mã sụp đổ) chữ "y" biểu thị nguyên âm /i/. Trong tiếng Latinh chữ "i" (còn được viết là "j") biểu thị hai nguyên âm /ɪ/, /iː/ và phụ âm /j/. Trong chữ quốc ngữ, chữ "i" cũng được dùng để ghi lại âm vị /i/ và /j/ giống như tiếng Latinh nhưng không phải lúc nào hai âm vị /i/ và /j/ cũng được ghi lại bằng chữ cái "i", trong một số trường hợp chúng được ghi lại bằng chữ "y".
Các giáo sĩ phương Tây khi đặt ra chữ quốc ngữ vì sợ rằng nếu ghi nguyên âm /i/ ở đầu từ bằng chữ cái "i" thì những người biết tiếng Latinh có thể hiểu lầm chữ "i" ở đây biểu thị phụ âm /j/ dẫn tới đọc sai từ nên đã ghi nguyên âm /i/ ở đầu từ bằng chữ cái Hy Lạp "y" (vì trong tiếng Hy Lạp hiện đại, chữ cái "y" cũng biểu thị phụ âm /i/ giống như chữ cái "i" trong chữ quốc ngữ).
Hai vần "ay" /aj/ và "ai" /aːj/ đều mang nguyên âm /a/ và bán nguyên âm /j/, cái tạo nên sự khác biệt trong cách phát âm của hai vần này là trường độ của nguyên âm /a/. Vần "ay" chứa nguyên âm a ngắn /a/, vần "ai" /aːj/ chứa nguyên âm a dài /aː/. Sự khác biệt trong cách phát âm của hai vần "ây" /əj/ và "ơi" /əːj/ cũng nằm ở trường độ của nguyên âm, vần "ây" /əj/ chứa nguyên âm ơ ngắn /ə/, vần "ơi" /əːj/ chứa nguyên âm ơ dài /əː/. Chữ quốc ngữ đã có chữ "ă" để biểu thị nguyên âm a ngắn nhưng các giáo sĩ phương Tây đã không dùng chữ này để ghi lại nguyên âm a ngắn trong vần "ay". Vì muốn hạn chế dùng các chữ cái có dấu nên họ đã dùng chữ "a" để ghi lại cả nguyên âm a dài lẫn nguyên âm a ngắn trong vần "ai" và "ay". Để phân biệt hai vần này họ dùng hai chữ cái "i" và "y" để ghi lại bán nguyên âm /j/ trong hai vần "ay" và "ai". Với vần "ai" họ dùng chữ "i", với vần "ay" họ dùng chữ "y". Hai chữ "i" và "y" ở đây ngoài việc biểu thị bán nguyên âm /j/ trong hai vần ra còn báo cho người đọc biết nguyên âm đứng trước nó là nguyên âm dài hay nguyên âm ngắn, "i" biểu thị nguyên âm dài, "y" biểu thị nguyên âm ngắn. Để cho nhất quán bán nguyên âm /j/ trong vần "ây" (chứa nguyên âm ơ ngắn) được ghi bằng chữ "y", còn trong vần "ơi" (chứa nguyên âm ơ dài) nó được ghi lại bằng chữ "i". Vần "uy" /wi/ viết là "uy", vần "ui" /uj/ viết là "ui" (uy và ui đều mang bán nguyên âm /j/, /w/ và /u/ được ghi lại bằng cùng một chữ "u" giống như các vần khác). Vần "uy" đứng sau "q" viết là "u" như châu Âu (quy).
Ngoài các trường hợp kể trên ra, trong các trường hợp còn lại nguyên âm /i/ và bán nguyên âm /j/ phải được viết bằng chữ cái "i".
Nguyên nhân dẫn đến việc dùng hai chữ y (dài) i (ngắn) trong chữ quốc ngữ là như trên nhưng từ thuở ban đầu của chữ quốc ngữ đến nay vì nhiều nguyên nhân như do không biết nguồn gốc của hai chữ i (ngắn) y (dài) trong chữ quốc ngữ, do thói quen cố hữu, theo thẩm mỹ quan cá nhân (thấy ở trường hợp này trường hợp kia viết với chữ i hay chữ y thì dễ nhìn hơn), bắt chước theo cách viết của người khác vân vân, nguyên tắc sử dụng i và y đặt ra lúc ban đầu liên tục bị vi phạm. Ngay cả các giáo sĩ phương Tây cũng không tuân thủ triệt để. Người ta chỉ cố gắng viết đúng y dài i ngắn để phân biệt hai vần "ay" và "ai", trong các trường hợp khác người ta tùy tiện viết y dài i ngắn theo ý mình.
Trong phương ngữ tiếng Việt miền Nam, nguyên âm /a/ luôn là một nguyên âm dài khi đứng trước bán nguyên âm /j/, không còn sự đối lập về trường độ của nguyên âm /a/ nữa, do đó "ay" và "ai" trong phương ngữ miền Nam là đồng âm, đều được phát âm là /aj/. Vì "ay" và "ai" trong phương ngữ miền Nam chỉ là hai cách viết khác nhau theo quy ước chính tả của cùng một vần nên người miền Nam hay viết sai chính tả các từ có "ay" và "ai", chỗ theo chính tả phải viết là "ay" thì lại viết "ai" và ngược lại, chỗ phải viết là "ai" thì lại viết là "ay".
Nhằm chấm dứt tình trạng viết i ngắn i dài lung tung, đã có một số người, cơ quan, tổ chức đặt ra quy tắc sử dụng i và y của riêng mình, quy định khi nào viết chữ i, khi nào viết chữ y. Các quy tắc này thường không xét đến nguyên nhân các giáo sĩ phương Tây đưa hai chữ i (ngắn) y (dài) vào chữ quốc ngữ.
Quy tắc sử dụng i và y trong sách giáo khoa
Nguyên âm trong các âm tiết mở, viết i ngắn: kĩ (thuật), lí (thuyết), mĩ (thuật), hi (vọng), (nghệ) sĩ,...
Nguyên âm đứng một mình (âm tiết độc lập) thì sẽ viết i ngắn nếu là từ thuần Việt: ỉ (eo), ì (à) ì (ạch), (béo) ị, (ầm) ĩ,... và y dài, nếu là từ Hán Việt: ý (kiến), (lưu) ý, y (sĩ), (chuẩn) y...
Nguyên âm đứng đầu âm tiết, có tổ hợp nguyên âm hoặc nguyên âm đôi, viết y dài: yêu (quý), yểu (điệu), yến (tiệc), yêng (hùng), huỳnh huỵch...
Trong các âm tiết nửa mở, nếu là tổ hợp nguyên âm [wi], như trong các từ quy (tắc), (thâm) thúy, (ma) túy, (xương) tủy, quỵ lụy... thì viết y dài. Nếu là tổ hợp nguyên âm [uj], như trong các từ cúi (đầu), túi (quần), tủi (hổ), xúi (bẩy), (tàn) lụi... thì viết i ngắn.
Kiểu mới
Trừ tên riêng, đề xuất tương đối hợp lý cách dùng hai chữ i ngắn và y dài hiện nay như sau:
Đối với các âm tiết có phụ âm đầu /ʔ/, âm đệm /Ø/, âm chính /i/ và âm cuối /Ø/, thì có hai cách viết:
Dùng "i" trong các trường hợp từ thuần Việt, cụ thể là: i - i tờ; ì - ì, ì ạch, ì à ì ạch, ì ầm, ì oạp; ỉ - lợn ỉ, ỉ eo, ỉ ôi; í - í a í ới, í oắng, í ới; ị - ị, béo ị
Dùng "y" trong các trường hợp còn lại (thường là từ Hán-Việt), ví dụ: y - y tế, y nguyên, y phục; ỷ - ỷ lại; ý - ý nghĩa, ý kiến...
Đối với các âm tiết có âm đệm /Ø/ và âm chính /iə/ thì dùng "i". Ví dụ: chịa, đĩa, tía... kiến, miền, thiến... Trừ trường hợp có âm đầu /ʔ/ và âm cuối không /Ø/ thì dùng "y": yếm, yến, yêng, yêu...
Đối với các âm tiết có âm đệm /w/, âm chính là /i/ hoặc /iə/ thì dùng "y". Ví dụ: huy, quý, quýt... khuya, tuya, xuya... quyến, chuyền, tuyết, thuyết...
Việc biểu diễn nguyên âm /i/ trong các trường hợp còn lại (âm đệm /Ø/) thì dùng "i". Ví dụ: inh, ích, ít... bi, chi, hi, kì, khi, lí, mì, phi, ti, si, vi... bình, chính, hít, kim, lịm, mỉm, nín, phình, tính, sinh, vinh...
Việc biểu diễn âm cuối /-j/ không có gì thay đổi, vẫn dùng "y" trong các trường hợp có nguyên âm chính ngắn: (bàn) tay, (thợ) may, tây, sấy... và dùng "i" trong các trường hợp còn lại: (lỗ) tai, (ngày) mai, cơi, coi, côi...
Dùng "i" trong trường hợp các tiếng có phụ âm đầu + vần "i" (ví dụ: lí, mĩ, kĩ, thi, sĩ...) đều thống nhất viết bằng "i" (i ngắn). Ví dụ: lí luận, lí tưởng, thi sĩ, nước Mĩ, bánh mì, kỉ niệm, v.v... mà không viết "y" (y dài) như trước đây. Đây là quy định của Bộ Giáo dục Việt Nam từ năm 1983 . Hiện nay Nhà xuất bản Giáo dục vẫn thực hiện nghiêm chỉnh quy định này trong việc in Sách giáo khoa các loại.
Theo quy định của Bộ giáo dục (1984) có quy định cách viết "I" như sau:
- Nếu không có sự thay đổi về âm và nghĩa, trừ trường hợp "Y" đứng sau "QU", hầu hết các từ có âm "I" ở cuối đều được viết thống nhất bằng "I". Thí dụ: Hi sinh, kỉ niệm, lí luận, thẩm mĩ,...
- Nếu "I" hoặc "Y" đứng một mình, đứng đầu từ hoặc ở giữa từ, ta viết theo thói quen cũ. Thí dụ: ý nghĩa, y tế, yêu thương, Nguyễn Khuyến,...
Kiểu cũ
Cách dùng "i" hoặc "y" kiểu cũ thì thường căn cứ vào Hán Việt Từ điển của Đào Duy Anh (1931). Theo đó thì "y" được dùng thay "i" với những từ gốc Hán Việt nếu đứng sau các phụ âm h, k, l, m, t, và q (qu). Vì vậy nên có "ngựa hí", "tì tay" (gốc Nôm) nhưng "song hỷ", "tỵ nạn" (gốc Hán Việt). Những phụ âm khác thì vẫn dùng "i" như "tăng ni" chứ không có ny (tuy nhiên có ca sĩ mang tên là "Tố Ny" từng tham gia chương trình Giọng Hát Việt). Người Việt ở hải ngoại dạy tiếng Việt cho trẻ em dùng mẹo để nhớ sáu phụ âm trên bằng câu "học mau lên kẻo ta quên".
Quy tắc đánh dấu thanh
Trong các nguyên âm đôi và ba có ít nhất hai cách đặt dấu phụ lên chúng, trong đó một cách ("cách mới") dựa trên lý thuyết ngôn ngữ học.
Trong xếp thứ tự chữ cái, các chữ cái được ưu tiên, tiếp sau là dấu âm, dấu thanh điệu, và sau cùng là chữ hoa/chữ thường. Quá trình ưu tiên này được thực hiện lần lượt trên các âm tiết. Ví dụ một từ điển sẽ xếp "tuân thủ" trước "tuần chay".
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc vị trí đặt dấu thanh, một trong các quan điểm đó như sau:
Với các âm tiết [-tròn môi] (âm đệm /Ø/) có âm chính là nguyên âm đơn: Đặt dấu thanh điệu vào vị trí của chữ cái biểu diễn cho âm chính đó. Ví dụ: á, tã, nhà, nhãn, gánh, ngáng...
Với các âm tiết [+tròn môi] (âm đệm /w/, được biểu diễn bằng "o, u") có âm chính là nguyên âm đơn thì cũng bỏ dấu thanh điệu vào vị trí chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: hoà, hoè, quỳ, quà, quớ, thủy, nguỵ, hoàn, quét, quát, quỵt, suýt, loã, tuế,...
Với các âm tiết có âm chính là nguyên âm đôi:
Nếu là âm tiết [-khép] (nguyên âm được viết là: "iê, yê, uô, ươ"; âm cuối được viết bằng: "p, t, c, ch, m, n, ng, nh, o, u, i") thì bỏ dấu lên chữ cái thứ hai trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: yếu, uốn, ườn, tiến, chuyến, muốn, mượn, thiện, thuộm, người, viếng, muống, cường...
Nếu là âm tiết [+khép] (nguyên âm được viết là: "ia, ya, ua, ưa") thì nhất loạt bỏ dấu vào vị trí chữ cái thứ nhất trong tổ hợp hai chữ cái biểu diễn cho âm chính. Ví dụ: tỉa, tủa, cứa, thùa, khứa, ứa,...
Phân biệt vị trí đặt dấu thanh điệu ở tổ hợp "ua" và "ia":
Với "ia" thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "g" ở đầu âm tiết. Có "g" thì đặt vào "a" (già, giá, giả...), không có "g" thì đặt vào "i" (bịa, chìa, tía...). Trường hợp đặc biệt: "gịa" (trong từ "giặt gịa", có nghĩa là "giặt giũ") - cách đọc: ghép phụ âm "gi" với nguyên âm kép "ịa"; "gìn" (trong từ "giữ gìn") - cách đọc: ghép phụ âm "gi" với vần "ìn"; "gì" - cách đọc: ghép phụ âm "gi" với nguyên âm đơn "ì"; tương tự: giếng; giêng; giềng; giết; gin.
Với "ua" thì phân biệt bằng sự xuất hiện hay vắng mặt của chữ cái "q". Có "q" thì đặt vào "a" (quán, quà, quạ...), không có "q" thì đặt vào "u" (túa, múa, chùa...). Hoặc để giản tiện cho việc làm bộ gõ, có thể coi "qu" như là một tổ hợp phụ âm đầu tương tự như "gi, nh, ng, ph, th"... Khi đó, sẽ coi "quán, quà, quạ"... như là những âm tiết có âm đệm /Ø/.
Trong đời sống, hiện vẫn tồn tại hai cách đặt dấu thanh trong tiếng Việt, vẫn xuất hiện trên cùng một văn bản, làm cho văn bản đẹp hơn, vẫn không sai. Ví dụ "hòa" là một cách đặt dấu thanh khác cho "hoà", trong đó "hòa" còn gọi là cách đặt dấu thanh "cũ". Bảng sau liệt kê các trường hợp mà hai cách đặt dấu thanh khác nhau:
Dấu câu dùng kèm chữ quốc ngữ
Một số loại dấu thường dùng trong chữ Quốc ngữ
Nguồn gốc một số chữ cái chữ quốc ngữ
ă: Vay mượn từ tiếng Latinh. Trong tiếng Latinh dấu âm ngắn (˘) được thêm vào phía trên các chữ cái nguyên âm để biểu thị nguyên âm ngắn, "ă" biểu thị nguyên âm ngắn . Nguyên âm ngắn và nguyên âm dài có cách phát âm giống nhau nhưng thời gian phát âm của nguyên âm dài dài hơn nguyên âm ngắn. "Ă" không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Latinh. Chữ quốc ngữ dùng chữ "ă" để biểu thị nguyên âm ngắn khi có sự phân biệt về độ dài của nguyên âm . Ví dụ: và ) được lần lượt ghi lại bằng chữ quốc ngữ là "căn" và "can".
â: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha "â" biểu thị nguyên âm và . Hai nguyên âm và trong tiếng Bồ Đào Nha là nguyên âm đọc mạnh, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ a biểu thị độ cao của chúng. "Â" không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Chữ quốc ngữ dùng chữ "â" để biểu thị nguyên âm ngắn khi có sự phân biệt về độ dài của nguyên âm , dấu mũ (ˆ) phía trên chữ a biểu thị đây là nguyên âm dài. Nguyên âm ngắn và nguyên âm dài có cách phát âm giống nhau nhưng thời gian phát âm của nguyên âm dài dài hơn nguyên âm ngắn. Ví dụ: và ) lần lượt được ghi bằng chữ quốc ngữ là "cân" và "cơn".
c: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ "c" khi đứng trước "a", "o", "u" sẽ biểu thị phụ âm , khi đứng trước "e", "i" sẽ biểu thị phụ âm . Chữ quốc ngữ dùng chữ "c" để biểu thị phụ âm . Vì trong tiếng Bồ Đào Nha chữ "c" khi đứng trước "e", "i" sẽ biểu thị phụ âm nên để tránh cho những người biết tiếng biết Bồ Đào Nha khỏi đọc sai, trong chữ quốc ngữ phụ âm đầu được ghi lại bằng chữ "c" khi sau nó là nguyên âm "a", "ă", "â", "o", "ô", "ơ", "u", "ư", ghi bằng chữ "k" nếu sau nó là nguyên âm "e", "ê", "i". Ví dụ: được ghi lại bằng chữ quốc ngữ là "keo", không được viết là "ceo".
ch: Vay mượn từ tiếng Bắc Bồ Đào Nha. Dựa theo thống kê hiện đại, trong tiếng Bắc Bồ Đào Nha thuộc huyện Guarda, miền Beira Alta, nơi Francisco de Pina đã trưởng thành, rất có khả năng chữ cái ghép đôi "ch" biểu thị bằng âm vị /ʧ/. Chữ quốc ngữ đã mượn chữ cái ghép đôi "ch" với âm vị /ʧ/ của tiếng Bắc Bồ Đào Nha để ghi một âm vị trong tiếng Việt [c]. Phương ngữ miền Nam có sự lẫn lộn "CH" thành "T" cho phụ âm cuối.
d: Trong hầu hết các hệ thống chữ viết dựa trên chữ Latinh chữ "d" thường dùng để ghi lại phụ âm /d/ hoặc /d̪/ nhưng vì trong tiếng Việt trung đại (và cả tiếng Việt hiện đại) không có hai phụ âm này nên chữ "d" được dùng để ghi lại một phụ âm trong tiếng Việt trung đại có cách phát âm gần giống là . Phụ âm không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, nó đã biến đổi thành phụ âm trong phương ngữ Bắc và phụ âm trong phương ngữ Nam.
đ: Chữ này được tạo thành bằng cách thêm một nét gạch ngang ngắn vào chữ "d" để ghi lại phụ âm , ý là cách phát âm của phụ âm có phần giống với phụ âm và .
ê: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha "ê" biểu thị nguyên âm và nguyên âm đôi . Nguyên âm trong tiếng Bồ Đào Nha là nguyên âm đọc nặng, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ e biểu thị độ cao của nó. "Ê" không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Chữ quốc ngữ dùng chữ "ê" để biểu thị nguyên âm và (trong nguyên âm đôi "iê" ).
g: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái "g" khi đứng trước "a", "o", "u" sẽ biểu thị phụ âm , khi đứng trước "e", "i" sẽ biểu thị phụ âm . Chữ quốc ngữ mượn chữ cái "g" của tiếng Bồ Đào Nha để ghi lại một phụ âm trong tiếng Việt có cách phát âm gần giống với là . Vì trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái "g" khi đứng trước "e", "i" sẽ biểu thị phụ âm nên để tránh cho người biết tiếng Bồ Đào Nha khỏi đọc sai chữ quốc ngữ chữ ghép đôi "gh" mượn từ tiếng Ý để ghi lại khi sau nó là nguyên âm "e", "ê", "i". Ví dụ: , lần lượt được ghi bằng chữ quốc ngữ ghi là "gỗ", "ghế", không viết là "ghỗ", "gế".
gh: Vay mượn từ tiếng Ý. Trong tiếng Ý chữ cái "g" biểu thị phụ âm khi đứng trước "a", "o", "u", biểu thị phụ âm khi đứng trước "e", "i". Phụ âm khi đi với nguyên âm "e", "i" sẽ được ghi lại bằng "gh". Chữ quốc ngữ mượn chữ "g" của tiếng Bồ Đào Nha để ghi lại phụ âm của tiếng Việt. Trong tiếng Bồ Đào Nha cũng có hiện tượng "g" khi đứng trước "e", "i" đọc khác với "g" đứng trước "a", "o", "u". Để tránh cho những người biết tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Ý khỏi đọc sai, trong chữ quốc ngữ phụ âm sẽ được ghi lại bằng chữ ghép đôi "gh" mượn từ tiếng Ý khi sau nó là nguyên âm "e", "ê", "i". Ví dụ: , lần lượt được ghi bằng chữ quốc ngữ ghi là "ghế" "gỗ", không viết là "gế", "ghỗ".
gi: Vay mượn từ tiếng Ý. Trong tiếng Ý chữ cái "g" biểu thị phụ âm khi đứng trước "a", "o", "u", biểu thị phụ âm khi đứng trước "e", "i". Khi sau "g" là "i", sau "i" là "a", "o", "u" thì "i" không ghi lại âm vị nào, nó chỉ đóng vai trò là một chỉ báo về cách phát âm của chữ "g" đứng trước nó, cho biết rằng chữ "g" ở đây biểu thị phụ âm chứ không phải là . Vì phụ âm của tiếng Việt trung đại có cách phát âm gần giống với phụ âm của tiếng Ý nên chữ quốc ngữ đã mượn "gi" của tiếng Ý để ghi lại phụ âm và âm tiết của tiếng Việt trung đại. Trong phương ngữ Bắc và phương ngữ Nam của tiếng Việt hiện đại phụ âm không còn tồn tại, nó đã biến đổi thành phụ âm trong phương ngữ Bắc và phụ âm trong phương ngữ Nam. Ngày nay, "dàn" và "giàn", "dì" và "gì" trong hai phương ngữ Bắc và Nam là đồng âm.
i: Không rõ từ đâu trong phương ngữ miền Nam, nếu ghép với một phụ âm cuối thì đa số đọc thành "Ư" ngoại trừ "M". Thí dụ: Inh/ưn,it/ưt,ích/ứt
k: Vay mượn từ tiếng Hy Lạp. Trong tiếng Hy Lạp chữ cái "k" biểu thị phụ âm . Trong chữ quốc ngữ phụ âm đầu được ghi lại bằng chữ "k" khi sau nó là nguyên âm "e" , "ê" , "i/y" , ghi bằng chữ "c" khi sau nó là nguyên âm "a", "ă", "â", "o", "ô", "ơ", "u", "ư". Mục đích là để tránh cho những người biết tiếng Bồ Đào Nha khỏi đọc sai vì trong tiếng Bồ Đào Nha chữ "c" khi đứng trước ba chữ "e", "i", "y" sẽ biểu thị phụ âm , chứ không phải là phụ âm .
kh: Bắt nguồn từ cách chuyển tự các phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại sang chữ Latinh. Các phụ âm bật hơi trong tiếng Hy Lạp cổ đại được chuyển tự sang chữ Latinh bằng cách lấy một chữ cái biểu thị một phụ âm có cách phát âm tương tự với phụ âm cần chuyển tự nhưng không bật hơi rồi thêm chữ "h" vào phía sau. Phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại (trong tiếng Hy Lạp được ghi bằng chữ "χ") được chuyển tự sang tiếng Latinh thành "ch". Tiếng Việt trung đại cũng có phụ âm . Chữ quốc ngữ đã phỏng theo cách thức chuyển tự trên để ghi lại phụ âm của tiếng Việt trung đại bằng chữ cái ghép đôi "kh" (chữ cái ghép đôi "ch" đã dùng để ghi lại một phụ âm khác của tiếng Việt). Trong tiếng Việt hiện đại phụ âm không còn tồn tại trong phương ngữ Bắc, nó đã biến đổi thành phụ âm , phương ngữ Nam thì vẫn còn phụ âm này.
nh: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha và quốc ngữ chữ cái ghép đôi "nh" đều biểu thị phụ âm .
ô: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ o với dấu mũ dấu mũ (ˆ) "ô" biểu thị nguyên âm . Nguyên âm trong tiếng Bồ Đào Nha là nguyên âm đọc nặng, dấu mũ (ˆ) phía trên chữ o biểu thị độ cao của nó. "Ô" không được coi là một chữ cái trong bảng chữ cái tiếng Bồ Đào Nha. Chữ quốc ngữ cũng dùng chữ "ô" đề biểu thị nguyên âm giống như trong tiếng Bồ Đào Nha.
ph: Bắt nguồn từ cách chuyển tự các phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại sang chữ Latinh. Các phụ âm bật hơi trong tiếng Hy Lạp cổ đại được chuyển tự sang chữ Latinh bằng cách lấy một chữ cái biểu thị một phụ âm có cách phát âm tương tự với phụ âm cần chuyển tự nhưng không bật hơi rồi thêm chữ "h" vào phía sau. Phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại (trong tiếng Hy Lạp được ghi bằng chữ "φ") được chuyển tự sang tiếng Latinh thành "ph". Tiếng Việt trung đại cũng có phụ âm nên chữ quốc ngữ đã mượn chữ cái ghép đôi "ph" để ghi lại của tiếng Việt trung đại. Phụ âm không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, nó đã biến đổi thành phụ âm .
s: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Đa số phát âm "S" thành "X".
th: Bắt nguồn từ cách chuyển tự các phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại sang chữ Latinh. Các phụ âm bật hơi trong tiếng Hy Lạp cổ đại được chuyển tự sang chữ Latinh bằng cách lấy một chữ cái biểu thị một phụ âm có cách phát âm tương tự với phụ âm cần chuyển tự nhưng không bật hơi rồi thêm chữ "h" vào phía sau. Phụ âm bật hơi của tiếng Hy Lạp cổ đại (trong tiếng Hy Lạp được ghi bằng chữ "τ") được chuyển tự sang tiếng Latinh thành "th". Tiếng Việt cũng có phụ âm nên chữ quốc ngữ đã mượn chữ cái ghép đôi "th" để ghi lại phụ âm của tiếng Việt.Người Thủ Dầu Một xưa kia đa số phát âm sai "TH" thành "KH".
x: Vay mượn từ tiếng Bồ Đào Nha. Trong tiếng Bồ Đào Nha chữ cái "x" khi đứng đầu từ luôn biểu thị phụ âm . Chữ quốc ngữ dùng chữ "x" để ghi lại một phụ âm của tiếng Việt trung đại có cách phát âm gần giống với phụ âm là . Phụ âm không còn tồn tại trong tiếng Việt hiện đại, nó đã biến đổi thành phụ âm .
Vị thế pháp lý của chữ Quốc ngữ
Tuy bộ chữ Latinh cho tiếng Việt thường được gọi là "chữ Quốc ngữ", nó chỉ được xem như là một bộ chữ viết phổ thông thường dùng trên thực tế cho tiếng Việt hiện nay. Không có bất kỳ văn bản pháp lý nào ở cấp nhà nước quy định hay công nhận chữ Latinh là "Quốc tự" (chữ viết quốc gia) hay "văn tự chính thức". Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, chương I điều 5 mục 3 ghi là "Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt", khẳng định tiếng Việt là Quốc ngữ nhưng không đề cập tới "Quốc tự".
Ở các văn bản thuộc lĩnh vực hành chính, tiếng Việt thường được viết bằng chữ Quốc ngữ theo "Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt" áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục, nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984. Ngoài lĩnh vực này, không có quy định nào yêu cầu người Việt trong đời sống hiện nay chỉ được viết tiếng Việt bằng chữ Quốc ngữ và cấm viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm. Hiến pháp chương I điều 5 mục 3 cũng ghi "Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình", nên nếu có bộ luật hay quy định nào đó được đặt ra để cấm người Việt hiện tại viết tiếng Việt bằng chữ Hán và chữ Nôm như người Việt xưa thì sẽ là một bộ luật vi hiến.
Dù chữ Latinh cho tiếng Việt đã được tạo ra bởi các tu sĩ Dòng Tên của Bồ Đào Nha và Ý vào thế kỷ XVII, nhưng sau 200 năm thì tiếng Việt vẫn được viết phổ biến bằng chữ Hán và chữ Nôm. Chính quyền phong kiến cũng không có luật công nhận văn tự chính thức, nên lúc đó vị thế của chữ Hán và chữ Nôm cũng chưa phải là Quốc tự. Tuy vậy chữ Nôm khi đó cũng hay được gọi là "Quốc âm", "Quốc ngữ". Người Việt cũng không có lý do gì để thay đổi chữ viết phổ biến, nên chữ Latinh cho tiếng Việt khi đó thường được dùng trong phạm vi xung quanh những nhà truyền giáo.
Phải đến thời kỳ Pháp thuộc ở cuối thế kỷ XIX, sau sự xâm lược của Thực dân Pháp, chính quyền Đông Dương ở Nam Kỳ đưa ra những quy định pháp lý bảo hộ chữ Latinh cho tiếng Việt thay thế chữ Hán và chữ Nôm, để khiến tiếng Việt đồng văn tự với tiếng Pháp cũng sử dụng chữ Latinh. Đồng thời chữ Latinh cho tiếng Việt cũng bắt đầu được gọi là chữ Quốc ngữ. Sang thế kỷ XX, mở rộng chính sách dùng chữ Quốc ngữ ra Bắc Kỳ. Từ đó tiếng Việt được viết phổ biến bằng chữ Latinh. Người Việt cũng dần bị "mù chữ" đối với chữ Hán và chữ Nôm.
Theo tư liệu trong "Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ (25/5/1938)" do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 25/5/2008,70 năm thành lập Hội truyền bá quốc ngữ. Nhân Dân Online, 25/05/2008. Truy cập 20/07/2016. thì Hội ra đời ngày 25/5/1938. Ngày 29/7/1938, Thống sứ Bắc Kỳ là người Pháp công nhận sự hợp pháp của Hội, và Hội cho rằng đó là dấu mốc chắc chắn cho vị thế "chữ Quốc ngữ" của chữ Latinh cho tiếng Việt. Việc cổ động cho học "chữ Quốc ngữ" ở Việt Nam gắn với các phong trào cải cách trong giai đoạn 1890 - 1910 như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành, đã thừa nhận và cổ vũ học "chữ Quốc ngữ", coi là phương tiện thuận lợi cho học hành nâng cao dân trí .
Theo Tiến sĩ Trần Trọng Dương, sắc lệnh số 20 do Võ Nguyên Giáp ký năm 1945 "có quy định về việc sử dụng chữ Quốc ngữ và coi đó là chữ viết của nước mình."
Vấn đề cải tiến chữ Quốc ngữ
Từ giữa thế kỷ 20, một số người quan tâm tìm cách cải tiến chữ Quốc ngữ, và cho rằng cần làm giản tiện và hợp lí hơn. Tuy nhiên, cải tiến chữ viết là công việc khó khăn, phải được hàng triệu người chấp nhận, nên thực ra chưa có cải tiến nào được ứng dụng. Dưới đây là hai phương án nổi bật nhất từng được đưa ra:
Dự thảo "Phương án cải tiến chữ Quốc ngữ bước đầu" của Giáo sư Hoàng Phê Dự thảo Phương án cải tiến chữ Quốc ngữ bước đầu được Giáo sư Hoàng Phê xây dựng vào năm 1960-1961. Ông đã dựa vào cơ sở phân tích hệ thống ngữ âm tiếng Việt đã được các nhà Việt ngữ học (những người chuyên về âm vị học tiếng Việt) cơ bản chấp nhận. Bản dự thảo đã đề cập:
Các âm vị tiếng Việt và cách viết các âm vị (gồm âm vị nguyên âm đơn, âm vị phụ âm); Kết cấu âm tiết tiếng Việt và cách viết các âm tiết; Vấn đề thêm vần mới và vấn đề viết liền. Để cụ thể hoá một số ý kiến về nguyên tắc đã trình bày, ông nêu tóm tắt mấy điểm đề nghị cải tiến chữ quốc ngữ trong bước đầu:
Bỏ H trong GH và NGH (vd: ghê >> gê, nghe >> nge, nghiêng >> ngiêng).
Dùng F thay PH; D thay Đ; Z thay D và GI (vd: dân tộc >> zân tôc, đất nước>> dất nước, phương pháp >> fương fáp).
Nhất luật viết phụ âm k bằng K trong mọi trường hợp, thay cho C, và nghiên cứu thay cả cho Q (vd như "Đường kách mệnh").
Nhất luật viết nguyên âm i bằng I trong mọi trường hợp: i (học), iêu (thương), iết (kiến), kì (lạ), mĩ (thuật). v.v. Chỉ dùng Y để viết bán nguyên âm i trong ay và ây.
Thêm W để viết bán nguyên âm u trong uy:uy, uya, uynh sẽ viết WI, WIA, WINH, và qui sẽ viết KWI (còn cui sẽ viết KUI).
Thêm W là để có thể bỏ vần bất hợp lí UY; đồng thời cũng để chuẩn bị để dần dần, trong bước sau, dùng W viết bán nguyên âm U đứng trước nguyên âm, thay cho các con chữ O và U: oa, oe, uê, ươ, uy viết WA, WE, WÊ, WƠ, WI.
Thực hiện viết liền những trường hợp rõ ràng là một từ (xãhội, káchmạng, chiếnsĩ, thiđua, chuẩnbị, fấnkhởi, vuivẻ, v.v.). Nói chung, các danh từ riêng cũng viết liền, trường hợp là tên người thì viết rời tên và họ (Việtnam, Hànội, Nguyễn Du, Trần Hưngđạo).
Căn cứ vào những nội dung đó, GS Hoàng Phê thử cụ thể hóa bằng việc viết lại bản Tuyên ngôn Độc lập (do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc ngày 2/9/1945).
Xin trích hai đoạn mở đầu:TWIÊNNGÔN DỘCLẬP (do Hồ Chủtịch dọc ngằi 2-9-1945) Tấtcả mọi người dều sinh ra có cwiền bìnhdẳng. Tạohóa cho họ những cwiền không ai cóthể xâmfạm được; trong những cwiền ấi, có cwiền dược sống, cwiền tựzo và cwiền mưucầu hạnhfúc. Lời bấthủ ấi ở trong bản Twiênngôn Dộclập năm 1776 của nước Mĩ. Swi rộng ra, câu ấi có í nghĩa là: tấtcả các zântộc trên thếzới dều sinh ra bìnhdẳng; zântộc nào cũng có cwiền sống, cwiền sungsướng và cwiền tựzo…Nguyên bản: TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP (do Hồ Chủ tịch đọc ngày 2-9-1945)
Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.
Đề xuất "Phương án cải tiến chữ quốc ngữ" của Phó giáo sư Bùi Hiền
Phó giáo sư Bùi Hiền từng công bố một đề xuất "Phương án cải tiến chữ quốc ngữ" ở Báo Giáo dục và Thời đại số 72 ngày 8/9/1995. Đây chỉ là một nghiên cứu cá nhân mà ông Hiền theo đuổi từ lâu. Cuối năm 2017, sau một cuộc hội thảo thì đề xuất của ông được đưa ra truyền thông và đã có bàn cãi sôi nổi do những khác lạ trong lối viết "cải tiến" mà ông đưa ra. Bàn cãi lắng xuống khi các chuyên gia xác định nếu có cải tiến loại chữ viết mà hàng triệu người ở trong và ngoài nước đang sử dụng, thì sẽ không thể đơn giản như một cá nhân đề xuất.
Hỗ trợ trên máy tính
Các phông chữ Unicode chứa các chữ cái tiếng Việt; nằm rải rác trong phần "Latin Cơ bản", "Latin-1 Thêm", "Latin Mở rộng-A", "Latin Mở rộng-B", và Latin Mở rộng Thêm.
Chữ quốc ngữ có thể được biểu thị trong ASCII dựa trên quy ước như VIQR. Trước khi Unicode được dùng rộng rãi, các phông chữ TCVN3, VNI, và VISCII cũng đã được dùng để biểu thị tiếng Việt. Ngày nay UTF-8 là mã hoá được dùng rộng rãi trên máy tính cho tiếng Việt.
Nhiều bàn phím máy tính không hỗ trợ việc nhập trực tiếp các ký tự tiếng Việt. Điều này dẫn đến sự ra đời của các phần mềm cho phép thực hiện các phương pháp nhập ký tự tiếng Việt theo quy ước như Telex, VIQR hay VNI.
Xem thêm
Âm vị học tiếng Việt
Từ vựng tiếng Việt
Văn học Việt Nam
Tham khảo thêm
Francisco de Pina
Antonio Barbosa
Gaspar do Amaral
Alexandre de Rhodes
António de Fontes.
Ghi chú
Chú thích
Đọc thêm
Chiung, Wi-vun T. (2003). Learning Efficiencies for Different Orthographies: A Comparative Study of Han Characters and Vietnamese Romanization. PhD dissertation: University of Texas at Arlington.
Gregerson, Kenneth J. (1969). A study of Middle Vietnamese phonology. Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, 44, 135-193. (Published version of the author's MA thesis, University of Washington). (Reprinted 1981, Dallas: Summer Institute of Linguistics).
Haudricourt, André-Georges. (1949). Origine des particularités de l'alphabet vietnamien. Dân Việt-Nam, 3, 61-68.
Nguyen, Đang Liêm. (1970). Vietnamese pronunciation. PALI language texts: Southeast Asia. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 0-87022-462-X
Nguyễn, Đình-Hoà. (1955). Quốc-ngữ: The modern writing system in Vietnam. Washington, D. C.: Author.
Nguyễn, Đình-Hoà. (1992). Vietnamese phonology and graphemic borrowings from Chinese: The Book of 3,000 Characters revisited. Mon-Khmer Studies, 20, 163-182.
Nguyễn, Đình-Hoà. (1996). Vietnamese. In P. T. Daniels, & W. Bright (Eds.), The world's writing systems, (pp. 691-699). New York: Oxford University Press. ISBN 0-19-507993-0.
Nguyễn, Đình-Hoà. (1997). Vietnamese: Tiếng Việt không son phấn. Amsterdam: John Benjamins Publishing Company. ISBN 1-55619-733-0.
Pham, Andrea Hoa. (2003). Vietnamese tone: A new analysis. Outstanding dissertations in linguistics. New York: Routledge. (Published version of author's 2001 PhD dissertation, University of Florida: Hoa, Pham. Vietnamese tone: Tone is not pitch). ISBN 0-415-96762-7.
Thompson, Laurence E. (1991). A Vietnamese reference grammar. Seattle: University of Washington Press. Honolulu: University of Hawaii Press. ISBN 0-8248-1117-8. (Original work published 1965).
Vietnamese a complete course for beginners của DANA HEALY do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh 2001.
Giáo trình tiếng Việt chủ biên Bùi Tất Tươm do Nhà xuất bản GD.
Từ điển tiêu chuẩn Việt Anh của Lê Bá Khanh và Lê Bá Kông do Nhà xuất bản Mũi Cà Mau 1990.
Modern Vietnamese của Phan Văn Giưỡng Nhà xuất bản Saigon lưu chiểu 6/2009
Sơ thảo tốc ký Việt Nam của Ngọc Quang bản quay Roneo 5/1974 và bản Phụ tên quay Roneo của CC VK nha CS đô thành Saigon.
Liên kết ngoài
(Tiếng Việt)
Chữ viết
Bồ Đào Nha và chữ Quốc Ngữ trên BBC
(Tiếng Anh)
Scanned version of Alexandre de Rhodes' dictionary
Vietnamese Writing System
Essay comparing the orthography variants
Vietnamese Unicode FAQs
Doctoral dissertation comparing learning efficiency between quoc ngu and Chinese characters
Q
Tiếng Việt
Chính tả ngôn ngữ
|
11507
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C6%A0
|
Ơ
|
Ơ, ơ là ký tự thứ 19 trong bảng chữ cái tiếng Việt.
Trong tiếng Việt, ơ là từ cảm thán thể hiện sự ngạc nhiên giống từ ô, ví dụ: "Ơ! Sao nó vẫn chưa về?"
Tham khảo
Mẫu tự nguyên âm
Mẫu tự ghép Latinh
Chữ cái Latinh
Chữ cái Latinh có dấu phụ
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.