id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
16786
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20Xu%C3%A2n%20H%C3%A3n
|
Hoàng Xuân Hãn
|
Hoàng Xuân Hãn (1908 – 1996) là một nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục Việt Nam đồng thời là một kỹ sư, nhà toán học. Ông là người soạn thảo và ban hành Chương trình Trung học Việt Nam đầu tiên. Ông cũng là người soạn thảo sách Danh từ khoa học với hơn 6 nghìn từ mục về các lĩnh vực toán, lý, hóa, cơ, thiên văn trong đó có rất nhiều từ lần đầu tiên xuất hiện trong tiếng Việt hoặc lần đầu tiên được chuẩn hóa và giải thích cụ thể cách dùng trong khoa học. Đây là cuốn sách đặt nền móng cho các tác giả Việt Nam viết tài liệu khoa học bằng tiếng Việt.
Tiểu sử và học vấn
Hoàng Xuân Hãn sinh năm 1908, quê làng Yên Hồ, huyện La Sơn, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ ông học chữ Hán và chữ Quốc ngữ tại nhà.
Năm 1926, Hoàng Xuân Hãn đậu bằng Thành Chung, rồi ra Hà Nội học trung học ở trường Bưởi. Sau đó một năm, theo thiên hướng, ông lại chuyển sang học chuyên Toán ở Lycée Albert Sarraut.
Năm 1928, Hoàng Xuân Hãn đỗ thủ khoa kỳ thi tú tài toàn phần và được nhận học bổng của chính phủ Đông Dương sang Pháp học dự bị để thi vào các trường lớn.
Năm 1930, Hoàng Xuân Hãn đỗ vào trường École normale supérieure và Trường Bách khoa Paris. Hoàng Xuân Hãn chọn học trường Bách Khoa. Trong thời gian này ông bắt đầu soạn cuốn Danh từ khoa học.
Năm 1932 – 1934, Hoàng Xuân Hãn vào học École nationale des ponts et chaussées (Trường Cầu đường Paris).
Năm 1934, Hoàng Xuân Hãn trở về Việt Nam, 4 tháng sau đó sang Pháp. Trên chuyến tàu, Hoàng Xuân Hãn gặp cô sinh viên Nguyễn Thị Bính sang Pháp học Dược khoa.
Từ năm 1934 đến năm 1936 Hoàng Xuân Hãn trở lại Pháp, đậu cử nhân toán 1935 và thạc sĩ toán 1936 tại khoa Toán trường Đại học Sorbonne (Licence des Sciences mathématiques Sorbonne).
Năm 1936, Hoàng Xuân Hãn kết hôn với cô Nguyễn Thị Bính (sinh ngày 6/10/1911 tại Hà Nội) sau này trở thành dược sĩ.
Từ năm 1936 đến năm 1939, Hoàng Xuân Hãn trở về Việt Nam dạy các lớp đệ nhất ban toán trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Trong thời gian này ông hoàn tất cuốn Danh từ Khoa học.
Năm 1936, ông cho xuất bản tập giáo trình Eléments de trigonométrie (Cơ bản của lượng giác học), có lẽ là tập giáo trình Toán phương tây đầu tiên được viết bởi người Việt.
Từ năm 1939 đến năm 1944, vì chiến tranh trường Bưởi phải dời vào Thanh Hóa. Tại đây, ông tìm thấy những tư liệu lịch sử về La Sơn Phu Tử và vua Quang Trung và những tấm bia nói về sự nghiệp của Lý Thường Kiệt.
Năm 1942, Hoàng Xuân Hãn cho xuất bản Danh từ khoa học (Vocabulaire scientifique).
Năm 1943, Đại học Khoa học được thành lập tại Hà Nội. Hoàng Xuân Hãn được mời dạy môn cơ học.
Tháng 4 năm 1945, vua Bảo Đại mời ông vào Huế để tham khảo ý kiến về việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam.
Tham chính
Ngày 17 tháng 4 năm 1945, Hoàng Xuân Hãn tham dự nội các Trần Trọng Kim với chức vụ Bộ trưởng Giáo dục - Mỹ thuật.
Từ ngày 20 tháng 4 đến ngày 20 tháng 6 năm 1945, với chức bộ trưởng, ông đã thiết lập và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ Quốc ngữ ở các trường học. Áp dụng việc học và thi Tú Tài bằng tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức. Chính phủ Trần Trọng Kim tại chức được 4 tháng.
Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, Hoàng Xuân Hãn trở về dạy và viết sách toán bằng tiếng Việt, cùng cứu vãn những sách cũ, sách cổ bị đưa bán làm giấy lộn khắp đường phố Hà Nội.
Năm 1945, ông bắt đầu nghiên cứu truyện Kiều.
Từ 16 tháng 4 đến 12 tháng 5 năm 1946, Hoàng Xuân Hãn tham gia phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Đà Lạt. Năm 1946 khi chiến tranh Pháp – Việt bùng nổ, ông bị kẹt ở Hà Nội.
Năm 1949, Hoàng Xuân Hãn xuất bản Lý Thường Kiệt.
Sang Pháp
Hoàng Xuân Hãn sang Paris năm 1951 và ở luôn bên Pháp. Trong thời kỳ 1951-1954 ông đã giúp Thư viện Quốc gia Pháp và các thư viện Dòng Tên ở Ý và Tòa Thánh Vatican làm thư mục về sách Việt. Hoàng Xuân Hãn vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu, viết các bài gửi các báo Sử Địa (Sài Gòn, 1966-1974), tập san Khoa học - Xã hội (Paris, 1976-1987), Đoàn Kết (Paris, 1976 – 1981), Diễn đàn (Paris 1991 – 1994).
Năm 1952, Hoàng Xuân Hãn xuất bản La Sơn Phu Tử.
Năm 1953, xuất bản Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo.
Năm 1954 Hoàng Xuân Hãn sang Hội nghị Genève mong mỏi một giải pháp hòa bình: một chính phủ miền Nam có thể cộng tác với chính phủ miền Bắc để thực hiện việc thống nhất đất nước.
Ngày 21 tháng 7 năm 1992, Hoàng Xuân Hãn thành lập tại Pháp một hội văn hóa có tên là Hội Văn hóa Giáo dục Cam Tuyền do ông làm Chủ tịch. Hội có tôn chỉ và mục đích bảo vệ và phát huy văn hóa, giáo dục; nhất là bảo tồn văn hóa cổ Việt Nam tại Pháp và ở các quốc gia Tây phương.
Ngoài ra tại Paris, Hoàng Xuân Hãn đã hoàn tất công trình lớn về Đoạn trường tân thanh có tên "Nghiên cứu về Kiều" từ hơn 50 năm nay.
Hoàng Xuân Hãn mất lúc 7 giờ 45 ngày 10 tháng 3 năm 1996 tại bệnh viện Orsay, Paris. Thi hài ông được hỏa táng chiều ngày 14 tháng 3 năm 1996 tại nghĩa trang L'Orme des Moineaux, Les Ulis, Pháp.
Năm 2000, giáo sư Hoàng Xuân Hãn được Nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội và nhân văn với cụm công trình Lịch sử và Lịch Việt Nam:
1.Lý Thường Kiệt
2. La Sơn Phu Tử
3.Lịch và Lịch Việt Nam.
Tháng 8 năm 2011, Trường Đại học Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris), một trong những đại học có uy tín hàng đầu của Pháp đã chọn giáo sư Hoàng Xuân Hãn đặt tên cho giảng đường đại học thuộc trường. Trước đó, nhân kỷ niệm 100 năm truyền thống Trường Cầu đường Paris, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn được Nhà trường vinh danh là một trong 100 sinh viên tiêu biểu nhất trong lịch sử của Trường.
Tác phẩm
Eléments de trigonométrie, Hanoi: Les Editions nouvelles 1936
Danh từ khoa học, Hanoi: impr. de Trung – Bac, 1942
Lý Thường Kiệt
Một vài ký vãng về Hội nghị Đà Lạt
Thiên Tình Sử Hồ Xuân Hương
Thi văn Việt Nam
La Sơn Phu Tử
Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo
Nghiên cứu Kiều
Cùng nhiều công trình nghiên cứu, biên tập, chú thích các tác phẩm văn cổ như:
Đại Nam Quốc sử Diễn Ca (Lê Ngô Cát);
Mai Đình Mộng ký (Nguyễn Huy Hổ);
Văn tế thập loại chúng sinh (Nguyễn Du)...
Gia đình
Hoàng Xuân Hãn là cháu nội Hoàng Xuân Phong, là một vị quan cuối đời Tự Đức, từng làm án sát tỉnh Lạng Sơn. Lúc Lạng Sơn thất thủ trước quân Pháp, triều đình triệu ông về làm Tuần Phủ Hà Tĩnh để chiêu dụ lòng dân, nhưng ông bị bệnh không chịu uống thuốc, chịu chết để tròn danh tiết. Cha ông là Tú tài Hoàng Xuân Ức, mẹ là bà Lê Thị Âu. Các anh em là Hoàng Xuân Vân, Hoàng Xuân Hồng, Hoàng Thị Hảo, Hoàng Xuân Mẫn, Dược sĩ Hoàng Xuân Hà (Giám đốc Xưởng Quân dược Liên khu III, Vụ trưởng Vụ Dược chính, Phó Chủ tịch Hội Dược học),bà Hoàng Thị Cúc, ông Hoàng Xuân Bình (cận vệ của vua Bảo Đại). Hoàng Xuân Nhị cháu họ ông Hãn là một nhà giáo, dịch giả, nhà văn hóa của Việt Nam.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thư gửi Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp
Âm lịch Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Le Programme Hoàng Xuân Han
Giáo sư Hoàng Xuân Hãn và tác phẩm "Một vài ký vãng về Hội nghị Đà Lạt"
Thăm GS. Hoàng Xuân Hãn
Nhớ bác Hãn
Người Hà Tĩnh
Người Pháp gốc Việt
Học sinh trường Bưởi
Cựu sinh viên Trường Bách khoa Paris
Nhà giáo trường Bưởi
Nhà giáo Việt Nam
Nhà toán học Việt Nam
Kỹ sư Việt Nam
H
Nhà ngôn ngữ học Việt Nam
H
Bộ trưởng Bộ Giáo dục Việt Nam
Bộ trưởng Đế quốc Việt Nam
Người được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh
Sinh năm 1908
Mất năm 1996
Cựu học sinh Trung học Albert Sarraut
Cựu giảng viên Đại học Quốc gia Hà Nội
|
16789
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%2048%20H%C3%A0ng%20Ngang
|
Nhà 48 Hàng Ngang
|
Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang, Hà Nội là nơi Hồ Chí Minh đã soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam ngày 26 tháng 8 năm 1945, sau đó nó được góp ý bởi các nhà lãnh đạo Việt Nam và tiếp tục được ông hoàn chỉnh tại số 12 Ngô Quyền, Hà Nội.
Lịch sử ngôi nhà
Số 48 Hàng Ngang là nhà ở của gia đình ông Trịnh Văn Bô, một nhà tư sản Việt Nam. Hồ Chí Minh, lúc đó, ở trên gác hai trong một căn phòng rộng mà chủ nhà làm phòng ăn, ở giữa kê một cái bàn dài to, quanh bàn có tám ghế tựa đệm mềm là nơi ông thường làm việc với các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Cuối phòng, sát tường phía sau, kê một chiếc bàn tròn mà ông thường ăn sáng. Hồ Chí Minh hay ngồi suy nghĩ và đánh máy bên chiếc bàn con kê sát tường góc phía trong. Mặt bàn hình vuông, bọc da xanh màu lá mạ, vừa đủ để tập giấy bút và chiếc máy chữ nhỏ mang từ chiến khu về. Ngay chính chiếc bàn này, bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam đã được viết ra.
Hiện nay
Căn nhà này hiện nay là di tích lịch sử cho khách tham quan ở trong và ngoài Việt Nam tìm hiểu về nơi Bác viết ra bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam.
Tham khảo
Hoàn Kiếm
|
16790
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Na%20Uy
|
Na Uy
|
Na Uy (Bokmål: Norge; Nynorsk: Noreg), tên chính thức là Vương quốc Na Uy, là một quốc gia ở Bắc Âu nằm ở Tây Bắc Châu Âu có lãnh thổ bao gồm phần phía tây và cực bắc của Bán đảo Scandinavia; bao gồm đảo Jan Mayen và quần đảo Svalbard là 2 lãnh thổ nằm rất xa về phía Bắc Cực; bao gồm lãnh thổ phụ thuộc: đảo Bouvet nằm ở khu vực Subantartic. Na Uy cũng tuyên bố chủ quyền lãnh thổ với hai hòn đảo Peter I và Queen Maud Land tại châu Nam Cực.
Na Uy có tổng diện tích là và dân số là 5,385,300 (2020). Đất nước này có chung biên giới phía đông với Thụy Điển (có chiều dài là 1.619 km hoặc 1.006 mi). Na Uy giáp Phần Lan và Nga ở phía đông bắc. Eo biển Skagerrak ở phía nam nối Na Uy với Đan Mạch. Na Uy có đường bờ biển dài, hướng ra Bắc Đại Tây Dương và biển Barents. Chính đại dương khiến Na Uy có khí hậu vùng đất thấp êm dịu, bớt lạnh hơn nhiều so với các quốc gia ở vùng vĩ độ bắc tương tự. Ngay cả vào những đêm vùng cực, nhiệt độ thông thường vẫn trên mức đóng băng. Đại dương cũng mang lại lượng mưa và lượng tuyết rơi lớn ở nhiều vùng.
Quốc vương Na Uy hiện tại là Harald V thuộc Vương tộc Glücksburg. Thủ tướng đương nhiệm là ông Jonas Gahr Støre (Ap) (từ năm 2021). Na Uy là một quốc gia độc lập, có bộ máy nhà nước đơn nhất chế độ quân chủ lập hiến; Na Uy phân chia quyền lực quốc gia cho Quốc hội, Hội đồng nội các và Tòa án tối cao theo đúng Hiến pháp năm 1814. Vương quốc Na Uy được thành lập vào năm 872 với sự sáp nhập của hàng loạt các tiểu quốc và tồn tại như thế trong suốt hơn 1 100 năm. Từ năm 1537 đến 1814, Na Uy là một phần của Vương quốc Đan Mạch-Na Uy; từ năm 1814 đến 1905 thì nằm trong Vương quốc Liên hiệp Thụy Điển và Na Uy. Na Uy là nước trung lập trong Thế chiến thứ nhất, đến tháng 4 năm 1940 thì bị xâm chiếm bởi Đức Quốc xã và đến tận cuối Thế chiến thứ hai thì Na Uy mới giành được độc lập.
Na Uy phân chia hệ thống chính trị và quản lý làm 2 cấp độ: Hạt và Khu tự quản. Nhóm người thiểu số Sámi tự trị trong vùng đất của họ theo Đạo luật Finnmark và Quốc hội Sámi. Na Uy duy trì mối quan hệ chặt chẽ với cả Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ. Na Uy là thành viên sáng lập của Liên hợp quốc, NATO, Hiệp hội thương mại tự do châu Âu, Hội đồng châu Âu, Hiệp ước châu Nam Cực và Hội đồng Bắc Âu; là thành viên của Khu vực kinh tế châu Âu, WTO, OECD cũng như Khu vực Schengen. Tiếng Na Uy có rất nhiều điểm tương đồng với tiếng Đan Mạch và Thụy Điển.
Na Uy đi theo mô hình phúc lợi Bắc Âu với hệ thống chăm sóc sức khỏe toàn dân và an sinh xã hội toàn diện, bắt nguồn từ lý tưởng của Chủ nghĩa quân bình. Na Uy nắm giữ vị trí quan trọng trong các lĩnh vực công nghiệp trọng điểm, với lượng dự trữ tài nguyên dồi dào gồm có dầu mỏ, khí tự nhiên, khoáng sản, gỗ, thủy sản và nước ngọt. Ngành dầu khí chiếm đến khoảng 1/4 tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nếu tính trên bình quân đầu người, Na Uy là chính là nước sản xuất dầu mỏ và khí tự nhiên lớn nhất thế giới bên ngoài Trung Đông.
Mức thu nhập bình quân đầu người của Na Uy cao thứ tư thế giới theo danh sách của tổ chức Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ thế giới IMF. Còn theo danh sách của CIA (ước tính 2015) Na Uy xếp thứ 11. Quỹ đầu tư quốc gia của Na Uy cũng là lớn nhất thế giới, với giá trị 1 nghìn tỷ USD; chỉ số Phát triển Con người HDI cũng xếp số 1 kể từ năm 2009; xếp thứ nhất trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới năm 2017 và hiện tại đang đứng đầu về Chỉ số Cuộc sống tốt đẹp hơn của OECD, chỉ số Liêm chính công, Chỉ số Dân chủ. Na Uy cũng là một trong những nước có tỷ lệ tội phạm thấp nhất trên thế giới.
Nguồn gốc tên gọi
Tên tiếng Việt của nước này có gốc từ tên tiếng Trung. Tiếng Trung phiên âm từ "Nor-way" thành 挪威 ("Nuó wēi"). 挪威 có âm Hán Việt là "Na Uy".
Na Uy có 2 tên gọi chính thức là Norge (tiếng Bokmål) và Noreg (tiếng Nynorsk). Tên trong tiếng Anh là Norway bắt nguồn từ Norþweg trong tiếng Anh cổ với ý nghĩa "con đường đến phương bắc". Người Anglo-Saxon dùng từ này vào năm 880 để gọi tên đường bờ biển giáp Đại Tây Dương của Na Uy, họ gọi vương quốc Na Uy khi đó là Norðmanna land. Tên gọi của ngôn ngữ Na Uy cũng được cho rằng bắt nguồn tương tự như vậy.
Có nhiều tranh cãi về ý nghĩa tên gọi bản địa của Na Uy. Theo quan điểm chủ đạo truyền thống, thành tố đầu tiên là norðr - cùng nguồn gốc với từ north, vì thế cái tên đầy đủ sẽ là Norðr vegr: "con đường hướng về phương bắc", chính là nhắc đến tuyến đường biển dọc theo vùng duyên hải Na Uy. Tương tự với từ Suðrvegar: "con đường về phía nam" nhắc đến nước Đức, Austrvegr: "con đường về phía đông" nhắc đến biển Baltic. Trong phần dịch của Orosius dùng từ Norðweg, ký tự ð sau dần bị biến mất trong tiếng Anh.
Một giả thuyết khác lại cho rằng thành tố đầu tiên là từ Nór, nghĩa là "hẹp" (Anh cổ: Nearu), ám chỉ tuyến hàng hải đi qua các quần đảo bên trong vùng đất ("con đường hẹp") phía bắc châu Âu. Sự biến đổi nghĩa của từ thành "phía bắc" trong tiếng Anh và tiếng Latin được coi là 1 sự nhầm lẫn nguồn gốc từ (folk etymology). Quan điểm này bắt nguồn từ nhà văn tự học Niels Halvorsen Trønnes vào năm 1847; cho đến năm 2016 lại được tán thành bởi nhà hoạt động Klaus Johan Myrvoll và giáo sư văn tự học Michael Schulte. Chữ Nore ngày nay vẫn còn được xuất hiện và sử dụng trong tên vài địa điểm, ví dụ làng Nore hay hồ Norefjorden. Tuy nhiên lý thuyết này vẫn còn nhiều điểm chưa được làm sáng tỏ. Từ norðr và tính từ norrǿnn vẫn là những từ sớm nhất mà tiếng Latin và Anglo-Saxon ghi nhận được.
Vào cuối thế kỷ thứ 9, Ohthere of Hålogaland tới thăm Vua Alfred Đại Đế đã nhắc đến Norðwegr và Norðmanna land. Ohthere nói rằng người Norðmanna sống dọc theo bờ biển Đại Tây Dương, người Đan Mạch sống xung quanh eo Skagerrak hay Kattegat, trong khi người Sámi (người "Vây cá") du cư trong vùng nội địa rộng lớn. Ohthere nói ông là "Người sống xa xôi nhất ở phương Bắc" (the most northern of all Norwegians), có thể là tận đảo Senja hoặc gần với Tromsø. Ngoài ra, còn có vùng đất hoang vu rộng lớn phía nam của Na Uy được gọi là vùng đất của người Thụy Điển: "Svealand".
Trong các ngôn ngữ khác, Na Uy có cách viết: Norga (Bắc Sami); Vuodna (Lule Sami); Nöörje (Nam Sami).
Lịch sử
Các bằng chứng khảo cổ học cho thấy con người đã có mặt tại Na Uy ngay từ Thiên niên kỷ thứ 10 trước Công Nguyên (12.000 năm trước). Nghiên cứu khảo cổ cho thấy họ hoặc tới từ những vùng phía nam (bắc Đức), hay đông bắc (bắc Phần Lan hay Nga) . Từ đó họ định cư dọc bờ biển.
Ở thế kỷ thứ IX, dường như Na Uy gồm một số vương quốc nhỏ. Theo truyền thống, Harald Fairhair đã tập hợp các tiểu quốc nhỏ thành một vào năm 872 của Công Nguyên sau Trận Hafrsfjord. Ông trở thành vị vua đầu tiên của nước Na Uy thống nhất.
Thời kỳ Viking (thế kỷ thứ VIII tới thế kỷ XI) là một trong những giai đoạn thống nhất và mở rộng. Người Na Uy đã lập các khu định cư tại Iceland, Quần đảo Faroe, Greenland và nhiều phần của Anh Quốc và Ireland và tìm cách định cư tại L'Anse aux Meadows ở Newfoundland, Canada ("Vinland" của sử thi của Erik Thorvaldsson). Người Na Uy đã thành lập các thành phố Limerick, Dublin, và Waterford của Ireland và thành lập các cộng đồng thương mại gần các khu định cư Celtic của Cork và Dublin sau này trở thành hai thành phố quan trọng nhất của Ireland. Sự lan tràn của Thiên chúa giáo ở Na Uy trong giai đoạn này phần lớn nhờ các vị vua truyền giáo Olav Tryggvasson (995–1000) và St. Olav (1015–1028), dù Haakon the Good là vị vua Thiên chúa giáo đầu tiên của Na Uy. Các truyền thống Norse đã dần thay thế trong các thế kỷ thứ IX và thứ X.
Năm 1349, nạn dịch Tử thần Đen đã giết hại khoảng 40% tới 50% dân số Na Uy, khiến nước này suy sụp cả về xã hội và kinh tế. Trong cuộc suy thoái này, có lẽ Triều đại Fairhair đã kết thúc năm 1387. Bề ngoài có vẻ chính trị hoàng gia ở thời điểm ấy đã dẫn tới nhiều hiệp đoàn cá nhân giữa các quốc gia Bắc Âu, cuối cùng dẫn tới việc ngôi vua Na Uy, Đan Mạch, và Thuỵ Điển rơi vào tay Nữ hoàng Margaret I của Đan Mạch khi nước này gia nhập Liên minh Kalmar với Đan Mạch và Thuỵ Điển. Dù Thuỵ Điển cuối cùng đã rút lui khỏi liên minh năm 1523, Na Uy tiếp tục ở lại với Đan Mạch trong 434 năm cho tới năm 1814. Trong chủ nghĩa lãng mạn quốc gia ở thế kỷ XIX, giai đoạn được một số người gọi là "Đêm trường 400 Năm", bởi tất cả hoàng gia, giới học giả và quyền lực hành chính ở các vương quốc được tập trung tại Copenhagen, Đan Mạch. Các yếu tố khác cũng góp phần vào sự suy sụp của Na Uy trong giai đoạn này. Với sự xuất hiện của Đạo Tin Lành năm 1537, Tổng giám mục tại Trondheim bị giải tán, và các nguồn thu của nhà thờ được phân chia cho triều đình ở Copenhagen tại Đan Mạch. Na Uy mất nguồn hành hương ổn định tới thánh tích của St. Olav tại hầm mộ Nidaros, và cùng với đó, là đa phần nguồn liên hệ với đời sống văn hoá và kinh tế với phần còn lại của châu Âu. Ngoài ra, trong thế kỷ XVII Na Uy cũng bị mất một phần diện tích lãnh thổ khi mất các tỉnh Båhuslen, Jemtland, và Herjedalen cho Thuỵ Điển, sau những cuộc chiến tranh giữa Đan Mạch-Na Uy và Thuỵ Điển.
Sau khi Đan Mạch-Na Uy bị Anh Quốc tấn công, họ tham gia vào liên minh với Napoleon, và vào năm 1814 thấy mình đang ở bên thua cuộc trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon và trong tình thế nguy ngập với nạn đói năm 1812. Vị vua Oldenburg của Đan Mạch Na Uy buộc phải nhường Na Uy cho Thuỵ Điển, trong khi các tỉnh cũ của Na Uy là Iceland, Greenland và Quần đảo Faroe vẫn tiếp tục thuộc về triều đình Đan Mạch. Na Uy lợi dụng cơ hội này để tuyên bố độc lập, chấp nhận một hiến pháp dựa trên mô hình hiến pháp Mỹ và Pháp, và bầu vị thái tử người Đan Mạch Christian Fredrik lên làm vua ngày 17 tháng 5 năm 1814. Tuy nhiên, quân đội Thuỵ Điển đã buộc Na Uy phải gia nhập một liên minh cá nhân với Thuỵ Điển, lập ra triều đại Bernadotte nắm quyền cai trị Na Uy. Theo thoả thuận này, Na Uy giữ hiến pháp tự do và các định chế độc lập của mình, ngoại trừ quan hệ đối ngoại. Xem thêm Na Uy năm 1814.
Giai đoạn này cũng chứng kiến sự nổi lên của phong trào văn hoá Chủ nghĩa quốc gia lãng mạn Na Uy, khi người Na Uy tìm cách định nghĩa và thể hiện một bản sắc quốc gia riêng biệt. Phong trào này liên quan tới mọi nhánh văn hoá, gồm cả văn học (Henrik Wergeland, Bjørnstjerne Bjørnson, Peter Christen Asbjørnsen, Jørgen Moe, Henrik Ibsen), hội họa (Hans Gude, Adolph Tidemand), âm nhạc (Edvard Grieg), và thậm chí trong cả chính sách ngôn ngữ, những nỗ lực nhằm xác định một ngôn ngữ viết bản xứ cho Na Uy đã dẫn tới các hình thức ngôn ngữ viết chính thức hiện nay cho Tiếng Na Uy: Bokmål và Nynorsk.
Christian Michelsen, một ông trùm ngành tàu bè và là một chính khách, đã làm Thủ tướng Na Uy từ năm 1905 tới năm 1907. Michelsen giữ vai trò quan trọng trong cuộc ly khai hoà bình của Na Uy với Thuỵ Điển ngày 7 tháng 7 năm 1905. Sự bất mãn ngày càng tăng của Na Uy về liên minh với Thuỵ Điển hồi cuối thế kỷ XIX cộng với chủ nghĩa quốc gia đã thúc đẩy nhanh sự tan rã của liên minh. Sau một cuộc trưng cầu dân ý xác định sự ưa chuộng của người dân với chế độ quân chủ hơn một nền cộng hoà, chính phủ Na Uy đã đề xuất trao ngôi báu Na Uy cho Hoàng tử Đan Mạch Carl và Nghị viện đã nhất trí bầu ông. Ông lấy tên Haakon VII, theo các vị vua khi Na Uy độc lập thời Trung Cổ. Năm 1898, tất cả mọi nam giới đều được trao quyền bầu cử, sau đó phụ nữ năm 1913.
Trong Thế Chiến I, Na Uy là một nước trung lập. Na Uy cũng tìm cách tuyên bố trung lập trong Thế Chiến II, nhưng đã bị các lực lượng Đức xâm lược Na Uy ngày 9 tháng 4 năm 1940. Na Uy không hề chuẩn bị trước cho một cuộc tấn công bất ngờ như vậy của Đức, nhưng các cuộc kháng cự quân sự vẫn diễn ra trong hai tháng, lâu hơn bất kỳ một quốc gia nào khác bị người Đức xâm lược, ngoại trừ Liên bang Xô viết. Trong Chiến dịch Na Uy, Kriegsmarine mất nhiều tàu chiến kể cả chiếc tuần dương hạm Blücher. Những trận chiến Vinjesvingen và Hegra đã trở thành những cứ điểm kháng cự cuối cùng của người Na Uy ở phía nam nước này vào tháng 5, trong khi các lực lượng vũ trang ở phía bắc tung ra các cuộc tấn công vào các lực lượng Đức trong Các trận đánh Narvik, cho tới khi họ buộc phải đầu hàng ngày 10 tháng 6 sau khi mất sự hỗ trợ của Đồng Minh đi cùng sự thất trận của nước Pháp. Vua Haakon và chính phủ Na Uy tiếp tục cuộc chiến trong hoàn cảnh tị nạn tại Rotherhithe, Luân Đôn. Vào ngày cuộc xâm lược diễn ra, vị đồng lãnh đạo của Đảng Quốc gia-Xã hội nhỏ Nasjonal Samling — Vidkun Quisling — đã tìm cách lên nắm quyền lực, nhưng đã bị quân chiếm đóng Đức gạt ra rìa. Quyền lực thực sự nằm trong tay chính quyền chiếm đóng Đức, Reichskommissar Josef Terboven. Quisling, với tư cách bộ trưởng tổng thống, sau này đã thành lập một chính phủ liên minh dưới sự quản lý của Đức. Các cơ sở tại Na Uy đã chế tạo nước nặng, một nguyên liệu chủ chốt chế tạo vũ khí hạt nhân, và cuối cùng đã bị người Đức bỏ lại sau nhiều nỗ lực phá huỷ cơ sở Vemork của người Na Uy, người Anh và người Mỹ. Trong những năm chiếm đóng của Phát xít, người Na Uy đã xây dựng một phong trào kháng chiến mạnh chống lại các lực lượng chiếm đóng Đức bằng cả chiến tranh vũ trang và bất tuân dân sự. Tuy nhiên, yếu tố quan trọng hơn với Đồng Minh, là vai trò của hải quân thương mại Na Uy. Ở thời điểm xảy ra cuộc xâm lược, Na Uy có hạm đội tàu biển thương mại đứng hàng thứ tư thế giới (cũng như có tốc độ nhanh nhất và hiệu quả nhất). Công ty tàu biển Na Uy Nortraship đã nằm dưới sự điều khiển của Đồng Minh trong suốt cuộc chiến và tham gia vào mọi chiến dịch từ việc sơ tán Dunkirk tới cuộc đổ bộ vào Normandy.
Sau cuộc chiến, những thành viên đảng Dân chủ Xã hội lên nắm quyền và lãnh đạo quốc gia trong hầu hết thời gian cuộc chiến tranh lạnh. Na Uy đã gia nhập NATO năm 1949, và trở thành một đồng minh thân cận của Hoa Kỳ. Hai cuộc trưng cầu dân ý nhằm gia nhập Liên minh châu Âu (được gọi là Cộng đồng châu Âu năm 1972) đã thất bại với tỷ số mong manh năm 1972 và 1994. Những nguồn dự trữ dầu mỏ và khí gas lớn đã được khám phá trong thập niên 1960, dẫn tới sự bùng nổ kinh tế sau đó.
Địa lý, khí hậu và môi trường
Na Uy gồm phần phía tây của Scandinavia ở Bắc Âu. Bờ biển lởm chởm, bị chia cắt bởi nhiều vịnh hẹp (fjord) và khoảng 50.000 hòn đảo, trải dài hơn 2.500 km. Na Uy có 2.542 km đường biên giới trên bộ chung với Thuỵ Điển, Phần Lan, và Nga ở phía đông. Từ phía tây tới phía nam, Na Uy giáp với Biển Na Uy, Biển Bắc, và Skagerak. Biển Barents nằm ở các bờ biển phía bắc Na Uy..
Với diện tích 385.207 km² (gồm cả Jan Mayen, Svalbard), Na Uy hơi lớn hơn Đức, nhưng đa phần lãnh thổ là núi non hay vùng đất cao, với sự đa dạng lớn về địa hình tự nhiên do các dòng sông băng thời tiền sử gây nên. Đặc điểm đáng chú ý nhất là các vịnh hẹp: Những rãnh sâu cắt vào đất liền của biển sau sự chấm dứt của Thời kỳ băng hà, vịnh dài nhất là Sognefjorden. Na Uy cũng có nhiều sông băng và thác nước.
Đất đai chủ yếu gồm đá granite cứng và đá gneiss nhưng, đá acđoa, sa thạc và đá vôi cũng thường thấy, và ở những khu vực có độ cao thấp nhất thường có trầm tích biển. Vì Gulf Stream những cơn gió tây, Na Uy có nhiệt độ ấm và lượng mưa lớn hơn ở các vùng có vĩ độ bắc như vậy, đặc biệt dọc theo bờ biển. Lục địa có bốn mùa riêng biệt, với mùa đông lạnh và ít mưa hơn trong đất liền. Vùng cực bắc chủ yếu có khí hậu cận Bắc Cực biển, trong khi Svalbard có khí hậu tundra Bắc Cực.
Có sự khác biệt theo mùa lớn trong ngày. Tại các vùng phía bắc Vòng Bắc Cực, mặt trời mùa hè có thể không bao giờ xuống dưới đường chân trời, vì thế Na Uy được miêu tả là "Vùng đất của Mặt trời lúc nửa đêm." Trong mùa hè, người dân ở phía nam Vòng Bắc Cực có ánh sáng mặt trời trong vòng gần 20 giờ trong ngày.
Các thành phố chính
Oslo là thủ đô và cũng là thành phố lớn nhất của Na Uy hiện nay. Nằm ở phía Đông Nam Na Uy, Oslo trải dài trên nhiều triền núi và quanh các hồ. Đây cũng là một trong những thành phố có giá cả sinh hoạt đắt nhất thế giới.
Thành phố lớn thứ hai của Na Uy là Bergen. Đây là cảng biển lớn nhất vương quốc Na Uy và cũng là trung tâm công nghiệp dầu khí quan trọng hàng đầu quốc gia này.
Trondheim là thành phố lớn thứ ba và là cố đô của Na Uy. Thành phố này từng là kinh đô cả về mặt chính trị, kinh tế lẫn tôn giáo của xứ sở nghìn vịnh này. Hiện nay, Trondheim còn được biết đến là trung tâm giáo dục, khoa học kỹ thuật của Na Uy với rất nhiều trường đại học đóng tại đây. Thành phố Trondheim còn là nơi tổ chức Festival Sinh viên Quốc tế lớn nhất thế giới, cứ hai năm lại được tổ chức một lần. Lần gần nhất là tháng 2 năm 2007.
Chính trị
Na Uy được công nhận là một trong những nền dân chủ phát triển nhất trên thế giới. Vào năm 1814, đã có 45% nam giới (từ 25 tuổi trở lên) ở Na Uy có quyền bỏ phiếu, trong khi tỉ lệ tương tự của Vương quốc Anh chỉ là 20% vào năm 1832, Thụy Điển là 5% vào năm 1866 và Bỉ là 1,15% vào năm 1840. Từ năm 2010, Na Uy đã được xếp hạng là quốc gia dân chủ nhất thế giới theo Chỉ số Dân chủ.
Theo Hiến pháp Na Uy, thông qua vào ngày 17 tháng 5 năm 1814 được lấy cảm hứng từ Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Cách mạng Pháp năm 1776 và 1789, Na Uy là một nhà nước quân chủ lập hiến đơn nhất với một hệ thống chính phủ nghị viện, trong đó Quốc vương Na Uy là nguyên thủ quốc gia và thủ tướng là người đứng đầu chính phủ. Quyền lực được phân tách giữa các nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp của bộ máy chính quyền, theo quy định của Hiến pháp, đóng vai trò là văn bản pháp lý tối cao của đất nước.
Quốc vương về mặt danh nghĩa là chủ thể giữ quyền hành pháp. Nhưng kể từ khi hệ thống chính phủ nghị viện ra đời, nhiệm vụ của quốc vương chủ yếu mang tính chất đại diện và nghi lễ chẳng hạn như bổ nhiệm chính thức và bãi nhiệm Thủ tướng và các bộ trưởng khác trong chính phủ hành pháp. Ngoài ra, Quốc vương cũng là Tổng tư lệnh của Lực lượng Vũ trang Na Uy, giữ chức vụ ngoại giao chính thức ở nước ngoài và là biểu tượng cho sự thống nhất quốc gia. Harald V của Nhà Schleswig-Holstein-Sonderburg-Glücksburg lên ngôi Vua Na Uy năm 1991, hiện đang là Quốc vương nước này. Haakon Magnus của Na Uy, là người thừa kế hợp pháp và chính đáng của ngai vàng và Vương quốc.
Trên thực tế, Thủ tướng là người thực hiện các quyền hành pháp. Về mặt hiến pháp, quyền lập pháp được trao cho cả chính phủ và Quốc hội Na Uy, nhưng trên thực tế thì Quốc hội chính là cơ quan lập pháp tối cao. Na Uy có cấu trúc cơ bản là một nền dân chủ đại diện. Quốc hội có thể thông qua một đạo luật với đa số đơn giản trong tổng số 169 đại biểu, được bầu trên cơ sở đại diện tỷ lệ từ 19 khu vực bầu cử trên cả nước cho một nhiệm kỳ bốn năm.
Một đảng phải giành được số phiếu bầu chiếm 4% tổng số phiếu trở lên trong cuộc bầu cử quốc gia thì mới có thể giành được ghế trong Quốc hội. Có tổng cộng 169 thành viên trong Quốc hội, được bầu từ 19 khu vuc bầu cử theo phương thức phổ thông đầu phiếu, phục vụ trong một nhiệm kỳ bốn năm.
Quốc hội Na Uy, được gọi là Storting (có nghĩa là Đại hội đồng), là cơ quan lập pháp tối cao của quốc gia. Quốc hội có thể luận tội các thành viên của chính phủ nếu hành vi của họ được tuyên bố là vi phạm hiến pháp. Nếu một nghi phạm bị tuyên bố là có tội, Quốc hội có quyền loại bỏ người này khỏi chính phủ. Sau cuộc bầu cử năm 2017, tổng cộng chín đảng có đại diện trong Quốc hội: Đảng Lao động (49 đại diện), Đảng Bảo thủ (45), Đảng Tiến bộ (27), Đảng Trung tâm (19), Đảng Cánh tả Xã hội (11), Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo (8), Đảng Tự do (8), Đảng Xanh (1) và Đảng Đỏ (1).
Vị trí thủ tướng, người đứng đầu chính phủ Na Uy, được trao cho một thành viên của Quốc hội, người nhận được sự tín nhiệm của đa số thành viên trong Quốc hội, thông thường thì thủ tướng là lãnh đạo của đảng chính trị lớn nhất hoặc thủ lĩnh của liên minh đảng phái giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử quốc gia. Một đảng duy nhất thường không có đủ ghế trong Quốc hội để tự mình thành lập chính phủ. Na Uy thường được điều hành bởi các chính phủ thiểu số, được hình thành từ một liên minh đảng phái có chung tư tưởng chính trị.
Thủ tướng là người chỉ định các thành viên của nội các, theo truyền thống thì các thành viên của nội các chính là các thành viên của cùng một đảng chính trị với thủ tướng hoặc là thành viên của một đảng nằm trong liên minh thành lập chính phủ. Thủ tướng thực thi quyền lực của mình theo Hiến pháp. Trước đây, Thủ tướng phải có hơn một nửa số thành viên trong nội các của mình là thành viên của Giáo hội Na Uy, nghĩa là ít nhất mười trong số 19 bộ trưởng của Na Uy phải là thành viên của Giáo hội. Quy định này đã được bãi bỏ vào năm 2012.
Thông qua Hội đồng Nhà nước, một Viện cơ mật do quốc vương chủ trì, thủ tướng và nội các họp tại Cung điện Hoàng gia và chính thức hỏi ý kiến Quốc vương. Tất cả các dự luật của chính phủ cần sự chấp thuận chính thức của Quốc vương trước và sau khi trình bày với Quốc hội thì mới có thể thành luật. Tuy vậy việc ban hành luật đều đã được chính phủ và quốc hội nhất trí với nhau từ trước, Viện cơ mật chỉ mang tính chất tượng trưng thể hiện quyền lực của nhà vua mà thôi.
Cơ quan lập pháp và hành pháp
Trước đây, Quốc hội Na Uy (Storting) gồm 2 viện: Lagting (tương đương Thượng viện) và Odelsting (tương đương Hạ viện). Kể từ năm 2009, Quốc hội Na Uy bỏ việc phân chia Quốc hội thành Thương viện và Hạ viện và theo chế độ một viện (unicameral) với 169 nghị sĩ, nhiệm kỳ 4 năm.
Chế độ bầu cử của Na Uy dựa trên nguyên tắc bỏ phiếu kín, bầu trực tiếp và theo tỷ lệ. Cả nước có 19 đơn vị bầu cử. Những người chưa có quốc tịch Na Uy thì được quyền tham gia bầu cử ở địa phương, nếu đến ngày bầu cử họ đã sống liên tục ở Na Uy được 3 năm và đáp ứng các điều kiện chung về bầu cử.
Các thành viên của Storting được bầu trực tiếp theo cơ chế đại diện tỷ lệ tại mười chín khu vực bầu cử trên cả nước trong một hệ thống đa đảng quốc gia. Trong lịch sử, cả Đảng Lao động (thiên tả) và Đảng Bảo thủ (thiên hữu) đều đóng vai trò quan trọng đối với nền chính trị Na Uy. Vào đầu thế kỷ 21, Đảng Lao động đã nắm quyền sau cuộc bầu cử quốc gia năm 2005, trong một liên minh các đảng phái cánh tả được gọi là Liên minh Xanh- đỏ với hai đảng khác là Đảng Cánh tả Xã hội và Đảng Trung tâm.
Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2009, cả hai đảng cánh hữu lớn nhất là Đảng Bảo thủ và Đảng Tiến bộ đã giành được nhiều ghế trong Quốc hội, nhưng vẫn không đủ để lật đổ liên minh Xanh-đỏ cầm quyền. Jens Stoltenberg, lãnh đạo đảng Lao động, tiếp tục dành đủ số phiếu cần thiết thông qua liên minh đa đảng của mình để tiếp tục làm Thủ tướng cho đến năm 2013.
Trong cuộc bầu cử quốc gia vào tháng 9 năm 2013, cử tri Na Uy đã chấm dứt tám năm cầm quyền của Đảng Lao động. Hai đảng cánh hữu là Đảng Bảo thủ và Đảng Tiến bộ đã giành được chiến thắng dựa trên lời hứa về việc cắt giảm thuế, chi tiêu nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng và giáo dục, dịch vụ tốt hơn và quy định chặt chẽ hơn về nhập cư, hai đảng đã liên minh với nhau để thành lập nên một chính phủ cầm quyền. Erna Solberg trở thành thủ tướng, nữ thủ tướng thứ hai sau Brundtland và thủ tướng bảo thủ đầu tiên kể từ Syse. Solberg nói rằng chiến thắng của bà là "một chiến thắng bầu cử lịch sử của các đảng phái cánh hữu".
Hệ thống tư pháp và thực thi pháp luật
Na Uy sử dụng hệ thống Dân luật nơi luật pháp được tạo ra và sửa đổi bởi Quốc hội và được điều chỉnh thông qua các cơ quan tư pháp. Nó bao gồm Tòa án tối cao gồm 20 thẩm phán thường trực và một Chánh án, các tòa phúc thẩm, tòa án cấp thành phố và cấp quận, cùng với các hội đồng hòa giải. Nhánh tư pháp độc lập với các nhánh hành pháp và lập pháp. Trong khi Thủ tướng là người bổ nhiệm các Thẩm phán Tòa án Tối cao, việc đề cử phải được Quốc hội phê chuẩn và phải chính thức được Quốc vương xác nhận. Thẩm phán của các tòa án cấp thấp hơn thường được Quốc vương chính thức bổ nhiệm theo lời khuyên của Thủ tướng.
Nhiệm vụ của Tòa án tối cao là điều chỉnh hệ thống tư pháp Na Uy, giải thích Hiến pháp và thực thi luật pháp được Quốc hội thông qua. Trong chức năng đánh giá tư pháp của mình, Tòa án tối cao giám sát các nhánh lập pháp và hành pháp để đảm bảo rằng hai nhánh này tuân thủ các quy định của pháp luật ban hành.
Luật pháp được thi hành tại Na Uy bởi Cơ quan cảnh sát Na Uy. Đó là một cơ quan cảnh sát quốc gia thống nhất gồm 27 cơ quan cảnh sát cấp quận và một số cơ quan chuyên môn, chẳng hạn như Cơ quan điều tra và truy tố tội phạm kinh tế và môi trường, được gọi là Økokrim; và Cục điều tra tội phạm quốc gia, được gọi là Kripos, đứng đầu mỗi cơ quan là một cảnh sát trưởng. Sở cảnh sát được lãnh đạo bởi Tổng cục cảnh sát quốc gia, báo cáo cho Bộ Tư pháp và Cảnh sát. Tổng cục cảnh sát được lãnh đạo bởi một ủy viên cảnh sát quốc gia. Ngoại lệ duy nhất là Cơ quan An ninh Cảnh sát Na Uy.
Na Uy đã bãi bỏ án tử hình cho hầu hết các loại tội phạm thông thường vào năm 1902. Cơ quan lập pháp Na Uy đã bãi bỏ án tử hình đối với tội phản quốc trong chiến tranh và hành vi gây ra tội ác chiến tranh vào năm 1979. Trong Chỉ số Tự do báo chí toàn cầu năm 2007, Na Uy được xếp ở vị trí đầu tiên (cùng với Iceland) trong tổng số 169 quốc gia.
Nhìn chung, khuôn khổ pháp lý và thể chế ở Na Uy được đặc trưng bởi mức độ minh bạch, trách nhiệm và tính toàn vẹn cao, và sự xuất hiện của tham nhũng là rất ít.
Các nhà tù Na Uy nổi tiếng bởi sự nhân đạo, nhấn mạnh vào việc cải tạo phạm nhân hơn là trừng phạt họ. Ở mức 20%, tỷ lệ tái kết án của Na Uy thuộc loại thấp nhất thế giới.
Quan hệ ngoại giao
Về đối ngoại
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, khác với nước láng giềng Thụy Điển và một vài quốc gia khác, Na Uy điều chỉnh chính sách đối ngoại từ việc "trung lập hạn chế" sang liên minh quân sự và gia nhập NATO (1949) để có sự đảm bảo của Mỹ và Tây Âu cho an ninh và quốc phòng, vì Na Uy luôn luôn lo ngại ảnh hưởng của Liên Xô (nay là Nga) trong Chiến tranh Lạnh. Na Uy tham gia lực lượng phản ứng nhanh của NATO ở Trung Đông, ủng hộ Mỹ trong hầu hết các vấn đề quốc tế.
Cùng với các nước Bắc Âu khác, Na Uy chủ trương cải tổ Liên Hợp Quốc, trong đó có Hội đồng bảo an nhằm đảm bảo dân chủ và quyền bình đẳng giữa các nước thành viên Liên Hợp Quốc. Na Uy đang thực hiện kế hoạch điều chỉnh quan hệ đối ngoại, tập trung nguồn lực nhiều hơn trong quan hệ với các nước mới nổi (BRICS) gồm có Brasil, Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Nam Phi nhằm tận dụng nguồn lực phát triển của các nước này.
Na Uy duy trì các đại sứ quán ở 82 quốc gia. 60 quốc gia duy trì một đại sứ quán ở Na Uy, tất cả đều nằm ở thủ đô Oslo.
Na Uy là thành viên sáng lập của Liên Hợp quốc (LHQ), Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), Hội đồng châu Âu và Hiệp hội thương mại tự do châu Âu (EFTA).
Na Uy đã tham gia vào quá trình đàm phán Hiệp định Oslo, một nỗ lực không thành công để giải quyết cuộc xung đột giữa Palestine và Israel.
Quan hệ với Liên minh châu Âu
Na Uy đã đệ đơn xin gia nhập Liên minh châu Âu (EU) và các tổ chức tiền thân của nó vào các năm 1962, 1967 và 1992. Trong khi Đan Mạch, Thụy Điển và Phần Lan đều đã có được tư cách thành viên EU, cử tri Na Uy đã từ chối việc gia nhập EU trong các cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1972 và 1994.
Sau cuộc trưng cầu dân ý năm 1994, Na Uy duy trì tư cách thành viên của mình trong Khu vực kinh tế châu Âu (EEA), một thỏa thuận cho phép quốc gia tiếp cận thị trường đơn nhất của Liên minh
Với châu Á nói chung
Năm 1996, Quốc hội Na Uy thông qua "Chiến lược châu Á" nhằm tăng cường quan hệ chính trị và mở rộng hợp tác kinh tế, thương mại, văn hoá lâu dài với các nước ở khu vực này. Hiện nay, Na Uy có quan hệ thương mại nhiều với Nhật Bản, Trung Quốc và ngày càng chú trọng đến khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Vấn đề dân chủ, nhân quyền
Là một trong những ưu tiên hàng đầu của Na Uy hiện nay. Bộ Ngoại giao Na Uy chịu sức ép rất lớn từ Quốc hội Na Uy về vấn đề này, do đó, phía Na Uy đánh giá cao cơ chế đối thoại nhân quyền với các nước nói chung và với Việt Nam nói riêng.
Hạt và Khu vực đô thị
Na Uy là một quốc gia đơn nhất, được chia 15 mười tám hạt hành chính cấp 1 (fylke). Các hạt được quản lý thông qua các hội đồng hạt và thống đốc hạt (được bầu trực tiếp bởi hội đồng hạt). Ngoài ra, Nhà vua và chính phủ có đại diện ở mọi hạt bởi một Fylkesmann, người hoạt động như một Thống đốc. Như vậy, Chính phủ trực tiếp đại diện ở cấp địa phương thông qua các văn phòng của Thống đốc hạt. Các hạt sau đó được chia thành 422 thành phố (cấp hai - kommuner), được quản lý bởi hội đồng thành phố, do một thị trưởng và một nội các điều hành nhỏ đứng đầu. Thủ đô của Oslo được coi là một hạt và một đô thị.
Na Uy có hai lãnh thổ hải ngoại: Jan Mayen và Svalbard. Có ba lãnh thổ phụ thuộc tại Nam Cực và Subantarctic: Đảo Bouvet, Đảo Peter I và Đất Nữ hoàng Maud. Trên hầu hết các bản đồ, có một khu vực không được thống nhất giữa Đất Nữ hoàng Maud và Cực Nam cho đến ngày 12 tháng 6 năm 2015, khi Na Uy chính thức sáp nhập khu vực đó.
Các hạt Na Uy gồm:
Kinh tế
Na Uy có GDP bình quân đầu người cao thứ hai trong số các quốc gia châu Âu (chỉ xếp sau Luxembourg) và GDP bình quân đầu người (PPP) cao thứ sáu trên thế giới. Ngày nay, Na Uy được xếp hạng là quốc gia giàu thứ hai trên thế giới về giá trị tiền tệ, với mức dự trữ vốn lớn nhất trên đầu người lớn hơn bất kỳ quốc gia nào. Theo CIA World Factbook, Na Uy là chủ nợ nước ngoài ròng. Na Uy duy trì vị trí số một thế giới về Chỉ số phát triển con người của UNDP (HDI) trong sáu năm liên tiếp (2001-2006), và sau đó giành lại vị trí này vào năm 2009. Mức sống ở Na Uy thuộc hàng cao nhất thế giới. Tạp chí Foreign Policy xếp Na Uy đứng cuối cùng trong Chỉ số các quốc gia thất bại năm 2009, đánh giá Na Uy là quốc gia hoạt động tốt và ổn định nhất thế giới.
Nền kinh tế Na Uy là một ví dụ về nền kinh tế hỗn hợp, một nhà nước phúc lợi tư bản thịnh vượng và một quốc gia dân chủ xã hội với sự kết hợp giữa kinh tế thị trường tự do và quyền sở hữu lớn của nhà nước trong một số lĩnh vực kinh tế quan trọng. Chăm sóc sức khỏe công cộng ở Na Uy là hoàn toàn miễn phí. Nguồn thu của nhà nước từ tài nguyên thiên nhiên có đóng góp đáng kể từ ngành công nghiệp dầu khí. Na Uy có tỷ lệ thất nghiệp khoảng 4,8%, với 68% dân số trong độ tuổi 15-74 có việc làm. 9,5% dân số trong độ tuổi 18-66 nhận trợ cấp tàn tật và 30% lực lượng lao động được chính phủ tuyển dụng, cao nhất trong số các nước OECD. Năng suất lao động, cũng như mức lương trung bình mỗi giờ ở Na Uy đều thuộc hàng cao nhất trên thế giới.
Các giá trị bình đẳng của xã hội Na Uy đã giữ cho mức chênh lệch về lương giữa công nhân được trả lương thấp nhất so với CEO của hầu hết các công ty ít hơn nhiều so với các nền kinh tế phương Tây có trình độ phát triển tương đương. Điều này cũng được thể hiện rõ trong hệ số Gini cực kỳ thấp của Na Uy, cho thấy Na Uy là nước có mức bất bình đẳng thu nhập rất thấp
Nhà nước nắm quyền sở hữu lớn trong các ngành công nghiệp chủ chốt, như ngành công nghiệp dầu khí (Statoil), sản xuất năng lượng thủy điện (Statkraft), sản xuất nhôm (Norsk Hydro), ngân hàng (DNB) và nhà cung cấp viễn thông (Telenor). Thông qua các công ty lớn này, chính phủ kiểm soát khoảng 30% giá trị cổ phiếu tại Sở giao dịch chứng khoán Oslo. Khi các công ty không niêm yết được đưa vào, nhà nước thậm chí còn có cổ phần cao hơn (chủ yếu từ quyền sở hữu giấy phép dầu trực tiếp). Na Uy là một quốc gia vận chuyển lớn và có đội tàu vận tải lớn thứ 6 thế giới, với 1.412 tàu vận tải thuộc sở hữu của Na Uy.
Đất nước này rất giàu tài nguyên thiên nhiên bao gồm dầu mỏ, thủy điện, thủy sản, rừng và khoáng sản. Trữ lượng dầu mỏ và khí đốt tự nhiên rất lớn đã được phát hiện vào những năm 1960, dẫn đến sự bùng nổ trong nền kinh tế. Na Uy đã trở thành một trong những nước có mức sống cao nhất trên thế giới một phần nhờ sở hữu một lượng lớn tài nguyên thiên nhiên so với quy mô dân số. Năm 2011, 28% ngân sách của nhà nước được tạo ra từ ngành công nghiệp dầu khí.
Na Uy là quốc gia đầu tiên ban hành luật cấm phá rừng, để ngăn chặn rừng mưa biến mất. Nước này tuyên bố ý định của mình tại Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu của Liên hợp quốc năm 2014, cùng với Vương quốc Anh và Đức. Các loại sản phẩm thường liên quan đến việc phá rừng là gỗ, đậu nành, dầu cọ và thịt bò. Giờ đây Na Uy phải tìm một cách mới để cung cấp các sản phẩm thiết yếu này mà không gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường.
Những cuộc trưng cầu dân ý năm 1972 và 1994 cho thấy người dân Na Uy muốn ở bên ngoài Liên minh châu Âu (EU). Tuy nhiên, Na Uy cùng với Iceland và Liechtenstein, tham gia vào thị trường chung Liên minh châu Âu thông qua thoả thuận Vùng Kinh tế châu Âu (EEA). Hiệp ước EEA giữa các quốc gia Liên minh châu Âu và các quốc gia EFTA – đã được đưa vào luật pháp Na Uy thông qua "EØS-loven" – miêu tả quá trình áp dụng các quy định của Liên minh châu Âu tại Na Uy và các quốc gia EFTA. Điều này khiến Na Uy trở thành một thành viên tham gia sâu vào đa số các lĩnh vực của thị trường nội bộ Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, một số lĩnh vực, như nông nghiệp, dầu khí và đánh cá, không hoàn toàn phải tuân thủ Hiệp ước EEA. Na Uy cũng tham gia vào Thoả thuận Schengen và nhiều thoả thuận liên chính phủ khác giữa các quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.
Đồng tiền tệ quốc gia là Krone Na Uy.
Tài nguyên
Dầu khí
Na Uy là nước xuất khẩu dầu lớn thứ năm và xuất khẩu khí lớn thứ ba trên thế giới, nhưng quốc gia này lại không phải là thành viên của OPEC. Năm 1995, chính phủ Na Uy đã thành lập một Quỹ đầu tư quốc gia, sẽ được tài trợ bằng các khoản thu từ dầu mỏ, bao gồm thuế, cổ tức, doanh thu bán hàng và phí cấp phép. Điều này nhằm giảm sự phụ thuộc của nền kinh tế vào nguồn thu từ dầu mỏ, giảm thiểu sự không ổn định từ tình trạng biến động của giá dầu và cung cấp một nguồn kinh phí cho quỹ hưu trí của đất nước trong bối cảnh già hóa dân số.
Chính phủ kiểm soát tài nguyên dầu mỏ thông qua sự kết hợp giữa quyền sở hữu một phần của nhà nước đối với các công ty khai thác dầu lớn (với tỷ lệ sở hữu khoảng 62% đối với công ty Statoil vào năm 2007) và công ty Petoro hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà nước, có giá trị thị trường gấp đôi so với Statoil và SDFI. Cuối cùng, chính phủ kiểm soát việc cấp phép thăm dò và sản xuất của các khu khai thác. Các quỹ đầu tư vào thị trường tài chính phát triển bên ngoài Na Uy. Quy tắc ngân sách (Handlingsregelen) là chi tiêu không quá 4% quỹ mỗi năm (được coi là lợi tức bình thường từ quỹ).
Từ năm 1966 đến 2013, các công ty Na Uy đã khoan tổng cộng 5085 giếng dầu, chủ yếu ở Biển Bắc. Trong đó có 3672 giếng dầu là utviklingsbrønner (khai thác thường xuyên); 1413 là letebrønner (thăm dò); và 1405 đã chấm dứt khai thác (avsluttet).
Các mỏ dầu chưa trong giai đoạn khai thác bao gồm: mỏ dầu Wisting Central - với trữ lượng ước tính trong năm 2013 là 65-156 triệu thùng dầu và khí đốt. cùng với đó là mỏ dầu Castberg (Castberg-feltet ) có trữ lượng ước tính 540 triệu thùng dầu, và khí đốt. Cả hai mỏ dầu đều nằm ở Biển Barents.
Thủy sản
Na Uy cũng là nước xuất khẩu thủy sản lớn thứ hai thế giới (về giá trị, sau Trung Quốc). Thủy sản được nuôi từ các trang trại và thủy sản đánh bắt là sản phẩm xuất khẩu lớn thứ hai của Na Uy (sau dầu / khí tự nhiên) được đo bằng giá trị.
Các nhà máy thủy điện tạo ra khoảng 98 - 99% sản lượng điện của Na Uy, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới.
Khoáng sản
Na Uy có nhiều tài nguyên khoáng sản quan trọng và năm 2013, sản lượng khoáng sản của nước này trị giá 1,5 tỷ USD (theo dữ liệu khảo sát địa chất Na Uy). Các khoáng sản có giá trị nhất là calci cacbonat (đá vôi), đá xây dựng, nepheline syenite, olivine, sắt, titan và niken.
Giao thông
Giao thông vận tải ở Na Uy chịu ảnh hưởng lớn bởi mật độ dân số thấp, hình dạng hẹp và đường bờ biển dài của Na Uy. Na Uy có truyền thống lâu đời về giao thông đường thủy, nhưng vận tải đường bộ, đường sắt và hàng không đã tăng tầm quan trọng trong thế kỷ 20. Do mật độ dân số thấp, giao thông công cộng có phần ít được chú trọng ở các vùng nông thôn của Na Uy, tuy nhiên giao thông công cộng ở các thành phố rất phát triển. Việc xây dựng một hệ thống đường sắt cao tốc mới nối liền các thành phố lớn nhất của quốc gia hiện cũng đang trong quá trình thảo luận.
Trung bình mỗi người Na Uy tham gia giao thông khoảng 70 phút mỗi ngày. Năm 2008 có khoảng 8% vận tải hành khách được thực hiện bằng giao thông công cộng; vận tải đường bộ là phương thức vận tải công cộng chủ yếu. Con số này đã tăng lên 10% trong năm 2017. Ngành giao thông vận tải chiếm tỷ lệ 4,1% trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân và 6,6% lực lượng lao động vào năm 2006. Theo một báo cáo trong năm 2013 của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Na Uy đứng thứ 83 trong tổng số 140 quốc gia về chất lượng đường bộ, 47/122 về chất lượng cơ sở hạ tầng đường sắt, 25/140 về chất lượng cơ sở hạ tầng cảng và 54/ 140 về mạng lưới giao thông đường bộ.
Mạng lưới đường sắt chính của Na Uy bao gồm đường sắt khổ tiêu chuẩn, trong đó là đường đôi và là đường sắt cao tốc (210 km/h) Toàn bộ mạng lưới đường sắt thuộc sở hữu của Cơ quan quản lý đường sắt quốc gia Na Uy. Tất cả các chuyến tàu chở khách nội địa ngoại trừ các chuyến tàu tốc hành sân bay đều được điều hành bởi Norges Statsbaner (NSB). Một số công ty điều hành tàu chở hàng. Các khoản đầu tư vào cơ sở hạ tầng và bảo trì được tài trợ thông qua ngân sách nhà nước . NSB điều hành các chuyến tàu đường dài, bao gồm các chuyến tàu đêm, dịch vụ khu vực và bốn hệ thống đường sắt ngoại ô xung quanh các thành phố Oslo, Trondheim, Bergen và Stavanger. Tàu điện có ở các thành phố lớn như Oslo, Trondheim và Bergen. Hệ thống tàu điện ngầm duy nhất của Na Uy nằm ở thủ đô Oslo.
Na Uy sở hữu một mạng lưới đường bộ có chiều dài , trong đó được trải nhựa và là đường cao tốc. Các tuyến đường bộ được chia làm bốn cấp bậc: quốc gia, hạt, thành phố và tư nhân, với các tuyến quốc lộ và hạt lộ quan trọng nhất được đánh số. Các tuyến đường quốc gia quan trọng nhất là một phần của sơ đồ Mạng lưới Đường bộ Quốc tế Châu Âu và hai tuyến nổi bật nhất là E6 đi theo hướng bắc-nam qua toàn bộ quốc gia, trong khi E39 đi dọc theo vùng ven biển phía tây. Các tuyến đường quốc lộ và hạt lộ được quản lý bởi Cục quản lý đường bộ Công cộng Na Uy.
Trong năm 2007, có 2,6 triệu ô tô ở Na Uy, tỉ lệ là 444 chiếc trên 1000 cư dân.. Từ năm 2007 đến 2011, xe ô tô diesel chiếm hơn 70% số xe mới, tuy vậy con số này giảm xuống còn 40% trong năm 2015.
Na Uy có số lượng xe sạc điện lớn nhất thế giới tính theo đầu người, thành phố Oslo cũng được công nhận là thủ đô xe sạc điện của thế giới. Vào tháng 3 năm 2014, Na Uy đã trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới có hơn 1/100 xe vận chuyển hành khách trên đường là xe sạc điện. Ô tô điện của Na Uy rất thân thiện với môi trường vì gần 100% điện năng được tạo ra từ thủy điện. , tổng cộng 43.442 xe sạc điện đã được đăng ký tại Na Uy.
Có tổng cộng 98 sân bay ở Na Uy, trong đó có 46 sân bay được điều hành bởi công ty Avinor thuộc sở hữu của nhà nước. Có bảy sân bay tại Na Uy đạt được hơn một triệu lượt khách mỗi năm.
Mỗi hạt chịu trách nhiệm điều hành hệ thống xe buýt và thuyền chở khách trong địa bàn của họ,. Có tổng cộng 6.194 xe buýt hoạt động trong năm 2007; doanh thu bán vé là 3.721 triệu NOK trong khi ngành vận tải xe buýt nhận được trợ cấp của chính phủ là 3,393 triệu NOK.
Dịch vụ xe buýt và thuyền chở khách thường được điều hành bởi các công ty tư nhân theo hợp đồng với hạt hoặc cơ quan giao thông công cộng của họ (như Ruter hoặc Vestviken Kollektivtrafikk). Dịch vụ xe khách đường dài được điều hành bởi nhiều công ty khác nhau, hầu hết đều hợp tác thông qua NOR-WAY Bussekspress. Ở Bắc Na Uy (chủ yếu từ Fauske và xa hơn về phía bắc) dịch vụ xe khách đường dài được điều hành bởi các hạt.
Cơ sở hạ tầng ven biển được điều hành bởi Cơ quan quản lý ven biển Na Uy, trong khi cảng được điều hành bởi các thành phố. Na Uy có bờ biển, 400.000 tàu giải trí và 715 tàu thương mại. Na Uy là quốc gia sở hữu đội tàu lớn thứ năm, chiếm 5% số lượng tàu biển của thế giới;
Phà có vai trò quan trọng trong việc di chuyển giữa các vịnh hẹp và các đảo. Có khoảng hơn một trăm bến phà ở Na Uy. Phà chở khách nhanh hoạt động ở nhiều vịnh hẹp và đảo làm cho việc đi lại bằng đường thủy nhanh và tiện hơn nhiều so với đường bộ; một số đảo nhỏ còn có dịch vụ xe buýt đường thủy.
Ngành công nghiệp chế biến dầu mỏ và khí đốt tự nhiên sử dụng hệ thống đường ống để vận chuyển dầu và khí đốt từ thềm lục địa Na Uy đến các nhà máy chế biến trên khắp châu lục; hệ thống đường ống có tổng chiều dài là . Công ty Gassco thuộc sở hữu của chính phủ điều hành tất cả các đường ống khí đốt tự nhiên; trong năm 2006, 88 tỷ mét khối khí đã được vận chuyển thông qua các đường ống này
Nhân khẩu
Dân số Na Uy là 5.096.300 người vào tháng 10 năm 2013. Đa số người Na Uy thuộc sắc tộc Na Uy, một nhóm người Germanic Bắc. Người bản xứ người Sami theo truyền thống sống ở các vùng trung tâm và phía bắc Na Uy và Thuỵ Điển cũng như vùng bắc Phần Lan và tại Nga trên Bán đảo Kola. Một cộng đồng thiểu số quốc gia khác là người Kven có nguồn gốc từ những người nói tiếng Phần Lan đã tới miền bắc Na Uy ở thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX. Từ thế kỷ 19 đến những năm 1970, chính phủ Na Uy đã cố gắng đồng hóa cả người Sámi và người Kven, khuyến khích họ chấp nhận ngôn ngữ, văn hóa và tôn giáo đa số. Do quá trình "Na Uy hóa" này, nhiều gia đình có tổ tiên là người Sámi hoặc Kven hiện được xác định là người thuộc sắc tộc Na Uy. Các nhóm khác tự nhận là thiểu số quốc gia Na Uy gồm người Do Thái, Forest Finns, Roma/Gypsies và người Rumani/Travellers.
Nhập cư
Năm 2012, một nghiên cứu chính thức cho thấy 86% dân số có ít nhất một người cha hoặc người mẹ được sinh ra ở Na Uy. Hơn 710.000 người (13% dân số) là người nhập cư; bao gồm cả 117.000 trẻ em được sinh ra ở Na Uy nhưng có bố mẹ là người nhập cư.
Trong tổng số 710.000 người nhập cư và con cháu của họ:
323.000 (39%) có nguồn gốc phương Tây (Úc, Bắc Mỹ, các nơi khác ở Châu Âu)
505.000 (61%) có nguồn gốc phi phương Tây (chủ yếu là Pakistan, Kurdistan, Morocco, Iraq và khu vực liên bang Kurdistan và Iran bao gồm cả tỉnh Kurdistan).
Năm 2013, chính phủ Na Uy cho biết 14% dân số Na Uy là người nhập cư hoặc là người sinh ra ở Na Uy nhưng có cả cha lẫn mẹ là người nhập cư. Khoảng 6% dân số là người nhập cư đến từ EU, Bắc Mỹ và Úc, và khoảng 8,1% dân số là người nhập cư đến từ Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ Latinh.
Năm 2012, chỉ có 40.262 người nhập cư có quốc tịch Na Uy (tỉ lệ 62,2%).
Người nhập cư thường định cư ở các đô thị lớn của Na Uy. Các thành phố có tỷ lệ người nhập cư cao nhất trong năm 2012 là Oslo (32%) và Drammen (27%). Innvandrere og norskfødte med innvandrerforeldre, 25 tháng 4 năm 2013 Thống kê Na Uy Theo Reuters, Oslo là "thành phố phát triển nhanh nhất ở châu Âu vì tình trạng nhập cư gia tăng". Trong những năm gần đây, nhập cư đã chiếm phần lớn trong tăng trưởng dân số của Na Uy. Trong năm 2011, 16% trẻ sơ sinh có cha mẹ là người nhập cư.
Vào thế kỷ 19, trong bối cảnh kinh tế khó khăn ở Na Uy, hàng chục ngàn người đã di cư sang Hoa Kỳ và Canada. Nhiều người đã đến định cư ở vùng Trung Tây và Tây Bắc Thái Bình Dương. Năm 2006, theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, gần 4,7 triệu người được xác định là người Mỹ gốc Na Uy, lớn hơn cả số người Na Uy sống ở Na Uy. Trong cuộc điều tra dân số ở Canada năm 2011, 452.705 công dân Canada được xác định là có nguồn gốc Na Uy.
, số người thuộc diện là dân nhập cư hoặc dân sinh ra ở Na Uy nhưng có bố mẹ là người nhập cư nước ngoài đã lên tới con số 710.465, tương đương 14,1% dân số, tăng từ con số 183.000 người vào năm 1992. Tỉ lê nhập cư hàng năm đã tăng liên tục kể từ năm 2005. Điều này chủ yếu là do sự gia tăng dân nhập cư tới từ các nước thuộc EU, đặc biệt là từ Ba Lan.
Năm 2012, cộng đồng người nhập cư (bao gồm người nhập cư và trẻ em sinh ra ở Na Uy có cha mẹ là người nhập cư) đã đạt mức kỷ lục. Số người nhập cư vào Na Uy trong năm 2012 là 47.300 người (cao hơn 300 người so với năm 2011), trong khi nhập cư chiếm 72% tăng trưởng dân số của Na Uy. 17% trẻ sơ sinh được sinh ra bởi cha mẹ là người nhập cư. Con cái của các bậc cha mẹ người Pakistan, Somalia và Việt Nam tạo thành các nhóm lớn nhất của tất cả người Na Uy được sinh ra bởi cha mẹ là người nhập cư.
Người Na Uy gốc Pakistan là nhóm thiểu số không có nguồn gốc châu Âu lớn nhất ở Na Uy. Hầu hết trong số 32.700 cư dân của nhóm này sống trong và xung quanh thành phố Oslo. Dân số nhập cư tới từ Iraq và Somalia đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Sau khi EU mở rộng số thành viên vào năm 2004, một làn sóng người nhập cư đã đến Na Uy từ các nước Trung và Bắc Âu, đặc biệt là Ba Lan, Thụy Điển và Litva. Số người nhập cư trong năm 2011 chủ yếu là từ Ba Lan, Litva và Thụy Điển. Các chính sách liên quan đến vấn đề nhập cư là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận ở Na Uy.
Tôn giáo
Tương tự như các quốc gia vùng Scandinavia khác, người Na Uy theo một hình thức ngoại giáo Germanic được gọi là ngoại giáo Na Uy. Tới cuối thế kỷ XI, khi Na Uy đã Ki-tô hoá, việc theo và thực hiện các nghi thức tôn giáo Na Uy bị cấm. Tuy nhiên, các đạo luật chống ngoại giáo đã bị dỡ bỏ hồi đầu thế kỷ XX. Nhiều tàn dư của tôn giáo bản xứ và các đức tin Na Uy vẫn còn tồn tại ngày nay, gồm những cái tên, những cái tên liên quan tới các thành phố và địa điểm, những ngày trong tuần, và nhiều phần khác trong ngôn ngữ hàng ngày.
Nhiều người trong cộng đồng thiểu số Sami vẫn giữ tôn giáo shamanistic của họ tới tận thế kỷ XVIII khi họ cải theo Thiên chúa giáo bởi các nhà truyền giáo Đan Mạch-Na Uy.
Theo thống kê hiện nay các tôn giáo ở Na Uy phân ra như sau: Kháng Cách dòng Giáo hội Luther 85.7%, Chính Thống giáo 1%, Công giáo Rôma 1%, Cơ đốc giáo khác 2.4%, Hồi giáo 1.8%, tôn giáo khác 8.1%.
Trong số các tôn giáo không phải Kitô giáo, đạo Hồi là lớn nhất, chiếm khoảng 1.5% tổng dân số: Chủ yếu đạo này là thuộc các cộng đồng người Somalia, Ả Rập, người Albani, người Pakistan và người Thổ Nhĩ Kỳ. Các tôn giáo khác với chưa tới 1% dân số gồm Đạo Do Thái (xem Người Do Thái ở Na Uy), Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê Su Ky Tô, và Nhân Chứng Jehovah Những người nhập cư từ Ấn Độ đã đưa Hindu giáo tới Na Uy, nhưng chỉ chiếm 0.50% dân số. Phật giáo ở Na Uy có 11 tổ chức, được thống nhất dưới tổ chức Hội Phật giáo Na Uy, với trên dưới 10.000 Phật tử, chiếm 0.42% dân số. Khoảng 1.5% người Na Uy tham gia Hiệp hội Nhân văn Na Uy. Khoảng 5% dân số không theo đạo nào.
Các ngôn ngữ
Ngôn ngữ Na Uy Bắc Germanic có hai hình thức viết chính thức, Bokmål và Nynorsk. Chúng được sử dụng chính thức như nhau, ví dụ chúng đều được dùng trong hành chính công cộng, trong các trường học, nhà thờ, đài và vô tuyến, nhưng Bokmål được đại đa số người sử dụng, khoảng 85-90%. Khoảng 95% dân số sử dụng tiếng Na Uy như tiếng mẹ đẻ, dù nhiều người nói các thổ ngữ có thể khác biệt rất nhiều so với ngôn ngữ viết. Nói chung các thổ ngữ Na Uy có thể hiểu lẫn nhau, dù một số thổ ngữ có thể đòi hỏi một số cố gắng. Nhiều ngôn ngữ Sami Finno-Ugric được nói và viết trên khắp đất nước, đặc biệt ở phía bắc, bởi người Sami. Nhà nước công nhận những ngôn ngữ đó là ngôn ngữ chính thức và những người sử dụng chúng có quyền được nhận giáo dục bằng ngôn ngữ Sami không cần biết nơi sinh sống, và nhận được thông tin từ chính phủ bằng nhiều ngôn ngữ Sami. Cộng đồng thiểu số Kven nói tiếng Phần Lan/ngôn ngữ Kven Finno-Ugric.
Các ngoại ngữ chính (primærfremmedspråk) được dạy tại Na Uy là tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Pháp. Mọi người có thể liên hệ với chính quyền hay trải qua các kỳ thi bằng bất kỳ ngôn ngữ nào trong ba ngôn ngữ chính trên cũng như hai ngôn ngữ Bắc Germanic (tiếng Đan Mạch và tiếng Thuỵ Điển). Tiếng Đức, tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha cũng thường được dạy như ngôn ngữ thứ hai hoặc thường xuyên hơn là ngôn ngữ thứ ba. Tiếng Nga, tiếng Nhật, tiếng Ý, tiếng Latin và tiếng Trung (tiếng phổ thông) được giảng dạy ở một số trường, chủ yếu ở các thành phố. Theo truyền thống, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Pháp được coi là các ngoại ngữ chính ở Na Uy.
Bất kỳ học sinh Na Uy nào có cha mẹ là người nhập cư đều được khuyến khích học tiếng Na Uy. Chính phủ Na Uy cung cấp các khoá học tiếng cho người nhập cư muốn có được quyền công dân Na Uy.
Tiếng Na Uy rất giống với các ngôn ngữ Bắc Germanic khác, tiếng Thuỵ Điển và tiếng Đan Mạch. Cả ba ngôn ngữ đều có thể hiểu được lẫn nhau và có thể, nói chung, được sử dụng trong giao tiếp giữa người dân các nước vùng Scandinavia.
Y tế
Na Uy đã liên tục đứng đầu thế giới về Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của Liên Hợp Quốc kể từ năm 2013. Trong những năm 1800, ngược lại, tình trạng nghèo đói và các bệnh truyền nhiễm lan rộng ở Na Uy cùng với nạn đói và dịch bệnh, tuy vậy đến những năm 1900 đã được cải thiện rất nhiều.
Các loại bệnh điển hình ở Na Uy đã thay đổi từ các bệnh truyền nhiễm sang các bệnh không lây nhiễm và các bệnh mãn tính như bệnh tim mạch. Bất bình đẳng và phân biệt xã hội vẫn còn hiện diện trong dịch vụ y tế công cộng ở Na Uy ngày nay.
Năm 2013, tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là 2,5 trên 1.000. Ti lệ đối với các bé gái là 2,7 và bé trai là 2,3, đây là tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thấp nhất ở các bé trai từng được ghi nhận ở Na Uy.
Nhân quyền
Quyền Tự do tư tưởng đã được quy định ở Điều 100 trong Hiến pháp Na Uy. Tự do tôn giáo được ghi trong Điều 2 Hiến pháp, điều này cũng quy định quốc giáo là "Phúc âm Luther". Báo chí không bị kiểm duyệt. Các tổng biên tập tự mình phải thận trọng, nhằm bảo vệ bí mật cá nhân của mọi người và các quyền dân sự khác.(Vær Varsom-plakaten- Wikipedia Na Uy, xem bản dịch sang tiếng Anh).
Đài phát thanh và truyền hình công cộng không bị sự can thiệp của chính phủ, dù giấy phép truyền thanh, truyền hình phụ thuộc vào tính chất của chương trình. Phát sóng quảng cáo bị quản lý, với một số giới hạn đặc biệt về các thông tin quảng cáo chính trị có trả tiền và quảng cáo trực tiếp tới trẻ em.
Hiến pháp cấm các luật có hiệu lực trong quá khứ, việc trừng phạt dựa trên các luật và các quyết định toà án, và việc sử dụng tra tấn. Tử hình với các tội nặng trong thời gian chiến tranh đã bị huỷ bỏ năm 1979.
Năm 1999, các thoả ước Nhân quyền của Liên hiệp quốc và Hội đồng châu Âu đã được đưa thành luật pháp ở Na Uy (menneskerettsloven) và chúng có quy chế ưu tiên chỉ sau hiến pháp.
Tuy nhiên, các luật sư Na Uy đã gia nhập Uỷ ban chống Tra tấn của Hội đồng châu Âu nhằm thể hiện sự lo ngại của mình với sự giam giữ lâu ngày với những người bị kiện tụng và việc sử dụng hình phạt biệt giam ở Na Uy, coi nó là hình thức tra tấn. Thời gian xử lý đơn xin nhập cư dài cũng như việc xử lý những người định cư bất hợp pháp cũng đang bị tranh cãi.
Năm 2005, các thoả ước quốc tế chống phân biệt nam nữ và dòng giống đã được đưa vào (nhưng không vượt hơn) luật pháp Na Uy. Tổ chức Ân xá Quốc tế gần đây đã chú ý tới tình trạng bạo lực chống phụ nữ ở Na Uy và sự thiếu hụt dịch vụ chăm sóc các nạn nhân bạo lực.
Na Uy có chế độ nghĩa vụ quân sự bắt buộc với nam giới. Việc thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt đầu ở tuổi 18 cho lần phục vụ đầu tiên (førstegangstjeneste) trong thời gian sáu tới mười hai tháng (việc này có thể bắt đầu từ tuổi 17 theo sở thích cá nhân). Sau khi hoàn thành giai đoạn nghĩa vụ quân sự đầu tiên, các quân nhân được chuyển sang các đơn vị phục vụ, và có thể được triệu tập cho các đợt huấn luyện theo giai đoạn (repetisjonstjeneste) cho tới tuổi 44. Những người từ chối nghĩa vụ quân sự sẽ phải phục vụ mười hai tháng cho một hoạt động dịch vụ dân sự quốc gia. Nếu người đó từ chối thực hiện hoạt động này (sesjon), theo đó bất kỳ sự từ chối nào với nghĩa vụ quân sự tương lai được đề cập tới, anh ta có thể bị truy tố. Một người dường như thích hợp để thực hiện nghĩa vụ và không phải là một người từ chối thực hiện nghĩa vụ, nhưng vẫn từ chối thực hiện hoạt động quân sự cũng có thể bị truy tố. Những thay đổi trong cơ cấu các lực lượng vũ trang đã dẫn tới nhu cầu về nghĩa vụ quân sự bắt buộc giảm đi, và số nam giới cần thiết cũng đang sụt giảm.
Na Uy được coi là một quốc gia cấp tiến, đã áp dụng nhiều quy định và chính sách để hỗ trợ cho quyền lợi của phụ nữ, quyền của người thiểu số và quyền lợi của những người đồng tính. Đầu năm 1884, Hiệp hội Quyền phụ nữ Na Uy được thành lập. Họ đã vận động thành công để công nhận các quyền được giáo dục của phụ nữ, quyền bầu cử của phụ nữ, quyền làm việc và thông qua nhiều chính sách bình đẳng giới khác. Từ những năm 1970, bình đẳng giới cũng được đề cao trong chương trình nghị sự của nhà nước, với việc thành lập một cơ quan công quyền để thúc đẩy bình đẳng giới.
Năm 1990, một điều khoản trong hiến pháp Na Uy đã được sửa đổi liên quan dến vấn đề trao quyền thừa kế cho ngai vàng Na Uy, theo đó đứa con lớn nhất của vị quốc vương sẽ luôn được trao quyền kế vị bất kể giới tính là nam hay nữ
Người Sámi (một dân tộc thiểu số) trong nhiều thế kỷ đã phải đối mặt sự phân biệt đối xử và lạm dụng. Na Uy đã bị chỉ trích rất nhiều bởi cộng đồng quốc tế về chính sách Na Uy hóa và phân biệt đối xử đối với các dân tộc thiểu số của đất nước. Tuy nhiên, vào năm 1990, Na Uy là quốc gia đầu tiên công nhận Công ước về Bộ lạc và Dân tộc Bản địa được LHQ khuyến nghị.
Đồng tính đã chính thức bị loại bỏ khỏi tội danh hình sự năm 1972 và hôn nhân đồng giới dân sự đã được quy định năm 1993. Theo cơ quan Thống kê Na Uy (SSB), 192 cuộc hôn nhân đồng giới đã được ghi nhận từ năm 2004. Từ năm 2002, các cặp đồng giới đã có thể được nuôi con của người kia từ những cuộc hôn nhân trước, dù việc cùng nhận con nuôi mãi tới năm 2007 mới được phép. Vào ngày 1 tháng 1 năm 2009, Na Uy đã trở thành quốc gia thứ sáu trao quyền bình đẳng hôn nhân cho các cặp đồng giới.
Xếp hạng quốc tế
Văn hóa
Văn học
Lịch sử văn học Na Uy bắt đầu với những bài thơ Eddaic và thơ skaldic ngoại giáo ở thế kỷ thứ IX và thứ X với những nhà thơ như Bragi Boddason và Eyvindr Skáldaspillir. Sự xuất hiện của Thiên chúa giáo ở khoảng năm 1000 đã đưa Na Uy tiếp xúc với những tri thức, tiểu sử các vị thánh, và lịch sử bằng chữ viết của châu Âu thời Trung Cổ. Hoà trộn với truyền thống khẩu ngữ địa phương và ảnh hưởng của Ireland nó đã dẫn tới giai đoạn phát triển rực rỡ của văn chương ở cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII. Các tác phẩm chính của giai đoạn này gồm Historia Norwegie, Thidreks saga và Konungs skuggsjá.
Thời kỳ Liên minh Scandinave và Liên minh Đan Mạch-Na Uy (1387—1814) có ít tác phẩm văn học Na Uy xuất hiện, ngoại trừ một số tác phẩm đáng lưu ý của Petter Dass và Ludvig Holberg. Trong vở kịch Peer Gynt của mình, Ibsen đã gọi giai đoạn này là "Hai lần hai trăm năm bóng tối/nghiền ngẫm về cuộc đua của những chú khỉ", dù dòng sau này thường không được trích dẫn nhiều như dòng trước. Trong thời gian liên minh với Đan Mạch, văn viết tiếng Na Uy đã thay thế bởi chữ Đan Mạch.
Hai sự kiện lớn đã thúc đẩy sự hồi sinh của văn học Na Uy. Năm 1811 một trường đại học Na Uy được thành lập tại Christiania. Với tinh thần cách mạng sau các cuộc Cách mạng Mỹ và Pháp, người Na Uy đã ký bản hiến pháp đầu tiên của mình năm 1814. Ngay sau đó, từ sự tù túng văn hoá Na Uy đã đưa lại cho thế giới một loạt các tác gia được công nhận đầu tiên ở Scandinavia, và sau đó là trên toàn thế giới; trong số đó có Henrik Wergeland, Peter Asbjørnsen, Jørgen Moe và Camilla Collett.
Tới cuối thế kỷ XIX, ở Thời Vàng son của văn hoá Na Uy, cái gọi là Bộ bốn Vĩ đại xuất hiện: Henrik Ibsen, Bjørnstjerne Bjørnson, Alexander Kielland, và Jonas Lie. "Các tiểu thuyết nông dân" của Bjørnson, như "En glad gutt" (Một chú bé hạnh phúc) và "Synnøve Solbakken" là kiểu chủ nghĩa lãng mạn quốc gia tiêu biểu của thời gian ấy, trong khi đó các tiểu thuyết và truyện ngắn của Kielland chủ yếu mang tính hiện thực. Dù một người đóng góp quan trọng vào chủ nghĩa lãng mạn Na Uy thời kỳ đầu (đặc biệt là tác phẩm châm biếm Peer Gynt), tên tuổi của Henrik Ibsen chủ yếu được biết tới là người tiên phong với các vở kịch hiện thực như Chú vịt hoang và Một ngôi nhà búp bê, nhiều vở đã gây ra những tiếng vang về đạo đức vì nội dung của nó chính là chân dung của tầng lớp trung lưu.
Ở thế kỷ XX ba tiểu thuyết gia Na Uy đã được trao Giải Nobel văn học: Bjørnstjerne Bjørnson năm 1903, Knut Hamsun cho cuốn sách "Markens grøde" ("Nhựa của đất") năm 1920, và Sigrid Undset năm 1928. Trong thế kỷ XX các tác gia như Dag Solstad, Jostein Gaarder, Jens Bjørneboe, Kjartan Fløgstad, Lars Saabye Christensen, Johan Borgen, Herbjørg Wassmo, Jan Erik Vold, Rolf Jacobsen, Olaf Bull, Jan Kjærstad, Georg Johannesen, Tarjei Vesaas, Sigurd Hoel, Arnulf Øverland và Johan Falkberget đã có những đóng góp quan trọng cho văn học Na Uy.
Thể thao
Thể thao là một phần quan trọng của văn hóa Na Uy và các môn thể thao phổ biến của nước này bao gồm bóng đá, bóng ném, hai môn phối hợp, trượt tuyết băng đồng, trượt tuyết nhảy, trượt băng và ở mức độ thấp hơn là khúc côn cầu trên băng.
Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở Na Uy về số người chơi. Trong một cuộc bình chọn vào năm 2014, bóng đá xếp sau biathlon và trượt tuyết băng đồng về mức độ phổ biến đối với khán giả. Khúc côn cầu trên băng là môn thể thao trong nhà phổ biến nhất. Đội tuyển bóng ném nữ Na Uy đã giành được một số danh hiệu quốc tế, bao gồm 2 chức vô địch tại Thế vận hội Mùa hè (2008, 2012), 3 Cúp thế giới (1999, 2011, 2015) và 6 lần giành Cúp châu Âu (1998, 2004, 2006, 2008, 2010, 2014).
Trong bóng đá, đội tuyển bóng đá quốc gia nữ Na Uy đã giành được chức vô địch World Cup vào năm 1995 và huy chương vàng Thế vận hội năm 2000. Đội nữ cũng có hai danh hiệu vô địch châu Âu (1987, 1993). Đội tuyển bóng đá quốc gia nam Na Uy đã 3 lần tham dự Giải vô địch bóng đá thế giới (1938, 1994, 1998), và một lần tham dự Giải vô địch bóng đá châu Âu (2000). Thứ hạng FIFA cao nhất mà đội tuyển bóng đá Na Uy đạt được là vị trí thứ 2, một vị trí mà họ đã giữ hai lần, vào các năm 1993 và năm 1995.
Cờ vua cũng đang trở nên phổ biến ở Na Uy. Kỳ thủ Na Uy Magnus Carlsen là nhà vô địch thế giới hiện tại. Có khoảng 10 Grandmasters và 29 International Master ở Na Uy.
Bandy (khúc côn cầu gậy cong) là một môn thể thao truyền thống ở Na Uy và đất nước này là một trong bốn nước sáng lập Liên đoàn Quốc tế Bandy. Xét về số vận động viên được cấp phép, đây là môn thể thao mùa đông lớn thứ hai trên thế giới. Kể từ tháng 1 năm 2018, đội tuyển quốc gia nam đã giành được một huy chương bạc và một huy chương đồng.
Na Uy lần đầu tiên cử vận động viên tham gia Thế vận hội Olympic vào năm 1900, và đã cử các vận động viên tham gia thi đấu ở mọi Thế vận hội kể từ đó, ngoại trừ Thế vận hội 1904 và Thế vận hội Mùa hè 1980 tại Moscow khi họ tẩy chay kỳ Thế vận hội này, giống như nhiều nước Phương Tây khác. Na Uy dẫn đầu về số huy chương tại Thế vận hội Olympic mùa đông. Các vận động viên thể thao mùa đông nổi tiếng của Na Uy bao gồm vận động viên hai môn phối hợp Ole Einar Bjørndalen, vận động viên trượt băng tốc độ Johan Olav Koss và Hjalmar Andersen, vận động viên trượt băng nghệ thuật Sonja Henie và vận động viên trượt tuyết việt dã Marit Bjørgen và Bjørn Dæhlie.
Na Uy đã tổ chức Thế vận hội 2 lần:
Thế vận hội mùa đông năm 1952 tại Oslo
Thế vận hội mùa đông năm 1994 tại Lillehammer
Xem thêm
Kinh tế Na Uy
Quan hệ nước ngoài Na Uy
Quân đội Na Uy
Âm nhạc Na Uy
Na Uy và Liên minh châu Âu
Ngôn ngữ Na Uy
Văn học Na Uy
Ngày lễ tại Na Uy
Các vùng Na Uy
Du lịch Na Uy
Đánh bắt cá voi tại Na Uy
Văn hoá, giáo dục và thể thao
Kiến trúc
Kim loại Đen
Văn hoá Na Uy
Ẩm thực
Bóng đá
Đội tuyển quốc gia
Premier League
Lusekofte
Nhiếp ảnh
Quỹ cho vay giáo dục quốc gia
Cơ sở hạ tầng
Bảng số xe hơi
Viễn thông
Cung cấp điện
Vận tải
Biển ký hiệu đường
Các danh sách
Thành phố
Công ty
Báo
Vườn quốc gia
Triều đại Na Uy
Người Na Uy
Đài phát thanh tiếng Na Uy
Nhân vật trên tem
Trường học
Kênh truyền hình
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Norway.no – Official portal
Norway.info – the Official sites abroad
Minifacts about Norway from Statistics Norway
VisitNorway.com – Official travel guide to Norway
Quân chủ lập hiến
Quốc gia thành viên NATO
Quốc gia châu Âu
Quốc gia thành viên Ủy hội châu Âu
Quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc
Quốc gia Kitô giáo
Quốc gia Scandinavia
Quốc gia Bắc Âu
Scandinavia
Quốc gia và vùng lãnh thổ khởi đầu năm 1905
|
16793
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%205D%20H%C3%A0m%20Long
|
Nhà 5D Hàm Long
|
Nhà 5D phố Hàm Long được Kỳ bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội (VNTNCMĐCH) thuê làm trụ sở hoạt động bí mật và giao cho vợ chồng Trần Văn Cung và Trần Thị Liên quản lý. Tại đây tháng 3 năm 1929, kỳ bộ VNTNCMĐCH Bắc kỳ đã họp thành lập chi bộ đảng cộng sản đầu tiên tại Việt Nam, gồm có bảy đảng viên: Trịnh Đình Cửu, Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Đỗ Ngọc Du, Nguyễn Đức Cảnh, Dương Hạc Đính, Kim Tôn (Nguyễn Tuân) và bầu Trần Văn Cung (Quốc Anh) làm bí thư chi bộ. Chi bộ chủ trương phải tích cực vận động thành lập một đảng cộng sản ở Việt Nam thay tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nay địa chỉ này trở thành di tích lịch sử cách mạng thuộc Bảo tàng Hà Nội.
Tham khảo
Di tích tại Hà Nội
Cách mạng Việt Nam
|
16803
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20ch%C3%BAng%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Ch%C3%BAa%20Tr%E1%BB%9Di
|
Hội chúng của Đức Chúa Trời
|
Hội chúng của Đức Chúa Trời (Assemblies of God, viết tắt là AG, tên chính thức là World Assemblies of God Fellowship) là tôn phái Ngũ Tuần lớn nhất thế giới do một nhóm gồm hơn 144 nhóm nhà thờ quốc gia tự trị cùng nhau tạo thành giáo phái Ngũ Tuần. Hội thánh này được thành lập vào năm 1914 tại Hot Springs, Arkansas, Hoa Kỳ khi các đại diện từ 20 bang của Hoa Kỳ và một số nước hội họp để thảo luận về khả năng và sự thích hợp của việc thành lập một nhóm cộng tác giữa các tín đồ Ngũ Tuần. Niềm tin của Tín đồ hệ phái này giữ thần học Tin Lành bảo thủ cùng với giáo thuyết cốt lõi của phái Ngũ Tuần, như phép rửa của Thánh Linh (Baptism with the Holy Spirit), nói tiếng lạ (Glossolalia/γλωσσολαλία), chữa bệnh bằng đức tin (Faith healing).
Tham khảo
Blumhofer, Edith L. "Assemblies of God." In The Encyclopedia of Christianity, edited by Erwin Fahlbusch and Geoffrey William Bromiley, 143–146. Vol. 1. Grand Rapids: Wm. B. Eerdmans, 1999.
Blumhofer, Edith L. Restoring the Faith: The Assemblies of God, Pentecostalism, and American Culture. (1993). 281 pp. A major scholarly study.
Crowe, Terrence Robert. Pentecostal Unity: Recurring Frustration and Enduring Hopes. (1993). 282 pp.
Fisher, Lyndel Eugene, “The Theological Antecedents of the Assemblies of God: Baptist and Presbyterian Roots” (PhD dissertation, University of Memphis, 2011). DA3476380.
McGee, Gary B. 'This Gospel . . . Shall Be Preached': A History and Theology of Assemblies of God Foreign Missions since 1959. Springfield, Mo.: Gospel, 1990. 358 pp.
Poloma, Margaret M. The Assemblies of God at the Crossroads: Charisma and Institutional Dilemmas. (1989). 309 pp. scholarly study
Poloma, Margaret M., and John C. Green. The Assemblies of God: Godly Love and the Revitalization of American Pentecostalism (New York University Press; 2010) A sociological study that draws on surveys and interviews conducted in 22 diverse congregations.
Liên kết ngoài
Hội chúng của Đức Chúa Trời nước Úc
Hội chúng của Đức Chúa Trời ở Tây Ban Nha
Hội chúng của Đức Chúa Trời nước Ý
Hệ phái Ngũ Tuần
Tin Lành
|
16804
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ure
|
Ure
|
Urea là một hợp chất hữu cơ của carbon, nitơ, oxy và hydro, với công thức CON2H4 hay (NH2)2CO và cấu trúc chỉ ra ở bên phải.
Urea còn được biết đến như là carbamide, đặc biệt là trong tên gọi sử dụng ở châu Âu theo các tên gọi không đăng ký quốc tế được khuyến cáo (rINN).
Trong một số động vật, các phân tử urea được tạo ra từ carbon dioxide, nước, muối aspartat và amonia trong quá trình trao đổi chất được biết đến như là chu trình urea - một chu trình đồng hóa. Sự tiêu hao năng lượng này là cần thiết do amonia, một chất thải phổ biến trong quá trình trao đổi chất, là một chất độc và cần được trung hòa. Việc sản xuất urea diễn ra trong gan và dưới sự điều chỉnh của N-axetylglutamat. Các động vật sống dưới nước không sản sinh ra urea; khi sống trong môi trường nhiều nước, chúng chỉ đơn giản là thải amonia ngay lập tức khi nó vừa được tạo ra. Các loài chim, với sự hạn chế hơn nhiều so với các động vật khác trong tiêu thụ nước, tạo ra acid uric, một hợp chất ít độc hại hơn urea. Cơ thể người sản xuất ra ít acid uric do kết quả của sự phân hủy purin, do việc sản xuất acid uric dư thừa có thể dẫn đến một loại chứng viêm khớp gọi là bệnh gút.
Phát hiện
Urea được Hilaire Rouelle phát hiện năm 1773. Nó là hợp chất hữu cơ được tổng hợp nhân tạo đầu tiên từ các chất vô cơ, được Friedrich Woehler thực hiện vào năm 1828 bằng cách cho kali cyanide phản ứng với amoni sulfat.
Điều này đã bác bỏ thuyết cho rằng các chất hóa học trong cơ thể sinh vật về cơ bản là khác hẳn các hóa chất không có gốc sinh vật, giáng một đòn mạnh vào thuyết duy tâm và mở đầu cho ngành khoa học về hóa hữu cơ.
Sử dụng công nghiệp
Trong công nghiệp urea được sử dụng để:
Nguyên liệu cho sản xuất chất dẻo, đặc biệt là nhựa urea-formaldehyde.
Như là một thành phần của phân hóa học và chất bổ sung vào thức ăn cho động vật, nó cung cấp một nguồn đạm cố định tương đối rẻ tiền để giúp cho sự tăng trưởng.
Như là chất thay thế cho muối (NaCl) trong việc loại bỏ băng hay sương muối của lòng đường hay đường băng sân bay. Nó không gây ra hiện tượng ăn mòn kim loại như muối.
Như là một thành phần bổ sung trong thuốc lá, nó được thêm vào để tăng hương vị.
Đôi khi được sử dụng như là chất tạo màu nâu vàng trong các xí nghiệp sản xuất bánh quy.
Như là một thành phần của một số dầu dưỡng tóc, sữa rửa mặt, dầu tắm và nước thơm.
Nó cũng được sử dụng như là chất phản ứng trong một số gạc lạnh sử dụng để sơ cứu, do phản ứng thu nhiệt tạo ra khi trộn nó với nước.
Thành phần hoạt hóa để xử lý khói thải từ động cơ diesel (AdBlue).
Sử dụng trong phòng thí nghiệm
Urea là một chất biến tính protein mạnh. Thuộc tính này có thể khai thác để làm tăng độ hòa tan của một số protein. Vì tính chất này, nó được sử dụng trong các dung dịch đặc tới 10M.
Sử dụng y học
Thuốc
Urea được sử dụng trong các sản phẩm da liễu cục bộ để giúp cho quá trình tái hydrat hóa của da.
Chẩn đoán sinh lý học
Do urea được sản xuất và bài tiết khỏi cơ thể với một tốc độ gần như không đổi, nồng độ urea cao trong máu chỉ ra vấn đề với sự bài tiết nó hoặc trong một số trường hợp nào đó là sự sản xuất quá nhiều urea trong cơ thể.
Nguyên nhân phổ biến của bệnh ure huyết là các vấn đề về hệ tiết niệu. Nó được lấy thông số cùng với creatinin để chỉ ra các vấn đề trực tiếp liên quan tới thận (ví dụ: hư thận mãn tính) hay các vấn đề thứ cấp như chứng giảm hoạt động tuyến giáp.
Nồng độ urea cũng có thể tăng trong một số rối loạn máu ác tính (ví dụ bệnh bạch cầu và bệnh Kahler).
Nồng độ cao của urea (uremia) có thể sinh ra các rối loạn thần kinh (bệnh não). Thời gian dài bị uremia có thể làm đổi màu da sang màu xám.
Sử dụng trong chẩn đoán khác
Các loại urea chứa carbon-14 - đồng vị phóng xạ, hay carbon-13 - đồng vị ổn định) được sử dụng trong xét nghiệm thở urea, được sử dụng để phát hiện sự tồn tại của Helicobacter pylori (H. pylori, một loại vi khuẩn) trong dạ dày và tá tràng người. Xét nghiệm này phát hiện enzym urease đặc trưng, được H. pylori sản xuất ra theo phản ứng để tạo ra amonia từ urea để làm giảm độ pH của môi trường trong dạ dày xung quanh vi khuẩn.
Các loài vi khuẩn tương tự như H. pylori cũng có thể được xác định bằng cùng một phương pháp xét nghiệm đối với động vật (khỉ, chó, mèo -bao gồm cả các loại "mèo lớn" như hổ, báo, sư tử v.v).
Sử dụng trong nông nghiệp
Phân đạm
Phân đạm urea, có công thức hoá học là (NH2)2CO. Phân đạm có vai trò rất quan trọng đối với cây trồng và thực vật nói chung, đặc biệt là cây lấy lá như rau. Phân đạm cùng với phân lân, phân kali góp phần tăng năng suất cho cây trồng.
Trong tự nhiên, phân đạm tồn tại trong nước tiểu của các loài động vật và con người. Trong công nghiệp, phân đạm được sản xuất bằng khí thiên nhiên hoặc than đá.
Quy trình đơn giản của quá trình tổng hợp phân đạm (công nghệ Snampogetti của Ý):
N2 + H2 (xúc tác, nhiệt độ, áp suất) ↔ NH3
NH3 + CO2 (xúc tác, nhiệt độ, áp suất) ↔ (NH2)2CO
Tại Việt Nam, nhu cầu phân đạm hàng năm khoảng 2 triệu tấn. Trước đây phải nhập khẩu hoàn toàn. Hiện tại, Việt Nam đã có các nhà máy sản xuất phân đạm: nhà máy phân đạm Hà Bắc thuộc tỉnh Bắc Giang sử dụng than đá làm nguyên liệu, công suất 100.000 tấn/năm; nhà máy phân đạm Phú Mỹ tại Khu công nghiệp Phú Mỹ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu sử dụng khí thiên nhiên làm nguyên liệu, có công suất 800.000 tấn/năm. Các nhà máy đang được triển khai thiết kế hoặc xây dựng: nhà máy phân đạm Cà Mau thuộc Dự án Khí - Điện - Đạm Cà Mau có công suất 800.000 tấn năm (đang đấu thầu xây dựng); nhà máy phân đạm Ninh Bình và nhà máy phân đạm Dung Quất (đang lập dự án).
Tác dụng của phân đạm
Kích thích quá trình sinh trưởng của cây.
Làm tăng tỉ lệ protêin thực vật
Cây phát triển nhanh, cho nhiều củ hoặc quả.
Sử dụng như là một phối tử
Urea cũng đóng vai trò như là một phối tử như amonia, hydrazin. Chẳng hạn, luteti(III) bromide tetraurea (LuBr3.4CO(NH2)2.4H2O) là chất rắn màu hồng nhạt.
Tham khảo
Liên kết ngoài
MSDS của urea bằng tiếng Anh
Trao đổi chất của nitơ
Hợp chất hữu cơ
Nhóm chức
Chu trình ure
Phân bón
Hóa chất hàng hóa
|
16816
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Phan%20Long
|
Nguyễn Phan Long
|
Nguyễn Phan Long (1888 – 1960) là một nhà báo, nhà hoạt động chính trị Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20. Ông từng được Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định làm Thủ tướng đầu tiên của chính phủ Quốc gia Việt Nam kiêm Tổng trưởng Nội vụ trong một thời gian ngắn (chưa đầy 4 tháng).
Thân thế và khởi sự với nghề giáo
Ông sinh năm 1889, trong một gia đình điền chủ lớn lâu đời ở Nam Kỳ, trú quán lâu năm tại Sài Gòn. Thuở nhỏ, ông học tại trường Albert Sarraut Hà Nội, sau đó du học Pháp. Trong những năm cuối cùng của thế kỷ 19, ông cùng với Bùi Quang Chiêu, Dương Văn Giáo và một số trí thức người Việt quốc tịch Pháp tập hợp thành một nhóm sinh hoạt chính trị, với mục đích can thiệp với chính quyền thực dân nhằm ban hành các đạo luật hoặc quy chế cho dân bản xứ tầng lớp trên ở Đông Dương có quyền tham chính và được hưởng các quyền lợi ngang với người Pháp.
Sau khi về nước, ông khởi đầu với nghề dạy học và mở trường trung học Nguyễn Phan Long nổi tiếng dạy hay thời bấy giờ.
Bước vào nghề báo và hoạt động chính trị
Từ năm 1917, ông bắt đầu tham gia cộng tác với tờ La Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ) của Nguyễn Phú Khai và Bùi Quang Chiêu. Năm 1919, Bùi Quang Chiêu tập hợp các bạn đồng chí để thành lập Đảng Lập hiến Đông Dương (tiếng Pháp: Parti Constitutionaliste Indochinois), với mục tiêu đấu tranh cho quyền tham chính của dân bản xứ ở Nam Kỳ. Đảng Lập Hiến được đăng ký thành lập năm 1923 ở Pháp nhưng hầu hết các thành viên của nó đều ở Nam Kỳ, tuy không có tổ chức chặt chẽ và phát triển rộng rãi, nhưng cũng có thể xem là có tiếng vang ở Nam Kỳ.
Tờ La Tribune Indigène từ đó trở thành phương tiện phát ngôn của đảng Lập Hiến. Do lập trường đấu tranh cho quyền lợi của dân bản xứ tầng lớp trên, chính quyền thực dân Pháp cách tất cả các khoản tài trợ cho La Tribune Indigène. Năm 1920, tờ L’Echo annamite (Tiếng vọng An Nam) được chính quyền thực dân Pháp cho phép xuất bản và Nguyễn Phan Long được cử làm chủ bút. Tuy nhiên, khuynh hướng của L’Echo annamite dưới ảnh hưởng của Nguyễn Phan Long cũng nhanh chóng chuyển hướng tán thành đảng Lập Hiến.
Năm 1924, ông cùng Nguyễn Tấn Dược soạn ra tài liệu "Khảo cứu về giao ước chuyển nhượng quyền vận tải lúa, gạo, cám và bắp trong thương khẩu Sài Gòn - Chợ Lớn" nhằm phản đối việc chuyển nhượng quyền vận tải lúa, gạo, cám và bắp cho ở thương khẩu Sài Gòn - Chợ Lớn cho nhóm tư bản mà Nguyễn Phan Long gọi là "hội Candelier". Đây là một tài liệu quan trọng đầu tiên trong việc bảo vệ quyền lợi thương mãi của người bản xứ.
Tháng 1 năm 1925, đảng Lập Hiến chính thức tuyên cáo hoạt động và nhanh chóng thu hút được sự chú ý của quần chúng mà cao điểm là cuộc tiếp đón Bùi Quang Chiêu tại Sài Gòn năm 1926. Chính vì vậy, tờ La Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương) ra đời để cổ súy cho chủ nghĩa Pháp-Việt đề huề. Nguyễn Phan Long được cử làm chú bút của tờ báo. Năm 1928, một phiên bản tiếng Việt của tờ La Tribune Indochinoise là tờ Đuốc Nhà Nam ra đời. Nguyễn Phan Long kiêm luôn chức chủ bút của Đuốc Nhà Nam. Thời gian này, ông cũng bắt đầu tham gia hoạt động chính trường, ứng cử và được bầu vào chức Nghị viên Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ.
Nổi tiếng với khả năng thông thạo tiếng Pháp và sự hiểu biết về văn học Pháp, Nguyễn Phan Long đã có những đóng góp nhất định cho nền báo chí Việt Nam nói chung và Nam Kỳ đầu thế kỷ 20 nói riêng. Những cuộc bút chiến của Nguyễn Phan Long (tờ Đuốc Nhà Nam) và Phan Khôi (tờ Trung Lập) năm về trách nhiệm của người làm chính trị trước thời cuộc và vận mệnh người dân đã không chỉ thu hút sự quan tâm về phương diện thông tin mà còn là tiêu biểu của sự phát triển về học thuật của báo chí Nam Kỳ. Cuộc bút chiến kết thúc với lời xin lỗi và đề nghị chấm dứt tranh cãi đăng trên Đuốc Nhà Nam cũng được xem như là tiêu biểu của tinh thần khách quan học thuật, không tị hiềm cá nhân của Nguyễn Phan Long.
Ông còn là một nhà văn, với các tác phẩm chính bằng tiếng Pháp của ông là: Cannibale par persuasion, Le Roman de Mademoiselle Lys (Chuyện đời cô Huệ). Thêm vào đó, ông viết một số sách nghiên cứu và giới thiệu về ẩm thực truyền thống.
Về phương diện chính trị, Nguyễn Phan Long cũng có một số đóng góp nhất định. Năm 1927, ông cùng với các chí sĩ Phan Văn Trường, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn An Ninh, Vũ Đình Dy vận động chính phủ Pháp bãi bỏ điều kiện Pháp tịch cho những học sinh muốn sang Pháp du học. Chính nhờ việc này, số lượng học sinh người Việt sang Pháp du học bắt đầu tăng lên, một số không nhỏ trong số đấy về sau trở thành nòng cốt của lực lượng trí thức đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam sau này.
Nguyễn Phan Long và đạo Cao Đài
Do chủ trương Pháp-Việt Đề huề, thỏa hiệp với thực dân Pháp nhằm giành quyền lợi về kinh tế, chính trị cho dân bản xứ tầng lớp trên, thiếu hẳn sự ủng hộ của đông đảo quần chúng và không có thực lực, đảng Lập Hiến nhanh chóng bị chính quyền chi phối. Năm 1930, đảng Lập Hiến ngừng hoạt động một cách lặng lẽ.
Mặc dù vậy, với quá trình hoạt động của mình, Nguyễn Phan Long vẫn là một nhà hoạt động chính trị xã hội có uy tín thời bấy giờ. Năm 1936, ông tham gia phong trào Đông Dương đại hội vận động dân chủ. Tuy nhiên, phong trào bị Pháp khủng bố trắng, ông bị cô lập một thời gian.
Ông bắt đầu chuyển hướng cổ súy nhiệt thành cho tinh thần của đạo Cao Đài trong nhiều bài báo của mình. Thậm chí, trong năm 1936, ông còn giữ chức vụ Tổng trưởng Liên Hòa Tổng hội, một tổ chức nỗ lực thống nhất tổ chức giáo hội toàn đạo Cao Đài nhưng bất thành. Tuy nhiên, ông không phải là tín đồ Cao Đài. Dù vậy, tên ông đã được nhắc đến trong quyển "Nhân vật Cao Đài giáo - quyển thứ nhất" của Đồng Tân, xuất bản năm 2006 ở Ôxtrâylia, trong đó viết về 33 nhân vật của Cao Đài giáo, cùng với một số người như Ngô Minh Chiêu, Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc… Thậm chí, Huỳnh Tâm, tác giả quyển "Cao Đài dưới chế độ Cộng sản Việt Nam" còn khẳng định "Việt Minh đã nắm được những chuyên viên tôn giáo … như Nguyễn Phan Long, Cao Triều Phát và một số chi phái làm cộng sự viên cho Việt Minh…".
Những hoạt động cuối đời
May mắn hơn số phận bi thảm của người bạn Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long không bị Việt Minh thủ tiêu khi Việt Minh nắm quyền tại miền Nam. Tuy nhiên, sự thất bại của đảng Lập Hiến cũng làm cho ông dần hiểu rõ hơn về bộ mặt thật của chính quyền thuộc địa. Sau khi Pháp tái chiếm Nam Bộ năm 1945, ông tiếp nhận và cải tổ lại tờ L’Echo annamite thành tờ L’Echo du Vietnam (Tiếng vọng Việt Nam), chủ trương chống ly khai. Chính vì xu hướng mới này, ông từng bị các nhân vật phân ly trong chính phủ Nam Kì tự trị kỳ thị, trấn áp một thời gian.
Tuy nhiên, cuối cùng thì "Giải pháp Bảo Đại" cũng ra đời, về danh nghĩa thống nhất một nước Việt Nam với Quốc trưởng Bảo Đại. Ngày 1 tháng 7 năm 1949, Chính phủ Bảo Đại được thành lập, trong đó Quốc trưởng Bảo Đại kiêm nhiệm Thủ tướng của Quốc gia Việt Nam, Trung tướng Nguyễn Văn Xuân làm Phó thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng. Nguyễn Phan Long được bổ nhiệm làm Tổng trưởng Ngoại giao. Ngày 21 tháng 1 năm 1950, Quốc trưởng Bảo Đại chỉ định Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Nội vụ của Quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ 3 tháng sau, ngày 27 tháng 4 năm 1950, ông phải từ chức dưới áp lực của Phủ Cao ủy Pháp vì cho rằng ông có quá nhiều tư tưởng Quốc gia độc lập và tỏ ra thân Mỹ..
Sau khi từ chức, ông tiếp tục trở lại sống bằng nghề dạy học và viết báo. Từ đó, ông sống thầm lặng trong cảnh nghèo "xơ xác", rồi qua đời tại nhà riêng ở Sài Gòn ngày 16 tháng 7 năm 1960, thọ 71 tuổi .
Vị trí trong làng báo Nam Kỳ
Những tờ báo mà Nguyễn Phan Long từng làm việc
Tribune Indigène (Diễn đàn bản xứ) là tờ báo tiếng Pháp đầu tiên của người Việt, ra đời tháng 8 năm 1917 ở Nam Kỳ, nguyên do Nguyễn Phú Khai thành lập và được chính quyền thực dân Nam Kỳ tài trợ.
L’Echo annamite (Tiếng vọng An Nam), ra đời năm 1920 cũng là một tờ báo tiếng Pháp, được chính quyền thực dân Pháp tài trợ với mục đích cạnh tranh với Tribune Indigène. Nguyễn Phan Long được quyền toàn quyền Georges Maspéro chọn làm chủ bút.
La Tribune Indochinoise (Diễn đàn Đông Dương), một phiên bản thay thế cho Tribune Indigène, do Bùi Quang Chiêu thành lập năm 1926.
Đuốc Nhà Nam là một tờ báo tiếng Việt, thành lập năm 1928 bởi Dương Văn Giáo (1900-1945). Tờ báo được xem là một phiên bản tiếng Việt của La Tribune Indochinoise.
L’Echo du Vietnam (Tiếng vọng Việt Nam), là phiên bản tái lập của L’Echo annamite vào năm 1945.
Đánh giá
Trong số những tờ báo nêu trên, Nguyễn Phan Long từng là chủ bút của 3 tờ a Tribune Indochinoise, L’Echo annamite và Đuốc Nhà Nam. Nhưng hai tờ báo mà ông có ảnh hưởng lớn hơn là L’Echo annamite và Đuốc Nhà Nam, trong đó, ông phụ trách mục Chính trị (Directeur politique) và kinh tế, thương mại. Cả hai đã đấu tranh, trong điều kiện kiểm duyệt gắt gao của chính quyền thuộc địa và sở báo chí Nam Kỳ, nhằm bảo vệ quyền lợi của dân bản xứ.
Nguyễn Phan Long thông thạo tiếng Pháp, viết, sáng tác bằng tiếng Pháp rất giỏi. Nhà báo Phan Khôi đánh giá ông là "người làm báo Tây có tiếng nhứt xứ nầy hơn mười năm nay" (từ năm 1920 đến 1930). Tuy nhiên, những bài báo bằng tiếng Việt của ông đăng trên tờ Đuốc Nhà Nam thì cũng nhận được nhiều khen ngợi như: "xưa nay ông Long chưa hề viết bài bằng tiếng mẹ đẻ, bây giờ ông bắt đầu viết trong tờ báo của ông. Phần nhiều nhà tây học viết quốc ngữ ít sành! Vậy mà ông viết được; mấy bài lúc mới ra, bài nào cũng nghe xuôi, đáng cho vào hạng khá". Đây là trường hợp rất hiếm thời bấy giờ, vì đa phần các nhà báo Tây học lúc đó, viết bằng tiếng Pháp thì rất giỏi nhưng viết bằng tiếng Việt lại không tốt bằng.
Trong suốt cuộc đời làm báo của Nguyễn Phan Long, có thể thấy rõ ông truyền bá tư tưởng đấu tranh ôn hòa, thỏa hiệp với thực dân để giành quyền lợi về kinh tế cho người Việt, chủ trương dành độc lập dân tộc thông qua việc duy tân, du nhập văn hóa phương Tây. Ông cùng với các thành viên Lập Hiến đã xây dựng hình thức đấu tranh qua báo chí, nghị trường, thỉnh nguyện thư với chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương về những vấn đề đảm bảo quyền lợi của dân An Nam trong các lĩnh vực như: giáo dục, tòng quân, báo chí, tín ngưỡng, thuế khoá, xã hội, nông nghiệp...
Nhà báo Phan Khôi đã viết: "Ban đầu lấy làm lạ, sau rồi thấy ra có lẽ lắm, có lẽ là Đuốc nhà Nam không dính dấp gì với đảng Lập hiến thiệt chẳng chơi. Bởi vì Đuốc nhà Nam bấy giờ nhiều bài kịch liệt, có bài muốn phản đối hẳn với cái chủ nghĩa lập hiến. Thứ nhứt là có đôi bài công kích mấy ông điền chủ dữ lắm, chúng tôi thấy vậy phải hỏi nhau rằng sao mấy ông điền chủ lại bằng lòng bỏ tiền ra để mua lấy sự công kích mình". Bản thân "Đuốc Nhà Nam" cũng viết rõ: "Chú trọng về giới nông dân, lao động cốt rọi các tia sáng cho anh em bước tới để ngày sau tất cả thôn quê đều làm đèn điện như ở bên Nga", thậm chí còn dám lên án chế độ thực dân Pháp: "nói cho đích đáng thì chủ nghĩa thực dân là nguyên do của những cuộc chiến tranh, là cái tánh háo thắng, háo tiêu diệt các nước".
Tuy nhiên, là một trí thức Tây học có trình độ cao và được xã hội trọng vọng, cũng như các thành viên Lập Hiến khác, Nguyễn Phan Long thường tỏ rõ thái độ nghi ngờ nhận thức chính trị của tầng lớp bình dân. Ông viết: "Tôi dám chắc rằng trong đám dân biểu tình, ngoài mấy anh đầu đảng ra không nói, còn mấy người sau đều là đám dân ngu khờ khạo bị chúng cám dỗ hết thảy. Thiệt vậy, theo người ở Hốc Môn nói với tôi, có nhiều người ở trong làng xưa nay là dân nghèo khù khờ ngu dại thế mà bị Cộng sản đến diễn thuyết, nói những lời dưới đất trên trời, làm cho những người ấy hóa ra những người biểu tình rất hăng hái!". Ông cho rằng, việc chính trị chỉ dành riêng cho những người thuộc tầng lớp trí thức tài giỏi và giàu có như ông, không phải là việc của đám "dân ngu khờ khạo".
Thái độ không tin tưởng vào sức mạnh đông đảo quần chúng đã làm đảng Lập Hiến nhanh chóng thất bại. Các thành viên nó dù có uy tín bởi trình độ văn hoá và địa vị xã hội nhưng do thiếu hậu thuẫn của quần chúng nên trở thành những chính khách mờ nhạt. Nguyễn Phan Long cũng không ngoại lệ. Họ đấu tranh với chính quyền thực dân để mở rộng quyền tự trị của người Việt, mở rộng tự do - dân chủ, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội Việt Nam theo hướng phương Tây hoá. Con đường của Nguyễn Phan Long và đảng Lập Hiến là con đường ôn hoà, bất bạo động theo chủ trương giành lại quyền tự quyết dân tộc từ từ bằng sự thoả hiệp, đối thoại với chính quyền bảo hộ Pháp. Sự phát triển kinh tế, văn hoá, cùng ý thức dân tộc ngày càng cao của người Việt là cơ sở để gây áp lực khiến người Pháp phải chấp nhận nhượng bộ. Đó là con đường nhiều chính trị gia tại các nước thuộc địa khác đã đi theo.
Có thể nói, tên tuổi Nguyễn Phan Long rất được trọng vọng trong làng báo đầu thế kỷ 20, qua đề cập của một số nhà báo thời đó như Phan Khôi, Vũ Bằng. Vũ Bằng viết: "Về sau này, tôi lại nghe thấy có người làm một câu thơ mà đuổi được giặc, làm báo như hạng Nguyễn Phan Long, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, viết một bài, Tây sợ "chết cha chết mẹ", phải mua chuộc hàng ngàn, hàng vạn mà chưa chắc đã êm... Mê quá.". Thế nhưng, cũng khá giống với Lê Văn Trương, cây bút nổi tiếng trong làng văn, làng báo Việt Nam thời kỳ bấy giờ, Nguyễn Phan Long tuy từng có nhiều tác phẩm ấn tượng, được người cùng thời ngợi khen, nhưng vì lý do chính trị nên trong một thời gian dài không được nhắc đến cũng giống các tên tuổi lớn khác như Phan Khôi, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim...
Chú thích
Xem thêm
Thủ tướng Việt Nam
Bùi Quang Chiêu
Pháp-Việt đề huề
Tham khảo
R. B. Smith, "Bui Quang Chiêu and the Constitutionalist Party in French Cochinchina, 1917–30", Modern Asian Studies (1969), 3:131-150 Cambridge University Press
Micheline R. Lessard, "Organisons-nous! Racial Antagonism and Vietnamese Economic Nationalism in the Early Twentieth Century", French Colonial History - Volume 8, 2007, pp. 171–201
Christopher E. Goscha, "Widening the Colonial Encounter: Asian Connections Inside French Indochina During the Interwar Period", Modern Asian Studies'' (Published online by Cambridge University Press) 16 Oct 2008 (abstract)
Bộ trưởng Quốc gia Việt Nam
Thủ tướng Quốc gia Việt Nam
Nhà báo Việt Nam
Người chủ báo
Nhà giáo Việt Nam
Đảng Lập hiến Đông Dương
Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa
Sinh năm 1889
Mất năm 1960
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Sinh thập niên 1880
|
16828
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A3%20di%20truy%E1%BB%81n
|
Mã di truyền
|
Mã di truyền () là bộ quy tắc mà các tế bào sống sử dụng để dịch mã thông tin được mã hóa trong vật liệu di truyền (những chuỗi bộ ba nucleotide hoặc codon của DNA hoặc RNA) thành protein. Dịch mã được ribosome tiến hành, liên kết amino acid tạo protein theo thứ tự mà RNA thông tin (mRNA) quy định, sử dụng các phân tử của RNA vận chuyển (tRNA) để mang amino acid và đọc ba nucleotide của mRNA cùng lúc. Mã di truyền rất giống nhau giữa mọi sinh vật và có thể trình bày trong bảng 64 ô.
Trong sinh tổng hợp protein, các codon có vai trò xác định amino acid nào sẽ được "lắp" vào vị trí kế tiếp trên trên chuỗi. Một bộ ba nucleotide trong trình tự acid nucleic chỉ mã hóa cho một amino acid duy nhất (trừ một vài trường hợp ngoại lệ). Đa số gen được mã hóa bằng một sơ đồ duy nhất (xem bảng mã RNA). Sơ đồ đó thường được gọi là mã di truyền tiêu chuẩn, hay đơn giản là mã di truyền. Có tồn tại các mã biến thể (variant code, hẳng hạn như trong ty thể).
Lịch sử
Cấu trúc DNA được phát hiện vào năm 1953, từ thời điểm đó hàng loạt các nghiên cứu về mã hóa protein được tiến hành. Nhà sinh lý học người Anh Francis Crick và nhà sinh vật học người Mỹ James Watson làm việc cùng nhau tại Phòng thí nghiệm Cavendish của Đại học Cambridge, họ cùng đưa ra giả thuyết rằng thông tin truyền từ DNA và có mối liên hệ giữa DNA và protein. Nhà vật lý người Mỹ gốc Liên Xô George Gamow là người đầu tiên tạo ra sơ đồ tổng hợp protein từ DNA. Ông cho rằng bộ ba base phải được dùng để mã hóa 20 amino acid tiêu chuẩn mà các tế bào sống sử dụng để tạo nên protein, tức cho phép tối đa amino acid. Ông đặt tên tương tác của DNA-protein này (mã di truyền gốc) là "mã kim cương" (diamond code).
Năm 1954, Gamow thành lập một tổ chức khoa học không chính thức là câu lạc bộ RNA Tie (theo đề xuất của Watson) dành cho các nhà khoa học có quan điểm khác nhau, cùng quan tâm đến cách thức protein được tổng hợp từ gen. Tuy nhiên, câu lạc bộ chỉ có 20 thành viên thường trực, mỗi thành viên đại diện cho một amino acid; và câu lạc bộ này có thêm 4 thành viên danh dự để đại diện cho bốn nucleotide của DNA.
Đóng góp đầu tiên của câu lạc bộ cho khoa học về sau được ghi nhận là "một trong những bài báo chưa công bố quan trọng nhất trong lịch sử khoa học" và "bài báo chưa công bố nổi tiếng nhất trong biên niên sử sinh học phân tử," do Crick tiến hành. Crick trình bày một bài báo đánh chữ có nhan đề "On Degenerate Templates and the Adaptor Hypothesis: A Note for the RNA Tie Club" gửi cho các thành viên của câu lạc bộ vào tháng 1 năm 1955; bài báo này "thay đổi hoàn toàn cách mà chúng ta nghĩ về tổng hợp protein", như Watson kể lại. Giả thuyết cho rằng mã bộ ba không được truyền cho các amino acid như Gamow nghĩ, mà được một phân tử khác cất giữ (một "tác nhân thích ứng" (adaptor) tương tác với các amino acid). Sau này, "tác nhân thích ứng" được xác định là tRNA.
Codon
Thí nghiệm Crick, Brenner, Barnett và Watts-Tobin lần đầu chứng minh rằng codon bao gồm ba base DNA. Marshall Nirenberg và Heinrich J. Matthaei là những người đầu tiên tiết lộ bản chất của một mã vào năm 1961.
Họ đã sử dụng một hệ thống phi tế bào (cell-free system) để dịch mã một trình tự RNA poly-uracil (ví dụ: UUUUU...) và phát hiện ra rằng polypeptide mà họ đã tổng hợp chỉ gồm có chỉ amino acid phenylalanin. Do đó, họ suy luận rằng codon UUU quy định amino acid phenylalanin.
Kế đến là các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm của Severo Ochoa đã chứng minh rằng trình tự RNA poly-adenin (AAAAA...) được mã hóa cho polypeptide poly-lysin và trình tự RNA poly-cytosine (CCCCC...) được mã hóa cho polypeptide poly-prolin. Do đó, codon AAA quy định amino acid lysin còn codon CCC quy định amino acid prolin. Nhờ sử dụng nhiều chất copolymer mà sau đó hầu hết các mã còn lại đã được xác định.
Nghiên cứu của Har Gobind Khorana xác định các mã di truyền còn lại. Ngay sau đó, Robert W. Holley xác định cấu trúc của RNA vận chuyển (tRNA), phân tử thích ứng hỗ trợ quá trình dịch mã RNA thành protein. Nghiên cứu này dựa trên những nghiên cứu trước của Ochoa. Năm 1959, Ochoa nhận giải Nobel về Sinh lý học và Y học cho công trình nghiên cứu về enzym học trong tổng hợp RNA.
Qua việc mở rộng nghiên cứu, Nirenberg và Philip Leder tiết lộ bản chất bộ ba của mã di truyền và giải mã các codon trong nó. Trong những thí nghiệm này, nhiều tổ hợp của mRNA được truyền qua một bộ lọc chứa ribosome, những thành phần của tế bào dịch RNA thành protein. Những bộ ba mã hóa đã thúc đẩy các tRNA cụ thể liên kết với ribosome. Leder và Nirenberg còn có thể xác định trình tự của 54 trong số 64 codon ở thí nghiệm của họ. Khorana, Holley và Nirenberg cùng nhận giải Nobel năm 1968 cho công trình nghiên cứu của họ.
Hai nhà khoa học khám phá ra bộ ba kết thúc là Richard Epstein và Charles Steinberg. Họ đặt tên bộ ba UAA là ochre, UAG là amber, còn UGA là opal. "Amber" được đặt theo tên của Harris Bernstein (người bạn của hai nhà khoa học trên), trong đó "bernstein" trong tiếng Đức nghĩa là hổ phách, tiếng Anh là "amber". Hai codon kết thúc khác được đặt tên là "ochre" (màu thổ hoàng) và "opal" để giữ theo chủ đề màu sắc.
Mã di truyền mở rộng (sinh học tổng hợp)
Trong nhiều đối tượng học thuật, khái niệm về sự tiến hóa của mã di truyền từ mã di truyền gốc và mơ hồ sang mã rành mạch ("mã đông cứng"- "frozen") với danh mục 20 (+2) amino acid chính tắc được nhiều người chấp nhận. Tuy nhiên lại có những ý kiến, khái niệm, cách tiếp cận và ý tưởng khác nhau, đây là cách tốt nhất để thay đổi nó bằng thực nghiệm. Thậm chí các mô hình được đề xuất để dự đoán "điểm vào" mà amino acid tổng hợp dùng để xâm nhập vào mã di truyền.
Kể từ năm 2001, 40 amino acid phi tự nhiên đã được bổ sung vào protein bằng cách tạo ra một codon độc nhất (tái mã hóa) và một RNA vận chuyển tương ứng: aminoacyl – cặp tRNA-synthetase để mã hóa nó với những đặc tính hóa lý và sinh học đa dạng, với mục tiêu sử dụng như một công cụ để khám phá cấu trúc và chức năng của protein, hoặc để tạo mới hoặc tăng cường protein. H. Murakami và M. Sisido đã mở rộng một số codon thành 4 và 5 base. Steven A. Benner thì xây dựng mã chức năng thứ 65 (in vivo).
Năm 2015, N. Budisa, D. Söll và các đồng nghiệp đã thông báo sự thay thế hoàn toàn của tất cả 20.899 dư lượng tryptophan (codon UGG) bằng thienopyrrole-alanin phi tự nhiên trong mã di truyền của vi khuẩn Escherichia coli. Năm 2016, sinh vật bán tổng hợp ổn định đầu tiên được tạo ra. Đó là một loại vi khuẩn (đơn bào) có hai base tổng hợp (được gọi là X và Y). Những base sống sót phân chia tế bào. Năm 2017, các nhà nghiên cứu ở Hàn Quốc thông báo rằng họ đã tạo ra một con chuột mang mã di truyền mở rộng có thể tạo ra protein chứa amino acid phi tự nhiên.
Tháng 5 năm 2019, các nhà nghiên cứu thông báo họ đã tạo ra một chủng "Syn61" mới của vi khuẩn Escherichia coli. Chủng này có bộ gen tổng hợp đầy đủ được tái cấu trúc (mọi phần chồng chéo mở rộng), tái mã hóa (loại bỏ hoàn toàn việc sử dụng ba trong số 64 codon) và được điều chỉnh thêm để loại bỏ những tRNA và các nhân tố giải phóng hiện không cần thiết. Chủng vi khuẩn này hoàn toàn sống được và phát triển chậm hơn 1,6 lần so với chủng bản sao type hoang dã "MDS42".
Đặc tính
Khung đọc
Một khung đọc được xác định bởi bộ ba nucleotide đầu tiên mà dịch mã dùng để khởi động. Nó thiết lập khung cho một chuỗi các codon liên tiếp và không chồng chéo, được gọi là "khung đọc mở" (ORF). Ví dụ: chuỗi 5'-AAATGAACG-3' (như hình bên), nếu được đọc từ vị trí đầu tiên thì chứa các codon AAA, TGA và ACG; nếu đọc từ vị trí thứ hai thì nó chứa codon AAT và GAA; còn nếu được đọc từ vị trí thứ ba, nó chứa các codon ATG và AAC. Vì thế mọi trình tự có thể được đọc theo hướng 5' → 3' ở ba khung đọc, mỗi khung cho ra một trình tự amino acid riêng biệt: như trong ví dụ đã cho, lần lượt là Lys (K)-Trp (W)-Thr (T), Asn (N)-Glu (E), hoặc Met (M)-Asn (N) (khi dịch mã với mã ty thể của động vật có xương sống). Khi DNA ở dạng sợi kép, 6 khung đọc có thể được xác định, ba khung theo định hướng trên một sợi và ba khung theo hướng ngược lại trên sợi đối diện. Các khung mã hóa protein được xác định bởi một mã mở đầu, thường là codon AUG (ATG) đầu tiên trong trình tự RNA (DNA).
Ở sinh vật nhân chuẩn, ORF ở exon thường bị intron làm gián đoạn.
Mã mở đầu và kết thúc
Dịch mã khởi đầu bằng mã mở đầu. Chỉ riêng mã mở đầu là không đủ để bắt đầu quá trình. Các trình tự gần đó như trình tự Shine-Dalgarno ở E. coli và các yếu tố khởi đầu cũng được yêu cầu bắt đầu dịch mã. Mã mở đầu phổ biến nhất là AUG, được đọc là methionin hoặc formylmethionin (ở vi khuẩn, ty thể và lạp thể). Các mã mở đầu chuyển đổi phụ thuộc vào sinh vật kể cả "GUG" hoặc "UUG"; những codon này thường lần lượt đại diện cho valin và leucin, nhưng là dạng mã mở đầu, chúng được dịch mã thành methionin hoặc formylmethionin.
Ba mã kết thúc có các tên gọi: UAG là amber, UGA là opal (đôi khi còn được gọi là umber) và UAA là ochre. Những mã kết thúc còn được gọi là mã "chấm dứt" hoặc "vô nghĩa". Chúng phát tín hiệu giải phóng polypeptide mới sinh ra từ ribosome vì không có tRNA cùng nguồn gốc nào mang các anticodon bổ sung cho các tín hiệu kết thúc này, thay vào đó cho phép một yếu tố giải phóng liên kết với ribosome.
Tác động của đột biến
Trong quá trình nhân đôi DNA, đôi khi xảy ra các lỗi trong phản ứng trùng hợp ở sợi thứ hai. Những lỗi này (hay đột biến) có thể tác động đến kiểu hình của sinh vật, đặc biệt nếu chúng xảy ra trong trình tự mã hóa protein của gen. Tỷ lệ lỗi thường là 1 lỗi ở từng 10–100 triệu base—do khả năng "hiệu đính" của DNA polymerase.
Đột biến sai nghĩa và đột biến vô nghĩa là những ví dụ về đột biến điểm có thể gây ra các bệnh di truyền như bệnh hồng cầu hình liềm và tan máu bẩm sinh. Những đột biến sai nghĩa quan trọng về mặt lâm sáng thường thay đổi các đặc tính của gốc amino acid đã mã hóa ở giữa các trạng thái cơ bản, acid, phân cực hoặc không phân cực, trong khi đột biến vô nghĩa dẫn đến một mã kết thúc.
Những đột biến làm gián đoạn trình tự khung đọc bằng cách thêm bớt (thêm hoặc xóa) của một base không phải bội số của 3 nucleotide được gọi là đột biến dịch khung. Những đột biến này thường dẫn đến dịch mã hoàn toàn khác với bản gốc và có thể làm mã kết thúc được đọc, rồi nó cắt ngắn protein. Những đột biến này có thể làm giảm chức năng của protein và do đó rất hiếm xảy ra trong các trình tự mã hóa protein in vivo. Một lý do làm sự di truyền của các đột biến dịch khung hiếm gặp là nếu việc protein được dịch mã là cần thiết để phát triển dưới áp lực chọn lọc mà sinh vật phải đối mặt, thì việc không có protein chức năng có thể gây ra cái chết trước khi sinh vật sống được. Đột biến dịch khung có thể dẫn đến các bệnh di truyền nghiêm trọng như bệnh Tay–Sachs.
Mặc dù đa số đột biến làm thay đổi trình tự protein là có hại hoặc cả lợi lẫn hại, nhưng một vài đột biến lại có lợi. Những đột biến này có thể cho phép sinh vật đột biến chịu được các áp lực môi trường cụ thể tốt hơn các sinh vật hoang dã hoặc sinh sản nhanh hơn. Ở những trường hợp này, đột biến sẽ có xu hướng trở nên phổ biến hơn trong quần thể thông qua chọn lọc tự nhiên. Những virus sử dụng RNA làm vật liệu di truyền của chúng có tỷ lệ đột biến nhanh; đây có thể là một lợi thế, vì những virus này nhờ thế mà tiến hóa nhanh chóng và tránh được các phản ứng phòng thủ của hệ miễn dịch. Ở những quần thể lớn của sinh vật sinh sản vô tính, chẳng hạn như E. coli, nhiều đột biến có lợi có thể cùng xảy ra. Hiện tượng này được gọi là giao thoa vô tính và gây ra cạnh tranh giữa các đột biến.
Thoái hóa
Thoái hóa là tình trạng dư thừa của mã di truyền. Thuật ngữ này được đưa ra bởi Bernfield và Nirenberg. Mã di truyền có tính dư thừa nhưng không mơ hồ (xem bảng mã bên dưới để biết mối tương quan đầy đủ). Ví dụ, mặc dù codon GAA và GAG đều xác định acid glutamic (dư thừa), cả hai không xác định amino acid nào khác (không mơ hồ). Các codon mã hóa một amino acid có thể khác nhau ở bất kỳ chỗ nào nào trong ba vị trí của chúng. Ví dụ, amino acid leucin được xác định bởi các codon YUR hoặc CUN (UUA, UUG, CUU, CUC, CUA hoặc CUG) (khác biệt ở vị trí thứ nhất hoặc thứ ba được thể hiện nhờ sử dụng ký hiệu IUPAC), trong khi amino acid serin được xác định bởi các codon UCN hoặc AGY (UCA, UCG, UCC, UCU, AGU hoặc AGC) (khác biệt ở vị trí thứ nhất, thứ hai hoặc thứ ba). Một hậu quả thực tế của tính dư thừa là các lỗi ở vị trí thứ ba của codon bộ ba chỉ gây ra đột biến thầm lặng hoặc một lỗi không ảnh hưởng đến protein vì tính ưa nước hoặc kỵ nước được duy trì bằng cách thay thế các amino acid tương đương; ví dụ, một codon của NUN (trong đó N = bất kỳ nucleotide nào) có xu hướng mã hóa cho các amino acid kỵ nước. NCN tạo ra gốc amino acid có kích thước nhỏ và tính kỵ nước vừa phải; NAN mã hóa gốc ưa nước có kích thước trung bình. Mã di truyền có cấu trúc phù hợp với tính kỵ/ưa nước đến mức một phép phân tích toán học (phép phân tích suy biến) gồm 12 biến số (4 nucleotide x 3 vị trí) mang lại một mối tương quan đáng chú ý (C = 0,95) nhằm dự đoán tính kỵ/ưa nước của amino acid được mã hóa trực tiếp từ trình tự bộ ba nucleotide, mà không có dịch mã. Lưu ý trong bảng dưới đây, 8 amino acid hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi đột biến ở vị trí thứ ba của codon, trong khi ở hình phía trên, đột biến ở vị trí thứ hai có thể gây ra thay đổi cơ bản về tính chất lý hóa của amino acid đã mã hóa. Tuy nhiên, những thay đổi ở vị trí đầu tiên của codon quan trọng hơn những thay đổi ở vị trí thứ hai trên phạm vi toàn cầu. Lý do có thể là đảo ngược điện tích (từ điện tích dương sang điện tích âm hoặc ngược lại) chỉ có thể xảy ra khi đột biến ở vị trí đầu tiên của một số codon nhất định, chứ không thể xảy ra khi thay đổi ở vị trí thứ hai của bất kỳ codon nào. Sự đảo ngược điện tích như vậy có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với cấu trúc hoặc chức năng của protein. Khía cạnh này có thể từng bị các nghiên cứu trước đây đánh giá thấp.
Xu hướng sử dụng codon
Tần suất của codon, còn được gọi là xu hướng sử dụng codon, có thể khác nhau giữa các loài với ý nghĩa chức năng về kiểm soát dịch mã. Codon thay đổi tùy theo sinh vật; ví dụ, codon prolin phổ biến nhất ở E. coli là CCG trong khi ở người, đây là cụm prolin ít được sử dụng nhất.
Mã di truyền thay thế
Amino acid phi tiêu chuẩn
Ở một vài protein, amino acid phi tiêu chuẩn được thay thế cho mã kết thúc tiêu chuẩn, phụ thuộc vào trình tự tín hiệu liên quan trong RNA thông tin. Ví dụ, UGA có thể mã hóa cho selenocysteine còn UAG có thể mã hóa cho pyrrolysine. Selenocysteine được xem là amino acid thứ 21 còn pyrrolysine là amino acid thứ 22. Không như selenocysteine, UAG do pyrrolysine mã hóa được dịch mã với sự tham gia của một synthetase aminoacyl-tRNA riêng biệt. Cả selenocysteine lẫn pyrrolysine đều có thể ở cùng một sinh vật. Mặc dù mã di truyền thường được cố định trong một sinh vật, sinh vật nhân sơ cổ khuẩn Acetohalobium arabaticum có thể mở rộng mã di truyền của nó từ 20 lên 21 amino acid (bằng cách chứa cả pyrrolysine) trong các điều kiện phát triển khác nhau.
Biến thể
Lúc đầu có một nhận định đơn giản và được nhiều người chấp nhận rằng mã di truyền phải có tính phổ biến: cụ thể là bất kỳ biến thể nào trong mã di truyền sẽ làm chết sinh vật (mặc dù Crick tuyên bố rằng virus là một ngoại lệ). Đây được gọi là lập luận "sự cố bất dịch" (frozen accident) về tính phổ biến của mã di truyền. Tuy nhiên, trong bài báo chuyên đề về nguồn gốc của mã di truyền năm 1968, Francis Crick vẫn tuyên bố rằng tính phổ biến của mã di truyền ở mọi sinh vật là một giả định chưa được chứng minh và có lẽ không đúng trong một vài trường hợp. Ông dự đoán rằng "Mã có tính phổ biến (giống nhau ở mọi sinh vật) hoặc gần như vậy". Biến thể đầu tiên được phát hiện vào năm 1979 bởi các nhà nghiên cứu gen ty thể ở người. Sau đó nhiều biến thể nhẹ đã được phát hiện, bao gồm nhiều mã ty thể chuyển đổi khác nhau. Ví dụ, các biến thể nhỏ này liên quan đến dịch codon UGA thành tryptophan ở các loài Mycoplasma, và dịch CUG thành serine thay vì leucine trong nấm men của "nhánh CTG" (chẳng hạn như Candida albicans). Vì virus phải sử dụng chung mã di truyền làm vật chủ của chúng nên việc biến đổi mã di truyền tiêu chuẩn có thể cản trở quá trình tổng hợp hoặc hoạt động của protein virus. Tuy nhiên, các loại virus như totivirus lại thích nghi với biến đổi mã di truyền của vật chủ. Ở vi khuẩn và cổ khuẩn, GUG và UUG là các codon mở đầu phổ biến. Trong một số ít trường hợp, một vài protein có thể sử dụng mã mở đầu chuyển đổi. Đáng ngạc nhiên là các biến thể trong giải thích mã di truyền cũng tồn tại trong các gen mã hóa nhân ở người: Năm 2016, các nhà khoa học trong lúc nghiên cứu dịch mã của malate dehydrogenase đã phát hiện ra rằng trong khoảng 4% mRNA mã hóa enzyme này, codon kết thúc được sử dụng tự nhiên để mã hóa amino acid tryptophan và arginine. Kiểu mã hóa lại này ra đời do bởi mã kết thúc đọc xuyên cao và nó được gọi là đọc xuyên dịch mã chức năng (functional translational readthrough).
Bất chấp những khác biệt này, mọi mã xuất hiện tự nhiên mà con người đã biết rất giống nhau. Cơ chế mã hóa giống nhau ở mọi sinh vật: codon ba base, tRNA, ribosome, đọc một hướng và dịch codon đơn lẻ thành các amino acid đơn lẻ. Những biến thể cực đoan nhất xảy ra ở một số tiêm mao nhất định, nơi ý nghĩa của codon kết thúc phụ thuộc vào vị trí của chúng trong mRNA. Khi ở gần đầu 3', chúng đóng vai trò là đầu cuối trong khi ở các vị trí bên trong, chúng mã hóa amino acid như trong Condylostoma magnum hay kích hoạt dịch khung ribosome (ribosomal frameshifting) như ở Euplotes.
Nguồn gốc và biến thể của mã di truyền (kể cả những cơ chế đằng sau khả năng tiến hóa của mã di truyền) đã được nghiên cứu sâu rộng, một vài nghiên cứu được tiến hành bằng thực nghiệm tiến hóa mã di truyền của một số sinh vật.
Suy luận
Mã di truyền biến thể mà một sinh vật sử dụng có thể được suy luận bằng xác định các gen bảo tồn cao được mã hóa trong bộ gen đó, rồi so sánh việc sử dụng codon của nó với amino acid trong protein tương đồng của các sinh vật khác. Ví dụ, chương trình FACIL suy luận ra mã di truyền bằng tìm xem các amino acid nào trong vùng protein tương đồng thường được đặt thẳng hàng theo từng codon nhất. Xác xuất thu được amino acid (hay mã kết thúc) ở mỗi codon được thể hiện trong một logo mã di truyền.
Từ tháng 1 năm 2022, Shulgina và Eddy đã tiến hành cuộc khảo sát đầy đủ nhất về mã di truyền, họ sàng lọc 250.000 bộ gen của sinh vật nhân sơ bằng công cụ Codetta của họ. Công cụ này sử dụng cách tiếp cận tương tự như FACIL với cơ sở dữ liệu Pfam lớn hơn. Mặc dù NCBI cung cấp 33 bảng dịch mã, nhưng hai tác giả của khảo sát có thể tìm thấy 5 biến thể mã di truyền mới (được chứng thực bởi các đột biến tRNA) và sửa một số quy kết lỗi.
Nguồn gốc
Mã di truyền là một phần quan trọng trong lịch sử sự sống, theo một phiên bản mà các phân tử RNA tự nhân bản có trước sự sống như chúng ta biết. Đây gọi là giả thuyết thế giới RNA. Theo giả thuyết này, bất kỳ mô hình nào về sự xuất hiện của mã di truyền đều liên quan mật thiết đến mô hình vận chuyển từ ribozyme (enzym RNA) sang protein dưới dạng enzym chính trong tế bào. Nhằm tuân theo giả thuyết thế giới RNA, các phân tử RNA vận chuyển dường như tiến hóa trước các synthetase aminoacyl-tRNA hiện đại, do đó synthetase không thể là phần giải thích cho các mô hình của nó.
Một mã di truyền tiến hóa ngẫu nhiên theo giả thuyết tiếp tục thúc đẩy một mô hình sinh hóa hoặc tiến hóa về nguồn gốc của nó. Nếu amino acid được xếp ngẫu nhiên vào các codon bộ ba thì có thể có 1,5×1084 mã di truyền. Con số này được tìm ra bằng phép tính số cách mà 21 món đồ (20 amino acid cộng với một mã kết thúc) có thể đựng trong 64 thùng, trong đó mỗi món đồ được sử dụng ít nhất một lần. Tuy nhiên, sự phân chia các codon trong mã di truyền không ngẫu nhiên. Cụ thể, mã di truyền tập hợp một số phần chia amino acid nhất định.
Những amino acid chung con đường sinh tổng hợp có xu hướng mang cùng base đầu tiên trong các codon của chúng. Đây có thể là một sự học lại tiến hóa của một mã di truyền sơ khai và đơn giản hơn với ít amino acid hơn, mà sau này đã tiến hóa để mã hóa một bộ amino acid lớn hơn. Điều này cũng có thể phản ánh tính chất hóa học và không gian tác động khác đến codon trong quá trình tiến hóa của amino acid ấy. Những amino acid có tính chất vật lý tương tự cũng có xu hướng chứa các codon tương tự, làm giảm các vấn đề mà đột biến điểm và dịch mã sai gây ra.
Bằng giản đồ mã hóa bộ ba di truyền không ngẫu nhiên, một giả thuyết chấp nhận được về nguồn gốc của mã di truyền có thể giải quyết nhiều khía cạnh của bảng codon, chẳng hạn như vắng các codon cho acid D-amino, mẫu codon thứ cấp cho một số amino acid, sự hạn chế các vị trí tương đồng tới vị trí thứ ba, bộ mã nhỏ chỉ có 20 amino acid (thay vì một số bộ có gần 64 amino acid) và mối quan hệ của các mẫu mã kết thúc với các mẫu mã hóa amino acid.
Có ba giả thuyết chính nhắc đến nguồn gốc của mã di truyền. Nhiều mô hình thuộc về một trong số chúng hoặc kết hợp nhiều giả thuyết:
Đóng băng ngẫu nhiên (Random freeze): mã di truyền được tạo ra ngẫu nhiên. Ví dụ, những ribozym kiểu tRNA ban đầu có thể mang các ái lực khác nhau đối với amino acid; các codon xuất hiện từ một phần khác của ribozyme thể hiện tính biến đổi ngẫu nhiên. Khi đã mã hóa đủ peptide, bất kỳ biến đổi ngẫu nhiên lớn nào trong mã di truyền đều có thể gây chết người; do đó nó trở thành "đóng băng" (frozen).
Ái lực hóa lập thể (Stereochemical affinity): mã di truyền là kết quả của ái lực cao giữa mỗi amion acid và codon hoặc cụm đối mã của nó; lựa chọn của cụm đối mã ngụ ý rằng những phân tử tiền tRNA khớp với các amino acid tương ứng của chúng bằng ái lực này. Sau đó trong quá trình tiến hóa, sự tương thích này dần bị thay thế bằng sự tương hợp của synthetase aminoacyl-tRNA.
Tính tối ưu (Optimality): mã di truyền tiếp tục tiến hóa sau lần tạo đầu tiên, vì thế mã hiện tại tối đa hóa một vài chức năng thích ứng, thường là một số loại giảm thiểu lỗi.
Các giả thuyết đã xử lý nhiều tình huống khác nhau:
Những nguyên tắc hóa học chi phối tương tác cụ thể của RNA với amino acid. Những thí nghiệm với aptamer cho thấy rằng một vài amino acid sở hữu ái lực hóa chọn lọc đối với codon của chúng. Các thí nghiệm cho thấy rằng trong số 8 amino acid được thử nghiệm, 6 amino acid thể hiện sự liên kết giữa bộ ba amino acid của RNA.
Mở rộng sinh tổng hợp. Mã di truyền phát triển từ một mã đơn giản hơn trước đây thông qua quá trình "mở rộng sinh tổng hợp". Sự sống nguyên thủy "khám phá" ra những amino acid mới (ví dụ như các sản phẩm phụ của trao đổi chất) và rồi kết hợp một vài trong số này vào bộ máy mã hóa di truyền. Mặc dù nhiều bằng chứng gián tiếp đã được tìm thấy cho thấy rằng trước đây ít loại amino acid được sử dụng hơn, những giả thuyết chính xác và chi tiết về amino acid nào được đưa nhập mã theo thứ tự ra sao đang gây tranh cãi. Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho rằng Gly, Ala, Asp, Val, Ser, Pro, Glu, Leu, Thr có thể thuộc nhóm amino acid bổ sung đầu, trong khi Cys, Met, Tyr, Trp, His, Phe có thể thuộc nhóm thành nhóm amino acid bổ sung sau.
Chọn lọc tự nhiên đã dẫn đến phân chia codon của mã di truyền nhằm giảm thiểu tác động của đột biến. Một giả thuyết gần đây đề xuất rằng mã bộ ba bắt nguồn từ những mã sử dụng lâu hơn codon bộ ba (chẳng hạn như codon bộ bốn). Thời gian giải mã bộ ba dài hơn sẽ làm tăng dư thừa codon và có khả năng kháng lỗi cao hơn. Tính năng này có thể cho phép giải mã chính xác khi không có bộ máy dịch mã phức tạp như ribosome, chẳng hạn như trước khi tế bào bắt đầu tạo ra ribosome.
Kênh thông tin: Lý thuyết thông tin tiếp cận mô hình hóa quá trình dịch mã di truyền thành các amino acid tương ứng như một kênh thông tin dễ gây lỗi. Tiếng ồn vốn có (tức là lỗi) trong kênh đặt ra cho sinh vật một câu hỏi cơ bản: làm thế nào mà một mã di truyền có thể được xây dựng để chống tiếng ồn, mà vẫn dịch thông tin chính xác và hiệu quả? Những mô hình "biến dạng tỷ lệ" này cho rằng mã di truyền bắt nguồn từ tương tác của ba lực tiến hóa xung đột: nhu cầu amino acid đa dạng, khả năng chịu lỗi và phí nguồn sống tối thiểu. Mã xuất hiện tại một đồng hoán khi xây dựng bản đồ codon thành amino acid không hề ngẫu nhiên. Sự xuất hiện của mã mà tô pô chi phối được xác định bởi những lỗi có thể xảy ra và liên quan đến vấn đề tô màu bản đồ.
Lý thuyết trò chơi: Những mô hình dựa trên trò chơi ra tín hiệu kết hợp các yếu tố của lý thuyết trò chơi, chọn lọc tự nhiên và kênh thông tin. Những mô hình như vậy đã được sử dụng để đề xuất rằng các polypeptide đầu tiên dường như ngắn và không có chức năng enzym. Những mô hình thuyết trò chơi cho rằng việc tổ chức các chuỗi RNA vào tế bào có thể là cần thiết để ngăn chặn sử dụng mã di truyền "lừa bịp", tức là ngăn chặn các loại virus tương đương cổ đại lấn át thế giới RNA.
Mã kết thúc: Những cụm dịch mã kết thúc cũng là một khía cạnh thú vị đối với vấn đề nguồn gốc của mã di truyền. Dưới dạng ví dụ để giải quyết tiến hóa của mã kết thúc, các nhà khoa học Cho rằng codon kết thúc như vậy để cho chúng có nhiều khả năng kết thúc dịch mã sớm trong trường hợp xảy ra lỗi dịch khung. Ngược lại, một số mô hình phân tử hóa lập thể giải thích nguồn gốc của các mã kết thúc là "không gắn được".
Xem thêm
Danh sách phần mềm kỹ thuật di truyền
Bảng codon
Chú thích
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Mã di truyền: Bảng mã di truyền
Cơ sở dữ liệu sử dụng codon — Bảng tần suất codon ở nhiều sinh vật
Lịch sử giải mã di truyền
Sinh tổng hợp protein
Sinh học phân tử
Di truyền phân tử
Di truyền học
Biểu hiện gen
|
16834
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%B4%20t%E1%BA%ADn
|
Vô tận
|
Vô hạn, vô cực, vô tận (ký hiệu: ∞) là một khái niệm mô tả một cái gì đó mà không có bất kỳ giới hạn nào, hoặc một cái gì đó lớn hơn bất kỳ số tự nhiên nào. Các nhà triết học đã suy đoán về bản chất của vô hạn, ví dụ Zeno xứ Elea, người đã đề xuất nhiều nghịch lý liên quan đến vô cực, và Eudoxus của Cnidus, người đã sử dụng ý tưởng về số lượng nhỏ vô hạn trong phương pháp cạn kiệt của mình. Ý tưởng này cũng là cơ sở của vi tích phân.
Vào cuối thế kỷ 19, Georg Cantor đã giới thiệu và nghiên cứu các tập hợp vô hạn và số lượng vô hạn, hiện là một phần thiết yếu của nền tảng của toán học. Ví dụ, trong toán học hiện đại, một dòng thường được coi là các thiết lập của tất cả các điểm của nó, và số lượng vô hạn của chúng (các lực lượng của dòng) lớn hơn số lượng các số nguyên. Do đó, khái niệm toán học về vô cực tinh chỉnh và mở rộng khái niệm triết học cũ. Nó được sử dụng ở mọi nơi trong toán học, ngay cả trong các lĩnh vực như tổ hợp và lý thuyết số dường như không liên quan gì đến nó. Ví dụ, cách chứng minh của Định lý cuối cùng của Fermat sử dụng sự tồn tại của các tập hợp vô hạn rất lớn.
Khái niệm vô hạn cũng được sử dụng trong vật lý và các ngành khoa học khác.
Lịch sử
Các nền văn hóa cổ đại có nhiều ý tưởng khác nhau về bản chất của vô cực. Người Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại không định nghĩa sự vô hạn trong chủ nghĩa hình thức chính xác như toán học hiện đại, và thay vào đó tiếp cận vô cực như một khái niệm triết học.
Hy Lạp cổ đại
Ý tưởng đầu tiên được ghi lại về sự vô hạn đến từ Anaximander, một triết gia Hy Lạp tiền Socrates sống ở Miletus. Ông đã sử dụng từ apeiron có nghĩa là vô hạn hoặc vô tận. Tuy nhiên, các tài khoản chứng thực sớm nhất về vô cực toán học đến từ Zeno xứ Elea (sinh ra ), một triết gia Hy Lạp tiền Socrates ở miền nam nước Ý và là thành viên của trường phái Elea do Parmenides thành lập. Aristotle gọi ông là người phát minh ra phép biện chứng. Ông nổi tiếng với những nghịch lý của mình, được Bertrand Russell mô tả là "vô cùng tinh tế và sâu sắc".
Theo quan điểm truyền thống của Aristotle, người Hy Lạp thời Hellenic nói chung thường thích phân biệt vô cực tiềm năng với vô cực thực tế; ví dụ, thay vì nói rằng có vô số các số nguyên tố, Euclid thay vào đó thích nói rằng: có nhiều số nguyên tố hơn trong bất kỳ tập hợp các số nguyên tố nhất định nào.
Ấn Độ cổ đại
Cuốn sách Jain về toán học Surya Prajnapti (thế kỷ thứ 4 đến thứ 3 TCN) phân loại tất cả các số thành ba tập hợp: đếm được, vô số, và vô hạn. Mỗi trong số này được chia thành ba loại:
Vô số: thấp nhất, trung bình và cao nhất
Không đếm được: gần như không đếm được, thực sự không đếm được, và vô số không đếm được
Vô hạn: gần như vô hạn, thực sự vô hạn, vô hạn vô hạn
Trong tác phẩm này, hai loại số vô hạn cơ bản được phân biệt. Trên cả cơ sở vật chất và bản thể học, một sự khác biệt đã được tạo ra giữa ("vô số, không đếm được") và ananta ("vô tận, không giới hạn"), giữa loại vô số bị giới hạn cứng nhắc và loại vô số giới hạn lỏng lẻo.
Thế kỷ 17
Các nhà toán học châu Âu bắt đầu sử dụng các số và biểu thức vô hạn theo kiểu có hệ thống trong thế kỷ 17. Năm 1655, John Wallis lần đầu tiên sử dụng ký hiệu cho một số như vậy trong De partibus conicis của mình và khai thác nó trong các tính toán diện tích bằng cách chia vùng thành các dải có chiều rộng vô hạn theo thứ tự Nhưng trong Arithmetica infinitorum (1655), ông chỉ ra chuỗi vô hạn, các sản phẩm vô hạn và các phân số tiếp tục vô hạn bằng cách viết ra một vài thuật ngữ hoặc yếu tố và sau đó nối thêm "& c." Ví dụ: "1, 6, 12, 18, 24, & c."
Năm 1699, Isaac Newton đã viết về các phương trình với thuật ngữ vô hạn trong tác phẩm De analysi per aequationes numero terminorum infinitas.
Toán học
Hermann Weyl đã mở đầu một bài diễn thuyết về toán học-triết học vào năm 1930 với câu nói: "Toán học là môn khoa học của vô hạn".
Biểu tượng vô cực
Biểu tượng vô cực là một biểu tượng toán học đại diện cho khái niệm vô cực. Biểu tượng được mã hóa bằng Unicode tại và trong LaTeX như \infty.
Nó được giới thiệu vào năm 1655 bởi John Wallis, và, kể từ khi được giới thiệu, nó cũng đã được sử dụng bên ngoài toán học trong chủ nghĩa thần bí hiện đại và ký hiệu văn học.
Giải tích
Leibniz, một trong những người đồng phát minh ra phép tính vi tích phân, đã suy đoán rộng rãi về số lượng vô hạn và việc sử dụng chúng trong toán học. Đối với Leibniz, cả số lượng vô hạn và số lượng vô hạn đều là những thực thể lý tưởng, không có cùng bản chất với số lượng đáng kể, nhưng được hưởng các tính chất tương tự theo Luật liên tục.
Giải tích thực
Trong giải tích thực, biểu tượng , được gọi là "vô cực", được sử dụng để biểu thị một giới hạn không giới hạn. Ký hiệu có nghĩa là x tăng không giới hạn và có nghĩa là x giảm không giới hạn. Nếu f (t) ≥ 0 cho mọi t, thì
có nghĩa là f(t) không bị giới hạn trong khoảng nào từ tới
nghĩa là tổng diện tích f(t) là vô hạn trong miền giới hạn.
nghĩa là tổng diện tích của f(t) trong miền giới hạn là hữu hạn, và bằng
Vô hạn cũng được sử dụng để mô tả chuỗi vô hạn:
nghĩa là tổng của chuỗi vô hạn này là hội tụ đến số thực
tổng của chuỗi vô hạn này là phân kỳ.
Xem thêm
0,999...
Lũy thừa
Định lý con khỉ vô hạn
Tập hợp không đếm được
Tập hợp vô hạn
Danh sách nghịch lý
Tham khảo
Liên kết ngoài
A Crash Course in the Mathematics of Infinite Sets , by Peter Suber. From the St. John's Review, XLIV, 2 (1998) 1–59. The stand-alone appendix to Infinite Reflections, below. A concise introduction to Cantor's mathematics of infinite sets.
Infinite Reflections , by Peter Suber. How Cantor's mathematics of the infinite solves a handful of ancient philosophical problems of the infinite. From the St. John's Review, XLIV, 2 (1998) 1–59.
Hotel Infinity
John J. O'Connor and Edmund F. Robertson (1998). 'Georg Ferdinand Ludwig Philipp Cantor', MacTutor History of Mathematics archive.
John J. O'Connor and Edmund F. Robertson (2000). 'Jaina mathematics' , MacTutor History of Mathematics archive.
Ian Pearce (2002). 'Jainism', MacTutor History of Mathematics archive.
Source page on medieval and modern writing on Infinity
The Mystery Of The Aleph: Mathematics, the Kabbalah, and the Search for Infinity
Dictionary of the Infinite (compilation of articles about infinity in physics, mathematics, and philosophy)
Hằng số toán học
Thuật ngữ triết học
Bài cơ bản sơ khai
Thần học
Khái niệm triết học
Khái niệm logic
Đối tượng toán học
|
16841
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A0%20ph%C3%AA%20ch%C3%A8
|
Cà phê chè
|
Cà phê chè là tên gọi theo tiếng Việt của loài cà phê Arabica có tên khoa học theo danh pháp hai phần là: Coffea arabica, do loài cà phê này có lá nhỏ, cây có một số đặc điểm hình thái giống như cây chè - một loài cây công nghiệp phổ biến ở Việt Nam. Cà phê chè có hai loại: cà phê moka và cà phê catimor.
Đây là loài có giá trị kinh tế nhất trong số các loài cây cà phê. Cà phê chè chiếm 61% các sản phẩm cà phê toàn thế giới. Cà phê arabica còn được gọi là Brazilian Milds nếu nó đến từ Brasil, gọi là Colombian Milds nếu đến từ Colombia, và gọi là Other Milds nếu đến từ các nước khác. Qua đó có thể thấy Brasil và Colombia là hai nước xuất khẩu chính loại cà phê này, chất lượng cà phê của họ cũng được đánh giá cao nhất. Các nước xuất khẩu khác gồm có Ethiopia, México, Guatemala, Honduras, Peru, Ấn Độ.
Cây cà phê arabica ưa sống ở vùng núi cao. Người ta thường trồng nó ở độ cao từ 1000-1500 m. Cây có tán nhỏ, màu xanh đậm, lá hình oval. Cây cà phê trưởng thành có thể cao từ 4–6 m, nếu để mọc hoang dã có thể cao đến 10 m. Quả hình bầu dục, mỗi quả chứa hai hạt cà phê.
Cà phê chè sau khi trồng khoảng 3 đến 4 năm thì có thể bắt đầu cho thu hoạch. Thường thì cà phê 25 tuổi đã được coi là già, không thu hoạch được nữa. Thực tế nó vẫn có thể tiếp tục sống thêm khoảng 70 năm. Cây cà phê arabica ưa thích nhiệt độ từ 16-25°C, lượng mưa khoảng trên 1000 mm.
Trên thị trường cà phê chè được đánh giá cao hơn cà phê vối (coffea canephora hay coffea robusta) vì có hương vị thơm ngon và chứa ít hàm lượng caffein hơn. Một bao cà phê chè (60 kg) thường có giá cao gấp 2 lần một bao cà phê vối.
Việt Nam là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới nhưng chủ yếu là cà phê vối. Năm 2005 dự kiến diện tích trồng cà phê chè mới đạt khoảng 10% tổng diện tích trồng cà phê cả nước (khoảng 40.000 ha/410.000 ha). Hiện cà phê chè được trồng ở các tỉnh Lâm Đồng ở Tây Nguyên, vùng thành phố Sơn La, huyện Mai Sơn, huyện Thuận Châu (Sơn La) và Mường Ảng (Điện Biên) ở Tây Bắc.
Hình ảnh
Xem thêm
Cà phê
Cây cà phê
Hạt cà phê
Cà phê vối
Các nước xuất khẩu cà phê
Cà phê Blue Mountain
Liên kết ngoài
Tổ chức cà phê thế giới
Hiệp hội cà phê Việt Nam
Giá cà phê Arabica
Cà phê
Thực vật Ethiopia
Thực vật Yemen
Thực vật Bermuda
Thực vật Fiji
Thực vật Kenya
Thực vật México
Thực vật Myanmar
Thực vật Puerto Rico
Thực vật Trung Quốc
Thực vật Caribe
Thực vật châu Phi
Thực vật Nam Mỹ
Thực vật Polynesia
Thực vật Trung Mỹ
A
Thực vật Thái Bình Dương
Thực vật được mô tả năm 1753
Nông nghiệp Trung Mỹ
Nông nghiệp México
Nông nghiệp Nam Mỹ
Nông nghiệp Caribe
Thực vật Sudan
Thực vật xâm hại ở Sri Lanka
|
16850
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/BBC
|
BBC
|
BBC (viết tắt của British Broadcasting Corporation, tiếng Việt: Tổng công ty Phát sóng Anh Quốc) là tập đoàn phát thanh và truyền hình quốc gia của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. BBC là đài truyền thông quốc gia lâu đời nhất trên thế giới cũng như là cơ quan truyền thông lớn nhất thế giới theo số lượng nhân viên (hơn 20 nghìn nhân viên, hơn 35 nghìn nếu tính thêm các nhân viên bán thời gian và nhân viên hợp đồng ngắn hạn). Trụ sở của BBC nằm ở Broadcasting House, Luân Đôn. Các sản phẩm của BBC bao gồm các chương trình và thông tin trên TV, trên đài phát thanh và trên Internet. Nhiệm vụ chính của BBC là đưa truyền thông đại chúng trung lập tại Anh Quốc, Channel Islands và Isle of Man.
BBC được thành lập dưới Hiến chương Hoàng gia Anh và hoạt động dưới sự chấp thuận của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Phương tiện và Thể thao Anh. Đài BBC thu lợi nhuận chủ yếu bằng một khoản lệ phí được thu từ tất cả các hộ gia đình, các công ty và tổ chức sử dụng bất kì loại thiết bị nào để thu lại hoặc thu trực tiếp tín hiệu từ đài. Khoản phí này được đặt ra bởi Chính phủ Anh, được chấp thuận bởi Nghị viện Anh, và được sử dụng để gây quỹ cho các dịch vụ radio, TV và các dịch vụ trực tuyến khác của BBC bao trùm toàn bộ nước Anh. Từ 1/4/2014, khoản phí này cũng gây quỹ cho hệ thống tin tin tức thế giới (BBC World Service), thành lập năm 1932, mà cung cấp các hệ thống TV, radio và các dịch vụ trực tuyến khác bằng tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư và hơn 28 ngôn ngữ khác, bao gồm cả tiếng Việt.
Khoảng một phần tư lợi nhuận của BBC đến từ lệ phí thương mại của BBC Worldwide Ltd., từ khoản tiền có được từ việc bán các chương trình truyền hình và các dịch vụ khác ra các nước khác, và từ hệ thống tin tức quốc tế 24/7 bằng tiếng Anh BBC World News và BBC.com, được cung cấp bởi BBC Global News Ltd.
Lịch sử
Sự khai sinh của phát sóng quảng bá ở Anh, 1920 tới 1922
Buổi phát sóng trực tiếp đầu tiên của Anh từ nhà máy Marconi ở Chelmsford diễn ra vào tháng 6 năm 1920. Nó được tài trợ bởi Ngài Northcliffe của tờ Daily Mail và có mặt ca sĩ giọng nhạc cao nổi tiếng của Úc Dame Nellie Melba. Buổi phát sóng của Melba thu hút nhiều người và đánh dấu một bước ngoặt trong thái độ của công chúng Anh với đài radio. Tuy nhiên sự nhiệt tình này của công chúng không lan sang phạm vi của chính phủ nơi mà các chương trình phát sóng như vậy được lập ra để can thiệp vào các phương tiện liên lạc dân sự và quân sự quan trọng của đối phương. Đến cuối năm 1920, áp lực từ các nguồn này và sự lo lắng đến từ các nhân viên của cơ quan cấp phép, Tổng cục Bưu điện (GPO), đủ để dẫn đến một lệnh cấm phát thanh từ Chelmsford.
Nhưng vào năm 1922, GPO đã nhận được gần 100 yêu cầu giấy phép phát sóng và dẫn đến hủy bỏ lệnh cấm bởi một kiến nghị của 63 tổ chức radio với hơn 3.000 thành viên. Để tránh sự mở rộng lộn xộn vốn đã xảy ra tại Hoa Kỳ, GPO đề xuất rằng sẽ cấp một giấy phép phát sóng duy nhất cho một công ty đồng sở hữu bởi một tập hợp của những nhà sản xuất thiết bị thu sóng không dây hàng đầu, được biết đến như British Broadcasting Company Ltd (Công ty trách nhiệm hữu hạn phát thanh (và truyền hình) Anh). John Reith, một người Scotland theo phái Calvin, được bổ nhiệm làm Tổng Giám đốc vào Tháng 12 năm 1922, một vài tuần sau khi Công ty đã có buổi phát sóng chính thức đầu tiên. Công ty đã được cấp vốn bằng tiền bán bản quyền bộ tiếp nhận không dây từ các nhà sản xuất đã được phê duyệt và lệ phí bản quyền.
Từ công ty tư nhân tới công ty cung cấp dịch vụ công cộng, 1923 tới 1926
Việc sắp xếp tài chính sớm được chứng tỏ là không đầy đủ. Doanh thu bán hàng trở nên đáng thất vọng khi những người nghiệp dư đã làm riêng bộ thu và người nghe đã mua những bộ thu không được cấp phép từ đối thủ. Đến giữa năm 1923, các cuộc thảo luận giữa GPO và BBC đã trở nên bế tắc và Bưu Tổng ủy được ủy quyền để xem xét về việc phát sóng do Ủy ban Sykes. Ủy ban này đề nghị một sự tổ chức lại ngắn hạn về lệ phí cấp giấy phép với sự cải thiện tốt hơn để giải quyết khó khăn tài chính trước mắt của BBC, và một phần gia tăng sự phân chia doanh thu giấy phép giữa BBC và GPO. Điều này được theo sau bởi một lệ phí giấy phép giá 10 shilling (đơn vị tiền thời đó) và không có tiền bản quyền một khi sự bảo hộ của nhà sản xuất thiết bị không dây hết hạn. Sự phát sóng độc quyền của BBC đã được thực hiện một cách rõ ràng trong khoảng thời gian giấy phép phát sóng hiện tại của nó, như là việc cấm phát quảng cáo. BBC cũng đã bị cấm phát bản tin trước 19:00, và yêu cầu dẫn nguồn tất cả các tin tức từ các dịch vụ bên ngoài.
Giữa năm 1925, nền móng cho tương lai của phát thanh truyền hình được xem xét thêm do Ủy ban Crawford. Cho tới lúc đó BBC dưới sự lãnh đạo của Reith đã giả mạo được một văn bản đồng thuận ủng hộ một sự tiếp nối của các dịch vụ truyền thông thống nhất (một cách độc quyền), nhưng cần nhiều tiền hơn để bỏ vốn cho việc mở rộng nhanh chóng. Các nhà sản xuất không dây lúc này rất nóng lòng để thoát khỏi liên minh gây thiệt hại này với việc Reith muốn rằng BBC được xem như là một dịch vụ công cộng chứ không phải là một doanh nghiệp thương mại. Các khuyến nghị của Ủy ban Crawford đã được công bố tháng 3 năm sau đó và vẫn đang được xem xét bởi GPO khi năm 1926 cuộc tổng đình công nổ ra vào tháng Năm. Cuộc đình công tạm thời gián đoạn việc sản xuất báo và những hạn chế về bản tin khiến BBC đột nhiên trở thành nguồn chính của tin tức trong thời gian khủng hoảng.
Cuộc khủng hoảng đặt BBC ở một vị thế khó xử. Một mặt Reith đã nhận thức sâu sắc rằng chính phủ có thể thực hiện quyền của mình để trưng dụng BBC như một cơ quan ngôn luận của Chính phủ bất cứ lúc nào nếu BBC làm ngơ những quy định, nhưng mặt khác ông đã lo lắng để duy trì niềm tin của công chúng bằng cách hoạt động độc lập. Chính phủ đã bị chia thành hai phe về cách xử lý với BBC nhưng cuối cùng lại tin tưởng Reith. Do đó, BBC đã được giao cho đủ thời gian để theo đuổi mục tiêu của Chính phủ chủ yếu theo cách lựa chọn riêng của BBC. Phạm vi bao quát về quan điểm của cả những người đình công và chính phủ đã gây ấn tượng với hàng triệu thính giả, những người không hề biết rằng Thủ tướng đã phát sóng đến toàn đất nước từ nhà của Reith, sử dụng một trong những "sound bite" (một đoạn phát biểu hoặc nhạc được tách ra từ một đoạn âm thanh dài) của Reith chèn vào phút cuối. Reith đích thân công bố kết thúc cuộc đình công mà ông chỉ ra bằng cách đọc từ "Jerusalem" (nơi hạnh phúc) của Blake nghĩa rằng nước Anh đã được giải cứu.
BBC đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và được theo sau bởi sự chấp nhận chính thức của Chính phủ về kiến nghị của Ủy ban Crawford về việc chuyển giao các hoạt động của công ty cho British Broadcasting Corporation (Tổng công ty phát thanh truyền hình Anh), vốn được thành lập bởi Hiến chương Hoàng gia. Reith đã được phong tước hiệp sĩ và vào ngày 01 tháng 1 năm 1927 ông trở thành Tổng giám đốc đầu tiên của Tổng công ty phát thanh truyền hình Anh.
Để đại diện cho mục đích của và giá trị (đã nêu), Tổng công ty đã thông qua huy hiệu (coat of arms), bao gồm cả câu khẩu hiệu "Nation shall speak peace unto Nation".
1926 đến 1939
Khán giả radio ở Anh có ít sự lựa chọn ngoài các chương trình dành cho giới thượng lưu của BBC. Reith, một tổng giám đốc theo chủ nghĩa đạo đức một cách mạnh mẽ, là người phụ trách hoàn toàn. Mục tiêu của ông là phát sóng "Tất cả những gì tốt nhất từ tất cả các bộ phận của tri thức nhân loại, các nỗ lực và thành tích.... Việc bảo tồn một phong thái đạo đức rõ ràng là hết sức quan trọng." Reith đã thành công trong việc chống lại một kiểu radio free-for-all (miễn phí cho tất cả) kiểu Mỹ, trong đó mục tiêu là để thu hút lượng khán giả lớn nhất và do đó đảm bảo doanh thu từ quảng cáo lớn nhất. Không có quảng cáo trả tiền trên đài BBC; tất cả các doanh thu đến từ một loại phí đánh vào bộ thu sóng.Những khán giả trí thức rất thích nó. Tại thời điểm khi các đài của Mỹ, Úc và Canada đã thu hút rất nhiều khán giả cổ vũ cho đội địa phương của họ với việc phát sóng bóng chày, bóng bầu dục và khúc côn cầu, BBC nhấn mạnh dịch vụ cho một quốc gia, chứ không phải là một đối tượng trong một khu vực. Đua thuyền cũng được tường thuật cùng với quần vợt và đua ngựa, nhưng BBC đã miễn cưỡng tiếu tốn một khoảng thời gian cực kì hạn chế của nó với các trận đấu bóng đá hay cricket thời gian dài, bất chấp sự phổ biến của nó.
BBC với các loại hình truyền thông khác
Sự thành công của phát thanh gây nên sự thù hằn giữa BBC và các loại hình truyền thông được thành lập trước như nhà hát, phòng hòa nhạc và ngành công nghiệp ghi âm. Đến năm 1929, BBC phàn nàn rằng các đại diện của nhiều nghệ sĩ hài từ chối ký hợp đồng phát sóng vì sợ nó sẽ tổn hại các nghệ sĩ "bằng việc làm giảm giá trị của các nghệ sĩ như một nghệ sĩ có thể thấy được trong phòng hòa nhạc". Mặt khác, đài BBC đã "quan tâm sâu sắc" đến sự hợp tác với các công ty thu âm mà "trong những năm gần đây đã không trì trệ trong việc làm các bản thu âm cho các ca sĩ, dàn nhạc, các ban nhạc khiêu vũ,... những người người đã chứng tỏ sức mạnh của việc đạt được sự nổi tiếng bởi phát thanh không dây". Kịch trên đài đã phổ biến đến mức BBC nhận được đến 6.000 bản thảo vào năm 1929, hầu hết trong số đó được viết cho sân khấu và ít có giá trị khi phát sóng: "Ngày này qua ngày khác, bản thảo đi vào, và gần như tất cả chúng đều đi ra một lần nữa qua đường bưu điện, với một lời nhắn rằng 'Chúng tôi rất tiếc,...' ". Vào năm 1930 chương trình âm nhạc cũng rất phổ biến, ví dụ như các chương trình phát sóng rộng khắp tại Hội trường St George, Langham Place, bởi Reginald Foort, người chính thức giữ chức vai trò Nghệ sĩ Organ của BBC từ 1936-1938; Foort tiếp tục làm việc cho đài BBC như một nghề tự do vào năm 1940 và đã có được một số người ủng hộ trên toàn quốc.
Chương trình thử nghiệm phát sóng truyền hình được bắt đầu vào năm 1932, sử dụng một hệ thống cơ điện 30-dòng được phát triển bởi John Logie Baird. Chương trình phát sóng hạn chế sử dụng hệ thống này bắt đầu vào năm 1934, và một dịch vụ mở rộng (nay có tên là BBC Television Service) bắt đầu phát từ Alexandra Palace vào năm 1936, xen giữa một hệ thống dây chuyền Baird 240 dòng được cải thiện và hệ thống Marconi-EMI 405 dòng. Sự vượt trội của hệ thống điện tử này đã khiến cho hệ thống cơ khí bị loại bỏ vào đầu năm sau.
1939 đến 2000
Việc phát sóng truyền hình đã bị đình chỉ từ ngày 1 tháng 9 năm 1939 đến ngày 7 tháng 6 năm 1946 trong thời gian diễn ra Thế Chiến thứ Hai, và các phát thanh viên của BBC Radio như Reginald Foort được giao trọng trách giữ lửa cho tinh thần của quốc gia. BBC đã di chuyển nhiều hoạt động phát thanh của mình ra khỏi Luân Đôn, ban đầu là đến Bristol, và sau đó đến Bedford. Các buổi hòa nhạc được phát sóng từ Corn Exchange; Nhà lễ Ba ngôi ở Nhà thờ St Paul ở Bedford là phòng thu phục vụ hàng ngày từ năm 1941 đến năm 1945, và trong những ngày đen tối của chiến tranh năm 1941, Tổng giám mục xứ Canterbury và York đến Nhà thờ St Paul để phát sóng tới Anh quốc vào ngày Quốc khánh cầu nguyện.
Liên minh Phát thanh Châu Âu được thành lập vào ngày 12 tháng 2 năm 1950, tại Torquay với BBC là một trong số 23 tổ chức phát sóng sáng lập.
Sự cạnh tranh đối với BBC bắt đầu đến vào năm 1955, với sự xuất hiện của mạng lưới truyền hình thương mại và độc lập ITV. Tuy nhiên, sự độc quyền của BBC đối với các dịch vụ radio vẫn tồn tại cho đến ngày 8 tháng 10 năm 1973 dưới sự kiểm soát của Cơ quan phát thanh độc lập (IBA). Đài phát thanh địa phương độc lập đầu tiên của Anh, LBC đã phát sóng trực tuyến ở khu vực Luân Đôn. Theo báo cáo của Uỷ ban Pilkington năm 1962, trong đó BBC được đánh giá cao về chất lượng và phạm vi của các chương trình của nó, trong khi đó ITV đã bị chỉ trích nặng nề vì không cung cấp đủ chương trình chất lượng, quyết định đã được đưa ra để cho phép BBC có một kênh truyền hình thứ hai, BBC2; năm 1964, BBC đổi tên cho dịch vụ hiện tại thành BBC1. BBC2 đã sử dụng tiêu chuẩn 625 có độ phân giải cao hơn vốn đã được chuẩn hóa trên khắp châu Âu. BBC2 đã được phát sóng có màu từ ngày 1 tháng 7 năm 1967, và BBC1 và ITV theo sau vào ngày 15 tháng 11 năm 1969. Truyền tải VHF 405 của BBC1 (và ITV) đã được tiếp tục để tương thích với các máy thu hình cũ hơn cho đến năm 1985.
Bắt đầu từ năm 1964, một loạt các đài "pirate radio" (một thuật ngữ để chỉ các đài phát sóng không giấy phép, bắt đầu bằng Radio Caroline) được ra mắt và buộc chính phủ Anh phải điều chỉnh dịch vụ radio để cho phép các dịch vụ tài trợ dựa trên quảng cáo trên toàn quốc. Như lời đáp lại, BBC đã tổ chức lại và đổi tên các kênh radio của họ. Vào ngày 30 tháng 9 năm 1967, "The Light Programme" đã được chia thành Radio 1 cung cấp liên tục âm nhạc "Popular" (nhạc phổ biến) và Radio 2 với "Easy Listening" (dễ nghe). Chương trình "Thứ ba" trở thành Radio 3 cung cấp nhạc cổ điển và chương trình văn hoá. "The Home Service" (dịch vụ gia đình) đã trở thành Radio 4 cung cấp tin tức và nội dung phi âm nhạc như các chương trình đố vui, đọc sách và kịch truyền thanh. Cũng như bốn kênh quốc gia, một loạt các đài phát thanh địa phương của BBC được thành lập năm 1967, bao gồm Radio Luân Đôn.
Năm 1969, bộ phận Doanh nghiệp BBC được thành lập để khai thác các thương hiệu và chương trình BBC cho các sản phẩm thương mại. Năm 1979, nó trở thành một công ty trách nhiệm hữu hạn, BBC Enterprises Ltd.
Năm 1974, dịch vụ teletext (dịch vụ điện toán cung cấp tin tức và các thông tin khác trên màn hình ti vi cho những người đặt thuê) của BBC, Ceefax, đã được giới thiệu, được tạo ra ban đầu để cung cấp phụ đề, nhưng đã phát triển thành một dịch vụ tin tức và thông tin. Năm 1978, nhân viên BBC đã đình công ngay trước lễ Giáng sinh năm đó, do đó ngăn chặn sự truyền tải cả hai kênh và kết hợp cả bốn đài phát thanh thành một.
Kể từ khi bãi bỏ quy định của thị trường truyền hình và phát thanh của Anh trong những năm 1980, BBC đã phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt từ khu vực truyền hình thương mại (và từ đài truyền hình công cộng có quảng cáo như Channel 4, đtruyền hình vệ tinh, truyền hình cáp và các dịch vụ truyền hình kỹ thuật số
Vào cuối những năm 1980, BBC bắt đầu một quá trình thoái đầu tư bằng cách quay vòng và bán đi một số bộ phận của tổ chức. Năm 1988, BBC bán Thư viện Báo chí Hulton, một kho lưu trữ ảnh đã được mua lại từ tạp chí Picture Post của BBC vào năm 1957. Kho lưu trữ đã được bán cho Brian Deutsch và bây giờ thuộc sở hữu của Getty Images. Trong những năm 1990, quá trình này tiếp tục với việc tách một số bộ phận hoạt động của công ty thành các công ty con độc lập nhưng thuộc sở hữu của BBC với mục đích tạo thêm nguồn thu cho việc sản xuất chương trình. BBC Enterprises được tổ chức lại và tái ra mắt vào năm 1995, dưới cái tên BBC Worldwide Ltd. Năm 1998, các phòng thu BBC, các chương trình phát sóng ngoài, sản xuất, thiết kế, trang phục và tóc giả đã được tách ra thành BBC Resources Ltd.
BBC Research Department (Phòng Nghiên cứu BBC) đã đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kỹ thuật phát sóng và thu âm. Trong những ngày đầu tiên, nó thực hiện nghiên cứu thiết yếu về âm học và đo mức độ tiếng ồn của chương trình. BBC cũng chịu trách nhiệm cho việc phát triển chuẩn âm thanh NICAM.
Trong những thập kỷ gần đây, một số kênh và đài phát thanh bổ sung đã được đưa ra: Radio 5 được ra mắt vào năm 1990, như một kênh thể thao và giáo dục, nhưng đã bị thay thế vào năm 1994 bởi Radio 5 Live, sau sự thành công của Radio 4 vì đã theo sát Chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991. Năm 1997, BBC News 24, một kênh tin tức, ra mắt dịch vụ truyền hình kỹ thuật số và năm sau, BBC Choice đã ra mắt như là kênh giải trí thứ ba từ BBC. BBC cũng mua về The Parliamentary Channel, được đổi tên thành BBC Parliament (kênh chính phủ). Vào năm 1999, BBC Knowledge đã ra mắt như là một kênh truyền thông đa phương tiện, với các dịch vụ hiện có trên dịch vụ Teletext kỹ thuật số BBC Text và BBC Online. Kênh có mục tiêu giáo dục, đã được thay đổi sau phần nào để cung cấp thêm các phim tài liệu.
2000 tới 2011
Năm 2002, một số kênh truyền hình và radio đã được tổ chức lại. BBC Knowledge được thay thế bằng BBC Four và trở thành kênh nghệ thuật và tài liệu của BBC. CBBC, một kênh truyền hình cho trẻ em, đã được chia thành CBBC và CBeebies, cho trẻ nhỏ hơn. Ngoài các kênh truyền hình, các đài phát thanh kỹ thuật số mới đã được lập ra: 1Xtra, 6 Music và BBC7. BBC 1Xtra là đài phát thanh của Radio 1 và chuyên về âm nhạc hiện đại, BBC 6 Music chuyên về các thể loại nhạc khác và BBC7 chuyên về các chương trình lưu trữ, đàm thoại và lập trình cho trẻ em.
Vài năm sau đó dẫn đến việc định vị lại một số kênh để phù hợp hơn: năm 2003, BBC Choice đã được thay thế bởi BBC Three, với chương trình dành cho thế hệ trẻ và các chương trình tài liệu thực tế, BBC News 24 đã trở thành BBC News Channel vào năm 2008, và BBC Radio 7 đã trở thành BBC Radio 4 Extra trong năm 2011, với các chương trình mới để bổ sung cho những phát sóng trên Radio 4. Trong năm 2008, một kênh khác đã được đưa ra như BBC Alba, một kênh tiếng Gaelic cho Scotland.
Trong suốt thập kỷ này, tập đoàn bắt đầu bán một số đơn vị hoạt động cho các đơn vị tư nhân; BBC Broadcast đã được tách ra làm một công ty riêng biệt vào năm 2002, và năm 2005, nó đã được bán cho Tập đoàn Macquarie Capital Alliance và Macquarie Bank Limited ở Úc và đổi tên thành Red Bee Media. Công nghệ thông tin, điện thoại và phát sóng của BBC được tập hợp lại với nhau để lập thành là Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Công nghệ BBC (BBC Technology, Ltd.) vào năm 2001, và bộ phận này sau đó được bán cho bộ phận kỹ thuật và công nghệ điện tử của Siemens (SIS) của Đức. SIS sau đó đã được mua lại từ Siemens bởi công ty Atos của Pháp. Các hoạt động bán lại trong thập kỷ này bao gồm BBC Books (bán cho Random House vào năm 2006), BBC Outside Broadcasts Ltd (bán trong năm 2008 cho Satellite Information Services), Costumes and Wigs (cổ phần đã bán cho Angels The Costumiers vào năm 2008), và tạp chí BBC (bán cho Immediate Media Company vào năm 2011). Phần còn lại của BBC Resources được tái cấu trúc thành BBC Studios and Post Production, hoạt động cho tới ngày hôm nay như là một chi nhánh của BBC.
Cuộc điều tra Hutton năm 2004 và báo cáo theo sau đó đặt ra những câu hỏi về các tiêu chuẩn báo chí của BBC và sự công bằng của nó. Điều này dẫn đến sự từ chức của các thành viên quản lý cấp cao bao gồm cả Tổng giám đốc, Greg Dyke. Vào tháng 1 năm 2007, BBC đã phát hành biên bản cuộc họp hội đồng, dẫn đến việc Greg Dyke từ chức.
Không giống như các phòng ban khác của BBC, BBC World Service được tài trợ bởi Văn phòng Ngoại giao và Khối thịnh vượng chung. Văn phòng Ngoại giao và Khối thịnh vượng chung, thường được gọi là Văn phòng Nước ngoài (Foreign Office) hay FCO, là cơ quan chính phủ Anh chịu trách nhiệm quảng bá Vương quốc Anh tới nước ngoài.
Năm 2006, BBC HD được ra mắt như là một kênh thử nghiệm, và trở thành kênh chính thức vào tháng 12 năm 2007. Kênh phát sóng các chương trình phát sóng trên BBC One, BBC Two, BBC Three và BBC Four cũng như lặp lại một số chương trình cũ hơn theo chuẩn HD. Trong năm 2010, một kênh HD của BBC One tung ra: BBC One HD. Kênh sử dụng các phiên bản HD của các chương trình của BBC One và sử dụng các phiên bản được nâng độ phân giải từ các chương trình không được sản xuất theo chuẩn HD. Kênh BBC HD đóng cửa vào tháng 3 năm 2013 và được thay thế bởi BBC2 HD.
Vào ngày 18 tháng 10 năm 2007, Tổng giám đốc BBC Mark Thompson tuyên bố một kế hoạch gây tranh cãi để thực hiện cắt giảm lớn cũng như giảm kích thước của BBC như một tổ chức. Kế hoạch bao gồm giảm bớt 2.500 nhân sự; Bao gồm 1.800 nhân viên thừa, củng cố các hoạt động tin tức, giảm 10% sản lượng truyền hình và bán tòa nhà Television Centre ở Luân Đôn. Những kế hoạch này đã bị các công đoàn phản đối dữ dội, những người đã đe doạ sẽ tổ chức một loạt các cuộc đình công; tuy nhiên, BBC đã tuyên bố rằng những cắt giảm là điều cần thiết để thúc đẩy tổ chức và tập trung vào việc nâng cao chất lượng chương trình.
Ngày 20 tháng 10 năm 2010, Bộ trưởng Bộ Tài chính Anh George Osborne thông báo rằng lệ phí cấp phép truyền hình sẽ được đóng băng ở mức hiện tại của nó cho đến khi kết thúc điều lệ hiện tại vào năm 2016. Cùng một thông báo tiết lộ rằng BBC sẽ phải tự chi trả toàn bộ chi phí của BBC World Service và BBC Monitoring, cũng như một phần tài trợ cho đài phát thanh xứ Wales S4C.
2011 tới hiện tại
Các cắt giảm tiếp theo đã được công bố vào ngày 6 tháng 10 năm 2011, do đó BBC có thể giảm tổng ngân sách của họ là 20% sau sự đóng băng phí bản quyền vào tháng 10 năm 2010, trong đó bao gồm cắt giảm 2.000 nhân viên và gửi thêm 1.000 nhân viên đến MediaCityUK ở Salford, cùng với việc BBC Three trở thành kênh truyền hình internet vào năm 2016. BBC HD đã đóng cửa vào ngày 26 tháng 3 năm 2013, và thay thế bằng một phiên bản HD của BBC Two; Tuy nhiên, các chương trình hàng đầu, các kênh khác như CBBC và CBeebies sẽ được giữ lại. Nhiều cơ sở của BBC đã được bán đi, bao gồm New Broadcasting House trên phố Oxford ở Manchester. Nhiều phòng ban chính đã được chuyển đến Broadcasting House và MediaCityUK, đặc biệt kể từ khi BBC Television Centre được bán đi vào tháng 3 năm 2013. Các chương trình cắt giảm này đã thu hút các chiến dịch, kiến nghị và phản đối như SaveBBC3 và SaveOurBBC, đã thu hút được hàng trăm ngàn người có cùng sự quan tâm về những thay đổi này.
Sự quản lý của chính phủ và cấu trúc đoàn thể
BBC là một công ty theo luật định, độc lập khỏi sự can thiệp trực tiếp của chính phủ, với các hoạt động đang được giám sát bởi BBC Trust (trước đây là Hội đồng thống đốc). Ban quản lý chung của tổ chức này nằm trong tay của một Tổng giám đốc, người được bổ nhiệm bởi BBC Trust, ông là biên tập trưởng và chủ tịch Ban chấp hành của BBC.
Hiến chương
BBC hoạt động theo Hiến chương Hoàng gia. Điều lệ hiện hành có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2007 cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2016. Mỗi Hiến chương Hoàng gia được lần lượt xem xét trước khi một hiến chương mới được cấp, nghĩa là mỗi 10 năm.
Hiến chương 2007 quy định rằng nhiệm vụ của Tổng công ty là để "cung cấp tin tức, giáo dục và giải trí". Nó nói rằng Tổng công ty tồn tại để phục vụ lợi ích công cộng và để thúc đẩy các mục đích công cộng: duy trì quyền công dân và xã hội dân sự, thúc đẩy giáo dục và học tập, kích thích sự sáng tạo, đại diện cho Vương quốc Anh, các quốc gia, các vùng và cộng đồng nằm trong đó, đưa nước Anh ra thế giới và thế giới đến với Vương quốc Anh, giúp cung cấp cho công chúng những lợi ích của công nghệ và các dịch vụ thông tin liên lạc đang bùng nổ, và có vai trò lớn trong sự chuyển dịch từ truyền hình analog sang truyền hình số.
Hiến chương 2007 đánh dấu sự thay đổi lớn nhất trong sự quản lý của Tổng công ty kể từ khi thành lập. Nó xóa bỏ các cơ quan quản lý gây tranh cãi là Hội đồng thống đốc, thay thế nó bằng BBC Trust và Ban chấp hành.
Theo Hiến chương Hoàng gia, BBC phải xin giấy phép từ Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Giấy phép này đi kèm với một thỏa thuận trong đó đặt các điều khoản và điều kiện mà BBC được phép phát sóng. Cũng vì Giấy phép và Thỏa thuận này (và Luật phát sóng 1981) mà lệnh cấm phát sóng Sinn Féin từ 1988 đến 1994 được đưa ra.
Hội đồng BBC
Hội đồng BBC (BBC Board) được thành lập vào tháng 4 năm 2017. Nó được lập ra để thay thế bộ phận quản lý trước, BBC Trust. Hội đồng quản trị đặt ra chiến lược cho công ty, đánh giá thành tích của Ban điều hành BBC trong Cung cấp các dịch vụ của BBC, và bổ nhiệm Tổng giám đốc. Hội đồng bao gồm các thành viên sau đây:
Ban Giám đốc
Ban Giám đốc chịu trách nhiệm cho các hoạt động hàng ngày của đài. Ban Điều hành họp mỗi tháng một lần và chịu trách nhiệm quản lý hoạt động và cung cấp các dịch vụ trong khuôn khổ do Hội đồng quản trị đặt ra và do Tổng giám đốc điều hành, hiện là Tony Hall.
Tổng giám đốc là giám đốc điều hành và (từ năm 1994) tổng biên tập.
Ban chấp hành bao gồm cả giám đốc điều hành và giám đốc không điều hành, với các giám đốc không điều hành đến từ các công ty và các tập đoàn khác và được chỉ định bởi BBC Trust. Ban điều hành bao gồm Tổng Giám đốc và đại diện của mỗi bộ phận BBC:
Phân ban hoạt động
Tổng công ty có các bộ phận nội bộ sau đây chịu trách nghiệm về hoạt động của BBC:
Nội dung, đứng đầu bởi Charlotte Moore, phụ trách các kênh truyền hình bao gồm cả việc vận hành các chương trình.
Radio và Giáo dục do James Purnell làm chủ có nhiệm vụ phụ trách BBC Radio và nội dung âm nhạc trên BBC dưới thương hiệu BBC Music, bao gồm các chương trình âm nhạc trên truyền hình BBC, các sự kiện như BBC Proms và rất nhiều dàn nhạc như BBC Philharmonic, cũng như Children's BBC.
Tin tức và thời sự do James Harding điều hành hoạt động của BBC News với quy mô quốc gia, khu vực và quốc tế trên truyền hình, radio và trực tuyến, cũng như sản phẩm của BBC Global News. Nó cũng chịu trách nhiệm về các chương trình thời sự và có một số trách nhiệm về chương trình thể thao.
Nhóm tổng phụ trách do Anne Bulford lãnh đạo bao gồm Design & Engineering (thiết kế & kỹ thuật), phụ trách tất cả các đầu ra kỹ thuật số, như BBC Online, BBC iPlayer, BBC Red Button và phát triển các công nghệ mới thông qua BBC Research & Development. Bộ phận này cũng bao gồm các chức năng khác bao gồm Tài chính, Nhân sự, Chiến lược, An ninh và Tài sản.
Vùng quốc gia và khu vực do Ken MacQuarrie đứng đầu chịu trách nhiệm về các bộ phận của Tổng công ty tại Scotland, Bắc Ailen, xứ Wales, vùng khu vực Anh.
Tài chính
BBC có ngân sách lớn thứ hai so với bất kỳ nhà khai thác nào ở Anh với chi phí hoạt động là £ 4.722 tỷ trong năm 2013/14, so với £ 6.471 tỷ cho British Sky Broadcasting vào năm 2013/14 và 1.843 tỷ bảng cho ITV trong năm 2013.
Nguồn thu
Nguồn thu chính để cung cấp cho BBC là thông qua giấy phép truyền hình, với giá 145.50 bảng mỗi năm cho mỗi hộ gia đình kể từ tháng 4 năm 2010. Cần có giấy phép như vậy để được nhận sóng trên khắp Vương quốc Anh, Quần đảo Channel và Isle of Man. Không cần giấy phép để sở hữu một chiếc ti vi được sử dụng cho các phương tiện khác, hoặc cho các bộ radio chỉ phát âm thanh (mặc dù cần có giấy phép riêng cho các hộ gia đình không có tivi cho đến năm 1971). Chi phí của một giấy phép truyền hình được đặt ra bởi chính phủ và thực thi bởi luật hình sự. Sẽ có sẵn giảm giá cho các hộ gia đình chỉ có máy truyền hình đen trắng. Giảm giá 50% cũng được đưa ra cho những người bị mù hoặc khiếm thị nặng, và giấy phép được hoàn toàn miễn phí đối với bất kỳ hộ gia đình nào có người từ 75 tuổi trở lên. Theo kết quả đánh giá chi tiêu gần đây của chính phủ Anh, đã có một thỏa thuận giữa chính phủ và BBC, trong đó phí cấp phép hiện tại sẽ vẫn bị đóng băng ở mức hiện tại cho đến khi Hiến chương Hoàng gia được gia hạn vào đầu năm 2017.
Doanh thu được thu thập một cách riêng tư và được trả vào Quỹ Hợp nhất của Chính quyền trung ương, một quy trình được định nghĩa trong Đạo luật Thông tin liên lạc 2003. BBC thu thập và thực thi thu phí giấy phép dưới tên thương mại "TV Licensing". Việc thu thập TV Licensing hiện đang được thực hiện bởi Capita, một cơ quan bên ngoài. Sau đó, các quỹ được phân định bởi Bộ Văn hoá, Truyền thông và Thể thao (DCMS) và Bộ Tài chính và được Quốc hội phê chuẩn thông qua pháp luật. Các khoản thu nhập bổ sung được trả bởi Bộ Lao động và Lương hưu để bù cho việc miễn giấy phép trợ cấp cho những người trên 75 tuổi.
Lệ phí giấy phép được phân loại là thuế, và việc trốn thuế là một tội hình sự. Từ năm 1991, việc thu thập và thực thi lệ phí cấp phép là trách nhiệm của BBC trong vai trò Cơ quan Cấp phép Truyền hình. Do đó, BBC là cơ quan điều tra chính ở Anh và xứ Wales và là cơ quan điều tra tại Vương quốc Anh nói chung. BBC thực hiện giám sát (chủ yếu sử dụng các nhà thầu phụ) về tài sản (dưới sự bảo trợ của Quy định về Điều luật Điều tra năm 2000) và có thể tiến hành tìm kiếm tài sản sử dụng lệnh khám xét. Theo BBC, "hơn 204.000 người ở Anh bị bắt gặp xem truyền hình mà không có giấy phép trong sáu tháng đầu năm 2012." Trốn phí bản quyền chiếm khoảng một phần mười trong số tất cả các trường hợp bị truy tố tại tòa án.
Thu nhập từ các doanh nghiệp thương mại và từ việc bán hàng ở nước ngoài trong danh mục các chương trình đã tăng đáng kể trong những năm gần đây, với BBC Worldwide đã đóng góp khoảng 145 triệu bảng cho dịch vụ công cộng cốt lõi của BBC.
Theo Báo cáo thường niên năm 2013/14 của BBC, tổng thu nhập của nó là 5 tỷ bảng Anh (5,066 tỷ bảng Anh), có thể được chia nhỏ như sau:
3.726 tỷ bảng Anh trong phí giấy phép thu được từ các chủ hộ gia đình;
1,023 tỷ bảng Anh từ các doanh nghiệp thương mại của BBC;
244,6 triệu bảng từ khoản trợ cấp của chính phủ, trong đó 238,5 bảng từ Văn phòng Chính phủ cho BBC World Service;
72,1 triệu bảng từ thu nhập khác, chẳng hạn như thu tiền thuê và tiền bản quyền từ các chương trình phát sóng ở nước ngoài.
Tuy nhiên, lệ phí giấy phép đã thu hút được sự chỉ trích. Người ta đã lập luận rằng trong thời đại đa luồng, sự sẵn có đa kênh, nghĩa vụ phải trả phí cấp phép không còn phù hợp. Việc BBC sử dụng công ty tư nhân Capita Group để gửi thư đến cơ sở không trả lệ phí giấy phép đã bị chỉ trích, đặc biệt là vì đã có những trường hợp các thư đó đã được gửi đến cơ sở đã trả đủ, hoặc không yêu cầu giấy phép truyền hình.
BBC sử dụng các chiến dịch quảng cáo để thông báo cho khách hàng về yêu cầu thanh toán phí bản quyền. Các chiến dịch trước đây đã bị chỉ trích bởi MP (Member of Parliament, thành viên nghị viện) Đảng Bảo thủ Boris Johnson và cựu nghị sĩ Ann Widdecombe, vì đã có một tính chất đe doạ và ngôn ngữ sử dụng để dọa kẻ trốn phí đến trả tiền. Các đoạn âm thanh và chương trình truyền hình được sử dụng để thông báo cho người nghe về cơ sở dữ liệu toàn diện của BBC. Có một số nhóm đã vận động về vấn đề lệ phí giấy phép.
Phần lớn sản phẩm thương mại của BBC xuất phát từ bộ thương mại BBC Worldwide, những người bán bản quyền các chương trình ra nước ngoài và khai thác thương hiệu chính cho sản phẩm lưu niệm. Trong số doanh thu năm 2012/13 của họ, 27% tập trung vào 5 "superbrands" (siêu thương hiệu) chủ chốt là Doctor Who, Top Gear, Strictly Come Dancing (được gọi là Dancing with the Stars, ở Việt Nam dưới cái tên Bước Nhảy Hoàn Vũ), kho các chương trình lịch sử tự nhiên (dưới thương hiệu BBC Earth), và trang hướng dẫn du lịch Lonely Planet, bây giờ đã được bán cho tỉ phú Brad Kelley.
Chi tiêu
Trụ sở và các văn phòng
Broadcasting House ở Portland Place, Luân Đôn, là trụ sở chính thức của BBC. Đây là ngôi nhà của sáu trong mười mạng lưới phát thanh quốc gia BBC gồm BBC Radio 1, BBC Radio 1Xtra, Mạng BBC châu Á, BBC Radio 3, BBC Radio 4, và BBC Radio 4 Extra. Đó cũng là nhà của BBC News, vốn được chuyển từ BBC Television Centre vào năm 2013. Trên mặt trước của tòa nhà là bức tượng của Prospero và Ariel, nhân vật trong vở kịch The Tempest của William Shakespeare, chạm khắc bởi Eric Gill. Việc sửa chữa lại Broadcasting House đã bắt đầu vào năm 2002, và được hoàn thành vào năm 2013.
Cho đến khi BBC Television Centre đóng cửa vào cuối tháng 3 năm 2013, trụ sở Truyền hình BBC đã được đặt tại BBC Television Centre. Cơ sở này đã tổ chức một số các chương trình nổi tiếng trong những năm qua, tên gọi và hình ảnh của nó rất quen thuộc với nhiều người dân Anh. Gần đó, khu phức hợp BBC White City chứa nhiều văn phòng chương trình, đặt trong Centre House, Trung tâm Truyền thông và Trung tâm phát sóng. Nó nằm trong khu vực xung quanh Bush Shepherd nơi mà phần lớn các nhân viên BBC làm việc.
Là một phần của việc tái cấu trúc lại tài sản của BBC, toàn bộ hoạt động BBC News chuyển từ Trung tâm tin tức ở BBC Television Centre tới Broadcasting House đã được tân trang lại để tạo ra nơi được mô tả là "một trong những trung tâm phát sóng trực tiếp lớn nhất thế giới". BBC News Channel và BBC World News cũng chuyển đến cơ sở này vào đầu năm 2013. Broadcasting House tại cũng là nhà của hầu hết các đài phát thanh quốc gia của BBC và BBC World Service. Phần chính của kế hoạch này liên quan đến việc phá dỡ của hai phần mở rộng sau chiến tranh của tòa nhà và xây dựng lại một phần mở rộng được thiết kế bởi bởi Richard MacCormac của MJP Architects. Động thái này sẽ tập trung hoạt động ở BBC Luân Đôn, cho phép họ bán BBC Television Centre, dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2016.
Ngoài các kế hoạch trên, BBC đang trong quá trình xây dựng và sản xuất nhiều chương trình bên ngoài Luân Đôn, liên quan đến các trung tâm sản xuất như Belfast, Cardiff, Glasgow và Greater Manchester như một phần của chương trình 'Dự án BBC North' mà một số bộ phận chính, bao gồm BBC Tây Bắc, BBC Manchester, BBC Sport, BBC Children's, CBeebies, radio 5 Live, BBC radio 5 Live Sports Extra, BBC Ăn sáng, BBC Learning và BBC Philharmonic đều di chuyển từ địa điểm trước đó của chúng là Luân Đôn hoặc New Broadcasting House, Manchester chuyển tới cơ sở sản xuất MediaCityUK ở Salford rộng 200-acre (80 ha), từ đó sẽ trở thành hoạt động nhân sự lớn nhất ngoài Luân Đôn.
Cùng với hai địa điểm chính tại Luân Đôn (Broadcasting House và White City), có bảy trung tâm sản xuất quan trọng khác của BBC ở Anh, chuyên sản xuất chương trình khác nhau. Broadcasting House Cardiff là nhà của BBC Cymru Wales, chuyên sản xuất phim truyền hình. Mở từ Tháng 10 năm 2011, và có 7 hãng phim mới, Roath Lock được chú ý như là nơi sản xuất Doctor Who và Casualty. Broadcasting House Belfast, nhà của BBC Northern Ireland, chuyên sản xuất phim kịch và phim hài, đã tham gia hợp tác sản xuất với các công ty độc lập và đáng chú ý nhất là với RTÉ tại Cộng hòa Ireland. BBC Scotland, nằm ở Pacific Quay, Glasgow là một nhà sản xuất lớn của chương trình, trong đó có nhiều chương trình đố vui.
BBC cũng hoạt động một số trung tâm thu thập tin tức tại các địa điểm khác nhau trên thế giới, trong đó cung cấp tin tức về khu vực đó tới hoạt động tin tức quốc gia và quốc tế.
Các dịch vụ
Truyền hình
BBC hoạt động một số kênh truyền hình ở Anh trong đó bao gồm BBC One và BBC Two là các kênh truyền hình hàng đầu. Ngoài hai kênh này, BBC hoạt động nhiều đài kỹ thuật số: BBC Four, BBC News, BBC Quốc hội (BBC Parliament), và hai kênh trẻ em, CBBC và CBeebies. Truyền hình kỹ thuật số hiện nay đang được sử dụng rộng rãi ở Anh, với tín hiệu truyền hình tương tự (analog) hoàn toàn loại bỏ vào tháng năm 2012. BBC cũng điều hành dịch vụ truyền hình internet BBC Three, vốn ngừng phát sóng như một kênh truyền hình tuyến tính vào tháng 2 năm 2016.
BBC One là một dịch vụ truyền hình cung cấp tin tức địa phương và chương trình địa phương khác hằng ngày. Những biến thể rõ rệt hơn của BBC One là Bắc Ireland (Northern Ireland), Scotland và xứ Wales, nơi các chương trình chủ yếu được thực hiện tại địa phương trên BBC One và Two, và lịch chương trình có thể thay đổi theo địa phương. BBC Two là kênh đầu tiên được truyền tải trên đường dây 625 vào năm 1964, sau đó trở thành dịch vụ truyền hình màu có quy mô nhỏ từ năm 1967. BBC One theo sau vào tháng 11 năm 1969.
Một kênh truyền hình tiếng Gaelic mới, BBC Alba, đã được ra mắt vào tháng 9 năm 2008. Đây cũng là lần đầu tiên một kênh đa thể loại đến hoàn toàn từ Scotland với gần như tất cả các chương trình của nó được thực hiện tại Scotland. Kênh này ban đầu chỉ có sẵn thông qua vệ tinh, nhưng kể từ tháng 6 năm 2011 đã có sẵn cho người xem ở Scotland trên hệ thống Freeview và truyền hình cáp.
BBC hiện đang phát đồng thời tín hiệu HD cho tất cả các kênh truyền hình trên toàn quốc ngoại trừ BBC Quốc hội (BBC Parliament). Cho đến ngày 26 tháng 3 năm 2013, có một kênh riêng biệt gọi là BBC HD, sau đó bị BBC Two HD thay thế. BBC HD được ra mắt vào ngày 09 tháng 6 năm 2006, sau 12 tháng thử nghiệm các chương trình phát sóng. Nó đã trở thành một kênh riêng biệt vào năm 2007, và trình chiếu các chương trình HD đồng thời với mạng chính. BBC đã sản xuất các chương trình thuộc định dạng này trong nhiều năm, và nói rằng họ hy vọng sẽ sản xuất 100% các chương trình mới với định dạng HD vào năm 2010. Vào ngày 3 tháng 11 năm 2010, một phiên bản độ nét cao của BBC One đã được ra mắt tên là BBC One HD, và BBC Two HD ra mắt vào ngày 26 tháng 3 năm 2013 đã thay thế cho BBC HD.
Tại Cộng hòa Ireland, Bỉ, Hà Lan và Thụy Sĩ, các kênh BBC có sẵn theo một số cách. Tại các quốc gia khai thác kỹ thuật số và truyền hình cáp sẽ có các kênh BBC bao gồm BBC One, BBC Two và BBC World News, mặc dù khán giả tại Cộng hòa Ireland có thể nhận được dịch vụ BBC qua "rò rỉ tín hiệu" từ các máy phát ở Bắc Ireland và xứ Wales (Cộng hòa Ireland không thuộc liên hiệp Anh), hoặc thông qua "thiết bị lệch sóng" mà phát lại chương trình phát sóng từ Anh.
Từ năm 1975, đài BBC cũng đã cung cấp các chương trình truyền hình của họ cho British Force Broadcasting Service Anh (BFBS), cho phép các thành viên của quân đội Anh phục vụ ở nước ngoài được xem bốn kênh truyền hình. Từ 27 tháng 3 năm 2013, BFBS sẽ mang phiên bản của BBC One và BBC Two, bao gồm các chương trình cho trẻ em từ CBBC, cũng như các chương trình từ BBC Three trên một kênh mới gọi là BFBS Extra.
Kể từ năm 2008, tất cả các kênh BBC có sẵn để xem trực tuyến thông qua dịch vụ BBC iPlayer. Tuy vậy dịch vụ này chỉ có sẵn tại nước Anh và không được phép xem tại nước ngoài.
Vào tháng 2 năm 2014, Tổng giám đốc Tony Hall công bố rằng các công ty cần tiết kiệm 100 triệu Bảng Anh. Vậy là vào tháng 3 năm 2014, đài BBC khẳng định kế hoạch biến BBC Three để trở thành một kênh truyền hình Internet.
Radio
BBC có mười đài phát thanh phục vụ toàn bộ Vương quốc Anh, cùng với sáu đài nằm trong "vùng quốc gia" (Wales, Scotland và Bắc Ireland), và 40 đài phát thanh địa phương khác phục vụ khu vực của nước Anh. Trong số mười đài quốc gia, có 5 đài chính và có sẵn trên FM và/hoặc PM cũng như DAB và trực tuyến. Đó là BBC Radio 1, cung cấp âm nhạc mới và là được chú ý bởi bảng xếp hạng âm nhạc của BBC; BBC Radio 2 phát nhạc hiện đại cho người lớn, nhạc đương đại, nhạc đồng quê và nhạc soul cùng nhiều thể loại khác; BBC Radio 3 phát âm nhạc cổ điển và nhạc jazz cùng với một số chương trình trò chuyện có tính chất văn hóa vào buổi tối; BBC Radio 4, tập trung vào chương trình thời sự, cùng với các chương trình bao gồm kịch và hài kịch; và BBC Radio 5 Live phát sóng các chương trình tin tức 24 giờ, thể thao và đối thoại.
Ngoài năm đài này, BBC cũng vận hành thêm năm trạm phát sóng trên DAB và trực tuyến. Những trạm này bổ sung và mở rộng cho năm trạm lớn và đã được đưa ra vào năm 2002. BBC Radio 1Xtra bắt cặp với Radio 1, phát các chương trình nhạc black mới và nhạc urban. BBC Radio 5 Live Sports bắt cặp với 5 Live và cung cấp thêm các chương trình phân tích về thể thao. BBC Radio 6 Music cung cấp các thể loại nhạc Alternative và được chú ý như là một bệ đỡ cho các nghệ sĩ mới.
BBC Radio 7, sau này đổi tên BBC Radio 4 Extra, cung cấp các chương trình tài liệu, hài kịch và chương trình cho trẻ em. Ngoài ra, các chương trình mới để bổ sung cho chương trình của Radio 4 cũng đã được giới thiệu như Ambridge Extra và Desert Island Discs revisited. BBC Asian Network, cung cấp các chương trình âm nhạc, trò chuyện và tin tức cho khu vực châu Á.
Cùng với các đài quốc gia, đài BBC cũng cung cấp 40 đài BBC Radio địa phương ở Anh và quần đảo Channel và được đặt tên bởi thành phố cụ thể và các khu vực xung quanh mà nó bao trùm (ví dụ như BBC Radio Bristol), quận hoặc khu vực (ví dụ như BBC Three Counties radio), hoặc khu vực địa lý (ví dụ như BBC Radio Solent bao gồm bờ biển trung tâm phía nam). Có thêm sáu trạm phát sóng ở những khu vực BBC gọi là "vùng quốc gia": Wales, Scotland và Bắc Ireland, bao gồm BBC Radio Wales (bằng tiếng Anh), BBC Radio Cymru (ở xứ Wales), BBC Radio Scotland (bằng tiếng Anh), BBC Radio nan Gaidheal (ở Scotland Gaelic), BBC Radio Ulster và BBC Radio Foyle.
Đài quốc gia Anh của BBC cũng được phát sóng tại quần đảo Channel và Isle of Man (mặc dù những vùng này nằm ở bên ngoài Vương quốc Anh), và trước đó có hai đài địa phương - BBC Guernsey và BBC Radio Jersey. Không có đài phát thanh địa phương của BBC, tuy nhiên, tại Isle of Man, một phần vì đảo từ lâu đã được phục vụ bởi các đài độc lập thương mại, Manx Radio, mà ra đời trước BBC Radio địa phương. Dịch vụ BBC trong các vùng này được cấp vốn từ phí bản quyền truyền hình được thiết lập ở mức tương tự như những người dân phải nộp ở Anh, mặc dù được thu tại địa phương. Đây là chủ đề của một số tranh cãi tại Isle of Man. Đảo không có dịch vụ BBC Radio địa phương, cũng như thiếu một dịch vụ tin tức truyền hình địa phương được cung cấp bởi BBC Channel Islands.
Đối với khán giả trên toàn thế giới, BBC World Service cung cấp tin tức, thời sự và thông tin bằng 28 ngôn ngữ, bao gồm cả tiếng Anh, trên toàn thế giới và có sẵn tại hơn 150 thành phố. BBC được phát sóng trên toàn thế giới bằng đài phát thanh sóng ngắn, DAB và trực tuyến và có một lượng khán giả hàng tuần ước tính là 192 triệu, và các trang web có một lượng khán giả là 38 triệu người mỗi tuần. Dịch vụ này được tài trợ bởi một khoản trợ cấp từ Quốc hội, quản lý bởi Bộ Ngoại giao, tuy nhiên sau khi Chính phủ xem xét chi tiêu trong năm 2011, nguồn kinh phí này sẽ bị cắt giảm, và nó sẽ được gây quỹ lần đầu tiên thông qua lệ phí truyền hình. Trong những năm gần đây, một số dịch vụ của BBC World bị cắt giảm; dịch vụ của Thái đã kết thúc vào năm 2006, cũng như các ngôn ngữ Đông Âu, với nguồn lực chuyển hướng vào hệ thống truyền hình tiếng Ả Rập của BBC.
Các chương trình của BBC cũng có sẵn với các dịch vụ khác và ở các nước khác. Kể từ năm 1943, đài BBC đã cung cấp chương trình phát thanh cho British Forces Broadcasting Service, mà phát sóng ở các nước mà quân đội Anh đóng quân. BBC Radio 1 cũng được phát tại Hoa Kỳ và Canada trên Sirius XM Radio (chỉ phát trực tuyến).
Tin tức
BBC News là đài thu thập tin tức lớn nhất trên thế giới, cung cấp dịch vụ cho đài phát thanh trong nước cũng như mạng lưới truyền hình như BBC News, BBC Quốc hội (BBC Parliament) và BBC World News. Thêm vào đó, những tin tức này có sẵn trên các dịch vụ BBC Red Button và BBC News Online. Thêm vào đó, BBC đã phát triển những cách thức mới để truy cập BBC News, kết quả là đã đưa ra các dịch vụ trên BBC Mobile, khiến cho dễ tiếp cận với điện thoại di động và PDA, cũng như phát triển các thông báo bằng email, truyền hình kỹ thuật số, và trên các máy tính thông qua một thông báo trên máy tính
Internet
Sự hiện diện trực tuyến của BBC bao gồm một trang web tin tức và lưu trữ. Nó đã được ra mắt với tên BBC Online, trước khi được đổi tên thành BBCi, sau đó là bbc.co.uk, trước khi nó được đổi tên lại thành BBC Online. Trang web được tài trợ bởi Lệ phí giấy phép nhưng sử dụng công nghệ GeoIP, cho phép quảng cáo được xuất hiện trên trang web khi được truy cập từ bên ngoài của Vương quốc Anh. BBC tuyên bố trang web này là" trang web dựa trên nội dung phổ biến nhất châu Âu " và nói rằng 13,2 triệu người ở Anh truy cập trang web mỗi ngày. Theo hệ thống TrafficRank của Alexa, trong tháng 7 năm 2008 BBC Online là trang web bằng tiếng Anh phổ biến thứ 27 trên thế giới và thứ 46 trong danh sách tất cả các trang web phổ biến nhất.
Trung tâm của trang web này là trang chủ, bố trí theo hình thức mô-đun. Người dùng có thể lựa chọn mô-đun nào và thông tin nào được hiển thị trên trang chủ, từ đó cho phép người dùng cá nhân hóa nó. Hệ thống này lần đầu tiên được bắt đầu thử nghiệm vào tháng 12 năm 2007, trở thành chính thức vào tháng 2 năm 2008 và đã trải qua một số thay đổi về mặt thẩm mỹ kể từ đó. Trang chủ sau đó đã liên kết với một số các trang web khác, chẳng hạn như BBC News Online, Thể thao (Sport), Thời tiết (Weather), truyền hình và radio. Là một phần của trang web, mỗi chương trình trên hệ thống truyền hình hoặc Radio của BBC đều có trang riêng của mình, với các chương trình lớn hơn sẽ có website riêng.
Phần lớn các trang web cho phép người dùng xem và nghe lại phần lớn các chương trình truyền hình và phát thanh trong bảy ngày sau khi phát sóng sử dụng nền tảng BBC iPlayer. Nền tảng này được ra mắt vào ngày 27 tháng 7 năm 2007, và ban đầu sử dụng công nghệ ngang hàng (peer-to-peer) và công nghệ DRM để cung cấp nội dung phát thanh và truyền hình trong bảy ngày và cho phép sử dụng ngoại tuyến đến 30 ngày. Ngoài ra, thông qua việc tham gia vào nhóm Creative Archive Licence, bbc.co.uk cho phép tải một cách hợp pháp một số chương trình thông qua internet.
BBC thường cho cách chương trình học tập như là một phần của dịch vụ trực tuyến, hoạt động các dịch vụ như BBC Jam, Learning Zone Class Clips và cũng hoạt động các dịch vụ như BBC Webwise và First Click được thiết kế để dạy mọi người làm thế nào để sử dụng internet. BBC Jam là một dịch vụ trực tuyến miễn phí, truyền qua kết nối băng thông rộng và hẹp, cung cấp nguồn tài nguyên tương tác chất lượng cao được thiết kế để khuyến khích việc học ở nhà và trường. Các nội dung ban đầu đã sẵn có vào tháng 1 năm 2006 tuy nhiên BBC Jam đã bị đình chỉ vào ngày 20 tháng năm 2007 do cáo buộc bởi Ủy ban châu Âu cho rằng nó đã làm tổn hại đến lợi ích của bộ phận thương mại của truyền hình
Trong những năm gần đây một số công ty và các chính trị gia lớn đã phàn nàn rằng BBC Online nhận được quá nhiều sự tài trợ từ giấy phép truyền hình, có nghĩa là các trang web khác không thể cạnh tranh với một số lượng lớn các nội dung miễn phí không đi kèm quảng cáo có sẵn trên BBC Online. Một số học giả cho rằng số tiền lệ phí giấy phép cho BBC Online nên được giảm hoặc được thay thế bởi sự tài trợ từ quảng cáo hoặc đăng ký hàng tháng, hoặc giảm số lượng nội dung có sẵn trên trang web. Để đáp trả lại BBC đã thực hiện một cuộc điều tra, và bây giờ đã khởi động một kế hoạch để thay đổi cách thức cung cấp các dịch vụ trực tuyến. BBC Online bây giờ sẽ cố gắng để lấp đầy vào những khoảng trống trên thị trường, và sẽ hướng người dùng tới các trang web khác (Ví dụ, thay vì cung cấp thông tin về các sự kiện ở địa phương và thời gian biểu, người sử dụng sẽ được hướng tới các trang web bên ngoài đã cung cấp thông tin). Một phần của kế hoạch này bao gồm đóng một số trang web, và chuyển hướng nguồn tiền để phát triển các bộ phận khác.
Vào ngày 26 tháng 2 năm 2010, tờ The Times rằng Mark Thompson, Tổng giám đốc BBC, đề xuất rằng thông tin web của BBC sẽ giảm 50%, với số lượng nhân viên bộ phận trực tuyến và ngân sách sẽ giảm 25% trong một nỗ lực để tái cấu trúc quy mô hoạt động của BBC và cho các đối thủ thương mại nhiều cơ hội hơn. Ngày 02 tháng 3 năm 2010, đài BBC thông báo sẽ cắt giảm chi tiêu cho trang web 25% và đóng cửa BBC 6 Music và Asian Network, như là một phần trong kế hoạch của Mark Thompson để làm cho BBC "nhỏ hơn, phù hợp với thời đại số hơn ".
Truyền hình tương tác
BBC Red Button là tên thương hiệu cho dịch vụ truyền hình kỹ thuật số tương tác của BBC, trong đó có sẵn thông qua Freeview (truyền hình số mặt đất), cũng như Freesat, Sky (vệ tinh), và Virgin Media (truyền hình cáp). Không như Ceefax, hệ thống đối tác của dịch vụ analog, BBC Red Button có khả năng hiển thị đầy đủ màu sắc hình ảnh, video, chương trình và có thể được truy cập từ bất kỳ kênh BBC nào. Dịch vụ này cung cấp tin tức, thời tiết và thể thao 24 giờ mỗi ngày, và còn cung cấp thêm các tính năng liên quan đến các chương trình cụ thể tại thời điểm đó. Ví dụ như người xem có thể chơi gameshow ở nhà, để đưa ra tiếng nói cũng như phiếu bầu về ý kiến với các vấn đề, vốn thường được dùng bên cạnh các chương trình như Question Time. Tại một số thời điểm trong năm, khi nhiều sự kiện thể thao diễn ra, một số tin tức về các môn thể thao ít chính thống thường xuyên được đặt trên Red Button cho khán giả xem. Thông thường, các tính năng khác được bổ sung liên quan đến các chương trình đang được phát sóng vào lúc đó, chẳng hạn như việc phát sóng tập phim hoạt hình Dreamland của Doctor Who trong tháng 11 năm 2009.
Hoạt động thương mại
BBC Worldwide Limited là một công ty con của BBC, chịu trách nhiệm về việc khai thác thương mại các chương trình của BBC và các tài sản khác, bao gồm một số đài truyền hình trên toàn thế giới. Nó được hình thành sau việc tái cấu trúc BBC Enterprise, vào năm 1995.
Công ty này sở hữu và quản lý một số đài truyền hình thương mại trên khắp thế giới, hoạt động tại một số vùng lãnh thổ và trên một số nền tảng khác nhau. Kênh BBC Entertainment chiếu chương trình giải trí cho người xem ở Châu Âu, Châu Phi, Châu Á và Trung Đông, cùng với BBC Worldwide, BBC America và BBC Canada (Liên doanh với Corus Entertainment) chiếu chương trình tương tự ở khu vực Bắc Mỹ và BBC UKTV trong khu vực Úc và châu Á. Công ty cũng phát sóng hai kênh dành cho trẻ em, kênh CBeebies quốc tế và BBC Kids, một liên doanh với Knowledge Network Corporation, phát sóng các chương trình thuộc thương hiệu CBeebies và BBC Knowledge. Công ty cũng điều hành kênh BBC Knowledge, phát sóng các chương trình học tập và thực tế, và BBC Lifestyle, phát sóng các chương trình dựa trên các chủ đề thực phẩm, lối sống và sức khỏe. Ngoài ra, BBC Worldwide còn chạy một phiên bản quốc tế của kênh BBC HD và cung cấp các phiên bản HD của kênh BBC Knowledge và BBC America.
BBC Worldwide cũng phân phối kênh tin tức quốc tế 24 giờ BBC World News. Kênh này tách khỏi BBC Worldwide để duy trì tính trung lập của đài, nhưng vẫn được phân phối bởi BBC Worldwide. Kênh này là kênh còn tồn tại lâu đời nhất của loại hình này, và có 50 văn phòng tin tức nước ngoài và phóng viên ở hầu hết các nước trên thế giới. Theo một thống kê chính thức, nó có thể đưa đến hơn 294 triệu hộ gia đình, nhiều hơn đáng kể so với ước tính 200 triệu của CNN. Ngoài các kênh quốc tế này, BBC Worldwide cũng sở hữu, cùng với Scripps Networks Interactive, mạng lưới 10 kênh của UKTV. Các kênh này chứa chương trình của BBC được phát lại trên các kênh tương ứng: Alibi cho phim truyền hình tội phạm; Drama, kênh phim, ra mắt vào năm 2013; Dave; Eden cho thiên nhiên; Gold cho hài kịch; Good Food nấu nướng; Home cho nhà và vườn; Really cho chương trình dành cho phụ nứ; Watch cho giải trí; và Yesterday cho lịch sử.
Ngoài các kênh này, nhiều chương trình của BBC được bán qua BBC Worldwide với các đài truyền hình nước ngoài với phim hài, phim tài liệu và các bộ phim lịch sử được phổ biến nhất. Ngoài ra, tin tức truyền hình BBC xuất hiện hàng đêm trên nhiều trạm dịch vụ phát thanh truyền hình công cộng ở Hoa Kỳ, cũng như lặp lại các chương trình của BBC như EastEnders, và New Zealand trên TVNZ 1.
Ngoài chương trình, BBC Worldwide còn sản xuất các tài liệu để đi kèm với các chương trình. Công ty duy trì cánh tay xuất bản của BBC, BBC Các tạp chí, đã công bố Radio Times cũng như một số tạp chí hỗ trợ các chương trình của BBC như BBC Top Gear, BBC Good Food, BBC Sky vào ban đêm, BBC Lịch sử, BBC Wildlife và BBC Music. Tạp chí BBC đã được bán cho Exponent Private Equity vào năm 2011, kết hợp nó với Origin Publishing (trước đây thuộc sở hữu của BBC Worldwide giữa 2004 và 2006) để thành lập Công ty Truyền thông Trực tuyến.
BBC Worldwide cũng xuất bản sách, đi kèm với các chương trình như Doctor Who dưới thương hiệu BBC Books, phần xuất bản đa số của Random House. Các album nhạc, sách nói và các phần của chương trình phát sóng radio cũng được bán dưới nhãn hiệu BBC Records, với đĩa DVD cũng được bán và được cấp phép với số lượng lớn cho người tiêu dùng ở Anh và nước ngoài dưới nhãn hiệu 2 Entertain. Lập trình lưu trữ và bản ghi âm cổ điển được bán dưới thương hiệu BBC Legends.
Tranh cãi
Trung Quốc và Hồng Kông đình chỉ phát sóng kênh BBC World News
Vào tháng 2 năm 2021, một quyết định của Ofcom (một cơ quan của chính phủ Vương quốc Anh) yêu cầu hủy bỏ giấy phép và ngừng phát sóng của kênh truyền hình CGTN. Thêm vào đó việc đài BBC đưa tin về cuộc đàn áp người Duy Ngô Nhĩ ở Trung Quốc. Chính hai sự việc đó dẫn đến Trung Quốc có động thái ra lệnh cấm phát sóng BBC World News tại nước này. Theo một tuyên bố từ Cơ quan Quản lý Phát thanh và Truyền hình Quốc gia Trung Quốc, các bản tin của BBC World News về Trung Quốc đã "vi phạm các nguyên tắc trung thực và công bằng trong báo chí" và cũng "làm tổn hại đến lợi ích quốc gia của Trung Quốc".
Tại Hồng Kông, kênh truyền hình RTHK (Hồng Kông) đã đình chỉ phát sóng kênh BBC World News sau khi lệnh cấm có hiệu lực ở Trung Quốc
Logo
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chính thức của BBC
BBC News Tiếng Việt
BBC News World Edition (Tin tức Quốc tế BBC)
Công ty truyền thông đại chúng Vương quốc Liên hiệp Anh
Đài truyền hình Anh
BBC
Nhãn hiệu Vương quốc Liên hiệp Anh
Đài phát sóng công cộng
Chương trình và người giành giải Peabody
Khởi đầu năm 1922 ở Anh
|
16851
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A0%20ph%C3%AA%20v%E1%BB%91i
|
Cà phê vối
|
Xem những nghĩa khác của cà phê tại trang Cà phê (định hướng)
Cà phê vối (danh pháp hai phần: Coffea canephora hoặc Coffea robusta) là cây quan trọng thứ hai trong các loài cà phê. Khoảng 39% các sản phẩm cà phê được sản xuất từ loại cà phê này. Nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới là Việt Nam. Các nước xuất khẩu quan trọng khác gồm Brasil, Indonesia, Ấn Độ, Malaysia, Uganda, Côte d'Ivoire. Ở Brasil cà phê vối được gọi với tên là Conilon.
Đặc điểm
Cây cà phê vối có dạng cây gỗ hoặc cây bụi, chiều cao của cây trưởng thành có thể lên tới 10 m. Quả cà phê có hình tròn, hạt nhỏ hơn hạt cà phê chè (tức cà phê arabica). Hàm lượng caffein trong hạt cà phê vối khoảng 2-4%, trong khi ở cà phê chè chỉ khoảng 1-2%.
Giống như cà phê chè, cây cà phê vối 3-4 tuổi có thể bắt đầu thu hoạch. Cây cho hạt trong khoảng từ 20 đến 30 năm. Cà phê vối ưa sống ở vùng nhiệt đới, độ cao thích hợp để trồng cây là dưới 1000 m. Nhiệt độ ưa thích của cây khoảng 24-29°C, lượng mưa khoảng trên 1.000 mm. Cây cà phê vối cần nhiều ánh sáng mặt trời hơn so với cây cà phê chè.
Nguồn gốc, phân bố bản địa
Có nguồn gốc từ các khu rừng cao nguyên ở Ethiopia, C. canephora mọc hoang dã tại Tây và Trung châu Phi, từ Liberia tới Tanzania và về phía nam tới Angola. Nó không được công nhận như một loài của chi Coffea cho tới tận năm 1897, hơn 100 năm sau loài Coffea arabica. Nó cũng được tự nhiên hóa tại Borneo, Polynesia thuộc Pháp, Costa Rica, Nicaragua, Jamaica và Tiểu Antilles.
Trồng và xuất khẩu tại Việt Nam
Cà phê vối chứa hàm lượng caffein cao hơn và có hương vị không tinh khiết bằng cà phê chè, do vậy mà được đánh giá thấp hơn. Giá một bao cà phê vối thường chỉ bằng một nửa so với cà phê chè. Niên vụ 2012- 2013 Việt Nam xuất khẩu khoảng 1,426 triệu tấn (~ 23,77 triệu bao, loại 60 kg/bao) cà phê loại này, chiếm gần một nửa lượng cà phê vối xuất khẩu của toàn thế giới (trên 60 triệu bao). Hiện nay gần 90% diện tích cà phê ở Việt Nam được trồng cà phê vối, 10% trồng cà phê chè, khoảng 1% còn lại được trồng cà phê mít (Coffea excelsa).
Một vài hình ảnh về cà phê vối
Xem thêm
Cà phê
Cây cà phê
Hạt cà phê
Cà phê chè
Cà phê mít
Các nước xuất khẩu cà phê
Tham khảo
Liên kết ngoài
Coffea canephora Pierre ex A.Froehner (tên chấp nhận) Catalogue of Life: 29th July 2014
International Coffee Organization - Tổ chức cà phê thế giới
Cà phê
Thực vật Angola
Thực vật Nigeria
C
Thực vật được mô tả năm 1897
|
16852
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rau%20mu%E1%BB%91ng
|
Rau muống
|
Rau muống (danh pháp hai phần: Ipomoea aquatica) là một loài thực vật nhiệt đới bán thủy sinh thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae), là một loại rau ăn lá. Phân bố tự nhiên chính xác của loài này hiện chưa rõ do được trồng phổ biến khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới., nhưng người ta cho rằng nó là bản địa Cựu thế giới và du nhập vào vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Tân thế giới. Tại Việt Nam, nó là một loại rau rất phổ thông và rất được ưa chuộng.
Các thứ
Ipomoea aquatica var. aquatica: Phân bố rộng khắp vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới toàn thế giới.
Ipomoea aquatica var. heterophylla (Hallier f.) Rendle, 1905 (đồng nghĩa: Ipomoea reptans var. heterophylla Hallier f., 1898): Bản địa Namibia.
Miêu tả
Cây mọc bò, ở mặt nước hoặc trên cạn. Thân rỗng, dày, có rễ mắt, thường không có lông vào mùa nóng, và có lông vào mùa lạnh. Lá hình ba cạnh, đầu nhọn, đôi khi hẹp và dài. Hoa to, có màu trắng hay hồng tím, ống hoa tím nhạt, mọc từng 1-2 hoa trên một cuống. Quả nang tròn, đường kính 7-9 mm, chứa 4 hạt có lông màu hung, đường kính mỗi hạt khoảng 4 mm.
Phân loại
Ở Việt Nam, rau muống có hai loại trắng và tía, mỗi loại có đặc tính riêng. Cả hai loại đều có thể trồng trên cạn hoặc dưới nước. Thông thường thì người ta trồng rau muống trắng trên cạn; còn rau muống tía thường được trồng (hay mọc tự nhiên) dưới nước, nên tục gọi là rau muống đồng (hay rau muống ruộng).
Thành phần hóa học
Rau muống có 92% nước, 3,2% protit, 2,5% gluxit, 1% xenluloza, 1,3% tro. Hàm lượng muối khoáng rất cao: trong đó có khoảng 100 mg% calci, 37 mg% phosphor, 1,4 mg% sắt. Các vitamin gồm có 2,9% caroten, 23 mg% vitamin C, 0,10 mg% vitamin B1, 0,7% vitamin PP, 0,09 mg% vitamin B2. Ngoài ra còn chứa nhiều chất nhầy.
Công dụng
Công dụng
Từ rau muống, cách đơn giản nhất là luộc lên. Và tùy theo từng vùng, người ta có thể chấm với nước mắm, xì dầu, chao, mắm tép và tương (đặc biệt là tương Bần). Nước của rau muống luộc cũng thường được người dân Việt Nam uống pha với chanh sau bữa ăn. Tại Việt Nam xưa (làng Thanh Chiểu nay là Sen Chiểu - Phúc Thọ - Hà Nội) đã từng có loại rau muống được nuôi trồng rất cầu kỳ bằng cách cho ngọn rau mọc cuộn trong những chiếc vỏ ốc rỗng, để lấy những ngọn rau muống trắng nõn và mập mạp làm thức ăn....
Ngoài rau muống luộc, còn có rau muống xào tỏi (có thể gia chút mắm tôm theo truyền thống); làm nộm rau muống với lạc rang giã dập, giấm, đường, tỏi, ớt; gia vào canh riêu cua hoặc canh cua khoai sọ thay cho rau rút, ăn với lẩu gà, làm rau muống nướng. Cũng thường thấy rau muống được chẻ ra ăn sống với các loại rau thơm khác. Mỗi cách đều có hương vị riêng và tùy sở thích của từng vùng, từng miền mà cách chế biến có khác nhau. Khuyến cáo: rau muống ăn sống phải được rửa kỹ, ngâm nước muối hoặc nước ozone để khử trùng.
Dược lý
Chữa bệnh đái tháo đường. Đắp vết loét do bệnh zona.
Thơ văn
Có một bài thơ của Trần Tuấn Khải nhắc đến món ăn rau muống luộc như sau:
Anh đi anh nhớ quê nhà,
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
Nhớ người một nắng hai sương,
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
A
Muống
Thực vật ăn được
Thực vật được mô tả năm 1775
Thực vật châu Á
Thực vật châu Phi
Thực vật châu Úc
Thực vật châu Mỹ
|
16855
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sarge
|
Sarge
|
Sarge là tên mã của bản phân phối Debian GNU/Linux phiên bản 3.1. Nó được đặt theo tên của nhân vật Sarge trong phim hoạt hình Toy Story, và hầu hết tên mã của các phiên bản Debian GNU/Linux đều được đặt theo tên của các nhân vật trong phim hoạt hình này.
Sarge được chuyển từ chế độ thử nghiệm (testing) lên chế độ ổn định (stable) ngày 6 tháng 6 năm 2005, và sự nâng cấp này được cộng đồng sử dụng Debian rất hoan nghênh vì trước đó phiên bản Woody (3.0) giữ vị trí ổn định một thời gian rất lâu khiến nhiều hệ thống sử dụng Debian ổn định gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cấp gói (package) mới. (Woody được đưa vào chế độ ổn định ngày 19 tháng 7 năm 2002.) Ngày phát hành của Sarge đã được dời rất nhiều lần vì lý do các gói chưa đủ ổn định về khả năng sử dụng và bảo mật (security) trong môi trường chính thức.
Sarge có thể được cài đặt bằng bộ cài đặt Debian, một kiểu cài đặt mới và dễ dàng hơn trước với khả năng tự động dò tìm các thiết bị phần cứng và tự động cấu hình X Window System. Các cấu hình sau cài đặt cũng được làm cho dễ dàng hơn nhờ vào sự tích hợp công cụ debconf trong hầu hết các gói cài đặt (package).
Các gói cài đặt chính
Các gói cài đặt chính trong bản phân phối này gồm có:
Nhân Linux 2.4.27 và 2.6.8
KDE 3.3
GNOME 2.8
XFree86 4.3.0
Apache 1.3.33 và 2.0.54
Perl 5.8.4
Python 2.3.5 và 2.4.1
MySQL 4.0.24 and 4.1.11a
Bộ trình dịch GNU 3.3.5
Mozilla 1.7.8
Mozilla Thunderbird 1.0.2
Mozilla Firefox 1.0.4
GIMP 2.2.6
OpenOffice.org 1.1.3
Các triến trúc phần cứng
Tại thời điểm phát hành, Sarge cũng giống như Woody hỗ trợ 11 kiến trúc máy tính:
Alpha
ARM
HP PA-RISC
Intel x86
Intel IA-64
Motorola 680x0
MIPS
MIPS (bởi DEC)
PowerPC
IBM S/390
SPARC
Sau 3 ngày phát hành (9 tháng 6 năm 2005), phiên bản Sarge hỗ trợ kiến trúc AMD64 cũng đã được đưa vào chế độ ổn định. Đây là phiên bản Debian cho AMD64 đầu tiên mặc dù là trong đợt phát hành không chính thức.
Xem thêm
Woody - phiên bản ổn định 3.0
Sid - tên mã cho các phiên bản không ổn định
Etch - phiên bản đang thử nghiệm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin chính thức phát hành Sarge
Debian
|
16865
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%B2%20xo
|
Lò xo
|
Lò xo (từ tiếng Pháp: ressort) là các vật thể đàn hồi được sử dụng trong các hệ thống cơ học. Lò xo được phân thành hai loại:
biến dạng theo ý muốn
có lực đàn hồi theo ý muốn
Các lò xo thường có một vị trí cân bằng khi "nghỉ" (không có ngoại lực tác động), nhưng cũng có lò xo có nhiều vị trí nghỉ. Lò xo trên lý thuyết chuyển hóa toàn bộ công năng của ngoại lực khi tác động thành thế năng đàn hồi, và giải phóng toàn bộ thế năng này trở lại thành công cơ học khi không có ngoại lực. Thực tế, không có lò xo như vậy. Lò xo thực tế luôn tiêu hao một phần công năng ngoại lực thành nhiệt năng hay năng lượng khác không phục hồi được.
Từ "lò xo" trong tiếng Việt được phiên âm từ le ressort trong tiếng Pháp.
Lịch sử
Lò xo đầu tiên được loài người phát minh là cung tên, một mảnh gỗ cong và đàn hồi, có tác dụng dự trữ năng lượng khi uốn cong bằng tay và giải phóng năng lượng này thành động năng của mũi tên. Các bức vẽ cổ cho biết cung tên đã được sử dụng từ cách đây 10000 năm.
Phân loại
lò xo lá (thấy trong chuột máy tính dây rút)
lò xo theo trục (kiểu thường ta vẫn thấy)
Ứng dụng
Ngày nay, lò xo được ứng dụng rộng rãi. Một số ví dụ như:
lực kế, cân trọng lượng... trong khoa đo lường
giảm xóc xe cộ
phát âm (chuông, loa phóng thanh...)
lưu trữ năng lượng (dây cót đồng hồ)
công tắc điện
bám giữ vật (kẹp quần áo)
bút bi
Liên hệ lực đàn hồi theo biến dạng
Đa số lò xo tuân theo liên hệ tuyến tính giữa lực đàn hồi và biến dạng (định luật Hooke). Hệ số đàn hồi, hay độ cứng, của lò xo được định nghĩa là hằng số k:
(N/m) hay (Nm/radian)
Với F hay T là lực (với lò xo kéo/nén) hay mômen lực (với lò xo quay); x hay là độ co giãn hay góc quay. Nghịch đảo độ cứng, 1/k, là độ dẻo.
Lực của lò xo luôn ngược hướng với chiều biến dạng. Tức là lực lò xo luôn có xu hướng làm vật trở về trạng thái không biến dạng. Do dó, lực lò xo còn gọi là lực hồi phục, giúp vật trở lại vị trí cân bằng, luôn hướng về vị trí cân bằng. Có thể thể hiện hướng của lực lò xo:
F = -kx
với x là độ rời khỏi vị trí cân bằng, k là hệ số đàn hồi hay độ cứng của lò xo.
Thực tế nhiều ứng dụng đòi hỏi các lò xo có liên hệ giữa lực và biến dạng không tuyến tính. Bảng dưới tóm tắt các trường hợp cơ bản.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cơ học
L
fi:Vieteri
|
16866
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Adobe%20Flash
|
Adobe Flash
|
Adobe Flash (trước đây là Macromedia Flash và trước đó FutureSplash), hay còn gọi một cách đơn giản là Flash, được dùng để chỉ chương trình sáng tạo đa phương tiện (multimedia) lẫn phần mềm dùng để hiển thị chúng Macromedia Flash Player.
Chương trình điện toán này được viết và phân phối bởi Adobe Systems (công ty đã mua Macromedia). Flash dùng kỹ thuật đồ họa vectơ và đồ họa điểm (raster graphics). Ngoài ra Flash còn có một ngôn ngữ văn lệnh riêng gọi là ActionScript và có khả năng truyền và tải luồng âm thanh hoặc hình ảnh. Đúng ra thì từ Macromedia Flash nên được dùng để chỉ chương trình tạo ra các tập tin Flash. Còn từ Flash Player nên được dành để chỉ ứng dụng có nhiệm vụ thi hành hay hiển thị các tập tin Flash đó. Tuy vậy, chữ Flash được dùng để chỉ cả hai chương trình nói trên.
Ngày 25 tháng 7 năm 2017, Adobe thông báo tới cuối năm 2020 công ty sẽ dừng cập nhật và cung cấp Adobe Flash Player.
Ứng dụng của Flash
Flash là công cụ để phát triển các ứng dụng như thiết kế các phần mềm mô phỏng. Sử dụng ngôn ngữ lập trình ActionScript để tạo các tương tác, các hoạt cảnh trong phim. Điểm mạnh của Flash là có thể nhúng các file âm thanh, hình ảnh động. Người lập trình có thể chủ động lập các điều hướng cho chương trình. Flash cũng có thể xuất bản đa dạng các file kiểu html, exe, jpg để phù hợp với các ứng dụng của người sử dụng như trên Web, CD,
Các tập tin Flash, thường thường mang phần mở rộng là.swf (Shockwave Flash.[2]) và có thể hiện thị bởi các chương trình duyệt trang Web hay ứng dụng Flash Player. Các tập tin Flash thường là hoạt họa, quảng cáo hay các thành phần trang trí của các trang Web. Gần đây Flash còn được sử dụng để tạo ra các ứng dụng Internet phong phú. Với một kích thước tương tự, một tập tin Flash có thể chứa nhiều thông tin hơn là một tập tin hình dạng GIF hay dạng JPEG.
Ưu điểm lớn nhất của Flash - với đồ họa dạng vecto - là kích thước file rất nhỏ. Thuận tiện cho việc truyền tải dữ liệu qua Internet
Phiên bản mới nhất của Flash (8/2007)- Flash 9 (Flash IDE CS 3, Flash Player 9) với actionscript 3 (so với actionscript 2 trong flash
Định dạng tập tin
Các tập tin Flash, thường thường mang phần mở rộng là .swf và có thể hiện thị bởi các chương trình duyệt trang Web hay ứng dụng Flash Player. Các tập tin Flash thường là hoạt họa, quảng cáo hay các thành phần trang trí của các trang Web. Gần đây Flash còn được sử dụng để tạo ra các ứng dụng Internet phong phú. Với một kích thước tương tự, một tập tin Flash có thể chứa nhiều thông tin hơn là một tập tin hình dạng GIF hay dạng JPEG.
Ưu điểm
Ưu điểm lớn nhất của Flash - với đồ họa dạng vectơ - là kích thước file rất nhỏ. Thuận tiện cho việc truyền tải dữ liệu qua Internet. Phiên bản mới nhất của Flash cho đến năm 2011 là Flash CS5 và Actionscript 3.0.
Adobe Flash hiện nay
Năm 2017, do những lỗ hổng bảo mật và Flash đang mất dần chỗ đứng vì những ứng dụng như HTML5, nên Adobe đã ra thông báo chính thức khai tử Adobe Flash Player vào ngày 31 tháng 12 năm 2020.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Detect if Flash Player is installed
Actionscript.org – Community Resource / Tutorials
Phần mềm hoạt hình
Internet
Thiết kế web
Lập trình Web
Adobe
Định dạng tập tin hình ảnh
Adobe Flash
Phát minh của Hoa Kỳ
Phần mềm năm 1996
Phần mềm C++
Phần mềm đa nền tảng
Phần mềm phát triển trò chơi máy tính
Nền tảng máy tính
|
16874
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Duy%20t%C3%A2m%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Duy tâm (định hướng)
|
Chủ nghĩa duy tâm: Một khái niệm triết học về xu hướng tin tưởng vào sự tồn tại của thượng đế hay xu hương tin tưởng vào Tâm linh
Duy tâm (phật học): Danh từ Phật giáo đồng nghĩa với Duy thức ám chỉ rằng ''mọi thứ đều do tâm thức con người mà ra'.
|
16885
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20Minh%20Ch%C3%ADnh
|
Hoàng Minh Chính
|
Hoàng Minh Chính (16 tháng 11 năm 1920 – 7 tháng 2 năm 2008) là một nhân vật bất đồng chính kiến người Việt Nam, cựu Tổng thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam và nguyên là Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin (Marx-Lenin).
Tiểu sử
Hoàng Minh Chính tên thật là Trần Ngọc Nghiêm, bí danh Lê Hồng, sinh ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, tham gia cách mạng từ năm 1937. Ông vào Đảng Cộng sản Đông Dương vào năm 1939.
Tháng 10 năm 1940 ông bị thực dân Pháp bắt, đưa ra toà án binh xét xử 10 năm tù biệt xứ, 10 năm khổ sai. Năm 1943, nhân đế quốc Pháp chuyển tù nhân từ Sơn La về Hoả Lò để đưa đi Côn Đảo, ông đã cùng những người khác tổ chức vượt ngục. Ra ngoài, ông đã bắt được liên lạc với tổ chức để tiếp tục hoạt động và sau đó tham gia Đại hội Quốc dân ở Tân Trào.
Trong kháng chiến chống Pháp, năm 1946 ông chịu trách nhiệm đánh Trường bay Gia Lâm, rồi lên Việt Bắc đảm nhận nhiều công tác đoàn thể, sau hòa bình về Hà Nội tiếp tục làm công tác đoàn thể.
Năm 1947, ông làm Bí thư Đảng đoàn Trung ương Đảng kiêm Tổng Thư ký Đảng Dân chủ Việt Nam.
Năm 1948 ông được cử sang phụ trách Thanh vận Trung ương, làm Ủy viên Thường vụ Trung ương Đoàn khóa 1, rồi Bí thư Đoàn Thanh niên Cứu quốc khóa 2, rồi làm Tổng Đoàn trưởng Đoàn Thanh niên Việt Nam, Tổng Thư ký Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Ông từng dẫn đầu các đoàn đại biểu Thanh niên sinh viên Việt Nam đi dự các đại hội Festival Quốc tế.
Ông đã từng giữ những chức vụ cao trong bộ máy nhà nước như: Phó Chủ nhiệm Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin.
1957, ông được cử làm trưởng đoàn Cán bộ cao cấp của Trung ương sang học tại trường Đảng Cao cấp của Liên Xô.
1961, ông về công tác tại Ủy ban Khoa học nhà nước, làm Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội.
1967, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khai trừ ông ra khỏi đảng vì ông thuộc số những người theo chủ nghĩa xét lại, không tán thành Nghị quyết 9 của Đảng Cộng sản Việt Nam. Và muốn thay đổi theo đường lối Đệ tứ Cộng sản
1967-1973, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đưa ông đi tập trung cải tạo. Ông là một trong những nhân vật chính trong Vụ án Xét lại Chống Đảng.
1973-1976, ông bị quản chế tại Sơn Tây.
Tháng 6 năm 1995-tháng 6 năm 1996, chính quyền bắt giữ và xét xử theo pháp luật Việt Nam, ông bị tù 1 năm với tội trạng "lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích Nhà nước, tổ chức xã hội và công dân". Tổng cộng ông đã bị 3 lần tù đày, gần 20 năm trời giam giữ và quản chế.
Sau khi ra tù, ông vẫn tiếp tục viết đơn thư khiếu nại, vận động, yêu cầu Đảng và chính quyền Việt Nam "giải oan" cho vụ án "nhóm Xét lại chống Đảng"; tuyên truyền phát tán tài liệu, vận động người tham gia góp ý cho bản dự thảo "Thách thức và triển vọng".
Tháng 4 năm 1998, ông cùng với Lê Hồng Hà bàn việc chuyển hướng hoạt động sang đấu tranh với mục đích thành lập "Hội nhân dân chống tham nhũng".
Ngày 16 tháng 1 năm 2000, ông gửi thư ngỏ cho Tổng thống Hoa Kỳ, nói rằng ở Việt Nam chưa có tự do báo chí, tự do ngôn luận..., những vấn đề mà Mỹ có thể can thiệp.
Tháng 8 năm 2005, ông sang Mỹ chữa bệnh, diễn thuyết nhiều lần, công khai phê phán Đảng Cộng sản Việt Nam và chính quyền Việt Nam.
Ngày 28 tháng 9 năm 2005, ông đến phát biểu tại Đại học Harvard về đề tài dân chủ cho Việt Nam.
Ngày 29 tháng 9 năm 2005, ông ra điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Hoa Kỳ để, như ông nói, "nêu ra những vụ đàn áp tôn giáo, khủng bố tàn bạo" ở Việt Nam, ông kiến nghị với Quốc hội Hoa Kỳ làm mạnh tay hơn nữa, không để Việt Nam nói một đằng, làm một nẻo."
Sau đó, ông giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động của những người bất đồng chính kiến: vận động lấy chữ ký đòi hủy bỏ điều 4 của Hiến pháp Việt Nam và nghị định số 31/CP, tìm cách phát triển lực lượng, cùng với Phạm Quế Dương, Trần Khuê và những nhân vật bất đồng chính kiến khác, viết đơn và kêu gọi thành lập Hội nhân dân chống tham nhũng.
Ông nhiều lần cùng các nhân vật bất đồng chính kiến khác tổ chức gặp mặt nhằm công khai tổ chức, và tái lập Đảng Dân chủ cùng nhiều hoạt động khác. Ông cũng đã soạn một số tài liệu gửi ra nước ngoài cho một số tổ chức nhân quyền, trả lời phỏng vấn về tình hình dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam.
Ông cho rằng học thuyết của Karl Marx và Friedrich Engels có sai sót cơ bản và trong việc thực hiện ở các quốc gia cộng sản đã có sai lầm nghiêm trọng - chủ nghĩa mà có thời ông, trên cương vị Viện trưởng Viện Triết học Mác-Lênin, đã tuyên truyền và ca ngợi.
Những bài viết về ông đã thu hút sự quan tâm của báo chí trong và ngoài Việt Nam.
Ngày 1 tháng 6 năm 2006, ông ra tuyên bố khôi phục hoạt động Đảng Dân chủ. Tuy nhiên, theo ông Huỳnh Văn Tiểng, nguyên uỷ viên Thường vụ Đảng Dân chủ Việt Nam từ năm 1944 đến năm 1988, thì:
"Bản thân ông Chính đã bị khai trừ khỏi Đảng Dân chủ từ lâu; khi không được sự đồng tình của số đông cựu đảng viên ông không có quyền và không đủ tư cách đứng ra khôi phục Đảng".
"Đảng Dân chủ hiện nay mà ông Hoàng Minh Chính lên tiếng 'khôi phục' thì về bản chất đã khác Đảng Dân chủ từng tồn tại từ năm 1944 đến 1988".
Ông bị bệnh ung thư. Trước khi mất ông viết một "Tâm thư đầu năm Mậu Tý" (2008) gửi lãnh đạo Nhà nước Việt Nam.
Ông qua đời ngày 7 tháng 2 năm 2008 (mồng một Tết Mậu Tý) tại Bệnh viện Hữu nghị, Hà Nội. Tro hài cốt của Ông được an táng tại Khu A (Khu Cán bộ), Nghĩa trang Thanh Tước, Hà Nội.
Gia đình
Ông là anh em cọc chèo với Vũ Quang - nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, Trưởng ban Ban Đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam (nay là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh).
Phát biểu
"Đất nước ta đứng ở đáy nhân loại trên mọi bình diện"
"Nhân dân Việt Nam hiện nay đang trong cơn quằn quại rũ bỏ ách nô lệ thâm căn cố đế nội xâm, đã tìm thấy trong chính sách hỗ trợ tự do dân chủ của Hoa Kỳ một sức mạnh vô giá cho cuộc đấu tranh sống còn của mình"
"Các đầu tư phát triển quốc tế (FDI) và viện trợ phát triển (ODA) chẳng qua thực chất là làm đầy túi tham của đảng và chính quyền".
Vinh danh
Năm 2007, ông được Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam trao tặng Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam, cùng với hai nhân vật bất đồng chính kiến khác là luật sư Lê Thị Công Nhân và luật sư Nguyễn Văn Đài.
Xem thêm
Bất đồng chính kiến ở Việt Nam
Nguyễn Sĩ Bình
Nguyễn Tiến Trung
Chú thích
Liên kết ngoài
Một chính đảng tuyên bố khôi phục hoạt động
Thư tranh luận của Nguyễn Minh
Báo Việt Nam đả ông Hoàng Minh Chính
Thư của ông Hoàng Minh Chính
Phát biểu của Hoàng Minh Chính tại Harvard
Hoàng Minh Chính nói gì thế? , báo Tuổi Trẻ, kèm phát biểu của bà Tôn Nữ Thị Ninh, Phó chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại Quốc hội Việt Nam
Ông Hoàng Minh Chính thiếu trung thực , bài viết của Ngô Thanh Nhàn (Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học New York, thành viên Ban Điều hành Brecht Forum) trên tờ báo Tin tức ở Việt Nam (số 44, 03/11-09/11/2005, trang 13)
Những trăn trở, nguyện ước của ông Hoàng Minh Chính trước lúc qua đời
Ông Chính qua đời
Bài phỏng vấn Hoàng Minh Chính
Về phát ngôn của ông Hoàng Minh Chính tại Mỹ: Không chỉ là nỗi buồn
Hoàng Minh Chính: Xây dựng hay chia rẽ dân tộc?
Không có cái gọi là "các cuộc tấn công" nhằm vào ông Hoàng Minh Chính
Hoàng Minh Chính - Cái lưỡi không xương…
Tang lễ ông Hoàng Minh Chính, BBC, 14 Tháng 2 2008
Người Nam Định
Nhân vật bất đồng chính kiến Việt Nam
Nhân vật trong Vụ án Xét lại Chống Đảng
Đảng Dân chủ Việt Nam
Đảng Dân chủ thế kỷ 21
Cựu đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Sinh năm 1922
Chết vì ung thư tuyến tụy
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
|
16894
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0%20Ti%C3%AAn
|
Hà Tiên
|
Hà Tiên là một thành phố nằm ở phía tây bắc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Thành phố Hà Tiên trước đây thuộc địa bàn huyện Hà Tiên thuộc tỉnh Rạch Giá và sau đó thuộc tỉnh Kiên Giang, thuộc vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long và nằm trong vùng tam giác vàng du lịch của tỉnh: Rạch Giá - Hà Tiên - Phú Quốc và các huyện phụ cận.
Hiện nay, thành phố Hà Tiên không phải là tỉnh lỵ của tỉnh Kiên Giang, mà tỉnh lỵ là thành phố Rạch Giá. Tuy nhiên, Hà Tiên lại từng là tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tiên cũ vào thời Pháp thuộc trước năm 1956. Đặc biệt, Hà Tiên lại là lỵ sở của toàn bộ tỉnh Hà Tiên vào thời nhà Nguyễn độc lập. Địa bàn tỉnh Hà Tiên khi đó bao gồm tỉnh Kiên Giang, tỉnh Cà Mau và một phần các tỉnh Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu ngày nay. Thành phố Hà Tiên hiện đang là đô thị loại III.
Địa lý
Thành phố Hà Tiên nằm ở phía tây tỉnh Kiên Giang, cách thành phố Rạch Giá 88 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km, có vị trí địa lý:
Phía bắc giáp tỉnh Kampot của Vương quốc Campuchia với đường biên giới dài 13,7 km
Phía đông giáp huyện Giang Thành
Phía nam giáp huyện Kiên Lương
Phía tây giáp Vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 26 km.
Thành phố có diện tích 107,92 km², dân số năm 2020 là 48.644 người, mật độ dân số đạt 451 người/km².
Điều kiện tự nhiên
Địa hình
Thành phố Hà Tiên là một dải đất hẹp nằm ven biển, với đầy đủ các dạng địa hình: vũng, vịnh, đồng bằng, núi, sông, hang động, hải đảo,... tạo nên nhiều cảnh quan đẹp. Được ví như Vịnh Hạ Long thu nhỏ.
Sông Giang Thành bắt nguồn từ Campuchia, chảy vào khu vực Hà Tiên, dài khoảng 23 km. Sông đổ vào vũng Đông Hồ với chiều rộng cửa sông trên 200 m. Sông Giang Thành nối liền với kênh Vĩnh Tế tạo nên tuyến đường thủy quan trọng từ thành phố Châu Đốc đến thành phố Hà Tiên. Ngoài ra còn có sông Tô Châu và kênh Hà Tiên - Rạch Giá.
Các ngọn núi trên địa bàn thành phố hầu hết đều là những thắng cảnh như: núi Tô Châu, núi Đá Dựng, núi Bình San, núi Thạch Động, núi Đề Liêm,... Ven biển Hà Tiên có nhiều bãi biển đẹp như: bãi biển Lộc Trĩ (bãi biển Mũi Nai). Ngoài khơi có quần đảo Hải Tặc với nhiều đảo đẹp, có tiềm năng du lịch, tuy còn hoang sơ nhưng rất triển vọng phát triển du lịch biển đảo.
Hà Tiên với nhiều cảnh đẹp (Hà Tiên thập vịnh) đã là đề tài xướng họa của Tao đàn Chiêu Anh Các dưới thời Đô đốc Mạc Thiên Tứ (Mạc Thiên Tích) cai quản xứ sở này.
Khí hậu
Hà Tiên nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, khí hậu ở đây có những đặc điểm chính như sau: Số giờ nắng trung bình từ 6,5 đến 7,5 giờ/ngày. Năng lượng bức xạ trung bình 150 - 160 kcal/cm² năm. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27 °C, nhiệt độ trung bình thấp nhất là 23,9 °C, thường rơi vào khoảng tháng 12 - tháng 1; nhiệt độ cao nhất là 30,20 °C, thường rơi vào tháng 4 - 5. Nhiệt độ tuyệt đối thấp nhất có lần đo được là 14,8 °C, nhiệt độ tuyệt đối cao nhất là 37,6 °C. Độ ẩm trung bình 81,9%. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, có nhiều năm mùa mưa đến sớm và kết thúc muộn hơn các khu vực khác của đồng bằng sông Cửu Long. Lượng mưa lớn, trung bình 2.118 mm/năm.
Tài nguyên
Đất: Diện tích tự nhiên năm 2015 của thành phố là 10.048,83 ha, trong đó đất nông - lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản là 7.472,7 ha (chiếm 74,36 %), trong đó nhiều diện tích có độ phèn mặn cao, nếu ứng dụng khoa học kỹ thuật tốt để nuôi trồng thủy sản để đem lại hiệu quả kinh tế cao. Diện tích đất phi nông nghiệp là 2.373 ha. Đất chưa sử dụng là 203,07 ha (chiếm 2,02%) chủ yếu là bãi bồi, núi đá không có cây cối,...
Nước: Hà Tiên nhận nước ngọt cung cấp từ sông Hậu qua kênh Vĩnh Tế, sông Giang Thành, kênh Rạch Giá - Hà Tiên.
Biển: Hà Tiên có khoảng 22 km chiều dài bờ biển, vũng Đông Hồ chia thành phố làm 2 khu riêng biệt: phía Đông Nam là phường Tô Châu và xã Thuận Yên; phía Tây Bắc là phường Đông Hồ, phường Bình San, phường Pháo Đài và phường Mỹ Đức. Xã đảo Tiên Hải (quần đảo Hải Tặc) gồm 15 đảo lớn nhỏ là ngư trường đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản đầy tiềm năng.
Hành chính
Thành phố Hà Tiên có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 5 phường: Bình San, Đông Hồ, Mỹ Đức, Pháo Đài, Tô Châu và 2 xã: Thuận Yên, Tiên Hải.
Riêng xã đảo Tiên Hải bao gồm các đảo trong quần đảo Hà Tiên (quần đảo Hải Tặc) như: hòn Tre, hòn Đốc, hòn Đước, hòn Giang,...
Lịch sử
Thời phong kiến
Hà Tiên là tên gọi đã có từ xa xưa, qua từng thời kỳ, địa giới thay đổi từ vùng thành trấn, chuyển sang tỉnh, đổi thành quận, huyện, thị xã và bây giờ là thành phố. Giữa thế kỷ 17, khi Mạc Cửu đến đây khai phá thì vùng đất này vẫn còn hoang sơ, vắng vẻ. Cuối thế kỷ trên, thì Hà Tiên đã trở thành một thương cảng sầm uất.
Năm 1708, khi Mạc Cửu dâng đất lên cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn dùng hai chữ Hà Tiên để đặt tên cho cả vùng đất bao gồm toàn bộ tỉnh Kiên Giang và một số vùng lân cận ngày nay.
Khi Gia Long lên ngôi, Hà Tiên được đặt thành trấn của Nam Kỳ, trong trấn có huyện Hà Tiên. Năm 1825, để không trùng tên với trấn, vua Minh Mạng đổi huyện Hà Tiên thành huyện Hà Châu. Năm 1832, vua Minh Mạng lại đổi trấn Hà Tiên thành tỉnh Hà Tiên.
Thời Pháp thuộc
Năm 1867, thực dân Pháp chiếm Nam kỳ lục tỉnh và chia tỉnh Hà Tiên thành các hạt tham biện Hà Tiên, Rạch Giá và Bạc Liêu.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Hà Tiên trở thành tỉnh theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh. Năm 1903, đảo Phú Quốc được đặt dưới quyền của đại diện chủ tỉnh Hà Tiên. Tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên.
Từ năm 1913 đến năm 1924, tỉnh Hà Tiên được đặt dưới quyền chủ tỉnh Châu Đốc.. Ngày 9 tháng 2 năm 1924, Hà Tiên lại trở thành một tỉnh độc lập. Năm 1924, tỉnh Hà Tiên gồm 4 quận: Châu Thành, Giang Thành, Hòn Chông và Phú Quốc. Tỉnh lỵ Hà Tiên đặt tại làng Mỹ Đức thuộc quận Châu Thành.
Giai đoạn 1956-1976
Việt Nam Cộng hòa
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Hà Tiên bị bãi bỏ và 4 quận là Châu Thành, Hòn Chông, Giang Thành, Phú Quốc được sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá để thành lập tỉnh Kiên Giang.
Khi đó, địa bàn tỉnh Hà Tiên cũ được chuyển thành quận Hà Tiên và quận Phú Quốc cùng thuộc tỉnh Kiên Giang. Trong đó, địa bàn quận Hà Tiên bao gồm các quận Châu Thành, Giang Thành và Hòn Chông trước năm 1956.
Ngày 31 tháng 5 năm 1961, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho thành lập quận Kiên Lương thuộc tỉnh Kiên Giang. Quận Kiên Lương gồm 5 xã tách từ quận Kiên Thành và quận Hà Tiên là: An Bình, Bình Trị, Thổ Sơn, An Hoà, Dương Hoà. Quận lỵ đặt tại xã An Bình. Ngày 04 tháng 9 năm 1961, quận Kiên Lương thành lập mới xã Đức Phương.
Thời Việt Nam Cộng Hòa, Hà Tiên chỉ là một quận của tỉnh Kiên Giang. Quận Hà Tiên gồm 3 xã Mỹ Đức, Phú Mỹ và Thuận Yên, 15 ấp. Quận lỵ đặt tại xã Mỹ Đức.
Chính quyền cách mạng
Năm 1957, chính quyền Cách mạng quyết định giải thể tỉnh Hà Tiên, đổi thành huyện Hà Tiên và huyện Phú Quốc cùng trực thuộc tỉnh Rạch Giá.
Tuy nhiên, năm 1971 khi Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh An Giang, trên phần đất tỉnh Châu Đốc và tỉnh Hà Tiên trước đó thì huyện Hà Tiên, huyện Phú Quốc cùng với huyện Châu Thành A của tỉnh Rạch Giá lại được giao về cho tỉnh Châu Hà quản lý. Đến năm 1974 ba huyện này lại cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà.
Từ năm 1976 đến nay
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định trả ba huyện: Châu Thành A, Hà Tiên, Phú Quốc thuộc tỉnh Long Châu Hà về tỉnh Rạch Giá và đổi tên tỉnh Rạch Giá thành tỉnh Kiên Giang.
Từ đó, Hà Tiên trở thành huyện của tỉnh Kiên Giang, ban đầu gồm thị trấn Hà Tiên và 9 xã: Bình An, Bình Sơn, Dương Hòa, Hòa Điền, Mỹ Đức, Phú Mỹ, Tân Khánh Hòa, Thuận Yên, Vĩnh Điều.
Ngày 3 tháng 6 năm 1978, xã Bình Sơn chuyển sang trực thuộc huyện Hòn Đất.
Ngày 27 tháng 9 năm 1983, chuyển thị tứ Kiên Lương thành thị trấn Kiên Lương trực thuộc huyện Hà Tiên.
Ngày 24 tháng 5 năm 1988, chuyển xã Tiên Hải thuộc huyện đảo Kiên Hải về huyện Hà Tiên quản lý.
Cuối năm 1997, huyện Hà Tiên có 2 thị trấn: Hà Tiên (huyện lỵ), Kiên Lương và 9 xã: Bình An, Dương Hòa, Hòa Điền, Mỹ Đức, Phú Mỹ, Tân Khánh Hòa, Thuận Yên, Tiên Hải, Vĩnh Điều.
Ngày 8 tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định 47/1998/NĐ-CP. Theo đó:
Thành lập thị xã Hà Tiên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Hà Tiên và 3 xã: Thuận Yên (trừ 2.732 ha diện tích tự nhiên và 3.302 người giao về xã Phú Mỹ quản lý), Mỹ Đức và Tiên Hải thuộc huyện Hà Tiên.
Thành lập 4 phường: Bình San, Đông Hồ, Tô Châu, Pháo Đài trên cơ sở giải thể thị trấn Hà Tiên và điều chỉnh 618 ha diện tích tự nhiên, 1.116 người của xã Mỹ Đức.
Sau khi thành lập, thị xã Hà Tiên có 8.573,39 ha diện tích tự nhiên và 34.541 người với 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 4 phường: Bình San, Đông Hồ, Tô Châu, Pháo Đài và 3 xã: Mỹ Đức, Thuận Yên, Tiên Hải. Huyện Hà Tiên còn lại 89.548,5 ha diện tích tự nhiên và 62.162 người với 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 6 xã và 1 thị trấn.
Ngày 21 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/1999/NĐ-CP. Theo đó, đổi tên huyện Hà Tiên thành huyện Kiên Lương.
Ngày 29 tháng 6 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 29/NQ-CP. Theo đó, điều chỉnh 1.645,25 ha diện tích tự nhiên và 575 người của xã Phú Mỹ thuộc huyện Kiên Lương về phường Đông Hồ quản lý.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thị xã Hà Tiên có 9.890,63 ha diện tích tự nhiên và 44.560 người.
Ngày 17 tháng 9 năm 2012, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 839/QĐ-BXD công nhận thị xã Hà Tiên là đô thị loại III trực thuộc tỉnh Kiên Giang.
Ngày 11 tháng 9 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 573/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 năm 2018). Theo đó:
Thành lập phường Mỹ Đức trên cơ sở toàn bộ 16,96 km² diện tích tự nhiên và 9.108 người của xã Mỹ Đức
Thành lập thành phố Hà Tiên trên cơ sở toàn bộ 100,49 km² diện tích tự nhiên và 81.576 người của thị xã Hà Tiên.
Sau khi thành lập, thành phố Hà Tiên có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 5 phường: Bình San, Đông Hồ, Mỹ Đức, Pháo Đài, Tô Châu và 2 xã: Thuận Yên, Tiên Hải.
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Thành phố nằm trong vùng tứ giác Long Xuyên, có đường biên giới với Campuchia cả trên đất liền và biển, cách tỉnh Kampot của Campuchia 60 km và cảng Kep của thành phố Kep 20 km, rất thuận lợi trong việc phát triển kinh tế cửa khẩu với Campuchia, tạo mối quan hệ với Thái Lan qua mạng lưới đường thủy, hàng không nhưng
Giáo dục
Năm 2000 - 2001, trên địa bàn thành phố Hà Tiên có 13 trường, gồm 1 trường mầm non và 12 trường thuộc ngành giáo dục phổ thông (7 trường tiểu học, 3 trường Trung học cơ sở, 1 trường Phổ thông Trung học, 1 trung tâm giáo dục kỹ thuật hướng nghiệp dạy nghề). Đến nay, các xã phường đều có trường tiểu học và đã đầu tư hoàn thành Trường Trung học Phổ thông thành phố, chia tách trường cấp II và cấp III đi vào hoạt động năm học 2000 - 2001.
Y tế
Toàn thành phố hiện có 1 bệnh viện (nay đổi tên thành Trung tâm Y tế) tại trung tâm thành phố quy mô 60 giường bệnh, 7 trạm y tế xã - phường gồm phường Bình San, phường Đông Hồ, phường Mỹ Đức, phường Pháo Đài, phường Tô Châu và xã Tiên Hải, xã Thuận Yên.
Văn hóa - du lịch
Nơi cư trú của người Việt cổ
Năm 1983, một chiếc trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở đảo Lại Sơn (Sơn Rái), huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Cổ vật này là chứng tích cụ thể còn sót lại trên đường hải hành của người Việt cổ. Họ khởi hành từ Vịnh Bắc bộ, nương theo gió mùa Đông Bắc - Tây Nam, men ven bờ bán đảo Đông Dương để vào Vịnh Thái Lan…và họ đã gặp một nơi khá thích hợp để làm trạm dừng chân, sau có người định cư luôn, đó là vùng đất mà bây giờ có tên là bán đảo Mũi Nai (Hà Tiên).
Tác giả Lê Trọng Khánh viết: "Từ Lưỡng Việt đến Mũi Nạy (Mũi Nai) ở phía Nam là địa bàn gốc của người Lạc Việt có nguồn gốc và ngôn ngữ chung, nằm trong khối Bách Việt" Về sau, vùng đất này đã chứng kiến biết bao đợt người tiếp nối, từ người Việt cổ đến Phù Nam, qua Khmer rồi đến người Việt hiện đại...
Cảng thị cổ sầm uất
Hà Tiên vào thời Mạc Cửu còn có tên gọi là Mang Khảm, là một mắt xích quan trọng ở phía Đông vịnh Thái Lan, trên tuyến hàng hải thương mại châu Á qua vịnh Thái Lan, men theo bờ biển Đông Việt Nam lên Quảng Châu, Trung Quốc hay Luzon, Philippines. Thời kỳ cha con Mạc Cửu, Mạc Thiên Tứ (1706-1780) cai quản vùng đất này, đã áp dụng một chính sách tự do và coi trọng thương mại. Mạc Thiên Tứ mở cảng cho tàu buôn nước ngoài buôn bán tự do. Hà Tiên trở thành điểm đến của các đoàn thương thuyền từ bán đảo Mã Lai, các đảo Sumatra, Java, các nước Xiêm, Ấn Độ, Miến Điện, Trung Quốc (Phúc Kiến, Quảng Đông, Hải Nam),...
Vào các dịp sinh nhật Mạc Thiên Tứ (12 tháng chạp âm lịch), các thuyền buôn được phép vào cảng Hà Tiên miễn thuế. Từ lâu đời, nghề chế sáp trắng (bạch lạp) để thắp sáng là một nghề truyền thống ở Hà Tiên, cung cấp cho các nước lân cận như Trung Quốc, Xiêm, Mã Lai,... Ngoài ra đất này còn có nhiều sản vật thương mại khác nữa, Lê Quý Đôn từng viết trong Phủ biên tạp lục:...Huyền phách sản ở trấn Hà Tiên, có khối lượng như đồng, sắc đen như sắt, người ta nói dùng nó có thể lánh được gió độc, tiện làm tràng hạt...
Đề cập đến xứ Hà Tiên thời bấy giờ, sách Thanh triều văn hiến thông khảo có đoạn:
Nước này có nhiều núi cao, địa hạt khoảng trăm dặm vuông. Thành và các cung thất làm bằng gỗ không khác Trung Quốc mấy. Chỗ vua ở xây bằng gạch ngói. Chế độ trang phục phảng phất các vua đời trước, búi tóc, đi võng, chít khăn, đội mũ. Vua mặc áo bào vẽ trăn rắn, lưng thắt dải đai, giày dép bằng da. Dân mặc áo vạt cổ rộng. Khi có tang thì mặc đồ màu trắng, bình thường thì áo nhiều màu…Họ gặp nhau thì chắp tay chào theo lễ. Phong tục nước này ham chuộng thơ văn, trong nước có dựng đền thờ Khổng Tử. Vua và dân đều đến lễ...
Giải thích một vài tên gọi
Hà Tiên
Tà Teng là một ấp cư dân cổ ở hướng Đông Bắc thành phố Hà Tiên, nằm bên bờ trái sông Giang Thành. Khi xưa, người Khmer gọi sông này là Tà Teng (sau là Prêk Ten). Tà có nghĩa là sông, Teng là tên sông. Sách Nghiên cứu Hà Tiên viết: Cách giải thích cũ "nơi đây xưa kia có tiên hiện xuống đi lại trên sông, nên gọi là Hà Tiên" là không có căn cứ và thiếu khoa học..
Phương Thành
Phương Thành là một tên gọi của Hà Tiên xưa. Vương Hồng Sển giải thích: Xưng Hà Tiên là Phương Thành là vì đắp lũy tre giáp vòng để chống quân Xiêm, Miên. Đồng ý kiến này có Trần Thiêm Trung, trong Hà Tiên địa phương chí (1957), ông viết: "Tại trấn lỵ, một thành vuông, đặt tên Phương Thành, chung quanh bao bọc chiến lũy, trồng tre gai, vì thế còn có tên chung là Trúc Bàn Thành."
Sách Nghiên cứu Hà Tiên cho biết thêm và giải thích khác: Trúc Bàn Thành còn gọi là trường lũy Thị Vạn hay bờ Đồn Lớn. Có người hiểu là Thành Thơm (Gia Định thành thông chí, Phương Đình dư địa chí, Đại Nam nhất thống chí) hay hiểu lầm là Thành Vuông (vì vậy, có người dịch là ville Carrée. Dẫn theo Thi sĩ Đông Hồ, Nam Phong số 143, tháng 10 năm 1929). Nhưng vì đâu có cái tên Phương Thành, sách Nghiên cứu Hà Tiên của Trương Minh Đạt, giải thích: "Ở Hà Tiên có núi Bà Lý (Pang Li), cao 30m, người Hoa đọc chệch là Pang-Lũy, rồi nó trở thành Pang Thành, rồi Việt hóa thành Phương Thành". Ngoài ra, đất Hà Tiên còn có tên Trúc Bàng Thành, đây chính là biến âm của một địa danh đã có sẵn ở địa phương: Phnom Tà Pang. Ở sách Phương Đình dư địa chí của Nguyễn Văn Siêu còn ghi tên Đồng Trụ Trấn, theo ông Đạt thì đây là một địa danh " nghe sai, đoán phỏng" mà thôi.
Phù Dung
Tên Phù Dung Vạn Sơn được đặt cho quần thể núi non ở Hà Tiên, chính là do tên gọi Phù Youn. Người Xiêm gọi "phù" là núi. Tất cả người Xiêm, Khmer, Chăm, Lào đều gọi người Việt là "Youn" hay "Duôn" (tiếng Phạn có nghĩa là người man di ở hang động). Tên Phù Youn được người Hoa phiên âm thành Phù Dung. Như vậy "Phù Youn" có nghĩa là vùng núi của người Việt. Điều đó, cho thấy khi xưa chủ nhân vùng đất này là người Việt cổ. Sau này, cái tên Phù Dung (Pù Youn) chỉ còn được dùng để chỉ một ngọn núi cao 53 m, mà Trịnh Hoài Đức đã chép trong "Gia Định thành thông chí":
Núi Phù Dung: cách trấn thự về phía tây bắc hơn 1 dặm. Ở đây hang hố xanh rậm lâu đời; chùa Phù Dung ở phía tây nam chân núi, tiếng chuông mõ pha trộn, tiếng kệ kinh lẫn tiếng ồn ào của phố thị, thật là cảnh nửa tăng nửa tục...
Do vậy, tác giả sách Nghiên cứu Hà Tiên, đã nói vui rằng tên chùa không có nghĩa "hoa sen" hay giống hoa "tí ngọ" nào đó, như có người đã tưởng tượng.
Mũi Nai
Xa xưa, gọi là Mũi Nạy, vì nơi đó có núi Pù Nạy (Pù là núi, Nạy là lớn) mà người khmer nói trại là P’Nay hay Bà Nay. Lớp người Việt đến sau bắt chước đọc âm này thành Nai. Đến thời Mạc Thiên Tứ, nhóm người Hoa dịch chữ Nai ra chữ Hán là Lộc (Lộc Trĩ sơn, Lộc trĩ thôn cư)..
Mang Khảm
Mang là phiên âm Hán - Việt của Mường (tiếng Mường- Thái). Về chữ Mang, Trịnh Hoài Đức giải thích: "Những chỗ người Bắc địch tụ hội, chỗ lớn gọi là Bộ, chỗ nhỏ gọi là Lạc; người Xiêm, lào đều gọi là Mang, người Khmer gọi là Súc." Khảm, người Khmer nói là Krom, tiếng Mã Lai gọi là Kram, tiếng Nôm gọi là Hỏm hay Tràm có nghĩa thấp, ngập. Cho nên Mang Khảm (tức trấn Hà Tiên) có nghĩa là "xóm dân vùng nước ngập". Theo Nghiên cứu Hà Tiên, "bởi khởi đầu bằng chữ Mang, đơn vị dân cư theo ngôn ngữ Mường – Thái, nên có thêm một lý do nữa để xác định rằng đây không phải là đất Chân Lạp. Người Chân Lạp (Khmer) chỉ dùng chữ Srock (hay Súc) hoặc Phum.
Thắng cảnh
Quần đảo Hải Tặc (quần đảo Hà Tiên).
Đầm Đông Hồ.
Tượng đài Mạc Cửu.
Đền thờ Họ Mạc
Đền thờ Bà Mạc Ni Cô (miếu Bà Cô Năm).
Chùa Phù Dung.
Chùa Sắc Tứ Tam Bảo Tự.
Chùa Tà Pang (chùa Mũi Nai, chùa Girìvansa).
Tịnh xá Ngọc Tiên
Núi Đá Dựng.
Núi Mũi Nai.
Khu du lịch Mũi Nai.
Núi Bình San (Núi Lăng).
Núi Pháo đài.
Núi Thạch Động.
Núi Tô Châu.
Nhà lưu niệm nhà thơ Đông Hồ.
Nhà tù Hà Tiên.
Chợ Hà Tiên.
Nhà lưu niệm Tao Đàn Chiêu Anh Các
Giao thông
Trên địa bàn thành phố Hà Tiên hiện có 23,5 km đường quốc lộ; 9,04 km tỉnh lộ; 26,13 km đường nội ô thành phố và 27,5 km đường giao thông nông thôn. Trong đó, quan trọng nhất là tuyến quốc lộ 80, nối thành phố Rạch Giá - thành phố Hà Tiên và sang tận Campuchia. Kể từ tháng 12 năm 2008, có thêm tuyến tàu khách cao tốc đi đến huyện đảo Phú Quốc. Hiện nay, đã có tuyến xe buýt của các hãng du lịch có chất lượng đi từ Hà Tiên - Campuchia.
Hiện nay thành phố đang triển khai đầu tư xây dựng khu đô thị Hà Tiên nằm trên địa bàn 2 phường: Bình San, Pháo Đài.
Bao gồm các tuyến đường: Trần Hầu, Mạc Thiên Tích, Mạc Cửu, Cầu câu, Tham Tướng Sanh, Lam Sơn, Phương Thành,...
Các tuyến đường ở thành phố Hà Tiên hiện nay:
Bà Lý
Bạch Đằng
Bùi Chấn
Bùi Thị Xuân
Cao Thắng
Cầu Câu
Chế Lan Viên
Chi Lăng
Chu Văn An
Chương Dương
Đá Dựng
Đại Định
Đào Duy Anh
Đặng Thai Mai
Đặng Thùy Trâm
Đinh Công Tráng
Đinh Tiên Hoàng
Đông Hồ
Hà Huy Giáp
Hai Bà Trưng
Hoàng Văn Thái
Hoàng Văn Thụ
Huỳnh Thúc Kháng
Hữu Túc
Kim Dự
Lam Sơn
Lâm Tấn Phác
Lâm Văn Quang
La Văn Cầu
Lê Hồng Phong
Lê Lai
Lê Lợi
Lê Quý Đôn
Lê Trọng Tấn
Lý Chính Thắng
Mạc Công Du
Mạc Công Tài
Mạc Cửu
Mạc Thiên Tích
Mạc Tử Dung
Mạc Tử Hoàng
Mạc Tử Thắng
Mạc Tử Thiêm
Nam Hồ
Ngô Mây
Ngô Thì Nhậm
Nguyễn Bính
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nguyễn Công Trứ
Nguyễn Chí Thanh
Nguyễn Đệ
Nguyễn Huệ
Nguyễn Hữu Cảnh
Nguyễn Hữu Tiến
Nguyễn Phúc Chu
Nguyễn Sơn
Nguyễn Thái Học
Nguyễn Thị Định
Nguyễn Thị Minh Khai
Nguyễn Thị Thập
Nguyễn Trãi
Nguyễn Trung Trực
Nguyễn Văn Cừ
Nguyễn Viết Xuân
Núi Đèn
Ông Ích Khiêm
Phan Đình Giót
Phan Đình Phùng
Phan Huy Chú
Phan Thanh Giản
Phạm Hồng Thái
Phạm Ngọc Thạch
Phạm Văn Kỷ
Phù Dung
Phương Thành
Rạch Ụ
Tao Đàn
Tô Châu
Tô Vĩnh Diện
Tố Hữu
Tôn Thất Thiệp
Tôn Thất Thuyết
Tôn Thất Tùng
Tham Tướng Sanh
Thoại Ngọc Hầu
Trần Bình Trọng
Trần Công Án
Trần Đại Nghĩa
Trần Hầu
Trần Huy Liệu
Trần Khánh Dư
Trần Phú
Trần Quang Diệu
Trần Quang Khải
Trần Văn Ơn
Triệu Thị Trinh
Trương Định
Trường Sa
Tuần Phủ Đạt
Tú Xương
Từ Hữu Dũng
Văn Tiến Dũng
Võ Thị Sáu
Võ Văn Kiệt
Võ Văn Ý
Xuân Diệu
30 tháng 4
7 tháng 5
1 tháng 6
27 tháng 7
19 tháng 8
2 tháng 9
Tên đường ở Hà Tiên trước 1975
Đường Thủ tướng Thinh nay là đường Mạc Cửu
Đường Đê nay là đường Võ Văn Ý
Đường Nam Phố nay là đường Đông Hồ.
Xem thêm
Mạc Cửu
Mạc Thiên Tứ
Hà Tiên thập vịnh (10 cảnh đẹp)
Hình ảnh
Tham khảo
Thương cảng cổ Việt Nam
Đô thị Việt Nam loại III
Lịch sử Đàng Trong
Thành phố ven biển Việt Nam
Biên giới Việt Nam-Campuchia
|
16898
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20tr%C3%ACnh%20h%E1%BA%A1%20t%E1%BA%A7ng%20k%E1%BB%B9%20thu%E1%BA%ADt
|
Công trình hạ tầng kỹ thuật
|
Công trình hạ tầng kỹ thuật là các cơ sở hạ tầng dành cho dịch vụ công cộng, ví dụ giao thông, thông tin liên lạc, điện, nước, rác... Ở Việt Nam, chúng còn có tên gọi thông dụng là cơ sở hạ tầng hoặc tên gọi dân dã là điện, đường, trường, trạm. Các công trình này thường do các tập đoàn của chính phủ hoặc của tư nhân, thuộc sở hữu tư nhân hoặc sở hữu công. Ví dụ về các công trình hạ tầng kĩ thuật:
Hệ thống điện chiếu sáng và sinh hoạt
Hệ thống lọc và phân phối nước sinh hoạt
Hệ thống xử lý nước thải
Hệ thống xử lý rác thải
Hệ thống phân phối khí đốt
Giao thông công cộng
Các hệ thống truyền thông, chẳng hạn truyền hình cáp và điện thoại
Hệ thống đường sá, bao gồm cả đường thu phí
Tham khảo
Công trình công cộng
Độc quyền
Dịch vụ công cộng
Kinh tế học công nghiệp giao thông và hạ tầng kỹ thuật
|
16899
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20tr%C3%ACnh%20h%E1%BA%A1%20t%E1%BA%A7ng%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i
|
Công trình hạ tầng xã hội
|
Hệ thống công trình hạ tầng xã hội hay cơ sở hạ tầng bao gồm các công trình như y tế, văn hóa, giáo dục, thể thao, thương mại, dịch vụ công cộng, cây xanh, công viên, mặt nước và các công trình khác.
Ý nghĩa
Được xây dựng để phục vụ cộng đồng, có ý nghĩa xã hội hơn là kinh tế, nhằm nâng cao đời sống cộng đồng nơi đó.
Công trình hạ tầng có thể là các công trình sau:
Giao thông
Đường bộ
Đường sắt
Vận tải công cộng
Sân bay
Đường thủy
Đường đi bộ
Công cộng
Đường điện
Đường cấp khí ga
Đường cấp nước
Đường thoát nước
Viễn thông
Cáp truyền hình
Dich vụ công cộng
Phòng cháy chữa cháy
Bệnh viện
Công an
Trường học
Xem thêm
World Bank Infrastructure for Development
Thượng tầng xã hội
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Tham khảo
Quy hoạch đô thị
Xã hội
Phát triển
Kết cấu hạ tầng
Xây dựng
|
16900
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%E1%BA%A3o%20s%C3%A1t%20x%C3%A2y%20d%E1%BB%B1ng
|
Khảo sát xây dựng
|
Khảo sát xây dựng gồm có khảo sát địa hình, khảo sát địa chất công trình, khảo sát địa chất thủy văn, khảo sát hiện trạng công trình và các công việc khảo sát khác phục vụ cho hoạt động xây dựng để nâng cao chất lượng công trình.
Khảo sát địa hình là bước đầu tiên, tại đó các kỹ sư khảo sát thu thập các yếu tố về địa hình, địa vật, thể hiện lên bản vẽ theo tỉ lệ với độ chi tiết cần thiết. Sản phẩm của khảo sát địa hình là bản đồ địa hình, mô hình số (TIN) địa hình.
Phương pháp khảo sát địa hình rất đa dạng, bao gồm các phương pháp chính như: ảnh vệ tinh, ảnh hàng không, quét láser mặt đất, đo vẽ mặt đất bằng các máy đo đạc.
Ở Việt Nam, dịch vụ khảo sát địa hình khá phát triển, nhưng nhìn chung chất lượng sản phẩm và dịch vụ không đồng đều.
Những người làm khảo sát nổi tiếng
Benjamin Banneker
Len Beadell
Daniel Boone
Admiral John Bossler
William Austin Burt
Captain James Cook
Christopher M. Cooper
Andrew Ellicott
John Ericsson
Sir George Everest
Peter Fidler
Sir John Forrest
Malcolm Fraser
Captain John C. Fremont
Carl Friedrich Gauss
Per Ivar Gjengedal
Edmund Gunter
Thomas Jefferson
Joseph Jenckes (1656 – 1740)
Harry Johnston
Lewis và Clark
Abraham Lincoln
Liu Hui
Colonel William Light
Sir Alexander Mackenzie
Charles Mason và Jeremiah Dixon
Metius
Major Sir Thomas Mitchell
George Washington
Xem thêm
Kiến trúc
Xây dựng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tổ chức
American Congress on Surveying & Mapping
National Geodetic Survey
National Society of Professional Surveyors
National Council of Examiners for Engineering and Surveying
UK Ordnance Survey
www.resurvey.org
U.S. Geological Survey
International Federation of Surveyors
Spatial Sciences Institute (Australia)
Royal Institution of Chartered Surveyors (UK & GB)
The Survey Association (UK)
Alberta Land Surveyors Association for a Canadian perspective
3H — a resource site for 3D survey in maritime archaeology
National Cartographic Center of Iran (NCC) Tehran, Iran
National Geographic Organization of Iran (NGO) Tehran, Iran
Careers in Surveying
SurveyingZone
Bài đọc
Old versus new — how a new surveying technology can create instant CAD models — A web article
Degree of Curvature
Xây dựng
Nghề nghiệp
Trắc địa
Quản lý đất đai
|
16911
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Woody
|
Woody
|
Woody là tên mã của bản phân phối Debian GNU/Linux phiên bản 3.0. Nó được đặt theo tên của nhân vật Woody trong phim hoạt hình Toy Story, và hầu hết tên mã của các phiên bản Debian GNU/Linux đều được đặt theo tên của các nhân vật trong phim hoạt hình này.
Đây là phiên bản ổn định (stable) của Debian GNU/Linux từ ngày 19 tháng 7 năm 2002 đến ngày 6 tháng 6 năm 2005 trước khi được Sarge thay thế.
Các triến trúc phần cứng
Tại thời điểm phát hành, Woody hỗ trợ 11 kiến trúc máy tính:
Alpha
ARM
HP PA-RISC
Intel x86
Intel IA-64
Motorola 680x0
MIPS
MIPS (bởi DEC)
PowerPC
IBM S/390
SPARC
Woody là phiên bản Debian GNU/Linux đầu tiên hỗ trợ các kiến trúc máy tính HP PA-RISC, Intel IA-64, MIPS, MIPS (DEC), và IBM S/390.
Sau khi ra đời, Woody đã được hỗ trợ rất tích cực, và đã có sáu bản nâng cấp trước Sarge được chính thức phát hành:
Debian GNU/Linux 3.0r1 phát hành ngày 16 tháng 12 năm 2002
Debian GNU/Linux 3.0r2 phát hành ngày 21 tháng 11 năm 2003
Debian GNU/Linux 3.0r3 phát hành ngày 26 tháng 10 năm 2004
Debian GNU/Linux 3.0r4 phát hành ngày 1 tháng 1 năm 2005
Debian GNU/Linux 3.0r5 phát hành ngày 16 tháng 4 năm 2005
Debian GNU/Linux 3.0r6 phát hành ngày 2 tháng 6 năm 2005, tức là 4 ngày trước khi phát hành Sarge.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin chính thức phát hành Woody
Debian
|
16912
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%A5%20b%C3%AA%20b%E1%BB%91i%20Watergate
|
Vụ bê bối Watergate
|
Vụ bê bối Watergate là một vụ bê bối chính trị lớn ở Hoa Kỳ liên quan đến chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon từ năm 1972 đến năm 1974 dẫn đến việc Nixon phải từ chức. Vụ bê bối bắt nguồn từ việc chính quyền Nixon liên tục cố gắng che đậy sự dính líu của mình trong vụ đột nhập vào trụ sở Ủy ban Quốc gia đảng Dân chủ tại Tòa nhà Văn phòng Watergate ở Washington, DC ngày 17 tháng Sáu năm 1972. Sau khi 5 thủ phạm bị bắt, báo chí và Bộ Tư pháp Mỹ đã phát hiện ra rằng số tiền mặt được tìm thấy trên người họ vào thời điểm đó có liên quan đến Ủy ban Tái bầu cử Tổng thống. Các cuộc điều tra sâu hơn, cùng với những điều được tiết lộ trong các phiên tòa xét xử những kẻ đột nhập sau đó, đã khiến Hạ viện Hoa Kỳ trao cho Ủy ban Tư Pháp Hạ viện Hoa Kỳ thêm quyền điều tra để điều tra "một số vấn đề trong phạm vi quyền xét xử của nó" và Thượng viện Hoa Kỳ để thành lập Ủy ban Watergate của Thượng viện Hoa Kỳ. Kết quả các phiên điều trần Watergate tại Thượng viện đã được PBS phát sóng trên toàn quốc hết giây này sang phút khác và thu hút sự quan tâm của công chúng. Các nhân chứng làm chứng rằng Nixon đã phê duyệt kế hoạch che đậy sự tham gia của chính quyền vào vụ đột nhập và rằng có một hệ thống ghi âm được kích hoạt bằng giọng nói trong Văn phòng Bầu dục. Trong suốt cuộc điều tra, chính quyền đã chống lại các cuộc thăm dò vào nó, dẫn đến một cuộc khủng hoảng hiến pháp.
Một số tiết lộ lớn và hành động nghiêm trọng của tổng thống chống lại cuộc điều tra sau đó vào năm 1973 đã khiến Hạ viện bắt đầu quá trình luận tội Nixon. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ ra phán quyết buộc Nixon phải công bố các cuộn băng ghi âm của Văn phòng Bầu dục cho các nhà điều tra của chính phủ. Các đoạn băng Nhà Trắng của Nixon tiết lộ rằng ông ta đã âm mưu che đậy các hành vi sau vụ đột nhập và sau đó cố gắng sử dụng các quan chức liên bang để làm chệch hướng cuộc điều tra. Ủy ban Tư pháp Hạ viện đã thông qua ba điều khoản luận tội Nixon vì tội cản trở công lý, lạm dụng quyền lực và cản trở Quốc hội. Với sự đồng lõa của mình trong việc che đậy đã bị công bố công khai và ủng hộ chính trị của ông hoàn toàn bị xói mòn, Nixon từ chức vào ngày 9 tháng Tám năm 1974. Người ta tin rằng, nếu ông không làm như vậy, ông sẽ bị Hạ viện luận tội và cách chức sau một phiên tòa tại Thượng viện. Ông là tổng thống Mỹ duy nhất đã từ chức. Vào ngày 8 tháng Chín năm 1974, người kế nhiệm của Nixon, Gerald Ford, đã ân xá cho ông.
Có 69 người bị truy tố và 48 người—nhiều người trong số họ là các quan chức hàng đầu của chính quyền Nixon—bị kết án. Hoán dụ Watergate trở thành một từ để chỉ một loạt các hoạt động bí mật và thường là bất hợp pháp do các thành viên của chính quyền Nixon thực hiện, bao gồm nghe lén văn phòng của các đối thủ chính trị và những người mà Nixon hoặc các quan chức của ông ta nghi ngờ; ra lệnh điều tra các nhóm hoạt động và các nhân vật chính trị; và sử dụng Cục Điều tra Liên bang, Cơ quan Tình báo Trung ương và Sở Thuế vụ làm vũ khí chính trị. Việc sử dụng hậu tố sau một thuật ngữ xác định đã trở thành đồng nghĩa với bê bối công khai, đặc biệt là bê bối chính trị.
Nghe lén các trụ sở của Đảng Dân chủ
Vào ngày 27 tháng Một năm 1972, G. Gordon Liddy, Cố vấn Tài chính cho Ủy ban Tái bầu cử Tổng thống (CRP) và là cựu trợ lý của John Ehrlichman, đã trình bày một kế hoạch tình báo chiến dịch bao gồm một loạt các hoạt động bất hợp pháp cho chủ tịch CRP lâm thời Jeb Stuart Magruder, Tổng chưởng lý John Mitchell, và Cố vấn Tổng thống John Dean chống lại Đảng Dân chủ. Theo Dean, điều này đã đánh dấu "cảnh mở đầu của vụ bê bối chính trị tồi tệ nhất trong thế kỷ XX và khởi đầu cho sự kết thúc của nhiệm kỳ tổng thống Nixon".
Mitchell coi kế hoạch này là không thực tế. Hai tháng sau, Mitchell phê duyệt một phiên bản rút gọn của kế hoạch, bao gồm việc đột nhập trụ sở của Ủy ban Toàn quốc Đảng Dân chủ (DNC) tại Khu phức hợp Watergate ở Washington, D.C.—người ta suy đoán rằng là để chụp ảnh tài liệu chiến dịch và cài đặt thiết bị nghe lén trong điện thoại. Liddy có danh nghĩa là người phụ trách hoạt động, nhưng kể từ đó khẳng định rằng anh ta đã bị cả Dean và ít nhất hai cấp dưới của anh ta lừa, trong đó có các cựu sĩ quan CIA E. Howard Hunt và James McCord; James lúc đó đang giữ vai trò Điều phối viên An ninh của CRP sau khi John Mitchell trước đó đã từ chức Tổng chưởng lý để trở thành chủ tịch CRP.
Vào tháng Năm, McCord đã giao cho cựu đặc vụ FBI Alfred C. Baldwin III thực hiện việc nghe lén và theo dõi các cuộc điện đàm sau đó. McCord làm chứng rằng ông đã chọn tên của Baldwin từ sổ đăng ký do Hiệp hội các cựu đặc vụ của FBI công bố để làm việc cho Ủy ban Tái bầu cử Tổng thống Nixon. Baldwin đầu tiên làm vệ sĩ cho Martha Mitchell—vợ của John Mitchell, người đang sống ở Washington vào thời điểm đó. Baldwin đi cùng Martha Mitchell đến Chicago. Cuối cùng ủy ban đã thay thế Baldwin bằng một nhân viên an ninh khác.
Vào ngày 11 tháng Năm, McCord sắp xếp cho Baldwin—người mà phóng viên điều tra Jim Hougan mô tả là "bằng cách nào đó đặc biệt đối với và có lẽ được McCord quen biết"—ở tại phòng khách sạn cạnh đường (motel) của Howard Johnson cách một con đường với khu phức hợp Watergate. Phòng 419 được đặt bằng tên công ty của McCord. Theo lệnh của Liddy và Hunt, McCord và nhóm đột nhập của anh ta chuẩn bị cho cuộc đột nhập Watergate đầu tiên của họ, bắt đầu vào ngày 28 tháng Năm.
Hai điện thoại bên trong văn phòng của trụ sở DNC được cho là đã bị nghe lén. Một là điện thoại của Robert Spencer Oliver. Vào thời điểm đó, Oliver đang làm giám đốc điều hành của Hiệp hội các Chủ tịch Bang Đảng Dân chủ. Chiếc điện thoại còn lại thuộc về chủ tịch DNC Larry O'Brien. FBI không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy điện thoại của O'Brien bị nghe trộm; tuy nhiên, người ta xác định rằng một thiết bị nghe thật sự đã được cài đặt trong điện thoại của Oliver. Dù thành công với việc cài đặt các thiết bị nghe, các nhân viên của CRP đã sớm nhận định rằng các thiết bị này cần được sửa chữa. Họ đã lên âm mưu một "cuộc đột nhập" thứ hai để giải quyết tình hình.
Sau nửa đêm thứ Bảy, ngày 17 tháng Sáu năm 1972 một khoảng thời gian nào đó, Frank Wills, nhân viên bảo vệ của Khu phức hợp Watergate nhận thấy băng dính che các chốt của một số cửa của khu phức hợp dẫn từ hầm để xe đến một số văn phòng, điều này cho phép các cửa đóng nhưng không bị khóa. Anh đã gỡ băng dính ra và tin rằng không có chuyện gì cả. Khi anh ta quay lại một thời gian ngắn sau đó và phát hiện ra rằng ai đó đã dán lại băng dính vào các chốt khóa, anh đã gọi cảnh sát. Đáp lại cuộc gọi là một chiếc xe cảnh sát không nhãn hiệu với ba sĩ quan mặc thường phục (Hạ sĩ Paul W. Leeper, Sĩ quan John B. Barrett và Sĩ quan Carl M. Shoffler) đang làm việc cho "biệt đội ăn mày" xuyên đêm, ăn mặc như dân Hippie và theo dõi các giao dịch ma túy và các tội phạm đường phố khác. Alfred Baldwin, đang làm nhiệm vụ "canh gác" tại khách sạn Howard Johnson's bên kia đường, đã bị sao nhãng khi xem phim Attack of the Puppet People trên TV và không quan sát xe cảnh sát tiến đến trước tòa nhà Watergate. Anh ta cũng không thấy các sĩ quan mặc thường phục đang điều tra dãy buồng gồm 29 văn phòng ở tầng 6 của DNC. Đến lúc Baldwin cuối cùng nhận thấy hoạt động bất thường trên tầng sáu và truyền thanh radio cho những kẻ đột nhập thì đã quá muộn. Cảnh sát đã bắt giữ 5 người đàn ông, sau đó được xác định là Virgilio Gonzalez, Bernard Barker, James McCord, Eugenio Martínez và Frank Sturgis. Họ bị buộc tội cố gắng đột nhập và cố gắng nghe trộm điện thoại và các truyền thông liên lạc khác. The Washington Post đưa tin rằng "cảnh sát đã tìm thấy những chiếc móc khóa và xà beng cạy cửa, gần 2.300 đô la tiền mặt, phần lớn trong những tờ tiền mệnh giá 100 đô la với số sê-ri theo thứ tự ... một máy thu sóng ngắn có thể tiếp nhận cuộc gọi của cảnh sát, 40 cuộn phim chưa lộ sáng, hai máy ảnh 35 mm và ba khẩu súng hơi cay kích thước như cây bút".
Sáng hôm sau, Chủ nhật, ngày 18 tháng Sáu, G. Gordon Liddy gọi điện cho Jeb Magruder ở Los Angeles và thông báo với ông ta rằng "bốn người đàn ông bị bắt cùng McCord là những chiến sỹ đấu tranh cho tự do ở Cuba, những người mà Howard Hunt đã tuyển dụng". Ban đầu, tổ chức của Nixon và Nhà Trắng nhanh chóng làm việc để che đậy tội phạm và bất kỳ bằng chứng nào có thể gây hại cho tổng thống và công cuộc tái đắc cử của ông.
Vào ngày 15 tháng Chín năm 1972, một đại bồi thẩm đoàn đã truy tố năm tên đột nhập văn phòng, cũng như Hunt và Liddy, về tội âm mưu, đột nhập trộm cắp và vi phạm luật nghe lén liên bang. Những kẻ đột nhập đã bị xét xử bởi bồi thẩm đoàn, với thẩm phán John Sirica chủ trì, và nhận có tội hoặc bị kết án vào ngày 30 tháng Một năm 1973.
Che đậy và sáng tỏ
Che đậy ban đầu
Trong vòng vài giờ sau khi những tên đột nhập bị bắt, FBI đã phát hiện ra tên của E. Howard Hunt trong sổ địa chỉ của Barker và Martínez. Các quan chức chính quyền Nixon lo ngại vì Hunt và Liddy cũng dính líu tới một hoạt động bí mật riêng biệt được gọi là "Thợ sửa ống nước Nhà Trắng", được thành lập để ngăn chặn "rò rỉ" an ninh và điều tra các vấn đề an ninh nhạy cảm khác. Dean sau đó đã làm chứng rằng trợ lý hàng đầu của Nixon, John Ehrlichman đã ra lệnh cho anh ta "tống khứ" những thứ trong két sắt Nhà Trắng của Howard Hunt. Ehrlichman sau đó đã phủ nhận điều này. Cuối cùng thì Dean và Giám đốc FBI lâm thời L. Patrick Gray (trong những chiến dịch riêng biệt) đã phá hủy bằng chứng từ két sắt của Hunt.
Phản ứng của riêng Nixon đối với vụ đột nhập, ít nhất là vào thời điểm ban đầu, là hoài nghi. Công tố viên Watergate James Neal chắc chắn rằng Nixon đã không biết trước về vụ đột nhập. Để làm bằng chứng, ông trích dẫn một cuộc trò chuyện được ghi lại vào ngày 23 tháng Sáu giữa Tổng thống và chánh văn phòng của ông, H. R. Haldeman, trong đó Nixon hỏi, "Thằng khốn nào đã làm điều đó?" Tuy nhiên, Nixon sau đó ra lệnh cho Haldeman yêu cầu CIA chặn cuộc điều tra của FBI về nguồn tài trợ cho vụ đột nhập.
Vài ngày sau, thư ký báo chí của Nixon, Ron Ziegler, mô tả sự kiện này là "một vụ đột nhập rất tồi". Vào ngày 29 tháng Tám, tại một cuộc họp báo, Nixon nhận định rằng Dean đã tiến hành một cuộc điều tra kỹ lưỡng về vụ việc, trong khi Dean thực sự không hề tiến hành bất kỳ cuộc điều tra nào. Nixon còn nói, "Tôi có thể nói rõ ràng rằng ... không một ai trong nhân viên Nhà Trắng, không một ai trong Chính Quyền này, hiện đang được tuyển dụng, dính líu đến vụ việc hết sức kỳ lạ này." Vào ngày 15 tháng Chín, Nixon đã chúc mừng Dean, nói rằng, "Cách anh xử lý nó, đối với tôi, dường như rất khéo léo, bởi vì anh—đặt ngón tay của mình vào đê mỗi khi rò rỉ ở đây và ở đó."
Bắt cóc Martha Mitchell
Martha Mitchell là vợ của Tổng chưởng lý của Nixon, John N. Mitchell—người gần đây đã từ chức để trở thành quản lý chiến dịch cho Ủy ban Tái bầu cử Tổng thống (CRP) của Nixon. John Mitchell biết rằng Martha biết McCord, một trong những tên đột nhập Watergate đã bị bắt, và biết khi phát hiện ra, cô ấy dễ có thể sẽ nói chuyện với giới truyền thông. Theo ý kiến của ông, việc cô biết McCord có khả năng kết nối vụ đột nhập Watergate với Nixon. John Mitchell đã chỉ thị cho các lính canh trong đội an ninh của cô để không cho cô tiếp xúc với giới truyền thông.
Vào tháng Sáu năm 1972, trong cuộc điện thoại với phóng viên Helen Thomas của Báo chí Thống nhất Quốc tế, Martha Mitchell thông báo với Thomas rằng cô sẽ bỏ chồng cô cho đến khi ông ta từ chức CRP. Cuộc điện thoại kết thúc đột ngột. Vài ngày sau, Marcia Kramer, một phóng viên tội phạm kỳ cựu của New York Daily News, đã theo dõi Mitchell đến Câu lạc bộ Đồng quê Westchester ở Rye, New York, và mô tả Mitchell là "một người phụ nữ bị đánh đập" với những vết bầm tím rõ ràng. Mitchell báo cáo rằng, trong tuần lễ sau vụ trộm Watergate, cô đã bị giam giữ trong khách sạn Khu phức hợp Watergate, và rằng nhân viên bảo vệ Steve King đã kết thúc cuộc gọi của cô với Thomas bằng cách rút dây điện thoại khỏi tường. Mitchell đã nhiều lần cố gắng trốn thoát qua ban công, nhưng bị dọa dẫm về mặt thân thể, bị thương và bị tiêm thuốc an thần bằng vũ lực bởi một bác sỹ tâm thần. Sau khi bị kết án về vai trò của mình trong vụ đột nhập Watergate, vào tháng Hai năm 1975, McCord thừa nhận rằng Mitchell đã "về cơ bản bị bắt cóc", và đã chứng thực các báo cáo của cô về sự việc này.
Lần theo đường tiền
Vào ngày 19 tháng Sáu năm 1972, báo chí đưa tin rằng một trong những kẻ đột nhập Watergate là một phụ tá an ninh của Đảng Cộng hòa. Cựu tổng chưởng lý John Mitchell, khi đó là người đứng đầu CRP, đã phủ nhận mọi liên quan đến vụ đột nhập Watergate. Anh ta cũng phủ nhận hiểu biết bất kỳ điều nào về năm tên trộm. Vào ngày 1 tháng Tám, một tấm séc thủ quỹ trị giá 25.000 đô la (xấp xỉ đô la năm 2019) được phát hiện là đã được gửi vào tài khoản ngân hàng bên Mỹ và Mexico của một trong những tên đột nhập Watergate, Bernard Barker. Được gửi đến ủy ban tài chính của Ủy ban Tái bầu cử Tổng thống, tấm séc là một quyên góp vào chiến dịch năm 1972 bởi Kenneth H. Dahlberg. Số tiền này (và một số tấm séc khác đã được quyên góp hợp pháp cho CRP) đã được sử dụng trực tiếp để tài trợ cho chi phí các vụ đột nhập và nghe lén, bao gồm cả vật liệu cứng và vật tư.
Nhiều doanh nghiệp trong nước và quốc tế của ông Barker đều có các tài khoản ngân hàng riêng biệt; ông bị phát hiện đã cố gắng sử dụng chúng để che giấu nguồn gốc thực sự của số tiền được trả cho những tên đột nhập. Những tấm séc của nhà tài trợ đã chứng minh mối liên hệ trực tiếp của những kẻ đột nhập với ủy ban tài chính của CRP.
Các khoản quyên góp với tổng trị giá 86.000 đô la ( đô la ngày nay) là từ những cá nhân đã tin lầm rằng họ đang quyên góp riêng tư bằng séc có chứng nhận và thủ quỹ cho công cuộc tái bầu cử của tổng thống. Kiểm tra của các nhà điều tra vào lịch sử giao dịch ngân hàng của một công ty ở Miami do tên đột nhập Watergate Barker điều hành đã cho thấy một tài khoản do đích thân anh ta kiểm soát đã gửi séc và sau đó chuyển nó (thông qua Hệ thống Thanh toán bù trừ Chi phiếu của Cục Dự trữ Liên bang).
Các ngân hàng xuất phát séc đều quan tâm đến việc tổ chức gửi tiền được Barker sử dụng đã hoạt động đúng cách trong việc đảm bảo người nhận thanh toán séc đã nhận và chứng thực ở đằng sau (ký hậu) séc, trước khi tổ chức này đồng ý gửi vào tài khoản của Bernard Barker. Chỉ bằng cách này, các ngân hàng phát hành mới không phải chịu trách nhiệm về việc giải phóng tiền trái phép và không chuẩn mực từ tài khoản khách hàng của họ.
Cuộc điều tra của FBI, sau khi đã xóa tội vi phạm ủy thác cho ngân hàng của Barker, dẫn đến sự chú ý trực tiếp giờ hướng đến các thành viên của CRP, những người đã nhận séc. Những người đó là kế toán của ủy ban và thủ quỹ của nó, Hugh Sloan.
Là một tổ chức tư nhân, ủy ban đã tuân theo thông lệ kinh doanh thông thường trong việc chỉ cho phép những cá nhân được ủy quyền hợp lệ thay mặt ủy ban chấp nhận và chứng thực séc. Không tổ chức tài chính nào có thể chấp nhận hoặc xử lý séc thay mặt ủy ban trừ khi một cá nhân được ủy quyền hợp lệ chứng thực. Các séc được gửi vào tài khoản ngân hàng của Barker đã được chứng thực bởi thủ quỹ của Ủy ban, Hugh Sloan, người được ủy quyền bởi ủy ban tài chính. Tuy nhiên, một khi Sloan đã chứng thực một chiếc séc có thể được dùng để trả cho ủy ban, anh ta có trách nhiệm pháp lý và được ủy thác để đảm bảo rằng séc chỉ được gửi vào các tài khoản có tên trên séc. Sloan đã không làm được điều đó. Khi đối mặt với cáo buộc gian lận ngân hàng liên bang, ông tiết lộ rằng phó giám đốc ủy ban Jeb Magruder và giám đốc tài chính Maurice Stans đã chỉ đạo ông đưa tiền cho G. Gordon Liddy.
Liddy sau đó đã đưa tiền cho Barker và cố gắng che giấu nguồn gốc của nó. Barker đã cố gắng ngụy trang số tiền bằng cách gửi chúng vào tài khoản ở các ngân hàng bên ngoài Mỹ. Nhưng lịch sử các giao dịch như vậy đã được lưu trữ hết trong vòng sáu tháng mà Barker, Liddy và Sloan không hề hay biết. Việc Barker sử dụng các ngân hàng nước ngoài vào tháng Tư và tháng Năm năm 1972 để gửi séc và rút tiền thông qua séc thủ quỹ và ngân phiếu đã dẫn đến việc các ngân hàng lưu giữ toàn bộ lịch sử giao dịch cho đến tháng Mười và tháng Mười Một năm 1972.
Tất cả năm tên đột nhập Watergate đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến CRP năm 1972, do đó khiến Thẩm phán Sirica nghi ngờ có âm mưu liên quan đến các quan chức chính phủ tầng lớp cao hơn.
Vào ngày 29 tháng Chín năm 1972, báo chí đưa tin rằng John Mitchell, khi còn giữ chức vụ tổng chưởng lý, đã kiểm soát một quỹ bí mật của Đảng Cộng hòa được sử dụng để tài trợ cho việc thu thập thông tin tình báo chống lại Đảng Dân chủ. Vào ngày 10 tháng Mười, Bob Woodward và Carl Bernstein báo cáo rằng FBI đã xác định vụ đột nhập Watergate là một phần của chiến dịch gián điệp và phá hoại chính trị quy mô lớn thay mặt cho ủy ban tái bầu cử của Nixon. Bất chấp những tiết lộ này, chiến dịch của Nixon chưa bao giờ đã bị đe dọa nghiêm trọng; vào ngày 7 tháng Mười Một, Tổng thống đã tái đắc cử trong một trong những cuộc bầu cử "long trời lở đất" (cuộc bầu cử mà trong đó một ứng cử đạt được một số phiếu Đại cử tri lớn hơn rất nhiều so với bên đối thủ) lớn nhất trong lịch sử chính trị Hoa Kỳ.
Vai trò của truyền thông
Mối liên hệ giữa cuộc đột nhập và ủy ban tái bầu cử được làm nổi bật bởi truyền thông đưa tin—đặc biệt là tin bài điều tra của The Washington Post, Tạp chí Time và The New York Times. Các bản báo cáo này đã tăng lên đáng kể tính công khai và hậu quả chính trị và pháp lý sau này. Phụ thuộc nhiều vào các nguồn ẩn danh, các phóng viên của The Washington Post Bob Woodward và Carl Bernstein đã tiết lộ thông tin ám chỉ rằng các cấp trên của Bộ Tư Pháp, FBI, CIA, và Nhà Trắng biết về vụ đột nhập và những nỗ lực để che đậy nó. Woodward và Bernstein đã phỏng vấn Judy Hoback Miller (kế toán cho chiến dịch tái tranh cử của Nixon), người đã tiết lộ cho họ thông tin về việc các quỹ bị xử lý sai và hồ sơ sổ sách bị phá hủy.
Đứng đầu trong số các nguồn ẩn danh của tờ Post là một cá nhân mà bị Woodward và Bernstein đặt biệt danh là Deep Throat; 33 năm sau, vào năm 2005, người này được xác định là William Mark Felt, Sr. (Phó Giám đốc FBI trong thời kỳ đó của thập niên 1970), Woodward sau đó đã xác nhận điều này. Felt đã bí mật gặp Woodward vài lần, nói với anh ta về dính líu của Howard Hunt trong vụ đột nhập Watergate, và về việc các nhân viên Nhà Trắng coi vụ Watergate là rất nguy hiểm nếu lộ ra. Felt cảnh báo với Woodward rằng FBI muốn biết anh ta và các phóng viên khác đang lấy thông tin của mình ở đâu, vì họ đang tiết lộ một mạng lưới tội phạm quy mô rộng lớn hơn so với những gì FBI đã tiết lộ ban đầu. Tất cả các cuộc gặp gỡ bí mật giữa Woodward và Felt đều diễn ra tại một ga-ra để xe dưới hầm ở Rosslyn trong khoảng thời gian từ tháng Sáu năm 1972 đến tháng Một năm 1973. Trước khi từ chức FBI vào ngày 22 tháng Sáu năm 1973, Felt cũng đã ẩn danh làm rò rỉ vụ Watergate với tạp chí Time, The Washington Daily News và các nhà xuất bản khác.
Trong thời kỳ đầu này, hầu hết truyền thông đều không hiểu hết những hệ quả vụ bê bối có thể kéo theo, và chỉ tập trung đưa tin về các chủ đề khác liên quan đến cuộc bầu cử tổng thống năm 1972. Hầu hết các phương tiện truyền thông đều bỏ qua hoặc đánh giá thấp thông tin mà Woodward và Bernstein có được; các tờ báo xuyên thành phố Washington Star-News và Los Angeles Times thậm chí còn đăng những câu chuyện làm mất uy tín của các bài báo của Post một cách không chính xác. Sau khi tờ Post tiết lộ rằng H.R. Haldeman đã thực hiện các khoản thanh toán từ quỹ bí mật, các tờ báo như Chicago Tribune và Philadelphia Inquirer đã không công bố thông tin này, nhưng đã công bố việc Nhà Trắng phủ nhận về câu chuyện đó vào ngày hôm sau. Nhà Trắng cũng tìm cách cô lập đưa tin của tờ Post bằng cách liên tiếp tấn công tờ báo đó không mỏi mệt trong khi từ chối chỉ trích những câu chuyện gây tổn hại khác về vụ bê bối từ Tờ New York Times và Tạp chí Time.
Sau khi biết rằng một trong những tên đột nhập bị kết án đã viết thư cho Thẩm phán Sirica khẳng định rằng có một cuộc che đậy cấp cao, truyền thông đã chuyển sự chú ý của mình. Tạp chí Time miêu tả Nixon đang trải qua "địa ngục hàng ngày và rất ít ai tin tưởng". Báo chí và chính quyền Nixon ngờ vực lẫn nhau và lớn hơn bình thường do sự bất mãn kéo dài với các sự kiện từ Chiến tranh Việt Nam. Đồng thời, ngờ vực của công chúng đối với các phương tiện truyền thông là hơn 40% sau khi thăm dò ý kiến.
Nixon và các quan chức chính quyền hàng đầu đã thảo luận về việc sử dụng các cơ quan chính phủ để "tóm" (trả đũa) những người mà họ coi là các tổ chức truyền thông thù địch. Những hành động như vậy đã được thực hiện trước đây rồi: theo yêu cầu của Nhà Trắng thời Nixon vào năm 1969, FBI đã nghe lén điện thoại của 5 phóng viên; năm 1971, Nhà Trắng yêu cầu kiểm toán khai thuế của tổng biên tập Tờ Newsday, sau khi ông này đã viết một loạt bài về các thương vụ tài chính của Charles "Bebe" Rebozo—một người bạn của Nixon.
Chính quyền và những người ủng hộ đã cáo buộc giới truyền thông đưa ra "những cáo buộc ngông cuồng", nhấn mạnh câu chuyện quá nhiều và có thành kiến chủ nghĩa tự do cánh tả chống lại Chính Quyền. Nixon, trong một cuộc phỏng vấn tháng Năm năm 1974, nói với người ủng hộ Baruch Korff rằng nếu ông tuân theo các chính sách cánh tả mà ông cho rằng giới truyền thông ưa thích, thì "Watergate đã là một chuyện nhỏ." Các phương tiện truyền thông nói rằng hầu hết các báo cáo hóa ra là chính xác; bản chất cạnh tranh của truyền thông đã đảm bảo đưa tin rộng rãi về vụ bê bối chính trị sâu rộng này.
Đơn xin vào các trường nghề báo đạt đỉnh cao vào năm 1974.
Bê bối leo thang
Thay vì kết thúc bằng bản án và kết án tù năm tên đột nhập Watergate vào ngày 30 tháng Một năm 1973, điều tra về vụ đột nhập và dính líu của Chính Quyền Nixon ngày càng mở rộng thêm. "Các cuộc trò chuyện của Nixon vào cuối tháng Ba và cả tháng Tư năm 1973 tiết lộ rằng ông ấy không những biết mình cần cách chức Haldeman, Ehrlichman và Dean để tránh xa họ, mà còn biết phải làm như thế nào để ít có khả năng ông và nhiệm kỳ của ông bị kết tội nhất. Nixon đã tạo ra một âm mưu mới—để che đậy âm mưu che đậy trước đó—bắt đầu vào cuối tháng Ba năm 1973 và hoàn chỉnh vào tháng Năm và tháng Sáu năm 1973 cho đến khi nhiệm kỳ tổng thống của ông kết thúc vào ngày 9 tháng Tám năm 1974." Vào ngày 23 tháng Ba năm 1973, Thẩm phán Sirica đọc một lá thư của tên đột nhập Watergate James McCord trước tòa, trong đó khẳng định rằng đã có khai man trong phiên tòa Watergate, và các bị cáo bị ép phải giữ im lặng. Để thử làm họ nói thêm, Sirica đã tuyên cho Hunt và hai tên đột nhập bản án tạm thời lên đến 40 năm.
Bị Nixon giục, vào ngày 28 tháng Ba, trợ lý John Ehrlichman nói với Tổng chưởng lý Richard Kleindienst rằng không ai trong Nhà Trắng biết trước về vụ đột nhập. Vào ngày 13 tháng Tư, Magruder nói với các luật sư Hoa Kỳ rằng anh ta đã chính mình khai man trong phiên tòa xét xử những tên đột nhập, và làm lộ tội của John Dean và John Mitchell.
John Dean tin rằng anh ta, Mitchell, Ehrlichman và Haldeman có thể đến gặp các công tố viên, nói sự thật và cứu lấy chức vụ tổng thống. Dean muốn bảo vệ tổng thống và muốn 4 người thân cận nhất của ông ta chịu tội thay sau khi khai tội. Trong cuộc họp quan trọng giữa Dean và Nixon vào ngày 15 tháng Tư năm 1973, Dean không hề biết rằng tổng thống đã biết về và dính líu vào vụ che giấu Watergate nhiều đến mức nào. Trong cuộc họp này, Dean cảm thấy rằng mình đang bị ghi âm. Anh ta tự hỏi liệu anh nghĩ như vậy có phải là do cách nói của Nixon không, vì Nixon đang nói như thể ông ta đang cố gắng khơi gợi trí nhớ của những người tham dự buổi họp về các cuộc trò chuyện trước đó về vấn đề gây quỹ. Dean đã đề cập đến điều này trong khi làm chứng trước Ủy ban Thượng viện Watergate, từ đó vạch trần một chuỗi những cuộc trò chuyện bị ghi âm mà sau này sẽ làm rõ bản chất của âm mưu này.
Hai ngày sau, Dean nói với Nixon rằng anh ta đã hợp tác với các luật sư Hoa Kỳ. Cùng ngày hôm đó, các luật sư Hoa Kỳ nói với Nixon rằng Haldeman, Ehrlichman, Dean và các quan chức Nhà Trắng khác có liên quan đến vụ che đậy.
Vào ngày 30 tháng Tư, Nixon yêu cầu Haldeman và Ehrlichman, hai phụ tá có ảnh hưởng nhất của ông, từ chức. Cả hai sau đó đều bị truy tố, kết tội và cuối cùng bị kết án tù. Ông cũng yêu cầu Tổng chưởng lý Kleindienst từ chức, để đảm bảo không ai có thể khẳng định rằng tình bạn vô tội của ông với Haldeman và Ehrlichman có thể bị coi là xung đột lợi ích. Ông đã sa thải Cố vấn Nhà Trắng John Dean, người đã tiếp tục ra làm chứng trước Ủy ban Watergate của Thượng viện và nói ông rằng tin và nghi ngờ rằng các lần nói chuyện trong Văn phòng Bầu dục bị ghi âm. Thông tin chấn động này đã buộc Richard Nixon phải từ chức thay vì bị luận tội.
Ehrlichman viết từ trong tù cho các tạp chí New West và New York năm 1977 và khai rằng Nixon đã đề nghị cho anh ta một khoản tiền lớn, nhưng anh từ chối.
Tổng thống đã tuyên bố các vụ từ chức trong một bài phát biểu cho người dân Mỹ:
Cùng ngày 30 tháng Tư, Nixon bổ nhiệm một tổng chưởng lý mới, Elliot Richardson, và trao cho ông quyền chỉ định một cố vấn đặc biệt cho cuộc điều tra Watergate, một người mà sẽ độc lập riêng biệt so với hệ thống phân cấp thông thường của Bộ Tư pháp. Vào tháng Năm năm 1973, Richardson bổ nhiệm Archibald Cox vào vị trí này.
Các phiên điều trần Watergate của Thượng viện và tiết lộ các cuộn băng Watergate
Vào ngày 7 tháng Hai năm 1973, Thượng viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu 77–0 để thông qua nghị quyết của Quốc hội khóa 93 và thành lập một ủy ban chọn lọc để điều tra Watergate, với Sam Ervin được chỉ định làm chủ tịch vào ngày hôm sau. Các phiên điều trần do ủy ban Thượng viện tổ chức, trong đó có Dean và các cựu quan chức chính quyền khác làm chứng, được phát sóng từ 17 tháng Năm đến 7 tháng Tám. Ba kênh truyền hình lớn vào thời điểm đó đã đồng ý thay phiên nhau đưa tin trực tiếp về các phiên điều trần, mỗi kênh do đó đã đưa tin phiên điều trần cứ ba ngày một, bắt đầu với ABC vào 17 tháng Năm và kết thúc với NBC vào 7 tháng Tám. Ước tính có khoảng 85% dân Mỹ có tivi đã xem ít nhất một phần của các phiên điều trần.
Vào thứ Sáu, ngày 13 tháng Bảy, trong một cuộc phỏng vấn sơ bộ, phó cố vấn đảng thiểu số Donald Sanders đã hỏi trợ lý Nhà Trắng Alexander Butterfield liệu có bất kỳ loại hệ thống ghi âm nào trong Nhà Trắng không. Butterfield cho biết ông miễn cưỡng trả lời, nhưng cuối cùng đã thừa nhận có một hệ thống mới trong Nhà Trắng tự động ghi lại mọi thứ trong Văn phòng Bầu dục, Phòng Nội các và những nơi khác, bao gồm văn phòng riêng của Nixon trong Tòa nhà Văn phòng Điều hành Cũ.
Vào thứ Hai, ngày 16 tháng Bảy, khi đang bị quay truyền hình trực tiếp, trưởng cố vấn đảng thiểu số Fred Thompson đã hỏi Butterfield rằng liệu ông có "biết về việc lắp đặt bất kỳ thiết bị nghe nào trong Văn phòng Bầu dục của tổng thống không" trước một khán giả. Tiết lộ của Butterfield về hệ thống ghi âm đã thay đổi cuộc điều tra Watergate. Cox ngay lập tức trát hầu tòa các đoạn băng; Thượng viện cũng làm vậy, nhưng Nixon đã từ chối công bố chúng, lấy cớ đặc quyền hành pháp của mình với tư cách là tổng thống, và ra lệnh cho Cox hủy trát đòi hầu tòa của mình. Cox từ chối.
Thảm sát Đêm Thứ Bảy
Vào ngày 20 tháng Mười năm 1973, sau khi Cox từ chối bỏ trát hầu tòa, Nixon ra lệnh cho Tổng chưởng lý Elliot Richardson sa thải ông. Richardson từ chức như một cách phản đối thay vì thực hiện mệnh lệnh này. Nixon sau đó ra lệnh cho Phó Tổng chưởng lý William Ruckelshaus sa thải Cox, nhưng Ruckelshaus cũng từ chức chứ không sa thải ông ta. Nixon cuối cùng dừng việc tìm người sẵn sàng sa thải Cox sau khi tìm thấy Tổng biện lý sự vụ Robert Bork. Mặc dù Bork nói ông tin rằng mệnh lệnh của Nixon là chính đáng và phù hợp, ông vẫn đã cân nhắc từ chức để tránh bị "coi là người đã thực hiện mệnh lệnh của Tổng thống để cứu công việc của mình". Bork thực hiện mệnh lệnh của tổng thống và cách chức công tố viên đặc biệt (Cox).
Những hành động này bị công chúng chỉ trích đáng kể. Trả lời các cáo buộc về những hành vi có thể bị coi là sai trái của ông, vào ngày 17 tháng Mười Một năm 1973, trước 400 biên tập viên quản lý của Associated Press tại Khu nghỉ dưỡng Đương đại của Disney, Nixon dứt khoát tuyên bố: "Chà, tôi không phải là một thằng lừa đảo." Ông cần phải cho phép Bork bổ nhiệm một công tố viên đặc biệt mới; Bork đã chọn Leon Jaworski để tiếp tục cuộc điều tra.
Hành động pháp lý chống lại các thành viên Chính Quyền Nixon
Vào ngày 1 tháng Ba năm 1974, một đại bồi thẩm đoàn ở Washington, D.C. đã truy tố một số cựu trợ lý của Nixon, sau này được gọi là "Bộ Bảy Watergate". Trong này bao gồm H.R. Haldeman, John Ehrlichman, John N. Mitchell, Charles Colson, Gordon C. Strachan, Robert Mardian và Kenneth Parkinson vì đã lên âm mưu cản trở cuộc điều tra Watergate. Đại bồi thẩm đoàn bí mật để Nixon là đồng phạm không truy tố. Công tố viên đặc biệt đã can ngăn họ đừng ra bản cáo trạng chống lại Nixon và lập luận rằng một tổng thống chỉ có thể bị truy tố sau khi ông ta từ chức. John Dean, Jeb Stuart Magruder, và những người khác đã nhận tội. Vào ngày 5 tháng Tư năm 1974, Dwight Chapin, cựu thư ký thiết lập lịch họp của Nixon, bị kết tội nói dối trước bồi thẩm đoàn. Hai ngày sau, chính đại bồi thẩm đoàn đó đã truy tố Ed Reinecke, Trung úy Thống đốc Đảng Cộng hòa của California, với ba tội danh khai man trước ủy ban Thượng viện.
Công bố các bản ghi chép cuộn băng ghi âm
Chính quyền Nixon đã phải vật lộn để quyết định xem sẽ phát hành những tài liệu nào. Mọi bên dính líu đều đã đồng ý rằng tất cả các thông tin liên quan nên được tiết lộ. Những cố vấn của Tổng thống chia rẽ về việc có nên công bố những lời tục tĩu và thô tục chưa được chỉnh sửa hay không. Nhóm pháp lý của ông ủng hộ việc phát hành các đoạn băng chưa được chỉnh sửa, trong khi Thư ký Báo chí Ron Ziegler thích sử dụng phiên bản đã chỉnh sửa và "đã xóa lời bậy" để thay thế tài liệu thô. Sau nhiều tuần thảo luận, họ quyết định công khai phiên bản đã được chỉnh sửa. Nixon công bố việc phát hành bản ghi chép trong một bài phát biểu trước cả nước vào ngày 29 tháng Tư năm 1974. Nixon có nói thêm rằng bất kỳ trao đổi nào liên quan đến thông tin an ninh quốc gia đều có thể đã được biên tập lại từ các băng đã phát hành.
Ban đầu, Nixon nhận được phản ứng tích cực cho bài phát biểu của mình. Tuy nhiên, khi mọi người đọc bản ghi chép trong vài tuần tiếp theo, những người trước đó ủng hộ Nixon trong cộng đồng công chúng, truyền thông và chính trị đã kêu gọi cho cách chức hoặc luận tội Nixon. Phó Chủ tịch Gerald Ford cho biết, "Mặc dù có thể dễ dàng xóa các chữ cái khỏi trang in, nhưng chúng ta không thể xóa ý kiến khỏi tâm trí mọi người bằng một cái vẫy tay." Lãnh đạo Thượng viện của đảng Cộng hòa Hugh Scott cho biết bản ghi chép cho thấy cách xử sự "đáng trách, ghê tởm, tồi tàn và vô đạo đức" của Tổng thống và các phụ tá cũ của ông. Lãnh đạo Hạ viện của đảng Cộng hòa John Jacob Rhodes đồng ý với Scott, và Rhodes khuyến nghị rằng nếu tình hình của Nixon tiếp tục vào xấu đi, ông "nên cân nhắc từ chức như một lựa chọn khả thi".
Các biên tập viên của Tờ Chicago Tribune, một tờ báo từng ủng hộ Nixon, đã viết, "Ông khôi hài đến mức vô nhân đạo. Ông láu cá. Ông do dự. Ông tục tĩu. Ông sẵn sàng bị dắt mũi. Ông thể hiện những lỗ hổng kiến thức đáng kinh ngạc. Ông nghi ngờ nhân viên của mình. Lòng trung thành của ông là tối thiểu." Tạp chí Providence đã viết, "Đọc bản ghi chép là một trải nghiệm muốn buồn nôn; người ta đọc xong cảm thấy không sạch sẽ." Tờ báo này tiếp tục nói rằng, trong khi các bản ghi có thể đã không tiết lộ hành vi phạm tội có thể truy tố, những chúng đã cho thấy Nixon coi thường Hoa Kỳ, các thể chế và người dân của nó. Theo tạp chí Time, các nhà lãnh đạo Đảng Cộng hòa ở miền Tây nước Mỹ cảm thấy rằng mặc dù vẫn còn một số lượng đáng kể những người trung thành với Nixon trong đảng, nhưng đa số tin rằng Nixon nên từ chức càng sớm càng tốt. Họ bị xáo lộn bởi ngôn ngữ tồi tệ và giọng điệu thô thiển, đầy thù hận của các cuộc trò chuyện trong bản ghi chép.
Tòa án Tối cao
Vấn đề về quyền truy cập các cuộn băng đã lên đến Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Vào ngày 24 tháng Bảy năm 1974, trong vụ United States v. Nixon, Tòa án đã nhất trí ra phán quyết (8–0) rằng những tuyên bố về đặc quyền hành pháp đối với các cuộn băng là không có cơ sở. (Thẩm phán đương thời là William Rehnquist—người trước đó được Nixon bổ nhiệm vào Tòa án và gần đây làm việc trong Bộ Tư pháp Nixon với tư cách Trợ lý Tổng chưởng lý của Văn phòng Cố vấn Pháp lý—đã tự rút mình khỏi vụ án). Tòa án ra lệnh cho Tổng thống công bố các cuộn băng cho công tố viên đặc biệt. Vào ngày 30 tháng Bảy năm 1974, Nixon tuân lệnh và công bố các đoạn băng bị trát hầu tòa ra cho công chúng.
Công bố các cuộn băng
Các đoạn băng tiết lộ một số cuộc trò chuyện quan trọng diễn ra giữa tổng thống và cố vấn của ông, John Dean, vào ngày 21 tháng Ba năm 1973. Trong cuộc trò chuyện này, Dean đã tóm tắt nhiều khía cạnh của vụ Watergate, và tập trung nói về việc che đậy sau đó, mô tả nó như một "căn bệnh ung thư trong nhiệm kỳ tổng thống". Đội đột nhập đã được trả tiền hối lộ để cho họ giữ im lặng và Dean nhận định: "Đó là điều rắc rối nhất sau đó, bởi vì Bob [Haldeman] có dính líu đến việc đó; John [Ehrlichman] có dính líu đến việc đó; tôi cũng dính líu việc đó; Mitchell có dính líu đến việc đó. Và đó là một sự cản trở công lý." Dean tiếp tục nói rằng Howard Hunt đang tống tiền Nhà Trắng và đòi tiền ngay lập tức. Nixon trả lời rằng số tiền nên được trả: "... chỉ cần nhìn vào vấn đề trước mắt, chẳng phải anh cần phải—xử lý tình hình tài chính của Hunt sớm con mẹ nó sao? ... anh phải trả tiền cho nó để giữ bí mật, nếu muốn có bất kỳ đường lui nào".
Vào thời điểm những thủ tục quốc hội ban đầu, người ta không biết Nixon có biết và chấp thuận các khoản thanh toán cho các bị cáo Watergate sớm hơn cuộc trò chuyện này hay không. Cuộc trò chuyện của Nixon với Haldeman vào ngày 1 tháng Tám, là một trong số nhiều những bằng chứng cho thấy ông ta có biết. Nixon nói: "Thì ... họ phải được trả tiền thôi. Chuyện tất cả chỉ có thế. Họ phải được trả tiền." Trong cuộc tranh luận của Quốc hội về việc luận tội, một số người tin rằng việc luận tội đòi hỏi một tội danh có thể truy tố hình sự. Việc Nixon giao dịch các khoản tiền tống tiền được coi là một hành động nhằm cản trở công lý rõ ràng.
Vào ngày 7 tháng Mười Hai, các nhà điều tra nhận thấy một khoảng phút của một đoạn băng được ghi đã bị xóa. Rose Mary Woods, thư ký riêng lâu năm của Nixon, cho biết cô đã vô tình xóa đoạn băng do nhấn nhầm bàn đạp trên máy nghe nhạc của mình khi trả lời điện thoại. Báo chí đã đăng tải các bức ảnh về nội thất chỗ cô làm việc, cho thấy Woods khó có thể trả lời điện thoại khi cô ấy giữ chân trên bàn đạp. Phân tích pháp y sau đó vào năm 2003 xác định rằng cuốn băng đã bị xóa tại nhiều đoạn—ít nhất là năm đoạn, và có lẽ nhiều đến tận chín đoạn.
Những cuộc điều tra cuối cùng và từ chức
Vị thế của Nixon ngày càng trở nên bấp bênh. Ngày 6 tháng Hai năm 1974, Hạ viện phê chuẩn trao cho Ủy ban Tư pháp thẩm quyền điều tra việc luận tội Tổng thống. Vào ngày 27 tháng Bảy năm 1974, Ủy ban Tư pháp Hạ viện đã bỏ phiếu từ 27–11 để đề nghị điều khoản luận tội tổng thống đầu tiên: cản trở công lý. Ủy ban đề nghị điều khoản thứ hai, lạm quyền, ngày 29 tháng Bảy năm 1974. Ngày hôm sau, ngày 30 tháng Bảy năm 1974, Ủy ban đề nghị điều khoản thứ ba: khinh thường (cản trở) Quốc hội. Vào ngày 20 tháng Tám năm 1974, Hạ viện cho phép in báo cáo của Ủy ban, H. Rep. 93–1305, trong đó có nội dung của nghị quyết luận tội Nixon và đưa ra các điều khoản luận tội ông.
Cuộn băng không thể chối cãi
Vào ngày 5 tháng Tám năm 1974, Nhà Trắng đã phát hành một đoạn băng ghi âm trước đó chưa được biết đến từ ngày 23 tháng Sáu năm 1972. Được ghi lại chỉ vài ngày sau vụ đột nhập, nó đã ghi lại các giai đoạn ban đầu của vụ che đậy: nó tiết lộ Nixon và Haldeman đã có một cuộc họp tại Văn phòng Bầu dục, trong đó họ thảo luận về cách ngăn chặn FBI tiếp tục điều tra vụ đột nhập, vì họ nhận ra rằng có nguy cơ cao sự dính líu của họ trong vụ bê bối có thể bị tiết lộ.
Haldeman nói về chủ đề đó như sau:
...cái chuyện đột nhập Dân chủ, chúng ta lại trở lại—trong khu vực có vấn đề vì FBI không được kiểm soát, bởi vì Gray không thực sự biết cách kiểm soát họ, và họ có ... cuộc điều tra của họ hiện đang hơi chút có hiệu quả ... và nó đi đến một số hướng mà chúng ta không muốn nó đi đến.
Sau khi giải thích về việc những tên trộm được lần ra theo dấu vết của tiền từ CRP như thế nào, Haldeman giải thích với Nixon về kế hoạch che đậy: "cách xử lý việc này bây giờ là để chúng ta cho Walters [CIA] gọi cho Pat Grey [FBI] và chỉ cần nói, 'Tránh xa chuyện này ra ... đây là—ah, chuyện ở đây chúng tôi không muốn anh đi xa hơn nữa."
Nixon phê duyệt kế hoạch và sau khi được cung cấp thêm thông tin về sự dính líu của chiến dịch của mình trong vụ đột nhập, ông nói với Haldeman: "Được rồi, được rồi, tôi hiểu hết rồi. Chúng ta sẽ không chỉ trích Mitchell và những người còn lại nữa." Quay trở lại về việc sử dụng CIA để cản trở FBI, ông chỉ thị cho Haldeman: "Anh gọi họ đến. Tốt. Món hời. Chơi cho nó khó vào. Đó là cách họ chơi nó và đó là cách chúng ta sẽ chơi nó."
Nixon phủ nhận rằng điều này cấu thành một sự cản trở công lý, vì những chỉ dẫn của ông cuối cùng đã dẫn đến việc CIA phải báo cáo trung thực cho FBI rằng không có vấn đề an ninh quốc gia nào. Nixon đã thúc giục FBI tiếp tục cuộc điều tra khi họ bày tỏ lo ngại về sự can thiệp.
Trước khi phát hành cuộn băng này, Nixon đã phủ nhận mọi liên quan đến vụ bê bối. Ông ta tuyên bố rằng không có động cơ chính trị nào trong các chỉ thị của mình cho CIA và tuyên bố rằng ông ta không hề biết gì về trước ngày 21 tháng Ba năm 1973, về sự tham gia của các quan chức cấp cao của chiến dịch như John Mitchell. Nội dung của cuộn băng này thuyết phục chính các luật sư của Nixon, Fred Buzhardt và James St. Clair, rằng "Tổng thống đã nói dối với quốc gia, với các phụ tá thân cận nhất của mình và với các luật sư của chính mình—trong hơn hai năm". Cuộn băng, mà Barber Conable gọi là "khẩu súng còn khói"—một thuật ngữ tiếng Anh ý chỉ bằng chứng rõ ràng rằng một người đã dấn thân vào một việc—chứng tỏ rằng Nixon đã tham gia vào vụ che đậy ngay từ đầu.
Các nhân vật liên quan
Howard Baker
Alfred Baldwin (Watergate)
Alexander Barkan
Richard Ben-Veniste
Robert Foster Bennett
Hale Boggs
Robert Bork
Benjamin C. Bradlee
Pat Buchanan
Alexander Butterfield
William Byrne
Dwight Chapin
Charles Colson
John Conyers
Archibald Cox
Kenneth H. Dahlberg
Maxwell Dane
Samuel Dash
David Young (Watergate)
Sidney Davidoff
John Dean
Deep Throat
Ron Dellums
John Doar
S. Harrison Dogole
Charles Dyson
John Ehrlichman
Daniel Ellsberg
Sam Ervin
Bernard T. Feld
W. Mark Felt
Fred F. Fielding
Gerald Ford
William Gaines (professor)
Leonard Garment
Sam Garrison
Seymour Glanzer
Katharine Graham
L. Patrick Gray
Ed Guthman
Alexander Haig
H. R. Haldeman
Halloween Massacre
Morton Halperin
Sally Harmony
Richard Helms
Howard Hughes
William L. Hungate
Leon Jaworski
Herbert W. Kalmbach
Egil Krogh
Samuel M. Lambert
Angelo Lano
Fred LaRue
G. Gordon Liddy
Allard K. Lowenstein
Mary McGrory
Jeb Stuart Magruder
Robert Mardian
James W. McCord, Jr.
Cord Meyer
John N. Mitchell
Stewart Rawlings Mott
S. Sterling Munro, Jr.
Richard Nixon
Bernard W. Nussbaum
Larry O'Brien
Robert C. Odle, Jr.
John Paisley
Kenneth Parkinson
Arnold Picker
Herbert Porter
Raymond Price (speechwriter)
Charles Rebozo
Elliot Richardson
Peter W. Rodino
William Ruckelshaus
Charles Ruff
Daniel Schorr
Donald Segretti
John Sirica
Hugh W. Sloan, Jr.
Maurice Stans
Ben Stein
Howard Stein
Gordon C. Strachan
Jerald terHorst
Fred Thompson
Watergate scandal
Frank Wills (security guard)
Leonard Woodcock
Rose Mary Woods
Ron Ziegler
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiếng Anh
White House tape transcripts
The White House tapes themselves
Washington Post Watergate Archive
Washington Post Watergate Tape Listening Guide
BBC News reports on Watergate
Watergate.info - The Scandal That Destroyed Pres. Richard Nixon
Watergate Timeline
Watergate Key Players by Washington Post
Schemers In the Web
Extensive set of online Watergate biographies at Spartacus
Tiếng Việt
Năm hiểu lầm về Watergate, BBC 20-6-2012
Mưu đồ bất thành của Tổng thống Nixon trong vụ Watergate, CAND 5-9-2014
Watergate, “cú ngã ngựa” đau đớn của cựu Tổng thống Nixon, CAND 5-7-2005
Năm 1968, Nixon đã phá hoại Hội nghị Paris như thế nào?, CAND 31-7-2009
Vụ bê bối chính trị ở Hoa Kỳ
Hoa Kỳ thập niên 1970
Vụ bê bối thế kỷ 20
Thuật ngữ chính trị Hoa Kỳ
Vụ bê bối Watergate
|
16925
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BB%83n
|
Biển
|
Biển nói chung là một vùng nước mặn rộng lớn nối liền với các đại dương, hoặc là các hồ lớn chứa nước mặn mà không có đường thông ra đại dương một cách tự nhiên như biển Caspi, biển Chết. Thuật ngữ này đôi khi cũng được sử dụng với một số hồ nước ngọt khép kín hoặc có đường thông tự nhiên ra biển cả như biển Galilee ở Israel là một hồ nước ngọt nhỏ không có đường thông tự nhiên ra đại dương hay Biển Hồ ở Campuchia. Thuật ngữ này được sử dụng trong đời sống thông thường như một từ đồng nghĩa với đại dương, như trong các câu biển nhiệt đới hay đi ra bờ biển, hoặc cụm từ nước biển là chỉ một cách rõ nét tới các vùng nước của đại dương nói chung.
Các ion phong phú nhất trong nước biển là clo và natri. Nước biển còn có magiê, sulfat, calci, kali, và nhiều thành phần khác, một số có hàm lượng rất nhỏ. Độ mặn của nước biển thay đổi rất lớn. Biển có độ mặn thấp ở những lớp nước gần bề mặt và các cửa sông lớn, và cao hơn theo chiều sâu của đại dương, tuy nhiên, tỷ lệ tương đối của các muối hòa tan thay đổi nhỏ trên khắp các đại dương. Carbon dioxide từ không khí hiện đang được hấp thụ bởi biển với số lượng tăng dần, làm giảm độ pH nước biển trong một quá trình được gọi là axít hóa đại dương, quá trình này có khả năng gây thiệt hại cho các hệ sinh thái biển trong tương lai gần.
Gió thổi trên bề mặt biển tạo ra sóng, mà chúng sẽ vỡ khi chạm đến đới nước nông. Gió cũng tạo ra các dòng chảy mặt do ma sát, vận tốc vận chuyển chậm nhưng đi khắp các đại dương. Hướng dòng chảy được điều chỉnh bởi các yếu tố bao gồm cả các hình dạng của các châu lục và sự quay của Trái Đất (các lực Coriolis) dòng biển sâu, được gọi là dòng muối nhiệt, mang nước lạnh từ gần các cực đến tất cả các đại dương. Thủy triều thường dâng lên và hạ xuống 2 lần mỗi ngày, được gây ra bởi sự quay của Trái Đất và các tác động trọng lực của Mặt Trăng quay xung quanh, và ở mức ảnh hưởng ít hơn từ Mặt Trời. Thủy triều có thể có độ cao lớn ở các vịnh hoặc các cửa sông. Sóng thần có thể được gây ra bởi các trận động đất dưới biển phát sinh từ sự chuyển động của các mảng kiến tạo chuyển động, các vụ phun trào núi lửa, lở đất lớn, hoặc tác động lớn do thiên thạch.
Biển có đa dạng về sự sống bao gồm virus, vi khuẩn, động vật nguyên sinh, tảo, thực vật, nấm và động vật sống ở biển, trong đó cung cấp một loạt các sinh cảnh và hệ sinh thái biển thay đổi từ bề mặt nước biển ngập nắng đến các độ sâu rất lớn với áp lực lớn của đáy biển sâu tối và lạnh. Biển cũng thay đổi theo vĩ độ từ vùng nước lạnh bên dưới lớp băng Bắc cực đến đa dạng đầy màu sắc của các rạn san hô ở vùng nhiệt đới. Nhiều nhóm lớn các sinh vật đã tiến hóa từ biển và nguồn gốc sự sống có thể đã bắt đầu từ đó.
Biển cung cấp cho con người những thực phẩm đáng kể, chủ yếu là cá, động vật giáp xác, động vật có vú và rong biển thông qua đánh bắt trong tự nhiên hoặc nuôi nhân tạo. Việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thực phẩm này đã trở thành một vấn đề lớn.
Biển cũng phục vụ các mục đích khác, bao gồm cả thương mại, du lịch, khai thác khoáng sản dưới biển, điện, chiến tranh, và các hoạt động giải trí như bơi, lướt sóng, đi thuyền và lặn biển. Biển cũng có nguy cơ bị ô nhiễm. Biển đã đóng một phần quan trọng về văn hóa trong suốt chiều dài lịch sử, với sự xuất hiện quan trọng trong văn học, xa nhất là từ tác phẩm Odyssey của Homer, trong nghệ thuật, trong rạp chiếu phim, ở sân khấu, và trong âm nhạc cổ điển. Về biểu tượng, biển xuất hiện như là quái vật như Scylla trong thần thoại và đại diện cho vô thức trong giải mộng.
Định nghĩa
Biển là hệ thống kết nối của tất cả các vùng chứa nước của Trái Đất, bao gồm năm đại dương lớn: Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Nam Băng Dương và Bắc Băng Dương. Từ "biển" được sử dụng trong tên của một vùng nước mặn cụ thể, nhỏ hơn, chẳng hạn như Biển Bắc hoặc Biển Đỏ.
Không có sự phân biệt rõ ràng giữa biển và đại dương, mặc dù vùng biển nhỏ hơn, và là một phần hoặc toàn bộ giáp với đất liền. Tuy nhiên, biển Sargasso không có bờ biển và nằm trong một dòng chảy Bắc Đại Tây Dương.
Biển nói chung là lớn hơn so với hồ và chứa nước mặn, nhưng biển Galilee là một hồ nước ngọt. Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển khẳng định tất cả các đại dương là "biển".
Vật lý học
Trái Đất là hành tinh duy nhất trong Hệ Mặt trời với bề mặt chất lỏng, nhưng các hành tinh giống Trái Đất trong các hệ hành tinh ngoài Hệ mặt trời có thể có đại dương. Biển bao phủ hơn 70% bề mặt Trái Đất với nước ở dạng lỏng. Khoảng 97,2% lượng nước của Trái Đất ở trên biển, với khoảng 1,36 tỷ km³ nước mặn. 2,15% số còn lại là băng trong các sông băng, băng trên bề mặt biển, 0,65% còn lại là hơi nước và nước ngọt trong các hồ, sông, đất và không khí.
Nhìn từ vũ trụ, hành tinh của chúng ta xuất hiện như một "viên đá cẩm thạch màu xanh" với các dạng khác nhau của nước: nước mặn ở các đại dương, các khối băng ở hai cực và những đám mây hơi nước. Nhà văn khoa học viễn tưởng Arthur C. Clarke đã từng đề xuất rằng "Trái Đất" nên được đặt tên là "Trái nước" vì diện tích chứa nước chiếm phần nhiều của Trái Đất.
Vật lý Hải dương học, hoặc vật lý biển, nghiên cứu thuộc tính vật lý của đại dương bao gồm tương quan giữa nhiệt độ và độ mặn, sóng biển, các sóng ngầm dưới đáy biển, thủy triều trên bề mặt, thủy triều dưới lòng biển, và các dòng hải lưu. Sự di chuyển của nước với hình thức các hải lưu, thủy triều và sóng ảnh hưởng đến bờ biển và thay đổi khí hậu của khu vực ven biển. Địa vật lý biển liên quan đến việc nghiên cứu về hình dạng và sự mở rộng lưu vực biển và bờ biển.
Việc khai quật đáy biển cung cấp các bằng chứng của các vật liệu tạo ra Trái Đất, cũng như sự trôi dạt lục địa, sự phân bố của các khu vực có hoạt động địa chấn và núi lửa, và sự tích tụ trầm tích mà cuối cùng có thể kết tinh thành đá trầm tích.
Nước biển
Nước trong biển được cho là có nguồn gốc từ hoạt động phun trào núi lửa trên Trái Đất, bắt đầu cách nay 4 tỉ năm, làm giải phóng các khí từ đá nóng chảy. Công trình nghiên cứu gần đây hơn cho rằng hầu hết nước trên Trái Đất có thể từ sao chổi. Một đặc điểm quan trọng của nước biển là mặn. Độ mặn thường được đo bằng phần nghìn (ký hiệu ‰), và các đại dương chứa vào khoảng chất rắn trên một lít, độ mặn 35 ‰ (khoảng 90% nước trong đại dương có độ mặn nằm trong khoảng 34 đến 35‰). Biển Địa Trung Hải có độ mặn cao hơn ở 37 ‰. Thành phần của muối ăn (natri và clo) chiếm khoảng 85% chất rắn hòa tan trong nước biển. Ngoài ra, còn có các ion kim loại khác như magie và calci, và các ion âm như sulphat, carbonat, và bromide. Mặc dù có sự khác biệt độ mặn trong vùng biển khác nhau, các thành phần tương đối của các muối hòa tan là ổn định trong khắp các đại dương của thế giới. Nước biển là quá mặn để con người có thể uống vì thận không thể bài tiết qua đường tiểu những chất mặn như nước biển. Ngược lại, các hồ nước mặn nằm trong lục địa có độ mặn cao hơn trong đại dương, ví dụ như Biển Chết có chất rắn hòa tan trong một lít (300 ‰).
Độ mặn của các vực nước thay đổi theo sự bay hơi từ bề mặt của nó (gia tăng bởi nhiệt độ cao, gió và chuyển động của sóng), lượng mưa, đóng băng hoặc tan chảy của băng biển, sự tan chảy của sông băng, dòng nước ngọt từ sông, và sự pha trộn của các vực nước có độ mặn khác nhau. Ví dụ, biển Baltic là trong một vùng khí hậu mát mẻ với độ bay hơi thấp, có nhiều con sông chảy vào nó và bổ sung liên tục từ Biển Bắc nên tạo ra một lớp nước bên dưới lạnh, dày đặc mà hầu như không hòa lẫn với các lớp bề mặt. Lớp trên cùng có thể có độ mặn 10-15 ‰, với mức độ thậm chí thấp hơn trong các cửa sông. Biển Đỏ ấm có độ bốc hơi cao nhưng lượng mưa thấp; có ít sông đổ vào nó, và Bab-el-Mandeb, nối nó với Vịnh Aden, đây là một vịnh hẹp có độ mặn trung bình 40 ‰.
Nhiệt độ của biển phụ thuộc vào lượng bức xạ mặt trời chiếu trên bề mặt của nó. Ở các vùng nhiệt đới, mặt trời chiếu thường xuyên, nhiệt độ bề mặt biển có thể lên đến hơn trong khi ở gần các Cực, nhiệt độ ở trạng thái cân bằng với băng biển vào khoảng . Có một dòng hải lưu liên tục trong các đại dương. Các dòng hải lưu ấm trên mặt lạnh đi khi chúng chảy xa các vùng nhiệt đới, và nước trở nên đặc hơn và chìm xuống. Dòng nước lạnh di chuyển trở về xích đạo ở dạng các dòng ở dưới sâu, được điều khiển bở sự thay đổi về nhiệt độ và trọng lượng của nước, cuối cùng trồi lên mặt và tiếp tục tuần hoàn. Nước biển sâu có nhiệt độ khoảng đến trong tất cả các vùng trên toàn cầu.
Nước biển đóng băng ở nhiệt độ khoảng −1.8 °C (28.8 °F). Khi nhiệt độ của nước xuống đủ thấp, các tinh thể băng hình thành trên bề mặt. Các khối băng bề mặt này vỡ thành các mảng nhỏ và kết hợp lại thành đĩa phẳng tạo thành một hệ thống treo dày được gọi là băng đóng ở dưới đáy. Trong điều kiện tĩnh lặng, lớp này bị đóng băng thành một tấm phẳng mỏng được gọi là nilas, nó làm dày các lớp băng mới ở mặt dưới của nó. Trong vùng biển nhiều sóng gió hơn, các tinh thể băng đóng ở dưới đáy cùng tham gia vào đĩa phẳng được gọi là pancake. Các bánh này trượt với nhau và kết hợp lại để tạo thành băng trôi. Trong quá trình làm lạnh, nước muối và không khí bị bắt giữ trong các tinh thể băng. Nilas có thể có độ mặn 12-15 ‰, nhưng theo thời gian, băng biển sau một năm thì nó giảm xuống 4-6 ‰.
Lượng oxy có trong nước biển phụ thuộc chủ yếu vào thực vật phát triển trong đó. Các loài này chủ yếu là tảo, bao gồm thực vật phù du, với một số thực vật có mạch như cỏ biển. Hoạt động quang hợp vào ban ngày của các thực vật này sản sinh oxy, chúng hòa tan trong nước biển và được các động vật biển sử dụng. Vào ban đêm, hoạt động quan hợp dừng lại, lượng oxy hòa tan sụt giảm. Ở đới biển sâu, ánh sáng không đủ khả năng xuyên đến cho thực vật phát triển, thì có rất ít oxy hòa tan. Do thiếu oxy, vật liệu hữu cơ bị phân hủy bởi các vi sinh vật yếm khí tạo ra hydro sulfide. Ấm lên toàn cầu có thể làm giảm hàm lượng oxy trong cả nước tầng mặt do khả năng hòa tan của oxy giảm do ở nhiệt độ cao, và cả trong nước tầng sâu do giảm khả năng hòa tan của oxy do tăng sự phân tầng cột nước.
Lượng ánh sáng xuyên thấu vào biển phụ thuộc vào góc tới của mặt trời, các điều kiện thời tiết, và độ đục của nước biển. Hầu hết ánh sáng phản xạ ở bề mặt, và ánh sáng đỏ hấp thụ xuống ở vài mét từ bề mặt. Ánh sáng vàng và lục xuyên thấu sâu hơn, và ánh sáng xanh và tím có thể xuống đến độ sâu khoảng . Không đủ ánh sáng cho quang hợp và thực vật phát triển ở độ sâu dưới .
Axít hóa đại dương
Nước biển có tính kiềm nhẹ và độ pH thời kỳ tiền công nghiệp vào khoảng 8,2. Gần đây, các hoạt động nhân sinh đã làm gia tăng hàm lượng carbon dioxide trong khí quyển; có khoảng 30–40% CO2 gia tăng đã được hấp thụ vào các đại dương, tạo thành axít carbonic và làm giảm pH (hiện dưới 8,1) qua một quá trình được gọi là axít hóa đại dương. Giá trị pH được cho là sẽ giảm xuống còn 7,7 (tăng gấp 3 lần nồng độ ion H+) vào năm 2100, đây sẽ là sự thay đổi đáng kể trong thế kỷ này.
Một nguyên tố quan trọng trong việc hình thành khung xương của các động vật biển là calci, nhưng calci cacbonat trở nên dễ hòa tan hơn theo áp suất, vì vậy vỏ sò bằng cacbonat và khung xương hòa tan bên dưới độ sâu bù cacbonat. Calci carbonat cũng dễ hòa tan hơn khi pH thấp hơn, vì vậy axít hóa đại dương có thể có những ảnh hưởng sâu sắc lên các sinh vật biển có cấu trúc calci như sò, hào, hải sâm và san hô, bởi vì khả năng tạo vỏ của chúng sẽ bị giảm, và độ sâu bù đắp cacbon sẽ tăng gần về phía mặt biển. Các sinh vật phù du bị ảnh hưởng sẽ bao gồm các loài động vật hai mảnh vỏ giống ốc như pteropoda, tảo đơn bào được gọi là coccolithophorida và foraminifera. Tất cả các loài này là những phần quan trọng trong chuỗi thức ăn và sự suy giảm số lượng của chúng sẽ có hậu quả đáng kể. Trong vùng nhiệt đới, san hô có khả năng bị ảnh hưởng nghiêm trọng khi nó trở nên khó khăn hơn trong việc tạo bộ xương cacbonat của chúng, lần lượt tác động xấu đến các loài sống dựa vào rạn san hô.
Tốc độ thay đổi hóa học trong đại dương hiện tại dường như là không có tiền lệ trong lịch sử địa chất của Trái Đất, làm thể hiện một điều không rõ rằng như thế nào hệ sinh thái biển sẽ có thể thích ứng với các điều kiện thay đổi của tương lai gần. Sự quan tâm đặc biệt là cách thức kết hợp của quá trình axit hóa với các yếu tố bổ sung làm nhiệt độ cao hơn và hàm lượng oxy giảm xuống sẽ ảnh hưởng đến các vùng biển.
Sóng biển
Gió thổi trên bề mặt một vực nước tạo thành sóng có phương vuông góc với hướng gió. Ma sát giữa khối không khí và nước gây ra bởi làn gió nhẹ làm tạo thành những vế gợn sóng. Gió mạng thổ trên mặt biển tạo ra các sóng lớn hơn và khi khối không khi chuyển động sẽ đẩy mặt nước làm tạo thành các font sóng dâng cao. Sóng đạt đến độ cao lớn nhất khi mà tốc độ tại lúc đó nó di chuyển gần bằng với vận tốc gió. Ở vùng nước mở, khi gió thổi liên tục (như ở Nam bán cầu trong Roaring Forties), kéo dài. Nếu gió giảm, thì sự hình thành sóng cũng giảm, nhưng các sóng đã hình thành trước đó vẫn tiếp tục chuyển động theo hướng ban đầu cho đến khi chúng vỗ vào bờ. Kích thước của sóng phụ thuộc vào quãng đường mà nó truyền qua và độ mạnh cũng như thời gian gió tiếp xúc với mặt nước. Khi sóng gặp những loại sóng khác đến với những hướng khác nhau, sự giao thoa giữ hai sóng có thể tạo các vùng biển bất thường.
Phần cao của sóng được gọi là đỉnh sóng; phần thấp nhất được gọi là chân sóng; và khoảng cách giữa các đỉnh được gọi là bước sóng. Sóng bị gió đẩy qua bề mặt của đại dương, nhưng điều này đại diện cho một sự truyền năng lượng và không phải là một chuyển động ngang của nước. Khi sóng đi tới, các phân tử nước tại một điểm dâng cao lên và khi tĩnh sóng, chúng đi xuống, các phân tử nước chuyển động theo một mô hình tròn mỗi lần sóng đi qua. Những phân tử ở gần bề mặt di chuyển nhanh hơn so với những phân tử ở dưới. Khi sóng tiếp cận bờ và di chuyển vào vùng nước nông, chúng thay đổi đặc điểm. Nếu tiếp xúc ở một góc tới bất kỳ, sóng có thể uốn cong hoặc ôm xung quanh các vật thể như đá hoặc mũi đất. Khi các phân tử nước dao động ở dưới cùng của cột sóng tiếp xúc với đáy biển, ma sát giữa các phân tử nước và các bãi biển làm tốc độ truyền sóng chậm lại, khoảng cách giữa các đỉnh sẽ thu hẹp lại và biên độ sóng tăng lên. Lúc này theo mặt cắt sóng, phần đỉnh sóng di chuyển nhanh hơn so với phần chân sóng, và cuối cùng là xuất hiện hiện tượng "sóng vỡ" khi đỉnh chờm về phía trước (so với chân sóng). Chúng tràn lên bãi biển trước khi rút trở lại biển do ảnh hưởng của trọng lực.
Sóng thần là một loại sóng bất thường gây ra bởi các sự kiện có năng lượng lớn không thường xuyên như động đất hoặc trượt lở đất dưới biển, sự va chạm của thiên thạch, núi lửa phun trào hoặc lở đất xuống biển. Các sự kiện này có thể làm dâng cao hoặc hạ thấp mặt nước biển tạm thời trong khu vực bị ảnh hưởng, thường khoảng vài foot. Thế năng của nước biển bị choáng chỗ này được chuyển thành động năng, tạo ra sóng nông, một dạng sóng thần, tỏa ra phía ngoài với vận tốc vài foot vuông theo độ sâu và sau đó chuyển động nhanh hơn trong vùng biển mở so với trên thềm lục địa. Trong vùng biển mở và sâu, sóng thần có bước sóng vào khoảng , chuyển động với vận tốc hơn 970 km/h (hơn 600 dặm/giờ) và thường có độ cao nhỏ hơn 1 mét (3 foot), vì vậy chúng thường không được chú ý (quan sát) trong giai đoạn này. Ngược lại, sóng biển do gió có bước sóng vài trăm foot, chuyển động với vận tốc lên đến và có chiều cao sóng đến .
Một sự kiện xảy ra trên thềm lục địa có thể gây ra sóng thần địa phương ở phía bờ và khoảng cách sóng thần di chuyển qua đại dương. Năng lượng sóng chỉ bị phân tán từ từ, nhưng trải rộng ra toàn font sóng, vì vậy khi sóng tỏa ra nhiều hướng từ nguồn, font sóng kéo dài hơn và năng lượng trung bình giảm xuống, khi đó bờ biển sẽ bị tác động bởi sóng yếu hơn. Tuy nhiên, vì vận tốc sóng bị khống chế bởi chiều cao sóng nên nó không thể di chuyển với cùng vận tốc theo mọi hướng, và điều này ảnh hưởng đến hướng truyền của font sóng-được gọi là khúc xạ-mà có thể tập trung sức mạnh của sóng thần tiến vào một số khu vực và làm suy yếu nó bởi những yếu tố khác tùy thuộc vào địa hình dưới đáy biển.
Khi sóng thần di chuyển vào vùng nước nông hơn vận tốc của nó giảm, bước sóng của nó ngắn lại và biên độ tăng lên vô cùng lớn, như cách mà sóng do gió đi vào vùng nước nông, nhưng quy mô thì lớn hơn rất rất nhiều. Bụng hoặc đỉnh của sóng thần có thể đến bờ biển trước. Trong trường hợp bụng sóng đến trước, biển rút trở lại và rời khỏi làm lộ ra vùng dưới triều gần bờ, đây là một cảnh báo quan trọng trong việc nhận biết sóng thần sắp ập đến. Khi đỉnh sóng đến, nó thường không vỡ nhưng lao vào trong bờ, làm ngập lụt tất tả những gì trên đường đi của nó. Phần lớn sự phá hủy có thể do nước lụt rút/kéo trở lại biển sau khi sóng thần tấn công, mang theo những mãnh vỡ và con người. Nhiều trận sóng thần thường sinh ra từ các sự kiện địa chất riêng lẻ và đến bờ từng đợt khoảng 8 phút đến 2 giờ. Đợt sóng đầu tiên đến bờ có thể không phải là lớn nhất hoặc phá hoại mạnh nhất. Thỉnh thoảng, sóng thần có thể chuyển thành sóng triền lớn, đặc biệt là vùng vịnh nông hay cửa sông. Hệ thống cảnh báo sóng thần hoạt động dựa trên nguyên tắc ghi nhận các sóng địa chất gây ra bởi các trận động đất chuyển động khắp thế giới với vận tốc khoảng /giờ, cho phép các khu vực bị đe dọa được cảnh báo khả năng sóng thần tấn công. Những số liệu đo đạc từ mạng lưới các trạm đo mực nước biển có thể xác nhận hoặc dỡ bỏ cảnh báo sóng thần.
Thủy triều
Thủy triều là sự dâng cao và hạ thấp mực nước trong biển và đại dương, là kết quả tương tác của lực trọng trường từ Mặt Trăng và Mặt Trời, và những ảnh hưởng do sự quay của Trái Đất. Trong mỗi chu kỳ triều, tại một địa điểm cho trước, mực nước dâng lên cao nhất được gọi là "triều cao" trước khi triều rút đi đến vị trí thấp nhất thì được gọi là "triều kiệt" hay "triều thấp". Khi nước rút,nó để lộ ra phần trước bờ, đới này được gọi là đới gian triều. Biên độ dao động giữa triều cao và triều thấp được gọi là biên độ triều.
Một chu kỳ triều diễn ra trong 24 giờ 50 phút, đó là thời gian mà Trái Đất tiến hóa hoàn toàn và trả Mặt Trăng về vị trí của nó trước đó so với người quan sát Khối lượng Mặt Trăng nhỏ hơn Mặt Trời khoảng 27 triệu lần, nhưng nó gần Trái Đất hơn Mặt Trời 400 lần. Lực thủy triều giảm nhanh theo khoảng cách, vì vậy mặt trăng có ảnh hưởng lên thủy triều gấp đôi Mặt Trời. Phần phình ra xuất hiện trong đại dương ở nơi mà Trái Đất gần Mặt Trăng nhất, bởi vì nó chịu ảnh hưởng của lực trọng trường từ Mặt Trăng mạnh hơn. Mặt đối diện của Trái Đất, lục tác động của mặt trăng khi đó là yếu nhất và điều này tạo ra một chỗ phình khác. Khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất, các vị trí phình ra này cũng sẽ lần lượt di chuyển theo quanh Trái Đất. Lực hấp dẫn của Mặt Trời cũng tác động lên các biển, những ảnh hưởng của nó ít mạnh hơn so với Mặt Trăng, và khi Mặt Trời, Mặt Trăng và Trái Đất nằm trên một trục thẳng hàng (lúc trăng tròn và trăng non), ảnh hưởng kết hợp làm tạo ra các đợt "triều cường". Ngược lại, khi Mặt Trời nằm trên trục vuông góc với trục của Mặt Trăng và Trái Đất, sự ảnh hưởng trọng trường kết hợp tác động lên thủy triều sẽ gây ra "triều kiệt".
Dòng chảy thủy triều của nước biển bị hạn chế bởi quán tính của nước và có thể bị ảnh hưởng bởi phần đất liền. Ở những nơi như vịnh Mexico nơi mà đất liền ở đây làm hạn chế sự phình ra, chỉ có một lần xuất hiện triều cao mỗi ngày. Trên bờ của đảo có thể có chu kỳ triều phức tạp với bốn lần triều cao. Các eo biển đảo ở Chalkis thuộc Euboea có các dòng chảy mạnh đột ngột chuyển hướng, thường 4 lần mỗi ngày nhưng có thể lên đến 12 lần mỗi ngày khi Mặt Trăng và Mặt Trời vuông góc. Ở nơi có vịnh dạng phễu hoặc cửa sông, biên độ triều có thể rất lớn. Vịnh Fundy là một ví dụ điển hình với biên độ triều đạt . Mặc dù thủy triều tuân theo những quy tắc và có thể dự đoán được, nhưng ở một số nơi cao độ này chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố khác; độ cao của triều lớn có thể bị giảm xuống bởi gió xa bờ và dâng lên bởi gió gần bờ. Áp suất cao của trung tâm xoáy nghịch đẩy nước xuống và liên quan đến triều thấp bất thường trong khi các vùng áp thấp có thể làm độ cao triều cực lớn. Nước dâng do bão có thể xuất hiện khi gió có tốc độ cao tấn công vào bờ biển ở những vùng nước nông và điều này kết hợp với áp suất thấp có thể làm dâng cao mực nước biển đáng kể cùng lúc triều cường. Năm 1900, Galveston, Texas đã hứng chịu đợt nước dâng cao trong trận bão Galveston 1900 làm ngập thành phố và cướp đi hơn 3.500 người và phá hủy 3.636 căn nhà.
Hải lưu
Gió thổi trên mặt biển gây ra ma sát tại mặt thoáng tiếp xúc giữa khối không khí và biển. Không chỉ tạo sóng mà nó còn làm cho nước ở bề mặt chuyển động cùng chiều với chiều gió. Mặc dù gió đổi chiều, ở bất kỳ một nơi nào nó thổi theo một hướng duy nhất và điều này có thể hình thành dòng chảy trên mặt. Gió thổi về hướng tây thường nằm ở vĩ độ trung bình còn gió thổi về hướng đông chủ yếu ở vùng nhiệt đới. Khi nước chuyển động theo cách này, các dạng nước khác chảy vào lấp đầy khoảng trống và sự chuyển động vòng tròn của các hải lưu mặt được gọi là vòng hoàn lưu (Ocean gyre). Có 5 vòng hoàn lưu chính trong các đại dương thế giới: 2 vòng hoàn lưu ở Thái Bình Dương, 2 ở Đại Tây Dương và 1 ở Ấn Độ Dương. Các vòng hoàn lưu nhỏ hơn được tìm thấy trong các biển nhỏ hơn và một vòng riêng biệt chảy quanh Nam Băng Dương. Các vòng hoàn lưu này chảy theo các lộ trình giống nhau qua hàng ngàn năm, được dẫn dắt bởi địa hình của đất liền, hướng gió và hiệu ứng Coriolis. Các dòng hải lưu mặt chảy theo chiều kim đồng hồ ở Bắc Bán cầu và ngược chiều kim đồng hồ ở Nam Bán cầu. Nước chuyển động ra xa xích đạo là nước nóng, và nước tuần hoàn trở lại mất hầu hết nhiệt của chúng. Các dòng hải lưu này có khuynh hướng điều hòa khí hậu của Trái Đất, làm lạnh vùng xích đạo và làm ấm các vùng ở vĩ độ cao hơn. Khí hậu toàn cầu và dự báo thời tiết chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các đại dương trên thế giới, vì vậy mô hình hóa khí hậu toàn cầu sử dụng các mô hình tuần hoàn nước đại dương cũng như các thành phần chính khác như khí quyển, bề mặt đất, sol khí và băng biển. Các mô hình đại dương sử dụng một nhánh của vật lý là động lực chất lưu địa vật lý, nó mô tả dòng chảy của lưu chất ở quy mô lớn như nước biển.
Các dòng chảy trên bề mặt chỉ ảnh hưởng đến vài trăm mét trên cùng của biển, nhưng cũng có các dòng chảy lớn ở những độ sâu khác nhau gây ra bởi sự chuyển động của các khối nước dưới sâu. Dòng hải lưu sâu chảy qua tất cả các đại dương trên thế giới và được gọi là vòng tuần hoàn muối nhiệt. Sự chuyển động này chậm và được điều khiển bởi sự khác biệt về tỷ trọng của nước do sự khác biệt về độ mặn và nhiệt độ giữa các đại dương. Ở vĩ độ cao, nước được gia lạnh bởi nhiệt độ không khí thấp và trở nên mặn như biển băng kết tinh. Cả hai yếu tố này làm cho nó đặc hơn, và nước chìm xuống dưới. Từ biển sâu gần Greenland, nước kiểu này chảy về phía nam giữa các lục địa ở hai bên bờ Đại Tây Dương. Khi nó đạt đến Nam Cực, nó kết hợp với các khối lạnh khác, chìm xuống và chảy về phía đông. Sau đó nó chia tách thành hai dòng di chuyển về phía bắc vào Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Ở đây nó từ từ ấm lên, trở nên ít dày đặc hơn, trồi lên bề mặt và tiếp tục lặp lại vòng tuần hoàn đó. Một số dòng chảy trở lại vào Đại Tây Dương. Phải mất một ngàn năm để mô hình lưu thông này hoàn tất.
Bên cạnh các hoàn lưu, có nhiều hải lưu trên bề mặt tạm thời xuất hiện trong một số điều kiện đặc biệt. Khi sóng chạm tới bờ ở một góc nhất định, dòng chảy ven bờ được tạo ra khi nước bị đẩy chạy dọc theo bờ biển. Nước xoáy lên các bãi biển khi góc tới thẳng góc và dòng rút ra chảy dưới đáy do tác dụng của trọng lực. Sóng vỡ càng lớn, các bãi biển càng dài và góc tới bờ càng xiên, dòng chảy ven bờ càng mạnh. Các dòng chảy này có thể mang một lượng lớn cát hoặc sạn, tạo thành các đê cát ngầm, bào mòn các bãi biển và tạo ra các kênh phù sa. Dòng xoáy có thể xuất hiện khi nước tích lũy gần bờ từ các đợt sóng lớn và chảy ra phía biển theo một kênh ngầm dưới đáy. Có thể xuất hiện một khoảng trống trong một đê cát hoặc gần các công trình nhân tạo. Các dòng chảy mạnh này có thể có vận tốc lên đến /giây, có thể hình thành ở nhiều nơi khác nhau ở các giai đoạn khác nhau của thủy triều và có thể cuốn người tắm ra xa nếu không cẩn thận. Các dòng trồi tạm thời xuất hiện khi gió đẩy nước ra xa từ đất liền và nước ở sâu hơn dâng lên để thế vào vị trí đó. Dòng nước lạnh này thường rất giàu chất dinh dưỡng và có thể khiến thực vật phù du cũng như các sinh vật khác của biển phát triển mạnh.
Các bồn đại dương
Trái Đất được cấu tạo bởi lõi có từ tính, bên ngoài là thạch quyển rắn, đến manti chủ yếu ở dạng lỏng và nhân trong ở thể rắn Trên đất liền, vỏ Trái Đất được gọi là vỏ lục địa, trong khi phần vỏ dưới biển được gọi là vỏ đại dương. Vỏ đại dương được cấu tạo bởi bazan tương đối nặng và dày từ 5 đến 10 km. Thạch quyển tương đối mỏng (so với các lớp khác) nổi trên manti mềm hơn và nóng hơn nằm bên dưới và bị vỡ ra thành các mảng kiến tạo. Ở giữa đại dương, mácma trồi lên liên tục từ đáy biển ở ranh giới giữa các mảng để tạo thành sống núi giữa đại dương và các dòng đối lưu manti có khuynh hướng đẩy hai mảng xa ra nhau, chúng chuyển đông song song nhau và ngày càng gần bờ hơn. Một mảng đại dương có thể trượt bên dưới một mảng đại dương khác theo quá trình được gọi là hút chìm. Các máng nước sâu được hình thành ở nơi hút chìm này và quá trình bày đi cùng với sự ma sát khi các mảng trượt lên nhau. Sự tích lũy năng lượng ma sát trong quá trình chuyển động này khi giải phóng sẽ sinh ra động đất, giải phóng nhiệt và mác ma được phun ra tạo thành các núi dưới đáy biển, một số núi có thể tạo thành một chuỗi các đảo núi lửa ở gần các máng nước sâu. Ở gần một số ranh giới giữa đất liền và biển, các mảng đại dương hơi nặng hơn trượt bên dưới các mảng lục địa và cũng hình thành các máng nước sây. Khi chúng va nhau, các mảng lục địa bị biến dạng và hình thành các dãy núi và phát sinh địa chấn.
Rãnh đại dương sâu nhất trên Trái Đất là rãnh Mariana với bề rộng khoảng dưới đáy biển. Nó nằm gần quần đảo Mariana,đây là một quần đảo núi lửa ở Tây Thái Bình Dương, và có bề rộng trung bình chỉ , điểm sâu nhất của nó là 10.994 km bên dưới mặt nước biển. Một rãnh đại dương dài hơn chạy dọc theo bờ biển Peru và Chile, có độ sâu và rộng khoảng . Nó là kết quả của sự hút chìm của mảng đại dương Nazca bên dưới mảng lục địa Nam Mỹ và liên quan đến hoạt động núi lửa của Andes.
Bờ biển
Khu vực mà đất liền tiếp giáp biển được gọi là bờ biển và phần đất nằm giữa triều thấp nhất và nơi cao nhất mà sóng vỗ tới được gọi là đới sóng vỗ. Bãi biển là nơi tích tụ cát hoặc đá cuội trên bờ biển. Phần đất liền nhô ra biển được gọi là mũi đất. Phần lõm vào của đường bờ đặc biệt là giữa hai mũi đất được gọi là vịnh. Đường bờ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như độ mạnh của sóng tới bờ, sự thay đổi của địa hình đáy gần bờ, thành phần và độ cứng của đá cấu tạo bờ, độ nghiêng của sườn bờ và sự thay đổi về cao độ của đất liền do sự nâng lên hoặc nhấn chìm. Thông thường, sóng cuộn về phía bờ biển với tốc độ từ sáu đến tám mỗi phút và chúng được gọi là sóng tích tụ vì chúng có xu hướng bồi đắp vật liệu cho bãi biển và ít ảnh hưởng xâm thực. Sóng bão tiến vào bờ rất nhanh và được gọi là sóng phá hủy vì chúng mang vật liệu ra khỏi bãi biển. Dưới ảnh hưởng của chúng, cát và đá cuội trên bãi biển là vật liệu được mang đến và mang đi. Vào lúc thủy triều cao, năng lượng của sóng bão tác động đến chân vách đá có tác dụng làm đảo lộn khi không khí trong các vết nứt và khe hở được nén và sau đó mở rộng nhanh chóng khi giải phóng áp lực. Đồng thời, cát và sỏi có tác dụng ăn mòn khi chúng tán vào đá. Điều này có xu hướng làm cắt chân vách núi, và các quá trình phong hóa bình thường như tác động của sương giá sau đó, gây ra sự phá hủy tiếp theo. Dần dần, một địa hình bằng phẳng hình thành do sóng phát triển ở chân vách đá và điều này có tác dụng bảo vệ, giảm ảnh hưởng xâm thực do sóng.
Vật liệu được mang từ rìa của đất liền cuối cùng lắng đọng trong biển. Ở đây nó là đối tượng tiêu hao khi dòng chảy song song bờ khuấy động mang ra các lạch và vận chuyển cá và cuội ra khỏi nơi ban đầu của chúng. Trầm tích được mang ra biển bởi các con sông tích tụ trên đáy biển tạo thành các đồng bằng châu thổ ở cửa sông. Tất cả vật liệu này di chuyển qua lại dưới đáy do ảnh hưởng của sóng, thủy triều và dòng chảy. Việc nạo vét loại bỏ các vật liệu này và đào sâu các kênh nhưng có thể có tác ảnh hưởng không lường được ở những nơi khác trên bờ biển. Các chính phủ có những nỗ lực chống lụt bằng các kè biển, đê biển và các công trình bảo vệ khác. Các kè sông Thames được thiết kế để bảo vệ London từ một cơn bão và các đê được xây dựng nhằm kiểm soát dòng nước và bảo vệ những vùng đất lấn biển khỏi sự xâm thực. Một trong những đê nhân tạo dài nhất là hệ thống đê sông Mississippi, với tổng chiều dài khoảng ven sông từ Cape Girardeau trên châu thổ sông Mississippi, và mục đích của đê này này bảo vệ thành phố New Orleans. Sân bay quốc tế Hồng Kông được xây dựng trên một đảo nhân tạo lớn, được hình thành khi nối và lắp bằng hai đảo với diện tích trên đáy biển.
Mực nước biển
Trải qua hầu hết lịch sử địa chất, mực nước biển từng cao hơn ngày nay. Yếu tố chính làm thay đổi mực nước biển theo thời gian là kết quả của sự thay đổi vỏ đại dương, với xu hướng nhấn chìm tiếp diễn trong thời gian dài. Vào thời kỳ băng hà cực đại gần đây nhất, khoảng 20.000 năm trước, mực nước biển thấp hơn mực nước ngày nay khoảng . Trong vòng ít nhất 100 năm gần đây, mực nước biển đã và đang dân lên với tốc độ trung bình khoảng /năm. Hầu hết sự tăng cao mực nước biển này có thể có sự góp mặt của sự gia tăng nhiệt độ của biển và kết quả giãn nở nhiệt nhẹ ở nước trên mặt. Yếu tố khác chiếm khoảng 1/4 là từ các nguồn nước trên đất liền như tuyết và băng hà tan và việc khai thác nước dưới đất phục vụ cho tưới tiêu và các nhu cầu nông nghiệp và con người khác. Sự gia tăng có khuynh hước từ sự ấm lên toàn cầu được dự báo là tiếp tục cho đến ít nhất là cuối thế kỷ XXI.
Chu trình nước
Biển đóng là một phần trong chu trình nước, trong đó, nước bốc hơi từ biển, chuyển động trong khí quyển ở dạng hơi nước, ngưng tụ, rơi xuống ở dạng mưa hoặc tuyết, do đó duy trì sự sống trên đất liền, và phần lớn nước sẽ trở về biển. Thậm chí ở sa mạc Atacama, nơi có ít mưa trong năm, các đám mây dày đặc sương mù được gọi là camanchaca thổi vào từ biển và hỗ trợ sự sống của thực vật ở đây.
Ở Trung Á và các vùng đất liền khác, có bồn trũng endorheic mà không có lối thoát ra biển, ngăn cách với biển bởi các dãy núi hoặc các đặc điểm địa chất tự nhiên có khả năng ngăn chặn nước thoát đi. Biển Caspi là lớn nhất trong nhóm này. Dòng chính của nó là sông Volga, không có dòng chảy ra và sự bay hơi của nước làm cho nó mặn vì khoáng chất hòa tan tích tụ. Biển Aral ở Trung Á và Hồ Pyramid ở miền Tây Hoa Kỳ là ví dụ về các vực nước mặn nội địa mà không có hệ thống thoát nước ra ngoài. Một số hồ endorheic ít mặn, nhưng tất cả đều nhạy cảm với sự thay đổi trong chất lượng của các nước chảy vào.
Chu trình cacbon
Các đại dương chứng một lượng cacbon tuần hoàn chủ động lớn nhất trên thế giới và xếp thứ 2 chỉ sau thạch quyển về lượng cacbon mà nó có. Lớp mặt của đại dương giữ một lượng lớn cacon hữu cơ hòa tan, loại này được trao đổi nhanh chóng với khí quyển. Nồng độ cacbon vô cơ hòa tan trong lớp nước sâu cao hơn 15% so với của lớp nước mặt và nó duy trì trong khoảng thời gian dài hơn. Dòng muối nhiệt trao đổi cacbon giữa hai lớp nước này.
Cacbon đi vào đại dương khi cacbon dioxide trong khí quyển hòa tan vào các tầng nước mặt và bị biến đổi thành axit cacbonic, bicarbonat và carbonat:
CO2 (aq) + H2O H2CO3 HCO3− + H+ CO32− + 2 H+.
Quá trình này giải phóng các ion hydro (), làm giảm pH của đại dương.
Nó cũng đi vào đại dương qua các con sông ở dạng cacbon hữu cơ hòa tan và được biến đổi bởi các sinh vật quang hợp thành cacon hữu cơ. Loại cacon này có thể hoặc được trao đổi thông quan chuỗi thức ăn hoặc tích tụ dưới các tầng giàu cacbon hơn, sâu hơn ở dạng các tế bào mềm, chết hoặc vỏ sò và xương ở dạng calci cacbonat. Nó lưu thông trong lớp này trong khoảng thời gian dài trước khi chúng lắng đọng hoặc được trả lại vào nước mặt lưu thông qua dòng muối nhiệt.
Sự sống ở biển
Đại dương là mái nhà của tập hợp đa dạng các dạng sống dùng nó làm nơi cư trú. Do ánh sáng Mặt Trời chỉ chiếu sáng ở các tầng nước trên cùng, cho nên phần lớn đại dương chìm trong bóng tối vĩnh viễn. Mỗi vùng khác nhau về nhiệt độ và độ sâu cung cấp nơi trú ngụ cho một tập hợp duy nhất các loài sinh vật, môi trường biển trên tổng thể bao trùm toàn bộ sự sống đa dạng rộng lớn. Nơi cư ngụ biển có phạm vi từ vùng nước bề mặt cho tới những rãnh đại dương sâu nhất, bao gồm rạn san hô, rừng tảo biển, đồng cỏ biển, vũng nước triều, bãi bùn và bãi cát, tầng đá đáy biển và vùng biển khơi. Sinh vật sống trong vùng biển có kích cỡ lớn như cá voi dài 30 mét cho đến thực vật nổi và động vật phù du cỡ vài micrô mét, nấm, vi khuẩn và vi rút, bao gồm các vi rút ăn vi khuẩn biển mới được khám phá gần đây (những vi rút mà sống bên trong vi khuẩn). Sự sống ở biển đóng một vai trò quan trọng trong chu trình cacbon nhờ các sinh vật quang tổng hợp biến đổi cacbon đioxyt hòa tan trong nước biển thành cacbon hữu cơ và nó có tầm quan trọng kinh tế đối với con người trong vai trò cung cấp và khai thác nguồn thủy sản.
Sự sống có thể đã bắt đầu từ biển và mọi nhóm chính động vật đều có mặt ở đây. Các nhà khoa học chỉ chưa đồng tình chính xác nơi mà sự sống ở biển xuất hiện: thí nghiệm Miller-Urey cho thấy một món "súp" các chất hóa học loãng tồn tại trong vùng nước rộng, nhưng có chứng cứ gần đây cho rằng bao gồm các nguồn nước nóng từ núi lửa, trầm tích sét hạt mịn, hoặc các "mạch khói phun đen" dưới đáy biển sâu, tất cả chúng đều bảo vệ cho sinh vật không bị phá hủy dưới bức xạ cực tím mà những bức xạ này không bị cản trở bởi bầu khí quyển sơ khai của Trái Đất.
Sinh cảnh đại dương
Sinh cảnh đại dương chia theo phương ngang thành bờ biển và sinh cảnh nước mặt thoáng. Sinh cảnh bờ biển mở rộng từ đường bờ tới biên giới của thềm lục địa. Hầu hết sự sống trong đại dương tìm thấy ở sinh cảnh bờ biển, mặc dù vùng thềm lục địa chỉ chiếm khoảng 7 phần trăm tổng diện tích đại dương. Sinh cảnh đại dương nước mặt thoáng nằm sâu trong lòng đại dương vượt bên ngoài thềm lục địa. Theo cách khác, sinh cảnh đại dương có thể chia theo phương đứng thành vùng biển khơi (nước mặt thoáng), vùng đáy chìm (ngay bên trên đáy đại dương) và nơi cư ngụ đáy biển (benthic). Cách phân chia thứ ba theo vĩ độ địa lý: từ vùng biển cực với thềm băng, biển băng và tảng băng trôi, cho tới vùng nước nhiệt đới.
Rạn san hô, còn gọi là "rừng mưa của biển", chiếm ít hơn 0,1% bề mặt diện tích đại dương Trái Đất nhưng hệ sinh thái của nó chứa 25% mọi loài sinh vật biển. Những rạn san hô nhiệt đới là nổi tiếng nhất như rạn san hô Great Barrier ở Australia, nhưng các rạn san hô vùng nước lạnh cũng tồn tại nhiều loại sinh vật bao gồm san hô (chỉ có sáu loại san hô đóng góp vào sự hình thành rạn).
Tảo và thực vật
Thực vật sản xuất sơ cấp ở viển và các vi sinh vật ở dạng phiêu sinh phân bố rộng khắp và rất đa dạng. Vi tảo quang hợp, thực vật phù du, đóng góp một tỷ lệ lớn sản lượng sản phẩm quang hợp so với tất cả các rừng trên lục địa. Khoảng 45% sản phẩm sơ cấp của vật liệu sống trong biển là từ diatom. Phần lớn tảo, hay còn được gọi là rong biển, quan trọng đối với từng khu vực; Sargassum là dạng sống trôi nổi, trong khi loài kelp sống thành rừng ở đáy biển. Thực vật có hoa ở dạng cỏ biển phát triển thành "đồng cỏ ở các vùng nước nông đáy cát, các dải rừng ngập mặn chạy ven bờ biển ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, và thực vật Halophyte phát triển mạnh trong các đầm lầy ngập mặn thường xuyên. Tất cả các môi trường sống này có thể hấp thụ một lượng lớn cacbon và hỗ trợ đa dạng sinh học của các động vật lớn hơn và nhỏ hơn.
Ánh sáng chỉ có thể xuyên đến độ sâu vì vậy đây chỉ là một phần của biển nơi mà thực vật có thể phát triển. Các lớp trên mặt thường thiếu các hợp chất nitơ cung cấp cho hoạt động sinh học. Chu trình nitơ biển bao gồm những sự chuyển đổi vi sinh vật phức tạp bao gồm sự cố định nitơ, đồng hóa ni tơ, nitơ hóa, anammox, và khử nitơ. Một số quá trình này diễn ra trong các lớp nước sâu do đó nơi mà dòng nước lạnh trồi lên hoặc gần các cửa sông lại có nguồn dinh dưỡng dồi dào, thực vật phát triển mạnh hơn. Điều này có nghĩa các khu vực sản xuất mạnh nhất, giàu về phiêu sinh và cũng như cá chủ yếu là vùng ven bờ.
Động vật và các dạng sống khác
Các bậc phân loại động vật ở biển đa dạng hơn trên đất liền, nhiều loài ở biển chưa được phát hiện, và có nhiều loài được phát hiện mới hàng năm. Một số loài động vật có xương sống như chim biển, hải cẩu, rùa biển quay trở lại đất liền để sinh sản, nhưng cá, cá voi, và rắn biển hoàn toàn có vòng đời trong môi trường nước và nhiều ngành động vật không xương sống sống hoàn toàn ở biển. Thực tế, các đại dương tràn ngập sự sống và cung cấp nhiều vi môi trường sống khác nhau. Một trong số đó là môi trường bề mặt, mặc dù bị xáo trộn bởi sự vận động của sóng tạo nên môi trường giàu dinh dưỡng và là nơi sinh sống của các vi khuẩn, nấm, vi tảo, protozoa, trứng cá, và nhiều loại ấu trùng khác.
Vai trò
Biển là nguồn cung cấp hơi nước để tạo ra mưa cho khí quyển. Mưa đã duy trì sự sống cho các sinh vật trên đất liền.
Biển là kho báu cho ngành hải sản, ngành sản xuất muối, du lịch biển. Hiện nay biển có 160000 loài động vật và 10000 loài thực vật.
Biển còn chứa vô số mỏ dầu ở dưới đáy đại dương. Trữ lượng dầu mỏ 21 tỉ tấn, khí tự nhiên 14 nghìn tỉ m³.
Rất nhiều mỏ nằm ở dưới đáy đại dương đã được con người khai thác từ lâu như sắt, lưu huỳnh, đồng, phosphor...
Ngoài ra biển chứa một lượng lớn các nguồi tài nguyên hóa học với trên 70 nguyên tố hóa học khác nhau: Natri, Clo, Kali, Nitơ... Không chỉ có biển mà thủy triều là nguồn năng lượng vô tận của nhiều quốc gia trên thế giới. Nhà máy thủy triều đầu tiên ở cửa sông Răng-xơ (Pháp) năm 1967 công suất là 240000 kW. Nhiệt độ của nước biển chệnh lệch rất lớn tạo ra 1 nguồn thủy nhiệt điện vô cùng to lớn; dựa vào nguyên lý đó mà người ta xây dựng những nhà máy thủy nhiệt. Nhà máy thủy nhiệt đầu tiên đang hoạt động ở Abidjan (Bờ Biển Ngà) với công suất 14000 kW
Vận tải đường biển xuất nhập khẩu có vai trò quan trọng trong buôn bán quốc tế, là chiếm lược của nền kinh tế của mỗi quốc gia. Vận tải biển chiếm 3/4 khối lượng hàng hóa trao đổi trên thế giới.
Danh sách một số biển theo đại dương
Thái Bình Dương
Biển Arafura
Biển Banda
Biển Bering
Biển Bismarck
Biển Bột Hải
Biển Bohol (còn được gọi là biển Mindanao)
Biển Camotes
Biển Celebes
Biển Ceram
Biển Coral
Biển Đông
Biển Flores
Biển Halmahera
Biển Java
Biển Koro
Biển Molucca
Biển Nhật Bản
Biển nội địa Seto
Biển Okhotsk
Biển Philippines
Biển Savu
Biển Sibuyan
Biển Solomon
Biển Sulu
Biển Tasman
Biển Visayas
Biển Hoa Đông
Hoàng Hải
Vịnh Alaska
Vịnh Bắc Bộ.
Vịnh California (còn được gọi là biển Cortés)
Vịnh Carpentaria
Vịnh Hạ Long.
Vịnh Thái Lan
Đại Tây Dương
Biển Adriatic
Biển Aegea
Biển Azov
Biển Alboran
Biển Argentine
Biển Baltic
Biển Bắc
Biển Bothnia
Biển Caribe
Biển Celtic
Biển Crete
Biển Đen
Biển Hebrides
Biển Ionia
Biển Ireland
Biển Labrador
Biển Ligure
Biển Manche
Biển Marmara
Biển Mirtoon
Biển Na Uy
Biển Sargasso
Biển Thrace
Biển Tyrrhenus
Biển Wadden
Địa Trung Hải
Eo biển Davis
Eo biển Đan Mạch
Vịnh Biscay
Vịnh Bothnia
Vịnh Campeche
Vịnh Chesapeake
Vịnh Fundy
Vịnh Guinea
Vịnh Mexico
Vịnh Phần Lan
Vịnh Sidra
Vịnh Saint Lawrence
Vịnh Venezuela
Ấn Độ Dương
Biển Andaman
Biển Ả Rập
Biển Đỏ
Biển Timor
Vịnh Aden
Vịnh Oman
Vịnh Ba Tư
Vịnh Bengal
Eo biển Mozambique
Bắc Băng Dương
Biển Barents
Biển Beaufort
Biển Bering
Biển Chukchi
Biển Đông Siberi
Biển Greenland
Biển Hoàng tử Gustav Adolf
Biển Kara
Biển Laptev
Biển Lincoln
Biển Pechora
Biển Trắng
Eo biển Kara
Vịnh Amundsen
Vịnh Baffin
Vịnh Hudson
Vịnh James
Nam Đại Dương
Biển Amundsen
Biển Bellingshausen
Biển Davis
Vịnh Đại Úc
Biển Mawson
Biển Ross
Biển Scotia
Vịnh Spencer
Biển Weddell
Eo biển Bass
Vịnh Saint Vincent
Các biển kín
Biển Aral
Biển Caspia
Biển Chết
Biển Salton
Chott Melrhir
Hồ Great Salt
Hồ Balkhash
Hồ Chad
Hồ Chilwa
Hồ Pyramid
Hồ Turkana
Hồ Thanh Hải
Hồ Van
Issyk Kul
Namtso
Ngũ Đại Hồ của Bắc Mỹ (đôi khi được coi là biển nội địa)
Tonle Sap
Danh sách các biển theo diện tích bề mặt
Các biển ngoài Trái Đất
Các biển trên Mặt Trăng là những đồng bằng bazan rộng lớn mà trước đây các nhà thiên văn học cho rằng chúng có chứa nước và gọi chúng là "biển".
Nước ở trạng thái lỏng được cho là đã từng tồn tại trên bề mặt Hỏa Tinh trong quá khứ xa xăm và một số vùng lòng chảo trên Sao Hỏa được coi là các đáy biển đã khô cạn. Lớn nhất trong số đó là Vastitas Borealis; các "biển" khác là Hellas Planitia và Argyre Planitia.
Các "biển" trên Sao Hỏa
Nước ở trạng thái lỏng cũng được cho là có tồn tại dưới bề mặt của một số vệ tinh tự nhiên, chẳng hạn như Europa.
Hydrocarbon lỏng được coi là có mặt ở bề mặt của Titan, mặc dù nó có thể được miêu tả một cách chính xác hơn là "hồ" chứ không phải "biển". Sự phân bổ của các khu vực chứa chất lỏng này được hy vọng là sẽ được hiểu rõ hơn sau khi tàu thăm dò Cassini đến đây.
Khoa học
Thuật ngữ "biển" cũng được sử dụng trong vật lý lượng tử. Biển Dirac là sự diễn giải của các trạng thái năng lượng âm, bao gồm có chân không.
Biển và nhân loại
Trong văn hóa
Biển xuất hiện trong nền văn hóa nhân loại dưới những hình thức trái ngược nhau, vừa dữ dội nhưng lại thanh bình, vừa tốt đẹp nhưng đầy hiểm nguy. Biển chiếm một vị trí trong văn học, nghệ thuật, thi ca, điện ảnh, sân khấu, âm nhạc cổ điển, thần thoại và giải mộng. Người cổ đại đã nhân cách hóa biển, và tin rằng nó được điều khiển bởi một thực thể và cần phải xoa dịu những cơn thịnh nộ của thực thể này, và một cách hình tượng hóa, nó đã được coi là một môi trường nguy hiểm, nơi sinh sống của các sinh vật quái dị; chẳng hạn như Leviathan trong Kinh Thánh,, Scylla trong thần thoại Hy Lạp, Isonade trong thần thoại Nhật Bản, và kraken trong thần thoại Bắc Âu cận đại. Các nền văn minh đã khai sáng thông qua thương mại bằng đường biển và sự thay đổi các quan niệm.
Xem thêm
Địa lý
Đại dương
Eo biển
Vịnh
Tổ chức Hàng hải Quốc tế (IMO)
Sông
Nước biển
Ngày đại dương thế giới
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NOAA
Địa hình biển và đại dương
Bài cơ bản dài
Vùng nước
Hải dương học
Địa mạo đại dương và duyên hải
Đại dương
|
16929
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%E1%BB%8Bnh%20Th%C3%A1i%20Lan
|
Vịnh Thái Lan
|
Vịnh Thái Lan (; ) (tên gọi cũ: Vịnh Chân Lạp, Vịnh Xiêm La) là một vịnh nằm ở biển Đông (thuộc Thái Bình Dương), được bao bọc bởi các quốc gia: Malaysia, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Đỉnh phía bắc của vịnh này là vịnh Băng Cốc ở cửa sông Chao Phraya, gần Băng Cốc. Vịnh này có diện tích khoảng 320.000 km². Ranh giới của vịnh này được xác định theo đường nối từ mũi Cà Mau ở miền nam Việt Nam tới thành phố Kota Baru trên bờ biển Malaysia.
Vịnh Thái Lan tương đối nông, độ sâu trung bình của nó chỉ khoảng 45 m và độ sâu lớn nhất là 80 m. Điều này làm cho sự đối lưu nước tương đối chậm, dòng chảy mạnh của nước các con sông làm cho nước vịnh tương đối nhạt (3,05 - 3,25%) và giàu trầm tích. Chỉ ở những vùng nước sâu thì nước biển có độ mặn cao hơn (3,4%) từ biển Đông chảy vào vịnh và chiếm lĩnh các chỗ trũng có độ sâu hơn 50 m. Các sông chính chảy vào vịnh này là Chao Phraya (bao gồm cả sông nhánh của nó là Ta Chin) và Maeklong ở vùng lõm Băng Cốc, và ở mức độ thấp hơn là sông Tapi vào vịnh Bandon ở phía tây nam của vịnh này.
Vào giai đoạn đỉnh điểm của thời kỳ băng hà cuối cùng, vịnh Thái Lan không tồn tại do mực nước biển xuống thấp, nó khi đó là một phần của thung lũng sông Chao Phraya.
Do nhiệt độ của vùng nhiệt đới là tương đối cao nên trong các vùng nước của vịnh Thái Lan có nhiều bãi đá san hô ngầm. Vì thế, nó tạo tiền đề cho một số nhà nghỉ ven biển phục vụ cho du khách có sở thích bơi lặn. Nổi tiếng nhất đối với du khách là đảo Ko Samui ở tỉnh Surat Thani, trong khi Ko Tao là trung tâm của du lịch bơi lặn ngầm.
Vịnh này có chứa một số nguồn dầu mỏ và ở mức độ lớn hơn là khí đốt.
Thái Lan từng có kế hoạch xây dựng Kênh đào Kra để nối liền Ấn Độ Dương và Vịnh Thái Lan. Ý tưởng này có từ năm 1793 bởi Hoàng gia Thái Lan nhưng không thực hiện được. Sau đó ý tưởng này còn được đem ra bàn đi bàn lại nhiều lần về sau.
Tóm tắt
Phạm vi khu vực
Khoảng cách giữa cảng Prachuap nằm trong vịnh Thái Lan với đảo Đất Lửa - điểm cực đông của Thái Bình Dương, là hơn 23.000 kilômét. Nó là vịnh biển lớn nhất ở biển Đông, các nước ven bờ là Malaysia, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Các hải cảng chủ yếu ở vịnh Thái Lan có:
: Narathiwat, Pattani, Songkhla, Nakhon Si Thammarat, Surat Thani, Chumphon, Prachuap Khiri Khan, Phetchaburi, Samut Songkhram, Samut Sakhon, Băng Cốc, Samut Prakan, Chachoengsao, Chonburi, Rayong, Chanthaburi và Trat.
: Krong Kep, Kampot, Preah Sihanouk và Koh Kong.
: Cà Mau và Kiên Giang.
Từ bản đồ mà nhìn, vịnh Thái Lan, vịnh Bắc Bộ và Biển Đông hình thành hình chữ y (viết thường).
Quy tắc đặt tên
Một số vùng biển châu Á được đặt tên theo quốc gia hoặc dân tộc, là dấu hiệu nhận dạng địa lí quốc tế, hoàn toàn không phải là danh xưng chủ quyền quốc gia, ví dụ như: Biển Nhật Bản, biển Hoa Đông, biển Philippines, biển Hoa Nam, vịnh Thái Lan, biển Myanmar, vịnh Bengal, Ấn Độ Dương, biển Ả Rập, vịnh Oman và vịnh Ba Tư.
Lịch sử
Vịnh Thái Lan là đường giao thông trên biển trọng yếu của Thái Lan và Campuchia thông ra Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, từng là tuyến đường trọng yếu để các cường quốc xâm lược Thái Lan. Sau năm 1664, các chiến hạm của Hải quân Hoàng gia Hà Lan và Hải quân Pháp lần lượt tiến vào bên trong vịnh và sông Chao Phraya, thực thi phong toả đối với cửa sông Chao Phraya và vịnh biển, ép bức Xiêm La công nhận các đặc quyền dành cho nó và cắt nhượng lãnh thổ, bồi thường phí dụng binh. Tháng 7 năm 1893, Pháp mượn cớ một viên quan lại bị giết, đem quân hạm tiến vào sông Chao Phraya, kế tiếp là phong toả vịnh Thái Lan, áp bức Xiêm La cắt nhượng lãnh thổ, bồi thường chiến phí. Tháng 1 năm 1941, tàu chiến Pháp và Thái Lan phát sinh hải chiến ở trong vịnh. Tháng 12 cùng năm, quân đội Nhật Bản đổ bộ lên Songkhla và Pattani, tiến hành xâm lược bán đảo Mã Lai. Sau khi phát sinh Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia vào cuối thập niên 70 thế kỉ XX, hải quân Liên Xô hoạt động thường xuyên ở vùng biển sát gần Thái Lan. Hiện nay ven bờ Thái Lan vẫn có khu vực cảnh báo nguy hiểm của thuỷ lôi. Thái Lan vì mục đích bảo vệ chủ quyền mà tích cực tăng cường lực lượng quân sự, cử hành diễn tập quân sự ở trong vịnh định kì hằng năm. Hải cảng chủ yếu ven bờ và căn cứ hải quân có Rạch Giá của Việt Nam; Kampot, Ream và Kampong Som của Campuchia; Sattahip, Băng Cốc, Songkhla và Pattani của Thái Lan. Căn cứ không quân có U-Tapao, Hua Hin và Don Mueang.
Địa lí
Nguyên nhân hình thành
Khu vực vịnh Thái Lan do đứt gãy và sụt lún trong vận động vỏ Trái Đất kỷ Đệ Tam mà thành. Đáy của bồn trũng vịnh biển đã tích tụ, chồng chất tầng trầm tích dày đến 7.500 mét ở kỷ Đệ Tam. Ven bờ vùng vịnh phần lớn là bờ đá và dốc đứng, đỉnh vịnh nằm ở vịnh Bangkok và cửa vịnh là các bờ cát nối liền.
Khí hậu
Vịnh Thái Lan phần lớn thuộc khí hậu gió mùa nhiệt đới, từ tháng 11 hằng năm đến tháng 3 năm sau thịnh hành gió mùa Đông Bắc khô hanh, giáng thuỷ rất ít, gọi là mùa khô; từ tháng 4 đến tháng 10 thịnh hành gió mùa Tây Nam ẩm ướt, mưa nhiều, gọi là mùa mưa. Mũi phía nam của vịnh thuộc khí hậu mưa nhiều xích đạo, lượng mưa hằng năm tương đối đồng đều, không có sự phân chia mùa khô và mùa mưa rõ ràng, lượng giáng thuỷ hằng năm khá nhiều. Hải lưu nội vịnh bị gió mùa biển Đông ảnh hưởng, tuỳ mùa tiết mà thay đổi. Lúc gió mùa Tây Nam thịnh hành, có hoàn lưu thuận chiều kim đồng hồ, chỉ cửa vịnh là nghịch chiều kim đồng hồ; lúc gió mùa Đông Bắc thịnh hành, hải lưu nội vịnh vẫn có hoàn lưu thuận chiều kim đồng hồ, nhưng phía đông bắc nội vịnh là nghịch chiều kim đồng hồ.
Tài nguyên tự nhiên
Nội vịnh giàu muối dinh dưỡng, thuận lợi cho sinh vật phù du ở biển - đại dương sinh sản đông đúc, sản xuất cá bạc má, cá cơm, cá trích, tôm đôi,... Nội vịnh phân bố rạn san hô và cây đước. Dòng sông chủ yếu đổ vào trong vịnh có sông Chao Phraya, sông Mae Klong và sông Bang Pakong. Ven bờ nhiều cây đước và ao đầm. Đáy là bùn và đất sét, phần lớn độ sâu từ 40 đến 60 mét. Ven bờ có ngư trường trọng yếu, ngư sản phong phú. Đầu thập niên 70 thế kỉ XX, đáy biển được khai thác khí thiên nhiên.
Tranh chấp lãnh thổ
Vịnh Thái Lan cũng là nơi diễn ra các mâu thuẫn về việc phân chia lãnh hải giữa các quốc gia Malaysia, Thái Lan, Việt Nam và Campuchia. Malaysia và Thái Lan đã đạt được các thỏa thuận chung nhằm hợp tác khai thác vùng lãnh thổ tranh chấp giữa hai quốc gia này.
Thư viện ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Biên giới Việt Nam-Campuchia
Thủy vực Campuchia
Biển Đông
Vịnh biển Việt Nam
Vịnh biển Thái Bình Dương
Đông Nam Á hải đảo
Vịnh biển châu Á
Thủy vực Biển Đông
Thủy vực Thái Lan
Biên giới Malaysia-Việt Nam
Biên giới Campuchia-Thái Lan
Thủy vực Malaysia
|
16930
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%B4ng%20th%E1%BB%A7y
|
Thông thủy
|
Bài viết này miêu tả thông thủy là một khái niệm của ngành xây dựng. Hãy xem thông thủy (định hướng) để biết về các nghĩa khác
Thông thủy trong ngành xây dựng, được xác định là khoảng cách giữa hai cạnh đối diện của kết cấu công trình. Ví dụ: Đối với nhà ở, chiều cao thông thủy của phòng là kích thước từ mặt sàn lên đến mặt dưới của kết cấu chịu lực (là dầm nếu nhìn thấy) hoặc của trần (nếu không nhìn thấy dầm). Chiều rộng thông thủy của phòng là khoảng cách giữa hai mép tường đối diện, hoặc là khoảng cách giữa hai mép cột(nếu có cột). Khi đó, kích thước thông thủy tính từ bề ngoài lớp trát, nhưng không xét đến bề dày của lớp vật liệu ốp.
Tham khảo
Xây dựng
|
16932
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Si%C3%AAu%20%C3%A2m%20tim
|
Siêu âm tim
|
Siêu âm tim là kỹ thuật dùng sóng siêu âm để chụp và nghiên cứu các cấu trúc của tim trong khi tim đang hoạt động (co bóp). Người siêu âm dùng một đầu dò có phát sóng siêu âm di chuyển trên da ngực bệnh nhân. Sóng siêu âm phát ra có thể truyền qua môi trường lỏng và chỉ bị cản lại bởi khối không khí, xương và tổ chức mô của tim. Các tín hiệu âm phản hồi sẽ được đầu dò ghi lại và tạo nên hình ảnh động của tim đang co bóp trên màn hình. Phương pháp này cho phép chụp tim với hình ảnh chính xác.
Tham khảo
Tim mạch học
Chẩn đoán hình ảnh y khoa
Siêu âm y khoa
Bệnh học tim
|
16933
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A0%20ph%C3%AA%20ch%E1%BB%93n
|
Cà phê chồn
|
Cà phê chồn hay cà phê phân chồn là tên một loại cà phê đặc biệt, một thứ đồ uống được xếp vào loại hiếm nhất trên thế giới. Loại cà phê này có nhiều ở Indonesia, trên các hòn đảo Sumatra, Java và Sulawesi. Từ Kopi Luwak được dùng để chỉ một loại hạt do loài cầy vòi đốm ăn quả cà phê rồi thải phân ra đem đi phơi khô rồi chế biến .
Nguồn gốc
Tuy tiếng Việt nhắc đến chồn nhưng động vật liên quan là con cầy chứ không phải là chồn. Trong khi đó tên gọi Kopi Luwak bắt nguồn từ từ kopi trong tiếng Indonesia có nghĩa là cà phê. Luwak là tên một vùng thuộc đảo Java, đồng thời cũng là tên của một loài cầy cư trú ở đó. Loài cầy vòi đốm (Paradoxurus hermaphroditus) thuộc họ Cầy (Viverridae). Loài này phân bố rải rác ở các nước vùng Đông Nam Á như Indonesia, Philippines, Việt Nam và miền nam Trung Quốc. Ở Việt Nam người ta nuôi cầy vòi hương để làm ra loại cà phê đặc biệt này.
Quá trình
Trong quá trình nhai gặm hạt cafe đi qua dạ dày và ruột chồn các enzym men tiêu hóa trong hệ hóa của chồn hương đã thấm vào lớp vỏ trấu đã bị bào mòn, thấm nhẹ vào nhân cà phê đã bẻ gãy các phân tử hương và vị trong cấu tạo hữu cơ của hạt cà phê. Khi hạt cà phê do chồn hương ăn, thải phân ra được xử lý làm sạch mọi vết bẩn và yếu tố không an toàn thực phẩm, được rang theo một kỹ thuật thì sẽ có một loại cà phê chồn thành phẩm. Diễn viên người Anh John Cleese đã tả rằng: "nó vừa có vị bùi bùi của đất, lại ngai ngái như bị mốc, vừa dìu dịu, lại giống như nước siro, đậm đà như mang theo âm hưởng của rừng già và của sôcôla."
Đúng ra thì chỉ có phần thịt cà phê được lên men tiêu hoá. Hạt cà phê còn có lớp vỏ cứng bảo vệ, cho nên nếu như có chịu tác dụng của enzym đi chăng nữa thì tác dụng đó cũng là rất nhỏ. Để đảm bảo sức khỏe cho chồn, vào những tháng có cà phê, chồn sẽ không ăn cà phê suốt mà cách 3 ngày ăn một lần, các ngày khác sẽ ăn cháo gà, cháo đường, thịt gà, trái cây...
Mùi vị
Trên thực tế chất lượng hạt cà phê sau khi qua dạ dày loài cầy vòi hương có thay đổi nhưng không nhiều. Nhìn chung vẫn giữ lại một phần hương vị cà phê nguyên chất, nếu chịu khó cảm nhận bạn có thể nếm được vị bùi bùi, dìu dịu vừa ngai ngái, phảng phất mùi của khói và hương vị sô cô la. Nhiều người uống loại cà phê này không vì hương vị mà còn vì để thể hiện sự sang trọng.
Thị trường
Đối với những người sành cà phê thì Kopi Luwak của Indonesia ngon hơn và giá thành do vậy cũng cao hơn. Một kg Kopi Luwak có giá thành khoảng 20 triệu VND (1300 USD) và mỗi năm cũng chỉ có khoảng 200 kg được bán trên thị trường thế giới. Trên thế giới chỉ một số nước sản xuất được loại cà phê này như Indonesia, Philippines, Ethiopia, Việt Nam... với số lượng rất hạn chế. Tại Việt Nam, loại cà phê này cũng được sản xuất tại Tây nguyên, thường được gọi là "cà phê Chồn" Nguyên tắc sản xuất thì hoàn toàn giống như tại Indonesia.
Thương hiệu Trung Nguyên đã sản xuất thương hiệu cà phê chồn riêng có tên Weasel Coffee Trung Nguyen, với đơn giá mỗi kg là 3.000 USD, cao hơn nhiều so với Kopi Luwak được rao dưới 600 USD một kg của Indonesia.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hoang tưởng, thiếu hiểu biết mới mua cà phê chồn
Huyền thoại về một loại Cà phê
Nuôi chồn để có cà phê đắt nhất
Cà phê chồn "Made in Vietnam"
Cận cảnh làm ra cà phê Chồn
Lam Dong has first farm producing weasel coffee
Cà phê chồn, Huyền thoại và hiện thực
Cà phê chồn
Quyền lợi động vật
|
16934
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alkan
|
Alkan
|
Đối với hydrocarbon no chứa một hay nhiều mạch vòng, xem Cycloalkan.
Alkan (tiếng Anh: alkane ) trong hóa hữu cơ là hydrocarbon no không tạo mạch vòng. Điều đó có nghĩa là chúng là các hydrocarbon không tạo mạch vòng, trong đó mỗi phân tử chứa số nguyên tử hydro cực đại và không chứa các liên kết đôi.
Alkan còn được biết đến như là parafin, hoặc nói một cách tổng thể là dãy parafin; tuy nhiên các thuật ngữ này chỉ được sử dụng để chỉ tới các alkan mà các nguyên tử carbon của nó tạo thành mạch đơn không phân nhánh; trong trường hợp đó, các alkan mạch nhánh được gọi là isoparafin.
Công thức tổng quát của alkan là CnH2n+2 (với n là số nguyên dương); do đó alkan đơn giản nhất là methan, CH4. Tiếp theo là ethan, C2H6; dãy này có thể kéo dài vô tận. Mỗi một nguyên tử carbon trong alkan có cặp lai quỹ đạo sp3.
Đồng phân
Các nguyên tử carbon trong các alkan (có chứa hơn 3 nguyên tử carbon) có thể sắp xếp theo nhiều cách khác nhau, tạo ra các đồng phân khác nhau. Alkan "thông thường" có cấu trúc thẳng, không phân nhánh. Số lượng các đồng phân tăng nhanh theo số lượng nguyên tử carbon; đối với các alkan có từ 1 đến 12 nguyên tử carbon thì số các đồng phân lần lượt là 1, 1, 1, 2, 3, 5, 9, 18, 35, 75, 159, 355.
Danh pháp khoa học
Trong tiếng Việt, tên gọi của các alkan kết thúc bằng -an.
Các alkan mạch thẳng
Mười phân tử đầu tiên của dãy (theo số lượng nguyên tử carbon) được đặt tên như sau:
methan, CH4
ethan, C2H6
propan, C3H8
butan, C4H10
pentan, C5H12
hexan, C6H14
heptan, C7H16
octan, C8H18
nonan, C9H20
decan, C10H22
Các alkan chứa 5 hoặc nhiều hơn nguyên tử carbon được đặt tên bằng cách bổ sung thêm hậu tố -an vào quy ước chính xác của IUPAC để đọc các số. Do đó, pentan, C5H12; hexan, C6H14; heptan, C7H16; octan, C8H18; v...v... Để có danh sách hoàn chỉnh hơn, xem Danh sách các alkan.
Các alkan mạch không phân nhánh đôi khi được bổ sung thêm tiền tố n- (ám chỉ thông thường) để phân biệt chúng với các alkan mạch nhánh có cùng số nguyên tử carbon. Mặc dù nó không phải là cần thiết một cách tuyệt đối, nhưng việc sử dụng nó vẫn là phổ biến trong các trường hợp mà ở đó có sự khác biệt quan trọng về thuộc tính giữa alkan mạch không phân nhánh và các đồng phân mạch nhánh: ví dụ n-hexan là một chất độc đối với hệ thần kinh trong khi các đồng phân mạch nhánh của nó thì lại không phải.
Các alkan mạch nhánh
Các alkan mạch nhánh được đặt tên như sau:
Xác định mạch các nguyên tử carbon dài nhất.
Đánh số các nguyên tử carbon trong mạch này, bắt đầu từ 1 tại đầu gần nhánh hơn và tiếp tục đếm cho đến khi gặp nguyên tử carbon cuối cùng của mạch đó ở đầu kia.
Kiểm tra các nhóm đính vào mạch theo trật tự và tạo ra tên gọi cho chúng.
Tạo ra tên bằng cách nhìn vào các nhóm đính vào khác nhau, và viết tên của chúng cho từng nhóm, theo trật tự sau:
Số hay các số của nguyên tử carbon, hay các nguyên tử, mà ở đó nó đính vào.
Các tiền tố di-, tri-, tetra- v.v nếu nhóm đính vào 2, 3, 4 v.v vị trí trong mạch, hoặc không có gì nếu nó được đính vào chỉ một chỗ duy nhất.
Tên của nhóm đính vào.
Việc tạo ra tên gọi được kết thúc khi đã viết xong tên gọi của mạch carbon dài nhất.
Để thực hiện thuật toán này, người ta cần phải biết các nhóm thay thế được gọi như thế nào. Điều này được thực hiện bằng cùng một cách, ngoại trừ là thay vì sử dụng mạch carbon dài nhất thì người ta sử dụng mạch dài nhất bắt đầu từ điểm đính vào; ngoài ra, việc đánh số được thực hiện sao cho nguyên tử carbon tiếp theo điểm đính vào có giá trị số bằng 1.
Ví dụ, hợp chất (CH3)3-CH là alkan chứa 4 nguyên tử carbon duy nhất có thể có tính chất khác với butan CH3-CH2-CH2-CH3. Tên gọi hình thức của nó là 2-methylpropan.
Tuy nhiên, pentan có hai đồng phân mạch nhánh ngoài dạng mạch thẳng thông thường là: (CH3)4-C hay 2,2-dimethylpropan và (CH3)2-CH-CH2-CH3 hay 2-methylbutan.
Tên gọi thông thường
Các tên gọi ngoài hệ thống vẫn được duy trì trong hệ thống của IUPAC:
isobutan cho 2-methylpropan
isopentan cho 2-methylbutan
neopentan cho 2,2-dimethylpropan
Tên gọi isooctan được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp hóa dầu để chỉ 2,2,4-trimethylpentan.
Sự phổ biến
Alkan có cả trên Trái Đất và trong hệ Mặt Trời, tuy nhiên chỉ có một tỷ lệ không lớn và chủ yếu chỉ ở dạng "có dấu vết". Các hydrocarbon nhẹ, đặc biệt là methan và ethan là một phần quan trọng của các thiên thể khác: ví dụ, chúng được tìm thấy trong đuôi của sao chổi Hyakutake và trong một số thiên thạch chẳng hạn như các loại chondrit carbon. Chúng cũng tạo thành một phần quan trọng của bầu khí quyển của các hành tinh khí ngoài xa của hệ Mặt Trời như Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh và Hải Vương Tinh. Trên Titan, vệ tinh của Thổ Tinh, người ta tin rằng đã từng có một đại dương lớn chứa các alkan mạch dài, các biển nhỏ chứa ethan lỏng được cho là vẫn còn tồn tại.
Dấu vết của methan (khoảng 0,0001% hay 1 ppm) có trong bầu khí quyển Trái Đất, được sản xuất chủ yếu bởi các dạng khuẩn cổ. Hàm lượng trong nước biển là không đáng kể do độ hòa tan thấp trong nước: tuy nhiên, ở áp suất cao và nhiệt độ thấp, methan có thể cùng kết tinh với nước để tạo ra methan hydrat rắn. Mặc dù chúng không thể được khai thác trong phạm vi thương mại vào thời điểm hiện tại nhưng giá trị về năng lượng của các mỏ methan hydrat đã biết vượt xa tổng giá trị năng lượng của tất cả các mỏ khí thiên nhiên và dầu mỏ—methan thu được từ methan hydrat vì thế được coi là ứng cử viên cho nguồn nhiên liệu trong tương lai.
Ngày nay, các nguồn thương mại quan trọng nhất của alkan rõ ràng là khí thiên nhiên và dầu mỏ, là những hợp chất hữu cơ duy nhất có ở dạng khoáng chất trong tự nhiên. Khí thiên nhiên chủ yếu chứa methan và ethan, với một chút propan và butan. Dầu mỏ là hỗn hợp của các alkan lỏng và các hydrocarbon khác. Cả hai đều được hình thành khi các động vật biển chết được che phủ bằng trầm tích để loại bỏ sự có mặt của oxy và được chuyển hóa sau nhiều triệu năm ở nhiệt độ và áp suất cao thành các chất tự nhiên tương ứng. Ví dụ dưới đây miêu tả một phản ứng hình thành ra khí thiên nhiên:
C6H12O6 → 3CH4 + 3CO2
Chúng tự tập hợp lại trong các loại đá xốp, được che phủ bởi các lớp không thấm nước phía trên. Ngược lại với methan là hợp chất được tạo ra với khối lượng lớn, các alkan mạch dài hơn ít được tạo ra để có một khối lượng đáng kể trong tự nhiên. Các mỏ dầu hiện nay sẽ không được tái tạo một khi chúng bị cạn kiệt.
Các alkan rắn thu được như là cặn còn lại sau khi cho dầu mỏ bay hơi, được biết đến như là hắc ín. Một trong các mỏ tự nhiên lớn nhất của alkan rắn là trong hồ chứa bitum gọi là La Brea trên đảo Trinidad vùng Caribe.
Làm tinh khiết và sử dụng
Các alkan là nguyên liệu thô quan trọng cho công nghiệp hóa dầu và là nguồn nhiên liệu quan trọng nhất của kinh tế thế giới.
Các nguyên liệu ban đầu cho gia công chế biến là khí thiên nhiên và dầu thô. Dầu thô được tách ra tại các nhà máy lọc dầu bằng cách chưng cất phân đoạn và sau đó được chế biến thành các sản phẩm khác nhau, ví dụ xăng. Sự "phân đoạn" khác nhau của dầu thô có các điểm sôi khác nhau và có thể cô lập và tách bóc rất dễ dàng: với các phân đoạn khác nhau thì các chất có điểm sôi gần nhau sẽ bay hơi cùng với nhau.
Sử dụng chủ yếu của một alkan nào đó có thể xác định hoàn toàn phù hợp với số nguyên tử carbon trong nó, mặc dù sự phân chia ranh giới dưới đây là đã lý tưởng hóa và chưa thực sự hoàn hảo. Bốn alkan đầu tiên được sử dụng chủ yếu để cung cấp nhiệt cho các mục đích sưởi ấm và nấu ăn, và trong một số quốc gia còn để chạy máy phát điện. Methan và ethan là các thành phần chủ yếu của khí thiên nhiên; chúng thông thường được lưu trữ như là khí nén. Tuy nhiên, rất dễ dàng chuyển chúng sang dạng lỏng: điều này đòi hỏi đồng thời việc nén và làm lạnh khí.
Propan và butan có thể hóa lỏng ở áp suất tương đối thấp, và chúng được biết dưới tên gọi khí hóa lỏng (viết tắt trong tiếng Anh là LPG). Ví dụ, propan được sử dụng trong các lò nung khí propan còn butan thì trong các bật lửa sử dụng một lần (ở đây áp suất chỉ khoảng 2 bar). Cả hai alkan này được sử dụng làm tác nhân đẩy trong các bình xịt.
Từ pentan tới octan thì alkan là các chất lỏng dễ bay hơi. Chúng được sử dụng làm nhiên liệu trong các động cơ đốt trong, do chúng dễ hóa hơi khi đi vào trong khoang đốt mà không tạo ra các giọt nhỏ có thể làm hư hại tính đồng nhất của sự cháy. Các alkan mạch nhánh được ưa chuộng hơn, do chúng có sự bắt cháy muộn hơn so với các alkan mạch thẳng tương ứng (sự bắt cháy sớm là nguyên nhân sinh ra các tiếng nổ lọc xọc trong động cơ và dễ làm hư hại động cơ). Xu hướng bắt cháy sớm được đo bằng chỉ số octan của nhiên liệu, trong đó 2,2,4-trimethylpentan (isooctan) có giá trị quy định ngẫu hứng là 100 còn heptan có giá trị bằng 0. Bên cạnh việc sử dụng như là nguồn nhiên liệu thì các alkan này còn là dung môi tốt cho các chất không phân cực.
Các alkan từ nonan tới ví dụ là hexadecan (alkan với mạch chứa 16 nguyên tử carbon) là các chất lỏng có độ nhớt cao, ít phù hợp cho mục đích sử dụng như là xăng. Ngược lại, chúng tạo ra thành phần chủ yếu của dầu diesel và nhiên liệu hàng không. Các nhiên liệu diesel được đánh giá theo chỉ số cethan (cethan là tên gọi cũ của hexadecan). Tuy nhiên, điểm nóng chảy cao của các alkan này có thể sinh ra các vấn đề ở nhiệt độ thấp và tại các vùng gần cực Trái Đất, khi đó nhiên liệu trở nên đặc quánh hơn và sự truyền dẫn của chúng không được đảm bảo chuẩn xác.
Các alkan từ hexadecan trở lên tạo ra thành phần quan trọng nhất của các loại chất đốt trong các lò đốt và dầu bôi trơn. Ở chức năng sau thì chúng làm việc như là các chất chống gỉ do bản chất không ưa nước của chúng làm cho nước không thể tiếp xúc với bề mặt kim loại. Nhiều alkan rắn được sử dụng như là sáp parafin, ví dụ trong các loại nến. Không nên nhầm lẫn sáp parafin với sáp thực sự (ví dụ sáp ong) chủ yếu là hỗn hợp của các este.
Các alkan với độ dài mạch carbon khoảng từ 35 trở lên được tìm thấy trong bitum, được sử dụng chủ yếu trong nhựa đường để rải đường. Tuy nhiên, các alkan có mạch carbon lớn có ít giá trị thương mại và thông thường hay được tách ra thành các alkan mạch ngắn hơn thông qua phương pháp cracking.
Điều chế
Ý nghĩa: Ngoài việc tổng hợp được các alkan cần cho Công nghiệp hay phòng thí nghiệm (Lab) thì việc tổng hợp này còn có một ý nghĩa khác đó là cho thấy cách chuyển hoá các bộ phận của phân tử (nhóm chức) thành các nhóm hydrocarbon no.
Phương pháp thứ nhất
Khử R-X (X là các Halogen) trực tiếp:
R-X +2H --> R-H + H-X
Tác nhân khử co thể là Zn/HCl - Mg.Hg/HCl - H2/Pd, Pt, Ni.. - LiAlH4, NaBH4..- Na/EtOH...
Lưu ý: Một trong những tác nhân khử mạnh nữa là HI thường dùng để khử dẫn xuất Iod theo phản ứng sau: R-I + H-I --> R-H + I2 (Phản ứng xảy ra trong bình kín, nhiệt độ)
Phương pháp thứ hai
Thủy phân hợp chất cơ kim (Thường là cơ Magnesi- Hợp chất Grignard)
R-X + Mg/ete khan ---> R-MgX + H2O ---> R-H + Mg(OH)X
Phương pháp thứ ba
Hydro hoá các hợp chất hydrocarbon không no
Phương pháp thứ tư
Hợp hai gốc hydrocarbon lại bằng cách tạo liên kết C-C (Có nhiều pp nhưng chủ yếu nhất vẫn là Wurtz và Corey - House)
1. Tổng hợp Wurtz (Vuyec-1854):
R-X + 2Na + R-X --> R-R + 2NaX
Một vài lưu ý về phản ứng:
• Phản ứng này đạt hiệu suất cao nhất khi 2 gốc hydrocarbon đem ghép là 2 gốc giống nhau.
• Khi 2 gốc hydrocarbon đem ghép là 2 gốc khác nhau, phản ứng cho hỗn hợp sản phẩm R-R, R-R', R'-R'.
• Phản ứng xảy ra trong dung môi là ether khan.
2. Tổng hợp Corey- House: Sơ đồ phản ứng tạm biểu diễn như sau:
R-X + 2Li ---> RLi + LiX
2RLi + CuX ---> R2CuLi + LiX (R2CuLi: Lithi điAnkyl Cuprat)
R2CuLi + R'X ---> R-R' + R-Cu + LiX
Lưu ý: Phản ứng chỉ xảy ra khi R' là dẫn xuất Halogen bậc 1 hay bậc 2. Phản ứng đạt hiệu suất cao nhất khi mà R và R' đều là dẫn xuất Hal bậc 1.
Cấu trúc phân tử
Cấu trúc phân tử của các alkan trực tiếp ảnh hưởng tới các thuộc tính hóa-lý của chúng. Nó thu được từ cấu hình điện tử của carbon, do nó có bốn điện tử hóa trị. Nguyên tử carbon trong các alkan luôn luôn cặp lai sp3, có nghĩa là các điện tử hóa trị có thể được coi là nằm trong 4 quỹ đạo (orbital) tương đương thu được từ tổ hợp của một quỹ đạo 2s và ba quỹ đạo 2p. Các quỹ đạo này, có các mức năng lượng đồng nhất, được sắp xếp trong không gian trong dạng của một hình tứ diện, các góc giữa chúng bằng 109,47°.
Độ dài và góc liên kết
Phân tử alkan chỉ có liên kết đơn C–H và C–C. Liên kết đầu là kết quả của phần chồng lên của quỹ đạo sp3 của carbon với quỹ đạo 1s của hydro; liên kết sau là do phần chồng lên của hai quỹ đạo sp3 trên các nguyên tử carbon khác nhau. Giá trị của các độ dài liên kết là 1,09×10−10 m đối với liên kết C–H và 1,54×10−10 m đối với liên kết C–C.
Sự phân bổ không gian của các liên kết là tương tự như của bốn quỹ đạo sp3—chúng phân bổ theo dạng tứ diện, với góc giữa chúng là 109,47°. Công thức cấu tạo trong đó thể hiện các liên kết như là vuông góc với nhau là phổ biến và hữu ích, nhưng không phù hợp với thực tế.
Cấu hình
Công thức cấu tạo và các góc liên kết không đủ để miêu tả đầy đủ dạng hình học của phân tử. Còn phải lưu ý tới độ tự do cho mỗi liên kết C–C: góc xoắn giữa các nguyên tử hoặc các nhóm liên kết tới các nguyên tử tại mỗi đầu của liên kết. Sự phân bổ không gian được miêu tả bởi các góc xoắn của phân tử được gọi là cấu hình của nó.
Ethan
Ethan là trường hợp đơn giản nhất để nghiên cứu cấu hình của alkan, do nó chỉ có một liên kết C–C. Nếu nhìn thẳng vào trục của liên kết C–C khi đó có cái gọi là ánh xạ Newman: vòng tròn đại diện cho hai nguyên tử carbon, một nguyên tử nằm sau nguyên tử kia, và các liên kết tới hydro được đại diện bởi các đường thẳng. Các nguyên tử hydro trên các liên kết tới nguyên tử carbon trước hay sau đều có góc giữa chúng là 120°, tạo ra do phép chiếu của hình tứ diện lên một mặt phẳng. Tuy nhiên góc xoắn giữa nguyên tử hydro nhất định gắn với nguyên tử carbon trước và nguyên tử hydro nhất định gắn với nguyên tử carbon sau có thể dao động tự do trong khoảng 0° và 360°. Đây là hệ quả của sự tự quay tự do xung quanh liên kết đơn C–C. Mặc dù có sự tự do biểu kiến này nhưng chỉ có hai cấu hình giới hạn là quan trọng:
Trong cấu hình che lấp, tương ứng với góc xoắn 0°, 120° hay 240°, các nguyên tử hydro gắn với nguyên tử carbon trước là nằm ngay phía trước và thẳng hàng trong phép ánh xạ đối với các nguyên tử hydro gắn với nguyên tử carbon sau.
Trong cấu hình so le, tương ứng với các góc xoắn 60°, 180° hay 300°, các nguyên tử hydro gắn với nguyên tử carbon trước trong phép ánh xạ là nằm chính xác ở giữa các nguyên tử hydro gắn với nguyên tử carbon sau.
Hai cấu hình này, còn được gọi là các rotomer là khác nhau về năng lượng: cấu hình so le thấp năng lượng hơn là 12,6 kJ/mol (ổn định hơn) so với cầu hình che khuất. Sự giải thích cho sự khác biệt về năng lượng này là chủ đề gây tranh cãi, với hai thuyết chủ đạo chính là:
Trong cấu hình che khuất thì lực đẩy tĩnh điện giữa các điện tử trong các liên kết C–H là cực đại.
Trong cấu hình so le thì sự siêu kết hợp (một dạng của phi cục bộ hóa) của các điện tử hóa trị là cực đại.
Hai giải thích này không phải là mâu thuẫn hay loại trừ lẫn nhau; giả thuyết sau được coi là quan trọng hơn đối với ethan.
Sự khác biệt về năng lượng giữa hai cấu hình, được biết đến như là năng lượng xoắn, là nhỏ so với nhiệt năng của phân tử ethan ở nhiệt độ bao quanh nó. Ở đây có sự tự quay liên tục xung quanh liên kết C–C, mặc dù với các "khoảng dừng" ngắn ở mỗi cấu hình so le. Thời gian cần thiết đối với phân tử ethan để chuyển từ một cấu hình so le sang cấu hình so le kế tiếp, tương đương với sự tự quay của một nhóm CH3 một góc 120° tương đối với các nhóm khác, là khoảng 10−11 giây.
Các alkan cao hơn
Các tình huống tương ứng với hai liên kết C–C trong propan về mặt định tính là tương tự như của ethan. Tuy nhiên, nó là phức tạp hơn nhiều đối với butan và các alkan mạch dài hơn.
Nếu người ta lấy liên kết C–C trung tâm của butan như là trục tham chiếu chính, mỗi một nguyên tử carbon trong số hai nguyên tử trung tâm được kiên kết với hai nguyên tử hydro và một nhóm methyl. Bốn cấu hình khác nhau có thể phân biệt và xác định theo góc xoắn giữa hai nhóm methyl và giống như trong trường hợp của ethan, mỗi cấu hình này đều có mức năng lượng đặc trưng của nó.
Cấu hình che khuất hoàn toàn hay cùng chiều có góc xoắn bằng 0°. Nó là cấu hình có mức năng lượng cao nhất.
Cấu hình nghiêng có góc xoắn 60° (hay 300°). Nó là cực tiểu về năng lượng cục bộ.
Cấu hình che khuất một phần có góc xoắn 120° (hay 240°). Nó là cực đại về năng lượng cục bộ.
Cấu hình ngược chiều có góc xoắn 180°. Hai nhóm methyl là xa nhau nhất ở mức có thể và cấu hình này có mức năng lượng thấp nhất.
Chênh lệch về năng lượng giữa hai cấu hình "che khuất hoàn toàn" và "ngược chiều" là khoảng 19 kJ/mol, và vì thế vẫn là tương đối nhỏ ở nhiệt độ bao quanh nó.
Trường hợp của các alkan mạch dài hơn là tương tự: cấu hình ngược chiều luôn luôn là cấu hình ưa thích nhất xung quanh mỗi liên kết C–C. Vì lý do này, các alkan thường được biểu diễn dưới dạng phân bổ chữ chi (zigzag) trong các giản đồ hay các mô hình. Cấu trúc thực sự luôn khác biệt một chút so với các dạng lý tưởng hóa này, do khác biệt về năng lượng giữa các cấu hình là nhỏ so với nhiệt năng của phân tử: các phân tử alkan không có dạng cấu trúc cố định giống như những gì mà các mô hình đề ra.
Các cấu hình của các phân tử chất hữu cơ dựa trên các tính chất này của alkan và được xem xét trong các bài liên quan.
Thuộc tính
Vật lý
Cấu trúc phân tử, cụ thể là diện tích bề mặt của phân tử, xác định điểm sôi của alkan: diện tích bề mặt càng nhỏ thì điểm sôi càng thấp, do các lực van der Waals giữa các phân tử là yếu hơn. Việc giảm diện tích bề mặt có thể thu được nhờ tạo nhánh hay là cấu trúc vòng. Điều này có nghĩa là trong thực tế các alkan có số nguyên tử carbon nhiều hơn thông thường sẽ có điểm sôi cao hơn so với các alkan có số nguyên tử carbon nhỏ hơn, và các alkan mạch nhánh và cycloalkan có điểm sôi thấp hơn so với các dạng mạch thẳng của chúng. Ở điều kiện tiêu chuẩn, từ CH4 tới C4H10 thì các alkan có dạng khí; từ C5H12 tới C17H36 chúng là lỏng; và từ C18H38 thì chúng là rắn. Điểm sôi tăng khoảng 20 tới 30 °C cho một nhóm CH2.
Các điểm nóng chảy của các alkan cũng tăng theo chiều tăng của số nguyên tử carbon (ngoại lệ duy nhất là propan). Tuy nhiên, điểm nóng chảy tăng chậm hơn nhiều so với sự tăng của điểm sôi, cụ thể là đối với các alkan lớn. Ngoài ra, điểm nóng chảy của các alkan chứa lẻ số nguyên tử carbon tăng nhanh hơn so với điểm nóng chảy của các alkan chứa chẵn số nguyên tử carbon (xem hình): nguyên nhân của hiện tượng này là do "mật độ bao gói" cao hơn của các alkan chứa chẵn số nguyên tử carbon. Điểm nóng chảy của các alkan mạch nhánh có thể cao hơn hoặc thấp hơn so với các alkan mạch thẳng tương ứng, phụ thuộc vào hiệu quả của sự bao gói phân tử: nó là đúng phần nào với đối với các isoalkan (các đồng phân 2-methyl), thông thường có điểm nóng chảy cao hơn so với các đồng phân mạch thẳng của nó.
Các alkan không có tính dẫn điện và về cơ bản chúng cũng không bị phân cực bởi điện trường. Vì lý do này chúng không tạo ra các liên kết hydro và vì vậy không hòa tan trong các dung môi phân cực như nước. Do các liên kết hydro giữa các phân tử nước riêng biệt là tách biệt với các phân tử alkan, sự cùng tồn tại của alkan và nước dẫn tới sự tăng trong trật tự phân tử (giảm entropy). Do không có liên kết đáng kể giữa các phân tử nước và phân tử alkan, định luật hai nhiệt động lực học cho rằng việc giảm entropy này được giảm thiểu bằng cách giảm thiểu sự tiếp xúc giữa alkan và nước: các alkan được coi là không ưa nước và chúng là đẩy nước.
Độ hòa tan của chúng trong các dung môi không phân cực là tương đối tốt, một thuộc tính gọi là ưa mỡ. Các alkan khác nhau là có thể trộn lẫn nhau với tỷ lệ bất kỳ.
Tỷ trọng của các alkan thông thường tăng theo chiều tăng của số nguyên tử carbon, nhưng vẫn thấp hơn tỷ trọng của nước. Vì thế, các alkan tạo thành lớp trên trong hỗn hợp alkan-nước.
Hóa học
Các alkan nói chung thể hiện tính hoạt động hóa học tương đối yếu, do các liên kết C–H và C–C của chúng là tương đối ổn định và không dễ phá vỡ. Không giống như các hợp chất hữu cơ khác, chúng không có các nhóm chức.
Chúng phản ứng rất kém với các chất có tính điện ly hay phân cực. Các giá trị pKa của tất cả các alkan là trên 60, vì thế trên thực tế chúng là trơ với các acid hay base. Tính trơ này là nguồn gốc của thuật ngữ parafin (tiếng Latinh para + affinis, với nghĩa là "thiếu ái lực"). Trong dầu thô các phân tử alkan giữ các thuộc tính hóa học không thay đổi trong hàng triệu năm.
Tuy nhiên các phản ứng oxy hóa-khử của các alkan, cụ thể là với oxy và các halogen, là có thể do các nguyên tử carbon là ở trong các điều kiện khử mạnh; trong trường hợp của methan, trạng thái oxy hóa thấp nhất đối với carbon (−4) đã đạt tới. Phản ứng với oxy dẫn tới sự cháy; với các halogen là các phản ứng thế.
Các gốc tự do và các phân tử với các điện tử không bắt cặp đóng vai trò quan trọng trong phần lớn các phản ứng của alkan, chẳng hạn như trong cracking và sửa đổi mà ở đó các alkan mạch dài bị chia cắt thành các alkan và alken mạch ngắn hay các alkan mạch thẳng bị chuyển thành các đồng phân mạch nhánh.
Trong các alkan mạch nhánh lớn thì các góc liên kết có thể khác đáng kể so với giá trị tối ưu (109,5°) để đảm bảo cho các nhóm khác có đủ không gian cần thiết. Điều này sinh ra sự căng trong phân tử, được biết đến như là sự cản trở không gian, và nó có thể tắng độ hoạt động hóa học đáng kể.
Quang phổ
Gần như mọi hợp chất hữu cơ đều chứa các liên kết C–C và C–H, và vì thế chúng thể hiện một số dặc trưng của alkan trong quang phổ của chúng. Các alkan đáng chú ý là do không có các nhóm khác và vì vậy chúng thiếu vắng các đặc trưng quang phổ khác.
Phổ hồng ngoại
Kiểu kéo căng C–H tạo ra sự hấp thụ mạnh ở khoảng 2850 và 2960 cm−1, trong khi kiểu kéo căng C–C hấp thụ trong khoảng giữa 800 và 1300 cm−1. Kiểu liên kết C–H phụ thuộc vào bản chất của nhóm: các nhóm methyl xuất hiện ở dải 1450 cm−1 và 1375 cm−1, trong khi các nhóm methylen xuất hiện ở dải 1465 cm−1 và 1450 cm−1. Các mạch carbon với nhiều hơn 4 nguyên tử carbon xuất hiện vạch hấp thụ yếu ở khoảng 725 cm−1.
Phổ NMR
Sự cộng hưởng proton của các alkan thông thường tìm thấy ở δH = 0–1. Sự cộng hưởng carbon-13 phụ thuộc vào số nguyên tử hydro đính vào carbon: δC = 8–30 (methyl), 15–55 (methylen), 20–60 (methyn). Sự cộng hưởng carbon-13 của nguyên tử carbon trong nhóm bốn là rất yếu, do thiếu hiệu ứng tăng Overhauser hạt nhân và thời gian dãn dài: nó có thể bỏ qua trong quang phổ thông thường.
Phép đo phổ khối lượng
Các alkan có năng lượng ion hóa cao, và các ion thông thường là rất yếu. Các kiểu phân chia rất khó diễn giải, nhưng trong trường hợp của các alkan mạch nhánh thì mạch carbon có xu hướng bị tách ra ở carbon thứ ba hay thứ tư do tính ổn định tương đối của các gốc tự do tạo thành. Sự phân chia tạo ra do mất nhóm methyl đơn (M−15) thông thường không tồn tại, và sự phân chia khác thông thường được dàn theo các khoảng của 14 đơn vị khối lượng, tương ứng với sự mất liên tiếp các nhóm CH2.
Phản ứng
Với oxy
Tất cả các alkan phản ứng với oxy trong phản ứng cháy, mặc dù chúng trở nên khó bắt lửa hơn khi số lượng nguyên tử carbon tăng lên. Phương trình tổng quát của phản ứng cháy hoàn toàn là:
2CnH2n+2 + (3n+1)O2 → 2(n+1)H2O + 2nCO2
Khi không có đủ lượng oxy cần thiết thì carbon mônôxít hay thậm chí là muội than có thể tạo ra, như được chỉ ra dưới đây cho methan:
2CH4 + 3O2 → 2CO + 4H2O
CH4 + O2 → C + 2H2O
Các alkan thông thường cháy với ngọn lửa không sáng và rất ít muội than được tạo ra.
Sự thay đổi enthalpy của sự cháy, ΔcHo, đối với các alkan tăng khoảng 650 kJ/mol cho một nhóm CH2. Các alkan mạch nhánh có giá trị ΔcHo thấp hơn so với các alkan mạch thẳng khi cùng một số nguyên tử carbon, vì thế có thể coi là ổn định hơn về một số khía cạnh nào đó.
Với các halogen
Các alkan phản ứng với các halogen trong phản ứng gọi là phản ứng halogen hóa. Các nguyên tử hydro trong alkan bị thay thế dần dần, hay bị thay thế bằng các nguyên tử halogen. Các gốc tự do là các dạng chất tham gia vào trong phản ứng, thông thường hay tạo ra hỗn hợp các sản phẩm. Các phản ứng này là phản ứng tỏa nhiệt cao và có thể dẫn tới nổ.
Chuỗi cơ chế phản ứng như sau, với chlor hóa methan là ví dụ điển hình:
1. Khởi đầu: Chia cắt phân tử chlor để tạo ra hai nguyên tử chloro, được kích thích bằng bức xạ cực tím. Nguyên tử chlor có điện tử không bắt cặp và phản ứng như là một gốc tự do.
Cl2 → 2Cl·
2. Lan truyền (2 bước): Nguyên tử hydro bị lôi ra khỏi methan sau đó gốc methyl kéo Cl· từ Cl2.
CH4 + Cl· → CH3· + HCl
CH3· + Cl2 → CH3Cl + Cl·
Điều này tạo ra sản phẩm mong muốn và gốc chlor tự do khác. Gốc tự do này sau đó sẽ tham gia vào trong phản ứng lan truyền khác sinh ra một phản ứng dây chuyền. Nếu có đủ chloro, các sản phẩm khác chẳng hạn như CH2Cl2 có thể tạo ra.
3. Kết thúc: Tái tổ hợp của hai gốc tự do:
Cl· + Cl· → Cl2; hay
CH3· + Cl· → CH3Cl; hoặc
CH3· + CH3· → C2H6.
Khả năng cuối cùng trong bước kết thúc sẽ tạo ra tạp chất trong hỗn hợp cuối cùng; chủ yếu là sự tạo ra các phân tử hữu cơ với mạch carbon dài hơn thay vì tái tạo lại các chất tham gia phản ứng.
Trong trường hợp của methan hay ethan, mọi nguyên tử hydro đều bình đẳng và có cơ hội nganh nhau để được thay thế. Điều này dẫn đến cái gọi là sự phân bổ sản phẩm thống kê. Đối với propan và các alkan lớn hơn thì các nguyên tử hydro tạo thành các nhóm CH2 (hay CH) được ưu tiên thay thế.
Phản ứng của các halogen khác nhau dao động đáng kể: tỷ lệ tương đối là: fluor (108) > chlor (1) > brom (7×10−11) > iod (2×10−22). Vì thế phản ứng của alkan với flo là khó kiểm soát nhất, với chlor là nhanh vừa phải, với brom là chậm và đòi hỏi mức độ chiếu xạ tia cực tím cao còn với iod trên thực tế là không tồn tại và không có lợi về mặt nhiệt động lực học.
Các phản ứng này là quy trình công nghiệp quan trọng để halogen hóa các hydrocarbon.
Cracking và sửa đổi
"Cracking" phá vỡ các phân tử lớn thành các phân tử nhỏ hơn. Nó có thể thực hiện bằng các phương pháp nhiệt hay sử dụng chất xúc tác. Quy trình cracking nhiệt tuân theo cơ chế chia cắt liên kết đối xứng, có nghĩa là các liên kết bị phá vỡ đối xứng và cặp các gốc tự do được tạo ra. Quy trình cracking với chất xúc tác được diễn ra với sự tham gia của chất xúc tác acid (thông thường là các acid rắn) như nhôm silicat và zeolit) có xu hướng phá vỡ bất đối xứng các liên kết tạo ra các cặp ion ngược dấu điện tích, thông thường là carbocation và anion hydride rất không ổn định. Các gốc tự do carbon-khu vực hóa và các cation là không ổn định và nhanh chóng tham gia vào quá trình tái tạo mạch, sự phân chia C-C tại vị trí beta (có nghĩa là cracking) và hydro nội phân tử và liên phân tử được di chuyển hoặc trong di chuyển hydride. Trong cả hai dạng quy trình, các chất trung gian của phản ứng (gốc tự do, ion) được tái tạo liên tục, và vì vậy chúng được tạo ra trong một cơ chế tự lan truyền. Chuỗi các phản ứng cuối cùng được kết thúc bằng sự tái tổ hợp các gốc tự do hay các ion.
Ở đây là ví dụ về cracking butan CH3-CH2-CH2-CH3
Khả năng 1 (48%): việc phá vỡ thực hiện trên liên kết CH3-CH2.
CH3* / *CH2-CH2-CH3
sau một số bước người ta thu được alkan và alken:
CH4 + CH2=CH-CH3
Khả năng 2 (38%): việc phá vỡ thực hiện trên liên kết CH2-CH2.
CH3-CH2* / *CH2-CH3
sau một số bước người ta thu được alkan và alken dạng khác:
CH3-CH3 + CH2=CH2
Khả năng 3 (14%): phá vỡ liên kết C-H.
sau một số bước người ta thu được alken và hydro:
CH2=CH-CH2-CH3 + H2
Các phản ứng khác
Các alkan sẽ phản ứng với hơi nước khi có mặt chất xúc tác nickel để tạo ra hydro. Alkan có thể chlorosulfonat hóa và nitrat hóa, mặc dù cả hai phản ứng đều đòi hỏi các điều kiện đặc biệt. Sự lên men hóa các alkan thành các acid carboxylic có một tầm quan trọng kỹ thuật.
Hydrocracking
Đối với các alkan có số carbon lớn (parafin), chúng có thể phản ứng đựoc với hydro trong điều kiện nhiệt độ, áp suất rất cao. Sản phẩm của quá trình này là các hydrocarbon nhẹ,mạch ngắn đến trung bình, chủ yếu dùng làm xăng.
Nguy hiểm
Methan là một chất nổ khi trộn với không khí (1–8% CH4) và là một chất khí gây hiệu ứng nhà kính mạnh: các alkan thấp khác có thể là chất nổ khi trộn cùng không khí. Các alkan lỏng là những chất dễ bắt lửa, mặc dù rủi ro này giảm dần theo chiều dài mạch carbon. Pentan, hexan và heptan được xếp loại là nguy hiểm cho môi trường và có hại: octan cũng được phân loại là có hại. Hexan mạch thẳng là một chất độc cho hệ thần kinh và vì thế ít được sử dụng trong thương mại.
Trong tự nhiên
Mặc dù các alkan có trong tự nhiên theo nhiều cách khác nhau, chúng không được đánh giá như là các chất thiết yếu xét về mặt sinh học. Các cycloalkan với số nguyên tử carbon từ 14 tới 18 có trong xạ hương, được chiết ra từ hươu xạ (họ Moschidae). Tất cả các thông tin dưới đây đều chỉ áp dụng cho các alkan không tạo vòng.
Vi khuẩn và khuẩn cổ
Một số loại vi khuẩn nhất định có thể chuyển hóa các alkan: chúng ưa thích các alkan có mạch carbon chẵn do chúng dễ bị phân hủy hơn so với alkan mạch carbon lẻ.
Mặt khác một số vi khuẩn cổ, như methanogen, sản sinh ra một lượng lớn methan bằng cách chuyển hóa carbon dioxide hoặc oxy hóa các hợp chất hữu cơ khác. Năng lượng được giải phóng bằng sự oxy hóa hydro:
CO2 + 4H2 → CH4 + 2H2O
Mêtanogen cũng sản xuất ra khí đầm lầy trong các vùng đất lầy và giải phóng khoảng 2 tỷ tấn methan mỗi năm—nồng độ methan trong khí quyển trên thực tế chủ yếu là do chúng sản xuất. Công suất sản xuất methan của trâu, bò và các động vật ăn cỏ khác có thể tới 150 lít một ngày, cũng như của mối, đều là do mêtanogen. Chúng cũng sản xuất alkan đơn giản nhất này trong ruột người. Các vi khuẩn cổ mêtanogen vì vậy nằm ở cuối của chu trình carbon, với carbon được giải phóng ngược trở lại khí quyển sau khi đã được cố định bởi quá trình quang hợp. Có lẽ là các mỏ khí thiên nhiên hiện nay cũng đã được hình thành theo cách tương tự.
Nấm và thực vật
Các alkan cũng đóng vai trò nhỏ trong sinh học của ba nhóm eukaryot là: nấm, thực vật và động vật. Một số loại men đặc biệt, ví dụ Candida tropicale, các loài họ Pichia, Rhodotorula, có thể sử dụng alkan như là nguồn carbon và/hoặc năng lượng. Loài nấm Amorphotheca resinae ưa thích các alkan mạch dài trong nhiên liệu hàng không, và có thể sinh ra các vấn đề nghiêm trọng cho máy bay trong các khu vực nhiệt đới.
Trong thực vật người ta cũng tìm thấy các alkan rắn mạch dài; chúng tạo ra một lớp sáp rắn chắc-lớp cutin (biểu bì), trên các khu vực mà thực vật bị lột trần ra ngoài không khí. Nó bảo vệ thực vật chống lại sự mất nước, đồng thời ngăn cản sự thất thoát của các khoáng chất quan trọng do bị mưa. Nó cũng bảo vệ thực vật chống lại vi khuẩn, nấm và các côn trùng có hại. Lớp vỏ sáng màu trên các loại quả như táo cũng chứa các alkan mạch dài. Mạch carbon thông thường nằm giữa 20 và 30 nguyên tử carbon và được thực vật sản xuất từ các acid béo. Thành phần chính xác của lớp sáp không chỉ phụ thuộc vào loài mà còn thay đổi theo mùa và các yếu tố môi trường như điều kiện chiếu sáng, nhiệt độ và độ ẩm.
Động vật
Các alkan cũng được tìm thấy trong các sản phẩm của động vật, mặc dù chúng ít quan trọng hơn so với các hydrocarbon không no. Một ví dụ là dầu gan cá mập chứa khoảng 14% pristan (2,6,10,14-tetramethylpentadecan, C19H40). Sự có mặt của chúng là quan trọng hơn trong các pheromon, loại hóa chất làm tín hiệu, mà gần như toàn bộ côn trùng đều cần khi liên lạc với nhau. Với một số loại, như được sử dụng bởi bọ cánh cứng Xylotrechus colonus, chủ yếu là pentacosan (C25H52), 3-methylpentaicosan (C26H54) và 9-methylpentaicosan (C26H54), chúng được chuyển giao bằng sự tiếp xúc cơ thể. Với các loài khác như muỗi xê xê Glossina morsitans morsitans, pheromon chứa 4 alkan là 2-methylheptadecan (C18H38), 17,21-dimethylheptatriacontan (C39H80), 15,19-dimethylheptatriacontan (C39H80) và 15,19,23-trimethylheptatriacontan (C40H82), và chúng hoạt động bằng mùi với một khoảng cách lớn, một đặc trưng hữu ích để kiểm soát sâu bọ.
Quan hệ sinh thái
Một ví dụ về alkan mà cả trên động và thực vật đều có vai trò là quan hệ sinh thái giữa ong cát (Andrena nigroaenea) và lan hình nhện (Ophrys sphegodes); trong đó hoa lan phụ thuộc vào sự thụ phấn của ong. Ngoài ra, ong cát sử dụng các pheromon để xác định bạn tình của mình; trong trường hợp của A. nigroaenea, con cái sử dụng hỗn hợp của tricosan (C23H48), pentacosan (C25H52) và heptacosan (C27H56) với tỷ lệ 3:3:1, và con đực bị hấp dẫn bởi mùi đặc trưng này. Cây hoa lan đã nắm được ưu thế này— các phần trong hoa của nó không chỉ tương tự như bề ngoài của ong cát, mà nó còn sản xuất ra một lượng lớn cả ba alkan nói trên với cùng một tỷ lệ tương tự. Kết quả là hàng loạt ong đực bị quyến rũ bay đến và cố gắng giao hợp với bạn tình giả mạo của mình: mặc dù nỗ lực này không đem lại thành công cho ong, nhưng nó cho phép cây lan chuyển giao phấn hoa của nó, được gieo rắc sau khi con đực nản chí bay sang các bông hoa khác.
Xem thêm
Cycloalkan hay alkan vòng
Alken
Nhóm chức
Cracking (hóa học)
Một số alkan
Tham khảo
Hydrocarbon
Nhóm chức
Hợp chất hữu cơ
|
16935
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Parafin
|
Parafin
|
Parafin là tên gọi chung cho nhóm các hydrocarbon dạng ankan với phân tử lượng lớn có công thức tổng quát CnH2n+2, trong đó n lớn hơn 20. Parafin được Carl Reichenbach phát hiện ra trong thế kỷ 19.
Đây là loại nhiên liệu mà tiếng Anh-Mỹ gọi là kerosene (dầu hỏa hay dầu hôi) thì trong tiếng Anh-Anh, cũng như trong phần lớn các phiên bản tiếng Anh của Khối thịnh vượng chung Anh, được gọi là paraffin oil (hay paraffin), còn dạng rắn của parafin được gọi là paraffin wax (sáp parafin).
Parafin là tên gọi kỹ thuật cho ankan nói chung, nhưng trong phần lớn các trường hợp nó được dùng để chỉ các ankan mạch thẳng hay ankan thường, trong khi các ankan mạch nhánh, hay isoankan được gọi là isoparafin. So sánh thêm với olefin. (tiếng Latinh: parum (= yếu, kém, thiếu) + affinis với ý nghĩa ở đây là "thiếu ái lực", hay "thiếu khả năng phản ứng") (xem thêm ankan).
Trong bài này parafin được hiểu theo nghĩa thứ nhất.
Thuộc tính lý-hóa
Parafin được tìm thấy chủ yếu trong dạng chất rắn dạng sáp màu trắng, không mùi, không vị, với điểm nóng chảy thông thường nằm trong khoảng 47 - 65 °C. Nó không hòa tan trong nước, nhưng hòa tan trong ête, benzen và một số este. Parafin không bị thay đổi dưới tác động của nhiều thuốc thử hóa học phổ biến, nhưng rất dễ cháy.
Parafin lỏng
Parafin lỏng có nhiều tên gọi, như nujol, dầu adepsin, albolin, glymol, dầu parafin, saxol, hay dầu khoáng USP. Nó thông thường được sử dụng trong các nghiên cứu phổ học hồng ngoại, do nó có phổ hồng ngoại tương đối không phức tạp. Khi các mẫu cần kiểm tra được tạo ra thành lớp dung dịch dày, parafin lỏng được thêm vào để nó có thể loang rộng trên các đĩa cần thiết cho việc kiểm tra phổ hồng ngoại.
Sử dụng
Sản xuất nến
Tạo lớp phủ cho các loại giấy hay vải sáp.
Tạo lớp phủ cho nhiều loại pho mát cứng, chẳng hạn pho mát Edam.
Tạo các mẫu trong nghiên cứu thuộc lĩnh vực mô học.
Chất đẩy rắn cho các loại tên lửa lai ghép.
Gắn xi cho bình, chai, lọ.
Trong da liễu học, nó được dùng làm thuốc làm mềm (giữ ẩm)
Được dùng cho các ván lướt sóng như là một thành phần của loại sáp dành cho ván lướt sóng.
Thành phần chủ yếu của sáp trượt, dùng trong các ski và ván trượt tuyết.
Trong vai trò của phụ gia thực phẩm, chất tạo độ bóng có số E bằng E905 chính là parafin cấp thực phẩm.
Các thử nghiệm parafin được sử dụng trong pháp y để phát hiện các hạt thuốc súng còn trong tay của người bị tình nghi.
Sáp parafin cấp thực phẩm được dùng trong một số loại kẹo để làm cho nó trông bóng hơn. Mặc dù sáp parafin có thể ăn được nhưng nó không tiêu hóa được; nó đi qua hệ tiêu hóa mà không bị phân hủy. Sáp parafin cấp phi thực phẩm có thể chứa dầu và các tạp chất khác và có thể là độc hại hay nguy hiểm.
Hỗn hợp không tinh khiết của phần lớn các loại sáp parafin được dùng trong các buồng tắm sáp với mục đích làm đẹp và như là liệu pháp điều trị.
Sáp parafin không được dùng nhiều trong việc chế tạo các mô hình mẫu để đúc, do nó tương đối giòn ở nhiệt độ phòng và thông thường không thể đục, khắc lạnh do nó tạo ra nhiều mảnh vỡ. Loại sáp được ưa chuộng trong công việc này là sáp ong.
Xem thêm
Dầu hỏa hay dầu parafin
Dầu khoáng
Tam giác Lozanić
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thông tin về parafin lỏng / nujol
Sáp
Alkan
Sản phẩm dầu mỏ
Phụ gia thực phẩm
|
16943
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20thuy%E1%BA%BFt%20nh%C3%B3m
|
Lý thuyết nhóm
|
Trong toán học và đại số trừu tượng, lý thuyết nhóm nghiên cứu về cấu trúc đại số như nhóm. Nhóm là lý thuyết trung tâm của đại số trừu tượng, những cấu trúc đại số chính khác như vành, trường và không gian vector có thể được xét như các nhóm với các tính chất và tiên đề bổ sung. Nhóm được ứng dụng hầu khắp các nhánh của toán học, và ứng dụng của lý thuyết nhóm có ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của đại số. Các nhóm đại số tuyến tính và các nhóm Lie, là hai nhánh của lý thuyết nhóm, đã được nghiên cứu chuyên sâu và trở thành những chủ đề chính của lý thuyết này.
Nhiều hệ thống vật lý, như tinh thể và nguyên tử hydro, có thể được mô hình hóa dưới dạng các nhóm đối xứng.Vì vậy, lý thuyết nhóm và lý thuyết đại diện - lý thuyết có liên hệ mật thiết với lý thuyết nhóm - có nhiều ứng dụng quan trọng trong vật lý, hóa học và khoa học vật liệu. Lý thuyết nhóm cũng là trọng tâm cho lý thuyết mã hóa công khai.
Một trong những thành tựu quan trọng nhất của Toán học thế kỷ XX đó là nỗ lực hợp tác đem lại hơn 10.000 trang báo cáo được phát hành từ năm 1960 đến 1980 với kết quả phân loại hoành chỉnh cho các nhóm đơn hữu hạn.
Lý thuyết nhóm là một nhánh cơ bản của đại số nghiên cứu các tính chất của nhóm - một hệ thống đại số cơ bản.
Phân loại
Số loại nhóm đã dần dần mở rộng từ nhóm hoán vị hữu hạn cho tới nhóm ma trận.
Nhóm hoán vị
Lớp nhóm đầu tiên chúng ta được biết tới là nhóm hoán vị. Cho trước một tập X và tập hợp G các song tuyến của X cho chính nó (hoán vị) đóng dưới các phép nghịch đảo và kết hợp, G là nhóm tác động lên X. Nếu X bao gồm n phần tử và G bao gồm tất cả các hoán vị, G là nhóm đối xứng Sn, một cách tổng quát, Mọi nhóm hoán vị G là tập con của nhóm đối xứng của X.
Trong nhiều trường hợp, cấu trúc của một nhóm hoán vị có thể được nghiên cứu bằng cách sử dụng các tính chất của các tác dụng của chúng lên những tập tương ứng.
Nhóm ma trận
Lớp nhóm quan trọng tiếp theo của lý thuyết nhóm chính là nhóm ma trận. Trong đó G là một tập bao gồm các ma trận khả nghịch với bậc n cho trước qua một trường K là đóng dưới phép nhân vô hướng và nghịch đảo. Những nhóm tác dụng lên một không gian vector n chiều Kn bằng một biến đổi tuyến tính. Tác dụng này làm nhóm ma trận giống như nhóm hoán vị, và sự đối xứng của tác động có thể khai thác để tìm hiểu các tính chất của nhóm G.
Nhóm biến đổi
Nhóm giao hoán và nhóm ma trận là các trường hợp đặc biệt của nhóm biến đổi: Một nhóm tác động lên không gian X cụ thể và bảo toàn câu trúc vốn có của nó. Trong trường hợp của nhóm hoán vị, X là tập của nhóm ma trận, đối với nhóm ma trận, X là không gian vector. Mô hình của một nhóm biến đổi rất gần với nhóm đối xứng: một biến đổi bao gồm tất các các biến đổi bảo toàn các cấu trúc cụ thể.
Lý thuyết của nhóm biến đổi là cây cầu liên kết lý thuyết nhóm với hình học giải tích.
Nhóm trừu tượng
Phần lớn các nhóm ở giai đoạn đầu của lý thuyết nhóm là "đặc", được nhận ra thông qua các con số, hoán vị, ma trận. Trước thể kỉ 19, ý tưởng của một nhóm trừu tượng như là một tập cùng với các toán tử thỏa mản một số hệ thống tiêu đề bắt đầu được nảy sinh. Một cách phổ biến để xác định một nhóm trừu tượng là thông qua phép biểu diễn bằng generator và relations,
Lịch sử lý thuyết nhóm
Trong khoảng một thế kỉ, rất nhiều nhà toán học đã gặp khó khăn khi nghiên cứu các bài toán đại số trước khi lý thuyết nhóm ra đời. Bắt đầu từ Joseph Louis Lagrange sử dụng nhóm hoán vị để tìm nghiệm đa thức (1771), sau đó trong các bài báo, nghiên cứu về phương trình đại số của Leonhard Euler, Carl Friedrich Gauss, Niels Henrik Abel (1824) và Evariste Galois (1830), những thuật ngữ trong lý thuyết nhóm đã xuất hiện. Ngoài ra, lý thuyết nhóm cũng được hình thành từ hình học vào khoảng giữa thế kỉ XIX và từ lý thuyết số.
Vào khoảng cuối thế kỉ XIX, lý thuyết nhóm trở thành một nhánh độc lập của đại số (những người có công trong lĩnh vực này phải kể đến là Ferdinand Georg Frobenius, Leopold Kronecker, Emile Mathieu...). Nhiều khái niệm của đại số đã được xây dựng lại từ khái niệm nhóm và đã có nhiều kết quả mới đóng góp cho sự phát triển của ngành toán học quan trọng này.
Hiện nay lý thuyết nhóm là một phần phát triển nhất trong đại số và có nhiều ứng dụng trong topo học, lý thuyết hàm, mật mã học, cơ học lượng tử và nhiều ngành khoa học cơ bản khác.
Bài toán cơ bản của lý thuyết nhóm là miêu tả tất cả hệ thống nhóm với sự chính xác đến một đẳng cấu, và nghiên cứu các phép biến đổi trên các nhóm. Trên thực tế, việc viết hết các hệ thống nhóm là không thể, chính vì thế mà lý thuyết nhóm vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu.
Những khái niệm cơ bản
Nhóm
Nhóm các tự đẳng cấu
Nhóm hữu hạn
Nhóm Abel
Nhóm Lie
Nhóm lũy linh
Toán học tổ hợp
Xem thêm
Những kiến thức cơ bản của lý thuyết nhóm
Tham khảo
Liên kết ngoài
Group Theory
Group Theory ở Mathworld
|
16982
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BB%87%20Trung%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Huệ Trung (định hướng)
|
Huệ Trung là một Pháp danh/hiệu thông dụng trong Phật giáo Việt Nam và Trung Quốc. Nó có thể là tên/hiệu của những người sau:
Huệ Trung Thượng sĩ, một vị cư sĩ ngộ đạo thâm sâu, sống vào đời Trần (cũng đọc là Tuệ Trung).
Nam Dương Huệ Trung, một Thiền sư Trung Quốc đời Đường, đệ tử của Lục tổ Huệ Năng.
|
16987
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20gi%C3%A1o%20t%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Công giáo tại Việt Nam
|
Công giáo Việt Nam là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ lệ 7,21% và số giáo dân trên 7,2 triệu người (2022), Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ người Công giáo trong tổng dân số xếp thứ năm ở châu Á (sau Đông Timor, Philippines, Liban và Hàn Quốc). Về số lượng người Công giáo, Việt Nam cũng đứng thứ năm châu Á (sau Philippines, Ấn Độ, Trung Quốc và Indonesia). Công giáo Việt Nam từng được mệnh danh là "Trưởng nữ của Giáo hội tại Á châu".
Công giáo có mặt tại Việt Nam từ thế kỷ 16 và được thiết lập vững chắc bởi các thừa sai Dòng Tên Bồ Đào Nha và Ý vào đầu thế kỷ 17. Nền tảng truyền giáo do các tu sĩ Dòng Tên xây dựng được tiếp nối bởi Hội Thừa sai Paris Pháp và Dòng Đa Minh Tây Ban Nha. Các linh mục người Việt đầu tiên được thụ phong vào năm 1668. Hai giám mục người Việt tiên khởi là Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng và Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn được bổ nhiệm vào thập niên 1930. Năm 1960 chứng kiến sự hình thành Hàng Giáo phẩm Việt Nam. Hội đồng Giám mục Việt Nam thống nhất được thành lập năm 1980. Theo số liệu điều tra dân số chính thức của Nhà nước năm 2019, Công giáo là một trong những tôn giáo lớn nhất tại Việt Nam, với 5,9 triệu người, chiếm khoảng 44,6% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 6,1% tổng dân số cả nước . Theo thông tin từ trang Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam, tính đến năm 2021, Công giáo tại Việt Nam có 47 Giám mục, hơn 6000 linh mục; khoảng 200 dòng tu, với hơn 31.000 nam nữ tu sĩ, trên 7 triệu tín hữu Công giáo, hơn 10.000 cơ sở thờ tự (tính đến năm 2010) thuộc về ba Giáo tỉnh là Hà Nội, Huế, và Sài Gòn. Theo thông tin từ Bản Tổng kết Tiền Thượng Hội đồng Giám mục công bố vào tháng 8 năm 2022, số giáo dân của tôn giáo này đạt mức 7.294.713 người, tỉ lệ 7,21% dân số Việt Nam.
Những vùng tập trung đông giáo dân nhất là tại các tỉnh đồng bằng và duyên hải miền Bắc (Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam,...), các tỉnh miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận,...), khu vực Tây Nguyên và các tỉnh phía Nam (Đồng Nai, Tp.HCM, Bình Phước, Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang,...).
Tên gọi
Trong tiếng Việt, thuật ngữ Công giáo được dùng để dịch chữ καθολικος, catholicus hoặc catholique, với ý nghĩa đó là "đạo chung, đạo phổ quát" đón nhận mọi người, chứ không riêng cho dân tộc hay quốc gia nào. Các văn kiện tiếng Việt của Giáo hội hoặc Hội đồng Giám mục Việt Nam đều dùng chữ "Công giáo", Ban Tôn giáo Chính phủ Việt Nam cũng dùng chữ "Công giáo". Tuy nhiên, trong ngữ cảnh không chính thức thì "Công giáo" cũng được gọi là "Kitô Giáo" hay "đạo Thiên Chúa".
Ngoài ra, Giáo hội Công giáo (hoặc Hội Thánh Công giáo) mang tính chất thống nhất và chỉ có một trên toàn cầu, cộng đồng người Công giáo tại Việt Nam (hoặc các nơi khác) là một bộ phận của nó, gọi là "giáo hội địa phương". Giáo hội Công giáo không thành lập giáo hội riêng cho từng quốc gia, cho nên thuật ngữ "Giáo hội Công giáo Việt Nam" là không đúng vì gây hiểu nhầm về việc có một tổ chức Công giáo riêng tại Việt Nam.
Lịch sử
Thời kỳ hình thành (1533 – 1659)
Những tiếp xúc ban đầu
Cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17, Việt Nam đã bắt đầu giao thương với các nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp và với Nhật Bản ở châu Á để trao đổi hàng hóa và vũ khí quân sự. Thời gian này, Công giáo cũng mở rộng truyền giáo đến khắp nơi trên thế giới, trong đó có miền Viễn Đông Á châu.
Bấy giờ là thời kỳ hoàng kim của 2 cường quốc Phục Hưng Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Đều là những quốc gia Công giáo kỳ cựu, cả hai nước cạnh tranh nhau quyết liệt trong địa hạt kinh tế và tìm kiếm Vùng đất Mới hay Tân Thế giới. Các mâu thuẫn lớn đến mức, cả hai nước phải cùng xin Giáo hoàng làm trọng tài giải quyết. Do đó, Giáo hoàng Alexandre VI đã ban Sắc chỉ "Inter Caetera" ngày 4 tháng 5 năm 1493, phân chia theo hướng Đông Tây quả địa cầu cho hai vương quốc Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, theo đó vùng đất bờ phía Tây Phi Châu và vùng Đông Ấn, bao quát từ Ấn Độ, Xiêm La, Malacca, Sumatra, Java, Đại Việt, Trung Hoa và Nhật Bản, được đặt dưới chế độ bảo trợ của Bồ Đào Nha. Phần lại của thế giới mới được đặt dưới chế độ bảo trợ của Tây Ban Nha.
Do sự phân chia này, các thừa sai Bồ Đào Nha hay các quốc tịch khác đều phải tập trung, bị kiểm soát tại hải cảng Lisbõa để xuống tàu lên đường truyền giáo vùng Đông Ấn. Sử liệu Pháp ghi lại rằng vào năm 1516 có một nhà hàng hải Bồ Đào Nha tên là Fernao Perez de Andrade đã đến tận bờ biển Việt Nam. Trong bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục được Quốc sử quán triều Nguyễn soạn thảo dưới triều Tự Đức có nói đến chỉ dụ cấm đạo Công giáo (khi đó gọi là đạo Gia-tô, phiên âm từ chữ Giê-su trong tiếng Hán) chú thích như sau:
Các làng trên lần lượt thuộc các huyện Trực Ninh, Hải Hậu và Xuân Trường, tỉnh Nam Định ngày nay. Tuy nhiên những chi tiết liên hệ tới I-nê-khu (có thể là phiên âm của Inácio trong tiếng Bồ Đào Nha, Ignacio hoặc Íñigo trong tiếng Tây Ban Nha) ngày nay không còn được ghi nhớ, và do đó không ai biết rõ về tông tích, cũng như về công cuộc truyền đạo của vị thừa sai thứ nhất này. Mặc dù vậy, với dấu tích đầu tiên trong tài liệu sử chính thống, nhiều nhà sử học Công giáo Việt Nam đã chọn năm 1533 là năm khởi đầu cho đạo Công giáo tại Việt Nam.
Theo linh mục Marcos Gispert, O.P., nhà sử học Dòng Anh Em Giảng Thuyết (thường gọi là Dòng Đa Minh) đã sống tại Việt Nam 34 năm, sau I-nê-khu còn một số nhà truyền giáo khác như:
Linh mục Gaspar da Cruz, thuộc Tỉnh Dòng Thánh Giá Đông Ấn, vào năm 1550 từ Malacca đổ bộ lên Hà Tiên, và sau đó từ cửa biển Bà Rịa đi Quảng Đông.
Hai linh mục Lopez và Acevedo: năm 1558 đã tới giảng vùng Cao Miên trong 10 năm.
Hai linh mục Luis de Fonseca, O.P. (Bồ Đào Nha) và Grégoire de la Motte, O.P. (Pháp) cũng từ Malacca tới, suốt 6 năm đi truyền giáo tại Quảng Nam trong thời Chúa Nguyễn Hoàng (1580-1586).
Để thuận lợi hơn trong vấn đề truyền giáo, ngày 3 tháng 11 năm 1534, Giáo hoàng Phaolô III ban Sắc chỉ "Aequum Reputamus" thiết lập Giáo phận Goa (Hạt Đại diện Tông tòa Goa) khởi từ mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến Nhật Bản, bao gồm quốc gia Đại Việt. Ngày 4 tháng 2 năm 1557, Giáo hoàng Phaolô IV ký Sắc chỉ "Pro Exellenti Praeminentia" thiết lập Giáo phận Malacca, bao gồm lãnh thổ Indonesia, Malaysia, Xiêm, Cam Bốt, Chàm, Đại Việt, Trung Hoa và Nhật Bản. Năm 1558, giáo sĩ Jorge da Santa Lucia, Dòng Đa Minh Bồ Đào Nha, được phong Giám mục tiên khởi Giáo phận Malacca. Đến ngày 23 tháng 1 năm 1576, Giáo hoàng Grêgôriô XIII ban Sắc chỉ "Super Specula Militantis Ecclesiae", thành lập Giáo phận Macao, tách ra từ Giáo phận Malacca, gồm lãnh thổ Trung Hoa, Đại Việt và Nhật Bản.
Mặc dù cả hai giáo phận Malacca và Macao đều thuộc quyền bảo trợ của Bồ Đào Nha, tuy nhiên đã có rất nhiều nhà truyền giáo thuộc nhiều dòng tu và hội thừa sai khác đã đến Việt Nam. Năm 1596 thầy dòng người Tây Ban Nha tên là Don Diego d’Averte đã đặt chân đến Huế, nhưng bị đuổi đi ngay. Năm 1614 những nhà truyền giáo dòng Tên theo chân các thương nhân người Bồ Đào Nha từ Macao, qua phía nam Trung Hoa, để đến Việt Nam. Các bề trên Dòng Tên còn thành lập hẳn một tổ chức truyền giáo tại Đàng Trong (la Mission de Cochinchine) năm 1615.
Các cộng đoàn tiên khởi
Những nỗ lực truyền giáo đầu tiên đã không đạt được thành tựu thường trực. Sang thế kỷ 17, các vị thừa sai Dòng Tên thuộc nhiều quốc tịch dưới quy chế bảo trợ của Bồ Đào Nha đã thiết lập nền tảng Công giáo vững chắc tại Đại Việt. Giai đoạn này kéo dài từ năm 1615 tới năm 1659, vào cùng thời điểm lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt thành hai miền, lấy sông Gianh làm ranh giới. Phía Nam gọi là Đàng Trong, do các chúa Nguyễn cai quản. Phía Bắc gọi là Đàng Ngoài do vua Lê, chúa Trịnh nắm quyền.
Các linh mục Dòng Tên theo chân Thánh Phanxicô Xaviê truyền giáo tại Nhật Bản từ năm 1549, bị Shogun Tokugawa Hidetada ra sắc lệnh trục xuất khỏi Nhật Bản năm 1614, đã tập trung tại Macao (được xem như một đầu cầu thành lập từ năm 1564). Từ kinh nghiệm truyền giáo ở Trung Quốc và Nhật Bản, các thừa sai rất quan tâm đến việc học ngôn ngữ, phong tục Việt Nam và giảng đạo bằng tiếng Việt. Các linh mục Dòng Tên ở lại Việt Nam cho tới năm 1788. Vắng bóng đi trong một thời gian 169 năm (1788-1957).
Ngày 18 tháng 1 năm 1615, hai linh mục Francesco Buzomi và Diogo Carvalho cùng các trợ sĩ đến Cửa Hàn, Đà Nẵng. Tiếp theo các linh mục khác như Francisco de Pina, Christoforo Borri, Alexandre de Rhodes, Girolamo Maiorica đều đến Đàng Trong trước. Năm 1626, linh mục Giuliano Baldinotti và tu huynh Julius Piani ra Đàng Ngoài tìm hiểu tình hình, được chúa Trịnh Tráng tiếp đãi nồng hậu. Ngày 19 tháng 3 năm 1627, hai linh mục de Rhodes và Pedro Marques cập bến Cửa Bạng, Thanh Hóa, khởi đầu công cuộc truyền giáo tại Đàng Ngoài. Vì nhu cầu học hỏi tiếng Việt (lúc đó mới chỉ được viết bằng chữ Nôm, ngoài việc chữ Hán được dùng làm văn tự chính thức), các giáo sĩ bắt đầu ghi lại âm tiết tiếng Việt dưới dạng chữ Latinh. Các giáo sĩ đã có gắng tổ chức giáo hội bằng cách tập trung khắp nơi những thanh thiếu niên và cả người đã đứng tuổi thiện chí, sống đời độc thân và cùng với các linh mục trong giáo xứ hay là trong các nơi xa xôi hẻo lánh để chia sẻ việc truyền đạo, nhất là chuyện dạy giáo lý cho dân chúng và cũng giúp nâng cao đời sống xã hội của người dân; họ được gọi là các Kẻ giảng và Thầy giảng.
Chữ Quốc ngữ được dùng để ghi âm tiếng Việt theo chữ cái Latinh nhưng song hành với đó, kho tàng văn chương Hán-Nôm Công giáo còn lớn hơn nữa. Chỉ riêng giáo sĩ Girolamo Maiorica, trong khoảng 1632-1656, đã viết 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm, nổi tiếng nhất là cuốn Các Thánh Truyện viết năm 1646. Nhiều tác phẩm bị hư hỏng và mất mát do thời gian, chiến tranh và bách hại tôn giáo.
Việc truyền đạo được vua chúa Việt Nam cho phép trong một số nơi với nhiều hạn chế của các quan lại địa phương, nên các tín đồ gặp nhiều khó khăn trong việc giữ đạo, có nơi phải bị giết chết như trường hợp thầy giảng Anrê Phú Yên ở Quảng Nam ngày 26 tháng 7 năm 1644. Ngày 3 tháng 7 năm 1645, linh mục Alexandre de Rhodes rời Việt Nam về Roma để báo cáo cho Tòa Thánh về những tiến triển mau chóng trong việc truyền đạo tại Việt Nam, nhất là xin gửi một số Giám mục đến truyền giáo tại Việt Nam, nơi mà ông gọi là "cánh đồng truyền giáo phì nhiêu" để củng cố nền móng cho Giáo hội tại nước này. Ông được Tòa Thánh cho phép đi khắp nước Pháp đi tìm kiếm những linh mục sẵn sàng xung phong và tiếp tục công việc đã khởi sự với nhiều thành quả tốt đẹp. Hai linh mục Pallu và de la Motte được bổ nhiệm làm giám mục và đặt làm Đại diện Tông tòa tới Viễn Đông năm 1658. Hội Thừa sai Paris (Missions Étrangères de Paris) được thành lập năm 1663 dưới thời Giáo hoàng Alexanđê VII.
Thời kỳ phát triển (1659 – 1820)
Ngày 9 tháng 9 năm 1659, Giáo hoàng Alexanđê VII qua Sắc chỉ Super Cathedram quyết định thiết lập ở Việt Nam hai giáo phận tách ra từ giáo phận Macao, và chọn hai người thừa sai thuộc Hội Thừa sai Paris làm Đại diện Tông Tòa. Giáo phận Đàng Trong từ sông Gianh trở vào Nam do Giám mục Pierre Lambert de la Motte cai quản. Giáo phận Đàng Ngoài từ sông Gianh trở ra Bắc do Giám mục François Pallu cai quản.
Năm 1669, Lambert tới Phố Hiến (Hưng Yên) và đầu năm 1670, ông truyền chức linh mục cho 7 thầy, chủ toạ công đồng đầu tiên ở Phố Hiến, lập Dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao (Bùi Chu) và Bái Vàng (Hà Tây).
Hội Thừa sai Paris có công lớn với giáo hội Việt Nam bằng cách:
Đã triệu tập Hội nghị Mục vụ đầu tiên: ngày 14 tháng 2 năm 1670 tại Đình Hiến tỉnh Nam Định, Giám mục Lambert de la Motte đã quy định thể chế nhà Đức Chúa Trời (giáo hội), và thành lập Dòng Mến Thánh Giá, các chị em nữ tu là những cộng tác viên rất đắc lực của hàng giáo phẩm trong việc truyền đạo bên cạnh giáo dân, nhất là trong các vùng thôn quê.
Đã xây dựng Đại chủng viện Penang (1870) để đào tạo các linh mục bản xứ châu Á và Việt Nam: các thánh linh mục tử đạo miền Nam đều xuất thân từ đây; và suốt ba thế kỷ đã gắn bó với giáo hội địa phương cho tới sáng ngày 12 tháng 8 năm 1975, ngày mà các vị thừa sai ngoại quốc sau cùng được lệnh ra khỏi Việt Nam.
Theo lời mời của Giám mục Phanxicô Pallu vì những đòi hỏi rất khẩn trương tại Việt Nam, số tín hữu tân tòng tiếp tục gia tăng, linh mục giám tỉnh Dòng Anh Em Giảng Thuyết là Felipe Pardo, O.P., từ Manila đã phái hai linh mục Juan de Santa Cruz và Juan Arjona đi lối Trung Linh (Bùi Chu) lên Phố Hiến (Hưng Yên) ngày 7 tháng 7 năm 1676. Nhưng sự bất hoà giữa các thừa sai Dòng Tên và các Giám mục thuộc Hội Thừa sai Paris, cùng với các sắc chỉ cấm đạo của vua chúa Việt Nam khi ấy khiến các vị thừa sai đã đi tìm một giải pháp mới, mà người ta cho rằng, đã tạo cơ hội người Pháp có điều kiện can thiệp và xâm chiếm Việt Nam bằng vũ lực sau này.
Năm 1679, Giáo hoàng Innôcentê XI lại chia giáo phận Đàng Ngoài thành hai giáo phận: Tây Đàng Ngoài (từ sông Hồng tới ranh giới Ai Lao) trao cho Hội Thừa sai Paris dưới quyền quản nhiệm của Giám mục Bourges, và Đông Đàng Ngoài (từ tả ngạn sông Hồng chạy ra biển), ban đầu cũng do Giám mục Deydier của Hội Thừa sai Paris phụ trách nhưng năm 1693, Giám mục Deydier qua đời, Giám mục De Bourges xin Tòa Thánh trao giáo phận này cho Dòng Đa Minh, vì từ 20 tháng 8 năm 1679 tất cả số nhân sự của dòng đó đã tập trung về đây.
Đồng thời, linh mục Tổng quyền Dòng Anh Em Giảng Thuyết sáp nhập các cơ sở truyền giáo của Hội Dòng tại miền Bắc hồi đó vào Tỉnh dòng Đức Mẹ Mân Côi tại Philippines. Từ Nhà Tổng quyền S. Sabina (tại Roma) cha Raimondo Lezoli, O.P., được Thánh bộ Truyền giáo đề cử sang tiếp tay với linh mục Juan de Santa Cruz (lúc đó đang ở Trung Linh), về sau Tòa Thánh yêu cầu ông chính thức lãnh trách nhiệm tất cả miền Đông. Ngày 2 tháng 2 năm 1702, tại Kẻ Sặt linh mục Raimondo Lezoli được thụ phong Giám mục tiên khởi của Dòng Đa Minh tại miền Bắc. Dòng Đa Minh tiếp tục có nhiều vai trò tại Đông Đàng Ngoài tới hơn 250 năm sau đó. Một trong những hạt giống mà Dòng Giảng Thuyết đã gieo sâu trong lòng dân tộc bản xứ là sự tôn sùng tràng hạt Đức Mẹ Mân Côi vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tại Nam Bộ, người Công giáo cũng sớm hiện diện và góp phần làm nên khuôn mặt vùng đất mới này.
Các thừa sai tại Việt Nam trong hai thế kỷ 17, 18 là những người thuộc Dòng Tên, Hội Thừa sai Paris, Dòng Đa Minh, Dòng Âu Tinh Chân đất, Dòng Phan Sinh, hoặc do Bộ Truyền bá Đức Tin trực tiếp phái tới. Tới cuối thế kỷ 18, Công giáo đã trở thành một phần vững chãi trong khung cảnh tâm linh và xã hội Việt Nam, đặc biệt là tại Đàng Ngoài. Chính quyền Đàng Trong thì dùng nhiều giáo sĩ phương Tây vì tài năng khoa học của họ.
Giám mục Pigneau de Béhaine, quen gọi là Bá Đa Lộc, Đại diện Tông tòa Đàng Trong (1771-1799), đã hết lòng giúp đỡ Nguyễn Phúc Ánh, khi ông đang bị khốn đốn bởi cuộc vây hãm của quân Tây Sơn. Giám mục này đã đưa hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh (lúc bấy giờ mới lên 4 tuổi) sang Pháp và vận động người Pháp giúp đỡ tàu chiến, vũ khí để Nguyễn Phúc Ánh chống Tây Sơn và chúa Trịnh.
Tâm định của các vị thừa sai và của Giám mục Bá Đa Lộc là muốn cho người Công giáo Việt Nam được an thân giữ đạo và đạo Chúa được mở rộng. Ông đã nuôi dạy Hoàng tử Cảnh ở dinh Tân Xá. Sau khi ở Pháp về năm 1789, hoàng tử Cảnh không chịu làm lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế khiến Gia Long rất bực tức. Bá Đa Lộc cũng đã khuyên hoàng tử Cảnh phải tôn trọng tục lệ thờ kính ông bà và lễ bái trước bàn thờ chư vị tiên đế. Đây cũng là một trong những nguyên nhân sâu xa khiến vua Gia Long không chọn hoàng tôn Đán mà lại chọn người con thứ là hoàng tử Đảm sau này.
Bá Đa Lộc chết ngày 9 tháng 10 năm 1799 và hoàng tử Cảnh chết năm 1801, hi vọng của người Công giáo Việt Nam về một thời kì tự do truyền đạo trở nên mờ nhạt. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi vua, lấy hiệu là Gia Long, triều đại đầu tiên của nhà Nguyễn đóng đô ở Phú Xuân, Huế. Nhớ ơn Giám mục Bá Đa Lộc, Gia Long cho phép tự do truyền bá đạo Công giáo. Thời kỳ này, Giáo hội Công giáo Việt Nam có 3 giáo phận như sau:
Giáo phận Đông Đàng Ngoài: 140.000 tín hữu, 41 linh mục Việt Nam, 4 linh mục thừa sai và 1 giám mục.
Giáo phận Tây Đàng Ngoài: 120.000 tín hữu, 65 linh mục Việt Nam, 46 linh mục thừa sai và 1 giám mục.
Giáo phận Đàng Trong: 60.000 tín hữu, 15 linh mục Việt Nam, 5 linh mục thừa sai và 1 giám mục.
Một số người nhận định rằng nhà vua có thiện cảm với đạo nhưng không muốn theo đạo vì thấy luật lệ đạo quá nghiêm khắc đối với tục đa thê và việc thờ cúng tổ tiên. Ông nói: "Đạo Thiên Chúa rất hợp với đạo lý nhưng quá nghiêm khắc với tục đa thê. Đối với ta, không thể chỉ lấy một vợ, mặc dù ta thấy là trị cả nước còn dễ dàng và ít mệt mỏi hơn là giữ cho gia đình ta được yên ấm".
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, vua Gia Long không có thiện cảm với Công giáo, và chủ trương hạn chế sự phát triển của tôn giáo này trong thời kỳ mà mình cai trị. Chỉ dụ năm Gia Long thứ 3 (1804) về chấn chỉnh các hoạt động tôn giáo có ghi:...Từ nay về sau, dân gian người nào có bệnh tật, chỉ được mời thầy chữa thuốc, không được nghe nhảm những việc yêu tà, cầu cúng càn dở, thấy phù thủy, kẻ đồng cốt, không được thờ phụng đèn hương, để trừ tà, chữa bệnh cho người. Nếu còn quen giữ thói cũ, tất phải trị tội nặng. Lại như Gia tô là giáo phái ở phương xa, lưu hành vào trong nước, đặt ra tên địa ngục quỷ quái, nêu ra thuyết thiên đường thần kỳ, dần dần kẻ ngu phu, ngu phụ theo đuổi điên cuồng, tiêm nhiễm thành thói mà mà không biết. Từ nay, phàm các xã dân có nhà thờ Gia tô đổ nát, phải làm đơn trình lên quan ở trấn mới được sửa chữa. Còn làm nhà thờ mới đều cấm. Nếu quen giữ thói làng, can phạm phép nước, khi phát giác ra, xã trưởng phải lưu đày châu xa, còn dân làng ai tội nặng thì sung cấp làm phu sai dịch, ai tội nhẹ thì phân biệt phạt tội xuy tội trượng.Với nhân số năm 1802 là 320.000 người, số tín hữu Công giáo chiếm khoảng 3% dân số cả nước.
Thời kỳ thử thách (1820 – 1885)
Thời kỳ này gồm hai giai đoạn: giai đoạn đầu do Nhà Nguyễn cấm đạo và giai đoạn sau do phong trào Văn Thân tàn sát người Công giáo. Vua Minh Mạng (cai trị từ 1820 tới 1841) bắt đầu thực hiện các chính sách cấm đạo khắc nghiệt. Pháp mở đầu xâm lược Việt Nam năm 1858, và chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ theo Hòa ước Nhâm Tuất 1862. Với Hiệp ước này, Nhà Nguyễn cũng công nhận quyền tự do tôn giáo. Tuy nhiên từ sau Hiệp ước này, phong trào Văn Thân của các nho sĩ với khẩu hiệu "bình Tây sát Tả" nổi lên tàn sát người Công giáo vì cho rằng nhóm này là cộng tác với thực dân Pháp, đặc biệt vào những năm 1867-1868, 1873-1874 và 1883-1885.
Năm 1844, Giáo hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận mới: Tây Đàng Trong (trung tâm là Sài Gòn) gồm sáu tỉnh Nam Kỳ và Cao Miên do Giám mục Dominique Lefèbvre Ngãi cai quản, Đông Đàng Trong (trung tâm là Quy Nhơn) do Giám mục E.T. Cuénot Thể cai quản.
Năm 1846, giáo phận Tây Đàng Ngoài được chia làm hai: Tây Đàng Ngoài (trung tâm là Hà Nội) do Giám mục P.A. Retord Liêu cai quản và Nam Đàng Ngoài (trung tâm là Vinh) do Giám mục Gauthier Hậu cai quản.
Năm 1848, giáo phận Đông Đàng Ngoài lại chia thành Đông Đàng Ngoài (trung tâm là Hải Phòng) và Trung Đàng Ngoài (trung tâm là Bùi Chu). Cũng trong năm này, Tự Đức lên ngôi vua và ra dụ cấm đạo, cũng vì sự cấm đạo tàn nhẫn này dẫn tới thực dân Pháp lấy làm cớ xâm chiếm Việt Nam. Sách Việt Nam sử lược có chép:
{{cquote|
Việc cấm đạo thì từ năm mậu thân (1848) là năm Tự Đức nguyên niên, vua Dực Tông mới lên ngôi, đã có dụ cấm đạo. Lần ấy trong dụ nói rằng những người ngoại quốc vào giảng đạo, thì phải tội chết, những người đạo trưởng ở trong nước mà không chịu bỏ đạo, thì phải khắc chữ vào mặt, rồi phải đày đi ở chỗ nước độc. Còn những ngu dân thì các quan phải ngăn cấm, đừng để cho đi theo đạo mà bỏ sự thờ cúng cha ông, chứ đừng có giết hại ...Đến năm tân hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, lại có dụ ra cấm đạo. Lần này, cấm nghiệt hơn lần trước, và có mấy người giáo sĩ ngoại quốc phải giết.}}
Ba năm sau đó, năm 1851, sự khoan dung này dành cho các linh mục bản xứ đột nhiên bị bãi bỏ. Từ đó dụ cấm đạo càng khắt khe hơn trước. Trong năm đó và năm kế tiếp, bốn vị giáo sĩ truyền đạo người Pháp đã bị chém đầu và thi thể bị ném trôi sông hay ra biển. Báo chí Công giáo tại Pháp kêu la trong sự kinh hoàng, và sự khích động đã thu nhận được một cảm tình nơi Hoàng Hậu Pháp Eugenie, nhất là khi trong số các nạn nhân sau này có tên một vị tu sĩ Tây Ban Nha mà khi còn là thiếu nữ, hoàng hậu này có quen biết tại Andalusia.
Phó đô đốc Bonard, tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Nam kỳ, trong một bức thư gửi cho hầu tước Chasseloup Laubat, Bộ trưởng Hải quân và thuộc địa đã mô tả tình hình phức tạp hơn về mâu thuẫn của Công giáo Việt Nam và triều đình trước khi nổ ra Chiến tranh Pháp–Đại Nam:Năm 1850, Tòa Thánh lại chia địa phận Tây Đàng Trong thành hai: Tây Đàng Trong (các tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long) do Giám mục Lefèbvre cai quản và Nam Vang (phần đất các tỉnh phía nam Hậu Giang của Việt Nam và cả nước Cao Miên) do Giám mục J.C. Miche Mịch cai quản. Giáo phận Đông Đàng Trong cũng chia thành hai: Bắc Đàng Trong là Huế (gồm Nam Quảng Bình, Quảng Trị, và Thừa Thiên Huế) do Giám mục F.M. Pellerin Phan cai quản và Đông Đàng Trong gồm các tỉnh từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận và các tỉnh Tây Nguyên do Giám mục Cuénot Thể cai quản.
Giai đoạn Pháp xâm chiếm Đại Nam
Năm 1856, chiến thuyền Catinat vào cửa Đà Nẵng rồi cho người đem thư lên trách triều đình Việt Nam về việc giết giáo sĩ Công giáo. Không được trả lời, quân Pháp bắn phá các đồn lũy rồi bỏ đi. Có Giám mục Pellerin trốn được lên tàu, về Pháp thuật lại cho triều đình Pháp cảnh tượng các giáo sĩ Công giáo bị đàn áp dã man ở Việt Nam. Cùng sự tác động của Hoàng hậu Pháp Eugénie, một người rất sùng đạo, Hoàng đế Pháp Napoléon III (1808 - 1873) quyết ý đánh Việt Nam. Năm 1857, giám mục Pellerin và linh mục Huc đến Paris và được Napoleon tiếp kiến. Napoleon III giao nhiệm vụ cụ thể cho đô đốc Rigoult de Genouilly để thực hiện cuộc bảo hộ của Pháp trên Việt Nam. Tháng 9 năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng, quân đội viễn chinh Pháp đã không nhận được sự hỗ trợ của giáo dân như Giám mục Pellerin đã hứa (hiện chưa rõ quy mô của giáo dân Đà Nẵng năm 1858). Có ý kiến cho rằng đây là lần duy nhất có sự tham dự của giáo sĩ Công giáo vận động Pháp chiếm Việt Nam, cho thấy giáo dân dù bị chính quyền tàn sát nhưng không quay lưng lại với đất nước. Tuy vậy, sau khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam kỳ, một số người cho rằng, quan chức triều đình và giới Văn Thân với đầu óc kỳ thị tôn giáo và quan niệm sai lạc đã không hiểu biết về tư tưởng trung quân, ái quốc của người Công giáo.
Khác với quan điểm trên, bức thư do đô đốc François Page gửi cho bộ trưởng hải quân cuối năm 1859, cho thấy rằng quân đội viễn chinh Pháp đã có được sự hỗ trợ đáng kể từ đội ngũ giáo dân trước khi phong trào Văn Thân nổ ra:
Năm 1861, tại Bắc Kỳ nổ ra cuộc nổi dậy do một người Công giáo là Tạ Văn Phụng lãnh đạo. Lê Duy Minh tên thật là Tạ Văn Phụng, trước đã từng tham gia trong lực lượng Pháp tiến đánh Nam Kỳ. Đầu năm 1862, ông mạo xưng là Lê Duy Minh, con cháu nhà Lê để nổi dậy chống lại triều đình, nổi lên cướp phá ở vùng ven biển gây thêm khó khăn cho triều Nguyễn. Theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh thì Lê Duy Phụng hành động theo lệnh Pháp vì khi đó Pháp đang xâm chiếm Nam Kỳ. Cuộc nổi dậy đã được các nhóm nổi dậy khác ở khắp Bắc Kỳ như Hải Dương, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Thanh Hoá, Nghệ An và hải tặc ngoài biển ủng hộ. Theo sử gia Trần Trọng Kim thì cuộc nổi dậy này là một trong số nguyên nhân chính đã làm cho vua Tự Đức phải vội vã sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào Gia Định giảng hòa với thực dân Pháp.
Theo hòa ước với Pháp năm 1862, nhà Nguyễn bỏ việc cấm đạo Công giáo. Năm 1864, để phản ứng lại âm mưu giết hại người Công giáo của giới Văn Thân ở Huế, vua Tự Đức hạ dụ:
Phan Phát Huồn nhận định rằng dù sắc dụ trên có điều sai lạc nhưng Tự Đức đã công nhận sự trung thành và bị vu oan của người Công giáo. Năm 1869, Tự Đức ra hai sắc dụ bảo vệ người Công giáo: cho phép người Công giáo được tập hợp thành làng, có lý trưởng Công giáo, và cấm người lương nhục mạ và quấy rầy lễ nghi của người Công giáo. Tuy vậy đối với nhiều người, Tự Đức không còn đủ uy tín, và phong trào Văn Thân chống đối ông bắt đầu nổi lên tàn sát người Công giáo.
Sau khi hòa ước Nhâm Tuất 1862 được ký kết, chiến lược của các giáo sĩ công giáo 3 miền cũng có sự phân hóa rõ rệt. Phó đô đốc Bonard, trong bức thư của mình năm 1862 đã mô tả về điều này như sau:Trong số những người Công giáo Việt Nam thân Pháp có các nhân vật nổi bật là: Trần Bá Lộc, Tôn Thọ Tường, Tạ Văn Phụng.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng tỉ lệ giáo dân đi lính cho Pháp không vượt trội so với tỉ lệ người lương. Theo Vietcatholic, sau khi hạ thành Hà Nội ngày 20/11/1873, Francis Garnier "đi mộ ở các tỉnh được 14.000 thân binh, trong số đó chỉ có 2.000 Công giáo…", tức là tỉ lệ người Công giáo chỉ khoảng 1/7. Còn theo tuần báo văn nghệ TPHCM, cuộc tuyển mộ này được thực hiện bởi linh mục Trần Lục, trong 12.000 - 14.000 lính đánh thuê này thì đa số là giáo dân Công giáo.
Tháng 8 năm 1885, giám mục Puginier yêu cầu tướng Courcy phải bắt Nguyễn Văn Tường để bắt giam. Giám mục Puginier đưa ra chủ trương ổn định thuộc địa bằng cách Công giáo hoá thuộc địa: "Khi nào Bắc Kỳ biến thành một xứ Công giáo thì nó sẽ là một nước Pháp nhỏ".
Vào năm 1883, Tòa Thánh lại tách địa phận Đông Đàng Ngoài thành: Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng) và Bắc Đàng Ngoài (Bắc Ninh) do Giám mục Colomer Lễ cai quản.
Như vậy, các giáo phận lúc này gồm: ở Đàng Trong là Tây Đàng Trong (Sài Gòn), Đông Đàng Trong (Quy Nhơn), Bắc Đàng Trong (Huế), Cao Miên (Cần Thơ). Ở Đàng Ngoài là Tây Đàng Ngoài (Hà Nội), Nam Đàng Ngoài (Vinh), Đông Đàng Ngoài (Hải Phòng), Trung Đàng Ngoài (Bùi Chu) và Bắc Đàng Ngoài (Bắc Ninh).
Hậu kỳ cận đại (1886 – 1975)
Giai đoạn 1886 – 1945
Khi triều đình Huế ký Hiệp ước Giáp Thân 1884 với Pháp, công nhận sự bảo hộ của Pháp thì Công giáo Việt Nam lúc đó được tự do, công khai hoạt động. Các cơ sở tôn giáo như nhà thờ, tu viện, tòa giám mục, trường học, viện dưỡng lão, viện cô nhi... được xây dựng khắp nơi. Các giáo phận được chia nhỏ lại. Miền Bắc gồm các giáo phận: Hà Nội, Phát Diệm, Hưng Hoá, Vinh, Hải Phòng, Bùi Chu, Bắc Ninh và một Phủ doãn Tông Tòa là Lạng Sơn. Miền Nam gồm các giáo phận: Sài Gòn, Quy Nhơn, Huế, và một phần của giáo phận Nam Vang. Tổng cộng là 12 giáo phận. Năm 1925, Tòa Thánh lập Tòa khâm sứ ở Đông Dương, đặt tại Phủ Cam (Huế). Ngày 10 tháng 1 năm 1933, Giáo hoàng Piô XI ra sắc lệnh bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng làm Giám mục hiệu tòa Sozopoli, giữ chức Giám mục phó với quyền kế vị giáo phận Phát Diệm. Ông là vị Giám mục người Việt Nam đầu tiên.
Giáo hội Công giáo giúp phát triển y tế và giáo dục Việt Nam thời kỳ này. Trong số các trường trung học do các sư huynh Dòng La San giảng dạy, nổi bật nhất là Taberd Sài Gòn, Puginier Hà Nội, và Pellerin Huế. Trung học Công giáo duy nhất chuẩn bị cho học sinh thi bằng tú tài Pháp (baccalauréat) là trường Thiên Hựu (Institut de la Providence) ở Huế. Tuy nhiên, trong suốt thời Pháp thuộc không có đại học Công giáo nào ở Việt Nam do chính sách bài giáo sĩ và độc quyền giáo dục bậc cao của thực dân Pháp. Nhu cầu giáo dục của người Công giáo Việt Nam thích hợp với sách lược của Tòa Thánh Vatican đề cao giáo dục hiện đại cho giáo sĩ bản xứ, nhằm đào tạo giới trẻ trong phong trào Công giáo Tiến hành và thúc đẩy vai trò của giáo dân. Hội Xuân Bích, Dòng Đa Minh Pháp, Dòng Chúa Cứu Thế Canada và các linh mục Bỉ thuộc Hội Trợ tá Truyền giáo (Société des Auxiliaires des Missions) đến Đông Dương từ thập niên 1930 góp phần mở rộng mạng lưới giáo dục Công giáo.
Trong giai đoạn này, tại Việt Nam cũng diễn ra một cuộc cải đạo quy mô lớn ở khắp các tỉnh thành, và gây ra nhiều xáo trộn trong dân chúng. Vụ việc sau đây do viên công sứ ở Vinh (Nghệ An) kể lại, trong thư đề ngày 22 tháng 4 năm 1891 gửi cho giám mục Pineau, Đại diện Tòa thánh tại vùng Nam Bắc kỳ:
Theo GS Cao Huy Thuần, rất đông dân làng Xuân Sơn, Yên Long, Trung Hậu, Sơn La, Văn Lâm, Lưu Sơn, Lệ Nghĩa, Bột Đa, Kiều Liên, Thọ Lão, Yên Lãng... cũng đón đợi viên Khâm sứ và đệ trình cho ông ta những khiếu nại tương tự như thế khi ông ta đi qua. Những vụ việc như vậy không phải chỉ xảy ra ở riêng một tỉnh: tỉnh nào cũng có, nhất là ở Bình Thuận, Phú Yên, Bình Định, Hà Tĩnh và Nghệ An. Giới chức thuộc địa rất lo ngại về tình trạng này cùng những hậu quả của nó đối với an ninh trong xứ, nhưng họ không dám đương đầu với Phái bộ truyền giáo vì ngại sức mạnh của Phái bộ. Theo mô tả của viên công sứ Pháp tại Kontum thì Phái bộ có “mọi phương tiện, kể cả và nhất là những phương tiện không lương thiện, để bứng đi một viên Công sứ gây trở ngại”.
Giai đoạn 1945 – 1954
Người Công giáo Việt Nam tích cực ủng hộ sự độc lập của Việt Nam, đặc biệt thấy rõ khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tuyên bố thành lập vào tháng 9 năm 1945. Ngày tuyên ngôn độc lập mùng 2 tháng 9 khi đó trùng vào ngày lễ kính các đấng tử đạo Việt Nam. Trong chính quyền Việt Nam có những nhân vật Công giáo nổi bật như Nguyễn Mạnh Hà, Ngô Tử Hạ, Vũ Đình Tụng. Người Công giáo Việt Nam chống lại việc thực dân Pháp quay trở lại Đông Dương, và họ trở nên dấn sâu vào phong trào độc lập dân tộc. Chính quyền Việt Nam cử lãnh đạo cấp cao tới dự lễ tấn phong Giám mục Tađêô Lê Hữu Từ và lễ thành lập Liên đoàn Công giáo tại Phát Diệm. Là người quyết liệt chống Pháp, Giám mục Lê Hữu Từ nhận lời mời của Chủ tịch Hồ Chí Minh làm cố vấn tối cao của chính phủ.
Trong giai đoạn ban đầu này, tiếp xúc giữa Công giáo và cộng sản tại miền Bắc diễn ra trực tiếp và ở cấp cao nhất, còn tại miền Nam, nơi sớm bị Pháp tái chiếm, các cuộc liên lạc này ít chính thức hơn. Phong trào kháng Pháp của người Công giáo ở Nam Bộ cũng diễn ra sôi nổi, nhiều người trong số đó ủng hộ Việt Minh như bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng, luật sư Thái Văn Lung, luật sư Nguyễn Thành Vĩnh.
Nhiều giáo sĩ Công giáo Việt Nam đề cao tinh thần dân tộc, chống thực dân đồng thời cố gắng giữ người Công giáo khỏi bị cuốn vào cuộc chiến giữa thực dân Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hai địa phận Phát Diệm và Bùi Chu được vũ trang thành khu tự vệ Công giáo. Trong suốt cuối thập niên 1940, khu vực này giữ được sự độc lập khỏi cả thực dân Pháp và Việt Minh. Nhiều người dân lương, giáo đã kéo về đây để tránh tình hình chiến sự căng thẳng.
Trong suốt Chiến tranh Đông Dương, Tòa Thánh Vatican không sẵn lòng ủng hộ thực dân Pháp lôi kéo người Công giáo Việt Nam. Vấn đề là phong trào dân tộc ở Việt Nam lại do Đảng cộng sản lãnh đạo. Vatican cho rằng thức hệ cộng sản với chủ trương nhà nước vô thần muốn loại bỏ các tôn giáo. Tháng 6 năm 1948, Vatican nhận định rằng người cộng sản Việt Nam "từng chút một" bộc lộ bản chất không phải là những người yêu nước mà là một đảng chống tôn giáo sẽ tiến hành việc "bách hại có hệ thống" người Công giáo Việt Nam. Ngày 1 tháng 7 năm 1949, khi Đảng cộng sản đang dần kiểm soát toàn bộ Trung Quốc, Giáo hoàng Piô XII ra sắc lệnh cấm tín hữu Công giáo khắp thế giới cộng tác với phong trào cộng sản.
Từ năm 1950, cả thực dân Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều muốn kiểm soát khu tự trị Phát Diệm–Bùi Chu, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trở nên gắn bó với khối cộng sản quốc tế, trong khi Vatican thì lên án mọi sự cộng tác với cộng sản, còn Quốc gia Việt Nam phi cộng sản được Hoa Kỳ hậu thuẫn đang trỗi dậy, dẫn đến việc các giáo sĩ Việt Nam nghiêng về phía chống cộng nhưng không từ bỏ chủ nghĩa dân tộc và chống thực dân. Năm 1951 tại Hà Nội, các đấng bản quyền Đông Dương ra thư chung thể hiện lập trường chống cộng sản gay gắt: "Chẳng những không được nhập đảng cộng sản, mà lại anh em không thể cộng tác bất kỳ dưới hình thức nào có thể giúp đỡ họ nắm chính quyền." Lá thư thôi thúc lòng yêu nước và đức bác ái: "Lòng ái quốc là tình yêu tổ quốc, là yêu quê cha đất tổ … chúng tôi khích lệ và vun trồng nó như các nhân đức Kitô giáo khác … Bác ái là nhịn nhục, chịu đựng, tha thứ và thành thực muốn làm sự lành cho người khác." Thư chung năm 1952 đề cao lòng yêu mến nền văn hóa dân tộc, và thư chung năm 1953 chỉ ra những nguyên tắc cụ thể về hoạt động thuộc phạm vi quốc gia hay thế tục.
Từ năm 1951, thực dân Pháp kiểm soát về mặt hành chính và quân sự đối với khu Phát Diệm–Bùi Chu, chấm dứt sự tự trị của nơi này. Thái độ chính trị hoặc trung lập chính trị của người Công giáo Việt Nam cho thấy sự đa dạng: họ không phải là một khối đồng nhất. Đông đảo hơn cả là những giáo hữu theo đường lối của các giám mục, thiểu số là những người ủng hộ Bảo Đại, hoặc là theo Việt Minh. Tại Địa phận Hà Nội, Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê xử lý quân bình trước cả hai phía. Ông cũng xác nhận linh mục Phêrô Phạm Bá Trực cho tới cuối đời không bị Giáo hội phạt vạ. Theo trang VietCatholic ở hải ngoại, các nghiên cứu gần đây cho thấy Tòa Thánh và giới Công giáo Việt Nam không cộng tác với thực dân Pháp như thường được tuyên truyền.
Giai đoạn 1954 – 1975
Từ 1954, theo Hiệp định Geneve, Việt Nam tạm thời chia thành hai vùng tập kết quân đội: miền Bắc với chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và miền Nam với chính thể Quốc gia Việt Nam. Người dân ở Bắc hay Nam vĩ tuyến 17 sẽ được phép di chuyển qua đường phân ranh tạm thời trong thời hạn 300 ngày.
Theo số liệu của Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn của Việt Nam Cộng hòa, vào cuối giai đoạn di cư chính thức (20 tháng 7, 1955), có hơn 810 ngàn người di cư vào Nam (trong đó có 154,4 ngàn binh lính cùng gia đình họ hồi hương). Theo báo cáo của chính quyền miền Nam, tháng 10 năm 1955, có hơn 676 ngàn người Công giáo di cư vào Nam (chiếm 76,3% tổng số người Bắc di cư). Theo Buttingger, tính đến đầu năm 1956, có 927.000 người di cư vào Nam, trong đó có 794.000 người Công giáo (chiếm 85,6%). Cuộc di cư 1954 này đã thay đổi một cách triệt để tỷ lệ người Công giáo ở miền Bắc và miền Nam. Trước đó, người Công giáo chiếm khoảng 10% dân số ở miền Bắc và chỉ chiếm 5% dân số ở miền Nam; sau năm 1954, các con số này đã đảo ngược. Hệ quả là Công giáo ở Miền Bắc bị xáo trộn, còn Công giáo ở Miền Nam bị thay đổi cấu trúc. Lúc này, giáo phận Cần Thơ được thành lập, tách ra từ giáo phận Nam Vang; giáo phận Nha Trang được thành lập, tách ra từ giáo phận Quy Nhơn.
Năm 1957, giáo hội Việt Nam (Miền Nam) yêu cầu các linh mục Dòng Tên trở lại. Ngày 13 tháng 9 năm 1958 những linh mục dòng Tên nhận trách nhiệm điều khiển Giáo hoàng Học viện Piô X Đà Lạt, đồng thời khuếch trương nhiều hoạt động khác nhau trong lãnh vực văn hóa xã hội ở Miền Nam Việt Nam. Đặc biệt, họ lập ra cả kênh Truyền hình Đắc Lộ với mục tiêu giáo dục cho nhân dân, thay vì truyền giáo.
Ngày 24 tháng 11 năm 1960, qua Tông Hiến Venerabilium Nostrorum, Giáo hoàng Gioan XXIII thiết lập Hàng Giáo phẩm Công giáo Việt Nam, chính thức thành lập các giáo phận chính tòa, thuộc 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Ngày 22 tháng 8 năm 1961, Thánh địa La Vang được tôn phong là Vương cung thánh đường. Một năm sau, ngày 13 tháng 11 năm 1962, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn cũng được Tòa Thánh tôn phong lên hàng Vương cung thánh đường.
Các giám mục Việt Nam cũng đi dự Công đồng Vatican II, các nghị phụ gồm có: Tống giám mục chính tòa Tổng giáo phận Sài Gòn Phaolô Nguyễn Văn Bình, Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Huế Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục, Giám mục Philípphê Nguyễn Kim Điền (Giáo phận Cần Thơ), Giám mục Micae Nguyễn Khắc Ngữ (Giáo phận Long Xuyên), Giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho Giuse Trần Văn Thiện, Giám mục Đa Minh Hoàng Văn Đoàn (sau đó là Giám mục Giáo phận Qui Nhơn), Giám mục Giáo phận Đà Nẵng Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi và hai giám mục chính tòa ngoại quốc ở Việt Nam là Giám mục Paul Seitz Kim (Giáo phận Kon Tum) và Marcel Piquet Lợi (Giáo phận Nha Trang).
Ngày 18 tháng 3 năm 1967, tức 291 năm sau (1676-1967), linh mục Aniceto Fernandez - bề trên Tổng quyền Dòng Anh Em Giảng Thuyết tuyên bố là đã tới thời điểm tách dòng ở Việt Nam ra khỏi sự phụ thuộc dòng ở Philippines, để thành lập Tỉnh dòng Anh Em Giảng Thuyết riêng với danh hiệu Tỉnh dòng Nữ vương Các Thánh Tử đạo Việt Nam.
Miền Bắc
Theo tài liệu của Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam, sau cuộc di cư 1954, số linh mục còn lại tại miền Bắc chừng 28%, giáo dân chừng 60%, có những giáo phận như Thái Bình, Bùi Chu, Bắc Ninh, Phát Diệm, Hải Phòng... số người Công giáo di cư vào miền Nam khá đông. Theo tài liệu của Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn, số lượng giáo dân di cư vào miền Nam lên đến 800.000 người, chiếm khoảng 2/3 tổng số giáo dân miền Bắc. Sau khi giám mục Đa Minh Hoàng Văn Đoàn phải đi Hong Kong chữa bệnh, cả miền Bắc chỉ còn lại hai giám mục Việt Nam là Giuse Maria Trịnh Như Khuê của Hà Nội và Gioan Baotixita Trần Hữu Đức của Vinh. Các hoạt động chủ yếu của người Công giáo miền Bắc là giữ đạo thay vì truyền giáo bởi vì thiếu người lãnh đạo, cộng với chính sách kiềm chế tôn giáo, đặc biệt là đạo Công giáo của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các chủng viện, trường học và hầu hết các tu viện Công giáo đều bị nhà nước tịch thu. Một số linh mục và chức sắc của xứ đạo bị bắt, đi tù trong chính sách cải cách ruộng đất (1955-1956). Ngoại trừ Dòng Chúa Cứu Thế và Dòng Thánh Phaolô còn lại ở miền Bắc, các dòng tu khác đều rút lui vào miền Nam. Vì nhu cầu cần có thêm linh mục nên nhiều Giám mục đã phải truyền chức "chui" (lén chính quyền) cho một số người làm linh mục.
Miền Nam
Suốt nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm - một người Công giáo sùng đạo - đã có những chính sách tạo điều kiện cho Giáo hội Công giáo dấn thân phục vụ xã hội cách rộng rãi. Tháng 5 năm 1963 xảy ra biến cố Phật giáo khiến sau đó chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ và anh em ông bị ám sát vào ngày 2 tháng 11 cùng năm. Cuối năm 1959, Tòa Thánh cho thành lập Tòa Khâm sứ mới tại miền Nam Việt Nam, đặt tại thủ đô Sài Gòn. Giáo hội điều hành nhiều cơ sở giáo dục như Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Minh Đức, Trường Trung học Nguyễn Bá Tòng, Trường Trung học Hồ Ngọc Cẩn, hệ thống các trường của Dòng La San như Trường Trung học La San Taberd Sài Gòn và Trường d'Adran Đà Lạt. Ngày 23 tháng 4 năm 1975, Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận của Giáo phận Nha Trang được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, Tổng Giám mục phó của Tổng giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Ông là cháu ruột của cựu Tổng thống Ngô Đình Diệm.
Từ 1975 đến nay
Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (Chính phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam) kiểm soát được miền nam Việt Nam từ sau Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975. Những ngày sau đó xảy ra sự bất ổn tại Tổng giáo phận Sài Gòn và Tòa khâm sứ Sài Gòn. Ngày 27 tháng 6 năm 1975, tại Dinh Độc Lập, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn - Gia Định công bố quyết định không cho Tổng giám mục phó Nguyễn Văn Thuận được hoạt động mục vụ tại Sài Gòn vì họ cho rằng việc bổ nhiệm này là một âm mưu chính trị, sau đó, họ yêu cầu ông trở về lại giáo phận Nha Trang như trước đây. Ngày 19 tháng 12 năm 1975, chính quyền yêu cầu Khâm sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre phải rời khỏi Việt Nam. Kể từ đó, giữa chính quyền Việt Nam với Tòa Thánh không còn kênh liên hệ chính thức nào.
Ngày 19 tháng 6 năm 1988, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã chính thức phong thánh cho 117 vị tu sĩ và giáo dân Công giáo Việt Nam. Khi được tin về việc phong thánh, chính quyền Việt Nam lên tiếng phản đối và cho rằng đây là lý do chính trị vì trong số những người sẽ được phong thánh, có nhiều người là "tay sai của đế quốc, lót đường cho thực dân Pháp đô hộ Việt Nam" từ năm 1884. Tuy nhiên, theo quan điểm của phía Công giáo thì họ là những tín hữu đã chết vì lý do tín ngưỡng, họ bị hành quyết bởi bản án do chính tay vua, hay đại diện triều đình thời đó ký nhận. Không có bằng chứng nào cho thấy bản án này có liên quan đến chính trị, ngược lại, chỉ trưng ra lý do duy nhất: các giám mục, linh mục trong số bị kết án vì họ là đạo trưởng (giáo sĩ), các giáo dân bị kết án vì họ không chịu bỏ đạo Công giáo, không chịu bước qua cây thập giá. Nói cách khác, lý do được công khai tuyên bố có tính cách hoàn toàn tôn giáo.
Hà Nội nhận định, việc phong thánh này sẽ làm cho mối liên lạc giữa chính quyền và Giáo hội Công giáo tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ giữa Việt Nam và Vatican thêm căng thẳng. Đài phát thanh Việt Nam đọc lệnh của Chính phủ, cấm người Công giáo cử hành lễ phong thánh này. Các giám mục lẫn giáo dân tại Việt Nam cũng không được chính quyền cho phép sang Vatican dự lễ.
Các bổ nhiệm quan trọng của Tòa Thánh
Ngày 24 tháng 5 năm 1976, Giáo hoàng Phaolô VI đã nâng Tổng Giám mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê lên chức Hồng y đẳng linh mục, trở thành vị hồng y đầu tiên của Việt Nam. Ông cũng là người Việt Nam đầu tiên tham gia bầu chọn giáo hoàng, tới hai lần: vào tháng 8 và tháng 10 năm 1978.
Sau khi Hồng y Trịnh Như Khuê qua đời, Tòa Thánh tôn phong người kế nhiệm của ông là Tổng Giám mục Giuse Maria Trịnh Văn Căn lên chức hồng y vào ngày 2 tháng 5 năm 1979. Sau khi nhận chức, ông tiếp xúc với chính quyền và ban Tôn giáo Trung ương để vận động thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam (thống nhất). Từ 24 tháng 4 đến 1 tháng 5 năm 1980, có 33 Giám mục trong cả nước về Hà Nội dự Đại hội các Giám mục Việt Nam, quyết định thành lập Hội đồng Giám mục Việt Nam thống nhất, khẳng định đường hướng mục vụ cho giáo hội tại Việt Nam "Sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào". Hồng y Trịnh Văn Căn, với cương vị là chức sắc cao cấp nhất của Giáo hội tại Việt Nam, khi ấy trở thành chủ tịch ủy ban thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam.
Năm 1990, sau cái chết của Hồng y - Tổng giám mục Hà Nội Trịnh Văn Căn, Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục chính tòa Giáo phận Bắc Ninh Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng làm Tổng giám mục Giám quản tiên khởi Tổng giáo phận Hà Nội, kiêm chức Giám đốc Đại Chủng viện Thánh Giuse Hà Nội. Bốn năm sau đó, năm 1994, Giám mục Tụng chính thức được bổ nhiệm là Tổng giám mục chính tòa Hà Nội và chỉ sáu tháng sau, Giáo hoàng Gioan Phaolô II chọn ông làm hồng y.
Năm 2001 và 2003, Giáo hoàng Gioan Phaolô II lần lượt phong tước Hồng y cho Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận - Nguyên Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, Chủ tịch Thánh bộ Công lý và Hòa Bình của Vatican, và Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh lúc đó là Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn.
Năm 2011, Giáo hoàng bổ nhiệm Tổng giám mục Leopoldo Girelli làm Đại diện không thường trực tại Việt Nam, được kế nhiệm bởi Tổng giáo mục Marek Zalewski từ tháng 5 năm 2018. Theo Ủy ban Bác ái Xã hội, việc chọn lựa giám mục ở Việt Nam sau 1975 chịu những tác động như sự can thiệp của chính quyền và áp lực phe nhóm trong giáo phận.
Ngày 4 tháng 1 năm 2015, Giáo hoàng Phanxicô thăng Hồng y cho Tổng giám mục Hà Nội Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, ông là vị Hồng y thứ sáu của Công giáo tại Việt Nam.
Tính đến năm 2021, Việt Nam có 3 Tổng giáo phận Hà Nội, Huế, Sài Gòn và 24 giáo phận. Có cả thảy trên một trăm hai mươi vị được tấn phong giám mục, trong đó có 6 vị nhận tước Hồng y.
Theo thống kê được trình báo trong chuyến thăm Ad Limina của Hội đồng Giám mục Việt Nam thì cho đến đầu năm 2018, Công giáo tại Việt Nam có 7 triệu giáo dân, với 4.000 linh mục, 4.500 giáo xứ, 22.000 tu sĩ với hơn 240 dòng tu, hơn 2400 đại chủng sinh. Giáo trình lớp Hội nhập Văn hóa Văn hóa Công giáo Việt Nam cho biết có khoảng 7 triệu người Công giáo, chiếm 7% dân số, 5.000 linh mục, hơn 5.000 đại chủng sinh và tu sinh. Theo thống kê đầu năm 2019 của Uỷ ban Tu sĩ thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam, tại Việt Nam hiện diện 307 dòng tu, tu đoàn, tu hội và hiệp hội với tổng số 33.087 tu sĩ, gồm 28.099 nữ tu và 4.988 nam tu sĩ bao gồm 1.670 linh mục dòng.
Tổ chức chia địa phận
Từ hai địa phận tông tòa đầu tiên được thành lập năm 1659, Giáo hội Công giáo tại Việt Nam có 7 địa phận vào năm 1850, 17 địa phận vào năm 1957, và hiện nay có 3 tổng giáo phận và 24 giáo phận, được nhóm vào ba giáo tỉnh:
Giáo tỉnh Hà Nội: gồm một tổng giáo phận và 10 giáo phận.
Giáo tỉnh Huế: gồm một tổng giáo phận và 5 giáo phận.
Giáo tỉnh Sài Gòn: gồm một tổng giáo phận và 9 giáo phận.
Trong thời gian sắp tới, theo kế hoạch sẽ có thêm các giáo phận mới là Hà Tuyên, Pleiku và Lào Cai.
Đứng đầu mỗi tổng giáo phận hay giáo phận là một vị Tổng giám mục hay Giám mục chính tòa do Tòa Thánh bổ nhiệm, với sự đồng thuận của Chính phủ Việt Nam. Trong trường hợp một tổng giáo phận hay giáo phận bị trống tòa, Tòa Thánh sẽ bổ nhiệm một Giám mục làm Giám quản Tông Tòa hoặc linh mục đoàn của giáo phận ấy bầu ra một vị linh mục giám quản.
Hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập năm 1960: tất cả các địa phận tông tòa được nâng lên thành giáo phận chính tòa. Hội đồng Giám mục Việt Nam là tổ chức, cơ cấu duy nhất của các vị Giám mục tại Việt Nam, với mục đích hội nghị, và đưa ra đường hướng chung cho cả Giáo hội tại Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm 350 năm thành lập hai Địa phận Tông toà Đàng Ngoài, Đàng Trong và 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, Năm Thánh 2010 (từ 23 tháng 11 năm 2009 tới 6 tháng 1 năm 2011) của riêng giáo đoàn Việt Nam đã diễn ra.
Công giáo Việt Nam hải ngoại
Trong dòng người thuyền nhân rời Việt Nam có đông đảo người Công giáo. Ngày nay, với hơn nửa triệu người ở rải rác khắp nơi trên thế giới, Cộng đồng Công giáo Việt Nam ở hải ngoại có nhiều hình thức sinh hoạt khác nhau. Có nơi thì họ tạo thành giáo xứ Việt Nam do một linh mục Việt Nam làm quản xứ (quản nhiệm, tuyên uý); có nơi thì lập giáo đoàn Việt Nam trong một giáo xứ địa phương do linh mục Việt Nam làm cha phó phụ trách với tính cách quản nhiệm (Hoa Kỳ) hay tuyên uý (Úc); có nơi chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé, chưa có người phụ trách, thỉnh thoảng mới tụ họp nhau dâng thánh lễ bằng tiếng Việt. Đặc biệt, Dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc đã tổ chức Ngày Thánh Mẫu hằng năm, và được coi là một trong những dịp quy tụ người Việt lớn nhất hải ngoại. Đặc biệt, đã có từ 5-6 vị xuất thân từ Việt Nam được chọn làm Giám mục phục vụ tại hải ngoại.
Đóng góp văn hóa và trí thức của Công giáo Việt Nam
Công giáo Việt Nam diễn ra sôi nổi hoạt động trí thức và văn học ngay từ thế kỷ 17. Từ thời Lê trung hưng, Công giáo đã hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam và người Công giáo đóng vai trò quan trọng là lực lượng xã hội đầu tiên kết nối Việt Nam với văn minh phương Tây, tại cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Đóng góp này càng rõ nét hơn từ nửa cuối thế kỷ 19 tại Nam Kỳ rồi tới Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Tầng lớp trí thức Công giáo là một bộ phận hình thành giới trí thức Tây học nói chung; các giá trị văn hóa, lối sống Công giáo làm đa dạng nền văn hóa Việt Nam. Nhiều xứ, họ đạo trở thành một đơn vị hạt nhân cho việc hiện đại hóa cả về kinh tế, kỹ thuật và quan hệ xã hội.
Chữ viết và ngôn ngữ học
Khó khăn đầu tiên đối với các thừa sai châu Âu khi đến Việt Nam là sự khác biệt về ngôn ngữ và văn tự. Bởi vậy để học tiếng Việt dễ dàng hơn, họ đã dùng bộ chữ cái Latinh bổ sung thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt – chữ này về sau được gọi là chữ Quốc ngữ. Hệ chữ này là thành quả công sức tập thể của các tu sĩ Dòng Tên Bồ Đào Nha và Ý cùng với những người Việt đã giúp họ học tiếng Việt và người Nhật với vai trò phiên dịch ban đầu.
Công lao có thể kể đến các linh mục Francesco Buzomi, Francisco de Pina, Gaspar do Amaral, Antonio Barbosa v.v. Đóng góp quan trọng trong việc điển chế hệ chữ này thời kỳ đầu thuộc về linh mục Alexandre de Rhodes xứ Avinhon, người đã dày công sưu tập, bổ sung biên soạn và năm 1651 đã cho xuất bản ở Rôma cuốn Từ điển Việt–Bồ–La cùng với ngữ pháp tiếng Việt. So với chữ Hán và chữ Nôm, chữ Quốc ngữ có ưu điểm lớn là rất dễ học. Nó có khả năng biểu thị chính xác bất kỳ âm thanh nào của tiếng Việt, cấu tạo lại đơn giản, dễ học, dễ nhớ, người Việt chỉ cần học ba tháng là đã có thể sử dụng được. Từ cuối thế kỉ 19, chữ Quốc ngữ dần được phổ biến, có vai trò to lớn trong sự phát triển văn hoá Việt Nam thời hiện đại.
Giáo hội Công giáo cũng là định chế bảo tồn và phát huy chữ Nôm. Khi các nhà truyền giáo đến Việt Nam, Hán–Nôm là hai hệ chữ viết đang được sử dụng. Tuy chữ Nôm khó học và chưa ổn định nhưng các giáo sĩ vẫn dùng chữ Nôm truyền bá Phúc Âm để tiếp xúc được với quần chúng, lại coi trọng và làm phong phú hệ chữ này chứ không xem nó là "mách qué" như những người chỉ độc tôn chữ Hán. Các sách vở chữ Nôm được đọc trong thánh đường, trong họ đạo và gia đình hằng ngày. Cho tới cuối thế kỉ 19, chữ Nôm là hệ chữ viết chính trong văn hiến Công giáo Việt Nam. Giáo hội Công giáo vẫn còn xuất bản sách vở chữ Nôm, và cho ra đời bia ký, đại tự Hán Nôm cho đến giữa thế kỷ 20.Nguyễn Thế Nam (2012). "Chữ Hán - Nôm trong kiến trúc nhà thờ Công giáo Việt Nam". Thông báo Hán Nôm học 2012. Tr. 491–495. Giáo sĩ Girolamo Maiorica đã để lại một lượng đồ sộ trước tác chữ Nôm, đây là kho tư liệu vô giá về ngôn ngữ học tiếng Việt. Kinh sách Kitô giáo bằng chữ Hán cũng được coi trọng bởi đây là ngôn ngữ gắn liền với học thức và sự linh thiêng. Kinh nguyện giỗ Phục dĩ chí tôn của thầy giảng Phan-chi-cô là một kiệt tác Hán văn. Các thư tịch Hán Nôm Công giáo khá phong phú về thể loại và hình thức, tuy nhiều trong số đó hiện nay đã thất truyền. Tự vị Taberd là một tài liệu quan trọng trong lịch sử nền quốc học Việt Nam.
Kỹ thuật in ấn và báo chí
Cùng với việc truyền bá đạo Công giáo, các giáo sĩ đã du nhập vào Việt Nam rất nhiều thành tựu của kỹ thuật hiện đại phương Tây. Trong đó, một ngành công nghệ có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển của văn hoá Việt Nam được các giáo sĩ thừa sai đưa vào nước này khá sớm: đó là ngành in ấn. Sự du nhập công nghệ in hiện đại đã góp phần làm thay đổi diện mạo văn hoá Việt Nam bản địa những năm đầu thế kỷ XIX, đặc biệt trên lĩnh vực báo chí. Trước khi kỹ thuật in chữ rời được các Thừa sai Công giáo du nhập, ở Việt Nam phổ biến là kỹ thuật in ván khắc. Thời Giám mục Retord (1840 – 1858), một nhà in được lập ở Vĩnh Trị năm 1855 do Thừa sai Theurel trông nom, chủ yếu là in các sách giáo lý bằng chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latinh và chữ Quốc ngữ. Nhà in này vừa áp dụng công nghệ in khắc gỗ để in chữ Hán, chữ Nôm đồng thời kết hợp với in chữ rời để in chữ Latinh và chữ Quốc ngữ. Công nghệ in chữ rời có thể được coi là công nghệ in tiên tiến nhất ở Việt Nam lúc bấy giờ. Vào những năm 60 của thế kỷ XIX, một xưởng in khác nữa cũng được thành lập ở giáo phận Đông Nam Kỳ, in các sách chữ Hán, chữ Nôm, chữ Latinh và chữ Quốc ngữ.
Mặc dù các xưởng in đó lúc đầu chỉ phục vụ cho Giáo hội, nhưng sự du nhập kỹ thuật in tiên tiến của phương Tây vào Việt Nam đã là tiền đề vật chất quan trọng cho sự phát triển của văn hoá bản địa sau này, mà trước hết là sự phát triển của báo chí – một lĩnh vực của văn hoá được du nhập từ phương Tây vào nước ta. Thế kỷ XX chứng kiến sự phát triển rầm rộ của báo chí Việt Nam, điều đó là do sự phát triển của công nghệ in và việc phổ cập chữ Quốc ngữ. Trong buổi đầu phát triển của nền báo chí Việt Nam, sự đóng góp của báo chí Công giáo là không nhỏ. Tờ báo Công giáo đầu tiên là tờ Nam Kỳ địa phận ra ngày 26 tháng 11 năm 1908 ở Sài Gòn. Tiếp đến là các tờ: Thánh thể (1919) (ở địa phận Phát Diệm – Ninh Bình), Thánh giáo tuần báo Bắc Kỳ (1920 – 1923), Trung Hoà nhật báo ở Hà Nội (1924 – 1943), Công giáo Tiến hành (1936 – 1938), Công giáo Đồng Thinh (1927 – 1937)…
Ngay từ khi ra đời, báo chí Công giáo đã sớm tiếp cận được cách trình bày, minh hoạ, cập nhật thông tin của báo chí phương Tây. Việc sử dụng chữ Quốc ngữ của báo chí Công giáo góp phần phát triển tiếng Việt. Hơn nữa, báo chí Công giáo còn là kho tư liệu về lịch sử tôn giáo, về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam thời cận đại.
Khoa học và y khoa
Trong số những nhà truyền giáo buổi đầu ở Việt Nam, không ít người, nhất là các tu sĩ Dòng Tên – một dòng tu nổi bật về nghiên cứu khoa học, được đào tạo bài bản trong các dòng tu, học viện phương Tây nên họ cũng là những nhà khoa học tinh thông nhiều lĩnh vực. Họ đã góp công đưa nền khoa học phương Tây tiếp cận đến Việt Nam. Năm 1626, giáo sĩ Giuliano Baldinotti người Ý được vời về phủ chúa ở Thăng Long để giảng về thiên văn học, địa lý và toán học. Alexandre de Rhodes năm 1627 đã mang biếu chúa Trịnh Tráng chiếc đồng hồ chạy bằng bánh xe và cuốn Kỷ hà nguyên bản của nhà toán học Euclid. Các giáo sĩ khác như Da Coxta, Langerloi đã mang vào Đàng Trong phương pháp chữa bệnh theo lối Tây y nên được chúa cho mở nhà thương (bệnh viện). Tại Thăng Long - Kẻ Chợ, khi giáo sĩ Đắc Lộ truyền giáo đến đây cũng đã thiết lập một nhà thương chữa bệnh cho người nghèo ở Cầu Dền. Đây là những cơ sở từ thiện và chữa bệnh theo lối Tây y sớm nhất ở Việt Nam. Một số giáo sĩ cũng phổ biến kỹ thuật dệt vải mịn và khổ rộng bằng khung dệt mang từ nước ngoài vào để sản xuất tại Dòng Mến Thánh Giá Di Loan (Quảng Trị) và sản phẩm đã được trưng bày tại Hội chợ Triển lãm Paris năm 1867. Người ta cũng ghi nhận chính các giáo sĩ đã đưa giống cừu vào Phan Rang để nuôi và linh mục Henry cũng là người đầu tiên đưa cây phi lao về trồng ở xứ Hà Úc (Huế).
Đời sống văn hóa
Công giáo hội nhập sâu sắc vào văn hóa Việt Nam với những biểu hiện phong phú như đọc kinh, vãn hát, múa dâng hoa, nghi thức tế, diễn xướng Tuần Thánh, lễ hội, rước kiệu v.v. Nếp sống của người Công giáo Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nếp sống cổ truyền Việt Nam kết hợp hài hòa với văn hóa phương Tây. Văn hóa làng Công giáo độc đáo với việc đan xen những lễ nghi, tục lệ của làng Việt nói chung với nghi lễ của Công giáo. Giữ gìn luân thường đạo lý, bảo tồn phong hóa là một nội dung quan trọng trong đời sống đạo phong phú của người Công giáo Việt Nam.
Quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Quan hệ giữa Tòa thánh và chính quyền
Quan hệ Tòa Thánh và chính quyền Việt Nam bắt đầu được nối lại bằng những cuộc tiếp xúc trực tiếp từ năm 1990, sau khi Việt Nam bước vào giai đoạn mở cửa. Năm 1994, Campuchia và Tòa Thánh thiết lập quan hệ ngoại giao và vị Sứ thần tại Campuchia vẫn đảm nhận liên lạc với Việt Nam.
Ngày 5 tháng 3 năm 2000, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã tôn phong thầy giảng Anrê Phú Yên lên bậc Chân phước. Chính quyền Việt Nam không phản ứng như đợt phong trước, một biểu hiện sự ấm dần lên trong quan hệ giữa Giáo hội và chính quyền. Có ý kiến cho rằng chính quyền Việt Nam không tìm cách loại trừ mà muốn "quản lý" Giáo hội Công giáo ở Việt Nam.
Tuy trong thời gian gần đây, một số người công giáo tại Việt Nam tham gia các lực lượng đối lập với chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nên bị chính quyền theo dõi hoạt động, có trường hợp bị quản thúc hoặc bắt giam, nhưng chính quyền Việt Nam cũng cố gắng xây dựng một số động thái làm "tan băng" trong quan hệ với Tòa Thánh.
Đầu năm 2007, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã viếng thăm Vatican, hội kiến Giáo hoàng Biển Đức XVI và Thủ tướng Vatican, Hồng y Tarcisio Bertone. Đây là vị thủ tướng đầu tiên của Việt Nam đến Vatican hội kiến Giáo hoàng, kể từ sau năm 1975. Giáo hoàng Biển Đức XVI đã ra sắc lệnh tôn phong hai nhà thờ ở Việt Nam lên hàng vương cung thánh đường là Phú Nhai (ngày 12 tháng 8 năm 2008) và Sở Kiện (ngày 24 tháng 6 năm 2010). Như vậy, Việt Nam hiện có 4 Vương cung thánh đường.
Tháng 2 năm 2009, phái đoàn của Tòa Thánh do Thứ trưởng ngoại giao - Đức ông Pietro Parolin dẫn đầu - đã đến thăm và làm việc tại Hà Nội, cả hai bên đã quyết định thành lập các "Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam - Vatican" để thảo luận vấn đề về quan hệ ngoại giao. Ngày 11 tháng 12 năm 2009, nhân chuyến công du Italia, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết cũng đã có cuộc hội kiến với Giáo hoàng Biển Đức XVI và Hồng y Tarcisio Bertone. Ông là vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên của chính phủ Việt Nam hội kiến Giáo hoàng.
Ngày 22 tháng 1 năm 2013, ông Nguyễn Phú Trọng - tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đến thăm Vatican và có cuộc hội kiến Giáo hoàng Biển Đức XVI. Giới quan sát nhận định, đây là điều ít khi xảy ra, vì Giáo hoàng thông thường chỉ tiếp các nguyên thủ quốc gia, các thủ tướng hoặc các lãnh đạo chính trị tiếng tăm thế giới, ít khi tiếp một lãnh đạo chính đảng.
Ngày 18 tháng 10 năm 2014, ông Nguyễn Tấn Dũng - thủ tướng Nước CHXHCN Việt Nam đến thăm Vatican và có cuộc hội kiến với Giáo hoàng Phanxicô.
Nhà nước can thiệp vào sinh hoạt nội bộ tôn giáo
Khi Tòa Thánh muốn bổ nhiệm một người làm giám mục, họ phải gửi danh sách ứng viên đến chính phủ Việt Nam. Chỉ khi chính phủ đồng ý thì người đó mới được công nhận là giám mục ở Việt Nam. Trong nhiều năm, các nhà ngoại giao hàng đầu của Vatican đến thăm Việt Nam mỗi năm để thảo luận về hoạt động của Giáo hội Công giáo và cũng để bàn bạc với giới chức Việt Nam về việc bổ nhiệm giám mục. Mặc dù Tòa Thánh luôn nhấn mạnh rằng việc bổ nhiệm giám mục phải xin phép chính phủ vốn không phải là thông lệ của họ, nhưng họ có thể tạm thời chấp nhận trong bối cảnh quan hệ hai bên đang tiến triển.
Quan điểm của giới Công giáo về các vấn đề xã hội, chính trị
Tháng 5 năm 2012, Ủy ban Công lý và Hòa bình trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đưa ra bản thông cáo "Nhận định về một số tình hình tại Việt Nam hiện nay". Theo đó, họ cho rằng nền kinh tế Việt Nam đang bộc lộ những nguy cơ nghiêm trọng, tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân và tương lai của đất nước. Định hướng kinh tế lấy quốc doanh làm chủ đạo đã tạo ra độc quyền và lạm quyền, làm méo mó sự vận hành cần có của nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước đóng góp ít vào tăng trưởng kinh tế nhưng lại nhận nhiều đặc quyền đặc lợi, gây bất công và kìm hãm sự phát triển của khối tư nhân. Bên cạnh đó, ủy ban này còn chỉ trích Luật đất đai hiện hành của Việt Nam vừa đi ngược tự nhiên, vừa không tôn trọng Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Luật đất đai đó quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng do Nhà nước quản lý đã làm cho hàng triệu người cảm thấy mất đất và chẳng có quyền tự do hành xử trên "mảnh đất ông bà tổ tiên". Trên thực tế, sở hữu toàn dân không phải là phương thức quản lý đất đai tốt nhất, còn việc Nhà nước làm chủ sở hữu đã phát sinh đặc quyền, đặc lợi của chính quyền các cấp trong việc quy hoạch và thu hồi đất cho các dự án, tước mất quyền căn bản của người dân.
Đến ngày 1 tháng 3 năm 2013, Hội đồng Giám mục Việt Nam cũng chính thức gửi thư nhận định và góp ý sửa đổi Hiến pháp cho Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Qua lá thư này, họ chất vấn chính quyền Việt Nam về việc làm sao có thể thực hiện quyền tự do ngôn luận và tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật khi mà tư tưởng bị đóng khung trong một chủ thuyết là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ đề xuất nền tảng chủ thuyết để tổ chức và điều hành xã hội Việt Nam là truyền thống văn hóa phong phú của dân tộc chứ không phải bất kỳ một hệ ý thức nào khác. Thư này cũng cho rằng Hiến pháp Việt Nam không nên và không thể khẳng định sự lãnh đạo mặc nhiên, không thông qua bầu cử của bất kỳ đảng phái chính trị nào. Thư góp ý đề xuất nhà nước Việt Nam thực hiện mô hình quản lý theo kiểu tam quyền phân lập: lập pháp, hành pháp và tư pháp; phân biệt rõ vai trò của đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Nhìn chung, thư góp ý sửa đổi Hiến pháp này được sự ủng hộ của nhiều tín hữu và giới bất đồng chính kiến. Có ghi nhận rằng nhiều giáo xứ, tổ chức Công giáo trong và ngoài nước đã tổ chức lấy ý kiến ủng hộ cho thư góp ý đó.
Ngày 9 tháng 5 năm 2014, Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc - thay mặt Hội đồng Giám mục Việt Nam viết thư kêu gọi nêu quan điểm về tình hình Biển Đông, cụ thể là Sự kiện giàn khoan HD-981. Trong đó, ông nói rằng những thỏa ước tôn trọng tình hữu nghị giữa hai quốc gia láng giềng, giữa hai Đảng cộng sản (Việt Nam và Trung Quốc) thực tế đã cho thấy không mang lại lợi ích cho dân nước Việt Nam, mà còn đưa đất nước vào tình trạng lâm nguy. Ông kêu gọi Chính phủ Việt Nam kiên trì đường lối ngoại giao, đối thoại để giải quyết xung đột nhưng có lập trường kiên định lấy đạo lý truyền thống dân tộc vì dân, vì nước để thực hiện đường lối chính sách với Trung Quốc.
Các cơ sở Công giáo mà Nhà nước Việt Nam đã chuyển quyền sử dụng
Theo thống kê, vào năm 1969, Giáo hội Công giáo ở miền Nam Việt Nam đã sở hữu 226 trường trung học, 1030 trường tiểu học, cô nhi viện, 48 bệnh viện, 35 viện dưỡng lão, 8 trại phong cùi và 159 phòng phát thuốc.
Chính quyền Việt Nam kể từ sau năm 1975 đã tiến hành việc đóng cửa nhiều nhà thờ, quốc hữu hóa nhiều cơ sở của Giáo hội Công giáo trên danh nghĩa là tiếp quản, trưng thu hoặc mượn. Việc trưng dụng đất đai của chính quyền là một trong những nguyên nhân chính làm cho mối quan hệ giữa chính quyền và Giáo hội Công giáo rạn nứt. Ở miền Nam Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, rất nhiều đất đai, tài sản của Giáo hội Công giáo cũng như các tôn giáo khác bị nhà nước trưng dụng vào những mục đích khác nhau. Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn (nguyên Tổng Giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn) cho biết, sau 1975 thì chỉ riêng Giáo phận Sài Gòn bị mất, nghĩa là bị chính quyền tước quyền sử dụng, 400 cơ sở; còn tòa tổng giáo phận Hà Nội nói rằng hiện có 95 cơ sở của tổng giáo phận Hà Nội nhà nước đang sử dụng.
Thời gian gần đây, việc tranh chấp đất đai và tài sản của Giáo hội là chủ đề nổi cộm trong một số vụ đụng độ giữa giáo dân Công giáo và chính quyền. Ở quy mô nhỏ và đơn lẻ, một số tổ chức thuộc Giáo hội Công giáo Việt Nam đã viết đơn xin hoặc lên tiếng đòi chính quyền trả lại những cơ sở, đất đai mà họ đã từng sở hữu để dùng vào việc sinh hoạt tôn giáo. Một vài bất đồng đã dẫn đến tranh chấp giữa họ và chính quyền. Chính quyền cũng đã trao trả lại một phần hoặc toàn bộ của một vài cơ sở, đất đai của họ trên danh nghĩa là "cấp quyền sử dụng đất" thay vì "trao trả", ví dụ như: linh địa hành hương La Vang (2008), nhưng cũng thường không giải quyết với các trường hợp khác. Chính quyền có ban hành các văn bản pháp luật có nội dung đề cập đến chính sách này như sau: "Nhà nước không xem xét lại chủ trương, chính sách và việc thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 1/7/1991. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất"'' để viện dẫn như một lý do chính yếu để bác các đơn đòi lại cơ sở tôn giáo của Công giáo đã bị chiếm dụng.
Tuy nhiên, cũng có ghi nhận cho thấy, chính quyền muốn cấp đất ở những nơi khác nếu Giáo hội có nhu cầu dùng, nhưng Giáo hội chỉ muốn nhận lại đất và cơ sở mà họ đã từng sở hữu.
Hiện nay, hầu hết các tổ chức tôn giáo thuộc Giáo hội Công giáo ở Việt Nam không được công nhận tư cách pháp nhân, ngoại trừ Hội đồng Giám mục Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhà dòng muốn mua nhà thì không được vì không có tư cách pháp nhân. Một nhà dòng không thể đứng tên sở hữu nhà mà phải nhờ một người khác đứng tên. Hệ quả là thủ tục phức tạp, tốn kém và đối diện nguy cơ mất nhà.
Xem thêm
Hội đồng Giám mục Việt Nam
Danh sách giáo phận Công giáo tại Việt Nam
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Chương sách
Tập san
Đọc thêm
Nguyễn Hồng (1959). Lịch sử Truyền giáo ở Việt Nam .
Phan Phát Huồn (1965). Việt Nam Giáo Sử – Quyển I (in lần thứ hai).
Phan Phát Huồn (1962). Việt Nam Giáo Sử – Quyển II .
Võ Long Tê (1965). Lịch sử Văn học Công giáo Việt Nam .
Liên kết ngoài
Hội đồng Giám mục Việt Nam
Catholic Church in Vietnam, GCatholic.org
Tôn giáo tại Việt Nam
Kitô giáo tại Việt Nam
V
|
16990
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20C%C3%B4ng%20gi%C3%A1o%20t%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Giáo phận Công giáo tại Việt Nam
|
Giáo hội Công giáo tại Việt Nam hiện tại được tổ chức theo địa giới gồm có 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Mỗi giáo tỉnh nêu trên lại được chia thành các giáo phận cùng một tổng giáo phận. Hiện nay, Việt Nam có tất cả 27 đơn vị giáo phận (gồm 3 tổng giáo phận và 24 giáo phận). Quản trị mỗi tổng giáo phận là một tổng giám mục (riêng hai vị ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có thể được giáo hoàng phong thêm tước hồng y), và quản trị mỗi giáo phận là một giám mục (hoặc giám quản nếu nơi này đang trống tòa).
Hai giáo phận tông tòa đầu tiên ở Việt Nam được thành lập vào năm 1659 (từ ngữ cũ là "địa phận"). Các giáo phận chính tòa được thành lập từ năm 1960. Tên của các giáo phận ở Việt Nam được đặt theo địa danh có tòa giám mục và nhà thờ chính tòa. Đến nay, giáo phận rộng lớn nhất là Hưng Hóa, trong khi giáo phận đông giáo dân nhất là Xuân Lộc; giáo phận nhỏ nhất là Bùi Chu, trong khi giáo phận ít giáo dân nhất là Lạng Sơn và Cao Bằng.
Lịch sử
Giai đoạn sơ khởi
Khâm định Việt sử Thông giám cương mục đề cập đến sự truyền bá đạo Công giáo vào Đại Việt năm 1533. Tiếp theo đó là những nỗ lực của một số cá nhân và nhóm truyền giáo khác. Các cộng đoàn tín hữu lâu bền hơn được thành lập từ khi các tu sĩ Dòng Tên tới truyền giáo tại Đàng Trong năm 1615 và tại Đàng Ngoài năm 1627. Để thuận lợi hơn trong vấn đề truyền giáo, ngày 3 tháng 11 năm 1534, Giáo hoàng Phaolô III ban Sắc chỉ Aequum Reputamus thiết lập Giáo phận Goa (Hạt Đại diện Tông tòa Goa) khởi từ mũi Hảo Vọng (Nam Phi) đến Nhật Bản, bao gồm quốc gia Đại Việt. Ngày 4 tháng 2 năm 1557, Giáo hoàng Phaolô IV ký Sắc chỉ Pro Exellenti Praeminentia thiết lập Giáo phận Malacca, bao gồm lãnh thổ Indonesia, Malaysia, Xiêm, Cam Bốt, Chàm, Đại Việt, Trung Hoa và Nhật Bản. Năm 1558, giáo sĩ Jorge da Santa Lucia, Dòng Đa Minh Bồ Đào Nha, được phong Giám mục tiên khởi Giáo phận Malacca. Đến ngày 23 tháng 1 năm 1576, Giáo hoàng Grêgôriô XIII ban Sắc chỉ Super Specula Militantis Ecclesiae, thành lập Giáo phận Macao, tách ra từ Giáo phận Malacca, gồm lãnh thổ Trung Hoa, Đại Việt và Nhật Bản.
Vào ngày 9 tháng 9 năm 1659, Giáo hoàng Alexanđê VII ra sắc chỉ Super Cathedram thiết lập hai Hạt Đại diện Tông tòa đầu tiên của Việt Nam trên cơ sở chia tách từ Giáo phận Macao. Giáo hoàng bổ nhiệm hai Giám mục: François Pallu hiệu tòa Heliopolis in Augustamnica và Pierre Lambert de la Motte hiệu tòa Berytus làm Giám mục tiên khởi cho hai Hạt Đại diện Tông tòa (cũng gọi là Địa phận hoặc Giáo phận Tông tòa) này với địa giới như sau:
Hạt Đại diện Tông tòa Đàng Ngoài: bao gồm Đàng Ngoài, Lào, cùng với 5 tỉnh Nam Trung Quốc Vân Nam, Quý Châu, Hồ Quảng (Hồ Nam và Hồ Bắc ngày nay), Tứ Xuyên và Quảng Tây, trao cho Giám mục Pallu.
Hạt Đại diện Tông tòa Đàng Trong: bao gồm Đàng Trong, cùng với các tỉnh Đông Nam Trung Quốc Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Giang Tây và đảo Hải Nam, trao cho Giám mục Lambert.
Ngoài ra, sắc chỉ cũng thiết lập Hạt Đại diện Tông tòa Nam Kinh còn gồm cả Bắc Kinh, Sơn Tây, Sơn Đông, Triều Tiên và Tartaria nhưng chưa chỉ định giám mục.
Trong năm 1668, tại Ayutthaya (kinh đô cũ của Thái Lan), Giám mục Lambert de la Motte truyền chức linh mục cho các thầy giảng Giuse Trang và Luca Bền thuộc Đàng Trong, cùng với Bênêđictô Hiền và Gioan Huệ thuộc Đàng Ngoài. Đây là 4 vị linh mục tiên khởi của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Năm 1669, Giám mục Lambert de la Motte truyền chức thêm 7 linh mục Việt Nam nữa. Năm 1670, ông chuẩn y thành lập Dòng Mến Thánh Giá cho các nữ tu Việt Nam.
Năm 1678, Giám mục Pallu từ Thái Lan về Roma, đề nghị tấn phong Giám mục cho 6 linh mục trong số các linh mục tiên khởi. Tuy nhiên đề nghị này đã bị Tòa Thánh bác bỏ.
Năm 1679, Hạt Đại diện Tông tòa Đàng Ngoài tách rời thành hai địa phận mới, lấy sông Hồng làm ranh giới (cụ thể là trục sông Lô–sông Hồng–sông Đào–sông Đáy). Hai địa phận Đàng Ngoài mới, gồm 2 Giám mục, 7 linh mục thừa sai người Pháp, 3 linh mục Dòng Đa Minh Tây Ban Nha, một số linh mục Dòng Tên và Dòng Âu Tinh, 11 linh mục người Việt và hơn 200.000 tín hữu, là:
Hạt Đại diện Tông tòa Đông Đàng Ngoài: từ tả ngạn sông Hồng đến vùng ven biển, trao cho Giám mục François Deydier Phan.
Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng Ngoài: từ hữu ngạn sông Hồng đến biên giới Ai Lao, đặt dưới sự cai quản của Giám mục Jacques de Bourges Gia.
Năm 1693, Giám mục Deydier qua đời, Giám mục Bourges kiêm nhiệm Địa phận Đông Đàng Ngoài. Vì thiếu hụt thừa sai nên Địa phận Đông được bổ sung các nhà truyền giáo Dòng Đa Minh, Phan Sinh và Âu Tinh. Năm 1696, Giám mục Raimondo Lezzoli Cao được Tòa Thánh bổ nhiệm cai quản Địa phận Đông. Năm 1756, việc truyền giáo tại Đông Đàng Ngoài chính thức được giao cho Tỉnh Rất Thánh Mân Côi của Dòng Đa Minh, trụ sở tại Manila, Philippines.
Năm 1844, Giáo hoàng Grêgôriô XVI chia Hạt Đại diện Tông tòa Đàng Trong thành hai địa phận mới:
Hạt Đại diện Tông tòa Đông Đàng Trong (từ Nam Quảng Bình đến Bình Thuận), do Giám mục Etienne-Théodore Cuénot Thể cai quản.
Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng Trong (Nam Kỳ lục tỉnh và Cao Miên), trao cho Giám mục Dominique Lefèbvre Ngãi cai quản.
Năm 1846, Hạt Đại diện Tông tòa Nam Đàng Ngoài – bao gồm Nghệ An, Hà Tĩnh và Bắc Quảng Bình tách từ Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng Ngoài – được thành lập, do Giám mục Jean-Denis Gauthier Hậu coi sóc.
Năm 1848, Hạt Đại diện Tông tòa Trung Đàng Ngoài được thành lập, gồm phần lớn tỉnh Nam Định và Hưng Yên, tách từ Hạt Đại diện Tông tòa Đông Đàng Ngoài, giao cho Giám mục D. Martin Gia cai quản.
Năm 1850, Hạt Đại diện Tông tòa Bắc Đàng Trong được tách từ Hạt Đại diện Tông tòa Đông Đàng Trong, bao gồm Nam Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, do Giám mục Pellerin Phan cai quản. Cũng trong năm này, một địa phận mới được tách ra từ Tây Đàng Trong là Hạt Đại diện Tông tòa Cao Miên, Giám mục Jean-Claude Miche Mịch được chỉ định làm Đại diện Tông tòa.
Hậu kỳ cận đại
Năm 1868, hai tỉnh Hà Tiên và Châu Đốc của Nam Kỳ lục tỉnh được sáp nhập vào Hạt Đại diện Tông tòa Cao Miên.
Năm 1883, Hạt Đại diện Tông tòa Bắc Đàng Ngoài được thành lập, tách rời từ Hạt Đại diện Tông tòa Đông Đàng ngoài, và bao gồm các tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng, trao cho Giám mục Colomer Lễ coi sóc.
Năm 1895, Hạt Đại diện Tông tòa Thượng Đàng Ngoài (Đoài), gồm các tỉnh Sơn Tây, Yên Bái, Hòa Bình và Lai Châu, được thành lập và được trao cho Giám mục Paul Marie Raymond Lộc.
Năm 1901, Hạt Đại diện Tông tòa Duyên hải Đàng Ngoài (Thanh) được thành lập gồm hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa, cùng với tỉnh Hủa Phăn của Lào (có tỉnh lỵ là Sầm Nưa), tách rời từ Hạt Đại diện Tông tòa Tây Đàng Ngoài và đặt dưới sự cai quản của Giám mục Alexandre Marcou Thành. Năm 1905, tỉnh Bình Thuận được chuyển đổi từ Hạt Đại diện Tông tòa Đông Đàng Trong sang Tây Đàng Trong.
Năm 1913, Hạt Phủ doãn Tông tòa Lạng Sơn và Cao Bằng được thành lập, tách từ Hạt Đại diện Tông tòa Bắc Đàng Ngoài, và được ủy thác cho các thừa sai Dòng Đa Minh Lyon đảm trách.
Ngày 3 tháng 12 năm 1924, Giáo hoàng Piô XI đã cho đổi tên một loạt các Hạt Đại diện Tông tòa tại Việt Nam theo địa danh nơi đặt tông tòa giám mục, bấy giờ gồm 10 Hạt Đại diện Tông tòa gồm Hưng Hóa (trước là Thượng Đàng Ngoài), Bắc Ninh (trước là Bắc Đàng Ngoài), Hải Phòng (trước là Đông Đàng Ngoài), Hà Nội (trước là Tây Đàng Ngoài), Bùi Chu (trước là Trung Đàng Ngoài), Phát Diệm (trước là Duyên hải Đàng Ngoài), Vinh (trước là Nam Đàng Ngoài), Huế (trước là Bắc Đàng Trong), Qui Nhơn (trước là Đông Đàng Trong), Sài Gòn (trước là Tây Đàng Trong). Hạt Đại diện Tông tòa Cao Miên được đổi tên thành Nam Vang.
Năm 1932, Hạt Đại diện Tông tòa Thanh Hóa, gồm các tỉnh Thanh Hóa và Hủa Phăn, tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Phát Diệm, được thiết lập và đặt dưới sự hướng dẫn của Giám mục Louis de Cooman Hành.
Năm 1932, Hạt Đại diện Tông tòa Kon Tum được thành lập, bao gồm 3 tỉnh Kontum, Darlac và Pleiku, tách ra từ Địa phận Qui Nhơn và đặt dưới sự hướng dẫn của Giám mục Jannin Phước.
Các Giám mục người Việt tiên khởi
Đầu thế kỷ 20, Tòa Thánh chủ trương bản địa hóa các hàng giáo phẩm ở ngoài châu Âu, trao quyền cho các giám mục bản địa. Bất chấp sự chống đối kịch liệt của chính quyền thực dân Pháp, chính sách này của Vatican trở thành hiện thực tại Việt Nam vào thập niên 1930. Cuối năm 1931, Phát Diệm được đồng thuận chọn làm địa phận đầu tiên sẽ được giám mục Việt Nam coi sóc. Ngày 11 tháng 6 năm 1933, tại Đền Thánh Phêrô ở Roma, Giáo hoàng Piô XI tấn phong vị Giám mục Việt Nam tiên khởi là Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng, người đã được bổ nhiệm vào ngày 10 tháng 1. Ông là Giám mục phó với quyền kế vị Hạt Đại diện Tông tòa Phát Diệm. Năm 1935, Giám mục Marcou Thành từ chức, trao quyền Giám mục Địa phận Phát Diệm cho Giám mục Nguyễn Bá Tòng. Đây là địa phận đầu tiên được ủy thác cho hàng giáo sĩ Việt Nam.
Cũng năm 1935, Giám mục Đa Minh Hồ Ngọc Cẩn được tấn phong tại nhà thờ Phủ Cam (Huế), trở thành vị Giám mục thứ hai của Việt Nam. Ông là Giám mục phó với quyền kế vị Hạt Đại diện Tông tòa Bùi Chu. Ngày 17 tháng 6 năm 1936, Giám mục Hồ Ngọc Cẩn trở thành Giám mục Việt Nam tiên khởi của Địa phận Bùi Chu, khi kế vị Giám mục chính Pedro Muzagorri Trung vừa qua đời. Đây là địa phận thứ hai được ủy thác cho hàng giáo sĩ Việt Nam.
Cũng trong năm 1936, Hạt Đại diện Tông tòa Thái Bình được thiết lập, tách rời từ Hạt Đại diện Tông tòa Bùi Chu, bao gồm hai tỉnh Thái Bình, Hưng Yên. Tân địa phận đặt dưới sự cai quản của Giám mục Cassado Thuận.
Năm 1938, Hạt Đại diện Tông tòa Vĩnh Long được thành lập, gồm các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, và Vĩnh Long, trong đó có một phần tỉnh Đồng Tháp ngày nay, tách từ Hạt Đại diện Tông tòa Sài Gòn, và được trao cho Giám mục tân cử Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục cai quản. Đây là địa phận thứ ba được ủy thác cho hàng giáo sĩ Việt Nam.
Năm 1939, Hạt Phủ doãn Tông tòa Lạng Sơn và Cao Bằng được Tòa Thánh nâng lên hàng Hạt Đại diện Tông tòa, do Giám mục Felix (Minh) quản nhiệm.
Năm 1940, thêm một vị Giám mục nữa được tấn phong là Giám mục Gioan Maria Phan Đình Phùng. Ông là Giám mục phó với quyền kế vị Hạt Đại diện Tông tòa Phát Diệm.
Năm 1945, linh mục Tađêô Lê Hữu Từ, khi đó đang là Bề trên Đan viện Xitô Châu Sơn (Nho Quan), được bổ nhiệm và trở thành vị Giám mục người Việt thứ năm.
Trong năm 1950, 3 Giám mục mới được bổ nhiệm là:
Đa Minh Hoàng Văn Đoàn được tấn phong Giám mục tại Roma ngày 3 tháng 9 năm 1950, làm Giám mục Hạt Đại diện Tông tòa Bắc Ninh.
Giuse Maria Trịnh Như Khuê được tấn phong Giám mục và đảm nhận Hạt Đại diện Tông tòa Hà Nội.
Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi được tấn phong Giám mục và đảm nhận Hạt Đại diện Tông tòa Bùi Chu.
Năm 1951, Hạt Đại diện Tông tòa Vinh trao cho tân Giám mục Gioan Baotixita Trần Hữu Đức.
Năm 1955, Hạt Đại diện Tông tòa Cần Thơ được thành lập, tách từ Hạt Đại diện Tông tòa Nam Vang và được giao cho tân Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình.
Năm 1955, Linh mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền được tấn phong Giám mục và đảm nhận Hạt Đại diện Tông tòa Sài Gòn, thay thế Giám mục Jean Cassaigne Sanh từ chức để đi làm tuyên úy Trại cùi Di Linh.
Năm 1957, Tòa Thánh cắt hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận (thuộc địa phận Qui Nhơn) và hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy (thuộc địa phận Sài Gòn) để thiết lập Hạt Đại diện Tông tòa Nha Trang và trao cho Giám mục Piquet Lợi coi sóc.
Hàng Giáo phẩm Việt Nam
Năm 1960, với Tông hiến Venerabilium Nostrorum ("Chư huynh đáng kính"), Giáo hoàng Gioan XXIII thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, tất cả các Hạt Đại diện Tông tòa (còn gọi là Giáo phận Tông tòa) được nâng lên thành các Giáo phận (Chính tòa) và Tổng giáo phận, đồng thời nhóm vào ba Giáo tỉnh Hà Nội, Giáo tỉnh Huế và Giáo tỉnh Sài Gòn. Ba giáo phận mới là Đà Lạt, Mỹ Tho, và Long Xuyên cũng được thành lập.
Năm 1963, Giáo phận Đà Nẵng được thành lập, địa giới gồm có thị xã Đà Nẵng và hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín. Năm 1965, Tổng giáo phận Sài Gòn được chia tách để thành lập hai giáo phận mới là Phú Cường và Xuân Lộc. Năm 1967, Giáo phận Ban Mê Thuột được thành lập. Năm 1975, Giáo phận Phan Thiết được thành lập với địa giới là hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy, tách ra từ Giáo phận Nha Trang.
Ngày 5 tháng 12 năm 2005, Giáo phận Bà Rịa được tách ra từ giáo phận Xuân Lộc với Tự sắc Ad Aptius Consulendum do Giáo hoàng Biển Đức XVI ban hành ngày 22 tháng 11 cùng năm. Vào tháng 5 năm 2006, Tổng giáo phận Huế chính thức chuyển giao khu vực Nam Quảng Bình (phía Nam sông Gianh – sông Son) cho Giáo phận Vinh.
Trong cuộc họp thường niên lần I năm 2013 của Hội đồng Giám mục Việt Nam, các Giám mục đã thảo luận về việc chia tách và thành lập một số giáo phận mới trong tương lai, đó là Hà Tuyên (tương ứng hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, tách từ 3 giáo phận Bắc Ninh, Hưng Hóa và Lạng Sơn), Hà Tĩnh (tương ứng hai tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình, tách từ giáo phận Vinh) và Pleiku (tương ứng tỉnh Gia Lai, tách từ giáo phận Kontum). Tháng 9 năm 2015, cuộc họp Hội đồng Giám mục thường niên lần II đã đồng ý dự án thành lập Giáo phận Lào Cai, tách từ Giáo phận Hưng Hóa.
Năm 2018, Tân Giáo phận Hà Tĩnh được thiết lập trên cơ sở tách từ Giáo phận Vinh, Giám mục tiên khởi là Phaolô Nguyễn Thái Hợp.
Bảng thống kê
Địa giới ngày nay
Nguồn: Niên giám Công giáo Việt Nam 2016.
Số liệu tổng quát
Chú thích
Tham khảo
Xem thêm
Danh sách giám mục Công giáo ngoại quốc quản nhiệm giáo phận tại Việt Nam
Danh sách giám mục người Việt
Liên kết ngoài
Dữ liệu trên gcatholic.org
Dữ liệu trên catholic-hierarchy.org
Giáo phận
Giáo phận
|
16994
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dmitri%20Ivanovich%20Mendeleev
|
Dmitri Ivanovich Mendeleev
|
Dmitri Ivanovich Mendeleev (cũng được La tinh hoá là Mendeleyev; , đọc theo tiếng Việt là Đi-mi-tri I-va-no-vích Men-đê-lê-ép) ( – ), là một nhà hoá học và nhà phát minh người Nga.
Ông được coi là người tạo ra phiên bản đầu tiên của bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học, một bước ngoặt lớn trong lịch sử nghiên cứu hoá học. Sử dụng bảng tuần hoàn này, ông đã dự đoán các tính chất của các nguyên tố còn chưa được phát hiện. Ông cũng là người phát hiện nhiệt độ sôi giới hạn.
Cuộc đời
Mendeleev sinh tại làng Verhnie Aremzyani, gần Tobolsk, là con của Ivan Pavlovich Mendeleev và Maria Dmitrievna Mendeleeva (tên khai sinh là Kornilieva). Ông nội là Pavel Maximovich Sokolov, một linh mục thuộc Giáo hội Chính thống giáo Nga từ vùng Tver. Ivan, cùng với các anh chị em, đã có tên họ mới khi tham gia chủng viện thần học.
Mendeleev được cho là con út trong số 14 anh chị em, nhưng con số chính xác khác biệt tuỳ theo từng nguồn tin. Khi 13 tuổi, sau khi cha ông qua đời và nhà máy của mẹ bị phá huỷ bởi hoả hoạn, Mendeleev theo học trung học tại Tobolsk.
Năm 1850, khi ấy gia đình Mendeleev đã nghèo túng chuyển tới Saint Petersburg, nơi ông vào Viện Sư phạm Main năm 1850. Sau khi tốt nghiệp, bệnh lao khiến ông phải chuyển tới Bán đảo Krym ở bờ biển phía bắc của Hắc Hải năm 1855. Tại đây ông trở thành một giáo viên khoa học tại Trường trung học số 1 Simferopol. Ông trở lại Saint Petersburg với sức khoẻ đã phục hồi hoàn toàn năm 1857.
Sự nghiệp khoa học
Giai đoạn 1859 và 1861, ông làm việc về tính mao dẫn của các chất lỏng và kính quang phổ tại Heidelberg. Cuối tháng 8 năm 1861 ông viết cuốn sách đầu tiên về kính quang phổ. Ngày 4 tháng 4 năm 1862 ông hứa hôn với Feozva Nikitichna Leshcheva, và họ cưới ngày 27 tháng 4 năm 1862 tại nhà thờ của Trường Cao đẳng Cơ khí Nikolaev ở Saint Petersburg. Mendeleev trở thành Giáo sư Hoá học tại Viện Công nghệ Nhà nước Saint Petersburg và Đại học Nhà nước Saint Petersburg năm 1863. Năm 1865 ông trở thành Tiến sĩ Khoa học với luận văn "Về những hoá hợp của Nước và Rượu". Ông được bổ nhiệm năm 1867, và tới năm 1871 đã biến Saint Petersburg thành một trung tâm được quốc tế công nhận trong lĩnh vực nghiên cứu hoá học. Năm 1876, ông say mê Anna Ivanova Popova và bắt đầu tán tỉnh bà, năm 1881 ông cầu hôn bà và đe doạ sẽ tự tử nếu bị từ chối. Cuộc li dị của ông với Leshcheva kết thúc một tháng sau khi ông đã cưới (ngày 2 tháng 4) đầu năm 1882. Thậm chí sau khi li dị, Mendeleev về kỹ thuật vẫn là một người mắc tội lấy một người khác khi vẫn con trong hôn nhân; Nhà thờ Chính thống Nga yêu cầu phải có ít nhất 7 năm trước khi tái hôn một cách hợp pháp. Cuộc hôn nhân của ông và sự tranh cãi xung quanh nó góp phần khiến ông không thể được chấp nhận vào Viện Hàn lâm Khoa học Nga (dù danh tiếng quốc tế của ông vào thời điểm đó). Con gái ông từ cuộc hôn nhân thứ hai, trở thành vợ của nhà thơ Nga nổi tiếng Alexander Blok. Những người con khác của ông là con trai Vladimir (một thủy thủ, ông tham gia vào Chuyến đi về phía Đông của Nicholas II nổi tiếng) và con gái Olga, từ cuộc hôn nhân đầu tiên với Feozva, và con trai Ivan và một cặp sinh đôi với Anna.
Dù Mendeleev được các tổ chức khoa học trên khắp châu Âu ca tụng, gồm cả Huy chương Copley từ Viện Hoàng gia London, ông đã từ chức khỏi Đại học Saint Petersburg ngày 17 tháng 8 năm 1890.
Năm 1893, ông được chỉ định làm Giám đốc Phòng Cân và Đo lường. Chính trong vai trò này ông đã được giao trách nhiệm hình thành những tiêu chuẩn nhà nước mới cho việc sản xuất vodka. Nhờ công việc của ông, năm 1894 các tiêu chuẩn mới cho vodka được đưa vào trong luật Nga và mọi loại vodka phải được sản xuất với nồng độ 40% cồn.
Mendeleev cũng nghiên cứu thành phần của các giếng dầu, và giúp thành lập nhà máy lọc dầu đầu tiên tại Nga.
Năm 1905, Mendeleev được bầu làm một thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển. Đồng thời trong năm này ông được tặng thưởng Huy chương Copley vàng danh giá. Năm sau Hội đồng Nobel Hoá học đã đề xuất với Viện Hàn lâm Thuỵ Điển trao Giải Nobel Hoá học năm 1906 cho Mendeleev vì phát minh ra bảng tuần hoàn của ông. Ban Hoá học của Viện Hàn lâm Thuỵ Điển đã ủng hộ đề xuất này. Viện Hàn lâm sau đó dường như đã ủng hộ lựa chọn của Ủy ban như họ đã làm trong hầu hết mọi trường hợp. Không may thay, tại cuộc họp toàn thể của Viện, một thành viên bất mãn của Ủy ban Nobel, Peter Klason, đề xuất tư cách ứng cử viên cho Henri Moissan người được ông ưa thích. Svante Arrhenius, dù không phải là một thành viên của Ủy ban Nobel Hoá học, có rất nhiều ảnh hưởng trong Viện và cũng gây sức ép để loại bỏ Mendeleev, cho rằng bảng tuần hoàn quá cũ để được công nhận sự khám phá ra nó vào năm 1906. Theo những người thời đó, Arrhenius có động cơ từ sự đố kỵ của ông với Mendeleev vì Mendeleev chỉ trích lý thuyết phân ly của Arrhenius. Sau những cuộc tranh cãi nảy lửa, đa số thành viên Viện Hàn lâm bỏ phiếu cho Moissan. Những nỗ lực để đề cử Mendeleev năm 1907 một lần nữa không thành công bởi sự phản đối kịch liệt của Arrhenius.
Qua đời
Năm 1907, Mendeleev mất ở tuổi 72 tại Saint Petersburg vì bệnh cúm. Miệng núi lửa Mendeleev trên Mặt trăng, cũng như nguyên tố số 101, chất phóng xạ mendelevium, được đặt theo tên ông.
Bảng tuần hoàn
Công trình do những người khác thực hiện hồi những năm 1860 cho rằng các nguyên tố có tính tuần hoàn. John Newlands, người xuất bản cuốn Định luật các Quãng tám (Law of Octaves) năm 1865. Sự thiếu hụt các khoảng trống cho những nguyên tố còn chưa được khám phá và việc đặt hai nguyên tố trong một ô đã bị chỉ trích và các ý tưởng của ông không được chấp nhận. Một công trình khác là của Lothar Meyer, người xuất bản một cuốn sách năm 1864, miêu tả 28 nguyên tố. Không công trình nào tìm cách dự đoán các nguyên tố mới. Năm 1863 đã có 56 nguyên tố được biết với một nguyên tố mới được khám phá với tốc độ xấp xỉ một nguyên tố mỗi năm.
Sau khi trở thành một giáo viên, Mendeleev đã viết cuốn sách hai tập cuối cùng ở thời điểm đó: Principles of Chemistry (Các nguyên tắc của Hoá học) (1868-1870). Khi ông tìm cách sắp xếp các nguyên tố theo các tính chất hoá học của chúng, ông nhận thấy các mẫu hình dẫn ông tới ý tưởng Bảng tuần hoàn. Tương truyền, người ta nói rằng sau một hôm suy nghĩ làm thế nào sắp xếp được các nguyên tố hóa học, Mendeleev ngủ đi và trong giấc mơ, ông mơ thấy có một cái bảng hiển thị lên các nguyên tố với vị trí đúng của nó. Mendeleev không hề biết về các công trình khác với các bảng tuần hoàn khác đang diễn ra trong thập niên 1860. Ông đã làm bảng sau, và bằng cách thêm các nguyên tố thêm theo mô hình này, phát triển phiên bản mở rộng của bảng tuần hoàn.
Ngày 6 tháng 3 năm 1869, Mendeleev có cuộc giới thiệu chính thức với Viện Hoá học Nga, với tiêu đề The Dependence between the Properties of the Atomic Weights of the Elements (Sự phụ thuộc giữa các Tính chất của Trọng lượng Nguyên tử của các Nguyên tố), miêu tả các nguyên tố theo cả trọng lượng nguyên tử và hoá trị. Cuộc trình bày này nói rằng
Các nguyên tố hoá học, nếu được sắp xếp theo trọng lượng nguyên tử, sẽ có một tính tuần hoàn rõ ràng trong tính chất.
Các nguyên tố tương tự về tính chất hoá học có các trọng lượng nguyên tử hoặc hầu như có cùng giá trị (ví dụ, Pt, Ir, Os) hoặc tăng đều (ví dụ, K, Rb, Cs).
Việc sắp xếp các nguyên tố thành các nhóm nguyên tố theo trật tự trọng lượng nguyên tử của chúng tương ứng với cái gọi là các hoá trị của chúng, cũng như, ở một số mức độ, với các tính chất hoá học riêng biệt của chúng; như thể hiện rõ trong các loạt nguyên tố Li, Be, B, C, N, O, và F.
Các nguyên tố có mật độ lớn nhất có trọng lượng nguyên tử nhó nhất.
Tầm mức trọng lượng nguyên tử xác định tính chất nguyên tố, giống như tầm mức phân tử xác định tính chất của một thành phần hợp chất.
Chúng ta phải đợi sự phát hiện của nhiều nguyên tố vẫn còn chưa được biết tới–ví dụ, hai nguyên tố, tương tự nhôm và silic, những nguyên tố có trọng lượng nguyên tử trong khoảng 65 và 75. Và những nguyên tố nào chưa biết sẽ chừa khoảng trống, trong tương lai phát hiện được thì thêm vào.
Trọng lượng nguyên tử của một nguyên tố có thể thỉnh thoảng được sửa đổi theo sự hiểu biết những nguyên tố tiếp giáp của nó. Vì thế trọng lượng nguyên tử của teluride phải nằm trong khoảng giữa 123 và 126, và không thể là 128. Ở đây Mendeleev đã sai bởi khối lượng nguyên tử của teluride (127.6) vẫn cao hơn khối lượng nguyên tử của iodine (126.9).
Một số tính chất đặc trưng của các nguyên tố có thể dự đoán trước từ trọng lượng nguyên tử của nó.
Mendeleev xuất bản bảng tuần hoàn các nguyên tố của tất cả các nguyên tố đã biết và dự đoán nhiều nguyên tố mới để hoàn thành bảng. Chỉ vài tháng sau, Meyer đã xuất bản một bảng rõ ràng giống hệt. Một số người coi Meyer và Mendeleev là những người đồng phát minh ra bảng tuần hoàn, nhưng rõ ràng mọi người đồng ý rằng sự dự đoán chính xác của Mendeleev về các đặc tính của cái ông gọi là ekasilicon, ekaaluminium và ekaboron (germanium, gallium và scandium) xứng đáng khiến ông xứng đáng với đa số lời khen ngợi về bảng tuần hoàn.
Về tám nguyên tố do ông dự đoán, ông đã sử dụng các hậu tố eka, dvi, và tri (tiếng Phạn một, hai, ba) trong việc đặt tên chúng. Mendeleev đã nghi ngờ một số trọng lượng nguyên tử hiện đã được chấp nhận (chúng chỉ có thể được đo với một độ chính xác khá thấp ở thời điểm đó), chỉ ra rằng chúng không tương ứng với những tính chất do Bảng tuần hoàn của ông chỉ ra. Ông lưu ý rằng tellurium có trọng lượng nguyên tử lớn hơn iodine, nhưng ông đặt nó vào trật tự đúng, dự đoán không chính xác rằng những trọng lượng nguyên tử đã được chấp nhận ở thời điểm đó là sai. Ông đã gặp khó xử khi tìm nơi đặt các lanthanide đã biết, và dự đoán sự tồn tại của hàng khác trong bảng là nơi đặt các actinide có một trong số các khối lượng nguyên tử nặng nhất. Một số người không chấp nhận việc Mendeleev dự đoán rằng sẽ còn có các nguyên tố khác, nhưng đã bị chứng minh là sai lầm khi Ga (gallium) và Ge (germanium) được tìm ra năm 1875 và 1886, trùng khớp một cách chính xác vào hai khoảng trống.
Bằng cách đặt những cái tên tiếng Phạn cho các nguyên tố "còn thiếu", Mendeleev cho thấy sự tán tưởng và biết ơn của mình với các nhà ngữ pháp tiếng Phạn của Ấn Độ cổ đại, những người đã tạo ra các lý thuyết phức tạp về ngôn ngữ dựa trên việc khám phá ra hai mô hình hai chiều của họ trong các âm cơ bản. Theo Giáo sư Paul Kiparsky thuộc Đại học Stanford, Mendeleev là một người bạn của chuyên gia tiếng Phạn Böhtlingk, người đang chuẩn bị cho ấn bản thứ hai của cuốn sách của mình về Pānini ở khoảng thời gian đó, và Mendeleev muốn vinh danh Pānini với sự đặt tên của mình. Lưu ý thấy có những sự tương tự đáng chú ý giữa Bảng tuần hoàn và đoạn mở đầu của ngữ pháp Panini, Giáo sư Kiparsky nói:
Sự tương tự giữa hai hệ thống rất đáng chú ý. Bởi khi Panini thấy rằng các mô hình âm vị của âm thanh trong ngôn ngữ là một chức năng của các tính chất phát âm của chính, vì thế Mendeleev thấy rằng các tính chất hoá học của các nguyên tố là một chức năng của các trọng lượng nguyên tử của chúng. Giống như Panini, Mendeleev đã đạt tới phát minh của mình thông qua một sự nghiên cứu "ngữ pháp" của các nguyên tố...
Các thành tựu khác
Mendeleev cũng có những đóng góp quan trọng khác cho hoá học. Nhà hoá học và lịch sử khoa học Nga L.A. Tchugayev đã coi ông là "một nhà hoá học thiên tài, nhà vật lý hàng đầu, một nhà nghiên cứu nhiều thành quả trong các lĩnh vực thủy động lực học, khí tượng học, địa chất học, một số nhánh của công nghệ hoá học (ví dụ chất nổ, hoá dầu, và nhiên liệu) và những ngành khác gần với hoá học và vật lý, một chuyên gia tinh thông về công nghiệp hoá học và công nghiệp nói chung, và một nhà tư tưởng độc đáo trong lĩnh vực kinh tế." Mendeleev là một trong những người sáng lập, năm 1869, Viện Hoá học Nga. Ông đã làm việc về lý thuyết và thực hành chủ nghĩa bảo hộ thương mại và về nông nghiệp.
Trong một nỗ lực trong một quan niệm hoá học về Ête, ông đã đưa ra những lý thuyết rằng có sự tồn tại của hai nguyên tố hoá học trơ với trọng lượng nguyên tử nhỏ hơn hydro. Trong hai nguyên tố đề xuất đó, ông cho rằng nguyên tố nhẹ hơn là một loại khí có khả năng xâm nhập mọi nơi và hiện diện ở khắp nơi, và nguyên tố hơi nặng hơn là một nguyên tố đề xuất, coronium.
Mendeleev dành hầu hết việc nghên cứu của mình và có những đóng góp quan trọng cho việc xác định bản chất của những thành phần vô hạn như các dung dịch.
Trong một lĩnh vực khác của vật lý hoá học, ông đã nghiên cứu sự nở rộng của các chất lỏng với nhiệt độ, và phát minh một công thức tương tự như định luật Gay-Lussac về sự đồng nhất của sự nở rộng của các khí, trong khi ngay từ năm 1861 ông đã đoán trước quan niệm của Thomas Andrews về nhiệt độ tới hạn của các khí bằng các định nghĩa điểm sôi tuyệt đối của một vật chất khi nhiệt độ mà ở đó sự liên kết và nhiệt của sự bay hơi trở nên bằng không và dung dịch chuyển thành hơi, không cần biết tới áp suất và thể tích.
Mendeleev được coi là người đưa hệ mét vào sử dụng tại Đế quốc Nga.
Ông đã phát minh ra pyrocollodion, một kiểu bột không khói dựa trên nitrocellulose. Công trình này do Hải quân Nga đặt hàng, tuy nhiên không được chấp nhận sử dụng. Năm 1892 Mendeleev đã tổ chức việc sản xuất nó.
Mendeleev đã nghiên cứu nguồn gốc dầu mỏ và kết luận rằng các hydrocarbon là tự sinh và hình thành ở sâu bên trong quả đất.
Ông viết: "Thực tế chính yếu cần lưu ý là dầu hoả sinh ra ở sâu trong quả đất, và chỉ tại đó chúng ta tìm kiếm nguồn gốc của nó." (Dmitri Mendeleev, 1877)
Tưởng nhớ
Để tưởng nhớ ông, sau khi tìm ra một nguyên tố hóa học mới, người ta đã đặt tên cho nó là Medelevi, có nguyên tử khối là 258, với 101 proton (nguyên tố được các nhà khoa học ở Berkely phát hiện vào năm 1955 và được đặt theo tên ông vào năm 1963).
Xem thêm
Các nguyên tố dự đoán của Mendeleev
Nguồn gốc dầu mỏ tự sinh
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Tiểu sử
Roger Rumppe và Michael E. Sixtus, "Ich bin Mendelejeff" , care of the Woodrow Wilson Leadership Program in Chemistry. 20 sources. Notes, among other things, that various sources list D.M.'s siblings as being 10 to 16 in number.
Bảng tuần hoàn
Original Periodic Table , annotated
Mendeleev's first draft version of the Periodic Table , 17 tháng 2 năm 1869
Khác
References about Mendeleev, maintained by Eugene V. Babaev, cập nhật lần cuối tháng 5 năm 2005 (vào tháng 12 năm 2005).
Faraday Lecture by Mendeleev, 4 tháng 7 năm 1889, annotated
Mendeleev and Sanskrit
Picture of Mendeleev , Edgar Fahs Smith Collection, University of Pennsylvania
Everything in its Place
Mendeleev profile at thinkquest.org
Dmitri Ivanovich Mendeleev article on h2g2.
Who was Dmitri Mendeleev?
Sinh năm 1834
Mất năm 1907
Người Tyumen Oblast
Nhà hóa học Nga
Nhà hóa học vô cơ
Nhà khoa học Nga
Thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Thuỵ Điển
Thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Nga
Thành viên Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển
Người theo học Đại học Nhà nước Sankt-Peterburg
Nhà phát minh Nga
Người được nhận Huy chương Copley
Người theo học Viện Công nghệ Sankt-Peterburg
Người được nhận Giải Demidov
Người theo chủ nghĩa quân chủ Nga
Tín hữu Chính Thống giáo tại Nga
Bài cơ bản dài trung bình
Người Nga thế kỷ 19
Người phát hiện ra nguyên tố hóa học
|
17001
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20gi%C3%A1m%20m%E1%BB%A5c%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20Vi%E1%BB%87t
|
Danh sách giám mục người Việt
|
Hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập vào ngày 24 tháng 11 năm 1960, tuy nhiên, cách mốc đó 27 năm, vào năm 1933, Việt Nam, lúc bấy giờ là một phần của Liên bang Đông Dương, bắt đầu có giám mục người bản địa đầu tiên. Vị giám mục đầu tiên được tấn phong đó là Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng, thuộc Giáo phận Phát Diệm. Kể từ đó đến nay, đã có 131 Giám mục người Việt đã được bổ nhiệm và tấn phong (bao gồm Giám mục Hầm trú Giacôbê Lê Văn Mẫn); trong số đó có 6 vị được vinh thăng Hồng y, bao gồm Giuse Maria Trịnh Như Khuê, Giuse Maria Trịnh Văn Căn, Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng, Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn và Phêrô Nguyễn Văn Nhơn. Ngoài ra, có 8 vị là người gốc Việt, được bổ nhiệm giữ các chức vụ của Tòa Thánh hoặc coi sóc các giáo phận ngoài Việt Nam.
Phần lớn giám mục ở Việt Nam được tấn phong sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Gioan Baotixita Bùi Tuần là vị giám mục duy nhất được phong vào ngày này, và cũng là vị giám mục người Việt cuối cùng được phong trong thời điểm từ 30 tháng 4 năm 1975 trở về trước. Năm 1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam được thành lập, trở thành tổ chức giám mục Công giáo thống nhất trên toàn quốc gia này.
Danh sách giám mục
Giám mục đương nhiệm
Chú giải
Danh sách đầy đủ
Chú giải
*Ghi chú: Danh sách được xếp theo thứ tự thời gian được tấn phong, các tước vị hồng y cũng được ghi chú trong danh sách này. Các giám mục được bổ nhiệm nhưng chưa được tấn phong sẽ được in nghiêng.
Danh sách các Hồng y:
Giuse Maria Trịnh Như Khuê (1898–1978), Hồng y đầu tiên của Việt Nam, được phong ngày 24 tháng 5 năm 1976. Hồng y bậc linh mục (Tổng Giám mục TGP Hà Nội)
Giuse Maria Trịnh Văn Căn (1921–1990), được phong ngày 16 tháng 5 năm 1979. Hồng y bậc linh mục (Tổng Giám mục TGP Hà Nội)
Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng (1919–2009), được phong ngày 26 tháng 11 năm 1994. Hồng y bậc linh mục (Tổng Giám mục TGP Hà Nội)
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (1928–2002), được phong ngày 21 tháng 2 năm 2001. Hồng y bậc phó tế (Tổng giám mục hiệu tòa Vadesi, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình)
Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn (sinh 1934), được phong ngày 20 tháng 10 năm 2003. Hồng y bậc linh mục (Tổng Giám mục TGP Thành phố Hồ Chí Minh)
Phêrô Nguyễn Văn Nhơn (sinh 1938), được phong ngày 14 tháng 2 năm 2015. Hồng y bậc linh mục (Tổng Giám mục TGP Hà Nội)
Ghi chú:
: Hồng y
: Tổng giám mục chính tòa
phó: Tổng giám mục phó
: Giám mục chính tòa
: Giám mục phó, phụ tá hoặc Giám quản tông tòa, Đại diện tông tòa
: (Tổng) Giám mục hiệu tòa mà không phải là (Tổng) Giám mục phó hoặc phụ tá
Các Kỷ lục
Mười giám mục được tấn phong trẻ nhất
(gồm năm sinh, năm tấn phong giám mục)
Đa Minh Hoàng Văn Đoàn (1912;1950) 38 tuổi
Vinh Sơn Phaolô Phạm Văn Dụ (1922; 1960) 38 tuổi
Philipphê Nguyễn Kim Điền (1921; 1960) 39 tuổi
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (1928; 1967) 39 tuổi
Stêphanô Nguyễn Như Thể (1935; 1975) 40 tuổi
Gioan Trương Cao Đại (1913; 1953) 40 tuổi
Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục (1897; 1938) 41 tuổi
Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi (1909; 1950) 41 tuổi
Giuse Maria Phạm Năng Tĩnh (1917; 1959) 42 tuổi
Giuse Maria Trịnh Văn Căn (1921; 1963) 42 tuổi
Giuse Vũ Văn Thiên (1960; 2002) 42 tuổi
Mười giám mục tuổi thọ nhất
Antôn Nguyễn Văn Thiện (13 tháng 3,1906-13 tháng 5, 2012) 106 tuổi
Micae Nguyễn Khắc Ngữ (2 tháng 2, 1909-10 tháng 6, 2009) 100 tuổi
Giacôbê Nguyễn Văn Mầu (22 tháng 1, 1914-31 tháng 1, 2013) 99 tuổi
Gioan Baotixita Bùi Tuần 97 tuổi
Phêrô Trần Thanh Chung (10 tháng 11, 1926 - 10 tháng 9, 2023) 96 tuổi
Phaolô Maria Cao Đình Thuyên (7 tháng 1, 1927 - 29 tháng 8, 2022) 95 tuổi
Phaolô Tịnh Nguyễn Bình Tĩnh (30 tháng 6,1909- 21 tháng 11, 2023) 93 tuổi
Phaolô Bùi Chu Tạo (21 tháng 1,1909- 5 tháng 5, 2001) 92 tuổi
Phaolô Lê Đắc Trọng (15 tháng 6, 1918-7 tháng 9, 2009) 91 tuổi
Giuse Phạm Văn Thiên (2 tháng 5, 1907-15 tháng 2, 1997) 89 tuổi.
Chú thích
Nguồn dẫn
Sách
Tham khảo
Danh Sách Các Đức Hồng Y, Tổng Giám mục và Giám mục Việt Nam
Xem thêm
Công giáo tại Việt Nam
Danh sách giám mục Việt Nam còn sống theo tuổi
Danh sách các vị Hồng y Công giáo người Việt
Liên kết ngoài
All Bishops of Viet Nam, catholic-hierarchy.org
Giám mục
Hội đồng Giám mục Việt Nam
Danh sách về Giáo hội Công giáo Rôma
Danh sách Công giáo Việt Nam
|
17002
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phanxic%C3%B4%20Xavi%C3%AA%20Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20Thu%E1%BA%ADn
|
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
|
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình và là vị giáo sĩ Công giáo Việt Nam từng giữ vị trí cao nhất trong Giáo hội Công giáo Rôma. Ông được xem là một biểu tượng của người Công giáo Việt Nam, là một nhân vật có sức ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Dù gặp nhiều khó khăn với chính quyền Việt Nam, Hồng y Thuận không tỏ ra thù ghét. Chính vì thái độ này, ông đã được nhiều người tôn kính. Ngoài tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, ông còn nói thông thạo tám ngôn ngữ khác: Pháp, Anh, Ý, Đức, Latinh, Nga và Trung Quốc, Tây Ban Nha.
Hồng y Thuận sinh năm 1928 tại Huế trong một gia đình có truyền thống Công giáo lâu đời. Sau quá trình tu học, ông được thụ phong linh mục vào tháng 6 năm 1953. Tháng 4 năm 1967, linh mục Nguyễn Văn Thuận được Giáo hoàng Phaolô VI bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa Giáo phận Nha Trang. Ông là vị giám mục người Việt đầu tiên quản lý giáo phận này. Ngày 24 tháng 4 năm 1975, Tòa Thánh bổ nhiệm Nguyễn Văn Thuận làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, chức vị Tổng Giám mục phó của Tổng giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, ông tạm hoãn về Sài Gòn, đến ngày 7 tháng 5 mới về để nhận nhiệm vụ mới. Ngày 15 tháng 8 năm 1975, ông bị bắt, đi tù và cải tạo suốt 13 năm.
Nguyễn Văn Thuận mắc bệnh viêm tiền liệt tuyến và đến Roma điều trị vào tháng 9 năm 1991. Trong thời gian trị bệnh tại Rôma, chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận không còn được phép trở lại Việt Nam. Năm 1994, Tổng giám mục Thuận từ chức Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh và Tòa Thánh bổ nhiệm ông giữ chức vụ phó chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình. Ông trở thành Chủ tịch Hội đồng này vào năm 1998. Tháng 1 năm 2001, Giáo hoàng Gioan Phaolô II thăng Tổng giám mục Thuận tước vị hồng y. Theo báo chí quốc tế, ông cũng được đánh giá là ứng cử viên sáng giá kế vị Giáo hoàng đã già yếu. Ngày 16 tháng 9 năm 2002, hồng y Nguyễn Văn Thuận qua đời tại Rôma do bệnh ung thư tiền liệt tuyến.
Ngày 17 tháng 9 năm 2007, Giáo hội Công giáo Rôma bắt đầu những thủ tục đầu tiên cho việc tuyên phong chân phước và phong thánh cho cố hồng y. Ngày 5 tháng 7 năm 2013, người Công giáo Việt Nam tổ chức lễ bế mạc của các giai đoạn giáo phận của tiến trình phong chân phước cho Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.
Ngày 4 tháng 5 năm 2017, Giáo hoàng Phanxicô phê chuẩn các sắc lệnh của Bộ Tuyên thánh, tiến thêm một bước trong án tuyên thánh cho cố hồng y Nguyễn Văn Thuận. Giáo hoàng tuyên bố Hồng y Thuận là đấng đáng kính. Đây là bước tiến quan trọng trong án phong thánh cho ông. Ngày 25 tháng 7 năm 2023, trên cơ sở kế thừa các cơ sở của việc đình chỉ các Quỹ Người Samari Nhân hậu và Quỹ Công lý Hòa Bình, Giáo hoàng Phanxicô thiết lập Van Thuan Foundation (Quỹ Văn Thuận), theo tên cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận.
Thân thế và thiếu thời
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận sinh ngày 17 tháng 4 năm 1928 tại khu vực giáo xứ Phủ Cam, Huế, Tổng giáo phận Huế. Ông là anh cả trong một gia đình có 8 anh chị em gồm 3 nam và 5 nữ. Thân phụ là Tađêô Nguyễn Văn Ấm (mất năm 1993 tại Sydney, Úc) và thân mẫu là bà Elizabeth Ngô Đình Thị Hiệp (mất năm 2005), em ruột của Giám mục Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục và tổng thống Ngô Đình Diệm. Đây là một gia đình có truyền thống Công giáo lâu đời, tổ tiên của ông từng chịu tử đạo vì tuyên xưng đức tin Công giáo trong suốt giai đoạn từ năm 1698 đến năm 1885.
Họ nội Nguyễn Văn Thuận có cụ cố là ông Nguyễn Văn Danh bị bắt làm nô lệ và sống trong thời kỳ truy bắt đạo Công giáo của vua Tự Đức. Con ông là ông Nguyễn Văn Vọng (ông nội Nguyễn Văn Thuận), hỗ trợ truyền giáo bằng đời sống hằng ngày với vợ là bà Tống Thị Tài, từng lập hai trường Bình Linh (Pellerin) và Thánh nữ Jeanne d’Arc lần lượt cho dòng nam Lasan và dòng nữ Thánh Phaolô thành Chartres. Có nguồn tin ông nội Nguyễn Văn Thuận là ông Nguyễn Văn Diêu (còn gọi là Bát Diêu). Về phía họ ngoại Nguyễn Văn Thuận, có nhiều người đã bị thiêu chết trong giờ kinh nguyện năm 1885 bởi những người tìm bắt các tín đồ Công giáo. Do dòng họ không còn có con trai tế tự, chủng sinh Ngô Đình Khả đã nhận được đề nghị từ các giáo sư chủng viện Penang và trở về Việt Nam lập gia đình. Ông Khả từng giữ tước Phù Đạo Đại Thần, cố vấn cho vua các vấn đề Pháp văn và Triết học Tây phương. Do phản đối Pháp buộc vua thoái vị, ông từ quan về làm ruộng. Ông Khả là thân phụ bà Ngô Đình Thị Hiệp, thân mẫu Nguyễn Văn Thuận.
Từ khi còn nhỏ, cậu bé Thuận được giáo dục đức tin bởi người mẹ gương mẫu. Thân mẫu và bà nội thường kể chuyện cho Nguyễn Văn Thuận về tổ tiên, các thánh Công giáo trong Kinh Thánh và các vị tử đạo Công giáo của Việt Nam. Cậu bé Thuận tin tưởng Thánh Thể vì quan niệm đây là con đường để con người kết hiệp với Thiên Chúa. Nhờ sự giáo dục tôn giáo từ nhỏ, cậu bé Thuận có mong muốn đi theo con đường tu trì từ rất sớm.
Tu học và thời kỳ linh mục
Cuối tháng 8 năm 1940, cậu bé Nguyễn Văn Thuận nhập học tại Tiểu chủng viện An Ninh, tại Cửa Tùng, Quảng Trị. Nhờ sẵn có văn bằng tiểu học certificat d’étude primaire, cũng như có trí nhớ tốt và trình độ song ngữ và tiếng La tinh, cậu rút ngắn thời gian học từ tám năm xuống sáu năm. Sau khi hoàn tất chương trình tiểu chủng viện, từ năm 1947, chủng sinh Thuận theo học triết và thần học tại Đại chủng viện Kim Long, Huế. Trong thời gian này, ông có dịp tìm hiểu về linh mục José Ramon Manual Pro Juarez và nhận đây là mẫu gương cho đời linh mục của mình. Trong thời gian ba năm đầu tiên của đại chủng viện, chủng sinh Thuận mong muốn được trở thành linh mục triều, nhưng sau đó nhiều lần ông suy nghĩ về việc trở thành một linh mục dòng như các linh mục dòng Tên hoặc dòng Biển Đức. Tuy vậy, cuối cùng Nguyễn Văn Thuận tiếp tục ở lại đại chủng viện, học thần học với bề trên chủng viện là linh mục Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền.
Ngày 11 tháng 6 năm 1953, Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được thụ phong linh mục tại Nhà thờ chính tòa Phủ Cam, do Giám mục Jean-Baptiste Urrutia Thi (M.E.P) – Giám mục Đại diện Tông Tòa Địa phận Huế làm chủ phong. Sau khi được chịu chức, tân linh mục Nguyễn Văn Thuận được bổ nhiệm đảm trách vị trí linh mục phụ tá giáo xứ Tam Tòa, Đồng Hới, làm phụ tá cho linh mục Đa Minh Hoàng Văn Tâm. Đây là một giáo xứ quan trọng của Địa phận Huế. Linh mục Tâm đã dành thời gian hướng dẫn tân linh mục về các tác vụ mục vụ giáo xứ. Tuy vậy, sức khỏe Nguyễn Văn Thuận kém đi; ông ho ra máu. Sau khi thăm khám, các bác sĩ cho rằng linh mục Thuận có triệu chứng bệnh lao. Linh mục Thuận được chuyển từ bệnh viện Đồng Hới vào Bệnh viện Huế, sau đó lại chuyển viện vào Sài Gòn, nhập viện tại bệnh viện Saint Paul tháng 12 năm 1953. Sau khi chẩn đoán cần cắt phổi bên phải, linh mục Thuận được người quen giới thiệu nhập viện Bệnh viện Quân đội Pháp Grall vào tháng 4 năm 1954. Các bác sĩ tại đây cho biết sau phẫu thuật, sức khỏe Nguyễn Văn Thuận sẽ không hoàn toàn bình phục. Trước khi gây mê vào phòng mổ, Nguyễn Văn Thuận được chụp X quang, và kết quả cho thấy phổi ông đã hoàn toàn bình phục. Nguyễn Văn Thuận cho đây là phép lạ và cảm tạ bà Maria và Thiên Chúa.
Sau khi hồi phục bệnh tình, bốn ngày sau đó, linh mục Thuận trở về Huế và Giám mục địa phận khuyên ông nên nghỉ dưỡng. Sau đó, linh mục Thuận được chuyển đến Giáo xứ Phanxicô Xaviê – Huế, làm phụ tá cho Linh mục Richard Barbon, tên Việt là Triết. Trong thời gian này, ông hỗ trợ mục vụ cho linh mục Richard, kiêm chức Tuyên úy trường Jeanne d’Arc, cử hành lễ cho các nữ tu dòng Thánh Phaolô tại nhà nguyện của trường học này. Ông mời mợi các thợ điêu khắc từ Giáo xứ Tam Tòa đến làm thánh giá bằng gỗ trên cung thánh, hỗ trợ giáo xứ bộ Đàng Thánh giá của gia đình và xây phòng họp cho giáo dân lớn tuổi. Thời làm linh mục phó, giáo xứ này có thêm lễ tiếng Việt vào mỗi chiều Chủ nhật. Bối cảnh sau trận chiến Điện Biên Phủ, linh mục Thuận được yêu cầu chuyển giáo xứ này từ của người Pháp sang của người Việt, do quân đội Pháp rút đi sau chiến tranh. Sau một vài tháng tại giáo xứ Phanxicô Xaviê, năm 1955, sau khi linh mục Richard hồi hương, Giám mục Urrutia lại bổ nhiệm Linh mục Thuận kiêm nhiệm chức tuyên úy của Viện Pellerin, Bệnh viện Trung ương, và các nhà tù tỉnh. Linh mục Thuận trước đó đã tình nguyện làm tuyên úy cho các địa điểm nhà tù, nhà thương, trại cùi.
Từ năm 1956 đến năm 1959, linh mục Nguyễn Văn Thuận được cho đi du học tại Phân khoa Giáo luật thuộc Đại học Giáo hoàng Urbaniana, Roma. Ông hoàn thành việc học và tốt nghiệp với văn bằng tiến sĩ Giáo luật. Luận án Tiến sĩ của ông mang chủ đề: Studium comparativum de organisatione capellanorum militum in mondo ("Tổ chức Tuyên úy Quân đội trên thế giới"). Trong thời gian du học, ông có dịp tiếp xúc, sinh hoạt với các phong trào Đạo Binh Đức Mẹ, Hướng Đạo, Cursillos, Focolare. Các phong trào này ảnh hưởng đến đường lối hoạt động của ông sau này. Linh mục Thuận cũng từng viếng thăm Đức Mẹ Lộ Đức vào tháng 8 năm 1957. Ông cũng từng cùng Tổng giám mục Ngô Đình Thục, cậu ruột yết kiến Giáo hoàng Piô XII.
Trở về nước, năm 1960, linh mục Phanxicô Xaviê Thuận được cử làm giáo sư Tiểu Chủng viện Phú Xuân, Huế.Giám mục Địa phận Huế Urrutia Thi cho biết ông gửi linh mục Thuận đi du học là có mục đích, do Giáo hội Công giáo Việt Nam cần nhiều linh mục người Việt và ông cần chuẩn bị để làm lãnh đạo. Giám mục Thi dự liệu linh mục Thuận sẽ trở thành Giám đốc Chủng viện Phú Xuân. Một thời gian ngắn sau đó, ông khởi công xây cất cơ sở mới và thành lập Tiểu chủng viện Hoan Thiện ở ngay thành phố Huế, cạnh trường Thiên Hữu. Từ năm 1962, linh mục Thuận đảm trách vai trò làm Giám đốc Tiểu chủng viện Hoan Thiện. Ông có dự tính mở xưởng nghề trong chủng viện để đào tạo linh mục có lối sống khác biệt, phù hợp với xã hội đang biến đối. Năm 1964, Hội đồng linh mục bầu chọn linh mục Nguyễn Văn Thuận làm Tổng Đại diện Tổng giáo phận Huế. Tổng giám mục Huế Phêrô Máctinô Ngô Đình Thục chính thức chọn ông vào chức vụ này.
Giám mục Nha Trang (1967–1975)
Ngày 13 tháng 4 năm 1967, linh mục Phanxicô Xaviê Thuận được Giáo hoàng Phaolô VI bổ nhiệm làm Giám mục chính tòa Giáo phận Nha Trang, kế vị Giám mục Paul Raymond Marie Marcel Piquet Lợi (thuộc MEP). Ông là vị giám mục người Việt Nam đầu tiên đảm nhận chức vụ này. Ngày 24 tháng 6 năm 1967, nhân dịp lễ Thánh Gioan Tẩy Giả, ông được tấn phong giám mục tại Tiểu chủng viện Hoan Thiện, Huế. Nghi thức truyền chức được cử hành bởi chủ phong là Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam, Lào và Campuchia Angelo Palmas, cùng với hai vị khác trong vai trò phụ phong, gồm Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Philípphê Nguyễn Kim Điền và Tổng giám mục Jean-Baptiste Urrutia Thi – Tổng giám mục Hiệu toà Isauropolis, nguyên Đại diện Tông Tòa Địa phận Huế. Khẩu hiệu của tân giám mục là: Gaudium et Spes (Vui Mừng và Hy vọng), lấy từ tên của Hiến chế Mục vụ của Công đồng Vaticanô II. Với độ tuổi 39, ông là một trong số các giám mục Việt Nam trẻ tuổi được tấn phong trong giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1975.
Ngày 10 tháng 7 năm 1967, tân giám mục Nguyễn Văn Thuận chính thức nhậm chức tại Giáo phận Nha Trang. Trong 8 năm làm giám mục tại đây, ông thành công trong việc phát triển giáo phận: ông quan tâm đến việc đào tạo nhân sự, gia tăng con số các đại chủng sinh từ 42 lên 147, số Tiểu chủng sinh tăng từ 200 lên 500. Ông tổ chức các khóa thường huấn linh mục cho sáu giáo phận thuộc Giáo tỉnh Huế, thành lập và phát triển các hội đoàn giáo dân, phong trào Công giáo tiến hành như: Phong trào Công lý và Hòa bình, Cursillos, Focolare, Hướng đạo, Cộng đoàn La vang, Tu hội Hy Vọng. Ông cũng cho thiết lập Hội đồng Giáo dân từ Giáo xứ lên Giáo phận, hình thành và phát triển Trung tâm Văn hóa Chàm tại Phan Rang (1968).
Ông cho phổ biến nhiều thư với các chủ đề: Tỉnh thức và cầu nguyện vào năm 1968; Vững mạnh trong Đức tin để Tiến bước trong An bình, năm 1969; Công lý và Hòa bình, năm 1970; Sứ vụ Chúa Kitô là sứ mạng của chúng ta, năm 1971; Kỷ niệm 300 năm vào năm 1971; Năm Thánh Canh tân và Hòa giải, năm 1973. Giám mục Thuận thuyết trình đề tài Các vấn đề chính trị tại Á Châu và những Giải pháp liên hệ trong khuôn khổ Hội nghị Liên Hội đồng Giám mục Á châu họp tại Manila, Philippines vào ngày 24 tháng 11 năm 1970. Năm 1970, nhân kỷ niệm 300 năm Giám mục Lambert de la Motte đến Giáo phận Nha Trang, Giám mục Nguyễn Văn Thuận đã thiết lập Chủng viện Lâm Bích. Tên đầy đủ của chủng viện là Chủng viện Truyền giáo Lâm Bích, trong đó Lâm Bích là tên Giám mục Thuận Việt Hóa từ tên gốc Lambert của vị giám mục truyền giáo.
Cuối tháng 3 năm 1971, các giáo sĩ Công giáo đến từ bốn quốc gia: Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc tổ chức một cuộc họp với mục đích thúc đẩy sự đoàn kết của các Giáo hội Công giáo tại các quốc gia này, phát triển Thần học Á Châu. Giám mục Nguyễn Văn Thuận, cùng Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình - Chủ tịch Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam tham gia cuộc họp này. Tham gia cuộc họp này phần lớn là Chủ tịch các Hội đồng giám mục các quốc gia tham dự: Giuse Quách Nhã Thạch (Trung Quốc), Paul Yashigoro Taguchi (Nhật Bản), Stephen Kim Sou-hwan (Hàn Quốc) cùng 1 vị giám mục khác, thuộc mỗi quốc gia. Giám mục Giáo phận Hồng Kông Phanxicô Xaviê Từ Thành Bân chủ sự cuộc họp. Ngày 18 tháng 11 cùng năm, Giáo hoàng Phaolô VI đã gửi thư cho Giám mục Thuận nhân dịp kỷ niệm 300 năm giám mục Tông Tòa đầu tiên đặt chân đến vùng đất thuộc giáo phận Nha Trang.
Từ năm 1971 đến năm 1975 (hoặc đến 1978), ông được chọn làm Cố vấn Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân. Trong giai đoạn này, ông cũng có dịp học tập kinh nghiệm của Tổng giám mục Cracow, Ba Lan về sinh hoạt mục vụ với chế độ Cộng sản. Vị Tổng giám mục này sau này là Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ông cũng được bổ nhiệm làm Cố vấn và thành viên của Bộ Truyền giáo, nhận trách nhiệm đến thăm và giám sát các chủng viện tại một số quốc gia ở châu Phi. Ngoài ra, ông cũng là thành viên của Bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích. Tháng 7 năm 1951, Giáo hoàng Phaolô VI thành lập Hội đồng Giáo hoàng Đồng Tâm (Cor Unum), một hội đồng phối hợp với các cơ quan từ thiện Công giáo nhằm hỗ trợ các dự án phát triển nhân bản với phạm vi toàn thế giới. Hội đồng này hỗ trợ Việt Nam thông qua tổ chức Hợp tác để Tái thiết Việt-Nam (Cooperation for the Reconstruction of Viêtnam, viết tắt là COREV. Tổ chức này hình thành nhờ sự hợp tác của Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam và Giám mục các quốc gia khác. Giám mục Nguyễn Văn Thuận, với cương vị Chủ tịch Ủy ban Phát triển trược thuộc Hội đồng Giám mục miền Nam Việt Nam được trao trọng trách điều hành COREV. Việc điều hành nà thực tế đã gây cản trở việc quản lý Giáo phận Nha Trang của giám mục Thuận. Nguyễn Văn Thuận thường phải đi lại giữa Sài Gòn và Nha Trang, do trụ sở tổ chức tọa lạc tại Sài Gòn. Giám mục Thuận thường xuyên xin ý kiến các giám mục khác, dù Hội đồng Giám mục đã trao toàn quyền quyết định cho ông. Tổ chức đã hỗ trợ nhiều dự án xây nhà, cất trường,... tại Việt Nam.
Trong Hội đồng Giám mục Miền Nam Việt Nam, ông từng trải qua nhiều chức vụ khác nhau: Chủ tịch Ủy ban Công Lý và Hòa Bình; Chủ tịch Ủy ban Truyền thông xã hội (1967–1975); Chủ tịch Ủy ban Phát triển Việt Nam (1967–1975); phụ trách Ủy ban Di dân. Ngoài ra, ông cũng cộng tác trong việc thành lập đài phát thanh Chân Lý Á Châu.
Tổng Giám mục phó Sài Gòn (1975–1994)
Những căng thẳng xung quanh vụ bổ nhiệm Tổng giám mục phó Sài Gòn
Ngày 7 tháng 1 năm 1975, Việt Nam Cộng hòa mất quyền kiểm soát tỉnh Phước Long, địa điểm có vị thế cửa ngõ tiến vào Thành phố Sài Gòn. Nhận định tình hình quân sự phức tạp, Khâm sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre trao đổi với Tổng giám mục Tổng giáo phận Sài Gòn Phaolô Nguyễn Văn Bình vấn đề Tổng giáo phận cần một tổng giám mục phó. Theo ý của Giáo hoàng Phaolô VI, vị này cần có các tiêu chuẩn như: tuổi tác không quá nhỏ hoặc lớn, có tinh thần sống chung, hợp tác với chính quyền mới. Tháng 4 năm 1975, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình năm lần yêu cầu Khâm sứ Tòa Thánh Lemaitre xin Tòa Thánh bổ nhiệm giám mục Nguyễn Văn Thuận làm Tổng giám mục phó Sài Gòn.
Chiếu theo đề nghị của Khâm sứ, ngày 24 tháng 4 năm 1975, Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Thuận làm Tổng Giám mục hiệu tòa Vadesi, chức vị tổng giám mục phó của Tổng giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Cùng với tin bổ nhiệm này, Tòa Thánh cắt đặt Giám mục Giáo phận Phan Thiết Phaolô Nguyễn Văn Hòa làm giám mục kế vị ông tại Giáo phận Nha Trang. Do Tân Tổng giám mục phó Thuận là cháu trai cựu Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm và việc bổ nhiệm chỉ xảy ra vài ngày trước khi kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam (ngày 30 tháng 4 năm 1975), việc bổ nhiệm này bị nhóm Công giáo cảnh tả phản ứng mạnh mẽ. Đối với chính quyền mới, việc thuyên chuyển này là âm mưu của Vatican và các đế quốc. Tổng giám mục Thuận bác bỏ cáo buộc trên.
Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thuận tạm hoãn về Sài Gòn, đến ngày 7 tháng 5 thì ông mới về thành phố này để nhận nhiệm vụ mới. Trong sách "Năm chiếc bánh và hai con cá" do chính ông viết, ông hồi tưởng về sự kiện này như sau: Đêm ấy 7 tháng 5 năm 1975, khi tôi ghi âm những lời tạm biệt Giáo phận Nha trang, tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc nhiều, đó là một lần độc nhất tôi đã khóc thổn thức trong tám năm ở Nha Trang - vì thương nhớ. Nhưng tâm hồn tôi rất bình an, vì tôi vâng lời Đức Thánh Cha. Tiếp đến là gian khổ, thử thách tại Sàigòn… Trong thư mục vụ giã từ giáo phận Nha Trang, Nguyễn Văn Thuận cho biết ông vâng theo quyết định Giáo hoàng với việc bổ nhiệm mới.
Ngày 8 tháng 5, một nhóm 15 linh mục (hoặc khoảng 20 linh mục), trong đó có các linh mục Trương Bá Cần, Trần Viết Thọ, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Huỳnh Công Minh,... viết thư đến Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình, yêu cầu hoãn bổ nhiệm giám mục Nguyễn Văn Thuận. Bốn ngày sau đó, Văn phòng Tòa Tổng giám mục Sài Gòn gửi thư cho tất cả các giáo xứ trong Tổng giáo phận, loan báo việc Tòa Thánh đã bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận làm Tổng giám mục Phó Sài Gòn ngày 25 tháng 4 và ông chính thức nhận nhiệm vụ mới vào ngày ra thông báo. Tân tổng giám mục phó đến chủng viện cùng tổng giám mục Bình, thăm giám mục phụ tá Phanxicô Xaviê Trần Thanh Khâm thì nhóm linh mục gồm 7 linh mục trong số 15 linh mục đề nghị hoãn việc Tổng giám mục Thuận đến Chủng viện chất vấn Tổng giám mục Bình và yêu cầu tổng giám mục phó Thuận từ chức ngay lập tức. Họ cho rằng việc thuyên chuyển, bổ nhiệm thì các giám mục Việt Nam có thể tự thu xếp mà không cần đến Tòa Thánh. Linh mục Stêphanô Chân Tín, một người bất đồng chính kiến thừa nhận ông có ký tên trong bản kiến nghị này, nhưng với mục đích xin hoãn việc nhậm chức Tổng giám mục phó của Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận vì cho rằng tình hình lúc này quá căng thẳng và có thể gây nguy hiểm đến tân tổng giám mục phó.
Một ngày sau việc chất vấn của nhóm linh mục, từ 50 đến 60 sinh viên Công giáo đến Tòa Tổng giám mục Sài Gòn. Tại đây, họ căng 3 biểu ngữ nhằm yêu cầu Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận từ chức. Trưa cùng ngày, một phái đoàn giáo dân đến gặp và đề nghị giám mục Nguyễn Văn Thuận tự nguyện từ chức. Các đề nghị trên bị khước từ, nhóm linh mục và giáo dân này tố cáo giám mục Thuận thuộc dòng họ chống Cộng và có ảnh hưởng đến phong trào chống Cộng. Các bài báo trên báo Sài Gòn Giải Phóng số 29 ngày 8 tháng 6 năm 1975 và bản tin của Đài phát thanh Sài Gòn Giải Phóng ngày 7 tháng 6 năm 1975 đề cập đến việc nhiều tổ chức Công giáo, bao gồm các linh mục và giáo dân yêu cầu Khâm sứ Tòa Thánh Henri Lemaitre phải rời khỏi Việt Nam ngay lập tức và kết án Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận có những hành động chống chính phủ Cách mạng Lâm thời.
Ngày 7 tháng 6, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình viết thư xác nhận việc Tòa Thánh bổ nhiệm giám mục Nguyễn Văn Thuận là phù hợp với nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của Tổng giáo phận Sài Gòn. Ông bác bỏ rằng việc bổ nhiệm là một việc áp đặt, đồng thời khẳng định một số giám mục cũng như bản thân ông đã được tham khảo ý kiến và chính ông đã đồng ý việc bổ nhiệm. Nguyễn Văn Bình cũng kêu gọi các giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân tuân phục quyết định của Tòa Thánh. Trước tình hình này, Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình viết thư gửi đến ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, đồng gửi ông Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn – Gia Định vào ngày 8 tháng 6 nhằm nêu lên một số quan điểm của mình. Trong thư, tổng giám mục Bình cho rằng các thông tin mà nhóm giáo dân và linh mục trên đang tuyên truyền trong thời gian từ 4 đến 5 ngày tới, Chính phủ Lâm thời sẽ trục xuất Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận khỏi Tổng giáo phận Sài Gòn. Nguyễn Văn Bình nhận định, các tổ chức mệnh danh Công giáo trên chỉ là thiểu số, không thể đại diện cho giáo dân Công giáo; các tội gán cho Khâm sứ và Nguyễn Văn Thuận là thất thiệt và việc tung tin đồn làm giáo dân bất mãn. Nội dung thư, Tổng giám mục Sài Gòn cũng đề nghị chấm dứt chiến dịch tố cáo các giáo sĩ và dừng việc trục xuất tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận mà ông cho rằng là phi pháp.
Ngày 27 tháng 6 năm 1975, Ủy ban Quân Quản thành phố Sài Gòn – Gia Định công bố quyết định không cho ông Nguyễn Văn Thuận hoạt động tôn giáo tại thành phố. Trong cuộc họp kéo dài từ 15 đến 19 giờ, Tổng giám mục Thuận đã tiếp xúc với ba cán bộ cao cấp của Ủy ban Quân quản cùng nhóm những người Công giáo yêu nước, họ cho rằng việc thuyên chuyển một người họ hàng với Ngô Đình Diệm vào Sài Gòn vào thời điểm này là âm mưu của các nước đế quốc. Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn - Gia Định ra thông báo ngày 1 tháng 7 tuyên bố không chấp thuận việc bổ nhiệm đối với Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận và yêu cầu ông về lại nơi cư trú trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Vụ việc bắt giữ và thời gian ngục tù, quản chế
Ngày 15 tháng 8 năm 1975, Ủy ban Quân quản mở cuộc họp tại Nhà hát Thành phố để tuyên truyền về "âm mưu" và buộc tội Tân Tổng giám mục phó Nguyễn Văn Thuận. Bị mời đến có khoảng 350 giáo sĩ, tu sĩ. Lúc 14 giờ, hai giám mục của Sài Gòn là Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình và Tổng giám mục Phó Nguyễn Văn Thuận được đưa đến Dinh Độc Lập. Khi đi dọc hành lang để đến phòng họp, tổng giám mục Bình đi trước giám mục Thuận thì một công an chặn và dẫn giám mục Thuận rời đi. Tổng giám mục Bình có cuộc hội kiến với tướng Trà. Khi ra về, khi được hỏi về giám mục Thuận để cùng ra về, Tổng giám mục Bình nhận được hồi đáp của tướng Trà: Như cụ thấy, chế độ này là chế độ Cộng sản. Tên Thuận là dòng dõi Ngô Đình Diệm, chúng nó chống Cách mạng từ trong trứng chống ra, nên không thể để nó ở đây được. Nguyễn Văn Thuận bị bắt, chỉ mang các vật dụng là một tràng hạt và áo chùng thâm giáo sĩ và bị đưa đi với cung đường 450 km. Nguyễn Văn Thuận cho biết ông có nhiều cảm xúc lẫn lộn: cô đơn, mệt mỏi,... nhưng quyết định sống theo tâm tình của Giám mục John Walsh, từng bị tù tại Trung Quốc: Tôi sống phút hiện tại và làm cho nó đầy tình thương. Tối cùng ngày, Công an đến bắt Nguyễn Văn Thuận đưa đến Nha Trang, đến quản thúc tại Giáo xứ Cây Vông, thuộc xã Diên Sơn, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa. Tại Cây Vông, nhiều công an cả công khai và chìm theo dõi Tổng giám mục Thuận. Nguyễn Văn Thuận cho biết ông đau lòng khi các sinh hoạt mục vụ và các tu sĩ và giáo dân không thể tiếp tục tham gia các sinh hoạt tôn giáo. Ông hoàn thành cuốn sách Đường Hy Vọng trong thời gian tại Cây Vông, bằng việc biên soạn vào các đêm tháng 10 và tháng 11 năm 1975, trên những tờ lịch cũ được một bé trai hỗ trợ.
Ngày 18 tháng 3 năm 1976, Nguyễn Văn Thuận bị đưa vào giam ở trại Phú Khánh, Nha Trang. Đây là nơi ông đánh giá nơi gây cho mình nhiều vất vả nhất. Tại trại giam này, Tổng giám mục Thuận bị đưa vào một căn phòng không cửa sổ. Căn phòng này nóng ẩm, ngột ngạt, nấm mọc trắng nền và chiếu. Những điều kiện của căn phòng làm ông dần mất ý thức và mê man. Căn phòng được sắp xếp để có khi được mở đèn sáng như ban ngày, khi lại không có ánh sáng, khi mưa có những côn trùng bò vào trong phòng, thông qua một lỗ nhỏ dưới vách, nơi tù nhân Thuận đưa mũi vào để hít thở. Tình trạng của Tổng giám mục Thuận tồi tệ, có khi cấp dưỡng đã đưa hai linh mục cùng bị giam đến xem mặt lần cuối vì tin rằng ông sắp chết.
Đến ngày 29 tháng 11 năm 1976, ông bị chính quyền đưa vào giam ở trại Thủ Đức.
Ngày 1 tháng 12 năm 1976, Nguyễn Văn Thuận cùng nhiều tù nhân khác được được lên tàu Hài Phòng được neo đậu tại bến Tân Cảng, gần cầu Xa Lộ. Họ được đưa đến trại cải tạo Vĩnh Quang, tỉnh Vĩnh Phú, tọa lạc tại thung lũng núi Tam Đảo. Sau đó, ông được chuyển đến nhà giam Công an Thành phố Hà Nội. Từ ngày 26 tháng 5 năm 1978, tù nhân giám mục Nguyễn Văn Thuận bị đưa ra quản thúc ở giáo xứ Giang Xá, thuộc huyện Hoài Đức. Tại đây, ông bí mật viết hai cuốn sách: Đường hy vọng dưới ánh sáng lời Chúa và Cộng đồng Vatican II và Những người lữ hành trên đường hy vọng. Ông đã bị quản thúc tại đây đến tháng 11 năm 1982. Cán bộ tại địa phương này bị điều chuyển liên tục, bảo vệ cũng bị thay đổi hai tuần một lần, do nhiều người đã bỏ định kiến mà có ấn tượng tốt về Nguyễn Văn Thuận. Tổng giám mục Thuận từng giữ lại tờ báo Quan sát viên Rôma bọc cá được gửi đến theo kiểu bưu kiện vì cho rằng đó là sự hiệp thông với giáo hoàng và Giáo hội Công giáo.
Trong khuôn khổ chuyến viếng thăm Ad Limina của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980 tại Rôma, Tòa Thánh Vatican hỏi ý kiến Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình về việc đưa Giám mục Gioan Baotixita Bùi Tuần về Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, thay thế Tổng giám mục Thuận đang chịu cảnh tù ngục. Tổng giám mục Bình sau hai tuần suy nghĩ đã từ chối đề xuất này, với lý do lo ngại cho sức khỏe của Giám mục Tuần.
Tuy không bao giờ bị kết án, Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận bị 13 năm tù và quản chế, trong đó có 9 năm biệt giam. Sau khi được trả tự do, ông còn bị quản chế 3 năm. Ngoài ông, em ruột ông là Nguyễn Văn Thanh cũng chịu cảnh bị giam ở nhiều trại tù cải tạo.
Phản ứng quốc tế về vụ bắt giữ
Cuối tháng 2 năm 1977, Tòa Thánh mới biết thông tin và loan tin vụ việc Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận bị bắt giữ. Ngoài ra, các chi tiết về vụ việc này cũng không được công bố. Thông tin từ tờ Catholic News Service cho biết tổng giám mục Thuận bị giam giữ trong một phòng giam thiếu khí và tối, bị ngược đãi, đánh đập và buộc đứng hàng giờ liền. Tháng 5 năm 1977, có thông tin chân Tổng giám mục Thuận đã liệt và ông mắc bệnh về phổi. Thông tin về sự tôn kính của các tù nhân đối với ông cũng được lan truyền.
Có nhiều thông tin đồn đoán về số phận Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận, bao gồm nguồn tin cho biết ông đã chết trong tù, mặc dù chính quyền Việt Nam bác bỏ thông tin này.. Từ tháng 6 năm 1977, một người chị em gái với Tổng giám mục Thuận là bà Anna Ngân đã cho đăng tải thông tin đề nghị trả lại tự do cho ông Nguyễn Văn Thuận trên trang nhất báo Tổng giáo phận Sydney, Catholic Weekly The Australian (Tuần báo Công giáo Úc). Sau vài tháng sau chiến tranh Việt Nam bà Ngân và các giám mục Ùc đề nghị Thủ tướng Úc Malcolm Fraser yêu cầu các quan chức Việt Nam cung cấp thông tin nhưng không thu được kết quả. Câu hỏi về tình hình Tổng giám mục Thuận cũng được Giáo hoàng Phaolô Vđưa ra trong cuộc tiếp kiến Thủ tướng Fraser tháng 5 năm 1977. Trước khi tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới vào tháng 10 năm 1977, Hồng y Tổng giám mục Hà Nội Giuse Maria Trịnh Như Khuê và Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình được phép thăm Tổng giám mục Thuận đang quản thúc tại Hà Nội. Từ sau thông tin trước thượng hội đồng Giám mục, không có thêm thông tin về Nguyễn Văn Thuận. Thông tin về Nguyễn Văn Thuận được các quan chức Tòa Thánh Vatican xác nhận vào tháng 6 năm 1978 là ông đang bị quản chế tại một giáo xứ tại Hà Nội, được phép cử hành thánh lễ nhưng không rõ các quy tắc giới hạn đối với ông.
Ngày 22 tháng 9 năm 1993, nhân việc rắc rối về việc bổ nhiệm Giám mục Nicôla Huỳnh Văn Nghi từ Phan Thiết về Sài Gòn, ông Trương Tấn Sang, lúc đó là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, gửi thư cho Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình. Nội dung thư này có nhắc đến việc bổ nhiệm Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận: Như cụ đã biết, năm 1975 Chính phủ ta đã không chấp nhận ông Nguyễn Văn Thuận về Giáo phận thành phố và dứt khoát sẽ không bao giờ chấp nhận, vì ông Nguyễn Văn Thuận đã từng gắn bó với một gia đình có nhiều nợ máu với nhân dân và bản thân ông Nguyễn Văn Thuận cũng có một quá trình lâu dài và tinh vi chống phá sự nghiệp giành độc lập và bảo vệ độc lập dân tộc.
Trong tù, Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận vẫn cử hành thánh lễ cho chính mình và cho những tù nhân khác. Những người đến thăm đã lén chuyển rượu lễ và bánh lễ cho ông, ngụy trang bằng chai thuốc trị đau bao tử. Với những thứ đó, mỗi ngày ông dùng ba giọt rượu và một giọt nước đổ vào lòng bàn tay để cử hành Bí tích Thánh Thể. Buổi tối, khi ông và các tù nhân khác phải đi ngủ, họ nằm sát nhau để cử hành thánh lễ, sau đó lén chuyền Thánh Thể cho nhau qua các tấm màn chống muỗi. Họ dùng bao thuốc lá để cất giữ Thánh Thể.
Tờ The Guardian đánh giá việc giam tù và quản chế Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận đã khiến ông trở thành một dạng anh hùng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới. Chính những năm tháng này cũng đủ kiến vị Hồng y tương lai lọt vào danh sách ứng viên tiềm năng kế vị Giáo hoàng – một papabile.
Các hoạt động trong thời kỳ tù ngục, quản chế
Sinh hoạt tôn giáo trong tù
Giám mục Nguyễn Văn Thuận sử dụng các mẩu giấy vụn nhỏ để tạo thành một cuốn Kinh Thánh cỡ nhỏ. Ông viết khoảng 300 bài Tin Mừng vào trong quyến Kinh Thánh tự tạo này, gồm những bài mà ông thuộc nằm lòng. Ông dùng ba giọt rượu và một giọt nước, đặt trong lòng ban tay để cử hành nghi thức truyền phép. Nguồn rượu đến từ gia đình, dưới vỏ bọc thuốc chống đau dạ dày để gửi vào trại tù, bánh được sử dụng trong nghi thức được cất trong giấy bạc bọc thuốc lá. Cách cử hành lễ trong trại giam phụ thuộc vào hoàn cảnh: Dưới hầm tàu thủy, Nguyễn Văn Thuận cử hành lễ ban đêm giữa các tù nhân, với bàn thờ là túi cói. Tại trại giam Vĩnh Quang, ông dùng thời gian tù nhân đi tắm sau giờ thể dục vào ban sáng, nơi góc cửa và giữa đêm để cử hành thánh lễ Công giáo. Các tù nhân Công giáo tại trại giam này dùng giấy nylon bọc thuốc lá để cất giấu Mình Thánh và chia nhau mỗi người giữ trong một ngày. Với việc cử hành thánh lễ trong trại giam, Nguyễn Văn Thuận đã hỗ trợ nhiều giáo dân công giáo quay lại với đời sống tâm linh, dùng nhà giam làm nơi giảng dạy giáo lý Công giáo, đưa nhiều người không Công giáo gia nhập đạo, cử hành nghi thức Rửa Tội ngay trong trại tù hoặc sau ngày được tự do.
Tình bạn với cai tù
Trong khi ở trong tù với năm cai ngục trẻ. Những người phụ trách đã cấm họ nói chuyện với Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận. Ban đầu vệ sĩ được thay đổi sau mỗi khoảng thời gian 15 ngày. Quản lý nhà tù tin các vệ sĩ có nguy cơ bị "nhiễm" – trở thành bạn bè ông nếu ở lại với ông trong thời gian dài. Cuối cùng, họ dừng không thay đổi nữa vì sợ Nguyễn Văn Thuận sẽ làm "ô nhiễm" toàn bộ lực lượng.
Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận trò chuyện với cai ngục qua cánh cửa tù về cuộc sống, các quốc gia khác nhau ông đã đến thăm, gia đình, thời thơ ấu. Ông cũng dạy họ tiếng Anh, tiếng Pháp, và một chút tiếng Nga. Một ngày nọ, ông nhờ một cai tù đem một vật dụng gì đó để ông có thể cắt một cây thánh giá từ một miếng gỗ. Mặc dù tất cả các biểu tượng tôn giáo bị nghiêm cấm, ông đã có một cây thánh giá đeo ngực (phẩm phục giám mục) trong 3 tháng. Ông giấu nó trong một bánh xà phòng. Một lần khác ông hỏi xin một đoạn dây điện và một cặp kìm. Trong vòng bốn giờ, Tổng giám mục Thuận đã sử dụng đoạn dây này nắn một chuỗi dây chuyền. Thánh giá đó về sau được mạ bạc và nó là thánh giá đeo ngực mà ông vẫn thường sử dụng.
Viết sách trong thời gian quản chế
Ngày 16 tháng 8 năm 1975, một ngày sau khi bị bắt, Nguyễn Văn Thuận bắt đầu biên soạn cuốn sách Năm chiếc bánh và hai con cá. Cùng viết song song là cuốn Đường hy vọng với 1001 câu suy niệm ngắn gọn để giúp giáo dân Công giáo sống đạo một cách kiên vững trong hoàn cảnh mới của đất nước. Cuốn sách này được đánh giá là một di chúc tinh thần xúc động đối với nhiều người Công giáo Việt Nam. Đến năm 1986, cuốn sách mới cơ bản hoàn thành và cho đến năm 1997, ông mới viết lời mở đầu cho nó. Tiến trình viết sách tại nơi quản chế là Giáo xứ Cây Vông là do Tổng giám mục Thuận quyết định làm theo hành động của Phaolô, một tông đồ trong thời gian ngục tù: Các buổi đêm tháng 10 và tháng 11 năm 1975, ông đóng cửa và dùng mặt sau lịch blốc, với ánh đèn dầu và côn trùng vây quanh. Mỗi sáng, ông trao lại cho bé Quang, 5 tuổi, người đã hỗ trợ ông trong việc mua blốc lịch, đưa về nhà và nhờ anh chị chép lại. Ông dùng nhiều thời gian ngày đêm viết sách, vì lo ngại sẽ bị chuyển trại, và quyết định dừng lại ở lời nguyện thứ 1001. Cuốn sách hoàn thành và Nguyễn Văn Thuận dâng lời tạ ơn Đức Maria nhân dịp lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, ngày 8 tháng 12 năm 1975.
Hồng y Roger Etchegaray cho biết Hồng y Thuận từng kể lại cho ông nghe khoảng thời gian viết quyển sách Đường hy vọng: Một buổi sáng tháng 10 năm 1975, tôi ra dấu cho một cậu bé 7 tuổi tên là Quang, đi dự lễ 5 giờ về, khi trời chưa sáng: "Con nói với mẹ mua cho cha mấy bloc lịch cũ!" Chiều tối, khi mặt trời bắt đầu lặn, Quang đem lại cho tôi các cuốn lịch bloc. Từ khi ấy, trong tháng mười và tháng 11 năm 1975, hằng đêm tôi viết cho dân tôi thông điệp từ cảnh tù đầy. Mỗi sáng, đứa bé tới lấy các tờ lịch, đem về nhà cho các anh chị chép lại thông điệp…
Trong thời gian quản chế ở Giang Xá, cách Hà Nội 17 cây số, từ 1978 đến 1982, Nguyễn Văn Thuận cũng đã viết thêm hai cuốn sách với chủ đề hy vọng. Đó là cuốn Đường Hy vọng dưới ánh sáng lời Chúa và Công đồng Vatican II và cuốn Những người lữ hành trên Đường Hy vọng. Những năm biệt giam sau đó, ông đã viết khoảng 400 bài suy niệm bằng tiếng nước ngoài và đóng thành tập sách "Cầu nguyện Hy vọng".
Phản ứng của gia đình
Bà Thủy Tiên – em gái Hồng y Thuận kể về thời kì này, bà cho biết: Trong nhiều năm trời, chúng tôi không nhận được bất cứ tin tức gì về Đức Hồng y cả, Chúng tôi nghĩ rằng anh của chúng tôi đã bị giết" Thế rồi hội Hồng Thập Tự, qua nhiều năm truy tìm, họ báo cho gia đình chúng tôi biết là ngài vẫn còn sống, và hiện đang bị giam trong trại cải tạo.
Bà Thủy Tiên cũng cho biết: Sau này, những người cộng sản bảo ngài viết thư báo cho thân nhân mua thuốc tây gửi vào vì ngài bị bệnh... Thế rồi mỗi tháng, chúng tôi đều gửi toa đến một dược phòng bên Pháp, để đặt mua hàng trăm loại thuốc kháng sinh gửi vào trại cải tạo. Chúng tôi biết những loại thuốc đó không phải cho ngài, nhưng chúng tôi không có sự chọn lựa nào khác, họ còn nhắn gia đình gửi sữa vào để nuôi người bệnh. Chúng tôi đã gửi sữa hộp vào trại, cho mãi đến khi ngài được thả, khi hỏi ngài bảo cán bộ chỉ đưa cho ngài hộp không và nói là sữa bị chuột ăn hết rồi.Có lần khi ông lâm trọng bệnh, hội Hồng Thập Tự dàn xếp để đưa ngài sang Pháp giải phẫu, rồi sau đó đưa ngài trở lại biệt giam tại miền Bắc Việt Nam.
Thời kỳ quản chế, chữa bệnh tại Việt Nam
Ngày 21 tháng 11 năm 1988, một cán bộ đến gặp Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận và yêu cầu ông này sau khi ăn cơm phải ăn mặc sạch sẽ để đến gặp một vị lãnh đạo. Nguyễn Văn Thuận được gặp ông Mai Chí Thọ – Bộ trưởng Bộ Nội vụ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Khi được Bộ trưởng Thọ hỏi về nguyện vọng của mình, Tổng giám mục Thuận trả lời rằng mình mong muốn được trả tự do ngay lập tức. Chưa kịp để bộ trưởng phản hồi, Tổng giám mục Thuận trình bày về thời gian ở tù đã trải dài qua ba đời giáo hoàng và bốn Tổng bí thư Liên Xô. Bộ trưởng Thọ sau đó chấp nhận nguyện vọng của Tổng giám mục Thuận và trả tự do cho ông này, đưa vị giám mục đến quản chế tại tòa Tổng giám mục Hà Nội. Nguyễn Văn Thuận được thả cùng ngày, tuy vậy, ông không được thi hành các công tác mục vụ.
Năm 1989, các Giám mục Công giáo Việt Nam dự định chọn Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận làm Chủ tịch hoặc Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục. Tuy vậy, vì lý do sức khỏe, ông phải vào điều trị bệnh tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ Nội vụ Việt Nam gửi đại diện là ông Nguyễn Tư Hà vào tiếp xúc với Nguyễn Văn Thuận, yêu cầu ông từ chối tẩt cả các chức vụ, dù chỉ là Chủ tịch Uỷ ban hoặc Tiểu ban nếu được bầu chọn. Tổng giám mục Thuận cho rằng nếu được chọn, ông không thể từ chối. Vì lý do này, ông Hà tham dự phiên họp Hội đồng Giám mục, thông báo chính phủ Việt Nam không muốn thấy Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận được chọn vào bất kỳ chức vụ nào trong Hội đồng. Do thời gian kỳ họp trùng với thời gian phẫu thuật, Tổng giám mục Thuận không thể tham gia họp và các giám mục không thể bầu chọn ông. Phẫu thuật thất bại, ông còn bị nhiễm độc. Medical Community of Saint Egidio tại Rôma can thiệp, ông được đưa sang Ý chữa bệnh. Sau vài tuần dưỡng bệnh, về đến Việt Nam, ông bị tịch thu hộ chiếu, bị canh chừng. Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận rời khỏi Việt Nam đến Úc thăm cha mẹ đang sống tại đó, sau đó ông đến Roma gặp Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Quay trở về Việt Nam, tháng 11 năm 1989, ông mắc bệnh viêm tiền liệt tuyến và được giải phẫu tại Bệnh viện Việt Đức, Hà Nội. trong thời gian này, ông được mời làm thành viên Uỷ ban Quốc tế về Di trú và Di dân. Vì bệnh tình nặng kéo dài, nên ông được cấp phép đến Roma tiếp tục điều trị. Nguyễn Văn Thuận đến Roma tháng 4 năm 1990.
Rời Việt Nam và làm việc tại Giáo triều Rôma (1990–2002)
Rời Việt Nam và đề nghị của Tòa Thánh
Ngày 21 tháng 9 năm 1991, Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận rời Việt Nam theo lời đề nghị của một quan chức chính quyền Việt Nam. Trong khi đang được điều trị bệnh tại Roma, Chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố ông Nguyễn Văn Thuận không còn được trở lại Việt Nam (persona non grata). Đầu năm 1991, Hồng y Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Phaolô Giuse Phạm Đình Tụng viết thư đề nghị Giáo hoàng chọn Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận làm Tổng giám mục phó với quyền kế vị. Chính quyền Việt Nam bác bỏ đề nghị từ phía Tòa Thánh. Tổng giám mục Thuận có cuộc gặp với ông Nguyễn Hồng Lam, đứng đầu cơ quan phản gián và phụ trách vụ tôn giáo. Ông Lam cho rằng việc đề bạt Tổng giám mục Thuận làm Tổng giám mục phó Hà Nội là mưu đồ lớn hơn cả kế hoạch năm 1975. Tổng giám mục Thuận cho rằng vì các giám mục Việt Nam đề bạt và Tòa Thánh không chỉ đạo. Nguyên nhân của việc này, theo ông là do các giám mục Việt Nam được biết ông không được thi hành tác vụ công khai nên đã chọn cho ông một vị trí trong tương lai.
Tại Rôma, Tổng giám mục Thuận là cố vấn chính của Giáo hoàng và Phủ Quốc vụ khanh về mối quan hệ với chính quyền Việt Nam. Ngày 14 tháng 1 năm 1992, phái đoàn Toà Thánh do Đức ông C.Celli dẫn đầu đến Hà Nội để làm việc với chính phủ Việt Nam, đề nghị giải pháp toàn bộ gồm ba điểm: Bổ nhiệm Giám mục Giám quản Phạm Đình Tụng làm Tổng giám mục Hà Nội, Giám mục Nguyễn Văn Thuận làm Tổng giám mục Phó Hà Nội và Giám mục Nicôla Huỳnh Văn Nghi làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên, do chính phủ không chấp nhận Giám mục Thuận làm Tổng giám mục Phó Hà Nội, và Toà Thánh cho đây là biện pháp toàn bộ nên giải pháp bất thành, phái đoàn Toà Thánh trong lần làm việc với chính phủ năm 1994 thừa nhận đây là một sai lầm.
Sau đó, cuộc gặp từ ngày 1 đến ngày 7 tháng 2 năm 1993, phái đoàn Toà Thánh đưa ra giải pháp toàn bộ mới, trong đó cắt đi đề nghị đầu tiên so với năm 1992, vẫn giữ nguyên 2 đề nghị sau về các giám mục Huỳnh Văn Nghi và Nguyễn Văn Thuận. Nhưng chính phủ chỉ đồng ý đề nghị về phần Giám mục Nghi mà không chấp nhận Tổng giám mục Thuận ra Hà Nội, vì là một giải pháp toàn bộ, Toà Thánh không bổ nhiệm Giám mục Nghi làm Tổng giám mục phó như đã định. Tổng giám mục Celli được nhận định là đã cố gắng linh động nhằm chọn được các giám mục kế vị ở Hà Nội để kế vị Hồng y Trịnh Văn Căn cũng như Tổng giám mục Nguyễn Văn Bình ở Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Sau nhiều lần thương thảo không thành công, Tòa Thánh Vatican sau đó cố gắng bổ nhiệm Giám quản Tông Tòa cho Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, tuy vậy chính quyền tiếp tục bác bỏ đề nghị này. Năm 1993, Tổng giám mục Thuận đến Úc khi cha ông qua đời. Ngày 27 tháng 4 năm 1993, Giáo hoàng bổ nhiệm Tổng giám mục Thuận và Giám mục giáo phận Xuân Lộc Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật làm cố vấn của Bộ Truyền giáo.
Trừ khi đến Rôma, ngay cả trước khi chính thức công tác tại Giáo triều Rôma, Nguyễn Văn Thuận hầu như tuần nào cùng dành thời gian thăm cộng đoàn các quốc gia khác nhau, các đại học, các cơ quan quốc tế cũng như các cộng đoàn đặc sủng để hỗ trợ tĩnh tâm, đào tạo và xây dựng tân cộng đoàn.
Công tác tại Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình
Tại Vatican, Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận được mời làm thành viên Ủy ban Quốc tế về Di trú và Di dân. Sau nhiều lần không đạt thỏa thuận với chính quyền Việt Nam (năm 1992, 1993), Tòa Thánh bổ nhiệm Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận làm Phó Chủ tịch Uỷ ban Công lý và Hòa bình, thuộc Giáo triều Rôma vào ngày 24 tháng 11 năm 1994. Cùng ngày này, ông chính thức từ chức Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh (đổi tên từ Sài Gòn năm 1976). Có nguồn tin cho rằng ông được bổ nhiệm chức phó chủ tịch vào ngày 9 tháng 4 năm 1994. Nói về chức vụ này, Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói với Tổng giám mục Thuận:
Nguyễn Văn Thuận quan tâm và hỗ trợ các công tác xã hội, từ thiện; các công trình nghiên cứu và phổ biến văn hóa Việt Nam nói chung và Văn hóa Công giáo Việt Nam nói riêng. Ông cũng hỗ trợ các công việc trùng tu và xây cất các cơ sở tôn giáo, đào tạo chủng sinh và giáo dân. Ông từng được Bộ Truyền giáo ủy thác công tác kiểm tra các chủng viện tại một số quốc gia châu Phi.
Tháng 2 năm 1998, Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận tham gia sự kiện ngày giới trẻ tại Anaheim Convert Center, California, Hoa Kỳ và có bài phát biểu song ngữ Anh - Việt trong khuôn khổ sự kiện. Sau bốn năm làm việc tại Uỷ ban Công lý và Hòa Bình, ngày 24 tháng 6 năm 1998, Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận được chọn làm Chủ tịch Uỷ ban này, thay thế Hồng y Roger Etchegaray. Tờ New York Times nhận định việc bổ nhiệm này đã đưa Tổng giám mục Thuận vào sự chú ý (của mọi người). Ngày 20 tháng 8, nhân dịp tham gia sự kiện kỷ niệm 200 năm Đức Mẹ La Vang tại Washington D.C., Hoa Kỳ, ông tuyên bố thành lập Cộng đoàn Đức Mẹ La Vang. Ngày 18 tháng 11 cùng năm, Nguyễn Văn Thuận, với tư cách Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa Bình, kêu gọi giảm hoặc xóa nợ cho các quốc gia Trung Mỹ, bị bởi cơn bão xoáy Mitch tàn phá. Ông đã gửi lời cảm tạ các quốc gia thực hiện đề nghị và nhắc nhở về bổn phận của các quốc gia đang vay nợ.
Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận đã được mời đi giảng và thuyết trình tại nhiều quốc gia và giảng cho các đối tượng khác nhau và tại các trường đại học khác nhau trên thế giới. Tại Mexico vào tháng 5 năm 1998, Tổng giám mục Thuận giảng cho hơn 50.000 thanh niên. Trong nhiều dịp khác nhau thuộc các buổi nói chuyện trên toàn thế giới, Tổng giám mục Thuận thường xuyên nói về chủ đề kinh nghiệm trong thời gian tù ngục. Giáo hoàng Gioan Phaolô II, nhằm mục đích làm theo đề nghị của các giám mục nghị phụ Thượng Hội đồng Giám mục châu Mỹ 1997, đã yêu cầu Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa Bình soạn thảo tài liệu mang tên Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo hội. Riêng Tổng giám mục Thuận được yêu cầu viết tóm lược học thuyết này vào đầu năm 1999. Với cương vị Chủ tịch Hội đồng, ngày 1 tháng 5 năm 2000, ông ban hành quyết định tim kiếm các văn bản huấn quyền về nội dung Học thuyết Xã hộ Công giáo. Ông đã tìm kiếm được các văn kiện và viết thành 11 chương sách. Văn bản của Tổng giám mục Thuận là nền tảng hoàn thành Toát yếu về Học thuyết Xã hội Giáo hội. Tổng giám mục Thuận qua đời trước khi hoàn thành tác phẩm.
Trong Mùa Chay năm 2000, Tổng giám mục Thuận nhận lời mời từ Giáo hoàng Gioan Phaolô II mời ông giảng tĩnh tâm Mùa Chay cho giáo triều Vatican, vào lúc bắt đầu của thiên niên kỷ thứ ba. Trong Nhà nguyện Mẹ Đấng Cứu Thế, từ chiều ngày 12 tháng 3 đến 18 tháng 3 năm 2000, ông giảng tĩnh tâm cho Giáo hoàng và các thành viên Giáo triều Rôma. Những bài giảng của ông được in thành sách Chứng nhân Hy Vọng, sách này được phát hành ít nhất 12 ngôn ngữ. Khi Giáo hoàng gặp ông trong buổi triều yết riêng và tặng ông một chén thánh.
Chiều ngày 20 tháng 8 năm 2000, ngày bế mạc ngày Quốc tế Giới Trẻ thứ XV tại Roma, Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận đã tiếp đón hai Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Sang, giám mục chính tòa Giáo phận Thái Bình, chủ tịch Ủy ban phụ trách Giáo dân của Hội đồng Giám mục Việt Nam và Giám mục Giuse Nguyễn Văn Yến, Giám mục chính tòa Giáo phận Phát Diệm, cùng phái đoàn Việt nam tham dự Ngày Quốc tế Giới Trẻ tại căn hộ của ông. Trong cuộc gặp, Tổng giám mục Thuận cũng gặp một số linh mục hiện làm việc tại Roma, trong đó có Đức ông Barnabê Nguyễn Văn Phương, thuộc Bộ Truyền giáo, và Đức ông Giuse Đinh Đức Đạo, phụ trách cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Hải ngoại.
Trong thời gian đảm nhận vai trò chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, ông hỗ trợ các khu vực nghèo khó nhất trên thế giới. Hội đồng Công lý và Hòa bình ghi nhận hồng y Nguyễn Văn Thuận đã làm chứng cho hòa bình và hy vọng của các dân tộc.
Các giải thưởng
Ngày 11 tháng 5 năm 1996, Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận nhận bằng Tiến sĩ Danh dự tại Đại Chủng viện Notre Dame ở New Orleans, Louisiana, Hoa Kỳ.
Tổng giám mục Thuận được tặng thưởng nhiều huân chương khác nhau vì "đời sống chứng tá và các hoạt động xây dựng công lý và hòa bình". Ngày 9 tháng 6 năm 1999, tại Tòa Đại sứ Pháp bên cạnh Tòa Thánh, Chính phủ Pháp đã trao tặng ông huy chương "Commandeur de l’Ordre National du Mérite". Ngày 12 tháng 12 năm 2000, tại Tòa Thị chính Rôma, Hiệp hội "Cùng nhau xây dựng hòa bình" đã trao tặng Huy chương vinh danh ông. Ngày 20 tháng 10 năm 2001, tại Torino, Tổng giám mục Thuận được trao tặng Huy Chương Hòa bình do tổ chức SERMIG - Hiệp hội Truyền giáo của giới trẻ. Ngày 9 tháng 12 năm 2001, Trung tâm Nghiên cứu G. Donati cũng đã trao tặng ông Giải thưởng Hòa bình năm 2001.
Thăng tước hồng y
Ngày 21 tháng 1 năm 2001, Giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố chọn Tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận làm hồng y. Tân hồng y được xếp thứ hai trong danh sách các tân hồng y được công bố. Tổng số lượng hồng y được vinh thăng lần này lên đến 37, số lượng lớn nhất mà một Công nghị Hồng y từng có. Hồng y tân cử nhận được tin thăng hồng y cùng lúc biết tin tức cơ thể ông có một khối u gây bệnh, chính là khối u sau này đã khiến ông qua đời.
Với việc công bố quyết định thăng tước vị hồng y, Nguyễn Văn Thuận trở thành hồng y bậc phó tế đầu tiên người Việt Nam và là hồng y người Việt Nam thứ bốn. Ngày 21 tháng 2 năm 2001, nghi lễ nhận tước vị được cử hành và ông chính thức trở thành Hồng y Phó tế, Hiệu tòa Nhà thờ Santa Maria della Scala. Cũng được vinh thăng hồng y cùng Nguyễn Văn Thuận đợt này còn có các Giám mục từ các nơi như: Hồng y Jorge Mario Bergoglio người Argentina – sau này là Giáo hoàng Phanxicô; Hồng y Louis-Marie Bille tại Lyon, Pháp; Hồng y Ivan Dias tại Bombay, Ấn Độ,... Ngay trong ngày diễn ra nghi lễ hồng y, bài nghiên cứu Choosing the next pope đăng tải trên BBC đã nhận định Hồng y Nguyễn Văn Thuận là một trong những hồng y có sức ảnh hưởng, ngay cả khi không là giáo hoàng.
Huy hiệu của Hồng y Nguyễn Văn Thuận có nền màu xanh dương với ngôi sao trắng tượng trưng cho bà Maria là ngôi Sao Biển. Ngôi sao dẫn đường cho những con thuyền trong cuộc du hành. Mười khúc tre tượng trưng cho 10 điều răn và là biểu tượng của người quân tử. Nổi bật trên màu xanh và ngôi sao là ba ngọn núi biểu tượng của đại dương và lục địa. Ba ngọn núi còn là biểu trưng cho ba miền Việt Nam: Bắc, Trung, và Nam. Núi và biển cả cũng còn tượng trưng cho Nha Trang, là Giáo phận tân Hồng y từng đảm nhận chức Giám mục chính tòa. Khẩu hiệu bằng tiếng La Tinh của Hồng y Thuận là GAUDIUM ET SPES, nghĩa là "Vui mừng và hy vọng" cũng là tựa đề của Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong Thế giới ngày nay, được Công đồng Chung Vaticanô II ban hành ngày 7 tháng 12 năm 1965, ngày cuối cùng trước khi bế mạc Công đồng. Cùng với Hiến chế Tín Lý về Giáo hội Ánh Sáng Muôn Dân – "Lumen Gentium", qua Công đồng này, Giáo hội muốn canh tân để phản ánh "dung nhan Chúa Kitô" trong thời đại hiện tại.
Trong số phát hành ngày 21 tháng 2 năm 2001, tờ The Los Angeles Times có bài với nhan đề "The Men Who Would Be Pope?" (Người có thể lên ngôi Giáo hoàng?) đã dự đoán danh sách 14 vị hồng y có nhiều khả năng kế vị Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong đó có Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Ngoài ra, tờ báo này còn có một bài viết khác với tiêu đề Hidden Hopes of Being Pope (tạm dịch: Những tham vọng thầm kín để trở thành giáo hoàng) đưa ra quan điểm vị giáo hoàng kế vị giáo hoàng Gioan Phaolô II khó có khả năng đến từ châu Á, nơi có tỉ lệ giáo dân Kitô giáo rất thấp. Tuy vậy, bài báo dự đoán tân hồng y Thuận có thể tiến xa. Nhật báo The New York Post, ngày 25 tháng 2 năm 2001, cũng đăng bài nhan đề "Is Asian Cardinal In Line For Papacy ?" (Một Hồng y Á Châu Có Thể Lên Ngôi Giáo hoàng?) của ký giả Rod Dreher. Trong đó có đoạn nhận định về tân Hồng y người Việt Nam là một ứng viên sáng giá cho ngôi vị Giáo hoàng.
Giữa tháng 3 năm 2001, Hồng y Thuận tham gia sự kiện Công lý, Hòa Bình, Giải quyết các Vấn đề Xã hội tổ chức tại Tổng giáo phận Los Angeles. Vài tháng sau khi được phong tước Hồng y, ngày 30 tháng 4, Giáo hoàng đã chỉ định các tân hồng y vào các thánh bộ của Giáo triều Rôma. Hồng y Thuận được bổ nhiệm làm thành viên Thánh bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích và Bộ Rao giảng Tin Mừng (bộ Truyền giáo). Ngày 14 tháng 5 cùng năm, Hồng y Thuận được chỉ định làm thành viên Hội đồng Giáo hoàng về Giáo dân.
Sau khi Việt Nam nới lỏng các hạn chế về việc nhập cảnh, Hồng y Thuận đã trở về Việt Nam thông qua các thủ tục dành cho công dân ngoại quốc. Với thời gian bị cầm tù, Nguyễn Văn Thuận trải qua tổng cộng 7 lần phẫu thuật, trong đó 3 lần khiến ông suýt mất mạng. Ngày 17 tháng 4 năm 2001, Hồng y Thuận được cử hành giải phẫu tại một bệnh viện ở Boston, Hoa Kỳ. Cuộc giải phẫu cuối cùng của ông là vào ngày 8 tháng 5 năm 2002 tại Trung tâm nghiên cứu về ung thư, Milan, miền Bắc Ý. Từ đầu tháng 6 năm 2002, sức khỏe Hồng y Thuận chuyển biến xấu và được cấp cứu tại Bệnh viện Agostino Gemelli thuộc Đại học Công giáo Thánh Tâm, Rôma. Sau đó, hồng y Thuận được chuyển viện đến Bệnh viện Piô XI.
Giữa tháng 7 năm 2002, cùng với lễ an táng Đức ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, thông tin từ Tòa Thánh cho biết Hồng y Nguyễn Văn Thuận đang điều trị ung thư tại bệnh viện Piô XI tại Roma.
Qua đời và hậu sự
Vào lúc 6 giờ chiều ngày 16 tháng 9 năm 2002, Hồng y Nguyễn Văn Thuận qua đời tại Roma do bệnh ung thư ruột, một dạng ung thư hiếm gặp. Trong những ngày cuối đời, Hồng y Thuận mất khả năng nói, tuy vậy vẫn giữ được sự thanh thản. Trong chúc thư tinh thần, cố Hồng y khẳng định: "Tôi thanh thản ra đi, và tôi không giữ lòng oán hận nào đối với ai". Chính quyền Việt Nam gửi lời chia buồn với thân nhân cố hồng y hiện sinh sống tại Việt Nam và hứa sẽ cứu xét hỗ trợ visa cho họ tham dự tang lễ. Trong những tuyên bố đầu tiên về sự qua đời của cố hồng y, Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng Gioan Phaolô II ca ngợi cố hồng y là người luôn đặt niềm tin vào Giáo hội Công giáo, kể cả trong những thời khắc khó khăn nhất. Tổng thư ký Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình Giampaolo Crepaldi công bố với giới truyền thông: Một vị thánh vừa qua đời!.
Thánh lễ an táng cố hồng y được Giáo hoàng Gioan Phaolô II cử hành trọng thể vào chiều ngày 20 tháng 9 năm 2002, với 4.000 người tham dự, trong đó có 4 hồng y và 130 giám mục cùng với ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh. Trong số các giám mục tham dự thánh lễ an táng, có sự hiện diện của 5 giám mục Việt Nam: Tổng giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn từ Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh; Tổng Giám mục Tổng giáo phận Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể, giám mục Nha Trang Phaolô Nguyễn Văn Hòa, giám mục Phát Diệm Giuse Nguyễn Văn Yến và giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nho, Giám mục phó Giáo phận Nha Trang.
Trong thánh lễ, Giáo hoàng Gioan Phaolô II nhận xét cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận:
Trong lúc chào vĩnh biệt Người Sứ giả anh hùng của Tin Mừng Chúa Kitô, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta, nơi con người của Đức Hồng y, một tấm gương sáng ngời về đời sống tín hữu Kitô, phù hợp với đức tin, đến độ tử đạo. […] ngài (Đức Hồng y Thuận) đã hiểu nền tảng của đời sống Kitô hữu là "chọn một mình Chúa mà thôi" như các vị tử đạo Việt Nam đã làm trong những thế kỷ trước. Chúng ta được mời gọi rao giảng cho tất cả mọi người "Tin Mừng Hy Vọng" và Đức Hồng y giải thích rằng: chúng ta chỉ có thể chu toàn Ơn Gọi ấy với sự hy sinh quyết liệt, dù phải chịu những thử thách cam go nhất. [...] Đây không phải là sự anh hùng, nhưng là sự trung thành chín chắn, hướng cái nhìn về Chúa Giêsu là mẫu gương của mọi chứng nhân và mọi vị tử đạo. Một gia sản cần được đón nhận mọi ngày trong một cuộc sống đầy yêu thương và dịu hiền.
Sáng ngày 21 tháng 9, thi hài cố Hồng y được đưa đi an táng tại phần mộ của các Kinh sĩ Đền thờ Thánh Phêrô. Khu phần mộ này thuộc nghĩa trang Verano của thành phố Roma, Campo Verano. Tham dự nghi lễ an táng có bạn thân cố Hồng y là Hồng y Bernard Law, năm giám mục người Việt, Tổng thư ký Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hòa bình Giampaolo Crepaldi và hơn 1000 tu sĩ, giáo sĩ và thân nhân người quá cố. Nghĩa trang này là nghĩa trang chôn cất các nhà trí thức, các diễn viên, nghệ sĩ và là một nghĩa trang hoành tráng, được nhận định là một nghĩa trang tốt nhất để chôn cất tại Ý.
Mười năm sau đó, khi thi hài hồng y Nguyễn Văn Thuận được an táng, thi hài ông đã được cải táng về Nhà thờ hiệu tòa của ông, Nhà thờ Đức Mẹ Scala, ở trung tâm Roma sáng ngày 8 tháng 6 năm 2012. Ở Tu viện Celittinen, Koeln, hiện tại có căn phòng dành riêng lưu giữ những hình ảnh cùng kỷ vật của hồng y Thuận, và cũng tại nhà Dòng này ông đã sống trải qua nhiều ngày năm tháng lúc còn sinh thời, nhất là đã dâng thánh lễ với nhà dòng tại nhà nguyện tu viện.
Tiến trình tôn phong Hiển thánh
Mở án điều tra và giai đoạn điều tra cấp giáo phận
Năm 2006, Hồng y Renato Raffaele Martino thăm dò ý kiến các Tổng trưởng Thánh bộ và các Chủ tịch Hội đồng thuộc Giáo triều Rôma. Kết quả cho thấy tất cả đều tán thành công việc xúc tiến án phong chân phước cố hồng y Nguyễn Văn Thuận.
Ngày 16 tháng 9 năm 2007, giám mục Giampaolo Crepaldi, Tổng thư ký Hội đồng Giáo hoàng Công lý và Hòa bình công bố kinh xin ơn cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận:
Ngày 17 tháng 9 năm 2007, Giáo hội Công giáo Rôma bắt đầu những thủ tục đầu tiên cho việc tuyên chân phước và tuyên thánh cho cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Cùng ngày, từ dinh thự Giáo hoàng ở Castel Gandolfo, trong buổi triều yết, Giáo hoàng Biển Đức XVI đã nói: Tôi vui mừng, nhân cơ hội này để một lần nữa, nêu lên chứng tá Đức Tin sáng ngời mà vị Mục Tử anh dũng này đã để lại cho chúng ta. ĐHY Phanxicô Xaviê đã được vị tiền nhiệm Gioan-Phaolô II đáng kính của tôi bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình. Ngài đã soạn thảo bản Toát Yếu Giáo Huấn xã hội của Hội Thánh. Làm sao quên được những nét nổi bật về sự đơn sơ và thân thiện của ngài... Đức Hồng y Văn Thuận là một con người của Hy Vọng. Ngài sống bằng Hy Vọng, ngài phổ biến niềm Hy Vọng cho tất cả những ai ngài gặp gỡ. [...] Đức Cố Hồng y Phanxicô thường nhắc lại rằng: Kitô hữu là một con người của từng giờ, của lúc này, của giây phút hiện tại, cần được đón nhận và sống với tình yêu Chúa Kitô. Trong khả năng sống giây phút hiện tại này, đã chiếu tỏa điều sâu thẳm của việc phó thác trong bàn tay Thiên Chúa và tính đơn sơ theo tinh thần Phúc âm. [...] Giáo hoàng có các cuộc gặp gỡ với các thành viên Ủy hội Công lý và Hòa bình, thân nhân cố hồng y và đại diện cộng đồng giáo dân gốc Việt tại Rôma.
Đây là lần đầu tiên có một hồ sơ để tuyên chân phước của Giáo hội Công giáo Việt Nam liên quan đến một nhân vật không phải tử đạo. Cáo thỉnh viên được Tòa Thánh chuẩn bị là nữ luật sư Silvia Monica Correale. Thủ tục điều tra để tuyên chân phước và thánh khởi sự sau cái chết của nhân vật sớm nhất là 5 năm, và trường hợp của Hồng y Nguyễn Văn Thuận không phải là ngoại lệ. Tuy vậy, ông là một trong những nhân vật hiếm hoi được bắt đầu tiến trình tôn phong sớm, chỉ ít năm sau khi qua đời.
Vào sáng ngày 22 tháng 10 năm 2010, Hồng y Peter Turkson, chủ sự lễ cầu nguyện cho cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận tại Nhà thờ Santa Maria della Scala. Tham dự thánh lễ có các thành viên thuộc Hội đồng Giáo hoàng về Công lý và Hòa bình, các Hồng y, Giám mục, linh mục, thân nhân, bạn hữu của Hồng y Thuận. Tiếp đến, vào lúc 12 giờ trưa cùng ngày, tại Phòng Hòa Giải trong Dinh Laterano ở Roma, một phiên họp chính thức mở cuộc điều tra án tuyên chân phước và tuyên thánh cho cố hồng y, sau thời gian tìm các thông tin, tài liệu về cố hồng y. Nghi thức bắt đầu bằng một bài Thánh ca, sau đó là việc đọc biên bản. Tiếp đến, Hồng y Agostino Vallini, Giám quản Giáo phận Rôma tuyên bố chính thức mở Án điều tra. Giáo phận Rôma, do là nơi sinh sống cuối đời của cố Hồng y, là nơi điều hành vấn đề nghiên cứu tuyên thánh cho cố hồng y.
Tính đến tháng 9 năm 2011, Uỷ ban Điều tra Án phong thánh đã thu nhận lời khai của 120 người. Uỷ ban Lịch sử tham gia vào quá trình nghiên cứu và soạn lại các tài liệu liên quan đến cố Hồng y. Tuy vậy các dự án trên chưa được hoàn tất. Trong thời gian này, còn một dự án khác là di dời thi hài cố Hồng y từ nghĩa trang Verano vào thánh đường Santa Maria Della Scala, nhà thờ Hiệu tòa của cố Hồng y. Giai đoạn 2012, cáo thỉnh viên tuyên thánh cho cố Hồng y là Tiến sĩ Waldery Hilgeman.
Giữa tháng 2 năm 2012, tờ Quan sát viên Rôma - L'Osservatore Romano thông báo đề nghị những cá nhân còn lưu giữ các chứng từ, các thông tin thuận lợi hoặc bất lợi về cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận liên lạc để thông báo với tờ báo trên. Thời điểm này, cáo thỉnh viên của vụ tuyên thánh vẫn là bà Silvia Monica Correal. Phái đoàn Tòa án Giáo phận Rôma dành nhiều thời gian cử các phái đoàn tìm gặp các nhân chứng (có liên hệ) đến cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận tại các quốc gia như Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Úc. Phái đoàn dự định dành thời gian đến Việt Nam trong giai đoạn từ ngày 23 tháng 3 đến ngày 9 tháng 4 năm 2012. Phái đoàn lần lượt đến thăm các giáo phận: Tổng giáo phận Sài Gòn (24 – 27 tháng 3), Nha Trang (29 – 31 tháng 3), Huế (1 3 tháng 4), Hà Nội (5 – 7 tháng 4). Trong văn thư ấn ký ngày 1 tháng 1 năm 2012, Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn của Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh loan tin nếu có bất cứ người nào muốn làm chứng trước phái đoàn, cần ghi danh bằng văn bản và gửi đến Linh mục Nguyễn Thanh Tùng. Các phép lạ Công giáo do sự chuyển cầu của cố Hồng y, Hồng y Mẫn cũng đề nghị báo tin cho Linh mục Tùng. Cùng ngày, Tòa giám mục Nha Trang cũng đưa ra thông cáo của Giám mục Giuse Võ Đức Minh về vấn đề này. Giám mục Minh cho thành lập một ban phụ trách, có nhiệm vụ tìm hiểu và phổ biến đời sống của cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Ngày 6 tháng 1 cùng năm, Tổng giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ấn ký văn thư cùng nội dung. Các chứng nhân muốn gặp mặt phái đoàn cần báo tin qua linh mục Nguyễn Xuân Thủy. Tiếp nối các giáo phận trên, Tổng giáo phận Huế ban hành thông cáo ngày 22 tháng 1 năm 2012 của Tổng giám mục Stêphanô Nguyễn Như Thể loan tin về chuyến viếng thăm của phái đoàn và thành lập một ủy ban để chuẩn bị.
Cuối tháng 3 năm 2012, AsiaNews và Thông tấn xã Pháp loan tin chính quyền Việt Nam đã hủy bỏ visa phái đoàn điều tra án phong thánh, dự định đến Việt Nam để gặp gỡ các nhân chứng từng biết cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Thông tin từ Văn phòng Tòa Tổng giám mục Sài Gòn, dòng Chúa Cứu Thế và Tòa Thánh cách gián tiếp qua hồng y Peter Turkson tái xác nhận thông tin này. Nguồn thông tin cho biết ban đầu chính quyền Việt Nam chấp nhận cấp visa cho phái đoàn, tuy vậy sau đó rút lại sự chấp nhận này. Trước biến cố này, nhiêu tín hữu Công giáo đã lên án động thái trên, nhận định đây là một hành vi vi phạm tự do tôn giáo. Ngày 28 tháng 3, người phát ngôn bộ Ngoại giao Việt Nam Lương Thanh Nghị cho biết chính quyền Việt Nam chưa nhận được đề nghị từ Tòa Thánh về công tác của phái đoàn trên và cho rằng chính quyền Việt Nam luôn sẵn sàng tạo điều kiện cho phái đoàn nếu phái đoàn được chỉ định cách chính thức, nằm trong thảo thuận giữa Vatican và Việt Nam. Tòa Thánh Vatican thông cáo xác nhận phái đoàn từ Giáo phận Rôma đã bị hủy visa. Trước đó, đoàn này dự định nhập cảnh Việt Nam với visa du lịch. Phái đoàn đã không dùng các kênh liên lạc cấp cao giữa Tòa Thánh và Việt Nam. Tòa Thánh Vatican cũng bác bỏ tin tức Hồng y Peter Turkson, Chủ tịch Hội đồng Tòa Thánh về Công lý và Hòa bình là thành viên của đoàn.
Kết thúc giai đoạn tuyên chân phước tại giáo phận
Ngày 5 tháng 7 năm 2013, người Công giáo Việt Nam tổ chức lễ bế mạc của các giai đoạn giáo phận của tiến trình tuyên chân phước cho Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Mặc dù ông chưa được tuyên thánh, nhiều tín hữu Việt Nam đã coi ông là một vị thánh và xem ông như một biểu tượng của Giáo hội Việt Nam. Trưa cùng ngày, Hồng y Agostino Vallini, Giám quản Giáo phận Roma chủ sự lễ bế mạc tiến trình điều tra cấp giáo phận về Tôi Tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngoài hồng y Vallini, còn có 5 hồng y, một số giám mục khác. Về số giáo sĩ Việt Nam có nguyên tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể và giám mục Giuse Võ Đức Minh từ Giáo phận Nha Trang. Giáo hữu gốc Việt Nam đến từ các quốc gia Pháp, Hoa Kỳ, Australia,.. cũng tham gia sự kiện này.
Tuy nhiên, tiến trình tuyên chân phước cho Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận bị chính quyền Việt Nam phản đối và cản trở. Có ý kiến từ giới trí thức Công giáo người Việt ở nước ngoài cho rằng, chính án tù kéo dài mà Hồng y Thuận phải chịu sau năm 1975 ở Việt Nam là một vấn đề. Chính quyền đã ngăn chặn nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Đức, một nhân chứng trong tiến trình phong chân phước cho Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, khi ông đang lên máy bay đi Roma theo lời mời của Tòa thánh Vatican tham dự lễ "Bế mạc phần điều tra tại địa phương" trong hồ sơ phong chân phước và hiển thánh cho Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ông Đức là cựu quan chức Việt Nam, từng gặp gỡ với cố Hồng y Thuận. Theo ông, có ba sự lạ đã diễn ra cho ông khi tiếp xúc với cố hồng y: giúp ông chuyển sang Công giáo, chữa lành bệnh cho ông và chia sẻ về một sự kiện tương lai.
Được công nhận danh hiệu Đấng đáng kính
Ngày 2 tháng 5 năm 2017, Uỷ ban Hồng y và Giám mục thuộc Bộ Tuyên Thánh tại Vatican đã vừa biểu quyết chấp nhận Án tuyên thánh của Tôi tớ Chúa Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận. Ngày 4 tháng 5 năm 2017, Giáo hoàng Phanxicô phê chuẩn các sắc lệnh của Bộ Tuyên thánh, tiến thêm một bước trong án tuyên thánh cho cố hồng y Nguyễn Văn Thuận. Giáo hoàng tuyên bố Hồng y Thuận là Đấng đáng kính. Sau giai đoạn này, cần có phép lạ Công giáo được cho rằng với sự chuyển cầu của cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Phép lạ chữa bệnh cần được xác minh là không thể lý giải về mặt khoa học. Nếu có phép lạ xảy ra, một đơn sẽ gửi đến ủy ban Thần học để thẩm định.
Thánh bộ Vatican sẽ xem xét hồ sơ và nếu mọi việc thuận lợi thì ông có thể sẽ được tuyên chân phước, và sau đó cũng có thể được tuyên thánh. Jean-Marie Schmitz, chủ tịch hiệp hội Bạn hữu Hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận cho biết có ba phép lạ được xem là của Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, trong đó có một nữ tu bị mù đã được sáng mắt.
Tác phẩm
Tiểu sử các linh mục Huế (đồng tác giả)
Đức Thánh Cha Gioan XXIII''' (1960)
Đường hy vọng (1975): 10 ngôn ngữ, tính đến năm 1998.
Đường hy vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Công Đồng Vaticano II (1979): 2 ngôn ngữ, tính đến năm 1998.
Những người lữ hành trên Đường Hy Vọng (1980): 2 ngôn ngữ, tính đến năm 1998.
Năm chiếc bánh và hai con cá (1997): 7 ngôn ngữ, tính đến năm 1998.
Cầu nguyện hy vọng I: 4 ngôn ngữ, tính đến năm 1998.
Hãy trao tặng tuổi trẻ nụ cười Niềm vui sống đạo (1999)
Sứ Điệp Đức Mẹ La Vang (1999)
Chứng nhân hy vọng Tóm lược học thuyết xã hội của Giáo hội Công giáo (đồng tác giả)
Tưởng nhớ
Nhiều quốc gia và nhiều tổ chức, quỹ, giải thưởng mang tên hoặc nhân danh cố hồng y Nguyễn Văn Thuận. Giáo xứ Giang Xá, nơi cố Hồng y Thuận bị quản thúc từ năm 1978 đến năm 1982 hiện dành tòa nhà cố hồng y từng sử dụng làm nơi trưng bày các hiện vật liên quan đến ông. Một số vật dụng được chuyển từ Rôma về trưng bày. Viết trong sách Spe Salvi, Giáo hoàng Biển Đức XVI đã trích dẫn hai lần câu nói của cố Hồng y nhằm chứng minh luận điểm: người có niềm hy vọng thì không bao giờ cô đơn. Tháng 4 năm 2014, linh mục Mátthêu Vũ Khởi Phụng, Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội, thành lập "Câu lạc bộ Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận". Câu lạc bộ này khuyến khích các thành viên: cổ võ sứ điệp Hy vọng của cố Hồng y; phổ biến Bản tóm lược học thuyết Xã hội Công giáo; cầu nguyện cho tiến trình tuyên thánh cố hồng y và tổ chức các hội thảo, tọa đàm... về Học thuyết Xã hội Công giáo.
Nhân dịp chuyến viếng thăm bổn phận giám mục Ad Limina 2018, các Giám mục Việt Nam đã đến Rôma, viếng mộ cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận. Nhiều tù nhân người Cameroon cầu nguyện với di ảnh cố hồng y Thuận trong các nhà tù.
Với thông điệp nhân ngày Thế giới Hòa bình 1 tháng 1 năm 2019, Giáo hoàng Phanxicô đã đề cập đến Mối phúc của Nhà chính trị do Hồng y Nguyễn Văn Thuận biên soạn. Trong thông điệp qua video gửi giới trẻ Việt Nam nhân dịp Đai hội Giới Trẻ miền Bắc năm tháng 11 năm 2019, Giáo hoàng Phanxicô đã đề cập đến cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận và nhận định ông là một chứng nhân của niềm hy vọng.
Nhận định
Ông Peter Hebblethwaite, trong quyển sách The Next Pope xuất bản năm 2000, có đánh giá hồng y Nguyễn Văn Thuận:
{{Cquote|Đức Tổng Giám mục Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, 72 tuổi, Chủ tịch Hội Đồng Giáo hoàng Công Lý và Hòa Bình, là người kế nghiệp vị tiền nhiệm người Pháp, Hồng y Roger Etchegaray. Nhiều người nghĩ rằng khi vị Tổng Giám mục này được vinh thăng Hồng Y, Ngài sẽ là ứng viên sáng giá cho ngôi Giáo hoàng tiếp theo. Ngài là một con người mà cuộc sống luôn toát ra sự thánh thiện, khôn ngoan, khéo léo, mềm dẻo. Ngài đã bị tống giam trong tù ngục cộng sản 13 năm, trong đó có 9 năm biệt giam. Trong thời gian dài kiên trì chịu đựng một cuộc sống tận cùng khổ đau, thiếu thốn tất cả, Ngài được ơn linh ứng viết một cuốn sách tu đức rất giá trị sâu sắc với những lời văn đơn sơ nhưng đầy tính thuyết phục.}}
Nhật báo The New York Post, ngày 25 tháng 2 năm 2001, đăng bài viết Is Asian Cardinal In Line For Papacy? của ký giả Rod Dreher. Trong đó có đoạn nhận định về tân Hồng y người Việt Nam:
Cáo thỉnh viên Waldery Hilgeman, cáo thỉnh viên phụ trách tiến trình phong thánh cho cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận, nêu nhận định của ông về cố Hồng y:
Linh mục Trần Đức Anh, Giám đốc Ban Việt ngữ Đài phát thanh Vatican, đưa ra nhận định:
Tông truyền
Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận được tấn phong giám mục năm 1967, thời Giáo hoàng Phaolô VI, bởi:
Chủ phong: Tổng giám mục Angelo Palmas, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam và Campuchia.
Hai giám mục phụ phong: Tổng giám mục Philípphê Nguyễn Kim Điền, Giám quản Tông Tòa Tổng giáo phận Huế và Tổng giám mục Jean-Baptiste Urrutia Thi, M.E.P. nguyên Đại diện Tông Tòa Hạt Đại diện Tông Tòa Huế.
Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đóng vai trò phụ phong trong nghi thức truyền chức cho giám mục:
Năm 1975, giám mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, nay là cố giám mục chính tòa Giáo phận Thanh Hóa.
Tóm tắt chức vụ
Tham khảo
Thư mục
Liên kết ngoài
Nhớ về đức cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, báo Công giáo và Dân tộc, ngày xuất bản: Ngày 16 tháng 3 năm 2020.
Chuyên mục Đức Hồng y Nguyễn Văn Thuận, Taiwan Catholic
Nguyen Van Thuan Foundation
Cardinal Nguyen Van Thuan
My captors, my friends: Cardinal Francois Xavier Nguyen Van Thuan
Đời tù đày của Cố Hồng y Nguyễn Văn Thuận
Tác phẩm sách online:
Năm chiếc bánh và hai con cá, Công giáo Việt Nam đăng tải.
Đường hy vọng, Công giáo Việt Nam đăng tải.
Đường Hy Vọng dưới ánh sáng Lời Chúa và Công Đồng, Công giáo Việt Nam đăng tải.
Đức Gioan XXIII, Công giáo Việt Nam đăng tải.
Cầu nguyện, Công giáo Việt Nam đăng tải.
Niềm vui sống đạo, Công giáo Việt Nam đăng tải.
Sứ Điệp Đức Mẹ La-Vang, Công giáo Việt Nam đăng tải.
Hồng y Việt Nam
Giám mục Công giáo Việt Nam
Người Huế
Dòng họ Ngô Đình
Người tị nạn Việt Nam
Nhân vật trong chiến tranh Việt Nam
Đấng đáng kính
Hồng y do Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
|
17020
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20ca%20Brasil
|
Quốc ca Brasil
|
Quốc ca Brasil (tiếng Bồ Đào Nha: Hino Nacional Brasileiro) là quốc ca của Brasil.
Lời
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tải xuống bài Nacional Brasileiro (có lời)
Tải xuống bài Nacional Brasileiro (có lời)
Tải xuống bài Nacional Brasileiro (có lời)
Tải xuống bài Nacional Brasileiro (không có lời)
Tải xuống bài Nacional Brasileiro (không có lời)
Tải xuống bài Nacional Brasileiro (có hình ảnh và có lời)
Brasil
Biểu tượng quốc gia Brasil
Bài hát tiếng Bồ Đào Nha
|
17021
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/An%20to%C3%A0n%20th%C3%B4ng%20tin
|
An toàn thông tin
|
An toàn thông tin là hành động ngăn cản, phòng ngừa sự sử dụng, truy cập, tiết lộ, chia sẻ, phát tán, ghi lại hoặc phá hủy thông tin chưa có sự cho phép. Ngày nay vấn đề an toàn thông tin được xem là một trong những quan tâm hàng đầu của xã hội, có ảnh hưởng rất nhiều đến hầu hết các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật, khoa học xã hội và kinh tế.
Định nghĩa
An toàn thông tin (Information Security) là việc bảo vệ chống truy nhập, sử
dụng, tiết lộ, sửa đổi, hoặc phá hủy thông tin một cách trái phép.
An toàn thông tin còn bao gồm cả việc đảm bảo an toàn cho các thành phần,
hoặc hệ thống được sử dụng để quản lý, lưu trữ, xử lý và trao đổi thông tin.
Tiêu chuẩn
Trên trường quốc tế Tiêu chuẩn Anh BS 7799 "Hướng dẫn về quản lý an toàn thông tin", được công bố lần đầu tiên vào năm 1995, đã được chấp nhận. Xuất phát từ phần 1 của Tiêu chuẩn Anh BS 77999 là tiêu chuẩn ISO/IEC 17799:2000 mà hiện nay tồn tại dưới phiên bản được sửa đổi ISO/IEC 17799:2005.
Nội dung ISO/IEC 17799:2005 bao gồm 134 biện pháp cho an toàn thông tin và được chia thành 12 nhóm:
Chính sách an toàn thông tin (Information security policy): chỉ thị và hướng dẫn về an toàn thông tin
Tổ chức an toàn thông tin (Organization of information security): tổ chức biện pháp an toàn và quy trình quản lý.
Quản lý tài sản (Asset management): trách nhiệm và phân loại giá trị thông tin
An toàn tài nguyên con người (Human resource security): bảo đảm an toàn
An toàn vật lý và môi trường (Physical and environmental security)
Quản lý vận hành và trao đổi thông tin (Communications and operations management)
Kiểm soát truy cập (Access control)
Thu nhận, phát triển và bảo quản các hệ thống thông tin (Information systems acquisition, development and maintenance)
Quản lý sự cố mất an toàn thông tin (Information security incident management)
Quản lý duy trì khả năng tồn tại của doanh nghiệp (Business continuity management)
Tuân thủ các quy định pháp luật (Compliance)
Quản lý rủi ro (Risk Management)
Tiêu chuẩn ISO/IEC 27001:2005 phát triển từ phần 2 của BS 7799. Tiêu chuẩn này quy định các yêu cầu đối với một hệ thống quản lý an toàn thông tin và tương tự như ISO 9001 là một tiêu chuẩn về quản lý có thể được cấp giấy chứng nhận.
Đọc thêm
Bảo vệ dữ liệu cá nhân
An toàn dữ liệu
Danh sách các trường đại học trọng điểm đào tạo nhân lực an toàn thông tin ở Việt Nam
Tham khảo
Liên kết ngoài
CERT Coordination Center
ISMS International User Group www.xisec.org
ISC2
SecureStandard Information Security Whitepapers
InfoSec Training Media Archive- Videos and Poster
Information Security Investigations
National Information Assurance (IA) Glossary
RFC-2828: Internet Security Glossary
Các Thuật Ngữ Về An Toàn Thông Tin
Bảo mật dữ liệu
Bảo mật máy tính
An ninh
Phòng chống tội phạm
An ninh quốc gia
Mật mã học
Quản trị thông tin
|
17022
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Az%C9%99rbaycan%20mar%C5%9F%C4%B1
|
Azərbaycan marşı
|
Azərbaycan Marşı (Hành khúc Azerbaijan) là quốc ca nước Cộng hoà Azerbaijan. Phần nhạc được sáng tác bởi Uzeyir Hajibeyov, với lời bài hát của nhà thơ Ahmad Javad. Chính phủ Cộng hòa Azerbaijan đã chính thức thông qua bài quốc ca vào năm 1920 với việc thông qua sắc lệnh, "Bài thánh ca của nhà nước Cộng hòa Azerbaijan." Năm 1992, sau khi Liên Xô tan rã, chính phủ của Azerbaijan đã chính thức khôi phục "Azərbaycan Marşı" làm quốc ca.
Chính phủ Azerbaijan cũng đã chính thức tuyên bố quốc ca là "biểu tượng thiêng liêng của nhà nước Azerbaijan, sự độc lập và thống nhất của Azerbaijan."
Kể từ năm 2006, một đoạn lời bài hát từ quốc ca được viết trên tờ tiền mặt sau của tờ 5 manat Azerbaijan. Vào năm 2011, để kỷ niệm 20 năm độc lập của Azerbaijan từ Liên Xô, chính phủ đã phát hành một con tem kỷ niệm quốc ca. Nó có giá 1 manat và với số lượng phát hành là 5.000.
Lịch sử
Thời kì dân chủ cộng hòa và Xô viết
Vào năm 1919, nước Cộng hòa Dân chủ Azerbaijan được sáng lập, chính quyền mới tuyên bố tổ chức cuộc thi sáng tác quốc ca, quốc huy và con dấu nhà nước. Giải thưởng trị giá 15.000 rúp sẽ được trao cho người chiến thắng trong phần thi sáng tác quốc ca.
Trong hoàn cảnh đó, nhà soạn nhạc người Azerbaijan Uzeyir Hajibeyov đã cho ra đời hai bài hành khúc. Năm 1919, tác phẩm này nhận được giải thưởng đầu tiên do chính phủ Cộng hòa Dân chủ Azerbaijan công bố. Bài khúc quân hành còn lại là "Hành khúc Azerbaijan" (Azərbaycan marşı). Nhà âm nhạc học người Thổ Etem Üngör từng nhận xét: "Vào những năm đó, khi Azerbaijan chưa đánh mất nền độc lập của chính mình, bản hành khúc vẫn thường được cất lên tại các trường quân đội trước giờ học".
Năm 1922, chính phủ của nền Cộng hoà Xô viết mới thành lập đã thay thế "Azərbaycan marşı" thành bài "Quốc tế ca" – quốc ca Liên Xô lúc bấy giờ. Năm 1944, trong cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, "Quốc tế ca" được thay thế bằng quốc ca mới của Liên bang Xô viết, đồng thời một bài quốc ca của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan cũng được áp dụng một năm sau đó. Bài tụng ca được sáng tác bởi Uzeyir Hajibeyov, đồng tác giả bài Azərbaycan marşı. Lời bài hát được thay đổi năm 1978 khi Suleyman Rustam, Samad Vurgun và Huseyn Arif loại bỏ phần lời liên quan đến Joseph Stalin.
Năm 1989, sau nhiều năm thay đổi do chính sách perestroika (cải tổ) mang lại, nhà soạn nhạc Aydin Azimov đã thu xếp một bản thu âm hiện đại của bài quốc ca, được cử hành bởi một dàn giao hưởng và hợp xướng. Mùa thu năm đó, "Azərbaycan marşı" được phát sóng trên truyền hình và radio ở Azerbaijan, 70 năm sau khi nó được giới thiệu.
Thời kì hậu Xô viết
Với sự sụp đổ của Khối Đông và Liên Xô, vào mùa xuân năm 1992, các nhà lãnh đạo của chính phủ Azerbaijan độc lập đã đề xuất rằng bài quốc ca gốc từ thời tiền cộng sản nên được khôi phục làm quốc ca của một nước Azerbaijan mới. Milli Mejlis (Quốc hội) đã ký nó thành luật vào ngày 27 tháng 5 năm 1992.
Vào tháng 11 năm 2018, nghị sĩ Tahir Karimli từng kiến nghị giảm thời lượng của bài quốc ca và loại bỏ những nốt trầm buồn. Tuy nhiên, bản kiến nghị không được xã hội đồng tình hoan nghênh.
Lời bài hát
Lời tiếng Azerbaijan
Trong các bảng chữ cái khác
Chuyển thể âm nhạc
Nhạc cổ điển
Vào năm 2012, Philip Sheppard cùng Dàn nhạc Giao hưởng Luân Đôn đã thu âm bài hát cho Thế vận hội Mùa hè 2012 và Thế vận hội Paralympics Mùa hè 2012.
Xem thêm
Uzeyir Hajibeyov
Quốc ca Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Azerbaijan
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tải xuống bài Azerbaijan Marsi (có lời)
Azerbaijan Marsi (không lời) trên website của Cơ quan Bản quyền Cộng hòa Azerbaijan
Biểu tượng quốc gia Azerbaijan trên website của Tổng thống Azerbaijan
Quốc ca
Biểu tượng quốc gia Azerbaijan
Azerbaijan
Azerbaijan
Bài hát Azerbaijan
Bài hát tiếng Azerbaijan
Sáng tác bởi Uzeyir Hajibeyov
Bài hát năm 1920
|
17023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Inno%20e%20Marcia%20Pontificale
|
Inno e Marcia Pontificale
|
Inno e Marcia Pontificale (Latinh, nghĩa là Quốc ca và Hành khúc Giáo hoàng) được chọn vào năm 1949 làm quốc ca của Toà thánh Vatican, do Antonio Allegra (1905–1969) viết lời và Charles Gounod (1818–1893) phổ nhạc.
Lời tiếng Latinh I
(Raffaello Lavagna)
O Roma felix - O Roma nobilis.
Sedes es Petri, qui Romae effudit sanguinem,
Petri, cui claves datae sunt regni caelorum.
Pontifex, Tu successor es Petri;
Pontifex, Tu magister es tuos confirmas fratres;
Pontifex, Tu qui Servus servorum Dei,
hominumque piscator, pastor es gregis,
ligans caelum et terram.
Pontifex, Tu Christi es vicarius super terram,
rupes inter fluctus, Tu es pharus in tenebris;
Tu pacis es vindex, Tu es unitatis custos,
vigil libertatis defensor; in Te potestas.
Tu Pontifex, firma es petra, et super petram hanc
aedificata est Ecclesia Dei.
O felix Roma - O Roma nobilis.
Lời tiếng Latinh II
(Evaristo D'Anversa)
Roma, alma parens, Sanctorum Martyrumque,
Nobile carmen, te decete, sonorumque,
Gloria in excelsis, paternæ maiestati
Pax et in terra fraternæ caritati
Ad te clamamus, Angelicum pastorem:
Quam vere refers, Tu mitem Redemptorem!
Magister Sanctum, custodis dogma Christi,
Quod unun vitæ, solamen datur isti.
Non prævalebunt horrendæ portæ infernæ,
Sed vis amoris veritatisque æternæ.
Salve, Roma!
In te æterna stat historia,
Inclyta, fulgent gloria
Monumenta tot et aræ.
Roma Petri et Pauli,
Cunctis mater tu redemptis,
Lúmen cunctæ in facie gentis
Mundique sola spes!
Salve, Roma!
Cuius lux occasum nescit,
Splendet, incandescit,
Et iniquo oppilat os.
Pater Beatissime,
Annos Petri attinge, excede
Unum, quæsumus, concede:
Tu nobis benedic.
Lời tiếng Ý
INNO
Roma immortale di Martiri e di Santi,
Roma immortale accogli i nostri canti:
Gloria nei cieli a Dio nostro Signore,
Pace ai Fedeli, di Cristo nell'amore.
A Te veniamo, Angelico Pastore,
In Te vediamo il mite Redentore,
Erede Santo di vera e santa Fede;
Conforto e vanto a chi combatte e crede,
Non prevarranno la forza ed il terrore,
Ma regneranno la Verità, l'Amore.
MARCIA PONTIFICALE
Salve, Salve Roma, patria eterna di memorie,
Cantano le tue glorie, mille palme e mille altari.
Roma degli Apostoli, Madre guida dei Redenti,
Roma luce delle genti, il mondo spera in te!
Salve, Salve Roma, la tua luce non tramonta,
Vince l'odio e l'onta lo splendor di tua beltà.
Roma degli Apostoli, Madre e guida dei Redenti,
Roma luce delle genti, il mondo spera in te!
Dịch sang tiếng Việt
QUỐC CA
Ôi Roma bất tử, thành phố của các nghĩa sĩ và các thánh
Ôi Roma bất tử, hãy nhận lấy lời ngợi ca của chúng tôi
Vinh quang nơi thiên đàng tới Đức Giêsu, Chúa chúng ta
Và hoà bình tới muôn người yêu mến Chúa
Chúng tôi đến với Người, vị thánh mục đồng
Ở Người, chúng tôi thấy một Đấng Cứu Thế nhân từ
Người là kế tự thánh của Niềm tin
Người là chốn an ủi và nơi chở che cho những ai có đức tin
Sức mạnh và cái ác sẽ không chiến thắng
Mà lẽ phải và tình yêu sẽ ngự trị
HÀNH KHÚC Giáo hoàng
Roma muôn năm, nơi bất tử của mọi ký ức
Một ngàn cành cọ và một ngàn bệ thờ hát bài ngợi ca
Ôi thành phố của những vị tông đồ, người mẹ và người dẫn lối lên thiên đàng
Ánh sáng của nhân loại và niềm hi vọng của thế giới
Ôi Roma! Ánh sáng của Người sẽ không bao giờ phai nhạt
Nét lộng lẫy trong vẻ đẹp của Người xua tan đi sự ô nhục và lòng oán hận
Ôi thành phố của những vị tông đồ, người mẹ và người dẫn lối lên thiên đàng
Ánh sáng của nhân loại và niềm hi vọng của thế giới
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tải xuống bài Inno e Marcia Pontificale (có lời tiếng Latinh)
Tải xuống bài Inno e Marcia Pontificale (có lời tiếng Ý)
Tải xuống bài Inno e Marcia Pontificale (không có lời)
Quốc ca
Văn hóa Vatican
Quốc ca châu Âu
|
17025
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gioan%20Baotixita%20Ph%E1%BA%A1m%20Minh%20M%E1%BA%ABn
|
Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn
|
Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam của Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh Mục nhà thờ San Giustino. Ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục chính tòa Tổng Giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam và thành viên Bộ Phụng Tự và Kỷ luật Bí tích và Bộ Truyền giáo Tòa Thánh. Ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Việt, ông có thể sử dụng tiếng Anh và tiếng Pháp.
Phạm Minh Mẫn sinh tại Hòa Thành, Cà Mau, thuộc Giáo phận Cần Thơ. Từ năm 10 tuổi, cậu bé Mẫn đi theo con đường tu học của mình và theo học nhiều chủng viện cho đến năm 1965 thì được thụ phong linh mục. Sau khi được thụ phong, linh mục Mẫn đảm nhiệm vai trò giáo sư cũng như Giám đốc Tiểu chủng viện Cái Răng, Cần Thơ. Năm 1968, Giám mục Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang cử ông đi du học tại Hoa Kỳ và đậu Tiến sĩ về giáo dục năm 1971. Trở về Việt Nam, linh mục Mẫn tiếp tục làm giáo sư Tiểu chủng viện Cái Răng. Từ năm 1974, ông là Giám đốc Tiểu chủng viện Á Thánh Quý, Cái Răng, Cần Thơ và đến năm 1976 thì ông phụ trách việc đào tạo linh mục của giáo phận Cần Thơ. Năm 1988, ông được bổ nhiệm làm giám đốc tiên khởi của Đại chủng viện Thánh Quý – Cần Thơ.
Tháng 2 năm 1993, Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm Phạm Minh Mẫn làm Giám mục phó với quyền kế vị Giáo phận Mỹ Tho. Lễ tấn phong giám mục được cử hành vào tháng 8 cùng năm tại Cần Thơ. Tháng 3 năm 1998, Phòng Báo chí Tòa Thánh chính thức loan báo Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn làm Tổng giám mục của Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.
Tháng 10 năm 2003, Giáo hoàng Gioan Phaolô II trao mũ Hồng y và tước hiệu Hồng y Linh mục Nhà thờ San Giustino cho Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn, sau khi được đưa vào danh sách các tân Hồng y vào ngày 28 tháng 9 trước đó. Tháng 11 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm thành viên Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích và Thánh Bộ Truyền giáo Tòa Thánh Vatican. Với tước vị hồng y, ông đi dự hai Mật nghị Hồng y vào năm 2005, chọn Giáo hoàng Biển Đức XVI và năm 2013, chọn Giáo hoàng Phanxicô.
Ngày 22 tháng 3 năm 2014, Giáo hoàng Phanxicô chấp thuận đơn từ nhiệm chức tổng giám mục tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh của Hồng y Phạm Minh Mẫn vì lý do tuổi tác. Tổng giám mục phó Phaolô Bùi Văn Đọc đương nhiên lên kế nhiệm ông.
Thân thế và tu tập
Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934 tại xã Hòa Thành, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, thuộc Giáo phận Cần Thơ trong một gia đình sống trong tinh thần Kitô giáo và sẵn sàng chia sẻ đức tin của mình với những người khác. Năm 1939, linh mục Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp khi ấy là linh mục chính xứ Tắc Sậy, đến nhà thăm nhà cha mẹ cậu bé Phạm Minh Mẫn thuộc họ đạo Cái Rắn (Cà Mau). Trong cuộc gặp gỡ này, linh mục Diệp gợi ý khi cậu bé Mẫn được lên 6 tuổi thì nên cho vào nội trú Dòng Lasan và 10 tuổi thì đưa vào Tiểu chủng viện. Cũng từ sau buổi gặp gỡ giữa linh mục Diệp và gia đình Phạm Minh Mẫn, cậu bé Mẫn được chọn làm giúp lễ và nhiều lần giúp đỡ linh mục Diệp cử hành thánh lễ. Cha mẹ cậu cũng quyết định nghe theo lời khuyên của vị linh mục và thực hiện theo lời khuyên của linh mục này.
Lên 10 tuổi (1944), Phạm Minh Mẫn được gia đình cho theo học tại Tiểu chủng viện Cù Lao Giêng. Chỉ một năm sau khi bước vào con đường tu học, việc học bị gián đoạn do hoàn cảnh chiến sự. Chủng sinh Mẫn trở về sinh sống cùng gia đình, nhận phụ việc rao các loại bánh Nam Bộ: bánh ít, bánh tét, bánh còng, bánh cam. Cậu phụ giúp gia đình trong vòng một năm. Sau khi nhận được tin tức từ các linh mục thừa sai, mời gọi trở về Nam Vang tu học, năm 1946, cậu bé Phạm Minh Mẫn tiếp tục theo học tại Tiểu chủng viện Phnôm Pênh tại Campuchia. Trong thời gian này, ông không thường xuyên về thăm gia đình, do khoảng cách địa lý và do sự nguy hiểm của chiến sự.
Sau tám năm học tại Campuchia, năm 1954, chủng sinh Phạm Minh Mẫn trở về Việt Nam và theo học triết học, thần học tại Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn. Sau khi hoàn thành 2 năm học triết học, năm 1956, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, thiếu kinh phí cho các em học trung học, Phạm Minh Mẫn quyết định tạm dừng việc học, về quê dạy học để kiếm tiền phụ chi trả chi phí học hành cho các em mình Do có khả năng Pháp ngữ, Phạm Minh Mẫn nhận dạy kèm học sinh môn học này, và đông đảo học sinh đã theo học. Sau khi kinh tế gia đình đã ổn định hơn, Phạm Minh Mẫn tiếp tục con đường tu học vào năm 1961. Song song với việc dạ kèm, chủng sinh Phạm Minh Mẫn kiêm thêm nhiệm vụ thầy giảng tại họ đạo Bạc Liêu. Sau đó trở về Sài Gòn, cậu tiếp tục theo học triết học, thần học tại Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn.
Thời kì linh mục
Sau quá trình tu học dài hạn, ngày 25 tháng 5 năm 1965, Phó tế Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn được thụ phong linh mục tại Cần Thơ, bởi Giám mục Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang. Sau khi được truyền chức linh mục, Phạm Minh Mẫn được bổ nhiệm đảm trách vai trò giáo sư Tiểu chủng viện Cái Răng, Cần Thơ. Năm 1968, giám mục Giacôbê Nguyễn Ngọc Quang cử linh mục Mẫn đi du học tại Đại học Loyola, Los Angeles, Hoa Kỳ. Ba năm sau, Phạm Minh Mẫn tốt nghiệp với văn bằng phó Tiến sĩ về giáo dục và sau đó trở về nước tiếp tục làm giáo sư Tiểu chủng viện Cái Răng, Cần Thơ. Từ năm 1974, ông đảm trách vai trò Giám đốc Tiểu chủng viện Á Thánh Quý, Cái Răng, Cần Thơ và đến năm 1976 thì ông phụ trách việc đào tạo linh mục của giáo phận Cần Thơ.
Năm 1988, Phạm Minh Mẫn được bổ nhiệm làm giám đốc tiên khởi của Đại chủng viện Thánh Quý – Cần Thơ, một đại chủng viện liên giáo phận nhằm đào tạo linh mục cho Giáo phận Cần Thơ, Giáo phận Vĩnh Long và Giáo phận Long Xuyên. Trong thời gian này, ông giảng dạy cho các chủng sinh sống tinh thần đối thoại trong yêu thương, như Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Trong khoảng thời gian cử đi giúp các xứ đạo khoảng một năm, các chủng sinh được khuyến khích tham gia hoặc có thể chủ động khai mở, vận động tổ chức các chương trình hỗ trợ người nghèo, đặc biệt là trẻ em của các gia đình khó khăn và người lớn tuổi không nơi nương tựa.
Giám mục
Ngày 22 tháng 3 năm 1993, Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm linh mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn làm Giám mục phó với quyền kế vị Giáo phận Mỹ Tho, việc bổ nhiệm này được công bố sau đó vào ngày 15 tháng 3. Ngày 11 tháng 8, lễ tấn phong Giám mục của ông được tổ chức tại khuôn viên Đại Chủng viện Thánh Quí Cần Thơ, với phần nghi thức chính yếu được cử hành bởi Giám mục Chủ phong Emmanuel Lê Phong Thuận, giám mục chính tòa Giáo phận Cần Thơ, hai giám mục Phụ phong là Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách, giám mục chính tòa Giáo phận Đà Nẵng và Giám mục Phó Giáo phận Bắc Ninh Giuse Maria Nguyễn Quang Tuyến. Ngay ngày 12 tháng 8, một ngày sau lễ tấn phong, Tân giám mục Phạm Minh Mẫn chính thức về nhận chức vụ Giám mục phó Giáo phận Mỹ Tho. Tân giám mục chọn cho mình câu châm ngôn: Như Thầy yêu thương. Nói về châm ngôn này sau khi đã hồi hưu, Phạm Minh Mẫn cho biết ông luôn nhấn mạnh điều này với các linh mục tại các giáo phận từng cai quản. Ông quan niệm Thiên Chúa dạy chúng ta yêu thương nhau và đối thoại trong yêu thương. Ông cũng cho biết trong khoảng thời gian là Giám mục đã qua, ông luôn cố gắng sống theo châm ngôn giám mục mình đã chọn, yêu thương tất cả mọi người và yêu thương không phân biệt, không loại trừ. Nhân dịp kỷ niệm 27 năm ngày được tấn phong giám mục, Hồng y Phạm Minh Mẫn giải nghĩa khẩu hiệu của mình như sau:
Trong Đại hội Hội đồng Giám mục Việt Nam lần thứ VI, các giám mục Việt Nam bầu chọn Giám mục Phạm Minh Mẫn giữ chức Phó Tổng thư ký Giáo tỉnh Sài Gòn nhiệm kỳ 1995–1998.
Tổng giám mục
Giai đoạn 1998–1999
Ngày 1 tháng 3 năm 1998, phòng Báo chí Tòa Thánh chính thức loan báo Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn làm Tổng giám mục của Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Tòa Thánh ra văn thư bổ nhiệm ông làm Tổng giám mục chính tòa Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, trong văn thư có đoạn:
Tổng Giám mục Phạm Minh Mẫn nhận trả lời phỏng vấn của báo Công giáo và Dân tộc vào tháng 3 năm 1998. Chia sẻ về những cảm xúc đầu tiên sau khi được bổ nhiệm làm Tổng giám mục, Phạm Minh Mẫn cho biết ông lo lắng vì cho rằng nhiệm sở mới to lớn, xa lạ và phức tạp. Nói về đường hướng mục vụ, tân tổng giám mục cho biết ônvg cho rằng cần tham khảo mọi thành phần của Tổng giáo phận, truyền thống giáo phận, đường hướng của vị tiền nhiệm và ý kiến các vị lão thành. Nói về những vấn đề sẽ giải quyết đối với một giáo phận có nhiều xáo trộn, Tổng giám mục Mẫn cho biết ông cần thời gian để hòa nhập, tiến đến xây dựng tình hiệp thông và đoàn kết. Nói về mối quan hệ với chính quyền thành phố Hồ Chí Minh, tân tổng giám mục nhận định nếu các bên tìm được mẫu số chung thì mối quan hệ có khả năng phát triển, đem đến lợi ích dài lâu cho dân tộc. Được đưa ra câu hỏi về đánh giá tờ báo Công giáo và Dân tộc, Tổng Giám mục Phạm Minh Mẫn nhận định đây là tờ báo của Uỷ ban Đoàn kết Công giáo, góp phần tạo đoàn kết, nhưng ông không có cơ sở để đo lường hiệu quả việc này.
Một tháng sau khi tin bổ nhiệm được công bố cách chính thức, ngày 2 tháng 4, tân Tổng giám mục chính thức nhậm chức Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Cử chỉ đầu tiên trong lễ nhậm chức là ông quỳ trước tượng Đức Mẹ Nữ Vương Hoà Bình (Regina Pacis) và thực hịện nghi thức hôn đất. Phát biểu trong bài giảng của lễ nhậm chức, tân tổng giám mục cho biết ông có cảm giác lạ lẫm và âu lo. Tuy nhiên, lạ lẫm chứ không hoàn toàn xa cách, và âu lo chứ không hoảng sợ. Sau hai tuần chính thức về sinh sống tại Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng giám mục Mẫn cho họp các linh mục, tu sĩ nam nữ và cả các giáo dân. Tại cuộc họp này, giám mục Mẫn kêu gọi sống liên đới với các gia đình gặp khó khăn, những người trẻ tuổi không có phương tiện để đi học ở trường hoặc để học nghề. Tổng giám mục Mẫn nhấn mạnh vấn đề giúp đỡ cho những người vô gia cư. Ông cũng nêu ý tưởng về việc tổ chức một Công nghị Giáo phận, với nội dung chính là đoàn kết hàng ngũ linh mục và giáo dân vốn bị chia rẽ trong 5 năm trống tòa. Trong Thư mục vụ đầu tiên trên cương vị Tổng giám mục ấn ký vào ngày 1 tháng 6, Phạm Minh Mẫn kêu gọi giáo dân cần phải biết quan tâm và hỗ trợ mọi người, kể cả người không theo Kitô giáo. Ông cũng loan báo sẽ đi Rôma để bày tỏ sự liên kết của Tổng giáo phận với Tòa Thánh và trở về vào đầu tháng 7 để cử hành lễ giỗ cố tổng giám mục Nguyễn Văn Bình.
Tân Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn cùng 18 vị Tổng giám mục mới đến Rôma tham dự nghi thức lãnh nhận dây pallium từ tay Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào sáng ngày 29 tháng 6 năm 1998 và tham gia đồng tế một thánh lễ với giáo hoàng. Buổi lễ này cũng có sự tham dự của một phái đoàn Giáo hội Chính Thống do Tòa Giáo chủ Constantinopoli gửi đến mừng bổn mạng của Giáo hội Công giáo Rôma. Sau buổi lễ trao dây Pallium, tất cả các tân tổng giám mục tiếp kiến chung với giáo hoàng vào sáng ngày 30 tháng 6.
Tháng 7 năm 1998, báo Fides của Thánh bộ Truyền giáo Tòa Thánh cho xuất bản cuộc phỏng vấn với Tân Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn, trong đó đề cập đến nhiều vấn đề khác nhau. Khi được hỏi về hiện trạng Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, ông cho biết sự thiếu vắng vị Tổng giám mục chính tòa trong vòng 5 năm đã gây thiệt hại to lớn cho Tổng giáo phận. Nói về các hoạt động âm thầm của Tổng giáo phận như trường học, vườn trẻ, khóa dạy nghề và chẩn y viện, Tổng giám mục Mẫn cho biết ông đang thương lượng với chính quyền dân sự. Chia sẻ thêm về việc chính quyền yêu cầu tách rời các sinh hoạt cộng đồng ra khỏi cơ sở tôn giáo, Tổng giám mục Mẫn cho rằng ông mong luật pháp có sự thay đổi và nhận định có lẽ nên có tự do tôn giáo hoàn toàn. Khi được hỏi về Mặt Trận Công giáo Yêu nước, Tổng giám mục Mẫn nhận định nếu Mặt Trận muốn đoàn kết với người Kitô hữu thì đó là điều tốt đẹp, nhưng nếu Mặt Trận mang đến sự chia rẽ thì đó không phải là điều tốt đẹp. Về vấn đề chọn linh mục Tổng Đại diện là linh mục Huỳnh Công Minh, giám mục Mẫn cho hay ông xác nhận linh mục Minh từng là thành viên tích cực của Mặt Trận Công giáo Yêu nước, nhưng đã rời tổ chức này. Tổng giám mục Mẫn khẳng định, sự bổ nhiệm này là việc tái xác nhận bổ nhiệm của hai vị tiền nhiệm là Tổng giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình và Giám quản Tông Tòa Nicôla Huỳnh Văn Nghi.
Trong đại hội Hội đồng Giám mục Việt Nam lần VII, Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn được các giám mục bầu chọn giữ vai trò Chủ tịch Uỷ ban Phụng tự và giữ nhiệm vụ này trong nhiệm kỳ 1998–2001.
Từ ngày 11 đến ngày 16 tháng 10 năm 1999, Hội đồng Giám mục Việt Nam nhóm họp, chọn ra các giám mục tham dự Thượng Hội Giám mục Thế giới về chức năng Giám mục dự kiến tổ chức vào năm 2000 gồm 5 giám mục trong đó có Tổng Giám mục Phạm Minh Mẫn. Thực tế sau đó Thượng hội đồng này bị hoãn đến tháng 10 năm 2001.
Giai đoạn 2000–2003
Trên cương vị Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, Phạm Minh Mẫn viết thư đề xuất vào năm 2000 với mục đích đề nghị chính quyền thành phố bàn giao trước hạn cơ sở Tiểu Chủng viện Thánh Giuse cũ, đang được sử dụng làm trường Trung học Tài chính Kế toán IV, với mục đích đào tạo giáo dân Tổng giáo phận. Nhiều năm sau đó, tháng 9 năm 2004, Bộ Tài chính quyết định trao lại trường Trung học Tài chính Kế toán IV cho Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh sử dụng, và ban đầu được gọi là Trung tâm Văn hóa Công giáo, sau đó trở thành Trung tâm Mục vụ. Phạm Minh Mẫn bổ nhiệm linh mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm làm Giám đốc Trung tâm này.
Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thế giới năm 2001 (Thượng Hội đồng Thường lệ lần X với chủ đề: Giám mục: người tôi tớ của Phúc Âm Chúa Giêsu Kitô để mang lại hy vọng cho thế giới) và có bài tham luận bằng tiếng Pháp trong khuôn khổ thượng hội đồng vào ngày 3 tháng 10. Một đại diện khác từ Việt Nam là giám mục Phêrô Nguyễn Soạn cũng có bài tham luận trong ngày này. Nội dung Tổng giám mục Mẫn đề cập trong khuôn khổ chương I của tài liệu làm việc: Thừa tác vụ của niềm hy vọng.
Ngày 25 tháng 12 năm 2002, phản hồi lời mời của Uỷ ban Đoàn kết Công giáo tham gia đại hội công giáo Việt Nam xây dựng và bảo vệ tổ quốc lần thứ IV, Tổng Giám mục Phạm Minh Mẫn cho biết ông không thể tham gia đại hội vì bận công tác mục vụ. Đáp từ, Tổng giám mục nêu 5 điểm góp ý với nội dung chính là xóa bỏ dần những khuyết tật của xã hội Việt Nam. Quan điểm của ông gây tiếng vang lớn tại cộng đồng Công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Nội dung lá thư, Tổng giám mục Mẫn chia làm hai phần: Xóa bỏ khuyết tật xã hội và phát huy giá trị nhân bản xã hội. Phần đầu tiên, Tổng giám mục Mẫn cho rằng cần xóa bỏ sự tha hóa con người và cơ chế làm tha hóa con người, lần lượt là đánh mất phẩm giá con người và cơ chế xin - cho. Nội dung thư hai, ông nêu lên các luận điểm: phát huy nhân cách, phẩm giá con người; thăng tiến con người trong chân lý; phát huy tình liên đới các dân tộc; phát huy tính phụ đới của các tổ chức xã hội và phát huy thiện chí và ý thức phục vụ ích lợi xã hội.
Trước khó khăn từ sau 1975 không có một giám mục ngoại quốc nào được trú tại Việt Nam qua đêm, Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn đã báo với chính quyền và mời Tổng giám mục Paul Josef Cordes, Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng Đồng Tâm sang thăm mục vụ tại Việt Nam. Từ khi đảm nhận vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn có nhiều cải cách quan trọng: nhấn mạnh đến việc giúp đỡ người nghèo, tinh thần phục vụ hàng giáo sĩ, tự do tôn giáo và đào tạo hàng giáo sĩ. Ông đặc biệt nhắc nhở giáo dân quan tâm, hỗ trợ giúp đỡ những hoàn cảnh nghèo khó trong các lá thư mục vụ của mình.
Trong Đại hội Hội đồng Giám mục Việt Nam lần thứ VII, các giám mục Việt Nam đã bầu chọn giám mục Phạm Minh Mẫn giữ chức Chủ tịch Ủy ban Phụng tự nhiệm kỳ 1998–2001 và ông tái đắc cử vai trò này trong nhiệm kỳ 2001–2004. Song song với chức vụ trên, Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn được bầu làm Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam nhiệm kỳ 2001–2004. Ông tiếp tục tái đắc cử chức vụ này trong đại hội IX và giữ vai trò Phó Chủ tịch đến hết nhiệm kỳ 2004–2007.
Hồng y
Bổ nhiệm, lễ nhận tước vị và các vấn đề liên quan
Ngày 28 tháng 9 năm 2003, Giáo hoàng Gioan Phaolô II công bố ông vinh thăng 31 Hồng y, trong đó có 1 Hồng y được giữ kín. Danh sách 30 Hồng y mới của Giáo hội Công giáo Rôma, gồm 7 vị ở giáo triều, 19 vị từ các Tổng giáo phận trên thế giới và 4 vị là linh mục trên 80 tuổi. Tổng giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, được nêu tên trong danh sách này ở vị trí thứ 22. Với việc bổ nhiệm này, Hồng y Gioan Baotixita là Hồng y đầu tiên xuất thân từ miền Nam Việt Nam cũng như Hồng y đầu tiên của Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh – Sài Gòn. Đây cũng là lần đầu tiên, Việt Nam có cùng lúc hai Hồng y.
Trả lời phỏng vấn của nhiều hãng truyền thông trong và ngoài nước, Hồng y Phạm Minh Mẫn chia sẻ về cảm nhận của mình trong tước vị mới. Ông cho rằng việc được bổ nhiệm làm Hồng y là một bất ngờ và nằm ngoài ước mơ của ông. Ông cho rằng việc bổ nhiệm này vượt quá khả năng và hoàn cảnh của mình, cảm thấy như có một gánh nặng rơi ầm xuống trên tôi, làm tôi choáng váng.
Ngày 30 tháng 9 năm 2003, chính quyền Việt Nam chính thức lên tiếng phản đối vụ việc vinh thăng tước Hồng y cho Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn. Nguồn tin từ hãng thông tấn AP truyền đi từ Hà Nội tái xác nhận thông tin trên. Ban Tôn giáo cho biết, Tòa Thánh không xin phép trước khi bổ nhiệm Tổng giám mục Mẫn làm Hồng y. Nhận định về việc này, AP nhận định thế giới sẽ phải ngạc nhiên khi còn những chính phủ yêu cầu Giáo hoàng phải xin phép khi lựa chọn Hồng y. Linh mục Gioan Trần Công Nghị, Giám đốc hãng truyền thanh Công giáo Viet Catholic có cuộc phỏng vấn với Đài Chân lý Á Châu nhân sự kiện này. Nói về việc chính quyền Hà Nội bác bỏ việc "bổ nhiệm" tước vị hồng y cho Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn, linh mục Nghị cho rằng có thỏa thuận giữa chính quyền Việt Nam với Tòa Thánh về bổ nhiệm giám mục, tổng giám mục và hồng y nhưng thông tin từ nhân viên ngoại giao Vatican bác bỏ thỏa thuận này với tước vị hồng y. Ông cho rằng việc vinh thăng tước Hồng y với Tổng giám mục Mẫn là do Tòa Thánh không sắp xếp được nhân sự để nhận tước vị hồng y ở Tòa Tổng giám mục Hà Nội. Ông cho rằng, thông qua quyết định này, vị thế của Tòa Tổng Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh tăng cao vì là một Tòa Hồng y, thể hiện được sức sống đạo Công giáo ở miền Nam Việt Nam. Linh mục Nghị cho rằng nghi lễ nhận tước vị chỉ là hình thức, trong khi thực tế vị thế của tân Hồng y đã rất lớn. Ông đánh giá việc chính quyền Việt Nam từ chối cho Tổng giám mục Mẫn tham gia lễ nhận tước vị thể hiện cho thế giới nhận thấy đường lối ngoại giao chưa tế nhị. Linh mục Trần Công Nghị cho rằng Hồng y Mẫn thăng tiến rất nhanh, chỉ trong mười năm, được tấn phong giám mục, tiếp quản chức tổng giám mục và được thăng hồng y.
Nhận được tin hành lang về việc bổ nhiệm làm Hồng y từ các linh mục cũng như giám mục Việt Nam, Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn tiến hành đến gặp gỡ các quan chức chính quyền. Tại đây, Tân hồng y giải thích cho các viên chức biết hồng y chỉ là tước hiệu và mọi việc sẽ như cũ, không có gì thay đổi ngoài màu sắc của phẩm phục. Phạm Minh Mẫn khẳng định với viên chức chính quyền rằng ông phải nhận tước vị đó và viên chức này khuyên Tân hồng y nên viết thư xin thủ tướng công nhận Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn là Hồng y. Trở về Tổng giáo phận ngày 1 tháng 10, hồng y tân cử sắp xếp cuộc gặp với chính quyền ngay ngày hôm sau. Tại buổi gặp này, các viên chức hỏi về việc thuyên chuyển Hồng y Mẫn ra Hà Nội và nhắc nhở ông tuân theo sự sắp xếp của bề trên. Nói về chi tiết này trong một cuộc phỏng vấn, Hồng y Mẫn cho rằng các viên chức đã nhầm lẫn rằng việc trở thành hồng y buộc ông phải thuyên chuyển ra Hà Nội. Ngày 2 tháng 10, thông cáo từ Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố việc Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn được phong hồng y là tin vui cho giáo dân Việt Nam. Thông cáo cũng nhắc đến sự kiện đây là lần đầu tiên Việt Nam có (cùng lúc) 2 hồng y.
Một tuần sau khi có cuộc gặp gỡ với chính quyền, Hồng y Tân cử Phạm Minh Mẫn sang Rôma và có cuộc nói chuyện với Hồng y Tổng trưởng Bộ Truyền giáo Crescenzio Sepe. Hồng y Sepe khẳng định Giáo hoàng Gioan Phaolô II rất vui mừng khi thiết lập nên tòa hồng y thứ hai ở Việt Nam. Lễ trao mũ Hồng y và tước hiệu Hồng y Linh mục Nhà thờ San Giustino cho tân hồng y Phạm Minh Mẫn được cử hành vào ngày 21 tháng 10 năm 2003, với sự tham gia của 30.000 giáo dân, hàng trăm hồng y, giám mục. Phái đoàn hộ tống Tân hồng y người Việt có khoảng 300 người, gồm các giám mục: Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam Phaolô Nguyễn Văn Hòa, các giám mục Giuse Vũ Duy Thống và Antôn Vũ Huy Chương. Về các linh mục giáo phận có linh mục Huỳnh Công Minh, Tổng đại diện và 2 linh mục phụ trách dòng tu và giáo dân là Đinh Châu Trân và Võ Văn Ánh, chính xứ Tân Định. Ngày 24 tháng 11 năm 2003, ông trở thành thành viên Thánh Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích và Thánh Bộ Truyền giáo Tòa Thánh Vatican. Linh mục Nguyễn Công Danh (1935–2016) kể lại khi Tổng Giám mục Phạm Minh Mẫn đến Vatican nhận mũ Hồng y, một phóng viên nước ngoài đã có câu hỏi với tân hồng y rằng họ cho rằng có vài linh mục quốc doanh theo chân Hồng y đến Vatican, đồng thời hỏi về mục đích hộ tống của linh mục này và cho rằng các linh mục này là gián điệp của chế độ cộng sản. Đáp lại câu hỏi từ các phóng viên, Tân hồng y Mẫn nhận định rằng một số linh mục vì mục đích chia vui với tân hồng y, với Tổng giáo phận và với Giáo hội Việt Nam, không có linh mục nào là linh mục quốc doanh. Hồng y Mẫn nhấn mạnh: Linh mục là linh mục của Giáo hội, do các giám mục tấn phong và khẳng định các linh mục này vẫn đang thi hành công tác mục vụ trong Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Để kết thúc câu trả lời, Hồng y Mẫn đúc kết: Linh mục là tài sản của Giáo hội, là sở hữu của Đức cha giáo phận". Trong lễ Tạ ơn Tân Hồng y vào cuối năm 2003, Hồng y Mẫn đã mời nhiều Hồng y đến từ các quốc gia châu Á tham gia đồng tế trong lễ này. Hồng y Mẫn cho rằng đó là sự hiệp thông của Giáo hội Á châu.
Sau khi dự lễ phong Hồng y, Hồng y Mẫn thăm cộng đồng giáo dân gốc Việt tại Orange County (Hoa Kỳ) vào ngày 24 tháng 10 và tại Pháp ngày 27 tháng 10. Sau khi chào thăm giáo dân tại nhiều nơi, tham dự Đại hội Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, Phạm Minh Mẫn trở về Việt Nam, đến chào thăm Văn phòng Thủ tướng. Phó Thủ tướng Vũ Khoan đã đón tiếp Hồng y Mẫn vào ngày 22 tháng 12. Tại cuộc gặp mặt, Phạm Minh Mẫn loan báo cho ông Phó Thủ tướng rằng Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ và Tổng thống Bill Clinton đang có chủ trương hòa giải giữa hai nước cựu thù và Hồng y Mẫn cũng cho biết thêm, ông đã có buổi làm việc tại Bộ Ngoại giao Mỹ và góp ý rằng chủ trương hoà giải cần phải được thực thi bằng con đường đối thoại trong sự tôn trọng sự thật và tôn trọng lẫn nhau, hợp tác lành mạnh và xây dựng.
Giai đoạn 2004–2005
Trong khuôn khổ cuộc họp tại Băng Cốc tháng 8 năm 2004, phóng viên UCA News đã gặp gỡ và thực hiện cuộc phỏng vấn với Hồng y Phạm Minh Mẫn đến những vấn đề khác nhau. Khi được hỏi trở thành Hồng y, ông có thẳng thắn nêu lên quan điểm của mình hay không, Phạm Minh Mẫn khẳng định dù trước đây chưa là hồng y, ông cũng đã cất lên tiếng nói kêu gọi người Công giáo xây dựng đất nước trên tinh thần công bằng và bác ái. Nhận định về pháp lệnh Tôn giáo năm 2004, Hồng y Mẫn khẳng định pháp lệnh này vẫn đi theo lối mòn của cơ chế xin cho. Hồng y Mẫn thường nói với các viên chức chính quyền rằng mỗi khi ông trả lời báo chí nước ngoài về tự do ở Việt Nam, ông đều nói:Việt Nam không có "quyền" tự do, nhưng có tự do "trong sự cho phép". Nói về việc sống đức tin Công giáo trong xã hội, vị hồng y cho hay việc này khá khó khăn vì chính quyền không công nhận Công giáo là một tổ chức. Để hỗ trợ giáo dân, Hồng y Mẫn cho nhóm các giáo dân theo công việc: bác sĩ, nghệ sĩ, giáo viên, doanh nhân và cả viên chức chính quyền là người Công giáo. Ngoài ra, trong công tác xây dựng xã hội, Tổng giáo phận qua các dòng tu đã thành lập các hội truyền giáo tại các vùng không có người Công giáo, các trường dánh cho người tàn tật, trường dạy nghề, trường mẫu giáo. Một số dòng tu còn tập hợp các phụ nữ làm nghề mại dâm để hỗ trợ về chăm sóc con cái, gia đình và việc làm mới. Sau Mở cửa Kinh tế, các tệ nạn tràn vào Việt Nam, gây nên nạn nghiện ma túy dẫn đến HIV/AIDS. Để hỗ trợ, Hồng y Mẫn thiết lập Uỷ ban Mục vụ HIV/AIDS để vận động ngăn ngừa bệnh này cũng như chăm sóc các bệnh nhân mắc bệnh. Các trại cai nghiện ma túy cũng là nguyên nhân lây lan dịch bệnh, Hồng y Mẫn đã phái các nữ tu đến chăm sóc. Năm 2004, Tổng giáo phận dự kiến làm đĩa CD nói về bệnh HIV/AIDS cũng như cách phòng tránh và chăm sóc bệnh nhân, gửi đến khoảng 500 linh mục thuộc Tổng giáo phận.
Từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 8 năm 2004, Hồng y Phạm Minh Mẫn tham gia Hội nghị Toàn thể lần thứ VIII của Liên Hội đồng Giám mục Á Châu với chủ đề "Gia Đình Á Châu Hướng Đến Một Nền Văn Hóa Sự Sống" tổ chức tại Daejeon, Hàn Quốc. Bài bình luận của ông tại hội nghị lần này là về vấn đề gia đình. Phát biểu tại hội nghị, Phạm Minh Mẫn nhận định, đối thoại chính là chìa khóa để giải quyết vấn đề về gia đình và nhận định có những đường hướng mục vụ làm gia đình chia rẽ. Phạm Minh Mẫn cũng đề nghị cần thay đổi ngay lập tức, để việc mục vụ góp phần gắn kết các gia đình.
Chiều tối ngày 5 tháng 4 năm 2005, Hồng y Phạm Minh Mẫn và Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt cùng Giám mục Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam – Phaolô Nguyễn Văn Hòa lên đường sang Roma (Italy) dự tang lễ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Cùng đi với đoàn có linh mục Bùi Thái Sơn (Tòa Giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh), linh mục Giuse Đặng Đức Ngân (Tòa Giám mục Tổng giáo phận Hà Nội) và Giám mục chính tòa Giáo phận Phát Diệm Giuse Nguyễn Văn Yến. Chính quyền Hà Nội hỗ trợ nhanh chóng các thủ tục cho đoàn giáo sĩ đi Rôma dự tang lễ. Ban Tôn giáo chính phủ Việt Nam cho biết họ sẽ tạo mọi điều kiện để giáo dân và giáo sĩ có thể đến viếng giáo hoàng. Sau đó, Hồng y Mẫn ở lại Vatican tham dự Mật nghị Hồng y để bầu Giáo hoàng mới sau khi Giáo hoàng Gioan Phaolô II qua đời. Cuộc Mật nghị này sau đó bầu chọn Giáo hoàng Biển Đức XVI.
Giai đoạn 2006–2010
Ngày 10 tháng 7 năm 2007, Hồng y Phạm Minh Mẫn cho xuất bản lá thư gửi đến báo Công giáo và Dân tộc cũng như truyền thông tại Việt Nam. Trong thư, vị tổng giám mục Thành phố chỉ trích sự đưa tin với chiều hướng một chiều, sự thật bị cắt xén và bóp méo. Hồng y Mẫn cũng đưa ra một số dẫn chứng về việc thông tin bị bóp méo, với sự kiện gần nhất là việc đưa tin CNN phỏng vấn Chủ tịch nước Việt Nam với nội dung bị cắt xén và thêm thắt, gây ảnh hưởng xấu đến Hội đồng Giám mục Việt Nam và Chủ tịch Hội đồng này phải có tin đính chính. Cũng trong thư này, Hồng y Mẫn cho rằng tất cả sự việc này gây ra sự nghi kị, dần biến mọi người thành Tào Tháo, đồng thời kêu gọi truyền thông Công giáo không biến tín hữu trở thành những kẻ đa nghi với Chúa và Giáo hội. Ngày 22 tháng 7 cùng năm, Hồng y Mẫn gửi thư cho linh mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Chủ tịch câu lạc bộ Nguyễn Văn Bình, nhờ câu lạc bộ này nghiên cứu về đề tài Thái độ hợp tác cũng như bất hợp tác của Giáo hội Công giáo trong 50 năm qua.
Tại Đại hội Hội đồng Giám mục Việt Nam lần X, Hồng y Phạm Minh Mẫn được các giám mục bầu chọn giữ vai trò Chủ tịch Uỷ ban Mục vụ Di dân nhiệm kỳ 2007–2010 và tái đắc cử chức vụ này ở nhiệm kỳ 2010–2013.
Ngày 24 đến ngày 28 tháng 9 năm 2007, Hồng y Phạm Minh Mẫn là lãnh đạo giáo hội Việt Nam đầu tiên có chuyến thăm đến Trung Quốc. Phái đoàn do vị Hồng y Tổng giáo phận Thành phố dẫn đầu đã đến thăm Bắc Kinh và Thượng Hải. Tại đây, ông cũng có dịp tiếp xúc với Tổng giám mục Tổng giáo phận Bắc Kinh Giuse Lý Sơn, vị giám mục vừa được bổ nhiệm vào ngày 21 tháng 9 và chào xã giao giám mục giáo phận Thượng Hải Alôsiô Kim Lỗ Hiền. Phái đoàn từ Việt Nam, ngoài hồng y Mẫn còn có Tổng giám mục Tổng giáo phận Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt và giám mục phó Giáo phận Nha Trang Giuse Võ Đức Minh.
Năm 2008, nhân dịp Đại hội Giới trẻ Thế giới tổ chức tại Sydney (Úc), Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn có gửi một lá thư cho ba giám mục Việt Nam dẫn đầu phái đoàn Công giáo nước này sang tham dự sự kiện này là Chủ tịch Uỷ ban Mục vụ Giới trẻ Giuse Vũ Văn Thiên, Chủ tịch Uỷ ban Giáo lý Đức Tin Phaolô Bùi Văn Đọc và giám mục chính tòa Giáo phận Lạng Sơn và Cao Bằng Giuse Đặng Đức Ngân. Trong lá thư của vị hồng y với mục đích chia sẻ rộng rãi, Phạm Minh Mẫn cho rằng các kỳ đại hội trước ở Pháp, Đức, Canada đều có một sự cố "làm tắc nghẽn con đường hiệp thông" của các bạn trẻ đến từ Việt Nam, đó là lá cờ vàng ba sọc đỏ đã được giương lên ở những nơi có người trẻ gốc Việt quy tụ để cử hành phụng vụ hoặc sinh hoạt chung. Vi Hồng y đưa ra bình luận:Một lá cờ biểu tượng cho điều gì? Có lúc lá cờ được coi là biểu tượng cho một đất nước, lúc khác được coi là biểu trưng một chủ nghĩa: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa quốc gia… Có lúc chỉ biểu trưng một thói đời mang tính đối kháng. Lá thư này chịu sự phản đối mạnh mẽ của cộng đồng người Việt hải ngoại.
Trong cuộc họp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Tổng giám mục Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt đã có câu nói trong bài phát biểu dẫn đến việc các cơ quan truyền thông tại Việt Nam đặt câu hỏi về lòng yêu nước: "Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam, đi đâu cũng bị soi xét, chúng tôi buồn lắm chứ !" Nhiều báo chí Việt Nam và đài truyền hình Việt Nam đăng tải câu nói Chúng tôi đi nước ngoài rất nhiều, chúng tôi rất là nhục nhã khi cầm cái hộ chiếu Việt Nam là viết nhiều bài báo chỉ trích ông Ngô Quang Kiệt. Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn với cương vị Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh chỉ trích các cơ quan truyền thông được Nhà nước Việt Nam kiểm soát vì bóp méo lời tuyên bố của Tổng Giám mục Hà Nội Ngô Quang Kiệt. Hồng y Mẫn cũng cáo buộc các bản tin truyền thông sử dụng một vài cụm từ biệt lập trong phát biểu của Tổng giám mục Kiệt và tách nó ra khỏi bối cảnh để đánh giá lòng yêu nước của ông này.
Ngày 1 tháng 10 năm 2008, phái đoàn giám mục đại diện Hội đồng giám mục Việt Nam đã đến gặp thủ tướng Việt Nam là ông Nguyễn Tấn Dũng để trao đổi các vấn đề tranh chấp đất đai tại Hà Nội. Đoàn giám mục đại diện gồm Chủ tịch Hội đồng giám mục Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Đại diện Giáo tỉnh Hà Nội là Giám mục Antôn Vũ Huy Chương, giám mục chính tòa Giáo phận Hưng Hóa, đại diện Giáo tỉnh Huế là Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế Stêphanô Nguyễn Như Thể và đại diện Giáo tỉnh Sài Gòn là Hồng y – Tổng giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn.
Năm 2010, trên Internet xuất hiện lời kêu gọi biểu tình chống đối khi Hồng y Phạm Minh Mẫn đến California trong buổi sáng ngày 11 tháng 4 tại Đại học Cal State Long Beach.
Sáng ngày 22 tháng 5 cùng năm, phái đoàn Tòa tổng Giám mục Thành phố Hồ Chí Minh do Phạm Minh Mẫn dẫn đầu đến thăm và chúc mừng Đại lễ Phật đản 2554. Đón tiếp đoàn có Hoà Thượng Thích Trí Quảng – Trưởng ban trị sự Giáo hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh cùng các chư tôn. Nhân dịp này, Hồng y Mẫn trao thư chung của Tòa Thánh Vatican gửi các tôn giáo trên thế giới nói lên vấn đề đang được quan tâm, đó là sự biến đổi khí hậu và môi trường sống.
Giai đoạn 2011–2014
Phái đoàn chức sắc, Chức việc và tín đồ thuộc Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh chính thống do Thừa Sử Lê Quang Tấn dẫn đầu đến Tòa Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh để viếng an và chúc mừng ngày Lễ bổn mạng của Hồng y Phạm Minh Mẫn vào ngày 23 tháng 6 năm 2012.
Hồng y Mẫn tham dự Mật nghị Hồng y 2013 của Giáo hội Công giáo Rôma để bầu Giáo hoàng mới vào tháng 3 năm 2013, sau khi Giáo hoàng Biển Đức XVI từ chức ngày 28 tháng 2. Trong lần tổ chức mật nghị này, ông là vị Hồng y đến tham dự cuối cùng. Nhận xét về việc từ chức của Giáo hoàng, Phạm Minh Mẫn nhận định: "Việc từ chức của Đức giáo hoàng gây chấn động cả thế giới, và tôi cảm thấy dư chấn kéo dài liên tục trong hơn 10 ngày qua khắp các nơi mà tôi đến thăm Tết, trong Thành phố cũng như khắp đồng bằng sông Cửu Long. Chấn động và những dư chấn đó đánh thức đời sống đức tin, làm cho ánh sáng của hồng ân đức tin lan tỏa trong xã hội hôm nay". Tại Hội nghị trước Mật nghị Hồng y, Hồng y Phạm Minh Mẫn được mời phát biểu ba lần.
Hồng y Phạm Minh Mẫn là vị Hồng y thứ hai của Việt Nam được tham dự Mật nghị Hồng y bầu Giáo hoàng hai lần (sau Hồng y Giuse Maria Trịnh Như Khuê).
Vào ngày 23 tháng 6 năm 2013, Phạm Minh Mẫn cảm thấy hai chân không còn lực để đi đứng nên quyết định nhập viện để kiểm tra tìm nguyên nhân. Nghĩ rằng vị hồng y có thể bị tai biến mạch não, các bác sĩ đã cho chụp hình não, siêu âm tim mạch và một số bộ phận khác, nhưng không tìm ra được nguyên do bệnh tình nên tháng 8, hồng y Mẫn được đưa đi Singapore khám bệnh và phát hiện mình mắc bệnh thoát vị đĩa đệm giữa hai đốt xương sống L4 và L5. Ngày 13, tại bệnh viện Singapore General Hospital, bác sĩ Guo Chang Ming đã thực hiện một cuộc giải phẫu nội soi để sắp xếp lại vị trí đĩa đệm cho ông. Sau 3 giờ phẫu thuật, ông được đưa ra phòng chăm sóc đặc biệt. Ngày 23 tháng 8, Hồng y Mẫn trở về Tổng giáo phận.
Ngày 9 tháng 9, phái đoàn lãnh sự Mỹ ở Thành phố Hồ Chí Minh – gồm bà Tân lãnh sự Rena Bitter, bà Trợ tá lãnh sự Nguyễn Thị Tường Nhi và nhân viên đặc trách Việt Nam vụ Eric A. Jordan – đã đến thăm Hồng y Phạm Minh Mẫn tại Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận. Tiếp đón phái đoàn lãnh sự Mỹ, ngoài hồng y Mẫn còn có linh mục chánh văn phòng tòa giám mục Hồ Văn Xuân, linh mục Louis Nguyễn Anh Tuấn và linh mục Nguyễn Duy. Bà Tân lãnh sự Mỹ thăm hỏi sức khỏe hồng y Mẫn và tìm hiểu những đóng góp của ông cho Giáo hội cũng như cho đất nước Việt Nam.
Ngày 28 tháng 9 năm 2013, Tòa thánh tuyên bố bổ nhiệm Giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho, làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, có quyền kế vị Hồng y Phạm Minh Mẫn tại Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh. Ông nhân dịp này ra thông báo về việc sẽ cử phái đoàn đến thăm Tân Tổng giám mục Phó.
Vào ngày 11 tháng 12 năm 2013, một phái đoàn ngoại giao Canada gồm Đại sứ David Devine, Tổng lãnh sự Canada tại Thành phố Hồ Chí Minh Wayne Robson và tùy viên thư ký đã đến thăm Hồng y Phạm Minh Mẫn tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận. Cùng tiếp phái đoàn với ông có linh mục Ignatio Hồ Văn Xuân. Hai bên chúc nhau những lời chúc tốt đẹp cho ngày lễ Giáng Sinh và năm mới.
Ngày 5 tháng 3 năm 2014, Phạm Minh Mẫn tròn 80 tuổi, mất quyền tham dự Mật nghị Hồng y.
Nghỉ hưu
Ngày 22 tháng 3 năm 2014, Tòa Thánh loan báo Giáo hoàng Phanxicô đã chấp thuận đơn từ nhiệm chức Tổng giám mục Tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh của Hồng y Phạm Minh Mẫn theo Giáo luật 401 khoản 1, lý do tuổi tác. Tổng giám mục phó Phaolô Bùi Văn Đọc đương nhiên lên kế nhiệm. Hồng y Mẫn chính thức nghỉ hưu kể từ thời điểm này.
Sáng ngày 24 tháng 4 năm 2014, Tân Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh Phaolô Bùi Văn Đọc chủ sự lễ nhận chức vụ, trong lễ có các nghi thức chuyển giao ngai tòa, chức vị Tổng giám mục cho tân Tổng giám mục chính tòa Phaolô Đọc từ người tiền nhiệm – nguyêhn Tổng giám mục – Hồng y Phạm Minh Mẫn. Cùng đồng tế có các giám mục từ 26 giáo phận tại Việt Nam và đông đảo các linh mục.
Sau khi hồi hưu, hồng y Phạm Minh Mẫn quay về thăm các vùng ông đã từng quản nhiệm, không những ở Thành phố Hồ Chí Minh mà còn ở các xứ đạo nhở ở Giáo phận Cần Thơ, nơi chính ông nảy sinh ý định tu trì. Ông cũng dành thời gian đến thăm các dòng tu, những người bạn cũ, học trò cũ, những giáo hữu,... Tại Tổng giáo phận, Hồng y Mẫn nhiều lần đến thăm các giáo xứ vùng ven mà không báo trước, cũng như tham gia các buổi lễ quan trọng của các cộng đoàn. Việc nghỉ ngơi của ông tại Trung tâm mục vụ Sài Gòn được hỗ trợ bởi các nam tu sĩ dòng Mẹ Chúa Cứu Chuộc.
Trong thời gian nghỉ hưu, một ngày của Hồng y Phạm Minh Mẫn bắt đầu bằng giờ kinh và 5 giờ 30 hằng ngày cử hành lễ với tham dự viên chỉ hai người, ông với tu sĩ Romualdo Maria Trần Xuân Điệp. Tuy vậy, vị hồng y vẫn giảng lễ. Sau khi ăn trưa, hồng y Mẫn dành thời gian đọc sách đến 2 giờ chiều. Nhằm mục đích giữ gìn sức khỏe, Phạm Minh Mẫn dành thời gian chiều đi dạo quanh sân Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận. Trong một số ít buổi tối, hồng y Mẫn quyết định ghé thăm mục vụ các giáo xứ thuộc Tổng giáo phận. Về vấn đề ăn uống, ông dùng bữa cùng các linh mục giáo sư nội trú ở Trung tâm Mục Vụ. Nói về vấn đề kỉ luật, về việc đúng giờ, phụ tá Hồng y Mẫn cho rằng vị hồng y chưa bao giờ trễ giờ trong các việc. Ngày Chúa nhật, Hồng y Phạm Minh Mẫn cử hành lễ cho một số giáo dân, trong đó có nhóm doanh nhân Công giáo được ông thiết lập thời làm Tổng giám mục.
Lễ mừng Kim khánh Linh mục cho Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn diễn ra tại Nhà thờ chính tòa Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 25 tháng 5 năm 2015 do chính ông chủ tế, đồng tế với ông có 12 giám mục và đông đảo linh mục thuộc nhiều giáo phận.
Ngày 11 tháng 8 năm 2018, Hồng y Phạm Minh Mẫn cử hành lễ kỷ niệm 25 năm giám mục của mình tại Trung tâm Mục vụ Tổng giáo phận Sài Gòn, với đông đảo các giám mục phía Nam và các linh mục, cùng đông đảo giáo dân tham dự.
Đóng góp
Hồng y Phạm Minh Mẫn từng giữ chức Giám đốc Đại chủng viện Cần Thơ từ 1970 đến 1993, góp phần đào tạo 117 linh mục thuộc ba giáo phận: Cần Thơ, Long Xuyên và Vĩnh Long. Trong thời kỳ đảm nhận chức vị Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, ông yêu cầu các linh mục liên kết với hội đồng giáo xứ, hỗ trợ các gia đình tăng tình liên kết, hỗ trợ lẫn nhau; ông tạo sự liên kết giữa 100 doanh nhân (Công giáo) nhằm tạo các học bổng cho các sinh viên khó khăn.
Tổng cộng, trong suốt thời gian làm giám mục, Phạm Minh Mẫn đã truyền chức cho 300 linh mục. Trong thời gian làm Tổng giám mục, ông là giám mục tái thiết các hoạt động các đoàn hội giáo dân tại Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhận định
Mừng lễ Kim khánh Linh mục của ông, Giáo hoàng Phanxicô nhận xét về Hồng y Tổng giám mục Phạm Minh Mẫn:
{{cquote|Là một mục tử có tinh thần đối thoại, sẵn sàng phục vụ hơn là dùng quyền để cai trị."}}
Trong bài giảng lễ kỷ niệm 25 năm Giám mục của Hồng y Mẫn, Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Khảm có đề cập:
Linh mục Carôlô Hồ Bặc Xái, Tổng Đại diện Giáo phận Cần Thơ, từng là học trò của Hồng y Phạm Minh Mẫn nhận định:
Tông truyền
Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn được tấn phong năm 1993, thời Giáo hoàng Gioan Phaolô II, bởi:
Giám mục chủ phong: Giám mục chính tòa Giáo phận Cần Thơ Emmanuel Lê Phong Thuận
Hai giám mục phụ phong: Giám mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách – giám mục chính tòa Giáo phận Đà Nẵng; Giám mục Giuse Nguyễn Quang Tuyến – giám mục phó Giáo phận Bắc Ninh.
Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn là giám mục chủ phong cho các giám mục:
Năm 1999, tân giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho Phaolô Bùi Văn Đọc, cố Tổng giám mục Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh.
Năm 2001, tân giám mục phụ tá Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh Giuse Vũ Duy Thống, cố giám mục chính tòa Giáo phận Phan Thiết.
Năm 2008, tân giám mục phụ tá Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh Phêrô Nguyễn Văn Khảm, nay là giám mục chính tòa Giáo phận Mỹ Tho.
Xem thêm
Danh sách giám mục Việt Nam còn sống theo tuổi
Danh sách các Hồng y còn sống
Tóm tắt chức vụ
Ghi chú
Tham khảo
Tài liệu tham khảo
Liên kết ngoài
Tự do, nhân quyền, và bổn phận cầu nguyện
Đức hồng y Gioan B. Phạm Minh Mẫn: "Sứ mạng chính của Giáo hội là xây dựng sự hiệp thông và loan báo Tin Mừng cứu độ"
ĐHY GB Phạm Minh Mẫn mừng 50 năm Linh mục: mục vụ của Ngài đối với người nhiễm HIV/AIDS
Đức cha Phạm Minh Mẫn, Tổng giám mục Sài-Gòn
Vietnamese cardinal praised for living out God’s love
Hành trình đức tin và kinh nghiệm đổi mới dưới ánh sáng đức tin của Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn.
Thư Đức Tổng Giám mục Phạm Minh Mẫn gửi LM Nguyễn Tấn Khóa
Người Cà Mau
Hồng y Việt Nam
Hồng y do Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm
Người họ Phạm tại Việt Nam
Giám mục Công giáo Việt Nam
|
17026
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aegukga%20%28C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20D%C3%A2n%20ch%E1%BB%A7%20Nh%C3%A2n%20d%C3%A2n%20Tri%E1%BB%81u%20Ti%C3%AAn%29
|
Aegukga (Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên)
|
Aegukka (애국가, 愛國歌, Ái quốc ca) là quốc ca của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
Lời bài hát
Trước khi thành lập CHDCND Triều Tiên, miền Bắc và miền Nam đều sử dụng một bài quốc ca. Năm 1947, CHDCND Triều Tiên viết lại lời và nhạc cho bài này. Tác giả phần lời của bài hát là Pak Seyŏng (박세영; 朴世永; Phác Thế Vĩnh; 1902-1989) còn phần nhạc do Kim Wŏn'gyun (김원균; 金元均; Kim Nguyên Quân; 1917-2002) sáng tác.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tập tin MIDI
Quốc ca
Nhạc Triều Tiên
Văn hóa Triều Tiên
Biểu tượng quốc gia Bắc Triều Tiên
|
17027
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/20%20th%C3%A1ng%2011
|
20 tháng 11
|
Ngày 20 tháng 11 là ngày thứ 324 trong mỗi năm thường (thứ 325 trong mỗi năm nhuận). Còn 41 ngày nữa trong năm.
Sự kiện
284 – Diocletianus được chọn làm Hoàng đế của Đế quốc La Mã.
1468 – Cuốn sách Tirant lo Blanc của Joanot Martorell được xuất bản lần đầu tiên.
1700 – Đại chiến Bắc Âu: Trong Trận Narva, nhà vua Thụy Điển Karl XII đánh bại Nga hoàng Pyotr Đại đế ở Narva (thuộc Estonia ngày nay).
1789 – New Jersey trở thành tiểu bang Hoa Kỳ đầu tiên thông qua bản Tuyên ngôn nhân quyền Hoa Kỳ.
1759 – Chiến tranh Bảy năm: Quân Áo đánh tan một đạo quân Phổ trong trận đánh tại Maxen và bắt được đạo quân này.
1820 – Cá nhà táng nặng 73 tấn đánh tàu bắt cá voi Essex (chạy từ Nantucket, Massachusetts) xa bờ biển tây của Nam Mỹ hơn 3.000 km. Sự kiện này đã tạo cảm hứng cho nhà văn Herman Melville viết nên tác phẩm Moby–Dick xuất bản năm 1851.
1873 – Chiến tranh Pháp-Đại Nam: quân Pháp giành thắng lợi trước quân Nguyễn trong trận thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương trọng thương.
1974 – Chuyến bay Lufthansa 540 rơi và bốc cháy ngay sau khi rời đường băng cất cánh tại Nairobi, Kenya.
1985 - Microsoft phát hành Windows 1.0
1989 – Đại hội đồng Liên Hợp Quốc phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em.
1998 – Nga phóng mô đun Zarya từ Sân bay vũ trụ Baykonur ở Kazakhstan, là mô đun đầu tiên của Trạm vũ trụ Quốc tế được phóng.
Sinh
270 – Maximinus II, hoàng đế La Mã (m. 313)
809 – Lý Ngang, tức Văn Tông, hoàng đế của triều Đường, tức 10 tháng 10 năm Kỉ Sửu (m. 840)
939 – Triệu Khuông Nghĩa, tức Thái Tông, hoàng đế của triều Tống, tức ngày Giáp Thìn (7) tháng 10 năm Kỉ Hợi
944 – Phạm Cự Lạng, nhân vật quân sự và chính trị nhà Đinh, nhà Tiền Lê (m. 984)
1602 – Otto von Guericke, nhà vật lý học người Đức (m. 1686)
1750 – Tippu Sultan, sĩ quan quân đội và quốc vương Ấn Độ (m. 1799)
1761 – Giáo hoàng Piô VIII (m. 1830)
1858 – Selma Lagerlöf, tác gia người Thụy Điển, đoạt giải Nobel Văn học (m. 1940)
1869 – Zinaida Nikolaevna Gippius, tác gia người Nga (m. 1945)
1886 – Karl von Frisch, nhà động vật học người Áo, đoạt giải Nobel (m. 1982)
1889 – Edwin Hubble, nhà thiên văn học người Mỹ (m. 1953)
1912 – Otto von Habsburg, con của Hoàng đế Karl I của Áo (m. 2011)
1915 – Hồ Diệu Bang, chính trị gia Trung Quốc, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc (m. 1989)
1920 - Phạm Xuân Chiểu, trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (mất 1988)
1923 – Nadine Gordimer, tác gia và nhà hoạt động Nam Phi, đoạt giải Nobel Văn học
1924 – Benoît Mandelbrot, nhà toán học người Pháp–Mỹ gốc Ba Lan (m. 2010)
1925 – Robert F. Kennedy, chính trị gia người Mỹ, Bộ trưởng Tư pháp thứ 64 của Hoa Kỳ (m. 1968)
1926
– Andrew Schally, nhà nội tiết học người Ba Lan, đoạt giải Nobel
– Tôn Thất Đính, tướng lĩnh và chính trị gia người Việt Nam (m. 2013)
1927 – Mikhail Alexandrovich Ulyanov, diễn viên Nga, Nghệ sĩ Nhân dân Liên Xô (m. 2007)
1929 – Đỗ Cao Trí, tướng lĩnh người Việt Nam (m. 1972)
1937 – Viktoria Samoylovna Tokareva, nhà soạn kịch người Nga
1942 – Joe Biden, chính trị gia người Mỹ, Tổng thống thứ 46 của Hoa Kỳ
1946 – Trương Cao Lệ, chính trị gia Trung Quốc
1951 – Nguyễn Ngọc Thiện, nhạc sĩ người Việt Nam
1953 – Nguyễn Quốc Quân, nhà hoạt động chính trị người Việt Nam
1959 – Sean Young, diễn viên người Mỹ
1963 – Timothy Gowers, nhà toán học người Anh
1965 – Yoshiki, nhạc sĩ, người viết ca khúc, nhà sản xuất âm nhạc Nhật Bản
1968 – Châu Sơ Minh, diễn viên người Singapore
1971 – Joel McHale, diễn viên và nhà sản xuất người Mỹ
1983 - Minh Beta, tác giả bài hát Việt Nam ơi!
1984 – Justin Hoyte, cầu thủ bóng đá người Anh
1989 – Cody Linley, diễn viên và ca sĩ người Mỹ
1992 – Ishimura Maiha, ca sĩ người Nhật (Berryz Kobo)
2000 – Connie Talbot, ca sĩ người Anh
Mất
1316 – Quốc vương Jean I của Pháp (s. 1316)
1764 – Christian Goldbach, nhà toán học Phổ (s. 1690)
1873 – Nguyễn Lâm, quý tộc và danh tướng Việt Nam (s. 1844)
1882 – Henry Draper, bác sĩ và nhà thiên văn học nghiệp dư người Mỹ (s. 1837)
1883 – Tenshōin, chính thất của Tướng Quân Tokugawa Iesada tại Nhật Bản (s. 1836)
1899 – Wilhelm von Heuduck, tướng lĩnh Phổ (s. 1821)
1910 – Lev Nikolayevich Tolstoy, tác gia người Nga (s. 1828)
1931 – Lý Tự Trọng, nhà cách mạng trẻ tuổi người Thái Lan gốc Việt (s. 1914)
1945 – Francis William Aston, nhà hóa học người Anh, đoạt giải Nobel (s. 1877)
1949 – Wakatsuki Reijirō, chính trị gia người Nhật, Thủ tướng thứ thứ 25 và 28 của Nhật Bản (s. 1866)
1975 – Francisco Franco, nhà độc tài Tây Ban Nha (s. 1892)
1980 – John McEwen, chính trị gia Úc, Thủ tướng thứ 18 của Úc (s. 1900)
1992 – Trần Thị Lý, quân nhân người Việt Nam (s. 1933)
Những ngày lễ và ngày kỷ niệm
Ngày Thiếu nhi Thế giới
Việt Nam: Ngày Nhà giáo Việt Nam
Tham khảo
Tháng mười một
Ngày trong năm
|
17040
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%81i%20Qu%E1%BB%91c%20Ca%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Ái Quốc Ca (định hướng)
|
Ái Quốc Ca có thể là:
Quốc ca của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
Quốc ca của Đại Hàn Dân Quốc.
|
17042
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%87%20th%E1%BB%91ng%20h%C3%A0i%20h%C3%B2a%20%28h%E1%BA%A3i%20quan%29
|
Hệ thống hài hòa (hải quan)
|
Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa hàng hóa, thường được gọi tắt là hệ thống hài hòa hoặc hệ thống HS, là hệ thống được tiêu chuẩn hóa quốc tế về tên gọi và mã số để phân loại hàng hóa được buôn bán trên phạm vi toàn thế giới của Tổ chức hải quan thế giới.
Các mã số của hệ thống hài hòa được gọi là mã HS. Trong lĩnh vực thương mại, khi cần khai báo nguồn gốc xuất xứ nhằm thu được các ưu đãi về thuế quan được áp dụng cho từng phạm trù quốc gia thì người ta đồng thời cũng thường ghi luôn mã HS để thuận tiện cho việc tính thuế tại các nước nhập khẩu.
Tại phiên họp tháng 6/2014, Hội đồng WCO đã thông qua khuyến nghị liên quan đến danh sách những chi tiết sửa đổi trong Danh mục HS, có hiệu lực vào ngày 01/01/2017 (HS 2017).Kể từ khi phiên bản HS hiện tại (HS 2012) có hiệu lực, Ủy ban HS đã sửa đổi phiên bản HS này trong gần 5 năm. HS 2017 sẽ là phiên bản thứ sáu của HS từ khi Công ước HS có hiệu lực vào năm 1983. HS 2017 sẽ có hiệu lực đối với tất cả các bên ký kết HS, ngoại trừ những sửa đổi bị phản đối. Phiên bản này gồm 234 phần sửa đổi.
Mục đích
Theo Tổ chức hải quan thế giới, Hệ thống hài hòa được sử dụng như là cơ sở cho:
Biểu thuế suất hải quan.
Thu thập các số liệu thống kê về thương mại quốc tế.
Quy tắc xuất xứ.
Thu thuế trong nước.
Thỏa thuận thương mại (ví dụ lịch trình của Tổ chức thương mại thế giới về các nhượng bộ thuế quan) giữa các quốc gia theo các quy chế như tối huệ quốc chẳng hạn.
Biểu thuế và thống kê vận tải.
Điều chnh việc kiểm soát hàng hóa (ví dụ chất thải, ma túy, vũ khí hóa học, các chất phá hủy tầng ozôn, các loài sinh vật đang chịu rủi ro cao v.v)
Các lĩnh vực của kiểm soát và thủ tục hải quan, bao gồm các rủi ro trong các lĩnh vực như đánh thuế, công nghệ thông tin và sự tuân thủ các quy chế hải quan.
Các công ty sử dụng mã HS để tính toán tổng chi phí cuối cùng của hàng nhập khẩu, đồng thời xác định các cơ hội bán hàng, tìm kiếm nguồn cung từ nước ngoài.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mã số HS
Tổ chức hải quan thế giới
Tiêu chuẩn
Thương mại
Thuế quan
Thương mại quốc tế
|
17043
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%A0y%20Nh%C3%A0%20gi%C3%A1o%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Ngày Nhà giáo Việt Nam
|
Ngày Nhà giáo Việt Nam (hay Ngày Hiến chương Nhà giáo Việt Nam) là một ngày kỷ niệm được tổ chức hằng năm vào ngày 20 tháng 11 tại Việt Nam. Đây chính là lễ hội của ngành Giáo dục và là Ngày Nhà giáo, ngày "tôn sư trọng đạo" nhằm mục đích để tôn vinh những người dạy học và những người trong ngành giáo dục.
Lịch sử
Vào Tháng 7 năm 1946, một tổ chức quốc tế các nhà giáo được thành lập ở Paris đã lấy tên là Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo viên (tiếng Pháp: Fédération Internationale Syndicale des Enseignants - FISE).
Nǎm 1949, tại một hội nghị ở Warszawa (thủ đô của Ba Lan), Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo viên đã soạn ra bản "Hiến chương các nhà giáo" gồm 15 chương với nội dung chủ yếu là đấu tranh chống nền giáo dục tư sản, phong kiến, xây dựng nền giáo dục trong đó bảo vệ những quyền lợi của nghề dạy học và nhà giáo, đề cao trách nhiệm và vị trí của nghề dạy học và nhà giáo. Từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 8 năm 1954, tại Moscow, cuộc họp thứ XIX của Ủy ban hỗn hợp Liên đoàn quốc tế các nhà giáo đã nhất trí thông qua "Hiến chương các Nhà giáo" với 15 chương.
Công đoàn giáo dục Việt Nam, là thành viên của FISE từ năm 1953 đã quyết định trong cuộc họp của FISE từ 26 đến 30 tháng 8 năm 1957 tại Warszawa (hội nghị có 57 nước tham dự), lấy ngày 20 tháng 11 năm 1958 là ngày "'Quốc tế hiến chương các nhà giáo".
Ngày này lần đầu tiên được tổ chức vào năm 1958 trên toàn miền Bắc Việt Nam.
Khi Việt Nam thống nhất, ngày này đã trở thành ngày truyền thống của ngành giáo dục Việt Nam. Vào ngày 28 tháng 9 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành quyết định số 167-HĐBT thiết lập ngày 20 tháng 11 hằng năm là ngày lễ mang tên "Ngày Nhà giáo Việt Nam".
Xem thêm
Ngày Nhà giáo
Ngày Nhà giáo thế giới
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ngày lễ Việt Nam
Nhà giáo Việt Nam
Việt Nam
Tháng mười một
Khởi đầu năm 1958 ở Việt Nam
|
17045
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20V%C4%83n%20Thu%E1%BA%ADn%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Nguyễn Văn Thuận (định hướng)
|
Nguyễn Văn Thuận có thể là:
Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
Nguyễn Văn Thuận - Đại biểu Quốc hội Việt Nam (Khóa XII), đơn vị tỉnh Quảng Nam
Nguyễn Văn Thuận, từng là Giám đốc Công an tỉnh Quảng Bình (1990-1994).
Thiếu tướng Nguyễn Văn Thuận, Giám đốc Công an thành phố Cần Thơ (2018-)
|
17049
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ho%C3%A0ng%20Bi%E1%BB%83n%20%C4%90%E1%BB%A9c%20XVI
|
Giáo hoàng Biển Đức XVI
|
Biển Đức XVI (cách phiên âm tiếng Việt khác là Bênêđictô XVI hay Bênêđitô, xuất phát từ Latinh: Benedictus; tên khai sinh là Joseph Aloisius Ratzinger; 16 tháng 4 năm 1927 – 31 tháng 12 năm 2022) là nguyên giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Rôma. Biển Đức XVI là giáo hoàng thứ 265, tại vị từ năm 2005 đến năm 2013. Ông được bầu làm giáo hoàng trong Mật nghị Hồng y vào ngày 19 tháng 4 năm 2005. Thánh lễ đăng quang, có tên chính thức là Thánh lễ Khai mạc Sứ vụ Mục Tử Toàn thể Hội Thánh, được tổ chức ngày 24 tháng 4, và nhận ngai tòa giám mục tại Vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô ngày 7 tháng 5 năm 2005.
Biển Đức XVI theo khuynh hướng thần học, nỗ lực giảng dạy và bảo vệ các giá trị truyền thống, các giá trị giáo lý Công giáo. Vào thời điểm bầu làm Giáo hoàng, ông cũng là Hồng y Niên trưởng của Hồng y đoàn, tham gia quán xuyến các công việc của giáo hội trong thời gian chuyển tiếp (trống tòa).
Trong triều đại của mình, Biển Đức XVI đang nhấn mạnh một ước vọng để châu Âu quay trở về các giá trị cơ bản của Kitô giáo, phản ứng trước các khuynh hướng bài Kitô giáo và chủ nghĩa thế tục đang ngày một gia tăng ở nhiều quốc gia phát triển. Ông cũng đã phục hồi một số truyền thống, và đặc biệt là làm cho các Thánh lễ Tridentine có được một vị trí nổi bật hơn trong phụng vụ.
Giáo hoàng Biển Đức XVI cũng là người sáng lập và bảo trợ của Tổ chức Ratzinger, một tổ chức từ thiện quyên góp tiền từ việc bán sách và các bài luận, văn bản của giáo hoàng để lập quỹ học bổng cho sinh viên trên toàn thế giới.
Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI không tránh khỏi những sự chỉ trích. Phong cách làm việc cứng rắn, tư duy bảo thủ, thái độ không khoan nhượng với các tư tưởng ly khai đã khiến ông nhận phải các biệt danh khó nghe như "Hồng y Thiết giáp" (Panzerkardinal), "Con chó dữ của Vatican", "Người thẩm tra Vĩ đại". Tuy nhiên, uy tín của ông lại rất cao đối với các chức sắc bảo thủ của giáo hội; ông được ca ngợi là "Người ngăn chặn dị giáo từ năm 1981".
Được coi là một người bảo thủ, nhưng Biển Đức XVI đã có một số bước đi được đánh giá là mềm dẻo và linh hoạt hơn giáo hoàng tiền nhiệm, tỉ như ông là giáo hoàng đầu tiên nói về khả năng sử dụng bao cao su, dù chỉ trong những trường hợp cụ thể như với một người bị nhiễm AIDS, cố tránh việc rao giảng đạo đức mà thay bằng các bài nói chuyện mang tính cá nhân về đức tin. Ông cũng là giáo hoàng đầu tiên mở tài khoản Twitter và tuyên bố giáo hội sẽ bị bỏ lại phía sau nếu không bắt kịp thời đại. Năm 2008, ông trở thành giáo hoàng đầu tiên bày tỏ "sự hổ thẹn" vì những vụ xâm hại và đã gặp các nạn nhân. Nhưng ông cũng bị chỉ trích vì không thừa nhận quy mô của vụ việc trong suốt 24 năm trước đó khi là người đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, cơ quan lý luận nòng cốt của Tòa Thánh. Có ý kiến tố cáo rằng giáo hoàng đã buộc các thuộc cấp phải giữ im lặng về những việc làm sai trái của các linh mục, tạo nên một "bức tường im lặng" khuyến khích việc lạm dụng tình dục trẻ em tại các cơ sở Công giáo, nhưng Linh mục Lombardi, phát ngôn viên chính thức của Vatican đã lên tiếng đả kích điều mà họ gọi là những mưu toan nhằm kết nối Giáo hoàng Biển Đức XVI với vụ tai tiếng đó.
Tuy nhiên, triều đại của Biển Đức XVI cũng trải qua những sóng gió và bất ổn liên quan đến các mâu thuẫn sâu sắc về đường lối hoạt động giữa phe bảo thủ - đứng đầu bởi chính giáo hoàng - và phe cải cách, đồng thời cũng được đánh dấu bằng nhiều sự kiện "nhức nhối" gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín Tòa thánh và giáo hoàng, tỉ như một số tuyên bố gây xúc phạm Hồi giáo, sự kiện các chức sắc cao cấp dính dáng đến bê bối xâm hại tình dục, việc giải vạ rút phép thông công cho một nhóm giáo sĩ cực đoan có các phát biểu bài Do Thái, vụ mâu thuẫn về nhân sự của IOR, và đặc biệt là vụ Vatileaks. Ông Georg Ratzinger, anh trai của Giáo hoàng, đã nhận định rằng những năm cầm quyền của Biển Đức XVI là rất khó khăn với nhiều vấn đề phát sinh trong nội bộ Vatican, như là những mâu thuẫn, rạn nứt giữa các chức sắc tôn giáo và vụ Vatileaks tai tiếng, những điều đó đã gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của giáo hoàng. Bản thân giáo hoàng cũng cảnh báo nguy cơ nội tại của Vatican có thể sẽ làm "hư hại bộ mặt của giáo hội".
Ngày 11 tháng 2 năm 2013, Giáo hoàng Biển Đức XVI tuyên bố sẽ từ chức Giám mục Rôma, Giáo hoàng Giáo hội Công giáo kể từ ngày 28 tháng 2 năm 2013. Theo thông cáo chính thức, giáo hoàng từ nhiệm với lý do tuổi cao và sức khỏe sa sút.
Tuy nhiên, các tờ báo như The Independent, Guardian, Daily Mail có ý nghi ngờ việc Biển Đức XVI từ chức cũng có thể có liên quan đến vụ Vatileaks và những tranh chấp quyền lực gay gắt trong nội bộ Vatican. Phía Vatican tuyên bố sẽ không có bất cứ bình luận gì về vụ việc này. Trong cuốn sách phát hành ngày 9.9.2016 giáo hoàng đã phủ nhận chuyện này, và cho là vấn đề đã được giải quyết hoàn toàn.
Tổng quan
Biển Đức XVI được bầu làm giáo hoàng ở tuổi 78, là người Đức thứ chín làm giáo hoàng. Ông là người cao tuổi nhất được bầu làm giáo hoàng kể từ Giáo hoàng Clement XII (1730-40). Ông tiếp nối tông hiệu của Giáo hoàng Biển Đức XV (một người Ý) trị vì từ 1914-1922 trong suốt Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Sinh năm 1927 tại Marktl am Inn, Bavaria nước Đức, Ratzinger đã có một sự nghiệp nghiên cứu chuyên sâu cấp quốc tế, đảm nhận làm giáo sư thần học tại các trường đại học khác nhau ở Đức. Ông được Giáo hoàng Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Tổng giáo phận Muchen và Freising, được phong tước hồng y vào năm 1977. Năm 1981, ông trở thành Tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin của Tòa Thánh - một trong những cơ quan quan trọng nhất của Giáo triều Rôma. Năm 1998, ông được bầu làm Phó Niên trưởng, Hồng y Đoàn.
Ngay cả trước khi trở thành giáo hoàng, Ratzinger đã là một trong những người có ảnh hưởng nhất trong Giáo triều Rôma, và là người thân cận của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Trên cương vị Hồng y Niên trưởng của Hồng y Đoàn, ông đã chủ tế tang lễ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II và Thánh lễ khai mạc Mật nghị Hồng y 2005 mà sau đó ông đã được bầu chọn. Trong thời khắc này, ông kêu gọi các hồng y giữ vững các giáo lý, giáo luật và đức tin Công giáo. Ông cũng là gương mặt nổi bật của giáo hội trong thời gian trống tông tòa (vacante sede), mặc dù trên thực tế, ông không thể ngang bằng chức vị với Hồng y Thị thần (camerlengo) trong thời gian đó. Giống như người tiền nhiệm của ông, Biển Đức XVI luôn khẳng định các Giáo lý Công giáo truyền thống.
Ngoài tiếng Đức mẹ đẻ, Biển Đức XVI nói lưu loát tiếng Ý, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh và có thể nói tương đối tiếng Bồ Đào Nha. Ông có thể đọc Kinh Thánh cổ ngữ bằng tiếng Hy Lạp và tiếng Do Thái. Ông chơi được dương cầm và có sở thích nhạc Mozart và Bach.
Tiểu sử
Tuổi thơ và gia đình
Biển Đức XVI tên khai sinh là Joseph Alois Ratzinger. Ông sinh ngày 16 tháng 4 năm 1927 tại Marktl am Inn, Bavaria, Đức và được rửa tội cùng ngày. Ông là con út trong gia đình có ba người con. Cha ông là Joseph Ratzinger, một sĩ quan cảnh sát và mẹ là Maria Ratzinger (nhũ danh Peintner). Người anh ruột tên là Georg Ratzinger, là một linh mục hiện đã qua đời, trong khi chị gái là Maria Ratzinger, sống độc thân cùng với gia đình cho đến lúc mất vào năm 1991.
Tiến trình học tập và nghiên cứu
Sau sinh nhật tuổi 14 của mình, ông gia nhập tổ chức Đoàn thanh niên Hitler - một dạng tổ chức cưỡng bách tham gia của Đức Quốc xã cho các thiếu niên Đức tuổi 14 sau tháng 12 năm 1939. Ông bị gọi nhập ngũ phục vụ với tư cách quân nhân dự bị trong lực lượng phòng không Đức quốc xã (Luftwaffenhelfer) vào những tháng sau cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai. Tuy nhiên sau đó Ratzinger cho rằng Hitler là kẻ thù của chúa Giêsu, đào ngũ trở về gia đình khi chiến tranh gần kết thúc song đã bị quân Đồng Minh bắt giữ làm tù binh chiến tranh trong một thời gian rất ngắn trong năm 1945.
Sau khi hồi hương năm 1945, hai anh em Ratzinger đã gia nhập Chủng viện Thánh Micae ở Traunstein, sau đó theo học tại Đại học Ludwig-Maximilian ở Munich. Từ năm 1946, ông học về triết học và thần học tại Đại học München, rồi học cao học tại Freising. Hai anh em Ratzinger cùng được thụ phong linh mục vào ngày 29 tháng 6 năm 1951 bởi Hồng y Michael von Faulhaber Munich. Năm 1953, ông nhận bằng tiến sĩ về thần học với đề tài mang tên: "Dân Chúa trong học thuyết của Thánh Augustinô về Giáo hội". Đề tài được hoàn thành vào năm 1957 và ông trở thành một giáo sư của trường Cao đẳng Freising vào năm 1958.
Năm 1959, Ratzinger làm giáo sư tại Đại học Bonn; bài giảng đầu tiên của ông là "Thiên Chúa của Đức tin và Thiên Chúa của Triết học". Năm 1963, ông chuyển sang Đại học Münster. Trong thời gian này, Ratzinger có tham gia Công đồng Vatican II (1962-1965) trên cương vị cố vấn thần học của Hồng y Josef Frings, Giáo phận Cologne. Ông được xem là một nhà cải cách, hợp tác với các nhà thần học hiện đại cấp tiến như Hans Küng và Edward Schillebeeckx, chiếm được sự ngưỡng mộ của Karl Rahner, một nhà thần học nổi tiếng trong các đề xuất cải cách giáo hội. Năm 1966, Joseph Ratzinger được bổ nhiệm vào một vị trí giáo lý thần học tại Đại học Tübingen, ông trở thành đồng nghiệp của Hans Küng.
Trong những năm tại Đại học Tübingen, Ratzinger công khai bài viết cho tạp chí cải cách thần học Concilium, mặc dù càng về sau, ông ít viết về chủ đề cải cách hơn những người đóng góp khác cho tạp chí như Hans Küng và Edward Schillebeeckx. Ratzinger liên tục tham gia vào các công việc của Công đồng Vatican II, trong đó có Tuyên ngôn Nostra Aetate (Thời đại Chúng ta), các văn kiện về tôn trọng các tôn giáo khác, đại kết, tuyên bố các quyền tự do tôn giáo. Về sau, khi làm việc trong Bộ Giáo lý Đức tin, Ratzinger đã có nhiều cố gắng đưa Công giáo tham gia vào các cuộc đối thoại đại kết Kitô giáo.
Tổng Giám mục - Hồng y
Ngày 24 tháng 3 năm 1977, Ratzinger được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Tổng giáo phận Munich và Freising. Ông lấy khẩu hiệu trích từ Tân Ước, Thư thứ ba của Gioan Cooperatores Veritatis (Đồng hành cùng chân lý), sau này ông có đề cập trong tự truyện của mình. Trong hội nghị ngày 27 tháng 6, ông được Giáo hoàng Phaolô VI phong làm Hồng y linh mục hiệu tòa Santa Maria Consolatrice al Tiburtino. Thời gian Mật nghị năm 2005, ông là một trong 14 hồng y do Giáo hoàng Phaolô VI phong, và là một trong ba người dưới 80 tuổi. Trong số này, chỉ có ông và William Wakefield Baum có quyền tham gia mật nghị.
Tổng trưởng Thánh Bộ Giáo lý Đức tin
Ngày 25 tháng 11 năm 1981, Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm ông làm Tổng trưởng Thánh bộ Giáo lý Đức tin, trước đây được gọi là Văn phòng Tòa Thánh, ông thôi chức Tổng Giám mục Munich đầu năm 1982. Ông tiếp tục được thăng chức hồng y, trở thành Hồng y Giám mục Hiệu tòa Velletri-Segni năm 1993, phó chủ tịch Hồng y Đoàn năm 1998 và chức chủ tịch vào năm 2002. Trên cương vị này, Ratzinger hoàn thành vai trò tổ chức của mình để bảo vệ và tái khẳng định giáo lý Công giáo, bao gồm việc giảng dạy về các chủ đề trọng tâm của Công giáo như ngừa thai, đồng tính luyến ái và cuộc đối thoại liên tôn.
Từ khi đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, Ratzinger trở thành bàn tay sắt của giáo hội và là một trợ thủ đắc lực của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Ông là tác giả của nhiều ý kiến và phát biểu gây sóng gió bậc nhất trong giáo hội, phần lớn là theo ý kiến bảo thủ và gìn giữ các truyền thống của giáo hội. Ông từng cách chức nhà thần học Charles Curran vì cho rằng Curran có tư tưởng chống đối, trừng phạt những nhà thần học khai phóng vì cho rằng họ có thiên hướng Mácxít, cấm việc viết lại Kinh thánh theo ngôn ngữ xưng hô cho cả nam lẫn nữ, nghiêm khắc yêu cầu linh mục phải độc thân, phản đối ngừa thai và cấm thụ phong cho nữ giới. Ông còn tuyên bố nhạc rock là tà giáo, chỉ trích bình quyền nam nữ trong Kinh thánh và cho phép các giám mục Hoa Kỳ từ chối ban thánh thể cho những người ủng hộ quyền phá thai và quyền được chết. Tư tưởng cứng rắn của Ratzinger khiến nhiều người chỉ trích nhưng nhờ đó ông nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của giới chức sắc bảo thủ. Bản thân Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng rất tin tưởng Ratzinger. Năm 1997, Ratzinger đã chỉ trích Phật giáo là "một dạng tâm linh tự dâm" và "tiếp cận sự vô tận và hạnh phúc mà không có một ràng buộc tôn giáo vững chắc nào"
Giáo hoàng
Bầu chọn
Nhận định
Ngày 2 tháng 1 2005, tạp chí Time trích dẫn các nguồn không rõ từ Vatican nói rằng Ratzinger là một ứng cử viên lớn để kế vị Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Tháng 4 năm 2005, trước khi bầu làm giáo hoàng, ông được nhận định là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới cũng bởi tạp chí này. Sau Gioan Phaolô II qua đời, Financial Times đã cho tỷ lệ cược Ratzinger trở thành Giáo hoàng là 7-1, vị trí dẫn đầu. Nhưng trong khi còn ở Bộ Giáo lý Đức Tin, Ratzinger nhiều lần tuyên bố ông muốn nghỉ hưu để về quê nhà của ông ở làng Bavarian để viết sách. Trong lịch sử, rất hiếm khi các dự đoán về vị Giáo hoàng tương lai được đưa ra lại đúng với sự thật, nhưng năm 2005 nó đã đúng.
Được chọn
Ngày 19 tháng 4 năm 2005, Hồng y Ratzinger được bầu làm người kế vị Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong ngày thứ hai của Mật nghị Hồng y. Hồng y Ratzinger đã mong muốn nghỉ hưu một cách an bình và nói [đại ý] rằng: "Lúc ấy, tôi cầu nguyện với Thiên Chúa rằng 'xin Người đừng làm điều này với con [...] rõ ràng, Người đã không lắng nghe tôi". Thật trùng hợp, ngày 19 tháng 4 cũng là lễ Thánh Lêô IX, vị giáo hoàng nổi bật thời Trung Cổ, nổi tiếng với những cải cách lớn trong suốt triều đại của ông.
Khi trở thành giáo hoàng, trước lúc xuất hiện với công chúng lần đầu tiên tại ban công Nhà thờ Thánh Phêrô, ông đã được xướng tên bởi Hồng y Thị thần Jorge Medina Estévez. Vị hồng y này công bố với đám đông lớn trước quảng trường với cụm từ "anh chị em thân mến" bằng tiếng Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Đức và tiếng Anh trước khi tiếp tục với thông báo truyền thống "Habemus Papam" bằng tiếng Latinh.
Tại ban công, Biển Đức bước ra trước đám đông, nói tiếng Ý trước khi nghi thức truyền thống Urbi et Orbi bằng tiếng Latin:
Ngày 24 tháng 4, ông tổ chức Thánh lễ Đăng quang tại Quảng trường Thánh Phêrô, nhận Dây Pallium và Nhẫn Ngư phủ - thủ tục chính thức lên ngôi Giáo hoàng thứ 265. Ngày 7 tháng 5, ông nhận tông tòa tại nhà thờ Thánh Gioan Latêranô.
Tông hiệu
Ratzinger chọn tông hiệu là Benedictus, tiếng Latin có nghĩa là "sự may mắn" và hơn hết là danh dự của cả Giáo hoàng Biển Đức XV và Thánh Biển Đức thành Nursia. Biển Đức XV làm giáo hoàng trong thời Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông đã tích cực góp phần vào những cố gắng ngoại giao để cuộc chiến chấm dứt và hoà bình. Thánh Benedict Nursia là người sáng lập Dòng Biển Đức. Biển Đức XVI đã giải thích sự lựa chọn đó của mình tại Quảng trường Thánh Phêrô, vào ngày 27 tháng 4 năm 2005:
Phong cách
Phong thánh
Ngày 9 tháng 5 năm 2005, Biển Đức XVI bắt đầu quá trình vinh hiển cho người tiền nhiệm của ông, Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Thông thường, đối với một người nào đó, phải qua 5 năm sau khi chết mới có thể bắt đầu quá trình vinh hiển. Tuy nhiên, vẫn có "hoàn cảnh đặc biệt", trong đó nói rằng thời gian chờ đợi như vậy có thể được miễn và Biển Đức XVI đã áp dụng như thế cho cố Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Công du
Giáo hoàng Biển Đức XVI không tích cực trong việc đi viếng thăm các quốc gia khác bằng người tiền nhiệm của ông, Gioan Phaolô II, nhưng ông cũng đã thực hiện một số chuyến đi ra nước ngoài. Hầu hết các chuyến đều liên quan đến các vấn đề của giáo hội.
Ba năm đầu của triều đại, ông đi ra nước ngoài nhiều hơn. Ngoài các chuyến đi đến Ý, ông đã hai lần về thăm nước Đức quê nhà, một lần cho Ngày Giới trẻ Thế giới và một lần về thị trấn thời thơ ấu của ông. Ông cũng đã viếng thăm Ba Lan và Tây Ban Nha, nơi ông đã nhận được nhiều tình cảm. Trong chuyến tới Thổ Nhĩ Kỳ, một quốc gia đa số theo Hồi giáo, ông đã có một bài giảng tại Regensburg gây tranh cãi từ phía người Hồi giáo khiến họ nổi lên làn sóng biểu tình và các quốc gia Hồi giáo khác phản ứng. Tuy nhiên, chuyến đi cũng đã thực hiện một tuyên bố chung với Thượng phụ Đại kết Bartholomew I trong một nỗ lực hàn gắn giữa Công giáo và Chính Thống giáo.
Trong hơn 600 ấn phẩm đã được xuất bản của ông, tiêu biểu có "Nhập môn Kitô giáo" (Introduction to Christianity), xuất bản năm 1968, "Tín lý và Mạc khải", một hợp tuyển các suy tư, bài giảng và tiểu luận dành riêng cho việc mục vụ xuất bản năm 1973.
Chống nạn đói
Ngày 16 tháng 10 năm 2009, Biển Đức XVI nói thế giới phải có hành động "quyết liệt và hiệu quả" chống lại nạn đói sau khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đẩy hàng ngũ những người thiếu ăn lên tới một mức kỷ lục là 1 tỉ người. Những nước đang phát triển cần đầu tư nhiều hơn, đặc biệt là trong nông nghiệp, để bảo đảm người dân của họ không bị đói, Biển Đức XVI nói trong một thông điệp gửi tới Tổ chức Lương nông của Liên Hợp Quốc (FAO) nhân Ngày Thực phẩm Thế giới. "Cuộc khủng hoảng này đòi hỏi các chính phủ và các thành viên của cộng đồng quốc tế phải có những lựa chọn quyết liệt và hiệu quả. Được cung cấp thực phẩm không phải chỉ là một nhu cầu căn bản, đó là một quyền căn bản của các cá nhân và các dân tộc."
Biển Đức XVI thường lên tiếng về cuộc khủng hoảng, kêu gọi một trật tự tài chính thế giới mới được hướng dẫn bởi đạo đức và thúc giục thế giới đừng để cho những người nghèo nhất và dễ bị tổn thương nhất gánh chịu các hậu quả của cuộc suy thoái. Cuộc khủng hoảng "đặc biệt nghiêm trọng đối với thế giới nông nghiệp, nơi tình hình trở nên thê thảm. Nông nghiệp phải được cung cấp đầy đủ những khoản đầu tư và các tài nguyên". Viện trợ và đầu tư trong nông nghiệp đã giảm sút trong hai thập niên vừa qua, góp phần vào việc gia tăng nạn đói. Năm 2009, số người đói trên khắp thế giới lên tới 1,02 tỉ người giữa lúc giá thực phẩm cao và nền tài chính toàn cầu gặp khủng hoảng, theo cơ quan FAO, có trụ sở tại Roma.
Ban hành Tông hiến về tín hữu Anh giáo
Ngày 20 tháng 10 năm 2009, Biển Đức XVI đưa ra một quyết định quan trọng nhằm tạo sự dễ dàng cho những người Anh giáo thất vọng vì tôn giáo của họ được cải sang đạo Công giáo. Hành động này được đưa ra trong bối cảnh nhiều năm gần đây, tín hữu thuộc cộng đồng Anh giáo (với khoảng 77 triệu tín đồ trên toàn thế giới) xảy ra những bất mãn về các vấn đề như: cho nữ giới được làm linh mục và giám mục đồng tính luyến ái. Trong khi cả hai bên đều nói rằng sự kiện này không ảnh hưởng đến cuộc thảo luận đại kết giữa hai giáo hội, có một điều dễ nhận thấy là sở dĩ có việc này vì ngày càng có nhiều người theo Anh giáo muốn bỏ đạo.
Biển Đức XVI phê chuẩn một văn kiện gọi là "Tông hiến", theo đó, Giáo hội Công giáo tiếp nhận người Anh giáo cải sang đạo Công giáo, qua hình thức cá nhân hay cả một nhóm, trong khi vẫn cho duy trì một số truyền thống riêng của Anh giáo. Điều này có lẽ đánh dấu một sự thay đổi rõ ràng và táo bạo nhất về mặt hiến pháp của Vatican để đón chào những người Anh giáo vào hàng ngũ giáo dân Công giáo kể từ khi Vua Henry VIII li giáo với Roma và tự phong mình là người đứng đầu Giáo hội Anh năm 1534.
Việc này cho phép sự bổ nhiệm những người chủ chăn, thường là các giám mục, đến từ hàng ngũ những cựu giáo sĩ Anh giáo không lập gia đình, để chăm nom các cộng đồng Anh giáo cải sang Công giáo và công nhận giáo hoàng là người lãnh đạo họ. Quyết định mới của Giáo hoàng sẽ không ảnh hưởng đến lệnh cấm các linh mục Công giáo lập gia đình. Tuy nhiên sẽ tiếp tục giữ truyền thống cho các tu sĩ Anh giáo có gia đình khi cải đạo tiếp tục duy trì đời sống gia đình của họ. Vatican nói quyết định được đưa ra để đáp ứng "rất nhiều lời thỉnh cầu đệ nạp đến Tòa Thánh từ các nhóm giáo sĩ Anh Giáo và tín đồ từ nhiều khu vực trên thế giới." Người cải đạo từ Anh giáo sang Công giáo nổi tiếng nhất trong thời gian cuối thập niên 2000 là cựu Thủ tướng Anh Tony Blair, trước khi ông rời khỏi chức thủ tướng năm 2007.
Bị tấn công
Đã có vài vụ vi phạm an ninh dưới thời Biển Đức XVI, bắt đầu vào năm 2005. Vào năm 2007, một người đàn ông Đức nhảy qua một rào cản ở Quảng trường Thánh Phêrô giữa lúc chiếc xe jeep của giáo hoàng đi ngang trong một cuộc tiếp xúc với công chúng. Người đàn ông cố leo lên chiếc xe. Vụ tấn công nghiêm trọng nhất nhắm vào một vị giáo hoàng ở Vatican là vào năm 1981, khi một tay súng người Thổ Nhĩ Kỳ, Mehmet Ali Ağca, bắn và suýt giết chết Giáo hoàng Gioan Phaolô II tại quảng trường Thánh Phêrô.
Tối ngày 24 tháng 12 năm 2009, Biển Đức XVI trong lúc cử hành lễ vào đêm Giáng sinh bị một phụ nữ tên Susanna Maiolo (s. 1984) xông vào xô té. Maiolo, có hai quốc tịch Thụy Sĩ và Ý, không có vũ khí nhảy qua một rào cản ở giáo đường, lao vào giáo hoàng, nắm lấy áo lễ của ngài và làm ngài ngã xuống mặt sàn cẩm thạch, khi ngài đang tiến lên bàn thờ trong thánh lễ Vọng Giáng sinh. Linh mục Ciro Benedettini nói Giáo hoàng sau khi bị té, không bị thương tích gì, đứng lên tiếp tục cử hành lễ. Hồng y Roger Etchegaray cũng bị xô và phải vào bệnh viện khám. Theo linh mục Benedettini, người phụ nữ có vẻ bất ổn về tâm lý và bị cảnh sát Vatican bắt giữ.
Giảng dạy
Kêu gọi từ bỏ bạo lực
Sáng Giáng sinh, 25 tháng 12 năm 2009, Biển Đức XVI kêu gọi thế giới từ bỏ bạo lực và trả thù, một ngày sau khi bị Susanna Maiolo xô ngã. Trong thông điệp truyền thống 'Urbi et Orbi' gửi thành phố và thế giới từ bạo lực trung tâm của Nhà thờ Thánh Phêrô, Biển Đức XVI thúc giục thế giới hãy tái khám phá sự giản dị của thông điệp Giáng sinh và đọc những lời chào mừng Giáng sinh bằng 65 ngôn ngữ. Giữa lúc Biển Đức XVI lên tiếng với hàng chục ngàn người tụ tập ở quảng trường phía dưới, Vatican vẫn lưu tâm tới biến cố tối ngày trước đó khi Maiolo xô ngã giáo hoàng.
Ngày 25 tháng 12 năm 2009, phát ngôn viên của Vatican, Cha Federico Lombardi, nói rằng không thể nào cung cấp an ninh tuyệt đối cho giáo hoàng bởi vì gần gũi với mọi người là một phần trong sứ mạng của ông. Trong thông diệp 'Urbi et Orbi', Biển Đức XVI nói thế giới ngày nay phải tái khám phá sự giản dị của thông điệp Giáng sinh. Mọi người nên từ bỏ mọi luận lý của bạo lực và trả thù và tham gia vào tiến trình đưa tới sự sống chung hòa bình với sức mạnh và lòng quảng đại mới. Ông nói trong khi thế giới hiện chìm đắm trong một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng, nó cũng bị ảnh hưởng còn nhiều hơn bởi một cuộc khủng hoảng đạo đức, và bởi những vết thương đau đớn của những cuộc chiến tranh và xung đột.
Kêu gọi hòa bình trong thông điệp đầu năm
Ngày thứ sáu, 1 tháng 1 năm 2010, trong buổi thánh lễ ngày đầu Năm Mới theo truyền thống, Biển Đức XVI kêu gọi sự tôn trọng và khoan dung, tình yêu....:
"Hãy tôn trọng người khác, bất kể màu da, quốc tịch, ngôn ngữ, tôn giáo của họ. Quý vị sẽ cảm thấy niềm vui hòa bình trong tim, điều mà quý vị có thể đã quên bẵng từ lâu."
Ngày 1 tháng Giêng cũng là Ngày Hòa bình Thế giới của Giáo hội Thiên Chúa La Mã, và Giáo hoàng đưa ra một lời kêu gọi mọi nhóm vũ trang hãy "chấm dứt, suy ngẫm và từ bỏ đường lối bạo động," cho dù điều đó có vẻ không thể thực hiện được. Ông nói hòa bình khởi sự bằng sự thừa nhận rằng con người là anh em, không phải là kẻ thù của nhau. Biển Đức XVI nói trong một thánh lễ tại Giáo đường Thánh Phêrô trước đó trong ngày:
"Hòa bình khởi sự với một cái nhìn có tính cách tôn trọng, thừa nhận một con người qua khuôn mặt của một người khác, bất kể màu da, quốc tịch, ngôn ngữ hoặc tôn giáo. Giá trị của sự tôn trọng dành cho tất cả mọi người phải được dạy dỗ ngay từ nhỏ."
Ghi nhận rằng các lớp học gồm những trẻ em thuộc nhiều gốc gác là điều thông thường, ông nói rằng "những khuôn mặt của chúng là một sự tiên tri về hình thức nhân loại mà chúng ta cần tạo ra: một đại gia đình các dân tộc." Biển Đức XVI đặt trẻ em, đặc biệt là những trẻ em bị tổn thương vì xung đột hoặc bị buộc phải rời khỏi nhà của chúng, làm trọng tâm trong lời kêu gọi hòa bình của ông. Những hình ảnh đau lòng của những trẻ em nạn nhân của chiến tranh và bạo động, những khuôn mặt của chúng "bị biến dạng vì đau đớn và tuyệt vọng," là một lời kêu gọi thầm lặng cho hòa bình, Đức Giáo hoàng nói. Trong những lời bình luận, Biển Đức XVI cũng lập lại lời kêu gọi bảo vệ môi trường, nói rằng sự thoái hóa của con người đưa tới sự thoái hóa của hành tinh.
Bị cáo buộc bao che cho các tu sĩ loạn dâm
Sự kiện các linh mục loạn dâm, xâm hại nữ tín đồ hay trẻ em được cho là một đòn giáng nặng nề đối với triều đại của Giáo hoàng Biển Đức XIV, nó khiến cho di sản cá nhân của ông bị hoen ố vì những lời cáo buộc có dính líu đến việc che giấu tội lỗi của giới giáo chức. Người ta tố cáo Giáo hoàng Biển Đức XVI, trong thời kì đang trị vì và cả trong thời kỳ còn làm giám mục, đã nhúng tay vào việc che giấu các hành động loạn dâm của giới giáo sĩ, tạo nên một "bức tường im lặng" tại Vatican. Có ý kiến cáo buộc Ratzinger khi còn làm giám mục đã không báo cáo các hành động sai trái của thuộc cấp cho cảnh sát, và "bỏ qua" những đơn thư nhắc nhở và tố cáo mà thuộc cấp gửi cho mình, và rằng trong thời kỳ đứng đầu Bộ Giáo lý Đức tin, Ratzinger hầu như không làm gì trước vấn nạn này cho đến khi Giáo hoàng Gioan Phaolô II đích thân yêu cầu phải xử lý rõ ràng vụ việc. Và khi điều tra vụ việc, trong một bức thư Ratzinger lại nhấn mạnh là các nhân viên điều tra của giáo hội có quyền giữ "tuyệt mật" theo giáo luật ấn tín Bí tích Hòa giải các bằng chứng liên quan đến nạn ấu dâm trong vòng 10 năm cho đến khi các nạn nhân đã trưởng thành.
Christopher Hitchens, trong một buổi nói chuyện với Bill Maher đã phát biểu:
Trong một bức thư gửi các Giám mục Công giáo, nhà thần học Hans Küng nói rằng cách hành xử của giáo hội về các sự vụ này đã gây ra cuộc khủng hoảng về khả năng lãnh đạo cũng như về đức tin trong Giáo hội, và tố cáo Giáo hoàng Biển Đức XVI từng dính líu đến việc bao che cho các linh mục tà dâm:
Nhà thần kinh học Sam Harris cũng tố cáo giáo hoàng có dính líu đến việc bao che các tu sĩ phạm lỗi:
Linh mục Lombardi, phát ngôn viên chính thức của Vatican nhấn mạnh rằng nạn ấu dâm không chỉ xảy ra trong phạm vi giáo hội. Và song song với đó, Tòa thánh Vatican đã lên tiếng đả kích điều mà họ gọi là những mưu toan nhằm nối kết Giáo hoàng Biển Đức XVI với một vụ tai tiếng ngày càng lan rộng về những linh mục xâm hại tính dục trẻ em ở Đức. Linh mục Lombardi phủ nhận những gợi ý cho rằng Giáo hội Công giáo tìm cách che đậy những vụ bê bối của các linh mục.
Sau khi làm Giáo hoàng, Biển Đức XVI đã một số lần công khai chỉ trích nạn linh mục loạn dâm. Ông nhiều lần phát biểu hoặc viết thư xin lỗi về những hành vi sai trái do các linh mục gây ra, thăm hỏi các nạn nhân, và kêu gọi giáo hội mạnh tay với vấn nạn chức sắc làm bậy. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng các thái độ ấy là không đủ, và đó chỉ là các hành vi đầu môi chót lưỡi, không thật lòng, và tìm cách tránh né chuyện bao che linh mục loạn dâm.
Trích dẫn gây động chạm cộng đồng Hồi giáo
Trong một buổi thuyết giảng đức tin tại Đại học Regensburg, Đức vào năm 2006, Biển Đức XVI đã trích dẫn một số lời nói của hoàng đế Đông La Mã Manuel II Palaiologos, trong đó có câu "Hãy minh chứng cho tôi những gì mới mẻ mà đấng Muhammad mang lại và ở đó các ngươi sẽ chỉ thấy những điều xấu xa và vô nhân đạo, chẳng hạn như thói rao giảng đức tin bằng gươm giáo." Sau đó giáo hoàng bình luận thêm về bạo lực "là không phù hợp với bản chất của Chúa Trời và của linh hồn", nhưng cũng giải thích rằng "Ý định của tôi ở đây không phải là lật lại vụ việc hay là chỉ trích mang tính tiêu cực, mà là mở rộng khái niệm của chúng ta về lý luận và các ứng dụng của nó." Ông cũng nhấn mạnh trong bài diễn văn rằng, câu nói đó là trích dẫn chứ không phải là câu nói do giáo hoàng tự đặt ra.
Việc trích dẫn câu nói này của vua Đông La Mã đã khiến nhiều người Hồi giáo phẫn nộ. Quốc hội Pakistan đã thông qua quyết định lên án hành động này và đại sứ Vatican tại Pakistan đã bị triệu tập để "làm việc". Người đứng đầu nhóm Huynh đệ Hồi giáo Mohammed Mahdi Akef cáo buộc phát biểu của Giáo hoàng đã kích động sự giận dữ trên toàn thế giới Hồi giáo và không thể hiện sự hiểu biết đúng đắn về tôn giáo này. Salih Kapusuz, phó Bí thư Đảng Công lý và Phát triển (Thổ Nhĩ Kỳ) còn đi xa hơn khi so sánh Biển Đức XVI với Hitler và Mussolini. Thủ tướng Palestine Ismail Haniya cũng chỉ trích dữ dội hành động này của giáo hoàng, cho rằng giáo hoàng đã nói sai sự thật và lăng mạ lịch sử đạo Hồi. Ayatollah Mohammed Hussein Fadlallah, người đứng đầu phái Shia ở Liban, yêu cầu giáo hoàng nên trực tiếp xin lỗi trước công luận chứ không nên gửi lời xin lỗi gián tiếp thông qua các kênh truyền thông khác. Tổ chức Hội nghị Hồi giáo bày tỏ sự lo ngại trước phát biểu của giáo hoàng, coi việc trích dẫn này là hành động "ám sát cá nhân" đối với nhà tiên tri Muhammad và kêu gọi Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc lên tiếng về sự kiện này.
Trước các phản ứng này, giáo hoàng và tòa thánh Vatican nhận định rằng công luận đã hiểu nhầm ý của giáo hoàng trong các phát biểu này, cụ thể ý kiến của giáo hoàng là phản đối bạo lực phát sinh từ tôn giáo chứ không phải chỉ trích một tôn giáo cụ thể nào.
Một số ý kiến khác cũng bày tỏ sự thông cảm đối với Giáo hoàng. Thủ tướng Úc John Howard cho rằng phản ứng của giới Hồi giáo là "không phù hợp". Thủ tướng Đức Angela Merkel cũng đồng ý là những người chỉ trích đã hiểu nhầm ý của giáo hoàng Tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono mặc dù chỉ trích giáo hoàng nhưng đã kêu gọi cộng đồng Hồi giáo phải kiềm chế và hành xử khôn ngoan.
Xem nguyên văn bài phát biểu của Giáo hoàng Biển Đức XVI tại Đại học Regensburg
Phát biểu gây tranh cãi về quá trình cải đạo Kitô ở châu Mỹ
Trong chuyến tông du ở Nam Mỹ, Giáo hoàng Biển Đức XVI lại khiến công chúng giận dữ khi phát biểu rằng cộng đồng dân bản địa từ lâu đã có một niềm khao khát lặng lẽ đối với đạo Kitô du nhập vào bởi các thực dân phương Tây và từ lâu đã kiếm tìm Thiên Chúa nhưng không nhận thức được việc đó. Trong bài phát biểu ngày 13 tháng 5 năm 2007 trước các giám mục tại vùng Mỹ La Tinh, Giáo hoàng đã nói là việc cải đạo ở Nam Mỹ không phải là quá trình xâm lược mà giúp thanh tẩy và làm đơm hoa kết trái nền văn hóa bản địa.
Phát biểu này ngay lập tức làm nổi sóng dư luận. Trong một bài phát biểu trên truyền hình, Tổng thống Venezuela Hugo Chávez đã yêu cầu giáo hoàng xin lỗi:
Cộng đồng người bản xứ Nam Mỹ cũng chỉ trích dữ dội phát biểu của giáo hoàng. Các tổ chức của người da đỏ Brasil nhận xét câu nói của giáo hoàng là "kiêu ngạo, bất kính, mang tính xúc phạm và đáng kinh hãi". Một phát ngôn viên của họ cáo buộc rằng giáo hoàng đang cố ý biện hộ cho các "hành động bẩn thỉu" của giới thực dân, và phát ngôn viên của Hội đồng Truyền giáo Người Da đỏ Brasil cho rằng giáo hoàng "cúp học mất mấy buổi về lịch sử". Một tổ chức của người bản địa Ecuador mỉa mai: "Những đại diện của Giáo hội Công giáo trong thời gian đó - ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ là ngay thẳng chính trực - đã đồng lõa, bao che và hưởng lợi từ một trong những cuộc diệt chủng tồi tệ nhất của nhân loại." Tổ chức của người da đỏ tại Peru thì cho rằng đáng ra giáo hoàng phải biết "cái gọi là truyền bá Phúc Âm thật là bạo lực" và "những tín ngưỡng không phải Công giáo đã bị bách hại và đàn áp dã man."
Nhiều nhà bình luận cho rằng, vụ việc này có gì đó giống như những phát ngôn lỡ lời của giáo hoàng về đức tin Hồi giáo vào năm 2006, và những phát ngôn mang tính khiêu khích tái đi tái lại cho thấy sự thiếu nhạy cảm của Biển Đức XVI trước các vấn đề này. Ví dụ, John L. Allen Jr., nhà phân tích của cơ quan thông tấn của Công giáo National Catholic Reporter đã nhận định:
Suốt hai tuần, Vatican im lặng trước những chỉ trích. Sau cùng, trong một bài phát biểu bằng tiếng Ý, Giáo hoàng Biển Đức XVI cũng đề cập đến các tội ác do chế độ thực dân gây ra tại khu vực này:
Nhận định về lời "xin lỗi" của giáo hoàng, Giáo sư Robert J. Miller của trường Luật Lewis & Clark đã viết:
Phát biểu gây tranh cãi về vai trò của bao cao su trong bệnh AIDS
Trong một chuyến tông du sang châu Phi vào tháng 3 năm 2009, tại Cameroon Giáo hoàng Biển Đức XVI đã có một phát biểu gây tranh cãi về tác dụng của bao cao su. Ông cho rằng bao cao su có thể có tác dụng tiêu cực đến tình hình diễn tiến bệnh AIDS tại khu vực này và việc ngăn ngừa bệnh AIDS chỉ có thể thực hiện bởi việc tiết chế sắc dục:
Đây cũng là lần đầu tiên trong một cuộc giao tiếp với báo giới, giáo hoàng đã sử dụng thuật ngữ "bao cao su".
Phát biểu của giáo hoàng đã nhận được sự chỉ trích dữ dội từ nhiều phía, trong đó có các chính trị gia cánh tả, các chuyên gia y tế, những nhà hoạt động chống lại bệnh AIDS và đấu tranh cho người đồng tính luyến ái. Rebbeca Hodes, Giám đốc về sách lược Treatment Action Campaign in South Africa cho rằng "đối với giáo hoàng, tín điều tôn giáo quan trọng hơn sinh mạng người dân châu Phi." Trong một bài xã luận trên tạp chí y khoa Lancet, câu nói của giáo hoàng bị cho là "nguy hại đối với hàng triệu sinh mạng trên thế giới." Một bài xã luận khác của tờ báo The New York Times cho rằng mặc dù giáo hoàng có toàn quyền phản đối việc dùng bao cao su theo nguyên lý đạo đức của giáo hội, "ông ta không có tư cách gì để bóp méo những khám phá khoa học về giá trị của bao cao su trong việc làm chậm quá trình lây lan bệnh AIDS.".
Đặc biệt, trong một buổi phát biểu tại Đại học Valencia nhà sinh học nổi tiếng Richard Dawkins đã đi xa hơn khi nhận xét về câu nói của Giáo hoàng là "ngu đần":
Một số chuyên gia và nhà khoa học khác thì lại có quan điểm đồng ý với ý kiến của giáo hoàng, tỉ như Edward C. Green, Giám đốc của Dự án Nghiên cứu Phòng ngừa AIDS tại Đại học Havard. Theo Green, mặc dù trên lý thuyết bao cao su có thể được áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao nhưng kết quả khảo sát cho thấy điều đó không hợp lý trong hoàn cảnh ở châu Phi, và phương pháp quan trọng nhất chính là phá bỏ thói quen có nhiều bạn tình hay quan hệ tình dục tập thể, theo đuổi lối sống một vợ một chồng. Theo thông cáo chính thức của Vatican, thì câu nói của giáo hoàng cần được hiểu theo nghĩa là, bao cao su sẽ có khả năng khuyến khích người dân thực hiện các "hành vi nguy hiểm". Ngoài ra, trong một buổi phỏng vấn diễn ra vào ngày 17 tháng 3 trong chuyến tông du, Giáo hoàng Biển Đức XVI đã cải chính về phát biểu của mình:
Trong các phát ngôn sau đó, Biển Đức XVI cho rằng mặc dù Tòa thánh và Giáo hội vẫn "cơ bản chống lại việc dùng bao cao su" và không xem nó là "giải pháp đích thực", nhưng nó vẫn được chấp nhận trong một số trường hợp như là bước chuyển tiếp đầu tiên trong quá trình tiến tới một phương pháp khác đạo đức hơn để ngăn ngừa việc lây nhiễm bệnh AIDS.
Thoái vị
Biển Đức XVI rời bỏ chức vụ Giáo hoàng kể từ lúc 20 giờ thứ năm, ngày 28 tháng 2 năm 2013.
Trong công nghị lúc 11 giờ sáng ngày 11 tháng 2 năm 2013, trước sự hiện diện của các hồng y và giám mục, ông tuyên bố:
Sau khi từ nhiệm, theo thông cáo của giáo hội, Biển Đức XVI vẫn giữ tông hiệu giáo hoàng hơn là sử dụng tên khai sinh của mình, Joseph Aloisius Ratzinger. Ông cũng được gọi là Giáo hoàng Benedict XVI, Giáo hoàng danh dự. Ông vẫn mặc bộ áo choàng màu trắng truyền thống của Giáo hoàng, nhưng sẽ không có dải băng đeo qua vai hay áo choàng ngắn. Giáo hoàng Biển Đức XVI cũng sẽ không sử dụng đôi giày màu đỏ nữa mà thay vào đó là đôi giày màu nâu. Giáo hoàng cũng sẽ từ bỏ chiếc nhẫn vàng, hay còn được gọi là chiếc Nhẫn Ngư phủ, vốn tượng trưng cho quyền lực của giáo hoàng, và ấn tín của ông sẽ được tiêu hủy giống như khi một giáo hoàng qua đời, để tránh bị lợi dụng trong các văn bản về sau. Tuy vậy, thay vì tiếp tục được gọi là "Đức giáo hoàng Biển Đức XVI", thì chính ông cho biết rằng kể từ khi từ nhiệm thì ông đã muốn trở về với chức vụ linh mục cội rễ của mình và muốn được gọi đơn giản là "Cha Biển Đức". Ông giải thích: lý do tối thiểu cho việc danh xưng mới của ông đơn giản chỉ là "Cha" thay vì "Đức giáo hoàng danh dự" hay "Đức giáo hoàng Biển Đức XVI" là tạo nhiều không gian giữa ông và vai trò của vị giáo hoàng, để không có một sự bối rối nào đối với vị "giáo hoàng thực thụ" (là Giáo hoàng Phanxicô).
Theo phát ngôn viên của Vatican, ngày đầu tiên sau khi từ nhiệm giáo hoàng sẽ cùng với Tổng Giám mục Georg Gänswein tham gia một số hoạt động như là đi bộ trong vườn thánh và theo dõi tin tức ở Rome. Ông sẽ chuyển về tu viện Mater Ecclesiae ở thành phố Vatican làm nơi ở lúc nghỉ hưu.
Thông cáo chính thức của giáo hoàng và Vatican cho thấy Biển Đức XVI từ nhiệm vì lý do sức khỏe kém và tuổi cao. Tuy nhiên có những ý kiến cho rằng chính sức ép từ vụ Vatileaks và những tranh chấp quyền lực quyết liệt trong nội bộ Vatican là nguyên nhân của việc này. Báo La Repubblica khẳng định rằng Biển Đức XVI từ chức vì mệt mỏi trước công việc xử lý những hồ sơ đồ sộ liên quan đến các vụ rắc rối và bê bối trong hàng ngũ giáo sĩ Công giáo. Thật ra, ngay từ khi vụ Vatileaks mới nổ ra đã có tin đồn râm ran là giáo hoàng sẽ từ chức, mặc dù tin đồn này về sau đã lắng xuống sau một số biện pháp chấn chỉnh của Vatican. Có nguồn tin cho rằng sức khỏe của Giáo hoàng Biển Đức XVI tốt hơn rất nhiều so với Giáo hoàng Gioan Phaolô II lúc cuối đời, và việc từ chức đột ngột như vậy dễ khiến công luận hoài nghi về một lý do bí ẩn đằng sau hậu trường. Một số ý kiến khác thì khẳng định Vatileaks không phải là nguyên nhân chính của quyết định từ nhiệm này, mà thật sự sức khỏe của giáo hoàng thời điểm đó đã rất suy kiệt và khó có thể tiếp tục đảm đương công việc. Ông Geogr Ratzinger, anh trai của Giáo hoàng, đã nhận định rằng những khó khăn và thách thức trong những năm cầm quyền thật sự đã bào mòn sức khỏe của giáo hoàng rất nhiều.
Việc Biển Đức XVI chủ động từ chức cũng được cho là dấu hiệu cho thấy sẽ có những thay đổi và cải cách trong bộ máy cầm quyền Vatican, khi trước đó truyền thống của giáo hội là bầu cử các giáo hoàng cao tuổi và giáo hoàng thường tại nhiệm đến hết đời. Nó cũng được cho là một sự kiện có ảnh hưởng lớn, khi giáo hoàng ra đi để lại một Giáo hội Công giáo đang vật lộn với các vụ bê bối tình dục của giới Giáo sĩ, việc đối phó với các tổ chức Hồi giáo cực đoan và một thế giới Tây phương càng ngày càng thế tục hơn.
Qua đời và tang lễ
Vào ngày 28 tháng 12 năm 2022, Đức Giáo hoàng Phanxicô nói khi kết thúc buổi tiếp kiến rằng Đức Bênêđíctô "bị bệnh nặng" và cầu xin Thiên Chúa "an ủi và hỗ trợ ngài trong chứng tá tình yêu dành cho Giáo hội cho đến cùng". Cùng ngày, Matteo Bruni, giám đốc Văn phòng Báo chí Tòa thánh, tuyên bố rằng "trong vài giờ qua, sức khỏe của Benedict đã trở nên trầm trọng hơn do tuổi cao" và ông đang được chăm sóc y tế. Bruni cũng nói rằng Đức Phanxicô đã đến thăm Đức Benedict tại Tu viện Mater Ecclesiae sau buổi tiếp kiến.
Nguyên Giáo hoàng Biển Đức XVI đã qua đời vào lúc 9 giờ 34 phút sáng 31 tháng 12 năm 2022 (giờ địa phương) tại đan viện Mater Ecclesiae ở Vatican ở tuổi 95, theo thông báo cùng ngày của Vatican.
Từ ngày 2 đến ngày 4 tháng 1 năm 2023, thi hài của Đức Benedict được quàn tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, trong đó có khoảng 195.000 người đến viếng. Tang lễ và thánh lễ an táng của ông diễn ra vào ngày 5 tháng 1 năm 2023 tại Quảng trường Thánh Phêrô lúc 9:30sáng, do Giáo hoàng Phanxicô chủ trì và được cử hành bởi Hồng y Giovanni Battista Re. This was the first time since 1802 that a pope had attended a funeral for his predecessor. Tang lễ ước tính có khoảng 50.000 người tham dự. Một số người tham dự giơ các tấm biển đọc hoặc hét lên "Santo subito", kêu gọi nâng ngài lên Thánh nhân, một tiếng kêu đã được nghe trước đó tại Tang lễ của Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Benedict được an táng trong hầm mộ bên dưới Vương cung thánh đường Thánh Phêrô, trong một ngôi mộ đã từng được an táng John PaulII và JohnXXIII trước đó. Ngôi mộ đã được mở ra mắt công chúng vào ngày 8 tháng 1 năm 2023.
Sách ấn bản
Trong cuốn sách „Letzte Gespräche" (Những buổi nói chuyện cuối cùng) phát hành ngày 9.9.2016 Giáo hoàng Biển Đức XVI chỉ trích nhà thờ Đức, rằng có quá nhiều người làm việc cho nhà thờ, xem họ là thành viên một công đoàn đối với nhà thờ (như là một công ty) làm cho nó thiếu tinh thần linh động. Nội dung cuốn sách là những cuộc phỏng vấn với nhà báo Peter Seewald được giáo hoàng đương nhiệm Phanxicô đồng ý cho ấn bản. Trong cuốn sách Giáo hoàng Biển Đức XVI cũng khen ngợi giáo hoàng đương nhiệm trong vấn đề giao tiếp với công chúng. Ông cũng phủ nhận đã từ chức vì sự cố Vatileaks và cho là nó đã được giải quyết hoàn toàn. Về vấn đề không ưa thích, bè phái và việc tham danh vọng trong Vatican, giáo hoàng cho là nhiều người đã hiến thân và có lòng tốt, và dĩ nhiên là cũng có "các con cá ươn trong lưới". Về nhóm lợi ích đồng tình luyến ái ở Vatican ông cho là chỉ có bốn, năm người và đã bị giải tán. Về vấn đề ấu dâm của các linh mục, ông bày tỏ sự hối tiếc là không thể làm sạch được việc này. Tuy nhiên ông đã cho hàng trăm linh mục ấu dâm nghỉ việc.
Peter Seewald nói về Giáo hoàng Biển Đức XVI
Peter Seewald, người phỏng vấn Giáo hoàng Biển Đức XVI, từng là một người cộng sản chân chính, đã từng cho phát hành hai cuốn sách khác về các cuộc phỏng vấn Giáo hoàng Biển Đức XVI với tựa là Salz der Erde, Licht der Welt (Muối của trái đất, ánh sáng thế giới) và Gott und die Welt (Thượng đế và thế giới). Những cuộc phỏng vấn cho cuốn sách „Letzte Gespräche" không được định phát hành khi giáo hoàng còn sống mà để làm tài liệu cho cuốn sách về tiểu sử của ông sau này.
Theo Seewald, giáo hoàng hiện sống trong chủng viện thuộc vườn của Vatican với bà phước Camilla, người săn sóc cho ông và hồng y Gänswein (60 tuổi). Giáo hoàng hiện đã yếu, đi cần xe đẩy, ông mỗi ngày cần phải xem chương trình tin tức Ý, anh em ông có lần nói là ông ghiền xem tin tức. Giáo hoàng Biển Đức XVI không nghĩ là Jorge Mario Bergoglios được bầu làm giáo hoàng thay thế mình. Trong khi giáo hoàng mới Phanxicô gọi điện thoại loan báo, thì Giáo hoàng Biển Đức lại ngồi ngóng đợi tin trước đài truyền hình nên không nghe được cú điện thoại.
Giáo hoàng tiết lộ trong các cuộc nói chuyện là ông đã từng yêu tha thiết. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phụ nữ cũng được theo học thần học Công giáo, Giáo hoàng lúc đó là một chàng trai trẻ, đẹp trai, thông minh, yêu chuộng nghệ thuật, thích làm thơ, đọc sách như của Hermann Hesse. Một trong những người cùng học kể lại, ông có ảnh hưởng tới phụ nữ và ngược lại cũng vậy. Cho nên việc quyết định sống độc thân không phải là một chuyện dễ dàng.
Phê bình
Daniel Deckers, trong ban biên tập chính trị tờ FAZ cho đó là việc đáng tiếc về bày tỏ có vẻ cay đắng của giáo hoàng với nhà thờ Đức, mà sẽ bị nhóm chống lại việc có mặt nhiệt tình của nhà thờ trong xã hội lợi dụng. Theo Deckers trong thập niên 1980 không có linh mục nào trong nhà thờ có thể trở thành giám mục mà không có sự chấp thuận của Giáo hoàng Biển Đức XVI.
Chú thích
Liên kết ngoài
Habemus Papam: Đức Tân Giáo hoàng Biển Đức (Bênêđictô) thứ XVI
Pope Benedict Goes to Washington
Sinh hoạt của Đức Giáo hoàng Biển Đức XVI năm 2007
Hình ảnh của Đức giáo hoàng Bênêđictô XVI tại Pháp tháng 9 năm 2008
Thông điệp giáng sinh của giáo hoàng Biển Đức XVI
Đức giáo hoàng Biển Đức XVI và lá thư của 138 học giả Hồi giáo
Giáo hoàng Biển Đức XVI cương nghị nhưng dung hòa
Tiểu sử Đức giáo hoàng Biển Đức XVI
Đức Giáo hoàng đã làm gì nên tội?
Giáo hoàng
Người Đức
Nghệ sĩ piano Đức
Lính trẻ em
Hồng y Đức
Giáo hoàng Biển Đức XVI
|
17050
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20t%C3%B9%20Ph%C3%BA%20Qu%E1%BB%91c
|
Nhà tù Phú Quốc
|
Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc, hay Trại giam Tù binh Cộng sản Phú Quốc là một trại giam nằm tại phường An Thới ở phía nam đảo Phú Quốc. Trong Chiến tranh Đông Dương, trại giam này có tên là Nhà lao Cây Dừa. Đây là trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa, từng giam giữ hơn 32.000 tù binh (40.000 tù nhân nếu tính cả tù chính trị nhiều thời kỳ).
Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc có tất cả là 12 khu (năm 1972) được đánh số từ khu 1 đến khu 12. Riêng khu 13, 14 được xây dựng thêm vào cuối năm 1972. Mỗi khu trại giam có khả năng chứa khoảng 3000 tù nhân. Năm 1972, có khoảng 36 000 tù nhân. Mỗi khu trại giam lại được chia làm nhiều phân khu. Thường thì có 4 phân khu, trong 1 khu. Một phân khu chứa được 950 tù binh. Riêng phân khu B2 dành riêng để giam giữ các sĩ quan. Tù binh có cấp bậc lớn nhất là Thượng tá. Trại giam Tù binh Chiến tranh Phú Quốc do 3 tiểu đoàn quân cảnh (7, 8, 12) canh giữ.
Ngoài ra, Nhà tù Phú Quốc cũng có một trại giam tù hình sự, giam giữ những tù nhân thường phạm bị kết án 10 năm trở lên, ở phường Dương Đông, mặt tây của đảo.
Hiện tại Nhà tù Phú Quốc là một trong những điểm du lịch lịch sử.
Lịch sử
Trong Kháng chiến chống Pháp
Năm 1949 khi quân Trung Hoa Quốc dân đảng thua trận trước Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc, Hoàng Kiệt (黃杰 Huang Chieh) tướng lĩnh tỉnh Hồ Nam dẫn hơn 30000 quân chạy sang Việt Nam, lúc bấy giờ được Pháp đưa ra đóng quân tại phía Nam đảo Phú Quốc. Sau đó, năm 1953, họ về Đài Loan theo Tưởng Giới Thạch. Họ bỏ lại nhà cửa đồn điền, thực dân Pháp thấy vậy tận dụng nhà cửa có sẳn lập ra nhà tù rộng khoảng 40 hecta gọi là "Trại Cây Dừa" nhốt tù binh gần 14000 người.
Trại gồm 4 khu nhà giam A, B, C, D. Các tù binh cộng sản bị Pháp bắt từ các chiến trường Trung, Nam, Bắc Việt Nam bị tập trung đưa ra trại giam này ở Phú Quốc. Số tù binh này gồm khoảng 14000 người, đa số từ nhà tù Đoạn Xá (Hải Phòng). Cũng như tại các nhà tù khác trong Chiến tranh Đông Dương, tù nhân cộng sản tại Trại Cây Dừa sinh hoạt đấu tranh chống khủng bố, đàn áp, và tổ chức vượt ngục. Sau hơn 1 năm ở trại, có 99 tù nhân bị chết, 200 người vượt ngục.
Tháng 7 năm 1954, sau Hiệp định Genève, Pháp trao trả cho phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hầu hết tù binh ở trại này.
Trong Chiến tranh Việt Nam
Cuối năm 1955, Việt Nam Cộng hòa xây dựng một trại giam ở địa điểm Căng Cây Dừa cũ, với diện tích rộng 4 ha, đặt tên là Trại huấn chính Cây Dừa, còn gọi là Nhà lao Cây Dừa. Trại tù có nhà giam tù nam, nhà giam tù nữ, nhà giam phụ lão. Ngày 2 tháng 1 năm 1956, 598 người tù từ trại Trung tâm huấn chính Biên Hòa được đưa đến đề lao Gia Định, rồi đưa xuống tàu vận tải Hắc Giang của hải quân chở từ Sài Gòn về đến Phú Quốc. Về sau còn có thêm một số tù chính trị thuộc diện "Việt Cộng" hoặc "thân Cộng" cũng được đưa đến Trại huấn chính Cây Dừa.
Trong 7 tháng, từ tháng 2 đến tháng 9 năm 1956, có khoảng 100 tù nhân vượt ngục, trong đó có một số người bị bắn chết khi vượt rào. Các ông Phạm Văn Khỏe (em ruột của Phạm Hùng), và Mai Thanh (Tỉnh ủy viên, Bí thư Thị ủy Rạch Giá) cũng vượt ngục trong thời gian này. Thấy tình hình bất ổn, năm 1957, Việt Nam Cộng hoà đưa số tù chính trị ở "Trại huấn chính Cây Dừa" về đất liền, và đày một số ra nhà tù Côn Đảo.
Khi chiến tranh Việt Nam leo thang, số tù binh và tù chính trị tăng cao, chính quyền Việt Nam Cộng hòa xây dựng thêm nhiều trại giam tù binh ở Biên Hòa, Pleiku, Đà Nẵng, Cần Thơ, Quy Nhơn... Tại Phú Quốc, năm 1966, một trại giam rộng hơn 400 ha được xây dựng ở thung lũng An Thới, cách "Căng Cây Dừa" cũ 2 km. Trại giam gồm 12 khu, mỗi khu có 4 phân khu A, B, C, D, với trên 400 nhà giam, được gọi là Trại giam tù binh cộng sản Việt Nam / Phú Quốc, thường được gọi là Trại giam tù binh Phú Quốc. Mỗi phân khu, ngoài 9 phòng để tù binh ở, có 2 phòng để thẩm vấn, phạt vạ hoặc biệt giam tù binh... Tất cả 11 phòng đều có cấu trúc vì kèo sắt, nóc tôn, vách tôn, mỗi phòng bề ngang 5 mét, dài 20 mét, hai đầu chừa hai lối ra vào, bề ngang khoảng 8 tấc và mỗi bên vách tôn có 4 cửa sổ, dưới vách tôn có khoảng trống chừng 3 tấc, có rào dây kẽm gai. Để canh gác khu trại giam, chung quanh mỗi khu giam có một pháo đài canh gác có đặt súng đại liên; tại cổng chính của khu giam có 2 vọng gác; một vọng tổng kiểm soát đốc canh, 2 giờ thay phiên gác một lần, liên tục 24/24 giờ; hai xe tuần tra liên tục quanh khu giam; ban đêm còn có các toán vào vòng rào giới hạn để kiểm soát lưu động tại các phân khu và 10 vọng gác di động. Đứng đầu ban chỉ huy trại giam là một trung tá hoặc đại úy (có lúc là một chuẩn tướng) Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đằng sau là một cố vấn người Mỹ. Lực lượng canh giữ trực tiếp trại giam gồm có 4 tiểu đoàn quân cảnh, một liên đội địa phương quân, một đại đội công binh, một đơn vị hải thuyền và một đội quân khuyển.
Nhà tù Phú Quốc trở thành trại giam tù binh trung tâm toàn Việt Nam Cộng hòa, giam giữ hơn 32000 tù binh (40000 tù nhân nếu tính cả tù chính trị nhiều thời kỳ). Có khoảng 12000 tù nhân là bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, trong đó có khoảng 9000 người từ miền Bắc. Có trên 20000 tù nhân là dân quân du kích xã, ấp và cán bộ chính trị. Có hơn 2000 sĩ quan, hạ sĩ quan; trên 100 tù nhân là cán bộ cộng sản có trình độ chính trị trung cấp, sơ cấp (trong đó có 10 tỉnh ủy viên, trên 40 huyện ủy viên) và trên 200 chi ủy viên.
Vào tháng 5-1969 tù binh đã tổ chức vượt ngục thành công tại khu B2.
Nhục hình
Trong Chiến tranh Việt Nam, tù binh chiến tranh Trại giam tù binh Phú Quốc đã phải chịu những hình phạt, tra tấn như đóng đinh vào tay, chân, đầu; đốt dây kẽm cháy đỏ đâm vào da thịt, đục răng, trùm bao bố chế nước sôi hoặc đổ lửa than, ném vào chảo nước sôi, thiêu sống, chôn sống... Trong thời gian tồn tại không đầy 6 năm (từ tháng 6/1967 đến 3/1973) trại giam tù binh Phú Quốc, có hơn 4000 người chết, hàng chục ngàn người bị thương tật tàn phế. Tuy nhiên, vẫn có một số ít tù binh trốn được khỏi Nhà tù.
Họ trưng dẫn một số nhục hình tại nhà tù Phú Quốc mà theo lời kể của các cựu tù nhân là:
"đóng kim": dùng những cây kim chích đã cũ, đóng từ từ vào 10 đầu ngón tay.
"chuồng cọp kẽm gai": loại chuồng cọp làm toàn bằng dây kẽm gai, được đan chằng chịt xung quanh và trên nóc. Chuồng cọp này đặt ở ngoài trời trong phân khu. Mỗi phân khu có đến hai, ba chuồng cọp - loại nhốt 1 người và loại nhốt 3-5 người. Kích thước chuồng cọp rất đa dạng, có loại cho tù nhân nằm trên đất cát, có loại buộc tù nhân phải nằm trên dây kẽm gai, có loại chỉ nằm hoặc đứng; có loại chỉ ngồi lom khom; loại phải đứng lom khom, không đứng thẳng được mà ngồi xuống thì sẽ phải ngồi trên dây kẽm gai. Tù nhân phải cởi áo, quần dài, chỉ được mặc quần cụt để phơi nắng, phơi sương, dầm mưa suốt ngày đêm.
"ăn cơm nhạt": tù nhân không được ăn muối, sau hai tháng mắt sẽ bị mờ, sau 5-6 tháng liền có người bị mù hẳn.
"lộn vỉ sắt": các tấm vỉ sắt loại có lỗ tròn và đầy mấu để mắc vào nhau và lật ngửa làm "đường băng sân bay" rồi bắt tù binh cởi áo, cởi quần ngoài, chỉ còn chiếc quần đùi. người tù bị bắt cắm đầu xuống vỉ sắt lộn ra sau, sau vài lần là lưng người tù tóe máu, đầu bị bứt tóc, tróc da tơi tả.
"gõ thùng": lấy thùng phuy úp lên tù nhân đang ngồi xổm, rồi gõ vào thùng. Tù nhân sẽ bị đau đầu, sẽ bị điếc vì tiếng gõ mạnh và sức ép không khí. Cũng bằng cách gõ vào thùng phuy đổ đầy nước, bên trong thùng là tù nhân. Kiểu tra tấn này có thể khiến tù nhân bị hộc máu vì sức ép của nước.
"đục răng" và "bẻ răng": kê đục vào sát chân răng của người tù, dùng búa đóng làm răng gãy văng ra.
"roi cá đuối": giám thị dùng những chiếc roi cá đuối dài, đem phơi để đánh tù. Trước khi bị đánh, tù nhân phải cởi áo để bị đánh vào da thịt trần. Roi cá đuối thường quấn lấy thân nạn nhân, rồi giật ra, làm da thịt bị đứt theo. Giám thị sau đó có thể lấy muối ớt xát vào da thịt nạn nhân. Đầu năm 1970, phái đoàn Hồng Thập Tự Quốc tế khi đến thị sát nhà tù Phú Quốc đã bắt gặp một chiếc roi cá đuối dính máu khô.
"đóng đinh": những chiếc đinh 3 phân được dùng để đóng vào các ngón tay của tù binh trong quá trình tra tấn. Mỗi lần bị đóng đinh, xương ngón tay của người tù bị vỡ nát. Ngoài ra còn có loại đinh 7, 8 phân hoặc cả tấc để đóng vào thân người tù ở các vùng: cổ chân, khớp vai, mắt cá, ống quyển, đầu. Có người bị đóng đinh đến chết, sau này khi bốc mộ vẫn còn đinh găm trong hài cốt.
lấy bao bố trùm lên người tù rồi ném vào chảo nước sôi. Ba người tù ở phân khu C6 đã bị luộc chết.
dùng bóng đèn công suất lớn để sát mặt người tù trong thời gian dài cho nổ con ngươi.
dùng lửa đốt miệng, bộ phận sinh dục.
Tổ chức Chữ thập Đỏ đã đến nhà tù Phú Quốc vào những năm 1969, 1972. Các nhà quan sát của tổ chức này đã thấy sự tàn bạo có hệ thống và kéo dài tại nhà tù. Họ tìm được các vật chứng của nhục hình ở các tù binh, trong đó có các vết sẹo do tra tấn bằng điện, thể hiện của sự thiếu ăn, suy dinh dưỡng.
Tháng 8 năm 1971, một điều tra viên của Sứ quán Mỹ tại Việt Nam Cộng hòa báo cáo về sự đánh đập tù nhân tại Phú Quốc vẫn tiếp diễn. Trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lực lượng canh gác tại nhà tù được đánh giá chỉ bằng số tù binh trốn trại, không có cố gắng nào trong việc kỷ luật các giám thị xử tệ với tù nhân. Sau các kết quả điều tra của MACV và Sứ quán Mỹ, Tướng Cao Văn Viên, tổng chỉ huy Quân lực Việt Nam Cộng hòa, vẫn khẳng định rằng các đoàn kiểm tra của tổ chức Chữ thập Đỏ quốc tế đã báo cáo sai lệch về tình trạng ở nhà tù.
Khu di tích nhà tù Phú Quốc
Năm 1995, Khu di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận di tích cấp quốc gia.
Di tích lịch sử Nhà tù Phú Quốc gồm có tượng đài hình nắm tay, là "biểu tượng của sự đàn áp khốc liệt và tinh thần hiên ngang vùng lên phá xiềng của tù binh Phú Quốc", nghĩa trang liệt sĩ, và khu Trại giam Tù binh Phú Quốc được phục dựng.
Ảnh
Tư liệu Phim Ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
"Chứng tích của lòng kiên trung" trên báo Nhân Dân
Phóng sự báo Tuổi trẻ, Kỳ 1: Địa ngục trần gian, Kỳ 2: Người tù đứng lên , Kỳ 3: Cuộc đào thoát vĩ đại .
Đại lễ cầu siêu cho các anh hùng, liệt sĩ hy sinh tại Phú Quốc
Hình ảnh nhà tù Phú Quốc
Du lịch Phú Quốc
Nhà tù tại Việt Nam
Tội ác và vi phạm nhân quyền trong Chiến tranh Việt Nam
Tra tấn ở Việt Nam
Tội ác chiến tranh ở Việt Nam
Công trình xây dựng ở Kiên Giang
|
17054
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A1ch
|
Lách
|
Lách hay lá lách, theo đông y gọi là tỳ (tiếng Anh: "spleen", từ tiếng Hy Lạp —splḗn) là một cơ quan có ở hầu như tất cả các động vật có xương sống. Có cấu trúc gần giống như một hạch bạch huyết lớn, nó hoạt động chủ yếu như là một bộ lọc máu.
Lá lách đóng vai trò quan trọng đối với các tế bào máu đỏ (còn gọi là hồng cầu) và hệ thống miễn dịch. Nó lọc bỏ các tế bào hồng cầu già và chứa máu dự trữ được dùng trong trường hợp khẩn cấp như sốc xuất huyết. Ngoài ra, nó còn tái chế sắt từ các tế bào hồng cầu đã lọc bỏ. Là một phần của hệ thống thực bào đơn nhân, nó tiêu hóa các hemoglobin (huyết cầu tố) lọc bỏ từ các tế bào hồng cầu già. Phân tử "globin" (các tiểu đơn vị protein) được phân hủy thành các amino acid, và nhóm heme được chuyển hóa thành sắc tố mật (bilirubin) để giúp gan tiết mật phục vụ tiêu hóa.
Lá lách tổng hợp kháng thể ở tủy trắng và lọc bỏ vi khuẩn và tế bào hồng cầu đã bị bao bọc bởi kháng thể qua quá trình lọc máu và tuần hoàn bạch huyết. Một nghiên cứu khoa học xuất bản năm 2009 trên chuột đã phát hiện ra rằng lá lách chứa một nửa tổng số bạch cầu đơn nhân của toàn cơ thể trong tủy đỏ. Những bạch cầu đơn nhân này, sau khi di chuyển đến các mô bị tổn thương (ví dụ như tim), sẽ chuyển biến thành tế bào đuôi gai và đại thực bào trong khi làm lành các mô này. Lá lách là trung tâm hoạt động của hệ thống thực bào bạch cầu đơn nhân và có thể coi như là một hạch bạch huyết lớn, vì khi không hoạt động, khả năng kháng thể với một số bệnh nhiễm trùng bị suy giảm đáng kể.
Ở người, lá lách có màu nâu và nằm trong ổ bụng ở góc phần tư phía trên bên trái.
Cấu trúc
Lá lách, trong cơ thể người trưởng thành khỏe mạnh, có chiều dài từ khoảng 7 cm (2,8 inches) đến 14 cm (5,5 inches). Nó thường nặng từ 150 gram (5,3 oz) đến 200 gram (7,1 oz). Một cách đơn giản để ghi nhớ giải phẫu học của lá lách là quy tắc 1x3x5x7x9x11. Lá lách có kích thước 1 inches x 3 inches x 5 inches, nặng khoảng 7 oz, và nằm trong khoảng xương sườn thứ 9 và thứ 11 ở bên trái.
Bề mặt
Bề mặt nội tạng của lá lách
Các bề mặt hoành của lá lách (hoặc bề mặt cơ hoành) lồi, mịn, và hướng lên trên, hướng ngược, và hướng sang trái, trừ đoạn cuối phía trên, nơi nó hướng một chút vào giữa. Đó là trong mối quan hệ với các bề mặt dưới của cơ hoành, tách nó từ thứ chín, thứ mười, và xương sườn thứ mười một của phía bên trái, và can thiệp biên dưới của phổi trái và pleura.
1. Tham gia sản xuất tế bào lympho. Ở giai đoạn bào thai lách còn sản xuất hồng cầu, tiểu cầu, bạch cầu hạt.
2. Phá huỷ các tế bào máu già cỗi, giữ lại sắt, protein và các chất cần thiết để tạo tế bào mới.
3. Dự trữ máu cho cơ thể. Khi lách co vào hoặc dãn ra tham gia điều hoà khối lượng máu cũng như khối lượng tế bào máu trong tuần hoàn.
4. Lách còn tham gia chống nhiễm trùng cho cơ thể bằng cách thanh lọc các vi khuẩn và vật lạ ở máu.
Chú thích
—"The visceral surface of the spleen."
"spleen" from Encyclopædia Britannica Online
Spleen and Lymphatic System , Kidshealth.org (American Academy of Family Physicians)
Spleen Diseases from MedlinePlus
"Finally, the Spleen Gets Some Respect" New York Times piece on the spleen
Cơ quan
Ổ bụng
Hệ bạch huyết
Huyết học
Tuyến tiết
Hệ miễn dịch
|
17057
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%B2%20vi%20ba
|
Lò vi ba
|
Lò vi ba (vi là "rất nhỏ", ba là "sóng", nên còn được gọi là lò vi sóng) là một thiết bị ứng dụng vi sóng để làm nóng hoặc nấu chín thức ăn.
Quá trình sáng chế
Mùa hè năm 1945, kĩ sư Percy Spencer đang tiến hành các thí nghiệm trên một máy phát sóng tần suất cao. Đó là một bộ phận tạo nguồn sóng mạnh cho mọi máy ra đa. Một lần, ông để quên một thanh sô-cô-la trong túi, đến khi ông rút ra thì nó đã bị tan chảy. Ông tự hỏi liệu nó có phải là do magnetron không?
Spencer được cấp bằng sáng chế cho phương pháp nấu ăn mới. Công ty Raytheon đã phát triển phát minh của ông thành lò vi sóng với tên gọi Radarange. Mẫu sớm nhất được tung ra thị trường nặng 340 kg trị giá 3000 USD với số lượng hạn chế. Người cha đẻ vĩ đại của vi sóng đã mất hơn 20 năm để cho ra đời thế hệ lò vi sóng mới, ngày nay xuất hiện trang trọng trong nhà bếp của mọi gia đình Mỹ.
Chiếc lò vi sóng đầu tiên của hãng Raytheon có kích cỡ rất lớn và đắt tiền, vì vậy nó chỉ có ở những nơi như nhà bếp khách sạn và toa nhà ăn của tàu hỏa. Ngày nay, trong 10 hộ gia đình người Mỹ có đến 9 hộ có lò vi sóng.
Cấu tạo
Lò vi sóng thường có các bộ phận sau:
Magnetron (nguồn phát sóng)
Mạch điện tử điều khiển
Ống dẫn sóng
Ngăn nấu
Hoạt động
Vi ba được sinh ra từ nguồn magnetron, được dẫn theo ống dẫn sóng, vào ngăn nấu rồi phản xạ qua lại giữa các bức tường của ngăn nấu, và bị hấp thụ bởi thức ăn. Sóng vi ba trong lò vi sóng là các dao động của trường điện từ với tần số thường ở 2450 MHz (bước sóng cực ngắn cỡ 12,24 cm). Các phân tử thức ăn (nước, chất béo, đường và các chất hữu cơ khác) thường ở dạng lưỡng cực điện (có một đầu tích điện âm và đầu kia tích điện dương). Những lưỡng cực điện này có xu hướng quay sao cho nằm song song với chiều điện trường ngoài. Khi điện trường dao động, các phân tử bị quay nhanh qua lại. Dao động quay được chuyển hóa thành chuyển động nhiệt hỗn loạn qua va chạm phân tử, làm nóng thức ăn.
Vi sóng ở tần số 2450 MHz làm nóng hiệu quả nước lỏng, nhưng không hiệu quả với chất béo, đường và nước đá. Việc làm nóng này đôi khi bị nhầm với cộng hưởng với dao động riêng của nước, tuy nhiên thực tế cộng hưởng xảy ra ở tần số cao hơn, ở khoảng vài chục GHz. Các phân tử thủy tinh, một số loại nhựa hay giấy cũng khó bị hâm nóng bởi vi sóng ở tần số 2450 MHz. Nhờ đó, thức ăn có thể được đựng trong vật dụng bằng các vật liệu trên trong lò vi sóng, mà chỉ có thức ăn bị nấu chín.
Ngăn nấu là một lồng Faraday gồm kim loại hay lưới kim loại bao quanh, đảm bảo cho sóng không lọt ra ngoài. Lưới kim loại thường được quan sát ở cửa lò vi sóng. Các lỗ trên lưới này có kích thước nhỏ hơn nhiều bước sóng (12 cm), nên sóng vi sóng không lọt ra, nhưng ánh sáng (ở bước sóng ngắn hơn nhiều) vẫn lọt qua được, giúp quan sát thức ăn bên trong.
Đối với kim loại hay các chất dẫn điện, điện tử hay các hạt mang điện nằm trong các vật này đặc biệt linh động, và dễ dàng dao động nhanh theo biến đổi điện từ trường. Chúng có thể tạo ra ảnh điện của nguồn phát sóng, tạo nên điện trường mạnh giữa vật dẫn điện và nguồn điện, có thể gây ra tia lửa điện phóng giữa ảnh điện và nguồn, kèm theo nguy cơ cháy nổ.
Sử dụng
Không cho vật dụng bằng kim loại hoặc bát đĩa có trang trí hoa văn kim loại vào lò vi sóng, để tránh nguy cơ cháy nổ do phóng tia lửa điện.
Dùng các dụng cụ đựng thức ăn chuyên dụng cho lò vi sóng; không dùng các đĩa chất dẻo thông thường.
Không cho lò hoạt động khi không có thức ăn hoặc nước trong lò; sóng không được hấp thụ bởi thức ăn sẽ tiếp tục được phản xạ qua lại và phá hủy lò. Nên thường xuyên để trong lò một cốc nước, bởi nếu người sử dụng không biết mà bật lò lên thì vẫn an toàn.
Những thức ăn có vỏ hoặc màng mỏng, thể tích bên trong khi nóng lên sẽ có áp suất tăng, dễ gây hiện tượng thức ăn phát nổ. Cần phải xăm lỗ, bốc vỏ để tránh hiện tượng này. Không luộc trứng, sò... còn vỏ kín.
Nếu lò bị rơi, bị bẹp, phải đưa đi kiểm tra xem cửa lò có bị hở không. Ngăn chứa thức ăn phải đảm bảo "độ kín" đối với sóng vi sóng để sóng không lọt ra ngoài.
Khi đun nấu bằng lò vi sóng, cần kiểm tra độ chín đều. Người ta đã phát hiện được vi khuẩn salmonella (gây bệnh đường ruột) trong một số trứng trần đun bằng lò vi sóng, do nhiệt không phân bố đều.
Một số chất độc, có thể gây bệnh nguy hiểm như ung thư, từ bao gói chất dẻo và mực in nhãn bao như adipate, phtalate, benzophenone có thể thôi sang thức ăn đun nấu bằng lò vi sóng. Do đó cần tách bao bì khỏi thức ăn trước khi cho vào lò.
Không dùng lò vi sóng để nấu thịt lợn ướp hoặc thăn lợn hun khói. Những thực phẩm này chứa nhiều nitrit. Nếu được đun bằng lò vi sóng, nitrit sẽ trở thành các nitrosamin - những phân tử có thể gây ung thư rất mạnh.
An toàn vi sóng
Lò vi sóng được thiết kế an toàn cao. Dẫu vậy khi sử dụng cần để ý tránh tác động không mong muốn. Do lò sử dụng sóng điện từ có tần số dao động trùng với tần số cộng hưởng của nhiều phân tử chất hữu cơ có trong sinh vật và trong thực phẩm, dẫn đến các phân tử hữu cơ hấp thụ vi sóng mạnh. Nó dẫn đến phân tử protein bị biến tính (tức là thay đổi một số liên kết trong cấu trúc phân tử) trước khi phát nhiệt để làm chín.
Điều này cũng nói lên rằng sử dụng thiết bị hay lò vi sóng thì lúc bật "phát sóng" thì cần lùi ra xa vùng có tác động của sóng, cỡ 1 m trở lên, vì các màn chắn không thể chắn hết được sóng. Vi sóng dư tác động lên mô của ta theo hai mức độ:
Mức nhẹ là làm biến tính một số phân tử protein trong tế bào, tức là gây sai lệch một chút cấu trúc phân tử, nó không "chết" và vẫn tham gia được vào hoạt động sống của tế bào. Nếu sai lệch này xảy ra trong phân tử DNA là nơi chứa mã di truyền, thì gọi là biến dị, và quá trình phân bào sau đó sẽ cho ra loạt các tế bào lỗi di truyền. Khi đó nếu hệ bạch huyết không đủ mạnh để loại bỏ được những tế bào lỗi này thì chúng phát triển thành ung thư.
Mức nặng là biến tính mạnh, phân tử không còn tham dự được vào hoạt động sống. Nếu lượng phân tử bị biến tính lớn thì tế bào sẽ chết.
Khi có nhiều tế bào chết thì được gọi là "bỏng vi sóng". Số tế bào chết nằm xen với tế bào sống và tế bào có protein bị lỗi, và giảm dần khi ra xa nguồn vi sóng, từ mặt da vào cao nhất là đến 17 mm là bề dày skin của sóng 2450 MHz. Hiện tượng này cũng có thể xảy ra khi đặt laptop làm việc lên đùi, do quá gần vi sóng dư do laptop phát ra. Tổn thương vi sóng không hiện ra thành vùng rõ như bỏng nhiệt truyền thống, và nhiều người không nhận ra. Thông thường thì bạch cầu dọn dẹp các tế bào chết, nhưng việc dọn các tế bào lỗi di truyền thì tùy thuộc vào khả năng của hệ thống bạch huyết của từng cá thể, để lại nguy cơ phát sinh ung thư.
Những công dụng khác
Diệt vi khuẩn, mọt
Các nghiên cứu đã thực hiện cho thấy có thể diệt khuẩn và mọt trên vật phi kim loại bằng lò vi sóng. Thử nghiệm năm 2006 với lò công suất 1000W sấy bọt biển trong 2 phút loại bỏ được 99% các coliform, E. coli và thể thực khuẩn Bacteriophage MS2. Bào tử Bacillus cereus cứng đầu thì cần đến 4 phút. Mọt trong gạo ngô khô thì bị chết khá nhanh, chỉ cần 20 giây cho 1 kg.
Sấy khô thú nuôi
Chuyện truyền tụng rằng một bà già ở Mỹ vốn có thói quen sấy khô chú mèo cưng bị ướt bằng lò nướng thông thường chạy ở mức nóng thấp. Tuy nhiên một ngày mưa thì lò cũ bị hỏng, bà mua một chiếc mới hiện đại là lò vi sóng. Ngày chú mèo bị mưa ướt, bà đem sấy trong lò vi sóng thì chú mèo từ từ chết rồi nổ tung, làm bà bị sốc nặng. Bà kiện, đòi bồi thường các tổn hại, với lý rằng Hướng dẫn sử dụng thiết bị không có hướng dẫn an toàn đầy đủ. Không thấy nói tới kết cục phân xử, tuy nhiên các hãng sản xuất phải đưa cảnh báo "Không thích hợp cho sấy khô thú nuôi" (Not suitable for drying pets) vào các bản hướng dẫn.
Tại nhiều nước như Úc, việc đem nung thú nuôi hoặc động vật còn sống trong lò vi sóng bị coi là phạm luật.
Tham khảo
Xem thêm
Sóng điện từ
Liên kết ngoài
Lò vi sóng trên Vietsciences
Lò vi ba từ Cục bưu chính viễn thông
Sử dụng lò vi sóng
Kỹ thuật cơ điện tử
Dụng cụ nấu ăn
Phát minh của Hoa Kỳ
Sóng điện từ
|
17063
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BA%BFn%20d%E1%BB%8B%20sinh%20h%E1%BB%8Dc
|
Biến dị sinh học
|
Biến dị sinh học là những biến đổi mới mà cơ thể sinh vật thu được do tác động của các yếu tố môi trường và do quá trình tái tổ hợp di truyền.
Các loại biến dị
Biến dị không di truyền (gọi Thường biến): là những biến đổi liên quan đến kiểu hình, không liên quan gì tới vật chất di truyền.
Biến dị di truyền: là những biến đổi có liên quan tới vật chất di truyền, gồm:
Biến dị đột biến: những biến đổi có tính chất hoá học vật liệu di truyền.
Biến dị tái tổ hợp: những tổ hợp sắp xếp gen mới mà đời con thu được khác với bố mẹ do sự phân ly độc lập và sự trao đổi chéo của các gen.
Biến dị cá thể: là mức phản ứng của các tính trạng di truyền trong vòng sống cá thể (có thể là thường biến hoặc đột biến)
Biến dị tổ hợp: là loại biến dị liên quan đến vật chất di truyền, là kết quả của sự tái tổ hợp vật chất di truyền
Lịch sử và một số học thuyết
Jean-Baptiste Lamarck là nhà tự nhiên học người Pháp (thế kỷ 19) có công lao chống lại thuyết sinh vật bất biến. Theo ông các điều kiện môi trường bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp lên cơ thể sinh vật và gây nên những biến dị và có thể di truyền cho đời sau.
Charles Darwin (người Anh) đặt nền móng cho lý luận tiến hóa, ông đã nghiên cứu rất nhiều biến dị ở các loài khác nhau. Theo ông có hai loại biến dị: biến dị xác định và biến dị không xác định. Quá trình phát sinh biến dị: do điều kiện môi trường và bản chất bên trong cơ thể, trong đó bản chất cơ thể là nhân tố quan trọng nhất, còn điều kiện môi trường chỉ đóng vai trò kích thích sự xuất hiện biến dị.
biến di là một trong những cơ chế phức tạp của cơ thể sống
Hai thuyết này mới chỉ phản ánh hiện tượng biến dị chứ chưa vạch ra được bản chất của biến dị.
1856-1865 phát hiện ra quy luật Mendel. 1903 Hugo de Vries đưa ra khái niệm đột biến để chỉ những biến đổi xảy ra đột ngột của tính trạng di truyền và xây dựng thuyết đột biến trên cơ sở nghiên cứu các loài thuộc Oenothera.
Nhiều nghiên cứu về sau đã phát hiện tác dụng gây đột biến của các tia phóng xạ và nhiều chất hóa học. Các đột biến nhân tạo cũng đã thúc đẩy phát triển di truyền học và ứng dụng trong chọn giống.
Sinh học
|
17075
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A1ch%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Lách (định hướng)
|
Lách hay lá lách: một cơ phận trong ổ bụng của con người.
Lách (cây): một loài thực vật thuộc họ Hòa thảo, tên khoa học Saccharum spontaneum.
|
17086
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A3n%20%E1%BB%A9ng%20t%E1%BB%95ng%20h%E1%BB%A3p%20h%E1%BA%A1t%20nh%C3%A2n
|
Phản ứng tổng hợp hạt nhân
|
Phản ứng tổng hợp hạt nhân hay phản ứng nhiệt hạch, phản ứng hợp hạch, trong vật lý học, là quá trình giữa 2 hạt nhân trở lên hợp lại với nhau để tạo nên một hạt nhân mới nặng hơn. Cùng với quá trình này là sự phóng thích năng lượng hay hấp thụ năng lượng tùy vào khối lượng của hạt nhân tham gia. Nhân sắt và nickel có năng lượng kết nối nhân lớn hơn tất cả các nhân khác nên bền vững hơn các nhân khác. Sự kết hợp hạt nhân của các nguyên tử nhẹ hơn sắt và nickel thì phóng thích năng lượng trong khi với các nhân nặng hơn thì hấp thụ năng lượng.
Phản ứng tổng hợp hạt nhân là một trong hai loại phản ứng hạt nhân. Loại kia là phản ứng phân hạch.
Phản ứng tổng hợp hạt nhân của các nguyên tử nhẹ tạo ra sự phát sáng của các ngôi sao và làm cho bom hydro nổ. Phản ứng tổng hợp hạt nhân của các nhân nặng thì xảy ra trong điều kiện các vụ nổ sao (siêu tân tinh). Phản ứng tổng hợp hạt nhân trong các sao và các chòm sao là quá trình chủ yếu tạo ra các nguyên tố hóa học tự nhiên.
Nhiên liệu thường dùng trong phản ứng tổng hợp hạt nhân là các đồng vị deuterium và tritium của hydrogen. Các đồng vị này có thể trích lấy dễ dàng từ thành phần nước biển, hoặc tổng hợp không mấy tốn kém từ nguyên tử hydrogen.
Để làm cho các hạt nhân hợp lại với nhau, cần tốn một nguồn năng lượng rất lớn, ngay cả với các nguyên tử nhẹ nhất như hydro. Điều đó được giải thích là do các quá trình của phản ứng đều khó thực hiện: bước 1 cần phải nguyên tử hóa các phân tử, ion hóa hoàn toàn tất cả các nguyên tử, đồng thời tách loại electron để biến nhiên liệu phản ứng hoàn toàn trở thành hạt nhân không có electron ở thể plasma. Sau đó cần phải cung cấp động năng cực kỳ lớn cho các hạt nhân vượt qua tương tác đẩy Coulomb giữa chúng mà va vào nhau. Nhiệt độ cần thiết có thể lên đến hàng triệu độ C. Nhưng sự kết hợp của các nguyên tử nhẹ, để tạo ra các nhân nặng hơn và giải phóng 1 neutron tự do, sẽ phóng thích nhiều năng lượng hơn năng lượng nạp vào lúc đầu khi hợp nhất hạt nhân. Điều này dẫn đến một quá trình phóng thích năng lượng có thể tạo ra phản ứng tự duy trì. Tuy nhiên, từ hạt nhân sắt trở đi, việc tổng hợp hạt nhân trở nên thu nhiệt nhiều hơn tỏa nhiệt. Việc cần nhiều năng lượng để khởi động thường đòi hỏi phải nâng nhiệt độ của hệ lên cao trước khi phản ứng xảy ra. Chính vì lý do này mà phản ứng hợp hạch còn được gọi là phản ứng nhiệt hạch.
Năng lượng phóng thích từ phản ứng hạt nhân thường lớn hơn nhiều so với phản ứng hóa học, bởi vì năng lượng kết dính giữ cho các nhân với nhau lớn hơn nhiều so với năng lượng để giữ các electron với nhân. Ví dụ, năng lượng để thêm 1 electron vào nhân thì bằng 13.6 eV, nhỏ hơn một phần triệu của 17 MeV giải phóng từ phản ứng D-T (deuterium-tritium, các đồng vị của hydro).
Ứng dụng
Hiện nay, nghiên cứu về tính khả thi của phương pháp tổng hợp hạt nhân như một nguồn cung cấp năng lượng thực tiễn đang được thực hiện với hi vọng khống chế được tốc độ cũng như lượng nhiệt của phản ứng. Với các vật liệu được biết đến ngày nay thì không có vật liệu nào chịu được nhiệt độ quá cao của phản ứng - do đó, hiện tại phản ứng nhiệt hạch được thực hiện một cách không khống chế nên gây lãng phí năng lượng. Một số nghiên cứu hướng đến việc sử dụng chùm laser hội tụ để nhắm vào nhiên liệu hạt nhân, ép chúng ở nhiệt độ rất cao để gây ra phản ứng, thay vì sử dụng nhiệt lượng tỏa ra từ khối uranium phân hạch như phương pháp truyền thống. Ngoài ra, người ta cũng có thể dùng từ trường ngoài khống chế các hạt nhân, đảm bảo chúng không va chạm vào thành bình chứa chúng, giữ cho phản ứng được thực hiện trong điều kiện ít tốn kém và hiệu suất cao.
Nếu việc ứng dụng công nghệ năng lượng này trở thành hiện thực, nó sẽ trở thành nguồn năng lượng lý tưởng cho con người. Các đặc tính ưu việt như: mật độ năng lượng rất cao (lớn hơn hàng tỷ lần mật độ năng lượng của các nhiên liệu hóa thạch, hơn hàng chục lần mật độ năng lượng của nhiên liệu phân hạch), hoàn toàn không gây ô nhiễm môi trường (nếu nhiên liệu là các đồng vị hydro như deuteri, triti thì sản phẩm thải là heli, khí hiếm hoàn toàn không gây bất kì ảnh hưởng nào đến môi trường), công nghệ hạt nhân và tổng hợp đồng vị phát triển, nguồn nhiên liệu thô - hydro để tổng hợp deuteri và triti là vô tận trong vũ trụ, là những điểm vượt trội của loại hình năng lượng này mà không có loại hình năng lượng nào khác có được. Một khi công nghệ hóa hữu cơ đã phát triển được vật liệu thích hợp làm bình chứa cho phản ứng, và công nghệ hạt nhân tìm ra được phương pháp khống chế hiệu quả, thì loại năng lượng sẽ trở thành một nguồn năng lượng không thể thiếu của con người.
Phản ứng hạt nhân
Phản ứng phân hạch
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phản ứng tổng hợp hạt nhân
Biến đổi năng lượng
Khái niệm vật lý
Vật lý hạt nhân
|
17090
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3i%20c%C3%A1ch
|
Cải cách
|
"Cải" là từ Hán-Việt có nghĩa là thay đổi, cách là phương pháp, hình thức hành động. Cải cách là thay đổi phương pháp, hành động của một công việc, hoặc một hoạt động cụ thể để đạt mục tiêu tốt hơn.
Ví dụ:
Cải cách hành chính: thay đổi phương thức, quy trình làm việc về thủ tục hành chính với mục đích nhanh, gọn.
Cải cách giáo dục: thay đổi cách dạy, học, số lượng, chất lượng kiến thức nhằm đào tạo con người tốt hơn.
Theo các Từ điển Hán - Việt, "Cải" là từ Hán-Việt có nghĩa là thay đổi, nhưng "cách" không phải là phương pháp, hình thức hành động. "cách" - 革 là đổi, đổi chính thể khác gọi là cách mệnh 革命, "cách" còn là bỏ đi. Như cách chức 革職 cách mất chức vị đang làm.
Xem thêm
Cải cách tiền tệ
Cải cách giáo dục của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chú thích
Đọc thêm
Harrington, Mona. The Dream of Deliverance in American Politics. New York: A.A. Knopf, 1986. x, 308 p. ISBN 0-394-54973-2
Liên kết ngoài
Cải cách
|
17091
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tuy%C3%AAn%20ng%C3%B4n%20Qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20Nh%C3%A2n%20quy%E1%BB%81n
|
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
|
Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền (TNQTNQ) là văn kiện quốc tế đặt ra các quyền con người được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 1948 ở Cung Chaillot tại Paris, Pháp. Eleanor Roosevelt là người đứng đầu ủy ban dự thảo.
TNQTNQ đặt ra các quyền lợi và tự do cơ bản của mỗi cá nhân. TNQTNQ tuyên bố "mọi người sinh ra tự do, bình đẳng về nhân phẩm và quyền lợi", không phân biệt "chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hoặc kiến giải khác, quốc tịch hoặc xuất thân xã hội, tài sản, xuất sinh hoặc thân phận khác". TNQTNQ là văn kiện quan trọng trong lịch sử quyền con người bởi vì các quyền lợi, tự do của TNQTNQ là chung của loài người, không phân biệt văn hóa, chế độ chính trị hoặc tôn giáo. TNQTNQ là nền tảng của luật quốc tế về nhân quyền, ví dụ như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Tuy không có hiệu lực pháp luật nhưng TNQTNQ đã được đưa vào những điều ước quốc tế, văn kiện nhân quyền của các khu vực và hiến pháp, bộ luật quốc gia.
Tất cả 193 nước thành viên Liên Hợp Quốc đều đã phê chuẩn ít nhất một trong chín điều ước quốc tế nhân quyền chịu ảnh hưởng của TNQTNQ, phần lớn đã phê chuẩn ít nhất bốn điều ước. Nhiều điều khoản của TNQTNQ đã được công nhận là tập quán quốc tế. TNQTNQ đã được dịch ra 530 thứ tiếng, là văn kiện phổ quát nhất trong lịch sử.
Bố cục và nội dung
TNQTNQ gồm:
Lời nói đầu trình bày bối cảnh lịch sử của TNQTNQ.
Điều 1–2 đặt ra các khái niệm nhân phẩm, tự do và bình đẳng.
Điều 3–5 đặt ra các quyền lợi cơ bản khác như quyền sống và cấm chế độ nô lệ, tra tấn.
Điều 6–11 đặt ra các quyền lợi của cá nhân trước pháp luật như quyền bình đẳng trước pháp luật và quyền được xét xử công bằng.
Điều 12–17 đặt ra các quyền lợi của cá nhân đối với cộng đồng như quyền tự do đi lại, quyền sở hữu tài sản và quyền có quốc tịch.
Điều 18–21 đặt ra các quyền lợi dân sự và chính trị như quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn luận, tụ họp và lập hội.
Điều 22–27 đặt ra các quyền lợi kinh tế, xã hội và văn hóa như quyền an sinh xã hội, có tiêu chuẩn sống xứng và quyền được chăm sóc của mẹ và trẻ em.
Điều 28–30 đặt ra giới hạn của các quyền lợi, tự do, nghĩa vụ của cá nhân đối với xã hội và cấm lạm dụng các quyền lợi, tự do vào mục đích trái với Liên Hợp Quốc.
Lịch sử
Chiến tranh thế giới thứ hai
Vào Chiến tranh thế giới thứ hai, khối Đồng Minh đề xướng Tứ tự do làm cương lĩnh: tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, tự do khỏi sợ hãi, tự do khỏi nghèo khó. Cuối chiến tranh, Hiến chương Liên Hợp Quốc được kí kết, tái khẳng định nhân quyền, nhân phẩm và ràng buộc các nước thành viên bảo vệ quyền con người mà không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo. Sau khi chiến tranh kết thúc, tội ác của Đức Quốc Xã được vạch trần, khiến cho cộng đồng quốc tế quyết định ra một bản tuyên ngôn xác định các quyền lợi và tự do của mọi người.
Soạn thảo
Tháng 6 năm 1946, Hội đồng Kinh tế và Xã hội Liên Hợp Quốc thành lập Ủy ban Liên Hợp Quốc về Nhân quyền gồm 18 ủy viên thuộc các quốc gia, tôn giáo, chính kiến khác nhau, giao nhiệm vụ soạn thảo một văn kiện về quyền con người. Tháng 2 năm 1947, Ủy ban Liên Hợp Quốc về Nhân quyền thành lập Ủy ban dự thảo TNQTNQ do Eleanor Roosevelt đứng đầu. Trong hai năm, Ủy ban dự thảo họp hai kỳ họp.
Ủy ban dự thảo ban đầu gồm các ủy viên từ Canada, Liban, Mỹ, Pháp và Trung Hoa Dân quốc. John Peters Humphrey là người soạn chính của TNQTNQ, René Cassin là đồng tác giả, Trương Bành Xuân là Phó Chủ nhiệm Ủy ban dự thảo, Charles Malik là Báo cáo viên. Một tháng sau khi được thành lập, Ủy ban dự thảo kết nạp thêm các ủy viên từ Chile, Liên Xô và Úc.
Tháng 5 năm 1948, Ủy ban dự thảo họp kỳ họp thứ hai và cuối cùng để xem xét ý kiến, đề nghị của các nước thành viên LHQ và tổ chức quốc tế. Đại diện của những cơ quan LHQ và tổ chức phi chính phủ cũng tham dự phiên họp.
Ngày 21 tháng 5 năm 1948, Ủy ban dự thảo bế mạc kỳ họp, trình dự thảo "Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" và "Công ước Quốc tế về Nhân quyền" lên Ủy ban Liên Hợp Quốc về Nhân quyền. Từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 18 tháng 6 năm 1948, Ủy ban Nhân quyền xem xét, thảo luận dự thảo ở Genève. Văn bản dự thảo được lưu hành giữa các nước thành viên LHQ. Ấn Độ đề nghị dùng từ "human beings" thay cho "men" để bảo đảm bình quyền nam nữ. Nam Phi cực lực vận động xóa từ "nhân phẩm" khỏi bản tuyên ngôn do "nhân phẩm không có tiêu chuẩn chung và không phải là 'quyền'", nhưng bị chỉ trích là vô lí bởi vì chính Nam Phi là nước tích cực tham gia soạn thảo Hiến chương LHQ và đã đề nghị thêm nhân phẩm vào bản tuyên ngôn. Sự thật là Nam Phi không muốn quyền nhân phẩm được công nhận bởi vì chế độ apartheid sẽ bị công kích. Sau cùng, bản tuyên ngôn giữ lại quyền nhân phẩm.
Ủy ban Nhân quyền thông qua dự thảo TNQTNQ và Công ước Quốc tế về Nhân quyền, 12 nước biểu quyết tán thành, bốn nước biểu quyết trắng. Dự thảo được trình lên Hội đồng Kinh tế và Xã hội xem xét, quyết định. Ngày 26 tháng 8 năm 1948, Hội đồng Kinh tế Xã hội quyết định trình dự thảo TNQTNQ lên Đại Hội đồng.
Từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 7 tháng 12 năm 1948, Ủy ban thứ ba của Đại Hội đồng họp 81 phiên họp để xem xét, thảo luận dự thảo và 168 đề nghị sửa đổi của các nước thành viên LHQ. Ngày 6 tháng 12, Ủy ban thứ ba quyết định thông qua dự thảo, 29 phiếu thuận, bảy phiếu trắng. Dự thảo được trình lên toàn thể Đại Hội đồng xem xét, quyết định từ ngày 9 đến ngày 10 tháng 12 năm 1948.
Thông qua
Ngày 10 tháng 12 năm 1948, TNQTNQ được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua ở Cung Chaillot, Paris. Trong số 58 nước thành viên LHQ bấy giờ, 48 nước biểu quyết tán thành, tám nước biểu quyết trắng, Honduras và Yemen không tham gia biểu quyết.
Kết quả biểu quyết là cái nhìn toàn cảnh về lập trường của các nước thành viên LHQ. Nam Phi biểu quyết trắng để bảo vệ chế độ apartheid, rõ ràng vi phạm TNQTNQ. Ả Rập Xê Út biểu quyết trắng do phản đối quyền bình đẳng hôn nhân trong điều 16 và quyền cải đạo trong điều 18. Sáu nước cộng sản biểu quyết trắng do bản tuyên ngôn không kịch liệt lên án chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quốc xã. Eleanor Roosevelt cho rằng các nước cộng sản biểu quyết trắng do bản tuyên ngôn bảo đảm quyền xuất dương, hồi hương ở điều 13. Những quan sát viên khác thì cho rằng lý do là bản tuyên ngôn bảo đảm các quyền lợi dân sự và chính trị.
Tuy biểu quyết tán thành nhưng Anh bày tỏ sự bất mãn rằng bản tuyên ngôn chỉ có giá trị tinh thần chứ không có hiệu lực pháp luật. Phải đến khi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị có hiệu lực vào năm 1976 thì hầu hết các điều khoản của TNQTNQ mới được thi hành.
48 nước biểu quyết tán thành TNQTNQ:
Tám nước biểu quyết trắng:
Hai nước không tham gia biểu quyết:
Ngày Quốc tế Nhân quyền
Ngày Quốc tế Nhân quyền là ngày 10 tháng 12 để kỷ niệm việc thông qua TNQTNQ. Năm 2008, LHQ tổ chức kỷ niệm tròn 60 ngày thông qua TNQTNQ, chủ đề là "Nhân phẩm và công lý cho mọi người". Năm 2018, LHQ tổ chức kỷ niệm tròn 70 năm TNQTNQ.
Ảnh hưởng
Tầm quan trọng
TNQTNQ là văn kiện đột phá, đặt ra các quyền con người phổ quát vượt lên trên giới hạn văn hóa, tôn giáo, pháp luật và chính trị. Tính phổ quát của TNQTNQ được xem là "lý tưởng vô biên" và "đặc trưng táo bạo nhất" của văn kiện.
Bản TNQTNQ được Đại Hội đồng thông qua là bản song ngữ gồm tiếng Anh và tiếng Pháp, về sau được dịch ra tiếng Ả Rập, tiếng Nga, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung, tất cả đều là ngôn ngữ chính thức của LHQ. LHQ đã hợp tác với các cá nhân, tổ chức để dịch TNQTNQ ra càng nhiều thứ tiếng càng tốt. Năm 1999, Sách Kỷ lục Guinness công nhận TNQTNQ là văn kiện được biên dịch ra nhiều thứ tiếng nhất trên thế giới, có 298 bản dịch. Năm 2021, TNQTNQ đã được dịch ra 530 thứ tiếng.
Hiệu lực pháp luật
Nhiều luật sư luật quốc tế cho rằng TNQTNQ là tập quán quốc tế và công cụ đắc lực để gây sức ép ngoại giao, tinh thần lên các nước vi phạm quyền con người. Một nhà luật học nổi tiếng cho rằng TNQTNQ "được công nhận là đặt ra các quy phạm chung". Những học giả pháp lý khác thậm chí chủ trương TNQTNQ cấu thành quy phạm cưỡng chế mà các nước không được vi phạm. Hội nghị Liên Hợp Quốc về Nhân quyền năm 1968 có ý kiến rằng TNQTNQ "áp đặt nghĩa vụ lên các thành viên của cộng đồng quốc tế".
TNQTNQ là nền tảng của hai công ước quốc tế về quyền con người: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá. Các nguyên tắc của TNQTNQ được mở rộng trong những điều ước quốc tế khác như Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, Công ước về quyền trẻ em, Công ước chống tra tấn. Nhiều người viện dẫn TNQTNQ để đòi quyền con người của mình được thừa nhận và bảo vệ.
Luật quốc gia
Một bài nghiên cứu năm 2022 cho thấy TNQTNQ đã đẩy mạnh việc hiến định những quyền con người nhất định. Một học giả ước tính rằng ít nhất 90 bản hiến pháp được ban hành sau năm 1948 có những điều khoản giống với hoặc chịu ảnh hưởng của TNQTNQ. Ít nhất 20 nước châu Phi dẫn TNQTNQ trong hiến pháp của mình. Năm 2014, hiến pháp của các nước sau dẫn TNQTNQ: Afghanistan, Benin, Bosnia-Herzegovina, Burkina Faso, Burundi, Campuchia, Chad, Comoros, Bờ Biển Ngà, Guinea Xích đạo, Ethiopia, Cộng hòa Dân chủ Congo, Gabon, Guinea, Haiti, Mali, Mauritania, Nicaragua, Niger, Bồ Đào Nha, Romania, Rwanda, São Tomé và Príncipe, Senegal, Somalia, Tây Ban Nha, Togo và Yemen. Ngoài ra, hiến pháp của Bồ Đào Nha, Romania, São Tomé và Príncipe và Tây Ban Nha quy định các tòa án phải giải thích hiến pháp hợp với TNQTNQ.
Phản ứng
Ủng hộ
TNQTNQ được nhiều nhà hoạt động, nhà luật học và nhà chính trị khen ngợi. Eleanor Roosevelt cho rằng TNQTNQ "có thể sẽ trở thành Đại Hiến chương mới của tất cả mọi người". Ở Hội nghị Thế giới về Nhân quyền vào năm 1993, đại diện của 100 nước khẳng định lại "sự tận tâm đối với các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc và Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền" và nhấn mạnh rằng TNQTNQ là nền tảng cho LHQ tiếp tục cải thiện các tiêu chuẩn về quyền con người. Giáo hoàng Gioan Phaolô II gọi TNQTNQ là "một trong những biểu hiện cao cả nhất của lương tri của thời đại ta". Liên minh châu Âu tuyên bố rằng TNQTNQ "đặt quyền con người vào trọng tâm của quan hệ quốc tế".
TNQTNQ được đại đa số các tổ chức quốc tế và phi chính phủ ủng hộ. Liên đoàn Quốc tế Nhân quyền đặt ra nhiệm vụ trọng tâm là vận động bảo vệ các quyền lợi của TNQTNQ, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Ân xá Quốc tế thường xuyên kỷ niệm Ngày Quốc tế Nhân quyền và tổ chức các sự kiện nâng cao nhận thức về TNQTNQ.
Chỉ trích
Thế giới Hồi giáo
Hầu hết các nước Hồi giáo thuộc LHQ vào năm 1948 đều ký TNQTNQ, bao gồm Afghanistan, Ai Cập, Iraq, Iran, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ. Ả Rập Xê Út là nước Hồi giáo duy nhất biểu quyết trắng, cho rằng bản tuyên ngôn vi phạm luật Hồi giáo. Pakistan chỉ trích lập trường của Ả Rập Xê Út và ủng hộ quyền tự do tôn giáo trong TNQTNQ.
Sau Cách mạng Hồi giáo, đại diện mới của Iran ở LHQ cho rằng các nước Hồi giáo không thể thực hiện TNQTNQ bởi vì bản tuyên ngôn vi phạm luật Hồi giáo.
Tổ chức Hợp tác Hồi giáo thông qua Tuyên ngôn Cairo về Nhân quyền và Hồi giáo, tuyên bố mọi người đều được hưởng quyền lợi và nhân phẩm hợp với luật Hồi giáo, không phân biệt chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, giới tính, tôn giáo, chính kiến, địa vị xã hội hoặc yếu tố khác. Tuyên ngôn Cairo được xem là lập trường của thế giới Hồi giáo đối với TNQTNQ, một mặt đặt ra các nguyên tắc phổ quát, một mặt chỉ viện dẫn luật Hồi giáo.
"Quyền từ chối giết người"
Ân xá Quốc tế và Phản chiến Quốc tế đã vận động bổ sung "quyền từ chối giết người" vào TNQTNQ. Phản chiến Quốc tế cho rằng quyền từ chối phục vụ trong quân đội phát sinh từ quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo. Hội đồng Nhân quyền LHQ đã khẳng định nhiều lần rằng điều 18 của TNQTNQ bảo đảm "mọi người có quyền từ chối phục vụ trong quân đội theo lương tâm như một hình thức thực hiện quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo".
Hiệp hội Nhân chủng học Hoa Kỳ
Hiệp hội Nhân chủng học Hoa Kỳ chỉ trích TNQTNQ là phản ánh thế giới quan phương Tây về quyền con người cho nên không phù hợp với các nước khác. Ngoài ra, Hiệp hội cho rằng phương Tây không có tư cách làm gương cho thế giới bởi vì phương Tây đã xâm chiếm, cưỡng bức các dân tộc khác.
ASEAN
Trước thềm Hội nghị Thế giới về Nhân quyền, đại diện của một vài nước châu Á thông qua Tuyên bố Bangkok, khẳng định lại sự tận tâm đối với các nguyên tắc của Hiến chương LHQ và TNQTNQ nhưng nhấn mạnh nguyên tắc chủ quyền, không can thiệp vào chính sự nội bộ và kêu gọi bảo vệ các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Xem thêm
Quyền con người
Lịch sử quyền con người
Các nguyên tắc Yogyakarta
Những hiệp định không ràng buộc
Tuyên ngôn Cairo về Nhân quyền và Hồi giáo
Tuyên bố Viên và Chương trình Hành động
Tuyên ngôn Thiên niên kỷ Liên Hợp Quốc
Luật quốc tế về nhân quyền
Công ước Genève (1949)
Công ước châu Âu về Nhân quyền (1952)
Công ước về ngườ tỵ nạn (1951)
Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (1969)
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1976)
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1976)
Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (1981)
Công ước về quyền trẻ em (1990)
Hiến chương các quyền cơ bản Liên minh châu Âu (2000)
Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật (2007)
Những triết gia ảnh hưởng TNQTNQ
Tôma Aquinô
Jean de Gerson
Hugo Grotius
Khổng Tử
Samuel von Pufendorf
John Locke
Jean-Jacques Burlamaqui
Jean-Jacques Rousseau
Thomas Jefferson
Jacques Maritain
Tham khảo
Thư mục tham khảo
Đọc thêm
Nurser, John. "For All Peoples and All Nations. Christian Churches and Human Rights.". (Geneva: WCC Publications, 2005).
Universal Declaration of Human Rights pages at Columbia University (Centre for the Study of Human Rights), including article by article commentary, video interviews, discussion of meaning, drafting and history.
Introductory note by Antônio Augusto Cançado Trindade and procedural history on the Universal Declaration of Human Rights in the Historic Archives of the United Nations Audiovisual Library of International Law
Liên kết ngoài
Text of the UDHR
Official translations of the UDHR
Resource Guide on the Universal Declaration of Human Rights at the UN Library, Geneva.
Drafting of the Universal Declaration of Human Rights – documents and meetings records – United Nations Dag Hammarskjöld Library
Questions and answers about the Universal Declaration
Text, Audio, and Video excerpt of Eleanor Roosevelt's Address to the United Nations on the Universal Declaration of Human Rights
UDHR – Education
UDHR in Unicode
Revista Envío – A Declaration of Human Rights For the 21st Century
Introductory note by Antônio Augusto Cançado Trindade and procedural history note on the Universal Declaration of Human Rights in the Historic Archives of the United Nations Audiovisual Library of International Law
The Laws of Burgos: 500 Years of Human Rights from the Law Library of Congress blog.
Tư liệu nghe nhìn
UDHR Audio/Video Project (recordings in 500+ languages by native speakers)
Universal Declaration of Human Rights recorded in multiple languages at LibriVox (public domain audiobooks)
Text, Audio, and Video excerpt of Eleanor Roosevelt's Address to the United Nations on the Universal Declaration of Human Rights at AmericanRhetoric.com
Animated presentation of the Universal Declaration of Human Rights by Amnesty International on YouTube (in English duration 20 minutes and 23 seconds).
Audio: Statement by Charles Malik as Representative of Lebanon to the Third Committee of the UN General Assembly on the Universal Declaration, 6 November 1948
UN Department of Public Information introduction to the drafters of the Declaration
Audiovisual material on the Universal Declaration of Human Rights in the Historic Archives of the United Nations Audiovisual Library of International Law
Lịch sử nhân quyền
Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
Văn kiện về nhân quyền
Chủ nghĩa nhân văn
Luật năm 1948
|
17104
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%82ngten
|
Ăngten
|
Ăng-ten (bắt nguồn từ tiếng Pháp antenne /ɑ̃tεn/; tiếng Anh: antenna), là một linh kiện điện tử có thể bức xạ hoặc thu nhận sóng điện từ. Có nhiều loại ăngten: ăngten lưỡng cực, ăngten mảng, ăngten đẳng hướng, ăngten định hướng...
Trong một hệ thống thông tin vô tuyến, ăng-ten có hai chức năng cơ bản. Chức năng chính là để bức xạ các tín hiệu RF từ máy phát dưới dạng sóng vô tuyến hoặc để chuyển đổi sóng vô tuyến thành tín hiệu RF để xử lý ở máy thu. Chức năng khác của ăngten là để hướng năng lượng bức xạ theo một hay nhiều hướng mong muốn, hoặc "cảm nhận" tín hiệu thu từ một hay nhiều hướng mong muốn còn các hướng còn lại thường bị khóa lại. Về mặt đặc trưng hướng của ăngten thì có nghĩa là sự nén lại của sự phát xạ theo các hướng không mong muốn hoặc là sự loại bỏ sự thu từ các hướng không mong muốn. Các đặc trưng hướng của một ăng-ten là nền tảng để hiểu ăng-ten được sử dụng như thế nào trong hệ thống thông tin vô tuyến. Các đặc trưng có liên hệ với nhau này bao gồm Tăng ích, tính định hướng, mẫu bức xạ (ăng-ten), và phân cực. Các đặc trưng khác như búp sóng, độ dài hiệu dụng, góc mở hiệu dụng được suy ra từ bốn đặc trưng cơ bản trên. Trở kháng đầu cuối (đầu vào) là một đặc trưng cơ bản khác khá quan trọng. Nó cho ta biết trở kháng của ăng-ten để kết hợp một cách hiệu quả công suất đầu ra của máy phát với ăng-ten hoặc để kết hợp một cách hiệu quả công suất từ ăng-ten vào máy thu. Tất cả các đặc trưng ăngten này đều là một hàm của tần số.
Tăng ích và tính định hướng của Ăng-ten
Tăng ích của một ăng-ten là cường độ bức xạ theo hướng đã cho chia cho cường độ bức xạ có được khi ăng-ten bức xạ tất cả công suất RF và được phân phối bằng nhau theo mọi hướng. Chú ý rằng định nghĩa này về tăng ích yêu cầu khái niệm về vật bức xạ đẳng hướng, có nghĩa là, một vật mà phát xạ cùng một công suất theo mọi hướng. Những ví dụ về một nguồn không định hướng là (ít nhất cũng xấp xỉ) âm thanh và ánh sáng, những nguồn này đôi khi được gọi là nguồn điểm. Tuy nhiên, một ăng-ten đẳng hướng chỉ là một khái niệm, bởi vì thực tế, mọi ăngten vô tuyến phải có một vài đặc tính về hướng. Tuy vậy, ăng-ten đẳng hướng là một sự tham chiếu rất quan trọng. Nó có một tăng ích duy nhất theo mọi hướng (g = 1 hoặc G = 0 dB), vì thế toàn bộ công suất đưa đến nó đều được bức xạ bằng nhau theo mọi hướng.
Mặc dù sự đẳng hướng là một nền tảng tham chiếu cho tăng ích của ăng-ten, nhưng có một tham chiếu khác được thường dùng hơn là lưỡng cực. Trong trường hợp này tăng ích của một lưỡng cực nửa bước sóng chuẩn được dùng. Tăng ích của nó là 1.64 (G = 2.15 dB) so với một vật phát xạ đẳng hướng. Tăng ích của một ăng-ten thường được biểu diễn dưới dạng đề-xi-ben (dB). Khi tăng ích được tham chiếu theo vật bức xạ đẳng hướng thì đơn vị là dBi, nhưng khi tham chiếu theo lưỡng cực nửa sóng, đơn vị được biểu diễn là dBd. Mối quan hệ giữa hai đơn vị là:
GdBd = GdBi – 2,15 dB
Directivity thì tương tự như Tăng ích, nhưng có một điểm khác biệt. Nó không bao gồm những ảnh hưởng của chính nó. Xem lại định nghĩa về tăng ích, ta thấy nó dựa trên cơ sở công suất được đưa tới ăngten. Trong thực tế, một phần công suất này bị mất đi do trở thuần của các phần từ (dưới dạng nhiệt), và dòng rò qua lớp điện môi,.... Nếu một ăng-ten không có tổn hao (hiệu suất 100%) thì tăng ích và directivity(theo một hướng cho trước) có thể như nhau.
Mẫu bức xạ
Mẫu bức xạ (hay còn được gọi là Mẫu ăng-ten) là sự biểu diễn lại tăng ích của ăng-ten theo mọi hướng. Do đó, đây là một sự mô tả ba chiều của mật độ công suất, rất khó để biểu diễn và sử dụng chúng. Cách thông thường để biểu diễn hoặc vẽ chúng là theo hình cắt. Hình 1 biểu diễn Mẫu bức xạ của một lưỡng cực nửa bước sóng ngang theo mặt cắt ngang và mặt cắt dọc. Ta có thể thấy, trong hình này, Mẫu theo mặt cắt ngang không có cấu trúc. Ăng-ten này có tăng ích hằng số theo góc ngang. Mặt khác, mẫu theo mặt cắt dọc cho ta thấy rằng, ăng-ten này có một tăng ích cực đại theo phương ngang và không phát xạ theo hướng trùng với trục của ăng ten. Thông thường, hướng không được chỉ rõ khi tham khảo theo tăng ích của ăng-ten. Trong trường hợp này, giả sử rằng hướng của tăng ích là hướng bức xạ cực đại – tăng ích cực đại của ănt-ten. Vì thế, một mẫu kết hợp sẽ biểu diễn các giá trị có quan hệ với tăng ích cực đại.
Bụng và nút
Các vùng của một mẫu nơi mà tăng ích có vùng phủ cực đại được gọi là bụng, còn những vị trí mà tăng ích có vùng phủ cực tiểu thì được gọi là nút (điểm không). Mặt cắt đứng của lưỡng cực nửa sóng có hai bụng sóng và 2 điểm nút. Hình 2 là một vài ví dụ khác. Một mẫu ăng-ten phức tạp có thể có nhiều bụng và nút theo cả hai mặt cắt đứng và ngang. Bụng sóng có tăng ích lớn nhất thì được gọi là bụng sóng chính hoặc tia chính của ăng-ten. Nếu một ăng-ten chỉ có một giá trị thông số tăng ích thì đó chính là bụng sóng chính hoặc tăng ích tia chính.
Độ rộng bụng sóng được lấy theo giá trị góc của bụng sóng chính theo một trong hai (hoặc cả hai) mặt cắt đứng hoặc ngang. Có một vài định nghĩa về độ rộng bụng sóng, bao gồm Độ rộng nửa công suất hoặc 3 dB, Độ rộng 10 dB, và Độ rộng nút đầu tiên. Độ rộng 3 dB là góc lớn nhất mà tăng ích ở đó thấp hơn tăng ích cực đại 3 dB. Độ rộng nửa công suất hay 3 dB được dùng phổ biến nhất.
Phân cực Ăng-ten
Thuật ngữ sự phân cực có một vài ý nghĩa. Một cách chính xác, đó là sự định hướng của các véc tơ trường điện từ E tại một vài điểm trong không gian. Nếu Véctơ E giữ nguyên sự định hướng của nó tại mỗi điểm trong không gian thì đó là sự phân cực tuyến tính; Còn nếu nó quay trong không gian, thì đó là sự phân cực tròn hoặc eplip. Trong hầu hết các trường hợp, sự phân cực của sóng được bức xạ là tuyến tính, theo chiều đứng hoặc ngang. Ở một khoảng cách lớn thích hợp so với ăng-ten (Khoảng 10 lần bước sóng), sóng trường xa có thể được coi là sóng phẳng.
Khái niệm về sự phân cực thường được áp dụng cho bản thân ăng-ten. Trong trường hợp này, sự phân cực của ăng-ten là sự phân cực của sóng phẳng mà nó bức xạ. Dựa trên nguyên lý thuận nghịch, điều này cũng đúng với các ăng-ten thu. Ví dụ, nếu một ăng-ten thu được phân cực đứng, điều đó có nghĩa là một sóng đầu vào phân cực đứng sẽ cho đầu ra cực đại với ăng-ten đó. Nếu sóng đầu vào được phân cực theo các góc khác, thì chỉ có thành phần đứng mới được phát hiện bởi ăng-ten. Một cách lý tưởng thì một sóng đầu vào phân cực ngang sẽ hoàn toàn không thể được thu bởi một ăng-ten có phân cực đứng. Sự phân cực đứng được dùng chủ yếu trong các ứng dụng LMR (Land Mobile Radio).
Trở kháng đầu cuối của Ăng-ten
Có ba loại trở kháng có liên quan tới ăng-ten. Một là trở kháng đầu cuối của ăng-ten, hai là trở kháng đặc trưng của một đường truyền dẫn, ba là trở kháng sóng.
Trở kháng đầu cuối được định nghĩa là tỉ sổ giữa điện áp và dòng điện tại đầu kết nối của ăng-ten (điểm mà đường truyền dẫn được nối tới). Trở kháng đầu cuối được biểu diễn toán học dưới dạng:
Z = V/I
Với Z là trở kháng, đơn vị là Ohm, V là điện áp, đơn vị là vôn, và I là cường độ dòng điện, đơn vị ampe, tại đầu cuối của ăng-ten với một tần số cho trước. Mỗi biến này có thể được biểu diễn dưới dạng một số phức, với phần thực và phần ảo. Các số phức này cũng có thể biểu diễn bằng cường độ và góc pha – được gọi là ký hiệu phasor.
Phần thực của trở kháng được gọi là thành phần trở thuần, và thành phần ảo được gọi là thành phần kháng, Chúng thường được biểu diễn dưới dạng:
Z = R + jX
Với R là thành phần trở thuần (thực), X là thành phần kháng (ảo)
Việc kết hợp năng lượng một cách hiệu quả nhất giữa một ăng-ten với một đường truyền dẫn khi trở kháng đặc trưng của đường truyền dẫn và trở kháng đầu cuối của ăng-ten như nhau và không có thành phần kháng. Với trường hợp này, ăng-ten được coi là phối hợp trở kháng với đường truyền dẫn.
Để phối hợp trở kháng, các ăng-ten thường được thiết kế sao cho trở kháng đầu cuối của chúng là 50 ohm hoặc 75 ohm để có thể phối hợp trở kháng với các cáp đồng trục phổ biến. Với các ăng-ten khó có thể loại bỏ (giảm tới không) thành phần kháng. Trong trường hợp này, một mạng phối hợp trở kháng thường được chế tạo như một phần của ăng-ten để thay đổi thành phần trở kháng của nó do đó có thể phối hợp trở kháng với đường truyền dẫn tốt hơn. Thành phần trở thuần R của trở kháng đầu cuối là tổng của hai thành phần và được biểu diễn bằng ohm.
R = Rr + Rd.
Điện trở bức xạ Rr là "Tải hiệu dụng" biểu diễn công suất bức xạ bởi một ăng-ten dưới dạng sóng điện từ, và điện trở tổn hao Rd là tải mà công suất bị mất. Hiệu suất của một ăng-ten là tỉ số giữa công suất bức xạ và tổng công suất được đưa tới ăng-ten. Nó được biểu diễn dưới dạng:
Efficiency = I2.Rr/I2.R = Rr/R.
Công suất hao phí là do tổn hao trở thuần (dưới dạng nhiệt) trong các phần tử của ăng-ten, dòng dò qua các lớp điện môi và các ảnh hưởng tương tự. Hơn nữa, cũng nên chú ý rằng, hiệu suất của một ăng-ten cũng có thể được biểu diễn dưới dạng tỉ số của tăng ích và tính định hướng (với một hướng cho trước).
Tỉ số sóng đứng điện áp
Tỉ số sóng đứng(SWR), hay còn gọi là điện áp tỉ số sóng đứng (VSWR), không chính xác là một đặc trưng của ăng-ten, nhưng được dùng để mô tả khả năng triển khai một ăng-ten khi được gắn vào một đường truyền dẫn. Nó cho ta biết trở kháng đầu cuối của ăng-ten được phối hợp tốt như thế nào với trở kháng đặc trưng của đường truyền dẫn. Cụ thể, VSWR là tỉ số của điện áp RF tối đa trên điện áp RF tối thiểu dọc theo đường truyền dẫn.
Nếu trở kháng của ăng-ten không có thành phần kháng (ảo) và thành phần trở thuần (thực) bằng với trở kháng đặc trưng của đường truyền dẫn, thì chúng được phối hợp trở kháng. Nếu điều đó xảy ra, thì sẽ không có tín hiệu RF nào gửi tới ăng-ten bị phản xạ lại tại đầu cuối của nó. Trên đường truyền dẫn sẽ không có sóng đứng và VSWR có giá trị là 1. Tuy nhiên, nếu ăng-ten và đường truyền dẫn không được phối hợp, thì một vài thành phần của tính hiệu RF gửi tới ăng-ten bị phản xạ lại dọc theo đường truyền dẫn. Điều đó gây nên sóng đứng, và được đặc trưng bởi các điểm cực đại và điểm cực tiểu tồn tại trên đường dây. Trong trường hợp này VSWR có giá trị lớn hơn 1.
VSWR có thể đo được dễ dàng với thiết bị được gọi là SWR meter. Nó được cài vào đường truyền dẫn và cho ta giá trị của VSWR. Tại giá trị VSWR bằng 1.5, khoảng 4% công suất tới đầu cuối ăng-ten bị phản xạ lại. Tại giá trị 2.0, khoảng 11% công suất tới bị phản xạ lại. VSWR có giá trị từ 1.1 tới 1.5 được coi là tuyệt vời, giá trị từ 1.5 tới 2.0 được coi là tốt, và các giá trị cao hơn 2.0 có thể không chấp nhận được.
Như đã nói ở trên, việc phối hợp trở kháng giữa ăng-ten và đường truyền dẫn chỉ có thể đặt được tại một tần số đơn. Trong thực tế, một ăng-ten có thể được dùng với một dải tần số vào, và trở kháng đầu cuối của nó sẽ thay đổi theo dải tần số đó. Trong thông số kỹ thuật của ăng-ten, trở kháng của các tần số trong băng sẽ được chỉ ra hoặc là VSWR theo tần số sẽ được chỉ ra.
Độ dài hiệu dụng và diện tích hiệu dụng
Độ dài hiệu dụng và diện tích hiệu dụng (còn được gọi là góc mở hiệu dụng) là một cách khác để biểu diễn tăng ích của ăng-ten. Các đặc trưng này tiện dụng và ý nghĩa nhất khi ăng-ten được dùng để thu. Đương nhiên là theo nguyên lý thuận nghịch, các đặc trưng là như nhau nếu ăng-ten được dùng cho việc phát.
Chiều dài hiệu dụng định nghĩa khả năng tạo ra một điện áp tại đầu cuối của một ăng-ten từ trường điện từ tới. Nó được định nghĩa là:
Le = V/E
Với Le có đơn vị là mét, V là điện áp hở mạch đơn vị là von, và E là cường độ trường đơn vị là vol/met. Định nghĩa này giả sử rằng sự phân cực của trường tới và ăng-ten là như nhau. Chiều dài hiệu dụng còn có thể được tính từ tăng ích và điện trở bức xạ.
Diện tích hiệu dụng, hoặc góc mở hiệu dụng được dùng phổ biến hơn chiều dài hiệu dụng. Nó được định nghĩa như sau:
Ae = Pr/P
Với Pr là công suất tại đầu cuối của ăng-ten, đơn vị là watts, và P là mật độ công suất của sóng tới, đơn vị là wat trên mét vuông. Mối quan hệ giữa diện tích hiệu dụng và tăng ích là:
Băng thông
Băng thông là một dải tần số, trong đó khả năng triển khai của ăng-ten là chấp nhận được. Nói cách khác, một hoặc nhiều đặc trưng (như tăng ích, mẫu, trở kháng đầu cuối) có các giá trị chấp nhận được giữa giới hạn của băng thông. Với hầu hết các ăng-ten, tăng ích và mẫu không thay đổi nhiều với tần số như là trở kháng đầu cuối, vì vậy thường được dùng để mổ tả băng thông của một ăng-ten.
VSWR là giá trị đo sự ảnh hưởng của việc không phối hợp giữa trở kháng đầu cuối của ăng-ten và trở kháng đặc trưng của đường truyền dẫn. Vì thế trở kháng đặc trưng của đường truyền dẫn khó thay đổi với tần số, VSWR là một cách tốt để mô tả ảnh hưởng của trở kháng đầu cuối và băng thông của ăng-ten. Lưỡng cực nửa sóng, và các ăng-ten tương tự có băng thông hẹp. Các ăng-ten khác như log-periodic được thiết kế có băng rộng.
Tham khảo
Từ gốc Pháp
Điện tử vô tuyến
|
17119
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1p%20lu%E1%BA%ADt%20Trung%20Qu%E1%BB%91c
|
Pháp luật Trung Quốc
|
Trong suốt chiều dài lịch sử của Trung Quốc, luật pháp Trung Quốc bắt nguồn từ triết lý Khổng giáo về trật tự xã hội. Những ảnh hưởng này thậm chí đến nay vẫn còn đậm nét trong hệ thống luật pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và hệ thống luật pháp dựa trên cơ sở pháp luật Đức.
Thời kỳ phong kiến
Bài chính: Luật pháp Trung Quốc truyền thống
Những giáo lý đạo Khổng có ảnh hưởng lâu dài tới đời sống người Trung Quốc và tạo lập cơ sở cho trật tự xã hội trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước này. Những người theo đạo Khổng tin vào tính thiện của con người và ủng hộ đức trị bằng luân lý cùng với khái niệm lễ.
Khổng giáo cho rằng luật pháp được san định là không đủ để cung cấp hướng dẫn ý nghĩa cho toàn bộ các hoạt động của con người, nhưng họ không chống lại việc sử dụng luật pháp để kiểm soát các thành phần cần được giáo hóa trong xã hội. Bộ luật hình sự đầu tiên được ban hành trong khoảng năm 455 và 395 TCN. Cũng có luật pháp dân sự, chủ yếu là liên quan đến chuyển nhượng đất đai. Khổng giáo cho rằng đạo đức và kỷ luật tự giác là tốt hơn bất kỳ một bộ luật nào đã khiến cho nhiều nhà sử học, thí dụ như Max Weber, cho đến giữa thế kỷ 20 kết luận rằng luật pháp không phải là phần quan trọng trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Tuy nhiên, cách hiểu này đã hứng chịu nhiều chỉ trích kịch liệt và hiện không còn thịnh hành trong giới Trung Quốc học, những người đã kết luận rằng Trung Quốc phong kiến có một hệ thống luật pháp hình sự và dân sự tinh vi.
Pháp gia, một trường phái tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong thời kỳ Chiến Quốc, cho rằng con người có bản tính ác và cần phải được kiểm soát bởi luật lệ hà khắc và công chính thống nhất. Trường phái Pháp gia có ảnh hưởng lớn nhất trong thời nhà Tần.
Nhà Hán duy trì một hệ thống luật pháp được thiết lập dưới thời nhà Tần, nhưng sửa đổi một số phương diện hà khắc theo triết lý Khổng giáo về kiểm soát xã hội dựa trên luân thường đạo lý. Hầu hết thư lại không phải là luật sư mà là những người được đào tạo về triết học và văn học. Tầng lớp quý tộc Khổng giáo địa phương, được đào tạo bài bản, đóng vai trò quan trọng như những người hòa giải và giải quyết tất cả các vụ việc ngoại trừ những vụ nghiêm trọng nhất tại địa phương mình.
Xem thêm
Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân
Bí thư Tỉnh ủy (Trung Quốc)
Tham khảo
Trung Quốc
|
17157
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng%20%E1%BA%A4n
|
Sông Ấn
|
Sông Ấn Độ gọi tắt là Sông Ấn (Sindh darya), còn được ghi lại là Sindhu (tiếng Phạn), Sinthos (tiếng Hy Lạp), và Sindus (tiếng Latinh), là con sông chính của Pakistan. Trước năm 1947 khi xảy ra Ấn Hồi phân chia thành hai quốc gia Ấn Độ và Pakistan thì sông Ấn là con sông lớn thứ nhì sau sông Hằng của xứ Ấn Độ ở vùng Nam Á. Con sông này có vai trò quan trọng về mặt văn hóa lẫn thương mại của cả khu vực. Địa danh "Ấn Độ" cũng xuất phát từ tên của con sông này.
Sông Ấn này bắt nguồn từ Tây Tạng, chảy từ dãy núi Himalaya theo hướng Đông nam lên tây bắc qua Kashmir trước khi rẽ về hướng nam, chếch tây nam tây nam sau khi vào địa phận Pakistan. Chiều dài của sông Ấn tùy theo cách đo đạc, dao động từ 2.900 đến 3.200 km. Sông Ấn là cái nôi của một nền văn minh cổ đại nơi đã sớm xuất hiện những đô thị đầu tiên trên thế giới.
Dòng sông và thủy văn
Dòng sông
Thượng nguồn của sông Ấn nằm ở Tây Tạng, bắt đầu ở hợp lưu của hai con sông: sông Sengge và sông Gar, nhận nước từ núi Nganglong Kangri và Gangdise Shan. Sông Ấn sau đó chảy theo hướng đông bắc-tây nam tới Gilgit-Baltistan ở phía nam của dãy núi Karakoram, sau đó dần dần chuyển hướng theo hướng nam, ra khỏi các vùng núi ở đoạn giữa Peshawar và Rawalpindi. Nó bị đắp đập ngăn nước ở khu vực này, tạo ra hồ chứa nước Tarbela. Phần còn lại trên hành trình của nó ra tới biển là các khu vực đồng bằng của Punjab và Sind, và dòng chảy của nó bị chậm đi rất nhiều. Nó nối với sông Panjnad tại Mithankot. Chảy qua Hyderabad, nó kết thúc tại khu vực đồng bằng châu thổ lớn ở phía đông nam Karachi.
Các nhánh sông
Sông Gilgit
Sông Gizar
Sông Hunza
Sông Gumal
Sông Zhob
Sông Kabul
Sông Kunar
Sông Sutlej
Sông Shyok
Sông Beas
Sông Chenab
Sông Jhelum
Sông Ravi
Thông tin khác
Sông Ấn là một trong số rất ít sông trên thế giới có hiện tượng sóng cồn khi thủy triều dâng. Sông Ấn, theo lưu lượng, là "sông ngoại lai lớn nhất (dòng chảy chính của nó không chảy qua quốc gia mà nó mang tên) trên thế giới.
Lịch sử và khảo cổ
Nền văn minh thung lũng sông Ấn là một trong bốn nền văn minh của thế giới cổ đại, ba nền văn minh cổ đại khác là nền văn minh Lưỡng Hà (Mesopotamia), nền văn minh Ai Cập cổ đại và nền văn minh Trung Hoa. Các đô thị chính của nền văn minh thung lũng sông Ấn, chẳng hạn như Harappa và Mohenjo Daro đã ra đời vào khoảng năm 3000 TCN, và là hiện thân của những khu vực con người cư trú lớn nhất trong thế giới cổ đại.
Địa chất
Sông Ấn cung cấp trầm tích cho quạt trầm tích ngầm Indus, đây là một thể trầm tích lớn thứ hai trên Trái Đất với khoảng 5 triệu km³ vật liệu bị xói mòn từ các dãy núi. Các nghiên cứu về trầm tích trong các sông hiện đại chỉ ra rằng, dãy núi Karakoram ở miền bắc Pakistan và Ấn Độ là nguồn vật liệu quan trọng nhất, còn Himalaya là nguồn lớn thứ 2, hầu hết qua các sông lớn của Punjab (Jhelum, Ravi, Chenab, Beas và Sutlej). Phân tích về trầm tích từ biển Ả Rập đã chứng minh rằng trước 5 triệu năm trước Sông Ấn không kết nối với các sông ở Punjab mà nối vào sông Hằng và bị bắt dòng vào thời điểm sau đó. Các công trình trước đó cho thấy rằng cát và bột ở phía tây của Tây Tạng đã được mang đến biển Ả Rập vào 45 triệu năm trước, ám chỉ sự tồn tại của sông Ấn cổ đại vào thời đó.
Ở vùng Nanga Parbat, việc xói mòn lớn do sông Ấn sau khi bị cướp dòng và đổi hướng qua vùng đó được cho là đã làm lộ các đá ở tầng nông và trung bình lên bề mặt.
Sinh vật hoang dã
Cá heo sông Ấn là một phân loài của cá heo chỉ tìm thấy ở sông Ấn. Trước kia, chúng đã từng tồn tại ở các sông nhánh của sông Ấn. WWF xếp loài này là một trong những loài trong bộ Cá voi nguy cấp với chỉ còn khoảng 1000 cá thể. Cá palla (Hilsa ilisha) sống trong sông này là đặc sản của người dân sống dọc theo hai bờ sông. Nằm ở phía đông nam Karachi, đồng bằng châu thổ lớn được các nhà bảo tồn sinh thái đánh giá là một trong những khu sinh thái quan trọng nhất của thế giới.
Các vấn đề hiện nay
Ô nhiễm
Qua nhiều năm các nhà máy xây dựng dọc theo các bờ của sông Ấn đã làm gia tăng lượng ô nhiễm nước sông và không khí xung quanh nó. Mức ô nhiễm cao trong sông đã làm đe dọa nghiêm trọng đến loài cá heo sông Ấn. Cơ quan Bảo vệ môi trường Sindh đã yêu cầu các nhà máy ven sông phải dừng theo Luận Bảo vệ môi trường Pakistan năm 1997. Cá heo sông Ấn chết cũng có nguyên nhân từ người đánh bắt cá dùng chất độc để thuốc cá. Kết quả là, chính phủ đã cấm đánh bắt cá từ Guddu Barrage đến Sukkur.
Lũ năm 2010
Vào tháng 7 năm 2010, sau các trận mưa lớn bất thường, mực nước sông Ấn dâng cao và bắt đầu gây lụt. Trận mưa tiếp tục trong vòng 2 tháng tiếp theo, đã tàn phá một khu vực lớn của Pakistan. Ở Sindh, Sông Ấn gây vỡ bờ gần Sukkur vào ngày 8 tháng 8, nhấm chìm làng Khan Jatoi. Vào đầu tháng 8, trận lụt lớn nhất di chuyển về phía nam dọc theo sông Ấn đến vùng tây Punjab, tại đây nó tàn phá ít nhất 1,4 triệu acre hoa màu, và phía nam của tỉnh Sindh. Đến tháng 9 năm 2010 có hơn 2.000 người và hơn một triệu căn nhà đã bị phá hủy kể từ khi lụt xuất hiện.
Lũ lụt Sindh 2011
Các trận lũ Sindh năm 2011 bắt đầu trong suốt đợt gió mùa Pakistani vào giữa tháng 8 năm 2011, gây mưa lớn ở Sindh, miền đông Balochistan, và miền nam Punjab. Trận lũ câu tổn hại nghiêm trọng; ước tính có 434 người dân thiệt mạng, 5,3 triệu người và 1.524.773 căn nhà bị ảnh hưởng. Sindh là một khu vực màu mở và thường được gọi là "thùng rác" của quốc gia này; thiệt hại và thiệt mạng từ trận lũ ảnh hưởng mạnh đến nền nông nghiệp của địa phương. Ít nhất 1,7 triệu acre đất canh tác bị ngập. Theo sau trận lũ năm 2010 đã tàn phá một phần lớn của đất nước này. trận lũ năm 2011 đã gây ngập lụt chưa từng có đối với 16 huyện của Sindh.
Xem thêm
Địa lý Ấn Độ
Địa lý Trung Quốc
Địa lý Pakistan
Sông Hằng
Chú thích
Tài liệu
Albinia, Alice. (2008) Empires of the Indus: The Story of a River''. First American Edition (20101) W. W. Norton & Company, New York. ISBN 978-0-393-33860-7.
World Atlas, Millennium Edition, pg 265
Jean Fairley, "The Lion River", Karachi, 1978
Liên kết ngoài
Cổng phát triển khu vực miền bắc Pakistan
Dự án bảo vệ khu vực miền núi
Bản đồ lưu vực sông Ấn của World Resources Institute
Bài cơ bản dài trung bình
Sông của Ấn Độ
Sông của Trung Quốc
Sông Pakistan
Sông Sindh
Lưu vực sông Ấn
Sông Gilgit-Baltistan
Văn minh lưu vực sông Ấn
Biểu tượng quốc gia Pakistan
Sông thiêng
Sông Khu tự trị Tây Tạng
Sông Jammu và Kashmir
Sông Gujarat
Lịch sử Sindh
Sông quốc tế châu Á
Sông trong Rigveda
Sông Sasratvati
|
17164
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Neuraminidase
|
Neuraminidase
|
Neuraminidase (sialidase) là một enzyme () bản chất glycoprotein và mang tính kháng nguyên có trên bề mặt virus cúm.
Phân nhóm
Cho đến nay có 9 phân nhóm neuraminidase đã được xác định, chủ yếu xảy ra ở vịt và gà. Các phân nhóm N1 và N2 có liên quan đến các vụ dịch ở người.
Cấu trúc
Men neuraminidase có dạng nút lồi hình nấm trên bề mặt virus cúm. Nó có một đầu gồm 4 bán đơn vị hình dạng gần hình cầu trên cùng mặt phẳng, và một vùng kị nước gắn vào bên trong màng virus.
Chức năng
Neuraminidase có vai trò hỗ trợ giải phóng virus khỏi tế bào vật chủ. Neuraminidase cắt liên kết giữa gốc sialic acid tận cùng khỏi phân tử carbonhydrate của tế bào và virus, từ đó nó ngăn cản kết tập virus và cho phép phóng thích các hạt virus khỏi tế bào bị nhiễm. Tác dụng của neuraminidase trên niêm mạc đường hô hấp cũng có thể giúp cho virus dễ xâm nhập tế bào biểu mô hơn.
Chất ức chế neuraminidase
Chất ức chế chọn lọc neuraminidase, gồm có zanamivir và oseltamivir, được dùng trong dự phòng và điều trị cúm.
Xem thêm
Hemagglutinin
Dịch chuyển kháng nguyên
Tham khảo
Enzyme virus
Cúm
|
17172
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C6%B0%C6%A1ng%20tr%C3%ACnh%20nh%E1%BA%AFn%20tin%20nhanh
|
Chương trình nhắn tin nhanh
|
Dưới đây là danh sách các chương trình nhắn tin nhanh tại máy khách.
Chính thức
AOL Messenger
Google Talk
ICQ
MSN Messenger
Skype
Windows Messenger
Yahoo! Messenger
Các chương trình khác
VN Messenger
Hãng thứ 3
Nhiều giao thức
Adium
aMSN
Easy message
Gaim
Trillian
Yamigo (dùng cho điện thoại di động)
Một giao thức
Kadu
Licq
mICQ
Tham khảo
Nhắn tin nhanh
en:List of instant messengers
|
17175
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%B3m%20%28to%C3%A1n%20h%E1%BB%8Dc%29
|
Nhóm (toán học)
|
Trong toán học, một nhóm (group) là một tập hợp các phần tử được trang bị một phép toán hai ngôi kết hợp hai phần tử bất kỳ của tập hợp thành một phần tử thứ ba thỏa mãn bốn điều kiện gọi là tiên đề nhóm, lần lượt là tính đóng, tính kết hợp, sự tồn tại của phần tử đơn vị và tính khả nghịch. Một trong những ví dụ quen thuộc nhất về nhóm đó là tập hợp các số nguyên cùng với phép cộng; khi thực hiện cộng hai số nguyên bất kỳ luôn thu được một số nguyên khác. Hình thức trình bày trừu tượng dựa trên tiên đề nhóm, tách biệt nó khỏi bản chất cụ thể của bất kỳ nhóm đặc biệt nào và phép toán trên nhóm, cho phép nhóm bao trùm lên nhiều thực thể với nguồn gốc toán học rất khác nhau trong đại số trừu tượng và rộng hơn, và có thể giải quyết một cách linh hoạt, trong khi vẫn giữ lại khía cạnh cấu trúc căn bản của những thực thể ấy. Sự có mặt khắp nơi của nhóm trong nhiều lĩnh vực bên trong và ngoài toán học khiến chúng trở thành nguyên lý tổ chức trung tâm của toán học đương đại.
Nhóm chia sẻ mối quan hệ họ hàng cơ bản với khái niệm đối xứng. Ví dụ, nhóm đối xứng chứa đựng các đặc điểm đối xứng của một đối tượng hình học như: nhóm bao gồm tập hợp các phép biến đổi không làm thay đổi đối tượng và các phép toán kết hợp hai phép biến đổi này bằng cách thực hiện từng phép biến đổi một. Nhóm Lie là những nhóm đối xứng sử dụng trong Mô hình Chuẩn của vật lý hạt; nhóm đối xứng tâm được sử dụng để nghiên cứu các hiện tượng đối xứng trong hóa học phân tử; và nhóm Poincaré dùng để biểu diễn các tính chất đối xứng vật lý trong thuyết tương đối hẹp.
Khái niệm nhóm xuất phát từ nghiên cứu về phương trình đa thức, bắt đầu từ Évariste Galois trong thập niên 1830. Sau những đóng góp từ những lĩnh vực khác như lý thuyết số và hình học, khái niệm nhóm được tổng quát hóa và chính thức trở thành lĩnh vực nghiên cứu trong khoảng thập niên 1870. Lý thuyết nhóm hiện đại—nhánh toán học sôi động—nghiên cứu các nhóm bằng chính công cụ của chúng. Để khám phá nhóm, các nhà toán học phải nêu ra nhiều khái niệm khác nhau để chia nhóm thành những phần nhỏ hơn, có thể hiểu được dễ hơn như các nhóm con, nhóm thương và nhóm đơn. Thêm vào những tính chất trừu tượng của chúng, các nhà lý thuyết nhóm cũng nghiên cứu cách biểu diễn cụ thể một nhóm bằng nhiều cách khác nhau (hay lý thuyết biểu diễn nhóm), cả từ quan điểm lý thuyết và quan điểm tính toán thực hành (lý thuyết nhóm tính toán). Lý thuyết phát triển cho nhóm hữu hạn kết tập với phân loại nhóm đơn hữu hạn được công bố vào năm 1983. Từ giữa thập niên 1980, lý thuyết nhóm hình học, nghiên cứu các nhóm sinh hữu hạn như là những đối tượng hình học, đã trở thành lĩnh vực đặc biệt sôi nổi trong lý thuyết nhóm.
Định nghĩa và minh họa
Ví dụ thứ nhất: số nguyên
Một trong những nhóm quen thuộc nhất đó là tập hợp các số nguyên chứa các số cùng với phép cộng
Các tính chất sau đây của phép cộng các số nguyên được coi như mô hình cho các tiên đề nhóm trừu tượng cho theo định nghĩa bên dưới.
Với hai số nguyên bất kỳ và , tổng a + b cũng là một số nguyên. Do vậy phép cộng hai số nguyên không bao giờ cho kết quả là một số loại khác, như phân số chẳng hạn. Tính chất này gọi là tiên đề đóng đối với phép cộng.
Đối với mọi số nguyên a, b và c, (a + b) + c = a + (b + c). Hay phát biểu bằng lời, thực hiện cộng a với b đầu tiên, sau đó cộng kết quả với c sẽ cho cùng kết quả khi cộng a với tổng của b và c, tính chất này gọi là tính chất kết hợp hay tiên đề kết hợp.
Nếu a là một số nguyên bất kỳ, thì 0 + a = a + 0 = a. Số 0 được gọi là phần tử đồng nhất của phép cộng bởi vì khi cộng nó với một số nguyên bất kỳ sẽ thu được cùng số nguyên ấy.
Với mọi số nguyên a, tồn tại số nguyên b sao cho a + b = b + a = 0. Số nguyên b được gọi là phần tử nghịch đảo của số nguyên a và được ký hiệu −a.
Các số nguyên cùng với phép toán +, tạo thành một đối tượng toán học thuộc về một lớp rộng có những tính chất cấu trúc toán học giống nhau. Để có thể hiểu được những cấu trúc này như một tập hợp, định nghĩa trừu tượng dưới đây được phát biểu như sau.
Định nghĩa
Nhóm là một tập hợp, G, cùng với phép toán hai ngôi • (còn gọi là luật nhóm của G) kết hợp hai phần tử a và b bất kỳ để tạo ra một phần tử khác, viết là hoặc ab. Để trở thành một nhóm, tập hợp và phép toán, , phải thỏa mãn bốn yêu cầu gọi là tiên đề nhóm:
Tiên đề đóng Với mọi a, b thuộc G, kết quả của phép toán, a • b, cũng thuộc G.
Tính kết hợp Với mọi a, b và c thuộc G, (a • b) • c = a • (b • c).
Phần tử đơn vị Tồn tại một phần tử e trong G, sao cho đối với mỗi phần tử a thuộc G, phương trình e • a = a • e = a được thỏa mãn. Phần tử này là duy nhất (xem ở dưới) trong nhóm G.
Phần tử nghịch đảo Đối với mỗi a trong G, tồn tại một phần tử b trong G sao cho a • b = b • a = e, với e là phần tử đơn vị.
Kết quả của một phép toán có thể phụ thuộc vào thứ tự thực hiện. Nói cách khác, kết quả của việc kết hợp phần tử a với phần tử b không nhất thiết cho kết quả giống với khi kết hợp phần tử b với phần tử a; phương trình
a • b = b • a
có thể không phải lúc nào cũng đúng. Phương trình này luôn luôn đúng trong nhóm các số nguyên với phép cộng, bởi vì a + b = b + a đối với hai số nguyên bất kỳ (tính giao hoán của phép cộng). Nhóm mà tính chất giao hoán a • b = b • a luôn đúng được gọi là nhóm Abel (theo tên của nhà toán học Na Uy Niels Abel). Nhóm đối xứng miêu tả ở phần sau là ví dụ của nhóm phi giao hoán.
Phần tử đơn vị của nhóm G thường được viết thành 1 hay 1G, ký hiệu có nguồn gốc từ số 1 đơn vị. Phần tử đơn vị cũng có thể viết là 0, đặc biệt nếu phép toán nhóm được ký hiệu là +, và trong trường hợp này nhóm gọi là nhóm cộng tính. Phần tử đơn vị còn ký hiệu là id.
Tập G được gọi là tập cơ bản của nhóm . Tập cơ bản G được sử dụng một cách ngắn gọn cho tập . Theo cách rút ngắn tên gọi này, một cách viết ngắn gọn như "tập con của nhóm G" hay "phần tử của G" được sử dụng với ý nghĩa thực sự là "tập con của tập cơ bản G của nhóm " hay "phần tử của tập cơ bản G của nhóm ". Thông thường, trong ngữ cảnh với ký hiệu như G là nhắc tới một nhóm hoặc tập cơ bản.
Ví dụ thứ hai: nhóm đối xứng
Hai hình trong mặt phẳng là tương đẳng với nhau nếu một hình có thể trở thành hình kia bằng cách sử dụng kết hợp các phép quay, đối xứng trục, và tịnh tiến. Bất kỳ hình nào cũng đều tương đẳng với chính nó. Tuy nhiên, một số hình tương đẳng với chính chúng không chỉ theo một cách, và những cách tương đẳng thêm này gọi là đối xứng. Một hình vuông có tám đối xứng của nó. Bao gồm:
phép toán đồng nhất không làm thay đổi đối tượng, ký hiệu là id;
quay hình vuông xung quanh tâm nó về phía phải một góc 90°, 180°, và 270°, lần lượt ký hiệu là r1, r2 và r3;
đối xứng trục (phản xạ) hình vuông qua đường trung bình theo phương đứng và phương ngang (fh và fv), hoặc qua hai đường chéo (fd và fc).
Các biến đổi đối xứng này được biểu diễn bằng các hàm số. Mỗi hàm này đặt một điểm trong hình vuông tương ứng với một điểm qua phép đối xứng. Ví dụ, r1 biến một điểm thành điểm thông qua phép quay về phía phải nó 90° xung quanh tâm hình vuông, và fh biến đổi điểm thông qua phép đối xứng trục qua đường trung bình theo phương thẳng đứng. Kết hợp hai hàm đối xứng sẽ thu được một hàm đối xứng khác. Các hàm đối xứng này tạo thành một nhóm gọi là nhóm nhị diện bậc 4, ký hiệu D4. Tập cơ bản của nhóm là tập các hàm đối xứng trên và phép toán nhóm là hàm hợp. Hai đối xứng được kết hợp bằng hợp của các hàm, do vậy biến đổi đối xứng thứ nhất tương đương với áp dụng hàm thứ nhất đối với hình vuông, sau đó phép biến đối xứng với hình vuông kết quả chính bằng áp dụng hàm thứ hai vào hình vuông kết quả thu được. Kết quả của thực hiện đối với a đầu tiên sau đó đối với b được viết theo các ký hiệu từ phải sang trái như
b • a ("áp dụng đối xứng b sau khi thực hiện đối xứng a").
Quy ước phải sang trái là giống với quy ước sử dụng các hàm hợp.
Bảng nhóm bên phải liệt kê các kết quả của mọi hàm hợp khả dĩ. Ví dụ, quay về bên phải 270° (r3) sau đó lật ngược hình vuông theo phương ngang (fh) cho cùng kết quả khi thực hiện đối xứng trục dọc theo đường chéo thứ nhất (fd). Sử dụng các ký hiệu ở trên, ô kết quả được tô màu xanh trong bảng nhóm:
fh • r3 = fd.
Với tập hợp các phép đối xứng này cùng phép toán như đã miêu tả, những tiên đề nhóm có thể hiểu như sau:
Ngược lại với nhóm các số nguyên ở trên, khi thứ tự phép toán là bất kỳ đối với phép cộng, thì thứ tự thực hiện phép toán nhóm trong D4 lại quan trọng: nhưng Nói cách khác D4 là nhóm phi giao hoán (phi Abel), khiến cấu trúc nhóm của nó trở lên khó hơn so với nhóm số nguyên.
Lịch sử
Khái niệm hiện đại về nhóm trừu tượng phát triển thông qua một vài lĩnh vực toán học. Động lực thúc đẩy ban đầu của lý thuyết nhóm là mục miêu tìm ra nghiệm của phương trình đa thức có bậc lớn hơn 4. Nhà toán học người Pháp thế kỷ 19 Évariste Galois, bằng mở rộng những nghiên cứu trước đó của Paolo Ruffini và Joseph-Louis Lagrange, đã đưa ra tiêu chuẩn cho tính giải được của một số phương trình đa thức đặc biệt tuân theo nhóm đối xứng của nghiệm phương trình. Các phần tử của nhóm Galois này tương ứng với một số hoán vị nhất định của các nghiệm. Lúc đầu, ý tưởng của Galois bị các nhà toán học đương thời ông phản đối, và công trình của ông xuất bản sau khi ông đã qua đời. Các nhà toán học khảo sát thêm nhiều nhóm hoán vị tổng quát hơn, đặc biệt là bởi Augustin Louis Cauchy. Luận án của Arthur Cayley On the theory of groups, as depending on the symbolic equation θn = 1 (1854) đưa ra định nghĩa trừu tượng đầu tiên về nhóm hữu hạn.
Hình học là lĩnh vực thứ hai mà ở đó lý thuyết nhóm được sử dụng một cách hệ thống, đặc biệt là các nhóm đối xứng trong chương trình Erlangen của Felix Klein năm 1872. Sau khi những hình học như hình học hyperbolic và hình học xạ ảnh mới nổi lên, Klein sử dụng lý thuyết nhóm để tổ chức chúng theo một cách thấu suốt hơn. Những ý tưởng đi xa hơn với Sophus Lie nghiên cứu nhóm Lie vào năm 1884.
Lĩnh vực thứ ba đóng góp vào lý thuyết nhóm là lý thuyết số. Cấu trúc một số nhóm Abel nhất định đã được sử dụng ngầm ý trong công trình lý thuyết số Disquisitiones Arithmeticae của Carl Friedrich Gauss (1798), và sử dụng một cách hiện rõ hơn trong các công trình của Leopold Kronecker. Năm 1847, Ernst Kummer thực hiện những cố gắng đầu tiên trong chứng minh Định lý cuối cùng của Fermat bằng cách phát triển nhóm miêu tả nhân tử hóa (nhóm lớp) đối với các số nguyên tố.
Sự hội tụ nhiều nguồn lĩnh vực này vào thành lý thuyết nhóm thống nhất bắt đầu bằng công trình của Camille Jordan Traité des substitutions et des équations algébriques (1870). Walther von Dyck (1882) đưa ra phát biểu đầu tiên về định nghĩa hiện đại của nhóm trừu tượng. Đến thế kỷ 20, nhóm đã thu hút được sự chú ý quan trọng bằng các công trình tiên phong về lý thuyết biểu diễn nhóm hữu hạn của Ferdinand Georg Frobenius và William Burnside, lý thuyết biểu diễn modular của Richard Brauer và những bài báo của Issai Schur. Lý thuyết nhóm Lie, và tổng quát hơn là nhóm compact địa phương được Hermann Weyl, Élie Cartan và nhiều người khác nghiên cứu. Mảng đại số tương ứng với nó, lý thuyết nhóm đại số, lần đầu tiên được Claude Chevalley nghiên cứu (từ cuối thập niên 1930) và bởi các công trình của Armand Borel và Jacques Tits.
Năm Lý thuyết Nhóm 1960-61 tổ chức bởi Đại học Chicago thu hút các nhà lý thuyết nhóm lại với nhau như Daniel Gorenstein, John G. Thompson và Walter Feit, đặt ra nền tảng của quá trình cộng tác, mà với đầu vào từ nhiều nhà toán học khác, trong chương trình phân loại nhóm đơn hữu hạn vào năm 1982. Dự án này vượt xa những dự án trước đó bởi khối lượng công việc lớn, ở cả độ dài trong các bài báo chứng minh và số lượng nhà nghiên cứu. Các nghiên cứu vẫn còn đang tiếp tục nhằm đơn giản hóa chứng minh sự phân loại này. Ngày nay lý thuyết nhóm vẫn là một ngành toán học sôi động, có tác động đến nhiều lĩnh vực khác.
Những hệ quả cơ bản của tiên đề nhóm
Thực tế cơ bản về mọi nhóm có thể thu nhận trực tiếp từ các tiên đề nhóm thường được kết gộp vào lý thuyết nhóm cơ bản. Ví dụ, áp dụng cách lặp lại của tiên đề kết hợp chỉ ra rằng sự rõ ràng của
a • b • c = (a • b) • c = a • (b • c)
có thể tổng quát cho nhiều hơn ba phần tử. Bởi vì điều này hàm ý rằng dấu ngoặc đơn có thể điền vào bất kỳ vị trí nào bên trong một dãy các phần tử, cho nên dấu ngoặc đơn thường được bỏ đi.
Tiên đề nhóm có thể làm yếu đi bằng giả sử tồn tại của một phần tử đơn vị trái và phần tử nghịch đảo trái. Có thể chứng minh chúng thực sự là những phần tử đơn vị hai phía và phần tử nghịch đảo hai phía (trái và phải), do đó định nghĩa này là tương đương với cái định nghĩa ở trên.
Tính duy nhất của phần tử đơn vị và phần tử nghịch đảo
Hai hệ quả quan trọng của tiên đề nhóm đó là tính duy nhất của phần tử đơn vị và tính duy nhất của phần tử nghịch đảo. Chỉ có một phần tử đơn vị của nhóm, và mỗi phần tử trong nhóm có chính xác một phần tử nghịch đảo.
Để chứng minh có duy nhất một phần tử nghịch đảo của phần tử a, giả sử rằng a có hai phần tử nghịch đảo, ký hiệu là b và c của nhóm (G, •). Khi đó
{|
|b ||=||b • e || ||với e là phần tử đơn vị
|-
| ||=||b • (a • c) || ||bởi vì c là phần tử nghịch đảo của a, nên e = a • c
|-
| ||=||(b • a) • c || ||theo tiên đề kết hợp, nên có thể sắp xếp lại dấu ngoặc đơn
|-
| ||=||e • c|| ||do b là phần tử nghịch đảo của a, tức b • a = e
|-
| ||=||c|| || do e là phần tử đơn vị
|}
Hai phần tử b và c là bằng nhau do chúng được liên hệ bởi một chuỗi các đẳng thức. Nói cách khác chỉ có duy nhất một phần tử nghịch đảo của a. Tương tự, để chứng minh phần tử đơn vị của nhóm là duy nhất, giả sử G là nhóm với hai phần tử đơn vị e và f. Thì e = e • f = f, do vậy e và f bằng nhau.
Phép chia
Có thể thực hiện phép chia trong một nhóm: đối với hai phần tử a và b của nhóm G, tồn tại duy nhất một nghiệm x trong G thỏa mãn phương trình x • a = b. Thực vậy, nhân vế phải của phương trình với phần tử nghịch đảo a−1 thu được nghiệm x = x • a • a−1 = b • a−1. Tương tự có chính xác một nghiệm y thuộc G trong phương trình a • y = b, hay y = a−1 • b. Nói chung, x và y không nhất thiết phải bằng nhau.
Hệ quả của điều này là phép nhân bởi một phần tử g trong nhóm có tính chất song ánh.Đặc biệt, nếu g thuộc G, tồn tại một song ánh từ G vào chính nó gọi là tịnh tiến trái bởi g tác dụng vào h ∈ G thành g • h. Tương tự, tịnh tiến phải bởi g là song ánh từ chính G vào nó bằng tác dụng vào h thành h • g. Nếu G là nhóm Abel, song ánh tịnh tiến trái và tịnh tiến phải bởi một phần tử của nhóm là như nhau.
Khái niệm cơ bản
Các phần sau sử dụng các ký hiệu toán học như X = {x, y, z}
ký hiệu cho tập hợp X chứa các phần tử x, y, và z, hoặc x ∈ X để nói rằng x là phần tử thuộc X. Ký hiệu có nghĩa là hàm số f đặt tương ứng với mỗi phần tử của X với một phần tử của Y.
Để hiểu nhóm toán học vượt ngoài phạm vi chỉ là các thao tác ký hiệu như ở trên, các nhà toán học đã phát triển thêm nhiều khái niệm cấu trúc nhóm. Có một nguyên lý khái niệm nằm bên dưới những ký hiệu sau: để tận dụng những ưu điểm về cấu trúc của nhóm (mà tập hợp "không có cấu trúc" không có đặc điểm này), các phép xây dựng liên quan đến nhóm phải tương thích với phép toán nhóm. Sự tương thích này thể hiện chính nó thông qua các khái niệm sau theo nhiều cách. Ví dụ, các nhóm liên hệ với nhau thông qua một hàm gọi là đồng cấu nhóm. Bằng nguyên lý đề cập ở trên, chúng đòi hỏi cấu trúc nhóm được miêu tả theo nghĩa chính xác. Cấu trúc của nhóm cũng được nghiên cứu bằng cách chia nhỏ nó thành các phần gọi là nhóm con hoặc nhóm thương. Nguyên lý "bảo toàn cấu trúc"—chủ đề lặp lại trong toàn bộ toán học—là một ví dụ nghiên cứu bởi ngành lý thuyết phạm trù, trong trường hợp này là phạm trù các nhóm.
Đồng cấu nhóm
Đồng cấu nhóm là những hàm bảo tồn cấu trúc nhóm. Hàm giữa hai nhóm (G,•) và (H,∗) được gọi là đồng cấu nếu phương trình
thỏa mãn đối với mọi phần tử g, k thuộc G. Nói cách khác, kết quả thu được như nhau khi thực hiện phép toán nhóm trước hoặc sau khi áp dụng ánh xạ a. Đòi hỏi này đảm bảo rằng , và đối với mọi g thuộc G. Do vậy đồng cấu nhóm giữ nguyên mọi cấu trúc của G cho bởi các tiên đề nhóm.
Hai nhóm G và H là đẳng cấu với nhau nếu tồn tại hai phép đồng cấu nhóm và , sao cho khi áp dụng hàm hợp của hai hàm này trong hai trường hợp thứ tự tác dụng hàm đều cho hàm đồng nhất của G và H. Tức là, và đối với bất kỳ g thuộc G và h thuộc H. Từ quan điểm trừu tượng, các nhóm đẳng cấu mang thông tin như nhau. Ví dụ, để chứng minh đối với các phần tử g thuộc G là tương đương logic với chứng minh , bởi vì áp dụng a đối với nhóm G thu được phần tử thuộc nhóm H và áp dụng b đối với nhóm H thu được kết quả thuộc nhóm G.
Nhóm con
Hình thức mà nói nhóm con là một nhóm H chứa trong một nhóm lớn hơn là G. Cụ thể là, phần tử đơn vị của G cũng thuộc H, và bất cứ h1 và h2 thuộc H, thì và h1−1 cũng là các phần tử thuộc H, các phép toán nhóm trên G giới hạn vào H tạo thành một nhóm.
Trong ví dụ ở trên, các phần tử đơn vị và phần tử của phép quay tạo thành một nhóm con R = {id, r1, r2, r3}, tô bằng màu đỏ trong bảng nhóm ở trên: bất kỳ sự kết hợp hai phép quay nào cũng tạo thành một phép quay, một phép quay có thể rút lại bằng (ví dụ nghịch đảo của nó) phép quay bổ sung 270° cho 90°, 180° cho 180°, và 90° cho 270° (lưu ý rằng ở đây không định nghĩa phép quay theo hướng ngược lại). Phép thử nhóm con là điều kiện cần và đủ cho tập con H của nhóm G trở thành nhóm con: với mọi phần tử g, h ∈ H nếu thì H là một nhóm con. Việc biết mọi nhóm con là một điều quan trọng khi nghiên cứu một nhóm trên tổng thể.
Bất kỳ tập con S nào của nhóm G, nhóm con sinh bởi S chứa tích các phần tử của S và nghịch đảo của chúng. Nó là nhóm con nhỏ nhất của G chứa S. Trong ví dụ giới thiệu ở trên, nhóm con tạo bởi r2 và fv chứa hai phần tử này, phần tử đơn vị id và fh = fv • r2. Đến lượt đây là một nhóm con, bởi vì kết hợp bất kỳ hai trong bốn phần tử này hoặc những phần tử nghịch đảo của chúng (mà trong trường hợp đặc biệt là chính chúng) thu được các phần tử của chính nhóm con này.
Các lớp kề (Coset)
Trong nhiều tình huống các nhà toán học mong muốn coi hai phần tử nhóm là như nhau nếu chúng chỉ khác nhau bởi một phần tử của một nhóm con. Ví dụ, trong nhóm D4 ở trên, khi thực hiện thao tác lật ngược, hình vuông sẽ không bao giờ trở lại cấu hình r2 nếu chỉ áp dụng các thao tác quay (mà không cần lật nó), tức là phép quay không liên quan đến câu hỏi liệu phép lật ngược đã được thực hiện. Do vậy họ định nghĩa các lớp kề (coset) (hay các lớp ghép) để hình thức hóa vấn đề này: nhóm con H xác định lên các lớp kề trái và lớp kề phải, mà có thể coi như là sự tịnh tiến của H bởi một phần tử nhóm bất kỳ g. Theo ký hiệu, các lớp kề trái' và phải của H chứa g lần lượt làgH = {g • h:h ∈ H} và Hg = {h • g:h ∈ H}.
Các lớp kề của một nhóm con bất kỳ H tạo thành phép phân hoạch của G; nghĩa là hợp của mọi lớp kề trái bằng G và hai lớp kề trái hoặc bằng nhau hoặc có giao là tập hợp rỗng. Trường hợp đầu tiên g1H = g2H xảy ra nếu và chỉ nếu , hay nếu hai phần tử khác nhau bởi một phần tử thuộc H. Kết luận cũng tương tự với các lớp kề phải của H. Các lớp kề trái và lớp kề phải của H có thể bằng hoặc không bằng nhau. Nếu chúng bằng nhau, ví dụ đối với mọi g thuộc G, gH = Hg, thì H được gọi là nhóm con chuẩn tắc.
Trong D4, ví dụ về nhóm đối xứng, các lớp trái gR của nhóm con R chứa phép quay hoặc là bằng R, nếu g là một phần tử của chính R, hoặc không thì bằng U = fcR = {fc, fv, fd, fh} (tô màu lam trong bảng nhóm). Nhóm con R cũng là chuẩn tắc, bởi vì fcR = U = Rfc và tương tự cho bất kỳ phần tử khác ngoài fc.
Nhóm thương
Trong một số trường hợp, tập hợp các lớp ghép (coset) của một nhóm con sẽ tạo thành một nhóm, được gọi là nhóm thương hay nhóm nhân tử. Để có được điều này, nhóm con phải chuẩn tắc. Đối với bất kỳ nhóm con chuẩn tắc N, nhóm thương được định nghĩa như sau:G / N = {gN, g ∈ G}, "G modulo N".
Tập hợp này thừa hưởng phép toán nhóm (đôi khi gọi là phép nhân lớp ghép - coset multiplication, hoặc cộng lớp ghép) từ nhóm ban đầu G: (gN) • (hN) = (gh)N với mọi g và h trong G. Định nghĩa này xuất phát từ ý tưởng (tự nó là một ví dụ của sự xem xét cấu trúc tổng quát nêu ở trên) rằng ánh xạ đặt tương ứng mỗi phần tử g với phần tử thuộc lớp gN là đồng cấu nhóm, hoặc bằng cách xem xét trừu tượng tổng quát hơn gọi là tính chất phổ quát. Lớp eN = N trở thành như là đơn vị của nhóm này, và nghịch đảo của gN trong nhóm thương là (gN)−1 = (g−1)N.
Các phần tử của nhóm thương chính là R, phần tử đơn vị là U = fvR. Phép toán nhóm trên thương nêu ở bên phải. Ví dụ, U • U = fvR • fvR = (fv • fv)R = R. Cả nhóm con R = {id, r1, r2, r3}, cũng như nhóm thương tương ứng là nhóm Abel, trong khi D4 không phải là nhóm Abel. Xây dựng nhóm lớn hơn từ những nhóm nhỏ hơn, như D4 từ nhóm con R và nhóm thương được trừu tượng hóa gọi là tích nửa trực tiếp.
Nhóm thương và nhóm con cùng với nhau tạo thành cách miêu tả mọi nhóm theo biểu diễn: bất kỳ một nhóm là thương của nhóm tự do trên tập sinh của nhóm. Ví dụ, nhóm nhị diện D4, có thể sinh ra từ hai phần tử r và f (như r = r1, phép quay bên phải và f = fv phép lật theo phương thẳng đứng), có nghĩa là mỗi đối xứng của hình vuông là tổ hợp hữu hạn của hai phép đối xứng này và nghịch đảo của chúng. Cùng với các liên hệr 4 = f 2 = (r • f)2 = 1,
cho phép miêu tả hoàn toàn nhóm này. Biểu diễn nhóm cũng dùng để xây dựng lên đồ thị Cayley, một công cụ minh họa các nhóm rời rạc.
Nhóm con và nhóm thương có liên hệ với nhau như sau: một tập con H của G có thể coi như là một đơn ánh , tức là bất kỳ phần tử nào của tập đích có nhiều nhất một phần tử tương ứng của tập nguồn. Ngược lại với đơn ánh là toàn ánh (mỗi phần tử của tập đích có ít nhất một phần tử tương ứng của tập nguồn), như ánh xạ chính tắc . Giải thích nhóm con và nhóm thương theo ngôn ngữ của những đồng cấu nhấn mạnh vào khái niệm cấu trúc thừa hưởng từ những định nghĩa này ám chỉ ở phần giới thiệu. Nói chung, đồng cấu không là đơn ánh hay toàn ánh. Nhân và ảnh của đồng cấu nhóm và định lý đẳng cấu thứ nhất đề cập những vấn đề này.
Ví dụ và ứng dụng
Có rất nhiều ví dụ và những ứng dụng của nhóm. Như giới thiệu ở trên về nhóm các số nguyên Z với phép toán nhóm là phép cộng. Nếu thay phép cộng bằng phép nhân sẽ thu được nhóm phép nhân. Những nhóm này là các ví dụ quan trọng đầu tiên trong đại số trừu tượng.
Có nhiều lĩnh vực toán học khác ứng dụng lý thuyết nhóm. Các đối tượng toán học thường được kiểm tra bằng nhóm kết hợp với chúng và nghiên cứu tính chất của nhóm tương ứng. Ví dụ, Henri Poincaré thiết lập nên ngành tô pô đại số bằng giới thiệu nhóm cơ bản. Bằng sự kết nối này, các tính chất tô pô như lân cận và liên tục chuyển thành các tính chất nhóm. Ví dụ, các phần tử của nhóm cơ bản được biểu diễn bằng các vòng tròn. Ảnh thứ hai bên phải chỉ ra một số vòng trên mặt phẳng trừ đi một điểm. Vòng xanh coi như là không đồng luân (và do vậy không liên quan), bởi vì nó có thể liên tục thu nhỏ thành một điểm. Sự có mặt của một lỗ ngăn cản các vòng màu cam co lại thành một điểm. Nhóm cơ bản của mặt phẳng với một điểm loại trừ trở thành tuần hoàn vô hạn, sinh bởi các vòng cam (hoặc bởi bất kỳ vòng nào quay vòng một lần xung quanh lỗ). Theo cách này, nhóm cơ bản xác định ra lỗ.
Trong những ứng dụng gần đây, cũng có sự tác động ngược trở lại để thúc đẩy xây dựng hình học bằng nền tảng lý thuyết nhóm. Theo lối tương tự, lý thuyết nhóm hình học áp dụng các khái niệm hình học, như nghiên cứu các nhóm hypebolic. Những nhánh xa hơn áp dụng nhóm nhiều nhất bao gồm hình học đại số và lý thuyết số.
Ngoài những ứng dụng lý thuyết kể trên, có nhiều ứng dụng thực tế cho những lĩnh vực khoa học khác. Tinh thể học dựa trên sự tổ hợp của cách tiếp cận lý thuyết nhóm trừu tượng với những hiểu biết thuật toán miêu tả trong lý thuyết nhóm tính toán, đặc biệt khi áp dụng vào nhóm hữu hạn. Các ngành khoa học khác như vật lý học, hóa học và khoa học máy tính cũng hưởng lợi từ lý thuyết này.
Các số
Nhiều hệ thống số, như các số nguyên và số hữu tỉ thể hiện bản chất cấu trúc nhóm một cách tự nhiên. Trong một số trường hợp, như đối với số hữu tỉ, cả phép cộng và phép nhân đều làm xuất hiện cấu trúc nhóm. Những hệ thống số này là tiền tổ của những cấu trúc đại số tổng quát hơn gọi là vành và trường. Những khái niệm đại số trừu tượng hơn như mô đun, không gian vectơ và đại số trên một trường cũng tạo thành nhóm toán học.
Số nguyên
Nhóm các số nguyên Z dưới phép cộng, ký hiệu (Z, +), đã được miêu tả ở trên. Số nguyên, cùng với phép nhân thay vì phép cộng, (Z, •) không tạo thành một nhóm. Bởi vì chỉ có tiên đề đóng, tính kết hợp và phần tử đơn vị là thỏa mãn, còn tiên đề phần tử nghịch đảo thì không: ví dụ, a = 2 là một số nguyên, nhưng nghiệm duy nhất cho phương trình a • b = 1 trong trường hợp này là b = 1/2, là số hữu tỉ không phải là số nguyên. Do không phải mọi số nguyên Z có phần tử nghịch đảo (theo phép nhân).
Số hữu tỉ
Mong muốn cho tồn tại phần tử nghịch đảo đối với phép nhân gợi ra xem xét trường hợp đối với các số hữu tỉ
với a, b là các số nguyên và b khác 0. Tập hợp các số hữu tỉ này ký hiệu là Q. Vẫn còn một cản trở nhỏ cho các số hữu tỉ cho phép nhân trở thành một nhóm: bởi vì số hữu tỉ 0 không có phần tử nghịch đảo đối với phép nhân (vì không tồn tại x sao cho x • 0 = 1), (Q, •) vẫn chưa là một nhóm.
Tuy vậy, tập hợp mọi số hữu tỉ khác 0 Q \ {0} = {q ∈ Q | q ≠ 0} tạo thành nhóm Abel dưới phép toán nhân, ký hiệu là . Các tiên đề kết hợp và phần tử đơn vị thỏa mãn theo như tính chất của các số nguyên. Đòi hỏi của tiên đề đóng vẫn thỏa mãn sau khi bỏ phần tử 0, bởi vì tích của hai số hữu tỉ khác 0 không bao giờ bằng 0. Cuối cùng phần tử nghịch đảo của a/b là b/a, do vậy tiên đề nghịch đảo được thỏa mãn.
Số hữu tỉ (gồm cả 0) cũng tạo thành một nhóm dưới phép cộng. Khi bao gồm cả phép cộng và phép nhân tạo thành một cấu trúc phức tạp hơn gọi là vanh—và nếu phép chia là có thể, như ở trong Q—sẽ thu được cấu trúc trường, cấu trúc có vị trí trung tâm trong ngành đại số trừu tượng. Do vậy các mệnh đề của lý thuyết nhóm thuộc về một phần của những cấu trúc này.
Đồng dư
Trong phép đồng dư, ban đầu cộng hai số nguyên với nhau sau đó lấy tổng chia cho một số nguyên, số nguyên này gọi là mô đun. Kết quả của phép cộng mô đun là phần dư của phép chia đó. Đối với mô đun n bất kỳ, tập hợp các số nguyên từ 0 tới n−1 tạo thành một nhóm dưới phép cộng mô đun: phần tử nghịch đảo của a là n−a, và 0 là phần tử đơn vị. Nhóm này tương tự từ phép cộng các số giờ trên mặt đồng hồ: nếu kim giờ ở vị trí số 9 và quay thêm 4 tiếng, nó chỉ vào số 1 như thể hiện trên hình. Tức là 9 + 4 bằng 1 "mô đun 12" hay viết thành công thức,
9 + 4 ≡ 1 mô đun 12.
Nhóm các số nguyên mô đun n ký hiệu là Zn hoặc Z/nZ.
Đối với bất kỳ số nguyên tố p, cũng tồn tại một nhóm nhân các số nguyên mô đun p. Phần tử của nó gồm các số nguyên từ 1 tới p−1. Phép toán nhóm là phép nhân mô đun p. Tức là lấy tích thông thường chia cho p và phần dư của phép chia này là kết quả của phép nhân mô đun. Ví dụ, nếu p = 5, tồn tại một nhóm với bốn phần tử 1, 2, 3, 4. Trong nhóm này, 4 • 4 = 1, bởi vì tích thông thường bằng 16 trong phép nhân này sẽ bằng 1, hay khi chia nó cho 5 thu được phần dư là 1. 16 − 1 = 15, ký hiệu là
16 ≡ 1 (mod 5).
Tính nguyên tố của p đảm bảo rằng tích của hai số nguyên trong nhóm sẽ không bao giờ chia hết cho p, từ đó ám chỉ rằng tập hợp này là đóng dưới phép nhân mô đun. Phần tử đơn vị của nhóm là 1, như đối nhóm phép toán nhân thông thường, và tính kết hợp được thỏa mãn do tính chất của phép nhân các số nguyên. Cuối cùng, tiên đề nghịch đảo đòi hỏi rằng đối với một số nguyên a không là ước của p, tồn tại một số nguyên b sao choa • b ≡ 1 (mod p), hay hiệu chia hết cho p.
Có thể tìm phần tử nghịch đảo b thông qua đẳng thức Bézout và vì ước số chung lớn nhất bằng 1. Trong trường hợp p = 5 ở trên, phần tử nghịch đảo của 4 là 4, của 3 là 2, do 3 • 2 = 6 ≡ 1 (mod 5). Từ đó mọi tiên đề nhóm được thỏa mãn. Thực sự là ví dụ này giống với nhóm (Q\{0}, •) ở trên: nó chứa chính xác các phần tử trong Z/pZ có phần tử nghịch đảo trong phép nhân. Các nhóm này được ký hiệu là Fp×. Chúng là các thành phần quan trọng trong lý thuyết mật mã hóa khóa công khai.
Nhóm xiclicNhóm xiclic là nhóm mà các phần tử là lũy thừa của một phần tử đặc biệt a. Trong ký hiệu phép nhân, các phần tử của nhóm là:
..., a−3, a−2, a−1, a0 = e, a, a2, a3,...,
với a2 có nghĩa là a • a, và a−3 thay cho a−1 • a−1 • a−1=(a • a • a)−1 v.v. Phần tử a gọi là phần tử sinh hay phần tử nguyên thủy của nhóm. Trong ký hiệu phép cộng, sự đòi hỏi cho một phần tử trở thành phần tử nguyên thủy yêu cầu là mỗi phần tử trong nhóm có thể viết thành
..., −a−a, −a, 0, a, a+a,...
Trong nhóm Z/nZ giới thiệu ở trên, phần tử 1 là nguyên thủy, do vậy những nhóm này là xiclic. Quả thực, mỗi phần tử có thể biểu diễn thành tổng mà tất cả các số hạng bằng 1. Bất kỳ nhóm xiclic với n phần tử là đẳng cấu với nhóm này. Một ví dụ thứ hai cho nhóm xiclic là nhóm các căn phức bậc n của đơn vị, xác định bởi số phức z thỏa mãn zn = 1. Những số này được minh họa là đỉnh của một đa giác đều có n đỉnh tô màu lam như hình bên với n = 6. Phép toán nhóm là phép nhân các số phức. Trong hình bên, nhân với z tương ứng với quay ngược chiều kim đồng hồ một góc 60°. Sử dụng trong một số lý thuyết trường, có thể chứng minh được nhóm Fp× là xiclic: ví dụ, nếu p = 5, 3 là phần tử sinh do 31 = 3, 32 = 9 ≡ 4, 33 ≡ 2, và 34 ≡ 1.
Một số nhóm xiclic có vô hạn các phần tử. Trong các nhóm này, đối với mỗi phần tử khác 0 a, mọi lũy thừa của a là khác nhau; mặc dù tên gọi "nhóm xiclic" (nhóm tuần hoàn), lũy thừa của các phần tử không lặp lại tuần hoàn. Nhóm xiclic vô hạn là đẳng cấu với nhóm (Z, +), nhóm các số nguyên với phép cộng như đã giới thiệu ở trên. Vì hai nhóm đã giới thiệu đều là các nhóm giao hoán (nhóm Abel), cho nên các nhóm xiclic cũng là nhóm Abel.
Việc nghiên cứu các nhóm Abel sinh hữu hạn là khá kỹ lưỡng, bao gồm "định lý cơ bản về nhóm Abel sinh hữu hạn; và phản ánh trạng thái này với nhiều khái niệm nhóm liên quan như trung tâm và giao hoán tử, miêu tả sự mở rộng cho những nhóm phi Abel.
Nhóm đối xứngNhóm đối xứng là những nhóm chứa tính đối xứng của các đối tượng toán học nhất định—có thể về bản chất hình học của chúng, như nhóm đối xứng của hình vuông đã giới thiệu ở trên, hoặc về bản chất đại số, như phương trình đa thức và các nghiệm. Về mặt khái niệm, có thể coi lý thuyết nhóm như là ngành nghiên cứu tính đối xứng. Sự đối xứng trong toán học làm đơn giản hóa rất nhiều trong việc nghiên cứu các đối tượng hình học và giải tích. Một nhóm được nói là tác dụng lên một đối tượng toán học X nếu mỗi phần tử của nhóm thực hiện một số phép toán trên X mà tương thích với luật nhóm. Trong ví dụ nằm ở ngoài cùng bên phải ở bảng dưới, một phần tử bậc 7 của nhóm tam giác (2,3,7) tác dụng lên phép lát gạch bằng cách hoán vị các tam giác cong tô màu nổi bật (và cũng cho những tam giác khác). Bằng tác dụng nhóm, thành phần của nhóm được liên hệ với cấu trúc của đối tượng mà nó tác dụng lên.
Trong lĩnh vực hóa học, như tinh thể học, nhóm không gian và nhóm điểm miêu tả tính chất đối xứng phân tử và đối xứng tinh thể. Những đối xứng này hàm chứa các hành xử vật lý và hóa học của các tinh thể, và lý thuyết nhóm cho phép đơn giản hóa sự phân tích của cơ học lượng tử cho những tính chất này. Ví dụ, lý thuyết nhóm được sử dụng để chứng tỏ rằng sự chuyển dịch quang học giữa những mức lượng tử nhất định không thể xảy ra đơn giản bởi vì có sự tham gia đối xứng của các trạng thái năng lượng.
Không chỉ nhóm có ích khi sử dụng để đánh giá đối xứng trong phân tử, nhưng chúng cũng tiên đoán một cách ngạc nhiên rằng thỉnh thoảng các phân tử cũng thay đổi tính đối xứng. Hiệu ứng Jahn-Teller là sự lệch cấu trúc phân tử ra khỏi đối xứng cao khi nó chấp nhận một trạng thái nền của đối xứng thấp hơn từ tập hợp các trạng thái nền khả dĩ có liên hệ với nhau bởi phép toán đối xứng đối với phân tử.
Tương tự như vậy, lý thuyết nhóm giúp tiên đoán sự thay đổi tính chất vật lý xảy ra khi vật liệu trải qua giai đoạn chuyển pha, ví dụ, từ dạng tinh thể lập phương sang thành tinh thể tứ diện. Một ví dụ về điều này đó là ở vật liệu sắt điện, nơi sự thay đổi từ trạng thái lưỡng cực điện sang trạng thái sắt điện xảy ra ở nhiệt độ Curie và có liên hệ với sự thay đổi từ trạng thái lưỡng cực điện đối xứng cao xuống trạng thái sắt điện có đối xứng thấp hơn, đi kèm với nó là mode phonon mềm, loại mode giàn rung động trở về tần số 0 ở giai đoạn chuyển pha.
Những hiệu ứng phá vỡ đối xứng tự phát đã được áp dụng ở trong lĩnh vực vật lý hạt cơ bản, nơi sự xuất hiện của nó có liên hệ với các boson Goldstone.
Những nhóm đối xứng hữu hạn như nhóm Mathieu được ứng dụng trong lý thuyết mã hóa, mà đến lượt nó lại áp dụng vào lý thuyết hiệu chỉnh sai số trong việc truyền dữ liệu, và ở đầu đọc đĩa CD. Một ứng dụng khác là lý thuyết Galois vi phân, mà hàm đặc trưng hóa có nguyên hàm của dạng cho trước, đem lại tiêu chuẩn giới hạn lý thuyết nhóm khi nghiệm của những phương trình vi phân xác định tốt. Các tính chất hình học mà vẫn duy trì sự ổn định dưới tác dụng của nhóm được nghiên cứu trong lý thuyết bất biến hình học.
Nhóm tuyến tính tổng quát và lý thuyết biểu diễn
Nhóm ma trận chứa các ma trận cùng với phép nhân ma trận. Nhóm tuyến tính tổng quát GL(n, R) chứa mọi ma trận khả nghịch n x n với các phần tử thực. Các nhóm con của nó được coi như là nhóm ma trận hay nhóm tuyến tính. Ví dụ về nhóm nhị diện đề cập ở trên có thể coi như là nhóm ma trận (có bậc rất nhỏ). Một nhóm ma trận quan trọng khác là nhóm trực giao đặc biệt SO(n). Nó miêu tả mọi phép quay khả dĩ trong không gian n chiều. Thông qua góc Euler, ma trận quay được sử dụng trong lĩnh vực đồ họa vi tính.Lý thuyết biểu diễn một mặt là ứng dụng của khái niệm nhóm nhưng mặt khác có vai trò quan trọng để hiểu ở mức sâu hơn đối với nhóm. Nó nghiên cứu nhóm thông qua tác dụng nhóm trên những không gian khác. Một lớp rộng của phép biểu diễn nhóm là biểu diễn tuyến tinh, ví dụ nhóm tác dụng lên một không gian vectơ, như không gian Euclid 3 chiều R3. Biểu diễn của G trên một không gian vectơ thực n chiều là phép đồng cấu nhóm đơn ρ: G → GL(n, R)
từ nhóm vào nhóm tuyến tính tổng quát. Theo cách này, phép toán nhóm, mà có thể cho một cách trừu tượng, diễn dịch phép nhân ma trận khiến nó dùng được đối với những tính toán cụ thể.
Một phép toán nhóm còn cho một ý nghĩa xa hơn khi nghiên cứu đối tượng mà nó tác dụng lên. Mặt khác, nó cũng cho thông tin về cấu trúc nhóm. Biểu diễn nhóm là một nguyên lý tổ chức trong lý thuyết nhóm hữu hạn, nhóm Lie, nhóm đại số và nhóm tô pô, đặc biệt là nhóm compact (cục bộ).
Nhóm Galois Nhóm Galois hình thành trong quá trình đi tìm nghiệm của phương trình đa thức dựa trên đặc điểm đối xứng của nghiệm. Ví dụ, nghiệm của phương trình bậc hai ax2 + bx + c = 0 cho bởi công thức
Khi hoán vị dấu "+" và "−" trong công thức, hay tương đương với hoán vị hai nghiệm của phương trình có thể coi như là một phép toán nhóm (một cách rất đơn giản). Có những công thức tương tự cho phương trình bậc ba và bậc bốn, nhưng không tồn tại một công thức tổng quát cho phương trình bậc năm và bậc cao hơn. Tính chất trừu tượng của nhóm Galois đi kèm với đa thức (đặc biệt là tính giải được) đưa ra một tiêu chuẩn cho những đa thức mà mọi nghiệm của nó có thể biểu diễn dưới dạng công thức chỉ bao gồm phép cộng, nhân và căn thức tương tự như công thức ở trên.
Vấn đề này có thể giải quyết được bằng cách dịch chuyển nó sang lý thuyết trường và xem xét trường tách của đa thức. Lý thuyết Galois hiện đại tổng quát hóa những loại nhóm Galois ở trên thành các mở rộng trường và thiết lập lên—thông qua định lý cơ bản của lý thuyết Galois—mối liên hệ chính xác giữa nhóm và trường, hàm chứa một lần nữa sự quan trọng của nhóm trong toán học.
Nhóm hữu hạn
Nhóm gọi là hữu hạn nếu nó có hữu hạn các phần tử. Số lượng các phần tử của nhóm gọi là bậc của nhóm. Một lớp quan trọng là nhóm đối xứng SN, tức nhóm hoán vị của N chữ cái. Ví dụ, nhóm đối xứng trên 3 chữ cái S3 là nhóm chứa mọi thứ tự khả dĩ của tổ hợp ba chữ cái ABC, bao gồm bộ các chữ ABC, ACB,..., cho tới CBA, tổng cộng là có 6 phần tử (hoặc 3 thừa số). Lớp này là cơ bản bởi bất ký nhóm hữu hạn nào có thể biểu diễn dưới dạng nhóm con của nhóm đối xứng SN đối với những số nguyên N phù hợp (định lý Cayley). Song song với nhóm đối xứng của hình vuông nêu ra ở trên, có thể giải thích nhóm đối xứng S3 như là nhóm đối xứng của tam giác đều.
Bậc của một phần tử a trong nhóm G là số nguyên dương nhỏ nhất n sao cho a n = e, với a n đại diện cho
có nghĩa là áp dụng phép toán nhóm • cho n bản sao của phần tử a. (nếu • biểu diễn cho phép nhân, thì an tương ứng với a lũy thừa n.) Trong nhóm hữu hạn, n có thể không tồn tại, và trong trường hợp này có thể nói bậc của a là vô hạn. Bậc của một phần tử bằng bậc của nhóm con xiclic sinh bởi phần tử này.
Đối với kỹ thuật đếm các đối tượng phức tạp hơn, ví dụ khi đếm các lớp (cosets), sẽ thu được phát biểu chính xác hơn về nhóm hữu hạn: định lý Lagrange phát biểu rằng đối với nhóm hữu hạn G bậc của bất kỳ nhóm con H nào sẽ là ước của bậc của G. Định lý Sylow đưa ra một phát biểu gần ngược lại.
Nhóm nhị diện (nêu ở trên) là nhóm hữu hạn có bậc 8. Bậc của r1 là 4, hay chính là bậc của nhóm con R mà nó sinh ra(xem ở trên). Bậc của các phần tử phản xạ fvv.v bằng 2. Cả hai đều là ước của 8 đúng như định lý Lagrange tiên đoán. Nhóm Fp× ở trên có bậc .
Phân loại các nhóm đơn hữu hạn
Các nhà toán học thường nỗ lực thu được sự phân loại (hoặc danh sách) đầy đủ của một khái niệm toán học. Trong trường hợp các nhóm đơn hữu hạn, mục đích này nhanh chóng dẫn tới sự khó khăn và sự sâu sắc trong toán học. Theo định lý Lagrange, nhóm hữu hạn bậc p, với p là số nguyên tố, cần thiết là nhóm xilic (Abel) Zp. Cũng có thể chứng minh nhóm có bậc p2 là nhóm Abel, nhưng phát biểu này không còn đúng khi tổng quát hóa cho nhóm bậc p3, vì nhóm phi Abel D4 có bậc 8 = 23 như chỉ ra ở trên. Những hệ thống máy tính đại số được dùng để liệt kê ra những nhóm nhỏ, nhưng không có cách phân loại mọi nhóm hữu hạn. Một bước trung gian là phân loại các nhóm đơn hữu hạn. Nhóm không tầm thường gọi là đơn giản chỉ nếu các nhóm con chuẩn tắc của nó là nhóm tầm thường và cũng đối với chính nhóm đó. Định lý Jordan–Hölder chỉ ra các nhóm đơn hữu hạn là những viên gạch cơ bản cho mọi nhóm hữu hạn. Công việc liệt kê ra mọi nhóm đơn hữu hạn là một thành tựu lớn đạt được của lý thuyết nhóm hiện nay. Richard Borcherds giành Huy chương Fields năm 1998 nhờ chứng minh thành công phỏng đoán quái vật giả tưởng (monstrous moonshine conjectures), một mối liên hệ sâu sắc và kỳ lạ giữ nhóm bất định đơn giản hữu hạn lớn nhất (the largest finite simple sporadic group)— "nhóm quỷ"—với những hàm môđula nhất định, một thành phần trong giải tích phức cổ điển, và lý thuyết dây, lý thuyết tìm cách miêu tả thống nhất nhiều hiện tượng vật lý trong tự nhiên.
Nhóm được trang bị thêm cấu trúc
Nhiều nhóm tập hợp một cách đồng thời là nhóm và là ví dụ về cấu trúc toán học cho những nhóm khác. Trong ngôn ngữ của lý thuyết phạm trù, chúng là các vật thể nhóm trong một phạm trù, có nghĩa là chúng là các vật thể (tức là làm ví dụ cho những cấu trúc toán học khác) đi kèm với các phép biến đổi (gọi là cấu xạ- morphism) mà bắt chước giống với những tiên đề nhóm. Ví dụ, mọi nhóm (như định nghĩa ở trên) đều là tập hợp, do vậy một nhóm là vật thể nhóm trong phạm trù các tập hợp.
Nhóm tô pô
Một số không gian tô pô có thể sử dụng với luật nhóm. Để cho luật nhóm và không gian tô pô kết hợp được với nhau, phép toán nhóm phải là hàm liên tục, tức là, và g−1 phải không thay đổi quá lớn nếu g và h chỉ thay đổi rất ít. Những nhóm này gọi là các nhóm tô pô, và chúng là các vật thể nhóm trong phạm trù các không gian tô pô. Những ví dụ cơ bản nhất là nhóm các số thực R đi kèm với phép toán cộng, , và tương tự với bất kỳ trường tô pô nào như số phức hoặc số p-adic. Mọi nhóm này đều compact địa phương, do đó chúng có độ đo Haar và có thể nghiên cứu chúng thông qua giải tích điều hòa. Lĩnh vực giải tích điều hòa đưa ra hình thức luận trừu tượng cho các phép tích phân bất biến. Tính bất biến có nghĩa là, ví dụ trong trường hợp số thực:
với c là hằng số bất kỳ. Nhóm ma trận trên những trường này nằm vào phạm vi này, như đối với vành Adele và nhóm đại số Adele mà chúng là cơ sở đối với lý thuyết số. Nhóm Galois của mở rộng trường vô hạn như nhóm Galois tuyệt đối cũng có thể được trang bị với một tô pô, gọi là tô pô Krull, mà đến lượt là trung tập của sự tổng quát hóa mối liên hệ phác thảo ở trên giữa trường và nhóm của mở rộng trường vô hạn. Tổng quát hóa hơn nữa cho ý tưởng này, nhằm chấp nhận những đòi hỏi của hình học đại số, là nhóm cơ bản Étale.
Nhóm LieNhóm Lie (theo tên nhà toán học Thụy Điển Sophus Lie) là nhóm có thêm cấu trúc đa tạp, tức là chúng là những không gian nhìn trên cục bộ giống như không gian Euclid với chiều thích hợp. Thêm nữa, cấu trúc được đưa vào, mà ở đây là cấu trúc đa tạp, phải là tương thích, tức là ánh xạ tương ứng với phép nhân và phép nghịch đảo phải đảm bảo tính trơn.
Một ví dụ mẫu là nhóm tuyến tính tổng quát giới thiệu ở trên: nó là một tập con mở của không gian chứa mọi ma trận n x n, bởi nó tuân theo bất đẳng thức
det (A) ≠ 0,
với A ký hiệu cho ma trận n x n.
Nhóm Lie có vai trò quan trọng cơ bản trong vật lý hiện đại trong khi định lý Noether liên hệ các đối xứng liên tục với các đại lượng bảo toàn. Phép quay, cũng như phép tịnh tiến trong không gian và thời gian là những đối xứng cơ bản đối với các định luật của cơ học. Chúng có thể được sử dụng, ví dụ, để xây dựng những mô hình đơn giản—hàm ý rằng đối xứng trục trong một số tình huống sẽ giúp các nhà vật lý làm đơn giản đi rất nhiều những phương trình phức tạp giúp họ tìm ra những nghiệm chính xác miêu tả hệ vật lý nhất định, như ở trường hợp các nghiệm Schwarzschild (đối xứng cầu) và nghiệm Kerr (đối xứng trục, bảo toàn động lượng) của phương trình trường Einstein trong thuyết tương đối rộng. Một ví dụ khác là phép biến đổi Lorentz, nó liên hệ phép đo thời gian với vận tốc của hai quan sát viên chuyển động đều tương đối với nhau. Chúng có thể thu được theo cách của lý thuyết nhóm thuần túy, bằng cách thể hiện phép biến đổi như là đối xứng quay trong không gian Minkowski. Không gian này phục vụ—trong trường hợp bỏ qua ảnh hưởng của trường hấp dẫn—như là mô hình của không thời gian trong thuyết tương đối hẹp. Nhóm đối xứng đầy đủ của không gian Minkowski, tức là bao gồm cả phép tịnh tiến, được biết đến là nhóm Poincaré. Theo trên, nó đóng vai trò quan trọng trong thuyết tương đối hẹp và cho cả lý thuyết trường lượng tử. Các đối xứng thay đổi theo vị trí là khái niệm trung tâm trong cách miêu tả hiện đại về những tương tác vật lý với sự giúp đỡ của lý thuyết trường chuẩn (gauge theory).
Tổng quát hóa
Trong đại số trừu tượng, những cấu trúc tổng quát hơn được xác định bằng cách nới lỏng một số tiên đề nhóm.
Ví dụ, nếu yêu cầu rằng mọi phần tử phải có phần tử nghịch đảo bị loại bỏ, thì cấu trúc đại số thu được gọi là monoid. Tập hợp số tự nhiên N (bao gồm 0) với phép cộng tạo thành một monoid, cũng như đối với số nguyên khác 0 dưới phép nhân, , xem ở trên. Có một phương pháp tổng quát để thêm vào một cách hình thức các phần tử nghịch đảo đối với bất kỳ monoid nào (có tính chất giao hoán), rất giống với cách mà thu được từ , cách này còn gọi là nhóm Grothendieck.
Các groupoid giống với nhóm ngoại trừ phép kết hợp a • b không cần thiết phải xác định với mọi a và b. Chúng xuất hiện trong việc nghiên cứu những dạng phức tạp hơn của đối xứng, thường trong các cấu trúc tô pô và giải tích toán học, như groupoid cơ bản hay chùm (stack).
Cuối cùng, có thể tổng quát hóa cho bất kỳ khái niệm nào bằng cách thay thế phép toán hai ngôi bởi một mảng bất kỳ n-ary (tức là phép toán có n tham số). Cũng với sự tổng quát hóa thông thường của các tiên đề nhóm sự kết hợp này hình thành lên nhóm n-ary.(xem thêm đại số phổ dụng)
Bảng kế bên liệt kê danh sách một vài cấu trúc tổng quát hóa của nhóm.
Xem thêm
Nhóm Abel
Nhóm cơ bản
Nhóm lũy linh
Nhóm giải được
Chú thích
Trích dẫn
Tham khảo
Lê Thị Thanh Nhàn, Vũ Mạnh Xuân, 2007, Giáo trình Lý thuyết nhóm, NXB ĐHQGHN
Tham khảo chung
, Chương 2 trình bày các khái niệm đối với mức hiểu biết của sinh viên cho những khái niệm nêu trong bài này.
, Chương 5 trình bày cách giải thích dễ hiểu cho đa số người quan tâm về nhóm.
Fulton, William; Harris, Joe (1991), Representation theory. A first course'', Graduate Texts in Mathematics, Readings in Mathematics 129, New York: Springer-Verlag, ISBN 978-0-387-97495-8, MR 1153249, ISBN 978-0-387-97527-6.
, cuốn sách giới thiệu đại cương.
.
.
Lang, Serge (2002), Algebra, Graduate Texts in Mathematics 211 (Revised third ed.), New York: Springer-Verlag, ISBN 978-0-387-95385-4, MR 1878556
.
.
.
.
Group tại PlanetMath, với giấy phép sử dụng GFDL
Tham khảo chuyên đề
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Tư liệu lịch sử
.
.
.
.
(Galois work was first published by Joseph Liouville in 1843).
.
.
.
.
.
Liên kết ngoài
<span class="small">
Cấu trúc đại số
Đối xứng
|
17176
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C3%A3nh%20Mariana
|
Rãnh Mariana
|
Rãnh Mariana, còn gọi là vực Mariabena hay vũng Mariana, là rãnh đại dương sâu nhất trên Trái Đất, và điểm sâu nhất của nó là nơi sâu nhất trong lớp vỏ Trái Đất. Nó nằm trên phần đáy của khu vực tây bắc Thái Bình Dương, về phía đông quần đảo Mariana. Điểm sâu nhất có tọa độ 11°21' Bắc và 142°12' Đông. Rãnh Mariana kéo dài tới gần Nhật Bản. Rãnh này là ranh giới nơi hai mảng kiến tạo gặp nhau, là khu vực lún xuống mà ở đó mảng Thái Bình Dương bị lún xuống dưới mảng Philippines. Rãnh có chiều dài khoảng 2.550 km (1.580 dặm) nhưng chiều rộng trung bình chỉ vào khoảng 69 km (43 dặm). Phần đáy của rãnh này thấp dưới mực nước biển một khoảng cách lớn hơn nhiều khi so với đỉnh Everest ở trên mực nước biển.
Độ sâu tối đa của rãnh này là 11.034 m (36.201 ft) dưới mực nước biển theo phép đo gần đây nhất. Khi tính đến vĩ độ của rãnh Mariana và sự lồi ra ở khu vực xích đạo của Trái Đất thì rãnh Mariana nằm ở khoảng cách 6.366,4 km tính từ tâm Trái Đất. Bắc Băng Dương, có độ sâu chỉ khoảng 4-4,5 km, nhưng tính từ đáy thì Bắc Băng Dương lại ở khoảng cách chỉ xấp xỉ 6.352,8 km từ tâm Trái Đất, tức gần tâm Trái Đất hơn so với điểm sâu nhất của rãnh Mariana 13,6 km.
Rãnh Mariana được tàu Challenger II của Hải quân Hoàng gia Anh khảo sát lần đầu tiên năm 1951, do đó người ta đã đặt tên cho phần sâu nhất của rãnh Mariana là vực thẳm Challenger. Sử dụng kỹ thuật phản xạ sóng âm, tàu Challenger II đã đo được độ sâu 5.960 sải (10.900 m) tại tọa độ 11°19' Bắc và 142°15' Đông. Âm thanh này đã được thực hiện lặp lại với tai nghe để nghe tín hiệu trở lại do sóng âm phản xạ ngược trở lại khi gặp đáy biển. Do việc đo thời gian của máy thu âm thanh phản xạ, một phần cần thiết của quá trình này, đã được thực hiện bằng tay để ngắt đồng hồ bấm giờ nên người ta đã cẩn thận trừ đi một thang đo (20 sải) khi chính thức báo cáo độ sâu lớn nhất là 5.940 sải (10.863 m).
Năm 1957, tàu Vityaz của Nga báo cáo độ sâu 11.034 m (36.201 ft), cho chỗ lõm sâu nhất Mariana; sự đo đạc này đã không được thực hiện lặp lại nên khó có thể coi là chính xác. Năm 1962, tàu hải quân Spencer F. Baird của Mỹ báo cáo độ sâu lớn nhất là 10.915 m (35.810 ft). Năm 1984, Nhật Bản gửi tàu Takuyo, một tàu khảo sát chuyên nghiệp hóa cao tới rãnh Mariana để thu thập dữ liệu bằng cách sử dụng các máy thu sóng âm phản xạ nhiều tia và hẹp; họ báo cáo độ sâu cực đại là 10.924 m (35.840 ft) (cũng có báo cáo là 10.920±10 m). Các phép đo chính xác nhất đã được thực hiện trên máy dò Kaiko của người Nhật vào ngày 24 tháng 3 năm 1995 cho kết quả 10.911 m (35.798 ft).
Trong một cuộc lặn không có tiền lệ, tàu ngầm thăm dò của Hải quân Mỹ là Bathyscaphe Trieste đã xuống tới đáy vào lúc 1:06 trưa ngày 23 tháng 1 năm 1960 với trung úy hải quân Don Walsh và kỹ sư Jacques Piccard. Quả cầu sắt được sử dụng để làm bì, với xăng để tạo sức nổi. Các hệ thống trên boong tàu chỉ tới độ sâu 37.800 ft (11.521 m), nhưng sau đó đã được sửa lại là 10.916 m (35.813 ft). Ở dưới đáy Walsh và Piccard đã rất ngạc nhiên khi phát hiện thấy các sinh vật như cá bơn dài khoảng 30 cm, cũng như tôm. Theo Piccard thì "đáy biển dường như sáng và sạch sẽ, là một vùng hoang vu chỉ có tảo cát".
Tại đáy của rãnh Mariana thì nước tạo ra một áp lực tới 1086 barơ (108,6 MPa hay 15.751 psi).
Vào ngày 1 tháng 6 năm 2009, tàu Kilo RV Moana (là tàu mẹ của chiếc tàu ngầm Nereus) đã sử dụng hệ thống định vị dưới mặt nước bằng sóng siêu âm Simrad EM120 (300-11.000 m) lập nên bản đồ ngay tại vực thẳm Challenger với độ sâu tìm được là 10.971 m (35.994 ft), độ chính xác hơn lần cũ 0,2% (sai số khoảng ± 11 m).
Năm 2003, các nhà khoa học đã tìm được dọc theo rãnh Mariana một số khu vực có độ sâu như vực thẳm Challenger và thậm chí có thể sâu hơn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Biển Philippines
Mariana
Điểm cực Trái Đất
Khu vực hút chìm
|
17177
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/MOSFET
|
MOSFET
|
Transistor hiệu ứng trường kim loại - oxit bán dẫn, viết tắt theo tiếng Anh là MOSFET (metal-oxide-semiconductor field-effect transistor) là thuật ngữ chỉ các transistor hiệu ứng trường FET được xây dựng dựa trên lớp chuyển tiếp Oxit Kim loại và bán dẫn (ví dụ Oxit Bạc và bán dẫn Silic) tạo ra lớp cách điện mỏng giữa cực cổng (gate) kim loại với vùng bán dẫn hoạt động nối giữa cực nguồn (source) và cực máng (drain).
MOSFET được sử dụng rất phổ biến trong cả các mạch kỹ thuật số và các mạch tương tự. Giống như FET, MOSFET có hai lớp chính chia theo kiểu kênh dẫn được sử dụng:
N-MOSFET: Điện áp điều khiển mở Mosfet là Ugs >0. Điện áp điều khiển đóng là Ugs<=0. Dòng điện sẽ đi từ D xuống S
P-MOSFET: Điện áp điều khiển mở Mosfet là Ugs <0. Dòng điện sẽ đi từ S đến D, điện áp khóa là Ugs~0.
Từ kiến trúc cơ bản của MOSFET có nhiều biến thể dẫn xuất khác nhau để tạo ra phần tử có đặc trưng thích hợp với các ứng dụng cụ thể. Ví dụ MOSFET nhiều cổng hay MuGFET (multigate field-effect transistor), MESFET (metal–semiconductor field-effect transistor), MOSFET công suất lớn (Power MOSFET),...
Do bố trí cực cổng cách ly mà MOSFET còn được gọi là "transistor hiệu ứng trường cổng cách ly" (Insulated Gate Field-effect Transistor), viết tắt là IGFET. Tên gọi IGFET sát nghĩa hơn với các FET có thực thể điều khiển ở cực cổng không phải là kim loại, mà là các kết cấu tích lũy điện tích khác, như dung dịch điện phân trong các FET cảm biến sinh học (Bio-FET), FET cảm biến enzym (ENFET), FET cảm biến pH (pHFET), FET cảm biến khí (GASFET),...
Thông thường chất bán dẫn được chọn là silic nhưng có một số hãng vẫn sản xuất các vi mạch bán dẫn từ hỗn hợp của silic và germani (SiGe), ví dụ như hãng IBM. Ngoài silic và germani còn có một số chất bán dẫn khác như gali arsenua có đặc tính điện tốt hơn nhưng lại không thể tạo nên các lớp oxide phù hợp nên không thể dùng để chế tạo các transistor MOSFET.
Hoạt động của MOSFET
Hoạt động của MOSFET có thể được chia thành ba chế độ khác nhau tùy thuộc vào điện áp trên các đầu cuối. Với transistor NMOSFET thì ba chế độ đó là:
Chế độ cut-off hay sub-threshold (Chế độ dưới ngưỡng tới hạn).
Triode hay vùng tuyến tính.
Bão hoà.
Trong các mạch số thì các transistor chỉ hoạt động trong chế độ cut-off và Bão hòa. Chế độ Triode chủ yếu được dùng trong các ứng dụng mạch tương tự.
MOSFET thời sơ khai
Chế tạo MOSFET
Các loại MOSFET
NMOS
DMOS
HEXFET
CoolMOS
Tham khảo
The 21st Century Public Policy Institute (1999). "Social Conditions for Technology Creation" . Truy cập 16 tháng 9 năm 2005. By KRISID MISSO
Xem thêm
Linh kiện điện tử
Linh kiện bán dẫn
Ký hiệu điện tử
Sơ đồ mạch điện
Liên kết ngoài
Lessons In Electric Circuits - INSULATED-GATE FIELD-EFFECT TRANSISTORS
Transistor
|
17179
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3i%20c%C3%A1ch%20ru%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20t%E1%BA%A1i%20mi%E1%BB%81n%20B%E1%BA%AFc%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam
|
Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm phân chia lại ruộng đất nông thôn, xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần phản quốc (theo Pháp, chống đất nước), phản động (chống chính quyền) như địa chủ phản cách mạng, Việt gian, cường hào cộng tác với Pháp... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 1953–1956. Theo Luật Cải cách ruộng đất thì Cải cách ruộng đất có mục tiêu "thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển, cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến, đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phóng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc". Cải cách ruộng đất có mối liên quan chặt chẽ với phong trào chỉnh đốn Đảng lúc đó.
Đây là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: "cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc". Dựa theo mô hình "thổ địa cải cách" của Trung Quốc (1946–1949), cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự cố vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc.
Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đã phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Trong giai đoạn đầu, cuộc cải cách thu được kết quả tốt, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần của quân dân, khiến họ phấn chấn và tích cực chi viện cho kháng chiến chống Pháp Tuy nhiên, trong giai đoạn sau, từ giữa 1955, do vội vã nhân rộng cải cách tới nhiều địa phương, trong khi trình độ dân trí lại thấp đã khiến việc thi hành bị mất kiểm soát, gây ra nhiều phương hại và tổn thất, nhất là trong việc nông dân quá khích ở các địa phương đã lạm dụng việc xét xử địa chủ để trả thù cá nhân, thậm chí xảy ra việc dân chúng vu oan và tấn công cả những đảng viên, cán bộ chính quyền. Sự quá khích này đã gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, gây phương hại đến sự đoàn kết của người dân, ảnh hưởng tới niềm tin của một số tầng lớp nhân dân với Đảng Lao động Việt Nam. Đến đầu năm 1956, cải cách bị đình chỉ, và suốt 1 năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này.
Bối cảnh lịch sử và mục đích
Theo thống kê phân bố ruộng đất ở miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất. Đầu năm 1945, tầng lớp nông dân nghèo (không có hoặc chỉ có rất ít ruộng đất) chiếm 60% dân số nông thôn, nhưng chỉ sở hữu khoảng 10% ruộng đất. Còn giai cấp địa chủ phong kiến Việt Nam, địa chủ thực dân Pháp, địa chủ Công giáo chiếm không tới 5% dân số nhưng chiếm hữu 70% ruộng đất. Ngay từ cuối những năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã mô tả nông dân Việt Nam như sau: "Ruộng bị Tây chiếm hết, không đủ mà cày. Gạo bị nó chở hết, không đủ mà ăn. Làm nhiều, được ít, thuế nặng... Đến nỗi chết đói, hoặc bán vợ đợ con, hoặc đem thân làm nô lệ như những người nó chở đi Tân thế giới...". Nạn đói năm Ất Dậu làm 2 triệu người chết, tỷ lệ chết đói cao nhất là những hộ nông dân không có đất canh tác. Việc phân phối ruộng đất bất bình đẳng này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ về các nạn đói mới hoặc bạo động có thể xảy ra trong tương lai. Trong báo cáo của Hồ Chí Minh tại khóa họp Quốc hội lần thứ III, ông khẳng định "Chỉ có thực hiện cải cách ruộng đất, người cày có ruộng giải phóng sức sản xuất ở nông thôn khỏi ách trói buộc của giai cấp địa chủ phong kiến, mới có thể chấm dứt tình trạng bần cùng và lạc hậu của nông dân, mới có thể phát động mạnh mẽ lực lượng to lớn của nông dân để phát triển sản xuất và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Mục đích của cải cách ruộng đất là: Tiêu diệt chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng chiến".
Chương trình cải cách ruộng đất là một bước trong tiến trình giải quyết mâu thuẫn xã hội từ thời Pháp thuộc, đưa miền Bắc Việt Nam tiến lên xã hội chủ nghĩa, do Đảng Lao động Việt Nam tổ chức và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực thi, hệ thống hóa và khai triển trên địa bàn rộng, công việc mà nhiều chính quyền địa phương đã làm từ những năm đầu Cách mạng tháng Tám:
Tịch thu tài sản ruộng đất do người Pháp, người dân di cư, hay Việt gian (những người Việt theo Pháp) bỏ lại, hay bỏ hoang vì chiến tranh
Phân chia đất canh tác cho tá điền
Cắt giảm địa tô
Bãi bỏ mọi khoản tiền thuê ruộng
Phục vụ cho nhiệm vụ tối cao của dân tộc lúc đó là đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi đến thắng lợi hoàn toàn
Theo các tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam thì các công việc này cũng được Đảng và Chính phủ tiếp tục từng bước giải quyết trong kháng chiến chống Pháp, nhưng đến 1953 thì mới được phát triển rộng (bắt đầu tại Thái Nguyên).
Tại kì họp thứ ba của Quốc hội Việt Nam, để phát động chiến dịch, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã phát biểu: "Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lý hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ".
Trước đó, thông tư liên bộ năm 1949 đã đưa ra những nguyên tắc chủ yếu về việc phân chia tạm thời ruộng đất cho nông dân mà những ruộng đất này được tịch thu từ địa chủ của người Pháp, hoặc từ địa chủ người Việt thông đồng với Pháp. Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ IV (5/1948) đề ra chính sách: Tịch thu ruộng đất và tài sản của Việt gian (đưa ra toà án tuyên bố rõ ràng), ruộng đất thì chia cho dân cày cấy, còn tài sản thì tuỳ từng trường hợp cấp cho dân cày; những đồn điền tịch thu của Pháp thì giao cho Chính phủ tạm thời quản lý; thành lập ở mỗi đồn điền một Ban quản trị có trách nhiệm phân phối ruộng cho dân, giúp đỡ kế hoạch cho dân cày cấy…
Chính sách
Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt tại hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam xác định chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành cuộc "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10/1930 nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở Đông Dương là "một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa". Luận cương xác định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc "cách mạng tư sản dân quyền". Sau khi cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi sẽ tiếp tục "phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa". Luận cương cho rằng nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải "tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để". Luận cương cho rằng "có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa". Luận cương khẳng định: "Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền", là cơ sở để Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày. Tháng 12/1930, thư của Ban Thường vụ Trung ương gửi các cấp đảng bộ cho rằng phải xét địa chủ "về phương diện giai cấp" là một giai cấp "dùng cái quyền có đất để bóc lột dân nghèo, hãm hại kinh tế dân cày" và ngăn trở sức sản xuất. Địa chủ là "thù địch của dân cày không kém gì đế quốc chủ nghĩa", "nó quan hệ mật thiết với quyền lợi của đế quốc chủ nghĩa", "liên kết với đế quốc mà bóc lột dân cày". Ban Thường vụ Trung ương chủ trương "tiêu diệt địa chủ", "tịch ký tất cả ruộng đất của chúng nó (địa chủ) mà giao cho bần và trung nông". Đến tháng 10/1936, trong văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới, Trung ương Đảng đã phê phán quan điểm của Luận cương chính trị tháng 10/1930: "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết vấn đề điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng... nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng." Năm 1938, Võ Nguyên Giáp và Trường Chinh cùng xuất bản tác phẩm "Vấn đề dân cày" nhằm nghiên cứu thực trạng của nông thôn Việt Nam. Các tác giả cho rằng vấn đề ruộng đất và dân cày là nội dung trụ cột của vấn đề Đông Dương; phân tích địa vị giai cấp, vị trí khuynh hướng và tính chất của giai cấp nông dân; phê phán những nhận thức và quan điểm sai lầm đối với giai cấp nông dân; tố cáo trước dư luận những chính sách của thực dân và phong kiến về ruộng đất, tô thuế, nạn cho vay nặng lãi... đối với dân cày và nêu lên những yêu sách của dân cày Đông Dương trước Mặt trận Nhân dân Pháp.
Từ tháng 10 năm 1952, chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi bản "chương trình cải cách ruộng đất của Đảng Lao động Việt Nam" cho Stalin để "đề nghị xem xét và cho chỉ dẫn" và cho biết chương trình hành động được lập bởi chính ông dưới sự giúp đỡ của Lưu Thiếu Kỳ. Trong bối cảnh lúc bấy giờ, chương trình cải cách ruộng đất được đặt ra nhằm khắc phục mâu thuẫn xã hội và sự khốn khổ của nông dân đã tích tụ suốt thời Pháp thuộc, qua đó động viên nông dân (chiếm phần lớn dân số Việt Nam khi đó) ủng hộ công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng Lao động Việt Nam tháng 11/1953 bàn về cải cách ruộng đất. Tại hội nghị, Trường Chinh đọc báo cáo có đoạn: "Cải cách ruộng đất chính là để làm cho kháng chiến mau chóng thắng lợi. Nhân dân làm cách mạng, nhân dân kháng chiến và kiến quốc. Đại đa số nhân dân là nông dân. Muốn kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công, phải tiêu diệt đế quốc xâm lược và giải phóng nông dân khỏi ách phong kiến. Cải cách ruộng đất là một phương pháp chủ yếu đẩy mạnh kinh tế quốc dân phát triển. Kinh tế quốc dân phát triển thì vấn đề cung cấp cho tiền tuyến và hậu phương được đảm bảo chắc chắn, lực lượng của nhân dân được bồi dưỡng, ta có thêm sức người, sức của để kháng chiến trường kỳ cho đến thắng lợi cuối cùng. Hồ Chủ tịch đã đề ra hai nhiệm vụ trung tâm trước mắt, quan hệ mật thiết với nhau: đánh giặc và cải cách ruộng đất..."Ông cũng nhắc đến câu nói của Stalin: "Thực chất của vấn đề dân tộc là vấn đề nông dân", và của Mao Trạch Đông trong thời kháng Nhật: "Kẻ địch lớn đang đứng trước mắt, không giải quyết dân chủ dân sinh thì không đánh đuổi được Nhật". Báo cáo nêu rõ: địa chủ chưa đầy 5% nhân số cùng bọn đế quốc chiếm trên dưới 70% ruộng đất ở Việt Nam, còn nông dân gần 90% nhân số mà chỉ có trên dưới 30% ruộng đất. Không đầy 5% địa chủ bóc lột gần 90% nông dân bằng tô cao, lãi nặng, v.v. Báo cáo cũng nhắc lại báo cáo của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị: "Then chốt thắng lợi của kháng chiến là mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất, củng cố công nông liên minh, củng cố chính quyền nhân dân, củng cố và phát triển quân đội, củng cố Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về mọi mặt. Chỉ có phát động quần chúng cải cách ruộng đất, ta mới tiến hành những công việc đó được thuận lợi". Đường lối của Đảng ở nông thôn là dựa vào bần cố nông (cố nông là vô sản, bần nông là nửa vô sản ở nông thôn), đoàn kết trung nông, liên hiệp với phú nông về chính trị, bảo tồn kinh tế của họ, tiêu diệt chế độ bóc lột phong kiến từng bước và có phân biệt.
Ngày 4 tháng 12 năm 1953, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhóm họp và thông qua Dự luật Cải cách ruộng đất 197/HL. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê thuận và chính thức ban hành bộ luật này vào ngày 19 tháng 12 năm 1953 để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến, mang tên Luật Cải cách Ruộng đất.
Luật Cải cách Ruộng đất quy định chủ trương cụ thể như sau:
Tịch thu toàn bộ ruộng đất và tài sản của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác. Đối với địa chủ Việt gian (cộng tác với thực dân Pháp), cường hào gây nhiều tội ác thì tuỳ tội nặng nhẹ mà tịch thu toàn bộ hoặc một phần tài sản. Đối tượng Việt gian nếu bị xử phạt dưới 5 năm tù thì vẫn được chia ruộng đất, gia đình của đối tượng này vẫn được chia ruộng đất như những nông dân khác.
Đối với nhân sĩ dân chủ, địa chủ kháng chiến, địa chủ thường (không cộng tác với thực dân Pháp) thì trưng thu toàn bộ ruộng đất hiện có cùng trâu bò và nông cụ (Trưng thu là việc giao tài sản cho Nhà nước rồi nhận hoàn trả lại bằng một giá trị tương đương, tức là mua bán tài sản với Nhà nước). Không đụng đến tài sản khác (tiền, nhà cửa, đồ gia dụng...) của họ. Chính phủ quy định mức giá trưng mua tài sản của đối tượng này như sau: Giá trưng mua ruộng đất là giá sản lượng trung bình hàng năm của ruộng đất đó. Giá trưng mua trâu bò, nông cụ là giá thị trường ở địa phương. Giá trưng mua được trả bằng một loại công phiếu riêng, công phiếu ấy được trả lãi 1,5% mỗi năm, sau thời hạn 10 năm sẽ hoàn vốn. Ngoài ra, đối tượng này và gia đình cũng được chia ruộng đất xấp xỉ như nông dân, và được hưởng những ưu đãi khác một cách thích đáng.
Khi xét xử người phạm pháp phải tuân theo đúng pháp luật. Nghiêm cấm việc bắt giữ và giết hại trái phép, nghiêm cấm đánh đập, tra tấn hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác.
Ban lãnh đạo
Đồng thời điểm này, Ủy ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và Đại hội Toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam cũng họp và tổ chức chuẩn bị thi hành cải cách ruộng đất sâu rộng trên toàn lãnh thổ. Đảng này cũng chỉ định một ủy ban lãnh đạo chương trình cải cách ruộng đất và hoạch định tiến trình cải cách ruộng đất.
Phát động và làm tư tưởng chiến dịch: Hồ Chí Minh (Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam và nhà nước)
Trưởng ban chỉ đạo: Trường Chinh (Tổng Bí thư đảng)
Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thái Nguyên: Hoàng Quốc Việt (Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
Trưởng ban chỉ đạo thí điểm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh: Lê Văn Lương (Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương đảng)
Giám đốc trực tiếp điều hành chiến dịch: Hồ Viết Thắng (Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương đảng)
Về phía nhà nước, Ban cải cách ruộng đất TW ngày 15 tháng 3 năm 1954 (không riêng miền Bắc, mà của chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa nói chung):
Chủ nhiệm: Phạm Văn Đồng, Phó Thủ tướng
Phó chủ nhiệm: Trường Chinh (Tổng Bí thư Đảng Lao động), Nghiêm Xuân Yêm (Bộ trưởng canh nông), Hồ Viết Thắng (Thứ trưởng canh nông, trưởng ban liên lạc nông dân toàn quốc)
Ủy viên: Trần Văn Đức (ủy viên Trung ương Đảng dân chủ), Nguyễn Cộng Hòa (ủy viên BCH Tổng liên đoàn lao động), Trần Quốc Hoàn (bộ trưởng công an), Vũ Đình Hòe (bộ trưởng tư pháp), Tố Hữu (tổng giám đốc nha tuyên truyền và văn nghệ), Linh mục Vũ Xuân Kỷ (ủy viên Liên Việt toàn quốc), Nguyễn Lam (bí thư đoàn thanh niên cứu quốc), Trần Lương (đại biểu quân đội), Phan Tư Nghĩa (Tổng thư ký Đảng xã hội), Tôn Quang Phiệt (đại biểu Ban thường trực Quốc hội), Hà Quế (ủy viên BCH hội liên hiệp phụ nữ), thiếu tướng Chu Văn Tấn (đại diện các dân tộc thiểu số), Trần Đức Thịnh (ủy viên Ban liên lạc nông dân toàn quốc), Bùi Công Trừng (ủy viên thường trực Ban kinh tế chính phủ), Phan Kế Toại (Bộ trưởng Nội vụ), Hoàng Quốc Việt (ủy viên TU Đảng, Chủ tịch Tổng liên đoàn lao động).
Thi hành
Chương trình cải cách ruộng đất được áp dụng qua bốn bước chính:
Huấn luyện cán bộ
Các cán bộ Đảng Lao động tham gia cải cách ruộng đất được đưa đi học khóa chỉnh huấn 1953. Các chương trình học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững đường lối của đảng trong cải cách ruộng đất, quán triệt quan điểm. Tổng số cán bộ được điều động vào công tác là 48.818 người.
Chiến dịch Giảm tô
Bước đầu, các đội cán bộ cải cách ruộng đất đi vào các làng xã và áp dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với các bần cố nông trong làng xã đó, kết nạp họ thành "rễ", thành "cành" của đội, sau đó triển khai chiến dịch từng bước như sau:
Phân định thành phần: Đội Cải cách Ruộng đất ra mắt làng xã, và tất cả các gia đình trong xã được họ phân loại thành 5 thành phần: (a) địa chủ; (b) phú nông; (c) trung nông cứng; (d) trung nông vừa; (e) trung nông yếu; (f) bần nông; (g) cố nông. Tỷ lệ địa chủ được quy định trước và các đoàn và đội cải cách đều cố truy tìm để đạt tỷ lệ địa chủ như một quy định bắt buộc, gọi là "kích thành phần".
Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đình bị xếp vào thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách phân loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác; (a2) Địa chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức và quản thúc.
Áp dụng thoái tô: Đối với các gia đình có địa chủ bị bắt nói trên, đội cải cách thông báo với họ về các sắc lệnh giảm tô của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bao gồm: sắc lệnh giảm tô xuống còn 25% vào tháng 11 năm 1945, Sắc lệnh số 87/SL năm 1952 và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%. (Tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt, có thể trả bằng thóc.) Căn cứ theo đó, địa chủ nào chưa giảm tô cho nông dân thì bây giờ phải trả cho những nông dân làm công cho họ khoản nợ đó — gọi là "thoái tô". Nếu không trả đủ nợ thì tài sản bị tịch thu, phân phát do nông dân. Sau bước này, có những gia đình địa chủ phải bán đi rất nhiều tài sản để trả nợ vì nếu sống trong vùng kiểm soát của Pháp thì không biết gì về các sắc lệnh của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Học tập tố khổ, truy bắt địa chủ: Các bần nông, cố nông, "chuỗi", "rễ" được đội cải cách cho học lớp tố khổ do họ mở, qua đó học viên được nhận dạng các tội ác của địa chủ, và được khuyến khích nhớ ra tội ác của từng địa chủ đã bóc lột, chèn ép họ như thế nào. Sau khi học qua lớp tố khổ, nhiều du kích và cốt cán cải cách ruộng đất trở nên quá khích, thậm chí họ "vác súng vào thành phố truy bắt địa chủ và con cái địa chủ là cán bộ công nhân viên chức nhà nước".
Tố cáo công khai: Các buổi xét xử được tổ chức, thông thường vào ban đêm. Số lượng người tham gia tố cáo từ vài trăm đến cả ngàn người, huy động từ các làng xóm lân cận, và thời gian từ một đến ba đêm tùy theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong buổi đấu tố, các nông dân bước ra tố cáo địa chủ đã bóc lột, áp bức họ như thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức cải cách ruộng đất, Đảng Lao động cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ý tội ác địa chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ tố cáo. Sau khi bị quần chúng tố cáo, các địa chủ được tạm giam trở lại để chờ tòa án nhân dân xét xử.
Xử án địa chủ: Tại các huyện, một tòa án nhân dân đặc biệt được lập ra và đi về các xã xét xử các địa chủ. Sau khi kết án, nếu bị kết án tử hình, đội tự vệ xã sẽ thi hành án, có thể là trước công chúng. Những người không bị xử bắn thì trả về các làng xã, nhưng gia đình và thân nhân của họ thường bị người dân địa phương ác cảm và phân biệt đối xử.
Tổng cộng có tám đợt giảm tô từ 1953 đến 1956 đã được tiến hành tại hơn 1.875 xã.
Thực hiện ở các địa phương
Nhiều tháng sau khi chiến dịch Giảm tô được triển khai, chương trình Cải cách ruộng đất chính thức bắt đầu, với hình thức tương tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn. Tổng cộng có năm đợt cải cách ruộng đất từ 1953 đến 1956 tiến hành tại 3.314 xã. Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Quốc, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh, với cường độ lớn. Quyết liệt nhất là ở Thái Bình, nơi có đến 294 xã được đưa vào cải cách.
Theo tài liệu của Đảng Cộng sản Việt Nam, tháng 11 năm 1953, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 quyết định tiến hành việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hecta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.
Sau cải cách, bộ mặt nông thôn miền Bắc thay đổi căn bản. Tình trạng phân chia ruộng đất bất bình đẳng bị xóa bỏ. Nông dân nghèo được chia ruộng đất trở nên hăng hái, sản xuất nông nghiệp gia tăng. Ngoài ra, những tư tưởng cũ kỹ từ thời phong kiến cũng được xóa bỏ một phần. Đó là một cuộc chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị và xã hội tại nông thôn Việt Nam sau hàng thế kỷ phong kiến. Muc tiêu cǎn bản của cuộc cải cách đã đạt yêu cầu, có tác dụng quyết định đối với việc hoàn thành nhiệm vụ xóa bỏ tàn dư phong kiến ở miền Bắc.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, việc thực hiện cải cách ruộng đất đã gây ra nhiều hậu quả lớn. Ở các đợt đầu, cải cách diễn ra có kiểm soát và trật tự, đạt hiệu quả tốt. Nhưng từ giữa năm 1955, do tiến hành vội vã, ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng nông dân địa phương trở nên quá khích, đấu tố tràn lan mất kiểm soát, đã có nhiều người bị oan sai. Do sự quá khích và trình độ dân trí thấp của nông dân địa phương, cả các gia đình địa chủ có thành tích kháng chiến, kể cả các gia đình có đảng viên, cán bộ, bộ đội phục vụ trong kháng chiến cũng bị tố cáo tràn lan. Theo hướng dẫn trong Luật Cải cách ruộng đất, các cán bộ cải cách ruộng đất đã chỉ đạo nông dân tại nhiều địa phương lập ra các "tòa án nhân dân đặc biệt" để tổ chức xét xử. Cũng theo quy định của Luật cải cách ruộng đất, điều lệ tổ chức của các tòa án nhân dân đặc biệt do Chính phủ quy định. Luật cải cách ruộng đất cũng "nghiêm cấm tòa án nhân dân đặc biệt tiến hành bắt giữ và giết hại trái phép, nghiêm cấm đánh đập, tra tấn hoặc dùng mọi thứ nhục hình khác" Nhưng khi áp dụng, nông dân ở các địa phương và các "tòa án nhân dân đặc biệt" đã không tuân thủ các quy định này. Tuy được gọi là "tòa án" nhưng thực ra thành viên chỉ gồm toàn những nông dân địa phương, được thôn làng cử ra để xét xử chứ không thông qua chính quyền, không tuân theo quy định về tổ chức tòa án của Chính phủ. Nhiều "tòa án nhân dân đặc biệt" đã lạm quyền, không tuân thủ quy định của chính quyền và luật pháp, họ tự ý tuyên án tử hình hay tù khổ sai chỉ căn cứ vào những lời tố giác của số đông nông dân địa phương. Nhiều nông dân cũng thi đua nhau tố cáo người khác, coi đó là một thành tích của bản thân. Đến cuối năm 1955, việc tố cáo địa chủ xảy ra tràn lan, số người bị tố cáo oan sai chiếm tỷ lệ rất cao. Ví dụ như bà Cát Hanh Long, tức Nguyễn Thị Năm, nhà ở Thái Nguyên; bà bị nông dân địa phương quy tội địa chủ gian ác, bị xử bắn mặc dù trong thời kháng chiến đã có nhiều công lao lớn với cách mạng Việt Nam. Có những nơi cả cán bộ đảng viên, sĩ quan quân đội cũng bị nông dân địa phương bắt giữ, chính quyền địa phương không dám ngăn chặn vì sợ kích động bạo lực với đám đông quần chúng. Ví dụ như tướng Vương Thừa Vũ từng bị nông dân địa phương bắt giữ, chính quyền trung ương phải tới can thiệp mới giải cứu được.
Mức 5,68% địa chủ trong dân số địa phương là cao hơn rất nhiều so với thực tế. Tổng số người bị quy là địa chủ trong Cải cách ruộng đất đã được thống kê là 172.008 người; trong đó số người bị quy sai là 123.266 người, chiếm tỷ lệ 71,66%. Những sai lầm này đã được đề cập đến trong bài phát biểu tháng 10 năm 1956 tại Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của giáo sư, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, ông kết luận nhiều nông dân là trung nông nhưng đã bị kết án oan sai bởi những "tòa án nhân dân đặc biệt" ở địa phương. Những tòa án này toàn là do nông dân địa phương tự lập ra, họ có trình độ thấp nên thường kết án chiều theo tâm lý căm giận địa chủ của số đông người dân khi đó chứ không tuân theo pháp luật, dẫn tới vi phạm các nguyên tắc về điều tra và kết án.
Chiến dịch sửa sai
Sau khi nhận ra cuộc cải cách ở các địa phương đã diễn ra quá trớn, gây nhiều oan sai, tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 đã tuyên bố các sai lầm trong cải cách ruộng đất và ra lệnh đình chỉ cuộc cải cách. Trong tuyên bố của Hội nghị Trung ương 10 của Đảng Lao động Việt Nam (tháng 9 năm 1956), chính quyền trung ương nhận trách nhiệm đã buông lỏng theo dõi, khiến việc thi hành ở các địa phương bị mất kiểm soát:
Đề cương báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10, tháng 10-1956 đã xác nhận: "Tư tưởng thành phần chủ nghĩa trong cải cách ruộng đất có tư tưởng nông dân, đặt bần cố nông lên trên tất cả, thậm chí đặt bần cố nông lên trên Đảng… Tư tưởng tả khuynh trong cải cách ruộng đất đã chớm nở lúc đầu; nó đã đưa đến chỗ học tập kinh nghiệm nước bạn một cách máy móc và không chịu điều tra nghiên cứu đầy đủ tình hình xã hội ta để định chủ trương chính sách cụ thể cho thích hợp… Trong lúc thi hành thì một mực nhấn mạnh chống hữu khuynh trong khi những hiện tượng tả khuynh đã trở nên trầm trọng… từ khu trở xuống thì hệ thống cải cách ruộng đất trở nên một hệ thống ở trên cả Đảng và chính quyền. Tác phong độc đoán chuyên quyền, do đó mà trở nên phổ biến, không đi theo đường lối quần chúng, mà thực tế đã trấn áp quần chúng, nhẹ tuyên truyền giáo dục, buộc quần chúng làm những điều trái với ý muốn, với lương tâm của họ, có khi trái với chân lý và chính nghĩa.".
Do nhận định chiến dịch Cải cách ruộng đất đã gây ra nhiều oan sai, làm rối loạn tình hình nông thôn, Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai như sau:
Tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai lầm trong cải cách ruộng đất.
Tháng 3 năm 1956, Quốc hội họp lần thứ 4 tường trình bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa sai.
Ngày 5 tháng 7 năm 1956, thay mặt Ban Bí thư, Tổng Bí thư Trường-Chinh ký Chỉ thị "Về công tác chỉnh đốn tổ chức" đánh giá: Sở dĩ có những khuyết điểm trên, một phần là do Trung ương kém theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và kịp thời uốn nắn các lệch lạc, một phần là do các cơ quan được Trung ương giao trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo công tác chỉnh đốn tổ chức, như Ban Tổ chức Trung ương, Đảng tổ trong Uỷ ban cải cách ruộng đất Trung ương, các liên khu uỷ và khu uỷ, đoàn uỷ, đã không nhận thức đúng tình hình, không nắm vững mục đích, yêu cầu, phương châm, phương pháp chỉnh đốn tổ chức, không giáo dục đầy đủ cho cán bộ, không theo dõi sát tình hình, đề phòng các lệch lạc, và phát hiện những vấn đề mới đề nghị với Trung ương bổ sung chính sách; lối làm việc thì thiếu tập thể dân chủ, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới. Về phía các cán bộ ở các tổ chỉnh đốn, thì nói chung vì trình độ chính trị và trình độ công tác kém, lại không được chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính sách, phương pháp, khi tiến hành công tác thì không được lãnh đạo chặt chẽ, cho nên một số đã phạm những sai lầm nghiêm trọng. ở một vài nơi ở cấp xã đã phát hiện có một vài phần tử xấu, cố tình làm sai để phá hoại.
Ngày 18 tháng 8 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm và cho biết Trung ương đảng và chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm.
Ngày 24 tháng 8 năm 1956, báo Nhân dân công bố có một số đảng viên trung kiên đã bị hành quyết sai lầm trong chiến dịch Cải cách Ruộng đất.
Tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất như sau: ông Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư đảng, nhưng vẫn là Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, ông Hoàng Quốc Việt ra khỏi Bộ Chính trị, xuống ủy viên Trung ương và Lê Văn Lương ra khỏi Ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị và Bí thư Trung ương Đảng xuống ủy viên dự khuyết TW., và ông Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Ngày 29 tháng 10 năm 1956, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người không tham gia vào sai lầm chương trình Cải cách Ruộng đất, thay mặt chủ tịch nước đọc bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương đảng tại nhà hát lớn Hà Nội và Sân vận động Hàng Đẫy kê khai sai lầm và phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức vụ tài sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố.
Tháng 12 năm 1956, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa I, Hồ Chí Minh khóc và thay mặt chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận khuyết điểm trong công tác cải cách ruộng đất. Tổng bí thư Đảng Lao động là Trường Chinh từ chức, hai cán bộ trực tiếp chỉ đạo cũng bị kỷ luật.
Theo tổng kê đến tháng 9 năm 1957, thì chiến dịch sửa sai đã phục hồi danh dự và trả lại tài sản khoảng 70-80% số người bị kết án. Theo báo Nhân dân thì bản thân chiến dịch sửa sai cũng có những thiệt hại khi những người được phục hồi quay lại trả thù những người đã tố cáo họ oan ức. Phong trào trả thù lan rộng và biến thành bạo động tại nhiều nơi khiến chính quyền phải điều động quân đội để dẹp yên. Theo Dommen, ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông dân dùng gậy gộc để gây bạo động, xảy ra xung đột giữa người dân các làng và các họ, khiến chính quyền phải dùng Sư đoàn 324 để tái lập trật tự. Theo Báo Quân đội Nhân dân, các linh mục Công giáo đã tập hợp giáo dân từ các tỉnh Nghệ An, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Thanh Hóa đến Quỳnh Lưu, Nghệ An để phản đối chính sách cải cách ruộng đất; giáo dân đã bắt giữ tổ công tác sửa sai của trung đoàn 269 Quân khu 4, giam họ trong nhà thờ Quỳnh Yên khiến Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam ra lệnh cho sư đoàn 324 đang ở Thanh Hóa cử lực lượng hành quân cấp tốc vào Quỳnh Lưu cùng với lực lượng địa phương của Quân khu 4 giải quyết sự việc, đã xảy ra xô xát giữa quân đội và giáo dân. Một số gửi thỉnh nguyện thư đến phái đoàn quan sát viên Canada trong Ủy ban Đình chiến, xin di cư vào Nam.
Tuy nhiên, theo một số nhân chứng, có những trường hợp việc sửa sai chỉ đơn thuần là phục hồi đảng tịch, quy lại thành phần (từ địa chủ, phú nông trở lại thành trung nông) chứ không được trả lại tài sản, nhà đất (do dân địa phương đã chiếm dụng mất, chính quyền không đòi lại được). Đến năm 2004, theo báo Hà Nội Mới, Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội đã ra quyết định trợ cấp cho một số trường hợp bị qui sai thành phần và có tài sản bị trưng thu, trưng mua trong thời kì Cải cách Ruộng đất với mức ba triệu đồng một trường hợp.
Các đợt cải cách
Những thành tích và sai phạm
Thành tích
Năm 1953, giữa lúc Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu chiếm ưu thế trên chiến trường, cuộc cải cách ban đầu có những kết quả nhất định khi chỉ thực hiện việc tịch thu tài sản, đất đai của những thành phần địa chủ bị kết tội Việt gian (theo Pháp chống Việt Minh) chia cho bần nông, cố nông. Chính việc cải cách này đã góp một phần không nhỏ nâng cao sự ủng hộ của dân chúng để dồn sức cho kháng chiến. Quyền làm chủ của người nông dân trên ruộng đất mà họ đang canh tác được xác nhận về mặt pháp lý. Mơ ước có mảnh ruộng của riêng mình ở nông dân đến lúc này đã có hy vọng trở thành hiện thực. Khi bắt đầu trận đánh quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ cũng là lúc hậu phương hoàn thành đợt thí điểm cải cách ruộng đất, tin này đã tiếp thêm tinh thần chiến đấu to lớn cho người lính ngoài mặt trận. Việc thực hiện chủ trương triệt để giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất đã góp phần thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần của quân dân, tích cực chi viện cho chiến trường trong đông xuân 1953-1954 mà đỉnh điểm là chiến dịch Điện Biên Phủ.
Cuộc cải cách đã phân chia lại đất canh tác một cách công bằng cho đa số nông dân Bắc Bộ. Từ năm 1953 tới 1957, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân (khoảng 10 triệu dân), chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Trong khi đó, phân bố ruộng đất miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất.
Cuộc cải cách đã hoàn thành xóa bỏ giai cấp địa chủ và tàn dư chế độ phong kiến ở miền Bắc. Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá I, từ 29-12-1956 đến 25-1-1957, báo cáo của Chính phủ kiểm điểm về công tác cải cách ruộng đất đã nêu rõ: "Cải cách ruộng đất ở miền Bắc đã căn bản hoàn thành, giai cấp địa chủ đã căn bản bị đánh đổ, chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất bị xoá bỏ. Nông dân đã làm chủ nông thôn, nguyện vọng lâu đời của người nông dân là người cày có ruộng đã được thực hiện. Sức sản xuất ở nông thôn đã được giải phóng, đời sống nhân dân bước đầu đã được cải thiện, mở đường cho việc phát triển công thương nghiệp, góp phần quan trọng vào công cuộc củng cố miền Bắc, phát triển kinh tế, văn hoá. Đó là những thành tích căn bản". Năm 1957 là năm được mùa lớn, sản lượng lương thực đạt trên 4,5 triệu tấn, vượt xa mức trước chiến tranh..
Sau cải cách ruộng đất, bần nông được sở hữu mảnh đất của gia đình mình, không phải nộp phần lớn địa tô cho địa chủ như trước, do đó họ có thêm hǎng hái sản xuất. Được cán bộ nông nghiệp hướng dẫn, nông dân có điều kiện cải tiến kỹ thuật, phát triển công tác thủy lợi, chú ý đến vấn đề phân bón, nǎng suất nông nghiệp tǎng lên khá nhanh. Miền Bắc đã giải quyết được nạn đói giáp hạt, một bệnh kinh niên từ thời phong kiến. Vǎn hóa, giáo dục đại chúng có cơ sở rộng rãi để phát triển, bộ mặt nông thôn đổi mới.
Việc đất đai nông thôn tập trung vào Nhà nước quản lý cũng tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện xây dựng các công trình thủy lợi, các cơ sở phục vụ nông nghiệp. Đến cuối năm 1955, các công trình thủy lợi bị Pháp phá hủy đều dần được khôi phục, diện tích đất được tưới tiêu đạt mức 202.374 ha. Năm 1958, sản xuất nông nghiệp nói chung và thủy lợi nói riêng đã vượt mức trước chiến tranh. Nghị quyết 63 của Bộ Chính trị đưa ra mục tiêu "thắng được hạn hán, úng, bão, xâm nhập mặn và lụt lớn". Công trình đại thủy nông Bắc Hưng Hải được chọn làm đột phá với nhiệm vụ tưới tiêu cho 156.000 ha.
Sau 3 năm thực hiện cải cách (1955-1957), diện tích gieo trồng toàn miền Bắc tăng thêm 23,5%, năng suất lúa tăng 30,8%, sản lượng lương thực tăng 57%, lương thực bình quân đầu người tăng 43,6%, đàn trâu tăng 44,2%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng 20%. Về các cây công nghiệp, hầu hết đều vượt mức năm 1939 (năm cao nhất thời Pháp thuộc), riêng bông gấp 3 lần, lạc gấp 3,5 lần, đay gấp 1,5 lần. Đến năm 1957, nền kinh tế miền Bắc được phục hồi, vượt mức cao nhất dưới thời Pháp thống trị (năm 1939).
Đến hết năm 1957, nông nghiệp ở miền Bắc đã phát triển vượt mức của năm 1939: năm 1939 diện tích trồng lúa của miền Bắc là 1.811.000 ha, năng suất 13,04 tạ/ha, sản lượng 2,407 triệu tấn, thóc bình quân đầu người là 211,2 kg. Các con số tương ứng của năm 1957 là 2.191.800 ha, năng suất 18,01 tạ/ha, sản lượng 3,948 triệu tấn và 286,7 kg. Lĩnh vực chăn nuôi cũng tăng, năm 1957 so với năm 1939, đàn trâu tăng 51,1%, đàn bò tăng 60,1%, đàn lợn tăng 30,8%.
Trong giai đoạn 1955-1959, sản lượng lương thực quy thóc từ 3,76 triệu tấn năm 1955 tăng lên 5,19 triệu tấn năm 1959. Đầu năm 1965 đã xây dựng được 3.139 điểm cơ khí nhỏ, 7 trạm và 32 đội máy kéo, 33 công trình thủy lợi lớn, 1.500 công trình vừa và nhỏ được khôi phục và xây dựng, bảo đảm tưới tiêu chủ động cho hơn 500.000 ha diện tích trồng trọt. Nông nghiệp miền Bắc từ một nền nông nghiệp lạc hậu, độc canh, năng suất thấp dần dần trở thành một nền nông nghiệp được cơ khí hóa. Năm 1965, miền Bắc chỉ có 7 huyện và 640 hợp tác xã đạt mức sản lượng 5 tấn/ha/năm thì đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2.628 hợp tác xã đạt đến mức sản lượng trên. Tỉnh Thái Bình, huyện Thanh Trì (Hà Nội), huyện Đan Phượng (Hà Tây) trở thành "vùng quê 5 tấn" (đạt năng suất 5 tấn lúa/1 hécta) đầu tiên trong lịch sử.
Năm 1958, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản quyết định rằng tập thể hóa là mục tiêu phát triển nông thôn. Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1959 kế tiếp hợp thức hóa chính sách đó và xóa bỏ quyền sở hữu ruộng đất tư nhân và thay vào đó là quyền sở hữu tập thể. Đất đai dần tập trung vào tay Nhà nước qua việc thành lập những hợp tác xã do chính phủ quản lý. Nhà nông được khuyến khích và huy động gia nhập hợp tác xã nên đến năm 1960, 86% dân quê ở Miền Bắc đã vào hợp tác xã. Số liệu đó tăng lên thành 95,5% vào năm 1970. Khi Hiến pháp Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 được soạn ra thì quyền tư hữu ruộng đất hoàn toàn biến mất, quyền quản lý đất trên toàn đất nước thuộc về Nhà nước. Cuộc cải cách ruộng đất của thập niên 1950 theo quá trình trên thì chính quyền phát đất cho nông dân một lần nhưng quản lý hai lần; một lần bán chính thức qua dạng hợp tác xã, lần sau qua quốc hữu hóa toàn diện. Từ thập niên 1990, theo chính sách Khoán mười, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước quản lý ruộng đất và giao quyền sử dụng đất nông nghiệp cho mỗi hộ nông dân căn cứ theo đầu người, mỗi hộ tự canh tác và thu hoạch, sau khi nộp thuế thì giữ lại nông sản thừa, hợp tác xã không đứng ra sản xuất mà chỉ cung ứng dịch vụ.
Hồ Chí Minh trong "Thư gửi đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dịp cải cách ruộng đất ở miền Bắc căn bản hoàn thành" ngày đề ngày 18 tháng 8 năm 1956, xác định cải cách ruộng đất là "một thắng lợi vô cùng to lớn" và "có thắng lợi này là nhờ Đảng và Chính phủ ta có chính sách đúng đắn". "Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp chống phong kiến, một cuộc cách mạng long trời lở đất, quyết liệt gay go. Lại vì kẻ địch phá hoại điên cuồng; vì một số cán bộ ta chưa nắm vững chính sách, chưa thực đi đúng đường lối quần chúng; vì sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ có chỗ thiếu cụ thể, thiếu kiểm tra đôn đốc - cho nên khi cải cách ruộng đất đã xảy ra những khuyết điểm, sai lầm: trong việc thực hiện đoàn kết nông thôn, việc đánh kẻ địch, việc chấn chỉnh tổ chức, trong chính sách thuế nông nghiệp, v.v...Trung ương Đảng và Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm những sai lầm, khuyết điểm ấy và đã có kế hoạch kiên quyết sửa chữa, nhằm đoàn kết cán bộ, đoàn kết nhân dân, ổn định nông thôn, đẩy mạnh sản xuất.".
Sai phạm
Đánh giá sai lầm về tình hình khác biệt giữa nông thôn Trung Quốc và Việt Nam, quá tin tưởng và chịu sức ép của các cố vấn Trung Quốc. So sánh mục tiêu và phương tiện thì phương pháp tiến hành và truất hữu quá cứng rắn khi mà nghiên cứu của Liên Xô tính rằng địa chủ trung bình ở miền Bắc chỉ sở hữu 0,65 hécta đất, một diện tích khá nhỏ so với mức của thế giới. Việc đánh giá bị sai và nâng sản lượng, nâng thuế lên quá cao, quá sức người dân. Như ở Hà Tĩnh, có những mẫu ruộng tính sản lượng là 32-35 tạ một mẫu ta. Khá nhiều ruộng tốt được tính sản lượng ít nhất phải 25-28 tạ. Trong khi đó như ở Liên Xô, theo ông Đặng Thái Mai: "ở Liên Xô cũng mới trù tính việc tăng năng suất các miền ruộng có thủy lợi (terres-irriguées) cho đến mức 40-50 tạ một hecta. Như vậy là với phương tiện kỹ thuật, nhân công, tổ chức của nông nghiệp Liên Xô, mà trong 4 năm nữa người ta mới yêu cầu tới mức 20 hay 25 tạ nửa hecta, nghĩa là còn hơn một mẫu ta...".
Yếu tố bạo lực có nguồn gốc bột phát từ hận thù giai cấp và cá nhân đã được tích lũy trong suốt thời Pháp thuộc trên những vùng nông thôn. Địa chủ trở thành chỗ cho dân nghèo trút cơn giận dữ, họ coi những hành vi chèn ép của địa chủ là nguyên nhân gây ra cuộc sống khốn khó của họ, số khác thì chỉ vì ghen tức với tài sản của địa chủ. Cộng với trình độ nhận thức thấp của đa số người dân và cán bộ cấp xã thời bấy giờ, dẫn tới nhiều trường hợp oan sai, lợi dụng trả thù cá nhân, và các hành vi bạo lực trong các cuộc xét xử. Theo đánh giá của William Duiker, hậu quả của những hành động này nhiều khi rất bi thảm, nhưng trong điều kiện xã hội thời bấy giờ, có thể nhìn nhận đó là những "sản phẩm phụ" không thể tránh khỏi của bất cứ cuộc cách mạng nào (tương tự như làn sóng tàn sát giới tăng lữ nhà thờ của người dân Pháp trong cuộc Cách mạng Pháp 1789).
Đường lối dựa vào nông dân thi hành cải cách là đúng, nhưng lại không chú trọng việc giáo dục tư tưởng và chính sách một cách kỹ càng cho họ, trong khi đây là đối tượng có trình độ kiến thức rất thấp. Kết quả là ở nhiều nơi, lực lượng nông dân thi hành chính sách chống địa chủ một cách bừa bãi, lạm dụng hình phạt nặng. Chiến dịch càng lên cao điểm thì người dân càng trở nên quá khích, dẫn đến tình trạng vô chính phủ. Đám đông dân chúng được dịp trả thù địa chủ trở nên kích động mạnh, tố cáo hỗn loạn gây nhiều oan sai và cô lập, đối xử nhục hình với gia đình người bị tố cáo. Hơn 70% người bị quy vào thành phần địa chủ và phú nông là quy sai. Có trường hợp là cán bộ, đảng viên lãnh đạo cũng bị dân chúng kéo đến đấu tố mà không cần chứng cứ. Điển hình như trường hợp Phó Bảng Đặng Văn Hướng, Bộ trưởng phụ trách Thanh - Nghệ - Tĩnh của Chính phủ, khi về quê đã bị dân địa phương đấu tố vì lý do ông từng làm quan cho triều Nguyễn (họ không biết ông là lãnh đạo cấp cao của Chính phủ), ông ốm chết tại quê nhà Diễn Châu. Hoặc bà Nguyễn Thị Năm (mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, có con trai là trung đoàn trưởng của Quân đội Nhân dân Việt Nam, gia đình bà cũng đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập) Hoặc trường hợp Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308, Chủ tịch Ủy ban Quân quản Hà Nội cũng bị một nhóm người dân bắt ở ngoại thành Hà Nội vì có người tố cáo ông là "địa chủ, có xuất thân là tư sản, lập trường chính trị không rõ ràng".
Trong khi Cải cách ruộng đất đang diễn ra, Đảng Lao động Việt Nam cũng thực hiện chỉnh huấn. Tổng số cán bộ, đảng viên bị kỷ luật là 84.000 người, chiếm tỷ lệ hơn 55%. Có những chi bộ tốt lại bị người dân tố cáo là chi bộ phản động, bí thư hoặc chi ủy viên chịu kỷ luật nặng. Tình hình chỉnh đốn ở cấp huyện và cấp tỉnh cũng hỗn loạn, số cán bộ lãnh đạo các cấp này bị kỷ luật oan sai cũng chiếm tỷ lệ lớn. Hà Tĩnh là tỉnh cá biệt, có 19 cán bộ tỉnh ủy viên, công an, huyện đội dự chỉnh đốn đều bị kỷ luật.
Các cháu nội của cụ Phan Bội Châu, trong đó có một người là trung đội trưởng, nhà nghèo, 3 sào đất cho 3 mẹ con, nhưng cũng bị dân địa phương quy là địa chủ và bị giam một thời gian. Hoàng Giáp Thượng Thư Nguyễn Khắc Niêm, cha của nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện cũng bị dân địa phương tại quê nhà (Hương Sơn, Hà Tĩnh) quy tội vì từng làm quan to cho triều Nguyễn, bị giam trong chuồng nuôi hươu, phải ăn cả cơm thiu.
Thậm chí, theo một số tài liệu của các cơ quan điều tra Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, bản thân các lãnh đạo Trung ương Đảng như Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp,... cũng từng bị người dân ở quê nhà liệt vào danh sách đấu tố. Những người dân địa phương đó không hề biết những người này đang là lãnh đạo cấp cao của chính phủ, họ cứ tố cáo vì thấy đó là con của quan lại, địa chủ phong kiến.
Trên phương diện xã hội và văn hóa, theo nhận xét của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện thì ngoài tác động kinh tế trực tiếp đến đất đai và sản xuất nông nghiệp, cuộc cải cách ruộng đất tại miền Bắc có những hậu quả lớn đối với văn hóa cố truyền khi chính quyền địa phương kêu gọi người dân đạp đổ tầng lớp địa chủ và trí thức phong kiến, quét bỏ những "tàn dư phong kiến". Về mặt văn hóa thì nhiều sách vở chữ Nho và chữ Nôm, hoành phi, câu đối của những gia tộc quyền thế bị đốt, đình, chùa, đền, miếu bị người dân phá hủy. Về giá trị truyền thống thì quan hệ trong nhiều gia đình, xóm giềng bị phá vỡ do những cảnh con cái tố cáo cha mẹ, láng giềng hãm hại lẫn nhau khiến đạo lý cổ truyền suy sụp.
Triển lãm
Tháng 9 năm 2014 Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam lần đầu mở cuộc triển lãm về cuộc cải cách ruộng đất 1946-57. Sự kiện này thu hút nhiều chú ý nhưng chỉ được ba ngày thì đóng cửa vì lý do kỹ thuật. Dư luận cho rằng cuộc triển lãm phiến diện, không nhắc đến những sai lầm như xử án oan sai, đảo lộn đời sống nông thôn Việt Nam. Việc triển lãm đóng cửa ngay sau khi một số người dân khiếu kiện ở Dương Nội muốn vào xem cũng làm cho nhiều người đặt câu hỏi.
Ý kiến và nhận định
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã nói về tình trạng kết án sai trong bài diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại Hà Nội:
Năm 2005, nguyên Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt nhìn nhận:
Hội nghị lần thứ mười bốn Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng 11 năm 1958 nhận định:
Về thành tích của cải cách ruộng đất, Hội nghị đánh giá:
Về sai lầm trong cải cách ruộng đất
Về bài học của cách mạng ruộng đất:
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước:
Tham khảo
Lịch sử Việt Nam, 1954-1965, Cao Văn Lượng chủ biên, Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1995.
Đại Cương Lịch sử Việt Nam, 1945-2000 tập III, Lê Mậu Hãn chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 2000.
Góp phần tìm hiểu Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam PGS TS Nguyễn Trọng Phúc chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia: Viện Lịch sử Đảng, Học Viên Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002.
Việt Nam, 1945-1995 tập I, GS Lê Xuân Khoa, Nhà xuất bản Tiên Rồng, Maryland, 2004.
Qua Những Sai Lầm Trong Cải Cách Ruộng Đất, Xây dựng Quan Điểm Lãnh đạo, LS Nguyễn Mạnh Tường, diễn văn đọc trước Mặt Trận Tổ Quốc, ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại Hà Nội.
The Viet Minh Regime, Government and Administration in the Democratic Republic of Vietnam, Bernard Fall, Greenwood Press, Connecticut, 1975.
Xem thêm
Cải cách ruộng đất
Cải cách điền địa (Việt Nam Cộng hòa)
Đêm giữa ban ngày
Ghi chú
Liên kết ngoài
ĐCSVN - Kinh nghiệm giải quyết vấn đề ruộng đất
Diễn biến cụ thể một vụ xử án địa chủ: Lời kể của một nhân chứng
Trợ cấp cho nạn nhân Cải Cách Ruộng Đất
Nhận định của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt về đại đoàn kết dân tộc trên Website Bộ Ngoại giao Việt Nam
Xin đừng quên! Nửa thế kỷ trước..., bài viết của Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó chủ tịch thành phố Hà Nội.
Statistics Of Vietnamese Democide And Mass Murder
Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ VNDCCH ngày 15 tháng 10 năm 1956 về mấy chính sách cụ thể để sửa chữa sai lầm về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.
Nghị quyết của Quốc hội VNDCCH ngày 18 tháng 1 năm 1957 về công tác cải cách ruộng đất.
Từ thực dân đến cộng sản của Hoàng Văn Chí
Ngh Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1945–1975 Nông nghiệp Việt Nam Sự kiện lịch sử Việt Nam Sự kiện kinh tế Việt Nam Chính sách Việt Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Vụ bê bối chính trị ở Việt Nam Kinh tế Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Lịch sử Việt Nam
Bắc Áp bức chính trị tại Việt Nam ị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất
|
17196
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/TW%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
TW (định hướng)
|
TW trong tiếng Việt có thể có các nghĩa:
Viết tắt cho chữ trung ương. Cách viết tắt này tương đương với TƯ. Có người cho rằng kiểu viết tắt này xuất phát từ một quy ước gõ tiếng Việt với Telex.
.tw: mã quốc gia ISO 3166-1 alpha-2 cho Đài Loan trên Internet.
mã IATA cho hãng hàng không TWA, Trans World Airlines
|
17201
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c%20ng%C3%A0y%20l%E1%BB%85%20%E1%BB%9F%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
|
Các ngày lễ ở Việt Nam
|
Các ngày lễ ở Việt Nam được tiến hành theo:
Những ngày lễ và đại lễ được nghỉ
Các ngày lễ sau người lao động được nghỉ và hưởng nguyên lương:
Hội Văn hoá Dân tộc
Một số lễ hội văn hóa của người Kinh:
Những ngày lễ, đại lễ và ngày kỷ niệm khác
Theo dương lịch
Theo âm lịch
Ngoài ra, còn có một số ngày lễ tết âm lịch khác gắn liền với văn hóa tín ngưỡng của dân tộc, có thể kể đến như: Tết ngâu (7 tháng 7 âm lịch); tết hạ nguyên (tết mừng lúa mới) của các dân tộc thiểu số phía bắc, được tổ chức vào rằm tháng 10 hàng năm; Tết thanh minh (thanh minh: trời trong sáng): đi thăm mồ mả của người thân. Tết Thanh minh – thường vào tháng Ba âm lịch – trở thành lễ tảo mộ. Đi thăm mộ, nếu thấy cỏ rậm thì phát quang, đất khuyết lở thì đắp lại cho đầy, v.v. rồi về nhà làm cỗ cúng gia tiên.
Xem thêm
Lễ hội Việt Nam
Lễ hội các dân tộc Việt Nam
Ngày lễ quốc tế
Chú thích
Văn hóa Việt Nam
Sự kiện tại Việt Nam
|
17239
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cafein
|
Cafein
|
Cafein (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp caféine /kafein/),, được gọi theo tiếng latin là cà phê in, theine, mateine, guaranine, methyltheobromine hay 1,3,7-trimethylxanthine, là một xanthine ancaloit có thể tìm thấy được trong các loại hạt cà phê, chè, hạt cola, quả guarana và ca cao.
Công thức phân tử của cafein là C8H10N4O2
Lịch sử
Cafein được tách thành công lần đầu tiên vào năm 1820 bởi nhà hoá học người Đức Friedlieb Ferdinand Runge bằng cách đun các hạt cà phê đã rang và thu lại hơi nước sinh ra. Runge thực hiện sự phân tích này có lẽ là do lời đề nghị của bạn ông ta, nhà thơ Johann Wolfgang von Goethe. Vào ngày 3 tháng 10 năm 1819, sau một cuộc chuyện trò về các loại độc thực vật, Goethe đã chuyển cho Runge một gói hạt cà phê, thứ hàng vào khi đó rất giá trị.
Tính chất
Khối lượng mol của cafein là 194,2 g. Ở nhiệt độ bình thường một lít nước chỉ hoà tan 20 g cafein, trong khi một lít nước sôi hoà tan tới 700 g. Cafein cũng tan nhiều trong chloroform, tuy nhiên lại chỉ tan một phần trong êtanol.
Cafein rất giống với hai hợp chất khác là theophyllin, chất được sử dụng để điều trị bệnh suyễn, và theobromin, thành phần chính của ca cao.
Nguồn cung cấp
Cà phê
Một tách cà phê (250 ml) chứa khoảng 40–170 mg cafein
Một tách cà phê tan chứa khoảng 40–100 mg
Một tách cà phê loại bỏ cafein vẫn chứa khoảng 3–5 mg
Một tách nhỏ (50 ml) espresso arabica chứa khoảng 60 mg
Một tách nhỏ (50 ml) espresso robusta chứa khoảng 170 mg
Chè
Chè đen (Mỹ) 17 – 75 mg/200 ml
Chè đen (nước khác) 20 – 100 mg/200 ml
Chè xanh 8–30 mg mỗi túi nhỏ (pha được một tách 150-250 ml)
Chè tuyết 6–25 mg mỗi túi nhỏ (pha được một tách 150-250 ml)
Trước đây người ta gọi cafein trong trà là theine hay teine. Tuy nhiên trà không chứa các hợp chất khác của cà phê như xanthine, theophylline.
Các loại khác
Nước uống tăng lực như Red Bull chứa khoảng 80 mg cafein trong một lon 250 ml.
Cola: 30–60 mg/500 ml, trước kia loại đồ uống này chứa cafein lấy từ hạt cola, ngày nay cola thường được pha với cafein nhân tạo, hoặc cũng dùng cafein tự nhiên, nhưng là từ hạt cà phê.
Rượu tonic: 375 mg/lít.
Cacao chứa một lượng nhỏ cafein (khoảng 6 mg một tách), còn chủ yếu là theobromin.
Sôcôla tùy theo loại có thể chứa từ 15 mg đến 90 mg/100 g, ngoài ra còn có theobromin và nhiều chất phụ khác.
Một viên Aspirin forte chứa khoảng 50 mg cafein, còn loại aspirin bình thường thì không chứa chất này.
Một viên cafein chứa khoảng 100–300 mg cafein.
Ảnh hưởng của cafein
Cafein khi dùng với liều lượng nhiều gây ra các ảnh hưởng sau:
Căng thẳng thần kinh
Hưng phấn
Tăng huyết áp
Giãn nở phế quản
Lợi tiểu (từ 300 mg/ngày trở lên)
Kích thích nhu động ruột
Mất ngủ
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) không xếp cafein vào nhóm các chất gây nghiện. Đến nay vẫn không có dấu hiệu gì rõ ràng chứng minh cafein nguy hại đến sức khoẻ, ngay cả những trường hợp sử dụng thường xuyên cafein trong thời gian dài. Tuy nhiên việc dùng cafein nhiều có thể dẫn tới sự phụ thuộc về tâm lý, trong trường hợp này mùi vị cà phê, khẩu vị người uống và truyền thống cũng đóng một vai trò quan trọng.
Sự phụ thuộc vào cafein có thể dẫn tới các biểu hiện như nhức đầu, căng thẳng, run rẩy, hồi hộp, thiếu tập trung, cáu giận. Cơ thể cần khoảng 3 ngày để loại bỏ cafein, sau thời gian này những tác dụng phụ trên sẽ hoàn toàn mất đi. Nếu dùng cafein với liều lượng cao có thể làm tăng nhịp tim và lợi tiểu. Tuy vậy, nếu uống những loại đồ uống chậm giải phóng cafein như guarana hay chè đen thì có thể hạn chế được các ảnh hưởng tiêu cực của cafein cũng như tận dụng được các tác dụng của nó.
Cafein có chứa trong sôcôla hay chè đen không hẳn là vô hại đối với trẻ em: ví dụ như lượng cafein có trong 3 lon cola và 3 thanh sôcôla cũng tương đương với lượng cafein trong 2 tách cà phê (khoảng 200 mg). Một đứa trẻ nặng 30 kg nếu dùng một liều lượng tương đương 7 mg/1 kg cơ thể có thể bị căng thẳng và mất ngủ.
Cafein có trong danh sách doping của Ủy ban Thế vận hội Quốc tế (IOC). Tuy nhiên, hàm lượng tiếp thu vào trong người đủ để bị cấm là rất cao, vì vậy các vận động viên có thể uống cà phê trong bữa sáng.
Liều gây độc LD-50 của cafein (là lượng cafein có thể làm chết 50% dân số) khoảng 10 g, tương đương với 100 tách cà phê. LD-50 của cafein cho một con chuột cống nặng 1 kg là 381 mg.
Được biết rằng, nước bưởi có khả năng kéo dài thời gian bán huỷ của cafein, bởi chất đắng trong quả bưởi sẽ kìm hãm quá trình trao đổi chất của cafein trong gan.
Cơ chế tác động
Cafein gây ra sự hưng phấn và kéo dài thời gian tỉnh táo bằng cách ngăn cản hoạt động bình thường của adenosine và phosphodiesterase.
Adenosine được tạo ra trong quá trình hoạt động của cơ thể. Khi nồng độ đủ cao, nó sẽ gắn với receptor (thụ thể) làm cho hệ thần kinh phát ra tín hiệu nghỉ ngơi dẫn đến sự mệt mỏi và buồn ngủ. Do có cấu trúc phân tử gần giống nhau, cafein cạnh tranh với adenosine trong việc liên kết với receptor đặc hiệu. Điều này làm hệ thần kinh sẽ chỉ đạo cho cơ thể tiếp tục làm việc thay vì phát ra tín hiệu nghỉ ngơi.
Cafein cũng ngăn chặn phosphodiesterase không cho phân giải chất truyền tin thứ cấp cAMP, do đó tín hiệu hưng phấn do andrenalin tạo ra được khuếch đại rồi duy trì dài hơn bình thường. Điều này làm các tế bào trong cơ tăng hiệu quả đáp ứng với adrenalin nghĩa là duy trì sự hưng phấn của não bộ, làm ta thấy tỉnh táo vào buổi sáng hoặc mất ngủ vào buổi tối.
Caffeinol
Theo nghiên cứu mới nhất thì sự kết hợp giữa cồn và cafein là một phương cách hữu hiệu để trị chứng đột quỵ. Sinh viên y khoa James Grotta thuộc Đại học Texas ở Houston cùng với đồng nghiệp đã tiêm cho tổng cộng 23 bệnh nhân chất caffeinol và rút ra kết luận rằng chất này có hiệu quả điều trị tốt đối với các thương tổn ở não gây ra bởi chứng đột quỵ.
Tham khảo
Hợp chất hữu cơ
Cà phê
Xanthine
Chất ức chế phosphodiesterase
Từ gốc Pháp
|
17264
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%99%20%C4%91%E1%BB%8Bnh%20tuy%E1%BA%BFn
|
Bộ định tuyến
|
Bộ định tuyến, thiết bị định tuyến (tiếng Anh: router) là thiết bị mạng chuyển tiếp gói dữ liệu giữa các mạng máy tính. Bộ định tuyến thực hiện các chức năng định hướng lưu lượng trên Internet. Dữ liệu được gửi qua internet, chẳng hạn như trang web hoặc email, ở dạng gói dữ liệu. Một gói tin thường đượcchuyển tiếp từ một bộ định tuyến đến một bộ định tuyến khác thông qua các mạng cấu thành liên mạng (ví dụ: Internet) cho đến khi nó đến nút mạng.
Bộ định tuyến được kết nối với hai hoặc nhiều đường dữ liệu từ các mạng IP khác nhau. Khi một gói dữ liệu đến trên một trong các dòng, bộ định tuyến đọc thông tin địa chỉ mạng trong tiêu đề gói để xác định đích cuối cùng. Sau đó, sử dụng thông tin trong bảng định tuyến (routing table) hoặc chính sách định tuyến (routing policy) của nó, nó hướng gói tin đến mạng tiếp theo trên hành trình của nó.
Loại bộ định tuyến IP quen thuộc nhất là bộ định tuyến gia đình và văn phòng nhỏ chỉ chuyển tiếp gói IP liên kết có chủ đích tới disambig, có thể là IPv4 hoặc IPv6 giữa máy tính gia đình và Internet. Các bộ định tuyến phức tạp hơn, chẳng hạn như bộ định tuyến doanh nghiệp, kết nối các mạng doanh nghiệp hoặc ISP lớn với bộ định tuyến lõi mạnh mẽ chuyển tiếp dữ liệu ở tốc độ cao dọc theo các đường cáp quang của Internet backbone.
Các ứng dụng
Bộ định tuyến có thể có các giao diện cho các loại kết nối lớp vật lý khác nhau, chẳng hạn như cáp đồng, cáp quang hoặc truyền không dây. Nó cũng có thể hỗ trợ các tiêu chuẩn truyền tầng mạng khác nhau. Mỗi giao diện mạng được sử dụng để cho phép các gói dữ liệu được chuyển tiếp từ hệ thống truyền dẫn này sang hệ thống truyền dẫn khác. Bộ định tuyến cũng có thể được sử dụng để kết nối hai hoặc nhiều nhóm thiết bị máy tính hợp lý được gọi là mạng con, mỗi nhóm có một tiền tố mạng khác nhau.
Công dụng
Theo cách nói thông thường, một router hoạt động như một liên kết giữa hai hoặc nhiều mạng và chuyển các gói dữ liệu giữa chúng. Router dựa vào bảng định tuyến (routing table) để tìm đường đi cho gói dữ liệu. Bảng định tuyến được quản trị mạng cấu hình tĩnh (static), nghĩa là được thiết lập 1 lần và thường do quản trị mạng nhập bằng tay, hoặc động (dynamic), nghĩa là bảng tự học đường đi và nội dung tự động thay đổi theo sự thay đổi của tô pô mạng. Một cách giúp xây dựng bảng định tuyến là theo hướng dẫn của CCNA.
Router không phải một thiết bị chuyển mạch (network switch).
Truy cập, cốt lõi và phân phối
Bộ định tuyến truy cập, bao gồm các kiểu văn phòng nhỏ/văn phòng tại nhà (SOHO), được đặt tại nhà và các địa điểm của khách hàng, chẳng hạn như văn phòng chi nhánh không cần định tuyến phân cấp của riêng họ. Thông thường, chúng được tối ưu hóa để có chi phí thấp. Một số bộ định tuyến SOHO có khả năng chạy chương trình cơ sở dựa trên Linux miễn phí thay thế như Tomato, OpenWrt hoặc DD-WRT.
Bảo mật
Mạng bên ngoài phải được xem xét cẩn thận như một phần của chiến lược bảo mật tổng thể của mạng cục bộ. Bộ định tuyến có thể bao gồm khả năng xử lý tường lửa, VPN và các chức năng bảo mật khác hoặc chúng có thể được xử lý bởi các thiết bị riêng biệt. Bộ định tuyến cũng thường thực hiện dịch địa chỉ mạng để hạn chế các kết nối được khởi tạo từ các kết nối bên ngoài nhưng không được tất cả các chuyên gia công nhận là một tính năng bảo mật. Một số chuyên gia cho rằng bộ định tuyến mã nguồn mở an toàn và đáng tin cậy hơn bộ định tuyến mã nguồn đóng vì bộ định tuyến nguồn mở cho phép nhanh chóng tìm ra và sửa chữa các lỗi.
Lịch sử
Khái niệm về Giao diện máy tính được Donald Davies đề xuất lần đầu tiên cho mạng NPL vào năm 1966. Ý tưởng tương tự đã được Wesley Clark hình thành vào năm sau để sử dụng trong ARPANET. Được đặt tên là Interface Message Processors (IMP), những máy tính này về cơ bản có chức năng giống như bộ định tuyến ngày nay. Ý tưởng về một bộ định tuyến (được gọi là gateway vào thời điểm đó) ban đầu xuất hiện thông qua một nhóm các nhà nghiên cứu mạng máy tính quốc tế có tên là International Networking Working Group (INWG). Thành lập vào năm 1972 như một nhóm không chính thức để xem xét các vấn đề kỹ thuật liên quan đến việc kết nối các mạng khác nhau, nhóm đã trở thành một tiểu ban của Liên đoàn Quốc tế về Xử lý Thông tin vào cuối năm đó. Các thiết bị cổng này khác với hầu hết các sơ đồ chuyển mạch gói trước đây theo hai cách. Đầu tiên, họ kết nối các loại mạng khác nhau, chẳng hạn như đường dây nối tiếp và mạng cục bộ. Thứ hai, chúng là các thiết bị không có kết nối, không có vai trò đảm bảo rằng lưu lượng truy cập được phân phối một cách đáng tin cậy, để lại hoàn toàn chức năng đó cho các máy chủ. Ý tưởng cụ thể này, nguyên tắc end-to-end, trước đây đã được tiên phong trong mạng CYCLADES.
Xem thêm
Modem băng thông rộng di động
Modem
Bộ phát wifi
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Định tuyến
Kiến trúc Internet
Phần cứng mạng
|
17265
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C3%A0nh%20%C4%91ai%20l%E1%BB%ADa%20Th%C3%A1i%20B%C3%ACnh%20D%C6%B0%C6%A1ng
|
Vành đai lửa Thái Bình Dương
|
Vành đai lửa Thái Bình Dương, được gọi đầy đủ là Vành đai núi lửa Thái Bình Dương là 1 khu vực hay xảy ra động đất và các hiện tượng phun trào núi lửa bao quanh vòng lòng chảo Thái Bình Dương. Nó có hình dạng tương tự vành móng ngựa và dài khoảng 40.000 km. Nó gắn liền với 1 dãy liên tục các rãnh đại dương, vòng cung quần đảo, các dãy núi lửa và/hoặc sự chuyển động của các mảng kiến tạo. Đôi khi nó còn được gọi là vành đai địa chấn Thái Bình Dương.
Khoảng 71% các trận động đất có cường độ mạnh nhất thế giới diễn ra tại vành đai lửa này. Vành đai Anpơ, kéo dài từ Java tới Sumatra qua dãy núi Himalaya, Địa Trung Hải và tới tận Đại Tây Dương chiếm khoảng 17%, còn vành đai sống núi giữa Đại Tây Dương là vành đai chiếm vị trí thứ 3 về động đất.
Vành đai lửa Thái Bình Dương là hệ quả trực tiếp của các hoạt động kiến tạo địa tầng và của sự chuyển động và va chạm của các mảng lớp vỏ Trái Đất. Phần phía Đông của vành đai này là kết quả của sự chìm lún xuống dưới của các mảng Nazca và mảng Cocos do sự chuyển động về phía Tây của mảng Nam Mỹ. Một phần của mảng Thái Bình Dương cùng với mảng kiến tạo nhỏ Juan de Fuca cũng đang bị chìm lún xuống dưới mảng Bắc Mỹ. Dọc theo phần phía Bắc thì chuyển động theo hướng Tây Bắc của mảng Thái Bình Dương đang làm nó chìm lún xuống dưới vòng cung quần đảo Aleutia. Xa hơn nữa về phía Tây thì mảng Thái Bình Dương cũng đang bị lún xuống dưới dọc theo vòng cung Kamchatka - quần đảo Kuril trên phần phía Nam Nhật Bản. Phần phía nam của vành đai này là phức tạp hơn với 1 loạt các mảng kiến tạo nhỏ đang va chạm với mảng kiến tạo Thái Bình Dương từ khu vực quần đảo Mariana, Philippines, Bougainville, Tonga và New Zealand. Indonesia nằm giữa vành đai lửa Thái Bình Dương (chạy dọc theo các đảo phía Đông Bắc, gần với và bao gồm cả New Guinea) và vành đai Anpơ (chạy dọc theo phía Nam và Tây từ Sumatra, Java, Bali, Flores và Timor). Trận động đất tháng 12/2004 gần bờ biển Sumatra trên thực tế thuộc một phần của vành đai Anpơ. Khu vực đứt gãy San Andreas nổi tiếng và đang hoạt động gần California là đứt gãy chuyển dạng đang bù lại một phần của đới nâng đông Thái Bình Dương dưới khu vực Tây Nam Hoa Kỳ và México.
1 loạt các vùng đất và các điểm đặc trưng của đại dương nằm trong vành đai lửa Thái Bình Dương, liệt kê theo chiều kim đồng hồ:
New Zealand
Rãnh Kermadec
Rãnh Tonga
Rãnh Bougainville
Indonesia
Philippines
Rãnh Philippines
Rãnh Yap
Rãnh Mariana
Rãnh Izu Bonin
Rãnh Lưu Cầu
Nhật Bản
Rãnh Nhật Bản
Rãnh Kuril-Kamchatka
Bán đảo Kamchatka
Quần đảo Aleutia
Rãnh Aleutia
Alaska
Dãy núi Cascade
California
México
Rãnh Trung Mỹ
Guatemala
Colombia
Ecuador
Peru
Chile
Hoạt động động đất ở Chile có liên quan đến quá trình di chuyển mảng Nazca ở phía Đông. Chile đặc biệt là giữ kỷ lục về trận động đất lớn nhất từng được ghi nhận, trận động đất năm 1960 Valdivia. Villarrica, 1 trong những núi lửa hoạt động mạnh nhất của Chile, lên trên Hồ Villarrica và thị trấn Villarrica. Đây là phía Tây của 3 núi lửa lớn mà xu hướng vuông góc với chuỗi Andean. 1 miệng núi lửa rộng 6 km hình thành trong cuối kỷ Pleistocene, > 0,9 triệu năm trước.
Chile đã trải qua rất nhiều núi lửa phun trào từ núi lửa 60, bao gồm núi lửa Llaima và núi lửa Chaitén. Gần đây hơn, 1 trận động đất 8,8 độ richter xảy ra miền trung Chile vào ngày 27/2/2010, núi lửa Puyehue-Cordon Caulle phun trào vào năm 2011 và 1 trận động đất 8,2 độ richter xảy ra phía bắc Chile vào ngày 1/4/2014, các mainshock được đi trước bởi một số lượng vừa phải những cú sốc lớn và được theo sau bởi một số lượng lớn các cơn dư chấn từ trung bình đến rất lớn, bao gồm cả sự kiện M7.6 vào ngày 3 tháng 4. [10]
Bolivia
Nước Bolivia có rất nhiều núi lửa đang hoạt động và ngừng hoạt động trên toàn lãnh thổ của mình. Các núi lửa hoạt động nằm ở phía Tây Bolivia, nơi được tạo nên Tây Cordillera, giới hạn phía tây của cao nguyên Altiplano. Nhiều người trong số các núi lửa hoạt động là núi "quốc tế chia sẻ" với Chile. Tất cả núi lửa Kainozoi của Bolivia là một phần của núi lửa Khu Trung (CVZ) của Andean đai núi lửa mà kết quả do quá trình tham gia trong quá trình di chuyển mảng Nazca dưới mảng Nam Mỹ. Núi lửa Khu Trung là 1 tỉnh núi lửa Kainozoi trên chính. [11] Ngoài núi lửa Andean, địa chất của Bolivia còn có núi lửa cổ xưa ở Tiền Cambri, Guaporé lá chắn ở phía đông của đất nước.
Trung Mỹ
Costa Rica
Một trận động đất mạnh, cường độ 7.6 làm rung chuyển Costa Rica và một vùng rộng lớn ở Trung Mỹ tại 08:42 (10:42 EDT; 1442 GMT) hôm 9/5/2012.
Nhật Bản và Ecuador
1 trận động đất với cường độ 7 tại đảo Kyushu đã xảy ra vào ngày 16/4/2016 (tiền chấn vào 2 ngày trước với cường độ 6,2) và ở Ecuador với cường độ 7,8 cùng ngày. Tuy cùng nằm trên Vành đai lửa Thái Bình Dương, nhưng trên 2 mảng kiến tạo khác, cách nhau rất xa, nên các nhà khoa học theo kiến thức hiện tại cho là chỉ tình cờ, chứ không liên quan với nhau.
Liên kết ngoài
Các trận động đất lịch sử & thống kê động đất tại USGS
"Vành đai lửa Thái Bình Dương", kiến tạo địa tầng, khu vực mở rộng đáy biển, các khu vực lún xuống, "các điểm nóng" - USGS
Bản đồ vành đai lửa Thái Bình Dương
Tham khảo
Kiến tạo mảng
Địa chấn học
Điểm cực Trái Đất
Núi lửa Thái Bình Dương
Núi lửa học
Địa lý châu Đại Dương
|
17267
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C3%A3nh%20Nh%E1%BA%ADt%20B%E1%BA%A3n
|
Rãnh Nhật Bản
|
Rãnh Nhật Bản là một rãnh đại dương, một phần của vành đai núi lửa Thái Bình Dương, trên phần đáy phía bắc của Thái Bình Dương ngoài bờ biển phía đông bắc Nhật Bản. Nó kéo dài từ quần đảo Kuril tới quần đảo Bonin và có độ sâu lớn nhất là 9.000 m (30.000 ft).
Vào ngày 11 tháng 8 năm 1989 tàu ngầm Shinkai 6500 có sức chứa 3 người đã lặn tới độ sâu 6.526 m (21.414 ft) trong khi thám hiểm rãnh Nhật Bản.
Xem thêm
Danh sách các rãnh đại dương
Vành đai núi lửa Thái Bình Dương
Tham khảo
Liên kết ngoài
Địa mạo Nhật Bản
Rãnh Thái Bình Dương
Khu vực hút chìm
|
17268
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C3%A3nh%20Ryukyu
|
Rãnh Ryukyu
|
Rãnh Ryukyu là một rãnh đại dương dài khoảng 2250 km (1.398 dặm) chạy theo hướng bắc nam dọc theo rìa phía đông của quần đảo Ryukyu thuộc Nhật Bản thuộc biển Philipin. Nó nằm giữa Đài Loan và Nhật Bản. Rãnh đại dương này nằm dưới độ sâu 5.212 m (24.629 ft).
Rãnh này còn được gọi là rãnh Nansei-Shoto, lấy theo tên gọi khác trong tiếng Nhật của quần đảo Ryukyu.
Xem thêm
Danh sách các rãnh đại dương
Tham khảo
Rãnh đại dương
Lịch sử tự nhiên Đài Loan
Lịch sử tự nhiên Nhật Bản
Quần đảo Ryukyu
|
17269
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/R%C3%A3nh%20Kuril-Kamchatka
|
Rãnh Kuril-Kamchatka
|
Rãnh Kuril-Kamchatka hay rãnh Kuril là một rãnh đại dương với độ sâu tối đa đạt tới 10.500 m (34.000 ft).
Rãnh này là kết quả của khu vực lún xuống được tạo ra vởi vòng cung quần đảo Kuril. Ở đây, mảng Thái Bình Dương bị lún xuống bên dưới mảng Okhotsk, tạo ra các hoạt động mạnh của sự phun trào núi lửa.
Xem thêm
Danh sách các rãnh đại dương
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lịch sử địa chất Okhotsk
Kamchatka
Rãnh Thái Bình Dương
Địa mạo Quần đảo Kuril
Địa mạo châu Á
Bán đảo Kamchatka
Địa mạo Nga
Địa chất Viễn Đông Nga
Địa mạo tỉnh Sakhalin
Khu vực hút chìm
|
17273
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng%20Kamchatka
|
Sông Kamchatka
|
Sông Kamchatka (tiếng Nga: Камчатка река) (còn được biết đến như là sông Jopanova) ở thượng nguồn gọi là Ozjornaia Kamchatka, chảy về hướng đông với chiều dài 758 km (451 dặm) xuyên qua tỉnh Kamchatka ở miền Viễn Đông nước Nga về phía Thái Bình Dương với diện tích lưu vực khoảng 55.900 km². Con sông này có nhiều cá hồi, hàng triệu con đẻ trứng mỗi năm và nó đã từng là nguồn thực phẩm quan trọng của người Itelmen bản địa.
Dòng chảy
Ở thượng nguồn nó là một con sông chảy trong vùng núi; trên lòng sông có nhiều chỗ cạn và thác ghềnh, tiếp theo đó sông này chảy trong vùng bình nguyên miền trung Kamchatka, có lòng rất quanh co uốn khúc, một vài chỗ bị phân chia ra thành các nhánh. Vượt qua từ phía bắc dãy núi Kljuchevskaia Sopka, con sông này ngoặt về hướng đông; tại hạ lưu nó cắt ngang dãy núi Kumrotch. Nó đổ ra vịnh Kamchatka của Thái Bình Dương. Tại cửa sông là cảng Usti-Kamchatsk.
Tham khảo
Kamchatka
Kamchatka
|
17274
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paul%20Martin
|
Paul Martin
|
Paul Edgar Philippe Martin (sinh ngày 28 tháng 8 năm 1938 tại Windsor, Ontario) là Thủ tướng thứ 21 của Canada, tiếp nối Jean Chrétien vào ngày 12 tháng 12 năm 2003. Martin cũng là lãnh tụ (leader) của Đảng Tự do của Canada và dẫn đầu một chính phủ thiểu số từ ngày 28 tháng 6 năm 2004 đến ngày 6 tháng 2 năm 2006, chính phủ thiểu số đầu tiên của Canada sau 24 năm.
Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống trong chính trường Canada. Cha ông, Paul Martin, Sr. đã nhiều lần nắm chức vụ bộ trưởng trong chính phủ và có một thời gian, ông được xem là người có triển vọng để tranh chức Thủ tướng Canada.
Paul Martin tốt nghiệp khoa luật tại Đại học Toronto và nhận được giấy phép hành nghề của luật sư đoàn Ontario vào năm 1966. Trước khi tham gia chính trị, ông có một quãng thời gian hoạt động tương đối thành công trong lĩnh vực tư nhân khi ông là nhân viên cao cấp của công ty Power Corporation of Canada rồi Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành của công ty Canada Steamship Lines.
Bắt đầu tham gia chính trị vào giữa thập niên 1980, ông được bầu vào Hạ nghị viện đại diện cho đơn vị cử tri LaSalle-Émard (thuộc Montréal, Québec) vào năm 1988. Năm 1990, ông thất bại trong việc ra tranh chức lãnh tụ đảng Tự do. Từ đó cho đến khi được bầu làm Thủ tướng, ông luôn giữ những vai trò nổi bật trên chính trường Canada. Là một trong những nhân tố quyết định trong thắng lợi của đảng Tự do tại cuộc bầu cử năm 1993, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Tài chính trong chính phủ của Jean Chrétien. Có thể nói ông đã đảm nhiệm vị trí này một cách rất xuất sắc. Trong thời gian ông đứng đầu Bộ Tài chính, ngân sách Canada đã giảm được 42 tỷ đô la tiền thâm hụt, trả được 34 tỷ đô la tiền nợ và có năm kỳ liên tục có số dư. Vào năm 2002, ông lại ra ứng cử vào vị trí lãnh tụ đảng Tự do đồng nghĩa với việc sẽ là ứng cử viên của đảng vào cuộc bầu cử năm 2003, ông thắng trong cả hai cuộc bỏ phiếu trên.
Cuối tháng 11 năm 2005, sau một số vụ bê bối, chính phủ của ông bị lật đổ sau khi thua phiếu bất tín nhiệm. Trong cuộc bầu cử toàn quốc xảy ra vào ngày 23 tháng 1 năm 2006, đảng Tự do của ông bị thua đảng Bảo thủ, và ông tuyên bố từ chức thủ tướng để cho lãnh tụ của đảng Bảo thủ, Stephen Harper, thành lập chính phủ mới.
Ông kết hôn với bà Sheila Ann Cowan từ năm 1965 và họ đã có với nhau ba người con trai, Paul sinh năm 1966, Jamie kém ông anh trai của mình 3 tuổi và người trẻ nhất, David, sinh năm 1974.
Xem thêm
Thủ tướng Canada
Tham khảo
Liên kết ngoài
Tiểu sử từ Thư viện Nghị viện Canada
Prime Minister of Canada - Premier ministre du Canada
Bộ trưởng Tài chính Canada
Martin, Paul
Luật sư Canada
Cựu sinh viên Đại học Toronto
|
17291
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%A1n%20%C4%91%E1%BA%A3o%20Kamchatka
|
Bán đảo Kamchatka
|
Bán đảo Kamchatka (phiên âm tiếng Việt: Bán đảo Cam-sát-ca; , Poluostrov Kamchatka) là một bán đảo dài khoảng 1.250 km ở miền Viễn Đông nước Nga, với diện tích khoảng 472.300 km². Nó nằm giữa Thái Bình Dương (về phía đông) và biển Okhotsk (về phía tây). Ngoài khơi bán đảo này về phía Thái Bình Dương là rãnh Kuril-Kamchatka với độ sâu lớn nhất là 10.500 m.
Bán đảo Kamchatka, quần đảo Commander, đảo Karaginsky tạo thành vùng Kamchatka của Nga. Phần lớn trong số 322.079 cư dân là người Nga, và dân tộc thiểu số lớn nhất là người Koryak sinh sống ở quận tự trị Koryakia nằm ở phía bắc bán đảo với khoảng 13.000 người (2014).
Bán đảo Kamchatka nổi tiếng với 160 núi lửa, 19 trong số đó được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Bán đảo cũng là nơi nhận lượng mưa lên tới 2.700 mm (110 in) mỗi năm.
Địa lý
Về địa lý, bán đảo là một phần của vùng Kamchatka. Điểm cực nam của bán đảo là mũi Lopatka. Trên bờ biển phía đông nam của bán đảo là vịnh Avacha và thủ phủ cũng là thành phố lớn nhất của vùng, Petropavlovsk-Kamchatsky. Về phía bắc, nhô ra Thái Bình Dương là bốn bán đảo Shipunsky Point, Kronotsky Point, Point Kamchatsky và Ozernoy Point. Phía bắc của Ozernoy là vịnh Karaginsky cùng với đảo Karaginsky nằm trong đó. Xa về phía đông bắc của vịnh Karaginsky là vịnh Korfa với thị trấn TIlyichiki. Nằm ở phía đối diện là vịnh Shelikhov, là một phần của Biển Okhotsk.
Dãy Kamchatka hay Sredinny tạo thành xương sống của bán đảo. Dọc theo bờ biển phía đông nam là dãy Vostochny. Giữa hai dãy này là thung lũng trung tâm. Sông Kamchatka ở phía tây bắc của Avachinsky chảy về phía bắc xuống thung lũng trung tâm, chuyển hướng sang phía đông gần Klyuchi, Kamchatka để đổ vào Thái Bình Dương ở phía nam Kamchatsky Point tại Ust-Kamchatsk. Trong thế kỷ XIX, một đường mòn gần Klychi, qua các ngọn núi tới sông Tegil và thị trấn đó là trung tâm thương mại chính trên bờ biển phía tây. Bắc của Tegil là Koryak Okrug. Phía nam của Tegil là sông Icha. Ngay phía nam thượng nguồn của sông Kamchatka, con đường sông Bistraya phía tây nam dẫn vào biển Okhotsk ở Bolsheretsk, đã từng phục vụ như là một con đường nối bán đảo tới biển Okhotsk. Phía nam của Bistraya là sông Golygina.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô đã thử nghiệm tầm xa và độ chính xác các loại tên lửa của mình bằng cách phóng chúng từ các khu vực tiêu chuẩn và sử dụng bán đảo Kamchatka như là khu vực của các mục tiêu.
Đầu tháng 8 năm 2005, tàu ngầm cứu hộ AS-28 cấp Priz của Hải quân Nga đã bị mắc nạn gần Kamchatka và chìm xuống đáy biển, Nga đã phải yêu cầu sự hỗ trợ quốc tế để cứu thủy thủ đoàn.
Xem thêm
Động đất Kamchatka
Các núi lửa của Kamchatka
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bản đồ trên Google
Bán đảo Nga
Địa lý Đông Bắc Á
Địa mạo vùng Kamchatka
Địa mạo Viễn Đông Nga
Địa mạo biển Okhotsk
Bán đảo châu Á
Bờ biển Thái Bình Dương của Nga
Di sản thế giới tại Nga
|
17299
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cung%20n%C3%BAi%20l%E1%BB%ADa
|
Cung núi lửa
|
Cung núi lửa là một dãy các đảo núi lửa hay các núi nằm gần rìa các lục địa được tạo ra như là kết quả của sự lún xuống của các mảng kiến tạo. Sự lún xuống tạo ra các vòng cung này bằng cách tạo ra macma khi một mảng kiến tạo bị lún xuống dưới một mảng kiến tạo khác chui vào quyển mềm của lớp phủ. Các lớp macma bị đẩy lên trên bề mặt thông qua lớp vỏ Trái Đất, phun trào ra mặt đất và tạo thành các núi lửa.
Một số ý kiến khác khá phổ biến cho rằng vỏ đại dương nóng chảy có lẽ không phải là nguồn của các loại dung nham nóng chảy phun trào cùng với vòng cung núi lửa. Mảng kiến tạo bị lún xuống mang theo nó một loạt trầm tích và bazan bị biến đổi, cả hai đều có nhiều nước và các chất dễ bay hơi khác. Khi mảng kiến tạo bị lún ngày càng sâu hơn thì các chất dễ bay hơi này được giải phóng và bị đẩy lên trên. Chúng làm cho điểm nóng chảy của phần đá bên trên của lớp phủ (lớp đệm giữa hai đĩa) bị giảm xuống và macma được tạo ra. Lớp macma này có nguồn gốc từ quyển mềm và chứa nhiều chất dễ bay hơi từ mảng kiến tạo bị lún xuống (có lẽ nó cũng bị hòa lẫn với một chút các tạp chất của lớp vỏ nằm trên) và phun trào ra tạo thành cung núi lửa.
Phân loại cung núi lửa
Có hai loại cung núi lửa chính:
Cung đảo núi lửa hay cung đảo được tạo ra khi một vỏ đại dương bị hút chìm dưới một vỏ đại dương khác. Quần đảo Mariana phía tây Thái Bình Dương và Tiểu Antilles phía tây Đại Tây Dương.
Cung núi lửa lục địa được tạo ra khi vỏ đại dương bị hút chìm dưới vỏ lục địa. Dãy núi Cascade ở miền tây Bắc Mỹ, và Dãy núi Andes chạy dọc theo rìa phía tây của Nam Mỹ là các ví dụ về cung núi lửa lục địa.
Có một số trường hợp ngoại lệ tạo thành từ cả hai loại trên khi một phần của mảng kiến tạo chìm xuống bên dưới vỏ lục địa và bên dưới của một vỏ đại dương lân cận. Ví dụ điển hình về kiểu vòng cung loại này là quần đảo Aleutia và phần kéo dài của chúng là dãy núi Aleutia trên bán đảo Alaska, gồm một dãy các đảo và núi kéo dài khoảng 2.500 km từ bán đảo Alaska tới quần đảo Near. Vòng cung này chứa khoảng 80 trung tâm núi lửa chính, gần một nửa trong số đó đã từng hoạt động trong quá khứ, và cung Kuril-Kamchatka bao gồm quần đảo Kuril và phía nam bán đảo Kamchatka.
Danh sách các cung núi lửa
Các cung núi lửa lục địa
Dãy núi Cascade
Bán đảo Alaska và dãy núi Aleutia
Dãy núi Kamchatka
Dãy núi Andes
Dãy núi Trung Mỹ
Các cung đảo núi lửa
Quần đảo Aleutia
Quần đảo Kuril
Nhật Bản và Quần đảo Ryukyu
Vòng cung Izu-Bonin-Mariana:
Quần đảo Izu
Quần đảo Bonin
Quần đảo Mariana
Quần đảo Philippine
Tonga và Quần đảo Kermadec
Crete và Dodecanese
Andaman và Quần đảo Nicobar
Quần đảo Mentawai
Cung đảo Sunda
Quần đảo Lesser Sunda
Tanimbar và Quần đảo Kai
Quần đảo Solomon
Cung núi lửa Nam Aegean
Lesser Antilles, gồm cả Leeward Antilles
Cung núi lửa Scotia:
Quần đảo South Sandwich
Quần đảo Mascarene
Các cung đảo cổ
Quần đảo Insular
Quần đảo Intermontane
Cung đảo Sakhalin
Xem thêm
Bồn trũng sau cung đảo
Vành đai núi lửa
Tham khảo
Núi lửa và đới hút chìm
Kiến tạo và núi lửa ở Nhật Bản
USGS: Núi lửa ở cung đảo, đại dương và lục địa
Kiến tạo mảng
Quần đảo
Địa mạo đại dương và duyên hải
|
17302
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Caf%C3%A9%20au%20lait
|
Café au lait
|
Café au lait (; ; "Cà phê với sữa" trong Tiếng Pháp) là loại cà phê sữa pha theo kiểu Pháp. Người ta pha café au lait bằng cách thêm sữa nóng vào cà phê espresso "gấp đôi" (espresso doppio) hoặc cà phê espresso "kéo dài" (espresso lungo), hoặc cũng có thể là cà phê phin. Café au lait được đựng trong một cái tách lớn được gọi là bol. Loại cà phê này hay được dùng trong bữa sáng và thường không tìm thấy ở các quán cà phê. Theo một hủ tục, bánh sừng bò cũng như các loại bánh khác dùng để nhúng vào café au lait không xứng với truyền thống của quán cà phê.
Trong các quán ăn ở Pháp thì café thường dùng để chỉ loại espresso của Ý hơn là loại cà phê phin của Pháp, café crème sẽ có thêm một ít sữa ấm hoặc kem sữa.
Các biến thể
Châu Âu
Ở châu Âu, café au lait bắt nguồn từ truyền thống lục địa giống như caffè latte ở Ý, café con leche ở Tây Ban Nha, kawa biała ("cà phê trắng") ở Ba Lan, Milchkaffee ("cà phê sữa") ở Đức, tejeskávé ở Hungary, koffie verkeerd ở Hà Lan và Flanders, và café com leite ("cà phê với sữa") ở Bồ Đào Nha và Brazil. trong một ly, chẳng hạn như meia de leite hoặc galão. Ở Ý, nhiều biến thể đi từ caffè latte đơn giản đến latte macchiato đến cappuccino. Trong cả hai ngôn ngữ Ý và Bồ Đào Nha, có rất nhiều thuật ngữ phức tạp hơn để làm rõ độ mạnh của cà phê, cách rang của nó, độ ấm mong muốn, ... Ở các khu vực nói tiếng Pháp của Thụy Sĩ, một biến thể phổ biến là café renversé, hoặc thường chỉ là renversé, pha bằng cách lấy cốc sữa và thêm cà phê espresso, ngược lại với phương pháp pha cà phê thông thường. Ở Andalusia, miền Nam Tây Ban Nha, một biến thể tương tự được gọi là manchado ("nhuộm màu"). Ở Bắc Âu, café au lait là tên thường được sử dụng trong các quán cà phê.
Tại nhà, café au lait có thể được pha chế từ café đậm và sữa đun nóng; trong các quán cà phê, nó được pha bằng máy pha cà phê espresso và sữa hấp kể từ khi những máy này có mặt vào những năm 1940 — do đó nó chỉ đơn thuần đề cập đến sự kết hợp "cà phê và sữa", tùy thuộc vào địa điểm, không phải một thức uống cụ thể.
Café au lait và caffè latte được sử dụng như những thuật ngữ tương phản, để chỉ ra đồ uống phục vụ theo cách "Pháp" hay "Ý", thức uống trước được đựng trong cốc hoặc bát sứ trắng, thức uống sau được đựng trong kính bếp và luôn luôn được pha từ máy pha cà phê espresso, trong khi café au lait có thể là cà phê espresso hoặc cà phê đậm.
Hoa Kỳ
Trong nhiều quán cà phê ở Mỹ, café au lait là thức uống gồm cà phê phin hoặc cà phê ép kiểu Pháp, có thêm sữa hấp vào; điều này trái ngược với caffè latte, sử dụng cà phê espresso làm nền. Café au lait của Mỹ thường được phục vụ trong cốc, cũng như cà phê pha, chỉ được phục vụ trong bát ở những cửa hàng muốn nhấn mạnh truyền thống của Pháp.
Café au lait là thức uống phổ biến ở New Orleans, có bán tại các quán cà phê như Café du Monde và Morning Call Coffee Stand, nơi nó được pha bằng sữa và cà phê trộn với rau diếp xoăn, tạo cho nó một vị đắng đậm. Không giống như phong cách quán cà phê châu Âu, quán cà phê au lait theo phong cách New Orleans được làm bằng sữa đánh vảy (sữa được hâm nóng trên nhiệt độ đến mức vừa sôi), chứ không phải bằng sữa hấp. Việc sử dụng rễ rau diếp xoăn rang làm chất pha cà phê đã trở nên phổ biến ở Louisiana trong Nội chiến Hoa Kỳ, khi các cuộc phong tỏa hải quân của Liên minh cắt đứt cảng New Orleans, buộc người dân phải mở rộng nguồn cung cấp cà phê. Ở New Orleans, café au lait theo truyền thống ăn kèm với những chiếc bánh beignet phủ đường bột, loại bỏ vị đắng của rau diếp xoăn. Hương vị cho cà phê và rau diếp xoăn đã được phát triển bởi người Pháp trong cuộc nội chiến của họ. Cà phê rất khan hiếm trong thời gian đó, và họ nhận thấy rằng rau diếp xoăn bổ sung thêm hương vị cho món cà phê. Những người Acadia từ Nova Scotia đã mang hương vị này và nhiều phong tục (di sản) khác của Pháp đến Louisiana.
Xem thêm
Cappuccino
Latte
Cà phê sữa
Cà phê espresso
Cà phê latte
Tham khảo
Cà phê
Ẩm thực Pháp
Chế phẩm sữa
Ẩm thực Tây Ban Nha
|
17303
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%A7%20t%C6%B0%E1%BB%9Bng%20Canada
|
Thủ tướng Canada
|
Thủ tướng Canada (tiếng Anh: Prime Minister of Canada; tiếng Pháp: Premier ministre du Canada), là người đứng đầu Chính phủ Canada và lãnh tụ của đảng với nhiều ghế nhất trong Hạ nghị viện (House of Commons; Chambre des communes) của Quốc hội.
Nơi cư ngụ chính thức của Thủ tướng là ngôi nhà 24 Sussex Drive tại Ottawa, Ontario; văn phòng chính thức của Thủ tướng nằm trong Tòa nhà Quốc hội, cũng tại Ottawa. Thủ tướng hiện nay của Canada là Justin Trudeau, con trai trưởng của cố thủ tướng Pierre Trudeau.
Tiêu chuẩn và cách tuyển chọn
Bất cứ người công dân nào của Canada 18 tuổi trở lên đều có thể trở thành Thủ tướng. Tuy không bắt buộc nhưng theo tiền lệ thì Thủ tướng phải là một nghị viên của Hạ nghị viện, mặc dù trong lịch sử Canada đã có 2 nghị viên của Thượng nghị viện (Senate; Sénat) từng là Thủ tướng của Canada. Hơn nữa, khả năng dùng được cả tiếng Pháp và tiếng Anh, trong 50 năm gần đây, đã thành một điều kiện hầu hết dân Canada đòi hỏi từ các người lãnh đạo như Thủ tướng.
Nếu Thủ tướng chưa là nghị viên của Hạ viện, hay Thủ tướng bị thất cử cho ghế của chính mình, thì một nghị viên cùng đảng với một ghế chắc chắn sẽ từ chức để Thủ tướng có thể ra tranh cử (và dễ dàng đắc cử) cho ghế đó. Tuy nhiên, trong trường hợp đảng cầm quyền thay đổi lãnh tụ trong một thời gian ngắn trước một cuộc tổng tuyển cử, và người lãnh tụ mới không phải là một nghị viên của Hạ viện, thì họ sẽ đợi cho cuộc tổng tuyển cử đó. Thí dụ, vào năm 1984 đảng Tự do có lãnh tụ mới sau khi Pierre Trudeau từ chức Thủ tướng để về hưu giữa nhiệm kỳ; lãnh tụ mới, John Turner, trở thành Thủ tướng mà không phải là một nghị viên Hạ viện. (Ba tháng sau, sau cuộc tổng tuyển cử, John Turner tuy đã thắng ghế cho chính mình nhưng không đủ số ghế để thành lập chính phủ).
Nhiệm kỳ
Thủ tướng của Canada không có nhiệm kỳ nhất định. Bất cứ lúc nào người giữ chức vụ này cũng có thể từ chức vì các lý do cá nhân hay lý do khác, tuy nhiên Thủ tướng bắt buộc phải từ chức khi một đảng khác chiếm được số ghế đa số trong Hạ viện. Việc này có thể xảy ra sau các cuộc tuyển cử để điền khuyết các ghế trống hay khi một hay nhiều nghị viên trong đảng nắm chính quyền ly khai để gia nhập các đảng đối lập.
Ngoài ra, khi đảng nắm chính quyền bị bỏ phiếu bất tín nhiệm tại một buổi họp của Quốc hội thì Thủ tướng có hai lựa chọn:
từ chức để một đảng khác thành lập chính phủ, nhưng
thông thường hơn, yêu cầu vị Toàn quyền giải tán Quốc hội và gọi một cuộc tổng tuyển cử.
Sau cuộc tổng tuyển cử, nếu một đảng khác chiếm được nhiều ghế hơn (nhưng không phải là số ghế đa số) thì Thủ tướng vẫn được quyền thành lập chính phủ bằng cách liên minh với các đảng khác để đạt được số ghế đa số. Nếu không thành lập được liên minh thì Thủ tướng phải từ chức để đảng với nhiều ghế nhất thành lập chính phủ - đây sẽ là một chính phủ thiểu số.
Một cuộc tổng tuyển cử phải được gọi bởi chính phủ đương nhiệm 5 năm sau kỳ tổng tuyển cử trước; tuy nhiên Thủ tướng có quyền yêu cầu vị Toàn quyền giải tán Quốc hội và gọi tổng tuyển cử bất cứ lúc nào trong thời hạn 5 năm đó. Theo thông lệ khi một chính phủ đa số đang tại quyền thì tổng tuyển cử thường được gọi trong khoảng 3,5-5 năm sau, hay khi có các trường hợp đặc biệt (như kỳ tổng tuyển cử năm 1988 để xem dân chúng Canada có bằng lòng cho chính phủ ký Thỏa ước Mậu dịch Tự do (Free Trade Agreement) với Hoa Kỳ). Khi một chính phủ thiểu số đang tại quyền thì tổng tuyển cử có thể xảy ra bất cứ lúc nào vì họ dễ bị lật đổ bởi một cuộc bầu bất tín nhiệm tại Quốc hội (chính phủ thiểu số của Joe Clark chỉ tồn tại 9 tháng trong thời gian 1979-1980).
Nhiệm vụ và quyền lực
Vì chức vụ Thủ tướng có nhiều quyền lực nhất trong chính phủ của Canada nên nhiều người lầm tưởng đây là chức vụ quốc trưởng. Quốc trưởng của Canada, theo hiến pháp, là Vua Charles III. Thủ tướng, do đó, là người đứng đầu chính phủ nhưng không phải là người đứng đầu quốc gia.
Hơn thế nữa, vai trò của Thủ tướng không được nhắc đến trong Hiến pháp của Canada. Các quyền lực mà Thủ tướng được trao cho là để thi hành các nhiệm vụ của vị Toàn quyền; thí dụ, chỉ có vị đại diện này, thay mặt Nữ hoàng, có quyền giải tán Quốc hội hay tấn phong các bộ trưởng nhưng quyết định giải tán hay tấn phong là do Thủ tướng. Nói một cách khác, người đứng đầu về hành pháp tại Canada là vị Toàn quyền nhưng người này chỉ thi hành các nhiệm vụ hành pháp của mình theo quyết định hay yêu cầu của Thủ tướng.
Về mặt lập pháp, Thủ tướng có một vai trò rất quan trọng vì là người lãnh đạo của đảng có nhiều ghế nhất trong Hạ viện, nơi mà đại đa số các đạo luật bắt đầu. Trước khi được mang ra bàn cãi tại Hạ viện, các dự luật phải được chấp thuận bởi toàn thể Nội các nhưng Thủ tướng là người quyết định thế nào là "chấp thuận". Khi được mang ra thảo luận, Thủ tướng có thể dùng số ghế của đảng mình trong Quốc hội để dẫn lái cuộc thảo luận theo ý mình.
Về mặt tư pháp, Thủ tướng có quyền đề nghị các chánh án của tòa Tối cao Pháp viện để vị Toàn quyền tấn phong.
Ngoài Tối cao Pháp viện, Thủ tướng có quyền đề nghị các người để vị Toàn quyền tấn phong cho các chức vụ sau đây:
Nghị sĩ của Thượng nghị viện
Tổng giám đốc, giám đốc hay chủ tịch các công ty, cơ quan hay ngân hàng thuộc Nhà vua
Đại sứ của Canada
và nhiều chức vụ quan trọng khác trong chính phủ.
Và, quan trọng nhất, chính Thủ tướng đề nghị một người dân Canada để Nữ hoàng phong chức Toàn quyền.
Vấn đề tập trung quyền lực
Vì Thủ tướng Canada có nhiều nhiệm vụ quan trọng như trên, đã có nhiều người quan tâm đến việc tập trung quá nhiều quyền lực vào trong chức vụ này. Điển hình là đề nghị thay đổi nội quy của Hạ viện cho phép các nghị viên của Hạ viện có nhiều tự do hơn, thay vì phải tuân theo quyết định của đảng mình; các đề nghị thay đổi hiến pháp để Thượng viện được dân bầu lên và để có một hội đồng quốc hội có quyền phủ quyết các đề nghị của Thủ tướng cho các ghế chánh án của Tối cao Pháp viện.
Tuy Thủ tướng có rất nhiều quyền lực nhưng, trên thực tế, bị ảnh hưởng và giới hạn bởi nhiều người, nhiều phía. Nếu không có sự chấp thuận của Nội các, hay một đồng thuận không đạt được giữa Thủ tướng và các thành viên của Nội các, Thủ tướng có thể bị đẩy về nghỉ hưu sớm hoặc mất chức thủ lĩnh của đảng đang nắm chính quyền và, do đó, mất chức Thủ tướng. Ngay cả Thượng viện, tuy có vẻ không có nhiều quyền lực, cũng có thể làm trì hoãn các đạo luật của Thủ tướng đưa lên từ Hạ viện.
Nhưng quan trọng hơn hết, Canada là một liên bang mà quyền lực không hoàn toàn tập trung trong tay của chính phủ liên bang. Tất cả các thay đổi về hiến pháp phải có sự chấp thuận của các tỉnh bang (province) và các lãnh thổ tự trị (territory) - thường là qua một cuộc biểu quyết của các quốc hội của các đơn vị này. Tất cả các thay đổi về chính sách liên quan đến các quyền lực và quyền lợi của các tỉnh bang và lãnh thổ tự trị đòi hỏi các cuộc thảo luận và điều đình giữa họ và chính phủ liên bang.
Danh sách các Thủ tướng Canada
Tuy Sir John A. Macdonald được chính thức xem là Thủ tướng đầu tiên của Canada, vì ông là vị thủ tướng đầu tiên khi Canada thành lập liên bang, có nhiều nhà học giả xem Robert Baldwin và Louis-Hippolyte Lafontaine là các người giữ địa vị này—đây là hai người được bầu lên bởi Province of Canada trong Đế quốc Anh (bao gồm Ontario và Québec hiện nay) trước khi Province of Canada cùng các thuộc địa khác của Anh thành lập liên bang Canada.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của Thủ tướng Canada
primeministers.ca, Prime Ministers Online
Canada
Danh sách thủ tướng theo quốc gia
|
17309
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%A3ng%20ki%E1%BA%BFn%20t%E1%BA%A1o
|
Mảng kiến tạo
|
Mảng kiến tạo, xuất phát từ thuyết kiến tạo mảng, là một phần của lớp vỏ Trái Đất (tức thạch quyển). Bề mặt Trái Đất có thể chia ra thành 7 mảng kiến tạo chính và nhiều mảng kiến tạo nhỏ. Thuật ngữ mảng kiến tạo (tectonic plate hay plaque) hay bị dùng sai thành đĩa kiến tạo hay địa tầng kiến tạo. Địa tầng (strata) chỉ các lớp đất đá hình thành bên trên vỏ Trái Đất, gồm các thang phân vị địa tầng: liên giới, giới, hệ, thống, bậc và đới, tương ứng với các thời kỳ địa chất (liên đại, đại, kỷ), và thường chứa hóa thạch. Mảng có bề dày lớn hơn nhiều so với địa tầng.
Các mảng kiến tạo có độ dày khoảng 100 km (60 dặm) và bao gồm hai loại vật liệu cơ bản: lớp vỏ đại dương (còn gọi là quyển sima, hai chữ cái đầu của silic và magnesi) và lớp vỏ lục địa (quyển sial, hai chữ cái đầu của silic và aluminum). Nằm dưới chúng là 1 lớp tương đối dẻo của lớp phủ được gọi là quyển mềm (asthenosphere), nó chuyển động liên tục. Lớp này đến lượt của mình lại có một lớp rắn chắc hơn của lớp phủ nằm dưới nó.
Thành phần của 2 dạng lớp vỏ khác nhau một cách đáng kể. Lớp vỏ đại dương chủ yếu chứa các loại đá bazan, trong khi lớp vỏ lục địa chủ yếu chứa các loại đá granit với tỷ trọng thấp có chứa nhiều nhôm và silic dioxide (SiO2). 2 dạng này của lớp vỏ cũng khác nhau về độ dày, trong đó lớp vỏ lục địa dày hơn một cách đáng kể.
Sự chuyển động của quyển mềm làm cho các mảng kiến tạo bị chuyển động theo 1 tiến trình gọi là sự trôi dạt lục địa, nó được giải thích bằng thuyết kiến tạo mảng. Sự tương tác giữa các mảng kiến tạo đã tạo ra các dãy núi và núi lửa, cũng như tạo ra các trận động đất và các hiện tượng địa chất khác.
Ranh giới giữa các mảng kiến tạo không trùng với ranh giới các châu lục. VD: mảng kiến tạo Bắc Mỹ bao trùm không chỉ Bắc Mỹ mà còn cả Greenland, vùng viễn đông của Siberia và phần phía bắc Nhật Bản.
Hiện nay người ta biết rằng Trái Đất là hành tinh duy nhất trong hệ Mặt Trời có hiện tượng kiến tạo mảng, mặc dù có một số giả thuyết cho rằng Sao Hỏa có thể cũng đã từng có các mảng kiến tạo trong quá khứ trước khi lớp vỏ của nó bị đông cứng lại tại chỗ.
Các mảng kiến tạo
7 địa mảng chính cấu tạo nên lớp vỏ Trái Đất
Mảng Thái Bình Dương
Mảng Á-Âu
Mảng Ấn-Úc
Mảng châu Phi
Mảng Bắc Mỹ
Mảng Nam Mỹ
Mảng Nam Cực
Một số mảng kiến tạo nhỏ
Mảng Ả Rập (bán đảo Ả Rập)
Mảng Ấn Độ (toàn bộ tiểu lục địa Ấn Độ và một phần lòng chảo thuộc Ấn Độ Dương)
Mảng Caribe (Trung Mỹ và biển Caribe)
Mảng Cocos (phía tây México)
Mảng Úc
Mảng Juan de Fuca (ngoài khơi California)
Mảng Nazca (phía tây châu Nam Mỹ)
Mảng Philippin
Mảng Scotia (phía đông nam mũi Horn)
Người tìm ra
Alfred Wegener, nhà vật lý, nhà địa chấn người Đức đã tìm ra "thuyết trôi lục địa" sau này gọi là "thuyết kiến tạo mảng". Ông phát hiện ra rằng mảng bờ đông của Nam Mỹ hợp với mảng tây của bờ châu Phi, lục địa Á-Âu với lục địa Phi. Nhờ quan sát, hình thái, di tích hóa thạch các châu lục và sự ăn khớp của nó. Các căn cứ trên chưa đủ để giải thích. Sau này các nhà khoa học tìm ra, khám phá và bổ sung giả thuyết của Wegener và xây dưng nên "thuyết kiến tạo mảng"
Xem thêm
Kiến tạo mảng
Danh sách các mảng kiến tạo
Học thuyết địa máng, 1 học thuyết đã lỗi thời dùng để giải thích về sự tạo núi.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bird, P. (2003) Mô hình số hóa được cập nhật về ranh giới các mảng kiến tạo và cũng có sẵn ở dạng tập tin PDF với dung lượng khá lớn (13 MB)
Bản đồ các mảng kiến tạo
Địa vật lý
|
17310
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A0%20ph%C3%AA%20Blue%20Mountain
|
Cà phê Blue Mountain
|
Xem những nghĩa khác của cà phê tại trang Cà phê (định hướng)
Cà phê Blue Mountain là một trong những loại hạt cà phê arabica có giá thành cao và được ưa chuộng nhất trên thế giới. Nó có nguồn gốc ở vùng núi Blue Mountains thuộc Jamaica. Người ta gọi loại hạt cà phê này là Jamaican Blue Mountain để phân biệt với những loại hạt cà phê khác.
Với độ cao trên 2000 m, vùng núi Blue Mountains là một trong những vùng trồng cà phê cao nhất trên thế giới. Khí hậu ở đây dễ chịu, lượng mưa lớn, đất rất giàu dinh dưỡng và thấm nước tốt. Sự kết hợp giữa đất đai và khí hậu tạo nên điều kiện lý tưởng cho cây cà phê. Tuy nhiên loại cà phê này không thích hợp với các điều kiện khí hậu khác. Sự thay đổi khí hậu sẽ dẫn tới sự thay đổi hương vị cà phê. Chính vì thế mà hiện nay nó mới chỉ được trồng ở Jamaica và Hawaii.
Theo những người sành cà phê thì loại cà phê này đượm mùi, ít chua, có chút xíu vị ngọt, đậm đà. Giá một kg cà phê loại này hiện nay khoảng 100 USD. Nhật Bản là nước nhập khẩu cà phê Blue Mountain nhiều nhất (90% tổng sản lượng trên toàn thế giới).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Jamaican Coffee - the finest in the world!
Cà phê
|
17320
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/NTT%20DoCoMo
|
NTT DoCoMo
|
là nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động lớn nhất Nhật Bản. Tên gọi của hãng được viết tắt chính thức từ cụm từ tiếng Anh Do Communications Over the Mobile Network (Thực hiện thông tin liên lạc qua mạng lưới di động), nhưng cũng có nghĩa "ở mọi nơi" trong tiếng Nhật.
DoCoMo được tách từ NTT vào tháng 8 năm 1991 để đảm nhận điều hành hệ thống điện thoại di động. DoCoMo cung cấp dịch vụ di động 2G (MOVA) PDC ở băng tần 800 MHz và 1,5 GHz (băng thông tổng cộng 34 MHz), và dịch vụ 3G (FOMA) W-CDMA ở băng tần 2 GHz (1945-1960 MHz). Hãng cũng kinh doanh các dịch vụ khác như PHS (Paldio), nhắn tin và vệ tinh. DoCoMo thông báo dịch vụ PHS của hãng sẽ bị huỷ bỏ từng bước trong vòng vài năm tới.
Khách hàng
DoCoMo có 49,8 triệu khách hàng điện thoại di động, trong đó hơn 15,8 triệu thuê bao FOMA và 45 triệu người dùng i-mode. Hãng dẫn đầu thị phần ở Nhật với tỷ lệ 56,0%, và giảm nhẹ trong những năm gần đây;
i-Mode
DoCoMo là nhà điều hành điện thoại di động đầu tiên trên thế giới thành công trong việc giới thiệu dịch vụ dữ liệu di động vào thương mại cho đối tượng khách hàng rộng. i-Mode được khởi xướng vào tháng 2 năm 1999 và sự hưởng ứng của khách hàng vượt quá mong đợi, trong khi kế hoạch giới thiệu dịch vụ dữ liệu di động dùng WAP vào cùng lúc đó không tìm được khách hàng ủng hộ. Trong một thời gian ngắn DoCoMo đã thu hút gần tất cả 40 triệu thuê bao trở thành người dùng i-Mode, tức trả thêm một khoản tiền hàng tháng cho i-Mode, và hầu hết họ cũng trả tiền cho nhiều loại hình đi kèm như dữ liệu, nhạc, trò chơi và thông tin.
Chỉ trong một thời gian ngắn sau khi i-Mode xuất hiện, các đối thủ của DoCoMo cũng đã giới thiệu các dịch vụ dữ liệu tương tự rất giống với mô hình của i-Mode.
Sau vài năm, i-Mode và các dịch vụ dữ liệu tương đương của các đối thủ của DoCoMo trở thành một phần thiết yếu trong hạ tầng cấu trúc thương mại và xã hội Nhật.
FOMA
DoCoMo là nhà điều hành điện thoại di động đầu tiên trên thế giới ứng dụng truyền thông di động 3G vào thương mại. Dịch vụ 3G của DoCoMo được tiếp thị dưới tên FOMA. Hiện tại (2005) FOMA dùng công nghệ wCDMA với tốc độ dữ liệu 384 kbit/s. Vì DoCoMo là nơi đầu tiên ứng dụng công nghệ mạng 3G, DoCoMo dùng kỹ thuật khác với các tiêu chuẩn UMTS châu Âu, lúc đó chưa chín mùi cho ứng dụng của DoCoMo. Gần đây DoCoMo đang tiến hành sửa đổi FOMA để tương thích hoàn toàn với các tiêu chuẩnUMTS.
HSDPA
DoCoMo đang làm việc để nâng cấp tốc độ dữ liệu lên đến 10 Mbit/s dùng HSDPA.
Quyền sở hữu
Cổ phiếu của NTT DoCoMo được bán công cộng tại một số sàn giao dịch chứng khoán, với cổ đông chính (trên 60%) là nhà điều hành điện thoại NTT của Nhật. NTT cũng là tập đoàn công cộng và người giữ phần lớn cổ phiếu là chính phủ Nhật Bản.
Nghiên cứu và phát triển
Trong khi hầu hết các nhà điều hành điện thoại di động trên thế giới không tiến hành việc nghiên cứu và phát triển (R&D) nào đáng kể và dựa vào các nhà cung ứng thiết bị cho việc phát triểu và ứng dụng thiết bị viễn thông mới, NTT DoCoMo tiếp tục truyền thống nghiên cứu và phát triển rất tốn kém của NTT. Chính các đầu tư nghiên cứu và phát triển mạnh mẽ đã cho phép DoCoMo giới thiệu dịch vụ dữ liệu i-Mode và viễn thông 3G sớm hơn bất cứ nơi nào khác trên thế giới.
Đầu tư của DoCoMo ra ngoài Nhật Bản
DoCoMo có phạm vi đầu tư rộng rãi ở nước ngoài. Tuy nhiên hãng đã không thành công trong việc đầu tư vào các nhà điều hành viễn thông nước ngoài. DoCoMo đã đầu tư nhiều tỉ đôla vào KPN, Hutchison, AT&T Wireless và cuối cùng phải huỷ bỏ hoặc bán lại cho các nhà điều hành khác. Hậu quả là DoCoMo thiệt hại khoảng 10 tỷ đôla Mỹ, trong khi cùng lúc các hoạt động tại Nhật Bản của hãng lại ăn nên làm ra.
Xem thêm
NTT
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web của NTT DoCoMo
Phòng thí nghiệm châu Âu của DoCoMo
Yahoo! - NTT DoCoMo, Inc. Company Profile
Tổng quan về công nghiệp viễn thông Nhật Bản
FAQ về i-Mode của DoCoMo
Tổng quan về dịch vụ di động 3G ở Nhật Bản
Tổng quan về dịch vụ di động 4G đang được dự định ở Nhật Bản
Công ty điện thoại di động
Công ty Nhật Bản
Chỉ số Nikkei 225
Công ty niêm yết tại Thị trường Chứng khoán New York
Công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Tokyo
Chỉ số TOPIX 100
|
17468
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rock
|
Rock
|
Rock là một thể loại âm nhạc quần chúng được bắt nguồn từ cách gọi ngắn gọn của cụm từ "rock and roll" vào những năm 1950 ở Mỹ, rồi sau đó phát triển thành rất nhiều tiểu thể loại khác nhau từ những năm 60 của thế kỷ 20 và sau đó, đặc biệt ở Anh và Mỹ. Rock bắt nguồn từ rock and roll của những năm 1940 và 1950, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ nhạc R&B và nhạc đồng quê. Ngược lại, rock cũng tạo ảnh hưởng vô cùng rõ rệt tới nhiều thể loại nhạc như blues và folk, cùng với đó là những tương tác với jazz, nhạc cổ điển, và các thể loại khác.
Rock thường được tập trung ở việc sử dụng guitar điện, và thông thường cùng với đó là guitar bass và trống. Đặc biệt, các sáng tác rock thường sử dụng nhịp 4/4 với cấu trúc phổ thông "phát triển - điệp khúc" (verse - chorus), song các tiểu thể loại lại vô cùng đa dạng và các đặc điểm chung để định nghĩa trở nên rất khó xác định. Cũng như pop, phần ca từ thường nói về những câu chuyện tình buồn, nhưng đôi lúc cũng đề cập tới những chủ đề khác như các vấn đề xã hội và chính trị. Sự thống trị của các nghệ sĩ nam da trắng đã trở thành yếu tố quyết định trong việc phát triển và khám phá nhạc rock. So với nhạc pop, rock cũng đề cao hơn tầm quan trọng của các mối cộng tác âm nhạc, các buổi trình diễn trực tiếp, và cả những ý tưởng mang tính "xác thực".
Vào cuối những năm 60 – còn được gọi là "những năm vàng" hoặc "thời kỳ rock cổ điển" – rất nhiều tiểu thể loại của rock đã xuất hiện, trong đó có blues rock, folk rock, country rock, và jazz-rock pha trộn. Rất nhiều trong số đó đã góp phần tạo nên psychedelic rock bị ảnh hưởng lớn từ phong trào phản văn hóa lúc đó. Một thể loại quan trọng khác cũng xuất hiện đó là progressive rock; glam rock nhấn mạnh vào nghệ thuật trình diễn và phong cách; và các tiểu thể loại quan trọng và trường tồn của heavy metal vốn đề cao âm lượng, độ gằn cũng như tốc độ. Vào cuối những năm 1970, punk rock trở nên phổ biến và trở thành tâm điểm chống lại những xu hướng nhằm tạo nên thể loại nhạc đầu tiên được đặc thù bởi các chủ đề xã hội cũng như chính trị. Văn hóa punk gây ảnh hưởng lớn suốt những năm 80 với việc tạo nên rất nhiều tiểu thể loại quan trọng, trong đó có New Wave, post-punk và đặc biệt là làn sóng alternative rock. Tới những năm 90, alternative rock trở nên phổ biến và phân tách thành grunge, Britpop, và indie rock. Các thể loại nhạc pha trộn với nhau, tạo nên sau đó pop punk, rap rock, và rap metal, cùng với đó là những thể loại mới vô cùng quan trọng với lịch sử nhạc rock như garage rock/post-punk và synthpop vào những năm đầu của thiên niên kỷ mới.
Nhạc rock cũng trở thành một phần của các phong trào văn hóa và xã hội, tạo nên những khái niệm mới như rocker hay mod ở Anh, hay hippie bắt nguồn từ San Francisco ở Mỹ vào những năm 1960. Tương tự, vào những năm 70, văn hóa punk đã tạo nên những khái niệm như goth và emo. Kế thừa tính phản kháng từ nhạc folk, rock cũng nhanh chóng có những liên kết với các vấn đề chính trị, đặc biệt là các vấn đề liên quan tới thay đổi quan điểm xã hội về chủng tộc, giới tính, sử dụng chất kích thích, và thường được coi là lời ca của tuổi trẻ chống lại xã hội tiêu dùng và sự tận hưởng.
Đặc điểm
Âm thanh của nhạc rock được đặc trưng bởi tiếng guitar điện, được cải tiến trong thập niên 1950 với sự phổ biến của nhạc rock and roll. Âm thanh của guitar điện trong nhạc rock được đặc biệt hỗ trợ bởi tiếng guitar bass vốn bắt nguồn từ nhạc jazz cùng thời kỳ, và định âm được tạo bởi dàn trống với nhiều loại trống và chũm chọe khác nhau. Bộ 3 nhạc cụ này còn được hỗ trợ bởi nhiều nhạc cụ khác, trong đó có những keyboard như piano, Hammond organ và synthesizer. Nhóm người chơi nhạc rock được gọi là ban nhạc rock và thường được cấu thành từ 2 cho tới 5 người. Hình thức cổ điển nhất của một ban nhạc rock là 4 người trong đó mỗi thành viên phụ trách nhiều vai trò, như hát, guitar lead, guitar nền, bass, trống, đôi khi chơi keyboard và các nhạc cụ khác nữa.
Rock cũng được đặc trưng bởi nhịp nhấn lệch đơn giản 4/4, trong đó sử dụng lặp lại trống lớn căng dây để chơi nền nhịp 2 và 4. Giai điệu được lấy cảm hứng từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có âm giai Dorian và âm giai Mixolidian, cùng với đó là các giọng chuẩn và giọng thứ. Hòa âm cũng được lấy từ những hợp âm 3, 4 và 5 và theo những quãng chạy nhất định. Các sáng tác rock trong những năm 1960 thường được viết theo cấu trúc đoạn vào - điệp khúc được bắt nguồn từ nhạc folk và blues nhưng có nhiều cải tiến đáng kể. Nhiều đánh giá cảm thấy nhàm chán vì tính chiết trung và kiểu cách của nhạc rock. Cũng vì nguồn gốc đa dạng và xu hướng vay mượn những hình thức âm nhạc và văn hóa khác nên rock thường bị coi "không thể nào có thể gò bó rock vào một định nghĩa cụ thể xác định nào đó về mặt âm nhạc."
Khác với nhiều thể loại âm nhạc quần chúng khác, ca từ của nhạc rock được phân tách thành nhiều chủ đề đa dạng kết hợp với tình yêu lãng mạn: tình dục, sự phản kháng với "Establishment", các vấn đề xã hội và phong cách sống. Những chủ đề này được ảnh hưởng từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có nhạc pop của Tin Pan Alley, nhạc folk và nhạc R&B. Nhà báo Robert Christgau từng miêu tả ca từ nhạc rock là một "dung môi hấp dẫn" với cách diễn tả đơn giản và phần điệp khúc lặp lại, cùng với đó là "vai trò" thứ yếu của rock là "đi liền với âm nhạc, hoặc chung hơn, là những tiếng ồn". Sự thống trị của những nghệ sĩ nam da trắng tới từ tầng lớp trung lưu đối với nhạc rock cũng đều được ghi lại, và nhạc rock được coi là thứ âm nhạc của người da màu được cải biến cho tầng lớp trẻ da trắng và chủ yếu là nam giới. Cũng chính vì vậy rock cũng được coi là thứ kết nối tầng lớp này tới các thể loại trên cả về âm nhạc lẫn ca từ.
Kể từ khi khái niệm rock bắt đầu được sử dụng khái quát hơn để gọi nhạc rock and roll kể từ giữa những năm 1960, nó cũng được dùng để đối lập với nhạc pop – một thể loại vốn có rất nhiều đặc điểm, song chủ yếu khác biệt nằm ở việc sử dụng nhạc cụ, trình diễn trực tiếp và đặc biệt trong việc khai thác các chủ đề và cả những quan điểm về khán giả vốn thường xuyên được hòa lẫn trong quá trình phát triển của thể loại này. Theo Simon Frith, "rock là một điều gì đó hơn pop, một điều gì đó hơn rock and roll. Một nghệ sĩ rock thường dung hòa kỹ thuật cùng kỹ năng với những quan điểm lãng mạn về nghệ thuật trình diễn, một cách nguyên bản và chân thật." Kể từ thế kỷ 21, khái niệm rock đã trở thành một trong những "khái niệm hiển nhiên" của âm nhạc cùng với pop, reggae, soul và thậm chí cả hip-hop – những thể loại không chỉ ảnh hưởng mà còn tương phản lẫn nhau suốt lịch sử âm nhạc.
Nguồn gốc (những năm 50 – đầu những năm 60)
Rock and roll
Nền tảng của nhạc rock là từ rock and roll, có nguồn gốc từ Mỹ vào cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950, sau đó đã nhanh chóng lan ra hầu hết toàn thế giới. Nguồn gốc trực tiếp của nó là từ việc ghép nối các thể loại nhạc đen lại với nhau, bao gồm cả rhythm and blues và nhạc phúc âm, cùng với nhạc đồng quê và viễn tây. Năm 1951, một DJ người Cleveland, Ohio tên là Alan Freed bắt đầu chơi nhạc R&B cho những khán giả đa sắc tộc, và được coi là người đầu tiên sử dụng cụm từ "rock and roll" để nói về âm nhạc.
Đã có cuộc tranh luận xung quanh việc bản thu âm nào sẽ trở thành bản thu âm rock and roll đầu tiên. Những ứng cử viên bao gồm "Rock Awhile" của Goree Carter (1949); "Rock the Joint" của Jimmy Preston (1949), bài hát sau đó được hát lại bởi Bill Haley & His Comets vào năm 1952; và "Rocket 88" của Jackie Brenston and his Delta Cats (thật ra là Ike Turner và ban nhạc của anh, The Kings of Rhythm), được thu âm bởi Sam Phillips cho hãng ghi âm Sun Records năm 1951. Bốn năm sau, "Rock Around the Clock" của Bill Haley (1955) trở thành bài hát rock and roll đầu tiên dẫn đầu bảng xếp hạng doanh số và airplay của tạp chí Billboard, mở tung cánh cửa cho làn sóng văn hóa phổ biến và mới mẻ này.
Có lập luận cho rằng "That's All Right (Mama)" (1954), đĩa đơn đầu tiên của Elvis Presley cho hãng ghi âm Sun Records tại Memphis, là bản thu âm rock and roll đầu tiên, nhưng, cùng thời điểm đó, "Shake, Rattle & Roll" của Big Joe Turner, sau đó được hát lại bởi Haley, đang dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard R&B. Nhiều nghệ sĩ đã sớm có những hit rock and roll bao gồm Chuck Berry, Bo Diddley, Fats Domino, Little Richard, Jerry Lee Lewis, và Gene Vincent. Ngay sau đó, rock and roll đã có những tác động lớn đến doanh số bán hàng của các hãng ghi âm Mỹ, và cả các crooner như Eddie Fisher, Perry Como, và Patti Page, những nghệ sĩ đã chiếm lĩnh thị trường âm nhạc trong thập kỉ trước đó.
Rock and roll đã dẫn tới nhiều tiểu thể loại âm nhạc khác nhau, kết hợp cả rock and roll với nhạc đồng quê, mà vẫn thường được chơi và ghi âm vào giữa thập niên 1950 bởi những ca sĩ trắng như Carl Perkins, Jerry Lee Lewis, Buddy Holly, cùng với Elvis Presley, thành công thương mại lớn nhất vào thời điểm đó. Ngược lại, doo-wop chú trọng đa phần vào hòa âm và ca từ vô nghĩa (cũng vì thế mà thể loại nhạc này được đặt tên như vậy), thường được hỗ trợ bằng phần nhạc đệm nhẹ và có nguồn gốc từ các nhóm nhạc người Mỹ gốc Phi ở thập niên 1930 và 1940. Một số nhóm nhạc như The Crows, The Penguins, The El Dorados và The Turbans đều đã có được nhiều hit lớn, và những nhóm nhạc khác như The Platters, với những bài hát trong đó có "The Great Pretender" (1955), và The Coasters với những bài hát hài hước như "Yakety Yak" (1958), đều nằm trong số những nghệ sĩ rock and roll thành công nhất của thời kỳ này.
Thời kì này cũng chứng kiến sự tăng lên về số lượng guitar điện và sự phát triển của một phong cách rock and roll đặc biệt với những nghệ sĩ tiêu biểu như Chuck Berry, Link Wray, và Scotty Moore. Việc sử dụng hiệu ứng biến dạng âm thanh, tiên phong bởi những tay guitar nhạc blues điện tử như Guitar Slim, Willie Johnson và Pat Hare vào đầu những năm 1950, đã được phổ biến bởi Chuck Berry vào giữa thập niên 1950. Việc sử dụng hợp âm 5, tiên phong bởi Willie Johnson và Pat Hare vào đầu những năm 1950, đã được phổ biến bởi Link Wray vào cuối thập niên 1950.
Tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, các phong trào nhạc jazz truyền thống và dân gian đã đưa các nghệ sĩ nhạc blues đến Liên hiệp Anh. Hit năm 1955 của Lonnie Donegan, "Rock Island Line", là một ảnh hưởng lớn giúp phát triển các xu hướng của các dàn nhạc đệm xuyên suốt cả nước, mà nhiều trong số đó, bao gồm cả The Quarrymen của John Lennon, đã chuyển sang chơi nhạc rock and roll.
Các nhà bình luận đã nhận thức được sự suy tàn của rock and roll vào cuối tập niên 1950, đầu thập niên 1960. Năm 1959, cái chết của Buddy Holly, The Big Bopper và Richie Valens trong một vụ tai nạn máy bay, việc Elvis vào quân đội, việc nghỉ hưu của Little Richard để trở thành một nhà truyền giáo, và vụ truy tố Jerry Lee Lewis và Chuck Berry và việc phát hiện ra vụ bê bối payola (có liên quan đến nhân vật chính, bao gồm cả Alan Freed, hối lộ và tham nhũng trong việc thúc đẩy hành vi cá nhân hoặc các bài hát), đã ý thức được mọi người về hồi kết của kỉ nguyên rock and roll.
Những năm đầu
Giai đoạn cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960, trong sự kết thúc giai đoạn đầu của thời kì đổi mới và những gì được biết đến ở Mỹ với tên gọi "British Invasion", đã được coi là thời kỳ vằng bóng của rock and roll. Một số tác giả đã nhấn mạnh vào sự đổi mới và các xu hướng quan trọng trong giai đoạn này mà trong tương lai nếu không được phát triển sẽ không thể thực hiện được. Trong khi rock and roll những năm đầu, đặc biệt là thông qua sự ra đời của rock, đã cho ta thấy một thành công thương mại vô cùng lớn đối với những nam nghệ sĩ và nghệ sĩ trắng, thì trong thời kì này, rock and roll lại được chiếm ưu thế bởi các nghệ sĩ đen và nữ nghệ sĩ. Rock and roll không hề xuất hiện trong những năm cuối thập niên 1950, và một số ít xuất hiện của nó có thể được thấy trong cơn sốt về điệu nhảy Twist vào những năm đầu thập niên 1960, mà chủ yếu là có lợi cho sự nghiệp của Chubby Checker. Mặc dù đã lắng xuống vào cuối thập niên 1950, song doo-wop đã có một sự hồi sinh trong thời kỳ này, với những hit lớn của các nghệ sĩ như The Marcels, The Capris, Maurice Williams và Shep and the Limelights. Sự xuất hiện của các nhóm nhạc nữ như The Chantels, The Shirelles và The Crystals đã nhấn mạnh vào công việc hòa âm và sản xuất, điều này đối lập hoàn toàn với rock and roll những năm đầu. Một số hit lớn của các nhóm nhạc nữ đáng chú ý là những sản phẩm của Brill Building Sound, được đặt theo tên của một tòa nhà tại New York nơi rất nhiều người viết bài hát được trực thuộc, trong đó có hit quán quân của The Shirelles, "Will You Love Me Tomorrow" năm 1960, được sáng tác bởi cặp đôi Gerry Goffin và Carole King.
Cliff Richard đã có một hit thuộc thể loại nhạc British rock and roll với bài hát "Move It", mở ra một thời kì mới của British rock. Vào đầu những năm 1960, ban nhạc đệm của anh, The Shadows, là ban nhạc thu âm nhạc không lời thành công nhất. Trong khi rock 'n' roll mờ nhạt dần trở thành những giai điệu pop nhẹ và ballad, thì những ban nhạc rock Anh tại những câu lạc bộ và sàn nhảy địa phương, bị ảnh khá hưởng nhiều bởi những người tiên phong nhạc blues-rock như Alexis Korner, đã chơi nhạc với cường độ và xu thế ít nhiều được tìm thấy trong các nghệ sĩ trắng ở Mỹ.
Một phần không kém quan trọng đó là sự ra đời của nhạc soul, một lực lượng thương mại vô cùng lớn. Được phát triển bên ngoài rhythm and blues, với một chút ảnh hưởng của nhạc phúc âm và pop, và được dẫn đầu bởi những nghệ sĩ tiên phong như Ray Charles và Sam Cooke vào giữa thập niên 1950, vào đầu thập niên 1960 những nhân vật như Marvin Gaye, James Brown, Aretha Franklin, Curtis Mayfield và Stevie Wonder đã thống trị các bảng xếp hạng R&B và đột phá vào các bảng xếp hạng nhạc pop, giúp tăng tốc việc xoá bỏ nạn phân biệt chủng tộc, trong khi đó hãng ghi âm Motown và Stax/Volt Records trở thành một thế lực lớn trong ngành công nghiệp ghi âm. Tất cả các yếu tố, bao gồm cả doo wop và các nhóm nhạc nữ, những người viết bài hát của Brill Building Sound và công việc sản xuất nhạc soul, được coi là một ảnh hưởng lớn đối với nhạc Merseybeat, đặc biệt là các tác phẩm đầu tay của The Beatles, và thông qua chúng dưới hình thức của nhạc rock sau này. Một số sử gia về âm nhạc cũng chú ý vào sự phát triển kỹ thuật quan trọng và sáng tạo được xây dựng dựa trên rock and roll trong giai đoạn này, bao gồm cả kĩ thuật chỉnh âm thanh của những nhà sáng chế như Joe Meek, và các phương thức sản xuất tinh vi của Wall of Sound được Phil Spector theo đuổi.
Surf
Nhạc rock and roll không lời được tiên phong bởi những nghệ sĩ như Duane Eddy, Link Wray, The Ventures, và sau đó được phát triển bởi Dick Dale, người đã thêm vào các hiệu ứng hồi âm "ướt", kiểu đánh guitar luân phiên, cũng như ảnh hưởng của âm nhạc Trung Đông và Mexico, sản xuất ra hit địa phương "Let's Go Trippin'" năm 1961 và tung ra những cơn sốt nhạc surf với những bài hát như "Misirlou" (1962). Cũng giống như Dale và ban nhạc Del-Tones, hầu hết những ban nhạc surf đầu tiên được thành lập tại miền Nam California, bao gồm cả Bel-Airs, The Challengers, và Eddie & the Showmen. The Chantays đã có được một hit top 10 quốc gia "Pipeline" vào năm 1963, và có lẽ điệu surf nổi tiếng nhất là bài hát "Wipe Out", phát hành năm 1963, của ban nhạc Surfaris, bài hát đã đánh vào bảng xếp hạng Billboard tại vị trí á quân vào năm 1965.
Sự phổ biến ngày càng lớn của thể loại âm nhạc này đã khiến cho những nhóm nhạc ở các vùng miền khác bắt đầu thử tay, trong đó có các nhóm nhạc như The Astronauts đến từ Boulder, Colorado, The Trashmen đến từ Minneapolis, Minnesota, ban nhạc đã có hit "Surfin Bird" đứng vị trí thứ 4 vào năm 1964, và The Rivieras đến từ South Bend, Indiana, ban nhạc với hit "California Sun" đứng vị trí thứ 5 năm 1964. The Atlantics đến từ Sydney, New South Wales đã có nhiều đóng góp đáng kể cho thể loại nhạc này với ht lớn "Bombora" (1963). Các ban nhạc không lời châu Âu trong thời kì này cũng tập trung hơn vào phong cách rock and roll của The Shadows, tuy nhiên The Dakotas, ban nhạc đệm người Anh chơi cho nam ca sĩ nhạc Merseybeat Billy J. Kramer, đã có được nhiều sự chú ý dưới danh những nghệ sĩ nhạc surf với "Cruel Sea" (1963), bài hát sau đó đã được chơi lại bởi nhiều ban nhạc surf không lời người Mỹ, trong đó có The Ventures.
Nhạc surf đã đạt được thành công thương mại lớn nhất của nó, đặc biệt là các sản phẩm của The Beach Boys, ban nhạc được thành lập năm 1961 tại miền Nam California. Những album đầu tiên của họ đều có bao gồm cả nhạc surf rock không lời (trong số đó có một số bài được chơi lại của Dick Dale) và nhạc có lời. Bài hát đầu tiên của họ, "Surfin'" năm 1962, đã lọt vào bảng xếp hạng Billboard Top 100, đồng thời giúp cho cơn sốt nhạc surf trở thành một hiện tượng quốc gia. Từ năm 1963, nhóm nhạc bắt đầu rời bỏ nhạc surf, cùng với việc Brian Wilson trở thành nhà soạn nhạc và nhà sản xuất lớn của họ, để chuyển sang các chủ đề chung về các nam thanh niên, bao gồm cả ô tô và các cô gái trong những bài hát như "Fun, Fun, Fun" (1964) và "California Girls" (1965). Nhiều ban nhạc surf cũng theo sau, trong đó có ban nhạc chỉ có một hit duy nhất như Ronny & the Daytonas với "G. T. O." (1964) và Rip Chords với "Hey Little Cobra", cả hai đều lọt vào top 10, nhưng chỉ có một nhóm nhạc duy nhất có được thành công bền vững, đó là Jan & Dean, nhóm nhạc đã có hit quán quân "Surf City" (đồng sáng tác với Brian Wilson) năm 1963. Cơn sốt nhạc surf và sự nghiệp của hầu hết các nghệ sĩ nhạc surf đã kết thúc một các sâu sắc bởi sự xuất hiện của British Invasion từ năm 1964. Chỉ riêng The Beach Boys đã duy trì được một sự nghiệp sáng tạo vào giữa thập niên 1960, với việc sản xuất một loạt các đĩa đơn nổi tiếng và các album, bao gồm cả Pet Sounds năm 1966, một sản phẩm được đánh giá cao được cho rằng đã giúp họ trở thành ban nhạc pop hoặc rock người Mỹ có thể cạnh tranh với The Beatles.
Những năm vàng (từ giữa cho tới cuối thập niên 60)
British Invasion
Tới năm 1962, nhạc rock ở Anh trở nên phổ thông với các nhóm nhạc như The Beatles, Gerry & The Pacemakers hay The Searchers từ Liverpool, hay Freddie and the Dreamers, Herman's Hermits và The Hollies ở Manchester. Họ mang đậm những ảnh hưởng từ nước Mỹ trong đó có nhạc soul, R&B, và surf, ban đầu vốn chơi lại những ca khúc để đệm cho các vũ công. Những ban nhạc như The Animals từ Newcastle, Them từ Belfast và đặc biệt những nhóm ở thủ đô London như The Rolling Stones và The Yardbirds lại có những quan điểm khác về nhạc R&B và blues. Nhanh chóng, những ban nhạc trên đã tự sáng tác những sản phẩm của riêng mình, hòa trộn giữa hình thức từ nước Mỹ và quan điểm từ nhạc beat. Các nhóm nhạc beat bắt đầu viết những "giai điệu vui nhộn, không thể cưỡng lại", và nhạc R&B tại đây bắt đầu ít quan tâm hơn tới tình dục, mà thay vào đó là những ca khúc dữ dội và thường là những ca khúc chống lại một quan điểm, lập trường nào đó. Có thể coi vào thời kỳ này, âm nhạc vẫn đang lẫn lộn giữa hai xu thế lớn. Tới năm 1963, nhờ The Beatles, các ban nhạc beat bắt đầu có được thành công tại Anh, dẫn tới sau đó nhiều ca khúc R&B thống trị các bảng xếp hạng.
Năm 1964, The Beatles tạo ra bước đột phá khi tiến hành quảng bá tới thị trường Mỹ. "I Want to Hold Your Hand" trở thành bản hit đầu tiên của họ đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, và tiếp tục giữ nguyên vị trí này 7 trong tổng số 15 tuần trên bảng xếp hạng. Buổi xuất hiện của họ trên The Ed Sullivan Show vào ngày 9 tháng 2 được ước tính có tới 73 triệu người xem trực tiếp (kỷ lục của truyền hình Mỹ vào lúc đó) và được coi là viên gạch nền móng cho nền văn hóa nhạc pop của Mỹ. The Beatles nhanh chóng trở thành ban nhạc rock có số đĩa bán chạy nhất mọi thời đại với việc liên tiếp thống trị các bảng xếp hạng 2 bên bờ Đại Tây Dương. Suốt 2 năm tiếp theo, liên tiếp Peter and Gordon, The Animals, Manfred Mann, Petula Clark, Freddie and the Dreamers, Wayne Fontana and the Mindbenders, Herman's Hermits, The Rolling Stones, The Troggs, và Donovan đều có những đĩa đơn quán quân tại Mỹ. Thành công này cũng bao gồm cả những nghệ sĩ mới thành danh như The Kinks và The Dave Clark Five.
British Invasion đã góp phần quốc tế hóa âm nhạc rock 'n' roll, mở tung cánh cửa cho các nghệ sĩ Anh (và Ireland) tới những thành công mang tính quốc tế. Tại Mỹ, nó cũng đánh dấu sự kết thúc của nhạc surf và các nhóm nhạc hát nữ vốn độc chiếm các bảng xếp hạng tại đây suốt những năm 50. Nó cũng làm biến động mạnh mẽ sự nghiệp của một vài nghệ sĩ R&B, như Fats Domino và Chubby Checker, và làm gián đoạn thành công của nhiều nghệ sĩ rock 'n' roll đương thời kể cả Elvis Presley. British Invasion cũng góp phần tạo nên sự phân tách các thể loại của nhạc rock, và định hình nên cấu trúc cơ bản trong đội hình của một nhóm nhạc rock dựa trên guitar và trống và tự chơi những ca khúc do chính mình sáng tác.
Garage rock
Garage rock là một loại nhạc rock nghiệp dư đặc biệt phổ biến ở Bắc Mỹ vào những năm giữa thập niên 1960. Cái tên garage rock xuất phát từ việc loại hình âm nhạc này thường được tập luyện trong nhà để xe (garage) của các gia đình vùng ngoại ô thành phố. Nội dung các bài hát garage rock thường xoay quanh những vết thương của cuộc sống học đường, với những bài hát về "những cô nàng giả dối" đặc biệt phổ biến. Phần ca từ và cách diễn đạt có tính mạnh bạo hơn những gì phổ biến vào thời điểm đó, thường có những đoạn hát gầm gừ hoặc la hét hòa vào những tiếng thét rời rạc. Cũng có những khác biệt theo từng vùng trên đất nước mà đặc biệt phồn thịnh nhất là California và Texas. Tiểu bang Tây Bắc Thái Bình Dương của Washington và Oregon có lẽ là vùng có garage rock thể hiện rõ tính chất nhất.
Garage rock đã phát triển ở nhiều nơi vào đầu năm 1958. "Tall Cool One" (1959) của The Wailers và "Louie Louie" của The Kingsmen (1963) là những ví dụ điển hình cho thể loại này trong giai đoạn hình thành của nó. Năm 1963, nhiều ban nhạc garage đã có những đĩa đơn lọt được vào các bảng xếp hạng quốc gia với thứ hạng cao, trong đó phải kể đến ban nhạc Paul Revere and the Raiders (Boise, Idaho), The Trashmen (Minneapolis) và Rivieras (South Bend, Indiana). Nhiều ban nhạc garage có ảnh hưởng khác chẳng hạn như The Sonics (Tacoma, Washington), lại chưa bao giờ lọt được vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Trong giai đoạn đầu rất nhiều ban nhạc chịu ảnh hưởng nặng nề bởi surf rock và có một sự tương đồng trong garage rock và frat rock, đôi khi nó chỉ đơn thuần được xem như là một tiểu thể loại của garage rock.
Cuộc xâm lăng âm nhạc British Invasion năm 1964–66 đã có ít nhiều ảnh hưởng đối với các ban nhạc garage, cung cấp cho họ một lượng khán giả quốc tế, đồng thời khuyến khích nhiều nhóm nhạc khác hình thành. Hàng ngàn ban nhạc garage ở Mỹ và Canada vẫn còn tồn tại trong kỉ nguyên này, và hàng trăm trong số đó vẫn sản xuất những hit địa phương, ví dụ như "The Witch" của The Sonics (1965), "Where You Gonna Go" của Unrelated Segments (1967), "Girl I Got News for You" của Birdwatchers (1966) và "1–2–5" của The Haunted. Dù cho có một số lượng lớn ban nhạc được ký hợp đồng với các hãng đĩa lớn trong khu vực, thì hầu hết trong số đó lại là những thất bại thương mại. Người ta đồng ý rằng garage rock đạt đến đỉnh cao cả về mặt thương mại lẫn nghệ thuật vào những năm 1966. Đến năm 1968 phong cách âm nhạc này gần như biến mất khỏi bảng xếp hạng quốc tế và các nhạc sĩ nghiệp dư phải đối mặt với các vấn đề về đại học, xin việc hoặc dự thảo. Nhiều phong cách âm nhạc mới nổi lên thay thế garage rock (bao gồm blues rock, progressive rock và rock đồng quê). Ở Detroit, garage rock vẫn còn tồn tại cho tới đầu thập niên 70, với những ban nhạc như MC5 và The Stooges, những người đã sử dụng phong cách hung bạo hơn nhiều. Những ban nhạc này bắt đầu được dán nhãn punk rock và đến nay vẫn thường được xem như proto-punk hay proto-hard rock.
Pop rock
Thuật ngữ "pop" bắt đầu được sử dụng từ những năm đầu của thế kỉ 20, ám chỉ các dòng nhạc quần chúng nói chung, nhưng bắt đầu từ giữa những năm 1950 nó bắt đầu được sử dụng cho một thể loại âm nhạc riêng biệt, nhắm vào thị trường giới trẻ và thường được coi là một dòng nhạc alternative nhẹ hơn rock and roll. Do hậu quả của British Invasion, ý nghĩa của thuật ngữ "pop" ngày càng đối lập với "rock", thường là để chỉ một thể loại nhạc mang tính thương mại, nhất thời và dễ tiếp cận hơn. Mặt đối lập, nhạc rock tập trung chủ yếu vào các tác phẩm mở rộng, đặc biệt là các album, thường gắn liền với các nền tiểu văn hóa cụ thể (giống như phản văn hóa), đặt trọng tâm vào các giá trị nghệ thuật và tính "xác thực" của nó, nhấn mạnh vào phần biểu diễn trực tiếp, phần nhạc nền hoặc vào giọng hát điêu luyện và thường gói gọn sự phát triển tiến bộ chứ không phải chỉ đơn giản là phản ánh xu hướng hiện tại.
Tuy nhiên nhiều bài hát nhạc pop và rock lại rất giống nhau cả về mặt âm thanh, phần nhạc nền cũng như nội dung lời bài hát. Các thuật ngữ "pop-rock" và "power pop" bắt đầu được sử dụng để diễn tả các bài hát có tính thành công thương mại cao sử dụng một số hình thức của nhạc rock. Pop-rock đã từng được định nghĩa là "những bản upbeat của nhạc rock được biểu diễn bởi các nghệ sĩ như Elton John, Paul McCartney, The Everly Brothers, Rod Stewart, Chicago, và Peter Frampton. Ngược lại, nhà phê bình âm nhạc George Starostin lại định nghĩa pop-rock là một tiểu thể loại của nhạc pop sử dụng các bản nhạc pop hấp dẫn mà chủ yếu là dựa vào guitar. Starostin cho rằng hầu hết những gì là gọi là "power pop" là thuộc về pop rock, và nội dung phần lời bài hát là "phần quan trọng thứ yếu đối với âm nhạc." Thuật ngữ "power pop" được đặt ra bởi Pete Townshend của ban nhạc The Who vào năm 1966, nhưng không được sử dụng nhiều cho đến khi nó được áp dụng đối với các ban nhạc như Badfinger, một ban nhạc đã có được rất nhiều thành công thương mại trong thời kì này, vào những năm 1970. Xuyên suốt lịch sử của nó đã có nhiều sản phẩm nhạc rock có sử dụng các yếu tố của pop, và các nghệ sĩ pop sử dụng nhạc rock làm nền tảng cho âm nhạc của họ, hoặc nỗ lực phấn đấu cho tính "xác thực" của rock.
Blues rock
Cho dù làn sóng đầu tiên của British Invasion chủ yếu là những giai điệu beat và R&B, sự phát triển thực sự lại được biết tới với làn sóng thứ 2 từ những nghệ sĩ chơi nhạc gần với nhạc blues kiểu Mỹ, như The Stones hay The Yardbirds. Các nghệ sĩ blues từ Anh cuối những năm 50 đầu những năm 60 bị ảnh hưởng lớn với hình ảnh chiếc guitar acoustic từ Lead Belly và Robert Johnson. Họ dần tăng thêm tính ồn ào với guitar điện phỏng theo phong cách Chicago blues, đặc biệt là tour diễn của Muddy Waters vào năm 1958 đã gây cảm hứng cho Cyril Davies và Alexis Korner lập nên nhóm Blues Incorporated. Chính ban nhạc này là tiền đề của sự ra đời bùng nổ của các nghệ sĩ chơi British blues, bao gồm các thành viên của Rolling Stones và Cream, hòa trộn blues nguyên thủy với các nhạc cụ và yếu tố của nhạc rock.
Một trong những bước ngoặt là việc John Mayall lập nên nhóm Bluesbreakers mà sau này bao gồm cả Eric Clapton (sau khi chia tay The Yardbirds) và Peter Green. Điểm nhấn của họ chính là album Blues Breakers with Eric Clapton (1968) được coi là một trong những sản phẩm British blues thành công ở cả Anh lẫn Mỹ. Eric Clapton từ đó tiến tới thành lập những siêu ban nhạc như Cream, Blind Faith rồi Derek and the Dominos, cùng với đó là một sự nghiệp solo vĩ đại góp phần đưa blues rock trở nên phổ biến. Peter Green cùng với 2 cựu thành viên của Bluesbreakers là Mick Fleetwood và John McVie lập nên Fleetwood Mac – ban nhạc trở thành một trong những nghệ sĩ thành công nhất ở thể loại này. Tới cuối những năm 60, tới lượt Jeff Beck – một tượng đài nữa từ The Yardbirds – chuyển từ blues rock sang chơi heavy rock với việc thành lập ban nhạc riêng The Jeff Beck Group. 2 thành viên cuối cùng của The Yardbirds là Jimmy Page và John Paul Jones đổi tên ban nhạc từ The New Yardbirds thành Led Zeppelin mà phần nhiều những ca khúc trong 3 album đầu tay của nhóm và cả sau này rải rác suốt sự nghiệp của họ đều mang âm hưởng của nhạc blues truyền thống.
Ở Mỹ, blues rock đã được gây dựng từ đầu những năm 1960 bởi tay guitar Lonnie Mack, nhưng phong cách sớm bị lu mờ từ giữa những năm 60 bởi làn sóng từ những nghệ sĩ tới từ Anh. Những nghệ sĩ nổi bật nhất có thể kể tới Paul Butterfield, Canned Heat, Jefferson Airplane những năm đầu tiên, Janis Joplin, Johnny Winter, The J. Geils Band và Jimi Hendrix cùng với những ban nhạc vĩ đại của mình là The Jimi Hendrix Experience và Band of Gypsys mà khả năng chơi guitar cùng với thể hiện nhóm đã gây ảnh hưởng rất lớn suốt cả thập kỷ. Một số nhóm blues rock tới từ phía Nam như Allman Brothers Band, Lynyrd Skynyrd, hay ZZ Top thì chơi rock với nhiều yếu tố đồng quê hơn để rồi tạo nên thể loại Southern rock.
Nhiều nhóm blues rock ban đầu thường chơi theo kiểu jazz, chơi những đoạn dài và nhấn mạnh vào các đoạn ngẫu hứng, dần trở thành các nhóm chơi progressive rock. Khoảng năm 1967, Cream và The Jimi Hendrix Experience bắt đầu xa dần tính blues truyền thống để chuyển sang chơi psychedelia. Tới những năm 1970, blues rock trở nên "heavy" hơn và được thể hiện với nhiều kỹ thuật miết hơn qua những sản phẩm của Led Zeppelin và Deep Purple. Khác biệt giữa blues rock và hard rock ngày một "trở nên rõ ràng" với các album "kiểu rock" của họ. Phong cách này vẫn tiếp tục tồn tại với những nghệ sĩ như George Thorogood hay Pat Travers, song ở Anh, các ban nhạc bắt đầu chuyển dần sang chơi heavy metal (ngoại lệ duy nhất có lẽ là Status Quo và Foghat khi họ chuyển từ blues rock sang chơi boogie rock), và blues rock bắt đầu ngày một ít phổ biến.
Folk rock
Trong những năm 60, phong trào nhạc folk ở Mỹ dần trở nên mạnh mẽ, sử dụng âm nhạc và phong cách truyền thống với nhạc cụ mộc. Ở Mỹ, 2 cột trụ của phong trào này là Woody Guthrie và Pete Seeger và thường được đánh đồng với progressive rock hay các phong trào lao động. Tới đầu những năm 60, những người tiên phong như Joan Baez và Bob Dylan đã khẳng định phong cách này trong vai trò ca sĩ - người viết nhạc. Dylan đã trở nên nổi tiếng với công chúng qua những ca khúc như "Blowin' in the Wind" (1963) và "Masters of War" (1963), điển hình cho những "bài hát phản kháng" được biết đến rộng rãi. Cho dù có những ảnh hưởng lẫn nhau, rock và folk vẫn phân tách thành 2 thể loại khác nhau song thường có những cộng đồng người nghe chung.
Sự kết hợp đầu tiên giữa nhạc folk và rock là ca khúc "House of the Rising Sun" (1964) của The Animals khi đây là ca khúc có được thành công thương mại đầu tiên hát nhạc folk theo phong cách và bằng các nhạc cụ của nhạc rock, và sau đó "I'm a Loser" (1964) của The Beatles vốn lúc đó đã thừa nhận bị ảnh hưởng bởi Dylan. Phong trào folk rock trở nên phổ biến qua sự nghiệp của The Byrds khi họ hát lại ca khúc "Mr. Tambourine Man" của Dylan và đứng đầu bảng xếp hạng vào năm 1965. Với những thành viên vốn xuất phát là những người chơi folk ở các tụ điểm ở Los Angeles, The Byrds đã sử dụng nhạc rock, với trống, thậm chí cả cây guitar Rickenbacker 12-dây – những thứ sau này trở thành yếu tố đặc trưng của thể loại này. Về sau, Dylan bắt đầu sử dụng các nhạc cụ điện, dẫn tới những phản ứng tiêu cực của những người nghe folk truyền thống như với ca khúc kinh điển "Like a Rolling Stone". Folk rock phát triển mạnh mẽ ở California, với The Mamas & the Papas và Crosby, Stills and Nash cùng các nhạc cụ điện; và ở New York với sự xuất hiện của The Lovin' Spoonful và Simon & Garfunkel đặc biệt bản hit "The Sounds of Silence" (1965) với các yếu tố của nhạc rock trở thành ca khúc tiên phong.
Làn sóng này cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều nghệ sĩ Anh, như Donovan hay Fairport Convention. Năm 1969, Fairport Convention từ bỏ phong cách Mỹ của Dylan để chơi nhạc folk kiểu Anh truyền thống với nhạc cụ điện. Phong cách nhạc folk mới này tạo cảm hứng cho nhiều nghệ sĩ khác như Pentangle, Steeleye Span và The Albion Band, cũng như gợi ý cho các nhóm nhạc Ireland và Scotland như Horslips, JSD Band, Spencer's Feat và sau đó Five Hand Reel quay trở về việc sử dụng các nhạc cụ truyền thống để tạo nên phong cách Celtic rock vào những năm 1970.
Folk rock đạt tới đỉnh cao vào những năm 1967-1968, trước khi nó bị phân tách thành quá nhiều hướng khác nhau, điển hình như Dylan và The Byrds chuyển sang đi chuyên sâu vào country rock. Tuy nhiên sự lai tạp giữa folk và rock lại có những ảnh hưởng vô cùng quan trọng với lịch sử nhạc rock, góp phần đem tới tính psychedelia và phát triển nền móng của các ca sĩ - người viết nhạc, những ca khúc phản chiến và cả quan điểm về tính "xác thực".
Psychedelic rock
Âm nhạc psychedelic (phiêu diêu) từ những ảnh hưởng của chất LSD xuất hiện bên cạnh nhạc folk, khi nhóm Holy Modal Rounders sử dụng cụm từ này vào năm 1964 cho ca khúc "Hesitation Blues". Ban nhạc đầu tiên quảng bá thể loại này là 13th Floor Elevators khi họ tự gán phong cách này với họ vào cuối năm 1965; chỉ 1 năm sau họ cho phát hành album The Psychedelic Sounds of the 13th Floor Elevators. The Beatles cũng nhanh chóng đưa vô số những yếu tố của thể loại này vào trong những sản phẩm của mình, như với "I Feel Fine" chơi guitar ngược, sau đó là "Norwegian Wood" trong Rubber Soul vào cuối năm 1965 sử dụng đàn sitar, và cách chơi guitar ngược trong "Rain" và nhiều ca khúc khác của Revolver mà họ phát hành 1 năm sau đó.
Psychedelic rock đã không được phát triển ở California sau khi The Byrds chuyển từ chơi nhạc folk sang folk rock vào năm 1965. Song phong cách psychedelic vẫn tồn tại ở San Francisco với The Grateful Dead, Country Joe and the Fish, The Great Society và Jefferson Airplane. The Byrds ngay lập tức phát triển từ folk rock thuần túy với đĩa đơn "Eight Miles High" mà họ bắt đầu nói về việc sử dụng ma túy. Ở Anh, một trong những nhóm nhạc có ảnh hưởng lớn nhất là The Yardbirds với Jeff Beck là guitar chính, đã tiến sâu vào con đường psychedelic khi sử dụng nhịp "mê sảng", thứ giọng hát kiểu Giáo hoàng và sáng tác những ca khúc có tầm ảnh hưởng lớn như "Still I'm Sad" (1965) và "Over Under Sideways Down" (1966). Từ năm 1966, văn hóa ngầm ở Anh được phát triển từ phía Bắc London, tạo nên những nhóm nhạc mới như Pink Floyd, Traffic và Soft Machine. Trong cùng năm, album nổi tiếng Sunshine Superman của Donovan, được coi là một trong những bản thu hoàn chỉnh đầu tiên của psychedelic rock cùng với những album đầu tay của Cream và The Jimi Hendrix Experience, đã phát triển việc sử dụng kỹ năng bấm guitar thành yếu tố điển hình của thể loại này.
Psychedelic rock đạt tới đỉnh cao vào những năm cuối của thập niên này. Năm 1967 được đánh dấu bằng việc The Beatles phát hành siêu phẩm Sgt. Pepper's Lonely Hearts Club Band với ca khúc gây nhiều tranh cãi "Lucy in the Sky with Diamonds", dẫn tới việc The Stones phải tung ra Their Satanic Majesties Request cùng năm. Pink Floyd cũng cho phát hành album đầu tay The Piper at the Gates of Dawn vốn được coi là sản phẩm psychedelic xuất sắc nhất của họ. Ở Mỹ, Summer of Love được giới thiệu qua sự kiện Human Be-In và nổi tiếng ở Monterey Pop Festival, sự kiện giúp những Jimi Hendrix và The Who với đĩa đơn "I Can See for Miles" chính thức gia nhập vào dòng chảy psychedelic. Những album tiêu biểu còn có Surrealistic Pillow của Jefferson Airplane và Strange Days của The Doors. Làn sóng lên tới cực đỉnh tại Woodstock festival vào năm 1969 khi hầu hết các phần trình diễn đều theo phong cách này. Tuy nhiên, sau đó, psychedelic bắt đầu dần rơi vào quên lãng. Brian Wilson của The Beach Boys, Brian Jones của The Rolling Stones, Peter Green của Fleetwood Mac và Syd Barrett của Pink Floyd đều trở thành những con nghiện ma túy, trong khi The Jimi Hendrix Experience và Cream đều đã tan rã trước đó khiến cho nhạc rock dần chuyển thành roots rock, hoặc thành những thử nghiệm của progressive rock hoặc những tiền đề đầu tiên của hard rock.
Thời kỳ phát triển (cuối những năm 60 – giữa những năm 70)
Roots rock
Roots rock là khái niệm dành cho thời kỳ quá độ từ psychedelia trở về với thể loại nguyên gốc của rock là rock and roll pha lẫn với những thành tố chính của nó, ở đây là nhạc folk và nhạc đồng quê, từ đó hình thành nên 2 thể loại chính là country rock và Southern rock. Năm 1966, Bob Dylan tới Nashville để thực hiện album nổi tiếng Blonde on Blonde. Cho dù sản phẩm này chưa hoàn toàn mang tính đồng quê, song nó cũng góp phần quan trọng trong việc khai sinh ra country folk – một phong cách sau này trở thành tiền đề của mọi nghệ sĩ nhạc folk. Những ban nhạc nổi bật khác có thể kể tới nhóm nhạc người Canada, The Band, và ban nhạc gốc California, CCR, đã hòa lẫn rock and roll với folk, blues và cả nhạc đồng quê và nhanh chóng trở thành những nhóm nhạc thành công nhất và có ảnh hưởng nhất từ cuối những năm 60. Đây cũng là con đường của nhiều nghệ sĩ solo như Ry Cooder, Bonnie Raitt hay Lowell George, thậm chí trong nhiều sản phẩm như Beggar's Banquet (1968) của The Stones hay Let It Be (1970) của The Beatles.
Năm 1968, Gram Parsons thu âm Safe at Home cùng International Submarine Band và đây được coi là album country rock đúng nghĩa đầu tiên. Chỉ 1 năm sau, ông hợp tác với The Byrds trong Sweetheart of the Rodeo (1968), được coi là một trong những album quan trọng nhất của thể loại này. The Byrds tiếp tục theo đuổi phong cách này, song Parsons chia tay nhóm để cùng Chris Hillman lập nên The Flying Burrito Brothers để gây dựng hoàn chỉnh thể loại này trước khi Parsons bắt đầu sự nghiệp solo. Những nhóm ở California trung thành với country rock còn có Hearts and Flowers, Poco and New Riders of the Purple Sage, Beau Brummels và Nitty Gritty Dirt Band. Một số nghệ sĩ đã thử nghiệm việc tái hiện lại âm thanh kiểu đồng quê, bao gồm: nhóm The Everly Brothers; ngôi sao tuổi teen Rick Nelson, sau này trở thành trụ cột của Stone Canyon Band; cựu thành viên của Monkee, Mike Nesmith, sau này lập nên nhóm First National Band; và dĩ nhiên, Neil Young. The Dillards cũng là một nhóm nhạc đồng quê rồi chuyển sang rock. Tuy nhiên, thành công của thể loại này chỉ tới vào những năm 1970 với những Doobie Brothers, Emmylou Harris, Linda Ronstadt và The Eagles (được thành lập từ những cựu thành viên của Burritos, Poco và Stone Canyon Band) – ban nhạc đã trở thành một trong những biểu tượng thành công nhất của nhạc rock, trong đó có album nổi tiếng Hotel California (1976).
Người khai sinh ra Southern rock là nhóm nhạc Allman Brothers Band, những người đã phát triển những âm thanh mới gần giống với blues rock, song có thêm nhiều yếu tố khác như nốt lặp, nhạc soul và cả nhạc đồng quê của đầu những năm 70. Những người thành công tiếp theo chính là Lynyrd Skynyrd khi họ đã đem được hình ảnh của những "Good ol' boy" vào nhạc rock. Những người kế thừa họ có thể kể tới nhóm nhạc hòa tấu Dixie Dregs, nhóm nhạc đồng quê Outlaws, ban nhạc jazz Wet Willie và nhóm nhạc trộn lẫn rock với nhạc phúc âm cùng R&B, Ozark Mountain Daredevils. Sau khi những thành viên chủ chốt của Allman và Lynyrd Skynyrd qua đời, thể loại này mất dần độ phổ biến từ cuối những năm 1970 song vẫn tồn tại trong những năm 1980 với một số nghệ sĩ như.38 Special, Molly Hatchet và The Marshall Tucker Band.
Progressive rock
Progressive rock, khái niệm vẫn thường được đánh đồng với art rock, là thể loại nhạc chơi rock với việc thử nghiệm cùng rất nhiều loại nhạc cụ, cấu trúc, giai điệu và âm thanh khác.. Vào giữa những năm 1960, The Left Banke, The Beatles, The Rolling Stones hay The Beach Boys đều đã từng đem harpsichord, gió hay cả dàn dây vào những ca khúc mang cấu trúc của Baroque rock, có thể nghe trong ca khúc "A Whiter Shade of Pale" (1963) của Procol Harum với một đoạn mở đầu phỏng theo giai điệu của Bach. The Moody Blues đã sử dụng dàn nhạc trong toàn bộ album Days of Future Passed (1967) và cũng giả âm thanh của dàn nhạc với các công cụ chỉnh âm. Với progressive rock, các dàn nhạc giao hưởng, keyboard và máy chỉnh âm trở thành những yếu tố thường thấy bên cạnh những nhạc cụ quen thuộc của rock như guitar, trống, bass.
Các ban nhạc thường chơi phần hòa tấu nhạc cụ, còn phần ca từ thường đề cập tới những quan điểm, thường trừu tượng và dựa theo tưởng tượng hay khoa học viễn tưởng. SF Sorrow (1968) của The Pretty Things, Tommy (1969) của The Who, Arthur (Or the Decline and Fall of the British Empire) (1969) của The Kinks đã phát triển phong cách rock opera và mang tới khái niệm album chủ đề mà thường đề cập tới một câu chuyện hoặc một vấn đề xã hội nào đó. Album đầu tay In the Court of the Crimson King (1969) của King Crimson đã trộn tiếng miết của guitar với mellotron, cùng jazz và dàn nhạc hòa tấu, thường được coi là cột mốc đánh dấu của progressive rock, góp phần khẳng định sự tồn tại của phong cách này như một thể loại mới vào những năm 1970 bên cạnh những nhóm nhạc chơi blues rock và psychedelic.
Sự thành công của làn sóng Canterbury đã dẫn tới những sản phẩm từ Soft Machine với psychedelia, trộn lẫn với jazz và hard rock, tiếp đó có cả Caravan, Hatfield and the North, Gong, và National Health. Tuy nhiên, ban nhạc thành công nhất với phong cách này chính là Pink Floyd, một nhóm nhạc cũng chuyển ngạch sang từ psychedelia sau sự chia tay của Syd Barrett vào năm 1969, đặc biệt với siêu phẩm The Dark Side of the Moon (1973) vốn được coi là biểu tượng của progressive rock và vẫn là một trong những album bán chạy nhất mọi thời đại. Phong cách này được tăng thêm tính thẩm mỹ với việc ban nhạc Yes trình diễn với cả tay guitar Steve Howe lẫn keyboard Rick Wakeman, trong khi siêu ban nhạc Emerson, Lake & Palmer lại trình diễn một thứ rock giàu tính kỹ thuật hơn. Jethro Tull và Genesis cho dù vẫn mang tính "Anh" nhưng lại có những hướng đi rất khác nhau. Nhóm Renaissance được thành lập vào năm 1969 bởi 2 cựu thành viên của Yardbirds là Jim McCarty và Keith Relf đã phát triển hình thức nhóm nhạc siêu-chủ-đề với ca sĩ giọng 3 quãng tám, Annie Haslam. Hầu hết các ban nhạc của Anh đều bị ảnh hưởng bởi một quan điểm nào đó, thường không thực sự phổ biến, như Pink Floyd, Jethro Tull hay Genesis, đã trình làng những đĩa đơn xuất sắc tại đây và bắt đầu những bước tiến đầu tiên ở thị trường Mỹ.
Những nghệ sĩ progressive rock ở Mỹ lại rất lẫn lộn giữa tính chiết trung và cả sự đổi mới như Frank Zappa, Captain Beefheart và Blood, Sweat & Tears, với tính pop rock như Boston, Foreigner, Kansas, Journey hay Styx. Bên cạnh những nhóm nhạc từ Anh như Superstramp hay ELO, các nghệ sĩ trên đã đem tới sự thành công của progressive suốt những năm 1970, mở đầu ra thời kỳ pomp hay arena rock cho tới khi rock festival phát triển vào những năm 1990 do giá cả đắt đỏ của những buổi trình diễn progressive rock (hiệu ứng âm thanh, ánh sáng cũng như thuê đội ngũ nhân viên).
Một trong những sản phẩm quan trọng nhất đó là Tubular Bells (1973) của Mike Oldfield, bản thu đầu tiên và cũng là bản hit quốc tế đầu tiên của hãng Virgin Records. Instrumental rock phát triển rộng khắp châu Âu, với những nhóm như Kraftwerk, Tangerine Dream, Can, và Faust đã đem phong cách âm nhạc này vượt qua cả những rào cản ngôn ngữ. Krautrock phát triển với sự đóng góp của Brian Eno (khi đó vẫn còn là keyboard chính của Roxy Music) và gây ảnh hưởng lớn tới tiểu thể loại sau này của nó là synth rock. Với sự phát triển của punk rock và công nghệ vào cuối những năm 1970, progressive dần biến mất rồi biến thể. Rất nhiều nhóm nhạc tuyên bố tan rã, song số khác còn lại như Genesis, ELP, Yes, hay Pink Floyd tiếp tục có những album xuất sắc cùng với những tour diễn thành công. Một vài nhóm bắt đầu khai phá nhạc punk, như Siouxsie and the Banshees, Ultravox và Simple Minds đã cho thấy rõ những ảnh hưởng của punk hơn hẳn so với progressive.
Jazz rock
Vào cuối thập niên 1960, jazz rock nổi lên như một tiểu thể loại riêng biệt, tách ra khỏi blues rock, psychedelic và progressive rock, pha trộn giữa những cái hay của rock cùng với sự phức tạp về mặt âm nhạc và các yếu tố ngẫu hứng của jazz. Nhiều nhạc sĩ rock and roll Mỹ đã bắt đầu từ nhạc jazz và đem một số yếu tố của jazz đặt vào âm nhạc của họ. Ở Anh, tiểu thể loại của blues rock, cùng với những người dẫn đầu thể loại này như Ginger Baker và Jack Bruce của ban nhạc Cream, đã nổi lên từ nhạc jazz Anh. Vẫn thường được coi là thu âm nhạc jazz rock đầu tiên là album của một ban nhạc không mấy tiếng tăm ở New York, The Free Spirits, với album Out of Sight and Sound (1966). Những ban nhạc đã sử dụng các phần jazz trong các bài hát của mình như Electric Flag, Blood, Sweat & Tears và Chicago, đã trở thành nhiều trong số những nghệ sĩ có được thành công thương mại lớn nhất vào cuối thập niên 1960 đầu thập niên 1970.
Nhiều nghệ sĩ người Anh nổi lên trong cùng thời kì này từ nhạc blues đã lợi dụng những khía cạnh âm điệu và tính ngẫu hứng của nhạc jazz, trong đó có Nucleus, Graham Bond và John Mayall từ ban nhạc Colosseum. Từ psychedelic rock, ở Canterbury xuất hiện một ban nhạc tên là Soft Machine, ban nhạc đã được dự đoán là sẽ sản xuất ra những sản phẩm hợp nhất thành công giữa hai thể loại âm nhạc. Có lẽ sự hợp nhất được đánh giá cao nhất đến từ phía nhạc jazz, với việc Miles Davis, bị ảnh hưởng đặc biệt bởi các tác phẩm của Hendrix, đã kết hợp phần rock không lời vào album của mình, Bitches Brew (1970). Sau đó, rock đã có một ảnh hưởng lớn tới các nghệ sĩ nhạc jazz, trong đó có Herbie Hancock, Chick Corea và Weather Report. Thể loại này bắt đầu mờ nhạt dần vào cuối những năm 1970, nhưng một số nghệ sĩ như Steely Dan, Frank Zappa và Joni Mitchell đã thu âm một số lượng đáng kể các album với ảnh hưởng từ jazz trong thời kì này, và nó vẫn tiếp tục là một ảnh hưởng lớn của nhạc rock.
Glam rock
Glam rock có nguồn gốc từ psychedelic và art rock từ cuối những năm 1960 và được coi như một sự mở rộng cũng như đối nghịch với cả hai thể loại trên. Sự đa dạng về mặt âm nhạc, từ những nghệ sĩ theo xu hướng trở về rock and roll nguyên thủy như Alvin Stardust cho tới thứ art rock phức tạp của Roxy Music, đều được coi là đặc trưng của phong cách này. Nhìn chung glam rock pha trộn nhiều đặc điểm từ nhiều phong cách khác nhau, từ những giai điệu Hollywood những năm 1930, qua cả thời kỳ hạn chế tình dục của thập niên 1950, rồi phong cách Cabaret thời tiền chiến, văn học thời kỳ Vitoria cùng với kiểu cách biểu tượng, khoa học viễn tưởng đi kèm với những tích cổ và sự kiện huyền bí; tất cả biểu hiện ở vẻ bề ngoài qua trang phục, cách trang điểm, kiểu tóc và giày độn đế hầm hố. Glam rock còn được nhắc tới nhiều về việc lẫn lộn giới tính và là nguồn gốc của thời trang androgyny, bên cạnh việc đề cao nghệ thuật sân khấu. Ban đầu nó được định hình bởi những nghệ sĩ trình diễn nổi tiếng từ nước Mỹ như The Cockettes hay Alice Cooper.
Nguồn gốc của glam rock có lẽ là từ Marc Bolan, người đổi tên ban nhạc folk T. Rex rồi mang tới cho họ những nhạc cụ điện thực sự mạnh mẽ vào cuối những năm 60. Nhiều nguồn có nhắc tới việc ông xuất hiện trong chương trình truyền hình Top of the Pops vào tháng 12 năm 1970 khi mặc đồ kim tuyến để trình diễn đĩa đơn quán quân đầu tiên trong sự nghiệp, "Ride a White Swan". Năm 1971, ngôi sao trẻ David Bowie nghĩ ra hình tượng Ziggy Stardust với cách trang điểm, điệu bộ và thái độ đặc trưng cho mỗi buổi diễn. Không lâu sau, phong cách đó được nhiều nghệ sĩ theo đuổi, có thể kể tới Roxy Music, Sweet, Slade, Mott the Hoople, Mud và Alvin Stardust. Cho dù có được thành công lớn tại Anh, chỉ vài người trong số họ tìm được tiếng nói tại Mỹ. Bowie có lẽ là ngoại lệ duy nhất khi có được tiếng vang toàn cầu và được nhắc tới là người mang tính glam cho nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác như Lou Reed, Iggy Pop, New York Dolls và Jobriath – thường được gọi chung dưới tên "glitter rock" vì phần ca từ thường bi quan hơn so với những nghệ sĩ người Anh. Tại Anh, khái niệm "glitter rock" gắn liền với từ nhạc glam cực đại của Gary Glitter và nhóm Glitter Band của ông – những người có tới 18 đĩa đơn top 10 tại đây chỉ trong khoảng từ năm 1972 tới năm 1976.
Làn sóng thứ 2 là từ Suzi Quatro, Wizzard và Sparks, thống trị các bảng xếp hạng tại Anh trong những năm 1974-1976. Một vài kiểu cách khác, không hoàn toàn được gọi là glam, có thể được nhắc tới qua vài nghệ sĩ như Rod Stewart, Elton John, Queen, thậm chí cả The Rolling Stones. Nó cũng ảnh hưởng trực tiếp tới nhiều hậu bối, có thể kể tới Kiss hay Adam Ant, và gián tiếp tới vài phong cách khác như gothic rock hay glam metal và cả punk rock – phong cách đặt dấu chấm hết cho thời trang glam vào năm 1976. Glam rock sau này có được vài thành công nhỏ lẻ từ những nhóm như Chainsaw Kittens, The Darkness và nghệ sĩ R&B Prince.
Soft rock, hard rock và tiền heavy metal
Từ cuối những năm 1960, việc phân chia nhạc rock thành soft rock và hard rock bắt đầu trở nên phổ biến. Soft rock thường có nguồn gốc từ folk rock, sử dụng các nhạc cụ đệm nhẹ và chú tâm hơn vào phần giai điệu và hòa âm. Một số nghệ sĩ lớn của soft rock bao gồm Carole King, Cat Stevens và James Taylor. Soft rock đạt đến đỉnh cao của thương mại vào khoảng từ giữa đến cuối thập niên 1970 với một số nghệ sĩ như Billy Joel, America, và ban nhạc Fleetwood Mac với album Rumours (1977) là album bán chạy nhất của thập kỉ. Ngược lại, hard rock thường được bắt nguồn từ blues rock và được chơi với cường độ lớn hơn. Nhạc hard rock nổi bật với tiếng guitar điện, là nhạc cụ chính độc lập hoặc cũng có thể là nhạc cụ sử dụng để lặp đi lặp lại những câu nhạc đơn giản, và thường được sử dụng cùng với hiệu ứng biến dạng âm thanh và nhiều hiệu ứng khác. Một số nghệ sĩ chính của thể loại nhạc này bao gồm các ban nhạc nổi lên từ cuộc xâm lăng British Invasion như The Who và The Kinks, cũng như những nghệ sĩ trong thời kì psychedelic như Cream, Jimi Hendrix và The Jeff Beck Group. Nhiều ban nhạc ảnh hưởng bởi hard rock đã đạt được những thành công quốc tế to lớn, trong đó có ban nhạc Queen, Thin Lizzy, Aerosmith và AC/DC.
Từ cuối những năm 1960, thuật ngữ "heavy metal" bắt đầu được sử dụng để diễn tả loại nhạc hard rock được chơi với cường độ và âm thanh mạnh hơn. Mới đầu, "heavy metal" được sử dụng như một tính từ, nhưng đến đầu thập niên 1970, nó trở thành một danh từ. Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên trong đĩa đơn "Born to Be Wild" (1967) của ban nhạc Steppenwolf và bắt đầu trở nên phổ biến khi được sử dụng bởi các ban nhạc như Blue Cheer (Boston) và Grand Funk Railroad (Michigan). Ðến năm 1970 ba ban nhạc chính của Anh đã phát triển những âm thanh và phong cách đặc trưng, giúp định hình tiểu thể loại này. Led Zeppelin thêm các yếu tố kỳ ảo vào câu nhạc đậm chất blues-rock, Deep Purple đem đến những gia vị kiểu trung cổ và mang tính giao hưởng, và Black Sabbath giới thiệu những khía cạnh gothic của rock, góp phần sản xuất ra những âm thanh "tối hơn". Những yếu tố này tiếp tục được sử dụng bởi "thế hệ thứ hai" của các ban nhạc heavy metal vào cuối thập niên 1970, trong đó có Judas Priest, UFO, Motörhead và Rainbow ở Anh; Kiss, Ted Nugent, và Blue Öyster Cult ở Mỹ; Rush ở Canada và Scorpions ở Đức, tất cả đều đánh dấu sự mở rộng về độ phổ biến của tiểu thể loại này. Mặc dù thiếu sự hậu thuẫn của các đài phát thanh và ít khi xuất hiện trên các bảng xếp hạng đĩa đơn nhưng vào cuối thập niên 1970, nhạc heavy metal đã có được một sự quan tâm đáng kể, đặc biệt là ở nam giới vị thành niên thuộc tầng lớp lao động ở Bắc Mỹ và châu Âu.
Christian rock
Rock đã bị chỉ trích bởi một số những người đứng đầu Kitô giáo, họ đã lên án nó là vô đạo đức, chống lại Kitô giáo và thậm chí là bị quỷ ám. Tuy nhiên, Christian rock lại bắt đầu phát triển vào những năm cuối thập niên 1960, đặc biệt là bên ngoài các phong trào Jesus bắt đầu ở miền Nam California, và nổi lên như một tiểu thể loại âm nhạc trong thập niên 1970 với những nghệ sĩ như Larry Norman, người được coi là "ngôi sao" đầu tiên của nhạc Christian rock. Thể loại âm nhạc này đặc biệt nổi tiếng ở Mỹ. Có rất nhiều nghệ sĩ nhạc Christian rock có quan hệ với nhạc Phúc âm đương đại, trong khi các ban nhạc và các nghệ sĩ khác lại gắn bó với nhạc independent. Từ những năm 1980, những người biểu diễn nhạc Christian đã đạt được thành công lớn, bao gồm cả nữ nghệ sĩ nửa-thánh-ca nửa-pop người Mỹ Amy Grant và nam ca sĩ người Anh Cliff Richard. Trong khi các nghệ sĩ này đã được chấp nhận phần nào trong cộng đồng Kitô hữu, thì việc áp dụng heavy rock và phong cách glam metal của các nhóm nhạc như Petra và Stryper, những ban nhạc đã đạt được những thành công đáng kể trong những năm 1980, lại gây nhiều tranh cãi. Từ những năm 1990 trở đi, số lượng những nghệ sĩ cố gắng tránh các hãng đĩa bán nhạc Christian, tránh được coi là nhóm nhạc Christian rock ngày càng tăng, trong đó có P.O.D và Collective Soul.
Làn sóng Punk (từ giữa những năm 70 tới hết những năm 80)
Punk rock
Punk rock được phát triển vào nhũng năm 1974 đến 1976 ở Mỹ và Anh. Bắt nguồn từ garage rock và thể loại âm nhạc mà bây giờ vẫn được gọi là nhạc protopunk, các ban nhạc punk rock né tránh sự nhận thức thái quá của nhạc rock phổ thông của những năm 1970. Họ tạo ra những loại nhạc thô ráp với nhịp điệu nhanh, điển hình là các bài hát ngắn, các đoạn nhạc không lời đơn giản và lời bài hát mang tính chính trị, chống thể chế. Punk cũng bao hàm cả đạo lý DIY (do it yourself - tự thực hiện), bởi nhiều ban nhạc đã tự đứng ra sản xuất các bản thu âm của mình và phân phối chúng cho các kênh truyền hình không chính thức.
Đến cuối năm 1976, một số nghệ sĩ như Ramones và Patti Smith ở Thành phố New York, cùng với Sex Pistols và The Clash ở London đã được coi như là những người tiên phong của phong trào âm nhạc mới mẻ này. Năm tiếp theo đó đã chứng kiến sự lan tỏa của punk rock trên toàn thế giới. Dù chỉ trong một thời gian ngắn nhưng punk đã nhanh chóng trở thành một hiện tượng văn hóa lớn ở Anh. Phần lớn, punk bén rễ trên các sân khấu của các địa phương có xu hướng từ chối giao thiệp tới dòng nhạc phổ thông. Một tiểu văn hóa punk đã nổi lên, biểu hiện qua cuộc nổi loạn của các thanh thiếu niên, đồng thời được đặc trưng bởi phong cách thời trang đặc biệt và một loạt các tư tưởng chống độc tài.
Đến khoảng đầu thập niên 1980, những phong cách âm nhạc với nhịp điệu nhanh hơn và mạnh mẽ hơn như hardcore và Oi! đã trở thành một phương thức nổi trội của punk rock. Điều này đã giúp tạo ra một số dòng nhạc mới từ hardcore punk như D-beat (một tiểu thể loại được ảnh hưởng bởi ban nhạc người Anh Discharge), anarcho-punk (như ban nhạc Crass), grindcore (điển hình là ban nhạc Napalm Death), và crust punk. Những nhạc sĩ đồng cảm với punk hoặc được truyền cảm hứng bởi punk cũng theo đuổi một loạt những thể loại âm nhạc khác được biến thể từ punk, dẫn đến sự nổi lên của New Wave, post-punk và trào lưu alternative rock.
New Wave
Mặc dù punk rock là một hiện tượng xã hội và hiện tượng âm nhạc rất có ý nghĩa, nhưng dòng nhạc này lại không đạt được nhiều thành công cả về mặt doanh số (được phân phối bởi các hãng đĩa nhỏ như Stiff Records) lẫn lượt phát trên các đài phát thanh Mỹ (bởi các đài phát thanh vẫn tiếp tục bị chi phối bởi các dòng nhạc phổ thông như disco và album-oriented rock). Punk rock đã thu hút được các tín đồ nghệ thuật và thuộc các trường đại học, và các ban nhạc như Talking Heads và Devo đã bắt đầu xâm nhập vào thị trường nhạc punk; ở nhiều nơi, thuật ngữ "New Wave" ("Làn sóng mới") bắt đầu được sử dụng để phân biệt những ban nhạc punk ít công khai. Các nhà điều hành thu âm, những người khá hoang mang về trào lưu nhạc punk này, đã nhận ra tiềm năng dễ tiếp cận của các nghệ sĩ nhạc New Wave, họ bắt đầu tích cực ký kết và tiếp thị bất kỳ ban nhạc mà có tiềm năng về punk hay New Wave. Nhiều ban nhạc, trong đó có The Cars và The Go-Go's, có thể được coi là ban nhạc pop thị trường của New Wave; một số nghệ sĩ khác như The Police, The Pretenders và Elvis Costello lại sử dụng trào lưu New Wave làm bàn đạp cho sự nghiệp tương đối dài và thành công của mình, trong khi những ban nhạc "cà vạt mỏng" như The Knack, hay ban nhạc ăn ảnh Blondie, lại bắt đầu sự nghiệp với nhạc punk và sau đó dần tiến vào khu vực có tính thương mại cao hơn.
Giữa năm 1979 và 1985, với ảnh hưởng của Kraftwerk, Yellow Magic Orchestra, David Bowie, và Gary Numan, dòng nhạc British New Wave của Anh đã đi theo chiều hướng của trào lưu New Romantics với các ban nhạc như Spandau Ballet, Ultravox, Japan, Duran Duran, A Flock of Seagulls, Culture Club, Talk Talk và Eurythmics, thường sử dụng nhạc cụ tổng hợp để thay thế các nhạc cụ khác. Thời kỳ này trùng khớp với sự nổi lên của MTV và dẫn đến sự bùng nổ của dòng nhạc này, tạo ra những đặc trưng của cuộc British Invasion thứ hai. Nhiều ban nhạc rock truyền thống khác đã thích nghi với thời đại video và hưởng lợi từ sóng đài phát thanh của MTV, rõ ràng nhất là Dire Straits với đĩa đơn "Money for Nothing" đã nhẹ nhàng chế diễu các nhà ga, bất chấp thực tế là nó đã giúp cho họ trở thành ngôi sao quốc tế, nhưng về mặt chung thì rock guitar phương đông đã bị làm cho lu mờ.
Post-punk
Nếu như hardcore được coi là thể loại bắt nguồn trực tiếp từ punk, trong khi new wave được coi là hình thức thương mại của thể loại trên thì post-punk xuất hiện vảo cuối thập niên 1970 đầu thập niên 1980 với nhiều tính nghệ thuật và thử thách hơn. Những nghệ sĩ gây ảnh hưởng lớn chính là The Velvet Underground, The Who, Frank Zappa và Captain Beefheart, cũng như làn sóng No wave ở New York quan tâm hơn tới nghệ thuật trình diễn với James Chance and the Contortions, DNA và Sonic Youth. Những nghệ sĩ đầu tiên của thể loại này có lẽ là Pere Ubu, Devo, The Residents và Talking Heads.
Những nghệ sĩ Anh đầu tiên gia nhập post-punk có thể kể tới Gang of Four, Siouxsie and the Banshees và Joy Division, song họ lại ít mang tính nghệ thuật hơn những đồng nghiệp ở Mỹ khi sử dụng nhiều chất liệu "tối" hơn trong âm nhạc. Những nhóm như Siouxsie and the Banshees, Bauhaus, The Cure và The Sisters of Mercy nhanh chóng chuyển hướng và tìm tới Gothic rock, sau này trở thành tiểu thể loại phổ biến đầu thập niên 1980. Ở Úc cũng xuất hiện một số nghệ sĩ như The Birthday Party và Nick Cave. Những thành viên của Bauhaus và Joy Division còn khám phá ra những phong cách mới với lần lượt Love and Rockets và New Order. Một trong những trào lưu đầu tiên của post-punk có lẽ là âm nhạc công nghiệp (industrial music), được phát triển bởi một số nhóm nhạc Anh như Throbbing Gristle và Cabaret Voltaire, ban nhạc tới từ New York Suicide, sử dụng nhiều kỹ thuật điện và hiệu ứng phỏng theo âm thanh của nhà máy công nghiệp, từ đó khiến họ phát triển thêm nhiều phong cách khác trong thập niên 1980.
Thế hệ những nghệ sĩ post-punk người Anh thứ 2 bao gồm The Fall, The Pop Group, The Mekons, Echo and the Bunnymen và The Teardrop Explodes đi theo xu hướng âm nhạc tối màu. Tuy nhiên, nghệ sĩ có được thành công hơn cả chính là ban nhạc tới từ Ireland, U2 – những người đưa những quan điểm tôn giáo đi cùng với những phê bình chính trị trong những chủ đề âm nhạc đặc trưng của họ, và tới cuối thập niên 1980 trở thành ban nhạc thành công nhất thế giới. Cho dù tới nay vẫn còn nhiều nghệ sĩ post-punk thu âm và trình diễn, phong cách này đi xuống nhanh chóng vào giữa thập niên 1980 khi nhiều ban nhạc tan rã hoặc xáo trộn để tìm tòi những khía cạnh mới, song họ vẫn có được một số ảnh hưởng nhất định và được coi là nhân tố quan trọng cho trào lưu alternative rock sau này.
New Waves và các thể loại của heavy metal
Dù có nhiều ban nhạc mới thành lập vẫn duy trì việc biểu diễn và thu âm nhưng nhạc heavy metal bắt đầu vắng bóng mặc cho sự phát triển của trào lưu nhạc punk vào giữa thập niên 1970. Thời kì này cũng chứng kiến sự nổi lên của các ban nhạc như Motörhead, ban nhạc đã làm nên tính đa cảm của punk, và Judas Priest, ban nhạc đã tạo nên dạng âm thanh đơn giản, tức là loại bỏ phần lớn các yếu tố nhạc blues còn sót lại, từ album năm 1978 của họ, Stained Class. Sự thay đổi này được so sánh với punk và đến cuối thập niên 1970, nó được biết đến với tên gọi New Wave of British Heavy Metal (NWOBHM). Nhiều ban nhạc đã bắt đầu đi theo xu hướng này, bao gồm Iron Maiden, Vardis, Diamond Head, Saxon, Def Leppard và Venom, và nhiều trong số họ đã đạt được những thành công đáng kể tại thị trường Mỹ. Cũng trong thập kỉ này, Eddie Van Halen đã tự tạo dựng cho bản thân mình hình ảnh của một bậc thầy guitar nhạc metal sau khi ban nhạc của anh phát hành album cùng tên, Van Halen vào năm 1978. Randy Rhoads và Yngwie Malmsteen cũng trở thành những bậc thầy có uy tín, họ đi theo dòng nhạc mà thời nay người ta hay gọi là phong cách neo-classical metal.
Lấy cảm hứng từ NWOBHM cùng với sự thành công của Van Halen, dòng nhạc metal bắt đầu phát triển ở miền Nam California vào cuối thập niên 1970, dựa trên các câu lạc bộ của khu Sunset Strip tại L.A., bao gồm các ban nhạc như Quiet Riot, Ratt, Mötley Crüe, và W.A.S.P., những ban nhạc này, cùng với những nghệ sĩ có phong cách tương tự như Twisted Sister đến từ New York, đã hợp nhất nghệ thuật sân khấu (đôi khi là tính chất) của những nghệ sĩ nhạc glam rock như Alice Cooper và Kiss. Phần lời bài hát của các ban nhạc glam metal này thường nhấn mạnh về chủ nghĩa khoái lạc và các hành vi ngông cuồng, đồng thời phần nhạc được phân biệt bởi tiếng shred guitar đơn liên thanh, phần điệp khúc lôi cuốn và phần dẫn dắt du dương. Đến khoảng giữa thập niên 1980 các ban nhạc bắt đầu nổi lên ở L.A., theo đuổi một hình ảnh ít quyến rũ và âm thanh thô hơn, đặc biệt là ban nhạc Guns N' Roses, đột phá với album Appetite for Destruction (1987), và Jane's Addiction với việc ra mắt album Nothing's Shocking sau đó một năm.
Vào cuối thập niên 1980 metal bị phân chia ra thành nhiều tiểu thể loại nhỏ, trong đó có thrash metal, một tiểu thể loại được phát triển tại Mỹ từ phong cách speed metal, dưới sự ảnh hưởng của hardcore punk, với giai điệu guitar với khoảng âm thấp thường được phủ lên bởi tiếng shredding. Lời bài hát thường bày tỏ quan điểm hư vô hoặc đối phó với các tệ nạn xã hội bằng việc sử dụng ngôn từ một cách máu me và ghê rợn. Thrash metal đã được phổ biến bởi "Big Four of Thrash" ("Tứ Đại nhạc Thrash"): Metallica, Anthrax, Megadeth, và Slayer. Death metal được phát triển lên từ thrash, đặc biệt chịu ảnh hưởng của các ban nhạc Venom và Slayer. Ban nhạc Death từ Florida và ban nhạc Possessed từ Bay Area thường nhấn mạnh phần lời bài hát với các chủ đề về sự báng bổ, yêu thuật, thuyết nghìn năm, với giọng hầu âm "death growl", những tiếng thét the thé, bổ sung bởi down-tuned, tiếng biến dạng cao của guitar và bộ gõ bass đôi. Black metal, cũng chịu ảnh hưởng của Venom và được tiên phong bởi ban nhạc Mercyful Fate (Đan Mạch), Hellhammer và Celtic Frost (Thụy Sĩ), và Bathory (Thụy Điển), có nhiều điểm tương đồng về mặt âm thanh đối với death metal, nhưng trong sản xuất lại thường được lo-fi một cách cố tình và thường nhấn mạnh vào các chủ đề về satan và chủ nghĩa tà giáo. Ban nhạc Bathory đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tạo cảm hứng cho các tiểu thể loại xa hơn là Viking metal và folk metal. Power metal nổi lên ở châu Âu vào cuối những năm 1980 như một phản ứng đối với sự khắc nghiệt của death và black metal và được tạo nên bởi ban nhạc người Đức Helloween, ban nhạc đã kết hợp phần dẫn dắt du dương với tốc độ và năng lượng của thrash. Ban nhạc DragonForce (Anh) và Iced Earth (Florida) có phần nhạc tương tự như NWOBHM, trong khi các nghệ sĩ khác như Kamelot (Florida), Nightwish (Phần Lan), Rhapsody of Fire (Ý), và Catharsis (Nga) lại có thêm những âm thanh mang tính "giao hưởng" dựa trên piano, đôi khi sử dụng thêm các dàn nhạc và các ca sĩ opera. Ngược lại với tiểu thể loại khác, doom metal, chịu ảnh hưởng của Gothic rock, lại có phần nhạc chậm rãi, với các ban nhạc như các ban nhạc người Anh Pagan Altar và Witchfinder General, các ban nhạc người Mỹ Pentagram, Saint Vitus và Trouble, nhấn mạnh vào phần giai điệu, các down-tuned guitar, những âm thanh "dày hơn" và "nặng hơn" cùng với tâm trạng tang tóc, sầu thảm. Các ban nhạc người Mỹ như Queensrÿche và Dream Theater là những ban nhạc tiên phong đã thành công trong việc hợp nhất NWOBHM và progressive rock, tạo thành một thể loại nhạc mới được gọi là progressive metal, cùng với những ban nhạc như Symphony X kết hợp các khía cạnh của power metal và nhạc cổ điển với phong cách này, trong khi đó ban nhạc người Thụy Điển Opeth lại phát triển một phong cách độc đáo kết hợp cả death metal và progressive rock của những năm 1970.
Heartland rock
Âm nhạc Mỹ hướng rock tới thể loại heartland rock, đặc trưng bởi thứ âm nhạc bộc trực, liên quan tới đời sống thông thường của những người công nhân áo xanh, xuất hiện nhiều trong những năm 70. Cụm từ "heartland rock" vốn nhằm để miêu tả arena rock từ vùng Trung Tây Hoa Kỳ với những nhóm như Kansas, REO Speedwagon hay Styx vốn có nhiều sáng tác liên quan tới xã hội hơn roots rock và bị ảnh hưởng trực tiếp hơn từ folk, nhạc đồng quê và rock and roll. Đây được coi là thứ nhạc đặc trưng của vùng Trung Tây và Rust Belt đối lập với country rock ở bờ Tây hay Southern rock ở phía Nam. Vốn ban đầu được so sánh với punk và New Wave, phong cách này dần được định hình bởi Bob Dylan, The Byrds, Creedence Clearwater Revival và Van Morrison, thứ garage rock của những năm 60 và dĩ nhiên, The Rolling Stones.
Với những thành công vang dội từ những ca sĩ - nhạc sĩ tên tuổi như Bruce Springsteen, Bob Seger, và Tom Petty, heartland còn được biết tới nhiều qua các nghệ sĩ như Southside Johnny and the Asbury Jukes và Joe Grushecky and the Houserockers và góp phần đóng góp những ý kiến về quá trình xuống cấp của các thành phố sau thời kỳ công nghiệp hóa ở vùng Tây và Trung Mỹ, chủ yếu nhấn mạnh vào vấn đề phân tán xã hội và biệt lập, bên cạnh việc xây dựng một phong cách rock and roll kiểu mới. Phong cách này đạt những thành công thương mại, nghệ thuật cũng như ảnh hưởng lâu dài với đỉnh cao vào khoảng giữa những năm 80 với album Born in the USA (1984) của Springsteen, đứng đầu rất nhiều bảng xếp hạng trên toàn thế giới cùng hàng loạt đĩa đơn thành công, rồi sau đó là sự xuất hiện của những John Mellencamp, Steve Earle và các ca sĩ - nhạc sĩ kiểu mới như Bruce Hornsby. Những ảnh hưởng còn có thể được thấy rõ qua các nghệ sĩ sau này như Billy Joel, Kid Rock hay The Killers.
Cùng với nhạc rock nói chung, heartland giảm dần sự chú ý vào đầu những năm 90, và hình tượng tầng lớp áo xanh cổ trắng dần mất ảnh hưởng với tầng lớp trẻ. Các nghệ sĩ bắt đầu dần theo những mối quan tâm riêng. Rất nhiều nghệ sĩ vẫn tiếp tục có những sản phẩm thành công về mặt thương mại cũng như chuyên môn, như Bruce Springsteen, Tom Petty và John Mellencamp, dù rằng các sản phẩm của họ mang nhiều tính cá nhân và thử nghiệm hơn, và các ca khúc cũng ngày một khó khăn hơn để trở thành đĩa đơn. Nhiều nghệ sĩ hậu bối từng theo đuổi heartland trong những năm 1970 và 1980 như Bottle Rockets hay Uncle Tupelo sau này đã chuyển dần sang chơi alt-country.
Sự ra đời của alternative
Khái niệm alternative rock ra đời vào đầu những năm 1980 để miêu tả những nghệ sĩ chơi một thể loại nhạc rock khác biệt hoàn toàn với những thể loại phổ thông vào lúc đó. Những nhóm được gán với từ "alternative" thực tế lúc đó chưa được định nghĩa rõ ràng về phong cách mà chỉ là khác biệt với âm nhạc phổ thông. Những nhóm alternative thường có liên hệ gần gũi với punk rock, thậm chí hardcore, New Wave hay cả với post-punk. Những nghệ sĩ thành công nhất ở Mỹ bao gồm R.E.M., Hüsker Dü, Jane's Addiction, Sonic Youth và The Pixies, còn ở Anh là The Cure, New Order, The Jesus and Mary Chain và The Smiths. Hầu hết các nhóm đều có hãng thu âm riêng, thiết lập số lượng người hâm mộ đông đảo qua các sóng phát thanh trường học, tạp chí, tour diễn, và cả truyền miệng. Họ không theo trào lưu synthpop của những năm 80 mà quay trở về hình ảnh truyền thống của ban nhạc guitar rock.
Chỉ rất ít trong số những nhóm nhạc trên, trừ R.E.M. hay The Smiths, có ngay được những thành công đáng kể. Cho dù chỉ có một số lượng khá hạn chế về doanh thu album, song họ vẫn có những ảnh hưởng quan trọng tới thế hệ các nhạc sĩ của những năm 80 và bắt đầu thực sự thành công vào những năm 90. Alternative rock ở Mỹ còn bao gồm cả jangle pop có thể thấy trong những sản phẩm đầu tay của R.E.M. mà họ sử dụng nhiều kỹ thuật rung guitar từ giữa những năm 60 của pop, rock và college rock, mà từ đó dẫn tới việc miêu tả các nhóm alternative rock được xuất phát từ những hoạt động và đài phát thanh ở các trường trung học (như những nhóm 10,000 Maniacs và The Feelies). Ở Anh, Gothic rock vẫn thống trị suốt những năm 80, nhưng tới cuối thập niên, những nhóm indie hay dream pop như Primal Scream, Bogshed, Half Man Half Biscuit và The Wedding Present rồi tới những nhóm shoegaze như My Bloody Valentine, Ride, Lush, Chapterhouse và The Boo Radleys bắt đầu có được những thành công. Điểm nhấn của thời kỳ này là làn sóng Madchester đã tạo nên những nhóm như Happy Mondays, The Inspiral Carpets, và Stone Roses. Thập kỷ tiếp theo đánh dấu thành công của grunge ở Mỹ và britpop ở Anh, góp phần đưa nhạc alternative trở nên phổ biến trên toàn thế giới.
Thời kỳ alternative (thập niên 90)
Grunge
Không bị ảnh hưởng bởi việc thương mại hóa nhạc pop và rock của những năm 1980, những nhóm từ bang Washington (đặc biệt từ Seattle) đã sáng tạo ra một thể loại nhạc rock hoàn toàn khác biệt với các phong cách phổ biến vào lúc đó. Phong cách mới này được đặt tên là "grunge", cụm từ nhằm miêu tả thứ âm thanh đục cùng với ngoại hình lôi thôi của phần lớn các nhạc sĩ, những người chủ động chống lại cách ăn mặc bóng bẩy của phần đông các nghệ sĩ đương thời. Grunge pha trộn những yếu tố của hardcore punk và heavy metal và thường xuyên sử dụng những kỹ thuật làm méo, rè cũng như thu âm ngược tiếng guitar. Phần ca từ thường thờ ơ hoặc đầy lo lắng, hay đề cập tới những chủ đề như sự xa lánh của xã hội, những cặm bẫy, cho dù nó cũng khá nổi tiếng với sự hài hước "đen tối" trong các chủ đề không lành mạnh cùng với tính phê phán các sản phẩm rock mang tính thương mại.
Những nhóm như Green River, Soundgarden, The Melvins và Skin Yard là những người khai sinh ra thể loại này, song Mudhoney mới là nghệ sĩ thành công nhất vào cuối thập niên 1980. Tuy nhiên, grunge chỉ thực sự được biết tới qua hiện tượng Nevermind của Nirvana vào năm 1991 với thành công của đĩa đơn nổi tiếng "Smells Like Teen Spirit". Nevermind mang nhiều tính giai điệu hơn bất kỳ sản phẩm trước đó, và ban nhạc thực tế cũng từ chối việc quảng bá và tiếp thị sản phẩm theo cách truyền thống. Trong những năm 1991 và 1992, lần lượt các album Ten của Pearl Jam, Badmotorfinger của Soundgarden, Dirt của Alice in Chains và sản phẩm kết hợp giữa các thành viên của Pearl Jam và Soundgarden, Temple of the Dog, đều xuất hiện trong các bảng xếp hạng album bán chạy nhất. Hầu hết các nhãn đĩa đều được ký xung quanh khu vực Seattle, song cũng có nhiều nghệ sĩ đã thử tới các thành phố khác với hi vọng có thêm những thành công. Tuy nhiên, cái chết của Kurt Cobain cùng với sự tan rã sau đó của Nirvana vào năm 1994, những trục trặc trong chuyến lưu diễn của Pearl Jam và sự ra đi của thủ lĩnh nhóm Alice in Chains – Layne Staley – vào năm 1996 đã khiến thể loại này nhanh chóng bị rơi vào quên lãng: hoặc bị lu mờ trước cái bóng của britpop, hoặc bị thương mại hóa và trở thành post-grunge.
Britpop
Britpop len lỏi vào trong alternative rock ở Anh từ đầu những năm 1990 và đặc trưng bởi những ảnh hưởng từ những nhóm nhạc chơi guitar ở đây vào những năm 60 và 70. The Smiths là những người gây ảnh hưởng nhất, song cũng như các nhóm từ làn sóng Madchester khác, ban nhạc đã tan rã vào năm 1990. Phong trào lúc đó được coi là một hành động chống lại những ảnh hưởng tới từ nước Mỹ, về âm nhạc cũng như văn hóa cuối những năm 80 đầu những năm 90, đặc biệt là chống lại nhạc grunge cũng như đi tìm một thương hiệu cho nhạc Rock của Anh. Britpop có nhiều phong cách đa dạng, song sử dụng nhiều đoạn miết cùng nhiều nhạc cụ, trong đó có cả những biểu tượng cũ từng được sử dụng trước kia. Những nhóm đầu tiên xuất hiện vào năm 1992 như Suede và Blur, dẫn tới sự ra đời của nhiều nhóm khác như Oasis, Pulp, Supergrass, Elastica. Tất cả đều có được những đĩa đơn và album quán quân tại đây. Sự cạnh tranh giữa Blur và Oasis đã tạo nên "The Battle of Britpop", ban đầu phần thắng nghiêng về Blur, song Oasis sau đó lại có thành công lâu dài và mang tính quốc tế, ảnh hưởng trực tiếp tới những thế hệ Britpop sau đó nhu The Boo Radleys, Ocean Colour Scene và Cast. Britpop góp phần đưa alternative rock trở nên phổ biến và tạo nên nền tảng cho phong trào phổ biến văn hóa Anh sau này, Cool Britannia. Dù có được những thành công lớn ở nước ngoài, kể cả ở Mỹ, đặc biệt Blur và Oasis, song phong cách này dần rơi vào quên lãng vào cuối thập niên 90.
Post-grunge
Thuật ngữ "post-grunge" được hình thành cùng với một thế hệ các ban nhạc đi theo sự nổi lên của các dòng nhạc phổ thông và giai đoạn vắng bóng sau đó của các ban nhạc grunge từ Seattle. Các ban nhạc post-grunge thường mô tả quan điểm và âm nhạc của họ, nhưng là với một giai điệu thân thiện với đài phát thanh và mang nhiều tính thương mại hơn. Họ thường làm việc thông qua các hãng đĩa lớn và thường kết hợp tính đa dạng của các dòng nhạc như jangle pop, pop-punk, alternative metal hay hard rock. Thuật ngữ "post-grunge" ám chỉ tính miệt thị, cho thấy rằng nó chỉ đơn giản là một dạng âm nhạc phát sinh, hoặc là một phản ứng chỉ trích trào lưu rock "xác thực". Từ năm 1994, ban nhạc mới của cựu tay trống ban nhạc Nirvana Dave Grohl có tên là Foo Fighters đã góp phần làm đại chúng hóa post-grunge và xác định chỗ đứng cho dòng nhạc này.
Một số ban nhạc post-grunge, ví dụ như Candlebox, là đến từ Seattle, nhưng tiểu thể loại này lại được đánh dấu bởi việc mở rộng lãnh thổ nhạc grunge với các ban nhạc như Audioslave từ Los Angeles, Collective Soul từ Georgia, Silverchair từ Úc và Bush từ Anh, những người đã giúp củng cố nhạc post-grunge trở thành một trong những tiểu thể loại có tiềm năng thương mại lớn nhất vào cuối những năm 1990. Mặc dù các ban nhạc nam phần lớn chiếm ưu thế, nhưng album phòng thu năm 1995 Jagged Little Pill của nữ nghệ sĩ solo Alanis Morissette, một album nhạc post-grunge, cũng trở thành một album nổi tiếng với rất nhiều đĩa bạch kim được chứng nhận. Các ban nhạc như Creed và Nickelback đã đem post-grunge vào thế kỉ 21 với nhiều thành công thương mại đáng kể, loại bỏ hầu hết những sự lo lắng và tức giận thường thấy ở dòng nhạc này trong những năm đầu và giúp cho giai điệu được phổ thông hơn, với những câu chuyện và các bài hát lãng mạn. Theo sau xu hướng này còn có các nghệ sĩ như Shinedown, Seether, 3 Doors Down và Puddle of Mudd.
Pop punk
Nguồn gốc của pop punk những năm 1990 có thể được thấy ở các ban nhạc thuộc trào lưu nhạc punk vào những năm 1970 như The Buzzcocks và The Clash, những nghệ sĩ nhạc New Wave đạt nhiều thành công lớn về mặt thương mại như The Jam và The Undertones, và các yếu tố có nhiều ảnh hưởng bởi hardcore hơn của alternative rock thập niên 1990. Pop punk có xu hướng sử dụng những giai điệu của power pop và sự thay đổi hợp âm với tiết tấu punk nhanh và tiếng guitar lớn. Nhạc punk tạo ra nguồn cảm hứng cho một số ban nhạc California trong các hãng đĩa độc lập vào cuối thập niên 1990, điển hình là Rancid, Pennywise, Weezer và Green Day. Năm 1994, Green Day chuyển sang một hãng đĩa lớn và sản xuất album phòng thu Dookie, và nhanh chóng tìm được một lượng khán giả mới, chủ yếu là các thanh thiếu niên, đồng thời trở thành một thành công thương mại vô cùng bất ngờ với chứng nhận đĩa Kim cương tại Mỹ, dẫn theo sau đó một loạt những đĩa đơn nổi tiếng, bao gồm hai đĩa đơn quán quân tại Mỹ. Nhanh chóng sau đó là việc ra mắt album phòng thu cùng tên của ban nhạc Weezer, một album với ba đĩa đơn top 10 tại Mỹ. Sự thành công này đã mở tung cánh cửa cho doanh số bán đa Bạch kim của ban nhạc metallic punk The Offspring với album Smash (1994). Làn sóng đầu tiên của nhạc pop punk đã đạt đến đỉnh cao của thương mại với việc phát hành album Nimrod (1997) của Green Day và Americana (1998) của The Offspring.
Làn sóng thứ hai của pop punk được khởi xướng bởi ban nhạc Blink-182 với album đột phá Enema of the State (1999), theo sau đó là các ban nhạc như Good Charlotte, Bowling for Soup và Sum 41, các ban nhạc đã đưa những yếu tố hài hước vào trong các video của họ cùng với phần âm nhạc có giai điệu thân thiện với đài phát thanh hơn, trong khi vẫn giữ được tốc độ, một số quan điểm và thậm chí là cả hình ảnh của nhạc punk năm 1970. Các ban nhạc pop punk sau đó như Simple Plan, The All-American Rejects và Fall Out Boy đã tạo ra những bài hát với âm thanh được mô tả là gần giống như hardcore của những năm 1980, trong khi vẫn đạt được nhiều thành công thương mại đáng kể.
Indie rock
Trong những năm 80, khái niệm indie rock và alternative rock vẫn bị sử dụng lẫn lộn. Tới giữa những năm 90, những trào lưu mới bắt đầu có được những mối quan tâm lớn hơn, từ grunge tới Britpop, post-grunge và pop-punk, dẫn tới alternative dần bị mất đi ý nghĩa vốn có. Những ban nhạc đó ngày một có được ít thành công thương mại hơn và rồi dần gia nhập các nhãn đĩa indie. Họ thường đặc trưng bởi việc chỉ phát hành album qua các hãng đĩa tự do hoặc của chính họ, trong khi quảng bá chúng qua các tour diễn, truyền miệng, các buổi phát thanh và cả các buổi phát sóng tại các trường học. Được gắn liền với các phong tục hay thói quen hơn quan điểm âm nhạc, indie rock tự bao hàm nhiều phong cách khác nhau, từ hard-edged, grunge như The Cranberries hay Superchunk, tới do-it-yourself như Pavement và punk-folk như Ani DiFranco. Với indie, các nghệ sĩ nữ xuất hiện tới tỉ lệ lớn hơn hẳn các thể loại khác, từ đó dẫn tới sự hình thành của phong cách Riot grrrl. Indie rock phát triển ở rất nhiều quốc gia, các nhóm nhạc vẫn có được sự nổi tiếng nhất định để tồn tại song thường họ vẫn ít được biết tới ngoài biên giới.
Tới cuối những năm 1990, rất nhiều tiểu thể loại vốn bắt nguồn từ làn sóng alternative của những năm 80 đã hòa vào khái niệm của indie. Lo-fi (viết tắt của low fidelity) từ phong trào do-it-yourself rời bỏ những kỹ thuật thu âm tốt và được đi đầu bởi những nghệ sĩ như Beck, Sebadoh hay Pavement. Talk Talk và Slint truyền cảm hứng cho post-rock (một phong cách nhạc ảnh hưởngh bởi jazz và âm nhạc điện tử, tiên phong bởi những nhóm chủ chốt như Bark Psychosis và tiếp nối bởi Tortoise, Stereolab và Laika), và giúp dẫn tới math rock, một loại nhạc có kết cấu phức tạp, lấy tiếng guitar được chơi cầu kỳ làm nền tảng, được phát triển bởi các nhóm như Polvo hay Chavez. Space rock làm gợi nhớ tới progressive, đặt nặng về drone (loại nhạc lập lại) và âm nhạc tối giản như Spacemen 3, Spectrum và Spiritualized, rồi sau đó là những nhóm như Flying Saucer Attack, và Quickspace. Trái lại, sadcore của American Music Club hay Red House Painters nhấn mạnh nỗi đau và sự chịu đựng qua việc sử dụng cả nhạc cụ điện và acoustic giàu tính giai điệu, trong khi sự "tái xuất" của Baroque pop như một sự đối lập với lo-fi và experimental khi nhấn mạnh vào giai điệu và nhạc cụ cổ điển với những nhóm như Arcade Fire, Belle and Sebastian và Rufus Wainright.
Alternative metal, rap rock và nu metal
Post-Britpop
Từ khoảng năm 1997, do sự xuất hiện của những bất mãn với khái niệm Cool Britannia, và trào lưu Britpop bắt đầu được giải thể, các ban nhạc mới nổi bắt đầu né tránh những hãng đĩa nhạc Britpop trong khi họ vẫn sản xuất âm nhạc lấy nguồn gốc từ dòng nhạc này. Nhiều trong số những ban nhạc này có xu hướng kết hợp các yếu tố của British traditional rock (hay gọi tắt là British trad rock), đặc biệt là The Beatles, Rolling Stones và Small Faces, với những ảnh hưởng của âm nhạc Mỹ, bao gồm cả post-grunge. Từ khắp Vương quốc Anh (cùng với một số ban nhạc quan trọng nổi lên từ miền Bắc nước Anh, Scotland, xứ Wales và Bắc Ireland), chủ đề âm nhạc của họ có xu hưởng ít tập trung vào nước Anh, người Anh và cuộc sống ở London, đồng thời mang tính nội tâm hơn là khi Britpop đang ở đỉnh cao. Điều này, bên cạnh sự sẵn sàng cao để thu hút báo giới và người hâm mộ Mỹ tham gia, có thể đã giúp một số ban nhạc trong số họ đạt được những thành công mang tầm quốc tế.
Các ban nhạc post-Britpop được coi là những người đã đem đến cho công chúng hình ảnh của một ngôi sao nhạc rock như một người bình thường và âm nhạc ngày càng du dương của họ bị chỉ trích là nhạt nhẽo hoặc phái sinh. Một số ban nhạc post-Britpop như The Verve với Urban Hymns (1997), Radiohead với OK Computer (1997), Travis với The Man Who (1999), Stereophonics với Performance and Cocktails (1999), Feeder với Echo Park (2001) và đặc biệt không thể không kể đến Coldplay với album phòng thu đầu tay Parachutes (2000), đã đạt được những thành công quốc tế lớn hơn nhiều so với hầu hết các ban nhạc Britpop đi trước, và là nhiều trong những nghệ sĩ đạt được thành công thương mại lớn nhất vào cuối những năm 1900 và đầu những năm 2000, đồng thời cũng là một bệ phóng vững chắc cho những dòng nhạc tiếp sau đó như garage rock hay post-punk revival, cũng được coi là một sự phản ứng đối với một thể loại mới của rock.
Thiên niên kỷ mới (những năm 2000)
Post-hardcore và Emo
Từ đầu đến giữa thập niên 1980, post-hardcore phát triển ở Hoa Kỳ, đặc biệt ở các khu vực thuộc Chicago và Washington, D.C, với những ban được truyền cảm hứng từ tư tưởng do-it-yourself và chất nhạc nặng tiếng guitar của hardcore punk, nhưng lại chịu ảnh hưởng từ post-punk, được thể hiện ở những đặc điểm như định dạng bài hát dài, cấu trúc âm nhạc phức tạp hơn và đôi khi lời ca giàu giai điệu hơn. Một ban xuất phát từ con đường hardcore có thể kể đến là Fugazi. Từ cuối thập niên 1980, một số ban đã theo con đường của Fugazi, bao gồm Quicksand, Girls Against Boys và The Jesus Lizard. Những ban thành lập trong thập niên 1990 bao gồm Thursday, Thrice, Finch, và Poison the Well.
Emo cũng nổi lên từ giới hardcore thập niên 1980 ở Washington, D.C., ban đầu có tên "emocore", được sử dụng để chỉ những nhóm nhạc có kiểu hát diễn cảm khác với cách hát nhanh, thô ráp thông thường của hardcore. Phong cách này được tiên phong bởi Rites of Spring, và Embrace của Ian MacKaye, người đã sáng lập nên Dischord Records và đây trở thành hãng đĩa trung tâm lớn trong giới D.C. emo đang phát triển, phát hành nhạc phẩm của Rites of Spring, Dag Nasty, Nation of Ulysses và Fugazi. Giới emo thời kỳ đầu là gồm toàn các ban nhạc ngầm hoạt động chỉ đôi ba năm rồi tan rã phát hành những loạt đĩa vinyl qua những hãng đĩa dộc lập nhỏ. Giữa thập niên 1990, emo được tái định nghĩa bởi Jawbreaker và Sunny Day Real Estate bằng việc kết hợp grunge và kiểu rock giàu giai điệu. Ngay sau khi grunge và pop punk trở nên đại chúng, emo nhận được thêm sự chú ý nhờ Pinkerton (1996) của Weezer. Những nhóm cuối thập niên 1990 lấy cảm hứng từ Fugazi, Sunny Day Real Estate, Jawbreaker và Weezer, gồm The Promise Ring, The Get Up Kids, Braid, Texas Is the Reason, Joan of Arc, Jets to Brazil và thành công nhất là Jimmy Eat World.
Emo trở nên đại chúng vào thập niên 2000 với hai album bán được nhiều triệu bản là Bleed American (2001) của Jimmy Eat World và The Places You Have Come to Fear the Most (2003) của Dashboard Confessional. Những nhóm emo mới có âm thanh thị trường hơn nhiều so với thập niên 1990 và thu hút thanh thiếu niên hơn nhiều so với trước đó. Cùng lúc này, việc sử dụng thuật ngữ "emo" được mở rộng ra ngoài một thuật ngữ âm nhạc, được dùng để nói về thời trang, kiểu tóc hay bất cứ loại âm nhạc nào giàu cảm xúc. Báo chí dùng thuật ngữ "emo" với một loạt các nhóm nhạc không liên quan như Fall Out Boy My Chemical Romance Paramore và Panic! At the Disco,. Khoảng 2003, các ban nhạc post-hardcore nhận được sự chú ý từ các hãng đĩa lớn và đạt thành công thương mại. Một số ban nhạc emo chú trọng vào tốc độ và sự mãnh liệt được xếp vào screamo. Cùng thời gian này, một làn sóng mới các post-hardcore kết hợp nhiều đặc điểm của pop punk và alternative rock vào âm nhạc, gồm The Used, Hawthorne Heights, Senses Fail, From First to Last Emery, các nhóm Canada như Silverstein và Alexisonfire. Những nhóm nhạc Anh là Funeral For A Friend, The Blackout và Enter Shikari cũng có một số thành công.
Garage rock và post-punk revival
Heavy metal, metalcore và retro-metal ngày nay
Âm nhạc điện tử
Trong những năm 2000, khi công nghệ máy tính trở nên phổ biến và phần mềm âm nhạc có những cải thiện đáng kể, chỉ cần duy nhất một máy tính xách tay thì người ta cũng có thể tạo ra âm nhạc với chất lượng cao. Điều này dẫn đến sự bùng nổ của âm nhạc điện tử được sản xuất tại nhà sau đó phát tán lên mạng internet, và các hình thức mới trong biểu diễn như laptronica và live coding. Một số band cũng bắt đầu sử dụng những kỹ thuật này, ví dụ như band nhạc industrial rock Nine Inch Nails trong album Year Zero (2007). Vài thể loại mới, bao gồm các dòng như indie electronic, electroclash, dance-punk và new rave, cũng pha trộn nhạc rock với những kỹ thuật và âm thanh nhạc số.
Ảnh hưởng xã hội
Nhiều dòng nhạc rock khác nhau đã sản sinh ra nhiều tiểu văn hóa với những nét đặc trưng riêng biệt tương ứng. Trong thập niên 1950 và 1960, thanh niên ở Anh theo tiểu văn hóa Teddy Boy và Rocker, chịu ảnh hưởng từ nhạc rock 'n' roll của Mỹ. Các phản văn hóa của những năm 1960 có liên quan chặt chẽ với psychedelic rock. Giữa thập niên 1970 tiểu văn hóa punk hình thành ở Mỹ, nhưng thiết kế sư người Anh Vivian Westwood đã chế tác lại thành một phong cách hoàn toàn khác biệt, và phong cách ấy đã lan ra toàn thế giới. Cùng với punk, 2 tiểu văn hóa Goth và Emo cũng phát triển với những phong cách riêng biệt.
Khi văn hóa nhạc rock phát triển trên toàn thế giới, nó đã thay thế điện ảnh trong việc gây ảnh hưởng đối với thời trang. Trớ trêu thay, tín đồ nhạc rock thường cảnh giác với thế giới thời trang, xem nó như là một kiểu nâng cao hình ảnh quá bản chất thật của mình. Thời trang nhạc rock là sự kết hợp từ các yếu tố của những nền văn hóa và thời kỳ khác nhau, cũng như thể hiện những quan điểm bất đồng về tình dục và giới tính; nói chung, nhạc rock bị quy kết và chỉ trích vì đã tạo điều kiện cho tự do tình dục phát triển hơn. Rock cũng liên quan đến các hình thức sử dụng ma túy, trong đó có những chất kích thích được một vài dân mod mang theo trong nửa đầu thập niên 1960, hay mối liên hệ giữa LSD với psychedelic rock trong cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970, đôi khi cả cần sa, cocaine và heroin đều được ca ngợi trong bài hát.
Nhạc rock được ghi nhận là làm thay đổi các quan niệm về chủng tộc bằng việc mở ra cho thính giả da trắng một nền văn hóa của người Mỹ gốc Phi; nhưng đồng thời, nhạc rock cũng bị cáo buộc là đã độc chiếm và trục lợi nền văn hóa đó. Khi nhạc rock hấp thụ được nhiều sự ảnh hưởng và giới thiệu đến khán giả phương Tây những truyền thống âm nhạc khác nhau, thì sự lan rộng của nó trên toàn thế giới bị xem như là một hình thức của chủ nghĩa đế quốc văn hóa. Nhạc rock kế thừa được truyền thống dân tộc từ ca khúc phản kháng, phản ánh những chủ đề chính trị như chiến tranh, tôn giáo, nghèo đói, dân quyền, công lý và môi trường. Ảnh hưởng chính trị của nhạc rock từng đạt đến đỉnh cao với đĩa đơn "Do They Know It's Christmas?" (1984) và đại nhạc hội Live Aid năm 1985 để quyên góp tiền cứu trợ nạn đói tại Ethiopia, tuy thành công trong việc làm tăng thêm sự nhận thức về nghèo đói trên thế giới và kinh phí viện trợ, nhưng cũng bị chỉ trích (cùng với các sự kiện tương tự) là đã tạo cơ hội để các ngôi sao nhạc rock đánh bóng tên tuổi và tăng lợi nhuận của họ.
Kể từ khi xuất hiện, nhạc rock gắn liền với sự nổi loạn phản đối những chuẩn mực xã hội và chính trị, rõ ràng nhất là rock 'n' roll thời kỳ đầu không chấp nhận lối văn hóa cho người lớn cái quyền được quản lý con em họ, phản văn hóa từ chối chủ nghĩa tiêu dùng và sự phục tùng, nhạc punk thì chống lại tất cả các hình thức của tục lệ xã hội, tuy nhiên, những tư tưởng này cũng có thể được xem như là phương tiện để khai thác thương mại và định hướng cho thanh thiếu niên tránh xa các hoạt động chính trị.
Chú giải
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thể loại nhạc thế kỷ 20
Thể loại nhạc thế kỷ 21
Văn hóa Vương quốc Liên hiệp Anh
Văn hóa Mỹ
Nhạc rock
Dòng nhạc rock
Nhạc đại chúng
|
17473
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2%2C2%2C4-Trimethylpentan
|
2,2,4-Trimethylpentan
|
2,2,4-Trimethylpentan, còn được biết đến như là isooctan, là một đồng phân của octan mà tầm quan trọng của nó được nhiều người biết đến là thang điểm 100 trong chỉ số octan. Công thức hóa học là C8H18.
Tham khảo
Alkan
|
17533
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leonardo%20da%20Vinci
|
Leonardo da Vinci
|
Leonardo da Vinci (; sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 - tại Anchiano, Ý, mất ngày 2 tháng 5 năm 1519 tại Amboise, Pháp, tên khai sinh là Leonardo di ser Piero da Vinci, là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà phát minh và nhà triết học tự nhiên người Ý. Ông được coi là thiên tài toàn năng nhất lịch sử nhân loại. Ông là tác giả của những bức hoạ nổi tiếng như Mona Lisa, Bữa ăn tối cuối cùng.
Ông là người có những ý tưởng vượt trước thời đại của mình, đặc biệt là khái niệm về máy bay trực thăng, xe tăng, dù nhảy, sử dụng năng lượng Mặt Trời, máy tính, sơ thảo lý thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép, cùng nhiều sáng chế khác. Một vài thiết kế của ông đã được thực hiện và khả thi trong lúc ông còn sống. Ứng dụng khoa học trong chế biến kim loại và trong kỹ thuật ở thời đại Phục Hưng còn đang ở trong thời kỳ trứng nước. Thêm vào đó, ông có đóng góp rất lớn vào kiến thức và sự hiểu biết trong giải phẫu học, thiên văn học, xây dựng dân dụng, quang học và nghiên cứu về thủy lực. Những sản phẩm lưu lại trong cuộc đời ông chỉ còn lại vài bức hoạ, cùng với một vài quyển sổ nháp tay (rơi vãi trong nhiều bộ sưu tập khác nhau các sáng tác của ông), bên trong chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa học và bút ký.
Cuộc đời
Thời thơ ấu, 1452-1466
Leonardo sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 (lịch cũ), "lúc 3 giờ khi màn đêm buông xuống" ở thị trấn Vinci vùng Toscana, thuộc thung lũng hạ lưu sông Arno vùng lãnh thổ thuộc quyền cai trị của Medici-cộng hòa Florence. Leonardo là người con ngoài giá thú của công chứng viên Ser Piero (lúc bấy giờ 25 tuổi) và người con gái nông dân Catarina, 22 tuổi. Leonardo không có họ trong ngữ cảnh hiện đại, "da Vinci" chỉ đơn giản là "từ Vinci": tên khai sinh đầy đủ của ông là "Leonardo di ser Piero da Vinci", nghĩa là "Leonardo, (con trai) của (Mes) Ser Piero đến từ Vinci".
Quan hệ của Catarina với Ser Piero dường như chấm dứt ngay sau khi bà sinh người con trai. Sau đó ít lâu bà kết hôn với người chủ một lò gốm, Accattabriga di Píaero del Vacca da Vinci, và có thêm 5 người con. Sau khi chia tay với Catarina, Ser Piero nhận nuôi dưỡng Leonardo. Ông kết hôn 4 lần, có thêm 9 người con trai và 2 người con gái với hai người vợ cuối của ông. Ser Piero là công chứng viên của nhiều gia đình danh tiếng trong thành phố và là người thành công trong nghề nghiệp. Thân chủ của ông bao gồm không những gia đình Medici mà còn gồm cả chính phủ thành phố (signoria) hay hội đồng quốc gia.
Làm trong xưởng vẽ Verrocchio, 1466–1476
Leonardo lớn lên trong gia đình của cha ông và sống phần lớn thời gian thời thiếu niên tại thành phố Firenze. Trong số những đam mê của ông, Leonardo yêu thích nhất là âm nhạc, vẽ và tạo hình. Ser Piero đã chọn Andrea del Verrocchio làm thầy của Leonardo khi Verrochio nhận ra tài năng về nghệ thuật của Leonardo.
Mặc dù không phải là một tài năng phát minh hay sáng tạo lớn trong nghệ thuật đương thời ở Firenze nhưng Verocchio cũng là một nghệ nhân hàng đầu trong nghề kim hoàn, điêu khắc và trong hội họa. Đặc biệt ông là một người thầy tài năng. Leonardo làm việc nhiều năm (khoảng 1470-1477) trong xưởng vẽ của ông cùng với Lorenzo di Credi và Pietro Perugino.
Năm 1476 ông bị buộc tội cùng với 3 người đàn ông khác đã có quan hệ tình dục với một người làm mẫu 17 tuổi, Jacopo Saltarelli, là một người đàn ông mại dâm bất hợp pháp ở thời điểm đó. Sau 2 tháng trong tù ông được tuyên bố vô tội vì không có người làm chứng, và cũng có thể là do sự can thiệp của Lorenzo de' Medici.
Chẳng bao lâu ông đã học hết tất cả những gì Verrocchio có thể dạy hay là còn nhiều hơn thế nữa, nếu như có thể tin vào những câu chuyện thường được kể lại về các hình ảnh hay tượng được cho là do những người học trò của Verrocchio sáng tác. Giorgio Vasari, kiến trúc sư, họa sĩ và cũng là một nhà tiên phong trong số những người biên niên sử nghệ thuật cùng thời với Leonardo cũng đã tường thuật tương tự.
Bức tranh Rửa tội Christi do Verrocchio phác thảo cho các nhà tu của vùng Vallombrosa hiện có thể được xem tại Viện hàn lâm Firenze. Theo Vasari thì thiên thần quỳ bên trái là do Leonardo thêm vào. Khi Verrocchio nhìn thấy, ông đã nhận ra được tính nghệ thuật hơn hẳn so với phần còn lại của chính tác phẩm của ông và người ta kể rằng từ đấy ông tuyên bố vĩnh viễn từ bỏ hội họa. Bức tranh được vẽ nguyên thủy bằng màu keo (tempera) này đã bị vẽ dầu chồng lên nhiều lần nên việc kết luận có sơ sở hiện nay là rất khó khăn. Một số ý kiến đáng tin cậy thiên về việc công nhận không những có bàn tay của Leonardo trên khuôn mặt của thiên thần mà còn trong nhiều phần về y phục và phong cảnh phía sau mang tính đặc trưng và có thể nhận thấy được trong các tác phẩm khác của ông. Tác phẩm này được hoàn thành vào khoảng năm 1475, khi Leonardo 23 tuổi.
Vào khoảng năm 1472 tên của ông có trong danh sách của phường hội họa sĩ thành phố Firenze. Ông sống và làm việc tại đây thêm 10 hay 11 năm và cho đến năm 1477 vẫn còn được gọi là học trò của Verrocchio. Thế nhưng trong năm này dường như ông đã được Lorenzo de Medici nâng đỡ và làm việc như là một nghệ sĩ độc lập dưới sự bảo trợ của Lorenzo de Medici từ 1482 cho đến 1483.
Thông qua lời giới thiệu của Lorenzo de Medici cho công tước Ludovico Sforza (1452-1508, cầm quyền tại Milano từ 1494-1499), người muốn đặt một tượng đài kỵ sĩ tôn vinh Francesco I Sforza (1450-1466), người khởi đầu cho triều đại Sforza tại Milano thay cho triều đại Visconti (1281-1447), Leonardo rời Firenze đến Milano vào khoảng năm 1483.
Milano
Bằng chứng đầu tiên được ghi lại cho thời gian làm việc của Leonardo tại Milano được xác định là năm 1487. Một vài nhà viết tiểu sử phỏng đoán là thời gian từ 1483 đến 1487 hay ít nhất là một phần của thời gian này được dùng cho những chuyến đi du lịch phương Đông, thế nhưng từ tất cả những người cùng thời với Leonardo đều không để lại một dấu vết nào về chuyến đi của Leonardo về phương Đông.
Trong những năm đầu tiên sau khi tiếm quyền, Ludovico bị tấn công dữ dội, đặc biệt là từ những người theo phái của chị dâu của ông, Bona của Savoie, mẹ của công tước trẻ tuổi Gian Galeazzo Sforza (1476-1494), người cầm quyền chính thống và cũng là cháu của vị công tước này. Để chống lại những tấn công này, Ludovico đã dùng hằng loạt thi sĩ và nghệ sĩ thông qua các diễn văn công cộng, kịch nghệ, hình ảnh và khẩu hiệu để ca ngợi sự sáng suốt và tính tốt đẹp của sự giám hộ đồng thời truyền bá tính xấu xa của những người chống lại ông. Các ghi chép và dự án trong những bản viết tay của Leonardo là bằng chứng cho thấy ông cũng thuộc về số người nghệ sĩ này. Nhiều bứ thảo như vậy hiện nay đang nằm trong Christ Church tại Oxford, một bức phác thảo vẽ một nữ phù thủy có sừng hay nữ quỷ đang xua chó tấn công Milano. Bức phác thảo này gần như chắc chắn ám chỉ việc người của nữ công tước Bona ám sát Ludovico không thành vào năm 1484.
Dịch hạch tại Milano trong thời gian 1484-1485 là dịp cho Leonardo trình nhiều dự án của ông lên Ludovico nhằm chia lại thành phố và tái xây dựng theo các nguyên tắc vệ sinh tốt hơn. Thời gian 1485-1486 dường như cũng là thời gian khởi đầu cho kế hoạch làm đẹp và củng cố pháo đài của ông, mặc dầu không được toại nguyện. Sau đó là các kế hoạch và mô hình của ông trong dịp thi đua được công bố giữa các kiến trúc sư người Ý và người Đức để hoàn thành nhà thờ lớn của Milano. Văn kiện trả tiền cho ông vẫn còn tồn tại nằm trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1487 đến tháng 5 năm 1490. Cuối cùng thì không một dự án nào được tiến hành.
Bức tượng kỵ sĩ cao 7 mét, nhiệm vụ chính của Leonardo khi đến Milano được hoàn thành vào cuối năm 1493, vào lúc người do hoàng đế Maximilian I cử đến hộ tống cô dâu Bianca Maria Sforza về làm lễ cưới. Theo tường thuật thời bấy giờ thì đây là một công trình vĩ đại, nhưng các tường thuật này lại thiếu chính xác đến mức không thể kết luận được là tượng đài này phù hợp với phác thảo nào trong số nhiều bản vẽ phác thảo còn tồn tại cho đến ngày nay.
Trong khoảng thời gian từ 1495 đến 1497 Leonardo vẽ một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông, bức bích họa Bữa ăn tối cuối cùng trong nhà thờ Santa Maria delle Grazie, theo yêu cầu của Ludovico Sforza. Năm 1980 nhà thờ cùng với bức tranh đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Vua Louis XII của Pháp, sau khi chiếm được Milano, đã đích thân đến tận nhà thờ để chiêm ngưỡng bức tranh và đã hỏi là có thể tháo gỡ ra khỏi tường nhằm mang về Pháp. Hai tháng sau khi vua Louis XII chiếm Milano, trong tháng 12 năm 1499, Leonardo cùng người bạn là Luca Pacioli rời thành phố Milano.
Florence
Leonardo và Luca Pacioli dừng chân tại Mantua, nơi Leonardo được nữ công tước Isabella Gonzage tiếp đón nồng hậu. Khi nghe tin Ludovico kết cuộc đã bị lật đổ, hai người bạn từ bỏ kế hoạch trở về Milano và tiếp tục đi đến Firenze, thành phố đang bị sức ép từ nhiều vấn đề nội bộ và từ cuộc chiến tranh chống lại Pisa không có kết quả. Tại đây Leonardo nhận vẽ một bức tranh thờ cho nhà thờ Annunziata. Filippino Lippi, người thật ra đã nhận lời yêu cầu vẽ, đã nhường lại cho Leonardo. Mãi đến tháng 4 năm 1501 Leonardo mới hoàn thành bản phác thảo trên giấy. Mặc dù nhận được nhiều lời khen ngợi cho bản vẽ trên giấy, Leonardo đã không hoàn thành bức tranh này và các tu sĩ Annunziata cuối cùng lại phải chuyển lời yêu cầu đến Filippino Lippi.
Trong mùa xuân năm 1502 ông bất ngờ về làm việc cho công tước Cesare Borgia. Trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 1502 cho đến tháng 3 năm 1503 Leonardo, với tư cách là kĩ sư quân sự có quyền cao nhất, đã đi du hành qua một phần lớn miền trung nước Ý. Hai tháng sau khi Vito Luzza, một người dưới quyền của Cesare và là bạn của Leonardo, bị Cesare giết chết, Leonardo trở về Firenze. Ông đã để lại rất nhiều ghi chú và bản vẽ có ghi ngày tháng cũng như 6 tấm bản đồ lớn do ông tự vẽ bao gồm các vùng đất Maremma, Toscana và Umbria.
Trở về Firenze, ông được ủy nhiệm vẽ một bức bích họa trang trí cho một trong những bức tường của đại sảnh nhà hội đồng thành phố. Michelangelo được trao nhiệm vụ vẽ một bức bích họa khác cũng trong cùng căn phòng. Ông hoàn thành phác thảo trên giấy trong vòng 2 năm (1504-1505) nhưng do có nhiều khó khăn về kĩ thuật trong lúc vẽ trên tường nên bức bích họa không được hoàn thành.
Trong thời gian này (1503-1506), theo một số nguồn khác là 1510-1515, Leonardo hoàn thành bức họa Mona Lisa (hay còn gọi là La Gioconda) mà theo Vasari thì đây là bức chân dung của Lisa del Giocondo, vợ của một người buôn bán tơ lụa tại Firenze. Lúc đương thời Leonardo đã không thể rời bức tranh, ông mang bức họa này đi theo trên khắp các chặng đường đời sau đó. Sau khi Leonardo qua đời, vua François I của Pháp đã mua bức tranh này với giá là 4.000 đồng Florin vàng. Người ta nói là cho đến ngày nay chưa có ai có thể sao chép lại được nụ cười trong bức tranh này.
Milano
Trong mùa xuân 1506, Leonardo chấp nhận lời mời khẩn thiết của Charles d'Amboise, thống đốc vùng Lombardia của vua Pháp, trở về lại Milano. Vua Pháp Louis XII gửi tin yêu cầu Leonardo hãy đợi ông đến Milano vì ông đã xem được một bức tranh Đức Mẹ nhỏ của Leonardo ở Pháp và hy vọng sẽ nhận được từ Leonardo các tác phẩm như vậy và ngoài ra có thể là một bức chân dung.
Tháng 9 cùng năm ông phải trở về Firenze vì việc riêng tư không vui. Cha Leonardo qua đời vào năm 1504 dường như không để lại di chúc. Sau đó Leonardo đã có tranh tụng với 7 người em trai cùng cha khác mẹ về việc thừa kế gia tài của cha ông và sau đó là của một người chú bác. Việc kiện tụng kéo dài nhiều năm và bắt buộc Leonardo phải nhiều lần tạm ngưng công việc ở Milano để về Firenze, mặc dù đã có nhiều thư của Charles d'Ambois, vua Louis XII, của những người thân quen và đỡ đầu có thế lực khác để thúc đẩy sớm kết thúc việc kiện tụng này. Trong một bức thư gửi Charles d'Amboise vào năm 1511, Leonardo đã nhắc đến việc kiện tụng sẽ sắp chấm dứt và viết về hai bức tranh Đức Mẹ mà ông sẽ mang về Milano. Người ta tin rằng một trong 2 bức tranh đó là bức Madonna Litta mà hiện nay một bản sao được trưng bày trong Viện bảo tàng Hermitage (Cung điện mùa Đông).
Vào tháng 5 năm 1507 vua Louis XII đến Milano và Leonardo chính thức chuyển sang phục vụ cho Louis XII với chức danh là họa sĩ triều đình và kĩ sư. Theo những ghi chép còn tồn tại, trong thời gian 7 năm Leonardo ở tại Milano (1506-1513) ông làm việc rất ít trong lãnh vực hội họa và kiến trúc. Ông đã cùng nghiên cứu về giải phẫu học với giáo sư Marcantonio della Torre. Bức chân dung tự họa bằng phấn đỏ hiện đang ở trong Biblioteca Reale tại Torino có thể được vẽ vào khoảng thời gian này khi ông gần 60 tuổi.
Florence
Tháng 6 năm 1512 triều đại Sforza trở lại nắm quyền lực ở Milano với công tước đầu tiên - Maximilian Sforza (1512-1515). Chỉ trong vòng vài tháng sau đó Leonardo và các học trò của ông rời Milano đi đến Florence phục vụ cho gia đình Medici. Nhờ ảnh hưởng của Giuliano de Medici (1453-1478), một người bạn của Leonardo và là người em trai trẻ tuổi nhất của giáo hoàng, Leonardo được cư ngụ trong Tòa thánh Vatican và có một xưởng vẽ riêng. Theo các nguồn tài liệu đáng tin cậy còn tồn tại trong thời gian này Leonardo chỉ vẽ hai bức tranh panel nhỏ cho một viên chức trong tòa thánh. Qua nhiều công trình nghiên cứu về giải phẫu học Leonardo đã khám phá ra chứng xơ cứng động mạch ở người già. Thế nhưng các ghi chép của ông về đề tài này chưa từng được công bố và đã mất tích hằng trăm năm trước khi tái xuất hiện. Sau khi ở tại Roma gần 2 năm Leonardo chấp nhận lời mời của vua François I của Pháp đi đến nước Pháp.
Tại Pháp trong thời gian hơn 2 năm còn lại của cuộc đời, Leonardo sống trong lâu đài Clos Lucé gần Amboise. Ông đã vẽ nhiều bức tranh như Leda và thiên nga (hiện chỉ còn lại bản sao), phiên bản thứ hai của bức tranh Đức mẹ đồng trinh trong hang đá. Leonardo mất vào ngày 2 tháng 5 năm 1519.
Trong suốt cuộc đời của Leonardo, tài năng sáng tạo đặc biệt của ông và cũng như tất cả các khía cạnh khác của cuộc sống của ông, luôn thu hút sự tò mò của người khác . Một trong những khía cạnh của ông là tôn trọng cuộc sống, thể hiện bằng việc ăn chay trường trên cơ sở đạo đức Kitô giáo và thói quen của ông, theo Vasari, mua lồng chim và thả chúng tự do
Leonardo đã có nhiều bạn bè là người nổi tiếng trong các lĩnh vực của họ hoặc có ý nghĩa lịch sử, bao gồm các nhà toán học Luca Pacioli, mà ông đã cộng tác trong một cuốn sách trong thời 1490, cũng như Franchinus Gaffurius và Isabella d'Este. Leonardo không có quan hệ gần gũi với phụ nữ, ngoại trừ tình bạn của ông với hai chị em nhà Este, Beatrice và Isabella . Ông đã vẽ một bức chân dung của cô trên cuộc hành trình xuyên qua Mantua, bây giờ bức tranh này bị thất lạc.
Ngoài tình bạn, Leonardo giữ bí mật cuộc sống riêng tư của mình. Cuộc sống tình dục của ông đã là chủ đề bị phân tích, châm biếm, và đầu cơ. Xu hướng này bắt đầu vào giữa thế kỷ 16 và đã được hồi sinh trong thế kỷ 19 và 20, đáng chú ý nhất qua Sigmund Freud . Mối quan hệ thân mật nhất của ông có lẽ với các học trò của mình Salai và Melzi. Melzi, khi viết thư để thông báo cho anh em của Leonardo về cái chết của ông, đã mô tả cảm xúc của Leonardo cho học sinh của mình là cả hai yêu thương và đam mê. Nó đã được khẳng định từ thế kỷ 16 rằng các mối quan hệ này có thể bị nghi vấn là có tính chất tình dục hoặc khiêu dâm. Hồ sơ của tòa án năm 1476, khi ông được 24 tuổi, cho thấy Leonardo và ba người đàn ông trẻ khác bị buộc tội trong một sự cố liên quan đến một mại dâm nam nổi tiếng, nhưng nghi vấn buộc tội đã bị bác bỏ vì thiếu bằng chứng . Kể từ đó ngày càng có nhiều nghi vấn và giả thuyết về vấn đề đồng tính luyến ái giả định và vai trò của nó trong nghệ thuật của ông, đặc biệt là trong một số bản vẽ khiêu dâm, dù những nghi vấn này không có bằng chứng xác thực.
Một số tác phẩm
Người Vitruvius (1490)
Báo tin mừng (1475 - 1480)
Thánh mẫu Benois (1478 - 1480)
Đức mẹ đồng trinh trong hang đá (1483 - 1486)
Người đàn bà và con chồn (1488 - 1490)
Chân dung một nhạc sĩ (khoảng 1490)
Madonna Litta (1490 - 1491)
Bữa ăn tối cuối cùng (1498)
Mona Lisa (1503 - 1505/1507)
Leda và thiên nga (1508)
St. John the Baptist (khoảng 1514)
Salvator Mundi (không chắc chắn) (khoảng năm 1500)
Ginevra de' Benci (1474-1478)
La belle ferronnière
Các bức tranh chưa hoàn thành: Sự sùng kính của các hiền sĩ, Thánh Jerome ở chốn hoang vu, Trận chiến Anghiari.
Một số điều thú vị về đại danh họa
Leonardo là người thuận cả hai tay trái và phải, trong cuốn sổ tay của mình ông luôn viết ngược, nghĩa là sử dụng tay trái viết từ phải qua trái, người ta muốn đọc thì phải sử dụng gương để phản chiếu lại theo chiều thuận, ông làm vậy có thể là do ông không muốn người khác đọc được những gì trong sổ tay.
Lá thư ông gửi cho quan nhiếp chính Ludovico Sforza thành Milan là một lá thư xin việc đáng chú ý nhất mọi thời đại, trong mười đoạn đầu tiên của lá thư ông giới thiệu kiến thức về cơ khí của mình, trong đó có khả năng thiết kế cầu, đường vận tải thủy, đại bác, các loại xe bọc thép, và cả những tòa nhà lớn, đến cuối cùng: đoạn thứ mười một: ông mới bổ sung thêm rằng mình cũng là một nghệ sĩ, nhưng theo Vasari sự nhã nhặn và đầy lôi cuốn cùng với tài năng của một nhạc sĩ và người tổ chức tiệc tùng mới là yếu tố giúp ông được nhận.
Trong cuộc đời hiếm người công nhận tài năng của đại danh họa như đã nói ở trên đến cuối đời khi về dưới trướng của François I của Pháp, ông mới được nhà vua của Pháp công nhận tài năng của mình và dành hàng giờ để tranh luận cùng đại danh họa.
Trong các cuốn sổ tay của ông có ghi lại các hình ảnh về giải phẫu, kiến trúc, các ý tưởng về thiết bị bay thử nghiệm, mô tả hoạt động bay của chim, nghiên cứu các hệ thống cấp nước, thiết kế tượng đài, thủy lực học, các phác họa cho bức Bữa tối cuối cùng, các nghiên cứu hình học cho bài toán cầu phương hình tròn, thiết kế nhà thờ hình bát giác và các đoạn viết tay theo kiểu chữ gương.
Chú thích
Tham khảo
Xem thêm
volume 2: ISBN 0-486-22573-9. A reprint of the original 1883 edition.
[The chapter "The Graphic Works" is by Frank Zollner & Johannes Nathan].
Liên kết ngoài
Leonardo da Vinci (tiếng Anh)
Trang web về Leonardo của BBC (tiếng Anh)
www.LeonardoDaVinci.net (tiếng Anh)
Web Gallery of Art
Tác phẩm của Leonardo da Vinci
Tín hữu Công giáo Ý
Người ăn chay
Họa sĩ Ý
Họa sĩ Phục hưng
Bài cơ bản dài
Toán học và văn hóa
Khoa học thế kỷ 15
Khoa học thế kỷ 16
Thời kỳ Khai sáng
Nhà phát minh Ý
Kiến trúc sư thời Phục Hưng
Nghệ sĩ thời Phục Hưng
Chuyên gia thuật phóng
|
17537
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BA%BFng%20Ph%E1%BA%A1n
|
Tiếng Phạn
|
Tiếng Phạn (Hán-Việt: Phạm/Phạn ngữ, chữ Hán: 梵語; saṃskṛtā vāk संस्कृता वाक्, hoặc ngắn hơn là saṃskṛtam संस्कृतम्) hay tiếng Sanskrit là một cổ ngữ Ấn Độ và là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo Bắc Tông và Jaina giáo. Nó có một vị trí quan trọng trong văn hóa Ấn Độ và các văn hóa vùng Đông Nam Á tương tự như vị trí của tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp trong châu Âu Trung Cổ; nó cũng là kết cấu trọng điểm của truyền thống Ấn giáo/Phệ-đà, nhưng ở một mức độ cao cấp hơn. Ngày nay nó là một trong nhiều ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ, mặc dù tiếng Hindi (hindī हिन्दी) và các thứ tiếng địa phương khác ngày càng được dùng phổ biến.
Khác với quan niệm phổ biến, tiếng Phạn không phải là một ngôn ngữ chết. Nó vẫn còn được dạy trong các trường học và tại gia khắp nước Ấn, tuy chỉ là ngôn ngữ thứ hai. Một số người Bà-la-môn vẫn xem tiếng Phạn là tiếng mẹ đẻ. Theo một thông tin gần đây, tiếng Phạn được phục hưng như một tiếng địa phương thực dụng tại làng Mattur gần Shimoga, Karnataka.
Tiếng Phạn phần lớn được dùng như một ngôn ngữ tế tự trong các nghi lễ của Ấn Độ giáo dưới dạng ca tụng và chân ngôn (sa. mantra). Tiền thân của tiếng Phạn cổ là tiếng Phệ-đà (zh. 吠陀, en. vedic sanskrit), một ngôn ngữ được xem là một trong những thành viên cổ nhất của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu, và văn bản cổ nhất của nó là Lê-câu-phệ-đà (zh. 棃俱吠陀, sa. ṛgveda). Bài này nhấn mạnh vào Hoa văn Phạn ngữ như nó được hệ thống hoá bởi Ba-ni-ni (zh. 巴尼尼, sa. pāṇini) vào khoảng 500 trước CN. Hầu hết những bài văn tiếng Phạn được truyền miệng qua nhiều thế kỉ trước khi được ghi lại tại Ấn Độ trong thời kì trung cổ.
Lịch sử
Từ nguyên
Saṃskṛta là một quá khứ phân từ thụ động được hình thành từ tiếp đầu âm sam, có nghĩa là "gom lại", "đầy đủ" và gốc động từ √kṛ với nghĩa là "làm". Như vậy thì saṃskṛta có nghĩa là "được làm đầy đủ". Theo quan niệm Ấn Độ, cái được làm đầy đủ, trọn vẹn là tốt nên saṃskṛta cũng được hiểu là "toàn hảo". Các nhà dịch kinh Phật từ Phạn sang Hán dịch saṃskṛta là Phạn (Phạm 梵), có nghĩa là thuộc về Brahma, thuộc cõi trời thanh tịnh, thiêng liêng và theo nghĩa này danh từ Phạn ngữ (zh. 梵語) được dùng. Một cách gọi khác là Nhã ngữ (zh. 雅語).
Theo định nghĩa trên thì tiếng Phạn luôn là một ngôn ngữ cao cấp được dùng trong những lĩnh vực tôn giáo và khoa học, đối nghịch với những loại ngôn ngữ bình dân. Bộ văn phạm cổ nhất còn được lưu lại là Sách ngữ pháp tám chương (sa. aṣṭādhyāyī) của Ba-ni-ni (sa. Pāṇini), được biên tập vào khoảng thế kỉ thứ 5 trước CN. Bộ này cơ bản là một bộ ngữ pháp quy định, phán định (prescriptive) thế nào là tiếng Phạn đúng, thay vì mang tính chất miêu tả (descriptive). Tuy nhiên, nó vẫn hàm dung những phần miêu tả, phần lớn miêu tả những dạng từ ngữ Phệ-đà đã không còn phổ biến vào thời của Ba-ni-ni (sa. Pāṇini).
Mặc dù hầu hết những người học tiếng Phạn cũng đã nghe câu truyện truyền thống là tiếng Phạn đã được sáng tạo và tinh chế qua nhiều thế hệ (theo truyền thống là hơn một thiên niên kỉ) cho đến lúc được xem là toàn hảo. Khi danh từ Sanskrit (saṃskṛta) xuất hiện tại Ấn Độ, nó không được hiểu là một ngôn ngữ đặc thù, khác biệt so với những ngôn ngữ khác (người Ấn Độ thời đó thường xem ngôn ngữ là phương ngôn, tức là những thứ tiếng địa phương), mà chỉ là một cách ăn nói tao nhã đặc biệt, có một mối tương quan với các ngôn ngữ địa phương như trường hợp tiếng Anh "chuẩn" có mối tương quan với những loại phương ngôn được dùng tại Vương quốc Anh hoặc Hoa Kỳ. Kiến thức tiếng Phạn là một dấu hiệu của địa vị xã hội và học vị, được truyền dạy qua sự phân tích chặt chẽ những nhà văn phạm Phạn ngữ như Ba-ni-ni. Hình thái của ngôn ngữ này xuất phát từ dạng Phệ-đà có trước và các học giả thường phân biệt giữa tiếng Phạn Phệ-đà (vedic sanskrit) và tiếng Phạn cổ (classical sanskrit). Tuy nhiên, hai ngôn ngữ này rất giống nhau về nhiều mặt, chỉ khác nhau phần lớn ở một vài khía cạnh âm vận, từ vị và ngữ pháp. Cũng một số người cho rằng, Ấn Độ thời xưa có nhiều phương ngôn khác nhau và tiếng Phạn cổ là một trong những phương ngôn, Phệ-đà là một cấp bậc cổ hơn của một trong những phương ngôn này. Tiếng Phệ-đà có khuynh hướng chuyển các từ Ấn-Âu l ल् thành r र्, chuyển ḍ ड् và ḍh ढ् thành ḷ ऌ và ḷh ळ giữa các nguyên âm (với l uốn lưỡi).
Tiếng Phệ-đà là ngôn ngữ của những bộ kinh Phệ-đà, những thánh điển xuất hiện sớm nhất tại Ấn Độ và cũng là cơ sở của Ấn Độ giáo. Bộ kinh Phệ-đà cổ nhất, Lê-câu-phệ-đà, được biên tập trong thiên niên kỉ thứ hai trước CN. Các dạng từ ngữ Phệ-đà được lưu truyền cho đến giữa thiên niên kỉ thứ nhất trước CN. Vào khoảng thời gian này, tiếng Phạn thực hiện một bước chuyển biến từ một ngôn ngữ thứ nhất thành một ngôn ngữ thứ nhì của tôn giáo và học thức, đánh dấu bước khởi đầu của thời kì Hoa văn. Một dạng tiếng Phạn được gọi là tiếng Phạn sử thi (epic sanskrit) được tìm thấy trong những trường sử thi như Mahābhārata và những sử thi khác. Dạng tiếng Phạn này hàm dung nhiều thành tố prākṛta, là những thành phần vay mượn từ ngôn ngữ "bình dân", so với Hoa văn Phạn ngữ chuẩn. Cũng có một ngôn ngữ được các học giả gọi là Phật giáo tạp chủng phạn ngữ (Buddhist Hybrid Sanskrit); nó thật sự là một dạng prākṛta với những thành phần tiếng Phạn được dùng để tô hoạ thêm.
Người ta tìm thấy một mối quan hệ rất gần giữa những dạng tiếng Phạn và những dạng phương ngôn Trung Ấn (Middle Indo-Aryan Prākrits), hoặc giữa những ngôn ngữ địa phương (phần lớn kinh điển Phật giáo và Jaina giáo được ghi lại dưới dạng này) và những ngôn ngữ Ấn-Âu hiện đại. Các dạng ngôn ngữ Prākrit có lẽ xuất phát từ tiếng Phệ-đà và người ta cũng tìm thấy sự ảnh hưởng giữa các dạng tiếng Phạn sau này và các dạng Prākrit khác nhau. Và cũng có sự ảnh hưởng hai chiều giữa tiếng Phạn và các ngôn ngữ Nam Ấn thuộc hệ ngôn ngữ Dravida như tiếng Tamil.
Công trình nghiên cứu tiếng Phạn tại châu Âu, được khởi công bởi Heinrich Roth và Johann Ernst Hanxleden, đã dẫn đến sự đề nghị một hệ ngôn ngữ Ấn-Âu của Sir William Jones và vì thế đã giữ một vai trò quan trọng cho sự phát triển của ngành ngữ học châu Âu. Thật như vậy, ngành Ngữ ngôn học (cùng với Âm vận học v.v...) xuất phát đầu tiên trong giới nghiên cứu văn phạm Ấn Độ, những người đã tìm cách mục lục hoá và lập điều lệ các quy tắc trong tiếng Phạn. Ngữ ngôn học hiện đại chịu ảnh hưởng rất lớn của những nhà văn phạm này và cho đến ngày nay, những thuật ngữ then chốt cho sự phân tích hợp từ đều được lấy từ tiếng Phạn.
Hệ ngôn ngữ Ấn-Âu
Tiếng Phạn thuộc nhóm ngôn ngữ Ấn-Aryan của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu và, như vậy, nó có cùng gốc với phần lớn các ngôn ngữ châu Âu hiện đại, và cũng cùng nguồn với những ngôn ngữ châu Âu cổ như tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp. Mối quan hệ có thể được minh hoạ qua hai từ cha và mẹ sau đây:
Tiếng Phạn: pitṛ पितृ và mātṛ मातृ
Tiếng Latinh: pater và mater
Tiếng Hy Lạp cổ: πατηρ và μητηρ
Điểm đáng chú ý là sự tương đồng trong cấu trúc ngữ pháp, ví như giới tính (hay giống), chức năng của các sự kiện (hay cách), thời thái và hình thức (hay trạng).
Tiếng Phạn còn giữ tất cả tám cách ngữ pháp của tiếng Ấn-Âu nguyên thủy:
Danh cách (nominative)
Đối cách (accusative)
Cách dụng cụ (instrumental)
Dữ cách (dative)
Li cách (ablative)
Sinh cách (genitive)
Cách vị trí (locative)
Hô cách (vocative)
Thêm vào số một và số nhiều, tiếng Phạn còn có số hai khi chia động từ hoặc biến hoá danh từ. Điểm giống nhau giữa các tiếng Latinh, cổ Hi Lạp và Phạn đã đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển của ngành nghiên cứu ngôn ngữ Ấn-Âu.
Âm vận và cách viết
Bảng chữ cái tiếng Phạn bao gồm 13 mẫu âm, 33 phụ âm và 2 âm bổ sung. Cho 46 + 2 âm này thì hệ thống chữ viết Devanāgarī dành cho mỗi chữ một ký tự riêng biệt. Vì có nhiều âm và ký tự hơn bảng chữ cái Latinh nên khi phiên âm chuẩn mực, người ta cần có một loạt dấu đặc biệt—người Âu châu gọi là diacritics, Hán gọi là Khu biệt phát âm phù hiệu (zh. 區別發音符號)—hoặc phối hợp các ký tự khác nhau để ghi cách phát âm. Qua việc bổ sung năm phát âm phù hiệu
Dấu sắc cho âm hàm trên cọ xát răng (palatal sibilant) như trường hợp ś
Dấu ngã cho giọng mũi lưỡi đụng hàm trên (palatal nasal), trong trường hợp ñ
và phối hợp một phụ âm +h cho những âm có hơi đưa ra (aspiration), như trường hợp kh, người ta có thể trình bày tất cả những âm tiếng Phạn bằng các ký tự Latinh.
Nguyên âm đơn
Nguyên âm mang tính chất phụ âm
ṛ, ṝ, and ḷ được xem là nguyên âm, nhưng cũng mang tính chất phụ âm (do đó thường được biết như consonantal vowel). Một vài nhà văn phạm truyền thống nhắc đến chữ ḹ ॡ, dạng dài của ḷ, nhưng chữ này không được tìm thấy trong các văn bản thật sự, chỉ có ở một vài tác phẩm văn phạm đặc thù, có lẽ được đưa ra chỉ để tạo tính tương đồng với những nguyên âm khác.
Phức hợp âm
Tất cả các phức hợp âm (diphthongs) đều được phát âm dài.
Nguyên âm có thể được tăng thêm âm mũi (tị âm hoá, nasalized).
Phụ âm
Tuỳ âm ं ṃ biến đổi theo nguyên âm đi trước, tăng thành phần giọng mũi của nguyên âm. Ví dụ: saṃsāra đọc như sang|sāra, saṃhitā đọc như sang|hitā. Tuỳ âm tăng phần âm mũi của nguyên âm trước những phụ âm y, r, l, v, ś, ṣ, s.
Nhấn giọng (pitch)
Trong tiếng Phạn, đặc biệt là tiếng Phạn Phệ-đà, các âm tiết được nhấn mạnh bằng một dấu thanh âm điệu, có nghĩa là âm tiết được nhấn mạnh có một thanh điệu khác. Các nhà văn phạm Ấn Độ truyền thống định nghĩa ba thanh: udātta "cao thanh", anudātta "không cao thanh" và svarita "có âm điệu". Thông thường, khi ký âm người ta dùng dấu acute ॔ để trình bày âm cao udātta, và dùng dấu grave ॓ cho an-udātta. Thanh điệu svarita chỉ xuất hiện như kết quả của sự phối hợp giữa các nguyên âm theo quy tắc tạo âm điệu nghe êm tai (euphony) và vì thế, nó ít xuất hiện.
Hợp biến (sandhi)
Nếu hai chữ trực tiếp đi theo nhau thì ta thường thấy sự biến đổi trong âm kết thúc của chữ đầu và khởi âm của chữ thứ hai vì nguyên do giản hoá và êm tai (euphony)
abcd efgh → abcx efgh, hoặc abcd yfgh, hoặc abcx yfgh
Trong văn cảnh nhất định, hai chữ đã biến đổi thường được viết chung và như vậy, việc phân biệt và nhận ra một chuỗi chữ đã biến đổi, thậm chí chưa quen không phải là dễ. Ví dụ như nhận chữ:
abcxyfgxzjkl
là chuỗi chữ
abcd efgh ijkl
Sự biến đổi âm cũng có thể xảy ra trong một chữ, ví dụ như trường hợp âm kết thúc của thân và âm đầu của phần đuôi (suffix) gặp nhau, với kết quả là âm kết thúc của thân và khởi âm của phần đuôi biến đổi. Sự biến đổi về âm này được ngữ pháp Phạn ngữ truyền thống gọi là sandhi, dịch sát nghĩa là "kết hợp", "liên hợp". Vì âm đọc biến đổi nên từ "hợp biến" cũng trình bày rất chính xác sự việc.
Người ta phân biệt hai loại hợp biến, hợp biến trong câu (ngoại hợp biến) và hợp biến ngay trong một chữ (nội hợp biến). Tóm tắt hết các luật hợp biến thì có khoảng 25 luật. Sau đây là một vài ví dụ cho những quy luật âm vận cực kì phức tạp này:
rāmaḥ atra tiṣṭhati → rāmo ’tra tiṣṭhati
tatra + udyānaṃ kṛṣati → tatrodyānaṃ kṛṣati
gṛhe + ācāryaḥ + tiṣṭhati → gṛha ācāryastiṣṭhati
Chữ viết
Tiếng Phạn không có một chữ viết đặc thù nhìn theo khía cạnh lịch sử. Vua A-dục dùng chữ Brahmī ghi lại lời văn của mình trên những cột trụ (không phải tiếng Phạn mà là những ngôn ngữ khác hoặc những phương ngôn khác). Khoảng cùng thời với chữ Brahmī, người ta cũng đùng chữ Kharoṣṭhī (đang được hiệp hội Unicode duyệt nhập). Sau một thời gian (thế kỷ 4 đến thế kỷ 8), chữ Gupta, vốn được phát triển từ chữ Brahmī lại thịnh hành. Từ khoảng thế kỉ thứ 8 trở đi, chữ Śarada được phát triển từ chữ Gupta và trở nên thông dụng, nhưng lại được thay thế hoàn toàn bởi chữ Devanāgarī, với trung gian là chữ Siddham (Tất-đàm tự). Những chữ khác được dùng để ghi tiếng Phạn là Kannada ở miền Nam, chữ Grantha ở những vùng nói tiếng Tamil, chữ Bengali và những chữ khác ở những vùng miền Bắc Ấn.
Từ thời trung cổ và đặc biệt trong thời hiện đại, chữ Devanāgarī (Thiên thành tự hình, là "chữ được dùng ở thành của chư thiên") rất thông dụng và trở thành chữ viết chính cho tiếng Phạn. Ở những vùng chữ Devanāgarī không là chữ viết của tiếng địa phương thì người ta có thể tìm thấy những văn bản tiếng Phạn vẫn được viết bằng những phương ngôn này.
Tại Ấn Độ, chữ viết được đưa vào tương đối trễ và cũng không trở thành một phương tiện quan trọng vì khẩu truyền vẫn được xem là phương tiện hạng nhất để truyền trao kiến thức. Thomas William Rhys Davids đưa kiến nghị là chữ viết có lẽ được du nhập từ Trung Đông bởi các thương gia. Nhưng tiếng Phạn, vốn được dùng gần như chỉ trong khung cảnh tôn giáo linh thiêng vẫn giữ chức năng ngôn ngữ truyền miệng cho đến thời kì Hoa văn.
Từ thế kỉ 19, tiếng Phạn đã được ký âm dùng bảng chữ cái Latinh. Tiêu chuẩn phổ biến nhất là IAST (International Alphabet of Sanskrit Transliteration), được dùng làm chuẩn học thuật từ 1912. Các phương án khác cũng được phát triển khi người ta phải đối đầu những khó khăn khi trình bày chữ Phạn trên máy tính. Thuộc vào những phương án này là Harvard-Kyoto và ITRANS, một phương án ký âm không tổn thất được dùng nhiều trên mạng toàn cầu (đặc biệt là Usenet).
Cho những tác phẩm học thuật, chữ Devanāgarī được chuộng dùng để trình bày toàn văn bản tiếng Phạn và những trích dẫn dài. Tuy nhiên, sự trích dẫn những thuật ngữ đặc thù và tên riêng trong những văn bản được viết bằng chữ Latinh vẫn đòi hỏi cách ký âm tiếng Phạn bằng chữ Latinh.
Sanskrit in modern Indian scripts.
</span>
Ngữ pháp
Hệ thống động từ
Hữu hạn định, vô hạn định
Hệ thống động từ Phạn ngữ phân biệt giữa động từ hữu hạn định (finite) và động từ vô hạn định (infinite). Khác các dạng động từ vô hạn định, tất cả các động từ hữu hạn định đều có đuôi được lập theo ngôi xưng (personal suffix). Các dạng động từ hữu hạn định phân biệt giữa các loại ngôi xưng, số, thời gian, hình thức và dạng (phân biệt chủ/thụ động). Nên biết là hệ thống động từ hữu hạn định trong tiếng Phạn rất phức tạp và hàm chứa rất nhiều cách chia.
Thời thái, số và hình thức
Các động từ hữu hạn định (finite verb) trong Phạn ngữ phân biệt giữa thời thái, số và hình thức.
Về thời thái, tiếng Phạn có sáu thời thái:
Hiện tại (present)
Thể chưa hoàn thành (imperfect)
Thể hoàn thành (perfect)
Quá khứ bất định (aorist)
Tương lai (future). Phạn ngữ phân biệt giữa một thời vị lai đơn giản và một vị lai nói vòng (periphrastic), và vị lai đơn giản là dạng thường gặp hơn.
Câu điều kiện (conditional) diễn đạt một sự kiện có thể xảy ra nếu các điều kiện quy tụ, hoặc cảm thán. Ví dụ: "Giá mà cô ấy có ở nhà!"
Trong ba dạng quá khứ thì Bất định quá khứ ít xuất hiện so với hai dạng kia. Cả ba dạng quá khứ vốn khác nhau một cách vi tế về mặt ngữ nghĩa (semantic): Vị hoàn thành thể chỉ một hành động nằm trong quá khứ xa hơn trước lời trần thuật và được thấy bởi người nói; Hoàn thành thể cũng chỉ một hành động nằm trong qua khứ xa trước ngày lời trần thuật được nói nhưng không được chứng kiến bởi người trần thuật; Bất định quá khứ thì lại trình bày quá khứ gần, chỉ một hành động xảy ra ngay ngày nói. Tuy nhiên, trong Hoa văn Phạn ngữ (classical sanskrit) thì những điểm khác nhau về ngữ nghĩa đã mất và cả ba đều được sử dụng không khác nghĩa.
Thêm vào đó Phạn ngữ còn có ba hình thức:
Chỉ thị (indicative) hay Biểu thị
Mệnh lệnh (imperative), biểu thị yêu cầu, mệnh lệnh. Ví dụ: "Hãy đi chỗ khác!"
Kì nguyện (optative), diễn đạt một ước nguyện, ví dụ: "Cầu mong tôi thi đậu!". Cách sử dụng gần giống như câu điều kiện.
Các dạng chia động từ tiếng Phạn còn phân biệt giữa: Ngôi thứ và Số.
Ngoài số ít và số nhiều, tiếng Phạn còn có thêm một số thứ ba là số hai (dual). Tuy nhiên, số hai rất ít thấy so với số ít và số nhiều.
Số ít: anh/cô ấy/nó đi
Số hai: hai anh/cô, hai nó đi
Số nhiều: các anh/cô ấy, chúng nó đi.
Ngôi thứ cũng có ba: ngôi thứ nhất (tôi, chúng tôi), ngôi thứ hai (anh, các anh) và ngôi thứ ba (cô ấy, các chị ấy).
Như vậy thì mỗi cách chia động từ cho từng 6 thời thái (present, imperfect, perfect, aorist, future, conditional) và từng 3 hình thức (imperative, optative, indicative) bao gồm 3 (ngôi) × 3 (số) = 9 dạng. Ví dụ như động từ đi, √gam, có 9 dạng chia như sau:
Phân loại động từ
Có tổng cộng 10 nhóm động từ. Mười nhóm này lại được phân thành hai loại, thematic, tạm dịch là hợp quy tắc và athematic, tạm dịch là bất quy tắc. Các nhóm hợp quy tắc bao gồm 1, 4, 6, 10. Đặc điểm của các nhóm này là đuôi của thân động từ lúc nào cũng là –a. Như vậy thì thân động từ hiện tại lúc nào cũng được gắn thêm tiếp vĩ âm –a hoặc một tiếp vĩ âm có đuôi –a. Thêm vào đó là thân động từ hiện tại của những nhóm thematic không biến đổi khi động từ được chia. Tất cả những nhóm khác — 2, 3, 5, 7, 8, và 9 — đều là athematic. Các nhóm động từ này thiếu đặc điểm –a và thân động từ biến đổi khi được chia.
Vị tha ngôn, vị tự ngôn
Khi chia động từ cho 6 thời thái và 3 hình thức thì tiếng Phạn còn phân biệt giữa hai dạng: Vị tha (sa. parasmaipada) và Vị tự (sa. ātmanepada). Parasmaipada nguyên nghĩa là "câu nói liên hệ đến người khác", được dịch ở đây là Vị tha ngôn và theo các nhà ngữ pháp Ấn Độ thì đây có nghĩa là chủ thể thực hiện một hành động cho người khác, trong khi ātmanepada, "câu nói cho chính mình", Vị tự ngôn, thì lại chỉ một hành động được chủ thể làm cho riêng mình. Ví dụ:
Parasmaipada: "(anh ấy/cô ấy/nó) cúng tế (cái gì đó cho/giúp một người khác)"
Ātmanepada: "(anh ấy/cô ấy/nó) cúng tế (cái gì đó cho chính mình)"
Tuy nhiên, Hoa văn Phạn ngữ thường không phân biệt giữa hai cách chia động từ này và cách phân chia parasmaipada/ātmanepada thường chỉ là hình thức bề ngoài. Như thế thì mỗi dạng trong năm thời thái và ba hình thức của Phạn ngữ lại có thêm hai cách chia khác nhau. Cả hai loại chia parasmaipada/ātmanepada đều mang nghĩa chủ động.
Chủ động, bị động
Tiếng Phạn cũng phân biệt giữa hai dạng năng/chủ động (active) và bị/thụ động (passive). Nhưng người ta chỉ tìm thấy cách chia thể bị động trong 2 của 6 thời cũng như ba hình thức. Trong bốn thời còn lại thì thể bị động được thay thế bằng cách biến hoá động từ theo vị tự cách (sa. ātmanepada).
Gốc động từ, thân động từ
Trong tiếng Phạn, mỗi động từ đều có một dạng trừu tượng được liệt kê trong từ điển và được gọi là gốc động từ (verb root). Các dạng khác nhau của một động từ đều được hình thành từ gốc động từ này.
Trong khi một động từ trong Anh và Đức ngữ được thâu nhập vào từ điển dưới dạng bất định (infinitive, có khi gọi không chính xác lắm là "nguyên mẫu") thì trong tiếng Phạn, nó được ghi lại dưới dạng gốc. Như thế thì tất cả các động từ trong Phạn ngữ đều được liệt kê trong từ điển dưới dạng gốc.
Một dạng động từ hữu hạn định (finite) được hình thành khi ta lập một thân động từ từ gốc động từ bằng cách biến đổi hoặc mở rộng gốc động từ, ví dụ như thêm vào một tiếp vĩ âm (hay hậu tố), hoặc một tiếp đầu âm (hay tiền tố), hoặc một từ trùng (reduplication) hoặc một cách chuyển mẫu âm ngay trong gốc động từ. Sau đó, các nhân xưng tiếp vĩ âm được gắn thêm vào. Ví dụ:
Như vậy thì dạng động từ ngôi thứ ba, số ít, hiện tại, vị tha của √pac "nấu ăn", được hình thành trước hết qua sự tạo một thân động từ dạng hiện tại bằng tiếp vĩ âm –a, sau đó nhân xưng tiếp vĩ âm dành cho ngôi thứ ba là –ti được thêm vào. Trường hợp hình thành dạng vị lai cũng tương tự như vậy. Trước hết, thân động từ vị lai pak-ṣya được tạo, sau đó nhân xưng tiếp vĩ âm được gắn vào.
Những thành phần được dùng để tạo một thân và chia động từ bao gồm động từ tiếp đầu âm (hay tiền tố động từ), động từ tiếp vĩ âm (hay hậu tố động từ) và động từ sáp nhập âm (hay nội tố động từ). Hiện tượng phân độ nguyên âm (vowel gradation) cũng thường được thấy.
Phân độ nguyên âm
Dưới "phân độ nguyên âm" các nhà văn phạm hiểu một sự chuyển biến của nguyên âm hoặc phức hợp âm dưới nhiều dạng của một âm tiết căn bản. Các dạng khác nhau này có thể được hình thành qua sự biến đổi âm cuối của danh từ (flexion) hoặc một sự diễn sinh từ một chữ gốc nhất định (derivation).
Theo các nhà văn phạm truyền thống thì các mẫu âm đơn như a, ā, i, ī, u, ū, ṛ, ṝ, ḷ, thường được biến đổi, và sự biến đổi này lại có hai phân độ, được gọi là guṇa, có thể gọi là cường hoá, là tăng độ mạnh, và vṛddhi tức là kéo dài.
Hai cấp guṇa và vṛddhi của các mẫu âm đơn nhìn cụ thể như sau:
Các nguyên âm của hai cấp guṇa và vṛddhi trên tương ưng với biến âm khi các mẫu âm đơn căn bản được biến hoá bằng cách đặt mẫu âm a– phía trước. Nêu lưu ý là a không biến đổi ở cấp guṇa và ā vẫn giữ dạng gốc ở cả hai cấp guṇa và vṛddhi.
Khi gốc động từ được biến hoá, ví dụ như khi thân động từ hiện tại được hình thành, ta thường thấy sự biến đổi âm theo hai phân độ trên. Ví dụ như ṛ—ar—ār. Một ví dụ tiêu biểu khác là động từ hṛ "nắm lấy, giữ lấy". Thân động từ với mẫu âm ṛ được thay thế bằng ar ở cấp guṇa har-a-ti, và khi chia ở dạng sai khiến (causative) thì được thay bằng ār ở cấp vṛddhi hār-aya-ti.
Hệ thống động từ hiện tại
Hệ thống động từ thời hiện tại bao gồm hiện tại với những hình thức khác nhau là kì nguyện (optative), mệnh lệnh (imperative) và hư nghĩ (subjunctive), cũng như vị hoàn thành quá khứ (imperfect) vì hai thời thái này đều có cùng thân động từ hiện tại. Thân động từ hiện tại được lập bằng nhiều cách, được trình bày bên dưới. Số đi trước chỉ số nhóm của chúng, vốn được các nhà văn phạm truyền thống liệt kê như vậy.
Các động từ hợp quy tắc, thematic, có thân hiện tại được hình thành như sau:
Nhóm 1: Thêm tiếp vĩ âm a vào thân với âm tiết chính đã được chuyển sang cấp guṇa. Ví dụ: √ruh "lớn lên, trưởng thành", roh-a.
Nhóm 4: Thêm tiếp vĩ tự ya vào gốc, và gốc giữ nguyên dạng. Ví dụ: √tuṣ, "vui sướng", tuṣ-ya.
Nhóm 6: gắn tiếp vĩ âm a vào gốc và khác trường hợp nhóm 1, gốc của nhóm 6 vẫn được giữ nguyên. Ví dụ: √viś "bước vào", viś-a.
Nhóm 10: Nhóm này được các nhà văn phạm truyền thống quy về một quá trình có bản chất diễn sinh và như thế, không là một nhóm thật sự.
Các động từ bất quy tắc, athematic, có thân hiện tại được hình thành như sau:
Nhóm 2: Không có biến đổi. Ví dụ: √ad "ăn", ad.
Nhóm 3: Trùng tự hoá (reduplication) đầu gốc động từ. Ví dụ: √hu "cúng tế", juhu.
Nhóm 5: Thêm tiếp vĩ tự nu (no ở phân độ guṇa). Ví dụ: √nu "ép", sunu.
Nhóm 7: Thêm sáp nhập âm (infix) na hoặc chữ n trước phụ âm cuối của gốc động từ. Ví dụ: √rudh "cản trở", rundh hoặc ruṇadh
Nhóm 8: Thêm tiếp vĩ tự u (o ở phân độ guṇa). Ví dụ √tan "trải tra", tan-u
Nhóm 9: Thêm tiếp vĩ tự nā (cấp số 0 là nī hoặc n). Ví dụ: √krī "mua", krī-ṇā hoặc krī-ṇī.
Hệ thống động từ hoàn thành quá khứ
Hệ thống này chỉ bao gồm một thời thái duy nhất, là hoàn thành quá khứ (perfect tense). Thân động từ của hoàn thành quá khứ được lập bằng cách trùng tự hoá như các động từ nhóm 3 của hệ thống hiện tại. Hệ thống này cũng bao hàm hai dạng thân mạnh và yếu của động từ. Thân mạnh được dùng với ba ngôi xưng số ít, chủ động. Thân yếu được dùng với những ngôi xưng còn lại.
Hệ thống động từ đệ tam quá khứ
Hệ thống này bao gồm đệ tam quá khứ thật sự (với ý nghĩa chỉ quá khứ, ví dụ: abhūḥ "Anh đã là") và một vài dạng thật xưa của chỉ lệnh (指令, injunctive, thường được dùng với tiểu từ mā chỉ sự cấm chỉ, ví dụ mā bhūḥ "chớ có là...!"). Sự khác biệt đáng kể nhất ở đây là sự có hoặc vắng mặt của âm gia tăng a- (augment) làm tiếp đầu âm. Cách lập thân đệ tam quá khứ khá phức tạp và chỉ cần biết ở đây là có tổng cộng 7 dạng đệ tam quá khứ.
Hệ thống động từ vị lai
Trong hệ thống này, thân động từ được lập bằng cách gắn tiếp vĩ tự sya hoặc iṣya vào gốc động từ ở phân độ guṇa.
Động từ: Cách chia
Mỗi động từ đều có một thể ngữ pháp (grammatical voice), hoặc là thể chủ động (active), bị động (passive) hoặc trung gian (medium). Cũng có một thể khách quan có thể được xem là thể bị động của những động từ bất cập vật (intransitive verbs). Động từ tiếng Phạn có ba hình thái đáng lưu ý là chỉ thị (indicative), kì nguyện (optative) và mệnh lệnh (imperative). Cổ Phạn văn cũng có dạng subjunctive, chỉ sự lo toan hư cấu nhưng chúng đã bị loại gần hết từ khi Hoa văn Phạn ngữ thịnh hành.
Hậu tố động từ căn bản
Các hậu tố của động từ tiếng Phạn hàm chứa ngôi xưng, số và cách chia theo vị tự ngôn/vị tha ngôn. Các dạng hậu tố khác nhau được dùng tuỳ theo thân động từ thuộc thời thái và hình thức nào chúng được gắn vào. Thân động từ và chính ngay những hậu tố này có thể biến đổi vì quy luật hợp biến.
Hậu tố đệ nhất được dùng cho hiện tại chỉ thị (present indicative) và tương lai. Hậu tố đệ nhị được dùng với quá khứ chưa hoàn thành, điều kiện, quá khứ bất định và kì nguyện (imperfect, conditional, aorist, optative). Hậu tố của quá khứ hoàn thành và mệnh lệnh được dùng với quá khứ hoàn thành và mệnh lệnh cách.
Cách chia động từ thời hiện tại
Chia động từ thời hiện tại xử lý tất vả những dạng của động từ bằng cách dùng thời hiện tại. Nó bao gồm thời hiện tại của tất cả hình thức cũng như đệ nhất quá khứ chỉ thị (imperfect indicative). Sự tương phản của thân mạnh/yếu được phản ánh khác nhau tuỳ vào nhóm động từ:
Cách chia các động từ bất quy tắc
Hệ thống hiện tại phân biệt giữa thân mạnh và yếu của động từ. Thân mạnh xuất hiện ở 13 dạng:
Ngôi thứ 1, 2 và 3 số ít ở thì hiện tại và parasmaipada không hoàn thành.
Ngôi thứ nhất số ít, kép, số nhiều ở thì parasmaipada và ātmanepada mệnh lệnh
Ngôi thứ ba số ít ở thì parasmaipada mệnh lệnh
Ở tất cả những dạng khác thì thân yếu xuất hiện.
Sau đây là bảng chia động từ dviṣ द्विष् "ghét" thuộc nhóm 2:
Kì nguyện hay mong mỏi (optative) dùng đệ nhị tiếp vĩ âm. yā được gắn vào thân ở thể chủ động, và ī ở thể thụ động.
Hình thức mệnh lệnh dùng tiếp vĩ âm riêng của mệnh lệnh.
Hệ thống danh từ
Người ta phân biệt hai loại thân danh từ (substantive và adjective) tuỳ theo tự vĩ của chúng, và gọi chúng thân nguyên âm (vowel stem) hoặc thân phụ âm (consonantal stem). Mỗi thân danh từ đều có, như trường hợp tiếng Đức, một trong ba giới tính:
Nam tính (masculine)
Nữ tính (feminine)
Trung tính (neuter)
Ngoài trường hợp các danh từ chỉ người ra thì giới tính của một danh từ phần lớn đều là tuỳ tiện. Chủng loại giới tính của mỗi thân danh từ đều có sẵn và người ta cũng không ghi chú thêm.Ví dụ như các danh từ với đuôi –i và –u đều được tìm thấy ở ba giới tính. Tuy nhiên, ta có thể nhận ra giới tính ở một vài danh từ, ví dụ như trường hợp danh từ có đuôi –ā và –ī. Chúng đều là nữ tính.
Về mặt biến đổi (flexion), các danh từ khác nhau ở số (numerus) và sự kiện (casus).
Về mặt số thì có ba số như trường hợp các động từ hữu hạn định.
Về mặt sự kiện (casus), Phạn ngữ không những có các sự kiện như trong tiếng Đức là Nominative, Accusative, Dative và Genitive hoặc như tiếng Latinh với thêm hai sự kiện Ablative và Vocative, mà còn có thêm hai phần nữa là Instrumental và Locative. Như vậy, Phạn ngữ phân biệt 8 sự kiện theo thứ tự sau:
Nominative: Chủ cách.
Accusative: Trực bổ cách, Trực tiếp thụ cách.
Instrumental: Dụng cụ cách
Dative: Gián bổ cách, Dữ cách, Vị cách.
Ablative: Nguyên uỷ, Đoạt cách, Li cách
Genitive: Thuộc cách, Sở hữu cách.
Locative: Vị trí cách
Vocative: Hô cách.
Từ 3 số và 8 sự kiện ta có tất cả ba x 8 = 24 dạng biến hoá ở đuôi của một chữ.
Số lượng của tự vĩ biến hoá tuỳ thuộc vào âm cuối của thân danh từ và chủng loại của nó. Hai đặc tính này xác định một hạng danh từ. Các thân danh từ với đuôi phụ âm là –i hoặc –u đều có mặt ở ba giới tính và vì vậy, chúng hình thành ba hạng danh từ (nam, nữ và trung tính với mẫu âm cuối là –i). Ví dụ:
Nam tính kavi "thi sĩ"
Nữ tính mati "trí"
Trung tính vāri "nước"
Mỗi hạng danh từ trên đều có tự vĩ biến hoá riêng. Trên cơ sở này mà người ta phân biệt trên 20 hạng danh từ và tự vĩ biến hoá. Tuy nhiên, các hạng này không khác nhau hết ở 24 cách. Một vài loại tự vĩ biến hoá chỉ khác nhau ở một hoặc hai sự kiện. Người ta phân biệt như sau:
Thân mẫu âm
(vowel stem)
Nam tính –a
Trung tính –a
Nữ tính –ā
Nam tính –i
Nữ tính –i
Trung tính –i
Nam tính –u
Nữ tính –u
Trung tính –u
Nữ tính –ī
Nữ tính –ū
Nữ tính –ī, đơn âm tiết (monosyllable)
Nữ tính –ū, đơn âm tiết (monosyllable)
Nam tính –ṛ (danh từ chỉ người làm, người thực hiện, agent-noun)
Nữ tính –ṛ (danh từ chỉ người làm, người thực hiện, agent-noun)
Trung tính –ṛ (danh từ chỉ người làm, người thực hiện, agent-noun)
Nam tính –ṛ (danh từ chỉ người thân, noun of relations)
Nữ tính –ṛ (danh từ chỉ người thân, noun of relations)
Nam tính –phức âm
Nữ tính –phức âm
Thân phụ âm
(consonantal stem)
Nam tính –phụ âm (ngoài –s,n)
Nữ tính –phụ âm (ngoài –s,n)
Trung tính –phụ âm (ngoài –s,n)
Nam/Nữ tính –as, –is, –us
Trung tính –as, –is, –us
Nam/Nữ tính –an
Trung tính –an
Nam tính –in
Trung tính –inNgoài những dạng trên ta còn tìm thấy một vài tự vĩ biến hoá cho một vài hình dung từ và phân từ nhất định. Điều cần biết nữa là các đại danh từ (pronoun), đại danh từ chỉ thị (demonstrative pronoun) và số từ — cả ba đều được xếp vào danh từ — đều có tự vĩ biến hoá riêng.
Thân có âm kết thúc -a
Nhóm thân có âm kết thúc -a là nhóm lớn nhất. Các danh từ loại này chỉ có thể là nam hoặc trung tính.
Thân có âm kết thúc -i và -u
Thân có âm kết thúc là nguyên âm dài, đơn âm tiết
Thân có âm kết thúc -ṛ
Thân -ṛ phần lớn chỉ người làm, thực hiện một hành động, ví như dātṛ "người đưa", mặc dù thân này cũng bao hàm một số danh từ chỉ quyến thuộc, ví dụ như pitṛ "cha", mātṛ "mẹ", và svasṛ "chị/em gái".
Nhân xưng đại danh từ
Ngôi xưng thứ nhất và thứ hai được biến hoá song song và có nhiều điểm tương đồng.Lưu ý: Ở ba sự kiện Accusative, Dative và Genitive thì hai nhân xưng đại danh từ này có dị dạng. Những dạng nằm trong ngoặc thuộc loại phụ đới ngữ (enclitic) nên chúng không bao giờ đứng ở đầu câu hoặc sau những tiểu từ bất biến như च ca, वा vā và एव eva.
Đại danh từ chỉ thị tad (demonstrative pronoun) được biến hoá bên dưới cũng giữ chức năng nhân xưng đại danh từ ngôi thứ ba.
Hợp thành từ
(compounds)
Một trong những điểm đặc thù nổi bật nhất của tiếng Phạn là số lượng lớn và cấu trúc phức tạp của từ hợp thành. Tương tự trong tiếng Đức, hợp thành từ cũng được ghi chung và xuất hiện như một đơn vị từ thái.
Tuy nhiên, một hợp thành từ trong tiếng Phạn chỉ là một từ về mặt hình thái. Về mặt văn phạm thì hợp từ này không phải là một từ, mà là một cấu trúc ngữ nghĩa được hình thành từ nhiều chữ. Trong Phạn văn, mỗi hình dung từ được phối hợp với một danh từ trong một phiến ngữ (phrase) đều có thể được phối hợp với một thật danh từ (substantive). Ví dụ như śānta शान्त "tĩnh lặng" có thể xuất hiện
trong một đoạn câu:
śāntaṃ nagaram शान्तं नगरम् "thành phố tĩnh lặng"
hoặc trong một hợp thành từ:śāntanagaram शान्तनगरम् "thành phố tĩnh lặng"
Hợp thành từ có thể được tạo một cách rất tự do, cụ thể là làm sao tạo cho tương ưng với những quy tắc, những hợp thành từ đã được tìm thấy trong những tác phẩm văn hoá. Như vậy thì trong Phạn văn, hợp thành từ có thể được tạo tương tự như những phiến ngữ hoặc những câu một cách ad hoc. Và cũng như trường hợp lập đoạn câu và những câu, ta không thấy sự hạn chế nào về mặt tạo hợp thành ngữ trong Phạn văn cả. Chỉ một vài quy tắc nhỏ được các nhà văn phạm truyền thống liệt kê ra.
Quy tắc tạo hợp thành từ
Cách tạo hợp thành từ luôn luôn theo một quy tắc giống nhau:
Những từ như thật danh từ (substantive), hình dung từ (adjective), quá khứ phân từ thụ động (participle preterite passive) cũng như những từ không biến đổi như phó từ (adverb) được nối lại với nhau và thành phần đi trước — có nghĩa là tất cả những thành phần ngoài thành phần cuối — xuất hiện dưới dạng thân nguyên thủy, tức là không được biến hoá.
Trong lúc nối những thành phần của hợp từ lại thì luật ngoại hợp biến được ứng dụng (một vài ngoại hạng tham khảo thêm Stenzler §307)
Thành phần thứ hai (hoặc thành phần cuối) đi sau của hợp từ được biến hoá tuỳ ngữ cảnh.
Người ta phân biệt năm loại hợp thành từ tương ưng với các nhóm ngữ cán (thân/gốc của từ) xuất hiện ở phần trước hoặc sau của một hợp từ, tương ưng với mối quan hệ ngữ pháp/nghĩa giữa phần trước và sau của hợp từ. Những thuật ngữ sau đây được dùng như cách trình bày của các nhà Phạn học truyền thống. Cách gọi trong ngoặc lấy từ văn phạm của những nhóm ngôn ngữ châu Âu.
Tatpuruṣa: Hợp thành từ xác định (determinative compound)
Karmadhāraya: Hợp thành từ miêu tả (descriptive compound)
Bahuvrīhi: Hợp thành từ mang tính chất định ngữ (attributive compound)
Dvandva: Hợp thành từ làm đồng đẳng (coordinative compound)
Avyayībhāva: Hợp thành từ mang tính chất phó từ (adverbial compound)
Ngoài ra người ta cũng liệt kê một loại thứ năm nữa là Amredita, chỉ sự lặp đi lặp lại. Ví dụ: dive-dive "ngày qua ngày", "mỗi ngày".
Cú pháp
Vì các tiếp vĩ tự chỉ rõ các sự kiện hệ thuộc và các ngôi xưng, số nên thứ tự của các loại từ trong câu tương đối tự do, với khuynh hướng Chủ từ-Đối tượng-Động từ.
Số từ
Số 1 đến 10 là:
Các số 1 đến 4 được biến hoá theo các sự kiện. Eka được biến hoá như một nhân xưng đại danh từ (chỉ khác ở giống trung, số ít, cách chủ ngữ và bổ trực là kết thúc bằng –म् thay vì –त्). Tri và Catur' được biến hoá không có quy tắc:
Ảnh hưởng
Ấn Độ ngày nay
Ảnh hưởng lớn nhất của tiếng Phạn có lẽ là những gì nó đã mang đến những ngôn ngữ lấy cơ sở văn phạm và từ vị từ nó ra. Đặc biệt trong giới tri thức Ấn Độ, tiếng Phạn được ca ngợi là một kho báu kinh điển và những bài tụng niệm của Ấn Độ giáo. Như tiếng Latinh đã ảnh hưởng đến những ngôn ngữ châu Âu, tiếng Phạn đã ảnh hưởng lớn đến hầu hết những ngôn ngữ của Ấn Độ. Trong khi những bài tụng niệm thường được ghi dưới dạng ngôn ngữ bình dân thì những chân ngôn tiếng Phạn được trì tụng bởi hàng triệu người theo Ấn giáo và trong hầu hết những đền thờ, các nghi thức tế lễ đều được thực hiện với tiếng Phạn, thường dưới dạng Phệ-đà phạn ngữ. Những dạng ngôn ngữ cao cấp của phương ngôn (vernacular) Ấn Độ như tiếng Bengali, tiếng Gujarati, tiếng Marathi, tiếng Telugu và tiếng Hindi - thường được gọi là "thanh tịnh" (sa. śuddha), "cao quý" - đều có độ Phạn hoá rất cao. Trong các ngôn ngữ hiện đại, trong khi tiếng Hindi dạng nói có khuynh hướng chịu ảnh hưởng nặng của tiếng Ả Rập và tiếng Ba Tư thì Bengali và Marathi vẫn lưu giữ một cơ sở từ vị to lớn. Bài quốc ca Jana Gana Mana được viết dưới dạng Bengali cao cấp, được Phạn hoá nặng nên có vẻ cổ xưa. Bài quốc ca tiền thân của Jana Gana Mana là Vande Mataram, một trước tác của Bankim Chandra Chattopadhyay được trích từ quyển Ānandmath của ông ta, là một bài thơ tiếng Phạn thuần tuý. Tiếng Malayalam, một ngôn ngữ được dùng tại bang Kerala, cũng phối hợp một số lượng từ vị tiếng Phạn đáng kể với cấu trúc ngữ pháp tiếng Tamil. Tiếng Kannada, một ngôn ngữ Nam Ấn khác cũng hàm dung từ vị tiếng Phạn. Được xem là phương tiện truyền dạy những khái niệm tâm linh, tiếng Phạn vẫn còn được ca ngợi và phổ biến tại Ấn Độ.
Tiếng Phạn được nói như tiếng mẹ đẻ tại Mattur gần Shimoga, một thôn làng nằm ở trung tâm Karnataka. Dân ở đây, bất cứ giai cấp nào, đều học và đàm thoại bằng tiếng Phạn từ nhỏ. Ngay những người bản xứ theo Hồi giáo cũng nói tiếng Phạn. Nhìn theo khía cạnh lịch sử thì làng Mattur được vua Kṛṣṇadevarāja của vương quốc Vijayanagara phó uỷ cho các học giả Phệ-đà và thân quyến của họ.
Từ ngữ tiếng Phạn được tìm thấy ở nhiều ngôn ngữ ngoài Ấn Độ. Ví dụ như tiếng Thái bao gồm nhiều từ mượn từ tiếng Phạn, như tên Rāvaṇa - hoàng đế Tích Lan - được người Thái gọi là Thoskonth, một từ rõ ràng xuất phát từ biệt danh tiếng Phạn khác là Daśakaṇṭha, "Người có mười cổ". Ngay người Philippines cũng dùng chữ guro, vốn là từ Guru của tiếng Phạn đùng để chỉ bậc đạo sư. Một số từ đã đi vào từ vị của các ngôn ngữ châu Âu như: Yoga, Dharma, Nirvana (sa. nirvāṇa), Ashram (sa. āśrama), Mandala (sa. maṇḍala), Aryan (sa. ārya), Guru, Bhagavan (sa. bhagavat), Avatar (sa. avatāra) v.v...
Tương quan giữa tiếng Phạn và các ngôn ngữ hệ Hán-Tạng
Qua việc phổ biến Phật giáo bằng các bản dịch, tiếng Phạn và những phương ngôn hệ thuộc đã ảnh hưởng các nước lân cận với hệ ngôn ngữ Hán-Tạng. Phật giáo được truyền sang Trung Quốc qua các vị cao tăng theo Phật giáo Đại thừa, qua việc phiên dịch những kinh luận được viết theo Phật giáo tạp chủng phạn ngữ (Buddhist Hybrid Sanskrit) cũng như Hoa văn Phạn ngữ, và rất nhiều thuật ngữ được dịch âm thẳng sang Hán văn, bổ sung rất nhiều từ vị cho tiếng Hán cổ. Ví dụ như từ Phạn bodhisattva được phiên âm là Bồ-đề-tát-đoá hoặc viết tắt là Bồ Tát. Trong khi các chữ đơn Đề 提 "Nâng lên, nâng đỡ, kéo cho tiến lên" và Đóa "đổ đất thành đống" mang nghĩa riêng, thì khi được dùng để phiên âm tiếng Phạn chúng bị mất nghĩa, khái niệm của từ nguyên bodhisattva phải được trình bày và hiểu riêng.
Sau đây là một vài ví dụ tiêu biểu cho các thuật ngữ Hán-Việt được phiên âm từ tiếng Phạn:
Bát-nhã và Bát-nhã-ba-la-mật-đa cho từ prajñā và prajñāpāramitā.
Bát-đa-la, hoặc gọi tắt là "bát", cho từ pātra với nghĩa là cái bát đi khất thực của các vị tăng, và cũng là cái bát ăn cơm của ta.
Mặc dù Phật giáo tạp chủng phạn ngữ không phải là Hoa văn Phạn ngữ (nếu nói chính xác) nhưng từ vị của nó vẫn tương tự từ vị tiếng Phạn vì có cùng gốc, và vì người viết kinh muốn ghi theo lối tiếng Phạn Hoa văn để phổ biến. Ví dụ cho các bộ luận được viết dạng tiếng Phạn Hoa văn là các tác phẩm của Trung quán tông.
Cái "chết" của tiếng Phạn
Những lời phê bình việc dạy và học tiếng Phạn thường liên quan đến sự phổ biến và việc nó không được nói nữa. Tuy nhiên, tiếng Phạn là một ngôn ngữ có một không hai, vượt thời gian. Một hệ thống kinh điển rất đồ sộ được biên tập vào lúc nó không còn được nói bởi thường dân. Sự thật tiếng Phạn là một ngôn ngữ bất biến, được chỉ đạo bằng những quy luật văn phạm khắt khe của Ba-ni-ni đã khiến người ta chọn lựa để ghi văn bản với dụng ý phổ biến và lưu thế lâu dài. Việc trước tác bằng tiếng Phạn chưa từng bị gián đoạn, đã được tiếp tục trong thời kì Hồi giáo nắm quyền và vẫn được tiếp nối ngay trong thời nay.
Chú thích
Xem thêm
IAST
Bát chương ngữ pháp thư
Ba-ni-ni
Thiên thành tự thể
Văn bản tiếng Phạn
Trường hoá
Cường hoá
Ngôn ngữ Ấn Độ
Tám cách của tiếng Phạn
Danh sách ngôn ngữ Ấn Độ theo số người
Tham khảo
The Sanskrit Language - T. Burrow - ISBN 81-208-1767-2
Sanskrit Grammar - William D. Whitney - ISBN 81-85557-59-4
Sanskrit Pronunciation'' - Bruce Cameron - ISBN 1-55700-021-2
Liên kết ngoài
Online Sanskrit Dictionary
An Analytical Cross Referenced Sanskrit Grammar By Lennart Warnemyr. Phonology, morphology and syntax, written in a semiformal style with full paradigms.
Spiritual Sanskrit-English Dictionary
Sanskrit Discussion Forum
Sanskrit Documents Documents in ITX format of Upanishads, Stotras etc. and a metasite with links to translations, dictionaries, tutorials, tools and other Sanskrit resources.
Free Sanskrit Word Processor: Madhyam developed by Balendu Sharma Dadhich
Sanskritweb Các bộ chữ Phạn và văn bản.
GiirvaaNi - Sanskrit Classical Literature with translation
The earliest dated illustrated Sanskrit manuscript in the world
A list of Chinese words originated from Sanskrit
Monier-Williams Dictionary - Searchable
Monier-Williams' Sanskrit-English Dictionary: DICT & HTML Downloadable Versions
Indica-et-Buddhica.org Lexica (searchable Monier-Williams included)
Monier-Williams Dictionary - Searchable Digital Facsimile Edition Freeware CD
Monier-Williams Dictionary - Printable
Samskrita Bharati
Sanskrit Studies, Links and Information
pAnini’s Grammar and Computer Science
Ethnologue's Sanskrit report
American Sanskrit Institute
A brief Sanskrit Glossary Lists commonly used words in spiritual writings
Tranliterator Transliterates from romanized to Unicode Sanskrit transliterator.
Sanskrit Translations
A Sanskrit Tutor
Sanskrit & Sánscrito Sanskrit language, Yoga, Indian philosophies, blog, names, names of hatha yoga postures, Directory of Free Sanskrit Links, translations and much more (English-Spanish).
Tự học viết chữ Phạn Siddham
Từ điển Phạn Monier-Williams, phiên bản offline chạy trên Windows
Ngôn ngữ cổ điển
Ngôn ngữ cổ điển tại Ấn Độ
Phạn
Ngôn ngữ viết bằng Devanagari
Ngôn ngữ tại Nepal
Ngôn ngữ chủ-tân-động
|
17550
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%89variste%20Galois
|
Évariste Galois
|
Évariste Galois (25 tháng 10 năm 1811 – 31 tháng 5 năm 1832) là một thiên tài toán học người Pháp đoản mệnh, nhưng các công trình toán học ông để lại là một đề tài rất quan trọng cho việc tìm nghiệm của các phương trình đa thức bậc cao hơn 4 thông qua việc xây dựng lý thuyết nhóm trừu tượng mà ngày nay được gọi là lý thuyết nhóm Galois, một nhánh quan trọng của đại số trừu tượng. Galois là người đầu tiên dùng từ groupe (nhóm) như là một thuật ngữ toán học để biểu thị cho nhóm hoán vị. Ông chết sau một cuộc đấu súng khi chưa đầy 21 tuổi.
Tiểu sử
Sinh ra tại Bourg-la-Reine, trong một gia đình lễ giáo. Cha ông là Nicholas Gabriel Galois, một hiệu trưởng trường trung học và từng là thị trưởng của Paris. Mẹ ông, Adélaïde Marie Demante, là người đã dạy dỗ Galois khi còn bé cho đến lúc 12 tuổi.
Năm 1823, khi 12 tuổi, ông học nội trú tại trường Collège royal (sau này là trường Louis-le-Grand). Ông bị lưu ban trong niên khóa 1826-1827 vì học yếu về môn hùng biện.
Tháng hai năm 1827, ông được vào học lớp toán với M. Vernier và từ đó toán học trở thành bộ môn thực sự hấp dẫn Galois. Ông đã tìm hiểu nhiều tác phẩm về bộ môn này như là "Hình học sơ cấp" (Éléments de géométrie) của Adrien-Marie Legendre (1752-1833), "Luận về việc giải các phương trình" (Textes sur la résolution des équations) của Joseph Louis Lagrange (1736-1813) và các tác phẩm khác của những nhà toán học lừng danh như là Leonhard Euler (1707-1783), Carl Friedrich Gauss (1777-1855) và Charles Gustave Jacob Jacobi (1804-1851).
Năm 1828, Galois thi rớt trường Bách khoa (École Polytechnique), một trường kỹ thuật nổi tiếng nhất ở Paris. Trở về, ông ghi tên học lớp chuyên toán trường Louis-le-Grand do Louis Richard giảng dạy và cũng là người thán phục thiên tài toán học của Galois. Ngày 1 tháng 4 năm 1829, những công trình đầu tiên của ông viết về đề tài liên phân số được đăng trên Annales de mathématiques (niên giám toán học). Sau đó, Galois đã bỏ dở nhiều môn học để tập trung nghiên cứu các tác phẩm về hình học của Legendre và nhiều tiểu luận của Lagrange.
Giữa năm 1828, ông trình bày một số tiểu luận về phương pháp giải phương trình đại số cho Viện hàn lâm khoa học Pháp. Nhưng vào tháng 7 năm 1828, một biến cố đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc đời hoạt động về sau của Galois là việc cha ông, Nicholas Gabriel Galois, đã tự sát vì một lá thư nặc danh của một cha cố thuộc dòng Tên. Ông đã trở thành người có tâm lý cực đoan và nỗ lực tham gia các hoạt động chính trị theo nhóm người Cộng Hòa (cấp tiến).
Vài tuần sau, Galois thi trượt vào trường Bách khoa lần thứ hai, trước sự ngạc nhiên của vị giáo sư dạy ông. Người ta truyền tụng rằng, lý do bị đánh rớt là vì ông đã ném miếng giẻ vào đầu một vị giám khảo khi được hỏi một câu mà ông cho là ngớ ngẩn và ngu xuẩn về lượng giác.
Học tại trường Sư phạm (École Normale Supérieure), năm 19 tuổi, thầy dạy toán của ông đã đánh giá:
"Người học trò này đôi khi diễn tả ý tưởng không sáng sủa, nhưng thông minh và tỏ ra một trí óc tổng hợp lỗi lạc."
Trong khi đó, thầy giáo vật lý Péclet đã đánh giá mỉa mai:
"Anh ta tuyệt đối không biết gì hết. Tôi đã được nghe rằng anh ta có khả năng toán học; tôi hoàn toàn ngạc nhiên về điểm này. Khi chấm bài thi của anh, dường như anh có một tí hơi hớm thông minh hay là cái trí khôn này đã được giấu quá kỹ đến nỗi tôi không cách chi tìm ra nó!"
Galois có một cuộc đời thực sự thiếu may mắn, chẳng những nhiều công trình của ông bị bỏ xó mà còn, có trường hợp, chúng hoàn toàn bị cất vào không đúng chỗ bởi những người hữu trách. Khi Galois giao cho Augustin Louis Cauchy (1789-1857) tài liệu chứa đựng những kết quả tối quan trọng (mà chính Galois lại không lưu lại bản sao), thì Cauchy lại đánh mất. Một bản luận văn khác của ông cũng đã được đệ trình cho giải thưởng lớn về toán học của Viện Hàn Lâm, Joseph Fourier (1768-1830) tự tay lấy bản văn đó về nhà nhưng lại qua đời một thời gian ngắn sau đó và tài liệu này cũng bị thất lạc. Dưới cái nhìn của Galois, thì sự mất mát này không thể là tình cờ và cho rằng có thể Fourier đã hoặc không hiểu nổi nội dung bản văn hay là đã cố ý đánh mất nó. Ngoài Fourier ra, những người có trách nhiệm đọc qua bản văn trong hội đồng giám khảo giải thưởng còn có Sylvestre François Lacroix (1765-1843), Siméon-Denis Poisson (1781-1840), Louis Poinsot (1777-1859) và Lengendre. Chưa hết, Poisson sau này có nhận được một bản luận văn mới (bản thứ ba của Galois) thì đã từ chối với lý do không đúng thời hạn nhưng thực sự là vì các hành vi chính trị của Galois. Cuối cùng thì Poisson cũng đã đánh giá bản luận văn này nhưng với thái độ bảo thủ:
"Những lý luận của anh ta chẳng những không đủ rõ mà còn không được phát triển để cho chúng ta đánh giá sự chính xác của chúng... Có lẽ tốt hơn là đợi cho tác giả công bố toàn bộ công trình này trước khi đưa ra một ý kiến quyết định."
Năm 1830 Louis Phillipe lên ngôi vua, Galois và các bạn có tiếp xúc với những nhóm Cộng hòa và bị đuổi ra khỏi trường École Préparatoire.
Năm 1831, nhân vì trong một bữa tiệc ông cầm bánh và một con dao đưa cho Louis Phillipe, ông đã bị bỏ tù vì tội được "diễn dịch" là gây nguy hại cho nhà vua khi ông đã cầm bánh cùng với một con dao đem đến cho vua. Ông được tha sau đó 3 tháng vì còn quá nhỏ tuổi. Tháng sau, ông lại bị bắt tù gần một năm vì sử dụng đồng phục của đội Pháo Vệ binh quốc gia (Artillerie de la Garde Nationale) vốn đã bị giải tán vì lý do đó là mối đe dọa cho ngai vàng. Ngay trong tù ông có viết về tích phân đại số và thuyết đa trị mà cho đến nay không còn tìm được tài liệu này.
Năm 1832, nhân lúc có dịch tả, ông bị chuyển đến dưỡng đường Sieur Faultrier, ở đây, ông gặp và yêu Stephanie-Félicie Poterin du Motel. Cô gái được coi là nguyên nhân cái chết của ông. Đêm cuối trước khi chết (29 tháng 5 năm 1832), Galois đã để lại lá thư tuyệt mệnh cho Auguste Chevalier, trong đó có nêu lên phát hiện về sự liên hệ giữa lý thuyết nhóm và lời giải của các đa thức bằng căn thức. Ngày 30 tháng 5 năm 1932, Galois được đưa vào bệnh viện Cochin sau khi bị trúng một viên đạn ở phần bụng. Do mất quá nhiều máu, đúng 10 giờ sáng, ông trút hơi thở cuối cùng sau khi từ chối sự rửa tội của linh mục. Những lời căn dặn của ông dành cho người em trai Alfred trước lúc ra đi là:
"Đừng khóc, Alfred! Anh cần có đủ nghị lực để chết ở tuổi hai mươi"
Người ta đã không biết chắc những gì đã xảy ra lúc ông bị bắn gục nhưng có nhiều giả thuyết tin rằng ông vì người yêu và đã thách đấu với một quân nhân hoàng gia, một người bất đồng chính kiến với ông hoặc giả có thể ông bị giết vì một nhân viên an ninh của cảnh sát.
Những đóng góp toán học của Galois mãi đến năm 1843 mới được hiểu và Joseph Liouville khi xem bản thảo của ông đã tuyên bố là Galois đã giải được bài toán do Niels Henrik Abel đưa ra lần đầu tiên. Bản thảo của ông cuối cùng được công bố toàn bộ trong Journal des mathématiques pures et appliquées (Tạp chí toán lý thuyết và ứng dụng) vào khoảng tháng 10-11 năm 1846. Tuy nhiên, phải đến năm 1870, khi nhà bác học Pháp Camille Jordan xuất bản cuốn sách "Tạp luận văn về các phép thế và phương trình đại số" với 667 trang giải thích nội dung bản thảo của Galois viết trước khi đấu súng, tài năng của nhà toán học vĩ đại này mới được thừa nhận.
Ngày 13 tháng 6 năm 1909, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp tổ chức một cuộc mít tinh trọng thể trước ngôi nhà hai tầng của Galois ở Bourg-la-Reine quê hương ông, chính thức lấy ngôi nhà này làm viện bảo tàng Galois. Các nhà toán học thế giới ngày nay coi ông là người sáng lập đại số cao cấp hiện đại và là một trong những người xây dựng nền tảng của toán học hiện đại nói chung.
Hình ảnh trong văn hóa và ghi danh
Tên của ông được đặt cho một miệng hố va chạm trên mặt ngoài của Mặt Trăng. Phim ngắn năm 1965 đạo diễn bởi Alexandre Astruc về những giờ phút cuối cùng trong cuộc đời nhà toán học trẻ. Năm 2010, một phim ngắn nữa dựng lại những giờ phút này.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Genius and Biographers: The Fictionalization of Evariste Galois
Galois, Évariste (1811-1832)
Le testament de Galois
Evariste Galois -- Võ Thị Diệu Hằng
Những di tích cuối cùng của Evariste Galois-- Võ Quang Nhân
The Galois Archive (biography, letters and texts in various languages)
Genius and Biographers: The Fictionalization of Evariste Galois by Tony Rothman
Biography in French
Galois, Évariste
Galois, Évariste
Hauts-de-Seine
Nhà toán học thế kỷ 19
Lý thuyết nhóm
Chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse
Người Île-de-France
|
17557
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Spam
|
Spam
|
Spam có thể là:
Spam (thực phẩm): một loại thức ăn chế biến đóng hộp được làm từ thịt lợn.
.Spam = Stupid Pointless Annoying Messages Tạm dịch: Những thông điệp ngu ngốc, khó chịu, vô nghĩa
Tên gọi của spambot.
|
17566
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sao%20quark
|
Sao quark
|
Sao lạ hay còn gọi là sao quark, là loại sao ngoại lai (Sao lạ, Sao kỳ lạ) giả thuyết được tạo thành từ vật chất quark hay vật chất lạ. Trên lý thuyết, nó là vật chất suy biến ở trạng thái siêu đặc, được tạo thành bên trong những sao neutron cực lớn.
Khi vật chất cấu tạo nên sao neutron bị nén dưới áp suất đủ cao bởi chính trọng lượng của nó, bản thân sao neutron bị vỡ ra thành các cấu tử quark, up quark và down quark. Một số quark có thể tiếp tục chuyển hoá thành quark lạ và hình thành nên vật chất lạ. Ngôi sao này trở thành sao quark hay sao lạ, tương tự như một hadron đơn khổng lồ nhưng bị giới hạn bởi trọng lực chứ không phải các lực màu. Vật chất quark hay vật chất lạ là đối tượng nghiên cứu của thuyết vật chất tối - được đề cập đến trong nhiều lý thuyết vũ trụ học.
Sao quark
Một sao quark có thể được hình thành từ một sao neutron thông qua một quá trình giải phóng quark. Quá trình này có thể tạo thành sao quark mới. Ngôi sao tạo thành này có những quark tự do trong lòng nó. Quá trình giải phóng này sinh ra năng lượng lớn, có thể kèm theo một vụ nổ và phóng ra các bức xạ gamma để tạo thành các sao quark mới.
Nếu xét về khối lượng và mật độ vật chất, sao quark được xếp giữa sao neutron và hố đen (hay lỗ đen). Nếu thêm lượng đủ lượng vật chất vào đó, nó sẽ co lại thành một hố đen.
Các sao neutron phải có khối lượng bằng 5 - 8 lần khối lượng mặt trời với tốc độ tự quay nhanh hơn. Sao loại này chiếm 1% số lượng sao neutron dự kiến. Phép ngoại suy từ đó chứng tỏ không thể hình thành quá 2 sao quark mới mỗi ngày.
Theo các nghiên cứu lý thuyết, các sao quark không phát ra các bức xạ vô tuyến, do đó, những sao neutron không phát bức xạ vô tuyến rất có thể là sao quark.
Sao lạ
Những cuộc nghiên cứu lý thuyết gần đây đã tìm ra cơ chế thu hẹp trường điện từ và giảm mật độ của các sao quark chứa các "ổ quark lạ" (strange quark nuggets) từ các cơ sở lý thuyết cũ. Cơ chế này khiến ta nhầm lẫn sao quark với sao neutron. Nhóm nghiên cứu đã đặt ra một số giả thiết làm cơ sở dẫn tới kết luận không chắc chắn là vỏ của những ngôi sao này không hẳn là đặc.
Một số nghiên cứu khác lại cho kết quả: "Bề mặt tiếp xúc giữa vật chất quark và chân không phải có tính chất khác hẳn bề mặt của sao neutron"; và các thông số mang tính quyết định như sức căng bề mặt và lực điện từ đã bị bỏ qua trong các nghiên cứu ban đầu, kết quả cho thấy khi sức căng bề mặt bé hơn giá trị giới hạn, bề mặt lạ hiển nhiên không bền và bị phá vỡ, sao lạ sẽ được hình thành một cách tự nhiên với một bề mặt vật chất lạ phức tạp, tương tự như các sao neutron.
Các giả thuyết hình thành quark khác
Jaffe 1977, đề xuất mô hình 4-quark và số lạ (qsqs).
Jaffe 1977 đề xuất H dibaryon, một mô hình 6-quark với quark lên (up), xuống (down) và lạ (strange) (ký hiệu là uuddss hoặc udsuds).
Hệ thống liên kết multi-quark từ các quark nặng (QQqq).
Năm 1987, một mô hình 5-quark lần đầu tiên được đưa ra với phản quark hấp dẫn (qqqsc).
Mô hình 5-quark có một phản quark lạ và 4 quark nhẹ chỉ gồm up quark và down quark (qqqqs).
Nhóm 5-quark nhẹ cùng với một antidecuplet, thành phần nhẹ nhất là Ө+.
Dạng này cũng được mô tả bằng mô hình diquark của Jaffe and Wilczek (QCD).
Ө++ & phản hạt Ө−−.
Cặp 5-quark lạ (ssddu), thành phần của 5-quark nhẹ antidecuplet.
5-quark hấp dẫn Өc(3100) (uuddc) mô hình được tìm ra với sự cộng tác của H1.
Quan sát thực nghiệm
Đến thời điểm này, người ta hầu như chỉ biết đến sao quark trên lý thuyết, nhưng những quan sát được công bố bởi đài thiên văn tia X Chanra vào 10 tháng 4 năm 2002 cho thấy các phát hiện về hai vật thể có thể thuộc loại này: RX J185635-3754 (RX J1856.5-3754) và 3C58. Hai vật thể này vốn được xếp loại sao neutron. Dựa trên những định luật vật lý đã biết, người ta nhận ra trước đây chúng bị xem quá nhỏ và quá lạnh hơn thực tế, cho thấy chúng được cấu thành từ vật chất đặc hơn vật chất suy biến neutron. Nhưng những kết quả này chưa phải là cuối cùng vì vài nhà khoa học vẫn chưa công nhận sự tồn tại của những ngôi sao quark này.
Gần đây ngôi sao thứ ba, XTE J1739-285 đã được tìm thấy bởi nhóm nghiên cứu của Philip Kaaret thuộc trường đại học Iowa (Hoa Kỳ) và là sao có những đặc tính giống với dự đoán nhất.
Xem thêm
Vật chất lạ
Sao neutron - Vật chất neutron - neutron
Sao quark mới
Thuyết sắc động lực học lượng tử
Giới hạn Tolman-Oppenheimer-Volkoff về khối lượng của sao neutron
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sao quark - một dạng vật chất mới Minh Hy (theo dpa). VnExpress Thứ sáu, 12/4/2002 | 16:47 GMT+7
Neutron Star/Quark Star Interior (image to print)
Quark star glimmers, Nature, ngày 11 tháng 4 năm 2002.
Debate sparked on quark stars , CERN Courier 42, #5.
Wish Upon a Quark Star, Paul Beck, Popular Science, June 2002.
Perhaps a 1,700-year-old quark star in SNR MSH 15-52
Curious About Astronomy: What process would bring about a quark star?
RX J185635-375: Candidate Quark Star, Astronomy Picture of the Day, ngày 14 tháng 4 năm 2002.
Quarks or Quirky Neutron Stars?, Mark K. Anderson, Wired News, ngày 19 tháng 4 năm 2002.
Strange Quark Stars, Ask an Astrophysicist, question submitted ngày 12 tháng 4 năm 2002.
Seeing "Strange" Stars, physorg.com, ngày 8 tháng 2 năm 2006.
Quark Stars Could Produce Biggest Bang, spacedaily.com, ngày 7 tháng 6 năm 2006.
Meissner Effect in Strange Quark Stars, Brian Niebergal, web page, University of Calgary.
Quark Stars Involved in New Theory of Brightest Supernovae – The first-ever evidence of a neutron star collapsing into a quark star is announced, Space.com, ngày 3 tháng 6 năm 2008
Quark Stars, Alternate View Column AV-114, John G. Cramer, Published in the November-2002 issue of Analog Science Fiction & Fact Magazine
Sao đặc
Quark
Sao ngoại lai
Sao giả thuyết
Loại sao
|
17567
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BB%B3nh%20T%E1%BA%A5n%20Ph%C3%A1t
|
Huỳnh Tấn Phát
|
Huỳnh Tấn Phát (1913 – 1989) là Chủ tịch Cộng hòa miền Nam Việt Nam (1969 – 1976), Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ông là tác giả của cờ nửa đỏ nửa xanh (Quốc kỳ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam).
Tiểu sử
Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát sinh ngày 15 tháng 2 năm 1913, tại xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Bến Tre). Khi đến tuổi học trung học, ông lên Sài Gòn học trường Pétrus Ký. Năm 1933, ông thi vào học khóa 8 Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và tốt nghiệp thủ khoa năm 1938. Cuối năm 1938 khi vừa có tấm bằng kiến trúc sư (đỗ thủ khoa), ông trở về Sài Gòn và làm việc tại văn phòng kiến trúc sư Chauchon, người Pháp tại số 68-70 đường Mayer.
Năm 1940, ông là kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên mở văn phòng kiến trúc tư ở Sài Gòn. Năm 1941, ông đoạt giải nhất cuộc thi thiết kế khu Trung tâm hội chợ triển lãm Đông Dương do Toàn quyền Đông Dương Jean Decoux tổ chức.
Các biệt thự do kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát thiết kế trước năm 1943 ở Sài Gòn đến nay vẫn còn giữ nguyên vẻ đẹp cổ kính rất phù hợp với khí hậu nóng, ẩm phương nam. Một số biệt thự vẫn còn đến ngày nay như Biệt thự số 7 Lê Duẩn; biệt thự số 151 Nguyễn Đình Chiểu; biệt thự số 6 Nguyễn Huy Lượng...
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, ông là chủ nhiệm báo Thanh Niên, hoạt động trong phong trào Thanh niên Tiền Phong, truyền bá quốc ngữ, cứu tế nạn đói ở Nam Bộ. Ông được bí mật kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương ngày 5 tháng 3 năm 1945. Cách mạng tháng Tám bùng nổ, ông cùng một số trí thức Nam Bộ tham gia cướp chính quyền ở Sài Gòn-Chợ Lớn. Ông đã thiết kế và chỉ đạo thực hiện công trình Kỳ đài cao 15 m ghi tên 11 vị trong Lâm ủy Nam Bộ tại ngã tư Nguyễn Huệ - Lê Lợi chỉ trong đêm 24 tháng 8 năm 1945.
Năm 1946, ông được bầu làm đại biểu Quốc hội khóa I Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được bổ sung làm ủy viên dự khuyết Ban Thường trực Quốc hội. Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông công tác bí mật ở Sài Gòn, bị Pháp bắt giam ở Khám lớn Sài Gòn. Năm 1949, ông ra chiến khu, giữ chức Ủy viên Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ, Giám đốc Sở Thông tin Nam Bộ, trực tiếp phụ trách Đài phát thanh Tiếng nói Sài Gòn-Chợ Lớn tự do.
Sau Hiệp định Genève chia cắt 2 miền đất nước năm 1954, ông ở lại Sài Gòn, làm việc tại văn phòng của kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện. Năm 1954, đồ án thiết kế của ông tham dự cuộc thi thiết kế nhà văn hóa dự kiến xây dựng ở Khám lớn Sài Gòn đã đoạt giải II (không có giải I) và Thư viện Sài Gòn (đồng tác giả với Nguyễn Hữu Thiện).
Ông cũng tham gia các phong trào đòi hòa bình, tự do, dân chủ, thống nhất đất nước, đòi thi hành Hiệp định Genève. Năm 1960, ông bí mật thoát ly khỏi Sài Gòn, tham gia Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, giữ chức vụ Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Ủy ban Trung ương, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng khu Sài Gòn-Gia Định.Tháng 6 năm 1969, ông được Đại hội đại biểu quốc dân miền Nam bầu làm Chủ tịch của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và giữ chức vụ này cho đến ngày nước Việt Nam tái thống nhất hòa bình 1976.
Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1976, Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát được cử làm Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước, Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam. Ông làm Trưởng ban chỉ đạo Quy hoạch Thủ đô và Chủ nhiệm đồ án thiết kế xây dựng thủ đô Hà Nội, chỉ đạo và góp ý kiến các dự án thiết kế quy hoạch các đô thị trong cả nước như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Phan Thiết, Nha Trang, Vũng Tàu - Côn Đảo, Tây Ninh...
Ông còn đảm trách các chức vụ: Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ông mất ngày 30 tháng 9 năm 1989 tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Vinh danh
Tên ông được đặt cho các phố ở Hà Nội (nối đường Cổ Linh với Sài Đồng), thành phố Hồ Chí Minh (nối Trần Xuân Soạn với phà Bình Khánh), Đà Nẵng (đoạn cắt đường 30 tháng 4 với Hồ Nguyên Trừng), Huế (nối đường Nguyễn Hữu Thọ với Lê Minh), Nam Định (nối phố Lê Tiến Phục đến phố Hoàng Văn Thái), Bến Tre - quê hương ông - từ vòng xoay Giao Long lên đến gần thành phố Bến Tre,...
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cùng Tỉnh ủy Bến Tre quyết định tổ chức các hoạt động trọng thể kỷ niệm 110 năm ngày sinh của ông vào tháng 2 năm 2023 tại Bến Tre và Thành phố Hồ Chí Minh
Tối ngày 13/02/2023, Tỉnh ủy Bến Tre phối hợp cùng Trường Đại học Văn hóa TP.HCM tổ chức Chương trình Nghệ thuật đặc biệt "Người vẽ cờ giải phóng" Kỷ niệm 110 năm ngày sinh đồng chí Huỳnh Tấn Phát.
Sáng ngày 15/02/2023, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam cùng Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức Lễ dâng hương đồng chí Huỳnh Tấn Phát tại đền thờ (xã Châu Hưng, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre). Trong sáng cùng ngày, Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp cùng các đơn vị tổ chức Hội thảo Khoa học cấp Quốc gia với chủ đề "Đồng chí Huỳnh Tấn Phát với Cách mạng Việt Nam và quê hương Bến Tre".
Chiều ngày 15/02/2023, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Tỉnh ủy Bến Tre long trọng tổ chức Lễ Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Đồng chí Huỳnh Tấn Phát (15/02/1913-15/02/2023), Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cùng các đồng chí Lãnh đạo, Nguyên Lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham dự Lễ Kỷ niệm.
Chú thích
Xem thêm
Thủ tướng Việt Nam
Liên kết ngoài
Huỳnh Tấn Phát Kiến trúc sư - Chiến sĩ cách mạng
Huỳnh Tấn Phát (1913 – 1989)
Người Bình Đại
Thủ tướng Cộng hòa miền Nam Việt Nam
H
Phó Chủ tịch nước Việt Nam
Phó Thủ tướng Việt Nam
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I
Kiến trúc sư Việt Nam
Người nhận giải thưởng Hồ Chí Minh
Huân chương Sao Vàng
Cựu học sinh Collège de My Tho
Cựu học sinh Pétrus Ký - Lê Hồng Phong
Cựu sinh viên Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhân vật trong chiến tranh Việt Nam
Người Bến Tre
Mất năm 1989
Sinh tại Bến Tre
Cựu thành viên Ngoại thương (FTU)
|
17570
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/To%C3%A0n%20quy%E1%BB%81n%20Canada
|
Toàn quyền Canada
|
Toàn quyền Canada là chức vụ đại diện cho Quốc vương hay Nữ vương của Canada trong việc thi hành các nhiệm vụ của người trị vì này trên toàn lãnh thổ của Liên bang Canada. Hiện nay, người trị vì của Canada, cùng với 15 quốc gia khác, là Vua Charles III. Vì nhiệm vụ đại diện này, người giữ chức vụ Toàn quyền thường được xem như Quốc trưởng của Canada trên thực tế (trong hiến pháp, Quốc trưởng của Canada là Vua Charles III). Nơi cư ngụ chính thức của người Đại diện cho nhà vua của Canada là Rideau Hall, một lâu đài bằng đá được xây năm 1838, tại Ottawa, Ontario; ngoài ra, khi đến Québec, vị Toàn quyền cư ngụ tại La Citadelle, một lâu đài trong cổ thành của Québec tại Thành phố Québec. Người hiện đang giữ chức vụ này là Mary May Simon.
Lịch sử
Chức vụ Toàn quyền Canada có tên trong tiếng Anh là Governor General of Canada và trong tiếng Pháp là Gouverneur général du Canada, hay là Gouverneure générale du Canada cho trường hợp một phụ nữ, vì liên quan đến các chức vụ tương tự trong lịch sử thành lập Canada.
Vào giữa thế kỷ 17, các thuộc địa của Pháp tại Bắc Mỹ (một phần lớn của Québec hiện nay, Acadia và lãnh thổ Louisiana) đã cần một người cai trị. Đầu tiên, chức vụ của người cai trị này có tên là Gouverneur général de la Nouvelle France; người nắm chức vụ này một cách không chính thức là nhà thám hiểm Samuel de Champlain, người đặt nền móng xây dựng Québec, trong khi người nắm chức vụ này một cách chính thức là Charles Huault de Montmagny. Đến năm 1663 vua Louis XIV đổi tên của chức vụ này thành Gouverneur général và phong cho Augustin de Saffray de Mésy.
Hơn 100 năm sau, Pháp mất gần hết các thuộc địa tại Bắc Mỹ cho Anh. Các thuộc địa này được gọi là province (tỉnh) của Đế quốc Anh (như Tỉnh Quebec, Tỉnh Nova Scotia,...) và mỗi tỉnh có một Governor (Thống đốc) cai trị. Đến thập niên 1780 thì chính phủ Anh đặt tất cả các thuộc địa tại Bắc Mỹ dưới quyền một người với chức vụ Governor-in-Chief, hay Governor General (Toàn quyền). Người nắm chức vụ này đầu tiên là Guy Carleton, Nam tước Dorchester vào năm 1786.
Toàn quyền Canada ngày nay có rất ít quyền.
Vai trò của Toàn quyền cũng thay đổi rất nhiều trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20.
Sau cuộc Khởi nghĩa 1837, chính phủ Anh chấp nhận cho các tỉnh được quyền thành lập chính phủ của riêng họ. Việc đó dẫn đến sự giảm thiểu vai trò cai trị hành chính của chức vụ Toàn quyền.
Vào năm 1926, Thủ tướng William Lyon Mackenzie King yêu cầu Julian H.G. Byng, Tử tước Byng của Vimy (vị Toàn quyền lúc đó của Canada) giải tán quốc hội và gọi tổng tuyển cử. Byng, dùng một phần quyền lực còn lại của mình, từ chối vì cuộc tổng tuyển cử trước chỉ xảy ra vài tháng trước đó. Sau khi King từ chức, Byng lại gọi lãnh tụ đối lập là Arthur Meighen ra lập chính phủ. King nghĩ là Byng đã đi ra ngoài giới hạn nên, khi được lập chính phủ trở lại, đã giới hạn thêm quyền lực của Toàn quyền.
Với Tuyên ngôn Balfour 1926 và Quy chế Westminster (1931), quyền lực của chức vụ bị hạn chế thêm. Tuyên ngôn Balfour xem các quốc gia thuộc địa cũ của Đế quốc Anh là ngang hàng với Anh, do đó vai trò của Toàn quyền là đại diện cho nhà vua, không phải cho chính phủ Anh. Quy chế Westminster bãi bỏ khái niệm là toàn thể các lãnh thổ (Anh, Canada, Úc, Bahamas...) là một vương quốc; trái lại, mỗi quốc gia là một vương quốc và các vương quốc này có chung một người trị vì. Từ đó các người đại diện cho nhà vua không còn là người Anh được gửi sang từ Anh nữa.
Lựa chọn
Nhiệm vụ
Quyền lợi
Danh sách
Từ khi thành lập liên bang (1867 - nay)
Khi còn là Tỉnh Canada (1838 - 1867)
Tham khảo
Department of Justice. (2004). Constitution Acts, 1867 to 1982.
Malcolmson, Patrick, and Richard Myers. (2001). The Canadian Regime: An Introduction to Parliamentary Government in Canada. Peterborough: Broadview Press.
Liên kết ngoài
Forsey, Eugene. (2003). "How Canadians Govern Themselves."
Trang web chính thức của Governor General của Canada
Thomas, Paul G. (2004). "Parliament, Canadian."
Người Canada
Chính phủ Canada
Danh sách nhân vật
Hệ thống Westminster
|
17571
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%AA%20V%C4%83n%20Ho%E1%BA%A1ch
|
Lê Văn Hoạch
|
Lê Văn Hoạch (1898 – 1978) là Thủ tướng Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ từ tháng 11 năm 1946 đến tháng 9 năm 1947.
Tiểu sử
Ông sinh năm 1898 tại Phong Điền (Cần Thơ), tốt nghiệp Y khoa Bác sĩ tại Pháp năm 1923.
Ông là một chức sắc của đạo Cao Đài và được phong Bảo Sanh Quân năm 1930.
Ngày 10 tháng 11 năm 1946, bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, Thủ tướng của Cộng hòa tự trị Nam Kỳ lúc đó, tự sát. Hội đồng tư vấn Nam Kỳ nhóm họp để bầu người lên thay. Dưới sự chủ tọa của chủ tịch Béziat, hội đồng tư vấn chọn được 34 người, rồi 34 người này bầu ra tân thủ tướng. Bác sĩ Lê Văn Hoạch được các nghị viên Pháp dồn hết phiếu cho nên đắc cử thủ tướng.
Tuy nhiên, do chủ trương "Nam kỳ tự trị" phân li nên gặp sự phản đối quyết liệt của quần chúng. Chính phủ Lê Văn Hoạch chỉ tồn tại đến tháng 9 năm 1947 thì sụp đổ. Tướng Nguyễn Văn Xuân lập chính phủ mới nhưng đến tháng 5 năm 1948 thì đổi tên Cộng hòa tự trị Nam Kỳ thành Cộng hòa Nam phần Việt Nam để xác nhận Nam Kỳ là một phần của Việt Nam, chuẩn bị cho "giải pháp Bảo Đại". Bác sĩ Lê Văn Hoạch cũng tham gia phái đoàn nhân sĩ sang Hong Kong để bái kiến Cựu hoàng Bảo Đại, chuẩn bị thành lập chính quyền Quốc gia Việt Nam. Ông nhiều lần giữ chức vụ Quốc vụ khanh trong nhiều chính phủ với tư cách là nhân sĩ Cao Đài trong cả hai thời kỳ Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa.
Khi Viện Đại học Cao Đài thành lập ngày 17 tháng 4 năm 1973, ông giữ chức Viện trưởng. Ông giữ chức vụ một thời gian rồi từ chức và trở về quê nhà ở Cần Thơ an dưỡng tuổi già.
Ông mất năm 1978 tại tư gia, hưởng thọ 80 tuổi.
Ông có người em trai là Giáo sư Lê Văn Huấn từng dạy học tại Trường Petrus Ký. Lê Văn Huấn theo Việt Minh chống Pháp . Sau này ông Huấn là Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, phó chủ tịch mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.
Xem thêm
Thủ tướng Việt Nam
Tham khảo
Thủ tướng Cộng hòa tự trị Nam Kỳ
Người Cần Thơ
Tín đồ đạo Cao Đài
Bộ trưởng Quốc gia Việt Nam
Thủ tướng Việt Nam
Bác sĩ Việt Nam
|
17572
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A7m%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20b%E1%BB%99%20H%E1%BA%A3i%20V%C3%A2n
|
Hầm đường bộ Hải Vân
|
Hầm đường bộ Hải Vân là hầm đường bộ trên Quốc lộ 1 ở ranh giới tỉnh Thừa Thiên Huế và thành phố Đà Nẵng, miền Trung Việt Nam.
Hầm đường sắt là đường hầm được xây từ thời Pháp thuộc 1906
Hầm Hải Vân xuyên qua núi, thay thế cho đường đèo Hải Vân vốn có nhiều đoạn nguy hiểm cho giao thông. Với chiều dài 6,28 km là hầm đường bộ dài nhất Đông Nam Á.
Hầm được khởi công xây dựng ngày 27 tháng 8 năm 2000, và khánh thành ngày 5 tháng 6 năm 2005. Tổng chi phí cho toàn bộ Dự án Hầm đường bộ Hải Vân là 127.357.000 USD.
Để giảm áp lực cho hầm Hải Vân 1, tháng 4 năm 2016 lãnh đạo Bộ Giao thông Vận tải đã đồng ý cho Công ty Cổ phần Đèo Cả triển khai dự án hầm đường bộ Hải Vân 2 dài 6.292 m, được thiết kế với chiều rộng 9,7 m; bao gồm 2 làn xe rộng 7 m, đường bộ hành, nằm song song với hầm Hải Vân 1. Tổng mức đầu tư ban đầu là 26.154 tỉ đồng, bao gồm giai đoạn 1: nâng cấp, sửa chữa hầm Hải Vân 1; và giai đoạn 2: tổ chức thi công hầm Hải Vân 2 với chiều dài toàn tuyến 12,4 km. Ngày 11 tháng 1 năm 2021, hầm đường bộ Hải Vân 2 được đưa vào khai thác.
Các thông số kỹ thuật
Đường hầm số 1 (khánh thành năm 2005): dài 6.280 m, rộng 10 m, độ cao xe cho phép đi qua là 7,5 m.
Đường hầm số 2 (khánh thành năm 2021): dài 6.297 m, chạy song song với chiều rộng và chiều cao tương tự hầm số 1
Hệ thống đường hầm thông gió: dài 1.810 m, rộng 8,2 m, cao 5,3 m.
Để bảo đảm an toàn giao thông và ứng phó với các tình huống khẩn cấp, trong hầm được trang bị các hệ thống: đèn chiếu sáng, thông gió, báo cháy và chữa cháy, điện thoại khẩn cấp, phát thanh radio, camera quan sát (52 cái) cũng như hệ thống giám sát và điều khiển giao thông.
Công trình còn chứa hầm lọc bụi tĩnh điện dài 153 m, rộng 10,2 m, cao 6,7 m.
Sau gần 5 năm xây dựng, công trình hầm đường bộ Hải Vân đã hoàn thành với đường hầm chính dài 6,3 km, hầm phụ chạy song song dài 6,3 km, hầm thông gió dài 1,9 km, 3 hầm lọc bụi tĩnh điện cùng với 15 hầm ngang, tạo thành một hệ thống đường hầm hoàn chỉnh có tổng chiều dài khoảng 15,1 km
Thể tích đất đá phải đào khi xây hầm là 600.000 m³.
Hệ thống chiếu sáng
Hầm được chiếu sáng bởi 3.140 bóng đèn cao áp có tổng công suất 65 MW, tổng số tiền đã tiêu thụ điện năng cho chiếu sáng đường hầm bình quân một năm là 25 tỷ đồng.
Hệ thống thông gió
Để đảm bảo không khí trong đường hầm, ngoài cửa thông gió được đào thông lên đỉnh núi Hải Vân dài hơn 1.810 m để lấy không khí, trong đường hầm còn lắp đặt 3 trạm xử lý không khí với 23 quạt thông gió. Mỗi quạt có công suất 50 KW. Các quạt thông gió này giống như động cơ cánh quạt trên máy bay gắn trên trần hầm với công suất 50 kW sẽ hút và đẩy không khí đến trạm xử lý.
Bình quân mỗi giây đồng hồ hệ thống lọc và hút cung cấp 280 m3 không khí sạch cho đường hầm. Ngoài ra 3 trạm lọc không khí bằng tĩnh điện, mỗi trạm có công suất 1,5 MW có nhiệm vụ hút lượng không khí bẩn, rồi xử lý đưa ra ngoài đồng thời cung cấp không khí sạch cho đường hầm.
Nếu hệ thống thông gió cũng như hệ thống lọc không khí ngừng hoạt động, hành khách khi đi qua hầm có thể bị chết ngạt ngay lập tức.
Quy định khi đi qua hầm
Lái xe tham gia giao thông trong hầm ngoài việc chấp hành Luật Giao thông đường bộ còn phải thực hiện những quy định sau:
1. Tốc độ và khoảng cách.
a) Tốc độ tối đa: 70km/h (60 km/h trước 2006)
b) Tốc độ tối thiểu: 45km/h (40 km/h trước 2006)
c) Khoảng cách tối thiểu giữa các xe trên cùng làn xe: 50 mét.
2. Các hành vi bị nghiêm cấm.
a) Vượt, lùi và quay đầu xe.
b) Dừng, đỗ xe.
c) Để đất, đá, chất phế thải và các loại vật chất khác rơi vãi trong hầm.
d) Bấm còi.
e) Bật đèn ưu tiên.
f) Bật đèn ở chế độ chiếu xa và các loại đèn có ánh sáng mạnh khác.
3. Trách nhiệm của lái xe.
a) Bật đèn ở chế độ chiếu gần – đèn cốt.
b) Mở radio sóng FM ở tần số 106MHz (hoặc 102.5MHz theo biển báo ở cửa hầm) hoặc sóng AM ở tần số 702KHz.
c) Quan sát biển báo, tín hiệu đèn giao thông.
Phương tiện cấm lưu thông
1. Người đi bộ.
2. Các xe ô tô chở hàng độc hại, chất dễ cháy, chất nổ, hàng nguy hiểm.
3. Xe ô tô kể cả hàng hóa có chiều cao lớn hơn 4,20m hoặc có chiều ngang lớn hơn 3,00m.
4. Xe mô tô 3 bánh hoặc mô tô 2 bánh, xe gắn máy, xe máy điện, xe đạp điện, xe thô sơ.
5. Các phương tiện thuộc đối tượng tại khoản 2 điều này muốn lưu thông qua hầm phải đến cơ quan có thẩm quyền để được xem xét cấp giấy phép lưu hành; khi lưu thông trong hầm phải tuân theo sự hướng dẫn của Công ty Cổ phần Đầu tư hạ tầng giao thông Đèo Cả (HHV, trước đây là Công ty Cổ phần Quản lý và Khai thác Hầm Đường bộ Hải Vân – Hamadeco).
Phí vận chuyển xe máy qua hầm Hải Vân
Từ ngày 1/5/2012, Công ty Quản lý và khai thác hầm đường bộ Hải Vân sẽ điều chỉnh giá vé vận chuyển mô tô, xe máy qua hầm đường bộ Hải Vân từ 20.000₫/lượt lên 25.000₫/lượt và người qua hầm 8.000₫/người, các mức giá vé khác vẫn được giữ nguyên.
Thời gian đóng hầm
1. Thời gian đóng hầm từ 3h00 đến 4h00 để vệ sinh, sửa chữa, bảo trì các hạng mục hầm đường bộ Hải Vân.
2. Cấm xe tải và xe khách qua hầm Hải Vân từ 00h00 – 04h00.
3. Thời gian đóng hầm quy định cho tất cả các ngày trong năm. Trường hợp cần thiết đóng hầm ngoài thời gian quy định, HHV phải báo cáo các cấp có thẩm quyền quyết định, trừ trường hợp sự cố, tai nạn.
Kỷ lục Việt Nam
Với chiều dài 6,28 km hầm Hải Vân là hầm đường bộ dài nhất Đông Nam Á.
Tham khảo
Hầm đường bộ Hải Vân chính thức khánh thành
Liên kết ngoài
Sơ khai công trình giao thông
Giao thông Đà Nẵng
Giao thông Thừa Thiên Huế
Hải Vân
Kỷ lục Việt Nam
Quốc lộ 1
Đường hầm hoàn thành vào năm 2005
|
17573
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A8o%20H%E1%BA%A3i%20V%C3%A2n
|
Đèo Hải Vân
|
Đèo Hải Vân còn có tên là đèo Ải Vân (vì trên đỉnh đèo xưa kia có một cửa ải) hay đèo Mây (vì đỉnh đèo thường có mây che phủ), cao 500 m(1640 ft)(so với mực nước biển), dài 20 km, cắt ngang dãy núi Bạch Mã (là một phần của dãy Trường Sơn chạy cắt ra sát biển) ở giữa ranh giới tỉnh Thừa Thiên Huế (ở phía Bắc) và thành phố Đà Nẵng (ở phía Nam), Việt Nam .
Lịch sử
Theo sử liệu, trước năm Bính Ngọ (1306), vùng đất có đèo Hải Vân thuộc về hai châu Ô, Rí của vương quốc Champa (còn gọi là Chiêm Thành). Sau khi được vua Champa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn Công chúa Huyền Trân đời Trần vào năm 1306, thì ngọn đèo chính là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.
Khoảng một thế kỷ sau, vào năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ (dưới triều Hồ Hán Thương) sai tướng Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành, khiến vua nước ấy là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) phải cắt đất Chiêm Động và Cổ Lũy để cầu hòa . Kể từ đó, cả vùng đất có đèo Hải Vân mới thuộc hẳn về nước Đại Ngu (tức Việt Nam ngày nay), và trở thành ranh giới tự nhiên của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, như sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã chép: "Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam".
Vào thời Nguyễn, đèo Hải Vân vẫn là chỗ giáp giới giữa Thừa Thiên và Quảng Nam. Phía bắc chân núi giáp vực biển có hang Dơi, tục gọi là bãi Tiêu. Tương truyền xưa có thần sóng, thuyền đi qua đó thường bị lật chìm, nên ngạn ngữ có câu: "Đường bộ thì sợ Hải Vân/ Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi".
Đường đèo
Dưới thời Việt Nam Cộng hòa vì cơ nguy tai nạn giao thông trên con đường hẹp nên việc qua lại trên đèo được điều hành bằng cách đặt 3 trạm kiểm soát: 1 ở Lăng Cô, 1 ở đỉnh đèo, và 1 ở Liên Chiểu, hạn chế xe phải đi thành đoàn cùng lên đèo hoặc cùng xuống đèo để giảm tai nạn xe đâm nhau ngược đường. Xe từ Lăng Cô hay Liên Chiểu phải đợi tụ thành một đoàn rồi bắt đầu trèo đèo cùng một lượt. Đến đỉnh đèo thì đoàn xe dừng lại ở trạm kiểm soát và rồi xuống đèo cùng một lượt cho đến qua khỏi trạm kiểm soát ở chân đèo. Như vậy suốt đoạn đường đèo chỉ có một chiều xe chạy. Năm 1966 lực lượng công binh Seabee của binh chủng Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ nới rộng đường xa lộ qua đèo thì việc giao thông không phải đợi ở ba trạm kiểm soát kể trên nữa.
Ngày 5 tháng 6 năm 2005, hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân cũng đã được đưa ra vào sử dụng, càng tạo thuận lợi cho việc đi lại, nên trở ngại ấy đã không còn nữa, tuy nhiên, đèo Hải Vân vẫn là một "hàng rào" ngăn cản một phần khí hậu giữa hai miền . Tuyến đường vẫn được xem là con đường chính để đi qua đối với một số phương tiện như xe máy, xe thô sơ và một số xe chở hàng hóa chất, vì các phương tiện này không được phép đi qua hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân (riêng xe máy có thể sử dụng dịch vụ trung chuyển để qua hầm đường bộ này).
Mặc dù ngày nay đã có hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân, và địa hình của đường đèo vẫn còn một số hiểm trở, song nhiều du khách vẫn thích đi trên con đường này để thưởng ngoạn. Vào những ngày đẹp trời, họ có thể thấy khá rõ một phần thành phố Đà Nẵng, Cảng Tiên Sa - Bán đảo Sơn Trà, Cù lao Chàm,... và những bãi cát vàng chạy dài ôm lấy mặt nước bao la trong xanh của biển.
Cửa ải Hải Vân
Ngày nay, trên đỉnh đèo Hải Vân vẫn còn dấu vết của một cửa ải. Cửa ải này được gọi là Hải Vân Quan (海雲關), xây từ đời Trần và được trùng tu vào thời Nguyễn (năm Minh Mạng thứ 7, 1826). Cửa trông về phủ Thừa Thiên đề ba chữ "Hải Vân Quan", cửa trông xuống Quảng Nam đề "Thiên hạ đệ nhất hùng quan". Lạc khoản một bên góc bảng còn ghi thêm "Minh Mệnh thất niên cát nhật tạo", tức là làm vào ngày tốt năm Minh Mệnh thứ 7 (1826). Danh hiệu này tương truyền do vua Lê Thánh Tông phong tặng khi nhà vua dừng quân ở đây vào năm Canh Thìn (1470).
Sách Đại Nam thực lục chính biên chép rõ:
"Phía trước, phía sau đều đặt một cửa quan (ngạch trước viết ba chữ "Hải Vân quan" (海雲關), ngạch sau viết 6 chữ "Thiên hạ đệ nhất hùng quan" (天下第一雄關). Cửa trước cao và dài đều 15 thước (khoảng 6 mét), ngang 17 thước 5 tấc, cửa sau cao 15 thước, dài 11 thước, ngang 18 thước 1 tấc, cửa tò vò đều cao 10 thước 8 tấc, ngang 8 thước 1 tấc. Phía tả hữu cửa quan, xếp đá làm tường, trước sau tiếp nhau. Phái biền binh 4 đội Hữu sai và 2 đội Ứng sai chở súng ống đến để đấy (súng quá sơn bằng đồng 5 cỗ, ống phun lửa 200 ống, pháo thăng thiên 100 cây và thuốc đạn theo súng). Chuẩn định từ Hải Vân trở ra Bắc thuộc quản hạt Thừa Thiên, từ ngoài Hải Vân trở vào Nam thuộc quảng hạt Quảng Nam".
Năm 1876 trước khi người Pháp lập nền Bảo hộ thì nhà địa lý học Jules-Léon Dutreuil de Rhins khi đi đường bộ từ Đà Nẵng ra Huế có ghi nhận rằng cửa ải có 50 lính canh phòng. Năm 1885 sau khi ký Hòa ước Giáp Thân (1884) thì số lính chỉ còn khoảng 5 người và sang đầu thế kỷ 20 khi Henri Coserat của Hội Đô thành Hiếu cổ (Association des Amis du Vieux Hué) lên đèo quan sát thì cửa ải đã bị bỏ ngỏ, không còn ai canh gác.
Cửa ải Hải Vân còn chứng kiến cuộc ngự du của vua Thành Thái vào mùa hè năm 1896. Xa giá của vua đi đường thủy vào đến Lăng Cô, nghỉ qua đêm rồi hôm sau đăng sơn. Vua cưỡi ngựa; tháp tùng là giới chức Pháp gồm có Toàn quyền Rousseau và Khâm sứ Brière lên tận cửa ải để ngắm cảnh quan.
Đáng tiếc là di tích này đang bị xuống cấp trầm trọng. Ngoài ra, nơi đỉnh Hải Vân hiện vẫn còn một vài lô cốt (tàn tích của Đồn Nhất) do quân đội Pháp xây dựng vào năm 1926 để bảo vệ ngọn đèo chiến lược này. Sau đồn bót ấy được chuyển sang tay quân đội Mỹ. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chiến tranh Việt Nam, đèo Hải Vân là nơi đã liên tiếp diễn ra những trận đánh lớn.
Năm 2017 cửa ải Hải Vân (Hải Vân Quan) được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ký quyết định xếp hạng di tích cấp quốc gia. Do Hải Vân Quan nằm trên địa bàn thị trấn Lăng Cô (huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế) và phường Hòa Hiệp Bắc (quận Liên Chiểu, Đà Nẵng) nên Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng cùng chịu trách nhiệm quản lý di tích này.
Giá trị văn hóa
Nói về Hải Vân, ca dao Việt Nam có câu:
Chiều chiều mây phủ Ải VânChim kêu ghềnh đá gẫm thân lại buồn.
Địa thế hiểm trở của Hải Vân cũng được nhắc đến trong câu:Đường bộ thì sợ Hải Vân
Đường thủy thì sợ sóng thần hang Dơi.
Thơ đề vịnh về ngọn đèo này cũng có nhiều, song đáng chú ý có bài thơ chữ Nho "Vãn quá Hải Vân quan" (晚過海雲關) của nhà chí sĩ Trần Quý Cáp (1870-1908),Thôi ngôi vạn nhận cổ hùng quan 崔嵬萬仞古雄關
Kỷ độ đăng lâm phủ ngưỡng gian 幾度登臨俯仰間Sầu nhãn vọng cùng thương hải ngoại 愁眼望窮滄海外
Nộ quyền huy phá bạch vân đoan 怒拳揮破白雲端Cô chu phân điệu hoang thôn mộ 孤舟分掉荒村暮
Quyện điểu đầu lâm cổ mộc hàn 倦鳥投林古木寒Thất lý oanh hồi xuyên quá hậu 七里縈迴穿過後
Uất thông giai khí Ngũ Hành sơn 鬱蔥佳氣五行山
tạm dịch ra Việt văn như sau:Hùng quan chất ngất đỉnh non xây,
Bước đã quen nơi cúi ngửa này.Sầu ngập mắt trông ngàn dặm biển,
Giận tung quyền phá bốn bề mây.Chiều quang mái trú đìu hiu bến,
Mỏi đáp rừng chim lạnh lẽo cây.Bảy dặm quang co đèo vượt khói,
''Non Hành giai khí ngút trời bay.
Về mặt mỹ thuật, đèo Hải Vân và cửa ải trên đỉnh đèo được triều đình nhà Nguyễn coi trọng nên vua Minh Mệnh đã truyền cho khắc hình vào Dụ Đỉnh, tức đỉnh thứ 8 của Cửu Đỉnh trong sân Thế miếu.
Vấn đề an ninh quốc phòng
Cuối năm 2014, một dự án gây đe dọa nghiêm trọng an ninh quốc phòng đã xảy ra trên đèo Hải Vân. Tỉnh Thừa Thiên Huế đã cấp phép cho một nhà thầu của Trung Quốc xây dựng khu du lịch nghỉ qua đêm trên đèo Hải Vân. Ngay lập tức, phía TP Đà Nẵng đã phản đối vì khu du lịch đó nằm trong vị trí "yết hầu" của Đà Nẵng. Nếu có xung đột xảy ra, Việt Nam sẽ mất quyền kiểm soát hoàn toàn vùng trời và vùng biển của Đà Nẵng và đất nước sẽ bị chia đôi.. Ngay lập tức, tỉnh Thừa Thiên Huế đã hủy bỏ dự án khu du lịch này và yêu cầu gỡ bỏ các hạng mục công trình của khu du lịch.
Xây nhà trái phép tại núi Hải Vân
Sáng 4-2-2015, UBND quận Liên Chiểu (Đà Nẵng) đã xử phạt thiếu tướng Phan Như Thạch (nguyên giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam) và ông Ngô Văn Quang (giám đốc Công ty TNHH vàng Phước Minh) mỗi người 22,5 triệu đồng vì việc xây dựng công trình trái phép của hai ông tại khu vực núi Hải Vân ở P. Hòa Hiệp Bắc, Q. Liên Chiểu.
Ông Thạch đã cho xây dựng một biệt thự ba tầng bất hợp pháp. Ông Quang ngoài công trình biệt thự của mình còn bị phạt tiền 15 triệu đồng về hành vi tự ý chuyển đổi mục đích sử dụng đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ, đất rừng sản xuất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, tự ý xây dựng công trình trên đất rừng với diện tích 1.411m2 với các công trình khác. Ngoài ra ông còn bị buộc phải khôi phục lại tình trạng ban đầu trong vòng 35 ngày kể từ ngày nhận được quyết định. Tuy nhiên, sau 7 năm công trình biệt thự của ông Quang vẫn chưa được tháo dỡ xong.
Xem thêm
Hầm Hải Vân
Chú thích
Liên kết ngoài
Giao thông Đà Nẵng
Địa lý Đà Nẵng
Địa lý Thừa Thiên Huế
|
17574
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A7u%20S%C3%B4ng%20H%C3%A0n
|
Cầu Sông Hàn
|
Cầu Sông Hàn là một trong những cây cầu bắc qua sông Hàn ở Đà Nẵng, miền Trung Việt Nam. Đây là cây cầu xoay đầu tiên do kỹ sư, công nhân Việt Nam tự thiết kế và thi công, và là cây cầu quay duy nhất ở Việt Nam hiện nay.
Cầu là vạch nối liền hai trục đường chính của Đà Nẵng là đường Lê Duẩn ở bờ Tây và đường Phạm Văn Đồng ở bờ Đông. Cầu có chiều dài 487,7 mét, rộng 12,9 mét, gồm 11 nhịp, mỗi nhịp dài 33 mét, kết cấu bê tông cốt thép dự ứng lực và 2 nhịp dây văng có tổng chiều dài 122,7 mét, kết cấu dầm và tháp cầu chính bằng thép, bản mặt cầu bằng bê tông cốt thép.
Duy nhất ở Việt Nam
Cầu sông Hàn là cầu xoay đầu tiên do kỹ sư, công nhân Việt Nam tự thiết kế và thi công, và là cây cầu xoay duy nhất ở Việt Nam hiện nay (cây cầu xoay đầu tiên là cầu Đuống).
Xem thêm
Cầu Rồng
Sông Hàn
Chú thích
Tham khảojxjxc
Liên kết ngoài
Sông Hàn
Sông Hàn
Sông Hàn
Đầu tiên ở Việt Nam
Du lịch Đà Nẵng
Cầu khánh thành năm 2000
|
17597
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/31%20th%C3%A1ng%2010
|
31 tháng 10
|
Ngày 31 tháng 10 là ngày thứ 304 (305 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Nó là ngày cuối cùng trong tháng 10, với 61 ngày còn lại trong năm.
Ngày này được biết đến một cách quốc tế là ngày Halloween.
Sự kiện
475 – Romulus Augustus được tuyên bố là hoàng đế của Đế quốc Tây La Mã, ông là hoàng đế cuối cùng của đế quốc.
1517 – Theo thư tịch cổ, Martin Luther treo Chín mươi lăm Luận đề trên cửa Nhà thờ Lâu đài Wittenberg, nay thuộc Đức, đánh dấu khởi đầu Cải cách Tin Lành.
1897 - Cuộc thi Thể thao định hướng dân sự đầu tiên để công chúng tham gia được tổ chức tại Na Uy.
1940 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Lực lượng Phát xít chấm dứt giai đoạn oanh tạc dồn dập vào ban ngày nhằm vào lãnh thổ Anh Quốc.
1918 – Sau khi thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Áo-Hung kết thúc.
1941 – Sau 14 năm xây dựng, tượng bốn tổng thống Hoa Kỳ tại Núi Rushmore, Nam Dakota được hoàn thành.
1961 – Trong vận động phi Stalin hoá tại Liên Xô, di hài của Stalin bị đưa ra khỏi Lăng Lenin để an táng tại Nghĩa trang tường Điện Kremli.
1984 – Cựu Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi bị hai nhân viên bảo vệ ám sát, bạo loạn nhanh chóng nổ ra tại New Delhi khiến gần 10.000 người theo đạo Sikh bị sát hại.
1986 – Phoumi Vongvichit bắt đầu đảm nhiệm chức vụ quyền Chủ tịch nước Lào, đại diện cho Souphanouvong.
2003 – Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua Công ước phòng chống tham nhũng
2003 – Mahathir Mohamad từ chức Thủ tướng Malaysia sau 22 năm nắm quyền, thay thế ông là Phó Thủ tướng Abdullah bin Ahmad Badawi.
2015 – Chuyến bay 9268 của Metrojet khi đang trên hành trình đến Saint Petersburg từ Sharm el-Sheikh thì rơi gần Al-Hasana tại Sinai, làm thiệt mạng toàn bộ 217 hành khách và 7 thành viên phi hành đoàn trên khoang.
Sinh
1291 - Philippe de Vitry, nhà soạn nhạc Pháp (m. năm 1361)
1345 - Vua Fernando I của Bồ Đào Nha (m. năm 1383)
1391 - Vua Edward của Bồ Đào Nha (m. năm 1438)
1424 - Vua Wladyslaw III của Ba Lan (m. năm 1444)
1599 - Denzil Holles, 1st Baron Holles, chính khách và nhà văn Anh (m. năm 1680)
1620 - John Evelyn, người Anh (m. 1706)
1622 - Pierre Paul Puget, nghệ sĩ Pháp (m. năm 1694)
1632 - (rửa tội) Johannes Vermeer, họa sĩ Flanders (m. 1675)
1636 - Ferdinand Maria, cử tri của Bayern (d. 1679)
1692 - Comte de Caylus, nhà khảo cổ học Pháp (m. năm 1765)
1705 - Đức Giáo hoàng Clement XIV (d. 1774)
1711 - Laura Bassi, học giả người Ý (m. 1778)
1724 - Christopher Anstey, nhà văn người Anh (d. 1805)
1737 - James Lovell, Mỹ giáo dục (d. 1789)
1795 - John Keats, nhà thơ Anh (m. 1821)
1815 - Karl Weierstrass, nhà toán học Đức (m. 1897)
1825 - Charles Lavigerie, Hồng y Pháp (m. 1892)
1827 - Richard Morris Hunt, nhà giáo dục Mỹ (m. 1895)
1831 - Paolo Mantegazza, nhà thần kinh học Ý (m. năm 1910)
1835 - Adelbert Ames, tướng Mỹ (m. 1933)
1835 - Adolf von Baeyer, nhà hóa học Đức, người đoạt giải Nobel (d. 1917)
1835 - Krišjānis Nhưng nam tước, nhà văn Latvia (m. 1923)
1838 - Vua Louis của Bồ Đào Nha (m. năm 1889)
1848 - Boston Custer, em trai của George Armstrong Custer (d. 1876)
1851 - Lovisa của Thụy Điển, nữ hoàng Đan Mạch (m. 1926)
1856 - Charles Leroux, người cởi khí cầu Mỹ và nhảy dù (m. 1889)
1860 - Juliette Low, Mỹ sáng lập Hướng đạo girl (m. 1927)
1875 - Eugene Meyer, doanh nhân Mỹ và xuất bản báo chí (m. 1954)
1875 - Vallabhbhai Patel, nhà chiến đấu và chính khách Ấn ĐỘ (m. 1950)
1879 - Sara Allgood, nữ diễn viên Ai-len (m. 1950)
1883 - Marie Laurencin, họa sĩ Pháp (m. 1956)
1887 - Tưởng Giới Thạch, nhà lãnh đạo Trung Hoa Quốc Dân, cựu Chủ tịch nước Trung Hoa Dân quốc (m. năm 1975)
1887 - Newsy Lalonde, cầu thủ cầu thủ khúc côn cầu trên băng người Canada (m. 1970)
1888 - Napoleon Lapathiotis, nhà thơ Hy Lạp (m. 1944)
1892 - Alexander Alekhine, tuyển thủ cờ vua Nga (m. năm 1946)
1895 - B. H. Liddell Hart, quân nhân Anh sử (m. 1970)
1896 - Ethel Waters, ca sĩ và nữ diễn viên Mỹ (m. 1977)
1902 - Abraham Wald, nhà toán học Hungary (m. 1950)
1908 - Muriel Duckworth, người Canada (m. 2009)
1912 - Dale Evans, ca sĩ và nữ diễn viên Mỹ (m. 2001)
1912 - Ollie Johnston, nhà làm phim hoạt hình Mỹ (m. 2008)
1914 - Joe Carcione, người Mỹ (m. 1988)
1914 - John Hugenholtz, nhà thiết kế Hà Lan (m. 1995)
1915 - Jane Jarvis, nhạc Jazz nghệ sĩ dương cầm Mỹ (m. 2010)
1916 - Carl Johan Bernadotte, cựu Hoàng tử Thụy Điển
1917 - William Hardy McNeill, sinh ra tại Canada sử
1918 - Ian Stevenson, người Mỹ (m. 2007)
1919 - Magnus Wenninger, linh mục người Mỹ, tác giả của "mô hình đa diện''
1920 - Dick Francis, British jockey-biến-tiểu thuyết gia (m. 2010)
1920 - Joseph Gelineau nhà soạn nhạc Pháp (m. 2008)
1920 - Dedan Kimathi, nhà lãnh đạo nổi dậy Kenya (m. 1957)
1920 - Helmut Newton, nhiếp ảnh gia Đức (m. 2004)
1920 - Fritz Walter, cầu thủ bóng đá Đức (m. 2002)
1922 - Barbara Bel Geddes, nữ diễn viên Mỹ (m. 2005)
1922 - Anatoli Papanov, diễn viên Liên Xô (d. 1987)
1922 - Illinois Jacquet, nghệ sĩ saxophone người Mỹ (m. 2004)
1922 - Vua Norodom Sihanouk của Campuchia
1925 - John Pople, nhà hóa học tiếng Anh, giải Nobel Hóa học | người đoạt giải Nobel]] (m. 2004)
1926 - Jimmy Savile, nghệ sĩ Anh (m. 2011)
1927 - Lee Grant, nữ diễn viên Mỹ
1927 - Thomas Hill, diễn viên Canada (m. 2009)
1928 - Cleo Moore, nữ diễn viên Mỹ (m. 1973)
1929 - Eddie Charlton, tuyển thủ bi-da Úc (m. 2004)
1929 - Bud Spencer, diễn viên Ý
1930 - Michael Collins, nhà du hành vũ trụ Mỹ
1931 - Từ Văn Bê, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (Mất 2008)
1931 - Dan Rather, nhà truyền hình và nhà báo Mỹ
1933 - Phil Goyette, cầu thủ hockey trên băng
1934 - Fillie Lyckow, nữ diễn viên Thụy Điển
1935 - Ronald Graham, American nhà toán học
1935 - David Harvey, người Mỹ gốc Anh
1936 - Michael Landon, diễn viên người Mỹ (d. 1991)
1937 - Tom Paxton, ca sĩ, nhạc sĩ Mỹ
1939 - Ron Rifkin, diễn viên người Mỹ
1939 - Tom O'Connor, diễn viên hài Anh
1939 - Ali Farka Touré, nhạc sĩ Mali (m. 2008)
1941 - Dan Alderson, nhà khoa học Mỹ
1941 - Derek Bell, tay đua Anh
1941 - Spilios Spiliotopoulos, chính khách Hy Lạp
1941 - Werner Krieglstein, nhà triết học Séc-Mỹ
1942 - Dave McNally, cầu thủ bóng chày Mỹ
1942 - David Ogden Stiers, diễn viên người Mỹ
1943 - Paul Frampton, vật lý người Anh
1943 - Aristotelis Pavlidis, Hy Lạp chính khách
1943 - Brian Piccolo, cầu thủ bóng đá Mỹ (m. 1970)
1944 - Sally Kirkland, nữ diễn viên Mỹ
1945 - Brian Doyle-Murray, diễn viên hài Mỹ
1945 - Russ Ballard, ca sĩ / nhạc sĩ, nghệ sĩ guitar Anh
1946 - Stephen Rea, diễn viên Ailen
1946 - Norman Lovett, diễn viên Anh
1947 - Deidre Hội trường, nữ diễn viên Mỹ
1947 - Frank Shorter, Á hậu Mỹ
1947 - Herman Van Rompuy, chính khách Bỉ
1948 - Michael bếp, diễn viên Anh
1949 - Bob Siebenberg, tay trống Mỹ
1950 - John Candy, diễn viên hài và diễn viên Canada (m. 1994)
1950 - Jozef Stolorz, nghệ thuật họa sĩ Ba Lan
1950 - Jane Pauley, người Mỹ
1950 - Zaha Hadid, kiến trúc sư Anh
1950 - Antonio Taguba, thiếu tướng quân đội Mỹ
1951 - Nick Saban, American đại học bóng đá huấn luyện viên
1951 - Dave Trembley, American bóng chày quản lý
1952 - Bernard Edwards, nghệ sĩ đàn Bass Mỹ (m. 1996)
1953 - Michael J. Anderson, diễn viên người Mỹ
1953 - John Lucas II, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên Mỹ
1954 - Ken Wahl, diễn viên người Mỹ
1955 - Michalis Chrysohoidis, chính khách Hy Lạp
1956 - Anders Lago, nhà dân chủ xã hội chính khách Thụy Điển
1957 - Robert Pollard, rocker Mỹ
1957 - Brian Stokes Mitchell, ca sĩ và diễn viên Mỹ
1957 - Shirley Phelps-Roper, luật sư Mỹ
1958 - Jeannie Longo, tay đua xe đạp Pháp
1959 - Neal Stephenson, tác giả người Mỹ
1959 - Mats Näslund, tuyển thủ khúc côn cầu trên băng Thụy Điển
1959 - Michael DeLorenzo, diễn viên người Mỹ, đạo diễn và nhạc sĩ
1960 - Luis Fortuño, đại biểu Quốc hội
1960 - Arnaud Desplechin, Pháp đạo diễn phim
1960 - Mike Gallego, cầu thủ bóng chày Mỹ
1960 - Reza Pahlavi, cựu thái tử Iran
1961 - Peter Jackson, đạo diễn phim New Zealand
1961 - Larry Mullen, Ailen tay trống Ailen (U2)
1961 - Alonzo Babers, Á hậu Mỹ
1961 - Kate Campbell, American nhạc sĩ
1963 - Mikkey Dee, nhạc sĩ Thụy Điển, tay trống của Motorhead
1963 - Johnny Marr, tay guitar và nhạc sĩ Anh
1963 - Fred McGriff, American cầu thủ bóng chày
1963 - Dermot Mulroney, diễn viên người Mỹ
1963 - Rob Schneider, diễn viên người Mỹ
1964 - Colm Ó Cíosóig, tay trống Ailen
1964 - Marco van Basten, cầu thủ bóng đá Hà Lan
1964 - Marty Wright, đô vật chuyên nghiệp Mỹ
1964 - Darryl Worley, ca sĩ Mỹ
1965 - Blue Edwards, cầu thủ bóng rổ Mỹ
1965 - Denis Irwin, cầu thủ bóng đá Ailen
1965 - Rob Rackstraw, giọng nói của diễn viên
1966 - Joseph Boyden, Canada tiểu thuyết gia
1966 - Adam Horovitz (Adrock), rapper người Mỹ (Beastie Boys)
1966 - Koji Kanemoto, đô vật chuyên nghiệp Nhật Bản
1966 - Annabella Lwin, ca sĩ Anh (Bow Wow Wow)
1966 - Mike O'Malley, diễn viên người Mỹ
1967 - Vanilla Ice, rapper người Mỹ
1967 - Buddy Lazier, tay đua xe Mỹ
1967 - Irina Pantaeva, người mẫu Nga
1968 - Antonio Davis, cầu thủ bóng rổ Mỹ
1969 - David Coburn, diễn viên người Mỹ / diễn viên lồng tiếng
1970 - Nicky Wu, Đài Loan, diễn viên và chuyên gia võ thuật
1970 - Linn Berggren, ca sĩ Thụy Điển (Ace of Base)
1970 - Rogers Stevens, tay guitar Mỹ (Blind Melon)
1970 - Mitch Harris, tay guitar Mỹ
1970 - Johnny Moeller, tay guitar Mỹ
1970 - Steve Trachsel, American cầu thủ bóng chày
1971 - Alphonso Ford, cầu thủ bóng rổ Mỹ (m. 2004)
1971 - Ian Walker, tiếng Anh cầu thủ bóng đá
1971 - Tom Smith, bóng bầu dục cầu thủ Scotland
1971 - Toby Anstis, người Anh
1972 - Shaun Bartlett, cầu thủ bóng đá Nam Phi
1972 - Matt Dawson, tiếng Anh bóng bầu dục công đoàn cầu thủ bóng đá
1972 - Grigoris Georgatos, cầu thủ bóng đá Hy Lạp
1973 - Tim Byrdak, cầu thủ bóng chày Mỹ
1973 - David Dellucci, cầu thủ bóng chày Mỹ
1973 - Beverly Lynne, diễn viên phim khiêu dâm Mỹ
1974 - Muzzy Izzet, cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ
1974 - Natasja Saad, nghệ sĩ Đan Mạch
1974 - Roger Manganelli, nhạc sĩ Brazil
1975 - Fabio Celestini, cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ
1975 - Keith Jardine,
1975 - Johnny Whitworth, diễn viên người Mỹ
1976 - Guti, cầu thủ bóng đá Tây Ban Nha
1976 - Piper Perabo, nữ diễn viên Mỹ
1977 - Sylviane Félix, vận động viên Pháp
1977 - Séverine Ferrer, ca sĩ người Pháp
1978 - Inka Grings, cầu thủ bóng đá Đức
1978 - Emmanuel Izonritei, võ sĩ quyền Anh Nigeria
1978 - Zachary Knighton, diễn viên người Mỹ
1978 - Martin Verkerk, Hà Lan tay vợt
1979 - Saaphyri Windsor, American truyền hình thực tế con số
1979 - Simao Sabrosa, cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha
1979 - Ricardo Fuller, cầu thủ bóng đá Jamaica
1980 - Eddie Kaye Thomas, diễn viên người Mỹ
1980 - Samaire Armstrong, nữ diễn viên Mỹ
1980 - Marcel Meeuwis, cầu thủ bóng đá Hà Lan
1980 - Alondra de la Parra, người Mexico sáng lập và là giám đốc nghệ thuật của New York Philharmonic Orchestra của Mỹ
1981 - Irina Denezhkina, nhà văn Nga
1981 - Frank Iero, nhạc sĩ người Mỹ (My Chemical Romance, Leathermouth, Pencey Prep, người sáng lập của Skeleton Crew (ban nhạc))
1981 - Steven Hunter, cầu thủ bóng rổ Mỹ
1981 - Selina (Chia-Tuyên Huyên) Jen, ca sĩ Đài Loan
1981 - Lollie Alexi Devereaux, nữ diễn viên và nhà văn Pháp
1981 - Mike Napoli
1982 - Jordan Bannister, cầu thủ bóng đá Úc
1982 - Tomáš Plekanec, tuyển thủ khúc côn cầu trên băng người Séc
1982 - Justin Chatwin, diễn viên Canada
1983 - Katy French, người mẫu Ailen (m. 2007)
1984 - Scott Clifton, diễn viên người Mỹ
1984 - Pat Murray, cầu thủ Mỹ
1986 - Christie Hayes, nữ diễn viên Úc
1986 - Chris Alajajian, tay đua Úc
1986 - Brent Corrigan, diễn viên khiêu dâm Mỹ
1987 - Nick Foligno, cầu thủ khúc côn cầu Canada
1988 - Jack Riewoldt, cầu thủ Úc
1988 - Sébastien Buemi, tay đua Thụy Sĩ
1989 - Ben Brooks, tay đua Anh
1990 - J.I.D, ca sĩ rap Mỹ
1990 - Lil 'JJ, diễn viên hài và diễn viên Mỹ
1992 - Vanessa Marano, nữ diễn viên Mỹ
1998 - Marcus Rashford, cầu thủ bóng đá Anh
2000 - Willow Smith, nữ diễn viên Mỹ và ca sĩ
2005 - Leonor de Borbón, con gái của Felipe, Hoàng tử Asturias và Letizia, công chúa Asturias
Mất
1138 - Lý Thần Tông, Hoàng đế thứ năm của nhà Lý, Việt Nam (s. 1116)
1993 – River Phoenix, nam diễn viên (s. 1970)
2016 – Phạm Bằng, NSƯT người Việt Nam (s. 1931)
2002 - Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết
2020 - Sean Connery, dien viên Anh (s. 1930)
Ngày lễ
Halloween
Tham khảo
Thư mục
Tháng mười
Ngày trong năm
Halloween
|
17598
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/14%20th%C3%A1ng%2011
|
14 tháng 11
|
Ngày 14 tháng 11 là ngày thứ 318 (319 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 47 ngày trong năm.
Sự kiện
Thế kỷ 19
1851 – Truyện Moby Dick của Herman Melville được Harper & Brothers (New York) xuất bản ở Hoa Kỳ, sau khi được xuất bản lần đầu tiên vào ngày 18 tháng 10 năm 1851 do Richard Bentley (Luân Đôn).
1862 – Nội chiến Hoa Kỳ: Tổng thống Abraham Lincoln tán thành đề nghị của Tướng Ambrose Burnside để lấy thủ đô của các Tiểu bang Liên minh Hoa Kỳ ở Richmond, Virginia, dẫn đến Trận Fredericksburg.
1889 – Nữ nhà báo Nellie Bly (Elizabeth Cochrane) bắt đầu đi vòng quanh thế giới nội trong 80 ngày.
Thế kỷ 20
1911 – Phi công Eugene Ely bay lên từ tàu lần đầu tiên ở Hampton Roads, Virginia. Ông bay lên từ boong tạm trên tàu tuần tiễu nhỏ USS Birmingham trong máy bay cánh quạt đẩy Curtiss.
1912 – Vua Serbia Petar I ra sắc lệnh lập nên Huân chương Dũng cảm tặng thưởng quân nhân trong Chiến tranh Balkan lần thứ nhất.
1918 – Tiệp Khắc trở thành nước Cộng hòa.
1921 – Thành lập Đảng Cộng sản Tây Ban Nha.
1922 – Đài BBC bắt đầu phục vụ radio ở Vương quốc Anh.
1940 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Thành phố Coventry (Anh) bị tàn phá do máy bay ném bom của Luftwaffe (Đức).
1941 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Tàu sân bay HMS Ark Royal chìm sau bị tàu phóng lôi U 81 đánh vào ngày 13 tháng 11.
1964 – Đảng Tân Đại Việt, một nhánh của Đại Việt Quốc dân Đảng bắt đầu hoạt động
1965 – Chiến tranh Việt Nam: Binh lính Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh nhau lần quan trọng đầu tiên trong Trận Ia Đrăng.
1969 – Chương trình Apollo: NASA phóng lên tàu Apollo 12, phi thuyền có người đến mặt Mặt Trăng lần thứ hai.
Sinh
1889 – Jawaharlal Nehru. thủ tướng Ấn Độ
1917 - Park Chung-hee, tổng thống Hàn Quốc (m. 1979)
1931 – Lý Tòng Bá, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa (m. 2015)
1948 - Charles III, Quốc vương của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland và 14 vương quốc khác thuộc Khối Thịnh vượng chung
1954 – Condoleezza Rice, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ
1955 – Thanh Kim Huệ, nghệ sĩ cải lương
1993 – Samuel Umtiti, cầu thủ bóng đá người Pháp gốc Cameroon
2000 – Xiyeon, thành viên nhóm nhạc Pristin
Mất
1849 – Nguyễn Phúc Đài, tước phong Kiến An vương, hoàng tử con vua Gia Long (s. 1795).
1993 – Nhà cách mạng Việt Nam Vũ Hồng Khanh
2005 - Đặng Cao Thăng, Hải quân Phó Đề Đốc, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
Ngày lễ và kỷ niệm
Ngày thiếu nhi tại Ấn Độ, được tổ chức vào ngày sinh nhật của Jawaharlal Nehru (trước đó vào ngày 20 tháng 11).
Tham khảo
Tháng mười một
Ngày trong năm
|
17599
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%BD%20B%E1%BA%A1ch
|
Lý Bạch
|
Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701 - 762), tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青蓮居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.
Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thơ ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Từ trẻ, ông đã xa gia đình để đi du lịch, tìm đường lập công danh sự nghiệp. Dẫu muốn góp phần cứu đời giúp dân song chưa bao giờ ông được toại nguyện. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙) hay Trích Tiên Nhân (謫仙人). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).
Ông đã viết cả ngàn bài thơ bất hủ. Hơn ngàn bài thơ của ông được tổng hợp lại trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập (河岳英靈集), một tuyển tập thơ rất đồ sộ thời Vãn Đường do Ân Phan (殷璠) chủ biên vào năm 753, và hơn 43 bài của ông được ghi trong Đường Thi Tam Bách Thủ (唐詩三百首) được biên bởi Tôn Thù (孫洙), một học giả thời nhà Thanh. Vào thời đại của ông, thơ của ông đã xuất hiện các bản dịch tại phương Tây, chủ đề của ông nhấn mạnh tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của thiên nhiên, tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu rất đặc trưng của ông.
Cuộc đời của ông đi vào truyền thuyết, với phong cách yêu rượu hiếm có, những truyện ngụ ngôn và truyền thuyết về tinh thần trượng nghĩa, cũng như điển tích nổi tiếng về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.
Đường Văn Tông ngự phong tán dương thi ca của Lý Bạch, kiếm vũ của Bùi Mân, thảo thư của Trương Húc, gọi là Tam Tuyệt (三絕).
Thân thế
Lý Bạch là người Lũng Tây, Cam Túc; lúc mới 5 tuổi, gia đình về định cư ở làng Thanh Liên, huyện Xương Long thuộc Miên Châu (Tứ Xuyên) nên nhà thơ vẫn coi Tứ Xuyên là quê hương của mình. Theo lời Lý Bạch kể lại, ông là hậu duệ của tướng quân Lý Quảng nhà Hán, là cháu chín đời của Tây Lương Vũ Chiêu vương Lý Cảo nước Tây Lương thời Ngũ Hồ thập lục quốc. Có sách ghi ông là con cháu đời sau tông thất nhà Đường, cụ thể là hậu duệ của Ẩn Thái tử Lý Kiến Thành. Vào cuối đời nhà Tùy, một người họ Lý trốn ra Tây Vực, kết duyên cùng một Man bà (phụ nữ Tây Vực), đến năm Trường An nguyên niên sinh ra Lý Bạch (lúc này nhà Đường đang có sự biến do Võ Tắc Thiên gây ra).
Tương truyền lúc ông sắp sinh, bà mẹ nằm mộng thấy sao Tràng Canh (hay Trường Canh), vì sao này có tên là Thái Bạch nên đặt tên con là Bạch. Lý Bạch suốt thời thơ ấu được mẹ dạy cho chữ Tây Vực, cha dạy cho Kinh Thi, Kinh Thư, đến 10 tuổi đã thông thạo và thích làm thơ. Gia đình giàu có, nên từ nhỏ Lý Bạch đã tha hồ đi đây đi đó cùng cha. Ông tỏ ra rất thích, chí hướng của ông sau này không phải quan trường, mà là thơ túi rượu bầu, thong dong tiêu sái. Đến năm 10 tuổi gia đình chuyển về huyện Chương Minh, Tứ Xuyên. Tại đây Lý Bạch say mê học kiếm thuật, trong một thời gian ngắn, tài múa kiếm và tài thơ của ông được bộc lộ rõ rệt.
Năm 15 tuổi, ông đã có bài phú ngạo Tư Mã Tương Như, bài thơ gửi Hàn Kinh Châu, khá nổi tiếng. Lúc 16 tuổi danh tiếng đã nổi khắp Tứ Xuyên, thì ông lại phát chán, bèn lên núi Đái Thiên Sơn học đạo, bắt đầu cuộc đời ẩn sĩ. Làm ẩn sĩ trên núi được 2 năm, ông lại hạ sơn, bắt đầu làm hiệp sĩ, đi lùng hết các thắng cảnh ở Hà Bắc, Giang Tây, Trường An... Bạn đồng hành với ông lúc này là Đông Nham Tử, nhưng chỉ đi chung được 1 năm. Đến năm 20 tuổi Lý Bạch đã đi khắp nước Thục, ông lại về Tứ Xuyên với gia đình, chuẩn bị tiền đi đường và tiền mua rượu cho cuộc hành trình sắp tới. Ông đến làm dưới trướng của thứ sử Ích Châu Tô Dĩnh, được ông này khen là thiên tài, "có thể sánh với Tư Mã Tương Như".
Năm 723, Lý Bạch mặc áo trắng, đeo một bầu rượu lớn, chống kiếm lên đường viễn du. Trong khoảng ba năm, ông đã tham quan hầu hết cảnh đẹp Trung Hoa, như là hồ Động Đình, sông Tương, Kim Lăng, Dương Châu, Ngô Việt, Giang Hạ...Đến năm 726, ông đến Vân Mộng kết duyên cùng cháu gái của Hứa tướng công. Thời gian này tài năng thơ bắt đầu nở rộ. Đến 30 tuổi thì tiếng tăm đã vang đến triều đình. Được mời đi làm quan, nhưng ông không nhận.
Năm Khai Nguyên thứ 23 (735), ông đi chơi ở Thái Nguyên, gặp Quách Tử Nghi đang ở tù, ông xin giúp, Quách liền được thả. Ông lại dẫn vợ rong chơi qua nước Tề, Lỗ, rồi định cư ở Nhiệm Thành. Đến đây Lý Bạch lại được Khổng Sào Phủ, Hàn Chuẩn, Bùi Chính, Đào Cái, Trương Thúc Minh - những ẩn sĩ đương thời - rủ lên núi Tồ Lai thưởng ngoạn, rồi say sưa ở Trúc Khê. Nhóm này được người ta gọi là "Trúc Khê lục dật".
Vào cung và bị gièm pha
Năm 741, Lý Bạch lại một phen từ bỏ gia đình, vợ con, ông đến Hồ Nam rồi Giang Tô, Sơn Đông... đi đến đâu danh tiếng lan ra đến đó.
Năm đầu niên hiệu Thiên Bảo (742), ông đến Cối Kê, cùng đạo sĩ Ngô Quân ở ẩn tại Thiểm Trung. Sau đó cùng bạn về Trường An, ở đây ông gặp thái tử tân khách Hạ Tri Chương, trở nên đôi bạn rượu-thơ thân thiết. Ông được Hạ Tri Chương tiến cử lên vua Đường Minh Hoàng, vua Đường nghe danh đã lâu nên rất thích, mời vào điện Kim Loan giao việc thảo thư từ, sau được phong làm Hàn Lâm, chuyên giữ việc mật. Được vua Đường và Dương Quý Phi yêu thích. Tại đây, cùng với Hạ Tri Chương, Thôi Tông Chi, Vương Tiến, Tô Tần, Trương Húc, Tiêu Toại, Lý Thích Chi hợp thành nhóm "Tửu trung bát tiên".
Đến năm 745, Dương Quốc Trung gièm pha nên Dương Quý Phi cũng phát ghét, chỉ trích luôn luôn làm Đường Minh Hoàng khó xử.
Lý Bạch nhận thấy sự đó, cộng với lòng đam mê du lãm đang trỗi dậy, ông liền từ biệt vua Đường. Vua rất buồn, nhưng cũng nghe theo, lại tặng thêm rất nhiều vàng nhưng thi nhân không nhận, cuối cùng trao cho ông quyền uống rượu miễn phí tại bất cứ quán rượu nào mà ông đi qua, tiền rượu sẽ do ngân khố thanh toán.
Cuối đời
Trong 10 năm kể từ lúc rời cung, Lý Bạch tha hồ uống rượu và đi chơi, ông từng qua Triệu, Nguỵ, Tề, Tần, Lương, Tống, các vùng Bân, Kỳ, Thương, , Lạc Dương, các sông Hoài, sông Tứ... Do đi quá nhiều nên ông cũng quen biết và thân thiết với rất nhiều, trong đó có Đỗ Phủ, Sầm Tham, Mạnh Hạo Nhiên, Cao Thích...
Năm Thiên Bảo thứ 13 (755), ông quen với Nguỵ Hạo ở Quảng Lăng, hai người cùng xoã tóc đi thuyền vào sông Tần Hoài. Sau đó đến Tuyên Thành. Tháng 11 năm này có loạn An Lộc Sơn, Lý Bạch liền về Lư Sơn, ở ẩn tại Bình phong điệp. Năm ông 56 tuổi, Tiết độ sứ Vĩnh Vương Lân đến tận núi mời ông về phủ. Lý Bạch đành phải đi theo. Đến khi Lân làm phản bị bắt, Lý Bạch chạy trốn nhưng không thoát, lúc sắp bị tử hình có Tuyên Uý đại sứ Thôi Chi Hoán với ngự sử trung thừa Tống Nhược Tư đem giấu đi. Sang năm 757, ông bị triều đình bắt lại, lúc này người từng được Lý Bạch cứu khi xưa là Vương Chi Hoán ra sức giải oan, ông được giảm xuống tội đi đày.
Năm 758, trên đường đi đày ba vùng Dạ Lang, Động Đình, Tam Giáp, Lý Bạch được tha, liền đi xuống phía đông đến Hán Dương, tiếp tục cuộc ngao du đây đó, tuy nhiên tuổi già, sức yếu, ông đành đến Đang Đồ, ở nhờ anh họ là Lý Dương Băng. Đến năm 762, Đường Đại Tông lên ngôi, cũng là người hâm mộ thơ của Lý Bạch, cho người mời Lý Bạch nhưng trên đường đi thì nghe tin ông đã qua đời rồi.
Tiểu truyện
Truyện kể về Lý Bạch rất nhiều, ngoại trừ những chuyện phù phép quái gở, thì những chuyện sau đây được sách sử chép lại và người đời truyền tụng:
Chuyện thi cử
Năm Thiên Bảo đời Đường Huyền Tông (742), Lý Bạch đến Trường An ứng thí, tình cờ gặp Hạ Tri Chương (đang giữ chức Hàn Lâm), cả hai đều mê rượu, mê thơ nên trở thành thân thiết.
Đề thi năm ấy là: "Không mong văn chương hơn thiên hạ, chỉ cần văn chương đúng ý quan chấm thi". Khoa thi vừa xong, Hạ Tri Chương sợ Lý Bạch không có tiền đút lót sẽ bị đánh rớt, liền gửi một lá thư giới thiệu cho giám khảo. Thư đến hai quan giám khảo là Cao Lực Sĩ và Dương Quốc Trung, hai người này vốn không thích Hạ Tri Chương, nên càng ghét Lý Bạch. Lúc chấm thi, thấy hai chữ Lý Bạch, Dương Quốc Trung liền phê: "Người này dốt quá chỉ đáng mài mực cho bọn sĩ tử thôi". Cao Lực Sĩ phê hùa theo: "Có lẽ chưa đáng mài mực, chỉ đáng cởi giày cho họ thôi". Rồi đánh hỏng vào bài thi của ông.
Chuyện trong cung
Thi rớt kỳ ấy, Lý Bạch nghe lời Hạ Tri Chương ở lại chơi ít tháng, đợi Hạ tiến cử. Một hôm sứ nước Phiên dâng thư cho Đường Huyền Tông bằng tiếng Phiên, cả triều không ai đọc được. Huyền Tông vừa tức giận vừa hổ thẹn, hẹn sứ giả 6 ngày sẽ trả lời thư. Hạ Tri Chương kể chuyện cho Lý Bạch nghe. Vì Lý Bạch từng được mẹ dạy chữ Phiên, ông bảo "cũng chẳng khó gì", liền hôm sau được vua Đường vời vào triều. Lý Bạch không chịu vào, vua liền phong cho chức Học vị tiến sĩ, ông mới mặc áo, đội mão bước vào. Cầm thư Phiên, Lý đọc vanh vách, vua từ đó rất thích ông, không ngờ lại có người thông tuệ như vậy, liền thăng chức cho ông làm Hàn Lâm học sĩ.
Đến khi Huyền Tông sai viết thư trả lời bằng tiếng Phiên, Lý Bạch mặt đỏ, liểng xiểng đi đến Cao Lực Sĩ, đưa chân cho y tháo giày, rồi ngoắc Dương Quốc Trung lại mài mực ông mới chịu viết (có truyện là Dương Quý phi). Hai người này đành phải lúi húi làm theo. Thời gian trong cung của Lý Bạch cũng có nhiều chuyện được chép lại, đại loại là về tài thơ của Lý Bạch. Như việc Lý Bạch say rượu làm thơ thần tốc thì có rất nhiều. Ngoài ra giai thoại sau đây rất nổi tiếng:
Thời Khai Nguyên, lúc hoa nở đẹp, Đường Huyền Tông cùng Dương Quý phi ra ngắm hoa, sai nhạc đội ca hát. Lần này vua muốn có lời ca ngợi sắc đẹp của Dương Quý Phi, liền vời Lý Bạch đương say rượu vào đặt cho. Lý Bạch đang say viết liền 3 bài Thanh Bình điệu. Huyền Tông và Quý Phi rất thích.
Sau này Dương Quốc Trung, Cao Lực Sĩ, những người từng bị Lý Bạch làm nhục gièm pha ông với Dương Quý phi (em gái của Dương Quốc Trung) về bài Thanh Bình Điệu, bài này có đoạn: "Khả liên Phi Yến ỷ tân trang". Hai người cho là Lý Bạch sánh ngang Quý Phi với Triệu Phi Yến - một Hoàng hậu bị thất sủng và nổi tiếng dâm loạn thời nhà Hán. Nghe được lời này, Dương Quý phi từ đó không ưa Lý Bạch, lại thêm Trương Ký ganh ghét gièm pha, Lý Bạch phải cuốn gói khỏi triều đình.
Cái chết
Thời kỳ sau của Lý Bạch ít được chú ý, đến khi Đường Đại Tông - một người yêu thơ Lý Bạch - lên ngôi thì ông đã không còn nữa rồi. Có người bảo ông chết do bệnh, nhưng trong dân gian còn lưu truyền một chuyện đẹp đẽ về cái chết của Lý Bạch:
Tại ghềnh Thái Thạch (một khúc thuộc sông Trường Giang), huyện Đang Đồ, tỉnh An Huy, trong một đêm rằm, Lý Bạch đang say xỉn trên bờ sông, thấy trăng in đáy nước đẹp quá, liền nhảy xuống với bắt mà chết đuối. Nơi đó có một cái đài, người đời sau đặt tên là Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng). Chuyện này được Đỗ Phủ, Vương Định Bảo, Hồng Dung Trai ghi lại.
Có nhiều bằng chứng lịch sử nêu rằng Lý Bạch đã tự tử.
Lý Bạch trong đạo Cao Đài
Theo giáo lý đạo Cao Đài hay Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Lý Bạch là danh xưng trong một kiếp xuống trần của Thái Bạch Kim Tinh, mượn kiếp này của ngài để tôn thờ một quyền năng thiêng liêng cao trọng với danh hiệu "Lý đại tiên kiêm giáo tông đại đạo tam kỳ phổ độ".
"Vâng lịnh Ngọc Hư nay xuống thế,
Tam Kỳ độ rỗi các nguyên nhân"
Danh xưng Thái Bạch mới có từ đời Phong Thần, đến đời nhà Đường Ngài mới chiết chơn linh đầu kiếp là một đại thi hào Lý Bạch.
"Tinh quân thọ sắc thuở Phong Thần.
Cho đến Đường triều mới biến thân.
Thái Bạch Kim Tinh đang trị thế,
Trường canh trích tử đến thăm trần."
Tác phẩm
Nhà thơ Bì Nhật Hưu thời vãn Đường nói rằng: "Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến giờ, ngữ ngôn ra ngoài trời đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì lòng ôm bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải lời của thế gian, thì có thơ Lý Bạch".
Lý Bạch làm hơn 20.000 bài thơ cả thảy, nhưng làm bài nào vứt bài đó, nên được biết tới là nhờ dân gian ghi chép lại. Sau loạn An Lộc Sơn thì mất rất nhiều. Đến khi ông mất năm 762 thì người anh họ Lý Dương Lân thu thập lại, thấy chỉ còn không tới 1/10 so với người ta truyền tụng. Sang năm 1080, Sung Minh Chiu người Cao Ly mới gom góp lại các tập thơ của Lý Bạch, gồm 1800 bài. Đến nay thì thơ Lý Bạch còn trên dưới 1000 bài, bài nào cũng được đánh giá rất cao, nhưng nổi tiếng trong dân gian thì có: Tương Tiến Tửu, Hiệp khách hành, Thanh Bình Điệu, Hành lộ nan...
Khác với Đỗ Phủ,nhà thơ Lý Bạch thích viển vông, phóng túng, ít đụng chạm đến thế sự mà thường vấn vương hoài cổ (Phù phong hào sĩ ca, Hiệp khách hành, Việt trung lãm cổ...), tả cảnh thiên nhiên tươi đẹp (Cổ phong, Quan san nguyệt...), cảm thông cho người chinh phụ (Trường can hành, Khuê tình, Tử dạ thu ca...), về tình bạn hữu (Tống hữu nhân, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng, Văn Vương Xương Linh thiên Long Tiêu...), tình trai gái (Oán tình, Xuân tứ...), nhớ quê hương (Tĩnh dạ tứ, Ức Đông Sơn...). Nhưng nhiều nhất vẫn là về rượu (Tương Tiến tửu, Bả tửu vấn nguyệt, 4 bài nguyệt hạ độc chước, Xuân nhật độc chước, Đối tửu...).
Lý Bạch làm thơ lối Cổ Phong rất được yêu thích, ngoài ra còn có thơ tứ cú, bát cú.
Trích dẫn tiêu biểu
"Mã nhĩ đông phong" (Tai ngựa, gió đông) - Lý Bạch viết trong bài "Nhớ mười hai đêm lạnh Vua Đáp uống một mình" (荅王十二寒夜獨酌有懷): Thế nhân văn thử giai điệu đầu, hữu như đông phong xạ mã nhĩ (世人聞此皆掉頭、有如東風射馬耳), nghĩa là "Mọi người trong thế giới đều nghe ấy và lắc đầu, thật giống như gió xuân thổi qua tai ngựa".
"Kim Cốc tửu sổ" (Kim Cốc số rượu) - Từ bài thơ "Đêm xuân uống rượu trong vườn đào mận (春夜宴桃李園序)": Như thi bất thành, phạt y Kim Cốc tửu sổ (如詩不成、罰依金谷酒數), nghĩa là "Như thơ không thành, phạt theo số rượu ở Kim Cốc".
Tham khảo
Xem thêm
Hiệp khách hành
Sách tham khảo
Cooper, Arthur (1973). Li Po and Tu Fu: Poems Selected and Translated with an Introduction and Notes (Penguin Classics, 1973). ISBN 978-0-14-044272-4.
Hinton, David (2008). Classical Chinese Poetry: An Anthology. New York: Farrar, Strauss, and Giroux. ISBN 0-374-10536-7 / ISBN 978-0-374-10536-5.
Hinton, David (1998). The Selected Poems of Li Po (Anvil Press Poetry, 1998). ISBN 978-0-85646-291-7.
Holyoak, K. (translator) (2007). Facing the Moon: Poems of Li Bai and Du Fu. (Durham, NH: Oyster River Press). ISBN 978-1-882291-04-5.
Obata, Shigeyoshi. (1922) The Works of Li Po, the Chinese Poet. (New York: Dutton). Reprinted: New York: Paragon, 1965. Free E-Book.
Pound, Ezra (1915). Cathay (Elkin Mathews, London). ASIN B00085NWJI
Stimson, Hugh M. (1976). Fifty-five T'ang Poems. Far Eastern Publications: Yale University. ISBN 0-88710-026-0
Seth, V. (translator) (1992). Three Chinese Poets: Translations of Poems by Wang Wei, Li Bai, and Du Fu. (London: Faber & Faber). ISBN 0-571-16653-9.
Weinberger, Eliot. The New Directions Anthology of Classical Chinese Poetry. (New York: New Directions, 2004). ISBN 0-8112-1605-5. Introduction, with translations by William Carlos Williams, Ezra Pound, Kenneth Rexroth, Gary Snyder, and David Hinton.
Watson, Burton (1971). Chinese Lyricism: Shih Poetry from the Second to the Twelfth Century. New York: Columbia University Press. ISBN 0-231-03464-4
Edkins, Joseph (1888). "Li Tai-po as a Poet", The China Review, Vol. 17 No. 1 (1888 Jul) . Truy cập from , ngày 19 tháng 1 năm 2011.
Eide, Elling (1973). "On Li Po", in Perspectives on the T'ang. New Haven, London: Yale University Press, 367-403.
Frankel, Hans H. (1978). The Flowering Plum and the Palace Lady. (New Haven and London: Yale University Press) ISBN 0-300-02242-5.
Kroll, Paul (2001). "Poetry of the T’ang Dynasty," in Victor H. Mair. ed., The Columbia History of Chinese Literature. (New York: Columbia University Press, 2001). ISBN 0231109849), pp. 274–313.
Stephen Owen 'Li Po: a new concept of genius," in Stephen Owen. The Great Age of Chinese Poetry: The High T'ang. (New Haven Conn.: Yale University Press, 1981). ISBN 9780300023671.
Varsano, Paula M. (2003). Tracking the Banished Immortal: The Poetry of Li Bo and its Critical Reception (University of Hawai'i Press, 2003). ISBN 978-0-8248-2573-7,
Waley, Arthur (1950). The Poetry and Career of Li Po (New York: MacMillan, 1950). ASIN B0006ASTS4.
Wu, John C. H. (1972). The Four Seasons of Tang Poetry. Rutland, Vermont: Charles E. Tuttle. ISBN 978-0-8048-0197-3
Liên kết ngoài
Nhà nho Trung Quốc
Nhà thơ Trung Quốc thời Đường
Người Hồ-Hán
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.