id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19196
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Con%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20t%C6%A1%20l%E1%BB%A5a
|
Con đường tơ lụa
|
Con Đường Tơ Lụa (, ) là một hệ thống các con đường buôn bán nổi tiếng đã từ hàng nghìn năm nối châu Á với châu Âu (cách hay nói là giữa phương Đông và phương Tây).
Địa lý
Con đường tơ lụa to lớn bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh, Trường An (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận toàn châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Triều Tiên và Nhật Bản (Và thậm chí là ở 2 miền Bắc-Nam Việt Nam). Nó có chiều dài khoảng 4.000 dặm, hay là 6.437 km.
Lịch sử
Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới, xuất hiện ít nhất là khoảng 5.300 năm trước. Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quý tộc, sau này lụa tơ tằm được đưa đi các vùng. Con đường tơ lụa dần dần được hình thành từ đó.
Thế kỷ 2 trước Công Nguyên, Trương Khiên nhận lệnh từ Hán Vũ Đế đi về phía Tây tìm người Nguyệt Chi nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đã tìm được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay. Trên đường về ông cùng tùy tùng đã mang theo nhiều sản vật mà triều đình rất quan tâm. Nhờ đó những tuyến đường nhỏ trước đây đã được kết nối lại với nhau, nhiều tuyến mới được khai phá và an toàn hơn do được sự bảo vệ của triều đình. Tuyến đường mà Trương Khiên đã khai phá được người đời sau gọi là Con đường tơ lụa.
Giao lưu văn hóa
Con đường tơ lụa là một con đường huyền thoại nối liền Trung Hoa rộng lớn với vùng Tây Á, gắn liền với hàng ngàn câu chuyện truyền thuyết xa xưa. Không đơn thuần chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán của những "thương nhân lạc đà", Con đường tơ lụa còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn.
Trường An (nay là Tây An) là nơi các thương gia Trung Hoa tập kết hàng hóa, tơ lụa để chuẩn bị cho những chuyến buôn bán lớn qua Con đường tơ lụa. Lạc đà là phương tiện vận chuyển chủ yếu trên con đường thương mại này.
Con đường tơ lụa được coi là một hệ thống những con đường thương mại lớn nhất thế giới thời cổ đại và được coi như cầu nối giữa hai nền văn minh Đông và Tây.
Nhà địa lý học danh tiếng người Đức Ferdinand von Richthofen chính là người khai sinh ra cái tên bằng tiếng Đức Seidenstraße (Con đường tơ lụa) khi ông xuất bản hàng loạt những cuốn sách và những bài nghiên cứu vào giữa thế kỷ 19 về con đường thương mại cổ đại này. Tuy nhiên lịch sử của Con đường tơ lụa có từ trước đó rất lâu. Theo những tài liệu còn lưu lại, Trương Khiên (張騫) người Trung Quốc là người đầu tiên đặt những viên gạch xây nên nền móng của con đường thương mại này. Vào thời nhà Hán (206 TCN-220), ông phải mang những văn kiện ngoại giao từ Trung Quốc đi về vùng đất phía Tây. Chính chuyến Tây du này đã hình thành nên một con đường thương mại phồn thịnh bậc nhất thời bấy giờ.
Kinh tế
Con đường tơ lụa được hình thành từ thế kỷ 2 TCN nhưng ban đầu, con đường này được thành lập với ý định quân sự nhiều hơn mục tiêu thương mại. Muốn tìm được những đồng minh nhằm khống chế bộ lạc Hung Nô (匈奴), năm 138 TCN, vua Hán Vũ Đế đã cử Trương Khiên đi về phía Tây với chiếu chỉ ngoại giao trong tay, nhưng không may Trương Khiên đã bị chính bộ lạc Hung Nô bắt và giam giữ. Sau 10 năm bị bắt giữ, Trương Khiên trốn khỏi trại và vẫn tiếp tục nhiệm vụ, ông hành trình về Trung Á, Tây Vực. Tiếp kiến biết bao vị thủ lĩnh ở khu vực này nhưng chẳng ai chịu giúp nhà Hán cả. Năm 126 TCN, Trương Khiên trở về nước. Tuy thất bại nhưng với những kiến thức và thông tin thu được, ông đã viết cuốn sách Triều dã kim tài trong đó đề cập đến những vùng đất ông đã đặt chân tới, vị trí địa lý, phong tục tập quán, sản vật, hàng hóa và đặc biệt là tiềm năng giao thương.
Triều dã kim tài đã kích thích mạnh các thương gia Trung Hoa. Sau đó Con đường tơ lụa dần được hình thành, người Trung Hoa mang vải lụa, gấm vóc, sa, nhiễu... đến Ba Tư và La Mã đồng thời những doanh nhân các vùng khác cũng tìm đường đến với Trung Hoa.
Thời kỳ đầu, những bậc đế vương và những nhà quý tộc của La Mã thích lụa Trung Hoa đến mức họ cho cân lụa lên và đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân nặng tương đương. Chuyện cũng nói rằng Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra lúc đó chỉ diện váy lụa Trung Quốc mà thôi. Chính trị thời đó cũng có ảnh hưởng lớn đến Con đường tơ lụa. Khi nhà Hán suy vong vào thế kỷ 3, Con đường tơ lụa cũng bị đình lại.
Năm 607, quan viên nhà Tùy là Bùi Củ (裴矩) trở về sau khi thực hiện một chuyến vi hành các nước Tây Vực, và do biết rằng Dạng Đế đang tìm kiếm các mục tiêu để tiến hành chinh phục, Bùi Củ đề xuất với Dạng Đế rằng các nước Tây Vực có rất nhiều châu báu và rằng sẽ dễ dàng thôn tính Thổ Dục Hồn. Do vậy, Dạng Đế bắt đầu tính đến việc tấn công Thổ Dục Hồn để mở ra con đường tơ lụa.
Năm 608, Bùi Củ đã thuyết phục các bộ tộc Thiết Lặc tấn công Thổ Dục Hồn, quân Thiết Lặc đại phá quân Thổ Dục Hồn. Mộ Dung Phục Doãn đưa các thần dân chạy về phía đông, vào Tây Bình quận (gần tương ứng với Tây Ninh, Thanh Hải ngày nay), khiển sứ thỉnh hàng cầu cứu Tùy Dạng Đế. Dạng Đế phái An Đức vương Dương Hùng (楊雄) và Hứa công Vũ Văn Thuật (宇文述) đến tiếp ứng cho Mộ Dung Phục Doãn. Tuy nhiên, khi quân của Vũ Văn Thuật đến Lâm Khương thành, Mộ Dung Phục Doãn trở nên sợ hãi trước sức mạnh của quân Tùy và quyết định chạy trốn về phía tây. Vũ Văn Thuật dẫn binh truy kích, chiếm được hai thành Mạn Đầu và Xích Thủy, chém được trên 3000 thủ cấp, bắt được 200 quý tộc và 4.000 hộ Thổ Dục Hồn mới về. Mộ Dung Phục Doãn chạy về tây nam đến vùng núi tuyết hoang vu, đất cũ của Thổ Dục Hồn rộng 4000 lý theo chiều đông tây và 2000 lý theo chiều bắc nam rơi vào tay nhà Tùy. Triều đình Tùy đặt 4 quận: Thiện Thiện, Thả Mạt, Tây Hải, Hà Nguyên để quản lý hành lang Hà Tây, đưa những tội nhân đến đày ở đất này.
Năm 609, Mộ Dung Phục Doãn đã dẫn quân thoát ra khỏi vùng núi tuyết và đoạt lại đất đai bị mất, sang tháng 5 ÂL, Dạng Đế thân chinh tấn công Thổ Dục Hồn. Quân của Dạng Đế mặc dù gặp những thất bại nhỏ song đã một lẫn nữa buộc Mộ Dung Phục Doãn phải chạy trốn, tái khẳng định quyền kiểm soát của Tùy đối với các vùng đất cũ của Thổ Dục Hồn. Có trong tay Mộ Dung Thuận, Dạng Dế phong người này làm khả hãn, dưới sự trợ giúp của Đại Bảo vương Ni Lặc Chu (尼洛周), tiến về phía tây để cố nắm quyền kiểm soát đối với người Thổ Dục Hồn. Tuy nhiên, đến Tây Bình quận thì Ni Lặc Chu bị bộ hạ sát hại, và Mộ Dung Thuận lại trở về Tùy.
Cùng năm 609, sau khi diệt Thổ Dục Hồn, Tùy Dạng Đế đến Trương Dịch chiêu kiến quân chủ các nước Tây Vực. Kết quả, quân chủ và đại thần của 27 nước Tây Vực đến dự yến, như Cao Xương vương Khúc Bá Nhã.
Để thể hiện sự giàu có đầy đủ của quốc gia, vào tết Nguyên Tiêu năm 610, Tùy Dạng Đế ở đông đô cho biểu diễn nhạc vũ tạp kỹ chiêu đãi các thương nhân người Tây Vực, giữa đêm đốt đèn chiếu sáng như ban ngày, trăng lặn mới thôi. Đồng thời mời người Tây Vực uống rượu no say, người Tây Vực qua đó nhận thấy sự phô trương xa hoa quá độ của Tùy Dạng Đế cùng sự giàu có của nhà Tùy nên về sau càng ra sức tiến hành giao thương mậu dịch, nhờ đó triệt để mở ra con đường tơ lụa đã bị đóng lại hơn ba trăm năm từ thời Ngụy Tấn Nam - Bắc triều.
Khi nhà Đường hưng thịnh, tiếp tục kế thừa cùng phát triển con đường tơ lụa này. Cũng vào thời Đường, do thấy được giá trị của con đường giao thương Đông - Tây này, các vị hoàng đế đã ban hành hàng loạt những chiếu chỉ nhằm khuyến khích thương mại và cũng từ đó, những nhà truyền giáo đã bắt đầu tìm đến với phương Đông. Con đường tơ lụa dưới triều Đường đã trở thành một điểm nhấn rõ nét trong lịch sử thương mại thế giới.
Đến thế kỷ 10, nhà Đường bị lật đổ, Con đường tơ lụa cũng bị suy thoái dần. Tuy nhiên với sự hùng mạnh của đế quốc Nguyên Mông, công việc buôn bán sau đó lại thịnh vượng. Dưới triều Nguyên, một người Ý nổi tiếng là Marco Polo (1254-1324) đã lưu lạc đến Trung Quốc và làm quan ở đây 20 năm, sau đó ông trở về nước bằng Con đường tơ lụa. Ông cũng là người có đóng góp cho sự phát triển của mối giao thương Đông - Tây khi viết nên cuốn sách Marco Polo du ký (tiếng Ý: Il Milione) kể về toàn bộ quá trình lưu lạc đến phương Đông của mình trong đó có đề cập đến những chuyến hàng đầy ắp sản vật trên Con đường tơ lụa.
Nhưng đến giữa thời nhà Minh, Con đường tơ lụa đã bị vương triều này khống chế và bắt mọi người phải nộp thuế rất cao cũng như vương triều này chủ trương đóng cửa đất nước ở cả trên bộ lẫn trên biển và bế quan tọa cảng khiến cho những thương gia nước ngoài phải tìm đến những con đường vận chuyển bằng đường biển hoặc không giao thương với nước Trung Hoa nữa hoặc cả 2. Với việc giao thương qua đường biển phát triển (hình thành Con đường tơ lụa trên biển). Từ thế kỷ thứ 7, Quảng Châu đã được xem là nơi khởi đầu của Con đường tơ lụa trên biển. Trước tiên là các thương gia Ả Rập và sau đó là Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan lần lượt kéo đến giao lưu buôn bán và trao đổi. Quảng Châu tràn ngập hàng hoá của nước ngoài và bản địa, Con đường tơ lụa trên bộ dần dần biến mất. Hồi chuông cáo chung của Con đường tơ lụa này vang lên cũng là lúc người Ba Tư (Iran ngày nay) đã dần học được cách làm tơ lụa của người Trung Hoa và việc trung chuyển tơ lụa từ đó giảm hẳn do người Ba Tư tự làm và bán trực tiếp cho La Mã chứ không nhập khẩu từ nước Trung Hoa nữa.
Nghiên cứu khảo cổ và di vật
Trong những chuyến khảo cổ sau này, người ta đã tìm ra khoảng 50.000 cổ vật nằm rải rác trên Con đường tơ lụa. Chúng là những hiện vật vô giá về lịch sử thương mại thời xưa. Con đường tơ lụa với những chuyến hàng đầy ắp đã trở thành dĩ vãng, những dấu chân lạc đà giờ đã bị cát bụi sa mạc xóa nhòa nhưng cái tên "Con đường tơ lụa" sẽ còn mãi trong lịch sử như một cây cầu kết nối ngoại thương giữa hai nền văn minh Trung Quốc và La Mã.
Dọc theo Con đường tơ lụa có sự hoà trộn và biến hoá trong đức tin tại các địa phương khác nhau đã làm nảy sinh nhiều kiểu đạo Phật khác nhau và có khi không hề giống với đạo Phật nguyên thủy tại Ấn Độ.
Từ kỹ thuật nấu rượu tới Phật giáo và thường được "đổi" bằng hàng hóa, sản vật, người Trung Hoa chuyển đi tơ lụa, thuốc súng, giấy và gốm sứ bằng Con đường tơ lụa. Đổi lại, những kiến thức về thiên văn học giúp Trung Quốc làm sâu thêm những hiểu biết của mình về vũ trụ. Những bản vẽ Mặt Trăng, ngôi sao đã chứng tỏ sự khao khát tìm tòi của người Trung Hoa về vũ trụ. Một tấm bản đồ tìm được ở Đôn Hoàng, Cam Túc làm người ta phải ngạc nhiên: toàn bộ 1.500 vì sao mà con người biết đến 8 thế kỷ sau này đều giống với những gì đã được tả trong tấm bản đồ đó.
Bất chấp vô số những kỳ quan phương Đông mà các thương gia phương Tây đã miêu tả trong các chuyến đi dọc theo Con đường tơ lụa, vẫn có rất nhiều người hoài nghi việc con đường đó có thực sự tồn tại hay không. Chỉ sau khi cha con nhà thám hiểm người Venezia - Niccolò Polo và Marco Polo - trở về sau chuyến hành trình thứ hai, người ta mới bắt đầu tin rằng Con đường tơ lụa là có thật.
Theo bà Susan Whitfield, "Con đường tơ lụa là con đường: Thương mại, Du hành, Chiến tranh và Niềm tin" và gần 800 năm sau chuyến hành trình của Marco Polo, Con đường tơ lụa huyền thoại lại được tái hiện trong cuộc triển lãm do Thư viện Anh vừa tổ chức năm 2004 giúp cho công chúng nhận biết những giá trị thực của Con đường tơ lụa. Chứng tỏ những ảnh hưởng của Con đường tơ lụa đối với những nền văn minh dọc theo con đường là một thành công cực lớn của cuộc triển lãm. Người ta đã phải mất công chuẩn bị suốt 5 năm, và những hiện vật từ Bảo tàng Guimet ở Paris, Pháp, Bảo tàng Nghệ thuật Ấn Độ ở Berlin, Đức, Bảo tàng Miho ở Tokyo, Nhật Bản và bộ sưu tập riêng của Thư viện Anh... đã truyền cho công chúng niềm cảm hứng mà Withfield đã có được sau 20 năm tìm tòi về Trung Hoa cổ đại do làm việc lâu năm ở Trung Quốc.
Con đường tơ lụa đã ăn sâu vào suy nghĩ của nhiều người là những hình ảnh của những đàn súc vật chất đầy hàng hoá, tơ lụa trên lưng, nhẫn nại hướng tới những miền đất lạ.
Con đường tơ lụa trên biển
Ulsan, Hàn Quốc
Ninh Ba, Trung Quốc
Tuyền Châu, Trung Quốc
Quảng Châu, Trung Quốc
Hội An, Việt Nam
Colombo, Sri Lanka
Debal, Pakistan
Poompuhar, Tamil Nadu, Ấn Độ
Korkai, Tamil Nadu, Ấn Độ
Musiri, Kerala, Ấn Độ
Goa, Ấn Độ
Mumbai, Ấn Độ
Cochin, Ấn Độ
Masulipatnam, Ấn Độ
Lothal, Ấn Độ
Derbent, Nga
Astrakhan, Nga
Muscat, Oman
Aden, Yemen
Suez, Ai Cập
Ayas, Thổ Nhĩ Kỳ
Venice, Ý
Roma, Ý
Đông Nam Á
Kedah (Buổi đầu lịch sử của Kedah)
Langkasuka
Ligor
Chi Tu
Gangga Nagara
Malacca
Pan Pan
Muziris, Ấn Độ
Chân Lạp, Ấn Độ
Khmer/Kambuja
Srivijaya, Indonesia
Pasai, Indonesia
Perlak, Indonesia
Luy Lâu, Việt Nam
Hà Nội, Việt Nam
Vân Đồn, Việt Nam
Phố Hiến, Việt Nam
Hội An, Việt Nam
Cù Lao Chàm, Việt Nam
Vijaya, Chăm Pa (Thị Nại, Việt Nam)
Óc Eo, Phù Nam (Việt Nam)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hình ảnh con đường tơ lụa
Con đường tơ lụa: , , , , .
Đường bộ cổ đại
Đường bộ châu Á
Châu Á trung cổ
Lụa
Tuyến đường thương mại
Lịch sử Á-Âu
Lịch sử Trung Á
Lịch sử Đế quốc Trung Hoa
Lịch sử ngoại thương Trung Quốc
Lịch sử quan hệ quốc tế
Quan hệ quốc tế cổ đại
Mạng lưới đường bộ quốc tế
Lịch sử cổ đại Afghanistan
Lịch sử cổ đại Iraq
Lịch sử cổ đại Pakistan
Nhà Hán
Ba Tư
Ngoại thương Pakistan
Quan hệ ngoại giao của La Mã cổ đại
Lịch sử Khorasan
Di sản thế giới tại Trung Quốc
Di sản thế giới tại Kazakhstan
Di sản thế giới tại Kyrgyzstan
|
19198
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/NFPA%20704
|
NFPA 704
|
NFPA 704 là một tiêu chuẩn được Hiệp hội phòng cháy quốc gia Hoa Kỳ đưa ra. Nó được nói đến một cách thông thường như là "hình thoi cháy", được các nhân viên của bộ phận tình trạng khẩn cấp sử dụng để nhanh chóng và dễ dàng xác định các rủi ro gây ra bởi các hóa chất nguy hiểm ở gần đó. Nó là cần thiết để xác định các phương tiện và thiết bị (nếu có) nào là cần thiết và/hoặc các rủi ro/các thủ tục cần phải thực hiện (ví dụ gọi cho đội dọn dẹp HAZMAT).
Biểu tượng
Biểu tượng của NFPA được chia thành 4 phần thông thường là có màu mang ý nghĩa tượng trưng, trong đó màu xanh lam dùng để chỉ các nguy hiểm đối với sức khỏe, màu đỏ dùng để chỉ khả năng cháy, màu vàng dùng để chỉ khả năng phản ứng hóa học, và màu trắng chứa các mã đặc biệt cho các nguy hiểm lạ thường. Tất cả các khả năng gây nguy hiểm cho sức khỏe, khả năng cháy và phản ứng hóa học được đánh giá theo thang độ từ 0 (không nguy hiểm; chất thông thường) tới 4 (cực kỳ nguy hiểm).
Xanh lam/Sức khỏe
4. Phơi nhiễm trong thời gian cực ngắn có thể dẫn đến tử vong hay để lại các tổn thương lớn vĩnh cửu. (Ví dụ Hydro xyanua)
3. Phơi nhiễm trong thời gian ngắn có thể dẫn tới các tổn thương nghiêm trọng tạm thời hay vĩnh cửu. (Ví dụ khí clo, axit sunfuric, hydro lỏng)
2. Phơi nhiễm mạnh hay liên tục nhưng không kinh niên có thể dẫn tới mất khả năng tạm thời hay các tổn thương nhất thời có thể nào đó. (Ví dụ khí anhiđrit cacbonic, clorofom)
1. Sự phơi nhiễm có thể sinh ra kích thích nhưng chỉ có các tổn thương nhỏ. (Ví dụ nhựa thông, butan)
0. Sự phơi nhiễm trong điều kiện cháy không sinh ra các nguy hiểm mặc dù đó là các vật liệu cháy được. (Ví dụ dầu lạc)
Đỏ/Khả năng cháy
4. Bay hơi nhanh chóng và toàn bộ ở nhiệt độ và áp suất thông thường, hoặc rất nhanh phân tán trong không khí và cháy rất nhanh. (Ví dụ prôpan, butan)
3. Các chất lỏng và chất rắn nào có thể bắt lửa dưới gần như mọi điều kiện nhiệt độ môi trường xung quanh. (Ví dụ xăng)
2. Phải có nhiệt độ môi trường xung quanh tương đối cao hay bị đốt nóng vừa phải trước khi có thể bắt lửa. (Ví dụ dầu diesel)
1. Phải đốt nóng trước khi có thể bắt lửa. (Ví dụ tinh dầu cải dầu, khí amonia)
0. Không cháy. (Ví dụ nước)
Vàng/Khả năng phản ứng
4. Có khả năng nổ và phân hủy ở điều kiện nhiệt độ và áp suất bình thường. (ví dụ TNT)
3. Có khả năng nổ và phân hủy nhưng đòi hỏi phải có nguồn kích thích mạnh, phải được đốt nóng trong không gian kín trước khi phản ứng, hoặc có phản ứng gây nổ với nước. (ví dụ fluor)
2. Tham gia phản ứng hóa học mãnh liệt ở nhiệt độ và áp suất cao, phản ứng mãnh liệt với nước, hay có thể tạo hỗn hợp nổ với nước. (ví dụ calci)
1. Thông thường là ổn định, nhưng có thể trở thành không ổn định ở nhiệt độ và áp suất cao. (ví dụ phosphor đỏ)
0. Thông thường là ổn định, thậm chí kể cả trong các điều kiện gần nguồn lửa, và không có phản ứng với nước. (ví dụ nitơ lỏng, butan)
Trắng/Đặc biệt
Khu vực "thông báo đặc biệt" màu trắng có thể chứa một vài biểu tượng sau:
'W' - phản ứng với nước trong các tình huống bất thường hay nguy hiểm.
'OX' - chất oxy hóa
Chỉ có 'W' và 'OX' là phần chính thức của tiêu chuẩn NFPA 704, nhưng các biểu tượng tự giải thích khác thỉnh thoảng cũng được sử dụng trong các tình huống không chính thức.
'COR' - chất ăn mòn; axít hay base mạnh
'ACID' và 'ALK' là cụ thể hơn.
'BIO' - Các chất nguy hiểm sinh học
Hình ba lá phóng xạ () - là biểu tượng phóng xạ.
Liên kết ngoài
Danh sách đánh giá của NFPA cho nhiều hóa chất
Tham khảo
Phòng thí nghiệm hóa chất Đại học Oregon - Hệ thống xác định nguy hiểm NFPA
Quy tắc an toàn
|
19201
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Reflection%20%28khoa%20h%E1%BB%8Dc%20m%C3%A1y%20t%C3%ADnh%29
|
Reflection (khoa học máy tính)
|
Trong khoa học máy tính, reflection (có thể dịch là "phản tỉnh", "tự xét mình") là việc tiến trình có khả năng xem xét, nội quan, và sửa đổi kết cấu cùng với hành trạng của chính nó.
Bối cảnh lịch sử
Các máy tính ban sơ nhất đều được lập trình bằng ngôn ngữ bản địa là hợp ngữ, vốn đã có tính reflection, vì ta có thể lập trình trên những kiến trúc gốc này theo cách là định nghĩa lệnh chỉ thị như dữ liệu và viết code tự sửa được chính nó. Khi việc lập trình phần đông đều chuyển sang những ngôn ngữ biên dịch cấp cao hơn như Algol, Cobol, Fortran, Pascal, và C, thì khả năng reflection này phần lớn biến mất, mãi đến thời những ngôn ngữ lập trình mới hơn thì tính năng reflection có sẵn vào hệ thống kiểu dữ liệu mới xuất hiện lại.
Luận án tiến sĩ năm 1982 của Brian Cantwell Smith đã giới thiệu khái niệm computational reflection trong ngôn ngữ lập trình thủ tục và khái niệm về meta-circular interpreter làm thành phần trong 3-Lisp.
Công dụng
Reflection giúp lập trình viên làm nên các thư viện phần mềm tổng loại để hiển thị dữ liệu, xử lý các định dạng dữ liệu khác nhau, thi hành tuần tự hóa hay khử tuần tự dữ liệu cho việc liên lạc, hoặc làm việc bọc và mở bọc dữ liệu cho các container hoặc các burst trong quá trình liên lạc.
Để sử dụng reflection cho hiệu quả thì hầu như luôn luôn cần có kế hoạch nào đó: framework thiết kế, bản mô tả encoding, thư viện đối tượng, bản đồ cơ sở dữ liệu hoặc quan hệ thực thể.
Reflection làm cho ngôn ngữ hợp với mã hướng mạng hơn. Ví dụ, reflection trợ giúp các ngôn ngữ như Java thao tác tốt hơn trong hệ thống mạng bằng cách tạo điều kiện cho các thư viện cho việc tuần tự hóa, bọc gói và biến thiên các định dạng dữ liệu. Các ngôn ngữ không có reflection như C thì cần phải sử dụng trình biên dịch phụ trợ cho tác vụ, như Abstract Syntax Notation, thì mới tạo được mã cho việc tuần tự hóa và bọc gói.
Reflection có thể được dùng để quan sát và sửa đổi việc thực thi chương trình tại runtime. Thành phần trong chương trình hướng reflection có thể giám sát sự thực thi của vùng code và có thể sửa đổi chính nó tùy theo mục tiêu mong muốn của vùng code đó. Điều này thường đạt được bằng cách gán mã chương trình một cách động ngay tại runtime.
Trong các ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng như Java, reflection cho phép tra duyệt lớp, giao diện, trường và phương thức trong runtime mà không cần biết tên của lớp, giao diện, trường, phương thức đấy tại compile time. Nó cũng cho phép instantiate đối tượng mới và invoke phương thức.
Reflection thường hay được dùng trong kiểm thử phần mềm, chẳng hạn như để tạo/instantiate mock object trong runtime.
Reflection cũng là sách lược then chốt cho lập trình meta.
Trong một số ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng như C# và Java, reflection có thể được dùng để lách khỏi các luật về tính khả cập thành viên. Với property của C#, điều này có thể đạt được bằng cách ghi trực tiếp lên trường chống lưng (thường là bị ẩn) của property non-public. Cũng có thể truy xuất phương thức non-public của lớp và kiểu rồi sau đó invoke nó bằng tay. Điều này dùng được cho file nội bộ dự án cùng với những thư viện bên ngoài như assembly của .NET và archive của Java.
Thực hiện
Ngôn ngữ mà hỗ trợ reflection thì mang lại một số lượng tính năng khả dụng ở runtime, khó mà làm được những tính năng đó nếu dùng ngôn ngữ cấp thấp hơn. Một số tính năng này là:
Khám phá và sửa đổi cấu trúc mã nguồn (chẳng hạn như khối mã, lớp, phương thức, giao thức, v.v.) như đối tượng hạng nhất tại runtime.
Từ chuỗi khớp với tên symbol của lớp hoặc hàm, đổi sang tham chiếu hoặc invocation tới lớp hoặc hàm đó.
Tính giá trị chuỗi như thể nó là mã lệnh trong runtime.
Tạo ra trình thông dịch mới cho bytecode của ngôn ngữ để mang lại ý nghĩa hoặc mục đích mới cho cấu trúc lập trình nào đó.
Các tính năng này có thể được thực hiện theo nhiều cách khác nhau. Trong MOO, reflection là một phần tự nhiên của quán ngữ lập trình thường dụng. Khi động từ (phương thức) được gọi, các biến khác nhau như verb (tên của động từ được gọi) và this (đối tượng mà trên đó động từ được gọi) sẽ tự động được điền vào làm ngữ cảnh cho lệnh gọi đấy. Về bảo mật thì thường được quản lý bằng cách dùng lập trình để truy cập call stack: gọi vào hàm callers() sẽ trả về danh sách các phương thức theo thứ tự gọi dần về động từ hiện hành, nên kiểm tra callers()[0] (tức lệnh do người dùng gốc invoke) cho phép động từ bảo vệ chính mình khỏi việc sử dụng trái phép.
Ngôn ngữ biên dịch thì dựa vào hệ thống runtime để cung cấp thông tin về mã nguồn. Ví dụ: file thực thi được biên dịch từ Objective-C thì nó ghi lại tên của tất cả phương thức ở một khối trong file thực thi đó và dành ra một bảng để sắp các tên đó với các phương thức tương ứng (hoặc selector cho các phương thức tương ứng) trong chương trình. Còn ở ngôn ngữ biên dịch mà có hỗ trợ tạo ra hàm ngay ở runtime, chẳng hạn Common Lisp, thì môi trường runtime phải có kèm cả trình biên dịch hoặc trình thông dịch.
Reflection có thể được thực hiện cho các ngôn ngữ không có sẵn reflection bằng cách sử dụng hệ biến đổi chương trình để vạch ra đường lối biến đổi tự động cho mã nguồn.
Cân nhắc bảo mật
Reflection có thể cho phép người dùng tạo ra dòng điều khiển không ngờ được xuyên qua ứng dụng và có thể lách khỏi các biện pháp bảo mật. Điều này có thể bị những kẻ tấn công khai thác. Các lỗ hổng trong lịch sử ở Java do 'reflection không an toàn' gây ra có thể tạo điều kiện cho code truy xuất đến máy bất khả tín ở xa, từ đó thoát khỏi cơ chế bảo mật sandbox của Java. Một nghiên cứu quy mô lớn về 120 lỗ hổng Java vào năm 2013 đã kết luận rằng 'reflection không an toàn' là lỗ hổng phổ biến nhất trong Java, mặc dù không phải là cái bị khai thác nhiều nhất.
Ví dụ
Các đoạn mã sau đây đều tạo ra một instance của lớp rồi gọi phương thức của nó. Với mỗi ngôn ngữ lập trình, trình tự lệnh để gọi bình thường và trình tự lệnh để gọi dựa trên reflection đều được thể hiện.
C#
Sau đây là ví dụ trong C#:// Không dùng reflection
Foo foo = new Foo();
foo.PrintHello();
// Dùng reflection
Object foo = Activator.CreateInstance("complete.classpath.and.Foo");
MethodInfo method = foo.GetType().GetMethod("PrintHello");
method.Invoke(foo, null);
Delphi / Object Pascal
Ví dụ Delphi / Object Pascal sau đây giả định rằng có một lớp đã được khai báo trong một đơn vị được gọi là :uses RTTI, Unit1;
// Không dùng reflection
procedure WithoutReflection;
var
Foo: TFoo;
begin
Foo := TFoo.Create;
try
Foo.Hello;
finally
Foo.Free;
end;
end;
// Dùng reflection
procedure WithReflection;
var
RttiContext: TRttiContext;
RttiType: TRttiInstanceType;
Foo: TObject;
begin
RttiType := RttiContext.FindType('Unit1.TFoo') as TRttiInstanceType;
Foo := RttiType.GetMethod('Create').Invoke(RttiType.MetaclassType, []).AsObject;
try
RttiType.GetMethod('Hello').Invoke(Foo, []);
finally
Foo.Free;
end;
end;
eC
Sau đây là ví dụ trong eC:// Không dùng reflection
Foo foo { };
foo.hello();
// Dùng reflection
Class fooClass = eSystem_FindClass(__thisModule, "Foo");
Instance foo = eInstance_New(fooClass);
Method m = eClass_FindMethod(fooClass, "hello", fooClass.module);
((void (*)())(void *)m.function)(foo);
Go
Sau đây là ví dụ trong Go:import "reflect"
// Không dùng reflection
f := Foo{}
f.Hello()
// Dùng reflection
fT := reflect.TypeOf(Foo{})
fV := reflect.New(fT)
m := fV.MethodByName("Hello")
if m.IsValid() {
m.Call(nil)
}
Java
Sau đây là ví dụ trong Java:import java.lang.reflect.Method;
// Không dùng reflection
Foo foo = new Foo();
foo.hello();
// Dùng reflection
try {
Object foo = Foo.class.getDeclaredConstructor().newInstance();
Method m = foo.getClass().getDeclaredMethod("hello", new Class<?>[0]);
m.invoke(foo);
} catch (ReflectiveOperationException ignored) {}
JavaScript
Sau đây là ví dụ trong Javascript:// Không dùng reflection
const foo = new Foo()
foo.hello()
// Dùng reflection
const foo = Reflect.construct(Foo)
const hello = Reflect.get(foo, 'hello')
Reflect.apply(hello, foo, [])
// Dùng eval
eval('new Foo().hello()')
Julia
Sau đây là ví dụ trong Julia:julia> struct Point
x::Int
y
end
# Tra duyệt bằng reflection
julia> fieldnames(Point)
(:x, :y)
julia> fieldtypes(Point)
(Int64, Any)
julia> p = Point(3,4)
# Truy cập bằng reflection
julia> getfield(p, :x)
3
Objective-C
Sau đây là ví dụ trong Objective-C, ngầm định rằng code đang sử dụng framework OpenStep hoặc Foundation Kit:// lớp Foo.
@interface Foo : NSObject
- (void)hello;
@end
// Gửi "hello" tới instance Foo, không dùng reflection.
Foo *obj = [[Foo alloc] init];
[obj hello];
// Gửi "hello" tới instance Foo, có dùng reflection.
id obj = [[NSClassFromString(@"Foo") alloc] init];
[obj performSelector: @selector(hello)];
Perl
Sau đây là ví dụ trong Perl:# Không dùng reflection
my $foo = Foo->new;
$foo->hello;
# hoặc
Foo->new->hello;
# Dùng reflection
my $class = "Foo"
my $constructor = "new";
my $method = "hello";
my $f = $class->$constructor;
$f->$method;
# hoặc
$class->$constructor->$method;
# Dùng eval
eval "new Foo->hello;";
PHP
Sau đây là ví dụ trong PHP:// Không dùng reflection
$foo = new Foo();
$foo->hello();
// Dùng reflection, thông qua Reflections API
$reflector = new ReflectionClass('Foo');
$foo = $reflector->newInstance();
$hello = $reflector->getMethod('hello');
$hello->invoke($foo);
Python
Sau đây là ví dụ trong Python:# Không dùng reflection
obj = Foo()
obj.hello()
# Dùng reflection
obj = globals()["Foo"]()
getattr(obj, "hello")()
# Dùng eval
eval("Foo().hello()")
R
Sau đây là ví dụ trong R:# Không dùng reflection, coi như foo() trả về đối tượng kiểu S3 có mang phương thức "hello"
obj <- foo()
hello(obj)
# Dùng reflection
class_name <- "foo"
generic_having_foo_method <- "hello"
obj <- do.call(class_name, list())
do.call(generic_having_foo_method, alist(obj))
Ruby
Sau đây là ví dụ sử dụng Ruby:# Không dùng reflection
obj = Foo.new
obj.hello
# Dùng reflection
class_name = "Foo"
method_name = :hello
obj = Object.const_get(class_name).new
obj.send method_name
# Dùng eval
eval "Foo.new.hello"
Xojo
Sau đây là ví dụ sử dụng Xojo:' Không dùng reflection
Dim fooInstance As New Foo
fooInstance.PrintHello
' Dùng reflection
Dim classInfo As Introspection.Typeinfo = GetTypeInfo(Foo)
Dim constructors() As Introspection.ConstructorInfo = classInfo.GetConstructors
Dim fooInstance As Foo = constructors(0).Invoke
Dim methods() As Introspection.MethodInfo = classInfo.GetMethods
For Each m As Introspection.MethodInfo In methods
If m.Name = "PrintHello" Then
m.Invoke(fooInstance)
End If
Next
Xem thêm
Mô phạm lập trình
Ghi chú thuật ngữ
Tham khảo
Trích dẫn
Nguồn
Jonathan M. Sobel và Daniel P. Friedman. An Introduction to Reflection-Oriented Programming (1996), Đại học Indiana.
Anti-Reflection technique using C# and C++/CLI wrapper to prevent code thief
Đọc thêm
Ira R. Forman và Nate Forman, Java Reflection in Action (2005),
Ira R. Forman và Scott Danforth, Putting Metaclasses to Work (1999),
Liên kết ngoài
Reflection in logic, functional and object-oriented programming: a short comparative study
An Introduction to Reflection-Oriented Programming
Các trang của Brian Foote bàn về Reflection trong Smalltalk
Java Reflection API Tutorial từ Oracle
Cấu trúc lập trình
|
19204
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hangul
|
Hangul
|
Hangeul (, cách gọi của Hàn Quốc ) hay Choson'gul (, cách gọi của Bắc Triều Tiên ), cũng được gọi là Chữ Triều Tiên hay Chữ Hàn Quốc là một bảng chữ cái tượng thanh của người Triều Tiên dùng để viết Tiếng Triều Tiên, khác với hệ thống vân tự ngữ tố Hanja mượn từ chữ Hán.
Thoạt nhìn, Hangul trông có vẻ như kiểu chữ biểu ý hay tượng hình, nhưng thực sự nó là chữ biểu âm. Mỗi đơn vị âm tiết của Hangul bao gồm ít nhất hai trong số 24 tự mẫu (chamo): 14 phụ âm và 10 nguyên âm. Trong lịch sử, bảng chữ cái tiếng Triều Tiên có một số nguyên âm và phụ âm nữa. (Xem Chamo không dùng nữa.)
Tên gọi
Tên chính thức
Thời kỳ Nhà Triều Tiên, Hangul có tên gọi ban đầu là Huấn dân chính âm (훈민정음; Hunminjŏngŭm; 訓民正音). (Xem Lịch sử)
Tên gọi hiện nay Hangul (한글, chữ Hàn) được Ju Si-gyeong đưa ra năm 1912 vừa có nghĩa là "đại văn tự" trong tiếng Triều Tiên cổ và "văn tự Triều Tiên" trong tiếng Triều Tiên hiện đại. Nó không thể viết bằng chữ Hán được, mặc dù âm tiết đầu, Han (한), nếu dùng theo nghĩa là "Triều Tiên", thì có thể viết là 韓 (Hàn). Theo Bảng mẫu tự phiên âm quốc tế (IPA), nó được đọc là , và được phiên âm Latinh hóa thành các dạng sau:
Hangeul, hay Han-geul, theo phương pháp phiên âm Latinh cải tiến tiếng Triều Tiên mà chính phủ Hàn Quốc sử dụng và khuyến khích sử dụng trong mọi văn bản bằng tiếng Anh. Nhiều tài liệu gần đây đã chọn cách viết này.
Han'gŭl theo phương pháp phiên âm McCune-Reischauer. Khi dùng trong tiếng Anh thì thông thường các dấu phụ bị loại bỏ và trở thành Hangul, hay đôi khi cũng không viết hoa là hangul. Cách viết này xuất hiện trong nhiều từ điển tiếng Anh.
Hankul theo phương pháp phiên âm Latinh hóa kiểu Yale, một cách viết phổ biến nữa trong các từ điển tiếng Anh.
Ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, nó được gọi là Choson'gul (조선글), xem các nguyên nhân liên quan đến các tên gọi khác nhau về Triều Tiên.
Các tên khác
Chính âm, tên gọi ngắn cho Huấn dân chính âm (Xem Lịch sử)
Urigeul (우리글 "chữ viết chúng ta") được dùng cả ở miền Nam và Bắc Triều Tiên, nhưng người không phải Triều Tiên không sử dụng.
Cho tới đầu thế kỷ XX, những nho sĩ và quý tộc vẫn chuộng chữ Hán và thường bài bác Hangul, họ hay gọi bảng chữ cái với những tên như là:
Ngạn văn (언문 諺文, nghĩa là "chữ viết thô tục").
Amkeul (암클 "chữ viết đàn bà"), nguyên do là nữ giới thường dùng loại chữ này. 암- (có lẽ xuất phát từ chữ 陰 "âm" là tiền tố chỉ giống cái).
Ahaegeul (아해글 "chữ viết trẻ con") vì những đứa trẻ không thể học chữ Hán cũng hay dùng Hangul.
Và một số tên gọi khác như:
Achimgeul (아침글 "chữ viết học trong vòng một buổi sáng")
Quốc văn (국문, , gukmun)
Tuy nhiên, việc sử dụng chữ Hán tại Hàn Quốc ngày càng hiếm kể từ vài thập kỷ nay, và tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên thì bị cấm hẳn, do vậy các tên gọi này ngày nay chỉ ghi nhận trong lịch sử mà không còn dùng nữa.
Lịch sử
Hangul được vị vua thứ tư của nhà Triều Tiên là Triều Tiên Thế Tông (1418-1450) sáng tạo với sự góp sức của các nhân sĩ trong Tập hiền điện (集賢殿, 집현전. Chiphyŏnjŏn). Cũng có một số chi tiết cho thấy vua Thế Tông có lẽ được các thành viên vương tộc hỗ trợ và làm việc trong vòng bí mật vì gặp phải phản đối của tầng lớp trí thức ưu tú.
Hệ thống chữ viết này hoàn thành vào cuối tháng 12 năm 1443 hoặc tháng 1 năm 1444, và ấn bản năm 1446 trong một tài liệu có tựa Huấn dân chính âm (Hunmin Jeong-eum) và đó cũng là tên của hệ thống ký tự mới này. Ở Hàn Quốc, ngày ấn bản của Huấn dân chính âm, 9 tháng 10, là một ngày lễ mang tên ngày Hangul tại Hàn Quốc. Tại CHDCND Triều Tiên đó là ngày 15 tháng 1.
Một huyền thoại xưa kể rằng vua Thế Tông nhận ra các chữ viết này sau khi tìm hiểu một ma trận phức tạp, nhưng điều võ đoán này không còn giá trị nữa từ khi một tài liệu viết năm 1446 có tên gọi Huấn dân chính âm giải lệ (Hunminjŏngŭm Haerye) được phát hiện vào năm 1940. Tài liệu này giải thích cặn kẽ vì sao những chữ cái này được thiết kế. (Xem Thiết kế chamo.)
Vua Thế Tông giải thích việc ông tạo ra chữ viết mới là vì chữ Hán (Hancha) dùng cho các văn bản tiếng Triều Tiên thường không chính xác và khó phổ cập cho tầng lớp bình dân (Huấn dân chính âm có nghĩa là "Âm chuẩn để giáo dục dân"), vì vậy người dân cần có một thứ chữ mới giúp nhanh chóng và dễ dàng xóa nạn mù chữ của họ. Huấn dân chính âm giải lệ viết rằng, một người thông minh có thể học xong bảng chữ cái trong vòng một buổi sáng, còn những người khù khờ thì cũng chỉ cần mười ngày. Vào thời điểm đó, chỉ có những người đàn ông thuộc tầng lớp quý tộc (lưỡng ban) (yangban 兩班) mới được học đọc và viết Hanja. Và vì toàn bộ văn bản viết bằng Hanja nên đa số người Triều Tiên đều mù chữ.
Hangul bị tầng lớp trí thức ưu tú phản đối kịch liệt, cho rằng chỉ có Hancha mới là chữ viết hợp pháp duy nhất, đồng thời họ cũng e sợ địa vị xã hội và chính trị của họ sẽ bị bảng chữ cái đe dọa. Những phản đối của Thôi Vạn Lý (崔萬里, 최만리, Ch'oe Malli) và các nhà hủ Nho khác vào năm 1444 là một ví dụ cụ thể. Dầu sao thì hệ thống ký tự mới này nhanh chóng phổ biến rộng rãi trong nhân dân, nhất là nữ giới và những nhà văn tầng lớp dưới. Tuy nhiên sau đó triều đình thờ ơ hơn với Hangul. Trước tình hình người dân có thể nhanh chóng truyền đi các thông tin "nguy hiểm" thông qua hệ thống ký tự bảng chữ cái, Yên San Quân (1494-1506), vị vua thứ 10 của nhà Triều Tiên cấm việc học và sử dụng Hangul cũng như cấm hẳn các tài liệu về nó vào năm 1504, và vua Trung Tông (1506-1544) xóa bỏ luôn Bộ Hanja vào năm 1506. Đến lúc này chỉ có phụ nữ và những người không được học hành tử tế mới dùng Hangul.
Tuy nhiên, không lâu sau đó, vào cuối thế kỷ XVI Hangul trở nên thịnh đạt dần cùng với sự phát triển của hai trào lưu thi ca là Kasa (歌詞) và Sijo (時調). Trong thế kỷ XVII, các tiểu thuyết viết bằng Hangul trở thành "mốt", mặc dù việc sử dụng bảng chữ cái vẫn chưa được xem là hợp pháp.
Vào cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa dân tộc Triều Tiên phát triển mạnh mẽ khi Nhật Bản muốn tách Triều Tiên ra khỏi vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Hangul từ đó trở thành một biểu tượng quốc gia dân tộc đối với một số nhà cách mạng. Cuộc cải cách Giáp Ngọ (갑오 개혁) do các nhà chính trị theo Nhật khởi xướng đưa đến việc bảng chữ cái được chọn dùng trong các tài liệu chính thức lần đầu tiên vào năm 1894. Nó được dạy trong các trường phổ thông vào năm 1895, và vào năm 1896 tờ báo Độc lập tân văn (獨立新聞, 독립신문, Tongnip Sinmun) viết bằng tiếng Anh và Hangul ra đời.
Sau khi Triều Tiên bị Nhật Bản thôn tính vào năm 1910, Hangul vẫn được dạy tại các trường học kèm với tiếng Nhật, tuy nhiên sau đó bị cấm vì chính sách đồng hóa văn hóa của Nhật Bản.
Chamo
Chamo (자모; 字母 (tự mẫu, nghĩa là "chữ cái") hay natsori (낱소리) nghĩa là các chữ cái cấu thành Hangul.
Có tất cả 51 chamo, trong đó 24 chữ tương đương với các chữ cái của bảng chữ cái Latinh. 27 chữ còn lại là các chữ phức gồm hai, đôi khi ba chamo. Trong 24 chamo đơn thì 14 là phụ âm (cha-ŭm 자음, 子音 - tử âm) và 10 là nguyên âm (mo-eum 모음, 母音 - mẫu âm). Năm phụ âm đơn được nhân đôi để tạo thành năm phụ âm thời thái (xem dưới đây), trong khi đó 11 chữ phức khác được cấu thành từ hai phụ âm khác nhau. Mười nguyên âm chamo có thể được kết hợp để tạo thành 11 nguyên âm đôi. Dưới đây là bảng tóm tắt:
Các chamo đang được sử dụng:
14 phụ âm đơn: ㄱㄴㄷㄹㅁㅂㅅㅇㅈㅊㅋㅌㅍㅎ.
5 phụ âm kép: ㄲㄸㅃㅆㅉ.
11 phức từ phụ âm: ㄳㄵㄶㄺㄻㄼㄽㄾㄿㅀㅄ>
6 nguyên âm đơn: ㅏㅓㅗㅜㅡㅣ
4 nguyên âm đơn ngạc hóa bằng y: ㅑㅕㅛㅠ
11 nguyên âm đôi: ㅐㅒㅔㅖㅘㅙㅚㅝㅞㅟㅢ
Các chamo không còn được sử dụng:
Những phụ âm đơn không dùng nữa là ㅿㆁㆆㅱㅸㆄ
Những phụ âm kép không dùng nữa là ㅥㆀㆅㅹ
Những phức từ không dùng nữa là ㅦㅧㅨㅪㅬㅭㅮㅯㅰㅲㅳㅶㅷㅺㅻㅼㅽㅾㆂㆃ, và phức từ ba ㅩㅫㅴㅵ
Nguyên âm không dùngㆍ
Các nguyên âm đôi không dùng ㆎㆇㆈㆉㆊㆋㆌ
Bốn trong số các nguyên âm đơn chamo phái sinh bằng một dấu ngắn để chỉ ngạc hóa (với y đằng trước): ㅑ ya, ㅕ yeo, ㅛ yo và ㅠ yu. Bốn nguyên âm này được tính trong 24 chamo đơn vì dấu ngạc hóa bằng y nằm ngoài văn cảnh không thể hiện y. Trên thực tế, những nguyên âm với dấu y không được coi là chamo riêng biệt.
Đối với những phụ âm đơn, ㅊ chieut, ㅋ kieuk, ㅌ tieut và ㅍ pieup là các từ phát sinh có âm bật hơi cấu thành lần lượt từ các phụ âm chính ㅈ jieut, ㄱ giyeok, ㄷ digeut và ㅂ bieup, thêm vào các dấu thể hiện âm hơi.
Các phụ âm nhân đôi gồm hai phụ âm riêng biệt đặt song song nhau, bao gồm: ㄲ ssang-giyeok (kk: ssang- 쌍 "kép"), ㄸ ssang-digeut (tt), ㅃ ssang-bieup (pp), ㅆ ssang-siot (ss), và ㅉ ssang-jieut (jj). chamo nhân đôi không thể hiện phụ âm nhân đôi, mà thể hiện thời thái.
Các âm của các chamo phụ âm đơn và đôi không phát âm được một mình trong văn bản thông thường.
Về phân loại có ba loại chamo chính:
Sơ thanh hay âm đầu (초성, 初聲, choseong): thanh mẫu của phụ âm trước nguyên âm. Loại này cũng bao gồm tất cả năm chamo nhân đôi. chamo câm ㅇ dùng để chỉ khi không có sơ thanh.
Vị trí: đặt trên đầu, bên trái, hay góc trên bên trái của đơn vị âm tiết.
Xem: Bảng phụ âm và nguyên âm Hangul#Sơ thanh
Trung thanh hay âm giữa (중성, 中聲 jungseong): các nguyên âm bao gồm các nhân âm tiết.
Vị trí: nằm giữa đơn vị âm tiết nếu có một chung thanh, nếu không sẽ nằm bên phải hoặc bên dưới.
Xem danh sách các trung thanh tại #Thiết kế chamo nguyên âm
Chung thanh hay âm cuối (종성, 終聲 jongseong): đuôi vần của phụ âm sau nguyên âm. Các chamo cơ bản có thể là chung thanh, và sơ thanh câm ㅇ đọc là ng ở vị trí cuối. Tuy nhiên, chỉ có chamo nhân đôi ㅆ (ss) và ㄲ (kk) là có thể ở cuối.
Vị trí: đặt bên dưới, bên phải hay góc dưới bên phải của đơn vị âm tiết.
Xem: Bảng phụ âm và nguyên âm Hangul#Chung thanh
Thiết kế chamo
Hangul là kiểu chữ viết duy nhất trên thế giới thuộc loại đặc trưng. Một ký tự có thể tương ứng một từ nên có thể được coi là kiểu chữ biểu ý (hay còn gọi là chữ tượng hình như trong trường hợp dùng hancha), hay thuộc kiểu âm tiết (như kana), hay thuộc kiểu chữ viết mẫu tự (tức là dùng một bảng chữ cái gồm có nhiều phụ âm và/hoặc nguyên âm như trong trường hợp này). Hangul còn hơn thế nữa khi phân biệt các tính chất ngữ âm như vị trí phát âm (môi, đầu lưỡi, vòm mềm, thanh hầu) cũng như cách phát âm (âm tắc, âm mũi, âm xuýt, âm hơi) đối với các chamo phụ âm, cũng như ngạc hóa (với âm y- đằng trước), hài hòa nguyên âm và biến đổi nguyên âm (umlaut) đối với các chamo nguyên âm.
Chẳng hạn, chamo ㅌ t gồm có ba nét, mỗi nét đều có nghĩa: nét trên cùng để chỉ đó là âm tắc, như 응 ’, ㄱ g, ㄷ d, ㅂ b, ㅈ j, đều có cùng nét (chamo cuối là âm tắc xát, một chuỗi tắc-xát); nét giữa chỉ đó là âm hơi, như ㅎ h, ㅋ k, ㅍ p, ㅊ ch, cũng có nét này; và nét cong bên dưới để chỉ âm đầu lưỡi, như ㄴ n, ㄷ d, ㄹ l. Hai phụ âm, ㅇ và ㅁ, có cách phát âm kép, và có thể lần lượt dùng hai thành tố để miêu tả (/câm và /).
Đối với chamo nguyên âm, nét chấm lúc trước (nay là nét gạch nối ngắn) cho biết nguyên âm đó có thể được ngạc hóa; nét này nếu được nhân đôi sẽ chỉ ngạc hóa thực sự (y-). Vị trí của nét này cho biết nguyên âm thuộc lớp hài hòa nguyên âm nào ("sáng" và "tối"). Đối với chamo hiện đại, một nét dọc thêm vào để chỉ umlaut, sinh ra ㅐ , ㅔ , ㅚ , ㅟ từ ㅏ , ㅓ , ㅗ , ㅜ . Tuy nhiên, đây không nằm trong ý đồ ban đầu của việc thiết kế kiểu chữ viết này mà là quá trình phát triển tự nhiên ban đầu từ đuôi nguyên âm đôi trong nguyên âm ㅣ. (v.d. ㅐ , ㅚ , v.v.) Thực ra, trong các giọng Triều Tiên, kể cả giọng chuẩn Seoul, một số vẫn còn là nguyên âm đôi.
Mặc dù việc thiết kế ra chữ viết này có thể là kiểu đặc trưng, vì các lý do thực dụng mà nó được coi như bảng chữ cái. Chẳng hạn, chamo ㅌ không đọc như ba chữ đầu lưỡi-tắc-hơi, mà chỉ là phụ âm t. Cũng như vậy, nguyên âm đôi trước đây ㅔ được đọc như một nguyên âm độc lập e.
Bên cạnh chamo, Hangul cũng dùng dấu phụ để chỉ dấu nhấn giọng (pitch accent). Một âm tiết với âm cao được đánh dấu chấm (·) bên trái của nó (khi viết theo chiều dọc); một âm tiết có âm lên cao được đánh hai dấu chấm (:). Những dấu này ngày nay không còn dùng nữa. Tuy vậy, mặc dù chiều dài nguyên âm là yếu âm vị quan trọng trong tiếng Triều Tiên, nó không thể hiện ra trong bảng chữ cái, ngoại trừ những âm tiết với âm lên cao thì bắt buộc phải có nguyên âm dài.
Mặc dù chia sẻ một vài tính chất với mẫu tự Mông Cổ (Phagspa) (tức âm vị học Ấn ), như các quan hệ giữa các chamo cùng cơ quan phát âm và nguyên tắc lập bảng chữ cái của nó, các tính chất khác thì ảnh hưởng của chữ viết katakana Nhật Bản, như đơn vị âm tiết và các phụ âm cơ bản. Âm tắc không kêu không bật hơi như g cho ㄱ , d cho ㄷ , và b for ㅂ được coi là cơ bản trong tiếng Hàn, nhưng không có trong ngôn ngữ Ấn; cũng như âm xuýt s cho ㅈ và âm chảy (liquid consonant) l cho ㄹ . (ㅈ được phát âm là vào thế kỷ XV.)
Trong Huấn dân chính âm, Thế Tông giải thích cách thiết kế các phụ âm theo theo hình dáng miệng khi phát âm (nguyên tắc ngữ âm học phát âm); còn nguyên âm thì theo nguyên tắc âm và dương cũng như hài hòa nguyên âm.
Thiết kế chamo phụ âm
Các mẫu tự cho phụ âm thuộc năm nhóm cơ quan phát âm, mỗi nhóm có một hình cơ bản, và các mẫu tự phát sinh từ những hình này bằng cách cho thêm vào các nét phụ. Các hình cơ bản mô hình hóa các bộ phận như lưỡi, vòm miệng, răng, và thanh môn sử dụng khi tạo âm thanh.
Các tên Triều Tiên cho các nhóm này dùng thuật ngữ ngữ âm học truyền thống bằng tiếng Hán-Hàn.
Âm vòm mềm (아음, 牙音 a-eum: "nha âm"):
ㄱ g , ㅋ k
Hình cơ bản: ㄱ là hình nhìn phía bên cạnh lưỡi khi kéo về phía vòm miệng mềm. (Để minh họa xin xem liên kết ngoài phía dưới.) Mẫu tự ㅋ phái sinh từ ㄱ, với một nét phụ thể hiện sự bật hơi.
Âm đầu lưỡi (설음, 舌音 seol-eum: "thiệt âm"):
ㄴ n , ㄷ d , ㅌ t , ㄹ r/l
Hình cơ bản: ㄴ là hình nhìn bên cạnh đầu lưỡi khi kéo về phía ổ răng. Các mẫu tự phái sinh từ ㄴ được phát âm với cùng cách phát âm cơ bản. Nét trên của ㄷ thể hiện sự kết nối chặt với vòm miệng. Nét giữa của ㅌ thể hiện sự bật hơi. Nét trên của ㄹ thể hiện một âm vỗ của lưỡi.
Âm đôi môi (순음, 唇音 sun-eum: "thần âm"):
ㅁ m , ㅂ b , ㅍ p
Hình cơ bản: ㅁ thể hiện viền ngoài của đôi môi. Nét trên của ㅂ thể hiện sự bật ra của b. Nét trên của ㅍ thể hiện sự bật hơi.
Âm xuýt (치음, 齒音 chieum: "xỉ âm"):
ㅅ s , ㅈ j , ㅊ ch
Hình cơ bản: ㅅ ban đầu có hình như một mũi nhọn ʌ, không có chân chữ (serif) phía trên. Nó thể hiện hình nhìn bên cạnh của răng. Nét trên trong ㅈ thể hiện sự kết nối với vòm miệng. Nét trên trong ㅊ thể hiện thêm một âm bật hơi.
Âm thanh hầu (후음, 喉音 hueum: "hầu âm"):
ㅇ ng , ㅎ h
Hình cơ bản: ㅇ là đường viền của thanh môn. Ban đầu ㅇ là hai mẫu tự, một vòng đơn thể hiện sự câm lặng (âm trống), và một vòng tròn phía trên có nét sổ dọc phía trên, ㆁ, thể hiện âm mũi ng. Mẫu tự nay không dùng nữa là ㆆ, thể hiện âm tắc thanh hầu (glottal stop), được phát âm trong thanh môn và được đóng lại thể hiện bằng nét trên, như ㄱㄷㅈ. Phái sinh từ ㆆ là ㅎ, trong đó nét dùng thêm thể hiện sự bật hơi.
Thuyết ngữ âm gắn với sự phái sinh của âm tắc thanh hầu ㆆ và âm hơi ㅎ từ ㅇ chính xác hơn cách dùng IPA hiện đại. Trong IPA, các âm thanh hầu đặt ở vị trí như thể có một vị trí phát âm "thanh hầu" nào đó. Tuy nhiên, một thuyết ngữ âm gần đây cho thấy âm tắc thanh hầu và [h] là những đặc trưng riêng biệt của 'âm tắc' và 'âm hơi' mà không có một vị trí phát âm thực sự, như trong các cách phát âm dựa trên ký hiệu vòng ㅇ.
Thiết kế chamo nguyên âm
Các mẫu tự nguyên âm được thiết kế dựa trên ba yếu tố:
Một nét ngang thể hiện Mặt Đất bằng phẳng, tức yếu tố âm.
Một chấm thể hiện Mặt Trời, tức yếu tố dương. (Chấm này trở thành nét sổ ngắn khi viết bằng bút lông.)
Một nét thẳng thể hiện Con người đứng thẳng, trung tố điều hòa cả âm và dương.
Các chấm (ngày nay là các nét gạch ngắn) được thêm vào ba yếu tố cơ bản này để phái sinh thêm các chamo nguyên âm đơn khác.
Nguyên âm đơn
Mẫu tự ngang: đây là các mẫu tự nguyên âm sau.
ㅗ o (đọc là ô)
ㅜ u
ㅡ eu (ŭ, đọc là ư)
Mẫu tự đứng: đây từng là các mẫu tự nguyên âm trước. (ㅓ eo đã chuyển về vị trí sau của miệng, đọc là ơ hay o)
ㅏ a
ㅓ eo (ŏ, đọc là o hay ơ)
ㅣ i
Chamo phức. Hangul không bao giờ có một âm w, ngoại trừ theo từ nguyên học Hán-Hàn. Vì o hay u trước a hay eo thành âm , mà không có ở đâu khác, có thể được phân tích như một o hay u âm vị, như vậy không cần mẫu tự cho . Tuy nhiên, cần tuân theo luật hài hòa nguyên âm ở đây: ㅜ âm với ㅓ âm; ㅏ dương với ㅗ dương. Mặt khác, chamo phức kết thúc bằng ㅣ i ban đầu là các nguyên âm đôi. Mặc dù vậy một số đã trở thành nguyên âm hoàn toàn.
ㅐ = ㅏ + ㅣ (ai > ae)
ㅔ = ㅓ + ㅣ (ei > e)
ㅘ = ㅗ + ㅏ (oa > wa)
ㅙ = ㅗ + ㅏ + ㅣ (oai > wae)
ㅚ = ㅗ + ㅣ (oi > oe)
ㅝ = ㅜ + ㅓ (ue > weo)
ㅞ = ㅜ + ㅓ + ㅣ (uei > uê)
ㅟ = ㅜ + ㅣ (ui > uy)
ㅢ = ㅡ + ㅣ (ưi > ī)
Nguyên âm ngạc hóa: không có chamo y- trong hệ Latinh. Thay vào đó, âm này thể hiện bằng cách nhân đôi nét nối vào nét gốc.
ㅑ = ㅏ + một nét
ㅕ = ㅓ + một nét
ㅛ = ㅗ + một nét
ㅠ = ㅜ + một nét
ㅒ = ㅐ + một nét
ㅖ = ㅔ + một nét
Người ta dùng hai phương pháp để tổ chức và phân loại các nguyên âm này là hài hòa nguyên âm và ngạc hóa y.
Trong bảy nguyên âm, bốn có thể có âm y- đằng trước ("ngạc hóa y"). Bốn nguyên âm này được viết với một nét ngang cạnh một nét dọc: ㅓㅏㅜㅗ. (Do ảnh hưởng của thư pháp Trung Hoa, các chấm trở thành gạch nối như thế.) Ngạc hóa khi đó thể hiện bằng cách nhân đôi các nét gạch ngang này: ㅕㅑㅠㅛ. Ba nguyên âm còn lại không ngạc hóa được thì được viết bằng nét gạch đơn: ㅡㆍㅣ.
Tiếng Triều Tiên giai đoạn này có hài hòa nguyên âm hơn ngày nay rất nhiều. Nguyên âm thay đổi tuỳ theo môi trường của chúng, và thuộc vào các nhóm "điều hòa". Điều này ảnh hưởng đến hình thái học của tiếng này, và âm vị học của tiếng Triều Tiên được miêu tả theo âm và dương: nếu một từ có nguyên âm dương ('sáng'), thì hầu hết các hậu tố cũng phải có một nguyên âm dương; tương tự, nếu một gốc có nguyên âm âm ('tối'), thì các hậu tố cũng cần âm. Có một nhóm thứ ba là nhóm "điều hòa" ('trung tính' theo thuật ngữ Tây phương) có thể đã tồn tại cùng với các nguyên âm âm hoặc dương.
Nguyên âm trung tính trong tiếng Triều Tiên là ㅣ i. Các nguyên âm âm là ㅡㅜㅓ eu, u, eo; các chấm là theo các hướng âm là 'xuống dưới' và 'sang trái'. Các nguyên âm dương là ㆍㅗㅏ, ə, o, a, các chấm theo hướng dương là 'lên trên' và 'sang phải'. Như trình bày ở trên, Hunmin Jeong-eum (Huấn dân chính âm) nói rằng các hình của các chamo không có chấm ㅡㆍㅣ cũng được chọn để thể hiện khái niệm âm, dương, và điều hòa. (Dấu chấm ㆍ ə ngày nay không còn dùng nữa.)
Còn có một tham số thứ ba để thiết kế chamo nguyên âm là: chọn ㅡ là hình cơ bản của ㅜ và ㅗ, cũng như ㅣ là hình cơ bản của ㅓ và ㅏ. Để hiểu thấu đáo được những đặc tính chung của các nét gạch dọc và ngang này cần hiểu phát âm chính xác của những nguyên âm này vào thế kỷ thứ XV. Cách phát âm không chắc chắn chủ yếu đối với các chamo ㆍㅓㅏ. Một vài nhà ngôn ngữ học lần lượt dựng lại các nguyên âm này thành ; một số khác thì thành . Tuy nhiên, các chamo có nét sổ ngang ㅡㅜㅗ thì có vẻ như đều đã là nhưng nguyên âm sau hay nguyên âm giữa, .
Thuyết của Ledyard về thiết kế chamo phụ âm
Có một số thuyết về nguồn gốc chữ viết Hangul mà vua Thế Tông tạo ra. Mặc dù chưa được công nhận rộng rãi nhưng giáo sư Gari Ledyard thuộc Đại học Columbia cho rằng có năm phụ âm phái sinh từ bảng chữ cái tiếng Mông Cổ Phagspa từ thời nhà Nguyên, còn phần còn lại thì phát sinh từ bên trong như trong Huấn dân chính âm miêu tả. Tuy thế, các phụ âm cơ bản này không phải là những mẫu tự có hình họa đơn giản nhất trong Huấn dân chính âm, mà là phụ âm cơ bản trong âm vị học tiếng Trung Quốc.
Huấn dân chính âm nói rằng vua Thế Tông đã phỏng theo "Cổ triện" 古篆 để tạo ra Hangul. Nghĩa chính của 古 là cổ không được các nhà triết học quan tâm vì bảng chữ cái không có giống chức năng với triện tự 篆字 Trung Quốc. Tuy nhiên, 古 cũng còn có thể là cách chơi chữ dựa trên chữ Mông Cổ 蒙古, và 古篆 có thể là cách viết tắt của 蒙古篆字 "Mông Cổ triện tự", nghĩa là một biến thể của bảng mẫu tự Phagspa được viết cho giống chữ triện Trung Hoa. Chắc chắn là có các bản thảo Phagspa trong thư viện hoàng gia Triều Tiên, và một vài vị đại quan của Thế Tông đọc được tốt chữ viết này.
Nếu đúng thế thì sự lảng tránh của vua Thế Tông về mối liên hệ với Mông Cổ có thể thông hiểu khi xem xét quan hệ của Triều Tiên với nhà Minh Trung Quốc sau khi nhà Nguyên sụp đổ, cũng như giới trí thức khinh miệt coi người Mông Cổ như "mọi rợ".
Theo Ledyard, năm mẫu tự mượn đơn giản nhất về hình họa cho phép tạo ra các chamo phức và để chỗ để phái sinh ra các âm tắc hơi ㅋㅌㅍㅊ. Nhưng ngược lại với cách truyền thống, các âm không tắc (ng ㄴㅁ và ㅅ) phái sinh bằng cách bỏ các nét trên của các mẫu tự này. Dù dễ dàng phái sinh ㅁ từ ㅂ bằng cách bỏ nét trên, nhưng phái sinh ㅂ từ ㅁ không dễ vì ㅂ không tương tự như các âm tắc khác.
Cách giải thích về âm ng cũng khác so với cách truyền thống. Nhiều từ Trung Hoa bắt đầu bằng âm ng, nhưng vào thời vua Thế Tông, âm ng hoặc là câm hoặc là được phát âm là tại Trung Hoa, và trở thành âm câm khi tiếng Triều Tiên mượn các từ này. Hình họa của âm ng (nét sổ đứng bên trái bằng cách bỏ nét trên của ㄱ) lẽ ra cũng trông tương tự nhu nguyên âm ㅣ . Giải pháp của Thế Tông đã giải quyết cả hai vấn đề: nét sổ dọc từ ㄱ được thêm vào ký hiệu vòng ㅇ để tạo thành ᇰ (một vòng tròn với một dọc đứng bên trên), mang cả âm ở giữa và cuối từ, và ở đầu từ thì câm. (Ngày này giữa ㅇ và ᇰ không còn khác sự biệt.)
Thêm vào đó, cách tạo ra các mẫu tự không dùng nữa ᇢᇦᇴ w, v, f (dùng cho sơ thanh tiếng Trung vi phi phu 微非敷), bằng cách thêm một vòng tròn nhỏ dưới ㅁㅂㅍ (m, b, p), tương tự như thêm vòng nhỏ vào ba biến thể của h trong Phagspa. Trong Phagspa, vòng này cũng thể hiện w sau các nguyên âm. Sơ thanh tiếng Trung 微 vi dùng để chỉ âm m hoặc w trong các phương ngôn khác nhau, và điều này cũng được phản ánh trong việc chọn ㅁ [m] với ㅇ (trong [w] Phagspa) là các thành phần của bảng chữ cái ᇢ, cho các mẫu tự khác cấu thành từ hai thành tố để ghi nhận hai cách phát âm địa phương.
Cuối cùng, đa phần các mẫu tự của Hangul mượn cấu trúc hình học đơn giản, ít nhất là lúc ban đầu, nhưng ㄷ d [t] luôn có một hình môi nhỏ nhô ra từ góc trên bên trái, giống như mẫu tự Phagspa d [t]. Tính chất này có thể thấy trong mẫu tự tiếng Tạng d, ད.
Thứ tự chamo
Hangul không để lẫn phụ âm và nguyên âm như các bảng chữ cái Tây phương (bảng chữ cái Latinh và bảng chữ cái Cyrill). Thay vào đó, thứ tự là theo kiểu Ấn, đầu tiên là các phụ âm vòm mềm, sau đó là âm đầu lưỡi, âm môi, âm xuýt, v.v. Tuy nhiên, các phụ âm đặt trước nguyên âm chứ không phải là sau như trong tiếng Phạn và tiếng Tạng.
Thứ tự hiện nay do Thôi Thế Trân (崔世珍, Ch'oe Sejin) đưa ra và năm 1527. Việc này có trước khi có các phụ âm thời thái và các chamo kép thể hiện chúng. Sự hợp hai mẫu tự ㅇ và ㆁ cũng chỉ có sau khi thiết lập thứ tự bảng chữ cái hiện nay. Do vậy, khi các chính quyền Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên chính thức đưa bảng chữ cái vào dùng rộng rãi thì họ đã sắp thứ tự khác hẳn nhau: phía Hàn Quốc thì nhóm các mẫu tự tương đồng vào cùng nhóm, còn Triều Tiên thì đặt các mẫu tự mới vào cuối bảng.
Trật tự tại Hàn Quốc
Thứ tự hiện nay của các chamo phụ âm là:
ㄱ ㄲ ㄴ ㄷ ㄸ ㄹ ㅁ ㅂ ㅃ ㅅ ㅆ ㅇ ㅈ ㅉ ㅊ ㅋ ㅌ ㅍ ㅎ
Chamo phụ âm kép được đặt ngay sau chamo đơn mà chúng dựa trên. Không phân biệt giữa ㅇ câm và ㅇ giọng mũi.
Thứ tự của chamo nguyên âm là:
ㅏ ㅐ ㅑ ㅒ ㅓ ㅔ ㅕ ㅖ ㅗ ㅘ ㅙ ㅚ ㅛ ㅜ ㅝ ㅞ ㅟ ㅠ ㅡ ㅢ ㅣ
Các nguyên âm đơn trước, với các mẫu tự phái sinh tùy theo thể của chúng: đầu tiên là thêm i, sau đó ngạc hóa, rồi đến ngạc hóa với i thêm vào. Nguyên âm đôi bắt đầu bằng w- được xếp thứ tự tùy theo phát âm của nó là ㅏ hay ㅓ với một nguyên âm thứ hai, không như các hai chữ một âm (digraph) riêng biệt.
Trật tự tại Triều Tiên
Triều Tiên áp dụng một trật tự cổ truyền.
Thứ tự hiện nay của các chamo phụ âm là:
(rỗng) ㄱ ㄴ ㄷ ㄹ ㅁ ㅂ ㅅ ㅇ ㅈ ㅊ ㅋ ㅌ ㅍ ㅎ ㄲ ㄸ ㅃ ㅆ ㅉ (ㅇ rỗng)
Mẫu tự ㅇ đầu tiên là ㅇ ng âm mũi, là âm cuối trong tiếng Triều Tiên hiện nay. ㅇ nếu dùng ở đầu một từ thì lại đặt sau ㅉ vì nó là một mẫu tự giữ chỗ.
Lưu ý là các mẫu tự "mới" tức là các phụ âm kép và nguyên âm phức, được đặt vào cuối bảng chữ cái, trước mẫu tự ㅇ rỗng, nhằm để tránh thay đổi thứ tự truyền thống đối với phần còn lại của bảng chữ cái.
Thứ tự hiện nay của các chamo nguyên âm là:
ㅏ ㅑ ㅓ ㅕ ㅗ ㅛ ㅜ ㅠ ㅡ ㅣ ㅐ ㅒ ㅔ ㅖ ㅚ ㅟ ㅢ ㅘ ㅝ ㅙ ㅞ
Tất cả các chữ đôi một âm và ba chữ một âm (trigraph), gồm cả nguyên âm đôi cổ ㅐ và ㅔ, được đặt ngay sau các nguyên âm cơ bản, như vậy gần như duy trì thứ tự truyền thống trong bảng chữ cái của Thôi.
Tên Chamo
Trật tự bảng chữ cái được gọi là "trật tự ganada" (가나다 순), đặt theo ba chamo đầu (g, n, và d) nối vào nguyên âm đầu tiên (a). Chamo được Thôi Thế Trân đặt tên vào năm 1527. Triều Tiên đặt tên cho các mẫu tự khi chính thức sử dụng bảng chữ cái.
Tên chamo phụ âm
Sau đây là tên chính thức của các phụ âm hiện nay, các tên này có hai âm tiết và có phụ âm ở đầu lẫn cuối:
Toàn bộ chamo ở Triều Tiên, cũng như tất cả chamo dùng tại Hàn Quốc trừ ba mẫu tự thuộc danh pháp cổ truyền, đều có tên gọi dưới dạng chữ cái + i + eu + chữ cái. Ví dụ, Thôi viết bieup với hancha 非 (bi, phi) 邑 (eup, ấp). Tên gọi của g, d, và s là ngoại lệ vì không có hancha cho euk, eut, và eus. 役 (yeok, dịch) được dùng thay cho euk. Cũng vì không có hancha kết thúc bằng t hay s, Thôi đã chọn hai hancha đọc theo chú giải tiếng Triều Tiên, 末 kkeut ("mạt" tức cuối) và 衣 os ("y" tức áo).
Ban đầu, Thôi đặt tên cho j, ch, k, t, p, và h theo kiểu một âm tiết không theo quy tắc là ji, chi, ki, ti, pi, và hi, vì chúng không nên được dùng như phụ âm cuối như đặc tả trong Huấn dân chính âm. Tuy nhiên sau khi xác lập quy tắc chính tả mới vào năm 1933, trong đó cho phép tất cả các phụ âm có thể trở thành phụ âm cuối, thì các tên gội đã đổi thành dạng hiện nay.
Phụ âm chamo kép đi trước tên phụ âm chính bằng các từ 쌍 ssang, nghĩa là "song" (đôi), hay 된 doen tại Triều Tiên nghĩa là "mạnh". Từ đó:
Tại Triều Tiên, một cách nữa để gọi chamo là theo dạng tên mẫu tự + eu (ㅡ), ví dụ, 그 geu cho chamo ㄱ, 쓰 sseu cho chamo ㅆ, v.v.
Tên chamo nguyên âm
Tên các chamo nguyên âm đơn giản với phụ âm rỗng ㅇ ieung đặt trước nguyên âm đó:
Chamo không dùng nữa
Một số chamo ngày nay không dùng nữa, bao gồm các mẫu tự dùng để ghi các âm Triều Tiên không còn trong ngôn ngữ ngày nay nữa, cũng như các mẫu tự để ghi âm các bảng vần (韻圖) tiếng Trung Quốc mà chưa bao giờ còn dùng trong tiếng Triều Tiên. Một vài mẫu tự cổ hay gặp là,
ㆍ hay 丶 ə (arae-a 아래아 "a thấp hơn"): đọc như IPA, gần giống eo ngày nay.
Ə là dạng trung thanh trong nhóm, hoặc được thấy như nguyên âm đôi ㆎ area-ae. Từ ahə ("trẻ con"), ban đầu được viết bằng mẫu tự này, đã bị đổi thành ai (아이).
ㅿ z (bansios 반시옷): một âm khá lạ, phát âm có lẽ như IPA (một âm xát vòm mũi hóa).
ㆆ ’ (yeorin-hieuh 여린히읗 "hieuh nhẹ" hay doen-ieung 된이응 "ieung mạnh"): âm tắc cổ thanh hầu, "nhẹ hơn ㅎ và khàn hơn ㅇ".
ㆁ ng (yet-ieung 옛이응): mẫu tự chamo nguyên thủy cho ; ngày này đã hợp vào với ㅇ ieung. (Trên vài phông chữ (fontface) trên máy tính, yet-ieung trông như phiên bản bẹt hơn của ieung, tuy thế dạng đúng của là với một đỉnh dài hơn trong bản có chân chữ của ieung.)
ㅸ β (gabyeoun-bieup 가벼운비읍): IPA. Mẫu tự này trông có vẻ như dạng hai chữ một âm bieup và ieung, có thể phức tạp hơn. Trong phần này, có ba chamo ít phổ biến hơn dùng cho các âm trong bảng vần tiếng Trung Quốc, ᇢ w ([w] hay [m] IPA), ᇴ f, và ㅹ ff theo lý thuyết .
Ngoài ra còn có hai chamo kép không dùng nữa là,
ㆅ x (ssanghieuh 쌍히읗 "hieuh đôi"): hoặc IPA.
ㆀ (ssang-ieung 쌍이응 "ieung đôi"): chamo khác dùng trong bảng vần.
Trong hệ bảng chữ cái nguyên thể, chamo đôi dùng để ghi các phụ âm tiếng Trung Quốc "giọng đục" (thì thào), và không dùng cho tiếng Triều Tiên. Sau này một quy ước tương tự được đưa ra để ghi các phụ âm "thời thái".)
Cũng có các phức từ phụ âm không còn tồn tại trong tiếng Triều Tiên nữa, như ㅴ bsg và ㅵ bsd, cũng như nguyên âm đôi chỉ được dùng để biểu đạt các trung thanh tiếng Trung như ㆇ, ㆈ, ㆊ, ㆋ.
Một số chamo ghi các âm trong tiếng Triều Tiên cổ vẫn còn được vài phương ngữ của tiếng Triều Tiên sử dụng; trong khi các chamo để phiên tiếng Hán cổ thì mất dần theo thời gian.
Cấu trúc âm tiết
Ngoại trừ một số hình vị ngữ pháp được sử dụng vào buổi ban đầu của Hangul, không có chamo nào có thể đứng một mình để biểu diễn tiếng Hàn. Thay vào đó, chamo được nhóm thành từng đơn vị âm tiết chứa, ít nhất, một thanh mẫu ở đầu (sơ thanh) và một nhân âm tiết ở giữa (trung thanh). Khi một âm tiết không có phụ âm ở đầu, thì ký tự rỗng ㅇ ieung được dùng đệm vào. Không dùng âm đệm khi không có âm đuôi (chung thanh).
Ký tự rỗng có nguồn gốc chỉ vì thế, nhưng vì cũng chỉ dùng để ở ví trí đầu, và phụ âm ng trở thành câm khi đứng đầu giống như khi thêm một gạch nhỏ vào ký tự rỗng, nên cả hai thường được xem là giống nhau.
Các đơn vị âm tiết thường được tạo thành từ hai hay ba chamo:
Hai chamo: sơ thanh (một phụ âm hay nhóm phụ âm, hay ký tự rỗng ㅇ) + trung thanh (một nguyên âm hay nguyên âm đôi)
Ba chamo: sơ thanh + trung thanh + chung thanh (một phụ âm hay một nhóm phụ âm)
Việc thay thế, hay "chồng" các chamo vào trong đơn vị âm tiết tuân theo tập quy luật sau:
Thành phần của chamo phức được viết từ trái sang phải. Hai phần phức tạp nhất: ㅄ, ㅝ, v.v. (Các kết hợp đã lỗi thời thì phức tạp hơn: ㅵ, ㆋ, v.v.)
Mọi nguyên âm Hangul hiện đại đều có hoặc một gạch dọc hoặc ngang.
chamo nguyên âm dọc được viết bên phải của sơ thanh: ㅣ i.
chamo nguyên âm ngang được viết bên dưới sơ thanh: ㅡ eu.
Khi một chamo nguyên âm có cả thành phần ngang và dọc, nó sẽ bao quanh sơ thanh tính từ dưới sang bên phải: ㅢ ui.
chamo cuối, nếu có một, được thêm vào ở dưới đáy. Điều này được gọi là 받침 batchim "nền hỗ trợ".
Các đơn vị luôn được viết theo trật tự phát âm, sơ thanh-trung thanh-chung thanh. Vì vậy,
Âm tiết với chamo nguyên âm ngang được viết trên xuống: 읍 eup.
Âm tiết với chamo nguyên âm dọc và chung thanh đơn giản được viết theo chiều đồng hồ: 쌍 ssang.
Âm tiết với chamo nguyên âm bao quanh có chiều là (xuống-phải-xuống): 된 doen.
Âm tiết với âm cuối phức được viết từ trái sang phải ở đáy: 밟 balp.
Đơn vị âm tiết tạo thành được viết trong hình nhữ nhật có cùng kích thước và hình dạng như một hancha, vì thế khi nhìn vào có thể nhầm lẫn là một Hán tự hancha.
Không tính chamo đã lỗi thời, thì có khoảng 11,571 khối Hangul.
Đã từng có vài thay đổi nhỏ trong thế kỷ XX khi bỏ đi các khối âm tiết và viết chamo riêng rẽ thành hàng ngang như phương Tây: ㄱㅡㄷ geut. Tuy nhiên, việc dùng khối đơn vị làm cho Hangul trở nên dễ đọc hơn, vì mỗi âm tiết có hình dạng duy nhất. Bây giờ phép chính tả của Hangul là trực quan (morphophonology) (xem ở dưới), nghĩa là các từ Hangul có hình dạng dễ nhận biết. Đây là một sự trợ giúp lớn người đọc; tương tự như vậy, lợi thế trong việc nhận dạng các từ giống nhau đã giúp cho kiểu chữ viết toàn phụ âm (abjad) Semit không cần tới nguyên âm trong cả nghìn năm. Trên thực tế, những người thường đọc tiếng Trung Quốc và tiếng Hàn thường cho rằng đọc các chuỗi các ký tự trong bảng chữ cái như tiếng Anh như thể đọc một bảng Morse, vì thế việc chuyển cách ghi tiếng Hàn sang dạng ngang không được nhiều người ủng hộ.
Chính tả
Mãi cho tới thế kỷ XX, chưa có phép chính tả chính thức nào được thiết lập. Do cách nối vần, sự đồng hóa mạnh phụ âm, các giọng địa phương khác nhau cùng nhiều lý do khác, một từ trong tiếng Hàn có thể có nhiều cách đánh vần. Vua Thế Tông có vẻ thích cách đánh vần đa âm vị (morphophonemic spelling) (thể hiện hình thái học bên dưới) hơn là dùng dạng đơn âm vị (thể hiện âm thanh thực sự). Tuy nhiên, vào thời kì đầu của nó, Hangul bị ảnh hưởng mạnh bởi cách đánh vần đơn âm vị. Trải qua hàng thế kỉ, phép chính tả đã dần trở thành đa âm, trước hết ở danh từ, sau đó đến động từ. Ngày nay trên thực tế, nó là chủ yếu đa âm vị.
Các phát âm và dịch nghĩa:
một người không thể làm được
Phép chính tả đơn âm vị:
모타는사라미
Phép chính tả đa âm vị:
못하는사람이
Chú giải âm vị-âm vị:
Sau cải cách Giáp Ngọ vào năm 1894, nhà Triều Tiên và sau này là Đế quốc Đại Hàn bắt đầu sử dụng Hangul trong mọi tài liệu chính thức. Dưới sự quản lý của triều đình, cách sử dụng đúng Hangul, bao gồm phép chính tả, được thảo luận mãi cho tới khi Hàn Quốc bị đô hộ (日韓併合條約) bởi Nhật Bản vào năm 1910.
Triều Tiên Tổng Đốc Phủ (朝鮮総督府) người Nhật đã thiết lập cách viết kết hợp giữa Hancha và Hangul, giống chữ viết bên Nhật. Chính phủ đã chỉnh sửa lại cách đánh vần vào năm 1912, 1921 và 1930, để hướng về dạng đơn âm vị.
Hiệp hội Hangul do Ju Si-gyeong sáng lập đã đề nghị một phép chính tả mới, mạnh về đa âm vị (morphophonemic) vào năm 1933, và đã trở thành khuôn mẫu cho các phép chính tả hiện đại ở cả Bắc và Nam Triều Tiên. Sau khi Triều Tiên chia đôi, phép chính tả ở phía Bắc và Nam đều có những sự thay đổi riêng rẽ. Sách hướng dẫn chính tả bảng chữ cái được gọi là Hangeul matchumbeop, được chỉnh sửa lần cuối ở Hàn Quốc và được Bộ Giáo dục phát hành là vào năm 1988.
Cách viết pha trộn
Vào thời Nhật Bản đô hộ, hanja được dùng cho các gốc từ vựng (danh từ và động từ), và bảng chữ cái cho các từ văn phạm và biến tố, cũng như kanji và kana dùng trong tiếng Nhật. Dù vậy, hancha bị cấm dùng hẳn tại CHDCND Triều Tiên, và ở Hàn Quốc thì chỉ được dùng trong ngoặc để chú giải tên riêng và để phân biệt các từ đồng âm khác nghĩa.
Các chữ số Ả Rập cũng được dùng với Hangul, chẳng hạn 2005년 7월 5일 (ngày 5 tháng 7, năm 2005).
Các chữ Latinh, đôi khi cũng có các mẫu tự trong các bảng chữ cái khác có thể tìm thấy trong các văn bản tiếng Triều Tiên với mục đích minh họa, hoặc các từ mượn chưa thể bản địa hóa được.
Kiểu viết
Hangul có thể viết dọc hoặc viết ngang. Kiểu viết truyền thống là theo kiểu Trung Quốc tức là viết từ trên xuống dưới và từ phải qua trái. Cách viết ngang theo kiểu viết Latinh được Ju Si-gyeong khởi xướng và ngày càng phổ biến.
Trong Huấn dân chính âm, Hangul được in theo kiểu không chân (sans-serif) bằng các đường có góc cạnh với độ đầy đều đặn. Kiểu này thấy trong các sách ấn hành trước năm 1900, và có thể còn thấy trong các tượng hay cột chạm.
Qua hàng thế kỷ, cách viết bằng bút lông theo kiểu thư pháp ngày càng dùng nhiều, với cách dùng nét và góc cạnh như thư pháp Trung Quốc. Kiểu viết này gọi là myeongjo (Chữ Hán: 明朝, Minh triều, Tiếng Nhật minchō), và ngày nay vẫn còn được dùng trong sách báo, tạp chí và phông chữ trong máy tính.
Một kiểu không chân với các đường có độ dày đều đặn phổ biến hơn khi viết bằng bút chì hay bút mực và là kiểu chữ phổ biến trong các trình duyệt Web.
Xem thêm
Tiếng Hàn
Tiếng Triều Tiên dùng trong máy tính
bảng chữ cái
ký tự (grapheme)
hệ thống chữ viết
Latinh hóa tiếng Triều Tiên
Romaja
Các ngôn ngữ của Trung Quốc
Các chủ đề về Triều Tiên
Thành Tam Vấn
Chú thích
Liên kết ngoài
Korean Hangul Language Learning Software
ReadWrite Korean - Hangul Learning Software
The Korean Ministry of Culture and Tourism's article on Hangul
Hangul lessons
List of syllables and Romanization : Wikisource
Browser and Hangul
Korean alphabet and pronunciation
Jamo in Unicode (177 KByte PDF)
Hangul syllables (7 MByte PDF)
The Revised Romanization of Korean
The National Academy of the Korean Language
Hangeul2Konglish – Hangul romanization utility (freeware)
Tiếng Triều Tiên
Chữ viết được mã hóa trong Unicode
Chữ viết ISO 15924
Cải cách đánh vần
Biểu tượng quốc gia Triều Tiên
Phát minh của Triều Tiên
|
19252
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%C3%AAm%20c%C6%A1%20tim
|
Viêm cơ tim
|
Viêm cơ tim là tình trạng viêm, hoại tử hoặc ly giải của tế bào cơ tim gây nên do nhiễm trùng, do bệnh mô liên kết, do nhiễm độc hoặc không rõ nguyên nhân. Các quá trình bệnh lý này ảnh hưởng đến cơ tim kèm hoặc không kèm theo triệu chứng toàn thân. Những biểu hiện thường gặp nhất là suy tim, tuy nhiên đôi khi rối loạn nhịp hoặc đột tử là biểu hiện đầu tiên của bệnh. Nhiễm virus là nguyên nhân thường gặp nhất của viêm cơ tim.
Nguyên nhân và dịch tễ
Tỷ lệ mắc bệnh của viêm cơ tim không được biết rõ do có nhiều trường hợp viêm cơ tim nhẹ nhàng tự khỏi nên người bệnh và gia đình không nhận thấy. Viêm cơ tim do virus thường xảy ra rải rác, tuy nhiên đôi khi cũng xảy thành dịch. Ở trẻ bú mẹ, viêm cơ tim do virus thường biểu hiện bằng viêm cơ tim cấp tính và rất trầm trọng. Ở trẻ nhỏ (2 đến 5 tuổi) bệnh cũng thường khởi đầu bằng viêm cơ tim cấp nhưng ít nặng nề hơn. Ở trẻ lớn hơn và thanh thiếu niên, bệnh thường không có triệu chứng và trẻ thường đến phòng khám khi đã có biểu hiện bệnh cơ tim giãn, thường là hậu quả của viêm cơ tim virus tiềm tàng trước đó. Tác nhân gây bệnh thường gặp nhất của viêm cơ tim là adenovirus và Coxsackie virus B cùng nhiều loại virus khác nữa.
Sinh lý bệnh
Viêm cơ tim do virus có thể biểu hiện bằng một tình trạng viêm rất đột ngột đặc trưng bằng sự tẩm nhuận tế bào viêm, thoái hóa và hoại tử tế bào cơ tim, sau đó là quá trình xơ hóa của cơ tim. Một hình thức khác của viêm cơ tim do virus là RNA hoặc DNA, vật chất di truyền của virus, có thể tồn tại lâu dài trong cơ tim. Cơ thể chống lại tình trạng này bằng những phản ứng miễn dịch thông qua sự hoạt hóa các tế bào lympho độc tế bào (cytotoxic lymphocytes) và tế bào giết tự nhiên (natural killer cells). Tuy nhiên những phản ứng miễn dịch này cùng với sự phát triển không bình thường của virus lại làm suy giảm chức năng cơ tim mà không có sự tiêu tế bào rõ rệt. Ngoài ra, sự tồn tại của virus có thể làm thay đổi sự biểu hiện kháng nguyên của phức hợp hòa hợp tổ chức chính (major histocompatibility complex) tạo nên sự phơi nhiễm của hệ miễn dịch với những kháng nguyên tân tạo. Sự giải phóng các cytokine như yếu tố ly giải khối u alpha (TNF alpha) và interleukin 1 cũng khởi động những thay đổi bất thường về đáp ứng miễn dịch của cơ thể. Hậu quả cuối cùng của các quá trình bệnh lý phức tạp trên thường là bệnh cơ tim giãn.
Biểu hiện lâm sàng
Biểu hiện lâm sàng tùy thuộc vào lứa tuổi trẻ bị bệnh và vào bản chất cấp tính hay mạn tính của tình trạng nhiễm virus.
Trẻ sơ sinh thường biểu hiện bệnh bằng sốt, suy tim nặng, suy hô hấp, tím, tiếng tim nghe xa xăm, mạch yếu, nhịp nhanh, hở van hai lá do vòng van bị giãn rộng, nhịp ngựa phi, nhiễm toan và sốc. Các biểu hiện đi kèm có thể là viêm gan virus, viêm màng não nước trong, và nổi ban. Ở thể tối cấp, trẻ có thể tử vong trong vòng 1 đến 7 ngày kể từ khi khởi bệnh. X quang lồng ngực thường cho thấy tim to một cách bất thường, phù phổi. Đo điện tim có thể thấy nhịp nhanh xoang, điện thế phức hợp QRS giảm, bất thường về đoạn ST cũng như sóng T. Đôi khi rối loạn nhịp là biểu hiển đầu tiên của bệnh. Lúc này các triệu chứng như sốt và tim to gợi ý viêm cơ tim cấp.
Ở trẻ lớn hơn viêm cơ tim cấp cũng có thể biểu hiện bằng suy tim xung huyết cấp nhưng thường gặp hơn là suy tim có tiến triển từ từ hoặc tình trạng nhịp nhanh thất xảy ra đột ngột. Ở những bệnh nhân này, tình trạng nhiễm virus cấp tính đã qua và thường đã có tình trạng bệnh cơ tim giãn.
Xét nghiệm cận lâm sàng
Tốc độ lắng máu là một trong những xét nghiệm phát hiện phản ứng viêm có thể tăng trong viêm cơ tim. Tuy nhiên tốc độ lắng máu có thể tăng trong rất nhiều tình trạng viêm và không do viêm khác. Đây là một xét nghiệm không đặc hiệu.
Các men tim như creatine phosphokinase, lactate dehydrogenase, troponine T, CK-MB, SGOT (AST), SGPT (ALT) có thể tăng trong viêm cơ tim cấp và mạn tính. Tuy nhiên nếu các men này âm tính cũng không loại trừ được tình trạng viêm cơ tim.
Kỹ thuật khuếch đại chuỗi polymerase (PCR: Polymerase Chain Reaction) có thể phát hiện được bộ gien của virus trong tế bào cơ tim nhưng không phát hiện được ở máu ngoại vi. Kỹ thuật này xác định được loại virus nào gây bệnh. Tuy nhiên đây là kỹ thuật đắt tiền không phải có sẵn ở các cơ sở y tế.
Siêu âm tim phát hiện chức năng co bóp của cơ tim giảm rõ và thường có tràn dịch màng ngoài tim, hở van hai lá và không có tổn thương của mạch vành cũng như các bất thường bẩm sinh khác.
Viêm cơ tim có thể phát hiện được bằng sinh thiết nội tâm mạc. Kỹ thuật này thường được thực hiện bằng thông tim. Sinh thiết nội tâm mạc cũng cho biết các nguyên nhân khác của bệnh cơ tim như bệnh tích trữ, khiếm khuyết ty lạp thể.
Chẩn đoán phân biệt
Các bệnh có thể có biểu hiện giống viêm cơ tim cấp là thiếu hụt carnitine, khiếm khuyết ty lạp thể do di truyền, bệnh cơ tim giãn vô căn, viêm ngoại tâm mạc, xơ chun hóa nội tâm mạc, các bất thường về động mạch vành.
Điều trị
Điều trị viêm cơ tim cấp liên quan đến những biện pháp hỗ trợ trong suy tim nặng. Nếu chức năng co bóp của cơ tim giảm cùng với hạ huyết áp hệ thống thì có thể dùng dopamine hoặc epinephrine. Tuy nhiên tất cả các thuốc gây co bóp tim, kể cả digoxin, đều phải được dùng hết sức thận trọng vì bệnh nhân viêm cơ tim dễ có khuynh hướng bị loạn nhịp với các thuốc này. Digoxin thường chỉ bắt đầu bằng một nửa liều thông thường.
Nếu có tràn dịch màng ngoài tim gây chèn ép tim thì có thể phải chọc tháo dịch.
Thuốc chống loạn nhịp đôi khi phải dùng tương đối mạnh thậm chí có thể phải dùng đến amiodarone đường tĩnh mạch. Ở trẻ lớn có thể đặt dụng cụ tạo nhịp hỗ trợ.
vai trò của corticosteroid trong viêm cơ tim cấp chưa thống nhất. Đôi khi có thể dùng đến thuốc ức chế miễn dịch.
Hiện tại các nghiên cứu về tác dụng của globuline miễn dịch trong điều trị viêm cơ tim cấp đang được tiến hành.
Tiên lượng
Tiên lượng của viêm cơ tim cấp do virus ở trẻ sơ sinh còn rất đen tối: tỷ lệ tử vong lên đến 75%. Những bệnh nhân có triệu chứng nhẹ nhàng hơn có thể có tiên lượng tốt hơn và y văn cũng đã miêu tả những trường hợp hồi phục hoàn toàn. Tiên lượng của trẻ lớn bị bệnh cơ tim giãn do nguyên nhân virus cũng không khả quan lắm. Những bệnh nhân này tiếp tục có biểu hiện cơ tim giãn, xơ hóa và suy biến chức năng của cơ tim. Ở người lớn có từ 5 đến 10% bệnh nhân tự lui bệnh. Tuy nhiên có đến 50% bệnh nhân chết trong vòng 2 năm và 80% bệnh nhân chết trong vòng 8 năm nếu không được thay tim.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Viêm cơ tim ở trẻ dễ bị nhầm cảm sốt
Bệnh tim mạch
Nhi khoa
Viêm
Cấp cứu y khoa
Bệnh tim
RTT
|
19256
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Max%20Planck
|
Max Planck
|
Max Karl Ernst Ludwig Planck (23 tháng 4 năm 1858 – 4 tháng 10 năm 1947) là một nhà vật lý người Đức, được xem là người sáng lập cơ học lượng tử và do đó là một trong những nhà vật lý quan trọng nhất của thế kỷ 20. Ông đạt giải Nobel vật lý năm 1918.
Cuộc đời và sự nghiệp
Gia thế và niên thiếu
Max Planck xuất thân từ một gia đình có truyền thống học thuật. Ông cố Heinrich Ludwig Planck (1785–1831) và ông nội Heinrich Ludwig Planck (1785–1831) là giáo sư ngành Thần học tại Göttingen. Bố của ông, Wilhelm Johann Julius Planck (1817–1900), là giáo sư ngành luật tại Kiel và München; người chú Gottlieb Planck (1824–1907) cũng là một luật sư, là một trong những người góp phần chủ yếu lập bộ Công dân luật (Bürgerliches Gesetzbuch, viết tắt BGB).
Ông ra đời ngày 23 tháng 4 năm 1858 tại Kiel, là con của Johann Julius Wilhelm Planck và người vợ thứ hai là Emma Patzig (1821–1914); ông có bốn anh chị em ruột (Hermann, Hildegard, Adalbert và Otto), cũng như hai anh chị cùng cha khác mẹ (Hugo và Emma) đời vợ trước của Johann Julius Wilhelm Planck. Ông sống những năm đầu tại Kiel cho đến khi gia đình chuyển về München. Nơi đây, ông đi học ở trường trung học Maximilian; một trong những người bạn học của ông là người sáng lập Viện bảo tàng Đức (Deutsches Museum) Oskar von Miller. Ông tốt nghiệp phổ thông năm 17 tuổi.
Học tập
Planck rất có khiếu về âm nhạc. Ông chơi đàn dương cầm, phong cầm, cello và được đào tạo giọng hát. Ông sáng tác bài ca và một ca kịch nhỏ (Operette, 1876) cho hội sinh viên của ông, Câu lạc bộ ca nhạc München. Nhưng thay vì học âm nhạc, ông quyết định học vật lý.
Giáo sư vật lý tại München, Philipp von Jolly, khuyên ông không nên học bộ môn này vì "trong ngành này hầu như tất cả đã được nghiên cứu, và công việc còn lại chỉ là việc trám vá một vài chỗ thiếu sót không quan trọng" ("in dieser Wissenschaft schon fast alles erforscht sei, und es gelte, nur noch einige unbedeutende Lücken zu schließen") – một quan điểm được nhiều nhà vật lý thời đó đại diện. Planck ứng đáp rằng: "Tôi không ôm ấp nguyện vọng khai phá đất mới mà chỉ muốn hiểu những cơ sở đã có của khoa học vật lý, và nếu có thể, đi sâu thêm nữa" ("Ich hege nicht den Wunsch, Neuland zu entdecken, sondern lediglich, die bereits bestehenden Fundamente der physikalischen Wissenschaft zu verstehen, vielleicht auch noch zu vertiefen"). Và ông bắt đầu học ngành vật lý vào năm 1874 tại Đại học München.
Nơi Jolly, Planck thực hiện các buổi thí nghiệm duy nhất trong cả cuộc đời nghiên cứu của ông (về sự khuếch tán của khinh khí qua sự nung nóng platin); không bao lâu sau, ông chuyển qua ngành vật lý lý thuyết.
Planck đến Berlin học một năm (1877-1878) để học tập với những nhà vật lý học nổi danh là Hermann von Helmholtz và Gustav Kirchhoff cũng như nhà toán học Karl Weierstraß. Planck ghi như sau về Helmholtz: "... chẳng bao giờ chuẩn bị tốt, nói lắp bắp, luôn tính sai và làm người nghe nhàm chán", và nói về Kirchhoff: "... chuẩn bị bài dạy kĩ lưỡng, tuy nhiên, khô khan và đơn điệu". Mặc dù vậy, ông kết bạn rất thân với Helmholtz. Phần lớn ông tự học từ những bài viết của Rudolf Clausius. Qua ảnh hưởng này mà lĩnh vực nghiên cứu của ông sau này trở thành lý thuyết nhiệt học.
Tháng 10 năm 1878, ông kết thúc chương trình cao học (Lehramtsexamen), và trình luận án tiến sĩ tháng 3 năm 1879 mang tên "Luận về nguyên tắc thứ hai của nhiệt động lực học" (Über den zweiten Hauptsatz der mechanischen Wärmetheorie). Tháng 6 năm 1880, ông trình luận án hậu tiến sĩ (Habilitationsschrift) với tựa đề "Trạng thái quân bình của các vật đẳng hướng ở các nhiệt độ khác nhau" (Gleichgewichtszustände isotroper Körper in verschiedenen Temperaturen).
Sự nghiệp học thuật
Sau khi trình luận án hậu tiến sĩ, ông làm giảng sư không công tại München để chờ ứng cử giáo sư. Mặc dù các chuyên gia thời đó không lưu tâm đến ông, Max Planck vẫn tiếp tục công trình nghiên cứu trong lĩnh vực lý thuyết nhiệt học, dần dần phát triển một dạng hình thức của nhiệt động học như Josiah Willard Gibbs nhưng không biết về điểm này. Khái niệm entropy – vốn được Clausius đề nhập – giữ vai trò trung tâm trong công trình của ông.
Tháng 4 năm 1885, Đại học Christian-Albrecht ở Kiel cử Planck làm phó giáo sư (Extraordinarius) môn Vật lý lý thuyết. Lương một năm của ông lúc đó là 2000 RM (Reichsmark). Các công trình nghiên cứu về entropy và cách ứng dụng nó – phần lớn để đáp ứng những vấn đề vật lý hóa học – được tiến triển. Ông đưa ra lời giải thích từ phía nhiệt động học cho thuyết phân chế điện giải (elektrolytische Dissoziationstheorie) của Svante Arrhenius. Nhưng Svante Arrhenius lại tỏ vẻ khước từ quan điểm này. Trong thời kì dạy ở Kiel này, Planck đã bắt đầu công trình nghiên cứu phân tích giả thiết nguyên tử (Atomhypothese).
Tháng 4 năm 1889, Planck được bổ nhiệm kế thừa Kirchhoff tại Berlin (người ta cho là qua sự giới thiệu của Helmholtz); từ 1892 trở đi, ông là giáo sư chính vị (Ordinarius). Lương năm của ông giờ đây là 6200 RM (cộng thêm khoảng 1000 RM cho phí dụng và bản quyền).
Năm 1907, Planck được mời làm giáo sư kế thừa Boltzmann tại Viên, nhưng ông từ chối, ở lại Berlin và để đáp ân thầy mình, sinh viên Berlin thực hiện buổi biểu tình cầm đuốc ở đây. Ông về hưu danh dự ngày 1 tháng 10 năm 1907; người thừa kế ông là Erwin Schrödinger.
Gia đình
Tháng 3 năm 1887, Planck cưới em gái của một người bạn học trung học, bà Marie Merck (1861–1909). Gia đình sống tại Kiel, đường Wilhelminenstraße 43, trọ cùng nhà với một gia đình thợ mộc. Ông có bốn người con với đời vợ này: Karl (1888–1916), hai chị em song sinh Emma (1889–1919) và Grete (1889–1917) cũng như Erwin (1893–1945).
Sau khi nhậm chức tại Berlin, gia đình Planck trú tại một villa đường Wangenheim 21, Berlin-Grunewald. Nhiều giáo sư đại học Berlin sống xung quanh và nhà của Planck trở thành trung tâm hoạt động xã hội và âm nhạc. Thuộc về những người khách thường lai vãng là những nhà khoa học nổi danh như Albert Einstein, Otto Hahn và Lise Meitner. Truyền thống tấu nhạc với nhau vốn bắt nguồn từ gia đình của Helmholtz.
Tuy nhiên, sau những năm hạnh phúc này thì gia đình Planck phải chịu nhiều hoạ nạn: Marie Planck chết ngày 17 tháng 10 năm 1909, có lẽ vì bệnh lao. Tháng 3 năm 1911, Planck cưới Marga von Hoesslin (1882–1948) và người con trai thứ ba của ông, Herrmann, sinh ra vào tháng 12.
Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, con trai Karl của ông chết tại Verdun (Pháp), Erwin bị lính Pháp bắt giam năm 1914. Năm 1917, Grete chết trong khi sinh đứa con đầu. Chồng cô sau cưới cô em là Emma, là người sau hai năm chết cũng dưới những hoàn cảnh như vậy. Max Planck kham chịu những thảm hoạ này với một sự điềm tĩnh bất động. Hai đứa cháu gái sau mang tên của mẹ là Grete và Emma.
Cuối cùng, vào tháng 1 năm 1945, Erwin Planck bị buộc tội tham dự cuộc ám sát Hitler không thành công và xử tử hình.Vào ngày hôm đó, ông ngồi bên chiếc đàn dương cầm và đánh lên những giai điệu mà đứa con trai ông yêu thích
Giáo sư tại Berlin
Tại Berlin, Planck gia nhập Hiệp hội Vật lý Berlin và ghi lại như sau về thời gian này: "Lúc đó, tôi là nhà lý thuyết độc nhất và vì vậy, môi trường xung quanh không dễ mấy chính vì tôi đề xuất thuyết entropy, một thuyết đương thời không được ưa chuộng vì là một quái vật toán học". Qua sự đề nghị của ông mà Hội Vật lý tự đổi tên là Hiệp hội Vật lý Đức (Deutsche Physikalische Gesellschaft, DPG) vào năm 1898.
Planck dạy môn vật lý lý thuyết trong sáu học kỳ. Lise Meitner ghi lại là "lãnh đạm, hơi bàng quan". Một người dự thính người Anh khác nhắc lại là Planck "không cần giấy ghi chú, không bao giờ phạm lỗi, không bao giờ ngập ngừng; người thuyết giảng hay nhất mà tôi đã chứng kiến" (James R. Partington). Số người tham dự những buổi dạy của ông lên từ 18 (1890) đến 143 (1909). Thính giả người Anh còn ghi thêm: "Lúc nào cũng có người đứng quanh giảng đường. Vì giảng đường khá nóng và chật nên một vài người tham dự thỉnh thoảng ra ngoài hành lang, nhưng sự việc này không quấy nhiễu buổi dạy". Planck không lập trường phái nào và tổng cộng có được 20 nghiên cứu sinh với những tên tiêu biểu sau đây:
Max Abraham 1897 (1875–1922)
Moritz Schlick 1904 (1882–1936)
Walther Meißner 1906 (1882–1974)
Max von Laue 1906 (1879–1960)
Fritz Reiche 1907 (1883–1960)
Walter Schottky 1912 (1886–1976)
Walther Bothe 1914 (1891–1957)
Định luật bức xạ
Vào khoảng thời gian 1894, Planck bắt đầu chú ý đến vấn đề bức xạ của hắc thể hay vật đen vốn đã được Kirchhoff dùng công thức để trình bày vào năm 1859: Cường độ của sự bức xạ điện từ mà một hắc thể (được xem là một vật hấp thu lý tưởng, cũng được gọi là lỗ hổng bức xạ) phát ra trong trạng thái bình hoành nhiệt động lực liên quan như thế nào với tần số của sự bức xạ (ví dụ như màu của ánh sáng) và nhiệt độ của vật thể? Vấn đề này được nghiên cứu trong viện vật lý và kĩ thuật, nhưng định luật Rayleigh-Jeans không thể được áp dụng để giải thích những kết quả thí nghiệm với tần số cao. Wilhelm Wien lập công thức xử lý được các kết quả thí nghiệm ở tần số cao, nhưng lại bó tay trước kết quả ở tần số thấp (định luật bức xạ Wien).
Planck sáp nhập hai định luật và qua sự tiếp cận bằng thuyết entropy, ông tìm ra định luật miêu tả rất tốt kết quả thí nghiệm, định luật bức xạ Planck; định luật này được trình bày lần đầu trong một cuộc họp của DPG ngày 19 tháng 10 năm 1900.
Ngày 14 tháng 12 năm 1900, ông đã trình bày lý thuyết của định luật bức xạ; nhưng vì thế mà ông áp dụng cơ học thống kê của nhà vật lý học Ludwig Boltzmann, vốn bị ông phản bác. Ông cự tuyệt mọi quan niệm thống kê thuần tuý về định luật hai nhiệt động lực học (theo nó, entropy không bao giờ giảm với thời gian), bởi vì ông xem xét nó dưới khía cạnh tự minh bạch: "... một hành động của tuyệt vọng... tôi đã sẵn sàng hi sinh những gì xưa nay tôi tin chắc trong vật lý" ("... ein Akt der Verzweiflung... ich war zu jedem Opfer an meinen bisherigen physikalischen Überzeugungen bereit..."). So sánh với nó thì giả định năng lượng chỉ được phóng ra ở dưới dạng lượng tử
E = h ν
(với h là hằng số Planck và ν tần số của sự bức xạ) gần như là việc bên lề, "một giả định hình thức thuần tuý. Tôi chẳng suy nghĩ gì nhiều khi ấy" ("... eine rein formale Annahme, ich dachte mir eigentlich nicht viel dabei...").
Ngày nay, giả định có tính mâu thuẫn với vật lý cổ điển này được xem là điểm khởi phát của ngành vật lý lượng tử và là thành tựu khoa học lớn nhất của Max Planck. (Tuy nhiên cần nên biết là trong những công trình lý thuyết ở những năm 1877, Ludwig Boltzmann đã có lập trường một cách rất tự nhiên là mức năng lượng của một hệ thống vật lý có thể là không liên tục).
Trong thời gian sau, Planck tìm cách nắm được ý nghĩa của các lượng tử nhưng không hiệu quả. Ông ghi lại như sau: "Những thí nghiệm vô hiệu quả của tôi với mục đích sáp nhập thuyết lượng tử vào lý thuyết cổ điển bằng cách nào đó đã kéo dài nhiều năm, hao tổn rất nhiều công sức của tôi".
Các nhà vật lý học khác như John Strutt Nam tước Rayleigh, James Jeans và Hendrik Antoon Lorentz sau đó nhiều năm vẫn đặt thường số này bằng 0 để không bị xung đột với vật lý cổ điển. Nhưng Planck biết rõ là thường số này có một giá trị chính xác khác 0. Ông nhắc lại như sau: "Tôi không hiểu được sự ngoan cố của Jeans. Ông ta là một ví dụ thế nào một nhà lý thuyết không nên là, tương tự trường hợp Hegel trong triết học, và sự việc còn tệ hơn nhiều cho những sự kiện nếu chúng không đúng."
Max Born ghi lại như sau về Max Planck: "Ông có tính bẩm sinh và theo truyền thống gia đình là bảo thủ, không thiên về những đổi mới cách mạng và giữ thái độ hoài nghi với những lời phán đoán. Nhưng niềm tin của ông vào năng lực ép buộc của tư duy lập cơ sở trên sự thật lớn đến mức ông không chần chờ khi đề xuất một giả định mâu thuẫn với truyền thống, bởi vì ông tin chắc là không có một lối ra nào khác".
Quan hệ với Einstein
Năm 1905, ba công trình nghiên cứu xướng đạo của Albert Einstein – một nhà vật lý chưa từng ai biết cho đến lúc đó – xuất hiện trong Niên báo vật lý (Annalen der Physik). Planck là một trong những người hiếm hoi nhận ra ý nghĩa của lý thuyết tương đối hẹp. Nhờ ảnh hưởng của ông mà lý thuyết tương đối được công nhận và phổ biến tại nước Đức. Chính Planck cũng đã góp phần lớn trong việc khởi thảo thuyết tương đối đặc thù này.
Tuy nhiên, ban đầu giả định của Einstein về quang tử – để giải thích hiện tượng hiệu ứng quang điện do Philipp Lenard phát hiện năm 1902 – đã bị Planck từ khước; ông không chịu gác qua một bên thuyết điện động lực học của Maxwell và nói rằng: "Lý thuyết về ánh sáng sẽ không bị đẩy lùi vài thập niên, mà là vài thế kỉ cho đến thời điểm Christian Huygens phản đối thuyết phát xạ mãnh liệt của Newton...".
Năm 1910, Einstein nói về ứng xử dị thường của nhiệt dung riêng ở nhiệt độ thấp như một hiện tượng không được giải thích bởi vật lý cổ điển. Để giải đáp những mâu thuẫn, Planck và Walther Nernst tổ chức cuộc hội thảo Solvay đầu tiên (Brussels 1911), và ở đây, Einstein đã thuyết phục được Max Planck về sự tồn tại của quang tử.
Trong lúc này, Planck đã nắm chức chủ nhiệm tại Đại học Berlin và cũng qua đó có khả năng gọi Einstein đến Berlin và lập cho ông một bộ môn mới (1914). Ông kết bạn thân với vị này và họ thường hoà nhạc cùng nhau.
Chiến tranh thế giới thứ nhất và Cộng hoà Weimar
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, Planck cũng không thoát khỏi sự hăng hái nhiệt tình hiện hành thời. Ông ghi lại:
"Ngoài những sự kiện khủng khiếp thì cũng có những điểm to lớn và hay: Những giải đáp nhanh chóng cho những vấn đề nội chính khó nhất qua sự thống nhất của tất cả các đảng,... sự đề cao tất cả những người giỏi và chân chính."
Mặc dù khước từ tất cả các dạng chủ nghĩa dân tộc thái quá, ví như trường hợp Học viện khoa học Preußen đã trao giải thưởng cho một công trình nghiên cứu Ý dưới ảnh hưởng của ông (Planck giữ một trong bốn ghế chủ tịch hội) mặc dù Ý vừa chuyển sang phía địch thủ. Mặc dù vậy, tờ "Biểu minh của 93 nhà trí thức" (Manifest der 93 Intellektuellen), một quyển sách nhỏ tuyên truyền chiến tranh mang chữ ký của ông, trong khi thái độ chủ trương hòa bình khắt khe của Einstein gần như đã đưa ông vào tù (Einstein chỉ thoát nạn vì lúc đó mang quốc tịch Thuỵ Sĩ). Năm 1915, sau nhiều cuộc hội ngộ với Lorentz, Planck đã thu hồi các thành phần của biểu minh này và 1916, ông ký tên chống chủ nghĩa thôn tính của nước Đức.
Trong thời hỗn loạn sau chiến tranh, Planck – lúc này đã là người có thẩm quyền bậc nhất trong lĩnh vực vật lý tại Đức – ra khẩu lệnh cho các bạn đồng nghiệp là "chịu đựng và tiếp tục làm việc" (Durchhalten und weiterarbeiten). Tháng 10 năm 1920, Fritz Haber và Planck lập "Hội cấp cứu khoa học Đức" (Notgemeinschaft der Deutschen Wissenschaft) với mục đích tương trợ các công trình nghiên cứu đang trong hoàn cảnh khốn cùng. Phần lớn những nguồn tài trợ có nguồn từ ngoại quốc. Planck lúc này giữ nhiều chức vụ lớn tại Đại học Berlin, Học viện khoa học Preußen (Preußische Akademie der Wissenschaften), Hội Vật lý Đức (Deutsche Physikalische Gesellschaft) cũng như Hội Kaiser-Wilhelm (Kaiser-Wilhelm-Gesellschaft, viết tắt KWG, sau này đổi thành hội Max Planck); dưới những hoàn cảnh như thế thì việc nghiên cứu cá nhân là một việc bất khả thi.
Planck gia nhập đảng DVP, đảng của Stresemann, theo đuổi những mục đích tự do về mặt nội chính, nhưng có vẻ theo chủ nghĩa tu chính về phía ngoại giao. Ông từ khước quyền bầu cử phổ thông và quan niệm rằng chế độ Đức quốc xã sau này bắt nguồn từ sự "Bùng dậy của chính quyền số đông".
Cơ học lượng tử
Cách diễn giảng cơ học lượng tử theo trường phái Kopnenhagen của Bohr, Heisenberg và Pauli trong những năm cuối thập niên 1920 không được Planck tán thành. Cùng với ông, Schrödinger, Laue và Einstein giờ đây cũng được xếp vào hạng bảo thủ. Planck quan niệm thuyết cơ học ma trận của Heisenberg là một học thuyết kinh dị và đón chào phương trình Schrödinger như một sự giải thoát. Ông cho rằng, cơ học sóng sẽ thế chỗ cơ học lượng tử, đứa con của ông. Tuy nhiên, khoa học đã vượt qua những nghi vấn của Planck. Và định luật Planck vốn là phát kiến trong thời nghiên cứu trẻ tuổi của Planck giờ đây có giá trị cho chính ông khi nhìn nhận các phát kiến khác của giới trẻ:
Một chân lý khoa học mới thường không thắng bằng cách thuyết phục những người phản đối và họ tự thú là được dạy, mà qua việc những người này dần dần qua đời cũng như thế hệ đang lên được làm quen với chân lý ngay từ đầu.
Chế độ độc tài Đức quốc xã và Chiến tranh thế giới thứ hai
Khi Đức quốc xã nắm quyền năm 1933 thì Planck đã 74 tuổi. Ông phải chứng kiến sự kiện bạn bè đồng nghiệp bị trục xuất khỏi văn phòng làm việc, bị hạ nhục và chứng kiến việc hàng trăm nhà nghiên cứu phải ra khỏi nước Đức. Một lần nữa, ông áp dụng khẩu lệnh "ráng chịu đựng và tiếp tục làm việc", thỉnh cầu những nhà vật lý muốn xuất cảnh ở lại, và ông cũng thành công phần nào trong việc này (ví dụ như trường hợp Heisenberg).
Hahn hỏi Planck là có thể nào tụ hợp một số giáo sư được công nhận để làm một kháng thư chống lại việc đối xử các nhà vật lý gốc Do Thái, và Planck ứng đáp như sau: "Nếu ông tụ họp 30 người như vậy thì hôm sau 150 người khác đến phản đối, vì họ muốn có chỗ làm của những người kia." Trong trường hợp Fritz Haber Planck thậm chí đến nơi Hitler để can thiệp – dĩ nhiên là hoàn toàn vô ích. Haber mất năm 1934 tại hải ngoại.
Một năm sau, với tư cách là chủ tịch hội KWG (từ năm 1930), Planck tổ chức một buổi tưởng niệm Haber một cách thách thức. Ông cũng tạo điều kiện cho một loạt khoa học gia gốc Do Thái làm việc trong các học viện của KWG.
Năm 1936, nhiệm kì chủ tịch KWG của Planck chấm dứt, và vì sự thúc đẩy của chế độ Đức quốc xã nên ông từ khước việc ra ứng cử một lần nữa.
Dần dần, bầu không khí chính trị ngày càng gắt gao. Johannes Stark, đại biểu của nhánh Vật lý Aryan (Arische Physik) và chủ tịch viện Vật lý kĩ thuật đế quốc (Physikalisch-Technische Reichsanstalt) lăng mạ Planck trong một tờ báo của SS; Sommerfeld và Heisenberg bị gọi là "Do Thái trắng" ("weiße Juden") và ông gây nhiều điểm bất đồng trong toàn ngành Vật lý lý thuyết. "Văn phòng khoa học trung ương" tìm hiểu về gia phả của Planck nhưng chỉ đạt được một kết quả vô vị là ông chỉ có 1/16 máu Do Thái.
Năm 1938, Planck ăn mừng sinh nhật 80 tuổi. Trong khi cuộc tổ chức long trọng của DPG đang diễn biến thì nhà vật lý học ngưiời Pháp Louis de Broglie được nhận mề đai Max Planck - ngay trước khi thế chiến bắt đầu. Planck nhận được hơn 900 lời chúc mừng và ông đã đích thân hồi đáp từng lá thư.
Cuối năm 1938, học viện vật lý bị kiểm soát theo kiểu Gleichschaltung, Planck từ chức vì phản đối. Mặc dù tuổi đã cao nhưng ông vẫn thường đi thuyết giảng, ví dụ như năm 1937 đi các nước ở Biển Đông châu Âu (Baltic States) với bài thuyết nổi danh là "Tôn giáo và khoa học tự nhiên" ("Religion und Naturwissenschaft") và vào năm 1943, ông còn chinh phục nổi vài ngọn núi trên 3000m ở rặng Alps.
Trong thế chiến thứ hai, quân Đồng Minh liên tục tiến hành các chiến dịch ném bom khiến Planck và vợ ông phải rời Berlin đến chỗ ở riêng bên sông Elbe. Ông viết năm 1942: "Tôi khát khao trải qua hoạn nạn và được sống cho đến khi chứng kiến bước ngoặt, khởi điểm của sự thăng tiến". Năm 1942, căn nhà của ông tại Berlin bị bom đạn tàn phá. Trong những tuần cuối của cuộc chiến, gia đình ông sa vào biên giới của phe Đồng Minh. Cuối cùng, sau chiến tranh, ông được đưa về nhà của cô cháu tại Göttingen.
Những năm cuối
Ngay sau chiến tranh, Hiệp hội Kaiser-Wilhelm (Kaiser-Wilhelm-Gesellschaft) được lập lại với sự chỉ đạo từ Göttingen; chính quyền chiếm đóng Anh bắt đặt tên khác và vì vậy, Hiệp hội Max-Planck (Max-Planck-Gesellschaft) được kiến lập (kể từ tháng 2 năm 1948). Planck lại giữ ghế chủ tịch hội về mặt hình thức.
Mặc dù các vấn đề sức khoẻ ngày càng tăng nhưng Planck vẫn tiếp tục đi thuyết giảng. Năm 1946, ông tham dự các buổi lễ của Hiệp hội hoàng gia (Royal Society) nhân dịp kỉ niệm ngày sinh nhật thứ 300 của Newton với tư cách là người Đức duy nhất được mời. Ngày 4 tháng 10 năm 1947, Planck qua đời sau khi bị té và nhiều cơn tai biến mạch máu não khác.
Quan điểm tôn giáo
Planck tận tụy và bền bỉ trung thành với đạo Thiên chúa từ thời thơ ấu cho đến khi mất nhưng ông cũng rất rộng mở với những quan điểm và tôn giáo khác và không hài lòng với những đòi hỏi về niềm tin không được thắc mắc của các tổ chức của nhà thờ Đức quốc xã.
Thiên Chúa mà Planck tin là một đấng toàn năng, biết tất cả, nhân từ nhưng không thể hiểu được, ngập tràn tất cả mọi thứ, biểu hiện bằng các biểu tượng, bao gồm các định luật vật lý. Quan điểm của ông có thể đã được thúc đẩy bởi một cách nhìn trái ngược của Einstein và Schrödinger - chống lại những nhà thực chứng, tổng kết chủ quan thế giới của cơ học lượng tử vũ trụ của Bohr, Heisenberg và những người khác. Planck quan tâm đến chân lý và vũ trụ ngoài tầm quan sát, và phản đối chủ nghĩa vô thần như là một nỗi ám ảnh với các biểu tượng.
Planck xem những nhà khoa học như một con người của trí tưởng tượng và niềm tin, "đức tin" được hiểu tương tự như "có một giả thuyết chấp nhận được" ("having a working hypothesis"). Ví dụ, các nguyên tắc của quan hệ nhân quả là không đúng hay sai mà là một hành động của đức tin.
Huy chương và vinh dự
Huy chương Lorentz 1927
"Pour le Mérite" dành cho khoa học và nghệ thuật 1915 (Planck là chủ tịch hội trao huân chương này từ 1930 trở đi)
Giải Nobel Vật lý năm 1918 (được trao năm 1919)
Huân chương con ó của Đế quốc Đức năm 1928
Huy chương Max-Planck (1928, cùng với Einstein; giải này được tặng bởi DPG năm 1928)
Giải Goethe năm 1945
Tiến sĩ danh dự của các đại học Frankfurt, München (TH), Rostock, Berlin(TH), Graz, Athen, Cambridge, London và Glasgow
Viện sĩ Viện hàn lâm giáo hoàng về Khoa học
Tiểu hành tinh 1069 được gọi để tôn vinh Planck là "Stella Planckia" (1938)
Từ năm 1957 đến 1971, các đồng tiền 2-DM của Đức mang hình của Max Planck.
Tác phẩm
Planck, Max. (1897). Vorlesungen über Thermodynamik
Planck, Max. (1900). "Entropy and Temperature of Radiant Heat ." Annalen der Physik, vol. 1. no 4. April, pg. 719-37.
Planck, Max. (1901). "On the Law of Distribution of Energy in the Normal Spectrum ". Annalen der Physik, vol. 4, p. 553 ff.
Xem thêm
Cơ học lượng tử
Hằng số Planck
Hệ thống đo lường Planck
Bức tường Planck
Đọc thêm
Aczel, Amir D. Entanglement, Chapter 4. (Penguin, 2003) ISBN 9780452284579
Heilbron, J. L. The Dilemmas of an Upright Man: Max Planck and the Fortunes of German Science (Harvard, 2000) ISBN 0674004396
Pickover, Clifford A. Archimedes to Hawking: Laws of Science and the Great Minds Behind Them, Oxford University Press, 2008, ISBN 978-0195336115
Rosenthal-Schneider, Ilse Reality and Scientific Truth: Discussions with Einstein, von Laue, and Planck (Wayne State University, 1980) ISBN 0-8143-1650-6
Chú thích
Liên kết ngoài
Max Planck trong Dimiþox
Max-Planck-Gesellschaft
Tiểu sử Max Planck (tiếng Đức) của Viện bảo tàng lịch sử Đức tại Berlin
Luận án Tiến sĩ của Max Planck: "Luận về nguyên tắc thứ hai của nhiệt động lực học"
http://www.mpg.es.bw.schule.de/allgemein/maxplanck/main.htm
Planck summary
Tiểu sử và tổng quan về tác bài viết của Planck
Die Plancksche Strahlungsformel - Định luật bức xạ của Planck
2-CD-SET: MAX PLANCK - WISSENSCHAFT UND LEBEN - nghe Planck
Max Planck và cuộc cách mạng lượng tử (tiếng Việt) Thuvienvatly.com
Planck, Max
Planck, Max
Người Đức đoạt giải Nobel
Bài cơ bản dài
Nhà vật lý lý thuyết
Max Planck
|
19258
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3ng%20ph%E1%BB%A5%20%C3%A2m%20v%C3%A0%20nguy%C3%AAn%20%C3%A2m%20Hangul
|
Bảng phụ âm và nguyên âm Hangul
|
Sau đây là các bảng phụ âm và nguyên âm jamo Hangul, với nguyên thể màu xanh lơ ở hàng đầu tiên, và các phái sinh của chúng (có thêm thanh âm) nằm ở các hàng sau. Chúng được chia thành các bảng sơ thanh, nguyên âm và chung thanh.
Sơ thanh (phụ âm)
Nguyên âm mẫu tự Hangul
Thứ tự:ㅏ、ㅐ、ㅑ、ㅒ、ㅓ、ㅔ、ㅕ、ㅖ、ㅗ、ㅘ、ㅙ、ㅚ、ㅛ、ㅜ、ㅝ、ㅞ、ㅟ、ㅠ、ㅡ、ㅢ、ㅣ
Chung thanh (phụ âm)
Tham khảo
Tiếng Triều Tiên
|
19295
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BB%9Fi
|
Sởi
|
Sởi (tiếng Anh: measles) là bệnh có tầm quan trọng đặc biệt trong nhi khoa. Trước đây bệnh xảy ra rất thường xuyên và có tỷ lệ lây nhiễm cũng như tử vong rất cao nhưng hiện nay không còn phổ biến nhờ vào chương trình tiêm chủng mở rộng. Sởi là một bệnh nhiễm virus cấp tính đặc trưng ở giai đoạn cuối bằng ban dạng dát-sẩn xuất hiện tuần tự từ cổ, mặt, ngực, thân, chân tay kèm theo sốt cao.
Nguyên nhân gây bệnh
Nguyên nhân gây bệnh là virus sởi. Đây là một loại virus ARN thuộc chi Morbilivirus nằm trong họ Paramyxoviridae. Hiện nay người ta chỉ phát hiện một típ huyết thanh virus sởi. Trong giai đoạn tiền triệu và một thời gian ngắn sau khi phát ban, virus sởi có thể được tìm thấy trong dịch tiết mũi hầu, máu và nước tiểu. Virus có thể hoạt động sau khi để 34 giờ ở nhiệt độ phòng.
Dịch bệnh và thống kê
Năm 2014
Theo báo cáo của Tổ chức y tế Thế giới WHO, chỉ tính riêng 3 tháng đầu năm 2014 đã ghi nhận gần 56.000 trường hợp mắc sởi, tại 75 quốc gia trên thế giới. Các quốc gia có số mắc bệnh cao trong năm 2014 là: Philippines với hơn 17.600 ca mắc và 69 ca tử vong (đã tuyên bố dịch), Trung Quốc với 26.000 ca mắc. Theo đó, cứ mỗi một giờ trôi qua, trên toàn cầu có 14 trẻ tử vong do sởi.
Tại Việt Nam, trong dịch sởi đầu năm 2014, đến ngày 19 tháng 4 đã có số ca mắc 8.500 và có ít nhất 114 ca tử vong.
Vào ngày 22 tháng 1 năm 2014, Tổ chức Y tế Thế giới tuyên bố và chứng nhận Colombia miễn nhiễm và không còn bệnh sởi và trở thành quốc gia Mỹ Latinh đầu tiên chấm dứt bệnh sởi trong lãnh thổ của họ.
Dịch tễ
Sởi có thể gây dịch khắp nơi trên thế giới. Trong quá khứ, các vụ dịch thường xảy ra cứ mỗi 2 đến 4 năm vào mùa xuân ở các thành phố lớn, khi mà số lượng một nhóm trẻ không có miễn dịch với sởi đủ lớn. Sởi ít khi biểu hiện thầm lặng. Trước khi có vaccine sởi, lứa tuổi mắc bệnh thường gặp nhất là 5 đến 10 tuổi. Những người sinh trước năm 1957 được coi như có miễn dịch tự nhiên với sởi vì lúc đó sởi lưu hành rất phổ biến.
Hiện nay bệnh thường gặp ở trẻ ở độ tuổi trước khi đi học không được tiêm chủng ngừa sởi. Ở Việt Nam, sởi vẫn còn là một bệnh tương đối thường gặp mặc dù tỷ lệ mắc đã giảm rõ rệt so với trước khi có chương trình tiêm chủng mở rộng.
Lây truyền
Sởi là một bệnh dễ lây lan: trong gia đình nếu có một người bị bệnh thì có đến 90% những người chưa có miễn dịch sẽ bị nhiễm bệnh. Người bệnh phát tán virus mạnh nhất là vào giai đoạn tiền triệu (giai đoạn xuất tiết) thông qua các hạt nhỏ bắn ra khi ho, khi nói chuyện hoặc khi tiếp xúc. Điều đáng nói ở đây là giai đoạn lây lan mạnh này xuất hiện vào lúc khi bệnh chưa được chẩn đoán, do đó, dĩ nhiên cũng không có biện pháp phòng ngừa. Trẻ sơ sinh được mẹ truyền các kháng thể miễn dịch thông qua nhau thai. Lượng kháng thể có thể tồn tại từ 4 đến 6 tháng, do vậy trẻ ít khi mắc bệnh trong giai đoạn này. Tuy vậy, một số bằng chứng cho thấy kháng thể từ mẹ có thể bảo vệ trẻ đến tháng thứ 9 sau khi sinh. Đây là lý do tiêm chủng ngừa sởi thường được thực hiện trước 12 tháng (xin xem phần sau).
Bệnh sinh
Những tổn thương đặc trưng của sởi xuất hiện ở da, niêm mạc mũi hầu, phế quản, niêm mạc đường tiêu hóa và kết mạc mắt. Tại đây xuất hiện các dịch xuất tiết thanh mạc và sự tăng sinh của các tế bào đơn nhân và một số tế bào đa nhân quanh mao mạch. Các tổ chức bạch huyết cũng tăng sinh thường gặp nhất là ở ruột thừa, nơi có thể tìm thấy các tế bào khổng lồ đa nhân (tế bào khổng lồ hệ võng nội mô Warthin - Finkeldey). Biểu hiện ở da là những tổn thương các tuyến đưới da và lỗ chân lông. Hạt Koplik cũng chứa các chất xuất tiết thanh dịch và sự tăng sinh các tế bào nội mô tương tự như ở da. Viêm phổi kẽ là do các tế bào khổng lồ Hecht. Viêm phổi cũng do bội nhiễm vi khuẩn. Trong một số trường hợp viêm não, quá trình thoái hóa myeline có thể xảy ra quanh khoảng mạch trong não và tủy sống. Trong viêm não toàn bộ xơ hóa bán cấp (SSPE: Subacute Sclerosing PanEncephalitis) hay còn gọi viêm não chậm, sự hiện diện của virus trong các hạt vùi nội bào tương và trong nhân gây nên sự thoái hóa từ từ và tiến triển của vỏ não (chất xám) và chất trắng.
Biểu hiện lâm sàng
Sởi biểu hiện trên lâm sàng qua ba giai đoạn:
Giai đoạn ủ bệnh.
Giai đoạn tiền triệu với dấu hiệu nội ban (còn gọi là hạt Koplik).
Giai đoạn cuối với ban dát - sẩn và sốt cao.
Giai đoạn ủ bệnh
Thời kỳ ủ bệnh thường kéo dài từ 10 đến 12 ngày là thời gian từ khi trẻ bị nhiễm virus gây bệnh đến khi xuất hiện những dấu hiệu đầu tiên của giai đoạn tiền triệu. Trong giai đoạn này trẻ không biểu hiện triệu chứng gì của bệnh.
Giai đoạn tiền triệu
Giai đoạn tiền triệu thường kéo dài 5 đến 15 ngày được đặc trưng bởi sốt mức độ nhẹ đến vừa, ho khan, chảy mũi nước, viêm kết mạc mắt. Những triệu chứng này hầu như luôn luôn xảy ra trước khi nội ban xuất hiện. Nội ban hay hạt Koplik là dấu hiệu chỉ điểm của bệnh. Nội ban xuất hiện ở khẩu cái cứng hoặc khẩu cái mềm (vòm họng). Hạt Koplik là những hạt nhỏ bằng hạt cát, màu trắng ngà, xung quanh có viền đỏ. Hạt thường xuất hiện và biến mất nhanh trong vòng 12 đến 24 giờ. Kết mạc mắt có thể bị viêm đỏ và có dấu hiệu sợ ánh sáng. Người bệnh thường có ho khan tức ho không có đàm. Đôi khi giai đoạn tiền triệu biểu hiện bằng những triệu chứng nặng nề như sốt cao, co giật hoặc thậm chí viêm phổi.
Giai đoạn phát ban
Đây là giai đoạn điển hình nhất của bệnh với triệu chứng phát ban tuần tự trên da. Ban thường xuất hiện đầu tiên ở vùng chân tóc phía sau tai, sau đó xuất hiện ở mặt và lan dần xuống phía dưới trong vòng 24 đến 48 giờ. Ban sởi là những ban dạng dát-sẩn hơi nổi lên trên bề mặt da, sờ mịn như nhung và không đau, không hoặc ít ngứa, không sinh mủ. Trong trường hợp nhẹ, ban thường đứng gần nhau nhưng riêng rẽ. Trong trường hợp nặng, ban có xu hướng hợp với nhau làm thành những ban lớn hơn, thậm chí từng mảng xuất huyết (sởi đen). Trong thể đặc biệt nặng, ban có thể có dấu hiệu xuất huyết. Khi ban lan đến chân thì sốt cũng đột ngột giảm đi nếu không có biến chứng. Sau đó ban cũng nhạt dần và mất đi đúng theo tuần tự nó đã xuất hiện, nghĩa là cũng từ trên xuống dưới. Sau khi ban mất đi, trên da còn lại những dấu màu sậm lốm đốm như vằn da báo.
Sởi không điển hình
Một số trường hợp bệnh sởi biểu hiện không giống như miêu tả ở trên như trong trường hợp bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, ban có thể không điển hình. Các bệnh này thường là bệnh nhân AIDS, hội chứng thận hư, điều trị thuốc ức chế miễn dịch...
Chẩn đoán
Chẩn đoán chủ yếu dựa vào yếu tố dịch tễ (tiếp xúc nguồn lây) và biểu hiện lâm sàng với những dấu hiệu và triệu chứng miêu tả ở trên. trong đó việc phát hiện nội ban và ngoại ban tuần tự có ý nghĩa quyết định. Xét nghiệm cận lâm sàng chỉ có ý nghĩa nghiên cứu hơn là phục vụ cho công tác điều trị.
Trong giai đoạn tiền triệu, có thể phát hiện các tế bào khổng lồ đa nhân từ bệnh phẩm ngoáy mũi họng.
Công thức máu có thể cho thấy giảm tế bào đa nhân trung tính và tăng tương đối tế bào lympho. Khi bội nhiễm vi khuẩn gây viêm tai giữa hay viêm phổi thì tế bào đa nhân trung tính có thể tăng cao. Đây cũng là dấu hiệu có ích trong phát hiện biến chứng bội nhiễm.
Dịch não tủy chỉ thực hiện khi trẻ có biểu hiện tổn thương thần kinh. Trong trường hợp này, protein tăng cao, tế bào ít tăng và chủ yếu là các tế bào lympho, glucose dịch não tủy bình thường.
Kháng thể có thể phát hiện được khi xuất hiện ban trên lâm sàng. Kháng thể IgM cho biết tình trạng nhiễm trùng cấp tính. Kháng thể IgG cho biết bệnh nhân đã được miễn dịch do tiêm chủng hay mắc bệnh trước đó. IgG cũng là kháng thể duy nhất mẹ truyền cho con qua nhau thai và có tác dụng bảo vệ trẻ trong khoảng 4 đến 6 tháng đầu đời.
Phân lập virus bằng cách cấy trên tế bào phôi người hoặc tế bào thận khỉ. Những thay đổi bệnh lý tế bào thường xảy ra trong khoảng 5-10 ngày với sự xuất hiện các tế bào khổng lồ đa nhân cùng với các hạt vùi trong nhân tế bào.
Chẩn đoán phân biệt
Cần chẩn đoán phân biệt với:
Sởi Đức (rubella): Ban ít hơn sởi, sốt cũng nhẹ nhàng hơn.thường có hạch sau tai
Đào ban ấu nhi (roseola infantum) do HHV 6: thường gặp ở trẻ nhũ nhi. Ban có hình dạng giống ban sởi nhưng thường xuất hiện khi sốt giảm đột ngột và thường xuất hiện đầu tiên ở bụng. Kết mạc mắt không viêm còn trong sởi kết mạc viêm đỏ gây nên biểu hiện mắt kèm nhèm trên lâm sàng.
Nhiễm virus như echovirus, Coxackievirus và adenovirus: ban cũng không đặc trưng như ban sởi.
Tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng do Epstein Barr virus: ban ít hơn nhưng cũng có thể xuất hiện dày lên khi dùng thuốc ampicilline. Bệnh thường kèm theo viêm họng đôi khi có mủ, sưng hạch cổ, gan lách to...
Toxopalasmosis.
Nhiễm khuẩn huyết do não mô cầu: bệnh thường nặng nề với bối cảnh sốc trụy mạch, ban lan nhanh và không theo tuần tự, ban thường có hình sao, xuất huyết màu tím thẫm (tử ban).
Sốt tinh hồng nhiệt.
Các bệnh do rickettsia.
Bệnh Kawasaki.
Nổi ban do dị ứng thuốc: tiền sử dùng thuốc.
Các bệnh huyết thanh.
Sốt xuất huyết: Sốt cao 39 đến 40 độ C. Tuy nhiên ở Sởi khi sốt, phát ban còn có triệu chứng ho, đau họng... Còn sốt xuất huyết thì không. Sốt xuất huyết thường gây biến chứng nặng sau 4 đến 5 ngày nếu không được chữa trị kịp thời
Điều trị
Tài liệu này chỉ mang tính tham khảo không có tính pháp lý và không thể thay thế điều trị của các bác sĩ chuyên khoa nhi. Điều trị bệnh sởi cần thực hiện ở bệnh viện nhằm mục đích cách ly và phát hiện kịp thời các biến chứng.
Giống như trong đa phần các bệnh do virus, hiện tại chưa có điều trị đặc hiệu chống virus sởi mà chỉ có điều trị hỗ trợ.
Điều trị hỗ trợ gồm hạ sốt bằng Paracetamol, Ibuprofen; nghỉ ngơi tại giường, bù phụ nước-điện giải, phát hiện biến chứng kịp thời.
Điều trị kháng sinh khi có bằng chứng bội nhiễm vi khuẩn.
Các thuốc kháng virus hiện nay không có tác dụng.
Vitamin A
Tình trạng thiếu vitamin A gặp ở 90% bệnh nhi mắc sởi ở châu Phi và gặp ở 22-72% bênh nhi mắc sởi ở Mỹ. Có mối tương quan nghịch giữa nồng độ Vitamin A trong máu với mức độ nặng của sởi. Điều trị bằng Vitamin A đường uống chứng tỏ làm giảm tỷ lệ tử vong cũng như biến chứng ở trẻ em mắc sởi tại các nước đang phát triển. Liều khuyến cáo là 100 000 đơn vị quốc tế cho trẻ 6 tháng đến 1 tuổi; 200 000 đơn vị cho trẻ trên 1 tuổi và dùng liều duy nhất. Trẻ suy dinh dưỡng và trẻ có dấu hiệu ở mắt do thiếu vitamin A nên thêm một liều vào ngày hôm sau và một liều thứ ba 4 tuần sau đó.
Biến chứng
Các biến chứng thường gặp của sởi là viêm tai giữa, viêm phổi, tiêu chảy, viêm não. Chính các biến chứng này làm kéo dài thời gian bệnh, ảnh hưởng đến dinh dưỡng của trẻ. Hậu quả là suy dinh dưỡng. Suy dinh dưỡng, đến lượt nó, lại là tiền đề cho các bệnh nhiễm trùng phát sinh. Đây là vòng lẩn quẩn bệnh lý thường gặp.
Viêm phổi kẽ gây ra do chính bản thân virus sởi (viêm phổi tế bào khổng lồ). Viêm phổi do sởi ở bệnh nhân AIDS thường gây tử vong và hiếm khi có ban điển hình. Thường gặp hơn là bội nhiễm vi khuẩn gây nên viêm phổi. Các vi khuẩn thường gặp là phế cầu, liên cầu nhóm A, tụ cầu và Hemophilus Influenzae típ b.
Viêm tai giữa là biến chứng luôn luôn phải nghĩ đến ở trẻ mắc sởi. Nguyên nhân gây bệnh cũng tương tự như trong viêm phổi. Nếu không phát hiện kịp thời, viêm tai giữa có thể gây thủng màng nhĩ ảnh hưởng đến thính lực. Đôi khi viêm tai giữa cấp không được điều trị đúng có thể đưa đến viêm tai giữa mạn tính với biến chứng nguy hiểm là viêm tai xương chũm và áp xe não.
Tiêu chảy cũng là biến chứng thường gặp sau sởi đặc biệt ở những trẻ suy dinh dưỡng và thiếu vitamin A. Trẻ dễ bị mắc lỵ trực trùng và tiêu chảy kéo dài. Đôi khi do cơ địa suy kiệt, bệnh nhi dễ có nguy cơ nhiễm trùng huyết tiêu điểm từ ruột.
Viêm loét giác mạc: đây là biến chứng kinh điển và đáng sợ. Trẻ suy dinh dưỡng và thiếu vitamin A là những đối tượng có nguy cơ cao nhất. Bệnh có thể diễn biến từ loét gây mờ giác mạc, hỏng toàn bộ giác mạc đến làm mủ trong nhãn cầu. Hậu quả là giảm thị lực đến mù vĩnh viễn toàn bộ. Biến chứng này hiện nay cũng đã giảm rõ nhờ điều kiện dinh dưỡng được cải thiện và nhờ vào chiến dịch bổ sung vitamin A cho cộng đồng.
Sởi làm suy giảm chức năng miễn dịch của cơ thể nên có thể tạo điều kiện cho thể lao tiềm ẩn tái bùng phát mạnh mẽ.
Viêm cơ tim cũng có thể xảy ra nhưng hiếm gặp hơn.
Viêm não ước tính khoảng 1-2/1000 trường hợp mắc sởi. Không có mối tương quan giữa mức độ nặng của bệnh sởi với khả năng xuất hiện viêm não. Cũng không có tương quan giữa triệu chứng khởi đầu của viêm não với tiên lượng của nó. Có hai thể viêm não do sởi. Một thể là do phản ứng miễn dịch thông qua sự hình thành phức hợp kháng nguyên-kháng thể. Một thể khác là do sự hiện diện của virus sởi tồn tại trong tế bào thần kinh gây nên viêm não chậm có thể xuất hiện 5 năm thậm chí 15 năm sau khi mắc sởi.
Các biến chứng thần kinh khác là hội chứng Guillain-Barrée, liệt nửa người, huyết khối tĩnh mạch não... thường ít gặp.
Tiên lượng
Tiên lượng có thể thay đổi tùy theo thể trạng của trẻ, phát hiện và điều trị kịp thời hay không, sự xuất hiện các biến chứng...Tử vong có thể xảy ra do viêm phổi, viêm não. Trong lich sử ví dụ vụ dịch ở đảo Faroe năm 1846, tỷ lệ tử vong là 25%. Ở Mỹ, tỷ lệ tử vong ước tính 1 -2/1000 trường hợp. Ở các nước đang phát triển, nơi mà tình trạng suy dinh dưỡng còn cao và hệ thống y tế còn nhiều khiếm khuyết thì tử lệ tử vong chắc chắn cao hơn, biến chứng cũng cao hơn.
Phòng bệnh
Khi phát hiện trẻ có tiếp xúc với nguồn lây bệnh nên cách ly trẻ ở bệnh viện từ ngày thứ 7 sau khi tiếp xúc đến ngày thứ 5 sau khi xuất hiện ban sởi bởi giai đoạn này là giai đoạn lây lan mạnh.
Vaccine
Hiện nay các nước tiên tiến thường tiêm ngừa sởi bằng vaccine tam liên sởi-quai bi-rubella (sởi Đức). Mũi tiêm đầu tiên thực hiện lúc trẻ được 12 đến 15 tháng tuổi. Mũi tiêm nhắc lại có thể thực hiện lúc trẻ được 4-6 tuổi tuy nhiên cũng có thể tiêm nhắc vào bất cứ lúc nào sau mũi thứ nhất 4 tuần. Trẻ không được tiêm nhắc mũi thứ hai nên được tiêm vào lúc 10 đến 12 tuổi.
Ở các nước có tỷ lệ lưu hành sởi khá cao thì có thể tiêm mũi đầu tiên ngay lúc trẻ được 6 tháng tuổi. Chương trình tiêm chủng mở rộng tại Việt Nam thực hiện mũi tiêm sởi lúc trẻ 9 tháng tuổi. Mũi tiêm này chỉ chứa vaccine sởi. Tại các thành phố lớn hiện có vaccine tam liên như trên nhưng không miễn phí. Các gia đình có điều kiện nên tiêm loại vaccine này.
Vì vaccine sởi là loại vaccine sống giảm độc lực nên không được khuyến cáo ở phụ nữ có thai, trẻ suy giảm miễn dịch tiên phát, trẻ bị bệnh lao không được điều trị, bệnh nhân ung thư, bệnh nhân ghép tạng, bệnh nhân đang điều trị thuốc ức chế miễn dịch hoặc trẻ bị bệnh AIDS giai đoạn nặng.
Phòng ngừa sau phơi nhiễm
Trong vòng 6 ngày từ khi tiếp xúc nguồn lây, việc sử dụng globuline miễn dịch có thể phòng ngừa bệnh hoặc làm giảm mức độ nặng của sởi. Đây là phương thức phòng ngừa đắt tiền và cũng không phổ biến ở Việt Nam. Ngay cả tại các nước phát triển thì cũng chỉ một số đối tượng được khuyến cáo sử dụng phương pháp này. Đó là phụ nữ có thai chưa được miễn dịch với sởi, trẻ nhỏ hơn 6 tháng tuổi sinh ra từ mẹ không có miễn dịch chống sởi... Do vậy biện pháp đơn giản và hữu hiệu nhất vẫn là tiêm chủng ngừa bệnh theo chương trình quốc gia.
Xem thêm
Sởi Đức
Tham khảo
Liên kết ngoài
Measles Surveillance Data - Dữ liệu giám sát Sởi tại trang chính thức của WHO
Measles
Hỏi – đáp về bệnh sởi Ban Biên tập Cổng Thông tin điện tử Bộ Y tế, 09/04/2014 08:05
Tiêm vắc xin Sởi để phòng bệnh cho trẻ và tránh nguy cơ bùng phát dịch Sởi Phòng Vắc xin, SPYT và ATSH - Cục YTDP Bộ Y tế 8/2/2014 2:20 PM
Cần biết về bệnh Sởi và cách phòng bệnh Phòng TT-CĐT, Cục YTDP 8/2/2014 5:05 PM
Thông cáo báo chí: Thông tin phòng, chống dịch sởi Cổng TTĐT Bộ Y tế 18/04/2014 14:22
WHO.int—'Initiative for Vaccine Research (IVR): Measles', World Health Organization (WHO)
Measles - Immunization, Vaccines and Biologicals
Measles FAQ from Centers for Disease Control and Prevention in the United States
Measles - a blast from the past Jim Todd, BBC updated at 09:43 GMT, Friday, ngày 23 tháng 5 năm 2008 10:43 UK
Measles (Rubeola) Conditions, Treatment and Pictures for Parents - Overview | skinsight Updated: 22/12/2008
Virus Pathogen Database and Analysis Resource (ViPR): Paramyxoviridae
Bệnh truyền nhiễm
Mononegavirales
Nhi khoa
RNA
RTT
Bệnh lây qua không khí
|
19297
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thang%20%C4%91i%E1%BB%83m%20h%C3%B4n%20m%C3%AA%20Glasgow
|
Thang điểm hôn mê Glasgow
|
Thang điểm hôn mê Glasgow (tiếng Anh: Glasgow Coma Scale) là một phương pháp đánh giá tình trạng ý thức của người bệnh một cách lượng hóa. Được thiết lập để lượng giá độ hôn mê của nạn nhân bị chấn thương đầu, hiện nay người ta còn dùng thang điểm Glasgow trong những trường hợp bệnh lý khác. Thang điểm này khá khách quan, đáng tin cậy, có giá trị tiên lượng và rất thuận tiện trong việc theo dõi diễn tiến của người bệnh.
Số điểm của một bệnh nhân cụ thể được ghi một cách ngắn gọn là điểm Glasgow (tiếng Anh: Glasgow Coma Score, viết tắt GCS).
Thang điểm này được giới thiệu lần đầu vào năm 1974 bởi hai giáo sư khoa thần kinh tại trường Đại học Glasgow là Graham Teasdale và Bryan J. Jennett. Về sau, hai ông cùng viết cuốn Xử trí các chấn thương đầu (Management of Head Injuries) (Nhà xuất bản FA Davis, 1981 ISBN 0803650191), là một tác phẩm nổi tiếng trong giới chuyên môn.
Thang điểm Glasgow (dùng cho bệnh nhân người lớn)
Thang điểm có 3 yếu tố, gồm các đáp ứng bằng mắt, lời nói và vận động. Điểm chi tiết cũng như tổng số điểm của ba loại đáp ứng đều được theo dõi. Tổng điểm GCS thấp nhất là 3 (hôn mê sâu hoặc chết), và cao nhất là 15 (người hoàn toàn tỉnh và đang thức).
Ở Việt Nam, khi dùng thang điểm Glasgow người ta thường giữ nguyên các chữ viết tắt bằng tiếng Anh là E (mắt - eye opening), V (lời nói - best verbal response) và M (vận động - best motor response).
Tiếp cận người bệnh
Nguyên tắc là phải luôn bắt đầu bằng việc quan sát, hỏi han, lay gọi người bệnh để xem đáp ứng của họ. Nếu không có đáp ứng với lời nói mới bắt đầu các biện pháp gây đau.
Ghi nhận điểm cao nhất mà bệnh nhân đạt được trong từng loại đáp ứng.
Đáp ứng bằng mắt (E)
Có 4 mức độ:
Mở mắt tự phát.
Mở mắt khi nghe gọi. (Cần phân biệt với ngủ, nếu bệnh nhân ngủ và mở mắt khi bị đánh thức thì ghi là 4 điểm, không phải 3).
Mở mắt khi bị làm đau. (Ấn vào giường móng, nếu không đáp ứng mới dùng các phép thử khác gây đau nhiều hơn - ấn trên hốc mắt hoặc trước xương ức bằng góc giữa đốt ngón tay thứ nhất và thứ hai).
Không mở mắt.
Đáp ứng bằng lời nói (V)
Có 5 mức độ:
Trả lời chính xác. (Bệnh nhân trả lời đúng những nội dung đơn giản, quen thuộc như tên, tuổi của bản thân, quê quán, mùa, năm v.v.).
Trả lời, nhưng nhầm lẫn. (Bệnh nhân vẫn "nói chuyện" được với người khám nhưng tỏ ra lú lẫn trong các câu trả lời).
Phát ngôn vô nghĩa. (Bệnh nhân có thể nói thành câu, nhưng không "nói chuyện" với người khám).
Phát âm khó hiểu. (Có thể kêu rên, nhưng không thành những từ ngữ hẳn hoi).
Hoàn toàn im lặng.
Đáp ứng vận động (M)
Có 6 mức độ:
Thực hiện yêu cầu. ("Tuân lệnh", làm những việc đơn giản theo yêu cầu của người khám: mở/nhắm mắt, nắm/xòe bàn tay v.v.)
Cấu véo đáp ứng chính xác.
Cấu véo đáp ứng không chính xác.
Co cứng (kiểu) mất vỏ khi đau. (Phản xạ bất thường: co cứng các chi - tư thế của người bị tổn thương vỏ não).
Duỗi cứng (kiểu) mất não khi đau. (Co cơ khiến cho vai xoay trong, cánh tay bị úp sấp xuống - tư thế của người bị tổn thương não).
Không đáp ứng với đau.
Phân tích các điểm ghi nhận
Tổng số điểm cũng như từng điểm chi tiết đều có ý nghĩa quan trọng, do đó, điểm Glasgow của một bệnh nhân thường được ghi theo kiểu của thí dụ sau: "GCS = 10 (E3 V4 M3) lúc 17:25".
Việc phân tích chi tiết dành cho các nhà chuyên môn, nhưng nhìn chung, mức độ hôn mê được đánh giá là:
nặng, khi GCS ≤ 8,
trung bình, với GCS từ 9 đến 12,
nhẹ, khi GCS ≥ 13.
Thang điểm Glasgow biến đổi
Ở vài nơi, người ta hiệu chỉnh thang điểm Glasgow bằng cách loại bỏ yếu tố "tránh cái đau" trong phần đáp ứng vận động (M). Do đó, M chỉ có 5 mức điểm, tổng số điểm tối đa là chỉ là 14 (thay vì 15).
Thang điểm hôn mê Glasgow trong nhi khoa
Thang điểm Glasgow (cho người lớn) nhiều khi không thích hợp để áp dụng cho trẻ em, nhất là ở các bé dưới 36 tháng tuổi (lứa tuổi mà hầu hết trẻ em đều nói chưa rành). Do đó, người ta đã thiết lập thang điểm hôn mê Glasgow trong nhi khoa (tiếng Anh: Pediatric Glasgow Coma Scale, viết tắt PGCS).
Thang điểm này cũng gồm ba loại đáp ứng: mắt (E), lời nói (V) và đáp ứng thần kinh vận động (M). Điểm thấp nhất là 3 (hôn mê sâu hoặc chết), và cao nhất là 15 (trẻ hoàn toàn tỉnh và đang thức).
Tiếp cận bệnh nhi
Nguyên tắc luôn là bắt đầu bằng việc quan sát, hỏi han, lay gọi bệnh nhi để xem đáp ứng của trẻ. Nếu không có đáp ứng với lời nói mới bắt đầu các biện pháp gây đau.
Ghi nhận điểm cao nhất mà bệnh nhi đạt được trong từng loại đáp ứng.
Đáp ứng bằng mắt tốt nhất (E)
Có 4 mức độ:
Mở mắt tự phát.
Mở mắt khi nghe gọi. (Cần phân biệt với ngủ, nếu trẻ ngủ và mở mắt khi bị đánh thức thì ghi là 4 điểm, không phải 3).
Mở mắt khi bị làm đau. (Mô tả ở phần người lớn).
Không mở mắt.
Đáp ứng bằng lời nói tốt nhất (V)
Có 5 mức độ:
Trẻ giao tiếp bình thường (bằng lời nói nếu đã biết nói).
Trẻ bứt rứt, khó chịu và khóc thường xuyên.
Trẻ kêu la khi bị làm đau.
Trẻ rên rỉ khi bị làm đau, nhưng không thành những từ ngữ hẳn hoi.
Hoàn toàn im lặng.
Đáp ứng vận động tốt nhất (M)
Có 6 mức độ:
Trẻ cử động tự nhiên, có chủ đích.
Trẻ co tay hoặc chân bị sờ chạm.
Trẻ co tay hoặc chân bị làm đau.
Co cứng (kiểu) mất vỏ khi đau. (Mô tả ở phần người lớn).
Duỗi cứng (kiểu) mất não khi đau. (Mô tả ở phần người lớn).
Không đáp ứng với đau.
Phân tích các điểm ghi nhận
Việc phân tích chi tiết dành cho các nhà chuyên môn, nhưng nhìn chung, nguy cơ tử vong cao khi tổng số điểm < 8.
Tham khảo
Teasdale G, Jennett B. Assessment of coma and impaired consciousness. A practical scale. Lancet 1974,2:81-84. PMID 4136544.
Development of Glasgow Coma and Outcome Scales , bài phê bình bởi Giáo sư Jennett.
Thang điểm y khoa
Cấp cứu y khoa
Thần kinh học
Nhi khoa
Hồi sức tích cực
Phát minh Scotland
Hôn mê
|
19312
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Propan-1-ol
|
Propan-1-ol
|
1-Propanol là một loại rượu với công thức phân tử CH3CH2CH2OH. Nó còn được biết đến với các tên gọi Propan-1-ol, rượu 1-propylic, rượu n-propylic hay đơn giản là propanol. Nó được sử dụng như là dung môi trong công nghiệp dược phẩm cũng như để chế tạo nhựa tổng hợp và các este xenluloza. Trong tự nhiên, nó được tạo ra với một lượng nhỏ bằng lên men.
Thuộc tính hóa học
1-Prôpanol có các phản ứng hóa học của rượu bậc nhất. Do vậy nó dễ dàng chuyển hóa thành các ankyl halide; ví dụ iod tạo ra 1-iodoprôpan với hiệu suất 90% (xúc tác phosphor đỏ), trong khi PBr3 và xúc tác ZnCl2 tạo ra 1-brômoprôpan. Phản ứng với axít axêtic với sự có mặt của chất xúc tác H2SO4 trong điều kiện este hóa Fischer tạo ra prôpyl axêtat, trong khi cho prôpanol phản ứng với axít formic có thể tạo ra prôpyl format với hiệu suất 65%. Phản ứng oxy hóa 1-prôpanol bằng Na2Cr2O7 và H2SO4 chỉ tạo ra 36% prôpionalđêhít và vì thế đối với phản ứng loại này các phương pháp có hiệu suất cao hơn được khuyến nghị sử dụng như PCC hay oxy hóa Swern. oxy hóa với axít crômic sinh ra axít prôpionic
Điều chế
1-Prôpanol là thành phần chính của dầu rượu tạp, sản phẩm phụ tạo thành từ các amino acid nào đó khi khoai tây hay ngũ cốc được lên men để sản xuất êtanol. Hiện nay, nó không còn là nguồn cơ bản của 1-prôpanol.
1-Prôpanol được sản xuất bằng hydro hóa prôpionalđêhít với chất xúc tác. Prôpionalđêhít tự nó được sản xuất thông qua công nghệ oxo, bằng cách hydroformylat hóa êtylen sử dụng cacbon mônôxít và hydro với chất xúc tác như côban octacacbonyl hay phức chất rôđi.
(1) H2C=CH2 + CO + H2 → CH3CH2CH=O
(2) CH3CH2CH=O + H2 → CH3CH2CH2OH
Trong phòng thí nghiệm thông thường người ta điều chế 1-prôpanol bằng cách xử lý 1-iodoprôpan với Ag2O ẩm.
Lịch sử
1-Prôpanol được Chancel phát hiện ra năm 1853, là người đã thu được nó bằng chưng cất phân đoạn dầu rượu tạp.
Tham khảo
B. S. Furnell et al., Vogel's Textbook of Practical Organic Chemistry, 5th edition, Longman/Wiley, New York, 1989.
Handbook of Chemistry and Physics, 71st edition, CRC Press, Ann Arbor, Michigan, 1990.
The Merck Index, 7th edition, Merck & Co, Rahway, New Jersey, USA, 1960.
W. H. Perkin, F. S. Kipping, Organic Chemistry, W. & R. Chambers, Ltd., London, 1922.
Alcohol
Dung môi
|
19313
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alcohol%20allyl
|
Alcohol allyl
|
Alcohol allyl (danh pháp IUPAC: 2-Propen-1-ol) hay rượu allylic là một hợp chất hữu cơ. Nó là một chất lỏng không màu, hòa tan trong nước với mùi vị tương tự như etanol khi ở nồng độ thấp và tương tự như mùi hăng của mù tạc khi ở nồng độ cao. Nói chung, hợp chất này có độc tính, dễ cháy và nguy hiểm. Rượu allyl được sử dụng làm thuốc trừ sâu và nguyên liệu thô cho sản xuất nhiều hợp chất hữu cơ khác.
2-Propen-1-ol có thể thu được bằng thủy phân propen chloride hay bằng oxy hóa propylen oxide với kali alum (KAl(SO4)2•12H2O) ở nhiệt độ cao hoặc bằng phương pháp khử nước của propan-1-ol hoặc bằng phản ứng của glycerol và acid formic. Rượu allyl là đại diện nhỏ nhất trong số các rượu gốc allyl. Các rượu allyl có thể điều chế bằng oxy hóa allyl của các hợp chất allyl, ví dụ bằng selen dioxide.
Tham khảo
Liên kết ngoài
MSDS tại michigan.gov
MSDS tại hazmap.nlm.nih.gov
MSDS tại ptcl.chem.ox.ac.uk
Thông tin về các quy định điều chỉnh
Rượu allyl từ glycerol và axít formic trong Organic Syntheses, Coll. Vol. 1, p. 42 (1941); Vol. 1, p. 15 (1921). Bài trên Internet
Alcohol
Alken
|
19314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Glasgow%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Glasgow (định hướng)
|
Glasgow có liên quan đến các bài sau:
Glasgow là một thành phố của nước Scotland.
Thang điểm hôn mê Glasgow là một phương pháp đánh giá hôn mê trong y khoa.
Và các tên khác chưa có trong Wikipedia tiếng Việt.
|
19316
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Allyl
|
Allyl
|
Nhóm anlyl là một nhóm anken hydrocarbon với công thức H2C=CH-CH2-. Nó có thể coi như một nhóm vinyl, CH2=CH-, gắn với mêtylen -CH2. Ví dụ rượu anlyl có cấu trúc H2C=CH-CH2OH. Các hợp chất chứa nhóm anlyl thông thường được nói đến như là các hợp chất anlyl.
Vị trí của nguyên tử cacbon bão hòa, trong đó nhóm anlyl được gắn vào (trong trường hợp này, nguyên tử cacbon bên cạnh nhóm OH trong rượu anlyl) được gọi là vị trí anlyl. Nhóm, chẳng hạn -OH, được gắn tại vị trí anlyl đôi khi được mô tả như là anlyl. Hai ví dụ đơn giản nhất về các hợp chất anlyl là anlyl chloride và rượu anlyl.
Các sự thay thế cho nhóm nói trên, chẳng hạn trans-but-2-en-1-yl hay nhóm crôtyl (CH3CH=CH-CH2-) cũng có thể coi như là các nhóm anlyl.
Các nhóm mêtylen anlyl có phản ứng đặc biệt chẳng hạn như trong các phản ứng oxy hóa anlyl, phản ứng -en và ankyl hóa anlyl bất đối xứng Trost.
Tham khảo
Alken
Nhóm chức
|
19318
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Glasgow
|
Glasgow
|
Glasgow (tiếng Gael Scotland: Glaschu) là thành phố lớn nhất trong số 32 đơn vị hành chính của Scotland, nằm bên sông Clyde ở phần phía tây miền trung đất nước. Trong Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Glasgow là thành phố lớn thứ ba, sau Luân Đôn và Birmingham.
Glasgow được phát triển từ địa phận giáo mục từ thời Trung cổ và sau đó là sự thành lập của trường Đại học Glasgow, đóng góp vào sự huy hoàng của xứ Scotland. Từ thế kỷ 18 thành phố trở thành một trong những trung tâm thương mại chính với châu Mỹ qua Đại Tây Dương. Với Cách mạng Công nghiệp, thành phố và các vùng lân cận trở thành một trong những trung tâm kỹ thuật và nghề đóng tàu ưu việt của thế giới, tạo nên nhiều tàu thuyền mang tính cách mạng và nổi tiếng. Thành phố cũng từng được gọi là "Thành phố Thứ hai của Đế chế Anh" vào thời kỳ Nữ hoàng Victoria. Ngày nay Glasgow nằm trong số 20 thành phố thương mại lớn nhất châu Âu và cũng là nơi đặt trụ sở của nhiều công ty kinh tế tại Scotland.
Trong cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, dân số của Glasgow đã vượt trên một triệu người, và là thành phố lớn thứ tư trong châu Âu, sau Luân Đôn, Paris và Berlin. Trong thập niên 1960, sự di cư diện rộng tới những thành pố mới và vùng ngoại ô dẫn đến việc giảm dân số của Glasgow tới 580.690. Toàn bộ vùng bao quanh thành phố được bao phủ bởi khoảng 2,3 triệu người, 41% dân số của Scotland.
Từ nguyên
Cái tên Glasgow bắt nguồn từ Glas Cau trong tiếng Cumbric, có nghĩ là Green Hollow (xanh rỗng), nhằm ám chỉ những đồng cỏ xanh thẵm chạy dọc vùng Molendinar Burn, mà ngày nay là Nhà thờ Glasgow.
Lịch sử
Khu vực xung quanh Glasgow đã tổ chức các cộng đồng trong hàng thiên niên kỷ, với sông Clyde cung cấp vị trí tự nhiên để câu cá. Người La Mã sau đó đã xây dựng tiền đồn trong khu vực, và giữ Roman Britannia, tách khỏi Celtic và Pictish Caledonia, xây dựng bức tường Antonine, phần còn lại vẫn có thể được nhìn thấy ở Glasgow ngày nay.
Glasgow được thành lập bởi nhà truyền giáo Saint Mungo vào thế kỷ thứ 6. Ông đã cho xây một nhà thờ trên thung lũng Molendinar, nay là Nhà thờ Glasgow, và trong những năm sau, Glasgow trở thành một trung tâm tôn giáo. Glasgow đã phát triển trong những thế kỷ tiếp theo. Các cây cầu đầu tiên được xây dựng Clyde sông tại Glasgow được ghi nhận từ khắp nơi trên 1285, đưa ra tên của nó vào vùng Briggait của thành phố, hình thành các tuyến đường chính Bắc-Nam qua sông qua Glasgow chéo. Sự ra đời của Đại học Glasgow và thành lập Tổng Giáo phận Glasgow năm 1492 đã nâng cao vị thế tôn giáo và giáo dục của thị trấn và gia tăng sự giàu có. Thương mại đầu tiên của nó là nông nghiệp, sản xuất bia và đánh bắt cá, với cá hồi và cá trích được xuất khẩu sang châu Âu và Địa Trung Hải.
Sau cuộc cải cách Cải chánh Tin Lành ở Châu Âu và với sự khuyến khích của Công ước Hoàng gia Burghs, 14 tổ hợp các nghề thủ công gắn liền với nhau như Nhà Thương mại vào năm 1605 để phù hợp với quyền lực và ảnh hưởng trong hội đồng thị trấn của các Hội Thương Gia trước đó đã thành lập Nhà buôn Thương gia tại cùng năm. Glasgow sau đó đã được nâng lên tình trạng của Hoàng gia Burgh trong 1611. tài sản đáng kể của Glasgow đến từ thương mại, sản xuất và phát minh quốc tế, bắt đầu vào thế kỷ 17 với đường, tiếp theo là thuốc lá, và sau đó bông và lanh, các sản phẩm của Đại Tây Dương thương mại nô lệ hình tam giác.
Daniel Defoe đã viếng thăm thành phố vào đầu thế kỷ 18 và nổi tiếng đã xuất bản trong cuốn sách của mình " Một chuyến đi xuyên đảo" của Vương quốc Anh, rằng Glasgow là "thành phố sạch và đẹp nhất và được xây dựng tốt nhất ở Anh, ngoại trừ Luân Đôn". Vào thời điểm đó, dân số của thành phố khoảng 12.000, và thành phố này vẫn chưa trải qua những thay đổi lớn lao về kinh tế và đô thị, do phong trào Khai sáng và Cách mạng Công nghiệp Scotland.
Cảng thương mại
Sau khi Đạo luật Liên bang năm 1707, Scotland tiếp tục tiếp cận với các thị trường rộng lớn của Đế quốc Anh mới, và Glasgow trở nên nổi tiếng như một trung tâm thương mại quốc tế với và đi từ châu Mỹ, đặc biệt là đường mật, thuốc lá, bông và hàng chế tạo. Lãnh chúa thuốc lá của thành phố đã tạo ra một cảng nước sâu ở Port Glasgow trên Firth of Clyde, vì dòng sông bên trong thành phố đã quá nông. Đến cuối thế kỷ 18, hơn một nửa thương mại thuốc lá của Anh tập trung vào sông Clyde của Glasgow, với hơn 47.000.000 lb (21.000 t) thuốc lá đang được nhập khẩu mỗi năm ở đỉnh cao của nó. Vào thời điểm đó, Glasgow có tầm quan trọng thương mại khi thành phố tham gia buôn bán đường, thuốc lá và bông sau đó.
Công nghiệp hóa
Việc mở Kênh Monkland và lưu vực nối với Kênh Forth và Clyde tại Cảng Dundas vào năm 1795, tạo điều kiện tiếp cận các mỏ quặng sắt và than đá rộng lớn ở Lanarkshire. Sau khi các dự án kỹ thuật sông rộng lớn nạo vét và đào sâu sông Clyde cho đến Glasgow, đóng tàu trở thành ngành công nghiệp chính ở thượng nguồn của dòng sông, đi tiên phong bởi các nhà công nghiệp như Robert Napier, John Elder, George Thomson, Sir William Pearce và Sir Alfred Yarrow.
Sông Clyde cũng trở thành nguồn cảm hứng quan trọng cho các nghệ sĩ, như John Atkinson Grimshaw, John Knox, James Kay, Sir Muirhead Bone, Robert Eadie, Stanley Spencer và LS Lowry, sẵn sàng miêu tả thời đại công nghiệp mới và thế giới hiện đại.
Dân số Glasgow đã vượt qua thành phố Edinburgh vào năm 1821. Sự phát triển của các tổ chức dân sự bao gồm cảnh sát thành phố Glasgow vào năm 1800, một trong những lực lượng cảnh sát đầu tiên trên thế giới. Bất chấp khủng hoảng do sự sụp đổ của Ngân hàng thành phố Glasgow vào năm 1878, tăng trưởng tiếp tục và đến cuối thế kỷ 19, nó là một trong những thành phố được gọi là "Thành phố Đế quốc thứ hai" và sản xuất hơn một nửa trọng tải của Anh của vận chuyển, và một phần tư của tất cả các đầu máy trên thế giới. Ngoài sự nổi trội của nó trong ngành đóng tàu, kỹ thuật, máy móc công nghiệp, xây dựng cầu, hóa chất, thuốc nổ, than đá và dầu khí, nó đã phát triển như một trung tâm hàng đầu về dệt may, sản xuất hàng may mặc, sản xuất thảm, chế biến da, đồ gỗ, đồ gốm, thực phẩm, đồ uống và thuốc lá; in ấn và xuất bản. Vận chuyển, ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ chuyên nghiệp đã mở rộng cùng một lúc.
Glasgow đã trở thành một trong những thành phố đầu tiên ở châu Âu đạt tới một triệu người. Các ngành nghề và khoa học mới của thành phố thu hút cư dân mới từ khắp vùng Lowlands và Highlands của Scotland, từ Ireland và các vùng khác của Anh và từ Châu Âu.
Trong giai đoạn này, việc xây dựng nhiều kiệt tác kiến trúc vĩ đại nhất của thành phố và các dự án kỹ thuật dân dụng đầy tham vọng nhất, như các công trình xử lý nước thải Milngavie, tàu điện ngầm Glasgow, thư viện Mitchell và phòng trưng bày nghệ thuật Kelvingrove đã được tài trợ bởi sự giàu có của nó. Thành phố cũng đã tổ chức một loạt các Triển lãm Quốc tế tại Kelvingrove Park, vào năm 1888, 1901 và 1911, với Triển lãm Quốc tế lớn nhất của Anh, Triển lãm Empire, sau đó được tổ chức vào năm 1938 tại Bellahouston Park, thu hút 13 triệu du khách.
Thế kỷ 20 chứng kiến sự suy giảm và đổi mới trong thành phố. Sau Thế chiến I, thành phố bị ảnh hưởng bởi cuộc suy thoái Thế giới lần thứ I và cuộc Đại khủng hoảng kinh tế sau đó, điều này cũng dẫn đến sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội cấp tiến và phong trào "Red Clydeside". Thành phố đã hồi phục sau Thế chiến thứ hai và tăng trưởng nhờ sự bùng nổ sau chiến tranh kéo dài suốt những năm 1950. Vào những năm 1960, sự phát triển của ngành công nghiệp ở các nước như Nhật Bản và Tây Đức đã làm suy yếu vị trí nổi bật của nhiều ngành công nghiệp của thành phố.
Kết quả là, Glasgow đã trải qua thời kỳ suy thoái kinh tế tương đối nhanh và nhanh chóng không công nghiệp hóa, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp cao, suy thoái thành thị, suy giảm dân số, phụ thuộc vào phúc lợi và sức khoẻ kém cho người dân thành phố. Đã có những nỗ lực tích cực trong việc tái tạo lại thành phố, khi Tổng công ty Glasgow xuất bản Báo cáo Bruce gây tranh cãi, đưa ra hàng loạt các sáng kiến nhằm xoay chuyển sự suy giảm của thành phố. Báo cáo đã dẫn tới một chương trình xây dựng và tái tạo rất lớn và triệt để bắt đầu vào giữa những năm 1950 và kéo dài vào cuối những năm 1970. Điều này liên quan đến việc phá dỡ hàng loạt các khu nhà ổ chuột khét tiếng của thành phố và thay thế chúng bằng các khu nhà ở và khối tháp lớn ở ngoại ô.
Thành phố đã đầu tư vào các cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ, với hệ thống đường sá và đường cao tốc rộng khắp chia cắt khu vực trung tâm. Cũng có những cáo buộc rằng Văn phòng Scotland đã cố tình phá hoại ảnh hưởng kinh tế và chính trị của Glasgow ở Scotland sau chiến tranh bằng cách chuyển hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp mới sang các khu vực khác trong thời kỳ Silicon Glen và tạo ra các thị trấn mới của Cumbernauld, Glenrothes, Irvine, Livingston và East Kilbride, phân tán dọc các vùng đất thấp Scotland để giảm một nửa số dân số của thành phố.
Vào cuối những năm 1980, đã có một sự hồi sinh đáng kể trong vận mệnh kinh tế của Glasgow. Chiến dịch "Glasgow mile better" được khởi động vào năm 1983 và mở ra Bộ sưu tập Burrell vào năm 1983 và Trung tâm Hội nghị và Triển lãm Scotland năm 1985 đã tạo điều kiện cho vai trò mới của Glasgow như là một trung tâm dịch vụ kinh doanh và tài chính của châu Âu và thúc đẩy sự gia tăng du lịch và đầu tư.
Loại thứ hai tiếp tục được củng cố bởi di sản của Liên hoan Glasgow Garden vào năm 1988, với tư cách là Văn hoá Văn hoá châu Âu vào năm 1990 và nỗ lực hợp nhất nhằm đa dạng hóa nền kinh tế của thành phố. Tuy nhiên, đó là di sản công nghiệp đóng vai trò thúc đẩy du lịch chủ chốt. Sự phục hồi kinh tế rộng lớn hơn đã tiếp tục tồn tại và việc tái thiết liên tục các khu vực trong thành phố, bao gồm cả việc Cải tạo bờ sông Clyde quy mô lớn, đã dẫn tới những người giàu có di chuyển trở lại sống ở trung tâm thành phố Glasgow, gây ra những cáo buộc về sự khuấy động. Thành phố hiện đang được Lonely Planet xem là một trong 10 thành phố du lịch hàng đầu thế giới.
Mặc dù cuộc phục hưng kinh tế của Glasgow, East End của thành phố vẫn là trọng tâm của việc tước quyền xã hội. Báo cáo Kiểm toán Kinh tế Glasgow công bố năm 2007 cho biết khoảng cách giữa khu vực thịnh vượng và nghèo đói của thành phố đang mở rộng.
Năm 2006, 47% dân số của Glasgow sống ở 15% khu vực bị tước đoạt nhất ở Scotland, trong khi Trung tâm Công lý Xã hội cho biết 29,4% cư dân ở độ tuổi lao động của thành phố "không hoạt động về mặt kinh tế". Mặc dù nhẹ phía sau trung bình ở Anh, Glasgow vẫn có tỷ lệ việc làm cao hơn Birmingham, Liverpool và Manchester.
Trong năm 2008, thành phố được xếp hạng 43 về An toàn Cá nhân trong chỉ số Mercer của 50 thành phố an toàn nhất trên thế giới. Báo cáo của Mercer đã đặc biệt quan tâm đến chất lượng cuộc sống, nhưng đến năm 2011 ở Glasgow, một số khu vực vẫn "không đáp ứng được các Mục tiêu Chất lượng Không khí Scotland đối với lượng nitơ dioxide (NO2) và chất bụi (PM10)".
Chính phủ và chính trị
Mặc dù Glasgow Corporation đã đi tiên phong trong phong trào xã hội chủ nghĩa ở thành phố từ cuối thế kỷ XIX, kể từ Đạo luật Đại diện của Nhân dân năm 1918, Glasgow đã ngày càng ủng hộ ý tưởng cánh tả và chính trị ở cấp quốc gia. Các hội đồng thành phố được kiểm soát bởi Đảng Lao động trong hơn ba mươi năm, kể từ sự suy giảm của các cấp tiến. Kể từ năm 2007, khi các cuộc bầu cử của chính quyền địa phương ở Scotland bắt đầu sử dụng phiếu bầu có thể chuyển nhượng được duy nhất chứ không phải là hệ thống trước-qua-post, sự thống trị của Đảng Lao độngtrong thành phố bắt đầu giảm. Do kết quả của cuộc bầu cử địa phương tại Anh năm 2017, SNP đã thành lập một cơ quan quản lý thiểu số chấm dứt 33 năm kiểm soát liên tục của Lao động.
Trong hậu quả của cuộc Cách mạng Nga năm 1917 và cuộc cách mạng của 1918-1919 Đức, đình công thường xuyên của thành phố và các tổ chức vũ trang gây ra báo động nghiêm trọng tại Westminster, với một cuộc nổi dậy trong tháng 1 năm 1919 khiến các Tự do Thủ tướng Chính phủ, David Lloyd George, để triển khai 10.000 binh lính và xe tăng trên đường phố của thành phố. Một cuộc biểu tình khổng lồ trong quảng trường George Square của thành phố vào ngày 31 tháng 1 đã kết thúc bằng bạo lực sau khi Đạo luật Riot được đọc.
Hành động công nghiệp tại các nhà máy đóng tàu đã làm nổi bật cụm từ " Red Clydeside ". Trong những năm 1930, Glasgow là căn cứ chính của Đảng Lao động độc lập. Vào cuối thế kỷ hai mươi, nó trở thành trung tâm của cuộc đấu tranh chống lại thuế thu thập; được giới thiệu ở Scotland một năm trước khi phần còn lại của Vương quốc Anh và cũng là cơ sở chính của Đảng Xã hội Xcốtlen, một đảng chính trị cánh tả khác ở Scotland. Thành phố này đã không có một đảng Bảo thủ kể từ cuộc bầu cử năm Hillhead năm 1982, khi SDPlấy ghế, nằm trong khu vực giàu nhất Glasgow. Tài sản của Đảng Bảo thủ vẫn tiếp tục giảm trong thế kỷ 21, chỉ giành được một trong 79 thành viên Hội đồng Thành phố Glasgow vào năm 2012 mặc dù đã từng là đảng kiểm soát (như Tiến bộ) từ năm 1969-1972 khi ông Donald Liddle vị Quản đốc Chúa phi lao động cuối cùng.
Glasgow có mặt tại cả Hạ viện ở London, và Quốc hội Scotland ở Holyrood, Edinburgh. Tại Westminster, nó được đại diện bởi 7 Nghị sĩ, tất cả được bầu ít nhất mỗi năm năm một lần để đại diện cho các cử tri cá thể, sử dụng hệ thống bỏ phiếu đầu tiên trong quá khứ. Tại Holyrood, Glasgow được đại diện bởi mười sáu MSP, trong đó có chín người được bầu để đại diện cho các cử tri cá thể mỗi bốn năm một lần bằng cách sử dụng lần đầu tiên trong quá khứ, và bảy người được bầu làm thành viên bổ sung trong khu vực, theo cách đại diện tỷ lệ. Kể từ cuộc bầu cử Quốc hội Scotland, năm 2016, Glasgow được đại diện tại Holyrood bởi 9 đảng MSPs quốc gia Xcốt-len, 4MSPs lao động, 2 MSP bảo thủ và 1 MSP Scotland Xanh. Trong Quốc hội Châu Âu, thành phố này là một phần của vùng bầu cử ở Scotland, nơi bầu ra 6 thành viên của Quốc hội Châu Âu.
Vì Glasgow được bảo trợ và hoạt động dưới hai chế độ chính phủ trung ương riêng rẽ, Nghị viện Scotland và Chính phủ Vương quốc Anh, họ xác định nhiều vấn đề mà Hội đồng Thành phố Glasgow không chịu trách nhiệm.
Khu vực bầu cử Glasgow của Quốc hội Scotland bao gồm khu vực hội đồng thành phố Glasgow, khu vực Rutherglen của South Lanarkshire và một phần nhỏ phía đông của Renfrewshire. Nó bầu chín trong số 73 quốc hội của quốc hội đầu tiên qua các thành viên bầu cử và bảy trong số 56 thành viên bổ sung. Cả hai loại thành viên này đều được biết đến như các Thành viên của Quốc hội Scotland (MSPs). Hệ thống bầu cử được thiết kế để tạo ra một hình thức đại diện tỷ lệ.
Trận đấu đầu tiên được tổ chức vào năm 1999 với tên và ranh giới của các đơn vị bầu cử hiện tại của Westminster (Hạ viện). Năm 2005, số Thành viên Westminster của Nghị viện đại diện cho Scotland được cắt giảm xuống còn 59, với các cử tri mới được thành lập, trong khi số lượng các MSP hiện tại được giữ lại tại Holyrood. Trong cuộc bầu cử Quốc hội Scotland năm 2011, ranh giới của khu vực Glasgow được vẽ lại.
Địa lý
Glasgow nằm trên bờ sông Clyde, ở phía Tây Scotland. Sông quan trọng thứ hai của nó là Kelvin tên của nó đã được sử dụng trong việc tạo ra tiêu đề của Baron Kelvin và do đó kết thúc như đơn vị SI của nhiệt độ. Trên bản đồ cũ Glasgow được hiển thị trong khu vực của quận trước năm 1975 của Lanarkshire; từ 1975 đến 1996 nó xuất hiện trong vùng Strathclyde.
Khí hậu
Mặc dù có vĩ độ bắc, tương tự như Moskva, khí hậu Glasgow được phân loại là ôn đới đại dương (Köppen Cfb). Dữ liệu có sẵn trực tuyến cho 3 trạm thời tiết chính thức ở khu vực Glasgow: Paisley, Abbotsinch và Bishopton. Tất cả đều nằm ở phía tây của trung tâm thành phố. Do vị trí tây nam của nó và gần với Đại Tây Dương, Glasgow là một trong những khu vực nhẹ nhàng hơn của Scotland. Nhiệt độ thường cao hơn hầu hết các nơi có vĩ độ như nhau so với Anh Quốc, do ảnh hưởng nóng lên của Dòng Gulf Stream. Tuy nhiên, điều này dẫn đến những mùa rõ rệt hơn so với nhiều nước Tây Âu.
Tại Paisley, lượng mưa trung bình hàng năm là 1.245 mm (49,0 inch). Mùa đông mát và u ám, với trung bình tháng Giêng là 5.0 °C (41.0 °F), mặc dù thấp đôi khi rơi xuống dưới độ đóng băng. Kể từ năm 2000, Glasgow đã trải qua vài đợt mùa đông rất lạnh, mùa đông và khắc nghiệt, nơi nhiệt độ đã giảm xuống dưới mức đóng băng. Tuy nhiên, các trường hợp cực đoan nhất đã thấy nhiệt độ khoảng -12 °C (10 °F) trong khu vực. Sự tích tụ tuyết rơi không thường xuyên và ngắn ngủi. Những tháng mùa xuân (tháng 3 đến tháng 5) thường nhẹ và thường khá dễ chịu. Rất nhiều cây cối và cây cối của Glasgow bắt đầu nở hoa vào thời điểm này trong năm, và các công viên và vườn hoa đầy màu sắc mùa xuân.
Trong những tháng mùa hè (tháng 6 đến tháng 8), thời tiết có thể thay đổi đáng kể từ ngày này qua ngày khác nhau, từ hơi nước mát và ẩm ướt đến khá ấm áp với những ngày nắng dịu. Những đợt khô hạn của thời tiết ấm thường rất khan hiếm. Các điều kiện ẩm ướt và ẩm ướt không mưa thường xuyên. Nhìn chung mô hình thời tiết khá là không ổn định và không ổn định trong những tháng này, chỉ với những đợt sóng nóng thường xuyên. Tháng ấm nhất thường là tháng 7, với mức cao trung bình trên 20 °C (68 °F). Những ngày hè có thể thỉnh thoảng đạt đến 27 °C (81 °F), và rất hiếm khi vượt quá 30 °C (86 °F). Mùa thu thường mát đến nhẹ và lượng mưa ngày càng tăng. Vào đầu mùa thu có thể có một số thời kỳ ổn định của thời tiết và nó có thể cảm thấy dễ chịu với nhiệt độ nhẹ và một số ngày nắng.
Bộ dữ liệu chính thức của Văn phòng Met Office bắt đầu từ năm 1959 và cho thấy rằng chỉ có một vài mùa hè ấm áp và không nóng ở Glasgow, trái ngược với các khu vực khác ở phía nam của Anh và phía đông ở châu Âu. Tháng ấm nhất trong loạt dữ liệu là Tháng 7 năm 2006, với nhiệt độ trung bình cao 22,7 °C (72,9 °F) và thấp 13,7 °C (56,7 °F). Ngay cả sự kiện cực đoan này chỉ phù hợp với một mùa hè bình thường với những điểm tương đồng tương tự ở châu Âu lục địa, nhấn mạnh đến ảnh hưởng của hàng hải. Tháng lạnh nhất trong lịch sử kể từ khi loạt dữ liệu bắt đầu vào tháng 12 năm 2010, trong một đợt sóng lạnh trầm trọng ảnh hưởng đến các hòn đảo Anh. Ngay cả khi đó, mức cao tháng 12 đã ở trên mức đóng băng ở 1.6 °C (34.9 °F) với nhiệt độ thấp -4.4 °C (24.1 °F). Điều này vẫn đảm bảo tháng lạnh nhất của Glasgow năm 2010 vẫn còn nhẹ hơn sootherother -3 °C (27 °F) thường được sử dụng để xác định normals khí hậu lục địa.
Nhiệt độ cực đại dao động từ -19.9 °C (-4 °F) đến 31.2 °C (88 °F), tại Abbotsinch, và -14.8 °C đến 31.0 °C (88 °F) tại Paisley. Nhiệt độ lạnh nhất đã xảy ra trong những năm gần đây là -12,5 °C (9,5 °F) tại Bishopton trong tháng 12 năm 2010.
Nhân khẩu học
Vào những năm 1950, dân số của thành phố Glasgow đã đạt đỉnh điểm 1.089.000. Glasgow sau đó là một trong những thành phố đông dân nhất trên thế giới. Sau những năm 1960, các khoảng trống của các khu vực thành thị nội địa nghèo đói như Gorbals và di chuyển đến " các thị trấn mới " như East Kilbride và Cumbernauld đã dẫn đến sự suy giảm dân số.
Ngoài ra, ranh giới của thành phố đã được thay đổi hai lần vào cuối thế kỷ 20, làm cho so sánh trực tiếp khó khăn. Thành phố tiếp tục mở rộng vượt ra ngoài ranh giới hội đồng thành phố vào các khu vực ngoại ô xung quanh, bao gồm khoảng 400 dặm vuông (1.040 km 2) của tất cả các khu vực ngoại ô liền kề, nếu thị trấn đi lại và làng mạc.
Có hai định nghĩa khác nhau cho dân cư Glasgow: Hội đồng Thành phố Glasgow (mất năm Rutherglen và Cambuslang đến South Lanarkshire năm 1996) và Khu đại đô thị Glasgow (bao gồm khu phố cổ xung quanh thành phố).
Sự gia tăng dân số của Glasgow trong thế kỷ thứ mười tám và mười chín liên quan đến sự phát triển kinh tế cũng như sự phát triển nội tại với phần lớn những người mới đến thành phố từ bên ngoài Scotland là từ Ireland, đặc biệt là các quận phía bắc của Donegal, Fermanagh, Tyrone và Derry.
Trong Cuộc Tổng điều tra Anh năm 1881, 83% dân số được sinh ra ở Scotland, 13% ở Ireland, 3% ở Anh và 1% ở nơi khác. Đến năm 1911, thành phố đã không còn thu hút được số dân di dân. Tỷ lệ nhân khẩu học trong Tổng điều tra Anh năm 1951 là: sinh ở Scotland 93%, Ireland 3%, Anh 3% và các nơi khác 1%.
Vào đầu thế kỷ 20, nhiều người Litvan là người tị nạn bắt đầu định cư ở Glasgow và vào thời điểm cao nhất trong những năm 1950; có khoảng 10.000 trong khu vực Glasgow. Nhiều người Scots gốc Ý cũng định cư tại Glasgow, có nguồn gốc từ các tỉnh như Frosinone giữa Roma và Napoli và Lucca ở phía tây bắc Tuscany vào thời điểm này, nhiều ban đầu làm việc như "Kiến thức cơ bản Pokey đàn ông".
Trong những năm 1960 và 1970, nhiều người châu Á cũng định cư ở Glasgow, chủ yếu ở khu vực Pollokshields. Có khoảng 30.000 người Pakistan, 15.000 người Ấn Độ và 3.000 người Bangladesh cũng như người Trung Quốc, nhiều người trong số họ định cư tại khu vực Garnethill của thành phố. Kể từ năm 2000, chính phủ Anh đã theo đuổi chính sách phân tán người xin tị nạn để giảm bớt áp lực lên nhà ở xã hội ở khu vực Luân Đôn.
Thành phố này cũng là nơi có khoảng 8.406 (1,42%) người Ba Lan đang sinh sống. Kể từ cuộc Tổng điều tra năm 2001 của Vương Quốc Anh, sự suy giảm dân số đã bị đảo ngược. Dân số là tĩnh trong một thời gian; nhưng do di cư từ các vùng khác của Scotland cũng như nhập cư từ nước ngoài, dân số đã bắt đầu phát triển. Dân số của khu hội đồng thành phố là 593.245 vào năm 2011, và khoảng 2.300.000 người sống ở Glasgow du lịch đến nơi làm việc. Vùng này được định nghĩa là bao gồm hơn 10% số cư dân đi du lịch đến Glasgow để làm việc và không có ranh giới cố định.
Mật độ dân số của Luân Đôn sau cuộc điều tra dân số năm 2011 được ghi nhận là 5.200 người trên một kilômét vuông, trong khi 3.395 người trên mỗi kilômét vuông được đăng ký tại Glasgow. Trong năm 1931, mật độ dân số là 16.166 / sq mi (6,242 / km 2), làm nổi bật sự "hở" vào các vùng ngoại ô và thị trấn mới được xây dựng để giảm kích thước của một trong những của châu Âu thành phố đông dân cư nhất.
Vào năm 2005, Glasgow có tuổi thọ thấp nhất tại bất kỳ thành phố nào của Anh ở tuổi 72,9. Phần lớn đã được thực hiện trong năm bầu cử Glasgow East 2008. Năm 2008, Tổ chức Y tế Thế giới báo cáo về sự bất bình đẳng về sức khỏe, tiết lộ rằng tuổi thọ nam giới dao động từ 54 năm Calton đến 82 năm trong vùng lân cận Lenzie, Đông Dunbartonshire.
Kinh tế
Glasgow có nền kinh tế lớn nhất ở Scotland và là trung tâm của khu vực đô thị Tây Trung Scotland. Glasgow cũng có GDP cao thứ ba trên đầu người của bất kỳ thành phố nào ở Anh (sau London và Edinburgh). Thành phố này tự duy trì hơn 410.000 việc làm trong hơn 12.000 công ty. Trong giai đoạn 2000-2005 đã có hơn 153.000 việc làm trong thành phố - mức tăng trưởng 32%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Glasgow là 4,4% và đứng thứ hai chỉ sau London. Trong năm 2005, đã có hơn 17.000 việc làm mới được tạo ra, và năm 2006, đầu tư của khu vực tư nhân trong thành phố này đã đạt 4,2 tỷ bảng Anh, tăng 22% trong một năm. 55% cư dân ở Greater Glasgow mỗi ngày đi làm tham quan thành phố. Một khi các ngành công nghiệp chế tạo có xu hướng xuất khẩu chủ đạo như đóng tàu và các kỹ thuật nặng khác đã dần dần được thay thế bởi tầm hoạt động kinh tế đa dạng hơn, mặc dù các công ty sản xuất chính vẫn tiếp tục đặt trụ sở chính ở thành phố như Aggreko, Weir Group, Clyde Blowers, Howden, Sản phẩm Linn, trò chơi Firebrand, William Grant & Sons, Whyte và Mackay, Tập đoàn Edrington, Động cơ Polar Anh và Động cơ Albion.
Glasgow từng là một trong những thành phố quan trọng nhất ở Anh về sản xuất, tạo ra rất nhiều sự giàu có của thành phố; ngành công nghiệp nổi bật nhất là đóng tàu dựa trên sông Clyde. Mặc dù Glasgow nợ nhiều của tăng trưởng kinh tế cho ngành công nghiệp đóng tàu, mà vẫn tiếp tục ngày hôm nay trong các hình thức của BAE Systems Hàng hải - Tàu thủy hải quân hai nhà máy đóng tàu ', thành phố có nguồn gốc từ việc buôn bán thuốc lá và được ghi nhận là đã "tăng từ giấc ngủ trung cổ của nó "từ thương mại thuốc lá, đi tiên phong bởi những con số như John Glassford. Thành phố cũng được ghi nhận cho ngành công nghiệp xây dựng đầu máy xe lửa của nó, do các công ty như Công ty Đầu máy Bắc Anh- đã phát triển trong thế kỷ 19 trước khi bước vào thập niên 1960.
Trong khi ngành sản xuất đã giảm, nền kinh tế Glasgow đã có sự tăng trưởng tương đối đáng kể trong các ngành công nghiệp cấp ba như dịch vụ tài chính và kinh doanh, truyền thông, khoa học sinh học, công nghiệp sáng tạo, y tế, giáo dục đại học, bán lẻ và du lịch. Glasgow hiện là điểm du lịch nước ngoài phổ biến thứ hai ở Scotland (thứ năm ở Anh) và cung cấp trung tâm bán lẻ lớn nhất của Scotland.
Từ năm 1998 đến năm 2001, khu vực dịch vụ tài chính của thành phố tăng trưởng ở mức 30%, thu được lợi ích đáng kể cho Edinburgh, vốn là trung tâm của ngành tài chính Scotland. Glasgow hiện nay là một trong mười sáu trung tâm tài chính lớn nhất của Châu Âu, với số lượng ngày càng tăng của các công ty tài chính trong khu vực tài chính Blue Chip thành lập các hoạt động hoặc trụ sở chính đáng kể trong thành phố.
Những năm 1990 và thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 đã chứng kiến sự tăng trưởng đáng kể về số lượng các trung tâm dịch vụ cuộc gọi có trụ sở tại Glasgow. Trong năm 2007 khoảng 20.000 người, một phần ba của tất cả nhân viên trung tâm cuộc gọi ở Scotland, đã được sử dụng bởi các trung tâm cuộc gọi Glasgow. tăng trưởng này, sử dụng cao của các cơ quan tuyển dụng để tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp là công nhân tạm thời đã dẫn đến những lời buộc tội bóc lột của thực tiễn như nhiều giờ, lương thấp và thiếu an ninh việc làm bởi các tổ chức công đoàn khác. Trong những năm gần đây, một số trung tâm gọi điện đã thực hiện các biện pháp để khắc phục những lời chỉ trích này.
Các ngành sản xuất chính của thành phố bao gồm các công ty tham gia; đóng tàu và chưng cất, in ấn và xuất bản, hóa chất và hàng dệt may cũng như các ngành tăng trưởng mới như quang điện tử, phát triển phần mềm và công nghệ sinh học. Glasgow hình thành phía tây của khu vực công nghệ cao của Silicon Glen ở Scotland.
Tham khảo
Thư mục
Butt, John, and George Gordon, eds. Strathclyde: Changing Horizons (1985)
Cowan, J. "From Glasgow's Treasure Chest" (1951)
Cunnison, J. and JBS Gilfillan, The City of Glasgow, The Third Statistical Account of Scotland (1958)
Daiches, David. Glasgow (1982), scholarly history
Doak, A M and Young, A M. "Glasgow at a Glance" (1983)
Gibb, Andrew. Glasgow: The Making of a City (1983)
Gomme, A H and Walker, D. "Architecture of Glasgow" (1987)
Horsey, M. "Tenements & Towers: Glasgow Working-Class Housing 1890–1990" (1990)
Liên kết ngoài
Glasgow districts map and other Glasgow maps
Glasgow City Council
Interactive Attractions Map of Central Glasgow
TheGlasgowStory
National Library of Scotland: Scottish Screen Archive (archive films relating to Glasgow)
Khu vực hội đồng của Scotland
Huyện của Scotland
Khu vực lieutenancy của Scotland
Khởi đầu thế kỷ 6
Thành phố cảng Scotland
|
19319
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kali%20alum
|
Kali alum
|
Kali alum là muối sunfat kép của kali và nhôm. Tên tiếng Việt phổ biến là phèn chua. Công thức hóa học là KAl(SO4)2 và thông thường được thấy ở dạng ngậm nước là KAl(SO4)2·12H2O. Chất này được sử dụng rộng rãi để làm trong nước đục, thuộc da, sản xuất vải chống cháy và bột nở.
Phèn chua là loại muối có tinh thể to nhỏ không đều, không màu hoặc trắng, cũng có thể trong hoặc hơi đục. Phèn chua tan trong nước nhưng không tan trong cồn.
Phèn chua còn có nhiều tên gọi khác: như Kali chua
Đặc trưng
Điểm nóng chảy: 92 - 95 °C
Điểm sôi: 200 °C (phân hủy)
Tỷ trọng: 1,760 kg/m³
Phân tử gam: 258,207 g/mol
Màu: Không màu (với các vết trắng)
Dạng khoáng sản và phổ biến
Kali alum là khoáng chất sunfat có nguồn gốc tự nhiên, chủ yếu có ở dạng đóng cặn trong đá ở các khu vực bị phong hóa và oxy hóa của các khoáng chất sulfide và có chứa gốc kali. Alunit là nguồn chứa kali và nhôm. Nó được tìm thấy ở Vesuvius, Ý và hang Alum (Tennessee), khe Alum (Arizona) ở Hoa Kỳ.
Ứng dụng
Trong công nghiệp
Phèn chua làm trong nước vì trong thành phần của phèn chua có Al2(SO4)3. Khi vào trong nước thì có phản ứng thủy phân thuận nghịch:
Al3+ + 3H2O → Al(OH)3 + 3H+
Trong đó Al(OH)3 kết tủa dạng keo có diện tích bề mặt lớn, hấp phụ các chất lơ lửng ở trong nước, kéo chúng cùng lắng xuống dưới.
Trong công nghiệp giấy
Nhôm sunfat hay phèn chua được cho vào giấy cùng với muối ăn, nhôm chloride tạo nên do phản ứng trao đổi bị thủy phân mạnh hơn, tạo nên hydroxide, hydroxide này sẽ kết dính những sợi xenlulozơ lại với nhau làm cho giấy không bị nhòe mực khi viết.
Trong công nghiệp dệt
Khi nhuộm vải, hydroxide đó được sợi vải hấp phụ và giữ chặt trên sợi sẽ kết hợp với phẩm nhuộm tạo thành màu bền, cho nên có tác dụng làm chất cắn màu.
Chính vì vậy nên ta có thể ngâm quần áo dễ phai màu vào nước phèn chua, hay ngày xưa thường ngâm quần áo xuống bùn để giữ quần áo không bị phai màu.
Trong y học
Theo y học cổ truyền thì phèn chua được dùng để sát trùng ngoài da, làm hết ngứa, chữa hôi nách hiệu quả.
Phèn chua được sử dụng trong trị liệu ngứa âm hộ, tai chảy nước mủ hay miệng lưỡi lở, da ngứa.
Phèn chua dùng để bào chế ra các thuốc chữa đau răng, đau mắt, cầm máu, ho ra máu (các loại xuất huyết).
Liên kết ngoài
Kali Alum: Dữ liệu về khoáng chất
Alum-(K), Mindat.org
Tham khảo
Khoáng vật sulfat
Hợp chất kali
Hợp chất nhôm
Xử lý nước
|
19320
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o%20ph%E1%BA%ADn%20R%C3%B4ma
|
Giáo phận Rôma
|
Giáo phận Rôma (,) là giáo phận ở thủ đô Roma (Ý), bao gồm cả Tòa Thánh Vatican. Giáo phận này luôn là giáo phận của giáo hoàng (Giáo hoàng là giám mục chính tòa của giáo phận) và được coi là Thánh đô của Giáo hội Công giáo Rôma, Giám quản Rôma hiện nay là hồng y Angelo De Donatis. Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Vương cung thánh đường Thánh Gioan Latêranô.
Chú thích
Tham khảo
Rôma
|
19322
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Allyl%20chloride
|
Allyl chloride
|
Allyl chloride hay 3-cloroprôpen là một chất lỏng trong suốt mùi khó chịu, rất độc và dễ cháy với công thức hóa học CH2=CH-CH2Cl. Nó không hòa tan trong nước và được sử dụng như là chất ankyl hóa. Nó cũng được sử dụng trong các loại nhựa phản ứng nhiệt và trong sản xuất dược phẩm và thuốc trừ sâu.
Tên gọi khác
Các tên gọi khác là: 3-cloro-1-prôpen, 3-cloro-1-prôpylen, 1-cloro-2-prôpen, 3-cloroprôpen, cloroallylen, cloroprôpen, 3-cloropren, 1-cloro prôpen-2, 2-prôpenyl chloride, NCI-C04615, alpha-cloroprôpylen.
Thuộc tính
Các thuộc tính đưa ra trong bảng dưới đây:
Điều chế
Được điều chế từ propen và khí clo ở 500 độ C theo phản ứng:
CH2=CH-CH3 + Cl2 --(500*C)--> CH2=CH-CH2Cl +HCl
Tham khảo
Alken
|
19372
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/21%20th%C3%A1ng%2011
|
21 tháng 11
|
Ngày 21 tháng 11 là ngày thứ 325 trong mỗi năm thường (thứ 326 trong mỗi năm nhuận). Còn 40 ngày nữa trong năm.
Sự kiện
235 – Anterus được bầu cử làm Giáo hoàng.
1009 - Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế Đại Cồ Việt, lập ra triều Lý, Việt Nam.
1272 – Hoàng tử Edward được trở thành Quốc vương Anh.
1631 – Tổ Đại Thọ mở cổng thành Đại Lăng Hà, suất chúng đến doanh trại quân Kim đầu hàng Hoàng Thái Cực, trận Đại Lăng Hà kết thúc (ngày Mậu Thìn, tức 28 tháng 10 âm lịch).
1783 – Ở Paris, Jean-François Pilâtre de Rozier và François Laurent, hầu tước Arlandes thực hiện chuyến bay khinh khí cầu không có dây lần đầu tiên.
1789 – Bắc Carolina thông qua Hiến pháp Hoa Kỳ và trở thành tiểu bang thứ 12 của Hoa Kỳ.
1791 – Đại tá Napoléon Bonaparte được thăng cấp tướng hẳn và được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh của các Quân đội Cộng hòa Pháp.
1894 – Quân đội Nhật Bản giành chiến thắng trước quân đội Đại Thanh trong trận Lữ Thuận Khẩu.
1916 – Trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, tàu HMHS Britannic của Anh Quốc đâm phải thủy lôi và chìm trên biển Aegea.
1954 – Đảng Nhân dân Hành động được thành lập tại Singapore với tổng bí thư là Lý Quang Diệu, là đảng cầm quyền tại Singapore từ năm 1959.
1962 – Quân đội Trung Quốc tuyên bố ngừng bắn đơn phương, kết thúc Chiến tranh Trung-Ấn.
1970 – Trong chiến tranh Việt Nam, quân đội Hoa Kỳ tiến hành tập kích một trại giam ở Sơn Tây nhằm giải thoát các tù binh Mỹ đang bị giam giữ.
1995 – Hòa ước Dayton được ký tắt tại căn cứ không quân Wright–Patterson tại Ohio, kết thúc ba năm rưỡi chiến tranh tại Bosna và Hercegovina.
2013 – Vụ sập trần siêu thị Riga tại Latvia khiến 54 người thiệt mạng.
2013 – Bắt đầu những cuộc biểu tình tại Kiev, Ukraina dẫn đến việc chế độ Yanukovych sụp đổ.
Sinh
1643 – René-Robert Cavelier, Sieur de La Salle, nhà thám hiểm người Pháp (m. 1687)
1694 – Voltaire, triết gia người Pháp (m. 1778)
1796 – Nguyễn Phúc Ngọc Nga, phong hiệu An Thái Công chúa, công chúa con vua Gia Long nhà Nguyễn (m. 1856).
1811 – Tăng Quốc Phiên, nhân vật quân sự nhà Thanh (m. 1872)
1818 – Lewis Henry Morgan, nhà nhân loại học người Mỹ (m. 1881)
1852 – Francisco Tárrega, người chơi đàn guitar và nhà soạn nhạc người Tây Ban Nha (m. 1909)
1854 – Giáo hoàng Biển Đức XV (m. 1922)
1898 – René Magritte, họa sĩ người Bỉ (m. 1967)
1902 – Isaac Bashevis Singer, tác gia người Mỹ gốc Ba Lan, đoạt giải Nobel Văn học (m. 1991)
1914 – Henri Laborit, thầy thuốc và triết gia người Pháp (m. 1995)
1950 – Thạch Tu, diễn viên Hồng Kông
1965 – Björk, ca sĩ-người viết bài hát, nhà sản xuất, và diễn viên Iceland.
1979 – Vincenzo Iaquinta, cầu thủ bóng đá người Ý
1984 – Jena Malone, diễn viên và ca sĩ người Mỹ
1985 – Carly Rae Jepsen, ca sĩ, người viết bài hát, diễn viên người Canada
1985 – Jesús Navas, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
1992 – Conor Maynard, ca sĩ, người viết bài hát người Anh
1992- Kang Seung-yoon, ca sĩ, thành viên WINNER
Mất
496 – Giáo hoàng Gêlasiô I
615 – Côlumbanô, nhà truyền giáo người Ireland (b. 543)
1695 – Henry Purcell, nhà soạn nhạc người Anh (b. 1659)
1811 – Heinrich von Kleist, tác gia người Đức (b. 1777)
1844 – Ivan Andreyevich Krylov, tác gia người Nga (b. 1769)
1916 – Franz Joseph I của Áo (b. 1830)
1970 – Chandrasekhara Venkata Raman, nhà vật lý học người Ấn Độ, đoạt giải Nobel Vật lý (b. 1888)
1992 – Kaysone Phomvihane, chính trị gia Lào, Chủ tịch nước thứ hai của Lào (b. 1920)
1997 – Diệp Minh Tuyền, nhà thơ, nhạc sĩ Việt Nam (m. 1941).
2009 – Konstantin Petrovich Feoktistov, phi hành gia Liên Xô (b. 1926)
2012 – Ajmal Kasab, kẻ khủng bố người Pakistan (b. 1987)
Những ngày lễ và ngày kỉ niệm
Tham khảo
Tháng mười một
Ngày trong năm
|
19373
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/RYL
|
RYL
|
Risk Your Life: Path of the Emperor (tiếng Anh, viết tắt RYL) là tên của MMORPG (trò chơi phân vai trực tuyến nhiều người chơi đồng loạt) rất nổi tiếng do Gammasoft (Hàn Quốc) và Youxiland (Đài Loan) hợp tác phát triển và phát hành trên hơn 20 quốc gia với trên 10 triệu người tham gia. RYL là game online khá hay với các tính năng khó có game online nào có được. RYL được xây dựng trên môi trường 3D thuần túy với các tính năng PvM, PvP. Những trận đánh chiếm pháo đài, tượng đài, công thành với hàng ngàn người tham gia và từng lọt vào bảng xếp hạng top 10 game xuất sắc nhất Thế giới do website mmorpg.com bình chọn.
Nội dung
"Hàng ngàn năm trước công nguyên…"
Cuộc sống yên bình ở Kartehena bị phá vỡ bởi cuộc nội chiến, Lord Luipolt quyết định rời bỏ quê hương, đi về bờ biển tây của lục địa, Grand Coast và xây dựng nên vương quốc Karterfant. Trước khi băng hà, Luipolt đã truyền ngôi lại cho Conlatin. Vị hoàng đế mới lập tức củng cố quân đội, nghiên cứu ma thuật rồi đem quân đi xâm lược Island of Scyna và bắt đầu dòm ngó đến "viên ngọc" Cearnarvon.
Một thời gian dài trong quá khứ, người Ancient với trí tuệ tuyệt vời đã sáng tạo ra Ak’kan thông minh và mạnh mẽ. Nhưng cùng với sự phát triển vượt bậc đó là việc thiên nhiên bị tàn phá khủng khiếp. Cho đến một ngày, núi lửa bỗng phun trào, tro bụi và nham thạch che phủ mọi dấu vết của một thời đại hoàng kim. Những Ak’kan sống sót, lãnh đạo bởi huyền thoại Merkhad, đã xây dựng lên một quốc gia có nền văn minh hơn hẳn người Ancient, với cái tên Merkhadian.
Cuộc sống phồn thịnh cùng thời gian đã xóa nhòa ký ức về thảm họa, mảnh đất cũ trở nên quá chật trội, Merkhadian bắt đầu tìm cách mở rộng lãnh thổ. Nhưng trước khi đưa quân đến Caernarvon, thiên nhiên lại một lần nữa nổi giận, đập tan tất cả. Trong cảnh hoang tàn đó, những kẻ sống sót mất hết hy vọng vào tương lai. Chỉ khi Latra xuất hiện và cứu rỗi những linh hồn bé bỏng bằng tình thương và quyền năng vô hạn của mình. Cô tiến hành một cuộc di dân về Caernarvon, giúp họ định cư rồi biến mất cùng cánh cổng thời gian Dimensional. Và thế là, cuộc chiến giữa Merkhadian và Karterfant nhằm giành giật vùng đất mới bắt đầu.
Trong khi đó, đế chế Kartehena hung bạo dập tắt cuộc nổi loạn và đưa quân đánh Grand Coast, buộc Conlatin rút quân khỏi Caernavon. Sự thiện chiến của cường quốc Kartehena đã khiến Conlatin thất thủ và rút theo đường biển về Island of Scyna. Rõ ràng, Caernarvon trở thành hi vọng cuối cùng của Karterfant..."
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ RYL Vietnam
Trò chơi nhập vai trực tuyến nhiều người chơi
|
19376
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh%20Tam%20V%E1%BA%A5n
|
Thành Tam Vấn
|
Thành Tam Vấn (1418-1456) là một trong những người đã tạo ra bảng chữ cái tiếng Triều Tiên Hangul.
Xem thêm
Tiểu sử (tiếng Triều Tiên)
Tham khảo
Nhân vật chính trị nhà Triều Tiên
Mất năm 1456
Sinh năm 1418
Nhà Nho Triều Tiên
|
19380
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%20Linh%20l%C4%83ng
|
Chi Linh lăng
|
Chi Linh lăng hay chi Cỏ ba lá thập tự (danh pháp khoa học: Medicago) là một chi thực vật trong họ Đậu (Fabaceae), có hoa sống lâu năm, chủ yếu được nói đến như là M. sativa L., tức cỏ linh lăng.
Cỏ linh lăng là thực vật lâu năm, sống từ 5 đến 12 năm, phụ thuộc vào các giống và đặc điểm khí hậu nơi sinh trưởng. Chúng là cây giống đậu sống lâu năm ở các khu vực ôn đới, có thể phát triển tới độ cao 1 mét. Lá của chúng mọc thành cụm lá chét, mỗi cụm có ba lá và các cụm hoa màu tím tía. Chúng có hệ rễ sâu, đôi khi sâu tới 4,5 mét. Điều này làm cho chúng có tính chịu khô hạn tốt.
Cỏ linh lăng (Medicago sativa) và tên chi của chúng (Medicago) được cho là có nguồn gốc từ Ba Tư Trung cổ. Nó được đưa vào Hy Lạp khoảng năm 490 TCN như là thức ăn cho ngựa của quân đội Ba Tư. Nó cũng được đưa từ Chile vào Hoa Kỳ khoảng năm 1860. Chúng được trồng rộng khắp thế giới như là thức ăn cho bò và chủ yếu được trồng để thu hoạch dưới dạng cỏ khô hay ủ chua với các loại thức ăn cho gia súc khác như ngô. Cỏ ba lá có giá trị dinh dưỡng cao trong số các loại cây trồng để thu hoach dưới dạng cỏ khô phổ biến nhất, chúng cũng được sử dụng như là bãi chăn thả hay thức ăn dự trữ cho gia súc. Giống như các loại cây thuộc họ Đậu khác, các mắt rễ của chúng có chứa các loại vi khuẩn, chẳng hạn như Rhizobium là các vi khuẩn có khả năng cố định đạm, tạo ra thức ăn gia súc giàu protein mà ít phụ thuộc vào lượng nitơ chuyển hóa được trong đất.
Chúng được trồng rộng rãi vào khoảng thế kỷ 17 và là một trong các tiến bộ quan trọng của nông nghiệp châu Âu. Quan hệ cộng sinh của nó với vi khuẩn cố định đạm và công dụng như là thức ăn gia súc đã nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp một cách đáng kể.
Linh lăng là một trong số ít các thực vật có sự tự gây độc. Chính vì thế hạt cỏ linh lăng sẽ không mọc được trong các khu vực đang có cỏ linh lăng. Vì vậy, các cánh đồng cỏ linh lăng phải được cày bừa hay luân canh (trồng loại cây khác trước khi tái gieo hạt của chúng) trước khi gieo hạt trở lại.
Các chồi non của cỏ linh lăng cũng được sử dụng như một thành phần của món xa lát tại Hoa Kỳ và Úc. Các cọng mềm cũng được người sử dụng như là rau ở một vài khu vực. Các phần thân già ít được người sử dụng do chứa nhiều xơ. Cỏ ba lá có tiềm năng để trở thành loại rau có năng suất cao, cũng như được chế biến thành bột bằng cách làm khô và nghiền nhỏ hay bằng cách nghiền nhão ra để chiết lấy các chất dinh dưỡng có trong lá.
Người ta cũng cho rằng cỏ linh lăng có tác dụng làm tăng tiết sữa.
Tại Hoa Kỳ, các bang trồng nhiều cỏ linh lăng là Wisconsin và California, với phần lớn sản lượng của bang thứ hai có được từ vùng hoang mạc Mojave nhờ sự cung cấp nước tưới của California Aqueduct.
Trồng trọt
Cỏ linh lăng có thể gieo vào mùa xuân hay mùa thu, và phát triển tốt trên các loại đất được tưới tiêu nước tốt với pH khoảng 6,8-7,5. Cỏ linh lăng cần nhiều kali; các loại đất có độ dinh dưỡng thấp cần phải được bón phân bằng phân hữu cơ hay phân hóa học. Thông thường người ta gieo 13–17 kg/hecta (12-15 pao/mẫu Anh) trong các khu vực có khí hậu thích hợp và khoảng 22 kg/hecta (20 pao/mẫu Anh) trong các khu vực xa hơn về phía nam (ở Bắc bán cầu). Các loại cây che bóng thông thường được trồng, cụ thể là đối với vụ gieo hạt mùa xuân để giảm cỏ dại. Thuốc diệt cỏ đôi khi cũng được sử dụng.
Trong phần lớn các khu vực, cỏ linh lăng được thu hoạch từ 3-4 lần trong năm. Tổng năng suất khoảng 10 tấn/hecta (4 tấn/mẫu Anh) nhưng dao động theo khu vực và phụ thuộc vào thời tiết cũng như giai đoạn trưởng thành khi thu hoạch. Những lần thu hoạch sau thường có năng suất cao hơn nhưng thành phần dinh dưỡng lại hay bị giảm.
Các loại bọ chét trên lá có thể giảm sản lượng đáng kể, cụ thể là đối với lần thu hoạch thứ hai trong năm do thời tiết là ấm nhất. Sử dụng thuốc trừ sâu đôi khi được áp dụng để ngăn không cho chúng phát triển. Cỏ linh lăng cũng dễ bị tổn thương trước bệnh thối gốc Texas (do nấm Phymatotrichopsis omni gây ra). Một số ấu trùng của một số loài thuộc bộ Lepidoptera như bướm mắt cáo (Semiothisa clathrata) cũng ăn lá của cỏ linh lăng.
Việc gieo trồng cỏ linh lăng để lấy hạt đòi hỏi phải có sự thụ phấn nhân tạo, do vậy khi cỏ linh lăng ra hoa người ta phải đưa những "sinh vật thụ phấn" nhân tạo ra gần cánh đồng. Thông thường người ta dùng loài ong làm tổ dưới đất (Megachile rotundata), được nuôi trong các tổ đặc biệt gần các cánh đồng trồng cỏ lấy hạt, hay các tổ ong mật (chi Apis).
Thu hoạch
Khi cỏ linh lăng được sử dụng làm cỏ khô, thông thường người ta cắt chúng và đóng kiện. Các đống cỏ khô vẫn còn được áp dụng trong một số khu vực có điều kiện cơ giới hóa thấp, nhưng việc đóng thành kiện tròn được sử dụng nhiều hơn do dễ vận chuyển. Lý tưởng nhất để thu hoạch là khi cỏ linh lăng bắt đầu nở hoa. Khi sử dụng các thiết bị cơ giới thay vì cắt thủ công, quy trình được bắt đầu với máy xén cỏ, nó xén cỏ linh lăng và xếp thành luống. Sau khi cỏ đã phơi khô thì máy kéo có gắn thiết bị đóng kiện thu thập cỏ khô và đóng thành kiện. Có ba loại kiện thông dụng đối với cỏ linh lăng. Các kiện "vuông" nhỏ—kích thước khoảng 40 x 45 x 100 cm (15 in x 18 in x 38 in) - được sử dụng cho các gia súc nhỏ và ngựa đơn lẻ. Các kiện vuông nhỏ này nặng khoảng 25–30 kg (50-70 pao) phụ thuộc vào độ ẩm và có thể dễ dàng di chuyển.
Các trang trại nuôi bò sử dụng các loại kiện tròn lớn, thông thường có đường kính 1,4 đến 1,8 m (4,5 đến 6 ft) và cân nặng khoảng 500-1.000 kg. Các kiện loại này có thể xếp thành đống vững chắc, được xếp đặt trong các khu vực nuôi bò, ngựa thành bầy.
Gần đây, người ta còn đóng các kiện vuông lớn, có tỷ lệ kích thước tương tự như kiện vuông nhỏ, nhưng các kích thước thì lớn hơn. Kích thước được thiết lập sao cho kiện cỏ vừa khít với kích thước của thùng xe tải.
Một số loài
Các loài dưới đây lấy theo ILDIS
Medicago agropyretorum
Medicago alatavica
Medicago arabica - Linh lăng Ả Rập
Medicago arborea - Linh lăng thân gỗ
Medicago archiducis-nicolai
Medicago astroites
Medicago blancheana
Medicago brachycarpa
Medicago cancellata
Medicago carstiensis
Medicago caucasica
Medicago ciliaris - Linh lăng lông mịn
Medicago constricta
Medicago coronata - Linh lăng vương miện
Medicago crassipes
Medicago cretacea
Medicago cyrenaea
Medicago daghestanica
Medicago difalcata
Medicago disciformis
Medicago doliata
Medicago edgeworthii
Medicago falcata - Linh lăng hoa vàng
Medicago fischeriana
Medicago glomerata
Medicago granadensis
Medicago grossheimii
Medicago gunibica
Medicago heldreichii
Medicago hemicoerulea
Medicago heyniana
Medicago hybrida
Medicago hypogaea
Medicago intertexta - Linh lăng Calvary
Medicago karatschaia
Medicago komarovii
Medicago laciniata - Linh lăng lá khía
Medicago lanigera
Medicago laxispira
Medicago littoralis - Linh lăng duyên hải
Medicago lupulina - Linh lăng đen
Medicago marina - Linh lăng biển
Medicago medicaginoides
Medicago meyeri
Medicago minima - Linh lăng nhỏ
Medicago monantha
Medicago monspeliaca
Medicago murex - Linh lăng gai
Medicago muricoleptis
Medicago noeana
Medicago orbicularis - Linh lăng quả tròn
Medicago orthoceras
Medicago ovalis
Medicago papillosa
Medicago persica
Medicago phrygia
Medicago pironae
Medicago playtcarpa
Medicago polyceratia
Medicago polychroa
Medicago polymorpha - Linh lăng lá khía răng cưa
Medicago praecox - Linh lăng Địa Trung Hải
Medicago prostrata
Medicago radiata - Linh lăng quả tia
Medicago retrorsa
Medicago rhodopea
Medicago rigida
Medicago rigidula
Medicago rigiduloides
Medicago rotata
Medicago rugosa
Medicago rupestris
Medicago ruthenica
Medicago sativa - Cỏ linh lăng
Medicago sauvagei
Medicago saxatilis
Medicago schischkinii
Medicago scutellata - Linh lăng khiên
Medicago secundiflora
Medicago shepardii
Medicago sinskiae
Medicago soleirolii
Medicago strasseri
Medicago suffruticosa
Medicago syriaca
Medicago talyschensis
Medicago tenoreana
Medicago tornata
Medicago transoxana
Medicago truncatula
Medicago tunetana
Medicago turbinata - Linh lăng phương nam
Medicago vardanis
Medicago virescens
Các giống
Các nghiên cứu và tìm kiếm đáng chú ý đã được thực hiện đối với cây trồng quan trọng này. Hiện nay, có rất nhiều giống của nhà nước và tư nhân được đưa ra để thích nghi với các điều kiện khí hậu và thời tiết cụ thể.
Phần lớn các cải tạo về giống cỏ linh lăng trong các thập niên vừa qua là nhằm tăng sức chống chịu đối với các loại bệnh tật, nâng cao khả năng chịu rét tại các khu vực có khí hậu lạnh cũng như tạo ra các giống có nhiều lá chét.
Cỏ linh lăng nhiều lá chét có nhiều hơn 3 lá chét tại mỗi chét lá (Thuật ngữ cỏ ba lá trong trường hợp này không thể hiện đúng biểu hiện bề ngoài của chúng). Nó có thành phần dinh dưỡng cao hơn tính theo trọng lượng do ở đây có tương đối nhiều lá tính trên cùng một lượng cuống lá.
Ghi chú
Liên kết ngoài
Các bức ảnh miêu tả việc di chuyển ong mật ra đồng cỏ linh lăng
Sử dụng Megachile rotundata ở California
Linh lăng
Linh lăng
Sinh vật mô hình
Thực vật châu Á
Thực vật châu Âu
|
19386
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%8F%20linh%20l%C4%83ng
|
Cỏ linh lăng
|
Cỏ linh lăng (danh pháp hai phần: Medicago sativa), tên thường gọi cỏ Alfalfa là một loài cây thuộc chi Linh lăng (Medicago) của họ Đậu (Fabaceae). Hàm lượng protein cao của nó làm cho nó rất thích hợp để làm thức ăn cho gia súc. Nó có bộ nhiễm sắc thể 4n. M. sativa có lẽ có nguồn gốc từ Trung Á và đã được con người gieo trồng tại Trung Cận Đông từ thời kỳ đồ đồng để nuôi ngựa và sau đó đã được đưa vào châu Âu.
Hiện nay, cỏ Alfalfa là cây thức ăn chăn nuôi quan trọng ở nhiều quốc gia và được thế giới mệnh danh là "nữ hoàng thức ăn chăn nuôi". M. sativa chủ yếu được trồng để sản xuất cỏ khô.
Tác dụng của cỏ linh lăng
Giúp giảm cholesterol
Ngăn ngừa bệnh tiểu đường
Giảm triệu chứng mãn kinh
Tác dụng chống oxy hóa
Xem thêm
Cỏ ba lá
Hình ảnh
Liên kết ngoài
Di truyền học cỏ
Tham khảo
S
Thức ăn chăn nuôi
Rau
Thực vật Liban
Thực vật được mô tả năm 1753
Thực vật được sử dụng trong Đông y
|
19389
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A1c%20%C4%91%E1%BB%8F
|
Nhạc đỏ
|
Nhạc đỏ, tức nhạc cách mạng Việt Nam, là một dòng của tân nhạc Việt Nam gồm những bài hát sáng tác trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương, ở miền Bắc Việt Nam và vùng giải phóng ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam và sau năm 1975 khi Việt Nam thống nhất. Khái niệm "nhạc đỏ" chỉ hay dùng trong nhân dân (để phân biệt với "nhạc xanh", "nhạc vàng"...) và chỉ có từ khoảng đầu thập niên 1990 trở đi theo sự "phân màu" cho âm nhạc của nhạc sĩ Trần Hoàn, còn các văn bản nhà nước gọi đây là nhạc cách mạng, nhạc truyền thống hay nhạc chính thống. Tuy nhiên biểu tượng của cách mạng trong quang phổ chính trị là màu đỏ, nên gọi nhạc đỏ cũng như nhạc cách mạng vậy.
Theo Jason Gibbs, thì các bài hát cách mạng mà ban đầu là nhạc hùng Pháp, hay bài Quốc tế ca dịch sang tiếng Việt, cùng với bài "Cùng nhau đi hồng binh" (Đinh Nhu) là các bài hát đầu tiên của Tân nhạc Việt Nam.
Cụm từ "nhạc đỏ" xuất hiện trong dân chúng giữa thập niên 1990 khi có phong trào phổ biến các bài hát cách mạng qua các băng video, cassette, tức được thương mại hóa (trước đó gần như chỉ phát trên phát thanh, truyền hình và biểu diễn trực tiếp). Cụm từ "nhạc đỏ" được phổ biến theo sự phân loại màu sắc âm nhạc của nhạc sĩ Trần Hoàn khi còn là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin với sự đề xuất của nhạc sĩ Phạm Tuyên trong thập niên 1990. Theo đó, âm nhạc được phân loại theo "màu sắc", màu đỏ (nhạc đỏ, hồng ca) được ghép cho nhạc cách mạng, nhạc chiến tranh quân sự và nhạc đoàn đội, hùng ca, tỉnh ca, nhạc phong trào Thanh Niên Xung Phong, những bài hát có màu sắc chính trị cách mạng. Màu đỏ với hàm ý tích cực, tượng trưng cho sự tươi sáng và lòng nhiệt huyết tuổi trẻ hăng hái góp sức, xây dựng, cống hiến sức lực và tuổi thanh xuân cho quốc gia dân tộc và cộng đồng xã hội. Màu vàng tượng trưng cho sự vàng úa, khô héo, ru ngủ với hàm ý tiêu cực cho các bài hát tình cảm buồn có nội dung chua cay, chia ly, ngăn cách, bi quan yếm thế. Năm 1997, làng nhạc Việt có thêm một "màu nhạc" nữa được nhiều người gọi là nhạc xanh để chỉ các bài hát nhạc trẻ, nhạc trữ tình tươi sáng có nhạc điệu và nội dung sáng sủa, lạc quan tích cực. Từ đó ra đời giải thưởng Làn Sóng Xanh và một loạt các ca sĩ nổi tiếng với dòng nhạc này. Tuy vậy, sự phân loại màu nhạc chưa bao giờ có sự thống nhất trong cộng đồng, do đó hiện nay cách gọi truyền thống phổ biến cho dòng nhạc này vẫn là nhạc cách mạng, trên các văn bản chính thức là nhạc truyền thống cách mạng thay vì cách gọi "nhạc đỏ" như những năm 1990.
Các ca khúc nhạc đỏ thường để cổ vũ tinh thần chiến đấu của chiến sĩ, phục vụ kháng chiến, truyền đạt những chính sách của nhà nước, khuyến khích tình yêu lý tưởng cộng sản, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, và những bài hát trữ tình cách mạng, thể hiện tình yêu quê hương đất nước hoặc cổ vũ lao động, xây dựng, tinh thần lạc quan, yêu đời, cống hiến và có tính cộng đồng. Các ca khúc nhạc đỏ thường ít tính hiện thực hóa mà mang tính lý tưởng hóa hay lãng mạn hóa cao, nhưng khác với các ca khúc thời tiền chiến có tính lãng mạn tách rời đời sống, thường không có không gian hoặc thời gian cụ thể, nhạc đỏ đặt tính lãng mạn, lý tưởng hóa gắn với cuộc sống xã hội, có không gian và thời gian cụ thể, và thực tế hóa.
Các bài hát nhạc đỏ phần lớn thuộc dòng thính phòng, được hát bởi các giọng tenor và soprano, dàn hợp xướng, và âm hưởng dân ca, giai điệu phức tạp nhưng lời nhiều bài bình dị đi vào quần chúng số đông. Không kể các bài hành khúc, tổ khúc, hợp xướng thường hát tốp ca hay hợp xướng, phần lớn các bài nhạc đỏ hát bằng giọng trưởng quãng âm cao và rộng, sáng, đôi khi kèm hợp xướng. Nhạc đỏ thường theo điệu March (hành khúc), Valse, Slow Waltz hay Boston, Slow Ballad, Slow Surf, Blues, đến Chachacha, Disco, một số là các trường ca giai điệu phức tạp. Tính cách mạng còn thể hiện trong nhiều tác phẩm khí nhạc hay nhạc viết cho trẻ em.
Nhạc đỏ đa số là hành khúc, có tính chất quần chúng cao, bên cạnh đó có nhiều sáng tác nghiêng về chất cổ điển có thể chơi với dàn nhạc giao hưởng, và các sáng tác có tính chất nhạc nhẹ, và tính chất dân gian. Từ cuối thập niên 1970 Nhà nước mới cho sáng tác nhạc nhẹ sau một thời gian bị cấm và các sáng tác nhạc nhẹ ban đầu gọi là các ca khúc chính trị, cũng là một phần nhạc đỏ hiểu theo cách hiểu đại chúng. Lối hát Bel Canto rất phổ biến khi nhiều bài hát hay có các quãng cao, rộng.
Nhạc đỏ cùng với nhạc dân ca, truyền thống, opera nhạc kịch và nhạc giao hưởng là những thể loại âm nhạc duy nhất được phát trên đài phát thanh Việt Nam từ 1954-1975 ở miền Bắc. Nhạc giao hưởng chủ yếu là phát tác phẩm của các tác giả Liên Xô như Sergei Taneyev, Shostakovich, Prokofiev, Myaskovsky, Rodion Shchedrin, Tchaikovsky, Mikhail Glinka, cùng các tác giả cổ điển như Beethoven, Chopin, Mozart...Tuy không có chủ trương kiểm duyệt công khai, nhưng âm nhạc thời kỳ trước 1975 tại miền Bắc và nhạc đỏ có sự định hướng, chỉ đạo và kiểm soát của lãnh đạo và nhà nước. Với mong muốn tiến nhanh tiến mạnh lên XHCN thời trước Đổi mới, nên các bài nhạc đỏ thường có tính cách mạng, tính chiến đấu cao về mặt tư tưởng, thoát ly khỏi tư tưởng chủ nghĩa cá nhân. Các bài nhạc đỏ thường thể hiện tính cộng đồng rất cao, và theo hướng lành mạnh hóa văn hóa tư tưởng. Khác với các dòng nhạc khác thường khai thác tình yêu cá nhân là chủ đạo, mà xã hội hay thiên nhiên chỉ làm nền hay mang tính minh họa, nhạc đỏ không có tình yêu cá nhân tách rời xã hội. Tình yêu cá nhân phải gắn bó với tình yêu quê hương, đất nước, cộng đồng, thậm chí mở lòng ra cả nhân loại, gắn với chiến đấu, lao động, học tập, công tác, và chỉ có tình yêu chung thủy, đợi chờ, tình cảm không bị chi phối bởi vật chất được nhắc tới nhiều, không có thất tình, cô đơn, yếu đuối. Các ca khúc nhạc đỏ thường rất chặt chẽ về tư tưởng, ít mô tả cái Tôi cá nhân, cho dù nó thể hiện tư tưởng rất cao thượng và rộng lớn. Âm nhạc không chịu sự chi phối của thị trường, tiền bạc, không theo cung cầu, do đó hạn chế các ca khúc thị trường sáng tác theo thị hiếu (nở rộ miền Nam trước 1975 và sau Đổi mới). Nhưng mặt khác kiểm soát chặt cũng hạn chế sáng tạo của các nhạc sĩ, và các tư tưởng lớn thường nhân dân không nắm bắt kịp, ít chạm được tới quần chúng bình dân, và sau thời Đổi mới, tâm lý xã hội có nhiều chuyển biến, các ca khúc nhạc đỏ xét về tư tưởng càng thể hiện tính lý tưởng hóa. Sau Đổi mới, xuất hiện nhiều bài hát xã hội, kể cả phê phán thói hư tật xấu của xã hội, các tệ nạn nhưng chưa nhiều và chưa có những tác phẩm lớn có giá trị cao.
Một số nhạc sĩ nhạc đỏ tiêu biểu như Dương Minh Viên, Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Duy, Văn Cao, Tô Hải, Nguyễn Văn Tý, Phạm Tuyên, Huy Du, Hoàng Việt, Hoàng Vân, Phan Huỳnh Điểu, Diệp Minh Tuyền, Chu Minh, Hoàng Hiệp, Hoàng Hà, Trần Kiết Tường, Nguyên Nhung, Lư Nhất Vũ, Trần Long Ẩn, Phạm Minh Tuấn, Văn Chung, Xuân Hồng, Thuận Yến, Trần Hoàn, Nguyễn Đức Toàn, Nguyễn Văn Thương,... đều đã được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước.
Những ca sĩ nổi tiếng của nhạc đỏ (cũng thường là các ca sĩ dòng thính phòng, opera) có thể kể đến như: Quốc Hương, Thương Huyền, Mai Khanh, Trần Khánh, Trần Thụ, Trần Chất, Khánh Vân, Văn Hanh, Hồ Mộ La, Tân Nhân, Lê Hằng, Trung Kiên, Quý Dương, Trần Hiếu, Kiều Hưng, Tường Vi, Thúy Huyền, Hữu Nội, Kim Nhớ, Tâm Trừng, Thanh Huyền, Bích Liên, Tuyết Thanh, Kim Ngọc, Diệu Thúy, Mỹ Bình, Thu Phương, Tuyết Nhung, Vũ Dậu, Phan Huấn, Dương Minh Đức, Quang Thọ, Doãn Tần, Tô Lan Phương, Thúy Hà, Thanh Hoa, Tiến Thành, Lê Dung, Quang Huy, Thu Hiền, Trung Đức, Tuấn Phong, Quang Lý, Bích Việt, Phan Muôn, Tạ Minh Tâm, Rơ Chăm Phiang, Thái Bảo, Trọng Tấn, Đăng Dương, Việt Hoàn, Quang Hưng, Phạm Phương Thảo, Mạnh Dũng, Thanh Thúy, Cao Minh, Anh Thơ, Lan Anh, Tân Nhàn... Do nhạc đỏ nhiều bài rất nhiều người hát kể cả các ca sĩ không chuyên dòng nhạc này, nên trừ số rất ít, mỗi ca sĩ nổi bật ở một vài bài, hầu hết các ca sĩ trên đều đã được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Nhà giáo ưu tú.
Giống như các nhạc sĩ và nhạc công của miền Bắc trong thời kỳ này, họ chủ yếu được đào tạo ở nhạc viện trong nước và các nhạc viện thuộc Liên Xô và các nước Đông Âu.
Trước 1945 cũng có những ca khúc vẫn được xếp vào dòng nhạc đỏ như bài Cùng nhau đi Hồng binh của Đinh Nhu, một số bài hát của Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước... Nhưng phải đến khi xảy ra cuộc chiến tranh Việt - Pháp, nhiều nhạc sĩ lãng mạn đi theo kháng chiến sáng tác những ca khúc mới thì nhạc đỏ mới thực sự hình thành.
Giai đoạn 1945-1954
Đây là giai đoạn khởi đầu của dòng tân nhạc cách mạng, tuy vậy những tác phẩm ưu tú nhất cũng đã xuất hiện trong thời kì này. 2 nhóm sáng tác có ảnh hưởng mạnh mẽ đầu tiên phải kể đến là Nhóm Tổng Hội Sinh Viên do Lưu Hữu Phước sáng lập và Nhóm Đồng Vọng do Hoàng Quý sáng lập. 2 nhóm này quy tụ nhiều nhạc sĩ nổi danh đương thời như Văn Cao, Đỗ Nhuận, Canh Thân...
Tiếp đó là những nhạc sĩ tuy không gia nhập nhóm nào, nhưng đã theo kháng chiến và sáng tác nhạc phục vụ kháng chiến như Phạm Duy, Đoàn Chuẩn, Phạm Đình Chương, Tô Vũ, Tô Hải, Lê Trực (Hoàng Việt), Ngọc Bích...Và âm nhạc của giai đoạn này cũng đã chuyển biến theo hướng mới, ca khúc thường có nội dung sáng sủa, hùng mạnh hoặc bi tráng, gần gũi với hiện thực.
Nhạc sĩ sáng tác dồi dào và cũng gặt hái nhiều thành công nhất trong giai đoạn này là Phạm Duy với những ca khúc nhạc hùng, nhạc kêu gọi, chiêu hồi, hoặc là mang đậm chất dân ca và nói lên suy nghĩ của tầng lớp thanh niên đi kháng chiến, cũng như đi thẳng vào đời sống người dân trước cuộc chiến. Theo Hoàng Cầm, Phạm Duy là "số một" tại Việt Bắc lúc bấy giờ. Tuy vậy cũng chính Phạm Duy là người bị phê bình vì những ca khúc buồn, và cuối cùng là bị cách mạng cấm phổ biến sau khi ông rời bỏ chiến khu về thành.
Một số ca khúc tiêu biểu của thời kì này: Nhạc tuổi xanh, Đường về quê, Đường Lạng Sơn, Bên ni bên tê, Bà mẹ Gio Linh, Bao giờ anh lấy được đồn Tây, Về miền trung, Chiến sĩ vô danh, Nương chiều, Bông Lau rừng xanh pha máu, Việt Bắc, Xuất quân, Thanh niên ca... (Phạm Duy), Tiến quân ca, Bắc Sơn, Gò đống đa, Trường ca Sông Lô, Làng tôi, Chiến sĩ Việt Nam, Không quân Việt Nam... (Văn Cao), Du kích Ba Tơ (Dương Minh Viên), Du kích sông Thao (Đỗ Nhuận), Đoàn vệ quốc quân, Mùa đông binh sĩ (Phan Huỳnh Điểu), Lời người ra đi (Trần Hoàn), Hò kéo pháo (Hoàng Vân)...
Nhạc cách mạng vào giai đoạn này tuy đang đi vào lề lối cách mạng, nhưng vẫn còn mang những tình cảm lãng mạn của thời tiền chiến. Các nhạc sĩ thường sáng tác dựa trên tình yêu nước thương nòi, lấy chất liệu từ hiện thực, hơn là từ lý tưởng cách mạng. Cho đến khi các cuộc hội nghị quan trọng về văn nghệ vào năm 1949 và sau đó là Hội nghị Việt Bắc 1950, đưa ra chủ trương, khuôn khổ cho các nhạc sĩ sáng tác theo đường lối tư tưởng của Đảng, thì dòng nhạc cách mạng cũng chuẩn bị bước thay đổi rõ rệt. Nhiều nhạc sĩ nổi bật của phong trào do không chấp nhận thay đổi, đã rời bỏ kháng chiến như Phạm Duy, Ngọc Bích, Phạm Đình Chương... Đồng thời có những nhạc sĩ ở lại tiếp tục sáng tác như Hoàng Việt, Đỗ Nhuận, Tô Hải, Nguyễn Văn Tý..., cũng như một số nhạc sĩ trẻ đi theo kháng chiến từ năm 1946, bắt đầu sáng tác trong kháng chiến như Hoàng Vân, Hoàng Việt... những nhạc sĩ này sẽ trở thành những tác giả chủ lực của nền tân nhạc cách mạng ở giai đoạn tiếp theo, giai đoạn sau hiệp định Geneve.
Giai đoạn 1954-1975
Trong giai đoạn này, nhạc đỏ cùng với nhạc dân ca, truyền thống là những thể loại âm nhạc duy nhất phát thanh trên đài phát thanh Việt Nam ở miền bắc. Những bài dân ca cũng được cải biến hoặc viết thêm lời để truyền đạt các chính sách của nhà nước. Nhiều bài nhạc đỏ trong thời kỳ này còn tính đấu tranh rất cao với ca từ mạnh như Cô gái Sài Gòn đi tải đạn.
Về khí nhạc, các nhạc sĩ đi học khóa đầu ở Nhạc viện Trung ương Bắc Kinh, một số nghệ sĩ được đào tạo thời Pháp hoặc ở Pháp, và các lớp học sinh do Trường Âm nhạc quốc gia (sau này thành Nhạc Viện Hà Nội, rồi Học Viện Âm nhạc Quốc Gia Việt Nam) đã cho ra đời những dàn nhạc giao hưởng có kết hợp với nhạc cụ truyền thống tạo nên một nền âm nhạc chuyên nghiệp từ cuối những năm 1950. Bản thơ giao hưởng đầu tiên của Việt Nam, Thành đồng Tổ quốc, được Hoàng Vân cho ra đời vào năm 1960, sau đó tới bản giao hưởng Quê Hương của Hoàng Việt (1965). Những năm 1960 là bước khởi đầu cho thời hoàng kim của dòng nhạc đỏ với nhiều tác phẩm lớn cho hợp xướng, cho dàn nhạc giao hưởng, nhạc vũ kịch..., song song với một nền ca khúc rất phát triển.
Về sau có nhiều tác phẩm, đáng chú ý: "Việt Nam muôn năm" (hợp xướng với dàn nhạc giao hưởng), "Hồi tưởng" (hợp xướng với dàn nhạc giao hưởng), "Vượt núi" (hợp xướng)..., các bản độc tấu cho đàn bầu, flûte, oboë, saxophone, concerto cho piano, concertino cho violon (Hoàng Vân), “Miền nam quê hương ta ơi!" (Huy Du), "Trở về đất mẹ", “Tây Nguyên chiến thắng” (Nguyễn Văn Thương), Ra khơi (Tạ Phước), nhạc sĩ Đàm Linh có thanh xướng kịch Nguyễn Văn Trỗi, đại hợp xướng Trường ca Việt Nam (1970), thơ giao hưởng Những cánh bay (1970), thơ múa Những người đi săn (1972), Rhapsodie Bài ca chim ưng cho violon và dàn nhạc (1972), nhạc sĩ Nguyễn Thị Nhung các tác phẩm Đau thương và phẫn nộ, Quê mẹ, Vũ khúc (viết cho piano), hai thơ giao hưởng: Nữ anh hùng miền Nam và Khát vọng,... Các tác phẩm viết cho đàn bầu: Cung đàn đất nước (Xuân Khải), Vì miền Nam (Huy Thục), sáo trúc: Nhớ về Nam (Ngọc Phan - Nguyễn Văn Thương)...Bài ca bên cánh võng Nguyên Nhung
Giai đoạn sau 1975
Sau 1975, một số nhạc sĩ trong Phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe như Tôn Thất Lập sau khi ra Bắc học ở Nhạc viện Hà Nội, cũng sáng tác một số bài hát có nội dung cổ vũ lao động, xây dựng, và cũng được xem là nhạc đỏ. Ngoài ra nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng sáng tác một vài bài hát cổ động và phong trào thời kỳ này cũng được xem là nhạc đỏ.
Đến thời kỳ Đổi mới, những dòng nhạc khác được phép lưu hành song song, nhưng nhạc đỏ vẫn được ưu tiên nâng đỡ và lưu truyền tại các đoàn thể thanh niên, sinh viên, học sinh và tại các nhà hát, tụ điểm ca nhạc thuộc các đoàn thể trên hoặc của nhà nước. Những bài nhạc đỏ được phổ biến trong thời kỳ này ôn hòa hơn, không thể hiện tính chiến đấu và diệt địch nữa, mà thay vào đó là ca ngời tinh thần lao động, xây dựng đất nước.
Các nhạc sĩ trụ cột của dòng nhạc đỏ Việt Nam như Hoàng Vân, Phạm Tuyên, Hồ Bắc, Nguyên Nhung cùng các thế hệ đi tiếp sau như Phú Quang, Trần Tiến, Nguyễn Cường vẫn tiếp tục sáng tác các tác phẩm khí nhạc, hợp xướng và ca khúc.
Từ đầu thập niên 1980 nhạc đỏ bao gồm các tác phẩm nhạc nhẹ hay có phong cách nhạc nhẹ. Nhưng dòng có chất cổ điển vẫn là chủ đạo. Sang thập niên 2000 nhiều bài ca yêu nước mang phong cách nhạc trẻ của thế hệ nhạc sĩ trẻ, như Việt Nam ơi của Minh Beta, Những trái tim Việt Nam của Phương Uyên, Việt Nam trong tôi là của Yến Lê, Lá cờ của Tạ Quang Thắng, Sẽ chiến thắng- Việt Nam sẽ chiến thắng của Nguyễn Hải Phong, Chúng Tôi Là Công An Nhân Dân của Phạm Tiến Dũng...
Chủ đề sáng tác
Nhạc đỏ gồm các chủ đề chính:
Cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân và chiến sĩ vì khát vọng độc lập, hòa bình và thống nhất.
Ca ngợi đảng Cộng sản Việt Nam, ca ngợi chủ tịch Hồ Chí Minh, các lãnh tụ, anh hùng, ca ngợi lý tưởng cộng sản.
Thể hiện tính đấu tranh giai cấp theo lý tưởng cộng sản.
Ca ngợi quê hương, đất nước, tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa trong sáng, liên kết tình cảm cá nhân và gia đình với tình yêu đất nước và nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng đất nước, lý tưởng cộng sản.
Ca ngợi tuổi trẻ, tinh thần lao động xây dựng đất nước trong thời chiến và trong thời kỳ bao cấp và đổi mới sau này.
Ca ngợi tinh thần hòa đồng, nếp sống hướng về cộng đồng, lành mạnh, lạc quan, thay cho "Cái Tôi" mang tính ích kỷ cá nhân.
Cổ vũ và truyền đạt những chính sách của Nhà nước Việt Nam.
Ca ngợi phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các thuộc địa hay phong trào cánh tả trên thế giới
Địa phương ca và ngành ca (các bài hát về các địa phương hay các ngành nghề cụ thể)
Tuy nhiên các chủ đề này không bao giờ tách bạch mà thường luôn gắn bó, liên quan đến nhau, đậm chất chính trị.
Đặc điểm
Một số đặc điểm có thể nêu ra để giúp phân biệt với những dòng nhạc khác:
Nhạc đỏ thường liên kết tình yêu đôi lứa, gia đình trong tình yêu đất nước, yêu lý tưởng cộng sản và nhiệm vụ bảo vệ, xây dựng đất nước.
Thể hiện tính đấu tranh giai cấp hoặc phân biệt địch-ta và thể hiện tinh thần "ta thắng địch thua" rất rõ ràng.
Luôn luôn thể hiện tinh thần lạc quan, ngay cả trong chiến tranh. Không có tinh thần chủ bại hoặc yếm thế. Có những bài nói về hòa bình, đau thương, phản đối chiến tranh như nhạc phản chiến hoặc thương đau, thất bại, chết chóc như những bài do phong trào "Du Ca Việt Nam" sáng tác hoặc nhạc vàng, có nói về tổn thất chiến tranh.
Tại miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam và trong cả nước kể từ sau 1975, nhạc đỏ cũng như các dòng nhạc khác chịu sự kiểm duyệt của cán bộ lãnh đạo do Đảng và Nhà nước chỉ định . Nhiều sáng tác theo định hướng của Nhà nước nhưng đa số ca khúc đều được sáng tác từ cảm hứng cá nhân của các tác giả. Ngược lại, nhạc đỏ lại bị cấm bởi chính quyền thực dân Pháp và Quốc gia Việt Nam trong thời kỳ trước 1954 (không phải tất cả), và ở miền Nam dưới thời Việt Nam Cộng hòa trong khoảng thời gian từ năm 1954-1975.
Những bài tân nhạc Việt Nam được lưu hành ở miền Bắc trong thời kỳ 1954-1975, hầu hết là nhạc đỏ (nhạc tiền chiến bị cấm sau Phong trào Nhân văn - Giai phẩm).
Ngoài ca khúc có tính đại chúng, dòng nhạc này nhiều tác phẩm được hàn lâm hóa với nhiều tác phẩm và thể loại lớn dành cho dàn nhạc giao hưởng, hợp xướng cổ điển.
Yếu tố âm nhạc dân tộc cũng được sưu tầm, ứng dụng vào sáng tác âm nhạc đương đại.
Quãng âm cao rộng, mạnh mẽ.
Mức độ phổ biến
Trong Chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, nhạc cách mạng được phổ biến rộng rãi ở miền Bắc, nhiều bài hát cũng được sáng tác và lưu truyền rộng rãi trong những vùng do Mặt trận Giải phóng miền Nam kiểm soát ở miền Nam. Từ năm 1975, với chiến thắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhạc cách mạng càng được phổ biến rộng rãi hơn trên phạm vi cả nước. Sau thời kỳ Đổi mới, dòng nhạc này bị cạnh tranh bởi các dòng nhạc khác như nhạc tiền chiến, nhạc vàng, nhạc xanh, nhạc hải ngoại, nhạc nước ngoài, nhạc trẻ...
Tham khảo
Jason Gibbs: Rock Hà Nội và Rumba Cửu Long – Câu chuyện âm nhạc Việt Nam. Bản dịch sang tiếng Việt của Nguyễn Trương Quý. (Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội, 2008). Tái bản có bổ sung với tên: Rock Hà Nội, Bolero Sài Gòn - Câu chuyện tân nhạc Việt Nam (Nhà xuất bản Đà Nẵng và Phanbook, 2019).
Xem thêm
Nhạc cách mạng (nói chung)
Nhạc chính trị Trung Quốc - dòng nhạc tương tự
Nhóm Tổng Hội Sinh Viên
Tình khúc 1954-1975
Phong trào Du ca Việt Nam
Phong trào Hát cho đồng bào tôi nghe
Nhạc vàng
Nhạc phản chiến
Chú thích
Liên kết ngoài
Nhạc trẻ là chi
Một thời "nhạy cảm" với ca từ , Nguyễn Thụy Kha, 2005
Nhạc đỏ - một thời để nhớ...
Nhạc cách mạng Youtube Channel
Việt Nam
Việt Nam
Tân nhạc Việt Nam
Âm nhạc Việt Nam
Nghệ thuật chính trị
Đỏ
|
19390
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%8F%20ba%20l%C3%A1%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Cỏ ba lá (định hướng)
|
Trong tiếng Việt, cỏ ba lá có thể đề cập tới một số loài thực vật thuộc các chi sau đây:
Chi Cỏ ba lá (Trifolium)
Chi Linh lăng (Medicago), còn gọi là cỏ ba lá thập tự, linh lăng
Chi Nhãn hương (Melilotus), còn gọi là cỏ ba lá thơm, nhãn hương, ngạc ba
Chi Chua me đất (Oxalis)
|
19395
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%20C%E1%BB%8F%20ba%20l%C3%A1
|
Chi Cỏ ba lá
|
Chi Cỏ ba lá (danh pháp khoa học: Trifolium) là một chi của khoảng 300 loài thực vật trong họ Đậu (Fabaceae). Chúng chủ yếu sinh sống ở các khu vực ôn đới của Bắc bán cầu, nhưng, giống như nhiều chi khác của khu vực ôn đới, chúng cũng sống ở các khu vực miền núi thuộc miền nhiệt đới. Các loại cây này là các cây thân thảo sống một năm hoặc lâu năm có ba lá chét (rất hiếm cây có 5- hay 7-lá chét), với các lá kèm hợp sinh tại cuống lá, và các cụm hoa có màu đỏ, tía, trắng (rất hiếm hoa màu vàng); các hạt nhỏ được che phủ trong đài hoa. 18 loài có nguồn gốc ở Anh và một số loài được nuôi trồng rộng khắp để làm cỏ khô cho động vật. Loài cỏ ba lá được trồng nhiều nhất là cỏ ba lá hoa trắng (Trifolium repens) và cỏ ba lá hoa đỏ (Trifolium pratense).
Các chi khác có họ hàng gần thông thường cũng hay được gọi là cỏ ba lá, bao gồm Melilotus (cỏ ba lá thơm, ngạc ba, nhãn hương) và Medicago (linh lăng, cỏ ba lá thập tự).
Tên khoa học có nguồn gốc từ tiếng Latinh tres (ba) và folium (lá), được gọi như thế là do hình dạng đặc trưng của lá, nó có ba lá chét, vì thế mà có tên gọi phổ biến là cỏ ba lá. Cỏ ba lá thông thường được các ấu trùng của một số loài bướm bộ Lepidoptera như bướm mắt cáo, bướm nâu (Euxoa nigricans) và bướm cơ-nhép (Agrotis clavis) ăn.
Những cây cỏ ba lá bốn cánh (tức là những loại cỏ ba lá có 4 lá chét) được xem là biểu tượng của sự may mắn.
Gieo trồng
Cỏ ba lá, hoặc là được gieo trồng một mình hoặc là trong hỗn hợp với các loại cỏ khác, có một lịch sử lâu dài để tạo ra các sản phẩm chủ yếu cho đất, vì một số lý do: nó phát triển rất tự do, các cành non sẽ mọc trở lại sau khi bị cắt xén; nó tạo ra số lượng lớn sản phẩm ngon và bổ dưỡng cho gia súc; nó phát triển tốt trong nhiều loại đất và khí hậu; và do vậy nó là thích hợp để tạo ra các bãi chăn thả hay cải tạo đất. Tuy nhiên, hiện nay ngoại trừ trên một số đất giàu calci, nó có sản lượng cực kỳ thất thường. Trong nhiều khu vực, nông dân đã phát hiện ra rằng cỏ ba lá đã biến mất hoàn toàn vào giữa mùa xuân, hoặc chỉ tìm thấy chúng còn rất ít ở chỗ này chỗ kia trên các cánh đồng. Vẫn không có sự giải thích thích đáng nào được đưa ra cho "căn bệnh của cỏ ba lá" cũng như không có biện pháp phục hồi cụ thể nào. Tuy nhiên, một thực tế quan trọng đã được công nhận là khi việc luân canh mùa màng được quản lý sao cho cỏ ba lá không trở lại trên cùng một thửa ruộng trong một khoảng thời gian ngắn hơn 8 năm thì sau đó nó sẽ phát triển với sức sống mãnh liệt nguyên thủy của nó. Sự hiểu biết về điều này đã giúp cho nông dân ở nhiều khu vực khác nhau canh tác để có thể cứu vãn loại cây quan trọng này.
Đã từng có thời gian người ta cho rằng việc đưa các loài cây họ Đậu khác vào vòng luân canh có ảnh hưởng tốt rõ ràng đối với cỏ ba lá khi nó được gieo trồng trong vụ kế tiếp; nhưng thực tế cho thấy các loài cây họ Đậu khác chỉ tạo ra sự thuận lợi trong các tình huống ngẫu nhiên của sự gần như là cần thiết để kéo dài chu kỳ vòng quay của cỏ ba lá.
Căn bệnh của cỏ ba lá có lẽ gắn liền với sự suy giảm các động vật thụ phấn. Việc nuôi ong thông thường là do nhu cầu cao từ phía nông dân có các bãi chăn thả có cỏ ba lá, là những người mong muốn là ong sẽ hoạt động trên các cánh đồng của mình, do người ta nhận thấy việc kết hạt tăng lên theo sự gia tăng hoạt động của ong.
Các loài
T. incarnatum, cỏ ba lá hoa đỏ thẫm hay cỏ ba lá Italy, không đủ sức chịu rét để có thể phát triển trong khí hậu của Scotland trong các mùa đông thông thường, nhưng lại là loài cây làm thức ăn gia súc có giá trị tại Anh. Nó được gieo trồng ngay sau khi thu hoạch các loại ngũ cốc với số lượng 20–22 kg/ha. Người ta đã nhận ra rằng chúng nảy mầm tốt hơn khi lớp đất bề mặt được xới và bừa chứ không cần cày lật đất. Nó phát triển mạnh về mùa xuân. Nó cũng phù hợp để thu hoach như là cỏ khô. Tuy nhiên, chỉ có thể thu hoạch nó được một lần, do nó không đâm chồi trở lại sau khi cắt xén.
T. repens, cỏ ba lá hoa trắng hay cỏ ba lá Hà Lan, là một loài cây lâu năm rất phổ biến ở các đồng cỏ và bãi chăn thả được chăm sóc tốt. Hoa của nó màu trắng hay ánh hồng và trở thành màu nâu và rũ xuống khi tràng hoa bị héo.
T. hybridum, cỏ ba lá Alsike hay cỏ ba lá Thụy Điển, là loài cây lâu năm được đưa vào Anh đầu thế kỷ 19 và hiện nay đã thích nghi với khí hậu ở Anh. Hoa của chúng màu trắng hay hồng và tương tự như loài nói trên.
T. medium, cỏ ba lá đồng cỏ hay cỏ ba lá dích dắc, là loài cây lâu năm với thân cây ngoằn ngoèo và hoa màu hồng tía, có ít giá trị nông nghiệp.
Các loài khác được trồng ở Anh là:
T. arvense, cỏ ba lá chân thỏ; được tìm thấy ở các cánh đồng và các bãi chăn thả khô, là một loại cây nhỏ thân mềm với hoa nhỏ màu trắng hay hồng nhạt và đài hoa nhỏ như tơ;
T. fragiferum, cỏ ba lá dâu tây, với hoa mọc thành cụm dày hình cầu màu hồng tía và đài hoa phình to lên;
T. procumbens, cỏ ba lá hublông, trên các bãi chăn thả khô và ven đường, hoa có màu vàng nhạt tựa như cây hublông thu nhỏ; và rất giống với T. minus.
T. minus, là loài cây phổ biến ở các bãi chăn thả và ven đường, với hoa nhỏ màu vàng ánh nâu sẫm. Loài cây này đôi khi cũng được gọi là cây lá chụm hoa. Các mẫu cây lá chụm hoa và các loài cỏ ba lá khác rất ít khi tìm thấy với 4 lá chét, và tương tự như các loại cây hiếm khác, chúng được coi là đem lại may mắn khi tìm thấy.
Sử dụng
Các loại cỏ ba lá là những thức ăn có giá trị, do hàm lượng protein cao, phổ biến và phong phú. Ở dạng tươi, chúng khó tiêu hóa, nhưng có thể ăn sau khi luộc trong 5-10 phút. Hoa khô và hạt trong quả có thể chế biến thành bột có giá trị dinh dưỡng và trộn lẫn với các thức ăn khác. Hoa khô cũng có thể sử dụng như chè.
Xem thêm
Cỏ ba lá bốn cánh
Cỏ bốn lá
Chú thích
Tham khảo
Bài này hợp nhất các văn bản có trong 1911 Encyclopædia Britannica, có ở phạm vi công cộng.
Thực vật vườn
|
19404
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hu%E1%BB%B3nh%20Th%C3%BAc%20Kh%C3%A1ng
|
Huỳnh Thúc Kháng
|
Huỳnh Thúc Kháng (chữ Nho: 黃叔沆, 1 tháng 10 năm 1876 - 21 tháng 4 năm 1947), tự Giới Sanh, hiệu Mính Viên (hay đôi khi được viết là Minh Viên), là một chí sĩ yêu nước người Việt Nam. Ông là Bộ trưởng Bộ Nội vụ (1946-1947) và Quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (giai đoạn từ 31 tháng 5 đến 21 tháng 10 năm 1946), trước đó ông từng giữ chức Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ thời thuộc Pháp. Nổi tiếng với tài năng, đức độ và lòng yêu nước, người dân Việt Nam thường nhắc đến ông với một tên gọi gần gũi: Cụ Huỳnh.
Thân thế
Theo tên chữ Hán trên trang bìa quyển Tập diễn văn của ông Hoàng Thúc Kháng, in năm 1926 thì đúng ra đọc (và viết) tên ông phải là Hoàng Thúc Kháng. Tuy nhiên, do kiêng húy Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng, họ Hoàng phải đổi thành Huỳnh. Đến nay các tỉnh miền Trung và Nam vẫn dùng âm Huỳnh. Tuy vậy, vẫn có sách dùng Hoàng Thúc Kháng.
Ông sinh ngày 1 tháng 10 năm 1876, là người làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước), tỉnh Quảng Nam. Cha ông là Huỳnh Văn Phương, tự Tấn Hữu, xuất thân nhà nông hào nhưng cũng học qua Nho học, nhiều phen thi cử nhưng không đỗ. Mẹ ông là Nguyễn Thị Tình, người làng Hội An nhưng cư ngụ làng Phú Thị (nay thuộc xã Tiên Châu, huyện Tiên Phước), em ruột Phó bảng Nguyễn Đình Tựu.
Học vấn
Nguyên tên ông là Huỳnh Văn Thước, là con trai thứ 4 và là con trai út trong nhà, nhưng vì 2 anh trai mất sớm, chị gái cả Huỳnh Thị Duật sinh năm 1873, lấy chồng tại Hương Lâm, Tứ Chánh nay thuộc xã Tiên Hiệp - huyện Tiên Phước - tỉnh Quảng Nam nên ông là người con trai duy nhất. Bởi sự kỳ vọng của song thân, từ nhỏ ông đã được rèn dạy để tiến thân bằng khoa cử.
Ông bắt đầu học chữ Nho từ năm 8 tuổi dưới sự dạy dỗ của người cậu ruột là Tế tửu Quốc tử giám Nguyễn Đình Tựu, đổi tên là Huỳnh Hanh, tự là Giới Sanh. Năm 13 tuổi đã văn hay chữ tốt. Năm 1900 ông đậu Giải nguyên kỳ thi Hương năm Canh Tý 1900, được xưng tụng là một trong Thập Ngũ Phụng Tề Phi của đất Quảng Nam xưa.
Năm Giáp Thìn 1904 ông đỗ Đệ Tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.
Sự nghiệp
Lãnh đạo phong trào Duy Tân
Ông cùng với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và Trần Quý Cáp là những nhà lãnh đạo phong trào Duy Tân. Vì lý do đó, ông bị bắt trong năm 1908, rồi bị đày ở Côn Đảo suốt 11 năm, đến mãi năm 1919 mới được trả tự do.
Hoạt động trong Nghị viện Trung Kỳ
Năm 1926, ông đắc cử dân biểu rồi được cử làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Trong ba năm hoạt động ở Viện, ông cương quyết tranh đấu trong nghị trường, rồi nhân việc chống lại Khâm sứ Pháp, ông từ chức.
Sáng lập báo Tiếng Dân
Năm 1927 ông sáng lập tờ báo Tiếng Dân, được xuất bản tại Huế, và bị chính quyền thời bấy giờ đình bản năm 1943.
Tham gia Chính phủ Liên hiệp
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ông ra tham gia Chính phủ Liên hiệp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với chức vụ Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Theo Trần Trọng Kim thì trong thời gian này, khi được hỏi về công việc, Huỳnh Thúc Kháng đã nói: "Bây giờ việc gì cũng do địa phương tự trị cả, thành ra không có việc gì mấy, và khi có việc gì, thì họ làm sẵn xong cả rồi, tôi chỉ có vài chữ ký mà thôi".
Năm 1946, khi Hồ Chí Minh sang Pháp đàm phán, Huỳnh Thúc Kháng được cử làm Quyền Chủ tịch nước Việt Nam. Thời gian này ông còn là Chủ tịch Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam. Cuối năm 1946, ông là Đặc phái viên của Chính phủ vào cơ quan Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Trung Bộ tại Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 21 tháng 4 năm 1947, ông lâm bệnh nặng và mất tại huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Làm theo tâm nguyện của ông, nhân dân đã an táng ông trên đỉnh núi Thiên Ấn. Nơi đây là đệ nhất thắng cảnh của Quảng Ngãi. Nhà lưu niệm Huỳnh Thúc Kháng tại xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, Quảng Nam vẫn còn lưu giữ nhiều kỷ vật có giá trị, được một người cháu nuôi trong dòng tộc bảo quản.
Đánh giá
Trong thư gửi vĩnh biệt cụ Huỳnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
"Cụ Huỳnh là người học hành rất rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước mà Cụ trước đây bị bọn thực dân làm tội, đày ra Côn Đảo. Mười mấy năm trường gian nan cực khổ, nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước thương nòi của Cụ chẳng những không sờn, mà lại thêm cương quyết.
Cụ Huỳnh là người giàu sang không làm xiêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không cần danh vị, không cần lợi lộc, không thèm làm giàu. Cả đời Cụ Huỳnh chỉ phấn đầu cho dân được tự do, nước được độc lập, đến ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập Chính phủ ta mời Cụ ra. Tuy đã 71 tuổi, nhưng Cụ vẫn hăng hái nhận lời, Cụ nói: "Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng ra sức phụng sự Tổ quốc"".
Tưởng nhớ
Để tưởng nhớ đến ông, tại nhiều tỉnh và thành phố như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Nam, Hạ Long (Quảng Ninh), Quảng Ngãi, Nhơn Trạch (Đồng Nai)... có những con đường và ngôi trường mang tên ông.
Ngày 19 tháng 2 năm 2013, chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã ký quyết định truy tặng Huân chương Sao Vàng để ghi nhận công lao của ông đối với đất nước.
Tác phẩm
Huỳnh Thúc Kháng đồng thời là một nhà thơ, một nhà nghiên cứu văn học và lịch sử. Ông còn có nhiều bút danh khác như: Sử Bình Tử, Tha Sơn Thạch, Khi Ưu Sinh, Xà Túc Tử, Thức Tự Dân, Ưu Thời Khách, Hải Âu, Ngu Sơn, Khách Quan... Tác phẩm chủ yếu còn giữ hiện nay là:
Thi Tù Tùng Thoại
Lịch sử Phan Tây Hồ tiên sinh
Thơ văn với thời đại
Thi văn các nhà chí sĩ Việt Nam (ký Phi Bằng)
Huỳnh Thúc Kháng niên phố
Bức thư gởi Cường Để
Và rất nhiều thơ chữ Quốc ngữ, chữ Hán có giá trị khác.
Bài thơ Bài ca lưu biệt của ông viết năm 1908, trước khi ông bị đày ra Côn Đảo, từng được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân miền Trung thời kỳ Pháp thuộc:
Trăng trên trời có khi tròn khi khuyết,Người ở đời đâu khỏi tiết gian nan.
Đấng trượng phu tùy ngộ nhi an,Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn.
Tiền lộ định tri thiên hữu nhãn,Thâm tiêu do hứa mộng hoàn gia,
Bấy nhiêu năm cũng vẫn chưa già.Nọ núi Ấn, này sông Đà,
Non sông ấy còn chờ ta thêu dệt.Kìa tụ tán chẳng qua là tiểu biệt,
Ngựa Tái ông họa phúc biết về đâu!Một mai kia con tạo khéo cơ cầu,
Thảy bốn biển cũng trong vòng trời đất cả.Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Dẫu đến lúc núi sụp, biển lồi, trời nghiêng, đất ngả,Tấm lòng vàng, tạc đá vẫn chưa mòn.
''Trăng kia khuyết đó lại tròn!
Đời tư
Năm 1895, Huỳnh Thúc Kháng kết hôn với bà Nguyễn Thị Sắt (1881-1953). Ông và bà Sắt có hai người con gái là Huỳnh Thị Xuân Lan, thường gọi là cô Yển (1903-1930) và Huỳnh Thị Thu Cúc, thường gọi là cô Kình (1908-1927).
Năm 1924, theo lời thúc giục của bà Sắt để có con trai, ông lấy vợ hai là bà Hồ Thị Chuông (hoặc Chưởng) là người cùng làng. Tuy nhiên, ông và bà Chuông không có con chung. Năm 1933, bà Chuông ra Huế thăm ông và mất tại đây.
Chú thích
Tham khảo
Quảng Ngãi- Danh nhân
Câu đối cụ Huỳnh Thúc Kháng mừng thọ Bác Hồ
Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam
Thủ tướng Việt Nam
Huân chương Sao Vàng
Người Quảng Nam
Phong trào Duy Tân
Nhà cách mạng Việt Nam
Sinh năm 1876
Mất năm 1947
Tiến sĩ nhà Nguyễn
Người họ Huỳnh tại Việt Nam
|
19411
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bari%20oxide
|
Bari oxide
|
Bari oxide, còn gọi là oxide bari (công thức BaO, còn được biết đến trong ngành gốm sứ và khai khoáng là baria) là một oxide của bari. Nó có phân tử gam bằng 153,3 g/mol, hệ số giãn nở nhiệt 0,129 (đơn vị ?), nhiệt độ nóng chảy 1923 °C. Là một chất hút ẩm, khi tiếp xúc với nước nó có phản ứng hóa học tỏa nhiệt tạo ra bari hyđroxide.
BaO cùng với CaO, SrO, MgO và BeO tạo thành nhóm oxide kiềm thổ. Oxide bari là oxide trợ chảy hoá trị hai nặng nhất. Nguồn thu BaO có thể gồm bari cacbonat, bari sulfat, baria.
Trong vật liệu gốm
BaO được dùng trong vật liệu gốm nhóm trợ chảy. Nó có thể kết hợp với một số loại oxide khác tạo ra một số màu độc đáo; như kết hợp với đồng cho màu ngọc lam (turquoise) nổi tiếng.
Được dùng làm chất trợ chảy, oxide bari rất hoạt động và có thể cải thiện nhiều tính chất của men (như độ bóng, độ bền cơ và độ bền acid), làm tăng chiết suất của men, dù chỉ sử dụng một lượng nhỏ (nhiệt độ nung phải cao). Để dùng làm chất trợ chảy có hiệu quả, oxide bari được dùng chung với một số oxide trợ chảy khác (sử dụng ở dạng "thủy tinh", nó có thể trở nên "sẵn sàng hoạt động" dù ở nhiệt độ nung thấp).
Bari cacbonat rất bền, không bị phân hủy và "trơ hoá học" trong men nung chảy. Ở dạng cacbonat, nó có thể được dùng làm chất làm mờ và tạo độ cho mặt men. Oxide bari còn được nhiều người biết đến vì nó có thể cho mặt men "xỉn" mịn.
Cảnh báo
Sử dụng hàm lượng cao oxide bari có thể bị ngộ độc do thẩm thấu (chất độc trong men hòa tan vào nước nếu sử dụng làm đồ chứa) do oxide bari bị thừa, không kết hợp hết hoàn toàn thành silicat không hòa tan trong nước. Một số loại đồ gốm đang được mua bán có công thức với hàm lượng bari cacbonat có thể là rất nguy hiểm. Nên xác định rõ lý do sử dụng oxide bari trong men vì nó độc, nếu có thể nên thay thế bằng các oxide khác. SrO có thể dùng thay cho BaO trong nhiều trường hợp.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Thẻ an toàn hóa chất quốc tế số 0778
Hợp chất Bari
Oxide
Oxide base
Vật liệu gốm
Hợp chất bari
|
19412
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Calci%20oxide
|
Calci oxide
|
Calcium oxide (công thức hóa học: CaO, các tên gọi thông thường khác là vôi sống, vôi nung) là một oxide của calci, được sử dụng rộng rãi. Nó có khối lượng mol bằng 56,1 g/mol, hệ số giãn nở nhiệt 0,148, nhiệt độ nóng chảy 2572 °C.
Nó là chất rắn có dạng tinh thể màu trắng và là một chất ăn da và có tính kiềm. Như là một sản phẩm thương mại thì vôi sống có chứa lẫn cả magie oxide (MgO), silic oxide SiO2 và một lượng nhỏ nhôm oxide Al2O3 và các sắt(II) oxide FeO.
Calcium oxide thông thường được sản xuất bằng cách phân hủy bởi nhiệt (nung nóng) các loại vật liệu tự nhiên như đá vôi là khoáng chất chứa calci carbonat (CaCO3). Nó diễn ra khi vật liệu này bị nung nóng tới nhiệt độ khoảng 900 °C (American Scientist ), một quá trình mà người ta còn gọi là nung vôi, để loại bỏ cacbon dioxide theo một phản ứng hóa học không thuận nghịch. Các nhiệt độ thấp hơn có thể tạo ra phản ứng thuận nghịch, nó cho phép vật liệu bị nung thành vôi sống tái hấp thụ cacbon dioxide ở xung quanh để trở thành đá vôi. Đây là một trong số các phản ứng mà con người đã biết tới từ thời tiền sử: (xem thêm lò nung vôi).
CaO cùng với BaO, SrO và MgO tạo thành nhóm oxide kiềm thổ. Vôi sống là calci oxide nguyên chất, nó phản ứng mạnh với nước tạo thành calci hydroxide hay vôi tôi. calci hydroxide trái lại, rất bền vững. Nguồn thu chất này có thể từ vôi bột trắng, wollastonit (CaSiO3), fenspat, colemanit, đôlômit. Vôi bột trắng là calci carbonat. Dolomit (magnesi cacbonat) là một khoáng chất cung cấp magnesi oxide cùng với CaO.
Công dụng
Khi cho tác dụng với nước nó trở thành vôi tôi (Ca(OH)2), được sử dụng trong các loại vữa để làm tăng độ liên kết và độ cứng. Phản ứng này diễn ra rất mãnh liệt và tỏa nhiều nhiệt. Vôi sống cũng được sử dụng trong sản xuất thủy tinh và khả năng phản ứng của nó với các muối silicat cũng được sử dụng trong công nghiệp sản xuất kim loại/hợp kim ngày nay (thép, magiê, nhôm và một số kim loại màu khác) để loại bỏ các tạp chất dưới dạng xỉ.
Nó cũng được sử dụng trong xử lý nước và nước thải để làm giảm độ chua, để làm mềm như là chất kết bông và để loại bỏ các tạp chất phốtphat và các tạp chất khác; trong sản xuất giấy để hòa tan linhin, như là chất làm đông trong tẩy rửa; trong nông nghiệp để cải thiện độ chua của đất; và trong kiểm soát ô nhiễm - trong các máy lọc hơi để khử các khí thải gốc lưu huỳnh và xử lý nhiều chất lỏng. Nó là chất khử nước và được sử dụng để làm tinh khiết acid citric, glucoza, các thuốc nhuộm và làm chất hấp thụ CO2. Nó cũng được sử dụng trong công nghiệp sản xuất đồ gốm, xi măng, sơn và công nghiệp thực phẩm, trong đó nó đôi khi được sử dụng (kết hợp với nước) để làm nóng các mặt hàng như đồ ăn nhanh và cà phê.
Trong vật liệu gốm
CaO được dùng trong vật liệu gốm nhóm trợ chảy. calci oxide là loại trợ chảy cơ bản cho các loại men nung vừa và nung cao, nó bắt đầu hoạt động ở khoảng 1100°C.
calci oxide thường làm cho men sau nung cứng hơn, có độ chống trầy xước và ăn mòn acid tốt hơn. Độ giãn nở nhiệt của nó thuộc vào loại trung bình. Nếu chỉ trộn calci oxide và silica thì men vẫn khó nung chảy, tuy nhiên khi có sô đa và bồ tạt, calci oxide sẽ trở nên rất hoạt động. Độ cứng, tính ổn định và giãn nở nhiệt của các silicat natri và kali hầu như luôn được cải thiện khi có CaO.
CaO là một chất trợ chảy có mức độ hoạt động trung bình ở mức 5-6 của que thăm nhiệt, nhưng rất hoạt động ở mức 10. Dưới mức 4, CaO không phải là một chất trợ chảy hiệu quả cho men nhưng nếu sử dụng với một lượng ít hơn 10% (trọng lượng?) thì nó có thể giúp tăng độ cứng và giảm thẩm thấu cho men. Trong các hệ men không chì, CaO giúp giảm hiện tượng vân rạn.
CaO có thể dùng làm giảm độ nhớt của men có hàm lượng silica cao, tuy nhiên nếu men chảy lỏng quá thì có thể dẫn đến hiện tượng hóa mờ (hiện tượng do kết tinh khi làm nguội), hiện tượng này là một điều mong muốn khi cần tạo một số hiệu quả đặc biệt trên men (như độ xỉn) và là không mong muốn nếu yêu cầu men trong, bóng.
Men có hàm lượng calci oxide cao thường "nhạy màu". Ví dụ, khi thêm oxide sắt ba, calci oxide có thể kết hợp với Fe2O3 tạo ra các tinh thể cho màu vàng, men trở thành xỉn. Nếu trong men không có calci oxide, men sẽ có màu nâu và bóng.
Xem thêm
Calci hydroxide
Đá vôi
Tham khảo
Oxide
Hợp chất calci
Vật liệu xây dựng
Vật liệu gốm
Base
Xi măng
Đá vôi
Oxide base
|
19414
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cobalt%28II%29%20oxide
|
Cobalt(II) oxide
|
Cobalt(II) oxide (công thức hóa học CoO) là một oxide của cobalt. Nó có khối lượng mol 74,9324 đơn vị carbon, nhiệt độ nóng chảy 1.933 ℃. Nó có thể ở dạng kết tinh với màu từ xanh lục ôliu tới đỏ hay chất bột màu từ hơi xám tới đen, được sử dụng khá rộng rãi trong công nghiệp gốm sứ như là phụ gia để tạo men và nước men màu xanh lam cũng như trong công nghiệp hóa chất để sản xuất các muối cobalt(II). Các tinh thể CoO có cấu trúc pericla (muối đá) với hằng số lưới 4,2615 Å.
Cobalt(II) oxide là một chất tạo màu tốt, rất ổn định, được sử dụng nhiều trong thủy tinh, men, enamel và cả cho ngành sơn. cobalt(II) oxide được sử dụng rộng rãi trong các loại mực đề can, màu men lót, vết màu trên thân và men màu.
Chất này có thể thu từ nguồn tự nhiên. Có nhiều dạng nguyên liệu thô và tất cả đều có thể phân hủy dễ dàng thành CoO là dạng ổn định. Các nguồn này có thể là dạng oxide màu đen Co3O4, tỉ lệ phân hủy–giải phóng oxy và chuyển thành CoO là 93% ở 800 °C; hay dạng cobalt(III) oxide màu xám (Co2O3) với 90% CoO; và dạng cobalt(II) carbonat màu tím nhạt (CoCO3) với 63% CoO. Ngoài ra, có thể dùng cobalt(IV) oxide (CoO2).
Ứng dụng
Cobalt(II) oxide được sử dụng để chế tạo vật liệu điện từ, bán dẫn, chất tạo màu trong gốm sứ, chất oxy hóa, chất xúc tác và vật liệu dương cực (anode) cho các loại pin Ni-MH hay Ni-Cd.
Trong vật liệu gốm
Cobalt(II) oxide được sử dụng trong nhiều thế kỷ như là chất tạo màu cho các đồ gốm sứ, các ví dụ sớm nhất đã biết có từ thế kỷ 12 tại các lò sản xuất gốm tại Đức. Phụ gia cobalt tạo ra màu xanh lam sẫm có tên gọi cobalt xanh.
CoO được dùng trong vật liệu gốm thuộc nhóm tạo màu. cobalt(II) oxide là chất tạo màu xanh cobalt truyền thống và đáng tin cậy ở mọi nhiệt độ nung, trong hầu hết mọi loại men. Nó là một chất tạo màu mạnh, thông thường chỉ dùng ít hơn 1% là màu đã đủ đậm. Sắc độ xanh thì có thể bị ảnh hưởng theo nhiều cách do sự hiện diện của các oxide khác. Nếu cần giảm sắc xanh, có thể dùng oxide sắt, titani, rutil hay nickel.
Dù cobalt(II) oxide có nhiệt độ nóng chảy rất cao, nó vẫn là một chất trợ chảy mạnh, hoà tan dễ dàng trong hầu hết các loại men đặc biệt là các loại men kiềm thổ và bor. Cũng do hoà tan dễ dàng nên màu xanh do cobalt(II) oxide tạo ra dễ bị loang và khó giữ được những nét in rạch ròi, đặc biệt là khi in ở lớp men phủ. Do cobalt(II) oxide hoà tan khá tốt trong men nóng chảy, nó không có chức năng làm mờ.
Cobalt(II) oxide rất nhạy cảm với môi trường lò (oxy hóa hay khử, nung nhanh hay nung chậm). Nó thường được nung khô với oxide nhôm và CaO để làm mực màu cho lớp men lót mềm. Các loại vết màu thường là hỗn hợp nhôm oxide, cobalt và kẽm để đạt được một màu xanh lam mềm hơn.
Kết hợp
Cobalt(II) oxide khi kết hợp với:
Oxide sắt và oxide mangan cho màu lam đá phiến.
Bari oxide cho màu lục lam
Magnesi oxide cho màu từ tím đến tím hoa cà.
Chromi oxide và oxide mangan cho màu lam đen hay màu đen.
Chromi oxide và đồng có thể cho màu từ thuần xanh cobalt qua lam ánh lục đến xanh lá chromi (thuận lợi nhất khi hàm lượng silica không cao quá và chỉ vừa đủ alumina).
Silica, B2O3 và hàm lượng cao MgO có thể tạo ra các màu đỏ, tím, oải hương hay hồng.
Xem thêm
Cobalt oxide
Liên kết ngoài
MSDS cho cobalt(II) oxide
Tham khảo
Oxide
Oxide base
Vật liệu gốm
Hợp chất oxy
Hợp chất cobalt
|
19416
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chromi%28III%29%20oxide
|
Chromi(III) oxide
|
Chromi(III) oxide (công thức hóa học: Cr2O3) là một oxide của chromi. Nó có phân tử khối 151,9942 g/mol, nhiệt độ nóng chảy 2435 ℃.
Chromi(III) oxide lưỡng tính là dạng oxide bền vững duy nhất của chromi trong khoảng nhiệt độ đến 1200 ℃ (sau đó nó sẽ bắt đầu hóa hơi một phần). Chất này lấy từ nguồn chromi oxide tự nhiên hoặc kali đichromat.
Trong vật liệu gốm
Cr2O3 được dùng là chất tạo màu trong vật liệu gốm nhóm tạo màu. Nó luôn cho màu xanh lục (xanh chromi) đặc trưng dù nung chậm hay nhanh, môi trường lò oxy hóa hay khử. Tuy nhiên nó cho men màu xanh mờ và nhạt. Nếu có CaO, màu xanh có thể chuyển sang màu xanh cỏ.
Chất làm mờ zirconi với hàm lượng 1–2% thường được thêm vào men có chromi để ổn định hoá men và ngăn chặn hiện tượng "viền nâu". Có thể chuyển màu xanh xám của chromi thành màu xanh lông công bằng cách thêm coban(II) oxide (1% mỗi loại, có thể phải có thêm một chút MgO), sử dụng trong các loại men chứa bo và natri.
Chromi(III) oxide sử dụng trong men có kẽm có khuynh hướng tạo ra kẽm chromiat màu vàng đến vàng lục. Chromi(III) oxide kết hợp với thiếc cho màu hồng vì vậy nếu cần làm sáng màu xanh Chromi có thể sử dụng vôi bột trắng và nhôm oxide thay vì dùng thiếc. Màu hồng chromi-thiếc sẽ có độ đồng nhất cao nếu hỗn hợp được nung chảy trước (chủ yếu là tạo sự biến màu) và nếu men có hàm lượng calci hay stronti cao (tối thiểu 10% CaO), không có kẽm. Thông thường hàm lượng thiếc oxide khoảng 4–5%, cao hơn Chromi(III) oxide từ 20 đến 30 lần. Màu hồng chromi-thiếc chuyển sang màu tím nếu trong men có lượng đáng kể bo. Nếu men có thành phần là 3,3 SiO2, 0,27 Al2O3, 0,2 B2O3, 0,15 Li2O, 0,5 CaO, 0,1 MgO, 0,15 Na2O được pha màu 5% thiếc oxide, 0,6% coban(II) cacbonat, 0,17% Chromi(III) oxide sẽ có màu tím đẹp ở mức 6 của que thăm nhiệt.
Chromi(III) oxide trong men có hàm lượng chì cao sẽ tạo thành chì(II) chromat màu vàng. Trong men gốc nên có thêm các oxide kiềm thổ. Thêm kẽm oxide sẽ có thể tạo màu cam. Dưới 950 ℃, trong men có hàm lượng chì cao, nhôm thấp, chromi(III) oxide cho màu đỏ đến cam, thường có dạng kết tinh bề mặt. Nếu thêm soda màu sẽ chuyển sang vàng.
Chromi(III) oxide được sử dụng trong hầu hết mọi loại vết màu đen oxy hóa. Nó có thể chiếm đến 40% trong hệ Cr–Co–Fe và 65% trong hệ Cu–Cr.
Xem thêm
CrO là một oxide base, tác dụng với dung dịch HCl tạo thành muối Chromi(II) chloride.
Tham khảo
Hợp chất chromi
Oxide
Vật liệu gốm
|
19425
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cobalt%20oxide
|
Cobalt oxide
|
Cobalt oxide là tên gọi chung cho các oxide của cobalt. Cobalt có các trạng thái oxy hóa là +1 (hiếm), +2, +3, +4, +5 và +6 (hiếm). Do vậy khi nói một cách chính xác thì phải là:
Cobalt(I) oxide (Co2O)
Cobalt(II) oxide (CoO)
Cobalt(III) oxide (Co2O3)
Cobalt(IV) oxide (CoO2)
Và Co3O4 (có thể coi là hỗn hợp của hai loại oxide +2 và +3 nói trên).
Hợp chất cobalt
Oxide
|
19432
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%E1%BB%9Dn%20qu%E1%BB%91c%20gia%20Ph%C3%BA%20Qu%E1%BB%91c
|
Vườn quốc gia Phú Quốc
|
Vườn quốc gia Phú Quốc là một vườn quốc gia của Việt Nam nằm tại đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Vườn quốc gia Phú Quốc được thành lập theo Quyết định số 91/2001/QĐ-TTg ngày 8 tháng 6 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về việc chuyển hạng Khu bảo tồn thiên nhiên Phú Quốc thành Vườn quốc gia Phú Quốc.
Vị trí
Vườn quốc gia Phú Quốc bao gồm địa phận khu Bảo tồn thiên nhiên Bắc đảo, khu vực núi Hàm Rồng, Gành Dầu và Cửa Cạn. Vườn quốc gia Phú Quốc có ranh giới hành chính thuộc các xã: Gành Dầu, Bãi Thơm, Cửa Cạn và một phần các xã Cửa Dương, Hàm Ninh, Dương Tơ và phường Dương Đông của thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
Vườn quốc gia Phú Quốc trải dài từ 10°12' đến 10°27' vĩ bắc và từ 103°50' đến 104°04' kinh đông.
Quy mô diện tích
Tổng diện tích 31.422 ha, bao gồm: khu bảo vệ nghiêm ngặt 8.603 ha, phân khu phục hồi sinh thái 22.603 ha, phân khu hành chính và dịch vụ 33 ha.
Chức năng
Bảo tồn hệ sinh thái rừng nhiệt đới hải đảo, nguồn gen động, thực vật rừng quý hiếm và có giá trị, các sinh cảnh rừng tự nhiên độc đáo của rừng trên đảo.
Duy trì và phát triển độ che phủ của thảm thực vật rừng để đảm bảo chức năng phòng hộ rừng đầu nguồn, cung cấp nguồn nước ngọt phục vụ sinh hoạt của nhân dân, phát triển bền vững kinh tế, xã hội của thành phố đảo Phú Quốc.
Góp phần củng cố an ninh quốc phòng, tăng cường sức mạnh cho tuyến phòng thủ tây nam Việt Nam.
Cơ quan quản lý
ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang đã có Quyết định 01/2002/QĐ-UB ngày 17/01/2002 thành lập Ban quản lý trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, gồm Ban giám đốc và các phòng chức năng. Năm 2002, biên chế của Ban quản lý là 32 người.
Hoạt động du lịch
Vườn quốc gia Phú Quốc đã thu hút nhiều khách du lịch nhờ cảnh đẹp thiên nhiên và những bãi biển hoang sơ, hơn nữa Phú Quốc rất có tiềm năng về du lịch sinh thái được chính quyền cho là một chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế một cách bền vững, giảm thiểu những tác động của du lịch với môi trường tự nhiên.
Các giá trị đa dạng sinh học
Hiện nay có ít thông tin về khu hệ động vật đảo Phú Quốc. Thảm thực vật nơi đây là rừng thường xanh trên địa hình đồi núi thấp. Vườn quốc gia Phú Quốc có đến 12.794 ha rừng, trên các đai cao rừng còn giàu, tuy vậy ở các đai thấp rừng bị suy thoái nhiều, với ưu thế ở đây là các cây họ Đậu (Fabaceae). Đến nay đã ghi nhận được 929 loài thực vật trên đảo. Cũng có một vài ghi nhận cho rằng ở Phú Quốc trước đây có loài vượn Pillê sinh sống.
Phần biển Phú Quốc rất phong phú và đa dạng, các rặng san hô bắt gặp ở quanh các đảo nằm ở phía nam. Các rặng san hô này chiếm đến 41% diện tích. Khu hệ cá trong các rặng san hô rất phong phú, các loài họ Cá mú (Serranidae) và họ Cá bướm (Chaetodontidae) và nhiều loài có giá trị kinh tế khác. Đã thống kê được 89 loài san hô cứng, 19 loài san hô mềm, 125 loài cá ở rặng san hô, 132 loài thân mềm, 32 loài da gai và 62 loài rong biển, trong đó nhiều loài quan trọng như trai tai tượng vảy (Tridacna squamosa) và ốc đụn cái (Trochus nilotichus). Phú Quốc đã ghi nhận loài đồi mồi (Eretmochelys imbricata) đến vùng biển này đẻ trứng, nhưng đến nay tần suất gặp chúng là rất ít, ngoài ra có các thông tin từ người dân địa phương về sự xuất hiện của bò biển dugong nhưng vẫn chưa có nghiên cứu chính thức.
Các dự án có liên quan
Dân số trong vùng
Dân cư trên đảo Phú Quốc là dân du nhập từ nhiều vùng khác nhau. Trên đảo ngư nghiệp là hoạt động kinh tế chính, mặc dù vậy du canh, du cư là mối đe dọa lớn đối với đa dạng sinh học. Việc xây dựng quá nhiều khu công viên chủ đề, khu biệt thự, resort trong tương lai có thể khiến diện tích cây xanh ở Phú Quốc bị thu hẹp lại.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Quyết định của thủ tướng chính phủ Việt Nam về việc "Chuyển hạng Khu bảo tồn thiên nhiên Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang thành Vườn quốc gia Phú Quốc"
Du lịch Phú Quốc
Phú Quốc
Địa lý Kiên Giang
IUCN Loại II
|
19434
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%AB%20H%C3%A1n-Tri%E1%BB%81u
|
Từ Hán-Triều
|
Từ Hán-Triều hay Từ Hán-Hàn là từ vựng tiếng Triều Tiên có nguồn gốc trực tiếp hay gián tiếp từ tiếng Trung Quốc qua Hanja (Hán tự) và các từ được tạo thành từ chúng - Hanja-eo (한자어; 漢字語; "Hán tự ngữ").
Hanja được đưa vào bán đảo Triều Tiên trong suốt thời kì nhà Hán của Trung Quốc (202 TCN–220 CN)—chủ yếu thông qua bài thơ Thiên Tự Văn (Cheonjamun 千字文)—và sự du nhập của chúng vào Triều Tiên gắn liền với sự truyền bá đạo Phật.
Những từ hay dùng nhất trong tiếng Hàn có nguồn gốc bản địa.
Các từ Hán-Triều ngày nay chiếm khoảng 60% từ vựng tiếng Triều Tiên.
Xem thêm
Các chủ đề về Triều Tiên
Hanja
Tiếng Triều Tiên
Chữ Hán
Hangul
Kanji
Từ Hán-Việt
Tham khảo
Tiếng Triều Tiên
Từ mượn
Tiếng Trung Quốc
|
19435
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chromi%20oxide
|
Chromi oxide
|
Chromi oxide trong tiếng Việt có thể là:
Chromi(II) oxide, công thức hóa học: CrO
Chromi(III) oxide, công thức hóa học: Cr2O3
Chromi(IV) oxide, công thức hóa học: CrO2
Chromi(V) oxide, công thức hóa học: Cr2O5
Chromi(VI) oxide, công thức hóa học: CrO3
|
19446
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%ADu%20hi%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BA%A1i
|
Hậu hiện đại
|
Hậu hiện đại, hay còn gọi là điều kiện hậu hiện đại, (tiếng Anh: postmodernity, tiếng Pháp: post-modernité), là thuật ngữ do các nhà triết học, xã hội học, phê bình nghệ thuật và xã hội sử dụng để nói về các khía cạnh của điều kiện nghệ thuật, văn hóa, kinh tế và xã hội hiện đại, hình thành nên đời sống con người cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 với những đặc trưng cơ bản. Những đặc trưng này bao gồm sự toàn cầu hóa, chủ nghĩa tiêu thụ, sự phân tán quyền lực, việc phổ biến kiến thức ngày càng trở nên dễ dàng hơn (xem Hiện đại).
Tham khảo
Bằng tiếng Anh:
Anderson, Perry (1998) The Origins of Postmodernity, London: Verso
Giddens, Anthony (1990) The Consequences of Modernity, Cambridge: Polity Press.
Hicks, Stephen R. C. (2004) Explaining Postmodernism: Skepticism and Socialism from Rousseau to Foucault (ISBN 1592476465).
Harvey, David (1990) The Condition of Postmodernity. An enquiry into the origins of cultural change, Oxford: Blackwell.
Ihab Hassan, From Postmodernism to Postmodernity: the Local/Global Context (2000), text online.
Jean-François Lyotard La Condition postmoderne: Rapport sur le savoir (1979)
Baudrillard, J. 1984. Simulations. New York: Semiotext(e).
Berman, Marshall. 1982. All That is Solid Melts into Air. The Experience of Modernity. London: Verso.
Chan, Evans. 2001. "Against Postmodernism, etcetera--A Conversation with Susan Sontag" trong Postmodern Culture, vol. 12 no. 1, Baltimore: Johns Hopkins University Press.
Docherty, Thomas.1993. (ed.), Postmodernism: A Reader, New York: Harvester Wheatsheat.
Docker, John.1994. Postmodernism and Popular Culture: A Cultural History. Cambridge: Cambridge University Press.
Eagleton, Terry. Capitalism, Modernism and Postmodernism. Against the Grain: Essays 1975-1985. London: Verso, 1986. 131-47.
Foster, H. 1983. The Anti-Aesthetic. USA: Bay Press.
Fuery, Patrick and Mansfield, Nick. 2001. Cultural Studies and Critical Theory. Melbourne: Oxford University Press.
Graff, Gerald. 1973. "The Myth of the Postmodernist Breakthrough" trong Triquarterly, no. 26, Winter 1973, pp. 383–417.
Habermas, Modernity - An Incomplete Project (in Docherty ibid)
Habermas, Jürgen. 1981. Dịch bởi Seyla Ben-Habib. Modernity versus Postmodernity. in V Taylor & C Winquist; originally published in New German Critique, no. 22, Winter 1981, pp. 3–14.
Jameson, F. 1993. Postmodernism, or the Cultural Logic of Late Capitalism (in Docherty, ibid).
Jencks, Charles. 1986. What is Post-Modernism? New York: St. Martin's Press, and London: Academy Editions.
Joyce, James. 1964. Ulysses. London: Bodley Head.
Lyotard, J. 1984. The Postmodern Condition: A report on knowledge. Manchester: Manchester University Press
Mansfield, N. 2000. Subjectivity: Theories of the self from Freud to Harroway. Sydney: Allen & Unwin.
McHale, Brian. 1990. "Constructing (post) modernism: The case of Ulysses" trong Style, vol. 24 no. 1, pp. 1–21, DeKalb, Illinois: Northern Illinois University English Department.
Palmeri, Frank. 2001. "Other than Postmodern?--Foucault, Pynchon, Hybridity, Ethics" trong Postmodern Culture, vol. 12 no. 1, Baltimore: Johns Hopkins University Press.
Pinkney, Tony. 1989. "Modernism and Cultural Theory", editor's introduction to Williams, Raymond. The Politics of Modernism: Against the New Conformists. London: Verso.
Taylor, V & Winquist, (ed).1998. Postmodernism: Critical concepts (vol 1-2). London: Routledge.
Wheale, N. 1995. The Postmodern Arts: An introductory reader. New York: Routledge.
Simpson, J.A. and Weiner, E.S.C. 1989. The Oxford English dictionary. Oxford: Clarendon Press; New York: Oxford University Press, 1989.
Bằng tiếng Việt
Nguyễn Minh Quân. Chủ nghĩa hậu hiện đại: những khái niệm căn bản
Charles Jencks. Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?
Trương Đăng Dung. Tri thức và ngôn ngữ trong tinh thần hậu hiện đại
Ngô Tự Lập. Ba cách hiểu về hậu hiện đại
Lê Nguyên Cẩn. Về một vài khái niệm của chủ nghĩa hậu hiện đại
Alan Kirby. Cái chết của chủ nghĩa hậu hiện đại và xa hơn
Barry Lewis. Chủ nghĩa hậu hiện đại và văn chương
Bùi Văn Nam Sơn.Triết học hậu hiện đại
Hoàng Ngọc Tuấn. Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại
Liên kết ngoài
European Graduate School - Media and Communication Studies Program
MIT Comparative Media Studies
New School University - Media Studies Program
University of Toronto - McLuhan Program in Culture and Technology
University of King's College- Contemporary Studies Program
The postmodern essay generator
"My Postmodern Art Gallery at the Saguaro Lounge" - Satire of Artistic Postmodernism
Phương pháp luận sử học
Văn hóa phương Tây
Biên soạn lịch sử
Thời đại lịch sử
Chủ nghĩa Hậu hiện đại
Thế kỷ 20
Thế kỷ 21
et:Uusim aeg
|
19448
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%E1%BB%8Dc%20h%E1%BA%ADu%20hi%E1%BB%87n%20%C4%91%E1%BA%A1i
|
Văn học hậu hiện đại
|
Văn học hậu hiện đại là trào lưu văn học xuất hiện sau Chiến tranh thế giới thứ hai tại xã hội Tây phương, đỉnh cao là vào những năm 70, 80, với hàng loạt các kỹ thuật sáng tác và tư tưởng văn nghệ mới để phản ứng lại các quy chuẩn của văn học hiện đại, trong khi đó cũng phát triển thêm các kỹ thuật và giả định cơ bản của văn học hiện đại (xem chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hậu hiện đại).
Tham khảo
Văn học thế kỷ 20
Văn học thập niên 1950
Văn học thập niên 1960
Văn học thập niên 1970
Văn học thập niên 1980
Văn học thập niên 1990
Văn học thập niên 2000
Văn học thập niên 2010
|
19451
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bia%20%28th%E1%BB%A9c%20u%E1%BB%91ng%29
|
Bia (thức uống)
|
Bia (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp bière /bjɛʁ/) nói một cách tổng thể, là một loại thức uống có cồn được sản xuất bằng quá trình lên men đường lơ lửng trong môi trường lỏng và nó không được chưng cất sau khi lên men. Dung dịch đường không bị lên men thu được từ quá trình ngâm nước gọi là hèm bia hay "nước ủ bia". Hạt ngũ cốc, thông thường là lúa mạch được ủ thành mạch nha. Các thức uống chứa cồn được làm từ sự lên men đường có trong các nguồn không phải ngũ cốc – chẳng hạn nước hoa quả hay mật ong – nói chung không được gọi là "bia", mặc dù chúng cũng được sản xuất từ cùng một loại men bia dựa trên các phản ứng hóa sinh học.
Quá trình sản xuất bia được gọi là nấu bia. Do các thành phần sử dụng để sản xuất bia có khác biệt tùy theo từng khu vực, các đặc trưng của bia như hương vị và màu sắc cũng thay đổi rất khác nhau và do đó có khái niệm loại bia hay các sự phân loại khác.
Từ nguyên
Từ bia tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Pháp bière /bjɛʁ/. Danh từ tiếng Pháp Bière thì có gốc động từ bibere (có nghĩa là uống) tiếng Latinh. Nhiều ngôn ngữ Tây Âu cũng dùng danh từ tương tự như bière của tiếng Pháp.
Khi thức uống này du nhập Việt Nam dưới thời Pháp thuộc thì người Việt một thời gọi bia là "rượu bọt".
Ở miền Nam Việt Nam trước 1975, bia được gọi là la-ve. Nhưng sau năm 1975 từ này chỉ còn được ít người sử dụng.
Lịch sử
Bia là một trong các thức uống lâu đời nhất mà loài người đã tạo ra, có niên đại ít nhất là từ thiên niên kỷ 5 TCN và đã được ghi chép lại trong các thư tịch cổ của Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà (Mesopotamia).
Giống như phần lớn các chất chứa đường khác có thể bị lên men một cách tự nhiên, rất có thể là các thức uống tương tự như bia đã được phát minh một cách độc lập giữa các nền văn minh trên toàn thế giới. Việc kiểm định hóa học các bình gốm cổ phát hiện ra rằng bia (tương tự như rượu vang) đã được sản xuất khoảng 7.000 năm trước ở khu vực ngày nay là Iran và là một trong số các công nghệ sinh học đã biết, trong đó các quy trình sinh học của sự lên men được áp dụng.
Tại Lưỡng Hà, chứng cứ lâu đời nhất về bia được cho là bức vẽ 6.000 năm tuổi của người Sumeria miêu tả những người đang uống một thứ thức uống bằng các cần hút bằng sậy từ thùng công cộng. Bia cũng được đề cập tới trong Thiên sử thi Gilgamesh, một bản trường ca 3.900 năm tuổi của người Sumeria để tỏ lòng tôn kính nữ thần Ninkasi, vị thần bảo trợ cho bia, nó chứa công thức làm bia cổ nhất còn sót lại và miêu tả việc sản xuất bia từ lúa mạch thông qua bánh mì. Bia đã trở thành thiết yếu đối với tất cả các nền văn minh trồng ngũ cốc ở thế giới phương Tây cổ xưa, đặc biệt là ở Ai Cập và Lưỡng Hà.<ref>; Michael M. Homan, 'Beer and Its Drinkers: An Ancient near Eastern Love Story, Near Eastern Archaeology, Vol. 67, No. 2 (Jun., 2004), pp. 84-95.</ref>
Bia đã từng là quan trọng đối với người La Mã trong thời kỳ đầu, nhưng trong thời kỳ Cộng hòa La Mã thì rượu vang đã thay thế bia như là một thức uống chứa cồn được ưa chuộng hơn. Bia trở thành thức uống được coi là thích hợp cho những người man rợ; Tacitus đã viết một cách đầy chê bai về bia được các giống người Đức sản xuất trong thời đại của ông.
Người Thracia cũng được biết là đã sử dụng bia sản xuất từ lúa mạch đen, thậm chí từ thế kỷ 5 TCN, như Hellanicos đã viết trong vở các opêra. Tên gọi cho bia của họ là brutos hay brytos.
Sự bổ sung hoa bia vào bia để tạo vị đắng, bảo quản và hương vị cho bia là một phát kiến tương đối mới: trong thời Trung cổ nhiều hỗn hợp khác của các loại thảo mộc thông thường được cho vào bia chứ không phải hoa bia. Các hỗn hợp này thông thường được gọi là gruit. Hoa bia đã được trồng tại Pháp sớm nhất là vào khoảng thế kỷ 9; văn bản cổ nhất còn sót lại có ghi chép về việc sử dụng hoa bia trong bia có niên đại vào năm 1067 bởi nữ tu viện trưởng kiêm nhà văn Hildegard: "Nếu người ta định làm bia từ yến mạch, nó được chuẩn bị cùng hoa bia."Tại châu Âu, trong thời Trung cổ, bia chủ yếu được sản xuất trong gia đình. Vào thế kỷ 14 và 15, việc sản xuất bia đã dần dần chuyển từ hoạt động gia đình sang hoạt động thủ công, với các quán bia và tu viện sản xuất bia của mình hàng loạt để tiêu thụ.
Trong thế kỷ 15, ở Anh thì loại bia không có hoa bia được biết đến như là ale, còn việc sử dụng hoa bia thì thức uống đó gọi là bia. Bia có chứa hoa bia được nhập khẩu vào Anh từ Hà Lan sớm nhất là từ năm 1400 ở Winchester, và hoa bia đã được trồng trên quốc đảo này từ năm 1428. Tính phổ biến của hoa bia ban đầu là hỗn hợp — Công ty bia rượu London đã đi xa tới mức ra thông báo "không hoa bia, không thảo mộc hoặc những gì khác tương tự được cho vào bất kỳ ale hay rượu (mùi) nào sẽ được sản xuất — mà chỉ có liquor (nước), mạch nha, và men bia". Tuy nhiên, vào thế kỷ 16, ale đã được dùng để chỉ các loại bia mạnh (nồng độ cồn cao) bất kỳ, và tất cả ale và bia đều sử dụng hoa bia.
Năm 1516, William IV, Công tước xứ Bavaria, đã thông qua Reinheitsgebot (Luật tinh khiết), có lẽ là quy định về thực phẩm cổ nhất còn áp dụng đến nay. Gebot quy định rằng thành phần của bia chỉ được bao gồm nước, lúa mạch hoa bia, với men bia được bổ sung sau phát kiến của Louis Pasteur vào năm 1857. Luật của người Bavaria đã được áp dụng trong cả nước Đức như là một phần của nước Đức thống nhất năm 1871 thành Đế chế Đức dưới thời Otto von Bismarck, và kể từ đó đã được cập nhật để phản ánh xu hướng hiện đại trong sản xuất bia rượu. Cho đến nay, Gebot vẫn được coi là tiêu chuẩn của độ tinh khiết cho bia, mặc dù điều này có thể gây tranh cãi.
Phần lớn các loại bia cho đến thời gian gần đây thực chất là thứ mà ngày nay gọi là ale. Bia lager đã được phát hiện ra một cách tình cờ vào thế kỷ 16 sau khi bia được lưu trữ trong các hầm lạnh một thời gian dài; kể từ đó nó đã được sản xuất nhiều hơn ale.
Với sự phát minh ra động cơ hơi nước năm 1765, công nghiệp hóa sản xuất bia đã trở thành sự thật. Các cải tiến mới trong công nghệ sản xuất bia đã xuất hiện cùng với sự ra đời của nhiệt kế và tỷ trọng kế vào thế kỷ 19, đã cho phép các nhà sản xuất bia tăng tính hiệu quả và kiểm soát nồng độ cồn. Cho đến cuối thế kỷ 18, mạch nha chủ yếu được làm khô bằng lửa do đốt gỗ, than củi, trấu, và sau năm 1600 là từ than cốc. Nói chung, không có loại mạch nha nào trong số này được che chắn tốt khỏi khói sinh ra trong các lò sấy, và do đó các loại bia thời kỳ đó có thành phần hơi khói trong hương vị của chúng; các chứng cứ chỉ ra rằng các nhà sản xuất mạch nha và bia thường xuyên phải cố gắng giảm thiểu sự ám khói của bia thành phẩm. Sự phát minh ra lò nướng hình trống năm 1817 của Daniel Wheeler đã cho phép tạo ra mạch nha nướng chín kỹ và tạo tiền đề cho sản xuất các loại bia đen (porter và stout). Sự phát minh ra vai trò của men bia trong quá trình lên men vào năm 1857 bởi Louis Pasteur đã giúp cho các nhà sản xuất bia phương pháp ngăn chặn vị chua của bia bởi các loại vi sinh vật không mong muốn.
Năm 1953, Morton W Coutts, một người New Zealand đã phát triển kỹ thuật lên men liên tục. Morton lấy bằng sáng chế công nghệ của ông và nó là một cuộc cách mạng trong công nghiệp bia do nó làm giảm thời gian ủ và sản xuất bia trước đây là 4 tháng xuống còn chưa đầy 24 giờ. Công nghệ của ông vẫn được sử dụng bởi nhiều nhà sản xuất bia lớn nhất thế giới ngày nay, bao gồm cả Guinness.
Ngày nay, công nghiệp bia là công việc kinh doanh khổng lồ toàn cầu, bao gồm chủ yếu là các tổ hợp được ra đời từ các nhà sản xuất nhỏ hơn. Trong khi bia chủ yếu là thức uống chứa cồn thì một số biến thái của nó cũng tồn tại, xuất phát từ thế giới phương Tây, là các loại bia đi qua công đoạn xử lý để loại bỏ bớt cồn, sản xuất ra cái gọi là bia không cồn.
Huyền thoại
Thiên sử thi Kalevala của người Phần Lan, được tập hợp lại thành dạng văn bản vào thế kỷ 19, nhưng dựa trên các bản truyền khẩu qua nhiều thế kỷ, đã dành nhiều dòng cho nguồn gốc của bia và việc sản xuất bia hơn là dành cho nguồn gốc của loài người.
Bài hát khi uống bia của người Anh "Beer, Beer Beer" () quy việc phát minh ra bia cho nhân vật có lẽ là viễn tưởng Charlie Mopps:
A long time ago, way back in history When all there was to drink was nothin' but cups of tea, Along came a man by the name of Charlie Mopps And he invented the wonderful drink, and he made it out of hops. ...Tạm dịch:
Ngày xưa, ngược dòng lịch sử Khi mọi người chẳng có gì để uống ngoài nước chè, Một người có tên gọi Charlie Mopps đã đến Và ông đã phát minh ra một loại thức uống tuyệt vời, và ông làm ra nó từ hoa bia. ...Vị vua thần thoại Gambrinus của vùng Flanders (từ Jan Primus (John I)), đôi khi được coi là phát minh ra bia. Theo truyền thuyết của người Séc, thần Radegast, vị thần của sự phụ thuộc lẫn nhau, đã phát minh ra bia.
Thành phần Xem thêm Sản xuất biaThành phần chính của bia là nước, lúa mạch đã mạch nha hóa, hoa bia và men bia. Các thành phần khác, chẳng hạn các chất tạo mùi vị hay các nguồn tạo đường khác được thêm vào như là các phụ gia. Các phụ gia phổ biến là ngô và lúa gạo. Các nguồn tinh bột này được ngâm ủ để chuyển hóa thành các loại đường dễ lên men và làm tăng nồng độ cồn trong bia trong khi bổ sung rất ít hương vị. Các nhà sản xuất bia lớn ở Mỹ sử dụng tương đối nhiều các phụ gia để sản xuất bia rất ít hương vị với nồng độ cồn 4-5% theo thể tích.
Nước
Do thành phần chính của bia là nước (chiếm từ 80 - 90%) nên nguồn nước và các đặc trưng của nó có một ảnh hưởng rất quan trọng tới các đặc trưng của bia. Nhiều loại bia chịu ảnh hưởng hoặc thậm chí được xác định theo đặc trưng của nước trong khu vực sản xuất bia. Mặc dù ảnh hưởng của nó cũng như là tác động tương hỗ của các loại khoáng chất hòa tan trong nước được sử dụng trong sản xuất bia là khá phức tạp, nhưng theo quy tắc chung thì nước cứng là phù hợp hơn cho sản xuất các loại bia sẫm màu như bia đen, trong khi nước mềm là phù hợp hơn cho sản xuất các loại bia sáng màu, chẳng hạn như bia pilsener của Cộng hòa Séc.
Mạch nha
Định nghĩa:
Tất cả những hạt ngũ cốc, nếu được ươm mầm với sự kiểm soát chặt chẽ của các điều kiện kỹ thuật (độ ẩm, nhiệt độ và mức độ thông gió), sử dụng trong công nghệ sản xuất bia đều có thể gọi chung là mạch nha hay malt (như malt thóc, malt bắp, malt lúa mì…).
Malt là sản phẩm được chế biến từ các loại hạt hòa thảo như đại mạch, tiểu mạch, thóc, ngô v.v. sau khi cho nảy mầm ở điều kiện nhân tạo và sấy đến độ ẩm nhất định với điều kiện bắt buộc.
Malt là một loại bán thành phẩm và giàu chất dinh dưỡng: 16 – 18% chất thấp phân tử dễ hòa tan hệ enzym đặc biệt phong phú, chủ yếu là amylaza và proteaza.
Trong số các loại mạch nha thì mạch nha từ lúa đại mạch (Hordeum vulgare) được sử dụng rộng rãi nhất do nó chứa nhiều amylaza, là một loại enzym tiêu hóa giúp cho việc phá vỡ tinh bột để chuyển nó thành đường. Tuy nhiên, phụ thuộc vào loại cây trồng trong từng khu vực mà các loại ngũ cốc được/không được mạch nha hóa khác cũng có thể sử dụng, bao gồm lúa mì, lúa gạo, yến mạch (Avena sativa) và lúa mạch đen (Secale cereale), cũng như ít phổ biến hơn là ngô và lúa miến (cao lương, Sorghum chinensis).
Mạch nha được tạo ra từ hạt ngũ cốc bằng cách ngâm chúng vào trong nước, cho phép chúng nảy mầm và sau đó làm khô hạt đã nảy mầm trong các lò sấy. Hạt ngũ cốc đã mạch nha hóa tạo ra các enzym để chúng chuyển hóa tinh bột trong hạt thành đường có thể lên men.
Thời gian và nhiệt độ sấy khác nhau được áp dụng để tạo ra các màu mạch nha khác nhau từ cùng một loại ngũ cốc. Các loại mạch nha sẫm màu hơn sẽ sản xuất ra bia sẫm màu hơn. Ngày nay, trong phần lớn các trường hợp, hai hoặc nhiều loại mạch nha được phối hợp để sản xuất bia.
Vai trò
Malt cung cấp toàn bộ lượng glucid (chủ yếu dưới dạng tinh bột) để chuyển hóa thành đường, và từ đường chuyển hóa thành cồn và các chất khác. Để giảm giá thành, người ta có thể sử dụng ngũ cốc làm thế liệu, và lượng tối đa là 50% chứ không thể thay thế hoàn toàn malt.
Malt chứa đầy đủ enzym amilaza để thủy phân tinh bột. Nếu sử dụng thế liệu nhiều thì lượng enzym này cung cấp không đầy đủ và ta buộc phải bổ sung enzym từ bên ngoài vào, chủ yếu là enzym từ vi sinh vật.
Malt cung cấp khá đủ lượng protein và có chứa hệ enzym proteaza để thủy phân chúng. Trong giai đoạn ươm mầm, hệ enzym này được hoạt hóa mạnh mẽ. Khi chuyển sang giai đoạn nấu, chúng thủy phân protein tạo thành các phức chất có khả năng giữ CO2 tốt, tạo vị bia đặc trưng.
Các loại enzym trong malt
Hệ thống enzyme này gồm có: alpha-amylase, beta-amylase và amilophosphatase, phần lớn chúng tập trung ở phôi mầm và một ít được phân bố ở phần dưới của nội nhũ hoặc trong màng ngăn giữa vỏ trấu và nội nhũ.
Hệ thống enzym thủy phân tinh bột
Với enzyme alpha-amylase cơ chất của nó là tinh bột và destrin, từ đó tạo ra sản phẩm là maltose và các destrin mạch ngắn. Enzyme này hoạt động tối ưu ở pHopt = 5.8, topt = 72 – 76 0C.
Với enzyme beta-amylase, nó có trong hạt đại mạch ở dạng liên kết cũng như dạng tự do, nhưng trong quá trình ươm mầm hoạt tính của enzyme này sẽ tăng dần. Với sự tham gia của enzyme này, tinh bột đại mạch sẽ bị phân cắt thành đường maltose. Enzyme này hoạt động tối ưu ở pHopt = 5.5 – 5.8, topt = 62 – 650C
Hệ thống enzyme protease:
Trong hạt đại mạch, toàn bộ hệ thống enzyme này ở trạng thái liên kết, hầu như không hoạt động. Nhưng khi chuyển qua giai đoạn ươm mầm thì hoạt tính chung của hệ enzyme protease tăng nhanh.
Proteinase: sẽ tấn công lên các phân tử protein nguyên thủy để tạo ra các sản phẩm trung gian như: pepton, peptit, polypeptit, với pHopt = 5.1, topt = 50 – 550C.
Peptidase: nó sẽ phân cắt các peptit có sẵn trong hạt đại mạch và những peptit trong malt do proteinase phân giải để tạo thành các amino acid trong hạt malt, với pHopt = 7.3 – 7.9, topt = 40 – 450C.
Amidase: chúng sẽ tấn công các muối amit để hình thành NH3 và amino acid, góp phần làm thay đổi tính chất và hàm lượng của protein trong hạt malt, các enzyme amidase có pHopt = 7.3 – 8.0, topt = 45 – 500C.
Hệ thống enzyme esterase (phosphatase):
Hệ thống enzyme esterase (phosphatase) gồm có: saccharophosphatase, phytase, glyxerophosphatase, nucleotidase… tham gia thúc đẩy và xúc tác cho các quá trình ester hoá trong quá trình nảy mầm.
Phytase: phá mối liên kết este của phytin và giải phóng ra rượu inozit và axit phosphoric tự do. Phytase có pHopt =5.0 – 5.5, topt =40 – 500C.
Các enzyme khác như: saccharophosphatase, glyxerophosphatase, nucleotidase sẽ phá các mối liên kết ester tương ứng của các hợp chất hữu cơ có chứa phosphate và giải phóng ra acid phosphoric tự do.
Hoa bia (Hublông)
Hoa bia là thực vật dạng dây leo (Humulus lupulus), sống lâu năm (30-40 năm), có chiều cao trung bình từ 10–15 m. Hoa houblon có hoa đực và hoa cái riêng cho từng cây. Trong sản xuất bia chỉ sử dụng hoa cái chưa thụ phấn.
Men bia
Men bia là các vi sinh vật có tác dụng lên men đường. Các giống men bia cụ thể được lựa chọn để sản xuất các loại bia khác nhau, nhưng có hai giống chính là men ale (Saccharomyces cerevisiae) và men lager (Saccharomyces uvarum), với nhiều giống khác nữa tùy theo loại bia nào được sản xuất. Men bia sẽ chuyển hóa đường thu được từ hạt ngũ cốc và tạo ra cồn và cacbon dioxide (CO2). Trước khi các chức năng của men bia được hiểu rõ thì mọi quá trình lên men đều sử dụng các loại men bia hoang dã. Mặc dù còn rất ít loại bia, chẳng hạn như bia lambic vẫn dựa trên phương pháp cổ này nhưng phần lớn các quá trình lên men ngày nay đều sử dụng các loại men bia được nuôi cấy và có độ tinh khiết cao. Trung bình, hàm lượng cồn trong bia là khoảng 4-6% rượu theo thể tích, mặc dù nó có thể thấp tới 2% và cao tới 14% trong một số trường hợp nào đó. Một số nhà sản xuất bia còn đưa ra loại bia chứa tới 20% cồn.
Các chất làm trong
Một số nhà sản xuất bia còn cho thêm một hay nhiều chất làm trong vào bia mà không bị bắt buộc phải công bố như là một thành phần của bia. Các chất làm trong phổ biến là thạch- thu được từ bong bóng cá; caragin- thu được từ tảo biển; tảo Ireland (loài tảo đỏ có tên khoa học Chondrus crispus); và giêlatin. Do các thành phần này có thể thu được từ động vật, việc sử dụng hay tiêu thụ các sản phẩm động vật liên quan cần phải có các thông số kỹ thuật cụ thể trong quá trình lọc của nhà sản xuất bia.
Công nghệ sản xuất bia Để có giải thích cụ thể và đầy đủ, xem Sản xuất biaMặc dù quá trình sản xuất bia là phức tạp và dao động một cách đáng kể giữa các nhà sản xuất, nhưng các công đoạn cơ bản không thể thiếu thì có thể được đơn giản hóa như dưới đây. Có thể có thêm các bước lọc bổ sung giữa các công đoạn chính.
Ngâm ủ hạt: Giai đoạn đầu tiên của quá trình sản xuất bia, trong đó hạt ngũ cốc cần mạch nha hóa được ngâm trong nước ấm để kích thích nảy mầm nhằm chiết ra mạch nha. Việc ngâm ủ cần phải đủ thời gian và nhiệt độ ổn định để các enzym có khả năng chuyển hóa tinh bột thành đường có khả năng lên men.
Rảy nước: Nước được lọc qua khối hạt ngâm ủ để hòa tan đường. Chất lỏng sẫm màu, chứa nhiều đường được gọi là hèm bia.
Luộc: Hèm bia được luộc sôi cùng với các thành phần khác còn lại (ngoại trừ men bia), để loại bỏ bớt nước thừa và giết chết các loại vi khuẩn. Hoa bia (nguyên hay viên nhỏ) được thêm vào (hoặc sử dụng các chất chiết ra từ hoa bia).
Lên men: Men bia được thêm vào (hoặc rắc vào) và hỗn hợp được để cho lên men. Sau khi quá trình lên men sơ cấp, người ta có thể cho lên men thứ cấp, điều này cho phép men bia và các chất khác hoạt động lâu hơn. Một số nhà sản xuất bia có thể bỏ qua giai đoạn lên men thứ cấp và chỉ đơn giản là lọc bỏ bã men bia.
Đóng gói: Từ thời điểm này, bia chứa cồn, nhưng chưa có nhiều cacbon dioxide. Các nhà sản xuất bia có một số cách thức để tăng lượng cacbon dioxide. Cách phổ biến nhất được các nhà sản xuất lớn áp dụng là cacbonat hóa cưỡng bức, thông qua việc bổ sung trực tiếp khí CO2 vào trong thùng bia hay chai bia. Các nhà sản xuất nhỏ hoặc các nhà sản xuất có khuynh hướng cổ điển sẽ bổ sung "đường mồi" hoặc một lượng nhỏ hèm bia vừa mới lên men ("kräusen") vào đường ống dẫn cuối cùng, tạo ra sự lên men ngắn gọi là "bình ổn thùng" hay "bình ổn chai".
Đóng gói và phục vụ
Sau khi brewing, bia thông thường đã là sản phẩm hoàn thiện. Từ thời điểm này thì bia được đóng thành thùng, can hay chai, lon.
Bia chưa được tiệt trùng theo phương pháp Pasteur chứa men bia còn sống và có thể lưu trữ giống như rượu vang để bảo quản tiếp trong các thùng bình ổn theo tuổi nhằm tiếp tục lên men và tạo ra hương vị thứ cấp. Chu kỳ bình ổn dài là phổ biến đối với các loại ale của Bỉ và các thùng bình ổn cho ale thực. Đối với các loại bia nặng thì người ta không bình ổn quá một năm hoặc lâu hơn.
Các điều kiện phục vụ có ảnh hưởng lớn tới cảm nhận của người uống. Yếu tố quan trọng nhất là nhiệt độ: nhiệt độ thấp (bia lạnh) cản trở cảm nhận của lưỡi và họng, làm cho người uống không cảm nhận hết hương vị của bia. Ngược lại, bia được phục vụ quá ấm có thể có các vấn đề khác: các loại bia nặng có thể được cảm nhận là quá nhiều cồn và gắt, trong khi các loại bia nhẹ hơn có thể được cảm nhận là nhạt và không hấp dẫn. Mỗi loại bia có nhiệt độ phục vụ lý tưởng riêng, và trong khi những người uống bình thường có thể quen với "bia đá lạnh" như là các quảng cáo đại trà vẫn thường nhắc đến thì việc tìm hiểu nhiệt độ phù hợp nhất cho việc phục vụ bia có thể dẫn đến những cảm nhận tốt hơn về hương vị của từng loại bia.
Bên cạnh nhiệt độ, việc lựa chọn đồ chứa bia thích hợp cũng là một yếu tố quan trọng. Trong khi những người uống bình thường có thể uống trực tiếp từ chai hay lon thì những người uống giàu kinh nghiệm luôn luôn rót bia của họ vào vại/cốc trước khi uống. Uống trực tiếp từ chai hay lon không cảm nhận hết hương vị, do mũi không thể cảm nhận hết được hương vị tỏa ra từ bia. Vì thế, cho dù từ vòi của thùng hay từ miệng chai, bia nói chung được rót vào các cốc, vại thủy tinh. Giống như rượu vang, có các loại cốc, vại thủy tinh đặc biệt dành cho từng loại bia, và thậm chí một số nhà sản xuất bia nổi tiếng còn sản xuất cả cốc vại riêng cho loại bia của mình. Trong khi bất kỳ loại cốc, vại nào đều được ưa chuộng hơn chai, những người sành bia nhất lại cho rằng hình dáng của cốc, vại có ảnh hưởng đáng kể tới sự cảm nhận hương vị và cách thức uống, tương tự như các yêu cầu của người uống đối với branđi (brandy) hay cô nhắc (cognac). Thủy tinh là vật liệu xốp, nó giữ lại dầu, mỡ ở bên trong. Khi các loại dầu mỡ này tiếp xúc với bia thì chúng làm giảm lượng bọt bia một cách đáng kể và các bọt bia này có xu hướng dính vào thành cốc chứ không dâng lên như bình thường.
Cuối cùng, quá trình rót bia cũng là một phần quan trọng trong nghệ thuật thưởng thức bia. Tốc độ rót bia từ vòi hay chai, độ nghiêng của cốc và vị trí rót (ở giữa hay cạnh thành cốc) vào cốc đều có ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng, chẳng hạn kích thước và thời gian tồn tại của bọt bia, vệt bia để lại ở đáy cốc khi uống hết, cũng như sự sủi tăm của bia khi các bọt khí cacbonic dâng lên. Các loại bia cacbonat hóa nhiều như pilsener hay weissbier của Đức có thể cần thời gian lắng xuống lâu hơn các loại bia khác trước khi đưa ra phục vụ.
Một số bia đen và ale của Anh, nổi tiếng nhất là Guinness, được phục vụ từ các "vòi nitơ". Các vòi này sử dụng hỗn hợp nitơ/cacbon dioxide thay vì cacbon dioxide thông thường nhằm thu được cảm giác kem ở miệng. Các loại bia này được rót một cách thong thả theo hai công đoạn, với một khoảng lặng để bia lắng xuống. Trong cố gắng giả lập quá trình này tại nhà, Guinness đã giới thiệu lon widget năm 1991; gần đây, Guinness đã mở rộng khái niệm với hệ thống "draft in a bottle" (bia tươi trong chai).
Các loại ale thực có các yêu cầu đóng gói riêng của nó: các loại bia này đặc biệt là không được lọc và không khử trùng theo phương pháp Pasteur, và chúng được phục vụ bằng các máy bán bia. Máy bán bia thực ra là một bơm tay được sử dụng để chuyển bia từ thùng ra vòi. Do thời gian giữ loại bia này ngắn nên đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ về số lượng bia tồn và chất lượng của nó.
Đối với các loại bia đóng chai, người ta khuyến nghị người dùng nên rót bia chậm với góc rót nhỏ, không rót ra ồng ộc, bỏ đi các cặn men bia còn sót lại ở đáy chai (nếu có) do có một số loại bia nhất định (chủ yếu là hefeweizen) mà một số người thích cho thêm men bia vào để tăng thêm cảm giác ở miệng.
Các loại bia
Có nhiều loại bia khác nhau, mỗi loại bia được coi là thuộc về một kiểu bia cụ thể nào đó. Kiểu bia là mác dán miêu tả hương vị tổng thể và thông thường là nguồn gốc của bia, phù hợp với hệ thống đã tiến hóa qua các lần thử và các sai số qua nhiều thế kỷ.
Yếu tố chính để xác định loại bia là men bia sử dụng trong quá trình lên men. Phần lớn kiểu bia thuộc về một trong hai họ lớn: ale- sử dụng lên men đỉnh, hoặc lager- sử dụng lên men đáy. Bia có đặc trưng pha trộn của cả ale và lager được gọi là bia lai. Thức uống chứa cồn sản xuất từ việc lên men đường thu được từ các nguồn không phải là ngũ cốc nói chung không được gọi là "bia", mặc dù chúng cũng được sản xuất bằng cùng một phản ứng sinh học gốc men bia. Mật ong lên men được gọi là rượu mật ong, nước táo lên men được gọi là rượu táo, nước lê lên men được gọi là rượu lê, còn nước nho lên men được gọi là rượu vang Ale
Ale là bất kỳ loại bia nào được sản xuất bằng lên men nổi, và nó thông thường được lên men ở nhiệt độ cao hơn so với bia lager (15-23°C, 60-75°F). Các men bia ale ở các nhiệt độ này tạo ra một lượng đáng kể các este, các hương liệu thứ cấp và các sản phẩm tạo mùi khác, và kết quả là bia tạo ra có mùi vị của hoa hay quả tương tự (nhưng không chỉ có thế) như táo, lê, dứa, cỏ, cỏ khô, chuối, mận hay mận khô. Các khác biệt về kiểu giữa các loại ale là nhiều hơn so với các loại lager, và nhiều loại bia ale rất khó để phân loại chúng thuộc kiểu gì.
Lager
Lager là loại bia được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Chúng có nguồn gốc từ vùng Trung Âu, có tên gọi này là từ lagern ("lưu trữ") trong tiếng Đức. Men bia lager là loại lên men chìm, thông thường được lên men ở nhiệt độ 7-12 °C (45-55 °F) ("pha lên men"), và sau đó được lên men thứ cấp lâu ở 0-4 °C (30-40 °F) ("pha lager hóa"). Trong giai đoạn lên men thứ cấp, lager được làm trong và chín. Các điều kiện lạnh cũng kiềm chế việc sản xuất tự nhiên các este và các phụ phẩm khác, tạo ra hương vị "khô và lạnh hơn" của bia.
Các phương pháp hiện đại để sản xuất bia lager đã được Gabriel Sedlmayr trẻ và Anton Dreher khai phá. Gabriel Sedlmayr trẻ là người đã hoàn thiện bia lager màu nâu sẫm ở nhà máy bia Spaten tại Bavaria còn Anton Dreher là người bắt đầu sản xuất bia lager, có lẽ là màu đỏ hổ phách tại Viên khoảng những năm 1840-1841. Với việc kiểm soát quá trình lên men đã được hoàn thiện hơn, phần lớn các nhà sản xuất bia lager chỉ sử dụng thời gian lưu trữ lạnh ngắn, thông thường từ 1 đến 3 tuần.
Phần lớn bia lager ngày nay dựa trên kiểu Pilsener, được sản xuất lần đầu tiên năm 1842 tại thành phố Plzeň, ở Cộng hòa Séc. Các loại bia lager Pilsener ngày nay có màu sáng và được cacbonat hóa nồng độ cao, với hương vị mạnh của hoa bia và nồng độ cồn 3-6% theo thể tích. Các thương hiệu bia Pilsner Urquell hay Heineken là các ví dụ điển hình về bia pilsener.
Lên men tự nhiên
Các loại bia này dùng men bia hoang dã chứ không phải các loại men bia được nuôi cấy. Tất cả các loại bia trước khi có việc nuôi cấy men bia trong thế kỷ 19 đã rất gần với kiểu bia này, được đặc trưng bởi các vị chua.
Loại bia hỗn hợp
Kiểu bia lai hay bia hỗn hợp sử dụng các nguyên liệu và công nghệ hiện đại thay vì (hoặc bổ sung cho) các khía cạnh truyền thống của sản xuất bia. Mặc dù có một số biến thái giữa các nguồn khác nhau, nhưng nói chung bia hỗn hợp có thể rơi vào các thể loại sau:
Bia hoa quả và bia rau cỏ là hỗn hợp với một số loại phụ gia từ hoa quả hay rau cỏ có thể lên men trong quá trình lên men, tạo ra chất lượng hài hòa một cách rõ nét.
Bia thảo mộc và bia gia vị bổ sung các chất chiết ra từ rễ, hạt, lá, hoa hay quả thảo mộc hoặc các loại cây gia vị thay vì (hoặc bổ sung cho) hoa bia.
Các loại bia tồn trữ trong các thùng gỗ là các loại bia truyền thống hay thực nghiệm được lưu trữ trong các thùng gỗ hoặc được tiếp xúc với gỗ (trong dạng các mảnh nhỏ, mẩu hay hạt) trong một khoảng thời gian (gỗ sồi là phổ biến nhất). Thông thường, thùng gỗ hay các miếng gỗ đầu tiên được xử lý bằng một số loại rượu mạnh hay các thức uống chứa cồn khác—việc sử dụng rượu bourbon, scotch và sherry là phổ biến nhất.
Bia hun khói là bất kỳ loại bia nào mà mạch nha của nó đã được hun khói. Thông thường các loại bia này có mùi và hương vị của khói. Các ví dụ điển hình của kiểu bia truyền thống này là bia Rauchbiers ở Bamberg, Đức. Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất bia ngoài nước Đức—chủ yếu là các nhà sản xuất bia thủ công ở Mỹ—cũng bổ sung mạch nha bia hun khói vào bia đen, ale Scotland và một loạt các kiểu bia khác.
Bia đặc biệt là cách gọi chung để chỉ các loại bia được sản xuất mà sử dụng các nguồn đường, hạt ngũ cốc và tinh bột có thể lên men không thông dụng.
Các loại thức uống liên quan
Châu Phi: Hàng trăm loại thức uống địa phương được sản xuất từ kê, lúa miến và các loại hạt chứa tinh bột khác.
Andes, Nam Mỹ: Chicha, loại thức uống vùng Andes-được làm từ ngô nảy mầm.
Bhutan, Nepal, Tây Tạng và Sikkim: Chhaang, loại thức uống lên men một phần sản xuất từ lúa gạo/kê ở miền đông dãy Himalaya.
Trung Quốc: Tửu (jỉu), chủ yếu là loại thức uống gốc ngũ cốc lên men.
Phần Lan: Sahti, bia truyền thống của người Phần Lan.
Nhật Bản: Sake, thức uống gốc gạo lên men, tương tự như jiǔ của người Trung Quốc về nhiều phương diện.
México: Pulque, một loại bia bản địa làm từ chất lỏng của cây thùa (chi Agave'') lên men.
Nga/Ukraina: Kvass, loại thức uống lên men không cồn hoặc ít cồn.
Các khu vực khác: Bia lúa mạch đen, bia mật ong (làm từ nước và mật ong), rượu táo (làm từ nước táo)
Xem thêm
Lịch sử bia
Lễ hội tháng Mười
Đóng vòi thùng bia
Bia ôm tại Việt Nam
Nước giải khát
Thương hiệu bia theo quốc gia
Các vụ bạo động về bia ở Bavaria
Nhà máy bia
Sản xuất bia
Sản xuất nhỏ của bia tại Mỹ
Bia thủ công
Sản xuất bia tại gia đình
Náo loạn bia lager
Danh sách các nhà sản xuất bia nổi tiếng và :Thể loại:Nhà sản xuất bia và nhà máy bia
Danh sách các thương hiệu bia và :Thể loại:Thương hiệu bia.
Vores Øl - Nguồn mở về bia
Aragh sagi ở Iran
Lịch sử thức uống chứa cồn
Tham khảo
Hệ thống lên men liên tục Morton Coutts , từ Website của The National Science-Technology Roadshow Trust
Công nghiệp giải khát
B
Chất gây nghiện
Thức uống có cồn
|
19482
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/22%20th%C3%A1ng%2011
|
22 tháng 11
|
Ngày 22 tháng 11 là ngày thứ 326 trong mỗi năm thường (thứ 327 trong mỗi năm nhuận). Còn 39 ngày nữa trong năm.
Sự kiện
498 – Sau khi Giáo hoàng Anastasiô II qua đời, Symmacô được bầu làm Giáo hoàng tại Cung điện Laterano, trong khi Giáo hoàng đối lập Laurentiô được bầu làm Giáo hoàng tại Vương cung thánh đường Đức Bà Cả.
617 – Tùy mạt Đường sơ: Tiêu Tiển xưng là Lương vương và cải niên hiệu nhằm thể hiện sự độc lập với triều Tùy (ngày Bính Thân tháng 10 năm Đinh Sửu).
1635 – Quân đội Hà Lan bắt đầu tiến hành chiến dịch bình định các ngôi làng thổ dân đối địch ở khu vực Tây Nam Đài Loan.
1718 – Ở ngoài khơi bờ biển Bắc Carolina, hải tặc người Anh Edward Teach (còn được biết đến với tên gọi "Blackbeard") bị hạ sát trong một trận chiến với Hải quân Hoàng gia Anh.
1757 – Chiến tranh Bảy năm: Quân Áo giành thắng lợi trước quân Phổ trong trận Breslau diễn ta tại khu vực nay thuộc Ba Lan.
1858 – William Larimer đặt tên một đô thị ở tây bộ Lãnh thổ Kansas là Thành phố Denver nhằm vinh danh Thống đốc Lãnh thổ Kansas James W. Denver, đây là mốc thành lập thành phố.
1864 – Nội chiến Hoa Kỳ: Cuộc tiến quân ra biển của Sherman: Tướng Miền Nam John Bell Hood xâm chiếm Tennessee trong một nỗ lực bất thành nhằm lôi kéo tướng Miền Bắc William Tecumseh Sherman khỏi Georgia.
1943 – Chiến tranh Thái Bình Dương – Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill, và nhà lãnh đạo Trung Quốc Tưởng Giới Thạch tụ họp tại Cairo, Ai Cập, nhằm thảo luận cách đánh bại Nhật Bản, tức Hội nghị Cairo.
1943 – Liban giành được độc lập từ Pháp.
1963 – Tổng thống Hoa Kỳ John F. Kennedy bị ám sát ở Dallas, Texas, thủ phạm là Lee Harvey Oswald theo các cuộc điều tra của chính phủ.
1974 – Đại hội đồng Liên Hợp Quốc trao cho Tổ chức Giải phóng Palestine địa vị quan sát viên.
1975 – Juan Carlos trở thành Quốc vương Tây Ban Nha sau khi nhà độc tài Francisco Franco qua đời.
1986 – Mike Tyson đánh bại Trevor Berbick, trở thành nhà vô địch quyền anh hạng nặng trẻ nhất trong lịch sử.
1988 – Tại Palmdale, California, Nguyên mẫu máy bay ném bom Northrop Grumman B–2 Spirit được trưng bày trước công chúng.
1990 – Thủ tướng Anh Quốc Margaret Thatcher rút lui khỏi cuộc bầu cử lãnh đạo Đảng Bảo thủ, xác nhận bà sẽ không tái nhiệm vị trí thủ tướng.
1995 – Toy Story được phát hành, là bộ phim dài đầu tiên được hoàn thành hoàn toàn bằng cách sử dụng hình ảnh tạo ra từ máy vi tính.
2004 – Khởi đầu những cuộc biểu tình phản đối kết quả của cuộc bầu cử tổng thống, dẫn đến Cách mạng Cam tại Ukraina.
2005 – Angela Merkel trở thành nữ Thủ tướng Đức đầu tiên.
2010 – 347 người thiệt mạng trong sự kiện hỗn loạn trên một cầu tại thủ đô Phnôm Pênh, Campuchia trong dịp Lễ hội Bon Om Touk.
Sinh
874 – Dương Đình Nghệ, Tiết độ sứ Việt Nam (m. 937)
1336 – Trần Dụ Tông, hoàng đế thứ bảy của nhà Trần (m. 1369).
1710 – Wilhelm Friedemann Bach, nhà soạn nhạc người Đức (m. 1784)
1819 – George Eliot, nhà viết tiểu thuyết người Anh (m. 1880)
1825 – Nguyễn Phúc Trang Nhàn, phong hiệu Triêm Đức Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (m. 1892)
1852 – Paul-Henri-Benjamin d'Estournelles de Constant, nhà ngoại giao Pháp, từng nhận giải Nobel Hòa bình (m. 1924)
1833 – Nguyễn Phúc Nhu Nghi, phong hiệu Xuân Lai Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (m. 1907?)
1869 – André Gide, nhà văn Pháp từng nhận giải Nobel Văn học (m. 1951)
1890 – Charles de Gaulle, Tổng thống Pháp (m. 1970)
1901 – Joaquin Rodrigo, nhà soạn nhạc Tây Ban Nha (m. 1999)
1902 – Philippe Leclerc de Hauteclocque, tướng lĩnh Pháp (m. 1947)
1907 – Dora Maar, nhiếp ảnh gia Pháp, người tình của Picasso (m. 1997)
1913 – Benjamin Britten, nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm người Anh (d. 1976)
1916 – Phạm Huy Thông, nhà thơ, nhà giáo, và nhà khoa học xã hội Việt Nam (m. 1988)
1958 – Jamie Lee Curtis, nữ diễn viên Mỹ
1962 – Sumi Jo, giọng nữ cao người Hàn Quốc
1967 – Boris Becker, vận động viên tennis Đức
1967 – Mark Ruffalo, nam diễn viên Mỹ
1976 – Torsten Frings, cầu thủ bóng đá Đức
1981 – Song Hye–kyo, người mẫu và diễn viên Hàn Quốc
1982 – Thái Trác Nghiên, ca sĩ và diễn viên người Canada-Hồng Kông
1984 – Scarlett Johansson, nữ diễn viên Mỹ
1985 – Asamoah Gyan, cầu thủ bóng đá người Ghana
1987 – Marouane Fellaini, cầu thủ bóng đá người Bỉ
1989 – Candice Glover, ca sĩ người Mỹ
1989 – Gabriel Torje, cầu thủ bóng đá người Romania
1991 – Shimizu Saki, ca sĩ Nhật Bản
Mất
365 – Giáo hoàng đối lập Fêlix II
1617 – Ahmed I, sultan của đế quốc Ottoman (s. 1590)
1718 – Edward Teach, hải tặc người Anh (s. 1680)
1850 – Lâm Tắc Từ, nhân vật quân sự và chính trị nhà Thanh (s. 1785)
1916 – Jack London, nhà văn Mỹ (s. 1876)
1944 – Arthur Eddington, nhà vật lý học thiên thể người Anh (b. 1882)
1963 – Aldous Huxley, tác gia Anh (s. 1894)
1963 – C. S. Lewis, nhà văn, nhà hộ giáo Ireland (s. 1898)
1963 – John F. Kennedy, Tổng thống thứ 35 của Hoa Kỳ (s. 1917)
1981 – Hans Adolf Krebs, nhà vật lý học và hóa học Đức, từng đoạt giải Nobel (s. 1900)
1988 – Luis Barragán, kiến trúc sư Mexico (s. 1908)
2007 - Etō Takami, cựu Bộ trưởng Xây dựng Nhật Bản, qua đời đột ngột tại Thành phố Hồ Chí Minh (s. 1925)
2018 – Đinh Mạnh Hùng, Hải quân Phó Đề đốc, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (Sinh 1932)
Ngày lễ và ngày kỷ niệm
Ngày truyền thống tỉnh An Giang (1832)
Ngày độc lập của Liban (từ Pháp, 1943)
Ngày kỷ niệm Cách mạng Cam và cách mạng Maidan tại Ukraina.
Tham khảo
Tháng mười một
Ngày trong năm
|
19493
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%93ng%20c%E1%BA%A7u%20l%C6%B0%E1%BB%9Bi
|
Hồng cầu lưới
|
Hồng cầu lưới là giai đoạn đầu của hồng cầu trưởng thành, chiếm tỷ lệ bình thường khoảng 1% số hồng cầu trong máu ngoại vi. Hồng cầu lưới là giai đoạn biệt hóa và trưởng thành cuối cùng của hồng cầu trong tủy xương trước khi vào dòng máu tuần hoàn.
Tên gọi hồng cầu lưới là do khi được nhuộm (bằng một số phương pháp nhất định) và quan sát dưới kính hiển vi, người ta thấy một cấu trúc dạng lưới trong bào tương của loại tế bào này. Trong quá trình trưởng thành của hồng cầu, nhân và các bào quan dần dần được loại bỏ. Trong giai đoạn hồng cầu lưới, tế bào không còn nhân nhưng những mảnh còn sót lại của nhân và các bào quan, kể cả RNA, đã tạo ra hình ảnh "lưới" nói trên.
Khi nhuộm bằng phương pháp Romanowsky, hồng cầu lưới trông hơi xanh hơn các hồng cầu trưởng thành. Kích thước hồng cầu lưới cũng hơi lớn hơn, làm tăng chỉ số MCV (thể tích hồng cầu trung bình - tiếng Anh: mean corpuscular volume) trong công thức máu thực hiện bằng máy.
Giới hạn bình thường của hồng cầu lưới trong máu ngoại vi dao động trong khoảng 0.2% đến 2.0%. Số lượng hồng cầu lưới là một thông số hữu ích trong việc theo dõi chức năng tạo hồng cầu của tủy xương, nhất là trong điều trị các trường hợp thiếu máu.
Hồng cầu lưới tăng cả về số lượng lẫn tỷ lệ phần trăm khi có sự tăng sản xuất hồng cầu chẳng hạn trong hội chứng thiếu máu huyết tán hay trong bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm.
Ngược lại, số lượng hồng cầu lưới có thể giảm do hóa trị liệu (như trong một số bệnh ung thư), thiếu máu do suy tủy hoặc thiếu máu ác tính.
Tham khảo
Tế bào máu
Xét nghiệm y khoa
Tế bào người
de:Erythropoese#Retikulozyt
|
19500
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A7y%20x%C6%B0%C6%A1ng
|
Tủy xương
|
Tủy xương là loại mô ở giữa hầu hết các xương. Gồm tủy đỏ và tủy vàng, trong đó chỉ tủy đỏ mới có chức năng tạo huyết. Tủy tạo huyết ở người trưởng thành nằm chủ yếu ở đầu xương dài và một số xương dẹt.
Tủy xương có hai loại tế bào gốc gồm các tế bào tạo máu (nguồn gốc của ba loại tế bào máu) và các tế bào nền (sản xuất mỡ, sụn và xương). Các tế bào nền gốc còn có khả năng biệt hóa thành nhiều loại mô khác nhau, kể cả mô thần kinh. Các tế bào máu gốc tạo ra hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu.
Trong tủy xương, phần mô tại nơi hình thành các tế bào máu gốc đa năng được gọi là mô tủy.
Có hai loại tủy xương: tủy đỏ và tủy vàng. Tủy đỏ là nơi hoạt động tạo máu diễn ra tích cực. Ở trẻ em, tất cả các xương đều chứa tủy đỏ. Tuy nhiên ở người lớn, hoạt động tạo máu chỉ xảy ra chủ yếu tại các xương dẹt, và tủy đỏ ở nhiều xương được thay bằng tủy vàng. Tủy vàng có cấu trúc là mô mỡ và mô liên kết, không còn khả năng tạo máu. Tủy vàng có khả năng quay trở lại thành tủy đỏ trong trường hợp cần thiết. Phần lớn là không thể.
Ở người lớn, các xương dài có cấu trúc dạng ống, khoảng trống ở giữa được lấp đầy bởi tủy vàng. Thân xương dài cấu tạo bằng các vật liệu cứng; hai đầu xương được cấu tạo bởi các vật liệu xốp (bọt) và tủy đỏ.
Thực phẩm làm từ tủy xương động vật
Được chế biến thành nhiều món ăn, kể cả ruốc, tuy nhiên thường thì tủy xương chỉ được sử dụng như một hương liệu, chẳng hạn trong các món súp. Tủy xương là thực phẩm giàu protein cũng như các chất béo chưa bão hòa. Các chất béo chưa bão hòa có tác dụng làm giảm nồng độ của cholesterol thuộc loại LDL trong máu. Một số người tin rằng điều này làm giảm nguy cơ bệnh mạch vành, gợi ra khả năng khuyến khích việc dùng tủy xương làm thức ăn. Tuy nhiên, tác động của món ăn tủy xương lên sức khỏe vẫn chưa được biết rõ.
Xem thêm
Ung thư bạch cầu
Ghép tủy
Tham khảo
Huyết học
Hệ miễn dịch
Mô học
Hệ nội tiết
Hệ bạch huyết
Bộ xương người
|
19501
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%A7y%20%C4%91%E1%BB%8F%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Tủy đỏ (định hướng)
|
Tủy đỏ là tên gọi cho các cấu trúc mô học khác nhau, có ở:
Tủy xương: Tủy đỏ thuộc tủy xương là nơi tạo ra máu. Trong tủy xương còn có tủy vàng.
Lách: Tủy đỏ thuộc lách là nơi hủy hồng cầu. Trong lách còn có tủy trắng.
Mô học
|
19511
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Turkestan
|
Turkestan
|
Turkestan (còn gọi là Turkistan hay Türkistan) là một khu vực ở Trung Á, ngày nay là khu vực mà chủ yếu là các dân tộc Turk sinh sống. Trong khu vực này có một số thành phố lớn của nền văn minh Ba Tư, nổi tiếng nhất là Samarkand và Bukhara, cũng như còn một lượng đáng kể người gốc Iran, ngày nay gọi là người Tajik.
Nó được phân chia thành Tây Turkestan (Turkestan thuộc Nga) và Đông Turkestan (Turkestan thuộc Trung Quốc), với các dãy núi Thiên Sơn và Pamir tạo thành sự phân chia tự nhiên gần đúng giữa hai vùng.
Khái quát
Tây Turkestan trong lịch sử còn được biết đến như là Sogdiana; Ma wara'u'n-nahr (theo những người Ả Rập) và Transoxiana theo cách gọi của các nhà thám hiểm phương Tây. Hai tên gọi cuối này là để chỉ vị trí của nó ở mé bên kia sông Amu Darya khi đi tới từ phía nam, là một minh chứng cho quan hệ lịch sử lâu dài của Turkestan với Iran, các đế chế Ba Tư, các vương triều Hồi giáo Umayyad và Abbasid. Khu vực này đã trở thành một phần của Đế chế Nga vào những năm thập niên 1860, và do đó đôi khi được gọi là Turkestan thuộc Nga hay Turkestanskii Krai (vùng Turkestan). Sau cách mạng tháng Mười Nga, vào ngày 31 tháng 10 năm 1917, một cuộc nổi dậy của nhân dân lao động đã lật đổ vương triều Tashkent. Vào giữa tháng 11, Đại hội Xô viết Vùng lần III được tổ chức và tuyên bố thành lập chính quyền Xô viết trên toàn Turkestan. Tuy nhiên Đại hội không giải quyết vấn đề tự trị của Turkestan. Phái tư sản dân tộc chủ nghĩa nắm lấy cơ hội này, liên minh với lực lượng phản cách mạng ở Nga và tuyên bố Turkestan độc lập. Họ tổ chức một đại hội ở Kokand và dự định xây dựng một nhà nước Hồi giáo. Các nỗ lực của phái này để lật đổ chính quyền Xô viết bị thất bại. Vào tháng 2 năm 1918, Kokand tan rã. Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Turkestan thuộc Liên Xô được thành lập, sau đó được chia ra thành nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Kazakh (Kazakhstan), nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Kirghiz (Kyrgyzstan), nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Tajik (Tajikistan), nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Turkmenia (Turkmenistan) và nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbek (Uzbekistan). Sau sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, các nước cộng hòa này đã trở thành các quốc gia độc lập.
Đông Turkestan, thường được gọi là Turkestan thuộc Trung Quốc, là quê hương của những người Tuốc định cư sớm nhất trong khu vực, người Duy Ngô Nhĩ (hay còn được gọi là Úy Ngột Nhi). Khu vực này cuối cùng đã do nhà Thanh quản lý vào giữa thế kỷ 18 và được đặt tên là Tân Cương, có nghĩa là biên cương mới. Sau đó Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã quản lý khu vực này và hiện nay nó có tên gọi chính thức là Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương.
Hiện nay vẫn còn một thành phố mang tên Turkestan ở miền nam Kazakhstan.
Chuyện bên lề: Tàu thủy Liên Xô mang tên Turkestan
Trong đội tàu buôn Liên Xô cũ hồi giữa thế kỷ 20 có một chiếc mang tên Turkestan. Tàu Turkestan đã nhiều lần chở hàng đến Bắc Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.
Tháng 5/1967 tàu thực hiện chuyến thứ tư của năm đến Việt Nam, neo đậu tại cảng Hồng Gai. Ngày 2/6/1967, không quân Mỹ đánh phá thành phố Hồng Gai. Hai phi cơ Mỹ bổ nhào xuống tàu Turkestan, thả một trái bom nổ cách tàu vài chục mét, tiếp đến thi nhau nã pháo và súng liên thanh cỡ lớn vào tàu. Tàu Turkestan bị 67 lỗ thủng, buồng lái và cây cầu trên tàu đã bị hỏng, 7 thủy thủ bị thương. Một người trong số họ đã hy sinh, là thợ điện Nikolai Rybachuk.
Đọc thêm
Bằng tiếng Anh:
V.V. Barthold "Turkestan Down to the Mongol Invasion" (London) 1968 (ấn bản lần thứ 3)
David Christian "A History Of Russia, Central Asia and Mongolia" (Oxford) 1998 Vol.I
Svat Soucek "A History of Inner Asia" (Cambridge) 2000
Bằng tiếng Pháp:
René Grousset "L'empire des steppes" (Paris) 1965
Bằng tiếng Nga:
В.В. Бартольд "Работы по Исторической Географии" (Москва) 2002
Tham khảo
Liên kết ngoài
Turkistan
Địa lý Trung Á
Vùng phân chia
Vùng văn hóa
|
19540
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20gi%C3%A1p
|
Hoàng giáp
|
Hoàng giáp () là một loại (gọi là giáp) danh hiệu của học vị Tiến sĩ Nho học trong hệ thống khoa bảng thời phong kiến. Loại danh hiệu này được xác định trong kỳ thi Đình, còn gọi là tiến sĩ xuất thân (進士出身). Vì đứng thứ hai trong hệ thống các loại học vị tiến sĩ, trên đệ tam giáp, nhưng dưới đệ nhất giáp, tức tam khôi (trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa) nên còn gọi là Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân.
Hoàng giáp (đệ nhị giáp) được quy định lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm Kiến Trung thứ 8 (1232) đời vua Trần Thái Tông cùng với đệ nhất giáp (tam khôi) và đệ tam giáp (thái học sinh).
Đến triều nhà Hậu Lê, tháng 8 âm lịch năm 1484 (niên hiệu Hồng Đức 15), Lê Thánh Tông phân định lại hạng tiến sĩ xuất thân cùng với hạng tiến sĩ cập đệ (đệ nhất giáp) và đồng tiến sĩ (đệ tam giáp). Người đề xuất việc phân hạng (giáp) các tiến sĩ nho học là thượng thư Bộ Lễ Quách Đình Bảo, nhân việc vua Lê Thánh Tông sai khắc bia tiến sĩ. Trước đó vào đầu nhà Hậu Lê chưa có phân ba loại tiến sĩ kể trên, mà mới chỉ xếp danh sách các tiến sĩ nho học trong mỗi khoa thi thành hai bảng: chính bảng và phụ bảng. Trong chính bảng từ thời nhà Trần có xếp 3 danh hiệu: trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa ở 3 vị trí đầu tiên. Lê Thánh Tông chuẩn tấu của Quách Đình Bảo, đổi: tam khôi thành tiến sĩ cập đệ, các tiến sĩ còn lại trong chính bảng của mỗi khoa thi thành tiến sĩ xuất thân (hoàng giáp), còn loại tiến sĩ trong phụ bảng gọi là đồng tiến sĩ xuất thân.
Đến nhà Nguyễn, triều đình thường bỏ không lấy hạng đệ nhất giáp, đặc biệt là Trạng nguyên, nên người đỗ hoàng giáp xếp trên cùng có thể coi là đình nguyên.
Loại này không chia bậc, chỉ xếp thứ tự, ai đỗ cao hơn được xếp ở trên. Khi bổ quan được lĩnh chức có hàm tòng thất phẩm.
Một số danh nhân
Nguyễn Trung Ngạn là người đỗ hoàng giáp đầu tiên khoa Đại tỷ năm 1304 khi mới 16 tuổi.
Nguyễn Bá Tĩnh (Tuệ Tĩnh) (1330-1400), hoàng giáp năm Ất Mão (1375)
Trương Phu Duyệt (1476-?), hoàng giáp năm 1505, thượng thư bộ lại đời vua Lê Cung Hoàng
Vũ Hữu (1437-1530), hoàng giáp năm Quý Mùi (1463)
Quách Hữu Nghiêm (1442-1504), hoàng giáp năm Bính Tuất (1466)
Nghiêm Ích Khiêm (1459-1499), hoàng giáp năm Canh Tuất (1490)
Nguyễn Trù (1668-1738), hoàng giáp năm Đinh Sửu (1697)
Bùi Huy Bích (1744-1818), hoàng giáp năm Canh Dần (1770)
Bùi Dương Lịch (1757–1828) là nhà văn hóa lớn của Việt Nam thời Tây Sơn và nhà Nguyễn, hoàng giáp năm 1787.
Phạm Văn Nghị (1805-1884), hoàng giáp năm Mậu Tuất (1838)
Đỗ Huy Liêu (1844-1891), hoàng giáp năm Kỷ Mão (1879)
Nguyễn Quang Bích (tức Ngô Quang Bích) (1832-1890) hoàng giáp năm Kỷ Tỵ (1869)
Nguyễn Khuyến (1835-1909), hoàng giáp năm Tân Mùi (1871)
Đào Nguyên Phổ (1861-1907), hoàng giáp năm Mậu Tuất (1898)
Nguyễn Khắc Niêm (1888-1954), hoàng giáp năm Đinh Mùi (1907)
Xem thêm
Khoa bảng
Khoa bảng Việt Nam
Chú thích
Khoa bảng
Thi cử Nho học
|
19545
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amu%20Darya
|
Amu Darya
|
Sông Amu Darya (còn gọi là Amudarya, Amudar'ya, - Omudaryo hay daryoi Omu; - Âmudaryâ; , , với darya (Pahlavi) nghĩa là biển hay sông rất lớn) là một con sông ở Trung Á. Chiều dài đường giao thông thủy khoảng 1.450 km (800 dặm). Tổng chiều dài của nó là 2.400 km (1.500 dặm).
Trong thời Cổ đại, con sông này có tên gọi là Oxus theo tiếng Hy Lạp.
Lịch sử Phật giáo chép bằng chữ Hán thì phiên âm sông Amu là Ô-hử, có lẽ do tiếng cổ Hy Lạp.
Nó bắt nguồn từ dãy núi Pamir trên lãnh thổ Afghanistan như là sông Pamir, nổi rõ lên tại hồ Zorkul, chảy theo hướng đông-tây cho tới Ishtragh, tại đây nó quay trở lại theo hướng bắc và sau đó chảy theo hướng đông bắc-tây nam tới Hindu Kush như là sông Panj, sau đó gần như là theo hướng đông-tây và tạo ra biên giới tự nhiên giữa Afghanistan và Tajikistan, sau đó tạo ra biên giới giữa Afghanistan và Uzbekistan trong khoảng 200 km, vượt qua Termez và cầu hữu nghị Afghanistan-Uzbekistan. Nó chảy theo biên giới của Afghanistan và Turkmenistan trong khoảng 100 km nữa trước khi chảy vào lãnh thổ Turkmenistan tại Kerki. Từ đây nó có tên gọi Amu Darya, nó chảy ngang qua Turkmenistan theo hướng đông nam-tây bắc, vượt qua Turkmenabat và tạo ra biên giới của Turkmenistan và Uzbekistan tại Khalkabad. Sau đó nó phân ra thành nhiều sông nhánh (đã từng có thời gian tạo ra các đồng bằng châu thổ và đổ vào biển Aral), vượt qua Urgench, Dashoguz và các thành phố khác, nhưng ngày nay nó không chảy nổi tới biển Aral nữa và biến mất trong sa mạc.
Việc sử dụng nước từ sông Amu Darya để tưới tiêu đã là yếu tố chính tạo ra sự thu nhỏ lại của biển Aral kể từ những năm cuối thập niên 1950.
Các ghi chép lịch sử đã chứng tỏ rằng trong các thời kỳ khác nhau thì con sông này đã từng chảy vào biển Aral (từ phía nam), biển Caspi (từ phía đông) hoặc cả hai, tương tự như sông Syr Darya (Jaxartes, trong tiếng Hy Lạp cổ đại).
Xem thêm
Syr Darya
Transoxiana
Tham khảo
Sông Afghanistan
Sông Tajikistan
Sông Turkmenistan
Sông Uzbekistan
|
19659
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Syr%20Darya
|
Syr Darya
|
Syr Darya (; ; ;
, chuyển tự Syrdarya hay Sirdaryo) là một sông ở Trung Á, đôi khi còn gọi là Jaxartes hay Yaxartes từ tên gọi theo tiếng Hy Lạp cổ đại ὁ Ιαξάρτης.
Con sông này bắt nguồn bằng hai đầu nguồn trong dãy Tengri Tagh ở Kyrgyzstan và đông Uzbekistan và chảy trong khoảng 2.212 km (1.380 dặm) theo hướng tây và tây bắc qua miền nam Kazakhstan tới phần còn lại của biển Aral. Dọc theo luồng chảy của mình, nó tưới tiêu cho phần lớn các khu vực đất màu mỡ trồng bông của toàn bộ khu vực Trung Á, cùng với việc cấp nước cho các thành phố như Kokand, Khujand, Kyzyl-Orda và Turkestan.
Nhiều hệ thống kênh đào, chủ yếu xây dựng trong thế kỷ 18 bởi Hãn quốc Kokand, mở rộng các khu vực mà con sông này chảy qua. Việc mở rộng đáng kể các kênh tưới tiêu trong thời kỳ Liên bang Xô viết để tưới tiêu cho các cánh đồng bông đã làm trầm trọng thêm các vấn đề sinh thái trong khu vực, làm cho con sông này cạn kiệt nhanh trước khi chảy tới biển Aral và làm cho con sông này nhỏ bé lại so với kích thước trước đây của nó. Cùng với hàng triệu người đang định cư trong các khu vực trồng bông thì những vấn đề này đối với con sông hiện nay vẫn chưa có lời giải đáp.
Tên gọi này có nguồn gốc từ tiếng Ba Tư và đã được sử dụng từ rất lâu ở phương Đông, nhưng lại là tương đối mới đối với người phương Tây; có lẽ chỉ mới có từ đầu thế kỷ 20, trước đây chủ yếu người ta biết đến nó theo các tên gọi của người Hy Lạp cổ đại. Hoàng đế Ba Tư là Cyrus Đại Đế đã thiết lập thành phố mới Cyropolis bên sông Jaxartes, nay là Takijistan. Gần đây, theo nhà sử học Herodotos, ông tiến đánh người Massagetae vào năm 530 TCN. Người Massagetae là một tộc người Scythia, do Nữ vương Tomyris trị vì. Đại quân Ba Tư vượt sông Jaxartes; và, trong một trận chiến giữa Nữ vương Tomyris và Hoàng đế Cyrus Đại Đế, ông tử trận. Nhưng nhà sử học Berossus lại ghi nhận khác, theo đó ông gây chiến với các cung thủ Dahae ở phía Tây Bắc thượng nguồn sông Syr Darya, và tử trận. Sử cũ của nhà sử học Ctesias lại cho hay, Hoàng đế Cyrus Đại Đế thảo phạt người Derbices ở Đông Bắc thượng nguồn sông Syr Darya, và bị trúng lao nên tử thương. Song, sau đó, viện binh kéo đến, người Derbices đại bại và vùng đất của họ bị sáp nhập vào Đế quốc Ba Tư.
Sông Jaxartes là đường đánh dấu ranh giới xa nhất về phía bắc trong cuộc viễn chinh của vua Alexandros Đại Đế xứ Macedonia. Các nhà sử học Hy Lạp đã cho rằng tại đây vào năm 329 TCN, vua Alexandros Đại Đế đã lập ra thành phố Alexandria Eschate (một cách văn chương là "Alexandria-nơi xa nhất") như là một pháo đài vĩnh cửu. Thành phố này hiện nay có tên gọi là Khujand. Trước sự quấy nhiễu của người Scythia, ông cũng kéo quân vượt sông để đánh trận Jaxartes với họ vào năm 329 TCN, người Scythia thất bại nặng nề. Với việc vua Alexandros Đại Đế chiếm được các thành phố kiên cường và giành chiến thắng huy hoàng trước tộc người hùng mạnh, vua người Scythia phải thần phục ông. Chiến thắng oanh liệt trước tộc người bất khả chiến bại Scythia đã đem lại phấn khởi cho Vương quốc Macedonia hùng cường.
Xem thêm
Amu Darya
Chú thích
Tham khảo
William Haig Miller, James Macaulay, William Stevens, The Leisure hour, s.n., 1879.
Tony Jaques, Dictionary of battles and sieges: a guide to 8,500 battles from antiquity through the twenty-first century, Tập 3, Greenwood Publishing Group, 2007. ISBN 0313335397.
David J. Lonsdale, Alexander the Great: lessons in strategy. Routledge, 2007. ISBN 0415358477.
Frank Holt, Into the Land of Bones: Alexander the Great in Afghanistan, University of California Press, 2006. ISBN 0520249933.
Michael Burgan, Empires of Ancient Persia, Infobase Publishing, 2009. ISBN 160413156X.
Sông Kyrgyzstan
Sông Uzbekistan
Sông của Kazakhstan
Sông Tajikistan
|
19704
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ABu
|
Mẫu
|
Mẫu trong tiếng Việt có thể mang một trong các nghĩa sau:
Mẫu (dạng thức) (pattern).
Cách gọi Hán-Việt của Mẹ.
Mẫu (thần thoại) trong Tín ngưỡng thờ Mẫu, các nữ thần được thờ tại nhiều chùa hay đền tại Việt Nam.
Mẫu (đơn vị đo) đơn vị đo diện tích cũ của Việt Nam (3.600 m² với mẫu Bắc Bộ, 4.970 m² với mẫu Trung Bộ).
Mẫu Anh đơn vị đo diện tích ở Anh và Mỹ (bằng 4.046,856422 m² tại Anh, 4.046,856422 m² với mẫu quốc tế tại Mỹ, 4.046,87261 m² với mẫu điều tra tại Mỹ).
Mẫu hình (paradigm).
Mô hình hay Mô đen (model).
Người mẫu (một nghề nghiệp).
Mẫu số (toán học).
Biểu mẫu (form) hay khuôn mẫu (template) định sẵn.
Mẫu
Quan niệm trong siêu hình học
|
19711
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bi%E1%BA%BFn%20n%E1%BA%A1p
|
Biến nạp
|
Biến nạp là hiện tượng chuyển trực tiếp DNA từ tế bào này sang tế bào khác.
Đây là thuật ngữ trong sinh học phân tử và di truyền học vi khuẩn, trong tiếng Anh là "transformation" dùng để chỉ một đoạn DNA hoặc nguyên vẹn cả phân tử DNA trần của tế bào này (gọi là tế bào cho) sang tế bào khác (gọi là tế bào nhận). Kết thúc hiện tượng này tế bào nhận sẽ có DNA mới gọi là DNA ngoại lai (exogenous DNA).
Ví dụ
Sơ đồ ở hình 1 mô tả sự chuyển một đoạn phân tử DNA (màu vàng, chú thích 4) của plasmit (màu đỏ, chú thích 3) ở tế bào cho (hình ôvan) sang tế bào nhận (hình chữ nhật) qua các giai đoạn (bước) tóm tắt như sau.
Bước I: Đoạn DNA (4) bị enzim (5) cắt rời khỏi plasmit (3) rồi "văng" ra ngoài tế bào cho.
DNA của một tế bào vi khuẩn nằm trong tế bào chất (1), nhưng cũng có thể nằm trong plasmid, một vòng DNA độc lập, tròn. Gen được chuyển (4) nằm trên plasmid của tế bào 1 (3), nhưng không nằm trên plasmid của tế bào vi khuẩn 2 (2). Để loại bỏ gen khỏi plasmid của tế bào vi khuẩn 1, một enzyme cắt giới hạn (5) được sử dụng. Enzim giới hạn liên kết với một vị trí cụ thể trên DNA và cắt đứt nó, giải phóng gen thỏa đáng. Các gen được loại bỏ tự nhiên và giải phóng ra môi trường thường sau khi một tế bào chết và tan rã.
Bước II: Tế bào vi khuẩn 2 chiếm gen. Sự tích hợp vật liệu di truyền từ môi trường này là một công cụ tiến hóa và phổ biến trong các tế bào vi khuẩn.
Bước III: Enzyme DNA ligase (6) bổ sung gen vào plasmid của tế bào vi khuẩn 2 bằng cách hình thành liên kết hóa học giữa hai phân đoạn nối chúng lại với nhau.
Bước IV: Plasmid của tế bào vi khuẩn 2 hiện chứa gen từ tế bào vi khuẩn 1 (7). Gen này đã được chuyển từ tế bào vi khuẩn này sang tế bào khác và quá trình biến đổi đã hoàn tất.
DNA này nằm tự do trong môi trường (dung dịch) do một vi khuẩn (thể cho) phóng ra. Tế bào thể cho và thể nhận có thể được bắt nguồn từ những sinh vật khác nhau như: thực vật, động vật và vi sinh vật. Trong khuôn khổ của mục này chỉ xét hiện tượng biến nạp ở vi khuẩn. Khác với tiếp hợp và tải nạp, biến nạp không cần sự tiếp xúc trực tiếp giữa 2 tế bào cũng như không cần vật trung gian như các phage.
Các tế bào ở trạng thái có thể được biến nạp được gọi là khả nạp (competent). Như vậy, qua biến nạp, một nòi vi khuẩn bị biến đổi về mặt di truyền do tiếp thu acid nucleic của một nòi khác.
Cơ chế biến nạp chủ yếu bao gồm việc vi khuẩn thể nhận tiếp nhận DNA của thể cho (gọi là đoạn ngoại lai, exogenote) và sau đó DNA này có thể trao đổi với đoạn DNA tương đồng của thể nhận (gọi là đoạn nội tại, endogenote) bằng trao đổi chéo. Những tế bào có khả năng tiếp nhận DNA gọi là các tế bào khả biến (competent). Tế bào vi khuẩn nhận đoạn ngoại lai lúc đó có bộ gene ở trạng thái lưỡng bội một phần (merodiploid) hay hợp tử từng phần (merozygote). Quá trình trao đổi thông tin di truyền bằng cách chuyển chỉ một phần vật chất di truyền như thế được gọi là sự giao nạp hay tiếp hợp từng phần (meromixis).
Tương tự như trong tiếp hợp và tải nạp, để lập bản đồ di truyền bằng biến nạp cần có các tế bào thể cho và thể nhận có các kiểu gene khác nhau. Về mặt thực nghiệm, DNA được tách ra từ các tế bào thể cho, sau đó được đưa vào quần thể các thể bào thể nhận. Các tế bào thể nhận sẽ tiếp nhận các đoạn DNA một cách ngẫu nhiên. Không phải tất cả các loài vi khuẩn đều có khả năng tiếp nhận DNA. Ngay cả những loài có khả năng này cũng chỉ có thể tiếp nhận được DNA ở những pha sinh trưởng nhất định và trong môi trường nuôi cấy cụ thể. Các loài Streptoccocus pneumoniae (tức Diplococcus) và Bacillus subtilis tương đối dễ dàng trở thành khả biến hơn, trong khi E. coli phải mất đi hai loại enzyme exonuclease và phải được nuôi cấy trong môi trường có nồng độ cao của calcium chloride để làm cho màng tế bào của nó có thể thấm được DNA. Do vậy để lập bản đồ gene ở E. coli người ta ưa dùng tiếp hợp và tải nạp hơn. Tuy nhiên, trong công nghệ DNA tái tổ hợp, biến nạp E. coli là một khâu rất quan trọng (chương 8).
Để biến nạp có thể xảy ra với hiệu quả cao ở vi khuẩn, chẳng hạn B. subtilis, DNA biến nạp phải có mạch kép và phân tử lượng tương đối cao (1.106 dalton). Khi DNA xuyên qua màng tế bào của vi khuẩn khả biến thì một trong các sợi của DNA bị phân huỷ. Sau đó sợi đơn DNA chuyển sang có thể trao đổi với nhiễm sắc thể thể nhận ở vùng tương đồng; sự kiện này có thể phát hiện được nhờ những khác biệt di truyền thích hợp giữa các tế bào thể cho và thể nhận.
Tóm lại, hiệu quả của biến nạp phụ thuộc vào ba yếu tố:
(i) Tính dung nạp hay khả biến của tế bào thể nhận;
(ii) Kích thước của đoạn DNA được biến nạp;
(iii) Nồng độ của DNA.
Cơ chế phân tử của biến nạp (trong thí nghiệm Griffith), về cơ bản, có thể giải thích như sau:
(i) DNA sợi kép tế bào vi khuẩn cho S xâm nhập qua màng tế bào vi khuẩn nhận R, với một sợi đơn bị phân huỷ bởi nuclease;
(ii) DNA thể nhận R biến tính ở vùng tương đồng để bắt cặp hay tiếp hợp (synapsis) với đoạn DNA sợi đơn còn lại của thể cho S. Để có thể tái tổ hợp bình thường ở vi khuẩn cần có protein được mã hoá bởi gene recA+.
(iii) Phân tử DNA với đoạn lai (heteroduplex) "R-S" tái bản tạo ra hai DNA sợi kép con: một sợi kép "R-R" và một sợi kép khác có mang đoạn DNA thể nhận "S-S", tất cả có hai sợi đơn giống nhau (homoduplex).
Từ thí nghiệm của Avery và cs, ta thấy rằng: Mặc dù thành phần hoá học của vỏ vi khuẩn (capsule) được xác định bằng các gene, nhưng mối quan hệ đó là gián tiếp. DNA được phiên mã thành RNA và RNA được dịch mã thành các protein. Kiểu hình của pneumococcus — thành phần của vỏ polysaccharide — được xác định bằng các enzyme (proteins) cụ thể (dùng để tổng hợp polysaccharide).
Xác định liên kết gene bằng biến nạp
Trong quá trình tách chiết DNA để tiến hành biến nạp, nhiếm sắc thể của vi khuẩn thường bị đứt ra thành khoảng 250 đoạn, tức các phân tử riêng biệt. Các gene nằm ở những vị trí khác nhau trên nhiễm sắc thể vi khuẩn khi đó sẽ bị tách rời nhau và được truyền đi trong quá trình biến nạp một cách độc lập. Vì số gene ở vi khuẩn rất lớn mà số đoạn DNA lại hạn chế nên không loại trừ các trường hợp hai gene khác nhau cùng nằm trên một đoạn DNA, và vì vậy, cùng được chuyển đi. Trên thực tế những trường hợp như thế đã quan sát thấy ở hàng loạt vi khuẩn và gọi là biến nạp liên kết. Có thể phát hiện được biến nạp liên kết bằng cách xác định tần số biến nạp kép (biến nạp đồng thời hai gene, hay đồng biến nạp, cotransformed) và so sánh nó với trị số kỳ vọng khi hai gene được truyền đi một cách độc lập. Trong thí nghiệm người ta xác định sự liên kết gene bằng cách phát hiện hiệu quả pha loãng DNA. Trong một giới hạn nào đó của nồng độ DNA thì tần số biến nạp tỉ lệ tuyến tính với nồng độ DNA. Nếu hai gene nằm trên cùng một đoạn DNA thì sự biến đổi tần số biến nạp kép (liên kết) sẽ giống như biến nạp đơn. Còn nếu như biến nạp kép là do hai đoạn DNA khác nhau cùng chui vào tế bào (không liên kết) thì đường cong biến đổi của tần số biến nạp kép sẽ có độ dốc rõ rệt hơn so với biến nạp đơn.
Biến nạp chỉ được dùng để lập bản đồ gene cho một số loài. DNA thể cho được tách ra và làm đứt gãy thành những đoạn nhỏ. Đối với những tế bào khả biến, tần số biến nạp khoảng 1/ 103 tế bào. Nếu hai gene a và b xa nhau trên nhiễm sắc thể thì nó thường nằm ở 2 đoạn bị đứt ra khác nhau. Khi đó tần số biến nạp cả hai gene này vào thể cho sẽ khoảng 1/103 x 1/103 = 1/106. Nếu hai gene này gần nhau thì tần số đồng biến nạp của chúng xấp xỉ bằng biến nạp đơn: 1/103. Nghiên cứu khả năng đi kèm nhau của các gene biến nạp có thể xác định được trật tự của chúng.
Biến nạp là quá trình chuyển vỏ polisaccrit từ vi khuẩn S đã chết sang vi khuẩn R làm xuất hiện vi khuẩn S độc
Tham khảo
Di truyền học
|
19725
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BA%AFt%28III%29%20oxide
|
Sắt(III) oxide
|
Sắt(III) oxide (công thức Fe2O3) là một oxide của sắt. Nó có khối lượng mol 159,6922 g/mol, hệ số giãn nở nhiệt 12,5×10−6/℃, nhiệt độ nóng chảy 1565 ℃.
Về mặt hóa học, sắt oxide cũng thuộc nhóm oxide lưỡng tính như nhôm oxide. Fe2O3 không phải là một oxide dễ chảy, nó là một oxide khó chảy. Fe2O3 là dạng phổ biến nhất của sắt oxide tự nhiên. Ngoài ra có thể lấy chất này từ đất sét màu đỏ.
Trong vật liệu gốm
Các hợp chất sắt là các chất tạo màu phổ biến nhất trong ngành gốm. Sắt có thể biểu hiện khác biệt tùy thuộc môi trường lò, nhiệt độ nung, thời gian nung và tùy theo thành phần hoá học của men. Do đó có thể nói nó là một trong những nguyên liệu lý thú nhất.
Trong môi trường nung khử, Fe2O3 dễ dàng bị khử (do cacbon hay các hợp chất lưu huỳnh trong nguyên liệu, trong môi trường lò) thành FeO và trở thành chất chảy. Nếu muốn giữ được sắt(III) oxide, từ 700–900 ℃, môi trường nung phải là oxy hóa. Trong môi trường nung oxy hóa, nó vẫn là Fe2O3 và cho màu men từ hổ phách (amber) đến vàng nếu hàm lượng tối đa trong men là 4% (rõ rệt hơn nếu men có chì oxide và calci oxide), cho men màu da rám nắng (tan) nếu hàm lượng khoảng 6% và cho màu nâu nếu hàm lượng Fe2O3 cao hơn.
Màu đỏ của sắt(III) oxide có thể biến đổi trên một khoảng rộng trong khoảng nhiệt độ nung thấp dưới 1050 ℃. Nếu nung thấp thì có màu cam sáng. Nhiệt độ tăng màu sẽ chuyển sang đỏ sáng rồi đỏ sậm và cuối cùng là nâu. Chuyển biến từ đỏ sang nâu xảy ra đột ngột trên một khoảng nhiệt độ hẹp, cần lưu ý.
Hầu hết các loại men sẽ có độ hoà tan sắt(III) oxide khi nung chảy cao hơn khi ở trạng thái rắn do đó sẽ có sắt oxide kết tinh trong men khi làm nguội, môi trường oxy hóa hay khử. Men có hàm lượng chất chảy cao, điểm nóng chảy thấp sẽ hoà tan được nhiều sắt hơn.
Kẽm làm xấu màu của sắt. Titan và rutil với sắt có thể tạo hiệu quả đốm hay vệt màu rất đẹp. Trong men khử (reduction glaze) có Fe2O3, men sẽ có màu từ ngọc lam đến xanh táo (khi men có hàm lượng soda cao, có bo oxide). Trong men calcia, Fe2O3 có khuynh hướng cho màu vàng. Trong men kiềm cho màu từ vàng rơm (straw yellow) đến vàng nâu (yellow brown). Men chì nung thấp, men kali và natri có màu đỏ khi thêm Fe2O3 (không có sự hiện diện của bari).
Fe3O4 (oxide sắt từ) là hỗn hợp của Fe2O3 và FeO, kết quả của phản ứng chuyển đổi không hoàn toàn hay có thể là dạng khoáng vật kết tinh tự nhiên, cho màu nâu. Dạng sau dùng để tạo đốm nâu li ti (specking) trong men.
Ngoài chức năng tạo màu, thêm Fe2O3 vào men giúp giảm rạn men (nếu hàm lượng sử dụng dưới 2%).
Tham khảo
Hợp chất sắt
Oxide
Oxide base
Vật liệu gốm
|
19741
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BA%AFt%20oxide
|
Sắt oxide
|
Sắt oxide là các oxide của sắt. Một số được dùng trong vật liệu gốm, như làm men gốm. Chúng, cùng với oxide các kim loại khác, tạo ra màu sắc cho men sau khi nung ở nhiệt độ thích hợp.
Sắt(II) oxide (FeO). Thường thấy ở dạng bột màu đen, có thể gây nổ vì dễ bốc cháy.
Sắt(III) oxide (Fe2O3) được biết ở dạng tự nhiên là hematit. Chất này có thể được làm tinh khiết để phủ lên băng từ để lưu trữ dữ liệu cho máy nghe nhìn (video) hay máy tính.
Sắt(II,III) oxide hay oxide sắt từ (Fe3O4), có thể được quan sát cả ở trên một số đất đá của Sao Hỏa.
Hợp chất sắt
Oxide
|
19752
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%E1%BA%AFt%28II%29%20oxide
|
Sắt(II) oxide
|
Sắt(II) oxide (công thức FeO) là một oxide của sắt. Nó có khối lượng mol 71,8464 g/mol, nhiệt độ nóng chảy 1377 ℃.
Tính chất
Chất này có thể lấy từ nguồn sắt oxide màu đen. Nó cũng có thể được tạo ra bằng phản ứng hóa học trong môi trường khử; Fe2O3 dễ dàng bị khử thành FeO theo phản ứng sau ở 900 ℃:
Fe2O3 + CO t °C> 2FeO + CO2
Phản ứng trên xảy ra dễ dàng nếu đất sét đỏ chứa Fe2O3 cũng có chứa thêm nhiều các tạp chất hữu cơ.
Ứng dụng
FeO được xúc tác với Fe2O3 tạo ra Fe3O4:
Fe2O3 + FeO → Fe3O4
Trong công nghiệp, FeO là hợp chất quan trọng để tác dụng với chất khử mạnh sản xuất ra sắt:
FeO + H2 t °C> Fe + H2O
FeO + CO t °C> Fe + CO2
2Al + 3FeO t °C> Al2O3 + Fe
FeO + C t °C> Fe + CO
FeO được dùng làm chất khử khi tác dụng với các chất có tính oxy hóa mạnh:
4FeO + O2 → 2Fe2O3
3FeO + 10HNO3 loãng → 3Fe(NO3)3 + NO↑ + 5H2O
Điều chế
FeO được điều chế theo 2 cách:
Trong phòng thí nghiệm:
FeCO3 → FeO + CO2 ↑ (nung trong điều kiện không có không khí)
Trong công nghiệp:
Fe(OH)2 → FeO + H2O (nung trong điều kiện không có không khí)
Trong vật liệu gốm
FeO trong vật liệu gốm có thể được hình thành bởi phản ứng khử sắt(III) oxide trong lò nung. Khi sắt ba đã bị khử thành sắt hai trong men thì rất khó oxy hóa trở lại. FeO là một oxide nóng chảy mạnh, có thể thay thế cho chì oxide hay calci oxide.
Hầu hết các loại men sẽ có độ hòa tan sắt hai khi nung chảy cao hơn khi ở trạng thái rắn do đó sẽ có sắt oxide kết tinh trong men khi làm nguội, môi trường oxy hóa hay khử.
Tham khảo
Liên kết ngoài
http://www.hochoaonline.net/chuong-7-sat-va-mot-so-kim-loai-quan-trong/435-li-thuyet-ve-sat-va-hop-chat-cua-sat.html
Hợp chất sắt
Oxide
Oxide base
Vật liệu gốm
|
19763
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng%20oxide
|
Đồng oxide
|
Đồng oxide là các oxide của đồng. Có các loại:
Đồng(I) oxide (Cu2O) thường ở dạng bột màu đỏ.
Đồng(II) oxide (CuO) thường ở dạng bột màu đen.
Đồng(III) oxide (Cu2O3), hiếm gặp hơn.
Cu2O có một số ứng dụng trong khoa học, như để chế tạo vật liệu siêu dẫn. CuO là sản phẩm chính thu được khi đun đồng trong không khí. Khoáng chất cuprit, ở dạng tinh thể màu đỏ, chứa chủ yếu Cu2O. Các oxide đồng còn được dùng trong vật liệu gốm, chủ yếu để tạo màu.
Hợp chất đồng
Oxide
|
19779
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tu%E1%BB%93ng%20Qu%E1%BA%A3ng%20Nam
|
Tuồng Quảng Nam
|
Tuồng còn gọi là hát bội hay hát bộ là một loại hình sân khấu dân gian của văn học Việt Nam. Cùng với chèo, tuồng là một trong hai bộ phận chủ yếu của văn kịch. Bàn đến nghệ thuật tuồng, người ta thường nghĩ đến hai vùng đất có nhiều thành tựu nổi bật là Bình Định và Quảng Nam, bài này chỉ đề cập về tuồng Quảng Nam với nguồn gốc lịch sử và nghệ thuật tuồng riêng của đất Quảng.
Nguồn gốc tuồng Quảng Nam
Theo truyền thuyết lưu hành trong dân gian thì Tuồng Quảng Nam ra đời từ cái nôi của hai vùng Đức Giáo và Khánh Thọ (khoảng đầu thế kỷ 19).
Các lão nghệ nhân ngày trước kể rằng: Ở vùng thượng lưu của sông Thu Bồn có một gánh tuồng hát rất hay tên là Mỹ Lưu. Vào mùa đông bão lụt dữ dội nọ, cơn lũ lớn ập vào làng và cuốn trôi mất chiếc trống con (trống chiến)- nhạc cụ chỉ huy của dàn nhạc tuồng xuôi về sông Cái, ra biển Cửa Đại.
Khi gánh hát Mỹ Lưu dần tan rã thì vùng đất xuôi theo sông Thu Bồn lại nảy nở nghệ thuật tuồng như Đại Bình, Bàu Toa, Bảo An, Phong Thử, Hội An...
Cùng với câu chuyện có tính chất huyền thoại trên thì hai cứ liệu về Tuồng xứ Quảng về gánh hát làng Đức Giáo và Khánh Thọ di cư từ Bình Trị Thiên vào xứ Quảng là tương đối thuyết phục.
Làng Đức Giáo từ Huế vào Quảng "vô địa lập chùy, dĩ xướng ca vi nghệ" (không mảnh đất cắm dùi, lấy xướng ca làm nghề sinh sống), lập thành làng riêng lấy tên là Khánh Đức nhưng "hữu đinh vô điền" (có dân mà không có ruộng đất), lưu diễn nhiều nơi. Vào khoảng thập niên 1920, khi gánh hát của Nhưng Giai và Nhưng Bính nổi lên thì gánh hát Khánh Đức bắt đầu suy yếu. Gánh hát này thực sự tan rã vào năm 1972 sau một trận bom của Mỹ thiêu hủy toàn bộ y trang, đạo cụ của đoàn.
Trong Văn tế tổ của Tuồng Quảng Nam có câu:
...Tự Minh Mạng hữu Việt Thường công thự, thiết lập hoàn thành
Chí Tự Đức vương triều dĩ Quảng Nam trung thanh duy cầu sở học
(Từ vua Minh Mạng xây dựng hoàn thành thự Việt Thường. Đến vua Tự Đức bảo (diễn tuồng) nên học theo giọng trung thanh của Quảng Nam)
Tiếng Huế nhẹ, tiếng Bình Định trong và sắc sảo, tiếng Quảng Nam thô nhưng rất hợp với tuồng. (Tuồng chủ yếu xuất hiện ở ba vùng đất này.)
Gánh hát Khánh Đức hình thành từ Trò Bội xứ Quảng, có thể đã bắt từ thế giữa thế kỷ 17, sau chiến thắng lớn của chúa Nguyễn năm 1648 và gắn liền với hình thức sinh hoạt vùng kinh tế nông nghiệp mới khai hoang. Từ "tuồng sân" gắn bó mật thiết với cộng đồng, tuồng phát triển thành "tuồng rạp" và dần dần trở thành một nghệ thuật hát xướng mua vui trong cung đình.
Vở tuồng cổ đầu tiên
Sơn Hậu được xem là vở tuồng cổ đầu tiên của Quảng Nam, tương truyền do Đào Duy Từ sáng tác vào giữa thế kỷ 17 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Sau này, hai ông Nhưng Đá và Nhưng Nguyên diễn vai Khương Linh Tá và Đổng Kim Lân được vua Thành Thái khen thưởng bằng nhiều lời lẽ hết sức nồng hậu.
Các gánh, đoàn tuồng xứ Quảng
Các gánh hát đầu tiên:
Gánh hát Đức Giáo
Gánh hát Khánh Thọ
Các gánh hát bán chuyên nghiệp:
Gánh hát Nhưng Giai, Nhưng Bính
Gánh hát Bàu Toa
Gánh hát Chánh Lơn
Các gánh hát chuyên nghiệp:
Gánh Quảng Hiệp Ban
Gánh hát Tân Thành Ban
Gánh hát Ý Hiệp Miền Trung
Đoàn tuồng Quảng Nam-Đà Nẵng
Nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh
Một số gánh hát nhỏ:
Gánh ông Bầu Thành, Gánh Nam Ô, Gánh Hiệp Thành Ban, Gánh Nam Hiệp, Gánh Tân Tiến, Gánh Trần Luyến...
Các nghệ sĩ và nhà soạn tuồng nổi tiếng ở Quảng Nam
Nguyễn Hiển Dĩnh
Nguyễn Nho Túy
Nguyễn Lai
Ngô Thị Liễu
Nguyễn Phẩm
Tống Phước Phổ
Hoàng Châu Ký
Một số giai thoại tuồng Quảng Nam
Tuồng trong đời sống người dân xứ Quảng
Hành trình trò bội-hát tuồng-nghệ thuật tuồng là một quá trình trải dài mấy trăm năm. Từ trò diễn xướng dân gian đến nghệ thuật cung đình, từ chiếu tuồng đến nghệ thuật sân khấu tuồng là một quá trình vừa khai sáng, vừa tích lũy, vừa chọn lọc vừa bổ sung đối với các nghệ sĩ và nhân dân đất Quảng. Nghệ thuật tuồng là một hình thức sinh hoạt gần gũi, phổ biến và được nhân dân địa phương hết sức ưa chuộng.
Ngày nay, ngoài nhà hát tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh (Đà Nẵng), thỉnh thoảng, tuồng còn được biểu diễn ở một vài địa phương trong tỉnh như Hội An, Tiên Phước, Duy Xuyên...
Tham khảo
Văn học dân gian Quảng Nam- Đà Nẵng
Xem thêm
Tuồng Huế
Nhạc Tuồng Quảng Nam
Chú thích
Tham khảo
Quảng Nam
Tuồng
|
19800
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BA%BFc%20oxide
|
Thiếc oxide
|
Thiếc oxide là các oxide của thiếc. Có các loại thường gặp sau:
Thiếc(II) oxide
Thiếc(IV) oxide, hay thiếc dioxide.
Hợp chất thiếc
Oxide
|
19812
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%E1%BA%BFc%28IV%29%20oxide
|
Thiếc(IV) oxide
|
Thiếc(IV) Oxide hay Thiếc dioxide, còn gọi là Oxide thiếc (công thức hóa học SnO2) là một Oxide của thiếc. Nó có phân tử gam 150,71 g/mol, hệ số giãn nở nhiệt 0,02 (đơn vị ?).
Nó là dạng Oxide cao nhất của thiếc kim loại. Oxide thiếc rất trắng, tỷ trọng cao. Thiếc kim loại nóng chảy ở nhiệt độ rất thấp nhưng Oxide thiếc chỉ nóng chảy ở 1.630°C. Chất này có thể lấy từ nguồn bột Oxide thiếc.
Trong thủy tinh/gốm
SnO2 chủ yếu được sử dụng làm chất mờ đục (hàm lượng sử dụng từ 5-15%) cho mọi loại men. Oxide thiếc là một chất mờ đục hữu hiệu để chuyển men trong thành trắng đục, màu trắng mềm sắc xanh nếu so sánh với các màu trắng tinh thô của zircon ZrSiO4. Lượng sử dụng tùy thuộc thành phần men và nhiệt độ nung. Tính năng làm mờ đục của Oxide thiếc có được là do các hạt Oxide thiếc nhỏ phân tán & nằm lơ lửng trong men nung. Ở nhiệt độ cao hơn, các hạt Oxide thiếc bắt đầu bị chảy, hòa tan và sẽ mất khả năng làm mờ đục.
Cũng như zirconi dioxide ZrO2, lượng Oxide thiếc cao trong men nung thấp sẽ làm cho men khó chảy, làm cứng men chảy và tăng khả năng bị lỗ châm kim và gai ốc. Sử dụng Oxide thiếc sẽ có màu trắng mềm hơn sử dụng chất mờ đục với ziricon (rất thông dụng và rẻ hơn Oxide thiếc nhiều).
Một điều phải hết sức lưu ý là Oxide thiếc dễ dàng phản ứng với Chromi (chỉ cần lượng rất nhỏ) tạo ra màu hồng. Nếu trong lò chỉ có một ít hơi Chromi từ các loại men khác, màu trắng của Oxide thiếc sẽ không còn.
Các chất mờ đục khác có zirconi dioxide (cho màu trắng thủy tinh thô hơn), calci phosphat (bị vấn đề ngả màu sang xám), Oxide xeri (chỉ dùng ở nhiệt độ thấp), Oxide antimon (có vấn đề nếu men có chì – men ngả vàng) và titan dioxide (mất màu nếu có sắt Oxide).
Ứng dụng khác
Với độ rộng vùng cấm xấp xỉ 3,6(eV), thiếc dioxide cũng được xem xét cho vai trò chất xúc tác quang.
Tham khảo
Hợp chất thiếc
Oxide
Oxide base
Vật liệu gốm
Vật liệu bán dẫn
|
19850
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%E1%BA%ABu%20Anh
|
Mẫu Anh
|
Bài này nói về đơn vị đo diện tích mẫu của Anh. Xem các nghĩa khác của mẫu tại mẫu.
Một mẫu Anh tức acre hay đôi khi gọi tắt là mẫu (một số người gọi là mẫu vuông) là một đơn vị đo diện tích trong hệ đo lường Anh và hệ đo lường Mỹ. Acre thường được dùng để đo diện tích đất đai tại các nước Anh, Mỹ, Canada.
Hệ đo lường Anh
Theo The Units of Measurement Regulations 1995, đơn vị đo này được định nghĩa là 4.046,8564224 m² = 0.40468564224 hectar
Hệ đo lường Mỹ
Theo NIST Handbook 44 , đơn vị này bằng 43.560 foot vuông.
Tuy nhiên có hai định nghĩa của foot.
Theo foot quốc tế (0.3048 m), mẫu quốc tế bằng 4.046,8564224 m².
Theo foot điều tra (1200/3937 m), mẫu điều tra bằng 4.046,872614 m².
Xem thêm
Hệ đo lường Anh
Hệ đo lường Mỹ
Tham khảo
Liên kết ngoài
The Units of Measurement Regulations 1995
NIST Handbook 44
Đơn vị đo diện tích
Hệ đo lường Anh
Khảo sát
Hệ đo lường Mỹ
Bất động sản
|
19912
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAng%20c%C3%B4%20h%E1%BB%93n
|
Cúng cô hồn
|
Cúng cô hồn, cúng vong linh là một hoạt động tâm linh tương đối phổ biến tại Trung Quốc, Việt Nam với việc thực hiện các nghi thức cúng tế cho các cô hồn, thường là vào tháng Bảy âm lịch, trong dịp lễ Tết Trung Nguyên (Vu-lan).
Quan niệm
Tín ngưỡng cổ truyền tin rằng con người có hai phần: hồn và xác. Khi chết, hồn lìa khỏi xác, xác bị phân hủy còn hồn sẽ tiếp tục tồn tại. Hồn có thể về trời, hoặc đầu thai kiếp khác (làm người hoặc vật), hoặc bị đày xuống địa ngục tùy theo những điều lành hay dữ mà người đó làm khi còn sống. Tuy nhiên, dân gian cũng tin rằng, nếu một người bị chết oan hoặc do tác động của những nghiệp xấu, các cô hồn không (hoặc chưa) được cõi nào tiếp nhận, phải lang thang và chịu đói rét, hoặc quấy rối người sống.
Vì tin có linh hồn nên đa số người Việt Nam giữ tục lệ thờ cúng tổ tiên và người thân đã qua đời, kể cả khi việc thờ cúng này không phù hợp với giáo lý của tôn giáo mà họ theo. Cúng cô hồn có thể là một hành vi mang tính nhân đạo, để "cứu giúp" những linh hồn khốn khổ. Nhưng đồng thời, cúng cô hồn cũng có thể là một hình thức "hối lộ" để khỏi bị các oan hồn quấy phá, hoặc để được họ "hỗ trợ".
Có những gia đình làm kinh doanh, họ cúng cô hồn nhiều lần trong năm, thường vào các ngày 2 và 16 âm lịch mỗi tháng. Trong các dịp cúng giỗ, ngoài cúng vái tổ tiên, người ta còn làm một mâm cỗ để cúng cô hồn. Dịp cúng cô hồn lớn nhất là ngày rằm tháng bảy, trùng với lễ Vu Lan của Phật giáo. Một số người tin rằng việc cúng cô hồn bắt nguồn từ ngày lễ Vu Lan này.
Phẩm vật lễ cúng
Để cúng, người ta hay thắp hương, đèn (hoặc nến). Thường thì người ta khấn vái thầm thì với nội dung mời "bà con cô bác" (ý nói các cô hồn) thụ hưởng các món cúng. Đôi khi người ta đọc một bài văn tế cô hồn (thường là dạng văn vần), trong đó có thể miêu tả các cái chết thảm khốc. Bài văn tế nổi tiếng nhất có lẽ là bài Văn tế thập loại chúng sinh của đại thi hào Nguyễn Du. Nhiều bài tế cô hồn phóng tác dựa theo tác phẩm này với nội dung phù hợp với hoàn cảnh của địa phương nơi cúng. Hoặc là Nghi thức Tiểu Mông Sơn (Mông Sơn Thí Thực), Trai đàn Chẩn tế (nếu tổ chức quy mô lớn).
Các món đem cúng thường luôn có hương, hoa, đèn; gạo, muối, nước lã là những đồ cúng thô hầu như luôn có, kèm theo là các món ăn, tráng miệng v.v. Trong chùa hoặc tại các gia đình có truyền thống Phật giáo, người ta cúng bằng các món ăn chay. Một món đặc biệt hay gặp trong mâm cỗ cúng cô hồn là món cháo loãng (12 chén), người ta tin rằng có tổng cộng 12 loại cô hồn (theo Phật giáo) vì tạo nghiệp ác nên bị đày đọa phải mang một thực quản nhỏ hẹp không thể nuốt được thức ăn thông thường.
Buổi cúng thường kết thúc với việc vãi gạo, muối ra sân, ra đường và đốt vàng mã. Ở vài nơi, người ta cho phép trẻ con cướp (cỗ) cô hồn khi việc cúng được tiến hành xong.
Tham khảo
Tín ngưỡng Trung Hoa
Tín ngưỡng dân gian Đài Loan
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam
Ngày lễ Trung Quốc
Động vật thần thoại Nhật Bản
|
19929
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFt%20su%E1%BA%A5t
|
Chiết suất
|
Bài này nói về một tính chất vật lý của vật liệu. Các nghĩa khác xem bài Chiết suất (định hướng).
Chiết suất của một vật liệu là tỷ số giữa tốc độ ánh sáng trong chân không và tốc độ pha của bức xạ điện từ trong vật liệu. Nó thường được ký hiệu là n.
Tốc độ pha của một đoàn sóng là tốc độ di chuyển của đỉnh sóng; cũng là tốc độ di chuyển của pha của đoàn sóng. Tốc độ này đối nghịch với tốc độ nhóm là tốc độ di chuyển của biên độ đoàn sóng. Tốc độ nhóm thể hiện tốc độ di chuyển của thông tin (hay năng lượng) mang theo bởi đoàn sóng vật lý. Tốc độ nhóm luôn nhỏ hơn tốc độ ánh sáng trong chân không, như các thí nghiệm đã cho thấy; còn tốc độ pha có thể lớn hơn tốc độ ánh sáng trong chân không.
Trong định luật Snell
Theo định luật Snell, chiết suất có thể được tính bằng tỉ số giữa sin của góc tới và sin của góc khúc xạ, biểu hiện mức độ gãy khúc của tia sáng (hay bức xạ điện từ nói chung) khi chuyển từ một môi trường vật chất này sang một môi trường vật chất khác .
Công thức trên có thể được suy ra từ phát biểu Fermat của Pierre de Fermat: ánh sáng luôn đi theo đường đi tốn ít thời gian nhất trong các môi trường.
Liên hệ với tính chất điện từ
Chiết suất của vật liệu được liên hệ với các tính chất điện từ của vật liệu qua:
với εr là hằng số điện môi (hay độ điện thẩm tương đối) của vật liệu, và μr là hằng số từ môi (hay độ từ thẩm tương đối) của vật liệu.
Đối với các vật liệu không có từ tính, μr rất gần 1, nên n xấp xỉ bằng .
Tốc độ ánh sáng
Theo định nghĩa, chiết suất của môi trường là:
với v là tốc độ pha của bức xạ điện từ trong môi trường tại một tần số nhất định (đơn sắc).
Thông thường, bức xạ điện từ đi trong môi trường chậm hơn trong chân không và n>1. Tuy vậy, tại một số điều kiện nhất định, (như gấn hấp thụ cộng hưởng hay đối với tia X), n có thể nhỏ hơn 1. Điều này không mâu thuẫn với thuyết tương đối, một lý thuyết khẳng định rằng thông tin không đi nhanh hơn c, vì tốc độ pha không thể hiện tốc độ truyền thông tin.
Đôi khi có thể định nghĩa, chiết suất nhóm dựa vào tốc độ nhóm (tốc độ lan truyền thông tin):
,
với vg là tốc độ nhóm.
Tốc độ pha của bức xạ điện từ bị chậm lại trong vật chất thông thường vì tương tác giữa bức xạ điện từ và các điện tích (chủ yếu là điện tử) trong nguyên tử hay phân tử của vật chất. Điện trường dao động của sóng điện từ gây nên sự dao động tương ứng của các điện tích. Các dao động của các điện tích bị chậm pha hơn so với dao động của điện trường, do quán tính của các điện tích. Sự dao động của các điện tích lại gây ra bức xạ điện từ, ở cùng pha với dao động này, và trễ pha so với dao động điện trường ban đầu.
Tổng hợp các bức xạ của các điện tích tạo nên một sóng điện từ lan truyền cùng tần số nhưng với bước sóng ngắn hơn bức xạ ban đầu, do đó tốc độ pha chậm hơn. Hướng lan truyền của các bức xạ do dao động điện tích tập trung theo hướng lan truyền ban đầu. Tuy vậy, các điện tích dao động cũng gây ra bức xạ theo các hướng khác, nguyên chính gây nên hiện tượng tán xạ.
Các nghiên cứu mới cho thấy chiết suất âm có thể tồn tại. Hiện tượng này hiếm gặp, mới thấy ở các vật liệu meta, cho thấy khả năng chế tạo các thấu kính hoàn hảo hoặc các hiện tượng hiếm như nghịch đảo định luật Snell.
Tán sắc
Chiết suất được định nghĩa với tốc độ pha bức xạ điện từ trong vật liệu tại một tần số nhất định. Chiết suất của cùng một vật liệu có thể thay đổi tùy theo tần số bức xạ điện từ. Hiện tượng này được biết đến, trong quang học, là tán sắc. Đây là nguyên nhân khiến lăng kính tách ánh sáng trắng thành phổ màu sắc, các giọt nước tạo nên cầu vồng. Nó cũng gây ra hiện tượng sắc sai trong thấu kính.
Thông thường, trong vùng phổ bức xạ điện từ mà ở đó vật liệu tương đối trong suốt, chiết suất tăng nhẹ theo tần số bức xạ. Gần nơi vật liệu hấp thụ mạnh, liên hệ giữa chiết suất với tần số khá phức tạp, theo liên hệ Kramers-Kronig, và có thể giảm theo tần số.
Phương trình Sellmeier là một công thức suy ra từ thực nghiệm, mô tả tương đối tốt sự tán sắc của vật liệu. Các hệ số Sellmeier thường được cho kèm theo chiết suất khi mô tả vật liệu quang học.
Hấp thụ
Các vật liệu trong thực tế có thể hấp thụ năng lượng của bức xạ điện từ và chuyển hóa thành dạng năng lượng khác (như nhiệt năng). Hai nguyên nhân chính cho sự chuyển hóa năng lượng là hấp thụ lưỡng cực điện (nguyên nhân làm thức ăn nóng trong lò vi sóng) độ dẫn điện một chiều khác không của vật liệu thực tế (không có vật liệu nào là chất cách điện hoàn hảo). Để thể hiện sự hấp thụ của lan truyền bức xạ trong vật liệu, chiết suất có thể được viết dưới dạng số phức:
Với, n theo định nghĩa bên trên, và κ là hệ số thất thoát, thể hiện phần năng lượng bức xạ bị chuyển hóa thành dạng khác, hoặc theo bị tán xạ chệch hướng, i là căn bậc hai của -1. Cả n và κ đều phụ thuộc tần số (tán sắc).
Phần thực và phần ảo của chiết suất phức liên hệ với nhau qua liên hệ Kramers-Kronig. Có thể tính được chiết suất phức, theo liên hệ vơi tần số, qua phổ hấp thụ của vật liệu.
Các vật liệu ít hấp thụ (có độ trong suốt cao) như thủy tinh thường là chất cách điện tốt đồng thời có mức độ hấp thụ lưỡng cực điện thấp ở tần số thấp. Tuy nhiên khi tần số tăng, như tới tần số của ánh sáng, hập thụ lưỡng cực điện tăng khiến vật liệu này giảm độ trong suốt.
Môi trường không đẳng hướng
Chiết suất trong một số môi trường có thể phụ thuộc vào hướng phân cực và phương chiếu của ánh sáng hay bức xạ điện từ nói chung. Môn quang học tinh thể nghiên cứu các hiện tượng này. Để mô tả sự phụ thuộc theo hướng một cách tổng quát, khái niệm chiết suất được thay bằng hằng số lưỡng cực điện, một tensơ hạng 2 (ma trận có kích thước 3 nhân 3), có giá trị trùng với chiết suất theo các phương chính trong tinh thể.
Trong các vật liệu quang từ hay vật liệu quang hoạt, các phương chính trong tinh thể được biểu diễn bằng số phức (tương ứng với phân cực elíp), và hằng số lưỡng cực điện là Hermitian phức nếu bỏ qua hấp thụ. Các vật liệu này không tuân theo đối xứng nghịch đảo thời gian và có thể dùng để xây dựng chất cách điện Faraday.
Môi trường không đồng nhất
Trong một số môi trường không đồng nhất, chiết suất thay đổi chậm từ điểm này đến điểm khác. Môn học nghiên cứu các môi trường này là quang học chiết suất biến đổi. Ánh sáng hay bức xạ điện từ di chuyển trong môi trường như vậy sẽ đi theo đường cong, hoặc bị hội tụ hay phân kỳ. Ví dụ như không khí bị hun nóng tại gần mặt đất ở sa mạc có thể tạo ảo ảnh quang học nhờ bẻ cong tia sáng đến từ mây trời. Hiệu ứng này có thể được dùng để làm thấu kính, một số sợi quang học hoặc các thiết bị quang học khác.
Môi trường phi tuyến
Một số vật liệu khi được đặt trong các môi trường đặc biệt (như trong điện trường mạnh) hoặc được chiếu bởi ánh sáng hay bức xạ điện từ cường độ cao (như từ nguồn laser hay maser) có thể bị thay đổi chiết suất tùy thuộc vào tác động của môi trường hay cường độ sáng. Môn học nghiên cứu các hiện tượng này là quang học phi tuyến. Nếu chiết suất biến đổi theo hàm bậc hai với biên độ ánh sáng (tuyến tính với cường độ ánh sáng), hiện tượng này được gọi là hiệu ứng Kerr và gây ra các hiện tượng như chùm sáng tự hội tụ hay tự biến pha. Nếu chiết suất biến đổi tuyến tính với biên độ ánh sáng (chỉ xảy ra với vật liệu không có đối xứng nghịch), hiện tượng được biết đến với tên gọi hiệu ứng Pockels.
Ứng dụng
Chiết suất của vật liệu là một trong những tính chất quan trọng nhất khi thiết kế các hệ thống quang học sử dụng hiện tượng khúc xạ. Nó được dùng để tính tiêu cự cho thấu kính hay độ phân giải của lăng kính.
Đo đạc chiết suất có thể giúp suy ra nồng độ các dung dịch, như nồng độ đường (xem Brix), hay độ tinh khiết của hỗn hợp trong hóa học. Số lượng hồng cầu trong máu cũng có thể được ước lượng khi quan sát ánh sáng đỏ xuyên qua mạch máu và đo chiết suất phức của máu.
Xem thêm
Khúc xạ
Phương trình Sellmeier
Tham khảo
Quang học
Khái niệm vật lý
Đại lượng vật lý
|
19954
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Quang%20Quy%E1%BB%81n
|
Nguyễn Quang Quyền
|
Nguyễn Quang Quyền (23 tháng 9, 1934 tại Hải Phòng - 15 tháng 11, 1997 tại Thành phố Hồ Chí Minh) là giáo sư-bác sĩ, chuyên gia hàng đầu Việt Nam trong các lĩnh vực giải phẫu học, nhân chủng học và nhân trắc học. Ông là người thầy khả kính của nhiều thế hệ sinh viên y khoa Việt Nam. Cuộc đời giảng dạy và nghiên cứu khoa học của ông gắn liền với Trường Đại học Y khoa Hà Nội, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và Hội Hình thái học Việt Nam. Ông từng đảm nhiệm các cương vị là Chủ tịch Hội Hình thái học Việt Nam, Phó hiệu trưởng Trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và kiêm Trưởng bộ môn giải phẫu của trường. Ông có hai người anh em ruột cũng đều là những nhà khoa học tên tuổi từng được trao tặng danh hiệu "Vinh danh nước Việt", hiện đang định cư tại Pháp là nhà vật lý thiên văn Nguyễn Quang Riệu và nhà hóa học Nguyễn Quý Đạo.
Thân thế và sự nghiệp
Xuất thân
Nguyễn Quang Quyền cùng hai người anh em ruột của ông đều sinh ra và sống những năm thơ ấu tại Hải Phòng nhưng nguyên quán của dòng họ Nguyễn lại ở làng Lai Xá, huyện Hoài Đức, tỉnh Sơn Tây cũ. Ông Nguyễn Văn Đính di cư đến lập nghiệp ở Hải Phòng trong những năm 1930. Tại đây ông mở hiệu ảnh Phúc Lai nổi tiếng và kết hôn với một người phụ nữ địa phương là bà Nguyễn Thị Thoa rồi sinh ra ba người con trai sau này đều trở thành những nhà khoa học tên tuổi. Trong đó người con cả là nhà vật lý thiên văn Nguyễn Quang Riệu, người con thứ hai là nhà giải phẫu và nhân trắc học Nguyễn Quang Quyền, còn người con thứ ba là nhà hóa học Nguyễn Quý Đạo.
Nguyễn Quang Quyền sinh trưởng trong một gia đình tư sản dân tộc đi theo cách mạng, ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ những ngày mới thành lập. Cha của ông (Nguyễn Văn Đính) đã từng là Trưởng ban Cứu tế xã hội của Ủy ban hành chính Hải Phòng, Trưởng ban Kinh tế liên tỉnh Hồng Quảng, từng bị phòng Nhì của Pháp bắt giam với lý do "đã tham gia Việt Minh". Mẹ của ông (Nguyễn Thị Thoa) là ứng cử viên Quốc hội khóa đầu tiên, Ủy viên Ban Chấp hành Hội liên hiệp phụ nữ Hải Phòng.
Công tác chính trị
Cũng giống như cha mẹ mình, Nguyễn Quang Quyền tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm. Năm 1953, lúc 19 tuổi, ông là một trong số rất ít sinh viên y khoa tham gia hoạt động cách mạng trong nội thành Hải Phòng và Hà Nội, làm Trưởng ban liên lạc Hội Sinh viên Việt Nam. Năm 20 tuổi ông được bầu làm Phó chủ tịch Hội liên hiệp sinh viên Việt Nam nhiệm kỳ 1954-1958. Cuối năm 1954, lúc đang là sinh viên năm thứ tư của Đại học Y Khoa Hà Nội ông được cử làm Trưởng đoàn sinh viên Việt Nam tham dự Đại hội sinh viên toàn thế giới lần thứ 4 tại Praha, Tiệp Khắc cũ. Trong thời gian làm việc tại trường Đại học Y - Dược khoa Hà Nội từ năm 1959 sau khi tốt nghiệp, ông tiếp tục hăng hái tham gia công tác đoàn thể, là Bí thư chi đoàn phi lâm sàng và Phó thư ký công đoàn bộ phận phi lâm sàng.
Theo đuổi ngành y khoa
Thuở nhỏ ông học tiểu học tại Hải Phòng, sau đó tiếp tục học tại trường Chu Văn An ở Hà Nội. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, ông là sinh viên trường Đại học Y - Dược khoa Hà Nội từ năm 1952. Năm 1959, ông tốt nghiệp ngành y khoa bác sĩ và toán học cao cấp rồi được giữ lại làm giảng viên tại trường.
Có thể chia cuộc đời và sự nghiệp khoa học của Nguyễn Quang Quyền thành hai giai đoạn. Giai đoạn đầu công tác ở Trường Đại học Y - Dược khoa Hà Nội. (1959 - 1978) là giai đoạn ông vượt qua khó khăn thử thách, tự khẳng định mình, tự nghiên cứu với nhiều công trình có giá trị về giải phẫu học và nhân chủng học. Sau khi chuyển vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh và công tác tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (1979 - 1997), ông tiếp tục đảm nhiệm việc giảng dạy, đào tạo và tổ chức nghiên cứu, tham gia công tác quản lý với những đề xuất chiến lược mới tại trường. Trong giai đoạn này, ông đảm nhiệm cương vị Chủ nhiệm bộ môn giải phẫu tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là Chủ tịch Hội Hình thái học Việt Nam. Cũng trong thời gian này ông được mời thỉnh giảng tại một số trường đại học lớn trên thế giới ở Pháp, Đức, Australia, New Zealand...
Thành tựu khoa học
Nguyễn Quang Quyền được coi là một trong số ít các bác sĩ, giáo sư y khoa xuất sắc chưa từng được đào tạo ở nước ngoài mà chỉ tự nghiên cứu khoa học đã trở thành nhà khoa học, giáo sư đầu ngành tại Việt Nam trên cả ba lĩnh vực giải phẫu học, nhân chủng học, nhân trắc học của y học hiện đại.
Năm 1977, Nguyễn Quang Quyền xuất bản hai cuốn sách Tổ tiên của người hiện đại và Các chủng tộc loài người. Ông còn là tác giả cuốn từ điển giải phẫu học với 4 ngôn ngữ: Việt, Anh, Pháp và La-tinh. Giáo sư Nguyễn Quang Quyền để lại một sự nghiệp khoa học với hơn 100 công trình nghiên cứu do ông là tác giả và đồng tác giả, trong đó có 20 bài được đăng trên các tạp chí tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và được giới khoa học trong nước cũng như trên thế giới đánh giá cao. Ông từng được Viện phân tích nhân chủng học Schvidesky của Cộng hòa Liên bang Đức đưa vào danh sách các nhà nhân chủng học hàng đầu thế giới.
Giải phẫu học và nhân trắc học là những lĩnh vực ông có nhiều đóng góp quan trọng cho nền y học của đất nước. Ông làm giải phẫu học để dạy các bác sĩ tương lai và để ứng dụng lâm sàng. Ông làm nhân trắc để nghiên cứu tầm vóc và thể lực người Việt Nam, để đưa tiếng nói khoa học vào các cuộc thi hoa hậu. Cuộc thi hoa hậu đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất năm 1988 do Báo Tiền Phong tổ chức, ban giám khảo chấm thi hầu như chỉ dựa vào cảm tính mà chưa hề có những chỉ số về nhân trắc học. Nhưng từ năm 1992 trở đi, Giáo sư Nguyễn Quang Quyền đã được mời làm cố vấn khoa học cho cuộc thi với tư cách là nhà nhân trắc học hàng đầu Việt Nam bởi ông không những có uy tín trong nước mà còn có uy tín trên thế giới về lĩnh vực này.
Tại hội thảo quốc tế về giáo dục y học tại New Zealand năm 1984, Nguyễn Quang Quyền được bình chọn là người giảng lý thuyết giải phẫu học xuất sắc và chuyên nghiệp nhất. Nguyễn Quang Quyền nổi tiếng với phong trào "hiến xác cho khoa học" tại Việt Nam do ông phát động, bản thân ông cũng tình nguyện hiến xác cho y học nhưng rồi đột ngột qua đời trong một tai nạn giao thông năm 1997 nên ý nguyện của ông không thành. Ông cũng là người khôi phục "Lễ tri ân những người đã hiến thân xác cho khoa học" (Lễ Macchabeés), là chủ nhân của bộ sưu tập sọ người Việt Nam đang được lưu giữ tại Bộ môn Giải phẫu học Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời là người đề xuất và chỉ đạo việc xây dựng bảo tàng sọ người của những nạn nhân bị sát hại dưới thời Pol Pot ở Campuchia, như một chứng cứ về tội ác diệt chủng của chế độ Khmer Đỏ.
Đánh giá về bản thân
Dù đạt được không ít thành tựu trong sự nghiệp y học của mình nhưng Giáo sư Nguyễn Quang Quyền từng đánh giá một cách khiêm tốn về bản thân: "Tôi chỉ là một thầy thuốc bình thường, một nhà giáo bình thường… Có rất nhiều thầy thuốc, rất nhiều nhà giáo tài năng đã đóng góp rất lớn cho ngành y mà tôi không sao bì kịp".
Bị tai nạn và đột ngột qua đời.
Giáo sư Quyền bị tai nạn giao thông tại đường Nguyễn Tri Phương, TP HCM và qua đời. Để lại biết bao thương tiếc trong y giới. Nhiều học trò của giáo sư xem giáo sư là người Thầy đáng kính nhất đời của họ. Ngày tiễn đưa giáo sư về nơi yên nghĩ cuối cùng rất đông người đến đưa tiễn, các Bác sĩ từ các tỉnh xa cũng về dự. Với nhiều thế hệ sinh viên trường Y sự ra đi của Gs Quyền là mất mát lớn cho ngành Giải phẫu học Việt Nam. Các thế hệ sinh viên Kính trọng Giáo sư vì tài năng và đạo đức của Giáo sư
Tri ân
Năm 2009, nhân dịp kỷ niệm 75 năm ngày sinh của Giáo sư Nguyễn Quang Quyền và đại hội lần thứ X của Hội Hình thái học Việt Nam, ban chấp hành Hội Hình thái học Việt Nam và ban giám hiệu trường Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh quyết định cho sưu tầm, biên soạn và xuất bản tập sách "Nguyễn Quang Quyền - Cuộc đời và Sự nghiệp" (Nhà xuất bản Y học) với lời giới thiệu của GS.TS. Đặng Vạn Phước, nguyên Hiệu trưởng Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh và GS.TS. Trương Đình Kiệt, nguyên Chủ tịch Hội Hình thái học Việt Nam.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phúc Lai - Nguyễn Thị Thoa
Những đứa con nổi tiếng của người thợ ảnh
Bác sĩ Việt Nam
Giáo sư Việt Nam
Người Hải Phòng
|
19963
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%ACnh%20th%C3%A1i%20h%E1%BB%8Dc
|
Hình thái học
|
Hình thái học có thể chỉ:
Hình thái học (ngôn ngữ học), một ngành trong ngôn ngữ học chuyên nghiên cứu cấu trúc các dạng từ.
Hình thái học (giải phẫu học), một ngành trong sinh học chuyên nghiên cứu hình dạng hay cấu trúc của một phần hay toàn bộ cơ thể sinh vật.
Hình thái học (số học), một mô hình lý thuyết dựa trên thuyết Lattice và topo học.
Xem thêm
Giải tích hình thái học
Ngữ pháp
|
19964
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%85n%20Quang%20Ri%E1%BB%87u
|
Nguyễn Quang Riệu
|
Nguyễn Quang Riệu (sinh 15 tháng 6 năm 1932, tại Hải Phòng - mất 5 tháng 1 năm 2021, tại Paris, Pháp), là nhà vật lý thiên văn Việt kiều tại Pháp. Ông là người con đầu trong một gia đình có ba anh em trai sau này đều trở thành những nhà khoa học tên tuổi. Là giáo sư-tiến sĩ tại Đại học Sorbonne (Paris), giám đốc nghiên cứu tại Đài thiên văn Paris, ông đã công bố trên 150 công trình khoa học về vật lý thiên văn (đặc biệt trong lĩnh vực thiên văn vô tuyến, tên gọi tiếng Anh là Radioastronomy) trên các tạp chí khoa học quốc tế, viết nhiều sách (cả sách chuyên ngành và sách phổ biến khoa học) bằng tiếng nước ngoài và tiếng Việt. Ông cũng là Giám đốc Nghiên cứu Danh dự (Emeritus) của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS). Năm 1973, ông đã được nhận giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp sau khi đã phát hiện và xác định chính xác vị trí xảy ra vụ nổ trong chòm sao Thiên Nga (Cygnus X3). Cùng với Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, Giáo sư-Tiến sĩ Nguyễn Quang Riệu được coi là một trong số rất ít nhà khoa học gốc Việt trên thế giới không ngại dấn thân và đạt được những thành công trong ngành thiên văn học, một ngành khoa học đến giờ vẫn được coi là non trẻ và ít có điều kiện phát triển tại Việt Nam. Ông cũng là một trong những nhà khoa học đi tiên phong trong việc phổ biến cũng như vun đắp tình yêu của nhiều bạn trẻ Việt Nam đối với môn thiên văn học.
Thân thế và sự nghiệp
Ước mơ tuổi thơ
Nguyễn Quang Riệu cùng hai người em ruột của ông đều sinh ra và sống những năm thơ ấu tại Hải Phòng. Ông Nguyễn Văn Đính (quê ở làng Lai Xá, huyện Hoài Đức, tỉnh Sơn Tây cũ) đã di cư đến lập nghiệp ở Hải Phòng đầu những năm 1930. Tại đây ông mở hiệu ảnh nổi tiếng mang tên Phúc Lai và kết hôn với một người phụ nữ địa phương là bà Nguyễn Thị Thoa rồi sinh ra ba người con trai sau này đều trở thành những nhà khoa học tên tuổi. Trong đó người con cả là nhà vật lý thiên văn Nguyễn Quang Riệu (sinh năm 1932), người con thứ hai là nhà giải phẫu học và nhân trắc học Nguyễn Quang Quyền (sinh năm 1934), còn người con thứ ba là nhà hóa học Nguyễn Quý Đạo (sinh năm 1937). Tuổi thiếu thời, GS.TS. Nguyễn Quang Riệu thường được gia đình dẫn lên ngọn đồi có Đài thiên văn Phủ Liễn ở thị xã Kiến An (Hải Phòng) tham quan nên đã sớm yêu thích thiên văn.
Theo đuổi thiên văn học
Năm 18 tuổi, ông sang Pháp theo học tại Đại học Sorbonne (Paris). Trong thời gian du học, gia đình khuyến khích ông theo ngành hóa học để sau này chế ra phim và giấy ảnh phục vụ cho nghề truyền thống của dòng họ. Tuy nhiên, hình ảnh mái vòm của Đài thiên văn Phủ Liễn và quang cảnh bầu trời tuổi thơ có lẽ đã in sâu vào trí óc ông. Nó đã thúc đẩy vốn đam mê thiên văn học, khơi dậy niềm yêu thích chụp chân dung các vì sao trên trời trong ông. Và rồi, ông dồn hết tâm trí và thời gian đi sâu vào nghiên cứu thiên văn học. Tốt nghiệp đại học lúc Việt Nam còn chiến tranh, ông quyết định ở lại nghiên cứu thiên văn tại Đài thiên văn Paris.
Năm 1972, ông đã quan sát vụ nổ trên chòm sao Thiên Nga và xác định chính xác khoảng cách 30.000 năm ánh sáng từ vị trí vụ nổ tới Trái Đất. Sau đó phát hiện này đã được thông báo rộng rãi đến nhiều đài thiên văn trên thế giới. Vụ nổ này xảy ra ở trên biên giới của dải Ngân Hà, trong chòm sao Thiên Nga và sau đó được đặt tên là Cygnus X3. Phát hiện của ông được tạp chí Nature, một tạp chí khoa học nổi tiếng thế giới dành toàn bộ một số để giới thiệu. Với phát hiện thiên văn quan trọng này, ông được nhiều đài thiên văn và trường đại học trên thế giới mời đến thuyết giảng. Theo lời ông kể lại sau này, để được cấp hộ chiếu qua lại nghiên cứu và thỉnh giảng ở các quốc gia khác nhau nên buộc ông phải nhập quốc tịch Pháp, dù vẫn luôn ý thức rằng mình là công dân Việt Nam.
Từ năm 1976, ông thường xuyên về nước tham gia phát triển và phổ biến ngành vật lý thiên văn và vật lý môi trường, hai lĩnh vực nghiên cứu còn non trẻ ở Việt Nam. Vào thời điểm diễn ra hiện tượng nhật thực toàn phần ngày 25 tháng 10 năm 1995 tại Việt Nam, GS.TS. Nguyễn Quang Riệu được Bộ Ngoại giao Pháp cấp kinh phí để xây và mua thiết bị thiên văn mang về Việt Nam. Sau đó, ông đề nghị để lại thiết bị tại Đại học Quốc gia Hà Nội và Đài thiên văn Phù Liễn (Kiến An, Hải Phòng) giúp sinh viên thực tập quan sát bầu trời. Cũng nhân dịp này, cùng với Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường Việt Nam, ông tham gia tổ chức một Hội thảo quốc tế với mục đích giải thích những hiện tượng thiên nhiên. Bên cạnh đó, ông còn trình bày những thành tựu mới đạt được trong ngành thiên văn. Từ đó, hàng năm ông đều dành ít thời gian về nước tổ chức lớp học về môn vật lý vũ trụ và vật lý môi trường tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là chương trình do ông tự khởi xướng, kết hợp giữa Đài thiên văn Paris, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Pierre và Marie Curie (Paris) với sự tham gia của Hội Thiên văn Quốc tế. Ông vận động nhiều nhà khoa học nước ngoài cùng về thỉnh giảng. Học viên là những cán bộ nghiên cứu và giảng dạy của các trường đại học và các viện khoa học trong nước. Ông cũng là người đứng ra xin tài trợ học bổng của Chính phủ Pháp cho sinh viên Việt Nam và hướng dẫn họ làm luận án tiến sĩ chuyên ngành vật lý thiên văn tại Pháp.
Với mục tiêu phổ biến khoa học, ông đã viết nhiều cuốn sách về thiên văn học với nội dung dễ hiểu bằng tiếng Việt như: "Vũ trụ phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại", "Lang thang trên dải Ngân Hà", "Sông Ngân khi tỏ khi mờ", "Bầu trời tuổi thơ". Ngoài ra, ông còn tham gia soạn một cuốn giáo trình chuyên ngành thiên văn vật lý song ngữ Việt-Anh dành cho sinh viên các trường đại học trong nước. Ông cũng viết nhiều bài báo khoa học đăng trên các báo chí trong nước nhằm giới thiệu ngành thiên văn đến với toàn thể quần chúng.
Là Giám đốc Nghiên cứu Danh dự (Emeritus) của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS) và công tác tại Đài thiên văn Paris, GS.TS. Nguyễn Quang Riệu đã công bố trên 150 công trình nghiên cứu (đặc biệt trong lĩnh vực thiên văn vô tuyến) tại nhiều hội nghị khoa học lớn và trên các tạp chí khoa học uy tín. Các cuốn sách (cả về chuyên ngành lẫn phổ biến khoa học) trong lĩnh vực vật lý thiên văn do ông xuất bản tại quê nhà đã khơi dậy niềm đam mê nghiên cứu thiên văn học của nhiều thế hệ bạn trẻ Việt Nam những năm qua.
GS Nguyễn Quang Riệu qua đời ngày 5 tháng 1 năm 2021 tại Pháp, do biến chứng từ Covid-19 .
Một số tác phẩm đã xuất bản tại Việt Nam
Vũ trụ phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại. Nhà xuất bản Giáo dục, 1995 (sách phổ biến khoa học)
Lang thang trên dải Ngân Hà. Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 1997 (sách phổ biến khoa học)
Sông Ngân khi tỏ khi mờ - Les Reflets du Fleuve d’Argent. Nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, 1998 (sách phổ biến khoa học, song ngữ Việt-Pháp)
Bầu trời tuổi thơ. Nhà xuất bản Giáo dục, 2002 (sách phổ biến khoa học)
Thiên văn vật lý - Astrophysics. đồng tác giả, Nhà xuất bản Giáo dục, 2000 (sách giáo khoa chuyên ngành cấp đại học, song ngữ Việt-Anh)
Những con đường đến với các vì sao. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, 2003 (sách chuyên ngành)
Radioastronomy, The Microwave Engineering Handbook, Volume 3. Publisher: Chapman and Hall (sách chuyên ngành, bản tiếng Anh)
Ghi nhận
Với những thành tích đạt được trong sự nghiệp khoa học của mình, GS.TS. Nguyễn Quang Riệu đã giữ những cương vị quan trọng như: Giám đốc Nghiên cứu Danh dự (Emeritus) của Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS) và Đài thiên văn Paris, Hội viên của Hội Thiên văn Quốc tế (IAU), thành viên của Ủy ban Quốc tế thực hiện đề án của Cơ quan Vũ trụ châu Âu (ESA) về phóng vệ tinh hồng ngoại (Infrared Space Observatory - ISO) vào vũ trụ.
Năm 1973, với phát hiện thiên văn mang tính khám phá của mình về vụ nổ trong chòm sao Thiên Nga (được đặt tên sau đó là Cygnus X3), ông đã được Viện Hàn lâm Khoa học Pháp trao tặng giải thưởng danh giá A. Janssen trong lĩnh vực vật lý thiên văn.
Ngày 1 tháng 11 năm 2010, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức buổi lễ trao bằng Tiến sĩ Danh dự của trường cho ông.
Với những đóng góp ý nghĩa cho nền khoa học tại quê nhà, ông đã được trao tặng Giải thưởng Vinh danh nước Việt (2004) và Kỷ niệm chương của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hai anh em - hai nhà khoa học Việt kiều nổi tiếng
Nhà thiên văn Việt kiều Nguyễn Quang Riệu tâm huyết với đất nước
Những đứa con nổi tiếng của người thợ ảnh
Nhà Thiên Văn học Việt kiều yêu nước với xứ Nghệ
Determination of the Distance of Cygnus X-3 by 21-cm Absorption
21-cm Absorption Spectrum in Front of Cygnus X-3
Dream of Discovering the Galaxy
Người Hải Phòng
Người Pháp gốc Việt
Giáo sư Pháp
Giáo sư Việt Nam
Nhà thiên văn học Pháp
Giải thưởng Vinh danh nước Việt
Người họ Nguyễn tại Việt Nam
Nhà thiên văn học Việt Nam
|
19971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A3ng%20ARM
|
Hãng ARM
|
ARM Holdings, tên đầy đủ là Advanced RISC Machines (ARM) Ltd., là một hãng thiết kế vi xử lý có trụ sở ở nước Anh. ARM Holdings được thành lập bởi Hermann Hauser vào năm 1990 và được niêm yết trên thị trường chứng khoán Luân Đôn với ký hiệu là ARM và trên sàn chứng khoán NASDAQ với ký hiệu là ARMHY. Hãng này nổi tiếng với họ vi xử lý kiến trúc ARM được dùng khá phổ biến trong các thiết bị nhúng và các ứng dụng cầm tay nhờ vào đặc tính ưu việt là ít tiêu thụ điện năng. Hầu hết máy điện thoại di động và máy PDA hiện nay đều có CPU theo kiến trúc ARM.
Không giống như các tập đoàn sản xuất vi xử lý khác như AMD, Intel, Motorola hay Hitachi, ARM chỉ thiết kế và bán các bản thiết kế của họ mà không sản xuất các vi mạch CPU hoàn chỉnh. Do vậy, có khoảng vài chục hãng sản xuất các bộ xử lý dựa trên thiết kế của ARM.
Lịch sử
Tên gọi
Từ viết tắt ARM được dùng lần đầu năm 1983 và ban đầu là viết tắt của "Acorn RISC Machine". Vi xử lý RISC đầu tiên của Acorn Computers first RISC được sử dụng trong Acorn Archimedes ban đầu và là một trong những bộ vi xử lý RISC đầu tiên được sử dụng trong các máy tính nhỏ. Tuy nhiên, khi công ty được thành lập vào năm 1990, là các chữ được đổi thành "Advanced RISC Machines", tên gọi đầy đủ của công ty là "Advanced RISC Machines Ltd." Tại thời điểm IPO năm 1998, công ty đã đổi tên thành "ARM Holdings", và thường được gọi tắt là ARM tương tự các vi xử lý.
Thành lập
Công ty thành lập tháng 10/1990 với tên gọi Advanced RISC Machines Ltd và cơ cấu như là một liên doanh giữa Acorn Computers, Apple Computer (bây giờ là Apple Inc.) và VLSI Technology. Công ty mới nhằm đẩy mạnh sự phát triển của bộ vi xử lý Acorn RISC Machine, ban đầu được sử dụng trong Acorn Archimedes sau đó được Apple chọn cho dự án Newton của họ. Năm công ty có lợi nhuận đầu tiên là năm 1993. Văn phòng của công ty tại Silicon Valley và Tokyo được mở năm 1994. ARM đầu tư vào Palmchip Corporation năm 1997 để cung cấp hệ thống trên nền tảng chip và nhập vào thị trường ổ cứng. Năm 1998 công ty đổi tên từ Advanced RISC Machines Ltd thành ARM Ltd. Công ty IPO lên sàn London Stock Exchange và NASDAQ năm 1998 và tháng 1/1999, cổ phần của Apple đã giảm xuống còn 14.8%.
Năm 2010, ARM gia nhập với IBM, Texas Instruments, Samsung, ST-Ericsson và Freescale Semiconductor (bây giờ là NXP Semiconductors) thành lập một công ty phi lợi nhuận nguồn mở, Linaro.
Thay đổi chủ sở hữu
Tập đoàn viễn thông Nhật Bản SoftBank Group đã đạt được thỏa thuận mua lại ARM ngày 18/7/2016, được sự chấp thuận của các cổ đông của ARM, định giá công ty ở 23,4 tỷ bảng Anh. Các giao dịch được hoàn tất vào ngày 5/9/2016.
Xem thêm
Kiến trúc ARM
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website của Hãng ARM
ARM projects and information
Công ty điện tử
Công ty được niêm yết trên NASDAQ
Apple
Công ty niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn
|
19975
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20T%E1%BB%AD%20Giang
|
Dương Tử Giang
|
Dương Tử Giang (1918 - 2 tháng 12 năm 1956) là nhà báo, nhà văn cách mạng Việt Nam.
Tiểu sử
Ông tên thật Nguyễn Tấn Sĩ, sinh năm 1918, quê tại Nhơn Thạnh, huyện Châu Thành (nay là xã Nhơn Thạnh, thành phố Bến Tre) tỉnh Bến Tre. Sau khi học hết trung học (1936), ông đứng ra thành lập một gánh hát riêng nhưng chỉ được một thời gian ngắn phải rã gánh. Ông xin dạy học ở Trường tiểu học Thủ Đức rồi làm thư ký ở Ty Thương chánh Hà Tiên. Sau đó, ông lên Sài Gòn và bắt đầu nghề báo, viết bài cho các báo Mai, Sống của Đông Hồ và Trúc Hà, Thanh niên của Huỳnh Tấn Phát. Thời gian trước Cách mạng tháng 8, ông cũng viết được một số tiểu thuyết, như Bịnh học (1937), Con gà và con chó (1939).
Sau khi Nam Bộ kháng chiến, ông tích cực tham gia viết báo chống Pháp và đã từng bị chính quyền Pháp bắt giam. Ông cùng với Vũ Tùng, Thiếu Sơn đều nằm trong nhóm Justice (Công lý) - cơ quan chính thức của Đảng Xã hội Pháp ở Đông Dương. Năm 1950, do diễn thuyết trong đám tang nhà báo Nam Quốc Cang, ông bị truy nã và thoát ly ra khu kháng chiến ở miền Tây Nam Bộ, cùng với Thiếu Sơn làm báo Cứu quốc và hoạt động văn nghệ ở chiến khu. Thời gian này, Dương Tử Giang còn viết một số kịch bản tuồng.
Năm 1954, ông trở lại hoạt động báo chí ở Sài Gòn. Ông thực hiện các báo Công lý, Điện báo rồi Duy tân. Ngày 8 tháng 10 năm 1955, ông cùng Lý Văn Sâm, Thiếu Sơn, Tư Mã Việt, Tô Nguyệt Đình... bị chính quyền Ngô Đình Diệm bắt vì tội "thân cộng". Ông bị giam ở bót Catina rồi chuyển về trại giam Tân Hiệp, Biên Hòa. Ở Tân Hiệp, ông tham gia công tác tuyên hiấn, tuyên truyền. Ngày 2 tháng 12 năm 1956, khi cùng các tù nhân phá khám, vượt ngục, ông bị trúng đạn và qua đời. Dương Tử Giang mất khi mới chỉ 38 tuổi.
Nhà văn Thiếu Sơn, người bạn thân thiết của Dương Tử Giang đã viết về ông:
Hiện nay, bút danh Dương Tử Giang đã được đặt cho một con đường ở Thành phố Hồ Chí Minh. Hội Nhà báo Đồng Nai cũng tổ chức Giải Báo chí Dương Tử Giang dành cho các nhà báo của tỉnh.
Tác phẩm
Bịnh học (tiểu thuyết, 1937)
Con gà và con chó (tiểu thuyết, 1939)
Tranh đấu (tiểu thuyết, 1949)
Một vũ trụ sụp đổ (tiểu thuyết, 1949)
Cô Sáu Tầu Thưng (1949)
Vè Bảo Đại (1950)
Trương Phi thủ Cổ thành (tuồng)
Nửa đêm về sáng (truyện ngắn)
Nguyễn Trung Trực quy thần (tuồng)
Ký Charton và Le Page (tuồng)
Tham khảo
Người Giồng Trôm
Nhà báo Việt Nam
Nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc
Nhà văn Việt Nam thời kỳ 1945–1975
|
19983
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/23%20th%C3%A1ng%2011
|
23 tháng 11
|
Ngày 23 tháng 11 là ngày thứ 327 trong mỗi năm thường (thứ 328 trong mỗi năm nhuận). Còn 38 ngày nữa trong năm.
Sự kiện
1499 – Hoàng tử giả Perkin Warbeck bị treo cổ do cố thoát ra khỏi Tháp Luân Đôn. Ông đã xâm lược Anh vào năm 1497, cho rằng ông là con mất của Quốc vương Edward IV của Anh.
1644 – Areopagitica của John Milton được xuất bản.
1863 – Nội chiến Hoa Kỳ: Chiến dịch Chattanooga bắt đầu khi quân đội Liên bang dẫn đầu bởi tướng Ulysses S. Grant tăng viện cho Chattanooga, Tennessee và phản công quân đội các Tiểu bang Liên minh Hoa Kỳ.
1869 – Ở Dumbarton, Scotland, tàu nhanh Cutty Sark được khởi đầu. Nó là một trong những tàu nhanh cuối cùng được xây dựng, và hiện nay chỉ có tàu nhanh này.
1876 – William Marcy Tweed, thường được gọi Ông trùm Tweed, người ăn hối lộ dẫn Tammany Hall, bị mang đến cảnh sát ở Thành phố New York sau khi bị bắt ở Tây Ban Nha.
1890 – Quốc vương Willem III của Hà Lan bị chết, chưa có con trai để thừa kể, cho nên một đạo luật đặc biệt được thông qua, để con gái ông Bà hoàng Wilhelmina trở thành Nữ hoàng.
1940 – Nam Kỳ khởi nghĩa. Cũng là ngày được cho rằng đã ra mắt lá quốc kỳ cờ đỏ sao vàng do Nguyễn Hữu Tiến vẽ.
1945 – Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64–SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, tổ chức tiền thân của Thanh tra Chính phủ Việt Nam.
1946 – Thành lập Hội Chữ thập đỏ Việt Nam.
1955 – Anh Quốc trao quyền kiểm soát Quần đảo Cocos (Keeling) trên Ấn Độ Dương cho Úc.
1963 – BBC phát sóng tập đầu tiên của Doctor Who, bộ phim truyền hình khoa học giả tưởng dài nhất trên thế giới cho đến nay.
1978 – Quy ước tần số vô tuyến điện Geneva 1975. Theo đó, chỉ số tần số sóng AM (sóng trung và sóng dài - đơn vị kHz) có tổng các chữ số bằng 9 hoặc là bội số của 9 (558-567-576-...-1404-1413-1422-1431-1440)
1996 – Angola gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.
2009 – 58 người bị bắt cóc và sát hại tại Maguindanao, Philippines khi đang trên đường nộp một đơn ứng cử chức Thống đốc tỉnh của Esmael Mangudadatu.
2010 – Xung đột Triều Tiên: Hàn Quốc và Triều Tiên xảy ra pháo chiến tại khu vực đảo Yeonpyeong trên Hoàng Hải.
Sinh
1872 – Dannie Heineman, là một kỹ sư và nhà kinh doanh người Hoa Kỳ gốc Bỉ (m. 1962)
1888 – Arthur Adolph Harpo Marx, người thứ hai trong số 5 anh em nhà Marx (m. 1964)
1922 – Võ Văn Kiệt, cựu Thủ tướng Việt Nam (m. 2008)
1931 – Phạm Song, giáo sư, viện sĩ y học, cựu Bộ trưởng Bộ Y tế Việt Nam (m. 2011)
1941 – Mai Văn Dâu, cựu chính khách Việt Nam, cựu Thứ trưởng Thường trực Bộ Thương mại Việt Nam.
1982 – Namthip Jongrachatawiboon, nữ diễn viên, người mẫu Thái Lan.
1984 – Lucas Grabeel, diễn viên, ca sĩ người Mỹ.
1992 – Miley Cyrus, diễn viên, ca sĩ người Hoa Kỳ.
Mất
1839 – Hồ Thị Tùy, phong hiệu Ngũ giai An tần, phi tần của vua Minh Mạng (s. 1795)
1871 – Nguyễn Trường Tộ, chí sĩ, danh sĩ, kiến trúc sư Việt Nam (s. 1828)
1835 – Nguyễn Phúc Miên Hoành, tước phong Vĩnh Tường Quận vương, hoàng tử con vua Minh Mạng (s. 1811)
1892 – Tống Duy Tân, thủ lĩnh cuộc Khởi nghĩa Hùng Lĩnh chống Pháp trong lịch sử Việt Nam (s. 1837).
1919 – Henry Laurence Gantt, kĩ sư cơ khí người Mỹ, tác giả sơ đồ Gantt (s. 1861)
2003 – Trần Hoàn, nhạc sĩ, chính khách Việt Nam, cựu Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin Việt Nam (s. 1928)
2021 - Chun Doo-hwan, cựu Tổng thống Hàn Quốc (s.1931)
Những ngày lễ và ngày kỷ niệm
Bắt đầu tiểu tuyết
Ngày sinh cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt
Ngày Di sản Văn hóa Việt Nam
Tham khảo
Tháng mười một
Ngày trong năm
|
19984
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phan%20Ch%C3%A2u%20Trinh
|
Phan Châu Trinh
|
Phan Châu Trinh hay Phan Chu Trinh (chữ Hán: 潘周楨; 1872 – 1926), hiệu là Tây Hồ (西湖), biệt hiệu Hy Mã (希瑪), tự là Tử Cán (子幹). Ông là nhà thơ, nhà văn, và là nhà hoạt động chính trị thời cận đại trong lịch sử Việt Nam.
Thân thế
Phan Châu Trinh sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872, người làng Tây Lộc, huyện Tiên Phước, phủ Tam Kỳ (nay thuộc xã Tam Lộc, huyện Phú Ninh), tỉnh Quảng Nam, hiệu là Tây Hồ, Hy Mã, tự là Tử Cán.
Cha ông là Phan Văn Bình, làm chức Quản cơ sơn phòng, sau tham gia phong trào Cần Vương trong tỉnh, làm Chuyển vận sứ đồn A Bá (Tiên Phước) phụ trách việc quân lương. Mẹ ông là Lê Thị Trung, con gái nhà vọng tộc, thông thạo chữ Hán, ở làng Phú Lâm, huyện Tiên Phước.
Mẹ ông mất sớm vào năm ông lên 6 tuổi. Quê nhà bị quân Pháp đốt cháy trong cuộc trấn áp phong trào Cần vương, nên ông phải theo cha, được cha dạy chữ và dạy võ. Sau khi cha mất, ông trở về quê sống với anh là Phan Văn Cừ và tiếp tục đi học. Ông học giỏi, năm 27 tuổi, được tuyển vào trường tỉnh và học chung với Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đình Hiến, Phan Quang và Phạm Liệu.
Sự nghiệp
Khoa Canh Tý (1900), Phan Châu Trinh đỗ cử nhân thứ ba ở trường Thừa Thiên. Năm sau (1901), triều đình mở ân khoa, ông đỗ phó bảng, đồng khoa với tiến sĩ Ngô Đức Kế và phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Khoảng thời gian này, người anh cả mất nên ông về để tang, ở nhà dạy học đến năm Quý Mão (1903) thì được bổ làm Thừa biện Bộ Lễ.
Vào Nam, ra Bắc, sang Nhật
Năm 1905 ông từ quan, rồi cùng với hai bạn học là Trần Quý Cáp và Huỳnh Thúc Kháng (cả hai đều mới đỗ tiến sĩ năm 1904 làm một cuộc Nam du, với mục đích xem xét dân tình, sĩ khí và tìm bạn đồng chí hướng. Đến Bình Định, gặp kỳ khảo hạch thường niên của tỉnh, ba ông lẩn vào các khóa sinh. Vào trường thi, Phan Châu Trinh làm một bài thơ, còn hai bạn thì làm chung một bài phú. Cả ba đều ký tên giả là Đào Mộng Giác. Nội dung bài không theo đầu đề, mà chỉ kêu gọi sĩ tử đang đắm đuối trong khoa trường và danh lợi, hãy tỉnh dậy lo giải phóng giống nòi khỏi cảnh lao khổ.
Các tỉnh quan Nam triều hoảng sợ, đem bài trình cho viên Công sứ Pháp, đồng thời ra lệnh truy tìm tác giả, nhưng ba ông đã rời khỏi Bình Định, tiếp tục đi vào các tỉnh phía Nam Trung Kỳ. Trên đường đi, ba ông lần lượt kết giao với Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang, Nguyễn Hiệt Chi và hai con trai của danh sĩ Nguyễn Thông là Nguyễn Trọng Lội, Nguyễn Quý Anh.
Sau cuộc Nam du, Phan Châu Trinh ra Nghệ-Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Nội để gặp gỡ và hội ý với các sĩ phu tiến bộ, rồi lên căn cứ Đề Thám quan sát tình hình, nhưng ông thấy phong trào này khó có thể tồn tại lâu dài.
Năm 1906 ông bí mật sang Quảng Đông (Trung Quốc) gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến rồi cùng sang Nhật Bản, tiếp xúc với nhiều nhà chính trị tại đây (trong số đó có Lương Khải Siêu) và xem xét công cuộc duy tân của xứ sở này. Ông viết:
Phát động phong trào
Trong số các sĩ phu đương thời và cả sau này, Phan Châu Trinh là người thấy rõ nhất những nhược điểm của con người và xã hội Việt Nam. Ông chủ trương phải thay đổi từ gốc rễ bằng cách nâng cao trình độ trí tuệ và đạo đức của người Việt, phát triển kinh tế - văn hóa, học những tư tưởng tiến bộ của Phương Tây,ông từ bỏ phong tục tập quán lạc hậu... Ông cho rằng Việt Nam phải phát triển kinh tế và giáo dục để tự lực tự cường, hội nhập vào thế giới văn minh rồi mới nên mưu cầu độc lập chứ không nên cầu viện ngoại bang dùng bạo lực để giành độc lập như chủ trương của Phan Bội Châu. Chỉ như vậy dân tộc Việt Nam mới có nền độc lập chân chính trong quan hệ với ngoại bang còn nhân dân được hưởng tự do trong quan hệ với nhà nước. Phan Châu Trinh viết "Nước ta từ ngày Pháp sang bảo hộ trên mấy mươi năm, người mình học Tây học chỉ làm được việc phiên dịch nói phô mà thôi, không có ai hấp thu được chỗ tinh túy, phăn tìm đến nơi màu nhiệm về mà đào tạo ra học trò để làm việc vẻ vang cho nòi giống. Trái lại, bụng không một hạt gạo mà nói chuyện thi thư, tay không nửa đồng mà tự xưng Khổng Mạnh. Có lẽ da thịt huyết tủy của người nước mình mấy ngàn năm nay đã bị cái hấp lực của huyết dẫn người Tàu chi phối hết cả, nên ngày nay đành làm nộm rối cho người Tàu mà không tự biết chăng? Không thế thì sao lửa đốt bên da mà không biết nóng, sét đánh ngang trán mà không biết sợ, thầy hay bạn giỏi ở một bên mà không biết gắng sức bắt chước bước theo. Thậm chí nữa trằn trọc tráo trở, một hai toan tìm một nước thứ ba nào yêu thương mình mà vui lòng làm tôi làm tớ". Để thực hiện chủ trương của mình, ông đã tổ chức phong trào Duy Tân và viết những bản kiến nghị gửi lên chính quyền thực dân Pháp tại Đông Dương đề nghị họ thực hiện cải cách.
Mùa hè năm 1906 Phan Châu Trinh về nước. Việc làm đầu tiên là gửi một bức chữ Hán (quen gọi là Đầu Pháp chính phủ thư) cho Toàn quyền Paul Beau vạch trần chế độ quân chủ chuyên chế thối nát, yêu cầu nhà cầm quyền Pháp phải thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Việt và sửa đổi chính sách cai trị để giúp người Việt từng bước tiến lên văn minh.
Sau đó, với phương châm "tự lực khai hóa" và tư tưởng dân quyền, Phan Châu Trinh cùng Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp đi khắp tỉnh Quảng Nam và các tỉnh lân cận để vận động cuộc duy tân. Khẩu hiệu của phong trào lúc bấy giờ là: Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Phương thức hoạt động của phong trào là bất bạo động, công khai hoạt động nhằm khai hóa dân tộc, giáo dục ý thức công dân - tinh thần tự do, xây dựng cá nhân độc lập - tự chủ - có trách nhiệm với bản thân và xã hội, thay đổi tận gốc rễ nền văn hóa - tâm lý - tính cách - tư duy - tập quán của người Việt, phổ biến các giá trị của nền văn minh phương Tây như pháp quyền - dân quyền - nhân quyền - dân chủ - tự do - bình đẳng - bác ái, cải cách trên mọi lãnh vực. Phong trào thực hiện mục tiêu cải tạo con người và xã hội Việt Nam bằng cách khuyến khích cải cách giáo dục (bỏ lối học từ chương, xóa mù chữ bằng cách phát động phong trào học Quốc ngữ), mở mang công thương nghiệp, chấn hưng công nghệ, bỏ mê tín dị đoan, thay đổi tập quán (cắt tóc ngắn, cắt ngắn móng tay)...
Thời gian này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca kêu gọi mọi người duy tân theo hướng khai minh và phát triển thực nghiệp như vừa lược kể.
Hưởng ứng, ở Quảng Nam và các tỉnh lân cận, nhiều trường học, thư xã, thương hội, hội nghề nghiệp,... lần lượt được lập ra.
Tháng 7 năm 1907 Phan Châu Trinh nhận lời mời ra Hà Nội tham gia diễn giảng mỗi tháng 2 kỳ ở Đông Kinh Nghĩa Thục.
Bị giam lần thứ nhất
Tháng 3 năm 1908, phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ nổ ra, và bị triều Nguyễn và chính phủ bảo hộ Pháp đàn áp dữ dội. Phan Châu Trinh cùng nhiều thành viên trong phong trào Duy Tân bị nhà cầm quyền buộc tội đã khởi xướng phong trào chống thuế nên đều bị bắt.
Phan Châu Trinh bị bắt ở Hà Nội, giải về Huế. Tòa Khâm sứ Huế và Nam triều đều muốn khép ông vào tội chết. Nhưng nhờ sự can thiệp của những người Pháp có thiện chí và những đại diện của Hội Nhân quyền tại Hà Nội, họ buộc lòng phải kết ông án "trảm giam hậu, lưu tam thiên lý, ngộ xá bất nguyên" (nghĩa là tội chém nhưng chỉ giam lại, đày xa ba ngàn dặm, gặp ân xá cũng không cho về), rồi đày đi Côn Đảo ngày 4 tháng 4 năm 1908.
Nhờ dư luận trong nước và nhờ có sự vận động của Hội Nhân quyền ngay trên đất Pháp, đầu mùa hè năm 1910, Thống đốc Nam Kỳ theo lệnh của Toàn quyền Đông Dương ra Côn Lôn thẩm vấn riêng Phan Châu Trinh. Tháng 8 năm đó ông được đưa về đất liền. Tại Sài Gòn, một hội đồng xử lại bản án cho ông được ân xá, nhưng buộc xuống Mỹ Tho chịu quản thúc. Ở đây, ông làm nhiều bài thơ về các nhân vật tên tuổi của Nam Kỳ.
Bởi không hoạt động gì được, ông viết thư cho Toàn quyền Đông Dương đòi được sang Pháp hoặc trở lại Côn Lôn, nhất định không chịu cảnh bị giam lỏng ở Mỹ Tho nữa. Vì vậy, nhân có nghị định ngày 31 tháng 10 năm 1908 của chính phủ Pháp về việc lập một nhóm giảng dạy tiếng Hán tại Pháp, năm 1911, chính quyền Đông Dương cử một đoàn giáo dục Đông Dương sang Pháp, có cả Phan Châu Trinh và con trai là Phan Châu Dật.
Sang Pháp, bị giam lần thứ hai
Sang Pháp, việc đầu tiên của ông là đưa cho Hội Nhân quyền Pháp bản điều trần về vụ trấn áp những người dân chống sưu thuế tại Trung Kỳ năm 1908 (thường gọi là Trung Kỳ dân biến thủy mạt ký).
Sau đó, ông còn lên tiếng tố cáo tình trạng các tù nhân ở Côn Lôn bị đối xử tồi tệ, và nhờ Liên minh cầm quyền, Đảng Xã hội Pháp can thiệp nhằm giảm án cho các đồng chí của mình. Ông cũng đã tiếp xúc nhiều lần với những nhân vật cao cấp ở Bộ Thuộc địa, với Albert Sarraut (sắp sang nhậm chức Toàn quyền Đông Dương) để đưa ra những dự án cải tổ nền chính trị ở Việt Nam nhưng không có kết quả, vì lúc này thế lực của thực dân hãy còn đang mạnh. Trong khoảng thời gian này, ông viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam.
Ngày 28 tháng 7 năm 1914, Đế quốc Áo-Hung tuyên chiến với Serbia, mở màn cho Chiến tranh thế giới thứ nhất. Sau đó, ngày 3 tháng 8, Đức tuyên chiến với Pháp. Nhân cơ hội này, nhà cầm quyền Pháp tại Paris đã gọi Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường (một luật sư, nhà báo người Việt chống thực dân) phải đi lính, nhưng hai ông phản đối với lý do không phải là công dân Pháp. Mấy tháng sau, chính quyền khép tội hai ông là gián điệp của Đức để bắt giam Phan Văn Trường giam ở lao Cherchemidi và Phan Châu Trinh bị giam ở nhà tù Santé (Prison de la Santé), Paris, kể từ tháng 9 năm 1914.
Do việc Phan Châu Trinh bị bắt giam nên trợ cấp giảng dạy của ông bị cắt, con ông mất học bổng, phải vừa học vừa làm. Cũng trong năm này, vợ ông là bà Lê Thị Tỵ qua đời ở quê nhà ngày 12 tháng 5 năm 1914.
Tháng 7 năm 1915, vì không đủ bằng chứng buộc tội, chính quyền Pháp phải trả tự do cho hai ông sau nhiều tháng giam giữ. Sau khi ra tù, Phan Châu Trinh đã soạn tuyển tập thơ Santé thi tập với hơn 200 bài thơ ông sáng tác trong tù.
Ra tù, Phan Châu Trinh học nghề rửa ảnh rồi làm thuê cho các hiệu chụp ảnh để kiếm sống. Trong hoàn cảnh chiến tranh, giá sinh hoạt đắt đỏ, cảnh ngộ của hai cha con rất đỗi cơ cực. Chẳng lâu sau, Phan Châu Dật phải bỏ học về nước vì bị lao ruột và qua đời tại Huế ngày 14 tháng 2 năm 1921, được đem về an táng cạnh mộ mẹ tại Tây Lộc (Tiên Phước, Quảng Nam).
Ngày 19 tháng 6 năm 1919, Phan Châu Trinh cùng với Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Tất Thành soạn bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" gửi cho Hội nghị Versailles, ký tên chung là "Nguyễn Ái Quốc", và đã gây được tiếng vang. Tuy nhiên Phan Châu Trinh không tán thành với con đường đi theo chủ nghĩa cộng sản của Nguyễn Tất Thành. Phan Châu Trinh khuyên Nguyễn Tất Thành không nên ảo tưởng về sự hỗ trợ của người Pháp, kể cả đảng Xã hội Pháp, về vấn đề Việt Nam.
Năm 1922, khi vua Khải Định sang Pháp dự đấu xảo Marseille, ông viết một bức thư dài buộc tội vua Khải Định 7 điều, quen gọi là Thất Điều Trần hay Thư Thất Điều, khuyên vua về nước gấp, đừng làm nhục quốc thể. Cũng trong năm này, ông viết bài Tỉnh quốc hồn ca mới. Xuyên suốt tác phẩm này vẫn là một đường lối cải cách dân chủ, vẫn là thực trạng tăm tối của xã hội thực dân phong kiến và những thủ đoạn tàn bạo của chính sách thuộc địa ở Việt Nam.
Thấy hoạt động ở Pháp không thu được kết quả gì, đã nhiều lần ông yêu cầu chính phủ Pháp cho ông trở về quê hương, nhưng đều không được chấp thuận. Mãi đến năm 1925, khi thấy sức khỏe ông đã suy yếu, nhà cầm quyền Pháp mới cho phép ông về nước. Khoảng thời gian này, ông viết cuốn Đông Dương chính trị luận.
Về nước rồi qua đời
Ngày 29 tháng 5 năm 1925, Phan Châu Trinh cùng nhà cách mạng trẻ Nguyễn An Ninh xuống tàu rời nước Pháp, đến ngày 26 tháng 6 cùng năm thì về tới Sài Gòn. Sau đó, ông Ninh đưa ông về thẳng khách sạn Chiêu Nam Lầu của cha mình là ông Nguyễn An Khương. Ở đây mấy ngày thì ông về ở tại nhà riêng của ông Khương ở Mỹ Hòa để tiện việc tiếp đón bạn bè đến thăm và trao đổi công việc, đồng thời cũng để tiện cho ông Nguyễn An Cư (chú của ông Ninh, một lương y nổi tiếng) chăm sóc sức khỏe.
Tuy bị bệnh nhưng Phan Châu Trinh cố gắng diễn thuyết thêm hai đề tài là Đạo đức và luân lý Đông Tây, Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa. Hai bài này đã có tác động không nhỏ đến thế hệ trẻ tại Sài Gòn, trong đó có Tạ Thu Thâu. Thân sĩ khắp ba kỳ năng lui tới nơi ở của Phan Châu Trinh, như Trần Huy Liệu và Nguyễn Văn Đính (Bắc Kỳ), Nguyễn Trọng Hy và Huỳnh Phò (Huế), Ngô Châu Danh và Trần Đình Phiên (Hội An), Hồ Tá Bang (Phan Thiết), Bùi Công Trừng (Nam Kỳ)...
Phan Châu Trinh cuối cùng nhận thấy thực dân Pháp không chấp nhận bất cứ một sự cải cách nào có lợi cho nhân dân Việt Nam, tư tưởng của ông có sự thay đổi. Bài “Đạo đức và luân lí Đông Tây” (1925) kết luận: “Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam”
Khi bệnh tình trở nặng (tháng 12 năm 1925), túc trực thường xuyên cạnh Phan Châu Trinh là Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Nguyễn Sinh Sắc, Huỳnh Thúc Kháng.
Đang lúc Phan Châu Trinh nằm trên giường bệnh thì hay tin ông Ninh vừa bị mật thám Pháp đến vây bắt tại nhà vào lúc 11 giờ 30 trưa ngày 24 tháng 3 năm 1926. Ngay đêm hôm đó, lúc 21 giờ 30, ông qua đời tại khách sạn Chiêu Nam Lầu và được đem quàn tại Bá Huê lầu, số 54 đường Pellerin, Sài Gòn, hưởng dương 54 tuổi.
Lời trăn trối cuối cùng của Phan Châu Trinh với Huỳnh Thúc Kháng, được thuật lại là:
"Độc lập của dân tộc ta sau này sở cậy có Nguyễn Ái Quốc".
Phản ứng
Khi Phan Châu Trinh qua đời, có rất nhiều cá nhân và tổ chức gửi câu đối và thơ văn đến đám tang của ông. Trong số đó có bài điếu văn của Huỳnh Thúc Kháng, người bạn thân thiết của Phan Châu Trinh, phản ánh rõ nét cuộc đời và quan điểm chính trị của ông:
...Một đoạn lịch sử của tiên sinh hơn hai mươi năm trời, nào bị tù đày, ở nước này sang nước khác, trải bao nhiêu phen nguy hiểm, trong giây phút này không thể lược thuật lại cho được; chúng tôi xin tóm tắt lại mà nói sơ: Chủ nghĩa tiên sinh đệ nhất là đánh đổ chuyên chế, làm cho dân quyền tự do, còn cái phương pháp tiến hành thì tiên sinh thường nói rằng:
– Tình hình trong nước ta bây giờ đang vào nguy ngập, nếu muốn cải cách thì cần liên lạc đoàn thể mới được. Tiếc cho người nước mình còn đang mê mộng, đồng chí với tiên sinh chẳng được mấy người. Vì vậy mà tấm lòng bị phân hóa ra uất ức, uất ức hóa nên đại bệnh huống gì những điều mắt thấy tai nghe dễ làm cho tiên sinh cảm xúc mà đau được, chết được, thương ôi!
– Thôi, đất vàng một nắm, giấc mộng ngàn thu, sự nghiệp anh hùng, ngày nay hết cuộc. Chúng tôi chỉ mong mai sau này những người kế chí tiên sinh, làm cho vẻ vang dân tộc Việt Nam ta. Thì linh hồn tiên sinh sẽ được yên ổn mà ngậm cười nơi suối vàng.
Một Ủy ban tổ chức lễ quốc táng chí sĩ Phan Châu Trinh gồm nhiều thành viên là các nhân sĩ, trí thức đã được hình thành ngay trong đêm ông qua đời gồm:
Chủ tịch
Bùi Quang Chiêu, Kỹ sư canh nông, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
Các Ủy viên:
Nguyễn Văn Thinh, Bác sĩ y khoa, sau năm 1945 là Thủ tướng Cộng hòa Nam Kỳ tự trị.
Trần Văn Đôn, Bác sĩ y khoa, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
Lê Quang Liêm, Đốc Phủ sứ.
Nguyễn Phan Long, Chủ bút La Tribune Indochinoise, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam năm 1950.
Trương Văn Bền, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ.
Nguyễn Tấn Được, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ
Võ Công Tồn, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ
Nguyễn Tấn Văn, Hội đồng thành phố Sài Gòn.
Trương Văn Công, Hội đồng thành phố Chợ Lớn.
Nguyễn Kim Đính, Chủ nhiệm Đông Pháp thời báo.
Trần Huy Liệu, Chủ bút Đông Pháp thời báo.
Nguyễn Huỳnh Điểu, Hội viên Hội đồng Canh Nông Trà Vinh.
Nguyễn Dư Khánh, tự Khánh Ký, Nhiếp ảnh gia Sài Gòn.
Huỳnh Đình Điển, nhân sĩ Sài Gòn.
Hơn 6 vạn người dân đã đến Sài Gòn, không phân biệt chính trị, đảng phái, tôn giáo tham dự, đã đưa linh cữu Phan Châu Trinh đến nghĩa trang của hội Gò Công tương tế lúc 6 giờ sáng ngày 4 tháng 4 năm 1926.
Bất chấp sự ngăn cản của chính quyền thực dân, phong trào làm lễ truy điệu Phan Châu Trinh được tổ chức rộng rãi ở khắp ba kỳ, trở thành một sự kiện chính trị nổi bật lúc bấy giờ.
Khu mộ của ông hiện ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh và được xếp hạng là Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hiện nay, các tên Phan Châu Trinh hay Phan Chu Trinh được dùng để đặt tên cho nhiều đường phố và trường học trong khắp nước Việt Nam.
Chủ trương cách mạng
Sau khi cáo quan về quê, Phan Châu Trinh dốc lòng vào công việc cứu nước. Mặc dù rất đau xót trước cảnh thực dân Pháp ngược đãi người Việt Nam, quan điểm của Phan Châu Trinh trước mắt chưa nên đặt nhiệm vụ khôi phục chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc (tức đánh đuổi Pháp), mà nhiệm vụ cấp bách là phải:
Khai dân trí: bỏ lối học tầm chương trích cú, mở trường dạy chữ Quốc ngữ cùng kiến thức khoa học thực dụng, bài trừ hủ tục xa hoa.
Chấn dân khí: thức tỉnh tinh thần tự lực, tự cường, mọi người giác ngộ được quyền lợi và nghĩa vụ của mình, giải thoát khỏi tư tưởng chuyên chế phong kiến.
Hậu dân sinh: phát triển kinh tế, cho dân khai hoang làm vườn, lập hội buôn, sản xuất hàng nội địa hóa,...
Cho nên sau khi ông vào Nam ra Bắc, sang Nhật, để trao đổi và tìm hiểu, cuối cùng ông nhất quyết làm cuộc cải cách duy tân cho quốc dân trong nước. Ngoài ra, ông gửi thư cho Toàn quyền Beau ngày 15 tháng 8 năm 1906, chỉ trích chính phủ Pháp không lo mở mang khai hóa cho dân mà chỉ lo thu thuế, do đó dân đã khổ càng khổ hơn. Ông đề nghị chính phủ Đông Dương nên thay đổi thái độ đối với sĩ dân nước Nam, cải tổ mọi chính sách cai trị. Bức thư đã gây tiếng vang lớn trong nhân dân, công khai nói lên tâm trạng bất mãn của dân chúng và khẳng định quyết tâm cải biến hiện trạng của đất nước.
Đối với đường lối hoạt động cứu nước của người bạn thân là Phan Bội Châu (ông gặp Phan Bội Châu vào khoảng tháng 7 năm 1904 và sau đó trở thành đôi bạn thân thiết), Phan Châu Trinh rất hoan nghênh việc bạn và tổ chức của bạn (Duy Tân hội) đã vận động được một số học sinh ra nước ngoài học tập và phổ biến những tài liệu tuyên truyền giáo dục quốc dân trong nước. Song, ông phản đối chủ trương bạo động và tư tưởng bảo hoàng của Phan Bội Châu.
Tôn Quang Phiệt nhận xét về chủ trương của Phan Châu Trinh như sau:
Phan Chu Trinh hô hào: Không bạo động, bạo động là chết… Phan Chu Trinh đã muốn thực hiện chương trình khai dân trí, xướng dân quyền của dân mình; dân đã khôn ngoan tiến bộ về mọi mặt, đã biết dùng quyền của mình thì mới có thể độc lập được. Tuy nhiên, cứ lấy tư cách một người thân sĩ chân không mà hô hào cải lương thì làm sao mà được toàn dân hưởng ứng, toàn dân thực hiện được; mà toàn dân không hưởng ứng, không thực hiện, thì cải lương với ai?
Cả hai phái bạo động và cải lương đều thất bại, vì lúc đó nước ta chưa đủ điều kiện chủ quan và khách quan để đuổi được ngoại xâm giành được độc lập. Tuy nhiên, cách mạng võ trang của Phan Bội Châu được người sau noi theo và đã thành công. Các nhà hoạt động cách mạng thường nói "thất bại là mẹ thành công", trường hợp này rất đúng. Còn chủ trương cải lương của Phan Chu Trinh thì bị thất bại và bị phá sản luôn, sau Phan Chu Trinh những nhà chân chính ái quốc của nước ta không ai đi theo con đường ấy nữa.
Phan Văn Trường (nhà yêu nước cùng thời với Phan Chu Trinh, từng là luật sư Tòa án Paris) viết:
Phan Chu Trinh là một người rất kiên trì, đeo đẳng... Ông vẫn tiếp tục lui tới những nơi làm việc của Bộ Thuộc địa, tìm cách gần gũi những viên chức cao cấp phụ trách về Đông Dương để bày tỏ lòng trung thành của ông, nhưng ông vẫn bị chính quyền Pháp thừa lúc ban hành tình trạng chiến tranh để buộc ông và tôi vào tội có âm mưu chính trị chống lại nước Pháp và tống cả hai vào ngục suốt 11 tháng
Cũng tưởng rằng sau những bài học thấm thía ấy ông Phan Chu Trinh sẽ tỉnh mộng chia tay với tật lạc quan của ông và sẽ vĩnh viễn từ bỏ cái hy vọng được chính quyền thuộc địa chiếu cố thương yêu trở lại. Nhưng sự thật không phải thế. Ông có một thứ triết lý riêng của ông, ông lại vẫn chứng nào tật ấy, làm như chẳng có việc gì xảy ra cả, vẫn tiếp tục lui tới văn phòng Bộ Thuộc địa, vẫn tìm cách gần gũi những người đã bức hại ông...
Ông Phan Chu Trinh rất thông minh, rất dễ mến, rất tốt với bạn bè, nhưng những đức tính nầy không đủ để giúp ông trở thành một nhà cách mạng.
Tuy khâm phục lòng ái quốc của Phan Châu Trinh, nhưng Nguyễn Ái Quốc cho rằng chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh chỉ thích hợp với các nước đã có được độc lập, chứ không thể nào đạt được trong bối cảnh lịch sử Việt Nam khi đó. Phan Châu Trinh đả kích hệ thống quan lại mục nát, tham nhũng và bất lực nhưng không thấy chính sách sử dụng bộ máy quan liêu phong kiến như vậy là bản chất của thực dân Pháp nhằm nô dịch dân chúng thuộc địa. Phan Châu Trinh cố thuyết phục chính phủ thực dân Pháp thay đổi chính sách, cải cách hệ thống quan lại, mở rộng dân chủ và nâng cao dân trí, ý định của ông là khi dân trí nâng cao, tinh thần tự cường tốt thì người dân Việt Nam sẽ mạnh lên, và khi đủ mạnh thì người Việt sẽ quay sang chống lại Pháp để giành độc lập. Nhưng Phan Châu Trinh không thấy được rằng Thực dân Pháp cũng hiểu rất rõ ý định của ông, và không đời nào Pháp lại chấp nhận thi hành những chính sách gây nguy cơ đe dọa đến việc cai trị thuộc địa của họ, nên sự thuyết phục của Phan Châu Trinh sẽ không thể nào thành công. Phan Châu Trinh nhìn thấy sự thành công của Minh Trị duy tân tại Nhật Bản, nhưng ông bỏ qua thực tế rằng cuộc cải cách ở Nhật Bản được tiến hành khi họ vẫn duy trì được nền độc lập và có Thiên hoàng làm lãnh tụ, còn Việt Nam thì đã trở thành thuộc địa gần 30 năm và cũng chẳng có ai đủ khả năng làm lãnh tụ cải cách (vua Nguyễn đã bị Pháp khống chế chặt chẽ). Vì những lẽ đó, Nguyễn Ái Quốc cho rằng:
"Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, đó là sai lầm chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương".
Về sau, việc Phan Châu Trinh bị mật thám Pháp bắt giam năm 1914 và bị cấm về nước cho tới cuối đời, sự nghiệp vận động cách mạng của ông cũng chấm dứt. Ông để lại nhiều bài diễn thuyết thể hiện tư tưởng yêu nước, nhưng về thành tựu chính trị thì ông chưa đạt được gì. Sự thất bại của Phan Châu Trinh đã chứng minh những nhận định của Nguyễn Ái Quốc là xác đáng.
Tác phẩm
Đầu Pháp chính phủ thư (1906)
Hiện trạng vấn đề (1907)
Hợp quần doanh sinh thuyết quốc âm tự (1907)
Tây Hồ thi tập (tập hợp thơ làm trong nhiều năm)
Tuồng Trưng Nữ Vương (soạn chung với Huỳnh Thúc Kháng và Phan Thúc Duyện năm 1910)
Trung Kỳ dân biến tụng oan thủy mạt ký (1911)
Santé thi tập (gồm hơn 200 bài thơ, soạn trong tù tại Pháp, 1915)
Thư thất điều (thư vạch 7 tội của vua Khải Định, 1922)
Giai nhân kỳ ngộ diễn ca (gồm hơn 7.000 câu thơ lục bát, soạn 1912-1913)
Tỉnh quốc hồn ca I, II (phần I, làm khi ở Việt Nam (1907), phần II, làm khi sang Pháp (1922). Đây là thơ hiệu triệu, thức tỉnh đồng bào, tạo dân khí mạnh, đề cao dân quyền)
Bức thư trả lời cho người học trò tên Đông (1925)
Đông Dương chính trị luận (1925)
Đạo đức và luân lý Đông Tây (1925)
Quân trị chủ nghĩa và Dân trị chủ nghĩa (1925)
Ngoài ra, ông còn có các bài diễn thuyết và một số thơ (không nằm trong Tây Hồ thi tập) và câu đối chữ Hán ông làm từ 1902 – 1912...
Trích dẫn
Đánh giá
Tại Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Năm 1926, có một sự thức tỉnh trong toàn quốc tiếp theo sau cái chết của một nhà quốc gia chủ nghĩa già – Phan Châu Trinh. Khắp trong nước đều có lễ truy điệu... Chữ "Chủ nghĩa Quốc gia" từ đó được nói và viết công khai. Những giáo viên người Pháp tìm cách ngăn cấm học sinh tham gia các cuộc meeting đó. Nam nữ học sinh ở nhiều trường, đặc biệt là Sài Gòn là nơi tổ chức đám tang, đã tuyên bố bãi khóa. Hai mươi ngàn người đi theo linh cữu mang biểu ngữ viết những khẩu hiệu có tính chất quốc gia chủ nghĩa. Người An Nam chưa hề được chứng kiến một việc to lớn như vậy bao giờ trong lịch sử.
Nguyễn Ái Quốc cho rằng: "Cụ Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương, đó là sai lầm chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương"
Nhà thơ Tố Hữu:
Muôn dặm đường xa biết đến đâu?
Phan Châu Trinh lạc lối trời Âu.
Học giả Nguyễn Hiến Lê:
Cụ Tây Hồ là người mở đường cho phong trào Duy Tân ở nước ta. Lập Nghĩa Thục, một phần công lớn là của Cụ, gây tư tưởng mới ở Quảng Nam là Cụ, đi khắp nơi diễn thuyết là Cụ, khuyên quốc dân cắt tóc là Cụ, liệng cái Phó bảng mà lập ra hiệu buôn cũng là Cụ, bỏ tục nhuộm răng, vận âu phục bằng nội hóa thì người đầu tiên cũng lại là Cụ.
Giáo sư Trần Văn Giàu:
Qua những vấn đề tư tưởng yêu nước của Phan Châu Trinh được sơ bộ phân tích, có thể thấy rằng đường lối khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh, đường lối chống chủ nghĩa thực dân Pháp nhằm giành lại độc lập tự chủ, lập chế độ quân chủ lập hiến hay chế độ cộng hòa dân chủ, và nhằm đưa nước nhà phát triển theo Tây phương, thực chất là tư tưởng tư sản chứ không phải cái gì khác. Tư tưởng dân chủ tư sản ở Tây phương đầu thế kỷ XX rõ ràng là đã lạc hậu quá rồi bởi vì bấy giờ Tây phương đứng trước ngưỡng cửa của cách mạng vô sản, xã hội chủ nghĩa. Nhưng đối với Đông phương nói chung, với Việt Nam nói riêng, tư tưởng dân chủ tư sản hãy còn đóng vai trò tiến bộ, còn có một ý nghĩa cách mạng, bởi vì Đông phương và Việt Nam lúc này còn phải làm cuộc cách mạng dân chủ tư sản.
Nhà sử học Phạm Văn Sơn:
Chủ trương của Phan Châu Trinh là muốn thi hành một chính sách cải lương cho dân tộc Việt Nam... Chủ trương của ông quả là không tưởng... Về sau này, nhờ sống 15 năm trên đất Pháp, ý thức cách mạng của ông đã tiến bộ nhiều qua bài diễn thuyết về đề tài "Quân trị và dân trị" vào đêm 19 tháng 11 năm 1925 tại Sài Gòn.Dù có những nhận định khác nhau về lập trường chính trị Phan Châu Trinh, nhưng không ai không công nhận ông là một người có tư tưởng dân chủ sớm hơn hết ở Việt Nam.
Nhóm tác giả sách Đại cương lịch sử Việt Nam:
Phan Châu Trinh là một tấm gương sáng trong phong trào Duy Tân đầu thế kỷ 20. Ông là một nhà nho yêu nước có nhiều suy nghĩ tiến bộ. Có thể xem ông là người có tư tưởng dân chủ sớm nhất trong số các nhà nho yêu nước tiến bộ đầu thế kỷ 20.Đặc biệt hơn nữa là con đường ông chọn là con đường dấn thân tranh đấu nhưng ôn hòa, bất bạo động. Đây là điểm khác biệt chính giữa ông và Phan Bội Châu. Phan Châu Trinh xem vấn đề dân chủ còn cấp bách hơn độc lập và tin rằng có thể dùng luật pháp, cách cai trị có quy củ theo kiểu Âu Mỹ để quét sạch những hủ bại của phong kiến. Với tinh thần yêu nước nồng nhiệt, suốt đời gắn bó với vận mệnh đất nước, với cuộc sống sôi nổi, gian khổ và thanh bạch, ông xứng đáng để hậu thế ngưỡng mộ..
Giáo sư Trần Ngọc Vương:khác với chủ trương cầu viện ở nước ngoài của Phan Bội Châu và nhiều người, Phan Châu Trinh lại chủ trương "Ỷ Pháp cầu tiến bộ" (Dựa vào người Pháp để cải tạo xã hội). Ở đây, Phan Châu Trinh đã nhận ra mặt thứ hai của Chủ nghĩa thực dân, ấy là mặt xây dựng chứ không chỉ là mặt phá hoại. Tôi cho đó là cái nhìn tiến bộ và xa hơn rất nhiều so với Phan Bội Châu.
Từ góc độ của mình Phan Châu Trinh nhìn ra đường hướng "Ỷ Pháp cầu tiến bộ" không phải là đường hướng không sáng suốt. Chúng ta chứng kiến một thực tế về sau này là chính hệ thống giáo dục của nước Pháp đã đào tạo ra một đội ngũ trí thức mà chúng ta vẫn gọi là "thế hệ vàng của trí thức Việt Nam". Và chính những trí thức này sau đó đã góp một phần rất lớn trong việc loại bỏ Chủ nghĩa thực dân và tạo nền móng cho một xã hội hiện đại tại Việt Nam. Có nhìn như thế thì mới thấy hết cái viễn kiến, tầm nhìn của Phan Châu Trinh lúc bấy giờ.
Giáo sư Huỳnh Lý:
Phan Châu Trinh là một con người hoạt động, một chí sĩ yêu nước nồng nhiệt, dũng cảm, bất khuất, có đầu óc tổ chức và đầy sáng kiến, có những chủ trương dứt khoát và mạnh bạo, như chủ trương cần phải lật đổ bộ máy phong kiến chứ không thể dựa vào nó, cần phải nâng trình độ nhân dân lên về mọi mặt: dân quyền, dân sinh, dân chủ, và muốn thế phải làm một cuộc vận động "tự lực khai hóa" rộng lớn...Tuy nhiên, vào thời điểm lịch sử của ông, khi thế lực của chủ nghĩa thực dân trên toàn cầu còn rất mạnh, việc ông yêu cầu hết chính phủ ở Đông Dương đến chính khách tư sản ở Pháp, thực hiện cải cách chính trị trước sau đều vấp phải trở lực… nên cuối cùng dẫn ông đến thất bại.
Về sáng tác thơ văn, Phan Châu Trinh đã góp phần vào việc thức tỉnh nhân tâm, làm dấy lên phong trào yêu nước sôi nổi trong ba thập niên đầu thế kỷ 20.
Theo Nguyễn Đức Sự tại Kỷ yếu Hội thảo khoa học về Phan Châu Trinh (tháng 9/1992):Sự thực, chủ nghĩa cải lương của Phan Châu Trinh là một hiện tượng nổi bật trong xã hội Việt nam vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Nó chứng tỏ Phan Châu Trinh rất quan tâm đến sự tiến bộ và tương lai của nước nhà. Chính vì vậy mà ông muốn cải tạo xã hội Việt Nam lúc đương thời theo con đường cải lương, nghĩa là dựa vào chính phủ Bảo hộ và nước Đại Pháp văn minh để tiến hành cải cách nhằm đưa xã hội Việt Nam tiến lên phía trước. Nhưng chủ trương dựa vào Pháp để thực hành cải lương của ông đã thể hiện một sự nhận thức không đúng về chủ nghĩa tư bản đế quốc và nền văn minh tư bản chủ nghĩa. Ông không lý giải được tại sao các nước tư bản tiên tiến luôn cổ vũ nền dân chủ tự do như nước Pháp lại có thể câu kết với những thế lực phong kiến lỗi thời và phản động để nô dịch và áp bức nhân dân thuộc địa. Vì thế chủ trương dựa vào Pháp để thực hành cải lương chỉ là ảo tưởng và không thể nào đạt được mục đích. Ông còn chỉ rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đồi bại của bộ máy quan liêu là sự "dung túng của chính phủ Bảo hộ". Duy ở đây có điều là ông không thấy chính sách sử dụng bộ máy quan liêu sâu mọt như vậy để nô dịch nhân dân là bản chất của thực dân Pháp. Vì thế ông đã cố gắng thuyết phục chính phủ Bảo hộ thay đổi chính sách và tiếp thu những đề nghị của ông về cải cách hệ thống quan lại và mở rộng dân chủ cho nhân dân. Nhưng sự thuyết phục đó không thể thành công.Từ bên ngoài
Nhà sử học Daniel Héméry:Khuôn mặt vĩ đại của Phan Châu Trinh theo tôi là khuôn mặt đáng chú ý nhất trong lịch sử văn hóa và chính trị Việt Nam ở thế kỷ XX, bởi chính ông đã xác định một cách rành mạch, sáng rõ nhất những nan đề (les problematimaques) đặt ra lâu dài mà các thế hệ người Việt Nam sẽ phải và mãi mãi còn phải đảm nhận.Nhà sử học David G.MarrNhư phần lớn những người khác, Phan Châu Trinh đã thụ động trong giai đoạn đầu tiếp nhận những tư tưởng ngoại lai, ít khi tự vấn mình một cách nghiêm khắc để xác định xem những cái mới bổ sung, mâu thuẫn với những cái cũ như thế nào, hay lựa chọn những cái khác, những quan niệm ban đầu. Đối với Phan Châu Trinh cái cần thiết phải có những hành động cương quyết không bao giờ được cụ thể hóa ra cả. Ông ấy cũng không bao giờ bị cưỡng bách trong việc phân biệt và lựa chọn những phương pháp (có ý thức hay không) đến mức độ như Phan Bội Châu.Gia đình
Cha: Phan Văn Bình (?-1886), người làng Tây Lộc, Tiên Phước, một võ quan triều Nguyễn.
Mẹ: Lê Thị Trung (hoặc Chung?) (?-1878), người làng Phú Lâm, Tiên Phước.
Anh chị em: (khuyết)
Vợ: Lê Thị Tỵ (1877-1914), người làng An Sơn, Tiên Phước. Ông bà cưới nhau năm 1896 và có với nhau 3 người con:
Con trai: Phan Châu Dật (1897-1921)
Con gái: Phan Thị Châu Liên (1901-1996), về sau gả cho Đốc học Lê Ấm (1897-1976).
Cháu ngoại: Lê Thị Khoách, Lê Thị Kinh (tức Phan Thị Minh), Lê Thị Lộc, Lê Khâm (tức nhà văn Phan Tứ), Lê Thị Sương, Lê Thị Chi và Lê Thị Trang
Con gái: Phan Thị Châu Lan (1904-1944), về sau gả cho Họa đồ Nguyễn Đồng Hợi (1900-1969)
Cháu ngoại: Nguyễn Thị Châu Sa (tức Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình), Nguyễn Đông Hà, Nguyễn Đông Hải, Nguyễn Thị Châu Loan, Nguyễn Đông Hồ và Nguyễn Đông Hào.
Xem thêm
Phong trào Duy Tân
Phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ (1908)
Phan Tứ
Nguyễn Thị Bình
Giải thưởng Phan Châu Trinh
Chú thích
Tham khảo
Huỳnh Lý, mục từ Phan Châu Trinh trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
Đinh Xuân Lâm (chủ biên) - Nguyễn Văn Khánh - Nguyễn Đình Lễ, Đại cương cương lịch sử Việt Nam'' (Tập 2). Nhà xuất bản Giáo dục, 2006.
Liên kết ngoài
Giáo sư sử học Vĩnh Sính viết về Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu
Quỹ Văn hóa Phan Châu Trinh
Người Quảng Nam
Nhà cách mạng Việt Nam
Phong trào Duy Tân
Quan lại nhà Nguyễn
Nhà văn Việt Nam thời Pháp thuộc
Nhà thơ Việt Nam thời Pháp thuộc
Nhà sử học Việt Nam
Phó bảng
Sinh tại Quảng Nam
Sống tại Quảng Nam
Sống tại Nhật Bản
Sống tại Pháp
Người họ Phan tại Việt Nam
Nhà dân tộc chủ nghĩa Việt Nam
Nhà hoạt động độc lập
Nhà hoạt động dân chủ người Việt Nam
|
19986
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ti%E1%BB%83u%20bang%20v%C3%A0%20v%C3%B9ng%20l%C3%A3nh%20th%E1%BB%95%20%C3%9Ac
|
Tiểu bang và vùng lãnh thổ Úc
|
Các tiểu bang và vùng lãnh thổ của Úc bao gồm:
Tiểu bang
Queensland
Victoria
New South Wales
Nam Úc (South Australia)
Tây Úc (Western Australia)
Tasmania
Lãnh thổ nội địa
Lãnh thổ Bắc (Northern Territory)
Lãnh thổ Thủ đô Úc (Lãnh thổ Thủ đô Úc)
Lãnh thổ vịnh Jervis (Jervis Bay Territory)
Lãnh thổ hải ngoại
Quần đảo Ashmore và Cartier
Đảo Norfolk
Đảo Christmas
Quần đảo Cocos (Keeling)
Quần đảo Coral Sea
Đảo Heard và quần đảo McDonald
Lãnh thổ châu Nam Cực thuộc Úc
Lịch sử
Các tiểu bang có nguồn gốc là các thuộc địa riêng biệt của Anh trước khi Liên bang hóa vào năm 1901. Thuộc địa New South Wales được thành lập vào năm 1788 và ban đầu bao gồm phần lớn Đại lục Úc, cũng như đảo Lord Howe, New Zealand, Đảo Norfolk và vùng đất Van Diemen, ngoài khu vực hiện nay là tiểu bang New South Wales. Trong thế kỷ 19, các khu vực rộng lớn đã được tách ra liên tiếp để tạo thành Thuộc địa Tasmania (ban đầu được thành lập như một thuộc địa riêng biệt với tên vùng đất Van Diemen vào năm 1825), Thuộc địa của Tây Úc (ban đầu thành lập với tên gọi Thuộc địa sông Swan năm 1829), các tỉnh Nam Úc (1836), thuộc địa New Zealand (1840), thuộc địa Victoria (1851) và thuộc địa Queensland (1859). Sáu thuộc địa New South Wales, Victoria, Queensland, Nam Úc, Tây Úc và Tasmania trở thành các bang thành lập Khối thịnh vượng chung Úc mới.
Quyền hạn lập pháp của các bang được bảo vệ bởi hiến pháp Úc, điều 107 và theo đạo luật liên bang, luật pháp Liên bang chỉ áp dụng cho các bang được hiến pháp cho phép. Cũng theo góc độ hiến pháp, các lãnh thổ được quản lý trực tiếp từ Chính phủ Liên bang; luật về lãnh thổ được xác định bởi Quốc hội Úc.
Hầu hết các lãnh thổ được quản lý trực tiếp bởi Chính phủ Liên bang, trong khi hai lãnh thổ: Bắc Úc và Lãnh thổ thủ đô Úc (ACT) có mức độ tự trị mặc dù ít hơn so với các bang. Trong các lãnh thổ tự trị, Quốc hội Úc vẫn giữ toàn bộ quyền lập pháp và có thể ghi đè lên các luật do các thể chế lãnh thổ đưa ra trong những dịp hiếm hoi. Đối với các mục đích của các cơ quan liên chính phủ Úc (và Úc-New Zealand), Lãnh thổ Bắc Úc và Lãnh thổ thủ đô Úc có thể xem ngang với các bang.
Đứng đầu mỗi tiểu bang là một thống đốc, được chỉ định bởi Nữ hoàng, theo quy ước, bà làm theo lời khuyên của Thủ tướng bang. Đứng đầu Lãnh thổ phía Bắc là quản lý viên, được bổ nhiệm bởi Toàn quyền. Lãnh thổ Thủ đô Úc không có Thống đốc hay Quản lý viên, nhưng Toàn quyền thực thi một số quyền lực mà tại các khu vực tài phán khác được Thống đốc của một tiểu bang hoặc Quản lý viên của một lãnh thổ thực hiện, chẳng hạn như quyền giải tán Hội đồng Lập pháp.
Lãnh thổ vịnh Jervis là lãnh thổ nội lục duy nhất không tự quản. Cho đến năm 1989, nó được quản lý như thể nó là một phần của ACT, mặc dù nó luôn là một lãnh thổ riêng biệt. Theo các điều khoản của Đạo luật chấp thuận lãnh thổ vịnh Janner năm 1915, [15] luật của ACT áp dụng đối với Lãnh thổ vịnh Jervis khi chúng được áp dụng và giúp chúng không trái với Pháp lệnh. Mặc dù cư dân của Lãnh thổ Vịnh Janner thường phải tuân theo luật do Hội đồng Lập pháp ACT đưa ra, nhưng họ không được đại diện trong Hội đồng. Họ được đại diện trong Quốc hội Úc là một phần của phân khu Fraser trong ACT và bởi hai Thượng nghị sĩ của ACT. Ở các khía cạnh khác, lãnh thổ được quản lý trực tiếp bởi Chính phủ Liên bang.
Lãnh thổ bên ngoài của Đảo Norfolk sở hữu một mức độ tự trị từ năm 1979 đến năm 2015.
Mỗi tiểu bang có một quốc hội lưỡng viện trừ Queensland, đã bãi bỏ thượng viện vào năm 1922. Hạ viện được gọi là Nghị viện Lập pháp, ngoại trừ ở Nam Úc và Tasmania, nơi được gọi là Hạ viện. Tasmania là tiểu bang duy nhất sử dụng đại diện theo tỷ lệ cho các cuộc bầu cử vào hạ viện; tất cả những người khác bầu các thành viên từ các khu vực bầu cử thành viên duy nhất, sử dụng bỏ phiếu ưu đãi. Thượng viện được gọi là Hội đồng Lập pháp và thường được bầu từ các khu vực bầu cử nhiều thành viên bằng cách sử dụng đại diện theo tỷ lệ. Ba lãnh thổ tự trị là ACT, Lãnh thổ phía Bắc và Đảo Norfolk, mỗi quốc gia đều có Hội đồng lập pháp đơn phương.
Người đứng đầu chính phủ của mỗi bang được gọi là thủ tướng, được bổ nhiệm bởi Thống đốc bang. Trong trường hợp bình thường, Thống đốc sẽ chỉ định làm thủ tướng bất cứ ai lãnh đạo đảng hoặc liên minh thực hiện quyền kiểm soát hạ viện (trong trường hợp Queensland, ngôi nhà duy nhất) của Quốc hội bang. Tuy nhiên, trong thời kỳ khủng hoảng hiến pháp, Thống đốc có thể chỉ định người khác làm Thủ tướng. Người đứng đầu chính phủ của các lãnh thổ nội bộ tự quản được gọi là bộ trưởng. Bộ trưởng lãnh thổ phía Bắc, trong những trường hợp bình thường, bất cứ ai kiểm soát Hội đồng lập pháp, đều được bổ nhiệm bởi quản trị viên.
Thuật ngữ "liên bang" được sử dụng trong nước Úc để chỉ một số sự kiện, giao dịch, đăng ký, du lịch, v.v. xảy ra xuyên biên giới hoặc bên ngoài tiểu bang hoặc lãnh thổ cụ thể của người sử dụng thuật ngữ này. Ví dụ về việc sử dụng bao gồm đăng ký xe cơ giới, du lịch, ứng dụng cho các tổ chức giáo dục ngoài tiểu bang của một người.
Phân chia hành chính
Tham khảo
Danh sách địa lý Úc
Danh sách phân cấp hành chính Úc
Phân vùng Úc
Úc
Úc
|
19988
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/24%20th%C3%A1ng%2011
|
24 tháng 11
|
Ngày 24 tháng 11 là ngày thứ 328 trong mỗi năm thường (thứ 329 trong mỗi năm nhuận). Còn 37 ngày nữa trong năm.
Sự kiện
380 – Theodosius I làm adventus (sự đi vào chính thức), vào thành phố Constantinopolis.
642 – Theodore làm Giáo hoàng sau Gioan IV.
757 – Loạn An Sử: Quân Đại Yên chiếm được thành Tuy Dương sau một năm bao vây, tướng Đường Trương Tuần bị hành hình.
1207 – Sau khi bị bãi chức hữu thừa tướng, đại thần Nam Tống Hàn Thác Trụ bị ám sát, thủ cấp của ông sau đó được giao cho Kim để nghị hòa.
1639 (st.v.) – Jeremiah Horrocks và William Crabtree quan sát Sao Kim lướt qua Mặt Trời lần đầu tiên được xác nhận, sau khi Horrocks dự đoán sự kiện này. (4 tháng 12 theo lịch Gregory)
1642 – Abel Tasman dẫn cuộc thám hiểm tới vùng đất Van Diemen (Van Diemen's Land), nay là Tasmania, Úc.
1859 – Nguồn gốc các loài của nhà tự nhiên học người Anh Charles Darwin được xuất bản lần đầu tiên. Cuốn sách cho rằng những sinh vật từ từ tiến hóa theo thuyết chọn lọc tự nhiên. Lần in đầu tiên được bán hết trong vòng một ngày.
1863 – Nội chiến Hoa Kỳ: Gần Chattanooga, Tennessee, quân đội Liên bang dưới tướng Ulysses S. Grant lấy Núi Lookout và bắt đầu gãy bao vây của quân đội các Tiểu bang Liên minh Hoa Kỳ dưới tướng Braxton Bragg tại thành phố đó, trong Trận Núi Lookout.
1924 – Đoàn Kỳ Thụy nhậm chức chấp chính lâm thời, tức nguyên thủ quốc gia, của Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc.
1947 – Oanh tạc cơ chiến đấu Grumman F9F Panther thực hiện chuyến bay đầu tiên, là kiểu máy bay được Hải quân và Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ sử dụng rộng rãi trong Chiến tranh Triều Tiên.
1963 – Jack Ruby bắn chết Lee Harvey Oswald, nghi phạm số một trong vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy, có truyền hình trực tiếp, gây ra nhiều giả thuyết âm mưu.
1974 – Các nhà cổ nhân chủng học do Donald Johanson dẫn đầu khám phá bộ xương của Australopithecus afarensis sống 3,2 triệu năm trước đây trong vùng lõm Afar ở Ethiopia và đặt tên hiệu của nó là "Lucy" theo bài hát "Lucy in the Sky with Diamonds" của The Beatles.
1976 – Nghi thức đặt móng cho Nhà kỷ niệm Mao Chủ tịch được cử hành tại Bắc Kinh, Trung Quốc.
1992 – Hoa Kỳ hạ quốc kỳ và rút các binh sĩ cuối cùng khỏi Căn cứ Hải quân vịnh Subic tại Philippines.
Sinh
1712 – Charles-Michel de l'Epée, nhà giáo dục từ thiện thế kỷ XVIII , người được vinh danh là "Cha đẻ của người điếc". (m. 1789)
1887 – Erich von Manstein, Thống chế Đức (m. 1973)
1942 – Nhạc sĩ Nhật Ngân
Mất
1896 – Lý Tường Quan, đại phú người Việt gốc Hoa (s. 1842)
1963 – Lee Harvey Oswald, nghi phạm số một trong vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy (s. 1939)
1991 – Freddie Mercury, ca sĩ chính của ban nhạc Queen, tượng đài âm nhạc thế giới (s. 1946)
2019 – Goo Ha-ra, nữ ca sĩ, diễn viên và người mẫu Hàn Quốc (s. 1991)
Ngày lễ và ngày kỷ niệm
Lễ kỷ niệm Các Thánh tử đạo Việt Nam.
Tham khảo
Tháng mười một
Ngày trong năm
|
19991
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/AZERTY
|
AZERTY
|
Bàn phím AZERTY (phiên âm tiếng Việt theo tiếng anh: Ơ-dơt-ti, theo tiếng Pháp: A-déc-ti) là một loại bàn phím được dùng để nhập dữ liệu văn bản trên các máy đánh chữ hay máy tính tại Bỉ, Pháp. Một loại bàn phím tương tự ĄŽERTY cũng được dùng ở Litva.
Bàn phím này ra đời từ thế kỷ 19, được thiết kế để thay thế bàn phím tiếng Anh QWERTY cho máy đánh chữ tiếng Pháp đầu tiên được sản xuất hàng loạt bởi Remington. Nó được đã nghiên cứu và thiết kế để giúp giảm thiểu nguy cơ gây tắc nghẽn cho máy đánh chữ cơ khí. Trên các máy đánh chữ đầu tiên, các que gõ chữ nằm cạnh nhau thường bị va vào nhau. Thiết kế QWERTY giúp các chữ cái hay nằm cạnh nhau trong tiếng Anh được nằm xa nhau trên bàn phím, tránh cho việc các phím bị tắc do va nhau. Thiết kế AZERTY cũng nhằm mục đích tương tự cho tiếng Pháp.
AZERTY trên máy tính hiện đại
Không nhấn shift
Một số nút có thể cho ra kết quả khác trên một số bàn phím.
Nhấn shift
Một số nút có thể cho ra kết quả khác trên một số bàn phím. Nhấn nút Caps-lock, sau đó gõ các phím không cùng lúc với Shift cũng cho ra kết quả giống như trên ở đa số phím.
Với Alt Gr
Một số nút có thể cho ra kết quả khác trên một số bàn phím.
Viết dấu mũ
Nhấn nút ^¨ (nằm giữa pPþ và $£¤, tương đương nút [{ trên QWERTY) sau đó nhấn một trong a, e hay o sẽ được â, ê hay ô.
Viết dấu hai chấm trên
Nhấn shift cùng lúc với ^¨ sau đó nhấn một trong i, e để được ï, ë.
Xem thêm
QWERTY
Tham khảo
Liên kết ngoài
Les machines à écrire sur le site des archives nationales
Histoire d’@
Bố trí bàn phím
Tiếng Pháp
|
19993
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/BLAST
|
BLAST
|
Bài này viết về BLAST (viết hoa), một chương trình dùng trong tin sinh học. Về các nghĩa khác, xem tại blast (định hướng)
Trong tin sinh học, Basic Local Alignment Search Tool, hay BLAST, là một giải thuật để so sánh các chuỗi sinh học, như các chuỗi amino-acid của các protein hay của các chuỗi DNA khác nhau. Khi được cung cấp một thư viện hay cơ sở dữ liệu các chuỗi đó, một tìm kiếm BLAST sẽ cho phép nhà nghiên cứu tìm kiếm các chuỗi con giống với chuỗi có sẵn mà ta quan tâm. Ví dụ, tiếp sau việc khám phá ra các gen mà trước đây chưa biết ở chuột (loại mus musculus), một nhà khoa học sẽ thường thực thi một tìm kiếm BLAST trên genome người để tìm kiếm xem liệu con người có mang các gen giống vậy không; BLAST sẽ xác định các chuỗi nào trong genome người mà giống với gen chuột dựa trên sự giống nhau của chuỗi.
Để chạy, BLAST cần đầu vào là 2 chuỗi: một là chuỗi truy vấn (hay còn gọi là chuỗi đích) và một cơ sở dữ liệu chuỗi. BLAST sẽ tìm kiếm các chuỗi con trong câu truy vấn mà giống với các chuỗi con trong cơ sở dữ liệu chuỗi. Thông thường, khi sử dụng, chuỗi truy vấn là nhỏ hơn rất nhiều so với cơ sở dữ liệu, ví dụ: chuỗi truy vấn có thể chỉ gồm 1 nghìn nucleotide trong khi cơ sở dữ liệu chuỗi có hàng tỉ nucleotide.
BLAST tìm kiếm những bắt cặp trình tự có điểm số cao giữa chuỗi truy vấn và các chuỗi trong cơ sở dữ liệu bằng cách sử dụng phương pháp dựa trên kinh nghiệm (heuristic) để có thể có tìm được kết quả gần tốt bằng với giải thuật Smith-Waterman. Thuật toán bắt cặp trình tự tối ưu của Smith-Waterman là quá chậm khi tìm kiếm trong một cơ sở dữ liệu gen quá lớn như Ngân hàng Gen (GenBank). Bởi vậy, giải thuật BLAST dùng một hướng tiếp cận heuristic, dù ít chính xác hơn Smith-Waterman nhưng lại cho tốc độ nhanh hơn gấp 50 lần. Tốc độ và sự chính xác tương đối của BLAST là những cải tiến kĩ thuật quan trọng của các chương trình BLAST và những điều đó cho thấy lý do vì sao công cụ này lại là công cụ tìm kiếm phổ biến nhất trong tin sinh học.
Thuật toán
Ý tưởng của BLAST dựa trên cơ sở xác suất rằng những chuỗi bắt cặp trình tự (alignment) thường sở hữu nhiều đoạn chuỗi con có tính tương tự cao. Những chuỗi con này được mở rộng để tăng tính tương tự trong quá trình tìm kiếm.
Thuật toán của BLAST có 2 phần, một phần tìm kiếm và một phần đánh giá thống kê dựa trên kết quả tìm được.
Thuật toán tìm kiếm của BLAST bao gồm 3 bước sau:
Bước 1: BLAST tìm kiếm các chuỗi con ngắn với chiều dài cố định W có tính tương tự cao (không cho phép khoảng trống gaps) giữa chuỗi truy vấn và các chuỗi trong cơ sở dữ liệu. Những chuỗi con với chiều dài W được BLAST gọi là một từ (word). Giá trị W tham khảo cho Protein là 3 và DNA là 11. Những chuỗi con này được đánh giá cho điểm dựa trên ma trận thay thế (Substitutionsmatrix) BLOSUM hoặc PAM, những chuỗi con nào có số điểm lớn hơn một giá trị ngưỡng T (threshold value) thì được gọi là tìm thấy và được BLAST gọi là Hits. Ví dụ, khi cho sẵn các chuỗi AGTTAH và ACFTAQ và một từ có chiều dài W = 3, BLAST sẽ xác định chuỗi con TAH và TAQ với số điểm theo ma trận PAM là 3 + 2 + 3 = 8 và gọi chúng là một Hit.
Bước 2: BLAST tiếp tục tìm kiếp những cặp Hits tiếp theo dựa trên cơ sở những Hit đã tìm được trong bước 1. Những cặp Hits này được BLAST giới hạn bởi một giá trị cho trước d, gọi là khoảng cách giữa những Hits. Những cặp Hits có khoảng cách lớn hơn d sẽ bị BLAST bỏ qua. Giá trị d phụ thuộc vào độ dài W ở bước 1, ví dụ nếu W = 2 thì giá trị d đề nghị là d = 16.
Bước 3: Cuối cùng BLAST mở rộng những cặp Hits đã tìm được theo cả hai chiều và đồng thời đánh số điểm. Quá trình mở rộng kết thúc khi điểm của các cặp Hits không thể mở rộng thêm nữa. Một điểm chú ý ở đây là phiên bản gốc của BLAST không cho phép chỗ trống (gap) trong quá trình mở rộng, nhưng ở phiên bản mới hơn đã cho phép chỗ trống. Những cặp Hits sau khi mở rộng có điểm số cao hơn một giá trị ngưỡng S (threshold value) thì được BLAST gọi là "cặp điểm số cao" (high scoring pair) HSP. Ví dụ, với chuỗi AGTTAHTQ và ACFTAQAC với Hit TAH và TAQ sẽ được mở rộng như sau:
AGTTAHTQ
xxx||||x
ACFTAQAC
Những cặp HSP đã tìm được được BLAST sắp xếp theo giá trị đánh giá giảm dần, đưa ra màn hình, và thực hiện phần đánh giá thống kê trên những cặp HSP này.
Trong phần đánh giá thống kê, BLAST dựa trên cơ sở đánh giá của một cặp HSP để tính ra một giá trị gọi là Bit-Score, giá trị này không phụ thuộc vào ma trận thay thế và được sử dụng để đánh giá chất lượng của các bắt cặp. Giá trị càng cao chứng tỏ khả năng tương tựu của các bắt cặp càng cao.
Ngoài ra BLAST tính toán một giá trị trông đợi E-Score (Expect-Score) phụ thuộc vào Bit-Score. Giá trị E-Score này thể hiện xác suất ngẫu nhiên của các bắt cặp, giá trị càng thấp càng chứng tỏ những bắt cặp này được phát sinh theo quy luật tự nhiên, ít phụ thuộc vào tính ngẫu nhiên. (Xem thêm về đột biến (Mutation)).
Ứng dụng
BLAST là một trong những chương trình được sử dụng rộng rãi nhất trong tin sinh học, có lẽ là vì nó giúp giải quyết một vấn đề cơ bản và giải thuật tập trung vào tốc độ hơn tính chính xác. Nó tập trung vào tốc độ vì đó là quyết định đến tính thực tiễn của giải thuật do cơ sở dữ liệu về genome người là cực kì lớn, mặc dù các giải thuật về sau có thể nhanh hơn.
Một vài ví dụ về những câu hỏi mà các nhà nghiên cứu dùng BLAST để tìm câu trả lời
Chủng loại vi khuẩn nào có các protein có liên hệ về giống loài với một loại protein khác mà có chuỗi amino-acid mà ta đã biết không?
Chuỗi DNA mà ta vừa sắp xếp có nguồn gốc từ đâu?
Có gen nào khác dùng để mã hóa các protein có cấu trúc hay dáng dấp gần với cái mà ta vừa xác định không?
BLAST còn được dùng kết hợp với các giải thuật khác có đòi hỏi sự so trùng chuỗi gần đúng.
Giải thuật BLAST và các chương trình máy tính hiện thực nó đã được phát triển bởi Stephen Altschul, Warren Gish, David Lipman tại U.S. National Center for Biotechnology Information (NCBI), Webb Miller tại Đại học Bang Pennsylvania, và Gene Myers tại Đại học Arizona. Nó có sẵn trên web tại . Các hiện thực khác có thể tìm thấy tại và
Bài báo gốc "Altschul, SF, W Gish, W Miller, EW Myers, and DJ Lipman. Basic local alignment search tool. J Mol Biol 215(3):403-10, 1990." được đánh giá là ấn bản có giá trị nhất trong thập niên 1990s.
Các biến thể của BLAST
Chương trình BLAST có thể được tải về và chạy dưới dạng tiện ích dòng lệnh tên là "blastall" hoặc có thể truy xuất miễn phí qua web. Máy chủ web chứa BLAST, đăng ký bởi NCBI, cho phép mọi người dùng trình duyệt web để thực thi tìm kiếm sự giống nhau trên các cơ sở dữ liệu các protein và DNA được cập nhật liên tục với hầu hết các chuỗi mới được tìm thấy trên các thực thể sống.
Một đối trọng với tốc độ cực kì nhanh so với BLAST nhằm so sánh các chuỗi nucleotide với genome là BLAT (Blast Like Alignment Tool). Một phiên bản được thiết kế cho việc so sánh nhiều genome hay chromosomes lớn là BLASTZ.
Các phiên bản BLAST song song được hiện thực dùng MPI,Pthreads và có thể chạy trên các hệ điều hành khác nhau bao gồm Windows, Linux, Solaris, AIX
BLAST thực sự là một họ các chương trình (bao gồm cả chương trình blastall). Sau đây là một số chương trình trong họ, được sắp xếp theo thứ tự quan trọng của nó:
Nucleotide-nucleotide BLAST (blastn): Chương trình này, khi đưa vào một DNA truy vấn, sẽ trả về các chuỗi DNA gần giống nhất từ cơ sở dữ liệu DNA mà người dùng chỉ định.
Protein-protein BLAST (blastp): Chương trình này, khi đưa vào một protein truy vấn, sẽ trả về các chuỗi protein gần giống nhất từ cơ sở dữ liệu protein mà người dùng chỉ định.
Position-Specific Iterative BLAST (PSI-BLAST): Một trong những chương trình BLAST mới nhất, chương trình này dùng để tìm kiếm các mối quan hệ xa (distant relative) của một protein. Trước tiên, một danh sách các protein liên quan sẽ được tạo ra. Sau đó, những protein này được kết hợp thành một "profile" dưới dạng chuỗi trung bình (average sequence). Một câu truy vấn tới một cơ sở dữ liệu protein sẽ được thực thi nhờ profile này, và một nhóm lớn hơn các protein được tìm thấy. Nhóm lớn này lại được dùng để tạo ra một profile khác, và quá trình này cứ lặp lại. Bằng cách thêm các protein liên quan vào việc tìm kiếm, PSI-BLAST trở nên tốt hơn trong việc lựa ra các mối quan hệ tiến hóa cách xa nhau hơn là phần mềm chuẩn protein-protein BLAST.
Nucleotide-protein 6-frame translation (blastx): Chương trình này so sánh các sản phẩm chuyển đổi (trừu tượng) sang 6-khung của một chuỗi nucleotide truy vấn (cả hai dải) với một cơ sở dữ liệu chuỗi protein. Quá trình này có thể rất chậm.
Nucleotide-nucleotide 6-frame translation (tblastx): Chương trình này là chậm nhất trong họ BLAST. Nó chuyển chuỗi nucleotide truy vấn thành mọi 6-khung (frame) có thể và so sánh các proteins tạo thành. Mục tiêu của tblastx là tìm kiếm mối quan hệ rất xa giữa các chuỗi nucleotide.
Protein-nucleotide 6-frame translation (tblastn): Chương trình này chuyển cơ sở dữ liệu đích thành mọi 6-khung (frame) và so sánh với chuỗi protein truy vấn.
Large numbers of query sequences (megablast): Khi so sánh một số lượng lớn các chuỗi đầu vào qua chỉ một BLAST dạng dòng lệnh, "megablast" là nhanh hơn rất nhiều so với chạy BLAST nhiều lần.
Tham khảo
Hans-Joachim Böckenhauer, Dirk Bongartz, (2003) Algorithmische Grundlagen der Bioinformatik ISBN 3-519-00398-8
Dan Gusfield, (1997) Algorithms on strings, trees, and sequences ISBN 0-521-58519-8
Warren J. Ewens, Gregory R. Grant, (2005) Statistical Methods in Bioinformatics - An Introduction ISBN 0-387-40082-6
Xem thêm
Thuật toán FASTA
Ma trận thay thế BLOSUM
Ma trận thay thế PAM
Đột biến
Các liên kết ngoài
NCBI-BLAST Home page
NCBI-BLAST Tutorial
WU-BLAST (Một hiện thực khác của BLAST do Warren Gish tại Đại học Washington)
FSA-BLAST (Một phiên bản mới, nhanh hơn nhưng vẫn chính xác của BLAST dựa trên những cải tiến giải thuật mới công bố gần đây)
BioASP BLAST (Bioinformatics Application Services Platform, running BLAST)
Parallel BLAST [A dual scheduling BLAST tested on the Blue Gene/L)
Tham khảo
Tin sinh học
|
19994
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khai%20ph%C3%A1%20d%E1%BB%AF%20li%E1%BB%87u
|
Khai phá dữ liệu
|
Khai phá dữ liệu (data mining) Là quá trình tính toán để tìm ra các mẫu trong các bộ dữ liệu lớn liên quan đến các phương pháp tại giao điểm của máy học, thống kê và các hệ thống cơ sở dữ liệu. Đây là một lĩnh vực liên ngành của khoa học máy tính. Mục tiêu tổng thể của quá trình khai thác dữ liệu là trích xuất thông tin từ một bộ dữ liệu và chuyển nó thành một cấu trúc dễ hiểu để sử dụng tiếp. Ngoài bước phân tích thô, nó còn liên quan tới cơ sở dữ liệu và các khía cạnh quản lý dữ liệu, xử lý dữ liệu trước, suy xét mô hình và suy luận thống kê, các thước đo thú vị, các cân nhắc phức tạp, xuất kết quả về các cấu trúc được phát hiện, hiện hình hóa và cập nhật trực tuyến. Khai thác dữ liệu là bước phân tích của quá trình "khám phá kiến thức trong cơ sở dữ liệu" hoặc KDD.
Diễn giải
Khai phá dữ liệu là một bước của quá trình khai thác tri thức (Knowledge Discovery Process), bao gồm:
Xác định vấn đề và không gian dữ liệu để giải quyết vấn đề (Problem understanding and data understanding).
Chuẩn bị dữ liệu (Data preparation), bao gồm các quá trình làm sạch dữ liệu (data cleaning), tích hợp dữ liệu (data integration), chọn dữ liệu (data selection), biến đổi dữ liệu (data transformation).
Khai thác dữ liệu (Data mining): xác định nhiệm vụ khai thác dữ liệu và lựa chọn kỹ thuật khai thác dữ liệu. Kết quả cho ta một nguồn tri thức thô.
Đánh giá (Evaluation): dựa trên một số tiêu chí tiến hành kiểm tra và lọc nguồn tri thức thu được.
Triển khai (Deployment).
Quá trình khai thác tri thức không chỉ là một quá trình tuần tự từ bước đầu tiên đến bước cuối cùng mà là một quá trình lặp và có quay trở lại các bước đã qua.
Các phương pháp khai thác dữ liệu
Phân loại (Classification): Là phương pháp dự báo, cho phép phân loại một đối tượng vào một hoặc một số lớp cho trước.
Hồi qui (Regression): Khám phá chức năng học dự đoán, ánh xạ một mục dữ liệu thành biến dự đoán giá trị thực.
Phân nhóm (Clustering): Một nhiệm vụ mô tả phổ biến trong đó người ta tìm cách xác định một tập hợp hữu hạn các cụm để mô tả dữ liệu.
Tổng hợp (Summarization): Một nhiệm vụ mô tả bổ sung liên quan đến phương pháp cho việc tìm kiếm một mô tả nhỏ gọn cho một bộ (hoặc tập hợp con) của dữ liệu.
Mô hình ràng buộc (Dependency modeling): Tìm mô hình cục bộ mô tả các phụ thuộc đáng kể giữa các biến hoặc giữa các giá trị của một tính năng trong tập dữ liệu hoặc trong một phần của tập dữ liệu.
Dò tìm biến đổi và độ lệch (Change and Deviation Detection): Khám phá những thay đổi quan trọng nhất trong bộ dữ liệu.
Các vấn đề về tính riêng tư
Vẫn có các mối lo ngại về tính riêng tư gắn với việc khai thác dữ liệu. Ví dụ, nếu một ông chủ có quyền truy xuất vào các hồ sơ y tế, họ có thể loại những người có bệnh tiểu đường hay bệnh tim. Việc loại ra những nhân viên như vậy sẽ cắt giảm chi phí bảo hiểm, nhưng tạo ra các vấn đề về tính hợp pháp và đạo đức.
Khai thác dữ liệu các tập dữ liệu thương mại hay chính phủ cho các mục đích áp đặt luật pháp và an ninh quốc gia cũng là những mối lo ngại về tính riêng tư đang tăng cao.
Có nhiều cách sử dụng hợp lý với khai thác dữ liệu. Ví dụ, một CSDL các mô tả về thuốc được thực hiện bởi một nhóm người có thể được dùng để tìm kiếm sự kết hợp của các loại thuốc tạo ra các phản ứng (hóa học) khác nhau. Vì việc kết hợp có thể chỉ xảy ra trong một phần 1000 người, một trường hợp đơn lẻ là rất khó phát hiện. Một dự án liên quan đến y tế như vậy có thể giúp giảm số lượng phản ứng của thuốc và có khả năng cứu sống con người. Không may mắn là, vẫn có khả năng lạm dụng đối với một CSDL như vậy.
Về cơ bản, khai thác dữ liệu đưa ra các thông tin mà sẽ không có sẵn được. Nó phải được chuyển đổi sang một dạng khác để trở nên có nghĩa. Khi dữ liệu thu thập được liên quan đến các cá nhân, thì có nhiều câu hỏi đặt ra liên quan đến tính riêng tư, tính hợp pháp, và đạo đức.
Các lĩnh vực ứng dụng
Các lĩnh vực hiện tại có ứng dụng Khai thác dữ liệu bao gồm:
Những ứng dụng đáng chú ý của khai thác dữ liệu
Khai thác dữ liệu được xem là phương pháp mà đơn vị Able Danger của Quân đội Mỹ đã dùng để xác định kẻ đứng đầu cuộc tấn công ngày 11 tháng 9, Mohamed Atta, và ba kẻ tấn công ngày 11 tháng 9 khác là các thành viên bị nghi ngờ thuộc lực lượng al Qaeda hoạt động ở Mỹ hơn một năm trước cuộc tấn công.
Xem tin tức Wikinews tại: Wikinews: U.S. Army intelligence detection of 9/11 terrorists before attack
Xem bài viết về đơn vị Able Danger.
Xem thêm
Tham khảo
Trong bài:
W. Frawley and G. Piatetsky-Shapiro and C. Matheus, Knowledge Discovery in Databases: An Overview. AI Magazine, Fall 1992, pages 213-228.
D. Hand, H. Mannila, P. Smyth: Principles of Data Mining. MIT Press, Cambridge, MA, 2001. ISBN 0-262-08290-X
Fred Schwed, Jr, Where Are the Customers' Yachts? ISBN 0471119792 (1940).
T. Menzies, Y. Hu, Data Mining For Very Busy People. IEEE Computer, tháng 10 năm 2003, pages 18–25.
K. A. Taipale, Data Mining and Domestic Security: Connecting the Dots to Make Sense of Data, Center for Advanced Studies in Science and Technology Policy. 5 Colum. Sci. & Tech. L. Rev. 2 (tháng 12 năm 2003).
Eddie Reed, Jing Jie Yu, Antony Davies, et al., Clear Cell Tumors Have Higher mRNA Levels of ERCC1 and XPB than Other Types of Epithelial Ovarian Cancer , Clinical Cancer Research, 2003.
Xem thêm
Rakesh Agrawal, Tomasz Imielinski, and Arun Swami. Mining Association Rules between Sets of Items in Large Databases (1993). Proceedings of the 1993 ACM SIGMOD International Conference on Management of Data, months 26–28, pp. 207–216.
Rakesh Agrawal and Ramakrishnan Srikant. Fast Algorithms for Mining Association Rules (1994). Proceedings of the 20th International Conference on Very Large Data Bases (VLDB), month 12–15, pp. 487–499.
Jaiwei Han and Micheline Kamber, Data Mining: Concepts and Techniques (2001), ISBN 1-55860-489-8
Ruby Kennedy et al., Solving Data Mining Problems Through Pattern Recognition (1998), ISBN 0-13-095083-1
O. Maimon and M. Last, Knowledge Discovery and Data Mining – The Info-Fuzzy Network (IFN) Methodology, Kluwer Academic Publishers, Massive Computing Series, 2000.
Hari Mailvaganam, Future of Data Mining , (tháng 12 năm 2004)
Sholom Weiss and Nitin Indurkhya, Predictive Data Mining (1998), ISBN 1-55860-403-0
Ian Witten and Eibe Frank, Data Mining: Practical Machine Learning Tools and Techniques with Java Implementations (2000), ISBN 1-55860-552-5
Yike Guo and Robert Grossman, editors, "High Performance Data Mining: Scaling Algorithms, Applications and Systems", Kluwer Academic Publishers, 1999.
Các liên kết ngoài
Data Mining Software Guide
Eruditionhome Directory site for data mining and web mining resources
Limited introduction to Data Mining (TwoCrows.com)
thearling.com Comprehensive data mining white papers and tutorials
SQLServerDataMining.com Information and interactive demos on SQL Server 2005 Data Mining
CRM Today - Data Mining White papers, articles, presentations and academic papers on data mining
Data Mining whitepapers, webcasts and case studies
Data Mining and Data Warehousing Guide to Data Mining
Tổng hợp thông tin báo chí tự động
Phần mềm
YALE Là công cụ miễn phí cho học máy và khai thác dữ liệu
Weka Phần mềm mã nguồn mở phục vụ cho khai thác dữ liệu viết bằng Java
Parago Khai thác dữ liệu và Quản lý ICT Asset cho trường học
Tanagra Phần mềm thống kê và khai thác dữ liệu mã nguồn mở
Thu thập dữ liệu
Khoa học thông tin
Quản lý công nghệ thông tin
Xử lý ngôn ngữ tự nhiên
Biểu diễn tri thức
Business intelligence
Khám phá tri thức trong cơ sở dữ liệu
Phân tích dữ liệu
Khoa học hình thức
|
19998
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%ADn%20d%E1%BA%A1ng%20m%E1%BA%ABu
|
Nhận dạng mẫu
|
Nhận dạng mẫu (pattern recognition) là một ngành thuộc lĩnh vực học máy (machine learning). Nói cách khác, nó có thể được xem là việc "cần thực hiện một tác động vào dữ liệu thô mà tác động cụ thể là gì sẽ tùy vào loại của dữ liệu đó" [1]. Như vậy nó là một tập các phương pháp học có giám sát (supervised learning).
Nhận dạng mẫu nhằm mục đích phân loại dữ liệu (là các mẫu) dựa trên: hoặc là kiến thức tiên nghiệm (a priori) hoặc dựa vào thông tin thống kê được trích rút từ các mẫu có sẵn. Các mẫu cần phân loại thường được biểu diễn thành các nhóm của các dữ liệu đo đạc hay quan sát được, mỗi nhóm là một điểm ở trong một không gian đa chiều phù hợp. Đó là không gian của các đặc tính để dựa vào đó ta có thể phân loại.
Một hệ thống nhận dạng mẫu hoàn thiện gồm một thiết bị cảm nhận (sensor) để thu thập các quan sát cần cho việc phân loại hay miêu tả; một cơ chế trích rút đặc trưng (feature extraction) để tính toán các thông tin dưới dạng số hay dạng tượng trưng (symbolic) từ các dữ liệu quan sát được; và một bộ phân loại (hay lược đồ mô tả) nhằm thực hiện công việc phân loại thực sự (hay miêu tả các quan sát đó) dựa vào các đặc tính đã được trích rút.
Việc phân loại (hay lược đồ mô tả) thường dựa vào sự có sẵn của một tập các mẫu mà đã được phân loại (hay miêu tả) sẵn. Tập các mẫu này được gọi là tập huấn luyện và chiến lược học nhằm phân loại mẫu vào một trong các lớp có sẵn được gọi là học có giám sát. Việc học cũng có thể là không có giám sát, theo nghĩa là hệ thống không được cung cấp các mẫu được đánh nhãn (phân loại) tiên nghiệm, mà nó phải tự đưa ra các lớp để phân loại dựa vào tính ổn định trong thống kê của các mẫu.
Việc phân loại (hay lược đồ mô tả) thường dùng một trong các hướng tiếp cận sau: thống kê (hay lý thuyết quyết định), cú pháp (hay cấu trúc). Nhận dạng mẫu dùng thống kê là dựa vào các đặc tính thống kê của các mẫu, chẳng hạn rằng các mẫu được tạo mởi một hệ thống xác suất. Nhận dạng dùng cấu trúc là dựa vào tương quan cấu trúc giữa các mẫu.
Các ứng dụng phổ biến là nhận dạng tiếng nói tự động, phân loại văn bản thành nhiều loại khác nhau (ví dụ: những thư điện tử nào là spam/non-spam), nhận dạng tự động các mã bưu điện viết tay trên các bao thư, hay hệ thống nhận dạng danh tính dựa vào mặt người. Ba ví dụ cuối tạo thành lãnh vực con phân tích ảnh của nhận dạng mẫu với đầu vào là các ảnh số.
Xem thêm
Hệ thống nhận dạng khuôn mặt
Liên kết ngoài
Danh sách các trang web Nhận dạng Mẫu
Hướng dẫn sử dụng mạng nơ ron trong các ứng dụng thực tế trong đó có minh họa phân loại ảnh khuôn mặt, ảnh người đi bộ, ảnh xe hơi, dự báo chứng khoán và một số ví dụ khác
Tham khảo
Richard O. Duda, Peter E. Hart, David G. Stork (2001) Pattern classification (2nd edition), Wiley, New York, ISBN 0-471-05669-3.
Dietrich Paulus and Joachim Hornegger (1998) Applied Pattern Recognition (2nd edition), Vieweg. ISBN 3-528-15558-2
J. Schuermann: Pattern Classification: A Unified View of Statistical and Neural Approaches, Wiley&Sons, 1996, ISBN 0-471-13534-8
Sholom Weiss and Casimir Kulikowski (1991) Computer Systems That Learn, Morgan Kaufmann. ISBN 1-55860-065-5
Giải thuật phân loại
Học máy
Khoa học hình thức
Nhận dạng mẫu
|
20002
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BB%A9c%20h%E1%BB%A3p%20ph%C3%B9%20h%E1%BB%A3p%20t%E1%BB%95%20ch%E1%BB%A9c%20ch%C3%ADnh
|
Phức hợp phù hợp tổ chức chính
|
Phức hợp tương thích mô chính (major histocompatibility complex, MHC) hay ở người còn được gọi kháng nguyên bạch cầu người (human leucocyte antigen, HLA) là một nhóm gene mã hoá cho các protein trình diện kháng nguyên trên bề mặt tế bào của đa số động vật có xương sống. Những protein này đóng vai trò quan trọng trong tổ chức miễn dịch của cơ thể cũng như những cơ chế giao tiếp giữa các tế bào.
Những thuật ngữ tiếng Việt để chỉ MHC đã được sử dụng bao gồm: Phức hợp tương thích mô chính, Phức hệ hoà hợp mô chính, Phức hệ phù hợp tổ chức chính, Hệ thống trình diện kháng nguyên.
Lịch sử
Đầu thế kỷ 20, nhiều thí nghiệm ghép mô đã được tiến hành. Kết quả thường gặp là mô ghép bị đào thải sau một thời gian nhất định hoặc gây ra cái chết cho động vật được ghép. Tuy nhiên, mô ghép được dung nạp hoàn toàn nếu vật cho và vật nhận là một cặp sinh đôi. Từ đó người ta kết luận rằng kết quả của ghép mô phụ thuộc vào yếu tố di truyền.
MHC của chuột (H2)
Năm 1936, Gorer đã tìm ra MHC của chuột và đặt tên là "antigen II". Năm 1948, Snell miêu tả đặc điểm của MHC và đề nghị thuật ngữ "tương hợp mô" (histocompatibility). Sau cùng, người ta gọi MHC chuột bằng cái tên ghép H-2 (Histocompatibility-2). Hiện nay, người ta quy ước tên các gen của chuột được viết thường để phân biệt với các gen tương ứng ở người (viết hoa).
MHC của người (HLA)
Trong thập niên 1950, MHC của người đã được xác định bằng các nghiên cứu độc lập của Dausset (1952, 1958), Payne (1958) và van Rood (1958). Người ta thấy rằng máu của những phụ nữ nhiều lần sinh đẻ hoặc của những người từng được truyền máu có chứa các kháng thể làm ngưng kết bạch cầu. Các kháng nguyên tương ứng được gọi là kháng nguyên bạch cầu người (HLA).
HLA đã chứng tỏ được vai trò quan trọng khi cần phải ghép mô (thí dụ: ghép tủy xương), do đó nghiên cứu về HLA cũng như các kỹ thuật xác định sự tương hợp HLA đã được đẩy mạnh.
Bằng kỹ thuật phân loại huyết thanh, người ta sớm xác định được hai nhóm kiểu hình của HLA và đặt tên là HLA-A và HLA-B. Không lâu sau đó, HLA-C được xác định. Tiếp theo, "phản ứng MLC" (MLC - mixed lymphocyte culture) - một xét nghiệm in vitro ("trong lồng kính") để tìm sự tương hợp HLA đã được phát minh (dựa trên quan sát thấy hỗn hợp các tế bào lympho của những người không cùng huyết thống kích thích sự tăng sản của các bạch cầu đơn nhân).
Tuy nhiên kết quả của các xét nghiệm dựa trên phản ứng với hỗn hợp lympho bào nuôi cấy này không phải lúc nào cũng phù hợp với xét nghiệm bằng kỹ thuật phân loại huyết thanh. Sau cùng, người ta xác định được một locus gene khác trong phức hệ MHC có vai trò kiểm soát đối với "phản ứng MLC" ở cả người (Yunis, 1971) và chuột (Bach, 1972).
Khu vực gene MHC thứ hai này cũng nhanh chóng được xác định là rất đa dạng ở cả chuột (Sachs, 1973) và người (Jones, 1975). Các locus mới này được gọi là HLA-D và nó mã hóa cho nhiều hơn một sản phẩm (Park, 1978), (Tosi, 1978). Tiến bộ của ngành sinh học phân tử đã làm nên một cuộc cách mạng trong kỹ thuật xác định tương hợp HLA trong thập niên 1980 (Wake, 1982), (Owerbach, 1983). Bằng nhiều kỹ thuật xác định DNA khác nhau (Bidwell, 1994), (Begovich, 1995), nhiều locus mới trong phức hệ MHC đã được khám phá và các allen mới cũng liên tục được tìm thấy (Bodmer, 1995).
HLA-A, HLA-B và HLA-C thuộc nhóm MHC lớp I, HLA-D thuộc lớp II.
Sự khám phá các chức năng của MHC
MHC đã được tìm ra với tư cách là một kháng nguyên quan trọng trong sự tương hợp mô. Tuy nhiên, vai trò sinh lý của nó mãi đến thập niên 1970 mới được khám phá. Năm 1972, Benaceraff và McDevitt đã xác định các gene Ir (Immune response) trong hệ H-2 kiểm soát tính chất "đáp ứng" hay "không đáp ứng" miễn dịch đối với một số kháng nguyên polypeptide. Tương tác giữa các phân tử MHC với các tế bào lympho T trong các phản ứng miễn dịch cũng được phát hiện bởi Rosenthal năm 1973. Năm 1974, Zinkernagel đã chứng minh rằng đáp ứng miễn dịch của lympho T không chỉ tùy theo bản chất của kháng nguyên, mà còn phụ thuộc vào phân tử MHC.
Song song, quá trình sản xuất kháng thể cũng được xác định là phụ thuộc MHC (Kindred, 1972), cụ thể là các MHC lớp II (Katz, 1973). Ngày nay, nhờ các nghiên cứu bằng kỹ thuật tinh thể học, người ta biết được nhiều chi tiết về chức năng của phân tử MHC cũng như cấu trúc của các phân tử MHC lớp I (Bjorkman, 1987) và lớp II (Brown, 1993).
Sự khám phá các nguy cơ bệnh tật liên quan đến MHC
Người ta thấy có sự liên hệ giữa một số kiểu hình HLA với một số bệnh, nhất là các bệnh tự miễn. Năm 1967, một vài kiểu hình MHC được xác định là có nguy cơ cao mắc bệnh Hodgkin (Amiel, 1967). Không lâu sau đó, nhiều bệnh cũng được chứng tỏ là có liên quan đến các gene MHC. Tuy nhiên cơ chế chính xác của nguy cơ liên quan đến MHC trong các bệnh tự miễn vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ.
Cấu tạo, chức năng các phân tử MHC
Trình diện kháng nguyên
Bài chính: Trình diện kháng nguyên
Lympho B thông qua các thụ thể kháng nguyên (là các globulin miễn dịch) có thể nhận diện những kháng nguyên "thô". Ngược lại, thụ thể của lympho T chỉ có thể nhận diện được kháng nguyên dưới dạng các mẩu (đoạn) peptide gắn với một (đại) phân tử của phức hợp MHC. Như vậy, protein của tác nhân gây bệnh phải được cắt xén, xử lý thành các đoạn peptide ngắn trước khi trình diện cho tế bào T. Việc "biên tập" kháng nguyên xảy ra ở khu vực nội bào, các đoạn peptide sau đó được gắn vào phức hợp MHC rồi đưa ra bề mặt tế bào. Quá trình gắn đoạn peptide vào MHC và phơi ra mặt ngoài tế bào gọi là sự trình diện kháng nguyên.
Hai loại MHC
Các vi sinh vật gây bệnh có thể tạm chia thành hai loại: loại phát triển ở nội bào (virus, một số vi khuẩn nội bào...) và loại xâm nhập khu vực ngoại bào (thí dụ: hầu hết các vi khuẩn). Các tế bào T cũng gồm hai loại tương ứng với hai hình thức nhiễm bệnh đó. Lympho T CD8 có đặc tính độc tế bào với vai trò chính là tiêu diệt các tế bào bị nhiễm các tác nhân gây bệnh nội bào. Còn lympho T CD4 có chức năng chính là giúp đỡ các tế bào khác của hệ miễn dịch chống lại các tác nhân gây bệnh ngoại bào.
Hệ thống MHC rất đa dạng về kiểu hình, nhưng đại thể có thể chia làm hai nhóm chính: các MHC lớp I trình diện kháng nguyên cho lympho T CD8; lớp II cho tế bào T CD4. Tuy khác nhau về đối tượng hoạt động, hai loại MHC có cấu trúc phân tử gần giống nhau (đều là các loại glycoprotein màng).
MHC lớp I
MHC lớp I có trên bề mặt của hầu hết tất cả các tế bào có nhân của cơ thể, chúng gắn với các peptide được cắt ra từ các kháng nguyên tạo ra trong tế bào, các kháng nguyên này có thể là các protein của chính cơ thể hoặc các protein hoặc của các virus hay vi khuẩn nội bào.
Phức hệ phân tử MHC lớp I gồm một chuỗi nặng xuyên màng (chuỗi α), liên kết không đồng hóa trị với một chuỗi nhẹ ngoại màng β2-microglobulin. Phần ngoại bào của chuỗi nặng gồm 3 domain: α1, α2 và α3, mỗi domain khoảng 90 amino acid. Phần xuyên màng gồm 25 amino acid và phần nội bào 30 amino acid.
Vị trí gắn mẩu peptide ở giữa hai domain α1 và α2 (là những domain ở xa màng tế bào nhất). Khác với chuỗi α, chuỗi β2-microglobulin là chuỗi duy nhất không có tính đa dạng kiểu hình và không được mã hóa bởi các gene thuộc phức hệ MHC.
Khối lượng của chuỗi α là 44 kDa, chuỗi β2-microglobulin là 12 kDa.
MHC lớp II
Không như MHC lớp I, các phân tử MHC lớp II chỉ có trên một số loại tế bào của hệ miễn dịch, như các tế bào trình diện kháng nguyên chuyên nghiệp (đại thực bào, tế bào tua) hoặc các lympho B, đã hoạt hóa. Các tế bào này thực bào các kháng nguyên, "biên tập" chúng thành các đoạn peptide trước khi gắn với MHC lớp II rồi phơi bày trên màng tế bào.
Phức hệ phân tử MHC lớp II gồm hai chuỗi xuyên màng (α và β). Cả hai đều thuộc về họ các phân tử globulin miễn dịch và được mã hóa bởi các gene trong hệ MHC. Mỗi chuỗi góp một domain (α1 và β1) tạo nên vị trí gắn mẩu peptide.
Khối lượng chuỗi α khoảng 33-35 kDa, chuỗi β 26-28 kDa.
Cơ chế chọn lọc giữa MHC với các loại lympho bào T
Các tế bào T CD8 chỉ nhận diện các kháng nguyên qua phân tử MHC lớp I còn các lympho bào T CD4 chỉ nhận diện các kháng nguyên thông qua MHC lớp II. Trên MHC I, α3 có sequence tương tác với phân tử CD8 và trên MHC II, β2 có cấu tạo tương hợp với CD4.
Gene mã hóa phức hệ MHC
Hệ thống gene HLA nằm trên nhánh ngắn của nhiễm sắc thể 6 (band 6p21.3).
Riêng gene mã hóa cho chuỗi β2-microglobulin của MHC lớp I nằm trên nhiễm sắc thể 15 (15q21-q22.2) và không có tính đa dạng kiểu hình (gene này không được xem là thuộc hệ HLA).
Các chuỗi được mã hóa bởi các gene HLA có chung một số đặc điểm với các globulin miễn dịch và được xếp vào họ các phân tử globulin miễn dịch.
Trong khu vực các gene của hệ HLA còn có các gene của các thành phần khác của hệ miễn dịch (một số bổ thể, TNF α và β, lymphotoxin B) cũng như các gene CYP21A, CYP21B, TAP1 và TAP2...
Các gene HLA lớp I
Ba gene HLA-A, -B và -C mỗi gene mã hóa một chuỗi α của MHC lớp I (tương ứng với các phân tử HLA-A, -B và -C). Mỗi gene được tổ chức thành 8 exon: exon 1 mã hóa peptide tín hiệu, sẽ bị cắt trong quá trình vận chuyển phân tử ở nội bào; các exon 2, 3, 4 mã hóa lần lượt cho các domain α1, α2 và α3; các exon 5, 6, 7, 8 mã hóa peptide liên kết, phần xuyên màng và phần nội bào của phân tử MHC cũng như vùng 3' không dịch mã.
Tính đa dạng tập trung ở các hai exon 2 và 3 (mã hóa cho α1 và α2 - vị trí gắn peptide).
Các gene HLA lớp II
Các gene HLA-D mã hóa cho các chuỗi α và β của MHC lớp II. Tổ chức của HLA-D đa dạng hơn của các gene thuộc MHC lớp I, bao gồm các locus HLA-DR (D-related), -DQ, -DP. Tại mỗi locus có hai gene A1 và B1 mã hóa tương ứng cho các chuỗi α và β cùng một số các pseudogene. Sự biểu hiện các gene thuộc HLA-DR rất phức tạp: tùy theo kiểu gene, một hoặc hai phân tử DR sẽ được giải mã.
Các gene MHC lớp II được tổ chức thành 5 hoặc 6 exon: exon 1 mã hóa peptide tín hiệu, các exon 2, 3 mã hóa cho các domain ngoại bào; exon 4 mã hóa peptide liên kết, phần xuyên màng và đoạn đầu của phần nội bào; các exon 5 và 6 mã hóa đoạn cuối phần nội bào và vùng 3' không dịch mã.
3 đặc tính cơ bản của các gene HLA
Di truyền theo bộ đơn bội: một người sẽ thừa hưởng nguyên một bloc gene HLA của cha và một bloc gene HLA của mẹ. Các gene HLA liên kết khá chặt chẽ, hiện tượng tái tổ hợp rất hiếm (khoảng 1 % giữa các locus B và DR).
Tính đa dạng: nhiều locus có rất nhiều (lên đến hàng trăm) allen khác nhau. Đó là kết quả của các đột biến cổ xưa cũng như của hiện tượng chuyển gene.
Hiện tượng đồng trội: cả hai allen (từ cha và từ mẹ) cùng được biểu hiện.
Danh pháp
Danh pháp hiện hành của các gene HLA:
Công thức chung của tên các allen là Tên gene + dấu * + mã số allen + mã số của sub-allen.
Thí dụ:
HLA lớp I: A*1101 (A11,A11E theo các danh pháp cũ): locus HLA-A, allen 11, tiểu loại 01.
HLA lớp II: HLA-DRB1*0101 (DR1,Dw1 theo danh pháp cũ): locus DRB1 (mã hóa chuỗi β1), allen 01, tiểu loại 01.
Liên quan giữa MHC và bệnh tật
Rất lâu trước khi vai trò trình diện kháng nguyên của MHC được khám phá, người ta thấy có sự phổ biến của một số bệnh tự miễn với một vài kiểu hình HLA. Sự liên hệ này đã được khẳng định qua các nghiên cứu trong các dòng họ hoặc trong các cộng đồng dân cư. Người ta đã tính được nguy cơ tương đối (RR: relative risk hoặc risk ratio) của một số bệnh có liên quan đến HLA.
Thí dụ:
Ngược lại, một số kiểu hình HLA lại có tính chất "bảo vệ" (RR < 1).
Cơ chế về sự liên quan giữa một số allen HLA và bệnh tự miễn vẫn chưa được hiểu rõ, hiện có 3 giả thuyết để giải thích:
Các allen đó trình diện quá mức 1 kháng nguyên tự thân.
Các allen mã hóa các phân tử MHC kém chất lượng, dẫn đến dễ mắc bệnh, mạn tính hóa và tự miễn hóa.
Cơ chế gián tiếp: các allen gây bệnh không phải là bản thân các gene HLA mà là 1 gene ở vị trí lân cận và biểu hiện đồng thời.
Xem thêm
Trình diện kháng nguyên
Tế bào trình diện kháng nguyên
Thụ thể lympho T
Peptide
Lympho T, CD4, CD8
CD28, B7, CD2 LFA3, LFA1, ICAM1
Tham khảo
Liên kết ngoài
A historical introduction to the MHC
T Cells and MHC Proteins
HLA Informatics Group
Miễn dịch học
Hệ miễn dịch
Glycoprotein
|
20008
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam%20%C3%9Ac
|
Nam Úc
|
Nam Úc (, viết tắt SA) là một bang ở phần nam trung của Úc. Bang này có một số bộ phận khô hạn nhất của lục địa. Với tổng diện tích là , đây là bang lớn thứ tư tại Úc.
Vị trí địa lý
Nam Úc có biên giới với tất cả các bang đại lục khác và với Lãnh thổ Phương Bắc:
Phía đông giáp các bang New South Wales và Victoria
Phía đông bắc giáp bang Queensland
Phía tây giáp bang Tây Úc
Phía nam giáp vịnh Đại Úc thuộc Ấn Độ Dương
Phía bắc giáp Lãnh thổ Phương Bắc
Với trên 1,6 triệu dân, Nam Úc chiếm dưới 8% dân số toàn quốc và xếp thứ 5 trong số các bang và lãnh thổ. Đa số cư dân Nam Úc cư trú tại thủ phủ bang là Adelaide. Hầu hết các cư dân còn lại cư trú tại các khu vực phì nhiêu dọc duyên hải đông nam và sông Murray. Nam Úc có lịch sử độc nhất tại Úc khi là một khu vực định cư tự do và có kế hoạch của Anh, thay vì là một điểm định cư hình sự.
Mặc dù lịch sử Nam Úc mang dấu ấn với khó khăn về kinh tế, song cách tân về chính trị và sôi nổi về văn hóa. Ngày nay, Nam Úc nổi tiếng với rượu vang và một số lễ hội văn hóa. Kinh tế Nam Úc tập trung vào nông nghiệp, chế tạo và khai mỏ, và có một khu vực tài chính ngày càng quan trọng.
Lịch sử
Bằng chứng về hoạt động của con người tại Nam Úc truy nguyên xa đến 20.000 năm, với hoạt động khai thác đá lửa và tranh khắc đá tại hang Koonalda thuộc đồng bằng Nullarbor. Ngoài ra, các giáo và công cụ làm bằng gỗ được làm tại một khu vực nay bị than bùn bao phủ tại đông nam. Đảo Kangaroo có người cư trú từ lâu trước khi bị tách khỏi đại lục do mực nước biển dâng.
Sự kiện người châu Âu đầu tiên được ghi nhận là trông thấy bờ biển Nam Úc diễn ra vào năm 1627 khi tàu Gulden Zeepaert của Hà Lan dưới quyền chỉ huy của François Thijssen khảo sát đường bờ biển Nam Úc. Thijssen đặt tên lãnh thổ mà ông khám phá là "Đất Pieter Nuyts", theo tên cá nhân có địa vị cao nhất trên tàu. Đường bờ biển Nam Úc lần đầu tiên được lập bản đồ là vào năm 1802, nhờ Matthew Flinders và Nicolas Baudin.
Người Anh yêu sách đối với lãnh thổ mà nay tạo thành Nam Úc vào năm 1788 như bộ phận của thuộc địa New South Wales. Thuộc địa mới này bao gồm gần hai phần ba lục địa, song các khu dân cư đầu tiên đều nằm tại duyên hải phía đông và chỉ một vài nhà thám hiểm dũng cảm mạo hiểm đến khu vực viễn tây này. Mất bốn mươi năm trước khi có đề xuất nghiêm túc về việc thiết lập các khu định cư tại phần tây nam của New South Wales. Năm 1834, Quốc hội Anh thông qua Đạo luật Nam Úc 1834 (Đạo luật Thành lập), theo đó cho phép thành lập tỉnh Nam Úc. Đạo luật ghi rằng được giao cho thuộc địa và đây sẽ là một nơi miễn tiếp nhận tù nhân. Tương phản với phần còn lại của Úc, nguyên tắc "lãnh thổ vô chủ" không áp dụng cho tỉnh mới. Chế cáo đi kèm với đạo luật công nhận quyền sở hữu của người Nguyên trú và ghi rằng không hành động nào có thể được tiến hành nếu ảnh hưởng đến các quyền lợi của người Nguyên trú. Mặc dù chế cáo bảo đảm quyền lợi đất đai theo luật cho các cư dân bản địa, song nó bị Công ty Nam Úc và những người chiếm đất lờ đi.
Bảy chiếc thuyền chở 636 người tạm thời dừng chân tại Kingscote trên đảo Kangaroo, sau đó địa điểm chính thức của thuộc địa được lựa chọn tại Adelaide hiện nay. Những di dân đầu tiên đến tại vịnh Holdfast vào tháng 11 năm 1836, và thuộc địa được công bố vào ngày 28 tháng 12 năm 1836, nay được gọi là ngày Tuyên ngôn. Nam Úc là bang duy nhất tại Úc mà người định cư hoàn toàn có thân phận tự do.
Kế hoạch cho thuộc địa là một hiện thân lý tưởng của các phẩm chất tốt nhất trong xã hội Anh, có nghĩa là không có kỳ thị tôn giáo hoặc thất nghiệp và, do người ta tin rằng nó sẽ có rất ít tội phạm trong số lượng ít ỏi những người định cư ban đầu nên không có cảnh sát chuyên nghiệp được phái đến. Ủy viên Thuộc địa có ý định nhanh chóng thiết lập một lực lượng cảnh sát khi các hành vi sai trái trong dân chúng gia tăng. Đầu năm 1838, các di dân trở nên lo ngại sau khi có tường trình rằng các tù nhân trốn từ phía đông có thể đến Nam Úc. Cảnh sát Nam Úc được thành lập vào tháng 4 năm 1838 để bảo hộ cộng đồng và thực thi các nghị quyết của chính phủ. Vai trò chủ yếu của họ là vận hành nhà tù tạm thời đầu tiên.
Nam Úc cấp quyền bầu cử hạn chế cho nữ giới vào năm 1861, và đến năm 1895 thì trở thành nơi thứ hai trên thế giới cấp quyền bầu cử phổ thông (sau New Zealand), và là nơi đầu tiên mà nữ giới được cấp cả quyền bỏ phiếu và ứng cử.
Ngày 1 tháng 1 năm 1901, sau một tuyên bố của Nữ vương Victoria, Nam Úc trở thành một bang của Thịnh vượng chung Úc. đến năm 1906, mỏ uranium đầu tiên của Nam Úc mở cửa tại Radium Hill. Năm 1910, chính phủ của John Verran trở thành chính phủ Công đảng hoàn toàn đầu tiên trên thế giới.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, bãi tên lửa Woomera được thành lập vào năm 1947 trong Dự án chung Anh-Úc – đương thời là một trong bốn bãi tên lửa duy nhất trên thế giới. Nhộn nhịp suốt thập niên 1950, Woomera đóng một vai trò quan trọng trong phát triển công nghệ không gian. Với trợ giúp của Hoa Kỳ, vệ tinh đầu tiên của Úc là Wresat 1 được phóng từ Woomera vào tháng 11 năm 1967. Dự án biến Úc trở thành quốc gia thứ tư phóng vệ tinh từ lãnh thổ của mình, một điểm nhấn của khoa học Úc.
Thập niên 1960 và 1970 chứng kiến sự ban hành một loạt pháp luật có tính dấu mốc tại Nam Úc: Đạo luật cấm kỳ thị 1966 mà theo đó cấm kỳ thị dựa theo chủng tộc, màu da, hoặc quốc gia xuất xứ; và Đạo luật kỳ thị giới tính 1975 mà theo đó cấm chỉ kỳ thị dựa theo giới tính, tình trạng hôn nhân, hoặc tình dục bất chính. Năm 1975, Nghị viện "hợp pháp hóa" các hành vi tình dục đồng giới; và trong năm 1976 hiếp dâm trong hôn nhân trở thành một hành vi hình sự.
Năm 1976, Đạo luật Đất Pitjantjatjara trao cho các dân tộc Nguyên trú Pitjantjatjara và Yankunytjatjarra quyền sử hữu không chuyển nhượng đối với 100.000 km² đất của họ. Trong cùng năm, Nam Úc bổ nhiệm thống đốc Nguyên trú đầu tiên của một bang tại Úc, khi Douglas Nicholls trở thành toàn quyền của Nam Úc.
Năm 1987, sản xuất đồng, vàng, và bạc bắt đầu tại mỏ Olympic Dam, mỏ này cũng sở hữu trữ lượng uranium lớn nhất được biết đến trên thế giới.
Địa lý
Địa hình Nam Úc phần lớn gồm các mục địa khô hạn và bán khô hạn, cùng một số dãy núi thấp. Quan trọng nhất là hệ thống Mount Lofty-Flinders Ranges, trải dài về phía bắc khoảng từ Cape Jervis đến cực bắc của hồ Torrens. Điểm cao nhất của Nam Úc là núi Woodroffe () thuộc dãy Musgrave tại cực tây bắc của bang. Phần nam tây của bang gồm đồng bằng Nullarbor có dân cư thưa thớt, trông ra vách đá của vịnh Đại Úc. Khu vực duyên hải có vịnh Spencer cùng các bán đảo Eyre và Yorke bao quanh vịnh.
Ngành kinh tế và xuất khẩu chủ yếu của Nam Úc là lúa mì, rượu vang, và len. Trên một nửa rượu vang Úc được sản xuất tại các khu vực của Nam Úc như: Thung lũng Barossa, Thung lũng Clare, McLaren Vale, Coonawarra, Riverland và Adelaide Hills.
Nam Úc có biên giới với mọi bang đại lục của Úc. Năm 1863, bộ phận của New South Wales nằm tại phía bắc của Nam Úc được sáp nhập vào Nam Úc, với tên gọi là "Lãnh thổ Phương Bắc của Nam Úc", gọi tắt là Lãnh thổ Phương Bắc. Đến năm 1911, Lãnh thổ Phương Bắc được trao cho chính phủ liên bang và trở thành một lãnh thổ riêng.
Trên các bản đồ của Úc, bờ biển phía nam của Nam Úc ở bên Nam Đại Dương, song định nghĩa quốc tế của Nam Đại Dương chỉ đến 60°N hoặc 55°N, cách gần nhất là 17° từ điểm cực nam của Nam Úc, do đó vùng biển này là bộ phận của Ấn Độ Dương.
Phần phía nam của bang có một khí hậu Địa Trung Hải, trong khi phần còn lại của bang có khí hậu khô hạn hoặc bán khô hạn. Nhiệt độ Nam Úc dao động từ trong tháng 1 đến trong tháng 7. Nhiệt độ ngày tại nhiều nơi trong bang vào tháng 1 và tháng 2 có thể lên đến .
Nhiệt độ tối đa ghi nhận được tại Nam Úc là tại Oodnadatta vào ngày 2 tháng 1 năm 1960, cũng là nhiệt độ chính thức cao nhất ghi nhận được tại Úc. Nhiệt độ tối thiểu ghi nhận được tại Nam Úc là tại Yongala vào ngày 20 tháng 7 năm1976.
Kinh tế
Lĩnh vực thu hút lao động lớn nhất của Nam Úc là y tế và trợ giúp xã hội, vượt qua lĩnh vực chế tạo từ năm 2006–07. Năm 2009–10, ngành chế tạo tại Nam Úc tạo công việc trung bình cho 83.700 người so với 103.300 của y tế và hỗ trợ xã hội. Y tế và hỗ trợ xã hội chiếm gần 13% lao động trung bình năm của bang. Bán lẻ là lĩnh vực thu hút lao động lớn thứ nhì tại Nam Úc (2009–10), với 91.900 công việc, và chiếm 12% lực lượng lao động của bang.
Ngành chế tạo giữ một vai trò quan trọng trong kinh tế Nam Úc, tạo ra 11,7% GSP của bang và giữ một phần lớn trong xuất khẩu. Ngành chế tạo gồm ô tô (44% tổng sản lượng của Úc, 2006) và linh kiện, dược phẩm, công nghệ quốc phòng và các hệ thống điện tử. Kinh tế Nam Úc dựa vào xuất khẩu hơn bất kỳ bang nào tại Úc.
Tăng trưởng kinh tế của Nam Úc tụt hậu so với phần còn lại của liên bang, đặc biệt là từ khi Ngân hàng Bang Nam Úc sụp đổ.
Kinh tế Nam Úc gồm các ngành chính sau: thịt và chế biến thịt, lúa mì, rượu vang, len và da cừu, máy móc, kim loại và sản xuất kim loại, ngư nghiệp, xe cộ, và sản xuất dầu mỏ. Các ngành khác như giáo dục và công nghệ quốc phòng đang gia tăng tầm quan trọng.
Mỏ Olympic Dam nằm gần Roxby Downs tại miền bắc của Nam Úc có trữ lượng uranium lớn nhất thế giới, sở hữu trên một phần ba trữ lượng có thể khai thác với giá rẻ của thế giới và chiếm 70% của Úc. Mỏ thuộc quyền sở hữu và điều hành của BHP Billiton, hiện chiếm 9% sản lượng uranium toàn cầu.
Chính phủ
Nam Úc tuân theo chế độ quân chủ lập hiến với quân chủ là Quốc vương Úc, và thống đốc của Nam Úc là người đại diện cho bà. Nghị viện Nam Úc gồm có một Hội nghị viện (hạ viện) và một Hội đồng Lập pháp (thượng viện), bầu cử lập pháp được tổ chức mỗi bốn năm.
Ban đầu, thống đốc nắm giữ hầu như toàn bộ quyền lực, dựa theo văn kiện thành lập thuộc địa của chính phủ đế quốc. Nhân vật này chỉ chịu trách nhiệm trước Bộ Thuộc địa Anh, và do đó không tồn tại chế độ dân chủ tại thuộc địa. Một thể chế mới được lập ra để khuyến nghị cho thống đốc về quản trị Nam Úc vào năm 1843 mang tên Hội nghị Lập pháp. Thể chế này có ba đại biểu của Chính phủ Anh và bốn di dân do thống đốc bổ nhiệm. Thống đốc duy trì toàn quyền hành pháp.
Năm 1851, Quốc hội Anh phê chuẩn Đạo luật chính phủ các thuộc địa Úc, theo đó cho phép bầu cử các đại biểu vào mỗi cơ quan lập pháp thuộc địa và phê chuẩn một hiến pháp để tạo ra chính phủ đại diện và chịu trách nhiệm tại Nam Úc. Sau đó, các di dân có tài sản và là nam giới được phép bầu cử 16 thành viên cbo một Hội đồng Lập pháp gồm 24 thành viên, 8 thành viên do thống đốc bổ nhiệm.
Trách nhiệm chủ yếu của thể chế này là soạn thảo một hiến pháp cho Nam Úc. Thể chế soạn thảo hiến pháp dân chủ nhất từng tồn tại trong Đế quốc Anh và cấp quyền phổ thông đầu phiếu cho nam giới. Hiến pháp thiết lập Nghị viện Nam Úc có lưỡng viện. Năm 1894, Nam Úc là thuộc địa Úc đầu tiên cho phép phụ nữ bầu cử và là Nghị viện đầu tiên trên thế giới cho phép phụ nữ ứng cử.
Nam Úc được chia thành 74 khu vực chính quyền địa phương. Các chính quyền địa phương chịu trách nhiệm đối với các chức năng mà Nghị viện Nam Úc ủy quyền, như cơ sở hạ tầng đường bộ và quản lý chất thải. Thu nhập của hội đồng đến từ thuế tài sản và trợ cấp của chính phủ.
Tháng 9 năm 2014, ông Lê Văn Hiếu - người Úc gốc Việt chính thức đảm nhiệm chức vụ Toàn quyền (Thống đốc) Tiểu bang Nam Úc thay thế Đề đốc Kevin Scarce. Ông là người châu Á và Việt Nam đầu tiên được nữ hoàng Anh chọn làm Toàn quyền Nam Úc.
Nhân khẩu
Đa số cư dân trong bang sống trong khu vực đại đô thị Adelaide với ước tính là 1.262.940 vào năm 2011 (77,1% toàn bang). Các trung tâm dân cư đáng kể khác là Mount Gambier (28.313), Whyalla (22.489), Murray Bridge (17.152), Port Lincoln (15.682), Port Pirie (14.281), Port Augusta (14.196), và Victor Harbor (13.671).
Giáo dục
Ngày 1 tháng 1 năm 2009, tuổi được rời trường phổ thông tại Nam Úc tăng lên 17. Giáo dục là bắt buộc đối với mọi trẻ em cho đến năm 17 tuổi, trừ khi họ đang làm việc hoặc theo một chương trình đào tạo khác. Đa số học sinh hoàn thành chứng chỉ giáo dục SACE. Giáo dục phổ thông là trách nhiệm của chính phủ Nam Úc, song các hệ thống trường công và tư được tài trợ phối hợp từ chính phủ cấp bang và liên bang.
Ngày 14 tháng 6 năm 2013, Nam Úc trở thành bang thứ ba đăng ký Chương trình Cải cách Gonski của chính phủ liên bang. Điều này sẽ khiến tài trợ cho giáo dục tiểu học và trung học tại Nam Úc tăng lên $1,1 tỷ trước năm 2019.
Tồn tại ba trường đại học công và ba trường đại học tư tại Nam Úc. Các đại học công lập là Đại học Adelaide (thành lập năm 1874), Đại học Flinders of South Australia và Đại học South Australia. Ba đại học tư thục là Đại học Carnegie Mellon - Australia, Trường Năng lượng và Tài nguyên (Úc) của Viện Đại học London, và Đại học Cranfield. Toàn bộ sáu trường có khu trường sở chính tại khu vực đại đô thị Adelaide.
Giao thông
Sau khi lập khu định cư, loại hình giao thông chính của Nam Úc là hàng hải. Giao thông đường bộ hạn chế, dùng đến ngựa và bò. Đến giữa thế kỷ 19, bang bắt đầu phát triển một hệ thống đường sắt rộng khắp, song mạng lưới tàu duyên hải tiếp tục cho đến thời kỳ hậu chiến. Đường bộ bắt đầu được cải thiện khi xuất hiện ô tô. Đến cuối thế kỷ 19, giao thông đường bộ chi phối giao thông nội địa tại Nam Úc.
Nam Úc hiện có bốn liên kết đường sắt liên bang, đến Perth qua đồng bằng Nullarbor, đến Darwin qua trung tâm lục địa, đến New South Wales qua Broken Hill, và đến Melbourne. Giao thông đường sắt có vai trò quan trọng đối với nhiều mỏ tại miền bắc của bang. Adelaide có giao thông đường sắt đô thị hạn chế.
Nam Úc có hệ thống đường bộ rộng khắp, liên kết các đô thị và các bang khác. Đường bộ là loại hình giao thông phổ biến nhất trong các khu vực đô thị lớn với ô tô chiếm ưu thế. Giao thông công cộng tại Adelaide hầu hết là nhờ xe buýt, với thời gian hoạt động suốt ngày.
Sân bay Adelaide có các đường bay định kỳ đến các thủ phủ khác và các đô thị chính của Nam Úc. Sân bay cũng có các đường bay hàng ngày đến một số sân bay trung tâm của châu Á.
Sông Murray nguyên là một tuyến giao thương quan trọng đối với Nam Úc, với các tàu hơi nước liên kết các khu vực nội lục với đại dương tại Goolwa.
Nam Úc có một cảng container tại cảng Adelaide. Bang còn có một số cảng quan trọng khác nằm dọc bờ biển để phục vụ chuyên chở khoáng sản và lương thực có hạt. Đảo Kangaroo dựa vào phà Sea Link giữa mũi Jervis và Penneshaw.
Thể thao
Bóng đá kiểu Úc là môn thể thao có khán giả phổ biến nhất tại Nam Úc, là môn mà người Nam Úc có tỷ lệ tham gia cao nhất toàn quốc. Hai đội sân cỏ của Nam Úc tham gia giải bóng đá Úc (kiểu Úc): Adelaide Football Club và Port Adelaide Football Club. Giải bóng đá quốc gia Nam Úc (kiểu Úc) là một giải đấu địa phương được yêu thích.
Cricket là môn thể thao mùa hè phổ biến nhất tại Nam Úc và thu hút nhiều khán giả. Nam Úc có một đội tuyển cricket là Southern Redbacks. Đội tuyển bóng đá của Nam Úc thi đấu tại A-League là Adelaide United F.C.
Chú thích
Liên kết ngoài
Tiểu bang và vùng lãnh thổ Úc
Cựu thuộc địa và xứ bảo hộ Anh tại châu Đại Dương
Khởi đầu năm 1836 ở Úc
|
20009
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C6%B0%E1%BB%9Bc%20tr%C3%AAn%20Sao%20H%E1%BB%8Fa
|
Nước trên Sao Hỏa
|
Nước trên Sao Hỏa là một chủ đề khoa học quan trọng trong các nghiên cứu và quá trình thám hiểm Sao Hỏa. Lý do chính vì nước ở thể lỏng là một yếu tố quan trọng bậc nhất để giúp duy trì sự sống, trong quá khứ của hành tinh này; cũng như trong tương lai thám hiểm hành tinh này.
Hiện tại có rất nhiều bằng chứng khoa học cho thấy nước tồn tại với lượng nhỏ trên hành tinh đỏ. Trong quá khứ, Sao Hỏa đã có thể còn có nhiều nước hơn hiện nay, và có thể có vị mặn cao. Các dấu hiệu xói mòn của nước trên bề mặt hành tinh là chứng cứ thuyết phục nhất về những thay đổi thời tiết và sự tồn tại nước lỏng trong quá khứ của Sao Hỏa. Việc sử dụng nguồn nước còn tồn tại ngày nay là yếu tố sống còn cho sự đổ bộ của con người lên hành tinh này.
Theo các quan sát thu được từ các dụng cụ đo đạc đã đưa lên hành tinh và các vệ tinh bay quanh nó, cùng các quan sát từ Trái Đất, chúng ta hiện có được hiểu biết chi tiết về chu trình thay đổi của hơi nước trong khí quyển Sao Hỏa diễn ra theo mùa trong năm Sao Hỏa. Nguồn cung cấp lớn nhất cho hơi nước đến từ vùng băng tuyết quanh cực Bắc; cứ đến cuối mùa xuân đầu mùa hè trên bắc bán cầu, một lượng lớn nước đá trên bề mặt ở vùng này lại thăng hoa và được gió đưa xuống phía nam. Sự đều đặn của chu trình hơi nước quan sát được cho phép chúng ta tạo ra các mô hình tiên đoán trước lượng hơi nước trong khí quyển Sao Hỏa bất cứ ngày nào, hôm nay hay ngày mai.
Toàn bộ lượng hơi nước trong khí quyển Sao Hỏa rất nhỏ. Nếu toàn bộ nước trong khí quyển này rơi thành mưa trong một thời điểm, chúng sẽ tạo ra một biển nước chỉ dày vài trăm xentimét bao quanh bề mặt.
Các mô phỏng chi tiết trên máy tính cho thấy hơi nước trong khí quyển Sao Hỏa còn phải tương tác với một nguồn nước nữa khá lớn nằm dưới bề mặt hành tinh. Một lượng nước lớn khoảng 10 lần toàn bộ nước có trong khí quyển có thể được hấp thụ trong vài xentimét đất đá trên bề mặt. Đây có thể là nguồn thu nước quan trọng và là mục tiêu khai thác cho các chuyến đổ bộ tương lai lên hành tinh. Các tính toán cho thấy nguồn nước hấp thụ trên mặt đất cung cấp hơi nước cho khí quyển và được trao đổi qua lại giữa hai bán cầu nhờ gió thổi quanh năm trên Sao Hỏa.
Nước lỏng bên dưới thềm băng
Tháng 7 năm 2018, các nhà khoa học thông báo đã phát hiện thấy một hồ nước lỏng nằm bên dưới 1,5 km thềm băng ở cực nam Sao Hỏa, có chiều rộng 20 km, và là một hồ chứa nước lỏng ổn định đầu tiên được tìm thấy ở hành tinh này. Hồ được phát hiện nhờ sử dụng dữ liệu radar từ thiết bị MARSIS đặt trên tàu Mars Express bay quanh Sao Hỏa thu thập từ tháng 5 năm 2012 đến tháng 12 năm 2015. Trung tâm của hồ nằm ở tọa độ 193°E, 81°S, một vùng đất phẳng không có bất kỳ một đặc điểm địa mạo đặc biệt nào nhưng được bao quanh bởi nền đất cao hơn, ngoại trừ phía đông, nơi có một bồn trũng.
Bởi vì nhiệt độ ở vùng cực ước tính vào khoảng 205 K, các nhà khoa học dự đoán nước có thể tồn tại ở trạng thái lỏng nhờ hiệu ứng phản đông lạnh của muối magnesi và calci perchlorat. Lớp băng dày 1,5 km phủ bên trên bề mặt hồ chứa băng nước với 10 đến 20% hỗn hợp bụi, và được bao phủ theo mùa bởi lớp băng khô CO2 dày 1m. Do dữ liệu thô thu được từ vùng chỏm băng cực nam là hạn chế, các nhà khoa học khám phá hồ nói rằng "không có một lý do thỏa đáng nào để kết luận nước bên dưới mặt đất Sao Hỏa chỉ tồn tại hạn chế ở một nơi duy nhất."
Hồ có thể chứa nước trong hoặc lẫn đất và bùn. Hàm lượng muối cao trong hồ khiến hầu hết các dạng sống khó phát triển ở đây, nhưng trên Trái Đất, có các "sinh vật ưa mặn" sống ở môi trường có độ mặn cao.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mars Water
Sao Hỏa
H
Khoa học hành tinh
Chính sách không gian
Sinh học vũ trụ
|
20013
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sydney
|
Sydney
|
Sydney (thường được viết tắt là Syd) là một thành phố cảng nằm ở đông nam của Úc. Đây là thành phố lớn nhất, nổi tiếng nhất và lâu đời nhất của nước Úc. Sydney cũng là thủ phủ của tiểu bang New South Wales và là thành phố đông dân nhất của Úc với dân số hơn 6.000.000 người (2016).
Nằm ở bờ biển phía đông nam của Úc, thành phố được thiết lập vào năm 1788 tại Sydney Cove bởi Arthur Phillip người dẫn đầu Đoàn tàu Thứ nhất (First Fleet) đến từ Anh.
Được xây dựng xung quanh cảng Jackson với cảnh đẹp nổi tiếng, thành phố Sydney được gọi là "Thành phố Cảng". Đây là trung tâm tài chính lớn nhất của Úc và cũng là một địa điểm du lịch của khách quốc tế, nổi tiếng với nhiều bãi biển đẹp và kiến trúc đôi: Nhà hát opera Sydney (Sydney Opera House) và Cầu Cảng Sydney (Harbour Bridge).
Lịch sử
Khu vực Sydney đã được sinh sống bởi thổ dân Úc ít nhất là khoảng 30.000 năm, và vào thời điểm Đoàn tàu Thứ nhất cập bến vào năm 1788, 4000-8000 người đang sinh sống tại khu vực này. Có ba nhóm thổ dân với ngôn ngữ khác nhau tại khu vực Sydney; những ngôn ngữ này lại trở thành những thổ ngữ bởi các bộ lạc nhỏ hơn. Ngôn ngữ chính là Darug, (Cadigal, những thổ dân nguyên thủy của thành phố Sydney sử dụng thổ ngữ vùng biển Darug), Dharawal và Guringai. Mỗi bộ lạc có một lãnh địa riêng; vị trí của lãnh địa được xác định bởi các nguyên vật liệu có sẵn nơi đó. Mặc dù sự đô thị hóa đã tiêu diệt hầu hết các chứng cớ của các vùng dân cư đó, các bản khắc trên đá vẫn tồn tại ở một số nơi.
Người châu Âu để ý đến Úc từ khi Đô đốc James Cook nhìn thấy Vịnh Botany vào năm 1770. Dưới chỉ thị của chính quyền Anh, một khu di dân cho những người tội phạm được thiết lập bởi Arthur Phillip vào năm 1788. Phillip thành lập khu dân cư tại Sydney Cove trên cảng Jackson. Ông ta đặt tên nơi đó theo tên của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Anh, Lord Thomas Townshend của Sydney, để công nhận vai trò của Lord Sydney trong việc giúp cho Phillip có giấy phép thành lập khu thuộc địa. Vào tháng 4 năm 1789 một dịch bệnh, được nghĩ là đậu mùa, đã làm giảm dân số thổ dân ở Sydney; một ước tính khiêm tốn là vào khoảng 500 đến 1000 thổ dân chết do nhiễm bệnh trong khu vực Broken và Botany Bay.
Có một sự nổi dậy vũ trang chống lại dân Anh, bởi những chiến binh Pemulwuy trong khu vực xung quanh Vịnh Botany, và những trận đánh nhỏ xảy ra khá phổ biến ở khu vực quanh sông Hawkesbury. Đến 1820 chỉ còn lại vài trăm thổ dân và Thống đốc Macquarie đã bắt đầu những hoạt động "văn minh hóa và giáo dục" thổ dân bằng cách đuổi họ đi khỏi bộ lạc.
Nhiệm kì mà Macquarie là Thống đốc của bang New South Wales là giai đoạn mà Sydney được nâng cấp từ buổi ban đầu sơ khai. Đường sá, cầu cống, các bến phà và các tòa nhà chính phủ được xây dựng lên bởi những phạm nhân, và đến năm 1822 thành phố đã có ngân hàng, các chợ, các đường phố lớn và sở cảnh sát có tổ chức. Những năm của thập kỉ 1830 và thập kỉ 1840 là giai đoạn phát triển đô thị, bao gồm sự phát triển của các khu ngoại thành đầu tiên, vì thành phố phát triển nhanh chóng khi những đoàn tàu từ eo biển Anh bắt đầu đến với những di dân tìm cách bắt đầu một đời sống mới ở một đất nước mới. Những cuộc đổ xô đi tìm vàng đầu tiên bắt đầu vào 1851, và cảng Sydney từ đó đã chứng kiến nhiều làn sóng người nhập cư từ khắp các nơi trên thế giới. Sự phát triển của các khu ngoại thành bắt đầu phát triển vào phần tư cuối cùng của thế kỉ 19 với sự phát minh của các xe lửa và xe điện chạy bằng động cơ hơi nước. Với sự công nghiệp hoá, Sydney mở rộng một cách nhanh chóng, và vào đầu thế kỉ 20 thành phố đã có dân số trên 1 triệu người. Khủng hoảng lớn Great Depression đã tác động đến Sydney một cách tồi tệ. Tuy nhiên, một trong những điểm sáng của thời Khủng hoảng là sự hoàn thành của cầu cảng Sydney Sydney Harbour Bridge vào năm 1932.
Trong suốt thế kỉ 20 Sydney tiếp tục mở rộng với nhiều làn sóng di cư khác nhau từ châu Âu và sau đó là từ châu Á, kết quả là thành phố có một không khí quốc tế. Phần đông dân Sydney có nguồn gốc Anh hoặc là Ireland. Những người mới đến sau này bao gồm từ các nước Ý, Hy Lạp, Israel, Liban, Cộng hoà Nam Phi, Nam Á (Ấn Độ, Sri Lanka và Pakistan), Sudan, Thổ Nhĩ Kỳ, Macedonia, Croatia, Serbia, Nam Mỹ (Brasil, Chile, Argentina), Armenia, Đông Âu (Cộng hoà Séc,Ba Lan, Nga, Ukraina, Hungary) và Đông Á (bao gồm Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam).
Địa lý
Sydney tọa lạc trên một vùng đồng bằng trầm tích ven biển giữa Thái Bình Dương về phía đông và Blue Mountains về phía tây. Thành phố có vịnh biển tự nhiên lớn nhất thế giới, cảng biển Jackson, và hơn 70 vịnh và bãi biển, bao gồm cả bãi biển Bondi nổi tiếng. Khu vực nội thành của Sydney có diện tích 1687 km² (651 mi²) và giống như London mở rộng. Khu vực đô thị (Theo Sở thống kê Sydney) là 12.145 km² (4.689 mi²); một phần lớn của khu vực này là công viên quốc gia và các vùng đất chưa bị đô thị hóa.
Sydney chiếm hai khu vực địa lý: đồng bằng Cumberland, một vùng đồi thoai thoải tương đối bằng phẳng nằm về phía nam và tây của vịnh biển, và đồng bằng Hornsby, một đồng bằng về phía bắc của vịnh, cao trên 389 mét (1276 ft), được chia cắt bởi các thung lũng với các cánh rừng. Phần xưa nhất của thành phố nằm ở khu vực bằng phẳng; đồng bằng Hornsby, được gọi là North Shore, phát triển chậm hơn bởi vì địa hình nhiều đồi của nó, và là một vùng khá im lặng cho đến khi cầu cảng Sydney (Sydney Harbour Bridge) được xây vào năm 1932, nối nó với phần còn lại của thành phố.
Khí hậu
Sydney có khí hậu cận nhiệt đới với những mùa hè nắng ấm và với mùa đông mát mẻ, với lượng mưa trải đều trong năm. Thời tiết ôn hòa bởi ở gần đại dương, và các nhiệt độ khắc nghiệt hơn được ghi lại ở các vùng ngoại ô phía tây sâu trong lục địa. Tháng ấm nhất là tháng giêng, với nhiệt độ không khí trung bình trên bờ biển là 18,6–25,8°C và trung bình có 14.6 ngày trong năm nhiệt độ bên trên 30 °C. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm mà Sydney đôi khi phải hứng chịu những đợt nắng nóng gay gắt. Nhiệt độ cao nhất được ghi lại là 45,3 °C vào ngày 14 tháng 1 năm 1939 vào giai đoạn cuối của đợt nắng nóng 4 ngày trên toàn quốc. Mùa đông khá ôn hòa, đôi khi hơi lạnh nhưng nhiệt độ ít khi nào xuống thấp hơn 5 °C trong các khu vực ven biển. Tháng lạnh nhất là tháng 7, với trung bình xê xích 8,0–16,2 °C. Nhiệt độ thấp nhất được ghi lại là 2,1 °C.
Lượng mưa được chia khá đều giữa mùa hè và mùa đông, nhưng cao hơn một ít trong suốt nửa đầu của năm, khi gió phía tây thổi nhiều. Lượng mưa trung bình hàng năm, điều hòa ít biến động, là 1217.0 mm, rơi trên trung bình là 138 ngày trong 1 năm.. Tuyết rơi lần cuối cùng ở khu vực thành phố Sydney là vào thập niên 1830.
Mặc dù thành phố không chịu bão nhiệt đới hay các trận động đất lớn, hiệu ứng El Niño đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định khuôn mẫu thời tiết của Sydney: hạn hán và cháy rừng một mùa, và mưa bão và lụt lội mùa còn lại, liên hệ với các pha trái ngược nhau của sự dao động. Rất nhiều khu vực của thành phố giáp với các khu rừng bụi rậm đã bị ảnh hưởng bởi cháy rừng, đáng kể nhất là trong năm 1994 và 2002 – những lần này thường xảy ra vào mùa xuân hay mùa hè. Thành phố cũng thường bị mưa đá và bão lớn. Một cơn bão như vậy xảy ra ở các vùng ngoại vi phía đông Sydney vào buổi tối 14 tháng 4 năm 1999, tạo ra các hạt mưa đá lớn với các hạt đường kính ít nhất 9 cm và kết quả là bảo hiểm tốn khoảng $1,5 tỉ trong dưới 1 giờ. Ngoài ra, thành phố đã từng trải qua đợt bão bụi vào ngày 23 tháng 7 năm 2009
Các nghiên cứu gần đây bởi các khoa học gia nghiên cứu về khí hậu tại Đại học Macquarie cho rằng việc khai phá đất ở phía tây Sydney đã góp phần vào những thay đổi lớn trong khí hậu của thành phố.
Nhiệt độ trung bình hàng năm của biển dao động trong khoảng từ 18,5 °C (65,3 °F) vào tháng Chín đến 23,7 °C (74,7 °F) vào tháng Hai.
Nhân khẩu
Dân số Sydney năm 1788 chỉ còn dưới 1.000. Với vận tải của tù nhân, nó đã tăng gấp ba lần trong vòng 10 năm tới 2.953. Trong mỗi thập kỷ kể từ năm 1961, dân số đã tăng lên hơn 250.000. Dân số Sydney vào thời điểm Tổng điều tra năm 2011 là 4.391.674. Người ta dự đoán rằng dân số sẽ tăng lên từ 8 đến 8,9 triệu người vào năm 2061. Mặc dù tốc độ tăng nhanh, Cục thống kê Úc dự đoán rằng Melbourne sẽ thay thế Sydney thành thành phố đông dân nhất nước Úc vào năm 2053. Bốn khu đô thị đông dân nhất ở Úc được đặt tại Sydney với mỗi khu có hơn 13.000 cư dân trên mỗi kilômét vuông (33.700 cư dân trên mỗi dặm vuông).
Tuổi trung bình của cư dân Sydney là 36 và 12,9% số người trên 65 tuổi. Dân số kết hôn chiếm 49,7% số người Sydney, trong khi 34,7% người chưa bao giờ lập gia đình. 48,9% số gia đình là cặp vợ chồng có con, 33,5% là cặp vợ chồng không có con, và 15,7% là gia đình độc thân. 32.5% người dân ở Sydney bên cạnh tiếng Anh có thể nói được tiếng Ả Rập, tiếng Hoa, tiếng Quan Thoại, tiếng Quảng Đông, tiếng Việt và tiếng Hy Lạp. Nói chung đó là những ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi nhất.
Có 54.746 người di cư bản địa sống ở Sydney trong năm 2011. Hầu hết người nhập cư đến Sydney giữa năm 1840 và 1930 là người Anh, người Ireland hay người Trung Quốc. Có rất nhiều nhóm dân cư quan trọng dựa trên quốc tịch hoặc tôn giáo trong suốt lịch sử phát triển của Sydney. Vào đầu thế kỷ 20, người dân Ailen đã tập trung tại vùng Surry Hills, vùng Scotland thuộc Paddington.
Sau Thế chiến II, các nhóm sắc tộc ở Sydney bắt đầu đa dạng hóa. Các nhóm dân tộc thông thường ở Sydney bao gồm, nhưng không giới hạn ở, người Hà Lan, người Sri Lanka, người Ấn Độ, người Assyrian, người Nga, người Việt Nam, người Do Thái, người Đức,.... Vào đêm điều tra dân số năm 2011 có 1.503.620 người sống ở Sydney sinh ra ở nước ngoài, chiếm 42,5% dân số thành phố Sydney và 34,2% dân số Sydney, tỷ lệ lớn thứ bảy của bất kỳ thành phố nào trên thế giới. Cuộc Tổng điều tra năm 2016 cho thấy 39 phần trăm của Greater Sydney là người di cư, trên thành phố New York (36 phần trăm), Paris (25 phần trăm), Berlin (13 phần trăm) và Tokyo (2 phần trăm). Nếu người dân địa phương có ít nhất một bà mẹ di cư sinh ra thì 65 phần trăm dân số ở Sydney di cư.
Các nhóm tổ tiên lớn nhất của Sydney là Anh, Úc, Ailen, Trung Quốc và Scotland. Người nước ngoài sinh ra ở Sydney có đại diện lớn nhất là Anh, Trung Quốc, Ấn Độ, New Zealand và Việt Nam. Sự tập trung di dân ở Sydney, so với phần còn lại của Australia (ngoại trừ Melbourne), làm cho nó là ngoại lệ chứ không phải là tiêu chuẩn về việc có một dân số cao ở nước ngoài như vậy.
Cảnh quan thành phố
Cấu trúc đô thị
Khu vực rộng lớn bao phủ bởi nội thành Sydney chính thức được chia ra thành hơn 300 khu vực (cho mục đích địa chỉ và bưu điện), và được quản lý như là 38 khu vực hành chính địa phương (thêm vào nhiều trách nhiệm của Bang New South Wales và các sở). Bản thân Thành phố Sydney bao phủ một khu vực khá nhỏ bao gồm khu thương mại trung tâm và các khu vực trong thành phố. Thêm vào đó, có một số miêu tả từng vùng được sử dụng không chính thức để chỉ một phần lớn của khu đô thị. Tuy nhiên phải để ý rằng có nhiều khu vực không được bao phủ bởi cách chia vùng không chính thức bên dưới đây. Những vùng này là: Eastern Suburbs, Hills District, Inner West, Lower North Shore, Northern Beaches, North Shore, Southern Sydney, South-eastern Sydney, South-western Sydney, Sutherland Shire và Western Sydney.
Khu thương mại trung tâm Sydney (Sydney CBD) mở rộng về phía nam vào khoảng 2 kilômét (1.25 mi) từ Sydney Cove, địa điểm cư trú đầu tiên của di dân châu Âu. Các tòa nhà cao ốc tập
trung dày đặc và các tòa nhà khác bao gồm những tòa nhà lịch sử như Sydney Town Hall và Queen Victoria Building được xen kẽ bởi các công viên như Wynyard và Hyde Park. Khu Sydney CBD được bao bọc phía đông bởi một dãy các công viên kéo dài từ Hyde Park cho đến the Domain và Royal Botanic Gardens đến Farm Cove trên vịnh biển. Phía tây được bao bởi Darling Harbour, một nơi thu hút nhiều khách du lịch và các hộp đêm trong khi Nhà ga trung tâm đánh dấu đầu cuối phía nam của CBD. George Street được xem là đường chính chạy dọc bắc-nam của khu Sydney CBD.
Mặc dù CBD chiếm hầu hết thương mại và đời sống văn hóa của thành phố trong các năm về trước, các khu thương mại/văn hóa khác đã phát triển theo theo kiểu nở rộng ra từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Kết quả là, tỷ lệ các công việc cổ trắng nằm ở khu CBD đã giảm từ 60% vào cuối Chiến tranh thế giới thứ hai đến dưới 30% in 2004. Cùng với khu thương mại ở North Sydney, liên kết với CBD bởi Harbour Bridge, khu thương mại lớn nhất ở bên ngoài là Parramatta ở vùng trung-tây, Blacktown phía tây, Bondi Junction phía đông, Liverpool ở tây nam, Chatswood về phía bắc và Hurstville về phía nam.
Kinh tế
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Loughborough đã xếp hạng Sydney trong số 10 thành phố trên thế giới được lồng ghép chặt chẽ vào nền kinh tế toàn cầu. "Chỉ số sức mạnh kinh tế toàn cầu" xếp thành phố đứng thứ mười một trên thế giới. "Chỉ số Thành phố Toàn cầu" cũng công nhận Sydney là thứ 14 trên thế giới dựa trên sự tham gia toàn cầu.
Lý thuyết kinh tế hiện hành có hiệu lực trong những ngày đầu của thời kỳ thuộc địa chủ nghĩa là chủ nghĩa thương mại, cũng như ở hầu hết các nước Tây Âu. Nền kinh tế gặp khó khăn trước tiên do những khó khăn trong việc canh tác đất đai và việc thiếu một hệ thống tiền tệ ổn định. Thống đốc Lachlan Macquarie giải quyết vấn đề thứ hai bằng cách tạo ra hai đồng xu từ mỗi đồng bạc bạc Tây Ban Nha đang lưu hành. Nền kinh tế đã rõ ràng là chủ nghĩa tư bản trong tự nhiên vào những năm 1840 khi tỷ lệ người định cư tự do tăng lên, ngành công nghiệp hàng hải và len phát triển rực rỡ và quyền hạn của Công ty Đông Ấn đã bị cắt giảm.
Lúa mì, vàng, và các khoáng chất khác đã trở thành các ngành xuất khẩu bổ sung vào cuối những năm 1800. Từ những năm 1870, chính quyền bắt đầu đổ vào thành phố này để xây dựng đường sá, đường sắt, cầu, bến tàu, tòa án, trường học và bệnh viện. Các chính sách bảo hộ sau liên bang cho phép tạo ra một ngành công nghiệp sản xuất đã trở thành chủ nhân lớn nhất của thành phố vào những năm 1920. Những chính sách tương tự này đã giúp giảm bớt ảnh hưởng của Cuộc Đại suy thoái khi mà tỷ lệ thất nghiệp tại New South Wales lên tới 32%. Từ những năm 60 trở đi, Parramatta được công nhận là khu trung tâm thương mại thứ hai của thành phố và tài chính và du lịch đã trở thành các ngành công nghiệp và nguồn việc làm chính.
Tổng sản phẩm trong nước của Sydney là 400,9 tỷ AU và 80,000 đô la Úc / người vào năm 2015. Tổng sản phẩm trong nước của thành phố là AU $ 337 tỷ trong năm 2013, lớn nhất ở Úc. Ngành dịch vụ tài chính và dịch vụ bảo hiểm chiếm 18,1% tổng sản phẩm và đứng trước các dịch vụ chuyên nghiệp với 9% và ngành chế tạo với 7,2%. Ngoài Dịch vụ Tài chính và Du lịch, ngành Sáng tạo và Công nghệ là ngành trọng điểm của Thành phố Sydney và chiếm 9% và 11% sản lượng kinh tế của năm 2012.
Các thành phần kinh tế lớn khác ở Sydney, được đo bằng số lượng người được nhận việc, bao gồm các dịch vụ thương mại và địa ốc, buôn bán sĩ, sản xuất và dịch vụ sức khỏe và cộng đồng. Kể từ thập niên 1980, các công việc đã di chuyển từ sản xuất sang các khu vực dịch vụ và thông tin.
Tính vào tháng 9 năm 2003, tỉ lệ thất nghiệp ở Sydney là 5,3%. Theo The Economist Intelligence Unit's Worldwide khảo sát về giá cả sinh hoạt, Sydney là thành phố đắt thứ 16 trên thế giới, trong khi một khảo sát của UBS xếp hạng Sydney thứ 26 trên thế giới tính theo thu nhập.
Tính vào tháng 12 năm 2005, Sydney có giá nhà trung bình cao nhất trong các thành phố thủ phủ các tiểu bang với giá $485.000. Một báo cáo xuất bản bởi OECD vào tháng 11 năm 2005, cho thấy Úc có giá nhà cao nhất phương Tây khi so với những tiền lời đem lại từ việc thuê nhà.
Sydney là một trung tâm tài chính và thương mại lớn nhất ở Úc nói riêng và châu Đại Dương nói chung. Thành phố cũng là một trung tâm tài chính quan trọng ở vùng châu Á Thái Bình Dương. Thị trường chứng khoán Úc và Ngân hàng trung ương Úc tọa lạc ở Sydney, cũng như là tổng hành dinh của 90 ngân hàng và trên phân nửa các công ty hàng đầu của Úc, và các trụ sở trong khu vực của khoảng 500 công ty đa quốc gia. 20th Century Fox cũng có những phim trường lớn ở Sydney.
Sydney Futures Exchange (SFE) là một thị trường tài trao đổi futures và options tài chính lớn nhất châu Á - Thái Bình Dương, với 64,3 triệu hợp đồng được trao đổi trong năm 2005. Theo thứ tự toàn cầu nó là thị trường futures lớn thứ 12 trên thế giới và đứng thứ 19 nếu tính luôn cả options. Với vai trò thương mại tăng dần của Sydney nhiều phòng thí nghiệm y khoa và trung tâm nghiên cứu, khoa học và nghiên cứu là một lĩnh vực khác với nhiều tăng trưởng mạnh.
Thành phố này đã được xếp loại là một thành phố toàn cầu "Alpha" bởi Mạng lưới nghiên cứu toàn cầu hóa và các thành phố trên thế giới.
Du lịch
Du lịch đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế của Sydney, với 7,8 triệu du khách nội địa và 2,5 triệu du khách quốc tế trong năm 2004..
Sydney là cửa ngõ tới Úc cho nhiều du khách quốc tế. Thành phố này đã tiếp nhận được 2,8 triệu khách du lịch quốc tế sang du lịch trong năm 2013, gần một nửa số chuyến đi bay quốc tế tới Úc. Những du khách này đã dành 59 triệu đêm ở thành phố và tổng cộng 5,9 tỷ đô la. Hầu hết du khách là người từ Trung Quốc, New Zealand, Anh, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore, Đức, Hồng Kông và Ấn Độ.
Thành phố này cũng đã nhận được 8,3 triệu du khách trong nước qua đêm trong năm 2013 đã chi tổng cộng 6 tỷ đô la. 26.700 công nhân ở thành phố Sydney đã được trực tiếp sử dụng bởi du lịch trong năm 2011. Có 480.000 du khách và 27.500 người ở lại qua đêm mỗi ngày vào năm 2012. Trung bình, ngành du lịch đóng góp 36 triệu đô la cho nền kinh tế thành phố mỗi ngày
Các điểm đến phổ biến bao gồm Nhà hát Opera Sydney, Cầu Cảng Sydney, Vịnh Watsons, The Rocks, Tháp Sydney, cảng Darling, Thư viện Tiểu bang New South Wales, Vườn Bách thảo Hoàng gia, Vườn Quốc gia Hoàng Gia, Bảo tàng Úc, Nghệ thuật đương đại, Phòng trưng bày Nghệ thuật của New South Wales, Tòa nhà Nữ hoàng Victoria, Thủy cung Biển Sea Sydney, Vườn thú Taronga, Bãi biển Bondi, Dãy núi Xanh và Công viên Olympic Sydney.
Các dự án phát triển chủ yếu nhằm tăng cường ngành du lịch của Sydney bao gồm một sòng bạc và khách sạn tại Barangaroo và việc xây dựng lại Cảng Đông Darling, bao gồm một khu triển lãm và trung tâm hội nghị mới sẽ trở thành nơi hoàn thiện nhất của Australia sau khi hoàn thành.
Chính quyền
Theo lịch sử, Sydney được quản lý bởi Cumberland County (1945-1964). Ngày nay không có một cơ quan quản lý chung cho toàn bộ khu đô thị (metropolitan) của Sydney. Những công việc địa phương được điều hành bởi các cơ quan gọi là nhà nước địa phương (local government area- LGA). Những khu vực này đều đã bầu lên một hội đồng và họ có trách nhiệm trên một loạt các chức năng khác nhau được giao bởi chính quyền của tiểu bang New South Wales.
Thành phố Sydney bao gồm khu thương mại trung tâm và một số khu nội thành lân cận, và trong những năm gần đây đã được mở rộng thông qua sự sáp nhập với các khu vực nhà nước lân cận, chẳng hạn như khu Nam Sydney. Nó được đứng đầu bởi Thị trưởng Sydney được bầu lên và một hội đồng. Thị trưởng, tuy nhiên, đôi khi được đối xử như là đại diện cho toàn thành phố.
31 khu nhà nước địa phương (LGA) trong Sydney là:
Bayside
Canterbury-Bankstown
Blacktown
Burwood
Camden
Campbelltown
Canada Bay
Cumberland
Fairfield
Georges River
Hawkesbury
The Hills
Hornsby
Hunter's Hill
Inner West
Ku-ring-gai
Lane Cove
Liverpool
Mosman
Bắc Sydney
Bãi Biển Phía Bắc
Parramatta
Penrith
Randwick
Ryde
Strathfield
Sutherland
Sydney
Waverley
Willoughby
Woollahra
Đa số các hoạt động nhà nước tầm cỡ thành phố được quản lý bởi nhà nước tiểu bang. Những thứ này bao gồm phương tiện vận chuyển công cộng, các đường chính, điều khiển giao thông, cảnh sát, giáo dục trên mức nhà trẻ, và các dự án cơ sở hạ tầng quan trọng. Bởi vì phần lớn dân số New South Wales sống ở Sydney, nhà nước tiểu bang theo truyền thống rất miễn cưỡng trong việc cho phép những cơ quan nhà nước cấp thành phố, mà sẽ trở thành những cơ quan cạnh tranh với nhà nước tiểu bang. Bởi vì lý do này, Sydney luôn luôn là tiêu điểm về chính trị của cả tiểu bang và Quốc hội liên bang. Chẳng hạn, biên giới của các vùng nhà nước địa phương (LGA) của thành phố Sydney đã bị thay đổi đáng kể bởi các nhà nước tiểu bang ít nhất là bốn lần từ năm 1945, với những hiệu quả đem lại những thuận lợi dự đoán được cho đảng cầm quyền ở New South Wales Parliament vào thời điểm đó.
Giáo dục
Sydney là nơi của một vài trường đại học nổi tiếng nhất của nước Úc, và là nơi của trường đại học đầu tiên trên nước Úc, Đại học Sydney, thiết lập vào năm 1850. Có năm trường đại học công khác hoạt động chủ yếu ở Sydney: Đại học New South Wales, Đại học Macquarie, Đại học Kỹ thuật Sydney, Đại học Tây Sydney và Đại học Catholic Úc (2 trong số 6 campus). Các đại học khác có campus thứ hai ở Sydney bao gồm Đại học Notre Dame Úc và Đại học Wollongong.
Có 4 trường dạy nghề (Technical and Further Education - TAFE) đa campus được nhà nước tài trợ ở Sydney cung cấp việc đào tạo nghề nghiệp ở bậc cao đẳng: Viện kỹ thuật Sydney, Học viện TAFE Bắc Sydney, Học viện TAFE Tây Sydney và Học viện TAFE Tây Nam Sydney.
Sydney có các trường công, trường dòng, và trường tư. Các trường công, bao gồm mẫu giáo, tiểu học và trung học, và các trường đặc biệt được quản lý bởi Bộ Giáo dục và đào tạo New South Wales. Có 4 khu vực giáo dục được quản lý bởi nhà nước tiểu bang ở Sydney, cùng nhau quản lý 919 trường học. Trong 30 trường trung học tuyển chọn trong tiểu bang, 25 trường đó là nằm ở Sydney.
Sydney là thành phố xếp hạng cao nhất thế giới dành cho sinh viên quốc tế. Hơn 50.000 sinh viên quốc tế học tại các trường đại học của thành phố và hơn 50.000 học tại các trường dạy nghề và tiếng Anh. Giáo dục quốc tế đóng góp 1,6 tỉ đô la cho nền kinh tế địa phương và tạo ra nhu cầu cho 4.000 việc làm địa phương mỗi năm.
Thể thao
Sydney từng là chủ nhà của Thế vận hội Mùa hè 2000. Ngoài ra, thành phố cùng với Melbourne, liên tục đứng ra tổ chức các sự kiện thể thao quan trọng.
Những cuộc đua thuyền buồm đã được tổ chức tại Port Jackson từ năm 1827. Du thuyền đã được phổ biến trong số các cư dân giàu có từ những năm 1840 và Đội tàu du lịch Hoàng gia Sydney được thành lập năm 1862. Cuộc đua thuyền buồm Sydney to Hobart là một sự kiện dài 1.177 dặm (727 dặm) bắt đầu từ Cảng Sydney vào ngày Boxing Day. Kể từ khi thành lập vào năm 1945 nó đã được công nhận là một trong những cuộc đua thuyền khó nhất trên thế giới. Sáu thủy thủ đã chết và 71 tàu của đội tàu 115 đã thất bại trong việc hoàn thành cuộc đua ở giải năm 1998.
Câu lạc bộ Gôn Hoàng gia Sydney được đặt tại Rose Bay và từ khi mở cửa vào năm 1893 đã tổ chức Australian Open 13 lần. Trường đua ngựa Royal Randwick mở cửa vào năm 1833 và có một số chén lớn trong suốt cả năm. Sydney được hưởng lợi từ việc xây dựng cơ sở hạ tầng thể thao đáng kể để chuẩn bị cho việc tổ chức Thế vận hội mùa hè 2000. Công viên Olympic Sydney phục vụ các môn điền kinh, thể thao dưới nước, quần vợt, khúc côn cầu, bắn cung, bóng chày, đạp xe, cưỡi ngựa và chèo thuyền. Nó cũng bao gồm Sân vận động có sức chứa lớn Australia được sử dụng cho bóng đá bóng bầu dục, bóng đá, bóng đá Úc. [[Sân Bóng Đá Sydney được hoàn thành vào năm 1988 và được sử dụng cho các trận bóng bầu dục và bóng bầu dục. Sân Cricket Sydney được khai trương vào năm 1878 và được sử dụng cho cả hai môn bóng đá Úc và môn cricket.
Một giải đấu quần vợt giao hữu được tổ chức ở đây vào đầu mỗi năm như là sự khởi động cho Grand Slam giải quần vợt Úc mở rộng ở Melbourne.
Tham khảo
Liên kết ngoài
City of Sydney Official Homepage
Sydney, Australia
Thành phố thủ phủ Úc
Thủ đô châu Đại Dương
|
20014
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh%20%C4%91%E1%BB%99%20M%E1%BA%B7t%20Tr%E1%BB%9Di
|
Kinh độ Mặt Trời
|
Kinh độ Mặt Trời là một góc chỉ vị trí hành tinh trên quỹ đạo quanh Mặt Trời. Nó thường được ký hiệu là Ls. Nó bằng góc giữa đường nối Mặt Trời với hành tinh và phương xuân phân trên mặt phẳng quỹ đạo.
Trên Trái Đất
Kinh độ Mặt Trời của Trái Đất cũng bằng xích kinh độ của Mặt Trời trong hệ tọa độ xích đạo.
Ứng dụng
Kinh độ Mặt Trời thường được dùng để chỉ thời điểm trong năm và mùa trên hành tinh:
mùa xuân bắc bán cầu/mùa thu nam bán cầu bắt đầu từ Ls=0° (xuân phân)
mùa hạ bắc bán cầu/mùa đông nam bán cầu bắt đầu từ Ls=90° (hạ chí)
mùa thu bắc bán cầu/mùa xuân nam bán cầu bắt đầu từ Ls=180° (thu phân)
mùa đông bắc bán cầu/mùa hạ nam bán cầu bắt đầu từ Ls=270° (đông chí)
Nó đặc biệt được dùng khi nói về các quan sát có chu kỳ lặp lại theo năm trên Sao Hỏa, Sao Kim, và các hành tinh khác. Trên Trái Đất, kinh độ Mặt Trời hay được dùng khi quan sát các trận mưa sao băng, vì đây là hiện tượng lặp lại khi Trái Đất ở vào những vị trí nhất định trên quỹ đạo.
Đối với trường hợp Trái Đất, kinh độ Mặt Trời đã được sử dụng trong lịch Trung Quốc để xác định 24 tiết khí từ thời Hán Vũ Đế.
Ghi chú:
Trong phần "tiếng Hoa", chữ Hán được sử dụng là loại phồn thể, chữ trong ngoặc là giản thể tương ứng.
Trong phần "tiếng Triều", chữ trong ngoặc là phiên bản chữ Hán (Hanja)
Ý nghĩa của các tiết về cơ bản là giống nhau trong các nước, tuy nhiên có một vài điểm khác nhau rõ rệt.
Ngày bắt đầu của tiết khí có thể dao động trong phạm vi ±1 ngày.
Trong khoảng thời gian giữa các tiết khí như Đại tuyết, Tiểu tuyết trên thực tế ở miền bắc Việt Nam không có tuyết rơi. (Trừ một số đỉnh núi cao như Fansipan, Mẫu Sơn có thể có, tuy vậy tần số xuất hiện rất thấp và lại rơi vào khoảng thời gian của Tiểu hàn-Đại hàn).
Tham khảo
http://themis-data.asu.edu/glossary.html
http://www.utahskies.org/solarsystem/comets/terminology.html
Liên kết ngoài
Mùa, thời gian và kinh độ Mặt Trời trên Sao Hỏa
Tính kinh độ Mặt Trời của Sao Hỏa vào bất kỳ ngày Trái Đất (ngày trong lịch thông thường) nào.
Công cụ chuyển đổi từ kinh độ Mặt Trời sang ngày Julian và ngày tháng thông thường cho Trái Đất; giúp quan sát các mưa sao băng.
Trang Sao Hỏa hôm nay cho biết kinh độ Mặt Trời của Sao Hỏa vào ngày mà bạn vào xem trang này.
Hệ Mặt Trời
Lịch
Cơ học thiên thể
en:Longitude#Longitude on bodies other than Earth
|
20018
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20t%E1%BA%B1m%20gai
|
Bệnh tằm gai
|
Bệnh tằm gai do bào tử ký sinh trùng bệnh gai (Nosema bombycis) xâm nhập vào cơ thể qua đường tiêu hoá. Bào tử bệnh gai chỉ sinh sôi nảy nở trong cơ thể sống của tằm hoặc một số loại côn trùng.
Louis Pasteur là người đầu tiên nhận ra nguyên nhân của căn bệnh này khi một dịch bệnh này lây lan trên toàn nước Pháp.
Triệu chứng
Tằm bị nhiễm bệnh sẽ sinh trưởng, phát triển không đồng đều, lột xác kém, có nơi còn gọi là tằm sun...Tằm trốn ngủ, da căng bóng, đốt hơi ngắn, vận động nhiều, hai bên sườn xuất hiện nhiều chấm đen nhỏ li ti. Trứng tằm bị nhiễm bệnh thì bệnh sẽ phát khi tằm ở tuổi 1 - 3. Tằm nhiễm bệnh ở tuổi 1 - 3 thì sẽ phát bệnh ở tuổi 4 - 5. Cuối tuổi 5 vẫn ăn bình thường, khi lên né thì sun lại, rơi xuống và chết. Nếu đến tuổi 5 mới mắc bệnh thì vẫn nhả tơ kéo kén nhưng kén không tốt
Con đường lây nhiễm
Nhiễm qua phôi (trứng) sẽ phát bệnh ở tuổi 1 đến tuổi 3.
Nhiễm bệnh qua đường tiêu hoá sẽ phát ở tuổi 4-5.
Nếu tuổi 4-5 nhiễm bệnh gai tằm vẫn kết kén nhưng bệnh sẽ lây nhiễm đến trứng của đời sau.
Biện pháp phòng trừ
Loại mọi lô trứng nhiễm bệnh gai trên 5% (chủ yếu đối với các cơ sở sản xuất giống). Khử trùng nhà nuôi và dụng cụ nuôi tằm bằng dung dịch fooc-môn 2% trước và sau khi nuôi tằm. Sát trùng mình tằm qua các tuổi bằng vôi bột khi tằm ngủ và dậy.
Tham khảo
Sách tham khảo
Pasteur Valléry-Radot (Hrsg.): Œuvres de Pasteur. Band 4: Études sur la maladie des vers à soie. Masson, Paris 1926, S. 54-186.
Chavannes: Ueber die Krankheit des Seidenspinners und die Erziehung einer gesunden Brut desselben. In: Berliner entomologische Zeitschrift, Band 5, 1861, S. 175ff.
Nicola Williams, Miles Roddis: Languedoc-Roussillon. MairDumont, Ostfildern 2009, S. 106.
Dâu tằm tơ
|
20023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Victoria%20%28%C3%9Ac%29
|
Victoria (Úc)
|
Victoria (viết tắt VIC) là một tiểu bang nằm tại góc đông nam của Úc. Tuy là tiểu bang có diện tích nhỏ thứ nhì (sau Tasmania), Victoria có dân số cao nhất Úc - vào năm 2021 dân số của Victoria đạt hơn 6.649.159 người. Thủ phủ của Victoria là Melbourne, nơi tập trung hơn 70% dân số của tiểu bang.
Vị trí địa lý
Phía đông giáp biển Tasman thuộc Thái Bình Dương
Phía tây giáp bang Nam Úc
Phía nam giáp eo biển Bass thuộc Ấn Độ Dương, đối diện qua eo biển là bang Tasmania
Phía bắc giáp bang New South Wales
Xem thêm
Úc
Các Tiểu bang và vùng lãnh thổ Úc
Cháy rừng tại Victoria 2009
Tham khảo
Tiểu bang và vùng lãnh thổ Úc
Cựu thuộc địa và xứ bảo hộ Anh tại châu Đại Dương
|
20048
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85%20T%E1%BA%A1%20%C6%A1n
|
Lễ Tạ ơn
|
Lễ Tạ ơn (tiếng Anh: Thanksgiving) là một ngày lễ hàng năm được tổ chức chủ yếu tại Hoa Kỳ, Canada, một số đảo ở Caribe và Liberia. Ý nghĩa ban đầu là mừng thu hoạch được mùa và tạ ơn Thiên Chúa đã giúp cho cuộc sống no đủ và an lành. Đây cũng là ngày nghỉ lễ chính thức cho tất cả người lao động tại Mỹ và Canada.
Ngày và nơi diễn ra lễ Tạ ơn đầu tiên vẫn là vấn đề chưa rõ ràng. Mặc dù lễ Tạ ơn sớm nhất đã được kiểm chứng diễn ra vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại khu vực ngày nay là Saint Augustine, Florida, nhưng "lễ Tạ ơn đầu tiên" theo truyền thống được coi là đã diễn ra tại khu vực thuộc thuộc địa Plymouth vào năm 1621.
Ngày nay, tại Hoa Kỳ, lễ Tạ ơn được tổ chức vào ngày thứ Năm lần thứ tư của tháng 11 vì thế ngày này có thể không phải là ngày thứ năm cuối cùng của tháng 11 như nhiều người lầm tưởng (ví dụ năm 2012, tháng 11 có đến 5 ngày thứ năm). Tại Canada, nơi có cuộc thu hoạch sớm hơn, ngày lễ này được tổ chức vào ngày thứ Hai lần thứ hai của tháng 10.
Lịch sử
Lễ Tạ ơn gắn liền với các lễ hội ngày mùa thường được tổ chức ở châu Âu từ xưa. Trong truyền thống Anh, ngày tạ ơn và nghi lễ tôn giáo tạ ơn đặc biệt trở nên quan trọng trong quá trình Cải cách Kháng Cách tại Anh trong thời kỳ trị vì của vua Henry VIII.
Tại Bắc Mỹ, lễ hội này đầu tiên được tổ chức tại Newfoundland bởi Martin Frobisher và nhóm Thám hiểm Frobisher năm 1578, để mừng tạ ơn Chúa đã cho sống sót qua cuộc hành trình dài và nhiều bão tố từ Anh. Một lễ hội khác được tổ chức vào ngày 4 tháng 12 năm 1619 khi 38 người khai hoang từ giáo khu Berkeley xuống thuyền tại Virginia và tạ ơn Thượng đế.
Tuy nhiên trước đó, cũng có thông tin về một buổi tiệc Tạ ơn tổ chức bởi Francisco Vásquez de Coronado (cùng với nhóm người da đỏ Teya) ngày 23 tháng 5 năm 1541 tại Texas, để ăn mừng việc họ tìm ra lương thực. Một số người cho rằng đây là cuộc tổ chức Tạ ơn thật sự đầu tiên tại Bắc Mỹ. Một sự kiện tương tự xảy ra một phần tư thế kỷ sau, vào ngày 8 tháng 9 năm 1565 tại St. Augustine, Florida khi Pedro Menéndez de Avilés gặp đất liền; ông và những người trên thuyền đã tổ chức một buổi tiệc với người bản xứ.
Sự tích về ngày lễ tạ ơn
Vào khoảng thế kỷ 16-17, một số người theo Công giáo và Thanh giáo tại Anh bị hoàng đế lúc đó bắt cải đạo để theo tôn giáo của ông ta, trong cuộc Cải cách Tin Lành. Những người này không chấp nhận và bị giam vào tù. Sau khi giam một thời gian vị hoàng đế truyền họ lại và hỏi lần nữa, họ vẫn quyết không cải đạo. Hoàng đế không giam họ vào tù nữa mà nói với họ rằng nếu họ không theo điều kiện của ông ta thì họ phải rời khỏi nước Anh.
Những người này rời khỏi Anh đến Hà Lan sinh sống nhưng họ sớm nhận ra mình không thể hoà nhập ở nơi này và lo sợ con cháu của họ sẽ bị mất gốc, một số nhóm người rời khỏi Hà Lan để đến Tân Thế giới (Châu Mỹ) sinh sống, và sau này thường được gọi là Người hành hương (Pilgrims). Những người này đi trên một con thuyền tên là Mayflower, họ đặt chân đến Thuộc địa Plymouth thuộc vùng Tân Anh (New England) khi đang mùa đông. Đói và lạnh, một nửa trong số họ không qua nổi mùa đông khắc nghiệt. Đến mùa xuân, họ may mắn gặp được những thổ dân da đỏ tốt bụng và cho họ ít lương thực. Người da đỏ dạy họ những cách sinh tồn ở vùng đất này như cách trồng hoa màu, săn bắt,... Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời vì đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ. Từ đó về sau, hằng năm con cháu của người Pilgrims luôn tổ chức lễ tạ ơn để cảm ơn cho những gì tốt đẹp đã đến với cuộc sống.
Theo tài liệu, buổi lễ tạ ơn đầu tiên tại Hoa Kỳ, do người Pilgrims tổ chức, là vào năm 1621 tại Thuộc địa Plymouth, ngày nay thuộc Massachusetts, sau một vụ thu hoạch tốt.
Tổ chức truyền thống
Lễ Tạ ơn thường được tổ chức với một buổi tiệc buổi tối cùng với gia đình và bạn bè với món thịt gà tây. Tại Canada và Hoa Kỳ, nó là một ngày quan trọng để gia đình sum họp với nhau, và người ta thường đi xa để về với gia đình. Người ta thường được nghỉ bốn ngày cuối tuần cho ngày lễ này tại Hoa Kỳ: họ được nghỉ làm hay học vào ngày thứ Năm và thứ Sáu của tuần đó. Lễ Tạ ơn thường được tổ chức tại nhà, khác với ngày Lễ Độc lập Hoa Kỳ hay Giáng Sinh, những ngày lễ mà có nhiều tổ chức công cộng (như đốt pháo hoa hay đi hát dạo). Tại Canada, nó là một cuối tuần ba ngày, người ta thường được nghỉ vào ngày thứ Hai thứ nhì của tháng 10 mỗi năm.
Tại Hoa Kỳ, người ta thường tưởng nhớ đến một bữa ăn tổ chức trong năm 1621 giữa người da đỏ Wampanoag và nhóm Pilgrim đã di cư tại Massachusetts. Lễ Tạ ơn đã được thực hiện chủ yếu bởi các nhà lãnh đạo tôn giáo tại New England cho đến năm 1682, và sau đó bởi cả hai nhà lãnh đạo chính quyền và tôn giáo cho đến sau Cách mạng Hoa Kỳ. Tổng thống Hoa Kỳ George Washington đã công bố lễ tạ ơn toàn quốc đầu tiên ở Mỹ vào ngày 26 tháng 11 năm 1789, "là một ngày tạ ơn công cộng và cầu nguyện bởi sự công nhận với lòng biết ơn sự gia ân và tín hiệu tốt của Thiên Chúa Toàn Năng". Nhiều chi tiết của câu chuyện là truyền thuyết được đặt ra trong những năm 1890 và đầu thế kỷ 20 để tạo một biểu hiện sự đoàn kết quốc gia sau Nội chiến Hoa Kỳ cũng như để đồng hóa các người nhập cư.
Tại Canada, Lễ Tạ ơn là một cuối tuần ba ngày. Trong khi ngày Lễ Tạ ơn nằm vào ngày thứ Hai, người Canada có thể ăn buổi tiệc trong bất cứ ngày nào trong ba ngày cuối tuần đó. Việc này thường dẫn đến việc ăn một buổi tiệc với nhóm người này hôm này, rồi với nhóm khác hôm kia.
Từ cuối thập niên 1930, mùa mua sắm cho Giáng Sinh tại Hoa Kỳ chính thức bắt đầu khi ngày Lễ Tạ ơn chấm dứt. Tại Thành phố New York, cuộc diễu hành Lễ Tạ ơn của chuỗi cửa hàng Macy's (Macy's Thanksgiving Day Parade) được tổ chức hằng năm vào ngày này tại Manhattan. Diễn hành thường có nhiều khán đài với nhiều chủ đề, có bong bóng lớn hình các nhân vật trên Truyền hình và các ban nhạc từ những trường trung học. Diễu hành này lúc nào cũng kết thúc với một Ông già Nôen. Có nhiều cuộc diễn hành khác tại nhiều thành phố khác.
Trong khi ngày thứ Sáu (còn gọi là Thứ Sáu Đen) sau ngày Lễ Tạ ơn là ngày mua sắm đông nhất trong năm tại Hoa Kỳ, nhiều cửa hàng đã bắt đầu chào đón khách hàng với các món hàng cho mùa lễ ngay sau Halloween.
Bóng bầu dục (American football) thường là một phần quan trọng trong ngày Lễ Tạ ơn tại Hoa Kỳ cũng như tại Canada. Các đội chuyên nghiệp thường đấu nhau trong ngày này để khán giả có thể xem trên truyền hình. Thêm vào đó, nhiều đội banh trung học hay đại học cũng đấu nhau vào cuối tuần đó, thường với các đối thủ lâu năm.
Tại Hoa Kỳ và Canada
Ghi chú
Liên kết ngoài
Thanksgiving: A Holiday For Believers and Non-Believers, Kristen Moulton, Salt Lake Tribune, TheHuffingtonPost 11/19/2010
Tìm hiểu Lễ Tạ Ơn
The First Thanksgiving - Christian Science Monitor
List of all Canadian thanksgiving days and their reasons
Macy's Thanksgiving Day Parade - official site
Thanksgiving Around The World
America's Thanksgiving Parade in Detroit, MI
Pro football games on Thanksgiving Day since 1920
History of Thanksgiving Timeline
Tổng thống Obama phóng sinh gà tây nhân lễ Tạ Ơn, VOA 26/11/2012
All Recipes-Thanksgiving Recipes
Reader's Digest Complete Classic Recipe Guide
Butterball Turkey Holiday Guide
EatTurkey.com: Thanksgiving and Holiday Cooking from the National Turkey Federation
Epicurious Eating Thanksgiving Homepage
Food Network Thanksgiving
Turkey tips from Metafilter
Martha Stewart Thanksgiving Planner
Tạ ơn
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười
Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười Một
Lễ mừng được mùa
Nông nghiệp trong xã hội
Văn hóa phương Tây
|
20053
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Blast%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Blast (định hướng)
|
Trong tin sinh học, BLAST là một chương trình dùng để so sánh các chuỗi sinh học (DNA, polypeptide).
Trong y học, blast là cách nói tắt hay gặp để chỉ các tế bào máu chưa trưởng thành (từ tiếng Anh: myeloblast).
|
20056
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ch%C3%B9a%20Qu%E1%BA%A3ng%20Nghi%C3%AAm
|
Chùa Quảng Nghiêm
|
Chùa Quảng Nghiêm (Chữ Hán: 廣嚴寺) còn gọi là chùa Tiên Lữ hay chùa Trăm Gian là một ngôi chùa nằm trên một quả đồi cao khoảng 50 m, ở thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Chùa được lập từ đời Lý Cao Tông nhà Lý, niên hiệu Trinh Phù thứ 10, 1185. Đến thời nhà Trần, có hòa thượng Bình An, quê ở Bối Khê tu ở đây, tương truyền là người có nhiều phép lạ. Sau khi ông mất, dân làng xây tháp để giữ gìn hài cốt và tôn gọi là Đức Thánh Bối. Ngôi chùa lớn với quy mô như hiện nay là đã được trùng tu và xây dựng thêm qua nhiều thời đại.
Ở sân chùa có gác chuông hai tầng tám mái được dựng vào năm Quý Dậu 1693, niên hiệu Chính Hòa, đời Lê Hy Tông, là một công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao. Chùa còn giữ được nhiều di vật và tượng quý. Trăm gian, cái tên rất bình dân, dường như muốn nói lên vẻ bề thế của ngôi chùa.
Lịch sử
Truyền thuyết kể rằng vào thời nhà Trần, ở làng Bối Khê có một người phụ nữ nằm mộng thấy đức Phật giáng sinh, rồi có mang, sinh ra đứa con trai. Năm lên 9 tuổi, sau khi bố mẹ mất, người con trai ấy bỏ nhà vào tu ở chùa Đại Bi trong làng. Lên 15 tuổi, đến thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, (huyện Chương Mỹ, Hà Nội ngày nay), thấy cảnh đẹp, người xin yết kiến và theo học kinh kệ với vị trưởng lão tu tại ngôi chùa trên núi. Sau mười năm học đạo, người thanh niên đó hiểu thấu mọi phép linh thông. Vua Trần nghe tiếng, sắc phong là Hòa thượng, đặt hiệu là Đức Minh rồi mời về tu ở chùa trong kinh đô.
Sau khi vị trưởng lão ở chùa Tiên Lữ viên tịch, Hòa thượng Đức Minh xin về làng dựng ngôi chùa mới. Năm 95 tuổi, Sư ngồi vào một cái khám gỗ, từ biệt đệ tử rồi siêu thoát. Một trăm ngày sau, đệ tử mở cửa khám, kim quang Sư bay mùi thơm nức, ngào ngạt gần xa. Dân làng và đệ tử xây tháp để gìn giữ kim thân và tôn thờ là đức Thánh Bối.
Chùa Trăm Gian thu hút hàng trăm ngàn lượt khách gần xa đến tham quan hàng năm và hiện đang được tu bổ xây dựng lại ao sen, gác chuông và 100 gian chùa để đón tiếp đồng bào gần xa đến tham quan. Chùa Trăm Gian được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam chứng nhận di tích lịch sử quốc gia.
Kiến trúc
Chùa Trăm Gian là một quần thể kiến trúc độc đáo. Theo cách tính cứ 4 góc cột là một "gian" thì chùa có cả thảy 104 gian, chia thành 3 cụm kiến trúc chính:
Cụm thứ nhất gồm 4 cột trụ và 2 quán, trước đây là nơi đánh cờ người trong ngày hội, tiếp đó là nhà Giá Ngự nhìn ra mặt hồ sen, nơi đặt kiệu thánh để xem trò múa rối nước.
Trèo qua mấy trăm bậc gạch xây là tới cụm thứ hai gồm một tòa gác chuông 2 tầng mái, có lan can chạy quây 4 mặt. Các ván bằng đều có chạm hình mây hoa. Tại đây treo một quả chuông cao 1,10 m, đường kính 0,6 m, đúc năm Cảnh Thịnh thứ hai, 1794. Trên chuông có khắc một bài minh của Phạm Huy Ích. Qua gác chuông, leo 25 bậc đá xanh hình rồng mây, đến sân trên có kê một sập đá hình chữ nhật.
Lại leo 9 bậc đá, hai bên có lan can chạm hình rồng cuộn khúc thế tới cụm thứ 3 đó là chùa chính, gồm nhà bái đường, toà thiêu hương và thượng điện. Hai bên là 2 dãy hành lang. Trong cùng là nhà tổ, giữ lại có lầu trống bên trong treo một cỗ trống lớn, đường kính 1 m và một tấm khánh đồng dài 1,20 m, cao 0,60 m đúc năm 1749, Cảnh Hưng thứ 10. Tại đây có 153 pho tượng, hầu hết bằng gỗ, một số ít bằng đất nung, đặc biệt quý là tượng Tuyết Sơn, tượng Quan Thế Âm Bồ Tát. Ở giữa thượng điện có một bệ bằng đất nung đỏ hình khối chữ nhật, giống kiểu các bệ đá thời nhà Trần. Trên bệ đá là đài sen, xung quanh trang trí nhiều hình động vật và hoa lá, bón góc có hình chim thần. Trên bệ đặt các tượng Phật tam thế. Trong chùa còn có nhiều bia, hoành phi, câu đối... Riêng có hai câu đối khảm trai, tương truyền có từ thời nhà Hồ (1400-1406).
Trong chùa có tượng đô đốc Đặng Tiến Đông, một tướng lĩnh nhà Tây Sơn, chỉ huy đạo quân đánh vào phía nam Thăng Long. Tượng này được phát hiện vào năm 1972. Ngoài ra còn có tượng Đức Thánh Bối đặt trong khám gỗ gian bên phải. Đây là tượng cốt rút bằng mây đan ngoài bọc vải sơn, tương truyền là tượng bỏ hài cốt của ông.
Chư Vị Tăng Ni
Thánh Tổ Đức Minh Chân Nhân, Thánh Bối.
Từ Huệ Tháp, Tỳ kheo ni Như Bích, quê huyện Từ Liêm. Tháp lập năm Cảnh hưng thứ 16.
Tỳ Kheo Ni Diệu Sử, hiệu Giới Sử, người làng Bối Khê.
Viên Dung Tháp, Sa di ni Tánh Côn, tháp lập năm Cảnh Hưng 33 (1772).
Ni Trưởng Thích Đàm Hiền
Ni Sư Thích Đàm Khoa
Sự kiện hủy hoại chùa
Chùa Trăm gian đã nhiều lần được trùng tu, tôn tạo theo những cách thức phá hỏng di tích như sơn lại tranh tượng quý bằng sơn công nghiệp; làm mới bệ tượng, bàn thờ bằng xi măng, gạch ốp lát công nghiệp xanh đỏ tím vàng; xây mới các dãy hành lang đánh bóng cột kèo bằng vécni. Đặc biệt nghiêm trọng là đợt trùng tu hơn 100 ngày giữa năm 2012 khi nhà Tổ, gác khánh có tuổi đời nhiều trăm năm của chùa đã bị đập bỏ không thương tiếc để xây dựng thành di tích một ngày tuổi. Sự kiện xảy ra nhiều ngày, thậm chí thông tin về quyên góp dựng chùa còn được phát thanh trên hệ thống loa xã, nhưng cơ quan chức năng từ thôn, xã, huyện, thành phố, trung ương không ai hay biết.
Chú thích
Tham khảo
Chùa Trăm Gian
Chùa Trăm Gian bị hủy hoại một cách vô lối
Chùa tại Hà Nội
Chương Mỹ
|
20062
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/25%20th%C3%A1ng%2011
|
25 tháng 11
|
Ngày 25 tháng 11 là ngày thứ 329 trong mỗi năm thường (thứ 330 trong mỗi năm nhuận). Còn 36 ngày nữa trong năm.
Sự kiện
1034 – Malcolm II nước Scotland qua đời. Duncan, con trai của con út thừa kế, thay vì Macbeth, con trai của con lớn.
1120 – Tàu Trắng bị đắm vào biển Măng sơ, William Adelin, con trai của Henry I của Anh, bị chết đuối.
1177 – Baldwin IV của Jerusalem và Raynald xã Chatillon thắng Saladin ở Trận Montgisard.
1491 – Thành phố Granada, đồn lũy cuối cùng của người Maroc ở Tây Ban Nha, bắt đầu bị bao vây.
1542 – Ở Trận Solway Moss, quân đội Anh xâm lược Scotland và thắng quân đội Scotland.
1745 – Chiến tranh Kế vị Áo: Trận Katholisch-Hennersdorf và Görlitz kết thúc với thắng lợi của quân Phổ trước quân Áo-Sachsen.
1758 – Chiến tranh Pháp và Người da đỏ: Quân đội Anh lấy Pháo đài Duquesne từ chính quyền Pháp.
1783 – Cách mạng Hoa Kỳ: Quân đội cuối cùng của Vương quốc Anh ra khỏi Thành phố New York ba tháng sau khi Hiệp ước Paris được thỏa thuận.
1784 – Thủy chiến ở Măng Thít. Thủy quân Xiêm - Nguyễn giao chiến với thủy quân Tây Sơn. Chu Văn Tiếp tử thương.
1795 – Phân chia Ba Lan: Stanislaus August Poniatowski, quốc vương cuối cùng của nước độc lập Ba Lan, bị bắt phải thoái vị và trốn qua Nga.
1863 – Nội chiến Hoa Kỳ: Tại Missionary Ridge ở Tennessee, quân đội Liên bang dẫn bởi tướng Ulysses S. Grant gãy Bao vây Chattanooga khi đánh quân đội các Tiểu bang Liên minh Hoa Kỳ dưới tướng Braxton Bragg, trong Trận Missionary Ridge.
1872 – Cuộc chiến con lợn: Những người lính Anh cuối cùng rời khỏi quần đảo San Juan, đánh dấu sự kiện quần đảo thuộc Hoa Kỳ
1874 – Đảng Giấy bạc Hoa Kỳ được thành lập làm Đảng chính trị phần nhiều là người nông dân bị phá sản do Hoảng sợ năm 1873.
1876 – Chiến tranh Người da đỏ: Quân đội Hoa Kỳ trả thù những người da đỏ sau khi họ bị thua kinh khủng ở Trận Little Bighorn. Quân đội Hoa Kỳ phá đánh làng Cheyenne của Thủ lĩnh Dull Knife gần nguồn Sông Powder, những người ở làng đó đang ngủ.
1918 – Vojvodina, nguyên là thổ địa hoàng thất Áo-Hung, tuyên bố ly khai khỏi đế quốc và gia nhập vào Vương quốc Serbia.
1940 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Hai loại máy bay De Havilland Mosquito và Martin B-26 Marauder thực hiện chuyến bay đầu tiên.
1970 – Nhà văn - quân nhân Nhật Bản Mishima Yukio tự vẫn theo nghi thức seppuku sau một nỗ lực đảo chính bất thành nhằm phục hồi thực quyền cho Thiên hoàng.
1992 – Hội đồng Liên bang Tiệp Khắc bỏ phiếu quyết định chia tách liên bang thành Cộng hòa Séc và Cộng hòa Slovakia từ ngày 1 tháng 1 năm 1993.
Sinh
902 – Liêu Thái Tông Da Luật Đức Quang, sinh ngày Ất Mùi (23) tháng 10 âm lịch (m. 947)
1075 – Kim Thái Tông Hoàn Nhan Thịnh, sinh ngày 15 tháng 10 âm lịch (m. 1135)
1609 – Henrietta Maria, Vương hậu của Anh, Scotland, và Ireland (m. 1669)
1717 – Aleksandr Petrovich Sumarokov, nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch người Nga (m. 1777)
1825 – Nguyễn Phúc Gia Thụy, phong hiệu Bình Xuân Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (m. 1860)
1835 – Andrew Carnegie, doanh nhân, nhà từ thiện người Mỹ gốc Scotland (m. 1919)
1844 – Carl Benz, kỹ sư và doanh nhân người Đức, thành lập Mercedes-Benz (m. 1929)
1854 – Lương Văn Can, nhà cách mạng người Việt Nam (m. 1927)
1881 – Giáo hoàng Gioan XXIII (Tiếng Latinh: Ioannes PP. XXIII; tiếng Ý: Giovanni XXIII) (m. 1963)
1887 – Nikolai Ivanovich Vavilov, nhà di truyền học người Nga (m. 1943)
1915 – Augusto Pinochet, tướng lĩnh và chính trị gia người Chile, Tổng thống thứ 30 của Chile (m. 2006)
1919 – Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo.
1926 – Poul Anderson, tác gia người Mỹ (m. 2001)
1941 – Riaz Ahmed Gohar Shahi, nhà lãnh đạo tinh thần và tác giả người Pakistan
1952 – Imran Khan, cầu thủ cricket và chính trị gia người Pakistan
1952 – John Lynch, chính trị gia người Mỹ
1960 – John F. Kennedy, Jr., nhà báo, luật sư người Mỹ (m. 1999)
1962 – Sakaguchi Hironobu, nhà sản xuất và đạo diễn trò chơi điện tử người Nhật
1969 – Dexter Jackson, vận động viên thể hình người Mỹ
1971 – Christina Applegate, diễn viên và ca sĩ người Mỹ
1978 – Shiina Ringo, ca sĩ-người viết ca khúc, nhạc sĩ, nhà sản xuất người Nhật
1981 – Xabi Alonso, cầu thủ bóng dá người Tây Ban Nha
1988 – Jay Spearing, cầu thủ bóng đá người Anh
2000 – Shotaro, ca sĩ người Nhật Bản, thành viên nhóm nhạc NCT
Mất
1185 – Giáo hoàng Luciô III (La tinh: Lucius III) (s. 1097)
1784 – Châu Văn Tiếp, tướng lĩnh Việt Nam (s. 1738)
1819 – Alexander Tormasov, tướng lĩnh người Nga (s. 1752), mất ngày 13 tháng 11 theo lịch Julius.
1884 – Adolph Wilhelm Hermann Kolbe, nhà hóa học người Đức (s. 1818)
1925 – Vajiravudh, Quốc vương Thái Lan (s. 1881)
1950 – Johannes Vilhelm Jensen, tác gia người Đan Mạch, đoạt Giải Nobel Văn học (s. 1873)
1956 – Aleksandr Dovzhenko, đạo diễn người Ukraina tại Liên Xô (s. 1894)
1970 – Mishima Yukio, tác gia, nhà hoạt động, diễn viên và đạo diễn người Nhật (s. 1925)
1974 – U Thant, nhà ngoại giao người Myanmar, Tổng Thư ký thứ ba của Liên Hợp Quốc (s. 1909)
1986 – Gabdulkhay Akhatov, nhà ngôn ngữ học Liên Xô (s. 1927)
1992 – Phạm Văn Mùi, nhiếp ảnh gia người Việt Nam (s. 1907)
1997 – Hastings Banda, chính trị gia người Malawi, Tổng thống đầu tiên của Malawi (s. 1898)
1999 – Pierre Bézier, kỹ sư người Pháp, tạo ra đường cong Bézier và mặt phẳng Bézier (s. 1910)
2005 – George Best, cầu thủ bóng đá người Ireland (s. 1946)
2016 – Fidel Castro, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba (s. 1926)
2020 – Diego Maradona, cầu thủ bóng đá người Argentina (s. 1960)
Những ngày lễ và ngày kỷ niệm
Ngày quốc tế loại bỏ bạo lực đối với Phụ nữ
Chú thích
Tháng mười một
Ngày trong năm
|
20064
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/1%20th%C3%A1ng%201
|
1 tháng 1
|
Ngày 1 tháng 1 là ngày thứ 1 trong lịch Gregory. Đây là ngày đầu tiên trong năm.
Lịch sử
Trong suốt thời Trung cổ dưới ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma, nhiều quốc gia ở Tây Âu đã bắt đầu năm mới với một trong những lễ hội quan trọng của người Cơ đốc giáo – 25 tháng 12 (Ngày Chúa Giêsu ra đời), ngày 1 tháng 3, ngày 25 tháng 3 (Ngày thiên sứ truyền tin cho Maria) và cả lễ Phục Sinh. Các quốc gia Đông Âu (hầu hết trong số họ có dân số đông thể hiện lòng trung thành với Chính thống giáo) đã bắt đầu năm thứ nhất vào ngày 1 tháng 9 từ khoảng 988.
Hầu hết các nước Tây Âu đã thay đổi ngày đầu năm là ngày 1 tháng 1 trước khi họ chấp nhận lịch Gregorian. Ví dụ, Scotland đã thay đổi sự bắt đầu của năm mới Scotland đến ngày 1 tháng 1 năm 1600. Anh, Ireland và các thuộc địa Anh thay đổi đầu năm là ngày 1 tháng 1 năm 1752. Cuối năm đó vào tháng 9, lịch Gregorian được giới thiệu trên khắp nước Anh và thuộc địa của Anh. Hai cải cách này được thực hiện theo Đạo luật Lịch (Phong cách Mới) năm 1750.
Ngày 1 tháng 1 đã trở thành sự khởi đầu chính thức của năm ở một số quốc gia từ:
1362 – Đại công quốc Litva
1522 – Cộng hòa Venezia
1544 – Đế quốc La Mã Thần thánh (Đức)
1556 – Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha
1559 – Phổ, Thụy Điển
1564 – Pháp
1576 – Nam Hà Lan
1579 – Công quốc Lorraine
1583 – Bắc Hà Lan
1600 – Scotland
1700 – Nga
1721 – Tuscany
1752 – Vương quốc Anh (trừ Scotland) và thuộc địa
Sự kiện
153 TCN – Các quan chấp chính Đế quốc La Mã bắt đầu năm đảm nhiệm chức vụ của họ.
45 TCN – Lịch Julius lần đầu tiên có hiệu lực.
42 TCN – Viện nguyên lão Lã Mã truy thần hóa cho Julius Caesar.
69 – Lê dương La Mã tại Thượng Germania khước từ lời thề trung thành với Galba. Họ nổi dậy và tuyên bố Vitellius là hoàng đế.
193 – Viện nguyên lão chọn Pertinax làm Hoàng đế La Mã.
404 – Sau khi buộc Tấn An Đế phải thiện vị, Sở vương Hoàn Huyền lên ngôi hoàng đế, tức ngày Nhâm Thìn (3) tháng 12 năm Quý Mão.
417 – Hoàng đế Honorius ép Galla Placidia kết hôn với Constantius III, vị tướng nổi tiếng của ông.
896 – Đường Chiêu Tông ban cho quân phiệt người Sa Đà Lý Khắc Dụng tước Tấn vương, tức ngày Ất Mùi (13) tháng 12 năm Ất Mão.
976 – Quân Tống đánh chiếm kinh thành Kim Lăng của nước Nam Đường, Nam Đường Hậu Chủ Lý Dục phụng biểu nạp hàng, tức ngày Ất Mùi (27) tháng 11 năm Ất Hợi.
1001 – Giáo hoàng Silvestrô II phong Đại công tước István I là quốc vương đầu tiên của Hungary.
1068 – Được người nhiếp chính Eudokia Makrembolitissa xá tội âm mưu soán vị, Romanos IV Diogenes kết hôn với bà để trở thành hoàng đế của Đông La Mã.
1259 – Mikhael VIII Palaiologos được tuyên bố là đồng hoàng đế của Đế quốc Nicaea cùng với người bảo trợ của ông là John IV Laskaris.
1438 – Albert II của Habsburg được trao vương miện trở thành vua Hungary.
1502 – Người Bồ Đào Nha lần đầu thám hiểm khu vực nay là thành phố Rio de Janeiro, Brasil.
1515 – Quốc vương François I bắt đầu cai trị Pháp.
1527 – Các quý tộc Croatia bầu Ferdinand I của Áo làm quốc vương của Croatia.
1600 – Scotland bắt đầu năm mới từ 1 tháng 1 thay vì 25 tháng 3.
1651 – Charles II đăng quang quốc vương của Scotland.
1700 – Đế quốc Nga bắt đầu sử dụng kỷ nguyên Công Nguyên và không còn sử dụng Kỷ nguyên Thế giới của Đế quốc Đông La Mã.
1707 – João V được trao vương miện trở thành vua Bồ Đào Nha.
1739 – Nhà thám hiểm người Pháp Jean–Baptiste Charles Bouvet de Lozier phát hiện ra đảo Bouvet gần Nam Cực.
1772 – Tấm séc du lịch đầu tiên có thể được sử dụng ở các thành phố châu Âu do Công ty Tín dụng Luân Đôn cấp.
1773 – Bài thánh ca mà sau được gọi là "Ân điển diệu kỳ", khi đó có tên "1 Chronicles 17:16–17" được sử dụng lần đầu để đệm cho một bài giảng đạo của mục sư John Newton tại thị trấn Olney, Buckinghamshire, Anh.
1781 – Cách mạng Mỹ: Một ngàn năm trăm binh sĩ thuộc Trung đoàn Pennsylvania 6 dưới quyền chỉ huy của Tướng Anthony Wayne chống lại Lục quân Lục địa ở Morristown, New Jersey ở Pennsylvania Line Mutiny.
1788 – Ấn bản đầu tiên của The Times tại Luân Đôn được phát hành, khi đó mang tên The Daily Universal Register.
1800 – Công ty Đông Ấn Hà Lan bị giải thể.
1801
Việc hợp nhất về pháp lý giữa Vương quốc Anh và Vương quốc Ireland hoàn thành, hình thành nên Vương quốc Liên hiệp Anh và Ireland.
Nhà thiên văn học người Ý Giuseppe Piazzi phát hiện ra hành tin lùn Ceres.
1803 – Hoàng đế Gia Long ra lệnh cho tất cả các đồ bằng đồng của nhà Tây Sơn được thu thập đem đi nung chảy thành chín khẩu pháo cho Kinh thành Huế, Việt Nam.
1804 – Haiti giành độc lập từ Pháp và trở thành nước cộng hòa đầu tiên của người da đen, là cuộc cách mạng nô lệ thành công duy nhất đến thời điểm đó.
1806
Lịch cộng hòa tại Pháp bị bãi bỏ.
Vương quốc Bayern được thành lập.
1808 – Việc nhập khẩu nô lệ vào Hoa Kỳ bị cấm.
1833 – Anh Quốc tuyên bố chủ quyền đối với Quần đảo Falkland ở phía Nam Đại Tây Dương.
1861 – Porfirio Díaz chinh phục Thành phố México.
1863 – Nội chiến Hoa Kỳ: Tuyên ngôn giải phóng nô lệ có hiệu lực tại lãnh thổ Liên minh miền Nam.
1870 – Người đồng sáng lập nên kiến trúc hiện đại là Adolf Loos được rửa tội tại nhà thờ Thánh Tôma ở Brno, Đế quốc Áo–Hung.
1873 – Nhật Bản bắt đầu sử dụng Lịch Gregory.
1877 – Nữ vương Victoria của Anh Quốc được tuyên bố là hoàng đế của Ấn Độ.
1880 – Ferdinand de Lesseps bắt đầu công việc xây dựng Kênh đào Panama của người Pháp.
1890 – Chính phủ Ý hợp nhất Eritrea thành một thuộc địa.
1892 – Đảo Ellis được mở cửa để bắt đầu đón nhận người nhập cư vào Hoa Kỳ.
1899 – Sự cai trị của Tây Ban Nha đối với Cuba chấm dứt theo Hiệp định với Hoa Kỳ.
1901
Nigeria trở thành một lãnh thổ bảo hộ của Anh Quốc.
Các thuộc địa New South Wales, Queensland, Victoria, Nam Úc, Tasmania và Tây Úc liên bang hóa thành Thịnh vượng chung Úc; Edmund Barton được bổ nhiệm làm Thủ tướng Úc đầu tiên.
1902 – Cuộc thi bóng bầu dục đại học đầu tiên của Mỹ giữa Michigan và Stanford, được tổ chức tại Pasadena, California.
1908 – Lần đầu tiên, một quả cầu pha lê hạ xuống tại Quảng trường Thời đại ở Thành phố New York để biểu thị sự bắt đầu của Năm mới lúc nửa đêm.
1910 – Thuyền trưởng David Beatty được thăng chức Đô đốc và trở thành đô đốc trẻ nhất trong Hải quân Hoàng gia Anh (trừ các thành viên gia đình Hoàng gia), kể từ Horatio Nelson.
1911 – Lãnh thổ Bắc Úc được tách khỏi bang Nam Úc và được chuyển cho chính phủ Thịnh vương chung Úc quản lý.
1912 –Trung Hoa Dân Quốc chính thức được thành lập, Tôn Trung Sơn tuyên thệ nhậm chức Đại Tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại phủ tổng thống ở Nam Kinh.
1914 – Hãng hàng không SPT trở thành hãng hàng không có lịch trình bay đầu tiên trên thế giới sử dụng máy bay có cánh.
1916 – Quân đội Đức Quốc xã từ bỏ Jaunde và thuộc địa Cameroon cho quân Anh và bắt đầu cuộc hành quân kéo dài đến Guineé thuộc Tây Ban Nha.
1920 – Tổ chức cộng sản Belorussian được thành lập như một đảng riêng biệt.
1923 – Đường sắt của Anh gồm 4 khu trọng điểm: LNER, GWR, SR và LMS.
1927
Cuộc chiến Cristero bắt đầu ở México.
Thổ Nhĩ Kỳ chấp thuận lịch Gregory: ngay sau ngày 18 tháng 12 năm 1926 (lịch Julius) là ngày 1 tháng 1 năm 1927 (lịch Gregory).
1929 – Các cụm đô thị ở Point Grey, British Columbia và South Vancouver, British Columbia thuộc Canada được hợp nhất thành Vancouver.
1932 – Cục Bưu điện Hoa Kỳ phát hành 12 bộ tem kỷ niệm 200 năm ngày sinh của George Washington.
1934
Đảo Alcatraz trở thành một nhà tù liên bang của Hoa Kỳ.
Đức quốc xã thông qua "Luật phòng ngừa con cái bị bệnh di truyền".
1937 – Kính an toàn trong kính chắn gió xe là bắt buộc tại Vương quốc Anh.
1942 – Tuyên bố của Liên Hợp Quốc được ký kết bởi 26 quốc gia.
1945 – Chiến tranh thế giới lần thứ hai: Để trả thù cho vụ thảm sát Malmedy, quân đội Mỹ giết 60 tù binh Đức tại Chenogne.
1946 – Thiên hoàng Chiêu Hòa của Nhật Bản ban bố Tuyên ngôn nhân gian, tuyên bố rằng Thiên hoàng không phải là thần thánh.
1947
Chiến tranh lạnh: Các khu vực chiếm đóng của Anh và Hoa Kỳ tại Đức được hợp nhất để hình thành Bizone.
Đạo luật công dân Canada năm 1946 có hiệu lực, tất cả những người Anh đang sinh sống trên đất nước Canada sẽ có quốc tịch Canada. Thủ tướng William Lyon Mackenzie King trở thành công dân Canada đầu tiên.
1948 – Ủy ban cách mạng Quốc dân đảng Trung Quốc được thành lập tại Hồng Kông.
1949 – Lệnh ngừng bắn của Liên Hợp Quốc có hiệu lực tại Kashmir trước nửa đêm. Chiến tranh giữa Ấn Độ và Pakistan bị tạm ngừng.
1956 – Sudan giành được độc lập từ Ai Cập và Anh Quốc.
1957
George Town, Penang trở thành thành phố do sắc lệnh hoàng gia của nữ hoàng Elizabeth II.
Chính thức kết thúc sự bảo hộ của Pháp đối với Saarland, lãnh thổ này hợp nhất vào Tây Đức.
1958 – Cộng đồng Kinh tế châu Âu được thành lập.
1959 – Nhà độc tài người Cuba Fulgencio Batista bị lật đổ trong Cách mạng Cuba.
1960 – Cameroon giành được độc lập từ Pháp và Anh.
1962 – Samoa giành được độc lập từ New Zealand; đổi tên thành Nhà nước Độc lập Tây Samoa.
1964 – Liên bang Rhodesia và Nyasaland được chia thành các nước cộng hòa độc lập là Zambia và Malawi riêng khu vực Rhodesia do Anh kiểm soát.
1965 – Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan được thành lập tại Kabul, Afghanistan.
1966 – Sau một cuộc đảo chính, Đại tá Jean–Bédel Bokassa trở thành tổng thống của Cộng hòa Trung Phi.
1971 – Quảng cáo thuốc lá bị cấm quảng cáo trên các kênh truyền hình tại Hoa Kỳ.
1973 – Đan Mạch, Anh Quốc và Ireland được nhận vào Cộng đồng Kinh tế châu Âu.
1978 – Chiếc máy bay Boeing 747 855 của hãng hàng không Ấn Độ rơi xuống biển Ấn Độ Dương, ngoài khơi bờ biển Bombay, Ấn Độ, do trục trặc của thiết bị và sự mất phương hướng của phi công, làm chết 213 người.
1979 – Chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.
1981
Hy Lạp được nhận vào Cộng đồng châu Âu.
Palau giành được quyền tự trị từ Hoa Kỳ.
1982 – Javier Pérez de Cuéllar trở thành người Mỹ Latinh đầu tiên nắm giữ cương vị Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.
1983 – ARPANET chính thức chuyển sang dùng IP, hình thành nên Internet.
1984
Brunei giành được độc lập từ Anh Quốc.
Công ty Viễn thông Hoa Kỳ (AT&T) phải đóng cửa 22 công ty con do việc giải quyết vụ kiện chống độc quyền Bộ Tư pháp Hoa Kỳ chống lại AT&T.
1985
DNS của Internet được hình thành.
Cuộc gọi điện thoại di động đầu tiên tại Anh được thực hiện bởi Michael Harrison với cha của ông là Sir Ernest Harrison, chủ tịch công ty Vodafone.
1986 – Aruba độc lập từ Antille thuộc Hà Lan, song vẫn duy trì liên kết tự do với Hà Lan.
1988 – Giáo hội Tin Lành Lutheran được hình thành, sau phát triển thành giáo hội Luther – giáo hội lớn nhất ở Hoa Kỳ.
1989 – Nghị định thư Montreal về các chất gây suy giảm tầng ôzôn có hiệu lực.
1990
Rowan Atkinson (hay Mr. Bean) ra mắt trên kênh truyền hình Thames Television.
David Dinkins tuyên thệ nhậm chức thành thị trưởng đầu tiên của thành phố New York.
VTV2 chính thức được lên sóng
1992 – Liên bang Nga chính thức được thành lập sau khi Liên Xô giải thể.
1993 – Sự chia cắt Tiệp Khắc: Tiệp Khắc chia thành 2 nước Cộng Hòa Séc và Slovakia.
1994 – Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) có hiệu lực.
1995
Tổ chức Thương mại Thế giới bắt đầu hoạt động.
Phần Lan, Áo và Thụy Điển gia nhập Liên minh châu Âu.
Hội nghị An ninh và Hợp tác châu Âu trở thành Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu.
Phát hiện ra sóng Draupner trên vùng Biển Bắc thuộc Na Uy, xác nhận sự tồn tại của sóng độc.
1996 – Curaçao có được chính quyền giới hạn số lượng, mặc dù nó vẫn nằm trong Hiệp hội tự do với Hà Lan.
1997 – Nhà ngoại giao người Ghana Kofi Annan được bổ nhiệm làm Tổng thư ký Liên Hợp Quốc.
1998
Nga bắt đầu lưu thông đồng Rúp mới nhằm kiềm chế lạm phát và thúc đẩy lòng tin.
Ngân hàng Trung ương châu Âu được thành lập.
1999 – Bắt đầu bước thứ ba của Liên minh tiền tệ châu Âu, đồng Euro được đưa vào trong thanh toán chuyển khoản tại 11 quốc gia.
2002
Đồng Euro trở thành tiền tệ hợp pháp tại 12 quốc gia thành viên Liên minh châu Âu.
Trung Hoa Dân Quốc chính thức gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với tên gọi Lĩnh vực thuế quan cá biệt Đài–Bành–Kim–Mã, gọi tắt là Trung Hoa Đài Bắc.
2004
Trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm, tướng Pervez Musharraf giành chiến thắng với số phiếu 658 trong tổng số 1.170 phiếu tại Đại hội bầu cử Pakistan và theo Điều 41 của Hiến pháp Pakistan thì ông được coi là Tổng thống và nhiệm kì cho đến tháng 10 năm 2007.
Ba Lan, Estonia, Latvia, Litva, Slovenia, Slovakia, Cộng hòa Síp, Malta và Cộng hòa Séc gia nhập Liên minh châu Âu.
2007
România và Bulgaria gia nhập Liên minh châu Âu, Slovenia gia nhập khu vực đồng Euro (Eurozone).
Chuyến bay Adam Air 574 mất tích tại eo biển Sulawesi, Indonesia với 102 người trên chuyến bay.
2008 – Síp và Malta gia nhập Eurozone.
2009 – 66 người chết trong một vụ cháy hộp đêm ở Băng Cốc, Thái Lan.
2010
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc chính thức có hiệu lực.
Một vụ đánh bom xe tự sát xảy ra tại Lakki Marwat, Pakistan, khiến 105 người thiệt mạng và hơn 100 người bị thương.
2011
Một quả bom phát nổ ở Alexandria, Ai Cập làm chết 23 người.
Estonia chính thức thông qua đồng Euro và trở thành quốc gia thứ 17 trong Eurozone.
2013 – Ít nhất 60 người thiệt mạng và 200 người bị thương sau khi ăn mừng tại lễ hội Félix Houphouët–Boigny ở Abidjan, Bờ Biển Ngà.
2015 – Liên minh kinh tế Á–Âu chính thức có hiệu lực, một liên minh chính trị và kinh tế mới giữa năm nước Nga, Belarus, Armenia, Kazakhstan và Kyrgyzstan.
2016 – Một tòa tháp tại Downtown Dubai bùng cháy vào nửa đêm khi năm mới sắp đến. Ngọn lửa bắt đầu vào đêm giao thừa năm 2015, chưa xác định được nguyên nhân. 1 người thiệt mạng.
2017 – Một cuộc tấn công vào một hộp đêm ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, trong dịp năm mới, giết chết ít nhất 39 người và làm bị thương hơn 60 người khác.
2021 – Quận 2, Quận 9, quận Thủ Đức của thành phố Hồ Chí Minh giải thể để thành lập thành phố Thủ Đức, là một thành phố thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam.
2023 – Việt Nam chính thức bỏ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú.
2024 – Động đất Bán đảo Noto 2024.
Sinh
Việt Nam
1830 – Nguyễn Phúc Miên Ngung, tước phong An Quốc công, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1853)
1897 – Phanxicô Trương Bửu Diệp, linh mục người Việt Nam (m. 1946)
1906 – Chu Bá Phượng, chính trị gia người Việt Nam (m. 1964)
1914 – Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam (m. 1967).
1917 – Đỗ Mậu, Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 2002)
1920 – Trần Quỳnh, chính trị gia người Việt Nam (m. 2005)
1923
Tôn Thất Xứng, Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 2018)
Nguyễn Đăng Bảy, nhà quay phim người Việt Nam (m. 2007)
1924 – Lê Hạnh, chính trị gia người Việt Nam (m. 2013)
1926 – Ngô Du, Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 1987)
1927 – Lê Trung Tường, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (m. 2002)
1928 – Phạm Hữu Nhơn, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
1937 – Trần Kim Thạch, nhà địa chất học người Việt Nam (m. 2009)
1939 hoặc 1940 - Lê Gia Hội, là một nghệ sĩ ưu tú, ca sĩ opera người Việt Nam. (m. 2022)
1940 – Nguyễn Ánh 9, nhạc sĩ, nhạc công người Việt Nam (m. 2016)
1941 – Nguyễn Đăng Hưng, nhà cơ học người Việt Nam
1947 – Nhạc sĩ Hàn Châu
1979 – Phạm Thanh Thảo, ca sĩ người Việt Nam
1982 – Hòa Hiệp, diễn viên người Việt Nam
1984 – Dương Triệu Vũ, ca sĩ người Việt Nam
1992
Mạc Hồng Quân, cầu thủ bóng đá người Việt Nam
Nguyễn Ngọc Kiều Khanh, người đẹp Việt kiều Đức
Các quốc gia khác
377 – Arcadius, hoàng đế Byzantine (m. 408)
1431 – Giáo hoàng Alexanđê VI (m. 1503)
1449 – Lorenzo de 'Medici, chính khách người Ý (m. 1492)
1453 – Bernardin Frankopan, quý tộc, nhà ngoại giao người Croatia (m. 1529)
1465 – Lachlan Cattanach Maclean XI, trưởng bộ tộc Scotland (m. 1523)
1467 – Sigismund I, vua Ba Lan cũ (m. 1548)
1470 – Magnus I, Công tước xứ Saxe–Lauenburg (m. 1543)
1484 – Ulrich Zwingli, mục sư và nhà thần học người Thụy Sĩ (m. 1531)
1500 – Solomon Molcho, nhà huyền môn người Bồ Đào Nha (m. 1532)
1509 – Guillaume Le Testu, nhà thám hiểm người Pháp (m. 1573)
1515 – Johann Weyer, bác sĩ người Hà Lan (m. 1588)
1516 – Margaret Leijonhufvud, nữ hoàng của vua Gustav I của Thụy Điển (m. 1551)
1526 – Louis Bertrand, nhà truyền giáo Tây Ban Nha đến Mỹ Latinh, vị thánh bảo trợ của Colombia (m. 1581)
1530 – Thomas Bromley, Thủ tướng Anh (m. 1587)
1545 – Magnus Heinason, anh hùng hải quân người Faroe (m. 1589)
1548 – Giordano Bruno, nhà toán học, tu sĩ, triết gia, nhà thơ và nhà lý thuyết vũ trụ học người Ý (m. 1600)
1557 – Stephen Bocskay, Hoàng tử Transylvania (m. 1606)
1560 – Hugh Myddelton, doanh nhân xứ Wales (m. 1631)
1561 – Thomas Walsingham, người phát ngôn hoàng gia Anh (m. 1630)
1579 – Jacob Dircksz de Graeff, thị trưởng Hà Lan (m. 1638)
1584 – Charles de Lorme, bác sĩ người Pháp (m. 1678)
1586 – Pau Claris i Casademunt, Giáo hội Catalunya (m. 1641)
1600
Friedrich Spanheim, nhà thần học và học giả người Hà Lan (m. 1649)
Trương Hiến Trung, lãnh tụ khởi nghĩa nông dân cuối đời nhà Minh, đồng thời với Lý Tự Thành
1628 – Christoph Bernhard, nhà soạn nhạc và nhà lý luận người Đức (m. 1692)
1638
Thiên Hoàng Go–Sai của Nhật Bản (m. 1685)
Nicolas Steno, người tiên phong của Đan Mạch về giải phẫu học, nhà địa chất và giám mục (m. 1686)
1650 – George Rooke, đô đốc Hải quân Hoàng gia (m. 1709)
1655 – Christian Thomasius, nhà tư pháp và triết gia người Đức (m. 1728)
1684 – Arnold Drakenborch, học giả và nhà văn người Hà Lan (m. 1748)
1693 – Hiếu Thánh Hiến hoàng hậu, hoàng thái hậu của triều Thanh, tức 25 tháng 11 năm Nhâm Thân (m. 1777)
1704 – Soame Jenyns, nhà văn, nhà thơ và chính trị gia người Anh (m. 1787)
1714
Giovanni Battista Mancini, nhà văn người Ý (m. 1800)
Kristijonas Donelaitis, mục sư và nhà thơ người Litva (m. 1780)
1735 – Paul Revere, thợ bạc và thợ khắc người Mỹ (m. 1818)
1745 – Anthony Wayne,chính trị gia người Mỹ (m. 1796)
1750 – Frederick Muhlenberg, Bộ trưởng và chính trị gia Hoa Kỳ, Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ đầu tiên (m. 1801)
1752 – Betsy Ross, thợ may người Mỹ, được cho là người đã thiết kế quốc kì của Mỹ (m. 1836)
1768 – Maria Edgeworth, nhà văn người Anh gốc Ireland (m. 1849)
1769
Jane Marcet, nhà khoa học người Anh (m. 1858)
Marie–Louise Lachapelle, bác sĩ sản khoa người Pháp (m. 1821)
1774 – André Marie Constant Duméril, nhà động vật học và học thuật người Pháp (m. 1860)
1803
Edward Dickinson, chính khách Mỹ và là cha của nhà thơ Emily Dickinson (m. 1874)
Guglielmo Libri Carucci dalla Sommaja, nhà toán học và học thuật người Ý (m. 1869)
1806 – Lionel Kieseritzky, cầu thủ cờ tướng người Estonia (m. 1853)
1809 – Achille Guenée, luật sư và nhà côn trùng học người Pháp (m. 1880)
1813 – George Bliss, chính khách Mỹ (m. 1868)
1814
Hồng Tú Toàn, thủ lĩnh nổi dậy người Trung Quốc, tức 10 tháng 12 năm Quý Dậu (m. 1864)
Hermann von Lüderitz, tướng lĩnh và chính trị gia người Đức (m. 1889)
1818 – William Gamble, tướng Mỹ (m. 1866)
1819
Arthur Hugh Clough, nhà thơ và học giả người Anh gốc Ý (m. 1861)
George Foster Shepley, tướng Mỹ (m. 1878)
1823 – Sándor Petöfi, nhà thơ và nhà hoạt động chính trị người Hungary (m. 1849)
1833 – Robert Lawson, kiến trúc sư người Scotland gốc New Zealand, người thiết kế trường trung học Otago Boys và nhà thờ Knox (m. 1902)
1834 – Ludovic Halévy, tác giả và nhà viết kịch người Pháp (m. 1908)
1839 – Ouida, tác giả và nhà hoạt động người Anh gốc Ý (m. 1908)
1848 – John W. Goff, luật sư và chính trị gia người Mỹ gốc Á (m. 1924)
1852 – Eugène–Anatole Demarçay, nhà hóa học và học thuật người Pháp (m. 1904)
1853 – Karl von Einem, tướng lĩnh quân đội người Đức (m. 1934)
1854
James George Frazer, nhà nhân loại học người Scotland (m. 1941)
Thomas Waddell, chính trị gia người Ireland gốc Úc, Thủ hiến thứ 15 của bang New South Wales (m. 1940)
1857 – Tim Keefe, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 1933)
1859
Michael Joseph Owens, nhà phát minh người Mỹ (m. 1923)
Thibaw Min, vua Myanmar (Miến Điện) (m. 1916)
1860
Dan Katchongva, nhà lãnh đạo bộ tộc người Mỹ (m. 1972)
Jan Vilímek, họa sĩ người Séc (m. 1938)
John Cassidy, nhà điêu khắc và họa sĩ người Ireland (m. 1939)
Michele Lega, Đức Hồng y (m. 1935)
1863 – Pierre de Coubertin, nhà sư phạm, nhà sử học người Pháp, người thành lập Ủy ban Olympic Quốc tế (m. 1937)
1864
Tề Bạch Thạch, họa sĩ người Trung Quốc (m. 1957)
Alfred Stieglitz, nhiếp ảnh gia người Mỹ (m. 1946)
1867 – Mary Ackworth Evershed, nhà thiên văn học và học giả người Anh (m. 1949)
1870 – Louis Vauxcelles, nhà phê bình nghệ thuật người Do Thái tại Pháp (m. 1943)
1871 – Montagu Toller, tay chơi cricket và luật sư người Anh (m. 1948)
1874
Frank Knox, chính trị gia người Mỹ, Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ thứ 46 (m. 1944)
Gustave Whitehead, phi công và kỹ sư người Mỹ gốc Đức (m. 1927)
1877 – Alexander von Staël–Holstein, nhà thần học người Đức (m. 1937)
1878 – Agner Krarup Erlang, nhà toán học, nhà thống kê và kỹ sư người Đan Mạch (m. 1929)
1879
E. M. Forster, tác giả và nhà viết kịch người Anh (m. 1970)
William Fox, nhà biên kịch và nhà sản xuất người Mỹ gốc Hungary, thành lập Fox Film và Fox Theatres (m. 1952)
1880 – Vajiravudh (Rama VI), quốc vương Thái Lan (m. 1925)
1883
Mary Forbes, nữ diễn viên người Anh (m. 1974)
William J. Donovan, tướng, luật sư và chính trị gia người Mỹ (m. 1959)
1884
Chikuhei Nakajima, trung úy, kỹ sư và chính trị gia Nhật Bản, thành lập Công ty Máy bay Nakajima (m. 1949)
José Quirante, cầu thủ bóng đá, huấn luyện viên và quản lý người Tây Ban Nha (m. 1964)
Konstantinos Tsaldaris, chính trị gia người Ai Cập–Hy Lạp, Thủ tướng Hy Lạp (m. 1970)
1887 – Wilhelm Canaris, đô đốc Đức (m. 1945)
1888
Georgios Stanotas, tướng Hy Lạp (m. 1965)
John Garand, kỹ sư người Mỹ gốc Canada, thiết kế súng trường M1 Garand (m. 1974)
1889 – Charles Bickford, diễn viên người Mỹ (m.1967)
1890 – Anton Melik, nhà địa lý và học thuật người Slovenia (m. 1966)
1891 – Sampurnanand, nhà giáo dục và chính trị gia Ấn Độ, Thống đốc thứ ba của Rajasthan (m. 1969)
1892
Artur Rodziński, nhạc trưởng người Mỹ gốc Ba Lan (m. 1958)
Mahadev Desai, tác giả và nhà hoạt động người Ấn Độ (m. 1942)
Manuel Roxas, luật sư và chính khách Philippines, Tổng thống thứ năm của Philippines (m. 1948)
1893 – Mordechai Frizis, Đại tá Hy Lạp (m. 1940)
1894
Satyendra Nath Bose, nhà vật lí và toán học người Ấn Độ (m. 1974)
Edward Joseph Hunkeler, mục sư người Mỹ (m. 1970)
1895 – J. Edgar Hoover, viên chức người Mỹ, giám đốc đầu tiên của FBI (m. 1972)
1900
Sugihara Chiune, nhà ngoại giao người Nhật Bản (m. 1986)
Sam Berger, doanh nhân thể thao người Canada (m. 1992)
Shrikrishna Narayan Ratanjankar, học giả và giáo viên của nhạc cổ điển Hindustani Ấn Độ (m. 1974)
Xavier Cugat, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ gốc Tây Ban Nha (m. 1990)
1902
Buster Nupen, tay chơi cricket và luật sư người Nam Phi (m. 1977)
Hans von Dohnányi, luật sư Đức (m. 1945)
1903 – Dwight Taylor, nhà biên kịch và nhà văn người Mỹ (m. 1986)
1904 – Fazal Ilahi Chaudhry, luật sư và chính trị gia Pakistan, Tổng thống thứ năm của Pakistan (m. 1982)
1905 – Stanisław Mazur, nhà toán học người Do Thái–Ba Lan (m. 1981)
1907 – Kinue Hitomi, người chạy nước rút và nhảy xa người Nhật Bản (m. 1931)
1909
Dana Andrews, diễn viên người Mỹ (m. 1992)
Dattaram Hindlekar, tay chơi cricket người Ấn Độ (m. 1949)
Stepan Bandera, lính và chính trị gia Ucraina (m. 1959)
1910 – Koesbini, nhà soạn nhạc người Indonesia (m. 1991)
1911
Audrey Wurdemann, nhà thơ và nhà văn người Mỹ (m. 1960)
Basil Dearden, nhà sản xuất và biên kịch người Anh (m. 1971)
Hank Greenberg, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 1986)
Roman Totenberg, nghệ sĩ vĩ cầm người Mỹ gốc Ba Lan (m. 2012)
1912
Khertek Anchimaa–Toka, chính trị gia người Tuva–Liên Xô (m. 2008)
Boris Vladimirovich Gnedenko, nhà toán học và sử gia người Nga (m. 1995)
Kim Philby, gián điệp người Anh (m. 1988)
Nikiforos Vrettakos, nhà thơ và học giả Hy Lạp (m. 1991)
1917 – Shannon Bolin, nữ diễn viên và ca sĩ người Mỹ (m. 2016)
1918
Ed Price, lính, phi công và chính trị gia người Mỹ (m. 2012)
Patrick Anthony Porteous, đại tá Scotland, người nhận giải Huân chương Chữ thập Victoria (m. 2000)
Willy den Ouden, vận động viên bơi lội Hà Lan (m. 1997)
1919
J. D. Salinger, lính và nhà văn người Mỹ (m. 2010)
Rocky Graziano, võ sĩ và diễn viên người Mỹ (m. 1990)
Yoshio Tabata, ca sĩ kiêm nhạc sĩ Nhật Bản (m. 2013)
1920
Mahmoud Zoufonoun, nghệ sĩ violin người Mỹ gốc Iran (m. 2013)
Osvaldo Cavandoli, người vẽ tranh biếm họa người Ý (m. 2007)
1921
César Baldaccini, nhà điêu khắc và học thuật người Pháp (m. 1998)
Ismail al–Faruqi, nhà triết học và học giả người Palestine (m. 1986)
Regina Bianchi, nữ diễn viên người Ý (m. 2013)
1922
Ernest Hollings, lính Mỹ và chính trị gia Hoa Kỳ, Thống đốc thứ 106 của bang Nam Carolina (m. 2019)
Jerry Robinson, họa sĩ người Mỹ (m. 2011)
Roz Howard, tay xe đua người Mỹ (m. 2013)
1923
Daniel Gorenstein, nhà toán học và học thuật người Mỹ (m. 1992)
Milt Jackson, nhà soạn nhạc và nhà phổ nhạc người Mỹ (Modern Jazz Quartet) (m. 1999)
Valentina Cortese, nữ diễn viên người Ý
1924
Charlie Munger, doanh nhân và nhà từ thiện người Mỹ
Francisco Macías Nguema, chính trị gia người Guinea Xích đạo, Tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Guinea Xích đạo (m. 1979)
1925
Matthew Beard, diễn viên người Mỹ (m. 1981)
Paul Bomani, chính trị gia và nhà ngoại giao người Tanzania, Bộ trưởng Tài chính đầu tiên của Tanzania (m. 2005)
Wahiduddin Khan, nhà hoạt động tôn giáo người Ấn Độ
1926 – Kazys Petkevičius, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên người Litva (m. 2008)
1927
Calum MacKay, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada (m. 2001)
Doak Walker, cầu thủ bóng đá và doanh nhân người Mỹ (m. 1998)
James Reeb, mục sư và nhà hoạt động chính trị người Mỹ (m. 1965)
Maurice Béjart, vũ công, biên đạo múa và đạo diễn người Pháp–Thụy Sĩ (m. 2007)
Vernon L. Smith, nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel Kinh tế
1928
Ernest Tidyman, nhà văn và nhà biên kịch người Mỹ (m. 1984)
Gerhard Weinberg, sử gia, nhà văn và học giả người Mỹ gốc Đức
Khan Mohammad, tay chơi cricket người Pakistan (m. 2009)
1929
Larry L. King, nhà báo, tác giả và nhà viết kịch người Mỹ (m. 2012)
Raymond Chow, nhà sản xuất phim Hong Kong, đồng sáng lập Orange Sky Golden Harvest
1930
Frederick Wiseman, giám đốc và nhà sản xuất người Mỹ
Hussein Ershad, Tổng thống thứ 10 của Bangladesh
Gaafar Nimeiry, chính trị gia người Ai Cập gốc Sudan, Tổng thống thứ tư của Sudan (m. 2009)
Jean–Pierre Duprey, nhà thơ và nhà điêu khắc người Pháp (m. 1959)
Ty Hardin, diễn viên người Mỹ (m. 2017)
1932
Giuseppe Patanè, nhạc trưởng người Ý (m. 1989)
Jackie Parker, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ (m. 2006)
1933
Ford Konno, vận động viên bơi lội người Mỹ
James Hormel, nhà từ thiện và nhà ngoại giao Mỹ, Đại sứ Hoa Kỳ tại Luxembourg
Joe Orton, tác giả và nhà viết kịch người Anh (m. 1967)
1934
Alan Berg, luật sư và phát thanh viên người Mỹ (m. 1984)
Lakhdar Brahimi, chính trị gia người Algeria, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Algeria
1935 – Om Prakash Chautala, chính trị gia người Ấn Độ
1936
Don Nehlen, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ
James Sinegal, doanh nhân người Mỹ, đồng sáng lập Costco
1937
John Fuller, nhà thơ và nhà văn người Anh
Matt Robinson, diễn viên và biên kịch người Mỹ (m. 2002)
1938
Frank Langella, diễn viên người Mỹ
Robert Jankel, doanh nhân người Anh, thành lập Panther Westwinds (m. 2005)
1939
Michèle Mercier, diễn viên người Pháp
Mohamed El Yazghi, chính trị gia người Maroc
Phil Read, tay đua xe máy và doanh nhân người Anh
Senfronia Thompson, chính khách Mỹ
1941
F. R. David, nhạc sĩ người Pháp
Martin Evans, nhà di truyền học người Anh, đoạt giải Nobel Sinh học
Eva Ras, nữ diễn viên, nhà văn và họa sĩ người Serbia
Younoussi Touré, chính khách người Mali, Thủ tướng Mali
1942
Alassane Ouattara, chính trị gia người Bờ Biển Ngà, Thủ tướng của Bờ Biển Ngà
Al Hunt, nhà báo Mỹ
Anthony Hamilton–Smith, Baron Colwyn III, nha sĩ và chính trị gia người Anh
Kornelije Kovač, nhà soạn nhạc người Serbia
Billy Lothridge, cầu thủ bóng đá người Mỹ (m. 1996)
Country Joe McDonald, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ
Dennis Archer, luật sư và chính trị gia người Mỹ, Thị trưởng thứ 67 thành phố Detroit
Gennadi Sarafanov, đại tá, phi công và phi hành gia người Nga (m. 2005)
Judy Stone, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Úc
1943
Bud Hollowell, cầu thủ bóng chày người Mỹ (m. 2014)
Don Novello, diễn viên hài, biên kịch và nhà sản xuất người Mỹ
Jerilyn Britz, tay golf người Mỹ
Ronald Perelman, doanh nhân và nhà từ thiện người Mỹ, thành lập MacAndrews & Forbes
Tony Knowles, người lính Mỹ và chính trị gia, Thống đốc thứ 7 bang Alaska
Vladimir Šeks, luật sư và chính trị gia người Croatia, Thượng nghị sĩ thứ 16 của Quốc hội Croatia
1944
Omar al–Bashir, chính trị gia người Sudan, tổng thống của Sudan
Barry Beath, cầu thủ bóng bầu dục người Úc
Charlie Davis, tên côn đồ người Trinidad
Mati Unt, tác giả, nhà viết kịch và đạo diễn người Estonia (m. 2005)
Teresa Torańska, nhà báo và nhà văn người Ba Lan (m. 2013)
[./Https://en.wikipedia.org/wiki/Zafarullah_Khan_Jamali Zafarullah Khan Jamali], người chơi khúc côn cầu và chính trị gia người Pakistan, Thủ tướng thứ 13 của Pakistan
1945
Jacky Ickx, tay đua xe ô tô người Bỉ
Martin Schanche, tay đua xe ô tô người Na Uy
Victor Ashe, chính khách Mỹ và cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Ba Lan
1946
Roberto Rivelino, cầu thủ bóng đá người Brasil
Carl B. Hamilton, nhà kinh tế và chính trị gia người Thụy Điển
Susannah McCorkle, ca sĩ người Mỹ (m. 2001)
Claude Steele, nhà tâm lý học xã hội người Mỹ gốc Phi
1947
Từ Tiểu Phụng, ca sĩ người Hồng Kông
Jon Corzine, trung sĩ và chính trị gia người Mỹ, Thống đốc thứ 54 của bang New Jersey
Leon Patillo, ca sĩ và nhà truyền giáo người Mỹ
Leonard Thompson, tay golf người Mỹ
1948 –
Devlet Bahçeli, nhà kinh tế học, học giả và chính trị gia người Thổ Nhĩ Kỳ, Phó thủ tướng thứ 57 của Thổ Nhĩ Kỳ
Dick Quax, chính trị gia người New Zealand
Joe Petagno, họa sĩ người Mỹ
Pavel Grachev, tướng và chính khách Nga, Bộ trưởng Quốc phòng Nga đầu tiên (m. 2012)
1949
Ljubodrag Simonović, nhà triết học, nhà văn người Serbia
Borys Tarasyuk, chính khách và nhà ngoại giao người Ukraina
Olivia Goldsmith, nhà văn người Mỹ (m. 2004)
1950
Deepa Mehta, đạo diễn và biên kịch người Ấn Độ gốc Canada
James Richardson, nhà thơ người Mỹ
Tony Currie, cầu thủ bóng đá người Anh
Wayne Bennett, cầu thủ bóng bầu dục và huấn luyện viên người Úc
1951
Takemiya Masaki, kỳ thủ cờ vây người Nhật Bản
Ashfaq Hussain, nhà thơ và nhà báo người Pakistan gốc Canada
Hans–Joachim Stuck, tay đua xe ô tô người Đức
Martha P. Haynes, nhà thiên văn học người Mỹ
Nana Patekar, diễn viên, biên kịch và đạo diễn phim người Ấn Độ
Radia Perlman, nhà thiết kế phần mềm và kỹ sư mạng người Mỹ
1952
Hamad bin Khalifa al–Thani, quân chủ của Qatar
Rosario Marchese, nhà giáo dục và chính trị gia người Ý gốc Canada
Shaji N. Karun, đạo diễn và nhà quay phim người Ấn Độ
1953
Gary Johnson, chính trị gia người Mỹ
Lynn Jones, cầu thủ bóng chày và huấn luyện viên người Mỹ
1954
Bob Menendez, luật sư và chính trị gia người Mỹ
Dennis O'Driscoll, nhà thơ và nhà phê bình người Ireland (m. 2012)
Richard Edson, tay trống người Mỹ
Yannis Papathanasiou, kỹ sư và chính trị gia Hy Lạp, Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp
1955
Gennady Lyachin, thuyền trưởng người Nga (m. 2000)
LaMarr Hoyt, cầu thủ bóng chày người Mỹ
Mary Beard, học giả và nhà kinh điển học người Anh
Precestler, đô vật và quản lý người Canada
Simon Schaffer, học giả và sử gia người Anh về khoa học và triết học
1956
Christine Lagarde, chính trị gia người Pháp, Tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)
Andy Gill, nghệ sĩ guitar kiêm ca sĩ–nhạc sĩ người Anh
John O'Donohue, nhà thơ, nhà văn, linh mục và triết gia người Ireland (m. 2008)
Mark R. Hughes, doanh nhân người Mỹ, người sáng lập Herbalife (m. 2000)
Martin Plaza, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Úc
Mike Mitchell, cầu thủ bóng rổ người Mỹ (m. 2011)
Sergei Avdeyev, kỹ sư và phi hành gia người Nga
1957
Evangelos Venizelos, luật sư và chính trị gia Hy Lạp, Phó Thủ tướng Hy Lạp
Urmas Arumäe, luật sư và chính khách người Estonia, Bộ trưởng Tư pháp Estonia
1958
Dave Silk, cầu thủ khúc côn cầu trên băng và huấn luyện viên người Mỹ
Grandmaster Flash, rapper và DJ người Barbados
1959
Abdul Ahad Mohmand, đại tá, phi công người Afghanistan
Andy Andrews, tay vợt người Mỹ
Azali Assoumani, đại tá và chính trị gia người Comoros, Tổng thống Comoros
Michel Onfray, nhà triết học và nhà văn người Pháp
Panagiotis Giannakis, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên người Hy Lạp
1960
Danny Wilson, cầu thủ bóng đá người Anh
Michael Seibert, vũ công và biên đạo múa người Mỹ
Toomas Vitsut, doanh nhân và chính trị gia người Estonia
1961
Fiona Phillips, nhà báo người Anh
Sam Backo, cầu thủ bóng bầu dục người Úc
Sergei Babayan, nghệ sĩ dương cầm người Armenia gốc Mỹ
1962 – Anton Muscatelli, nhà kinh tế học người Ý gốc Scotland
1963
Srđan Dragojević, đạo diễn và biên kịch điện ảnh người Serbia
Alberigo Evani, cầu thủ bóng đá và quản lý người Ý
Jean–Marc Gounon, tay đua người Pháp
1964 – Dedee Pfeiffer, nữ diễn viên người Mỹ
1965
Andrew Valmon, huấn luyện viên người Mỹ
John Sullivan, chính trị gia người Mỹ
Miki Higashino, nghệ sĩ piano và nhà soạn nhạc người Nhật Bản
1966
Anna Burke, nữ doanh nhân và chính trị gia người Úc, Chủ tịch thứ 28 của Hạ viện Úc
Ivica Dačić, nhà báo và chính trị gia người Serbia, Thủ tướng thứ 95 của Serbia
Tihomir Orešković, doanh nhân người Canada gốc Croatia, Thủ tướng thứ 11 của Croatia
1967 –
Trần Cẩm Hồng, ca sĩ và diễn viên người Hồng Kông
Derrick Thomas, cầu thủ bóng đá người Mỹ (m. 2000)
John Digweed, DJ, nhà sản xuất và diễn viên người Anh
Reza Sheykholeslam, chính trị gia người Iran
Spencer Tunick, nhiếp ảnh gia người Mỹ
Tawera Nikau, cầu thủ bóng bầu dục người New Zealand
1968 – Davor Šuker, cầu thủ bóng đá người Croatia
1969
Morris Chestnut, diễn viên và nhà sản xuất người Mỹ
1969 – Paul Lawrie, tay golf và nhà báo người Scotland
1969 – Verne Troyer, diễn viên người Mỹ (m. 2018)
1970 – Sergei Kiriakov, cầu thủ bóng đá người Nga
1971
Andre Marriner, thành viên Hiệp hội bóng đá Anh
Bobby Holík, cầu thủ khúc côn cầu người Mỹ gốc Séc
Chris Potter, nghệ sĩ saxophone và nhà soạn nhạc người Mỹ
Juan Carlos Plata, cầu thủ bóng đá người Guatemala
Jyotiraditya Madhavrao Scindia, chính trị gia người Ấn Độ
Sammie Henson, đô vật và huấn luyện viên người Mỹ
1972
Lilian Thuram, cầu thủ bóng đá Pháp
Shane Carruth, đạo diễn, nhà sản xuất, diễn viên, nhà soạn nhạc và nhà quay phim người Mỹ
Barron Miles, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ gốc Canada
1973
Bryan Thao Worra, tác giả, nhà thơ và nhà soạn kịch người Lào gốc Mỹ
Danny Lloyd, diễn viên và nhà giáo dục người Mỹ
Magnus Sahlgren, nghệ sĩ guitar và nhà ngôn ngữ học người Thuỵ Điển
Shelda Bede, cầu thủ bóng chuyền người Brazil
1974 – Christian Paradis, luật sư và chính trị gia người Canada, Bộ trưởng Bộ Công nghiệp Canada thứ 9
1975
Becky Kellar–Duke, vận động viên chơi khúc côn cầu trên băng người Canada
Bengt Sæternes, cầu thủ bóng đá người Na Uy
Chris Anstey, cầu thủ bóng rổ và huấn luyện viên người Úc
Fernando Tatís, cầu thủ bóng chày người Dominica
Joe Cannon, cầu thủ bóng đá Mỹ
Mohamed Albuflasa, nhà thơ và nhà hoạt động người Bahrain
Sonali Bendre, nữ diễn viên và người mẫu người Ấn Độ
Oda Eiichiro, họa sĩ truyện tranh người Nhật Bản
1976 – Mustafa Doğan, cầu thủ bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ gốc Đức
1977
Hasan Salihamidžic, cầu thủ bóng đá người Bosnia
Ngôn Thừa Húc, diễn viên và ca sĩ người Đài Loan
Craig Reucassel, diễn viên hài kịch người Úc
Leoš Friedl, tay vợt người Séc
María de la Paz Hernández, cầu thủ khúc côn cầu người Argentina
Rosena Allin–Khan, chính trị gia người Anh
1978
Yohann Diniz, vận động viên marathon người Pháp
Philip Mulryne, cầu thủ bóng đá và linh mục người Bắc Ireland
Nina Bott, diễn viên múa người Đức
1979
Brody Dalle, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ gốc Úc
Koichi Domoto, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Nhật Bản
1980
Karina Jacobsgaard, tay vợt người Đan Mạch
Richie Faulkner, nghệ sĩ guitar và nhạc sĩ người Anh
1982
David Nalbandian, tay vợt người Argentina
Egidio Arévalo Ríos, cầu thủ bóng đá người Uruguay
Luke Rodgers, cầu thủ bóng đá người Anh
1983
Calum Davenport, cầu thủ bóng đá người Anh
1983 – Park Sung–hyun, cung thủ người Hàn Quốc
1984
José Paolo Guerrero, cầu thủ bóng đá người Peru
Christian Eigler, cầu thủ bóng đá người Đức
Lance Brooks, tay ném đá người Mỹ
Michael Witt, cầu thủ bóng bầu dục Úc
Rubens Sambueza, cầu thủ bóng đá người Argentina
Stefano Pastrello, cầu thủ bóng đá người Ý
1985
Jeff Carter, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada
Steven Davis, cầu thủ bóng đá người Bắc Ireland
Tiago Splitter, cầu thủ bóng rổ người Brazil
1986
Glen Davis, cầu thủ bóng rổ người Mỹ
Lee Sungmin, ca sĩ, vũ công và diễn viên người Hàn Quốc
Pablo Cuevas, tay vợt người Uruguay
Ramses Barden, cầu thủ bóng đá người Mỹ
1987
Devin Setoguchi, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada
Gilbert Brulé, người chơi khúc côn cầu trên băng người Canada
Meryl Davis, vũ công trên băng của người Mỹ
Ryan Perrilloux, cầu thủ bóng đá người Mỹ
Serdar Özkan, cầu thủ bóng đá người Thổ Nhĩ Kỳ
1988 – Grzegorz Panfil, vận động viên quần vợt người Ba Lan
1989
Bae Geu–rin, nữ diễn viên người Hàn Quốc
Jason Pierre–Paul, cầu thủ bóng đá người Mỹ
Stefan Reinartz, cầu thủ bóng đá người Đức
1991 – Darius Slay, cầu thủ bóng đá người Mỹ
1992
Daniel Kofi Agyei, cầu thủ bóng đá người Ghana
René Binder, tay đua người Áo
Jack Wilshere, cầu thủ bóng đá người Anh
Nathaniel Peteru, cầu thủ bóng bầu dục người New Zealand
1993
Jon Flanagan, cầu thủ bóng đá người Anh
Michael Olaitan, cầu thủ bóng đá người Nigeria
Randa, rapper người New Zealand
1994
Brendan Elliot, cầu thủ bóng bầu dục người Úc
Craig Murray, cầu thủ bóng đá người Scotland
1995 – Sardar Azmoun, cầu thủ bóng đá người Iran
1996 – Tiền Côn, ca sĩ người Trung Quốc, thành viên nhóm nhạc WayV/NCT
2001 – Winter, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc aespa
Mất
Việt Nam
1854 – Nguyễn Phúc Miên Túc, tước phong Ba Xuyên Quận công, hoàng tử con vua Minh Mạng (s. 1827)
2006 – Trần Xuân Bách, chính trị gia người Việt Nam (s. 1924)
2014 – Hà Thanh, ca sĩ người Việt kiều Mỹ (s. 1937)
Các quốc gia khác
138 – Lucius Aelius, con trai nuôi và là người kế nhiệm Hoàng đế Hadrianus (s. 101)
379 – Basilio Cả, giám mục người Hy Lạp (s. 329)
404 – Telemachus, tu sĩ và kị sĩ Kitô giáo
466 – Lưu Tống Tiền Phế Đế, hoàng đế của triều đại Lưu Tống (s. 449)
510 – Eugendus, trụ trì và vị thánh của Pháp (s. 449)
680 – Javanshir, vua Albania (s. 616)
827 – Adalard của Corbie, trụ trì Frankish
898 – Eudes I, quốc vương của Pháp (s. 860)
951 – Ramiro II, vua của vương quốc León và vương quốc Galicia (s. khoảng năm 900)
962 – Baldwin III, Bá tước vùng Flanders (s. 940)
1189 – Henry của Marcy, tu viện trưởng dòng Xitô (s. 1136)
1204 – Haakon III của Na Uy (s. 1170)
1387 – Charles II xứ Navarre (s. 1332)
1496 – Charles, Bá tước xứ Angoulême (s. 1459)
1515 – Louis XII, quốc vương của Pháp (s. 1462)
1559 – Christian III của Đan Mạch (s. 1503)
1560 – Joachim du Bellay, nhà thơ người Pháp (s. 1522)
1617 – Hendrik Goltzius, họa sĩ người Hà Lan (s. 1558)
1697 – Filippo Baldinucci, sử gia và nhà thơ vùng Florence (s. 1624)
1716 – William Wycherley, nhà viết kịch và nhà thơ người Anh (s. 1641)
1748 – Johann Bernoulli, nhà toán học người Thụy Sĩ (s. 1667)
1766 – James Francis Edward Stuart, người yêu cầu vương vị của Anh (s. 1688)
1782 – Johann Christian Bach, nhà soạn nhạc người Đức (s. 1735)
1789 – Fletcher Norton, Baron Grantley đệ nhất, luật sư và chính trị gia người Anh, Chủ tịch Hạ viện Anh (s. 1716)
1793 – Francesco Guardi, họa sĩ và nhà giáo dục người Ý (s. 1712)
1796 – Alexandre–Théophile Vandermonde, nhà toán học và hóa học người Pháp (s. 1735)
1817 – Martin Heinrich Klaproth, nhà hóa học người Đức (s. 1743)
1846 – John Torrington, nhà thám hiểm người Anh (s. 1825)
1853 – Gregory Blaxland, nông dân và nhà thám hiểm người Úc (s. 1778)
1862 – Mikhail Ostrogradsky, nhà toán học và vật lý người Ukraine (s. 1801)
1881 – Louis Auguste Blanqui, nhà hoạt động xã hội người Pháp (s. 1805)
1892 – Roswell B. Mason, luật sư và chính trị gia người Mỹ, Thị trưởng thứ 25 của thành phố Chicago (s. 1805)
1894
Heinrich Rudolf Hertz, nhà vật lý học người Đức (s. 1857)
Heinrich Hertz, nhà vật lý người Đức (s. 1857)
1896 – Alfred Ely Beach, nhà thiết kế và luật sư người Mỹ, người tạo ra Beach Pneumatic Transit (hay tàu điện ngầm đầu tiên ở thành phố New York (s. 1826)
1906 – Hugh Nelson, chính trị gia người Úc gốc Scotland, Thủ tướng bang thứ 11 của bang Queensland (s. 1833)
1918 – William Wilfred Campbell, nhà thơ và nhà văn người Canada (s. 1858)
1919 – Mikhail Drozdovsky, tướng Nga (s. 1881)
1921 – Theobald von Bethmann–Hollweg, luật sư và chính trị gia người Đức, Thủ tướng thứ năm của Đức (s. 1856)
1922 – István Kühár, linh mục và chính khách người Slovenia (s. 1887)
1929 – Mustafa Necati, công chức và chính trị gia người Thổ Nhĩ Kỳ, Bộ trưởng Bộ Môi trường và Kế hoạch đô thị Thổ Nhĩ Kỳ (s. 1894)
1931 – Martinus Beijerinck, nhà vi trùng học và thực vật học người Hà Lan (s. 1851)
1937 – Bhaktisiddhanta Sarasvati, lãnh đạo tôn giáo Ấn Độ, người thành lập Toán Gaudiya (s. 1874)
1940 – Panuganti Lakshminarasimha Rao, nhà văn và nhà giáo dục Ấn Độ (s. 1865)
1944
Edwin Lutyens, kiến trúc sư người Anh, người thiết kế lâu đài Drogo và Đài tưởng niệm Thiepval (s. 1869)
Charles Turner, tay chơi cricket người Úc (s. 1862)
1953 – Hank Williams, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ (s. 1923)
1954
Duff Cooper, chính trị gia và nhà ngoại giao Anh, Hiệu trưởng Công tước Lancaster (s. 1890)
Leonard Bacon, nhà thơ và nhà phê bình người Mỹ (s. 1887)
1955 – Arthur C. Parker, nhà khảo cổ học và sử gia người Mỹ (s. 1881)
1960 – Margaret Sullavan, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1909)
1965 – Emma Asson, sử gia và chính trị gia người Estonia (s. 1889)
1966 – Vincent Auriol, nhà báo và chính trị gia người Pháp, Tổng thống thứ 16 của Cộng hòa Pháp (s. 1884)
1969
Barton MacLane, diễn viên, nhà viết kịch và biên kịch người Mỹ (s. 1902)
Bruno Söderström, vận động viên nhảy sào và người ném lao người Thụy Điển (s. 1888)
1971 – Amphilochius của Pochayiv, vị thánh người Ukraine (s. 1894)
1972 – Maurice Chevalier, diễn viên và ca sĩ người Pháp (s. 1888)
1978 – Don Freeman, tác giả và họa sĩ người Mỹ (s. 1908)
1980 – Pietro Nenni, nhà báo và chính trị gia người Ý, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Ý (s. 1891)
1981 – Hephzibah Menuhin, nghệ sĩ dương cầm người Mỹ gốc Úc (s. 1920)
1982 – Victor Buono, diễn viên người Mỹ (s. 1938)
1984 – Alexis Korner, ca sĩ và nhạc sĩ người Pháp gốc Anh (s. 1928)
1985 – Sigerson Clifford, nhà thơ, nhà viết kịch và công chức người Ireland (s. 1913)
1992 – Grace Hopper, nhà khoa học máy tính và sĩ quan hải quân Hoa Kỳ (s. 1906)
1994
Arthur Porritt, Baron Porritt, bác sĩ và chính trị gia người New Zealand, Tổng thống thứ 11 của New Zealand (s. 1900)
Cesar Romero, diễn viên người Mỹ (s. 1907)
Edward Arthur Thompson, sử gia người Ireland (s. 1914)
1995 – Eugene Wigner, nhà vật lý và toán học người Hungary gốc Mỹ, đoạt giải Nobel Vật lý (s. 1902)
1996
Arleigh Burke, Đô đốc Mỹ (s. 1901)
Arthur Rudolph, kỹ sư người Mỹ gốc Đức (s. 1906)
1997
Ivan Graziani, ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Ý (s. 1945)
Townes Van Zandt, ca sĩ, nhạc sĩ và nhà sản xuất người Mỹ (s. 1944)
1998 – Helen Wills, tay vợt và huấn luyện viên người Mỹ (sinh năm 1905)
2000 – Colin Vaughan, nhà báo và nhà hoạt động xã hội người Úc gốc Canada (s. 1931)
2001 – Ray Walston, diễn viên người Mỹ (s. 1914)
2002 – Julia Phillips, nhà sản xuất phim và nhà văn người Mỹ (s. 1944)
2003
Joe Foss, lính, phi công, và chính khách người Mỹ, Thống đốc thứ 20 của bang Nam Dakota (s. 1915)
Royce D. Applegate, diễn viên và biên kịch người Mỹ (s. 1939)
2005
Shirley Chisholm, nhà giáo dục và chính trị gia người Mỹ (s. 1924)
Eugene J. Martin, họa sĩ người Mỹ (s. 1938)
2006 – Harry Magdoff, nhà kinh tế học và nhà báo người Mỹ (s. 1913)
2007
Leon Davidson, nhà hóa học và kỹ sư người Mỹ (s. 1922)
Roland Levinsky, nhà hóa sinh học và nghiên cứu sinh người Nam Phi gốc Anh (s. 1943)
Tillie Olsen, tác giả truyện ngắn người Mỹ (s. 1912)
2008
Harold Corsini, nhiếp ảnh gia và nhà giáo dục người Mỹ (s. 1919)
Pratap Chandra Chunder, nhà giáo dục và chính trị gia người Ấn Độ (s. 1918)
2009 – Helen Suzman, nhà hoạt động chống phân biệt chủng tộc người Nam Phi (s. 1917)
2010 – Lhasa de Sela, ca sĩ–nhạc sĩ người Mỹ gốc Mexico (s. 1972)
2011 – Marin Constantin, nhà soạn nhạc và nhạc trưởng người Rumani (s. 1925)
2012
Kiro Gligorov, luật sư và chính trị gia người Bulgaria gốc Macedonia, Tổng thống đầu tiên của Macedonia (s. 1917)
Nay Win Maung, bác sĩ, doanh nhân và nhà hoạt động xã hội người Myanmar (Miến Điện) (s. 1962)
Tommy Mont, cầu thủ bóng đá và huấn luyện viên người Mỹ (s. 1922)
2013
Christopher Martin–Jenkins, nhà báo Anh (s. 1945)
Patti Page, ca sĩ và nữ diễn viên người Mỹ (s. 1927)
2014
Higashifushimi Kunihide, nhà sư và nhà sư người Nhật Bản (s. 1910)
Juanita Moore, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1914)
Pete DeCoursey, nhà báo người Mỹ (s. 1961)
William Mgimwa, chính trị gia người Tanzania, Bộ trưởng Tài chính thứ 13 của Tanzania (s. 1950)
2015
Boris Morukov, bác sĩ và nhà du hành vũ trụ người Nga (s. 1950)
Donna Douglas, nữ diễn viên người Mỹ (s. 1932)
Mario Cuomo, luật sư và chính trị gia người Mỹ, Thống đốc 52 của bang New York (s. 1932)
Omar Karami, luật sư và chính trị gia người Lebanon, Thủ tướng thứ 58 của Lebanon (s. 1934)
2016
Dale Bumpers, lính, luật sư, và chính trị gia người Mỹ, Thống đốc thứ 38 của bang Arkansas (s. 1925)
Fazu Aliyeva, nhà thơ và nhà báo người Nga (s. 1932)
Mike Oxley, luật sư và chính trị gia người Mỹ (s. 1944)
Vilmos Zsigmond, nhà quay phim và sản xuất điện ảnh người Mỹ gốc Hungary (s. 1930)
2017
Derek Parfit, nhà triết học người Anh (s. 1942)
Tony Atkinson, nhà kinh tế học người Anh (s. 1944)
Yvon Dupuis, chính trị gia người Canada (s. 1926)
2018 – Robert Mann, nghệ sĩ violin người Mỹ (s. 1920)
2020
Don Larsen (s. 1929)
David Stern (s. 1942)
Ngày lễ và kỷ niệm
Dương lịch
Tết dương lịch
Quốc khánh
Haiti – 1804
Trung Hoa Dân Quốc – 1912
Sudan – 1956
Cuba – 1959
Samoa – 1962
Brunei – 1984
Cộng hòa Séc – 1993
Slovakia – 1993
Truyền hình
VTV sử dụng logo tròn của Đài Truyền hình Việt Nam
Các ngày lễ khác
Ngày lễ Kitô giáo:
Adalard of Corbie
Basil the Great (Chính thống giáo Đông phương)
Lễ cắt bao quy đầu của Kitô giáo
Lễ Thánh Danh Chúa Jêsus (Hiệp thông Anh giáo, Giáo hội Lutheran)
Lễ hội của những kẻ điên (Châu Âu thời Trung cổ)
Ngày thánh Fulgentius
Ngày thánh Giuseppe Maria Tomasi
Ngày Lễ Phục Sinh của Chúa Giáng Sinh, được coi là một ngày lễ bổn phận thiêng liêng ở một số nước (Giáo hội Công giáo):
Ngày Hòa bình Thế giới
Ngày thánh Telemachus
Ngày thánh Zygmunt Gorazdowski
Ngày 1 tháng 1 (Phụng vụ chính thống Đông Phương)
Ngày cuối cùng của Kwanzaa (người Mỹ gốc Phi)
Ngày thứ tám trong mười hai ngày của lễ Giáng sinh (Tây Cơ đốc giáo)
Ngày Hiến pháp (Ý)
Ngày giải phóng nô lệ châu Phi (Hoa Kỳ)
Ngày đồng Euro (Liên minh châu Âu)
Ngày Quốc kỳ (Litva) kỷ niệm việc treo quốc kì của Lithuania trên đỉnh tháp Gediminas vào năm 1919
Ngày Thành lập (Đài Loan) kỷ niệm việc thành lập Chính phủ lâm thời tại Nam Kinh
Ngày Gia đình toàn cầu
Ngày Quốc tế Linh dương sừng móc của Nepal
Ngày mừng năm mới của Montserrat (Ngày Jump–up)
Ngày Kalpataru (Phong trào Ramakrishna)
Ngày Kamakura Ebisu, từ ngày 1 đến 3 tháng 1 (Kamakura, Kanagawa, Nhật Bản)
Ngày quốc gia cocktail Bloody Mary (Hoa Kỳ)
Ngày tết trồng cây (Tanzania)
Ngày đầu năm mới (lịch Gregorian)
Năm mới của Nhật Bản
Năm mới của Nga (Ngày Novy God)
Lễ hội Ryukyuan (Sjoogwachi) (Quần đảo Okinawa)
Ngày vì Gấu Bắc Cực (Canada và Hoa Kỳ)
Ngày phạm vi công cộng (nhiều quốc gia)
Ngày chiến thắng Cách mạng (Cuba)
Âm lịch
Tết Nguyên Đán
Tham khảo
01
Ngày trong năm
|
20065
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/2%20th%C3%A1ng%201
|
2 tháng 1
|
Ngày 2 tháng 1 là ngày thứ 2 trong lịch Gregory. Còn 363 ngày trong năm (364 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
366 – Một lượng lớn người Alemanni băng qua sông Rhine đang đóng băng, xâm nhập Đế quốc La Mã.
533 – Mercurius trở thành Giáo hoàng Gioan II, ông là vị giáo hoàng đầu tiên nhận tên mới khi trở thành giáo hoàng.
1076 – Liêm Châu thất thủ trong Chiến dịch đánh Tống, 1075–1076 của quân Đại Việt.
1254 – Quân Mông Cổ dưới quyền Hốt Tất Liệt chiếm kinh thành của Đại Lý, Quốc vương Đoàn Hưng Trí đầu hàng, tức ngày 12 tháng 12 năm Quý Sửu.
1776 – Maria Theresia của Áo bãi bỏ tra tấn.
1788 – Georgia trở thành bang thứ tư phê chuẩn Hiến pháp Hoa Kỳ.
1861 – Wilhelm I trở thành quốc vương của Phổ, kế vị Friedrich Wilhelm IV.
1863 – Nội chiến Hoa Kỳ: Trận Stones River kết thúc với chiến thắng của quân miền Bắc.
1905 – Chiến tranh Nga–Nhật: Đội quân Nga đồn trú tại Lữ Thuận Khẩu đầu hàng, kết thúc trận chiến dài nhất và bạo lực nhất của cuộc chiến.
1942 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Nhật Bản chiếm được Manila, Philippines.
1945 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Đồng Minh oanh tạc ác liệt Nürnberg, Đức.
1963 – Trận Ấp Bắc, lần đầu tiên chiến thuật trực thăng vận, thiết xa vận được sử dụng tại Việt Nam.
1967 – Cựu diễn viên Ronald Reagan bắt đầu sự nghiệp trong chính phủ của mình khi tuyên thệ nhậm chức thống đốc thứ 33 của California.
1971 – 66 cổ động viên thiệt mạng trong một sự cố xô đẩy sau trận đấu bóng đá giữa hai câu lạc bộ Rangers và Celtic tại Glasgow, Scotland.
1982 – Hosni Mubarak thôi giữ chức thủ tướng của Ai Cập, song vẫn tiếp tục nắm giữ chức tổng thống.
1989 – Nguyên mẫu máy bay chở khách Tu–204 của Liên Xô tiến hành chuyến bay đầu tiên từ sân bay Ramenskoye.
2002 – Eduardo Duhalde được Quốc hội bầu làm tổng thống của Argentina.
2004 – Tàu vũ trụ Stardust bay thành công qua sao chổi 81P/Wild, thu thập các mẫu để đưa về Trái Đất.
2008 – Giá dầu mỏ tăng kỷ lục, đạt tới mức 100 đô la Mỹ một thùng dầu lần đầu tiên trong lịch sử.
Sinh
869 – Thiên hoàng Yōzei của Nhật (m. 949)
1642 – Mehmed IV, sultan của Đế quốc Ottoman (m. 1693)
1656 – Franz Lefort, đô đốc gốc Thụy Sĩ của Nga, tức 23 tháng 12 năm 1655 theo lịch Julius (m. 1699)
1699 – Osman III, sultan của Đế quốc Ottoman (m. 1757)
1822
Nguyễn Phúc Đoan Thận, phong hiệu Tân Hòa Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (m. 1866)
Rudolf Clausius, nhà vật lý học người Đức (m. 1888)
1827 – Kraft Karl August zu Hohenlohe–Ingelfingen, tướng lĩnh và nhà văn người Đức (m. 1892)
1837 – Mily Alexeyevich Balakirev, nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm người Nga, tức 21 tháng 12 năm 1836 theo lịch Julius (m. 1910)
1862 – Đường Thiệu Nghi, nhân vật chính trị, nhà ngoại giao người Trung Quốc, tức 3 tháng 12 năm Tân Dậu (m. 1938)
1873 – Têrêsa thành Lisieux, nữ tu sĩ người Pháp (m. 1897)
1919 – Đỗ Tất Lợi, nhà dược học người Việt Nam (m. 2008)
1920 – Isaac Asimov, nhà hóa sinh học, nhà văn người Mỹ (m. 1992)
1930 – Đặng Hữu, chính trị gia người Việt Nam
1932 – Huỳnh Anh (nhạc sĩ) (m. 2013)
1935 – Nguyễn Thắng Vu, nhà quản lý xuất bản người Việt Nam (m. 2010)
1937 – Đức Hoàn, diễn viên và đạo diễn người Việt Nam (m. 2009)
1938 – Goh Kun, chính trị gia người Hàn Quốc, thủ tướng của Hàn Quốc
1944 – Norodom Ranariddh, chính trị gia và thành viên vương thất Campuchia, thủ tướng của Campuchia
1952 – Ngô Mạnh Đạt, diễn viên người Hồng Kông
1968 – Oleg Deripaska, doanh nhân người Nga
1975 – Dax Shepard, nam diễn viên Mỹ
1976 – Paz Vega, nữ diễn viên Tây Ban Nha
1960 – Urasawa Naoki, mangaka người Nhật Bản
1981 – Maxi Rodríguez, cầu thủ bóng đá người Argentina
1990
Lý Xuân Ái, diễn viên, ca sĩ người Trung Quốc
Khởi My, ca sĩ người Việt Nam
1991 – Davide Santon, cầu thủ bóng đá người Ý
Mất
951 – Lưu Thừa Hựu tức Hậu Hán Ẩn Đế, hoàng đế thứ 2 và cũng là cuối cùng của nhà Hậu Hán thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc (s. 931).
1546 – Myōkyū, phu nhân người Nhật Bản, tức 30 tháng 11 năm Ất Tị (s. 1499)
1861 – Friedrich Wilhelm IV, quốc vương của Phổ (s. 1795)
1889 – Trương Thị Thận, phong hiệu Thụy tần, phi tần của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Hiệp Hòa (s. 1817)
1904 – James Longstreet, tướng lĩnh người Mỹ (s. 1821)
1913 – Léon Teisserenc de Bort, nhà khí tượng học người Pháp (s. 1855)
1953 – Guccio Gucci, nhà thiết kế thời trang người Ý (s. 1881)
1973 – Mạnh Phát, ca sĩ, nhạc sĩ nhạc vàng người Việt Nam (s. 1929).
2003 – Phạm Khuê, bác sĩ, chính trị gia người Việt Nam (s. 1925).
2008 – Galyani Vadhana, công chúa của Thái Lan (s. 1923).
2023 – Gioan Hoắc Thành, là một giám mục người Trung Quốc của Giáo hội Công giáo Rôma (s. 1926).
Ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
02
Ngày trong năm
|
20066
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/3%20th%C3%A1ng%201
|
3 tháng 1
|
Ngày 3 tháng 1 là ngày thứ 3 trong lịch Gregory. Còn 362 ngày trong năm (363 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
684 – Hoàng thái tử Lý Hiển đăng cơ làm hoàng đế thứ tư của triều Đường, tức Đường Trung Tông, tức ngày Giáp Tý (11) tháng 12 năm Quý Mùi.
1389 – Tin theo lời của Hồ Quý Ly, Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông cho bắt giam và tuyên chiếu phế truất Hoàng đế Trần Hiện, tức Trần Phế Đế, tức 6 tháng 12 năm Mậu Thìn.
1431 – Jeanne d'Arc bị giao cho Giám mục Pierre Cauchon.
1815 – Áo, Anh Quốc, và Pháp thành lập một liên minh phòng thủ bí mật nhằm chống lại Phổ và Nga.
1861 – Nội chiến Hoa Kỳ: Delaware bỏ phiếu chống lại việc ly khai khỏi Hợp chúng quốc.
1868 – Minh Trị Duy tân tại Nhật Bản: Mạc phủ Tokugawa bị bãi bỏ; quyền lực về tay Satsuma và Chōshū.
1870 – Bắt đầu việc xây dựng Cầu Brooklyn tại thành phố New York, Hoa Kỳ.
1871 – Chiến tranh Pháp–Phổ: Trận Bapaume diễn ra tại Pháp.
1925 – Benito Mussolini tuyên bố ông nắm giữ quyền lực độc tài tại Ý.
1946 – Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc thừa nhận Mông Cổ độc lập.
1958 – Liên bang Tây Ấn được thành lập từ 10 cựu thuộc địa của Anh Quốc tại vùng Caribe.
1959 – Alaska được nhận làm tiểu bang thứ 49 của Hoa Kỳ.
1961 – Hoa Kỳ đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Cuba.
1962 – Giáo hoàng Gioan XXIII rút phép thông công nhà lãnh đạo Cuba Fidel Castro.
1974 – Myanmar bắt đầu sử dụng một phiên bản quốc kỳ mới, phiên bản này chấm dứt sử dụng vào năm 2010.
1976 – Công ước Quốc tế về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa có hiệu lực.
1977 – Tập đoàn công nghệ Apple Inc. được hợp nhất.
1990 – Cựu tổng thống Panama Manuel Noriega đầu hàng quân đội Hoa Kỳ.
1994 – Hơn bảy triệu người từ các Bantustan cũ của chế độ Apartheid được nhận quyền công dân Nam Phi.
1997 – Trung Quốc tuyên bố sẽ dành 27,7 tỷ đô la Mỹ để chống xói mòn và ô nhiễm môi trường các lưu vực Trường Giang và Hoàng Hà.
2014 – Tàu thăm dò Curiosity của NASA đã quan sát được Sao Thủy đi qua Mặt Trời từ Sao Hỏa, đánh dấu lần đầu tiên quan sát được hiện tượng thiên thể quá cảnh từ bên ngoài Trái Đất.
Sinh
106 TCN – Cicero, chính trị gia và triết gia tại Đế quốc La Mã (m. 43 TCN)
1766 – Nguyễn Du, tác gia và chính trị gia triều Nguyễn Việt Nam, tức 23 tháng 11 năm Ất Dậu (m. 1820)
1777 – Élisa Bonaparte, quý tộc người Pháp (m. 1820)
1832 – Nguyễn Phúc Miên Miêu, tước phong Trấn Định Quận công, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1865)
1836 – Sakamoto Ryōma, samurai và thủ lĩnh nổi dậy người Nhật Bản, tức 15 tháng 11 năm Ất Mùi (m. 1867)
1840 – Thánh Đamien, linh mục người Bỉ (m. 1889)
1883 – Clement Attlee, chính trị gia người Anh, thủ tướng của Anh Quốc (m. 1967)
1892 – J. R. R. Tolkien, nhà ngữ văn và tác gia người Anh (m. 1973)
1901 – Ngô Đình Diệm, chính trị gia người Việt Nam, tổng thống của Việt Nam Cộng hòa (m. 1963)
1912 – Nguyễn Thị Manh Manh, thi nhân người Việt Nam (m. 2005)
1913 – Phêrô Phạm Tần, giám mục người Việt Nam (m. 1990)
1924 – André Franquin, nhà văn và họa sĩ truyện tranh người Bỉ (m. 1997)
1926 – George Martin, nhạc sĩ và nhà sản xuất nhạc người Anh
1929 – Gordon Moore, doanh nhân người Mỹ.
1930 – Hoàng Nguyên, nhạc sĩ người Việt Nam (m. 1973)
1933 – Long Boret, chính trị gia người Campuchia, thủ tướng của Campuchia (m. 1975)
1936 – Nicolai Rubtsov, nhà thơ tại Liên Xô (m. 1971)
1942 – László Sólyom, chính trị gia người Hungary, tổng thống của Hungary
1946 – John Paul Jones, người viết ca khúc, nhà sản xuất âm nhạc người Anh
1947 – Ngô Thanh Hải, chính trị gia người Canada gốc Việt Nam
1950 – Victoria Principal, diễn viên Nhật-Mỹ
1953 – Mohammed Waheed Hassan, chính trị gia người Maldives, tổng thống của Maldives
1956 – Mel Gibson, diễn viên, đạo diễn, nhà sản xuất, nhà kịch bản người Mỹ–Úc
1969 – Michael Schumacher, vận động viên đua xe ô tô người Đức
1973 – Sandro Fignolio, diễn viên, người mẫu người Venezuela, Mister World năm 1998
1975 – Maeda Jun, nhà văn, người viết lời bài hát, nhà soạn nhạc người Nhật Bản
1977 – Iizuka Mayumi, diễn viên lồng tiếng và ca sĩ người Nhật Bản
1982 – Nguyễn Linh Nga, diễn viên người Việt Nam
1983 – Precious Lara Quigaman, người mẫu, diễn viên người Philippines, Hoa hậu Quốc tế 2005
1987 – Adrián, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
1988 – Jonny Evans, cầu thủ bóng đá người Bắc Ireland
1989 – Anya Kop, người mẫu người Nga–Mỹ
Không rõ – Tamiyasu Tomoe, diễn viên lồng tiếng và ca sĩ người Nhật Bản
1995 – Jisoo, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên của nhóm nhạc Blackpink
1995 – Kim Seol–hyun, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên của nhóm nhạc AOA
Mất
235 – Giáo hoàng Antêrô
323 – Tư Mã Duệ, tức Tấn Nguyên Đế, hoàng đế của triều Đông Tấn, tức ngày Kỉ Sửu (10) tháng 11 nhuận năm Nhâm Ngọ (s. 276)
492 – Giáo hoàng Fêlix III
1322 – Philippe V, quốc vương của Pháp
1501 – Ali–Shir Nava'i, chính trị gia, nhà ngôn ngữ học, họa sĩ, nhà ngôn ngữ học người Đột Quyết Trung Á (s. 1441)
1717 – Maria Sibylla Merian, nhà nữ tự nhiên học người Đức gốc Thụy Sĩ
1850 – Doãn Uẩn, danh thần nhà Nguyễn, Việt Nam (s. 1795)
1858 – Henry Darcy, kĩ sư Pháp (s. 1803)
1904 – Nguyễn Phúc Trinh Thận, phong hiệu Lại Đức Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (s. 1826)
1917 – Henri Émile Sauvage, nhà cổ sinh vật học người Pháp (s. 1842)
1931 – Joseph Joffre, tướng lĩnh người Pháp (s. 1852)
1979 – Conrad Nicholson Hilton, doanh nhân người Mỹ (s. 1887)
1989 – Sergei Lvovich Sobolev, nhà toán học người Nga (s. 1909)
2017 – Nguyễn Thanh Châu, Hải quân Phó Đề đốc, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (Sinh 1933)
2020 – Qasem Soleimani (s. 1957)
2021 – Tanya Roberts, dien viên Mỹ (s. 1955)
2022 – Oussou Konan Anicet, cầu thủ bóng đá người Bờ Biển Ngà (s. 1989)
Ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
03
Ngày trong năm
|
20067
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/4%20th%C3%A1ng%201
|
4 tháng 1
|
Ngày 4 tháng 1 là ngày thứ 4 trong lịch Gregory. Còn 361 ngày trong năm (362 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
947 – Các tướng Hậu Tấn Đỗ Trọng Uy, Lý Thủ Trinh, Trương Ngạn Trạch suất sở bộ 20 vạn người đến hàng Hoàng đế Khiết Đan Da Luật Đức Quang, tức ngày Bính Dần (10) tháng 12 năm Bính Ngọ.
1642 – Quốc vương Charles I (Anh) phái binh sĩ đi bắt giữ các thành viên của Quốc hội, bắt đầu đẩy quốc gia vào nội chiến.
1798 – Các công dân của Mulhouse bỏ phiếu ủng hộ việc rời khỏi Liên bang Thụy Sĩ và gia nhập vào Cộng hòa Pháp.
1847 – Samuel Colt bán súng ngắn ổ xoay của ông cho chính phủ Hoa Kỳ.
1854 – Thuyền trưởng William McDonald trên tàu Samarang khám phá ra quần đảo McDonald trên Ấn Độ Dương.
1865 – Sở giao dịch chứng khoán New York mở trụ sở thường trực của mình ở gần Phố Wall, thành phố New York, Hoa Kỳ.
1871 – Chiến tranh Pháp-Phổ: Cuộc vây hãm Rocroi bắt đầu.
1896 – Utah được nhận làm tiểu bang thứ 45 của Hoa Kỳ.
1912 – Hội Hướng đạo được hợp nhất trên khắp Khối Thịnh vượng chung Anh dựa theo hiến chương hoàng gia.
1947 – Bản in đầu tiên của tạp chí tin tức hàng tuần Der Spiegel được phát hành tại Hanover, Đức.
1948 – Myanmar giành được độc lập từ Anh Quốc.
1951 – Chiến tranh Triều Tiên: Quân Trung Quốc và Triều Tiên chiếm lĩnh Seoul.
1958 – Vệ tinh Sputnik 1 của Liên Xô kết thúc sứ mệnh, nó bị đốt cháy trong bầu khí quyền của Trái Đất sau khi rời khỏi quỹ đạo.
1960 – Hiệp ước thành lập Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu được ký kết tại Stockholm, Thụy Điển.
2004 – Mikheil Saakashvili được bầu làm tổng thống của Gruzia sau cuộc Cách mạng Hoa hồng vào tháng 11 năm 2003.
2005 – Số đầu tiên của chương trình Ai là triệu phú chính thức lên sóng trên kênh VTV3.
2006 – Thủ tướng Ariel Sharon của Israel bị một cơn đột quỵ. Quyền lực của ông được chuyển giao cho quyền Thủ tướng Ehud Olmert.
2010 – Khánh thành toà nhà chọc trời giữ 17 kỉ lục thế giới Burj Khalifa cao 828 m, gồm 164 tầng tại Dubai, Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất.
Sinh
1077 – Triệu Hú, tức Tống Triết Tông, hoàng đế của triều Tống, tức ngày Kỉ Sửu (7) tháng 12 năm Bính Thìn (m. 1100)
1643 – Isaac Newton, nhà toán học, nhà vật lý học người Anh, 25 tháng 12 năm 1642 theo lịch Julius (m. 1727)
1710 – Giovanni Battista Pergolesi, nhà soạn nhạc, nhạc công người Ý (m. 1736)
1769 – Trần Thị Đang, tôn hiệu Nhân Tuyên Thái hoàng thái Hậu, cung phi của vua Gia Long và là mẹ của vua Minh Mạng (m. 1846).
1772 – Jean-Étienne Dominique Esquirol, bác sĩ tâm thần người Pháp (m. 1840)
1809 – Louis Braille, nhà sư phạm người Pháp, phát minh Chữ Braille (m. 1852)
1812 – Yevdokia Petrovna Rostopchina, thi nhân người Nga, tức 23 tháng 12 năm 1811 theo lịch Julius (m. 1858)
1817 – Nguyễn Phúc Miên Áo, tước phong Phú Bình Quận vương, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1865)
1848 – Katsura Tarō, chính trị gia và tướng lĩnh người Nhật Bản, thủ tướng của Nhật Bản, tức 28 tháng 11 năm Đinh Mùi (m. 1913)
1890 – Victor Lustig, kẻ lừa đảo người Séc (m. 1947)
1893 – Minagawa Yone, người trường thọ người Nhật Bản (m. 2007)
1896 – André Masson, họa sĩ người Pháp (m. 1987)
1897 – Trần Thành, tướng lĩnh và chính trị gia người Trung Quốc, tức 12 tháng 12 năm Đinh Dậu (m. 1965)
1910 – Quách Tấn, nhà thơ người Việt Nam (m. 1992)
1923 – Xuân Oanh, nhạc sĩ, dịch giả người Việt Nam (m. 2010)
1924 – Đào Hồng Cẩm, nhà viết kịch, nhà văn người Việt Nam (m. 1990)
1929 – Amitai Etzioni, nhà xã hội học Mỹ
1930 – Don Shula (m. 2020)
1936 – Nguyễn Phúc Bảo Long, hoàng thái tử của triều Nguyễn, đích trưởng tử của vua Bảo Đại, Việt Nam (m. 2007)
1940
Helmut Jahn, kiến trúc sư người Đức-Mỹ
Cao Hành Kiện, tác gia, nhà soạn kịch người Trung Quốc-Pháp, đoạt giải Nobel
Nguyễn Mộng Giác, nhà văn người Việt Nam (m. 2012)
1943 – Hwang Sok-Yong, tác gia người Hàn Quốc
1945 – Richard R. Schrock, nhà hóa học Mỹ, đoạt giải Nobel
1947 – Xuân Đức, nhà văn người Việt Nam
1950 – Vũ Xuân Hồng, chính trị gia người Việt Nam
1954 – Tina Knowles, nhà thiết kế thời trang người Mỹ
1965 – Julia Ormond, diễn viên người Anh
1980 – Greg Cipes, diễn viên, ca sĩ người Mỹ
1983 – Uemura Kana, ca sĩ, nhạc sĩ người Nhật Bản
1984 – Lê Tấn Tài, cầu thủ bóng đá người Việt Nam
1986 – James Milner, cầu thủ bóng đá người Anh
1986 – Katrina Halili, diễn viên, ca sĩ, người mẫu người Philippines
1990 – Toni Kroos, cầu thủ bóng đá người Đức
1997 – Tạ Khả Dần, nhạc sĩ, ca sĩ, rapper người Trung Quốc, thành viên nhóm nhạc The Nine
Mất
1852 – Trần Thị Tuyến, phong hiệu Tam giai Trang tần, phi tần của vua Minh Mạng (s. 1791)
1896 – Alexander, vương thân và tướng lĩnh Phổ, Đế quốc Đức (s. 1820)
1913 – Alfred von Schlieffen, tướng lĩnh người Đức (s. 1833)
1928 – Otto von Hügel, tướng lĩnh người Đức (s. 1853)
1941 – Henri Bergson, triết gia người Pháp, đoạt giải Nobel (s. 1859)
1943
Marina Mikhailovna Raskova, phi công, hoa tiêu người Liên Xô (s. 1912)
Hàm Nghi, hoàng đế của triều Nguyễn Việt Nam (s. 1871)
1960 – Albert Camus, triết gia người Algeria-Pháp, đoạt giải Nobel (s. 1913)
1961 – Erwin Schrödinger, nhà vật lý học người Áo, đoạt giải Nobel (s. 1887)
1965 – Thomas Stearns Eliot, nhà thơ, nhà biên kịch, nhà phê bình người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1888)
1970 – Jean Étienne Valluy, tướng lĩnh người Pháp (s. 1899)
2001 – Quách Thị Hồ, nghệ nhân ca trù người Việt Nam (s. 1909)
2010 – Yamaguchi Tsutomu, kỹ sư người Nhật Bản (s. 1916)
2011
Mohamed Bouazizi, nhà hoạt động chính trị người Tunisia (s. 1984)
Salmaan Taseer, doanh nhân và chính trị gia người Pakistan (s. 1944)
2021 – Tanya Roberts, dien viên Mỹ (s. 1955)
Ngày lễ và kỷ niệm
Quốc khánh
Quốc Khánh Myanma, 1948
Tham khảo
04
Ngày trong năm
|
20068
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/5%20th%C3%A1ng%201
|
5 tháng 1
|
Ngày 5 tháng 1 là ngày thứ 5 trong lịch Gregory. Còn 360 ngày trong năm (361 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
269 – Giáo hoàng Fêlix I tựu nhiệm
1757 – Quốc vương Louis XV của Pháp sống sót sau một nỗ lực ám sát của Robert-François Damiens, người này trở thành tội nhân cuối cùng tại Pháp bị hành hình bằng cách phanh thây.
1846 – Hạ viện Hoa Kỳ bỏ phiếu chấm dứt việc chia sẻ Lãnh thổ Oregon với Anh Quốc.
1875 – Nhà hát Opéra Garnier tại Paris, Pháp chính thức khánh thành bằng một buổi biểu diễn hoành tráng.
1895 – Vụ Dreyfus: Sĩ quan quân đội Pháp Alfred Dreyfus bị tước bỏ chức tước và bị kết án tù giam trên đảo Devil ở Nam Mỹ.
1896 – Một tờ báo của Áo tường thuật rằng Wilhelm Röntgen khám phá ra một loại bức xạ mà về sau được gọi là Tia X.
1909 – Colombia công nhận Panama độc lập.
1919 – Đảng Công nhân Đức được thành lập, đây là tiền thân của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa.
1933 – Bắt đầu xây dựng Cầu Cổng Vàng qua vịnh San Francisco ở Bắc California, Hoa Kỳ.
1945 – Liên Xô công nhận chính phủ mới thân Xô tại Ba Lan.
1953 – Vở kịch Waiting for Godot của nhà biên kịch người Ireland Samuel Beckett được công diễn tại Sân khấu Babylone, Paris.
1968 – Alexander Dubček nhậm chức Bí thư thứ nhất của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc, khởi đầu "Mùa xuân Praha".
1970 – Một trận động đất có chấn tâm tại Thông Hải, Vân Nam, Trung Quốc khiến cho hơn 15.000 người thiệt mạng.
1972 – Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon ra lệnh phát triển một chương trình tàu con thoi.
1976 – Khmer Đỏ tuyên bố Hiến pháp Campuchia Dân chủ.
2005 – Từ bức ảnh chụp ngày 21 tháng 10 năm 2003, tại đài thiên văn Palomar, một nhóm nhà khoa học người Mỹ phát hiện ra Eris, Hành tinh lùn lớn nhất được biết đến trong Hệ Mặt Trời.
Sinh
1592 – Shah Jahan, hoàng đế của Đế quốc Mogul (m. 1666)
1779 – Zebulon Pike, tướng lĩnh và nhà thám hiểm người Mỹ (m. 1813)
1782 – Robert Morrison, nhà truyền giáo người Anh Quốc tại Trung Quốc (m. 1834)
1797 – Eduard Vogel von Falckenstein, tướng lĩnh người Đức (m. 1885)
1829 – Nguyễn Phúc Miên Thể, tước phong Tây Ninh Quận công, hoàng tử con vua Minh Mạng (m. 1864)
1846 – Rudolf Christoph Eucken, triết gia và tác gia người Đức, đoạt giải Nobel (m. 1926)
1874 – Joseph Erlanger, nhà vật lý học người Mỹ, đoạt giải Nobel (m. 1965)
1876 – Konrad Adenauer, chính trị gia người Đức, thủ tướng của Đức (m. 1967)
1888 – Bùi Kỷ, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa người Việt Nam (m. 1960)
1893 – Paramahansa Yogananda, thượng sư người Ấn Độ (m. 1952)
1902 – Hubert Beuve-Méry, nhà báo người Pháp (m. 1989)
1920 – Arturo Benedetti Michelangeli, nghệ sĩ dương cầm Ý (m. 1995)
1928 – Zulfikar Ali Bhutto, chính trị gia người Pakistan, tổng thống của Pakistan (m. 1979)
1931 – Chu Minh, nhạc sĩ người Việt Nam
1932 – Umberto Eco, triết gia và tác gia người Ý
1938 – Juan Carlos I, quốc vương của Tây Ban Nha
1941 – Miyazaki Hayao, đạo diễn phim hoạt hình và là người đồng sáng lập hãng phim hoạt hình Ghibli
1944 – Ed Rendell, chính trị gia người Mỹ
1946 – Diane Keaton, diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch bản, nhà sản xuất người Mỹ
1952 – Uli Hoeneß, cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Đức
1962 – Thích Mỹ Trân, diễn viên người Hồng Kông
1963 – Khương Văn, diễn viên, người viết kịch bản, đạo diễn người Trung Quốc
1966 – Deborah Carthy-Deu, ca sĩ, người dẫn chương trình người Puerto Rico, Hoa hậu Hoàn vũ 1985
1968 – DJ Bobo, ca sĩ-người viết ca khúc, nhà sản xuất âm nhạc người Thụy Sĩ
1969 – Marilyn Manson, ca sĩ-người viết ca khúc, diễn viên và đạo diễn người Mỹ
1979 – Nakamura Asumiko, họa sĩ truyện tranh người Nhật Bản
1984 – Nagasawa Nao, diễn viên, ca sĩ và người mẫu người Nhật Bản
1986 – Deepika Padukone, người mẫu và diễn viên người Đan Mạch-Ấn Độ
1990 – Yang Yo-seob, ca sĩ và vũ công người Hàn Quốc (BEAST)
1991 – Daniel Pacheco, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
1995 – Xuân Mai, ca sĩ người Việt Nam
1995 – Ployshompoo Supasap, nghệ danh Jan hoặc Janhae, ca sĩ, diễn viên người thái, thành viên nhóm nhạc Sizzy
Mất
1588 – Thích Kế Quang, tướng lĩnh triều Minh, tức 8 tháng 12 năm Đinh Hợi (s. 1528)
1589 – Catherine de Médicis, vương hậu người Ý-Pháp của Henri II của Pháp (s. 1519)
1762 – Elizaveta, nữ hoàng của Đế quốc Nga, tức 25 tháng 12 năm 1761 theo lịch Julius (s. 1709)
1858 – Joseph Radetzky von Radetz, tướng lĩnh của Đế quốc Áo (s. 1766)
1874 – Rudolf von Krosigk, tướng lĩnh người Đức (s. 1817)
1878 – Emil von Schwartzkoppen, tướng lĩnh người Đức (s. 1810)
1905 – Hermann von Vietinghoff, tướng lĩnh người Đức (s. 1829)
1910 – Léon Walras, nhà kinh tế học người Pháp (s. 1834)
1915 – Nagakura Shinpachi, sĩ quan cảnh sát người Nhật Bản (s. 1839)
1922 – Ernest Shackleton, nhà thám hiểm người Ireland (s. 1874)
1923 – Otto von der Schulenburg, tướng lĩnh Phổ (s. 1834)
1933 – Calvin Coolidge, chính trị gia người Mỹ, tổng thống của Hoa Kỳ (s. 1872)
1947 – Nagano Osami, tướng lĩnh người Nhật Bản (s. 1880)
1970 – Max Born, nhà toán học Đức, đoạt giải Nobel (s. 1882)
1976 – Mal Evans, nhà quản lý người Anh (s. 1935)
1981 – Harold Clayton Urey, nhà hóa học người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1893)
1987 – Nhật Lai, nhạc sĩ người Việt Nam (s. 1931)
1995 – Wadati Kiyoo, nhà địa chấn học người Nhật Bản (s. 1902)
1997 – André Franquin, họa sĩ truyện tranh người Bỉ (s. 1924)
2002 – Vadim Sergeevich Shefner, nhà thơ, nhà văn người Liên Xô và Nga (s. 1915)
2005 – Trần Văn Nhựt, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
2007 – Andō Momofuku, doanh nhân người Đài Loan-Nhật Bản, sáng lập Nissin Foods (s. 1910)
2014 – Eusébio, cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha (s. 1942)
Ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
05
Ngày trong năm
|
20069
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/6%20th%C3%A1ng%201
|
6 tháng 1
|
Ngày 6 tháng 1 là ngày thứ 6 trong lịch Gregory. Còn 359 ngày trong năm (360 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
1066 – Harold Godwinson đăng quang quốc vương của Vương quốc Anh, ông là quốc vương Anglo-Saxon cuối cùng của Anh.
1355 – Karl IV của Bohemia cùng với Thiết vương của Lombardy đăng quang quốc vương của Ý tại Milano.
1449 – Konstantinos XI đăng quang hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã tại Mystras thuộc Hy Lạp ngày nay.
1907 – Maria Montessori mở trường học và trung tâm giữ trẻ đầu tiên của bà dành cho giai cấp công nhân tại Roma, Ý.
1912 – Nhà địa vật lý học người Đức Alfred Wegener lần đầu tiên đưa ra thuyết Trôi dạt lục địa của ông.
1912 – New Mexico được nhận làm tiểu bang thứ 47 của Hoa Kỳ.
1929 – Mẹ Teresa đến Calcutta, bắt đầu các hoạt động thiện nguyện đối với những người nghèo khổ và ốm đau tại Ấn Độ thuộc Anh.
1930
Hành trình đầu tiên bằng ô tô động cơ diesel hoàn thành, hành trình kéo dài từ thành phố Indianapolis đến thành phố New York của Hoa Kỳ.
Nguyễn Ái Quốc triệu tập cuộc họp các đại biểu cộng sản Việt Nam tại Hồng Kông thuộc Anh Quốc.
1931 – Thomas Edison đệ trình đơn xin bằng sáng chế cuối cùng của ông.
1932 – Joseph Lyons trở thành Thủ tướng thứ 10 của Úc, kế nhiệm James Scullin.
1946 – Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tiến hành cuộc bầu cử Quốc hội lần đầu tiên trên quy mô toàn quốc.
1950 – Anh Quốc công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đáp lại bằng việc đoạn tuyệt quan hệ ngoại giao với Anh Quốc.
1974 – Đối phó với cuộc khủng hoảng dầu mỏ, quy ước giờ mùa hè bắt đầu sớm trước gần bốn tháng tại Hoa Kỳ.
1992 – Tổng thống Gruzia Zviad Gamsakhurdia đào thoát khỏi quốc gia do xảy ra đảo chính quân sự.
2020 – Cầu thủ bóng đá người Ý Daniele De Rossi thông báo giải nghệ vì lý do gia đình.
Sinh
1412 – Jeanne d'Arc, anh hùng dân gian Pháp (m.1431)
1561 – Thomas Fincke, nhà toán học, nhà vật lý học người Đan Mạch (m. 1656)
1655 – Jacob Bernoulli, nhà toán học người Thụy Sĩ, tức 27 Tháng 12 năm 1654 theo lịch Julius (m. 1705)
1776 – Ferdinand von Schill, tướng lĩnh người Phổ (m. 1809)
1815 – Hugo von Kottwitz, tướng lĩnh người Phổ (m. 1897)
1832 – Gustave Doré, họa sĩ người Pháp (m. 1883)
1838 – Max Bruch, nhà soạn, nhạc trưởng người Đức (m. 1920)
1850 – Eduard Bernstein, chính trị gia người Đức (m. 1932)
1865 – Nikola Zhekov, tướng lĩnh người Bulgaria (m. 1949)
1872 – Alexander Scriabin, nhà soạn nhạc, nghệ sĩ dương cầm người Nga, tức 25 tháng 12 năm 1871 theo lịch Julius (m. 1915)
1878 – Carl Sandburg, thi nhân và sử gia người Mỹ (m. 1967)
1891 – Đới Quý Đào, chính trị gia người Trung Quốc, tức 26 tháng 11 năm Canh Dần (m. 1949)
1912 – Trần Nam Trung, tướng lĩnh người Việt Nam (m. 2009)
1913 – Loretta Young, diễn viên người Mỹ (m. 2000)
1915 – Nguyễn Đổng Chi, giáo sư, nhà người cứu văn hóa người Việt Nam (m. 1984)
1921 – Wolfgang Lotz, điệp viên người Đức-Israel (m. 1993)
1923 – Jacobo Timerman, nhà báo, tác gia người Argentina (m. 1999)
1926 – Kim Dae-jung, chính trị gia người Hàn Quốc, tổng thống của Hàn Quốc, đoạt Giải Nobel (m. 2009)
1944 – Lê Hiếu Đằng, nhà hoạt động chính trị người Việt Nam (m. 2014)
1946 – Syd Barrett, ca sĩ-người viết ca khúc, tay chơi guitar người Anh (m. 2006)
1955 – Rowan Atkinson, diễn viên hài người Anh
1956 – Justin Welby, tổng giám mục người Anh
1970 – Okamoto Lynn, mangaka người Nhật Bản
1988 – Thích Tiểu Long, diễn viên và võ sĩ người Trung Quốc
1989 – Andy Carroll, cầu thủ bóng đá người Anh
1994 – Im Jaebum, nhóm trưởng và ca sĩ hát chính nhóm GOT7 và JJ Project, người Hàn Quốc
2000
Kwon Eun-bin, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc CLC
Diệp Thư Hoa, ca sĩ thần tượng người Đài Loan hiện đang hoạt động tại Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc (G)I-DLE
2003 – MattyBraps, rapper người Mỹ
Mất
1693 – Mehmed IV, sultan của Đế quốc Ottoman (s. 1642)
1786 – Pierre Poivre, nhà truyền giáo người Pháp (s. 1719)
1852 – Louis Braille, nhà giáo dục người Pháp, phát minh Chữ Braille (s. 1809)
1884 – Gregor Johann Mendel, nhà di truyền học người Áo (s. 1822)
1918 – Georg Cantor, nhà toán học người Đức (s. 1845)
1919 – Theodore Roosevelt, tổng thống thứ 26 của Hoa Kỳ (s. 1858)
1942 – Aleksandr Belyaev, nhà văn người Liên Xô (s. 1884)
1945 – Edith Frank-Holländer, mẹ của Anne Frank (s. 1900)
1972 – Trần Nghị, tướng lĩnh và chính trị gia người Trung Quốc (s. 1901)
1981 – A.J. Cronin, tiểu thuyết gia và thầy thuốc người Anh Quốc (s. 1896)
1988 – Hải Linh, nhạc sĩ người Việt Nam (s. 1920)
1990 – Pavel Alekseyevich Čerenkov, nhà vật lý học người Nga, đoạt giải Nobel (s. 1904)
2006
Hugh Thompson, phi công người Mỹ (s. 1943)
Chỉ huy Ramona, thủ lĩnh phiến quân người Mexico
2008 – Nhạc sĩ Châu Kỳ (s. 1923)
2011 – Vàng Pao, tướng lĩnh người H'Mông (s. 1929)
Ngày lễ và kỷ niệm
Lễ Hiển Linh (tên cũ: Lễ Ba vua) của Kitô giáo
2015:
Ngày phát sóng đầu tiên của Kênh Truyền hình Quốc hội Việt Nam.
Tham khảo
06
Ngày trong năm
|
20070
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/7%20th%C3%A1ng%201
|
7 tháng 1
|
Ngày 7 tháng 1 là ngày thứ 7 trong lịch Gregory. Còn 358 ngày trong năm (359 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
307 – Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung bị trúng độc khi ăn bánh, ông qua đời vào ngày hôm sau, tức ngày Kỉ Tị tháng 11 năm Bính Dần.
555 – Quân Tây Ngụy chiếm được kinh đô Giang Lăng của triều Lương, bắt giữ Lương Nguyên Đế, tức ngày Tân Hợi (29) tháng 11 năm Giáp Tuất.
1566 – Giáo hoàng Piô V (Tiếng Latinh: Sancte Pie V, tiếng Ý: San Pio V) được bầu vào ngôi vị, trở thành người kế nhiệm Giáo hoàng Piô IV (Latinh: Pius IV).
1610 – Galileo Galilei lần đầu tiên quan sát thấy bốn vệ tinh: Ganymede, Callisto, Io và Europa.
1785 – Một người Pháp là Jean-Pierre Blanchard và một người Mỹ là John Jeffries băng qua eo biển Manche từ Dover của Anh Quốc sang Calais của Pháp trên một khinh khí cầu.
1797 – Quốc kỳ tam tài Ý được thông qua chính thức.
1906 – Saionji Kinmochi trở thành thủ tướng thứ 14 của Nhật Bản.
1927 – Dịch vụ điện thoại xuyên Đại Tây Dương được hình thành – từ New York sang Luân Đôn.
1942 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Bắt đầu chiến dịch tấn công Lyuban của Hồng quân Liên Xô.
1954 – Hệ thống dịch tự động đầu tiên được trình diễn công khai tại trụ sở của IBM ở New York.
1959 – Hoa Kỳ công nhận chính phủ Cuba mới của Fidel Castro
1979 – Quân đội Việt Nam giải phóng thủ đô Phnôm Pênh của Campuchia, Tổng Bí thư Pol Pot và chính quyền Campuchia Dân chủ tẩu thoát.
1984 – Brunei trở thành thành viên thứ sáu của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
1989 – Thân vương Akihito tức vị Thiên hoàng Nhật Bản khi phụ hoàng Hirohito băng ngự.
2003 – Tại San Francisco, Steve Jobs công bố rằng Apple phát triển được trình duyệt web riêng của họ, mang tên Safari
Sinh
1502 – Giáo hoàng Grêgôriô XIII (tiếng Latinh: Gregorius XIII, tiếng Anh: Gregory XIII) (m. 1585)
1528 – Jeanne III của Navarra, vương hậu người Pháp của Navarra (m. 1572)
1768 – Joseph Bonaparte, quốc vương của Tây Ban Nha và Tây Ấn, quốc vương của Napoli (m. 1844)
1794 – Heinrich Wilhelm Schott, nhà thực vật học người Áo (m. 1865)
1800 – Millard Fillmore, tổng thống thứ 13 của Hoa Kỳ (m. 1874)
1844 – Bernadette Soubirous, nhà huyền học người Pháp được phong thánh (m. 1879)
1859 – Phùng Quốc Chương, chính trị gia người Trung Quốc, quyền Đại tổng thống của Trung Quốc, tức 4 tháng 12 năm Mậu Ngọ (m. 1919)
1899 – Stepan Petrovich Schipachev, nhà thơ tại Liên Xô, tức 26 tháng 12 năm 1898 theo lịch Julius (m. 1979)
1915 – Đào Mộng Long, Diễn viên, đạo diễn người Việt Nam (m. 2006)
1926 – Kim Jong-pil, chính trị gia người Hàn Quốc, thủ tướng người Hàn Quốc
1935 – Nguyễn Lân Tuất, nhạc sĩ người Việt Nam-Liên Xô và Nga
1941 – John E. Walker, nhà hóa học người Anh, đoạt giải Nobel
1943 – Sasaki Sadako, nạn nhân bom nguyên tử người Nhật Bản (m. 1955)
1948 – Mizuki Ichirō, ca sĩ- người viết ca khúc và Diễn viên người Nhật Bản
1952 – Hồng Kim Bảo, Diễn viên người Hồng Kông
1964 – Nicolas Cage, Diễn viên, nhà sản xuất, đạo diễn người Mỹ
1971 – Jeremy Renner, Diễn viên người Mỹ
1976 – Marcelo Bordon, cầu thủ bóng đá Brasil
1979 – Bipasha Basu, người mẫu và Diễn viên người Ấn Độ
1984 – Đỗ Minh Quân, vận động viên quần vợt người Việt Nam
1985 – Lewis Hamilton, tay đua xe ô tô người Anh
1987 – Ya Suy, ca sĩ người Việt Nam
1988 – Haley Bennett, Diễn viên và ca sĩ người Mỹ
1989
Emiliano Insúa, cầu thủ bóng đá người Argentina
Vũ Bá Đông, vận động viên thể dục nhịp điệu người Việt Nam
1991 – Eden Hazard, cầu thủ bóng đá người Bỉ
Mất
937 – Gia Luật Bội, tác gia, thi nhân, họa gia, thái tử người Khiết Đan, tức ngày Đinh Sửu (22) tháng 11 nhuận năm Bính Thân (sinh 899).
1451 – Giáo hoàng đối lập Fêlix V (sinh 1383)
1524 – Đường Dần, họa sĩ, thi nhân triều Minh, tức 2 tháng 12 năm Quý Mùi (sinh 1470)
1536 – Catherine xứ Aragon, vương hậu nước Anh (s. 1485)
1655 – Giáo hoàng Innôcentê X (Latinh: Innocens X) (s. 1574)
1892 – Ernst Wilhelm von Brücke, thầy thuốc và nhà sinh lý học người Đức (sinh 1819)
1892 – Tewfik Pasha, chính trị gia người Ai Cập (sinh 1852)
1920 – Edmund Barton, chính trị gia người Úc, thủ tướng của Úc (sinh 1849)
1943 – Nikola Tesla, nhà vật lý học và kỹ sư người Serbia-Mỹ (sinh 1856)
1984 – Alfred Kastler, nhà vật lý học người Pháp, đoạt giải Nobel (sinh 1902)
1986 – Tam Lang, nhà văn, nhà báo người Việt Nam (sinh 1900).
1989 – Hirohito, Thiên hoàng thứ 124 của Nhật Bản (sinh 1901)
1998 – Vladimir Prelog, nhà hóa học người Croatia, đoạt giải Nobel (sinh 1906)
2010 – Quy Sắc, soạn giả cải lương người Việt Nam (sinh 1924)
2013 – Huell Howser, Diễn viên, nhân vật truyền hình người Mỹ (sinh 1945)
2014 – Thiệu Dật Phu, doanh nhân, nhà từ thiện người Trung Quốc (sinh 1907)
2021
Tommy Lasorda (sinh 1927).
Nguyễn Vĩnh Bảo, nhạc sĩ người Việt Nam (sinh 1918).
2024 – Franz Beckenbauer, cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Đức (sinh 1945)
Ngày lễ và kỷ niệm
Ngày Chiến thắng diệt chủng tại Campuchia
Tham khảo
07
Ngày trong năm
|
20071
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/8%20th%C3%A1ng%201
|
8 tháng 1
|
Ngày 8 tháng 1 là ngày thứ 8 trong lịch Gregory. Còn 357 ngày trong năm (358 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
307 – Tấn Huệ Đế Tư Mã Trung qua đời tại Hiển Dương điện sau khi bị trúng độc vào hôm trước đó.
881 – Loạn Hoàng Sào: Đường Hy Tông chạy khỏi kinh thành Trường An, hướng đến đất Tam Xuyên, quá trưa hôm đó, tướng tiên phong Sài Tồn của Hoàng Sào tiến vào Trường An, tức 5 tháng 12 năm Canh Tý.
1077 – Chiến tranh Tống-Việt, 1075-1077: Quân Tống do Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ huy tấn công và vượt qua Ải Nam Quan, tiến vào lãnh thổ Đại Việt.
1198 – Lotario de Conti được bầu làm Giáo hoàng Innôcentê III (Latinh: Innocens III); ông sau đó hành động để khôi phục quyền lực giáo hoàng tại Roma.
1499 – Quốc vương Louis XII của Pháp kết hôn với Nữ công tước Anne xứ Bretagne - một vị quân chủ.
1815 – Chiến tranh Hoa Kỳ - Anh Quốc: Trận New Orleans 1815 – Andrew Jackson lãnh đạo quân đội Hoa Kỳ giành thắng lợi trước người Anh Quốc.
1828 – Đảng Dân chủ, tiền thân của nó là Đảng Dân chủ Cộng hoà của tổng thống thứ 3 của Hoa Kỳ Thomas Jefferson, chính thức được thành lập.
1835 – Nợ công Hoa Kỳ lần duy nhất bằng không.
1867 – Nam giới người Mỹ gốc Phi giành được quyền bầu cử tại Washington, D.C.
1912 – Đại hội Dân tộc Phi được thành lập nhằm mục tiêu chống lại sự bất công đối với người da đen Nam Phi.
1918 – Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson tuyên bố "Mười bốn điểm" của ông về kết quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất.
1926 – Hoàng thái tử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy đăng quang, lấy niên hiệu là Bảo Đại, là vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, cũng như của chế độ phong kiến tại Việt Nam.
1959 – Charles de Gaulle trở thành Tổng thống đầu tiên của nền Đệ ngũ Cộng hòa Pháp.
1961 – Đa số cử tri Pháp ủng hộ chính sách Charles de Gaulle là trao quyền tự quyết cho Algérie trong một cuộc trưng cầu dân ý.
2003 – Chuyến bay 634 của Turkish Airlines gặp nạn gần Sân bay Diyarbakır của Thổ Nhĩ Kỳ, khiến toàn bộ phi hành đoàn và 75 hành khách thiệt mạng.
2005 – Cảnh sát biển Trung Quốc nổ súng vào tàu của ngư dân Việt Nam tại vịnh Bắc Bộ, khiến nhiều người thương vong.
Sinh
1037 – Tô Đông Pha, tác gia triều Tống, tức 19 tháng 12 năm Bính Tý (m. 1101)
1601 – Baltasar Gracián, nhà văn, thầy tu người Tây Ban Nha (m. 1658)
1821 – James Longstreet, tướng lĩnh và nhà ngoại giao người Mỹ (m. 1904)
1823 – Alfred Russel Wallace, nhà địa lý học, nhà sinh vật học, nhà thám hiểm người Anh Quốc (m. 1913)
1830 – Hans von Bülow, nhạc công dương cầm và nhà soạn nhạc người Đức (m. 1894)
1849 – Stepan Osipovich Makarov, tướng lĩnh của Đế quốc Nga (m. 1904)
1867 – Emily Greene Balch, nhà nữ kinh tế học, tác gia người Mỹ, đoạt giải Nobel (m. 1961)
1885 – John Curtin, chính trị gia người Úc, thủ tướng của Úc (m. 1945)
1894 – Maximilian Kolbe, người Ba Lan tử đạo được phong thánh (m. 1941)
1902
Georgy Maksimilianovich Malenkov, chính trị gia tại Liên Xô, Tổng bí thư của Liên Xô (m. 1988)
Carl Rogers, nhà tâm lý học người Mỹ (m. 1987)
1914 – Lê Thương, nhạc sĩ người Việt Nam (m. 1996)
1923 – Joseph Weizenbaum, nhà khoa học máy tính, tác gia người Đức-Mỹ (m. 2008)
1932 – Hữu Thọ, nhà báo người Việt Nam
1935 – Elvis Presley, ca sĩ, diễn viên người Mỹ (m. 1977)
1938 – Anthony Giddens, nhà xã hội học người Anh
1942
Stephen William Hawking, nhà vật lý học người Anh (m. 2018)
Koizumi Junichirō, chính trị gia người Nhật Bản, thủ tướng của Nhật Bản
1947 – David Bowie, ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, nhà sản xuất âm nhạc người Anh (m. 2016)
1951 – Trần Đình Đàn, chính trị gia người Việt Nam
1965 – Phêrô Nguyễn Văn Viên, linh mục người Việt Nam
1971 – Brook Mahealani Lee, Hoa hậu Hoàn vũ 1997
1972 – Giuseppe Favalli, cầu thủ bóng đá người Ý
1979 – Adrian Mutu, cầu thủ bóng đá người România
1980 – Rachel Nichols, diễn viên người Mỹ
1984 – Kim Jong-un, chính trị gia người Triều Tiên, nhà lãnh đạo của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên
1985 – Jorge Aguilar, vận động viên quần vợt người Chile
1986 – David Silva, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
1986 – Maria Ozawa, diễn viên khiêu dâm, người mẫu người Nhật Bản-Canada
1988 – Allison Harvard, người mẫu và diễn viên người Mỹ
1991 – Shin Jimin, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc AOA
1992 – Koke, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
2000 – Noah Cyrus, diễn viên và ca sĩ người Mỹ
Mất
307 – Tư Mã Trung, tức Tấn Huệ Đế, hoàng đế của triều Tấn, tức 18 tháng 11 năm Bính Dần (s. 259)
1198 – Giáo hoàng Cêlestinô III (Latinh: Celestinus III) (s. 1106)
1324 – Marco Polo, thương nhân, nhà thám hiểm người Ý (s. 1254)
1337 – Giotto di Bondone, họa sĩ và kiến trúc sư người Ý (s. 1266)
1642 – Galileo Galilei, nhà vật lý học, nhà toán học, nhà thiên văn học, triết gia người Ý (s. 1564)
1713 – Arcangelo Corelli, nhà soạn nhạc Ý (s. 1653)
1878 – Nikolay Alexeyevich Nekrasov, nhà thơ, nhà phê bình tại Đế quốc Nga (s. 1821)
1880 – Joshua A. Norton, doanh nhân người Anh-Mỹ (s. 1811)
1896 – Paul Verlaine, nhà thơ người Pháp (s. 1844)
1934 – Andrei Bely, tác gia, thi nhân, nhà phê bình người Nga (s. 1880)
1941 – Robert Baden-Powell, sĩ quan quân đội và tác gia người Anh (s. 1857)
1976 – Chu Ân Lai, thủ tướng của Trung Quốc (s. 1898)
1983 – Gerhard Barkhorn, phi công người Đức (s. 1919)
1995 – Huyền Kiêu, nhà thơ người Việt Nam (s. 1915)
1996 – François Mitterrand, tổng thống Pháp (s. 1916)
1997 – Melvin Calvin, nhà hóa học người Mỹ (s. 1911)
2007 – Iwao Takamoto, nhà làm phim hoạt hình người Mỹ gốc Nhật, tác giả của Scooby-Doo (s. 1925)
2009 – Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc, Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
2010 – Art Clokey, đạo diễn người Mỹ (s. 1921)
Ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
08
Ngày trong năm
|
20073
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/9%20th%C3%A1ng%201
|
9 tháng 1
|
Ngày 9 tháng 1 là ngày thứ 9 trong lịch Gregory. Còn 356 ngày trong năm (357 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
475 – Hoàng đế La Mã Zeno bị bức phải tẩu thoát khỏi kinh thành Constantinopolis, tướng của ông là Basiliscus đoạt quyền cai quản đế quốc.
1127 – Sự kiện Tĩnh Khang: Quân đội triều Kim dưới quyền Hoàn Nhan Tông Vọng và Hoàn Nhan Tông Hàn chiếm được kinh thành Biện Kinh của triều Tống, sau đó bắt giữ Hoàng đế Tống Khâm Tông và Thái thượng hoàng Tống Huy Tông, tức ngày Bính Thìn (25) tháng 11 nhuận năm Bính Ngọ.
1150 – Hải Lăng vương Hoàn Nhan Lượng tiến hành binh biến, sát hại và đoạt lấy hoàng vị triều Kim của ông chú là Hoàng đế Kim Hi Tông, tức ngày Đinh Tị (9) tháng 12 năm Kỉ Tị.
1317 – Philippe V tiến hành nghi lễ đăng quang quốc vương của Pháp
1349 – Do bị cho là nguyên nhân gây ra Cái chết Đen đang diễn ra, những người Do Thái tại Basel, Thụy Sĩ bị vây bắt và hỏa thiêu.
1431 – Jeanne d'Arc bị đưa ra xét xử trước tòa án dị giáo tại Rouen, thuộc khu vực kiểm soát của chính quyền chiếm đóng Anh.
1788 – Connecticut trở thành bang thứ năm được nhận vào Hoa Kỳ.
1793 – Jean-Pierre Blanchard trở thành người đầu tiên bay bằng một khinh khí cầu tại Hoa Kỳ.
1799 – Thủ tướng Anh William Pitt Trẻ ban hành một Thuế thu nhập hai Shilling cho mỗi Bảng Anh để tăng nguồn thu cho Anh Quốc trong Các cuộc chiến tranh của Napoléon.
1822 – Vương tử Pedro I quyết định ở lại Brasil, chống lại mệnh lệnh của Quốc vương Bồ Đào Nha João VI, khởi đầu quá trình độc lập của Brasil.
1861 – Mississippi trở thành bang thứ hai thoát ly khỏi Hợp chúng quốc trước khi nổ ra Nội chiến Mỹ.
1871 – Chiến tranh Pháp-Phổ: Trận Villersexel kết thúc với kết quả bất phân thắng bại
1878 – Umberto I trở thành quốc vương của Ý.
1916 – Chiến tranh thế giới thứ nhất: Chiến dịch Gallipoli kết thúc với thắng lợi của Ottoman trước liên quân Anh-Pháp.
1945 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Hoa Kỳ xâm nhập đảo Luzon tại Philippines.
1960 – Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser khởi đầu việc xây dựng Đập Aswan khi cho nổ mười tấn dynamit để phá hủy 20 tấn đá granit bên bờ đông của Sông Nin.
1992 – Hội đồng người Serbia tại Bosnia và Herzegovina tuyên bố thành lập Cộng hòa Srpska, xem chính thể này là một thành phần của Nam Tư.
2005 – Mahmoud Abbas giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống của Chính quyền Quốc gia Palestine.
2007 – CEO Steve Jobs của hãng Apple giới thiệu iPhone thế hệ thứ nhất khi phát biểu tại một hội nghị ở San Francisco, Hoa Kỳ.
2011 – Chuyến bay 277 của Iran Air gặp nạn tại tỉnh Tây Azerbaijan, khiến 77 người thiệt mạng.
2021:
Một sự cố lưới điện quốc gia đã khiến cả nước Pakistan mất điện vào buổi tối.
Chuyến bay 182 của Sriwijaya Air rơi xuống phía Bắc khu vực Jakarta, Indonesia, làm tất cả 62 người thiệt mạng.
Sinh
1554 – Giáo hoàng Grêgôriô XV (Latinh: Gregorius XV) (m. 1623)
1750 – Phan Huy Ích, nhà văn hóa, chính khách Việt Nam (m. 1822)
1797 – Ferdinand von Wrangel, nhà thám hiểm của Đế quốc Nga, tức 29 tháng 12 năm 1796 (m. 1870)
1859 – Carrie Chapman Catt, nhà hoạt động người Mỹ (m. 1947)
1908 – Simone de Beauvoir, nữ văn sĩ, triết gia Pháp (m. 1986)
1913 – Richard Nixon, tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ (m. 1994)
1914 – Mộng Tuyết, nhà thơ, nhà báo người Việt Nam (m. 2007)
1923 – Boris Alekseevich Chichibabin, tác gia người Liên Xô và Ukraina (m. 1994)
1924 – Sergey Iosifovich Paradzhanov, đạo diễn, nhà biên kịch tại Liên Xô (m. 1990)
1930 – Igor Aleksandrovich Netto, cầu thủ bóng đá Liên Xô (m. 1999)
1941
Kim Long, linh mục và nhạc sĩ người Việt Nam
Joan Baez, ca sĩ-người viết ca khúc và nhà hoạt động người Mỹ
1942 – Trương Đình Tuyển, chính trị gia người Việt Nam
1944 – Jimmy Page, nhạc sĩ người Anh
1951 – Crystal Gayle, ca sĩ Mỹ
1955 – Trần Thế Ngọc, chính trị gia người Việt Nam
1956 – Đinh Đức Lập, viên chức người Việt Nam
1958 – Mehmet Ali Ağca, sát thủ người Thổ Nhĩ Kỳ
1959 – Rigoberta Menchú, nhà hoạt động người Guatemala, đoạt giải Nobel
1967 – Claudio Caniggia, cầu thủ bóng đá người Argentina
1978
Gennaro Gattuso, cầu thủ bóng đá người Ý
A. J. McLean, nhạc sĩ, ca sĩ người Mỹ (Backstreet Boys)
1979 – Ban Tomiko, ca sĩ và diễn viên người Nhật Bản
1982 – Catherine, thành viên vương thất Anh Quốc
1985 – Nguyễn Minh Châu, cầu thủ bóng đá người Việt Nam
1987
Kai Asami, diễn viên người Nhật Bản
Wanbi Tuấn Anh, ca sĩ người Việt Nam (m. 2013)
1987 – Lucas Leiva, cầu thủ bóng đá người Brasil
1988 – Lee Yeon hee, diễn viên, người mẫu người Hàn Quốc
1989 – Nina Dobrev, diễn viên người Bulgaria-Canada
Mất
1150 – Hoàn Nhan Đản, tức Kim Hi Tông, hoàng đế của triều Kim, tức ngày Đinh Tị (9) tháng 12 năm Kỉ Tị (s. 1119)
1283 – Văn Thiên Tường, chính trị gia và tác gia triều Tống, tức 8 tháng 12 năm Nhâm Ngọ (s. 1236)
1324 – Marco Polo?, thương nhân và nhà thám hiểm người Ý (s. 1254)
1514 – Anne, nữ công tước của Brittany, vương hậu của Pháp (s. 1477)
1757 – Bernard le Bovier de Fontenelle, tác gia người Pháp (s. 1657)
1872 – Henry Wager Halleck, tướng lĩnh người Mỹ (s. 1815)
1873 – Napoléon III, chính trị gia người Pháp, tổng thống của Pháp (s. 1808)
1878 – Vittorio Emanuele II, quốc vương của Ý (s. 1820)
1950 – Trần Văn Ơn, học sinh Việt Nam (s. 1931)
1961 – Emily Greene Balch, nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1867)
1989 – Marshall Stone, nhà toán học người Mỹ (s. 1903)
1995
Souphanouvong, thành viên vương thất Vương quốc Lào, chính trị gia Lào (s. 1909)
Giacôbê Huỳnh Văn Của, linh mục người Việt Nam (s. 1915)
1998 – Fukui Kenichi, nhà hóa học người Nhật Bản, đoạt giải Nobel (s. 1918)
2004
Song Hào, tướng lĩnh người Việt Nam (s. 1917)
Lê Trọng Nguyễn, nhạc sĩ người Việt Nam (s. 1926)
2012 – Malam Bacai Sanhá, tổng thống Guiné-Bissau (s. 1947)
2013
Hoàng Hiệp, nhạc sĩ Việt Nam (s. 1931)
James M. Buchanan, nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1919)
2022 – Nguyễn Côn, chính trị gia người Việt Nam (s. 1916)
Ngày lễ và kỷ niệm
Việt Nam - Ngày học sinh - sinh viên.
Tham khảo
09
Ngày trong năm
|
20075
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/10%20th%C3%A1ng%201
|
10 tháng 1
|
Ngày 10 tháng 1 là ngày thứ 10 trong lịch Gregory. Còn 355 ngày trong năm (356 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
49 TCN – Julius Caesar vượt qua Sông Rubicon, dấu hiệu khởi đầu Nội chiến Caesar.
9 – Ngoại thích triều Hán là Vương Mãng lên ngôi hoàng đế, đặt quốc hiệu là "Tân", kết thúc triều Tây Hán, tức ngày Mậu Thìn (25) tháng 11 năm Mậu Thìn.
236 – Giáo hoàng Fabianô kế vị Giáo hoàng Antêrô.
947 – Tướng Khiết Đan Da Luật Giải Lý và những người khác đến đông đô Biện Lương của Hậu Tấn, tức ngày Nhâm Thân (16) tháng 12 năm Bính Ngọ.
1226 – Vua Trần Thái Tông lên ngôi, trở thành vua đầu tiên của triều Trần.
1475 – Quốc vương Ștefan III của Moldavia đánh bại Đế quốc Ottoman trong trận Vaslui.
1510 – Sau khi quân của Lê Oanh chiếm được kinh thành, Hoàng đế Lê Uy Mục của triều Lê buộc phải uống thuốc độc tự sát, tức ngày 1 tháng 12 năm Kỷ Tỵ.
1776 – Thomas Paine phát hành cuốn sách nhỏ Lẽ Thông Thường, truyền thêm cảm hứng cho Mười ba thuộc địa đấu tranh giành độc lập từ Đế quốc Anh.
1806 – Những người định cư Hà Lan tại Cape Town đầu hàng Anh Quốc.
1861 – Nội chiến Hoa Kỳ: Florida thoát ly khỏi Hợp chúng quốc.
1863 – London Underground, đường sắt ngầm cổ nhất thế giới, khai thông đoạn giữa gia London Paddington và ga Farringdon.
1920 – Hiệp ước Versailles có hiệu lực, chính thức kết thúc Thế chiến thứ I.
1923 – Litva xâm chiếm và sáp nhập Klaipėda.
1929 – Truyện tranh Những cuộc phiêu lưu của Tintin do họa sĩ người Bỉ Georges Remi sáng tác xuất hiện lần đầu tiên trên báo Le Petit Vingtième
1937 – Đại biểu các xí nghiệp in ở Hà Nội tranh thủ khả nǎng hoạt động công khai, hợp pháp đã tổ chức cuộc họp tại nhà số 181 phố Lò Đúc, Hà Nội để thành lập "Bắc Kỳ ấn công ái hữu hội" và nêu thỉnh nguyện 15 điểm với chính phủ Pháp. Phong trào đấu tranh của công nhân in ở Hà Nội được công nhân in ở Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn hưởng ứng và dần dần lan rộng ra cả nước.
1946 – Đại hội đồng Liên Hợp Quốc họp lần đầu tại Luân Đôn với đại diện của 51 quốc gia.
1966 – Thành lập Hiệp hội Vật lý Việt Nam.
1962 – Chương trình Apollo: NASA công bố các kế hoạch kiến thiết tên lửa đẩy C-5, sau được gọi với tên gọi là tên lửa Mặt trăng Saturn V.
1984 – Hoa Kỳ và Tòa Thánh (Thành Vatican) tái lập quan hệ ngoại giao đầy đủ sau gần 117 năm.
1990 – Tập đoàn truyền thông giải trí Hoa Kỳ Time Warner được hình thành từ việc hợp nhất Time Inc. và Warner Communications.
2003 – Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên rút khỏi Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân.
2005 – Hội nghị thường niên lần thứ 13 Diễn đàn nghị viện Châu Á - Thái Bình Dương (APPF-13) do Quốc hội Việt Nam đăng cai tổ chức khai mạc tại Thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Sinh
1209 – Mông Kha, đại hãn của Đế quốc Mông Cổ, tức 3 tháng 12 năm Mậu Thìn (m. 1259)
1769 – Michel Ney, tướng lĩnh người Pháp (m. 1815)
1813 – Wolf Louis Anton Ferdinand von Stülpnagel, tướng lĩnh người Phổ (m. 1885)
1835 – Fukuzawa Yukichi, nhà tư tưởng người Nhật Bản, tức 12 tháng 12 năm Giáp Ngọ (m. 1905)
1883 – Aleksey Tolstoy, tác gia người Nga, tức 29 tháng 12 năm 1882 (m. 1945)
1908 – Bernard Lee, diễn viên người Anh (m. 1981)
1913 – Gustáv Husák, chính trị gia người Slovak, chủ tịch nước Tiệp Khắc (m. 1991)
1916 – Sune Bergström, nhà hóa sinh người Thụy Điển, đoạt giải Nobel (m. 2004)
1922 – Michel Henry, triết gia, tiểu thuyết gia người Pháp (m. 2002)
1936 – Robert Woodrow Wilson, nhà vật lý học, nhà thiên văn học người Mỹ
1938 – Donald Knuth, nhà khoa học máy tính và tác gia người Mỹ
1939 – Chu Tuấn Nhạ, chính trị gia người Việt Nam
1945 – Rod Stewart, ca sĩ người Anh Quốc
1955 – Michael Schenker, nhạc công guitar người Đức
1957 – Lê Văn Thi, chính trị gia người Việt Nam
1959 – Nguyễn Trung Hiếu, chính trị gia người Việt Nam
1960 – Brian Cowen, chính trị gia người Ireland, thủ tướng của Ireland
1974 – Hrithik Roshan, diễn viên người Ấn Độ
1981 – David Aganzo, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
1984 – Marouane Chamakh, cầu thủ bóng đá người Maroc
1986 – Trần Kim, vận động viên cầu lông người Trung Quốc
1986 – Saleisha Stowers, người mẫu người Mỹ
1989 – Heo Solji (EXID), ca sĩ người Hàn Quốc
1992 – Emmanuel Frimpong, cầu thủ bóng đá người Ghana
Mất
314 – Giáo hoàng Miltiadê (Latinh: Miltiades hay Malchiadus)
681 – Giáo hoàng Agathô (Tiếng Latinh: Agatho)
1276 – Giáo hoàng Grêgôriô X (Latinh: Gregorius X) (s. 1210)
1510 – Lê Uy Mục, hoàng đế triều Lê (s. 1488)
1778 – Carl von Linné, nhà thực vật học người Thụy Điển (s. 1707)
1833 – Adrien-Marie Legendre, nhà toán học người Pháp (s. 1752)
1862 – Samuel Colt, doanh nhân người Mỹ (s. 1814)
1918 – Đội Cấn, thủ lĩnh nổi dậy người Việt (s. 1881)
1922 – Ōkuma Shigenobu, chính trị gia người Nhật, thủ tướng Nhật Bản (s. 1838)
1926 – Eino Leino, nhà thơ Phần Lan (s. 1878).
1949 – Khâu Thanh Tuyền, tướng lĩnh Trung Quốc (s. 1902)
1951 – Sinclair Lewis, nhà văn Hoa Kỳ (s. 1885)
1957 – Gabriela Mistral, thi sĩ và nhà giáo dục người Chile, đoạt giải Nobel (s. 1889)
1971 – Coco Chanel, nhà thiết kế thời trang người Pháp, thành lập Chanel (s. 1883)
1984 – Souvanna Phouma, chính trị gia người Lào, thủ tướng Lào (s. 1901)
1986 – Jaroslav Seifert, nhà báo và nhà thơ người Tiệp Khắc (s. 1901)
1997 – Alexander R. Todd, Nam tước Todd, nhà hóa học người Anh, đoạt giải Nobel (s. 1907)
2012 – Gevork Vartanian, điệp viên Liên Xô (s. 1924)
2014 – Vugar Gashimov, kỳ thủ cờ vua Azerbaijan (s. 1986)
Ngày lễ và kỷ niệm
Ngày truyền thống của công nhân ngành in Việt Nam.
Ngày lên sóng của bản tin 360 độ thể thao.
Tham khảo
10
Ngày trong năm
|
20077
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/11%20th%C3%A1ng%201
|
11 tháng 1
|
Ngày 11 tháng 1 là ngày thứ 11 trong lịch Gregory. Còn 354 ngày trong năm (355 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
937 – Cho rằng không thể chống lại nổi liên quân Khiết Đan-Thạch Kính Đường, Hoàng đế Lý Tòng Kha của triều Hậu Đường cùng hoàng hậu, thái hậu lên lầu Huyền Vũ tại kinh thành tự thiêu, tức ngày Tân Tị (26) tháng 11 nhuận năm Bính Thân.
947 – Quân Khiết Đan đánh chiếm kinh thành của triều Hậu Tấn, Hoàng đế Thạch Trọng Quý bị bắt giữ, Hoàng đế Khiết Đan Da Luật Đức Quang lệnh Thạch Trọng Quý cởi bỏ hoàng bào, tức ngày Quý Dậu (17) tháng 12 năm Bính Ngọ.
1551 – Bayinnaung trở thành vị quân chủ thứ ba của triều đại Taungoo tại Miến Điện.
1787 – William Herschel phát hiện ra hai vệ tinh của sao Thiên Vương là Titania và Oberon.
1805 – Lãnh thổ Michigan của Hoa Kỳ được hình thành.
1851 – Vào dịp kỷ niệm sinh nhật theo âm lịch của mình, Hồng Tú Toàn bái Thượng đế hội chúng tại Kim Điền thôn, Quế Bình, Quảng Tây, tiến hành khởi nghĩa, đặt hiệu là Thái Bình Thiên Quốc, tức 10 tháng 12 năm Canh Tuất.
1960 – Chủ tịch Hồ Chí Minh trồng cầy đa tại Công viên Thống nhất mở đầu Tết trồng cây do Người phát động.
1861 – Alabama ly khai khỏi Hoa Kỳ.
1908 – Vườn quốc gia Grand Canyon tại Hoa Kỳ được hình thành.
1913
Mông Cổ và Tây Tạng ký kết việc thừa nhận độc lập chủ quyền lẫn nhau tại Ulan Bator, tức Điều ước Mông-Tạng.
Xe ô tô mui kín lần đầu tiên được trưng bày tại Cuộc triển lãm ô tô lần thứ 13 tổ chức tại New York, Mỹ.
1919 – România tái sáp nhập Transilvania.
1922 – Insulin lần đầu tiên được sử dụng để điều trị bệnh đái tháo đường trên người.
1923 – Quân đội Pháp và Bỉ xâm lược vùng Ruhr nhằm buộc Cộng hòa Weimar bồi thường hậu quả sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
1927 – Người đứng đầu hãng Metro-Goldwyn-Mayer (MGM) là Louis B. Mayer tuyên bố thành lập Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh tại Los Angeles, Hoa Kỳ.
1935 – Amelia Earhart trở thành người đầu tiên trên thế giới một mình bay từ Hawaii tới California.
1940 – Chiến tranh Trung-Nhật: Trận chiến đèo Côn Lôn ở Quảng Tây kết thúc.
1946 – Tổng Bí thư Đảng Lao động Albania Enver Hoxha tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Xã hội Chủ nghĩa Albania, bản thân ông trở thành nguyên thủ quốc gia.
1972 – Đông Pakistan đổi tên thành Bangladesh.
1973 – Bộ đội tên lửa, binh chủng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam được Nhà nước tuyên dương đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
1989 – 149 quốc gia đã họp ở Pari để thảo luận và quyết định loại trừ vũ khí hoá học. Trong lời tuyên bố sau cùng, các nước tham gia đồng thanh chống lại việc chế tạo và tàng trữ vũ khí hoá học.
1990 – Thành lập Viện Chiến lược Quốc phòng - tiền thân là Viện Chiến lược Quân sự
2007 – Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO)
Ngày sinh
347 – Theodosius I, hoàng đế của Đế quốc La Mã (m. 395)
889 – Abd-al-Rahman III, Emir và Khalip của Córdoba (m. 961)
1732 – Peter Forsskål, nhà tự nhiên học, Đông phương học người Thụy Điển (m. 1763).
1757 – Alexander Hamilton, nhà kinh tế học, chính trị gia, triết gia người Mỹ (m. 1804)
1842 – William James, triết gia, nhà tâm lý học người Mỹ (m. 1910)
1868 – Thái Nguyên Bồi, nhà giáo dục người Trung Quốc, tức 17 tháng 12 năm Đinh Mão (m. 1940)
1906 – Albert Hofmann, nhà hoá học người Thuỵ Sĩ
1924 – Roger Guillemin, nhà thần kinh học người Pháp, đoạt giải Nobel
1934
Jean Chrétien, chính trị gia người Canada, thủ tướng của Canada
Charles Antony Richard Hoare, nhà khoa học máy tính người Sri Lanka-Anh
1941 – Gérson, cầu thủ bóng đá người Brasil
1951 – Nguyễn Thị Doan, nhà giáo dục, chính trị gia người Việt Nam
1957 – Bryan Robson, cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Anh
1961 – Karl von Habsburg, chính trị gia người Đức-Áo
1971 – Mary J. Blige, ca sĩ-người viết ca khúc, Diễn viên người Mỹ
1972
Amanda Peet, Diễn viên người Mỹ
Marc Blucas, Diễn viên người Mỹ
Konstantin Yuryevich Khabensky, Diễn viên người Nga
1975 – Matteo Renzi, chính trị gia người Ý
1977 – Jérôme Kerviel, giao dịch viên chứng khoán người Pháp
1982 – Son Ye Jin, Diễn viên người Hàn Quốc
1982 – Denis Alexeyevich Kolodin, cầu thủ bóng đá người Nga
1983 – Hàn Tuyết, Diễn viên, ca sĩ người Trung Quốc
1985 – Trương Lỗi, cầu thủ bóng chuyền người Trung Quốc
1992
Dani Carvajal, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
Lee Seunghoon, ca sĩ Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc Winner (nhóm nhạc)
1993 – Will Keane, cầu thủ bóng đá người Anh
1996 – Leroy Sane, cầu thủ bóng đá người Đức
1997 – Cody Simpson, ca sĩ-người viết ca khúc, nhạc công guitar người Úc
2000 – Lee Chae-yeon, ca sĩ, thành viên nhóm nhạc IZ*ONE
Ngày mất
314 – Giáo hoàng Miltiadê (Latinh: Miltiades hay Malchiadus)
705 – Giáo hoàng Gioan VI (Tiếng Latinh: Johnnes VI) (m. 655)
1753 – Hans Sloane, thầy thuốc người Ireland (m. 1660)
1850 – Nguyễn Phúc Vĩnh Gia, phong hiệu Phương Duy Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (s. 1821)
1882 – Theodor Schwann, nhà sinh lý học người Đức (m. 1810)
1891 – Georges Eugène Haussmann, chính trị gia và quy hoạch sư người Pháp (s. 1809)
1952 – Jean de Lattre de Tassigny, tướng lĩnh người Pháp (s. 1889)
1966 – Alberto Giacometti, nhà điêu khắc người Thụy Sĩ (s. 1901)
1988 – Isidor Isaac Rabi, nhà vật lý học người Ba Lan-Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1898)
1991 – Carl David Anderson, nhà vật lý học người Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1905)
2008 – Edmund Hillary, nhà thám hiểm người New Zealand (s. 1919)
2013
Nguyễn Khánh, tướng lĩnh và chính trị gia người Việt Nam, nguyên thủ của Việt Nam Cộng hòa (s. 1927)
Aaron Swartz, lập trình viên máy tính và nhà hoạt động Internet người Mỹ (s. 1986)
2014 – Ariel Sharon, chính trị gia và tướng lĩnh người Israel, thủ tướng của Israel (s. 1928)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Albania – Ngày Cộng hòa (1946)
Tham khảo
Tháng một
Ngày trong năm
|
20083
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/12%20th%C3%A1ng%201
|
12 tháng 1
|
Ngày 12 tháng 1 là ngày thứ 12 trong lịch Gregory. Còn 353 ngày trong năm (354 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
1369 – Trần Nhật Lễ đầu độc giết chết Hiến Từ Thái hậu của nhà Trần, tức ngày 14 tháng 12 năm Kỷ Dậu.
1528 – Gustav I của Thụy Điển lên ngôi vua Thụy Điển.
1554 – Bayinnaung đăng quang quốc vương tại Bago.
1871 – Chiến tranh Pháp-Phổ: Trận Le Mans kết thúc với thắng lợi của quân Phổ.
1872 – Yohannes IV đăng quang hoàng đế của Ethiopia.
1893 – Tổng thống Pháp Sadi Carnot ra sắc lệnh xây dựng một cây cầu mới bắc qua sông Seine tại Paris, tức cầu Mirabeau.
1898 – Itō Hirobumi bắt đầu nhiệm kỳ thứ ba làm Thủ tướng Nhật Bản.
1945 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Liên Xô bắt đầu tiến hành Chiến dịch Tây Carpath chống quân đội Đức Quốc xã tại lãnh thổ nay thuộc Slovakia và Ba Lan.
1964 – Quân nổi dậy đứng đầu bởi John Okello đã lật đổ quốc vương Jamshid bin Abdullah, kết thúc 200 năm thống trị của người Ả Rập tại Zanzibar.
2005 – Tàu vũ trụ Deep Impact được phóng từ mũi Canaveral, Florida, Hoa Kỳ trên một tên lửa Delta II.
2010 – Động đất ở Haiti với độ lớn 7,0 Mw khiến hơn hai trăm nghìn người thiệt mạng.
Sinh
1580 – Johan Baptista van Helmont, nhà hóa học và thầy thuốc người Bỉ (m. 1644)
1721 – Công tước Ferdinand xứ Braunschweig, nguyên soái Phổ (m. 1792)
1729 – Edmund Burke, chính trị gia và triết gia dân tộc Ireland tại Anh Quốc (m. 1797)
1783 – Erik Gustaf Geijer, nhà văn người Thụy Điển (m. 1847)
1817 – Karl von Schmidt, tướng lĩnh người Phổ (m. 1875)
1833 – Karl Eugen Dühring, triết gia, nhà kinh tế học người Đức (m. 1921)
1852 – Joseph Joffre, Thống chế Pháp (m. 1931)
1863 – Svāmī Vivekānanda, triết gia người Ấn Độ (m. 1902)
1876 – Jack London, tác gia người Mỹ (m. 1916)
1893
Mikhail Iosifovich Gurevich, nhà thiết kế máy bay người Liên Xô, tức 31 tháng 12 năm 1892 theo lịch Julius (m. 1976)
Hermann Göring, chính trị gia người Đức (m. 1946)
1899 – Paul Hermann Müller, nhà hóa học Thụy Sĩ, nhận Giải thưởng Nobel
1903 – Igor Vasilyevich Kurchatov, nhà vật lý học người Liên Xô, tức 30 tháng 12 năm 1902 theo lịch Julius (m. 1960)
1907 – Sergey Pavlovich Korolyov, kỹ sư người Liên Xô, tức 30 tháng 12 năm 1906 theo lịch Julius (m. 1966)
1915
Vadim Sergeevich Shefner, thi nhân người Liên Xô, tức ngày 30 tháng 12 năm 1914 theo lịch Julius (m. 2002)
Ruth Hurmence Green, nhà văn, nhà báo người Mỹ (m. 1980)
1929 – Alasdair MacIntyre, triết gia người Anh Quốc
1930 – Phạm Tuyên, nhạc sĩ người Việt Nam
1932 – Nguyễn Quang Sáng, nhà văn người Việt Nam (m. 2014)
1942 – Michel Mayor, nhà vật lý học thiên thể người Thụy Sĩ
1944 – Joe Frazier, võ sĩ quyền Anh người Mỹ (m. 2011)
1949
Murakami Haruki, tác gia người Nhật Bản
Ottmar Hitzfeld, cầu thủ, huấn luyện viên bóng đá người Đức
1956
Marie Colvin, nhà báo người Mỹ (m. 2012)
Nikolai Ivanovich Noskov, một ca sĩ người Nga
1958 – Hồ Trọng Ngũ, sĩ quan công an người Việt Nam
1963 – Shin Kyung-sook, nhà văn người Hàn Quốc
1964 – Jeff Bezos, người sáng lập, CEO và chủ tịch của công ty công nghệ đa quốc gia Amazon
1967 – Inoue Takehiko, mangaka người Nhật Bản
1972 – Lê Thị Diễm Thúy, nhà văn người Việt-Mỹ
1973 – Hande Yener, ca sĩ người Thổ Nhĩ Kỳ
1974 – Thủy Tiên, ca sĩ người Việt-Mỹ
1978 – Kim Sa Rang, diễn viên người Hàn Quốc
1979
Ngô Lan Hương, kỳ thủ cờ tướng người Việt Nam
Lee Bo-young, diễn viên người Hàn Quốc
1983 – Thanh Bùi, ca sĩ người Úc-Việt
1985 – Yohana Cobo, diễn viên người Tây Ban Nha
1986 – Pablo Daniel Osvaldo, cầu thủ bóng đá người Argentina-Ý
1987 – Naya Rivera, diễn viên và ca sĩ người Mỹ
1989 – Trương Quỳnh Anh, ca sĩ, diễn viên người Việt Nam
1991 – Pixie Lott, Ca sĩ, vũ công, diễn viên người Anh
1992 – Ishak Belfodil, cầu thủ bóng đá người Algeria
1993 – Zayn Malik, ca sĩ người Anh-Pakistan
1993 – D.O., thành viên nhóm nhạc EXO người Hàn Quốc
1996 – Lee Hye-bin, ca sĩ người Hàn Quốc, trưởng nhóm của nhóm nhạc nữ Momoland
Mất
1370 – Hiến Từ Thái hậu, Thái hậu nhà Trần Việt Nam
1519 – Maximilian I, hoàng đế của Thánh chế La Mã (s. 1459)
1519? – Vasco Núñez de Balboa, nhà thám hiểm, tướng lĩnh người Tây Ban Nha (s. 1475)
1665 – Pierre de Fermat, nhà toán học và luật gia người Pháp (s. 1601)
1759 – Anne, Vương nữ Vương thất (s. 1709)
1875 – Ái Tân Giác La Tái Thuần, tức Đồng Trị Đế, hoàng đế của triều Thanh, tức 5 tháng 12 năm Giáp Tuất
1885 – August, thành viên vương thất Württemberg, tướng lĩnh Württemberg-Phổ (s. 1813)
1909 – Hermann Minkowski, nhà toán học, vật lý học người Ba Lan-Đức (s. 1864)
1942 – Vladimir Mikhailovich Petlyakov, kỹ sư hàng không người Liên Xô (s. 1891)
1943 – Charles Tate Regan, nhà ngôn ngữ học người Anh (s. 1878)
1968 – Rezső Seress, nhà soạn nhạc người Hungary, tác giả bài hát "Gloomy Sunday" (s. 1889)
1976 – Agatha Christie, tác giả người Anh (s. 1890)
1995 – Hoàng Minh Giám, chính trị gia người Việt Nam (s. 1904)
1997 – Charles Brenton Huggins, thầy thuốc và nhà sinh lý học người Canada-Mỹ, đoạt giải Nobel (s. 1901)
2002 – Cyrus Vance, luật sư và chính trị gia người Mỹ (s. 1917)
2003
Leopoldo Galtieri, tướng lĩnh và chính trị gia người Argentina, tổng thống của Argentina (s. 1926)
Maurice Gibb, ca sĩ-người viết ca khúc người Anh (Bee Gees) (s. 1949)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
Tháng một
Ngày trong năm
|
20085
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/13%20th%C3%A1ng%201
|
13 tháng 1
|
Ngày 13 tháng 1 là ngày thứ 13 trong lịch Gregory. Còn 352 ngày trong năm (353 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
827 – Lý Ngang tức hoàng đế vị, tức Đường Văn Tông, ngày Ất Tị (12) tháng 12 năm Bính Ngọ.
888 – Eudes, Bá tước xứ Paris trở thành Quốc vương của Người Frank.
1822 – Quốc hội khóa đầu của Hy Lạp thông qua thiết kế Quốc kỳ Hy Lạp.
1898 – Nhà văn Émile Zola đăng thư ngỏ J'accuse trên báo L'Aurore, phanh phui vụ bê bối Dreyfus, gây ra một cuộc xung đột chính trị-xã hội nghiêm trọng trong nền Đệ tam cộng hòa Pháp.
1902 – Abdul Aziz chiếm được Riyadh từ nhà Rashid, khởi đầu hơn ba thập niên giao tranh nhằm thống nhất Ả Rập Xê Út.
1934 – Cấp bậc phó tiến sĩ được thiết lập tại Liên Xô.
1940 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Chiến đấu cơ Yakovlev Yak-1 của Liên Xô tiến hành chuyến bay đầu tiên
1941 - Binh biến Đô Lương - cuộc nổi dậy chống lại thực dân Pháp của những binh lính người Việt bị Pháp bắt lính tại đồn Đô Lương, Nghệ An.
1942 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Một phi công người Đức trở thành người đầu tiên thử nghiệm ghế phóng trên một chiếc máy bay tiêm kích phản lực Heinkel He 280.
1942 – Henry Ford được cấp bằng sáng chế một chiếc ô tô được làm bằng nhựa, nhẹ hơn 30% so với ô tô thông thường.
1945 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Liên Xô mở màn Chiến dịch Đông Phổ chống quân đội Đức.
1951 – Chiến tranh Đông Dương: Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu tiến công quân Liên hiệp Pháp tại khu vực Vĩnh Yên, song buộc triệt thoái vài ngày sau đó.
1992 – Vườn quốc gia Cát Tiên nằm trên địa bàn ba tỉnh Đồng Nai, Bình Phước và Lâm Đồng do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam Võ Văn Kiệt ra nghị quyết thành lập
2012 – Tàu du lịch Costa Concordia gặp nạn ngoài khơi bờ biển Ý, khiến 31 người thiệt mạng và 1 người mất tích.
Sinh
1777 – Élisa Bonaparte, em của Napoléon Bonaparte (m. 1820)
1832 – Horatio Alger, tác gia người Mỹ (m. 1899
1833 – Alfred von Keßler, tướng lĩnh Phổ (m. 1907)
1838 – Nguyễn Phúc Lương Nhàn, phong hiệu Thông Lãng Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (m. 1872)
1864 – Wilhelm Wien, nhà vật lý học người Đức, đoạt giải Nobel (m. 1928)
1878 – Trần Quýnh Minh, quân phiệt người Trung Quốc, tức 11 tháng 12 năm Đinh Sửu (m. 1933)
1889 – Lev Zakharovich Mekhlis, chính trị gia Liên Xô, tức 1 tháng 1 theo lịch Julius (m. 1953)
1927 – Sydney Brenner, nhà sinh vật học người Nam Phi, đoạt giải Nobel
1932 – Lý Hương Cầm, diễn viên người Trung Quốc
1934 – Robin Milner, nhà khoa học máy tính người Anh Quốc (m. 2010)
1955 – Huh Jung-Moo, cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Hàn Quốc
1957 – Thôi Thế An, chính trị gia người Ma Cao
1961 – Julia Louis, diễn viên người Mỹ
1967 – Annie Jones, diễn viên Australia
1969 – Suzumoto Yūichi, tiểu thuyết gia người Nhật Bản
1977 – Orlando Bloom, diễn viên người Anh Quốc
1982 – Barri Griffiths, đô vật người Anh Quốc
1984 – Hirayama Aya, diễn viên người Nhật Bản
1986 – Ông Cao Thắng, ca sĩ người Việt Nam
1987 – Lee Seung Gi, ca sĩ và diễn viên người Hàn Quốc
1988 – Tomás Rincón, cầu thủ bóng đá người Venezuela
1991 – Gu Ha-ra, ca sĩ, vũ công, diễn viên người Hàn Quốc (Kara) (m. 2019)
1993 – Trần Nghĩa, diễn viên người Việt Nam
2003 – Phương Mỹ Chi, ca sĩ người Việt Nam
Mất
888 – Charles Béo, hoàng đế của Carolingi, quốc vương của Ý (s. 839)
1599 – Edmund Spenser, thi sĩ người Anh (s. 1552)
1717 – Maria Sibylla Merian, nhà côn trùng học, họa sĩ tranh minh họa người Đức (s. 1647)
1902 – Nguyễn Phúc Miên Sạ, tước phong Tĩnh Gia công, hoàng tử con vua Minh Mạng (s. 1830)
1936 – Gabriel Veyre, đạo diễn,, nhiếp ảnh gia người Pháp (s. 1871)
1941 – James Joyce, tác gia người Ireland (s. 1882)
1979 – Trần Trinh Huy, doanh nhân người Việt Nam (s. 1900)
1988 – Tưởng Kinh Quốc, chính trị gia người Trung Quốc, Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc (s. 1910)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Thụy Điển - Tjugondedag jul (Mùa Giáng sinh) chấm dứt
Tham khảo
Tháng một
Ngày trong năm
|
20087
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/14%20th%C3%A1ng%201
|
14 tháng 1
|
Ngày 14 tháng 1 là ngày thứ 14 trong lịch Gregory. Còn 351 ngày trong năm (352 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
927 – Sau khi thủ đô Phúc Châu bị chiếm, Quốc vương nước Mân Vương Diên Hàn cùng thê là Thôi thị bị xử trảm, Vương Diên Quân trở thành người cai trị quốc gia, tức ngày Tân Mão (8) tháng 12 năm Bính Tuất.
1724 – Quân chủ Tây Ban Nha đầu tiên thuộc vương tộc Bourbon là Felipe V nhượng lại vương vị cho con trai cả là Luis.
1761 – Quân Afghan dưới quyền Ahmad Shah Durrani đại thắng quân Maratha trong trận Panipat thứ ba nhằm tranh quyền bá chủ tại Bắc Ấn Độ.
1775 – Thuyền trưởng James Cook khám phá ra quần đảo Willis ở Nam Đại Tây Dương.
1784 – Quốc hội Hợp bang phê chuẩn Hiệp định Paris về việc kết thúc Cách mạng Mỹ.
1814 – Hòa ước Kiel: Quốc vương Frederik VI của Đan Mạch nhượng Na Uy cho Thụy Điển để đổi lấy Pomerania.
1858 – Hoàng đế Napoléon III của Pháp thoát khỏi một nỗ lực ám sát.
1895 – Thông qua hội nghị nội các, Nhật Bản tuyên bố quần đảo Senkaku là đất vô chủ, chính thức nhập vào bản đồ Nhật Bản.
1900 – Vở nhạc kịch Tosca của Giacomo Puccini được công diễn lần đầu tại Roma, Ý.
1943
Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Nhật Bản bắt đầu Chiến dịch Ke, một cuộc hành quân thành công nhằm triệt thoái lực lượng của họ ra khỏi Guadalcanal trong Chiến dịch Guadalcanal.
Chiến tranh thế giới thứ hai: Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt và Thủ tướng Anh Quốc Winston Churchill bắt đầu Hội nghị Casablanca để thảo luận về chiến lược và nghiên cứu các bước tiếp theo trong chiến tranh.
1950 – Nguyên mẫu chiến đấu cơ phản lực MiG-17 của Liên Xô tiến hành chuyến bay đầu tiên.
1953 – Josip Broz Tito bắt đầu đảm nhiệm chức vụ Tổng thống Nam Tư, ông tiếp tục nắm giữ chức vụ này cho đến khi qua đời vào năm 1980.
1960 – Ngân hàng Trữ kim Úc được thành lập, đây là ngân hàng trung ương và cơ quan phát hành tiền giấy của quốc gia,.
1969 – Một vụ nổ bất ngờ trên boong tàu của hàng không mẫu hạm USS Enterprise gần Hawaii khiến 27 người thiệt mạng.
1972 – Nữ vương Margrethe II của Đan Mạch lên ngôi, bà là nữ vương đầu tiên của Đan Mạch để từ năm 1412.
1985 – Hun Sen trở thành thủ tướng của Cộng hòa Nhân dân Campuchia, thay thế tiền nhiệm Chan Sy qua đời từ năm trước đó.
2004 – Quốc kỳ của nước Cộng hòa Gruzia, còn gọi là "cờ năm chữ thập", được sử dụng chính thức sau khoảng 500 năm gián đoạn.
2011 – Cách mạng Tunisia: Cựu tổng thống Zine El Abidine Ben Ali dời sang Ả Rập Saudi sau khi diễn ra một loạt các cuộc biểu tình đường phố chống lại ông.
2020 – Hệ điều hành Windows 7 chính thức kết thúc hỗ trợ mở rộng.
Sinh
83 TCN – Marcus Antonius, chính trị gia và tướng lĩnh Đế quốc La Mã (m. 30 TCN)
1533 – Nguyễn Văn Giai, chính trị gia triều Lê sơ, tức 22 tháng 12 năm Giáp Dần (m. 1628)
1697 – Nguyễn Phúc Chú, chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong (m. 1738).
1831 – Alfred von Lewinski, tướng lĩnh Phổ (m. 1906)
1861 – Mehmed VI, sultan của Đế quốc Ottoman (m. 1926)
1875 – Albert Schweitzer, nhà thần học, triết gia, thấy thuốc người Đức-Pháp, đoạt giải Nobel Hòa bình (m. 1965)
1884 – Nagata Tetsuzan, tướng lĩnh người Nhật Bản (m. 1935)
1887 – Hugo Steinhaus, nhà toán học, nhà giáo dục người Ba Lan (m. 1972)
1890 – Arthur Holmes, nhà địa chất học người Anh Quốc (m. 1965)
1896 – John Dos Passos, tác gia người Mỹ (m. 1970)
1905 – Fukuda Takeo, chính trị gia người Nhật Bản, thủ tướng của Nhật Bản (m. 1995)
1919 – Giulio Andreotti, nhà báo và chính trị gia người Ý, thủ tướng của Ý (m. 2013)
1920 – Hoàng Tùng, chính trị gia người Việt Nam (m. 2010)
1925 – Mishima Yukio, tác gia, thi nhân, nhà biên kịch người Nhật Bản (m. 1970)
1938 – Hosokawa Morihiro, chính trị gia người Nhật Bản, thủ tướng của Nhật Bản
1941
Faye Dunaway, diễn viên người Mỹ
Phạm Tiến Duật, nhà thơ người Việt Nam (m. 2007)
1943 – Ralph M. Steinman, nhà miễn dịch học và nhà sinh vật học người Canada, đoạt giải Nobel (m. 2011)
1944 – Peter Fechter, thợ nề người Đức, nạn nhân của lính canh bức tường Berlin (m. 1962)
1947 – Bev Perdue, chính trị gia người Mỹ
1948 – Nguyễn Thái Bình, sinh viên phản chiến người Việt Nam (m. 1972)
1959 – Nguyên Lê, nhạc sĩ người Pháp gốc Việt
1965 – Shamil Salmanovich Basayev, thủ lĩnh nổi dậy người Chechnya (m. 2006)
1966 – Marco Hietala, ca sĩ, tay chơi bass người Phần Lan
1969
Dave Grohl, ca sĩ, nhạc sĩ người Mỹ
Jason Bateman, diễn viên, đạo diễn người Mỹ
1971 – Torsten Amft, nhà thiết kế thời trang người Đức
1973
Giancarlo Fisichella, vận động viên đua xe ô tô người Ý
Djenar Maesa Ayu, nhà văn, diễn viên, đạo diễn người Indonesia
1980 – Hiroshi Tamaki, diễn viên và ca sĩ người Nhật Bản
1982 – Víctor Valdés, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
1985 – Mai Phương, diễn viên người Việt Nam (m. 2020).
1986 – Yohan Cabaye, cầu thủ bóng đá người Pháp
1987
Dennis Aogo, cầu thủ bóng đá người Đức gốc Nigeria
Phan Thanh Hưng, cầu thủ bóng đá người Việt Nam
1990 – Grant Gustin, diễn viên ca sĩ người Mỹ
1994 – Kai, thành viên nhóm nhạc EXO người Hàn Quốc
Mất
927 – Vương Diên Hàn, quốc vương của nước Mân, tức ngày Tân Mão (8) tháng 12 năm Bính Tuất
1224 – Hoàn Nhan Tuần, tức Kim Tuyên Tông, hoàng đế của triều Kim, tức ngày Canh Dần (22) tháng 12 năm Quý Mùi (s. 1163)
1742 – Edmund Halley, nhà thiên văn học, nhà địa vật lý học, nhá toán học người Anh (s. 1656)
1753 – George Berkeley, triết gia người Ireland (b. 1685)
1867 – Jean-Auguste-Dominique Ingres, họa sĩ người Pháp (s. 1780)
1898 – Lewis Carroll, nhà văn, nhà toán học, nhiếp ảnh gia người Anh (s. 1832)
1901 – Charles Hermite, nhà toán học người Pháp (s. 1822)
1934 – Eduard von Liebert, tướng lĩnh người Đức (s. 1850)
1944 – Hàm Nghi, hoàng đế thứ 8 của nhà Nguyễn (s. 1871)
1957 – Humphrey Bogart, diễn viên người Mỹ (s. 1899)
1966 – Sergey Pavlovich Korolyov, kỹ sư người Liên Xô (s. 1906)
1972 – Frederick IX, quốc vương của Đan Mạch (s. 1899)
1977 – Anthony Eden, chính trị gia người Anh, Thủ tướng Anh Quốc (s. 1897)
1978 – Kurt Gödel, nhà toán học, triết gia người Áo-Mỹ (s. 1897)
1984 – Ray Kroc, doanh nhân người Mỹ (s. 1902)
1986 – Daniel Balavoine, ca sĩ người Pháp (s. 1952)
1988 – Georgy Maximilianovich Malenkov, chính trị gia người Liên Xô, thủ tướng của Liên Xô (s. 1902)
2010 – Petra Schürmann, người mẫu và diễn viên người Đức, Hoa hậu Thế giới 1956 (s. 1935)
2011 – Hồng Hà, chính trị gia người Việt Nam (s. 1928)
2013 – Conrad Bain, diễn viên người Canada-Mỹ (s. 1923)
2014 – Bùi Thế Lân, Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (Sinh 1932)
2016 – Alan Rickman, diễn viên người Anh.
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
Tháng một
Ngày trong năm
|
20089
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/15%20th%C3%A1ng%201
|
15 tháng 1
|
Ngày 15 tháng 1 là ngày thứ 15 trong lịch Gregory. Còn 350 ngày trong năm (351 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
69 – Otho đoạt lấy quyền lực tại thành La Mã, tự tuyên bố là Hoàng đế La Mã, song ông chỉ trị vì được ba tháng do bị ám sát.
593 – Hoàng nữ Nukatabe làm lễ đăng quang thiên hoàng của Nhật Bản, là nữ thiên hoàng đầu tiên được công nhận.
1559 – Elizabeth I đăng quang quân chủ Anh tại Tu viện Westminster, Luân Đôn.
1582 – Nước Nga Sa hoàng cắt nhượng Livonia và Estonia cho Liên bang Ba Lan và Lietuva.
1759 – Bảo tàng Anh mở cửa lần đầu tiên cho công chúng.
1775 – Tù trưởng Kawila của Lampang chiếm thành Chiang Mai, kết thúc hơn 200 năm Miến Điện cai trị Lan Na.
1777 – Cách mạng Mỹ: Cộng hòa Vermont tuyên bố độc lập.
1826 – Tuần báo châm biếm Le Figaro được thành lập tại Paris, Pháp
1844 – Tổng hội bang Indiana ban đặc quyền trường đại học chính thức cho Đại học Notre Dame.
1870 – Một bức tranh biếm họa chính trị lần đầu tiên tượng trưng hóa Đảng Dân chủ (Hoa Kỳ) với một con Lừa.
1871 – Chiến tranh Pháp-Phổ: Bắt đầu trận sông Lisaine diễn ra trên lãnh thổ Pháp.
1892 – James Naismith ban hành các điều lệ của môn Bóng rổ.
1919 – Hai nhà xã hội chủ nghĩa xuất chúng tại Đức là Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht bị Quân đoàn Tự do (Freikorps) tra khảo và ám sát ở thời kỳ cuối của cuộc Nổi dậy Spartakus.
1933 – Một cô bé 12 tuổi lần đầu trông thấy Đức Mẹ hiện ra tại Banneux, Bỉ, tức Đức Mẹ Banneux.
1934 – Một trận động đất có cường độ 8,0 Mw với chấn tâm tại miền đông Nepal khiến hơn 10.000 người thiệt mạng tại Bihar thuộc Ấn Độ và Nepal.
1943 – Lầu Năm Góc được khánh thành tại quận Arlington, Virginia, Hoa Kỳ, là trụ sở của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ.
1949 – Nội chiến Trung Quốc: Lực lượng Cộng sản chiếm được Thiên Tân từ Chính phủ Quốc dân trong chiến dịch Bình Tân.
1951 – Một tòa án tại Tây Đức kết án tù chung thân và tước vĩnh viễn các quyền dân sự đối với Ilse Koch, vợ của cai ngục Trại tập trung Buchenwald vì các tội kích động giết người và gây thương tích.
1967 – Trận đấu tranh Siêu cúp Bóng bầu dục Mỹ Super Bowl đầu tiên diễn ra tại Los Angeles. Green Bay Packers đánh bại Kansas City Chiefs với tỷ số 35–10.
1970 – Muammar al-Gaddafi trở thành thủ tướng của Libya.
1980 – Indira Gandhi bắt đầu nhiệm kỳ Thủ tướng Ấn Độ lần thứ nhì không liên tục của mình
1981 – Giáo hoàng Gioan Phaolô II tiếp đón một phái đoàn do Lech Wałęsa dẫn đầu từ Công đoàn Đoàn kết tại Thành Vatican.
1990 – Quốc hội Cộng hòa Nhân dân Bulgaria chính thức bãi bỏ "vai trò lãnh đạo" của Đảng Cộng sản Bulgaria
1991 – Chiến tranh vùng Vịnh: Kết thúc thời hạn Liên Hợp Quốc đặt ra để lực lượng Iraq triệt thoái khỏi Kuwait, mở đường cho Chiến dịch Bão táp sa mạc.
1992 – 12 quốc gia thành viên của Cộng đồng châu Âu công nhận Slovenia và Croatia độc lập từ Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư.
2001 – Từ điển bách khoa toàn thư mở Wikipedia phiên bản tiếng Anh được đưa lên Internet.
2005
Tàu vũ trụ bay theo quỹ đạo Mặt Trăng SMART-1 của Cơ quan vũ trụ châu Âu phát hiện các nguyên tố như Calci, Nhôm, Silic, Sắt, và các nguyên tố khác trên bề mặt Mặt Trăng.
Mahmoud Abbas bắt đầu nhiệm kỳ Tổng thống thứ hai Chính quyền quốc gia Palestine.
2009 – Chuyến bay 1549 của US Airways phải hạ cánh xuống sông Hudson tại thành phố New York, không có trường hợp thiệt mạng trong vụ tai nạn.
Sinh
5 TCN – Lưu Tú, tức Hán Quang Vũ Đế, hoàng đế của triều Hán, tức ngày Giáp Tý tháng 12 năm Kiến Bình thứ 1 (m. 57)
1539 – Maeda Toshiie, tướng lĩnh người Nhật Bản, tức 25 tháng 12 năm Mậu Tuất (m. 1599)
1622 – Molière, nhà biên kịch và diễn viên người Pháp (m. 1673)
1725 – Pyotr Aleksandrovich Rumyantsev, tức 4 tháng 1 theo lịch Julius tướng lĩnh Đế quốc Nga (m. 1796)
1810 – Emil von Schwartzkoppen, tướng lĩnh Phổ (m. 1878)
1842 – Mary MacKillop, người Úc được phong thánh (m. 1909)
1850
Mihai Eminescu, thi sĩ người România (m. 1889)
Sofia Vasilyevna Kovalevskaya, nhà toán học người Nga, 3 tháng 1 theo lịch Julius (m. 1891)
1859 – Nathaniel Lord Britton, nhà địa chất, nhà thực vật học người Mỹ (m. 1934)
1866 – Nathan Söderblom, nhà thần học Tin Lành Thụy Điển, người nhận Giải thưởng Nobel về hòa bình (m. 1931)
1882
Florian Znaniecki, nhà xã hội học, triết gia người Ba Lan-Mỹ (m. 1958)
Margaret, Vương tôn nữ Anh Quốc-Thái tử phi Thụy Điển (m. 1920)
1891 – Osip Emilyevich Mandelstam, thi sĩ người Nga, tức 3 tháng 1 theo lịch Julius (m. 1938)
1895 – Artturi Ilmari Virtanen, nhà hóa sinh Phần Lan, nhận Giải thưởng Nobel (m. 1973)
1897 – Từ Chí Ma, thi sĩ người Trung Quốc, tức ngày 13 tháng 12 năm Bính Thân (m. 1931)
1900 – Ông Văn Huyên, mục sư người Việt Nam (m. 1999)
1910 – Trần Hữu Dực, chính trị gia người Việt Nam (m. 1993)
1917 – Nguyễn Văn Trân, chính trị gia người Việt Nam
1918 – Gamal Abdel Nasser, chính trị gia người Ai Cập, tổng thống của Ai Cập (m. 1970)
1920 – Huỳnh Phú Sổ, người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo, tức ngày 25 tháng 11 năm Kỷ Mùi (m. 1947)
1922 – Đoàn Trọng Truyến, chính trị gia người Việt Nam (m. 2009)
1923 – Lý Đăng Huy, chính trị gia người Đài Loan, Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc
1929 – Martin Luther King, nhà hoạt động dân quyền người Mỹ (m. 1968)
1930 – Trần Văn Cẩm, tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa
1940 – Thích Trí Quảng, hòa thượng người Việt Nam
1943 – Margaret Beckett, chính trị gia người Anh Quốc
1945 – Marie Christine von Reibnitz, nhà thiết kế nội thất và tác giả người Đức-Anh Quốc
1946 – Phêrô Nguyễn Văn Đệ, linh mục người Việt Nam
1947 – Martin Chalfie, nhà hóa học người Mỹ, đoạt giải Nobel
1950
Marius Trésor, cầu thủ bóng đá người Pháp
Viên Tân Điều, nhạc sĩ người Việt Nam
Choe Ryong-hae, chính trị gia và sĩ quan quân đội người Triều Tiên
1951 – Iguchi Naruhito, seiyū người Nhật Bản
1955 – Tanaka Mayumi, seiyū người Nhật Bản
1958 – Boris Tadić, chính trị gia người Serbia, tổng thống của Serbia
1963 – Hà Thanh Toàn, nhà giáo dục, nhà chính trị người Việt Nam
1970 – Shane McMahon, đô vật và doanh nhân người Mỹ
1973 – Tomáš Galásek, cầu thủ bóng đá người Séc
1979 – Chu Hiếu Thiên, ca sĩ và diễn viên người Đài Loan (F4)
1981
El Hadji Diouf, cầu thủ bóng đá người Sénégal
Pitbull, ca sĩ đọc rap người Mỹ
1982 – Emina Jahović, ca sĩ và diễn viên người Serbia-Thổ Nhĩ Kỳ
1983 – Jermaine Pennant, cầu thủ bóng đá Anh
1985 – René Adler, cầu thủ bóng đá người Đức
1988 – Skrillex, ca sĩ, DJ người Mỹ
1990 – Vũ Trà My, vận động viên võ thuật người Việt Nam
1994 – Eric Dier, cầu thủ bóng đá người Anh
1995 – Hương Tràm, ca sĩ người Việt Nam
1998 – Boo Seungkwan, ca sĩ người Hàn Quốc
Mất
69 – Galba, hoàng đế của Đế quốc La Mã (s. 3 TCN)
936 – Raoul I, quốc vương của Pháp (s. 880)
1128 – Lý Nhân Tông, vua thứ 4 của triều Lý, tức ngày Đinh Mão (12) tháng 12 năm Đinh Mùi (s. 1066)
1595 – Murad III, sultan của Đế quốc Ottoman (s. 1546)
1815 – Emma Hamilton, tình nhân người Anh của Horatio Nelson (s. 1761)
1919
Rosa Luxemburg, nhà lý luận, triết gia, nhà kinh tế người Đức (s. 1871)
Karl Liebknecht, nhà xã hội chủ nghĩa Đức (s. 1871)
1923 – Maurice Long, luật sư, chính trị gia người Pháp, Toàn quyền Đông Dương (s. 1866)
1926 – Enrico Toselli, nghệ sĩ dương cầm và soạn nhạc người Ý (b. 1883)
2007
James Hillier, nhà khoa học người Canada-Mỹ, phát minh ra kính hiển vi điện tử (s. 1915)
Bạc Nhất Ba, chính trị gia người Trung Quốc (s. 1908)
2021 – Lệ Thu, ca sĩ người Việt Nam (s. 1943).
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
Tháng một
Ngày trong năm
|
20091
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/16%20th%C3%A1ng%201
|
16 tháng 1
|
Ngày 16 tháng 1 là ngày thứ 16 trong lịch Gregory. Còn 349 ngày trong năm (350 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
27 TCN – Viện nguyên lão ban tước Augustus cho Gaius Julius Caesar Octavianus, đánh dấu sự khởi đầu của Đế quốc La Mã.
881 – Sau khi chiếm được kinh thành Trường An của triều Đường, Thủ lĩnh nổi dậy Hoàng Sào lên ngôi hoàng đế tại Hàm Nguyên điện, đặt quốc hiệu là Đại Tề, cải nguyên Kim Thống, tức ngày Nhâm Thìn (13) tháng 12 năm Canh Tý.
929 – Emir Abd-al-Rahman III thành lập nên Đế quốc Córdoba.
1492 – Ngữ pháp đầu tiên của tiếng Tây Ban Nha được đệ trình cho Nữ vương Isabel I của Castilla.
1547 – Ivan IV trở thành sa hoàng của Nga.
1556 – Felipe II trở thành quốc vương của Tây Ban Nha.
1605 – Tác phẩm Đôn Kihôtê của nhà văn Miguel de Cervantes được phát hành lần đầu tại Madrid.
1780 – Cách mạng Mỹ: Hải quân Anh Quốc đánh bại Hải quân Tây Ban Nha trong Hải chiến Cape St. Vincent ở tại vùng biển ngoài khơi Bồ Đào Nha.
1786 – Một thủ lĩnh Thiên Địa hội là Lâm Sảng Văn tuyên bố phản lại triều đình, mở đầu một cuộc khởi nghĩa quy mô lớn chống lại nhà Thanh trên đảo Đài Loan.
1900 – Thượng viện Hoa Kỳ thừa nhận hiệp ước Anh-Đức năm 1899 mà theo đó Anh Quốc từ bỏ tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Samoa.
1909 – Đoàn thám hiểm của Ernest Shackleton tìm thấy Cực Nam từ.
1917 – Bộ trưởng Ngoại giao Đức gửi cho Đại sứ Đức tại Mexico một bức điện, yêu cầu xúc tiến thành lập đồng minh Đức-Mexico chống Hoa Kỳ, tuy nhiên mã bức điện bị tình báo Anh Quốc thu được.
1920 – Hội nghị hội đồng đầu tiên của Hội Quốc Liên được tổ chức tại Paris.
1956 – Tổng thống Gamal Abdel Nasser của Ai Cập thề tái chinh phục Palestine.
1969 – Sinh viên người Tiệp Khắc Jan Palach tự thiêu tại Praha nhằm phản đối việc Liên Xô dập tắt Mùa xuân Praha vào năm trước.
1979 – Cách mạng Hồi giáo Iran: Shah Mohammad Reza Pahlavi cùng gia đình dời khỏi Iran và di chuyển tới Ai Cập.
1987 – Do phản đối "tư sản giai cấp tự do hóa", Tổng bí thư Hồ Diệu Bang của Đảng Cộng sản Trung Quốc bị buộc phải từ chức, Triệu Tử Dương trở thành quyền Tổng bí thư.
2001 – Tổng thống Cộng hòa Dân chủ Congo Laurent-Desire Kabila bị một trong số các cận vệ của ông ám sát, ông được tuyên bố qua đời hai ngày sau đó.
2006 – Ellen Johnson Sirleaf tuyên thệ nhậm chức tổng thống của Liberia. Bà là nữ nguyên thủ quốc gia đầu tiên của một quốc gia châu Phi.
2013 – Khoảng 41 người lao động ngoại quốc bị bắt làm con tin trong một cuộc tiến công tại thị trấn In Amenas, Algeria.
Sinh
972 – Da Luật Long Tự, tức Liêu Thánh Tông, hoàng đế của triều Liêu/Khiết Đan, tức ngày Kỉ Sửu (27) tháng 12 năm Tân Mùi (m. 1031)
1624 – Pierre Lambert de la Motte, giám mục người Pháp (m. 1679)
1728 – Niccolò Piccinni, nhà soạn nhạc người Ý (m. 1800)
1815 – Henry W. Halleck, tướng lĩnh người Mỹ (m. 1872)
1900 – Edith Frank-Holländer, nạn nhân diệt chủng người Do Thái (m. 1945)
1901 – Fulgencio Batista, sĩ quan quân đội và chính trị gia người Cuba, tổng thống của Cuba (m. 1973)
1912 – Trần Duy Hưng, bác sĩ, chính trị gia người Việt Nam (m. 1988)
1916 – Nguyễn Văn Vỹ, tướng lĩnh người Việt Nam
1928 – Hà Ân, nhà văn người Việt Nam (m. 2011)
1932 – Dian Fossey, nhà động vật học người Mỹ (m. 1985)
1940 – Reinhart Ahlrichs, nhà hóa học người Đức
1943 – Ngụy Văn Thà, sĩ quan hải quân Việt Nam Cộng hòa (m. 1974)
1945 – Birte Tove, diễn viên người Đan Mạch (m. 2016)
1946 – Trần Thị Trung Chiến, chính trị gia người Việt Nam
1968 – Tô Ngọc Hoa, diễn viên người Hồng Kông
1974 – Johnny Trí Nguyễn, diễn viên người Việt-Mỹ
1979
Aaliyah, ca sĩ, vũ công, diễn viên người Mỹ (m. 2001)
Muntadhar al-Zaidi, nhà báo người Iraq
1980 – Seydou Keita, cầu thủ bóng đá người Mali
1981
Bobby Zamora, cầu thủ bóng đá người Anh
Mỹ Tâm, ca sĩ người Việt Nam
1985 – Pablo Zabaleta, cầu thủ bóng đá người Argentina
1987 – Quỳnh Anh, ca sĩ người Bỉ gốc Việt
1988 – Nicklas Bendtner, cầu thủ bóng đá người Đan Mạch
1996 – Jennie, ca sĩ người Hàn Quốc, thành viên của nhóm nhạc Blackpink
1998 – Boo Seungkwan, ca sĩ người Hàn Quốc, thành viên của nhóm nhạc Seventeen
2009 – Na Haeun, ca sĩ vũ công người Hàn Quốc
Mất
1262 – Thân Loan, hòa thượng người Nhật Bản (s. 1173)
1710 – Higashiyama, thiên hoàng của Nhật Bản, tức 17 tháng 12 năm Kỉ Sửu (s. 1675)
1794 – Edward Gibbon, sử gia và chính trị gia người Anh (s. 1737)
1886 – Amilcare Ponchielli, nhà soạn nhạc người Ý (s. 1834)
1892 – Kraft zu Hohenlohe-Ingelfingen, tướng lĩnh Phổ (s. 1827)
1914 – Ito Sukeyuki, sĩ quan quân đội người Nhật Bản (s. 1843)
1942 – Carole Lombard, diễn viên người Mỹ (s. 1908)
1959 – Phan Khôi, nhà báo, tác gia người Việt Nam (s. 1887)
1969 – Jan Palach, người đấu tranh vì tự do người Séc (s. 1948)
1976 – Phạm Hán Kiệt, tướng lĩnh người Trung Quốc (s. 1894)
1981 – Bernard Lee, diễn viên người Anh (s. 1908)
1984 – Kenneth Arnold, phi công và doanh nhân người Mỹ (s. 1915)
1989 – Noriaki Kakyoin, nhân vật trong Jojo's Bizarre Adventure: Stardust Crusaders (s. 1970)
1990 – Đào Hồng Cẩm, nhà biên kịch, nhà văn người Việt Nam (s. 1924)
1995 – Trần Đình Hượu, nhà nghiên cứu văn học người Việt Nam (s. 1927)
1999 – Đoàn Khuê, Đại Tướng Quân đội nhân dân Việt Nam (s. 1923)
2007 – Ron Carey, diễn viên người Mỹ (s. 1935)
2008 – Nghiêm Phú Phi, nhà soạn nhạc người Việt Nam-Mỹ (s. 1930)
2009 – Phạm Thế Mỹ, nhạc sĩ người Việt Nam (s. 1930)
2013 – Aslan Usoyan, tội phạm người Gruzia-Nga (s. 1937)
2021 – Nguyễn Phúc Phương Mai, công chúa con vua Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương (s. 1937).
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
Tháng một
Ngày trong năm
|
20094
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/17%20th%C3%A1ng%201
|
17 tháng 1
|
Ngày 17 tháng 1 là ngày thứ 17 trong lịch Gregory. Còn 348 ngày trong năm (349 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
395 – Hoàng đế Theodosius I qua đời tại Milano, Đế quốc La Mã bị tái phân chia thành nửa đông và nửa tây. Đế quốc Đông La Mã có trung tâm là Constantinopolis dưới sự cai quản của Arcadius- con của Theodosius, và Đế quốc Tây La Mã tại Mediolanum dưới quyền Honorius khi đó mới 10 tuổi- em của Theodosius.
1258 – Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1: Quân Mông Cổ giao chiến với quân Đại Việt tại Bình Lệ Nguyên, kết quả quân Đại Việt buộc phải rút lui, tức 12 tháng 12 năm Đinh Tỵ.
1377 – Giáo hoàng Gregory XI về tới Roma sau 4 tháng đường trường khó khăn và gian nan, chấm dứt cuộc lưu đày 70 năm.
1595 – Henry IV của Pháp tuyên bố chiến tranh với Tây Ban Nha.
1773 – Thuyền trưởng James Cook và các thủy thủ của ông trở thành những người châu Âu đầu tiên đi thuyền xuống bên dưới Vòng Nam Cực.
1871 – Chiến tranh Pháp-Phổ: Trận sông Lisaine kết thúc với thắng lợi của quân Phổ.
1899 – Hoa Kỳ sáp nhập Đảo Wake tại Thái Bình Dương.
1913 – Raymond Poincaré đắc cử Tổng thống Pháp.
1917 – Hoa Kỳ trả cho Đan Mạch 25 triệu đô la Mỹ để mua quần đảo Virgin.
1918 – Nội chiến Phần Lan: Diễn ra các trận chiến khốc liệt đầu tiên giữa Hồng vệ binh và Bạch vệ binh.
1933 – Các nhà lãnh đạo Cộng hòa Xô viết Trung Hoa là Mao Trạch Đông và Chu Đức, ra tuyên bố phản đối Nhật Bản xâm nhập Hoa Bắc, bảy tỏ đề nghị cùng các lực lượng khác cùng kháng Nhật một cách có điều kiện.
1945
Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Liên Xô chiếm thành phố Warszawa của Ba Lan, song thành phố lúc này đã bị phá hủy gần như hoàn toàn.
Liên Xô bắt giữ nhà ngoại giao người Thụy Điển Raoul Wallenberg tại Hungary; sau đó ông chưa từng tái xuất hiện trước công chúng.
1946 – Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc họp phiên đầu tiên.
1951 – Chiến tranh Đông Dương: Quân đội Nhân dân Việt Nam chịu thiệt hại nặng nề trong Trận Vĩnh Yên, và phải triệt thoái vào hôm sau.
1960 Bến Tre Đồng khởi. Đội quân tóc dài ra đời, súng Ngựa Trời lần đầu tiên xuất trận.
1972 – Quốc kỳ Bangladesh được sử dụng chính thức.
1981 – Tổng thống Philippines Ferdinand Marcos gỡ bỏ thiết quân luật tại Philippines sau 8 năm 5 tháng.
1991
Chiến tranh vùng Vịnh: Chiến dịch Bão táp Sa mạc của Liên quân Liên Hợp Quốc bắt đầu vào buổi sáng. Iraq trả đũa bằng cách bắn 8 Scud vào Israel.
Harald V trở thành quân chủ của Na Uy.
1992 – Trong một chuyến viếng thăm Hàn Quốc, Thủ tướng Nhật Bản Miyazawa Kiichi bày tỏ lời xin lỗi về việc quân lính Nhật ép buộc phụ nữ Triều Tiên làm nô lệ tình dục trong chiến tranh thế giới thứ hai.
1995 – Động đất lớn Hanshin với cường độ 7,3 theo thang độ lớn sửa đổi của Cơ quan Khí tượng Nhật Bản xảy ra gần thành phố Kobe (Nhật Bản), phá hủy toàn bộ thành phố, làm 6.433 người thiệt mạng.
Sinh
1504 – Giáo hoàng Piô V (m. 1572)
1706 – Benjamin Franklin, nhà khoa học, chính khách người Mỹ (m. 1790)
1820 – Anne Brontë, tác gia và thi nhân người Anh (m. 1849)
1824 – Sơn Định Quận công Nguyễn Phúc Miên Cung, hoàng tử con vua Minh Mạng nhà Nguyễn (m. 1849)
1827 – Gustav Hermann von Alvensleben, tướng lĩnh Phổ (m. 1905)
1878 – Trần Kỳ Mỹ, nhà hoạt động chính trị người Trung Quốc, tức 15 tháng 12 năm Đinh Sửu (m. 1916)
1899 – Al Capone, tội phạm người Mỹ (m. 1947)
1911
John S. McCain, Jr., đô đốc người Mỹ (m. 1981)
George Stigler, nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel (m. 1991)
1914 – Kawamoto Taizo, cầu thủ bóng đá người Nhật Bản (m. 1985)
1922 – Betty White, diễn viên Mỹ
1924 – Nguyễn Đình Hòa, nhà ngôn ngữ học người Việt Nam-Mỹ (m. 2000)
1933 – Dalida, ca sĩ, diễn viên người Ai Cập-Pháp (m. 1987)
1938 – Đường Gia Triền, chính trị gia người Trung Quốc
1940 – Tabaré Vázquez, chính trị gia người Uruguay, tổng thống của Uruguay
1942 – Muhammad Ali, võ sĩ quyền Anh người Mỹ
1955
Pietro Parolin, giám mục người Ý
Trương Quốc Lập, diễn viên, đạo diễn người Trung Quốc
1962 – Jim Carrey, diễn viên, diễn viên hài người Canada-Mỹ
1964 – Michelle Obama, luật sư và nhà hoạt động người Mỹ, phu nhân của Barack Obama
1968 – Sena Hideaki, dược sĩ va tiểu thuyết gia người Nhật Bản
1969 – Tiësto, DJ người Hà Lan
1972 – Hirai Ken, ca sĩ, người sáng tác bài hát người Nhật Bản
1973 – Cuauhtémoc Blanco, cầu thủ bóng đá người Mexico
1980 – Zooey Deschanel, ca sĩ, diễn viên người Mỹ
1981 – Ray J, ca sĩ, diễn viên người Mỹ
1983 – Álvaro Arbeloa, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
1984 – Calvin Harris, DJ, ca sĩ, nhà sản xuất người Anh Quốc
1985 – Kangin, ca sĩ, vũ công, diễn viên người Hàn Quốc (Super Junior)
1989 – Nguyễn Thu Quỳnh, gái Thái Nguyên xinh nhất quả đất, không ngu
2002 – Kim Samuel, ca sĩ, vũ công, rapper người Mỹ gốc Tây Ban Nha
Mất
395 – Theodosius I, Hoàng đế La Mã (s. 347)
1468 – Skanderbeg, thủ lĩnh người Albania (s. 1405)
1598 – Fyodor I, sa hoàng của Nga, tức 7 tháng 1 theo lịch Julius (s. 1557)
1751 – Tomaso Albinoni, nhà soạn nhạc người Ý (s. 1671)
1833 – Friedrich Koenig, nhà phát minh người Đức (s. 1774)
1874 – Chang và Eng Bunker, cặp sinh đôi dính liền người Thái Lan (b. 1811)
1893 – Rutherford B. Hayes, tổng thống Hoa Kỳ thứ 19 (s. 1822)
1911 – Francis Galton, học giả, nhà nhân loại học, nhà địa lý học người Anh (s. 1822)
1927 – Juliette Gordon Low, người sáng lập Hội Nữ Hướng đạo Mỹ (s. 1860)
1960 – Vệ Lập Hoàng, tướng lĩnh người Trung Quốc (s. 1897)
1982 – Varlam Tikhonovich Shalamov, tác gia, thi nhân người Liên Xô (s. 1907)
1987 – Cố Chúc Đồng, tướng lĩnh người Trung Quốc (s. 1893)
1994 – Chung Il-kwon, tướng lĩnh và chính trị gia người Hàn Quốc, thủ tướng của Hàn Quốc (s. 1917)
1997 – Trần Dần, nhà thơ, nhà văn người Việt Nam (s. 1926)
1998 – Tạ Đình Đề, điệp viên người Việt Nam (s. 1917)
2002 – Camilo José Cela, tác gia người Tây Ban Nha, đoạt giải Nobel (s. 1916)
2005 – Triệu Tử Dương, Thủ tướng Trung Quốc (s. 1919)
2007 – Phaolô Maria Nguyễn Minh Nhật, giám mục người Việt Nam (s. 1926)
2008 – Bobby Fischer, đại kiện tướng cờ vua người Mỹ (s. 1943)
2010 – Erich Segal, tác gia và nhà biên kịch người Mỹ (s. 1937)
2013 – Trương Bảy, Chuẩn tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (s. 1930)
2013 – Linh Quang Viên, Trung tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (s. 1918)
2019 – Lê Ngọc Triển, Thiếu tướng, Quân lực Việt Nam Cộng hòa (s. 1927)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Quốc khánh (Menorca,Tây Ban Nha)
Tham khảo
Tháng một
Ngày trong năm
|
20095
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/18%20th%C3%A1ng%201
|
18 tháng 1
|
Ngày 18 tháng 1 là ngày thứ 18 trong lịch Gregory. Còn 347 ngày trong năm (348 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
350 – Tướng Magnentius phế truất Hoàng đế Constans I và tự xưng là hoàng đế của Đế quốc La Mã.
474 – Leo II mới bảy tuổi khi kế vị hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã từ ông ngoại Leo I.
1126 – Trong lúc quân Kim tiến sát thủ đô Biện Kinh, Tống Huy Tông thoái vị nhường ngôi cho con là Tống Khâm Tông.
1258 – Quân Mông Cổ giáp trận quân Đại Việt tại Phù Lỗ. Quân Đại Việt buộc phải rút lui, bỏ ngỏ kinh đông Thăng Long.
1535 – Nhà chinh phục người Tây Ban Nha Francisco Pizarro thành lập thành phố Ciudad de los Reyes để làm thủ phủ của mình, nay là thủ đô Lima của Peru.
1562 – Giáo hoàng Piô IV mở lại Công đồng Trentô lần thứ ba và cũng là cuối cùng.
1670 – Henry Morgan chiếm Panama từ Đế quốc Tây Ban Nha.
1701 – Công tước Phổ–Tuyển hầu tước Brandenburg Friedrich I đăng quang quốc vương Phổ tại Königsberg.
1778 – Thuyền trưởng James Cook trở thành người châu Âu đầu tiên khám phá ra Hawaii, ông đặt tên nơi này là "Quần đảo Sandwich".
1871
Wilhelm I của Đức tuyên bố mình là hoàng đế Đức đầu tiên tại Lâu đài Versailles (Pháp) vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Pháp–Phổ, khởi đầu Đế quốc Đức.
Chiến tranh Pháp-Phổ: Trận St. Quentin, Trận Buzenval kết thúc với thắng lợi quyết định của quân đội Đức.
1910 – Duy Tân cho phép khắc in bộ sách dư địa chí Đại Nam nhất thống chí, tức 8 tháng 12 năm Canh Tuất.
1915 – Chiến tranh thế giới thứ nhất: Trận Jassin bắt đầu giữa quân đội Anh và quân đội Đức.
1919 – Hãng ô tô Bentley của Anh Quốc được thành lập.
1942 – Chiến tranh thế giới II: Chiến dịch đổ bộ đường không Vyazma bắt đầu
1943 – Chiến tranh thế giới II: Một phần trong chiến dịch Tia Lửa, Hồng Quân Liên Xô chọc thủng vòng vây hãm Leningrad của quân đội Đức.
1950 – Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trở thành quốc gia đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
1952 – Tổng thống Hàn Quốc Lý Thừa Vãn công bố "đường Hòa Bình" về chủ quyền trên biển, bao gồm cả Dokdo.
1956 – Thành lập Viện Khảo cổ ở Sài Gòn
2002 – Nội chiến Sierra Leone được tuyên bố kế thúc.
2005 – Máy bay thương mại lớn nhất thế giới Airbus A380 được công bố trong một buổi lễ tại Toulouse, Pháp.
2009 – Chiến tranh Gaza: Hamas tuyên bố sẽ chấp thuận đề nghị ngừng bắn của Quân đội Israel, chấm dứt cuộc tiến công.
2021 – Cựu Chủ tịch nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc từ chức
Sinh
1689 – Montesquieu, triết gia người Pháp (m. 1755)
1726 – Heinrich, thành viên vương thất, tướng lĩnh và chính trị gia Phổ (m. 1802)
1835 – César Cui, nhà soạn nhạc người Nga gốc Pháp-Litva, tức 6 tháng 1 theo lịch Julius (m. 1918)
1849 – Edmund Barton, chính trị gia và thẩm phán người Úc, thủ tướng của Úc (m. 1920)
1868 – Hoắc Nguyên Giáp, võ thuật gia triều Thanh (m. 1910)
1904 – Cary Grant, diễn viên người Anh–Mỹ (m. 1986)
1931 – Chun Doo-hwan, Nguyên soái quân đội Hàn Quốc, tổng thống của Hàn Quốc
1931 – Nguyễn Khắc Bình, Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa
1933 – Ray Dolby, kỹ sư và doanh nhân người Mỹ, thành lập Dolby Laboratories (d. 2013)
1938 – Triệu Bôn, nhà văn, nhà báo người Việt Nam
1941 – Hoàng Văn Nghiên, chính trị gia người Việt Nam
1944 – Paul Keating, chính trị gia người Úc, thủ tướng của Úc
1946 – Nguyễn Sinh Hùng, chính trị gia người Việt Nam
1948 – Charles Taylor, chính trị gia người Liberia, tổng thống của Liberia
1951 – Julie Quang, ca sĩ Việt Nam Cộng hòa
1955
Kevin Costner, diễn viên, ca sĩ người Mỹ
Fernando Trueba, đạo diễn, nhà sản xuất phim người Tây Ban Nha
1963 – Martin O'Malley, chính trị gia người Mỹ
1966 – Alexander Khalifman, kỳ thủ cờ vua người Nga
1967 – Iván Zamorano, cầu thủ bóng đá người Chile
1969 – Dave Batista, đô vật, diễn viên người Mỹ
1971 – Josep Guardiola, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
1979
Châu Kiệt Luân, ca sĩ, diễn viên nhà sản xuất âm nhạc người Đài Loan
Paulo Ferreira, cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha
1982 – Joanna Newsom, ca sĩ người Mỹ
1984
Hasebe Makoto, cầu thủ bóng đá người Nhật Bản
Cho Seung-Hui, sát thủ người Hàn Quốc-Mỹ (m. 2007)
1987 – Johan Djourou, cầu thủ bóng đá Thụy Sĩ
1988 – Angelique Kerber, vận động viên quần vợt người Đức
1990 – Nacho Fernández, cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha
1994
Kang Jiyoung, ca sĩ người Hàn Quốc (Kara)
Minzy, ca sĩ và vũ công người Hàn Quốc (2NE1)
Mất
474 – Leo I, hoàng đế của Đế quốc Đông La Mã (s. 401)
748 – Odilo, công tước của Bayern
1611 – Trần Văn Bảo, chính trị gia triều Mạc, tức ngày 5 tháng 12 năm Canh Tuất (s. 1524)
1862 – John Tyler, chính trị gia người Mỹ, tổng thống của Hoa Kỳ (s. 1790)
1896 – Hans von Passow, sĩ quan người Đức (s. 1827)
1926 – August Keim, sĩ quan người Đức (s. 1845)
1936 – Rudyard Kipling, tác gia và thi nhân người Anh, đoạt giải Nobel (s. 1865)
1949 – Charles Ponzi, doanh nhân lừa đảo người Ý (s. 1882)
1974 – Ngụy Văn Thà, sĩ quan quân đội người Việt Nam (s. 1943)
1982
Huỳnh Hiện Phan, sử gia, nhà dân tộc học người Trung Quốc (s. 1899)
Kha Vạng Cân, chính trị gia người Việt Nam (s. 1908)
1990 – Melanie Appleby, ca sĩ Anh (s. 1966)
1995 – Adolf Butenandt, nhà hóa học người Đức, đoạt giải Nobel (s. 1903)
1996 – Vũ Đình Liên, nhà thơ người Việt Nam (s. 1913)
2001 – Laurent-Desire Kabila, tổng thống của Cộng hòa Dân chủ Congo (s. 1939)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
Tháng một
Ngày trong năm
|
20097
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/19%20th%C3%A1ng%201
|
19 tháng 1
|
Ngày 19 tháng 1 là ngày thứ 19 trong lịch Gregory. Còn 364 ngày trong năm (365 ngày trong năm nhuận).
Sự kiện
379 – Hoàng đế Gratianus thăng Flavius Theodosius làm Augustus, và trao cho người này quyền lực tại toàn bộ các tỉnh đông bộ của Đế quốc La Mã.
1419 – Chiến tranh Trăm Năm: Rouen đầu hàng Henry V của Anh, cuộc tái chiếm Normandie của ông hoàn thành.
1785 – Quân Xiêm lọt vào trận địa mai phục của quân Tây Sơn, Trận Rạch Gầm – Xoài Mút bắt đầu, tức ngày 9 tháng 12 năm Giáp Thìn.
1806 – Anh Quốc xâm chiếm Mũi Hảo Vọng.
1817 – Một đội quân 5.423 binh sĩ, dẫn đầu bởi tướng José de San Martín, bắt đầu vượt qua dãy Andes từ Argentina, sau đó họ tiến đến giải phóng khu vực nay là Chile rồi Peru khỏi Đế quốc Tây Ban Nha.
1839 – Công ty Đông Ấn Anh chiếm Aden.
1871 – Chiến tranh Pháp-Phổ: Trong Cuộc vây hãm Paris, Phổ chiến thắng tại Trận St. Quentin. Trong khi đó, nỗ lực của quân Pháp nhằm phá vây trong Trận Buzenval kết thúc trong thất bại và ngày hôm sau.
1899 – Sudan thuộc Anh-Ai Cập được thành lập.
1915 – Chiến tranh thế giới thứ nhất: Trận Jassin ở Đông Phi kết thúc với thắng lợi của Quân đội Đức.
1919 – Quân chủ quốc miền Bắc được thành lập tại Porto, Bồ Đào Nha, mục đích là nhằm phục vị cho Manuel II.
1920 – Thượng viện Hoa Kỳ bỏ phiếu chống lại việc gia nhập Hội Quốc Liên.
1935 – Coopers Inc. bán những chiếc quần sịp đầu tiên trên thế giới tại thành phố Chicago, Hoa Kỳ.
1942 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quân đội Nhật Bản xâm nhập Myanmar.
1946 – Tướng Douglas MacArthur thành lập Tòa án Quân sự Quốc tế Viễn Đông tại Tokyo nhằm, phục vụ cho việc xét xử các tội phạm chiến tranh người Nhật Bản.
1966 – Indira Gandhi trở thành thủ tướng thứ năm của Ấn Độ, cũng là nữ thủ tướng đầu tiên.
1974 – Hải quân Trung Quốc giành chiến thắng trong Hải chiến Hoàng Sa trước Hải quân Việt Nam Cộng hòa, bắt đầu chiếm đóng hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa.
1993 – Cộng hòa Séc và Slovakia gia nhập Liên Hợp Quốc.
2005 – Thị trưởng Seoul Lee Myung-bak tuyên bố rằng danh xưng Trung văn của thành phố đổi thành "Thủ Nhĩ" (首爾), từ "Hán Thành" (漢城) không còn được sử dụng.
2006 – NASA tiến hành phóng tàu vũ trụ New Horizons từ Trung tâm vũ trụ Kennedy nhằm nghiên cứu sao Diêm Vương và vành đai Kuiper
2011 – Nguyễn Phú Trọng trở thành Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thay thế Nông Đức Mạnh.
2012 – Trang thông tin điện tử chia sẻ dữ liệu Megaupload bị Cục Điều tra Liên bang đóng cửa.
Sinh
398/399 – Pulcheria, hoàng hậu của Đế quốc Đông La Mã, được phong thánh (m. 453)
1544 – François II, quốc vương của Pháp (m. 1560)
1655 – Nạp Lan Tính Đức, thi nhân triều Thanh tức ngày 12 tháng 12 năm Giáp Ngọ (m. 1685)
1736 – James Watt, nhà phát minh người Anh Quốc (m. 1819)
1762 – Tống Phúc Thị Lan, hoàng hậu đầu tiên của nhà Nguyễn, chánh thất của vua Gia Long (m. 1814)
1798 – Auguste Comte, triết gia người Pháp (m. 1857)
1807 – Robert E. Lee, tướng lĩnh người Mỹ (m. 1870)
1809 – Edgar Allan Poe, nhà văn, nhà thơ người Mỹ (m. 1849)
1813 – Henry Bessemer, kỹ sư và doanh nhân người Anh Quốc (m. 1898)
1836 – Gottlieb Graf von Haeseler, sĩ quan quân đội người Đức (m. 1919)
1839 – Paul Cézanne, họa sĩ người Pháp (m. 1906)
1890 – Georg Albert, vương của Schwarzburg-Rudolstadt (s. 1838)
1900 – Mikhail Isakovsky, nhà thơ người Liên Xô, tức ngày 7 tháng 1 theo lịch Julius (m. 1973)
1911 – Lê Thị Lựu, nữ hoạ sĩ người Việt Nam (m. 1988)
1912 – Leonid Kantorovich, nhà kinh tế học người Liên Xô, đoạt giải Nobel, tức 6 tháng 1 theo lịch Julius (m. 1986)
1919 – Park Choong-hoon, quân nhân, kinh tế gia, chính trị gia người Hàn Quốc, quyền tổng thống của Hàn Quốc (m. 2001)
1920 – Javier Pérez de Cuéllar, nhà ngoại giao người Peru, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc
1922 – Miguel Muñoz, cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá người Tây Ban Nha (m. 1990)
1923 – Markus Wolf, điệp viên người Đức (m. 2006)
1926 – Trần Thanh Phong, tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa (mất 1972)
1933 – Larry King (mất 2021)
1937
Birgitta, Công chúa Thụy Điển
Joseph Nye, nhà khoa học chính trị người Mỹ
1942 – Thom Mayne, kiến trúc sư người Mỹ
1944 – Peter Lynch, doanh nhân người Mỹ
1946
Julian Barnes, tác gia người Anh
Dolly Parton, ca sĩ, diễn viên người Mỹ
1947 – Leszek Balcerowicz, nhà kinh tế học, chính trị gia người Ba Lan
1955 – Đỗ Trung Quân, nhà thơ người Việt Nam
1966 – Stefan Edberg, vận động viên quần vợt người Thụy Điển
1969 – Steve Staunton, cầu thủ bóng đá người Ireland
1972 – R-Truth, đô vật người Mỹ
1976 – Anh Ngọc, nhà báo người Việt Nam
1977 – Nicole, ca sĩ người Chile
1980 – Mã Lâm, vận động viên bóng bàn người Trung Quốc
1981 – Quang Hà, ca sĩ người Việt Nam
1983 – Utada Hikaru, ca sĩ - nhạc sĩ người Mỹ gốc Nhật
1986 – Claudio Marchisio, cầu thủ bóng đá người Ý
1988 – Yamamoto Yusuke, diễn viên người Nhật Bản
1992 – Logan Lerman, diễn viên người Mỹ
1980 – KOTOKO, ca sĩ người Nhật Bản
1991 – Hwang In-yeop, diễn viên, người mẫu người Hàn Quốc
1998 – Hanbin, ca sĩ người Việt Nam đang hoạt động tại Hàn Quốc, thành viên nhóm nhạc Tempest
Mất
1048 – Lý Nguyên Hạo, hoàng đế của Tây Hạ, tức ngày Tân Mùi (2) tháng 1 năm Mậu Tý.
1629 – Abbas I, shah của triều Safavid (s. 1571)
1896 – Ludwig Georg von Spangenberg, tướng lĩnh Phổ (s. 1826)
1929 – Lương Khải Siêu, học giả, nhà báo người Trung Quốc (s. 1873)
1969 – Jan Palach, sinh viên, nhà hoạt động chính trị người Séc (s. 1948)
1971 – Nicolai Rubtsov, nhờ thơ người Liên Xô (s. 1936)
1974 – Huỳnh Duy Thạch, sĩ quan quân đội người Việt Nam (s. 1943)
1990 – Osho, nhà thần bí và guru người Ấn Độ (s. 1931)
1992 – Nguyễn Văn Tỵ, họa sĩ người Việt Nam (s. 1917)
2000 – Hedy Lamarr, nữ diễn viên người Áo-Mỹ (s. 1914)
2002 – Điềm Phùng Thị, nhà điêu khắc người Việt Nam (s. 1920)
2005 – Hoàng Phê, nhà từ điển học người Việt Nam (s. 1919)
2017 – Loalwa Braz, ca sĩ người Brasil (s. 1953)
Những ngày lễ và kỷ niệm
Tham khảo
Tháng một
Ngày trong năm
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.