text
stringlengths 100
198k
|
---|
, tạm dịch tiếng Việt: Kỵ sĩ trong vòng cấm là một loạt manga Nhật Bản được viết bởi Igano Hiroaki và minh họa bởi Tsukiyama Kaya. Bộ truyện đã được phát hành trên tạp chí Shōnen của Kodansha, Weekly Shōnen Magazine, từ tháng 4 năm 2006 đến tháng 3 năm 2017, với 57 tập trong các tuyển tập tankōbon. Một phiên bản truyền hình anime gồm 37 tập phim do Shin-Ei Animation sản xuất đã được phát sóng trên TV Asahi từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2012.
Cốt truyện
Aizawa Kakeru là em trai của Aizawa Suguru, một thần đồng bóng đá thuộc đội tuyển U-15 Nhật Bản. Trước đó, Kakeru từ bỏ vị trí tiền đạo sau một sự cố khiến anh không thể thi đấu bằng chân trái và chuyển sang vị trí quản lý. Sau khi cả hai bị xe tải đâm, Suguru chết và trái tim của anh được ghép cho Kakeru. Với trái tim đó, Kakeru trở lại với bóng đá để thực hiện ước mơ vô địch World Cup của anh trai mình.
Nhân vật
Aizawa Kakeru (逢沢 駆)
Lồng tiếng bởi: Yūko Sanpei
Em trai của Suguru. Cậu ấy chơi ở vị trí tiền đạo. Khi còn là học sinh lớp sáu, và sau khi gây thương tích cho người bạn và đồng đội Hibino bằng cách sút bóng mạnh bằng chân trái, anh ấy trở nên cảnh giác khi sử dụng nó, điều này cản trở nghiêm trọng khả năng ghi bàn và đặc biệt là sự tự tin của anh ấy, đến mức anh ấy dường như không thể ghi bàn. Kết quả là, anh ấy bắt đầu chơi ngày càng ít thường xuyên hơn và bắt đầu làm việc nhiều hơn với tư cách trợ lý giám đốc, trước sự bực tức của anh trai anh ấy, át chủ bài Suguru. Tuy nhiên, anh ấy vẫn bí mật tập luyện bóng đá trong công viên hàng đêm.Mọi thứ bắt đầu thay đổi khi người bạn thời thơ ấu của anh, Mishima Nana, trở lại Nhật Bản vào một ngày nọ và trở thành quản lý của đội. Hơn nữa, một người đeo mặt nạ bí ẩn xuất hiện vào một đêm tại công viên và thách anh ta chơi, điều mà họ vẫn làm hàng đêm. Điều này thúc đẩy Kakeru cố gắng một lần nữa với đội, và trong một trận đấu tập, anh ấy là tiền đạo duy nhất có thể theo kịp những đường chuyền bất ngờ và mạnh mẽ của Suguru, nhưng anh ấy không ghi bàn vì sợ sử dụng chân trái. Cảm thấy thất vọng, anh nói với anh trai rằng anh sẽ từ bỏ bóng đá chỉ vài phút trước khi cả hai bị một chiếc xe tải đâm. Sau khi hồi phục sau vụ tai nạn và từ ca ghép tim mà anh ấy nhận được từ anh trai mình như "đường chuyền cuối cùng", Kakeru phát hiện ra rằng anh ấy dường như đã thừa hưởng một số kỹ năng và tính khí của Suguru, và rằng anh ấy có thể sử dụng lại chân trái của mình.Người đeo mặt nạ được tiết lộ là Nana, người đã được Suguru yêu cầu giúp đỡ Kakeru, và cô tiết lộ với anh rằng ca cấy ghép của anh đến từ anh trai anh. Sau khi biết được điều đó và biết được ước mơ của anh trai mình là cả hai đều vô địch World Cup, anh quyết định quay trở lại với bóng đá và biến giấc mơ của anh trai mình thành hiện thực.
Aizawa Suguru (逢沢 傑)
Lồng tiếng bởi: Fukuyama Jun Kumai Motoko (lúc nhỏ)
Anh trai của Kakeru. Suguru là một tiền vệ thiên tài và là đội trưởng đội bóng đá của trường, thậm chí còn góp mặt trong đội U-15 của Nhật Bản. Anh được nhiều người kỳ vọng sẽ gánh vác tương lai của bóng đá thế giới Nhật Bản. Anh nhận thức được tài năng cầu thủ bóng đá của em trai mình và cảm thấy khó chịu vì sự thiếu động lực của Kakeru. Trong manga gợi ý rằng Suguru có thể bằng cách nào đó đã đoán trước được cái chết của chính mình, khi anh ấy bắt đầu gặp ác mộng thường xuyên, kết thúc vào ngày anh ấy qua đời. Sau khi nghe tin anh trai quyết định từ bỏ bóng đá, anh định kể cho anh nghe về giấc mơ tuyệt vời mà anh có vào sáng hôm đó, khi cả hai bị một chiếc xe tải mà tài xế ngủ quên điều khiển. Suguru còn có phần tệ hơn, và rõ ràng là anh ấy không thể giúp được gì nữa. Biết được điều này và Kakeru cũng sẽ cần được ghép tim để sống, các bác sĩ và gia đình quyết định ghép tim của anh ấy cho Kakeru, người theo đó mơ thấy Suguru sẽ cho anh ấy một đường chuyền cuối cùng. Trao trái tim mình cho Kakeru, anh cũng trao cho cậu ước mơ vô địch cúp thế giới.
Mishima Nana (美島 奈々)
Lồng tiếng bởi: Itō Shizuka
Bạn thời thơ ấu của Suguru và Kakeru, biệt danh là Seven. Kể từ khi trở về từ Los Angeles, cô ấy đã trở thành người quản lý, giống như Kakeru. Cô ấy giỏi bóng đá và có quan hệ họ hàng với Kakeru.
Nakatsuka Kota (中塚 公太)
Lồng tiếng bởi: Shiraishi Minoru
Saeki Yusuke (佐伯 祐介)
Lồng tiếng bởi: Shingaki Tarusuke
Aizawa Mito (逢沢 美都)
Lồng tiếng bởi: Shindō Kei
Bố của Aizawa
Lồng tiếng bởi: Tahara Aruno
Mẹ của Aizawa
Lồng tiếng bởi: Sakuma Rei
Truyền thông
Manga
Được viết bởi Igano Hiroaki và minh họa bởi Tsukiyama Kaya, The Knight in the Area được đăng nhiều kỳ trên tạp chí Shōnen Weekly Shōnen Magazine của Kodansha từ ngày 26 tháng 4 năm 2006 đến ngày 29 tháng 3 năm 2017. Kodansha sưu tầm các chương của nó gồm 57 tập tankōbon, phát hành từ ngày 17 tháng 8 năm 2006 đến ngày 17 tháng 5 năm 2017.
Anime
Một bộ anime truyền hình dài 37 tập , do Shin-Ei Animation sản xuất và Ogura Hirofumi làm đạo diễn, được phát sóng trên TV Asahi từ ngày 7 tháng 1 đến ngày 29 tháng 9 năm 2012. Bài hát chủ đề mở đầu là Higher Ground (ハイヤーグラウンド, "Haiyā Gurundo" ) của "SRS".
Bộ phim được Crunchyroll phát sóng đồng thời tại Hoa Kỳ, Canada, Anh Quốc, Ireland, Nam Phi, Úc và New Zealand.
Đón nhận
Tới tháng 8 năm 2021, manga đã có hơn 13 triệu bản được lưu hành.
Tham khảo |
Sùng Hắc Hổ ( tiếng Trung :崇黑虎; bính âm : Chóng Hēihǔ ; Hắc Hổ nghĩa đen là hổ đen) là một nhân vật trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc thế kỷ 16 Phong Thần Diễn Nghĩa . Anh là em trai của Sùng Hầu Hổ , Chư Hầu lớn phương Bắc.
Truyền thuyết
Sùng Hắc Hổ có ngoại hình đặc biệt, thường đội mũ Cửu Vân Đốt Hỏa, đeo thắt lưng ngọc, mặc áo choàng màu đỏ tươi và đeo chuỗi thư vàng. Anh có bộ râu dài màu đỏ và đôi mắt giống như hai chiếc chuông vàng. Anh ta cũng được trang bị hai chiếc rìu vàng, điều này càng làm tăng thêm danh tiếng đáng sợ của anh ta vì có kỹ năng đặc biệt.
Trong lần rút lui thứ ba của Sùng Hầu Hổ, Sùng Hắc Hổ đến từ vùng Cao với đội quân gồm ba nghìn binh hổ bay để đề nghị hỗ trợ. Cuối cùng, Sùng Hắc Hổ và anh trai của mình đã đến được cổng thành của tỉnh Văn vương. Tuy nhiên, mục đích của Sùng Hắc Hổ chỉ đơn thuần là trò chuyện với người bạn cũ Tô Hộ. Thay vào đó, anh gặp phải con trai của Tô Hộ là Tô Toàn Trung, người tỏ ra bất bình và đối đầu với Sùng Hắc Hổ bằng những lời lẽ gay gắt. Đáp lại, Sùng Hắc Hổ đã giơ cao chiếc rìu vàng huyền thoại của mình để khẳng định uy quyền của mình và đưa Toàn Trung vào vị trí của mình.
Trước sự ngạc nhiên của Sùng Hắc Hổ, Tô Toàn Trung đã thể hiện kỹ năng vượt trội với ngọn giáo của mình trong trận chiến sau đó của họ. Bị ấn tượng, Sùng Hắc Hổ quyết định rút lui, Tô Toàn Trung không ngừng truy đuổi anh ta. Lợi dụng tình thế, Sùng Hắc Hổ đã tung ra quả bầu thần huyền thoại mà anh mang trên lưng (món quà của cấp trên). Trong chốc lát, khói đen cuồn cuộn bốc lên từ bầu, che khuất mặt trời. Sùng Hắc Hổ cũng triệu hồi một con đại bàng thiêng để hỗ trợ mình. Anh ta hất Tô Toàn Trung xuống ngựa và bắt được anh ta thành công.
Sau một thời gian, chỉ huy quạ nổi tiếng Trịnh Luân xuất hiện trước trại của Sùng Hắc Hổ và thách đấu anh ta. Sùng Hắc Hổ đáp lại một cách gay gắt: "Sao ngươi dám đưa ra những nhận xét táo bạo như vậy, tên kia! Chủ nhân của ngươi, người đã phản nghịch lại nhà vua, sẽ phải chịu sự trừng phạt nghiêm khắc với cơ thể bị nghiền nát và xương nghiền thành bột. Ngươi, cũng sẽ chịu chung số phận !" Sự việc này đã thể hiện danh tiếng và năng lực của Sùng Hắc Hổ trong cuộc chạm trán với Trịnh Luân.
Trịnh luân, một cá nhân đáng chú ý có số mệnh vĩ đại, đã nhanh chóng nhận ra tiềm năng kỳ diệu của quả bầu lớn Sùng Hắc Hổ. Anh ta phóng ra hai luồng khói cực mạnh từ lỗ mũi, khiến Sùng Hắc Hổ bất tỉnh và khiến anh ta ngã khỏi yên ngựa. Sau khi bị bắt, Sùng Hắc Hổ đã cùng uống rượu với người bạn cũ Tô Hộ. Khi Văn Vương can thiệp và chấm dứt liên minh chỉ bằng một lá thư đơn giản, Sùng Hắc Hổ trở về vùng đất của mình đồng thời bày tỏ sự kính trọng và biết ơn sâu sắc.
Cuối cùng, Sùng Hắc Hổ được phong làm vị thần của Bảng Phong thần (南岳大帝), một trong Năm vị thần của Hoàng đế thiêng liêng.
Thờ cúng
Sùng Hắc Hổ được tôn thờ trong tôn giáo dân gian Trung Quốc và được gọi là Ngũ Nhạc (Hoàng đế Ngũ Nhạc, 南岳大帝), một trong Năm vị thần núi thiêng. Trong Phong thần Diễn Nghĩa , có đề cập rằng Hoàng Phi Hổ, Sùng Hắc Hổ, Văn Sinh, Thôi Anh và Tưởng Hùng đã chết dưới tay Trương Khuê trong trận chiến. Sau khi chết, họ được tôn kính là Ngũ Thánh Hoàng. Trong tín ngưỡng dân gian Trung Quốc, Ngũ Sơn Hoàng rất được kính trọng, trong đó Đông nhạc được đặc biệt quý trọng. Khi thờ cúng Ngũ Thánh Sơn, người ta thường đặt Đông Nhạc Hoàng Phi Hổ ở trung tâm, còn Nam Nhạc Sùng Hắc Hổ và Tây Nhạc Văn Sinh được đặt ở hai bên. Đền Ngũ Nhạc, nằm ở quận Bản Kiều , Đài Loan, được thờ phụng Sùng Hắc Hổ, vị hoàng đế vĩ đại của Ngũ Nhạc. Hàng năm, lễ hội sinh nhật được tổ chức vào ngày 16 tháng 12 để tôn vinh di sản của ông.
Đền thờ Ngũ Nhạc , nằm ở huyện Hành Sơn , tỉnh Hồ Nam, tự hào có 72 đỉnh núi, trong đó đỉnh chính là đỉnh Chu Hổ Dung, cao 1290 mét so với mực nước biển. Dưới chân núi Ngũ Nhạc có ngôi đền chính th Hoàng đế Ngũ Nhạc.
Trong văn hóa đại chúng
Thông tin thêm: Danh sách các bản chuyển thể trên phương tiện truyền thông của Lễ tấn phong các vị thần
Cắt giấy Sùng Hắc Hổ, một loại hình nghệ thuật quyến rũ có nguồn gốc từ huyện Hà Bắc , lấy cảm hứng từ cách trang điểm khuôn mặt sống động của Sùng Hắc Hổ trong vở opera truyền thống "Sishuiguan". Phong cách cắt giấy đặc biệt này thể hiện những thiết kế phức tạp và được đánh giá cao về giá trị văn hóa của nó.
Câu chuyện về Sùng Hắc Hổ được miêu tả trong vở kịch Nhạc.
Xem thêm
Sùng Hầu Hổ
Sùng Ứng Bưu
Ngũ Nhạc Đại Đế |
Tôn giáo của người Mỹ bản địa (Native American religions) hay tôn giáo của thổ dân da đỏ hay tôn giáo của người Anh-Điêng là những thực hành tâm linh của người Mỹ bản địa (người da đỏ) ở Hoa Kỳ và châu Mỹ nói chung. Các cách nghi lễ tôn giáo bản địa của người da đỏ có thể rất khác nhau và dựa trên lịch sử và tín ngưỡng khác nhau của từng cộng đồng, bộ lạc và nhóm thổ dân. Những nhà thám hiểm châu Âu ban đầu mô tả các bộ lạc người Mỹ bản địa riêng lẻ và thậm chí cả các nhóm nhỏ đều có những thực hành tôn giáo riêng. Về mặt thần học thì hệ thống thần linh của người da đỏ có thể là độc thần, đa thần, theo thuyết vật linh, Shaman giáo (pháp sư), phiếm thần hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của chúng, trong số những thứ khác. Niềm tin truyền thống thường được truyền lại dưới hình thức lịch sử truyền miệng, câu chuyện, ngụ ngôn và nguyên tắc sống.
Cải đạo
Bắt đầu từ những năm 1600, những Cơ đốc nhân ở Châu Âu, và cả Công giáo cùng những người thuộc các giáo phái Tin lành khác nhau, đã tìm cách chuyển đổi cải đạo các bộ lạc người Mỹ bản địa từ niềm tin tổ tiên của họ sang Cơ đốc giáo. Sau khi Hoa Kỳ giành được độc lập vào cuối những năm 1700, chính phủ của nước này tiếp tục đàn áp các tập tục của người bản địa và thúc đẩy việc cưỡng bức cải đạo. Các cơ quan chính phủ và các tổ chức tôn giáo thường hợp tác trong các nỗ lực cưỡng bức cải đạo này. Trong nhiều trường hợp, bạo lực được sử dụng như một công cụ đàn áp, chẳng hạn như việc chính phủ dùng bạo lực tiêu diệt những người trình diễn Vũ điệu ma vào năm 1890.
Vào đầu thế kỷ XX, chính phủ Mỹ bắt đầu chuyển sang các biện pháp ít bạo lực hơn để đàn áp niềm tin tôn giáo của người Mỹ bản địa. Một loạt luật liên bang đã được thông qua cấm các tập tục truyền thống của Người bản địa như các bữa tiệc, nghi lễ Múa mặt trời và việc sử dụng lều nghi lễ, cùng những điều khác. Cuộc đàn áp và truy tố này của chính phủ chính thức tiếp tục cho đến năm 1978 với việc thông qua Đạo luật Tự do Tôn giáo của người Mỹ bản địa (AIRFA), mặc dù có ý kiến cho rằng AIRFA có rất ít tác dụng thực sự trong việc bảo vệ tín ngưỡng dân gian, tôn giáo bản địa. Một hệ thống đàn áp tôn giáo quan trọng khác là tách trẻ em người Mỹ bản địa khỏi gia đình của chúng để chuyển sang hệ thống trường nội trú dành cho người Mỹ bản địa do chính phủ tài trợ và điều hành (còn được gọi là trường dân cư). Tại những trường học này, trẻ em bản địa bị ép buộc bằng bạo lực và áp bức để học tín ngưỡng Cơ đốc giáo châu Âu, các giá trị của nền văn hóa da trắng chính thống và tiếng Anh, đồng thời bị cấm nói ngôn ngữ riêng và thực hành tín ngưỡng văn hóa của riêng họ. Hệ thống cưỡng bức chuyển đổi và đàn áp ngôn ngữ và văn hóa bản địa này tiếp tục diễn ra trong suốt những năm 1970.
Một số nhà nhân chủng học không phải người bản địa ước tính số thành viên trong các tôn giáo truyền thống của người Mỹ bản địa trong thế kỷ 21 là khoảng 9000 người. Vì người Mỹ bản địa thực hành các nghi lễ truyền thống thường không có các tổ chức công cộng hoặc danh sách thành viên nên những ước tính về "thành viên" này có thể thấp hơn đáng kể so với số lượng người thực tế tham gia các nghi lễ truyền thống. Các nhà lãnh đạo tinh thần của người Mỹ bản địa cũng lưu ý rằng những ước tính mang tính học thuật này đã đánh giá thấp đáng kể số lượng người tham gia vì một thế kỷ chính phủ Liên bang Hoa Kỳ đàn áp và truy tố các nghi lễ truyền thống đã khiến các tín đồ thực hành tôn giáo của họ một cách bí mật. Nhiều người theo đường lối tâm linh truyền thống cũng tham dự các buổi lễ của Cơ đốc giáo, ít nhất là đôi khi, điều này cũng có thể ảnh hưởng đến số liệu thống kê. Kể từ khi 80 năm các cuộc đàn áp pháp lý trước đó kết thúc với AIRFA, một số địa điểm linh thiêng ở Hoa Kỳ hiện là khu vực được bảo vệ theo luật
Phục hồi
Mexicayotl (tiếng Nahuatl từ có nghĩa là "Bản chất của người Mexico" - Bản sắc Mễ, bao gồm cụm từ "Mexico"; tiếng Tây Ban Nha: Mexicanidad và hậu tố -yotl) là một phong trào phục hồi tôn giáo, triết học và truyền thống bản địa của Mexico cổ đại (tôn giáo Aztec và triết học Aztec) của người Mễ. Phong trào này được công khai lộ diện vào những năm 1950, do các trí thức thành phố Mexico lãnh đạo, nhưng chỉ phát triển đáng kể ở cấp độ cơ sở trong thời gian gần đây, cũng lan sang người Mỹ gốc Mexico (Chicanos) ở Bắc Mỹ. Nghi lễ của họ liên quan đến thực hành Mitotiliztli. Những người sùng mộ được gọi là Mexicatl (số ít) và Mexicah (số nhiều), hoặc đơn giản là Mexica, hầu hết đều là dân thành thị và ngoại ô.
Phong trào Mexicayotl bắt đầu vào những năm 1950 với việc thành lập nhóm Nueva Mexicanidad do Antonio Velasco Piña sáng lập. Cùng năm đó, Rodolfo Nieva López đã thành lập Phong trào Liên minh nhằm Khôi phục Văn hóa Anáhuac cùng với người đồng sáng lập là Francisco Jimenez Sanchez, người trong những thập kỷ sau đó đã trở thành nhà lãnh đạo tinh thần của phong trào Mexicayotl, được ban cho danh xưng Tlacaelel. Ông có ảnh hưởng sâu sắc trong việc định hình phong trào, thành lập In Kaltonal ("Ngôi nhà của Mặt trời", còn gọi là Nhà thờ Bản địa Mễ Tây Cơ) vào những năm 1970. Từ những năm 1970 trở đi, Mexcayotl đã phát triển trên một mạng lưới các nhóm cộng đồng và thờ cúng địa phương (được gọi là calpulli hoặc kalpulli) và lan sang Người Mỹ gốc Mễ hoặc Chicanos ở Hoa Kỳ. Phong trào cũng đã phát triển mối quan hệ chặt chẽ với các phong trào bản sắc dân tộc Mexico và chủ nghĩa dân tộc Chicano. Nhà thờ bản địa Mexico của Sanchez (là một liên minh của các Calpullis) đã được chính phủ Mexico chính thức công nhận vào năm 2007.
Chú thích
Tham khảo
Brown, Brian Edward (1999). Religion, Law, and the Land: Native Americans and the Judicial Interpretations of Sacred Land. Westport, Conn: Greenwood Press.
Buff, Rachel. "Tecumseh and Tenskwatawa: Myth, Historiography and Popular Memory." Historical Reflections/Réflexions Historiques (1995): 277–299.
Carpenter, Kristen A., A Property Rights Approach to Sacred Sites: Asserting a Place for Indians as Nonowners, 52 UCLA Law Review 1061 (2005).
Carpenter, Kristen A., Individual Religious Freedoms in American Indian Tribal Constitutional Law, "The Indian Civil Rights Act at Forty." UCLA American Indian Studies Publications, 2012, .
Getches, David H., Wilkinson, Charles F., Williams, Robert A. Jr. "Cases and Materials on Federal Indian Law- Fifth Edition." Thomas West Company: the United States, 1998. .
(archived)
Stewart, Omer C. (1987). Peyote Religion: A History. Norman, Ok; London: University of Oklahoma Press. .
Utter, Jack (2001). American Indians: Answers to Today's Questions. 2nd ed. Norman, Ok; London: University of Oklahoma Press. .
Waldman, Carl. (2009). Atlas of the North American Indian. Checkmark Books. New York. .
Tôn giáo |
Thuyết hữu thần Satan (Theistic Satanism) còn được gọi là tôn giáo thờ Satan là một thuật ngữ chung để chỉ các nhóm tôn giáo coi Satan, Ác quỷ hoặc Lucifer tồn tại một cách khách quan như một vị thần, thực thể siêu nhiên hoặc linh hồn xứng đáng thờ phượng hoặc tôn kính, những người mà các cá nhân có thể tiếp xúc và triệu hồi, trái ngược với nguyên mẫu, ẩn dụ hoặc biểu tượng vô thần được tìm thấy trong thuyết Satan LaVeyan. Các hội nhóm ủng hộ niềm tin hữu thần của tôn giáo Satan thường có ít tín đồ, liên hệ lỏng lẻo hoặc tự coi mình là các nhóm và nhóm độc lập, phần lớn tự đặt mình ra ngoài lề xã hội. Một đặc điểm nổi bật khác của thuyết Satan hữu thần là việc sử dụng nhiều loại phép thuật khác nhau. Hầu hết các nhóm theo thuyết Satan hữu thần đều tồn tại trong những mô hình và hệ tư tưởng tương đối mới, nhiều nhóm trong số đó độc lập với các tôn giáo Áp-ra-ham.
Đại cương
Thuyết hữu thần Satan bao gồm nhiều tôn giáo liên quan đến việc thờ phượng một hình tượng được gọi là Satan hay là có liên quan đến Satan. Ngược lại với LaVeyan Satanism, giáo phái Satan chỉ coi Satan như một biểu tượng cho triết lý của họ, còn Theistic Satanism là những giáo phái coi Satan như một vị thần, một thực thể có thật. Satan giáo là một tôn giáo phát triển phần lớn trong thế kỷ XX. Người theo đạo Satan hữu thần thường được gọi là "giáo đồ Satan truyền thống" hoặc "Satanist thuộc linh". Thuật ngữ "thờ phụng quỷ dữ" là chủ đề gây tranh cãi nhất trong giới Satan cả hữu thần lẫn vô thần và cả những nhà thần học Satan. Nhiều tín đồ Satan đã được biết đến Satan giáo qua cuốn "Kinh Satan" của Anton LaVey đã được xuất bản vào năm 1966. Lúc đó chỉ có một vài nhóm nhỏ thực hành pháp môn Satan giáo
Sau đó, Satan giáo mới chỉ phát triển mạnh khi Internet bắt đầu phổ cập, điều này dẫn tới sự mở rộng tín đồ vì việc truyền bá thông tin đã trở nên dễ dàng hơn dẫn đến việc phát tán dễ hơn. Những người theo Satan giáo hữu thần thừa nhận Satan là một vị thần mà họ tôn thờ. Tuy nhiên, nó không giống như Satan được mô tả theo đạo Thiên chúa. Trái với quan niệm sai lầm thông thường, Satan giáo không cổ xúy việc giết người, hãm hiếp, làm điều ác thay vào đó, vị thần Satan là vị thần của sự tự do, tình dục, sức mạnh, sự sáng tạo, chủ nghĩa khoái lạc và sự thành công.
Satan giáo hữu thần không có một tổ chức đầu cơ, mà chỉ là những hội nhóm nhỏ lẻ hoạt động độc lập với nhau. Một số hội nhóm này thờ phượng một vị thần Satan, một số nhóm khác thì sử dụng cái tên khác thay cho Satan, một số nhóm thờ Satan hữu thần như:
Nhà thờ Azazel (Church of Azazel)
The Ordo Flammeus Serpens
The First Church of Satan (khác với Giáo hội Satan/Church of Satan của Anton LaVey)
Joy of Satan Ministries
Quan điểm thần học giữa các nhóm có thể khác nhau rất nhiều. Một số vay mượn quan điểm của LaVeyan trong khi đó một số khác thì ảnh hưởng từ triết lý của Michael Aquino, giáo chủ của Temple of Set, trước đây đã từng là một tín đồ Satan giáo vô thần. Tương tự, tín đồ Lucfier cũng có nhiều nguyên tắc giống như tín đồ Satan hữu thần. Họ thừa nhận một thực thể có tên là Lucifer, nhưng họ không tự gọi mình là tín đồ Satan. Trong một số giáo phái Satan hữu thần, tín đồ có niềm tin vào Thượng Đế Satan như là vũ trụ. Trong đó, Satan được xem như là "Cái Toàn Thể". Các hội nhóm khác gây dựng hình ảnh Satan như là đại diện của vũ trụ. The First Church of Satan là Độc thần giáo. Các giáo phái Satan hữu thần khác thì tôn thờ Satan như một vị thần trong số nhiều vị thần khác, nhiều trong số đó đến từ những tôn giáo cổ trước khi Abraham xuất hiện như Nhà thờ Azazel. Năm 1999, triết gia René Girard người Pháp cho xuất bản cuốn sách tựa đề “Đã thấy Satan từ trời rơi xuống như ánh chớp”, trong đó ông áp dụng cho Belzebul “lý thuyết vật hiến tế”, dựa trên hiến tế của người vô tội để chuộc sự dữ, sau đó, một trong những môn sinh của ông là triết gia Claudio Tardini, đã cho xuất bản cuốn sách tựa đề “Ma qủy, có lẽ thế. Suy tư trở lại Satan ngày nay” với mục đích là thử thành lập một “khoa ma qủy học hữu lý” và trao ban trở lại quyền công dân cho Satan trong tư tưởng ngày nay, bằng cách trốn chạy chủ trương nghi hoặc duy lý cũng như các lo sợ của thuyết duy tín.
Chú thích
Tham khảo
Ellis, Bill, Raising the Devil: Satanism, New Religions, and the Media (Lexington: University Press of Kentucky, 2000)
Hertenstein, Mike; Jon Trott, Selling Satan: The Evangelical Media and the Mike Warnke Scandal (Chicago: Cornerstone Press, 1993)
Medway, Gareth J.; The Lure of the Sinister: The Unnatural History of Satanism (New York and London: New York University Press, 2001)
Michelet, Jules, A. R. Allinson. Satanism and Witchcraft: The Classic Study of Medieval Superstition (1992), Barnes & Noble, 9780806500591
Palermo, George B.; Michele C. Del Re: Satanism: Psychiatric and Legal Views (American Series in Behavioral Science and Law). Charles C Thomas Pub Ltd (November 1999)
Richardson, James T.; Joel Best; David G. Bromley, The Satanism Scare (New York: Aldine de Gruyter, 1991)
Cuồng giáo |
là thị trấn thuộc quận Sannohe, tỉnh Aomori. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 16.042 người và mật độ dân số là 90 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 177,67 km².
Tham khảo
Thị trấn của tỉnh Aomori |
(sinh ngày 3 tháng 4 năm 1964) là chính khách người Nhật Bản. Hiện tại, ông đang giữ chức vụ làm thống đốc tỉnh Ibaraki kể từ ngày 26 tháng 9 năm 2017.
Tham khảo
Sinh năm 1964
Người Ibaraki |
Posh và Becks (tiếng Anh: Posh and Becks) là một biệt danh của cặp đôi người Anh rất nổi tiếng Victoria Beckham (họ thời con gái Adams, thành viên "Posh Spice" của nhóm nhạc nữ Spice Girls) và David Beckham (nam danh thủ bóng đá và cựu đội trưởng đội tuyển bóng đá quốc gia Anh). Posh & Becks cũng là tựa đề quyển sách nói về cặp đôi của tác giả Andrew Morton.
Adams và Beckham bắt đầu hẹn hò vào năm 1997, từ đó dẫn tới sự hình thành thuật ngữ kể trên nhờ vào hiệu ứng truyền thông rộng rãi. Đám cưới của cặp đôi nổi tiếng diễn ra vào ngày 4 tháng 7 năm 1999, và căn nhà chung của hai người họ tại Hertfordshire, Anh Quốc rất nhanh được truyền thông đặt biệt danh là "Beckingham Palace" (cách nói ghép từ giữa cung điện Buckingham và họ Beckham). Vợ chồng Beckham có ba người con trai: Brooklyn, Romeo và Cruz; và một người con gái út: Harper.
"Posh và Becks" được chính thức đưa vào trong từ điển Collins Concise English Dictionary vào năm 2001. Thuật ngữ này được sử dụng nhiều trên báo chí và những phương tiện truyền thông khác, và trở nên phổ biến rộng rãi ở nền văn hoá nước Anh. Tuy nhiên, "Posh và Becks" cũng từ đó bị biến thành từ lóng, ý chỉ "tình dục".
Tham khảo
Văn hóa Anh
Cặp vợ chồng
Victoria Beckham
David Beckham |
Cuộc tổng tuyển cử được tổ chức tại Serbia vào ngày 12 tháng 11 năm 1989 để bầu ra Tổng thống Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Serbia và các đại biểu Quốc hội CHXHCN Serbia. Bỏ phiếu bầu cử đại biểu cũng diễn ra vào ngày 10 và 30 tháng 11 năm 1989. Ngoài cuộc tổng tuyển cử, các cuộc bầu cử địa phương cũng được tổ chức đồng thời. Đây là cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên tại Serbia sau khi Hiến pháp Nam Tư 1974 và hệ thống bầu cử đại biểu được thông qua.
Cuộc bầu cử diễn ra trước sự nổi lên của Slobodan Milošević, sau khi ông được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn những người Cộng sản Serbia (SKS) năm 1986, và lật đổ cố vấn của mình, Ivan Stambolić, và các đồng minh của Stambolić ra khỏi các vị trí chủ chốt vào năm 1987. Milošević bắt đầu cuộc cách mạng chống quan liêu và sửa đổi Hiến pháp Serbia năm 1988. Sau khi Milošević được bổ nhiệm vào vị trí Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia vào tháng 5 năm 1989, các cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội được công bố vào tháng 11 năm 1989.
Milošević, Mihalj Kertes, Zoran Pjanić và Miroslav Đorđević là các ứng cử viên trong cuộc bầu cử tổng thống. Milošević cuối cùng đã giành chiến thắng long trời lở đất. SKS giành được 303 ghế, giảm 20 ghế so với cuộc bầu cử năm 1986, và 37 cá nhân phi đảng phái khác giành được số ghế còn lại trong Quốc hội. Liên đoàn những người Cộng sản Nam Tư giải tán vào tháng 1 năm 1990, và sau cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 7 năm 1990, Serbia đã thông qua hiến pháp mới thực hiện chế độ đa đảng và giảm bớt quyền lực của các tỉnh tự trị Kosovo và Vojvodina. Cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên sau đó được tổ chức vào tháng 12 năm 1990.
Bối cảnh
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đảng Cộng sản củng cố quyền lực ở Nam Tư, biến đất nước này thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Mỗi nước cộng hòa cấu thành đều có Đảng Cộng sản riêng, trong đó Serbia có Đảng Cộng sản Serbia. Đảng Cộng sản liên bang đổi tên thành Liên đoàn những người Cộng sản Nam Tư (SKJ) tại Đại hội thứ 6 năm 1952. Các chi bộ cũng làm theo, và Đảng Cộng sản Serbia đổi tên thành Liên đoàn những người Cộng sản Serbia (SKS). Josip Broz Tito là chủ tịch của SKJ cho đến khi ông chết năm 1980.
Sau cái chết của Tito, Nam Tư phải đối mặt với các vấn đề liên quan đến kinh tế, các vấn đề về hiến pháp và nguy cơ chủ nghĩa dân tộc sắc tộc trỗi dậy. Nam Tư ban đầu thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng để giảm nợ. Dù vậy, nợ, lạm phát và thất nghiệp vẫn gia tăng mạnh vào những năm 1980. Theo nhà báo Zlatoje Martinov, các nước cộng hòa cấu thành đã "mạnh mẽ hơn và trên thực tế trở thành các quốc gia có lực lượng vũ trang của riêng họ" (sve više jačaju i predstavljaju faktičke države sa sopstvenim oružanim snagama) vì các cuộc khủng hoảng. Martinov cũng nói rằng quá trình giải thể dần dần Nam Tư đang diễn ra. Sau cuộc bầu cử quốc hội năm 1986, Desimir Jevtić được bầu làm Thủ tướng Serbia.
Sự nổi lên của Slobodan Milošević
Ivan Stambolić, Chủ tịch Ủy ban Thành phố của Liên đoàn những người Cộng sản Beograd, được bầu làm Chủ tịch SKS năm 1984. Stambolić được coi là một người theo chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cải lương trong SKS. Ông là cố vấn của Slobodan Milošević, và là đồng nghiệp tại Khoa Luật, Đại học Beograd. Sau khi trở thành Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương SKS vào năm 1984, Stambolić bổ nhiệm Milošević làm người kế nhiệm chức vụ trước đây của ông, bất chấp sự phản đối của các quan chức cộng sản lớn tuổi. Milošević sau đó bắt đầu thành lập một nhóm quan chức trung thành với ông.
Trước cuộc bầu cử quốc hội năm 1986, Stambolić tuyên bố sẽ từ chức người đứng đầu SKS. Mặc dù nhận được sự ủng hộ từ 84 hội đồng thành phố của SKS, Milošević vẫn vấp phải sự phản đối mạnh mẽ trong nội bộ đảng. Một số đề xuất chọn một số ứng cử viên trong cuộc bầu cử lãnh đạo đã được đưa ra. Mặc dù vậy, nhóm tổng thống đã bỏ phiếu với tỷ lệ 12–8 để đề xuất Milošević làm ứng cử viên duy nhất cho chức Chủ tịch Ủy ban Trung ương SKS. Milošević được bầu thành công làm chủ tịch SKS vào tháng 5 năm 1986, trong khi Stambolić cũng bắt đầu giữ chức Tổng thống Serbia. Dragiša Pavlović, một người theo chủ nghĩa tự do và là đồng minh của Stambolić, cũng trở thành chủ tịch Ủy ban Thành phố của Liên đoàn những người Cộng sản Beograd.
Milošević đổi sang chủ nghĩa dân túy vào tháng 4 năm 1987. Ông bắt đầu ủng hộ người Serbia ở Kosovo, và trong một lần đến thăm Kosovo, ông đã nói với người Serb rằng "sẽ không ai dám tấn công các bạn" (ne sme niko da vas bije). Trong cùng thời gian đó, ông cũng bắt đầu chỉ trích Stambolić và Pavlović nhiều hơn, đặc biệt là do lập trường ôn hòa của họ đối với Kosovo. Milošević triệu tập một phiên họp Ủy ban Trung ương SKS vào tháng 9 năm 1987. Tại phiên họp, Stambolić cố gắng hòa giải Pavlović và Milošević, nhưng thay vào đó Milošević lại chỉ trích Stambolić và Pavlović. Pavlović và các đồng minh khác của Stambolić sau đó bị cách chức. Một số nhà khoa học chính trị đã mô tả phiên họp này như một cuộc đảo chính. Stambolić bị cô lập sau phiên họp và bị cách chức tổng thống Serbia vào tháng 12 năm 1987. Sau đó ông rút lui khỏi chính trường.
Bắt đầu từ năm 1988, các cuộc biểu tình, được gọi là cuộc cách mạng chống quan liêu, khởi đầu ở Serbia và Montenegro nhằm ủng hộ chương trình tập trung hóa của Milošević. Mặc dù Milošević phủ nhận rằng ông trực tiếp tham gia vào các cuộc biểu tình, trên thực tế ông có liên hệ trực tiếp với bên tổ chức. Ở Montenegro, giới lãnh đạo buộc phải từ chức, và được thay thế bởi phe ủng hộ Milošević, do Momir Bulatović lãnh đạo. Điều này cũng nhanh chóng xảy ra ở Vojvodina và Kosovo. Ở Vojvodina, Mihalj Kertes đặc biệt trở thành một nhân vật nổi bật nhờ tuyên bố của ông: "Làm sao người Serbia các bạn có thể sợ Serbia, khi tôi, một người Hungary, không sợ Serbia?". Liên minh Nhân dân lao động Xã hội chủ nghĩa Nam Tư (SSRNS), một tổ chức bình dân trực thuộc SKS, đề xuất Milošević vào vị trí Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia. Ông được bổ nhiệm thành công vào ngày 8 tháng 5 năm 1989.
Sửa đổi hiến pháp
Hậu quả của cuộc cách mạng chống quan liêu 1988–1989 là sửa đổi Hiến pháp Nam Tư 1974. Là một phần của hiến pháp năm 1974, Kosovo được trao quyền tự trị toàn diện và quyền bầu cử bình đẳng như sáu nước cộng hòa cấu thành khác. Sau các cuộc biểu tình vào tháng 3 năm 1989, Milošević đề xuất những sửa đổi, và được Quốc hội Cộng hòa Kosovo và Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia chấp thuận. Đề xuất này thu hồi quyền lực mà các tỉnh tự trị Kosovo và Vojvodina nhận được trong hiến pháp năm 1974.
Hệ thống bầu cử
Vào thời điểm diễn ra cuộc bầu cử năm 1989, hệ thống bầu cử của Serbia tuân theo hiến pháp năm 1974. Thay vì trực tiếp bầu các nghị sĩ quốc hội, người dân bỏ phiếu bầu chọn thành viên của các cơ quan đại biểu. Thành viên của các cơ quan này sau đó bầu ra các đại biểu tham gia Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia. Hệ thống bỏ phiếu rất phức tạp. Nó kết hợp các yếu tố của hệ thống bỏ phiếu đa số trực tiếp, gián tiếp và một người thắng. Những người từ 15 tuổi trở lên có quyền bầu cử, và những người phục vụ trong quân đội vào thời điểm bầu cử có thể bỏ phiếu tại đồn quân sự của họ. Phiếu bầu không hợp lệ được đưa ra từ cuộc bầu cử năm 1989. Phiếu trống hoặc phiếu không xác định được ai bầu cho sẽ bị coi là không hợp lệ.
Quốc hội được chia thành ba hội đồng. Hội đồng Liên đoàn Lao động có 160 đại biểu, còn Hội đồng Thành phố và Hội đồng Chính trị - Xã hội mỗi cơ quan có 90 đại biểu. Sau đó, các đại biểu bầu Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia, Hội đồng Cộng hòa và Tổng thống Cộng hòa Liên bang XHCN Nam Tư. Vào thời điểm diễn ra cuộc bầu cử năm 1989, Serbia vẫn là quốc gia đơn đảng. Nhưng cuộc bầu cử năm 1989 là cuộc bầu cử trực tiếp đầu tiên được tổ chức kể từ năm 1974.
Cuộc bầu cử quốc hội được tiến hành trong ba ngày riêng biệt: 10, 12 và 30 tháng 11 năm 1989. Bầu cử địa phương được tiến hành cùng ngày với bầu cử quốc hội. Cuộc bầu cử tổng thống chỉ được tổ chức vào ngày 12 tháng 11. Các điểm bỏ phiếu được mở từ 07:00 (UTC+01:00) đến 19:00.
Đảng phái chính trị
Bảng dưới đây liệt kê các đảng phái chính trị có trong Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia sau cuộc bầu cử quốc hội năm 1986. Hội đồng Liên đoàn Lao động có 148 đại biểu SKS, Hội đồng Thành phố có 88 và Hội đồng Chính trị - Xã hội có 87. Hầu hết các đại biểu đều từ 50 tuổi trở xuống.
Diễn biến
Sau khi Milošević được bổ nhiệm làm Tổng thống Cộng hòa XHCN Serbia, các cuộc bầu cử được tiến hành nhằm bác bỏ mọi nguy cơ chỉ trích về việc liệu việc bổ nhiệm Milošević có phải là "mong muốn của người dân" (želja čitavog naroda) hay không. Do đó, cuộc bầu cử tổng thống được coi là một cuộc trưng cầu dân ý về việc liệu Milošević có nên giữ chức tổng thống hay không. SKS tuyên bố rằng "cuộc bầu cử này sẽ cho thấy rằng chúng ta tin tưởng vào các chính sách của ban lãnh đạo của chúng ta" (izbori treba da pokažu da verujemo u politiku svog rukovodstva). Vào thời điểm bầu cử, Bogdan Trifunović là Chủ tịch Ủy ban Trung ương SKS. Hơn 10.000 hội nghị đại biểu đã được tổ chức ở Serbia, như một phần của chiến dịch trước bầu cử. Có 19.478 cơ quan đại biểu với tổng số 346.518 thành viên.
Các ứng cử viên tổng thống
Tại phiên họp SSRNS ngày 1 tháng 11 năm 1989, Milošević chính thức được đề cử làm ứng cử viên tổng thống. Để cuộc bầu cử tổng thống danh chính ngôn thuận được cho là mang tính dân chủ, SSRNS đã đề cử nhiều ứng cử viên khác. Tuy nhiên, ban đầu không có ứng cử viên nào muốn mạo hiểm tranh cử với Milošević. SSRNS sau đó đề xuất bốn ứng cử viên cuối cùng, đó là Milošević, Kertes, và các giáo sư Zoran Pjanić và Miroslav Đorđević.
Kết quả
Theo báo cáo của Politika tháng 11 năm 1989, 14.855 điểm bỏ phiếu đã được mở trong cuộc bầu cử. Kết quả bầu cử được công bố vào ngày 20 tháng 11, tám ngày sau khi cuộc bầu cử được tổ chức.
Bầu cử tổng thống
Bắt đầu từ ngày 13 tháng 11, Đài Phát thanh - Truyền hình Serbia và Politika báo cáo số lượng cử tri đi bỏ phiếu và kết quả. Có thông tin cho rằng 99% cử tri Kuršumlija bỏ phiếu cho Milošević, và ở một số ngôi làng thuộc khu tự quản Kraljevo, Milošević giành được tất cả phiếu bầu. Kết quả tương tự cũng được báo cáo ở Kačanik. Trong khi đó, ở Vučitrn, Kertes giành được đa số phiếu bầu. Ở vùng Sandžak, Milošević giành được đa số phiếu bầu. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu sau đó được báo cáo là 83%, và Milošević đã giành được 80% tổng số phiếu bầu. Milošević giành được đa số phiếu bầu ở Trung Serbia, theo sau là Vojvodina. Ở Kosovo, ông chỉ giành được 25% số phiếu phổ thông. Ở Beograd, Milošević giành được 93% số phiếu phổ thông. Pjanić đứng thứ hai với 4%, Kertes thứ ba với 3,3% và Đorđević thứ tư với 2,7%. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu ở Beograd là 80,3%.
Bầu cử quốc hội
Đối với cuộc bầu cử quốc hội, tổng cộng có 6.640.675 cử tri có quyền bầu cử. Trong đó, 82% cử tri đã tham gia bầu cử. Kết quả, SKS giành được 303 ghế trong Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia, giảm 20 ghế so với cuộc bầu cử quốc hội năm 1986. 37 đại biểu trong số những người ngoài SKS đã được bầu chọn trong cuộc bầu cử. Hội đồng Liên đoàn Lao động có 134 đại biểu SKS được bầu, Hội đồng Thành phố có 84 đại biểu SKS và Hội đồng Chính trị - Xã hội có 85 đại biểu SKS.
Sau tổng tuyển cử
Lãnh đạo quốc hội
Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia được thành lập vào ngày 5 tháng 12 năm 1989. Zoran Sokolović được bầu làm Chủ tịch Quốc hội. Vukašin Jokanović, Slobodan Janjić và Đorđe Šćepančević được bầu làm Phó chủ tịch Quốc hội. Stanko Radmilović, một người trung thành với Milošević, được bầu làm thủ tướng Serbia. Ngày 6 tháng 12, Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia chính thức tuyên bố Milošević là tổng thống.
Giải thể SKJ
Milošević đề xuất cải cách Quốc hội Liên bang Nam Tư vào năm 1989. Những đề xuất này bị Liên đoàn những người Cộng sản Slovenia phản đối, khi tổ chức này vốn ủng hộ giữ nguyên cơ cấu phù hợp với hiến pháp năm 1974. Do xảy ra tranh chấp, đại hội bất thường đầu tiên và duy nhất được tổ chức vào năm 1990. Đại hội lần thứ 14 được tổ chức tại Sava Centar, Beograd, vào ngày 20–23 tháng 1 năm 1990. Đại hội do Milan Pančevski chủ trì, và có hơn 1.600 đại biểu tham dự từ tất cả sáu nước cộng hòa cấu thành và hai tỉnh tự trị.
Đại hội bắt đầu bằng cuộc tranh luận giữa Borut Pahor và Milomir Minić, và sau đó tiếp tục với việc Milan Kučan cho biết Slovenia bác bỏ các chính sách tập trung hóa do Serbia đề xuất. Ciril Ribičič và phái đoàn Slovenia bày tỏ sự thất vọng với phiên họp toàn thể đầu tiên của Đại hội lần thứ 14. Trưởng phái đoàn Serbia, Milošević, đề xuất hệ thống "một người-một phiếu bầu", nhưng điều này cũng bị phái đoàn Slovenia phản đối. Thay vào đó, họ ủng hộ tái thiết SKJ và Nam Tư thành một hệ thống bang liên. Với sự ủng hộ của các đại biểu Kosovo, Vojvodina, Montenegro và Quân đội Nhân dân Nam Tư, mọi đề xuất của phái đoàn Slovenia và Bosnia đều bị bác bỏ, trong khi đề xuất của Serbia được chấp thuận.
Tại phiên họp toàn thể thứ hai, phái đoàn Slovenia rời Quốc hội, tuyên bố rằng họ không muốn chịu trách nhiệm "về nỗi thống khổ của Quốc hội Nam Tư về áp đặt ý chí hiện tại, và những người chịu những áp đặt đó đang lãnh đạo nó" (ne žele biti suodgovorni za agoniju SK Jugoslavije u koju je vode sadašnja nametanja volje i nosioci tih nametanja). Mặc dù Milošević muốn tiếp tục đại hội mà không có phái đoàn Slovenia, phái đoàn Croatia, do Ivica Račan dẫn đầu, phản đối điều này. Phái đoàn Croatia, cùng với các phái đoàn Macedonia, Bosnia và Herzegovinian, rời đại hội ngay sau đó. Pančevski hoãn phiên họp đến 3 giờ sáng ngày 23 tháng 1. Ngày 23 tháng 1, phần còn lại trong đề xuất của Serbia đã được chấp nhận. Phiên họp toàn thể lần thứ 3 của Đại hội 14 không bao giờ diễn ra, và SKJ chính thức giải thể.
Trưng cầu dân ý về hiến pháp năm 1990
Trong khi Serbia vẫn còn là một quốc gia đơn đảng, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức vào tháng 7 năm 1990 về việc nên thông qua hiến pháp mới hay nên tổ chức bầu cử đa đảng trước. Đa số cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ việc thông qua hiến pháp mới, mặc dù người Albania ở Kosovo tẩy chay cuộc trưng cầu dân ý. Hiến pháp được thông qua vào tháng 9 năm 1990. Cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên được tổ chức vào tháng 12 năm 1990.
Theo hiến pháp năm 1990, các tỉnh tự trị Kosovo và Vojvodina lần lượt đổi tên thành Tỉnh tự trị Kosovo và Metohija và Tỉnh tự trị Vojvodina, trong khi Cộng hòa XHCN Serbia đổi tên thành Cộng hòa Serbia. Quyền lực của các tỉnh bị giảm đi rất nhiều. Hệ thống bầu cử của Serbia cũng được thay đổi: hệ thống đại biểu bị bãi bỏ, Quốc hội Cộng hòa XHCN Serbia được đổi tên thành Quốc hội (National Assembly), và số ghế giảm xuống còn 250. Chủ tịch Quốc hội cũng là người sắp xếp các cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống.
Serbia cũng trở thành một quốc gia đa đảng, nghĩa là theo Luật Tổ chức chính trị, các đảng phái chính trị có thể đăng ký tham gia các cuộc bầu cử trong tương lai. SKS sáp nhập với SSRNS thành Đảng Xã hội chủ nghĩa Serbia (SPS), trong khi các đảng đối lập như Đảng Dân chủ, Phong trào Đổi mới Serbia (SPO), Đảng Nhân dân Cấp tiến và Đảng Tá điền Nhân dân (NSS) cũng đăng ký trở thành đảng phái chính trị.
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Republic Bureau of Statistics
Database of Legal Regulations
Bầu cử tại Serbia
Bầu cử tại Nam Tư
Serbia năm 1989
Tổng tuyển cử Serbia
Bầu cử tổng thống Serbia |
iChat (trước đây là iChat AV) là một ứng dụng nhắn tin tức thời đã ngừng phát triển được Apple Inc. phát triển cho hệ điều hành Mac OS X.
Trong OS X 10.8 Mountain Lion, iChat đã được thay thế bằng Messages để trò chuyện và FaceTime để gọi video.
Các giao thức được hỗ trợ
Hỗ trợ AIM của iChat được AOL hoàn toàn chứng thực và sử dụng triển khai chính thức của giao thức AIM OSCAR. Sử dụng một luồng vận tải XMPP, iChat có thể đóng vai trò là máy khách cho AOL Instant Messenger, Yahoo! Messenger, MobileMe, ICQ và XMPP. iChat cũng có thể tích hợp danh bạ Google Talk vào ngăn XMPP.
Xem thêm
FaceTime
Messages
Chú thích
Phần mềm Apple Inc.
MacOS |
Alan David "Bud" Yorkin (22 tháng 2 năm 1926 – 18 tháng 8 năm 2015) là một nhà sản xuất, đạo diễn, nhà biên kịch và diễn viên phim điện ảnh và truyền hình người Mỹ. Sinh ra tại Washington, Pennsylvania, Yorkin có bằng kỹ sư từ trường Carnegie Tech, nay là Đại học Carnegie Mellon ở Pittsburgh. Một số tác phẩm đáng chú ý của ông bao gồm Start the Revolution Without Me (1970) và Blade Runner (1982).
Tiểu sử
Yorkin sinh ra với tên đầy đủ là Alan David Yorkin vào ngày 22 tháng 2 năm 1926 tại Washington, Pennsylvania. Năm 16 tuổi, anh gia nhập Hải quân Hoa Kỳ và phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Yorkin có bằng kỹ sư từ trường Carnegie Tech, nay là Đại học Carnegie Mellon ở Pittsburgh.
Sự nghiệp
Năm 1954, Yorkin trở thành nhà sản xuất cho chương trình The Tony Martin Show của NBC – một chương trình tạp kỹ có thời lượng 15 phút phát trước bản tin hàng đêm vào tối thứ Hai. Năm 1955, ông sản xuất và đạo diễn bộ phim hài quân sự trực tiếp dài 11 tập mang tựa đề The Soldiers, với sự tham gia diễn xuất của Hal March, Tom D'Andrea và John Dehner. Năm 1956, ông trở thành nhà sản xuất và đạo diễn của chương trình hài kịch/tạp kỹ The Ford Show của NBC, chương trình này do Tennessee Ernie Ford đạo diễn. Năm 1958, Yorkin cùng với cây viết/nhà sản xuất Norman Lear thành lập Tandem Productions, công ty chuyên hợp tác sản xuất một số phim điện ảnh và chương trình truyền hình đặc biệt trong những năm 1960 đến 1971 với các hãng phim lớn như United Artists và Warner Bros. Yorkin đạo diễn và sản xuất chương trình truyền hình đặc biệt năm 1958 mang tên An Evening with Fred Astaire, và tập truyền hình này đem về 9 giải Emmy. Sau đó ông tham gia sản xuất nhiều bộ phim sitcom ăn khách của thập niên 1970, bao gồm All in the Family, Maude, Good Times và Sanford and Son.
Sau khi tách ra khỏi Lear, Yorkin tiếp tục thành lập Bud Yorkin Productions. Bộ phim sitcom đầu tiên của ông sau khi tách ra là bộ phim sitcom ăn theo Sanford and Son lấy tựa đề Grady – tác phẩm này không gặt hái được nhiều thành công. Năm 1976, ông thành lập TOY Productions cùng với Saul Turteltaub và Bernie Orenstein (nhà sản xuất của Sanford và Son từ năm 1974 đến năm 1977) và hai bản thành công lớn nhất của họ là What's Happening!! và Carter Country. TOY Productions sau đó được Columbia Pictures Television mua lại vào năm 1979. Năm 1963, Yorkin đạo diễn Come Blow Your Horn, với sự tham gia diễn xuất của Frank Sinatra và Lee J. Cobb. Yorkin tiếp tục đạo diễn và sản xuất bộ phim Start the Revolution Without Me với hai diễn viên chính Gene Wilder và Donald Sutherland vào năm 1970 đã trở thành một tác phẩm kinh điển đình đám. Ông cũng đạo diễn bộ phim Twice in a Lifetime năm 1985, với sự tham gia diễn xuất của Gene Hackman. Năm 1999, ông và Lear được trao Giải Lucy cho Phụ nữ trong điện ảnh để ghi nhận sự xuất sắc và đổi mới trong các tác phẩm sáng tạo nhằm nâng cao nhận thức của phụ nữ thông qua phương tiện truyền hình. Năm 2002, Yorkin được giới thiệu vào Đại sảnh Danh vọng Truyền hình.
Đời tư
Yorkin qua đời vào ngày 18 tháng 8 năm 2015, thọ 89 tuổi. Ông đã kết hôn với nữ diễn viên Cynthia Sikes Yorkin. Ông là cha của cây viết kiêm nhà sản xuất truyền hình Nicole Yorkin từ cuộc hôn nhân đầu tiên kéo dài ba mươi năm của ông với Peg Yorkin, đồng sáng lập và chủ tịch của Feminist Majority Foundation. Ông là thành viên của Chùa Wilshire Boulevard.
Danh sách phim
Đạo diễn
Come Blow Your Horn (1963)
Never Too Late (1965)
Divorce American Style (1967)
Inspector Clouseau (1968)
Start the Revolution Without Me (1970)
The Thief Who Came to Dinner (1973)
Twice in a Lifetime (1985)
Arthur 2: On the Rocks (1988)
Love Hurts (1990)
Sản xuất
Cold Turkey (giám đốc sản xuất) (1971)
Blade Runner (giám đốc sản xuất) (1982)
Deal of the Century (1983)
Intersection (1994)
Tội phạm nhân bản 2049 (2017)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1926
Mất năm 2015
Đạo diễn truyền hình Mỹ
Primetime Emmy Award winners
Người đoạt giải Primetime Emmy |
Matthew Tolmach (sinh năm 1964) là nhà sản xuất phim người Mỹ và cựu đồng chủ tịch khối sản xuất điện ảnh tại Sony Pictures Entertainment.
Sự nghiệp
Tolmach lần đầu tiên quan tâm đến điện ảnh sau khi nghe những câu chuyện từ ông nội, nhà sản xuất và giám đốc điện ảnh Sam Jaffe. Ông là người gốc Do Thái. Sau khi chuyển đến Los Angeles, ông làm việc với Frank Marshall để làm một bộ phim tài liệu về Lance Armstrong do Alex Gibney đạo diễn. Năm 2008, ông được bổ nhiệm làm đồng chủ tịch sản xuất tại Sony Pictures Entertainment cùng với Doug Belgrad (người mà ông đã làm việc cùng từ năm 2003), nơi ông quản lý thương hiệu Người Nhện. Năm 2010, ông rời Sony Pictures Entertainment để sản xuất phần tiếp theo của Người Nhện. Belgrad được bổ nhiệm làm chủ tịch duy nhất của hãng phim và Hanna Minghella được bổ nhiệm làm chủ tịch sản xuất.
Đời tư
Tolmach kết hôn với nữ đạo diễn Paige Goldberg. Họ có một đứa con.
Danh sách phim
Sản xuất
Money for Nothing (1993)
Coldblooded (1995)
Người Nhện: Siêu nhện tái xuất (2012)
The Armstrong Lie (2013)
Người Nhện siêu đẳng 2: Sự trỗi dậy của Người Điện (2014)
Freaks of Nature (2015)
Tiệc độc thân nhớ đời (2017)
Jumanji: Trò chơi kỳ ảo (2017)
Venom (2018)
Trò chơi kỳ ảo: Thăng cấp (2019)
Venom: Đối mặt tử thù (2021)
Morbius (2022)
Dark Harvest (2023)
Kraven: Thợ săn thủ lĩnh (2024)
Giám đốc sản xuất
Người Nhện: Trở về nhà (2017)
Người Nhện xa nhà (2019)
Future Man (2017–2020)
Người Nhện: Không còn nhà (2021)
Cảm ơn đặc biệt
Sausage Party (2016)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhà sản xuất phim Mỹ
Sinh năm 1964
Nhân vật còn sống |
là bài hát do ban nhạc Nhật Bản Official Hige Dandism thu âm, phát hành dưới định dạng kỹ thuật số vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, thông qua hãng đĩa Irori Records. Bài hát được chọn làm bài hát chủ đề mở đầu mùa đầu tiên cho bộ anime Spy × Family. Bài hát đã đạt vị trí số một trên Japan Hot 100 và vị trí thứ 61 trên Billboard Global 200. Mixed Nuts EP được phát hành vào ngày 22 tháng 6 năm 2022.
Sáng tác và lời bài hát
"Mixed Nuts" là một bài hát nhạc jazz và pop rock, được sáng tác bằng phím Sol giáng trưởng và được đặt ở nhịp đặc trưng của thời gian thông thường với nhịp độ 150 BPM, chạy trong 3 phút 33 giây. Nó được sáng tác và viết bởi ca sĩ Satoshi Fujihara cho anime Spy × Family, với chủ đề gia đình, cũng như tình yêu của nhân vật chính Anya dành cho đậu phộng. "Tôi từng nghe Anya nói rằng cô bé rất thích đậu phộng. Tôi chợt nghĩ đến đậu phộng trong các loại hạt hỗn hợp mà tôi thường ăn và tra cứu chúng, tôi phát hiện ra rằng tuy trông giống nhau nhưng quả hạch mọc trên cây và đậu phộng mọc dưới đất, được phân thành hai loại khác nhau và đậu phộng thực sự là một loại khác, bất chấp vẻ ngoài của chúng." Sau đó anh ấy tuyên bố, "Tôi cảm thấy đây chính là chủ đề của tác phẩm này, có điều gì đó thú vị khi đóng vai một gia đình giả trong khi che giấu danh tính thực sự của mình và đối đầu với thứ gì đó giống như một gia đình thực sự, và rằng hạnh phúc và niềm vui đến với bạn mới là điều quan trọng, chứ không phải là nó có thật hay không. Tôi đã tạo ra tác phẩm này với ý nghĩ của mình."
Video âm nhạc
Video âm nhạc cho "Mixed Nuts" được phát hành vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, cùng ngày với đĩa đơn được phát hành và do Takuto Shimpo đạo diễn.
Danh sách
Tải xuống kỹ thuật số / streaming
– 3:33
CD / tải xuống kỹ thuật số / streaming (Mixed Nuts EP)
"Mixed Nuts" – 3:33
"Anarchy" – 4:29
"Choral A" – 3:59
– 4:41
Nhân sự
Official Hige Dandism
Satoshi Fujihara – hát chính, lời bài hát, soạn nhạc, trống bổ sung, sáng tác
Daisuke Ozasa – guitar, hát đệm
Makoto Narazaki – bass guitar, hát đệm
Masaki Matsuura – trống, hát đệm
Các nhạc sĩ bổ sung
Atsuki Yumoto – người đồng dàn nhạc – kèn, kèn
Toshihiro Kawashima – kèn trombone
Andy Wulf – saxophone
Seiya Yokota – trống bổ sung, người đồng dàn nhạc – trống
Sản xuất
Genki Wada – kỹ thuật viên trống, bổ sung trống
Kazutaka Minemori – kỹ thuật viên guitar
Kazuhiro Saito – kỹ thuật viên nhạc cụ
Shota Kinebuchi – kỹ thuật viên nhạc cụ
Takuya Kondo – kỹ thuật viên nhạc cụ
Masahito Komori – kỹ thuật viên âm thanh
Randy Merrill – kỹ thuật viên hậu kỳ
Bảng xếp hạng âm nhạc
Bảng xếp hạng âm nhạc hàng tuần
Bảng xếp hạng âm nhạc cuối năm
Giải thưởng
Chứng nhận
Tham khảo
Spy × Family
Đĩa đơn năm 2022
Bài hát năm 2022
Bài hát anime
Bài hát nhạc pop Nhật Bản
Bài hát của Official Hige Dandism
Bài hát pop rock
Đĩa đơn quán quân Japan Hot 100 |
Apple A14 Bionic là một bộ vi xử lý 64-bit ARMv8.5-A được thiết kế bởi công ty Apple Inc. Con chip này xuất hiện trên các dòng iPad Air thế hệ 4 và iPad thế hệ 10, iPhone 12 Mini, iPhone 12, iPhone 12 Pro, và iPhone 12 Pro Max.
Thiết kế
Apple A14 Bionic gồm một CPU sáu nhân 64-bit của Apple kiến trúc ARMv8, trong đó gồm có hai nhân hiệu suất cao có tên gọi là Firestorm và bốn nhân tiết kiệm điện được gọi là Icestorm.
Apple công bố rằng Apple A14 Bionic có hiệu suất CPU nhanh hơn 40% so với A12, trong khi hiệu suất GPU nhanh hơn 30% so với A12. Nó được trang bị bộ xử lý thần kinh 16 nhân nhanh gấp 2 lần. Neural Engine có thể xử lý lên đến 11 nghìn tỷ phép mỗi giây. Ngoài Neural Engine riêng biệt, CPU A14 còn có bộ tăng tốc nhân vô hướng ma trận học máy thế hệ thứ hai (mà Apple gọi là khối AMX) nhanh gấp 10 lần. A14 còn được trang bị hệ thống xử lý ảnh giúp tăng cường và cải thiện khả năng chụp hình quay phim số.
A14 được sản xuất bởi TSMC với tiến trình 5 nm, N5. Đồng thời, A14 đã trở thành sản phẩm thương mại chạy trên tiến trình 5 nm đầu tiên. Số bóng bán dẫn được tăng lên 11.8 tỷ, nhiều hơn 38.8% so với A13 là 8.5 tỷ. Theo Semianalysis, kích thước khuôn của bộ xử lý A14 là 88 mm2, với mật độ bóng bán dẫn là 134 triệu bóng bán dẫn trên mỗi mm2. Apple A14 được sản xuất bao gói đi kèm với 4 GB RAM LPDDR4X trên dòng iPhone 12 và 6 GB RAM LPDDR4X trên dòng iPhone 12 Pro.
A14 hỗ trợ khả năng nén video định dạng HEVC và H.264. Nó cũng hỗ trợ giải mã HEVC, H.264, MPEG‑4 Part 2, và Motion JPEG.
A14 về sau được sử dụng làm nền tảng cho dòng chip M1, dùng trên nhiều mẫu máy Macbook và iPad.
Sản phẩm sử dụng Apple A14 Bionic
iPad (thế hệ 10)
iPad Air (thế hệ 4)
iPhone 12 & 12 Mini
iPhone 12 Pro & 12 Pro Max
Biến thể
Bảng bên dưới hiển thị các biến thể chip khác nhau dựa trên vi kiến trúc "Firestorm" và "Icestorm".
Xem thêm
Apple silicon
Apple M1
Tham khảo
Apple silicon |
Đoàn Cố vấn Việt Nam Đại học Tiểu bang Michigan (, thường gọi là Đoàn Đại học Tiểu bang Michigan và viết tắt là MSUG) là một chương trình hỗ trợ kỹ thuật được cung cấp cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa trong nỗ lực xây dựng nhà nước của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Từ năm 1955 đến năm 1962, theo hợp đồng với Cơ quan Hợp tác Quốc tế ở Washington và chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở Sài Gòn, nhóm giảng viên và nhân viên của Đại học Tiểu bang Michigan đã tư vấn cho các cơ quan của chế độ Ngô Đình Diệm. Nhóm này giúp tư vấn và đào tạo nhân sự người Việt Nam về các lĩnh vực hành chính công, hành chính cảnh sát và kinh tế. MSUG làm việc độc lập với hầu hết các cơ quan chính phủ Mỹ, có quyền tiếp cận tổng thống chưa từng có và thậm chí còn hỗ trợ soạn thảo bản hiến pháp mới của đất nước. Một số đề xuất của MSUG được Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thực hiện và mang lại kết quả tích cực cho người dân Việt Nam. Tuy nhiên, nhóm có ảnh hưởng hạn chế đến việc ra quyết định của Tổng thống Diệm và diễn biến các sự kiện ở Việt Nam, và các ấn phẩm của những giảng viên bất mãn đã dẫn đến việc Tổng thống Diệm chấm dứt hợp đồng.
Sau đó, khi nảy sinh những ám chỉ rằng CIA đã thâm nhập vào MSUG như một bình phong cho các hoạt động bí mật của nó, chương trình hỗ trợ kỹ thuật đã trở thành một nguyên nhân gây xôn xao dư luận trong những năm đầu của phong trào phản chiến về sau.
Khởi động và triển khai dự án
Trong thời gian tự lưu vong vào đầu thập niên 1950, Ngô Đình Diệm đã gặp mặt và kết bạn với Wesley R. Fishel, một cựu chuyên gia ngôn ngữ quân sự có bằng tiến sĩ về quan hệ quốc tế tại Đại học Chicago. Fishel "bị ấn tượng [với] quan điểm chống cộng và cải cách chính trị xã hội của Diệm, và hai người thường xuyên trao đổi thư từ". Khi Fishel được tuyển mộ vào năm 1951 với tư cách là trợ lý giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Tiểu bang Michigan, ông đã mời Diệm tham gia cùng mình. Hai năm sau, trên cương vị là trợ lý giám đốc Cục Nghiên cứu Chính phủ của trường đại học, Fishel bèn bổ nhiệm Diệm làm cố vấn về Đông Nam Á của cơ quan này.
Kết quả mang tính cộng sinh: chuyến thăm nước Mỹ của Diệm đã giúp ông xây dựng được sự ủng hộ chính trị cần thiết để được bổ nhiệm làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam vào tháng 7 năm 1954; đến lượt Fishel trở thành một trong những cố vấn và người bạn tâm giao thân cận nhất của Diệm. Theo gợi ý của Fishel và đã biết rõ về khả năng của MSU, Diệm đề nghị một phần gói viện trợ của mình từ Cơ quan Hợp tác Quốc tế Hoa Kỳ bao gồm bản hợp đồng "hỗ trợ kỹ thuật" với Đại học Tiểu bang Michigan. Do đó, MSU được yêu cầu sử dụng chuyên môn hòng giúp ổn định nền kinh tế Việt Nam, cải thiện bộ máy quan liêu của chính phủ và kiểm soát cuộc nổi dậy của cộng sản đang diễn ra.
Đại học Tiểu bang Michigan, thuộc loại đại học tiên phong được cấp đất, ngay từ khi thành lập đã tin tưởng vào việc biến lý thuyết thành thực tiễn; ví dụ, dịch vụ khuyến nông của họ giúp cung cấp kết quả nghiên cứu của mình cho nông dân trên khắp bang Michigan để họ sử dụng trong thực tế. Vì sự nhấn mạnh vào giáo dục thực tế và sự tham gia của cộng đồng, nhà trường đã tuyên bố một cách chính đáng rằng "đây mới là cơ sở của chúng tôi". Hiệu trưởng Đại học John A. Hannah nói riêng là người đề xuất chính cho cái gọi là tổ chức định hướng dịch vụ; đối với ông, đó là bước đi hợp lý tiếp theo để mở rộng vai trò đó trên phạm vi quốc tế và tuyên bố không hề cường điệu rằng "thế giới là cơ sở của chúng tôi".
Khi đề nghị hỗ trợ được gửi qua các kênh của chính phủ Mỹ, Hannah, người chống cộng kiên quyết, rất quan tâm đến việc theo đuổi bản hợp đồng này. Ông cử một nhóm đánh giá nhỏ tới Việt Nam, bao gồm ba chủ nhiệm khoa tham gia—Edward W. Weidner (khoa học chính trị), Arthur F. Brandstatter (hành chính cảnh sát) và Charles C. Killingsworth (kinh tế)—cùng với James H. Dennison, trưởng phòng quan hệ công chúng của trường đại học và trợ lý hành chính của Hannah. Sau chuyến thăm ngắn kéo dài hai tuần, bốn thành viên nêu trên đã báo cáo vào tháng 10 năm 1954 rằng tình trạng khẩn cấp đang tồn tại ở Việt Nam và khuyến nghị nên thực hiện dự án này ngay lập tức. Báo cáo nêu rõ rằng mặc dù thời gian chuẩn bị ngắn có thể dẫn đến sai sót, nhưng "điều quan trọng là... phải thực hiện một chương trình theo cách có ít nhất cơ hội thành công hợp lý". Hannah đã phê duyệt bản hợp đồng này, thành lập Đoàn Đại học Tiểu bang Michigan, sẽ hoạt động dưới sự ủy quyền của Phái bộ Viện trợ Hoa Kỳ (USOM) thuộc Đại sứ quán Mỹ. Hannah cũng xác nhận đề nghị của Weidner rằng Fishel được bổ nhiệm làm người đứng đầu dự án, chức vụ mà Fishel từng nắm giữ từ khi bắt đầu dự án cho đến đầu năm 1958.
Nhân viên MSUG có nhiều lý do để tình nguyện tham gia công tác ở nước ngoài này, mỗi lý do đều phản ánh động lực của trường đại học đối với toàn bộ dự án MSUG: như một nghĩa vụ đạo đức, hỗ trợ một quốc gia non trẻ đang gặp khó khăn; dưới dạng công cụ trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, nhằm ngăn chặn sự phát triển của “chủ nghĩa đế quốc cộng sản”; và kiểu như bài tập học thuật, để kiểm tra các khái niệm lý thuyết của họ trong một "phòng thí nghiệm" của thế giới thực. Khuyến khích trả lương "gay go" và các khoản phụ cấp khác gần gấp đôi lương của giáo sư (miễn thuế), cùng với triển vọng thăng tiến cá nhân trong hàng ngũ học viện, cũng rất thuyết phục.
Giai đoạn thứ nhất: 1955–1957
Hợp đồng hai năm đầu tiên bắt đầu khi đội ngũ giáo sư và nhân viên đầu tiên đến Sài Gòn vào ngày 20 tháng 5 năm 1955. Họ phát hiện ra cả thành phố này đang bị lôi kéo vào một cuộc nổi dậy phản kháng chính phủ quốc gia của phe Bình Xuyên, với pháo kích và giao tranh trên đường phố đe dọa không chỉ nơi ở chính thức của Diệm mà còn cả khách sạn nơi nhân viên MSUG đang tạm trú. Vào lúc sự xáo trộn này lên đến cao điểm, các phòng khách sạn thường bị lục soát và cướp bóc, và một số giáo sư bị mất hết tài sản. Những chương trình học tập dự định của MSUG đã bị tạm dừng và trọng tâm của họ nhanh chóng chuyển sang cải thiện dịch vụ cảnh sát và quản lý chính quyền khu vực.
Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn
Mối quan tâm trước mắt của Diệm là biến động xã hội do khoảng 900.000 người chạy trốn khỏi miền Bắc cộng sản trong thời gian 300 ngày "di chuyển tự do" theo Hiệp định Genève năm 1954. Dòng người khổng lồ đòi hỏi cả dịch vụ tái định cư và xây dựng cơ sở hạ tầng, do cơ quan chính phủ có tên Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn (COMIGAL) cung cấp. MSUG đã tư vấn cho Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn đến mức trong những tháng đầu tiên của chương trình, các hoạt động theo đuổi khác đều bị gạt sang một bên.
Một trong những đề xuất của MSUG có kết quả tích cực là ý tưởng phân cấp bộ máy quan liêu cho Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn. Bằng cách phân bổ các cơ quan nhỏ khắp các làng xã, Phủ Tổng ủy Di cư Tị nạn đã có thể cải thiện khả năng đáp ứng của các cơ quan đó. Nguồn tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng thường được Sài Gòn phê duyệt trong vòng chưa đầy hai tuần, và những cơ quan này có thể làm việc trực tiếp với giới lãnh đạo địa phương khiến họ cảm thấy rằng ý kiến đóng góp và sự tham gia của họ là quan trọng.
Mặt khác, MSUG đã không thể thuyết phục Diệm về tính hợp lệ của các yêu sách đất đai của người Thượng, bộ lạc bản địa ở Tây Nguyên của Việt Nam. Hàng nghìn di dân tị nạn, với sự chấp thuận và khuyến khích của chính phủ, trở thành những người chiếm đất lâu dài trên những vùng đất "đã được dân chúng vùng cao nguyên khai phá để trồng trọt". Một phần mục đích của Diệm hòng tạo ra một "bức tường nhân đạo" gồm những người định cư có thiện cảm, chủ yếu là dân Công giáo, chống lại sự xâm nhập của cộng sản từ miền Bắc Việt Nam và Campuchia gần đó. Tuy vậy, cả người Thượng và đa số Phật tử đều phẫn nộ trước việc bị chế độ Công giáo cai trị, vốn chỉ là một nhóm tôn giáo thiểu số mà họ coi là tàn dư không hề nao núng dưới thời Pháp thuộc. Phe đối lập và sự đàn áp tàn nhẫn của Diệm đã đẩy các nhóm này tới chỗ nổi dậy hơn nữa và kết cục cuối cùng là sự cai trị của cộng sản.
Học viện Quốc gia Hành chánh
Ngay cả khoảng thời gian của MSU bị hoạt động hỗ trợ dân tị nạn độc chiếm, nhóm vẫn theo đuổi một phần mục tiêu học thuật của mình. Với tư cách là khía cạnh "hành chính công" trong bản hợp đồng, MSUG đã thiết kế, tài trợ và thực hiện việc mở rộng Học viện Quốc gia Hành chánh (NIA), một trường đào tạo công chức. Học viện Quốc gia Hành chánh khởi đầu là một trường đào tạo hai năm tại thành phố nghỉ dưỡng Đà Lạt vào tháng 1 năm 1953. Theo đề nghị của MSUG, trường được chuyển đến Sài Gòn và dần dần mở rộng thành chương trình bốn năm.
Cùng với sự hỗ trợ trong việc phát triển cơ sở mới ở Sài Gòn và các lớp giảng dạy, MSUG đã góp phần mở rộng đáng kể thư viện NIA, mà cho đến năm 1962 chứa tới hơn 22.000 cuốn sách và tài liệu khác. Thư viện này được coi là một trong những thành công lớn nhất của MSUG và mối quan hệ liên kết với NIA là dự án tồn tại lâu nhất trong số các dự án MSUG. Tuy vậy, tính hữu dụng của thư viện bị ảnh hưởng bởi một thực tế đơn giản là hầu hết các tài liệu của nó đều viết bằng tiếng Anh, thay vì tiếng Việt hoặc tiếng Pháp, và khi kết thúc hợp đồng MSUG, thư viện đang bị đe dọa bởi khả năng tiếp cận hạn chế, bảo trì kém và thiếu nhân sự người Việt có trình độ để vào làm nhân viên tại đây.
Bộ máy hành chính cảnh sát
Khía cạnh có ảnh hưởng nhất và gây tranh cãi nhất về hỗ trợ kỹ thuật của MSUG là trong lĩnh vực quản lý hành chính cảnh sát. Nhóm này không chỉ cung cấp dịch vụ tư vấn và đào tạo mà còn cung cấp hỗ trợ vật chất. Nhìn chung, MSUG chịu trách nhiệm phân phối viện trợ của Hoa Kỳ thông qua USOM cho đến năm 1959, khi USOM thành lập đội ngũ cảnh sát của riêng mình. Nhân viên của MSUG đóng vai trò là nhà tư vấn để xác định nhu cầu của các nhóm cảnh sát và sau đó tự mình thực hiện việc mua sắm. Trang thiết bị bao gồm "súng ngắn ổ xoay, súng chống bạo động, đạn dược, hơi cay, xe jeep và các phương tiện khác, còng tay, thiết bị văn phòng, đèn giao thông và thiết bị liên lạc".
MSUG về sau ra sức đào tạo nhân viên Việt Nam cách sử dụng và bảo trì thiết bị. Nói chung, MSUG đã đào tạo đội ngũ giảng viên để sau này họ có thể chỉ dạy những người khác; chỉ dẫn trực tiếp, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt như huấn luyện súng ngắn ổ xoay cho lực lượng bảo vệ tổng thống, "chỉ được thực hiện như một biện pháp tạm thời". Dự án quản lý cảnh sát phần lớn đã thành công vì việc đào tạo dựa trên màn trình diễn khâu thực hành nên mang tính tức thời và hữu hình hơn nhiều. Ngoài ra, các giảng viên Việt Nam do MSUG giảng dạy cũng nhanh chóng tự mình đào tạo. Đồng thời, các buổi học về nguyên tắc thủ tục và lý thuyết của cảnh sát gặp phải một số vấn đề đã hạn chế sự thành công của chúng. Rất ít giáo sư của MSUG nói được tiếng Việt hoặc tiếng Pháp, dẫn đến công việc dịch thuật bị chậm trễ và thiếu sót thông tin. Ngoài ra, các bài giảng kiểu Mỹ còn là nguyên nhân gây bất hòa cho sinh viên, tạo ra sự mâu thuẫn trong hệ thống pháp luật của Pháp. (Đó cũng là một vấn đề trong các lớp NIA do nhân viên MSUG giảng dạy.)
Hoạt động tư vấn và đào tạo về hành chính của cảnh sát đạt hiệu quả cao nhất với Sở Mật thám, cơ quan thực thi pháp luật quốc gia của Việt Nam, một phần vì hầu hết thiết bị đã được chuyển giao cho cơ quan này. Tương tự như vậy, các sở cảnh sát thành phố nhận được ít trang thiết bị hơn thì ít bị ảnh hưởng hơn. Sự cải thiện lớn nhất ở địa phương là việc kiểm soát giao thông ở Sài Gòn. Về phía dân vệ thì hầu như không có tác dụng gì.
Dân vệ là một tổ chức bán quân sự gồm 60.000 người mà MSUG hy vọng sẽ cải tổ thành một tổ chức giống với trang phục của cảnh sát tiểu bang Hoa Kỳ, một tổ chức quen thuộc với nhóm giáo sư. Điều đó sẽ kéo theo một tổ chức chủ yếu ở nông thôn mà các thành viên sẽ sống trong cộng đồng mà họ phục vụ. Tuy nhiên, Sài Gòn và Đoàn Cố vấn Viện trợ Quân sự Mỹ ưu tiên dân vệ là lực lượng bán quân sự được trang bị vũ khí mạnh hơn, được tổ chức thành các trung đoàn và sống trong các khu đồn trú, có thể thực hiện nhiệm vụ cảnh sát quốc gia và hỗ trợ quân đội quốc gia. Do sự bế tắc, rất ít trang thiết bị mà MSUG lên kế hoạch cho dân vệ được phân phối cho đến tận năm 1959, khiến lực lượng này không được chuẩn bị khi hành động nổi dậy lớn của cộng sản bắt đầu cùng năm.
Vấn đề nhân sự của MSUG
Một trong những hạn chế của MSUG là trong nhiều trường hợp, trường đại học thiếu nhân lực để bố trí nhân sự cho dự án và tiếp tục các lớp học theo lịch trình ở East Lansing. Đó là trường hợp của MSUG, và nhóm buộc phải tuyển dụng rộng rãi bên ngoài trường đại học để hoàn thành hợp đồng với phía Việt Nam, thường cấp cho nhân viên mới cấp bậc học thuật (thường là trợ lý giáo sư hoặc giảng viên). Vấn đề nhân sự có lẽ có sự phân nhánh đáng kể nhất trong bộ phận quản lý cảnh sát. Mặc dù Trường Quản lý Cảnh sát và An toàn Công cộng Tiểu bang Michigan đã "được quốc tế công nhận trong thời kỳ chiến tranh lạnh", nhưng trường này thiếu kinh nghiệm trong các lĩnh vực rất cần thiết là phản gián và chống nổi dậy, và trưởng khoa Arthur Brandstatter đã phải thuê mướn nhân sự mới cho phù hợp. Vào lúc đạt đỉnh cao của dự án quản lý cảnh sát, chỉ có 4 trong số 33 cố vấn trường này từng là nhân viên của Đại học Tiểu bang Michigan trước MSUG, và nhiều người thậm chí chưa từng đến thăm cơ sở East Lansing.
Hóa ra, một số cố vấn cảnh sát này cũng từng làm việc cho Cơ quan Tình báo Trung ương. Họ thành lập một nhóm riêng, gầy dựng văn phòng riêng ngoài các nhân viên hành chính cảnh sát còn lại tại trụ sở MSUG ở Sài Gòn, "và chỉ chịu trách nhiệm trước Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn". Các thành viên CIA đã làm việc chặt chẽ với một đơn vị an ninh đặc biệt của Sở Mật vụ từ năm 1955 đến năm 1959. Mặc dù trên danh nghĩa họ nằm dưới sự bảo trợ của MSUG, nhưng MSUG vẫn chưa biết cụ thể về các hoạt động của họ. (Hồ sơ MSUG "ủng hộ [sự] tranh luận rằng các đặc vụ không phải là gián điệp," nhưng hồ sơ của CIA vẫn được xếp loại mật.)
Sự tồn tại của nhóm CIA không bị nhân viên MSUG che giấu; ngược lại, đó là kiến thức phổ biến đối với nhóm giáo sư nếu không được thảo luận một cách cởi mở. Tổng quan về dự án năm 1965 khá thực tế về nó. Khi MSUG "buộc USOM thành lập một bộ phận an toàn công cộng của riêng mình vào tháng 7 năm 1959[,] USOM cũng đã tiếp thu vào thời điểm này đơn vị CIA đang hoạt động trong MSUG". Tuyên bố gần như trong ngoặc đơn đó sau này sẽ cung cấp thông tin động lực cho sự phơi bày mang tính giật gân.
Giai đoạn thứ hai: 1957–1959
Hợp đồng hai năm được gia hạn vào năm 1957. Giai đoạn thứ hai của MSUG được đánh dấu bằng việc mở rộng phạm vi hoạt động, đặc biệt là trong chương trình giáo dục, đồng thời các cam kết an ninh của MSUG cũng tăng lên. "Đây là thời kỳ của những nhân viên Michigan có mặt khắp nơi." Tuy nhiên, ngay cả khi hoạt động của nhóm tăng lên, với đội ngũ nhân viên bao gồm đỉnh điểm toàn dự án là 52 người Mỹ và khoảng 150 người Việt Nam, MSUG hoạt động ở mức độ ảnh hưởng giảm. Đầu năm 1958, Wesley Fishel kết thúc nhiệm kỳ trưởng chương trình và trở về Mỹ. Với sự ra đi của Fishel, bữa sáng ba tuần một lần tại nhà tổng thống mà ông thưởng thức với Diệm đã kết thúc; nếu không được tiếp cận trực tiếp với tổng thống như vậy, ảnh hưởng của MSUG với chính quyền bị hạn chế một cách đáng kể. Cùng lúc đó, chính phủ Việt Nam Cộng hòa dần dần bắt đầu củng cố quyền lực trên toàn quốc và do đó "mất đi nhiều nhiệt huyết đổi mới."
Sau năm 1958, vai trò quản lý của cảnh sát gần như hoàn toàn là cố vấn, vì các giảng viên người Việt do MSUG đào tạo "lúc đó đang thực hiện chương trình riêng của họ." Trên cương vị là cố vấn, MSUG đã giúp Sở Mật thám, cơ quan này được đổi tên thành Cục Điều tra Việt Nam trong một nỗ lực nhằm giảm bớt hình ảnh tiêu cực của công chúng về cơ quan cảnh sát đặc biệt đó, nhằm thiết lập thẻ căn cước quốc gia, một chương trình được phát động vào năm 1959.
Giai đoạn thứ ba: 1959–1962
Hợp đồng thứ ba bao gồm một phần nhỏ các hợp đồng trước đó; Công việc của MSUG hầu như chỉ liên quan đến NIA và các hoạt động học thuật. Một phần, đó là do USOM đã thành lập đơn vị cố vấn cảnh sát của riêng mình và đảm nhận vai trò này từ MSUG, đặc biệt là công việc với dân vệ, lực lượng đang trực tiếp chiến đấu với quân du kích cộng sản.
Việc gia hạn hợp đồng năm 1959 cũng có một điều khoản cho thấy Diệm ngày càng nhạy cảm với những lời chỉ trích: nó tuyên bố rằng hồ sơ và ghi chú cá nhân của nhân viên MSUG sẽ không được sử dụng "chống lại an ninh hoặc lợi ích của Việt Nam." Quy định đó đi ngược lại với điều khoản khái niệm về tự do học thuật, và một số giáo sư đã chọn cách phớt lờ nó. Ví dụ, nhà khoa học chính trị của MSU tên Robert Scigliano từng là trợ lý giám đốc dự án vào năm 1957–1959, từng viết một bài báo vào năm 1960 về các đảng phái chính trị ở miền Nam Việt Nam, kêu gọi sự chú ý đến việc Diệm đàn áp phe đối lập. Tổng thống Diệm cảm thấy khó chịu với bài báo này đến mức ông thấy phù hợp khi đề cập đến nó với Chủ tịch MSU Hannah lúc ông này đến thăm Việt Nam vào đầu năm 1961 và nói rằng đó "không phải là thứ mà ông thích thấy nhân viên MSU viết".
NIA, vào đầu năm 1961, đã đưa ra yêu cầu chính thức về việc gia hạn thêm ba năm cho đến ngày 30 tháng 6 năm 1962, ngày kết thúc hợp đồng MSUG thứ ba. MSU bày tỏ sự sẵn sàng theo đuổi một dự án nhỏ chỉ tập trung vào thể chế, nhưng điều đó đã không xảy ra.
Bất đồng quan điểm và sa thải
Khi dự án tiến triển, sự lạc quan ban đầu của các giáo sư đã nhường chỗ cho những cân nhắc thực tế thường khiến họ thất vọng và vỡ mộng. MSUG thường xuyên nhận thấy những lời khuyên có thiện chí của mình bị bỏ qua hoàn toàn hoặc đồng ý trong thực tế; trong một ví dụ trong số nhiều ví dụ khác, Diệm đã sử dụng cơ quan đăng ký thẻ căn cước quốc gia của Sở Mật vụ hòng đàn áp những người bất đồng chính kiến với mình. Kết quả là, một số giáo sư trở về nhà sau chuyến công tác và bắt đầu viết các bài báo chỉ trích chế độ Diệm và sự can dự của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Hai lần xuất hiện trên tạp chí The New Republic năm 1961 và dẫn đến sự kết thúc của MSUG.
Bài đầu tiên của Adrian Jaffe, giáo sư thỉnh giảng tiếng Anh tại Viện Đại học Sài Gòn, và Milton C. Taylor, nhà kinh tế học của MSUG, có tựa đề A Crumbling Bastion: Flattery and Lies Won't Save Vietnam và xuất hiện vào tháng 6 năm 1961. Đó là một bản cáo trạng gay gắt đối với chế độ Diệm. Mặc dù Jaffe và Taylor tỏ ra bẽn lẽn trong bài báo khi không nêu tên Fishel hay MSU, như thể mối liên kết học thuật của họ như được nêu trong dòng tít bên trang đầu tiên không phải là một sự hiển nhiên, nhưng họ không hề chỉ trích khi nói đến Diệm và gia đình ông: "Chính phủ Việt Nam là một chế độ độc tài tuyệt đối, hoàn toàn do Tổng thống nắm quyền điều hành, với sự trợ giúp của gia đình ông ta.... [Nó] ghi nhận chế độ gia đình trị thời hiện đại".
Sau đó, Frank C. Child, một nhà kinh tế học của MSUG, người đã dành hai năm làm cố vấn cho dự án khi đi du lịch khắp miền Nam Việt Nam, đã viết cuốn Vietnam—The Eleventh Hour, xuất bản vào tháng 12 năm 1961. Tác phẩm này đi một bước xa hơn so với Jaffe và Taylor khi công khai gợi ý rằng "một cuộc đảo chính quân sự có thể là biện pháp duy nhất" để cứu vãn đất nước Việt Nam.
Các bài báo nêu trên đã khiến Diệm tức giận đến mức ông phải đề nghị Đại học Tiểu bang Michigan kiểm duyệt mấy vị giáo sư này. Ban quản lý trường đại học tỏ ra miễn cưỡng vì làm như vậy sẽ vi phạm quyền tự do học thuật. Mặt khác, MSU không muốn đánh mất bản hợp đồng béo bở với Việt Nam Cộng hòa nên đề nghị thận trọng hơn trong việc lựa chọn nhân sự, chỉ chọn những người hứa tuân thủ các điều khoản của hợp đồng và "viết các nghiên cứu khoa học, mang tính học thuật chứ không phải là những bài báo giật gân".
Tuy vậy, Diệm tỏ ra không bị dao động và đòi chấm dứt dự án này. Cả nhóm phải rời khỏi Việt Nam vào tháng 6 năm 1962.
Phơi bày
Bốn năm sau khi MSUG giải thể, một bài báo có tựa đề "The University on the Make", đã xuất hiện trên tạp chí Ramparts. Các biên tập viên Warren Hinckle, Robert Scheer và Sol Stern đã viết bài báo này với sự cộng tác của nhà kinh tế học Stanley K. Sheinbaum, từng là điều phối viên dự án cơ sở chính của MSUG từ năm 1957 cho đến khi ông rời trường đại học này "vì nhiều lý do" vào năm 1959. Rút ra từ các bài báo của Jaffe–Taylor và sự bất mãn của Sheinbaum với dự án, bài báo đã vẽ nên một bức chân dung sống động về Fishel như một "nhà điều hành" đầy tham vọng, có nhiều quyền lực và ảnh hưởng với Diệm hơn là Đại sứ Hoa Kỳ, MSU với tư cách là một "tổ chức mới phất lên" sẵn sàng đánh đổi tính liêm chính trong học thuật để có được vai trò nổi bật trên trường thế giới, và MSUG với tư cách là kẻ âm mưu hiểu biết và sẵn lòng với CIA.
Bài viết của Ramparts chủ yếu dựa vào cuốn sách Technical Assistance in Vietnam xuất bản năm 1965, nhưng phần lớn đã bỏ qua các khía cạnh nghiên cứu học thuật và đào tạo giảng viên của dự án quản lý cảnh sát. Thay vì đề cập đến việc thành lập Học viện Cảnh sát Quốc gia và trường chỉ huy cấp cao Sở Mật thám, nơi nhân viên MSUG "lên kế hoạch chương trình giảng dạy và làm giảng viên trên lớp", thì có ngụ ý rằng dự án này không đòi hỏi nhiều điều gì hơn ngoài việc huấn luyện sử dụng súng và giải ngân mấy cái còng tay. Nó cũng tập trung chặt chẽ vào mối liên hệ của CIA và ngoại suy câu "nhóm Đại học từ chối cung cấp vỏ bọc cho đơn vị này [sau năm 1959]" có nghĩa là MSUG trước đó đã cung cấp vỏ bọc cho công việc "áo choàng và dao găm". Trong phần kết luận, bài báo đã hạ thấp toàn bộ dự án MSUG xuống thành một dòng duy nhất có tính chất kích động: "Dù sao thì một trường đại học đang mua súng làm cái quái gì vậy?"
Bài báo của Ramparts đã cố tình bới móc, xuyên tạc và kịch tính hóa nhiều "sự thật" của nó; một số trong đó sau đó đã được thừa nhận là không đúng sự thật. Tuy nhiên, nó đã tiếp cận được đối tượng mục tiêu và cung cấp nguồn sinh lực mạnh mẽ cho phong trào phản chiến non trẻ. Cùng với vấn đề rõ ràng về việc CIA hoạt động dưới vỏ bọc một trường đại học, ngày càng nhiều sinh viên và giảng viên Mỹ bắt đầu đặt câu hỏi về việc sử dụng các viện giáo dục bậc cao làm công cụ cho chính sách đối ngoại của Mỹ.
Hậu quả
Đại học Tiểu bang Michigan, giống như nhiều trường đại học Mỹ, tiếp tục ký hợp đồng cho các chương trình hỗ trợ kỹ thuật ở nước ngoài nhưng chẳng bao giờ đạt được quy mô như Đoàn Cố vấn Đại học Tiểu bang Michigan nữa. Cuối cùng, MSU nhận được rất ít lợi ích học thuật từ "chuyến phiêu lưu ở Việt Nam" của mình. Không có khóa học mới hoặc chương trình nghiên cứu đặc biệt nào được bắt đầu tại cơ sở nhà trường, và trong số 18 giáo sư được bổ nhiệm từ East Lansing, 5 người đã không quay lại trường và 4 người khác đã rời đi trong vòng hai năm kể từ khi họ trở về. Một kết quả gián tiếp là Phòng Nghiên cứu và Chương trình Quốc tế, được thành lập vào năm 1956 để cung cấp sự điều phối và hỗ trợ hành chính cho dự án Việt Nam (cũng như các dự án ở Colombia, Brasil và Okinawa). Năm 1964, cơ quan này nhận được cả một trụ sở mới mà ngày nay gọi là Trung tâm Quốc tế; tòa nhà trị giá khoảng 1,2 triệu USD và được tài trợ một phần từ số tiền thu được từ 25 triệu USD mà MSUG nhận được từ chính phủ Mỹ trong hợp đồng 7 năm tại Việt Nam (phần lớn trong số đó dùng để trang trải trang thiết bị, tiền lương, chi phí thực địa và chi phí hành chính).
Trong bối cảnh phong trào phản đối chiến tranh ngày càng gia tăng, Chủ tịch John Hannah đành rời bỏ MSU vào năm 1969 để đứng đầu Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, cơ quan kế nhiệm Cơ quan Hợp tác Quốc tế đã khởi xướng nên bản hợp đồng MSUG. Mặc dù việc ông đột ngột rời bỏ MSU có thể gợi ý điều ngược lại, nhưng Hannah không nghi ngờ tính đúng đắn của dự án này. Nhiều năm sau, ông tuyên bố, "Chúng tôi chưa bao giờ cảm thấy trường Đại học cần phải xin lỗi... vì những gì chúng tôi đã cố gắng làm ở Việt Nam. Tôi nghĩ rằng nếu Đại học Tiểu bang Michigan phải đối mặt với lựa chọn tương tự một lần nữa trong bối cảnh tương tự, họ có thể đồng ý hỗ trợ Chính phủ Mỹ như chúng tôi đã làm lúc đó". Người thay thế tạm thời cho Hannah trên cương vị chủ tịch là giáo sư kinh tế Walter Adams, vốn từ lâu nghi vấn về tính hiệu quả của các chương trình hỗ trợ kỹ thuật của trường đại học này và vào năm 1961, đã khuyến khích Jaffe và Taylor xuất bản cuốn A Crumbling Bastion.
Giáo sư Wesley Fishel đã bị MSU coi thường vì vai trò của ông trong dự án. Mặc dù đến năm 1962, ông đã trở nên "vỡ mộng trước các chính sách độc tài của Diệm," Fishel không thể chấp nhận một bài báo ủng hộ Diệm mạnh mẽ mà ông đã viết vào năm 1959 có nhan đề "Vietnam's Democratic One-Man Rule". Những người phản đối cơ sở trường đại học này đều lên tiếng chỉ trích ông qua các tấm biểu ngữ và khẩu hiệu của họ và làm gián đoạn các lớp học của ông ấy. Tai tiếng của Fishel và sự căng thẳng khi liên tục bảo vệ hành động của mình được cho là đã góp phần gây ra các vấn đề về sức khỏe, và ông qua đời vào tháng 4 năm 1977, ở tuổi 57.
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Các tài liệu do MSUG sản xuất sản xuất có sẵn thông qua Phòng Thanh toán Bù trừ Kinh nghiệm Phát triển của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
Việt Nam Cộng hòa
Chiến tranh Việt Nam
Đại học Tiểu bang Michigan |
Cảnh sát Dã chiến Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (, viết tắt CSDC) cũng được người Pháp gọi là Police de Campagne và có nhiều tên gọi khác nhau là Cảnh sát Dã chiến Quốc gia (NPFF), người Mỹ gọi tắt là Field Police hay Field Force, là một nhánh cảnh sát bán quân sự tinh nhuệ trực thuộc Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa (CSQGVNCH). Hoạt động tích cực trong chiến tranh Việt Nam, CSDC hoạt động chặt chẽ với Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) và Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) từ năm 1966 đến năm 1975.
Nguồn gốc
Cảnh sát Dã chiến được chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập vào tháng 1 năm 1966 đóng vai trò là đơn vị hỗ trợ vũ trang cho Cảnh sát Quốc gia.
Vai trò
Nhiệm vụ do CSDC thực hiện đã vượt xa nhiệm vụ thông thường của lực lượng cảnh sát dân sự, có chức năng phục vụ như một nhánh khác thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, được tổ chức và huấn luyện cho các hoạt động bán quân sự trên chiến trường ở cả nông thôn và thành thị. Chủ yếu họ được giao nhiệm vụ chống du kích, chống nổi dậy, công tác thu thập tin tình báo. Các đại đội và tiểu đoàn CSDC cũng được tuyển mộ vào nhiều nhiệm vụ khác như bảo vệ công trình công cộng quan trọng, bảo vệ VIP, an ninh công cộng, phản gián, kiểm soát bạo loạn, khoanh vùng và tìm kiếm, hành quân tác chiến trong rừng, núi và đô thị.
Từ năm 1967 đến năm 1972, CSDC đã tham gia sâu vào Chiến dịch Phượng Hoàng () do CIA điều hành gây nhiều tranh cãi, tham gia tích cực vào quá trình "vô hiệu hóa" – thường bao gồm các vụ bắt giữ tùy tiện mà không bị buộc tội, tra tấn thường xuyên, và hành quyết phi pháp – những thành viên bị nghi ngờ thuộc cơ sở hạ tầng dân sự hoặc "chính quyền ngầm" của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN).
Thành phần
Thành viên CSDC thường là Cảnh sát Quốc gia tình nguyện tham gia lực lượng dã chiến, mặc dù đơn vị này cũng tiếp nhận quân nhân được thuyên chuyển hoặc giải ngũ khỏi Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH). Về sau CSDC còn tiếp nhận cả các cựu thành viên của Lực lượng đặc biệt Việt Nam Cộng hòa (LLDBVNCH) sau khi bị giải thể vào tháng 12 năm 1970.
Cơ cấu và tổ chức
Bộ Chỉ huy Khối Cảnh sát Dã chiến báo cáo trực tiếp lệnh hành quân cho Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia và được bố trí về Tổng nha CSQG tại Sài Gòn. Với tên gọi Đơn vị Hỗ trợ Vũ trang, đến năm 1969, Bộ Chỉ huy Khối Cảnh sát Dã chiến phụ trách các đơn vị Cảnh sát dã chiến và Cảnh sát Sông ngòi và Ven biển. Đổi tên thành Đơn vị Phản ứng năm 1972, Bộ Chỉ huy Khối Cảnh sát Dã chiến sáp nhập Lực lượng Điều tra Tỉnh và đến năm 1973 lại đổi tên thành Phòng Điều hành Di động.
Đơn vị cơ bản của Cảnh sát Dã chiến là đại đội được biên chế thành ban chỉ huy đại đội gồm 24 người và một số trung đội chiến đấu 40 người, mỗi trung đội bao gồm những tiểu đội 10 người. Cho đến năm 1968, một đại đội được phân công phụ trách từng tỉnh, thành phố chính và bố trí một số trung đội từ hai đến 13 trung đội tùy theo số quận, huyện. Ví dụ: có thể chỉ định tối đa năm huyện cho một đại đội, nhưng nếu một tỉnh hoặc thị xã có hơn sáu huyện thì có thể triển khai hai đại đội. Sau năm 1969, một cuộc tái tổ chức lớn được thực hiện, với các đại đội cấp tỉnh được mở rộng thành các tiểu đoàn. Đến tháng 8 năm 1971, lực lượng Cảnh sát Dã chiến có tổng cộng 16.500 sĩ quan và quân nhân được biên chế thành 44 tiểu đoàn cấp tỉnh gồm khoảng 90 đại đội, 242 trung đội cấp huyện và một trung đội kỵ binh độc lập. Hai đại đội độc lập gồm bốn trung đội, mỗi đại đội lần lượt đóng tại Vũng Tàu và Đà Nẵng, hai thành phố cảng tự trị có lực lượng cảnh sát thành phố riêng biệt với tỉnh nơi họ đóng trụ sở.
Để cung cấp sự giám sát và hỗ trợ cho tất cả các đơn vị Cảnh sát Dã chiến cấp tỉnh và thị xã này, Ban Chỉ huy Đại đội đều được đặt tại mỗi Quân đoàn trong số bốn Quân đoàn trên toàn quốc. Một đại đội Cảnh sát Dã chiến thường được một Thanh tra viên (Đại úy sau năm 1971) chỉ huy, viên chức này lại chịu sự chỉ huy tác chiến của Trưởng Công an Tỉnh trong khi các trung đội được phân công về các huyện đều nằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Trưởng Công an Huyện trực tiếp chịu trách nhiệm trước Trưởng phòng Chính trị Huyện.
Thiết giáp
Là lực lượng chủ yếu là bộ binh hạng nhẹ, Cảnh sát Dã chiến vận hành một trung đội kỵ binh độc lập duy nhất được cung cấp 8 chiếc xe bọc thép hạng nhẹ M8 Greyhound cổ điển của Mỹ trong Thế chiến thứ hai. Đóng quân ngay tại thủ đô Sài Gòn, đơn vị này phụ trách an ninh tòa nhà Ngân hàng Quốc gia và an ninh vòng đai Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia gần đó cũng như các khu vực xung quanh. Đơn vị này chuyên tuần tra trong khu vực đô thị và tác chiến cơ động.
Biệt đoàn
Ngoài ra, Cảnh sát Dã chiến còn duy trì hai Biệt đoàn với tổng số 5.000 người bao gồm Biệt đoàn 5 CSDC và Biệt đoàn 222 CSDC, giúp Cảnh sát Quốc gia đủ khả năng tham gia độc lập vào các hành động phòng thủ hoặc tấn công tùy theo nhiệm vụ phòng thủ tác chiến của lực lượng này.
Đóng quân ngay tại thủ đô Sài Gòn, Biệt đoàn 5 trên thực tế là một tiểu đoàn mở rộng kể từ khi được tung ra chiến trường, ngoài một ban chỉ huy đại đội, 12 đến 14 đại đội chiến đấu, mỗi đại đội gồm bốn trung đội. Tiểu đoàn hoạt động trên địa bàn rộng lớn hơn là vùng Sài Gòn-Gia Định, được giao trực thuộc Tổng nha Cảnh sát Thành phố Sài Gòn đảm trách nhiệm vụ nội an, phòng vệ thủ đô. Trong trận Tết Mậu Thân tháng 1 năm 1968, đơn vị đã cam kết bảo vệ Phủ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Dinh Độc Lập cùng với các đơn vị Cảnh sát Quốc gia và QLVNCH khác, nổi bật trong các trận đánh giành lại Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt, Chợ Lớn, Trường đua Phú Thọ và Nhà thờ Cha Tam, khiến cho các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải chịu tổn thất nặng nề khi tấn công vào đây.
Cũng đóng quân tại Sài Gòn, Biệt đoàn 222, một tiểu đoàn nhỏ hơn chỉ có sáu đại đội chiến đấu, lần lượt được giao cho Tổng dự trữ của Cảnh sát Quốc gia như một đơn vị phản ứng nhanh có thể được triển khai trên toàn quốc, được giao nhiệm vụ cụ thể và nhiệm vụ tăng cường. Tiến vào Sài Gòn trong dịp Tết Mậu Thân 1968, Cảnh sát Dã chiến thuộc Biệt đoàn 222 đã đánh đuổi thành công toán đặc công Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang cố thủ trong tòa nhà Đài Phát thanh Quốc gia, nằm cách Đại sứ quán Mỹ vài trăm mét mà còn chiến đấu ở nơi khác. Từ năm 1968 đến năm 1975, các đại đội chiến đấu của Tiểu đoàn được triển khai tại nhiều thời điểm và địa điểm khác nhau trên khắp cả nước, tham gia hoạt động phòng thủ và tấn công cùng với những đơn vị Cảnh sát Quốc gia hoặc Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Tuyên Đức, Gia Định, Long An, Biên Hòa và đảo Phú Quốc. Khi thị xã An Lộc bị ba sư đoàn thiết giáp của Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) bao vây vào tháng 4 năm 1972 trong Chiến dịch Lễ Phục Sinh, Biệt đoàn 222 đã được điều động đến để tăng cường phòng thủ thành phố và trụ vững thành công trước những đợt tấn công liên tục của xe tăng địch.
Trinh sát Đặc biệt
Nhiệm vụ trinh sát và thám báo do các toán viên chiến đấu thuộc đội Trinh sát Đặc biệt thực hiện. Được tuyển mộ từ các dân tộc thiểu số như Khmer Krom, Chăm, Nùng hoặc Thượng, họ được tổ chức thành các đơn vị cỡ trung đội trực thuộc mỗi đại đội Cảnh sát Dã chiến. Họ chuyên về leo dốc, chống phục kích, xuất kích bằng máy bay, bắn chiến thuật nhanh, quan sát phía trước, ra hiệu bằng tay và cánh tay, chiến đấu tay đôi, xâm nhập khu vực bằng trực thăng vận, chiến tranh rừng rậm và núi non, sống ngoài rừng rậm và núi non, thám báo tầm xa, chiến thuật tác chiến do thám, chiến thuật tác chiến đơn vị nhỏ, y tế khẩn cấp chiến thuật, liên lạc vô tuyến chiến thuật, chiến thuật theo dõi, chiến thuật tác chiến phi chính quy và sử dụng bản đồ cùng la bàn.
Huấn luyện
Nhân viên Cảnh sát Quốc gia tình nguyện tham gia Cảnh sát Dã chiến, ngoài việc được hướng dẫn cơ bản về nghiệp vụ cảnh sát, còn được đào tạo nâng cao về bán quân sự. Sĩ quan tập sự vừa tốt nghiệp Học viện Cảnh sát Quốc gia hoặc Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt phải trải qua một khóa hướng dẫn toàn diện về chiến thuật tác chiến tại Trường Bộ binh Thủ Ðức, trong khi nhân viên cảnh sát sắc phục đã hoàn thành khóa huấn luyện cơ bản tại Rạch Dừa cũng tham dự một chương trình tương tự tại Trung tâm Huấn luyện Chiến đấu của QLVNCH và Trường Hạ sĩ quan cùng đặt tại Đà Lạt. Trong giai đoạn này, tất cả các khóa huấn luyện chiến đấu đều được thực hiện ở cấp tiểu đội và trung đội, giúp các tân binh có được khả năng cơ động chiến thuật tốt trên thực địa.
Sau đó, Cảnh sát Dã chiến tương lai – bao gồm cả sĩ quan và hạ sĩ quan – đã trải qua thêm 8 tuần huấn luyện về kỹ năng bán quân sự Cảnh sát Dã chiến tại Trung tâm Huấn luyện Cảnh sát Quốc gia Mã Lai Á và Phi Luật Tân. Hướng dẫn bao gồm các chủ đề như kỹ thuật bảo vệ tầm gần, chiến đấu và tuần tra trong khu vực đô thị, chống phục kích, kiểm soát đám đông, sơ tán, sơ cứu, tín hiệu tay và cánh tay, chiến đấu tay đôi, xâm nhập khu vực bằng trực thăng vận, thu thập thông tin tình báo, hoạt động thu thập thông tin tình báo, chiến thuật chiến đấu trong rừng núi, thực thi pháp luật, sống ngoài rừng rậm, liên lạc vô tuyến, chiến thuật chiến đấu đột kích và trinh sát, kỹ thuật kiểm soát bạo động, chiến thuật theo dõi và sử dụng bản đồ cùng la bàn. Để nâng cấp khả năng của mình, các tiểu đội và trung đội được định kỳ đưa trở lại các trung tâm huấn luyện này để tham gia khóa huấn luyện bồi dưỡng đơn vị trong sáu tuần, nhưng đối với hầu hết đại đội và tiểu đoàn Cảnh sát Dã chiến đóng tại các tỉnh thành, khóa bồi dưỡng của họ thực sự diễn ra tại những trung tâm huấn luyện khu vực. Huấn luyện quân sự "tại chỗ" bổ sung được Đội Huấn luyện Cơ động Mỹ cung cấp cho các đơn vị Cảnh sát Dã chiến trên chiến trường hoặc do các cố vấn Úc từ Đội Huấn luyện Quân đội Úc tại Việt Nam (AATTV) phụ trách.
Học viên sĩ quan được tuyển chọn còn sang tham dự các khóa học nâng cao về giảng dạy chuyên ngành cảnh sát ở Trung tâm Huấn luyện Đặc biệt Cảnh sát Dã chiến thuộc Cảnh sát Hoàng gia Malaysia () tại Kentonmen, Ulu Kinta, Perak, Malaysia; sau khi tốt nghiệp, một số sĩ quan Cảnh sát Quốc gia mới này khi trở về nước đều được bổ nhiệm làm giảng viên Cảnh sát Dã chiến tại các trung tâm huấn luyện cảnh sát để truyền thụ kỹ năng cho tân binh Cảnh sát Dã chiến.
Vũ khí và trang bị
Cảnh sát Dã chiến được trang bị vũ khí hạng nhẹ theo tiêu chuẩn quân sự, nhưng trang bị vũ khí hạng nặng lại theo tiêu chuẩn cảnh sát thông thường. Ban đầu, hầu hết vũ khí của lực lượng này đều là đồ cũ lấy từ Thế chiến thứ hai/Chiến tranh Triều Tiên – vũ khí tiêu chuẩn là súng trường bán tự động hạng nặng M1 Garand, được bổ sung thêm súng carbine M1/M2, súng tiểu liên M3 và Thompson cùng súng máy hạng nhẹ BAR. Từ năm 1969, súng trường, súng carbine và súng tiểu liên bắt đầu được thay thế bằng súng trường M16 và mặc dù loại súng này trở thành vũ khí chính của Cảnh sát Dã chiến nhưng nó chưa bao giờ thay thế hoàn toàn các loại vũ khí trước đó. Ngoài ra, mỗi trung đội còn có một khẩu súng phóng lựu M79 và một súng máy hạng trung cỡ nòng 0,30. 24 khẩu súng shotgun đã có sẵn trong kho vũ khí của đại đội. Cảnh sát Dã chiến không có hệ thống vũ khí do tổ đội vận hành như súng cối hoặc bất kỳ vũ khí hỏa lực gián tiếp nào khác.
Súng ngắn ổ xoay M1917
Súng ngắn ổ xoay Smith & Wesson Model 10
Súng ngắn ổ xoay mũi hếch đặc biệt Smith & Wesson SW2 Bodyguard .38
Súng ngắn ổ xoay mũi hếch đặc biệt Colt Cobra .38
Súng ngắn Smith & Wesson Model 39
Súng ngắn tự động Colt.45 M1911A1
Súng trường chiến đấu M1 Garand
Súng carbine M1
Súng carbine M2
Súng tiểu liên "Grease Gun" M3 và M3A1
Súng tiểu liên IMI Uzi
Súng tiểu liên M1A1 Thompson
Súng trường tấn công M16A1
Shotgun dạng trượt Ithaca Model 37
Shotgun dạng trượt Stevens Model 77E
Súng máy hạng nhẹ M1918A2 BAR
Súng máy M60
Súng máy hạng trung Browning M1919A4 .30 Cal
Súng phóng lựu M79
Phương tiện
Xe jeep Willys MB
Xe jeep Willys M38 MC
Xe tải đa dụng Dodge M37
Xe tải đa dụng Kaiser Jeep M715
Xe bọc thép hạng nhẹ M8 Greyhound
Quân phục và phù hiệu
Nhân viên Cảnh sát Dã chiến ban đầu được cấp quân phục màu xanh ô liu tiêu chuẩn giống như các ngành Cảnh sát Quốc gia khác, nhưng từ năm 1967, họ bắt đầu nhận được trang phục ngụy trang 'Con Báo' mới, được người Việt mệnh danh là đồng phục 'hoa màu đất'. Đây là bản sao được sản xuất tại địa phương của mẫu ngụy trang Mitchell 'Clouds' do người Mỹ thiết kế, kết hợp các đốm hình đám mây màu nâu sẫm, màu nâu đỏ, màu be, màu nâu nhạt và màu đất son chồng lên nhau trên nền màu rám nắng.
Áo khoác dã chiến M-1951 của Mỹ màu xanh ô liu hoặc bản sao trong nước bằng vải ngụy trang được cấp cho các đại đội Cảnh sát Dã chiến hoạt động trong môi trường miền núi lạnh lẽo vùng Tây Nguyên.
Mũ sắt
Cảnh sát Dã chiến được phân biệt với phần còn lại của Cảnh sát Quốc gia bằng một chiếc mũ nồi đen làm từ một mảnh len duy nhất gắn với một dải vành bằng da màu đen có hai dây buộc ở phía sau. Mũ nồi thường được đúc cẩn thận để có hình dạng nhọn hoặc 'mào hình tổ ong', rất nhiều quân nhân Việt Nam Cộng hòa chịu ảnh hưởng loại mũ này vì nó được cho là mang lại cho người đội một dáng người oai phong hơn và sự quyến rũ của 'lính xung kích' hay 'biệt kích' hung hãn. Nó được đeo kiểu Pháp kéo sang trái, với huy hiệu mũ Cảnh sát Quốc gia đặt phía trên mắt phải. Ban đầu dự định được mặc cùng với đồng phục cảnh sát quốc gia theo quy định trong những dịp trang trọng, mũ nồi đôi khi được nhìn thấy trên thực địa nhưng nó thường được thay thế bằng mũ rừng rằn ri và mũ bảo hiểm thép M-1 kiểu 1964 của Mỹ, chiếc mũ sau được đội cùng với lớp vỏ ngụy trang hình 'Mây'. Một chiếc mũ bảo hiểm M-1 của Mỹ được sơn màu đen bóng, có sọc trắng đỏ ở hai bên và có chữ "TC" (Tuấn Tra) mà Cảnh sát Dã chiến đội vào khi phụ trách tuần tra hoặc kiểm soát bạo động ở khu vực thành thị.
Giày trận
Giày trận bằng da màu đen được cung cấp bởi người Mỹ đã phát hành cả mẫu M-1962 'McNamara' đầu tiên của Quân đội Mỹ và mẫu M-1967 với đế cao su hoa văn 'gợn sóng', sản phẩm tiêu chuẩn của QLVNCH. Trên chiến trường, cảnh sát dã chiến thường mang loại ủng đi rừng được đánh giá cao của Quân đội Mỹ và ủng nhiệt đới Bata bằng vải bạt màu đen hoặc xanh lá cây do Việt Nam sản xuất, được thay thế bằng dép da hoặc nhựa thương mại và cao su khi ở trong đồn. Một số cá nhân có khóa kéo bên trong đôi bốt đi rừng của họ để có thể buộc cố định theo kiểu 'trên không' lạ mắt, trong khi người mang có thể xỏ đôi bốt vào một cách nhanh chóng và dễ dàng bằng cách sử dụng khóa kéo.
Phù hiệu
Về việc đặt phù hiệu, Cảnh sát Dã chiến có một hệ thống riêng, ban đầu được điều chỉnh từ đồng phục của họ. Hầu hết Cảnh sát Dã chiến đều không đeo phù hiệu trên đồng phục ngụy trang dã chiến khi đang lâm trận, hoặc đôi khi chỉ có phù hiệu đại đội của họ bằng phiên bản vải hoặc kim loại trong móc treo túi theo kiểu Pháp treo ở túi áo sơ mi bên phải.
Đội Trinh sát Đặc biệt được cấp một miếng vá tròn thêu màu đen viền đỏ, với chữ "CSQG" và "TSDB" màu đỏ và lưỡi lê hình thanh kiếm có cánh chĩa xuống.
Chú thích
Tham khảo
Gordon L. Rottman and Ramiro Bujeiro, Army of the Republic of Vietnam 1955–75, Men-at-arms series 458, Osprey Publishing Ltd, Oxford 2010.
Kenneth Conboy and Simon McCouaig, South-East Asian Special Forces, Elite series 33, Osprey Publishing Ltd, London 1991.
Kevin Lyles, Vietnam ANZACs – Australian & New Zealand Troops in Vietnam 1962–72, Elite series 103, Osprey Publishing Ltd, Oxford 2004.
James Arnold, Tet Offensive 1968 – Turning point in Vietnam, Campaign series 4, Osprey Publishing Ltd, London 1990.
Lee E. Russell and Mike Chappell, Armies of the Vietnam War 2, Men-at-arms series 143, Osprey Publishing Ltd, London 1983.
Leroy Thompson, US Combat Shotguns, Weapon series 29, Osprey Publishing Ltd, Oxford 2013.
Michael H. Kluever, Weapons Backdate – Trench Guns, in Command magazine – Military History, Strategy & Analysis, Issue 36, March 1996, pp. 12–13.
Nigel de Lee, Chapter 2 – Southeast Asia: the impact of Mao Tse-tung (pp. 48–61) in John Pimlott (ed.), Guerrilla Warfare, Bison Books Ltd., London 1985.
Phillip Katcher and Mike Chappell, Armies of the Vietnam War 1962–1975, Men-at-arms series 104, Osprey Publishing Ltd, London 1980.
Sir Robert Thompson et al., Report on the Republic of Vietnam National Police, 1971.
Valéry Tarrius, La Police de Campagne du Sud-Vietnam 1967–1975, in Armes Militaria Magazine, March 2005 issue, Histoire & Collections, Paris, pp. 37–43. (bằng tiếng Pháp)
Data on GVN Field Force/Police – January 1, 1968, Folder 01, Box 16, Douglas Pike Collection: Unit 06 – Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University
Đọc thêm
Leroy Thompson, Michael Chappell, Malcolm McGregor and Ken MacSwan, Uniforms of the Indo-China and Vietnam Wars, Blandford Press, London 1984.
Martin Windrow and Mike Chappell, The French Indochina War 1946–54, Men-at-arms series 322, Osprey Publishing Ltd, Oxford 1998.
Liên kết ngoài
The "White Mice" of Vietnam
RVN National Police at globalsecurity.org
Hiệp hội Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Cảnh sát Quốc gia Việt Nam Cộng hòa
Chấm dứt năm 1975 ở Việt Nam
Đơn vị quân sự giải thể thập niên 1970
Văn phòng Trung ương Quốc gia của Interpol |
Thirteen Lives là một bộ phim tiểu sử của Mỹ được ra mắt năm 2022, dựa trên cuộc giải cứu hang Tham Luang, do Ron Howard đạo diễn và sản xuất và được viết bởi William Nicholson. Phim có sự tham gia của Viggo Mortensen, Colin Farrell, Joel Edgerton và Tom Bateman.
Thirteen Lives được phát hành tại một số rạp chọn lọc vào ngày 29 tháng 7 năm 2022, bởi United Artists Releasing, và bắt đầu phát trực tuyến trên nền tảng Amazon Prime Video vào ngày 5 tháng 8 năm 2022. Phim nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình.
Cốt truyện
Diễn viên
Viggo Mortensen trong vai Richard Stanton
Colin Farrell trong vai John Volanthen
Joel Edgerton trong vai Richard Harris
Tom Bateman trong vai Chris Jewell
Pattarakorn Tangsupakul trong vai Buahom
Sukollawat Kanarot trong vai Saman Kunan
Teerapat Sajakul trong vai Captain Arnont
Sahajak Boonthanakit trong vai Governor Narongsak Osatanakorn
Vithaya Pansringarm trong vai General Anupong Paochinda
Teeradon Supapunpinyo trong vai Ekkaphon Chanthawong
Nophand Boonyai trong vai Thanet Natisri
Paul Gleeson trong vai Jason Mallinson
Lewis Fitz-Gerald trong vai Vernon Unsworth
Peter Knight trong vai Police Captain Bas
U Gambira trong vai Kruba Boonchum
Josh Helman trong vai Major Hodges
Sản xuất
Vào tháng 4 năm 2020, đã có thông báo rằng Ron Howard sẽ đạo diễn bộ phim, với William Nicholson viết kịch bản. Metro-Goldwyn-Mayer acquired the rights to the film the following month. Vào tháng 3 năm 2021, Viggo Mortensen, Colin Farrell và Joel Edgerton nằm trong số dàn diễn viên được công bố sẽ đóng vai chính trong phim. Quá trình quay phim bắt đầu vào ngày 29 tháng 3 năm 2021, tại Úc, và cũng bao gồm những cảnh quay ở Thái Lan. Nhạc gốc của phim được sáng tác bởi Benjamin Wallfisch.
Ra mắt
Thirteen Lives được ra mắt bởi United Artists Releasing tại một số rạp chọn lọc vào ngày 29 tháng 7 năm 2022, trước khi phát trực tuyến trên Amazon Prime Video vào ngày 5 tháng 8. Ban đầu bộ phim được lên kế hoạch phát hành đầy đủ tại rạp bởi United Artists Releasing vào ngày 15 tháng 4 năm 2022, và sau đó được hoãn lại đến ngày 18 tháng 11 để đáp lại buổi chiếu thử tốt nhất trong lịch sử của MGM. Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 2022, bộ phim đã được dời đến ngày phát hành hiện tại do việc Amazon mua lại MGM vào tháng 3.
Âm nhạc
Khi Howard tiếp cận người cộng tác quen thuộc của anh, Hans Zimmer để ghi điểm, người sau đã đặc biệt đề cử người bảo trợ của anh Benjamin Wallfisch cho công việc này. Wallfisch đã chuẩn bị sẵn một bộ phim dài 20 phút trước khi Howard bắt đầu quay ở Thái Lan.
Sự đón nhân
Trên trang website của Rotten Tomatoes, phim có tỷ lệ tán thành là 86% dựa trên 178 bài phê bình, với điểm trung bình là 7,3/10. Sự đồng thuận của trang web cho biết, "Được sự chỉ đạo ổn định bởi đạo diễn Ron Howard, Thirteen Lives mang đến một vở kịch chưa hoàn chỉnh nhưng vẫn hấp dẫn về một câu chuyện có thật đáng kinh ngạc." Còn trên Metacritic, bộ phim có điểm trung bình là 66/100 dựa trên 40 nhà phê bình, cho thấy "các bài đánh giá nhìn chung là thuận lợi".
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Ghi chú
Liên kết ngoài
Kịch bản chính thức
Phim truyền hình
Phim Mỹ
Phim tiểu sử
Phim tiểu sử của Mỹ
Phim năm 2022
Phim tiếng Anh
Phim tiếng Thái |
Tôn giáo ở Venezuela chỉ về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng tại Venezuela. Venezuela không có một tôn giáo chính thức do là một quốc gia thế tục và Hiến pháp Venezuela quy định đảm bảo quyền tự do tôn giáo. Về cơ cấu thì Cơ đốc giáo nói chung là tôn giáo lớn nhất ở Venezuela, trong đó Công giáo có nhiều tín đồ nhất. Công giáo La Mã là đức tin thống trị và có sức lan tỏa sâu rộng về mặt văn hóa và xã hội. Trước khi các nhà truyền giáo Tây Ban Nha đến, người da đỏ bản địa cư trú trên lãnh thổ Venezuela ngày nay đã thực hành nhiều tín ngưỡng truyền thống khác nhau. Giáo hội Công giáo ở Venezuela tập trung chủ yếu vào việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria, điều này được minh họa bằng những nhân vật như Đức Mẹ Coromoto ở bang Portuguesa, Virgen del Valle ở Nueva Esparta và Đức mẹ Mân Côi Chiquinquirá ở phần phía tây Venezuela.
Tổng quan
Venezuela giống như hầu hết các quốc gia Nam Mỹ, là một quốc gia theo Công giáo Rôma. Ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo ở nước này có từ thời thực dân Tây Ban Nha. Theo ước tính của chính phủ, 92% dân số trên danh nghĩa là tín hữu Công giáo Rôma và còn lại 8% là Tin Lành, các tôn giáo khác, hoặc vô thần. Các ước tính của Hội đồng Tin Lành Venezuela cho rằng Giáo hội Tin Lành chiếm 10% dân số. Có những cộng đồng Hồi giáo và Do Thái giáo nhỏ nhưng có ảnh hưởng. Các cộng đồng Hồi giáo của hơn 100.000 người tập trung ở những người gốc Lebanon và Syria hiện sống ở các khu vực như Nueva Esparta, Punto Fijo và khu vực Caracas. Các con số thuộc cộng đồng Do Thái giáo là khoảng 13.000 tín đồ và chủ yếu tập trung ở Caracas. Hiện nay có khoảng 153.000 tín đồ Mormon phần lớn ở tại Caracas.
Theo điều tra dân số quốc gia năm 2011, ước tính có khoảng 71% dân số được xác định là Công giáo. Hơn 17% người Venezuela được xác định là theo đạo Tin lành và 9% được xác định là không liên kết với bất kỳ tôn giáo nào. Phần còn lại của dân số xác định với một số tôn giáo khác (bao gồm cả tín ngưỡng dân gian khoảng 1%), mặc dù nhiều Cơ đốc nhân tự nhận mình cũng có thể thực hành các nghi lễ dựa trên tín ngưỡng dân gian. Các ước tính chỉ ra rằng sự liên kết tôn giáo với Nhà thờ Công giáo đang giảm dần khi tỷ lệ người Venezuela theo đạo Tin lành hoặc không theo tôn giáo nào tăng lên mỗi năm. Nhìn chung, thế hệ trẻ của người Venezuela có xu hướng ít tôn giáo hơn những thế hệ lớn tuổi hơn. Tôn giáo và Cơ đốc giáo không phải là một chủ đề quá nhạy cảm ở Venezuela. Tuy nhiên, nói chung là không thích hợp để công khai hỏi về tín ngưỡng dân gian vì mức độ mê tín thận trọng có thể bao quanh những chủ đề này.
Công giáo
Đạo Công giáo du nhập vào Venezuela bởi các nhà truyền giáo Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ XVI, cụ thể là vào năm 1515 ở Nueva Toledo). Giáo hội Công giáo đã từng là một tổ chức có sức mạnh lịch sử về văn hóa và chính trị của nước này. Bản chất ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo trong nền chính trị Venezuela đã thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên, nhiều người Venezuela coi Công giáo là một phần không thể thiếu trong bản sắc văn hóa, được truyền qua gia đình và quốc gia như một phần di sản. Mọi người nói chung tổ chức các ngày lễ và lễ hội Công giáo vì văn hóa và lịch của đất nước phản ánh tôn giáo. Hầu hết người Venezuela ăn mừng lễ Phục sinh và Giáng sinh. Hơn nữa, lời chào thông thường giữa hầu hết người Venezuela và gia đình của họ là “Bendición” bắt nguồn từ truyền thống Công giáo và được dịch một cách lỏng lẻo thành “phước lành”. Sự tuân thủ các thực hành và tín ngưỡng Công giáo và mức độ bảo thủ khác nhau trên khắp đất nước. Công giáo có xu hướng mạnh nhất ở vùng Andean.
Theo The World Factbook, năm 2009, 96% dân số là người Công giáo La Mã, năm 2018, Latinobarómetro ước tính 66% dân số là người Công giáo La Mã. Một cuộc thăm dò năm 2014 do Trung tâm Nghiên cứu Pew thực hiện cho biết chỉ 10% người Venezuela xác định là Công giáo nói rằng tôn giáo rất quan trọng đối với cuộc sống của họ, và họ cầu nguyện hàng ngày cũng như đi lễ hàng tuần. Hơn nữa, nhiều ý kiến xã hội đương thời của mọi người đã khác xa với các giáo lý chính thức của Giáo hội Công giáo. Điều này cho thấy rằng phần lớn người Venezuela đang thế tục trong thực tiễn cuộc sống hàng ngày của họ. Hơn nữa, sự phát triển của các tôn giáo Tin lành truyền đạo trong những năm gần đây đã làm cho Giáo hội Công giáo mất đi sự ủng hộ. Tuy nhiên, nhiều người Venezuela vẫn sùng đạo, cầu nguyện hàng ngày và thường xuyên đi lễ. Dưới thời của Hugo Chávez rất xem nhẹ vai trò của các giám mục của Giáo hội Công giáo trong xã hội Venezuela. Tiếp theo đó, Giáo hội Công giáo Venezuela đã lên tiếng phản đối chính quyền Maduro nhưng Giáo hoàng Francis đã lên tiếng trung lập trong cuộc khủng hoảng tổng thống Venezuela năm 2019.
Tin lành
Đạo Tin lành đã trở nên phổ biến trong Công giáo Mỹ La-tinh. Tính đến năm 2011, đã có 17% người Venezuela được xác định là theo đạo Tin lành. Các cuộc chuyển đổi từ Công giáo sang các truyền thống Tin lành đã xảy ra trong thế hệ gần đây nhất. Sự gia tăng này có thể là do một số yếu tố, chẳng hạn như sự mất lòng tin ngày càng tăng đối với Giáo hội Công giáo, cũng như sự thành công của các nhóm truyền giáo Ngũ tuần (đặc biệt là những nhóm tiếp cận với người Venezuela bản địa và những người bị gạt ra ngoài lề xã hội), nhiều người dân nông thôn Venezuela trở nên bất bình với Giáo hội Công giáo khi chuyển đến các cộng đồng đô thị mới bên ngoài. Đạo Tin lành (đặc biệt là truyền thống Ngũ tuần) đã có thể thu hẹp khoảng cách đối với một số người trong các cộng đồng mới đô thị hóa này. Do đó, nó đặc biệt phổ biến ở Barrios (khu ổ chuột ngoài đô thị). Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su Christ (Mormon) tuyên bố có 173.125 thành viên (tháng 4 năm 2022) chủ yếu ở trong và xung quanh Caracas. Nhân Chứng Giê-hô-va cho biết có 136.542 người công bố đang hoạt động, hợp nhất trong 1.734 hội thánh; có 319.962 người tham dự Bữa Tiệc Thánh hàng năm của Chúa vào năm 2020.
Tín ngưỡng
Trước khi chịu sự đô hộ của Đế chế Tây Ban Nha và sự ảnh hưởng của Cơ Đốc giáo thì người da đỏ bản địa ở đây cũng có hệ thống tôn giáo bản địa truyền thống. Hiện nay, một số tín ngưỡng dân gian đang trở nên phổ biến ở Venezuela trong tất cả các tầng lớp xã hội. Những điều này thường kết hợp các yếu tố của ma thuật, ma thuật và tâm linh Thời đại Mới (New Age) với các truyền thống Công giáo chẳng hạn như việc thờ cúng các vị thánh. Vì chúng có những điểm tương đồng với các thực hành của Cơ đốc giáo, chúng thường thu hút những người Công giáo suốt đời tin rằng họ đang tham gia vào một biến thể của cùng một đức tin với các nghi lễ khác nhau.
Những người theo đạo thường thực hành các truyền thống như vậy cùng với Cơ đốc giáo và tiếp tục tự nhận mình là Công giáo hoặc Tin lành, chẵng hạn như trước tiên họ có thể thực hiện một lời cầu nguyện Cơ đốc, sau đó là một hình thức thờ phượng khác. Giáo hội Công giáo đã tuyên bố họ mong muốn duy trì sự phân biệt giữa các tôn giáo dân gian và Công giáo. Những tín ngưỡng dân gian được biết đến nhiều nhất là Santería và Espiritismo. Một số người tin rằng những người theo Santería và Espiitismo chiếm tới 30% dân số Venezuela. Tuy nhiên, rất khó xác định số lượng người theo dõi vì nhiều người giữ bí mật về việc thực hành của họ, đôi khi giấu kín với gia đình.
Santería: Là một truyền thống tôn giáo có nguồn gốc từ châu Phi đã được du nhập vào Cuba bởi người Yoruba và lan rộng khắp Mỹ La-tinh và Venezuela kể từ năm 2008. Nó kết hợp các khía cạnh của tôn giáo Yoruba, Cơ Đốc giáo, truyền thống Voodoo của Haiti và ma thuật. Santería thu hút tín đồ từ mọi tầng lớp và đặc biệt phổ biến ở các thành phố thuộc tầng lớp trung lưu. Các nghi lễ ở Santeria bao gồm việc giết thịt và dâng cúng gà trống, gà cúng hoặc hiến tế dê.
Espiitismo: Là tín ngưỡng dựa trên niềm tin phổ biến rằng những linh hồn tốt và xấu có thể ảnh hưởng đến sức khỏe, may mắn và các khía cạnh khác của cuộc sống con người. Một trong những hình thức phổ biến nhất của việc thực hành thờ cúng Espiitismo là thờ một phụ nữ Venezuela thế kỷ XVI có tên là María Lionza, người được cho là nữ thần cai quản vũ trụ, tình yêu và hòa bình. Địa vị của cô như một nữ thần không được coi là trái ngược với Thiên Chúa của Cơ đốc giáo, cả hai thường được tôn thờ cùng với nhau. Phong trào tôn giáo Maria Lionza rất chú trọng đến việc thực hiện các nghi lễ, chẳng hạn như hiến tế động vật, nghi lễ phù thủy, triệu hồi linh hồn và người chết để đạt được những kết quả cụ thể. Các phong trào tôn giáo như vậy được mọi tầng lớp xã hội biết đến nhưng đặc biệt phổ biến ở các cộng đồng nghèo hơn, bị gạt ra bên lề xã hội ở Venezuela.
Chú thích
Tôn giáo |
Grand Theft Auto: The Ballad of Gay Tony là bản mở rộng thứ hai trong số hai phần dành cho tựa game năm 2008 Grand Theft Auto IV, do hãng Rockstar North phát triển và được Rockstar Games phát hành. Trò chơi được phát hành riêng cho hệ máy Xbox 360 vào ngày 29 tháng 10 năm 2009, và cho PlayStation 3 cùng Windows vào ngày 13 tháng 4 năm 2010, như một phần của phiên bản dựa trên đĩa game độc lập mang tên Grand Theft Auto: Episodes from Liberty City, còn chứa cả bản Grand Theft Auto: The Lost and Damned và không cần phải chơi tựa game gốc. Microsoft đã thêm Episodes from Liberty City vào danh sách tương thích ngược cho nền tảng Xbox One vào tháng 2 năm 2017.
Lấy bối cảnh đồng thời với các sự kiện của Grand Theft Auto IV và The Lost and Damned, The Ballad of Gay Tony theo chân Luis Fernando Lopez, cựu vệ sĩ buôn ma túy người Mỹ gốc Dominica và là bạn thân nhất của Anthony "Gay Tony" Prince, tay trùm quản lý hộp đêm và người có địa vị cao trong xã hội ở Liberty City. Cốt truyện chính của phần này tập trung vào những nỗ lực của Luis hòng giúp Tony vượt qua nhiều vấn đề khác nhau, bao gồm ma túy, nợ nần, tranh chấp với các gia đình tội phạm Mafia và những nỗ lực nhằm vào mạng sống của cả hai. Nó cũng kết nối những kết thúc lỏng lẻo từ Grand Theft Auto IV và The Lost and Damned liên quan đến cốt truyện bán kim cương kết nối cả ba phiên bản.
Trò chơi nhận được phần lớn đánh giá tích cực từ giới phê bình và được coi là một trong những gói nội dung tải về hay nhất mọi thời đại.
Cốt truyện
Năm 2008, sau khi chứng kiến vụ cướp Ngân hàng Liberty, Luis Fernando Lopez (Mario D'Leon) gặp ông chủ và đối tác kinh doanh của mình, chủ hộp đêm "Gay" Tony Prince (David Kenner). Đấu tranh để điều hành các câu lạc bộ Maisonette 9 và Hercules, Tony phải vay tiền từ gia đình tội phạm Ancelotti và Mori Kibbutz (Jeff Gurner) để duy trì hoạt động của họ, cuối cùng phải gánh một khoản nợ lớn. Luis thấy mình đang làm việc với cả Mori và Rocco Pelosi (Greg Siff), một tên cướp Ancelotti, để trả nợ cho Tony. Đồng thời, anh giúp đỡ những người bạn buôn bán ma túy của mình – Armando Torres (Jaime Fernandez) và Henrique Bardas (J Salome Martinez Jr.) – thoát khỏi một số giao dịch thất bại và hỗ trợ Yusuf Amir (Omid Djalili), một nhà phát triển bất động sản ở Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất quan tâm đến việc mua lại mấy câu lạc bộ của Tony, với việc đánh cắp một chiếc trực thăng tấn công và giết chết nhiều tay buôn bán vũ khí, lấy cắp một xe bọc thép chở quân và một đoàn tàu điện ngầm. Luis nhanh chóng trở nên khó chịu với việc Tony không nắm quyền kiểm soát các câu lạc bộ của mình và những vấn đề liên tục mà hắn ta mang lại từ các khoản nợ của mình, nhưng cuối cùng Luis cũng giải quyết được vấn đề với Mori.
Về sau, Tony lên kế hoạch mua số kim cương lậu trị giá 2 triệu USD để bán với giá cao hơn. Tuy nhiên, thương vụ này bị trận phục kích của các thành viên thuộc băng nhóm đua xe The Lost, do Johnny Klebitz (Scott Hill), cầm đầu, dẫn đến cái chết của bạn trai Tony là Evan Moss (Rob Youells) và mất đi số kim cương. Tony nhanh chóng tìm ra những viên kim cương bị đánh cắp và nhờ Luis phục kích cuộc trao đổi giữa Johnny, Niko Bellic (Michael Hollick), và đám người Do Thái để lấy lại số kim cương này. Trong suốt thời gian này, Luis còn làm việc cho trùm tội phạm người Nga Ray Bulgarin (Vitali Baganov), kẻ đề nghị giúp trang trải các khoản nợ của Tony, nhưng lại từ chối khi anh tiết lộ những viên kim cương ban đầu là tài sản của mình. Don Giovanni Ancelotti nhanh chóng ra lệnh cho Luis và Tony đưa những viên kim cương như một khoản tiền chuộc cho con gái ông ta là Gracie (Rebecca Benhayon) đang bị Niko bắt cóc. Những viên kim cương này sau cùng đã bị mất khi Bulgarin cản trở cuộc trao đổi, mặc dù Luis và Tony vẫn tìm cách giải cứu Gracie và trả về cho cha cô.
Rocco sau đó đến gặp Luis và khuyên anh ta nên giết Tony để lấy lòng Bulgarin, để anh ta tha cho hắn. Dù dự định làm như vậy nhưng rốt cuộc Luis vẫn từ chối và chống trả người của Bulgarin khi họ tấn công Maisonette 9. Quyết định trả đũa, Luis bảo Tony hãy ẩn náu trong khi anh ta phá vỡ hoạt động ma túy của Bulgarin. Biết rằng Bulgarin đang chuẩn bị rời khỏi thành phố, Luis truy đuổi hắn ta với sự giúp đỡ của Yusuf và giết được hắn trên máy bay riêng của mình. Bulgarin vội thả một quả lựu đạn phá hủy cả máy bay, nhưng Luis đã nhảy dù xuống nơi an toàn. Tái hợp cùng Tony, cặp đôi quyết định mở lại câu lạc bộ, từ chối đề nghị bán lại cho Yusuf, vì họ muốn giữ nơi đây là "công việc kinh doanh gia đình" vào lúc này.
Ở một nơi khác, những viên kim cương được một cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam vô gia cư tìm thấy trong thùng rác rồi đem bán lấy tiền và khởi hành đến Vice City.
Lối chơi
Grand Theft Auto: The Ballad of Gay Tony là game hành động phiêu lưu lấy bối cảnh thế giới mở của Liberty City. Nó có lối chơi và bối cảnh tương tự như Grand Theft Auto IV. Người chơi có thể làm lại nhiệm vụ để cải thiện điểm số của mình. Người chơi cũng có các hoạt động mới, nghề phụ, phương tiện và vũ khí. Luis có thể kêu gọi bạn bè của mình, Armando và Henrique, sử dụng khả năng đặc biệt của họ: Armando có thể bán vũ khí cho Luis trong khi Henrique có thể cung cấp cho anh ta một chiếc xe. Luis cũng có thể đưa họ đi tham gia các hoạt động kết bạn. Một bổ sung đáng chú ý, đã được giới thiệu trước đây trong Grand Theft Auto: Chinatown Wars, là hệ thống tính điểm cho các nhiệm vụ. Điểm số không có tác dụng nhưng đánh giá hiệu suất tổng thể của người chơi trong một nhiệm vụ cũng như các mục tiêu duy nhất mà họ đã hoàn thành.
The Ballad of Gay Tony có "công việc phụ" để người chơi kiếm thêm tiền. Chúng bao gồm Cuộc chiến Ma túy (Drug Wars), Cuộc đua Ba môn Phối hợp (Triathlon Races), quản lý hộp đêm của Prince, tham gia Giải đấu Ngầm (Underground Fight Tournament) và nhảy BASE. Cuộc chiến ma túy diễn ra tương tự như Cuộc chiến Băng đảng (Gang Wars) trong The Lost and Damned; người chơi phải lấy được một kho ma túy và mang nó đến điểm giao hàng, với nhiều biến thể, trong khi bị các băng nhóm đối thủ truy đuổi. Cuộc đua Ba môn Phối hợp bao gồm nhảy dù đến một nhóm thuyền, chèo thuyền qua các điểm checkpoint, hạ cánh tại một nhóm ô tô và đua xe đường phố về đích. Quản lý Câu lạc bộ (Club Management) tập trung vào việc Luis làm nhân viên bảo vệ cho các câu lạc bộ của Prince, xử lý các tình huống với những người tham gia câu lạc bộ hoặc hỗ trợ/tài xế VIP.
Những hoạt động mới khác bao gồm chơi gôn tại sân tập, minigame khiêu vũ tại câu lạc bộ, trò chơi uống rượu và khúc côn cầu trên không. Vũ khí, phương tiện và dù mới cũng được bổ sung trong bản mở rộng này. Những thay đổi nhỏ khác bao gồm màn hình được sửa đổi và HUD, chẳng hạn như máy đo độ cao khi người chơi ở trên không. Mục chơi nối mạng của game đã thêm vào các hoạt động mới.
Đón nhận
Grand Theft Auto: The Ballad of Gay Tony nhận được đánh giá "nói chung là tích cực" từ giới phê bình, theo trang tổng hợp kết quả đánh giá Metacritic. Tại Lễ trao giải Trò chơi điện tử Spike năm 2009, The Ballad of Gay Tony đã được trao giải DLC hay nhất. Complex đã xếp hạng Anthony "Gay Tony" Prince là nhân vật trò chơi điện tử LGBT thú vị nhất trong danh sách năm 2013, coi anh ta là "mớ hỗn độn nóng bỏng của dòng game GTA".
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trò chơi điện tử năm 2009
Trò chơi hành động phiêu lưu
Tác phẩm về Mafia Nga
Mô tả văn hóa về Mafia
Trò chơi điện tử nhiều phần
Trò chơi Euphoria (phần mềm)
Games for Windows
Grand Theft Auto IV
Trò chơi điện tử liên quan đến LGBT
Trò chơi điện tử thế giới mở
Trò chơi điện tử tội phạm có tổ chức
Trò chơi trên Windows
Trò chơi Xbox 360
Trò chơi PlayStation 3
Trò chơi của Rockstar Games
Trò chơi của Take-Two Interactive
Trò chơi điện tử nội dung tải về
Trò chơi điện tử bản mở rộng
Trò chơi điện tử do Dan Houser viết
Trò chơi điện tử do Leslie Benzies sản xuất
Trò chơi điện tử lấy bối cảnh năm 2008
Trò chơi điện tử lấy bối cảnh ở Hoa Kỳ
Trò chơi điện tử lấy bối cảnh trên hòn đảo hư cấu
Trò chơi điện tử về buôn bán ma túy bất hợp pháp
Trò chơi điện tử phát triển ở Vương quốc Liên hiệp Anh
Trò chơi điện tử một người chơi và nhiều người chơi |
Grand Theft Auto: Chinatown Wars là tựa game hành động phiêu lưu do hãng Rockstar Leeds phát triển kết hợp với Rockstar North và được Rockstar Games phát hành. Trò chơi được phát hành cho Nintendo DS vào tháng 3 năm 2009, PlayStation Portable vào tháng 10 năm 2009, iOS vào tháng 1 năm 2010, và các thiết bị Android và Fire OS vào tháng 12 năm 2014. Đây là phiên bản thứ mười ba trong dòng game Grand Theft Auto và là phần tiếp theo của Grand Theft Auto IV, đồng thời là phần đầu tiên được phát hành cho hệ máy console cầm tay kể từ Vice City Stories năm 2006. Lấy bối cảnh ở thành phố Liberty City (châm biếm hư cấu về Thành phố New York), câu chuyện phần chơi đơn kể về thành viên trẻ tuổi của Hội Tam Hoàng tên là Huang Lee và những nỗ lực của anh hòng lấy lại thanh kiếm do người cha quá cố tặng sau khi nó bị mất cắp, đồng thời vô tình bị vướng vào cuộc chiến tranh giành quyền lực giữa các băng nhóm thuộc Hội Tam Hoàng của Liberty City.
Trò chơi về cơ bản được thiết kế để người chơi có những tương tác đáng chú ý với các vật thể trên hệ thống DS và điện thoại thông minh thông qua điều khiển trên màn hình cảm ứng, đồng thời cung cấp các yếu tố lối chơi độc đáo không có trong các mục khác trong dòng game Grand Theft Auto. Yếu tố đáng chú ý nhất, khả năng mua ma túy từ nhà cung cấp và bán cho đại lý để kiếm tiền, đã gây tranh cãi sau khi trò chơi phát hành. Mặc dù vậy, trò chơi vẫn nhận được lời khen ngợi từ giới phê bình.
Cốt truyện
Năm 2009, thành viên Hội Tam Hoàng là Huang Lee (李皇; Lý Hoàng) đi tới Liberty City để giao thanh kiếm Yu Jian (玉劍; Ngọc Kiếm)—một vật gia truyền giành được trong một màn chơi bài của người cha vừa bị sát hại của anh ta—cho chú mình tên là Wu "Kenny" Lee (李武; Lý Vũ). Khi đến nơi, người hộ tống Huang bị những kẻ tấn công không rõ danh tính hạ sát, bọn họ đã đánh cắp thanh kiếm và bỏ mặc Huang cho đến chết. May mắn thay, anh chàng thoát chết rồi vội tìm đường đến nhà hàng của Kenny và báo cho chú mình biết về vụ trộm. Kenny tỏ ra tức giận trước tin này bèn tiết lộ rằng ông định giao thanh kiếm cho Hsin Jaoming (昭明辛; Chiêu Minh Tân), bang chủ Hội Tam Hoàng Liberty City, hòng đảm bảo vị thế kế nhiệm chức bang chủ. Cảm thấy nhục nhã vì để mất Yu Jian, Kenny hướng dẫn Huang hỗ trợ duy trì hoạt động kinh doanh của mình khi anh chàng ở trong thành phố, khiến Huang dần dần bị lôi kéo vào công việc buôn bán ma túy. Trong khi giúp đỡ chú mình, Huang biết được rằng hai kẻ khác đang cạnh tranh để trở thành người kế vị Hsin—con trai Kenny là Chan Jaoming (昭明陳; Chiêu Minh Trần), và phó bang chủ Zhou Ming (周明; Chu Minh)—và thấy mình đang làm việc cho cả hai người ngoài Kenny.
Trong khi làm việc, Huang bị một thám tử LCPD tham nhũng đang được nội vụ theo dõi tên là Wade Heston ngăn cản, tay này đề nghị hỗ trợ anh tìm thanh kiếm Yu Jian, tin rằng việc bắt giữ những tên trộm sẽ làm sạch danh tiếng của anh và giải quyết vấn đề nội bộ. Huang đồng ý và giúp Heston điều tra một băng đảng gốc Hàn liên minh với Hội Tam Hoàng, nhóm mà sau này nghi ngờ đứng sau vụ trộm thanh kiếm. Sau khi nghe trộm trụ sở của băng đảng gốc Hàn, cả hai biết được rằng có một nhóm nhỏ trong băng đảng tên là Wonsu Nodong, thủ lĩnh của nhóm này đã gây ra nhiều vấn đề cho Hội Tam Hoàng với sự giúp đỡ của một kẻ báo tin.
Trong lúc đó, Hsin tìm cách liên lạc với Huang để được hỗ trợ, lo ngại về tin tức về một kẻ báo tin trong tổ chức của mình, và ra lệnh cho anh ta điều tra cả băng đảng gốc Hàn và câu lạc bộ mô tô ngoài vòng pháp luật Angels of Death. Suốt thời gian này, Huang buộc phải đối phó với một tên mafia Mỹ ghét Hội Tam Hoàng, kẻ đã cố gắng lừa dối anh ta và giúp Heston thực hiện một số công việc cho người liên hệ Cục Điều tra Liên bang (FIB) của hắn, với lời đề nghị trợ giúp họ điều tra. Hsin nhanh chóng trở nên khó chịu với sự tiến bộ chậm chạp của Huang và tin rằng anh ta có thể là kẻ báo tin để rồi cố gắng giết Huang. Kenny vội ra tay can thiệp để cứu mạng cháu trai mình và thuyết phục Hsin cho Huang thêm thời gian để tìm ra kẻ báo tin thực sự, giúp anh ta cuối cùng phát hiện ra rằng cả băng đảng gốc Hàn và Angels đều vô tội. Đúng lúc đó, Heston buộc phải rút lui do áp lực từ nội bộ, để Huang đột nhập vào máy chủ FIB lấy lại một số hồ sơ có tên cả Chu và Chan là kẻ báo tin ngầm cho phía cảnh sát.
Sau khi thảo luận về những phát hiện này với chú mình, Kenny thuyết phục Huang rằng chúng phải được giao cho Hsin. Vì xấu hổ trước khả năng con trai mình phản bội Hội Tam Hoàng, Hsin bèn từ chức thủ lĩnh và chỉ định Kenny là người kế vị. Trong khi đó, Huang được giao nhiệm vụ giết Chu và Chan, mặc dù cả hai đều phủ nhận cáo buộc chống lại họ trước khi chết. Heston sau đó liên lạc với Huang để báo tin rằng thông tin anh ta lấy được là giả và thủ lĩnh Wonsu đang gặp gỡ các đồng minh của hắn, bao gồm cả kẻ báo tin. Khi theo dõi cuộc họp, Huang bị sốc khi phát hiện ra Kenny mới chính là thủ lĩnh Wonsu và đã dàn dựng vụ trộm Yu Jian. Khi LCPD và FIB tổ chức trận phục kích cuộc họp này, Kenny kịp thời trốn thoát nhưng Huang và Heston vẫn truy đuổi ông ấy đến tận căn hộ áp mái của Hsin.
Khi đối mặt với chú của mình, Huang biết rằng Hsin đã ra lệnh cho Kenny lấy Yu Jian để đổi lấy một chức vụ dưới quyền Chan. Kenny đã làm theo và giết cha của Huang hòng kế thừa thanh kiếm, nhưng về sau đã đánh cắp Yu Jian để giữ mình thoát khỏi tình trạng ô nhục như vậy. Ông ta cũng bí mật làm việc để làm suy yếu quyền lãnh đạo và tiếp quản của Hsin, đồng thời gài bẫy Chu và Chan hòng che đậy dấu vết của mình. Sau khi Kenny dùng thanh kiếm Yu Jian đâm trúng Hsin, ông ta lần lượt bị Huang giết chết ngay khi LCPD vừa ập đến. Trong khi tất cả mọi người tại hiện trường đều bị bắt giữ, Heston cam đoan rằng Huang được ở lại một mình hòng trả ơn cho sự giúp đỡ của anh ta. Trước khi được đưa đến bệnh viện, Hsin khen ngợi lòng trung thành của Huang và đề nghị phong anh làm bang chủ Hội Tam Hoàng tiếp theo, phản ứng của Huang không được tiết lộ trong game.
Lối chơi
Grand Theft Auto: Chinatown Wars thuộc thể loại hành động phiêu lưu lấy bối cảnh thế giới mở. Nó có cách trình bày khác với những phiên bản trước trong sê-ri, giống một phần với các tựa Grand Theft Auto đầu tiên. Thay vì góc nhìn từ mặt đất phía sau nhân vật chính hoặc góc nhìn từ trên xuống Chinatown Wars sử dụng góc nhìn camera có thể xoay hoàn toàn hướng xuống khi hành động. Chinatown Wars cũng sử dụng các đa giác bóng mờ với đường viền màu đen để tạo ra nét thẩm mỹ giống như truyện tranh—lần đầu tiên có trong dòng game này. Tựa game diễn ra trong một phiên bản thu nhỏ của Liberty City trong Grand Theft Auto IV, ngoại trừ Alderney.
Không giống như Grand Theft Auto IV, người chơi có thể mất các ngôi sao bị truy nã bằng cách phá hủy xe cảnh sát để trốn thoát khỏi cảnh sát thay vì rời khỏi "vùng truy nã". Người chơi càng có nhiều sao thì họ càng phải hạ gục nhiều cảnh sát hơn cho mỗi cấp độ. Ví dụ, đối với cấp độ sáu sao, họ phải phá hủy sáu xe cảnh sát để hạ mức truy nã năm sao và tiếp tục như vậy. Ngoài ra còn có một cốt truyện phụ buôn bán ma túy cho phép người chơi bán heroin, acid, thuốc lắc, cần sa, cocaine và thuốc chống trầm cảm quanh thành phố. Người chơi có thể kiếm lợi nhuận bằng cách nhận biết các điều kiện và nhu cầu thị trường dựa trên vị trí địa lý và miệt mài sản xuất hàng hóa của mình cho phù hợp. Camera CCTV hoạt động như những gói hàng bí mật của trò chơi này, bị phá hủy bằng cách ném chai cocktail Molotov hoặc lựu đạn. Điều này cũng làm giảm khả năng bị bắt khi thực hiện giao dịch ma túy và cung cấp chiết khấu khi mua ma túy. Chinatown Wars áp dụng nhiều tính năng của Grand Theft Auto IV như HUD thế hệ tiếp theo. Ammu-Nation trở lại dưới dạng một trang web trong game, nơi người chơi có thể đặt mua nhiều loại vũ khí khác nhau thông qua PDA để chuyển đến nơi an toàn của họ. Người chơi cũng sẽ nhận được email mà họ có thể đọc từ PDA hoặc máy tính xách tay có trong ngôi nhà an toàn của họ.
Mặc dù việc đánh cắp một phương tiện đang di chuyển rất giống với các bản Grand Theft Auto trước đây, Chinatown Wars sử dụng một hệ thống khác để đánh cắp các phương tiện đang đỗ. Tùy thuộc vào loại xe, nó có thể được khởi động theo một trong một số cách. Những chiếc xe cũ hơn cần vặn vài vòng tuốc nơ vít vào bộ phận đánh lửa, trong khi những chiếc xe khác yêu cầu khởi động xe bằng mồi lửa điện. Những chiếc xe mới hơn, đắt tiền hơn (ngoại trừ xe tải chống đạn) yêu cầu người chơi phải "hack" thiết bị cố định máy tính. Vẫn có thể lật xe hoặc đốt cháy. Người chơi không thể lái bất kỳ máy bay nào trong game dù vẫn có thể nhìn thấy những chiếc máy bay ở sân bay hoặc bay phía trên mình, còn nếu người chơi sử dụng một mã nhất định trên Nintendo DS bằng cách tận dụng "Action Replay DS" thì người chơi sẽ có thể mua một chiếc trực thăng và lái nó dạo quanh thành phố.
Khác biệt hệ máy
Phiên bản Nintendo DS của trò chơi tận dụng màn hình cảm ứng với các chức năng như điều khiển PDA, GPS, radio, tiếp cận những người trên bản đồ hoặc sử dụng cocktail Molotov và lựu đạn. Màn hình trên cùng hiển thị game và bảng phân cảnh. Tiếng huýt sáo của taxi được hỗ trợ bởi microphone DS hoặc bằng cách giữ nút x. Mục chơi nhiều người cạnh tranh và hợp tác chỉ khả dụng thông qua mạng không dây cục bộ DS đến DS.
Phiên bản PSP có đồ họa cập nhật, không còn bóng mờ nữa, do đó có giao diện "cổ điển" hơn giống với các trò chơi trước đó trong dòng game (tuy vậy các đoạn phim cắt cảnh giống hệt nhau về mặt phong cách). Minigame (chẳng hạn như vẽ hình xăm, tháo vít ô tô và panô bom nổ) đã được điều chỉnh từ chức năng màn hình cảm ứng thành các minigame đơn giản hơn, giống QTE. Phiên bản PSP cũng có các nhiệm vụ bổ sung và các đài phát thanh độc quyền không có trong phiên bản Nintendo DS. Tuy nhiên, phần chơi mạng PSP chỉ hỗ trợ 2 người chơi.
Phiên bản iOS và Android của trò chơi bao gồm điều khiển cảm ứng trên màn hình và các minigame đã được điều chỉnh để hoạt động tốt với màn hình cảm ứng điện dung. Cả phiên bản iOS và Android đều có đài phát thanh giống như phiên bản PSP, mặc dù phiên bản iOS có đài phát thanh tùy chỉnh sử dụng thư viện iTunes.
Social Club
Phiên bản Nintendo DS và PlayStation Portable của Grand Theft Auto: Chinatown Wars đã sử dụng Rockstar Games Social Club. Người chơi có thể sử dụng dịch vụ này để tải lên số liệu thống kê về lối chơi của mình. Nintendo Wi-Fi Connection bao gồm trò chuyện, trao đổi vật phẩm, chia sẻ các điểm đánh dấu GPS và số liệu thống kê yêu thích với những người chơi khác. Nhờ Social Club, người chơi cũng có thể mở khóa nhiệm vụ của Xin sau khi kết thúc trò chơi. Ngày 20 tháng 5 năm 2014, Nintendo đã ngừng dịch vụ Wi-Fi Connection, khiến các tính năng của Social Club không khả dụng và sau khi GameSpy đóng cửa vào ngày 10 tháng 6 năm 2014, tất cả các tính năng của Social Club cho Chinatown Wars trên PSP và DS đã bị ngừng hoạt động. Phiên bản iOS và Android không sử dụng Rockstar Social Club nên các nhiệm vụ của Xin có thể thực hiện được mà không cần kết nối với dịch vụ này.
Soundtrack
Nhạc cho tựa game mở đầu lối chơi là bài "Chinatown Wars" do Ghostface Killah và MF Doom trình diễn và được Oh No của hãng Stones Throw Records sản xuất.
Phiên bản DS của trò chơi có phần nhạc của Deadmau5 cùng với các nhạc phẩm khác. Ngoài soundtrack có trong phiên bản DS của trò chơi, phiên bản PSP còn có nhạc phẩm của Anvil, Tortoise, DFA Records, Turntables on the Hudson và DJ Khalil.
Phiên bản iOS và Android có tất cả nhạc từ phiên bản DS và PSP, đồng thời cho phép người chơi tùy chỉnh danh sách phát nhạc bằng các bài hát từ thư viện nhạc của họ.
Phát hành
Trong quảng cáo đặt hàng trước của GameStop dành cho Grand Theft Auto: Chinatown Wars, đoạn hội thoại đề cập đến gói cứu trợ doanh nghiệp ngoài đời thực vào năm 2008. Đoạn giới thiệu lối chơi mới được phát hành vào ngày 6 tháng 3 năm 2009, cho thấy cách chơi liên quan đến việc sử dụng súng bắn tỉa và tương tác với bàn phím bằng bút cảm ứng của Nintendo DS. GameStop có một chương trình khuyến mãi trong đó họ gửi một chiếc xe tải đi khắp nơi để mọi người dùng thử trò chơi trước khi nó được phát hành. Các cửa hàng khác tặng một "thẻ tín dụng" kích hoạt 10.000 đô la tiền trong game và quyền tiếp cận sớm hơn các loại vũ khí tốt hơn. Amazon đã cung cấp một mã để mở khóa chiếc siêu xe Infernus chống đạn độc quyền khi đặt hàng trước.
Phát triển
Ngày 15 tháng 7 năm 2008, tại một cuộc họp báo của Nintendo đã thông báo rằng Grand Theft Auto: Chinatown Wars sẽ được phát hành cho Nintendo DS vào mùa Đông năm sau. Theo Nintendo World Report, Chinatown Wars chứa hơn 900.000 dòng mã "được tối ưu hóa bằng tay".
Đón nhận
Phiên bản Nintendo DS
Grand Theft Auto: Chinatown Wars đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình. Trên GameRankings, đây hiện là tựa game Nintendo DS được đánh giá cao nhất từ trước đến nay, với điểm đánh giá trung bình là 93%. Trò chơi có số điểm tổng hợp là 93/100 trên Metacritic, đây là số điểm cao nhất trên trang web đó đối với một game DS. Trò chơi cũng đạt thứ hạng cao nhất dành cho Nintendo DS tại GameSpot, với điểm đánh giá là 9,5/10. Official Nintendo Magazine xếp hạng trò chơi này số điểm 94%, ca ngợi hình ảnh và sự đa dạng trong lối chơi, kết luận trong bài đánh giá của họ rằng "Rockstar đã nắm bắt và cô đọng những điểm cao nhất của dòng Grand Theft Auto và nhồi nhét chúng thành một tựa game tuyệt vời. Bạn nghĩ rằng DS không thể xử lý được GTA? Hãy nghĩ lại". IGN UK xếp hạng trò chơi này số điểm 9,2, gọi đây là "một kiệt tác của máy chơi game cầm tay", Trong khi IGN US chấm cho game 9,5/10 điểm. Eurogamer xếp hạng 10/10, nói rằng "Nhìn chung đây vẫn là GTA như lần đầu tiên, với trí tuệ kế thừa của GTA kể từ đó, kết thúc với tất cả những thứ đáng lẽ sẽ thuộc về GTA của tương lai". 1UP.com đã cho nó điểm A−, nói rằng "ngay từ đầu, Chinatown Wars trông rất ấn tượng".
Chinatown Wars tạo ra doanh thu thấp hơn dự kiến trong tuần đầu tiên tại Vương quốc Liên hiệp Anh và thậm chí còn không đạt được mức doanh thu như sự ra mắt của Vice City Stories, đúng như kỳ vọng của Rockstar. Tại Hoa Kỳ, nó chỉ bán được dưới 90.000 bản trong hai tuần đầu tiên ra mắt tại thị trường Mỹ. Điều này khiến Best Buy phải bán trò chơi với giá giảm trong một thời gian giới hạn và phản hồi về việc này rất tích cực.
Phiên bản PSP
Rockstar xác nhận thông qua một thông cáo báo chí rằng Grand Theft Auto: Chinatown Wars sẽ được phát hành cho PlayStation Portable vào ngày 20 tháng 10 năm 2009. Người ta suy đoán rằng phiên bản PSP sẽ chuyển sang góc nhìn thứ ba. Tuy nhiên, nó vẫn giữ nguyên góc nhìn từ trên xuống so với phiên bản DS và cũng nhận được nhiều lời khen ngợi. Trò chơi có sẵn trên đĩa UMD cũng như qua PlayStation Network. 1UP.com đã cho phiên bản PSP điểm A−, với lý do trải nghiệm này rất tốt ở lần thứ hai và nó hiệu quả đối với những người mới chơi lần đầu. IGN cho phiên bản PSP 9,3/10 điểm, so với 9,5/10 điểm trên DS. Trang web SKOAR! của Ấn Độ cho phiên bản này 9/10 điểm, nói rằng "điều phàn nàn duy nhất của tôi với tựa game này là nó có vẻ hơi quá dễ dàng".
Không giống như phiên bản DS, đạt vị trí thứ 5, tựa game PSP không lọt vào top 40 của Vương quốc Liên hiệp Anh khi phát hành, cũng như không lọt vào top 20 hàng tháng của Mỹ.
Phiên bản iOS và Android
Chinatown Wars được phát hành trên iPhone và iPod Touch vào ngày 17 tháng 1 năm 2010. Cơ chế minigame màn hình cảm ứng ban đầu được thấy trong phiên bản Nintendo DS đã trở lại theo kiểu tương tự. Đồ họa, khi so sánh với phiên bản DS và PSP, không có bóng mờ như phiên bản DS và thiếu ánh sáng xung quanh cũng như các hiệu ứng như trong phiên bản PSP. Bản cập nhật phát hành vào ngày 28 tháng 3 năm 2010 đã bổ sung thêm các đài phát thanh trước đây chỉ dành riêng cho phiên bản PSP.
Phiên bản iPad được phát hành vào ngày 9 tháng 9 năm 2010, với đồ họa độ phân giải cao 1024x768. Nó nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình, Levi Buchanan của IGN cho 9,0/10 điểm, gọi tựa game này là "một vở kịch phi thường".
Ngày 13 tháng 10 năm 2013, Chinatown Wars đã bị xóa khỏi App Store mà không có tuyên bố nào từ Rockstar. Người ta tin rằng đó là do vấn đề tương thích với iOS 7. Ngày 21 tháng 12 năm 2013, trò chơi đã quay trở lại App Store với các vấn đề tương thích được khắc phục. Một bản cập nhật bổ sung được phát hành vào ngày 18 tháng 12 năm 2014 cung cấp hỗ trợ cho độ phân giải Màn hình Retina và hỗ trợ bộ điều khiển không dây.
Chinatown Wars ra mắt lần đầu trên thiết bị Android vào ngày 18 tháng 12 năm 2014, có các tính năng và cải tiến về đồ họa tương tự như bản cập nhật iOS mới nhất. Phiên bản Android do War Drum Studios phát triển. Hiện tại, cả phiên bản iOS và Android đều không có khả năng tương thích với phần chơi mạng hoặc Social Club.
Giải thưởng
Tại Giải thưởng Trò chơi điện tử Spike năm 2009, Grand Theft Auto: Chinatown Wars đã đoạt Giải Game Cầm tay Hay nhất. Tuy nhiên, phiên bản không được chỉ định. Nó cũng giành được Giải Game Nintendo DS Hay nhất năm 2009 từ GameSpot. Trò chơi đã được đề cử cho ba giải thưởng của GameSpot: Game của Năm, Game DS của Năm và Game Hành động của Năm, giành giải Game DS của Năm. Chinatown Wars được Nintendo Power đề cử cho Game của Năm, cũng như Game Nintendo DS của Năm, Đồ họa Nintendo DS Xuất sắc nhất và Game Phiêu lưu Hay nhất. Pocket Gamer đã trao giải Game Hành động/Game Arcade Hay nhất dành cho thiết bị cầm tay, Game của Năm dành cho thiết bị cầm tay và Game Tổng thể của Năm vào năm 2010.
Tranh cãi
Chinatown Wars tiếp tục truyền thống gây tranh cãi của dòng game này vì một minigame buôn bán ma túy bao gồm heroin và thuốc lắc. Những người phản đối game bao gồm Darren Gold thuộc tổ chức từ thiện chống lạm dụng ma túy Drugsline đã tuyên bố: "Bất cứ điều gì sử dụng việc buôn bán ma túy làm trò giải trí đều đang gửi đi một thông điệp sai lầm. Sự tán dương không giúp ích gì cho công việc của chúng tôi khi cố gắng giáo dục trẻ em về hiểm họa của việc lạm dụng chất gây nghiện." Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Edge, Dan Houser cho biết "chúng tôi muốn có một minigame buôn bán ma túy trong nhiều game GTA. [...] Chúng tôi từng chơi thử một chút trong Vice City Stories, vì minigame này vẫn chạy suôn sẻ khi kết hợp với câu chuyện chính. Nó hoạt động tốt với GTA, với việc lái xe vòng quanh bản đồ và nó mang đến cho bạn một điều khác để suy nghĩ – một lớp hoặc một mảnh ghép khác giúp bạn có động lực... Nó giao thoa với câu chuyện chính và những điều bạn học được từ đó chạy theo câu chuyện, nhưng hầu như nó hoạt động độc lập".
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trò chơi điện tử năm 2009
Trò chơi hành động phiêu lưu
Hội Tam Hoàng
Grand Theft Auto
Trò chơi trên iOS
Trò chơi Nintendo DS
Trò chơi trên Android
Trò chơi điện tử thế giới mở
Trò chơi điện tử tội phạm có tổ chức
Trò chơi PlayStation Portable
Trò chơi của Rockstar Games
Trò chơi của Grove Street Games
Trò chơi của Take-Two Interactive
Người đoạt Giải thưởng Trò chơi điện tử Spike
Trò chơi điện tử do Leslie Benzies sản xuất
Trò chơi điện tử lấy bối cảnh năm 2009
Trò chơi điện tử lấy bối cảnh ở Hoa Kỳ
Trò chơi điện tử lấy bối cảnh trên hòn đảo hư cấu
Trò chơi điện tử có hoạt ảnh bóng mờ
Trò chơi điện tử có hỗ trợ soundtrack tùy chỉnh
Trò chơi điện tử do Dan Houser viết kịch bản
Trò chơi điện tử một người chơi và nhiều người chơi
Trò chơi điện tử về buôn bán ma túy bất hợp pháp
Trò chơi điện tử phát triển ở Vương quốc Liên hiệp Anh |
Kem thịt lợn muối xông khói (hoặc kem thịt lợn muối xông khói và trứng) là một loại kem thường được tạo ra bằng cách thêm thịt lợn muối xông khói vào sữa trứng và làm đông lạnh hỗn hợp. Khái niệm kem thịt lợn muối xông khói bắt nguồn từ một bản phác thảo năm 1973 trên loạt phim hài The Two Ronnies của Anh dưới dạng trò đùa cợt; sau cùng món này được một tiệm kem ở New York tạo ra dành cho ngày Cá tháng Tư năm 1982. Vào thập niên 2000, đầu bếp người Anh Heston Blumenthal đã thử nghiệm kem, làm một loại sữa trứng tương tự như trứng bác và thêm thịt lợn muối xông khói để tạo ra một trong những món ăn đặc trưng của ông. Bây giờ nó xuất hiện trên thực đơn tráng miệng ở các nhà hàng khác.
Nguồn gốc
Kem thường được coi là một loại thực phẩm ngọt và dùng làm món tráng miệng, mặc dù có bằng chứng về việc ăn kem mặn vào thời Victoria. Kem thịt lợn muối xông khói có nguồn gốc là trò đùa cợt, một hương vị mà không ai muốn ăn, trong "Ice Cream Parlour Sketch" của The Two Ronnies năm 1973, khách hàng đòi món kem có hương vị phô mai và hành tây, sau đó là thịt ba rọi xông khói.
Năm 1992, kem thịt lợn muối xông khói và trứng được tạo ra như một thử nghiệm cho Ngày Cá tháng Tư tại Aldrich's Beef and Ice Cream Parlor ở Fredonia, New York. Mười năm trước, người đồng sở hữu Scott Aldrich đã bị một nhân viên bán nước thịt thách thức làm kem nước sốt thịt bò, mà anh ta đã làm ra vào Ngày Cá tháng Tư năm 1982. Mặc dù đây được cho là sáng tạo "kinh tởm nhất" của họ, nhưng Aldrich's vẫn tiếp tục cho ra mắt những hương vị kem dị thường khác vào Ngày Cá tháng Tư, chẳng hạn như "kem spaghetti sô-cô-la" (đóng góp đầu tiên của Julia Aldrich), "xốt cà chua và mù tạt", "thịt lợn và đậu" hay "dưa cải bắp và vani" vào năm 1991. Năm 1992, họ đã làm ra 15 kem thịt lợn muối xông khói và trứng mà ông tặng miễn phí cho bất kỳ ai dùng thử. Nhìn chung các loại kem đều nhận được đánh giá tích cực. Năm 1992, tờ The Victoria Advocate đưa tin,Ông nói, bất chấp những cái tên kinh tởm, hầu hết các hương vị chơi khăm của [Aldrich] đều ngon. Thịt lợn muối xông khói và trứng có vị hơi giống mùi vani hạt dẻ, mặc dù đôi khi vẫn có vị thoang thoảng của lòng đỏ trứng bong tróc.
Năm 2003, một tiệm kem mang tên "Udder Delight", mở ở Bãi biển Rehoboth, Delaware, chuyên về những hương vị kem "kỳ lạ". Trong số các hương vị khác, chẳng hạn như kem bơ đậu phộng và thạch từng đoạt giải thưởng, họ đã tạo ra một loại kem thịt lợn muối xông khói có vị giống như bơ hồ đào. Người chủ tiệm là Chip Hearn, đã đưa hương vị này cùng với 17 loại khác vào một nhóm tập trung chỉ dành cho những ai được mời đến, cho phép họ nếm thử rồi đề xuất những thay đổi và nêu lên ý kiến về hương vị này.
Tham khảo
Kem lạnh
Hương vị kem
Món thịt xông khói
Thực phẩm thập niên 2010 |
Atalanta (tiếng Hy Lạp: Ἀταλάντη, Atalántē) là một nữ anh hùng trong thần thoại Hy Lạp. Có hai cốt truyện về nữ thợ săn Atalanta, đó là cốt truyện thứ nhất có nguồn gốc từ Arcadia, theo đó, cô có cha mẹ là Iasus và Clymene và người nữ anh hùng này nổi danh từ những câu chuyện về cuộc săn lợn rừng Calydonian và với các anh hùng Argonaut và một cốt truyện khác đến từ Boeotia, theo dó, cô là con gái của Vua Schoeneus và chủ yếu được chú ý nhờ kỹ năng chạy bộ điêu luyện. Trong cả hai phiên bản, nữ anh hùng Atalanta là một cư dân địa phương đã liên minh với nữ thần Artemis trong những câu chuyện truyền miệng như vậy, các nhân vật phụ thường được đặt những cái tên khác nhau, dẫn đến những khác biệt nhỏ trong cách gọi tên từng khu vực.
Câu chuyện
Khi sinh ra, Atalanta được đưa đến Núi Parthenion để làm phép tiếp xúc vì cha cô mong muốn có một đứa con trai.. Một con gấu cái vốn một trong những biểu tượng của Artemis khi những đàn con của cô gần đây đã bị thợ săn giết chết đã đến đưa Atalanta đi và chăm sóc cô cho đến khi chính những người thợ săn đó phát hiện ra cô và tự mình nuôi cô trên núi. Nàng Atalanta sau đó lớn lên trở thành một trinh nữ nhanh nhẹn, tránh xa đàn ông và cống hiến hết mình cho nữ thợ săn Artemis. Cô nàng Atalanta tự bắt chước theo Artemis, cô thường mặc một chiếc áo dài cộc tay dài đến đầu gối và sống ở vùng hoang dã. Khi sống ở nơi hoang dã, nàng Atalanta đã từng giết chết hai nhân mã, Rhoecus và Hylaios, bằng cây cung của mình sau khi vẻ đẹp của cô thu hút sự chú ý của chúng và chúng định cưỡng hiếp cô.
Nữ anh hùng Atalanta thỉnh thoảng chỉ được nhắc đến trong truyền thuyết về các anh hùng Argonaut, tuy nhiên, sự tham gia của cô được ghi nhận trong lời kể của Pseudo-Apollodorus, kể rằng trong quá trình tìm kiếm Bộ lông cừu vàng thì nàng Atalanta người đã được mời và kêu gọi sự bảo vệ của Artemis cũng đi thuyền cùng nhóm Argonaut với tư cách là nữ nhân duy nhất trong số họ. Theo lời kể của Diodorus Siculus thì Atalanta không chỉ được ghi nhận là đã đi thuyền cùng những người Argonaut mà còn chiến đấu bên cạnh họ trong trận chiến ở Colchis, nơi cô cùng với Jason, Laertes và các con trai của Thesipae bị thương và sau đó được Medea chữa lành. Theo lời kể của Apollonius của Rhodes, thì Jason đã ngăn cản Atalanta tham gia không phải vì cô thiếu kỹ năng mà vì là phụ nữ, cô có khả năng gây ra hiềm tỵ giữa những người đàn ông trên tàu. Sau cái chết của Vua Pelias ở Iolcus thì Atalanta đã đánh bại Peleus trong một trận đấu vật. Trận đấu này đã trở thành một chủ đề phổ biến trong nghệ thuật Hy Lạp.
Chú thích
Tham khảo
Aelian: Various Histories. Book XIII. Translated by Thomas Stanley,
Aeschylus, Prometheus Bound, Suppliants, Seven Against Thebes. Translation by Vellacott, P. The Penguin Classics. London. Penguin Books
Apollodorus, The Library of Greek Mythology. Translation by Aldrich, Keith. Lawrence, Kansas: Coronado Press, 1975.
Apollodorus, The Library. English Translation by Sir James George Frazer, F.B.A., F.R.S. in 2 Volumes. Cambridge, MA, Harvard University Press; London, William Heinemann Ltd. 1921. Includes Frazer's notes.
Apollonius Rhodius, Argonautica. Translation by Rieu, E. V. The Penguin Classics. London: Penguin Books.
Callimachus, Hymns & Epigrams. Translation by Mair, A. W. & Mair, G. R. Loeb Classical Library Volume 129. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press.
Diodorus Siculus, Library of History. Translation by Oldfather, C. H. Loeb Classical Library Volumes 303, 377. Cambridge, Massachusetts : Harvard University Press.
Hesiod, The Homeric Hymns, Translation by Evelyn-White, H. G. Loeb Classical Library Vol 57. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press.
Ovid, Metamorphoses. Translation by Melville, A. D
Hyginus, Fabulae from The Myths of Hyginus, translated and edited by Mary Grant. University of Kansas Publications in Humanistic Studies, no. 34. https://topostext.org/work/206
Pausanias. Description of Greece. English Translation by W.H.S. Jones, Litt.D., and H.A. Ormerod, M.A., in 4 Volumes. Cambridge, MA, Harvard University Press; London, William Heinemann Ltd. 1918.
Philostratus Elder, Philostratus Younger, Callistratus. Translation by Fairbanks, A. Loeb Classical Library Vol 256. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press.
Bolen, Jean Shinoda. Artemis: The Indomitable Spirit in Everywoman, Conari Press, 2014.
Liên kết ngoài
Atalanta—World History Encyclopedia
Atalanta, a summary at the Theoi Project
Classical sculpture head of either Hygieia or Atalanta, a replica from the Louvre.
Atalanta and Hippomenes art collection, National Museum of Scotland.
The Warburg Institute Iconographic Database (images of Atalanta)
Thần thoại Hy Lạp |
Các địa điểm tưởng niệm và chôn cất của Thế chiến thứ nhất (Mặt trận phía Tây) là Di sản thế giới được UNESCO công nhận vào năm 2023 bao gồm 139 nghĩa trang và đài tưởng niệm dọc theo Mặt trận phía Tây, nơi diễn ra cuộc chiến giữa quân Đức và lực lượng Đồng minh từ năm 1914 đến năm 1918 trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Nằm giữa phía bắc Bỉ và phía đông nước Pháp, các phần của di sản khác nhau về quy mô từ những nghĩa địa lớn, nơi lưu giữ hài cốt của hàng chục nghìn binh sĩ mang nhiều quốc tịch khác nhau, đến những nghĩa trang nhỏ và đơn giản hơn cũng như những đài tưởng niệm. Các địa điểm này bao gồm các nghĩa trang quân sự, bãi chôn lấp tại chiến trường và nghĩa trang bệnh viện, thường được kết hợp với đài tưởng niệm.
Địa điểm
Bỉ
Nghĩa trang quân đội Bỉ: Houthulst
Nghĩa trang quân đội Bỉ: Oeren
Tượng đài quốc gia Canada: Đài tưởng niệm Saint Julien
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang DCLI đầu tiên, The Bluff
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Bedford House
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Buffs Road
CNghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Buttes New British
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Essex Farm
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Hedge Row Trench
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Hyde Park Corner (Royal Berks)
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Larch Wood (Giao cắt đường sắt)
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Lijssenthoek
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Lone Tree
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Mud Corner
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang No Man's Cot
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Ploegsteert Wood
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Polygon Wood
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Prowse Point
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Rifle House
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Anh Spanbroekmolen
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Strand
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Toronto Avenue
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Track "X"
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Tyne Cot
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Welsh Caesar's Nose
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Woods
Nghĩa trang quân sự Khối thịnh vượng chung và đài tưởng niệm những người mất tích: Phần mở rộng nghĩa trang Berks và Đài tưởng niệm những người mất tích Ploegsteert
Tượng đài Khối thịnh vượng chung cho người mất tích: Cổng Menin
Tượng đài Khối thịnh vượng chung cho người mất tích: Đài tưởng niệm Nieuport
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung - Đức: Nghĩa trang quân đội St Symphorien
Hầm mộ của Tháp Yser
Pháo đài Loncin
Nghĩa trang quân đội Pháp: l'Orée de la Forêt
Nghĩa trang quân đội Pháp: la Belle Motte
Nghĩa trang quân đội Pháp: le Plateau
Nghĩa trang quân đội Pháp: Saint-Charles de Potyze
Địa điểm quy tụ hài cốt Pháp: Dãy núi Kemmel
Nghĩa trang quân đội Pháp - Đức: le Radan
Nghĩa trang quân đội Đức: Nghĩa trang chiến tranh Đức Langemark
Nghĩa trang quân đội Đức: Nghĩa trang chiến tranh Đức Vladslo
Tượng đài Ireland: Công viên Hòa bình Đảo Ireland
Khu đất quân sự: Robermont
Khu đất hành hình: Tamines
Pháp
Tượng đài và nghĩa trang quân đội Mỹ: Nghĩa trang và Đài tưởng niệm Mỹ St. Mihiel
Tượng đài và nghĩa trang quân đội Mỹ: Nghĩa trang và Đài tưởng niệm Mỹ Aisne-Marne
Tượng đài và nghĩa trang quân đội Mỹ: Nghĩa trang Mỹ Meuse-Argonne
Nghĩa trang quốc gia Úc: Đài tưởng niệm quốc gia Úc Villers-Bretonneux và Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Villers-Bretonneux
Tượng đài quốc gia Canada: Đài tưởng niệm Vimy Quốc gia Canada
Tượng đài Khối thịnh vượng chung: Đài tưởng niệm Newfoundland Beaumont-Hamel, Công viên tưởng niệm Khối thịnh vượng chung: Công viên tưởng niệm Beaumont Hamel (Newfoundland) và Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Hunter
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Canada số 2
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Étaples
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Fromelles (Pheasant Wood)
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Canada Givenchy Road
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Phần mở rộng của Nghĩa trang xã Le Quesnoy
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Lichfield Crater
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân sự Louvencourt
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Mill Road
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang Trung Quốc Noyelles-sur-mer và đài tưởng niệm Trung Quốc Noyelles-sur-mer
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Rancourt
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang xã Wimereux
Nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung và tượng đài Úc: Đài tưởng niệm và Nghĩa trang Úc V.C. Corner
Tượng đài và nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Đài tưởng niệm Loos và Nghĩa trang Dud Corner
Tượng đài và nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Louverval và Đài tưởng niệm Cambrai
Tượng đài và nghĩa trang quân đội Khối Thịnh vượng chung: Đài tưởng niệm và Nghĩa trang Pozières
Nghĩa trang và đài tưởng niệm quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Faubourg của amiens, Đài tưởng niệm Arras và Đài tưởng niệm Công cộng Arras Flying
Tượng đài Khối thịnh vượng chung cho người mất tích: Đài tưởng niệm Thiepval và Nghĩa trang quân đội Pháp - Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Anglo-Pháp Thiepval
Nghĩa trang quân đội Tiệp Khắc: Neuville-Saint-Vaast
Nghĩa trang quân đội Đan Mạch: Braine
Pháo đài Douaumont
Bia mộ Pháp của cuộc hành hình Fleury-devant-Douaumont
Tượng đài Pháp: Les fantômes
Tượng đài Pháp của trận chiến Marne
Nghĩa trang quân đội Pháp: Germania
Khu đất quân sự Pháp sự hy sinh ngày 11 tháng 11 năm 1918 của Vrigne-Meuse
Tượng đài - quy tụ hài cốt Pháp: Haute-Chevauchée
Nhà nguyện và Nghĩa trang thành phố Pháp: Mondement-Montgivroux
Nghĩa trang quốc gia Pháp: Tù nhân chiến tranh: Sarrebourg
Nhà nguyện và hầm mộ quốc gia Pháp: Lưu niệm tiếng Pháp của Rancourt
Hầm mộ quốc gia Pháp và Nghĩa trang quân đội Đức: Crouée
Hầm mộ quốc gia Pháp: Hầm mộ Lớn Villeroy
Hầm mộ quốc gia Pháp: Assevent & và Nghĩa trang quân đội Đức Assevent
Hầm mộ quốc gia Pháp: Cerny-en-Laonnois, Nghĩa trang quân đội Đức: Cerny-en-Laonnois và Nhà nguyện tưởng niệm của le Chemin des Dames
Hầm mộ quốc gia Pháp: Chambière
Hầm mộ quốc gia Pháp: Compiègne (Royallieu)
Hầm mộ quốc gia Pháp: Craonnelle
Hầm mộ quốc gia Pháp: Cuts
Hầm mộ quốc gia Pháp: Duchesne
Hầm mộ quốc gia Pháp: Espérance
Hầm mộ quốc gia Pháp: Opéra
Hầm mộ quốc gia Pháp: Chipotte
Hầm mộ quốc gia Pháp: Fontenelle
Hầm mộ quốc gia Pháp: Forestière
Hầm mộ quốc gia Pháp: Harazée
Hầm mộ quốc gia Pháp: Maize
Hầm mộ quốc gia Pháp: Targette & Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Anh Targette
Hầm mộ quốc gia Pháp: Lagarde
Hầm mộ quốc gia Pháp: Faubourg Pavé
Hầm mộ quốc gia Pháp: le Silberloch, đài kỷ niệm quốc gia Pháp và hầm mộ của Hartmannswillerkopf
Hầm mộ quốc gia Pháp: Le Sourd & Nghĩa trang quân đội Đức: Le Sourd
Hầm mộ quốc gia Pháp: Trottoir
Hầm mộ quốc gia Pháp: Wettstein
Hầm mộ quốc gia Pháp: les Tiges
Hầm mộ quốc gia Pháp: Moosch
Hầm mộ quốc gia Pháp: Navarin: Đài kỷ niệm sự hy sinh của những người lính của Champagne
Hầm mộ quốc gia Pháp: Nhà thờ Đức Bà Lorette
Hầm mộ quốc gia Pháp: Pierrepont
Hầm mộ quốc gia Pháp: Riche
Hầm mộ quốc gia Pháp: Saint-Thomas en Argonne & Hầm mộ quốc gia Pháp: Tượng đài Gruerie
Hầm mộ quốc gia Pháp: the 28th brigade La ferme des Wacques
Hầm mộ quốc gia Pháp: Tượng đài - Nơi quy tụ hài cốt Binh đoàn Lê dương Pháp (Henri Fansworth)
Hầm mộ quốc gia Pháp: Tù nhân của Effry
Hầm mộ quốc gia Pháp: Thiescourt & Nghĩa trang quân đội Đức: Thiescourt
Hầm mộ quốc gia Pháp, Nghĩa trang quân đội Đức và Nghĩa trang quân đội Ba Lan: Bois du Puits
Địa điểm quy tụ hài cốt Pháp, Hầm mộ quốc gia Pháp, đài kỷ niệm Israel và đài kỷ niệm Hồi giáo: Hầm chứa hài cốt Douaumont
Khu đất Pháp: Sự mất mát người dân vô tội của Gerbeviller
Bia và lăng mộ Đức và Pháp: Petit Donon
Nghĩa trang quân đội Đức: Apremont
Nghĩa trang quân đội Đức: Chestres & Hầm mộ quốc gia Pháp: Chestres
Nghĩa trang quân đội Đức: Consenvoye
Nghĩa trang quân đội Đức: Gobessart
Nghĩa trang quân đội Đức: Hohrod-Bärenstall
Nghĩa trang quân đội Đức: Kahm
Nghĩa trang quân đội Đức: Hellenwald
Nghĩa trang quân đội Đức: Maison Blanche
Nghĩa trang quân đội Đức: Nghĩa trang Route de Solesmes và Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang quân đội Cambrai East
Nghĩa trang quân đội Đức: Lagarde
Nghĩa trang quân đội Đức: Pierrepont
Nghĩa trang quân đội Đức: Rancourt
Nghĩa trang quân đội Đức: Saint-Quentin & Đài kỷ niệm Đức - Pháp: Saint-Quentin
Nghĩa trang quân đội Đức: the Uhlans
Nghĩa trang quân đội Đức: Veslud
Đài kỷ niệm Đức: Nghĩa trang Saint-Charles
Đài tưởng niệm Ấn Độ: Đài tưởng niệm Khối thịnh vượng chung Neuve Chapelle
Nghĩa trang quân đội Ý: Bligny
Nghĩa trang quân đội Bồ Đào Nha: Richebourg-l'Avoué
Nghĩa trang quân đội Rumani: Nghĩa trang Soultzmatt
Nghĩa trang quân đội Nga và nhà nguyện: Nghĩa trang Saint-Hilaire-le-Grand
Đài tưởng niệm quốc gia Nam Phi: Đài tưởng niệm quốc gia Nam Phi Delville Wood và Nghĩa trang quân đội Khối thịnh vượng chung: Nghĩa trang Delville Wood
Hào Lưỡi lê
Tham khảo
Di sản thế giới tại Pháp
Di sản thế giới tại Bỉ |
{{Infobox Film festival|name=Giải Cánh Diều 2015|location=Hà Nội, Việt Nam|founded=2002|awards=|number=143|date=20 tháng 4 năm 2016|preceded_by=Giải Cánh diều 2014|current=Lần thứ 14|followed_by=Giải Cánh diều 2016|year=2016|next=2017|prev_year=2015|next_year=2017|main=Giải thưởng của Hội Điện ảnh Việt Nam|founders=Hội điện ảnh Việt Nam|language=Tiếng Việt|directors=Trịnh Lê Văn|host=}}Giải Cánh Diều 2015' là lần thứ 14 giải Cánh Diều được tổ chức; lễ trao giải diễn ra tối 20 tháng 4 năm 2016 tại Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội, được đạo diễn bởi Trịnh Lê Văn.
Đây là lần đầu tiên Giải Cánh diều có 3 bộ phim nhận giải Bạc hạng mục phim truyện điện ảnh. Giải thưởng năm này có thêm đề cử cho Nam diễn viên phụ và nữ diễn viên phụ xuất sắc. Tiêu chí của Giải lần này là "Đề cao các tác phẩm điện ảnh, truyền hình có dấu ấn sáng tạo trong thể hiện, mang đậm bản sắc dân tộc, giàu giá trị nhân văn và đạt hiệu quả xã hội tích cực".
Tổ chức
Ban giám khảo
Trưởng ban giám khảo các hạng mục gồm Phim truyện điện ảnh đạo diễn NSND Đặng Nhật Minh cùng các thành viên như Phạm Nhuệ Giang, đạo diễn Lê Lâm, diễn viên Mai Thu Huyền... Các trưởng ban giám khảo hạng mục phim truyền là hình đạo diễn Vũ Xuân Hưng, phim tài liệu - khoa học là đạo diễn Lê Hồng Chương, công trình nghiên cứu, lý luận phê bình là PGS-TS Trần Thanh Hiệp và hạnh mục phim ngắn NSƯT Phan Thị Bích Hà.
Hãng phim truyện Đài Truyền hình Việt Nam chiến thắng nhiều giải thưởng của hạng mục phim truyền hình, nên để tránh các tranh cãi về sau, ban tổ chức Giải Cánh diều đã loại bỏ giám đốc của Hãng là đạo diễn Đỗ Thanh Hải khỏi ban giám khảo.
Sự kiện liên quan
18 bộ phim truyện điện ảnh tham gia tranh giải Cánh diều 2015 được trình chiếu miễn phí tại 4 địa điểm ở Hà Nội bắt đầu từ ngày 13 đến 17 tháng 4 năm 2006. Có khoảng 100 - 200 vé mời miễn phí được phát trong mỗi suất chiếu.
Đề cử
Buổi lễ trao giải thay vì tổ chức vào ngày 15 tháng 3 như hằng năm thì lần này được lui về ngày 20 tháng 4, thời hạn đăng ký đề cử cũng được kéo dài hơn, từ đầu tháng 1 đến 20 tháng 2 năm 2016. Công việc chấm điểm diễn ra trong tháng 3 năm 2016.
Trong 143 phim và 6 công trình nghiên cứu của hơn 50 hãng sản xuất tranh giải tại Cánh diều 2015, hạng mục phim truyền hình có 16 phim dài tập, 8 phim ngắn tập; phim hoạt hình có 14 phim; 37 phim tài liệu, 12 phim khoa học và hạng mục phim ngắn có 33 phim. Phim truyện điện ảnh có 18 phim trong tổng số 37 phim được sản xuất trong năm 2015.
Với mục đích bảo vệ phim Việt, Ban tổ chức của Cánh diều không cấp nhận những bộ phim được làm lại của nước ngoài. Vì thế, ngay từ cuối tháng 1 năm 2006, một cái tên khá nổi bật đã không có tên trong danh sách đề cử là Em là bà nội của anh.
Hạng mục Phim truyện điện ảnh
Giải thưởng
Tri ân / tôn vinh
Giải Cánh diều 2015 có phần tôn vinh cống hiến của nhà biên kịch Hoàng Tích Chỉ và Nhà giáo Nhân dân Lê Đăng Thực với nền điện ảnh Việt Nam.
Phim điện ảnh
Phim truyền hình
Phim tài liệu
Phim ngắn
Phim khoa học
Hoạt hình
Công trình nghiên cứu, lý luận, phê bình
Công bố kết quả: Tiến sĩ Trần Thanh Hiệp và nghệ sĩ Chiều Xuân
Có hai giải Cánh diều Vàng:
Công trình nghiên cứu- lý luận: Nghệ thuật tạo hình trong sáng tác điện ảnh – Đỗ Lệnh Hồng Tú
Tập tiểu luận: Đời sống nghệ thuật – PGS.TS Trần Luân Kim
Hai bằng khen:
Chuyên luận “Người diễn không chuyên trong phim truyện”; Tác giả: NGND. Lê Đăng Thực, Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành.
Sách chuyên khảo “Những cống hiến làm nên lịch sử nghệ thuật điện ảnh thế giới thời phim câm''”; Tác giả: PGS.TS.NSƯT Trần Duy Hinh, Nxb Hội nhà văn ấn hành.
Tham khảo
2015
Giải thưởng điện ảnh năm 2016 |
Đây là danh sách máy bay tuần tra hàng hải, đôi khi còn gọi là máy bay trinh sát hàng hải, máy bay trinh sát ven biển hoặc máy bay ném bom tuần tra, là máy bay được thiết kế để hoạt động trên mặt nước trong thời gian dài với vai trò tuần tra hàng hải, kiểm soát các tuyến đường biển - đặc biệt là thực hiện tác chiến chống tàu ngầm (ASW), tác chiến chống tàu mặt nước (AShW) và tìm kiếm cứu nạn (SAR).
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Máy bay ném bom
Máy bay tuần tra
Danh sách máy bay quân sự |
Wednesday Club (; ) là một bộ phim truyền hình Thái Lan sắp phát sóng năm 2023 với sự tham gia của Pawat Chittsawangdee (Ohm), Hirunkit Changkham (Nani), Phuwin Tangsakyuen, Kay Lertsittichai, Kittiphop Sereevichayasawat (Satang), Rachanun Mahawan (Film) và Kanyarat Ruangrung (Piploy). Bộ phim được sản xuất dựa trên bộ tiểu thuyết "ตุ๊กตาแต้มสี" (tạm dịch: Thú bông đầy màu sắc) của สุนันทา.
Bộ phim được đạo diễn bởi Chainarong Tampong và sản xuất bởi GMMTV cùng với Keng Kwang Kang Waisai. Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Bộ phim sẽ được phát sóng vào lúc 20:30 (ICT), thứ Hai và thứ Ba trên GMM 25, bắt đầu từ ngày 6 tháng 11 năm 2023.
Diễn viên
Diễn viên chính
Pawat Chittsawangdee (Ohm) vai Kong
Hirunkit Changkham (Nani) vai Pali
Phuwin Tangsakyuen vai Kun
Kay Lertsittichai vai Mac
Kittiphop Sereevichayasawat (Satang) vai Peem
Rachanun Mahawan (Film) vai Tam
Kanyarat Ruangrung (Piploy) vai May
Diễn viên phụ
Sakonrut Woraurai (Four) vai Mink
Kejmanee Wattanasin (Pin) vai Venus
Weerayut Chansook (Arm) vai Kan
Praekwan Phongskul (Bimbeam) vai Kanya
Chayapol Jutamas (AJ) vai Wang Chao
Chayakorn Jutamas (JJ) vai Ma Han
Phromphiriya Thongputtaruk (Papang) vai Karn
Thinnaphan Tantui (Thor) vai Top
Puttipong Jitbut (Chokun) vai Kat
Chinnarat Siriphongchawalit (Mike)
Theepakon Kwanboon (Prom)
Sawanee Utoomma (Iang)
Sản xuất
Ban đầu, vai diễn Peem sẽ do diễn viên Archen Aydin (Joong) thủ vai theo thông báo tại buổi họp báo GMMTV 2023 Diversely Yours,. Tuy nhiên, vào ngày 14 tháng 6 năm 2023, GMMTV đưa ra thông báo thay đổi diễn viên thành Kittiphop Sereevichayasawat (Satang) do lịch trình bận rộn của các diễn viên.
Tiếp đó, vào ngày 19 tháng 7 năm 2023, GMMTV tiếp tục thông báo thay đổi diễn viên thủ vai Tam từ Ramida Jiranorraphat (Jane) thành Rachanun Mahawan (Film) do các lý do cá nhân của diễn viên.
Tham khảo
Liên kết ngoài
GMMTV |
là thị trấn thuộc huyện Kaga, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 10.886 người và mật độ dân số là 41 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 268,73 km².
Tham khảo
Thị trấn của tỉnh Okayama |
Tiếng Chatino cao nguyên là một ngôn ngữ Trung bộ châu Mỹ bản địa, một trong những ngôn ngữ nằm trong nhóm Chatino của ngữ hệ Oto-Mangue. Phương ngữ khá đa dạng; Ethnologue 16 đếm các phương ngữ là ba ngôn ngữ như sau:
Chatino cao nguyên Đông (phương ngữ Lachao-Yolotepec)
Chatino Tây (phương ngữ Yaitepec, Panixtlahuaca, và Quiahije)
Chatino Nopala
Các phương ngữ lân cận giữa ba nhóm có hiểu biết lẫn nhau khoảng 80%; sự đa dạng giữa ba phương ngữ phương Tây gần như lớn như nhau.
Ngữ âm
Tiếng Chatino Yaitepec
Tiếng Chatino Yaitepec có các phụ âm âm vị như sau (Rasch 2002):
Các âm /d͡z, ʒ/ chỉ hiếm khi phát âm.
Các âm xát khác /ð, ɣ/ cũng có thể xuất hiện do các từ mượn tiếng Tây Ban Nha.
/hʷ/ phát âm là một âm môi-răng [f] khi đứng trước phụ âm.
Các âm mũi khi đứng trước phụ âm, phát âm là âm tiết [n̩, m̩].
Âm mũi môi-môi /m/ cũng có thể được viết là nw về mặt chính tả. Khi nw đứng trước /k/, chữ cái này phát âm là [ŋʷ], ở nơi khác; chữ cái này phát âm là [m].
/w/ có thể được phát âm là một âm xát môi-môi [β], khi đứng trước âm /j, i, e/ tại vị trí đầu từ.
/n/ đồng hóa thành [ŋ] khi đứng trước phụ âm vòm mềm /k, ɡ/.
/k/ phát âm là [kʲ] khi đứng trước /e/.
/j/ phát âm là [j̊] vô thanh khi đứng trước một phụ âm vô thanh.
Một âm schwa bổ sung được phát âm giữa phụ âm.
Rasch (2002) báo cáo mười thanh điệu riêng biệt cho tiếng Chatino Yaitepec: bốn thanh điệu cấp cao , giữa , thấp-giữa , và thấp ; hai thanh điệu cao dần /˦˥/ và /˨˦/; và ba thanh điệu thấp dần , , , cũng như một thanh điệu thấp dần sử dụng hạn chế hơn, tìm thấy trong một số từ vựng và trong một số dạng động từ hoàn chỉnh.
Chữ cái
Có nhiều bảng chữ cái thực tế cho tiếng Chatino, hầu như dựa trên bảng chữ cái tiếng Tây Ban Nha. Tiêu biểu là = , = , và được phát âm là trước nguyên âm sau và trước nguyên âm trước.
Trong tiếng Chatino Quiahije, và có lẽ rộng hơn trên khắp tiếng Chatino cao nguyên, các chữ hoa hướng lên trên A–L dùng làm chữ cái thanh điệu trong từ vựng: , với các chữ cái bổ sung (M và S hướng lên trên) cho biến điệu.
Tham khảo
Rasch, Jeffrey Walker. 2002. The basic morpho-syntax of Yaitepec Chatino. Ph.D. thesis. Rice University.
Liên kết ngoài
Nhóm ngôn ngữ Chatino |
Tế bào dẫn nước (hydroid) là một loại tế bào dẫn có ở một số loại rêu, tế bào này có thể coi là tiền thân của quản bào (tracheid) ở thực vật có mạch.
Trong một số loại rêu thực như thành viên của họ Polytrichaceae, các tế bào này hình thành nên lớp tế bào trong cùng của thân. Khi trưởng thành chúng là các tế bào dài, không màu, có thành mỏng với đường kính nhỏ, chứa nước nhưng không chứa chất nguyên sinh (tế bào chất). Các tế bào dẫn nước này tập hợp cùng hoạt động như một mô dẫn gọi là hydrome, có chức năng vận chuyển nước và chất khoáng từ đất. Chúng được bao quanh bởi các bó tế bào sống gọi là leptoid có chức năng vận chuyển đường và các chất tan, leptoid là tiền thân của mạch rây - ploem.
Các tế bào dẫn nước tương tự như quản bào (tracheid) của thực vật có mạch, nhưng không có lignin trong thành tế bào để cung cấp sự chống đỡ cho cấu trúc.
Các tế bào dẫn nước đã được tìm thấy ở một vài loại thực vật hoá thạch ở phiến đá Rhynie như là Aglaophyton. Lúc đầu người ta nhầm các tế bào này với các quản bào của mạch gỗ, sau đó chúng được xác định lại và do vậy Aglaophyton được phân loại lại từ thực vật có quản bào sang thực vật có tế bào dẫn nước.
Chú thích |
Lưu Doãn Bân (; 1925 – 21 tháng 11 năm 1967) là một nhà hóa học hạt nhân người Trung Quốc và là con trai của Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ.
Đầu đời
Lưu Doãn Bân sinh năm 1925 tại quận An Nguyên, thành phố Bình Hương. Cha mẹ là Lưu Thiếu Kỳ và Hà Bảo Trân. Khi Doãn Bân được hai tuổi, ông được đưa về quê nội ở Ninh Hương, Hồ Nam để chăm sóc. Năm 1934, mẹ ông bị Quốc dân Đảng xử tử trong khi bị giam cầm.
Tháng 7 năm 1938, Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa Doãn Bân đến Diên An để đoàn tụ với cha. Mùa thu năm này, Doãn Bân bắt đầu theo học tại Trường Tiểu học Sư phạm Diên An ở tuổi 13.
Sự nghiệp giáo dục và khoa học
Năm 1939, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc quyết định cử một số người con của các nhà cách mạng trong đảng đi du học ở Liên Xô. Vào tháng 11 năm 1939, Doãn Bân và em gái Lưu Ái Cầm đến nhà trẻ ở Monino, nơi các con của Mao Trạch Đông là Mao Ngạn Anh và Mao Ngạn Thanh sinh sống. Lúc ở Liên Xô, Doãn Bân được biết với tên tiếng Nga 'Klim' (Клим).
Sau một học kỳ, Lưu Doãn Bân chuyển đến Trường nội trú Ivanovo, cách Moskva 300 km, tại thành phố Ivanovo và được Tổ chức Cứu tế Đỏ Quốc tế của Liên Xô bảo trợ. Trong thời gian ở trường, ông học rất siêng năng và vào tháng 6 năm 1941, sau khi Đức xâm lược Liên Xô, Doãn Bân đã tích cực tham gia các tổ chức lao động do Viện Nhi đồng Quốc tế tổ chức như khai hoang, khai thác gỗ và vận chuyển củi. Ông còn tình nguyện hiến máu cho các binh sĩ Hồng quân đang chiến đấu ở tiền tuyến. Ông được bầu chọn là một trong những nhà lãnh đạo hội sinh viên Học viện Trẻ em Quốc tế, và gia nhập Komsomol và đứng đầu tổ chức Học viện Trẻ em Quốc tế.
Sau khi tốt nghiệp trung học năm 1945, Doãn Bân được nhận vào Học viện Sắt và Thép Moskva, ông theo học chuyên ngành luyện kim. Trong thời gian ở học viện, ông gia nhập Đảng Cộng sản Liên Xô và sau khi tốt nghiệp, ông được nhận vào Khoa Hóa học của Đại học Quốc gia Moskva với bằng danh dự và là nghiên cứu sinh chuyên ngành hóa học phóng xạ. Ông tốt nghiệp năm 1955 với bằng phó tiến sĩ và vào Học viện Hóa học của Đại học Moskva với tư cách là nhà nghiên cứu. Trong một bức thư gửi đến Lưu Doãn Bân vào năm 1955, Lưu Thiếu Kỳ viết:
Khi lợi ích cá nhân của con đối lập với lợi ích của Đảng, cha tin tưởng con có thể hy sinh vì lợi ích của mình đối với Đảng và nhân dân."
Năm 1957, ông trở về Trung Quốc, ông ở tại nơi cha mình cư trú tại Trung Nam Hải trong vài ngày, trước khi chuyển đến Phương Sơn, Sơn Tây, cách thủ đô Bắc Kinh 50 km, để làm việc tại Viện Năng lượng Nguyên tử Trung Quốc (Viện 401), đây là một trong những viện nghiên cứu vũ khí hạt nhân sớm nhất ở Trung Quốc. Ông có những đóng góp xuất sắc về nghiên cứu năng lượng hạt nhân và được trao chứng chỉ nghiên cứu.
Năm 1959, khi quan hệ Trung–Xô chia rẽ, Liên Xô từ chối cung cấp cho Trung Quốc những vật liệu kỹ thuật quan trọng để phát triển vũ khí hạt nhân. Năm 1961, các nhà nghiên cứu từ Viện 1 thuộc Viện Năng lượng Nguyên tử Trung Quốc được chuyển đến Nhà máy Linh kiện Nhiên liệu Hạt nhân Trung Quốc (Nhà máy 202) tại Bao Đầu, Khu tự trị Nội Mông, nơi họ thành lập phòng thí nghiệm thứ hai, chịu trách nhiệm nghiên cứu vật liệu nhiệt hạch.
Mùa đông năm 1962, Lưu Doãn Bân đến Nhà máy 202, ông được cấp trên bổ nhiệm trở thành giám đốc Văn phòng Nghiên cứu Số 2. Văn phòng dưới sự lãnh đạo của ông bắt đầu nghiên cứu và tổ chức hoạt động đối với đề án bom nguyên tử và vào ngày 16 tháng 10 năm 1964, quả bom nguyên tử đầu tiên của Trung Quốc được kích nổ thành công tại địa điểm thử nghiệm Lop Nur, khiến Trung Quốc trở thành cường quốc hạt nhân thứ năm trên thế giới và là quốc gia châu Á đầu tiên sở hữu năng lực hạt nhân.
Cái chết
Năm 1966, Đại Cách mạng Văn hóa diễn ra và Lưu Doãn Bân được sai đi làm việc, ông được giao công việc dọn dẹp và đào mương chất thải và các công việc không chuyên khác. Tháng 7 năm 1966, Lưu Thiếu Kỳ bị tố cáo là "tẩu tư phái" và "kẻ phản quốc", đồng thời bị Lâm Bưu cách chức Phó Chủ tịch Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Hậu quả từ sự sụp đổ của cha mình, Lưu Doãn Bân còn bị lên án là "gián điệp" và "tẩu tư phái". Doãn Bân bị Hồng vệ binh tra tấn và ngược đãi, họ đưa ông đến một vùng đô thị ở Bao Đầu, tại đây ông bị làm nhục công khai tại một đại hội phê đấu. Vào ngày 21 tháng 11 năm 1967, Doãn Bân tự sát bằng cách nằm trên đường ray tàu hỏa phía bắc khu dân cư nơi gia đình ông sinh sống.
Lưu Thiếu Kỳ qua đời vào ngày 12 tháng 11 năm 1969 tại Khai Phong, Hà Nam, do bị ngược đãi và tra tấn trong lúc giam giữ. Sau khi Đại Cách mạng Văn hóa kết thúc năm 1976 với việc Mao Trạch Đông qua đời, Lưu Doãn Bân được phục hồi danh tiếng sau khi qua đời vào năm 1978. Cùng năm, một lễ tưởng niệm long trọng được tổ chức tại Hội Nhà máy 202. Lưu Thiếu Kỳ được phục hồi danh dự sau khi qua đời vào năm 1980.
Vào ngày 16 tháng 4 năm 2015, Đại sứ Nga tại Trung Quốc Andrey Ivanovich Denisov đã trao Huân chương Kỷ niệm "70 năm chiến thắng trong Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại 1941–1945" cho 32 công dân Trung Quốc, trong đó truy tặng huân chương cho Lưu Doãn Bân.
Gia đình
Lúc ở Liên Xô, Lưu Doãn Bân kết hôn với một phụ nữ Nga tên là Mara Fedotova. Cả hai có hai người con; con trai tên Lưu Duy Ninh (tiếng Nga: Алексей Климович Федото, Alexei Klimovich Fedotov) và con gái tên Sonya.
Sau khi Doãn Bân quay về Trung Quốc vào năm 1957, Mara chuyển đến Trung Quốc cùng các con vào năm 1959, đây là lần cuối hai vợ chồng gặp nhau. Vì căng thẳng giữa Trung Quốc và Liên Xô, Mara ly hôn với Doãn Bân và quay về Moskva cùng hai con. Doãn Bân sau đó tái hôn với Lý Diệu Tú, họ có hai con trai, Lưu Vệ Đông và Lưu Vĩ Trạch.
Lưu Duy Ninh còn được biết với biệt danh Alyosha, đã không công khai tiết lộ thân phận mình là cháu nội của Lưu Thiếu Kỳ do lo sợ bị KGB do thám khi quan hệ Trung–Xô dần xấu đi. Sau khi tốt nghiệp Đại học Hàng không Moskva, ông làm việc tại trung tâm hàng không vũ trụ quốc gia Liên Xô và Cơ quan Vũ trụ Liên bang Nga trong vài năm nhưng không tiết lộ lai lịch cho đến khi được Chính phủ Trung Quốc mời tham dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Lưu Thiếu Kỳ vào năm 1998.
Yêu cầu đến Trung Quốc của ông bị bác bỏ vì công việc liên quan đến bí mật quân sự. Việc từ chối yêu cầu khiến ông càng nôn nóng muốn đến Trung Quốc và vì vậy sớm rút khỏi quân đội Nga. Khi yêu cầu đi đến Trung Quốc của ông tiếp tục bị từ chối, ông đã đệ đơn kiện và năm 2003, ông đến thăm Trung Quốc lần đầu tiên, tại đây ông gặp các thành viên trong gia đình của Lưu Thiếu Kỳ, bao gồm vợ ông là Vương Quang Mỹ.
Duy Ninh muốn định cư ở Trung Quốc, ông điều hành một tổ chức mang tên "Hiệp hội các nhà công nghiệp và doanh nhân Nga–Châu Á" nhằm tạo điều kiện thuận lợi thương mại giữa Trung Quốc và Nga tại Quảng Châu. Vợ chồng Lưu Duy Ninh có hai người con, người con gái tên Margarita giữ chức phó chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân Công nghiệp Nga-Châu Á và Hội đồng Doanh nghiệp Nga-Philippines.
Con gái của Lưu Doãn Bân là Sonya kết hôn với một người Mỹ gốc Nga và định cư ở Hoa Kỳ.
Tham khảo
Cựu sinh viên Đại học Quốc gia Moskva |
Thần El (ʼĒl hay còn gọi là Il, tiếng Ugarit: 𐎛𐎍 ʾīlu; tiếng Phoenicia: 𐤀𐤋 ʾīl tiếng Do Thái: אֵל ʾēl; tiếng Syria: ܐܺܝܠ ʾīyl; tiếng Ả rập: إل ʾīl hay إله ʾilāh; tiếng Akkadia: 𒀭, ilu) là một từ Semitic Tây Bắc có nghĩa là "thần" hoặc "vị thần" hoặc đề cập đến (như một tên riêng) cho bất kỳ một trong nhiều vị thần Cận Đông thời cổ đại. Một dạng hiếm hơn là ila đại diện cho dạng vị ngữ trong tiếng Akkad cổ và trong Amorite. Từ này có nguồn gốc từ Proto-Semitic ʾil hay *ʔil, có nghĩa là "thần". Các vị thần cụ thể được gọi là El, Al hoặc Il bao gồm vị thần tối cao của tôn giáo Canaan cổ đại và vị thần tối cao của người nói tiếng Semit Đông trong Tiền triều đại Lưỡng Hà. Trong số ngôn ngữ Hitti thì El được biết đến với cái tên Elkunirsa (𒂖𒆪𒉌𒅕𒊭/ Elkunīrša).
Tổng quan
Chúa cha Jehovah hay Yahweh, thánh Allah của Hồi giáo đều có cùng một nguồn gốc từ Thần Bò IL của dân Babylon và du nhập vào dân tộc Do Thái khoảng năm 2000 TCN và đổi tên thành thần bò EL. Thần EL thường hiện hình thành một con bò mộng (The Bull EL hoặc EL the Bull). Trong tài liệu cổ sử Ai cập, được viết dưới triều đại Pharaoh Merneptah có nói đến nước Do Thái dưới quốc hiệu ISRAEL, theo đó ISRA là cai trị, EL là thần bò EL. Do đó, ISRAEL có nghĩa là một quốc gia được cai trị bởi thần bò EL. Người Do Thái có tục thờ thần bò EL từ lâu đời, cho nên EL có nghĩa là "Thiên Chúa của Do Thái" (EL is God of IsraEL). Ngôn ngữ Do Thái (Hebrew) gọi Thiên Chúa EL bằng nhiều danh từ: EL, ELoah, ELim, ELohim, họ tin Thiên Chúa EL thường hay xuất hiện ở các núi đá tiếng Do Thái là Shaddai, nên họ cũng gọi Thiên Chúa EL là El Shaddai. Các danh từ để gọi Thiên Chúa EL nói trên đã được nhắc lại trong các bộ sách Kinh Thánh của đạo Do Thái.
Trước khi đặt tên nước là Do Thái là IsraEL thì Jacob đã đến thị trấn Luz của xứ Canaan, Jacob nằm mơ được thiên thần cho một cái thang. Jacob đã leo thang lên tới thiên đàng và được gặp Thiên Chúa EL mặt đối mặt. Khi tỉnh dậy, Jacob đã đổi tên thị trấn Luz thành Beth-EL, có nghĩa là "Nhà của Chúa" (House of EL), vâu chuyện về giấc mơ của Jacob được kể lại trong Cựu ước (Genesis 28:12). Do Thái không phải là nước duy nhất thờ thần EL. Hầu hết các dân tộc quanh vùng Canaan đều thờ thần EL và rất nhiều thần khác, họ quan niệm đồng nhất tất cả đều coi thần EL là vị thần cao nhất. Mặc dầu tục thờ bò El đã phát sinh ở Babylon từ rất lâu đời, nhưng nó được chính thức du nhập vào dân tộc Do Thái từ thời Abraham khoảng năm 2000 TCN. Abraham và dân tộc Do Thái coi El là vị thần duy nhất để tôn thờ, trong khi các dân tộc chung quanh tôn thờ thần El cùng với các vị thần khác như Baal, Anath, Ashtaroh, Ashera.
Dân Do Thái được coi là dân tộc được Chúa chọn vì nước này là quốc gia đầu tiên mang tên thần bò El (Isra-El). Người Canaanites và Semites thờ thần El dưới tượng của một con bò đực. Đối với họ, con bò đực là biểu tượng của sức mạnh. Cũng vì vậy, mỗi khi nói đến thần El họ thường gọi Ngài là Bò Thần El (Bull-El). Tại các thành phố thuộc xứ Babylon người ta thường làm lễ tế thần El với những lời ca tụng là "Thiên Chúa hiện thân thành Con Bò". Theo niềm tin của người Babylon, thần El là vị chủ tọa các hội đồng thần thánh (Divine Council) ở trên trời, là đấng tạo hóa đã sinh ra vũ trụ vạn vật và là đấng đã tạo dựng nên con người. El là danh hiệu lâu đời nhất để gọi Thiên Chúa. Sách Sáng Thế ký (sách đầu tiên trong bộ Kinh thánh Cựu ước) 28:10-22, 33:20, 49:25 đã đồng nhất hóa El với Elohim và Yaweh (Jehovah). Ý nghĩa chữ El (theo tiếng Hebrew) cũng đồng nghĩa với chữ Ilu theo ngôn ngữ cổ ở Babylon là Akkadian. Tất cả đều do ngôn ngữ Semistic "Yl", có nghĩa là "hùng mạnh". Trong các đền thờ của người Phoenicians, thần El được tôn thờ như Thiên Chúa Tối cao, Đấng sinh ra các vị thần và là Chúa của thiên đàng. Trong ngôn ngữ Ả rập, người ta không gọi Thiên Chúa IL (tức El) một cách trống không mà thường thêm mạo tự ah ở sau danh từ Il. Do đó, tên của Thiên Chúa Il trở thành Illah (Il + mạo từ 'ah').
Xem thêm
Elohim
Anunnaki
Utu
El Shaddai
Baal
Allah
Yahweh
Moloch
Chú thích
Tham khảo
.
Liên kết ngoài
Bartleby: American Heritage Dictionary: Semitic Roots: ʾl
Pronunciation (audio) of El
Thần thoại |
là một người mẫu khỏa thân, nữ diễn viên khiêu dâm và YouTuber người Nhật Bản. Tên cũ của cô là Mahiro (まひろ). Cô sinh ra tại Tokyo.
Cô thuộc về công ti Mine's.
Tham khảo
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Nữ diễn viên phim khiêu dâm Nhật Bản |
là thị trấn thuộc huyện Kume, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.530 người và mật độ dân số là 58 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 78,65 km².
Địa lý
Nhân khẩu
Dân số
Theo dữ liệu điều tra dân số của Nhật Bản, dân số thị trấn Kumenan đạt đỉnh vào năm 1950. Từ năm 1960 đến nay, dân số có xu hướng giảm dần.
Tham khảo
Thị trấn của tỉnh Okayama |
Giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố Mexico 2023 (tên chính thức là Formula 1 Gran Premio de la Ciudad de México 2023) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 29 tháng 10 năm 2023 tại trường đua Anh em Rodríguez, Thành phố México, México và là chặng đua thứ 19 của giải đua xe Công thức 1 2023.
Bối cảnh
Tại chặng đua này, Nico Hülkenberg sẽ tham gia chặng đua Công thức 1 thứ 200 của anh.
Bảng xếp hạng trước cuộc đua
Sau giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ, Max Verstappen dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trước Sergio Pérez (240 điểm) và Lewis Hamilton (201 điểm) với 466 điểm. Tại bảng xếp hạng các đội đua, Red Bull Racing dẫn đầu Mercedes (344 điểm) và Ferrari (322 điểm) với 706 điểm.
Lựa chọn bộ lốp
Nhà cung cấp lốp xe Pirelli sẽ cung cấp các bộ lốp hạng C3, C4 và C5 (được chỉ định lần lượt là cứng, trung bình và mềm) để các đội sử dụng tại sự kiện này.
Tường thuật
Buổi tập
Trong buổi tập đầu tiên, năm đội sẽ thay thế một trong những tay đua chính của họ với một tay đua dự bị của họ: Théo Pourchaire thay cho Valtteri Bottas tại Alfa Romeo, Frederik Vesti thay cho George Russell tại Mercedes, Jack Doohan thay cho Pierre Gasly tại Alpine, Oliver Bearman thay cho Kevin Magnussen tại Haas và Isack Hadjar thay cho Yuki Tsunoda tại AlphaTauri. Ngoài ra, đây sẽ là lần đầu tiên Bearman, Vesti và Hadjar tham gia một buổi tập Công thức 1. Sau khi buổi tập đầu tiên kết thúc, Max Verstappen đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:19,718 phút trước Alexander Albon và Sergio Pérez.
Trong buổi tập thứ hai, Verstappen đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:18,686 phút trước Lando Norris và Charles Leclerc.
Trong buổi tập thứ ba, Verstappen đứng đầu với thời gian nhanh nhất là 1:17,887 phút trước Albon và Pérez.
Vòng phân hạng
Vòng phân hạng bao gồm ba phần với thời gian tổng cộng là 45 phút. Trong phần đầu tiên (Q1), các tay đua có 18 phút để tiếp tục tham gia phần thứ hai vòng phân hạng. Tất cả các tay đua đạt được thời gian trong phần đầu tiên với thời gian tối đa 107% thời gian nhanh nhất được phép tham gia cuộc đua. 15 tay đua nhanh nhất lọt vào phần tiếp theo. Verstappen là tay đua nhanh nhất Q1 và sau khi Q1 kết thúc, Esteban Ocon, Magnussen, Lance Stroll, Norris và Logan Sargeant đều bị loại.
Phần thứ hai (Q2) kéo dài 15 phút và mười tay đua nhanh nhất của phần này đi tiếp vào phần thứ ba và cuối cùng của vòng phân hạng (Q3). Verstappen là tay đua nhanh nhất Q2 và sau khi Q2 kết thúc, Gasly, Nico Hülkenberg, Fernando Alonso, Albon và Tsunoda bị loại.
Phần thứ ba (Q3) kéo dài 12 phút, trong đó mười vị trí xuất phát đầu tiên cho cuộc đua chính được xác định sẵn. Leclerc giành vị trí pole với thời gian nhanh nhất là 1:17,723 phút trước Carlos Sainz Jr. và Verstappen. Đó là vị trí pole thứ 22 trong sự nghiệp của Leclerc.
Cuộc đua
Ngay sau khi cuộc đua bắt đầu, Pérez va chạm với Leclerc khiến Pérez phải bỏ cuộc và tấm cuối của mũi xe của Leclerc bị hư hại. Tại vòng đua thứ 31, Kevin Magnussen tông mạnh vào rào chắn đường đua khiến hệ thống lốp treo sau bên trái bị hỏng và cũng khiến chiếc xe của anh cháy âm ỉ. Vụ tai nạn này khiến cuộc đua bị gián đoạn. Tại vòng đua thứ 47, Alonso bỏ cuộc do chiếc xe của anh bị hỏng. Đồng đội Lance Stroll của anh tại Aston Martin sau đó cũng buộc phải bỏ cuộc sau một pha va chạm với Bottas. Sargeant gặp vấn đề với máy bơm nhiên liệu và anh buộc phải bỏ cuộc tại vòng đua cuối cùng.
Verstappen giành chiến thắng trước Hamilton và Leclerc sau khi cuộc đua kết thúc. Đây là chiến thắng thứ 16 trong mùa giải của anh và cũng là chiến thắng thứ 51 trong sự nghiệp của anh. Hơn nữa, anh đã chính thức phá kỷ lục số lần chiến thắng nhiều nhất của anh vào mùa giải 2022. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua chính là Sainz Jr., Norris, Russell, Daniel Ricciardo, Oscar Piastri, Albon và Ocon.
Kết quả
Vòng phân hạng
Chú thích
– Yuki Tsunoda được yêu cầu bắt đầu cuộc đua từ vị trí cuối cùng vì đã vượt quá số lượng bộ nguồn và hộp số cho phép.
– Lance Stroll vượt qua vòng phân hạng ở vị trí thứ 18 nhưng anh phải xuất phát từ làn pit vì các yếu tố có thông số kỹ thuật khác với những thông số kỹ thuật được sử dụng ban đầu đã được lắp trên xe của anh trong điều kiện parc fermé.
– Logan Sargeant không lập được thời gian trong vòng phân hạng. Anh được phép tham gia đua sau khi ban quản lý cho phép. Thêm vào đó, anh bị tụt mười vị trí vì vượt trong điều kiện cờ vàng tại Q2. Án phạt này không gây ảnh hưởng đến vị trí xuất phát của anh vì anh phải xuất phát ở vị trí cuối cùng.
Cuộc đua
Chú thích
– Bao gồm một điểm cho vòng đua nhanh nhất.
– Valtteri Bottas về đích ở vị trí thứ 14 nhưng bị tụt xuống vị trí thứ 15 sau khi nhận một án phạt 5 giây vì gây ra vụ va chạm với Lance Stroll.
– Logan Sargeant và Lance Stroll được xếp hạng vì đã hoàn thành hơn 90% của chiều dài tổng cộng của chặng đua.
Bảng xếp hạng sau cuộc đua
Bảng xếp hạng các tay đua
Lưu ý: Chỉ có mười vị trí đứng đầu được liệt kê trong bảng xếp hạng này.
Các tay đua/đội đua được in đậm và đánh dấu hoa thị là nhà vô địch Giải đua xe Công thức 1 2023.
Bảng xếp hạng các đội đua
Tham khảo
Chặng đua Công thức 1 năm 2023
Giải đua ô tô Công thức 1 Mexico |
Mùa đầu tiên của loạt phim anime truyền hình Spy × Family được sản xuất bởi Wit Studio và CloverWorks, do Kazuhiro Furuhashi đạo diễn, với thiết kế nhân vật của Kazuaki Shimada trong khi Kazuaki Shimada và Kyoji Asano là giám đốc hoạt hình. Âm nhạc được sáng tác và sản xuất bởi (K)now Name. Bộ anime này được công bố lần đầu tiên vào tháng 10 năm 2021. Bộ phim kể về điệp viên bậc thầy Twilight, dưới bí danh của bác sĩ tâm thần Loid Forger, và xây dựng một gia đình giả nhằm điều tra nhà lãnh đạo chính trị Donovan Desmond, gia đình của anh bao gồm cô con gái Anya, một nhà ngoại cảm, vợ anh ta là Yor, một sát thủ có biệt danh là Công chúa Gai.
Các tập
Băng đĩa
Bản tiếng Nhật
Bản tiếng Anh
Ghi chú
Tham khảo
Spy × Family |
Billie Holiday (tên khai sinh Eleanora Fagan; 7 tháng 4 năm 1915 – 17 tháng 7 năm 1959) là ca sĩ nhạc jazz và swing người Mỹ. Được đồng nghiệp và nhạc sĩ nổi tiếng Lester Young đặt biệt danh là "Lady Day", Holiday đã tạo nên nhiều cải tiến trong lối hát nhạc jazz và pop. Cách hát của cô được lấy cảm hứng từ nhạc jazz, tạo nên nhiều cách trình bày mới trong việc nhả chữ và nhịp. Cô nổi tiếng với cách thay đổi tông giọng và kỹ năng ứng tác của mình.
Holiday lớn lên với một tuổi thơ cơ cực và khởi nghiệp với việc đi hát tại các hộp đêm quanh khu Harlem rồi được nhà sản xuất John Hammond phát hiện. Cô ký hợp đồng thu âm với hãng đĩa Brunswick Records vào năm 1935, sau đó hợp tác với Teddy Wilson sản xuất giai điệu "What a Little Moonlight Can Do", một trong những bản nhạc jazz kinh điển nhất mọi thời đại. Trong suốt các thập niên 1930 và 1940, Holiday có nhiều thành công với các hãng đĩa Columbia và Decca. Cuối những năm 1940, cô bắt đầu gặp nhiều rắc rối liên quan tới luật pháp và sử dụng ma túy. Cô trở lại sau án tù với buổi diễn tại Carnegie Hall. Danh tiếng cô khôi phục với nhiều buổi diễn thành công trong thập niên 1950, đặc biệt là 2 buổi diễn cháy vé tại Carnegie Hall. Tuy nhiên, những sản phẩm thu âm cuối cùng của cô không được đánh giá cao do chất giọng bị hủy hoại cùng những rắc rối cá nhân bên lề. Album phòng thu cuối cùng của Holiday, Lady in Satin, được phát hành vào năm 1958. Cô qua đời vì xơ gan vào năm 1959 ở tuổi 44.
Holiday giành được 4 giải Grammy, tất cả đều được trao sau khi cô qua đời, trong đó có giải "Album có tính lịch sử nhất". Cô được xứng danh tại Đại sảnh Danh vọng Grammy và Đại sảnh Danh vọng R&B. Năm 2000, Holiday có tên trong Đại sảnh Danh vọng Rock and Roll với dòng ghi chú "Billie Holiday thay đổi nhạc jazz mãi mãi". Cô được vinh danh trong "50 giọng ca vĩ đại nhất" của đài phát thanh NPR và đứng thứ 4 trong danh sách "500 ca sĩ vĩ đại nhất mọi thời đại" (2003) của tạp chí Rolling Stone. Holiday cũng là chủ đề của nhiều bộ phim điện ảnh và tài liệu, gần đây nhất có thể kể tới The United States vs. Billie Holiday (2021).
Danh sách đĩa nhạc
Billie Holiday Sings (1952)
An Evening with Billie Holiday (1953)
Billie Holiday (1954)
Music for Torching (1955)
Velvet Mood (1956)
Lady Sings the Blues (1956)
Body and Soul (1957)
Songs for Distingué Lovers (1957)
Stay with Me (1958)
All or Nothing at All (1958)
Lady in Satin (1958)
Last Recording (1959)
Tham khảo |
Ngô Vi Liễn (1894-1945) là quan lại cuối thời Nguyễn và là tác giả nhiều bộ sách quý về địa chí, tiêu biểu là cuốn Tên làng xã và Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ chi tiết về các làng xã miền Bắc Việt Nam.
Tiểu sử
Ngô Vi Liễn sinh ngày 05 tháng 11 năm 1894 trong một gia đình Nho học tại xã Tả Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội).
Ông tốt nghiệp trung học trường Bưởi, trường Thông ngôn rồi thi vào trường Cao đẳng, ban Luật học. Ra trường ông làm Tham tá ở Sở Thư viện và Lưu trữ Trung ương Hà Nội từ năm 1923 tới 1929. Thời kỳ này, ông hoạt động trong hội Trí Tri, tham gia dạy các lớp trung học buổi tối và ngày chủ nhật, cũng như viết một số sách.
Từ năm 1928 đến năm 1939, ông làm Tri huyện ở các huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), Quỳnh Côi (Thái Bình), Bình Lục (Hà Nam) và Võ Giàng (Bắc Ninh). Năm 1939, trong một cuộc tranh luận với viên công sứ Bắc Ninh, ông xin từ chức Tri huyện (có người nói là bị cách chức) và chuyển về làm việc ở Cục Lưu trữ Phủ Thống sứ Bắc Kỳ.
Ông bị xuất huyết não năm 1941, liệt nửa người nhưng vẫn cố gắng biên soạn sách bằng tay trái. Ông mất ngày 14 tháng 5 năm 1945.
Sách đã viết
Viết chữ Quốc ngữ cho đúng (được hội đồng duyệt sách giáo khoa cho sử dụng ở các trường học)
La société d'enseignement mutuel du Tonkin (Hội Trí Tri Bắc Kỳ)
Dịch cuốn "Lettres de guerre d'un Annamite" (Thư chiến tranh của một người Việt Nam) của Jean Marquet - 1924
Biên tập cuốn "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu, cùng Đỗ Đình Nghiêm
Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ - cùng Đỗ Đình Nghiêm, Phạm Văn Thư, 1926
Nomenclature des communes du Tonkin (Danh mục các làng xã Bắc Kỳ) - 1928
Địa dư huyện Cẩm Giàng - 1931
Địa dư huyện Quỳnh Côi -1933
Địa dư huyện Bình Lục - 1935
Tưởng nhớ
Tên ông được đặt cho một con phố tại phường Lam Hạ, Thành phố Phủ Lý, Hà Nam, chạy song song với phố Ngô Thì Nhậm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ
Người Hà Nội |
Stéphanie Frappart (; sinh ngày 14 tháng 12 năm 1983 tại Le Plessis-Bouchard, Pháp) là một nữ trọng tài bóng đá người Pháp. Bà trở thành trọng tài cấp FIFA kể từ năm 2009 và đã từng điều hành một số trận đấu đỉnh cao. Bà cũng trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều khiển các trận đấu của các câu lạc bộ nam hàng đầu châu Âu và các trận đấu tại Ligue 1, và cũng trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại UEFA Champions League kể từ năm 2020. Vào năm 2021, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại vòng loại của một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam. Năm 2022, bà cùng với Yamashita Yoshimi của Nhật Bản và Salima Mugansanka của Rwanda trở thành một trong ba trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử làm nhiệm vụ tại một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam, đồng thời cũng trở thành trọng tài nữ đầu tiên làm trọng tài chính điều hành một trận đấu tại World Cup dành cho nam.
Tiểu sử và sự nghiệp
Stéphanie Frappart sinh ngày 14 tháng 12 năm 1983 tại Le Plessis-Bouchard, Pháp. Bà lớn lên ở Herblay và bắt đầu sự nghiệp cầm còi từ năm 13 tuổi. Năm 18 tuổi, bà trở thành trọng tài và điều hành các trận đấu ở cấp độ U-19 của Pháp. Năm 2011, bà bắt đầu sự nghiệp cầm còi của mình tại Championnat National, giải đấu hạng ba của Pháp. Năm 2014, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại Ligue 2, giải đấu hạng hai của bóng đá chuyên nghiệp Pháp. Bà cũng được lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2015 được tổ chức tại Canada.
Vào ngày 3 tháng 8 năm 2018, bà tiếp tục được lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 được tổ chức ngay tại quê nhà. Bà cũng được lựa chọn để trở thành trọng tài chính điều hành trận chung kết của giải đấu giữa Hoa Kỳ và Hà Lan.
Năm 2019, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại Ligue 1, với trận đấu đầu tiên bà cầm còi vào ngày 29 tháng 4 năm 2019, giữa Amiens và Strasbourg. Vào ngày 2 tháng 8 năm 2019, bà được lựa chọn để điều hành trận Siêu cúp châu Âu 2019 giữa Liverpool và Chelsea, đồng thời cũng đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử một nữ trọng tài cầm còi trong một chung kết của một giải đấu dành cho nam do UEFA tổ chức. Vào ngày 11 tháng 11 năm 2019, bà được chọn làm trọng tài chính điều khiển trận chung kết lượt về tại giải Champions Cup, giữa nhà vô địch của Giải bóng đá Ngoại hạng Cộng hòa Ireland và NIFL Premiership. Bà trở thành trọng tài chính điều khiển trận đấu mà nhà vô địch Cộng hòa Ireland Dundalk hủy diệt nhà vô địch Bắc Ireland Linfield với tỷ số 6–0, trong trận đấu mà bà đã rút ra 2 thẻ vàng.
Vào ngày 2 tháng 12 năm 2020, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành một trận đấu tại UEFA Champions League, đó là trận đấu Juventus (Ý) và Dynamo Kyiv (Ukraina). Tháng 3 năm 2021, bà điều khiển trận lượt về thuộc vòng 16 đội tại UEFA Women's Champions League giữa nữ Atlético Madrid và nữ Chelsea. Vài tháng sau, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại vòng loại của một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam, giữa Hà Lan và Latvia.
Vào ngày 7 tháng 5 năm 2022, bà điều hành trận chung kết Cúp quốc gia Pháp 2022 giữa Nice và Nantes.
Vào ngày 19 tháng 5 năm 2022, bà được FIFA lựa chọn là một trong 36 trọng tài làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 được tổ chức tại Qatar, và cũng trở thành một trong ba trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử làm nhiệm vụ tại giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam cùng với Yoshimi Yamashita của Nhật Bản và Salima Mukansanga của Rwanda. Vào ngày 1 tháng 12 năm 2022, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử khi điều hành một trận đấu thuộc một giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam, khi bà trở thành trọng tài chính điều hành trận đấu giữa Costa Rica và Đức thuộc lượt trận cuối bảng E của giải đấu.
Vào ngày 9 tháng 1 năm 2023, bà tiếp tục được FIFA lựa chọn để làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 được tổ chức tại Úc và New Zealand.
Giải thưởng
Giải thưởng Trọng tài nữ xuất sắc nhất thế giới của Liên đoàn Lịch sử và Thống kê Bóng đá quốc tế: 2019, 2020, 2021
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile at WorldFootball.net
Trọng tài giải vô địch bóng đá thế giới 2022
Val-d'Oise
Người Île-de-France
Nhân vật bóng đá Pháp
Trọng tài Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023
T |
Dự án 596 () là tín hiệu, Chic-1 của cơ quan tình báo Hoa Kỳ) là vụ thử vũ khí hạt nhân đầu tiên do Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiến hành, phát nổ vào ngày 16 tháng 10 năm 1964, tại địa điểm thử nghiệm Lop Nur. Đó là một thiết bị phân hạch nổ urani-235 được chế tạo từ urani cấp độ vũ khí (U-235) trong một nhà máy khuếch tán khí ở Lan Châu.
Bom nguyên tử là một phần của chương trình "Hai quả bom, một vệ tinh" của Trung Quốc. Với sức công phá 22 kiloton, tương đương với quả bom hạt nhân đầu tiên RDS-1 của Liên Xô năm 1949 và quả bom Fat Man của Mỹ thả xuống Nagasaki, Nhật Bản năm 1945. Với cuộc thử nghiệm, Trung Quốc trở thành cường quốc hạt nhân thứ năm trên thế giới và là quốc gia châu Á đầu tiên sở hữu năng lực hạt nhân. Đây là vụ thử hạt nhân đầu tiên trong số 45 vụ thử hạt nhân thành công mà Trung Quốc tiến hành từ năm 1964 đến năm 1996, tất cả đều diễn ra tại bãi thử Lop Nur.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chinese Nuclear HistoryA collection of archival materials on the Chinese nuclear weapons program hosted at the Nuclear Proliferation International History Project
China's Nuclear Weapons from the Nuclear Weapon Archive
Chinese Nuclear Weapons Program from Atomic Forum
Lịch sử quân sự năm 1964 |
Leimen (Nam Franconia: Lååme) là thị trấn lớn thứ ba của huyện Rhein-Neckar, tây bắc bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Heidelberg về phía nam.
Tham khảo
Baden
Rhein-Neckar (huyện)
Thị trấn của bang Baden-Württemberg |
Aero Vodochody (thường được gọi tắt là Aero) là một công ty chuyên về hàng không của Cộng hòa Séc. Công ty có cơ sở chính đặt tại sân bay Vodochody, Praha Đông (huyện), thuộc Vodochody và Odolena Voda.
Trong thời kỳ diễn ra Chiến tranh Lạnh, Aeoro Vodochody nổi tiếng với các dòng máy bay phản lực huấn luyện, như L-29 Delfin và L-39 Albatros. Công ty cũng phát triển nhiều biến thể của L-39, như máy bay chiến đấu hạng nhẹ L-59 Super Albatros và L-159 Alca. Aero Vodochody được coi là doanh nghiệp sản xuất máy bay lớn nhất nằm bên ngoài khối các nước Council for Mutual Economic Assistance (COMECON) trừ Liên Xô. Sau khi chính quyền Xô Viết sụp đổ ở Tiệp Khắc vào năm 1989, Aero Vodochody đánh mất vị trí nhà cung cấp máy bay huấn luyện cho khối các nước xã hội chủ nghĩa. Doanh thu của công ty qua đó bị tụt giảm trong những năm 1990s tương tự như tại các nước NATO do chiến tranh Lạnh kết thúc.
Từ năm 1998 đến 2004, Aero Vodochody được vận hành bởi công ty hàng không Boeing. Tháng Mười năm 2006, công ty được tư nhân hóa, mua lại bởi quỹ đầu tư Czech-Slovak Penta Investments với giá trị khoảng 3 tỉ Koruna Séc. Aero Vodochody tiếp tục tiến hành sản xuất máy bay và các bộ phận công nghiệp hàng không. Trong sự kiện Farnborough Airshow 2014, công ty đã đưa ra phiên bản Aero L-39NG, bản hiện đại hóa của L-39.
Lịch sử
nhỏ|The factory at Vodochody Airport
Aero Vodochody có lịch sử bắt đầu từ năm 1919. Từ năm 1929 đến 1951, công ty con của nó là Aero, đã sản xuất các xe ô tô động cơ hai thì cỡ nhỏ và cỡ trung, và còn sản xuất xe tải Škoda 150 từ năm 1946 đến năm 1947 theo li xăng.
Những năm 1950s, Aero Vodochody phá triển dòng máy bay huấn luyện L-29 Delfin trainer aircraft; đây là công ty đầu tiên của Tiệp Khắc có khả năng thiết kế máy bay phản lực. L-29 là chương trình phát triển máy bay công nghiệp lớn nhất từng được thực hiện trong các nước Council for Mutual Economic Assistance (COMECON) ngoại trừ Liên Xô. Đã có 3.000 chiếc L-29 được sản xuất trong đó khoảng 2.000 chiếc được cung cấp làm máy bay huấn luyện cơ bản cho Không quân Liên Xô. Còn lại, cả ở phiên bản có và không có vũ khí được cung cấp cho các nước COMECON và xuất khẩu sang các nước khác ngoài khối như Ai Cập, Syria, Indonesia, Nigeria và Uganda. L-29 đã được sử dụng trong nội chiến Nigeria cuối những năm 1960s và trong biên chế của Không quân Ai Cập đối đầu với xe tăng Israel trong chiến tranh Yom Kippur năm 1973.
Máy bay L-39 Albatros được thiết kế vào những năm 1960s để thay thế cho Aero L-29 Delfín. Một vài phiên bản thiết kế dựa trên L-39 cũng nhanh chóng được giới thiệu. Năm 1972, phiên bản kéo theo mục tiêu bay L-39V, thực hiện chuyến bay thử đầu tiên. Đến năm 1975, công ty tiếp tục đưa ra thị trường mẫu máy bay chiến đấu/huấn luyện L-39ZO, trang bị bốn mấu cứng cũng như cánh máy bay được tăng độ cứng và càng hạ cánh được thiết kế lại. Năm 1977, mẫu máy bay tiêm kích hạng nhẹ L-39ZA ra đời, được trang bị thêm một khẩu GSh-23 gắn dưới thân, còn lại tương tự như L-39 ZO. Có khoảng 200 chiếc L-39 đã được bán làm máy bay huấn luyện cho không quân các nước cuối những năm 1980s. Công ty ngừng bán ra L-39 kể từ những năm 1990s do mất các đơn đặt hàng truyền thống từ các nước khối Warsaw. Đến năm 1996, việc sản xuất L-39 kết thúc.
Aero Vodochody cũng phát triển các phiên bản khác nhau của L-39, đồng thời tiến hành bảo trì, nâng cấp và kéo dài tuổi thọ máy bay cho các nước có trang bị L-39. Nổi tiếng nhất trong các phiên bản của L-39 là L-59 Super Albatros, ban đầu có mã hiệu là L-39MS. Aero chỉ sản xuất số lượng ít máy bay L-59 rồi ngừng sản xuất. Một phiên bản khác của L-39 Albatros là L-159 Alca, phiên bản máy bay chiến đấu được hiện đại hóa.
Những năm 2010s, Aero Vodochody chế tạo máy bay L-159 cao cấp và máy bay trực thăng Sikorsky S-76. Công ty cũng tham gia sản xuất thân máy bay Alenia C-27J Spartan, lắp ráp cửa máy bay Embraer 170 và Embraer 190, buồng lái máy bay trực thăng Sikorsky UH-60 Black Hawk, Boeing F/A-18E/F Super Hornet, sản xuất các bộ phận của Airbus A320, mép trước cánh của Boeing 767. Công ty cũng dadng tiến hành nâng cấp sân bay Vodochody để chở khách và hàng hóa giá rẻ cho khu vực thủ đô Prague.
Tháng Bảy năm 2014, Aero Vodochody giới thiệu chiếc L-39NG tại Farnborough Airshow. Tháng Tư năm 2015, công ty ký hợp đồng liên kết với nhà thầu quốc phòng của Mỹ là Draken International và công ty sản xuất động cơ Williams International để thực hiện chương trình sản xuất L-39NG cho thị trường Bắc Mỹ. Theo đó L-39NG được phát triển theo hai giai đoạn. Giai đoạn 1 (Stage 1), các kỹ sư sẽ lắp đặt động cơ FJ44-4M và giai đoạn 2 sẽ lắp đặt các thiết bị điện tử lên các máy bay L-39 Albatros vẫn còn trong biên chế. Giai đoạn hai sẽ bắt đầu chế tạo mới hoàn toàn L-39NG với các bộ phận nhiều khả năng đã được sử dụng để nâng cấp ở giai đoạn 1, khi thân vỏ đã đạt đến mức tối đa có thể sử dụng. Giai đoạn nâng cấp 1 đã hoàn thành vào ngày 14 tháng Chín năm 2015 với chuyến bay thử đầu tiên của L-39NG (bay trình diễn công nghệ (L-39CW)). Ngày 20 tháng Mười một năm 2017, Aero Vodochody tuyên bố đã hoàn tất việc phát triển L-39CW; ngày 14 tháng Ba năm 2018, L-39CW, được trang bị động cơ và hệ thống điện tử mới đã nhận được giấy chứng nhận để đổi tên hiệu thành L-39NG. Máy bay L-39NG mới thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 22 tháng Mười hai năm 2018. Tháng Chín năm 2020 chưa đầy hai năm sau đó, máy bay đã được chứng chỉ do Cục hàng không Bộ quốc phòng CH Séc cấp.
Danh sách các máy bay của hãng
nhỏ|Aero A-11
nhỏ|Aero Ae-145
nhỏ|Aero CS-102
nhỏ|Aero L-29 Delfín
nhỏ|Aero L-39 Albatros
nhỏ|Aero Vodochody L-159A ALCA
Xem thêm
Aero (automobile)
Avia
Beneš-Mráz
Let Kunovice
Letov Kbely
Zlin Aircraft
Nguồn
Bibliography
Fredriksen, John C. International Warbirds: An Illustrated Guide to World Military Aircraft, 1914–2000. ABC-CLIO, 2001. .
Kiss, Judit. The Defence Industry in East-Central Europe: Restructuring and Conversion. SIPRI, 1997. .
Lake, Jon. "Aero L-39 Albatross family: Variant Briefing". World Air Power Journal, Volume 43, Winter 2000. London:Aerospace Publishing. pp. 116–131. .
Liên kết ngoài
Company website
Company website – English |
Marie-Galante (tiếng Antilles Creole: Mawigalant) là một trong những hòn đảo hình thành nên Guadeloupe, một vùng và tỉnh hải ngoại của Pháp. Marie-Galante có diện tích đất là 158,1 km2 (61,0 dặm vuông). Nó có 11.528 cư dân vào đầu năm 2013, nhưng đến đầu năm 2018, tổng dân số được ước tính chính thức là 10.655, với mật độ dân số là 62,5/km2 (162/sq mi).
Hành chính
Marie-Galante được chia thành 3 xã (với dân số tính đến ngày 1 tháng 1 năm 2013):
Grand-Bourg (5.564 người)
Capesterre-de-Marie-Galante (3.389 người)
Saint-Louis (2.575 người)
Ba xã này đã thành lập một thực thể liên xã vào năm 1994: Cộng đồng các xã Marie-Galante (tiếng Pháp: communauté de Communis de Marie-Galante). Đây là cơ cấu liên xã lâu đời nhất của các Vùng hải ngoại của Pháp.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Office of Tourism
Télévision Locale Marie Galante
Marie-Galante
Quần đảo Guadeloupe
Vùng chim quan trọng của Guadeloupe
Khu vực chim biển |
La Désirade (; tiếng Antiles creole: Dézirad hoặc Déziwad) là một hòn đảo cấu thành nên Guadeloupe, một vùng và tỉnh hải ngoại của Pháp ở vùng Caribe, nó là một trong sáu hòn đảo có người ở của Guadeloupe.
Bằng chứng khảo cổ học đã được phát hiện cho thấy rằng người Mỹ bản địa đã sống ở La Désirade từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ 16.
Đảo dài 11 km, rộng 2 km; phần bên trong hòn đảo tạo thành một cao nguyên trung tâm. Nó có diện tích 20,64 km2 (7,97 dặm vuông) và dân số 1.595 người vào năm 2006, với mật độ dân số 77 người/km2 vào năm 2006. Hầu hết cư dân sống ở khu định cư Beauséjour (trước đây gọi là Grande-Anse).
Tham khảo
Liên kết ngoài
The official website of the island
Tourism website for the island
Desirade-sante.com Everything you should know about the major public health crisis that occurred in La Désirade.
La Désirade
Khu vực phụ thuộc của Guadeloupe
Quần đảo Guadeloupe
Thuộc địa cùi
Hải đăng ở Guadeloupe |
Îles des Saintes (; ), còn được gọi là Les Saintes (tiếng Antilles Creole: Lésent, ), là một nhóm đảo nhỏ cấu thành nên Guadeloupe, một vùng và tỉnh hải ngoại của Pháp. Nó là một phần của Tổng Trois-Rivières và được chia thành hai xã: Terre-de-Haut và Terre-de-Bas. Nó nằm ở quận Basse-Terre và khu vực bầu cử thứ 4 của Guadeloupe.
Les Saintes là một quần đảo núi lửa được bao quanh hoàn toàn bởi các rạn san hô nông. Nó phát sinh từ vành đai núi lửa gần đây của Tiểu Antilles từ Thế Pliocen. Nó bao gồm các loại đá xuất hiện vào Phân đại Đệ Tam giữa (4,7 đến 2 triệu năm trước). Về nguồn gốc, đây là một hòn đảo độc đáo được tách ra từ các trận động đất kiến tạo và động đất núi lửa để tạo thành một quần đảo do đới hút chìm giữa mảng Nam Mỹ, mảng Bắc Mỹ và mảng Caribe. Tổng diện tích là 12,8 km2 (4,9 dặm vuông). Quần đảo có bờ biển dài khoảng 22 km (14 mi) và địa điểm cao nhất của nó là Chameau ("Lạc đà") trên [[đảo
Terre-de-Haut]], đạt tới độ cao khoảng 309 mét (1.014 ft).
Bán đảo Pain de sucre, với chiều cao (53 mét (174 ft)) được nối với Terre-de-Haut bằng một eo đất. Nó nằm giữa hai bãi biển nhỏ. Nó được hình thành bởi sự liên kết của bazan cột.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Office Municipal du Tourisme de Terre de Haut, Les Saintes
Directory about the tourist activities on Terre de Haut & Terre de Bas, Les Saintes
Vùng phụ thuộc Guadeloupe |
Yann Aurel Ludger Bisseck (sinh ngày 29 tháng 11 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Đức thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Inter Milan tại Serie A.
Danh hiệu
Cá nhân
Huy chương Fritz Walter Huy chương đồng U-19: 2019
Tham khảo
Liên kết ngoài
Yann Aurel Bisseck tại kicker (bằng tiếng Đức)
Cầu thủ bóng đá nam Đức ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá Inter Milan
Cầu thủ bóng đá Vitória S.C. B
Cầu thủ bóng đá Vitória S.C.
Cầu thủ bóng đá Roda JC Kerkrade
Cầu thủ bóng đá 1. FC Köln II
Cầu thủ bóng đá 1. FC Köln
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Danish Superliga
Cầu thủ bóng đá Eerste Divisie
Cầu thủ bóng đá Regionalliga
Cầu thủ bóng đá 2. Bundesliga
Cầu thủ bóng đá Bundesliga
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Đức
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Đức
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Đức
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2000 |
Magnesi sulfat như một loại thuốc được sử dụng để điều trị và ngăn ngừa chứng magiê máu thấp và co giật ở phụ nữ bị sản giật. Nó cũng được sử dụng trong điều trị xoắn đỉnh, hen suyễn nặng, táo bón và ngộ độc bari. Nó được đưa vào cơ thể bằng cách tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm cơ bắp cũng như qua miệng. Là muối epsom, nó cũng được sử dụng cho phòng tắm khoáng.
Các tác dụng phụ thường gặp bao gồm huyết áp thấp, đỏ da và calci máu thấp. Các tác dụng phụ khác có thể bao gồm nôn mửa, yếu cơ và giảm nhịp thở. Mặc dù có bằng chứng cho thấy sử dụng trong khi mang thai có thể gây hại cho em bé, nhưng lợi ích trong một số điều kiện nhất định lớn hơn rủi ro. Việc sử dụng nó trong thời gian cho con bú được coi là an toàn. Magnesi sulfat cho sử dụng y tế là muối heptahydrat magnesi sulfat. Cách thức hoạt động của nó không được hiểu đầy đủ, nhưng được cho là liên quan đến việc làm giảm hoạt động của các tế bào thần kinh.
Magnesi sulfat được sử dụng trong y tế ít nhất là sớm nhất là vào năm 1618. Nó nằm trong Danh sách các loại thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới, loại thuốc hiệu quả và an toàn nhất cần có trong hệ thống y tế. Chi phí bán buôn ở các nước đang phát triển là khoảng 0,35 USD8,73 mỗi 10 ml dung dịch 50%. Ở Vương quốc Anh 4ml dung dịch 20% có giá khoảng 10,23 pound. Ở Hoa Kỳ, một liều đầy đủ của thuốc này thường có giá dưới 25 đô la.
Tham khảo
Magnesi
RTT
Thuốc thiết yếu của WHO |
là thị trấn thuộc huyện Kume, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 13.053 người và mật độ dân số là 56 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 232,17 km².
Tham khảo
Thị trấn của tỉnh Okayama |
là thị trấn thuộc huyện Katsuta, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 5.578 người và mật độ dân số là 80 người/km². Tổng diện tích thị trấn là 69,52 km².
Lịch sử
Địa lý
Khí hậu
Nhân khẩu
Dân số
Kinh tế
Tham khảo
Thị trấn của tỉnh Okayama |
Nền tảng đóng, vườn tường hoặc hệ sinh thái đóng là một hệ thống phần mềm trong đó nhà cung cấp dịch vụ truyền dẫn hoặc nhà cung cấp dịch vụ có quyền kiểm soát các ứng dụng, nội dung và/hoặc phương tiện và hạn chế quyền truy cập thuận tiện đối với những người đăng ký hoặc nội dung không được phê duyệt. Điều này trái ngược với một nền tảng mở, trong đó người tiêu dùng thường có quyền truy cập không hạn chế vào các ứng dụng và nội dung.
Tổng quan
Ví dụ, trong lĩnh vực viễn thông, các dịch vụ và ứng dụng có thể truy cập trên điện thoại di động trên bất kỳ thiết bị không dây nào trước đây đều được các nhà khai thác mạng di động kiểm soát chặt chẽ. Các nhà khai thác hạn chế các ứng dụng và nhà phát triển có sẵn trên cổng thông tin và trang chủ của người dùng. Do đó, nhà cung cấp dịch vụ có thể hạn chế quyền truy cập của người dùng đối với những người dùng đã hết tiền trả trước trong tài khoản của họ. Đây từ lâu đã là vấn đề trọng tâm cản trở lĩnh vực viễn thông, vì các nhà phát triển phải đối mặt với những rào cản lớn trong việc đưa các ứng dụng của họ cho người dùng cuối.
Trong một ví dụ điển hình hơn, hệ thống điện thoại Mỹ được kiểm soát chặt chẽ vào những năm 1970, Bell, sở hữu tất cả phần cứng (bao gồm tất cả điện thoại) và có quyền kiểm soát gián tiếp đối với thông tin được gửi qua cơ sở hạ tầng của họ. Đó là một kiểu độc quyền tự nhiên được chính phủ phê chuẩn và được điều chỉnh bởi Đạo luật Truyền thông năm 1934. Tuy nhiên, trong vụ kiện mang tính bước ngoặt Hush-A-Phone v. United States, Bell đã kiện không thành công một công ty sản xuất phụ kiện điện thoại bằng nhựa.
Nói chung, một vườn tường có thể được hiểu là một tập hợp các dịch vụ thông tin đóng hoặc độc quyền được cung cấp cho người dùng. Giống như một vườn tường thực sự, người dùng không thể thoát khỏi môi trường đóng này trừ khi thông qua các điểm ra/vào được chỉ định hoặc nếu bức tường bị loại bỏ.
Các khía cạnh
Một bài báo nghiên cứu của Trường Kinh doanh Harvard năm 2008, có tựa đề "Nền tảng mở: Bằng cách nào, Khi nào và Tại sao?", đã phân biệt tính mở/đóng của một nền tảng theo bốn khía cạnh và đưa ra các nền tảng ví dụ:
Ví dụ
Một số ví dụ về vườn tường bao gồm:
Vào những năm 1990, AOL đã phát triển cái mà sau này được gọi là mô hình dịch vụ "vườn tường". Ý tưởng là ưu tiên cung cấp nội dung được tài trợ cho người dùng khi có thể. Trong thời gian này, CBS đã trả tiền để cung cấp nội dung thể thao, ABC đã trả tiền để cung cấp tin tức và 1-800-Flowers trả tiền để trở thành nhà cung cấp hoa mặc định cho bất kỳ ai tìm kiếm một nhà cung cấp hoa. Chiến lược này đã trở thành phương pháp bán quảng cáo hiệu quả đầu tiên của AOL. Vào thời đó, phương pháp này mang lại lợi nhuận cao cho AOL.
Dòng thiết bị đọc sách điện tử Kindle của Amazon. Như một bài báo của Business Insider tháng 10 năm 2011 có tựa đề "Cách Amazon kiếm tiền từ Kindle" đã nhận xét: "Kindle của Amazon không còn chỉ là một sản phẩm: Nó là cả một hệ sinh thái." Ngoài ra, Business Insider cũng lưu ý rằng “Hệ sinh thái Kindle cũng là sản phẩm phát triển nhanh nhất của Amazon và có thể chiếm hơn 10% doanh thu của công ty vào năm tới”.
Apple iOS và các thiết bị di động khác chỉ được phép chạy các ứng dụng đã được phê duyệt trước từ một dịch vụ phân phối kỹ thuật số.
Các thiết bị Nook của Barnes & Noble. Vào cuối tháng 12 năm 2011, B&N bắt đầu tung ra bản cập nhật chương trình cơ sở tự động, không dây 1.4.1 cho Nook Tablets, loại bỏ khả năng người dùng có quyền truy cập root vào thiết bị và khả năng tải ứng dụng từ các nguồn khác ngoài NOOK Store của Barnes and Noble (nếu không mod). Các thiết bị Nook HD cũng bị "đóng" tương tự, cho đến tháng 5 năm 2013, khi BN mở rộng hệ sinh thái của mình một chút bằng cách cho phép người dùng cài đặt Cửa hàng Google Play và các ứng dụng Android khác nhau được cung cấp trên đó, bao gồm cả các ứng dụng của đối thủ, chẳng hạn như Audible.com, ComiXology, Kindle, Kobo và chính Google.
Tiêu chuẩn Tiện ích mở rộng phương tiện được mã hóa cung cấp các API để kiểm soát việc phát lại nội dung được mã hóa. Đây là một phần tiêu chuẩn web của World Wide Web Consortium và được biên soạn bởi các thành viên làm việc từ Google, Microsoft và Netflix.
Kwangmyong, dịch vụ mạng nội bộ quốc gia hoạt động ở Triều Tiên. Nó hoạt động như một mạng "vườn tường", vì không có thông tin nào từ nước ngoài được phép vào mạng mà không có sự chấp thuận của chính phủ.
Mạng CDMA của Verizon Wireless và các chính sách cấm kích hoạt các thiết bị không được Verizon phê chuẩn trên mạng của họ thường được biết đến (và thường bị chỉ trích) vì cách làm này.[cần dẫn nguồn]
Blockchain được cấp phép đã được gọi là “vườn tường” của năm 2017.
Máy chơi trò chơi điện tử có lịch sử lâu đời về các nền tảng vườn tường, trong đó các nhà phát triển cần mua giấy phép để phát triển cho nền tảng này và trong một số trường hợp, cần có sự chấp thuận của nhà sản xuất máy chơi trò chơi trước khi xuất bản trò chơi.
Các siêu ứng dụng như WeChat được các nhà phê bình gọi là vườn tường.
Xem thêm
Khả năng chuyển dữ liệu
Phụ thuộc vào nhà cung cấp
Hệ sinh thái doanh nghiệp
Sản phẩm bị hư hỏng
Web tối
Lỗi do thiết kế
Quản lý bản quyền kỹ thuật số
Cộng đồng được kiểm soát
Mã nguồn mở
Thiết bị bảo mật phần mềm
Người dùng đã đăng kí
Tham khảo |
Jacob Matthew Ramsey (sinh ngày 28 tháng 5 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Aston Villa tại .
Danh hiệu
U21 Anh
Giải vô địch U-21 châu Âu: 2023
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Học viện Aston Villa: 2018–19
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mùa giải của Aston Villa: 2021–22, 2022–23
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Aston Villa: 2021–22
Học viện Premier League học viên xuất sắc nhất mùa giải: 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Aston Villa FC
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Doncaster Rovers F.C.
Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C.
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2001 |
Dĩ Ái Vi Doanh (tiếng Trung: 以爱为营, bính âm: Yǐ ài wéi yíng, ), là dự án phim truyền hình hiện đại của Trung Quốc đại lục, được chuyển thể từ tiểu thuyết ngôn tình Trêu Nhầm (Cưa nhầm bạn trai được chồng như ý) của tác giả Kiều Diêu. Bộ phim khai máy vào ngày 22 tháng 11 năm 2022 và đóng máy ngày 20 tháng 3 năm 2023 . Dĩ Ái Vi Doanh đánh dấu màn hợp tác đầu tiên của cặp đôi diễn viên trẻ nổi tiếng - Bạch Lộc và Vương Hạc Đệ. Cùng với những cái tên khác như Ngụy Triết Minh, Châu Kha Vũ, Nhiếp Viễn, Vương Diệu Khánh... Phim chính thức được cấp giấy phép phát sóng vào ngày 4 tháng 9 năm nay.
Nội dung
"Trêu nhầm đối tượng, yêu đúng người"
Tổng tài Thời Yến của công ty Minh Dự Vân Sang vừa đẹp trai lại nhiều tiền. Nhưng anh không vì có bối cảnh gia đình lớn mạnh mà ngồi yên hưởng thụ. Anh đã vượt qua giới hạn và định kiến của dư luận, tự mình kinh doanh và gây dựng sự nghiệp riêng.
Trịnh Thư Ý là phóng viên của báo Tài chính Kinh tế. Bởi vì ngoại hình xinh đẹp mà bị mọi người coi là bình hoa di động, xem nhẹ tài hoa và sự chuyên nghiệp của cô. Nhưng cô đã dùng những tác phẩm xuất sắc chứng minh được thực lực của mình. Hai người bọn họ gặp nhau, tạo nên một câu chuyện huyền thoại trong giới tài chính Giang Thành.
Tuy mang hào quang của gia tộc nhưng không vì thế mà Thời Yến bị trách nhiệm gia tộc trói buộc. Anh kiên định thực hiện ý tưởng tài chính "mang lại lợi ích cho dân chúng", dùng khả năng của mình giúp đỡ cho xã hội. Nhờ vào ánh mắt tinh tường và sự quyết đoán của mình, anh đã chứng minh được thực lực của bản thân, dùng ba năm ngắn ngủi khiến công ty có chỗ đứng vững chắc trong ngành. Anh hi vọng có thể dẫn dắt Minh Dự Vân Sang phát triển mạnh mẽ hơn nữa, giúp đỡ được nhiều người hơn. Trong quá trình tìm hiểu và thăm dò thị trường, phóng viên báo Kinh tế Tài chính Trịnh Thư Ý đã lọt vào tầm mắt của anh.
Liên tục giành được trang đầu tạp chí Kinh tế và Tài chính, sự nghiệp đang dần thăng hoa thì Trịnh Thư Ý lại bị mối tình đầu phản bội. Bạn trai của cô đã ngoại tình với cháu gái tổng tài của một công ty đầu tư. Tình cảm bao năm giờ đã tan biến, Trịnh Thư Ý quyết định biến đau thương thành động lực, nhận hết tất cả trang đầu tạp chí và chứng minh mình có năng lực làm chủ biên báo điện tử. Cô tìm mọi cơ hội để được phỏng vấn Thời Yến, lại phát hiện Thời Yến chính là "ông cậu" của cô gái mà bạn trai cũ của cô ngoại tình.
Thông qua cuộc phỏng vấn, Trịnh Thư Ý đã cảm nhận được sự chuyên nghiệp, tầm nhìn xa trông rộng và sự nhạy bén trong cách suy nghĩ của Thời Yến. Thời Yến cũng nhận thấy được năng lực của cô, sự kiên nhẫn và khả năng tiếp thu kiến thức mới một cách nhanh chóng; đồng thời giúp anh hiểu hơn về năng lực của giới truyền thông.
Sau nhiều lần tiếp xúc, va chạm, hai người dần hiểu rõ và tiến gần nhau hơn. Nhưng khi Minh Dự Vân Sang chuẩn bị bước sang một nấc thang mới thì lại rơi vào một cuộc khủng hoảng chưa từng có. Trịnh Thư Ý luôn tin tưởng vào khả năng của Thời Yến. Cô đã dùng ngòi bút đưa tin, dùng sức mạnh của truyền thông để làm sáng tỏ chân tướng sự thật, trợ giúp Thời Yến vượt qua được giai đoạn khó khăn. Cuối cùng Thời Yến đã giải quyết được cuộc khủng hoảng một cách êm đẹp. Hai người vượt qua được cửa ải khó khăn, mở ra một con đường phát triển sự nghiệp mới và có được một tình yêu trọn vẹn.
Diễn viên
Diễn viên chính
Các diễn viên khác
Phát sóng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Phim Trung Quốc
Phim ngôn tình Trung Quốc
Phim truyền hình Trung Quốc năm 2023
Phim truyền hình Trung Quốc ra mắt năm 2023 |
Aaron William Cresswell (sinh ngày 15 tháng 12 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ West Ham United tại Premier League.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Aaron Cresswell tại West Ham United FC (lưu trữ)
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C.
Cầu thủ bóng đá Ipswich Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Tranmere Rovers F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1989 |
Benjamin Anthony Johnson (sinh ngày 24 tháng 1 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ West Ham United tại .
Danh hiệu
West Ham United
UEFA Europa Conference League: 2022–23.
U21 Anh
Giải vô địch U21 châu Âu: 2023
Cá nhân
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất năm của West Ham United: 2020–21, 2021–22
Tham khảo
Liên kết ngoài
Ben Johnson tại West Ham United FC (lưu trữ)
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2000 |
Jarrod Bowen (sinh ngày 20 tháng 12 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh hoặc tiền đạo cho câu lạc bộ West Ham United tại và đội tuyển quốc gia Anh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Jarrod Bowen tại West Ham United FC (lưu trữ)
Jarrod Bowen tại Hull City AFC (lưu trữ)
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh)
Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C.
Cầu thủ bóng đá Hull City A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Hereford United F.C.
Tiền đạo bóng đá nam
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1996 |
Joseph Tetteh Anang (sinh ngày 8 tháng 6 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ West Ham United tại .
Tham khảo
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá English Football League
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Derby County F.C.
Cầu thủ bóng đá Stevenage F.C.
Cầu thủ bóng đá West Ham United F.C.
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Cầu thủ bóng đá nam Ghana
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2000 |
Luciana Fuster (sinh ngày 14 tháng 1 năm 1999) là hoa hậu, người mẫu Peru đã đăng quang Hoa hậu Hòa bình Quốc tế 2023. Cô là thí sinh đến từ Peru mang về chiến thắng lần hai cho đất nước của mình và cũng là quốc gia đầu tiên có hai chiếc vương miện trong cuộc thi sắc đẹp này. Đây là chiến thắng lặp lại đầu tiên của một quốc gia trong lịch sử của cuộc thi Hoa hậu Hòa bình Quốc tế, theo đó Peru đã chiến thắng vào năm 2017 cũng diễn ra tại Việt Nam.
Thời thơ ấu và giáo dục
Cô sinh ra ở Callao, vào ngày 14 tháng 1 năm 1999, trong một gia đình trung lưu. Cô học tiểu học và trung học tại Trường Lyceum Hải quân Almirante Guise, nằm ở quận San Borja . Từ khi còn là một thiếu niên, cô đã cống hiến hết mình để trở thành một vận động viên bóng chuyền và bóng rổ trong các giải vô địch địa phương trong hạng mục của mình, với sự tham gia nhỏ trên sân.
Tham khảo |
Thùng rác là loại thùng chứa rác, thường được làm bằng kim loại, nhựa, gỗ hoặc bằng mây. Thùng rác đạp chân được Lillian Moller Gilbreth, một kỹ sư công nghiệp phát minh vào những năm 1920 để xử lý rác thải nhà bếp. Trong những năm 2010, một số loại thùng rác đã bắt đầu có các cơ chế tự động như nắp có cảm biến hồng ngoại trên đầu thùng và được cấp nguồn pin để mở thay vì bàn đạp, giải phóng người dùng khỏi việc chạm vào thùng rác.
Ngày nay, hầu hết mỗi hộ gia đình hầu điều có ít nhất 1 thùng rác để chứa rác thải sinh hoạt. Ở các khu vực công cộng như công viên thường có những thừng rác để cải thiện môi trường và khuyến khích mọi người không xả rác. Những thùng rác này được đặt ngoài trời hoặc các khu vực đông đúc. Ở các khu đô thị đông đúc, rác thường được chôn dưới lòng đất bên dưới thùng chứa.
Chú thích
Tái chế
Thiết bị đường phố
Thùng rác |
Bồn tiểu nam (tiếng Anh: urinal) (, ) là một thiết bị vệ sinh được sử dụng để đi tiểu. Bồn tiểu thường được lắp đặt trong nhà vệ sinh công cộng dành cho nam giới. Bồn tiểu có thể xả bằng tay, xả tự động hoặc không xả như trường hợp bồn tiểu không dùng nước. Bồn tiểu dành cho phụ nữ ("bồn tiểu nữ") cũng tồn tại nhưng rất hiếm. Phụ nữ có thể sử dụng bồn tiểu đứng bằng cách sử dụng thiết bị đi tiểu nữ.
Chú thích
Liên kết ngoài
Collection of urinals worldwide (e.g. Berlin wall, flowers and at the South Pole)
Photos of waterless urinals worldwide
Urilift website
Nhà vệ sinh công cộng
Nhà vệ sinh |
Bồn tiểu nữ (tiếng Anh: female urinal) là một loại bồn tiểu được thiết kế dành riêng cho phụ nữ. Nó có nhiều kiểu dáng khác nhau, cho phép phụ nữ đi tiểu trong tư thế đứng, ngồi xổm một nửa hoặc ngồi xổm hoàn toàn, nhưng cơ thể không tiếp xúc trực tiếp với bồn tiểu. Ngoài ra, còn có một số loại bồn tiểu ngồi, được thiết kế để có tiếp xúc của cơ thể với bồn tiểu.
Xem thêm
Bồn tiểu nam
Chú thích
Bồn tiểu
Nước tiểu
Hệ thống vệ sinh
Nhà vệ sinh
Sức khỏe nữ giới |
Bồn tiểu là một thiết bị vệ sinh được sử dụng để đi tiểu. Nó có thể là:
Bồn tiểu nam
Bồn tiểu nam
Nhà vệ sinh |
Bão Otis là cơn bão nhiệt đới có phạm vi gió mạnh hẹp nhưng sức gió duy trì (cận tâm) rất mạnh đã đổ bộ vào gần Acapulco với sức gió tương đương bão cấp 5. Otis là cơn bão ở khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương đầu tiên đổ bộ vào đất liền với cường độ cấp 5 và vượt qua Bão Patricia để trở thành cơn bão đổ bộ mạnh nhất vào đất liền ở khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương được ghi nhận. Là cơn bão nhiệt đới thứ mười lăm, cơn bão cuồng phong thứ mười, cơn bão cuồng phong lớn thứ tám, và cơn bão cấp 5 thứ hai của mùa bão Bắc Thái Bình Dương phía Đông đường đổi ngày năm 2023 (2023 Pacific hurricane season), Otis hình thành từ một vùng nhiễu động nhiệt đới cách Vịnh Tehuantepec vài trăm dặm về phía nam. Các dự báo đầu tiên của NHC cho rằng Otis khi mạnh nhất chỉ là một cơn bão nhiệt đới yếu, nhưng Otis đã trải qua quá trình tăng cường nhanh chóng để đạt tốc độ gió duy trì trong 1 phút mạnh nhất là 145 kt (khoảng 270 km/h) và đổ bộ vào đất liền với cường độ cực đại. Khi vào đất liền, cơn bão nhanh chóng suy yếu trước khi tan vào ngày hôm sau. Dù là một cơn bão rất mạnh nhưng bán kính gió mạnh hẹp và thời gian tồn tại tương đối ngắn (khoảng 3 ngày).
Lịch sử khí tượng học
Trung tâm Bão quốc gia Hoa Kỳ (NHC) lần đầu tiên dự báo vào ngày Chủ nhật ngày 15 tháng 10 rằng rằng một vùng áp thấp dự kiến sẽ hình thành ở phía nam Guatemala và El Salvador vào giữa tuần sau.Một vùng áp thấp với tổ chức tương đối rời rạc và rộng hình thành cách Vịnh Tehuantepec vài trăm dặm về phía nam vào ngày 18 tháng 10 và tạo ra những cơn giông vô tổ chức. Hệ thống đã tăng cường tổ chức trong vài ngày tiếp theo, trở thành áp thấp nhiệt đới vào lúc 15:00 UTC ngày 22 tháng 10. Vào thời điểm đó, áp thấp nhiệt đới có hoạt động đối lưu mạnh, gia tăng gần tâm và được xác định rõ của nó. Sáu giờ sau, áp thấp nhiệt đới được NHC tuyên bố là mạnh lên thành bão nhiệt đới và được đặt tên là Otis sau khi sự tổ chức của áp thấp nhiệt đới tốt hơn. Cơn bão mới hình thành đang di chuyển chậm về phía bắc vì nó nằm trong dòng dẫn yếu giữa một rãnh áp thấp ở phía tây bắc và một rìa áp cao ở phía đông bắc.Qua đêm, đối lưu sâu xuất hiện ở góc phần tư phía tây bắc của hoàn lưu với phần trung tâm trở nên ẩn đi dưới các đỉnh mây lạnh hơn.Tuy nhiên, xu hướng đối lưu này đã bị chững lại vào khoảng đầu ngày 23 tháng 10 do gió đứt ở phía đông cơn bão, cản trở việc tổ chức sâu hơn và khiến trung tâm cơn bão lộ ra một phần trên ảnh mây vệ tinh.Đến 03:00 UTC ngày 24 tháng 10, hình ảnh vi sóng tần số 37 GHz từ vệ tinh mô tả cấu trúc giống như xoắn vào trung tâm ở cấp thấp, mặc dù hình ảnh vệ tinh bề ngoài tổng thể của hệ thống tương đối xấu và trông giống như bị cắt xén. NHC lưu ý hình ảnh này có thể là bằng chứng cho thấy rằng sự tăng cường nhanh chóng (rapid intensification) của bão sắp xảy ra.
Đến sáng ngày 24 tháng 10, Otis đã tổ chức với đối lưu tăng lên và dòng phân kì (outflow) mạnh và lan rộng. Sự tăng cường nhanh chóng bắt đầu, được hỗ trợ bởi gió đứt hướng đông nam giảm dần và nhiệt độ bề mặt biển ấm ở mức 29–31 °C (84–88 °F).Trên hình ảnh vệ tinh có thể nhìn thấy (visible satellite image), một con mắt trở nên rõ ràng và theo NHC thì Otis đã mạnh lên thành bão cấp 3 trước 21:00 UTC ngày 24 tháng 10. Việc nâng cấp này dựa trên các phép đo từ máy bay trinh sát của Phi Đoàn Trinh Sát Thời Tiết thuộc NOAA. Các phép đo này cho thấy Otis mạnh hơn đáng kể so với ước tính cường độ bằng kỹ thuật Dvorak dựa trên hình ảnh vệ tinh và Otis đang trải qua quá trình tăng cường nhanh chóng, với áp suất bề mặt trung tâm giảm 10 milibar (0,30 inHg) giữa các lần khảo sát của chuyến bay trinh sát.NHC tiếp tục quan sát thấy mức độ tổ chức của cơn bão ngày càng tăng trên hình ảnh vệ tinh trong suốt cả ngày mà chưa thấy có dấu hiệu cho thấy sự tăng cường ngừng lại. Lúc 03:00 UTC ngày 25 tháng 10, NHC cho rằng bão Otis đã mạnh llên thành bão cấp 5. Trong 24 giờ, Otis đã mạnh lên từ cơn bão nhiệt đới với tốc độ gió duy trì 45 kt (85 km/h) lên cơn bão cấp 5 với tốc độ gió duy trì 140 kt (260 km/h), tốc độ gió tăng thêm 95 kt (175 km/h) theo dữ liệu ban đầu, chỉ đứng sau bão Patricia (2015) là cơn bão mức tăng cường độ kỷ lục trong 24 giờ lớn nhất ở Đông Bắc Thái Bình Dương theo dữ liệu tốt nhất. Mặc dù có cường độ rất mạnh, Otis là một cơn bão có kích thước tương đối nhỏ, phạm vi gió mạnh hẹp với bán kính gió mạnh tương đương gió của một cơn bão được NHC ước tính khoảng 60 hải lý (110 km) tính từ tâm bão.
Sau khi trở thành bão cấp 5, Otis mạnh hơn một chút và vào lúc 06:25 UTC ngày 25 tháng 10, cơn bão đổ bộ vào gần Acapulco với cường độ cực đại, với sức gió ước tính là 145 kt (270 km/h) và áp suất trung tâm 923 mb (27,26 inHg),trở thành cơn bão ở khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương đầu tiên được ghi nhận đổ bộ vào đất liền ở cường độ cấp 5, do đó vượt qua Patricia để trở thành cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Đông Bắc Thái Bình Dương. Otis nhanh chóng suy yếu sau khi đổ bộ vào đất liền, suy yếu thành bão nhiệt đới lúc 18:00 UTC và tan trong vòng ba giờ sau đó.
Dự báo bão không chính xác với sai số dự báo rất cao
Cường độ cao nhất của bão Otis vượt xa những gì NHC đã dự báo. Khi hệ thống mới hình thành, ba ngày trước khi đổ bộ, dự báo của NHC cho rằng Otis sẽ không đổ bộ mà dự báo bão đi uốn cong theo hình Parabol về phía tây như một cơn bão nhiệt đới yếu;hai ngày sau, chỉ 24 giờ trước khi cơn bão đạt cường độ cấp 5, NHC dự báo cường độ cực đại chỉ đạt 60 kt (110 km/h).Các dự dự báo sau đó chuyển sang kịch bản bão Otis đổ bộ, nhưng thậm chí chỉ 16 giờ trước khi đổ bộ, NHC đã dự bão rằng Otis bão sẽ đạt cực đại với sức gió duy trì 80 kt (150 km/h), tức là chỉ tương đương với bão cuối cấp 1. Dự báo này cũng cho biết Otis sẽ đổ bộ vào đất liền trong khoảng thời gian từ 6 giờ sáng đến 6 giờ chiều theo giờ địa phương (12:00 UTC và 00:00 UTC ngày hôm sau) vào ngày 25 tháng 10, gần một ngày sau khi nó thực sự tiến vào đất liền. Các mô hình dự báo thời tiết số hoá đã không dự báo được mức độ tăng cường rất nhanh chóng xảy ra, một phần do thiếu dữ liệu quan trắc khí tượng, chỉ có một chuyến bay của máy bay trinh sát và không có radar ở khu vực đổ bộ, trong khi đối với cơn bão ở Đại Tây Dương, đặc biệt là các cơn bão ảnh hưởng đến Hoa Kì máy bay trinh sát được sử dụng rất thường xuyên và mạng lưới radar ở Hoa Kì tương đối nhiều. Một số lần chạy mô hình hoàn toàn không dự báo được sự đổ bộ.Một điều trùng hợp, vào năm 2017, cơn bão khác có cùng tên Otis không ảnh hưởng đến đất liền cũng có cường độ cực đại vượt xa dự báo của NHC với 3 dự báo đầu tiên của NHC khẳng định áp thấp nhiệt đới là tiền thân của bão Otis (2017) sẽ tan mà không trở thành bão nhiệt đới, nhiều dự báo khác cho đến dự đoán số 25 cũng cho rằng bão sẽ không vượt quá 55 kt (100 km/h), cuối cùng hệ thống đó được cho là có sức gió 100 kt (185 km/h) ở lần dự báo số 26.
Ảnh hưởng
Do ảnh hưởng của bão, trạm quan trắc khí tượng ở Ilsa Roqueta đã quan trắc được gió duy trì 81 dặm/h (130 km/h, cấp 12) và gió giật mạnh 135 dặm/h (217 km/h, cấp 17), áp suất mực nước biển (MSLP) thấp nhất quan trắc được là 957,4 hPa.
Hơn 500.000 sự cố mất điện xảy ra trên toàn tiểu bang, các bệnh viện và khách sạn bị ảnh hưởng, trần nhà bị sập và lũ lụt lớn được báo cáo bên trong các khách sạn. Một số tòa nhà cũng bị hư hỏng nặng hoặc sụp đổ. 18 đài phát thanh ở Acapulco ngừng hoạt động và liên lạc trong thành phố bị cắt đứt. Một trung tâm mua sắm ở Acapulco bị phá hủy và một đoạn đường cao tốc dẫn vào thành phố bị đóng cửa sau một trận lở đất. Ngoài ra, một sân bay quân sự gần Acapulco đã bị hư hại, gây khó khăn cho hoạt động cứu hộ. Do tác động, các nơi trú ẩn tạm thời đã được mở ở Acapulco, Tecpán de Galeana và Coyuca de Benítez.Một số hãng hàng không bị ảnh hưởng bởi Otis, trong đó có Aeroméxico, Volaris và Viva Aerobus đã đình chỉ chuyển bay phục vụ đi và đến Acapulco và Zihuatanejo do ảnh hưởng của bão. Sân bay Quốc tế Acapulco, nơi mà tất cả các chuyến bay đã bị đình chỉ, không thể tiếp cận được ngay sau khi bão tan.
Thương vong
Tính đến ngày 30 tháng 10, có ít nhất 48 người tử vong và 36 người mất tích do bão theo thống kê chính thức.
Tham khảo
Chú thích
Thang bão
Thang đo bão sử dụng trong bài là thang SSHWS.
Bão có cường độ tương đương bão cấp 3 trở lên được là bão lớn.
Đơn vị
1 hải lý = 1, 852 km.
1 kt = 1 hải lý/giờ.
1 dặm = 1,609344 km.
Xem thêm
Bão Patricia (2015).
Bão Mirinae (2016), cơn bão tại Việt Nam được cho là dự báo sai gây tranh cãi lớn.
Liên kết ngoài
Tìm tin tức về bão Otis qua google: [Tiếng Việt], [Tiếng Anh].
Báo Lao Động viết bài về bão Otis với tham khảo từ báo quốc tế. |
là một ngôi làng thuộc huyện Aida, tỉnh Okayama. Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2023, dân số ước tính ngôi làng là 1.356 người và mật độ dân số là 23 người/km². Tổng diện tích ngôi làng là 57,97 km².
Tham khảo |
Trung Sa Đảo Tiêu (tiếng Trung: 中沙岛礁虛擬鎮, bính âm: Zhōngshā Dǎojiāo Xūnǐzhèn) là một hư nghĩ trấn (tương đương cấp thôn, tổ dân phố ở Việt Nam) thuộc quận Tây Sa, thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Đơn vị cư dân này có mã phân chia hành chính ban đầu là 469039 và mã phân chia hành chính hiện tại là 460323.
Khu vực của hư nghĩ trấn gồm toàn bộ các đảo, đá của quần đảo Trung Sa. Trụ sở của hư nghĩ trấn Trung Sa Đảo Tiêu nằm trên đảo Hoàng Nham (bãi cạn Scarborough theo cách gọi của Trung Quốc).
Hư nghĩ trấn Trung Sa Đảo Tiêu không có dân cư sinh sống thường xuyên và lâu dài, vì phần đất nổi thuộc đảo Hoàng Nham là quá nhỏ.
Phân khu hành chính
Hư nghĩ trấn Trung Sa Đảo Tiêu thuộc thẩm quyền của Ủy ban Cư dân Quần đảo Trung Sa, với đảo Hoàng Nham là trụ sở của chính quyền hư nghĩ trấn.
Tham khảo |
Andrea Valentina Rubio Armas (sinh ngày 27 tháng 11 năm 1998) là một người mẫu, nhà báo đến từ Venezuela. Cô đăng quang Hoa hậu Quốc tế 2023 và trở thành Hoa hậu Venezuela thứ 9 đăng quang tại đấu trường nhan sắc này.
Cuộc đời và sự nghiệp
Cuộc sống và giáo dục sớm
Rubio sinh ra và lớn lên ở Caracas, Venezuela. Cha mẹ cô là Felipe Rubio và Marisela Armas. Ở tuổi 18, sau khi hoàn thành chương trình học cấp hai, cô chuyển đến Bogotá, Colombia do Cuộc khủng hoảng tại Venezuela. Rubio là một nhà báo và tốt nghiệp Đại học La Sabana ở Chía, Colombia với bằng về Truyền thông nghe nhìn và Đa phương tiện với trọng tâm là Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Cô nói được cả tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Chiều cao của cô là 1.71 mét.
Các cuộc thi sắc đẹp
Năm 2019, sự nghiệp người mẫu của cô được củng cố khi giành chiến thắng trong chương trình thực tế, La Agencia:Batalla de Modelos, do mạng Caracol Televisión sản xuất và phát sóng ở Medellín.
Hoa hậu Venezuela 2022
Cuối năm 2022, Rubio trở lại Venezuela để tham gia Hoa hậu Venezuela 2022, với tư cách là một trong 24 thí sinh.
Rubio thi đấu với tư cách Hoa hậu Portuguesa và giành chiến thắng Hoa hậu Venezuela 2022, được tổ chức vào ngày 16 tháng 11 năm 2022, tại Poliedro de Caracas. Rubio đã kế vị Hoa hậu Venezuela 2020, Isbel Parra của Vùng Guayana.
Trong thời gian đương nhiệm, cô là người dẫn chương trình khách mời cho tạp chí buổi sáng Portadas al Día của Venevisión và là người đồng dẫn chương trình tại Giải thưởng Âm nhạc Mỹ Latin năm 2023 cho Venezuela như một phần trong quá trình chuẩn bị cho cuộc thi Hoa hậu Quốc tế. Ngoài ra, cô còn có một số cuộc gặp gỡ và hoạt động văn hóa với các thành viên của đại sứ quán Nhật Bản tại Caracas.
Rubio cũng đã làm việc với Quỹ Chia sẻ vì Cuộc sống Colombia (Fundación Comparte por una Vida Colombia) trong 'Chiến dịch Nhân phẩm dành cho các cô gái nhập cư' (Diginidad para las niñas di cư) trong khuôn khổ 'Chương trình Tôi tự chăm sóc bản thân, tôi bảo vệ bản thân' (Programa Me Cuido, Me Protejo) và 'I Dream, I Can Program' (Programa Yo Sueño, Yo Puedo), trong quá trình gây quỹ của cung cấp và đóng góp vào giáo dục về kinh nguyệt, kỹ năng bảo vệ bản thân và giảm thiểu tác động bạo lực trên cơ sở giới của thanh thiếu niên sống ở biên giới Colombia-Venezuela, hỗ trợ người Venezuela có thu nhập thấp những cô gái trẻ nhập cư theo học tại Cơ sở giáo dục La Frontera nằm ở Villa del Rosario, Norte de Santander Sở.
Hoa hậu Quốc tế 2023
Cô tham gia và xuất sắc đăng quang ngôi vị cao nhất, mang chiếc vương miện thứ 9 về cho Venezuela.
Tham khảo |
Sofía Osío Luna (sinh ngày 27 tháng 5 năm 2000) là một người mẫu, nhà giao tiếp xã hội và Hoa hậu, người đã đăng quang Hoa hậu Colombia 2022. Cô đại diện cho Colombia tại cuộc thi Hoa hậu Quốc tế 2023.
Tuổi thơ
Sofía sinh ra ở Barranquilla, Atlántico, Colombia. Cô là con gái của Fernán Osío và Susana Luna, đồng thời có ba anh chị em. Cô học trung học tại Colegio Hebreo Unión (Trường tiếng Do Thái Union) một tổ chức song ngữ đặt tại thành phố xuất xứ của cô, trong khi quá trình đào tạo học thuật tiếp theo của cô diễn ra tại Istituto Europeo di Design, đặt tại Barcelona, Tây Ban Nha, nơi cô tốt nghiệp chuyên ngành tiếp thị và truyền thông thời trang. Ngoài tiếng mẹ đẻ, cô còn thông thạo tiếng Anh. Từ khi còn trẻ, cô đã làm người mẫu cho nhiều thương hiệu khác nhau trên toàn quốc.
Cuộc thi sắc đẹp
Hoa hậu Atlántico 2022
Sự nghiệp tham gia các cuộc thi sắc đẹp của Sofía Osío bắt đầu vào tháng 6 năm 2022, khi cô được chỉ định là Miss Atlántico mới cho phiên bản tiếp theo của cuộc thi Miss Colombia (Concurso Nacional de Belleza), cuộc thi đó sẽ được tổ chức ra mắt vào tháng 11 cùng năm.
Hoa hậu Colombia 2022
Trong cuộc thi, cô nổi bật là một trong những ứng cử viên được yêu thích nhất để giành được danh hiệu Hoa hậu Colombia mà Valentina Espinosa nắm giữ vào thời điểm đó. Màn trình diễn của cô trong suốt cuộc thi đã giúp cô trở thành người chiến thắng vào đêm ngày 13 tháng 11 năm 2022 tại thành phố Cartagena như thông lệ truyền thống của cuộc thi sắc đẹp.
Chiến thắng của cô đã mang lại cho khoa của mình danh hiệu thứ 12 trong lịch sử của cuộc thi Hoa hậu Colombia, một danh hiệu mà khoa chưa có được kể từ Paulina Vega đăng quang Hoa hậu Colombia 2013.
Hoa hậu Quốc tế 2023
Cô đại diện cho Colombia tại Hoa hậu Quốc tế 2023 ở Nhật Bản và giành vị trí Á hậu 1.
Tham khảo |
Thiết bị viễn thông (còn gọi là thiết bị thông tin liên lạc) là các thiết bị phần cứng được sử dụng cho mục đích viễn thông. Kể từ những năm 1990, ranh giới giữa thiết bị viễn thông và phần cứng IT đã trở nên mờ nhạt do sự phát triển của internet và vai trò ngày càng tăng của nó trong việc truyền dữ liệu viễn thông.
Hầu hết các thành phần thiết yếu của viễn thông hiện đại được xây dựng từ MOSFETs (metal–oxide–semiconductor field-effect transistors), bao gồm các thiết bị di động, bộ thu phát, mô-đun trạm gốc, bộ định tuyến, bộ khuếch đại công suất RF, bộ vi xử lý, chip nhớ và mạch viễn thông. Tính đến năm 2005, thiết bị viễn thông chiếm 16,5% thị trường bộ vi xử lý hàng năm.
Chú thích |
Jamaal Lascelles ( ; sinh ngày 11 tháng 11 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ của Jamaal Lascelles trên trang web của Newcastle United FC
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Newcastle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Stevenage F.C.
Cầu thủ bóng đá Nottingham Forest F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1993 |
Rolex Shanghai Masters 2023 là một giải quần vợt thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 12 giải Shanghai ATP Masters 1000 được tổ chức, một giải đấu ATP Tour Masters 1000 trong ATP Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Qizhong Forest Sports City Arena ở Shanghai, Trung Quốc từ ngày 4 đến ngày 15 tháng 10 năm 2023. Giải đấu được tổ chức trở lại kể từ năm 2019, sau khi giải đấu năm 2020, 2021 và 2022 bị hủy do đại dịch COVID-19 tại Trung Quốc. Đây là lần đầu tiên vòng đấu chính nội dung đơn có 96 tay vợt tham dự.
Nội dung đơn
Hạt giống
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 25 tháng 9 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 2 tháng 10 năm 2023.
Tay vợt rút lui khỏi giải đấu
Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống, nhưng rút lui trước khi giải đấu bắt đầu.
Vận động viên khác
Đặc cách:
Bu Yunchaokete
Fabio Fognini
Diego Schwartzman
Shang Juncheng
Te Rigele
Vượt qua vòng loại:
Térence Atmane
James Duckworth
Rinky Hijikata
Hsu Yu-hsiou
Aleksandar Kovacevic
Mikhail Kukushkin
Stefano Napolitano
Philip Sekulic
Dane Sweeny
Tseng Chun-hsin
Denis Yevseyev
Beibit Zhukayev
Rút lui
Roberto Bautista Agut → thay thế bởi Fábián Marozsán
Matteo Berrettini → thay thế bởi Aslan Karatsev
Alexander Bublik → thay thế bởi Cristian Garín
Borna Ćorić → thay thế bởi Alexander Shevchenko
Novak Djokovic → thay thế bởi Nuno Borges
Dominik Koepfer → thay thế bởi Thanasi Kokkinakis
Kei Nishikori → thay thế bởi Jaume Munar
Milos Raonic → thay thế bởi Yosuke Watanuki
Emil Ruusuvuori → thay thế bởi Taro Daniel
Denis Shapovalov → thay thế bởi Alexandre Müller
Nội dung đôi
Hạt giống
Bảng xếp hạng vào ngày 25 tháng 9 năm 2023
Vận động viên khác
Đặc cách:
Gonzalo Escobar / Aleksandr Nedovyesov
Li Zhe / Sun Fajing
Jannik Sinner / Zhang Zhizhen
Thay thế:
Alexei Popyrin / Aleksandar Vukic
Rút lui
Hubert Hurkacz / Mate Pavić → thay thế bởi Hubert Hurkacz / Ben Shelton
Adrian Mannarino / Fabrice Martin → thay thế bởi Ugo Humbert / Adrian Mannarino
Marcelo Melo / Alexander Zverev → thay thế bởi Rafael Matos / Marcelo Melo
Jannik Sinner / Zhang Zhizhen → thay thế bởi Alexei Popyrin / Aleksandar Vukic
Nhà vô địch
Đơn
Hubert Hurkacz đánh bại Andrey Rublev, 6–3, 3–6, 7–6(10–8)
Đôi
Marcel Granollers / Horacio Zeballos đánh bại Rohan Bopanna / Matthew Ebden, 5–7, 6–2, [10–7]
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Shanghai ATP Masters 1000
Thượng Hải Masters |
Anthony Michael Gordon (sinh ngày 24 tháng 2 năm 2001) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại .
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Newcastle United FC
Người Anh gốc Scotland
Người Anh gốc Ireland
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Newcastle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Preston North End F.C.
Cầu thủ bóng đá Everton F.C.
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2001 |
Matthew Robert Targett (sinh ngày 18 tháng 9 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Newcastle United Premier League. Anh đã đại diện cho cả Scotland và Anh ở các cấp độ trẻ.
Danh hiệu
Southampton
U21 Premier League Cup: 2014–15
Fulham
Vòng play-off EFL Championship: 2018
Aston Villa
Cúp EFL: Á quân 2019–20
Newcastle United
Cúp EFL: Á quân 2022–23
Anh U-21
Toulon Tournament: 2016
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải của Aston Villa: 2020–21
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ cầu thủ Southampton FC
Hồ sơ tuyển Anh tại FA
Người Anh gốc Scotland
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Newcastle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Aston Villa F.C.
Cầu thủ bóng đá Fulham F.C.
Cầu thủ bóng đá Southampton F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Scotland
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1995 |
Jacob Kai Murphy (sinh ngày 24 tháng 2 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại Premier League.
Danh hiệu
Newcastle United
Á quân Cúp EFL: 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ của Jacob Murphy tại trang web Newcastle United FC
Hồ sơ Jacob Murphy tại Football Association website
Nhân vật thể thao sinh đôi
Người Anh gốc Ireland
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Sheffield Wednesday F.C.
Cầu thủ bóng đá Newcastle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Coventry City F.C.
Cầu thủ bóng đá Colchester United F.C.
Cầu thủ bóng đá Scunthorpe United F.C.
Cầu thủ bóng đá Blackpool F.C.
Cầu thủ bóng đá Southend United F.C.
Cầu thủ bóng đá Swindon Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Norwich City F.C.
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1995 |
Joseph George Willock (sinh ngày 20 tháng 8 năm 1999) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại Premier League.
Danh hiệu
Arsenal
Cúp FA: 2019–20
Siêu cúp Anh: 2017, 2020
Á quân UEFA Europa League: 2018–19
Newcastle United
Á quân Cúp EFL: 2022–23
Cá nhân
Cầu thủ xuất sắc nhất tháng của Premier League: Tháng 5 năm 2021
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Newcastle United FC
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Anh
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá Newcastle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Arsenal F.C.
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1999 |
Mark Joseph Gillespie (sinh ngày 27 tháng 3 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Newcastle United tại Premier League.
Danh hiệu
Newcastle United
Á quân Cúp EFL: 2022–23
Tham khảo
Liên kết ngoại
Hồ sơ cầu thủ Mark Gillespie tại carlisleunited.co.uk
Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh)
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Newcastle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Motherwell F.C.
Cầu thủ bóng đá Walsall F.C.
Cầu thủ bóng đá Blyth Spartans A.F.C.
Cầu thủ bóng đá Carlisle United F.C.
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1992 |
Daniel Johnson Burn (sinh ngày 9 tháng 5 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh thi đấu ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Newcastle United tại .
Danh hiệu
Yeovil Town
Vòng play-off EFL League One: 2013
Wigan Athletic
EFL League One: 2017–18
Newcastle United
Á quân Cúp EFL: 2022–23
Cá nhân
Đội hình PFA của năm: League One 2017–18
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hồ sơ tại trang web Brighton & Hove Albion FC
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ bóng đá National League (bóng đá Anh)
Cầu thủ bóng đá English Football League
Cầu thủ bóng đá Newcastle United F.C.
Cầu thủ bóng đá Brighton & Hove Albion F.C.
Cầu thủ bóng đá Wigan Athletic F.C.
Cầu thủ bóng đá Birmingham City F.C.
Cầu thủ bóng đá Yeovil Town F.C.
Cầu thủ bóng đá Fulham F.C.
Cầu thủ bóng đá Darlington F.C.
Cầu thủ bóng đá Blyth Spartans A.F.C.
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1992 |
Thẻ thử nghiệm (tiếng Anh: test card), còn được gọi là mô hình thử nghiệm (tiếng Anh: test pattern) hoặc thử nghiệm khởi động/tắt máy (tiếng Anh: start-up/closedown test), là một tín hiệu thử nghiệm truyền hình, thường được phát sóng vào những thời điểm máy phát hoạt động nhưng không có chương trình nào được phát sóng (thường là khi bắt đầu và kết thúc chương trình).
Chú thích
Liên kết ngoài
The Test Card Circle, a UK fan site: details of the UK's Trade Test Transmissions including the history of the BBC and ITA Test Cards, a look at the music used and full details about the Trade Test Colour Films shown from the late fifties to 1973.
The Test Card Gallery
Nostalgia-TV: Television testikuva – test cards in Finland, in Finnish language only
Kỹ thuật phát sóng |
Climate Change Denial: Heads in the Sand là một cuốn sách phi hư cấu năm 2011 về phủ nhận biến đổi khí hậu, do Haydn Washington và John Cook là đồng tác giả, với lời nói đầu của Naomi Oreskes. Washington có sẵn nền tảng về khoa học môi trường trước khi viết tác phẩm này. Trong khi đó, Cook, được đào tạo về vật lý học, sáng lập trang web Skeptical Science vào năm 2007, nơi tổng hợp các bằng chứng được bình duyệt về biến đổi khí hậu. Cuốn sách do Earthscan, một bộ phận của Routledge, xuất bản lần đầu tiên dưới dạng bìa cứng và bìa mềm vào năm 2011.
Cuốn sách trình bày phân tích chuyên sâu và bác bỏ quan điểm phủ nhận biến đổi khí hậu, xem xét từng điểm của một một số lập luận và bác bỏ chúng bằng các bằng chứng được bình duyệt theo quan điểm khoa học về biến đổi khí hậu. Các tác giả khẳng định rằng những người phủ nhận biến đổi khí hậu sử dụng các chiến thuật, gồm lựa chọn dữ liệu nhằm mục đích hỗ trợ quan điểm cụ thể của họ và công kích tính chính trực của các nhà khoa học khí hậu. Washington và Cook sử dụng lý thuyết khoa học xã hội để đánh giá hiện tượng phủ nhận biến đổi khí hậu rộng rãi hơn trong công chúng và gọi hiện tượng này là một dạng bệnh lý.
Cuốn sách truy tìm nguồn tài trợ cho việc phủ nhận biến đổi khí hậu trong ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch, khẳng định các công ty đã và đang cố gắng gây ảnh hưởng đến dư luận về vấn đề này. Washington à Cook viết rằng các chính trị gia có xu hướng sử dụng các từ ngữ mơ hồ (hay còn gọi là weasel word) như một phần trong chiến thuật tuyên truyền qua việc sử dụng spin, như một cách để làm chệch hướng chú ý của công chúng khỏi biến đổi khí hậu và tiếp tục thụ động về vấn đề này. Các tác giả kết luận rằng nếu công chúng ngừng phủ nhận thì vấn đề biến đổi khí hậu có thể được giải quyết có thực tế. Việc phủ nhận biến đổi khí hậu là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với hành tinh và cần được giải quyết khẩn cấp, vì hậu quả của việc không hành động là rất nghiêm trọng.
Với nghiên cứu về cuốn sách và nỗ lực truyền đạt bản chất về khoa học biến đổi khí hậu tới công chúng, John Cook đã giành được Giải thưởng Eureka năm 2011 của Bảo tàng Úc vì sự nâng cao kiến thức về biến đổi khí hậu. Climate Change Denial có sự đón nhận tích cực trong các đánh giá từ các ấn phẩm bao gồm: The Ecologist, tạp chí ECOS, tập san học thuật Natures Sciences Sociétés, tạp chí Education do Liên đoàn Giáo viên New South Wales xuất bản.
Bối cảnh
Cuốn sách được viết bởi đồng tác giả, các nhà nghiên cứu khoa học môi trường người Úc, Haydn Washington and John Cook. Washington đã là nhà khoa học môi trường hơn 30 năm trước khi viết cuốn sách này. Những cuốn sách được xuất bản trước đây của ông về chủ đề khoa học môi trường bao gồm: Ecosolutions (1991), A Sense of Wonder (2002) và The Wilderness Knot (2009). Năm 2015, Washington là nghiên cứu sinh thỉnh giảng của Viện Nghiên cứu Môi trường tại Đại học New South Wales.
Trình độ học vấn của Cook bao gồm nền tảng về vật lý. Trước khi viết cuốn sách, Cook đã thành lập trang web Skeptical Science, nơi tổng hợp những bằng chứng được bình duyệt về biến đổi khí hậu. Ông đưa lên trang này những khẳng định phổ biến nhất do các cá nhân lập luận chống lại sự đồng thuận khoa học về biến đổi khí hậu đưa ra, kèm theo bằng chứng để bác bỏ từng quan điểm mà họ đưa ra. Sau khi xuất bản Climate Change Denial: Heads in the Sand, Cook là đồng tác giả của một cuốn sách khác về chủ đề này, Climate Change Science: A Modern Synthesis: Volume 1 – The Physical Climate (2013). Năm 2015, Cook là chuyên gia truyền thông khí hậu tại Đại học Queensland.
Climate Change Denial: Heads in the Sand do Earthscan, một bộ phận của Routledge, xuất bản lần đầu tiên vào năm 2011. Cả hai phiên bản bìa cứng và bìa mềm đều được phát hành vào tháng 4 năm 2011. Nhà xuất bản cũng phát hành phiên bản sách điện tử trong cùng năm. Bản phát hành sách điện tử thứ hai được Routledge xuất bản vào năm 2012. Cuốn sách này được Amazon.com cung cấp qua Kindle vào tháng 5 năm 2013.
Tóm tắt nội dung
Climate Change Denial: Heads in the Sand trình bày một phân tích chi tiết và bác bỏ phủ nhận biến đổi khí hậu. Trong lời nói đầu của cuốn sách, Naomi Oreskes viết rằng con người trở thành nạn nhân của hiện tượng phủ nhận do cảm thấy sợ hãi. Cuốn sách xem xét một số lập luận chống lại biến đổi khí hậu và sử dụng bằng chứng được bình duyệt có đồng thuận khoa học để hỗ trợ cơ sở lý luận cho tranh luận về tính hợp lệ của từng lập luận. Phương pháp của những người phủ nhận biến đổi khí hậu được đánh giá, bao gồm: lựa chọn dữ liệu có ý ủng hộ quan điểm cụ thể của họ, duy trì tiêu chuẩn cao về bằng chứng biến đổi khí hậu và chỉ trích các giá trị của các nhà khoa học khí hậu. Cuốn sách đưa ra lời giải thích tại sao một số cá nhân và công chúng nói chung có xu hướng phủ nhận đồng thuận khoa học về biến đổi khí hậu.
Các tác giả thảo luận mở rộng về khái niệm phủ nhận bằng lý thuyết khoa học xã hội, ghi chú rằng nó xuất hiện trong xã hội khi các cá nhân sợ hãi hoặc xấu hổ về hành động của mình. Họ viết rằng những động lực này, với sự mở rộng từ cá nhân sang xã hội rộng lớn hơn, dưới dạng một loại bệnh tật. Cuốn sách xác định việc phủ nhận biến đổi khí hậu là một bệnh lý đang ảnh hưởng đến nền văn hóa của hành tinh. Các tác giả than thở rằng đang tồn tại một mối quan hệ nghịch đảo về sự gia tăng đồng thời giữa đồng thuận khoa học và sự phủ nhận của công chúng về vấn đề biến đổi khí hậu.
Cuốn sách xác định nền tảng của một công ty có ảnh hưởng đến dư luận thông qua các công ty thu được lợi nhuận từ ngành công nghiệp nhiên liệu hóa thạch. Washington và Cook viết rằng các chính trị gia thường sử dụng những lời lẽ sáo rỗng như một hình thức spin và tuyên truyền, nhằm hành động như thể họ sắp sửa làm điều gì đó về vấn đề biến đổi khí hậu, trong khi trên thực tế vẫn thụ động về vấn đề này. Các tác giả tiếp tục xác định mức độ phủ nhận lớn hơn, trong chính công chúng rộng lớn hơn. Họ lập luận rằng xã hội cho phép phủ nhận khí hậu học thông qua việc không hành động và chống lại sự đồng thuận khoa học. Các tác giả kết luận rằng nếu công chúng ngừng phủ nhận biến đổi khí hậu thì vấn đề trên thực tế có thể được giải quyết một cách đáng kể.
Đón nhận
Đồng tác giả John Cook của cuốn sách đã giành được Giải thưởng Eureka vì sự nâng cao kiến thức về biến đổi khí hậu năm 2011, do chính quyền New South Wales trao tặng như một phần của Giải thưởng Eureka của Bảo tàng Úc, và được vinh danh vì vai trò của ông trong việc truyền đạt bản chất của khoa học biến đổi khí hậu cho công chúng. Giám đốc Viện Thay đổi Toàn cầu của Đại học Queensland, Giáo sư Ove Hoegh-Guldberg, trích dẫn nghiên cứu của Cook và quyền tác giả cuốn Climate Change Denial: Heads in the Sand là lý do giúp ông giành được giải thưởng.
The Ecologist đánh giá cuốn sách và mô tả nó là: "được nghiên cứu kỹ lưỡng và chú thích cẩn thận". Bài đánh giá kết luận: Climate Change Denial là một cuốn sách khôn ngoan và kịp thời. ... Nó xứng đáng được độc giả ủng hộ". Mary-Lou Considine viết về cuốn sách trong tạp chí ECOS rằng nó "mổ xẻ những phản đối đối với khoa học được bình duyệt" với "chi tiết pháp y". Considine giới thiệu cuốn sách cho những ai người trước đây đã truy cập trang web Skeptical Science và muốn tìm hiểu thêm về chủ đề rộng hơn được thảo luận trên trang web.
Trong bài đánh giá cuốn sách trên tạp chí học thuật Natures Sciences Sociétés, luận án của các tác giả đã được ca ngợi vì khả năng đưa lý lẽ vào phân tích của họ: "Cuốn sách này cho thấy cách chúng ta có thể vượt qua sự phủ nhận, chấp nhận thực tế và từ đó giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu". Natures Sciences Sociétés khuyến nghị công việc này cho nhiều bên liên quan, kết luận: "Nó sẽ thu hút sự tham gia của các nhà khoa học, sinh viên đại học, nhà hoạt động về biến đổi khí hậu và công chúng đang tìm cách đẩy lùi sự phủ nhận và hành động".
Janine Kitson đã đánh giá cuốn sách trên tạp chí Education, một ấn phẩm của Liên đoàn Giáo viên New South Wales. Kitson mô tả tác phẩm này là kịp thời và quan trọng trong bối cảnh công chúng cần phải hành động trước thời điểm không thể quay đầu: "Đây là một cuốn sách quan trọng, cần đọc trước khi biến đổi khí hậu lan tràn thực sự vượt tầm kiểm soát của chúng ta". Bài đánh giá của cô kết luận: "Người ta chỉ có thể hy vọng rằng cuốn sách này sẽ được những người phủ nhận khí hậu đọc để chúng ta có thể bắt đầu hành trình đầy gian nan hướng tới một tương lai bền vững về mặt sinh thái".
Xem thêm
Merchants of Doubt
Climate Change Denial Disorder
Sợ hãi, không chắc chắn và nghi ngờ
Tranh cãi về biến đổi khí hậu
Truyền thông đưa tin về biến đổi khí hậu
Triumph of Doubt (sách năm 2020)
Tham khảo
Đọc thêm
Liên kết ngoài
Sách phi hư cấu năm 2011
Môi trường năm 2011
Sách về khoa học
Sách chính trị
Sách về biến đổi khí hậu
Phủ nhận và hoài nghi biến đổi khí hậu
Đạo đức nghề nghiệp
Môi trường và xã hội |
Ác là phao câu đen (danh pháp hai phần: Pica bottanensis) là một loài ác là trong họ Corvidae.
Loài này phân bố ở trung bộ Bhutan đến tây trung bộ Trung Quốc. Trước đây loài này được xem là một phân loài của Ác là (Pica pica).
Một nghiên cứu phát sinh chủng loại phân tử được công bố vào năm 2018 cho thấy ác là phao câu đen là một phân loại chị em với ác là Asir từ tây nam Ả Rập Saudi.
Chú thích
Tham khảo
Chi Ác là |
Vương Thúc là một nước chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc.
Họ của quốc quân nước này là Cơ, và mang tước công. Người thành lập nước Vương Thúc là Vương Thúc Văn Công, một vương tử con trai của Chu Ly Vương. Tất cả quốc quân của nước Vương Thúc đều làm quan đại thần trong triều đình của thiên tử nhà Chu.
Đô thành của quốc gia này, hiện thuộc về địa phận phía tây nam huyện Mạnh Tân, tỉnh Hà Nam.
Năm thứ 10 triều Lỗ Tương Công (563 TCN), vua Vương Thúc là Vương Thúc Thần Sinh tranh giành quyền chính với Bá Dư. Chu Linh Vương sủng ái và ủng hộ Bá Dư. Vương Thúc Thần Sinh bỏ trốn đến sông Hoàng Hà. Nước Tấn nghe tin, bèn cử Phạm Tuyên tử (Sĩ Mang) đến để hòa giải giữa Vương Thúc Thần Sinh và Bá Dư. Việc không thành. Vương Thúc Thần Sinh tức giận bỏ trốn sang nước Tấn. Nước Vương Thúc mất từ đó.
Quốc quân |
sinh ngày 20 tháng 2 năm 1986 tại Tokyo, Nhật Bản, là một nữ trọng tài bóng đá người Nhật Bản. Bà từng làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2019 diễn ra trên đất Pháp, và bà cũng điều hành trận đấu vòng bảng môn bóng đá nữ tại Thế vận hội Mùa hè 2020 giữa Thụy Điển và Hoa Kỳ.
Vào năm 2022, bà trở thành một trong 6 trọng tài nữ làm nhiệm vụ tại Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 diễn ra tại Qatar, đồng thời cũng trở thành một trong ba trọng tài nữ đầu tiên trong lịch sử làm nhiệm vụ tại giải vô địch bóng đá thế giới dành cho nam cùng với Stéphanie Frappart của Pháp và Salima Mukansanga của Rwanda. Bà ra mắt giải đấu với tư cách là trọng tài thứ tư trong trận đấu giữa giữa Bỉ và Canada tại lượt trận đầu tiên của bảng F, và làm trọng tài thứ tư trong 6 trận đấu tại giải đấu.
Cũng trong năm 2022, bà trở thành trọng tài nữ đầu tiên điều hành các trận đấu tại AFC Champions League và J1 League, đó là các trận đấu mà Melbourne City (Úc) giành chiến thắng trước Jeonnam Dragons (Hàn Quốc) với tỷ số 2–1, và trận đấu mà FC Tokyo giành chiến thắng với tỷ số 2–0 trước Kyoto Sanga.
Vào ngày 19 tháng 7 năm 2023, bà bắt chính trận khai mạc Giải vô địch bóng đá nữ thế giới 2023 giữa giữa New Zealand và Na Uy tại lượt trận đầu tiên của bảng A. Trong trận đấu này, sau khi tham khảo ý kiến của các trợ lý trong phòng VAR, bà quyết định cho đội New Zealand hưởng một quả phạt đền. Tuy nhiên, cầu thủ Ria Percival đã không thể tận dụng thành công.
Tham khảo
Sinh năm 1986
Nhân vật còn sống
Trọng tài giải vô địch bóng đá thế giới 2022 |
Cabal Online (, cách điệu: CABAL Online) là tựa game nhập vai trực tuyến nhiều người chơi 3D dưới dạng free-to-play được công ty ESTsoft của Hàn Quốc phát triển. những phiên bản bản địa hóa khác nhau của game tồn tại ở nhiều quốc gia và khu vực khác nhau. Mặc dù là free-to-play, trò chơi sử dụng mô hình kinh doanh freemium bằng cách triển khai "Item Shop" (cửa hàng vật phẩm), cả trong game và thông qua trang web, cho phép người chơi mua những đồng xu cao cấp đặc biệt bằng tiền thật, để có được các tính năng và cải tiến độc quyền của trò chơi, những vật phẩm hữu ích và các loại nội dung hư ảo.
Cốt truyện
Cabal Online diễn ra trong một thế giới hư cấu có tên là Nevareth, gần một nghìn năm sau khi bị một nhóm người có lý tưởng mạnh mẽ gọi là CABAL tàn phá. Với hy vọng biến đổi thế giới của mình thành một utopia, họ đã vô tình thúc đẩy các thế lực và quy luật tự nhiên nổi dậy chống lại mình, gây ra sự kiện được gọi là Ngày Tận Thế. Sau sự hủy diệt, chỉ có tám thành viên của CABAL sống sót, bao gồm cả thủ lĩnh của họ tên gọi Faust. Khi tiên tri về tương lai, Faust đã nhìn thấy sự trỗi dậy của một thế lực tà ác một lần nữa sẽ hủy hoại vùng đất Nevareth. Trong thời đại ngày nay, thế lực hắc ám đó đã đến đây rồi. Giờ đây người chơi phải đối mặt với làn sóng tay sai xâm chiếm thế giới và khám phá sự thật đằng sau đó.
Lịch sử
Cabal Online được phát hành lần đầu tiên tại Hàn Quốc vào tháng 10 năm 2005. Trò chơi sau đó được phát hành từ giai đoạn thử nghiệm closed beta ở châu Âu vào tháng 7 năm 2006, và vào tháng 12 năm 2006, có thông báo rằng tựa game này và tất cả các phiên bản tiếp theo đã trở thành free-to-play. Ở Bắc Mỹ, OGPlanet đã nhận được giấy phép dành cho game và thử nghiệm open beta bắt đầu vào ngày 1 tháng 2 năm 2008. Người ta cũng tuyên bố rằng bản phát hành đầy đủ rất có thể sẽ ra mắt vào cuối tháng 2. Ngày 28 tháng 2 năm 2008, phiên bản chính thức ra mắt tại Bắc Mỹ, trong lúc bản closed beta bắt đầu ở Đông Nam Á. Gameforge phát hành Cabal Online ở Đức vào ngày 3 tháng 12 năm 2009. Dịch vụ ở Bắc Mỹ do OGPlanet cung cấp đã bị ngừng vào ngày 31 tháng 3 năm 2010 do công ty không đạt được thỏa thuận với ESTsoft, trong khi ESTsoft sau đó đã thiết lập lại dịch vụ trực tiếp ở Bắc Mỹ.
Lối chơi
Là một MMORPG điển hình, lối chơi trong Cabal Online chứa đựng các yếu tố của cả PvP và PvE, cũng như việc giết người chơi. Các yếu tố PvE bao gồm cày game và làm nhiệm vụ thưởng cho người chơi các loại vật phẩm và điểm kinh nghiệm, cũng như phó bản để nhận được các loại kho báu và "Alz", đơn vị tiền tệ trong game. Các yếu tố PvP bao gồm tiêu diệt người chơi trong các kênh đặc biệt (có hình phạt nếu giết hàng loạt), sắp xếp các cuộc đấu tay đôi giữa hai người chơi mà không có hình phạt nào cho bên nào, hệ thống Mission War, chia người chơi thành hai quốc gia, Capella và Procyon, cũng như phe Trung lập và yêu cầu họ tiến hành chiến tranh với nhau trong các sự kiện Tierra Gloriosa, các kênh chiến tranh cụ thể và tất cả các màn chơi cấp cao hơn (luôn kích hoạt chiến tranh) và cuối cùng là hệ thống Bang hội đấu với Bang hội, cho phép các cuộc chiến tranh nhỏ được sắp xếp giữa hai bang hội. Người chơi có thể liên kết với nhau để thành lập một nhóm với tối đa sáu nhân vật. Điểm kinh nghiệm thưởng được trao cho các thành viên trong nhóm dựa trên sự đóng góp của họ.
Trò chơi được chia thành các máy chủ hoặc thế giới trò chơi, mỗi máy chủ có tên riêng và tập hợp các phân khu - kênh tiếp theo. Mặc dù người chơi từ các máy chủ khác nhau không thể tương tác với nhau trừ khi họ chuyển sang cùng một máy chủ bằng các vật phẩm cao cấp đặc biệt, họ có thể tự do chuyển đổi qua tất cả các kênh có sẵn trên một máy chủ, bao gồm cả kênh Premium nếu họ đã mua gói Premium. Tuy nhiên, các nhân vật ở các kênh khác nhau không thể hỗ trợ trực tiếp lẫn nhau; chỉ những nhân vật trong cùng một kênh mới có thể tương tác. Trò chuyện bỏ qua hạn chế này đối với các chế độ trò chuyện như nhắn tin riêng tư (thì thầm), trò chuyện bang hội, trò chuyện nhóm hoặc phòng trò chuyện cá nhân. Tất cả các máy chủ ở mỗi phiên bản bản địa hóa đều có nội dung như nhau, ngoại trừ cơ sở người chơi và nền kinh tế. Tuy vậy, các phiên bản khu vực khác nhau của Cabal Online có thể có nội dung khác nhau, đặc biệt là bản địa hóa tiếng Hàn, luôn cập nhật hơn các phiên bản còn lại. Mỗi tài khoản cho phép sáu nhân vật trên mỗi máy chủ, nhưng chỉ cần một tài khoản để truy cập tất cả các máy chủ.
Các kênh sử dụng các cơ chế khác nhau tùy thuộc vào mục đích của chúng. Những kênh được gắn nhãn màu xanh lá cây thân thiện với người mới và vô hiệu hóa tính năng giết người chơi (mặc dù cơ chế chiến tranh vẫn được áp dụng, ngay cả trong những màn chơi tiêu chuẩn cấp cao hơn), trái ngược với các kênh màu trắng không cấm điều đó. Kênh Thương mại được thiết kế đặc biệt để mua và bán vật phẩm trong game, áp dụng các hạn chế đối với lối chơi thông thường, chẳng hạn như xóa quyền tiếp cận dungeon phó bản và hình nộm luyện tập, cũng như loại bỏ tất cả kẻ thù trong môi trường. Giao dịch trên kênh này có thể được thực hiện thông qua các kênh phát sóng toàn kênh hoặc các quầy hàng ở chợ cá nhân, trong đó các mặt hàng có thể được bày bán và định giá để mọi người có thể tiếp cận. Chỉ những người dùng đã mua gói Premium hoặc gói tương đương từ Item Shop mới có thể truy cập bất kỳ kênh nào được gắn thẻ Premium.
Các kỹ năng đặc biệt trong game được mở khóa tại một số điểm nhất định trong quá trình phát triển của nhân vật bằng cách hoàn thành các nhiệm vụ "xếp hạng" cụ thể. Những kỹ năng này bao gồm Combo Mode, cho phép sử dụng liên tiếp một số kỹ năng khi đồng hồ kết hợp được nhấn đúng thời điểm, cũng như một số Battle Mode cung cấp phần thưởng thuộc tính tạm thời cho nhân vật hoặc thậm chí là chế độ chiến đấu đặc biệt.
Thế giới
Thế giới của Cabal Online được chia thành các khu vực khác nhau, cụ thể là màn chơi và dungeon. Những người chơi bắt đầu sẽ chỉ có thể tiếp cận ba màn chơi và một khu vực "Warp Gate", nơi cung cấp quyền tiếp cận đi bộ vào cả ba màn chơi ban đầu. Khi tiến vào trò chơi và đạt được cấp độ nhân vật, họ sẽ được cấp quyền tiếp cận các màn chơi mới và ngày càng khó, cũng như các dungeon phó bản. Mỗi màn chơi có bối cảnh và thời tiết khác nhau; ví dụ trong số này bao gồm sa mạc, rừng rậm, băng tuyết và thậm chí cả cảnh quan thành phố tương lai hoặc địa ngục. Mỗi màn chơi có một nhóm NPC riêng, chẳng hạn như nhân vật nhiệm vụ và cửa hàng, cũng như nhiều quái vật để chiến đấu và nhận kinh nghiệm cũng như kho báu. Việc di chuyển từ màn chơi này sang màn chơi khác được thực hiện bằng cách đi qua các liên kết Warp Gate hoặc bằng cách sử dụng Premium GPS Warp để chuyển ngay sang một màn chơi cụ thể. Khi hỗ trợ di chuyển bằng cách đi bộ, người chơi có thể sở hửu các loại phương tiện đặc biệt, cụ thể là Astral Boards và Bikes, mang lại tốc độ cao hơn hoặc sử dụng các kỹ năng tăng cường chuyển động đặc biệt "Dash" và "Blink", những kỹ năng sau chỉ dành riêng cho lớp nhân vật Wizard.
Lớp nhân vật
Có tám lớp nhân vật trong Cabal Online. Khi một nhân vật được tạo thành, người chơi phải chọn lớp nhân vật mà nhân vật đó sẽ đảm nhận. 8 lớp nhân vật này bao gồm Warrior, Blader, Wizard, Force Blader, Force Shielder, Force Archer, Gladiator và Force Gunner. Các lớp nhân vật khác nhau cung cấp các chiến lược, thư viện kỹ năng, kho vũ khí và thậm chí cả địa điểm xuất phát khác nhau.
Bằng cách lên cấp, người chơi sẽ nhận được điểm mà họ có thể áp dụng trong ba thuộc tính khác nhau sẽ định hình tính cách của họ, đó là Strength hoặc STR, Intelligence hoặc INT và Dexterity hoặc DEX. Các thuộc tính này ảnh hưởng đến một số thuộc tính phụ sẽ xác định điểm mạnh và điểm yếu của nhân vật một cách hiệu quả. Các thuộc tính phụ này là Attack, sức mạnh thể chất của kỹ năng Kiếm, Magic, sức mạnh phép thuật của kỹ năng Phép thuật, Defense, khả năng chống lại các cuộc tấn công của kẻ thù, Hit hoặc Attack Rate, độ chính xác của tất cả các đòn tấn công của người chơi và Defense Rate, tốc độ các đòn tấn công của kẻ thù được né tránh hoàn toàn.
Nation/Mission War
Khi người chơi đã đạt đến cấp 52 và hoàn thành nhiệm vụ chọn Quốc gia, trong thời gian đó họ sẽ chọn phe Capella hoặc Procyon, một sự kiện mới sẽ được kích hoạt cho người chơi. Đây là Nation War, diễn ra nhiều lần mỗi ngày và cho phép các quốc gia đối lập chiến đấu với nhau và nhận được điểm kinh nghiệm chiến tranh, sau đó có thể chuyển đổi thành điểm kinh nghiệm, kinh nghiệm kỹ năng hoặc điểm danh dự, cũng như thành phần thưởng đặc biệt ở mỗi phe trong cuộc chiến này. Tùy thuộc vào cấp độ của nhân vật, người chơi sẽ có thể truy cập các kênh Nation War khác nahu. Trong Chiến tranh, người chơi đấu tranh để vượt qua các địa điểm quan trọng được kiểm soát bởi những quái vật hộ mệnh hùng mạnh gọi là Legacy Guardians, chống đỡ người chơi đối phương và sau cùng chiếm quyền kiểm soát căn cứ chính của kẻ thù, giành chiến thắng một cách hiệu quả trên chiến trường.
Đón nhận
Cabal Online nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ giới phê bình. Tháng 12 năm 2006, PC Gamer UK đã chấm cho game 6,4 điểm, nhận xét rằng trò chơi này "chung chung đến mức đáng kinh ngạc". Tạp chí cũng đã chỉ trích Cabal Online vì chia sẻ nhiều tính năng như các tựa game MMORPG Hàn Quốc khác. Bất chấp những đánh giá tiêu cực từ PC Gamer UK, trò chơi vẫn được bình chọn là một trong "9 Game MMO Miễn Phí Đáng Chơi Nhất" trong số tháng 6 của tạp chí này.
Phần tiếp theo
Cabal Online 2 được quảng bá tại Hàn Quốc vào tháng 10 năm 2010 trước khi bắt đầu G-Star 2010, tại Busan. Trò chơi khuyến khích sự thay đổi từ chủ đề "techno-punk" ban đầu thành chủ đề hoàng gia, một trò chơi siêu hành động với sáu lớp nhân vật có sẵn. Tuy nhiên, thay đổi này bao gồm việc loại bỏ lớp nhân vật Blader khỏi trò chơi gốc, thay thế bằng lớp nhân vật Priest mới. Phần tiếp theo của Cabal Online sử dụng CryEngine 3 làm game engine đồ họa chính. Phần tiếp theo đã ngừng hoạt động vào ngày 8 tháng 4 năm 2018.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang chủ Cabal Online Bắc Mỹ
Máy chủ Cabal Cabal Online
Trang chủ Cabal Online GSP
Trò chơi điện tử năm 2005
Trò chơi trên Windows
Trò chơi độc quyền Windows
Trò chơi của OGPlanet
Trò chơi của Gameforge
ESTsoft
Kinh tế ảo
Thế giới liên tục
Trò chơi trực tuyến miễn phí
Trò chơi điện tử phát triển ở Hàn Quốc
Trò chơi nhập vai trực tuyến nhiều người chơi
Trò chơi trực tuyến nhiều người chơi đang hoạt động |
Mousa Mohammad Mousa Sulaiman (; sinh ngày 10 tháng 6 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Jordan hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh phải cho câu lạc bộ Montpellier tại Ligue 1 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan.
Sự nghiệp thi đấu
Shabab Al-Ordon
Al-Tamari bắt đầu sự nghiệp của mình ở Shabab Al-Ordon, anh nổi tiếng với sự nhanh nhẹn, kỹ năng tuyệt vời và động tác chân tuyệt vời. Vì thế, anh đã được gọi vào đội tuyển quốc gia sau sáu trận đấu đầu tiên. Bên cạnh đó, anh còn đạt được Jordan FA Shield 2016.
Al-Jazeera (mượn)
Vào tháng 9 năm 2017, anh được cho mượn tại Al-Jazeera, Anh thi đấu tại Cúp AFC 2018 và ghi 6 bàn sau 10 trận cho đội bóng của mình, dành được Cúp FA Jordan 2017–18.
APOEL
Vào ngày 28 tháng 5 năm 2018, Al-Tamari ký hợp đồng 3 năm với mức phí 400 nghìn euro với câu lạc bộ APOEL. Anh cùng đội bóng vô địch Siêu cúp bóng đá Síp 2019, Giải bóng đá hạng nhất Síp 2018–19 và được biết đến như một trong những cầu thủ giỏi nhất ở Síp. Anh cũng đã giành được MVP (Cầu thủ đắt giá nhất) của giải đấu.
OH Leuven
Vào ngày 5 tháng 10 năm 2020, Al-Tamari gia nhập câu lạc bộ OH Leuven tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ bằng bản hợp đồng kéo dài 3 năm, với mức phí chuyển nhượng được báo cáo là 1,1 triệu euro.
Montpellier
Vào ngày 11 tháng 5 năm 2023, Al-Tamari ký hợp đồng 3 năm theo dạng chuyển nhượng tự do với câu lạc bộ Montpellier. Anh trở thành cầu thủ Jordan đầu tiên ký hợp đồng với câu lạc bộ Ligue 1. Trước đây, anh cũng nhận được lời mời từ Levante, Blackburn, Fenerbahçe, cũng như từ MLS và các giải đấu vùng Vịnh, trước khi chấp nhận lời đề nghị đến Montpellier.
Anh ra mắt Ligue 1 vào ngày 13 tháng 8, trong trận hòa 2–2 trước Le Havre. Vào ngày thi đấu tiếp theo, Al-Taamari ghi hai bàn vào lưới Lyon trong chiến thắng 4-1, trở thành cầu thủ Jordan đầu tiên ghi bàn ở Ligue 1, cũng như có tên trong Đội hình xuất sắc nhất tuần do L'Équipe bình chọn.
Sự nghiệp quốc tế
Al-Tamari đã từng thi đấu ở cấp độ U-23. Anh ra mắt quốc tế cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan vào ngày 31 tháng 8 năm 2016 trong trận giao hữu quốc tế với Liban, trận đấu kết thúc với tỷ số hòa 1-1. Al-Tamari lúc đó chỉ mới 19 tuổi. Anh tiếp tục có thêm sáu lần ra sân quốc tế trong năm 2016. Năm 2017, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Jordan trong trận giao hữu với Hồng Kông. Al-Tamari có tên trong đội hình tuyển Jordan tham dự Cúp bóng đá châu Á 2019, chơi ba trận, ghi một bàn và có hai pha kiến tạo tại giải đấu.
Phong cách thi đấu
Là một cầu thủ chạy cánh phải thuận chân trái, Al-Tamari có xu hướng chung là cắt vào trong và tiếp cận cầu thủ bằng khả năng rê bóng của mình. Khả năng giữ bóng gần chân ngay cả trong không gian hẹp là điều khiến anh trở nên rất nguy hiểm khi tấn công hàng phòng ngự. Tốc độ, sự lắt léo và phong cách chơi chung của Al-Tamari đã khiến anh được so sánh với cầu thủ chạy cánh của Liverpool, Mohamed Salah.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
Quốc tế
Bàn thắng quốc tế
Tỷ số và kết quả liệt kê bàn thắng đầu tiên của Jordan, cột điểm cho biết điểm số sau mỗi bàn thắng của Al-Taamari.
Danh hiệu
Shabab Al-Ordon
Jordan FA Shield: 2016
Al-Jazeera
Cúp FA Jordan: 2017–18
APOEL
Giải bóng đá hạng nhất Síp: 2018–19
Siêu cúp bóng đá Síp: 2019
Cá nhân
MVP Giải bóng đá hạng nhất Síp: 2018–19
Tham khảo
Liên kết ngoài
Musa Al-Taamari tại APOEL
Sinh năm 1997
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Jordan
Cầu thủ bóng đá nam Jordan
Tiền đạo bóng đá
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan
Cầu thủ bóng đá Shabab Al-Ordon SC
Cầu thủ bóng đá Al-Jazeera SC (Amman)
Cầu thủ bóng đá APOEL FC
Cầu thủ bóng đá Oud-Heverlee Leuven
Cầu thủ bóng đá Montpellier HSC
Cầu thủ Giải bóng đá chuyên nghiệp Jordan
Cầu thủ Giải bóng đá hạng nhất Síp
Cầu thủ bóng đá Belgian First Division A
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ bóng đá Jordan ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Síp
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bỉ
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp
Cầu thủ Cúp bóng đá châu Á 2019 |
Phấn rôm (tiếng Anh: baby powder) là một loại phấn vệ sinh dạng bột mịn dành cho trẻ nhỏ, có tác dụng làm săn da, tránh tình trạng hăm tã. Phấn có thành phần chính là bột talc hoặc tinh bột ngô kèm huơng nước hoa. Ngoài sử dụng cho trẻ em, phấn cũng được dùng trong ngành mỹ phẩm, làm dầu gội đầu khô hoặc chất tẩy, xịt phòng.
Sức khỏe
Phấn rôm có thành phần là khoáng vật talc nghiền nhỏ, hít phải chất này với một lượng nhất định có thể gây viêm phổi, nặng hơn có thể gây bệnh hô hấp mãn tính và tử vong.
Một số nghiên cứu đã chỉ ra liên hệ giữa việc bôi bột talc lên tầng sinh môn và ung thư buồng trứng, tuy nhiên hiện vẫn chưa đi đến kết luận cuối cùng. Năm 2016, hơn 1.000 phụ nữ ở Mỹ đã gửi đơn kiện hãng Johnson & Johnson vì che giấu nguy cơ bị ung thư liên quan đến phấn rôm. Công ty sau đó dừng bán các sản phẩm làm từ bột talc ở Mỹ và Canada vào năm 2020 và cho biết sẽ dừng trên toàn thế giới trong năm 2023, cũng như thay thế thành phần bằng tinh bột ngô. Mặc dù vậy, Johnson & Johnson vẫn khẳng định phấn bột talc là an toàn và không chứa amiăng.
Xem thêm
Khoáng vật talc
Tham khảo
Chăm sóc da
Vật liệu |
xảy ra vào lúc 23:36, ngày 16 tháng 3 năm 2022. Vụ việc diễn ra trùng thời điểm động đất mạnh 7.4 richter ở ngoài khơi Fukushima. Có khoảng 78 hành khách trên tàu mang số hiệu Yamabiko 223. Hậu quả vụ trật bánh đã làm 6 người bị thương.
Bối cảnh vụ việc
Thương vong
Phản ứng
Tham khảo
Trật bánh ở Nhật Bản |
Warren Zaïre-Emery (sinh ngày 5 tháng 12 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Paris Saint-Germain tại Ligue 1.
Đầu đời
Warren Zaïre-Emery sinh ra ở Montreuil và lớn lên ở Île-de-France. Cha anh là một cựu cầu thủ bóng đá từng chơi cho Red Star ở Seine-Saint-Denis.
Sự nghiệp câu lạc bộ
FCM Aubervilliers
Zaïre-Emery bắt đầu chơi cho Aubervilliers khi mới 4 tuổi, nhưng anh đã phải đợi đủ năm tuổi để lấy bằng đầu tiên ở đó.
Paris Saint-Germain
Vốn là một cầu thủ nổi bật của Aubervilliers, Zaïre-Emery nhanh chóng được Paris Saint-Germain (PSG) săn đón và anh đã ký hợp đồng với câu lạc bộ từ thủ đô vào năm 2014. Trong hệ thống trẻ của PSG, Zaïre-Emery luôn chơi ở những lứa tuổi trên và gây ấn tượng với các huấn luyện viên ở mọi cấp độ. Trong mùa giải 2021–22, anh là cầu thủ trẻ nhất của đội U19 khi mới bước sang tuổi 15. Dù tuổi còn trẻ nhưng Zaïre-Emery đã trở thành cầu thủ chủ chốt của đội U19, đáng chú ý nhất là vào tháng 12 năm 2021, khi anh là cầu thủ có màn trình diễn nổi bật của PSG tại UEFA Youth League. Trong trận đấu cuối cùng ở vòng bảng, anh đã giúp PSG dẫn trước 3–2 để giành chiến thắng trên sân nhà trước Club Brugge với một bàn thắng và một pha kiến tạo và đồng thời giúp PSG lọt thẳng vào vòng 16 đội. Ở tuổi 15, Zaïre-Emery được Mauricio Pochettino gọi lên đội một mùa giải đó. Thu hút sự chú ý của một số câu lạc bộ lớn ở châu Âu khi vẫn chưa ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên, anh đã gia nhập công ty của Jorge Mendes vào tháng 3 năm 2022.
Vào tháng 7 năm 2022, Zaïre-Emery ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với PSG với thời hạn 3 năm cho đến ngày 30 tháng 6 năm 2025. Dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên mới Christophe Galtier, anh đã ra mắt cho đội ở trận giao hữu thắng 2–0 trước Quevilly-Rouen. Sau đó, anh tham gia chuyến du đấu trước mùa giải của PSG tại Nhật Bản, nơi anh có mặt trong đội hình xuất phát trong chiến thắng 3–0 trước Urawa Red Diamonds. Vào ngày 6 tháng 8 năm 2022, Zaïre-Emery ra mắt chính thức cho PSG với tư cách là cầu thủ dự bị trong chiến thắng 5–0 trước Clermont và tại trận này, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân trong một trận đấu chính thức cho PSG khi mới 16 và 151 ngày. Anh đã chính thức phá được kỷ lục trước đó do El Chadaille Bitshiabu nắm giữ. Vào ngày 25 tháng 10, Zaïre-Emery ra mắt UEFA Champions League với tư cách là cầu thủ dự bị trong chiến thắng 7–2 trên sân nhà trước Maccabi Haifa. Điều này khiến anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân ở Champions League cho PSG. Vào ngày 7 tháng 1 năm 2023, anh ra mắt lần đầu tiên tại Cúp bóng đá Pháp trong chiến thắng 3–1 trước Châteauroux và đồng thời trở thành cầu thủ đá chính trẻ nhất trong lịch sử câu lạc bộ khi mới 16 tuổi 10 tháng. Tám ngày sau, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân tại Ligue 1 trong trận thua 0-1 trước Rennes. Vào ngày 1 tháng 2, Zaïre-Emery ghi bàn thắng đầu tiên cho đội một khi vào sân từ ghế dự bị ấn định chiến thắng 3-1 trước Montpellier. Anh trở thành cầu thủ ghi bàn trẻ nhất từ trước đến nay của PSG khi mới 16 tuổi 330 ngày. Vào ngày 14 tháng 2, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất tham gia một trận đấu loại trực tiếp Champions League khi mới 16 tuổi 343 ngày trong trận thua 0-1 trước Bayern Munich. Vào cuối mùa giải 2022–23, Zaïre-Emery giành được chức vô địch Ligue 1 đầu tiên.
Vào ngày 26 tháng 8 năm 2023, Zaïre-Emery lập pha kiến tạo đầu tiên cho PSG sau khi chuyền cho Marco Asensio trong chiến thắng 3–1 trước Lens. Anh trở thành cầu thủ PSG trẻ nhất ghi được một pha kiến tạo ở Ligue 1 kể từ khi Opta bắt đầu phân tích dữ liệu này vào năm 2006. Vào ngày 4 tháng 10, Zaïre-Emery lập pha kiến tạo cho Lucas Hernandez trong trận thua 4–1 ở Champions League trước Newcastle United. Anh trở thành cầu thủ Pháp và PSG trẻ nhất lập pha kiến tạo trong giải đấu này. Vào ngày 11 tháng 10, anh được tờ báo Anh The Guardian vinh danh là một trong những cầu thủ sinh năm 2006 xuất sắc nhất thế giới. Hai tuần sau, anh lập hai pha kiến tạo trong chiến thắng 3–0 tại Champions League trước A.C. Milan và trở thành cầu thủ trẻ nhất lập được ba đường kiến tạo trong giải đấu. Ngoài ra, anh giành giải thưởng cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu đêm đó và cũng trở thành cầu thủ trẻ nhất ra sân 20 lần cho PSG. Vào ngày 29 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải với một cú "rocket" vào góc cao từ ngoài vòng cấm để giúp PSG giành chiến thắng 3–2 trên sân khách trước Brest.
Sự nghiệp quốc tế
Là người gốc Martinique, Zaïre-Emery là một tuyển thủ trẻ của Pháp. Vào tháng 4 năm 2022, anh đã được chọn cùng đội tuyển U-17 quốc gia Pháp tham dự UEFA U-17 Euro. So với các đồng đội vào thế hệ sinh năm 2005, anh là cầu thủ sinh năm 2006 duy nhất của đội. Tại giải UEFA U17 Euro, Pháp giành chức vô địch giải đấu khi Zaïre-Emery ghi được hai bàn thắng.
Vào tháng 9 năm 2023, Zaïre-Emery lần đầu tiên được triệu tập vào đội tuyển U-21 Pháp bởi huấn luyện viên mới được bổ nhiệm Thierry Henry. Anh trở thành đội trưởng trẻ nhất của Les Espoirs sau ba mươi năm khi Henry đã chọn anh làm đội trưởng trong trận đấu với Đan Mạch và Slovenia.
Hồ sơ cầu thủ
Là một tiền vệ phòng ngự có thể hình tốt và khả năng kỹ thuật vượt trội, Zaïre-Emery vừa giỏi giành bóng vừa phát động lối chơi, mang lại cấu trúc cho lối chơi của đồng đội và tạo sự cân bằng cho hàng tiền vệ.
Anh còn được coi là một cầu thủ giỏi đọc trận đấu, có tính cách rất trưởng thành trên sân khi vẫn còn ở độ tuổi thiếu niên và có thể thường xuyên đảm nhận trách nhiệm nhưng vẫn giữ thái độ bình tĩnh và kỷ luật.
Thống kê sự nghiệp
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Paris Saint-Germain
Ligue 1: 2022–23
Quốc tế
Giải vô địch bóng đá U-17 châu Âu: 2022
Cá nhân
Titi d'Or: 2022
Tham khảo
Liên kết ngoài
Warren Zaïre-Emery tại Liên đoàn bóng đá Pháp (bằng tiếng Pháp)
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
Người Pháp
Người Pháp gốc Martinique
Cầu thủ bóng đá Pháp
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Tiền vệ bóng đá
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
Cầu thủ bóng đá Ligue 1
Cầu thủ FCM Aubervilliers
Cầu thủ bóng đá Paris Saint-Germain F.C. |
Chuyến bay số 113 của Indian Airlines được khai thác bởi chiếc Boeing 737-200, khởi hành từ Bombay (nay là Mumbai) đến Admedabad, Ấn Độ vào thứ Tư ngày 19 tháng 10 năm 1988. Chiếc máy bay mang số đăng ký VT-EAH, 17 năm tuổi, và đã tích 42750 giờ bay. Cơ trưởng của chuyến bay là O.M. Dallaya
Diễn biến chuyến bay
6:05: Chuyến bay cất cánh tại Bombay.
6:25: Hệ thống dự báo thời tiết METAR thông báo với phi công do sương mù, tầm nhìn sẽ giảm xuống từ 6 đến 3 ki lô mét.
6:31: Tầm nhìn chỉ còn 2 ki lô mét.
6:47: Phi công chuẩn bị tiếp cận đường băng số 3 bằng phương pháp DME.
6:50: Phi công báo bay vòng vì đã vượt quá đường băng. Đây là tín hiệu cuối cùng đến từ chuyến bay.
Cả phi hành đoàn đều đi tìm đường băng, thay vì chú ý vào máy đo độ cao.
6:53: Máy bay đâm vào cây cối và một cột truyền tải điện cao áp và rơi xuống một cánh đồng tại làng Chiloda Kotarpur.
Thiệt hại
Cả 6 thành viên phi hành đoàn và 124 hành khách đều thiệt mạng, duy nhất có 5 người sống sót và được chuyển đến bệnh viện, nhưng 3 người trong số đó đã không qua khỏi vì vết thương quá nặng.
Điều tra
Kết luận cuối cùng của tòa án điều tra: Do lỗi phán đoán từ phía cơ trưởng và cơ phó vì đã không tuân thủ theo các quy định trong điều kiện tầm nhìn kém.
Bồi thường
Năm 1989, Indian Airlines đề nghị bồi thường 200.000 rupee cho gia đình nạn nhân. Toà án thành phố đưa ra phán quyết cuối cùng như sau:
- Chúng tôi có quan điểm rằng đối với vụ tai nạn được đề cập, tức là vụ tai nạn máy bay Boeing 737 của hãng hàng không Indian Airlines máy bay VT-EAH trên chuyến bay theo lịch trình hàng ngày IC 113 từ Bombay đến Ahmedabad lúc 06 giờ 50 phút vào sáng ngày 19 tháng 10 năm 1988 ở khoảng cách 2540 mét từ đầu đường băng 23 tại Sân bay Ahmedabad trong điều kiện tầm nhìn kém, phần lớn lỗi thuộc về cơ trưởng và cơ phó của Indian Airlines. Họ đã hành động liều lĩnh với kiến thức về thiệt hại có thể xảy ra về hậu quả của hành vi và thiếu sót của họ. Vụ tai nạn được đề cập là do sự liều lĩnh của hãng hàng không Ấn Độ và các nhân viên của họ, đặc biệt là cơ trưởng cũng như cơ phó, với kiến thức về hậu quả có thể xảy ra khi cố gắng hạ cánh mà không có bất kỳ sự cho phép nào từ Kiểm soát không lưu, Ahmedabad. |
Monyreak "Monty" Oum ( ; 22 tháng 6 năm 1981 – 1 tháng 2 năm 2015) là họa sĩ diễn hoạt và nhà biên kịch người Mỹ.
Oum đã thu hút sự chú ý trong cộng đồng game thủ sau khi phát hành một video hoạt hình vào năm 2007, có tựa đề Haloid, khi mà các nhân vật trong dòng game Halo và Metroid giao chiến lẫn nhau lan truyền rộng rãi trên mạng Internet. Vào tháng 10 cùng năm, anh phát hành phần tiếp theo mang tên Dead Fantasy. Oum bắt đầu làm việc cho hãng Rooster Teeth, đóng vai trò là nhà làm phim hoạt hình chính cho Red vs. Blue, và tạo ra loạt phim hoạt hình gốc RWBY.
Oum bị phản ứng dị ứng nghiêm trọng và hôn mê vào tháng 1 năm 2015. Anh qua đời ngày 1 tháng 2 năm 2015 tại Austin, Texas.
Thân thế
Oum chào đời tại Providence, Rhode Island vào năm 1981. Anh là người gốc Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản. Anh có bốn anh trai (bao gồm Neath, người đảm nhận lồng tiếng cho nhân vật RWBY Lie Ren sau cái chết của Oum) và hai chị gái. Hồi còn tuổi thiếu niên, Oum từng là sinh viên tại New Urban Arts, một studio nghệ thuật cộng đồng dành cho học sinh trung học ở Providence.
Sự nghiệp
Công việc độc lập
Oum bỏ học cấp ba và bắt đầu tổng hợp các video dành cho người hâm mộ chơi game vào đầu năm 2002. Tháng 1 năm 2007, anh phát hiện ra một số kỹ thuật đảo ngược trực tuyến cho phép anh trích xuất các mô hình từ Halo 2 và sử dụng nội dung từ Super Smash Bros. Melee tạo ra "cuộc đối đầu cuối cùng" giữa SPARTAN (Halo) và Samus Aran (Metroid) trong Haloid, một từ ghép của hai dòng game này. Các video nêu trên đã thu hút được số lượt xem trực tuyến đáng kể. Sau đó vào năm 2007, Oum sản xuất một loạt phim mang tên "Dead Fantasy" có sự góp mặt của các nhân vật trong Final Fantasy và Dead or Alive giao chiến lẫn nhau.
Công việc ngành nghề
Hai tháng sau khi Haloid ra mắt, nhiều công ty game đã tìm kiếm Oum, và cuối cùng anh đã được Midway Games thuê làm nhà thiết kế cảnh chiến đấu. Năm 2008, anh được Namco Bandai Games thuê làm nhà thiết kế cảnh chiến đấu và họa sĩ diễn hoạt cho tựa game Afro Samurai. Trải nghiệm ngắn ngủi trong ngành công nghiệp game khiến Oum nản lòng, và vào năm 2009, anh gặp nhà đồng sáng lập Rooster Teeth Burnie Burns tại một hội thảo ở San Diego Comic-Con International và hai người đã thảo luận về khả năng Monty làm việc cho công ty này. Mãi đến PAX East 2010, người ta mới thông báo rằng Oum đã được thuê làm họa sĩ diễn hoạt cho loạt web dài tập của công ty mang tên Red vs. Blue.
Tác phẩm tiếp theo của anh, loạt phim hoạt hình RWBY, có các cảnh chiến đấu kỳ ảo và hấp dẫn giữa các nhân vật siêu năng lực thu hút được lượng người theo dõi trực tuyến. RWBY là một thành công về mặt thương mại của hãng Rooster Teeth, và các bài phê bình đã nêu bật chất lượng cao của những cảnh chiến đấu hoạt hình trong phim. Hai mùa của chương trình đã được sản xuất, với phần thứ ba được sản xuất vào thời điểm Oum qua đời vào đầu năm 2015. Hiện chương trình đã chiếu được chín mùa.
Cái chết
Ngày 22 tháng 1 năm 2015, Oum bị phản ứng dị ứng nghiêm trọng không xác định trong một "thủ tục y tế đơn giản". Ngày 30 tháng 1, nhà đồng sáng lập Rooster Teeth Burnie Burns cho biết Oum "đang được chăm sóc đặc biệt và không biết liệu anh ấy có bình phục nổi hay không". Một trang quyên góp được thiết lập để chi trả chi phí y tế trên GoFundMe, và nhận được hơn 210.000 USD. Ngày 1 tháng 2 năm 2015, lúc 4 giờ 34 phút buổi chiều, Oum qua đời do phản ứng dị ứng nói trên.
Đóng phim
Giải thưởng
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 1981
Mất năm 2015
RWBY
Đạo diễn người Mỹ
Nam nhà biên kịch Mỹ
Đạo diễn phim hoạt hình Mỹ
Nam diễn viên lồng tiếng Mỹ
Nam diễn viên web series Mỹ
Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21
Tai nạn chết người ở Texas
Người Mỹ gốc Việt
Người Mỹ gốc Hoa
Người Mỹ gốc Nhật
Người Mỹ gốc Campuchia
Nghệ sĩ người Mỹ gốc Việt
Họa sĩ diễn hoạt Texas
Họa sĩ Austin, Texas
Họa sĩ Providence, Rhode Island
Tử vong do bệnh hô hấp ở Texas
Tử vong do sốc phản vệ
Nam diễn viên Austin, Texas
Nhân viên Rooster Teeth
Nhà biên kịch Texas
Nhà biên kịch Rhode Island
Nhà văn Austin, Texas
Nhà văn Providence, Rhode Island
Họa sĩ diễn hoạt Rhode Island
Nam diễn viên Providence, Rhode Island |
(một phần mười) là một phân số tối giản và cũng là một phân số thập phân và là kết quả của phép tính 1 chia cho 10 hoặc là kết quả của bất kỳ số nào chia cho một số gấp mười lần nó. Nhân một phần mười tức là chia cho mười.
Xem thêm
1/2 (số)
Một phần ba
Phân số
Tham khảo
Phân số |
Cetiya (tiếng Phạn: Caitya, có nghĩa là "lời nhắc nhở" hay "đài tưởng niệm", dịch nghĩa tiếng Việt có nghĩa là bảo tháp) là những di vật và di chỉ, địa điểm được các Phật tử sử dụng để tưởng nhớ Đức Phật Cồ Đàm (Gautama). Theo Damrong Rajanubhab thì có bốn loại được phân biệt trong Kinh điển Pāli: "Xá lợi (Dhatu), Tưởng niệm (Paribhoga), Phật Pháp (Dhamma) và Tháp thờ cúng (Udesaka). Trong cộng đồng Phật giáo thế giới, có sáu loại tháp căn bản gồm Tháp xá lợi (Dhātu cetiya), Tháp tưởng niệm (Paribhoga cetiya), Tháp thờ vật dụng, Tháp giáo pháp (Dhamma cetiya), Tháp thờ cúng (Udesaka cetiya) và Tháp biểu tượng.
Ngược lại, Griswold nói rằng ba loại là truyền thống và loại thứ tư là Phật Pháp, được thêm vào sau này để nhắc nhở các nhà sư rằng ký ức thực sự về Đức Phật Cồ Đàm có thể được nhận ra trong những lời dạy của ngài. Mặc dù những điều này có thể được hiểu một cách rộng rãi là biểu tượng Phật giáo, nhưng sự nhấn mạnh có xu hướng là mối liên hệ lịch sử với Đức Phật chứ không phải là yếu tố siêu hình. Ở Ấn Độ thời kỳ tiền Phật giáo thì Caitya là thuật ngữ chỉ một ngôi đền hoặc thánh địa trong cảnh quan, nói chung là ở ngoài trời, nơi sinh sống hoặc linh thiêng của một vị thần cụ thể. Trong Kinh điển Mahāyāna Mahāparinirvāṇa Sūtra, vào lúc gần cuối đời, Đức Phật nhận xét Ananda rằng các loại vỏ khác nhau quanh Vaishali thật đẹp làm sao.
Chú thích
Liên kết ngoài
Kalinga-Bodhi Jataka
Jataka of Kassapa Buddha
Phật giáo |
Marc Guiu Paz (sinh ngày 4 tháng 1 năm 2006) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha, anh đang chơi ở vị trí tiền đạo cho đội Barcelona Atlètic.
Tham Khảo
Cầu thủ bóng đá La Liga
Cầu thủ bóng đá FC Barcelona Atlètic
Cầu thủ bóng đá Barcelona
Tiền đạo bóng đá nam
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nam Tây Ban Nha
Nhân vật còn sống
Sinh năm 2006 |
Dị giáo phái trong văn hóa đại chúng (New religious movements and cults in popular culture) là những phản ánh trong văn hóa đại chúng về dị giáo phái (dị giáo, tà giáo, các giáo phái cuồng giáo). Các phong trào và giáo phái tôn giáo mới ("đạo lạ") đã xuất hiện như những chủ đề hoặc đề tài, cảm hứng trong văn học và văn hóa đại chúng, trong khi những đại diện đáng chú ý của những nhóm giáo phái đó đã tự mình tạo ra, xuất bản ra một khối lượng lớn các tác phẩm văn học. Bắt đầu từ những năm 1700, các tác giả ở thế giới Anh ngữ bắt đầu giới thiệu các thành viên của "giáo phái" là những kẻ phản diện. Những người theo Satan giáo, các môn phái của phong trào Thánh hữu Ngày sau, Yakuza, Hội Tam Hoàng và nhóm Thuggee là những lựa chọn phổ biến cho vai phản diện. Trong thế kỷ XX, mối quan tâm về quyền lợi và cảm xúc của các nhóm tôn giáo thiểu số đã khiến các tác giả sáng tạo ra những giáo phái hư cấu để những kẻ phản diện của họ thuộc về nhóm ấy. Các giáo phái hư cấu tiếp tục phổ biến trên phim ảnh, truyền hình và trò chơi điện tử theo cách tương tự.
Khái yếu
Phong trào tôn giáo mới (NRM) là một cộng đồng tôn giáo hoặc nhóm đạo đức, tâm linh hoặc triết học có nguồn gốc hiện đại, chúng có một vị trí ngoại vi trong nền văn hóa tôn giáo thống trị của quốc gia đó. NRM có thể có nguồn gốc mới lạ hoặc chúng có thể là một phần của một tôn giáo rộng hơn, trong trường hợp đó, chúng sẽ khác biệt với các giáo phái đã tồn tại từ trước. Các học giả tiếp tục cố gắng đạt đến các định nghĩa và xác định ranh giới. NRM có thể là một trong nhiều phong trào khác nhau, từ những phong trào có liên kết lỏng lẻo dựa trên các cách tiếp cận mới về tâm linh hoặc tôn giáo đến các doanh nghiệp cộng đồng yêu cầu mức độ tuân thủ nhóm đáng kể và một bản sắc xã hội tách biệt những người theo họ rời khỏi xã hội chính thống. Các học giả đã ước tính rằng số lượng NRM hiện nay lên tới hàng chục nghìn hội viên trên toàn thế giới. Hầu hết chỉ có một vài thành viên, một số có hàng nghìn và chỉ rất ít có hơn một triệu. Từ cuồng giáo trong cách sử dụng hiện nay là một thuật ngữ miệt thị để chỉ một phong trào tôn giáo mới hoặc nhóm khác có niềm tin hoặc thực hành bị cộng đồng xã hội coi là bất thường, lập dị, hoặc kỳ quái (dị giáo, dị đoan), thường không có định nghĩa rõ ràng hoặc nhất quán.
Văn chương
Tác giả Dashiell Hammett có tác phẩm The Dain Curse (1929) có nội dung phần lớn câu đố bí ẩn xoay quanh Đền thờ Chén Thánh, một vòng tròn hư cấu ở California mà các nhân vật của Hammett liên tục mô tả là "dị giáo phái". Tác giả Hammett mô tả nó bắt đầu như một trò lừa đảo, mặc dù người lãnh đạo giả định bắt đầu tin vào những tuyên bố gian lận của chính mình. Tác giả A.E.W. Mason trong cuốnThe Prisoner in the Opal (1928) đã viết về một trong những bí ẩn Inspector Hanaud của ông, mô tả việc vạch mặt một giáo phái thờ Satan. Tiểu thuyết gia người Ý Sibilla Aleramo trong tác phẩm Amo, dunque sono (Tôi yêu, vì vậy, tôi) (1927) đã miêu tả UR Group của Julius Evola là một nhóm kín và phong trào trí tuệ-bị ảnh hưởng mạnh mẽ từ thuyết Anthroposophy đã cố gắng hướng đạo cho Benito Mussolini. Aleramo mô tả nhân vật dựa trên người tình cũ Evola của cô là "vô nhân đạo, một kiến trúc sư băng giá với những lý thuyết lộn tùng phèo, viển vông, hung ác và đồi trụy" Aleramo dựa trên nhân vật anh hùng của mình là Giulio Parise người đã cố gắng lật đổ Evola ủng hộ Phát xít làm thủ lĩnh của vòng kết nối vào năm 1928 không thành công, dẫn đến Evola bố cáo rằng từ đó anh ta sẽ phát huy "sự thống nhất tuyệt đối về chỉ đạo" đối với các ấn phẩm trong vòng kết nối.
Nhà văn khoa học viễn tưởng Robert A. Heinlein đã viết hai cuốn tiểu thuyết đề cập đến các nhóm sùng bái hư cấu. Một nhân vật hàng đầu trong bộ truyện "Lịch sử tương lai" đầu tiên của ông (If This Goes On--, một tiểu thuyết ngắn xuất bản trong tuyển tập Cuộc nổi dậy năm 2100) kể về Nehemiah Scudder, một "nhà tiên tri" tôn giáo, trở thành nhà độc tài của Hoa Kỳ. Bằng sự thừa nhận của chính mình trong lời bạt, Heinlein đã bộc lộ vào cuốn sách này sự ngờ vực của mình đối với mọi hình thức tôn giáo chủ nghĩa chính thống, Ku Klux Klan, Đảng Cộng sản Mỹ và các phong trào khác ông coi là độc tài. Heinlein cũng nói trong lời bạt rằng ông đã nghĩ ra cốt truyện của những cuốn sách khác về Scudder, nhưng quyết định không viết chúng, một phần vì ông thấy Scudder quá khó chịu. Cuốn tiểu thuyết Người lạ ở vùng đất xa lạ của Heinlein có hai giáo phái: "Giáo hội Tân Khải Huyền của Dionysian, Fosterite" và "Giáo hội của mọi thế giới" của nhân vật chính Valentine Michael Smith. Heinlein đề cập đến động cơ và phương pháp của các nhà lãnh đạo tôn giáo một cách chi tiết.
Trong tác phẩm Sức mạnh ghê tởm đó thì C.S. Lewis mô tả Viện Thí nghiệm Phối hợp Quốc gia hay còn gọi là "NICE", một mặt trận gần như được chính phủ che giấu một loại giáo phái Ngày tận thế tôn thờ một cái đầu quái gở được giữ sống bằng phương tiện khoa học. Cuốn tiểu thuyết của Lewis đáng chú ý vì đã xây dựng bài diễn văn năm 1944 của ông "The Inner Ring". Tác phẩm thứ hai chỉ trích ham muốn thuộc về một bè phái hùng mạnh - một thất bại phổ biến của con người mà Lewis tin rằng đó là cơ sở khiến mọi người bị dụ dỗ vào các phong trào ham muốn quyền lực và lươn lẹo về mặt tinh thần. Trong tác phẩm Sweet Wild Wench của William Campbell Gault thì thám tử tư LA Joe Puma điều tra "Những đứa trẻ của Proton", một giáo phái hư cấu đã thu hút sự ủng hộ của con gái một doanh nhân giàu có. Gore Vidal đã viết cuốn Messiah mô tả sự trỗi dậy của Cavism, một tôn giáo mới phi thần học về việc chấp nhận cái chết triệt để, từ nguồn gốc của nó như một giáo phái bên lề cho đến sự tiếp quản cuối cùng của nó trật tự thế giới đã được thiết lập. Tiểu thuyết Kalki của Vidal, một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, kể lại việc một giáo phái nhỏ nhưng thông thạo về mặt khoa học đã giết chết toàn bộ loài người bằng chiến tranh vi trùng như thế nào.
Cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nổi tiếng người Pháp Michel Houellebecq năm 2005, The Possibility of an Island, mô tả một nhóm nhân bản giống với giáo phái Raëlism. Robert Muchamore đã viết một cuốn sách dành cho thanh thiếu niên có tựa đề Divine Madness, kể về một giáo phái tôn giáo có số lượng thành viên đông đảo: các nhân vật chính của cuốn sách phải thâm nhập giáo phái phát hiện ra một âm mưu nham hiểm hắc ám. Cuốn tiểu thuyết Godless xoay quanh một thiếu niên thành lập một giáo phái tôn giáo thờ tháp nước của quê hương mình. Nhà thông thiên học người Nga là Helena Blavatsky người đã sáng lập Thông Thiên giáo, đã viết cuốn Isis Unveiled (1887) và The Secret Doctrine/Học thuyết bí mật (1888), và có ảnh hưởng văn hóa và trí tuệ to lớn vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, giúp kích thích phong trào dân tộc chủ nghĩa Ấn Độ, cận tâm lý học, thể loại văn học giả tưởng và phong trào Thời đại mới. Bách khoa toàn thư về tưởng tượng mô tả hai cuốn sách lớn của bà là "những kho tàng khổng lồ, hấp dẫn về thần thoại, truyện cổ tích, suy đoán, bịa đặt và lường gạt". Rudolf Steiner (1861–1925) người sáng lập Anthroposophy đã viết lách trong nhiều lĩnh vực khác nhau (tác phẩm sưu tầm của ông tổng cộng 350 tập) và ảnh hưởng đến những nhân vật như tiểu thuyết gia Herman Hesse và triết gia Owen Barfield. Nhật Bản thì có loạt truyện tranh Nijū-seiki Shōnen.
Phim ảnh
Với sự ảnh hưởng trong văn hóa đại chúng, đặc biệt là lĩnh vực phim ảnh, phim truyền hình, điện ảnh, đề tài dị giáo phái đã có nhiều bộ phim về đề tài dị giáo phái hoặc liên quan đến dị giáo phái như:
Alison's Birthday
All the Colors of the Dark
The Amityville Asylum
The Amityville Playhouse
The Amityville Terror
Ang Mga Kaibigan ni Mama Susan
Aniara
Apostle
Armageddon Gospels
Armour of God
The Astrologer (1975)
AUM: The Cult at the End of the World
The Babysitter (2017)
The Babysitter: Killer Queen
Backwoods
Bad Dreams
Bad Times at the El Royale
Batman: Soul of the Dragon
The Believers
The Birthday
Black Christmas (2019)
Black Noon
Blessed (2004)
Blood Cult
The Blood on Satan's Claw
Blood Orgy of the She-Devils
Breath of Hate
Brocéliande
The Brotherhood of Satan
Bryan Loves You
Catch and Release (2018)
Charlie Says (2018)
Children of the Corn (1984)
Children of the Corn II: The Final Sacrifice
Children of the Corn III: Urban Harvest
Children of the Corn IV: The Gathering
Children of the Corn V: Fields of Terror
Children of the Corn 666: Isaac's Return
Children of the Corn: Revelation
Clan of the White Lotus
The Cliff
Colonia (tựa Việt: Tình yêu thời bạo loạn hay Bạo loạn ở Colonia)
Conan the Barbarian (1982)
Crocodile (2000)
Crowhaven Farm
Cthulhu (2007)
Cult of the Cobra
Cult of One trong loạt phim truyền hình Sheena (2000)
The Curse of the Moon Child
Dagon
Darkest Night
Daughters of Satan
The Deceivers
The Devil's Hand
The Devil's Rain
The Disembodied
Doctor Sleep: Ký ức kinh hoàng (2019)
Drive Angry
Drunken Master III
The Empty Man
End of Days
The Endless
Escaping the NXIVM Cult: A Mother's Fight to Save Her Daughter
Eye of the Devil
Faults
The Final Sacrifice
Freeway II: Confessions of a Trickbaby
Fresh (2022)
Get Out (tựa Việt: Trốn thoát)
Ghoulies
Ghoulies (phim truyền kỳ)
The Girl in Room 2A
God Is a Bullet
God Is American
Gunga Din
Guyana Tragedy: The Story of Jim Jones
Guyana: Crime of the Century
Halloween: The Curse of Michael Myers
Hard Rock Zombies
The Hate That Hate Produced
Help!
Hereditary
The Heretics (2017)
Hollywood Chainsaw Hookers
Holy Hell
The House of the Devil
The Hypothesis of the Stolen Painting
I Drink Your Blood
I Eat Your Skin
Incantation
Indiana Jones and the Temple of Doom
Into the Homeland
Invasion of the Blood Farmers
The Invitation (2015)
Jackals (2017)
Jonestown: The Life and Death of Peoples Temple
Jonestown: Paradise Lost
Jug Face
Kaboom
Kristy
Land of the Minotaur
Legacy of Satan
The Librarian: Quest for the Spear
The Lodge
The Long Night (2022), tựa Việt: Chân tướng trầm mặc
Look What's Happened to Rosemary's Baby
The Lords of Salem
Love Me Deadly
Low Blow
Mandy (2018)
Manos: The Hands of Fate
The Mansion of Madness
The Manson Massacre
Martha Marcy May Marlene
The Master (2012)
Me and the Cult Leader
Meat Market 2
The Medium (2021)
Midnight (1982)
Midsommar (Ngày hạ chí)
Miracle Valley
Mother of Tears
The Nameless
Necromancy
Night of the Demon
Night of the Demon (1980)
Night Terrors
Night Train to Terror
No Retreat... No Surrender... Si Kumander
Octane
Once Upon a Time in China II
Once Upon a Time in China IV
Once Upon a Time in Hollywood
The Orbital Children
The Other Lamb
The Passion of Darkly Noon
The Perfection
A Place Called Dignity
The Pyx
Q (1982)
Ready or Not (2019)
Reaper
Reboot Camp
Ritual (2013)
Ritual of Evil
The Ritual (2017)
Rosemary's Baby
The Sacrament (2013)
Satan's Children
Satanic Panic
Sembrando Libertad
The Serpent Warriors
The Seventh Victim
Shriek of the Mutilated
The Silence (2019)
Silent Night, Deadly Night 4: Initiation
Society
Sound of My Voice
Stitches (2012)
The Stranglers of Bombay
Sunghursh
Suspiria
Svaha: The Sixth Finger
Synanon
Teen Lust (2014)
Thagini
The Dazzled
Them That Follow
There Will Be Blood
Thou Shalt Not Kill... Except
The Three Mothers
Through the Fire (1988)
Ticket to Heaven
To the Devil a Daughter
Under the Silver Lake
Chúng ta (2019): Tựa gốc Us
Utopia (2003)
V/H/S/2
V/H/S/94
V/H/S: Viral
The Veil (2016)
Virgin Witch
Weirdsville
What Still Remains
The Whirlpool (2022)
The Wicker Man
The Wicker Man (2006)
Willy's Wonderland
The World's Greatest Sinner
Wrong Turn (2021): Ngã rẽ tử thần
Wrong Turn 6: Last Resort
X-Cross
Young Sherlock Holmes
Thất sơn tâm linh (tự gốc: Thiên Linh cái)
Trò chơi
Far Cry 5
The Last of Us II
Resident Evil 4
Resident Evil 8 Village
Rise of the Argonauts
Blood II: The Chosen
Aztec: The Curse in the Heart of the City of Gold
Cult of the Lamb (Giáo phái của Cừu)
Chú thích
Cuồng giáo
Cuồng giáo trong văn hóa đại chúng |
Ultrabook là một thuật ngữ tiếp thị do Intel sáng tạo và bảo hộ, ám chỉ dòng máy tính xách tay cao cấp. Khi mới ra mắt, Ultrabook nổi bật với thiết kế siêu mỏng, trọng lượng nhẹ nhưng vẫn đảm bảo tuổi thọ pin và hiệu suất hoạt động. Kích thước của chúng thường nhỏ hơn so với các mẫu laptop thông thường, đủ nhỏ để được phân loại là máy tính xách tay kích thước nhỏ.
Khi các đặc điểm của Ultrabook trở nên thông dụng hơn vào giữa và cuối thập kỷ 2010, việc gắn mác các mẫu laptop là Ultrabook đã trở nên ít hơn rất nhiều. Đến năm 2021, dù Intel vẫn giữ bản quyền Ultrabook, nhưng thuật ngữ này hiếm khi được sử dụng cho các mẫu mới và đã bị thay thế trong chiến lược tiếp thị của chính Intel bởi thương hiệu Intel Evo.
Lịch sử
Vào năm 2011, Jordan Balk Schaer, người đại diện báo chí của Intel Capital, đã thông báo về một quỹ mới hỗ trợ các công ty khởi nghiệp làm việc trên các công nghệ phù hợp với tầm nhìn của Intel về dòng máy tính xách tay thế hệ tiếp theo. Intel đã dự trữ một quỹ 300 triệu đô la để chi tiêu trong vòng ba đến bốn năm tới cho các lĩnh vực liên quan đến Ultrabooks. Intel đã giới thiệu khái niệm Ultrabook tại sự kiện Computex vào năm 2011. Ultrabook được mô tả là một chiếc máy tính xách tay siêu mỏng (dày ít hơn 0,8 inch) sử dụng bộ vi xử lý của Intel, và nhấn mạnh vào khả năng di động và tuổi thọ pin dài hơn so với các laptop khác Thông qua chiến dịch tiếp thị này cùng với quỹ 300 triệu đô la, Intel hy vọng sẽ làm thay đổi thị trường PC đang suy giảm trước sự cạnh tranh từ điện thoại thông minh và máy tính bảng, những thiết bị thường sử dụng bộ vi xử lý ARM cạnh tranh.
Ultrabooks đã cạnh tranh với các dòng máy tính xách tay nhỏ khác, trong đó có MacBook Air của Apple. MacBook Air có thông số kỹ thuật hình dạng tương tự và sử dụng CPU Intel cho đến năm 2020, nhưng không được quảng cáo dưới thương hiệu Ultrabook. Tại Hội nghị Nhà phát triển Intel năm 2011, bốn công ty ODM của Đài Loan đã giới thiệu các mẫu Ultrabook tiền sản xuất sử dụng chip Ivy Bridge của Intel. Intel có kế hoạch giảm mức tiêu thụ năng lượng của chip dành cho Ultrabooks, ví dụ như các bộ vi xử lý Ivy Bridge, với công suất thiết kế nhiệt mặc định là 17 W.
Tại Triển lãm Điện tử Tiêu dùng, một người quản lý của Intel đã chỉ ra rằng, theo phân tích thị trường, kích thước màn hình là một trong những yếu tố khiến một số người ngần ngại chuyển sang sử dụng Ultrabooks 13 inch. Do đó, Intel đã lên kế hoạch, thông qua việc hợp tác với các nhà sản xuất, để đảm bảo rằng 50% trong số 75 mẫu Ultrabook có thể sẽ ra mắt vào năm 2012 sẽ có màn hình kích thước 14 hoặc 15 inch.
Ban đầu, IHS iSuppli dự đoán rằng sẽ có 22 triệu Ultrabooks được giao hàng vào cuối năm 2012, và 61 triệu đơn vị vào năm 2013. Tuy nhiên, vào tháng 10 năm 2012, IHS đã điều chỉnh lại dự báo của mình, giảm xuống còn 10 triệu đơn vị trong năm 2012 và 44 triệu đơn vị cho năm 2013. Phần lớn các mẫu Ultrabooks đều có giá quá cao để được tiếp nhận rộng rãi. Thêm vào đó, việc Intel không ngừng thay đổi thông số kỹ thuật của Ultrabook đã gây ra sự nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Tình hình càng trở nên phức tạp hơn khi các nhà sản xuất OEM phát hành các dòng laptop mỏng/"sleek" hoặc "Sleekbook" (ví dụ: Hewlett-Packard Pavilion TouchSmart 15z-b000 Sleekbook, Samsung Ativ Book 9 Lite) là các phiên bản sử dụng chip AMD rẻ hơn so với các mẫu Ultrabook trang bị chip Intel đắt tiền hơn. Nhìn chung, thị trường đã chuyển dịch từ máy tính cá nhân (bao gồm cả Ultrabooks) sang điện thoại thông minh và máy tính bảng là lựa chọn thiết bị tính toán cá nhân hàng đầu.
Intel đã dựa vào việc ra mắt Windows 8 cùng với các kiểu dáng mới như máy tính xách tay "đổi hướng" có màn hình cảm ứng và máy tính bảng có bàn phím có thể tách rời ("detachable"), cũng như các tính năng như cảm biến gia tốc và con quay hồi chuyển cho màn hình cảm ứng, nhận dạng cử chỉ bằng tay để tạo ra nhu cầu cho Ultrabooks. Khi giới thiệu thông số kỹ thuật Ultrabook thế hệ thứ ba vào tháng 6 năm 2013, cùng với kiến trúc bộ vi xử lý Haswell mới, Intel đã yêu cầu tất cả các mẫu Ultrabook tương lai phải có màn hình cảm ứng. Yêu cầu này, được đưa ra dựa trên nghiên cứu trải nghiệm người dùng, nhằm ngăn chặn sự nhầm lẫn trên thị trường từ các nhà sản xuất OEM, những người đã cung cấp các sản phẩm giá rẻ với màn hình cảm ứng nhưng không phải là Ultrabooks.
Chú thích
Liên kết ngoài
.
.
.
Phát minh của Hoa Kỳ
Sản phẩm của Intel |
Maqluba hay Maqlooba () là một món ăn truyền thống của Iraq, Liban, Palestine, Jordan, và Syria được phục vụ khắp nơi ở khu vực Levant. Nó bao gồm thịt, cơm và rau củ chiên được đặt trong một cái nồi được lộn ngược khi phục vụ, do đó có tên maqluba, dịch theo nghĩa đen là "lộn ngược". Món ăn này đã có từ nhiều thế kỷ trước và được tìm thấy trong Kitab al-Tabikh, một bộ sưu tập các công thức nấu ăn từ thế kỷ 13.
Nguyên liệu
Maqluba có thể bao gồm nhiều loại rau, chẳng hạn như cà chua chiên, khoai tây, súp lơ và cà tím, kèm theo thịt gà hoặc thịt cừu. Tuy nhiên, 2 loại rau phổ biến nhất là súp lơ và cà tím. Tất cả các nguyên liệu được xếp cẩn thận vào nồi theo từng lớp để khi úp nồi xuống để phục vụ, món ăn trông giống như một chiếc bánh nhiều lớp.
Maqluba thường được trang trí bằng hạt thông và rau mùi tây tươi cắt nhỏ. Nó đôi khi được phục vụ với salad và sữa chua tươi, và thường được chuẩn bị cho các bữa tiệc và các buổi họp mặt đông người.
Kể từ sau âm mưu đảo chính bất thành ở Thổ Nhĩ Kỳ, năm 2016, món ăn này được coi là "món ngon kiểu Gülen". Nó được đánh giá là bằng chứng mạnh mẽ về tư cách thành viên của Phong trào Gülen.
Xem thêm
Ẩm thực Ả Rập
Ẩm thực Ai Cập
Ẩm thực Israel
Ẩm thực Jordan
Macaroni Hamin
Ẩm thực Palestine
Tham khảo
Liên kết ngoài
Maqluba (Upside-Down Chicken and Rice)
Thức ăn từ gạo
Ẩm thực châu Á
Ẩm thực Trung Đông
Ẩm thực Ả Rập
Ẩm thực Jordan
Ẩm thực Palestine
Ẩm thực Iraq
Ẩm thực Levant
Ẩm thực Liban
Ẩm thực Địa Trung Hải
Ẩm thực Israel
Ẩm thực Syria
Loại thực phẩm
Ẩm thực đường phố |
Quốc kỳ Đảo Giáng Sinh được chấp thuận không chính thức vào năm 1986 sau khi chiến thắng trong cuộc thi thiết kế cờ cho lãnh thổ. Lá cờ này do Tony Couch ở Sydney, Úc, thiết kế. Lá cờ được công nhận chính thức vào Ngày Quốc khánh Úc năm 2002, khi quản trị viên lãnh thổ, Bill Taylor, trao lá cờ cho Quận Đảo Giáng sinh.
Thiết kế
Quốc kỳ Đảo Giáng Sinh có nền màu xanh lá cây và xanh lam, được chia từ góc trên bên trái xuống góc dưới bên phải. Màu xanh lá cây tượng trưng cho đất, màu xanh lam tượng trưng cho biển. Chòm sao Nam Thập Tự xuất hiện ở phía dưới bên trái của lá cờ, tương tự như quốc kỳ Úc. Ở phía trên bên phải có loài chim golden bosun (Phaethon lepturus fulvus, một trong sáu phân loài của chim nhiệt đới đuôi trắng) màu vàng. Nó được coi là biểu tượng của Đảo Giáng Sinh. Ở giữa lá cờ có một hình tròn vàng với bản đồ hòn đảo màu xanh lá cây. Bản thân hình tròn ban đầu được đưa vào chỉ để bù lại màu xanh lục của bản đồ, nhưng dần nó đã trở thành biểu tượng với ngành khai thác mỏ.
Lịch sử
Lựa chọn
Năm 1986, Hội đồng Đảo Giáng Sinh công bố một cuộc thi thiết kế quốc kỳ và quốc huy cho lãnh thổ. Cuộc thi có một quỹ giải thưởng trị giá 100 đô la và khoảng 69 bài dự thi đã được gửi. Bài dự thi chiến thắng được tạo ra bởi Tony Couch, một cư dân Sydney, người trước đây đã từng làm việc trên Đảo Giáng Sinh. Quốc kỳ mới được Hội đồng Đảo Giáng Sinh công bố vào ngày 14 tháng 4 năm 1986.
Công nhận
Bộ trưởng Quần đảo là người đầu tiên nỗ lực biến lá cờ thành quốc kỳ chính thức. Năm 1995, người này đưa ra quan điểm rằng việc công nhận có thể diễn ra vào Ngày Quốc khánh Úc 1996, thông qua một thông báo chính thức của Quản trị viên thay vì sửa đổi Đạo luật Đảo Giáng Sinh 1958. Mặc dù điều này đã được chấp thuận, nhưng tuyên bố này chưa bao giờ được đưa ra.
Sau đó, quan chức Đảo Giáng Sinh Gary Dunt mở lại vấn đề này vào năm 2001, và lá cờ được quản trị viên lãnh thổ, Bill Taylor, tuyên bố chính thức là quốc kỳ của Đảo Giáng Sinh vào Ngày Quốc khánh Úc 26 tháng 1 năm 2002. Ủy viên Hội đồng Mariam Kawi tiếp nhận lá cờ với tư cách là đại diện của Quận Đảo Giáng sinh.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Christmas Island at Ausflag
Đảo Giáng Sinh
Khởi đầu năm 2002 ở Úc
Đảo Giáng Sinh |
Chuyến bay 541 của Air Philippines, một chiếc Boeing 737-200, cất cánh từ Manila lúc 5 giờ 21 phút sáng và dự kiến hạ cánh ở Davao, Philippines vào khoảng 6 giờ 45 phút. Chỉ huy chuyến bay là cơ trưởng Estraton Catipay - phi công trẻ nhất từng phục vụ cho Philippine Airlines trong những năm 1960. Ông cũng làm việc cho các hãng hàng không ở Hoa Kỳ như Pan Am, Delta, TWA và Eastern Airlines, và tại các hãng hàng không lớn khác ở châu Á và London như Malaysia Air. Đóng vai trò là sĩ quan đầu tiên cho chuyến đi là Đại úy Don Sardalla, 22 tuổi.
Chiếc máy bay đang được bay để kiểm tra lộ trình cho một cơ trưởng. Một cơ trưởng khác đóng vai trò là phi công giám sát trên chuyến bay. Trong khi đang bay, chuyến bay không xảy ra biến cố. Máy bay chuyển sang phương pháp tiếp cận ILS để tiếp cận đường băng số 5 và người điều khiển đã báo cáo rằng họ sẽ làm vậy đằng sau chuyến bay 809 của Philippines Airlines, một chiếc Airbus A319.
Sau khi chuyến bay 541 thoát ra khỏi những đám mây, phi hành đoàn quan sát được đường băng số 5 chưa trống hoàn toàn, nên đã liên hệ với đài kiểm soát không lưu để hoàn tất quá trình bay vòng và lại bay vào những đám mây. Quy trình đúng phải là bay lên độ cao 4000 feet. Nhưng thay vào đó, các phi công lại bay ở độ cao thấp hơn. Chuyến bay sau đó đã đâm phải một cây dừa ở độ cao 500 feet và sau đó va chạm cách sân bay quốc tế Francisco Bangoy vài dặm về phía đông. Chuyến bay sau đó bốc cháy và không có ai sống sót.
Điều tra
Những người dân trên đảo nói rằng chiếc máy bay va vào một cây dừa và đứt một phần cánh. Họ còn nói thêm máy bay cố gắng bay lên với công suất tối đa, nhưng không thành và va chạm. Máy bay bắt đầu bốc cháy khi lao xuống một rừng. Người điều hành sân bay nói rằng có sương mù vào thời điểm xảy ra tai nạn. 21 nạn nhân trên chuyến bay không thể xác định được danh tính nên đã được chôn trong một ngôi mộ tập thể.
Sân bay quốc tế Francisco Bangoy không có đầy đủ thiết bị để hạ cánh vào thời điểm đó, và việc hạ cánh trực quan đã bị đình chỉ vài phút trước khi vụ tai nạn xảy ra.
Chuyến Bay Gặp Nạn |
Phong trào Thánh hữu Ngày sau (Latter Day Saint movement) còn gọi là phong trào LDS hay phong trào phục hồi LDS hoặc phong trào Smith–Rigdon) là tập hợp các nhóm giáo hội độc lập có nguồn gốc từ phong trào Phục hồi Cơ Đốc giáo do Joseph Smith thành lập vào cuối những năm 1820. Nhìn chung, các giáo hội này có hơn 16 triệu hội viên với khoảng 98% thuộc về Giáo hội các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kytô (Giáo hội LDS). Thần học chiếm ưu thế của các giáo hội trong phong trào là Đạo Mặc Môn vốn tự coi mình đang khôi phục lại giáo hội Cơ Đốc giáo sơ khai trên Trái đất, một học thuyết bổ sung của giáo hội cho phép các nhà tiên tri tiếp nhận và công bố những điều mặc khải thời hiện đại.
Một số ít tín đồ của hội Thánh Hữu Ngày Sau, chẳng hạn như các thành viên là tín nhân của Cộng đồng Chúa Kitô, đã bị ảnh hưởng từ thần học Tin lành trong khi vẫn duy trì một số niềm tin và thực hành đặc biệt bao gồm tiếp tục mặc khải, kinh điển mở và xây dựng đền thờ. Các nhóm khác bao gồm giáo hội còn sót lại của Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su, ủng hộ sự kế thừa quyền lãnh đạo trực tiếp từ con cháu của Smith và Giáo hội Chính thống gây nhiều tranh cãi hơn của Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giê-su vốn ủng hộ việc thực hành chế độ đa thê.
Người sáng lập phong trào Thánh hữu Ngày sau là Joseph Smith và Oliver Cowdery. Phong trào này bắt đầu ở tây New York trong sự kiện Sự thức tỉnh vĩ đại thứ hai (Second Great Awakening) khi Smith nói rằng ông đã nhận được những khải tượng tiết lộ một văn bản thiêng liêng mới gọi là Sách Mặc Môn mà ông đã xuất bản vào năm 1830 như là phần bổ sung cho Kinh thánh. Dựa trên những lời dạy của cuốn sách này và những điều mặc khải khác, Smith đã thành lập một giáo hội Cơ đốc giáo nguyên thủy được gọi là Giáo hội của Chúa Kitô. Sách Mặc Môn đã thu hút hàng trăm người theo dõi ban đầu, những người sau này được gọi là "Người Mặc Môn", "Các Thánh Hữu Ngày Sau" hay chỉ là "Các Thánh". Năm 1831, Smith chuyển trụ sở nhà thờ đến Kirtland, Ohio, và đến năm 1838 đổi tên thành "Giáo hội Các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kytô".
Sau khi hội thánh ở Ohio sụp đổ do khủng hoảng tài chính và bất đồng quan điểm thì vào năm 1838, Smith và toàn bộ Hội thánh chuyển đến Missouri. Tuy nhiên, họ bị ngược đãi và Các Thánh Hữu Ngày Sau phải chạy trốn đến Illinois. Sau khi Joseph Smith bị giết vào năm 1844, một cuộc khủng hoảng kế vị đã dẫn đến việc tổ chức bị chia tách thành nhiều nhóm. Giáo hội lớn nhất trong số này là Giáo hội LDS dưới sự lãnh đạo của Brigham Young đã tổ chức cuộc di cư đến Great Basin (nay là Utah) và được biết đến với việc thực hành Đạo Mặc Môn và đạo Hồi vào thế kỷ XIX. Chế độ đa thê của Giáo hội LDS đã được chính thức từ bỏ thực hành này vào năm 1890 và dần dần ngừng thực hiện nó, dẫn đến việc Lãnh thổ Utah trở thành Lãnh thổ Hoa Kỳ. Sự thay đổi này dẫn đến sự hình thành của một số giáo phái nhỏ tìm cách duy trì chế độ đa thê cũng như các học thuyết và thực hành khác của thế kỷ XIX, ngày nay được gọi là "Thuyết Mặc Môn chính thống" (Mormon Fundamentalism). Các nhóm khác bắt nguồn từ phong trào Thánh hữu Ngày sau đã đi theo những con đường khác nhau ở Missouri, Illinois, Michigan và Pennsylvania. Phần lớn, những nhóm này bác bỏ tục đa thê và một số lời dạy sau này của Smith. Cộng đồng lớn nhất trong số này, Cộng đồng Chúa Kitô (trước đây được gọi là "Giáo hội được tổ chức lại của các Thánh hữu Ngày sau của Chúa Giêsu Kitô") được thành lập ở Illinois vào năm 1860 do một số nhóm đoàn kết xung quanh con trai của Smith là Joseph Smith III.
Chú thích
Tham khảo
.
Danny L. Jorgensen, "Dissent and Schism in the Early Church: Explaining Mormon Fissiparousness", Dialogue: A Journal of Mormon Thought, vol. 28, no. 3 (Fall 1993) pp. 15–39.
.
.
.
Steven L. Shields, Divergent Paths of the Restoration: A History of the Latter Day Saint Movement Los Angeles: 1990.
Mặc Môn giáo |
Mick LaSalle (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1959) là nhà phê bình điện ảnh người Mỹ và là tác giả của hai cuốn sách về thời kỳ Pre-Code Hollywood. Tính đến tháng 3 năm 2008, ông đã viết hơn 1.550 bài đánh giá cho tờ San Francisco Chronicle, đồng thời cũng chuyển thể các bài viết này thành dạng podcast từ tháng 9 năm 2005.
Sự nghiệp
LaSalle là tác giả của cuốn Complicated Women: Sex and Power in Pre-Code Hollywood, một nghiên cứu lịch sử/phê bình về các nữ diễn viên làm việc trong ngành công nghiệp điện ảnh từ năm 1929 đến năm 1934. Tác phẩm do nhà xuất bản Thomas Dunne Books ấn hành vào năm 2000. Trong một bài đánh giá trên tờ The New York Times, Andy Webster gọi đây là "một bài kiểm tra quá hạn về cuộc xung đột lịch sử giữa Hollywood và những thanh tra đạo đức" và nói thêm rằng LaSalle đã "đưa ra quan điểm của bản thân giữa một nền kinh tế thoải mái." Nhà báo iz Smith gọi đây là "một tác phẩm xuất sắc." Cuốn sách là nền tảng cho bộ phim tài liệu Complicated Women, do Hugh Munro Neely đạo diễn và Jane Fonda tường thuật, bộ phim ban đầu được Turner Classic Movies phát sóng vào tháng 5 năm 2003. Trong tác phẩm, LaSalle đảm nhiệm vai trò sản xuất cũng như đưa ra một số lời bình luận trong nội dung phim.
Sau Complicated Women, tác phẩm tiếp theo của LaSalle là Dangerous Men: Pre-Code Hollywood and the Birth of the Modern Man, do Thomas Dunne Books xuất bản năm 2002. LaSalle có các bài thuyết giảng về chủ đề điện ảnh tại nhiều liên hoan phim khác nhau, bao gồm các liên hoan phim ở Hamptons. Denver, Las Vegas, Mill Valley và Film Forum ở Thành phố New York cũng như Rạp Castro ở San Francisco. Cuốn sách thứ ba của ông mang tên The Beauty of the Real: What Hollywood Can Learn From Contemporary French Actresses được xuất bản vào năm 2012. Cuốn sách thứ tư là Dream State: California in the Movies (Heyday Books) được xuất bản vào năm 2021.
Vào cuối những năm 1990, LaSalle là nhà phê bình phim trực tuyến cho KGO-TV. Ông từng là tham luận viên tại Liên hoan phim Venezia các năm 2006, 2007, 2008, 2011, 2012, 2013, 2014, 2016, 2018 và 2019. cũng như tại Liên hoan phim quốc tế Berlin 2009. Với tư cách là nhà phê bình phim chính của Chronicle, các bài phê bình của LaSalle xuất hiện trên tất cả các báo chị em của Chronicle thuộc chuỗi Hearst, bao gồm tờ Connecticut Post, tờ Albany Times-Union, tờ San Antonio Express-News và tờ Houston Chronicle.
Đời tư
LaSalle lập gia đình voi nhà viết kịch Amy Freed. Ông nuôi một chú mèo xám tên Sandrine, đặt theo nữ diễn viên người Pháp Sandrine Bonnaire.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nhà phê bình điện ảnh Mỹ
Nhà văn phi hư cấu
Sinh năm 1959
Nhân vật còn sống |
Hội Aetherius (Aetherius Society) là một phong trào tôn giáo mới do George King thành lập vào giữa những năm 1950 từ kết quả của những gì mà George King tuyên bố là đã có sự liên hệ với những trí tuệ ngoài Trái đất, người mà ông gọi là "Bậc thầy vũ trụ" (Cosmic Masters). Mục tiêu chính của tín đồ là hợp tác với các Bậc thầy vũ trụ này để giúp nhân loại giải quyết các vấn đề hiện tại trên Trái đất và tiến tới Thời đại mới. Được thành lập vào giữa những năm 1950 dưới tay một cựu tài xế taxi người Anh, đây là một tôn giáo thời đại mới với hệ thống niềm tin được xây dựng xung quanh ý tưởng rằng một loạt "Bậc thầy vũ trụ" (chủ yếu từ Sao Kim và Sao Thổ) điều khiển số phận của loài người. Ngoài ra, họ tập trung rất nhiều vào việc cầu nguyện và "bổ sung năng lượng tinh thần" cho Trái Đất, nhằm dọn đường cho "Next Master” một siêu nhân vật sẽ đáp xuống Trái Đất trong chiếc đĩa bay được trang bị “ma thuật” mạnh hơn “sức mạnh vật chất của tất cả quân đội trên thế giới”.
Đó là một tôn giáo hỗn hợp, chủ yếu dựa trên Thông thiên học và kết hợp các khía cạnh tôn giáo theo Thuyết nghìn năm, Thời đại mới và tôn giáo UFO. Điểm nhấn của tôn giáo bao gồm lòng vị tha, phục vụ cộng đồng, tôn thờ thiên nhiên, chữa lành tinh thần và tập thể dục. Các thành viên gặp nhau trong các hội thánh giống như giáo hội. John A. Saliba nói rằng, không giống như nhiều tôn giáo Thời đại mới hoặc UFO khác thì Hội Aetherius phần lớn được coi là không gây tranh cãi, mặc dù các khía cạnh thuyết bí truyền và thuyết nghìn năm của đạo này đôi khi bị chế giễu. Tôn giáo này có thể được coi là có một thực hành tương đối truyền thống, thu hút các thành viên, các tín nhân từ xã hội chính thống. Thành viên của hiệp hội, mặc dù mang tính quốc tế, nhưng tương đối nhỏ. David V. Barrett đề xuất vào năm 2011 rằng số hội viên trên toàn thế giới lên tới hàng nghìn, với số lượng lớn nhất ở Vương quốc Anh, Hoa Kỳ (đặc biệt là Nam California) và New Zealand.
Chú thích
Liên kết ngoài
The Aetherius Society – official website of the movement
Page about the Aetherius Society at Religious Movements site
A scholarly article by John A. Saliba in the Marburg Journal of Religion: link to the article
Aetherius Society: Jesus, Venusians, and some bad astronomy - Skeptical look at the society's astronomy claims
Aetherius Society: A lack of proof - Skeptical look at the society claims of King's pre-knowledge of certain historical events
Peakbagger.com (For a large map showing the locations of the Aetherius Society Holy Mountains)
Tôn giáo UFO
Cuồng giáo |
Đơn hay Đan () là một tiểu quốc chư hầu thời nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
Lịch sử
Theo "Nguyên thư" và "Nguyên Hòa tính toản", Chu Thành vương đã phong cho tước Hầu cho con trai út Sơn Bá Chân và quyền cai trị vùng. Tuy nhiên trong sách "Lộ Sử", "Thống chí gia phả" và "Sử dịch" cho rằng Chu Thành vương không coi trọng gia tộc Sơn. Sách "姓源" phân tích rằng Đan Mi chính là Sơn Bá Chân, con trai út của Chu Thành vương. Đây là một nước chư hầu trong Chu Tấn và có quan hệ họ hàng với hoàng tộc nhà Chu.
Năm 2003, một loạt đồ đồng được khai quật ở làng Dương Gia, My huyện, Thiểm Tây. Theo cách giải thích của những dòng chữ trên di vật, dòng họ Đan đã tồn tại ngay từ thời Văn vương và Vũ vương nhà Chu.
Tham khảo
Tây Chu
Xuân Thu
Các nước chư hầu Trung Quốc cổ đại |
Agustín Alberto Martegani (sinh ngày 20 tháng 5 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina hiện tại đang thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công cho câu lạc bộ Salernitana tại Serie A, cho mượn từ San Lorenzo.
Sự nghiệp thi đấu
San Lorenzo
Martegani gia nhập San Lorenzo vào năm 2017 khi thi đấu khi còn là một cầu thủ trẻ cho câu lạc bộ Club Atlético Argentino de Rojas. Anh có màn ra mắt cho San Lorenzo ở Cúp bóng đá Argentina gặp Club Sportivo Estudiantes vào ngày 22 tháng 5 năm 2019. Vào ngày 11 tháng 10 năm 2021, Martegani ghi bàn thắng đầu tiên ở giải đấu bằng chân trái trong chiến thắng 2-1 trước Club Atlético Colón.
Martegiani đã chơi 18 trận và ghi 3 bàn trong mùa giải 2022 khi anh bị huấn luyện viên Rubén Darío Insúa loại khỏi trận đấu gặp Tigre vào tháng 6 năm 2022 sau một lời đề nghị chuyển nhượng được cho là trong khu vực trị giá 4 triệu đô la từ Flamengo. San Lorenzo cũng cho biết một lời đề nghị trị giá 4 triệu euro đến từ Hellas Verona cho sự phục vụ của anh nhưng đã bị từ chối vì không đủ. Tuy nhiên, sau khi không có vụ chuyển nhượng nào được đồng ý, Insua cho biết anh hoan nghênh Martegani trở lại đội của mình trong thời gian còn lại của năm 2022.
Cho mượn tại Salernitana
Vào ngày 25 tháng 8 năm 2023, Martegiani gia nhập câu lạc bộ Salernitana tại Serie A, dưới dạng cho mượn kèm quyền chọn mua.
Phong cách thi đấu
Là một tiền vệ thuận chân trái, Martegani đã được khen ngợi vì khả năng rê bóng, chuyền bóng và khả năng sút xa.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sinh năm 2000
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá Argentina
Cầu thủ bóng đá nam Argentina
Tiền vệ bóng đá
Tiền vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá San Lorenzo de Almagro
Cầu thủ bóng đá U.S. Salernitana 1919
Cầu thủ Giải bóng đá vô địch quốc gia Argentina
Cầu thủ bóng đá Serie A
Cầu thủ bóng đá Argentina ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Argentina ở nước ngoài
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Ý |
Lớp Steregushchiy (), là một lớp tàu hộ tống của Hải quân Nga, ký hiệu Project 20380. Tàu được thiết kế tại Cục thiết kế hàng hải trung ương Almaz, chế tạo dựa trên lớp tàu Project 20381, với sự bổ sung hệ thống phòng không Zaslon-Redut. Lớp tàu 20381 đã được thay đổi, theo đó thiết kế mới lớn hơn và do đó được NATO xếp vào loại tàu hộ tống theo NATO. Tàu lớp Steregushchiy sau đó tiếp tục được nâng cấp và phát triển thành (Project 20385) và Project 20386. Phiên bản xuất khẩu của nó là Project 20382 Tigr.
Lịch sử
Tàu hộ tống Steregushchiy là một lớp tàu đa năng, thiết kế để thay thế cho lớp tàu Grisha. Tàu có thể được triển khai trong các chiến dịch cận duyên hải, tác chiến chống ngầm và chống tàu mặt nước, tác chiến đổ bộ.☃Loạt đầu tiên gồm bốn chiếc được đóng tại ☃ Severnaya Ve,in St. Petersburg. Loạt thứ hai sẽ được đóng tại Komsomolsk-on-Amur. Tàu đầu tiên trong loạt thứ hai được đặt tên là .
Hải quân Nga dự kiến sẽ đóng ít nhất 30 tàu để trang bị cho cả bốn hạm đội.
Theo Jane's Naval Forces News, tàu đầu tiên được đưa vào biên chế ngày 14 tháng Mười một năm 2007.
Loạt đóng bổ sung 8 tàu project 20380 (và thêm 2 tàu thuộc project 20385) được ký kết vào tháng Tám năm 2020. Một số tàu sẽ được đóng tại nhà máy đóng tàu Amur để trang bị cho Hạm đội Thái Bình Dương, trong khi những tàu còn lại sẽ được đóng tại nhà máy đóng tàu Severnaya Verf. Tháng Mười hai năm 2020, có thông tin cho rằng nhà máy đóng tàu Amur sẽ đóng sáu con tàu mới cho Hạm đội Thái Bình Dương gồm 2 chiếc Project 20380 và 4 chiếc Project 20385 với kế hoạch đưa vào hoạt động giữa năm 2024 và 2028. Việc đóng mới được bắt đầu vào năm 2021.
Thiết kế
Lớp tàu hộ tống Steregushchiy có vỏ thép và vật liệu composite. Tàu được trang bị tám tên lửa SS-N-25. Tàu có thiết kế tàng hình, cùng với hệ thống máy tính mới.
Tàu đầu tiên được trang bị hệ thống phòng thủ tầm gần Kashtan CIWS nhưng sau đó đã được thay thế bởi ống phóng tên lửa phòng không tầm trung 9M96E của hệ thống Redut trên các con tàu đóng sau đó. Hệ thống tên lửa SS-N-27 (Kalibr) được trang bị trên phiên bản Project 20385. Vũ khí chống ngầm của tàu là bốn ống phóng Paket-NK.
Phiên bản xuất khẩu Project 20382 Tigr được trang bị tám tên lửa chống tàu siêu âm SS-N-26 (P-800 Oniks) hoặc mười sáu tên lửa chống tàu cận âm SS-N-25 'Switchblade' (Kh-35E Uran). Nó cũng có ống phóng kép mang ngư lôi hạng nặng 533 mm thay cho Paket-NK. Pháo hạm A-190E 100 mm lần đầu tiên được sử dụng trên tàu lớp Talwars được điều khiển bằng hệ thống 5P-10E có khả năng bám theo bốn mục tiêu đồng thời. Phòng không tầm cực gần có hệ thống Kashtan CIWS và tám ống phóng tên lửa SA-N-10 'Grouse' (9K38 Igla) SAM.
Kể từ tàu Aldar Tsydenzhapov, các tàu được đóng mới sẽ được nâng cấp cảm biến bao gồm radar Zaslon, mới được lắp lần đầu trên tàu Project 20385 Gremyashchiy.
Xuất khẩu
Năm 2007 Hải quân Indonesia đã đặt hàng bốn tàu hộ tống Stereguschiy để thay thế cho các tàu hộ tống cũ mà nước này mua của Hà Lan. Tuy nhiên thỏa thuận có vẻ chỉ là tin đồn và năm 2011 Indonesia đã ký hợp đồng mua hai tàu hộ tống lớp Ada từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Hải quân Algeria là khách hàng đầu tiên của tàu Project 20382 Tigr. Tháng Bảy năm 2011, hợp đồng đã được ký kết tại Triển lãm Hải quân lần thứ Năm diễn ra tại St. Petersburg, theo đó Hải quân Algeria đặt mua hai tàu. Giá thành mỗi tàu là từ 120 đến 150 triệu đô la. Một chiếc đã được chuyển giao cho Hải quân nước này vào năm 2014 và một chiếc vào năm 2015.
Xem thêm
List of ships of the Soviet Navy
List of ships of Russia by project number
Gremyashchiy-class corvette
Project 20386 corvette
Tham khảo
Liên kết ngoài
Project 20380 Steregushchy Class Corvettes
Project 20380/20382/20385 Steregushchiy/Tigr class Corvette
Project 20380/20385 - Complete Ship List |
Alcon Entertainment, LLC là một công ty sản xuất phim điện ảnh và truyền hình của Mỹ, được thành lập vào năm 1997 bởi hai nhà sản xuất phim Broderick Johnson và Andrew Kosove. Kể từ khi thành lập, Alcon Entertainment đã phát triển và tài trợ cho các bộ phim do Warner Bros. Pictures phân phối cuối cùng – chủ yếu ở Hoa Kỳ và đôi khi trên phạm vi quốc tế – sau thỏa thuận sản xuất phim điện ảnh kéo dài 10 năm.
Hoạt động
Alcon Entertainment được thành lập vào ngày 23 tháng 1 năm 1997 và bởi hai nhà sản xuất phim Broderick Johnson và Andrew Kosove, đồng CEO của công ty. Công ty có trụ sở tại Đại lộ Santa Monica ở Los Angeles, California. Cả Johnson và Kosove đều trình bày tới Frederick W. Smith – nhà sáng lập kiêm chủ tịch FedEx – một đề xuất rằng một công ty điện ảnh độc lập, dưới sự hỗ trợ của một cá nhân hoặc một công ty có vốn và liên kết với một hãng phim lớn để có thỏa thuận phân phối độc quyền, sẽ thu được lợi nhuận từ tài sản có bản quyền sau một khoảng thời gian nhất định.
Vào ngày 18 tháng 2 năm 1998, Alcon Entertainment bật đèn xanh cho hai dự án, trong đó Warner Bros. nắm vai trò phân phối cho một sự án. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1998, Alcon ký thỏa thuận thứ hai với Warner Bros., trong đó Warner Bros. được phép phân phối bộ phim Lost & Found (1999). Đây cũng là dự án phim điện ảnh kinh phí lớn đầu tiên của công ty. Tháng 3 năm 2000, sau thành công của bộ phim thứ hai My Dog Skip, Alcon đã ký một thỏa thuận phân phối dài hạn với Warner Bros. Thỏa thuận này cho phép Warner Bros. phân phối tối thiểu 10 bộ phim do Alcon sản xuất trên toàn thế giới và cung cấp nguồn kinh phí tài trợ trong năm năm kế tiếp. Thỏa thuận này cũng cho phép Warner đồng tài trợ một số dự án với Alcon. Ngày 28 tháng 9 năm 2003, Alcon Entertainment khởi động khối phim truyền hình của công ty với thỏa thuận đồng sản xuất độc quyền tại hãng Warner Bros. Television.
Alcon và Warner ký một thỏa thuận mới vào tháng 2 năm 2006, tiếp tục mối quan hệ kéo dài 8 năm của cả hai, theo đó Warner Bros. sẽ tiếp tục phân phối các phim điện ảnh do Alcon phát triển và lên kinh phí. Năm 2011, Alcon Entertainment đã mua lại toàn bộ thương hiệu và bản quyền đối với thương hiệu Blade Runner, bao gồm phim điện ảnh, phim truyền hình, trò chơi và các phương tiện nhượng quyền thương mại khác như sách và tiểu thuyết. Ngày 8 tháng 3 năm 2012, Alcon đã ký hợp đồng với Belle Pictures – một công ty sản xuất liên kết do Molly Smith, giám đốc điều hành của 2S Films đứng đầu – để phát triển các dự án điện ảnh. Warner Bros. và tiếp tục Alcon gia hạn thỏa thuận này vào năm 2015 và kết thúc thỏa thuận vào năm 2019.
Danh sách phim
Điện ảnh
Truyền hình
Âm nhạc
Năm 2014, Alcon hợp tác với Sleeping Giant Media để thành lập ASG Music Group, một công ty với đầy đủ dịch vụ âm nhạc và thu âm. Năm 2017, ASG cùng với Epic Records phát hành album nhạc phim Blade Runner 2049: Original Motion Picture Soundtrack, do Michael Hodges, Kayla Morrison và Ashley Culp sản xuất. Album đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng Billboard Soundtrack Sales Charts.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Công ty có trụ sở tại Los Angeles
Công ty sản xuất phim Mỹ |
Subsets and Splits