source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
Hình ảnh cô gái tội nghiệp ngồi trên chiếc xe lăn cố chạy thoát sự truy đuổi của một hồn ma giận dữ trong trailer Jessabelle - Tế xác khiến cho những khán giả yêu thích dòng phim kinh dị cũng phải thót tim sợ hãi. Xoay quanh số phận bất hạnh của cô gái trẻ Jessabelle là biết bao điều bí ẩn mà chỉ quá khứ mới cho cô được câu trả lời chính xác. Kể từ khi trở về ngôi nhà ở Louisiana dưỡng thương và tình cờ xem được cuốn băng do người mẹ quá cố để lại, Jessabelle (Sarah Snook) đã có linh cảm không lành về những chuyện xảy ra xung quanh. Nỗi sợ hãi càng trở nên lớn hơn khi cô phát hiện ra một nấm mộ ở bờ sông gần nhà, bên trên khắc tên và ngày sinh của chính cô. Với sự giúp đỡ của người bạn thời thơ ấu Preston (Mark Webber), nấm mộ được đào lên và lộ ra một chiếc hộp gỗ, bên trong còn nguyên bộ hài cốt bị ngâm dưới nước hồ đen đúa. Những gì các nhân viên giám định nói với Jessabelle sau đó càng khiến cô tò mò về bí mật trong gia đình mình. Liệu trong quá khứ cô có còn người chị em nào khác?. Thắc mắc của Jessabelle những tưởng sẽ được giải đáp khi cô tìm gặp người nấu bếp cũ của gia đình. Nhưng không, cuộc gặp gỡ kỳ lạ ấy chỉ khiến Jessabelle thêm sợ hãi, vì dường như số phận đã buộc cô phải trả giá cho sự phản bội từ quá khứ - một điều cô không hề hay biết. Bài hát cổ của Haiti xuất hiện trong trích đoạn cũng là chi tiết hé lộ phần nào màu sắc của những bí thuật cổ do người châu Phi đem tới Hoa Kỳ - một đề tài được khai thác trong phim.
Tế xác (phim)
Tế xác (tựa gốc tiếng Anh: Jessabelle) là phim điện ảnh kinh dị siêu nhiên của Mỹ năm 2014 do Kevin Greutert đạo diễn và Ben Garant viết kịch bản. Phim có sự tham gia của Sarah Snook, Mark Webber, Joelle Carter, David Andrews, Amber Stevens và Ana de la Reguera. Phim dự kiến được Lionsgate phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 7 tháng 11 năm 2014 và khởi chiếu tại Việt Nam vào ngày 14 tháng 11 năm 2014. Jessie Laurent mang thai đang chuyển nhà với Mark, hôn phu của cô, thì xe của họ bị một xe tải tông, vụ tai nạn đã giết chết Mark và làm Jessie sẩy thai. Hai tháng sau, Jessie tạm thời ngồi xe lăn và chuyển về sống cùng Leon Laurent - bố cô - ở St. Cô ở trong căn phòng cũ của mẹ cô. Kate Laurent, mẹ cô, đã chết vì u não sau khi sinh ra cô, từ đó Leon gửi cô cho người dì nuôi dưỡng. Một ngày kia, Jessie tìm thấy ba cuốn băng được quay bởi Kate. Trong băng có cảnh Kate chúc mừng sinh nhật lần thứ 18 của Jessie và đưa ra bộ bài Tarot để xem bói, một người bạn ở nhà thờ địa phương đã dạy bà cách xem bói.
Chuông nguyện hồn ai là một trong những cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của nhà văn, nhà báo người Mỹ Ernest Hemingway. Phiên bản gốc của nó bằng tiếng Anh -Cho Chuông nguyện hồn ai- Được xuất bản tại New York vào tháng 1940 năm 1999. Năm 100, tác phẩm được đưa vào danh sách “XNUMX cuốn sách của thế kỷ", do tờ báo Paris tạo ra Le Monde. Câu chuyện diễn ra vào năm thứ hai của Nội chiến Tây Ban Nha; tại thời điểm đó, nhân vật chính của nó sống một câu chuyện tình yêu giữa cuộc xung đột vũ trang. Giải thưởng Tiểu thuyết về Văn học đã tạo ra cuốn tiểu thuyết này dựa trên những kinh nghiệm nghề nghiệp của ông với tư cách là một phóng viên chiến trường. Ngoài ra, anh còn đưa vào một số chủ đề cá nhân, chẳng hạn như quốc tịch của anh và việc cha anh tự sát. Phiên bản tiếng Tây Ban Nha của cuốn sách được xuất bản năm 1942 tại Buenos Aires (Argentina). 1 Tóm tắt về For Whom the Bell Tolls1.1 Tấn công ban đầu1.2 Bắt đầu công việc1.3 Kế hoạch hợp nhất. 2.4 Sự tò mò2.4.1 Các bài hát để tôn vinh cuốn tiểu thuyết2.4.2 Tên của cuốn tiểu thuyết. Vào sáng sớm ngày 30 tháng 1937 năm XNUMX, quân Cộng hòa thực hiện cuộc tấn công tiền tiêu của cuộc tấn công Segovia. Sau thành công của cuộc tấn công, Tướng Golz giao một nhiệm vụ quan trọng ­tình nguyện viên và chuyên gia chất nổ của Mỹ, Robert Jordan. Anh ấy được thông báo rằng phải cho nổ một cây cầu để tránh một đợt phản công có thể xảy ra của người dân quốc gia. Người mỹ đi đến Sierra de Guadarrama, đặt gần chiến hào của kẻ thù, ở đó anh có sự hướng dẫn của người lính già Anselmo. Robert phải liên lạc với các nhóm lật đổ đang có mặt trong khu vực để giúp anh ta thực hiện nhiệm vụ. Ban đầu gặp Pablo, người lãnh đạo một nhóm du kích, nhưng điều đó, trong trường hợp đầu tiên, anh ta không đồng ý với Jordan. Trong cuộc họp này còn có vợ của Pablo - Pilar -, người sau khi bị đối tác từ chối, đã tự lộ diện, thuyết phục cả nhóm và trở thành thủ lĩnh mới. Đang ở đó, Jordan gặp Maria, một phụ nữ trẻ xinh đẹp, người đã thu hút anh ngay từ cái nhìn đầu tiên. Trong khi họ lên kế hoạch cho cuộc tấn công, tình yêu nảy sinh giữa hai người họ, đến nỗi Robert mơ về một tương lai với người phụ nữ xinh đẹp. Với ý định củng cố chiến lược, Jordan liên lạc với các đội du kích khác do El Sordo chỉ huy, những người cũng đã đồng ý cộng tác. Từ khoảnh khắc đó, Robert bắt đầu hoảng sợ, khi mọi thứ đều hướng đến một nhiệm vụ tự sát. Vì vậy, nhóm những người yêu nước này thực hiện mục tiêu của mình với một mục tiêu chung: bảo vệ nền Cộng hòa khỏi bọn phát xít, và làm mọi thứ không màng đến cái chết trong chiến đấu. Bởi ai dobTôi rung chuông là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh bao gồm 494 trang được phân bổ trong suốt 43 chương. Hemingway đã sử dụng một người kể chuyện thứ ba toàn trí, người kể lại cốt truyện thông qua suy nghĩ và miêu tả của nhân vật chính. Ông là một giáo viên người Mỹ, một năm trước, ông đã tham gia cuộc đấu tranh của Đảng Cộng hòa trong Nội chiến. Anh ta đã được chuyên môn hóa như một máy nổ và do đó phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng trong cuộc xung đột. Khi đang làm việc, anh phải lòng María, người đã khiến anh thay đổi quan điểm về cuộc sống. Tuy nhiên, tất cả những cảm giác đó đều bị lấn át bởi bầu không khí chết chóc bao trùm câu chuyện. Cô ấy là một đứa trẻ mồ côi 19 tuổi được nhóm của Pablo cứu, đó là lý do tại sao cô ấy là người bảo vệ của Pilar. Cô phải chịu sự ngược đãi của bọn phát xít, những kẻ đã cạo trọc đầu và để lại dấu vết của chúng. María đem lòng yêu Robert, cả hai cùng sống những tháng ngày đầy đam mê, với nhiều dự định cùng nhau nhưng tương lai đó lại chùn bước vì nhiệm vụ được giao cho cô giáo người Mỹ. Ông ấy là một người đàn ông 68 tuổi, người bạn đồng hành trung thành của Jordan, trung thành với lý tưởng của anh và đồng bào. Đó là một nhân vật quan trọng trong lịch sử, vì nhờ sự giúp đỡ của anh ấy, nhân vật chính đã liên lạc được với Pablo. Anh là thủ lĩnh của một nhóm du kích. Trong một thời gian dài, ông là một chiến lược gia xuất sắc, nhưng ông đang trải qua một cuộc khủng hoảng dẫn đến việc nghiện rượu, nghi ngờ và bội bạc, đó là lý do tại sao ông mất khả năng lãnh đạo mặt trận. Là Vợ của Pablo, một phụ nữ mạnh mẽ, dũng cảm và chiến đấu; rất rõ ràng trong niềm tin của cô ấy. Mặc dù có tính cách khó gần, nhưng anh ấy là một người tốt, truyền cảm hứng tự tin cho người khác. Chính vì lý do đó mà anh ấy không gặp khó khăn gì khi nắm quyền điều hành cả nhóm khi đối mặt với khó khăn của Pablo. Sau tác động của cuốn sách, vào năm 1943, bộ phim cùng tên với cuốn tiểu thuyết được phát hành, do Paramount Pictures sản xuất và Sam Wood đạo diễn. Các nhân vật chính của phim là: Gary Cooper - người đóng vai Robert Jordan - và Ingrid Bergman - người đóng vai Maria. Buổi quay là một thành công vang dội của bộ phim và nhận được chín đề cử Oscar. Ba ban nhạc quan trọng đã thực hiện các sáng tác âm nhạc để vinh danh tác phẩm. Năm 1993, nhóm Bee Gees của Anh đã phát hành bài hát "For Whom the Bell Tolls" trong album của họ. Kích thước không phải là tất cả. Hemingway đặt tiêu đề cho cuốn sách được lấy cảm hứng từ một phần trích từ tác phẩm Sự tận tâm (1623) của nhà thơ John Donne. Mảnh vỡ có tiêu đề “Với âm thanh chậm rãi của họ, họ nói: bạn sẽ chết”, một phần của nó khẳng định: “Cái chết của bất kỳ người đàn ông nào làm giảm bớt tôi bởi vì tôi tham gia vào loài người; do đó, không bao giờ gửi để hỏi ai thu phí chuông; họ tăng gấp đôi cho bạn ”. Cha mẹ của ông là Clarence Edmonds Hemingway và Grace Hall Hemingway, những người được kính trọng ở Oak Park. Trong giai đoạn cuối của quá trình học trung học, anh ấy đã học lớp báo chí. Tại đây, ông đã thực hiện một số bài báo và vào năm 1916, ông đã xuất bản một trong những bài báo này trên tờ báo The Trapeze của trường. Năm 1917, ông bắt đầu có kinh nghiệm làm phóng viên tại tờ báo Ngôi sao thành phố Kansas. Sau đó, anh tham dự Thế chiến thứ nhất với tư cách là tài xế xe cứu thương, nhưng sớm trở về nước để làm việc trong các phương tiện truyền thông khác. Năm 1937, ông được cử làm phóng viên chiến trường đến Tây Ban Nha, ở đó ông đã chứng kiến một số cuộc xung đột vũ trang thời bấy giờ và trong nhiều năm, ông đã đi khắp nơi trên thế giới. Hemingway đã kết hợp công việc của mình với tư cách là một nhà báo với niềm đam mê của mình là một nhà văn, cuốn tiểu thuyết đầu tiên của anh ấy: Nước suối, được đưa ra ánh sáng vào năm 1926. Vì vậy, ông đã trình bày một tá tác phẩm, trong đó ấn phẩm cuối cùng của ông trong đời nổi bật: Ông già và biển cả (Năm 1952). Nhờ bài tường thuật này, tác giả đã nhận được giải thưởng Pulitzer năm 1953 và được trao giải Nobel Văn học năm 1954. địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu bằng *. Truyền thông dữ liệu: Dữ liệu sẽ không được thông báo cho các bên thứ ba trừ khi có nghĩa vụ pháp lý. Quyền: Bất cứ lúc nào bạn có thể giới hạn, khôi phục và xóa thông tin của mình.
Chuông nguyện hồn ai
Chuông nguyện hồn ai (tiếng Anh: For whom the bell tolls) là tiểu thuyết được xuất bản năm 1940 của nhà văn Mỹ Ernest Miller Hemingway. Cuốn tiểu thuyết viết về Robert Jordan, một người Mỹ thuộc Lữ đoàn quốc tế, tham gia chống Phát xít trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Tựa Chuông nguyện hồn ai được Hemingway lấy từ tác phẩm Meditation XVII của nhà thơ John Donne. Chuông nguyện hồn ai là một bản hùng ca về cuộc đấu tranh anh dũng của nhân dân Tây Ban Nha chống lại bọn phát xít Franco bảo vệ chế độ cộng hòa, một cuộc chiến kéo dài từ năm 1936 tới năm 1939. Nhân vật chính là Robert Jordan, một chiến sĩ người Mỹ chiến đấu trong Lữ đoàn quốc tế, tham gia cuộc chiến tranh vĩ đại chống lại sự bành trướng toàn cầu của chủ nghĩa phát xít. Trong kế hoạch tấn công nhằm giải phóng một vùng lãnh thổ Tây Ban Nha của Sư đoàn số 14 do tướng Golz người Nga chỉ huy, Robert Jordan được lệnh phối hợp với một nhóm du kích đặt mìn phá hủy một cây cầu để chặn viện binh và đường rút chạy của quân địch.
Đến với Đài Loan, bạn không chỉ có cơ hội thưởng thức nền ẩm thực độc đáo mà còn được tìm hiểu về bộ sưu tập nghệ thuật khổng lồ của Tưởng Giới Thạch trong Bảo tàng Cố Cung Quốc gia. Để thưởng thức nét nghệ thuật độc đáo được gửi gắm qua các hiện vật hoàng gia, bạn hãy theo dõi bài viết dưới đây nhé!. Bảo tàng Cố Cung Quốc gia nằm ở quận Sỹ Lâm, thuộc Đài Bắc, Đài Loan. Nơi đây được xây dựng vào năm 1965, tọa trên một ví trí được coi là “ngọa hổ tàng long”, từng là nơi các hoàng đế lui tới để hưởng thụ cuộc sống ẩn sĩ. Tính tới hiện tại, bảo tàng đã lưu giữ hơn 696.000 hiện vật bao gồm các bức tranh phong cảnh, chân dung và các hiện vật khác được làm từ chất liệu ngọc, ngà, men sứ,… . Bộ sưu tập ấy trải dài suốt 10.000 năm lịch sử từ thời kỳ đồ đá, qua các triều đại chủ yếu là triều đại nhà Tống, triều đại nhà Nguyên, triều đại nhà Minh và cuối cùng là triều đại nhà Thanh. Theo nhiều tư liệu lịch sử về Bảo tàng Cố Cung Quốc gia Đài Loan, vào năm 1938, khi cuộc chiến tranh Quốc - Cộng trở nên tồi tệ, Tưởng Giới Thạch đã ra quyết định di rời các hiện vật lịch sử đến Đài Loan. Lúc đó, bảo tàng cung điện và 5 tổ chức khác đã quyết định gửi một số di vật quý hiếm được đánh giá cao nhất sang Đài Loan. Những cổ vật này được Tưởng Giới Thạch huy động 2 triệu binh lính, thương gia và các tri thức trung thành chở từ Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh sang Đài Loan. Tường Giới Thạch lấy lý do “ tránh khỏi việc vua tôi triều đình nhà Thanh bán cho các nước phương Tây cũng như quân đội phát xít Nhật vơ vét”. Nhiều người đã truyền tai nhau rằng toàn bộ báu vật này được lưu trữ sâu bên trong lòng núi, ở phía sau và có lối thông với bảo tàng. Sau này, cổ vật đã được khai thác và tập hợp lại thành những bộ sưu tập được chia thành 3 nhóm chính từ Nam Kinh đến bến cảng ở Cơ Long rồi tới Đài Loan trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 1948 đến tháng 2 năm 1949. Trong quá trình vận chuyển, quân Giải phóng Trung Quốc đã nắm quyền kiểm soát một số bộ sưu tập còn lại nên không phải toàn bộ đều được lưu giữ ở Bảo tàng Cố Cung Quốc gia. Từ Tử Cấm Thành chuyển đến Đài Loan chỉ có tổng cộng 2.972 thùng hiện vật, chỉ chiếm 22% so với số lượng ban đầu, mặc dù đó là những hiện vật độc đáo và quý giá nhất. Bảo tàng Cố Cung Quốc gia nằm ở tỏng lòng một thung lũng, được bao quanh là các núi đá tự nhiên. Công trình có quảng trường rộng được đặt trên trục chính kéo dài từ cổng chính đến các tòa nhà trung tâm. Điểm nhấn của kiến trúc này chính là cổng chính có 5 cửa bằng đá trắng có mái dốc và được chạm trổ những hoa văn tinh xảo, tiêu biểu cho lối kiến trúc truyền thống của Trung Hoa. Con đường trục chính được lát nền đá xanh chạy dọc hai bên khuôn viên vườn cảnh với các tháp đài dẫn đến lối vào chính. Lối vào được chia thành hai lối với nhiều bậc tam cấp hướng về hai phía khác nhau. Công trình này được xây theo công thức “ 2 tháp 3 lầu” với mái cong nổi bật. Ngoài ra, cách bố trí dựa lưng vào núi kết hợp với hệ thống đèn vàng lung linh mờ ảo như bức tranh chân thực về các kinh đô đế vương trong lịch sử Trung Hoa. Theo lời những người dân địa phương kể lại, toàn bộ dãy núi phía sau bảo tàng đã được khoét rỗng để cất giữ và bảo quản cổ vật. Nó vừa đảm bảo an toàn cho các hiện vật quý giá, vừa tạo nên một không gian trưng bày ấn tượng. Mặc dù bên ngoài được xây dưng theo lối kiến trúc truyền thống nhưng phần nội thất bên trong lại được trưng bày mang hơi hướng hiện đại. Các bộ sưu tập được chọn lọc sẽ được trưng bày theo các nhóm chủ đề dưới hình thức tủ kệ. Cùng với sự nâng cấp và cải tạo của nhà nước, Bảo tàng Cố Cung Quốc gia được bổ sung hệ thống đèn chiếu sáng trưng bày công nghệ cao với khả năng trình chiếu tốt hơn với mong muốn đem lại cho du khách những trải nghiệm chân thực và chi tiết nhất. Vì số cổ vật quá lớn nên người ta sẽ chia ra thành nhiều đợt triển lãm để trưng bày các hiện vật khác nhau. Trung bình mỗi đợt sẽ trưng bày 1500 món và thay đổi 3 tháng một lần theo từng chủ đề và thời gian từ văn hóa Trung Quốc thời kỳ đồ đá từ giai đoạn 4500-2700 TCN đến thế kỷ XX. Người ta ước tính rằng cần 117 năm để chiêm ngưỡng hết được hơn 600.000 cổ vật ở Bảo tàng Cố Cung Quốc gia. Bảo tàng coi trong đến việc giáo dục và tổ chức sự kiện, các buổi thảo luận và chương trình biểu diễn nghệ thuật hàng tuần nhằm đem lại cho du khách một cái nhìn sâu sắc hơn về lịch sử và văn hóa Trung Quốc. Ngoài ra, Bảo tàng Cố Cung Quốc gia còn tổ chức nhiều hoạt động kể chuyện, vườn giáo dục dành cho trẻ em, các họa động gia đình và xây dựng một trung tâm giáo dục điện tử. Mỗi ngày, có khoảng 200.000 lượt khách ghé thăm nơi đây, trong đó, phần lớn là khách du lịch đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam.
Bảo tàng Cố cung Quốc gia
Bảo tàng Cố cung Quốc gia (tiếng Hán phồn thể: 國立故宮博物院; giản thể: 国立故宫博物院; bính âm: Guoli Gùgōng Bówùyuàn) là một bảo tàng ở quận Sỹ Lâm, Đài Bắc, Đài Loan. Đây là nơi trưng bày của hơn 697.000 mảnh ghép Lịch sử Trung Quốc, một trong những bảo tàng lớn nhất trên thế giới về các hiện vật hoàng gia và tác phẩm nghệ thuật. Bộ sưu tập bao gồm hơn 10.000 năm lịch sử Trung Hoa từ thời đồ đá mới đến cuối triều đại nhà Thanh. Hầu hết các bộ sưu tập là những mẫu vật có chất lượng tốt được lưu giữ dưới thời các hoàng đế Trung Hoa. Bảo tàng Cố cung Quốc gia và Bảo tàng Cố cung ở Tử Cấm Thành Bắc Kinh của Trung Quốc, có cùng một nguồn gốc. Chúng được chia làm hai và là kết quả của cuộc Nội chiến Trung Quốc phân chia Trung Quốc thành hai Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc đại lục). Trong tiếng Anh, Bảo tàng tại Đài Bắc được phân biệt với hình thể của nó ở Bắc Kinh bởi bổ sung thêm "Quốc gia".
Cách hiểu dễ nhất cho khái niệm khoa học công nghệ là tổng hợp toàn bộ những hoạt động có tính sáng tạo và hệ thống giúp phát triển được những kiến thức liên quan đến tự nhiên và xã hội của con người, mục đích để sử dụng những kiến thức và hiểu rõ sáng tạo là gì để biết cách sáng tạo để tạo ra những ứng dụng mới. Hiện nay, Việt Nam có quy định dành riêng của Luật Khoa học và Công nghệ. Lĩnh vực khoa học và công nghệ bao gồm những hoạt động gồm: nghiên cứu và phát triển công nghệ, nghiên cứu khoa học, dịch vụ khoa học và công nghệ, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, hoạt động phát huy sáng kiến cùng các hoạt động khác để xây dựng và phát triển khoa học và công nghệ. - Nghiên cứu khoa học được hiểu là một nghiên cứu để phát hiện, tìm hiểu các sự vật, quy luật của tự nhiên, tìm hiểu các hiện tượng, xã hội và tư duy, cuối cùng sáng tạo ra những giải pháp giúp có thể ứng dụng vào đời sống thực tế của con người. - Phát triển công nghệ được hiểu là những hoạt động được nghiên cứu nhằm tạo ra và phát triển hoàn thiện những sản phẩm mới và công nghệ mới. Phát triển công nghệ trải qua 2 quá trình là triển khai thực nghiệm, sau đó là sản xuất thử nghiệm để kiểm tra những tính năng của công nghệ đó. - Tiếp đến phần triển khai thực nghiệm, đây là hoạt động sử dụng những nghiên cứu khoa học có khả năng để làm công tác thực nghiệm nhằm tạo ra được sản phẩm mới và công nghệ mới. - Tiếp theo sau phát triển thực nghiệm là đến sản xuất thực nghiệm, đây là hoạt động sử dụng kết quả từ khâu triển khai thực nghiệm để bắt đầu tiến hành những mẫu sản phẩm đó với số lượng nhỏ để nắm bắt tình hình của sản phẩm đó và hoàn thiện nó trước khi đưa và đời sống và sản xuất. - Cuối cùng là những dịch vụ về khoa học và công nghệ, đây là khâu cuối cùng trong nghiên cứu khoa học và công nghệ, đây là hoạt động giúp phát triển và phục vụ việc nghiên cứu như các dịch vụ thông tin, các hoạt động liên quan đến sở hữu trí tuệ, tư vấn, đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao công nghệ, ứng dụng trí thức khoa học công nghệ và những kiến thức kinh nghiệm thực tiễn. Phần 1 đã giải thích khái quát để bạn hiểu rõ hơn về khái niệm khoa học công nghệ là gì? Phần này chúng tôi sẽ giải thích cho bạn rõ hơn về những vấn đề phương pháp khoa học phát triển công nghệ. Phương pháp khoa học công nghệ được hiểu là một hệ thống kỹ thuật giúp nghiên cứu các vấn đề hiện tượng xảy ra nhằm phát hiện và thu thập được những kiến thức mới hoặc có thể hoàn thiện các kiến thức đã có sẵn từ trước. Để được coi là khoa học hay nghiên cứu khoa học công nghệ đều cần dựa trên những dữ liệu có thực nghiệm hoặc những vấn đề đo lường được và phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định của ngành. Phương pháp không chỉ là những lý luận đơn giản mà đây còn là những vấn đề mang lại ý nghĩa thực tế to lớn, chỉnh vì những phương pháp đó góp phần quyết định được những thành công của những nghiên cứu khoa học và công nghệ. Phương pháp này là cách thức, công cụ, thủ pháp, giải pháp, bí quyết, con đường, quy trình công nghệ giúp chúng ta phát triển và nghiên cứu thành công công nghệ và khoa học. Bản chất của việc nghiên cứu khoa học phát triển công nghệ là những hiện tượng, sự vật mà chúng ta cảm nhận và thấy được để tìm ra các quy luật của từng hiện tượng sự vật đó. Nhưng những bản chất của sự vật và hiện tượng đó bao giờ cũng nằm trong nhiều tầng để khai thác được bản chất tiềm ẩn trong mỗi sự vật và hiện tượng chúng ta cần có những phương pháp nghiên cứu cụ thể. Bản chất của phương pháp này chính là việc con người cần phải có ý thức sử dụng đối với các quy luật của đối tượng như những công cụ để khám phá những đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu là con đường tốt nhất cho sự sáng tạo về khoa học và công nghệ. - Phương pháp lúc nào cũng là những cách làm việc của chủ thể nhằm nghiên cứu các hiện tượng, đối tượng cụ thể. - Phương pháp được hiểu là cách làm việc của chủ thể, chính vì thế nó gắn liền với chủ thể vì thế phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan nghĩa là gì? Chính là những năng lực nhận thức, thể hiện trong việc ý thức được các quy luật có liên quan và kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể để khám phá chính đối tượng đó. - Phương pháp nghiên cứu khoa học bao giờ cũng xuất phát từ các đặc điểm đặc trưng của đối tượng, phương pháp luôn luôn gắn chặt với đối tượng, chính vì thế phương pháp có mặt khách quan. Những quy định về chọn cách này hay cách khác trong hoạt động của chủ thể được gọi là mặt khách quan. - Có tính mục đích vì những việc làm trên đều do con người chủ đích hướng đến một mục đích nghiên cứu của các đề tài nhằm để tìm ra những phương pháp, giải pháp nghiên cứu mới tạo ra những ứng dụng khoa học mới để phục vụ nhu cầu của con người. - Những phương pháp nghiên cứu này đều gắn chặt với những vấn đề và nội dung cần nghiên cứu. Trong mỗi một đề tài nghiên cứu khoa học khác nhau đều có một phương pháp cụ thể và trong các ngành cũng đều có các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của ngành đó. - Để nghiên cứu khoa học tốt thường có một cấu trúc đặc biệt đó là những hệ thống các vấn đề được sắp xếp theo các chương trình được tối ưu nhất. Phát hiện được những logic tối ưu của các hoạt động và sử dụng nó một cách thông minh là vấn đề quyết định đến sự thành công nhanh chóng hay không của một vấn đề nghiên cứu khoa học. - Những nghiên cứu khoa học luôn cần có các phương tiện kỹ thuật hiện đại và có độ chính xác cao và các công cụ hỗ trợ. Phương tiện và phương pháp gắn bó chặt chẽ và hỗ trợ rất tốt cho việc nghiên cứu của bạn đạt tới độ chính xác cao hơn. Phương pháp và phương pháp luận đều là hai khái niệm thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học. Phương pháp luận được hiểu là một hệ thống các nguyên lý khác nhau có quan điểm để làm cơ sở, và có tác dụng xây dựng và chỉ đạo, xác minh phạm vi cùng những khả năng ứng dụng các phương pháp đó vào nghiên cứu. Các phương pháp luận thường có tình lý luận nhiều hơn cho nên thường mang màu sắc về quan điểm triết học nhiều hơn, những nó lại không đồng nhất với triết học nên không thể coi đó là triết học để nhận thức và tiếp cận thế giới. Phương pháp luận được chia thành các phương pháp bộ môn, được sử dụng trong các bộ môn khoa học, phương pháp này phổ biến chung cho các hoạt động, nghiên cứu về khoa học phát triển công nghệ là triết học. Những phương pháp khoa học thường đi liền cùng từng các bộ môn khoa học cùng lĩnh vực (sinh vật học, toán học, toán tin, kinh tế học, toán học…). Do vậy mỗi bộ môn sẽ có một phương pháp luận nghiên cứu khác nhau, để có thể nghiên cứu sâu, kỹ càng và chuyên ngành hơn. Trong cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật trong thời đại hiện nay, khoa học được đóng vai trò chủ chốt và rất quan quan trọng giúp tạo ra những cơ sở vật chất cần thiết cho xã hội, giúp con người trong xã hội hoàn thiện và phát triển hơn hình thành một xã hội mới. Để có được những thành tựu trong khoa học thì cần phải có những phương pháp và quá trình nghiên cứu chuyên sâu để có thể khai thác được hết những vấn đề có trong đối tượng cần nghiên cứu và khai thác. Từ đó mới đưa ra được những phát hiện, sáng tạo mới để tạo ra được những sản phẩm và hoàn thiện những vấn đề cũ một cách hoàn hảo và tối ưu nhất có thể. Tất cả những nghiên cứu về khoa học đều có những mục tiêu nhất định để tìm kiếm được những câu hỏi mà xã hội và con người đặt ra. Nghiên cứu khoa học là một quá trình vận dụng những ý tưởng và nghiên cứu để hoàn thành những sản phẩm mới. Nếu một vấn đề về khoa học và công nghệ không có những phương pháp, nghiên cứu cụ thể theo một hệ thống chuyên môn thì sẽ không thể thu lại được những kết quả tốt. Trong đời sống xã hội, những phương pháp nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đóng vai trò rất quan trọng thiết thực, những thành quả của khoa học công nghệ nghiên cứu ra những sản phẩm mới để phục vụ cuộc sống của con người. Từ đó xã hội cùng cuộc sống của con người được cải thiện và nâng cao hơn rất nhiều. Đối với nền kinh tế của một đất nước là sự cần thiết, những nghiên cứu phát minh của khoa học giúp cho công nghệ cũng như nền kinh tế nước đó phát triển vượt bậc và có thể xiay mình. Hầu như những quốc gia nào có sự phát triển cực tốt của khoa học và công nghệ đều là những cường quốc lớn mạnh trên thế giới. Chính vì thế từ những vấn đề về sự phát triển cuộc sống của con người trong xã hội cũng như nền tảng phát triển của một đất nước khoa học và công nghệ là một vấn đề rất thiết yếu và thiết thực mà chúng ta cần quan tâm và coi trọng. Chúng ta đều đã tìm hiểu về khái niệm khoa học công nghệ là gì, phương pháp nghiên cứu cũng như vai trò của khoa học công nghệ ra sao. Vậy khoa học công nghệ được áp dụng như thế nào trong đời sống thực tế và những lợi ích nó mang lại nói chung trên thế giới cũng như tại Việt Nam. Trong thế giới ngày nay, vai trò của khoa học và công nghệ là không thể thiếu. Chúng ta cần Khoa học và Công nghệ trong mọi lĩnh vực của cuộc sống như muốn điều trị các bệnh như ung thư hoặc thậm chí để đặt một chiếc taxi hoặc vé tàu / chuyến bay. Trong thực tế, không có công nghệ (kết hợp với khoa học), chúng ta không thể tưởng tượng cuộc sống của chúng ta đều trở nên kém cỏi và không khác gì những người tiền sử đến mức như thế nào. Một trong những khía cạnh quan trọng nhất của Khoa học và Công nghệ là nó có giải pháp cho những khó khăn của những vấn đề khó giải quyết, vấn đề có khả năng trở thành nút thắt lớn đối với sự tăng trưởng chung của đất nước. Khoa học công nghệ đều được áp dụng và phát triển nghiên cứu theo những nhu cầu của các ngành dưới đây:. Tất cả những công nghệ này, lần lượt, cung cấp các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của đất nước và tăng sự cạnh tranh lành mạnh trên toàn quốc và cả quốc tế. Trong thế giới ngày nay, thường xuyên hơn, chúng ta có thể đọc hoặc nghe rằng các nước phát triển, các nước đang phát triển, các nước kém phát triển hoặc thậm chí các nước thuộc thế giới thứ ba, tất cả đều chỉ định mức độ phát triển của Khoa học và Công nghệ ở các quốc gia khác, họ có ảnh hưởng đến . Chính phủ cũng đã tạo ra một bộ phận độc chuyên môn để nghiên cứu vào sự phát triển của Khoa học và Công nghệ và một ngân sách riêng cũng được phân bổ cho cùng. Khoa học công nghệ không chỉ được thế giới coi trọng mà chính phủ và nhà Nước ta đã ý thức được vai trò của khoa học và công nghệ từ sớm nên đã đưa ra rất nhiều chính sách và ưu ái dành riêng cho việc nghiên cứu khoa học công nghệ tại nước ta. Đã có rất nhiều những nghiên cứu khoa học áp dụng thành công trong các lĩnh vực như: y tế, giao dục, giao thông… Đều đã thu lại những thành tích kết quả rất lớn. Kết quả được chứng minh rằng cuộc sống người dân được nâng cao và cải thiện hơn, trình độ dân trí ngày càng phát triển lớn mạnh. Đi cùng với đó là nền kinh tế nước nhà đang đi lên rõ rệt. Ngoài ra khoa học công nghệ còn áp dụng trên tất cả các lĩnh vực khác như các ngành nông nghiệp nuôi trồng thủy hải sản bằng công nghệ cao mang lại lợi ích đáng kể cho người nông dân. Nhiều ứng dụng từ công nghệ kỹ thuật giúp giải thoát được sức người lao động, tối ưu được kinh tế cũng như thời gian. Nắm bắt được những yếu tố quan trọng đó của khoa học công nghệ, trong nhiều năm qua không chỉ có mỗi nhà Nước đầu tư phát triển công nghệ mà còn có rất nhiều cáo công ty, doanh nghiệp tư nhân cũng đầu tư phát triển lĩnh vực này. Không chỉ giải quyết được những vấn đề mà xã hội cần mà khoa học công nghệ còn mang lại doanh thu rất cao được ví như là một cây vàng đang chờ mọi người khai thác. Đầu tư vào khoa học công nghệ chưa bao giờ là lỗi thời trong thời buổi công nghệ đang đứng đầu như thế này. Khoa học được xã hội coi trọng vì việc áp dụng kiến thức khoa học giúp thỏa mãn nhiều nhu cầu cơ bản của con người và cải thiện mức sống. Tìm ra phương pháp chữa ung thư và một dạng năng lượng sạch chỉ là hai ví dụ điển hình. Tương tự như vậy, khoa học thường được coi là công khai thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, được coi là một khoản hoàn vốn đầu tư cho tài trợ công. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua, một mục tiêu khác của khoa học đã xuất hiện: tìm cách sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên để đảm bảo tính liên tục của chúng và tính liên tục của chính loài người; một nỗ lực hiện đang được gọi là bền vững. Khoa học công nghệ chính là một đảo vàng để khai thác. Và nó có vai trò quan trọng vô cùng đến cuộc sống cũng như xã hội của con người. Hy vọng những thông tin chia sẻ trên cũng giúp bạn hiểu được về khái niệm khoa học công nghệ là gì cũng như những vấn đề xoay quanh. Bạn hãy chia sẻ những thông tin hữu ích này đến với mọi người.
Khoa học, công nghệ và xã hội
Khoa học và công nghệ luận hay khoa học, công nghệ và xã hội (STS) là lĩnh vực nghiên cứu về tương tác qua lại giữa văn hóa, xã hội, chính trị với nghiên cứu khoa học và đổi mới công nghệ. Như hầu hết các chương trình liên ngành, STS nổi lên từ nơi hợp lưu của một loạt các chuyên ngành và tiểu chuyên ngành, tất cả đều đã phát triển một sự quan tâm—điển hình, trong suốt thập niên 1960 và 1970—trong việc nhìn khoa học và công nghệ như các hoạt động xã hội. Các bộ môn quan trọng của STS đã hình thành một cách độc lập, bắt đầu vào những năm 1960, và phát triển trong sự cô lập với nhau cho đến tận những năm 1980, mặc dù chuyên khảo của Ludwik Fleck "Sự phát sinh và phát triển của dữ kiện khoa học" (1935), đã báo hiệu trước nhiều chủ đề của STS. Trong những năm 1970, Elting E. Morison thành lập chương trình STS tại Viện Công nghệ Massachusetts (MIT), và trở thành một hình mẫu. Tới năm 2011, ước tính có 111 trung tâm nghiên cứu và đào tạo về khoa học và công nghệ luận trên toàn thế giới.
Chúng tôi là một trong những đơn vị chuyên cung cấp các thiết bị truyền hình lớn nhất hiện nay. Nếu bạn đang có nhu cầu mua máy nhắc chữ hãy liên hệ ngay với chúng tôi qua hotline: 0966.889.176 - 0983.789.176 với kỹ thuật chuyên môn cao sẽ tư vấn và hỗ trợ tốt nhất về sản phẩm. Máy nhắc chữ (Teleprompter): được ra đời từ thập niên 1950 là một thiết bị hiển thị nhắc người phát biểu bằng với một văn bản hay diễn văn trình bày dưới dạng văn bản hiển thị điện tử. Sản phẩm được chế tạo và sản xuất bởi TelePrompter Corporation. Mục đích của thiết bị này là giúp biên tập viên truyền hình có thể nói trôi chảy trước ống kính máy quay mà không cần mất thời gian học thuộc lòng, hay cầm văn bản trên tay. Sử dụng máy nhắc chữ sẽ có một màn hình trước mặt, và thường là dưới, ống kính của một máy quay chuyên nghiệp, và dòng chữ trên màn hình được phản ánh vào mắt của người trình bày cách sử dụng một tấm kính trong hoặc một bộ tách chùm tia được chuẩn bị đặc biệt. Ánh sáng từ người thuyết trình đi qua mặt trước của kính vào ống kính, trong khi một màn che bao quanh ống kính và mặt sau của kính để chặn ánh sáng không mong muốn xâm nhập vào ống kính. Máy nhắc chữ giúp các MC truyền hình và các diễn giả có thể dẫn chương trình lưu loát trước ống kính máy quay mà không cần cầm theo kịch bản dưới dạng bản in. Ngày nay, Teleprompter không còn ở dạng cơ khí như trước. Thiết bị này được số hoá nhờ vào những công nghệ điện tử, giúp soi chiếu trực tiếp các dòng chữ lên trên mặt kính. Tốc độ, kích cỡ chữ, màu chữ đều có thể được tuỳ chỉnh thông qua phần mềm. Bàn trộn Blackmagic ATEM Mini Pro - Bộ bàn trộn hình ảnh xuất sắc nhất mọi thời đại tại Digi4U.net
Máy nhắc chữ
Máy nhắc chữ (tiếng Anh: Teleprompter) là một thiết bị hiển thị nhắc nhở người phát biểu bằng với một văn bản hay diễn văn trình bày dưới dạng văn bản hiển thị điện tử. Sử dụng máy nhắc chữ tương tự như sử dụng thẻ nhắc chữ. Màn hình trước mặt, và thường là dưới, ống kính của một máy ảnh video chuyên nghiệp, và dòng chữ trên màn hình được phản ánh vào mắt của người trình bày cách sử dụng một tấm kính trong hoặc một bộ tách chùm tia được chuẩn bị đặc biệt. Ánh sáng từ người thuyết trình đi qua mặt trước của kính vào ống kính, trong khi một màn che bao quanh ống kính và mặt sau của kính để chặn ánh sáng không mong muốn xâm nhập vào ống kính. Máy nhắc chữ giúp các MC truyền hình và các diễn giả có thể dẫn chương trình lưu loát trước ống kính máy quay mà không cần cầm theo kịch bản dưới dạng bản in. Máy nhắc chữ ra đời từ thập niên 1950. Thiết bị này được chế tạo và sản xuất hàng loạt bởi TelePrompter Corporation. Mục đích ban đầu của thiết bị này là giúp những biên tập viên truyền hình có thể nói trôi chảy trước ống kính máy quay mà không cần mất thời gian học thuộc lòng, hay cầm văn bản trên tay.
Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách an sinh xã hội được quan tâm hàng đầu. Người lao động luôn có rất nhiều câu hỏi, thắc mắc xoay quanh quyền lợi, nghĩa vụ tham gia BHXH từ bản thân và doanh nghiệp. Vậy, bảo hiểm xã hội là gì? Tham gia bảo hiểm xã hội được hưởng những quyền lợi gì? Cùng theo dõi qua bài viết sau nhé!. Căn cứ theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định khái niệm BHXH như sau: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.”. Hiểu đơn giản rằng, BHXH chính là phương thức chia sẻ rủi ro và các nguồn quỹ nhằm hỗ trợ và bảo vệ người lao động khi họ không còn khả năng làm việc, gặp tai nạn, bệnh tật hoặc mất việc làm. Chính vì thế, BHXH luôn là một trong những chính sách xã hội quan trọng, được ưu tiên từ Đảng và Nhà nước. BHXH được hình thành dựa trên sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động. 3 yếu tố quan trọng trong BHXH gồm:. Bảo hiểm xã hội có trách nhiệm và nghĩa vụ mang lại sự ổn định và đảm bảo cuộc sống an toàn – an tâm cho người được hưởng. Khi có rủi ro, sự cố, người tham gia bảo hiểm chắc chắn nhận được hỗ trợ từ bảo hiểm để giảm bớt gánh nặng tài chính, duy trì mức sống tối thiểu cho người lao động. Được cấp và quản lý sổ BHXH và nhận lại sổ khi không còn làm việc. Hưởng bảo hiểm y tế trong các trường hợp: đang hưởng lương hưu, nghỉ việc hưởng trợ cấp thai sản, nhận con nuôi, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hay trợ cấp ốm đau. Chủ động đi khám giám định mức suy giảm khả năng lao động và được thanh toán chi phí giám định y khoa nếu đủ điều kiện hưởng BHXH. Được cung cấp thông tin về đóng BHXH theo định kỳ; yêu cầu người sử dụng lao động cung cấp thông tin về việc đóng và quyền được hưởng các chế độ của BHXH. Người tham gia được khiếu nại, tố cáo và khởi kiện BHXH theo quy định pháp luật. Bảo hiểm xã hội bao gồm 2 loại là BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Là loại bảo hiểm người khi tham gia lao động và những người chủ lao động bắt buộc phải đóng. Cả hai bên chủ doanh nghiệp và người lao động cùng chi trả cho loại bảo hiểm này với mức chia người sử dụng lao động phải đóng nhiều hơn. Tại Điều 149 Bộ Luật Lao động quy định người tham gia BHXH bắt buộc sẽ được hưởng trợ cấp ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. thai sản, hưu trí và tử tuất. Là loại bảo hiểm không bắt buộc, mọi người được phép lựa chọn tự mua và chi trả mức phí theo khả năng của mình, tùy vào điều kiện thu nhập của cá nhân và gia đình với những mức đóng khác nhau. Người tham gia BHXH tự nguyện sẽ được hưởng trợ cấp lương hưu và tử tuất. Lưu tên, email và trang web của tôi trong trình duyệt cho lần bình luận sau. Máy chủ đã phản hồi kèm theo (mã ). Vui lòng liên hệ với nhà phát triển của đơn vị xử lý biểu mẫu này để cải thiện thông báo này. Có vẻ như bạn đã gửi thành công. Ngay cả khi máy chủ phản hồi OK, hệ thống có thể vẫn chưa xử lý việc gửi. Vui lòng liên hệ với nhà phát triển của đơn vị xử lý biểu mẫu này để cải thiện thông báo này. eBH là phần mềm khai bảo hiểm xã hội điện tử triển khai chính thức theo mô hình IVAN được Bảo hiểm xã hội Việt Nam ký hợp đồng số 04092015/HĐ-BHXH-TSD ngày 07/09/2015. Phần mềm eBH hỗ trợ doanh nghiệp lập các hồ sơ và thực hiện các giao dịch liên quan đến nghiệp vụ của bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội (viết tắt: BHXH) là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội. Bảo hiểm xã hội là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội ở mỗi nước. Các chế độ của bảo hiểm xã hội đã hình thành khá lâu trước khi xuất hiện thuật ngữ an sinh xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên được thiết lập tại nước Phổ (nay là Cộng hòa Liên bang Đức) dưới thời của Thủ tướng Otto von Bismarck (1850) và sau đó được hoàn thiện (1883-1889) với chế độ bảo hiểm ốm đau; bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp; bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động; người sử dụng lao động và Nhà nước.
Năm 1964 Công ty điện thoại Bell của Mỹ có hai kỹ sư trẻ là Penzias và Wilson trong khi điều chỉnh anten parapôn cỡ lớn đã bất ngờ nhận được những tạp nhiễu vô tuyến. Bất cứ hướng nào trong không gian cũng đều nhận được tạp nhiễu này, độ mạnh của tín hiệu ở các phương đồng đều như nhau, hơn nữa kéo dài mấy tháng không thay đổi. Lẽ nào bản thân thiết bị bị trục trặc? Hay là do chim bồ câu làm tổ trên anten? Họ tháo anten ra và lắp lại, vẫn không tránh được tạp âm không thể nào giải thích được. Bước sóng loại tạp âm này nằm trong dải sóng vi ba tương ứng với nhiệt độ 3,5 K là bức xạ điện từ của vật đen. Sau khi phân tích, họ cho rằng, tạp âm này không phải đến từ vệ tinh nhân tạo, cũng không phải của Mặt Trời, hệ Ngân hà hoặc sóng vô tuyến của một hệ sao ngoài Ngân hà, bởi vì khi quay anten cường độ tạp âm vẫn không thay đổi. Về sau, đi sâu vào đo lường và tính toán, biết được nhiệt độ là 2,7 K, gọi chung là bức xạ phông vi ba vũ trụ 3 K. Phát hiện này khiến nhiều nhà khoa học đi theo thuyết vũ trụ bùng nổ đã nhận được sự cổ vũ to lớn. Họ cho rằng từ 15 - 20 tỉ năm trước, sau khi vũ trụ bùng nổ thì trạng thái nhiệt độ cao ban đầu của vũ trụ giãn nở đến nay đã lạnh đi rất nhiều. Theo tính toán, lượng bức xạ tàn dư sau vụ bùng nổ rất nhỏ, nhiệt độ tương ứng khoảng 6 K. Còn kết quả quan trắc của Penzias và Wilson rất gần với nhiệt độ của dự đoán bằng lý thuyết. Đó là sự ủng hộ vô cùng mạnh mẽ đối với thuyết vũ trụ bùng nổ. Tiếp theo năm 1929 sau khi Hubble khám phá ra tia phổ dịch chuyển về phía đỏ của một thiên thể lại một lần nữa phát hiện ra một hiện tượng thiên văn quan trọng. Sự phát hiện bức xạ phông vi ba vũ trụ đã mở ra một lĩnh vực mới về quan trắc vũ trụ và cũng đưa ra những ràng buộc mới về quan trắc đối với các mô hình vũ trụ. Vì vậy mà ở thập kỷ 60 của thế kỷ XX nó được xem là một trong 4 phát hiện lớn của thiên văn học. Năm 1978 Penzias và Wilson đã giành được Giải thưởng Nôben vật lý. Viện khoa học Thuỵ Điển trong quyết định tặng thưởng đã chỉ rõ: phát hiện này khiến cho ta nhận được những thông tin từ xa xưa, khi vũ trụ mới bắt đầu ra đời.
Bức xạ phông vi sóng vũ trụ
Bức xạ phông vi sóng vũ trụ (hay bức xạ nền vũ trụ, bức xạ tàn dư vũ trụ) là bức xạ điện từ được sinh ra từ thời kỳ sơ khai của vũ trụ (khoảng 380.000 năm sau Vụ Nổ Lớn). Phổ của nó có dạng giống phổ bức xạ của vật đen với đỉnh nằm trong dải bước sóng vi ba (trong khoảng vài milimét đến vài chục xentimét). Hầu hết các nhà vũ trụ học cho rằng bức xạ phông nền vũ trụ cùng với sự dịch chuyển đỏ là những bằng chứng tốt nhất chứng minh cho sự đúng đắn của mô hình Vụ Nổ Lớn của vũ trụ. Lý thuyết vụ nổ lớn tiên đoán về sự tồn tại của bức xạ phông vi sóng vũ trụ được tạo thành từ các quang tử phát ra từ giai đoạn sinh hạt baryon. Vì vũ trụ thời kỳ sơ khai ở trạng thái cân bằng nhiệt động nên nhiệt độ của bức xạ và plasma bằng nhau cho đến khi plasma tái hợp. Trước khi nguyên tử được hình thành thì bức xạ bị hấp thụ và tái phát xạ đều trong một quá trình gọi là tán xạ Compton: vũ trụ vào giai đoạn sơ khai không trong suốt với ánh sáng.
Báo điện tử VTC News mong nhận được sự ủng hộ của quý bạn đọc để có điều kiện nâng cao hơn nữa chất lượng nội dung cũng như hình thức, đáp ứng yêu cầu tiếp nhận thông tin ngày càng cao. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn quý độc giả luôn đồng hành, ủng hộ tờ báo phát triển. Các vụ đụng độ "ăn miếng trả miếng" giữa Israel và nhóm vũ trang Hamas những ngày qua được cho là dữ dội nhất kể từ cuộc chiến năm 2014 ở dải Gaza. Diễn biến này khiến cộng đồng quốc tế lo ngại tình hình có thể vượt tầm kiểm soát. Căng thẳng leo thang ở dải Gaza, Bờ Tây và Đông Jerusalem sau khi Israel áp đặt những hạn chế đối với tín đồ Hồi giáo Palestine trong tháng lễ Ramadan, đồng thời dự định trục xuất một số người Palestine tại Đông Jerusalem. Tình hình trở nên trầm trọng từ hôm 9/5, với việc người dân Palestine đã đụng độ nghiêm trọng với lực lượng an ninh Israel bên ngoài thánh đường Al-Aqsa ở Đông Jerusalem - địa điểm linh thiêng của người Hồi giáo, khiến hơn 200 người bị thương. Tới 14/5, căng thẳng đến đỉnh điểm khi Israel - Palestine liên tục nã pháo và tên lửa lẫn nhau. Israel bị nghi đưa quân vào dải Gaza, đẩy khu vực vào nguy cơ một cuộc chiến tranh toàn diện mà ở đó Hamas sẽ là lực lượng chiến đấu chính từ phía Palestine. Hamas là tổ chức chiến binh Hồi giáo chính thống hoạt động ở Bờ Tây và Dải Gaza. Đây tổ chức vũ trang Hồi giáo lớn nhất của Palestine, được thành lập năm 1987, khi người Palestine bắt đầu nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của Israel ở khu Bờ Tây và dải Gaza. Hoạt động của Hamas được chia thành hai mảng. Một là các chương trình xã hội như xây dựng trường học, bệnh viện và các cơ sở tôn giáo. Hai là các hoạt động quân sự. Nhóm vũ trang này tuyển mộ hàng nghìn chiến binh, kêu gọi người ủng hộ và tình nguyện viên tham gia. Hamas cũng có chi nhánh ở nước ngoài. Mục tiêu trước mắt của Hamas là đuổi hết lực lượng Israel ra khỏi các lãnh thổ bị chiếm đóng, bằng các cuộc tấn công nhắm vào binh lính Israel và những người dân Do thái định cư trên lãnh thổ của người Palestine. Các thành viên của Hamas nhấn mạnh, lực lượng này luôn cố gắng giải phóng các vùng lãnh thổ Palestine đang bị người Israel chiếm đóng. Về lâu dài, Hamas muốn thiết lập một quốc gia Hồi giáo trên khắp lãnh thổ lịch sử của Palestine - phần lớn thuộc lãnh thổ Israel sau khi nhà nước Do thái được thành lập năm 1948. Ngân sách hàng năm của Hamas đều xuất phát từ những người Palestine ở nước ngoài, các nhà tài trợ tư nhân ở Trung Đông và các tổ chức từ thiện Hồi giáo phương Tây. Hơn nữa, nhóm vũ trang này cũng nhận được sự hỗ trợ đáng kể về kinh tế cũng như vũ khí từ phía Iran. Hamas còn nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ dân chúng tại Gaza nhờ vào chương trình phúc lợi xã hội. Đây là tiến trình hòa bình do Mỹ bảo trợ giám sát sự rút lui dần và từng phần sự chiếm đóng của Israel, đổi lại việc người Palestine phải đảm bảo an ninh cho Israel. Hamas đã thể hiện quyền phủ quyết trên thực tế của mình đối với tiến trình hòa bình bằng việc tổ chức các cuộc đánh bom liều chết. Năm 2004, vị lãnh tụ tinh thần của Hamas - Sheikh Ahmed Yassin bị thiệt mạng trong một cuộc không kích của Israel. Từ đó, nhóm vũ trang này bắt đầu thực hiện những vụ đánh bom tự sát vào các mục tiêu dân sự và quân sự của Israel. Nhiều người dân Palestine đã hoan nghênh làn sóng đánh bom tự sát của Hamas, coi những cuộc tấn công “tử vì đạo” như là cách tốt nhất để trả thù cho những đau khổ mất mát của họ và chống lại việc tiếp tục xây dựng những khu định cư của Israel ở khu Bờ Tây. Để có tiếng hơn trong những người Palestine, Hamas xây dựng trường học, bệnh viện, các tổ chức tôn giáo, nhà ăn và trại trẻ mồ côi ở Bờ Tây và Gaza và họ chịu trách nhiệm trong chương trình hỗ trợ hiệu quả xã hội trong các khu vực trong lãnh thổ. Hamas muốn giải phóng các vùng lãnh thổ Palestine đang bị người Israel chiếm đóng. Sau khi tẩy chay bầu cử trong nhiều năm, Hamas lần đầu tiên tham gia bầu cử quốc hội Palestine năm 2006. Dưới tên Đảng Cải cách, Hamas đã dành chiến thắng vang dội, chiếm đa số ghế trong Hội đồng Lập pháp Palestine. Thủ lĩnh Hamas Ismail Haniya được bổ nhiệm làm Thủ tướng Palestine. Nhưng chỉ 1 năm sau đó ông này đã bị sa thải. Israel cáo buộc Hamas đã biến Gaza thành một “căn cứ chiến lược” cho Iran, buộc người Israel phải sống dưới những điều kiện “không thể chịu đựng nổi". Israel cũng tố Hamas đã sử dụng người dân ở Gaza như những "lá chắn sống", sử dụng trường học và bệnh viện trong khu vực làm vỏ bọc để thực hiện lắp đặt trang thiết bị quân sự. Hamas luôn bị xem là một tổ chức khủng bố đối với Mỹ, Israel và Liên minh châu Âu (EU). Sau cuộc xung đột ở dải Gaza năm 2008 và 2009, khiến hơn 1.400 người chết, báo cáo của Liên hợp quốc nêu rõ những cuộc tấn công bằng tên lửa của tổ chức này có thể cấu thành tội ác chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại. Cũng giống như Hamas, Al-Fatah - Tổ chức Cách mạng đầu tiên của nhân dân Palestine được thành lập năm 1958, nhiều lần khơi mào cho những cuộc tấn công chống lại Israel. Tuy nhiên, trong khi Hamas bị xem là một tổ chức khủng bố thì Fatah lại nhận được sự hỗ trợ từ những nước phương Tây, trong đó có Mỹ. Đã có nhiều nỗ lực nhằm thống nhất các đảng phái người Palestine với nhau. Tuy nhiên, Hamas thường xuyên tìm cách lẩn tránh việc ký kết một thỏa thuận ngừng bắn lâu dài chừng nào Israel còn chiếm đóng lãnh thổ của người Palestine và binh lính Israel giết chết người Palestine.
Chiến tranh Israel–Hamas 2008-2009
Chiến tranh Gaza - gọi là Chiến dịch Chì Đúc (tiếng Hebrew: מבצע עופרת יצוקה Mivtza Oferet Yetzuka) bởi Lực lượng Phòng vệ Israel và còn được gọi với cái tên Thảm sát Gaza (tiếng Ả Rập: مجزرة غزة) đối với thế giới Ả Rập, là một xung đột dài ba tuần giữa Israel và Hamas xảy ra tại Dải Gaza và Nam Israel trong mùa đông năm 2008-2009. Chiến dịch này nhằm trả đũa việc phe Hamas (Palestine) tấn công vào lãnh thổ Israel bằng rốcket và những vụ đánh bom liều chết. Tính cho tới thời điểm này, đay là chiến dịch gây tổn thất lớn nhất kể từ khi Hamas giành quyền kiểm soát Gaza kể từ năm 2006. Lệnh ngưng bắn giữa Hamas và Israel kết thúc từ ngày 19 tháng 12 năm 2008. Hamas đổ lỗi cho Israel về việc lệnh ngưng bắn, tuyên bố Israel không tôn trọng các điều khoản của cuộc ngưng bắn, bao gồm việc dỡ bỏ phong tỏa dải Gaza. Israel tuyên bố Hamas đã bắn hàng trăm đạn cối, rốc-két và tên lửa vào Israel ngay cả khi lệnh ngưng bắn còn có hiệu lực, và tăng cường bắn phá kể từ sau lệnh ngưng bắn hết hạn.
Trung tâm Hội nghị Hoàn vũ, địa điểm chính thức diễn ra cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2008. Hoa hậu Hoàn vũ 2008 là cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ 57 được tổ chức tại Nha Trang, Việt Nam. Hoa hậu Hoàn vũ 2007 Riyo Mori đến từ Nhật Bản đã trao lại vương miện cho Dayana Mendoza đến từ Venezuela vào cuối buổi chung kết cuộc thi. Cuộc thi có tổng cộng 80 thí sinh đến từ 80 quốc gia và lãnh thổ tham dự. Đêm chung kết của cuộc thi diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Hoàn Vũ, Nha Trang, Việt Nam và được truyền hình trực tiếp đến 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới qua kênh NBC. Cuộc thi đã được theo dõi trực tiếp bởi 7.500 khán giả và gần một tỷ người xem truyền hình trên toàn thế giới. Đây là chương trình truyền hình lớn đầu tiên của Mỹ ở Việt Nam kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Đây cũng là lần đầu tiên cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ được phát sóng ở độ phân giải cao 1080i. Cuộc thi này cũng được tổ chức lần đầu tiên trong một nhà nước Cộng sản đương đại. Các hoạt động của cuộc thi bắt đầu diễn ra từ tối ngày 20 tháng 6 và kéo dài đến hết ngày 14 tháng 7 đi qua 5 thành phố lớn của Việt Nam: Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Hội An, Hạ Long, Hà Nội. Đêm sơ khảo được tổ chức vào tối ngày 8 tháng 7, và buổi chung kết được tổ chức vào sáng ngày 14 tháng 7 năm 2008 tại Nha Trang. Các quốc gia và lãnh thổ tham gia Hoa hậu Hoàn vũ 2008 và kết quả. – Phó chủ tịch điều hành của Tổ chức Trump, con trai cả của chủ tịch Hoa hậu Hoàn vũ Donald Trump. Để dành cho Hoa hậu Hoàn vũ 2008, một chiếc vương miện mới do PNJ (Công ty vàng bạc đá quý Phú Nhuận) chế tạo đã được ra mắt. Chiếc vương miện này trị giá 120 ngàn USD, nó được làm từ vàng và bạch kim 18K, trên đó đính hơn 1.000 viên đá quý; 555 viên kim cương trắng (30 carat), 375 viên kim cương màu (14 carat), 10 viên pha lê (20 carat) và 19 viên đá quý morganite (60 carat). Theo các nhà thiết kế, thiết kế cong của vương miện tạo ra sự hài hòa tự nhiên và cân bằng – biểu tượng của tinh thần đoàn kết quốc tế. Màu vàng tượng trưng cho nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam. Ba màu chủ đạo trắng, hồng nhạt và hổ phách tượng trưng cho tinh thần, cảm giác và cảm hứng. Hình ảnh trái tim tượng trưng cho hơi thở, nhịp điệu và tầm nhìn hòa quyện với nhau, là những yếu tố nội lực mạnh mẽ tạo nên niềm tin, hy vọng và thuần nhất. Hình ảnh chim lạc là biểu tượng cho tâm hồn và văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, chiếc vương miện của Việt Nam sẽ chỉ dùng trong cuộc thi năm nay và vào năm sau sẽ tiếp tục sử dụng vương miện Mikimoto. Chile – Một tổ chức hợp nhất các giải thưởng cuộc thi sắc đẹp quan trọng (Hoa hậu Hoàn vũ, Hoa hậu Trái Đất, Hoa hậu Thế giới, Hoa hậu Quốc tế) sẽ chịu trách nhiệm tổ chức một cuộc thi Hoa hậu Chile mới diễn ra vào cuối năm. Bắc Mariana – Chủ tịch Laila Y. Boyer đã thông báo rằng cuộc thi của họ đã thay đổi kế hoạch và sẽ lựa chọn người đẹp tham gia Hoa hậu Hoàn vũ 2009. Thụy Điển – Hoa hậu Thụy Điển, Lina Hahne, viết trong blog của cô rằng cô hy vọng được đến Việt Nam nhưng nhà tổ chức đã quyết định không gửi cô đi. Pháp – Hoa hậu vùng Pays de la Loire, Laura Tanguy, sẽ đại diện cho nước Pháp. Cô là Á hậu 2 trong cuộc thi Hoa hậu Pháp, nhưng người chiến thắng, Valérie Bègue, bị mất quyền tham dự các cuộc thi sắc đẹp quốc tế do những bức ảnh thiếu đứng đắn của cô ngay sau khi đoạt giải. Á hậu 1 đến từ New Caledonia quyết định không tham dự để tiếp tục việc học tập. Ai Cập – Yara Naoum được chỉ định làm đại diện cho Ai Cập. Cô là Á hậu 2 tại cuộc thi Hoa hậu Ai Cập 2007. Tây Ban Nha – Claudia Moro được chỉ định làm người đại diện cho quốc gia này thay cho người đạt danh hiệu Hoa hậu. Patricia Yurena Rodriguez, người giành được vương miện Hoa hậu Tây Ban Nha, không được tham dự do cô không đạt được giới hạn tuổi tối thiểu khi cô được Tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ ngỏ lời mời. Sau đó, cô tham gia Hoa hậu Hoàn vũ Tây Ban Nha và đăng quang, đại diện cho quốc gia này tại Hoa hậu Hoàn vũ 2013 và đoạt danh hiệu Á hậu 1. Bahamas – Sacha Scott là con gái của Hoa hậu Bahamas 1982, Christina Thompson-Scott, người đã dự thi Hoa hậu Hoàn vũ 1983. Canada – Samantha Tajik, Hoa hậu Hoàn vũ Canada 2008 hiện là người đang giữ danh hiệu Người mẫu Quốc tế của năm 2007 và là Á hậu 2 trong Hoa hậu Nữ hoàng Sắc đẹp Toàn cầu 2007. Kosovo – Vào tháng 2 năm 2008, chủ tịch tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ Paula Shugart thông báo rằng Hoa hậu Kosovo sẽ dự thi Hoa hậu Hoàn vũ 2008 tại Việt Nam. Montenegro và Serbia đã tuyên bố rằng họ sẽ tẩy chay cuộc thi nếu Kosovo tham dự. Vì Việt Nam và Kosovo không có quan hệ ngoại giao, chính phủ Việt Nam có thể sẽ không cho phép tham dự vì Việt Nam phản đối sự độc lập của Kosovo. Montenegro – Daša Živković của từng đoạt Á hoàng 3 tại cuộc thi Nữ hoàng Du lịch Quốc tế 2008. Hoa hậu Mỹ Crystle Stewart trong phần thi trang phục dạ hội đã sẩy chân trượt ngã khi đi xuống bậc thang. Đây là lần thứ 2 hoa hậu Mỹ bị ngã trong cuộc thi Hoa hậu hoàn vũ. Năm ngoái, trong cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 2007 tổ chức tại México, Hoa hậu Mỹ Rachel Smith cũng gặp tình huống tương tự và cũng ở phần thi trang phục dạ hội. Sau khi Stewart ngã, cô đã đứng dậy và vỗ tay để khán giả cổ vũ cho cô lấy lại tự tin. Stewart đạt vị trí thứ 8 trong top 10, phải dừng phần thi của mình sau vòng trang phục dạ hội. Mục tiêu chính mà Việt Nam muốn hướng đến qua việc đăng cai tổ chức Hoa hậu Hoàn vũ 2008 là quảng bá cho ngành du lịch nước này. Trong suốt thời gian diễn ra cuộc thi, hoa hậu các nước được đi tham quan, giao lưu và mua sắm ở các danh thắng của Việt Nam. Áo dài Việt Nam được lồng ghép thành một giải thưởng chuyên biệt. Các nhà thiết kế sân khấu trình diễn được yêu cầu làm nổi bật những hình ảnh đặc trưng của văn hóa Việt Nam. Trong lễ đăng quang, các video clip giới thiệu về Việt Nam do NBC thực hiện được lồng ghép và phát liên tục trên truyền hình. Mặc dù Việt Nam chính thức phản đối sự kiện Kosovo độc lập nhưng họ vẫn cho phép Hoa hậu – với tư cách là đại diện cho quốc gia – Kosovo tham dự cuộc thi năm nay. Phần lớn báo chí trong nước tôn trọng tên gọi “Hoa hậu Kosovo” , tuy nhiên, trong lễ đăng quang, những người thuyết minh tiếng Việt của VTV3 dùng cụm từ “Hoa hậu Kosovo, Serbia” thay vì “Hoa hậu Kosovo”. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Hoa hậu Hoàn vũ 2008
Hoa hậu Hoàn vũ 2008 là cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ 57 được tổ chức tại Nha Trang, Việt Nam. Hoa hậu Hoàn vũ 2007 Riyo Mori đến từ Nhật Bản đã trao lại vương miện cho Dayana Mendoza đến từ Venezuela vào cuối buổi chung kết cuộc thi. Cuộc thi có tổng cộng 80 thí sinh đến từ 80 quốc gia và lãnh thổ tham dự. Đêm chung kết của cuộc thi diễn ra tại Trung tâm Hội nghị Hoàn Vũ, Nha Trang, Việt Nam và được truyền hình trực tiếp đến 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới qua kênh NBC. Cuộc thi đã được theo dõi trực tiếp bởi 7.500 khán giả và gần hai tỷ người xem truyền hình trên toàn thế giới. Đây là chương trình truyền hình lớn đầu tiên của Mỹ ở Việt Nam kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc. Đây cũng là lần đầu tiên cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ được phát sóng ở độ phân giải cao 1080i. Cuộc thi này cũng được tổ chức lần đầu tiên trong một nhà nước Cộng sản đương đại. Các hoạt động của cuộc thi bắt đầu diễn ra từ tối ngày 20 tháng 6 và kéo dài đến hết ngày 14 tháng 7 đi qua 5 thành phố lớn của Việt Nam: Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Hội An, Hạ Long, Hà Nội.
Trong kỷ nguyên hội nhập kinh tế Thế Giới, ngành thương mại quốc tế là một trong những ngành học và định hướng nghề nghiệp hấp dẫn, đòi hỏi lượng nhân sự cao. Vậy ngành thương mại quốc tế là gì? Học ngành này ở đâu và ra làm gì? Cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây của JobsGo nhé. Thương mại quốc tế là hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia trên Thế giới. Hoạt động giao thương, buôn bán giữa các nước đã có từ rất lâu. Cho đến vài thập kỷ gần đây sự phát triển của nền kinh tế thị trường, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của ngành thương mại quốc tế. Trong kinh doanh thương mại quốc tế, có những hiệp định và nguyên tắc được đặt ra và các quốc gia tham gia ký kết với nhau. Vì sự bùng nổ phát triển mạnh mẽ, ngành thương mại quốc tế trở thành ngành học được rất nhiều người lựa chọn theo học và định hướng làm nghề. Vậy học ngành thương mại quốc tế học trường nào?. Sau khi đã biết được ngành thương mại quốc tế là gì, bạn đã yêu thích ngành học này và muốn tìm được cơ sở đào tạo chất lượng. Hiện nay, có khá nhiều trường đại học, cao đẳng đào tạo ngành thương mại quốc tế. Có thể kể đến các trường đào tạo ngành học này chất lượng tốt như:. Hẳn là các bạn học sinh hay phụ huynh khi quan tâm đến ngành học này đều quan tâm chương trình đào tạo, các kiến thức chuyên môn và kỹ năng của ngành thương mại quốc tế. Chi tiết về những kiến thức và kỹ năng đào tạo ngành thương mại quốc tế là gì?. Biết cách phát hiện và định hướng được cách giải quyết các vấn đề diễn ra trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Thu thập, xử lý thông tin kinh tế để lên được kế hoạch phát triển các vấn đề thương mại quốc tế của doanh nghiệp. Nghiên cứu được thị trường thương mại quốc tế về ngành hàng, tiến hành lập chương trình marketing xuất nhập khẩu hàng hóa cho doanh nghiệp. Kỹ năng kiểm định giả thuyết và phản biện, đàm phán kinh doanh, soạn thảo hợp đồng, các văn bản chứng từ trong xuất nhập khẩu. Có các kỹ năng cần thiết để hạch toán, điều hành các hoạt động giao nhận hàng hóa, kho vận và thanh toán quốc tế, chăm sóc khách hàng và đối tác trong kinh doanh thương mại. Việt Nam đang mở cửa nền kinh tế, đây là cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước hoạt động thương mại với các doanh nghiệp nước ngoài. Điều này tạo ra nhu cầu thị trường lớn với mức lương cao cho ngành thương mại quốc tế. Vậy cơ hội nghề nghiệp cho sinh viên tốt nghiệp ngành thương mại quốc tế là gì?. Chắc hẳn các bạn quan tâm đến ngành này đều đặt ra câu hỏi: “Làm việc ngành thương mại quốc tế lương bao nhiêu?”. Thực tế là mức lương của nhân sự làm việc trong ngành thương mại quốc tế rất đa dạng, tùy thuộc vào vị trí làm việc và trách nhiệm trong công việc. Với các vị trí làm việc là nhân viên và chưa có hoặc kinh nghiệm làm việc thấp thì dao động trong khoảng từ 5 – 9 triệu đồng/tháng. Khi đã có kiến thức chuyên môn và kỹ năng làm việc, bạn sẽ đạt được mức lương từ 12 – 15 triệu đồng/tháng. Đặc biệt, nếu kinh nghiệm dày dặn hoặc làm các chức danh quản lý, mức lương ngành thương mại quốc tế có thể 20 – 40 triệu đồng/tháng. Trên đây, Jobsgo đã chia sẻ với bạn ngành thương mại quốc tế là gì, nên học ở đâu và mức lương ra sao. Hy vọng những thông tin này sẽ hữu ích để bạn thấy rõ được định hướng của ngành học và cơ hội nghề nghiệp tương lai. Số ĐKKD:‎‎ 0108266100, cấp ngày 09/05/2018 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Thành phố Hà Nội cấp.
Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế tức là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa hữu hình và hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương với một tỷ lệ lớn trong GDP. Mặc dù thương mại quốc tế đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người (xem thêm Con đường Tơ lụa và Con đường Hổ phách), tầm quan trọng kinh tế, xã hội và chính trị của nó mới được để ý đến một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây. Thương mại quốc tế phát triển mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa, công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài. Việc tăng cường thương mại quốc tế thường được xem như ý nghĩa cơ bản của "toàn cầu hoá". Thương mại quốc tế với tư cách là một khoa học cũng là một nhánh của kinh tế học. Thương mại quốc tế hợp cùng tài chính quốc tế tạo thành ngành kinh tế học quốc tế.
Sương muối là hiện tượng hơi nước đóng băng thành các hạt nhỏ và trắng như muối ngay trên mặt đất hay bề mặt cây cỏ hoặc các vật thể khác khi không khí trên đó ẩm và lạnh. Nó thường hình thành vào những đêm đông, trời lặng gió, quang mây, khi mà bức xạ là nguyên nhân chủ yếu của quá trình lạnh đi của không khí và các vật thể. Nên nhớ rằng nó không mặn mà chỉ trắng như muối, gần giống với lớp tuyết ở trong khoang lạnh của tủ lạnh. Xem ra "màu trắng" của nó đã được thể hiện trong tên gọi sương muối ở nhiều thứ tiếng trên thế giới, như tiếng Anh "hoar frost", trong đó "hoar" là "trắng như tóc hoa râm"; tiếng Trung là "bạch sương", bạch là trắng, tiếng Pháp là "gelée blanche", "blanche" là trắng. Có nơi cho rằng có 2 loại sương muối: "hoar frost" và "rime", nhưng với "rime", không khí ẩm ban đầu ngưng kết thành các hạt nước, sau đó mới bị lạnh đi để trở thành các hạt băng. Sương muối là hiện tượng nguy hiểm đối với nhiều loại cây trồng và vật nuôi. Ở nước ta sau khi không khí lạnh về, vùng núi Bắc bộ nằm sâu trong không khí lạnh, đêm trời quang mây, lặng gió, không khí ẩm đã lạnh lại bị bức xạ mất nhiệt nên tiếp tục lạnh, nhiệt độ không khí giảm nhanh dẫn đến hình thành sương muối. Sương muối thường hình thành khi nhiệt độ không khí <= 4oC (trong lều khí tượng ở độ cao 2m), khi ấy nhiệt độ bề mặt các vật thể hay cây cỏ ở mặt đất đã có thể xấp xỉ 0oC, nhưng phải đủ ẩm mới hình thành được sương muối. Các vùng đồng bằng nước ta chỉ có sương giá (không phải sương muối), song nó cũng nguy hiểm đối với một số cây trồng nếu thời gian sương giá kéo dài. Được sự quan tâm, chỉ đạo, đầu tư của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng với sự nỗ lực cố gắng của toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của ngàng KTTV trong suốt những năm vừa qua, ngành KTTTV đã có sự phát triển về mọi mặt, phục vụ có hiệu quả công tác phòng, chống thiên tai, phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh của đất nước.
Sương muối
Sương muối còn gọi là sương giá là hiện tượng hơi nước đóng băng thành các hạt nhỏ và trắng như muối ngay trên mặt đất, bề mặt cây cỏ hoặc các vật thể khác khi không khí trên đó ẩm và lạnh. Trong khí hậu ôn đới sương muối thường xuất hiện ở dạng tinh thể màu trắng mỏng gần mặt đất, nhưng ở vùng khí hậu lạnh sương muối có các hình thức đa dạng hơn. Sương muối chủ yếu gồm các tinh thể băng hình thành như là kết quả của quá trình phát triển fractal. Sương muối chỉ có màu trắng giống như tinh thể muối chứ nó thật không có vị mặn. Điều kiện hình thành sương muối khác với sương móc là nhiệt độ phải xuống dưới 0 độ C. Xem ra "màu trắng" của nó đã được thể hiện trong tên gọi sương muối ở nhiều thứ tiếng trên thế giới, như tiếng Anh "hoar frost", trong đó "hoar" là "trắng như tóc hoa râm"; tiếng Trung là "bạch sương", bạch là trắng, tiếng Pháp là "gelée blanche", "blanche" là trắng. Có nơi cho rằng có 2 loại sương muối: "hoar frost" và "rime", nhưng với "rime", không khí ẩm ban đầu ngưng kết thành các hạt nước, sau đó mới bị lạnh đi để trở thành các hạt băng.
Phim mới Harry Potter Và Hoàng Tử Lai Một thời đại tăm tối đã mở ra sau khi tên Chúa tể Hắc ám ngang nhiên tái xuất giang hồ. Thế giới phù thủy và Muggle đan xen vào nhau với những rắc rối đau đầu. Khiến cho nhà lãnh đạo của cả hai xứ phải hợp sức với nhau giải quyết. Severus Snape vốn đang bị coi là gián điệp hai mang. Cụ Dumbledore bất ngờ đến nhà Dursley, dù đã báo trước với Harry, để đón cậu bé đi. Họ ghé sang nhà của một ông giáo về hưu, Horace Slughorn. Để khuyên ông ta quay về trường để dạy lại vì trường đang thiếu giáo viên. Sau đó hai thầy trò đến nhà Weasley. Harry được ở lại đây cho đến hết mùa hè và cùng nhập học với con cái của gia đình này và Hermione. Bill Weasley, con cả trong gia đình, sắp kết hôn với Fleur Delacour. Trên xe lửa đến trường Hogwarts, Harry và Ginny được mời đến ăn trưa cùng những đứa học sinh khác. Họ đa số là gia đình có chức phận hay nổi tiếng. Khi trở về toa tàu của mình, Harry mặc chiếc áo tàng hình và đi theo Zabini để vào toa tàu của Malfoy. Cậu núp trên giá đựng hành lý nghe lén những gì Malfoy nói với lũ bạn. Khi tàu đến nơi, nó bị Malfoy phát hiện, bị dính bùa “Đông cứng”, đạp bể mũi và nằm trơ trọi dưới lớp áo tàng hình không ai cứu giúp. Cô Tonk phát hiện kịp thời đã đưa nó ra. Thầy Snape đón nó từ cổng trường rồi đi vào.
Harry Potter và Hoàng tử lai
Harry Potter và Hoàng tử lai (tiếng Anh: Harry Potter and the Half-Blood Prince) là quyển sách thứ sáu trong bộ sách giả tưởng nổi tiếng Harry Potter của tác giả J.K. Rowling. Cũng như các quyển trước, nó cũng trở thành một trong những best-seller (sách bán chạy nhất) của năm nó xuất bản. Quyển sách này được tung ra bản tiếng Anh cùng lúc trên toàn thế giới vào ngày 16 tháng 7 năm 2005, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, Canada và Úc. Chỉ trong 24 giờ đầu tiên, nó đã bán được hơn 6,9 triệu quyển khắp nước Mỹ. Cuộc phiêu lưu mới này gồm một loạt các khám phá về quá khứ của Chúa tể Voldemort, kèm theo những miêu tả sinh động về tuổi mới lớn với những xúc cảm ngây thơ, vui nhộn và nỗi căm hận đắng cay của Harry đối với "Hoàng tử Lai". Tại Việt Nam, quyển truyện Harry Potter này được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản theo bản dịch của dịch giả Lý Lan vào ngày 24 tháng 9 năm 2005. Cũng như quyển năm, bản dịch này được in trọn bộ thay vì chia ra thành nhiều tập như bản dịch các quyển 1-4.
Hành TrìnhMinh Tiến may mắn là cầu nối gắn kết và lan toả hạnh phúc đến bốn đối tượng chính: Nông hộ, Đối tác, Người tiêu dùng và Cộng đồng thông qua tình yêu cà phê. Minh Tiến may mắn là cầu nối gắn kết và lan toả hạnh phúc đến bốn đối tượng chính: Nông hộ, Đối tác, Người tiêu dùng và Cộng đồng thông qua tình yêu cà phê. Trên thế giới có hơn 120 loài cà phê được canh tác, nhưng chỉ có hai loại thực sự xuất hiện ở tách cà phê của mọi người, đó là: Cà phê Arabica (hay có tên gọi khác là cà phê Chè) và cà phê Robusta (hay gọi khác là cà phê Vối). Sau khi rang lên, hạt cà phê Arabica và Robusta thoạt nhìn trông sẽ rất giống nhau. Nhưng thực tế, chúng có sự khác biệt hoàn toàn về hương vị, điều kiện hình thành và giá cả…. Các yếu tố này một phần chịu sự tác động sẵn có từ nguồn gốc, đặc điểm gen cùng với lịch sử canh tác lâu đời. Mặt khác, ở ngành cà phê, mô hình chất lượng đã vô hình chung nới rộng khoảng cách khác biệt giữa hai loại cà phê Arabica và Robusta hơn rất nhiều. Từ lâu, mặc dù cà phê Robusta đã được coi là anh/em cùng họ của cà phê Arabica, nhưng gần đây, các nghiên cứu mới cho thấy rằng trên thực tế không phải như vậy. Hóa ra cà phê Robusta thực sự là cha/mẹ của giống cà phê Arabica. Bằng cách phân tích trình tự gen của các loài thuộc các giống cà phê, các nhà khoa học phát hiện ra rằng, ở một khu vực nào đó của miền nam Sudan, cà phê canephora đã được lai với một loài cà phê khác là Euginoides để sinh ra cây cà phê Arabica. Tuy nhiên, nghiên cứu về mặt lịch sử, cà phê Arabica là giống khởi đầu của các hoạt động canh tác cà phê trên toàn cầu. Từ những năm thuộc thế kỷ thứ IX, người ta đã phát hiện ra những bụi cây Arabica hoang dã trong các khu rừng mưa ở Ethiopia. Đến khoảng thế kỷ XV – XVI, hạt giống Arabica nhanh chóng đã vượt qua Biển Đỏ tới các nước láng giềng Ả Rập trước khi theo các chuyến vận chuyển đường thủy của người Hà Lan mang đi khắp thế giới chỉ sau vài thế kỷ sau đó. Rất lâu sau khi cây cà phê Arabica được canh tác rộng rãi, thì cà phê Robusta mới được tìm thấy ở những vùng Tây Phi vào những năm 1800. Robusta như một loại cây bản địa ở các khu rừng nhiệt đới xung quanh hồ Victoria ở Uganda. Ngày nay, cả hai loại cà phê này đã xuất hiện ở hầu hết các nơi trên toàn thế giới. Tuy nhiên, phần lớn cà phê Robusta của thế giới được tìm thấy ở những vùng Trung và Tây Phi, một phần tìm thấy ở Đông Nam Á, đặc biệt ở Ấn Độ, Việt Nam và Indonesia. Trong khi, các loại cà phê Arabica chiếm đến khoảng 70% diện tích đất canh tác toàn cầu và phân bố chủ yếu ở các vùng Đông Phi, Trung và Nam Mỹ. Cà phê Arabica là gì? Chúng có tên khoa học là Coffea Arabica. Tại Việt Nam, loại cà phê này có tên khác là cà phê Chè. Đây là loại cà phê có hàm lượng thấp cafein, chỉ từ 1-2%. Tuy là hàm lượng cafein thấp, nhưng vị cà phê Arabica này lại có nhiều hương vị hơn so với cà phê Robusta. Như đã nói ở trên, giống cà phê Arabica được con người phát hiện từ rất sớm ở vùng cao nguyên ở phía Tây Nam của Ethiopia. Chúng đã được những người Pháp, người Hà Lân đưa đi, lan rộng khắp thế giới, trong đó phải kể đến những vùng trồng nhiều nhất là Colombia và Brazil. Ở Việt Nam, cây cà phê Arabica cũng được trồng nhiều. Tuy nhiên, sản lượng và chất lượng lại không được đánh giá quá cao. Ở Việt Nam, người ta còn gọi dòng cà phê này là cà phê Vối. Robusta chứa hàm lượng cafein từ 2 – 4%. Do nó có hàm lượng cafein cao, nên Robusta có vị đằm hơn vị cà phê Arabica. Đây là loại cà phê được bán rất phổ biến ở thị trường nội địa nước ta và rất thích hợp để pha phin. Sau cà phê Arabica thì Robusta chính là giống cà phê đứng thứ hai thế giới về sản lượng. Tuy nó xuất hiện sau Arabica đến 100 năm, nhưng vì nó có khả năng sinh trưởng tốt trong các điều kiện khác nhau, năng suất cũng cao hơn nên giống cà phê này được trồng rất phổ biến và rộng rãi. Người dân Việt Nam rất ưa chuộng loại cà phê Robusta, chúng chiếm đến 90% tổng sản lượng cà phê của cả nước. Trong hai loại cà phê Robusta và Arabica loại nào ngon hơn? Thật khó để đánh giá điều đó. Bởi vì để đánh giá được phụ thuộc vào nhiều yếu tố cảm quan của mỗi người. Về thành phần, cà phê Arabica có chứa ít cafein hơn so với cà phê Robusta. So sánh cà phê Arabica và Robusta thì Robusta mang đến cảm giác mạnh hơn, còn Arabica thì ít độc hơn và nó có chứa nhiều hương thơm hơn. Với những người ưa thích sự nhẹ nhàng và hương thơm mát thì sẽ lựa chọn cà phê Arabica, còn những người thích hương vị mạnh mẽ thì sẽ chọn cà phê Robusta. Vì vậy, độ ngon của mỗi loại cà phê này không thể so sánh được mà còn phụ thuộc vào cảm nhận của mỗi người dùng nó. Robusta có thể xem là loại cà phê được đánh giá kém hơn. Tuy nhiên, nó lại có ưu thế hơn đó là nó rất hợp thời tiết. Thông thường, Robusta thường cho thu hoạch sau hai đến 3 năm, nhưng cà phê Arabica phải mất bốn đến năm năm mới cho thu hoạch. Cây cà phê Arabica là loại cây khó tính và rất nhạy cảm với thời tiết, khí hậu, nên nó đòi hỏi lượng mưa trung bình và nhiệt độ hàng năm phải đạt tiêu chuẩn mới cho thu hoạch sản lượng cao. Trong khi đó, cây Robusta lại có thể thích ứng với nhiều loại điều kiện môi trường đa dạng. Trong khi cà phê Arabica có nhiều mục đích thương mại khác nhau, từ những loại kém chất lượng hơn sử dụng cho cà phê hòa tan đến loại cà phê phổ thông và cà phê chất lượng cao trong các cửa hàng hay thậm chí là cà phê đặc sản… Thì ngược lại, cà phê Robusta luôn được coi là thuộc danh mục cấp thấp trên thị trường. Thực tế cho thấy, giá của Robusta chỉ bằng một nửa so với giá của Arabica và nó chủ yếu để sử dụng cho cà phê hòa tan. Đầu tiên, nguồn gen mạnh mẽ hơn của cà phê Robusta làm cho nó ít tốn kém hơn trong quá trình sản xuất. Nó có thể chống chọi với bệnh gỉ sắt trên cây cà phê. Đây là một trong những lý do chính khiến các nước Việt Nam hay Indonesia… từng từ bỏ việc trồng cây cà phê Arabica sau khi bệnh gì sắt hoành hành, để đổi lại trồng một giống cây cho hiệu quả năng suất vượt trội hơn. Thứ hai, các giống cây cà phê thuộc giống Arabica. Thực tế có vô số giống cà phê Arabica được lai tạo, nghiên cứu, được canh tác ở các cấp độ cao hơn, được chế biến ướt, hái bằng tay, chế biến mật ong…. Tất cả đều góp phần làm phát triển tiềm năng hương vị của nó, phức tạp hơn và đầy đủ hơn. Và đương nhiên, các biện pháp canh tác chất lượng cao sẽ rất hiếm khi áp dụng với Robusta bởi sự mạnh mẽ về gen của nó. Và vì vậy mà nó không góp mặt trong định nghĩa Specialty Coffee (cà phê đặc sản). Cuối cùng, cách mà cà phê Arabica và Robusta được giao dịch cũng hoàn toàn không giống nhau. Thường thì một lô hàng Robusta được giao dịch ở thị trường London cho phép 450 lỗi/ 500g mẫu – Con số này có tỷ lệ gấp 10 lần lỗi trên Arabica. Vì vậy “hương vị kém cỏi” của Robusta không hẳn là đến từ bản chất của nó, mà nó bị ảnh hưởng bởi hệ thống phân loại thiếu chặt chẽ này. Ngoài ra, cà phê Robusta cũng không có một giao thức đánh giá chất lượng nào cụ thể như Arabica. Cả hai loại cà phê này chủ yếu đều được tìm thấy xung quanh khu vực đường xích đạo, trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới – nơi mà người ta thường hay gọi là vành đai cà phê. Tuy nhiên, lại có sự phân hóa rõ rệt về môi trường thích ứng giữa hai loại cà phê này. Các lãnh thổ bản địa trồng cà phê Robusta trải dài từ Trung Phi đến khu vực Vịnh Uganda và Guinea. Vì có nguồn gốc ở rừng mưa xích đạo, nên cà phê Robusta có thể phát triển ở các vùng đất thấp từ 250 đến 1500m, với nhiệt độ hàng năm trung bình tối ưu dao động trong khoảng từ 22 đến 26 độ. Khi so sánh với lãnh thổ rộng lớn trồng cây Robusta, cây cà phê Arabica có vẻ bị hạn chế hơn nhiều. Các cây Arabica hoang dã phát triển ở trong các khu rừng mưa nhiệt đới ở khu vực Ethiopia và cao nguyên Boma (phía Nam Sudan), trong độ cao khoảng từ 1200 đến 1950m với nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng từ 18 đến 21 độ. Ngoài ra, do lượng mưa ở từng khu vực cũng có ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và chu kỳ ra hoa của mỗi giống cà phê này. Thường thì, Arabica phát triển ở những khu vực có lượng mưa theo mùa khoảng từ 1100 đến 2000mm/năm. Do nó có bộ rễ sâu cho phép đảm bảo khả năng tồn tại ngay cả khi đất nông, đất khô. Điều kiện sinh trưởng như trên phải được đảm bảo thì sẽ cho phép giống Arabica này ra hoa kết quả sau 4 năm trồng trọt, với chu kỳ ra hoa và thu hoạch trong 9 tháng. Mặc khác, Robusta chỉ mất khoảng 2 năm để cho thu hoạch, tuy nhiên mỗi vụ mùa mất nhiều thời gian hơn, khoảng 10 đến 11 tháng. Chúng được trồng ở những nơi có thời tiết không ổn định và cần có lượng mưa lớn hơn, khoảng từ 1200 đến 2500mm/năm. Robusta được trồng ở những nơi có độ cao từ 250-1500m, cần lượng mưa lớn hơn. Arabica được trồng ở nơi có độ cao 1200-1950m, cần lượng mưa ít hơn. Về mặt sinh học, các bụi cây cà phê Arabica thường thấp hơn so với cây Robusta (Arabica thường cao từ 2,5 đến 4,5m; còn Robusta cao từ 4,5 đến 6,5m). Sự khác biệt về cấu trúc cũng tồn tại giữa hai loại hạt của hai loại cà phê này. Trong khi Arabica thường có hình elip, dài hơn và thuôn hơn thì hạt cà phê Robusta lại trông tròn hơn và nhỏ hơn. Điều này lý giải tại sao mỗi loại cà phê lại yêu cầu có những kỹ thuật rang khác nhau. Về năng suất, mỗi cây Arabica sẽ cho ra khoảng 1 đến 5kg mỗi mùa vụ, trong khi đó, Robusta lại có thể tạo ra gấp đôi con số đó. Điều này khiến chi phí trồng cây cà phê Arabica cao hơn nhiều so với Robusta tính trên cùng một diện tích đất trồng trọt. Tuy nhiên, hiện nay đã có rất nhiều giống Arabica mới, chúng có năng suất cao hơn nhiều. Về mặt di truyền, Arabica có số lượng nhiễm sắc thể nhiều hơn gấp đôi (44) so với cà phê Robusta (mức 22). Điều này có nghĩa là Arabica là cây trồng lưỡng bội (tự thụ phấn), tức là nó sẽ ít có đột biến và ít biến thể hơn trong suốt vòng đời của nó so với Robusta. Robusta lại cao khoảng 4,5 đến 6,5m. Tuy không sum suê nhưng chúng lại cho năng suất cao bởi có rất nhiều cành và đều sai trĩu quả. Dáng cây Robusta cao cũng giúp cho nó lấy được ánh sáng mặt trời dễ dàng và nước và lấy được nước từ tự nhiên nên chúng sinh trưởng tốt hơn. Cà phê Arabica có hạt dạng dài, hình bầu dục, phần khe ở giữa lượn sóng như chữ S chứ không thẳng. Còn hạt của cà phê Robusta có dạng ngắn và nhỏ hơn, trông có vẻ bầu hơn so với Arabica. Phần rãnh ở giữa tương đối thẳng. Ở hạt Arabica, hàm lượng cafein chỉ có 1,5%, trong khi đó, ở hạt Robusta lại chứa rất cao hàm lượng cafein đến 2,5%. Về hàm lượng đường, chất béo: Arabica chứa hơn 60% là chất béo và tỷ lệ này gần như gấp đôi lượng đường có trong Robusta. Đây là yếu tố chính, là tác nhân lớn ảnh hưởng đến sự khác biệt về hương vị cà phê Arabica và Robusta. Hàm lượng cafein trong Arabica thấp hơn nhưng hàm lượng chất béo lại cao hơn gần gấp đôi so với Robusta. Điều này là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến hương vị của hai loại cà phê này. Một phần nữa của cà phê là CGA (axit chlorogen), đây là một chất chống oxy hóa, nó giúp ngăn chặn côn trùng, chống lại các loại bệnh tật gây hại cho cây. Robusta là 7 đến 10% trong khi Arabica chỉ có 5,5 đến 8%. Khi thưởng thức cà phê, nếu bạn là một người đã từng nếm nhiều loại cà phê thì chắc hẳn có thể phân biệt được hai loại cà phê Arabica và Robusta một cách dễ dàng. Cà phê Arabica có vị gì? Loại này khi khi vào trong miệng, bạn sẽ cảm nhận được ngay vị chua đặc trưng, sau đó một vài giây, bạn sẽ có cảm giác có chút đắng nhẹ nhưng không quá gắt.
Cà phê
Cà phê (bắt nguồn từ từ tiếng Pháp: café ) là một loại thức uống được ủ từ hạt cà phê rang, lấy từ quả của cây cà phê. Các giống cây cà phê được bắt nguồn từ vùng nhiệt đới châu Phi và các vùng Madagascar, Comoros, Mauritius và Réunion trên các khu vực thuộc đường xích đạo. Giống cây này được xuất khẩu từ châu Phi tới các nước trên thế giới và hiện nay đã được trồng tại tổng cộng hơn 70 quốc gia, chủ yếu là các khu vực nằm gần đường xích đạo thuộc châu Mỹ, Đông Nam Á, Ấn Độ và châu Phi. Hai giống cà phê được trồng phổ biến nhất là cà phê chè, và cà phê vối. Sau khi chín, quả cà phê sẽ được hái, chế biến theo các cách thức khác nhau, rang, xay và pha với nước. Quy trình chế biến cũng có nhiều dạng như như chế biến khô, chế biến ướt, chế biến mật ong; hạt cà phê khô được rang trong nhiều điều kiện nhiệt độ khác nhau từ rang sáng tới rang tối màu; sau khi rang lại được đem đi xay theo các kích cỡ hạt mịn hay thô, và ủ với nước sôi hoặc nước lạnh, tùy thị hiếu, để tạo ra cà phê dưới dạng thức uống.
Thảm họa Bhopal là một thảm họa công nghiệp xảy ra tại nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu sở hữu và điều hành bởi Union Carbide (UCIL) ở Bhopal, Madhya Pradesh, Ấn Độ ngày 3 tháng 12 năm 1984. Khoản 12 giờ trưa, nhà máy rò rỉ ra khí Methyl isocyanate (MIC) và các khí độc khác, gây ra phơi nhiễm trên 500,000 người. Những đánh giá về số lượng người chết có sự không thống nhất. Đánh giá chính thức ban đầu về số người chết là 2,259 và chính quyền bang MP đã xác nhận tổng số 3737 cái chết liên quan đến vụ rò rỉ khí ga. Các cơ quan chính quyền khác ước tính khoảng 15,000 người chết. Một số tổ chức đưa ra con số khoảng 8000 đến 10,000 người chết trong 72 giờ đầu và 25,000 người chết vì các căn bệnh liên quan đến khí ga rò rỉ. 25 năm sau vụ rò rỉ, 390 tấn các chất hóa học độc hại bị bỏ lại tại nhà máy của UCIL tiếp tục rò rỉ và gây ô nhiễm nguồn nước ngầm của khu vực, ảnh hưởng đến hàng ngàn cư dân Bhopal, những người phụ thuộc vào nguồn nước ngầm, mặc dù có những tranh cãi về việc có hay không những chất hóa học vẫn được lưu giữ tại khu vực này và những mỗi nguy hiểm đến sức khỏe con người. Hiện có một vài phiên tòa dân sự và hình sự liên quan đến thảm họa diễn ra ở toà án Manhattan và tòa án Bhopal chống lại Union Carbide, hiện được sở hữu bởi Dow Chemical Company, cùng với lệnh bắt giữ Warren Anderson, CEO của Union Carbide tại thời điểm xảy ra thảm họa. Đến nay vẫn chưa có ai bị truy tố. Nhà máy UCIL được thành lập năm 1969 gần Bhopal. 50,9% cồ phần được sở hữu bởi tập đoàn Union Carbide (UCC) và 49.1% sở hữu bởi các nhà đầu tư Ân Độ, trong đó có các tổ chức thuộc khu vực tài chính công. Năm 1979 một nhà máy sản xuất Methyl Isoyanate (MIC) được xây dựng ở khu vực này. MIC, một chất trung gian trong quá trình sản xuất Carbaryl, được sử dụng thay cho những chất ít nguy hiểm hơn nhưng cũng đắt đỏ hơn. UCC hiểu tầm quan trọng của MIC và những yêu cầu xử lý MIC. Đêm 2-3 tháng 12 năm 1984, một lượng lớn nước được đưa vào thùng chứa 610, đang chứa 42 tấn Methyl isocyanate. Phản ứng tỏa nhiệt xảy ra làm nhiệt độ bên trong thùng chứa tăng lên vượt 200 °C (392 °F), áp suất tăng lên vượt quá mức mà thùng chứa được thiết kế để có thể chịu được. Nó gây ra sự thoát khẩn cấp để giảm áp suất thùng chứa MIC, thải ra một lượng lớn các khí ga độc vào không khí. Tốc độ phản ứng tăng lên bởi sự xuất hiện của thép trong những đường ống làm bằng thép không rỉ đang bị ăn mòn. Một hỗn hợp các khí ga độc tràn ra thành phố Bhopal, gây ra sư hoảng loạn khi mọi người thức dậy với cảm giác cháy trong phổi. Bởi ảnh hưởng của khí gas, hàng ngàn người chết ngay sau đó và rất nhiều người phải chịu đau đớn trong sự hoảng loạn. Các giả thiết về việc làm thế nào nước có thể vào được thùng chúa cũng rất khác nhau. Tại thời điểm đó, công nhân dang dọn vệ sinh đường ống bằng nước, một vài người cho rằng đó là bởi sự yếu kém về bảo trì và sự rò rỉ ở các van, đó là lý do nước rò rỉ vào thùng chứa 610. Tháng 12 năm 1985, một bài báo của New York Times cho rằng: theo những người quản lý nhà máy UCIL, giả thiết về đường nước chảy vào đã được kiểm tra dưới sự hiện diện của những nhân viên điều tra FBI và đã được chứng minh là vô lý. UCC cũng cho rằng con đường đó là không thể, và đó là một hành động phá hoại của nhưng công nhân "bất bình", họ đã trực tiếp đổ nước vào bình chứa. Dù vậy, nhóm điều tra của công ty không tìm thấy bất cứ bằng chứng cần thiết nào. Những báo cáo năm 1985 đã đưa ra một bức tranh về việc điều gì đã dẫn đến thảm họa và thảm họa diễn ra như thế nào, mặc dù chúng khác nhau ở vài chi tiết. Lưu giữ những chất này trong những thùng chứa lớn thay vì 200 thùng thép nhỏ. Sự không tuân thủ các hệ thống an toàn (tình trạng yếu kém về bảo trì và các quy tắc an toàn). Hệ thống an toàn đã bị tắt để tiết kiệm tiền, bao gồm hệ thống làm lạnh những thùng MIC, thứ duy nhất có thể ngăn chặn thảm họa. Thiết kế nhà máy bị thay đổi bởi các kĩ sư Ấn Độ để tuân thủ những quy định của chính phủ và áp lực kinh tế phải cắt giảm chi phí là lý do chính gây ra vụ rò rỉ. Mọi việc trở nên tồi tệ hơn khi vị trí nhà máy nằm ở một khu vực đông dân cư, những dự báo cho rằng không thể tồn tại một thảm họa như vậy và những thiếu sót trong việc phục hồi kinh tế-xã hội và chăm sóc sức khỏe. Phân tích chỉ ra rằng những bên chịu trách nhiệm cho quy mô của thảm họa là cả hai bên chủ sở hữu: tập đoàn Union Carbide, chính phủ Ấn Độ, và mở rộng ra là cả chính quyền bang Madhya Pradesh. Rất nhiều phán đoán được đưa ra sau thảm họa. Việc đóng cửa nhà máy với những nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm UCC) bởi chính phủ Ấn Độ, sự không thực hiện việc công bố dữ liệu dẫn đến sự nhầm lẫn. Báo cáo CSIR đã được chính thức công bố 15 năm sau thảm họa. Tác giả của những nghiên cứu ICMR về những ảnh hưởng đến sức khỏe đã bị cấm công khai những dữ liệu của họ cho đến tận 1994. UCC hiện vẫn chưa công bố nghiên cứu của họ về ảnh hưởng của khí gas lên sức khỏe con người. Chẳng bao lâu sau thảm họa, UCC đã bị chính phủ cấm thực hiện các điều tra của họ. Những điều tra ban đầu được thực hiện hoàn toàn bởi các cơ quan chính phủ - Hội nghiên cứu công nghiệp và khoa học (CSIR) dưới sự điều hành của tiến sĩ Varadajan và Cục điều tra trung ương (CBI). Những thiếu sót trong thiết kế nhà máy Bhopal có thể tổng kết lại: chọn một phương pháp nguy hiểm trong sản xuất thuốc trừ sâu, lưu giữ một lượng lớn MIC trước khi xử lý; vị trí gần với khu vực đông dân cư; những tính năng an toàn không được đo đạc kiểm nghiệm; sự phụ thuộc vào quy trình quản lý thủ công. Sự thiếu sót trong quản lý của UCIL có thể tổng kết lại: thiếu những người điều hành kinh nghiệm bởi chính sách nhân viên của UCIL; sự rút gọn trong quản lý an toàn bởi sự cắt giảm nhân viên; thiếu sót về vấn đề bảo trì nhà máy; thiếu những kế hoạch đối phó với tình huống khẩn cấp. Union Carbide sản xuất thuốc trừ sâu, Sevin (tên thương mại của Carbaryl) sử dụng MIC như một chất trung gian. Đến 1979, MIC vẫn được nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Những nhà máy khác, chẳng hạn Bayer, sản xuất Carbaryl mà không sử dụng MIC, mặc dù chi phí sản xuất lớn hơn. Quy trình hóa học sử dụng trong nhà máy Bhopal thực hiện phản ứng Methylamine với Phosgenen để tạo ra MIC, chất này sẽ phản ứng với 1-naphothol để tạo ra sản phẩm cuối cùng, Carbaryl. Quy trình này khác với quy trình không sử dụng MIC được áp dụng ở những nhà máy khác, sử dụng cùng nguyên liệu thô và kết hợp chúng theo một quy trình sản xuất khác, ban đầu phosgen phản ứng với naphothol hình thành nên chloroformate ester, chất này sẽ phản ứng với Methyl amine. Trong đầu những năm 1980, nhu cầu về thuốc trừ sâu giảm mặc dùng quá trình sản xuất vẫn tiếp tục, dẫn đến việc phải xây dựng các kho chứa để lưu trữ MIC chưa sử dụng. Nỗ lực trong việc cắt giảm chi phí đã ảnh hưởng đến những công nhân nhà máy và điều kiện làm việc của họ. Kurzman lập luận rằng "cắt giảm. có nghĩa là giảm sự quản lý chất lượng nghiêm nghặt và do đó nới lỏng những quy tắc an toàn. Một đường ống bị rò rỉ? Đừng thay thế nó, công nhân nói họ được yêu cầu như vậy. Những công nhân sản xuất MIC cần được đào tạo thêm? Họ có thể làm việc mà không cần được đào tạo nhiều như vậy. Công nhân bắt buộc phải sử dụng những sách hướng dẫn bằng tiếng Anh, thậm chí khi chỉ có một vài trong số họ hiểu được thứ tiếng này. Năm 1984, chỉ còn 6 trong số 12 người thợ máy ban đầu làm việc với MIC và số lượng những nhân viên giám sát bị cắt xuống còn một nửa. Không có người giám sát duy trì nào được phân công vào ca đêm, việc đọc thông tin chỉ thị được thực hiện 2 giờ một lần. Công nhân than phiền về việc cắt giảm lên công đoàn nhưng đã bị phớt lờ. Một công nhân bị đuổi việc sau 15 ngày đình công. 70% công nhân nhà máy bị phạt vì từ chối thay đổi những quy tắc an toàn thích hợp dưới áp lực ban quản đốc. Thêm vào đó, theo một vài quan sát, như đã được ghi trong Trade Environmental Database (TED) Case Studies, một phần của dự án Mandale của đại học American, đã chỉ ra những vấn đề nghiêm trọng về giao tiếp và những vết rạn lớn về quản lý giữa Union Carbide và nhà máy ở Ấn Độ, tiêu biểu như việc "những công ty mẹ tiếp cận một cách gián tiếp đến những nhà máy ở đặt ở nước ngoài" và "những rào cản giữa các nền văn hóa". Chính sách quản lý nhân viên dẫn đến sự bỏ việc của nhưng nhân viên có kinh nghiệm. Được đưa ra năm 1998, trong những vụ kiện dân sự ở Ấn Độ, rằng, không giống như những nhà máy của Union carbide ở Hoa Kỳ, những nhà máy phụ ở Ấn Độ không được chuẩn bị cho những sự cố. Không có kế hoạch hành động nào được lập ra để đối phó với một thảm họa tầm cỡ như vậy. Nó bao gồm cả việc không thông báo cho nhà chức trách địa phương về số lượng những chất hóa học nguy hiểm được sử dụng và sản xuất ở Bhopal. Tháp loe và máy lọc khí đã ngừng hoạt động 5 tháng trước khi thảm họa xảy ra. Máy lọc khí do vậy đã không xử lý những khí thoát với sodium hydroxide (xút ăn da), giảm nồng độ xuống mức an toàn. Thậm chí nếu như máy lọc khí làm việc, theo những nghiên cứu về hậu quả của thảm họa, áp xuất lớn nhất mà máy có thể xử lý chỉ bằng 1/4 áp xuất trong vụ tai nạn. Cho nên, tháp loe đã được thiết kế không hợp lý và chỉ có thể xử lý 1/4 lượng khí rò rỉ năm 1984. Để giảm chi phí năng lượng, hệ thống làm lạnh, vốn được thiết kế để ngăn sự bay hơi của MIC, đã bị tắt. MIC được giữ ở nhiệt độ 20 độ C (nhiệt độ phòng), thay vì 4.5 độ C như trong tài liệu hướng dẫn. Một phần chất tải lạnh đã được sử dụng cho mục đích khác. Lò hơi, được sử dụng để làm sạch đường ống, đã ngừng hoạt động không rõ nguyên do. Những tấm chắn vốn có thể ngăn nước từ những đường ống đang được làm sạch rò rỉ vào trong thùng chứa MIC qua những van hỏng đã không được lắp đặt. Bình chứa MIC đã bị hỏng khoảng một tuần trước đó. Những bình chứa khác được sử dụng thay thế, thay vì việc sửa bình chứa bị vỡ. Những van làm bằng thép carbon đã được sử dụng, mặc dù chúng bị ăn mòn khi tiếp xúc với axit. Vào đêm xảy ra thảm họa, người ta đã phát hiện một van thép carbon bị rò rỉ, cho phép nước tràn vào bình chứa MIC. Đường ống đã không được sửa chữa bởi nó tốn quá nhiều thời gian và chi phí. UCC thừa nhận trong báo cáo điều tra của chính họ rằng hầu hết các hệ thống an toàn đã không làm việc vào đêm 3 tháng 12 năm 1984. Themistocles DSilva nhận xét trong cuốn sách - The Black Box of Bhopal, rằng, sơ đồ thiết kế nhà máy, tác động bởi những yêu cầu của chính phủ, đã bị "Ấn Độ hóa" bởi các ký sư UCIL để có thể sử dụng tối đa nguyên vật liệu và các sản phẩm nội địa. Những trang thiết bị phức tạp nhưng không phù hợp cũng đã được đưa vào sử dụng. Nó cũng làm người ta nghi ngờ về những cáo buộc thiếu căn cứ trong báo cáo của CSIR. Năm 1976, 2 tổ chức công đoàn đã có những phản ứng về tình trạng ô nhiễm trong nhà máy. Năm 1981, một công nhân đã bị bỏng Phosgene. Trong hoảng loạn, người công nhân đã tháo bỏ mặt nạ và hít vào một lượng lớn khí Phosgene, người này chết 72 giờ sau đó. Tháng 1 năm 1982, trong một vụ rò rỉ phosgene, 24 công nhân bị phơi nhiễm và đã phải nhập viện. Không ai trong số họ được yêu cầu phải mang mặt nạ bảo vệ. Tháng 8 năm 1982, một kỹ sư hóa học bị bỏng 30% cơ thể do tiếp xúc với MIC ở trạng thái lỏng.
Thảm họa Bhopal
Thảm họa Bhopal là một thảm họa công nghiệp xảy ra tại nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu sở hữu và điều hành bởi Union Carbide (UCIL) ở Bhopal, Madhya Pradesh, Ấn Độ ngày 3 tháng 12 năm 1984. Khoảng 12 giờ đêm, nhà máy rò rỉ ra khí Methyl isocyanate (MIC) và các khí độc khác, gây ra phơi nhiễm trên 500,000 người. Những đánh giá về số lượng người chết có sự không thống nhất. Đánh giá chính thức ban đầu về số người chết là 2,259 và chính quyền bang MP đã xác nhận tổng số 3737 cái chết liên quan đến vụ rò rỉ khí ga. Các cơ quan chính quyền khác ước tính khoảng 15,000 người chết. Một số tổ chức đưa ra con số khoảng 8000 đến 10,000 người chết trong 72 giờ đầu và 25,000 người chết vì các căn bệnh liên quan đến khí ga rò rỉ. 25 năm sau vụ rò rỉ, 390 tấn các chất hóa học độc hại bị bỏ lại tại nhà máy của UCIL tiếp tục rò rỉ và gây ô nhiễm nguồn nước ngầm của khu vực, ảnh hưởng đến hàng ngàn cư dân Bhopal, những người phụ thuộc vào nguồn nước ngầm, mặc dù có những tranh cãi về việc có hay không những chất hóa học vẫn được lưu giữ tại khu vực này và những mỗi nguy hiểm đến sức khỏe con người.
Bảo tàng dân tộc học là nơi trưng bày, lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam. Giống như tên gọi, nơi đây sẽ giúp bạn hiểu hơn về phong tục tập quán cũng như thói quen sinh hoạt của từng dân tộc trên dải đất hình chữ S. Đây sẽ là địa chỉ hấp dẫn mà hanoitoplist.com muốn chia sẻ với hi vọng bạn sẽ những trải nghiệm tuyệt vời nhất cho chuyến đi thú vị tại nơi này. Giờ mở cửa: từ 8h30’ – 17h tất cả các ngày. Trừ thứ 2 và Tết Nguyên đán. Miễn phí vé với trẻ em dưới 6 tuổi với người khuyết tật, nhà báo, nhà tài trợ và một số trường hợp khác. Bảo tàng dân tộc học Việt Nam được biết tới là nơi lưu giữ tất cả các giá trị văn hóa, công trình nhà ở, hay phong tục tập quán, những nghi thức truyền thống của các dân tộc Việt Nam. Sự đa dạng và độc đáo trong các khu trưng bày thực sự hấp dẫn bất kì du khách nào ghé thăm. Bảo tàng dân tộc học gồm có 2 khu trưng bày: ngoài trời và trong nhà. Đối với khu trưng bày ngoài trời: là nơi trưng bày các nếp nhà của đồng bào Tây Nguyên. Các dân tộc vùng núi phía Bắc cùng nhiều khu nhà mang đặc trưng của văn hóa Bắc Bộ và nhiều đồng bào dân tộc khác nhau. Khu trưng bày ở trong nhà gồm nhiều tầng khác nhau. Đó là nơi trưng bày từ các trang phục truyền thống, công cụ lao động tới đồ dùng sinh hoạt của đồng bào ở mọi nơi trên dân tộc Việt Nam. Song song đó nếu bạn ghé thăm mô hình các khu nhà được phục dựng bên ngoài. Bạn sẽ thấy được ý nghĩa về nét văn hóa trong sinh hoạt của đồng bào dân tộc. Trong từng ngôi nhà luôn tái hiện rất rõ những nét văn hóa tại đây. Từ cổng vào, giếng nước, bậc cầu thang. Cho tới cách bố trí và sắp xếp các đồ dùng trong nhà. Tất cả điều này sẽ khiến bất kì ai khi đã ghé thăm nơi này sẽ được về với vùng nông thôn bắc bộ Việt Nam một cách đúng nghĩa. Du khách khi tới đây không chỉ được tham quan, vào những ngày thứ 7, chủ nhật. Hàng tuần Bảo tàng Dân tộc học sẽ tổ chức được nhiều chương trình biểu diễn khác nhau. Ví dụ như: múa rối nước, các hoạt động văn nghệ dân gian. Lễ hội dân gian mang đậm nét văn hóa dân tộc Việt Nam và du khách. Ngoài ra du khách khi tham quan có thể dừng chân để mua vài món đồ lưu niệm. Các món đồ rất nhỏ nhắn dễ thương bạn có thể đem về làm quà. Không chỉ đậm nét văn hóa dân tộc Việt Nam, nơi đây du khách còn cảm nhận được sự giao thoa giữa các nét đẹp văn hóa của các nước Đông Nam Á đặc sắc nhất. Điều này sẽ làm cho các mối quan hệ văn hóa Việt Nam với văn hóa các nước Đông Nam Á trở nên tốt đẹp hơn. Từ lâu múa rối nước được xem là một loại hình nghệ thuật độc đáo của dân tộc. Múa rối nước thực sự là một môn nghệ thuật vô cùng hấp dẫn và đặc biệt. Tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam, sẽ có những buổi tổ chức múa rối nước để có thể phục vụ khách tham quan bảo tàng. Những chủ đề múa ở đây khá đặc biệt và hấp dẫn người xem. Tất cả đều liên quan đến các câu chuyện trong đời sống và sinh hoạt của người dân. Hoặc có thể là những câu chuyện dân gian được biến tấu hơn khi được trình diễn qua rối nước. Giá vé là 70k/vé trẻ em và 90k/vé người lớn. Nếu đến bảo tàng vào một số buổi sáng may mắn. Bạn có thể xem được các buổi chiếu miễn phí mà không mất tiền. Dân ca quan họ Bắc Ninh vốn là một loại hình nghệ thuật – âm nhạc được nhiều người thích thú hiện nay. Tại bảo tàng dân tộc học Việt Nam sẽ được tổ chức các buổi hát quan họ giao lưu văn nghệ giữa các liền anh liền chị. Với mục đích để nhiều khách nước ngoài hiểu về loại hình nghệ thuật đặc biệt này của dân tộc mình. Nếu muốn giao lưu, bạn có thể tham gia cùng với đoàn hát. Mục đích để thể hiện tài năng của mình. Đây được xem là một trải nghiệm tuyệt vời dành cho bạn đấy!. Tại bảo tàng dân tộc học sẽ có khá nhiều trò chơi dân gian được trưng bày. Chủ yếu vẫn là ném còn, đánh đu, đi cầu kiều,…sẽ khiến bạn có những trải nghiệm vô cùng tuyệt vời. Trong bảo tàng dân tộc học có khá nhiều các đồ lưu niệm được bày bán tại đây để bạn có thể mua về làm quà. Ví dụ như: món đồ thổ cẩm, móc chìa khóa, tranh ảnh về văn hóa Việt Nam. Có rất nhiều món đồ khác rất phù hợp để bạn mua về làm quà cho bạn bè và người thân. Vào cổng: khi mua vé vào cổng là bạn đã mua vé bao gồm cả vé gửi xe. Chính vì vậy sau khi lấy vé bạn chạy xe thẳng vào cổng. Sau đó tìm chỗ đậu xe theo hướng dẫn của bảo vệ. Gửi đồ: tại bảo tàng dân tộc học không có chỗ gửi đồ cho khách đến tham quan. Do đó bạn nên chú ý đem theo ít đồ dùng cá nhân thôi nhé . Khi tham quan tại khu trưng bày bạn nên chú ý không chạm vào các hiện vật được trưng bày. Tránh làm hư hại đến các hiện vật của bảo tàng. Bạn nên đi du lịch với đoàn khách nào đó hoặc có hướng dẫn viên. Bởi vì sẽ lắng nghe được những điều thú vị và ý nghĩa hơn. Bảo tàng dân tộc Việt Nam học thực sự là điểm tới hấp dẫn bởi những yếu tố văn hóa lịch sử được chứa đựng ở trong này. Hãy ghé thăm và cùng cảm nhận về nơi này nhé. HaNoitoplist.com là website giới thiệu, đánh giá về công ty, dịch vụ, địa điểm vui chơi giải trí uy tín và chất lượng tại Hà Nội (Hoàn Kiếm, Đống Đa, Ba Đình, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai, Thanh Xuân, Long Biên, Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Cầu Giấy, Hà Đông). Chúng tôi luôn nỗ lực từng ngày nhằm mang lại cho khách hàng những giá trị thiết thực nhất. Với cộng đồng đánh giá đông đảo, chúng tôi hi vọng mang đến cho khách hàng những trải nghiệm thú vị, những chỉ dẫn tiết kiệm chi phí cho chuyến đi.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (tiếng Anh: Vietnam Museum of Ethnology) là tổ chức sự nghiệp trực thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, có chức năng nghiên cứu khoa học, sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, phục chế hiện vật và tư liệu về các dân tộc; tổ chức trưng bày,trình diễn và những hình thức hoạt động khác nhằm giới thiệu, phổ biến và giáo dục về các giá trị lịch sử, văn hoá của các dân tộc trong và ngoài nước; cung cấp tư liệu nghiên cứu về các dân tộc cho các ngành; đào tạo cán bộ nghiên cứu, nghiệp vụ, quản lý về nhân học bảo tàng. Bảo tàng tọa lạc tại đường Nguyễn Văn Huyên, phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội, cạnh đường Nguyễn Khánh Toàn và đối diện công viên Nghĩa Đô. Bảo tàng lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật văn hoá của cả 54 dân tộc Việt Nam gồm 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CD-Rom (tính đến năm 2000).
Thông tin là sự thông báo, trao đổi, giải thích về một đối tượng cụ thể nào đó và được thể hiện thông qua các dạng tín hiệu như âm thanh, chữ số, chữ viết… nhằm mang lại một sự hiểu biết nào đó cho đối tượng nhận tin. Nếu Khách hàng chưa nắm được khái niệm này, Luật Hoàng phi mời Khách hàng tham khảo nội dung bài viết sau đây của Tổng đài tư vấn pháp luật 1900.6557. Thông tin là sự thông báo, trao đổi, giải thích về một đối tượng cụ thể nào đó và được thể hiện thông qua các dạng tín hiệu như âm thanh, chữ số, chữ viết… nhằm mang lại một sự hiểu biết nào đó cho đối tượng nhận tin. Ví dụ: Trong mỗi cuộc họp phụ huynh cuối kỳ thì giáo viên chủ nhiệm sẽ ghi các thông tin của học sinh trong sổ liên lạc về điểm thi, điểm tổng kết, xếp loại về tình hình học tập của con mình cho các bậc phụ huynh được biết. Một số khác lại hiểu thông tin là gì theo hướng Thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện, ý tưởng, phán đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người được hình thành trong quá trình giao tiếp hoặc thông qua các phương tiên thông tin đại chúng, từ các ngân hàng dữ liệu, hoặc từ tất cả các hiện tượng quan sát được trong môi trường xung quanh. Ra quyết định là một công việc phức tạp, khó khăn và hết sức quan trọng của các nhà quản trị. Để ra được một quyết định đúng đắn các nhà quản trị cần rất nhiều thông tin. Thông tin là cơ sở đề ra các quyết định quản trị. Tác động quản trị định kỳ kể cả tác động nhất thời, gắn liền với những quyết định quản trị cụ thể. Thông tin ở đây sẽ giúp cho các nhà quản trị giải quyết đúng đắn và có hiệu quả các vấn đề sau:. – Xác định các cơ sở, tiền đề khoa học cần thiết để ra quyết định. Trong các hoạt động sản xuất và kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp việc phòng ngừa rủi ro có một tầm quan trọng đặc biệt. Để phòng ngừa rủi ro có hiệu quả thì thông tin lại có một ý nghĩa hết sức lớn lao trong các lĩnh vực sau:. Thông tin là một loại nguồn lực đặc biệt quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Không những vậy thông tin còn góp vai trò to lớn với mỗi cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp và là cơ sở để ra quyết định của các nhà quản lý. Trong hoạt động của mình thì người quản lí luôn cần thông tin để hoạch định, đưa ra sự thay đổi với tình hình kinh doanh dựa vào những thông tin biến động để có sự điểu chỉnh, thích nghi phù hợp với thực tại hoàn cảnh. Đồng thời qua thông tin nhận được thì nhà quản lý góp phần đẩy nhanh hoạt động điều khiển tất cả các tiến trình trong tổ chức, giúp cho tổ chức tồn tại và phát triển trong môi trường hoạt động của nó. Nhờ có Thông tin mà người quản lý doanh nghiệp, tổ chức được trợ giúp hiệu quả, góp phần nắm rõ, thị hiếu, hiểu rõ thị trường, định hướng cho sản phẩm mới, cải tiến tổ chức và các hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ chức. Nhất là trong tình trạng thời đại bùng nổ công nghệ hiện đại như nhày nay thì dựa trên Các hệ thống thông tin được chọn lọc qua máy tính. Cộng với ưu thế tự động hóa xử lí công việc dựa trên khoa học quản lí, khoa học tổ chức và công nghệ thông tin thì ngày càng mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho tổ chức trong mọi hoạt động. Từ việc đơn giản hóa các thủ tục hành chính, từ các công việc đơn giản lặp lại hàng ngày cho đến công việc phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề. Như vậy có thể nói thông tin còn là phương tiện đặc trưng của hoạt động quản lý, thông tin gắn với hoạt động của mỗi cơ quan, đơn vị với môi trường bên ngoài. Đặc biệt với các môi trường doanh nghiệp, nhờ có thông tin mà các nhà quản lý có thể hiểu rõ nhu cầu của khách hàng, từ đó mới có các chiến lược để kinh doanh, đánh vào nhu cầu của người tiêu dùng đúng, hiệu quả. Thông qua thông tin kết nối gần nhau hơn giữa doanh nghiệp với cơ quan nhà nước, giữa người dân với các thủ tục hành chính rồi kết nối mọi người từ khắp mọi miền. Với mỗi người dân thì thông tin lại đóng vai trò như một người bạn, thông tin vừa mang lại những kiến thức, tri thức hiệu quả. Song cũng có những thông tin phản ánh chưa đúng sự thật nên khi theo dõi, tiếp nhận mọi người phải có chọn lọc, cẩn thận tránh những trường hợp bị xuyên tạc nội dung, lừa đảo từ những đối tượng xấu.
Xã hội thông tin
Xã hội thông tin là một xã hội nơi việc sử dụng, sáng tạo, phân phối, thao túng và tích hợp thông tin là một hoạt động kinh tế, chính trị và văn hóa quan trọng. Động lực chính của nó là công nghệ thông tin và truyền thông, dẫn đến sự tăng trưởng thông tin nhanh chóng và làm thay đổi mọi khía cạnh của tổ chức xã hội, bao gồm giáo dục, kinh tế,, y tế, chính phủ chiến tranh và mức độ dân chủ. Những người có thể tham gia vào hình thức xã hội này đôi khi được gọi là người dùng máy tính hoặc thậm chí là công dân kỹ thuật số, được định nghĩa bởi K. Mossberger là người Những người sử dụng Internet thường xuyên và hiệu quả. Đây là một trong hàng tá thuật ngữ internet đã được xác định để gợi ý rằng con người đang bước vào một giai đoạn mới và khác biệt của xã hội. Một số dấu hiệu của sự thay đổi ổn định này có thể là công nghệ, kinh tế, nghề nghiệp, không gian, văn hóa hoặc sự kết hợp của tất cả những điều này.
Thấu kính là một khái niệm quen thuộc trong lĩnh vực vật lý. Tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ về định nghĩa thấu kính cũng như các loại thấu kính. Mời các bạn tiếp tục tìm hiểu ở phần nội dung sau đây để xem thấu kính là gì, có các loại nào và hệ thống thấu kính của máy ảnh là như thế nào nhé!. Trong quang học, thấu kính là một dụng cụ được sử dụng để hội tụ hoặc phân kỳ chùm ánh sáng nhờ vào hiện tượng khúc xạ. Cấu tạo của thấu kính bao gồm các mảnh thuỷ tinh được chế tạo với hình dạng và chiết xuất phù hợp. Khái niệm này cũng được mở rộng cho các loại bức xạ điện từ khác chẳng hạn như thấu kính cho lò vi sóng được làm bằng chất nến. Các thấu kính làm việc với ánh sáng bằng kỹ thuật truyền thống được gọi là thấu kính quang học. Chúng có nhiều ứng dụng trong đời sống cũng như công việc sản xuất hàng ngày. Ngoài ra, thấu kính còn được ứng dụng trong máy ảnh và kính thực tế ảo. Thấu kính hội tụ: tuỳ theo hình dạng của thấu kính mà chùm tia sáng song song đi qua nó sẽ tụ lại tại 1 tâm nhất định. Thấu kính phân kỳ: loại thấu kính này còn được gọi bằng một cái tên khác là thấu kính rìa dày, chùm tia sáng song song đi qua thấu kính phân kỳ sẽ bị phân tán. Nếu điều kiện chiết xuất của vật liệu kính lớn hơn chiết xuất môi trường xung quanh thì thấu kính sẽ có dạng lõm. Ngược lại, khi chiết xuất của thấu kính nhỏ hơn chiết xuất môi trường thì các thấu kính lồi sẽ là thấu kính phân kỳ, ví dụ như bọt khí trong môi trường nước hoặc các chất trong suốt như thuỷ tinh. Thấu kính lõm: có phần trung tâm mỏng hơn phần rìa, nó làm phân kỳ chùm tia sáng song song đi qua nó. Thấu kính lõm được chia thành: phẳng - lõm hoặc lõm - lõm. Thấu kính mỏng: có khoảng cách giữa 2 đỉnh của 2 chỏm cầu rất nhỏ so với bán kính R1 và R2 của 2 chỏm cầu. Thấu kính mỏng có thể là thấu kính hội tụ hoặc phân kỳ. Đối với loại thấu kính này, các tính toán quang hình có thể được làm xấp xỉ về dạng đơn giản. Thấu kính hấp dẫn: đây là các loại thấu kính tự nhiên có kích thước lớn. Thấu kính hội tụ có màu trong suốt, phần rìa mỏng hơn phần trung tâm, thường được giới hạn bằng 2 mặt cầu. Một trong 2 mặt kính có thể phẳng và mặt còn lại là mặt lồi. Độ dày giữa phần trung tâm và phần rìa của một thấu kính, nếu phần rìa mỏng hơn thì đó là thấu kính hội tụ. Chúng có khả năng phóng to hình ảnh vật thể nên chúng ta có thể đưa kính lại gần các dòng chữ. Nếu dòng chữ nhìn qua thấu kính to hơn so với chữ trên trang sách thì đó là thấu kính hội tụ. Thấu kính hội tụ còn có thể được nhận biết bằng cách dùng kính hứng ánh sáng. Thấu kính hội tụ được ứng dụng rộng rãi trong đời sống và công nghiệp sản xuất. Một trong các ứng dụng nổi bật nhất là mặt kính của kính hiển vi, kính lúp. Đây cũng là một linh kiện không thể thiếu trong máy ảnh. Tương tự như thấu kính hội tụ, thấu kính phân kỳ cũng là một khối chất trong suốt (nhựa, thuỷ tinh,.) được giới hạn bởi 2 mặt lõm hoặc 1 mặt phẳng và 1 mặt lõm. Khi chiếu một chùm tia song song theo phương vuông góc với bề mặt thấu kính thì chúng ta nhận được chùm tia ló phân kỳ. Ống kính là chiếc cửa duy nhất cho phép ánh sáng đi vào cảm biến máy ảnh. Song, ánh sáng khi đi qua ống kính không còn theo hướng như ban đầu. Hệ thống các thấu kính ở bên trong đã hướng chúng theo một phương thức định sẵn với mục đích đưa các tia sáng đến cảm biến máy ảnh một cách tốt nhất. Các thấu kính thường có chất liệu nhựa hoặc thuỷ tinh mỏng, đi với số lượng lớn và phân thành các nhóm khác nhau. Khi đi vào ống kính, ánh sáng sẽ gặp hệ thống các thấu kính được xếp gần nhau. Qua các quá trình hội tụ và phân tán, các tia sáng cuối cùng sẽ được tổng hợp lại và điều chỉnh để hiển thị rõ ràng trên cảm biến máy ảnh. Nếu ống kính chỉ có 1 hoặc 1 vài ống kính hội tụ, các tia đơn sắc trong quang phổ đi vào sẽ tạo ra các góc lệch khác nhau đối với trục của thấu kính, chúng cũng không được hội tụ đồng thời trên bề mặt cảm biến. Ảnh thu được sẽ có độ nét tại phần trung tâm nhưng ở phần rìa sẽ bị mất nét, mờ nhạt. Các nhà sản xuất sau đó đã bổ sung thêm thấu kính phân kỳ vào hệ thống này với sự tính toán chuẩn xác để khắc phục điều đó. Các thấu kính phân kỳ đơn lẻ không tạo thành hình ảnh nhưng khi sử dụng kết hợp với thấu kính hội tụ sẽ tạo ra hệ thống điều chỉnh đúng hướng cho các tia đơn sắc, từ đó các tia sáng đều hội tụ trên bề mặt cảm biến. Bên cạnh đó, hình ảnh k bị nhoè đi, 4 góc ảnh cũng hạn chế sự mờ tối. Sự kết hợp này tạo ra một hình ảnh chất lượng có màu sắc và chi tiết phân bố đồng đều, có độ nét cao nhất trên bề mặt ảnh. Thấu kính thường được làm từ những vật liệu trong suốt, có thể là thủy tinh hoặc nhựa. Thấu kính thủy tinh - thấu kính được làm từ thủy tinh khoáng tự nhiên, theo phân loại chuyên nghiệp - từng là tiêu chuẩn. Chúng vẫn có chỗ đứng trong lĩnh vực đo thị lực ngày nay nhờ khả năng chống xước đặc biệt. Người tiêu dùng cũng sẽ thích một điều là chúng ít tốn kém hơn các loại nhựa tương đương. Trong những trường hợp mắc chứng loạn dưỡng nặng, chúng cũng có thể cung cấp hiệu chỉnh cần thiết với thấu kính tương đối mỏng - một khía cạnh thẩm mỹ không thể xem thường. Chất dẻo - còn được gọi là thủy tinh hữu cơ - ngày nay mắt kính được sử dụng cho tất cả các loại kính và cũng tốt nhất cho thể thao và kính trẻ em. Chúng rất nhẹ và tạo cảm giác thoải mái khi đeo. Chúng cũng có khả năng chống vỡ cao. Về mặt đó, chúng tốt hơn thủy tinh tới 100 lần, tùy thuộc vào loại nhựa được sử dụng. Dùng làm vật kính và thị kính ở kính hiển vi và kính thiên văn. KIT TEST COVID BIOCREDIT Sản phẩm nhập khẩu từ Hàn Quốc đảm bảo chất lượng, được bộ y tế cấp phép. Máy lọc không khí Levoit - Sản phẩm có thương hiệu đến từ Châu Âu và được Amazon khuyên sử dụng dành cho nhu cầu thư giãn và chăm sóc cá nhân. Công nghệ lọc không khí tiên tiến với hai phiên bản giá rẻ phù hợp với nhu cầu nhiều hộ gia đình, máy rất phù hợp với tình trạng không khí bị ô nhiễm bụi bặm như hiện nay. Công ty Cổ Phần Uniduc chuyên cung cấp các loại robot phục vụ, Agv Robot, hệ thống tự động. Với kinh nghiệm nghiên cứu lâu năm và đội ngũ kỹ sư năng động sáng tạo. Hi vọng Uniduc là điếm đến công nghệ là nơi khách hàng luôn gửi trọn niềm tin. Chúng tôi sẽ luôn luôn phấn đấu cung cấp cho bạn giải pháp, máy móc, dịch vụ tốt nhất. Nhận bản tin thường xuyên để cập nhật giá bán và các chương trình khuyến mãi.
Thấu kính
Trong quang học, một thấu kính là một dụng cụ quang học dùng để hội tụ hay phân kỳ chùm ánh sáng, nhờ vào hiện tượng khúc xạ, thường được cấu tạo bởi các mảnh thủy tinh được chế tạo với hình dạng và chiết suất phù hợp. Khái niệm thấu kính cũng được mở rộng cho các bức xạ điện từ khác, ví dụ, thấu kính cho vi sóng được làm bằng chất nến. Trong ngữ cảnh mở rộng, các thấu kính làm việc với ánh sáng và bằng kỹ thuật truyền thống được gọi là thấu kính quang học. Từ thấu kính trong tiếng Anh xuất phát từ tên Latinh là lentil, nghĩa là loài họ Đậu có hoa, vì thấu kính có 2 mặt lồi giống như loại thực vật này.
Chiều ngày 16/7/2021, Đại sứ nước Cộng hoà Chile tại Việt Nam Patricio Becker đã tới thăm và làm việc tại Thư viện Quốc gia Việt Nam. Bà Kiều Thúy Nga, Giám đốc Thư viện tiếp đoàn. Tại buổi tiếp, bà Kiều Thúy Nga, Giám đốc Thư viện Quốc gia Việt Nam bày tỏ vui mừng được tiếp đón Đại sứ Patricio Becker mới nhận nhiệm vụ tại Việt Nam và điểm lại những kết quả hợp tác giữa Thư viện Quốc gia Việt Nam và Đại sứ quán Chile trong những năm gần đây thông qua một loạt các sự kiện văn hoá mà hai bên cùng phối hợp tổ chức. Những hoạt động này đã góp phần vào sự phát triển của mối quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước thời gian qua. Ngày 09/7/2021, Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQG) tổ chức Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm, triển khai nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2021 và Hội nghị sơ kết công tác xây dựng Đảng 6 tháng đầu năm 2021, nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm 6 tháng cuối năm 2021. Trong 06 tháng đầu năm 2021, làn sóng dịch Covid-19 bùng phát trở lại tại Việt Nam đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của TVQG, tuy nhiên, được sự quan tâm, chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ VHTTDL, TVQG đã nỗ lực khắc phục khó khăn và đạt được một số kết quả công tác đáng ghi nhận. Ngày 29/6/2021, Đảng uỷ Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQG) tổ chức Hội nghị nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Hội nghị được tổ chức bằng hình thức trực tuyến với 04 điểm cầu tại trụ sở TVQG. Hội nghị quán triệt 05 chuyên đề, tập trung vào những vấn đề cốt lõi, nhận thức mới, tư duy mới trong các văn kiện Đại hội XIII của Đảng, gồm: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm…. Chương trình đố vui trực tuyến “Ô cửa kiến thức” – một hoạt động mới của thư viện TP. Cần Thơ. Ngày 01/7/2021, Thư viện thành phố Cần Thơ phối hợp với Nhà văn hóa thiếu nhi quận Ninh Kiều tổ chức Chương trình đố vui trực tuyến “Ô cửa kiến thức” số đầu tiên với sự tham gia của hơn 80 em học sinh tiểu học và gần 200 người theo dõi livestream cuộc thi trên Fanpage Thư viện lưu động TP. Cần Thơ và Fanpage Nhà văn hóa thiếu nhi quận Ninh Kiều. Chương trình được thiết kế trên ứng dụng phần mềm Kahoot, người tham gia sẽ trả lời trực tuyến 20 câu hỏi có nội dung xoay quanh các chủ đề như: Cuộc đời và sự nghiệp của Bác Hồ; Lịch sử, văn hóa dân tộc; Truyền thống Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Đội Thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh…. COVID-19 là một thảm kịch của loài người trên phạm vi toàn cầu. Đây cũng là cơ hội để các thư viện công cộng và người làm thư viện thể hiện khả năng của mình. Quy mô của sự gián đoạn lớn đến mức khó có thể nghĩ gì đó xa hơn ưu tiên trước mắt là mở lại các dịch vụ. Nhưng, chúng ta cần phải thực hiện nhiệm vụ này. Cần phải có được một tương lai mới, tốt đẹp hơn cho các thư viện công cộng. Ngày 20/3/2020, Thủ tướng Anh Boris Johnson tuyên bố đóng cửa các quán rượu, quán bar, nhà hàng và các không gian công cộng như một biện pháp bảo vệ chống lại đại dịch đang gia tăng, song các thư viện công cộng lại không nằm trong danh sách này. Đây là một quyết định được cấp cao nhất của Chính…. Chương trình đố vui trực tuyến “Ô cửa kiến thức” – một hoạt động mới của thư viện TP. Cần Thơ. Chào mừng Ngày Sách và Văn hóa đọc Việt Nam 21/4, Ngày Sách và Bản quyền Thế giới 23/4, được sự đồng ý của Lãnh đạo Bộ Văn hoá, Thể. Chào mừng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Kỷ niệm 91 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930-3/2/2021), được sự đồng ý. Sáng ngày 01/9/2020, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Văn hoá, Thể thao và. Nhân kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại (19/5/1890-19/5/2020), Thư viện Quốc gia Việt Nam tổ chức Triển lãm sách kỷ niệm 130 năm. Trong khuôn khổ các hoạt động chào mừng Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 03/02/2020, Thư viện Quốc gia Việt Nam được vinh dự đón tiếp đồng. Từ ngày 25-30/8/2019, tại thành phố Athens, Hy Lạp đã diễn ra Đại hội Thư viện - Thông tin thế giới lần thứ 85 do Liên đoàn quốc tế các. Kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1969 - 2019), được sự đồng ý của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch,. Thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Ngày sách Việt Nam và ý kiến chỉ đạo của Lãnh đạo Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,. Thực hiện kế hoạch tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ năm 2018 của Thư viện Quốc gia Việt Nam đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du. Từ ngày 24-30 tháng 8 năm 2018, Đại hội Thư viện - Thông tin thế giới lần thứ 84 của Liên đoàn quốc tế các hội và cơ quan thư. Được sự tiến cử của Ban Lãnh đạo IFLA; sự ủng hộ của Lãnh đạo Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Việt Nam, sáng 24/5/2018, Thư viện Quốc. Chào mừng Ngày Sách Việt Nam 21/4, Ngày Sách và Bản quyền Thế giới 23/4, được sự đồng ý của Lãnh đạo Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. Ngày 28/11/2017 tại Nhà Hát lớn Hà Nội, Thư viện Quốc gia Việt Nam long trọng tổ chức Lễ Kỷ niệm 100 năm thành lập và đón nhận Huân chương. Kỷ niệm 25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hàn Quốc; Chào mừng 100 năm thành lập Thư viện Quốc gia Việt Nam, được sự ủng. Từ ngày 19-25/8/2017, tại thành phố Wroclaw, Cộng hoà Ba Lan đã diễn ra Đại hội Thư viện - Thông tin thế giới lần thứ 83 của Liên đoàn Quốc. Sáng 12/4/2017, Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch Nguyễn Ngọc Thiện đã làm việc với Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQG), cùng dự buổi làm. Kỷ niệm 110 năm ngày sinh cố Tổng Bí thư Lê Duẩn (7/4/1907-7/4/2017), Thư viện Quốc gia Việt Nam trưng bày tư liệu với chủ đề “Tổng Bí thư Lê. Ngày 24/11/2016, Thư viện Quốc gia Việt Nam và Công ty Điện tử Samsung Vina chính thức khai trương Không gian chia sẻ S.hub. Từ năm 2015, ý tưởng về. Từ ngày 13-19/8/2016, tại Columbus, Ohio, Hoa Kỳ đã diễn ra Đại hội thường niên lần thứ 82 của Liên đoàn Quốc tế các hội và cơ quan thư viện. Hưởng ứng ngày Ngày Sách Việt Nam 21/4, Ngày Sách và Bản quyền Thế giới 23/4, sáng 21/4/2016, tại Thư viện Quốc gia Việt Nam (TVQG) đã khai mạc Ngày. Chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và Kỷ niệm 86 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1930-2016), sáng ngày 15/01/2016,.
Thư viện công cộng
Thư viện công cộng là thư viện mà công chúng có thể truy cập và thường được tài trợ từ các nguồn công cộng, chẳng hạn như thuế. Nó được điều hành bởi thủ thư và nhân viên thư viện, mà cũng là công chức. Có năm đặc điểm cơ bản được chia sẻ bởi các thư viện công cộng: chúng thường được thuế tài trợ (thường là địa phương, mặc dù bất kỳ cấp chính phủ nào cũng có thể và có thể đóng góp); chúng được điều hành bởi một hội đồng để phục vụ lợi ích công cộng; chúng được mở cho tất cả mọi người và mọi thành viên trong cộng đồng đều có thể truy cập vào kho sách; chúng hoàn toàn tự nguyện ở chỗ không ai bị buộc phải sử dụng các dịch vụ được cung cấp; và chúng cung cấp các dịch vụ cơ bản miễn phí. Thư viện công cộng tồn tại ở nhiều quốc gia trên thế giới và thường được coi là một phần thiết yếu để có một lượng dân số có học thức và biết chữ. Thư viện công cộng khác với thư viện nghiên cứu, thư viện trường học và các thư viện đặc biệt khác ở chỗ nhiệm vụ của các thư viện công cộng là phục vụ nhu cầu thông tin chung của công chúng hơn là nhu cầu của một trường, tổ chức hoặc một cộng đồng nghiên cứu cụ thể.
Trẻ em phát triển rất nhanh theo từng ngày. Lúc này trẻ cũng đã bắt đầu tìm hiểu về cơ thể mình, hoặc trẻ có thể nghe những khái niệm mà không hiểu là gì. Vì vậy bố mẹ cần trang bị sẵn sàng kiến thức tối thiểu để giải đáp tất cả các thắc mắc của con. Loạn luân là gì? Loạn luân là hành vi giao cấu giữa những người cùng dòng máu về trực hệ. Chủ đề loạn luân luôn rất nhiên nhạy cảm. Các bậc phụ huynh Á Châu không có thói quen cùng con chia sẻ vấn đề về tình dục và giới tính. Song đây là một điều hết sức cần thiết. Nó giúp bé có những hiểu biết nhất định. Trên các phương tiện báo chí truyền thông, đôi khi người ta vẫn đọc được những tin tức rúng động như bố xâm hại con gái, có con với bố đẻ. Mới đây, Công an tỉnh Bến Tre đã khởi tố bị can, bắt tạm giam Lê Văn Vũ (52 tuổi, ngụ huyện Mỏ Cày Nam, Bến Tre) để điều tra tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Đáng nói, nạn nhân là bé LYN (12 tuổi), con ruột của Vũ. Vào tối 26-4, trở về nhà sau khi đi nhậu, Vũ thấy vợ đã ngủ trong phòng, thấy con gái là cháu N. đang nằm ngủ một mình nên Vũ đã thực hiện hành vi đồi bại với con ruột mình. Hai ngày sau, Vũ tiếp tục thực hiện hành vi mất nhân tính này…. Đến ngày 29-4, bà N.TM (mẹ ruột của N) phát hiện con gái có biểu hiện khác thường về sức khỏe nên đưa N. đến một phòng khám đa khoa thì phát hiện con gái mình bị xâm hại. Loạn luân là hành vi giao cấu giữa những người cùng dòng máu về trực hệ. Đó có thể là giữa anh chị em cùng cha mẹ, giữa anh chị em cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha. Đây là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nó xâm phạm nghiêm trọng quan hệ gia đình. Hành vi loạn luân được quy định là tội danh độc lập thuộc nhóm tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình trong luật hình sự Việt Nam kể từ khi Bộ luật hình sự năm 4985 có hiệu lực. Trước đó, Luật hình sự Việt Nam cũng đã coi loạn luân là tội phạm. Tuy nhiên, khái niệm loạn luân ở giai đoạn này được hiểu rộng hơn so với cách hiểu về tội loạn luận trong Bộ luật hình sự 1985. Tình dục giữa một thành viên người lớn và một đứa trẻ trong cùng gia đình thường được coi là một hình thức lạm dụng tình dục trẻ em hay gọi là lạm dụng loạn luân trẻ em. Đây là hình thức loạn luân được báo cáo nhiều nhất trong những năm gần đây. Tình dục giữa con gái với cha ruột hoặc cha dượng là hình thức thường xảy ra nhất của loạn luân giữa người lớn và trẻ em. Đứng thứ hai là loạn luân của con với mẹ hoặc mẹ kế. Nhiều nghiên cứu nhận thấy rằng cha dượng thường có xu hướng loạn luân hơn cha đẻ. Một nghiên cứu các phụ nữ trưởng thành ở San Francisco ước tính rằng 17% phụ nữ bị cha dượng lạm dụng và 2% bị cha đẻ lạm dụng. Tỷ lệ loạn luân giữa cha mẹ và con cái rất khó đánh giá do người trong cuộc giữ bí mật và không muốn mất tính riêng tư. Để giải thích điều này cho các bé, bố mẹ cần phải sử dụng ngôn ngữ phù hợp. Thay vì đi theo phương pháp cứng nhắc, bạn cần đưa ra những ví dụ dễ hiểu. Ngoài ra, các bậc phụ huynh nên hướng cho trẻ hiểu rằng hành động loạn luân là không được cho phép. Đó là hành vi phạm pháp luật. Nếu cần trình bày về chuyên môn, bố mẹ nên giải thích ở mức độ mà các con có thể hiểu được. Một trẻ mầm non thì sẽ không hiểu được những khái niệm của loạn luân theo ngôn ngữ của luật pháp. Nếu bố mẹ cảm thấy chủ đề loạn luân là gì này quá nhạy cảm và quá sức tiếp thu của con trẻ, thì bố mẹ có thể nói mình không biết và sẽ cho bé câu trả lời sớm. Đôi khi sử dụng cách trì hoãn như vậy, bố mẹ có thêm thời gian để tìm ra cách chia sẻ với con một cách phù hợp nhất. Khi cả bố và mẹ tham gia vào việc giải đáp những thắc mắc nhạy cảm thì sẽ khiến bé cảm thấy đây là một chủ đề mà ai cũng có thể thẳng thắn để thảo luận. Việc này sẽ tạo tiền đề cho những bài học giáo dục giới tính sau này cho trẻ. Đôi khi bé sẽ cảm thấy ngại để hỏi bố mẹ những vấn đề nhạy cảm. Tâm lý sợ bố mẹ mắng hoặc chuyện người lớn thì trẻ con không được tò mò. Trong trường hợp này, bố mẹ cần phải chủ động khơi dậy sự tò mò về giới tính cho con trong những tình huống diễn ra hàng ngày. Lúc này bố mẹ cũng dễ để chia sẻ và con thì sẽ nhớ những bài học giáo dục giới tính lâu hơn. Giáo dục giới tính ở trẻ em luôn là khía cạnh nhận được nhiều sự quan tâm từ phía xã hôi. Ngoài trách nhiệm của nhà trường, gia đình phải là nền tảng vững chắc để giảng giải cho con hiểu những vấn đề nhạy cảm về giới tính, ví dụ như loạn luân, xâm hại tình dục trẻ em…. Trẻ em phát triển rất nhanh theo từng ngày. Lúc này trẻ cũng đã bắt đầu tìm hiểu về cơ thể mình, hoặc trẻ có thể nghe những khái niệm mà không hiểu là gì. Vì vậy bố mẹ cần trang bị sẵn sàng kiến thức tối thiểu để giải đáp tất cả các thắc mắc của con. Chia sẻ thẳng thắn với con về vấn đề giới tính, tình dục cũng như các cơ quan nhạy cảm trên cơ thể. Những chia sẻ này sẽ giúp cho con không bị hiểu sai và hoang mang, có sự nhìn nhận sai lầm về giới tính. Tận dụng tình huống thích hợp để đề cập đến chủ đề giới tính, tình dục hoặc các vấn đề liên quan. Cha mẹ có thể lấy ví dụ từ anh chị em, họ hàng trong gia đình để con hiểu hơn về giới tính. Kiểm tra những bộ phim và trò chơi điện tử có độ tuổi cho phép có phù hợp với độ tuổi của bé hay không và giúp bé nhận thức được những gì bé nên tiếp xúc khi coi phim hay chơi điện tử. Loạn luân là gì? Đây là một hành vi không được xã hội chấp nhận, hành vi này vi phạm đạo đức và vi phạm pháp luật. Bố mẹ cần giải thích cho hiểu theo một cách đơn giản nhất cũng như giúp con nhận thức được đây là việc làm sai trái và không được chấp nhận. Việc giáo dục giới tính không phải là một điều dễ dàng và cần thực hiện xuyên suốt quá trình phát triển của con. Bố mẹ đóng vai trò là mắt xích quan trọng, giúp con tiếp cận với vấn đề giới tính ngay từ khi còn nhỏ, để con không phải bỡ ngỡ và chủ động bảo vệ bản thân mình trong những năm tháng sau này.
Loạn luân
Loạn luân hoặc phi luân là biệt ngữ mô tả mọi hoạt động tình dục giữa những người trong cùng gia đình hoặc những người có liên hệ huyết thống gần gũi. Loạn luân thường bao gồm các hoạt động tình dục giữa những người có quan hệ họ hàng gần (chung dòng máu), và thỉnh thoảng giữa những người có quan hệ luật pháp, con riêng, con nuôi hoặc có liên quan đến hôn nhân (ví dụ con với mẹ kế), hoặc các thành viên trong thị tộc có cùng tổ tiên. Cấm kỵ về loạn luân đã và đang là những cấm kỵ mang tính văn hóa phổ quát nhất, kể cả trong các xã hội cũ và mới. Hầu hết các xã hội hiện đại có luật cấm loạn luân hoặc các hạn chế xã hội về hôn nhân cận huyết rất chặt chẽ. Trong các xã hội mà loạn luân là bất hợp pháp, việc loạn luân đồng thuận giữa hai người lớn được một số người coi là một tội phạm không nạn nhân. Một số nền văn hoá mở rộng quan niệm loạn luân cho các trường hợp người thân mà không có quan hệ huyết thống như được một người mẹ nuôi chung, anh chị em có cha/mẹ khác nhau, và các anh chị nhận nuôi.
Cơ sở tiền là tổng tiền đang lưu thông trong nền kinh tế hoặc tiền gửi của các ngân hàng thương mại đang được giữ trong dự trữ của ngân hàng trung ương. Thước đo cung tiền này thường chỉ bao gồm các loại tiền tệ có khả năng thanh khoản cao nhất. Cơ sở tiền là các nguồn tiền có tính thanh khoản cao như trái phiếu trung hạn, tiền đúc và tiền gửi ngân hàng. Khi ngân hàng nhà nước phát hành các công cụ tài chính mới để mua trái phiếu của các ngân hàng thương mại, nguồn tiền của các ngân hàng thương mại lên làm cho cơ sở tiền tăng lên. Cung tiền là khái niệm rộng hơn cơ sở tiền vì nó bao gồm các tài sản khác có tính thanh khoản thấp hơn. Cung tiền được chia thành các cấp từ M0 đến M3 hoặc M4 tùy theo hệ thống tiền tệ của từng quốc gia, mỗi cấp cung tiền đại diện cho một lớp tài sản khác nhau trong quốc gia đó. Cơ sở tiền thường thấp hơn các cấp cung tiền khác như M1 và M2, do nó chỉ tính tiền mặt trong lưu thông và các tài sản thanh khoản cao mà không tính các khoản tiết kiệm hay kiểm tra tài khoản. Ngoài ra, giao dịch thanh toán bằng viết séc hoặc dùng thẻ ghi nợ cũng được xem là giao dịch cuối cùng vì các cách thức thanh toán này đều dựa trên cở sở tiền gửi thực tế. Ngược lại, các giao dịch thanh toán bằng tín dụng không đủ điều kiện để đưa vào cơ sở tiền, vì các giao dịch này không phải là giao dịch cuối cùng. Do khi sử dụng tín dụng để thanh toán, người trả đang chuyển một khoản nợ từ một tổ chức phát hành tín dụng, còn người hay công ty được trả nhận thanh toán bằng tín dụng của tổ chức phát hành tín dụng. Các quốc gia đều có một tổ chức chính phủ quản lí cơ sở tiền, thường là ngân hàng trung ương. Các ngân hàng trung ương có thể thay đổi cơ sở tiền (mở rộng hoặc thu hẹp) thông qua các hoạt động thị trường mở hoặc các chính sách tiền tệ. Ở nhiều quốc gia, chính phủ duy trì cơ sở tiền bằng biện pháp mua và bán trái phiếu chính phủ trên thị trường mở. Ở cấp hộ gia đình, cơ sở tiền là tất cả các trái phiếu kho bạc, tiền in, và tất cả số tiền trong tài khoản tiền gửi thuộc sở hữu của hộ gia đình. Cung tiền của một hộ gia đình rộng hơn bao gồm tất cả các khoản tín dụng đã sử dụng, chưa sử dụng và các khoản nợ khác.
Tiền cơ sở
Tiền cơ sở là thuật ngữ kinh tế chỉ loại tiền có mức độ thanh khoản cao nhất trong các thành phần của cung tiền. Tiền cơ sở bao gồm tiền mặt trong lưu thông do các cá nhân (hộ gia đình và doanh nghiệp không phải ngân hàng nắm giữ) và dự trữ bắt buộc của ngân hàng thương mại tại ngân hàng trung ương. Đối với các loại tiền hàng hóa (như vàng hay Bitcoin), lượng tiền cơ sở ám chỉ toàn bộ lượng hàng hóa này và không bao gồm chứng chỉ thay thế. Mọi sự thay đổi của lượng tiền cơ sở đều là tác nhân quan trọng gây ra thay đổi trong tổng lượng cung tiền. Chính vì vậy, tiền cơ sở còn được gọi là tiền có mãnh lực.
Lần đầu tiên trong lịch sử điện ảnh của nhà Pixar, nữ giới được làm nhân vật chính. Chỉ còn 2 tuần nữa, teen Việt nói riêng và những người mê phim hoạt hình nói chung sẽ có dịp được thưởng thức Brave (Công chúa tóc xù) - tác phẩm điện ảnh được coi là phức tạp và tham vọng nhất của Pixar. Đây cũng là bộ phim đầu tiên mà nhân vật chính là nữ, lần đầu tiên các sự kiện lịch sử được kết hợp vào một thế giới tưởng tượng và đây cũng là cuộc phiêu lưu vĩ đại đầu tiên diễn ra trong thế giới tự nhiên của loài người. Đặc biệt, các fan của Bảo Thy chắc sẽ rất vui mừng khi Công chúa bong bóng sẽ tham gia lồng tiếng cho nhân vật Merida trong phiên bản tiếng Việt. Còn NSƯT Hữu Châu sẽ lồng tiếng cho cha của Merida - nhà vua Fergus. Brave là câu chuyện về quá trình tìm kiếm chính mình, tạo ra số phận cho mình của một cô gái trẻ nhưng vô cùng dũng cảm. Brave được đặt trong bối cảnh thời cổ đại với câu chuyện về những trận chiến vĩ đại và những huyền thoại bí ẩn được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác tại vùng cao nguyên Scotland. Bộ phim xoay quanh cuộc đời của nàng công chúa Merida - người dũng cảm đi ngược lại những quy định truyền thống và tự tay thay đổi số phận của mình. Merida là một nữ cung thủ tài ba, đồng thời cũng là cô con gái vô cùng cứng đầu của nhà vua Fergus và hoàng hậu Elinor. Quyết tâm đi theo con đường riêng của mình, Merida không làm theo một phong tục lâu đời được đặt ra bởi các vị lãnh chúa của vương quốc: Lãnh chúa to béo MacGuffin, Lãnh chúa hay cáu kỉnh Macintosh và Lãnh chúa hay gây gổ Dingwall (Robbie Coltrane). Những hành động của Merida đã gây ra sự náo loạn và tức giận trong vương quốc, và khi nàng tìm đến mụ phù thủy lập dị (Julie Walters), nàng được nhận một điều ước đầy rủi ro. Những sự kiện và mối đe dọa sau đó đã buộc Merida phải dùng tới mọi kỹ năng và nguồn lực của nàng, bao gồm cả ba cậu em trai sinh ba thông minh và láu lỉnh để đảo ngược một lời nguyền trước khi quá muộn, qua đó khám phá ra ý nghĩa đích thực của lòng quả cảm. Xem Công chúa tóc xù, bạn sẽ được chứng kiến một Scotland cổ đại với những chú ngựa, gấu và loài người sống động hơn bao giờ hết. Nhà sản xuất Katherine Sarafian cho biết: "Brave có mức độ phức tạp về hình ảnh ở một tầm cao mới, thậm chí kể cả với Pixar. Chẳng có gì là đơn giản trong bộ phim này. Chúng tôi đã phát triển công nghệ và thúc đẩy các họa sĩ của mình để vươn tới một tầm cao mới". Đặc biệt, xuất phát từ chính tính cách đặc trưng và cuộc sống nội tâm đầy phức tạp của Merida, nhân vật này được Pixar chăm chút gọt giũa đến từng mái tóc lẫn trang phục. Đầy nhiệt huyết và rất nóng nảy, Merida là một cô bé tuổi teen bướng bỉnh thuộc dòng dõi hoàng gia và đang gặp khó khăn trong việc tự định đoạt số phận của mình. Cô luôn cảm thấy thoải mái khi được ra ngoài, rèn luyện các kỹ năng chiến đấu như bắn cung, đấu kiếm và rong ruổi khắp vùng cao nguyên cùng chú ngựa Angus của mình. Merida còn là một người chị dễ thương và đáng yêu của ba cậu em sinh ba. Merida cũng có một trái tim yếu mềm, đặc biệt là đối với ba cậu em sinh ba của cô. Là con gái của nhà vua và hoàng hậu, cuộc sống của cô luôn gắn liền với những trách nhiệm và kỳ vọng, khiến cho cô phải kìm hãm sự tự do và độc lập của mình. Khi Merida thẳng thừng chống lại một truyền thống lâu đời, những hậu quả từ hành động của cô đã gây ra thảm họa cho vương quốc. Cô buộc phải chạy đua với thời gian để sửa chữa những sai lầm từ cách cư xử bất cần của mình, cuộc hành trình của Merida đã giúp cô tự nhìn nhận lại con người mình để khám phá ra ý nghĩa của lòng dũng cảm và số phận của mình. Kelly Macdonald, người lồng tiếng cho Merida chia sẻ: "Mái tóc của Merida thật hoang dã và sống động, nó như biến thành một nhân vật trong phim vậy. Tôi thấy nó rất phù hợp với cô bé bởi nó không chịu bị khuất phục, giống như Merida. Mẹ cô ấy luôn tìm cách chải tóc và đội khăn cho cô bé, nhưng không bao giờ thành công". Tương tự như thế, trang phục của Merida cũng gây ra một cuộc đối đầu giữa hai mẹ con. Các họa sỹ tạo ra một vẻ ngoài khá tùy tiện, thoải mái cho Merida để có thể giúp cô cưỡi ngựa dễ dàng và tập bắn cung cùng một lúc. Tương phản với điều đó, bộ trang phục hoàng gia của cô bé phải thể hiện được sự kìm hãm, tiết chế của cuộc sống mà hoàng hậu Elinor muốn dành cho con gái mình. Merida phải cân bằng giữa hình ảnh mà thế giới nhìn nhận về cô và hình ảnh mà cô tự nhìn nhận mình. Sự dũng cảm thật sự phải được tìm thấy trong sâu thẳm con người cô ấy. Một nhân vật không thể không nhắc đến, gắn liền với hình ảnh của công chúa tóc xù, đó là chú ngựa Angus - người đồng hành trung thành nhất và rất dũng mãnh của Merida. Đen như bóng tối với một cái mõm và những khuỷu chân bọc ngà, Angus giúp Merida trốn khỏi cuộc sống trong lâu đài để vào rừng sâu và đi lên những ngọn núi cao. Merida bắn cung khi đang cưỡi trên tấm lưng rộng của Angus và luôn đi cùng nó trong mọi chuyến phiêu lưu. Angus có thể trở nên bướng bỉnh, cứng đầu và nhút nhát, nhưng nó luôn hết mình và trung thành đến cùng với Merida. Đạo diễn phụ trách nghệ thuật đổ bóng Tia Kratter và đội của bà đã dành hàng giờ để thí nghiệm với đất và bùn, để tái tạo lại cảnh Angus chạy nước rút băng qua rừng. Tia Kratter tự hào tâm sự: "Angus là một con ngựa tuyệt đẹp. Chúng tôi có thể tự hào nói rằng nó là một trong những con ngựa đẹp nhất từ trước đến nay mà chúng tôi từng thiết kế". Với những gì mà "đại gia" Pixar tham vọng, Brave hứa hẹn sẽ là một cuộc phiêu lưu đầy ấn tượng và những pha hài hước đậm chất Pixar. Công chúa tóc xù 3D sẽ khởi chiếu tại Việt Nam từ ngày 6/7.
Công chúa tóc xù
Công chúa tóc xù (tên gốc tiếng Anh: Brave) là phim hoạt hình máy tính thể loại tưởng tượng của Mỹ phát hành năm 2012 do Pixar Animation Studios sản xuất và Walt Disney Pictures phát hành. Cốt truyện của phim do nhà biên kịch/đạo diễn Brenda Chapman sáng tạo, lấy cảm hứng từ mối quan hệ giữa chính bà và con gái. Với bộ phim này, Chapman trở thành nữ đạo diễn đầu tiên của Pixar đảm nhiệm vai trò đạo diễn một sản phẩm phim chiếu rạp. Công chúa tóc xù do Chapman, Mark Andrews, Steve Purcell, và Irene Mecchi viết kịch bản, Chapman và Andrews làm đạo diễn, và đồng đạo diễn bởi Purcell. Bộ phim có sự tham gia của các diễn viên lồng tiếng Kelly Macdonald, Julie Walters, Billy Connolly, Emma Thompson, Kevin McKidd, Craig Ferguson, và Robbie Coltrane. Để tạo ra những hiệu ứng hình ảnh phức tạp nhất có thể, Pixar đã viết lại hoàn toàn toàn bộ hệ thống hoạt hình của họ, lần đầu tiên trong 25 năm lịch sử của hãng. Đây là bộ phim đầu tiên sử dụng định dạng âm thanh Dolby Atmos. Lấy bối cảnh ở vùng Cao nguyên xứ Scotland, bộ phim kể câu chuyện về một nàng công chúa tên là Merida, người vô tình gây ra một vụ hỗn loạn trong vương quốc chỉ vì phản đối việc hứa hôn, một tục lệ cổ xưa giữa các bộ lạc.
Nếu bạn đang lên kế hoạch cho một dự án cỏ nhân tạo, bạn có thể cần yêu cầu báo giá và mẫu từ một số nhà cung cấp cỏ nhân tạo, sau đó bạn sẽ thấy một số thuật ngữ cỏ nhân tạo trong bảng thông số kỹ thuật hoặc trên nhãn của các mẫu. Các thông số kỹ thuật này bằng cách nào đó xác định chất lượng (bao gồm cả tuổi thọ và hiệu suất…) và giá cỏ nhân tạo. Trong hầu hết các trường hợp, bạn có thể chọn các sản phẩm thích hợp theo khuyến nghị của nhà cung cấp. Nhưng nếu bạn muốn đi sâu hơn, bạn cần hiểu những thông số kỹ thuật này có ý nghĩa gì. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cho bạn biết những thông số kỹ thuật chính đó có ý nghĩa gì. Chiều cao của cọc (lưỡi / sợi / sợi trên mặt nền cỏ nhân tạo. ), Thường được đo bằng milimét (mm). Một đơn vị đo lường cho biết khối lượng sợi thẳng tính bằng gam, trên 10.000 mét. Nói cách khác, nó liên quan đến trọng lượng của sợi được sử dụng để làm cỏ nhân tạo (với mật độ nhất định). Nếu các thông số kỹ thuật khác giống nhau, Dtex cao hơn có nghĩa là trọng lượng mặt cao hơn (nhiều sợi được sử dụng trong cỏ hơn), độ bền tốt hơn, cảm giác chạm dày đặc hơn. Ví dụ, 11000 Dtex, có nghĩa là trọng lượng của sợi 10000 mét (sợi từ cùng một khâu) là 11000g. Lưu ý: Dtex là một trong những yếu tố chính sẽ ảnh hưởng đến trọng lượng khuôn mặt của cỏ nhân tạo. Nói chung, Trọng lượng khuôn mặt nhiều hơn = nhiều vật liệu hơn = giá cao hơn. Chúng tôi luôn cung cấp Detex chính xác (± 5%), nhưng có một số nhà cung cấp phóng đại Dtex trên bảng báo giá trên thị trường và bạn không thể tìm thấy điều này nếu không kiểm tra bằng thiết bị chuyên nghiệp. Khoảng cách giữa hai đường liền kề, thường sử dụng inch làm đơn vị. Các khổ thông dụng bao gồm 3/8 inch, 3/4 inch, 5/8 inch, 5/32 inch…. Máy đo trên hình dưới đây là 3/8 inch. 3/8 inch = 0,9525cm, vì vậy có 105 dòng cỏ trong khoảng cách 100cm (100 / 0,9525 = 105 dòng). Số lượng đường khâu cỏ nhân tạo trên 100cm theo hướng đường khâu. Trong hình như sau, có 17 mũi khâu trong 10cm, do đó cần có 170 mũi khâu trong 100cm. Số lượng mũi may trong một mét vuông (chúng tôi không ghi mật độ trên phiên bản mới nhất của nhãn cho nó có thể được tính nếu thước đo và tốc độ mũi may được đưa ra). Chiều cao cọc, dtex, thước đo và tốc độ khâu làm việc cùng nhau để xác định trọng lượng mặt cỏ nhân tạo (Thước đo và tốc độ mũi may quyết định mật độ mũi may, vì vậy đôi khi chúng ta cũng nói chiều cao cọc, dtex và mật độ mũi khâu quyết định trọng lượng khuôn mặt, chúng có nghĩa tương tự). Hiện tại chúng tôi không ghi trọng lượng khuôn mặt lên nhãn của các mẫu của chúng tôi, nhưng nếu cần bạn có thể kiểm tra với chúng tôi khi bạn lấy mẫu. Thảm cỏ nhân tạo bao gồm một lớp nền chính và lớp nền phụ. Cả hai mặt sau chính và phụ đều phối hợp với nhau để cung cấp sự ổn định về chiều cho toàn bộ hệ thống. - Sự ủng hộ chính bao gồm các loại vải polypropylen dệt cho phép các sợi cỏ nhân tạo được búi vào vật liệu theo hàng và tạo điều kiện nối giữa các tấm cỏ nhân tạo. Hiện tại, tất cả các sản phẩm bạn đã đặt hàng đã áp dụng lớp nền chính PP + NET (Một lớp vải polypropylen (PP) và một lớp lưới). Hình ảnh như sau:. - Sự ủng hộ thứ cấp thường được gọi là lớp phủ và được áp dụng cho mặt trái của lớp nền chính để khóa vĩnh viễn các sợi chần tại chỗ. Lớp phủ SBR Latex và lớp phủ Polyurethane (PU) là hai lớp phủ phổ biến cho cỏ nhân tạo (Hiện nay trên thị trường hầu hết các loại cỏ đều sử dụng lớp phủ Latex). Bao bì polyurethane tốt hơn nhưng chi phí cao hơn nhiều. Nền cao su đủ tốt trong hầu hết các trường hợp. Cỏ nhân tạo: một vật liệu nhân tạo được thiết kế trông giống như cỏ tự nhiên. Huấn luyện mọi thời tiết: một trong
Cỏ nhân tạo
Cỏ nhân tạo (tiếng Anh: artificial grass hoặc artificial turf) là một sản phẩm được làm từ vật liệu nhựa tổng hợp, mô phỏng theo hình dáng và cấu trúc của cỏ tự nhiên. Chúng thường được sử dụng trong các sân chơi thể thao (thường là sân của các bộ môn bóng đá, tennis, golf, bóng chày, cricket, khúc côn cầu trên cỏ,. ), sau này nó dần được phổ biến và được sử dụng trong trang trí sân vườn và các ứng dụng công nghiệp khác. Lý do chính của việc dùng cỏ nhân tạo là do nó có thể được sử dụng liên tục mà ít phải chăm sóc hay bón tỉa như cỏ tự nhiên. Các sân vận động có mái che hoàn toàn có thể dùng cỏ nhân tạo, không cần ánh sáng giống như cỏ thật vì cỏ thật cần ánh nắng mặt trời để quang hợp. Một số nhược điểm của cỏ nhân tạo như: không được sử dụng xăng dầu, hóa chất độc hại, chất cháy,., giá thành đầu tư ban đầu lớn hơn nhưng thực tế giá trị kinh tế lại tốt hơn so với cỏ thật. Cỏ nhân tạo đã có được sự chú ý đáng kể đầu tiên trong những năm 1960, khi nó được sử dụng trong việc xây dựng Astrodome.
Trong thực tế có lẽ các bạn đã nghe rất nhiều tới khái niệm “lãi suất“, vậy lãi suất là gì? Có những loại lãi suất nào? Trong bài viết dưới đây Phân tích tài chính sẽ giúp các bạn hiểu rõ về khái niệm lãi suất và cách phân loại lãi suất được sử dụng hiện nay. Các loại lãi suất 2.1 2.1. Căn cứ vào tính chất của khoản vay, có các loại phổ biến sau:2.2 2.2. Căn cứ vào giá trị thực của tiền lãi thu được2.3 2.3. Căn cứ vào tính linh hoạt của lãi suất quy định2.4 2.4. Căn cứ vào loại tiền cho vay2.5 2.5. Căn cứ vào nguồn tín dụng trong nước hay quốc tế. Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng một đơn vị vốn vay trong một đơn vị thời gian (1 tháng hoặc 1 năm). Đây là loại giá cả đặc biệt, được hình thành trên cơ sở giá trị sử dụng chứ không phải trên cơ sở giá trị. Giá trị sử dụng của khoản vốn vay là khả năng mang lại lợi nhuận cho người đi vay khi sử dụng vốn vay trong hoạt động kinh doanh hoặc mức độ thoả mãn một hoặc một số nhu cầu nào đó của người đi vay. Khác với giá cả hàng hoá, lãi suất không được biểu diễn dưới dạng số tuyệt đối mà dưới dạng tỷ lệ phần trăm. Lãi suất (interest rate) cũng được xem là tỷ lệ sinh lời (rate of return) mà người chủ sở hữu thu được từ khoản vốn cho vay. Diễn biến của lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của mỗi chủ thể kinh tế. Nó tác động đến những quyết định của các cá nhân như chi tiêu hay để dành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi tiền vào một tài khoản tiết kiệm. Lãi suất cũng tác động đến những quyết định kinh tế của các doanh nghiệp như: dùng tiền để đầu tư mua thiết bị mới cho các nhà máy hoặc để gửi tiết kiệm trong một ngân hàng. Do những ảnh hưởng đó, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi chặt chẽ nhất trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hầu như hàng ngày trên báo chí học nghiệp vụ kế toán. Là lãi suất ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi vào ngân hàng. Lãi suất tiền gửi ngân hàng có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào loại tiền gửi (không kỳ hạn, tiết kiệm…), thời hạn gửi và quy mô tiền gửi. kế toán công ty xây lắp. Là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng khi đi vay từ ngân hàng. Lãi suất tín dụng ngân hàng cũng có nhiều mức tuỳ theo loại hình vay (vay thương mại, vay trả góp, vay qua thẻ tín dụng…), theo mức độ quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng… và phụ thuộc cả vào sự thoả thuận giữa hai bên. nên học kế toán ở đâu tốt tại tphcm. Đối với các ngân hàng thương mại, hai loại lãi suất này hình thành nên những khoản thu nhập và chi phí chủ yếu của ngân hàng. tự học xuất nhập khẩu. Áp dụng khi ngân hàng cho khách hàng vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng. Nó được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng đưa tiền vay cho khách hàng. Như vậy lãi suất chiết khấu được trả trước cho ngân hàng chứ không trả sau như lãi suất tín dụng thông thường. Áp dụng khi ngân hàng trung ương cho các ngân hàng trung gian vay dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng này. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi ngân hàng trung ương cấp tiền vay cho ngân hàng. lớp học kế toán thuế. Lãi suất tái chiết khấu do ngân hàng trung ương ấn định căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Vì hoạt động tái chiết khấu cung ứng nguồn vốn cho các ngân hàng trung gian nên thông thường lãi suất tái chiết khấu nhỏ hơn lãi suất chiết khấu. Tuy nhiên trong trường hợp cần hạn chế khả năng mở rộng tín dụng của hệ thống ngân hàng, nhằm kiềm chế đẩy lùi lạm phát hoặc phạt các ngân hàng trung gian trong trường hợp vi phạm các yêu cầu về thanh toán, ngân hàng trung ương có thể ấn định lãi suất tái chiết khấu bằng thậm chí cao hơn lãi suất chiết khấu của hệ thống ngân hàng nên học kế toán ở đâu. Là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng. Lãi suất liên ngân hàng được hình thành qua quan hệ cung cầu vốn vay trên thị trường liên ngân hàng và chịu sự chi phối bởi lãi suất cho các ngân hàng trung gian vay của ngân hàng trung ương. Mức độ chi phối này phụ thuộc vào sự phát triển của hoạt động thị trường mở và tỷ trọng sử dụng vốn vay ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung gian. Là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. Lãi suất cơ bản được hình thành khác nhau tuỳ từng nước, nó có thể do Ngân hàng trung ương ấn định (như ở Nhật – là mức lãi suất cho vay thấp nhất); hoặc có thể do bản thân các ngân hàng tự xác định căn cứ vào tình hình hoạt động cụ thể của ngân hàng mình (ở Mỹ, Anh, Úc – đó là mức lãi suất áp dụng cho khách hàng có mức rủi ro thấp nhất); hoặc căn cứ vào mức lãi suất cơ bản của một số ngân hàng đứng đầu rồi ± biên độ dao động theo một tỷ lệ % nhất định để hình thành lãi suất cơ bản của mình (Malaysia); một số nước lại sử dụng lãi suất liên ngân hàng làm lãi suất cơ bản (Singapore, Pháp – vì thực chất lãi suất cơ bản của các ngân hàng rất gần với mức lãi suất thị trường liên ngân hàng nếu không như vậy hoạt động Arbitrage về lãi suất sẽ diễn ra để đưa lại trạng thái cân bằng lãi suất). khóa học kế toán thực hành. Mặc dù khác nhau, lãi suất cơ bản của hầu hết các nước đều hình thành trên cơ sở thị trường và có một mức lợi nhuận bình quân cho phép. Khi áp dụng đối với các đối tượng có mức rủi ro khác nhau, mức lãi suất kinh doanh sẽ khác nhau vì sự biến động của mức bù rủi ro. Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm xem xét hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các hợp đồng tín dụng và ghi rõ trên công cụ nợ. học thực hành kế toán ở đâu. Là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát, hay nói cách khác, là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi suất thực tính trước (dự tính): là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về lạm phát. Vì được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm phát nên lãi suất thực phản ánh chính xác khoản thu nhập thực tế từ tiền lãi mà người cho vay nhận được hay chi phí thực của việc vay tiền. Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có một ý nghĩa rất quan trọng. Bởi lẽ, chính lãi suất thực chứ không phải lãi suất danh nghĩa ảnh hưởng đến đầu tư, đến việc tái phân phối thu nhập giữa những con nợ và chủ nợ, sự lưu thông về vốn ngắn hạn giữa các nước khác nhau. Đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ quyết định nên gửi vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp. Còn đối với người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát mà trong suốt thời gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng không bằng lạm phát tăng thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không sợ lỗ do có trượt giá khi trả nợ. lý thuyết nguyên lý kế toán. Với các nước mà khoản thu nhập từ hoạt động tín dụng phải chịu thuế thì trong công thức tính lãi suất thực từ lãi suất danh nghĩa ngoài tỷ lệ lạm phát dự tính người ta còn phải trừ cả khoản thuế thu nhập đó (lãi suất thực sau thuế sẽ bằng i × (1 – r) – πe với r là mức thuế thu nhập). học kế toán tổng hợp ở đâu tốt nhất tphcm. Là lãi suất được quy định cố định trong suốt thời hạn vay. Nó có ưu điểm là số tiền lãi được cố định và biết trước, nhưng nhược điểm là bị ràng buộc vào một mức lãi suất nhất định trong một khoảng thời gian dù cho lãi suất thị trường đã thay đổi. học kế toán thực hành online. Là lãi suất được quy định là có thể lên xuống theo lãi suất thị trường trong thời hạn tín dụng (báo trước hoặc không báo trước). Lãi suất thả nổi vừa chứa đựng cả rủi ro lẫn lợi nhuận. Khi lãi suất tăng lên người đi vay bị thiệt trong khi người cho vay được lợi, ngược lại với trường hợp lãi suất giảm xuống. học nguyên lý kế toán ở đâu tại hà nội. Thường thì lãi suất được quy định cố định trong từng kỳ hạn tín dụng, khi chuyển sang kỳ hạn khác thì lại theo lãi suất thị trường tại thời điểm bắt đầu kỳ hạn mới. Ví dụ lãi suất tiền gửi 3 tháng là 0,5%/tháng sẽ không đổi trong suốt 3 tháng, nhưng nếu gửi tiếp kỳ hạn 3 tháng nữa thì sẽ theo lãi suất hiện hành vào thời điểm bắt đầu kỳ hạn mới. Tuy nhiên, với các kỳ hạn dài, ví dụ các khoản vay trung hạn (5 năm) thì lãi suất có thể quy định cố định trong suốt 1 năm, sau đó sẽ áp dụng lãi suất hiện hành vào năm tiếp theo. Lãi suất nội tệ: Là lãi suất cho vay và đi vay đồng nội tệ. Lãi suất ngoại tệ: Là lãi suất cho vay và đi vay đồng ngoại tệ. Phương trình này được hình thành trên cơ sở lập luận: Lợi tức dự tính của việc nắm giữ các khoản tiền gửi bằng nội tệ phải bằng lợi tức dự tính của việc nắm giữ các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ. Nếu tồn tại sự chênh lệch về mức lợi tức dự tính, sẽ xuất hiện sự di chuyển vốn từ loại tiền gửi này sang loại tiền gửi kia để được hưởng mức lợi tức cao hơn. học kế toán thực tế tại hà nội. Kết quả của sự di chuyển này là lợi tức dự tính của các khoản tiền gửi sẽ được điều chỉnh lại dưới ảnh hưởng của quan hệ cung cầu. Kết quả là sự cân bằng sẽ được lập lại. Vì mức lợi tức dự tính của việc nắm giữ các khoản tiền gửi bằng nội tệ là lãi suất nội tệ, còn mức lợi tức dự tính của việc nắm giữ các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ là lãi suất ngoại tệ cộng với mức tăng giá dự tính của đồng ngoại tệ, nên chúng ta có phương trình trên. Tuy nhiên, phương trình này chỉ tồn tại trong điều kiện chế độ tự do ngoại hối, tức là được tự do chuyển đổi từ đồng nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại. Nếu quản lý ngoại hối chặt chẽ thì sẽ vẫn tồn tại chênh lệch vì vốn không chuyển đổi giữa hai loại tiền được. Lãi suất trong nước hay lãi suất địa phương (National interest rate): Là lãi suất áp dụng trong các hợp đồng tín dụng trong một quốc gia. Các hợp đồng tín dụng quốc tế áp dụng mức lãi suất của thị trường quốc gia nào thì lãi suất của thị trường quốc gia đó trở thành lãi suất quốc tế. Lãi suất địa phương chịu ảnh hưởng của lãi suất quốc tế. Nếu thị trường vốn địa phương đó mà tự do thì lãi suất địa phương sẽ lên xuống theo lãi suất quốc tế. LIBOR (London Interbank Offered Rate): lãi suất của Liên ngân hàng London công bố vào 11h trưa hàng ngày tại London. Đây là lãi suất cho vay ngắn hạn (1, 3, 6, 12 tháng), thường được sử dụng làm lãi suất tham khảo trong các hợp đồng tín dụng quốc tế. Bài viết được biên soạn bởi đội ngũ chuyên gia Phân tích tài chinh. Mong rằng sẽ hữu ích với các bạn!. Bạn có thể tìm hiểu thêm khóa học về thuế xuất nhập khẩu tại website: xuatnhapkhauleanh.edu.vn. Khóa học phân tích báo cáo tài chính doanh nghiệp là khóa học cần thiết cho tất cả những ai quan tâm và có nhu cầu quản lý tình hình tài chính của doanh nghiệp. “Học kế toán ở đâu tốt nhất?” – Đây là câu hỏi được nhiều bạn trẻ đang tìm việc đặt ra khi mà rất nhiều sinh viên kế toán ra trường không có việc làm. Tin học văn phòng là kỹ năng không thể thiếu không chỉ với những ngành liên quan đến văn phòng. Một ví dụ đơn giản là bạn học tài chính – kế toán – kiểm
Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động cung-cầu vốn. Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao hơn 1.5 lần lãi suất cơ bản. Tuy được nhắc đến trong Luật Ngân hàng Nhà nước và luật này có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 1998, song lãi suất cơ bản chỉ được công bố lần đầu vào ngày 02 tháng 8 năm 2000 theo Quyết định số 242/2000/QĐ-NHNN được áp dụng từ ngày 05/8/2000. Trong lần đầu được công bố, lãi suất cơ bản ở mức 8%/năm.
Bãi đá cổ Nấm Dẩn được phát hiện vào năm 2004 bởi các nhà khoa học Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Hà Giang. Khu di tích đá cổ chạm khắc các hình vẽ có cách đây cả nghìn năm nằm trong một thung lũng rộng thuộc địa phận xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang. Khác với di tích đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai), bãi đá cổ Nấm Dẩn còn được ít người biết đến nhưng vẻ đẹp của các hình vẽ và những điều bí ẩn xung quanh các phiến đá thì không kém phần hấp dẫn và lôi cuốn. Các di tích cự thạch này nằm giữa dãy núi Tây Ðản và dãy núi đồi Nấm Dẩn, ngay gần sát với con suối Nậm Khoòng. Nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm dọc bờ suối với hình thù đa dạng và độc đáo. Có tảng đá như một bàn cờ phẳng, có tảng lại giống tấm phản nằm hay một chiếc ghế ngồi. Trên bề mặt và ở các rìa cạnh của tấm đá vẫn giữ được nguyên trạng phong hóa tự nhiên. Nhân dân trong vùng gọi khu vực này là Nà Lai (ruộng nhiều chữ) vì trên một số tảng đá có khắc hình, chữ. Các hình khắc vẽ rất đa dạng, mang vẻ đẹp riêng trong phong cách tạo hình của nghệ thuật cổ. Ngoài hơn 80 hình khắc vẽ, trên bề mặt tảng đá còn có khoảng 80 lỗ vũm, được khoét với đường kính trung bình 5 - 6cm, sâu 1 – 2cm, các vũm phân bố chủ yếu ở đầu phía tây của tảng đá. Mỗi tảng đá là một điều bí ẩn, gắn với những câu chuyện ly kỳ mang dấu ấn tín ngưỡng, thể hiện sự linh nghiệm cầu ứng các đấng thần linh của nhân dân các dân tộc thiểu số trong vùng. Cho đến nay, ở Việt Nam, những dấu tích nghệ thuật tạo hình thời tiền sử còn tìm thấy khá ít. Theo các nhà khoa học, di tích cự thạch Nấm Dẩn có niên đại khoảng 2.000 năm. Đây có thể là di tích mộ của thủ lĩnh cộng đồng hoặc là khu đất thiêng, thờ cúng thần linh, tổ tiên và các nhân vật lỗi lạc của cộng đồng dân cư. Ngoài ra, di tích cự thạch Nấm Dẩn còn có khả năng liên quan đến tục thờ thần đá của các cư dân tiền sử. Có thể nói Bãi đá cổ Nấm Dẩn có giá trị đặc biệt về văn hoá, lịch sử, tín ngưỡng và giá trị nghiên cứu khoa học cao. Nơi đây chứa đựng tiềm năng du lịch rất lớn và là một địa điểm tham quan rất thú vị cho du khách. Thời gian tới, đang có khá nhiều hãng lữ hành có ý định đưa di tích này trở thành điểm đến trọng điểm trong chương trình du lịch đi bộ, thăm các bản làng ở Hà Giang. Mrauk U là vùng đất yên bình, hoang sơ với những đền đài và ngôi chùa cổ kính nhuốm màu rêu phong. Hơn 400 cột thép không gỉ được cắm xuống khoảng đất rộng hơn 1 km2 ở vùng đồng cỏ hoang vắng tại New Mexico (Mỹ), tạo thành "tác phẩm" hút sét.
Bãi đá cổ Nấm Dẩn
Bãi đá cổ Nấm Dẩn hay Bãi đá cổ Xín Mần là nơi có những khối đá lớn có khắc các hình ở ven dòng suối Nậm Dẩn, còn gọi là Nậm Khoòng, xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang, Việt Nam. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích cấp quốc gia Việt Nam tại Quyết định 03/2008/QÐ-BVHTTDL ngày 21/02/2008. Nơi có bãi đá này được dân địa phương gọi là "Nà Lai Shứ" theo tiếng Tày-Nùng có nghĩa là "ruộng nhiều chữ" (hoặc "cánh đồng nhiều chữ"). Hiện có văn liệu viết là Bãi đá cổ Nấm Dẩn Viện Khảo cổ học đã để ý nghiên cứu, nhưng tất cả đều đang chứa đựng những ẩn số, huyền bí. Để khẳng định và tìm lời giải cho vấn đề này, các nhà khoa học cần tiếp tục nghiên cứu . Bãi đá cổ Nấm Dẩn cùng với Đèo Gió 22°34′11″B 104°30′05″Đ và Thác Tiên ở bản Ngam Lâm hợp thành các điểm của tour du lịch hấp dẫn .
Điểm sương (hay còn gọi là dew point) là điểm nhiệt độ mà khi đó không khí mát bắt đầu hòa làm một với hơi nước. Nhiệt độ càng xuống thấp, hơi nước trong không khí sẽ càng dày đặc và cuối cùng tạo nên giọt sương khi nó vượt qua điểm đọng sương của môi trường. Chúng ta dễ dàng nhận thấy điểm sương khi không khí tiếp xúc với bề mặt lạnh hơn nó, hơi nước sẽ tích tụ ở trên bề mặt như ta thường thấy ở cốc nước đá. Vai trò của việc xác định nhiệt độ điểm sương là để biết được độ ẩm không khí trong môi trường. Từ đó quyết định sự ảnh hưởng của môi trường đến con người và vật dụng xung quanh. Bên cạnh công thức tính, chúng ta có thể tính toán bằng công cụ online hoặc tra nhiệt độ đọng sương. Bạn chỉ cần nhập vào nhiệt độ môi trường hiện tại (T), và % độ ẩm tương đối trong không khí (%RH), bạn có thể biết được nhiệt độ mà không khí chuyển hóa thành sương. Ngoài việc cung cấp thông tin về nhiệt độ hóa lỏng của không khí, bảng tra nhiệt độ đọng sương còn biểu thị mức độ thoải mái của con người trong từng vùng nhiệt độ. Nhiệt độ từ 40°F - 54°F là thoải mái với con người. Từ 55°F - 60°F được xem là không khí ẩm và trên 60°F gây khó chịu hoặc thậm chí nguy hiểm cho con người vì không khí sẽ chứa nhiều hơi nước, ảnh hưởng đến quá trình hô hấp. Trước khi áp dụng điểm sương, các chương trình dự báo thời tiết sử dụng chỉ số độ ẩm tương đối. Điều này gây bất lợi trong việc xác định trạng thái không khí vì nó là sự đo lường kết hợp giữa nhiệt độ và độ ẩm. Trong vài thập niên gần đây, người ta dần ưa chuộng và thay thế độ ẩm không khí bằng nhiệt độ điểm sương vì nó có thể tính toán trực tiếp mức độ ẩm trong không khí. Điểm lợi của tính toán dew point là nó cho ta thấy được nhiệt độ mà không khí cần đạt để bão hòa hoàn toàn với nước (đạt 100% độ ẩm tương đối). Độ ẩm tương đối sẽ tăng vào buổi tối khi nhiệt độ không khí hạ thấp dần đến nhiệt độ điểm sương. Ngược lại, khi nhiệt độ tăng, độ ẩm tương đối sẽ giảm. Nhiệt độ điểm sương đóng vai trò báo hiệu mức độ ẩm hiện tại ở môi trường qua đó quyết định sự thoải mái của con người bên trong đó. Ở mức điểm sương 40 độ F - vùng thoải mái - thì bạn sẽ luôn cảm thấy dễ chịu cho dù không khí ở mức 60°F hoặc 100°F. Đây là cột mốc để người dự báo thời tiết xác định môi trường bên ngoài ngột ngạt hay thoải mái đối với con người. Khi nhiệt độ không khí cao, cơ thể con người sẽ tiết mồ hôi để làm mát, tốc độ làm mát sẽ phụ thuộc vào tốc độ tiết hơi nước ra bên ngoài. Sự tiết mồ hôi cơ thể lại bị ảnh hưởng bởi độ ẩm trong không khí. Nếu không khí bão hòa với hơi nước (%RH = 100%) thì mồ hôi được tiết ra sẽ không bị bay hơi. Cơ thể của bạn sẽ luôn sản sinh ra những giọt mồ hôi để giữ thân nhiệt ở mức bình thường, ngay cả khi tốc độ sinh ra lớn hơn tốc độ bay hơi. Khi đó bạn có thể chảy mồ hôi ở cả những ngày thời ẩm mà không cần sinh ra nhiệt. Bạn sẽ có cảm giác khó chịu và “dính” bởi sự bay hơi diễn ra chậm hơn với sự tiết mồ hôi, việc này cũng đồng thời ngăn cơ thể bạn làm mát. Hiện nay, dew point được áp dụng trong các máy điều hòa. Nhờ vậy, môi trường trong văn phòng, nhà ở được điều chỉnh ở quanh vùng thoải mái để con người có thể sinh hoạt và làm việc hiệu quả. Tóm lại: Nhiệt độ không khí càng gần nhiệt độ điểm sương thì không khí càng ẩm và ngược lại. Nhiệt độ điểm sương càng cao biểu hiện cho môi trường nóng ẩm hoặc lạnh ẩm, dễ gây hư hại đồ vật và gây khó chịu cho con người.
Điểm sương
Điểm sương hay còn gọi là điểm ngưng sương, nhiệt độ hóa sương (tiếng Anh: dew point) của một khối không khí, ở áp suất khí quyển cố định, là nhiệt độ mà ở đó thành phần hơi nước trong khối không khí ngưng đọng thành nước lỏng. Nói cách khác, điểm sương là nhiệt độ mà độ ẩm tương đối của khối không khí đạt đến 100%. Khi điểm sương thấp hơn điểm đóng băng, thì nó gọi là điểm băng giá, thay vì tạo ra sương, nó sẽ tạo ra sương giá hay sương muối do sự ngưng đọng. Điểm sương không phụ thuộc vào sự hiện diện của oxy, nitơ hay các chất khí khác hơi nước trong không khí. Sự hình thành của sương có thể xảy ra ở điểm sương ngay cả khi khí duy nhất tồn tại trong hỗn hợp không khí là hơi nước. Khi nhiệt độ cao hơn điểm sương thì áp suất thành phần của hơi nước tăng lên và nước có thể bay hơi vào không khí. Điếm sương xác định độ ẩm tương đối. Khi độ ẩm tương đối cao, điểm sương gần với nhiệt độ hiện tại của không khí.
Bảo tàng Quốc gia Luân Đôn (tiếng Anh: The National Gallery) là một bảo tàng nghệ thuật ở Quảng trường Trafalgar ở thành phố Westminster, ở trung tâm Luân Đôn. Được thành lập vào năm 1824, nó có một bộ sưu tập hơn 2300 bức tranh từ giữa thế kỷ XIII đến năm 1900. Bảo tàng này là một tổ chức từ thiện được miễn thuế, và là một bộ phận công cộng không thuộc phòng ban nào của Bộ Văn hoá, Truyền thông và Thể thao Anh. Bộ sưu tập của bảo tàng thuộc về công chúng Vương quốc Anh và việc bổ sung vào bộ sưu tập chính là miễn phí. Đây là một trong số các viện bảo tàng nghệ thuật được truy cập nhiều nhất trên thế giới, sau Bảo tàng Louvre, Bảo tàng Anh và Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan. Không giống như các viện bảo tàng tương đương ở châu Âu lục địa, Phòng trưng bày Quốc gia không được hình thành bằng cách quốc hữu hóa các bộ sưu tập nghệ thuật hoàng gia. Nó bắt đầu khi chính phủ Anh mua 38 bức tranh từ những người thừa kế của John Julius Angerstein, một nhà môi giới bảo hiểm và người bảo trợ nghệ thuật, vào năm 1824. Sau lần mua đầu tiên, Bảo tàng được các giám đốc ban đầu, nhất là Sir Charles Lock Eastlake xây dựng và nhờ sự đóng góp của các cá nhân với hai phần ba bộ sưu tập của bảo tàng. Kết quả là bảo tàng này có kích thước nhỏ so với nhiều bảo tàng quốc gia ở châu Âu nhưng có phạm vi lớn cỡ bách khoa toàn thư; Hầu hết các dấu ấn phát triển lớn trong hội họa phương Tây “từ Giotto đến Cézanne” đều được thể hiện bằng các tác phẩm quan trọng. Bảo tàng đã từng tuyên bố rằng nó là một trong số ít phòng trưng bày quốc gia có tất cả các tác phẩm của mình đều được triển lãm cho công chúng xem, nhưng điều này không còn đúng nữa. Tòa nhà hiện nay, tòa nhà thứ ba được dành cho Bảo tàng Quốc gia, được William Wilkins thiết kế từ năm 1832 đến năm 1838. Chỉ có mặt tiền trên quảng trường Trafalgar vẫn không thay đổi kể từ khoảng thời gian này vì tòa nhà đã được mở rộng từng phần trong suốt lịch sử của nó. Tòa nhà của Wilkins thường bị chỉ trích vì những điểm yếu trong thiết kế và vì thiếu không gian; Vấn đề thiếu không gian đã dẫn đến việc thành lập Viện bảo tàng Mỹ thuật Tate (Tate Gallery, bây giờ gọi là Tate Britain) cho nghệ thuật Anh năm 1897. The Sainsbury Wing, phần mở rộng về phía tây do Robert Venturi và Denise Scott Brown thực hiện, là một ví dụ điển hình về kiến trúc Hậu Hiện đại ở Anh. Giám đốc của Bảo tàng Quốc gia hiện nay là Gabriele Finaldi.
Bảo tàng Khoa học, Luân Đôn
Bảo tàng Khoa học (tiếng Anh: The Science Museum) là một bảo tàng lớn trên Đường Exhibition ở South Kensington, London. Viện bảo tàng này được thành lập vào năm 1857 và ngày nay là một trong những điểm thu hút khách du lịch lớn của thành phố, thu hút 3,3 triệu lượt du khách mỗi năm. Đây là 1 trong 3 bảo tàng lớn nhất trên đường Exhibition, Nam Kensington. Hai bảo tàng khác là Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên và Bảo tàng Victoria và Albert. Giống như các bảo tàng quốc gia được tài trợ công khai khác ở Vương quốc Anh, Bảo tàng Khoa học không tính phí cho khách vào cửa, mặc dù du khách được yêu cầu quyên góp nếu có thể. Triển lãm tạm thời có thể phải chịu một khoản phí vào cổng. Nó là một phần của Tập đoàn Bảo tàng Khoa học, đã sáp nhập với Bảo tàng Khoa học và Công nghiệp ở Manchester vào năm 2012.
Tài chính doanh nghiệp là gì? Không ít người dù lựa chọn học tài chính doanh nghiệp nhưng vẫn không hiểu rõ về nghề cũng như cơ hội việc làm ngành học này. Vậy tài chính doanh nghiệp là gì? Chúng ta cần tìm hiểu những gì về chủ đề này? Cùng tham khảo bài viết sau để làm rõ những điều mình còn chưa rõ. Tài chính doanh nghiệp là một trong công cụ quan trọng trong hệ thống tài chính của mỗi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp sử dụng thông tin tài chính của công ty để giúp quản lý dòng tiền doanh nghiệp và phục vụ cho các hoạt động tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp bao gồm việc đọc báo cáo tài chính và kết nối các dấu chấm giữa báo cáo lợi nhuận và lỗ. Từ đó tạo ra bảng cân đối kế toán và lưu chuyển tiền tệ. Nếu những báo cáo chỉ ra sự thiếu hụt nguồn vốn, tài chính doanh nghiệp sẽ cung cấp các công cụ để lập kế hoạch chiến lược nhằm thu hẹp khoảng cách này lại. Công việc đọc báo cáo tài chính doanh nghiệp ở đây chính là đọc bảng sao kê lợi nhuận và thua lỗ cho biết doanh nghiệp của bạn có kiếm được nhiều hơn chỉ tiêu hoặc ngược lại hay không. Bảng cân đối sẽ chỉ rõ ra lợi nhuận và thua lỗ của doanh nghiệp diễn ra như thế nào, có ảnh hưởng tới giá trị thực của công ty bạn tại một thời điểm cụ thể. Các báo cáo về lưu chuyển tiền tệ cung cấp thông tin về cách mà các quỹ tiền tệ chảy vào doanh nghiệp của bạn theo thời gian. Tài chính doanh nghiệp đan xen các thông tin này vào với nhau. Nếu doanh nghiệp của bạn đang có lợi nhuận nhưng không có vốn lưu động, tài chính doanh nghiệp sẽ giúp bạn thấy được tiền của bạn đã đi đâu. Ví dụ: Tổng khoản thu của bạn có thể cao nhưng không bền vững. Bạn có thể cải thiện dòng tiền bằng cách chủ động hơn trong việc thu hồi các khoản tiền nợ. Tài chính doanh nghiệp là một công cụ quan trọng giúp cho việc lập kế hoạch chiến lược, cung cấp cho doanh nghiệp một nền tảng tài chính giúp thực hiện các dự án và kế hoạch. Nếu như bạn có ý định giới thiệu một sản phẩm mới, tài chính doanh nghiệp sẽ giúp bạn biết cần phải chi trả bao nhiêu ngoài mặt bằng, tổng hợp thông tin về nghiên cứu và phát triển, nâng cấp tiếp thị và chi phí thiết bị. Tài chính doanh nghiệp cũng giúp bạn dự đoán và tính toán ra số lượng sản phẩm mới bạn phải bán ra để bù đắp chi phí ban đầu khi tung ra sản phẩm. Các kế hoạch chiến lược được tạo ra như một phần của tài chính doanh nghiệp, nó giúp bạn xác định xem công ty của bạn có thể đáp ứng được các mục tiêu tài chính dài hạn hay ngắn hạn hay không. Trong trường hợp doanh nghiệp của bạn gặp khó khăn về dòng tiền, tài chính doanh nghiệp sẽ giúp bạn hiểu và đưa ra các tùy chọn tài chính cho bạn. Bằng việc tính toán các khoản thanh toán tiền lãi và tiền gốc, kết hợp thông tin này với báo cáo tài chính hiện tại và trong tương lai, bạn sẽ có các lựa chọn mức vay phù hợp nhất và lên kế hoạch trả nợ. Kế hoạch và chiến lược này sẽ giúp bạn có thể sở hữu nhiều tiền hơn trong thời gian dài. Tuy nhiên để thực hiện được những công việc trên thành công nhất đòi hỏi bạn phải sở hữu kỹ năng tài chính doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một phân môn của ngành Tài chính, nghiên cứu về quá trình hình thành và sử dụng các của cải trong doanh nghiệp nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi ích chủ sở hữu. Mục đích tối đa hóa lợi ích chủ sở hữu là cơ sở quan trọng của lý thuyết tài chính doanh nghiệp hiện đại. Tuy vậy một số học giả và nhà lãnh đạo doanh nghiệp không đồng tình với mục tiêu này. Robert Martin cho rằng doanh nghiệp nên tập trung vào mục tiêu thỏa mãn tối đa khách hàng. Trả lời phỏng vấn trên Financial Times, CEO của Unilever Paul Polman và nguyên CEO của General Electric Jack Welch đồng tình cho rằng họ "không làm việc vì giá trị chủ sở hữu", "giá trị chủ sở hữu là ý tưởng tồi tệ nhất trên đời". Báo The Economist giải thích rằng "vấn đề không phải ở chỗ giá trị chủ sở hữu, mà là việc sử dụng sự tăng giá ngắn hạn của cổ phiếu làm đại diện cho nó". Thuật ngữ "Tài chính doanh nghiệp" có thể gây ra lầm tưởng đây là môn học nghiên cứu các vấn đề tài chính của mọi loại hình doanh nghiệp.
Virus Ebola là một dạng của vũ khí sinh học? Máy bay sẽ “đầu độc” chúng ta? Là những giả thuyết “siêu tưởng” được đề cập đến trong thế giới hiện đại. Một số người tin rằng, dịch Ebola do con người tạo ra. Giáo sư Francis Boyle - một học giả nghiên cứu về chiến tranh sinh học và luật pháp quốc tế tại Đại học Illinois (Mỹ) - tin rằng, Ebola là một dạng của vũ khí sinh học. Giáo sư Boyle là người đã viết cuốn sách về các quy tắc của chiến tranh sinh học, đồng thời là tác giả chính của Đạo luật chống khủng bố bằng vũ khí sinh học được ban hành năm 1989. Ông Boyle cho hay, Chính phủ Mỹ duy trì các phòng thí nghiệm vũ khí sinh học ở châu Phi dưới “vỏ bọc” là trung tâm nghiên cứu. Một trong những phòng thí nghiệm đặt tại Kenema, Sierra Leone. "Kenema là tâm điểm của các ổ dịch. Một cái gì đó bất thường đã xảy ra ở nơi này. Đó có thể là tai nạn trong phòng thí nghiệm hoặc là sự thử nghiệm vaccine trực tiếp biến đổi gen Ebola”, ông Boyle nói. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu đã bác bỏ các quan điểm trên và khẳng định, nếu virus Ebola hiện nay là “phiên bản biến đổi gen” của Ebola trước đây thì các nhà khoa học sẽ phân tích được sự thay đổi cấu trúc. Tuy nhiên, khi phân tích mẫu DNA của 78 người nhiễm Ebola, các nhà khoa học không phát hiện ra điều đó. Hiện nay, rất nhiều người vẫn cho rằng, sự xuất hiện của máy bay sẽ giết chết loài người. Theo đó, những con đường hình thành trên không sau khi máy bay bay qua sẽ đầu độc con người. Những “con đường mòn hóa học” trên không được cho là một phần của kế hoạch “tỉ mỉ” hủy hoại loài người. “Project Chemtrails UK” là một trong hàng trăm trang web dành cho những người theo giả thuyết này. Ở đó, các thành viên chia sẻ rằng, những con đường hình thành sau máy bay có chứa hàm lượng kim loại nặng và điều này có thể được sử dụng như một phần của kế hoạch để kiểm soát dân số. Cơ quan Quản lý Hàng không Liên bang Mỹ đã chỉ ra rằng, trong điều kiện độ ẩm cao, các hạt băng được hình thành tạo nên “con đường mòn” khi máy bay bay qua. Những “con đường mòn” này có thể kéo dài hàng giờ liền nên có thể dẫn đến sự hiểu lầm nêu trên. Vào tháng 12.2012, tại thị trấn Kereinek của Sudan, các quan chức phát hiện một con kền kền “gián điệp”. Thiết bị điện tử ở chân của chú kền kền bị nghi ngờ là có thể thu và gửi hình ảnh về “cơ quan đầu não” ở Israel. Chính quyền Mossad “tuyển dụng nhân viên” từ thế giới động vật với mong muốn tận dụng khả năng bay 375 dặm/ngày của chúng? Hay chỉ đơn thuần là việc theo dõi đường bay để phục vụ nghiên cứu khoa học như khẳng định của Israel và công viên Authority?. Đó là những câu hỏi vẫn chưa được giải đáp. Tuy nhiên, đây không phải là lần đầu tiên các quốc gia láng giềng phát hiện được những con vật có “đeo thẻ” xuất xứ từ Israel. Vào tháng 7.2013, chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ bắt được một con chim ưng nhỏ được gắn thẻ mang số hiệu "24.311 Tel Avivunia Israel". Kết quả chụp x-quang cho thấy, không có bằng chứng về các thiết bị nghe trộm được gắn trên cơ thể chim ưng. Vào năm 2010, một người thợ săn Ai Cập phát hiện con kền kền đeo thẻ ghi chữ "Đại học Tel Aviv". Cùng năm đó, ở Sharm el-Sheikh, Ai Cập, xuất hiện hàng loạt vụ cá mập tấn công vào khách du lịch và Israel được cho là nước đứng sau vụ việc này. Cùng với hội Tam Điểm, Tu viện Sion, Illuminati là hội kín được biết đến nhiều nhất trên thế giới. Illuminati bị giải thể vào năm 1784. Hiện nay, người ta đồn rằng, một nhánh nhỏ của hội vẫn ngầm tồn tại cho đến ngày nay nhằm “nuôi” giấc mơ thống trị thế giới. Một số nghệ sĩ bị cho là hiện thân của hội này, trong đó có ca sĩ Lady Gaga. "Các phương tiện truyền thông đại chúng đang thực hiện một dự án nhằm điều khiển tâm trí người trẻ trên quy mô lớn. Khởi đầu là những bộ phim hoạt hình Disney, tiếp sau đó là các bộ phim Hollywood và video âm nhạc", trang web Vigilant Citizen nhận định. Trang web này cũng cho rằng ca sĩ nhạc pop Lady Gaga là hiện thân của Illuminati. Nhiệm vụ thực tế của những tín đồ của Illuminati trong làng nhạc pop là gì? Lady Gaga hay Rihanna có vai trò như thế nào trong “chiến dịch” của Illuminati? Sự tồn tại của Illuminati chỉ là giả thuyết chưa được chứng minh và những người bị cáo buộc là tín đồ của Illuminati cũng vậy. Đẩy mạnh sử dụng đất đá thải mỏ để san lấp mặt bằng các dự án trọng.
Giả tưởng suy đoán
Giả tưởng suy đoán hay giả tưởng tự biện là một phạm trù hư cấu rộng lớn bao gồm các thể loại có một số yếu tố không tồn tại trong lịch sử được ghi lại và các hiện tượng quan sát được của vũ trụ hiện tại, bao gồm các chủ đề khác nhau lấy bối cảnh siêu nhiên, tương lai và nhiều chủ đề tưởng tượng khác. Dưới mái vòm của phạm trù này tích hợp nhiều thể loại không bị giới hạn, như khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, kinh dị, siêu anh hùng viễn tưởng, lịch sử thay thế, utopia và dystopia viễn tưởng và siêu nhiên viễn tưởng, cũng như sự kết hợp của chúng (ví dụ: khoa học kỳ ảo).Giả tưởng suy đoán khác hoàn toàn với các loại hư cấu khác (ví dụ như lát cắt cuộc sống) và phi hư cấu. Giả tưởng suy đoán là một phạm trù bao gồm từ các tác phẩm cổ đại cho đến cả các tác phẩm thay đổi mô hình và tân truyền thống của thế kỷ 21. Có thể nhận ra giả tưởng suy đoán trong các tác phẩm mà ý đồ của tác giả hoặc bối cảnh xã hội của các phiên bản truyện mà họ miêu tả hiện đã được biết đến, vì các nhà viết kịch Hy Lạp cổ đại như Euripides (khoảng năm 480–406 TCN) có vở kịch Medea dường như đã không được lòng khán giả Athen khi ông suy đoán một cách giả định rằng ma nữ Medea đã giết con của mình thay vì bị giết bởi những người Corinth khác sau khi bà trở nên loạn trí, và vở kịch Hippolytus, được kể theo lối tự sự bởi nhân vật Aphrodite, Nữ thần Tình yêu, bị nghi ngờ là đã làm mất lòng khán giả đương thời của ông bởi vì ông miêu tả nhân vật Phaedra quá dâm dục.
Bạn là người năng động và muốn tham gia các hoạt động cộng đồng, bạn không biết ngành nào sẽ phù hợp với mình. Vậy hãy cùng chúng tôi tìm hiểu một số thông tin về ngành xã hội học để xem bạn có phù hợp hay không?. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, các nhà khoa học nghiên cứu về các lĩnh vực đời sống của con người và đến nay những hiện tượng đã giải được chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ. Con người muốn hiểu hết về nhân loại này cần rất nhiều thời gian và công sức nghiên cứu. Một trong các ngành khoa học đang được đưa ra nghiên cứu và đem vào trở thành ngành học chính của sinh viên là ngành xã hội học. Vậy bạn biết gì về ngành xã hội học, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu khái quát về ngành xã hội học. Xã hội học là một trong các ngành khoa học nghiên cứu về các quy luật, tính quy luật và sự vận hành, biến đổi mối quan hệ, sự tác động qua lại giữa con người với xã hội. Đây có thể coi là học thuyết được đưa ra nhằm giải thích các hành vi và cơ chế hoạt động của con người có tác động qua lại với xã hội. Và có thể thấy rằng từ các hoạt động nghiên cứu hoạt động hành vi của các cá nhân mà ta giải thích được sẽ có giúp ích ta rất nhiều trong các lĩnh vực cũng như giúp chúng ta làm việc hiệu quả hơn. Xã hội là một tổng thể rộng lớn, khách thể mà chúng ta nghiên cứu của khoa học xã hội và trong đó bao gồm cả ngành xã hội học. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu trong ngành khoa học này là nghiên cứu các quan hệ xã hội, tương tác xã hội được biểu hiện thông qua hành vi xã hội giữa người với người trong nhóm xã hội và trong hệ thống xã hội. Xét trong quá trình nghiên cứu của xã hội học thì ngành này nghiên cứu các vấn đề giữa: con người – xã hội; hành động xã hội – cơ cấu xã hội; vi mô – vĩ mô. Đây là các vấn đề nghiên cứu cơ bản của ngành xã hội học. Xét một cách cụ thể các mối quan hệ nghiên cứu trên thì ta thấy: giữa một bên là con người bao gồm các cá nhân, các nhóm, các cộng đồng xã hội có hành vi riêng và một bên là hệ thống vận hành của xã hội, cơ cấu xã hội. Để hiểu rõ hơn thì xã hội học là ngành nghiên cứu về mối liên hệ giữa hành vi của con người và cơ chế của xã hội. Bất kì các ngành khoa học nào đều có mối liên hệ mật thiết với nhau và xã hội học không phải là ngoại lệ. Các ngành khoa học đều liên kết với nhau và đem đến các mục đích giá trị cốt lõi phục vụ cho cuộc sống con người. + Triết học: Triết học là ngành khoa học nghiên cứu quy luật chung của tự nhiên, xã hội và các tư duy. Quan hệ mật thiết giữa xã hội học và triết học là mối quan hệ giữa một khoa học xã hội cụ thể và một khoa học về thế giới quan trong quan hệ đó. Đây là mối quan hệ mật thiết có tính biện chứng cho nhau. Qua nghiên cứu xã hội học sẽ cung cấp số liệu thông tin và bằng chứng mới cho triết học không bị khô khan và lạc hậu trước những biến đổi không ngừng của xã hội;. + Sử học và tâm lý học: Qua việc nghiên cứu xã hội học bạn có thấy rằng các hành vi của con người một phần xuất phát và có liên quan đến vấn đề lịch sử và các hành vi này có thể lý giải được dựa trên phân tích các tâm lý của con người trong từng hoàn cảnh cụ thể. Những hành vi của con người hoàn toàn có thể lý giải được qua các nghiên cứu và xem xét các mối liên hệ giữa sử học, tâm lý học và xã hội học;. + Kinh tế học: Kinh tế học nghiên cứu quá trình con người sản xuất, các phương pháp lưu thông hàng hóa, sự tác động qua lại của các chủ thể kinh tế trên thị trường và vô vàn các đối tượng khác mà kinh tế học vẫn đang tiếp tục nghiên cứu và tìm ra các cơ chế vận hành mới của cơ chế sản xuất và tiêu dùng sản phẩm. xã hội học kế thừa và vận dụng các khái niệm và quy phạm của kinh tế học như quy luật vốn con người và khái niệm thị trường để nghiên cứu xã hội học. Hai ngành khoa học này không thể tách rời nhau, chúng bổ sung và hoàn thiện cho nhau bởi con người, xã hội và kinh tế là những phạm trù không bao giờ tách biệt với nhau;. + Chính trị học: Chính trị học là khoa học nghiên cứu quyền lực và sự phân chia quyền lực trong đời sống xã hội. Chính trị học tập trung nghiên cứu về quyền lực xã hội nảy sinh, thiết chế chính trị và cơ cấu xã hội. Mối quan hệ chặt chẽ giữa hai ngành khoa học này thể hiện ở việc cùng vận dụng các lý thuyết, khái niệm và phương pháp tìm hiểu. Mối quan hệ của các ngành khoa học này không tách rời với nhau và có sự giao thoa về tri thức một cách tổng thể. Xã hội học không ngừng tiếp thu các thành tựu của các ngành khoa học khác. Ngành xã hội học có vai trò hết sức quan trọng trong sự phát triển của xã hội. Chúng ta có thể điểm ra một vài thành tựu mà quá trình nghiên cứu xã hội học đem lại. Thứ nhất, xã hội học giúp cho việc đánh giá các chính sách khi đưa ra có khả năng thực thi hay không. Thứ hai, tự khai sáng bản thân, qua quá trình nghiên cứu xã hội học ta hoàn toàn có thể lý giải được trong sự việc như vậy, tại sao chúng ta lại hành động như thế. Tùy vào nhận thức của mỗi người khi tìm hiểu ngành xã hội học có thể ra những quyết định mà họ cảm thấy là phù hợp nhất cho bản thân. Điều này có ảnh hưởng một phần đến tương lai riêng của mỗi người. Thứ ba người được đào tạo trong ngàng xã hội học có thể xem như là các nhà tư vấn công nghiệp và những người quy hoạch đô thị. Họ có thể nhìn nhận được sự thay đổi của xã hội và đề xuất những giải pháp phù hợp để cải thiện xã hội tốt hơn. Khi tham gia đào tạo về ngành xã hội học bạn sẽ được tiếp cận cụ thể với các góc cạnh kiến thức về con người, về xã hội và cả kiến thức liên quan đến xã hội. Khi tham gia đào tạo bạn sẽ có cái nhìn nhận tổng quát về các nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng Sản Việt Nam. Kiến thức trong ngành xã hội học là vô cùng rộng và khi tham gia đào tạo kiến thức bạn học được sẽ được phân chia theo các lĩnh vực chuyên ngành mà bạn theo đuổi. Nếu bạn chọn đào tạo kiến thức theo lĩnh vực thì bạn sẽ đem về cho bản thân một số kiến thức về: logic học, các vấn đề môi trường hiện nay gắn với phát triển kinh tế – xã hội, các phương pháp được ứng dụng vào việc thu thập và xử lý thông tin khoa học xã hội, các kiến thức nhập môn về kinh tế học. xã hội học là một ngành khoa học mà khoa học thì không thể lý giải hết được. Khối lượng kiến thức sẽ được thay đổi theo quá trình vận động và phát triển không ngừng của xã hội loài người. Trong quá trình học tập bạn phải linh hoạt xem xét các kiến thức học được và áp dụng vào thực tế đời sống. Nhìn tổng quát bạn sẽ thấy các kiến thức có vẻ khá khô khan và trừu tượng nhưng nếu bạn thực sự đam mê và muốn theo đuổi ngành này thì bạn sẽ thấy đây là những môn học thực sự thú vị. Với việc kiến thức bạn tiếp thu được có liên quan phạm trù kinh tế, bạn có thể am hiểu về hành vi tiêu dùng và các mối quan hệ sản xuất của xã hội. Bạn hoàn toàn có thể tham gia các lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên nếu bạn thực sự muốn theo đuổi công việc kinh doanh quản lý này bạn cần trau dồi thêm các kỹ năng và kiến thức về kinh doanh, về các hoạt động thương mại khác. Công việc này được tìm kiếm nhiều nhất trên tin tức kien giang tuyen dung mới nhất hiện nay. Với tổng hợp các nghiên cứu về các hành vi và phát triển xã hội bạn tiếp thu được trong quá trình đào tạo trong ngành xã hội học. Bạn có khả năng làm việc trong nhóm ngành này. Bạn có thể trở thành nhà nghiên cứu và tư vấn chính sách cho các cơ quan đơn vị Nhà nước và các doanh nghiệp. Bởi họ đôi khi chỉ quan tâm và am hiểu về các vấn đề kinh doanh mà không thực sự am hiểu về các vấn đề khoa học như một người trong ngành thì việc cần tuyển dụng các nhân viên tư vấn là rất cần thiết. Bạn cũng có khả năng trở thành nhân viên tư vấn tâm lý vì bạn hoàn toàn có thể phân tích được các hành động của con người hay sự thay đổi các quan hệ xã hội xảy ra thường nhật. Xã hội học có chuyên ngành tâm lý học và công tác xã hội học để đào tạo bạn tham gia các công việc dịch vụ phục vụ con người như chăm sóc sức khỏe và các công việc liên quan đến lợi ích cho con người. Bạn có khả năng phân tích hành vi và hành động của con người tùy vào hoàn cảnh mà họ tiếp xúc và bạn sẽ biết nên làm gì để cải thiện tích cực cho họ. Công việc này nếu không được qua đào tạo chuyên môn cụ thể thì rất khó đảm nhiệm, và nó thực sự là dành cho các cử nhân xã hội học như bạn. Tại Phú Yên luôn coi phát triển các ngành dịch vụ là ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế. Chính vì vậy không khó để tìm việc làm Phú Yên với ngành dịch vụ phục vụ con người trên các trang tìm việc làm hiện nay. Nhóm người hoạt động ngành nghề này có quyền thực thi quyền hành pháp của Nhà nước. Bạn có thể thu thập và phân tích các số liệu thống kê, giám sát quỹ, soạn thảo và phát triển chính sách. Đây là công việc đòi hỏi bạn cần có sự quan sát và phân tích chính xác. Bạn hoàn toàn có thể tham gia các vị trí này, bạn am hiểu tâm lý và hành vi của con người. Đặc biệt nếu là giảng viên hoặc giáo viên bạn có thể hiểu tâm lý học sinh, sinh viên của mình từ đó có cách giảng dạy phù hợp để họ tiếp thu được kiến thức tốt nhất. Bạn cũng có thể đồng hành cùng các bạn giải quyết các vướng mắc trong tâm lý tuổi mới lớn và hướng các bạn thành những con người có ích trong xã hội. Đây là viec lam quang ngai với mức lương hấp dẫn nhất. Vai trò của bạn trong ngành quan hệ công chúng (public relation) này vô cùng quan trọng, bạn sẽ là người đại diện và thực hiện các chiến lược làm cầu nối giữa các doanh nghiệp và tổ chức với khách hàng, cộng đồng nhằm khẳng định đơn vị trong toàn bộ hoạt động và tiến trình sản phẩm. Có thể nhiều người băn khoăn học ngành xã hội học thì ra làm việc ở đâu với hầu hết các bạn trẻ đều chọn các ngành dễ xin việc như kinh tế, kế toán và ngân hàng thì tại sao vẫn có người chọn ngành xã hội học. Một ngành học có thể không được nhiều người lựa chọn những lại vô cùng quan trọng. Sau khi ra trường bạn có thể hoàn toàn tìm được việc trong các cơ quan sau:. + Các trường trung học phổ thông hoặc các trường Đại học cùng một số trường đào tạo và phát triển cộng đồng. Ngành xã hội học cũng không yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ cao nhưng cơ bản bạn cũng phải có khả năng am hiểu về các kiến thức cơ bản trong ngành. Ngoài ra để xem xét bản thân có phù hợp với việc đào tạo ngành xã hội hay không thì bạn có thể dựa vào các yếu tố dưới đây:
Xã hội học đô thị
Xã hội học đô thị là một nhánh của xã hội học chuyên biệt nghiên cứu về nguồn gốc bản chất và các quy luật chung cho sự phát triển và hoạt động của đô thị như một hệ thống các mối quan hệ xã hội đặc trưng cho một kiểu cư trú tập trung cao trên một lãnh thổ hạn chế. Cơ sở ra đời môn xã hội học đô thị vào những năm 20 của thế kỷ thứ 20 là những tư tưởng về đô thị của Max Weber (1864-1920) và Georg Simmel (1858-1918). Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20, công nghiệp hoá và quá trình đô thị hoá mạnh mẽ đã làm nảy sinh vô số những vấn đề xã hội tiêu cực và phức tạp tại các đô thị và vì vậy đã thu hút sự chú ý của các nhà xã hội học của Phương Tây. Tác phẩm "Đô thị" xuất bản năm 1905, Max Weber đã chứng minh rằng cơ cấu xã hội của đô thị tạo khả năng cho sự phát triển của cá nhân và là công cụ cho sự thay đổi của lịch sử và Weber đã xem xét đô thị như là một thiết chế xã hội.
“Black Swan: Thiên nga đen” của đạo diễn Darren Aronofski đã thành công vang dội với vô số các đề cử giải thưởng và đánh dấu màn trình diễn tuyệt vời của Natalie Portman khi cô đã dành giải Nữ Diễn Viên Chính Xuất Sắc Nhất với vai diễn Nina Sayers. Vậy có những gì đằng sau “Thiên nga đen” đáng được cảm nhận?. Từng được giới phê bình đánh giá là bộ phim đã chạm đến hoàn hảo của Darren Aronofski, “Thiên nga đen” mang theo rất nhiều các tầng nghĩa ẩn và những chi tiết phần nào khó hiểu với người xem. Chuyện gì đã xảy ra với Nina? Những ảo giác cô thấy là do đâu? Phân cảnh cuối trong phim có ý nghĩa gì? Ta hãy cùng nhau phân tích từng lớp ý nghĩa của “Thiên nga đen”. Bộ phim theo chân nữ công ba-lê 28 tuổi Nina Sawyers (thủ vai bởi Natalie Portman) tại công ty ba-lê thành phố New York, nơi mà đang chuẩn bị chào đón mùa mở cửa mới với vở ba-lê “Hồ thiên nga” được soạn bởi nhà soạn nhạc Nga Tchaikovsky. Với việc nữ công chính Beth MacIntyre (thủ vai bởi Winona Ryder) buộc phải giải nghệ, giám đốc công ty Thomas Leroy (thủ vai bởi Vincent Cassel) đang tìm một nữ công mới để vào vai cả Thiên nga trắng và Thiên nga đen. Nina đã thử vai và cô làm rất tốt với vai Thiên nga trắng, nhưng lại không thể hiện được vai Thiên nga đen. Ngày hôm sau, Nina cố gắng thuyết phục Thomas cho cô cơ hội nhận được vai múa. Khi ông ta cưỡng hôn Nina thì cô cắn môi Thomas trước khi chạy khỏi căn phòng. Cuối ngày hôm đó, Nina rất ngạc nhiên khi thấy tên cô được chọn làm vai múa chính trong vở kịch. Ở một bữa tiệc ăn mừng của công ty, Beth trong khi say rượu đã buộc tội Nina ngủ với Thomas để có được vai múa. Ngày hôm sau, Nina phát hiện Beth đã bị xe tông nằm viện và Thomas tin rằng Beth cố ý làm vậy vì tính tình vốn rất thất thường và nổi loạn của Beth. Trong các buổi tập, Thomas đều bảo Nina quan sát kĩ cách Lily múa vì ông ta cho rằng Lily dù kĩ thuật không quá chính xác nhưng lại có sự phóng khoáng tự do mà Nina rất thiếu cho vai Thiên nga đen. Nina cũng bắt đầu có các ảo giác về một bản sao của mình đang theo dõi mình khắp mọi nơi. Vào một buổi tối, Nina nhận lời mời đi ăn tối của Lily mặc dù mẹ cô Erica rất phản đối. Trong suốt bữa tối, Lily đã mời Nina thử dùng chất kích thích để thư giãn. Nina từ chối nhưng sau đó vẫn đồng ý uống ly rượu có pha chất gây ảo giác. Cả hai cùng nhảy ở vũ trường sau đó về nhà Nina vào đêm muộn. Nina sau đó khóa trái cửa phòng mặc kệ Erica gào thét bên ngoài và làm tình với Lily. Sáng sau đó, Nina tỉnh dậy thì thấy rằng mình đã đến muộn buổi tập. Khi đến nơi, cô nhận ra Lily đang múa vai Thiên nga đen và cô chất vấn Lily về việc họ ngủ cùng nhau đêm qua. Lily từ chối trong sự khó hiểu và Nina giờ đây nhận ra đó lại chỉ là một ảo giác khác cô tự nghĩ ra. Sau khi biết rằng Thomas đã chọn Lily làm người múa dự bị cho Nina, các ảo giác của Nina trở nên mãnh liệt hơn đến mức mẹ cô đã phải cố gắng cấm Nina đến buổi diễn chính thức hôm đó. Nhưng Nina khăng khăng đòi đi và thậm chí còn lăng mạ Erica. Cô đến rạp múa và nhận ra Lily đang chuẩn bị múa vai của mình. Cô lập tức chất vấn Thomas rằng tại sao lại có chuyện như vậy và một mực đòi lại vai của mình. Ngạc nhiên trước sự tự tin hiếm có này của Nina, Thomas cho phép cô biểu diễn. Nina vì ảnh hưởng của ảo giác đã thực hiện lỗi một động tác trong Hồi 2 của vở múa. Khi cô trở lại phòng thay đồ chuẩn bị cho Hồi 3, cô nhận ra Lily đang ở trong phòng của mình và chuẩn bị trang điểm để múa vai Thiên nga đen. Nina sau đó thấy Lily biến đổi thành một bản sao của mình, nói rằng Nina không đủ tốt để múa vai Thiên nga đen. Trong sự tranh chấp nảy lửa, Nina đã dùng một mảnh kính đâm vào bản sao kia rồi nhận ra đó chính là Lily. Cô giấu xác Lily đi và quay lại sân khấu, nơi cô đã có một màn trình diễn tuyệt vời trong vai Thiên nga đen. Nina nhận được sự tán dương rất nồng nhiệt trước khi quay lại phòng thay đồ chuẩn bị cho Hồi cuối. Trong khi thay đồ, cô nghe tiếng gõ cửa và nhận ra đó là Lily vẫn còn sống và chúc mừng cô vì màn trình diễn hoàn hảo. Nina nhận ra cuộc cãi vã kia không hề tồn tại và cô đã tự đâm chính mình, Nina lặng lẽ rút mảnh thủy tinh khỏi bụng và quay lại sân khấu. Sau khi kết thúc Hồi cuối, Thiên nga trắng sẽ tự sát bằng cách gieo mình xuống từ một vực núi. Nina nhảy xuống từ sân khấu xuống một lớp đệm có sẵn và khán giả vỗ tay rất nồng nhiệt. Thomas và Lily cùng với các vũ công đều nhảy ra chúc mừng Nina, để rồi nhận ra cô đang chảy máu rất nhiều. Thomas nhờ gọi cứu thương và dồn dập hỏi Nina chuyện gì đã xảy ra. Nina trả lời rằng màn trình diễn của cô đã hoàn hảo, rằng cô đã cảm nhận được sự hoàn hảo. Nina sau đó dần mất ý thức dưới ánh đèn sáng của sân khấu và bộ phim kết thúc. Trong vở ba-lê “Hồ thiên nga”, có 2 nhân vật cực kì đối lập nhau là Thiên nga trắng và Thiên nga đen. Thiên nga trắng là một vị công chúa rất xinh đẹp và tốt bụng nhưng lại bị tay phù thủy yểm bùa khiến nàng phải ở trong hình dạng thiên nga cho đến khi đêm xuống. Thiên nga trắng là người có được trái tim chàng hoàng tử nhưng lại bị tay phù thủy can ngăn họ không đến được với nhau. Thiên nga đen đã lừa dối hoàng tử bằng cách nhờ phù thủy phù phép để biến mình thành thiên nga trắng, và hoàng tử đã sa bẫy. Nàng Thiên nga trắng đau đớn nhìn hoàng tử trao đi tình yêu cho người khác và đã gieo mình tự tử. Hoàng tử sau khi nhận ra sai lầm cũng đã xin được tha thứ và gieo mình theo nàng Thiên nga trắng. Linh hồn của họ đã có được hạnh phúc bên nhau ở thế giới bên kia. Vậy là hình ảnh Thiên nga trắng và đen đã rõ. Thiên nga trắng tượng trưng cho phần nhân cách tốt của Nina (ngây thơ, trong trắng), còn Thiên nga đen tượng trưng cho phần nhân cách xấu (nổi loạn, lừa dối). Nina rất muốn có vai múa chính đó là Thiên nga chúa, và để làm được thì cô phải vào vai cả Thiên nga trắng và đen. Nói cách khác, cô phải kiểm soát và thể hiện được cả phần nhân cách tốt và xấu trong bản thân mình. Và đây là lí do Leroy nói rằng việc này cực kì khó. Nina là một Thiên nga trắng bẩm sinh vì sự ngây thơ trong trẻo của cô, nhưng lại không hề có chút cá tính nào của Thiên nga đen. Cô không hề nổi loạn, xảo trá, độc ác hay lừa dối. Và đó là điều Leroy muốn Nina thay đổi. Như vậy, để làm được vai Thiên nga đen, Nina phải thay đổi. Cô phải học được sự nổi loạn và buông thả thay vì quá cứng nhắc và máy móc. Toàn bộ quá trình phim cũng là sự thay đổi từ Thiên nga trắng qua Thiên nga đen của Nina. Chúng ta đều biết rằng Nina dần chuyển hóa thành nhân cách Thiên nga đen. Hãy để ý các vết trầy trên da của Nina ngày một rõ rệt, và cho đến cuối phim thì nó đã thực sự mọc thành các lông vũ của loài thiên nga đen. Đây là tượng trưng cho nhân cách Thiên nga đen đang ngày một lớn mạnh trong Nina. Ban đầu, nó chỉ là những vết trầy vì Nina vẫn đang cố chế ngự nó. Hãy nhớ rằng Nina có một bà mẹ CỰC KÌ kiểm soát và đây cũng là phần nào nhân cách Thiên nga đen vẫn đang bị kìm hãm. Nina vẫn đang cố gắng kiểm soát, cô vẫn chưa thể buông thả như Leroy nói và vì vậy, Thiên nga đen trong cô vẫn chưa được bộc lộ. Nhưng đến màn trình diễn cuối, Nina đã thực sự quên mình. Cô bỏ đi các sự ràng buộc và hoàn toàn buông thả, để cho cảm xúc và bản năng dẫn dắt từng điệu nhảy trong vai Thiên nga đen. Hãy để ý trong từng điệu nhảy trong vai Thiên nga đen, lông vũ trên tay Nina mọc ngày một dày. Cho đến lúc hạ màn, hai tay cô đã trở thành đôi cánh thiên nga đen. Nina đã không cố gắng để trở thành Thiên nga đen, giờ đây, cô chính là Thiên nga đen. Hình ảnh Nina với đôi cánh đen tượng trưng cho hóa thân của Nina lúc này. Cô đã hoàn toàn là một Thiên nga đen. Màn trình diễn hoàn hảo khi mà Nina không chỉ đơn giản cố gắng thể hiện vai Thiên nga đen, cô đã làm sống lại vai múa đó với sự hóa thân của mình. Nếu để ý bạn sẽ thấy hình ảnh gương được sử dụng rất nhiều trong phim, và càng về cuối những hình ảnh phản chiếu trong đó mà Nina thấy lại thêm phần đáng sợ. Trong nghệ thuật điện ảnh và triết học, gương đồng nghĩa với sự phản chiếu. Nó cho ta thấy một con người khác của chúng ta, một bản thể khác mà có thể ta chưa khám phá ra và chỉ bằng cách nhìn vào gương ta mới nhìn ra bản thể ấy (cách duy nhất bạn thực sự có thể nhìn rõ mình là nhìn vào gương). Nói cách khác, gương phản chiếu một chiều sâu hoặc nhân cách khác trong con người. Hãy để ý các cảnh mà Nina nhìn vào trong gương hoặc cửa kính. Ban đầu, khi Nina nhìn vào cửa kính tàu điện ngầm, hình ảnh phản chiếu rất mờ chứng tỏ rằng phần nhân cách thứ hai trong cô vẫn còn yếu. Nhưng càng về sau, mỗi khi Nina nhìn vào gương cô lại thấy được sự thay đổi rõ ràng hơn. Những vết mẩn ngứa bắt đầu hiện rõ hơn để lộ ra là phần da gớm ghiếc và những chiếc lông vũ đen. Đây là biểu tượng của việc Nina đang dần chuyển hóa thành Thiên nga đen, hay nói cách khác là bản thể xấu của cô. Nhưng bạn hãy để ý rằng chỉ khi nào Nina nhìn vào gương thì cô mới nhận ra mình đang thay đổi. Chỉ khi nào Nina nhìn vào gương cô mới thấy được các vết trầy trên da đó mà về sau chúng ta biết rằng chỉ là ảo giác và nó tượng trưng cho việc Nina đang dần chuyển hóa sang bản thể xấu. Tất cả các cảnh Nina hoảng hốt nhận ra vết thương trên da mình đều là những cảnh Nina nhìn vào gương (khi cô trang điểm, tắm hay là chỉ đơn giản muốn soi gương). Nói cách khác, gương phản chiếu một nhân cách khác của Nina: nhân cách xấu xa, độc ác hơn, đó chính là nhân cách Thiên nga đen. Aronofski không chỉ dừng lại ở việc dùng gương cho sự phản chiếu mà nó còn tượng trưng cho sự đối lập giữa 2 nhân cách của Nina: Thiên nga trắng và Thiên nga đen, giữa sự trong trắng ngây thơ và sự xảo quyệt quyến rũ. Bạn có thể thấy rằng ban đầu, những hình ảnh phản chiếu rất vô hại, nó chỉ đơn giản là hình ảnh của Nina qua gương không hơn không kém. Tuy nhiên càng về sau thì các hình ảnh phản chiếu bắt đầu có vẻ nguy hiểm hơn. Chúng có thêm các vết trầy và cả các vết thương khiến Nina sợ hãi. Về sau, hình ảnh trong gương thậm chí còn như là một cá thể riêng biệt khi nó hoạt động độc lập với Nina. Bạn sẽ thấy một số cảnh mà hình ảnh trong gương di chuyển trước cả Nina. Đây là biểu tượng của việc nhân cách còn lại trong Nina đang lớn mạnh dần, đến mức nó thực sự có thể kiểm soát được hành động và suy nghĩ của Nina. Vậy nếu các hình ảnh trong gương có ý nghĩa như vậy thì bản sao mà Nina nhìn thấy là gì? Tại sao cô lại tưởng tượng ra một bản sao luôn lẽo đẽo theo mình khắp nơi? Bản sao đó cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho sự đối lập. Chúng ta biết chắc chắn rằng bản sao này là sản phẩm của trí tưởng tượng trong Nina vì thực chất “bản sao” mà cô thấy chỉ là những người lạ đi ngang qua. Để ý kĩ bản sao đó, bạn sẽ thấy nó có sự khác biệt khá rõ rệt với Nina. Đó chính là cách ăn mặc và qua đó cũng thể hiện phần nào tính cách. Nina luôn mặc đồ trắng và nhẹ nhàng như búp bê (tượng trưng cho sự ngây thơ trong trẻo, Thiên nga trắng) còn bản sao luôn mặc đồ đen kín (tượng trưng cho sự gian xảo độc ác, Thiên nga đen). Nói cách khác, bản sao kia như thể chứng minh cho sự tồn tại của nhân cách Thiên nga đen trong Nina, rằng nhân cách ấy có tồn tại và chỉ chờ đợi cơ hội để có thể thay thế nhân cách Thiên nga trắng. Đó là lí do Nina luôn cảm giác bản sao kia đang theo dõi mình mọi lúc mọi nơi. Nếu các bản sao kia chỉ nằm trong trí tưởng tượng của Nina thì Lily là một bản sao có thật hoàn toàn. Chỉ thoạt nhìn qua ta cũng có thể thấy sự đối nghịch hoàn toàn của 2 cô gái này. Nina ngây thơ, trong trắng và cẩn thận trong từng điệu nhảy sao cho thật hoàn hảo. Lily thì lại phóng khoáng, tự do và để cảm xúc dẫn bước nhịp nhảy thay vì thuần theo vũ đạo. Nói cách khác, nếu Nina là một Thiên nga trắng bẩm sinh thì Lily hội tụ tất cả những yếu tố quan trọng nhất của một Thiên nga đen. Như Leroy đã nói với Nina khi họ cùng xem Lily diễn tập:. Hãy để ý cách cô ta nhảy. Không quá chính xác, nhưng rất tự nhiên. Cô ta đang nhảy theo bản năng của mình chứ không hề gượng ép. Aronofski thậm chí còn cho chúng ta một gợi ý rõ hơn về Lily, chính là hình xăm trên lưng của cô. Đó là hình của một đôi cánh màu đen, tượng trưng cho đôi cánh của Thiên nga đen. Trong suốt quá trình Lily xuất hiện, ta có thể thấy Nina rất muốn trở thành Lily để có thể trở thành Thiên nga đen. Nói cách khác, Lily là tất cả những gì Nina còn thiếu để hoàn thiện bản thân trong vai múa Nữ Hoàng Thiên nga của mình. Cũng chính vì vậy mà Nina vô cùng dè chừng Lily. Vì Lily mà Nina bắt đầu ích kỷ và thực dụng hơn, cô hiểu rằng Lily hoàn toàn có thể thay thế mình bất cứ lúc nào. Sự thay đổi trong cách suy nghĩ này của Nina đã phần nào đánh dấu sự chuyển biến của nhân cách Thiên nga đen trong cô. Nina giờ đây sẵn sàng làm bất cứ điều gì để có thể giữ được vai múa của mình vì cô nhận ra việc mình có thể bị thay thế là hoàn toàn có thể. Aronofski không hề ngẫu nhiên đặt tên nhân vật chính là Nina. “Nina” ở đây bắt nguồn từ “Niña” trong tiếng Tây Ban Nha nghĩa là một bé gái, một cô bé. Và Nina trong phim thực sự không khác gì một bé gái. Bạn hãy để ý căn phòng ngủ của Nina trong cảnh đầu phim: rất nhiều màu hồng (tượng trưng cho sự ngây thơ), dễ thương theo kiểu trẻ con và đặc biệt mẹ cô Erica luôn kè kè con gái. Khi bắt đầu phim, Nina gặp ác mộng và cô lập tức đi kể với mẹ và mong được mẹ dỗ dành, hệt như điều một bé gái thường làm. Mẹ cô chăm sóc Nina từ A đến Z, thậm chí cả việc cắt móng chân hay thay quần áo cũng là Erica giúp Nina. Cách ăn nói của Nina cũng không hề người lớn. Khi nói chuyện với các nữ đồng nghiệp hay giám đốc Leroy, Nina đều tỏ ra rụt rè và nói lí nhí vì sợ hãi, một hành động khá trẻ con. Và đừng quên rằng Nina lúc này đã 28 tuổi chứ không hề trẻ trung gì.
Thiên nga đen (phim)
Thiên nga đen là một bộ phim tâm lý kinh dị đạo diễn bởi Darren Aronofsky với sự góp mặt của các diễn viên Natalie Portman, Vincent Cassel và Mila Kunis. Cốt truyện của phim xoay quanh một tác phẩm của nhà soạn nhạc Tchaikovsky mang tên Hồ thiên nga sắp được sản xuất bởi một công ty có uy tín tại New York. Tác phẩm này đòi hỏi nữ vũ công ba lê phải diễn được sự ngây thơ trong sáng của Thiên nga trắng (White Swan) và cả sự dâm dục của Thiên nga đen (Black Swan). Có một vũ công tên Nina (Portman) hoàn toàn phù hợp để diễn vai Thiên nga trắng, trong khi đó một vũ công khác là Lily (Kunis) có những cá tính hợp với vai Thiên nga đen. Khi hai cô gái tranh đua cho vai diễn, Nina đã tìm được phần tăm tối trong con người của chính mình. Aronofsky hình thành trong đầu kế hoạch cho bộ phim bằng cách liên kết những hình ảnh trong tác phẩm Hồ thiên nga với một kịch bản chưa thực hiện về những diễn viên dự bị và những ý niệm về việc bị ám ảnh bởi cả hai tính cách, tương tự với những con ma trong con người đang sống thường thấy ở các câu chuyện dân gian.
Một cánh đồng lúa xanh rì dợn sóng sau những làn gió nhẹ, bao quanh là những con mương nhỏ dẫn nước từ sông. Người ông đang làm cho cô cháu gái chiếc võng vắt ngang một con mương bằng một loại cây dây leo, vừa làm vừa hỏi cháu có biết con mương ngoặt một góc vuông bên đồng ruộng từ khi nào không. Cô cháu gái dĩ nhiên không biết, chỉ nghĩ là từ lâu lắm rồi. Ông bảo “có từ nghìn năm rồi”. Đấy là những hình ảnh đầu tiên của bộ phim hoạt hình “Shinko và phép thuật của nghìn năm”. Shinko là một cô bé sống ở miền đồng quê yên bình ấy, có chỏm tóc mái kỳ lạ cứ dỏng ngược lên, nhờ có những câu chuyện về miền đất này ngàn năm về trước của ông, Shinko ngày ngày đắm mình với những câu chuyện do cô tưởng tượng ra qua lời kể của ông. Có cả những nhân vật do chính cô nghĩ ra, chơi đùa, chạy đua cùng chúng. Shinko hay chọc ghẹo em gái nhưng lại rất thương yêu em, và chắc Shinko chỉ phát hiện ra điều đó vào một lần em gái đi lạc khi cùng đám bạn của Shinko chơi trò khám phá trong đường hầm cũ. Mình thích hình ảnh Shinko, em gái và cô giáo Hazuru (cô giáo dạy ở trường của Shinko) cùng đi bộ và nói chuyện dưới cái nắng hoàng hôn. Hình ảnh nhẹ nhàng, Hazuru bảo cô sắp nghỉ dạy ở trường và về Tokyo kết hôn. Nghe có vẻ vui…nhưng không phải thế. Đó là cả một câu chuyện buồn rười rượi của một cô giáo trẻ. Nhân vật chính thứ hai của phim là cô bé Kiiko theo cha chuyển từ Tokyo về vùng quê này sinh sống. Mẹ mất từ nhỏ nên Kiiko cứ mãi đau đáu tưởng tượng về mẹ những ngày còn trẻ. Hai cô bé gặp nhau, rồi cũng vì cái duyên của nghìn năm trước, họ làm bạn cùng nhau. Câu chuyện đan xen giữa thực tại và tưởng tượng của hai cô bé lớp 3 về vùng đất nơi mình đang sống nghìn năm trước. Người xem sẽ bắt gặp những nụ cười hồn nhiên trong trẻo của những đứa trẻ làng quê qua những trò chơi dân dã, cái nơi và thời đại mà Tivi chỉ được nhìn thấy vài lần ở thành phố hoa lệ Tokyo. Rồi cũng nhìn thấy cái cách mà trẻ con coi trọng lời hứa, cái cách mà người lớn đánh mất hình tượng của mình trong mắt một đứa trẻ, cái cách mà tệ nạn xã hội len lỏi vào những con người vốn là hình tượng chính trực của xóm làng, cái cách mà những con người chính trực ấy quyết định từ bỏ trách nhiệm bằng cái chết. Trẻ con thường hồn nhiên và niềm tin của chúng mãnh liệt lắm. Cái ngày mà viên cảnh sát được mọi người kính trọng trong làng, cũng là cha của Tatsuyoshi, tự sát, cũng là ngày những đứa trẻ gần như đánh mất niềm tin ở lời hứa của chính mình. Shinko quyết định bỏ nhà đi cùng Tatsuyoshi với hành trang là một vỏ chai nước đựng đầy gạo, vậy mà tự tin bảo rằng “chúng ta có thể đi bất cứ đâu với chỗ gạo này”. Hồn nhiên và đáng yêu đến lạ. Cười đó để rồi lại rưng rưng nước mắt với cảnh hai cô cậu mò đến phố đèn đỏ để tìm người đàn bà tóc vàng đã khiến cha Tatsuyoshi phải tự sát. Đoạn hai đứa trẻ chia tay nhau, Tatsuyoshi quyết định đến sống cùng bà con ở xa, Shinko dặn với theo bạn “Hãy chơi nhiều vào nhé, hãy nghĩ ra nhiều trò chơi hơn nữa rồi dạy lại cho con của cậu nhé, vì thế, hãy chơi nhiều vào nhé, nhất định không bỏ cuộc”. Bộ phim dài 1 giờ 35 phút nhưng có khá nhiều cảnh chia tay, tuy nhiên, hầu hết những cuộc chia tay đều có tiếng cười và những lời hứa không quên nhau, những tình bạn còn sẽ kéo dài vô tận. Có lẽ ai đó sẽ thấy lại một chút hình ảnh ngày trẻ con của mình trong ấy. Ông ấy là người tốt, thế giới này ai cũng là người tốt Kiiko à. Shinko đã nói thế khi Kiiko bảo rằng “bố cậu là một người tốt”. Ngày bé mình cũng từng nghĩ và tin như thế, và mình mong tuổi thơ của bất kỳ đứa trẻ nào cũng sẽ như thế, bao quanh bởi “một thế giới toàn người tốt”, lớn lên trong tình yêu gia đình, vui vẻ bên bạn bè và những nhân vật tưởng tượng của riêng mình. Phim hoạt hình của Nhật, dường như chả bao giờ thấy chiếu ở rạp, thế nên nếu muốn xem, hãy tìm bản phim chất lượng khá tốt trên Torrent. Nếu không, bạn có thể chuẩn bị một cái USB 2Gb cùng một buổi cafe vãn chuyện, “Shinko và phép thuật của nghìn năm” sẽ nằm ngay trong máy tính nhà bạn, giờ chiếu phim là do bạn quyết định ^^
Shinko và phép lạ nghìn năm
Shinko và phép lạ nghìn năm (tiếng Nhật: マイマイ新子と千年の魔法, マイマイしんことせんねんのまほう Hepburn: Mai Mai Shinko to Sennen no Mahō) là một bộ phim anime thực hiện bởi Madhouse và Shochiku đảm nhận phần phân phối công chiếu năm 2009. Bộ phim được làm dựa trên cuốn tiểu thuyết tự truyện Maimai Shinko (マイマイ新子) của Takagi Nobuko. Bộ phim lấy bối cảnh 10 năm sau thế chiến thứ hai tại một thị trấn tù túng nơi đã từng là nơi tập trung của những nhà phong kiến Nhật Bản với cốt truyện xoay quanh cuộc sống hằng ngày của cô bé tên Shinko người có trí tưởng tượng phong phú có thể thấy được hình ảnh quá khứ của thị trấn nhiều năm về trước và bạn bè của cô. Bộ phim cũng nói về cuộc sống của người sống trong thị trấn, những người luôn duy trì lối sống từ thời phong kiến vốn ăn rất sâu vào tiềm thức nhưng vẫn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Bộ phim đã ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Locarno ở Thụy Sĩ vào ngày 15 tháng 8 năm 2009. Sau đó công chiếu tại Nhật Bản lần đầu vào ngày 21 tháng 11 năm 2009, tuy nhiên vì lý do nào đó bộ phim lại chiếu rất hạn chế trong thời gian bảy tháng.
Tư duy sáng tạo là gì là một trong những từ khóa được gg search nhiều nhất về chủ đề tư duy sáng tạo là gì. Trong bài viết này, quanlykho.vn sẽ viết bài viết tư duy sáng tạo là gì? Tại sao có tư duy sáng tạo?. tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực nghiên cứu còn mới. Nó nhằm tìm ra các phương án, biện pháp thêm vào để click hoạt mức độ sáng tạo và để tăng trưởng cường cấp độ tư duy của một một mình hay một tập thể cộng đồng làm việc chung về một chủ đề hay lĩnh vực. vận dụng chính của bộ môn này là giúp cá nhân hay tập thể thực hành nó tìm ra các phương án, các lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các chủ đề khó khăn. Các chủ đề này không chỉ giới hạn trong các ngành tìm hiểu về khoa học kỹ thuật mà nó đủ nội lực thuộc lĩnh vực khác giống như chính trị, kinh tế, xã hội, nghệ thuật… Hoặc trong các phát minh, sáng chế. Một danh từ không giống được giáo sư Edward De Bono sử dụng để chỉ ngành nghề tìm hiểu này và được sử dụng rất phổ biến là tư duy định hướng. Một số cách thức tư duy sáng tạo đã và vừa mới được triển khai thành các lớp học, các hội nghị chuyên đề ở các cơ quan, tổ chức không gian, chính trị, chính trị – thế giới nhằm nâng cao kết quả sử dụng việc của một mình hay tập thể. Ở các trường trung học của các nước tăng trưởng, skill mềm và một số phương thức cần thiết giống như tập kích não, giản đồ ý cũng đang được vận dụng cho học sinh biết mẹo áp dụng dưới dạng thô sơ; cùng lúc cũng vừa mới có nhiều cơ sở dạy bảo tư thục giảng dạy các chuyên đề về bí quyết tư duy sáng tạo cho học viên mọi lứa tuổi. Trong cuộc sống cũng như công việc, nếu không có kỹ năng tư duy sáng tạo thì bạn sẽ mãi là kẻ không có bước tiến mới, những đột phá hay những cuộc dấn thân thú vị. skill tư duy sáng tạo cũng chính là mẹo để bạn khẳng định khả năng và vị thế của mình trong xã hội. Vậy làm sao để để tập luyện được skill tư duy sáng tạo và phát huy kỹ năng này một cách hiệu quả nhất, mời bạn cùng Academy.vn tìm hiểu nhé. Bất kỳ ai sinh ra cũng có mức độ tư duy sáng tạo, nhưng nếu k hành động thì khả năng đó sẽ mất dần theo thời gian. cho nên, bạn đừng cứ ngồi ỳ chờ mọi việc sẽ tự được khắc phục hoặc sẽ có người giải quyết giúp bạn mà hãy vận động trí óc của mình, hãy nghĩ làm sao để để giải quyết công việc của bạn ntn nhanh nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Đó chính là lúc bạn vừa mới tập luyện kỹ năng tư duy sáng tạo đấy. Cân bằng giữa thực tế và lý tưởng nghĩa là bạn tự chủ được tìm hiểu sáng tạo của mình, nhưng không xa rời thực tiễn. tư duy sáng tạo sẽ cho bạn có những nghĩ suy, dự định có tính viễn vông, nhưng dù tư duy của bạn có cao siêu tới đâu bạn cũng luôn phải nhớ rằng bạn cần phải sống, để sống được bạn cần phải có tiền, có của cải vật chất để giúp cho cho cuộc đời bây giờ. Bạn không thể nhịn ăn để sáng tạo được, những sáng tạo của bạn mong muốn thực hiện được bạn cũng cần phải vững mạnh về tài chính. thành ra, đừng nhìn thấy nhẹ việc kiếm tiền để phục vụ cho cuộc đời nếu bạn còn muốn liên tục sáng tạo. Việc sáng tạo không xa rời thực tế là điều chắc chắn, nhưng bạn cũng không nên quá kịch tính với những công việc quen thuộc hàng ngày, bởi như vậy nó sẽ giết chết cấp độ tìm hiểu sáng tạo của bạn lúc nào k hay. Hãy dành thời gian gặp gỡ, giao lưu với bạn bè, cộng sự, search những trải nghiệm mới để đầu óc được thanh thản, thoải mái khi đó cấp độ sáng tạo của bạn sẽ được phát huy tối đa. Nếu bạn cứ ôm khư khư những nguyên tắc cổ hủ, mãi đi theo một lối mòn thì khả năng tìm hiểu sáng tạo của bạn sẽ chết dần theo thời gian. Hãy dám thử thách chính mình bằng những đột phá mới trong công việc cũng giống như trong cuộc sống, đủ nội lực mọi thứ sẽ trở nên tồi tệ hơn khi bạn thử một mẹo mới nhưng đó lại là cách giúp bạn tư duy tốt nhất vì nếu k tư duy, sáng tạo bạn sẽ bị sang chảnh trong rườm rà do chính mình tạo nên. Hãy dám nghĩ và dám sử dụng, đó là cách rất tốt giúp bạn tập luyện cấp độ tư duy, sáng tạo của mình. Việc gặp khó khăn trong cuộc sống và công việc là rất bình thường, do vậy nếu bạn gặp phải khó khăn đừng quá lo lắng, bởi lo lắng chẳng phải là phương pháp giúp bạn khắc phục công việc nhanh hơn mà nó sẽ làm lụi đi mức độ tư duy, sáng tạo, giải quyết chủ đề. Hãy giữ cho trí não luôn bình tĩnh, tỉnh táo khi đó bạn sẽ nghĩ ra cách để khắc phục chông gai ngay thôi. Trong cái khó ló cái khôn mà, đúng k. Để tập luyện được kỹ năng tìm hiểu sáng tạo bạn phải là người dám dấn thân và không sợ nguy cơ. Khi bạn có một ý tưởng mới, một plan to với cấp độ nguy cơ cao khiến bạn cảm thấy đắn đo k dám hành động nghĩa là bạn đã tự thiêu rụi đi những sáng tạo của chính mình. Bạn hãy vượt qua ra khỏi nỗi lo sợ nguy cơ, thất bại và hành động, hãy tin tưởng vào những ý tưởng và mức độ của chính mình mình để cấp độ sáng tạo của bạn được phát huy. Việc ỷ lại sẽ giúp cho bạn trở nên chậm chạp, không mong muốn động não khi có chủ đề cần khắc phục. giống như thế cái mức độ tìm hiểu, sáng tạo bẩm sinh sẽ dần biến mất và bạn trở thành kẻ thụ động, k có những sáng tạo riêng. Hãy là người năng động, xắn tay vào giải quyết mọi chủ đề dù khó hay easy, đừng cất giấu mức độ sáng tạo, nếu không một người bạn sẽ trở thành kẻ thụ động, không có chính kiến và những thử nghiệm thú vị riêng cho bản thân. Trong một chuyến đi dự hội nghị tin học, 3 kỹ sư của hãng Apple và 3 kỹ sư của hãng Microsoft gặp nhau tại ga tàu. Các kỹ sư của Microsoft rất bất ngờ khi các kỹ sư của Apple chỉ mua 1 vé duy nhất, làm thế nào họ đủ sức qua mắt được đội kiểm soát vé gắt gao của tàu?. Khi người soát vé bước vào toa tàu, ba kỹ sư của Apple đồng loạt đứng lên đi vào toalet. Hành động của họ không thoát khỏi 3 cặp mắt tò mò của các kỹ sư Microsoft. Sau khi test xong trong toa, người soát vé tiến về phía toalét và gõ cửa: “Cho check vé!”. Một giọng nói ở trong vọng ra: “Thưa đây!” Và một chiếc vé được luồn qua khe cửa. Người soát vé check xong và bỏ đi. Các kỹ sư Microsoft ồ lên ngạc nhiên trước “công nghệ” của Apple. Và khi hội nghị chấm dứt, 6 kỹ sư lại gặp nhau ở nhà ga. như lần trước, các kỹ sư Apple chỉ mua 1 vé, trong khi các kỹ sư Microsoft lại chẳng mua vé nào. Đến lượt các kỹ sư Apple ngạc nhiên k hiểu làm sao để ba người kia có thể thoát được. Tương tự, 3 kỹ sư Apple lại chui vào toalét đóng cửa lại. Ngay lập tức, 1 trong 3 kỹ sư Microsoft bước theo và giả giọng người soát vé, rút luôn chiếc vé vừa thò qua khe cửa và cả 3 bọn họ chui tọt vào toalét bên cạnh. Thật háo hức vì trong bất kỳ nơi nào, người sự phát triển luôn là người biết tiếp thu những ý tưởng của mọi người và áp dụng một hướng dẫn thật sáng tạo. Câu chuyện kể về vụ tai nạn trên đường cao tốc ngành một xe tải và thùng kéo của nó đang bị kẹt dưới một cây cầu. Các hoạt động cứu hộ liên tục trong nhiều giờ, và mọi cố gắng để kéo thùng dẫn ra từ dưới cầu đã không sự phát triển. Một đám đông lớn tụ tập xoay quang hiện trường vụ tai nạn. Giao thông đang bị ách tắc hàng dặm. Cuối cùng, một cậu bé đi đến một cảnh sát và nói, tại sao họ k xì hơi ra khỏi lốp xe? phương pháp là không khó khăn như vậy. Chỉ có một cậu bé có thể suy nghĩ sáng tạo. Tôi nhớ một sự cố khi con trai của tôi, chỉ mới ba tuổi vào thời điểm đó, đã chơi tinker đồ chơi với vợ tôi. Cô ấy đã dạy nó ảnh dạng. Đến lúc phải tạo ra một vòng tròn, vợ tôi nói rằng con k thể sử dụng điều đó với các mảnh thẳng. thế mà, cậu bé không thực sự hiểu từ NO. Nó đang chứng minh sai lầm của mẹ bằng hướng dẫn liên kết một loạt các mảnh ngắn thẳng với nhau để tạo thành một ảnh dạng “vòng tròn”. Tôi nghĩ điều đó khá là sâu sắc so với tuổi lên ba. tìm hiểu sáng tạo chính là chìa kiềm hãm mang toàn cầu k ngừng phát triển, chỉ có tìm hiểu sáng tạo mới có khả năng giúp con người khám phá, phát minh ra những công trình vĩ đại đóng vai trò cần thiết trong việc sử dụng cải thiện thế giới, giúp không gian có những bước tiến dài trong lịch sử. vì vậy, hãy luôn rèn luyện cho chính mình tìm hiểu, sáng tạo để phục vụ tốt nhất cho cuộc sống, công việc của bạn và cho cả thế giới. Theo dõi kenhtuyensinh liên tục để update thêm nhiều bài viết về kỹ năng sống như: kỹ năng thuyết trình, kỹ năng bán hàng,…
Tư duy sáng tạo
Tư duy sáng tạo là chủ đề của một lĩnh vực nghiên cứu còn mới. Nó nhằm tìm ra các phương án, biện pháp thích hợp để kích hoạt khả năng sáng tạo và để tăng cường khả năng tư duy của một cá nhân hay một tập thể cộng đồng làm việc chung về một vấn đề hay lĩnh vực. Ứng dụng chính của bộ môn này là giúp cá nhân hay tập thể thực hành nó tìm ra các phương án, các lời giải từ một phần đến toàn bộ cho các vấn đề nan giải. Các vấn đề này không chỉ giới hạn trong các ngành nghiên cứu về khoa học kỹ thuật mà nó có thể thuộc lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, xã hội, nghệ thuật. hoặc trong các phát minh, sáng chế. Một danh từ khác được giáo sư Edward De Bono (1933 -) sử dụng để chỉ ngành nghiên cứu này và được dùng rất phổ biến là Tư duy định hướng. Một số phương pháp tư duy sáng tạo đã và đang được triển khai thành các lớp học, các hội nghị chuyên đề ở các cơ quan, tổ chức xã hội, chính trị, chính trị - xã hội nhằm nâng cao hiệu quả làm việc của cá nhân hay tập thể.
Sản xuất điện năng là giai đoạn đầu tiên trong quá trình cung cấp điện năng đến người tiêu dùng, các giai đoạn tiếp theo là truyền tải và phân phối điện năng. Thực chất của sản xuất điện năng là sự biến đổi các dạng năng lượng khác sang năng lượng điện hay điện năng, dòng điện xuất hiện sau khi lưới điện được nối với mạng tiêu thụ. Phần lớn điện năng được sản xuất bởi máy phát điện tại các nhà máy điện, máy phát điện được nối với tuabin, chuyển động quay của tuabin dẫn đến chuyển động quay của máy phát điện và tạo ra điện. Tuabin có thể được vận hành qua: – Hơi nước: năng lượng nhiệt qua quá trình đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch (như than, khí thiên nhiên hay dầu mỏ tại các nhà máy nhiệt điện) hay từ phản ứng hạt nhân (như trong các nhà máy điện hạt nhân) làm nước bốc hơi, dưới áp suất cao làm quay tuabin. – Nước: tại các nhà máy thủy điện, nước được tụ lại với thế năng lớn, năng lượng dòng chảy của nước làm quay tuabin. – Gió: gió có thể trực tiếp làm quay tuabin. – Khí nóng: tuabin có thể được vận hành trực tiếp từ các khí nóng trong quá trình đốt cháy khí thiên nhiên hay dầu. Các máy phát điện nhỏ hoạt động với động cơ pít tông (động cơ đốt trong), nhiên liệu dầu diesel, khí sinh học hay khí thiên nhiên. Các tế bào này chuyển đổi năng lượng mặt trời trực tiếp thành dòng điện, các vật liệu bán dẫn khi nhận năng lượng ánh sáng mặt trời giải phóng electron và tạo ra dòng điện. Trong các pin, ắc quy hay tế bào nhiên liệu năng lượng hóa được lưu bên trong qua các phản ứng hóa học biền đổi thành điện năng.
Sản xuất điện năng
Sản xuất điện năng là giai đoạn đầu tiên trong quá trình cung cấp điện năng đến người tiêu dùng, các giai đoạn tiếp theo là truyền tải và phân phối điện năng. Thực chất của sản xuất điện năng là sự biến đổi các dạng năng lượng khác sang năng lượng điện hay điện năng, dòng điện xuất hiện sau khi lưới điện được nối với mạng tiêu thụ. Điện năng được sản xuất ra theo nhiều cách khác nhau, phần lớn được sản xuất bởi các máy phát điện tại các nhà máy điện, chúng có chung nguyên tắc hoạt động là các nguyên lý động điện (định luật cảm ứng điện của Michael Faraday), các hình thức khác như trong pin, ắc quy, pin nhiên liệu hay từ năng lượng mặt trời,.
Luật thương mại quốc tế là điều vô cùng quan trọng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh quốc tế, xuất nhập khẩu. Chính vì vậy hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn về khái niệm cũng như vai trò của luật thương mại quốc tế là gì nhé. Luật thương mại quốc tế là bộ luật trong đó bao gồm những nguyên tắc và tập quán một cách phù hợp để có thể thực hiện việc trao đổi thương mại giữa các quốc gia với nhau. Bên cạnh đó thì nó cũng được sử dụng một cách không chuẩn xác đối với lối viết pháp lý giống như là thương mại giữa những khu vực kinh tế tư nhân trong cả nước. Hiện nay đây là một ngành luật nghiên cứu độc lập khi mà đa phần các chính phủ dường như đã trở thành một phần trong thương mại thế giới, gia nhập làm thành viên trong Tổ chức thương mại thế giới hay còn gọi là WTO. Chính vì sự trao đổi ở các khu vực kinh tế riêng của những quốc gia là một điều vô cùng quan trọng trong những hoạt động của WTO, các ngành luật đó giờ đã trở thành một phần vô cùng quan trọng trong những công trình về học thuật và đang được thực hiện nghiên cứu tại nhiều ngôi trường đại học trên thế giới. Luật thương mại quốc tế gồm có các chủ đề về pháp lý, thuế có liên quan đến công cuộc xuất nhập khẩu, ngăn chặn sự cạnh tranh, lao động và một số các chủ đề khác. Thông thường các quốc gia sẽ tìm cách để bảo vệ cho những ngành công nghiệp của gia đình với việc áp dụng các điều luật ngăn chặn bán phá giá nghĩa là việc cung cấp và bán hàng hóa dưới mức giá thành của một bên nước ngoài sẽ khiến cho trong nước không còn sự cạnh tranh trong kinh doanh. Theo lẽ đó, sẽ có một luật sư hiểu rõ về luật thương mại quốc tế sẽ giúp cho khách hàng của mình nhận được sự công bằng trên các thị trường mới mà vẫn tuân thủ theo luật pháp. Tóm tại, luật thương mại quốc tế sẽ bao gồm những quy tắc, vấn đề liên quan đến hải quan trong việc điều chỉnh thương mại ở các quốc gia. Công việc chính của luật sư thương mại quốc tế là tập trung vào việc sử dụng luật trong nước đối với thương mại quốc tế và ứng dụng luật quốc tế dựa vào hiệp ước điều chỉnh về thương mại. Hiệp định về thương mại quốc tế vô cùng lớn lần đầu tiên tổ chức có sự tham gia của các quốc gia lớn là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại hay còn được gọi là GATT năm 1948. Hiệp định này nghiêm cấm các hoạt động kinh tế của các quốc gia không thực hiện sự công bằng. Một trong số những điều bị cấm đó là việc bán phá giá hoặc hạ thấp giá đối với một khu vực nào đó để hất đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường kinh doanh. Một hành động khác nữa cũng bị cấm đó là phát hành các khoản trợ cấp để hỗ trợ một cách không tương xứng đối với một ngành kinh tế nhất định. Chính vì vậy luật quốc tế đóng góp vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển và kết nối giữa các quốc gia. Nó giúp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế ra bên ngoài của thị trường và cũng là một trong những điều kiện giúp nâng cao tình hữu nghị giữa các quốc gia với nhau. Các hiệp định có liên quan thương mại quốc tế sẽ đề ra những điều luật có liên quan đến việc những thực thể từ các quốc gia là thành viên đó có thể tập trung được các tài trợ từ những nhà đầu tư ngoài biên giới quốc gia ra sao. Bên cạnh đó các luật sư về thương mại quốc tế sẽ đảm nhận các nhiệm vụ cần xử lý như:. - Thực hiện các công cuộc tư vấn cho các doanh nghiệp có liên quan đến sự nỗ lực trong việc mở rộng phát triển sang quốc gia khác, gồm cả việc hỗ trợ để nhận được bất kỳ loại giấy phép quan trọng nào và đồng thời vẫn tuân thủ theo những quy định đang hiện hành của ngành đó. - Thực hiện vận động các chính sách về thương mại thay cho khách hàng đối với các cơ quan chính phủ hoặc cơ quan quốc tế có liên quan. - Làm đại diện cho khách hàng có liên quan đến công cuộc kiện tụng trong thương mại quốc tế đối với nhiều cơ quan và các tổ chức khác. - Cố gắng, nỗ lực trong việc duy trì, bảo vệ về tài sản và trí tuệ trên thị trường quốc tế. Khi bạn tự tin mình nắm vững được các kiến thức về chuyên ngành liên quan đến luật thương mại quốc tế đồng thời lại có khả năng truyền đạt tốt thì bạn có thể ứng tuyển làm giảng viên cho trường đại học, trung tâm hoặc các câu lạc bộ liên quan đến luật pháp. Đây được xem là một công việc dành cho những bạn có mong muốn ổn định, lâu dài, có đam mê được trở thành người lái đò, dẫn dắt, đem lại kiến thức cho thế hệ sau. Mức lương của công việc giảng viên đại học, đặc biệt là trong ngành luật hiện nay tương đối cao, ngoài ra bạn có thể thi công chức hoặc làm việc theo hợp đồng với các trường đại học khác nhau. Tùy vào vị trí công việc và thâm niên trong nghề mà mức lương sẽ dao động trong khoảng 5 triệu cho đến 8 triệu đồng trên tháng. Riêng đối với những bạn sinh viên mới tốt nghiệp cử nhân, nếu muốn trở thành giảng viên thì cần phải học cao hơn bậc đại học như thạc sĩ hoặc trở thành tiến sĩ trong ngành thì mới có thể tham gia làm giảng viên hoặc cố vấn cho các trường đại học với chuyên ngành về luật thương mại quốc tế. Với các bạn sinh viên mới ra trường thì đây có lẽ là hướng đi thích hợp dành cho các bạn. Bởi công việc ở các văn phòng luật phù hợp cho việc bạn có thể thực tập và học việc. Công việc tại các văn phòng luật thường đa dạng và phải tiếp nhận xử lý cho nhiều trường hợp, tình huống ngoài xã hội chính vì vậy đây là cơ hội để bạn trải nghiệm và trau dồi nhiều kinh nghiệm. Ngày nay các văn phòng luật tuyển dụng tương đối nhiều các bạn sinh viên, ngay cả những bạn vẫn còn ngồi trên ghế nhà trường cũng có thể đến học việc. Mức lương khi làm việc tại đây thường dao động từ khoảng 5 cho đến 8 triệu trên một tháng tùy thuộc vào thời gian làm trong ngày của bạn ra sao và kinh nghiệm của bạn như thế nào. Nếu làm việc ở vị trí thực tập thì mức lương sẽ thấp hơn nhưng nếu chăm chỉ và học hỏi thêm kinh nghiệm thì lương của bạn sẽ tăng đáng kể. Đây có thể coi là một công việc nền tảng, một bước đệm để bạn có thể phát triển và có thêm nhiều kinh nghiệm trên con đường phát triển sự nghiệp của mình. Đây là công việc không hề đơn giản, nó đòi hỏi bạn đã có kinh nghiệm hoặc có trình độ ít nhất từ bậc thạc sĩ trở lên. Trước tình hình mở rộng nền kinh tế, hội nhập với quốc tế ở nước ta thì nhiều doanh nghiệp đẩy mạnh việc hợp tác với những doanh nghiệp ở nước ngoài. Do đó nhu cầu về tuyển dụng với những người làm về luật, đặc biệt là luật thương mại quốc tế lại vô cùng cao. Họ sẽ tuyển dụng các luật sư chuyên ngành về để cố vấn về cách để đạt được lợi ích tối đa trong kinh doanh quốc tế mà vẫn trong phạm vi cho phép của luật pháp. Để đảm bảo phát triển lâu dài và bền vững thì thường các doanh nghiệp sẽ tuyển dụng riêng chuyên viên cho doanh nghiệp mình. Bạn muốn trở thành người có thể tham gia vào các hoạt động đối ngoại quốc tế, nhưng lại chưa biết phải theo học ở đâu? Hãy click vào link dưới đây để tìm hiểu ngành quan hệ quốc tế học trường nào nhé.
Luật thương mại quốc tế
Luật thương mại quốc tế bao gồm những quy tắc và tập quán phù hợp để thực hiện trao đổi thương mại giữa các quốc gia. Tuy nhiên, nó cũng được dùng một cách không chính xác trong lối viết pháp lý như là thương mại giữa các khu vực kinh tế tư nhân của các nước. Ngành luật này hiện nay là một ngành nghiên cứu độc lập khi mà hầu hết các chính phủ đã trở thành một phần của thương mại thế giới, thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vì sự trao đổi giữa các khu vực kinh tế tư của các quốc gia là một phần quan trọng của các hoạt động WTO, ngành luật này giờ đây là một phần rất quan trọng của các công trình học thuật và đang được nghiên cứu ở nhiều trường đại học trên toàn cầu. Luật thương mại quốc tế nên được phân biệt với một lĩnh vực rộng hơn, là luật kinh tế quốc tế. Luật kinh tế quốc tế bao trùm không chỉ luật WTO, mà còn cả luật điều chỉnh hệ thống tiền tệ quốc tế và việc quản lý tiền tệ, cũng như luật phát triển quốc tế.
Tăng Thanh Hà (sinh năm 1986) là một nữ diễn viên kiêm người mẫu người Việt Nam. Cô tên đầy đủ là Tăng Thị Thanh Hà, sinh ngày 24 tháng 10 năm 1986 tại Gò Công, Tiền Giang trong một gia đình gốc Hoa. Gia đình cô có 5 anh chị em (2 trai, 3 gái), cô là áp út. Khi cô đang học lớp 6, gia đình gặp thất bại trong làm ăn phải bán nhà để trả nợ, mẹ của cô buộc phải thay thế cha trong vai trò trụ cột gia đình và cô phải theo phụ mẹ kiếm sống. Khi được 11 tuổi, Hà luôn phải thức dậy từ sớm để phụ mẹ mình làm cơm và giao cho khách hàng; nhưng cũng trong thời gian này, mẹ của Thanh Hà giới thiệu cô vào con đường nghệ thuật bằng cách đưa cô vào học kịch nghệ ở Idecaf vào mỗi tối. Thanh Hà là một tín hữu Công giáo tại Việt Nam. Khi cô được 16 tuổi, cô được đạo diễn Lưu Trọng Ninh mời đóng vai Trang trong phim Dốc tình. Tuy vai diễn này được đánh giá là không nổi bật lắm nhưng từ đó, Thanh Hà đã được giới nghệ thuật chú ý. Sau phim Dốc tình, cô được mời đóng tiếp vai Mộng Cầm trong phim Hàn Mặc Tử, và vai diễn này đã được coi là một thành công. Rồi sau đó cô đóng tiếp phim Hương phù sa với vai Út Nhỏ và một loạt quảng cáo khác. Với những thành công nhất định trong sự nghiệp của mình, cô được trao giải Nữ diễn viên được yêu thích nhất của HTV năm 2006; sau đó Thanh Hà đột ngột sang Singapore du học Cao đẳng ngành Quản lý khách sạn khi cô đang trở nên nổi tiếng ở cả màn ảnh nhỏ lẫn sân khấu. Đến năm 2007, cô trở về Việt Nam và được chọn vào đóng vai Trúc trong phim truyền hình Bỗng dưng muốn khóc. Đến năm 2008 cô tiếp tục được mời vào đóng phim Đẹp từng centimet. Cuối năm 2009 đầu 2010, cô được đạo diễn Nguyễn Phan Quang Bình mời tham gia phim Cánh đồng bất tận chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nữ văn sĩ sinh năm 1976 Nguyễn Ngọc Tư. Sau đó cô được mời tham gia bộ phim Mỹ Nhân Kế năm 2013 khởi chiếu tại rạp. Năm 2012, Tăng Thanh Hà gác lại sự nghiệp diễn xuất và lập gia đình với doanh nhân Louis Nguyễn. Cô có hai con (1 trai và 1 gái). Tăng Thanh Hà thừa nhận từng có thời gian cặp đôi với thiếu gia Cường đô la. Mối tình này khiến dư luận đặt ra nghi vấn là cô yêu Cường đô la là vì tiền nhưng cô bác bỏ hoặc tỏ ra không cần quan tâm. Về sau, hai người chia tay, cô nói rằng mình “phát cáu” khi nghe hỏi tới chuyện tình cũ với chàng “công tử nhà giàu”. Tháng 11 năm 2012, cô chính thức lập gia đình với một doanh nhân người Philippines gốc Việt là Louis Nguyễn, sau khi đã chính thức xuất hiện bên nhau từ năm 2009. Ngày 17/4/2015, cô hạ sinh con trai đầu lòng. Ngày 18/3/2017, cô hạ sinh thêm con gái. “Bố mẹ đẻ và những điều ám ảnh của Tăng Thanh Hà – VietNamNet”. Truy cập 25 tháng 10 năm 2015. “Mỹ Tâm, Đan Trường, Tăng Thanh Hà… đoạt giải HTV Award”. Truy cập 25 tháng 8 năm 2008. ““Bỗng dưng muốn khóc”: Gặp gỡ Tăng Thanh Hà và Lương Mạnh Hải”. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2007. Truy cập 25 tháng 8 năm 2008. “Bỗng dưng muốn khóc”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2008. Truy cập 25 tháng 8 năm 2008. Báo Người Lao động. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 8 năm 2008. Truy cập 25 tháng 8 năm 2008. “Tăng Thanh Hà: Trút cạn nỗi lòng”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập 22 tháng 1 năm 2016. “Tăng Thanh Hà: Phát cáu khi “bị” hỏi về tình yêu”. Báo điện tử Dân Trí. Truy cập 22 tháng 1 năm 2016. - Tận hưởng phim bản quyền Chất lượng cao độ phân giải 4K, FHD, âm thanh 5.1 và không quảng cáo như các web xem phim lậu. - Kho phim đồ sộ, các phim MỸ, TÂY BAN NHA, HÀN, TRUNG, NHẬT đều có đủ và 90% phim có Vietsub.
Tăng Thanh Hà
Tăng Thanh Hà (sinh năm 1986) là một nữ diễn viên kiêm người mẫu người Việt Nam. Cô tên đầy đủ là Tăng Thị Thanh Hà, sinh ngày 24 tháng 10 năm 1986 tại Gò Công, Tiền Giang trong một gia đình gốc Hoa. Gia đình cô có 5 anh chị em (2 trai, 3 gái), cô là áp út. Khi cô đang học lớp 6, gia đình gặp thất bại trong làm ăn phải bán nhà để trả nợ, mẹ của cô buộc phải thay thế cha trong vai trò trụ cột gia đình và cô phải theo phụ mẹ kiếm sống. Khi được 11 tuổi, Hà luôn phải thức dậy từ sớm để phụ mẹ mình làm cơm và giao cho khách hàng; nhưng cũng trong thời gian này, mẹ của Thanh Hà giới thiệu cô vào con đường nghệ thuật bằng cách đưa cô vào học kịch nghệ ở Idecaf vào mỗi tối. Khi cô được 16 tuổi, cô được đạo diễn Lưu Trọng Ninh mời đóng vai Trang trong phim Dốc tình. Tuy vai diễn này được đánh giá là không nổi bật lắm nhưng từ đó, Thanh Hà đã được giới nghệ thuật chú ý. Sau phim Dốc tình, cô được mời đóng tiếp vai Mộng Cầm trong phim Hàn Mặc Tử, và vai diễn này đã được coi là một thành công.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (1988), ung thư gan là 1 trong 8 loại ung thư phổ biến nhất. Đây là bệnh cực kì nguy hiểm nhưng mức độ hiểu biết của cộng đồng lại rất ít. Cùng BlogAnChoi tìm hiểu 8 dấu hiệu ung thư gan giai đoạn đầu điển hình nhé!. Ung thư gan được định nghĩa là một bệnh lý ác tính của gan, nguyên nhân do sự tăng sinh ồ ạt tế bào gan hoặc tế bào đường mật gây hoại tử, chèn ép trong gan. Ung thư gan được chia làm 3 loại là ung thư biểu mô tế bào gan, ung thư đường mật trong gan và ung thư thể phối hợp do 2 tác nhân trên. Theo tổ chức y tế thế giới năm 2010, ung thư biểu mô tế bào gan là loại đứng đầu trong các loại ung thư về nguyên nhân gây tử vong. Năm 2002, có tới 550.000 trường hợp mắc mới. Một thời gian ngắn sau là năm 2005, con số này đã lên tới 625.000 trường hợp. Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ viêm gan virus và ung thư gan cao. Mỗi năm có tới 20.000 trường hợp tử vong vì lý do này. Vì thế việc tìm hiểu thêm các kiến thức về bệnh lý này là vô cùng cần thiết. Giai đoạn không triệu chứng: bệnh nhân có thể không biểu hiện gì hoặc các triệu chứng cơ bản như chán ăn, mệt mỏi, khó tiêu, hạ sườn phải đau tức nhẹ. Khối u có thể lên đến 4-5cm cũng chưa có triệu chứng nên người bệnh thường đi khám trong giai đoạn toàn phát (giai đoạn có triệu chứng). Giai đoạn có triệu chứng: bệnh đã ở giai đoạn muộn, thường gặp các dấu hiệu như bụng đầy chướng, mệt mỏi nhiều, hạ sườn phải đau tức nhiều và gầy sút cân nhanh. Giai đoạn rất sớm (giai đoạn O): U 1 khối, kích thước < 2cm. Thể trạng bệnh nhân còn tốt. Khối u chưa di căn và xâm lấn vào mạch máu. Giai đoạn sớm (giai đoạn A): Có ít hơn 3 khối u, mỗi khối không quá 3cm. Thể trạng bệnh nhân tốt. Khối u chưa di căn, chưa xâm lấn mạch máu. Giai đoạn phát triển (giai đoạn B): U lớn hoặc nhiều khối. Thể trạng bệnh nhân tốt. Khối u chưa di căn, chưa xâm lấn mạch máu. Giai đoạn muộn (giai đoạn C): Bệnh nhân thể trạng trung bình. Khối u xâm lấn vào mạch máu và đã di căn. Giai đoạn cuối: Thể trạng bệnh nhân kém. Khối u đã xâm lấn mạch và di căn đi xa. Theo kết quả nghiên cứu của viện ung thư quốc gia Hoa kỳ dựa trên theo dõi bệnh nhân từ năm 2005-2011, tỉ lệ sống 5 năm của bệnh nhân ở giai đoạn O, A và một số đối tượng ở giai đoạn B là 31%. Bệnh nhân giai đoạn C, tỉ lệ chỉ còn 11% và ở giai đoạn cuối xác suất chỉ còn 3% tùy điều kiện cụ thể. Ung thư gan giai đoạn đầu ít biểu hiện triệu chứng hoặc có dấu hiệu nhưng không điển hình. Vì thế việc phát hiện sớm căn bệnh này là rất khó khăn và đa số đối tượng đến gặp bác sĩ khi đã ở giai đoạn tiến triển của bệnh. Đây là triệu chứng sớm ung thư gan nhưng ít được chú ý tới do cảm giác đau không rõ ràng. Biểu hiện này do sự chèn ép thần kinh và các cấu trúc xung quanh của khối u. Đến khi cảm giác đau liên tục, dữ dội hơn tức là khối u đã tăng sinh, tăng kích thước. Việc sờ thấy khối nổi lên ở hạ sườn phải hay còn gọi là dấu hiệu gan to. Bạn sẽ cảm nhận được một khối cứng, bờ gồ ghề bất thường ở hạ sườn bên phải. Do khối này không đau hoặc chỉ hơi tức nên người bệnh thường phát hiện một cách ngẫu nhiên. Vàng da là triệu chứng hay gặp trong các bệnh lý gan mật. Quá trình thoái hóa của hồng cầu tạo nên Bilirubin tự do. Qua gan chuyển thành Bilirubin kết hợp. Đó là cơ chế gây màu vàng cho phân và nước tiểu. Với bệnh nhân ung thư gan, gan bị suy giảm chức năng, Bilirubin tự do ứ đọng rồi tăng cao trong máu. Từ đó gây nên triệu chứng vàng mắt, vàng da rất điển hình cho giai đoạn đầu ung thư gan. Ung thư gan có thể gây tắc đường mật trong gan hoặc ngoài gan. Chính sự tắc nghẽn này cản trở dòng lưu thông của muối mật khiến muối mật tràn vào máu. Ngứa là phản ứng của cơ thể do dị ứng muối mật gây nên. Tuy nhiên, người bệnh hầu hết ngứa ở mức độ vừa phải không quá nghiêm trọng. Nghe có vẻ không liên quan nhưng trên thực tế triệu chứng đau vai phải có thể là cảnh báo thầm lặng của bệnh ung thư gan. Gan là tạng nằm ở sát vùng hạ sườn phải, khi có khối u gan vùng đó sẽ đau và kích thích các dây thần kinh gây nên cảm giác đau không rõ ràng ở khu vực lân cận. Sụt cân nhanh là triệu chứng rất thường gặp trong ung thư. Người bệnh có thể giảm 5-6 kg/tháng. Khối ung thư gây nên sự bất thường về chuyển hóa, năng lượng trong cơ thể bị phân giải nhanh chóng và khó bù lại. Điều này khiến người mắc bệnh mệt mỏi nhiều và cân nặng sụt nhanh trong thời gian ngắn. Ngoài ra bệnh còn kèm các triệu chứng rối loạn tiêu hóa như nôn, buồn nôn, khó tiêu. Khoang màng bụng là một khoang ảo được bao bởi lá thành và lá tạng. Bình thường khoang này không có dịch, khi có một lý do bất kì dẫn tới sự tích tụ dịch ở khoang màng bụng còn gọi là cổ trướng. Gan có chức năng tạo albumin gây nên áp lực để giữ nước ở lại lòng mạch. Người bị ung thư gan khả năng này sẽ suy giảm, nước tràn ra ngoài lòng mạch gây tụ dịch ở khoang màng bụng, số lượng nhiều có thể chèn ép khiến bệnh nhân khó thở. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu dấu hiệu này không rõ ràng, người bệnh thường chỉ cảm nhận được bụng béo lên, mặc áo chật hơn, lưng hông đau tức. Trong giai đoạn đầu của ung thư gan, bệnh nhân có thể sốt nhẹ hoặc không. Sốt cao chỉ xảy ra khi khối u đã tiến triển thành áp xe hóa hoặc hoại tử. Tuy nhiên, đây là triệu chứng không đặc hiệu do xuất hiện ở nhiều bệnh lý khác như sốt virus, nhiễm trùng, nhiễm khuẩn. Ung thư gan giai đoạn đầu có thể điều trị triệt căn bằng phương pháp cắt gan, ghép gan hoặc đốt sóng cao tần. Với đối tượng khối u khu trú ở 1 thùy hoặc 1 phân thùy của gan bệnh nhân có thể lựa chọn phương pháp cắt bỏ một phần gan. Tuy nhiên, ngoài khối u, người ung thư gan thường có các bệnh đi kèm như xơ gan, viêm gan, rối loạn đông máu,…nên bác sĩ thực hiện phẫu thuật phải là người có kinh nghiệm và tay nghề cao. Các biến chứng sau phẫu thuật có thể là biến chứng chảy máu, nhiễm trùng, cục máu đông trong lòng mạch hoặc viêm phổi do nhiễm khuẩn. Tiên lượng tỷ lệ tái phát là 50% sau 3 năm và 70% sau 5 năm. Ghép gan là phương pháp được lựa chọn khi bệnh nhân có khổi u nhỏ ở giai đoạn O và A. Cụ thể được áp dụng khi bệnh nhân có 1 khối u < 5cm hoặc có ít hơn 3 khối u với kích thước không lớn hơn 3 cm. Khi khối u do nằm ở vị trí đặc biệt, không thể phẫu thuật cắt bỏ hoặc thể trạng bệnh nhân không chịu được một cuộc phẫu thuật cũng là yếu tố để lựa chọn điều trị ghép gan. Hạn chế của phương pháp này là ngân hàng gan để cấy ghép rất hiếm hoi. Chỉ khoảng 6500 gan có sẵn để thực hiện. Các biến chứng sau mổ cơ bản giống với cắt gan và có thể gặp tác dụng phụ do dùng thuốc hạn chế đào thải tạng ghép. Đốt sóng cao tần là một liệu pháp được lựa chọn khi không thể thực hiện cắt bỏ hay cấy ghép. Ưu điểm của nó là biện pháp xâm lấn tối thiểu để điều trị các khối u gan khu trú. Đốt sóng cao tần mục đích để tiêu diệt hoàn toàn khối u mà không gây tổn thương các tạng lân cận bởi cơ chế lắng đọng năng lượng điện từ tạo nhiệt. Phương pháp này cho tỷ lệ tử vong thấp nhưng biến chứng lại khá nhiều. Các biến chứng có thể gặp như xuất huyết ổ bụng, bỏng da, ruột, cơ hoành, áp xe gan, tổn thương phổi,…Nghiên cứu đã thực hiện vào năm 2010 về tỷ lệ tái phát sau điều trị đốt sóng cao tần ở thời điểm 1, 2, 3, 4, 5 năm là 17%, 38%, 50%, 59% và 63%. Tóm lại, phát hiện sớm ung thư gan sẽ mang lại tiên lượng tốt và dễ dàng hơn nhiều cho việc điều trị. Hướng điều trị sẽ phụ thuộc vào tình trạng bệnh nhân, điều kiện về kinh tế và khả năng thực hiện của đơn vị điều trị.
Ung thư
Ung thư là một nhóm các bệnh liên quan đến việc tăng sinh tế bào một cách mất kiểm soát và những tế bào đó có khả năng xâm lấn những mô khác bằng cách phát triển trực tiếp vào mô lân cận hoặc di chuyển đến những bộ phận khác trong cơ thể (di căn). Không phải tất cả các khối u đều là ung thư, có một số khối u thuộc vào nhóm lành tính, tức là khối u không xâm lấn các bộ phận khác của cơ thể. Một số dấu hiệu và triệu chứng của khối u ác tính bao gồm chảy máu bất thường, ho kéo dài không rõ nguyên nhân, sụt cân và những bất thường trong đại tiểu tiện. Mặc dù các triệu chứng này có thể là dấu hiệu của ung thư, chúng cũng có thể có các nguyên nhân khác. Hiện nay có khoảng hơn 100 loại ung thư ảnh hưởng đến cuộc sống con người. Việc sử dụng thuốc lá là nguyên nhân gây ra 22% số ca tử vong vì ung thư. Ngoài ra còn có thêm 10% khác là do béo phì, kém ăn, lười vận động và sử dụng thức uống có cồn quá mức.
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (OCD) là một trong những rối loạn sức khỏe tâm thần đặc trưng bởi những triệu chứng ám ảnh và cưỡng chế ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống hàng ngày. OCD trước đây được xếp vào nhóm rối loạn lo âu vì những người bị ảnh hưởng bởi chứng bệnh tâm thần này thường bị lo lắng nghiêm trọng do những suy nghĩ mang tính ám ảnh. Họ cũng có thể tham gia vào các hoạt động nhóm mở rộng để cố gắng giảm bớt sự lo lắng do ám ảnh. Trong ấn bản mới nhất của Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê về Rối loạn Tâm thần (DSM-5), OCD đã được chuyển sang loại rối loạn độc lập của chứng rối loạn là “Ám ảnh-Bắt buộc và Rối loạn Liên quan”. Các tình trạng liên quan trong lớp bao gồm rối loạn biến đổi cơ thể, rối loạn tích trữ và chứng giật tóc. Các triệu chứng của OCD thường xuất hiện dần dần và có thể kéo dài nếu không được điều trị. Những người mắc chứng OCD có thể gặp phải các triệu chứng ám ảnh, cưỡng chế hoặc cả hai. Các triệu chứng như vậy ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống bao gồm trường học, công việc, các mối quan hệ và hoạt động bình thường hàng ngày. Nỗi ám ảnh là những suy nghĩ, hình ảnh hoặc ý tưởng sẽ không biến mất, không mong muốn và cực kỳ đau khổ hoặc lo lắng (“Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi bị nhiễm một căn bệnh chết người?” Hoặc “Nếu tôi làm tổn thương ai đó thì sao?”). Những suy nghĩ không mong muốn về các chủ đề nhạy cảm hoặc cấm kỵ như tình dục, tôn giáo hoặc làm hại người khác. Ép buộc phải tuân thủ điều gì đó là những hành vi cần được lặp đi lặp lại nhiều lần để giải tỏa lo lắng. Sự ép buộc thường liên quan đến những ám ảnh. Ví dụ, nếu bạn bị ám ảnh bởi sự ô nhiễm, bạn có thể cảm thấy bị áp lực và phải rửa tay nhiều lần. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng là như vậy. Điều quan trọng cần lưu ý là không phải tất cả các thói quen hoặc hành vi lặp đi lặp lại đều đồng nghĩa với sự ép buộc. Mọi người đều có những suy nghĩ lặp đi lặp lại hoặc thỉnh thoảng tham gia vào việc kiểm tra lại mọi thứ. Để được chẩn đoán mắc chứng OCD, những dấu hiệu nhận biết đặc trưng:. Không đạt được niềm vui từ những suy nghĩ hoặc hành vi, nhưng tham gia vào các hành vi cưỡng chế có thể giúp giảm bớt sự lo lắng mà những suy nghĩ đó gây ra. “OCD là một chứng bệnh tương đối phổ biến ảnh hưởng đến khoảng 2,3% cuộc đời của con người. Nó có thể xảy ra ở bất kể đối tượng đối tượng nào không phân biệt giữa nam – nữ, giữa chủng tộc hay nền văn hóa.”. OCD thường bắt đầu vào khoảng cuối tuổi vị thành niên/thanh niên, mặc dù trẻ nhỏ và thanh thiếu niên cũng có thể bị ảnh hưởng. Cha mẹ và giáo viên thường bỏ qua những dấu hiệu của OCD ở trẻ nhỏ và thanh thiếu niên, vì chúng có thể cố gắng che giấu các triệu chứng của mình trong một thời gian dài. Nguyên nhân chính xác của OCD vẫn chưa được biết chính xác, nhưng có một vài yếu tố được cho là có dấu hiệu nhất định. Yếu tố sinh học: Một giả thuyết cho rằng OCD xuất phát từ sự cố dẫn truyền xung thần kinh trong não bộ khiến cho việc lọc hoặc “kiểm duyệt” gây ra những suy nghĩ, ý tưởng và xung động mà chúng ta có mỗi ngày. Nếu bạn bị OCD, não của bạn có thể gặp khó khăn trong việc quyết định nên tắt những suy nghĩ và xung động nào. Kết quả là, bạn có thể bị ám ảnh – cưỡng chế. Sự phá vỡ hệ thống này có thể liên quan đến sự bất thường của serotonin. Tiền sử gia đình: Bạn cũng có thể có nguy cơ cao hơn nếu có ai đó trong gia đình bạn mắc chứng rối loạn này. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng nếu bạn, cha/mẹ hoặc anh/chị em mắc chứng OCD, thì có 25% khả năng một thành viên khác trong gia đình cũng sẽ mắc bệnh này. Di truyền: Mặc dù chưa thể khẳng định có tồn tại “gen OCD” hay không, nhưng OCD cũng có thể liên quan đến một số nhóm gen cụ thể. Stress: Căng thẳng do thất nghiệp, khó khăn trong mối quan hệ, các vấn đề ở trường học, bệnh tật hoặc việc sinh con có thể là những tác nhân mạnh mẽ gây ra các triệu chứng của OCD. Những người dễ bị OCD mô tả nhu cầu kiểm soát suy nghĩ của họ rất mạnh và tin rằng những suy nghĩ kỳ lạ hoặc bất thường có nghĩa là họ đang phát điên hoặc sẽ mất kiểm soát. Mặc dù nhiều người có thể có những suy nghĩ kỳ lạ hoặc cảm thấy bất thường khi cảm thấy căng thẳng, nhưng nếu bạn dễ bị OCD thì bạn có thể khó bỏ qua hoặc quên đi những suy nghĩ này. Ở một số thời điểm bạn có thể cảm thấy những suy nghĩ này “có vẻ như” rất nguy hiểm (thực tế thì không), nhưng vì cảm thấy những suy nghĩ như thế có vẻ rất nguy hiểm nên cuối cùng bạn lại càng chú ý đến chúng, điều này tạo nên một vòng luẩn quẩn. Rối loạn ám ảnh cưỡng chế có thể biểu hiện theo một số cách khác nhau. Một số người chỉ trải qua những ám ảnh, một số chỉ bị cưỡng chế, trong khi những người khác trải qua cả hai. Không có loại phụ chính thức của OCD, những nghiên cứu cho thấy rằng những ám ảnh và cưỡng chế phổ biến nhất thường có xu hướng tập trung vào:. Một số dạng OCD khác mà mọi người có thể gặp phải bao gồm các triệu chứng tập trung vào việc kiểm tra mọi thứ lặp đi lặp lại, đếm một số đồ vật và ngẫm nghĩ về những suy nghĩ hoặc chủ đề nhất định. Cha mẹ cũng nên biết về một loại bệnh OCD ở trẻ em có thể dần trở nên trầm trọng hơn hoặc khởi phát do viêm họng liên cầu, trong đó hệ thống miễn dịch của chính trẻ tấn công não.Dạng rối loạn tâm thần kinh tự miễn ở trẻ em (PANDAS) này của OCD chiếm 25% số trẻ em mắc chứng OCD. “Không giống như OCD bình thường phát triển chậm, PANDAS OCD phát triển nhanh chóng và có một loạt các triệu chứng khác không liên quan đến các trường hợp điển hình của OCD.”. Điều trị OCD có thể bao gồm thuốc, trị liệu tâm lý hoặc kết hợp cả hai. Có nhiều loại thuốc có hiệu quả trong việc giảm tần suất và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng OCD. Các liệu pháp tâm lý cũng là phương pháp điều trị hiệu quả cao để giảm tần suất và cường độ của các triệu chứng OCD. Các phương pháp điều trị tâm lý hiệu quả cho OCD nhấn mạnh những thay đổi trong hành vi và nhận thức. Khi cần thiết, trị liệu tâm lý có thể được thực hiện độc lập hoặc có thể kết hợp với thuốc. Hai loại liệu pháp tâm lý chính cho OCD là liệu pháp hành vi – nhận thức (CBT) và liệu pháp phòng ngừa phản ứng và tiếp xúc (ERP). OCD là một tình trạng mãn tính, kéo dài và có thể xấu đi theo thời gian, vì vậy điều quan trọng là phải được điều trị chuyên nghiệp. Ngoài việc nói chuyện với bác sĩ hoặc chuyên gia sức khỏe tâm thần, cũng có một số chiến lược tự lực mà bạn có thể sử dụng để giúp kiểm soát các triệu chứng của mình:. Thực hành các chiến lược chăm sóc bản thân tốt sẽ giúp bạn ứng phó với căng thẳng. Căng thẳng thường có thể gây ra các triệu chứng OCD, vì vậy điều quan trọng là phải dựa vào các phương pháp ứng phó hiệu quả và lành mạnh. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng rối loạn giấc ngủ có liên quan đến các triệu chứng OCD và có thể khiến tình trạng nghiêm trọng hơn. Ngoài giấc ngủ, bạn nên tập thể dục thể chất thường xuyên và duy trì chế độ ăn uống lành mạnh, những lựa chọn cho lối sống mà bạn có thể thực hiện để giúp bản thân mình dễ dàng kiểm soát căng thẳng và lo lắng mà cuộc sống ném vào bạn. Luyện tập kỹ thuật thư giãn. Thêm một số công cụ hiệu quả như thiền, hít thở sâu, tránh niệm và thư giãn cơ bắp tiến bộ vào các nghi thức thư giãn của bạn. Tìm kiếm sự trợ giúp. Cân nhắc tham gia một nhóm hỗ trợ chẳng hạn như nhóm hỗ trợ trực tuyến của “Quỹ OCD Quốc tế”. Những nhóm như vậy có thể hữu ích khi nói chuyện với những người đã có trải nghiệm giống bạn. Hỗ trợ xã hội rất quan trọng đối với sức khỏe tinh thần và các nhóm hỗ trợ có thể là một nguồn hữu ích. "Sứ mệnh của SHARE là Phổ biến, Phát triển và Ứng dụng Tâm lý học trong một môi trường năng động, chuyên nghiệp nhằm nâng cao nhận thức của xã hội về tầm quan trọng của việc chăm sóc sức khỏe tinh thần và thúc đẩy sự lành mạnh về tâm trí."
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế
Rối loạn ám ảnh cưỡng chế (tiếng Anh: Obsessive-Compulsive Disorder, viết tắt là OCD) là một rối loạn tâm lý có tính chất mãn tính, dấu hiệu phổ biến của bệnh đó là ý nghĩ ám ảnh, lo lắng không có lý do chính đáng và phải thực hiện các hành vi có tính chất ép buộc để giảm bớt căng thẳng, đây là một dạng trong nhóm bệnh liên quan trực tiếp đến stress. Bệnh còn có tên khác là rối loạn ám ảnh cưỡng bức. Người bị ảnh hưởng của bệnh có những ý nghĩ và hành vi lặp lại một cách vô nghĩa mà không kiểm soát được chẳng hạn rửa tay hàng chục lần mặc dù tay đã sạch hay dành quá nhiều thời gian để sắp xếp đồ vật trong nhà quá mức gọn gàng cần thiết. Nhưng không phải mọi hành vi có tính chất ám ảnh cưỡng chế đều bị coi là dấu hiệu của bệnh, chẳng hạn phải nghe kể chuyện mới đi ngủ được (ở trẻ nhỏ) hoặc các nghi lễ tôn giáo đều là các hành vi lặp đi lặp lại nhưng chúng có ích và không quá gây phiền toái.
khoa học lên sự phát triển của triết học không phải là trực tiếp và theo đườngthẳng, mà là gián tiếp tạo ra bầu không khí tinh thần cho phép hình thành mộtkiểu tư duy, một cái nhìn tương ứng với trạng thái đạt được của khoa học về thếgiới. Thông qua những tri thức và phát minh khoa học, các khái niệm, các phạmtrù triết học có thêm những nội dung mới. Sự phát triển của khoa học tự nhiênnhất định sẽ đưa đến những kết luận triết học chung như là một sự tổng kết lýluận. Những kết luận triết học rút ra từ các phát minh của khoa học tự nhiênthường do chính các nhà khoa học tự nhiên thực hiện. Ảnh hưởng của khoa họcđến sự phát triển của triết học có thể đưa đến những kết luận tích cực, nhưngcũng có thể đưa đến những kết luận tiêu cực, phản khoa học. Xét về phương thức biểu hiện, triết học là thế giới quan lý luận, là hệ thống cáctư tưởng được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn và nhận thức. Xét về tínhchất, triết học là sự khái quát chung nhất, mang đặc trưng tư duy tổng hợp. Mốiquan hệ giữa triết học và các khoa học là mối quan hệ biện chứng, thống nhấtcủa các mặt đối lập. Tính đặc thù của mối quan hệ này nằm ở chỗ, tùy từng giaiđoạn phát triển cụ thể mà mặt này hay mặt kia nổi trội, tác động của mặt này lênmặt kia không phải chỉ theo một hướng duy nhất. Các kết luận triết học được rútra từ khoa học có thể là tích cực, nhưng cũng có thể là tiêu cực. Điều đó phụthuộc vào lý luận nhận thức của các nhà khoa học được định hướng bởi thế giớiquan triết học nào.-Mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học:Trong khi khoa học tìm hiểu các quy luật của thế giới vật chấtkhách quan thì tôn giáo xác định các giá trị tinh thần và tâm linh của con người;trong khi khoa học làm nền tảng cho công nghệ thì tôn giáo làm nền tảng chođạo đức; trong khi khoa học bận tâm tới đời sống vật chất thì thì tôn giáo bậntâm tới ý nghĩa và giá trị đích thực của đời người. Nếu quan tâm đến các phươngpháp khoa học, chúng ta sẽ nhận ra thế giới khoa học hoàn toàn không có chỗcho lòng trung thành. Trong khoa học, con người liên tục nêu ra các giả thuyếtvà kiểm định chúng. Một giả thuyết khi đã thu thập đủ bằng chứng khoa học ủnghộ các luận điểm của nó sẽ được gọi là lý thuyết hoặc học thuyết. Nhưng ngaycả các học thuyết tốt nhất cũng không được đặt cao hơn truyền thống hoài nghi.Trái ngược với khoa học, niềm tin là yếu tố cốt tử của mọi tôn giáo. Người ta cóthể “ủng hộ” một học thuyết khoa học hoặc không ủng hộ, nhưng đối với tôngiáo thì phải có đức tin để được xem là có sức mạnh tinh thần. Sự đối lập giữatôn giáo và khoa học như đã từng xảy ra trong lịch sử thực ra chỉ là một sự đốilập Giả tạo khi tôn giáo không có thẩm quyền lại lên tiếng về những vấn đềthuộc phạm vi riêng của khoa học và khoa học lại can thiệp vào những vấn đềthuộc vào bản chất và đặc trưng của tôn giáo điều đó không có nghĩa là đem tôngiáo đối lập với khoa học mà là để trả lại tôn giáo và khoa học những chức năngvà vai trò mà chúng vốn có. Khoa học mà thiếu tôn giáo thì khập khiễng, tôngiáo mà không có khoa học thì mù quáng. Tư duy lý luận, tư duy biện chứng là gì? Bình luận nhận định củaPh.Ăngghen: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thìkhông thể không có tư duy lý luận”… “Cứ mỗi lần khoa học đạt đượcthành tựu mới thì triết học phải thay đổi hình thức tồn tại của chính mình”Trả lời:Tư duy lý luậnLà hình thức cao nhất của tư duy, nó chính là quá trình phản ánh hiện thựckhách quan một cách gián tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng cáckhái niệm, phạm trù, quy luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và cácthao tác tư duy để nắm bắt các mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quyluật vận động nội tại tiềm ẩn trong khách thể nhận thức.Tư duy biện chứngNăng lực tư duy biện chứng là một bộ phận cấu thành năng lực tư duy, nócó vai trò đặc biệt quan trọng đối với chủ thể nhận thức và hoạt động. Năng lựctư duy biện chứng đòi hỏi chủ thể nhận thức không chỉ có tri thức khoa học sâurộng mà còn phải biết vận dụng linh hoạt, mềm dẻo những tri thức đó vào giảiquyết những vấn đề cụ thể trong cuộc sống. Nhưng để có khả năng vận dụngnhững tri thức chung nhất của phép biện chứng duy vật vào giải quyết nhữngvấn đề cụ thể, đòi hỏi chủ thể nhận thức phải hiểu biết sâu sắc và nắm vữngđược phép biện chứng duy vật. Có như vậy mới hình thành được năng lực tưduy biện chứng.Như vậy, năng lực tư duy biện chứng là tổng hợp tất cả các phẩm chấtcủa tư duy ở trình độ cao, khoa học nhằm giải quyết những vấn đề nhận thứcvà thực tiễn đang đặt ra một cách đúng đắn, kịp thời, linh hoạt, sáng tạo, hiệuquả nhất. Muốn vậy chủ thể tư duy phải: Nắm vững các nguyên lý, quy luật,phạm trù của phép biện chứng duy vật và vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhữngnguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng duy vật vào nhận thức vàgiải quyết những vấn đề bức thiết của thực tiễn đặt ra.Bình luận nhận định của Ph.Ăngghen: “Một dân tộc muốn đứng vữngtrên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”… “Cứmỗi lần khoa học đạt được thành tựu mới thì triết học phải thay đổi hìnhthức tồn tại của chính mình”.Trước đây những dân tộc khác nhau có những nền khoa học phát triểnkhông như nhau. Tuy nhiên hiện nay, khoa học thuộc về cộng đồng do thế giớiđã hòa nhập.Đỉnh cao khoa học: tiếp cận những vấn đề phức tạp nhất của giới khoahọc ở thời điểm, giai đoạn đó. Muốn lao vào đối đầu, giải quyết với các vấn đềkhoa học ở đỉnh của sự phát triển thì không thể ko có triết học hướng dẫn. Các nhà khoa học phải học triết học để nắm vững tư duy lý luận. Vì nómang lại tư duy lý luận hay còn gọi là thế giới quan, phương pháp luận giúp chocác nhà khoa học có khả năng xử lý những vấn đề do khoa học đặt ra.Ngược lại, khoa học cũng có vai trò rất quan trọng đối với triết học.Nếu triết học mang đến cho khoa học tư duy lý luận để các nhà khoa họcnghiên cứu và khám phá thế giới thì khoa học cũng mang đến cho triết họcnhững thành tựu của mình để luận chứng cho những nguyên lý, quy luật phạmtrù của nó. Vì vậy, khi khoa học phát triển và đạt được những thành tựu mới,buộc triết học phải thay đổi cơ sở lý luận của mình hay hoàn thiện chính mình.Việc gắn với sự phát triển của khoa học sẽ giúp cho tư duy nắm được cácmối liên hệ bên trong của các sự vật hiện tượng. Thêm vào đó, các thành tựu củakhoa học tự nhiên đã đưa lại những cơ sở khách quan, những kết luận chung chotư duy lý luận. Sự phát triển của khoa học nói chung và những phát minh mớitrong khoa học nói riêng sẽ dẫn đến sự mất đi một số khái niệm và đồng thờixuất hiện một số khái niệm khác. Dĩ nhiên, điều đó không thể xem như là sự đổimới thuật ngữ giản đơn của ngôn ngữ. Đó chính là quá trình làm sâu sắc thêm vềtư duy nhờ đó được những hình thức diễn đạt bằng lời tương ứng. Và quá trìnhlàm “sâu sắc" tư duy đó được gắn liền với việc mở rộng lĩnh vực áp dụng nhữnghệ ngôn ngữ mới.3. Chứng minh rằng, triết học Mác ra đời là một bước ngoặt có ýnghĩa cách mạng trong lịch sử triết học nhân loại; nó làm cho chủ nghĩaMác không chỉ có giá trị lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối vớithời đại.Đến giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh ở các nước TâyÂu. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng tỏ ra ưu việt hơn so vớicác chế độ xã hội khác trong lịch sử. Tây Âu đã trở thành trung tâm của sự pháttriển lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa, và sự phát triển lực lượng sản xuất tạora cơ sở kinh tế cho sự phát triển về mọi mặt trong đời sống xã hội.Chủ nghĩa tư bản ngày càng phát triển càng sản sinh ra và củng cố tronglòng nó một lực lượng đối lập là giai cấp vô sản công nghiệp có vai trò to lớnđối với sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản; nhưng lực lượng này ngàycàng xung đột gay gắt với giai cấp tư sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp vôsản đã phát triển ngày càng mạnh mẽ và rộng lớn.sĐể cuộc đấu tranh giai cấp thắng lợi cần phải có một lý luận khoa học dẫnđường đưa giai cấp công nhân đi từ đấu tranh tự phát tới đấu tranh tự giác. Lúcbấy giờ, lý luận về chủ nghĩa xã hội không tưởng của Xanh Ximông, Phuriê,Ôoen,… không đáp ứng được yêu cầu, lợi ích và sứ mệnh lịch sử của giai cấp vôsản. Do đó, triết học Mác phải ra đời để đáp ứng được nhu cầu là vũ khí tinhthần của giai cấp vô sản. Và giai cấp vô sản đóng vai trò là vũ khí vật chất củaTriết học Mác. Hơn nữa, chỉ có triết học Mác mới có khả năng cải tạo chủ nghĩaxã hội không tưởng thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Sự ra đời của Triết học Mác là tổng hợp biện chứng của toàn bộ quá trìnhphát triển của tư tưởng triết học của nhân loại. Nó là hình thức phát triển caonhất của chủ nghĩa duy vật và của phép biện chứng. Đó là kết quả của sự pháttriển của triết học duy vật trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, đồng thờicũng là kết quả của sự phát triển của phép biện chứng trong cuộc đấu tranh vớiphép siêu hình, trong lịch sử triết học. Tuy nhiên, tiền đề lý luận trực tiếp cho sựra đời của triết học Mác là triết học cổ điển Đức, mà tiêu biểu là triết họcHêghen và triết học Phoiơbắc.Xuất phát từ quá trình vận động phát triển của “ý niệm tuyệt đối”, Hêghenđã trình bày đầy đủ và chặt chẽ hệ thống các tư tưởng (các nguyên lý, quy luậtvà phạm trù) của phép biện chứng theo tinh thần duy tâm, thần bí. C.Mác vàPh.Ăngghen đã triệt để phê phán tính chất duy tâm, thần bí trong triết họcHêghen nhưng đồng thời cũng đánh giá cao tư tưởng biện chứng của ông. Bằngthiên tài của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã cải tạo triệt để phép biện chứngduy tâm thành phép biện chứng duy vật để nó đóng vai trò công cụ tinh thầnnhận thức các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy con người.Xuất phát từ giới tự nhiên vật chất, tìm hiểu các vấn đề về con người vàxây dựng nên chủ nghĩa duy vật nhân bản, Phoiơbắc coi con người – với tư cáchlà thực thể của thế giới tự nhiên – là đối tượng nghiên cứu của triết học. Ông đốilập chủ nghĩa duy vật nhân bản của mình với triết học duy tâm biện chứng củaHêghen và trên cả hai bình diện là bản thể luận và nhận thức luận đồng thời đòivứt bỏ chủ nghĩa duy tâm và cả phép biện chứng của Hêghen… C.Mác vàPh.Ăngghen đã đánh giá cao chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc, nhưng cũng đồngthời phê phán tư duy siêu hình, duy tâm về lịch sử của ông. Chính C.Mác vàPh.Ăngghen là những người đã nhận thức một cách chính xác những thành tựuvà hạn chế của triết học Phoiơbắc, và dựa trên hệ thống triết học này để xâydựng thế giới quan duy vật biện chứng của mình.Sự ra đời của triết học Mác còn xuất phát từ những giá trị mà nhân loạiđạt được trong lĩnh vực kinh tế chính trị học Anh (đại biểu là A.Xmít vàĐ.Ricácđô), chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và Anh (đại biểu là XanhXimông, S.Phuriê, R.Ôoen). Nhờ những giá trị tư tưởng trong các lĩnh vực nàymà C.Mác và Ph.Ăngghen thấy rõ nền tảng vật chất của sự phát triển lịch sử xãhội, sáng tạo nên quan điểm duy vật về lịch sử và dự báo về chủ nghĩa xã hộihiện thực trong tương lai.Những thành tựu của: R.Mayer và P.P.Joule đã phát hiện ra định luật bảotoàn và chuyển hóa năng lượng; Schwann và Schleiden xây dựng học thuyết tếbào; Darwin xây dựng học thuyết tiến hóa;… đã làm lung lay tận gốc các quanniệm duy tâm, siêu hình về nhận thức thế giới tự nhiên; đồng thời, khẳng địnhcác tư tưởng nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và của phép biện chứngduy vật về mọi sự tồn tại trong thế giới (nguyên lý về tính thống nhất vật chất;nguyên lý về mối liên hệ phổ biến; nguyên lý về sự phát triển). Khoa học tựnhiên mang tính chất lý luận trong giai đoạn này là tiền đề khoa học cho sự rađời của triết học Mác; và những khái quát của triết học Mác đã mang lại cơ sở
Quan hệ giữa tôn giáo và khoa học
Quan hệ giữa tôn giáo và khoa học là mối quan hệ lâu đời và phức tạp giữa tôn giáo và khoa học trong lịch sử nhân loại. Các nhà sử học chuyên về khoa học và tôn giáo, triết gia, nhà thần học, nhà khoa học và những người khác từ các khu vực địa lý và văn hóa khác nhau đã giải quyết nhiều khía cạnh của mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học. Các câu hỏi quan trọng trong tranh luận này bao gồm: liệu tôn giáo và khoa học có tương thích hay không, liệu niềm tin tôn giáo có thể có lợi hoặc ức chế khoa học không. Mặc dù thế giới cổ đại và trung cổ không có khái niệm giống với cách hiểu hiện đại về "khoa học" hay "tôn giáo", một số yếu tố của các ý tưởng hiện đại về chủ đề này tái diễn trong suốt lịch sử. Các cụm từ có cấu trúc cặp "tôn giáo và khoa học" và "khoa học và tôn giáo" lần đầu tiên xuất hiện trong văn học vào thế kỷ 19. Điều này trùng hợp với việc tinh chỉnh "khoa học" (từ ngành "triết học tự nhiên") và "tôn giáo" như những khái niệm khác biệt trong vài thế kỷ trước, một phần do sự chuyên nghiệp hóa của khoa học, Cải cách Tin lành, thuộc địa và toàn cầu hóa.
Trong chương trình học của môn Địa lý, chắc hẳn bạn đã được học về kinh tuyến – vĩ tuyến, kinh tuyến là gì, vĩ tuyến là gì,… Tuy nhiên, có thể do chưa ứng dụng nhiều trong cuộc sống nên không phải ai cũng nhớ đường kinh tuyến gốc, kinh tuyến tây là gì, kinh tuyến trục là gì. Ngay cả kiến thức về kinh tuyến – vĩ tuyến Việt Nam ở đâu, đường vĩ tuyến Việt Nam là gì, vĩ tuyến 17 thuộc tỉnh nào liệu bạn có nắm rõ? Vậy thì cũng đọc ngay bài viết sau nhé!. Để tìm hiểu khái niệm kinh tuyến là gì một cách dễ hiểu, hãy nhìn hình minh họa dưới đây. Một nửa đường tròn nằm trên bề mặt Trái Đất, nối liền các Địa cực, có chỉ hướng Bắc – Nam và cắt thẳng góc với đường xích đạo được gọi là đường kinh tuyến. Độ dài của đường kinh tuyến là khoảng 20.000km. Có nhiều loại đường kinh tuyến khác nhau, bao gồm:. Kinh tuyến từ: Các kinh tuyến mà nối liền các cực từ gọi là các kinh tuyến từ. Kinh tuyến địa lý: Những kinh tuyến nối liền các Địa cực với nhau thì gọi là các kinh tuyến địa lý. Kinh tuyến họa đồ: Đường kinh tuyến vẽ trên bản đồ được gọi với cái tên là các kinh tuyến họa đồ. Hiểu được định nghĩa kinh tuyến là gì, khái niệm kinh tuyến gốc và kinh tuyến trục là gì sẽ khá dễ nhớ. Đường kinh tuyến gốc (hay còn được gọi là đường kinh tuyến 0°) chạy qua đài quan sát thiên văn tại thành phố Greenwich, phía Nam của Thủ đô Luân Đôn nước Anh. Trái Đất được chia thành Bán cầu đông và Bán cầu tây là do mặt phẳng của kinh tuyến 0° và kinh tuyến 180°. Như các bạn đã biết, Trái đất của chúng ta có hình cầu, còn các loại bản vẽ thiết kế công trình xây dựng, các bản đồ địa hình,… thì lại được thể hiện qua một mặt phẳng là mặt tờ giấy. Để làm được như vậy thì người ta phải chiếu mặt đất lên trên một mặt phẳng. Bằng phép chiếu Gauss Krugher – phép chiếu hình trụ ngang đồng góc. Muốn biểu diễn được mặt đất trên mặt phẳng thì người ta đã lồng Trái đất vào một hình trụ ngang, đường kính của hình trụ đúng bằng đường kính của Trái đất. Khi đó, Trái đất sẽ tiếp xúc với hình trụ này. Giao của mặt hình trụ sẽ là một đường tròn – chính là kinh tuyến trục. Đường kinh tuyến trục này đi qua cả hai cực của Trái đất. Kinh tuyến Tây: Đường kinh tuyến Tây là những kinh tuyến nằm ở bên trái của kinh tuyến gốc. Kinh tuyến Đông: Đường kinh tuyến Đông là những kinh tuyến nằm ở bên phải của kinh tuyến gốc. Vĩ tuyến Bắc: Đường vĩ tuyến Bắc là những vĩ tuyến nằm từ xích đạo đến cực Bắc. Vĩ tuyến Nam: Đường vĩ tuyến Nam là những vĩ tuyến nằm từ xích đạo đến cực Nam. Đã hiểu kinh tuyến là gì rồi, vậy đường vĩ tuyến là gì, tọa độ đường vĩ tuyến là gì? Vòng tròn tưởng tượng có tác dụng nối tất cả các điểm có chung vĩ độ, có hướng từ phía Đông sang Tây trên Trái Đất chính là đường vĩ tuyến. Xác định vị trí trên vĩ tuyến được thông qua tọa độ của kinh độ. Tại điểm giao nhau giữa đường kinh tuyến và đường vĩ tuyến luôn luôn vuông góc. Càng gần cực Trái Đất bao nhiêu thì đường kính của vĩ tuyến lại càng nhỏ bấy nhiêu. Nên ghi nhớ 5 loại đường vĩ tuyến đặc biệt được sử dụng để đánh dấu trên Trái Đất. Trong đó, có bốn vĩ tuyến được định nghĩa dựa trên mối liên hệ giữa góc nghiêng của Trái Đất và mặt phẳng quỹ đạo của nó xoay quanh Mặt Trời. Vĩ tuyến thứ năm hay còn được gọi là đường xích đạo, nằm ở giữa hai cực. Đường xích đạo chia Trái đất thành hai phần Bắc Bán Cầu và Nam Bán Cầu. 5 đường vĩ tuyến đặc biệt cần nhớ của Trái đất là:. Có thể thấy, các đường ranh giới phía Bắc và phía Nam của từng vùng đất được gọi với cái tên Hạ chí tuyến và Đông chí tuyến. Tại địa điểm này, con người có thể thấy được Mặt Trời đi qua đỉnh đầu vào ít nhất một thời điểm trong năm. Tại ranh giới của vòng cực Bắc và vòng cực Nam, ta có thể nhìn thấy Mặt Trời trong suốt ít nhất một ngày giữa mùa hè trong năm. Đặc biệt, là một người con đất Việt không thể không biết đến đến vĩ tuyến đặc biệt – vĩ tuyến 17. Vĩ tuyến 17 Bắc là một vĩ tuyến có vĩ độ bằng 17 độ, nằm ở phía Bắc của mặt phẳng xích đạo của Trái đất. Đây là vĩ tuyến có ý nghĩa vô cùng quan trọng xuyên suốt lịch sử Việt Nam. Do xung đột ý thức hệ mà vĩ tuyến này đã từng chia cắt đất nước Việt Nam ta thành 2 Nhà nước độc lập với 2 chính thể tại 2 miền riêng biệt. Bạn có nhận ra vĩ tuyến 17 thuộc tỉnh nào không?. Ngày 21/7/1954, sau khi Hiệp định Genève được ký kết, lấy vĩ tuyến 17 (hay là vĩ tuyến 17° Bắc), địa phận dọc sông Bến Hải, thuộc tỉnh Quảng Trị, trở thành phân định giới tuyến quân sự Bắc – Nam tạm thời của Việt Nam. Địa phận ở vĩ tuyến 17 chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử vào tháng 7/1956. Cho tới năm 1956, quy chế hoạt động tại giới tuyến này chính thức được đưa ra, đặt dưới sự giám sát của Uỷ ban quốc tế gồm các quốc gia Ba Lan, Canada và Ấn Độ. Khu phi quân sự rộng 1,6 km (bằng một dặm Anh) được đặt về mỗi phía tính từ bờ sông Bến Hải, từ biên giới Việt Nam – Lào kéo tới phía bờ Biển Đông. Cũng từ thời điểm đó, trong suốt gần 22 năm ròng rã từ Chiến tranh Việt Nam đến hết ngày 2/7 năm 1976, dòng Bến Hải chạy dọc vĩ tuyến 17 đã trở thành thành địa phận chia cắt đất nước Việt Nam thành 2 miền tách biệt. Nắm vững được các kiến thức địa lý cơ bản về kinh tuyến vĩ tuyến … giúp bạn khám phá thêm nhiều điều thú vị về Trái đất này. Là một người con đất Việt, đừng quên tìm hiểu kinh tuyến vĩ tuyến Việt Nam, đặc biệt là vĩ tuyến 17 thuộc tỉnh nào bạn nhé. Trợ từ, thán từ đã không còn xa lạ gì với mỗi chúng ta. Nhưng để có thể giải thích trợ từ, thán từ là gì và phân biệt chúng …. Trụ sở: Tòa nhà A14, Ngách 3/10 Đường Liên cơ, Q. Nam Từ Liêm, TP Hà Nội
Kinh tuyến
Kinh tuyến là một nửa đường tròn trên bề mặt Trái Đất, nối liền hai Địa cực, có độ dài khoảng 20.000 km, chỉ hướng bắc-nam và cắt thẳng góc với đường xích đạo. Mặt phẳng của kinh tuyến 0° (chạy qua đài quan sát thiên văn tại Greenwich thuộc Luân Đôn) và kinh tuyến 180°, chia Trái Đất ra làm hai bán cầu – Bán cầu đông và Bán cầu tây. Các kinh tuyến nối liền các cực từ là các kinh tuyến từ, những kinh tuyến nối liền các Địa cực thì gọi là các kinh tuyến địa lý, còn các đường kinh tuyến vẽ trên bản đồ – là các kinh tuyến họa đồ. Kinh tuyến này còn được gọi là kinh tuyến địa lý, để phân biệt với kinh tuyến địa từ là giao tuyến giữa bề mặt Trái Đất và mặt phẳng đi qua đường thẳng nối các cực địa từ Bắc và Nam. Kinh tuyến gốc 0 độ đi qua vùng Greenwich ở ngoại ô thủ đô Luân Đôn nước Anh. Có 360 kinh tuyến, người ta dựa vào kinh tuyến để chia Trái Đất thành 12 múi giờ.
Đại học Catholic Busan Hàn Quốc là trường đại học tư thục tổng hợp công giáo, được thành lập vào năm 1964. Catholic University of Busan là một trong những trường đại học nổi tiếng ở khu vực Busan, với thế mạnh đào tạo các ngành điều dưỡng, y, kỹ thuật máy tính và kỹ thuật phần mềm. Cùng Du học MAP tìm hiểu điều kiện du học Đại học Catholic Busan Hàn Quốc, chương trình học hệ tiếng Hàn, học phí, học bổng và ký túc xá tại Catholic University of Busan qua bài viết dưới đây. Mời bạn cùng điền thông tin theo mẫu đăng ký tư vấn cuối bài viết hoặc liên hệ hotline 0942209198 – 0983090582 để có hành trình du học Hàn Quốc tuyệt vời cùng MAP!. Catholic Busan là trường đại học hệ 4 năm được thành lập thứ 2 ở quận Geumjeong sau Đại học quốc gia Busan. Tiền thân là Trường Điều dưỡng Merinol (hệ 3 năm) trực thuộc bệnh viện nữ tu Merinol. Năm 1971, trường được công nhận thành Trường Cao đẳng Điều dưỡng Merinol. Năm 1998, trường được công nhận hệ đại học và đổi tên thành Trường Đại học Jinsan. Năm 1991, trường được thành lập nhằm đào tạo những mục sư. Năm 1999, trường chính thức sáp nhập với Trường Đại học Jinsan và lấy tên là Catholic University of Busan cho đến nay. Busan Catholic University không ngừng mở rộng quy mô và đào tạo nhiều chuyên ngành nhằm đáp ứng nhu cầu của người học. Với hơn 50 năm không ngừng đổi mới, Catholic Busan Hàn Quốc luôn nhận được đánh giá cao về chương trình đào tạo chuyên sâu, cơ sở hạ tầng hiện đại tích hợp nhiều tiện ích nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của sinh viên. Đồng thời trường nằm ở khu vực Busan nên có chi phí du học Hàn Quốc vô cùng hợp lý. Theo Báo cáo đánh giá cải cách đại học 2015, Catholic Busan là trường đại học (hệ 4 năm) duy nhất xếp hạng A trong khu vực Busan và Gyeongnam. Trong khi đó, các trường TOP thuộc khu vực Busan như Đại học Hàng hải Hàn Quốc, Đại học Dong A, Đại học Bu Kyung và Đại học Busan cũng chỉ xếp hạng B. Trường có tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp tìm được việc làm cao nhất khu vực Busan, Ulsan và Gyeongnam trong 4 năm liền 2015 -2018. Theo Công bố thông tin đại học 2019, Catholic University of Busan là trường có tỉ lệ nhận học bổng cao nhất trong khu vực Busan. Buổi trao chứng nhận Trường Đại học Top đầu toàn quốc 5 năm liên tiếp đào tạo sinh viên xuất sắc trong kỳ đánh giá năng lực. Điều kiện về học vấn: Sinh viên tốt nghiệp cấp 3 hoặc cấp học tương đương. Điều kiện về học vấn: Sinh viên đã tốt nghiệp đại học hoặc cấp học tương đương. Du học sinh nước ngoài đang có dự định đăng ký nhập học vào các Trường Đại học hoặc Cao học Hàn Quốc. Kiều bào Hàn hoặc người nước ngoài cần tiếng Hàn để phục vụ cho công việc. Hằng năm, có rất nhiều loại học bổng đại học Catholic Busan được trao tặng cho sinh viên hệ đại học lẫn sinh viên hệ sau đại học. Ngoài ra, trường còn trao tặng nhiều học bổng du học Hàn Quốc hấp dẫn dành cho cả những du học sinh nước ngoài có thành tích xuất sắc. Trường Catholic Busan có 2 khu ký túc xá riêng biệt dành cho nam sinh và nữ sinh. Ký túc xá Trường Đại học Catholic Busan Hàn Quốc hiện đại phức hợp nhiều tiện ích như: Phòng giặt, phòng tập thể dục, phòng đọc sách, phòng học nhóm, phòng hội thảo, phòng máy tính, phòng nghỉ ngơi. Hãy đăng nhập lại. Trang đăng nhập sẽ được mở trong cửa sổ mới. Sau khi đăng nhập, bạn có thể đóng cửa sổ và quay lại trang hiện tại.
Đại học Busan
Đại học Quốc gia Pusan là một trường đại học tại Busan, Hàn Quốc. Được thành lập vào tháng 5 năm 1946, trường Đại học Quốc gia Pusan đã đào tạo nên rất nhiều thế hệ chuyên gia nổi tiếng và nhân tài lãnh đạo cho đất nước. Đến nay, trường đã phát triển thành một trong những trung tâm đào tạo và nghiên cứu hàng đầu của Hàn Quốc. Hiện nay, Đại học Quốc gia Pusan được xếp thứ nhì trong hệ thống trường đại học quốc gia ở Hàn Quốc. Trường có ba phân khu (campus). Phân khu trung tâm đặt tại thành phố Busan là trung tâm đào tạo, nghiên cứu tổng hợp chính. Phân khu thứ hai ở thành phố Miryang là trung tâm đào tạo, nghiên cứu ngành khoa học nano. Phân khu thứ ba ở thành phố Yangsan là trung tâm đào tạo, nghiên cứu ngành y học. Là một trường đại học tổng hợp danh tiếng hàng đầu ở Hàn Quốc và khu vực Đông Bắc Á, Đại học Quốc gia Pusan đang có 15 trường đại học trực thuộc, một phân khoa thể dục thể thao, đào tạo hầu hết các ngành học.
Một trong số những thước đo chính xác về sự tăng trưởng của trẻ được nhiều bà mẹ tin dùng chính là biểu đồ tăng trưởng. Biểu đồ tăng trưởng của trẻ được phát triển bởi tổ chức quốc tế WHO. Với biểu đồ tăng trưởng cha mẹ có thể theo dõi quá trình phát triển thể lực của trẻ thông qua các chỉ số về chiều cao, cân nặng đối với trẻ dưới 5 tuổi. Từ đó giúp cho các bậc phụ huynh có thể dễ dàng theo dõi quá trình phát triển của con mình. Vậy biểu đồ tăng trưởng của trẻ là gì? Công dụng ra sao? Cùng điểm nhanh bài viết sau đây của chúng tôi để có được câu trả lời chính xác nhất về vấn đề này nhé. Biểu đồ tăng trưởng của trẻ được biết đến là một trong số những công cụ hữu ích giúp cho các bậc phụ huynh có thể dễ dàng theo dõi một cách liên tục sự phát triển của trẻ từ lúc mới sinh cho đến khi tròn 5 tuổi. Các chỉ số trong biểu đồ tăng trưởng của trẻ sẽ biểu hiện qua việc cân, đo và chấm lên biểu đồ để biển diễn quá trình phát triển của trẻ, so sánh kết quả này với quần thể tham khảo để đánh giá tình trạng phát triển thể lực của trẻ. Như vậy, có thể hiểu đơn giản rằng biểu đồ tăng trưởng là các đồ thị cho phép các bậc phụ huynh có thể theo dõi sự phát triển về cân nặng và chiều cao của trẻ từ 0 đến 5 tuổi. Biểu đồ tăng trưởng của trẻ sẽ có sự khác nhau tùy thuộc vào mỗi quốc gia, tuy nhiên các thông tin cơ bản về cân nặng, chiều cao, tỉ lệ cân nặng – chiều cao và các chỉ số khối cơ thể của trẻ đều giống nhau. Hiện tại, biểu đồ tăng trưởng là một trong số những dạng biểu đồ được tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO) khuyến khích sử dụng trên toàn thế giới. Ngoài những chỉ số cơ bản, biểu đồ này cũng giúp đưa ra những chỉ tiêu khác nhau, có sự phân biệt rõ ràng về giới tính cho bé trai và bé gái. Việc dựa vào biểu đồ tăng trưởng của trẻ do WHO đưa ra sẽ phản ánh được chính xác sự tăng trưởng của những đứa trẻ bú mẹ và trẻ bú sữa công thức trong 3 tháng đầu đời. Dựa vào biểu đồ tăng trưởng bạn sẽ thấy những đứa trẻ bú mẹ sẽ tăng cân nhanh và ổn định dành trong những tháng sau đó còn trẻ bú sữa công thức có xu hướng tăng cân đều đặn. Đây là câu hỏi mà rất rất nhiều bậc phụ huynh cảm thấy thắc mắc sau khi nắm được khái niệm cơ bản về biểu đồ tăng trưởng là gì. Một đứa trẻ bình thường sẽ có các chỉ số phát triển bình thường về cả cân nặng và chiều cao. Thông thường các chỉ số đó sẽ được biểu hiện ngay trên biểu đồ, khi dựa vào đó bạn sẽ biết được trẻ có phát triển bình thường hay là không. Khi xem xét kết quả thu được mà biểu đồ cung cấp cha mẹ có thể đánh giá và đưa ra được những nhận xét chính xác về thể trạng dinh dưỡng của trẻ. Để từ đó điều chỉnh và đưa ra những thay đổi phù hợp với thể trạng của con mình. Đây cũng chính là tác dụng lớn nhất của biểu đồ tăng trưởng. Ngoài xác định được chiều cao, cân nặng của trẻ thì biểu đồ tăng trưởng còn được các bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng sử dụng để xác định được nguy cơ suy dinh dưỡng hay thừa cân và béo phì ở trẻ. Hơn thế nữa việc kết hợp biểu đồ tăng trưởng với các kết quả của những phương pháp khá sẽ giúp bạn theo dõi được tình trạng sức khỏe của trẻ một cách tốt nhất. Xét trên phương diện vĩ mô, biểu đồ tăng trưởng còn là công cụ tốt giúp chính phủ các nước đánh giá được tình trạng sức khỏe cũng như phúc lợi dân số một cách chính xác nhất. Tóm lại, biểu đồ tăng trưởng là công cụ đánh giá chính xác nhất tình trạng tăng trưởng của trẻ xem xem có phù hợp với giới tính cũng như độ tuổi hay không. Thường thì biểu đồ tăng trưởng của bé gái sẽ có màu hồng còn bé trai sẽ là màu xanh dương. Đối với trường hợp trẻ sinh non thì tuổi thai và tuổi điều chỉnh của trẻ cũng được ghi nhận và biểu đồ. Với một đứa trẻ được cho là phát triển bình thường đòi hỏi về cả chiều cao lẫn cân nặng của chúng phải đều đặn. Do đó việc tiến hành theo dõi sự phát triển của trẻ thông qua biểu đồ tăng trưởng của trẻ sẽ giúp bạn biết được chính xác đứa trẻ đó có phát triển bình thường hay không. Việc nắm rõ các chỉ số về chiều cao và cân nặng của trẻ qua từng mốc thời gian sẽ giúp bạn có được sự thay đổi và định hướng phù hợp giúp cho bé được chăm sóc dinh dưỡng đầy đủ, từ đó giúp cho việc phát triển của trẻ được tốt hơn. Các biểu đồ tăng trưởng còn được phân chia theo giới tính của trẻ (bé trai riêng và bé gái riêng). Do đó mà người dùng có thể sử dụng và theo dõi dễ dàng hơn. Hiện tại biểu đồ màu hồng là dành cho bé gái còn màu xanh là dành cho bé trai. Trong biểu đồ tăng trưởng của trẻ sẽ có 2 mục chính bao gồm: mục tháng tuổi và mục thang đo. Trục tháng tuổi (nằm ở phía dưới của biểu đồ): Bắt đầu từ 0 đến 60 tháng tuổi và được nhóm từ 1 đến 5 tuổi – trục tháng tuổi đều được áp dụng tương tự cho cả 2 loại biểu đồ tăng trưởng. Hiển thị cân nặng từ 0 – 30kg ở bên trái và tử 8 đến 30kg ở bên phải (đơn vị chia 2kg) – áp dụng cho cả biểu đồ theo dõi cân nặng theo tuổi. Trục chiều dài nằm/chiều cao đứng từ 45 đến 125cm ở bên trái và từ 60 đến 125cm nằm ở bên phải (đơn vị chia 5cm) – áp dụng cho biểu đồ theo dõi chiều dài nằm/chiều cao theo tuổi. Các đường tăng trưởng của quần thể tham khảo dùng để phân loại trẻ tương đối so với quần thể tham khảo của trẻ. Có 5 loại đường (kênh) sau được sử dụng trong biểu đồ bao gồm:. Là kênh nằm trên đường +3 do đó được gọi là kênh “trên +3”. Có khoảng 0,5 % số trẻ của quần thể tham khảo của WHO nằm trong kênh này. Kênh được giới hạn +2 và +3 được gọi là kênh “trên +2”. Có khoảng 2% số trẻ quần thể tham khảo của WHO nằm trong kênh này. Kênh được giới hạn bởi đường -2 và +2 được gọi là kênh “bình thường”. Có khoảng 95% số trẻ của quần thể tham khảo của WHO nằm trong kênh này. Kênh được giới hạn đường -2 và -3 được gọi là kênh “dưới -2”. Có khoảng 2% số trẻ của quần thể tham khảo của WHO nằm trong kênh này. Kênh nằm dưới đường -3 được gọi là kênh “dưới -3”. Có khoảng 0,5% số trẻ của quần thể tham khảo của WHO nằm trong kênh này. Vậy làm thế nào để sử dụng biểu đồ tăng trưởng hiệu quả? Sau đây là hướng dẫn sử dụng mà các bạn có thể tham khảo để quá trình sử dụng biểu đồ tăng trưởng được hiệu quả. Khi sử dụng biểu đồ tăng trưởng thì các chỉ số về chiều cao, cân nặng và vòng đầu của trẻ sẽ được tiến hành đo định kỳ và đánh dấu ngay trong biểu đồ tăng trưởng liên quan. Tuy nhiên, là các giá trị riêng lẻ này không thực sự quan trọng bằng đường cong (được nối từ các chấm đánh dấu) theo thời gian. Chính vì thế mà đường cong trên biểu đồ có thể xuống lõm phía dưới hoặc đi theo chiều ngang, nếu như thế có ý nghĩa là con của bạn đang có xu hướng tăng trưởng chậm. Ngược lại nếu đường cong có xu hướng đi lên và nằm trong vùng an toàn có màu xanh điều này có nghĩa con ban có tình trạng tăng trưởng ở mức trung bình. Nếu đường cong có xu hướng đi lên nhưng vượt quá ngưỡng cho phép và nếu ra khỏi vùng an toàn (màu xanh), điều này có nghĩa trẻ đang có hiện tượng dư cân hoặc béo phì. Việc sử dụng biểu đồ tăng trưởng hiệu quả sẽ giúp cho cha mẹ có thể theo dõi tình trạng phát triển của con mình một cách tốt nhất. Từ đó có thể điều chỉnh được chế độ ăn của con cho phù hợp với việc phát triển hiện tại. Cách đọc các thông tin trên biểu đồ tăng trưởng như thế nào? Để biết được chính xác con bạn đang phát triển tốt hay không thì điều đầu tiên bạn cần làm là đọc biểu đồ tăng trưởng chính xác. Tình trạng dinh dưỡng hiện nay của trẻ: Bình thường hay bị suy dinh dưỡng? Tùy thuộc vào chỉ số đo và các lần chấm sau khi nối các khu vực biểu đồ có màu gì mà phân loại tình trạng dinh dưỡng của trẻ một cách cụ thể. Xu hướng tăng trưởng của trẻ so với lần cân/đo trước đó đi lên/đi xuống hay nằm ngang. Nhiều cha mẹ nghĩ rằng chỉ số biểu đồ tăng trưởng thấy tức là bé có vấn đề gì đó về sự phát triển đây là quan niệm hoàn toàn sai lầm. Bởi chỉ số phát triển không hề giống với bảng xếp hạng ở trường học. Do đó, việc chỉ số thấp không hề liên quan đến sự phát triển của trẻ như nhiều bậc cha mẹ nghĩ. Chỉ số cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau trong đó có thể là do yếu tố di truyền, điều này đóng vai trò quan trọng so với các yếu tố khác như môi trường sống, chế độ dinh dưỡng và thể trạng của bé. Do đó, các mẹ đừng quá lo lắng. Một ví dụ điển hình: Nếu cha mẹ có chiều cao khiêm tốn thì không thể mong chiều cao của con ở mức 80th được. Đương nhiên vấn đề dinh dưỡng đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của trẻ, tuy nhiên không có nghĩa là cứ ăn uống đầy đủ không thiếu gì mà chiều cao của con lại phát triển tăng vọt so với bố mẹ được. Vì vậy các mẹ cần hết sức lưu ý. Có thể nói rằng việc dựa vào biểu đồ tăng trưởng có thể giúp bạn biết được con mình phát triển ra sao, như thế nào chứ không phải chỉ phát triển bao nhiêu. Cụ thể khi biểu đồ đi xuống hay đi lên, có biến chuyển gì đặc biệt hay không. Đối với trẻ sơ sinh trong những tháng đầu đời thường có bước nhảy vọt nên chỉ số tăng trưởng có khi tăng vọt, tuy nhiên càng lớn chỉ số tăng trưởng của trẻ càng ít dần là đi và mức ổn định điều đó không có nghĩa là bé chậm phát triển. Những con số tăng vọt không phải là những con số quyết định tất cả mà tổng thể đường phân phối mới quan trọng. Do đó đừng quá lo lắng nếu thấy con bạn có chỉ số tăng trưởng thấp nhé. Một trong số những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình tăng trưởng của trẻ chính là tuổi thai. Nếu trẻ sinh non sẽ có cân nặng nhẹ hơn nhiều so với trẻ sinh đủ tháng, mêm tốc độ tăng trưởng của trẻ sinh non nhẹ cân hơn nhiều so với trẻ sinh đủ cân. Yếu tố khác làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của trẻ chính là giới tính. Và bé trai có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn nhiều so với bé gái. Ngoài ra, các yếu tố khác như:môi trường, gen, dinh dưỡng, sức khỏe cũng là yếu tố ảnh hưởng rất nhiều đến tốc độ tăng trưởng của con bạn. Do đó, để biết được chính xác con bạn có đang phát triển tốt hay không cần dựa vào tốc độ tăng trưởng và tình trạng tăng trưởng của trẻ so với những đứa trẻ có cùng độ tuổi và cùng giới tính. Chỉ khi đường phân phối trên biểu đồ tăng trưởng có biến đổi lớn khi đó bạn mới cần phải lo lắng, chẳng hạn như cân nặng của bé ở mức 50th nhưng đột nhiên giảm xuống chỉ còn 10 – 15th thì phải kiểm tra xem trẻ có vấn đề gì đó về sức khỏe hay không, có ốm đau gì không. Thông thường nếu trẻ ốm đi thì đường phân phối sẽ giảm xuống một ít (chỉ trong thời gian bé ốm) và sau đó sẽ quay trở lại như mức cũ hoặc trên mức cũ khi bé đã ăn khỏe và uống khỏe trở lại. Trường hợp nếu trẻ không ốm đau gì mà chậm lên cân, nhưng chiều dài vẫn phát triển bình thường thì bố mẹ nên xem lại chế độ dinh dưỡng của bé. Có thể tăng cữ bú cho con sao cho phù hợp đồng thời điều chỉ lại cách tiêu hao năng lượng. Điều đương nhiên là những bé hoạt động, chạy nhảy sẽ tiêu hao năng lượng nhiều hơn những bé ít năng động. Một trong số những chỉ số quan trọng của trẻ chính là số đo vòng đầu. Nhiều bà mẹ ít quan tâm đến chỉ số này và phần lớn chỉ lo về cân nặng. Tuy nhiên, chỉ số vòng đầu sẽ là số đo giúp các mẹ biết được sự phát triển về não bộ và sự phát triển về não phản ánh quá kích cỡ vòng đầu của trẻ. Nếu vòng đầu của trẻ phát triển nhanh, bất thường, cần theo dõi kỹ và có những biện pháp thích hợp để chuẩn đoán chính xác các bệnh tiềm ẩn làm ảnh hưởng đến sự phát triển của con nhỏ.
Biểu đồ tăng trưởng
Biểu đồ tăng trưởng là loại biểu đồ dùng để theo dõi sự phát triển của trẻ theo thời gian, được sử dụng bởi các bác sĩ nhi khoa và những người chăm sóc sức khỏe khác. Biểu đồ tăng trưởng được xây dựng thông qua việc quan sát liên tục sự tăng trưởng của trẻ bình thường trên một mẫu lớn. Chiều cao, cân nặng và chu vi vòng đầu của trẻ được đối chiếu so sánh với các tham số tiêu chuẩn ở trẻ trong cùng độ tuổi và giới tính để xác định liệu trẻ có phát triển hợp lý hay không. Biểu đồ tăng trưởng cũng dùng để dự đoán chiều cao và cân nặng dự kiến của trẻ, bởi vì nhìn chung, trẻ em thường duy trì một đường cong tăng trưởng khá ổn định. Khi một đứa trẻ đi chệch khỏi đường cong tăng trưởng đã được thiết lập trước đó, việc điều tra nguyên nhân thường được tiến hành. Chẳng hạn, sự giảm tốc độ tăng trưởng có thể chỉ ra sự khởi đầu của một bệnh mãn tính như bệnh viêm ruột. Biểu đồ tăng trưởng cũng có thể được tổng hợp dựa trên một phần dân số được nuôi dưỡng ít nhiều trong điều kiện lý tưởng, như dinh dưỡng hợp lý theo hướng dẫn nhi khoa và mẹ không hút thuốc.
Các thành viên WTO (như trước đây là các bên ký kết GATT) đều phải thông báo các hiệp định thương mại khu vực (RTAs) mà họ tham gia. Gần như tất cả các Thành viên WTO đều thông báo tham gia vào một hoặc nhiều RTA (một số Thành viên tham gia từ hai mươi hiệp định trở lên). Trong giai đoạn 1948-1994, GATT đã nhận được 124 thông báo về các RTAs (liên quan đến thương mại hàng hoá) và kể từ khi thành lập WTO vào năm 1995, đã có thêm hơn 400 hiệp định về thương mại hàng hoá hoặc dịch vụ được thông báo. Nhiều Thành viên WTO tiếp tục tham gia đàm phán các RTA mới. Giống các hiệp định đã có hiệu lực, hầu hết các cuộc đàm phán mới là song phương. Tuy nhiên, một sự phát triển gần đây là những cuộc đàm phán giữa các Thành viên WTO. Trong đó bao gồm các cuộc đàm phán trong Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương về Hiệp định Hợp tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), hiện nay giữa 12 bên; Ở châu Á là giữa các nước thành viên ASEAN và sáu thành viên WTO khác mà ASEAN có các hiệp định có hiệu lực (Hiệp định Đối tác Toàn diện Khu vực, RCEP); Liên minh Thái Bình Dương ở Mỹ Latinh hiện nay giữa Chile, Colombia, Mexico và Peru; Và Hiệp định ba bên giữa COMESA, EAC và SADC ở Châu Phi. Các hiệp định đa phương như thế, khi có hiệu lực có thể làm giảm sự rối rắm phức tạp của các RTAs đặc biệt là nếu chúng thay thế các hiệp định song phương hiện tại và xây dựng các quy tắc chung (như quy tắc xuất xứ) được áp dụng bởi tất cả các bên của hiệp định. Bên cạnh các Hiệp định Thương mại khu vực, các hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) cũng đang trở thành xu hướng trong tương lai trên thế giới. Các hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) được thực hiện giữa hai nước. Trên khắp thế giới, nhiều chính phủ đã ký kết, đang đàm phán, hoặc dự tính các hiệp định đầu tư và thương mại tự do song phương mới. Việc thành lập các khu vực thương mại tự do (FTAs) là một xu hướng trên thế giới. Việt Nam không phải là ngoại lệ. Đối với Việt Nam, FTAs không phải là vùng đất mới; Việt Nam đã là một phần của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN từ năm 1996. Sau đó, đã tham gia nhiều hiệp định thương mại khu vực, cũng như một số hiệp định thương mại tự do song phương. Tính đến năm 2016, Việt Nam đã ký kết, thực hiện và đang tiến hành đàm phán tổng cộng 16 Hiệp định Thương mại Tự do (FTAs). Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực hiện 10 FTA, đã kết thúc đàm phán một FTA và đang đàm phán 5 FTA khác. Việc gia nhập các FTA mới mang lại rất nhiều cơ hội cũng như thách thức, do đó nó đòi hỏi nhiều nỗ lực từ Chính phủ cũng như doanh nghiệp. Hiệp định có hiệu lực từ ngày 1/12/2008. Riêng đối với Malaysia có hiệu lực từ 1/2/2009. Bên cạnh các Hiệp định Thương mại khu vực, các hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) cũng đang trở thành xu hướng trong tương lai trên thế giới. Các hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) được thực hiện giữa hai nước. Trên khắp thế giới, nhiều chính phủ đã ký kết, đang đàm phán, hoặc dự tính các hiệp định đầu tư và thương mại tự do song phương mới. Việc thành lập các khu vực thương mại tự do (FTAs) là một xu hướng trên thế giới. Việt Nam không phải là ngoại lệ. Đối với Việt Nam, FTAs không phải là vùng đất mới; Việt Nam đã là một phần của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN từ năm 1996. Sau đó, đã tham gia nhiều hiệp định thương mại khu vực, cũng như một số hiệp định thương mại tự do song phương. Tính đến năm 2016, Việt Nam đã ký kết, thực hiện và đang tiến hành đàm phán tổng cộng 16 Hiệp định Thương mại Tự do (FTAs). Cho đến nay, Việt Nam đã ký kết và thực hiện 10 FTA, đã kết thúc đàm phán một FTA và đang đàm phán 5 FTA khác
Hiệp định thương mại
Hiệp định/ thỏa thuận thương mại (còn được gọi là hiệp ước thương mại) là một hiệp định hoặc thỏa thuận thuế, thuế quan và thương mại rộng rãi thường bao gồm bảo lãnh đầu tư. Nó tồn tại khi hai hoặc nhiều quốc gia đồng ý về các điều khoản giúp họ giao dịch với nhau. Các hiệp định thương mại phổ biến nhất là các loại hình thương mại tự do và ưu đãi được ký kết nhằm giảm (hoặc loại bỏ) thuế quan, hạn ngạch và các hạn chế thương mại khác đối với các mặt hàng được giao dịch giữa các bên ký kết. Logic của các hiệp định thương mại chính thức là họ phác thảo những gì được thỏa thuận và các hình phạt cho sự sai lệch so với các quy tắc được đặt ra trong thỏa thuận. Do đó, các hiệp định thương mại làm cho sự hiểu lầm ít có khả năng xảy ra hơn, và tạo niềm tin cho cả hai bên rằng gian lận sẽ bị trừng phạt; điều này làm tăng khả năng hợp tác lâu dài. Một tổ chức quốc tế, chẳng hạn như IMF, có thể khuyến khích hợp tác hơn nữa bằng cách giám sát việc tuân thủ các thỏa thuận và báo cáo các nước thứ ba về các vi phạm.
Trong một vài thập kỷ trở lại đây, đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy, quan niệm và cách tiếp cận về hoạch định chiến lược phát triển một công ty, một ngành, một quốc gia. Xu hướng sử dụng cách tiếp cận tổng thể và sử dụng một khuôn khổ chiến lược, chính sách rộng lớn hơn thay cho các cách tiếp cận bộ phận với từng chính sách riêng rẽ cho từng lĩnh vực trong hoạch định chính sách và chiến lược phát triển ngày càng trở nên phổ biến. Sự chuyển đổi này được xem là một xu thế tất yếu xuất phát từ sự chật hẹp của các khuôn mẫu tư duy và cách tiếp cận bộ phận khi hoạch định các chiến lược và chính sách phát triển đã không còn phù hợp cho sự phát triển trong giai đoạn mới – được dự báo là ngày càng phức tạp, liên ngành và đan xen nhiều biến dị bất quy tắc. Sự thay đổi tư duy xây dựng chiến lược cũng đã diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam trong những năm gần đây, đặc biệt là trước tiến trình mở cửa nền kinh tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ. Lợi thế cạnh tranh từ các nguồn lực đã có nhiều sự thay đổi dựa trên cả các nhân tố bên trong và bên ngoài. Điều đó cũng tác động lên việc xác định chiến lược phát triển đối với toàn nền kinh tế cũng như từng lĩnh vực ngành, từng doanh nghiệp. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tìm hiểu những khái niệm cơ bản về chiến lược và hoạch định chiến lược nhằm cung cấp một khung lý thuyết về vấn đề này. Khái niệm chiến lượcKhái niệm “Chiến lược” theo quan điểm truyền thốngKhái niệm “Chiến lược” theo quan điểm cạnh tranhKhái niệm “Chiến lược” theo trường phái “tự phát” (emergant)Khái niệm chiến lược theo quan điểm hiện đạiXuyên suốt những cách hiểu khác nhau về chiến lược có thể thấy rằng:. Hoạch định chiến lượcCác thành viên tham gia quá trình hoạch định chiến lượcNội dung của chiến lượcThời hạn của chiến lượcTruyền thông chiến lượcTÀI LIỆU THAM KHẢO. Khái niệm chiến lược (strategy) bắt nguồn từ khái niệm “strategos” trong tiếng Hy Lạp cổ, có nguồn gốc từ lĩnh vực quân sự, nghĩa là vai trò của vị tướng trong quân đội. Đến thời Alexander Đại đế, khái niệm chiến lược được dùng để chỉ kỹ năng chỉ đạo để khai thác các lực lượng, đánh bại đối phương và tạo dựng hệ thống thống trị toàn cục. Quan điểm này được xây dựng dựa trên luận điểm cơ bản cho rằng có thể chiến thắng đối thủ – thậm chí là đối thủ mạnh hơn, đông hơn – nếu có thể dẫn dắt thế trận và đưa đối thủ vào trận địa thuận lợi cho việc triển khai các khả năng của mình. Tại Châu Âu, khái niệm chiến lược đã thâm nhập từ lĩnh vực quân sự sang lĩnh vực kinh doanh vào cuối thế kỷ XIX, và sang đến thế kỷ XX thì các quan điểm này đã xâm nhập sang các lĩnh vực khác như quản lý nhà nước, quản lý các tổ chức phi lợi nhuận và quản lý nói chung. Thuật ngữ chiến lược xuất phát từ lĩnh vực quân sự với ý nghĩa khoa học về hoạch định và điều khiển các hoạt động quân sự đã bước đầu xâm nhập sang lĩnh vực quản lý kinh tế và xã hội, dần được mô tả một cách chi tiết các nội hàm của nó, bao gồm cả nội dung và phương thức thực hiện. Alfred Chandler (1962) định nghĩa: Chiến lược là tiến trình xác định các mục tiêu cơ bản dài hạn của tổ chức, lựa chọn các cách thức hoặc phương hướng hành động và phân bố các tài nguyên thiết yếu để thực hiện các mục tiêu đó. Theo cách định nghĩa này, chiến lược là một quá trình với nội dung xác định mục tiêu và đảm bảo các nguồn lực cũng như những chính sách chủ yếu cần được tuân theo trong khi sử dụng các nguồn lực này để đạt được mục tiêu. Về hình thức, chiến lược có thể được định ra như là kế hoạch hoặc sơ đồ tác nghiệp tổng quát chỉ hướng cho tổ chức đi đến mục tiêu mong muốn. Vào giữa thập niên 1970, nhờ vào những nỗ lực của Nhóm tư vấn Boston (BCG – Boston Consulting Group), hầu hết các doanh nhân đã trở nên quen thuộc với khái niệm và tính cấp thiết của việc xây dựng chiến lược. Một số định nghĩa mới hơn được đưa ra nhưng vẫn khá tương đồng với khái niệm chiến lược của Alfred Chandler như định nghĩa của Kenneth R.Andrew (1971) cho rằng : Một chiến lược là “định nghĩa công ty đang hoặc sẽ thực hiện điều gì, đang hoặc sẽ trở thành như thế nào, bằng mô hình mục tiêu chính (Objectives), mục đích (Purposes) hay đích đến (Goals) và những chính sách và kế hoạch (Plan) chính yếu để đạt được mục tiêu đó”. Định nghĩa của Jame B. Quinn (1980): Chiến lược là một dạng thức hay một kế hoạch phối hợp các mục tiêu chính, các chính sách và một chuỗi hành động được kết dính với nhau vào thành một tổng thể. Chiến lược theo quan điểm cạnh tranh được phát triển bởi Michael E.Porter trong những năm sau thế chiến thứ II. M.E.Porter nhấn mạnh sự khác biệt giữa khái niệm chiến lược (strategy) và khái niệm hoạt động hiệu quả (operational effectiveness). Hoạt động hiệu quả nghĩa là thực hiện các hành động tương tự nhưng tốt hơn đối thủ. Trong khi đó, chiến lược là thực hiện những hành động khác biệt đối thủ, hoặc hành động tương tự trên một cách thức hoàn toàn khác biệt. Sự khác biệt được nhấn mạnh một cách quan trọng trong quan điểm của M.E.Porter để tiến tới mục tiêu định vị tổ chức trong một môi trường cạnh tranh gay gắt. Chiến lược cạnh tranh xoay quanh vấn đề tiềm lực của doanh nghiệp, điểm mạnh, điểm yếu trong mối liên quan với đặc trưng thị trường và tiềm lực tương ứng, điểm mạnh và điểm yếu của đối thủ cạnh tranh. Porter thậm chí đã phát triển quan điểm về chiến lược cạnh tranh của mình thành hệ thống khái niệm cạnh tranh quốc gia, trong đó tập trung vào năng lực cạnh tranh quốc gia, lấy yếu tố năng suất làm trung tâm cốt lõi, phát triển các ngành, nhóm ngành có năng lực cạnh tranh ở cấp quốc gia. (***) là những người đi đầu trong việc phát triển khái niệm chiến lược theo trường phái “tự phát”, đối lập với trường phái “thủ cựu” (Positionist) của Micheal Porter. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa hai trường phái này không nằm ở nội dung của chiến lược mà ở cách thức xây dựng chiến lược. Micheal Porter cho rằng bộ phận xây dựng chiến lược của tổ chức nên thực hiện phân tích lý thuyết, quyết định lợi thế cạnh tranh mà tổ chức của mình muốn sử dụng, căn cứ vào đó để xây dựng chiến lược, tiếp đến mới là thực thi chiến lược đó. Ngược lại trường phái “tự phát” cho rằng phương pháp xây dựng chiến lược của trường phái “thủ cựu” là lối tư duy quá đơn giản khi cho rằng lớn hơn là tốt hơn, hay chi phí thấp là người chắc chắn thắng thế, và rằng công việc của một quản lý là ra quyết định. gọi đó là “cách hành xử công việc theo kiểu “ngồi trong tháp ngà mà phân tích”, tức là căn cứ để ra quyết định thực thi lại tách biệt khỏi việc nghiên cứu giải quyết các vấn đề trong quy trình vận hành thường nhật của công ty. Do đó, các tác giả này cho rằng mỗi tổ chức hãy bắt đầu ngay lập tức (dù chưa có bất kỳ một văn bản chiến lược nào), với tất cả thế mạnh và điểm yếu của mình và hướng tới một lối đi đã vạch sẵn, khuyến khích các tổ chức nhìn vào thực tế, môi trường hoạt động của họ, tiến hành một chuỗi bao gồm: hành động, sai lầm, khắc phục, và tiếp tục hành động. Qua quá trình đó, chiến lược của họ sẽ xuất hiện. Henry Mintzberg là đại diện tiêu biểu cho quan điểm hiện đại về khái niệm chiến lược. Theo nghiên cứu của ông, nội dung khái niệm chiến lược có thể bao gồm 5 yếu tố (5P) là: kế hoạch (Plan); mưu lược (Ploy); phương thức hành động (Pattern), định vị (Position) và triển vọng (Perspective). Chiến lược được hiểu là kế hoạch khi nó dùng để chỉ một hướng dẫn hoặc tập hợp các hướng dẫn cho quá trình diễn biến các hành động một cách có ý thức, được dự định trước, phù hợp với hoàn cảnh. Chiến lược là mưu lược (sách lược): là quan điểm xuất phát từ nguồn gốc quân sự của khái niệm chiến lược bao gồm nhưng biện pháp hành động để đối phó với kẻ thù. Cách hiểu chiến lược là kế hoạch thường mang ý nghĩa dài hạn hơn, còn cách hiểu chiến lược là mưu lược thường mang ý nghĩa ngắn hạn hơn, tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo một mục tiêu dài hạn xuyên suốt. Chiến lược là phương thức: Mintzberg cho rằng chiến lược là sự nhất quán trong hành động dù có dụng ý hay không. Chiến lược là định vị: Với cách định nghĩa thứ 4, chiến lược một phương tiện để định vị một tổ chức trong môi trường của nó, gắn mối quan hệ giữa tổ chức và môi trường, giữa bên trong với bên ngoài. Chiến lược là triển vọng: Cách nhìn thứ 5 này lại được tiến hành từ bên trong của tổ chức. Nội hàm của nó bao gồm không chỉ chọn lựa định vị, mà còn là cách thức ăn sâu vào nhận thức, hay nói cách khác, nó xác định mong muốn phát triển từ bên trong tổ chức. Cách định nghĩa thứ 5 gợi ý rằng tất cả các chiến lược như đã được định nghĩa ở trên đều tồn tại dưới dạng 1 khái niệm hay ý tưởng. Do vậy, không ai đã từng nhìn thấy chiến lược hoặc nắm được nó. Chính vì vậy, điểm quan trọng là chiến lược cần được chia sẻ. Chiến lược là một triển vọng được chia sẻ giữa các thành viên của tổ chức, thông qua sự chú ý của họ và/hoặc chuyển tải thành hành động của họ. Chiến lược là khái niệm thuộc khoa học quản lý, chỉ toàn bộ quá trình hình thành tư tưởng, quan điểm, định hướng; xây dựng kế hoạch, biện pháp; kết hợp các nguồn lực cần thiết và thực hiện chúng một cách thích hợp, nhất quán trong một thời hạn tương đối dài để thay đổi cục diện công việc hoặc chủ thể từ trạng thái hiện tại đến trạng thái mong muốn. Quá trình này thường được thiết kế trong một văn bản, được gọi là văn bản chiến lược (tuy nhiên, không phải là luôn luôn như vậy, có nghĩa là không phải khi nào thì một văn bản chiến lược cũng là cần thiết, và một tổ chức vẫn hoạt động có chiến lược ngay cả khi nó không có một văn bản chiến lược nào cả). Chiến lược là tinh thần cơ bản của đường lối phát triển do con người định ra. Phạm vi bao quát và nội dung chủ yếu (hay trọng tâm) của chiến lược được thể hiện thông qua mục tiêu, hệ thống các quan điểm, biện pháp cơ bản về phát triển ở tầm cao, tầm tổng thể, dài hạn đối với sự phát triển của một đối tượng (hay của một hệ thống). Nó chỉ đạo hành động thống nhất của một cộng đồng hay một quốc gia hoặc một nhóm quốc gia nhằm đạt tới mục tiêu cao nhất, lớn nhất, tổng quát nhất đã xác định. Chiến lược được đề ra đối với một đối tượng cụ thể chứ không có chiến lược chung chung. Chẳng hạn mỗi quốc gia nên và cần có một chiến lược về phát triển của đất nước mình; mỗi doanh nghiệp ngành vùng có chiến lược phát triển riêng. Đối tượng của chiến lược có thể là một quốc gia, một ngành, một lãnh thổ, một doanh nghiệp… Đối tượng quy định tính chất, phạm vi và nội dung của chiến lược. Chiến lược của cấp vi mô phải tuân thủ chiến lược phát triển của cấp vĩ mô. Về bản chất, mọi chiến lược nói chung đều là phương tiện để tạo ra thay đổi, tức là nó gồm những gì nằm trong khoảng giữa ý đồ (mục đích và kết quả), hoặc giữa khả năng dự kiến và hiện thực đạt được. Kết quả hay hiện thực mới được tạo ra này phải chứa đựng những thay đổi nhất định từ bên trong. Khuynh hướng và chức năng chủ đạo của mọi chiến lược là phát triển. Chiến lược phát triển cung cấp tầm nhìn tổng quát, mục tiêu phát triển một công ty, một ngành, một quốc gia và tổng hợp các chính sách để thực hiện các mục tiêu đó. Đó là một phương tiện để quản lý, theo đuổi những lựa chọn để đảm bảo đối tượng chiến lược có khả năng cạnh tranh hướng đến phát triển. Chiến lược phát triển thường có 2 chức năng cơ bản là: chức năng phát triển và chức năng quản lý phát triển. Tính hệ thống: Chiến lược phát triển phải có tính hệ thống và đã mang tính hệ thống thì nó phải có tính ổn định tương đối. Theo nguyên tắc động học, nếu tác động vào một hoặc một vài phân hệ thì sẽ ảnh hưởng tới tất cả các phân hệ khác còn lại. Vì thế chỉ xem xét một số phân hệ mà bỏ qua các phân hệ khác sẽ có thể làm cho hệ thống rối loạn hơn là làm cho hệ thống phát triển.
Đại chiến lược
Đại chiến lược hay chiến lược quốc gia là cấp độ cao nhất của khoa học chiến lược, trọng tâm là các định hướng phát triển ở tầm mức quốc gia, về tổng thể vạch ra những đường lối chiến lược ở tầm mức vĩ mô cho một đất nước, về từng phương diện chính trị, kinh tế, quân sự,. chỉ ra phương hướng phát triển cụ thể, đồng thời bao gồm các mối liên hệ giữa những phương diện. Đại chiến lược hướng đến mục đích phát triển và an ninh. Đại chiến lược ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách chiến lược từng phương diện cụ thể. Điển hình, vương quốc Anh từ sau chiến tranh Napoleon đã thực thi chính sách "cô lập vinh quang", dựa vào vị trí Anh là một hòn đảo, có khả năng bảo đảm an toàn trước những cuộc chiến tranh từ lục địa, chính sách an ninh của Anh là tránh các xung đột giữa các nước châu Âu, đứng ngoài các vấn đề đó. Vì vậy, đại chiến lược này ảnh hưởng trước hết đến chiến lược quốc phòng của Anh, nước Anh tập trung ưu tiên phát triển hải quân để có thể bảo vệ hòn đảo chính quốc của mình.
Hội chứng kháng Phospholipid (APS) là tính trạng tăng đông máu qua trung gian kháng thể với đặc trưng là cục huyết khối động mạch hoặc tĩnh mạch tái đi tái lại và/hoặc các bệnh lý liên quan đến thai kỳ. Xét nghiệm Anti beta 2 - Glycoprotein làm một trong những tiêu chuẩn để chẩn đoán các bệnh liên quan đến hội chứng kháng phospholipid. Beta 2 glycoprotein (β2GPI) là một loại lipoprotein được tổng hợp từ gan và giải phóng vào máu. Anti beta 2 - Glycoprotein là một tự kháng thể được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch nhầm lẫn mục tiêu nhắm tới các protein lipid trong tiểu cầu và lớp tế bào ngoài cùng của cơ thể. Mục tiêu chính của nó là beta 2 - Glycoprotein là một kháng thể trong hội chứng kháng phospholipid (APS). Kháng thể này gồm 2 loại là IgG và IgM. Beta 2 - Glycoprotein tham gia vào quá trình đông máu, nó có liên quan trực tiếp đến các cục máu đông nhưng chưa rõ nguyên nhân. Một giả thiết cho rằng có thể các kháng thể này ức chế Protein C (chất có vai trò điều hòa con đường đông máu chung) từ đó thúc đẩy quá trình đông máu. Sự có mặt của Anti beta 2 - Glycoprotein làm tăng nguy cơ hình thành các cục huyết khối trong lòng mạch. Nó có thể liên quan với quá trình giảm tiểu cầu, sinh non, tiền sản giật hay sảy thai tái phát. Người bệnh trẻ tuổi không có yếu tố nguy cơ nhưng lại xuất hiện các cục máu đông trong động mạch hoặc tĩnh mạch. Ngoài ra có thể xuất hiện các triệu chứng đi kèm như đau đầu, thở dốc,. Những thai phụ có tiền sử sảy thai, thai lưu liên tiếp từ 2 lần trở lên. Đối với những người bệnh có xuất hiện các dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng kháng Phospholipid như: đau đầu, tức ngực, khó thở, động kinh, đột quỵ, suy giảm trí tuệ,. Ngoài ra xét nghiệm có thể được chỉ định khi giảm tiểu cầu không giải thích được nguyên nhân. Xét nghiệm Anti beta 2- Glycoprotein được thực hiện trên mẫu máu tĩnh mạch và được phát hiện bởi phương pháp ELISA (Enzyme-Linked Immunosorbent Assay) để tìm kháng thể IgG hoặc/và IgM. Mẫu bệnh phẩm thực hiện xét nghiệm là máu tĩnh mạch. Nhân viên y tế sẽ lấy một lượng máu vừa đủ cho vào ống nghiệm không có chất chống đông hoặc chống đông bằng heparin. Mẫu máu sẽ được chuyển về phòng xét nghiệm càng sớm càng tốt để phòng xét nghiệm tiến hành phân tích mẫu và trả kết quả. Với những người bệnh có kết quả âm tính hoặc nghi ngờ mà vẫn có các triệu chứng lâm sàng cần phải theo dõi và tiến hành lại xét nghiệm sau 4 - 6 tuần. Để đảm bảo kết quả xét nghiệm được chính xác quá trình lấy mẫu phải được tuân thủ theo quy trình kỹ thuật đã được phê duyệt, mẫu huyết thanh/huyết tương dùng để phân tích phải trong và không bị vỡ hồng cầu. Mẫu huyết thanh/huyết tương đục cũng gây ảnh hưởng đến kết quả. Chỉ dùng mẫu huyết thanh/huyết tương rã đông một lần vì mẫu rã đông nhiều lần có thể làm giảm hoạt tính của kháng thể. Quá trình kiểm tra chất lượng xét nghiệm phải được thực hiện trước khi tiến hành phân tích trên mẫu người bệnh. Hội chứng kháng phospholipid (APS) là một bệnh tự miễn hệ thống gây ra tình trạng xuất hiện các cục huyết khối không rõ nguyên nhân, sảy thai tự nhiên nhiều lần,. Các triệu chứng lâm sàng xuất hiện sẽ đi kèm với sự xuất hiện của các tự kháng thể đặc hiệu có thể phát hiện được trong máu người bệnh. Bộ xét nghiệm aPL bao gồm nhiều chỉ số:. Các tiêu chí xét nghiệm này cần được thực hiện tại 2 thời điểm cách nhau 12 tuần. Anti beta 2 Glycoprotein dương tính bền bỉ khi nó dương tính ở cả 2 thời điểm cách nhau ít nhất 12 tuần. Nếu chỉ dương tính 1 lần trong hai lần trên thì được coi là dương tính thoáng qua. Có nhiều yếu tố dẫn tới dương tính thoáng qua mà không phải do APS gây nên như: bệnh lý nhiễm trùng, sử dụng thuốc, thai kỳ. Hội chứng kháng phospholipid (APS) là một bệnh tự miễn gây ra các tình trạng huyết khối, sảy thai liên tiếp, thai chết lưu,. Các biến chứng của APS gây ra hết sức nghiêm trọng và nặng nề. Hơn nữa APS xuất hiện ở hầu hết các độ tuổi mà phổ biến nhất là độ tuổi từ 20 đến 50. Cho nên khi bạn có bất cứ triệu chứng gì hay cảm giác được sự thay đổi của cơ thể cần đến ngay các cơ sở y tế uy tín, chất lượng để được thăm khám, tư vấn và đưa ra phác đồ điều trị một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời tránh để tình trạng bệnh trở nên nặng, khó kiểm soát. Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC tự hào là một trong những cơ sở có trung tâm xét nghiệm y tín nhất cả nước với đội ngũ chuyên gia đầu ngành, hệ thống máy móc, trang thiết bị hiện đại được nhập khẩu từ nước ngoài và được vận hành theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 15189:2012. Trung tâm xét nghiệm MEDLATEC luôn đảm chất lượng xét nghiệm và nhận được sự tin tưởng, sự hài lòng chất lượng của khách hàng trên khắp mọi miền cả nước. Beta 2 glycoprotein (β2GPI) là một loại lipoprotein được tổng hợp từ gan và giải phóng vào máu. Anti beta 2 - Glycoprotein là một tự kháng thể được sản xuất bởi hệ thống miễn dịch nhầm lẫn mục tiêu nhắm tới các protein lipid trong tiểu cầu và lớp tế bào ngoài cùng của cơ thể. Mục tiêu chính của nó là beta 2 - Glycoprotein là một kháng thể trong hội chứng kháng phospholipid (APS). Kháng thể này gồm 2 loại là IgG và IgM. Beta 2 - Glycoprotein tham gia vào quá trình đông máu, nó có liên quan trực tiếp đến các cục máu đông nhưng chưa rõ nguyên nhân. Một giả thiết cho rằng có thể các kháng thể này ức chế Protein C (chất có vai trò điều hòa con đường đông máu chung) từ đó thúc đẩy quá trình đông máu. Sự có mặt của Anti beta 2 - Glycoprotein làm tăng nguy cơ hình thành các cục huyết khối trong lòng mạch. Nó có thể liên quan với quá trình giảm tiểu cầu, sinh non, tiền sản giật hay sảy thai tái phát. Người bệnh trẻ tuổi không có yếu tố nguy cơ nhưng lại xuất hiện các cục máu đông trong động mạch hoặc tĩnh mạch. Ngoài ra có thể xuất hiện các triệu chứng đi kèm như đau đầu, thở dốc,. Những thai phụ có tiền sử sảy thai, thai lưu liên tiếp từ 2 lần trở lên. Đối với những người bệnh có xuất hiện các dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng kháng Phospholipid như: đau đầu, tức ngực, khó thở, động kinh, đột quỵ, suy giảm trí tuệ,. Ngoài ra xét nghiệm có thể được chỉ định khi giảm tiểu cầu không giải thích được nguyên nhân. Xét nghiệm Anti beta 2- Glycoprotein được thực hiện trên mẫu máu tĩnh mạch và được phát hiện bởi phương pháp ELISA (Enzyme-Linked Immunosorbent Assay) để tìm kháng thể IgG hoặc/và IgM. Mẫu bệnh phẩm thực hiện xét nghiệm là máu tĩnh mạch. Nhân viên y tế sẽ lấy một lượng máu vừa đủ cho vào ống nghiệm không có chất chống đông hoặc chống đông bằng heparin. Mẫu máu sẽ được chuyển về phòng xét nghiệm càng sớm càng tốt để phòng xét nghiệm tiến hành phân tích mẫu và trả kết quả. Với những người bệnh có kết quả âm tính hoặc nghi ngờ mà vẫn có các triệu chứng lâm sàng cần phải theo dõi và tiến hành lại xét nghiệm sau 4 - 6 tuần. Để đảm bảo kết quả xét nghiệm được chính xác quá trình lấy mẫu phải được tuân thủ theo quy trình kỹ thuật đã được phê duyệt, mẫu huyết thanh/huyết tương dùng để phân tích phải trong và không bị vỡ hồng cầu. Mẫu huyết thanh/huyết tương đục cũng gây ảnh hưởng đến kết quả. Chỉ dùng mẫu huyết thanh/huyết tương rã đông một lần vì mẫu rã đông nhiều lần có thể làm giảm hoạt tính của kháng thể. Quá trình kiểm tra chất lượng xét nghiệm phải được thực hiện trước khi tiến hành phân tích trên mẫu người bệnh. Hội chứng kháng phospholipid (APS) là một bệnh tự miễn hệ thống gây ra tình trạng xuất hiện các cục huyết khối không rõ nguyên nhân, sảy thai tự nhiên nhiều lần,. Các triệu chứng lâm sàng xuất hiện sẽ đi kèm với sự xuất hiện của các tự kháng thể đặc hiệu có thể phát hiện được trong máu người bệnh. Bộ xét nghiệm aPL bao gồm nhiều chỉ số:. Các tiêu chí xét nghiệm này cần được thực hiện tại 2 thời điểm cách nhau 12 tuần. Anti beta 2 Glycoprotein dương tính bền bỉ khi nó dương tính ở cả 2 thời điểm cách nhau ít nhất 12 tuần. Nếu chỉ dương tính 1 lần trong hai lần trên thì được coi là dương tính thoáng qua. Có nhiều yếu tố dẫn tới dương tính thoáng qua mà không phải do APS gây nên như: bệnh lý nhiễm trùng, sử dụng thuốc, thai kỳ. Hội chứng kháng phospholipid (APS) là một bệnh tự miễn gây ra các tình trạng huyết khối, sảy thai liên tiếp, thai chết lưu,. Các biến chứng của APS gây ra hết sức nghiêm trọng và nặng nề. Hơn nữa APS xuất hiện ở hầu hết các độ tuổi mà phổ biến nhất là độ tuổi từ 20 đến 50. Cho nên khi bạn có bất cứ triệu chứng gì hay cảm giác được sự thay đổi của cơ thể cần đến ngay các cơ sở y tế uy tín, chất lượng để được thăm khám, tư vấn và đưa ra phác đồ điều trị một cách chính xác, nhanh chóng, kịp thời tránh để tình trạng bệnh trở nên nặng, khó kiểm soát. Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC tự hào là một trong những cơ sở có trung tâm xét nghiệm y tín nhất cả nước với đội ngũ chuyên gia đầu ngành, hệ thống máy móc, trang thiết bị hiện đại được nhập khẩu từ nước ngoài và được vận hành theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 15189:2012. Trung tâm xét nghiệm MEDLATEC luôn đảm chất lượng xét nghiệm và nhận được sự tin tưởng, sự hài lòng chất lượng của khách hàng trên khắp mọi miền cả nước. Mã số thuế : 0101234974 do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 22/04/2002.
Hội chứng kháng phospholipid
Hội chứng kháng phospholipid (APS hoặc APLS), là một bệnh tự miễn gây ra tình trạng tăng đông do kháng thể kháng phospholipid. APS kích thích quá trình tạo cục máu đông (huyết khối) ở cả động mạch và tĩnh mạch cũng như biến chứng liên quan đến quá trình mang thai như sẩy thai, chết non, sinh non và tiền sản giật nghiêm trọng. Tiêu chuẩn chẩn đoán bao gồm một triệu chứng lâm sàng (ví dụ huyết khối hoặc biến chứng thai nghén) và hai xét nghiệm kháng thể trong máu cách nhau ít nhất là ba tháng cho thấy có sự hiện diện của một trong hai kháng thể kháng đông lupus hoặc anti-β2-glycoprotein-I (do kháng thể β2-glycoprotein-I là tập con của nhóm kháng thể ant-cardiolipin kháng thể, xét nghiệm kháng thể anti - cardiolipin ít có giá trị đặc hiệu hơn).Hội chứng kháng phospholipid có thể là nguyên phát hoặc thứ phat. Hội chứng kháng phospholipid nguyên phát xảy ra nếu không có bất kỳ bệnh lý nào liên quan. Hội chứng kháng phospholipid thứ phát xảy ra cùng các bệnh tự miễn khác như lupus đỏ hệ thống (SLE). Trong những trường hợp đặc biệt, APS dẫn đến suy tạng nhanh chóng do hình thành huyết khối này được gọi là "hội chứng kháng phospholipid nguy hiểm" (CAPS hay hội chứng Asherson) và có nguy cơ tử vong cao.
Thủ đô Colombo của Sri Lanka là nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất sau chuỗi vụ đánh bom nhằm vào các nhà thờ và khách sạn của nước này. Hiện trường bên trong nhà thờ Thánh Sebastian bị đánh bom ở Negombo, Sri Lanka, ngày 21/4. Sáng 21/4, khi khách du lịch và những tín đồ Công giáo đã ổn định bên bàn ăn và trên ghế dài của những nhà thờ ở bờ biển phía đông và phía tây Sri Lanka để kỷ niệm ngày lễ Phục sinh, hàng loạt vụ nổ bất ngờ xảy ra làm rung chuyển quốc đảo Ấn Độ Dương. Từ 8h45 đến 9h30, tại ba thành phố, những kẻ đánh bom tự sát liên tục kích hoạt thuốc nổ tại ba khách sạn hạng sang và ba nhà thờ Công giáo nổi tiếng của Sri Lanka. 5 tiếng sau, nhà chức trách nhận được tin báo về hai vụ nổ khác gần thủ đô Colombo, trong một nhà trọ giá rẻ và một căn hộ chung cư. 290 người thiệt mạng và hơn 500 người bị thương trong các cuộc tấn công, biến ngày lễ vui nhất của người Công giáo trở thành một thảm kịch. Tại nhà thờ Thánh Anthony, một địa điểm du lịch nổi tiếng ở Colombo với hội thánh Công giáo lớn nhất thủ đô Sri Lanka, hàng trăm tín đồ sáng chủ nhật cùng nhau tề tựu để cầu nguyện cho lễ Phục sinh. Bất ngờ, trước 9h, một vụ nổ lớn khiến cả thánh đường hỗn loạn. Sức ép từ vụ nổ lớn đến nỗi các tòa nhà lân cận cũng rung chuyển. Sumanapala, chủ cửa hàng gần nhà thờ, vội vã chạy vào bên trong để giúp đỡ và nhìn thấy "một dòng sông máu". "Bụi rơi xuống như tuyết", ông nhớ lại. Cách đó hơn 40 km về phía bắc, tại thị trấn Negombo với đa số dân cư là người Công giáo, các tín đồ đã ngồi chật kín những dãy ghế dài bên trong nhà thờ Thánh Sebastian. Một vụ nổ khác phá tan căn phòng, thổi bay mái nhà và làm đổ sập những hàng ghế. Các mảnh vụn cắm dày đặc trên tường và những bức tượng thánh nhỏ đổ la liệt xuống nền đất. Máu ở khắp nơi. "Nhà thờ của chúng tôi bị đánh bom", một người nào đó đăng lên trang Facebook của nhà thờ sau vụ nổ kèm theo những bức ảnh khủng khiếp tại hiện trường. "Xin hãy đến và giúp đỡ nếu thành viên gia đình bạn có mặt ở đây". Sau 10h sáng, hãng thông tấn AP đưa tin về hai vụ nổ đầu tiên nhưng ngay lập tức cập nhật tình hình: Cùng thời điểm nhà thờ Thánh Anthony và Thánh Sebastian bị tấn công, các vụ nổ khác đã được ghi nhận tại ba khách sạn sang trọng ở Colombo và một nhà thờ ở bờ biển phía đông Sri Lanka. Các vụ nổ dường như có liên quan đến nhau và thủ đô Colombo bị thiệt hại nặng nề nhất. Nhà hàng tại khách sạn Shangri-La ở Comlombo bị thiệt hại sau vụ đánh bom. Những kẻ tấn công nhắm vào các nhà hàng tại loạt khách sạn 4 sao, nơi khách du lịch tập trung dùng bữa sáng ngày lễ Phục sinh. Ở khách sạn Cinnamon Grand, một quản lý giấu tên cho biết kẻ đánh bom đã trà trộn vào dòng người xếp hàng chờ ăn buffet sáng sau đó kích hoạt khối thuốc nổ mang trên lưng. Lúc bấy giờ, nhà hàng Taprobane của khách sạn rất đông khách, chủ yếu là các gia đình. Vụ nổ khiến toàn bộ khu vực rơi vào hỗn loạn. Những vị khách không có mặt tại nhà hàng cũng cảm nhận hoặc nghe được vụ nổ. Theo Julian Emmanuel, một bác sĩ người Anh, căn phòng nơi ông nghỉ cùng vợ và các con "rung lên bần bật". Họ nhanh chóng sơ tán qua lối cửa sau. Trên đường ra, họ nhìn thấy la liệt xác chết. Hai vụ nổ cách nhau 10 giây khiến một nhà hàng trên tầng hai khách sạn Shangri-La tan hoang, hất tung mái nhà và cửa sổ, để lộ những mớ dây điện chằng chịt trên tường. Nhân chứng cho hay tất cả những gì họ nghe thấy chỉ là tiếng la hét. "Mọi người bắt đầu hoảng loạn, cảnh tượng hoàn toàn rối loạn", Kieran Arasaratnam, giáo sư đại học đến từ Anh, kể. "Nhiều người cuống cuồng bỏ chạy, số khác không biết chuyện gì đang diễn ra. Một số người bị dính máu lên áo. các bức tường bắn đầy máu". Tại thành phố Batticaloa, tiếng nổ lớn khiến các tín đồ đang cầu nguyện ở nhà thờ Zion choáng váng. Một nhân chứng cho biết anh nghe thấy âm thanh chói tai trong lúc đang đạp xe quanh thành phố và nhìn thấy "cột khói bốc lên từ khoảng cách gần một km". Giới chức Sri Lanka đã huy động toàn bộ lực lượng thực thi pháp luật và nhân viên y tế tại những thành phố bị ảnh hưởng sau 6 vụ nổ đầu tiên. Các trường đại học được yêu cầu đóng cửa, học sinh không đến trường trong hai ngày 23 và 24/4. Mạng xã hội bị chặn để ngăn việc lan truyền thông tin sai lệch. An ninh tại sân bay quốc tế Bandaranaike cũng được tăng cường. Chính phủ thông báo ban hành lệnh giới nghiêm từ 18h. Tại quận Colombo, giáo hội Công giáo hủy tất các buổi cầu nguyện lễ Phục sinh, Ở Vatican, Giáo hoàng Francis gọi chuỗi vụ tấn công tại Sri Lanka là hành vi "bạo lực độc ác". 5 tiếng sau 6 vụ nổ đầu tiên, vào khoảng 14h, vụ nổ thứ 7 xảy ra tại một nhà trọ giá rẻ gần công viên quốc gia Dehiwala, phía nam Colombo. Theo lời kể của một nhân chứng, anh nhìn thấy nhiều phần thi thể bị đứt lìa. Các nhân chứng khác nói họ nghe thấy tiếng nổ sau đó trực thăng lượn trên bầu trời. Đến 14h45, cơ quan an ninh nhận được tin báo có nghi phạm đang ẩn náu tại một khu chung cư ở Dematagoda, ngoại ô Colombo. Khi cảnh sát ập vào căn hộ, nghi phạm kích hoạt thuốc nổ khiến vài sĩ quan thiệt mạng. Sau hai vụ nổ cuối cùng, chính quyền Sri Lanka ban bố áp dụng lệnh giới nghiêm sớm hơn. Người dân phải ở yên trong nhà và khách du lịch không được phép rời nơi lưu trú dù họ đang mong muốn lên máy bay về nước sớm nhất có thể. "Không có gì hết. Không phương tiện, không người đi lại trên phố", Simon Whitmarsh, bác sĩ về hưu đang du lịch ở Batticaloa, nói. "Ở yên trong nhà là thông điệp từ chính phủ".
Các vụ đánh bom ngày lễ Phục Sinh tại Sri Lanka 2019
Vào ngày 21 tháng 4 năm 2019, một loạt vụ nổ đã xảy ra tại ba nhà thờ và bốn khách sạn ở các thành phố ở Sri Lanka, bao gồm thủ đô thương mại Colombo. Ít nhất 258 người (bao gồm cả người nước ngoài) đã thiệt mạng và hơn 500 người bị thương trong các vụ đánh bom. Các vụ đánh bom xảy ra vào đúng ngày lễ Phục sinh tại ba nhà thờ ở Negombo, Batticaloa và Colombo và tại bốn khách sạn Shangri-La, Cinnamon Grand và Kingsbury, Tropical Inn ở Colombo. Đây là lần đầu Sri Lanka trải qua một cuộc tấn công khủng bố lớn kể từ khi một vụ xảy ra vào năm 2009 và sau cuộc Nội chiến Sri Lanka.
Đảng viên có nhiệm vụ3. Đảng viên có quyền:4. Hướng phấn đấu để trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng viên có quyền:4. Hướng phấn đấu để trở thành Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng.Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng. Công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là người gia nhập và được kết nạp vào đồng thời sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Ở Việt Nam, từ Đảng viên có thể hiểu là thành viên của Đảng Cộng sản Việt Nam do chỉ có Đảng cộng sản tồn tại hợp pháp và lãnh đạo Việt Nam theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Một số vẫn gọi Đảng viên là Bôn-sê-vich hay Bôn, theo nghĩa tiếng Nga là Đảng viên của Đảng Cộng sản Liên Xô (cũ). Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thì đảng viên phải là công dân Việt Nam từ mười tám tuổi trở lên và người này phải thừa nhận và tự nguyện thực hiện các Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở Đảng (Chi bộ, Đảng bộ.) được nhân dân tín nhiệm, sau đó được giới thiệu kết nạp, thử thách, sinh hoạt và công nhận chính thức. Số lượng Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam tính đến kỳ đại hội XIII (năm 2021) ước tính là khoảng 5,3 triệu đảng viên, năm 2019 là 5,2 triệu Qua quá trình phát triển của lịch sử, số lượng đảng viên không ngừng gia tăng, trong lịch sử, nhiều đảng viên đã có đóng góp, hi sinh cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam và để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.
Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Bác sĩ chuyên khoa II Trần Văn Trọng - Khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Xoắn tinh hoàn là hiện tượng thừng tinh bị xoắn quanh trục của nó làm tắc nghẽn mạch máu nuôi tinh hoàn. Xoắn tinh hoàn ở trẻ em là một cấp cứu niệu khoa khẩn cấp, chiếm tỉ lệ khoảng 1/4000 nam giới dưới 25 tuổi và là một trong những nguyên nhân thường gặp trong các nguyên nhân gây mất tinh hoàn ở nam giới. Xoắn tinh hoàn là tình trạng tinh hoàn tự xoay quanh trục gây tắc nghẽn đột ngột thừng tinh, làm giảm hoặc tắc lượng máu đến tinh hoàn, gây sưng và đau. Nếu tình trạng này kéo dài có thể dẫn đến hoại tử tinh hoàn và các mô xung quanh. Do đó, bệnh nhân cần được phẫu thuật cấp cứu trong vài giờ đầu. Nếu để quá muộn, tinh hoàn có thể bị tổn thương vĩnh viễn, ảnh hưởng tới khả năng sinh sản hoặc phải cắt bỏ. Xoắn tinh hoàn thường xảy ra khi tinh hoàn chưa cố định ở túi bìu và di chuyển bất thường, đặc biệt khi tinh hoàn nằm trong ống phúc tinh mạc. Xoắn tinh hoàn có thể tự tháo. Xoắn tinh hoàn đơn thuần: Khi có sự bất thường về cố định mào tinh - tinh hoàn và có một mạc treo giữa mào tinh với tinh hoàn, tinh hoàn có thể bị xoắn quanh mạc treo. Loại xoắn này ít gặp hơn;. Xoắn phần phụ của mào tinh - tinh hoàn: Loại này cũng ít gặp và triệu chứng lâm sàng không nặng nề như hai loại trên. Bệnh thường có thể xảy ra mọi lứa tuổi nhưng nhiều nhất ở tuổi thanh thiếu niên (từ 2 đến 10 tuổi). Tỷ lệ mắc bệnh xoắn tinh hoàn ở trẻ em từ 25-50% đối với trẻ sinh đôi mà trẻ là con thứ hai. Bệnh xoắn tinh hoàn ở trẻ thường gặp ở tuổi sơ sinh hoặc tuổi dậy thì (10-15 tuổi). Xoắn tinh hoàn trẻ em có thể xảy ra trước, trong và sau sinh. Trẻ sinh ra đã thấy tinh hoàn to, không đau, sờ thấy rắn đều, da ở bìu đỏ sẫm hoặc nhợt, mất nếp nhăn hoặc một bên bìu rỗng do tinh hoàn bị xoắn có thể đã tiêu đi từ trước (vắng tinh hoàn). Với trẻ sơ sinh và bú mẹ chưa tự xác định được vị trí đau thì có biểu hiện quấy khóc nhiều. Đau dữ dội, đột ngột ở một bên hoặc hai bên bìu, một số trẻ có kèm theo đau bụng dưới, buồn nôn và nôn. Trẻ sơ sinh chỉ có quấy khóc, bỏ bú, phù nề và đỏ da bìu. Đau, sưng vùng nếp bẹn bên không có tinh hoàn kèm đau vùng bụng dưới (ở bệnh nhân tinh hoàn ẩn). Bệnh nhân có thể có sốt hoặc không sốt, không có tiền sử chấn thương bìu, không có triệu chứng tiểu khó, tiểu rắt. Nếu phát hiện ở giai đoạn muộn bệnh nhân có thể có sưng, đau và đỏ da vùng bìu, không cho sờ vùng bìu. Xoắn tinh hoàn trẻ em thường để lại những hậu quả nặng nề. Nguyên nhân là do mạch máu bị nghẽn vì vậy tinh hoàn không được nuôi dưỡng, rất dễ dẫn đến tổn thương. Nếu chậm được chẩn đoán và điều trị, tinh hoàn có thể bị hoại tử thành mủ hoặc hoàn toàn teo đi trong vài tháng. Bệnh nhân có nhiều nguy cơ vô sinh, nhất là các trường hợp thừng tinh 2 bên tinh hoàn đều lần lượt bị xoắn. Nhiều trường hợp xoắn tinh hoàn trẻ em chữa trị khi tinh hoàn đã bị hoại tử và buộc phải cắt bỏ. Trẻ bị cắt bỏ một tinh hoàn sẽ giảm 50% khả năng sinh con. Đặc biệt khi trưởng thành, chuyện chỉ còn một tinh hoàn trong bìu sẽ ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của trẻ. Bệnh xoắn tinh hoàn ở trẻ là tối cấp cứu, phải khám và mổ tháo xoắn tinh hoàn càng sớm thì khả năng bảo tồn được tinh hoàn càng cao (tốt nhất là dưới 12 tiếng tính từ khi có hiện tượng đau, sưng bìu - theo nghiên cứu của thế giới). Nếu không được mổ tháo xoắn kịp thời, bệnh nhân không những không giữ được tinh hoàn mà còn ảnh hưởng tới chức năng sinh sản sau này. Hiện nay, có rất nhiều phương tiện chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng để phát hiện xoắn tinh hoàn, song không có phương pháp nào là tuyệt đối. Xoắn tinh hoàn đôi khi rất khó phân biệt với viêm tinh hoàn và viêm mào tinh hoàn, cần phải phẫu thuật thăm dò. Với tiến bộ của gây mê hồi sức hiện nay thì phẫu thuật mở bìu thăm dò là phẫu thuật đơn giản và an toàn. Phẫu thuật tháo xoắn sẽ giúp phục hồi việc cung cấp máu cho tinh hoàn. Bên cạnh đó, các bác sĩ cũng ngăn ngừa xoắn tinh hoàn tái phát bằng cách cố định tinh hoàn, đồng thời đề phòng xoắn thừng tinh bên đối diện bằng cách cố định tinh hoàn đối diện. Riêng với trường hợp xoắn tinh hoàn ở trẻ sơ sinh, không cần phẫu thuật gấp để cố định tinh hoàn còn lại; có thể trì hoãn việc này trong vài tháng. Khi đã phẫu thuật tháo xoắn thừng tinh, trẻ vẫn có nguy cơ thiếu dinh dưỡng và teo thứ phát tinh hoàn liên quan nên cần được kiểm tra lại sau 6 tháng. Để phòng tránh bệnh xoắn tinh hoàn ở trẻ sơ sinh, bố mẹ cần kiểm tra bìu của bé thường xuyên. Nếu thấy bìu thỉnh thoảng bị trống chỉ có một bên thì cha mẹ cần phải đưa đến bệnh viện để được thăm khám kịp thời. Quy tụ đội ngũ y bác sĩ hàng đầu về Nhi khoa: gồm các chuyên gia đầu ngành, có trình độ chuyên môn cao (giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ), giàu kinh nghiệm, từng công tác tại các bệnh viện lớn như Bạch Mai, 108. Các bác sĩ đều được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp, có tâm - tầm, am hiểu tâm lý trẻ. Bên cạnh các bác sĩ chuyên khoa Nhi trong nước, khoa Nhi còn có sự tham gia của các chuyên gia nước ngoài (Nhật Bản, Singapore, Úc, Mỹ) luôn tiên phong áp dụng những phác đồ điều trị mới nhất và hiệu quả nhất. Dịch vụ toàn diện: Trong lĩnh vực Nhi khoa, Vinmec cung cấp chuỗi các dịch vụ khám - chữa bệnh liên hoàn từ Sơ sinh đến Nhi và Vaccine,. theo tiêu chuẩn Quốc tế để cùng bố mẹ chăm sóc sức khỏe bé từ khi lọt lòng đến tuổi trưởng thành. Kỹ thuật chuyên sâu: Vinmec đã triển khai thành công nhiều kỹ thuật chuyên sâu giúp việc điều trị các căn bệnh khó trong Nhi khoa hiệu quả hơn: phẫu thuật thần kinh - sọ, ghép tế bào gốc tạo máu trong điều trị ung thư. Chăm sóc chuyên nghiệp: Ngoài việc thấu hiểu tâm lý trẻ, Vinmec còn đặc biệt quan tâm đến không gian vui chơi của các bé, giúp các bé vui chơi thoải mái và làm quen với môi trường của bệnh viện, hợp tác điều trị, nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh. Thoát vị bẹn là tình trạng các tạng đi ra khỏi vị trí thông thường của nó qua các điểm yếu tự nhiên của cơ thể. Thoát vị có thể là bệnh lý bẩm sinh (sinh ra đã có) hoặc . Siêu âm tinh hoàn là một thủ thuật an toàn, không chất phóng xạ nhằm phát hiện những bất thường trong hoạt động sinh lý của tinh hoàn và đưa ra hướng điều trị kịp thời, hạn chế nguy cơ . Viêm mào tinh hoàn là một trong những bệnh lý cơ quan sinh dục hay gặp ở nam giới và thường có liên quan đến yếu tố nhiễm trùng. Để chẩn đoán bệnh thì ngoài thăm khám lâm sàng và . Con em khám thì bác sĩ bảo bị tinh hoàn lò xo. Vậy bác sĩ cho em hỏi tinh hoàn lò xo ở trẻ có phải phẫu thuật không hay có cách điều trị khác thưa bác sĩ?. Có rất nhiều nguyên nhân gây ra các vấn đề về khả năng sinh sản ở nam giới, từ đó tác động, hình thành các yếu tố gây vô sinh. Vì thế, điều quan trọng là bạn phải nắm được .
Xoắn tinh hoàn
Xoắn tinh hoàn xảy ra khi dây treo tinh hoàn (giữ tinh hoàn lơ lửng) bị xoắn lại, cắt đứt nguồn cung cấp máu đến tinh hoàn. Triệu chứng phổ biến nhất ở trẻ em là đau tinh hoàn đột ngột, dữ dội. Tinh hoàn có thể cao hơn bình thường ở bìu và nôn có thể xảy ra. Ở trẻ sơ sinh, cơn đau thường không có và thay vào đó, bìu có thể bị đổi màu hoặc tinh hoàn có thể biến mất khỏi vị trí thông thường. Hầu hết những người bị chứng này không có vấn đề sức khỏe tiềm ẩn rõ ràng trước. Khối u tinh hoàn hoặc chấn thương trước có thể làm tăng nguy cơ. Các yếu tố nguy cơ khác bao gồm dị tật bẩm sinh được gọi là "dị dạng chuông kêu" trong đó tinh hoàn được gắn không hoàn toàn vào bìu cho phép nó di chuyển tự do hơn và do đó có khả năng xoắn. Nhiệt độ lạnh cũng có thể là một yếu tố rủi ro. Chẩn đoán thường nên được thực hiện dựa trên các triệu chứng có được. Siêu âm có thể hữu ích khi chẩn đoán là không rõ ràng.
Sân vận động Hàng Đẫy nằm trên đường Trịnh Hoài Đức, Hà Nội. Trước khi có sân Mỹ Đình, Hàng Đẫy là nơi tổ chức các trận thi đấu của Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam và các đội tuyển nữ, đội tuyển thi Olympic. Đây cũng là nơi tổ chức nhiều sự kiện thể thao, văn hóa của Hà Nội và Việt Nam. Năm 1998, các trận khai mạc, bảng B và chung kết Tiger Cup đã diễn ra tại đây. Sân vận động Hàng Đẫy hiện là sân nhà của Hà Nội FC, Viettel với sức chứa khoảng 22.500 chỗ ngồi. Tại giải AFF Cup 2021, đây sẽ là nơi diễn ra trận đấu giữa đội Việt Nam và Campuchia. Sân vận động quốc gia Bukit Jalil nằm trong khu liên hợp thể thao quốc gia của Malaysia, miền Nam thành phố Kuala Lumpur. Đây là sân vận động đa chức năng, khánh thành năm 1996 để phục vụ tổ chức Đại hội thể thao Thịnh vượng chung năm 1998. Sân Bukit Jalil có sức chứa 110.000 chỗ ngồi. Đội tuyển Malaysia chọn Bukit Jalil làm sân nhà để thi đấu với đội tuyển Myanmar, Lào và các trận vòng knock-out tại AFF Cup năm nay. Gelora Bung Karno là sân vận động đa chức năng nằm tại khu liên hợp thể thao Bung Karno tại thủ đô Jakarta của Indonesia. Đi vào hoạt động lần đầu tiên năm 1962, sân vận động có sức chứa 110.000 chỗ ngồi. Sau hai lần giảm sức chứa và cải tạo, Gelora Bung Karno có 88.083 chỗ ngồi. Tại AFF Cup 2021, đội tuyển Indonesia sẽ tiếp các đội Timor Leste và Philippines ở sân vận động này. Sân vận động quốc gia Singapore nằm tại Kallang, khu dân cư nằm ở miền Trung đảo quốc sư tử. Đây là công trình thi đấu đa năng với kết cấu mái vòm có thể đóng mở, chủ yếu phục vụ cho các trận đấu bóng đá. Đây là sân vận động duy nhất trên thế giới có thiết kế tùy chỉnh để phù hợp với các môn bóng đá, bóng bầu dục, cricket và điền kinh. Sân vận động này cũng có thể tổ chức hòa nhạc, chương trình giải trí, các sự kiện tầm quốc gia và cộng đồng vào mọi lúc. Sân có sức chứa tối đa 55.000 chỗ ngồi cho bóng đá và bóng bầu dục, 52.000 cho môn cricket và 50.000 cho các sự kiện điền kinh. Sân vận động quốc gia Singapore hiện giữ kỷ lục về cấu trúc mái vòm lớn nhất thế giới với khoảng vượt 310 m. Hệ mái này có thể ngăn nhiệt của mặt trời và bảo vệ khán giả khỏi nóng, ẩm và mưa. Đây sẽ là nơi Singapore tiếp đội Indonesia và Timor Leste. Sân vận động Trung tâm đào tạo trẻ Thuwunna là một sân vận động đa năng nằm tại Yangon, Myanmar. Với 32.000 chỗ ngồi, sân vận động này thường tổ chức các trận đấu bóng đá cấp quốc gia, quốc tế và các cuộc thi điền kinh. Công trình này từng được chọn tổ chức các trận đấu tại bảng G thuộc vòng loại giải vô địch bóng đá U-22 châu Á 2013. Đây cũng là nơi tổ chức các trận vòng bảng của Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2021. Thuwana sẽ là địa điểm tổ chức trận tranh tài giữa Myanmar và Việt Nam khi AFF Cup diễn ra. Sân vận động Quốc gia Lào mới thuộc Khu liên hợp thể thao quốc gia Lào, nằm cách trung tâm thủ đô Viêng Chăn khoảng 20 km. Công trình này có sức chứa tối đa 24.000 chỗ ngồi và chủ yếu tổ chức bóng đá nam, điền kinh. Lễ khai mạc và bế mạc Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2009 đã diễn ra tại đây. Ở AFF Cup 2021, đây là nơi diễn ra 2 trận thi đấu bảng B giữa đội Lào với Việt Nam và Myanmar. Sân vận động Mandalarthiri tọa lạc tại thành phố Mandalay, Myanmar mở cửa từ năm 2013 trong thời gian tổ chức các trận đấu SEA Games. Ngoài ra, đây là nơi từng tổ chức giải bóng đá nữ của Thế vận hội Đông Nam Á 2013 và cũng là sân nhà của câu lạc bộ bóng đá Yadanarbon. Sân có sức chứa 30.000 chỗ ngồi. Đội tuyển Myanmar sẽ gặp đội tuyển Lào tại đây trong khuôn khổ giải AFF Cup 2021. Diện tích sân vận động và công viên bao quanh rộng 25 ha, với sức chứa 20.000 chỗ ngồi. Trên sân Panaad diễn ra nhiều sự kiện thể thao quốc tế, đặc biệt là bóng đá khi Bacolod đồng tổ chức Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2005 và vòng loại Cúp AFC Challenge 2012 trong trận gặp Mông Cổ. Sân vận động quốc gia Rajamangala là sân nhà cho đội tuyển bóng đá quốc gia Thái Lan. Sân vận động này được xây dựng để trở thành địa điểm tổ chức Thế vận hội Châu Á 1998. Đại hội Thể thao ASEAN 1999 và Universiade mùa hè năm 2007 cũng được tổ chức tại công trình này. Sân Rajamangala ban đầu có thể chứa 65.000 khán giả nhưng đã giảm xuống dưới 50.000 vào năm 2007. Dù có tên gọi như vậy, công trình này chưa từng tổ chức Olympic. Đi vào hoạt động năm 1964, sân có sức chứa 50.000 người. Đội tuyển Campuchia sẽ tiếp các đội Malaysia và Lào trên sân vận động này tại giải AFF Cup 2021.
Sân vận động Quốc gia, Singapore
Sân vận động Quốc gia (tiếng Anh: National Stadium) là một sân vận động đa năng ở Kallang, Singapore. Sân được khánh thành vào ngày 30 tháng 6 năm 2014, trên nền đất của Sân vận động Quốc gia cũ, đã đóng cửa vào năm 2007 và bị phá hủy vào năm 2010. Sân vận động là trung tâm của khu liên hợp Trung tâm Thể thao Singapore. Sân tổ chức các trận đấu bóng đá lớn, bao gồm các trận đấu trên sân nhà của đội tuyển bóng đá quốc gia Singapore. Đây là sân vận động có mái che có thể thu vào lớn nhất thế giới. Tầng khán giả thấp nhất của sân có thể di chuyển để sân này sử dụng cho các sự kiện thể thao khác nhau, khiến sân trở thành sân vận động duy nhất trên thế giới được thiết kế tùy chỉnh để có thể tổ chức các sự kiện thể thao khác nhau vào bất kỳ thời điểm nào. Tùy thuộc vào cấu hình của sân, sân vận động có sức chứa tối đa là 55.000 chỗ ngồi cho các trận đấu bóng đá và bóng bầu dục, 52.000 chỗ ngồi cho các trận đấu cricket và 50.000 chỗ ngồi cho các giải đấu điền kinh và các buổi hòa nhạc.
Có nhiều loại năng lượng tái tạo trên thế giới và mỗi loại có một hoạt động khác nhau. Mục tiêu là giống nhau: sản xuất năng lượng sạch không phát thải khí nhà kính bằng cách sử dụng một số tài nguyên đất vô hạn. Trong trường hợp này, chúng ta sẽ nói về những gì thủy điện. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ cho bạn biết năng lượng thủy điện là gì, đặc điểm của nó là gì, nó được sản xuất như thế nào và ưu nhược điểm của nó là gì. Năng lượng thủy điện sử dụng thế năng của nước ở một độ cao nhất định của lòng sông để biến nó thành cơ năng tại điểm thấp nhất của lòng sông và cuối cùng thành năng lượng điện. Chuyển đổi cơ năng của nước thành điện năng. Để sử dụng năng lượng này, một cơ sở hạ tầng bảo tồn nước quy mô lớn được xây dựng để tối đa hóa tiềm năng của nguồn tài nguyên địa phương, tái tạo và không phát thải này. Nhà máy thủy điện là một tập hợp các cơ sở và thiết bị cơ điện cần thiết để biến năng lượng thủy điện tiềm năng thành năng lượng điện và có thể hoạt động 24 giờ trong ngày. Năng lượng điện có sẵn tỷ lệ với chiều cao của dòng nước và thác nước. Nhà máy thủy điện phổ biến nhất trên thế giới là cái gọi là "hồ chứa trung tâm". Ở những loại nhà máy này, nước tích tụ trong đập và sau đó rơi xuống từ độ cao trên tuabin, làm cho tuabin quay và tạo ra điện thông qua một máy phát điện đặt trong ống dẫn. Sau đó, điện áp của nó được nâng lên để truyền năng lượng mà không bị tổn thất lớn và sau đó được bổ sung vào lưới điện. Mặt khác, nước đã qua sử dụng trở lại quy trình tự nhiên của nó. Một cách khác là "trao đổi thông qua". Các nhà máy điện kiểu này tận dụng sự không bằng phẳng tự nhiên của sông, sau đó chuyển nước qua các kênh đến nhà máy điện, nơi các tuabin có thể di chuyển theo phương thẳng đứng (nếu sông có độ dốc lớn) hoặc theo phương ngang (nếu độ dốc thấp. ) để giống với một nhà máy hồ chứa trong cách phát điện. Những nhà máy kiểu này hoạt động liên tục vì không có dung tích chứa nước. Đàm: Nó chịu trách nhiệm ngăn chặn các con sông và duy trì các khối nước (ví dụ như hồ chứa) trước khi ngăn chặn, tạo ra sự khác biệt trong nước được sử dụng cho sản xuất năng lượng. Đập có thể được làm bằng bùn hoặc bê tông (được sử dụng nhiều nhất). Tràn: Chúng có nhiệm vụ giải phóng một phần lượng nước đã ngừng chảy qua buồng máy và có thể được sử dụng cho nhu cầu tưới tiêu. Chúng nằm trên bức tường chính của đập và có thể là đáy hoặc bề mặt. Phần lớn nước bị mất vào lưu vực dưới chân đập để tránh thiệt hại khi nước đổ. Lượng nước: Chúng có nhiệm vụ thu nước bị tắc và vận chuyển đến máy thông qua các kênh hoặc đường ống cưỡng bức. Đường nước vào có một cửa để điều tiết lượng nước đến tuabin và một bộ lọc để ngăn cản vật lạ đi qua (khúc gỗ, cành cây, v.v.). Nhà máy điện: Các máy móc (tuabin phát điện, tuabin thủy lực, trục và máy phát điện) và các phần tử điều khiển và điều chỉnh được đặt tại đây. Nó có cửa ra vào để khu vực đặt máy không bị dính nước trong quá trình bảo dưỡng hoặc tháo lắp. Tua bin thủy lực: Chúng có nhiệm vụ sử dụng năng lượng của nước đi qua nó để tạo ra chuyển động quay qua trục của chính nó. Có ba loại chính: bánh xe Pelton, tuabin Francis, và tuabin Kaplan (hoặc cánh quạt). Máy biến áp- Là thiết bị điện dùng để tăng hoặc giảm hiệu điện thế của mạch điện xoay chiều mà vẫn duy trì nguồn điện. Nhà máy thủy điện chảy tràn: các nhà máy thủy điện này thu nước từ các con sông tùy thuộc vào điều kiện môi trường và lưu lượng sẵn có của các tuabin. Sự không đồng đều giữa các vùng nước là nhỏ, và chúng là những trung tâm đòi hỏi một dòng chảy liên tục. Các nhà máy thủy điện có hồ chứa dự phòng: Các nhà máy thủy điện này sử dụng một thể tích hồ chứa nhất định ở “thượng nguồn” qua đập. Bất kể dòng chảy của sông, hồ chứa tách lượng nước từ các tuabin sản xuất điện quanh năm. Loại nhà máy này có thể sử dụng nhiều năng lượng nhất và kWh thường rẻ hơn. Trạm bơm thủy điện: Các nhà máy thủy điện này có hai hồ chứa với các mức nước khác nhau, được sử dụng khi cần bổ sung năng lượng. Nước từ bể trên đi qua tuabin để đến bể dưới rồi quay trở lại bể trên bơm nước vào ban ngày khi nhu cầu năng lượng thấp. Các tiến bộ công nghệ đã dẫn đến các nguồn năng lượng vi thủy lực có chi phí khá cạnh tranh trên thị trường điện, mặc dù các chi phí này thay đổi tùy theo loại nhà máy và các hành động cần thực hiện. Nếu công suất lắp đặt của nhà máy điện nhỏ hơn 10 MW và có thể là nước đọng hoặc nước chảy tràn thì nhà máy điện được coi là nhà máy thủy điện nhỏ. Ngày nay, sự phát triển của ngành thủy điện Tây Ban Nha nhằm mục đích tăng hiệu quả để cải thiện hiệu suất của các cơ sở hiện có. Những khuyến nghị này nhằm sửa chữa, hiện đại hóa, cải tiến hoặc mở rộng một nhà máy đã lắp đặt. Các bộ điều khiển vi thủy lực đang được phát triển với công suất dưới 10 kW, chúng rất hữu ích để tận dụng động lực của các con sông và tạo ra điện ở những khu vực bị cô lập. Tuabin sản xuất điện trực tiếp bằng dòng điện xoay chiều và không cần nước rơi, cơ sở hạ tầng bổ sung hoặc chi phí bảo trì cao. Tây Ban Nha hiện có khoảng 800 nhà máy thủy điện lớn nhỏ khác nhau. Có 20 nhà máy điện với công suất hơn 200 MW, chiếm 50% tổng sản lượng thủy điện. Ở một kết thúc khác, Tây Ban Nha có hàng chục đập nhỏ với công suất dưới 20 megawatt. Tôi hy vọng rằng với những thông tin này, bạn có thể hiểu thêm về năng lượng thủy điện là gì và nó hoạt động như thế nào. địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu bằng *. Truyền thông dữ liệu: Dữ liệu sẽ không được thông báo cho các bên thứ ba trừ khi có nghĩa vụ pháp lý. Quyền: Bất cứ lúc nào bạn có thể giới hạn, khôi phục và xóa thông tin của mình.
Thủy năng
Thủy năng hay năng lượng nước là năng lượng nói chung nhận được từ lực hoặc năng lượng của dòng nước, dùng để sử dụng vào những mục đích có lợi. Trước khi được mở rộng ra thương mại hóa điện năng, thủy năng đã được sử dụng cho mục đích thủy lợi, và cung cấp năng lượng cho nhiều máy móc khác nhau, như cối xay nước, máy dệt, máy cưa, cẩu trục ở âu tàu, và thang máy dùng trong nhà. Một phương pháp khác sử dụng một trompe (bơm nén khí cổ) để tạo không khí nén từ dòng nước, không khí nén này sau đó có thể được sử dụng để làm nguồn năng lượng cung cấp cho các máy móc khác ở khoảng cách xa nguồn nước. Thủy năng đã được sử dụng từ xa xưa từ thời nền văn minh Lưỡng Hà và Hy Lạp cổ đại, nơi mà các hạng mục thủy lợi đã được sử dụng từ thiên niên kỷ thứ VI trước Công nguyên và đồng hồ nước đã được sử dụng từ đầu thiên niên kỷ thứ II trước Công nguyên. Những ví dụ khác về sử dụng sức nước gồm có hệ thống Qanat ở Ba Tư cổ đại và hệ thống dẫn nước Turpan ở Trung Quốc cổ đại.
Thời gian khử khuẩn bằng tia cực tím bao nhiêu là câu hỏi mà rất nhiều người quan tâm trước khi mua bóng đèn và cả sau khi mua đèn tia cực tím UV. Để giúp khách hàng cũng như những đối tác của Tài Lộc. Chúng tôi sẽ làm bài viết chi tiết dưới đây để giải thích tác hại đèn tia cực tím UV cũng như thời gian sử dụng khử khuẩn tia UV (tia cực tím). Đèn tia cực tím UV hay còn gọi đèn cực tím, đèn UV…là loại đèn chứa tia cực tím UV. Đèn tia cực tím (UV) là một giải pháp để khử trùng, diệt khuẩn môi trường một cách hiệu quả, nó hoạt động bằng cách dùng ánh sáng tia cực tím để khử trùng các vi sinh vật, Khi các vi khuẩn, vi rút và động vật nguyên sinh tiếp xúc với bước sóng diệt khuẩn của ánh sáng tia cực tím, chúng sẽ không thể sinh sản và phát triển được. – Trong thiên văn học: Tia UV có ứng dụng quan trọng trong việc quan sát các ngôi sao có kích thước lớn. – Bởi theo các nghiên cứu thì các ngôi sao có kích thước lớn sẽ phát sáng trong phạm vi vùng bước sóng của tia cực tím. – Trong y tế, sức khỏe: sử dụng tia UV dùng để điều trị một số bệnh về da như là: ung thư hạch bạch huyết, eczema, bệnh vẩy nến và bệnh bạch biến. – Đèn UV cũng được dùng để diệt khuẩn cả trong môi trường nước lẫn không khí. – Không sử dụng hóa chất kèm theo để diệt khuẩn: Khử trùng nước và không khí bằng tia cực tím không cần phải dùng bất kỳ hóa chất nào để hỗ trợ vì vậy chúng ta không cần lo ngại gì đến việc tồn dư hóa chất gây hại cho sức khỏe. – Vì không phải sử dụng thêm bất kỳ hóa chất bổ sung nào nên không gây bất cứ mùi khó chịu nào trong môi trường mà đèn hoạt động. – Tốn ít năng lượng: đèn UV sử dụng dòng điện 14V vì vậy để sử dụng đèn UV diệt khuẩn thì điện năng tiêu tốn chỉ bằng sử dụng một bóng đèn 60W. – Ít bảo trì: mỗi bóng đèn UV có tuổi thọ sử dụng là 3000 giờ nên chi phí phí bảo trì cho việc thay mới là không cao. mỗi ngày bật 2 -3 lần, mỗi lần khoảng 30 – 60 phút. Trong thời gian đó, người nhà không được vào nhằm tránh những tác hại do loại tia này gây ra cho da và mắt…. Hiệu quả diệt khuẩn của tia cực tím phụ thuộc vào độ dài của thời gian vi sinh vật tiếp xúc với tia cực tím, cường độ và bước sóng của bức xạ tia cực tím, sự hiện diện của các hạt có thể bảo vệ các vi sinh vật khỏi tia cực tím, và khả năng của một vi sinh vật chịu được tia UV khi tiếp xúc của nó. Trong nhiều hệ thống, dư thừa trong việc phơi bày các vi sinh vật để UV đạt được bằng cách tuần hoàn không khí hoặc nước nhiều lần. Điều này đảm bảo nhiều đường để các tia cực tím có hiệu quả chống lại số lượng cao nhất của các vi sinh vật và sẽ chiếu xạ vi khuẩn đề kháng nhiều hơn một lần để phá vỡ chúng. “Triệt sản” thường được trích dẫn sai như là đạt được. Trong khi đó là về mặt lý thuyết có thể có trong một môi trường được kiểm soát, nó là rất khó khăn để chứng minh và thuật ngữ “khử trùng” thường được sử dụng bởi các công ty cung cấp dịch vụ này để tránh bị khiển trách pháp lý. Công ty chuyên gia thường sẽ quảng cáo giảm log nhất định ví dụ, 99,9999% hiệu quả, thay vì triệt sản. Điều này sẽ đưa vào xem xét một hiện tượng được gọi là sửa chữa ánh sáng và bóng tối (photoreactivation và sửa chữa cơ sở cắt bỏ, tương ứng), trong đó một tế bào có thể sửa chữa DNA bị tổn thương do tia UV. Tính hiệu quả của hình thức khử trùng phụ thuộc vào độ tiếp xúc của vi sinh vật với ánh sáng tia cực tím. Các môi trường mà thiết kế tạo ra những trở ngại mà chặn ánh sáng tia cực tím là không hiệu quả. Trong một môi trường như vậy, hiệu quả là sau đó phụ thuộc vào vị trí của hệ thống UVGI để đường ngắm là tối ưu để khử trùng. Bụi và phim phủ bóng thấp hơn sản lượng tia cực tím. Vì vậy, yêu cầu thiết bị cần được làm sạch định kỳ và thay thế để đảm bảo hiệu quả. Các đời của bóng đèn UV diệt khuẩn khác nhau tùy thuộc vào thiết kế. Ngoài ra, vật liệu mà các bóng đèn được làm bằng có thể hấp thụ một số tia UV diệt trùng. Làm mát đèn dưới luồng khí có thể xuất ra tia cực tím cũng thấp; do đó, cần thận trọng để bảo vệ đèn từ luồng không khí trực tiếp, hoặc để thêm đèn thêm để bù đắp cho tác dụng làm mát. Tăng hiệu quả và cường độ tia cực tím có thể đạt được bằng cách sử dụng phản xạ. Nhôm có tỷ lệ phản xạ cao nhất so với các kim loại khác và được khuyến cáo khi sử dụng tia cực tím. Một phương pháp để đánh giá hiệu quả UV trong các ứng dụng khử trùng nước là để tính toán liều tia cực tím. EPA Hoa Kỳ xuất bản hướng dẫn liều lượng tia cực tím cho các ứng dụng xử lý nước. Liều UV không thể đo trực tiếp nhưng có thể được suy ra dựa trên các yếu tố đầu vào được biết đến hoặc ước tính quá trình:. Trong các ứng dụng khử trùng không khí và bề mặt hiệu quả cực tím được ước tính bằng cách tính toán liều tia cực tím sẽ được chuyển giao cho người dân của vi sinh vật. Liều UV được tính như sau:. Cường độ tia cực tím được quy định cho mỗi bóng đèn ở khoảng cách 1 mét. cường độ tia cực tím là tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách để nó giảm ở khoảng cách xa hơn. Ngoài ra, nó nhanh chóng tăng ở những khoảng cách ngắn hơn 1m. Trong công thức trên cường độ tia cực tím luôn luôn phải được điều chỉnh cho khoảng cách trừ khi liều UV được tính toán chính xác tới 1m từ bóng đèn. Ngoài ra, để đảm bảo hiệu quả của liều UV phải được tính vào cuối tuổi thọ bóng đèn (EOL được quy định tại số giờ khi đèn được dự kiến đạt 80% sản lượng UV ban đầu của nó) và ở khoảng cách xa nhất từ đèn trên ngoại vi của khu vực mục tiêu. Trong một số ứng dụng lớp phủ được áp dụng cho các bóng đèn để làm cho nó vỡ bằng chứng. Các lớp phủ là Fluoro Ethylene Polymer mà hoàn toàn gói gọn đèn và có chứa các mảnh vỡ và thủy ngân trong trường hợp tình cờ vỡ. Các lớp phủ làm giảm cường độ tia cực tím lên đến 20%. Để dự đoán một cách chính xác những gì liều UV sẽ được giao cho các mục tiêu cường độ tia cực tím, điều chỉnh khoảng cách, sơn và cuối tuổi thọ bóng đèn, sẽ được nhân với thời gian phơi sáng. Trong các ứng dụng tĩnh thời gian phơi sáng có thể được miễn là cần thiết cho phải đạt được một liều UV hiệu quả. Trong trường hợp nhanh chóng di chuyển không khí, trong ống dẫn khí AC ví dụ, thời gian phơi sáng là ngắn nên cường độ tia cực tím phải được tăng lên bằng cách giới thiệu nhiều loại đèn UV hoặc thậm chí các ngân hàng của đèn. Ngoài ra, việc cài đặt UV phải nằm trong một phần ống dẫn thẳng dài với đèn vuông góc với dòng không khí để tối đa hóa thời gian phơi sáng. Những tính toán thực sự dự đoán độ dòng UV và nó được giả định rằng độ dòng UV sẽ bằng với liều tia cực tím. Liều UV là lượng năng lượng tia cực tím diệt khuẩn hấp thụ bởi một số vi sinh vật trong một khoảng thời gian. Nếu các vi sinh vật phù du (nổi miễn phí) độ dòng UV sẽ bằng liều UV. Tuy nhiên, nếu các vi sinh vật được bảo vệ bởi các hạt cơ khí, chẳng hạn như bụi bẩn, hoặc đã hình thành màng sinh học một mức năng UV cao hơn nhiều sẽ là cần thiết cho một liều UV hiệu quả được giới thiệu với người dân của vi sinh vật.
Khử trùng bằng tia cực tím
Khử trùng bằng tia cực tím (UVGI) là một phương pháp khử trùng sử dụng tia cực tím (UV-C) để giết hoặc làm bất hoạt các vi sinh vật bằng cách phá hủy các acid nucleic và phá hoại DNA của chúng, khiến chúng không thể thực hiện chức năng tế bào quan trọng. UVGI được sử dụng trong một loạt các ứng dụng, chẳng hạn như thực phẩm, không khí và lọc nước. UV-C ánh sáng là yếu ở bề mặt Trái Đất do lớp ozone ngăn chặn nó. Thiết bị UVGI có thể sản xuất đủ ánh sáng UV-C mạnh trong tuần hoàn hệ thống không khí hoặc nước để biến chúng thành môi trường khắc nghiệt đối với vi sinh vật như vi khuẩn, virus, nấm mốc và các mầm bệnh khác. UVGI có thể được kết hợp với một hệ thống lọc để khử trùng không khí và nước. Việc áp dụng các UVGI để khử trùng đã là một thực tế được chấp nhận kể từ giữa thế kỷ 20. Nó đã được sử dụng chủ yếu trong điều kiện vệ sinh y tế và phương tiện làm việc vô trùng. Càng ngày nó càng được sử dụng nhiều để khử trùng nước uống và nước thải như các cơ sở giữ được kèm theo và có thể được luân chuyển để đảm bảo một độ phơi nhiễm cao với tia cực tím.
Bây giờ, cứ ra quán Nhật là thấy cá hồi sống. Sushi cá hồi, sashimi cá hồi, cứ thế tung bay khắp nơi. Nhưng đúng phong tục ăn uống, người Nhật không bao giờ ăn cá hồi sống cả. Ngày nay những nhà hàng có tiếng lâu đời, có sao Michelin ở Nhật chẳng mời ai món cá hồi sống hết. Các nhà hàng bình dân ở Nhật còn dọn món cá sống này, chứ nhà hàng nổi tiếng lâu đời, do đầu bếp có ý thức, có hiểu biết về truyền thống, lịch sử, và thương cho sức khỏe của thực khách sẽ không dây dưa với cá hồi sống bao giờ. Các nhà hàng sushi đỉnh cao cũng thế, sushi gì có chứ sushi cá hồi là không bao giờ. Gặng hỏi bếp, bếp sẽ lườm cho. Nhật Bản nổi tiếng là sống theo mùa, mùa nào có gì ăn đó, và họ hiểu rằng tài nguyên của đất nước không nhiều, nên có nguyên liệu gì là họ phải vắt óc tận dụng hết các chất dinh dưỡng. Thế phải làm sao khi nước Nhật có mùa đông, và các vùng phía Bắc mùa đông còn khắc nghiệt nữa. Mùa ấy rau củ chẳng bao nhiêu, trồng trọt chăn nuôi khó khăn, sản lượng rất lẹt đẹt. Trái lại, mùa ấy cá béo tốt vì chúng biết trữ mỡ cho ngày lạnh tháng dài. Cá lại giàu vitamin, nếu tính ra thì các kiểu A B C D của cá dồi dào chẳng thua gì rau. Của đáng tội là vài vitamin hễ gặp nhiệt là bay, đặc biệt vitamin C trong cá sẽ biến mất nếu chúng ta nấu nó chín. Trong tình hình ấy, người Nhật tìm ra cách ăn cá sống đễ lấy hết chất bổ từ loại nguyên liệu này. Cá cam, hay còn gọi là cá kampachi – một trong những loài cá người Nhật ăn sống. Như vậy cho dù họ thiếu rau, thiếu gạo, thiếu trái cây, chỉ cần có cá sống là cơ thể họ cầm cự được để sống khỏe mạnh bất kể mùa Đông hay Thu. Âu cũng là cách ăn uống có lý đối với một đảo quốc, bốn bề là biển khơi. Tuy nhiên, từ thời Heian – tức thời Bình An, bắt đầu khoảng năm 794 – người Nhật đã hiểu rõ rằng có những loại cá ăn sống được, có loại không. Để sống cho khỏe luôn là một bài toán, cái nào xác suất lợi hơn thì làm. Ví dụ nếu uống thuốc là sẽ gặp một phần trăm nguy cơ tác dụng phụ, nhưng chín mươi chín phần trăm sẽ khỏi bệnh thì thôi đành uống thuốc vậy, trên đời này có cái gì mà an toàn trăm phần trăm đâu. Cá sống cũng thế, các loại cá biển tất nhiên chẳng sạch hoàn toàn nổi, xác suất một vài con bị nhiễm giun Anisakis là có. Giun Anisakis, các con cá biển có khả năng bị loài ký sinh này tấn công. Nhưng cái xác suất này rất thấp, ít ra trong một thời gian dài lúc biển cả chưa bị loài người làm cho ô nhiễm. Bao thế hệ người Nhật đã đem việc ăn sống vài loại cá lên bàn cân, kết quả cho thấy ăn thiếu vitamin – đặc biệt là thiếu C – trong thời gian dài nó nguy hiểm và gây chết người nhiều hơn là xác suất ăn phải cá nhiễm giun Anisakis. Trong trường hợp xấu, nhiễm giun nếu phát hiện kịp thời còn chữa khỏi được, chứ sống thiếu chất trong ba tháng mùa đông và có thể cộng thêm mấy tháng mùa thu tùy thời tiết năm ấy khắc nghiệt như thế nào, là chẳng biết lấy cái gì chữa. Đổi lại, một số loài cá dù muốn thu gom hết dinh dưỡng đến mấy đi chăng nữa, người Nhật cũng không dám ăn sống do xác suất trúng giun sán độc quá cao. Họ không bao giờ ăn sống cá sông, vì dù sông sạch tới đâu cũng sẽ có nhiều trứng sán, trứng ký sinh trùng hơn biển. Cá hồi tuy có bơi ra biển sống lúc lớn, nhưng cá mẹ lại đẻ trứng ở sông và cá hồi con lớn lên trong môi trường sông. Với quá trình lớn lên ấy, chúng bắt buộc phải lấy các sinh vật ở sông làm thức ăn, từ đó “tiện thể” ăn luôn trứng sán lá, sán dây. Xác xuất cá hồi con ăn sán vào bụng không phải một trăm phần trăm, nhưng vẫn đủ cao để báo động. Các con sán dây còn nổi tiếng lì lợm, ngay cả khi cá hồi lớn và di cư tới biển, sán dây vẫn dai dẳng bám lấy cá hồi và theo chúng ra đại dương. Vì vậy dù có đánh bắt cá hồi ở môi trường biển đi chăng nữa, chúng vẫn có nguy cơ mang nhiều mầm bệnh từ sông. Bấm tay tính cũng đủ thấy sán lá, sán dây đủ loại hầm bằ lằng sẽ nguy hiểm hơn mỗi một con giun Anisakis. Đấy là chưa tính đến việc khi mò ra biển, cá hồi cũng gặp phải nguy cơ… nhiễm Anisakis. Sau bao năm tích lũy kinh nghiệm, và hẳn là tích lũy xác chết, người Nhật quyết định rằng cá gì ăn sống được chứ cá hồi nên nấu chín cho an toàn. Với nhiều mỡ, cá hồi rất hợp để nướng vì mỡ sẽ giúp da cá giòn rụm. Người Nhật từng ăn cá hồi nướng thường xuyên, loại cá này cũng to, rẻ và nhiều nên cá hồi nướng cũng là một món bình dân phổ biến. Dân Nhật thời thế kỷ mười tám mười chín lắm khi chỉ có miếng cá hồi cắt mỏng, nướng giòn da ăn kèm với rau củ ngâm chua và chén canh là vui. Nhà nghèo ướp cá hồi với muối, nhà nào khá hơn sẽ ướp nước tương pha rượu gạo. Cá hồi nướng than. Đây mới là món truyền thống của Nhật, chứ không phải cá hồi sống. Để tận dụng hết con cá, người Nhật còn lấy thịt cá hồi vụn ra băm nhuyễn, nắn lại chiên thành chả. Lẩu hoặc cá hồi hầm làm từ thịt và xương cá hồi cũng từng là một món Nhật phổ biến, dù ngày nay giới trẻ của Nhật không thích ăn nữa. Lẩu cá hồi hay cá hồi hầm rất hợp để ăn trong mùa lạnh như mùa thu hoặc đông. Nếu mỡ cá thường chảy mất một phần khi nướng, gây thất thoát, thì lẩu hầm lại giữ được phần mỡ ấy lại trong nước dùng. Thời nay đồ béo đầy ra nên nghĩ tới mỡ thấy sợ, nhưng cách đây độ trăm năm, dân Nhật chủ yếu đói cộng thêm thời tiết khắc nghiệt nữa nên lẩu cá hồi béo sẽ giúp họ có sức làm việc. Từ đống tàn dư của Thế Chiến thứ Hai, nước Nhật vực dậy và trở thành cường quốc mạnh sau Mỹ, làm cả thế giới choáng váng. Lúc ấy thì ngoài tự hào và thu tiền từ các kiểu công nghệ máy móc với bán xe hơi, nước Nhật còn muốn quảng bá văn hóa, đem ẩm thực nước nhà đi xuất khẩu. Khổ một nỗi, có những món Nhật vô cùng khó đại trà hóa. Riêng món cá sống thì đầu tiên là phải tới mùa, thứ hai là sản lượng của mùa thường không bao giờ nhiều, thứ ba là vài loại cá dành cho việc ăn sống hơi bị đắt. Ví dụ cá ngừ từng là loại cá rẻ, nhà bình dân cũng mua về ăn sống được – dù hiện nay sản lượng có hiếm đi nên cá ngừ trở thành món đắt. Nhưng mùa của cá ngừ là vào mùa lạnh như mùa đông. Và nhìn chung cá ngừ luôn đắt hơn cá hồi một tẹo. Cá tai – một họ cá tráp – nổi tiếng là loại ăn sống rất ngon. Mùa của cá tai rơi vào xuân, và cá tai đắt kinh khủng. Nhà bình dân chỉ dám mua cá tai ăn vào dịp năm mới, nhằm đón Tết cho sung túc. Những ngày còn lại của mùa xuân là chỉ nhà giàu, nhà lãnh chúa mới có cá tai ăn thường xuyên. Trong tình hình ai cũng muốn ăn món cá sống nổi tiếng của Nhật mà sản lượng lại thiếu, cộng thêm việc không phải ai cũng có tiền, cá hồi nổi lên như vị cứu tinh. Loại cá này to, xẻ ra được lắm thịt, gần như mùa nào cũng có, cá hồi lắm mỡ nên còn dể trữ đông. Đúng là cá hồi không an toàn bằng các loại cá biển khác thật, nhưng vừa muốn ăn cá sống kiểu Nhật vừa thích giá phải chăng thì còn mỗi cách này thôi, chứ đầu bếp nào bán cá Tai sống với giá bình dân được. Đành chấp nhận rằng quảng bá văn hóa ẩm thực có khi là con dao hai lưỡi, báo hại lắm kẻ cất công mò vào nhà hàng sushi gắn đầy sao Michelin của Nhật rồi bàng hoàng rằng vì sao không có sushi cá hồi sống!. Bây giờ, cứ ra quán Nhật là thấy cá hồi sống. Sushi cá hồi, sashimi cá hồi, cứ thế tung bay khắp nơi. Nhưng đúng phong tục ăn uống, người Nhật không bao giờ ăn cá hồi sống cả. Ngày nay những nhà hàng có tiếng lâu đời, có sao Michelin ở Nhật chẳng mời ai món cá hồi sống hết. Các nhà hàng bình dân ở Nhật còn dọn món cá sống này, chứ nhà hàng nổi tiếng lâu đời, do đầu bếp có ý thức, có hiểu biết về truyền thống, lịch sử, và thương cho sức khỏe của thực khách sẽ không dây dưa với cá hồi sống bao giờ. Các nhà hàng sushi đỉnh cao cũng thế, sushi gì có chứ sushi cá hồi là không bao giờ. Gặng hỏi bếp, bếp sẽ lườm cho. Nhật Bản nổi tiếng là sống theo mùa, mùa nào có gì ăn đó, và họ hiểu rằng tài nguyên của đất nước không nhiều, nên có nguyên liệu gì là họ phải vắt óc tận dụng hết các chất dinh dưỡng. Thế phải làm sao khi nước Nhật có mùa đông, và các vùng phía Bắc mùa đông còn khắc nghiệt nữa. Mùa ấy rau củ chẳng bao nhiêu, trồng trọt chăn nuôi khó khăn, sản lượng rất lẹt đẹt. Trái lại, mùa ấy cá béo tốt vì chúng biết trữ mỡ cho ngày lạnh tháng dài. Cá lại giàu vitamin, nếu tính ra thì các kiểu A B C D của cá dồi dào chẳng thua gì rau. Của đáng tội là vài vitamin hễ gặp nhiệt là bay, đặc biệt vitamin C trong cá sẽ biến mất nếu chúng ta nấu nó chín. Trong tình hình ấy, người Nhật tìm ra cách ăn cá sống đễ lấy hết chất bổ từ loại nguyên liệu này. Cá cam, hay còn gọi là cá kampachi – một trong những loài cá người Nhật ăn sống. Như vậy cho dù họ thiếu rau, thiếu gạo, thiếu trái cây, chỉ cần có cá sống là cơ thể họ cầm cự được để sống khỏe mạnh bất kể mùa Đông hay Thu. Âu cũng là cách ăn uống có lý đối với một đảo quốc, bốn bề là biển khơi. Tuy nhiên, từ thời Heian – tức thời Bình An, bắt đầu khoảng năm 794 – người Nhật đã hiểu rõ rằng có những loại cá ăn sống được, có loại không. Để sống cho khỏe luôn là một bài toán, cái nào xác suất lợi hơn thì làm. Ví dụ nếu uống thuốc là sẽ gặp một phần trăm nguy cơ tác dụng phụ, nhưng chín mươi chín phần trăm sẽ khỏi bệnh thì thôi đành uống thuốc vậy, trên đời này có cái gì mà an toàn trăm phần trăm đâu. Cá sống cũng thế, các loại cá biển tất nhiên chẳng sạch hoàn toàn nổi, xác suất một vài con bị nhiễm giun Anisakis là có. Giun Anisakis, các con cá biển có khả năng bị loài ký sinh này tấn công. Nhưng cái xác suất này rất thấp, ít ra trong một thời gian dài lúc biển cả chưa bị loài người làm cho ô nhiễm. Bao thế hệ người Nhật đã đem việc ăn sống vài loại cá lên bàn cân, kết quả cho thấy ăn thiếu vitamin – đặc biệt là thiếu C – trong thời gian dài nó nguy hiểm và gây chết người nhiều hơn là xác suất ăn phải cá nhiễm giun Anisakis. Trong trường hợp xấu, nhiễm giun nếu phát hiện kịp thời còn chữa khỏi được, chứ sống thiếu chất trong ba tháng mùa đông và có thể cộng thêm mấy tháng mùa thu tùy thời tiết năm ấy khắc nghiệt như thế nào, là chẳng biết lấy cái gì chữa. Đổi lại, một số loài cá dù muốn thu gom hết dinh dưỡng đến mấy đi chăng nữa, người Nhật cũng không dám ăn sống do xác suất trúng giun sán độc quá cao. Họ không bao giờ ăn sống cá sông, vì dù sông sạch tới đâu cũng sẽ có nhiều trứng sán, trứng ký sinh trùng hơn biển. Cá hồi tuy có bơi ra biển sống lúc lớn, nhưng cá mẹ lại đẻ trứng ở sông và cá hồi con lớn lên trong môi trường sông. Với quá trình lớn lên ấy, chúng bắt buộc phải lấy các sinh vật ở sông làm thức ăn, từ đó “tiện thể” ăn luôn trứng sán lá, sán dây. Xác xuất cá hồi con ăn sán vào bụng không phải một trăm phần trăm, nhưng vẫn đủ cao để báo động. Các con sán dây còn nổi tiếng lì lợm, ngay cả khi cá hồi lớn và di cư tới biển, sán dây vẫn dai dẳng bám lấy cá hồi và theo chúng ra đại dương. Vì vậy dù có đánh bắt cá hồi ở môi trường biển đi chăng nữa, chúng vẫn có nguy cơ mang nhiều mầm bệnh từ sông. Bấm tay tính cũng đủ thấy sán lá, sán dây đủ loại hầm bằ lằng sẽ nguy hiểm hơn mỗi một con giun Anisakis. Đấy là chưa tính đến việc khi mò ra biển, cá hồi cũng gặp phải nguy cơ… nhiễm Anisakis. Sau bao năm tích lũy kinh nghiệm, và hẳn là tích lũy xác chết, người Nhật quyết định rằng cá gì ăn sống được chứ cá hồi nên nấu chín cho an toàn. Với nhiều mỡ, cá hồi rất hợp để nướng vì mỡ sẽ giúp da cá giòn rụm. Người Nhật từng ăn cá hồi nướng thường xuyên, loại cá này cũng to, rẻ và nhiều nên cá hồi nướng cũng là một món bình dân phổ biến. Dân Nhật thời thế kỷ mười tám mười chín lắm khi chỉ có miếng cá hồi cắt mỏng, nướng giòn da ăn kèm với rau củ ngâm chua và chén canh là vui. Nhà nghèo ướp cá hồi với muối, nhà nào khá hơn sẽ ướp nước tương pha rượu gạo. Cá hồi nướng than. Đây mới là món truyền thống của Nhật, chứ không phải cá hồi sống.
Nuôi cá hồi
Nuôi cá hồi là việc nuôi, thu hoạch các loại cá hồi trong điều kiện kiểm soát để lấy thịt cá hồi và trứng cá hồi. Cá hồi cùng với cá chép, là hai nhóm cá quan trọng nhất trong nuôi trồng thủy sản. Cá hồi thường được nuôi là cá hồi Đại Tây Dương. Nhóm cá thường nuôi khác bao gồm nuôi cá rô phi, nuôi cá da trơn, nuôi cá bóp, cá chẽm và cá tráp. Hiện đang có nhiều tranh cãi về tác động sinh thái và sức khỏe của cá hồi nuôi trồng thủy sản. Có mối quan tâm đặc biệt về tác động đối với cá hồi hoang dã và sinh vật biển khác. Việc nuôi cá hồi cũng dễ rũi ro khi cá hồi thường bị mắc bệnh và ký sinh. Việc nuôi cá hồi là một ngành đóng góp lớn vào sản lượng cá nuôi, chiếm khoảng US 10 tỷ hàng năm. Các giống cá thường được nuôi khác gồm: tilapia, cá da trơn, cá vược biển, cá chép và cá tráp. Ngành nuôi cá hồi phát triển tại Chile, Na Uy, Scotland, Canada và Đảo Faroe, và là nguồn gốc hầu hết cá hồi được tiêu thụ tại châu Mỹ và châu Âu.
Mùa len trâu là bộ phim đầu tay của đạo diễn Việt kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh được khởi quay tháng 9 năm 2003. Bộ phim có kinh phí khoảng hơn 1 triệu USD, với sự tham gia của ba hãng: Hãng phim Giải Phóng Việt Nam, 3B Productions Pháp và Novak Prod Bỉ. Bộ phim được trình chiếu ở Pháp với tên Gardien de buffles và ở Mỹ với tên Buffalo boy. Chuyện phim dựa trên tác phẩm Mùa len trâu trong tập truyện Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, kể về cuộc sống của những người nông dân miền Nam đầu thế kỷ 20. Mỗi khi mùa mưa về, nước tràn ngập mọi nơi, có những người làm nghề “len trâu”, đưa trâu đi tìm cỏ để sống qua mùa lũ. Khi đến mùa nước lũ, nước tràn ngập cả vùng khiến cỏ chết hết và trâu cũng không thể ngủ dưới nước nên Kìm buộc phải đi len trâu (dẫn trâu lên vùng cao kiếm cỏ) cùng với đám chuyên len trâu của ông Lập, một ông chủ khó tính và du côn.­. Vượt qua bao nhiêu hiểm trở và vất vả khi phải dẫn trâu đi dưới nước cả ngày, phải đánh nhau với đám côn đồ vì địa bàn, bị đám khác đi trước giành cỏ nên phải đi nơi khác… cuối cùng Kìm cũng trở về nhà, tuy nhiên một trong hai con trâu đã chết, chỉ còn lại lớp da và cặp sừng để làm kỷ niệm. Tính tình Kìm cũng trở nên du côn hơn, chửi thề nhiều hơn khiến cha anh khá buồn. Kìm rất thương con trâu còn lại nên cả ngày quấn quít bên nó, tuy nhiên vì hoàn cảnh gia đình quá túng quẫn không có tiền trả nợ, cha mẹ của Kìm phải bán trâu đi khiến anh đau lòng mà bỏ nhà ra đi. Anh cùng Đẹt, người bạn chung đám len trâu của Lập, hợp tác đi len trâu cho những người khác. Trong lúc len trâu, Kìm nghe tin mẹ đã bỏ cha mình, còn cha mình ở U Minh bệnh nặng nên tức tốc quay về, còn Đẹt thì mang vợ con và Quang (một bạn cũ trong đám len trâu của Lập, cũng quen với Kìm) theo mình cùng len trâu. Kìm sống cùng cha những ngày cuối cùng trên con thuyền nhỏ bé, khi cha chết đi, anh được cha tiết lộ mình là kết quả từ một lần lầm lỡ hiếp dâm của cha anh và em gái ông Lập. Anh nhờ vợ chồng bà Hai, những người lạ mới quen, giúp anh chôn xác cha mình cùng với chiếc cối đáng giá cả gia tài của gia đình bà Hai để xác không bị nước cuốn đi. Sau khi chôn xác, anh trở lại với gia đình Đẹt và Quang. Sau một lần gặp mặt ông Lập cũng như bị vợ Đạt từ chối tình cảm, Kìm không muốn len trâu nữa nên quay về nhà bà Hai và phát hiện bà đã mất, anh sống cùng ông Hai đến khi ông mất. Một thời gian sau, hai vợ con của Đạt đến tìm Kìm và báo rằng Đẹt và Quang sau khi gặp ông Lập thì mất tích hơn 10 tháng, vợ Đẹt gửi con cho Kìm và một thân một mình chèo thuyền đi tìm Đạt. “…Tôi thường tìm cách trốn thoát cái chết chóc, đau khổ của chiến tranh bên ngoài bằng cách ráng đi vô coi phim. Vì ba tôi là quản lý rạp phim nên những người gác cửa rạp họ biết và để tôi vào xem không có gì khó khăn lắm. Xem phim, ngoài việc là phương tiện để tôi trốn thoát cái đau khổ của cuộc chiến tranh bên ngoài kia, nó còn là cửa sổ để tôi nhìn ra thế giới bên ngoài. Tôi xem phim Ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ, Pháp… Trong cái nhìn của một đứa trẻ tám, chín tuổi thì ấn tượng đó rất là sâu đậm. Nhưng không chỉ ở Việt Nam mà cả ở Âu châu, ngay cả ở Mỹ cũng vậy, sống bằng nghề làm phim không là chuyện vô cùng khó khăn nên tôi đành tạm gác cái đam mê của mình lại. Tôi chợt nghĩ, một là mình làm phim bây giờ, hai là mình chắc phải lãng quên giấc mơ này. Và tôi phải quyết định, không hẳn là bỏ hẳn ngành vật lý của mình, nhưng tôi phải giảm bớt vai trò của công việc vật lý để bắt đầu đi học làm phim và làm các phim ngắn. Rồi tôi bắt đầu viết kịch bản phim Mùa len trâu. Kịch bản viết rất là nhanh, tôi nhớ rằng tôi viết trong vòng khoảng 30 ngày. Tôi rất vui là kể từ khi viết kịch bản, bắt tay vào làm phim thì hầu như không có nhiều thay đổi.”. ““Len” trong tiếng Khmer có nghĩa là đi tự do, “len trâu” có nghĩa là cho trâu đi tự do. Ở đây nước lụt, nước lụt từ 1m đến 4m. Người ta ở nơi lụt, người ta không có chỗ ở là phải, và trâu cũng không có chỗ ở. Cho nên nó phải đi đến những vùng đất cao để có cỏ cho nó ăn. Ở nhà tối nó ngủ không được, ngủ với nước sao mà ngủ được, và trưa thì làm sao cho nó ăn, cỏ đâu ra mà cho nó ăn. Người nuôi trâu, chủ nhà có trâu, phải đưa trâu đến vùng đất cao. Làm sao người làm ruộng nuôi trâu? Muốn nuôi trâu thì phải lùa trâu đi. Ngày thường trời nắng, nuôi trâu trong chuồng. Đến ngày trời mưa thì phải lùa trâu đi. Vì vậy cho nên phải đem trâu đi chỗ khác. Đưa trâu đến vùng bảy Núi. Nhưng nó xa nhà mình đến 30 – 40 km, xa quá sao mà đưa đi. Vì vậy, mình phải đưa nó đi lòng vòng, ăn hết cỏ chỗ này, nước lên, thì đưa trâu sang chỗ khác. Có khi đến ba bốn tháng mới đưa trâu về. Trâu dẫn đi phải có người giữ. Trâu không dẫn đi thì phải mướn người ta giữ. Người nghèo mướn ai bây giờ? Vậy thì để con cái đi giữ nó. Ngày trước trẻ con đi theo con trâu, áo quần không có, mùng mền không có, gạo cơm thiếu, đó là cả một chuyện khó khăn. Vì vậy đối với chúng tôi dân miệt dưới, tôi là dân miệt dưới, đó là một bài học cho thanh niên trở thành người lớn. Nhưng mà trẻ con ở đó không có được đi học. Thằng dốt học với thằng dốt, thằng du côn học với thằng du côn. Tôi rất hãnh diện, vì tác phẩm tôi viết đã gần 50 năm rồi, nhiều anh em tính làm phim, nhưng nghĩ làm hông nổi. Thời buổi này đâu còn trâu, máy cày hết rồi, thành ra tôi để đó coi, chờ xem. May mà có anh Nguyễn Võ Nghiêm Minh, ổng làm sao mà ổng có tiền ổng mướn trâu, thiên hạ sợ quá. Chứ làm sao thằng cha này có tiền mướn ba bốn trăm con trâu để đóng phim, dân làm phim Sài Gòn ngán Nguyễn Võ Nghiêm Minh, tưởng cha này là tỷ phú Việt kiều Mỹ hay gì đó. Tôi hãnh diện, được thấy cái phim này, đối với đồng bào ở đồng bằng sông Cửu Long, tôi đã trả được một món nợ tinh thần. Tôi là một đứa con có hiếu với dân ở dưới. Tôi hy vọng các anh có phương tiện, phải làm sao chiếu ở dưới cho nhiều, và băng video in ra bán rẻ cho dân ở dưới coi. Họ sẽ rất hài lòng, họ thấy việc hợp tác giữa Việt, Pháp và Bỉ có kết quả rất lớn.”
Mùa len trâu
Mùa len trâu là bộ phim đầu tay của đạo diễn Việt kiều Nguyễn Võ Nghiêm Minh được khởi quay tháng 9 năm 2003. Bộ phim có kinh phí khoảng hơn 1 triệu USD, với sự tham gia của ba hãng: Hãng phim Giải Phóng Việt Nam, 3B Productions Pháp và Novak Prod Bỉ. Bộ phim được trình chiếu ở Pháp với tên Gardien de buffles và ở Mỹ với tên Buffalo boy. Chuyện phim dựa trên tác phẩm Mùa len trâu trong tập truyện Hương rừng Cà Mau của nhà văn Sơn Nam, kể về cuộc sống của những người nông dân miền Nam đầu thế kỷ 20. Mỗi khi mùa mưa về, nước tràn ngập mọi nơi, có những người làm nghề "len trâu", đưa trâu đi tìm cỏ để sống qua mùa lũ. Khi đến mùa nước lũ, nước tràn ngập cả vùng khiến cỏ chết hết và trâu cũng không thể ngủ dưới nước nên Kìm buộc phải đi len trâu (dẫn trâu lên vùng cao kiếm cỏ) cùng với đám chuyên len trâu của ông Lập, một ông chủ khó tính và du côn. Vượt qua bao nhiêu hiểm trở và vất vả khi phải dẫn trâu đi dưới nước cả ngày, phải đánh nhau với đám côn đồ vì địa bàn, bị đám khác đi trước giành cỏ nên phải đi nơi khác.
quan điểm lí luận chính trị xuất hiện cuối thế kỉ 19 – đầu thế kỉ 20, lúc đầu là của Becnơstainơ (E. Bernstein) sau đó là của những người đòi “xét lại” những luận điểm của Mac (K. Marx) và Enghen (F. Engels) về cương lĩnh, chiến lược và sách lược cách mạng, vv. Becnơstainơ phê phán lí luận của Mac mà Đảng Xã hội Dân chủ Đức coi là chính thống sau khi Enghen mất, trên những điểm: 1) Cho rằng lối cấu trúc tư biện của Hêghen (G. W. F. Hegel) theo quan điểm của Mac, là nguyên nhân của nhiều sai lầm về dự đoán, thậm chí cả về chiến lược. Becnơstainơ cho rằng Mac và Enghen đã kết hợp chủ nghĩa xã hội với cách mạng là sai lầm, vì đó là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau về nguồn gốc và bản chất. 2) Cho rằng sự phát triển kinh tế của xã hội tư bản hiện đại mâu thuẫn với một số luận điểm của Mac, nhất là về sự phân cực các giai cấp xã hội và về những hậu quả của tích tụ tư bản. Becnơstainơ cho rằng trên thực tế tuy giai cấp vô sản có đông lên, nhưng quỹ tiền lương trả cho lao động cũng tăng và đồng thời những tầng lớp trung lưu mới cũng xuất hiện. Tư bản càng tích tụ thì số cổ đông càng tăng lên, tức là số người có của cũng tăng lên. 3) Cho rằng trái với những dự đoán của Mac, các cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản không trầm trọng lên. Ngược lại, chủ nghĩa tư bản tỏ ra càng có khả năng khắc phục các cuộc khủng hoảng đó. 4) Cuối cùng, Becnơstainơ đề nghị một chiến lược cải lương, dựa vào quyền phổ thông đầu phiếu, và các quyền dân chủ khác, mà chuyển dần sang chủ nghĩa xã hội. Những sự phê phán này tập trung vào những mặt tư tưởng, kinh tế, chính trị và khẳng định chủ nghĩa Mac là học thuyết khoa học, là vũ khí của giai cấp vô sản. Vấn đề cơ bản mà CNXL đặt ra là vấn đề mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn. Cũng do đó, mỗi khi có những biến đổi mới trong đời sống xã hội, thực tiễn đặt ra vấn đề kiểm tra lại tính chân lí của những luận điểm này, hay luận điểm nọ của lí luận, thì đồng thời CNXL xuất hiện. Do đó, cuộc đấu tranh với CNXL cứ tái diễn gần như là định kì trong phong trào công nhân. Sau khi chủ nghĩa xã hội sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu, những người macxit chân chính rút ra những bài học thiết thực để phát triển chủ nghĩa Mac – Lênin và đấu tranh cho sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó, CNXL đi tới hoàn toàn phủ định chủ nghĩa Mac – Lênin, coi đó là học thuyết đã lỗi thời, đồng thời phủ nhận chủ nghĩa xã hội, coi như không còn thích hợp. Khuynh hướng trong nội bộ phong trào công nhân chủ trương xem xét lại và thay thế chủ nghĩa Mác – Lê nin bằng những quan điểm cải lương, vô chính phủ, ý chí luận.
Chủ nghĩa xét lại (chủ nghĩa Marx)
Trong chủ nghĩa Marx, từ chủ nghĩa xét lại được dùng để nói tới những ý tưởng, nguyên tắc hay lý thuyết khác nhau mà xét lại những tiền đề căn bản của Marx và Engels cũng như sau này của Lenin. Từ này thường được dùng bởi các người Marxist tin rằng những sự xét lại như vậy không có lý do xác đáng và chính là hành động từ bỏ chủ nghĩa Marx. Bởi vậy nó thường được những người này dùng với ý nghĩa xấu. Những người được cho là theo chủ nghĩa xét lại vẫn chấp nhận các lý tưởng mà Marx hướng đến cùng nền tảng lý luận cơ bản của chủ nghĩa Marx nhưng phê bình những luận điểm của Karl Marx và Friedrich Engels về cương lĩnh, chiến lược và sách lược cách mạng. cho là nó không còn phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn trên thế giới và trong các điều kiện hiện có trong nước. Những quan điểm này đưa tới một học thuyết cải tiến, mà khẳng định rằng xã hội chủ nghĩa có thể được xây dựng thông qua những cải tổ dần dần trong một hệ thống tư bản.
Quản lý sự tức giận là tập hợp các thực hành giúp kiểm soát cơn giận và nhằm mục đích cải tiến các kỹ năng để triển khai cơn giận thành công. Quản lý sự tức giận giúp nhận ra các yếu tố thúc đẩy đằng sau sự tức giận từ đó chúng ta có thể phân tích và giải quyết nó. Trước khi tiếp tục với hướng dẫn này, bạn cần có suy nghĩ bình tĩnh và sẵn sàng khám phá những gợi ý được đề cập dưới đây. Cơn giận, nói một cách đơn giản là phản ứng của một người với cảm giác bị đe dọa. Nó bắt đầu từ sự không thoải mái và dẫn tới sự kích động, và đôi khi nó làm cho cơn thịnh nộ dữ dội hơn. Sự tức giận thường bị nhầm lẫn với sự gây hấn. Các thuật ngữ như thù địch, gây hấn và thay đổi tâm trạng được sử dụng gần như thay thế cho Sự tức giận, tuy nhiên có một sự khác biệt nhẹ giữa chúng. Sự thù địch – Trong khi sự tức giận lái cảm xúc, sự giải thích và phán đoán của chúng ta về các tình huống dẫn đến sự thù địch. Sự thù địch giống và khuyến khích sự xâm phạm. Sự xâm phạm – Xâm phạm là hành vi có xu hướng gây hại cho người / tài sản. Đó là kết quả cuối cùng của sự giận dữ trong chúng ta. Tâm trạng thất thường – Đó là một trạng thái cảm xúc kéo dài có thể từ kích thích đến những biểu hiện giận dữ dữ dội. Khi tâm trạng lên đến đỉnh điểm, nó hoàn toàn vượt qua mọi cảm xúc khác. Thật thú vị, từ ‘tâm trạng’ bắt nguồn từ từ tiếng Anh cũ ‘mōd’ có nghĩa là ‘lòng can đảm’. Nam sống trong một căn hộ. Anh thức dậy vào một buổi sáng và thấy ai đó đã di chuyển chiếc xe đạp của mình từ chỗ đậu xe mà không có sự đồng ý của anh. Đầu tiên, anh ta cảm thấy khó chịu khi ai đó xâm phạm không gian riêng tư của mình. Chậm chạp nhưng chắc chắn, cơn giận bắt đầu ùa về. “Ồ, chắc chắn rồi! Tiếp tục – đối xử với tôi như một kẻ vô dụng! Tại sao thậm chí còn không bận tâm hỏi tôi bất cứ điều gì!”. Một môi trường tinh thần thù địch hình thành từ tình huống này. Trong khi anh ta vẫn đang nói chuyện với chính mình trong sự tức giận, đột nhiên con trai anh ta xuất hiện và nhờ anh ta giúp sửa quạt. Do đã bị xáo trộn với những mâu thuẫn nội bộ của mình, Nam hét lên, làm con trai mình rơi nước mắt. Việc trút giận này có thể đã làm dịu Nam tạm thời, nhưng cảm giác tội lỗi và xấu hổ trong anh ta đã làm tổn thương con trai khiến anh ta gắt gỏng và không đồng ý trong phần còn lại của buổi sáng. Tại nơi làm việc, các đồng nghiệp sẽ chú ý và thì thầm với nhau – “Hôm nay Nam đang có tâm trạng tồi tệ”. Nhớ lại một sự cố trong cuộc sống của bạn, lúc bạn đã nổi giận và trở nên bạo lực. Nó là tốt nhất nếu sự cố xảy ra gần đây. Bước 1 – Duy trì im lặng và nhắm mắt trước khi bạn nhớ lại vụ việc. Hãy dành 10 phút cho việc này. Bí mật 1 – Trút giận làm tôi thư giãn. Việc giữ nó làm ảnh hưởng tới sức khỏe. Sự thật – Có một câu nói rằng giữ sự tức giận cũng giống như giữ lấy than nóng đỏ trong lòng bàn tay của bạn. Sự tức giận nên được rút cạn, nhưng không phải bằng cách hung hăng. Điều đó sẽ chỉ dẫn đến những cuộc đối đầu xa hơn. Bí mật 2 – Hành vi hung hăng của tôi khiến tôi được chú ý, được tôn trọng và vâng lời. Sự thật – Sức mạnh ảnh hưởng đến từ việc hiểu ai đó chứ không phải bằng cách đe dọa anh ta. Bạn có thể bắt nạt người khác nộp bài, nhưng họ không tôn trọng bạn và cuối cùng sẽ bỏ rơi bạn nếu bạn không thể thay đổi quan điểm đối nghịch. Sự thật – Cũng giống như bất kỳ cảm xúc nào khác, sự tức giận cũng là kết quả của tình huống bạn đang gặp phải. Phân tích tình huống từ nhiều quan điểm khác nhau để tránh việc đánh giá sai và ngăn chặn sự tức giận. Bí mật 4 – Quản lý tức giận là học cách kìm nén cơn giận của bạn. Sự thật – Sự tức giận không nên bị triệt tiêu cũng như không được thông hơi, thay vào đó nó nên được thể hiện theo cách không bạo lực và theo cách xây dựng. Đây là những gì Quản lý sự tức giận dạy mọi người làm. Sự giận dữ mãn tính có thể có nhiều ảnh hưởng xấu ngắn hạn và dài hạn đến sức khỏe, đời sống xã hội và cuộc sống cá nhân của bạn. Ngoài việc mất bạn bè và phá vỡ các mối quan hệ khi mỗi ngày trôi qua, sự tức giận cũng dẫn đến một cảm giác chung về sự ngờ vực và mất sự thanh bình. Các giai đoạn giận dữ kéo dài gây căng thẳng rất lớn cho chúng ta, do đó sẽ có ít thời gian hơn cho cơ thể thư giãn. Điều đó dẫn đến các vấn đề liên quan đến sức khỏe như huyết áp cao, tiểu đường và mất ngủ. Sự tức giận làm cho phán đoán của chúng ta trở nên mơ hồ và dẫn đến sự sai lệch về sự thật. Nó cũng dẫn đến phân tích lặp đi lặp lại của sự kiện. Điều này rút rất nhiều năng lượng tinh thần, do đó dẫn đến trầm cảm và tăng huyết áp, trong số các vấn đề khác. Những người mà không thể chấp nhận những lời chỉ trích mang tính xây dựng và không thể xử lý những khác biệt sáng tạo hoặc những ý kiến trái chiều cuối cùng sẽ thể hiện sự khó chịu của họ một cách gay gắt, điều này dẫn đến việc đồng nghiệp và bạn bè bỏ rơi họ. Sự tức giận dữ dội ngăn cản mọi người giao tiếp với bạn hoặc cảm thấy thoải mái khi ở gần bạn. Những hình ảnh bùng nổ của sự tức giận cũng gây ra vết sẹo tâm lý suốt đời với trẻ em. Các yếu tố bên ngoài như vấn đề cá nhân với người khác, nợ nần, thất vọng, tình huống không thuận lợi hoặc thiếu thời gian cho bản thân và gia đình dẫn đến những suy nghĩ tiêu cực. Các triệu chứng tâm thần của sự tức giận là. Nhưng cách tồi tệ nhất để đối phó với sự tức giận là không làm gì cả, tức là, đóng nắp nó lại. Việc kìm nén sự tức giận này dẫn đến việc uống rượu thường xuyên, hút thuốc quá mức và thậm chí là dùng thuốc an thần. Trong trường hợp cực đoan, người ta cũng tự làm đau mình. Trong những tình huống như thế này, điều quan trọng nhất để nói với bản thân bạn là mọi người, mọi tình huống hoặc môi trường xung quanh đừng làm bạn tức giận. Đó là cách chúng ta phản ứng với những người mà khiến chúng ta tức giận. Nói tóm lại, bất cứ ai hay bất cứ điều gì làm bạn tức giận – thì sẽ điều khiển bạn. Tín hiệu vật lý – Đây là những gợi ý mà cơ thể chúng ta báo hiệu sự tức giận đã bắt đầu xây dựng bên trong chúng ta. Chúng có thể là tăng nhịp tim, thở nhanh, căng cơ, v.v. Tín hiệu hành vi – Cách chúng ta cư xử với người khác khi chúng ta tức giận, hoặc những gì người khác quan sát về chúng ta khi chúng ta tức giận như quai hàm, nhíu mày và nhìn chằm chằm. Tín hiệu tình cảm – Đây là một số cảm xúc khác đi kèm với sự tức giận như bất an, bất lực, xấu hổ và cảm giác tội lỗi. Tín hiệu liên quan đến suy nghĩ – Đây là những suy nghĩ của chúng ta khi chúng ta tức giận như làm phiền những hình ảnh tinh thần, tưởng tượng việc đấm ai đó, kết nối sự cố này với một số sự cố tương tự khác. Hãy tưởng tượng 1 kịch bản mà gây ra cho bạn sự không thoải mái và tức giận. Chú ý những thay đổi xuất hiện trong cơ thể, tâm trí, suy nghĩ và hành vi tương ứng của bạn. Bây giờ hãy điền vào bảng dưới đây. Nhiều người nghĩ rằng sự tức giận là một cảm xúc chỉ tự bắt đầu và trước khi họ nhận ra, nó vượt khỏi tầm kiểm soát. Trái lại, tức giận là một cơ chế phòng thủ. Nó được viện dẫn khi chúng ta cảm thấy không an toàn do đó nó làm cho cơ thể sẵn sàng ở chế độ sinh tồn “Chiến đấu hoặc Biến”. Chú ý đến những thay đổi mà sự tức giận mang lại trong cơ thể chúng ta có thể cho chúng ta một gợi ý về việc tiếp cận sự tức giận. Phân tích cảm xúc tiêu cực bao gồm xác định các mẫu suy nghĩ mà kích hoạt và thúc đẩy sự tức giận. Chúng bao gồm những điều sau đây. Suy nghĩ tự kỉ – Ví dụ: “Không ai quan tâm đến tôi.”, “Tại sao tôi lại vô hình với những người khác xung quanh tôi?”, “Tất cả họ đều ghét tôi.”. Gắn một ý kiến cứng nhắc – Có cách nhìn và quan điểm về không thể thương lượng và buộc mọi người phải suy nghĩ giống hệt nhau khi phải đối mặt với những quan điểm trái chiều. Giả sử và kết thúc sớm – Ví dụ: “Tôi biết những gì anh ta đang ám chỉ.”, “Ồ, vậy đó là những gì anh ta đang nhận được.”, “Được rồi, có lẽ anh ta không muốn nghe tôi nói. Xây dựng sự tức giận – Tìm kiếm lý do để tức giận và buồn bã. Đây là cả nguyên nhân và kết quả của sự cáu kỉnh và mang đến sự hiểu lầm lớn giữa hai người ngay cả khi một trong số họ sẵn sàng giúp đỡ. Đổ lỗi – Bạn đổ lỗi cho mọi người khác thay vì nhìn lại vào bản thân để xác định vấn đề. Bất kỳ phần nào của biểu hiện tức giận bắt đầu từ đầu và tích tụ, đều đặn hoặc nhanh chóng qua ba giai đoạn. Ở đây chúng tôi sẽ thảo luận về các giai đoạn này cùng với các hành động liên quan đến chúng. Leo thang – Ở giai đoạn này, chúng ta bắt đầu nhận được nhiều tín hiệu khác nhau mà tâm trí và cơ thể của chúng ta cho chúng ta về sự tức giận đang hình thành trong chúng ta. Những tín hiệu này là thể chất (thở nặng nề), hành vi (nghiến răng), cảm xúc (cảm giác tội lỗi) hoặc nhận thức (hình ảnh của sự trả thù). Biểu hiện – Nếu Giai đoạn Leo thang tiếp tục không được giám sát, Giai đoạn Biểu hiện sẽ sớm theo sau. Điều này được đặc trưng bởi sự giận dữ thể hiện bao gồm sự gây hấn bằng lời nói hoặc thể xác. Sau biểu hiện – Đó là ở giai đoạn khi chúng ta bắt đầu nhận ra những hậu quả tiêu cực là kết quả trực tiếp của sự gây hấn bằng lời nói hoặc thể xác. Nó có thể bao gồm từ cảm giác tội lỗi bên trong, xấu hổ và hối hận cho đến những hệ lụy bên ngoài hơn như bắt giữ và trả thù từ người khác. Mỗi cá nhân đều có cường độ, tần suất và thời gian tức giận cá nhân của mình trong Chu kỳ xâm lược. Ví dụ, một người có thể tức giận chỉ trong vài phút. Một người khác giận dữ có thể leo thang chậm trong một thời gian dài trước khi bước vào Giai đoạn biểu hiện. Mục tiêu của việc quản lý sự tức giận là để tránh cho mọi người không bị rơi vào giai đoạn Biểu hiện. Với sự trợ giúp từ các kỹ thuật và thực hành hiệu quản, sự tức giận có thể được nhận diện và kiểm soát trước khi nó đến giai đoạn Leo thang. Mô hình A-B-C-D, được phát triển bởi Albert Ellis, được phổ biến trên toàn thế giới là liệu pháp mạnh mẽ để khắc phục các vấn đề quản lý tức giận. A (Activation Agent – Tác nhân kích hoạt) – Tình huống kích hoạt sự tức giận của bạn. C (Consequences – Kết quả) – Đây là cảm xúc và hành động của bạn để đáp lại niềm tin của bạn. D (Dispute – Đấu tranh) – “Đấu tranh” đang kiểm tra với niềm tin nếu chúng là thực tế hoặc chỉ là một hình dung của trí tưởng tượng bị bóp méo của bạn. Điều này rất có ý nghĩa trong Quản lý tức giận. Bạn đang đi xuống cầu thang và ai đó va chạm với bạn và thản nhiên bước đi mà không xin lỗi. Bạn nghĩ rằng, “Mọi người đều rất liều lĩnh ngày nay; họ đối xử với người khác như sâu bệnh. Bạn nhận thấy rằng cơ bắp của bạn đang căng thẳng, nhịp tim của bạn cao và bạn cảm thấy muốn đánh tay lái. Bạn lăn cửa sổ xuống và hét lên với người lái xe khác. Bạn có thể tự nói với mình – “Có lẽ anh ấy có việc khẩn cấp … hoặc có thể không, nhưng bạn không bao giờ biết; đây là cuộc sống”. Sự tức giận thường che đậy những cảm giác khác như bối rối, bất an, xấu hổ hoặc mặc cảm. Để kiểm soát cơn giận của bạn, bạn cần nhận ra cảm xúc thực sự của bạn là gì. Sự giận dữ thúc đẩy cơ chế phòng thủ “chiến hay biến” của cơ thể. Ngay cả khi bạn có thể cảm thấy rằng bạn chỉ tức giận mà không báo trước, cơ thể bạn sẽ bắt đầu gửi cho bạn các tín hiệu vật lý trước đó. Bạn có thể đối phó với cơn giận của mình nhanh hơn nếu bạn biết cách nhận ra các tín hiệu, trước khi nó vượt khỏi tầm kiểm soát. Hít thở – Hít thở sâu từ bụng để hít không khí trong lành vào phổi. Tập thể dục – Nó giải phóng năng lượng tiêu cực nghiền ngẫm mà bạn mang theo. Sử dụng các giác quan – Nghe nhạc hoặc hình dung bản thân ở một vị trí tuyệt đẹp. Đếm từ từ đến mười – Tập trung vào việc đếm khiến bạn suy nghĩ hợp lý và khiến cảm xúc của bạn được sắp xếp hợp lý với suy nghĩ của bạn. Nếu được truyền đúng cách, sự tức giận có thể là một công cụ thúc đẩy tuyệt vời. Rất nhiều vận động viên đã sử dụng sự tức giận để thực hiện xuất sắc.
Quản lý tức giận
Quản lý tức giận là một chương trình tâm lý trị liệu để ngăn ngừa và kiểm soát sự tức giận. Nó đã được mô tả là triển khai cơn giận dữ thành công. Tức giận thường là kết quả của sự thất vọng, hoặc cảm thấy bị cản trở đối với điều gì đó mà đối tượng cảm thấy là quan trọng. Giận dữ cũng có thể là một phản ứng phòng vệ đối với nỗi sợ hãi tiềm ẩn hoặc cảm giác dễ bị tổn thương hoặc bất lực. Các chương trình quản lý tức giận coi sự tức giận là một động lực gây ra bởi một lý do xác định được có thể được phân tích một cách hợp lý và nếu phù hợp thì có thể được hướng tới một cách bài bản. Mục tiêu lý tưởng của quản lý cơn giận là kiểm soát và điều chỉnh cơn giận để nó không dẫn đến các vấn đề khác. Giận dữ là một cảm xúc chủ động kêu gọi một người cảm thấy cảm xúc này hành động phản ứng lại. Mọi người rơi vào vấn đề tức giận bởi vì cả người xúi giục và bị xúi giục đều thiếu các kỹ năng giao tiếp và xã hội để duy trì sự tự chủ.
Truyện Dế Mèn phiêu lưu kí là tác phẩm văn xuôi dành cho lứa tuổi thiếu nhi đặc sắc và nổi tiếng nhất của nhà văn Tô Hoài. Truyện gồm 10 chương kể về hành trình phiêu lưu của chú Dế mèn qua thế giới của các loài vật, tác phẩm lần đầu tiên xuất bản vào năm 1941.Bạn đang xem: Đại vương ếch trong tác phẩm dế mèn phiêu lưu ký có tên là gìBạn đang xem: đại vương ếch trong tác phẩm dế mèn phiêu lưu ký có tên là gì. Hình ảnh Dế Mèn phiêu lưu ký còn được khắc họa rất chân thực qua bộ phim hoạt hình Dế Mèn phiêu lưu ký do hãng phim truyện Việt Nam sản xuất. Đọc truyện Dế Mèn phiêu lưu ký ta cảm nhận về nhân vật Dế Mèn qua thế giới cảm loài vật và loài người, dường như mọi hình ảnh đều tác động mạnh mẽ đến tâm tư, tình cảm và thẩm mỹ của người đọc. Cái thiện và cái ác, lí tưởng sống được thể hiện một cách nhẹ nhàng, tinh tế mà đầy sâu sắc. Dế Mèn đã trải qua cơ man nào là rủi ro và biến cố, nhưng từng bước Dế Mèn đều vươn lên tự điều chỉnh hành vi, tự nhận thức để trở thành con người hiệp nghĩa và ham hiểu biết, đầy bản lĩnh, kiên cường của một thanh niên cứng đầu đội trời chân đập đất. Giá trị nghệ thuật của tác phẩm thể hiện ở khả năng nắm bắt và mô tả đời sống tâm lí của lứa tuổi thiếu nhi và cả thanh niên của tác giả Tô Hoài. Ông đã tô vẽ nên một thế giới muôn vàn những điều mới lạ, những ham thích thiết thực và đầy phiêu lưu, những rung động tinh tế trước vẻ đẹp cuộc đời và thiên nhiên. Để biết đại vương ếch trong tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký có tên là gì, bài học mà anh Xén Tóc dành cho Dế Mèn như thế nào hay cuộc hành trình của Dế Mèn và những người bạn ra sao,. Mời bạn thưởng thức tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký hoặc đọc review sách tại đây:
Dế Mèn phiêu lưu ký
Dế Mèn phiêu lưu ký là tác phẩm văn xuôi đặc sắc và nổi tiếng nhất của nhà văn Tô Hoài viết về loài vật, dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Ban đầu truyện có tên là "Con dế mèn" (chính là ba chương đầu của truyện) do Nhà xuất bản Tân Dân, Hà Nội phát hành năm 1941. Sau đó, được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân, Tô Hoài viết thêm truyện "Dế Mèn phiêu lưu ký" (là bảy chương cuối của truyện). Năm 1955, ông mới gộp hai chuyện vào với nhau để thành truyện "Dế mèn phiêu lưu ký" như ngày nay. Truyện đã được đưa vào chương trình học lớp 6 học kỳ 2 môn Ngữ Văn của Việt Nam. "Dế Mèn phiêu lưu ký" có thể tạm dịch là "Ghi chép về cuộc đời trôi dạt của Dế Mèn" ("phiêu lưu" ở đây có nghĩa là "trôi dạt", không phải là "mạo hiểm" theo cách dùng từ của người Việt Nam). Năm 2020, nhà xuất bản Kim Đồng vừa cho ra mắt ấn bản đặc biệt "Dế mèn phiêu lưu ký" kỉ niệm 100 năm ngày sinh của nhà văn Tô Hoài (27/09/1920 - 27/09/2020) với hơn 100 bức tranh minh họa màu nước của họa sĩ trẻ Đậu Đũa.
Đương lượng là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong hóa học và sinh học. Bài viết này, VietChem sẽ cùng bạn đọc đi tìm hiểu chi tiết xem đương lượng là gì và cách tính đương lượng gam chính xác nhất. Đương lượng tên tiếng anh là Equivalent, đây là một đơn vị đo lường khả năng một chất kết hợp với một chất khác, thường được sử dụng phổ biến khi nói về nồng độ chuẩn. Đương lượng của một nguyên tố chính là số phần khối lượng của nguyên tố đó kết hợp với 1,008 phần khối lượng của Hidro hoặc 8 phần khối lượng của Oxi thay thế những lượng đó trong hợp chất. Đương lượng gam còn được định nghĩa là khối lượng tính bằng gam của một chất sẽ phản ứng với 6,022 x 1023 electron. Đương lượng của một đơn chất hay hợp chất là lượng chất đó được tính bằng gam có giá trị bằng đương lượng của nó. Ví dụ: Hãy tính đương lượng của sắt có khối lượng mol là 55.84 với hóa trị lần lượt là 2, 3 và 6 thì trị số đương lượng là bao nhiêu?. Lời giải: Áp dụng công thức ta tính được giá trị đương lượng của nguyên tố này sẽ lần lượt là: 27.92, 18.61, 9.31. Giống với đương lượng của một nguyên tố, đương lượng của một hợp chất là khối lượng đương lượng của hợp chất đó tính theo đơn vị gam. Công thức tính đương lượng của một hợp chất được thể hiện như sau:. Nếu hợp chất đó là muối, lúc này n sẽ là tổng số điện tích của các ion dương hoặc tổng số điện tích các ion âm mà một phân tử muối đã tham gia phản ứng trao đổi. Nếu VA lít dung dịch chất tan A có đương lượng ĐA tác dụng vừa đủ với B lít dung dịch chất tan B có đương lượng ĐB thì theo định luật đương lượng thì số lượng gam của chất A và B trong hai thể tích trên sẽ là như nhau. Các công thức trong định luật đương lượng sử dụng sự định phân để xác định nồng độ của dung dịch khi biết trước nồng độ của dung dịch các chất có trong phải ứng với nó, cũng như thể tích dung dịch các phản ứng vừa đủ. Bài tập 1: Hợp kim A cấu tạo từ kim loại R và Mg, mỗi kim loại chiếm 50% về khối lượng. Tiến hành hòa tan 7,2 gam A vào dung dịch HNO3 thì có 4,032 lít khí NO bay ra ở đktc. Tính đương lượng của R. Bài tập 2: 1,355 gam một muối sắt clorua tác dụng vừa đủ với 1,000g NaOH. Hãy Tính đương lượng của muối và định công thức phân tử của nó. Bài tập 3: Thiếc tạo được hai oxit, về khối lượng loại thứ nhất có 78,8% thiếc, loại thứ hai có 88,12% thiếc. Yêu cầu hãy tính đương lượng của thiếc trong mỗi trường hợp trên, cho biết khối lượng nguyên tử của thiếc = 118,7. Bài tập 4: Khi cho một kim loại tác dụng với oxi tạo ra hai oxit khác nhau. Tiến hành đun nóng 3g mỗi oxit trong một luồng khí Hydro sư ta thu được lượng nước tương ứng lần lượt là 0,679 g và 0,377 g. Hãy tính đương lượng của kim loại trong từng oxit và xác định tên kim loại đó. Hy vọng với những chia sẻ vừa rồi về cách tính đương lượng gam sẽ giúp bạn vận dụng công thức vào làm bài tập một cách tốt nhất. Xem thêm các dạng bài tập hóa học khác tại hoachat.com.vn. Khí Argon là một loại khí hiếm được ứng dụng nhiều trong sản xuất công nghiệp hiện nay. Bên cạnh những ứng dụng quan trọng, khí Argon có thể gây nguy hiểm nếu sử dụng và bảo quản không đúng cách. Glycerin là thành phần vô cùng quan trọng trong các sản phẩm mỹ phẩm làm đẹp, chăm sóc da. Tuy nhiên không nhiều người biết Glycerin là gì, Glycerin trong mỹ phẩm được ứng dụng như nào? Sử dụng thường xuyên Glycerin có hại không hay Glycerin mua ở đâu? Tất cả những thắc mắc này sẽ được VietChem giải đáp qua bài viết dưới đây. Cùng theo dõi nào!. GPĐKKD: 0101515887 do Sở KH & ĐT TP Hà Nội cấp ngày 30/06/2004. Là đơn vị cung cấp HOÁ CHẤT CÔNG NGHIỆP hàng đầu tại Việt Nam.
Đương lượng (hóa học)
Đương lượng hay Equivalent (Eq hay eq) là đơn vị đo lường thường dùng trong hoá học và sinh học. Nó đo lường khả năng một chất kết hợp với các chất khác. Nó thường được dùng khi nói về nồng độ chuẩn. Đương lượng của 1 nguyên tố là số phần khối lượng của nguyên tố đó kết hợp với 1,008 phần khối lượng của Hydro hoặc 8 phần khối lượng của Oxi hoặc thay thế những lượng đó trong hợp chất. Ví dụ: đương lượng của H là 1,008, của O là 8,0, của C là 3,0, của N là 4,6, của Al là 9,0, của Na là 23,0. Trong phản ứng hóa học "các nguyên tố kết hợp với nhau hoặc thay thế nhau theo các khối lượng tỉ lệ với đương lượng của chúng". Đó là định luật đương lượng do nhà vật lý và hóa học người Anh John Dalton (1766-1844) đề ra năm 1792. Định luật này cho phép tính một cách đơn giản đương lượng của 1 nguyên tố khi biết đương lượng của nguyên tố khác tác dụng với nó. Đương lượng được định nghĩa chính thức là khối lượng tính bằng gam của một chất sẽ phản ứng với 6,022 x 1023 electron.
Đơn giản, tôi là Maria (tiếng Tây Ban Nha: Simplemente María) là một bộ phim truyền hình thuộc thể loại telenovela do México sản xuất và phát sóng vào khoảng giữa năm 1989 và 1990. Đây là phiên bản tại México từ bộ phim Sabina Fantoni Kamalich của Peru, đã rất thành công vào năm 1969. Maria là một cô gái trẻ từ thị trấn thôn quê lên thành phố Mexico để tìm việc làm. Cô vào làm người giúp việc cho một gia đình giàu có và cô quen Juan Carlos, một anh chàng chơi bời phóng khoáng. Maria bị vướng vào cuộc chơi của Juan Carlos, cô có mang nhưng giấu anh ta. Maria sinh con trai và bắt đầu làm thợ may. Sau này, cô quen Víctor Careno, một người tử tế, mẫu đàn ông dành cho những phụ nữ nội trợ đơn giản. Thế nhưng, Maria không vượt qua được cảm giác bị tổn thương trước đó nên cô không thể tiến xa với Victor, cô chỉ chuyên tâm cho công việc. Dần dần, cô trở thành nhà thiết kế thời trang nổi tiếng và giàu có. Và rồi, cô cũng nhận ra mình cũng rất yêu Victor. Mối tình của họ phải vượt qua rất nhiều trở ngại. Bên cạnh đó, José Ignacio, con trai của Maria lại yêu con gái của Lorraine – kẻ rất ganh ghét gia đình Maria…. Bộ phim đan xen giữa nước mắt, tình yêu, hận thù. Cuối mỗi tập là một cái “gút thắt” cho tập kế tiếp được mở ra. Trong những năm 90, bộ phim này, cùng với Người giàu cũng khóc đã có những ảnh hưởng sâu rộng đối với khán giả truyền hình Việt Nam. Việc bộ phim được công chúng đón nhận nồng nhiệt chỉ là một phần nhỏ so với nội dung hấp dẫn của nó. Ảnh hưởng chính đến từ việc đó gần như là series phim (phim bộ) duy nhất chiếu trong thời kỳ này (tiếp sau Người giàu cũng khóc), khi mà toàn quốc lúc đó chỉ có duy nhất một đài truyền hình là VTV với thời lượng phát sóng hết sức hạn chế. Số buổi chiếu phim cũng được phân chia rạch ròi và riêng tối thứ bảy là sẽ phải có chương trình sân khấu hoặc kịch nói bắt buộc. Do không có sự lựa chọn khác nên Đơn giản tôi là Maria được đa số khán giả truyền hình, kể cả trẻ em, theo dõi. Nội dung phim được bàn tán rộng rãi và được nhắc đến thường xuyên trong cuộc sống hàng ngày của người dân Việt Nam trong thời gian phát sóng phim. Video cách nấu nước dùng phở ngon – 0220 Phở bò nước dùng chất lượng, siêu ngon.
Đơn giản, tôi là Maria
Đơn giản, tôi là Maria (tiếng Tây Ban Nha: Simplemente María) là một bộ phim truyền hình thuộc thể loại telenovela do México sản xuất và phát sóng vào khoảng giữa năm 1989 và 1990. Đây là phiên bản tại México từ bộ phim cùng tên của Peru, đã rất thành công vào năm 1969. Maria là một cô gái trẻ từ thị trấn thôn quê lên thành phố Mexico để tìm việc làm. Cô vào làm người giúp việc cho một gia đình giàu có và cô quen Juan Carlos, một anh chàng chơi bời phóng khoáng. Maria bị vướng vào cuộc chơi của Juan Carlos (Hoan Các-lốt) đào hoa, cô có mang nhưng giấu anh ta. Maria sinh con trai và bắt đầu làm thợ may. Sau này, cô quen Víctor Careno (thầy Vích-to), một người tử tế, mẫu đàn ông dành cho những phụ nữ nội trợ đơn giản. Thế nhưng, Maria không vượt qua được cảm giác bị tổn thương trước đó nên cô không thể tiến xa với Victor, cô chỉ chuyên tâm cho công việc. Dần dần, cô trở thành nhà thiết kế thời trang nổi tiếng và giàu có. Và rồi, cô cũng nhận ra mình cũng rất yêu Victor.
Đối với các nhà khảo cổ học, lịch sử và di truyền học, thông tin mới về hệ gen của người Việt là cơ sở để có thể nghiên cứu tiếp về nguồn gốc của người Việt trong tương quan với các dân tộc khác trong khu vực. Gen là một tập hợp các phân tử axit nucleic (deoxyribonucleic acid-DNA mang thông tin di truyền. Bộ gen người có khoảng từ 20.000-25.0000 gen, được tập hợp bên trong các nhiễm sắc thể (NST) nằm trong nhân tế bào. Bộ gen người bao gồm khoảng 3 tỷ phân tử cặp bazơ. Tế bào người chứa 23 cặp NST gồm 22 cặp NST thường và một cặp NST giới tính (nữ là cặp nhiễm sắc thể XX; nam là cặp nhiễm sắc thể XY). Hai cá thể người khác nhau có bộ gen giống nhau đến 99,9% và khác nhau chỉ có 0,1%. Bộ gen người giống 7% so với vi khuẩn E.coli, 21% với sâu, 90% với chuột và 98% với tinh tinh. Do một nguyên nhân nào đó như lỗi sao chép, tia tử ngoại, phóng xạ, hoá chất, vv mà gen có thể bị lỗi. Mặc dù tế bào có chức năng sửa lỗi nhưng nếu quá trình sửa lỗi không hiệu quả thì sẽ dẫn đến các biến đổi trên hệ gen so với ban đầu. Từ đó ảnh hưởng tới chức năng của protein mà gen đó mã hoá. Một số biến đổi gây hại gọi là đột biến gen gây ra các bệnh di truyền, ung thư, .vv. Mặc khác, một số biến đổi không gây hại hoặc đem lại những chức năng mới. Mỗi chúng ta đều có khoảng 20.000-25.000 gen trong cơ thể, điều tạo nên khác biệt giữa cá thể này và cá thể khác là kiểu gen (genotype). Kiểu gen khác nhau quy định kiểu hình khác nhau như chiều cao, màu tóc, màu da, giới tính.vv. Mỗi các nhân mang những biến dị (variant) giống nhau và khác nhau từ đó quy định thành kiểu hình. Kiểu gen được cấu tạo từ hai alen: một được nhận từ cha và một nhận từ mẹ. Ví dụ như gen VDR có hai thành tố là T và G, do đó có 3 biến thể: TT, TG và GG. Một cá thể có thể mang trong người biến thể TT, nhưng cá thể khác có biến thể TG hoặc GG. Tần số mỗi loại allen của một gen có thể khác biệt giữa các chủng tộc khác nhau. Ví dụ trong người châu Á, khoảng 5% mang trong người biến thể GG của gen VDR, nhưng tần số này ở người da trắng là 15%. Ngoài chức năng quyết định đặc tính cơ thể con người, gen còn có khả năng đột biến gây bệnh. Một khi gen bị đột biến có thể gây ra bệnh tật hoặc những nguy cơ về sức khoẻ. Vấn đề đặt ra cho y học thế kỷ 21 là làm sao để xác định được những biến đổi gen có ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật. Ngoài chức năng dùng thông tin gen để chẩn đoán bệnh tật, gen còn được sử dụng để xác định khả năng đáp ứng của thuốc. Ai cũng biết rằng bất cứ bệnh nào, thuốc chỉ có tác dụng (tức là có hiệu quả tốt) cho khoảng 50% bệnh nhân, còn 50% bệnh nhân không có tác dụng gì, thậm chí còn có tác hại. Nhiều bằng chứng nghiên cứu cho thấy, sự khác biệt về đáp ứng thuốc ở mỗi cá nhân có thể là do có yếu tố gen. Vì thế một trong những thử thách lớn nhất của y học trong tương lai là xác định gen nào có ảnh hưởng đến đáp ứng của thuốc nào. Tới nay, nhiều nước trên thế giới đã có dự án nghiên cứu giải mã bộ gen người, nhiều quốc gia đã xây dựng một hệ gen chuẩn riêng của họ. Dự án bộ gen người đã thúc đẩy sự phát hiện hơn 1.800 gen bệnh, đóng góp lớn trong việc tìm nguyên nhân, chẩn đoán, điều trị và tiên lượng bệnh. Trong 3 tỷ cặp bazơ ở bộ gen người, chỉ có 1-2% bộ gen người có chức năng mã hóa protein. Các trình tự lặp lại chiếm trên 50% trên bộ gen người. Phân tử bazơ linh hoạt, dễ bị bẻ gãy nhưng có những sai sót trên ADN không sửa chữa được dẫn đến bệnh di truyền. Việc giải mã bộ gen người sẽ giải quyết được 3 mục tiêu chính: xây dựng bản đồ hệ gen, giải mã chính xác các gen và xác định mối quan hệ giữa quần thể người Việt và các quần thể người xung quanh. Điều này giúp làm cơ sở đối chiếu hệ gen người Việt phục vụ cho ứng dụng lâm sàng và nghiên cứu y sinh. Mới đây, công trình Nghiên cứu bộ Gen người Việt thực hiện trên 305 người Kinh khỏe mạnh do các nhà khoa học Viện nghiên cứu Tế bào gốc - công nghệ Gen Vinmec thực hiện đã được công bố trên tập san Human Mutations, một trong những tập san khoa học có chất lượng hàng đầu về hệ gen người. Theo đó, Hệ gen người Việt cho thấy sự khác biệt lớn so với bộ gen các quần thể người khác, đặc biệt là về tần suất xuất hiện của biến đổi di truyền. Nghiên cứu này đóng góp lớn cho sự hiểu biết của con người về bộ gen mà chúng ta đang mang. Quý khách hàng có nhu cầu thăm khám, điều trị có thể trực tiếp đến Hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc hoặc liên hệ đặt hẹn trực tuyến TẠI ĐÂY. Từ con người đến thực vật, vi khuẩn cũng có một vòng đời từ khi được sinh ra cho đến lúc sinh sản. Vòng đời tế bào có thể được coi là chu kỳ sống của một tế bào, bao . Vợ chồng cháu sức khỏe sinh sản hoàn toàn bình thường. Hiện nay, cháu đã có hai bé gái. Hai vợ chồng cháu muốn có thêm bé trai. Bác sĩ có thể tư vấn cho cháu về vấn đề sàng . Một số đột biến gen có liên quan đến ung thư phổi không phải tế bào nhỏ (NSCLC). Có một trong những đột biến này có thể ảnh hưởng đến loại điều trị mà bác sĩ đề xuất. Các công nghệ giải trình tự gen không thể giải trình tự toàn bộ bộ gen của thực phẩm cùng một lúc. Do đó, bộ gen phải được chia thành các đoạn DNA nhỏ hơn, được giải trình tự và . Short Tandem Repeats (STRs) là các trình tự DNA lặp lại ngắn (2- 6 nucleotides) xuất hiện phổ biến trong hệ gen của con người. Các trình tự này có tính đa hình rất cao trong tự nhiên, điều này .
Bộ gen người
Bộ gen người là bộ hoàn chỉnh các trình tự axit nucleic cho con người, được mã hóa dưới dạng DNA bên trong 23 cặp nhiễm sắc thể trong nhân tế bào và trong một phân tử DNA nhỏ được tìm thấy bên trong từng ty thể. Hệ gen người, được chứa đựng trong các tế bào mầm (2 tế bào giới tính một tinh trùng và một trứng được tạo ra trong giai đoạn giảm phân của quá trình sinh sản hữu tính trước khi thụ tinh để tạo ra một hợp tử) bao gồm ba tỷ cặp base DNA, trong khi bộ gen lưỡng bội (tìm thấy trong các tế bào xôma) gấp hai lần mẫu DNA. Trong khi có sự khác biệt đáng kể giữa bộ gen của các cá thể con người (độ lệch 0. Dự án bản đồ gen người tạo ra trình tự hoàn chỉnh đầu tiên của bộ gen người, với trình tự dự thảo đầu tiên và phân tích ban đầu được xuất bản vào ngày 12 tháng 2 năm 2001. Bộ gen của con người là bộ gen đầu tiên của tất cả các loài động vật có xương sống được giải trình tự hoàn toàn.
Đặc điểm và pháp lý của nhà ở xã hộiĐặc điểm của nhà ở xã hộiPháp lý của nhà ở xã hội. Nhà ở xã hội là loại hình được nhiều người có thu nhập vừa và thấp lựa chọn hiện nay. Vậy Nhà ở xã hội là gì? Đặc điểm và pháp lý của nhà ở xã hội là gì? Mời bạn đọc theo dõi bài viết của Tìm Nhà Biên Hòa để hiểu rõ hơn về loại hình nhà ở này. Khi nhắc đến nhà ở xã hội, chúng ta đều biết không phải ai cũng có thể mua loại hình nhà ở này. Vậy nhà ở xã hội là gì? Ai có thể mua nhà ở xã hội?. Nhà ở xã hội là nhà ở có sự hỗ trợ của Nhà nước cho các đối tượng được hưởng chính sách hỗ trợ về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở. Theo đó, nhà ở xã hội là nhà ở thuộc sở hữu và quản lý của cơ quan nhà nước (có thể là trung ương hoặc địa phương) hoặc được các tổ chức phi lợi nhuận xây dựng để cung cấp nhà ở giá rẻ dành cho một số đối tượng thuộc chính sách ưu tiên trong xã hội như công chức nhà nước hoặc người có thu nhập thấp mà chưa có nhà ở thuê hoặc mua. Loại hình nhà này được cung cấp ra thị trường với mục đích đưa cơ hội sở hữu căn hộ với mức giá thấp hơn (thấp hơn nhà ở thương mại) cho những đối tượng nằm trong chính sách, đặc biệt là những đối tượng có hoàn cảnh khó khăn. Thuê mua nhà ở là việc người thuê mua thanh toán trước cho bên cho thuê mua 20% giá trị của nhà ở thuê mua. Trừ trường hợp người thuê mua có điều kiện thanh toán trước thì được thanh toán không quá 50% giá trị nhà ở thuê mua; số tiền còn lại được tính thành tiền thuê nhà để trả hàng tháng cho bên cho thuê mua trong một thời hạn nhất định; sau khi hết hạn thuê mua nhà ở và khi đã trả hết số tiền còn lại thì người thuê mua có quyền sở hữu đối với nhà ở đó. Theo quy định của Luật Nhà ở 2014, các đối tượng chính sách đáp ứng đủ các điều kiện được hưởng các chính sách hỗ trợ về nhà ở xã hội, trong đó có thuê mua nhà ở xã hội. Để được mua nhà ở xã hội thì phải thỏa mãn 02 điệu kiện:. HGĐ, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất và phải giải tỏa, phá dỡ nhà ở theo quy định của pháp luật mà chưa được Nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất ở. Chưa có nhà ở thuộc sở hữu của mình, chưa được mua, thuê hoặc thuê mua nhà ở xã hội, chưa được hưởng chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở dưới mọi hình thức tại nơi sinh sống, học tập hoặc có nhà ở thuộc sở hữu của mình nhưng diện tích nhà ở bình quân đầu người trong HGĐ thấp hơn mức diện tích nhà ở tối thiểu do Chính phủ quy định theo từng thời kỳ và từng khu vực. Trường hợp không có đăng ký thường trú thì phải có đăng ký tạm trú từ một năm trở lên tại tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có nhà ở xã hội. Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức. HGĐ, cá nhân thuộc diện bị thu hồi đất và phải giải tỏa, phá dỡ nhà ở theo quy định của pháp luật mà chưa được Nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất ở. Nhà ở xã hội phải được đảm bảo được các tiêu chuẩn hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật theo quy định của từng loại đô thị. Theo quy định của pháp luật hiện hành, nhà ở xã hội có thời hạn sử dụng tối đa 50 năm và người mua nhà ở xã hội chỉ có quyền sử dụng chứ không phải chủ sở hữu căn hộ. Chỉ trong trường hợp nhà ở xã hội có tuổi thọ 50 đến 60 năm thì mới được cấp sổ hồng với thời hạn sử dụng lâu dài. Nếu căn hộ xuống cấp và không thể sử dụng được nữa thì đất đai vẫn nằm trong dự án thuộc sở hữu chung, chủ cầu tư có thể ủy quyền hay bán cho người khác để di dời, xây dựng lại và tái định cư theo các chính sách của địa bàn đó. Từ đó có thể tận dụng được tiềm năng vốn có của đất đai. Trong thời hạn chưa đủ 05 năm, kể từ thời điểm trả hết tiền mua, thuê mua nhà ở xã hội, nếu bên mua hoặc thuê mua có nhu cầu bán lại nhà ở xã hội thì chỉ được bán lại cho Nhà nước (trong trường hợp thuê mua nhà ở xã hội do Nhà nước đầu tư) hoặc bán lại cho chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở xã hội (trong trường hợp mua, thuê mua nhà ở xã hội được đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn ngoài ngân sách) hoặc bán lại cho đối tượng được mua, thuê mua nhà ở xã hội theo quy định tại Điều 49 của Luật Nhà ở, với giá bán tối đa bằng giá bán nhà ở xã hội cùng loại tại cùng địa điểm, thời điểm bán và không phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Nhà ở xã hội
Nhà ở xã hội là một loại hình nhà ở thuộc sở hữu của cơ quan nhà nước (có thể trung ương hoặc địa phương) hoặc các loại hình nhà được sở hữu và quản lý bởi nhà nước, các tổ chức phi lợi nhuận được xây dựng với mục đích cung cấp nhà ở giá rẻ cho một số đối tượng được ưu tiên trong xã hội như công chức của nhà nước chưa có nhà ở ổn định, người có thu nhập thấp. và được cho thuê hoặc cho ở với giá rẻ so với giá thị trường. Ở Việt Nam, nhà ở xã hội được định nghĩa là nhà ở do Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế đầu tư xây dựng cho các đối tượng được quy định của Luật Nhà ở thuê hoặc thuê mua (người thuê nhà ở sau một thời gian quy định thì được mua và được công nhận sở hữu đối với nhà ở đó) theo quy chế do Nhà nước quy định. Đây là chính sách có ý nghĩa xã hội lớn. Quy mô, số lượng nhà ở xã hội tùy thuộc nhu cầu thuê và thuê mua của các đối tượng sinh sống trên địa bàn, phù hợp điều kiện kinh tế-xã hội của từng địa phương.
3 Đặc điểm phong cách kiến trúc hiện đại3.1 Tập trung vào hình khối, mảng kiến trúc rõ ràng3.2 Cách thức tổ chức và bố cục không gian kiến trúc sử dụng3.3 Nguyên màu sắc của phong cách hiện đại3.4 Đặc trưng ánh sáng3.5 Kiến trúc hiện đại đề cao tính kết nối với không gian bên ngoài3.6 Kiến trúc hiện đại không thể thiếu sự kết hợp với cây xanh. Kiến trúc hiện đại là một trong ba phong cách kiến trúc chủ đạo, có vẻ đẹp đặc trưng và có mức độ ảnh hưởng sâu rộng nhất hiện nay trên toàn thế giới. Với những đặc trưng về phong cách, vật liệu…kiến trúc hiện đại thực sự là niềm khao khát, ước mơ của nhiều người muốn chinh phục. Trong nội dung trình bày dưới đây, An Design sẽ nội dung chủ đạo liên quan đến phong cách kiến trúc này. Để các bạn có cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về một phong cách kiến trúc mới mẻ, độc đáo và tạo được nhiều dấu ấn trong bộ mặt kiến trúc hiện nay. Là một khái niệm khá rộng được sử dụng để mô tả các công trình khác nhau có đặc điểm tương đồng về sự đơn giản trong bố cục hình khối kiến trúc, tổ chức không gian hay cách thức tổ chức mặt bằng tự do phi đối xứng. Mặt đứng của công trình loại bỏ hoàn toàn các chi tiết trang trí cầu kỳ, rờm rà của trường phái cổ điển, tân cổ điển trước đó. Đồng thời sử dụng các loại vật liệu hiện đại như: bê tông, thép, kính…. Kiến trúc hiện đại được ra đời đầu tiên và được ghi nhận tại châu Âu khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Sau đó phát triển nhanh chóng và trở thành một trường phái kiến trúc chủ đạo được yêu thích trên toàn thế giới. Về hoàn cảnh xuất hiện của kiến trúc hiện đại : Những kiến trúc sư tại thời điểm này – Là những người đi tiên phong trong việc xây dựng nên trường phái kiến trúc này. Việc cảm thấy trào lưu kiến trúc cổ điển không còn phù hợp với sức sống sau khoảng thời gian dài hưng thịnh. Sự vay mượn quá nhiều vào quá khứ, không hề có sự phát triển và sáng tạo. Không đủ sức phản ánh được bối cảnh xã hội hiện đại đang diễn ra nhanh chóng tại đây. Vì thế mà kiến trúc hiện đại ra đời, ban đầu chỉ là những trào lưu nhỏ lẻ, có nguồn gốc từ thời khai sáng. Các kiến trúc sư tin tưởng rằng , họ cần phải tạo ra một trào lưu kiến trúc mới. Phản ánh được đầy đủ tính chất của thời đại mới. Các công trình kiến trúc hiện đại đầu tiên trên thế giới được ra đời và ghi nhận đánh dấu bước ngoặc vĩ đại về tư duy không gian kiến trúc, về phương pháp sử dụng vật liệu. Và biện pháp thi công mang lại những nhận thức mới về việc xây dựng, thi công các công trình này trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện nay. Sau đó, rất nhiều công trình mang phong cách kiến trúc hiện đại ra đời và phát huy tác dụng được đúng như mong muốn của những người sáng lập ra nó. Kiến trúc hiện đại với sự tương đồng trong cách thiết kế giữa các công trình khác nhau. Vì thế mà thể hiện được những đặc điểm riêng về cách thức thiết kế, bố cục hình khối không gian…Những đặc trưng đó được thể hiện một cách rõ ràng. So với kiến trúc cổ điển (chủ yếu là dạng hình tròn, oval, uốn cong,…) thì hình khối kiến trúc hiện đại lại tương đối đơn giản. Mọi đường nét chi tiết, hình khối đều hướng đến sự đơn giản, đến tinh tế. Không sử dụng nhiều các chi tiết kiến trúc rườm rà, phức tạp. Các khối kiến trúc kết hợp với nhau, cấu thành mang lại sự mạnh mẽ, khỏe khoắn và chắc chắn cho toàn bộ kết cấu của ngôi nhà. Các dạng hình học sử dụng phổ biến trong công trình mang phong cách kiến trúc hiện đại là hình lập phương, dạng thẳng, gấp khúc, vuông, chữ nhật…tạo nên sự phá cách trong khối kiến trúc. Độc đáo trong cách thể hiện và tư duy không gian. Các công trình mang phong cách kiến trúc hiện đại thường được xây dựng và phát triển về mặt công năng sử dụng sao cho hợp lý. Ở trong phong cách kiến trúc cổ điển thì công năng không được để ý nhiều, mà chỉ tập trung vào các chi tiết kiến trúc. Cũng như tập trung vào các vòm cong trang trí kiến trúc. Ở kiến trúc hiện đại các công năng sử dụng luôn được thể hiện rõ ràng ngay từ khi thiết kế. Việc bố trí các phòng ốc, diện tích, vị trí các phòng chức năng ra sao cho phù hợp với nhu cầu sử dụng. Mặt bằng tổ chức công năng phi đối xứng, thường không tuân thủ bất cứ nguyên tắc đối xứng nào trong phong cách thiết kế truyền thống. Đặc trưng này được thể hiện rõ ràng nhất trong cách phân chia công năng sử dụng của các công trình dân dụng. Nguyên tắc dùng màu trong kiến trúc hiện đại thường sử dụng các gam màu trung tính như: be, trắng, nâu, đen…dùng làm màu chủ đạo. Còn nhưng mảng kết hợp thường được chọn bằng những màu có tính nhấn mạnh. Hoặc những đường nét tinh tế để tạo nên một tổng thể hài hòa, nhưng vẫn mang nét cá tính riêng của gia chủ. Với hướng thiết kế này, chúng ta sẽ có vô số cách áp dụng màu sắc cho kiến trúc hiện đại mà mình mong muốn. Màu sắc trong phong cách hiện đại được tạo nên còn nhờ sự kết hợp hài hòa giữa hình khối, vật liệu và ánh sáng. Ngoại thất kiến trúc hiện đại được tạo thành nhờ vật liệu kính, gạch ốp tường hoặc các vật liệu hiện đại khác để hoàn thiện phần ngoại thất của công trình. Phong cách kiến trúc hiện đại mang đặc trưng ánh sáng vô cùng ấn tượng. Ở phong cách này, yếu tố ánh sáng được đề cao từ khâu thiết kế. Không chỉ tận dụng nguồn sáng tự nhiên, mà ánh sáng nhân tạo cũng được sử dụng phổ biến và tinh tế trong các công trình. Hệ thống ánh sáng tự nhiên được tận dụng bằng cách thiết kế hệ thống cửa chính, cửa sổ sao cho có thể thu được nhiều ánh sáng vào trong nhà nhất có thể. Nhưng không làm mất đi giá trị thẩm mỹ của công trình kiến trúc hiện đại. Sự kết nối với không gian kiến trúc bên ngoài là một trong những đặc trưng dễ thấy ở phong cách hiện đại này. Đặc trưng này thể hiện hoàn toàn khác với các công trình mang phong cách cổ điển. Trong khi phong cách kiến trúc cổ điển là sự gò bó, thống nhất và trọn vẹn trong từng không gian. Thì kiến trúc hiện đại lại yêu cầu tính mở nhiều hơn, kết nối không gian bên trong bên ngoài một cách rõ ràng nhất. Kiến trúc hiện đại luôn có sự kết nối với cảnh quan bên ngoài bằng các hệ thống cửa nhôm kính hoặc là sẽ không sử dụng tường ngăn các không gian. Các công trình kiến trúc hiện đại không thể thiếu được sự hiện diện của cây xanh- yếu tố tự nhiên giúp làm nên những đặc trưng phong cách cho kiến trúc hiện đại. Khác với sự khuôn đúc bó buộc trong kiến trúc cổ điển xưa cũ, cây xanh xuất hiện trong các công trình mang phong cách kiến trúc hiện đại là biểu tượng rõ ràng nhất cho mong muốn kết nối với thiên nhiên của con người thời điểm này. Công ty cổ phần Kiến trúc An Design chuyên thiết kế và thi công nội ngoại thất.
Kiến trúc hiện đại
Trào lưu kiến trúc Hiện đại (Modernism) là một khái niệm rất rộng được sử dụng để miêu tả các công trình khác nhau có các đặc điểm tương đồng về sự đơn giản trong bố cục hình khối không gian, tổ chức mặt bằng tự do phi đối xứng, mặt đứng loại bỏ việc sử dụng các họa tiết trang trí của trường phái cổ điển cũng như việc sử dụng vật liệu mới như kính, thép, bê tông. Kiến trúc hiện đại là một sự đoạn tuyệt mạnh mẽ với kiến trúc cổ điển, thể hiện một lối tư duy mới của sự phát triển bùng nổ của các xã hội châu Âu cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20. Trường phái kiến trúc này, xuất phát ở châu Âu từ cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20 và đã nhanh chóng phổ biến, trở thành một trường phái chủ đạo ra trên toàn thế giới đến thập niên 1970. Hiện nay mặc dù một định nghĩa chuẩn xác về khái niệm kiến trúc hiện đại vẫn còn đang được tranh luận, nhưng người ta thống nhất rằng trào lưu kiến trúc Hiện đại của thế kỉ 20 đã được thay thế bằng trào lưu kiến trúc Hậu Hiện đại (Postmodernism).
Bộ quy tắc ứng xử BSCI nhằm mục đích đặt ra các giá trị và nguyên tắc mà những người tham gia BSCI cố gắng thực hiện trong chuỗi cung ứng của họ. Mỗi người tham gia BSCI tán thành Bộ quy tắc ứng xử cũng như điều khoản thực hiện, bảng chú giải thuật ngữ và tài liệu tham khảo khi tham gia sáng kiến.Vậy BSCI là gì,Bộ quy tắc ứng xử BSCI gồm những gì?Hãy cùng SIS CERT làm rõ dưới đây:. Amfori Business Social Compliance Initiative (BSCI) là một sáng kiến hướng vào doanh nghiệp, giúp tổ chức đạt được các cam kết hướng tới cải thiện điều kiện làm việc của chuỗi cung ứng toàn cầu. BSCI tuân thủ các tổ chức đoàn kết xung quanh một phổ biến Quy tắc ứng xử, mà hỗ trợ họ trong các nỗ lực của họ đối với xây dựng một chuỗi cung ứng đạo đức bằng cách cung cấp cho họ với một hệ thống định hướng phát triển và nó được áp dụng cho tất cả các lĩnh vực. Bộ quy tắc ứng xử BSCI là nền tảng cốt lõi của BSCI.Nó trực tiếp đưa ra các điều lệ,quy tắc mà các công ty tham gia BSCI cam kết từng bước thực hiện xuyên suốt trong chuỗi cung ứng sản phẩm & dịch vụ. Năm 2003, tiêu chuẩn BSCI đã được Hiệp hội Ngoại thương (FTA) thiết lập. Mục đích đằng sau việc thiết lập tiêu chuẩn này là tạo ra sự nhất quán và dung hòa các công ty muốn cải thiện sự tuân thủ và cải tiến xã hội của họ trong các nhà máy. BSCI áp dụng nguyên tắc tiêu chuẩn lao động quốc tế bảo vệ quyền lợi của người lao động. Bộ Quy tắc Ứng xử BSCI nhằm đạt được mục tiêu tuân thủ các tiêu chuẩn xã hội và sinh thái nhất định. Bằng cách ký Bộ Quy tắc Ứng xử BSCI, các công ty, trong phạm vi ảnh hưởng của họ, đồng ý thực hiện các tiêu chuẩn xã hội và sinh thái, được đặt ra trong Quy tắc này và thực hiện các biện pháp cần thiết trong chính sách của công ty để thực hiện và hiện thực hóa các tiêu chuẩn đó. Các công ty cũng phải đảm bảo Quy tắc ứng xử sẽ được các nhà thầu phụ của họ tuân thủ, tham gia vào quá trình sản xuất, kết nối với việc sản xuất sản phẩm cuối cùng, được thực hiện thay mặt cho các thành viên BSCI.Đánh giá của bên thứ ba là một trong những cơ chế để cải thiện các tiêu chuẩn xã hội nhưng chìa khóa để cải thiện thực tế và bền vững là hợp tác với các nhà cung cấp. BSCI đặt mục tiêu khen thưởng sự sẵn sàng hợp tác của các nhà cung cấp. Các công ty tham gia vào BSCI phải tuân thủ quy tắc ứng xử này, thông báo cho người lao động về quyền và trách nhiệm của họ, tác động đến các đối tác kinh doanh trong việc bảo vệ nhân viên của họ và đưa ra hệ thống khiếu nại và đề xuất cho nhân viên. Nhóm SIS CERT giúp hiểu dễ dàng bộ quy tắc ứng xử BSCI và các phương pháp đơn giản để thực hiện trong thực tế. Nhóm cung cấp tất cả sự hỗ trợ để hoàn thành các thủ. tục tài liệu liên quan đến kiểm toán. Đánh giá ban đầu về các thông lệ hiện có đang được tuân thủ tại tổ chức là điểm khởi đầu cho đánh giá quy tắc ứng xử BSCI. Hỗ trợ 100% tài liệu được cung cấp để đạt được kết quả đánh giá thành công. Quá trình thực hiện được mô tả dưới đây:
Bộ quy tắc ứng xử
Bộ quy tắc ứng xử là một tập hợp các điều luật điều chỉnh tố tụng trọng tài nêu rõ các trách nhiệm hoặc cách hành xử thích hợp của một cá nhân, một bên hoặc một tổ chức. Các khái niệm liên quan bao gồm quy tắc đạo đức (tiêu chuẩn đạo đức) và quy tắc danh dự. .là "những nguyên tắc, giá trị, tiêu chuẩn hay các quy tắc hành vi có tác dụng hướng dẫn cho các quyết định, các quy trình và các hệ thống của một tổ chức theo cách (a) đóng góp cho phúc lợi của những cổ đông/người liên quan chủ chốt, và (b) tôn trọng quyền của tất cả những người uỷ thác quyền lợi bị ảnh hưởng bởi các hoạt động của tổ chức đó.
Một trong những tổ chức tài chính quyền lực nhất thế giới có ảnh hưởng lớn đến thị trường forex, đó là Fed – Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Không những vậy, những quyết định của nó còn làm cho cán cân thương mại quốc tế chao đảo. Vậy Fed là gì? Nó có những công cụ nào?…. Fed là viết tắt của cụm từ “Federal Reserve System”, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Fed còn được hiểu là Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ. Đây là Ngân hàng Trung ương lớn nhất thế giới. Fed vừa thuộc sở hữu Nhà nước, vừa thuộc sở hữu tư nhân. Sứ mệnh của Fed là nhằm đảm bảo 3 mục tiêu chính cho nước Mỹ. Đó là: Tạo việc làm tối đa, đảm bảo giá cả hàng hóa ổn định và lãi suất dài hạn vừa phải. Với quyền hạn và sức mạnh của mình, Fed điều tiết thị trường tài chính Mỹ, từ đó ảnh hưởng đến giá trị và dòng chảy của đồng USD. Đến lượt mình, với sức mạnh vốn có của đồng USD, nó lại ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ (forex) và hàng hóa không chỉ của Hoa Kỳ mà còn của cả thế giới. Trước năm 1913, nước Mỹ không có ngân hàng trung ương. Khi đó, thị trường tài chính Mỹ được điều tiết bởi “Đạo luật Ngân hàng quốc gia“, ban hành vào năm 1863. Nhưng sau đó, một loạt các biến động ngân hàng năm 1873, 1893 và 1907 đã khiến Hoa Kỳ phải xem xét lại. Quốc hội Mỹ sau đó đã lập ra một ủy ban cải cách tài chính, đứng đầu là một nghị sỹ đảng Cộng Hòa tên Nelson Aldrich. Nelson đã lập ra một nhóm để khảo sát ý kiến của các ngân hàng thương mại, đồng thời nghiên cứu hệ thống tài chính của các nước tiên tiến trên thế giới. Sau quá trình nghiên cứu, họ nhận thấy hệ thống tài chính của Anh và Đức là hiệu quả nhất. Đó chính là mô hình ngân hàng trung ương, một tổ chức của Chính phủ có vai trò và quyền hạn cao nhất trong việc điều tiết hệ thống tài chính quốc gia. Nhóm sau đó đã soạn thảo một dự luật gọi là “dự luật Aldrich“. Trong đó có đề xuất thành lập “Tổ chức Dự trữ liên bang” (Federal Reserve Association. Nhưng rất tiếc, đạo luật này đã không được Quốc hội Mỹ thông qua năm 1911. Tuy nhiên nó lại được Tổng thống lúc đó là Woodrow Wilson ủng hộ. Wilson đã thuyết phục được các phe phái trong đảng Dân Chủ và Thống đốc các bang miền Nam và miền Tây xa xôi về lợi ích và tính ưu việt của ý tưởng này. Theo đó, Ngân hàng Trung ương Mỹ sẽ không chỉ tập trung ở thủ đô hay một nơi nào khác, mà nó được phân tán địa điểm và quyền lực ra 12 bang. Tuy nhiên New York vẫn là chi nhánh được hưởng một số quyền hạn ưu đãi nhất. Cuối cùng, năm 1913, Quốc hội Mỹ đã thông qua “Đạo luật Dự trữ liên bang“. Ý tưởng chủ đạo của nó lấy từ “dự luật Aldrich“. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) chính thức đi vào hoạt động năm 1915. Paul Warburg được chỉ định làm người đứng đầu tổ chức này. Fed sau đó ngày càng hoàn thiện và thể hiện vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế Mỹ và thế giới. Bao gồm 7 thành viên được chỉ định bởi Tổng thống Mỹ và được phê chuẩn bởi Quốc Hội. Mặc dù vậy, Hội đồng này lại không nhận tài trợ từ Quốc hội. Fed cũng đứng độc lập với Chính phủ, hoạt động theo cơ chế dân chủ. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi báo cáo tới Quốc hội theo định kỳ. Nhiệm kỳ của Hội đồng thống đốc kéo dài tận 14 năm, trải qua nhiều đời Tổng thống. Hội đồng Thống đốc chịu trách nhiệm việc hình thành và cụ thể hóa chính sách tiền tệ. Nó cũng giám sát và quy định hoạt động của 12 Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực và hệ thống ngân hàng Hoa Kỳ nói chung. Ủy ban thị trường cũng bao gồm 7 thành viên. Trong số này thì có 5 thành viên đến từ các chi nhánh của Fed ở các địa phương, 2 thành viên còn lại đến từ các ngân hàng khác có tham gia cổ phần. Nhiệm kỳ của 2 thành viên còn lại được luôn phiên từ 2 đến 3 năm một lần. Hoạt động theo mô hình phân tán quyền lực nên Fed có 12 Cục dự trữ liên bang tại các địa phương. Điều đặc biệt của Ngân hàng Trung ương Mỹ so với các ngân hàng trung ương khác trên thế giới là các Cục dự trữ liên bang tại địa phương lại được sở hữu bởi tư nhân. Và vì vậy nó cũng bị phân tán quyền lực ra các địa phương. Các Cục dữ trữ liên bang tại địa phương hoạt động như các ngân hàng cổ phần. Cổ phần của nó được đóng góp bởi các ngân hàng tư nhân, gọi là các ngân hàng thành viên của Fed. Các Cục dữ trữ địa phương đều được quyền in tiền. Tất cả tiền của Mỹ đều được in và phát hành ra thị trường từ một trong 12 cục dự trữ liên bang này. Mỗi ngân hàng Fed tại địa phương được ký hiệu bằng chữ cái. Những chữ cái này in trên giấy bạc mà chúng phát hành. Giám sát và quy định các tổ chức ngân hàng. Đảm bảo hệ thống tài chính và ngân hàng quốc gia an toàn. Bảo đảm quyền tín dụng của người tiêu dùng. Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức quản lý tài sản có giá trị, các tổ chức chính thức nước ngoài, và chính phủ Hoa Kỳ. Đóng vai trò chủ chốt trong vận hành hệ thống chi trả quốc gia. Phần trên chúng ta có nói đến sức mạnh và sự ảnh hưởng của Fed đến nền kinh tế Mỹ và cả thị trường tiền tệ, cán cân thương mại thế giới là rất lớn. Mỗi khi Fed chuẩn bị đưa ra các quyết định thì không chỉ các nhà đầu tư forex, mà cả các ngân hàng trung ương của các nước trên thế giới đều phải dõi theo. Và dưới đây chính là 3 công cụ mà Fed dùng để thực thi chính sách tiền tệ. Khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ mua trái phiếu chính phủ, tiền được đưa thêm vào lưu thông. Tiền lưu thông tăng khiên lãi suất giảm xuống và chi tiêu, vay ngân hàng sẽ gia tăng. Khi Fed bán ra trái phiếu chính phủ, tác động sẽ diễn ra ngược lại. Tiền rút bớt khỏi lưu thông, khan hiếm tiền sẽ làm tăng lãi suất dẫn đến vay nợ từ ngân hàng khó khăn hơn. Ngân hàng thành viên cho vay phần lớn lượng tiền mà nó quản lý. Nếu Fed yêu cầu các ngân hàng này phải dự trữ một phần lượng tiền này, khi đó phần cho vay sẽ giảm đi, vay mượn khó hơn và lãi suất tăng lên. Các ngân hàng thành viên của Fed vay tiền từ Fed để trang trải các nhu cầu ngắn hạn. Lãi suất mà Fed ấn định cho các khoản vay này gọi là lãi suất chiết khấu. Hoạt động này có ảnh hưởng, tuy nhỏ hơn, về số lượng tiền các thành viên sẽ được vay. Bạn vừa đọc bài: “Fed là gì? Tìm hiểu toàn bộ về Cục Dự trữ Liêng bang Mỹ“. Cảm ơn Admin đã chia sẻ thông tin. Thế mà từ trước đến giờ em đâu có biết là Fed lại thuộc sở hữu của tư nhân. Đọc xong bài này thì thấy Fed đúng là quá khủng khiếp!. Nhân tiện mong Admin viết thêm nhiều bài hơn nữa về tài chính tiền tệ để các nhà đầu tư tham khảo. Các bài viết của anh rất sâu sắc và dễ đọc. Chúc anh luôn mạnh khỏe và thành công!. Cảm ơn Admin đã chia sẻ thông tin. Thế mà từ trước đến giờ em đâu có biết là Fed lại thuộc sở hữu của tư nhân. Đọc xong bài này thì thấy Fed đúng là quá khủng khiếp!. Nhân tiện mong Admin viết thêm nhiều bài hơn nữa về tài chính tiền tệ để các nhà đầu tư tham khảo. Các bài viết của anh rất sâu sắc và dễ đọc. Chúc anh luôn mạnh khỏe và thành công!. Cảm ơn anh đã chia sẻ. Đọc xong mới thấy Cục dự trữ Liên bang Mỹ cũng có tổ chức loằng ngoằng cứ không giống như các ngân hàng Trung ương khác trên thế giới. Bạn sẽ thấy Fed còn có tổ chức khủng khiếp hơn khi đọc bài viết dưới đây:. Cảm ơn anh đã chia sẻ. Đọc xong mới thấy Cục dự trữ Liên bang Mỹ cũng có tổ chức loằng ngoằng cứ không giống như các ngân hàng Trung ương khác trên thế giới. Bạn sẽ thấy Fed còn có tổ chức khủng khiếp hơn khi đọc bài viết dưới đây:. Đầu tư forex có độ rủi ro cao, không phù hợp với tất cả mọi người. Bạn nên cân nhắc kỹ trước khi tham gia vào thị trường này!. Khuyến cáo: chỉ nên sử dụng một phần số tiền nhàn rỗi của mình để đầu tư. Hãy cảnh giác trước những lời dụ dỗ về những khoản lợi nhuận hấp dẫn phi thực tế. Tất cả các bài chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm forex đều được viết bởi tác giả Phạm Khương, cũng là chủ sở hữu của website này. Mọi hành vi sao chép mà không ghi rõ nguồn gốc và tên tác giả đều không được phép.
Cục Dự trữ Liên bang (Hoa Kỳ)
Cục Dự trữ Liên bang (tiếng Anh: Federal Reserve System – Fed) hay Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ là ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ. Bắt đầu hoạt động năm 1913 theo "Đạo luật Dự trữ Liên bang" của Quốc hội Hoa Kỳ thông qua ngày 23 tháng 12 năm 1913, chủ yếu là để phản ứng với một loạt các hoảng loạn tài chính, đặc biệt là đợt hoảng loạn nghiêm trọng năm 1907. Theo thời gian, các vai trò và nhiệm vụ của Fed đã được mở rộng và cấu trúc của nó đã thay đổi. Các sự kiện như Đại suy thoái thập niên 1930 là các nhân tố chính dẫn đến các thay đổi hệ thống. Quốc hội Hoa Kỳ thiết lập 3 mục tiêu chính cho chính sách tiền tệ trong Đạo luật dự trữ Liên bang: Việc làm tối đa, giá cả ổn định, và lãi suất dài hạn vừa phải. Hai mục tiêu đầu đôi khi được gọi là nhiệm vụ kép của Cục dự trữ liên bang. Nhiệm vụ của cơ quan này đã được mở rộng trong những năm qua, và đến thời điểm năm 2009 cũng bao gồm việc giám sát và điều tiết ngân hàng, duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức lưu ký, Chính phủ Hoa Kỳ, và các tổ chức chính thức nước ngoài.
Kế hoạch 1,9 nghìn tỷ USD kích thích kinh tế vừa thông qua chưa ráo mực, tổng thống Joe Biden lại vội vã với “Kế hoạch việc làm Mỹ” trị giá 2,3 nghìn tỷ USD, thêm vào đó, hy vọng đánh thuế cao của người giàu để chia cho người nghèo khiến chúng ta không khỏi liên tưởng các chương trình nghị sự của ông Biden với nhân vật làm thay đổi Venezuale, cố tổng thống Hugo Chavez. Thời còn tại vị, ông Hugo Chavez đã thay đổi hoàn toàn con đường của Venezuela và của nhiều quốc gia Mỹ La Tinh trong khu vực bằng các chính sách kinh tế cực tả. Trong số đó, không thể không kể đến “sứ mệnh Bolivar”, kế hoạch chi vài tỷ Euro cho các chương trình xã hội lớn nhất trong khu vực, mục đích phân phối lại nguồn thu từ dầu mỏ cho những người thu nhập thấp. Dĩ nhiên, để làm được điều đó, Hugo Chavez buộc phải tước đoạt của người giàu chia cho người nghèo bằng các chính sách quốc hữu hoá cưỡng chế. Theo Giáo sư kinh tế và khoa học quản trị kinh doanh ở Caracas Michael Penfold - Becerra đã đánh giá “sứ mệnh Bolivar” của cố tổng thống Venezuela Hugo Chavez, là bao cấp chính trị cổ điển để mua “phiếu bầu” và lòng dân. Sự thật là ông Hugo Chavez được phiếu bầu và lòng dân nghèo sau đó bằng chính nguồn tài sản của người dân Venezuela, nhưng kết quả là phá tan tành nền kinh tế Venezuela như chúng ta chứng kiến hiện nay. Tưởng chừng như những sai lầm cổ điển như vậy không dễ gì lặp lại, khi Mỹ chính là một quốc gia chỉ trích Hugo Chavez và chính sách kinh tế của ông nhiều nhất khi ông còn tại vị. Nhưng lịch sử luôn có những bước rẽ hài hước, chỉ có điều khi nó buộc phải lặp lại một sai lầm, thì hậu quả của sai lầm đó sẽ lớn hơn nhiều so với quá khứ. Giờ đây, ngay tại Mỹ, con đường mà tổng thống Joe Biden và nội các của ông đang đi, đã ứng nghiệm với lo lắng trước đó, rằng “nếu ông Joe Biden thắng, nước Mỹ sẽ đi theo con đường của Venezuala”. Thực vậy, chính phủ Mỹ đang mở rộng với rất nhiều quỹ mới, cơ quan mới để quản lý các khoản chi khổng lồ và nhiều trong đó rất mơ hồ, các khoản chi cũng nhắm tới việc gia tăng kiểm soát, kiểm duyệt thông tin của chính phủ trên đất Mỹ. Theo Guardian, kế hoạch trị giá 2,3 nghìn tỷ USD của tổng thống Mỹ Joe Biden để phát triển cơ sở hạ tầng của quốc gia. Ông Biden nói, kế hoạch chi tiêu này sẽ cho phép “tiến bộ có tính thay đổi trong khả năng của chúng ta để đối phó với biến đổi khí hậu” khi hỗ trợ năng lượng sạch, xe điện và nhà có khả năng chống các mối đe dọa khí hậu. Gói này, được gọi là "Kế hoạch Việc làm Mỹ", là "dấu hiệu đầu tiên về quy mô chi tiêu sẽ được xin để định hình lại cuộc sống hàng ngày nhằm ngăn chặn biến đổi khí hậu thảm khốc". Công bố kế hoạch bằng một bài phát biểu tại Pittsburgh nhấn mạnh việc tập trung vào tạo việc làm, ông Biden cho biết đây sẽ là “khoản đầu tư chỉ có một lần trong một thế hệ ở Mỹ, không giống như bất cứ khoản đầu tư nào chúng ta đã thấy hoặc làm kể từ khi chúng ta xây dựng hệ thống đường cao tốc liên bang và cuộc chạy đua vũ trụ cách đây nhiều thập kỷ”, trang Associated Press đưa tin. Kế hoạch cơ sở hạ tầng này được đưa ra ngay sau gói cứu trợ virus Corona Vũ Hán trị giá 1,9 tỷ USD của ông Biden sau chưa đầy 3 tháng tại vị. Ông Biden hy vọng sẽ gói này sẽ được thông qua vào mùa hè, "điều đó có nghĩa là chỉ dựa vào Hạ viện và Thượng viện với đa số thành viên Dân chủ mỏng manh". Nhìn lướt qua đề xuất cho thấy nhiều hạng mục dường như chỉ liên quan đến cơ sở hạ tầng. Trên thực tế, một số dường như không liên quan đến cơ sở hạ tầng. Dưới đây là 9 hạng mục "chi tiêu trên trời" bị nghi ngờ nhất trong đề xuất "cơ sở hạ tầng" của ông Biden được lấy trực tiếp từ tờ thông tin về kế hoạch mà Nhà Trắng đã công bố. Nhà Trắng tuyên bố rằng “khoản đầu tư 10 tỷ USD này sẽ thúc đẩy một thế hệ người Mỹ mới, đa dạng làm việc để bảo tồn các vùng đất và vùng biển công của chúng ta khi tăng cường khả năng thích ứng của cộng đồng và nâng cao công bằng môi trường thông qua một Tập đoàn Khí hậu Dân sự mới”. Đề xuất dành ra một khoản tiền khổng lồ 20 tỷ USD — nhiều hơn gói mới nhất dành cho vaccine chống Covid-19 — cho “một chương trình mới sẽ kết nối lại các vùng lân cận bị chia cắt bởi các khoản đầu tư mang tính lịch sử và đảm bảo các dự án mới tăng cơ hội, thúc đẩy công bằng chủng tộc và công bằng môi trường, đồng thời thúc đẩy việc truy cập với giá cả phải chăng". Xe điện: Một công nghệ mới lạ đến mức nó sẽ không bắt kịp nếu không có hàng trăm tỷ đồng trợ giá. Ít nhất, đó rõ ràng là những gì chính quyền ông Biden nghĩ, khi đề xuất cơ sở hạ tầng của họ đánh dấu “một khoản đầu tư trị giá 174 tỷ USD để giành được thị trường xe điện”. Khoản chi tiêu này sẽ dưới hình thức trợ cấp sản xuất và tính thuế tiêu dùng, vốn trước đây đã mang lại lợi ích nhiều nhất cho các gia đình giàu có. Để so sánh, đề xuất này dành nhiều lợi ích cho năng lượng xanh hơn so với tổng số 115 tỷ USD để “hiện đại hóa các cây cầu, đường cao tốc, đường xá và các phố chính đang cần nhiều sửa chữa nhất”. Khi hầu hết mọi người nghe đến "cơ sở hạ tầng", họ nghĩ đến đường, cầu, đường hầm, v.v. Nhưng định nghĩa của chính quyền ông Biden về thuật ngữ này là cực kỳ linh hoạt. Rõ ràng, tổng thống coi đó là "chi tiêu cơ sở hạ tầng" khi phân bổ 213 tỷ USD để xây dựng hoặc trang bị thêm 2 triệu ngôi nhà và tòa nhà "bền vững". Họ cũng bỏ ra 40 tỷ USD cho nhà ở công khi nói rằng điều này sẽ "mang lại lợi ích nghiêng về phụ nữ, người da màu và người khuyết tật". Bạn có thể nhớ rằng quy định mới nhất về “COVID” có 128,5 tỷ USD tiền đóng thuế của người nộp thuế cho các trường công lập; phần lớn số tiền sẽ được chi tiêu nhiều năm sau đại dịch và không có yêu cầu nào về việc các trường học phải thực sự mở cửa. Tuy nhiên, rõ ràng đây mới chỉ là bước khởi đầu. Kế hoạch "cơ sở hạ tầng" của ông Biden bao gồm "100 tỷ USD khác để nâng cấp và xây dựng các trường công lập mới". “Ngân quỹ cũng sẽ được cung cấp để cải thiện các bếp ăn trong trường học của chúng ta, vì vậy chúng có thể được sử dụng để chuẩn bị tốt hơn các bữa ăn dinh dưỡng cho học sinh của chúng ta và đi theo hướng xanh bằng cách giảm hoặc loại bỏ việc sử dụng đĩa giấy và các vật liệu dùng một lần khác”, đề xuất viết. Người ta thường nghĩ về cơ sở hạ tầng và giáo dục đại học là những lĩnh vực riêng biệt và khác biệt. Tuy nhiên, kế hoạch “cơ sở hạ tầng” của ông Biden lại giảm 12 tỷ USD cho các tiểu bang để chi cho các trường cao đẳng cộng đồng. Đề xuất bao gồm nhiều tỷ USD được phân bổ để giảm bớt “bất bình đẳng về chủng tộc và giới tính” trong nghiên cứu và phát triển Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật và Toán học (STEM). Điều có liên quan đến cơ sở hạ tầng giữa các tiểu bang lại không được giải thích đầy đủ. Được gộp một cách lỏng lẻo theo thuật ngữ rộng rãi là “cơ sở hạ tầng kỹ thuật số”, kế hoạch phân bổ 100 tỷ USD để “mang lại băng thông rộng tốc độ cao, đáng tin cậy, giá cả phải chăng cho mọi người Mỹ”. Điều thú vị là, đề xuất công khai tuyên bố rằng nó mong muốn thúc đẩy sự kiểm soát của chính phủ và tổ chức phi chính phủ đối với băng thông rộng và thúc đẩy các nhà cung cấp khu vực tư nhân: Nó “ưu tiên hỗ trợ cho các mạng băng thông rộng được sở hữu, điều hành hoặc liên kết với chính quyền địa phương, tổ chức phi lợi nhuận và hợp tác xã —Các nhà cung cấp chịu ít áp lực hơn trong việc chuyển lợi nhuận”. Kế hoạch này bao gồm 25 tỷ USD “để giúp nâng cấp các cơ sở giữ trẻ và tăng nguồn cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ em ở những khu vực cần nó nhất”. Theo Nhà trắng, "khoảng tài trợ sẽ được cung cấp thông qua một Quỹ Đổi mới và Tăng trưởng đối với Chăm sóc Trẻ em cho các tiểu bang để xây dựng nguồn cung cấp dịch vụ chăm sóc trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi ở những khu vực có nhu cầu cao". Danh sách trên tổng cộng hàng trăm tỷ đồng lãng phí và chi tiêu đảng phái không liên quan đã lọt vào kế hoạch "cơ sở hạ tầng" đắt đỏ của chính quyền ông Biden. Nhưng cần nhấn mạnh rằng danh sách này còn lâu mới đầy đủ; đó là những gì một phóng viên có thể tìm thấy trong vài giờ nghiên cứu. Trong số 2,3 nghìn tỷ USD chi tiêu được đề xuất của kế hoạch này, chỉ 621 tỷ USD dành cho “sự phục hồi và cơ sở hạ tầng giao thông”. Đúng vậy, chỉ khoảng 1/4 số tiền dành cho các loại chi tiêu mà mọi người thường gắn với cơ sở hạ tầng, như sửa chữa cầu đường và hiện đại hóa phương tiện giao thông công cộng. Điều này giống như chỉ 10% trong số 1,9 nghìn tỷ USD chi tiêu "cứu trợ COVID" của chính quyền ông Biden thực sự liên quan trực tiếp đến virus Corona Vũ Hán, phần lớn trong số đó sẽ bị lãng phí vào các dự án dành cho chính trị gia và các ưu tiên của đảng phái. Sự can thiệp tài chính khổng lồ của ông Joe Biden đã củng cố sự chuyển dịch sang cánh tả trong chính trị và kinh tế Hoa Kỳ vốn đã đạt được lực kéo trong cuộc khủng hoảng virus Vũ Hán, khiến chính phủ có vai trò lớn hơn nhiều trong việc giải quyết các vấn đề trong xã hội so với những thập kỷ gần đây. Thời kỳ thuế thấp, chi tiêu trong nước hạn chế và niềm tin vào thị trường tự do là những trụ cột chính trong hoạch định chính sách kinh tế của Mỹ đã bắt đầu bị thách thức nghiêm trọng do hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, mặc dù chúng đã được hồi sinh một phần dưới thời chính quyền của cựu tổng thống Donald Trump. Tuy nhiên, do không thể đối phó với sự tấn công của đại dịch, người Mỹ khao khát sự can dự nhiều hơn từ Washington. Mong muốn này đã cho ông Biden một cơ hội để lấp đầy khoảng trống. Kế hoạch kích thích xây dựng đất nước của ông Joe Biden được thiết kế để tăng cường mạng lưới an sinh xã hội của Mỹ, với mục tiêu mang lại cho mọi hộ gia đình thu nhập thấp và trung bình sự bảo vệ đủ để họ có thể vượt qua giai đoạn cuối của cuộc khủng hoảng mà không bị thiệt hại lâu dài. Trong số các điều khoản quan trọng là ngân phiếu trực tiếp mới trị giá 1.400 USD cho mỗi cá nhân kiếm được tới 75.000 USD mỗi năm, gia hạn trợ cấp thất nghiệp của liên bang cho đến đầu tháng 9, tăng tín dụng thuế cho trẻ em và các quỹ bổ sung để giúp tăng cường tiêm chủng, mở cửa trở lại trường học và hỗ trợ cho chính quyền tiểu bang và địa phương. Ông Biden nói rằng chi tiêu trong 8 năm sẽ tạo ra hàng triệu việc làm mới. Để chi trả cho gói này, ông đã đề xuất tăng thuế doanh nghiệp đáng kể để bù đắp chi tiêu trong suốt 15 năm. Trong số các thay đổi, ông Biden kêu gọi tăng thuế suất doanh nghiệp từ 21% lên 28% và các biện pháp buộc các tập đoàn đa quốc gia phải trả nhiều thuế hơn ở Mỹ đối với lợi nhuận thu được ở nước ngoài. Kế hoạch tài trợ sẽ dỡ bỏ những phần chính trong luật cắt giảm thuế của ông Donald Trump khi đã hạ mức thuế doanh nghiệp từ 35% xuống 21% và là thành tựu lập pháp đặc sắc của người tiền nhiệm của ông Biden. Với gói kích thích này, tổng nợ quốc gia của Hoa Kỳ vừa vượt qua 28 nghìn tỷ USD - con số cao nhất trong lịch sử. Nó đã tăng trong vòng 20 năm qua, và nó tăng lên theo từng giây. Đây là một kết quả không may, nhưng hoàn toàn có thể dự đoán được của việc chính phủ liên bang nghiện tiêu tiền nhiều hơn số tiền mà chính phủ liên bang có. Các đề xuất chi tiêu này không được thực hiện với thiện chí nhằm phục vụ công dân của Hoa Kỳ. Thay vào đó, chúng là một nỗ lực nhằm giành quyền kiểm soát nền kinh tế và đưa nước Mỹ vào một tương lai xã hội chủ nghĩa. Những người phản đối chủ nghĩa xã hội thường coi Venezuela như một câu chuyện cảnh giác. Từng được xếp hạng là quốc gia Nam Mỹ giàu nhất nhờ trữ lượng dầu mỏ, vào năm 1998, Venezuela đã bầu ra một nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa, Hugo Chávez. Chávez tập trung quyền lực trong sự kìm kẹp ngày càng độc đoán của mình và chi hàng tỷ USD cho các chương trình xã hội từ lợi nhuận từ dầu mỏ.
Hugo Chávez
Hugo Rafael Chávez Frías (phát âm tiếng Tây Ban Nha: ; 28 tháng 7 năm 1954 – 5 tháng 3 năm 2013) là Tổng thống Venezuela từ năm 1999 cho đến khi qua đời vào năm 2013. Ông từng là lãnh đạo của Chính đảng Phong trào Đệ ngũ Cộng hòa từ khi tổ chức này được thành lập vào năm 1997 cho đến khi nó giải thể, đồng thời ông trở thành lãnh đạo của Đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Venezuela (PSUV). Tuân theo ý thức hệ chính trị chủ nghĩa Bolivar và "chủ nghĩa Xã hội thế kỷ 21" của mình, ông tập trung vào việc thực hiện các cải cách xã hội chủ nghĩa ở trong nước, xem chúng là một phần của một kế hoạch xã hội được gọi là cách mạng Bolivar, xây dựng một bản hiến pháp mới, các hội đồng Tham dự dân chủ chủ nghĩa, quốc hữu hóa một số ngành công nghiệp then chốt, tăng chi tiêu của chính phủ cho lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và giáo dục, giảm đáng kể tỷ lệ đói nghèo theo số liệu của chính phủ. Hugo Chávez mô tả chính sách của ông là chủ nghĩa phản đế quốc, ông lớn tiếng chỉ trích chủ nghĩa tân tự do và chủ nghĩa tư bản tự do kinh doanh.
Cuốn sách Thiên Nga Đen của tác giả Nassim Nicholas Taleb đã bán được 3 triệu bản, được dịch ra 31 thứ tiếng (thống kê năm 2011), nằm trong top sách bán chạy của tạp chí New York Times trong 16 tuần liên tiếp. Ngoài ra, cuốn sách còn được tạp chí The Times bình chọn là một trong những cuốn sách gây ảnh hưởng nhất trong vòng 60 năm qua. Tinh tế, choáng ngợp và mang tính khái quát cao, Thiên Nga Đen sẽ thay đổi cách nhìn của bạn về thế giới. 1 Tóm tắt và Review nội dung sách1.1 Lý thuyết Thiên Nga Đen là gì?1.2 Ý nghĩa của Thiên Nga Đen:1.3 Phần 1: Phản thư viện của Umberto Eco, hay cách chúng ta tìm kiếm sự công nhận1.4 Phần 2: Đơn giản là chúng ta không thể dự đoán được1.5 Phần 3: Những con thiên nga xám của Extremistan1.6 Phần 4: Phần kết. 1.3 Phần 1: Phản thư viện của Umberto Eco, hay cách chúng ta tìm kiếm sự công nhận. Thiên Nga Đen là cuốn sách nằm trong chuỗi Tiểu luận triết học năm tập của Taleb về tính bất định có tựa đề là Incerto. Trước khi khám phá ra thiên nga đen tồn tại trên đời (ở Úc), người ta vẫn tin rằng tất cả chim thiên nga trên trời đều có màu trắng. Tác giả đã dựa vào sự kiện trên để đặt ra khái niệm “thiên nga đen”, nhằm nói về những biến cố tưởng chừng không thể xảy ra nhưng lại có thể xảy ra. Và sau khi nó xảy ra, người ta mới dựng lên một lời giải thích để khiến nó ít ngẫu nhiên hơn, dễ dự đoán hơn so với bản chất thật của nó. Ví dụ: Thành công của Facebook, Cuộc khủng bố ngày 11/9/2001 tòa tháp đôi tại Mỹ là các Thiên Nga Đen. Khi có góc nhìn toàn diện về khái niệm Thiên nga đen, trước hết chúng ta không còn đặt quá nhiều niềm tin vào kiến thức của mình, không quá phụ thuộc vào phương pháp mà chúng ta cho là có ý nghĩa, chúng ta không có khả năng để hiểu và xác định sự ngẫu nhiên, tất cả góp phần vào việc ra những quyết định sai lầm, và đôi khi dẫn đến hiện tượng “Thiên nga đen” – hiện tượng mà chúng ta cho là không thể xảy ra, nhưng cuối cùng lại diễn ra và dẫn đến việc chúng ta phải xác định lại hiểu biết của chúng ta về thế giới. Có biến cố Thiên nga đen tạo ra rủi ro tích cực và có những rủi ro là tiêu cực. Vậy bạn đã sẵn sàng tìm hiểu để hạn chế những sự việc tiêu cực và nắm bắt được những rủi ro mang lại tích cực?. Như đã giới thiệu, Thiên Nga Đen mới đầu không phải là cuốn sách dễ đọc có thể nuốt ngay bởi tính khái quát cao và lượng kiến thức khá choáng ngợp về các lĩnh vực của tác giả. Tuy nhiên, độc giả kiên nhẫn và dành thời gian để suy ngẫm dần những quan điểm đưa ra trong cuốn sách, những gì bạn nhận được sẽ thay đổi cách bạn nhìn nhận về thế giới này và cân bằng trong cuộc sống, chủ động với những bước đi rộng và dài của mình. Nassim Nicholas Taleb là cha đẻ của hai học thuyết nổi tiếng Thiên Nga Đen và Chống Phân Mảnh. Phong cách viết phi kỹ thuật của Taleb được mô tả là pha trộn giữa phong cách tự sự, bán tự truyện với những câu chuyện triết học ngắn và bình luận khoa học và lịch sử. Ông là chuyên gia phân tích rủi ro với các công trình nghiên cứu gắn chặt với các chủ đề liên quan tới xác suất, rủi ro, sự ngẫu nhiên và tính bất định. Ngoài viết lách, ông là một nhà thực hành tài chính toán học, một nhà quản lý quỹ đầu cơ, và một nhà giao dịch phái sinh đồng thời cố vấn khoa học tại Universa Investments. Nếu bạn muốn đưa ra những dự đoán có ý nghĩa về tương lai – trong đó, nếu bạn đang có ý định mua bảo hiểm, đầu tư, học đại học, thay đổi công việc, tiến hành nghiên cứu, hoặc đơn giản là sống như một con người, bạn quyết định tìm hiểu bản thân – bạn không thể đưa tất cả các yếu tố bạn biết vào để xem xét. Bạn chỉ có thể đưa một phần sự hiểu biết của bạn vào để đánh giá các rủi ro trong dự đoán. Bạn cũng nên có ý thức về những gì bạn không biết, do đó bạn không phải giới hạn các thông tin mà bạn đang tiếp nhận và xử lí.
Lý thuyết thiên nga đen
Lý thuyết thiên nga đen hoặc lý thuyết về các sự kiện thiên nga đen là một phép ẩn dụ mô tả một sự kiện gây ngạc nhiên, có tác dụng lớn và thường được giải thích một cách không thích hợp để khiến nó ít ngẫu nhiên hơn, dễ dự đoán hơn so với bản chất thật của nó. Thuật ngữ này dựa trên một câu nói cổ xưa rằng thiên nga đen được cho là không tồn tại – một câu nói đã được giải thích lại để dạy một bài học khác sau khi thiên nga đen được phát hiện trong thiên nhiên. Vai trò không cân xứng của các sự kiện cao cấp, khó dự đoán và hiếm gặp nằm ngoài phạm vi của những kỳ vọng thông thường trong lịch sử, khoa học, tài chính và công nghệ. Tính không thể tính toán xác suất của các sự kiện hiếm có do hậu quả sử dụng các phương pháp khoa học (do bản chất của xác suất nhỏ). Những thành kiến tâm lý khiến người ta không thấy được, cả cá nhân và tập thể, những gì không chắc chắn (tình trạng bất định) và vai trò to lớn của một sự kiện hiếm hoi trong các vấn đề lịch sử.
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) là một tổ chức quân sự thành lập năm 1949, ban đầu gồm Hoa Kỳ, Canada và một số nước Tây Âu để ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô lúc đó đang trên đà phát triển rất mạnh ở châu Âu có thể gây phương hại đến an ninh của các nước thành viên. Vậy NATO được thành lập như thế nào, nguyên tắc hoạt động của nó ra sao? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây. NATO là một liên minh quân sự được thành lập năm 1949. Thành viên gồm Mỹ và một số nước châu Âu. NATO đặt trụ sở chính tại Brussels, Bỉ. NATO là khối quân sự – chính trị lớn nhất thế giới, liên kết phần lớn các nước châu Âu, Hoa Kỳ và Canada. Việc thành lập NATO dẫn đến việc các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Vácsava để làm đối trọng. Sự kình địch và chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối địch này là cuộc đối đầu chính của chiến tranh lạnh trong nửa cuối thế kỷ XX. Hiệp ước quy định: Trong trường hợp “có cuộc tiến công vũ trang” vào một hoặc một số nước thành viên thì các nước khác phải nhanh chóng giúp đỡ, kể cả sử dụng lực lượng vũ trang. Cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng NATO, bên cạnh có Uỷ ban Kế hoạch phòng thủ gồm các bộ trưởng quốc phòng phụ trách vạch kế hoạch và chính sách quân sự thống nhất. Về quân sự, cơ quan quyền lực cao nhất là Uỷ ban Quân sự gồm Tổng tham mưu trưởng các nước thành viên do Tổng Thư kí NATO đứng đầu. ngoài lực lượng vũ trang riêng của từng nước, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương có lực lượng thống nhất dưới sự chỉ huy của Bộ Tổng chỉ huy Liên minh khu vực. Trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, Mỹ và các lực lượng vũ trang Mỹ đóng vai trò chủ đạo. Những chức vụ quan trọng trong Bộ Tổng chỉ huy và trong các lực lượng vũ trang thống nhất đều do các tướng và đô đốc Mỹ nắm giữ. Tư lệnh tối cao lực lượng đồng minh Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương là người Mỹ. Từ ngày thành lập, NATO luôn thực hiện chính sách đẩy mạnh chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh, đặc biệt là việc tăng cường sức mạnh hạt nhân, tạo nên tình hình căng thẳng thường xuyên ở châu Âu và trên thế giới . Sau khi Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va giải thể (1991), Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương vẫn khẳng định sự tiếp tục tồn tại của mình đồng thời tiến hành cải tổ cơ cấu, mở rộng thành viên, kết nạp hầu hết các nước trong Hiệp ước Vác-sa-va, một số nước thuộc Liên Xô, Tiệp Khắc, Nam Tư trước đây đưa tổng số thành viên lên 28 nước nhằm tăng cường vai trò ở khu vực và trên thế giới. Ðiều 5 của Hiệp ước này nêu rõ các nước thành viên “đồng ý rằng một cuộc tiến công quân sự chống một hoặc nhiều nước của NATO ở châu Âu hoặc Bắc Mỹ sẽ được coi là một cuộc tiến công chống tất cả các nước thành viên”. Ngày 6-5-1955: Tây Ðức gia nhập NATO (sau khi nước Đức thống nhất tư cách thành viên mở rộng cả các vùng Cộng hoà dân chủ Đức cũ,năm 1990). (Tám ngày sau, ngày 14-5-1955, Liên Xô cùng với tám nước Ðông Âu thành lập Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va). Ngày 10-3-1966: Tổng thống Sác Ðờ Gôn rút Pháp ra khỏi cơ cấu chỉ huy hợp nhất của NATO. Năm sau, NATO chuyển trụ sở từ Pa-ri sang Brúc-xen (Bỉ). Từ ngày 9 đến 10-12-1976: NATO bác bỏ những đề nghị của Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va về việc từ bỏ sử dụng đầu tiên vũ khí hạt nhân và hạn chế thành viên. Trong 20 năm đầu, NATO đã chi hơn ba tỷ USD để xây dựng cơ sở hạ tầng cho lực lượng của tổ chức này, gồm các căn cứ quân sự, sân bay, đường ống dẫn dầu, mạng lưới thông tin và kho tàng. Mỹ đóng góp khoảng một phần ba số tiền này. Ngày 19-12-1990: Sau khi cuộc chiến tranh lạnh chấm dứt, NATO và Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va ra một tuyên bố chung không xâm lược lẫn nhau. Tám tháng sau, Tổ chức Hiệp ước Vác-sa-va chính thức giải thể. Ngày 16-12-1995: NATO phát động chiến dịch quân sự lớn nhất cho đến nay nhằm ủng hộ hiệp định hòa bình Bô-xni-a. Ngày 24-3-1999: NATO bắt đầu các cuộc không kích chống Nam Tư ở Cô-xô-vô, lần đầu liên minh quân sự này dùng lực lượng tiến công một nước có chủ quyền mà không được Liên hợp quốc thông qua. Ngày 12-9-2001: Lần đầu NATO viện dẫn Ðiều 5, sau cuộc tiến công khủng bố nhằm vào Mỹ ngày 9-11-2001, triển khai Hệ thống kiểm soát và cảnh báo phòng không ở Mỹ. Ðây là lần đầu NATO triển khai lực lượng của mình “ngoài khu vực”. Ngày 31-6-2006: Lực lượng NATO đảm nhiệm an ninh từ liên minh do Mỹ đứng đầu ở miền Nam Áp-ga-ni-xtan, bắt đầu một trong những chiến dịch khó khăn nhất trong lịch sử của khối quân sự này. Từ ngày 2 đến 4-4-2008: NATO tuyên bố các nước cộng hòa thuộc Liên Xô (trước đây) như Gru-di-a và U-crai-na một ngày nào đó sẽ gia nhập NATO. Năm 2009: Ngày 5-3, NATO đồng ý nối lại các mối quan hệ cấp cao với Nga, bị cắt đứt vào cuối năm 2008, sau khi Mát-xcơ-va xâm nhập Gru-di-a một thời gian ngắn; Ngày 11-3, Tổng thống Pháp N.Xác-cô-di cho biết, Pa-ri sẽ tham gia trở lại cơ cấu chỉ huy hợp nhất của NATO; Ngày 3 và 4-4, NATO kỷ niệm 60 năm ngày thành lập do Pháp và Ðức tổ chức. Crô-a-ti-a và An-ba-ni gia nhập NATO; Ngày 1-8, cựu Thủ tướng Ðan Mạch An-đơ-xơ Pho-gơ Ra-xmút-xen nhậm chức Tổng Thư ký NATO thứ 12; Ngày 18-9, NATO đề nghị một thời kỳ hợp tác mới với Mỹ và Nga, kêu gọi cùng triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa, sau khi Oa-sinh-tơn hủy bỏ hệ thống chống tên lửa trong kế hoạch; Ngày 4-12, NATO đề xuất kế hoạch thành viên chính thức đối với Mông-tê-nê-grô nhưng vẫn giữ lời mời Bô-xni-a gia nhập tổ chức này. Năm 2010: Ngày 6-4, Tổng thống U-crai-na V.Y-a-nu-cô-vích hủy bỏ việc xem xét nước này gia nhập NATO; Ngày 23-7, Nga cho biết, nước này sẵn sàng thiết lập lại hợp tác quân sự với NATO, sau gần hai năm, các mối quan hệ này bị ngưng trệ trong thời gian diễn ra cuộc xung đột vũ trang ở Gru-di-a; Ngày 1-10, Tổng Thư ký NATO Ra-xmút-xen tuyên bố cánh cửa thành viên NATO vẫn mở đối với Gru-di-a, bất chấp những nỗ lực của Tbi-li-xi cải thiện các mối quan hệ với Mát-xcơ-va; Ngày 7-10, NATO thông báo kế hoạch chi tiêu 930 triệu ơ-rô (1,3 tỷ USD) trong năm 2011-2012 cho các dự án bao gồm an ninh mạng và công nghệ phòng thủ tên lửa…;. Ngày 29-10, NATO cho biết, sẽ giảm quân đội của tổ chức này ở Cô-xô-vô từ mười nghìn xuống còn năm nghìn người trong những tháng tới do an ninh ở đây đã được cải thiện; Ngày 3-11, sau cuộc gặp giữa Tổng thống Nga Ð.Mét-vê-đép và Tổng Thư ký NATO Ra-xmút-xen, Nga cam kết sẽ tăng cường hợp tác với NATO tại Áp-ga-ni-xtan và xem xét hệ thống lá chắn phòng thủ tên lửa chung. Một trong những mục tiêu tuyên bố của NATO là để kiềm chế bất kỳ hình thức xâm lược lãnh thổ nào chống lại bất kỳ quốc gia thành viên NATO hoặc bảo vệ các thành viên đó. Các cơ quan chính trị cao nhất của NATO là Hội đồng Bắc Đại Tây Dương (Hội đồng NATO), trong đó bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên, có nhiệm vụ tiến hành các phiên họp dưới sự chủ trì của Tổng thư ký NATO. Tổng thư ký hiện nay là Jens Stoltenberg. Mục đích thành lập của NATO trên thực tế là để ngăn chặn sự phát triển ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô lúc đó. Việc thành lập NATO dẫn đến việc các nước cộng sản thành lập khối Warszawa để làm đối trọng. Sự kình địch và chạy đua vũ trang của hai khối quân sự đối địch này là cuộc đối đầu chính của Chiến tranh Lạnh trong nửa cuối thế kỷ 20. Những năm đầu tiên thành lập, NATO chỉ là một liên minh chính trị. Tuy nhiên, do cuộc chiến tranh Triều Tiên tác động, một tổ chức quân sự hợp nhất đã được thành lập. Nghi ngờ rằng liên kết của các nước châu Âu và Mỹ yếu đi cũng như khả năng phòng thủ của NATO trước khả năng mở rộng của Liên Xô, Pháp rút khỏi Bộ Chỉ huy quân sự của NATO (không rút khỏi NATO) năm 1966. Năm 2009, với số phiếu áp đảo của quốc hội dưới sự lãnh đạo của chính phủ của tổng thống Nicolas Sarkozy, Pháp quay trở lại NATO. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989, tổ chức bị lôi cuốn vào cuộc phân chia nước Nam Tư, và lần đầu tiên tham dự quân sự tại Bosna và Hercegovina từ 1992 tới 1995 và sau đó đã thả bom Serbia vào năm 1999 trong cuộc nội chiến ở Kosovo. Tổ chức ngoài ra có những quan hệ tốt đẹp hơn với những nước thuộc khối đối đầu trước đây trong đó nhiều nước từng thuộc khối Warszawa đã gia nhập NATO từ năm 1999 đến 2004. Từ sau sự kiện 11 tháng 9 năm 2001, NATO tập trung vào những thử thách mới trong đó có đưa quân đến Afghanistan và Iraq. Chi phí quân sự của NATO chiếm 70% chi phí quân sự thế giới, riêng Mỹ chiếm khoảng 50%, Anh, Pháp, Đức và Ý gộp lại chiếm 15% chi phí quân sự thế giới.
Hiệp ước về việc thành lập Liên Xô
Hiệp ước về việc tạo ra Liên Xô chính thức tạo ra Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô), thường được gọi là Liên Xô. Nó de jure hợp pháp hóa một liên minh của một số nước cộng hòa Xô viết và tạo ra một chính phủ liên bang tập trung mới (Đại hội Xô viết Liên Xô và Ủy ban Chấp hành Trung ương Liên Xô (TsIK) là lập pháp trong khi Hội đồng Nhân dân là người điều hành) chức năng đã được tập trung ở Moskva. Hiệp ước cùng với Tuyên bố tạo Liên Xô đã được phê chuẩn vào ngày 29 tháng 12 năm 1922 bởi một hội nghị của các phái đoàn từ Nga Xô viết, Ngoại Kavkaz Xô viết, Ukraina Xô viết và Belorussia Xô viết. Hiệp ước và tuyên bố đã được Đại hội Xô viết lần thứ nhất xác nhận và được ký bởi những người đứng đầu các phái đoàn – Mikhail Kalinin, Mikhail Tskhakaya, Mikhail Frunze và Grigory Petrovsky, Aleksandr Chervyakov tương ứng vào ngày 30 tháng 12 năm 1922. Hiệp ước cung cấp sự linh hoạt để thừa nhận các thành viên mới. Do đó, vào năm 1940, Liên Xô đã tăng từ bốn nước cộng hòa thành 15 nước cộng hòa.
Sống thử được hiểu là các cặp nam nữ về sống chung với nhau như các cặp vợ chồng. Nhưng họ không tổ chức hôn lễ hay họ không đăng ký kết hôn. Sống thử có khái niệm tương tự là chung sống như vợ chồng phi hôn nhân. Sống thử luôn là chủ đề gây ra nhiều tranh cãi nhất. Không chỉ vì chuẩn mực xã hội của Việt Nam mà còn bởi vì những hậu quả của nó gây ra. Có nhiều lý do để có thể lý giải vì sao nhiều trường hợp sống thử thường hay đổ vỡ và không thể đi tới kết hôn. Việc hoạt động sống thử đang ngày càng trở nên phổ biến xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau; bao gồm cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Nhưng nhìn chung có 3 nguyên nhân chủ yếu như sau:. Từ giai đoạn những năm 60, 70 của thế kỉ trước, "cách mạng tình dục" đã ra đời và có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của thế giới. Sau đó, "cách mạng tình dục" và phong trào hippie lan rộng tại nhiều nước Đông Nam Á; trong đó có Việt Nam. Nhiều bạn trẻ đã tiếp thu và cho rằng đây là một lối sống cách tân, hiện đại, văn minh. Gia đình là một trong những ảnh hưởng nhất định đối với tâm lý của từng cá nhân. Đa số các bạn trẻ sống thử một phần là do tâm lý sợ hãi kết hôn, không tin tưởng vào mối quan hệ hôn nhân lâu dài; sợ chịu trách nhiệm. Giới trẻ sống thử là do tâm lý tò mò, muốn trải nghiệm cái mới, chạy theo trào lưu một cách mù quáng và nhất là muốn thỏa mãn bản năng tình dục nhưng không muốn chịu trách nhiệm. Sau một thời gian dài chung sống cùng nhau, khi "con ong đã tỏ đường đi lối về" thì cảm xúc sẽ dần phai nhạt. Chất lượng đời sống thể chất và tình cảm cũng thấp dần đi. Và thậm chí đôi bên sẽ không còn có nhu cầu đăng ký kết hôn để hợp thức hóa mối quan hệ. Vì sống thử không có sự ràng buộc về mặt pháp lý nên tỷ lệ xung đột, chia tay sẽ xảy ra cao hơn khiến cảm xúc bị chai sạn dần. Bên cạnh những rủi ro kể trên thì vấn đề về sức khỏe cũng là điều đáng báo động. Bởi hầu hết những đối tượng sống thử thường là các bạn trẻ còn thiếu kinh nghiệm sống cũng như khả năng tài chính. Do đó, các bạn dễ gặp phải các vấn đề về bệnh tình dục, mang thai ngoài ý muốn. Đã có nhiều trường hợp nạo phá thai khi sống thử và hậu quả nặng nề nhất là vô sinh hoặc thậm chí tử vong. Và như đã nói ở trên thì các cặp đôi sống thử không được công nhận là vợ chồng. Vì vậy, việc xuất hiện các mối quan hệ ngoài luồng hoàn toàn không vi phạm về mặt pháp luật. Nhưng thực trạng bạo hành tinh thần và thể xác do ghen tuông là điều vẫn đang diễn ra hằng ngày với nhiều cặp đôi sống thử. Gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tinh thần của mỗi cá nhân. Sống thử rất dễ dàng dẫn tới tình trạng có thai ngoài mong muốn. Trong trường hợp có thai ngoài ý muốn. Thì các cặp đôi thường sẽ có 2 lựa chọn dành cho họ:. Thứ nhất là cặp đôi không thể đồng ý giữ lại đứa con. Bởi vì họ không đủ khả năng nuôi dưỡng hoặc họ không muốn có con ngay lúc này. Vì vậy giải pháp được chọn lựa sẽ là phá thai. Phá thai sẽ gây đau đớn về cả thể xác và tình thần cho các bạn nữ. Chưa nói đến những tác hại dẫn tới vô sinh, hay ảnh hưởng tới khả năng sinh đẻ sau này. Thứ hai là cặp đôi sẽ quyết định lựa chọn đi tới hôn nhân. Mặc dù chọ chưa sẵn sàng hoặc chưa hoàn toàn muốn đi tới hôn nhân, gắn bó lâu dài với nhau. Kết quả một phần lấy nhau bởi trách nhiệm, một phần cũng vì yêu nhau. Nhưng cũng có trường hợp lấy nhau về cãi vã, ngoại tình và dẫn tới tình trạng li hôn này. - Một trong hai đối tượng sống thử là người chưa đủ 16 tuổi thì người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ vi phạm Điều 115 Bộ Luật hình về tội Giao cấu với trẻ em. - Một trong hai bên có hành vi bạo hành sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 134 Bộ Luật Hình sự 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. - Một trong hai hoặc cả hai đối tượng sống thử là người đã có gia đình thì sẽ xử lý theo quy định tại Điều 182 về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng thuộc Bộ luật Hình sự 2015. Cụ thể như sau:. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:. b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:. b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó". Hiện nay, Luật hôn nhân và gia đình có quy định về việc sống chung không đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, khi sống thử các cặp đôi cần lưu ý những vấn đề sau:. - Có những biện pháp bảo vệ sức khỏe và phòng tránh các trường hợp mang thai ngoài ý muốn. - Hiểu rõ về quy định pháp luật để đảm bảo quyền lợi của mình khi xảy ra tranh chấp. - Nên tìm đến sự trợ giúp của pháp luật nếu bị bạo hành về tinh thần hoặc thể xác. Những cặp sống thử với nhau không thể lường trước được những hệ lụy mà họ vấp phải. Những hậu quả để lại chủ sau khi tan vỡ thường thuộc về các bạn nữ. Về sức khỏe có nguy cơ mắc phải các căn bệnh lây truyền như AIDS, giang mai…. Các bệnh liên quan đến phá thai nhưng ung thư, vô sinh. Về tâm lý sau cú sốc sống thử họ sẽ cảm thấy mất niềm tin vào tình yêu, hôn nhân. Một số trường hợp sẽ sống buông thả, họ không còn trinh tiết để gìn giữ. Họ sẵn sang quan hệ tình dục với bất cứ ai nếu họ muốn. Theo thống kê đã chỉ ra rằng, có tới 85,7 % các sinh viên khi hỏi đều nhận định rằng sống thử ảnh hưởng tới chuẩn mực đạo đức, văn hóa của người việt. Có tới 96% sẽ gây ra hậu quả về tâm lý, sức khỏe.
Sống thử
Sống thử hay sống thử trước hôn nhân là một cụm từ thường được truyền thông Việt Nam, đặc biệt là báo mạng, dùng để chỉ một hiện tượng xã hội, theo đó các cặp đôi có tình cảm về sống chung với nhau như vợ chồng, nhưng chưa tổ chức hôn lễ cũng như đăng ký kết hôn. Các nguồn hàn lâm hơn (như nghiên cứu khoa học, luật pháp.) thì sử dụng cụm từ có khái niệm tương tự là Chung sống như vợ chồng phi hôn nhân. Tiến sĩ triết học, chuyên gia nghiên cứu gia đình trẻ và trẻ em Nguyễn Linh Khiếu cho rằng không nên dùng từ "sống thử", bởi khi các cặp đôi này sống chung với nhau thì họ đã giống như là vợ chồng, "Đấy không phải là sống thử mà là chung sống thật sự chứ không phải chuyện đùa. Tất cả từ tình cảm, tình dục, chi tiêu là đều thật". Có điều sự chung sống này thiên về thỏa mãn dục vọng, tình cảm tức thời, "thích thì chung sống, chán thì chia tay" chứ không đi liền với các nghĩa vụ và trách nhiệm như hôn nhân thực sự.
NUS được công nhận là trường đại học đa ngành tốt nhất trong 3 viện Đại học công lập ở quốc đảo sư tử. Chất lượng giảng dạy tại Đại học quốc gia Singapore không chỉ thuộc top đầu cả nước nói riêng và Châu Á nói chung. Cùng tìm hiểu về trường đại học Quốc gia Singapore thông qua bài viết bên dưới nhé!. Đại học Quốc gia Singapore có tên tiếng Anh đầy đủ là National University of Singapore (viết tắt là NUS) được thành lập năm 1905. Ban đầu trường hoạt động với tư cách là một cơ sở đào tạo về Y tế. Trường đã chuyển mình từ Đại học Malaya trở thành đại học Singapore vào năm 1962 và cuối cùng là đại học quốc gia Singapore vào năm 1980. Có thể nói sự phát triển của đại học quốc gia Singapore gắn liền với sự phát triển của đảo quốc sư tử. Kể từ khi thành lập cho đến nay, trường đã ghi nhận được nhiều thành tựu đáng tự hòa trong lĩnh vvực giáo dục. Đại học quốc gia Singapore luôn góp mặt trong các bảng xếp hạng trường đại học danh tiếng ở Châu Á và thế giới. Bên cạnh đó, trường cũng không ngừng mở rộng quy mô và mạng lưới hợp tác quốc tế thông qua việc thành lập Trường Y tế Cộng đồng Saw Swee Hock trực thuộc đại học quốc gia Singapore hay Cao đẳng Yale-NUS. Đại học quốc gia Singapore có tỉ lệ sinh viên ra trường và tìm được việc làm trong 6 tháng đạt tỉ lệ trên 80%. Trong số đó, không thể không nhắc đến sinh viên khối ngành Y dược với tỉ lệ tìm việc lên đến 100%, sinh viên ngành luật (97.7%), sinh viên nhóm ngành Kinh doanh (95%) và sinh viên ngành khoa học máy tính (94%). Mức lương khởi điểm trung bình của sinh viên các ngành này cũng thuộc top đầu tại Singapore. Sinh viên Luật có mức lương khởi điểm từ 4.898 SGD/ tháng, sinh viên Y dược từ 4.887 SGD/tháng, sinh viên cử nhân khoa học máy tính từ 4.385 SGD/tháng. Liên tục góp mặt trong top các trường đại học học hàng đầu thế giới. Từ năm 2015-2016, NUS đứng top 1 Châu Á và xếp hạng thứ 12 trên thế giới theo QS Ranking. Đại học quốc gia Singapore có nhiều ngành nghề được xếp thứ hạng rất cao như: Ngành Kỹ thuật và Công nghệ đứng thứ 9, ngành Khoa học xã hội và Quản lí thứ 10, ngành Nghệ thuật và Nhân văn, ngành Khoa học đời sống và Y tế đứng thứ 11, ngành khoa học Tự nhiên đứng thứ 13 theo QS năm 2012. Tại Mỹ, đại học Quốc gia Singapore được Viện kiểm tra giáo dục Carnegie xếp vào nhóm “Đại học hàng đầu”. Trường cung cấp chương trình nghiên cứu đa ngành và đào tạo Cử nhân lên Tiến Sĩ. Chương trình MBA tại Đại học Quốc gia đứng số 1 châu Á theo xếp hạng của Tạp chí Asia Inc. NUS đứng thứ 1 châu Á theo Theo Times Higher Education năm 2018, trường ở vị trí số 1 châu Á, và xếp hạng 22 trong Top 100 trường đại học tốt nhất thế giới. Đại học quốc gia Singapore mang đến cơ hội học tập, thực hành trong môi trường quốc tế. Theo thống kê, cứ 10 sinh viên NUS thì sẽ có đến 7 sinh viên tham gia và các chương trình học tập, trao đổi tại nước ngoài với hơn 300 trường đại học hàng đầu thế giới tại 50 quốc gia khác nhau. Nhờ các cơ hội thực tập quý báu mà 6 trường cao đẳng của NUS tại các quốc gia trên thế giới cung cấp, sinh viên có thể bắt đầu sự nghiệp của mình tại những công ty, doanh nghiệp công nghệ cao trên thế giới ở những trung tâm kinh doanh của thế giới. Đại học quốc gia Singapore có 17 khoa và trường trực thuộc nằm tại 3 khuôn viên là Khuôn viên Kent Ridge, khuôn viên Bukit Timah và khuôn viên Outram. Trong đó, khuôn viên chính của trường là Kent Ridge nằm tại miền Tây Nam Singapore. Khuôn viên này có diện tích lên đến 1.5 km2. Khuôn viên Bukit Timah là nơi đào tạo các chuyên ngành của Khoa Luật, trường Chính sách công Lý Quang Diệu và các viện nghiên cứu. Khuôn viên Outram là trụ sở của Trường Y khoa bậc Sau đại học Duke-NUS . Các khuôn viên của đại học quốc gia Singapore đều đặt tại vị trí thuận lợi. Vì thế, sinh viên có thể dễ dàng di chuyển đến trường bằng các phương tiện giao thông công cộng. Là viện nghiên cứu công lập hàng đầu Singapore nên NUS được trang bị hệ thống cơ sở vật chất đầy đủ và hiện đại. Bên cạnh đó, trường còn có nhiều văn phòng dịch vụ hỗ trợ sinh viên về nhiều khía cạnh như:. Văn phòng tuyển sinh NUS: Đây là điểm đến thường xuyên của sinh viên bậc cử nhân để tìm kiếm sự hỗ trợ về các vấn đề như: học bổng, hỗ trợ tài chính và chuyển đơn tới các khóa học khác trong nhà trường. Hệ thống thư viện NUS bao gồm 7 thư viện với kho tài liệu đồ sộ phục vụ các hoạt động nghiên cứu của sinh viên, giảng viên trong trường. Thư viện đại học quốc gia Singapore là nơi lưu trữ các bộ sưu tập phong phú và chất lượng, bao gồm cả tài nguyên dưới dạng bản in, điện tử và đa phương tiện. Dịch vụ máy tính và Công nghệ thông tin tại NUS cũng rất ấn tượng, được kết nối với cộng đồng học thuật quốc tế thông qua cơ sở IT hiện đại và Internet tốc độ cao. Ngoài ra, các giảng đường, phòng học của trường đều được trang bị đầy đủ thiết bị, công nghệ phục vụ việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu của cộng đồng sinh viên và giảng viên tại trường. Đại học Quốc gia Singapore bao gồm 16 trường đại học trực thuộc, trong đó có 12 trường đào tạo bậc Cử nhân và 4 trường đào tạo bậc Sau đại học. NUS cung cấp hơn 70 khóa học khác nhau bậc Cử nhân và 144 khóa học bậc Thạc sĩ và Tiến sĩ cũng như các chứng chỉ Sau đại học. Ngoài ra, trường có các chương trình đào tạo văn bằng kép, hai văn bằng và văn bằng chung với các trường đại học danh tiếng ở nước ngoài. Các chuyên ngành được giảng dạy tại trường đại học Quốc gia Singapore. Hiện có khoảng 28.000 sinh viên bậc cử nhân và 10.000 sinh viên bậc sau đại học đang theo học tại đại học Quốc gia Singapore. Trong số 38 000 có khoảng 10.000 sinh viên là du học sinh quốc tế đến từ hơn 100 quốc gia khác nhau trên toàn thế giới. Điểm trung bình năm lớp 12 từ 8.0 trở lên. Trong đó, môn Toán và môn tiếng Anh phải từ 8.0 trở lên và tổng 3 môn khoa học cũng phải trên 8.0 trở lên. Tiếng Anh IELTS từ 6.5 ( trong đó kỹ năng viết phải trên 6.5 ) hoặc TOEFL (thi trên giấy: 580 – thi trên máy tính: 237 – ibt: 92 -93 ). Ứng viên đang là học sinh lớp 12, điểm trung bình học kỳ 2 lớp 11 từ 8.0 trở lên. NUS sẽ xét điểm các môn Anh – Toán – Hóa – Lý – Sinh, tùy ngành chọn. Trong đó, môn tiếng Anh và môn Toán phải từ 8.0 trở lên và một trong ba môn khoa học phải từ 8.0 trở lên. Học phí đại học Quốc gia Singapore có sự khác nhau giữa các chương trình học và ngành học. Học phí tham khảo như sau:. Học bổng này dành cho các ứng viên có thành tích xuất sắc đến từ các nước trong khu vực ASEA. Ứng viên phải chứng minh được thành tích học tập nổi bật và tố chất lãnh đạo tốt cũng như hồ sơ tham gia hoạt động ngoại khóa đáng chú ý. Đồng thời ứng viên cần phải trúng tuyển vào một khóa học hệ chính quy bậc Cử nhân tại đại học Quốc gia Singapore. Học bổng bao gồm học phí và 5.800 SGD/năm sinh hoạt phí. Khi đăng ký vào đại học quốc gia Singapore, ứng viên sẽ được tự động xét học bổng này. Học bổng này dành cho các sinh viên có thành tích xuất sắc đến từ các nước châu Á. Ứng viên cần chưng minh được tố chất lãnh đạo, thành tích học tập và tham gia hoạt động ngoại khóa nổi bật. Đồng thời ứng viên cũng phải trúng tuyển vào hệ chính quy chương trình học bậc Cử nhân ngành Kỹ thuật. Công nghệ thông tin hoặc Khoa học (không kể ngành Dược) tại đại học Quốc gia Singapore. Học bổng bao gồm học phí và các khoản phí bắt buộc, 6.000 SGD/năm sinh hoạt phí, 2.000 SGD phí nhập cư, phí nhà ở hằng năm (tính theo giá phòng đôi thấp nhất tại ký túc xá NUS) và vé máy bay khứ hồi đến và đi Singapore. Học bổng này cũng được xét duyệt một các tự động khi ứng viên nộp hồ sơ và đại học Quốc gia Singapore. Nếu lọt qua vòng hồ sơ, ứng viên sẽ được mời tham dự vòng phỏng vấn.
Đại học Quốc gia Singapore
Đại học Quốc gia Singapore (tiếng Anh: National University of Singapore, tiếng Mã Lai: Universiti Nasional Singapura, tiếng Tamil: சிங்கப்பூர் தேசிய பல்கலைக்கழகம், tiếng Hoa: 新加坡国立大学), thường được gọi tắt là NUS là viện đại học lâu đời và lớn nhất về số lượng sinh viên tại Singapore. Là viện đại học đầu tiên được thành lập ở Singapore vào năm 1905, theo dạng công lập tự chủ, và là trường đại học nghiên cứu tổng hợp với các chuyên ngành khác nhau. Năm 2021, NUS đứng thứ 11 trong bảng xếp hạng các trường đại học danh tiếng nhất trên thế giới và là đại học đứng đầu châu Á theo bảng xếp hạng đại học QS World University Ranking. NUS cũng xếp thứ 21 trong bảng Xếp hạng đại học thế giới Times Higher Education, và thứ 29 trên US News World Ranking trong năm 2021. NUS được đánh giá là một trong những trường đại học danh giá nhất tại Singapore và Châu Á nói chung, với tỉ lệ chấp thuận tương đối cạnh tranh, chất lượng giáo dục tiên phong tại khu vực, và chất lượng đầu ra uy tín. Khuôn viên chính của NUS tọa lạc ở khu vực tây nam của Singapore, gần với dốc Kent Ridge, bao phủ hơn 150 hecta.
Mặt trời hay còn được gọi là thái dương, là ngôi sao nằm ở trung tâm hệ thái dương hệ. Dù là trong các nghiên cứu khoa học hay quan niệm tâm linh, mặt trời luôn có ý nghĩa vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến sự tồn tại của toàn nhân loại. Hôm nay, chúng ta hãy cùng tìm hiểu những sự thật thú vị về ngôi sao khổng lồ này nhé!. 1 Những thông tin cơ bản nhất về hành tinh mẹ – Mặt trời1.1 Hành tinh mẹ trong thái dương hệ1.2 Mặt trời mọc ở hướng nào và mặt trời lặn hướng nào?. 2 Những sự thật ít người biết về mặt trời2.1 Thái dương nóng nhất bao nhiêu độ?2.2 Mặt trời có màu gì?2.3 Mặt trời cách Trái Đất bao nhiêu km?2.4 Mặt trời có di chuyển không?2.5 Giải thích hiện tượng thiên đỉnh. Mặt trời là ngôi sao khổng lồ chứa đầy các khí nóng. Đây là nguồn sáng duy nhất tạo nên sự sống trên Trái Đất. Nó được ước tính đã qua 4.6 tỷ năm và tuổi thọ rơi vào 9 đến 10 tỷ năm. Như vậy, ngôi sao này đã bước vào giai đoạn trung niên của cuộc đời nó. Các hành tinh đều chuyển động theo quỹ đạo quanh mặt trời theo các phương khác nhau. Vì thế nó được gọi là “hành tinh mẹ” trong thái dương hệ. Mặt trời to hơn trái đất bao nhiêu lần? Nó có đường kính 1,392 ×106 km, gấp khoảng 109 lần Trái Đất. Cấu tạo: Trong lớp khí nóng, nguyên tố hydro là thành phần chiếm đến 71%, phần còn lại bao gồm các nguyên tố như: oxy (0,97%), carbon (0,4%), neon (0,058%), nitơ (0,096%), magie (0,076%), sắt (0,014%), silic (0,099%), lưu huỳnh (0,04%). Trên thực tế, các nhà khoa học đã xác định có đến 67 nguyên tố hóa học trong thành phần cấu tạo mặt trời. Nhưng vì hàm lượng của chúng quá nhỏ nên không thể xác định hết tên của chúng. Theo quy luật, mặt trời luôn mọc ở hướng Đông và lặn ở hướng Tây nhưng chúng có độ lệch nhất định theo thời gian. Cụ thể, Trái Đất của chúng ta quay quanh trục lệch 23,5 độ. Vì thế khi quay, Trái Đất sẽ hướng về mặt trời theo các góc khác nhau. Thực tế, mỗi năm, mặt trời chỉ mọc ở chính Đông hai lần duy nhất. Trong lịch vạn niên còn gọi đây là ngày xuân phân (21/3) và thu phân (23/9). Còn đối với các ngày từ xuân phân đến thu phân, mặt trời sẽ mọc lệch dần về Đông Bắc. Các ngày từ thu phân đến xuân phân năm sau, mặt trời mọc dần về Đông Nam. Mặt trời nóng bao nhiêu độ? Nhiệt độ bề ngoài của mặt trời rơi vào khoảng 5.537 độ C. Tuy nhiên con số này vẫn không là gì khi đi vào lõi của nó, nóng tới 15 triệu độ C. Lý do thái dương nóng như vậy là từ các sóng bức xạ kích thích các phân tử mà chúng tiếp xúc, từ đó làm chúng nóng lên. Nhìn từ Trái Đất, thái dương trông như có màu vàng hoặc đỏ (bình minh hay hoàng hôn). Tuy nhiên, thực tế thì nó có màu trắng. Ánh sáng mà nó phát ra là sự kết hợp của đầy đủ các bước sáng: Đỏ, cam, vàng, xanh, lam, tím, xanh lục (xanh lá cây). Các màu sắc ánh sáng này kết hợp với nhau tạo thành ánh sáng trắng. Tuy nhiên, ánh sáng mặt trời đi vào bầu khí quyển sẽ bị gián đoạn bởi các hạt khí rất nhỏ, gây ra hiện tượng gọi là tán xạ Rayleigh. Các bước sóng dài bao gồm vàng, cam, đỏ ít bị tán xạ hơn nên có thể đến được mắt người. Trong đó, khu vực bước sóng vào của quang phổ là được biểu diễn nhiều nhất. Nên mắt thường sẽ thấy mặt trời có màu vàng. Vào thời điểm bình minh hay hoàng hôn, ánh sáng mặt trời ở xa Trái Đất nhất. Tức là tia sáng phải vượt qua quãng đường dài hơn để đến được mặt đất. Vì thế mà quá trình tán xạ gặp nhiều khó khăn hơn. Chỉ có ánh sáng cam và đỏ là dễ vượt qua nhất. Nên ta thường thấy thái dương màu đỏ cam vào thời gian này. Ánh sáng vì tới được ít hơn nên cũng dễ chịu hơn với mắt. Trái Đất quay quanh mặt trời theo một quỹ đạo gần tròn. Đúng vậy, trong một năm khoảng cách giữa Trái Đất và thái dương thay đổi từ 147,1 triệu km đến 152,1 triệu km. Ngày 3 tháng 1, Trái Đất ở gần thái dương nhất và vị trí này được gọi là điểm cận nhật. Ngày 4, tháng 7 Trái Đất đi qua điểm xa mặt trời nhất và gọi là điểm viễn nhật. Trước khi khoa học phát triển, người ta vẫn luôn tin vào thuyết địa tâm. Cho rằng vạn vật đều lấy Trái Đất làm trung tâm và quay quanh Trái Đất. Sau này khi đã xác định được mặt trời mới là trung tâm của thái dương hệ. Người ta lại đặt lại câu hỏi, nếu bản thân thái dương là trung tâm rồi thì nó có di chuyển hay không?. Câu trả lời là mặt trời có di chuyển và nó quay quanh chính nó. Khi mới ra đời, nó là một đám mây khí khổng lồ. Quả cầu khí vĩ đại này tự quay quanh mình và quay nhanh hơn ở phần giữa của nó (vùng xích đạo). Khi còn non trẻ, thái dương quay rất nhanh và sau đó nó di chuyển chậm hơn. Ngày nay, để hoàn thành một vòng quay, nó mất 25 ngày ở vùng xích đạo và 35 ngày tính ở hai cực. Thế nào là mặt trời lên thiên đỉnh? Thiên đỉnh là hiện tượng xảy ra ở các điểm thuộc vùng nội chí tuyến. Vào lúc 12h trưa, tia sáng sẽ chiếu thẳng xuống một điểm vuông góc tiếp tuyến với Trái Đất. Như chúng ta đã biết, Trái Đất quay quanh mặt trời và tự quay quanh nó với trục nghiêng 66 độ 33 phút. Để tạo góc 90 độ vuông góc với phương chiếu sáng, thì góc phụ phải là 23 độ 27 phút. Vì vậy mới xuất hiện thiên đỉnh lần lượt vào các điểm trong vùng nội chí tuyến. Còn các vùng có vĩ độ lớn hơn 23 độ 27 phút không thể tạo phương vuông góc. Nên chúng không có lần nào lên thiên đỉnh, và được gọi là vùng ngoại chí tuyến. Các điểm xuất hiện thiên đỉnh một lần duy nhất mỗi năm: Nằm trên đường chí tuyến Bắc và chí tuyến nam. Các điểm xuất hiện thiên đỉnh hai lần trong năm: Các điểm nằm giữa vùng nội chí tuyến. Các điểm không có thiên đỉnh lần nào trong năm: Các vùng ngoại chí tuyến (vĩ độ lớn hơn 23 độ 27 phút). Sự bùng nổ về công nghệ đã giúp con người được tiếp cận một lượng thông tin khổng lồ chỉ bằng một cú click chuột. Tuy nhiên, chọn lọc và tiếp nhận thông tin một cách chính thống không phải là việc đơn giản. Điều đó càng khó khăn hơn khi đặt trong bối cảnh nhiễu loạn nguồn tin thật – giả như hiện nay. Đó là nền tảng cho sự ra đời của kienthuctonghop.vn. Đồng hành cùng kienthuctonghop.vn để biến “biển tri thức” bất tận của nhân loại thành kiến thức của mình bạn nhé!
Mặt Trời
Mặt Trời (tiếng Anh: Sun; còn gọi là Thái Dương hoặc Nhật), là ngôi sao ở trung tâm Hệ Mặt Trời, chiếm khoảng 99,8% khối lượng của Hệ Mặt Trời. Trái Đất và các thiên thể khác như các hành tinh, tiểu hành tinh, thiên thạch, sao chổi, và bụi quay quanh Mặt Trời. Khoảng cách trung bình giữa Mặt Trời và Trái Đất xấp xỉ 149,6 triệu kilômét (1 Đơn vị thiên văn AU) nên ánh sáng Mặt Trời cần 8 phút 20 giây mới đến được Trái Đất. Trong một năm, khoảng cách này thay đổi từ 147,1 triệu kilômét (0,9833 AU) ở điểm cận nhật (khoảng ngày 3 tháng 1), tới xa nhất là 152,1 triệu kilômét (1,017 AU) ở điểm viễn nhật (khoảng ngày 4 tháng 7). Năng lượng Mặt Trời ở dạng ánh sáng hỗ trợ cho hầu hết sự sống trên Trái Đất thông qua quá trình quang hợp, và điều khiển khí hậu cũng như thời tiết trên Trái Đất. Thành phần của Mặt Trời gồm hydro (khoảng 74% khối lượng, hay 92% thể tích), heli (khoảng 24% khối lượng, 7% thể tích), và một lượng nhỏ các nguyên tố khác, gồm sắt, nickel, oxy, silic, lưu huỳnh, magiê, carbon, neon, calci, và crom.
Được xây dựng vào giữa những năm 1970 làm địa điểm chính cho Thế vận hội Mùa hè 1976, sân có biệt danh là "The Big O", liên quan đến cả tên của sân và hình dạng bánh vòng của thành phần cố định của mái che của sân vận động. Tháp đứng cạnh sân vận động, Tháp Montréal, là tháp nghiêng cao nhất thế giới với góc nghiêng 45 độ. Nó còn được gọi là "The Big Owe" để nhắc đến chi phí tốn kém của sân vận động và Thế vận hội năm 1976 nói chung. Đây là sân vận động lớn nhất theo sức chứa chỗ ngồi ở Canada. Sau Thế vận hội, cỏ nhân tạo đã được lắp đặt và sân trở thành sân nhà của các đội bóng chày và bóng bầu dục chuyên nghiệp của Montréal. Montreal Alouettes của CFL trở lại sân nhà trước đây của họ là Sân vận động Molson vào năm 1998 để tổ chức các trận đấu thường xuyên của mùa giải, nhưng tiếp tục sử dụng Sân vận động Olympic cho các trận playoff và Cúp Grey cho đến năm 2014 khi họ trở lại Sân vận động Molson cho tất cả các trận đấu của mình. Sân vận động hiện đóng vai trò như một cơ sở đa năng cho các sự kiện đặc biệt (ví dụ: buổi hòa nhạc, triển lãm thương mại) với sức chứa cố định là 56.040 người. Sức chứa có thể mở rộng với chỗ ngồi tạm thời. Montreal Impact của Major League Soccer (MLS) thỉnh thoảng sử dụng địa điểm, khi nhu cầu mua vé phù hợp với sức chứa lớn hoặc khi thời tiết hạn chế việc chơi ngoài trời tại Sân vận động Saputo gần đó trong những tháng mùa xuân. Sân vận động đã không có người thuê chính kể từ khi Expos rời đi vào năm 2004. Mặc dù đã sử dụng hàng chục năm, lịch sử của sân vận động với nhiều vấn đề về cấu trúc và tài chính đã phần lớn khiến sân bị gọi là voi trắng. Được kết hợp vào chân đế phía bắc của sân vận động là Tháp Montréal, tháp nghiêng cao nhất thế giới với độ cao 175 mét (574 ft). Sân vận động và khuôn viên của Công viên Olympic giáp với Công viên Maisonneuve, bao gồm Vườn bách thảo Montréal, tiếp giáp với phía tây qua Đường Sherbrooke (Đường 138).
Sân vận động Giants
Sân vận động Giants (tiếng Anh: Giants Stadium, đôi khi được gọi là Sân vận động Giants tại Meadowlands hoặc The Swamp) là một sân vận động nằm ở East Rutherford, New Jersey, trong Khu liên hợp thể thao Meadowlands. Địa điểm được mở cửa từ năm 1976 đến năm 2010, và chủ yếu tổ chức các sự kiện thể thao và các buổi hòa nhạc. Sân được biết đến nhiều nhất là sân nhà của các đội bóng bầu dục New York Giants và New York Jets. Sức chứa tối đa là 80.242 chỗ ngồi. Bản thân cấu trúc dài 756 foot (230 m), rộng 592 foot (180 m) và cao 144 foot (44 m) từ tầng dịch vụ đến đỉnh của tầng chỗ ngồi và cao 178 foot (54 m) đến đỉnh của tháp phía nam. Thể tích của sân vận động là 64,5 triệu foot khối (1.830.000 m3), và 13.500 tấn thép kết cấu đã được sử dụng trong quá trình xây dựng trong khi 29.200 tấn bê tông đã được đổ. Sân được sở hữu và điều hành bởi Cơ quan Thể thao và Triển lãm New Jersey (NJSEA). Mặt sân của sân vận động được căn chỉnh theo hướng Tây Bắc sang Đông Nam, với hộp báo chí dọc theo đường biên phía Tây Nam.
Học Viện Quản Lý Dự Án Hoa Kỳ (PMI) là tổ chức hàng đầu thế giới về quản lý dự án chuyên nghiệp với hơn 40 năm lịch sử phát triển, hơn một triệu thành viên và số lượng thí sinh thi đạt chứng chỉ trên 185 quốc gia. Đây là tổ chức tiên phong cho ra đời các kỹ thuật, qui trình cũng như thiết lập các chuẩn mực trong quản lý dự án bên cạnh các hoạt động tài trợ và tiến hành các chương trình đào tạo chứng chỉ. Các chuẩn mực quản lý dự án đã được PMI biên soạn và giới thiệu trong PMBOK – tài liệu tổng hợp từ sự cống hiến của hàng nghìn chuyên gia quản lý dự án trên toàn thế giới, là kiến thức chung của nhân loại, được mệnh danh là phù hợp thực tế nhất, áp dụng cho tất cả các loại dự án, và được sử dụng thường xuyên. Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu đến các bạn các bài viết giới thiệu về các khung kiến thức, kỹ năng cũng như quy trình quản lý dự án theo chuẩn PMI, đã và đang được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Từ 26/3/2018, hệ thống thi chứng chỉ PMP sẽ được PMI áp dụng theo các tiêu chuẩn được cập nhật và công bố trong tài liệu PMBOK Guide v6. Việc này có tác động tích cực hơn tới việc quản lý dự án theo xu thế hiện tại. Nói đến dự án chính là nói đến sự nỗ lực để hoàn thành công việc trong một thời gian nhất định, có điểm khởi đầu và kết thúc để tạo ra sản phẩm, dịch vụ, hoặc kết quả mong muốn. Quy trình quản lý dự án bao gồm các …. Phạm vi (scope) là một danh sách tất cả những gì dự án phải làm. Dự án phải có một tài liệu phạm vi được viết ra rõ ràng, nếu không nó sẽ không bao giờ kết thúc. Các kết quả chuyển giao (deliverables) là những sản phẩm của dự …. Trong triển khai dự án, thời gian có độ linh hoạt bé nhất, nó trôi qua bất kể điều gì xảy ra. Kết thúc dự án đúng hạn là một trong những thách thức lớn nhất trong quản lý dự án – các vấn đề lịch biểu là lý do …. Chi phí là tài nguyên được đem vào sử dụng, tiêu hao, kết chuyển giá trị vào sản phẩm mong đợi. Theo yêu cầu quản lý dự án, chi phí cần được tính toán trước để đạt được một mục tiêu rõ ràng hay để trao đổi cái gì đó.
Viện Quản lý Dự án
Viện Quản lý Dự án, tên tiếng Anh là Project Management Institute (PMI), là một tổ chức chuyên nghiệp phi lợi nhuận, dành riêng cho phát triển tiến bộ quản lý dự án tiên tiến nhất. Đây là hiệp hội hàng đầu thế giới của các nhà quản lý dự án chuyên nghiệp. Viện Quản lý Dự án (PMI) đặt ra những tiêu chuẩn, tiến hành nghiên cứu, và cung cấp dịch vụ giáo dục và thiết kế các cơ hội trao đổi chuyên môn, để tăng cường và củng cố tính chuyên nghiệp. Viện này nhằm mục đích nâng cao tay nghề và tư duy của những người hành nghề quản lý dự án, và nâng cao hiệu suất của các doanh nghiệp và các tổ chức khác. Chứng chỉ PMI Disciplined Agile Senior Scrum Master (DASSM)Để phục vụ các thành viên và các chuyên gia, viện Quản lý Dự án (PMI) đã tạo ra các tiêu chuẩn công nghệ, như: cuốn sách Hướng dẫn về những kiến thức cốt lõi trong Quản lý dự án (PMBOK Guide). Viện Quản lý Dự án (PMI) được thành lập trong năm 1969 tại Viện Công nghệ Georgia, bởi một nhóm 5 tình nguyện viên: James Snyder, Gordon Davis, Eric Jennett, A.E.
Nếu bạn thắc mắc không biết Deutsch là nước nào? Thì Deutsch chính là tên tiếng Đức của Cộng hòa Liên bang Đức. Đây là một quốc gia xinh đẹp, cổ kính với nền kinh tế phát triển và nền văn hóa khá lâu đời. Hãy cùng chúng mình tìm hiểu tất tần tật về vùng đất Deutsch xinh đẹp qua bài viết dưới đây. Đôi nét về nước Đức: thủ đô, quốc kỳ, ngôn ngữ, văn hóa, …Đức thuộc châu lục nào?Thủ đô Deutschland là gì?Ngôn ngữ của Deutsch là gì?Quốc kỳ Đức có màu gì?Văn hóa nước Đức. Nước Đức có gì nổi tiếng?1. Khu rừng Đen (Black Forest)4. Lâu đài cổ tích cuối cùng: Neuschwanstein5. Deutsch chính là tên tiếng Đức của Cộng hòa Liên bang Đức. Đức là vùng đất của những thung lũng sông thơ mộng và những thị trấn cổ tích; bạn sẽ bị mê hoặc bởi những ngôi nhà gỗ, lâu đài trên đỉnh đồi, quán rượu và quán bia. Đó là một quốc gia có danh tiếng về bia, nhưng có một nền văn hóa rượu vang tuyệt vời không kém. Nước Đức thống nhất có diện tích là 356.959 km2, kéo dài 853 km từ biên giới phía bắc với Đan Mạch đến dãy núi Alps ở phía nam, đây là quốc gia lớn thứ sáu ở châu Âu. Lãnh thổ của Đông Đức cũ chiếm gần một phần ba lãnh thổ Đức thống nhất và một phần năm dân số của nó. Sau một cuộc bỏ phiếu chặt chẽ, vào năm 1993, Bundestag, Hạ viện của Quốc hội Đức, đã bỏ phiếu để chuyển thủ đô từ Bonn ở phía tây sang Berlin, một tỉnh thành ở phía đông được bao quanh bởi Vùng đất Brandenburg. Địa hình: với hình dạng thon dài, Đức được thiên nhiên ban cho một vị trí tuyệt vời, một vùng đồng bằng rải rác với những hồ nước, cánh đồng hoang, đầm lầy và những ngọn đồi uốn lượn bởi những con suối, dòng sông và thung lũng. Những ngọn đồi này dần dần hình thành các cao nguyên và rừng cây cùng các các dãy núi đẹp ngoạn mục. Deutsch là nước nào và thủ đô Deutsch ở đâu? Câu trả lời chính là Berlin, nằm ở phía đông bắc nước Đức, là thành phố thủ đô và là thành phố đông dân nhất của Đức. Với diện tích 344,3 dặm vuông, Berlin, thủ đô của Đức, là thành phố lớn trong cả nước. Berlin cũng là một trong những thành phố đông dân ở Liên minh châu Âu với dân số đô thị hơn sáu triệu người. Khoảng 95% người dân sống ở Berlin có nguồn gốc từ Đức. Mặc dù nổi tiếng với Bức tường Berlin vào cuối thế kỷ 20, Berlin là một trong những thành phố thường xuyên lui tới nhất ở Liên minh châu Âu, thu hút hàng triệu du khách mỗi năm. Berlin là một thành phố quan trọng cả trong quá khứ và trong thời hiện đại, từng đóng vai trò trong hai cuộc chiến tranh thế giới lớn cũng như trong Chiến tranh Lạnh. Tiếng Đức chuẩn là ngôn ngữ chính thức của Đức. Đó là một ngôn ngữ xuất hiện ở Tây Đức cũng là ngôn ngữ đầu tiên được sử dụng phổ biến nhất trong Liên minh châu Âu. Hơn 95% dân số Đức nói ngôn ngữ này; con số này cũng bao gồm những người nói tiếng Northern Low Saxon, một ngôn ngữ địa phương của West Low German. Ngôn ngữ tiếng Đức có liên quan chặt chẽ với các phương ngữ Hạ Đức, tiếng Anh, tiếng Hà Lan, tiếng Nam Phi và tiếng Frisian. Nếu bạn tò mò Deutsch là quốc tịch nước nào, thì đó chính là quốc tịch của nước Đức. Deutsch là từ tiếng Đức sử dụng chữ viết Latin. Các từ vựng chủ yếu dựa trên các ngôn ngữ của tiếng Đức, nhưng cũng có một số từ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, tiếng Latin, tiếng Anh và tiếng Pháp. Quốc kỳ Đức là một lá cờ sọc ngang với ba màu đen, đỏ và vàng. Nó được thiết kế và lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1919 khi Đức được gọi là Cộng hòa Weimar. Màu sắc quốc gia của Đức đã thay đổi theo thời gian. Đen, trắng, đỏ và đen, đỏ và vàng đã đóng vai trò là màu sắc truyền thống của Đức tại các điểm khác nhau trong lịch sử của đất nước. Cờ ba màu sọc ngang được sử dụng ngày nay có từ đầu năm 1778 và được Liên đoàn Đức dùng phổ biến vào năm 1848. Tuy nhiên, khi liên minh thất bại, cờ không còn được sử dụng. Khi vua Phổ thống nhất nước Đức và trở thành hoàng đế vào năm 1871, ông đã dùng một lá cờ đen, trắng và đỏ cho Đế quốc Đức. Bộ ba màu này, được biết đến như là màu của đế quốc, đã phục vụ cho đến khi đánh bại Reich thứ hai trong Thế chiến thứ nhất. Một trong những nguyên tắc cốt lõi của văn hóa Đức là sự tổ chức. Người Đức tự hào về việc họ luôn sống cố tổ chức, cả trong cuộc sống nghề nghiệp và cá nhân và luôn muốn duy trì sự cân bằng giữa công việc và gia đình. Một điều thường thu hút du khách nước ngoài là các quy tắc về đi bộ, thường được thực thi nghiêm ngặt và có thể bị phạt tại chỗ nếu bạn băng qua đường ở một nơi nào đó không phải là đường dành cho người đi bộ được chỉ định. Ở Đức, công việc và cuộc sống cá nhân thường được giữ khá tách biệt, và do đó nếu bạn được mời đi ăn tối hoặc họp mặt với đồng nghiệp, đây là lúc không thích hợp để thảo luận về kinh doanh. Nếu bạn được mời dùng bữa, hãy đảm bảo đến đúng giờ, vì đúng giờ cho thấy sự tôn trọng và sống có tổ chức. Bạn cũng nên mang một món quà nhỏ, chẳng hạn như hoa, rượu hoặc sôcôla; và quà của bạn sẽ được mở ra ngay lập tức. Chắc hẳn bạn sẽ thắc mắc Deutschland là nước nào và nên du lịch ở thành phố nào ở Deutsch Land – với nhiều thành phố lịch sử và thị trấn nhỏ, cùng với sự phong phú của rừng và núi, bạn tha hồ lựa chọn khi chọn một địa điểm độc đáo để ghé thăm Đức. Những người muốn ngắm cảnh hoặc trải nghiệm nghệ thuật nên đến các khu vực đô thị như Munich, Frankfurt hoặc Hamburg, trong khi những người tìm kiếm các hoạt động giải trí nên đến những nơi như dãy núi Alps của Bavaria, Rừng Đen hoặc Thung lũng Rhine. Các thánh đường và cung điện lớn huy hoàng có ở khắp mọi nơi, và trong các thị trấn và làng nhỏ hơn – một số với những Phố cổ thời trung cổ nguyên thủy vẫn còn nguyên vẹn – nhiều lễ hội truyền thống hàng thế kỷ, bao gồm chợ Giáng sinh, lễ hội và hội chợ truyền thống, vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Tại trung tâm văn hóa của Đức là thủ đô Đức Berlin, nơi có nhiều bảo tàng và phòng trưng bày tuyệt vời, trong khi những người yêu thiên nhiên sẽ tìm thấy một thế giới ngoài trời tuyệt vời của Đức. Để biết ý tưởng giúp lên kế hoạch cho chuyến đi của bạn, hãy đọc danh sách các điểm du lịch hàng đầu bên dưới. Được mô phỏng theo Acropoli ở Athens và được xây dựng cho vua Frederick William II vào năm 1791, Cổng Brandenburg bằng đá sa thạch hoành tráng ở quận Mitte của Berlin là cấu trúc Tân cổ điển đầu tiên của thành phố. Với chiều cao ấn tượng 26 mét – bao gồm Quadriga, cỗ xe bốn ngựa ngoạn mục cùng nữ thần chiến thắng nằm trên đỉnh – sáu cột khổng lồ ở mỗi bên của cấu trúc tạo thành năm lối đi ấn tượng: bốn lối đi được sử dụng bởi giao thông thường xuyên, trong khi trung tâm được dành riêng cho các cỗ xe hoàng gia. Các cột Doric khổng lồ cũng trang trí hai tòa nhà ở mỗi bên của Cổng, từng được sử dụng bởi những người thu phí và bảo vệ. Deutsch là nước nào và có gì đặc biệt – hãy ghé thăm cổng đá sa thạch mang tính biểu tượng nhất của Berlin, thật khó để tin rằng cấu trúc hùng vĩ mà bạn thấy ngày nay đã bị phá hủy nghiêm trọng trong Thế chiến II và cũng từng là một phần của Bức tường Berlin khét tiếng và, trong vài thập kỷ, là biểu tượng của sự phân chia Berlin thành Đông và Tây. Deutsch là nước nào và địa điểm du lịch nào tuyệt vời nhất? Mary – nằm trên bờ sông Rhine và chắc chắn là địa danh ấn tượng nhất của thành phố Cologne. Kiệt tác kiến trúc High Gothic này, một trong những nhà thờ lớn nhất ở châu Âu, hoàn thành vào năm 1248 và là dự án xây dựng đầy tham vọng nhất thời Trung cổ. Mang vẻ đẹp lộng lẫy, nội thất tráng lệ của nó có diện tích 6.166 mét vuông và tự hào có 56 cây cột khổng lồ. Phía trên bàn thờ cao là Thánh tích của ba vị vua, một tác phẩm nghệ thuật bằng vàng từ thế kỷ 12 được thiết kế bởi Nicholas of Verdun để lưu giữ các thánh tích của Ba vị vua được mang đến từ Milan. Những điểm nổi bật khác bao gồm tầm nhìn toàn cảnh từ Tháp Nam, kính màu thế kỷ 12 và 13 trong Nhà nguyện Tam vương và Kho bạc với nhiều đồ vật quý giá, tất cả đều còn sót lại sau Thế chiến II. Đối với một số khung cảnh đẹp nhất trên thành phố và dòng sông, hãy leo 533 bậc lên bục quan sát trong Tháp Nam. Bạn có thể thử đến thăm khu rừng Đen tuyệt đẹp với những ngọn đồi rậm rạp là một trong những vùng cao được ghé thăm nhiều nhất ở châu Âu. Nằm ở góc tây nam nước Đức và kéo dài 160 km từ Pforzheim ở phía bắc đến Waldshut trên High Rhine ở phía nam, đó là thiên đường của những người yêu thích hiking. Ở phía tây, có một con dốc xuống thẳng sông Rhine, băng qua những thung lũng tươi xanh, trong khi ở phía đông, bạn sẽ được viếng thăm các thung lũng trên sông Neckar và Danube. Các điểm nổi tiếng bao gồm khu trượt tuyết lâu đời nhất của Đức tại Todtnau, các cơ sở spa tráng lệ của Baden-Baden và khu nghỉ mát hấp dẫn của Bad Liebenzell. Những điểm nổi bật khác bao gồm Đường sắt Rừng Đen ngoạn mục nằm trên Triberg với thác nước nổi tiếng và Triberg, nơi có Bảo tàng Black Forest Open Air. Cách tốt nhất để tham qua tất cả các địa điểm của Deutsch la nuoc nao? Bạn nên trang bị cho mình bản đồ Black Forest Panoramic Route, một tour du lịch lái xe dài 70 km cùng với các điểm tham quan lịch sử hàng đầu, bao gồm các lâu đài tuyệt đẹp và nhiều thị trấn và làng mạc thời trung cổ. Thị trấn cổ Füssen cổ kính, nằm giữa Ammergau và Allgäu Alps và một khu nghỉ mát trên núi và trung tâm thể thao mùa đông nổi tiếng, là một địa điểm tốt để khám phá Lâu đài Neuschwanstein gần đó, một trong những lâu đài hoàng gia nổi tiếng nhất (và đẹp như tranh vẽ). Vua Ludwig II của Bavaria đã xây dựng pháo đài cùng với nhiều tòa tháp xinh đẹp này – đây cũng là nguồn cảm hứng cho các lâu đài công viên giải trí nổi tiếng của Walt Disney – từ năm 1869-86. Ở trung tâm của cảng Hamburg lịch sử, Miniatur Wunderland tráng lệ, tuyến đường sắt mô hình lớn nhất thế giới, là một điểm du lịch có nét mới mẻ và cổ điển. Tự hào với hơn 12.000 mét đường ray, mô hình quy mô lớn này bao gồm các phần dành riêng cho Hoa Kỳ, Anh và Scandinavia (cũng như Hamburg) và kết hợp 890 đoàn tàu, hơn 300.000 đèn chiếu sáng, và hơn 200.000 hình người. Không có gì lạ khi nhiều du khách dành nhiều giờ để khám phá thế giới hấp dẫn này với các sân bay thu nhỏ với chi tiết đáng kinh ngạc (và các máy bay thực sự cất cánh), các thành phố đông đúc, cảnh nông thôn cổ kính và bến cảng nhộn nhịp. Để có trải nghiệm đáng nhớ, hãy đặt một trong những chuyến tham quan hậu trường, đây là một điều đặc biệt thú vị để trải nghiệm vào ban đêm. Nói về bến cảng, hãy chắc chắn khám phá Cảng Hamburg của Deutsch là nước nào trong khi bạn ở đó. Diện tích 100 km2, bến cảng thủy triều khổng lồ này là một trong những bến tàu du lịch lớn nhất thế giới, và được gọi là Cửa ngõ vào Đức. Sau đó, ghé thăm lối đi dạo ở bến cảng, một tuyến đường dành cho người đi bộ xinh xắn và khu Warehouse với những dãy nhà kho bằng gạch cao to. Nằm trong thung lũng Regnitz, nơi dòng sông chia thành hai nhánh, Bamberg, thành phố cổ và thị trấn quan trọng nhất ở Upper Franconia, là một trong những thị trấn cổ quyến rũ nhất của Đức và là một trong những nơi tốt nhất để khám phá bằng cách đi bộ. Chuyến tham quan đi bộ của bạn nên bắt đầu trong khu vực giám mục cũ, nơi có nhà thờ thế kỷ 13 và tu viện Benedictine cũ của Michaelsberg. Nằm giữa hai nhánh sông mà bạn sẽ tìm thấy Bürgerstadt ngoạn mục, một quận nhỏ của Bamberg có Grüner Markt – khu vực dành cho người đi bộ tuyệt vời, nơi có nhà thờ Baroque thế kỷ 17 của St. Martin và, ở phía bắc, Tòa thị chính mới, hay Neues Rathaus, được xây dựng vào năm 1736. Tuy nhiên, có lẽ cấu trúc quan trọng nhất của thị trấn là Tòa thị chính cũ, được xây dựng trên đỉnh Obere Brücke. Một phần của dãy núi Wetterstein, khối núi Zugspitze nằm ở biên giới giữa Deutsch là nước nào và Áo và được bao quanh bởi các thung lũng dốc. Ngọn đỉnh phía đông, ở độ cao 2.962 mét, được trao vương miện bởi một cây thánh giá mạ vàng và có thể đến được bằng đường sắt của Bayerische Zugspitzbahn hoặc bằng cáp treo. Một cách tuyệt vời khác để tận hưởng khu vực có vẻ đẹp tự nhiên nổi bật này là trên tàu Tirer Zugspitzbahn, một tuyến đường sắt chạy đến ga Zugspitzkamm ở độ cao 2.805 mét. Từ đây, hành trình có thể được tiếp tục thông qua cáp treo đến ga Zugspitz-Westgipfel ở 2.950 mét (đừng quên thưởng thức một bữa ăn tại nhà hàng toàn cảnh tuyệt vời nằm ở đây). Điểm nổi bật của hành trình là cơ hội đi bộ qua một đường hầm dài 800 mét đến ga Schneefernerhaus trên đỉnh đường sắt cog của Bavaria, từ đó bạn có thể leo lên đỉnh núi phía đông.
Tây Đức
Tây Đức (tiếng Đức: Westdeutschland) là tên thường dùng để chỉ nước Cộng hòa Liên bang Đức (tiếng Đức: Bundesrepublik Deutschland) trong thời kỳ từ khi nước này được thành lập ra vào ngày 23 tháng 5 năm 1949 đến khi được tái thống nhất 2 miền Tây-Đông vào ngày 3 tháng 10 năm 1990. Trong thời kỳ này, Đức cùng với thủ đô Berlin bị phân chia cho đến khi nhà nước Cộng hòa Dân chủ Đức sụp đổ và 5 bang của nó sáp nhập vào Cộng hòa Liên bang Đức. Cộng hòa Liên bang Đức (thường gọi là Đức) được mở rộng thành 16 bang cùng với việc thành lập 5 bang tại Đông Đức trước đây và như vậy thì chế độ mới trở thành nhà nước kế tục của Cộng hòa Liên bang Đức từ trước năm 1990. Cộng hòa Liên bang Đức được thành lập từ 11 bang từ ba khu vực chiếm đóng của Đồng minh do Hoa Kỳ, Anh Quốc và Pháp kiểm soát. Thành phố Bonn là thủ đô lâm thời của đất nước. Khu vực thứ tư do Liên Xô chiếm đóng. Nhiều vùng của khu vực này nằm ở phía đông của Oder-Neisse, những nơi này sau đó đã bị Liên Xô và Ba Lan cộng sản sáp nhập; phần trung tâm còn lại quanh Berlin trở thành Cộng hòa Dân chủ Đức (Deutsche Demokratische Republik) với thủ đô trên thực tế là Đông Berlin.
iTMS Coaching – Nơi bạn có thể tìm kiếm cho mình những khoá học từ căn bản đến nâng cao về Kiểm Thử Phần Mềm. Với sứ mệnh mang đến cơ hội cho tất cả mọi người, ở bất cứ đâu, chúng tôi luôn tạo điều kiện cho tất cả mọi người bằng việc tổ chức các chương trình đào tạo Tester online chất lượng từ các chuyên gia hàng đầu Việt Nam. Có thể nói kiểm thử phần mềm là một phần vô cùng quan trọng trong quá trình thực hiện “sản phẩm” phầm mềm, sao cho sản phẩm đến tay người dùng sẽ đáp ứng được điều kiện cần và đủ. Như vậy đòi hỏi kiểm thử phần mềm cần có quy trình cụ thể,rõ ràng. Bài viết dưới đây mình xin giới thiệu cho các bạn về quy trình đó là: Software Testing Life Cycle(Quy trình kiểm thử phần mềm). Quy trình kiểm thử phần mềm – Software testing life cycle( STLC) xác định các giai đoạn (pha) trong kiểm thử phần mềm, nhằm hướng đến mục tiêu cuối cùng là chất lượng sản phẩm tốt nhất và đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, không có tiêu chí chuẩn nào được đưa ra, nhưng về cơ bản quy trình kiểm thử bao gồm 6 giai đoạn và được thực hiện theo các bước như sau:. Phân tích yêu cầu là giai đoạn đầu tiên của quy trình kiểm thử phần mềm, trong đó nhóm sẽ kiểm tra, nghiên cứu các yêu cầu của khách hàng. Giai đoạn này khá quan trọng bởi từ đó có thể đánh giá xem các yêu cầu có kiểm tra được hay không? Nếu không sẽ trao đổi để lập kế hoạch giúp giảm thiểu quá trình kiểm thử. Và cũng từ đó giúp chúng ta xác định được phạm vi của kiểm thử. – Các câu hỏi nên được đưa ra dưới dạng Yes/No question hoặc các lựa chọn để tiết kiệm thời gian trả lời cũng như hỗ trợ đưa ra những gợi ý hay để xây dựng sản phẩm ngay từ đầu. – Không nên nêu ra những câu hỏi dạng là gì, như thế nào, tại sao,… Những câu hỏi như thế thường mất thời gian để giải thích và cũng khó có thể giải thích một cách chi tiết nhất có thể. Hơn nữa, đối với khách hàng không có sự hiểu biết về lĩnh vực phần mềm mà họ yêu cầu thì càng không thể trả lời những câu hỏi mang tính chuyên môn cao. Chính chúng ta sẽ là người hỗ trợ và đưa ra giải pháp thích hợp cho khách hàng lựa chọn. – Đầu ra của giai đoạn này bao gồm: tài liệu chứa các câu hỏi, câu trả lời liên quan đến nghiệp vụ của hệ thống và tài liệu báo cáo tính khả thi, phân tích rủi ro của việc kiểm thử phần mềm. Thông thường, trong giai đoạn này, Senior QA manager sẽ xác định effort, dự toán chi phí cho dự án để chuẩn bị và hoàn thiện Kế hoạch kiểm tra. Đồng thời chiến lược thử nghiệm cũng được xác định. – Xác định phạm vi (Scope) dự án:Dự án thực hiện trong thời gian bao lâu? Bao gồm những công việc gì cho từng khoảng thời gian xác định? Từ đó đưa ra lịch trình thực hiện cho từng công việc nhỏ sao cho phù hợp với toàn bộ đội dự án. – Xác định phương pháp tiếp cận: Nói về cách tiếp cận để kiểm thử cho một đối tượng nào đó, thì phải dựa vào nhiều thứ, ví dụ như: Thời gian cho phép test có phù hợp với con số ước lượng, nhiều hay ít, yêu cầu chất lượng từ phía khách hàng thế nào? Cao, thấp hay khắc khe hay sao cũng được? Công nghệ/ kỹ thuật sử dụng để phát triển ứng dụng này là gì? Lĩnh vực của hệ thống/sản phẩm đang được test (domain) là gì?… Từ đó, test manager có thể đưa ra những phương pháp và kế hoạch phù hợp nhất cho cả quá trình thực hiện dự án sao cho đúng với các tiêu chí chấp nhận của sản phẩm và kịp tiến độ với các mốc thời gian bàn giao, phát hành. – Về Thiết bị: số lượng server, yêu cầu về version, cấu hình như thế nào?. Liệt kê các chức năng cần kiểm thử, để thực hiện test chức năng này thì cần làm những công việc gì, trong thời gian bao lâu, cái nào thực hiện trước, cái nào thực hiện sau, ai là người thực hiện.Xác định điều kiện bắt đầu: những điều kiện tối thiểu để bắt đầu hoạt động kiểm thử cho từng chức năng.Xác định điều kiện kết thúc : khi có những điều kiện nào thì sẽ kết thúc việc kiểm thử. – Test Plan: theo định nghĩa của ISTQB test plan là một tài liệu mô tả phạm vi, cách tiếp cận, nguồn lực và lịch trình của các hoạt động kiểm tra dự kiến. (chi tiết xem thêm tại ). – Effort Estimation: tạm dịch là ước tính nỗ lực, là một hoạt động quản lý ước tính thời gian một nhiệm vụ sẽ hoàn thành trong bao lâu. (chi tiết xem thêm tại ). Giai đoạn này liên quan đến việc tạo, xác minh và làm lại các test case, test script. Test data sẽ được xác định/ tạo và được xem xét và sau đó làm lại. – Review tài liệu: Đầu tiên, các kiểm thử viên cần review lại tất cả các tài liệu để xác định công việc cần làm, các công việc có khác gì so với dự án trước khách hàng đưa cho, chức năng nào cần test, chức năng nào không cần test lại nữa. Từ đó, vừa có thể tiết kiệm thời gian mà vẫn đưa ra được một kịch bản kiểm thử đầy đủ và hiệu quả. – Viết test case/ check list: Sau đó, tester bắt tay vào việc viết test case chi tiết dựa vào kế hoạch đã đưa ra và vận dụng các kỹ thuật thiết kế kịch bản kiểm thử. Test case cần bao phủ được tất cả các trường hợp kiểm thử có thể xảy ra cũng như đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của sản phẩm, đồng thời tester cũng cần đánh giá mức độ ưu tiên cho từng test case. – Chuẩn bị dữ liệu kiểm thử: Cùng với việc tạo ra các test case chi tiết, đội kiểm thử cũng cần chuẩn bị trước các dữ liệu kiểm thử cho các trường hợp cần thiết (data, script). – Review test case/ check list: Sau khi hoàn thành, các thành viên trong đội kiểm thử hoặc test leader cũng cần review lại test case đã tạo để có thể bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau nhằm tránh những sai sót trong thiết kế test case và rủi ro về sau. Đầu vào của giai đoạn cài đặt môi trường kiểm thử là test plan, smoke test case và test data. – Việc cài đặt môi trường kiểm thử là giai đoạn cũng rất quan trọng trong vòng đời phát triển phần mềm. Môi trường kiểm thử sẽ được quyết định dựa trên những yêu cầu của khách hàng, hay đặc thù của sản phẩm ví dụ như server/ client/ network…. – Tester cần chuẩn bị một vài test case để kiểm tra xem môi trường cài đặt đã sẵn sàng cho việc kiểm thử hay chưa. Đây chính là việc thực thi các smoke test case. – Đầu ra của giai đoạn này là môi trường đã được cài đặt đúng theo yêu cầu, sẵn sàng cho việc kiểm thử và kết quả của smoke test case. – Thực hiện các test case như thiết kế và mức độ ưu tiên đã đưa ra trên môi trường đã được cài đặt. – So sánh với kết quả mong đợi sau báo cáo các bug xảy ra lên tool quản lý lỗi và theo dõi trạng thái của lỗi đến khi được sửa thành công. – Thực hiện re-test để verify các bug đã được fix và regression test khi có sự thay đổi liên quan. – Trong quá trình thực hiện kiểm thử, kiểm thử viên cũng có thể hỗ trợ, đề xuất cho cả đội dự án để có giải pháp hợp lý và kết hợp công việc hiệu quả. – Đo và phân tích tiến độ: kiểm thử viên cũng cần kiểm soát chặt chẽ tiến độ công việc của mình bằng cách so sánh tiến độ thực tế với kế hoạch, nếu chậm cần phải điều chỉnh sao cho kịp tiến độ dự án, nếu nhanh cũng cần điều chỉnh vì có thể test lead lên kế hoạch chưa sát với thực tế dự án. Từ đó có thể sửa chữa test plan cần điều chỉnh để phù hợp với tiến độ dự án đưa ra. – Report thường xuyên cho PM và khách hàng về tình hình thực hiện dự án: Cung cấp thông tin trong quá trình kiểm thử đã làm được những chức năng nào, còn chức năng nào, hoàn thành được bao nhiều phần trăm công việc, báo cáo các trường hợp phát sinh sớm, tránh ảnh hưởng tiến độ công việc của cả ngày. – Đầu ra của giai đoạn này là test result (kết quả kiểm thử) và defect report (danh sách các lỗi tìm được). Đây là giai đoạn hoàn thành việc kiểm thử, bao gồm một số hoạt động như báo cáo, kết quả thử nghiệm,. cùng với đó thảo luận và phân tích để xác định các chiến lược sẽ thực hiện trong tương lai và những bài học rút ra từ chu trình hiện tại để áp dụng cho các dự án sau. – Ở giai đoạn này, QA team thực hiện tổng kết, báo cáo kết quả về việc thực thi test case, số lượng case pass/ fail, case đã được fix, mức độ nghiêm trọng của lỗi, số lượng lỗi cao/ thấp, lỗi còn nhiều ở chức năng nào và dev nào nhiều lỗi. Các chức năng đã hoàn thành test chưa hay còn chậm tiến độ. – Đánh giá các tiêu chí hoàn thành như: phạm vi kiểm tra, chất lượng, chi phí, thời gian và mục tiêu kinh doanh quan trọng.
Kiểm thử phần mềm
Kiểm thử phần mềm (tiếng Anh: Software testing) là một cuộc kiểm tra được tiến hành để cung cấp cho các bên liên quan thông tin về chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ được kiểm thử. Kiểm thử có thể cung cấp cho doanh nghiệp một quan điểm, một cách nhìn độc lập về phần mềm để từ đó cho phép đánh giá và thấu hiểu được những rủi ro trong quá trình triển khai phần mềm. Đáp ứng được mọi yêu cầu hướng dẫn khi thiết kế và phát triển phần mềm. Có thể triển khai được với những đặc tính tương tự. Và đáp ứng được mọi nhu cầu của các bên liên quan. Tùy thuộc vào từng phương pháp, việc kiểm thử có thể được thực hiện bất cứ lúc nào trong quá trình phát triển phần mềm. Theo truyền thống thì các nỗ lực kiểm thử được tiến hành sau khi các yêu cầu được xác định và việc lập trình được hoàn tất nhưng trong Agile (là một tập hợp các phương pháp phát triển phần mềm linh hoạt dựa trên việc lặp đi lặp lại và gia tăng giá trị) thì việc kiểm thử được tiến hành liên tục trong suốt quá trình xây dựng phần mềm.
Quản lý hành chính là một thuật ngữ khá là quen thuộc với nhiều người, nhưng không phải ai cũng có biết và hiểu rõ về khái niệm của thuật ngữ này. Vậy Quản lý hành chính là gì? Có các vấn đề như thế nào xung quanh công việc quản lý hành chính. Vậy hãy cùng Timviec365.vn tìm hiểu về khái niệm liên quan đến vẫn đề quản lý hành chính. Quản lý hành hành chính hay nói cách khác là quản lý hành chính nhà nước, hoạt động của công việc quản lý hành chính nhà nước là một hoạt động đa dạng trung tâm, nhưng chủ yếu là vì hoạt động hành chính là hoạt động tổ chức và điều hành về để thực hiện quyền lực về Nhà nước trong quản lý xã hội. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân công, hợp tác lao động, phát sinh khi cần có sự nỗ lực tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Quản lý diễn ra ở mọi tổ chức, từ phạm vi nhỏ đến phạm vi lớn, từ đơn giản đến phức tạp. Với ý nghĩa phổ biến thì quản lý là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức và định hướng của chủ thể quản lý lên một đối tượng quản lý để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi của con người, nhằm duy trì tính ổn định và phát triển của đối tượng quản lý theo những mục tiêu đã định. Quản lý sẽ được bao gồm các yếu tố như sau: - Chủ thể là quản lý và sẽ là các tác nhân để tạo ra việc quản lý nhà nước. Chủ thể có thể là một cá nhân hoặc tổ chức. - Khách thể quản lý: chịu sự tác động hay chịu sự điều chỉnh của chủ thể quản lý, đó là hành vi của con người và các quá trình xã hội. –Tong một đối tượng quản lý thì việc tiếp nhận thêm một sự tác động của chủ thể vào việc quản lý quản lý. Có thể tùy theo từng loại đối tượng khác nhau mà người ta sẽ chia thành các dạng quản lý khác nhau. - Mục tiêu quản lý: là cái đích cần phải đạt tới tại một thời điểm nhất định do chủ thể quản lý định trước. Quản lý là một hoạt động phức tạp và nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Các yếu tố đó là: con người; hệ thống và tư tưởng chính trị; tổ chức; thông tin; văn hóa. Khi nhà nước xuất hiện thì cần phải có bộ phận quản lý hành chính cho nhà nước. Quản lý nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay quản lý nhà nước bao gồm hoạt động lập pháp của cơ quan lập pháp, hoạt động hành pháp của Chính phủ và hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp. Có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Quản lý hành chính nhà nước có phạm vi hẹp hơn so với quản lý nhà nước vì:. - Chủ thể quản lý hành chính nhà nước là các cơ quan, cán bộ, công chức hành chính nhà nước trong hệ thống hành chính từ Trung ương đến cơ sở. Như vậy, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực thi quyền hành pháp nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của công dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở thực hiện để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, duy trì trật tự an ninh, thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân. - Hai là, quản lý hành chính nhà nước là hoạt động thực hiện hàng ngày, tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân bằng việc ra các quyết định quản lý hành chính và thực hiện các hành vi hành chính. - Ba là, về vấn đề quản lý hành chính nhà nước thì bắt buộc phải dựa vào nhân quyền của con người. Trong hệ thống này đứng đầu là Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, các cơ quan hành chính nhà nước Trung ương, các cấp quản lý hành chính nhà nước địa phương. Đặc điểm của quản lý hành chính nhà nước là những nét đặc thù của quản lý hành chính nhà nước để phân biệt với các dạng quản lý xã hội của các chủ thể quản lý khác. Để xây dựng nền hành chính phát triển, hiện đại của một nhà nước "của dân, do dân và vì dân", để có một hệ thống tổ chức và quản lý của bộ máy nhà 36 nước có hiệu lực và hiệu quả, điều cần thiết là phải xác định rõ những đặc điểm chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước ở nước ta. Những đặc tính này vừa thể hiện đầy đủ bản chất và nét đặc thù của Nhà nước Việt Nam, đồng thời kết hợp những đặc điểm chung của quản lý hành chính nhà nước theo xu hướng chung của thời đại. Với ý nghĩa đó, quản lý hành chính Nhà nước Việt Nam có những đặc điểm chủ yếu sau:. Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao và tính mệnh lệnh đơn phương của Nhà nước. Quản lý hành chính nhà nước mang tính quyền lực nhà nước để phân biệt hoạt động quản lý hành chính nhà nước với các hoạt động quản lý khác (quản trị doanh nghiệp, quản lý bệnh viện, trường học.). Mục tiêu của quản lý hành chính nhà nước là mục tiêu tổng hợp, bao gồm: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao. Các mục tiêu này mang tính trước mắt và lâu dài. Để đạt được mục tiêu, hành chính nhà nước cần xây dựng các chương trình, dự án và hệ thống kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. Tính chủ động, sáng tạo và linh hoạt này được thể hiện trong việc điều hành, phối hợp, huy động mọi lực lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đúng chức năng, thẩm quyền. Nhiệm vụ của hành chính nhà nước là phục vụ xã hội và công dân. Đây là công việc hàng ngày, thường xuyên và liên tục vì các mối quan hệ xã hội và hành vi công dân được pháp luật điều chỉnh diễn ra thường xuyên, liên tục. Chính vì như thế nên nền hành chính của nhà nước phải đảm bảo được tính liên tục cũng như ổn định và cũng như để đảm bảo các hoạt động không bị gián đoạn ở trong bất kì tình huống như thế nào. Với tính liên tục và ổn định thì có thể thấy và loại trừ tính thích ứng. Chính vì thế việc ổn định ở đây được mang một tính tương đối và không phải là cố định và nó cũng không thay đổi. Đời sống kinh tế - xã hội luôn biến chuyển không ngừng, do đó nền hành chính nhà nước luôn phải thích ứng với thực tế trong từng thời kỳ, thích nghi với xu thế của thời đại, đáp ứng được những nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội trong giai đoạn mới. Quản lý hành chính luôn phải có căn cứ khoa học. Quản lý hành chính nhà nước là một khoa học vì nó có tính quy luật, có các nguyên lý và các mối quan hệ chặt chẽ với các khoa học khác (kinh tế, tài chính, kế hoạch, tâm lý.). Cùng với tính khoa học, quản lý hành chính nhà nước là nghệ thuật vì đối tượng quản lý của hành chính nhà nước rất đa dạng với nhiều vùng, nhiều thành phần, dân tộc, văn hóa khác nhau. Kết quả quản lý phụ thuộc rất nhiều vào bản lĩnh, nhân cách, trí tuệ, kinh nghiệm. của người quản lý. Quản lý hành chính nhà nước có nội dung phức tạp và đa dạng đòi hỏi các nhà hành chính phải có kiến thức xã hội, kiến thức quản lý hành chính và kiến thức chuyên môn sâu rộng. Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, tiêu chuẩn về năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức phải là tiêu chuẩn hàng đầu. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của mình đối với xã hội, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước thực hiện rất nhiều hoạt động khác nhau và được thể hiện ra bên ngoài dưới những hình thức nhất định. Như vậy, hình thức quản lý hành chính nhà nước là sự biểu hiện ra bên ngoài các hoạt động của chủ thể quản lý hành chính nhà nước trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quản lý xã hội. Việc lựa chọn hình thức quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo các yêu cầu dưới đây:. Một trong những đặc trưng nổi bật của hình thức quẩn lý hành chính nhà nước đó đều là những hình thức mang tính pháp lý và đều có liên kết chặt chẽ lại với nhau trên một cơ sở của sự thống nhất của chức năng chấp hành và điều hành. Ta cũng có thể chia hình thức quản lý hành chính nhà nước thành 2 loại cơ bản như sau:. - Các hình thức quản lý lại không mang hoặc sẽ mang ít tính pháp lý. Những hình thức quản lý mang tính pháp lý: Những hình thức quản lý mang tính pháp lý được pháp luật quy định cụ thể về nội dung, trình tự, thủ tục. Hình thức quản lý mang tính pháp lý bao gồm: Văn bản có tính chất chủ đạo là văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm đề ra những chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp lớn đề cập đến những vấn đề chung có tính chính trị. Pháp lý của quốc gia và địa phương. Các văn bản này là cơ sở trực tiếp để ban hành văn bản quy phạm pháp luật và thường thể hiện dưới hình thức nghị quyết, quyết định. Nó đảm bảo sự thống nhất trong lãnh đạo của các cơ quan hành chính nhà nước. Với một văn bản quy phạm pháp luật thì với một văn bản quy phạm pháp luật như vậy thì văn bản đó sẽ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định mà trong đó có các quy tắc sử xự chung, đã được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm hướng đến điều chỉnh các quan hệ của xã hội teo một định hướng của xã hội chủ nghĩa. Thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước quy định những quy tắc xử sự chung trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước; những nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể của các bên tham gia quan hệ quản lý hành chính nhà nước; xác định rõ thẩm quyền và thủ tục tiến hành hoạt động của các đối tượng quản lý. Văn bản cá biệt: Là loại văn bản do các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để giải quyết những vụ việc cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể. - Các biện pháp xử lý hành chính khác: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh.
Quản lý hành chính
Quản lý hành chính là sự tác động của cơ quan hành chính nhà nước lên đối tượng là con người hoặc là các mối quan hệ xã hội để đạt mục tiêu của chính phủ. Phương pháp quản lý và cách tiếp cận cụ thể phụ thuộc vào từng thể chế chính trị tại các nước, cũng như mục tiêu cần đạt được. Ví dụ tại Việt Nam vào thập niên 2000, mục tiêu cần đạt được nêu ra là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tiếp cận dưới góc độ thực thi quyền lực nhà nước thì quản lý hành chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp của nhà nước. Dưới góc độ hoạt động cụ thể thì quản lý hành chính là điều chỉnh hành vi con người, hành vi xã hội và tổ chức thực thi pháp luật ban hành. Ngoài ra quản lý hành chính ở trong chính phủ, quản lý hành chính còn được xem xét trong mối quan hệ ngoài nhà nước, còn gọi là hành chính tư.
Ban đầu thuật ngữ này được dùng làm nhan đề cho một tập tài liệu sưu tầm các tác phẩm của Aristotle, theo truyền thống của Andronicus xứ Rhodes ở thế kỷ thứ nhất. Nhan đề Ta meta ta phusika được dùng vì tập tài liệu sưu tầm này xuất hiện sau (meta) các tác phẩm bàn về vật lý học trong cách phân loại các công trình Aristotle. Tuy nhiên, quan điểm này có cơ sở triết học trong vấn đề bàn luận của nó, vì Aristotle có ý định tiến hành việc nghiên cứu các đối tượng có trước hay cao hơn các đối tượng vật lý, bằng cách đưa ra những lý do cho những gì mà chúng ta tin theo bản năng. Vì thế, nhan đề này có thể áp dụng cho toàn bộ ngành triết học. Giờ đây, siêu hình học chủ yếu được dùng để chỉ việc nghiên cứu về những bộ phận hay đặc điểm cơ bản nhất của thực tại (hữu thể học/bản thể học) hay nghiên cứu các khái niệm cơ bản nhất được sử dụng trong việc giải thích thực tại. Theo một số cách giải thích, siêu hình học chủ yếu nghiên cứu các thực thể phi-cảm tính hay các sự vật ở bên ngoài phạm vi của phương pháp khoa học, nhưng cũng có những quan niệm siêu hình học khác phản bác các khẳng định này. Bản thân Aristotle gọi loại tìm tòi nghiên cứu này là đệ nhất triết học hay sophia (minh triết), nghĩa là, khoa học về các nguyên nhân và nguyên tắc tối hậu. Đôi khi ông cũng nói rằng đó là khoa học về tồn tại với tư cách là tồn tại (being qua being), hay nói đơn giản là tồn tại. Đôi khi ông đồng nhất nó với thần học bởi lẽ nó liên quan đến một loại tồn tại đặc biệt, ở bên trên các bản thể cảm tính, Thượng đế. Các triết gia thời Trung đại lần lượt gọi các phương diện này của siêu hình học là metaphysica generalis (siêu hình học tổng quát) và metaphysica specialis (siêu hình học đặc thù hay chuyên biệt). Trong truyền thống duy lý, siêu hình học được coi là nghiên cứu dưới sự dẫn dắt của lý tính thuần túy về bản tính của thực tại nền tảng nằm bên ngoài phạm vi của tri giác, mặc dù các nhà siêu hình học chủ chốt, như Plato, Descartes, Spinoza, Leibniz, và Hegel, đều bất đồng ý kiến về cái gì là thực tại nền tảng. Christian Wolff phân chia siêu hình học thành bốn phần: hữu thể học/bản thể học (lý thuyết tổng quát về tồn tại hay hiện hữu), lý thuyết thuần lý (về Thượng đế), tâm lý học thuần lý (về tâm hồn), và vũ trụ học thuần lý (về thế giới). Kant gọi tất cả những nỗ lực sử dụng lý tính thuần túy để giải thích thực tại siêu việt vượt ra khỏi giác tính của con người là siêu hình học tư biện. Kant nghĩ rằng siêu hình học là xu thế tất yếu của tinh thần con người hướng tới việc giải thích toàn diện và rằng vấn đề siêu việt của nó (Thượng đế, sự Tự do của ý chí, và linh hồn bất tử) có thể là cơ sở cho cách ứng xử đúng đắn (siêu hình học về luân lý), cho dù siêu hình học tư biện không thể mang lại nhận thức. Triết học phê phán của Kant là siêu hình học theo một nghĩa khác, đó là siêu hình học xem xét các điều kiện của khả thể kinh nghiệm và các tiền giả định của khoa học. Carnap và các nhà thực chứng lôgic khác định nghĩa siêu hình học là lĩnh vực của cái gọi là nhận thức về bản chất của các sự vật vượt ra khỏi phạm vi của các khoa học thường nghiệm, và tin rằng lĩnh vực này nên bị loại ra như là cái vô nghĩa lý (nonsensical). Mặt khác, họ xét thấy rằng công việc của chính họ là thu hẹp vào lôgic và kinh nghiệm và nên được gọi là triết học khoa học. Vì những động cơ khác nhau, Heidegger và Derrida cũng tìm cách loại trừ siêu hình học ra khỏi tư tưởng của họ, cho dù họ không tự bằng lòng với chính mình để cho rằng họ đã thành công trong việc ấy. Strawson có một sự phân biệt nổi tiếng giữa siêu hình học xét lại và siêu hình học mô tả. Ông gọi các nhà siêu hình học tư biện là siêu hình học xét lại, đối lập với siêu hình học mô tả. Siêu hình học xét lại liên quan tới giản đồ khái niệm dựa vào đó mà chúng ta tư duy và bàn luận về thế giới. Do đó, thuyết thực chứng lôgic và các học thuyết triết học phản-siêu hình học khác tự chúng là một loại siêu hình học trong chừng mực chúng còn xét đến cấu trúc khái niệm của ngôn ngữ và tư duy con người. Theo một cách dùng đặc biệt gắn với chủ nghĩa Marx, siêu hình học được coi là một phương thức tư duy cục bộ, tĩnh tại và cô lập, đối lập với phép biện chứng của Hegel. Đối với chúng ta, siêu hình học là tên gọi của một khoa học, và đã tồn tại qua nhiều thế kỷ, vì trong nhiều thế kỷ nó đã được người ta nhận thấy là cần thiết, và vẫn còn được nhận thấy là cần thiết, để suy tư một cách có hệ thống hay có trình tự về các vấn đề mà Aristotle đã bàn trong nhóm các khảo luận được biết đến chung với nhau bằng thứ khoa học ấy.” Collingwood, Tiểu luận về siêu hình học.
Siêu hình học
Siêu hình học (tiếng Anh: Metaphysics bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: μετά (meta) = "sau", φυσικά (phisiká) = "lý thuyết vật chất; hay Vật lý") ám chỉ những tác phẩm của Aristotle để đằng sau những tác phẩm nghiên cứu vật chất của ông trong thời cổ đại, là một nhánh triết học quan tâm đến việc giải thích bản chất của thế giới là cái đằng sau các hình thái vật chất cũng như biểu hiện của chúng được gọi là hiện tượng, là căn nguyên tối hậu và là những nguyên lý đầu tiên và phổ quát nhất của thực tại. Đây là một môn học về sự tồn tại hoặc sự thật. Một nhánh trung tâm của siêu hình học là bản thể học, sự khảo sát về những phạm trù của vật chất ở trên thế giới và những quan hệ của chúng với nhau. Những nhà nghiên cứu siêu hình học cũng cố gắng làm rõ những ý niệm mà con người hiểu được thế giới, bao gồm sự tồn tại, thực thể, cấu hình, không gian, thời gian, thuyết nhân quả, và xác suất. Trước khi có sự phát triển của khoa học hiện đại, những thắc mắc khoa học đã được giải quyết bằng triết học tự nhiên là một nhánh của siêu hình học.
Trong vài năm trở lại đây, tâm lý học đã và đang trở thành một lĩnh vực HOT tại Việt Nam. Tuy nhiên, lĩnh vực này vẫn là một khái niệm mới lạ trong văn hóa Á Đông bởi nó chưa được quan tâm tìm hiểu một cách chuyên sâu thực sự. Bài viết dưới đây của Thanhbinhpsy sẽ mang tới cho độc giả yêu tâm lý cái nhìn khái quát và sơ lược nhất về tâm lý học là gì cũng như ý nghĩa của nó đối với đời sống con người. Trước khi đi sâu bàn luận về tâm lý học là gì thì chúng ta cùng điểm qua về khái niệm của tâm lý. Khái niệm tâm lý học xuất phát từ tiếng Latinh với “Psyche” là “linh hồn, tinh thần” và “logos” là “khoa học, học thuyết”. Vì thế tâm lý học hay Psychology chính là khoa học về tâm hồn. Nói một cách dễ hiểu hơn thì tâm lý học là một ngành khoa học nghiên cứu tất cả các hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người gắn liền và điều hành mọi hành vi, hoạt động của con người. Đối tượng nghiên cứu: đối tượng của tâm lý là các hiện tượng tâm lý với tư cách là các hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào não con người, gọi chung là các hoạt động tâm lý. Theo đó, tâm lý học nghiên cứu các hiện tượng tâm lý con người bao gồm: sự hình thành, vận hành và phát triển của hoạt động tâm lý. Hệ thống cơ sở lý luận: tâm lý có hệ thống cơ sở lý luận đồ sộ bao gồm các khái niệm về các hiện tượng tâm lý, quy luật của chúng cũng như quan điểm và các học thuyết tâm lý khác nhau. Hệ thống các phương pháp nghiên cứu: Hệ thống các phương pháp nghiên cứu của tâm lý học khá hoàn chỉnh bao gồm cả phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng (quan sát, trắc nghiệm; đàm thoại; điều tra; phân tích sản phẩm hoạt động; nghiên cứu tiểu sử; nghiên cứu điển hình cá nhân.). Từ khi trở thành một ngành khoa học độc lập cho đến nay ngành tâm lý đã tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động trong cuộc sống như giáo dục; y tế; thể thao; du lịch; kinh doanh; lao động sản xuất; vui chơi giải trí…Qua đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống một cách toàn diện và thiết thực góp phần mang lại hạnh phúc cho toàn xã hội. Từ đầu thế kỉ XIX trở đi, nền sản xuất thế giới đã phát triển mạnh, thúc đẩy sự tiến bộ không ngừng của nhiều lĩnh vực khoa học, kĩ thuật phát triển. Chính những thành tựu của các lĩnh vực khoa học này đã tạo điều kiện cho tâm lý học trở thành một ngành khoa học độc lập với các trường phái tâm lý học khác nhau. Sự kiện lớn nhất tạo nên kết quả đó chính là sự ra đời của Phòng thí nghiệm tâm lý đầu tiên trên thế giới do nhà tâm lý người Đức Wilhelm Wundt (1832 – 1920) sáng lập vào năm 1879 tại thành phố Laixic. Vào thời điểm đó, Wilhelm Wundt là người đầu tiên đặt sự quan tâm đặc biệt vào các khối cấu trúc trí tuệ và chuyên tâm nghiên cứu nó. Cũng tại đây ông chính thức định nghĩa cho câu hỏi tâm lý học là gì? Theo ông, tâm lý học là một bộ môn nghiên cứu kinh nghiệm hữu thức (Conscious experience), thông qua một mô hình nhận thức được mệnh danh là lý thuyết kết cấu. Theo Wilhelm Wundt, đối tượng của tâm lý học không chỉ là ý thức chủ quan và con đường nghiên cứu ý thức là các phương pháp nội quan và tự quan sát. Mà đối tượng của tâm lý học còn bao hàm cả những ý thức khách quan (hữu thức) mà con người hoàn toàn có thể quan sát, đo đạc được bằng các phương pháp thực nghiệm. Phát huy những ý tưởng của Wundt, đầu thế kỷ XX các trường phái tâm lý học theo chủ nghĩa khách quan ra đời bao gồm: Nhận thức hành vi; tâm lý học Gestalt và Phân tâm học… Ngoài ra, trong giao đoạn này ngành tâm lý còn phát triển nhiều trường phái khác như nhân văn; nhận thức. Một bước ngoăt to lớn cho ngành tâm lý đó là sự thành công của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, khi mà chủ nghĩa Mac-Lenin trở thành kim chỉ nam cho các nhà triết học, nhà khoa học và các trường phái tâm lý học thời kỳ đó. Tâm lý học hành vi là một trường phái tâm lý học do nhà tâm lý học Mĩ J. Watson (1878 – 1958) sáng lập vào năm 1913 và được xuất bản với cái tên “Psychology as the Behaviorist Views It” (Tâm lý học qua cái nhìn của nhà hành vi học). Theo đó, J. Watson cho rằng tâm lý học không mô tả, giảng giải các trạng thái ý thức mà chỉ nghiên cứu hành vi của cơ thể ở con người cũng như ở động vật. Ông tin rằng, các phản ứng của con người đối với kích thích của môi trường chính là cái tạo nên hành vi. Nói một cách dễ hiểu hơn, hành vi được hiểu là tổng số các cử động bên ngoài nảy sinh ở cơ thể nhằm đáp lại một kích thích nào đó theo một công thức nhất định. Đó là nền tảng khi bạn muốn tìm hiểu tâm lý học hành vi là gì?. Với Công thức trên, J. Watson đã nêu lên một quan điểm tiến bộ trong tâm lý học: coi hành vi là do ngoại cảnh quyết định, hành vi có thể quan sát được, nghiên cứu được một cách khách quan, từ đó có thể điều khiển hành vi theo phương pháp “thử – sai”. Ngoài ra, Các hành vi này có thể được học tập một cách có hệ thống và có thể quan sát một cách rõ ràng từ bên ngoài, không đi sâu vào diễn biến nội tâm. Tuy nhiên, học thuyết hành vi cũng gây ra nhiều tranh cãi cho các nhà tâm lý bởi quan niệm về hành vi mà J.Watson đưa ra quá cơ học và máy móc làm mất đi tính chủ thể, tính xã hội của tâm lý con người. Nói một cách dễ hiểu hơn đó là sự đồng nhất tâm lý con người với tâm lý động vật. Một số nhà tâm lý cho rằng quan điểm của trường phái này là quan điểm phi lịch sử và thực dụng. Về sau này các đại biểu của chủ nghĩa hành vi mới như: Tonmen, Hulo, Skiner… có đưa vào công thức S – R những “biến số trung gian” bao hàm một số yếu tố như: nhu cầu, trạng thái chờ đón, kinh nghiệm sống của con người… hoặc hành vi tạo tác “operant” nhằm đáp lại những kích thích có lợi cho cơ thể, nhưng về cơ bản chủ nghĩa hành vi mới vẫn mang tính máy móc, thực dụng của chủ nghĩa hành vi cổ điển Watson. Song song với học thuyết tâm lý học hành vi của J.Watson thì học thuyết tâm lý cấu trúc cũng được ra đời tại Đức vào năm 1913 nhằm tấn công vào thuyết yếu tố của Wilhelm Wundt với cái tên Gestalt (Trong tiếng Đức Gestalt là từ dùng để chỉ “hình dáng”, “cấu trúc”). Học thuyết tâm lý này gắn liền với tên tuổi của nhà tâm lý nổi tiếng thời kỳ đó là: Max Wertheimer (1880 – 1943) giảng viên trường đại học Farnkfurt cùng hai cộng sự là các nhà nghiên cứu: Kurt Kohler (1887 – 1967) và Wolfgang Koffka (1886 – 1947). Theo các nhà tâm lý học Gestalt thì nhiệm vụ chính của tâm lý là nghiên cứu về các sự vật,sự việc một cách toàn thể chứ không phải là về các thành phần như học thuyết của Wundt. Các nghiên cứu của họ đi sâu vào các quy luật về tính ổn định và tính trọn vẹn của tri giác, quy luật “bừng sáng” của tư duy. Trên cơ sở các nghiên cứu về tri giác, thực nghiệm các nhà tâm lý Gestalt khẳng định các quy luật của tri giác, tư duy và tâm lý của con người do các cấu trúc tiền đình của não quy định. Với tham vọng xây dựng nên một ngành tâm lý học khách quan theo kiểu mẫu của vật lý học chứ hoàn toàn không liên quan đến tâm lý học liên tưởng cũng như vai trò của kinh nghiêm sống hay kinh nghiệm lịch sử xã hội. Phân tâm học (Psychoanalysis – phân tích tâm lý) là trường phái tâm lý học của bác sĩ thần kinh học người Áo Sigmund Freud (1859 – 1939) sau khi can thiệp lâm sàng với những bệnh nhân Hysteria của mình. Nội dung của học thuyết là tập hợp những lý thuyết và phương pháp tâm lý học có mục đích để tìm hiểu những mỗi quan hệ vô thức của con người thông qua quá trình liên tưởng. Học thuyết cũng là tiền đề cho chủ nghĩa hiện sinh, thể hiện quan điểm sinh vật hoá tâm lý con người. Khác với các nhà triết học, xã hội học, tâm lý học cùng thời, S.Freud đề cao bản năng vô thức của con người. Ông phân chia con người thành ba khối bao gồm: cái ấy (ID); cái tôi (Ego) và cái siêu tôi (Super Ego). Trong đó, cái ấy (ID) là cái bể chứa bí mật bao gồm các bản năng vô thức như: ăn uống, tự vệ, tính dục. (tính dục (Libido) là yếu tố giữ vai trò trung tâm quyết định toàn bộ đời sống tâm lý và hành vi của con người) mà con người chỉ có thể nhận biết gián tiếp qua giấc mơ, triệu chứng… Cái ấy của tất cả mọi người đều tồn tại theo nguyên tắc thỏa mãn và đòi hỏi. Cái tôi (Ego) là cái không có sẵn lúc con người sinh ra mà nó được phát triển thông qua tương tác từ bên ngoài thông qua các cơ chế phòng vệ. Nói một cách dễ hiểu thì cái tôi chính là vẻ bọc bên ngoài cho cái lõi bên trong là cái ấy (ID). Cái siêu tôi (Super Ego) hay còn gọi là cái tôi lý tưởng chính là cái tôi siêu phàm – điều không bao giờ vươn tới được và tồn tại theo nguyên tắc kiểm duyệt, chèn ép gây ra những xung đột nội tâm ở con người. Theo Freud: “tất cả các hiện tượng tâm thần của con người về bản chất là hiện tượng vô thức. Mọi hoạt động trong tâm trí đều bắt nguồn trong vô thức và tùy theo tương quan của những lực lượng thôi thúc và ngăn cản được biểu hiện ra theo những quy luật khác hẳn với ý thức”. Tâm lý học nhân văn hay còn được gọi là trường phái tâm lý học lực lượng thứ ba do Carl. Abraham Maxlow cho rằng, các nhu cầu của con người được sắp đặt theo 5 thứ bậc thể hiện 5 mức độ nhu cầu cơ bản của con người xét thứ tự từ thấp đến cao bao gồm: Nhu cầu sinh lí cơ bản; Nhu cầu an toàn; Nhu cầu về quan hệ xã hội; Nhu cầu được kính nể, ngưỡng mộ và Nhu cầu phát huy bản ngã, thành đạt. Các thứ bậc càng thấp, nhu cầu của con người cơ bản càng giống với loài vật. Các thứ bậc càng cao, chúng càng đặc trưng cho con người. Các nhu cầu này được sắp đặt sao cho khi người ta thỏa mãn một nhu cầu thấp hơn, người ta có thể xử lý một nhu cầu cao hơn. Ví dụ như khi nhu cầu sinh lý của con người đươc thỏa mãn (ăn uống, tính dục) người ta có thể xử lý các nhu cầu về sự an toàn (bảo vệ khỏi các yếu tố vật chất, đau đớn và các nguy hiểm bất ngờ). Rogers lại cho cho rằng bản chất con người là lương thiện với những khuynh hướng tiến đến sự phát triển tiềm năng và xã hội hóa mà nếu đặt trong môi trường thuận lợi sẽ phát triển nhận thức và hiện thức hóa tiềm năng đầy đủ. Ngoài ra, ông còn cho rằng mỗi người đều sở hữu những tiềm năng cho sự lớn lên, tiềm năng cho những hành vi có hiệu quả và có khuynh hướng tự hiện thực hóa tiềm năng của mình. Theo đó, việc con người đối xử với nhau một cách tế nhị, cởi mở, biết lắng nghe, chờ đợi và không áp đặt các điều kiện về giá trị trên người khác đó chính là cách giúp họ nhìn nhận giá trị của sự tích cực một cách vô điều kiện. Với sự nhìn nhận tích cực vô điều kiện người ta được yêu mến và kính trọng bởi vì bản chất thực sự của họ trong nhân cách, và chỉ những ai nhìn thấy được sự tích cực vô điều kiện thì mới có thể trở thành một con người có đời sống tinh thần sung mãn. Nhìn chung, quan điểm của học thuyết nhân văn chính là đề cao bản chất tốt đẹp và luôn hướng tới những điều tốt đẹp của con người (lòng vị tha, tiềm năng kỳ diệu). Tuy nhiên, nhiều nhà phê bình lại cho rằng học thuyết tâm lý học nhân văn quá đề cao những điều cảm nghiệm, thể nghiệm chủ quan của bản thân mỗi người, tách con người khỏi các mối quan hệ xã hội, chú ý tới mặt nhân văn trừu tượng trong con người, vì thế thiếu vắng con người trong hoạt động thực tiễn.
Nhà tâm lý học
Một nhà tâm lý học là một chuyên gia đánh giá và nghiên cứu các quá trình hành vi và tinh thần. Để trở thành một nhà tâm lý học, một người phải hoàn thành một bằng Tiến sĩ (PsyD hoặc PhD). Định nghĩa này về một nhà tâm lý học là không giới hạn. Trong hầu hết khu vực pháp lý của bang, thành viên của các nghề nghiên cứu hành vi khác (chẳng hạn như cố vấn và nhà tâm thần học có thể đánh giá, chẩn đoán, điều trị và nghiên cứu quá trình tinh thần. Có nhiều loại nhà tâm lý học được phản ánh lại bởi 56 bộ phận của Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (APA). Cũng có nhiều lĩnh vực tâm lý học khác nữa như các nhà tâm lý học công nghiệp và tổ chức và cộng đồng; những chuyên gia áp dụng nghiên cứu, các lý thuyết và kĩ thuật tâm lý học vào vấn đề trong "thế giới thực"; đó là chủ yếu áp dụng cho doanh nghiệp, tập đoàn, các tổ chức phi lợi nhuận xã hội, chính phủ và các nhà nghiên cứu. Tâm lý học có thể phân làm hai thể loại chính: Tâm lý học ứng dụng, bao gồm những "người thực hành" hoặc "chuyên gia" và tâm lý học định hướng nghiên cứu bao gồm các "nhà khoa học" và "học giả".
Một trong nhiều cách mà các biến trong thống kê có thể được phân loại là xem xét sự khác biệt giữa các biến giải thích và biến phản hồi. Mặc dù các biến này có liên quan với nhau, nhưng giữa chúng có những điểm khác biệt quan trọng. Sau khi xác định các loại biến này, chúng ta sẽ thấy rằng việc xác định đúng các biến này có ảnh hưởng trực tiếp đến các khía cạnh khác của thống kê, chẳng hạn như việc xây dựng biểu đồ phân tán và độ dốc của đường hồi quy . Chúng ta bắt đầu bằng cách xem xét các định nghĩa của các loại biến này. Biến phản hồi là một đại lượng cụ thể mà chúng tôi đặt ra câu hỏi trong nghiên cứu của mình. Biến giải thích là bất kỳ yếu tố nào có thể ảnh hưởng đến biến phản hồi. Mặc dù có thể có nhiều biến giải thích, nhưng chúng ta sẽ chủ yếu quan tâm đến một biến giải thích duy nhất. Một biến phản hồi có thể không có trong một nghiên cứu. Việc đặt tên cho loại biến này phụ thuộc vào các câu hỏi mà nhà nghiên cứu đặt ra. Việc tiến hành một nghiên cứu quan sát sẽ là một ví dụ về một trường hợp khi không có biến phản hồi. Một thử nghiệm sẽ có một biến phản hồi. Thiết kế cẩn thận của một thử nghiệm cố gắng xác định rằng những thay đổi trong biến phản hồi là do những thay đổi trong biến giải thích trực tiếp gây ra. Để khám phá những khái niệm này, chúng ta sẽ xem xét một vài ví dụ. Ví dụ đầu tiên, giả sử rằng một nhà nghiên cứu quan tâm đến việc nghiên cứu tâm trạng và thái độ của một nhóm sinh viên đại học năm thứ nhất. Tất cả các sinh viên năm nhất đều được đưa ra một loạt câu hỏi. Những câu hỏi này được thiết kế để đánh giá mức độ nhớ nhà của học sinh. Học sinh cũng cho biết trên cuộc khảo sát xem trường đại học của họ cách nhà bao xa. Một nhà nghiên cứu kiểm tra dữ liệu này có thể chỉ quan tâm đến các loại phản hồi của học sinh. Có lẽ lý do cho điều này là để có một cảm nhận tổng thể về thành phần của một sinh viên năm nhất mới. Trong trường hợp này, không có biến phản hồi. Điều này là do không ai đang xem liệu giá trị của một biến có ảnh hưởng đến giá trị của biến khác hay không. Một nhà nghiên cứu khác có thể sử dụng dữ liệu tương tự để cố gắng trả lời xem liệu sinh viên ở xa có nhớ nhà nhiều hơn không. Trong trường hợp này, dữ liệu liên quan đến các câu hỏi về nỗi nhớ nhà là giá trị của một biến phản hồi và dữ liệu cho biết khoảng cách từ nhà tạo thành biến giải thích. Đối với ví dụ thứ hai, chúng ta có thể tò mò liệu số giờ làm bài tập về nhà có ảnh hưởng đến điểm số mà một học sinh kiếm được trong một kỳ thi hay không. Trong trường hợp này, bởi vì chúng tôi cho thấy rằng giá trị của một biến thay đổi giá trị của biến khác, nên có một biến giải thích và một biến phản hồi. Số giờ nghiên cứu là biến giải thích và điểm trên bài kiểm tra là biến phản hồi. Khi chúng tôi đang làm việc với dữ liệu định lượng được ghép nối , sử dụng biểu đồ phân tán là thích hợp. Mục đích của loại biểu đồ này là để chứng minh các mối quan hệ và xu hướng trong dữ liệu được ghép nối. Chúng ta không cần phải có cả biến giải thích và biến phản hồi. Nếu đúng như vậy, thì một trong hai biến có thể được vẽ dọc theo một trong hai trục. Tuy nhiên, trong trường hợp có một biến phản hồi và biến giải thích, thì biến giải thích luôn được vẽ dọc theo trục x hoặc trục hoành của hệ tọa độ Descartes. Biến phản hồi sau đó được vẽ dọc theo trục y . Sự phân biệt giữa biến giải thích và biến phản hồi cũng tương tự như một cách phân loại khác. Đôi khi chúng ta coi các biến là độc lập hoặc phụ thuộc . Giá trị của một biến phụ thuộc dựa trên giá trị của một biến độc lập . Do đó, một biến phản hồi tương ứng với một biến phụ thuộc trong khi một biến giải thích tương ứng với một biến độc lập. Thuật ngữ này thường không được sử dụng trong thống kê vì biến giải thích không thực sự độc lập. Thay vào đó, biến chỉ nhận các giá trị được quan sát. Chúng tôi có thể không kiểm soát được các giá trị của một biến giải thích. Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Biến phụ thuộc và biến độc lập
Trong mô hình toán học, mô hình thống kê và khoa học thực nghiệm, các giá trị của các biến phụ thuộc phụ thuộc vào các giá trị của các biến độc lập. Các biến phụ thuộc đại diện cho đầu ra hoặc kết quả cho sự thay đổi đang được nghiên cứu. Các biến độc lập, còn được biết đến trong văn cảnh thống kê là biến hồi quy, đại diện cho đầu vào hoặc nguyên nhân, đó là lý do tại sao cho sự thay đổi. Trong một cuộc thử nghiệm, bất kỳ biến nào mà người thử nghiệm thao tác cũng có thể được coi là một biến độc lập. Các mô hình và thử nghiệm được tiến hành để kiểm tra những tác động của các biến độc lập lên các biến phụ thuộc. Đôi khi, ngay cả ảnh hưởng của chúng không mang lại lợi ích trực tiếp, các biến độc lập vẫn có thể được đưa vào vì những lý do khác nhau, như để giải thích cho hiệu ứng gây nhiễu tiềm ẩn.
"Tiếng chuông báo tử của Đế chế thứ hai cũng đã điểm ở Pa-ri. Đế chế thứ hai mở đầu như thế nào thì cũng kết thúc như thế ấy: bằng một sự bắt chước lố bịch. Nhưng chúng ta không nên quên rằng chính các chính phủ và các giai cấp thống trị ở châu Âu đã tạo điều kiện cho Lu-i Bô-na-pác-tơ diễn vở hề tàn bạo về sự phục tích của đế chế trong mười tám năm ròng". Như vậy, ngay trước khi chiến sự bắt đầu trên thực tế, chúng ta cũng đã coi những bong bóng xà-phòng của Bô-na-pác-tơ như là một công việc của quá khứ. Chúng ta đã không lầm về sức sống của Đế chế thứ hai. Chúng ta cũng đã không sai khi chúng ta lo rằng đối với nước Đức cuộc chiến tranh sẽ "mất tính chất thuần túy phòng thủ của nó và thoái hóa thành một cuộc chiến tranh chống lại nhân dân Pháp". Cuộc chiến tranh tự vệ thực ra đã kết thúc bằng sự đầu hàng cửa Lu-i Na-pô-lê-ông, sự đầu hàng ở Xê-đăng và việc tuyên bố thành lập nền cộng hòa ở Pa-ri. Nhưng từ lâu trước những sự kiện này, ngay vào lúc sự mục nát hoàn toàn của quân đội của Bô-na-pác-tơ đã bộc lộ rõ, bè đảng quân sự của Phổ cũng đã quyết định biến cuộc chiến tranh ấy thành một cuộc chiến tranh xâm lược rồi. Thật ra, trên con đường đó, lời tuyên bố của bản thân vua Vin-hem vào buổi đầu của cuộc chiến tranh là một chướng ngại khá khó chịu. Trong bài diễn văn của nhà vua tại Quốc hội Bắc Đức ông đã trịnh trọng tuyên bố tiến hành cuộc chiến tranh chống hoàng đế Pháp chứ không chống nhân dân Pháp. Ngày 1 1 tháng Tám ông ta đã công bố một bản tuyên ngôn gửi dân tộc Pháp, trong đó ông ta nói:. "Vì hoàng đế Na-pô-lê-ông đã tấn công trên bộ và trên biển đánh dân tộc Đức, một dân tộc đã mong muốn và vẫn luôn luôn mong muốn sống hòa bình với nhân dân Pháp; tôi đã đảm nhiệm việc chỉ huy quân đội Đức để đánh trả sự tấn công của ông ta, và do diễn biến của chiến sự mà tôi phải vượt qua biên giới nước Pháp". Không hài lòng với việc tuyên bố rằng ông đảm nhiệm việc chỉ huy quân đội Đức "để đánh trả sự tấn công", nên để chứng thực tính chất tự vệ của cuộc chiến tranh, Vin-hem còn nói thêm rằng chỉ "do diễn biến của chiến sự mà ông ta phải" vượt qua biên giới nước Pháp. Một cuộc chiến tranh tự vệ tất nhiên không loại trừ các hoạt động tấn công, do "diễn biến của chiến sự" bắt buộc. Như vậy, ông vua ngoan đạo này cam kết trước nước Pháp và trước thế giới là chỉ tiến hành một cuộc chiến tranh thuần túy tự vệ. Vậy làm thế nào để cho ông ta gỡ được lời hứa hẹn trịnh trọng đó? Các nhà đạo diễn toàn bộ trò hề này phải trình bày như thể là ông ta miễn cưỡng phục tùng những yêu cầu cấp thiết của nhân dân Đức; họ liền đưa ra một tín hiệu cho giai cấp tư sản tự do Đức với các giáo sư của nó, các nhà tư bản của nó, các ủy viên hội đồng thành phố của nó, các nhà báo của nó. Giai cấp tư sản. này,- trong cuộc đấu tranh cho quyền tự do công dân từ năm 1846 đến năm 1870 đã chứng tỏ một sự do dự, bất lực và hèn nhát chưa từng thấy, tất nhiên hết sức hân hoan khi phải bước lên sân khấu châu Âu như là một con sư tử gầm thét của chủ nghĩa yêu nước Đức. Nó mang cái mặt nạ độc lập công dân giả dối để làm ra vẻ như là nó buộc chính phủ Phổ phải thực hiện những kế hoạch bí mật của chính ngay Chính phủ này. Nó ăn năn về lòng tin lâu dài và hầu như có tính chất tôn giáo của nó vào sự không thể sai lầm của Lui Bô-na-pác-tơ và vì thế nó lớn tiếng đòi chia cắt nước Cộng hòa Pháp. Chúng ta hãy nghe, dầu chỉ là trong giây lát, những lý lẽ có vẻ chính đáng của những nhà yêu nước trung kiên này!. Họ không dám khẳng định rằng nhân dân An-da-xơ và Lo-ren-nơ khao khát được Đức ôm hôn. Chính là ngược lại. Để trừng trị lòng yêu nước của nó đối với Pháp, Xtơ-ra-xbua, một thành phố với một thành lũy chỉ huy đứng riêng, đã bị pháo kích một cách dã man và không có mục đích trong 6 ngày liền bằng đạn trái phá "Đức" bị đốt cháy, và một số lớn dân cư không có gì để tự vệ đã bị giết chết. Còn phải nói nữa! Đất đai của hai tỉnh này trước đây đã thuộc về cái Đế quốc Đức đã tiêu vong từ lâu rồi. vậy mà hình như đất đai và những con người lớn lên ở đấy phải bị tịch thu như là một tài sản còn chưa hết thời hiệu của Đức. Nếu vẽ lại bản đồ cũ của châu Âu được theo ý ngông thất thường của kẻ hoài cổ, thì trong bất cứ trường hợp nào chúng ta cũng không. được quên rằng hồi bấy giờ, với tư cách là lãnh chúa Phổ, tuyển đế hầu Bran-đen-buốc lại là chư hầu của nước Cộng hòa Ba Lan. Nhưng các nhà yêu nước láu lỉnh lại đòi An-da-xơ và phần Lo-ren-nơ nói tiếng Đức như là một "bảo đảm vật chất" chống lại sự tấn công của Pháp. Vì lý do sâu xa đó đã làm cho nhiều người nhẹ dạ lầm lẫn, nên chúng tôi thấy có nhiệm vụ phải nói đến nó. Không còn nghi ngờ gì nữa, ngoại hình chung của An-da-xơ so với bờ bên kia của sông Ranh và sự có mặt của một pháo đài lớn như Xtơ-ra-xbua, nằm ở khoảng giữa Ba-lơ và Ghéc-mơ-xhai-mơ, tạo điều kiện rất thuận lợi cho một cuộc tấn công của Pháp vào miền Nam nước Đức, trong khi đó thì nó gây ra những khó khăn nhất định cho một cuộc tấn công từ miền Nam nước Đức vào nước Pháp. Hơn nữa, không nghi ngờ gì nữa là việc thôn tính An-da-xơ và phần Lo-ren-nơ nói tiếng Đức sẽ đem lại cho miền Nam nước Đức một biên giới mạnh hơn nhiều; khi đó miền Nam nước Đức sẽ làm chủ được dãy núi Vô-he-dơ suốt dọc chiều dài của nó và các pháo đài bảo vệ những đèo ở phía bắc dãy núi đó. Nếu Mét-xơ cũng bị thôn tính thì chắc chắn là Pháp lập tức sẽ mất ngay hai căn cứ tác chiến chủ yếu nhất chống Đức, nhưng việc đó không ngăn cản nó xây dựng một căn cứ mới ở Năng-xi hoặc Véc-đen. Đức có Cô-blen-txơ, Ma-in-xơ, Ghéc-mơ-xhai-mơ, Ra-stát và Un-mơ, - tất cả đều là những căn cứ tác chiến chống lại Pháp, và đã lợi dụng chúng một cách tuyệt diệu trong cuộc chiến tranh này; vậy thì Đức có một chút quyền gì để ganh tị với Pháp về Mét-xơ và Xtơ-ra-xbua, hai pháo đài quan trọng duy nhất mà Pháp có được ở vùng này? Ngoài ra Xtơ-ra-xbua chỉ đe dọa Nam Đức chừng nào Nam Đức tách khỏi Bắc Đức. Từ năm 1792 đến năm 1795 Nam Đức không bao giờ bị tấn công từ phía này, bởi vì Phổ đã tham gia cuộc chiến tranh chống lại cuộc cách mạng Pháp; nhưng ngay khi Phổ vừa ký hiệp ước hòa bình riêng rẽ năm 1795 và bỏ mặc miền Nam thì bắt đầu có những cuộc tấn công vào Nam Đức, lấy Xtơ-ra-xbua làm căn cứ, và kéo dài đến năm 1809. Thực ra một nước Đức thống nhất luôn luôn có thể làm cho Xtơ ra-xbua và mọi quân đội Pháp ở An-da-xơ trở thành vô hại. nếu nó tập trung tất cả các quân đội của nó ở giữa Xa-rơ-lu-i và Lan-đau, như đã xảy ra trong cuộc chiến tranh này, vả đẩy chúng tiến lên phía trước hoặc chấp nhận một trận đánh trên con đường từ Ma-in-xơ đến Mét-xơ. Chừng nào khối đông chủ yếu của quân. đội Đức đóng ở đó, thì mọi quân đội Pháp từ Xtơ-ra-xbua tấn công vào Nam Đức sẽ bị đánh bọc sườn và sự liên lạc của bọ sẽ bị đe dọa. Nếu chiến dịch gần đây chứng minh một cái gì đó, thì đó là tính chất dễ dàng của việc tấn công từ Đức vào đất Pháp. và tuyến Min-si-ô, còn Pháp thì đòi tuyến Ranh để bảo vệ Pa-ri là thành phố rõ ràng trống trải dễ bị tấn công từ phía đông - bắc nhiều hơn là Béc-lin bị tấn công từ phía tây - nam. Nếu đường biên giới phải được quy định bởi lợi ích quân sự thì các yêu sách không bao giờ chấm dứt, bởi vì mọi ranh giới quân sự do cần thiết đều có những thiếu sót của nó vả có thể được cải tiến bằng cách sáp nhập những lãnh thổ mới tiếp giáp với nó; hơn nữa những biên giới đó không bao giờ có thể được xác lập một cách dứt khoát và công bằng, bởi vì kẻ chiến thắng bao giờ cũng ra điều kiện cho người chiến bại và, do đó, cái đó đã mang trong mình mầm mống của những cuộc chiến tranh mới. Đó là bài học của toàn bộ lịch sử: với những con người riêng lẻ như thế nào thì với những dân tộc trọn vẹn cũng như thế. Để tước khả năng tấn công của họ thì phải đoạt hết mọi phương tiện tự vệ của họ. Không những phải túm lấy cổ họng họ mà còn phải giết họ nữa. Nếu có một lúc nào đó kẻ chiến thắng đòi được "những đảm bảo vật chất" để bẻ gẫy lực lượng của một dân tộc, thì đó là Na-pô-lê-ông I với hòa ước Tin-dít của ông ta và cái cách thức mà ông ta đã dùng hiệp ước ấy để chống lại Phổ và phần nước Đức còn lại. Và tuy vậy vài năm sau nhân dân Đức cũng đã bẻ gãy toàn bộ sức mạnh khổng lồ của ông ta như một cây lau mục. Những "đảm bảo vật chất" mà trong giấc mơ điên dại của nó, Phổ hy vọng giành được và dám giành của Pháp, là gì so với những đảm bảo vật chất mà Na-pô-lê-ông I đã giành được của chính nước Đức? Lần này kết quả cũng sẽ không kém phần tai hại. Lịch sử sẽ đền đáp lại không phải theo số những dặm vuông đất đai đã cắt được của Pháp, mà theo mức độ lớn lao của cải tội lỗi đã phục hồi lại chính sách xâm lược trong nửa sau thế kỷ XIX. Những kẻ bênh vực chủ nghĩa yêu nước của người Đức nói: những các anh không được lẫn lộn người Đức với người Pháp. Chúng tôi không muốn vinh quang mà muốn sự an toàn. Người Đức, về cơ bản, là một dân tộc yêu hòa bình. Dưới sự bảo trợ. khôn ngoan của họ, thậm chí sự xâm chiếm cũng từ chỗ là một nguyên nhân của cuộc chiến tranh tương lai biến thành một đảm bảo cho hòa bình vinh cửu. Dĩ nhiên không phải nước Đức đã xâm lăng nước Pháp năm 1792 với mục đích cao thượng là đè bẹp cuộc cách mạng thế kỷ XVIII bằng lưỡi lê? Và không phải nước Đức đã làm nhơ nhuốc mình bằng việc nô dịch I-ta-li-a, đàn áp Hung-ga-ri và chia cắt Ba Lan? Hệ thống quân sự hiện nay của nó chia toàn bộ dân cư nam giới khỏe mạnh ra làm hai phần - một đội quân thường trực đang làm nhiệm vụ và một đội quân thường trực khác làm dự trữ, - cả hai đều phải ngoan ngoãn phục tùng những người trị vì nhờ ơn chúa, - hệ thống quân sự đó tất nhiên là một "bảo đảm vật chất" cho hòa bình và hơn nữa là mục đích cao nhất của nền văn minh! Ở Đức, cũng như khắp mọi nơi, bọn tay sai của những kẻ đang nắm quyền lực đều đầu độc công luận bằng khói trầm hương của sự khoác lác dối trá. Những nhà yêu nước người Đức này có vẻ bất bình khi nhìn thấy những pháo đài Mét-xơ và Xtơ-ra-xbua của Pháp, nhưng họ không thấy gì là xấu xa trong hệ thống công sự rộng lớn của người Mốt-xcô-vít ở Vác-sa-va, Mốt-lin và I-van-gô-rốt. Trong khi họ rùng mình trước những sự khủng khiếp của các cuộc tấn công của Bô-na-pác-tơ thì họ lại nhắm mắt lại trước sự nhục nhã của nền bảo hộ của Nga hoàng. Hoàn toàn giống như năm 1865 Lu-i Bô-na-pác-tơ và Bi-xmác trao đổi những lời hứa hẹn với nhau, năm 1870 Goóc-tra-cốp và Bi-xmác cũng trao đổi những lời hứa hẹn với nhau. Hoàn toàn giống như Lu-i Na-pô-lê-ông tự phỉnh phờ mình bằng hy vọng rằng cuộc chiến tranh năm 1866 làm cho cả Áo lẫn Phổ bị kiệt quệ sẽ biến ông ta thành người quyết định số phận của Đức, A-lếch-xan-đrơ cũng tự phỉnh phờ mình bằng hy vọng rằng cuộc chiến tranh năm 1870 làm cho cả Đức lẫn Pháp bị kiệt quệ, sẽ đem lại cho ông cơ hội trở thành người quyết định số phận của Tây Âu. Hoàn toàn giống như Đế chế thứ hai đã coi mình không thể cùng tồn tại với Liên đoàn Bắc Đức, nước Nga chuyên chế cũng phải cảm thấy mình bị đe dọa bởi một đế chế Đức do Phổ đứng đầu. Đó là quy luật của chế độ chính trị cũ. Trong phạm vi của chế độ đó, cái mà nước này được là cái mà nước kia mất. Ảnh hưởng chiếm ưu thế của Nga hoàng đối với châu Âu bắt nguồn từ địa vị lãnh đạo truyền thống của ông ta đối với Đức. Vào lúc các lực lượng xã hội sục sôi như núi lửa ở bản thân nước Nga đang đe dọa làm lung lay những cơ sở xâu xa nhất của nền chuyên chế, thì nếu Nga hoàng có thể để cho uy tín của ông ta ở nước ngoài giảm đi hay không? Các báo chí Mát-xcơ-va đã dùng cái ngôn ngữ giống như báo chí Bô-na-pác-tơ sau cuộc chiến tranh năm 1866. Phải chăng những người yêu nước Đức đã thật sự nghĩ rằng tự do và hòa bình của Đức sẽ được đảm bảo nếu họ buộc được Pháp ngả vào vòng tay của Nga? Nếu vận may về quân sự, sự say sưa về thắng lợi và những âm mưu triều đại đang đẩy nước Đức đến chỗ cướp đoạt lãnh thổ Pháp, thì nó chỉ còn có hai con đường: hoặc giả nó phải, bằng bất cứ giá nào, trở thành công cụ công khai của chính sách xâm chiếm của Nga, hoặc giả sau một cuộc đình chiến ngắn, nó phải chuẩn bị một cuộc chiến tranh "phòng thủ" mới, không phải một trong những cuộc chiến tranh "hạn chế" mới sáng chế ra, mà là một cuộc chiến tranh chủng tộc chống lại các chủng tộc liên minh Xla-vơ và Rô-man. Giai cấp công nhân Đức, không có khả năng ngăn chặn cuộc chiến tranh đó, đã kiên quyết ủng hộ nó như là một cuộc chiến tranh cho nền độc lập của Đức và để giải phóng nước Pháp và châu Âu khỏi cơn ác mộng ghê tởm của Đế chế thứ hai. Những công nhân công nghiệp Đức, cùng với những công nhân nông nghiệp, là hạt nhân của quân đội anh hùng, đã bỏ những gia đình nửa chết đói của họ ở lại nhà. Hàng ngũ của họ đã thừa đi trên chiến trường ở nước ngoài, những tai họa chẳng kém do bần cùng đem lại đang chờ đợi họ ở trong nước, và giờ đây, đến lượt mình, họ đòi "những sự đảm bảo", những đảm bảo để cho sự hy sinh nhiều vô kể của họ không trở thành vô ích, để cho họ giành được tự do, để cho thắng lợi mà họ đạt được đối với quân đội Bô-na-pác-tơ không bị biến thành một thất bại của nhân dân Đức như năm 1815. Và với tư cách là một đảm bảo đầu tiên trong những đảm bảo đó, họ đòi một nền hoà bình trong danh dự cho Pháp và sự công nhân nước Cộng hòa Pháp. Ngày 5 tháng Chín ủy ban trung ương của Đảng công nhân dân chủ xã hội Đức đã công bố một bản tuyên ngôn trong đó nó kiên quyết đòi những đảm bảo đó.
Đế quốc Đức (1848–1849)
Liên bang Đức (tiếng Đức: Deutsches Reich) là một quốc gia của Liên bang Đức, đã tồn tại một thời gian ngắn từ 1848 đến 1849. Hiệp ước về sự xâm nhập của đế quốc đã được ký kết với các quốc gia nhỏ của Đức, trong khi dung lượng lớn như Áo và Phổ, từ chối công nhận đế quốc, và sau đó hoàn toàn giải tán nó. Nhà nước được tạo ra bởi Quốc hội Frankfurt vào mùa xuân năm 1848, sau Cách mạng tháng 3. Đế chế chính thức kết thúc khi Liên minh Đức được tái lập hoàn toàn vào Mùa hè năm 1851, nhưng đã kết thúc de facto vào tháng 12 năm 1849 khi Chính phủ Trung ương Đức được thay thế bằng một Ủy ban Trung ương Liên bang. Đế quốc đấu tranh để được cả hai nước Đức và nước ngoài công nhận. Các bang của Đức, được đại diện bởi Công ước Liên bang của Liên bang Đức, vào ngày 12 tháng 7 năm 1848, đã thừa nhận Chính phủ Trung ương Đức. Tuy nhiên, trong những tháng tiếp theo, các quốc gia Đức lớn hơn không phải lúc nào cũng chấp nhận các sắc lệnh và luật pháp của Chính phủ Trung ương Đức và Quốc hội Frankfurt.
Bạn đã bao giờ tự hỏi từ Senpai có nghĩa là gì chưa? Bạn cũng đã thắc mắc Kouhai có nghĩa là gì? Mối quan hệ giữa hai từ tiếng Nhật này là gì? &Nbsp; Có thể bạn đã nghe thấy một số nhân vật anime gọi người khác bằng những cái tên đó. Suy nghĩ để trả lời câu hỏi của bạn, chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa và mối quan hệ giữa hai từ này. Những từ Senpai và Kouhai là phí điều trị dựa trên trạng thái và thứ bậc. Sự khác biệt là những từ này thường được sử dụng với sự quan tâm và đánh giá cao chứ không phải là một vị trí hoặc ý tưởng rằng ai đó vượt trội hơn người khác. Về lý thuyết không có bản dịch theo nghĩa đen, nhưng nó có thể được giải thích. Chúng tôi sẽ nghiên cứu từng từ trong sâu . Để tạo điều kiện điều hướng của bạn, chúng tôi sẽ để lại một mục lục bài báo phía dưới:. senpai tương đương với khái niệm tây của cựu chiến binh hoặc gia sư. Từ này thường được dùng để chỉ một người lớn tuổi hơn và có kinh nghiệm hơn, một người cố vấn hoặc cấp cao. Đó là một điều trị tôn trọng đối với người cao tuổi hoặc có kinh nghiệm hơn, cha mẹ, tốt nghiệp hoặc năm một ai đó ở phía trước trong giáo dục nhà trường. Từ SEN-PAI là ngã ba của tượng hình văn tự sen đưa ra ý tưởng về tương lai, ưu tiên, đầu, trước, cũ và trước. Cùng với cha biểu tượng mang lại ý tưởng về đồng chí, người bạn đồng hành và con người. Nghĩa đen là một người bạn đồng hành có nhiều kinh nghiệm hơn bạn. Trong tiếng Nhật, một người không bao giờ nên gọi mình là một senpai, cũng không ông thậm chí chạy sau khi tiêu đề đó như một số chạy sau khi danh hiệu cựu chiến binh hoặc hướng đạo sinh. Là một phương tiện senpai được công nhận bởi những người khác, nó là một vinh dự mà cần phải được kiếm được. Cựu chiến binh cũng không đặt tiêu đề của họ trên danh thiếp như các bác sĩ ở phương Tây làm, cũng không làm họ thường buộc người khác phải gọi ông là một senpai nbsp &;. Tôn trọng đó là kiếm được và chỉ có thể được công nhận bởi những người khác. Cách đối xử với senpai tương tự như cách đối xử với sensei (sư phụ, giáo viên), nhưng nó thấp hơn một cấp và bạn không cần phải dạy gì cả. Kouhai về cơ bản là đối lập với không có cha, một từ tương đương chung với sinh viên năm nhất ở phương Tây. Các ý nghĩa và ý tưởng khác mà từ này truyền lại là của những người cấp dưới và trẻ hơn. Biểu tượng chuyển ý tưởng về phía sau, sau, phần còn lại, người kế thừa , người thừa kế, trước đó và những thứ như. Từ này cũng có biểu tượng nhưng được phát âm là hai. Nói một cách đơn giản, senpai nó được dùng để chỉ một người lớn tuổi và có kinh nghiệm hơn, một người cố vấn hoặc cấp cao. Kouhai, mặt khác, là một người trẻ, một người mới hoặc thiếu kinh nghiệm. Không ai bị xúc phạm bởi được gọi là kouhai, ngược lại, có một mối quan hệ nào giữa 2. Nếu bạn đã nói chuyện hay kết bạn với một cựu chiến binh, bạn đã tự động trở thành một kouhai và nên gọi ông là senpai như một dấu hiệu của sự tôn trọng. Không sử dụng phương pháp điều trị này coi như bạn không tôn trọng chính mình. Chỉ không phải tất cả các cựu chiến binh đều gọi kouhais của họ để điều trị, mà là bằng tên hoặc biệt danh. Có một tiếng lóng thực tếđảo ngược vị trí của các chữ tượng hình ở Senpai. Tiếng lóng được paisen và phương tiện điều tương tự, cao cấp, cao cấp, lớn tuổi, tốt nghiệp hoặc cha mẹ. Điều đáng nói rằng tiếng lóng này là bất lịch sự hơn và như người Nhật được giáo dục họ thường không sử dụng nó. mặc dù paisen là một từ không chính thức, nó có thể được sử dụng khi bạn đang rất gần gũi với senpai, anh ta sẽ phải đối mặt với bạn trong một cách tôn trọng nhưng thường trìu mến. Nó chỉ đơn giản là một lối chơi chữ từ Senpai, thường được sử dụng trong một dễ thương, vui vẻ và cách giản dị, nhưng nó vẫn còn tốt phải cẩn thận khi sử dụng nó. Paisen cũng là một biệt danh được sử dụng bởi bậc thầy của truyện tranh Katsuya Yano và cho diễn viên lồng tiếng Sayuri Yahagi. Các từ trong bài viết này là các hậu tố giống như và được sử dụng sau tên và được phân tách bằng dấu gạch ngang trong tiếng Bồ Đào Nha. Sự khác biệt chính là người Nhật thường sử dụng Senpai và Kouhai làm biệt danh mà không cần phải nhắc đến tên trước đó. Thông thường, một senpai gọi một kōhai bằng họ hoặc tên của anh ta, theo sau là hậu tố -kun phân biệt giới tính. Tương tự, một kōhai gọi một senpai bằng tên với hậu tố -senpai hoặc là -san. Thường không có tách theo tuổi giữa các phương pháp điều trị . Những người đến trường trong năm đầu tiên, được coi kōhai của những người trong năm thứ hai và thứ ba. Có một tình bạn lớn giữa kouhai và senpai, có thể tiếp tục ngay cả trường học hoặc tổ chức. Trong công việc một người là lâu hơn bạn được coi là một senpai, không có vấn đề nếu ông đến chỉ một ngày trước đó, bạn sẽ vẫn là kohai . Khái niệm này rất đơn giản chỉ trở nên phức tạp khi tình huống kỳ lạ xảy ra như thất bại hoặc ngừng hoạt động và quay lại lần nữa. Một số người viết bằng tiếng Bồ Đào Nha không có cha, nhưng tôi hy vọng không có ai không có cha ở đây. Điều đó không sai, nhưng việc sử dụng từ sempai càng củng cố ý tưởng nói rằng ai đó không có cha. Điều đúng đắn để viết cũng là kouhai mặc dù một số romanize như kōhai (dấu trong tiếng Bồ Đào Nha đã đến). Các senpai hiển thị từ bi bằng cách lắng nghe và đặt mình vào vị trí của kouhaikhám phá suy nghĩ và cảm xúc của bạn. Nhiều người đã cảm thấy nhẹ nhõm rằng kết quả từ nói chuyện với một người sẵn sàng lắng nghe họ. Senpais phải có nhận thức rằng kohais đôi khi cần được giúp đỡ, và phải tạo điều kiện thích hợp để trò chuyện. Anh ấy cần có mặt bất cứ khi nào cần thiết. Trong câu lạc bộ thể thao Nhật Bản, chẳng hạn như các đội bóng chày, kouhai thường thực hiện công việc nhà khác nhau cho senpai trong đó có rửa và làm sạch. O kōhai bạn không thể tham gia vào mọi hoạt động câu lạc bộ cho đến khi bạn có một kinh nghiệm nhất định. Trong võ thuật Nhật Bản, thuật ngữ senpai thường dùng để chỉ những học sinh ở cấp cuối, những người có đai đen. Họ được chọn để giúp đỡ sensei với những học sinh trẻ hơn hoặc ít kinh nghiệm hơn. Nếu bạn có thói quen xem phim truyền hình và anime, hẳn bạn đã nhận thấy mối quan hệ giữa chúng vài lần nhận thấy học sinh gọi những người lớn tuổi hơn là senpai. Một số người khi trở thành cựu chiến binh cảm thấy tự hào và hài lòng và cố gắng hết sức để giúp đỡ những người mới đến. Thật không may, có nhiều trường hợp, các cựu chiến binh không làm đúng vai trò của mình, và hành động một cách thiếu hiểu biết và khinh thường, xúc phạm kouhai và những người ở cấp thấp hơn, điều này cũng có thể xảy ra ijime (bắt nạt). Những người như vậy hiếm khi được gọi là kính trọng hoặc được đối xử đặc biệt. Nó được phổ biến cho học sinh trung học trẻ để rơi vào tình yêu với senpai của họ, điều này được xác định một khái niệm mới từ như trong lòng từ . Điều này thậm chí giành memes như “để ý tôi nhé senpai“Những phương tiện xem tôi hoặc thông báo cho tôi, một biểu thức đó cũng nảy sinh từ anime và manga . Biểu hiện này cho thấy sự cần thiết của chính mà nhiều người phải từ yếu tố cũ hoặc cao hơn. Không giống như crush, được sử dụng cho tình yêu thuần túy. Senpai lên một cấp, bởi vì chúng tôi có một chút thân thiết và chúng tôi biết người đó. Họ chăm sóc kouhai theo cách mà họ yêu. Việc kouhai xuống một bậc khiến họ không còn hy vọng vào một mối quan hệ nào, đặc biệt là khi kouhai, sự đau khổ càng lớn hơn. Phần lớn những người rơi vào bài viết này có lẽ đã nghe từ Senpai và Kouhai qua anime và manga. Điều này là do hầu hết các animes diễn ra ở trường học, nơi mà 2 phương pháp điều trị này thường được sử dụng. Chưa kể đến các animes hiển thị chủ nhân, công việc hoặc một lĩnh vực cụ thể khác của cuộc sống bằng cách sử dụng 2 phương pháp điều trị này. Có vô số trường hợp và cách mô tả mối quan hệ giữa senpai và kōhai. Tôi hy vọng bản tóm tắt ngắn gọn này đã giúp bạn hiểu được ý nghĩa của 2 từ này. Seonbae xuất phát từ cùng một từ nguyên với Senpai, gần như là một từ đồng nghĩa. Nó đề cập đến một người cố vấn hoặc một người nào đó học cùng trường với bạn, nhưng người có thứ hạng cao hơn khi là sinh viên năm cuối hơn là sinh viên năm nhất. Khi seonbae được áp dụng cho taekwondo, hình dạng Koryo có một mẫu sàn mà dấu vết nhân vật Hanja để tiền bối; trong bối cảnh này, các seonbae hạn đề cập đến một lớp học của cán bộ công chức từ Hàn Quốc cổ đại. Hubae là từ tương đương với Kouhai, dùng để chỉ sinh viên năm nhất và đàn em. Thông thường, những người trong mối quan hệ cấp cao và cấp dưới được gọi là Seonbaenim và Hubaenim , nơi nim bằng một hậu tố điều trị Hàn Quốc. hệ thống cấp bậc này là phổ biến ở các quốc gia mà phần lớn là Nho giáo, như Nhật Bản và Hàn Quốc. “Cựu chiến binh có sức mạnh xã hội to lớn đối với với” người mới”, là người đại đa số. Chuẩn mực xã hội được tư tưởng chứng minh nhân dịp này. Senpai có quyền phân biệt đối xử chống lại kouhai như một đặc ân, và có quyền sử dụng một biểu thức tiêu cực cũng thế và quyền yêu cầu thể hiện sự vâng lời. Trong một số trường hợp, các "cao cấp" được mặc nhiên công nhận trong nhóm là có quyền để một cái gì đó từ "đàn em". Một số thậm chí còn lợi dụng sức mạnh này để bắt sinh viên năm nhất mua đồ mà không có một chút tình yêu và sự đồng cảm. Sức mạnh của Senpai thay đổi tùy theo từng câu lạc bộ và trường học, trong các trường như Volleyball Club Nistai nữ, có 300 bài mà học sinh lớp dưới nên làm. Thực tế là sinh viên năm nhất có nhiều nhiệm vụ hơn các cựu chiến binh. Mặc dù mục tiêu của hệ thống phân cấp sinh viên năm nhất và kỳ cựu này là tốt, nhưng tiếc là nó không được một số lượng sinh viên tốt thực hiện với sự tôn trọng thích đáng. Thông thường trong trường hợp này, sinh viên năm nhất có xu hướng rời xa một senpai. Tất nhiên, có những trường hợp sinh viên năm nhất có thể cảm thấy bị ảnh hưởng bởi bóng râm, có mối hận thù và trong tương lai buộc phải đảm nhận vị trí "senpai" trong các chuẩn mực xã hội. &Nbsp; Không ai bị buộc phải tuân theo hệ thống phân cấp, nhưng nó rất có thể ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ chuỗi. Những người chỉ trích hệ thống này cho rằng nó độc đoán và không công bằng, rằng các senpai thường hung hăng và hệ thống này dẫn đến việc học sinh nhút nhát hoặc ngại nổi bật. Ví dụ, một số kouhai sợ rằng nếu họ vượt qua các senpai của mình trong một hoạt động, các senpai của họ sẽ mất đi sự sẵn sàng, một số thậm chí còn buộc các kouhai phải xin lỗi. Một số lợi dụng việc lạm dụng quyền lực (quyền lực hara) để làm nô lệ cho tân sinh viên. Thường sử dụng ngôn ngữ xúc phạm, buộc các sinh viên năm nhất hoặc cấp dưới để thực hiện hành lý của họ, làm bài tập của họ và thậm chí sử dụng bạo lực. Vì lý do này, Nhật Bản giảng dạy các mặt tích cực của hệ thống phân cấp này Senpai-Kouhai. Mọi người được khuyến khích xem sinh viên năm nhất là “những người bạn mới” giúp đỡ lẫn nhau về nhiều mặt và không coi họ là những người kém cỏi hay sử dụng công cụ. Như đã đề cập, trở thành một Senpai là một nhiệm vụ tinh tế và phức tạp hơn là một sinh viên năm nhất kouhai. Chắc chắn những người không coi trọng mối quan hệ này sẽ phải gánh chịu những hậu quả nghiêm trọng trong tương lai của cuộc đời họ. Hệ thống senpai-kohai có nguồn gốc sâu xa trong lịch sử Nhật Bản. Ba yếu tố đã có tác động đáng kể đến sự phát triển của nó: Nho giáo, hệ thống gia đình truyền thống của Nhật Bản và Bộ luật Dân sự năm 1898. Nho giáo đến từ Trung Quốc giữa thế kỷ thứ 6 và thứ 9, nhưng dòng có nguồn gốc tư tưởng mà mang về những thay đổi xã hội sâu sắc ở Nhật Bản là Neoconfucionismo, mà đã trở thành học thuyết chính thức của Mạc phủ Tokugawa (1603-1867). Giềng mối của lòng trung thành và lòng hiếu thảo thống trị của Nhật Bản vào thời điểm đó, như sự tôn trọng đối với những người lớn tuổi và sự sùng bái của tổ tiên mà Trung Quốc Khổng dạy được cũng chấp nhận bởi người Nhật, và những ảnh hưởng lan rộng khắp cuộc sống hàng ngày. Hệ thống gia đình Nhật Bản (家 tức) cũng đã được quy định bởi mã Nho giáo ứng xử và có ảnh hưởng đến việc thiết lập mối quan hệ senpai-kōhai. Trong hệ thống này gia đình, người cha, là người đứng đầu nam, có quyền lực tuyệt đối trong gia đình và con trai cả thừa kế gia sản của gia đình.
Senpai và kōhai
Ở Nhật Bản, senpai (先輩, "tiên bối", n.đ tiền bối) và kōhai (後輩, "hậu bối") đại diện cho quan hệ trên dưới không chính thức trong các tổ chức, hiệp hội, câu lạc bộ, doanh nghiệp và trường học. Xưa khái niệm khởi nguồn từ Nho giáo, nay có màu sắc Nhật Bản đặc biệt và đã trở thành một phần của văn hóa Nhật Bản. Trong quan hệ, senpai và kōhai phụ thuộc lẫn nhau và địa vị hai người được xác định dựa vào lúc gia nhập tổ chức. Trong tổ chức, senpai là thành viên có kinh nghiệm, thứ bậc, trình độ hoặc tuổi tác cao hơn, là người trợ giúp, kết bạn và khuyên bảo kōhai – thành viên mới hoặc thiếu kinh nghiệm, phải bày tỏ lòng biết ơn, sự tôn trọng và có khi là lòng trung thành cá nhân. Kōhai noi theo thâm niên và kinh nghiệm của senpai, và dùng kính ngữ khi nói chuyện với senpai. Nhưng senpai cũng là bạn của kōhai. Quan hệ này giống như quan hệ thầy trò trong văn hóa phương Đông, nhưng khác ở chỗ senpai với kōhai đều phải làm việc trong cùng tổ chức. Quan hệ senpai–kōhai khởi nguồn từ Nho giáo cùng các tư tưởng luân lý đạo đức khác đã du nhập vào Nhật Bản từ Trung Quốc cổ đại, các triết lý này trở nên phổ biến khắp mọi khía cạnh của tư tưởng Nhật Bản.
Trước “cơn bão” mỹ phẩm Á-Âu-Mỹ đang đổ bộ vào nước ta ngày càng nhiều thì có một xu hướng dùng mỹ phẩm mới gần đây. Và xu hướng mới thực ra là sự trở lại của những cái cũ?. Đó là chị em phụ nữ chuyển dần sang dùng đồ tự nhiên với quan niệm lành tính, sạch, không hóa chất… Đơn giản như đắp mặt nạ với cà chua, mật ong, lòng trắng trứng hay nghệ hoặc sử dụng nha đam dưỡng da, dầu dừa để dưỡng mi. Và cũng không ít chị em đã sử dụng dầu thầu dầu và thấy hiệu quả rõ rệt. Việc sử dụng dầu thầu dầu đã có từ thời Ai Cập cổ đại, người ta sử dụng nó để điều trị kích ứng mắt và như một phương pháp chăm sóc da trẻ đẹp tự nhiên . Dầu thầu dầu không chỉ mang lại lợi ích chăm sóc sắc đẹp, nó còn có rất nhiều tác dụng đối với sức khỏe. Dầu thầu dầu là một loại dầu béo không bay hơi có nguồn gốc từ hạt của cây thầu dầu (Ricinus communis), thuộc họ Spurge (Euphorbiaceae). Dầu thầu dầu, còn được gọi là dầu ricinus hay dầu hải ly có màu từ trong đến màu hổ phách hoặc hơi xanh. Nó có mùi hương nhẹ và hương vị bùi béo. Thầu dầu được cho là một trong những cây trồng lâu đời nhất của loài người. Các lợi ích của dầu thầu dầu xuất phát từ thành phần hóa học của nó. Nó được phân loại là một loại axit béo trung tính, gần 90% hàm lượng axit béo của nó là một hợp chất đặc hiệu và hiếm được gọi là axit ricinoleic. Cây thầu dầu được gọi là “Palma Christe” vì hình dạng lá của cây được cho là giống với lòng bàn tay của Chúa Kitô. Dầu thầu dầu được coi là khá độc đáo vì axit ricinoleic không được tìm thấy trong các loại cây khác. Thêm vào đó, số lượng axit ricinoleic trong dầu thầu dầu khá là cao. Theo một báo cáo được công bố trên tạp chí quốc tế về hóa chất, dầu thầu dầu được sử dụng trong hơn 700 sản phẩm mỹ phẩm. Ngoài thành phần chính là axit ricinoleic, dầu thầu dầu cũng chứa một số muối và este có tác dụng tương tự như các yếu tố dưỡng da. Đồng thời, chúng giúp ổn định kết cấu và tính nhất quán của sản phẩm. Đó là lý do tại sao dầu thầu dầu được sử dụng trong rất nhiều mỹ phẩm, chăm sóc mái tóc và làn da. Khi sử dụng như thực phẩm, dầu được thủy phân trong ruột non bởi các enzyme tuyến tụy, dẫn đến việc giải phóng glycerol và acid ricinoleic, cùng với các chất chuyển hóa có lợi khác cho cơ thể. Những người chữa bệnh dân gian trên toàn thế giới đã sử dụng dầu thầu dầu để điều trị nhiều tình trạng sức khỏe trong hàng ngàn năm. Như người Ai Cập cổ đại mình đã nêu ở trên. Tại Ấn Độ, nó đã được đánh giá cao về khả năng chữa lành da, tiêu hóa, kháng khuẩn, nó còn thường được sử dụng trong thực hành y học Ayurvedic truyền thống . Trong nhiều thế kỷ ở Ấn Độ, khi có dấu hiệu đầu tiên của bệnh tật, nhiều bậc cha mẹ và ông bà sẽ ngay lập dùng dầu thầu dầu cho con cái của họ bằng bôi tại chỗ hoặc bổ sung trong bữa ăn để tăng cường chức năng miễn dịch và tăng tốc độ chữa bệnh. Trong suốt lịch sử, dầu thầu dầu được sử dụng phổ biến nhất để điều trị nhiễm trùng da, giảm táo bón và tăng cường sức khỏe của tóc. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng nó có nhiều ứng dụng quan trọng hơn để hỗ trợ hệ miễn dịch. Dầu thầu dầu chứa nhiều thành phần có lợi, bao gồm axit béo, flavonoid, hợp chất phenolic, axit amin, terpenoid và phytosterol. Các hợp chất này cung cấp cho dầu các tính chất và lợi ích sức khỏe tiềm năng sau:. Một trong những lý do chính khiến dầu thầu dầu có tác dụng tăng cường miễn dịch là bởi vì nó hỗ trợ hệ thống bạch huyết của cơ thể. Vai trò quan trọng nhất của hệ bạch huyết là nó hấp thụ và loại bỏ các chất dư thừa, protein cũng như chất thải từ tế bào của chúng ta. Các hạch bạch huyết hoạt động giống như các bộ lọc tự nhiên của cơ thể đối với độc tố và chúng cũng tiết ra các kháng thể khi chúng ta bị bệnh để giữ các protein hoặc vi khuẩn ở ngoài tế bào. Ví dụ, nếu bạn đã từng có hạch bạch huyết ở cổ, đây là một dấu hiệu cho thấy có các kháng thể đang hoạt động mạnh mẽ để chống lại một nhiễm trùng gần khu vực đó, như là viêm họng. Khi hệ thống bạch huyết không hoạt động đúng cách, có thể dẫn đến nhiều tế bào khỏe mạnh bị suy giảm và có thể phá hủy các cơ quan. Ví dụ, bạch huyết kém hoạt động có liên quan đến tổn thương mô, có thể làm tăng hoặc làm trầm trọng thêm các bệnh tim mạch vành. Dầu thầu dầu có thể giúp cải thiện hệ thống bạch huyết, lưu lượng máu, các chức năng khác của hệ thống miễn dịch. Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí Y học Tự nhiên đã xem xét tác động của các gói dầu thầu dầu trên 36 đối tượng. Các gói bao phủ một khu vực 12-inch của da trên góc phần tư phía trên bên phải của bụng. Các đối tượng có gói được áp dụng trong khi nghỉ ngơi lúc 9 giờ sáng và sau đó loại bỏ lúc 11 giờ sáng (tổng cộng hai giờ). Các đối tượng đã được lấy máu bốn lần (một lần trước khi điều trị và ba lần sau điều trị) và không có sự lặp lại điều trị. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các đối tượng sử dụng các gói dầu thầu dầu có sự gia tăng đáng kể sự sản xuất các tế bào lympho so với bệnh nhân sử dụng các gói giả dược (Xem thêm nghiên cứu tại đây). Tại sao đây lại là một phát hiện tuyệt vời? Lymphocytes là hệ thống miễn dịch tự nhiên của cơ thể, được ví là “máy bay chiến đấu” tấn công những kẻ “xâm lược” như độc tố, vi khuẩn và các mối đe dọa khác. Vì vậy, dầu thầu dầu giúp cho sản xuất các tế bào lympho ở mức độ thích hợp, được lưu hành và lưu trữ trong các mô bạch huyết của tuyến ức, lá lách, các hạch bạch huyết và mô trong ruột non. Hệ thống bạch huyết cũng tác động đến hệ thống tuần hoàn và tiêu hóa , đó là lý do tại sao dầu thầu dầu đôi khi được sử dụng để hỗ trợ sức khỏe tim mạch và cải thiện các vấn đề tiêu hóa như táo bón. Một hệ thống bạch huyết khỏe mạnh và lưu lượng máu thích hợp đi đôi với nhau. Khi hệ thống bạch huyết hoạt động kém, có nhiều khả năng đi kèm với vấn đề tuần hoàn và tim mạch. Điều này là do hệ thống tuần hoàn bạch huyết hoạt động trực tiếp với hệ thống tuần hoàn tim mạch để giữ máu và mức độ bạch huyết trong một sự cân bằng tối ưu. Theo National Heart, Lung và Blood Institute, “Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy hệ thống bạch huyết ảnh hưởng đến sức khỏe của nhiều cơ quan, bao gồm tim, phổi và não”. Vì vậy dầu thầu dầu có ảnh hưởng tích cực đến hệ thống bạch huyết có nghĩa là lưu thông tổng thể tốt hơn và tăng cường sức khỏe cho các cơ quan quan trọng như tim mạch. Như bạn đã biết, làn da muốn khỏe đẹp không chỉ tác động bên ngoài mà còn phải nuôi dưỡng từ sâu bên trong. Sức khỏe của làn da thường phản ánh sức khỏe của ruột, hệ thống miễn dịch và cân bằng nội tiết tố. Đặc biệt với các làn da “đỏng đảnh” nhạy cảm, rất khó để bạn có thể chọn lựa được mỹ phẩm phù hợp và không gây kích ứng cho làn da. Dầu thầu dầu hoàn toàn tự nhiên và không chứa hóa chất tổng hợp (tất nhiên, miễn là bạn sử dụng loại tinh khiết 100%), nhưng nó rất giàu thành phần thúc đẩy làn da như axit béo. Sử dụng dầu thầu dầu cho da khô hoặc da bị kích ứng có thể giúp ngăn ngừa khô da và giữ độ ẩm thích hợp cho làn da. Dầu thầu dầu cũng có thể giúp chữa lành vết thương nhờ vào tính giữ ẩm cũng như các đặc tính kháng khuẩn của nó. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng dầu thầu dầu có hiệu quả chống lại nhiều loại vi khuẩn, bao gồm Staphylococcus aureus, Escherichia coli , Pseudomonas aeruginosa (Xem thêm nghiên cứu tại đây). Trong số tất cả các vi khuẩn tụ cầu, Staphylococcus aureus được coi là nguy hiểm nhất và có thể gây nhiễm trùng da từ nhẹ đến nghiêm trọng. Dầu thầu dầu có thể được sử dụng để xoa bóp bàn tay giúp làm mờ các nếp nhăn. Thoa dầu thầu dầu lên da tay và móng tay của bạn mỗi đêm trước khi đi ngủ, nó sẽ làm mềm lớp biểu bì và ngăn ngừa móng tay khỏi bị nứt nẻ. Nếu bạn đang lo lắng về nứt gót chân, thì hãy nghĩ ngay đến việc thoa dầu thầu dầu trước khi đi ngủ nhé!. Dầu thầu dầu là phương pháp được khuyến nghị cổ xưa nhất khi cần kích đẻ tự nhiên, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy nó có hiệu quả, và nó còn có thể khiến bạn cảm thấy khó chịu. Dầu thầu dầu là một phương thuốc tự nhiên được sử dụng để tăng co bóp tử cung. Trong nhiều thế kỷ, phụ nữ mang thai tới ngày dự sinh đã uống nó để giúp tăng tốc độ co thắt tử cung. Lý do dầu thầu dầu có thể tăng co bóp là do axit ricinoleic trong dầu có thể kích hoạt các thụ thể prostanoid EP3 trong tử cung. Theo một nghiên cứu được tiến hành trong năm năm và báo cáo vào năm 2018, “Việc sử dụng dầu thầu dầu có liên quan đến xác suất khởi đầu chuyển dạ cao hơn trong vòng 24 giờ. Dầu thầu dầu có thể được coi là một phương pháp phi dược lý an toàn cho cảm ứng co bóp chuyển dạ”. Ngoài ra, các đối tượng nghiên cứu toàn thời gian (từ 40 đến 41 tuần) uống dầu thầu dầu có tỷ lệ mổ đẻ thấp hơn. (Xem thêm nghiên cứu tại đây). Một nhược điểm của việc sử dụng dầu thầu dầu (và lý do nó không thường được sử dụng trong các bệnh viện) là một số phụ nữ cảm thấy buồn nôn sau khi uống nó. Là một tác nhân kháng khuẩn tự nhiên, dầu thầu dầu hoạt động tương tự như dầu dừa để tăng cường sức khỏe cho da. Nó cũng là một loại kem dưỡng ẩm da tuyệt vời và có tác dụng chống viêm. Nếu bạn muốn thoát khỏi mụn trứng cá, bạn cần phải tìm đến nguồn gốc của vấn đề. Dầu thầu dầu là một phương thuốc tự nhiên tuyệt vời để chống lại mụn trứng cá nhẹ. Khi nó thâm nhập sâu vào da, nó chống lại vi khuẩn có thể làm tắc nghẽn lỗ chân lông, đồng thời làm mềm và làm ẩm da bị kích ứng cùng một lúc. Như mình đã đề cập trước đó, dầu thầu dầu đã được chứng minh là có khả năng chống lại Staphylococcus aureus, là nguyên nhân thường gây ra mụn bởi chủng vi khuẩn này. Đối với điều trị mụn, dùng một tăm bông sạch thấm dầu thầu bôi vào chỗ da bị mụn. Bạn cũng có thể thử sử dụng giấm táo và các loại tinh dầu như hương trầm trộn với một lượng nhỏ dầu dừa nguyên chất. Tất cả các phương pháp này làm giảm viêm sưng của mụn trứng cá, giảm đau và tránh để lại sẹo. Để ngăn ngừa mụn trong tương lai, hãy rửa mặt trước bằng nước ấm để giãn nở lỗ chân long, sau đó massage một ít dầu vào mặt và để nó qua đêm, rửa sạch vào sáng hôm sau. Để làm ẩm da mà không làm tắc nghẽn lỗ chân lông: Trộn 1/4 muỗng dầu thầu dầu và 3/4 muỗng dầu dừa nguyên chất (hoặc 3/4 muỗng dầu mè), sau đó thoa lên cơ thể và khuôn mặt của bạn. Để dưỡng ẩm cho làn da thường hoặc da nhờn, hãy thử sử dụng 1/4 chén dầu thầu dầu với dầu jojoba, dầu hạt nho hoặc dầu ô liu thay vì dầu dừa và dầu mè. Nhẹ nhàng massage vùng da khô của bạn bằng hỗn hợp. Có thể để qua đêm và sau đó rửa sạch vào buổi sáng bằng nước ấm. Một lựa chọn khác là tạo mặt nạ bằng cách sử dụng một muỗng cà phê dầu thầu dầu cùng với lòng đỏ trứng. Thoa hỗn hợp lên mặt trong 10–15 phút, sau đó rửa sạch lại mặt. Các đặc tính chống viêm của dầu thầu làm giảm đau và đỏ từ đó giúp làm dịu da cháy nắng. Sử dụng dầu thầu dầu trộn với dầu dừa (tỷ lệ 1: 1) cho vùng bị ảnh hưởng hoặc thử phương pháp tương tự như dưỡng môi tự nhiên để giải quyết đôi môi bị nứt nẻ hoặc bị cháy nắng. Dầu thầu dầu và axit ricinoleic có thể tăng cường sự thâm nhập qua da của các hóa chất khác, vì vậy bạn nên sử dụng dầu thầu dầu cùng với các mỹ phẩm chăm sóc da phù hợp với bạn. Dầu thầu dầu hoạt động như một thuốc nhuận tràng tự nhiên khi uống, giúp giảm căng thẳng trong khi đi vệ sinh và giúp bạn “đi ngoài” dễ dàng hơn. Thành phần hoạt tính của nó, axit ricinoleic, được giải phóng vào ruột, nơi nó cùng với quá trình tiêu hóa, hấp thụ chất dinh dưỡng và làm sạch hệ thống ruột. Tác dụng giảm táo bón tự nhiên của dầu thầu dầu cũng đã được chứng minh bởi các nghiên cứu. Một nghiên cứu được tiến hành ở Thổ Nhĩ Kỳ đã xem xét tác động của dầu thầu dầu trên người cao tuổi bị táo bón. Những người tham gia nghiên cứu được theo dõi trong một tuần, ba ngày trước và bốn ngày sau khi dùng dầu. 80% các cá nhân được nghiên cứu đã trải qua táo bón trong 10 năm hoặc lâu hơn. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng dầu thầu dầu đã có thể làm giảm các triệu chứng táo bón, đặc biệt là căng thẳng trong khi đi vệ sinh. ( Xem thêm nghiên cứu tại đây). Dầu thầu dầu thường được sử dụng như là một biện pháp điều trị cho viêm khớp làm giảm đau khớp, sưng khớp. Đặc tính chống viêm tự nhiên khiến nó trở thành một loại dầu massage lý tưởng có thể được áp dụng cho các khớp, cơ hoặc mô bị đau.
Thầu dầu
Thầu dầu hay có nơi còn gọi là đu đủ tía (danh pháp hai phần: Ricinus communis) là một loài thực vật trong họ Đại kích (Euphorbiaceae) và là thành viên duy nhất trong chi Ricinus cũng như của phân tông Ricininae. Từ Ricinus là một từ trong tiếng Latinh để chỉ các loài bét (thuộc bộ Acarina); hạt của nó được gọi như thế vì trông nó giống như một con bét. Nó là nguồn để sản xuất dầu thầu dầu có nhiều công dụng cũng như ricin, một chất độc (ricin từ 1-2 hạt thầu dầu có thể gây tử vong cho người lớn). Mặc dù nó có thể có nguồn gốc ở vùng Đông Phi, nhưng ngày nay nó đã phổ biến trên toàn thế giới. Thầu dầu dễ thích nghi với môi trường sống mới và có thể tìm thấy ở các vùng đất bị bỏ hoang, gần đường sắt và gần đây được trồng nhiều để làm cảnh trong công viên hay các nơi công cộng khác. Các hạt thầu dầu cũng được tìm thấy trong các ngôi mộ của người Ai Cập cổ đại có niên đại vào khoảng những năm 4000 TCN. Herodotus và các nhà du hành người Hy Lạp cổ đại khác cũng đã đề cập tới việc sử dụng dầu của hạt thầu thầu để thắp sáng và xức dầu lên cơ thể.
Liên minh là sự cam kết chính thức giữa các quốc gia nhằm phối hợp hay tương trợ lẫn nhau để đối phó với các vấn đề an ninh, chống lại các mối đe dọa chung. Mục tiêu lớn nhất của liên minh là kết hợp nguồn lực và phối hợp hành động nhằm nâng cao vị thế của các quốc gia thành viên trong hệ thống quốc tế và nâng cao sức mạnh của các thành viên so với các quốc gia không tham gia liên minh. Liên minh có thể tồn tại trong nhiều lĩnh vực. Trong quan hệ quốc tế, liên minh chính trị-quân sự giữa các quốc gia mang tính phổ biến nhất bởi khả năng tác động to lớn đến quyền lực. Liên minh trong quan hệ quốc tế được thừa nhận khi xuất hiện những thỏa thuận chính thức giữa hai hay nhiều phía (chủ thể chính thường là các quốc gia) để cùng nhau hợp tác với nhận thức chung, chia sẻ chung về những vấn đề an ninh. Bằng cách liên minh với nhau, các bên liên quan nhận thức được rằng an ninh của quốc gia mình sẽ được gia tăng trên nhiều khía cạnh khác nhau. Một mặt, khi hình thành liên minh, một hệ thống phòng thủ mới sẽ được thiết lập. Với các hiệp ước phòng thủ trong đó quy định cuộc tấn công vào một thành viên sẽ được coi là cuộc tấn công vào cả liên minh, khả năng được bảo đảm an ninh của các quốc gia thành viên sẽ được nâng cao. Mặt khác, bằng cách tham gia vào một liên minh, một số hoặc toàn bộ các bên tham gia sẽ bị ngăn cản không được tham gia các liên minh khác. Liên minh trong quan hệ quốc tế thường quy định trong các hiệp ước những điều kiện liên quan đến sự hưởng ứng và hỗ trợ về quân sự theo yêu cầu. Ở mức độ thấp nhất, những quy định hợp tác này sẽ bao gồm các hoạt động như diễn tập quân sự chung, chia sẻ thông tin tình báo, đào tạo nhân viên, chuyển giao vũ khí… Ở mức độ cao hơn, những cam kết này còn bao gồm việc gửi quân tham chiến cùng nhau, phối hợp tác chiến, hỗ trợ hậu cần… khi xảy ra chiến tranh chống lại một nước thành viên. Ngoài các hoạt động thường thấy về quân sự, hoạt động của các đồng minh còn được thể hiện qua sự hỗ trợ cần thiết, phối hợp với nhau bằng con đường ngoại giao trong chính sách ngoại giao chung của liên minh. Với sự khéo léo của các nhà ngoại giao, các liên minh có thể là bí mật hoặc công khai, có thể bao gồm hai bên hay nhiều bên. Thời kỳ Cận đại chứng kiến những liên minh Tin Lành và liên minh Thiên chúa giáo trong cuộc Chiến tranh 30 năm (1618-1648), hay Liên minh châu Âu (6 lần) chống Napoleon cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, hai khối liên minh Hiệp ước (Anh, Pháp, Nga) và Liên minh (Đức, Ý và Áo – Hung) trong Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong Chiến tranh thế giới lần thứ hai, phe Đồng minh và phe Trục là những liên minh đối lập. Trong khi đó, hai khối quân sự chính trị NATO và Vacsava là những lực lượng chính định hình nên thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Các quốc gia có những lý do khác nhau để tham gia liên minh. Thứ nhất, việc tham gia liên minh sẽ giúp giảm thiểu chi phí quốc phòng. Khi tham gia liên minh, các quốc gia sẽ nhận được sự bảo trợ về mặt an ninh của các thành viên khác mà không phải chi phí quá nhiều để tự xây dựng và duy trì hệ thống quốc phòng của mình. Chính vì vậy tham gia các liên minh quân sự trở nên đặc biệt hấp dẫn đối với các quốc gia nhỏ yếu, có tiềm lực quốc phòng hạn chế, hoặc các quốc gia muốn tiết kiệm chi phí quốc phòng để đầu tư phát triển kinh tế. Thứ hai, việc tham gia các liên minh sẽ tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác giữa các thành viên liên minh, mang lại cho các thành viên những lợi ích kinh tế, như thương mại, viện trợ, các khoản tín dụng. Đó là chưa kể đến việc triển khai quân đội liên minh ở một vài quốc gia thành viên sẽ có tác động tích cực tới các nền kinh tế địa phương. Thứ ba, đối với các cường quốc, việc hình thành liên minh với các quốc gia có vị trí chiến lược sẽ giúp họ tiếp cận được các căn cứ quân sự, sử dụng không phận hay các cảng biển chiến lược, qua đó các cường quốc này có thể kiềm chế kẻ thù tiềm năng hoặc kiểm soát được các khu vực mang ý nghĩa chiến lược. Việc thu nạp các quốc gia nhỏ vào liên minh cũng giúp các cường quốc đưa những quốc gia này vào quỹ đạo ảnh hưởng của mình thay vì chống lại mình hoặc tham gia một liên minh đối lập. Chính vì vậy, có thể nói các liên minh có khả năng thay đổi cán cân quyền lực nhanh nhất trong quan hệ quốc tế và đóng vai trò quyết định trong sự cân bằng của hệ thống quốc tế. Sự bền vững của các liên minh không giống nhau, tùy thuộc vào nhận thức của các thành viên về các mối đe dọa chung, các điểm tương đồng giữa các thành viên về hệ thống chính trị, kinh tế và thang giá trị, hay nhận thức của các thành viên về lợi ích quốc gia của mình. Ví dụ, trong khi liên minh chống phát xít Đức giữa Anh, Liên Xô và Mỹ nhanh chóng tan rã sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc thì Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương lại tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay. Thế kỉ 20 chứng kiến những trường hợp đặc trưng về tìm kiếm đồng minh và xây dựng liên minh trong nền chính trị thế giới. Việc thành lập hai liên minh năm 1914 là phe Hiệp Ước và phe Liên Minh, rồi sau đó là năm 1939 với phe Trục và phe Đồng Minh, là những ví dụ điển hình để khái quát và chứng thực các học thuyết về liên minh và tác động tới khả năng gây ra chiến tranh. Các tranh luận xoay xung quanh vai trò của các liên minh, rằng chúng góp phần ngăn chặn hay khuyến khích các quốc gia tham gia chiến tranh? Những người theo trường phái tự do cho rằng các liên minh là nguồn gốc xung đột giữa các quốc gia. Ví dụ, sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, Tổng thống Mỹ Woodrow Wilson cho rằng các liên minh đã lôi kéo các quốc gia vào những mạng lưới âm mưu và thù địch lẫn nhau, góp phần dẫn tới chiến tranh. Trong khi đó, những người theo chủ nghĩa hiện thực lại cho rằng các quốc gia thành lập các liên minh dựa trên lợi ích quốc gia của mình nhằm đáp ứng các mục tiêu về an ninh. Các liên minh do đó nên được coi là những dàn xếp linh hoạt nhằm duy trì sự cân bằng quyền lực giữa các quốc gia, một trong những điều kiện góp phần giữ vừng hòa bình và ổn định trong hệ thống quốc tế. Tuy nhiên thực tế cho thấy, các liên minh có thể mang ý nghĩa hòa bình, chống xâm lược, nhưng cũng có những liên minh được hình thành để phục vụ mục tiêu xâm lược, điển hình như các liên minh phe Hiệp Ước và phe Trục trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Việc hai quốc gia cùng tham gia vào một liên minh cũng có thể bị một nước thứ ba coi là hành động thù địch chống lại nước đó, gây nên các cuộc chạy đua vũ trang và leo thang căng thẳng giữa các nước này với nhau. Chính vì vậy nhiều quốc gia đã theo đuổi chính sách trung lập, tiêu biểu như Thụy Sĩ và Thụy Điển. Trong khi đó, nhiều quốc gia đang phát triển cũng đã tham gia Phong trào không liên kết trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh nhằm thoát ra ngoài sự đối đầu giữa hai khối Đông – Tây. Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Liên minh quân sự
Liên minh quân sự là một thỏa thuận quốc tế liên quan đến an ninh quốc gia, khi các bên ký kết đồng ý bảo vệ và hỗ trợ lẫn nhau trong trường hợp khủng hoảng chưa được xác định trước. Các liên minh quân sự khác với các liên minh, vì các liên minh được hình thành cho một cuộc khủng hoảng đã được biết đến. Các liên minh quân sự có thể được phân loại thành các hiệp ước quốc phòng, các hiệp ước không xâm lược và các bên tham gia. Các liên minh quân sự có liên quan đến các hệ thống an ninh tập thể nhưng có thể khác nhau về bản chất. Một bản ghi nhớ đầu những năm 1950 từ Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã giải thích sự khác biệt bằng cách nói rằng các liên minh trong lịch sử "được thiết kế để thúc đẩy lợi ích quốc gia tương ứng của các bên và cung cấp cho hành động quân sự chung nếu một trong các bên theo đuổi về những mục tiêu như vậy đã tham gia vào chiến tranh ". Trong khi một thỏa thuận an ninh tập thể "không nhằm vào ai, nó chỉ nhằm chống lại sự xâm lược.
Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn (tiếng Anh: Saigon International University) là một cơ sở giáo dục bậc đại học tại Việt Nam, được thành lập bởi Tập đoàn Giáo dục Quốc Tế Á Châu. Năm 2006, các thành viên sáng lập Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn (SIU) trình Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục & Đào tạo và Chính phủ dự án thành lập trường đại học tư thục quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 24 tháng 9 năm 2007, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định chính thức thành lập Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn, đào tạo bậc đại học và cao đẳng với các ngành về kinh tế, khoa học kỹ thuật và ngôn ngữ. Đến năm 2015, SIU mở chuyên ngành Quản trị kinh doanh bậc thạc sĩ (MBA) và mở rộng đào tạo bậc đại học ngành Luật từ 2018. Sinh viên SIU học chương trình đại học giảng dạy bằng tiếng Anh được công nhận học liên thông 2 năm cuối nếu có nhu cầu chuyển đến các trường đại học có quan hệ hợp tác với Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn. Điều kiện chuyển tiếp cụ thể do trường đại học được chọn quy định. Ngoài ra, Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn còn xây dựng Khu truyền thống – dã ngoại với diện tích 5ha tại Thành phố Long Khánh – tỉnh Đồng Nai, chính thức đi vào hoạt động từ tháng 11/2012. Khu truyền thống – dã ngoại SIU là nơi tổ chức lễ tốt nghiệp, các hoạt động giáo dục truyền thống dân tộc, các giờ học tập ngoại khóa và tìm hiểu cội nguồn văn hóa Việt Nam cho sinh viên. Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn (SIU) sở hữu 2 thư viện sách tiếng Anh (thư viện Alexandria) và thư viện sách tiếng Việt (thư viện Trần Nhân Tông) chuyên biệt. Thư viện Trần Nhân Tông được xây dựng theo mô hình không gian mở với hàng loạt dãy kệ sách trải dài khắp các tầng. Không gian tự học, không gian nghỉ ngơi dành cho các bạn sinh viên rộng rãi, thoáng mát và có trang thiết bị hiện đại. Thư viện Trần Nhân Tông phục vụ chủ yếu sách tiếng Việt cùng nguồn tài nguyên thông tin điện tử về học thuật và nghiên cứu toàn cầu. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo nghiên cứu từ các tạp chí khoa học và tài liệu khoa học khác được tập hợp từ các nhà xuất bản, cũng như nhiều kho thông tin khoa học số của các trường đại học khác trên thế giới. Thư viện điện tử hoạt động hiệu quả với hệ thống máy tính hiện đại, trang thiết bị đồng bộ, đường truyền Internet tốc độ cao và wifi phủ sóng toàn bộ khuôn viên 3 cơ sở đào tạo. Nguồn tài liệu số đa dạng đảm bảo phục vụ tối đa nhu cầu của nhân viên, giảng viên và sinh viên nhà trường, bao gồm: văn bản điện tử, tài liệu âm thanh, hình ảnh, phim,…. Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn (SIU) hiện là thành viên các tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục hàng đầu thế giới của Mỹ: Hội đồng kiểm định quốc tế các trường đại học đào tạo ngành Kinh doanh (IACBE) và Hiệp hội phát triển giảng dạy doanh thương bậc đại học (AACSB). Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn là trường đại học đầu tiên của Việt Nam đạt kiểm định của Hội đồng kiểm định quốc tế các trường đại học đào tạo ngành Kinh doanh (IACBE) – Mỹ (tháng 3/2020); đạt kiểm định quốc gia 2 khối ngành Ngôn ngữ Anh và Khoa học máy tính (tháng 12/2020), đạt kiểm định quốc gia cấp trường theo bộ tiêu chuẩn của Bộ GD&ĐT (tháng 6/2020). Mô hình đào tạo gắn kết với doanh nghiệp của Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn (SIU) rất được chú trọng. Nhà trường đã ký kết hợp tác với hàng loạt các doanh nghiệp trong và ngoài nước ở nhiều lĩnh vực: luật, công nghệ, logistics, ngân hàng, du lịch, nhà hàng – khách sạn, giáo dục, bất động sản… Đây là một trong những yếu tố cộng hưởng vào nội lực của SIU để mở rộng kênh thực tập, việc làm cho sinh viên và nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường. Sinh viên SIU tỏa sáng tại “sân nhà” cũng như đột phá, vươn xa giành nhiều thắng lợi ở các sân chơi nghiên cứu, học thuật, nghệ thuật quy mô quốc gia và quốc tế. Liên tiếp các dự án, nghiên cứu khoa học của sinh viên các khoa Kinh doanh & Luật, Ngoại ngữ, Công nghệ thông tin được vinh danh tại các cuộc thi học thuật và nghiên cứu khoa học cấp trường. Sinh viên Khoa Công nghệ thông tin của Trường ghi dấu ấn nổi bật với giải Khuyến khích cấp Bộ Giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học” năm 2020. Bên cạnh đó còn rất nhiều thành tích ấn tượng mà các bạn sinh viên gặt hái được tại các cuộc thi quy mô quốc gia và quốc tế như: giải Đặc biệt cuộc thi quốc tế NAPROCK Procon Asia 2020 do NAPROCK (Nhật Bản) tổ chức, top 25 thí sinh xuất sắc nhất vòng chung kết cuộc thi Vietnam Packet Tracer Competition 2020 khu vực TP. HCM, giải Ba và hai giải Khuyến khích khối chuyên tin cuộc thi Olympic Tin học sinh viên Việt Nam lần thứ 28, giải Ba khối thi Procon Việt Nam và Kỳ thi lập trình sinh viên quốc tế ICPC ASIA 2020, giải Khuyến khích vòng khu vực phía Nam Kỳ thi lập trình sinh viên quốc tế ICPC 2020, giải Ba cuộc thi Vietnam Packet Tracer Competition 2021, giải Khuyến khích cuộc thi Sinh viên với An toàn thông tin ASEAN, giải Khuyến khích vòng chung kết cụm thi TP. HCM cuộc thi Star Awards 2020, hạng 3 toàn đoàn và giải Đồng múa độc lập Liên hoan tiếng hát sinh viên toàn thành 2020…. Sinh viên của SIU được khuyến khích tham gia các CLB để được công nhận năng lực hoạt động phong trào, tạo thuận lợi cho việc đánh giá của các trường đại học trên thế giới khi chuyển tiếp du học hay thể hiện năng lực trước các nhà tuyển dụng trong và ngoài nước. Sinh viên SIU có thể phát triển ý tưởng kinh doanh hoặc hiện thực hóa ước mơ khởi nghiệp với “vườn ươm khởi nghiệp” SIU startUP. SIU startUP gồm các khu làm việc nhóm và làm việc cá nhân yên tĩnh, linh hoạt, đầy đủ tiện nghi, là nơi giúp sinh viên làm quen với môi trường làm việc chuyên nghiệp thời đại 4.0; trau dồi và rèn luyện kỹ năng xây dựng kế hoạch, làm việc nhóm, phân công công việc, khả năng lãnh đạo, quản lý và phát triển những ý tưởng khởi nghiệp để phát triển sự nghiệp trong tương lai…. “Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn bắt đầu tuyển sinh”. Truy cập 28 tháng 9 năm 2014.
Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn
Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn là trường đại học quốc tế tại Việt Nam, đào tạo đại học và sau đại học cho sinh viên Việt Nam và nước ngoài, vừa có chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh, vừa có chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt theo tiêu chuẩn chương trình đại học Hoa Kỳ. Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn (SIU) được công nhận là thành viên của International Accreditation Council for Business Education (Hội đồng kiểm định quốc tế các trường đại học đào tạo ngành Kinh doanh) - IACBE, Hoa Kỳ từ tháng 11/2010 và The Association to Advance Collegiate Schools of Business (Hiệp hội phát triển giảng dạy doanh thương bậc đại học) - AACSB, Hoa Kỳ từ năm 2011. Cuối tháng 3/2020, sau chặng đường dài 10 năm nỗ lực không ngừng nâng cao chất lượng, hoàn thành các tiêu chí khắt khe của IACBE, khối ngành Kinh doanh của Trường Đại học Quốc tế Sài Gòn (SIU) chính thức được IACBE công nhận đạt kiểm định quốc tế. SIU hiện là trường đại học đầu tiên và duy nhất của Việt Nam, là một trong số ít trường đại học ở khu vực Châu Á được IACBE kiểm định và chứng nhận chất lượng giáo dục.
Là phương pháp nổi tiếng được phát triển bởi bác sĩ Maria Montessori vào năm 1907, qua nhiều năm phương pháp này đã được tin tưởng và được áp dụng một cách phổ biến nhất trên thế giới ở thời điểm hiện tại. Phương pháp Montessori chấp nhận sự duy nhất của mỗi trẻ và cho phép trẻ phát triển tuỳ theo những khả năng riêng của mình và thời gian riêng của mình. Do đó việc tổ chức các lớp học theo mô hình Montessorri phải đảm bảo sự tôn trọng tính riêng biệt của mỗi trẻ và phải bố trí phòng học và bài học phù hợp những nhu cầu và mục đích của từng trẻ. Bởi vậy, khi dạy trẻ dựa trên phương pháp này, thì việc học tập thông qua các giao cụ trực quan, với trẻ là trung tâm, còn cha mẹ/giáo viên là người hướng dẫn. Trẻ em hoàn toàn bị cuốn hút bởi các vật dụng và chất liệu được thiết kế để trợ giúp sự cảm nhận của giác quan. Montessori chú trọng vào phát triển cá nhân, hoạt động riêng của từng trẻ hơn là khả năng kết nối, làm việc nhóm của trẻ. Vì thế, những em bé khá trầm tính, phát triển nội tâm, hướng nội sẽ rất phù hợp với phương pháp này;. Những em bé tính khí mạnh, “thường phá luật” có thể sẽ mất một thời gian dài hơn để thích nghi với môi trường chú trọng sự trật tự, ngăn nắp của Montessori. Trẻ được tự chọn hoạt động yêu thích và phát triển theo đúng nhịp độ riêng đó của trẻ, không hề có một giáo trình chung hay cách đánh giá chung cho cả lớp. Trong suốt quá trình tự học tập thông qua học cụ và hoạt động riêng của mình, trẻ sẽ không bị ngắt quãng, làm phiền. Trong quá trình làm việc với trẻ em, Montessori nhận ra rằng trẻ em hoàn toàn bị cuốn hút bởi các vật dụng và chất liệu được thiết kế để trợ giúp sự cảm nhận của giác quan. Vì thế, bà đã phát triển những học cụ dạy học chuyên biệt để tạo ra một môi trường thích hợp cho trẻ. Các đồ vật đó được gọi là học cụ, chứ không phải đồ chơi như trong các phương pháp giáo dục khác. Các học cụ Montessori rất nhiều, chi tiết và khá cầu kì, được tạo ra nhằm mục đích giúp trẻ học hỏi các vấn đề đa dạng từ địa lí, toán học…. Tất cả các học cụ đều được thiết kế ẩn chứa một bài học nào đó, trẻ sẽ tự mày mò, khám phá cho đến khi tự tìm ra cách sử dụng đúng của học cụ đó và bài học ẩn sau đó. Trong lớp học, giáo viên đóng vai trò như người hỗ trợ hơn là người giảng dạy. Giáo viên không đứng lên và dạy trẻ làm cái này, cái kia, thay vào đó, trẻ tự chọn hoạt động yêu thích của mình và làm hoạt động đó. Khi trẻ gặp khó khăn, giáo viên sẽ hỗ trợ trẻ. Hình ảnh thường gặp nhất trong một lớp học Montessori là mỗi trẻ một góc phòng, say sưa với hoạt động riêng của mình và không bị làm phiền, ngắt quãng trong suốt quá trình làm việc. Montessori cho rằng chính sự tập trung làm việc đó là cách trẻ tự học hỏi tốt nhất và nhớ lâu nhất. Lớp học Montessori bao gồm các học sinh khác độ tuổi học cùng nhau. Thông thường các bé từ 0-3 tuổi học một lớp và từ 3-6 tuổi học một lớp. Montessori cho rằng các bé khác tuổi nhau sẽ có thể hỗ trợ nhau tốt hơn, học hỏi từ nhau. Các lớp học được thiết kế dựa trên yêu cầu của trẻ và phù hợp với trẻ với đồ dùng vừa tầm tay để trẻ có thể tự làm. Lớp học bố trí có trật tự nhất định và màu sắc hài hòa để trẻ học tập được tốt nhất. Tính trật tự là một trong những yêu cầu chính của phương pháp này, hướng đến sự ngăn nắp. Trẻ ham mê khám phá và giải quyết vấn đề bằng cách sử dụng các dụng cụ học tập phù hợp nhằm phát triển sự kết hợp, tập trung, yêu cầu và cách tiếp cận học tập một cách độc lập. Trẻ phát triển tất cả các mảng: thính giác, thị giác, vận động từ các dụng cụ học tập thiết kế riêng biệt theo phương pháp giáo dục Montessori kết quả là trẻ có cảm nhận về giác quan một cách tinh tế. Trẻ hiểu biết tất cả các khía cạnh của môi trường học tập và văn hóa của mình ở mức độ riêng của mỗi trẻ. Trẻ sẽ có mục tiêu để hướng tới và phát triển các kỹ năng để tự đánh giá sự tiến bộ và khả năng của mình. Trẻ được trải nghiệm những kỹ năng thực tế để tự chăm sóc và phục vụ bản thân như rót đồ uống, hình thành thói quen ăn uống lành mạnh, tự mặc và cởi quần áo, …Trẻ chăm sóc môi trường bằng cách giữ lớp học sạch đẹp, tưới cây, quét bụi,… Trẻ cũng học được thói quen biết chờ đợi đến lượt mình, chờ đợi hoạt động mình muốn làm, đưa ra những lời nhận xét mang tính chất xây dựng và tích cực đồng thời biết lắng nghe người khác. Phần này được thiết kế khoa học để phát triển, phân loại và đánh giá sự kích thích mà trẻ nhận được thông qua các giác quan. Những hoạt động này bao gồm 5 phần:. Tất cả các hoạt động toán học được thiết kế nhằm phát triển trí tuệ của trẻ. Việc học toán bắt đầu từ cách trẻ sử dụng các giáo cụ cụ thể như cây gậy số, số cát, đồ vật để đếm, xếp hình và các trò chơi toán học tại chỗ khác như nối ghép, phân loại, các phép tính và giá trị. Những hoạt động này được tổ chức theo trình tự phát triển tự nhiên của trẻ. Hàng ngày, trẻ được đọc sách, nghe kể chuyện, hát và lắng nghe các bạn khác chia sẻ. Âm vị của các chữ cái được giới thiệu thông qua phương pháp ngữ âm một cách tự nhiên. Các phụ huynh sẽ nhận thấy rằng con mình đang hình thành chữ và từ và bắt đầu đánh vần các từ đơn giản. Sự phát triển từ vựng của trẻ được nhấn mạnh ở tất cả các lĩnh vực bằng cách sử dụng các từ cụ thể để chỉ các đồ vật trong lớp. Khi trẻ 4 ½ tuổi, trẻ bắt đầu ghép các âm với nhau để đọc các từ ngắn và đến 5 tuổi, trẻ sẽ làm cha mẹ ngạc nhiên vì sự ham thích đọc và viết của mình. Khoa học: Thông qua các giáo cụ, trẻ học cách nối và phân loại các đồ vật và tranh ảnh giữa vật tĩnh và vật động, thực vật và động vật. Trẻ thích tạo ra các cuốn sách nhỏ về các ‘bộ phận’ của động vật như tai, mắt, đuôi, lưng, …, từ côn trùng đến động vật có vú. Khám phá thế giới thông qua các bông hoa, quả táo hoặc quả cam mang lại sự thích thú cho trẻ trong lớp học. Các giáo cụ khoa học của chúng tôi là niềm yêu thích của trẻ. Địa lý: Trẻ được học về quả địa cầu, thế giới chúng ta đang sống và học về cấu tạo của đất, nước thông qua những con thuyền thu nhỏ nổi trên mặt hồ, vịnh thu nhỏ, … Trẻ được dùng bản đồ thế giới và bản đồ nước Mỹ cũng như thực hiện các hoạt động xếp hình, tô theo viền và tô màu bản đồ. Trẻ thích hát bài hát về các châu lục cho cha mẹ nghe!. Lịch sử: Môn học này được giới thiệu thông qua khái niệm về thời gian với các dụng cụ đo thời gian trong 1 phút, 2 phút đến 1 giờ. Trẻ sẽ tự làm các mốc thời gian cho chính mình với các bức ảnh và lịch tháng. Vào các ngày thứ 6, trẻ chuẩn bị các tác phẩm của mình thật cẩn thận để mang về cho cha mẹ xem!. Nghệ thuật: Trẻ của chúng tôi có được những kĩ năng tự thể hiện bản thân với bút chì màu, màu nước, sơn keo, đất nặn, xé dán và các loại vật liệu khác. Các giáo viên của chúng tôi rất giàu kinh nghiệm trong việc “khuyến khích” cảm giác thích thú làm hoạt động của trẻ để trẻ không phụ thuộc vào những lời khen. Âm nhạc: Âm nhạc là một phần không thể thiếu trong các hoạt động hàng ngày của lớp học theo các hình thức khác nhau như giai điệu, nhạc cụ, nhảy, hát hoặc đóng kịch. Các bài hát cổ điển hoặc về Chúa cũng được mở trong lớp. Trẻ có thể sử dụng tai nghe hoặc đài đĩa để nghe bản nhạc chúng yêu thích bất cứ lúc nào trẻ thích. Giáo dục thể chất: Kể từ khi trẻ nhỏ biết ‘chuyển động’ và vận động cơ thể, trẻ có thể học được cách kiểm soát các cơ lớn và nhỏ. Trẻ kê bàn và bê ghế và tin rằng chúng ‘có thể làm được”! Chúng tôi cho trẻ ra ngoài ít nhất 30 phút mỗi ngày trừ những trường hợp trời mưa. KAIPnL là nơi chứa đựng những thông tin hữu ích về quá trình phát triển của bé qua mỗi giai đoạn và các yếu tố giúp bé phát triển một cách toàn diện ở mỗi giai đoạn đấy. Bố – mẹ hãy để lại ý kiến hay thắc mắc của mình ở phần bình luận phía dưới hoặc tham gia diễn đàn dành cho bố – mẹ tại đây.
Phương pháp giáo dục Montessori
Phương pháp Giáo dục Montessori là một phương pháp sư phạm giáo dục trẻ em dựa trên nghiên cứu và kinh nghiệm của bác sĩ và nhà giáo dục Ý Maria Montessori (1870–1952). Đây là phương pháp với tiến trình giáo dục đặc biệt dựa vào việc học qua cảm giác. Năm 1907 bà bắt đầu sự nghiệp là nhà giáo dục khi bà được mời tổ chức 1 trường trong khu tái định cư ổ chuột khu vực San Lorenzo, Ý. Trong giai đoạn này bà đã quan sát thấy rằng trẻ em hoàn toàn bị cuốn hút bởi các vật dụng và chất liệu được thiết kế để trợ giúp sự cảm nhận của giác quan. Tiến sĩ Montessori tiếp tục phát triển những sự trợ giúp dạy học chuyên biệt được dùng cho những trẻ trong môi trường thích hợp và tôn trọng những đặc tính riêng biệt của trẻ. Phương pháp Montessori chấp nhận sự duy nhất của mỗi trẻ và cho phép trẻ phát triển tuỳ theo những khả năng riêng của mình và thời gian riêng của mình. Do đó việc tổ chức các lớp học theo mô hình Montessorri phải đảm bảo sự tôn trọng tính riêng biệt của mỗi trẻ và phải bố trí phòng học và bài học phù hợp những nhu cầu và mục đích của mỗi em.
Mới đây, làng túc cầu thế giới dậy sóng với tin tức về European Super League (ESL ). Kế hoạch thành lập một giải đấu mới tốn không biết bao giấy mực của báo giới cũng như dấy lên cuộc thảo luận cực kỳ “máu lửa” trong giới thể thao. Người hâm mộ trên toàn thế giới hiện đang thể hiện sự phản đối dữ dội, cáo buộc ESL phá hoại tinh thần thể thao bằng cách đặt tiền lên hàng đầu. Tuy nhiên, vẫn chưa chắc chắn khi nào giải đấu này được tổ chức. Thành phần tham gia đã được công bố tuy nhiên chưa thể đạt được mức cần thiết. Dưới đây, toiyeuthethao xin cung cấp đầy đủ nhất thông tin về European Super League là gì – được tổng hợp từ nhiều nguồn uy tín trên thế giới để người hâm mộ bóng đá Việt Nam có thể nắm rõ ràng nhất về giải đấu này. Cùng theo dõi nhé. Vào tháng 11 năm 2018, tờ Football Leaks bật mí rằng đã có những cuộc đàm phán bí mật để thành lập một giải đấu mới – European Super League chính là giải đấu được đề cập. European Super League là giải đấu chỉ bao gồm các câu lạc bộ tên tuổi của Châu Âu. Có thể nói, đây sẽ là giải đấu có tầm ảnh hưởng tương đương như Champions League. ESL được thành lập bởi 12 CLB sáng lập – 6 từ Ngoại Hạng An , 3 từ Serie A và 3 từ La Liga . Họ muốn tạo ra một cuộc cạnh tranh lành mạnh hơn cho các câu lạc bộ và cầu thủ sau khi họ bị chèn ép ở Champions League. European Super League là một ý tưởng đã có từ rất lâu. giải đấu được một số câu lạc bộ hàng đầu châu Âu lên kế hoạch từ lâu và công bố vào ngày 19/4/2021 bao gồm 12 CLB. Mọi chuyện bắt đầu vào năm 2009 khi chủ tịch Real Madrid, Florentino Perez, công khai chỉ trích chức vô địch Champions League. “Chúng tôi đã thống nhất về một giải European Super League mới đảm bảo rằng những đội giỏi nhất sẽ luôn đối đầu với những người giỏi nhất – điều đó không xảy ra ở Champions League,” Perez nói với Telegraph. Ban đầu, những lời của Perez không được trong giới nhau coi trọng. Cuộc thương thảo có vẻ cũng không đi đến kết quả. Cho đến năm 2018 mới rò rỉ tin tức về một cuộc trò chuyện về sự kiện European Super League. Năm 2020, Josep Maria Bartomeu đã có một tuyên bố gây sốc sau khi từ chức chủ tịch Barcelona. Ông tiết lộ rằng câu lạc bộ đã chấp nhận đề nghị tham gia European Super League. Rồi mới đây, tờ New York Times đưa tin đã có 12 CLB của nước Anh, Italia và Tây Ban Nha đồng ý tổ chức European Super League. Báo cáo sau đó đã gặp phải phản ứng dữ dội đến bởi UEFA và FIFA, kèm theo những lời chỉ trích từ nhiều phía. Cho rằng văn hóa tham nhũng đã ăn sâu vào UEFA và FIFA. “Các CLB thiệt thòi lắm, bán được rồi nhưng tiền vào túi những kẻ vô lương tâm” – Đó là lý do tại sao ESL được hình thành như một hình thức phản đối. Việc quản lý ESL sẽ minh bạch hơn vì nó liên quan trực tiếp đến 12 câu lạc bộ sáng lập. Hơn nữa, hiện đang có một khoản đầu tư lớn vào ESL. Việc lưu thông tiền sẽ lành mạnh hơn cho cả câu lạc bộ và cầu thủ. Với FIFA, họ đưa ra tuyên bố rằng tất cả các bên liên quan đến European Super League sẽ phải nhận những hình phạt khắc nghiệt. Các câu lạc bộ không được phép tham gia các giải đấu trong nước, trong khi các cầu thủ của họ bị cấm tham gia các đội tuyển quốc gia của nước mình ở các sự kiện quốc tế. Tuy nhiên, các đe dọa từ UEFA dường như không có bất kỳ ảnh hưởng nào. Thay vào đó, 12 câu lạc bộ sáng lập của European Super League đã tựtuyên bố về sự tham gia của họ một cách công khai vài giờ sau khi UEFA và FIFA đưa ra lập trường cứng rắn của họ. Tuy vậy, không chỉ UEFA và FIFA mà ý tưởng thành lập European Super League hay còn gọi là European Super League cho đến nay vẫn bị rất nhiều bên phản đối. Hiện tại có tất cả 12 câu lạc bộ đã tuyên bố tham dự vòng loại European Super League. Danh sách trên chỉ là một phần nhỏ trong số các câu lạc bộ khổng lồ nằm rải rác từ nhiều nơi khác nhau của châu Âu. Được biết, những nhà sáng lập European Super League dự định sẽ bổ sung thêm 3 câu lạc bộ khác vào danh sách của mình. Theo một số nguồn thông tin, Borussia Dortmund và Bayern Munich cũng được mời tham dự nhưng họ đều đã từ chối đề nghị tham gia giải đấu. Tuy nhiên cũng có tin tức cho rằng họ sẽ đưa ra quyết định trong vài ngày tới. Bên cạnh đó, một số CLB có tiếng khác gồm ngựa chiến nước Đức – RB Leipzig và đại gia Bồ Đào Nha, Porto cũng là những cái tên được cho vào tầm ngắm. Đội bóng lọt vào bán kết Champions League mùa này, PSG, chắc chắn sẽ không tham dự European Super League. Điều này là do chủ sở hữu CLB- Nasser Al-Khelaifi, là một phần của ủy ban điều hành UEFA từ năm 2019. Người ta vẫn chưa biết cụ thể các vị trí trong sự kiện European Super League là của ai. Cho đến nay, những gì được biết chỉ là:. European Super League dự kiến có 20 đội, trong đó 15 đội là thành viên thường trực. Trong khi 5 đội còn lại là những đội vượt qua vòng loại trong nước. 20 đội sau đó sẽ được chia thành hai bảng gồm 10 đội. Thể thức sân nhà-sân khách cũng sẽ được sử dụng trong giải đấu cũng như các giải đấu ở các quốc gia. Ba đội đứng đầu mỗi bảng có thể tham dự vòng tứ kết, và hai suất còn lại dành cho đội thắng trận play-off hai lượt giữa đội đứng vị trí thứ 4 và thứ 5 ở mỗi bảng. Tất cả các trận đấu sẽ được tổ chức tại một địa điểm trung lập. Như đã biết, một trong những án phạt được UEFA chuẩn bị là cấm tham gia các giải đấu ở châu Âu đối với các CLB liên quan. Tuy nhiên, họ không đưa ra lời giải thích chi tiết hơn liên quan đến án phạt. Hiện vẫn chưa biết chính xác khi nào UEFA sẽ đưa ra án phạt này cho những bên tham gia Europan Super League. Giả sử mùa giải này áp dụng hình phạt trực tiếp, thì PSG nghiễm nhiên được tuyên bố là đội vô địch Champions League. Trong khi Europa League với 4 đội hiện tại ngay sau đó sẽ tiếp tục diễn ra vòng chung kết giữa Villarreal và AS Roma. UEFA đã tuyên bố rằng họ sẽ trục xuất bất kỳ CLB nào tham gia ESL khỏi mọi giải đấu quốc nội. Tuyên bố đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ liên đoàn bóng đá mẹ của mỗi quốc gia. Cũng giống như điểm đầu tiên, chưa thể chắc chắn án phạt này sẽ được áp dụng từ mùa giải năm nay hay mùa giải năm sau. Nếu nó được thực hiện ở mùa giải này, nhiều khả năng án phạt sẽ chỉ là trừ điểm. Nếu có giảm điểm, nhiều khả năng diễn biến của sự kiện trong nước sẽ thay đổi mạnh. Sẽ không ngạc nhiên nếu những CLB như West Ham hay Leicester City vô địch Premier League mùa này. UEFA cũng sẽ cấm các cầu thủ thuộc các đội European Super League tham gia các cuộc thi quốc tế. Điều đó có nghĩa là, Bồ Đào Nha sẽ không có sự phục vụ của Cristiano Ronaldo khi anh hiện đang chơi cho Juventus. Và một lần nữa, UEFA không cho biết khi nào những hình phạt này sẽ được áp dụng. Trong khi đó, Euro 2020, lẽ ra được tổ chức vào năm ngoái nhưng đã bị trì hoãn do đại dịch, sẽ bắt đầu trong vài tháng tới. Euro 2020 chỉ còn vài tuần nữa sẽ khởi tranh và Florentino Perez lên kế hoạch tổ chức ESL vào tháng 8. Nếu án phạt được áp dụng ngay bây giờ, thì Euro 2020 sẽ bị đe dọa không cho các cầu thủ nổi tiếng tiếp bước. Những bàn bạc về European Super League được diễn ra trong bí mật. Ngay cả huấn luyện viên của Liverpool, Jurgen Klopp, cũng thừa nhận rằng ông chỉ biết về sự tham gia của đội bóng của mình khi những tin đồn bắt đầu xuất hiện trước công chúng. Cũng không có nhiều cầu thủ nói về điều này. Trong khi đó, các huấn luyện viên luôn cố gắng tránh những câu hỏi về European Super League. Nhưng cuối cùng, họ lại chính là những người phải thi đấu trong giải mới này. Nếu muốn từ chối tham gia ESL thì các cầu thủ phải cố gắng để có được một câu lạc bộ mới. Vấn đề là, sự lựa chọn của họ sẽ bị giới hạn. European Super League không nhận được phản ứng tích cực từ công chúng. Trong 24 giờ qua, cuộc tranh luận về Super League đã khiến tất cả đều hướng về lang bóng đá thế giới phải chú ý. Ý tưởng về một giải đấu cho các giải đấu đấu ở châu Âu đã bị cáo buộc là làm tổn hại đến tính toàn vẹn của bóng đá. Cuộc so tài này cũng nhận phải sự phản ứng không tốt từ nền bóng đá quốc gia. Lãnh đạo Ngoại Hạng Anh, đã thể hiện rõ thái độ của mình trong thời gian gần đây. “Ngoại Hạng Anh lên án bất kỳ đề xuất nào tấn công các nguyên tắc cạnh tranh cởi mở. Người hâm mộ từ bất kỳ câu lạc bộ nào ở Anh và trên khắp châu Âu ngày nay có thể mơ rằng đội bóng của họ có thể vươn lên dẫn đầu và thi đấu với những người giỏi nhất. Chúng tôi tin rằng khái niệm European Super League sẽ phá hủy giấc mơ này.”. Liên đoàn bóng đá Anh, FA, cũng đã bày tỏ quan điểm. “FA biết rằng một số câu lạc bộ Anh đang lên kế hoạch thành lập một giải European Super League với các câu lạc bộ châu Âu khác. Rõ ràng là nó sẽ gây tổn hại cho cả bóng đá Anh và châu Âu ở mọi cấp độ và sẽ ảnh hưởng cực lớn tới các nguyên tắc cạnh tranh trong thể thao”. Bản thân Serie A được biết đã tổ chức một cuộc họp để thảo luận về sự hiện diện của European Super League, vì có tới 3 gã khổng lồ của Ý cũng tham gia vào giải đấu này. Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, họ vẫn chưa đưa ra bất kỳ tuyên bố nào. Cựu huấn luyện viên của Manchester United – Sir Alex Ferguson cũng bày tỏ sự phản đối gay gắt. Ông trả lời tờ Reuters: “Các cuộc đàm phán tại European Super League là một bước thụt lùi 70 năm của bóng đá các câu lạc bộ châu Âu. Hãy nhìn Everton đã chi 500 triệu bảng để xây sân vận động mới với tham vọng lên chơi ở Champions League. Tất cả người hâm mộ đều thích những giải đấu như vậy”. Huyền thoại của Manchester United, Roy Keane cũng lên án ý tưởng về giải đấu này. “Nó phụ thuộc vào tiền bạc, lòng tham. Chưa có động thái gì từ FIFA nhưng tôi thấy điều này có vẻ không ổn, tôi mong họ ngăn chặn vì đó chỉ là sự tham lam thực sự”, cựu đội trưởng Manchester United cho biết. Trong trận đấu giữa Leeds United và Liverpool tổ chức vào rạng sáng hôm nay thứ Ba (20/4/2021) – Liverpool trở thành mục tiêu công kích khi là 1 trong 12 CLB tham gia vào European Super League. Các cầu thủ Leeds đã phản đối cách mặc áo sơ mi trắng ghi dòng chữ ‘Bóng đá cho người hâm mộ’ khi khởi động trước trận đấu. Không chỉ áo phông, Leeds còn phản đối phong cách của họ bằng cách giăng một biểu ngữ khổng lồ có dòng chữ ‘Reach on the Field’ trên khán đài Elland Road.
Đề xuất tổ chức giải đấu European Super League
Giải đấu European Super League bao gồm các câu lạc bộ bóng đá đến từ khắp châu Âu đã được thảo luận từ những năm 1990. Giải đấu đã được đề xuất tổ chức mùa giải 2021–2022. FIFA và sáu liên đoàn bóng đá châu lục, bao gồm cả UEFA, đã từ chối việc hình thành một giải đấu li khai. Năm 1998, công ty Media Partners của Ý đã nghiêm túc xem xét ý tưởng này. Kế hoạch giải đấu đã bị hủy bỏ sau khi UEFA tiến hành mở rộng giải đấu Champions League và loại bỏ Cup Winners Cup để đáp ứng yêu cầu cho các câu lạc bộ đang cân nhắc việc li khai để tham gia giải đấu mới được đề xuất. Vào tháng 7 năm 2009, Florentino Pérez của Real Madrid đã đề xuất ý tưởng này. Vào tháng 8 năm 2009, huấn luyện viên Arsène Wenger của Arsenal dự đoán một siêu giải đấu sẽ trở thành hiện thực trong vòng 10 năm tới do áp lực về doanh thu đối với các đội bóng ưu tú nhất. Vào tháng 2 năm 2012, Clarence Seedorf cũng dự đoán sự ra đời của cuộc thi và công khai ủng hộ.
Cùng tham gia cộng đồng vì sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc hơn! Hãy điểm qua những nội dung mới của Hello Bacsi. Thí nghiệm trên động vật đã góp phần phát triển nhiều phương pháp chữa trị và cứu sống người bệnh. Hiệp hội nghiên cứu y sinh California tuyên bố rằng gần như mọi đột phá y tế trong 100 năm qua đều có kết quả trực tiếp đến từ nghiên cứu sử dụng động vật. Ví dụ, thí nghiệm cắt bỏ tuyến tụy ở chó giúp phát hiện ra insulin – yếu tố quan trọng cứu sống người bệnh tiểu đường. Nghiên cứu trên động vật cũng góp phần vào những tiến bộ lớn trong việc tìm hiểu và điều trị các tình trạng như ung thư vú, chấn thương não, bệnh bạch cầu ở trẻ em, bệnh xơ nang, sốt rét, bệnh đa xơ cứng, bệnh lao, và nhiều bệnh khác. Đồng thời, đây cũng là phương pháp giúp phát triển máy tạo nhịp tim, thay thế van tim và gây mê. Hiện không có sự thay thế thích hợp để thử nghiệm một sản phẩm trên cơ thể sống. Hệ thống sống như con người và động vật vô cùng phức tạp. Việc nghiên cứu nuôi cấy tế bào trong đĩa thí nghiệm không cho thấy các quá trình liên quan đến nhau xảy ra trong hệ thống thần kinh trung ương, hệ thống nội tiết và hệ thống miễn dịch. Để đánh giá các tác dụng phụ của một loại thuốc đòi hỏi phải có một hệ thống tuần hoàn để mang thuốc đến các cơ quan khác nhau. Hơn nữa, ngay cả những siêu máy tính mạnh nhất cũng không thể mô phỏng chính xác hoạt động của các cơ quan phức tạp như não. Động vật là đối tượng nghiên cứu thích hợp vì chúng khá giống con người ở nhiều phương diện. Tinh tinh có độ giống DNA con người đến 99% DNA và chuột giống con người 98% về mặt di truyền. Tất cả các động vật có vú, bao gồm cả con người, có nguồn gốc từ tổ tiên chung và tất cả đều có cùng bộ phận cơ thể (tim, thận, phổi…). Vì động vật và con người rất giống nhau về mặt sinh học, nên dễ bị mắc nhiều bệnh tương tự, bao gồm bệnh tim, ung thư và tiểu đường. Động vật thường làm đối tượng nghiên cứu tốt hơn con người vì vòng đời ngắn hơn. Chẳng hạn, chuột trong phòng thí nghiệm chỉ sống được hai đến ba năm, vì vậy các nhà nghiên cứu có thể nghiên cứu tác động của các phương pháp điều trị hoặc thao tác di truyền trong toàn bộ tuổi thọ hoặc qua nhiều thế hệ. Đây là điều không thể thực hiện được trên đối tượng là con người. Đối với nghiên cứu ung thư dài hạn, nhờ vào tuổi thọ ngắn mà chuột đặc biệt phù hợp với loại nghiên cứu này. Một số mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe phải được thử nghiệm trên động vật để đảm bảo an toàn trước khi sử dụng trên người. Phụ nữ Mỹ sử dụng trung bình 12 sản phẩm chăm sóc cá nhân mỗi ngày, vì vậy vấn đề an toàn sản phẩm là rất quan trọng. Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đồng ý việc sử dụng thử nghiệm trên động vật để đảm bảo an toàn khi sử dụng mỹ phẩm. Trung Quốc yêu cầu tất cả mỹ phẩm phải được thử nghiệm trên động vật trước khi được bày bán, vì vậy các công ty mỹ phẩm phải thử nghiệm sản phẩm theo quy định nếu muốn phân phối ở Trung Quốc. Thí nghiệm trên động vật đóng vai trò quan trọng trong việc cứu sống hàng triệu người trên thế giới, những loài động vật này được coi như “anh hùng” khi là một phần trong nghiên cứu khoa học và phát triển phương thuốc điều trị. Dưới góc nhìn về đạo đức, thí nghiệm trên động vật bị coi là tàn nhẫn và vô nhân đạo. Theo Humane Society International, động vật được sử dụng trong các thí nghiệm thường bị ép ăn, sống trong điều kiện thiếu thức ăn và nước, bị gây tổn thương để nghiên cứu quá trình chữa bệnh. Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA) đã báo cáo vào năm 2016 rằng có đến 71.370 động vật bị tổn thương nhưng không được dùng giảm đau, bao gồm 1.272 động vật linh trưởng, 5.771 con thỏ, 24.566 chuột lang và 33.280 chuột hamster. Thuốc vượt qua các thử nghiệm trên động vật không có nghĩa rằng sẽ an toàn. Thuốc ngủ thalidomide vào những năm 1950, khiến 10.000 trẻ sơ sinh bị dị tật nghiêm trọng, dù đã được thử nghiệm trên động vật trước khi phát hành rộng rãi. Các xét nghiệm sau đó trên chuột, mèo… cũng không cho thấy kết quả dị tật bẩm sinh trừ khi thuốc được dùng với liều cực cao. Tương tự, thí nghiệm trên động vật về thuốc viêm khớp Vioxx cho thấy có tác dụng bảo vệ tim ở chuột, tuy nhiên loại thuốc này đã gây ra hơn 27.000 cơn đau tim và tử vong do tim đột ngột ở người trước khi bị rút khỏi thị trường. Thử nghiệm trên động vật có thể khiến các nhà nghiên cứu bỏ qua các phương pháp chữa trị tiềm năng. Một số hóa chất không có hiệu quả hoặc có hại cho động vật, lại mang đến giá trị chữa trị trên con người. Ví dụ, aspirin có thể gây nguy hiểm cho một số loài động vật hay vitamin C tiêm tĩnh mạch đã được chứng minh là có hiệu quả trong điều trị nhiễm trùng huyết ở người, nhưng không tạo ra sự khác biệt khi sử dụng chuột. Thí nghiệm trên động vật thường đắt hơn các phương pháp thay thế khác và gây lãng phí tiền của chính phủ. Humane Society International đã so sánh một loạt các thử nghiệm trên động vật với thử nghiệm in vitro (trong ống nghiệm), cho thấy các thử nghiệm trên động vật đắt tiền hơn. Công ty công nghệ sinh học Empiriko đã phát minh ra loại gan tổng hợp có thể dự đoán các phản ứng trao đổi chất của gan với thuốc trong quy trình nhanh hơn, rẻ hơn và chính xác hơn so với thử nghiệm trên động vật. Trong một thử nghiệm, phương pháp này có thể cung cấp thông tin một mức độ cụ thể mà trước đây phải cần đến 1.000 con chuột và 100 con chó. Khoảng 95% động vật được sử dụng trong các thí nghiệm không được bảo vệ bởi Quyền Phúc Lợi Động Vật (Animal Welfare Act – AWA). AWA không bảo vệ các loài chuột, cá và chim, chiếm khoảng 95% động vật được sử dụng trong nghiên cứu. Do đó, những động vật này đặc biệt dễ bị ngược đãi và lạm dụng trong quá trình nghiên cứu. Thí nghiệm trên động vật mang đến lợi ích nghiên cứu khoa học, tuy nhiên cần có sự kiểm soát và sử dụng có mục đích. Bản thân động vật cũng có cảm xúc và có quyền được lựa chọn sống theo cách tạo hoá ban tặng. Do đó, việc sử dụng động vật cho mục đích nghiên cứu cần được kiểm tra, cân nhắc và xin phép trước khi thực hiện. Các phương pháp thử nghiệm thay thế cho thí nghiệm trên động vật vẫn còn khá nhiều giới hạn, do đó thí nghiệm trên động vật vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu ứng dụng. Điều quan trọng là cần có sự kiểm soát của cơ quan thẩm quyền trước khi thực hiện. Thí nghiệm trên động vật đều mang đến những lợi ích và bất lợi nhất định, tuy nhiên lịch sử y tế đã chứng minh tầm quan trọng của các thí nghiệm này. Vì vậy mà những cuộc tranh cãi “nên hay không nên” thí nghiệm trên động vật cho đến nay vẫn chưa có hồi kết. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Hello Bacsi mong muốn trở thành nền tảng thông tin y khoa hàng đầu tại Việt Nam, giúp bạn đưa ra những quyết định đúng đắn liên quan về chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ bạn cải thiện chất lượng cuộc sống.
Thử nghiệm động vật
Thử nghiệm động vật (Animal testing) hay còn được gọi là thí nghiệm trên động vật, nghiên cứu động vật (animal research) và thử nghiệm in vivo là việc sử dụng các loài động vật (không phải là con người) trong các thí nghiệm nhằm kiểm soát các biến tố ảnh hưởng đến hành vi hoặc hệ thống sinh học đang được nghiên cứu, những động vật được chọn thí nghiệm gọi là sinh vật mô hình. Cách tiếp cận này có thể tương phản với các nghiên cứu hiện trường, trong đó những động vật được quan sát thấy trong môi trường tự nhiên của chúng. Các nghiên cứu thử nghiệm với động vật thường được tiến hành tại các trường đại học, các trường y, các công ty dược phẩm, các cơ sở quốc phòng và các cơ sở thương mại cung cấp các dịch vụ kiểm tra động vật cho ngành công nghiệp. Trọng tâm của việc thử nghiệm trên động vật thay đổi liên tục từ nghiên cứu thuần túy, tập trung vào việc phát triển kiến thức căn bản về sinh vật, nghiên cứu ứng dụng, có thể tập trung trả lời một số vấn đề có tầm quan trọng thực tiễn lớn đặt ra, chẳng hạn như tìm ra phương pháp chữa bệnh.
Đối với những ITer hay những bạn theo học chuyên ngành về Công nghệ thông tin thì không có ai là không biết tới ngôn ngữ lập trình Java. Đối với những bạn có đam mê và đang tìm hiểu về lĩnh vực này thì việc tìm hiểu kỹ “Ngôn ngữ lập trình Java là gì? Java quan trọng như thế nào?” là điều rất cần thiết. Java là một ngôn ngữ lập trình có chức năng sản xuất phần mềm cho nhiều nền tảng. Một ứng dụng bằng ngôn ngữ Java có thể chạy trên hầu hết các hệ điều hành như Windows, Linux, Solaris và Mac OS. Java được phát hành vào năm 1995 bởi James A. Gosling, một nhà khoa học máy tính trước đây của Sun microsystems. Bạn hoàn toàn có thể tải miễn phí Java bản mới nhất tại java.com. Điều khác biệt nhất giữa Java và các ngôn ngữ lập trình khác chính là Java có thể thực hiện nhiều tác vụ mà bạn chỉ cần thiết lập chúng chạy một lần duy nhất. Chúng nhanh chóng, chính xác, an toàn khi thiết lập và sử dụng. Sau khi tải về, bạn dùng để viết và chạy code Java ngay trên máy tính của mình. Và lúc này bạn sẽ thấy được sự khác biệt của nó ở việc những lệnh bạn vừa viết và chạy kia nó sẽ hoạt động được trên hầu hết các máy tính để bàn, laptop, điện thoại di động, máy tính bảng và các thiết bị khác mà bạn không cần phải viết lại hay sửa đổi code ban đầu. Đa số các ứng dụng trên điện thoại hay trang web sẽ không thể chạy được nếu lập trình viên không sử dụng Java và thiết lập, tạo ra nó thường xuyên. Các thiết bị điện tử xung quanh bạn đều có Java. Ngay cả đến thiết bị mà bạn đang dùng để đọc bài viết này, máy tính để bàn, laptop, điện thoại di động, máy tính bảng, TV, cây ATM, máy nghe nhạc, máy in,mạng Internet, … đa số những thứ có dữ liệu đều sử dụng ngôn ngữ lập trình Java. Theo thống kê cho thấy, hầu hết các enterprise desktop đều hoạt động bằng ngôn ngữ lập trình Java và nó đang có ở trong gần như tất cả smartphone trên Thế Giới. Cho tới hiện nay, Java được coi là đại diện cho ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng đầy đủ nhất. Ngoài chức năng có thể kết hợp các cú pháp và thành phần của ngôn ngữ C và C++, Java đã nâng cao lên chức năng của nó để hỗ trợ cách tiếp cận hướng đối tượng. Từ những năm 1990 đến nay, Java vẫn giữ được sự quan trọng đối với lĩnh vực Công nghệ thông tin và tầm ảnh hưởng của nó trong các ngôn ngữ lập trình. Nhà tuyển dụng luôn luôn ưu tiên và quan tâm tới những ứng viên thành thạo ngôn ngữ này trong tất cả các kỹ năng IT của một lập trình viên. Qua bài viết này bạn đã có thể hiểu rõ Ngôn ngữ lập trình Java là gì? Java quan trọng như thế nào? Vậy nên những bạn có đam mê về Công nghệ thông tin, đặc biệt là lập trình thì việc học thật chắc và thành thạo viết và chạy Java là một điều thực sự rất cần thiết. Bạn hoàn toàn có thể mở rộng cơ hội nghề nghiệp và mức lương của mình nếu giỏi kỹ năng này. Văn phòng Tuyển sinh: Số 288, Nguyễn Văn Linh, phường An Khánh, quận Ninh Kiều, Tp. Cần Thơ
Java (ngôn ngữ lập trình)
Java (phiên âm Tiếng Việt: "Gia-va") là một ngôn ngữ lập trình hướng đối tượng, dựa trên lớp được thiết kế để có càng ít phụ thuộc thực thi càng tốt. Nó là ngôn ngữ lập trình có mục đích chung cho phép các nhà phát triển ứng dụng viết một lần, chạy ở mọi nơi (WORA), nghĩa là mã Java đã biên dịch có thể chạy trên tất cả các nền tảng hỗ trợ Java mà không cần biên dịch lại. Các ứng dụng Java thường được biên dịch thành bytecode có thể chạy trên bất kỳ máy ảo Java (JVM) nào bất kể kiến trúc máy tính bên dưới. Cú pháp của Java tương tự như C và C++, nhưng có ít cơ sở cấp thấp hơn các ngôn ngữ trên. Java runtime cung cấp các khả năng động (chẳng hạn như phản ánh và sửa đổi mã thời gian chạy) thường không có sẵn trong các ngôn ngữ biên dịch truyền thống. Tính đến năm 2019 Java là một trong những ngôn ngữ lập trình phổ biến nhất được sử dụng theo GitHub, đặc biệt cho các ứng dụng web máy khách-máy chủ, với 9 triệu nhà phát triển đã được báo cáo.
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi. Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla Balassa đề xuất từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Trong các giáo trình nhập môn về kinh tế học quốc tê, hội nhập kinh tế thường được cho là có sáu cấp độ: khu vực/hiệp định thương mại ưu đãi, khu vực/hiệp định thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế tiền tệ, và hội nhập toàn diện. Tuy nhiên trong thực tế, các cấp độ hội nhập có thể nhiều hơn và đa dạng hơn. Hội nhập kinh tế có thể là song phương – tức là giữa hai nền kinh tế, hoặc khu vực – tức là giữa một nhóm nền kinh tế, hoặc đa phương – tức là có quy mô toàn thế giới giống như những gì mà Tổ chức Thương mại Thế giới đang hướng tới. Đây là cấp độ thấp nhất của liên kết kinh tế, theo đó các quốc thủ tướng tham gia hiệp định dành các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan cho hàng hóa của nhau, tạo thành các khu vực thương mại ưu đãi vùng (Preferential Trade Area). Trong các thỏa thuận này, thuế quan và hàng rào phi thuế quan có thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với khi áp dụng cho quốc gia không tham gia hiệp định. Một ví dụ về thỏa thuận thương mại ưu đãi là Hiệp định về Thỏa thuận Thương mại Ưu đãi ASEAN được ký kết tại Manila năm 1977 và được sửa đổi năm 1995; hay Khu vực Thương mại Ưu đãi Đông và Nam Phi tồn tại từ năm 1981 đến năm 1994; hay như các hiệp định dành ưu đãi thương mại (hay tối huệ quốc) mà một số nước phát triển có thể dành cho các nước đang phát triển. Là hiệp định theo đó các nước ký kết cam kết bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan cho tất cả hoặc gần như tất cả hàng hóa của nhau. Có thể có những dòng thuế sẽ được bãi bỏ chậm hơn; và người ta thường đưa các dòng thuế này vào “danh sách nhạy cảm”. Chỉ một số ít dòng thuế sẽ không được bãi bỏ và được liệt kê trong “danh sách loại trừ”. Quy tắc xuất xứ là một phần quan trọng của các hiệp định thương mại tự do nhằm đảm bảo chỉ những hàng hóa được sản xuất toàn bộ hoặc tối thiểu ở một tỷ lệ nhất định tại các nước thành viên hiệp định mới được buôn bán tự do nhằm tránh tình trạng nước không tham gia hiệp định sử dụng cách tái xuất hoặc chỉ lắp ráp tại một nước tham gia hiệp định mà có thể xuất khẩu sang nước còn lại của hiệp định không phải chịu thuế. Một hiệp định thương mại tự do nổi tiếng được thành lập từ năm 1960, đó là Hiệp hội Thương mại Tự do châu Âu. Sau những bế tác của đàm phán tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ GATT, các hiệp định thương mại tự do song phương (giữa hai nước) và khu vực xuất hiện ngày càng nhiều từ giữa thập niên 1990. Và trong số những quốc gia hăng hái nhất trong việc ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương phải kể đến Mexico, Singapore. Những khu vực thương mại tự do nổi tiếng mới thành lập từ thập niên 1990 điển hình là Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (thành lập năm 1994), Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (hiệp định được ký kết vào năm 1992). Ngoài ra, còn có những hiệp định thương mại tự do giữa một nước với cả một khối, như Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế ASEAN-Trung Quốc (ký kết vào năm 2002). Do xóa bỏ gần như hoàn toàn thuế quan và hàng rào phi thuế quan, nên việc đàm phán để thành lập một hiệp định thương mại tự do rất mất thời gian và qua nhiều vòng thương thảo. Những nước hăng hái với tự do hóa thương mại có thể thỏa thuận tiến hành chương trình giảm thuế quan sớm (còn gọi là chương trình thu hoạch sớm) đối với một số dòng thuế trước khi đàm phán kết thúc và hiệp định được thành lập. Hiệp định đối tác kinh tế là cấp độ hội nhập kinh tế sâu hơn hiệp định thương mại tự do, theo nghĩa là ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa thông qua bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan lại còn bao gồm cả tự do hóa dịch vụ, bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử giữa các nước ký kết hiệp định. Nhật Bản là quốc gia có xu hướng thích các hiệp định đối tác kinh tế vì nó cho phép quốc gia này thâm nhập toàn diện vào các thị trường của nước đối tác. Hiện Nhật Bản đã ký kết 8 hiệp định đối tác kinh tế song phương và một hiệp định đối với ASEAN, đang đàm phán để đi tới ký kết 5 hiệp định khác (Hàn Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Úc, Thụy Sĩ), có 15 quốc gia, lãnh thổ và khu vực đang có nguyện vọng đàm phán và ký kết hiệp định đối tác kinh tế với Nhật Bản. Thị trường chung có đầy đủ các yếu tố của hiệp định đối tác kinh tế và liên minh thuế quan, cộng thêm các yếu tố như tự do di chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, lao động) giữa các nước thành viên. Một thị trường chung như vậy đã từng được thành lập ở châu Âu vào năm 1957 theo Hiệp ước Rome và mất một thời gian dài mời hoàn thành mục tiêu. Khối ASEAN cũng đã thỏa thuận sẽ thực hiện được mục tiêu một thị trường chung và một cơ sở sản xuất thống nhất trong toàn khối vào năm 2020 trong khuôn khổ Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Đây có thể hiểu là một khu vực thương mại tự do giữa các nước thành viên cộng với thuế quan thống nhất của các nước thành viên đối với hàng hóa từ ngoài khu vực. Việc thành lập liên minh thuế quan cho phép tránh được những phức tạp liên quan đến quy tắc xuất xứ, nhưng lại làm nảy sinh những khó khăn trong phối hợp chính sách giữa các nước thành viên. Hội nhập kinh tế đến cấp độ này tạo ra một thị trường chung giữa các nền kinh tế (không còn hàng rào kinh tế nào nữa) với một đơn vị tiền tệ chung. Ví dụ rõ nhất về cấp độ liên minh này là Khu vực đồng Euro. Các khu vực được thành lập với mục tiêu trở thành liên minh kinh tế tiền tệ nhưng chưa hoàn thành được mục tiêu này gồm: Cộng đồng Kinh tế Tây Phi, Cộng đồng Caribe (tiền thân là Cộng đồng và Thị trường Chung Caribe). Trong các liên minh từng tồn tại nhưng nay không còn có Liên minh Bỉ-Luxembourg. Trong lịch sử đã từng có những khu vực dùng một đơn vị tiền tệ chung, như Liên minh Tiền tệ Latinh hồi thế kỷ 19, nhưng họ chưa xây dựng được một thị trường chung nên không gọi đó là liên minh kinh tế và tiền tệ. Lại có một số nước chấp nhận đồng tiền của nước hay khu vực khác làm đơn vị tiền tệ chính thức của mình, nhưng giữa họ không có một thị trường chung, nên không gọi là liên minh kinh tế – tiền tệ. Hiện nay, tuy Anh đã tham gia Liên minh châu Âu, nhưng vì Anh vẫn giữ đơn vị tiền tệ riêng là đồng Bảng Anh, nên Anh không tham gia liên minh kinh tế tiền tệ ở châu Âu. Với một đơn vị tiền tệ chung, các nước thành viên sẽ phải từ bỏ quyền thực thi chính sách tiền tệ riêng của mình, mà thay vào đó là một chính sách tiền tệ chung của toàn khối do một ngân hàng trung ương chung của khối đó thực hiện, như trường hợp của Ngân hàng Trung ương châu Âu. Khi mà ngay cả chính sách tài chính cũng được thực hiện chung, hội nhập kinh tế đạt đến độ hoàn toàn.
Hội nhập kinh tế
Hội nhập kinh tế, theo quan niệm đơn giản nhất và phổ biến trên thế giới, là việc các nền kinh tế gắn kết lại với nhau. Theo cách hiểu này, hội nhập kinh tế đã diễn ra từ hàng ngàn năm nay và hội nhập kinh tế với quy mô toàn cầu đã diễn ra từ cách đây hai nghìn năm khi đế quốc La Mã xâm chiếm thế giới và mở mang mạng lưới giao thông, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong toàn bộ lãnh địa chiếm đóng rộng lớn của họ và áp đặt đồng tiền của họ cho toàn bộ các nơi. Hội nhập kinh tế, hiểu theo một cách chặt chẽ hơn, là việc gắn kết mang tính thể chế giữa các nền kinh tế lại với nhau. Khái niệm này được Béla Balassa đề xuất từ thập niên 1960 và được chấp nhận chủ yếu trong giới học thuật và lập chính sách. Nói rõ hơn, hội nhập kinh tế là quá trình chủ động thực hiện đồng thời hai việc: một mặt, gắn nền kinh tế và thị trường từng nước với thị trường khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực thực hiện mở cửa và thúc đẩy tự do hóa nền kinh tế quốc dân; và mặt khác, gia nhập và góp phần xây dựng các thể chế kinh tế khu vực và toàn cầu.
Nhiều người thắc mắc Vatican nằm ở đâu? Bài viết hôm nay chiembaomothay.com sẽ giải đáp điều này. Thành Vatican, tên chính thức: Thành Quốc Vatican là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ bao gồm một vùng đất có tường bao kín nằm trong lòng thành phố Roma, Ý thuộc Châu Âu. Với diện tích khoảng 44 hécta, và dân số khoảng 840 người, khiến Vatican được quốc tế công nhận là thành phố, quốc gia độc lập nhỏ nhất thế giới về góc độ diện tích và dân số. Trong thành phố còn có các công trình quy mô lớn như Vương cung thánh đường Thánh Phêrô với quảng trường của nó, nhà nguyện Sistina và Bảo tàng Vatican. Chúng là nơi lưu trữ một số bức tranh và tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất thế giới. Nền kinh tế của Vatican độc đáo ở chỗ nó được tài trợ bằng việc bán tem bưu chính và đồ lưu niệm du lịch, lệ phí tham quan bảo tàng và bán các ấn phẩm tôn giáo và văn hóa. Thành quốc Vatican và Tòa Thánh là hai thực thể riêng biệt. Trong khi “Vatican” là thuật ngữ thường để chỉ về lãnh thổ của một quốc gia với vài trăm công dân, gắn bó mật thiết với thành phố Roma thì “Tòa Thánh” lại là thuật ngữ bao hàm ý nghĩa rộng lớn trên khía cạnh tôn giáo và cơ cấu điều hành với trên 1,2 tỷ tín hữu trên thế giới. Văn kiện chính thức của thành phố Vatican được ban hành bằng tiếng Ý, còn của Tòa Thánh được ban hành chủ yếu bằng tiếng Latinh. Hai thực thể này cũng có hộ chiếu riêng biệt: Tòa Thánh cấp hộ chiếu ngoại giao và công vụ, trong khi Thành quốc Vatican cấp hộ chiếu phổ thông cho công dân. Giáo hoàng là ex officio nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo chính phủ của Thành Vatican. Giáo hoàng đồng thời là Giám mục Giáo phận Rôma, và là nhà lãnh đạo Tòa Thánh và Giáo hội Công giáo Rôma. Danh hiệu chính thức của Giáo hoàng tại Thành Vatican là Quốc trưởng Nhà nước Thành Vatican. Giáo hoàng là một vị vua không truyền tử, nắm quyền lực tuyệt đối, có nghĩa là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tối cao đối với Thành Vatican. Giáo hoàng là vị vua chuyên chế duy nhất tại Châu Âu. Giáo hoàng được bầu với quyền lực trọn đời bởi Mật nghị Hồng y gồm các Hồng y dưới 80 tuổi. Các quan chức chính phủ chính của Thành Vatican là Quốc vụ khanh (đồng thời đóng vai trò ngoại trưởng), Chủ tịch Ủy ban lễ nghi Thành quốc Vatican (đồng thời là Thủ hiến), và Chưởng ấn Thành Vatican.
Thành Vatican
Thành Vatican, tên chính thức là Thành quốc Vatican (tiếng Ý: Stato della Città del Vaticano; tiếng Latinh: Status Civitatis Vaticanae) là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ bao gồm một vùng đất có tường bao kín nằm trong lòng thành phố Roma, Ý. Với diện tích khoảng 44 hécta (110 mẫu Anh), và dân số khoảng 1000 người, khiến Vatican được quốc tế công nhận là thành phố quốc gia độc lập nhỏ nhất thế giới về diện tích và dân số. Quốc gia này được thành lập năm 1929 theo Hiệp ước Latêranô với tư cách là một thực thể mới, không phải là hậu thân của Lãnh địa Giáo hoàng (756–1870) vốn rộng lớn hơn. Vì được vị Giám mục Rôma (tức giáo hoàng) lãnh đạo nên Thành Vatican chính thức là một nền quân chủ thần quyền. Các viên chức cao cấp nhất của nhà nước này đều là các giáo sĩ thuộc Giáo hội Công giáo Rôma xuất thân từ nhiều quốc gia khác nhau. Đây là lãnh thổ có chủ quyền của Tòa Thánh (Latinh: Sancta Sedes), là nơi có Điện Tông Tòa - nơi ở của giáo hoàng, và nơi đặt các cơ quan của Giáo triều Rôma.
Sân vận động Gelora Bung Karno (tiếng Indonesia: Stadion Utama Gelora Bung Karno; tên gốc “Bung Karno Sports Arena Main Stadium”), trước đây là Sân vận động chính Gelora Senayan, là một sân vận động đa năng nằm ở trung tâm của Khu liên hợp thể thao Gelora Bung Karno ở Trung tâm Jakarta, Indonesia. Sân vận động được đặt theo tên của Sukarno, Tổng thống thứ 1 của Indonesia. Đây là sân vận động lớn nhất Indonesia. Sân chủ yếu được sử dụng cho các trận đấu bóng đá. Khi lần đầu tiên được khai trương vào năm 1962, sân vận động có sức chứa 110.000 chỗ ngồi. Sức chứa sân đã được giảm xuống hai lần: đầu tiên là 88.083 chỗ ngồi trong năm 2006 cho Cúp bóng đá châu Á 2007 và lần thứ hai là 77.193 chỗ ngồi như là một phần của việc cải tạo cho Đại hội Thể thao châu Á 2018 và Đại hội Thể thao Người khuyết tật châu Á, nơi tổ chức các buổi lễ và thi đấu điền kinh. Việc xây dựng bắt đầu vào ngày 8 tháng 2 năm 1960 và kết thúc vào ngày 21 tháng 7 năm 1962, để kịp tổ chức Đại hội Thể thao châu Á vào tháng sau. Việc xây dựng một phần được tài trợ thông qua một khoản vay đặc biệt từ Liên Xô. Khả năng ban đầu của sân vận động là 110.000 người đã được giảm xuống còn 88.083 do kết quả của việc cải tạo cho Asian Cup 2007. Đặc điểm đặc biệt của sân vận động này là xây dựng mái thép khổng lồ tạo thành một chiếc nhẫn khổng lồ gọi là temu gelang, được thiết kế để che mát khán giả từ mặt trời, và tăng sự hùng vĩ của sân vận động. Mặc dù sân vận động được biết đến phổ biến là Sân vận động Gelora Bung Karno (Stadion Gelora Bung Karno) hoặc Sân vận động GBK, tên chính thức của nó là Sân vận động chính Gelora Bung Karno (Stadion Utama Gelora Bung Karno), vì có các sân vận động khác trong Khu liên hợp thể thao Gelora Bung Karno, chẳng hạn như Cung thể thao và sân vận động thứ cấp. Nó được gọi là Sân vận động chính Senajan từ khi khánh thành đến Asiad 1962 cho đến khi tên của khu liên hợp được đổi thành Gelora Bung Karno bởi một Nghị định của Tổng thống ban hành vào ngày 24 tháng 9 năm 1962, hai mươi ngày sau khi đại hội kết thúc. Trong kỷ nguyên trật tự mới, khu liên hợp được đổi tên thành “Khu liên hợp Gelora Senaya” và sân vận động được đổi tên thành “Sân vận động chính Gelora Senaya” vào năm 1969 theo chính sách “khử Sukarnoization” của Tổng thống Suharto. Sau khi chế độ độc tài sụp đổ, cái tên phức tạp đã được Tổng thống Abdurrahman Wahid hoàn nguyên trong một sắc lệnh có hiệu lực kể từ ngày 17 tháng 1 năm 2001. Kể từ Đại hội Thể thao châu Á 2018, sân vận động được bao phủ trong việc thay đổi màu sắc đèn LED được bật cho ban đêm. Sân vận động đóng vai trò là địa điểm chính của Đại hội Thể thao châu Á 2018 và Đại hội Thể thao Người khuyết tật châu Á, tổ chức các nghi lễ và thi đấu điền kinh. Nó đã trải qua cải tạo để chuẩn bị cho các sự kiện; để tuân thủ các tiêu chuẩn của FIFA, tất cả các chỗ ngồi hiện có của sân vận động đã được thay thế, bao gồm cả những người tẩy trắng còn lại, biến nó thành một chỗ ngồi toàn bộ với sức chứa 77.193 chỗ ngồi. Những chiếc ghế mới được tô màu đỏ, trắng và xám lấy cảm hứng từ quốc kỳ của Indonesia, và quyền truy cập cũng đã được cải thiện cho du khách khuyết tật. Một hệ thống chiếu sáng LED mới, sáng hơn cũng đã được cài đặt, với 620 đèn chiếu sáng và hệ thống chiếu sáng RGB được lắp đặt trên mặt tiền của sân vận động. Sân vận động này đã tổ chức Chung kết cúp bóng đá châu Á 2007. Các cuộc thi khác được tổ chức có một số trận chung kết Tiger Cup (AFF Cup) và trận chung kết cúp trong nước. Chủ nhà của trận đấu boxing giữa Muhammad Ali và Rudie Lubbers, ngày 20 tháng 10 năm 1973. Chủ nhà của Cúp Tiger 2002 cho các trận đấu Bảng A, trận bán kết, trận đấu play-off tranh hạng ba và trận chung kết. Đội chủ nhà trong trận bán kết lượt đi Cúp Tiger 2004 gặp Malaysia và trận chung kết lượt đi gặp Singapore. Chủ nhà của Cúp bóng đá châu Á 2007 cho các trận đấu Bảng D, tứ kết giữa Ả Rập Xê Út và Uzbekistan, và trận chung kết. Đội chủ nhà của Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2008 cho trận bán kết lượt đi đấu với Thái Lan. Đội chủ nhà của Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2010 cho các trận đấu bảng A, trận bán kết lượt về gặp Philippines và trận chung kết lượt về với Malaysia. Chủ nhà cho Valencia CF 2012 Asia Preseason Tour (trận đấu duy nhất của họ bên ngoài châu Âu). Là người dẫn chương trình Cúp Giấc Mơ Châu Á 2014 với nền tảng Park Ji-sung và Bạn bè, có các cầu thủ bóng đá và người nổi tiếng, bao gồm cả dàn diễn viên Running Man. Chủ nhà của Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2018 cho các trận đấu trên sân nhà của đội tuyển Indonesia. Ngoài thể thao, sân vận động còn được sử dụng cho các sự kiện khác như nghi lễ quốc gia, họp mặt chính trị, kỳ thi tuyển sinh, tôn giáo, hòa nhạc, v.v. Các sự kiện đáng chú ý bao gồm:. Đại lễ Công giáo do Giáo hoàng Gioan Phaolô II lãnh đạo, vào ngày 9 tháng 10 năm 1989. Đã có hơn 100.000 người tham dự. Cuộc biểu tình chính trị cho cả hai cuộc bầu cử quốc hội và tổng thống vào các năm 2004, 2009, 2014 và 2019. Chiến dịch ngày cuối cùng năm 2019 cho cả hai ứng cử viên tổng thống đã được tổ chức tại sân vận động này. Chiến dịch cuối cùng được tổ chức lần lượt vào ngày 7 và 13 tháng 4 năm 2019. Mỗi chiến dịch cuối cùng có sự tham gia của hơn 77.000 người ủng hộ, được cho là cuộc biểu tình vận động kéo dài một ngày được tham dự nhiều nhất trong lịch sử chiến dịch tranh cử tổng thống Indonesia. Ga tàu điện ngầm Istora Mandiri, ga MRT Jakarta gần nhất với khu liên hợp sân vận động. KRL Commuterline cung cấp dịch vụ qua ga xe lửa Palmerah, trong khoảng cách đi bộ từ khu liên hợp trong khi Tàu điện ngầm Jakarta cung cấp dịch vụ qua ga Istora Mandiri. Hai hành lang của TransJakarta BRT cũng phục vụ khu vực này. Một phần mở rộng của Greater Jakarta LRT hiện đang được xây dựng cũng đã lên kế hoạch phục vụ chu vi phía tây của khu liên hợp. Sân vận động trong trận đấu Liga 1 2019 giữa Persija Jakarta và Arema F.C. vào ngày 3 tháng 8 năm 2019
Sân vận động Quốc gia Hassanal Bolkiah
Sân vận động Quốc gia Hassanal Bolkiah (tiếng Mã Lai: Stadium Negara Hassanal Bolkiah) là một sân vận động đa năng ở Bandar Seri Begawan, Brunei. Sân hiện đang được sử dụng chủ yếu cho các trận đấu bóng đá. Sân vận động có sức chứa 28.000 chỗ ngồi và được khánh thành vào ngày 23 tháng 9 năm 1983. Sân được đặt theo tên của Sultan Brunei Hassanal Bolkiah.
Ngay tên gọi của mình, sao Hỏa đã khiến cho không ít người hiểu lầm rằng hành tinh này nóng vô cùng. Nhưng thực tế không phải vậy, nhiệt độ trên sao Hỏa hoàn toàn đối nghịch với cái tên Hỏa của nó. Vậy bạn có biết ở sao Hỏa cái gì đóng băng, sao Hỏa có sự sống không?,… Nếu cũng đang vướng mắc những vấn đề này, hãy cùng chúng tôi tham khảo một số thông tin tổng hợp sau đây. 1 Ai là người đầu tiên phát hiện ra sao Hỏa?1.1 Sự xuất hiện1.2 Tên gọi sao Hỏa. 3 Đặc điểm của sao Hỏa3.1 Sao Hỏa cách Trái đất bao xa?3.2 Sao hoả có bao nhiêu vệ tinh tự nhiên3.3 Kích thước sao Hỏa3.4 Khối lượng – thể tích3.5 Quỹ đạo. Do khoảng cách gần Trái đất cùng với cường độ sáng lớn cho nên sao Hỏa đã được ghi nhận từ ít nhất 4000 năm trước. Điều đó có nghĩa là không có một ghi nhận cụ thể nào về người khám phá ra nó. Rất nhiều nền văn hóa trên thế giới đã quan sát được hành tinh này. Vào thiên niên kỷ thứ 2 TCN, các nhà thiên văn Ai Cập cổ đại đã quan sát hành tinh này. Trong khi các ghi chép của Trung Quốc về chuyển động của sao Hỏa xuất hiện trước khi nhà Chu thành lập vào năm 1045 TCN. Vào thế kỉ XVI, Nicolaus Copernicus đã đề xuất một mô hình nhật tâm cho hệ thống năng lượng Mặt trời. Trong đó các hành tinh theo quỹ đạo tròn xung quanh Mặt trời. Sau này, Johannes Kepler đã sửa đổi tạo ra một quỹ đạo hình elip cho sao Hỏa phù hợp với dữ liệu quan sát và chính xác hơn. Cho đến tận năm 1610, Galileo Galilei lần đầu tiên quan sát sao Hỏa bằng kính viễn vọng. Trong vòng một thế kỷ sau đó, các nhà thiên văn học đã phát hiện ra một số đặc điểm của sao Hỏa. Đồng thời xác định được chu kỳ quay cũng như độ nghiêng trục của hành tinh. Tên tiếng Anh Sao Hỏa là Mars – vị thần chiến tranh và bảo vệ nông nghiệp. Đối với người La Mã cổ đại, hành tinh Mars là biểu tượng của máu và chiến tranh, tương đương với vị thần chiến tranh Aries của Hy Lạp. Nguyên nhân hành tinh này có tên gọi như vậy có lẽ chính là do sắc đỏ đặc trưng của nó. Vì vậy mà có cái tên “Hành tinh Đỏ”. Có giả thuyết cho rằng, Thái Dương hệ được hình thành từ một quả cầu khí và bụi quay khổng lồ (tinh vân tiền Mặt trời). Phần lớn quả cầu khí này hình thành Mặt trời. Trong khi nhiều bụi của nó tiếp tục quay và hợp nhất để tạo ra các hành tinh tiền đầu tiên. Sao Hỏa chính là một trong những hành tinh này. Sau khi lực hấp dẫn kéo đủ khí và bụi xoáy, nó trở thành hành tinh thứ tư tính từ Mặt trời. Sao Hỏa là hành tinh xếp thứ tư trong Thái Dương hệ tính từ Mặt Trời sau sao Thủy, sao Kim và Trái đất. Sao Hỏa cách Mặt trời lên tới 227,9 triệu km (141,6 triệu dặm hoặc 1,5 AU). Phải mất khoảng 13 phút thì ánh sáng Mặt trời để đến được sao Hỏa. Vậy sao Hỏa cách Trái đất bao xa? Vì cả Trái đất và sao Hỏa đều đồng thời quay, không có định. Cho nên chúng ta có khoảng cách xa nhất từ Trái đất đến sao Hỏa là 401 triệu km (249 triệu dặm). Và khoảng cách gần Trái đất nhất vào khoảng 54,6 triệu km (34 triệu dặm). Chúng ta có khoảng cách trung bình từ Trái Đất đến sao Hỏa là 225 triệu km (140 triệu mi). Sao Hỏa có hai tiểu vệ tinh, Phobos và Deimos, được cho là các tiểu hành tinh bị bắt giữ. Cả hai được Asaph Hall phát hiện năm 1877, được đặt tên theo các nhân vật Phobos (nỗi sợ) và Deimos (khủng bố/cái chết), trong thần thoại Hy Lạp, những người hộ tống cha của họ là Ares (còn gọi là Mars ở Roman), thần chiến tranh, trong cuộc chiến. Sao Hỏa có bán kính 3,389 km (2,105 dặm). Bán kính này cho thấy nó nhỏ gấp đôi Trái đất. Đường kính của Hỏa tinh là 6,779 km (4,212 dặm). Vò nó nhỏ hơn một nửa kích thước của Trái đất. Với kích thước này, sao Hỏa là hành tinh có kích thước nhỏ thứ 2 sau sao Thủy. Khối lượng của Hỏa tinh là 6,42 x 10^23 kg. Nó nhẹ hơn Trái đất khoảng 10 lần. Sao Hỏa có thể tích vào khoảng 163 tỷ km khối. Thể tích này cũng tương đương với 0,151 Trái đất. Sao Hỏa có mật độ 3,93 g/cm³. Mật độ này cũng thấp hơn mật độ của Trái đất. Nó cho thấy vùng lõi của Hỏa tinh chứa các nguyên tố nhẹ hơn. Lực hấp dẫn trên sao Hỏa bằng khoảng 38% lực hấp dẫn của Trái đất. Trục quay của Hỏa tinh nghiêng 25,2 độ gần giống trục nghiêng Trái đất là 23,4 độ. Một vòng quay/ngày trên sao Hỏa được hoàn thành trong vòng 24,6 giờ Trái đất. Trong khi toàn bộ chuyến đi quanh Mặt trời hay chính là một năm sao Hỏa, được hoàn thành trong vòng 669,6 ngày Trái đất. Nghi vấn về sự sống trên sao Hỏa đã có từ rất lâu. Kể từ năm 1877 trở đi, người ta lầm tưởng rằng nước đã được tìm thấy trên sao Hỏa. Sau đó, ý tưởng về sự sống trên sao Hỏa đã trở nên phổ biến trong công chúng. Người ta ước tính rằng sao Hỏa có phần lõi dày đặc với bán kính từ 1500 – 2100 km. Nó được tạo thành chủ yếu từ sắt và niken cùng khoảng 16-17% lưu huỳnh. Lõi sắt sunfua được cho là giàu các nguyên tố nhẹ hơn gấp đôi so với lõi Trái đất. Phần lõi Hỏa tinh được bao phủ bởi silicat. Nó hình thành nên nhiều mảng kiến tạo và núi lửa. Bên cạnh silic và oxy, các nguyên tố phong phú nhất trong vỏ sao Hỏa là sắt, magie, nhôm, canxi và kali. Độ dày trung bình của lớp vỏ Hỏa tinh được ước tính là khoảng 50 km. Với độ dày tối đa lên tới 125 km. Trong khi độ dày trung bình lớp vỏ Trái đất là khoảng 40 km. Sao Hỏa được ước tính là đã mất khí quyển từ khoảng 4 tỷ năm trước. Lý do cho giả thiết này là do nhiều cuộc tấn công của các tiểu hành tinh. Cùng với gió Mặt trời tương tác trực tiếp lên tầng điện ly của sao Hỏa. Điều này làm giảm mật độ khí quyển bằng cách tách các nguyên tử ra khỏi lớp bên ngoài. Bầu khí quyển của sao Hỏa bao gồm khoảng 96% carbon dioxide, 1,93% argon và 1,89% nitơ, cùng với dấu vết của oxy và nước. Gần đây khí mêtan cũng đã được phát hiện trong khí quyển sao Hỏa. Có nhiều bằng chứng cho rằng quá khứ của sao Hỏa có nhiều nước. Nguyên nhân là bề mặt hành tinh này tồn tại mạng lưới thung lũng sông cổ, đồng bằng và lòng hồ. Cùng với đó là đá và khoáng chất trên bề mặt mà chỉ có thể hình thành trong nước lỏng. Một số đặc điểm cho rằng sao Hỏa đã trải qua những trận lũ lụt khổng lồ cách đây khoảng 3,5 tỷ năm. Do áp suất khí quyển thấp cho nên nước lỏng không thể tồn tại trên bề mặt sao Hỏa. Vậy trên sao Hỏa cái gì đóng băng nếu như không có nước dạng lỏng? Thực tế trên sao Hỏa có nước ở dạng băng. Khối lượng các tảng băng nếu tan chảy đủ để bao phủ toàn bộ bề mặt hành tinh này ở độ sâu 11 mét. Có những địa hình được cho rằng đã tồn tại nước trên bề mặt Hỏa tinh. Hay như miệng núi lửa Korolev được tìm thấy chứa đầy khoảng 2.200 km khối băng nước. Bề mặt của sao Hỏa khá gồ ghề do các vụ va chạm với tiểu hành tinh. Không những thế, nó còn có khá nhiều núi lửa. Ngọn núi lửa lớn nhất Hệ Mặt trời cũng nằm ở đây – Olympus Mons. Nó có chiều cao gấp ba lần đỉnh Everest. Mặc dù nó thường được gọi là Hành tinh Đỏ. Nhưng sao Hỏa thực sự có nhiều màu sắc. Ở bề mặt có các màu như nâu, vàng và nâu. Màu sắc này là do sự giàu có của sắt oxit trên bề mặt. Toàn cảnh bãi đáp Ares Vallis của Pathfinder, cho thấy dấu vết của quá khứ ấm hơn, ẩm ướt hơn. Nó đươc cho rằng vùng này đã từng bị ngập lụt do có nhiều loại đá, đá tảng, tròn và nửa tròn cuội và cuội. Những tảng đá và sỏi này được cho là đã bị lũ lụt cuốn xuống và lắng đọng. Nhắc đến khí hậu sao Hỏa, nghi vấn đầu tiên của không ít người chính là sao Hỏa có nóng không? Nguyên nhân là vì ngay từ tên của hành tinh này có từ “Hỏa”. Tuy nhiên thực sự thì sao Hỏa không hề nóng thậm chí còn lạnh, rất lạnh. Nhiệt độ trung bình trên sao Hỏa vào khoảng -60 độ C. Vào mùa đông, nhiệt độ gần các cực có thể xuống -125 độ C. Bạn có biết rằng sao Hỏa còn có tuyết lở. Những vách đá cao chót vót trên bề mặt chứa các vật liệu khác nhau có thể bị bong ra vào mùa xuân. Khi carbon dioxide tan băng, tạo ra những thác đá và bụi khổng lồ được xem là tuyết lở. Sao Hỏa có những cơn bão bụi khắc nghiệt nhất trong Thái Dương hệ. Tốc độ có thể cao hơn 160 km/h. Chúng có xu hướng xảy ra khi sao Hỏa gần Mặt trời nhất, làm tăng nhiệt độ toàn cầu. Từ những thông tin kể trên chúng ta có thể thấy rằng vẫn chưa phát hiện sự sống trên sao Hỏa. Tuy nhiên, ngày 07/06/2018, NASA thông báo rằng tàu thám hiểm Curiosity đã phát hiện ra các hợp chất hữu cơ trong đá trầm tích có niên đại ba tỷ năm tuổi. Nó cho thấy rằng một số yếu tố cần cho sự sống có mặt trên Hỏa tinh. Vào tháng 7 năm 2018, các nhà khoa học đã báo cáo về việc phát hiện ra một hồ nước dưới băng trên sao Hỏa. Vùng nước ổn định đầu tiên được biết đến trên hành tinh. Nó nằm dưới bề mặt 1,5 km ở đáy của chỏm băng cực nam và rộng khoảng 20 km. Tuy hiện tại trên bề mặt sao Hỏa vẫn chưa tồn tại sự sống. Nhưng các nhà khoa học vẫn đang không ngừng khám phá Hành tinh Đỏ. Biết đâu trong tương lai không xa, Elon Musk thực sự có thể đưa con người lên sống trên sao Hỏa. Sự bùng nổ về công nghệ đã giúp con người được tiếp cận một lượng thông tin khổng lồ chỉ bằng một cú click chuột. Tuy nhiên, chọn lọc và tiếp nhận thông tin một cách chính thống không phải là việc đơn giản. Điều đó càng khó khăn hơn khi đặt trong bối cảnh nhiễu loạn nguồn tin thật – giả như hiện nay. Đó là nền tảng cho sự ra đời của kienthuctonghop.vn. Đồng hành cùng kienthuctonghop.vn để biến “biển tri thức” bất tận của nhân loại thành kiến thức của mình bạn nhé!
Sự sống trên Sao Hỏa
Khả năng của sự sống trên Sao Hỏa là một chủ đề được quan tâm đáng kể của sinh vật học vũ trụ do khoảng cách cận kề của hành tinh này và tính tương đồng với Trái Đất. Cho đến hiện tại không có bằng chứng nào được tìm thấy chứng tỏ sự tồn tại của cuộc sống trên sao Hỏa. Tuy nhiên, bằng chứng tích lũy cho thấy bề mặt môi trường của sao Hỏa thời cổ có nước và có thể có sự sống cho vi sinh vật. Sự tồn tại của điều kiện cho sự sống không nhất thiết đi kèm với sự có mặt của các cơ thể sống. Các cuộc tìm kiếm khoa học cho bằng chứng của cuộc sống bắt đầu vào thế kỷ 19, và chúng còn tiếp tục cho đến ngày hôm nay thông qua điều tra bằng kính thiên văn và các phi vụ hạ cánh xuống bề mặt sao Hỏa. Các nghiên cứu khoa học hiện đại đã nhấn mạnh việc tìm kiếm nước, chữ ký sinh học trong đất đá ở bề mặt hành tinh, và các khí tạo sự sống trong khí quyển. Vào ngày 22 tháng 11 năm 2016, NASA đã báo cáo việc tìm thấy một lượng lớn tuyết ngầm dưới đất ở khu vực Utopia Planitia trên sao Hỏa.
Cùng tham gia cộng đồng vì sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc hơn! Hãy điểm qua những nội dung mới của Hello Bacsi. Viêm thanh quản xảy ra khi thanh quản hoặc dây thanh âm trong cổ họng bị kích thích và sưng lên. Tình trạng này có thể tự hết trong vòng 1–2 tuần. Trong thời gian đó, giọng nói của bạn sẽ thay đổi và đi kèm với các triệu chứng khác như đau họng liên tục hay đau khi nói chuyện hay nuốt. Viêm thanh quản là tình trạng sưng viêm ở dây thanh quản do bạn sử dụng chúng quá mức hay có nhiễm trùng xảy ra. Bên trong thanh quản có hai dây thanh âm có thể đóng, mở nhịp nhàng để tạo ra âm thanh (giọng nói). Khi tình trạng viêm xảy ra, dây thanh âm này bị kích ứng và sưng lên. Từ đó, âm thanh được tạo ra khi không khí đi qua chúng bị thay đổi. Kết quả là giọng nói của bạn trở nên khàn hơn bình thường. Một số trường hợp, người bệnh gần như không thể nói ra thành tiếng. Tình trạng sức khỏe này có thể tồn tại trong một thời gian ngắn (cấp tính) hoặc kéo dài (mạn tính). Hầu hết trường hợp bị viêm là do nhiễm virus hay do nói quá nhiều và không quá nghiêm trọng. Tuy nhiên, triệu chứng khàn giọng dai dẳng đôi khi là dấu hiệu cảnh báo cho một vấn đề sức khỏe tiềm ẩn khác. Đa số trường hợp, bệnh lý này thường kéo dài không quá 1 tuần với nguyên nhân phổ biến là do nhiễm virus sau khi bị cảm lạnh, cúm. Các dấu hiệu và triệu chứng của tình trạng này bao gồm:. Nếu bạn có nhiều triệu chứng khác nghiêm trọng hơn, khả năng cao là có liên quan đến một tình trạng sức khỏe tiềm ẩn khác. Hãy đến gặp bác sĩ để được chẩn đoán và điều trị phù hợp. Các trường hợp viêm thanh quản cấp hầu như đều có thể được kiểm soát và cải thiện hiệu quả nhờ những biện pháp tự chăm sóc tại nhà, chẳng hạn như hạn chế nói, uống nhiều nước. Việc nói quá nhiều, liên tục trong khi đang bị viêm ở thanh quản có thể khiến dây thanh âm bị tổn thương nặng hơn. Nếu thấy các triệu chứng kéo dài hơn 2 tuần, bạn nên đến gặp bác sĩ sớm. Những dấu hiệu và triệu chứng trên có thể cho thấy có tình trạng viêm thanh khí phế quản (croup) hay viêm nắp thanh quản (viêm thanh thiệt). Khi đó, việc chữa trị viêm dây thanh quản nên được tiến hành càng sớm càng tốt vì nếu không, bệnh có thể gây đe dọa tính mạng, kể cả ở trẻ em hay người lớn. Đa số trường hợp viêm thanh quản đều không kéo dài và được cải thiện sau khi giải quyết nguyên nhân cơ bản gây viêm. Các nguyên nhân gây ra tình trạng viêm cấp tính này thường là:. Nếu tình trạng này kéo dài hơn 3 tuần thì được gọi là viêm thanh quản mạn tính. Nguyên nhân thường là do tiếp xúc với tác nhân gây kích ứng theo thời gian. Viêm mạn tính có thể khiến dây thanh âm bị kéo căng và tổn thương. Nguyên nhân có thể là:. Dấu hiệu phổ biến nhất khi bị viêm thanh quản là khàn giọng. Mức độ thay đổi trong giọng nói sẽ tùy thuộc vào tình trạng nhiễm trùng hoặc kích ứng ở thanh quản, bạn có thể bị khàn giọng nhẹ cho đến nặng hơn, có khi mất tiếng hoàn toàn. Do đó, bác sĩ sẽ lắng nghe giọng nói và kiểm tra dây thanh âm của bạn để đưa ra chẩn đoán ban đầu. Trường hợp viêm cấp tính, bệnh thường tự khỏi trong vòng 1 tuần hoặc lâu hơn. Bạn có thể áp dụng các biện pháp tự chăm sóc tại nhà để cải thiện triệu chứng. Mục tiêu của các phương pháp điều trị viêm thanh quản mạn tính là giải quyết nguyên nhân cơ bản gây ra viêm, như ợ nóng, hút thuốc hoặc uống quá nhiều rượu. Đa số trường hợp bị viêm này là do virus gây ra nên sử dụng kháng sinh sẽ không có tác dụng. Tuy nhiên, nếu phát hiện bạn bị nhiễm khuẩn, bác sĩ sẽ kê đơn thuốc kháng sinh. Các thuốc này có thể giúp giảm bớt tình trạng viêm ở dây thanh âm. Tuy nhiên, bác sĩ chỉ cho bạn dùng corticosteroid trong trường hợp thật cần thiết, chẳng hạn như khi phải thuyết trình hoặc biểu diễn ca nhạc hoặc trường hợp trẻ nhỏ bị viêm thanh quản có thể liên quan đến bệnh viêm thanh khí quản. Tránh hút thuốc, kể cả chủ động hay bị động Hạn chế uống thức uống có cồn và caffeine Uống nhiều nước Tránh ăn các thức ăn cay, nóng Tránh hắng giọng vì có thể gây rung động bất thường ở dây thanh âm khiến tình trạng sưng nặng hơn Tránh để nhiễm trùng đường hô hấp trên, rửa tay thường xuyên và tránh tiếp xúc với những người bị cảm lạnh, cúm. Tránh để nhiễm trùng đường hô hấp trên, rửa tay thường xuyên và tránh tiếp xúc với những người bị cảm lạnh, cúm. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Hello Bacsi mong muốn trở thành nền tảng thông tin y khoa hàng đầu tại Việt Nam, giúp bạn đưa ra những quyết định đúng đắn liên quan về chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ bạn cải thiện chất lượng cuộc sống.
Viêm thanh quản
Viêm thanh quản là viêm cơ quan thanh quản (khu vực tạo giọng nói). Các triệu chứng thường bao gồm có giọng khàn và có thể bao gồm sốt, ho, đau ở phía trước cổ và khó nuốt. Thông thường, những triệu chứng này kéo dài dưới hai tuần. Viêm thanh quản được phân loại là cấp tính nếu nó kéo dài dưới ba tuần và mãn tính nếu các triệu chứng kéo dài hơn ba tuần. Các trường hợp cấp tính thường xảy ra như là một phần của nhiễm trùng đường hô hấp trên do virus. Nhiễm trùng và chấn thương khác như ho là các nguyên nhân khác của bệnh này. Các trường hợp mãn tính có thể xảy ra do hút thuốc, bệnh lao, dị ứng, trào ngược axit, viêm khớp dạng thấp hoặc sarcoidosis. Cơ chế cơ bản của bệnh này liên quan đến sự kích thích của dây thanh âm. Các dấu hiệu liên quan có thể cần điều tra thêm bao gồm tiền sử xạ trị ở cổ, khó nuốt, trong thời gian hơn ba tuần và tiền sử hút thuốc. Nếu có dấu hiệu liên quan, dây thanh âm nên được kiểm tra qua nội soi thanh quản.
Dù được xem là “thần dược” chữa trị các chứng đau nhức xương khớp, thế nhưng “người bị gút có dùng cao hổ cốt được không?” thì lại là điều không phải ai cũng có thể trả lời. Đồng thời, trên thực tế cao hổ cốt không thật sự là phương thuốc “thần kỳ” như nhiều người lầm tưởng. Có rất nhiều người tin tưởng và sử dụng cao hổ cốt như một bài thuốc trị bệnh gút nói riêng và các bệnh về xương khớp nói chung đã phải chịu cảnh “tiền mất tật mang”. Cao hổ cốt là tên gọi theo cách gọi Đông y về loại xương hổ được nấu và cô đặc từ xương hổ. Ngoài cao hổ cốt, dân mình còn gọi là cao xương hổ, cao hổ, hổ cốt. Điểm đặc biệt của loại cao này nằm ở chỗ nấu đặc từ xương 100%, không thể pha lẫn thịt như một số loại cao từ động vật khác. Từ xưa, cao hổ cốt được xem là bài thuốc cường kiện gân cốt, giảm đau nhức rất đắt đỏ và hữu hiệu. Cao hổ cốt có vị mặn, tính ấm, quy vào kinh can thận. Khi dùng, cao hổ cốt sẽ tác dụng lên thân thể, giúp bổ dương khí trục phong hàn. Đồng thời được tin rằng có thể trị các chứng tê thấp, đau nhức gân xương, suy nhược cơ thể, thoái hóa xương khớp, viêm đa khớp dạng thấp,…. Cách nấu được một hũ cao hổ cốt cũng cần lắm “công phu”. Phải chọn loại xương của hổ từ 10 – 15kg, làm sạch thịt gân và tẩm sao với nước sắc đặc chế. Sau nhiều ngày ngâm phơi thì đem nấu cùng xương linh dương theo tỷ lệ “nhị dương ngũ hổ” để cho ra loại cao hổ cốt tốt nhất. Một lần nấu phải gồm 5 bộ xương hổ, nấu ra cao theo tỷ lệ 1 kg xương 2 lạng cao. Màu cao hổ trắng ngà, thơm nhạt, bảo quản được lâu.Từ đó ta có thể thấy được để có một hũ cao hổ cốt đúng chuẩn là điều cực kì khó. Khi đi sâu vào tìm hiểu, có rất ít sách chỉ ra tác dụng của cao hổ cốt đối với người bị bệnh gút. Các chứng đau nhức từng dùng cao hổ cốt chỉ có dấu hiệu giảm đau trong thời gian ngắn, sau đó bệnh sẽ tái phát trở lại. Hơn nữa, dùng cao hổ cốt phải tuân theo liều lượng và tiêu chuẩn nghiêm ngặt, dùng sai cách có thể gây hại đến cơ thể. Chưa kể cao hổ cốt vô cùng quý giá, không phải là phương thuốc phổ biến rộng rãi trong dân gian lúc bấy giờ. Tỷ lệ nghiệm chứng hiệu quả của cao hổ cốt lên bệnh gút nói riêng và các chứng hư nhược, đau nhức nói chung không chính xác là rất cao. Khi đem xương hổ nghiên cứu thành phần, các nhà khoa học đã chỉ ra các thành phần dinh dưỡng đặc trưng của cao hổ như: collagen, mỡ, phosphate, magnesium, 17 amino axit,… Điều này đồng nghĩa với việc xương hổ cũng giống như các loại xương động vật khác. Vì thế chưa hề có bất kỳ công trình nghiên cứu hay chứng minh nào chỉ ra công dụng thật sự của cao hổ cốt đối với thân thể lẫn tác dụng đến quá trình trị bệnh gút. Tất cả các công dụng thần kỳ của cao hổ cốt hầu như chỉ là lời đồn đại, thổi phồng của người bán để đầu tư trục lợi từ niềm tin của khách hàng. Hiện nay, hổ là loại động vật hoang dã có tên trong sách đỏ và nằm trong danh mục cấm săn bắt tại nhiều nước trên thế giới. Mọi hành vi mua bán và sử dụng các sản phẩm từ hổ đều có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự, kể cả tại Việt Nam. Các loại cao hổ cốt được bày bán trên thị trường hiện nay đều áp dụng thủ đoạn đánh vào tâm lý “có bệnh vái tứ phương” của bệnh nhân. Mặc cho mức giá cực đắt đỏ, hầu như không hề có loại cao hổ nào được gọi là chuẩn chất lượng. Các loại này thường đã bị pha trộn, thậm chí là thay thế hoàn toàn bằng loại cao xương khác, trộn thuốc giảm đau để cho ra công hiệu trị các chứng đau nhức trông “thật” hơn. Nhiều trường hợp đã được ghi nhận về trường hợp dùng cao hổ cốt “vô tội vạ” có biểu hiện suy gan, suy thận hoặc ngộ độc, nhập viện cấp cứu vì dùng sai cách, sai liều lượng, cao kém chất lượng. Thay vì “tin” rằng cao hổ cốt có thể dùng cho người bị bệnh gút hoặc có thể chữa bệnh đau khớp viêm xương, suy nhược cơ thể, bạn nên đến gặp các bác sĩ chuyên khoa để được chẩn đoán và điều trị. Dù là bác sĩ Tây y hoặc bác sĩ Đông y đều có những phương pháp thăm khám và kê toa một cách khoa học, chính xác hỗ trợ và trị bệnh gút dứt điểm thành công. Khi chữa trị bệnh gút theo y học cổ truyền, bác sĩ sẽ cho bạn các bài thuốc điều trị bệnh xương khớp hiệu nghiệm có nguồn gốc từ các loại thảo dược. Công hiệu chẳng những hiệu quả mà còn an toàn, lành tính, tiết kiệm so với các loại cao từ động vật như: cao hổ, cao khỉ,…. Ngoài ra, người bệnh gút còn cần kết hợp thêm việc vận động hằng ngày, ăn uống dinh dưỡng cùng nghỉ ngơi khoa học, điều độ. Bất kỳ quá trình điều trị nào cũng cần sự hợp tác giữa bác sĩ và bệnh nhân để giúp bệnh chóng lành. Như vậy, xin lưu ý rằng người bị bệnh gút không nên sử dụng cao hổ cốt. Đừng vội tin lời người bán mà bỏ một số tiền lớn để rước về loại cao không có giá trị chữa bệnh. Việc đầu tiên khi có các dấu hiệu gút chính là đến gặp và tiếp nhận điều trị tại các bệnh viện, phòng khám y khoa uy tín. Tránh việc tự ý dùng thuốc để gây nguy hiểm cho cơ thể, khiến bệnh có nguy cơ trầm trọng hơn. Gout là căn bệnh phổ biến hiện nay có thể mắc ở mọi đối tượng. Gout Đỗ Minh là bài thuốc Nam gia truyền của dòng họ Đỗ Minh có. Dù ngày nay gút là căn bệnh phổ biến nhưng rất nhiều người vẫn đang. Bệnh gout mãn tính được xem là cấp độ nặng hơn của bệnh gout thông. Thoái hóa khớp gối là căn bệnh có tác động không nhỏ tới cuộc sống. Tết đến xuân về là thời điểm thời tiết có những thay đổi thất thường,. Dứt bệnh xương khớp đơn giản, hiệu quả từ thảo dược thiên nhiên (Báo suckhoedoisong.vn). Thoái hóa khớp gối là gì? Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị (Báo 24h.com). Viêm đau khớp gối: Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị hiệu quả (Báo 24h.com). Thoái hóa khớp: Nguyên nhân, dấu hiệu và cách điều trị để bệnh “một đi không trở lại” (Báo 24h.com). Nhất Nam Y Viện ra đời với mục đích phục dựng lại Thái y Viện. Việc dùng thuốc, tác dụng có thể khác nhau tuỳ cơ địa của người dùng và chữa bệnh phải tuân theo hướng dẫn của bác sĩ.
Cao hổ cốt
Cao hổ cốt, cao hổ, cao xương hổ hay hổ cốt là loại cao được nấu và cô đặc từ bộ xương của con hổ. Cao hổ cốt là một mặt hàng đắt đỏ, chúng được chế biến qua nhiều công đoạn phức tạp và có nhiều lời đồn về công dụng của nó, tuy nhiên có cảnh báo, các loại cao từ hổ, gấu, ngựa chỉ có tác dụng trừ phong thấp, đau gân giãn cốt chứ không có những tác dụng khác như những lời đồn đại. Từ công dụng đồn thổi này dẫn đến loài hổ đã bị săn bắn quá mức dẫn đến trên đà tuyệt chủng, nhất là ở Trung Quốc và Việt Nam. Các bộ phận của hổ được dùng làm thuốc đông y, và bán với giá cao trên thị trường chợ đen, giá 100 gram cao hổ cốt bán tới 1.000 đôla. Trong khi đại đa số các động vật có thể nấu cao toàn tính (với cả xương và thịt) thì cao hổ chỉ sử dụng xương. Sự coi trọng giá trị của cao hổ cốt đối với sức khỏe con người, đặc tính quý hiếm của cao, là các quan niệm có từ rất lâu trong lịch sử các nước Á Đông, đặc biệt là Trung Quốc và Việt Nam.
Nhưng một số em bé gặp rắc rối. Nếu em bé không thể đi tiêu , bé có thể mắc bệnh Hirschsprung , một tình trạng thiếu tế bào thần kinh trong ruột già. Bệnh Hirschsprung là bệnh bẩm sinh – tức là nó phát triển trong thời kỳ mang thai và có mặt khi sinh. Một số tình trạng bẩm sinh xảy ra do chế độ ăn uống của người mẹ , hoặc do bệnh tật mà họ mắc phải khi mang thai. Những người khác là do gen cha mẹ truyền cho trẻ sơ sinh . Các nhà nghiên cứu không biết tại sao một số người lại mắc bệnh Hirschsprung, mặc dù họ tin rằng căn bệnh này có liên quan đến những sai sót trong hướng dẫn DNA. Mặc dù căn bệnh này có thể gây chết người, nhưng y học hiện đại có thể giải quyết vấn đề bằng phẫu thuật và giúp những trẻ em đã được điều trị có cuộc sống tương đối bình thường, khỏe mạnh. Thông thường, khi em bé phát triển, các tế bào thần kinh được tạo ra trong toàn bộ hệ thống tiêu hóa , từ thực quản – dẫn từ miệng đến dạ dày – đến trực tràng. Thông thường, một người sẽ có tới 500 triệu loại tế bào thần kinh này. Trong số các vai trò khác, chúng di chuyển thức ăn qua hệ thống tiêu hóa của bạn từ đầu này sang đầu kia. Ở trẻ mắc chứng Hirschsprung, các tế bào thần kinh ngừng phát triển ở phần cuối của ruột già, ngay trước trực tràng và hậu môn . Ở một số trẻ em, các tế bào cũng bị thiếu ở các vị trí khác trong hệ tiêu hóa . Điều đó có nghĩa là cơ thể không thể cảm nhận được khi chất thải đạt đến một điểm nhất định. Vì vậy chất thải bị kẹt lại và tạo thành một khối trong hệ thống. Bệnh Hirschsprung ảnh hưởng đến khoảng một trong số 5.000 trẻ sơ sinh. Trẻ em mắc các bệnh bẩm sinh khác, chẳng hạn như hội chứng Down và dị tật tim , có nhiều khả năng mắc bệnh hơn. Cha mẹ mang mã cho bệnh Hirschsprung trong gen của họ, đặc biệt là mẹ, có thể truyền cho con cái của họ. Con trai nhận được nó nhiều hơn con gái. Căn bệnh này được đặt theo tên của 19 thứ -century bác sĩ Đan Mạch Harald Hirschsprung, người đã mô tả tình trạng này vào năm 1888. Đối với đại đa số những người mắc bệnh Hirschsprung, các triệu chứng thường bắt đầu trong vòng 6 tuần đầu sau sinh. Trong nhiều trường hợp, có dấu hiệu trong vòng 48 giờ đầu tiên. Bạn có thể thấy bụng của con mình sưng lên . Các triệu chứng khác bạn có thể thấy bao gồm:. Không đi tiêu: Bạn nên lo lắng nếu trẻ sơ sinh không đi tiêu ra phân hoặc phân su trong vài ngày đầu. Trẻ lớn hơn bị Hirschsprung’s có thể bị táo bón mãn tính (liên tục) . Tiêu chảy ra máu : Trẻ bị Hirschsprung’s cũng có thể bị viêm ruột, một bệnh nhiễm trùng đại tràng đe dọa tính mạng và có những trường hợp tiêu chảy và đầy hơi nghiêm trọng . Ở trẻ lớn hơn, các triệu chứng có thể bao gồm các vấn đề về tăng trưởng, mệt mỏi và táo bón nghiêm trọng . Bác sĩ của bạn nên được thông báo ngay lập tức nếu con bạn có những triệu chứng này. Họ có thể xác nhận Hirschsprung’s bằng một số bài kiểm tra cụ thể:. Thuốc xổ cản quang: Nó còn được gọi là thuốc xổ bari, sau khi thành phần trong thuốc nhuộm thường được sử dụng để phủ và làm nổi bật bên trong các cơ quan của cơ thể. Con bạn được đặt úp mặt xuống bàn trong khi thuốc nhuộm được đưa qua một ống từ hậu môn vào ruột . Không cần gây mê ( thuốc để làm tê hoặc giảm đau ). Thuốc nhuộm cho phép bác sĩ nhìn thấy các khu vực có vấn đề trên X-quang. Một sinh thiết : Bác sĩ sẽ lấy một mẫu mô nhỏ từ trực tràng của con quý vị. Mô sẽ được xem xét để tìm các dấu hiệu của bệnh Hirschsprung. Tùy thuộc vào độ tuổi và kích thước của con bạn, bác sĩ có thể sử dụng phương pháp gây mê. Đo áp lực hậu môn trực tràng: Thử nghiệm này làm phồng một quả bóng nhỏ bên trong trực tràng để xem liệu các cơ của khu vực này có phản ứng hay không. Thử nghiệm này chỉ được thực hiện trên trẻ lớn hơn. Bệnh Hirschsprung là một tình trạng rất nghiêm trọng. Nhưng nếu được phát hiện nhanh chóng, nó có thể giúp con bạn sống một cuộc sống tương đối bình thường. Thủ thuật kéo qua: Phẫu thuật này chỉ đơn giản là cắt bỏ phần ruột già có các tế bào thần kinh bị thiếu. Sau đó, phần còn lại của ruột được kết nối trực tiếp với hậu môn. Một số ít có thể bị viêm ruột. Các dấu hiệu bao gồm chảy máu trực tràng , sốt , nôn mửa và bụng sưng lên. Nếu điều đó xảy ra, hãy đưa con bạn đến bệnh viện ngay lập tức. Nhưng với sự chăm sóc thích hợp – đặc biệt là chế độ ăn uống thích hợp và uống nhiều nước – những tình trạng này sẽ giảm dần và hầu hết trẻ em có thể đi tiêu bình thường trong vòng một năm điều trị. Những đứa trẻ khác sẽ gặp vấn đề về đường ruột khi trưởng thành trong suốt cuộc đời của chúng. Bởi vì bệnh Hirschsprung là bẩm sinh, có nghĩa là nó là một vấn đề suốt đời cần được theo dõi. Văn Huỳnh là dược sĩ đại học tốt nghiệp Đại học Y Dược Huế chuyên ngành Y Học Cổ Truyền. Đam mê tìm hiểu về Dược lý, Bệnh lý, Lý luận Y học cổ truyền, Bào chế Đông dược, Bào chế cổ phương, Đông dược. Hiện tại dược sĩ Văn Huỳnh đang công tác tại Bệnh Viện Y Học Cổ Truyền TP.HCM. Với mong muốn mang đến người đọc những thông tin về các bài thuốc dân gian hữu hiêu, bệnh lý thường gặp, sống khoẻ, dược sĩ sẽ cùng blogsuckhoe.org cung cấp những bài viết chất luợng cùng thông tin xác thực đến bạn đọc. Blogsuckhoe.org - Chuyên trang tổng hợp cung cấp các bài viết, thông tin về y học, dinh dưỡng uy tín chất lượng
Bệnh Hirschsprung
Bệnh Hirschsprung còn gọi là bệnh phì đại tràng bẩm sinh hay bệnh vô hạch đại tràng bẩm sinh Nguyên nhân gây bệnh là sự không có các tế bào hạch thần kinh ở đám rối của lớp cơ ruột tại một đoạn ruột, thường là ở trực tràng và đại tràng, có thể tới đại tràng trái,toàn bộ đại tràng và cả ruột non. Bệnh được mô tả bởi Harold – Hirschsprung vào năm 1886. Trong quá trình phát triển bình thường trước khi sinh, các tế bào từ mào thần kinh di chuyển vào ruột già để hình thành các mạng lưới thần kinh gọi là dây thần kinh trung ương (Auerbach plexus) (giữa các lớp cơ trơn của đường tiêu hóa) và niêm mạc dưới niêm mạc (Meissner Plexus) (trong niêm mạc của đường tiêu hóa). Trong bệnh Hirschsprung, sự di chuyển không hoàn chỉnh và một phần của đại tràng không có các cơ quan thần kinh điều chỉnh hoạt động của đại tràng. Các phân đoạn bị ảnh hưởng của đại tràng không thể thư giãn và đi phân qua đại tràng, tạo ra một tắc nghẽn. Ở hầu hết những người bị ảnh hưởng, rối loạn ảnh hưởng đến phần ruột già ở gần hậu môn.
Cấu trúc phân chia công việc (WBS - Work Breakdown Structure) là một phân rã phân cấp của toàn bộ phạm vi công việc sẽ được nhóm dự án thực hiện để hoàn thành các mục tiêu của dự án và tạo ra các giao phẩm được yêu cầu. WBS là viết tắt của Work Breakdown Structure, tạm dịch là Cấu trúc phân chia công việc. WBS là một phân rã phân cấp (hierarchical decomposition) của toàn bộ phạm vi công việc sẽ được nhóm dự án thực hiện để hoàn thành các mục tiêu của dự án và tạo ra các giao phẩm được yêu cầu. WBS tổ chức và xác định tổng phạm vi của dự án và thể hiện công việc được chỉ định trong tuyên bố phạm vi dự án (project scope statement) được phê duyệt hiện tại. Công việc theo kế hoạch được chứa trong các thành phần WBS ở mức thấp nhất thì được gọi là các gói công việc (Work Package). Một gói công việc có thể được sử dụng để nhóm các hoạt động (Activity) - nơi mà công việc được lên lịch và ước tính, theo dõi và kiểm soát; nghĩa là các giao phẩm dự án sẽ được phân rã thành cấp độ thấp nhất trong WBS gọi là gói công việc, rồi các gói công việc sẽ tiếp tục được phân rã đến cấp độ thấp hơn gọi là hoạt động. Trong ngữ cảnh của WBS, công việc đề cập đến các sản phẩm công việc hoặc giao phẩm và là kết quả của hoạt động chứ không phải chính hoạt động đó. Ví dụ: hoạt động “viết bộ quy trình XXX” thì “bộ quy trình XXX” chính là công việc được đề cập ở đây. Gói công việc là công việc được xác định ở mức thấp nhất của WBS mà ở đó chi phí và thời gian có thể được ước tính và quản lý. Mỗi cấp độ giảm dần của WBS đại diện cho một định nghĩa ngày càng chi tiết về công việc dự án. Một cấu trúc WBS có thể được tạo ra thông qua các cách tiếp cận khác nhau. Một số phương pháp phổ biến bao gồm cách tiếp cận từ trên xuống, sử dụng các hướng dẫn cụ thể của từng công ty/tổ chức và sử dụng các mẫu WBS. Một cách tiếp cận từ dưới lên có thể được sử dụng để nhóm các thành phần con. Cấu trúc WBS có thể được biểu diễn dưới một số dạng, chẳng hạn như:. Sử dụng các giao phẩm chính là mức phân tách thứ hai, như bên dưới. Kết hợp các thành phần con có thể được phát triển bởi các tổ chức bên ngoài nhóm dự án, chẳng hạn như công việc theo hợp đồng. Người bán sau đó phát triển WBS của hợp đồng như một phần của công việc được ký hợp đồng. WBS đại diện cho tất cả các công việc sản phẩm và dự án, bao gồm cả công việc quản lý dự án. Tổng số công việc ở các cấp thấp nhất sẽ cuộn lên các cấp cao hơn để không có gì bị bỏ sót và không có công việc thừa nào được thực hiện. Điều này đôi khi được gọi là quy tắc 100%. Từ điển WBS cung cấp mô tả công việc cần thực hiện cho từng gói công việc trong WBS và nó liệt kê các tiêu chí chấp nhận cho từng giao phẩm, đảm bảo kết quả công việc phù hợp với những gì cần thiết. Atoha sẽ có chứng nhận hoàn thành chương trình đào tạo dành cho học viên và cung cấp 35 giờ đào tạo bắt buộc (1 trong 3 điều kiện thi lấy chứng chỉ PMP quốc tế).". Tài liệu có thể là tiếng Anh hoặc tiếng Việt tùy vào lớp. Atoha có thể đào tạo bằng cả tiếng Anh hoặc tiếng Việt.". Học viên sẽ cần đóng phí thi trực tiếp cho viện PMI nếu muốn đăng ký thi, phí thi tham khảo 555usd/non-member và 405usd/member. Tham khảo thêm tại: www.pmi.org"
Cấu trúc phân chia công việc
Cấu trúc phân chia công việc hay cơ cấu phân chia công việc (tiếng Anh: Work breakdown structure, (WBS)) trong quản lý dự án và trong kỹ thuật hệ thống, là một công cụ xác định một dự án và hợp nhóm các yếu tố công việc rời rạc của dự án theo cách giúp cho việc tổ chức và xác định tổng quát phạm vi công việc của dự án. Thành phần của cấu trúc phân chia công việc có thể là sản phẩm, gói dữ liệu, gói dịch vụ, gói công việc, hay một tổ hợp bất kỳ nào đó. Cơ cấu phân chia công việc cũng cung cấp khuôn khổ cần thiết cho việc lập dự toán chi tiết và kiểm soát chi phí, cùng với việc cung cấp hướng dẫn cho việc phát triển và kiểm soát tiến độ. Cấu trúc phân chia công việc chính là một bản phân cấp dự án thành các phân đoạn, hạng mục, gói dịch vụ, gói công việc. Nó là một cấu trúc dạng cây, mà mỗi nhánh của nó thể hiện những nỗ lực cần thiết để đạt được từng mục tiêu cụ thể (như một chương trình, một dự án, hay hợp đồng).Mỗi cấp độ thấp dần của cơ cấu phân chia công việc đại diện cho một mức độ gia tăng tính xác định chi tiết của công việc dự án.
Nhiều người thắc mắc Hoa xương rồng tiếng anh là gì? bài viết hôm nay sẽ khuyên bảo điều này.Bạn đang xem: Cây xương rồng tiếng anh là gì. Họ Xương rồng (danh pháp khoa học: Cactaceae) thường xuyên là những loại cây mọng nước hai lá mầm với có hoa. Họ Cactaceae tất cả trường đoản cú 24 đến 220 đưa ra, tùy thuộc vào nguồn (90 chi thông dụng nhất), trong các số đó tất cả từ là 1.500 đến 1.800 loại. Những cây xương rồng được nghe biết như là bao gồm nguồn gốc tự châu Mỹ, độc nhất là ở mọi vùng sa mạc. Cũng bao gồm một số loại biểu sinch vào rừng nhiệt đới, hầu hết loại đó mọc bên trên phần đa cành lá, do ngơi nghỉ kia mưa rơi xuống đất nkhô giòn, cho nên vì thế sống đó thường xuyên bị khô. Cây xương rồng tất cả sợi cùng thân nhằm cất nước dự trữ. Xương rồng gần như là là các loại thực đồ dùng làm việc châu Mỹ, bên cạnh độc nhất vô nhị là Rhipsalis baccifera, sinc trưởng hầu hết ở vùng nhiệt đới gió mùa, chủ yếu nghỉ ngơi châu Phi, Madagascar cùng Sri Lanka cũng như nghỉ ngơi vùng nhiệt đới châu Mỹ. loại này được hiểu bắt đầu định cư cách đây không lâu nghỉ ngơi những châu lục xung quanh châu Mỹ (trong vài ngàn năm gần đây), hoàn toàn có thể là vì những loại chyên ổn di trú sở hữu theo bên dưới dạng hạt ko tiêu hóa được. đa phần loại xương Long khác đã say mê hợp với môi trường thiên nhiên sống mới trên những phần không giống nhau của trái đất vì sự mang theo của bé bạn. Trung bình, một cây xương Long sinh sống rất mất thời gian, tới rộng 300 năm, và cũng đều có loài chỉ sinh sống 25 năm. chủng loại xương rồng Saguaro (Carnegiea gigantea) rất có thể cao tới 15m (kỉ lục đo được là 17m67, trong khi đó 10 năm đầu nó chỉ cao 10 centimet. Cây xương dragon “Gối bông của mẹ chồng” (“mother-in-law’s cushion”, Echinocactus grusonii) bé dại độc nhất vô nhị sinh sống quần đảo Canaria cao 2m50 và 2 lần bán kính là 1m, cho bông từng 6 năm. Đường kính hoa xương rồng khoảng 5–30 centimet Màu sắc khôn xiết sặc sỡ, long lanh.
Họ Xương rồng
Họ Xương rồng (danh pháp khoa học: Cactaceae) thường là các loài cây mọng nước hai lá mầm và có hoa. Họ Cactaceae có từ 25 đến 220 chi, tùy theo nguồn (90 chi phổ biến nhất), trong đó có từ 1.500 đến 1.800 loài. Những cây xương rồng được biết đến như là có nguồn gốc từ châu Mỹ, nhất là ở những vùng sa mạc. Cũng có một số loại biểu sinh trong rừng nhiệt đới, những loại đó mọc trên những cành cây, vì ở đó mưa rơi xuống đất nhanh, cho nên ở đó thường xuyên bị khô. Cây xương rồng có gai và thân để chứa nước dự trữ. Xương rồng gần như là loại thực vật ở châu Mỹ, ngoại trừ duy nhất là Rhipsalis baccifera, sinh trưởng chủ yếu ở vùng nhiệt đới, chủ yếu ở châu Phi, Madagascar và Sri Lanka cũng như ở vùng nhiệt đới châu Mỹ. Loài này được cho là mới định cư gần đây ở các lục địa ngoài châu Mỹ (trong vài nghìn năm gần đây), có thể là do các loài chim di cư mang theo dưới dạng hạt không tiêu hóa được. Nhiều loài xương rồng khác đã thích hợp với môi trường sống mới trên các phần khác nhau của thế giới do sự đem theo của con người.
Sàn giao dịch chứng khoán New York trong tiếng Anh là New York Stock Exchange; tên viết tắt là NYSE. Cho đến nay đây là thị trường chứng khoán lớn nhất thế giới tính theo vốn hóa thị trường của các công ty niêm yết, ước tính trị giá 28,5 nghìn tỉ đô la vào ngày 30 tháng 6 năm 2018. NYSE bao gồm 21 phòng được sử dụng để tạo thuận lợi cho giao dịch. Tòa nhà chính tọa lạc tại 18 Broad Street và một ở 11 Phố Wall đều được cho là những địa danh lịch sử vào năm 1978. Giá trị giao dịch trung bình hàng ngày là khoảng 169 tỉ đô la Mỹ vào năm 2013. NYSE thuộc sở hữu của Intercontinental Exchange, một công ty cổ phần của Mỹ mà nó cũng niêm yết trên sàn (NYSE: ICE). Trước đây, nó là một phần của NYSE Euronext (NYX), được thành lập bằng sự sáp nhập vào năm 2007 của NYSE với Euronext. NYSE có giao dịch cổ phiếu hàng năm chiếm 80% trong số 10 thị trường quốc gia Mỹ và nó đáp ứng các chức năng cốt lõi của thị trường tài chính Mỹ. Đây là một tổ chức thành viên bao gồm các cá nhân và các thành viên bao gồm các nhà môi giới chứng khoán, các chuyên gia giao dịch cổ phiếu, những người tham gia giao dịch chứng khoán bằng tài khoản đã đăng kí của mình. Vào tháng 9 năm 2001, do các cuộc tấn công khủng bố nên NYSE đã ngừng giao dịch trong 04 ngày. Tháng 9 năm 2008 ghi nhận vụ sụp đổ giá cổ phiếu lớn nhất trong lịch sử từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ở Mỹ. Trong đó có khoảng 2.800 công ty niêm yết (tính đến năm 2008). Trong nhiều năm NYSE chỉ giao dịch trên sàn và sử dụng hệ thống đấu giá mở. Nhiều giao dịch NYSE đã chuyển sang hệ thống điện tử nhưng các nhà giao dịch tại sàn vẫn đến đặt giá và giao dịch với khối lượng lớn. Hiện tại, NYSE mở cửa giao dịch từ thứ Hai đến thứ Sáu, từ 9h30 sáng đến 4h00 chiều (giờ ET). Các sàn giao dịch chứng khoán đóng cửa vào tất cả các ngày lễ liên bang. Khi ngày lễ liên bang rơi vào thứ Bảy, NYSE đôi khi đóng cửa vào ngày thứ Sáu trước đó. Khi ngày lễ liên bang rơi vào Chủ Nhật, NYSE có thể đóng cửa vào thứ Hai tuần sau.
Sàn Giao dịch Chứng khoán New York
Sàn Giao dịch Chứng khoán New York (tiếng Anh: New York Stock Exchange - NYSE), biệt danh là "Big Board", là một sàn giao dịch chứng khoán của Mỹ đóng tại số 11 phố Wall, Hạ Manhattan, Thành phố New York . Đây là sàn giao dịch chứng khoán lớn nhất thế giới nếu tính về giá trị vốn hóa thị trường bằng đô la Mỹ và là sàn giao dịch chứng khoán lớn thứ nhì thế giới nếu tính theo số lượng công ty niêm yết. Số lượng cổ phiếu của sở này vượt quá số lượng cổ phiếu tại sàn NASDAQ trong thập niên 1990. Sàn giao dịch chứng khoán New York có một giá trị vốn hóa thị trường toàn cầu lên đến hơn 30.000 tỷ dollar Mỹ tính đến tháng 2 năm 2018. Giá trị giao dịch hàng ngày là khoảng 169 tỷ USD vào năm 2013. Phòng giao dịch NYSE tọa lạc ở số 11 Phố Wall và bao gồm 21 phòng được sử dụng để thuận tiện cho các hoạt động giao dịch. Phòng giao dịch thứ 5 từng được đặt ở số 30 phố Broad nhưng đã bị đóng cửa và tháng 2 năm 2007. Tòa nhà chính và tòa nhà nhà tại số 11 Phố Wall được liệt kê trong danh sách Di tích lịch sử quốc gia (National History Landmarks) vào năm 1978.
Những cảm giác của tự do (Tình yêu tự do, Tâm hồn và lẽ phải, Cảm hứng và sáng tạo, Danh dự, Hạnh phúc). Từ xưa đến nay, tự do luôn là một khái niệm bí ẩn và trừu tượng đối với con người. Đúng như tên gọi, tự do không chịu khuôn mình vào bất kỳ chiếc khung nào, ngay cả trong những nỗ lực của các nhà triết học, các nhà khoa học ở mọi thời đại nhằm mô tả và lý giải khái niệm tự do. Có lẽ vì thế, cho đến nay, tự do là cái gì đó quen thuộc mà vẫn xa lạ đối với con người. Nhận thức của nhân loại về tự do mới chỉ dừng lại ở những phát hiện của các nhà triết học thời kỳ Khai sáng. Trong khi đó, với tư cách là một đối tượng triết học quan trọng, bên cạnh những nội dung nguyên thuỷ, khái niệm tự do vẫn đang không ngừng vận động và ngày càng chứa đựng thêm nhiều nội dung mới. Tự do vừa là bản chất tự nhiên, vừa là khát vọng thường trực của mỗi người. Ai cũng yêu tự do, ai cũng khao khát tự do. Tự do mạnh mẽ và vĩ đại ở chỗ tìm kiếm nó trở thành bản năng sống còn của con người. Càng thiếu tự do, con người càng khao khát tự do, giống như sự thèm muốn bị thôi thúc bởi cơn khát khi không có nước. Chính vì thế, không một con người nào yên phận sống trong sự nô dịch của người khác và không một dân tộc nào cam chịu sống trong sự kìm kẹp của dân tộc khác. Các cuộc kháng chiến chính là để giải phóng con người ra khỏi sự nô dịch và kiềm toả. Sự mãnh liệt của khát vọng tìm kiếm tự do là một trong những tiêu chuẩn để đo đạc sự lành mạnh của một dân tộc. Trong lịch sử phát triển của nhân loại, Phương Tây là mảnh đất đầu tiên có tự do, ở đó khát vọng tự do của con người được đáp ứng và chính sự gặp gỡ của con người với tự do đã tạo ra trạng thái phát triển rực rỡ. Kết quả của quá trình phát triển lâu dài của văn minh phương Tây là: tự do, với tư cách như một đối tượng thơ ca, được mô tả như những thiên thần bay bên trên đời sống tinh thần con người; và, tự do, với tư cách như một đối tượng triết học, được cụ thể hoá thành những nguyên tắc cấu tạo ra xã hội, cấu tạo ra nhà nước. Quan điểm về tự do của phương Tây có thể được tóm tắt như sau: tự do được coi là quyền tự nhiên của con người, là không gian vốn có của mỗi con người. Con người sinh ra đã có tự do, tự do như tài sản hay vốn tự có của mỗi người. Cốt lõi của văn hoá phương Tây chính là những tư tưởng, quan điểm về chủ nghĩa cá nhân, ý thức nhân quyền và thể chế dân chủ. Dựa trên tinh thần tuyệt đối của tự do cá nhân, phương Tây coi tự do là chất xúc tác cơ bản của đời sống, là năng lượng tạo ra đời sống con người và lẽ tất yếu, trở thành linh hồn của mọi sự tiến bộ và phát triển. Tự do chỉ có thể nảy nở ở vùng đất mà những nhận thức về tự do cũng như mối quan tâm dành cho tự do được mở rộng và khơi sâu. Điều này đúng với phương Tây, nơi các học giả bàn về tự do một cách sôi nổi và đầy cảm hứng, trong khi ở phương Đông thì gần như xảy ra điều ngược lại, bởi lẽ hầu hết các học giả đều có khuynh hướng thu hẹp không gian tự do của con người. Khoa học nhận thức ở phương Đông chưa làm rõ được khái niệm tự do cũng như xây dựng phạm trù tự do đúng đắn. Chính vì thế, người phương Đông chưa hiểu đúng bản chất của tự do, vẫn xem tự do như một cái gì đó ở bên ngoài, bên trên cuộc sống. Trong quan niệm của họ, tự do là cái cho phép hay là cái được ban phát từ trên xuống, như là một ân sủng của đấng tối cao trao cho con người. Những nhận thức lệch lạc và mơ hồ như thế về tự do đã làm hạn chế rất nhiều năng lực phát triển của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng. Hay nói cách khác, phương Đông lạc hậu vì chưa bao giờ xem tự do như đối tượng chính hay linh hồn của tiến trình phát triển xã hội. Do đó, trong các cuộc cải cách, cái cần thay đổi trước tiên ở phương Đông là nhận thức về tự do. Điều quan trọng nhất mà phương Đông cần nhận thức là: tự do không phải là một loại quyền được trao tặng bởi bất kỳ ai, bất kỳ lực lượng nào mà nó là tài sản tự nhiên của con người. Điều này có nghĩa tự do không phải là không gian cho phép, không một nhà nước nào có quyền ban phát tự do cho con người. Nói cách khác, con người phải ra khỏi trạng thái nhận thức tự do như là sự nhân nhượng của bề trên đối với kẻ dưới, tức là trạng thái thụ động đón nhận tự do. Cần phải khẳng định tự do không phải là thứ gì đó ở bên ngoài cuộc sống, tự do thuộc về con người, tự do gắn liền với con người với tất cả hình hài cụ thể của nó. Tự do là nhà ở, tự do là đường đi, tự do là bãi cỏ rộng mênh mông, là thức ăn, là nước uống. Tự do là tất cả những gì liên quan đến đời sống con người kể cả vật chất lẫn tinh thần. Tự do muôn hình muôn vẻ và thiêng liêng đến mức không có định kiến nào trói buộc được nó, hễ bị kìm kẹp bởi định kiến là con người mất tự do. Tự do là cái mà trí tưởng tượng của con người luôn vươn tới, hay nói cách khác, trong trí tưởng tượng của mình, con người luôn cảm thấy đằng sau nó vẫn cònnó. Nếu đằng sau nó không là gì nữa, không còn nó thì không phải tự do. Tự do là một không gian dành cho mỗi cá nhân, tuỳ thuộc vào khả năng của mình, mỗi cá nhân đều có quyền làm chủ không gian ấy, khai thác nó và hơn nữa là mở rộng nó. "Chúng ta phải tự do chỉ để được hiện hữu một cách nào đó. Hiện hữu của con người là tự do. Kẻ không có tự do không phải là con người" (Jean Paul Sartre). Có nhiều cách định nghĩa về tự do, một trong những định nghĩa phổ biến nhất là của Hegel: “Tự do là cái tất yếu được nhận thức”. Tự do ở đây không phải là thứ tự do bản năng mà là thứ tự do trong mối tương quan với cái tất yếu, và cái tất yếu được hiểu là các quy luật tự nhiên. Định nghĩa này cho thấy ranh giới giữa trạng thái tự do và trạng thái không có tự do chính là sự nhận thức được cái tất yếu. Con người càng nhận thức được cái tất yếu bao nhiêu thì càng tự do bấy nhiêu. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải ai cũng hiểu tự do như là kết quả của việc nhận ra cái tất yếu. Nhận thức về cái tất yếu là một năng lực vô cùng quan trọng và là việc không hề đơn giản đối với con người. Không phải ngẫu nhiên, nhiều khi con người không nhận ra cái tất yếu để hành động, do đó, phần đông con người vẫn không hiểu về tự do và giá trị cao quý của tự do. Có một điều cần phải nhìn nhận là ranh giới giữa tự do và không tự do rất mong manh, con người thường chỉ nhận ra tự do khi vướng phải ranh giới của sự thiếu tự do hay nói khác đi, chừng nào chưa vướng phải các ranh giới của sự thiếu hoặc mất tự do thì con người vẫn chưa cảm thấy giá trị của tự do, của cuộc sống tự do. Chính vì vậy, con người cần những định nghĩa gần gũi hơn về tự do. Tôi cho rằng, tự do là một đại lượng có chất lượng rỗng, một tập hợp rỗng, điều ấy có nghĩa, tự do là một không gian, nhưng người ta không đi lang thang trong đó mà người ta đi theo các đòi hỏi. Con người luôn hành động theo đòi hỏi của tâm hồn mình. Chính sự thúc bách của nghĩa vụ, của những đòi hỏi nội tại trong đời sống tâm hồn khiến con người hành động. Khi con người hành động theo các đòi hỏi mà không bị ngăn cản thì lúc đó, con người có tự do. Như vậy, tự do được biểu hiện đầu tiên ở sự chủ động. Sự chủ động không xuất hiện một cách ngẫu nhiên mà do sự thúc bách của tâm hồn. Nếu không có sự thúc bách từ bên trong tâm hồn tức là không chủ động. Chủ động là điều kiện ban đầu để con người nhận được cảm giác hạnh phúc khi thực thi các quyền tự do, đồng thời, chủ động là trạng thái mà con người đạt được khi có tự do hay có kinh nghiệm về tự do. Chúng ta có thể cảm nhận được con người tự do là con người không bị lệ thuộc, biết đi tìm cái đúng, biết nghĩ đến cùng và biết xây dựng cho mình công nghệ để hành động theo trí tưởng tượng của mình. Vì thế, tự do được tập hợp dưới hình thức các quyền tạo ra những không gian chính trị mà ở đấy con người hành động dựa trên nhận thức của mình về các tất yếu. Nói cách khác, tự do là khoảng không gian mà ở đó con người có được sự thống nhất giữa ý nghĩ và hành vi, con người yên tâm về sự tồn tại của mình, về hành động của mình mà không chịu sự áp đặt, kiềm tỏa của bất kỳ yếu tố nào. Kết lại, để định nghĩa về tự do, tôi cho rằng tự do là quá trình dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi. Khi có sự dịch chuyển song song của ý nghĩ và hành vi thì con người chủ động. Ý nghĩ và hành vi là hai thành tố căn bản của tự do, đó là tự do nhận thức và tự do hành động. Con người tự do là con người được tự do nhận thức và tự do hành động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống. Chúng ta biết rằng, thể hiện sống của con người là hành động, nhưng thể hiện sống của cái trước hành động là ý nghĩ. Tự do nhận thức là nền tảng để con người đi tới tự do hành động. Không có tự do nhận thức, con người không thể có tự do hành động bởi vì khi ấy, con người luôn vấp phải các ranh giới về mặt nhận thức, do vậy, con người sẽ cảm thấy bị hạn chế, bị mất tự do ngay từ trong ý nghĩ chứ không chỉ trong hành vi của mình. Tự do nhận thức sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển và dịch chuyển của ý nghĩ, trong khi đó, tự do hành động sẽ tạo điều kiện cho sự dịch chuyển của hành vi tương ứng và phù hợp với sự dịch chuyển của ý nghĩ. Mặt khác, tự do nhận thức là điều kiện tiên quyết để xây dựng các không gian nhận thức của mỗi cá nhân, từ đó mới hình thành một vườn ươm tư duy của cộng đồng. Khu vườn đó chỉ đa dạng và phong phú chừng nào tự do nhận thức được công nhận như một trong những nguyên lý căn bản nhất. Sự phong phú và đa dạng về mặt nhận thức sẽ dẫn tới sự phong phú và đa dạng của hành động. Đó chính là nhân tố tạo ra tính đa chiều của các không gian kinh tế, chính trị và văn hoá - điều kiện cần và đủ để mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng, mỗi nhà nước duy trì và phát triển sự đúng đắn của mình. Đến lượt mình, tự do hành động lại tạo điều kiện cho việc mở rộng không gian nhận thức của mỗi cá nhân và cộng đồng, bởi thông qua tự do hành động, con người có điều kiện làm phong phú kinh nghiệm sống, kinh nghiệm văn hoá của mình, và do đó, có thể xúc tiến những cái mới về nhận thức và tự điều chỉnh nhận thức của mình. Đấy chính là mối liên hệ hữu cơ giữa hai thành tố cơ bản nhất của tự do. Ở một xã hội mà sự dịch chuyển song song này diễn ra thuận lợi trong một trật tự hài hoà thì xã hội ấy sẽ đạt tới trạng thái tự do. Tóm lại, tự do không hề xa lạ, nó là bản chất tự nhiên của con người. Tự do gắn liền với đời sống con người từ quá khứ, đến hiện tại, đến tương lai như một công cụ để tồn tại, để sống và để phát triển. Càng ngày, những nghiên cứu về tự do càng cho thấy sự cần thiết phải biến tự do trở thành cấu trúc tinh thần hay trở thành thực phẩm hàng ngày của đời sống tinh thần con người. Con người phải thấy được giá trị, địa vị của tự do trong đời sống và ứng dụng nó để tạo ra hạnh phúc của mình. Tự do là một khái niệm nhiều chiều, nhiều thành tố. Con người có thể nhận thức, chiêm nghiệm những khía cạnh của tự do như một khái niệm ở tầng cao triết học, chính trị học nhưng không chỉ có thế, con người còn có thể cảm nhận được tự do một cách sinh động, hàng ngày, thông qua các cảm giác của mình. Trong tâm hồn con người luôn luôn hiện hữu những cảm giác của tự do. Đó là tình yêu tự do bản năng, là cảm hứng sáng tạo, là danh dự, là hạnh phúc. Như đã nói ở trên, con người thường chỉ nhận ra tự do khi vướng phải ranh giới của sự thiếu tự do. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là khát vọng về tự do không thường trực trong mỗi người. Tự do có thể không hiện hữu ở tất cả mọi nơi nhưng tình yêu đối với tự do bao giờ cũng tồn tại trong con người như một bản năng. Có thể tình yêu tự do được thể hiện mạnh mẽ ở người này, cũng có thể ở trạng thái “ngủ” hay chưa được đánh thức ở người kia, nhưng con người nói chung luôn khao khát tự do một cách bản năng. Điều này cũng giống với việc không chỉ những người biết chơi cờ mà ngay cả những người không biết chơi cờ vẫn đến tham dự một cách hồ hởi vào những ngày hội đấu cờ. Bởi lẽ, mặc dù không phải là người chơi cờ nhưng con người luôn cảm thấy niềm vui khi được thưởng thức cảm giác tự do của việc đánh cờ trong một bàn cờ đầy quy tắc. Xã hội dân chủ cũng giống như một bàn cờ, đó là một xã hội tự do và đầy cảm hứng trong mối tương quan với những quy tắc hợp lý và thống nhất. Tuy nhiên cũng cần nói thêm, nếu coi niềm vui là cảm giác có được khi đi những nước cờ đầy tự do và sáng tạo mà không hề vi phạm những quy tắc chơi cờ thì không chỉ những người dân trong xã hội dân chủ, mà ngay cả người dân ở những xã hội chưa có nền dân chủ cũng cảm thấy được niềm vui đó. Bởi vì tình yêu tự do bản năng chính là mối liên hệ ngầm giữa những con người lành mạnh. Đôi khi con người cũng nổi hứng tự do, đó là lúc cái bản năng tự do không được kiểm soát, nó trỗi dậy một cách phung phí. Hoặc có khi, tự do bị tước đoạt khiến con người có những phản ứng, đó là phản ứng trước sự thiếu tự do hay sự yếm khí của con người.
Tự do
Tự do, theo triết học, liên quan đến ý chí tự do so với thuyết quyết định. Theo Oxford English Dictionary, tự do là "thực tế của việc không bị kiểm soát bởi một thế lực đối với số phận; ý chí tự do". Trong chính trị, tự do bao gồm các quyền tự do xã hội và tự do chính trị mà tất cả các thành viên cộng đồng xã hội được hưởng và là tự do dân sự. Trong thần học, tự do là tự do khỏi những ảnh hưởng của "tội lỗi, tâm lý nô lệ, hoặc mối quan hệ ràng buộc với thế gian".Nói chung, tự do ở đây được đề cập như một quyền lợi, khái niệm theo triết học và chính trị, là khác biệt với trạng thái hoặc khả năng tự do trong đó chủ yếu, nếu không phải là độc nhất, tình trạng tự do là khả năng tự quyết, làm theo một ý chí và điều gì có quyền làm; trong khi quyền tự do liên quan đến việc không có những hạn chế tùy tiện và xem xét các quyền của tất cả những người có liên quan. Như vậy, việc thực hiện quyền tự do là tùy thuộc vào khả năng và giới hạn trong tương quan bởi quyền của những người khác.
Một sự khiếu nại thể dục lớn nhưng soccer cả nước rất mong chờ mẫu húi vô địch.Bạn đang xem: Asiad cup là gì. ASIAD – Đại hội thể dục thể thao châu Á giỏi nói một cách khác là Á vận hội là một trong những sự kiện thể dục thể thao được tổ chức triển khai 4 năm một lần với việc tham gia của các vận tải viên các nước ngơi nghỉ Á Lục. Đây được xem là sự khiếu nại thể dục thể thao có khá nhiều môn thi đấu Khủng sản phẩm công nghệ nhì thế giới, chỉ lép vế Đại hội Thể thao Thế giới tốt Thế vận hội. Tiền thân của giải bóng đá lớn hàng đầu Á Lục này được mang thương hiệu “Giải vô địch các giang sơn Viễn Đông” là một trong giải đấu nhỏ dại được tổ chức lần trước tiên tại Manila, Philippines năm 1913, để nhấn mạnh vấn đề tình liên hiệp thống nhất, cùng hợp tác của bố quốc gia: China Dân Quốc, Đế quốc Japan với Philippines. Càng sau đây số lượng các đất nước Châu Á tham gia ngày 1 đông nhưng lại đến năm 1938, giải bị hủy với xong tổ chức triển khai bởi Japan xâm lăng Trung Hoa cùng ảnh hưởng vị cuộc chiến tranh nhân loại lắp thêm hai ở Thái Bình Dương. Năm 2018 vừa mới rồi, ASIAD 2018 đã làm được tổ chức sinh hoạt thị thành Jakarta của Indonesia. Chắc chắn rằng, người ái mộ cũng cực kỳ mong đợi mang lại năm 2022 nhằm tận mắt chứng kiến những trận cầu đỉnh điểm của Châu Á. Hàng Châu là đô thị thiết bị 3 của Trung Quốc đăng cai Đại hội thể dục Á Lục, sau Bắc Kinc cùng Quảng Châu. Đây là đất nước rất là có tiềm năng tổ chức triển khai phần lớn giải đấu béo, họ sẽ bỏ ra 44 địa điểm được thực hiện trong kì đại hội này, trong các số đó tất cả 30 nơi ở trung tâm thị trấn, 10 vị trí đang rất được thiết kế cùng 4 chỗ khác sẽ trong quy trình lập chiến lược. Hằng năm, ASIAD được tổ chức với trên 40 môn thể dục cùng sát 10 môn trong số kia ko phía trong khối hệ thống thi đấu của Olympic. ASIAD: tuyệt còn gọi là ASIAD GAMES là đại hội thể dục thể thao châu Á với tương đối nhiều bộ môn thể thao khác biệt. Các nhóm tham dự ASIAD chưa phải là đội tuyển chọn non sông mà là team Olympic được tổ chức 4 năm 1 lần. ASIAN CUP: là giải vô địch bóng đá châu Á, xuất xắc cụp soccer châu Á, là giải đấu dành riêng cho cấp độ nhóm tuyển giang sơn, có truyền thống cuội nguồn lâu lăm và cũng được tổ chức 4 năm 1 lần. U23 Châu Á: là giải đấu giành riêng cho các cầu thủ trường đoản cú 23 tuổi trsống xuống, tổ chức triển khai 2 năm 1 lần.
Đại hội Thể thao châu Á 1951
Đại hội Thể thao châu Á 1951, hay Á vận hội 1951, là một sự kiện thể thao tổng hợp được tổ chức tại Delhi, Ấn Độ từ ngày 4 đến ngày 11 tháng 3 năm 1951. Tổng cộng có 489 vận động viên đại diện cho 11 ủy ban Olympic quốc gia tại châu Á tham dự trong 57 sự kiện của tám môn. Đại hội là sự kế thừa của Đại hội Thể thao Viễn Đông và là sự hồi sinh của Đại hội Thể thao Tây Á. Đại hội Thể thao châu Á 1951 ban đầu được lên kế hoạch tổ chức trong năm 1950, tuy nhiên nó bị hoãn sang năm 1951 do công tác chuẩn bị chậm trễ. Ngày 13 tháng 2 năm 1949, Liên đoàn Thể thao châu Á chính thức thành lập tại Delhi, và Delhi được nhất trí công bố là thành phố đầu tiên đăng cai Đại hội Thể thao châu Á. Ủy ban tổ chức Đại hội mời hầu như toàn bộ các quốc gia độc lập tại châu Á vào đương thời, ngoại trừ Liên Xô và Việt Nam do cấu trúc chính trị của các quốc gia này. Sân vận động Quốc gia được sử dụng làm địa điểm tổ chức tất cả các sự kiện của Đại hội.
Hội chứng thận hư là căn bệnh phổ biến ở cả người lớn và trẻ em. Bệnh xảy ra do nhiều nguyên nhân, biểu hiện ở các triệu chứng khác nhau. Nếu không có cách điều trị kịp thời có thể gây ra những biến chứng cực kì nguy hiểm. Hội chứng thận hư (Nephrotic Syndrome) là bệnh lý chứng lâm sàng và chuyển hóa do tổn thương ở cầu thận, được đặc trưng bởi phù, protein niệu cao, protein máu giảm. Trong đó, màng lọc cầu thận bị tổn thương làm thoát protein vào nước tiểu. Định mức về hội chứng thận hư là protein trong nước tiểu càng cao thì lượng protein trong máu càng giảm làm giảm áp lực keo trong máu, do đó nước thoát ra ngoài lòng mạch gây phù và giảm thể tích tuần hoàn hiệu dụng. Hội chứng thận hư là căn bệnh khá nguy hiểm, nếu không được điều trị kịp thời có thể gây ra nhiều biến chứng khôn lường, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, sinh hoạt và đời sống của các bệnh nhân. Các triệu chứng hội chứng thận hư nếu không có sự hiểu biết để phân biệt và so sánh rõ ràng sẽ rất dễ nhầm lần với các triệu chứng của những bệnh lý khác. Theo đó, để nhận biết tình trạng bệnh một cách chính xác nhất, bạn cần chú ý đến các biểu hiện sau:. Hiện tượng sưng phù: sưng phù thường xuất hiện nhanh và đột ngột, phù to toàn thân, phù mềm, trắng, ấn lõm, không thay đổi trong ngày và ăn nhạt ít giảm phù (phân biệt với phù trong các bệnh lý khác). Hội chứng thận hư có thể gây ra phù có thể kèm theo các triệu chứng tràn dịch đa màng (màng phổi, màng tim, màng bụng). Tiểu ít: lượng nước tiểu giảm dưới 400 ml trong 24 giờ, dần dần dẫn đến vô niệu. Nước tiểu ở người mắc căn bệnh này thường sủi bọt do có chứa nhiều protein. Thể tích tuần hoàn giảm, thể tích máu giảm dẫn đến da xanh, mệt mỏi, chán ăn. Huyết áp của của bệnh nhân bị hội chứng thận hư có thể giảm, bình thường hoặc tăng tùy thuộc theo mức độ tăng tiết angiotensin. xét nghiệm nước tiểu có protein niệu cao (trên 3.5g trong 24 giờ). Trong nước tiểu có trụ trong, hạt mỡ. Nếu có hồng cầu trong nước tiểu thì có thể dự đoán nguyên nhân gây ra hội chứng thận hư là viêm cầu thận. Với hội chứng nguyên phát đơn thuần tổn thương tối thiểu: có khoảng 10% bệnh nhân có thể tự khỏi không cần điều trị, hoặc đáp ứng nhanh với điều trị. Hội chứng thận hư do viêm cầu thận thường hay tái phát và nhanh dẫn đến suy thận. Hội chứng thứ phát do các bệnh khác: tiến triển và biến chứng tùy thuộc bệnh chính. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới hội chứng thận hư, có thể do bệnh nguyên phát ở cầu thận hoặc thứ phát sau một số bệnh khác. Hội chứng thận hư đơn thuần tổn thương tối thiểu: gây ra rối loạn các chức năng thận. Đây cũng chính là nguyên nhân phổ biến nhất dẫn đến hội chứng ở trẻ em. Protein niệu trên 3.5g trong 24 giờ (với người lớn) và trên 50mg/kg trong 24 giờ (đối với trẻ em). Protein máu dưới 60g/L, Albumin máu dưới 30g/L (đối với người lớn bị hội chứng thận hư) và Protein máu dưới 40g/L, Albumin máu dưới 25 g/L (đối với trẻ em). Cholesterol máu trên 6.5 mmol/L (với người lớn) và có Cholesterol máu tăng (với trẻ em). Trong nước tiểu người bệnh hội chứng thận hư có hạt mỡ lưỡng chiết, trụ mỡ. Thận hư thể đơn thuần: có đầy đủ các tiêu chuẩn chẩn đoán, không kèm theo tăng huyết áp, hồng cầu niệu hoặc suy thận. Thận hư thể kết hợp: ngoài tiêu chuẩn chẩn đoán thông thường còn có tăng huyết áp, đái máu và có thể có suy thận kèm theo. Theo ý kiến của chuyên gia, căn bệnh này hoàn toàn có thể chữa khỏi được. Tuy nhiên do đây là một bệnh mãn tính, quá trình tiến triển chậm, diễn ra theo từng đợt nên khó điều trị. Hơn nữa, bệnh điều trị khỏi nhưng lại dễ tái phát sau đó, việc chữa khỏi triệt để là rất khó. Có nhiều phương pháp điều trị khác nhau nhưng dễ gây ra biến chứng và tái phát lại sau đó nên người bệnh nhất định phải tuân theo phát đồ của bác sĩ. Kiên trì hợp tác với bác sĩ để điều trị lâu dài, không ngừng thuốc và đặc biệt không sử dụng thêm loại thuốc nào bên ngoài không rõ nguồn gốc, chúng sẽ khiến thận thêm gánh nặng thêm suy yếu. Bổ sung các dung dịch làm tăng áp lực keo: truyền Albumin khi cần. Lưu ý, bệnh nhân bị hội chứng thận hư không nên truyền quá nhiều vì sẽ dẫn tới suy thận nhanh. Lợi tiểu: chỉ dùng khi bệnh nhân đã được bù Albumin và không còn nguy cơ giảm thể tích tuần hoàn. Lợi tiểu hay được sử dụng là lợi tiểu kháng Aldosterol (Spironolacton) và phối hợp với lợi tiểu quai Furosemid khi cần. Mặc dù vẫn chưa có đầy đủ các bằng chứng về cơ chế rối loạn miễn dịch của bệnh nhưng thực tế đã cho thấy rằng các bệnh nhân có đáp ứng tốt Corticoid và các thuốc ức chế miễn dịch. Corticoid thường sử dụng để điều trị hội chứng thận hư là Prednisolon và Methylprednisolon. Một đợt điều trị thuốc thường kéo dài khoảng 12 tháng và được chia thành 3 giai đoạn: tấn công, củng cố và duy trì với liều và thời gian điều trị khác nhau ứng với từng giai đoạn. Điều trị nhiễm trùng: sử dụng kháng sinh theo kháng sinh đồ, nếu cần thiết phải giảm liều Corticoid và thuốc ức chế miễn dịch nếu nhiễm trùng là nặng và khó điều trị. Trong quá trình chữa hội chứng thận hư cần thường xuyên theo dõi đáp ứng điều trị. Việc theo dõi chặt chẽ cho phép đánh giá tiến triển và tiên lượng bệnh. Các chỉ số cần theo dõi: protein niệu 24 giờ, hồng cầu niệu, huyết áp, tình trạng phù và công thức máu. Không nên ăn uống quá mặn, các thức ăn có nêm quá nhiều loại gia vị. Các món ăn này rất có hại cho thận trong giai đoạn phát bệnh. Hạn chế uống nhiều nước khi bị phù nhiều. Trong giai đoạn bị phù nề, nạp thêm nước vào cơ thể sẽ làm người bệnh bị phù nặng hơn. Người bệnh cần đảm bảo lượng protein cung cấp đủ protein hàng ngày. Chỉ số protein bổ sung cần thiết với người bị thận hư là 0,8-1,2 gam cho một ngày. Khi lượng albumin trong máu giảm còn dưới mức 25g/lít máu sẽ làm sưng phù cơ thể. Lúc này, cần tăng áp lực bằng việc bổ sung albumin 20% trong 50ml hoặc 25% trong 100ml. – Dùng lợi tiểu: Sau khi đã áp dụng chế độ ăn uống phù hợp, nạp thêm lượng protein cần thiết, bệnh nhân nên sử dụng các hợp chất lợi tiểu kháng aldosteron như furosemide hoặc spironolactone (có chứa thành phần verospiron cùng với aldactone). Lưu ý trong quá trình dùng thuốc lợi tiểu cần kiểm tra lượng nước tiểu, cân nặng, xét nghiệm thành phần máu. Liều dùng của hai loại hợp chất lợi tiểu như sau:. Căn bệnh này được điều trị bằng thuốc đặc hiệu hoặc thuốc cải thiện các triệu chứng, kết hợp với chế độ ăn nghiêm ngặt phức tạp. Thời gian điều trị thận hư bao lâu còn phụ thuộc vào mức độ thận hư như thế nào, áp dụng phương pháp điều trị nào, tình hình sức khỏe của người bệnh cũng như môi trường, điều kiện sống ra sao,…. Thông thường thời gian điều trị căn bệnh này kéo dài từ 6 – 12 tháng, cũng có trường hợp hiệu quả sau khoảng 2 – 3 tuần nhưng rất ít. Theo Đông y, hội chứng thận hư sinh ra do thận dương kém, thận khí bất ổn dẫn đến rối loạn hoạt động của thận. Để chữa trị hiệu quả, cần sử dụng các thảo dược có tính ôn, bình để cân bằng âm dương, điều hòa khí huyết, phục hồi chức năng của thận. Đây cũng chính là lý do Cao bổ thận Tâm Minh Đường trở thành lựa chọn hàng đầu của nhiều bệnh nhân muốn điều trị triệt để. Cao Bổ Thận là sự phối hợp hoàn hảo của 6 loại thảo dược đặc trị có trong các bài thuốc nổi tiếng của Đông y. Trong đó, sự xuất hiện của cẩu tích thực sự là điểm sáng của bài thuốc. Cẩu tích là phần lông của cây cu li mọc ở nơi đất đồi cứng. Loại thảo dược này có tác dụng trị hội chứng thận hư hiệu quả nhờ vào khả năng bồi bổ can thận, điều hòa bài tiết. Khi cẩu tích kết hợp với 5 vị thảo dược còn lại, chúng tạo ra một bài thuốc có khả năng vừa điều trị dứt điểm hội chứng thận hư, vừa phục hồi chức năng cầu thận, tăng cường sinh lý. Sự khác biệt của Cao bổ thận còn nằm ở quy trình chế biến thuốc. Sản phẩm được chiết xuất hoàn toàn từ thảo dược tươi. Toàn bộ dược liệu được nấu và cô đặc suốt 48h ở mức nhiệt 100 độ C. Dạng cao tinh chất sắc đặc, không lợn cợn mang tới cho bệnh nhân giải pháp chữa trị hội chứng thận hư hiệu quả chỉ sau 1 đến 2 tháng. Nhờ những ưu điểm nổi bật kể trên, Cao bổ thận Tâm Minh Đường luôn là sản phẩm được giới chuyên môn đánh giá cao. Sản phẩm đã và đang chinh phục lòng tin của hàng ngàn bệnh nhân muốn chữa hội chứng thận hư triệt để, không tái phát. Điển hình là trường hợp của anh Lê Văn Hoàng, đã chiến thắng bệnh thận hư ở tuổi 43, lấy lại sự tự tin cho phái mạnh. Mời bạn đọc lắng nghe chia sẻ của anh trong đoạn video ngắn dưới đây:
Chứng thận hư
Hội chứng thận hư là một tập hợp các triệu chứng do tổn thương thận. Điều này bao gồm protein trong nước tiểu, nồng độ albumin trong máu thấp, lipid máu cao, và phù nề phù nề đáng kể. Các triệu chứng khác có thể bao gồm tăng cân, cảm thấy mệt mỏi và nước tiểu có bọt. Các biến chứng có thể bao gồm cục máu đông, nhiễm trùng và huyết áp cao. Nguyên nhân bao gồm một số bệnh thận như xơ chai cầu thận khu trú từng vùng, xơ chai cầu thận khu trú từng vùng, bệnh thận màng, bệnh thay đổi tối thiểu. Nó cũng có thể xảy ra như một biến chứng của bệnh tiểu đường hoặc bệnh lupus. Cơ chế cơ bản thường liên quan đến tổn thương các cầu thận của thận. Chẩn đoán thường dựa trên xét nghiệm nước tiểu và đôi khi sinh thiết thận. Nó khác với hội chứng thận hư ở chỗ không có hồng cầu trong nước tiểu. Điều trị được hướng vào nguyên nhân cơ bản. Các nỗ lực khác bao gồm kiểm soát huyết áp cao, cholesterol trong máu cao và nguy cơ nhiễm trùng. Chế độ ăn ít muối và chất lỏng hạn chế thường được khuyến cáo.
Vào năm 2016, trên internet đã có nhiều cuộc tranh luận liên quan tới hình ảnh Kim tự tháp kì lạ trên Google Earth ghi lại ở Nam Cực. Những hình ảnh cho thấy những gì dường như là ba Kim tự tháp với bốn mặt tương tự như kim tự tháp Giza nổi tiếng ở Ai Cập. Sau đó đã có rất nhiều giả thuyết về nguồn gốc của những Kim tự tháp này. Một số gợi ý gây tranh cãi hơn cho rằng Kim tự tháp là tàn dư của một nền văn minh Atlantis huyền thoại trước đó ở Nam Cực. Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu khác đã đề xuất một lời giải thích liên quan đến địa chất tự nhiên cho các Kim tự tháp ở Nam Cực. Các nhà khoa học đề xuất rằng các Kim tự tháp có thể là nunatak (đảo băng). Nunatak là những đỉnh núi nhô ra khỏi băng và cao hơn địa hình xung quanh. Hai trong số các Kim tự tháp ở Nam cực có thể được tìm thấy ở khoảng cách 16 km từ bờ biển. Kim tự tháp thứ ba được cho nằm gần bờ biển. Việc phát hiện ra những Kim tự tháp kì lạ này cho thấy Nam Cực có thể đã có con người sinh sống vào khoảng 6.000 năm trước. Nghiên cứu của nhà nghiên cứu Charles Hapgood ủng hộ sự tồn tại của một nền văn minh cổ đại trên một lục địa hiện đang bị băng bao phủ. Trước đó, với Bản đồ của các vị vua biển cổ đại, tiến sĩ Charles Hapgood đã công bố bản đồ Piri Reis ở Nam Cực. Bản đồ thế kỷ XVI này đã gây chấn động thế giới thời điểm đó vì nó cho thấy Nam Cực… không có băng. Điều này được suy đoán liên quan đến sự tồn tại của một nền văn minh chưa từng được biết đến. Piri Reis là một bản đồ thế giới biên soạn vào năm 1513 từ tình báo quân sự của hải quân Ottoman và nhà bản đồ học Piri Reis. Điểm bí ẩn là tấm bản đồ đã thể hiện một số khu vực vốn chưa được con người khám phá tại thời điểm tấm bản đồ ra đời như vùng biển Bắc Nam Cực. Bằng cách nào mà khi đó con người có thể vẽ lại chính xác bờ biển phía Bắc Nam Cực? Một giả thuyết đặt ra cho rằng đây là kết quả từ việc thám hiểm toàn cầu của một nền văn minh cổ đại chưa từng được biết đến. Bản đồ này được tình cờ phát hiện vào năm 1929 bởi nhà thần học người Đức, Gustav Adolf Deissmann (1866-1937). Ông được Bộ Giáo dục Thổ Nhĩ Kỳ ủy nhiệm để tạo danh mục các hiện vật ngoài Hồi giáo trong thự viện cung điện Topkapi. Trong quá trình đó, Deissmann đã phát hiện ra một tấm bản đồ cổ. Nhận thấy đây có thể là một phát hiện độc đáo, Deissmann đem đến cho nhà Đông phương học Paul Kahle, người đã xác định đây chính là bản đồ Piri Reis. Phát hiện này đã thu hút nhiều sự quan tâm, vì dường như nó đã tái hiện lại tấm bản đồ (bị thất lạc) của Christopher Columbus (1451-1506) trong thế kỉ XVI, cho thấy Nam Mĩ trong tương quan chính xác với Châu Phi. Trong khi đó, nhiều nhà nghiên cứu trong nhiều năm đã thất bại khi tìm kiếm "tấm bản đồ thất lạc của Columbus", tấm bản đồ được cho rằng do Columbus vẽ khi đang ở Tây Ấn. Thậm chí, sau khi đọc phát hiện về tấm bản đồ Piri Reis, Ngoại trưởng Hoa Kỳ khi đó, Henry L. Stimson đã liên lạc với Đại sứ Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ để tìm tấm bản đồ Columbus. Tấm bản đồ Piri Reis sử dụng nhiều nguồn tham khảo khác nhau. Trong đó bao gồm mười nguồn Ả Rập, bốn bản đồ xứ Anh điêng (từ người Bồ Đào Nha) và một bản đồ của Columbus. Khoảng một phần ba bản đồ còn sót lại cho thấy các bờ biển phía tây của châu Âu và Bắc Phi và bờ biển Brazil với độ chính xác đáng kể. Các mảnh sót lại của bản đồ Piri Reis thấy bờ biển miền Trung và Nam Mỹ (ảnh). Hiện nay, bản đồ Piri Reis đang nằm trong thư viện của cung điện Topkapi (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ), nhưng không được trưng bày cho công chúng thường xuyên. Hình ảnh tấm bản đồ này cũng xuất hiện trên mặt trái của tờ 10 triệu đồng lira Thổ Nhĩ Kì giai đoạn 1999-2005 và của tờ tiền giấy 10 lira mới 2005-2009. Piri Reis là một họa đồ (portolan), được thể hiện bởi bốn la bàn hoa hồng (hai lớn và hai nhỏ) từ đó tỏa ra các hướng. Một số phân tích khẳng định Piri Reis là một bản đồ góc phương vị cách đều có tâm vào Cairo. Tuy nhiên, một phân tích bởi Steven Dutch vào năm 1998, cho thấy tâm bản đồ có thể là một tọa độ gần giao điểm giữa kinh tuyến gốc và xích đạo. Bán đảo Iberia và bờ biển của châu Phi được thể hiện chính xác. Trong tương quan với châu Phi, các nước châu Mỹ, bờ biển phía bắc của Nam Mĩ cũng được thể hiện khá chuẩn. Nhưng khu vực đại diện cho Bắc Mỹ gần như không giống với bờ biển thực sự của nó (không có gì đáng ngạc nhiên vì thời gian này, đây là vùng đất gần như chưa được khám phá). Đáng chú ý hơn cả là vùng Queen Maud Land, cùng với đó là phần bờ biển phía Bắc Nam Cực cũng được thể hiện trong bản đồ Piri Reis. Bằng cách nào, con người có thể vẽ lại chính xác bờ biển phía Bắc Nam Cực? Cần lưu ý rằng, những cuộc đặt chân đầu tiên đến Nam Cực của con người không sớm hơn 1820. Và bờ biển Queen Maud Land cũng không có thăm dò quan trọng nào trước khi các cuộc thám hiểm của Na Uy bắt đầu vào năm 1891. Tại thời điểm tấm bản đồ Piri Reis ra đời - năm 1513, vùng Cape Horn vẫn chưa được phát hiện và hành trình vòng quanh Ferdinand Magellan thực sự đã không thể căng buồm sáu năm sau đó. Một giả thuyết đặt ra cho rằng đây là kết quả từ việc thám hiểm toàn cầu của một nền văn minh cổ đại chưa từng được biết đến. Đây là ý tưởng mà Charles Hapgood đề cập trong cuốn sách "Bản đồ Biển Kings cổ đại" (1966). Cuốn sách này đề xuất một lý thuyết về việc thám hiểm toàn cầu của một nền văn minh cổ đại chưa được biết đến, dựa trên phân tích của ông về các bản đồ cổ và cuối thời trung cổ. Ý tưởng này cũng được lặp lại trong tác phẩm "Cỗ xe của các vị thần" của Erich von Däniken. Gregory McIntosh, một nhà nghiên cứu lịch sử bản đồ học, đã đưa ra những ý kiến có tính logic hơn khi phân tích bản đồ Piri Reis. Một số điểm dị biệt của bản đồ Piri Reis, chẳng hạn như sự xuất hiện của Quần đảo Virgin tại hai địa điểm, là do việc sử dụng nhiều bản đồ khác nhau làm nguồn. Những điểm bất hợp lý khác (chẳng hạn như các lỗi về địa lý Bắc Mỹ), có thể bắt nguồn từ sự nhầm lẫn với khu vực Đông Á. Ngoài ra, nếu để ý đến sự chính xác của bờ biển Đại Tây Dương, có hai lỗi dễ thấy. Thứ nhất, nó được biểu thị cách hàng trăm dặm về phía bắc so với vị trí đúng. Thứ hai, vùng Drake Passage hoàn toàn biến mất và bán đảo Nam Cực có lẽ được đem lồng với bờ biển Argentina. Mặc dù việc xác định độ chính xác của các khu vực trong bản đồ Piri Reis tương ứng với bờ biển Nam Cực băng giá cũng là một vấn đề nan giải. Vì ghi chú trên bản đồ cho biết khu vực này có khí hậu ấm áp nhưng hiện tại lại bao phủ bởi băng giá. Tuy nhiên, giới học giả chính thống cho rằng không có lý do để tin rằng bản đồ là sản phẩm của những kiến thức xác thực về bờ biển Nam Cực.
Bản đồ Piri Reis
Tấm bản đồ Piri Reis được khám phá năm 1929 khi cung điện Topkapi ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ đang được cải tạo thành một viện bảo tàng. Nó là một tấm bản đồ vẽ trên da linh dương, chủ yếu là các chi tiết bờ biển phía đông châu Phi và bờ biển Nam Mỹ. Tấm bản đồ này được cho là do Piri Reis, một đô đốc nổi tiếng của hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vẽ năm 1513. Chi tiết đáng chú ý của tấm bản đồ là mô tả về một vùng đất nối liền từ hướng nam với Nam Mỹ rất giống với đường bờ biển châu Nam Cực ngày nay. Nhiều học giả đã đưa ra tranh luận của mình, họ trích dẫn rằng hàng thế kỷ trước những nhà vẽ bản đồ đã mô tả được vùng đất phía nam của thế giới. Vùng đất đó có thể chỉ do ông ta chắp nối từ một truyền thuyết, mà mô tả về nó một cách ngẫu nhiên giống như bờ biển thực sự ngày nay. Có học giả lại cho rằng bản đồ Piri Reis được phát triển từ nhiều tấm bản đồ của Christopher Columbus.
Đến Ý thì chắc chắn bạn không thể bỏ qua đấu trường La Mã Colosseum nổi tiếng. Vậy đấu trường thần thoại này ở đâu và có gi thú vị không? Tham khảo ngay bài viết dưới đây của Hoàng Việt Travel để biết thêm nhiều thông tin nhé!. Đấu trường La Mã Colosseum còn được biết đến với cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfiteatro Flavio tiếng Ý. Nó được xây dựng vào khoảng năm 70 và 72 sau CN dưới thời hoàng đế Vespasian của La Mã. Dưới thời hoàng đế Domitian thì đấu trường được chỉnh sửa nhiều lần. Đấu trường La Mã là một công trình kiến trúc đứng tự do và được bao quanh bằng 80 lối vào trên mặt đất. Trong đó có 76 lối được đánh số theo chữ số La Mã để dành cho các khán giả bình thường. Nơi đây bao gồm cổng chính phía Bắc dành riêng cho các hoàng đế La Mã và các cận thần. Còn ba lối còn lại dành cho tầng lớp thượng lưu. Và tất cả lối đều được trang trí với các bức phù điêu bằng vữa sơn. Đấu trường được xây dựng với mục đích chính là làm nơi đấu của các võ sĩ. Nó còn được dùng để biểu diễn công chúng, tập trận giả trên biển, kịch cổ điển, săn thú. Mục đích tất cả là nhằm mua vui cho mọi người. Lúc mới xây dựng xong đấu trường có thể chứa 50.000 người. Sau đó các kiến trúc sư đã mở rộng thiết kế và nâng sức chứa của đấu trường lên 55.000 người. Đấu trường La Mã mở cửa tham quan bắt đầu từ 8h30 sáng. Ở đây không có thời gian cố định đóng cửa, nó thường sẽ đóng cửa vào trước khi mặt trời lặn. Khi đến đây, bạn chỉ cần 12 Euro là sẽ được vào tham quan đấu trường và đồi Palatine. Nếu trẻ em dưới 18 tuổi và người già trên 65 tuổi sẽ được miễn phí. Lưu ý là để vào phía trong đấu trường thì bạn cần thêm một khoảng tiền nhỏ nữa. Chắc hẳn bạn cũng đã biết được đấu trường La Mã Colosseum là một trong bảy kỳ quan kiến trúc mới của thế giới. Nó là công trình lịch sử hoành tráng và là biểu tượng của kiến trúc La Mã. Chính vì vậy, khi bạn có những tấm ảnh checkin ở đây sẽ rất tự hào. Đấu trường La Mã cho đến ngày nay vẫn được sử dụng. Nhà điều hành thưởng dùng tổ chức một bối cảnh ngoạn mục cho buổi hòa nhạc mùa Hè, biểu diễn lớn như Paul McCartney, Simon và Garfunkel. Do đó, nếu bạn muốn trải nghiệm những buổi biểu diễn tuyệt vời ở đây thì nên kiểm tra lịch trình trước khi đến. Điều thú vị hơn nữa là khi đến đây, bạn có thể tham quan mạng lưới hành lang quanh co của những đường hầm dưới lòng đất. Bên cạnh đó, bạn cũng đã có thể tham quan Dinh thự Domus Aurea, dinh thự của hoàng đế Nero. Nên thuê hướng dẫn viên du lịch khi đến tham quan đấu trường. Vì bạn sẽ biết thêm được nhiều thông tin, các lối đi và các nơi một cách rõ ràng nhất. Một đôi giày thể thao hay đôi dép bệt sẽ làm chuyến tham quan của bạn thêm phần thoải mái. Mặc một bộ trang phục thoải mái nhất để tham quan nhé! Vì trong quá trình tham quan bạn sẽ phải đi qua những nơi hẹp hoặc khó đi. Nếu bạn ghé thăm đấu trường mà không có dự tính trước thì hãy tản bộ và ngắm nhìn xung quanh toàn bộ đấu trường. Đặc biệt là chú ý đến các lớp dưới cùng của mái vòm, vì đây là một phương tiện cần thiết để kiểm soát đám đông. Hãy kiểm tra lịch trước khi để có thể tham gia được các buổi biểu diễn lớn như Paul McCartney và Simon và Garfunkel. Trên là những chia sẻ của Hoangviettravel.vn về đấu trường La Mã Colosseum, hy vọng với những thông tin trên sẽ giúp bạn có được những thông tin hữu ích và có được chuyến du lịch tuyệt vời. Thomas Vũ Thắng – Giám đốc công ty du lịch Hoàng Việt Travel, người có gần 30 năm kinh nghiệm làm du lịch trong và ngoài nước. Hy vọng những chia sẻ trên đây từ tôi sẽ giúp bạn có những kinh nghiệm thật hữu ích cho chuyến du lịch của mình. Cảm ơn bạn đã đọc bài viết!. Cung điện Vecchio quả thực mang nét rất cổ kính, vào đây bạn có thể hinhg dung được toàn bộ văn hóa người ý thời xưa. Bài chia sẻ về tham quan Cung điện Vecchio rất bổ ích cho chuyến đi sắp tới của mình. Các bức tượng ở Cung điện Vecchio hơi bị thô thiểng, nhìn thế mà trưng bày trước cổng vào thì hơi kì. Mình ấn tương nhất ở Cung điện Vecchio là các bức bích họa. Chúng thật sự rất đẹp và có hồn. đấu trường La Mã Colosseum là một nơi to bự chà bá ở Ý á. Đi vào đó nhìn mà sướng. Nge nói đấu trường La Mã Colosseum to lắm bự lắm bây giờ đọc bài viết mớibiết được độ khủng của nó á.
Đấu trường La Mã
Đấu trường La Mã được biết đến đầu tiên dưới cái tên Amphitheatrum Flavium theo tiếng Latinh hoặc Anfitea tro Flavio tiếng Ý, sau này gọi là Colosseum hay Colosseo, là một đấu trường lớn ở thành phố Roma. Công suất chứa lúc mới xây xong là 50 000 khán giả. Đấu trường được sử dụng cho các võ sĩ giác đấu và nô lệ có nguồn gốc tù binh chiến tranh thi đấu và trình diễn công chúng. Đấu trường được xây dựng khoảng năm 70-80 sau Công Nguyên dưới thời hoàng đế Vespasian. Đây là công trình lớn nhất được xây ở Đế chế La Mã được hoàn thành năm 80 sau Công Nguyên dưới thời Titus, với nhiều chỉnh sửa dưới thời hoàng đế Domitian. Đấu trường Colosseum vẫn được sử dụng gần 500 năm với những bằng chứng ghi chép được về trận đấu thế kỷ 6 - rất lâu sau khi Đế chế La Mã sụp đổ năm 476. Ngoài sử dụng làm nơi đấu của võ sỹ, nơi đây còn được dùng làm biểu diễn công chúng, tập trận giả trên biển, săn thú, kịch cổ điển. Công trình này dần dần không được sử dụng làm nơi giải trí nữa thời Trung Cổ.