source
stringlengths
3
14.5k
summary keyword
stringlengths
3
90
summary
stringlengths
265
1.86k
.Chu Vĩnh Khang ở cương vị ủy viên Thường vụ Bộ chính trị, Trưởng ban Chính pháp hoàn toàn có thể “dính” cả 7 loại “bí mật quốc gia”. Tờ Đa Chiều ngày 6/12 bình luận, mặc dù việc Chu Vĩnh Khang bị khai trừ đảng và có thể sẽ phải đối mặt với vành móng ngựa không có gì lạ lẫm với dư luận Trung Quốc, nhưng ngay cả giới quan sát cũng cảm thấy bất ngờ với 2 chi tiết trong vụ án đặc biệt này, một là nhà chức trách Bắc Kinh đã chọn lúc 0 giờ sáng 6/12 để công bố. Thứ hai, cùng với các tội danh có thể đoán được như tham nhũng, nhận hối lộ, quan hệ bất chính…thì tội danh “tiết lộ bí mật của đảng và nhà nước” lại có nhiều bất ngờ thú vị, đồng thời ẩn chứa nhiều “huyền cơ”. Cách giới chức Bắc Kinh công bố vụ Chu Vĩnh Khang cho dư luận biết lúc người dân hầu như đã ngủ say khiến người ta phải đặt câu hỏi tại sao. Không chỉ có vậy, truyền thông nhà nước Trung Quốc dường như cũng tỏ ra bất thường khi phải tìm cách “hạ nhiệt” vụ việc này bằng thủ thuật đưa tin. Nhân Dân nhật báo bản điện tử và hãng tin Tân Hoa Xã chỉ đặt tin Chu Vĩnh Khang ở mục Tin nóng, không phải tin nổi bật, càng không phải ở vị trí trang trọng nhất ở đầu trang như đúng mức độ của nó để người ta có thể thấy ngay. Những tờ báo khác của Trung Quốc dẫn nguồn tin 2 tờ này mới đầu cũng đưa lên mục Tin nổi bật, nhưng sau đó không lâu đều bị hạ xuống vị trí Tin nóng. Dư luận về vụ Chu Vĩnh Khang đặc biệt là trên internet đáng lẽ ra sẽ sôi nổi từ giây phút đầu tiên, nhưng nhà chức trách công bố lúc 0 giờ sáng thì mấy người có thể ngồi lướt web và đọc được? Chính vì vậy tính toán của Trung Nam Hải về việc công bố vụ Chu Vĩnh Khang lúc nửa đêm về sáng có lý do và ẩn ý trong đó. Ngạc nhiên thứ 2 trong vụ Chu Vĩnh Khang là tội danh làm lộ bí mật của đảng và nhà nước. Tờ Minh Báo ở Hồng Kông bình luận, từ rất lâu rồi cánh truyền thông tiếng Hoa hải ngoại không lạ gì về những thông tin Chu Vĩnh Khang và người nhà, thuộc cấp tham ô, ăn hối lộ, lạm dụng quyền lực hay thậm chí là quan hệ bất chính với phụ nữ. Nhưng việc ông Khang bị cáo buộc “làm lộ bí mật của đảng và nhà nước” thì là lần đầu tiên, chưa từng thấy và cũng chưa ai từng nghĩ đến. Điều đó càng cho thấy màu sắc chính trị trong vụ án nổi tiếng này. Tờ Tin tức Tài chính thì thắc mắc, vậy tội danh “làm lộ bí mật của đảng và nhà nước” mà Chu Vĩnh Khang đang phải gánh có dẫn đến việc công khai xét xử ông như những gì đã xảy ra với Bạc Hy Lai hay không. Một khả năng “chấn động” hơn nữa có thể là, bí mật mà Chu Vĩnh Khang tiết lộ có liên quan đến vụ Bạc Hy Lai. Có thể ông Khang đã báo cho Bạc Hy Lai biết tin về việc xử lý vụ Vương Lập Quân chạy vào Lãnh sự quán Mỹ ở Thành Đô. Báo Yomiuri của Nhật cũng củng cố nhận định này khi dẫn nguồn tin giấu tên từ 1 quan chức tư pháp cấp cao Trung Quốc cho biết. Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng, tội danh “làm lộ bí mật của đảng và nhà nước” đối với ông Khang chưa chắc đã “to tát” như dư luận đồn đoán, bởi vì ở Trung Quốc chỉ cần để lọt một văn bản có dấu “Mật” ra ngoài cũng có thể bị quy vào tội danh này. Vậy đảng và nhà nước Trung Quốc có những bí mật gì, Đa Chiều đặt câu hỏi. Theo Luật Giữ gìn bí mật quốc gia của nước này, Điều 8 quy định 7 loại bí mật quốc gia: Bí mật về các quyết sách quan trọng sự vụ quốc gia;. Bí mật quân sự về hoạt động của lực lượng vũ trang; Bí mật các hoạt động ngoại giao, đối ngoại và các cam kết với nước ngoài; Bí mật về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước; Bí mật khoa học công nghệ quốc gia; Bí mật về các hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và điều tra tội phạm hình sự. Ngoài ra còn các mục bảo mật khác ở cấp độ thấp hơn được “các cơ quan chức năng” quy định cụ thể. Với những nội dung điều khoản này, Chu Vĩnh Khang ở cương vị ủy viên Thường vụ Bộ chính trị, Trưởng ban Chính pháp hoàn toàn có thể “dính” cả 7 loại “bí mật quốc gia”. Đa Chiều bình luận, việc “kéo đổ trùm an ninh Trung Quốc một thời Chu Vĩnh Khang” là một hành động chính trị quan trọng trong chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình và ban lãnh đạo mới Trung Quốc sau đại hội 18. Đây là một vụ án “tham nhũng” chưa từng có tiền lệ trong lịch sử đảng Cộng sản Trung Quốc và mỗi đường đi nước bước của nó đều được bày binh bố trận hết sức cẩn thận. Trước khi công bố khai trừ đảng, giao Chu Vĩnh Khang cho cơ quan tố tụng không lâu, Tập Cận Bình đã tuyên bố, các “lão đồng chí” ủng hộ ông chống tham nhũng, còn “khâm sai đại thần Vương Kì Sơn thì bỗng mất tăm khỏi ống kính”. Lúc này giới quan chức cũng như học giả Trung Quốc đều bàn tán xôn xao về vụ Chu Vĩnh Khang. Sau đó thì Giang Trạch Dân bất ngờ xuất hiện, sự hiện diện của ông có lẽ liên quan đến vụ án chấn động này. Theo giới phân tích, Chu Vĩnh Khang từng là “đại thần” được trọng dụng dưới thời Giang Trạch Dân, nay ông Dân xuất hiện khi Khang thân bại danh liệt là một thông điệp cho thấy ông đã cắt đứt mọi liên hệ với “thuộc hạ khi xưa”, đồng thời “chống lưng” cho Tập Cận Bình yên tâm làm tới trong vụ này. Điều đáng nói ở đây là Giang Trạch Dân công khai lộ diện hôm 3/10 khi thăm triển lãm Ngu Công dời núi và Đại điển thế kỷ mô tả sự kiện Hồng Kông được trao trả cho Trung Quốc tổ chức tại Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc thì mãi tới 3/12, tức 2 tháng sau thông tin này mới được báo chí Trung Quốc đề cập. Sau khi rút lui khỏi vũ đài chính trị Bắc Kinh, mỗi lần Giang Trạch Dân tái xuất hiện đuề mang theo một thông điệp phức tạp làm đau đầu giới quan sát, lần này cũng không ngoại lệ. Khi Giang Trạch Dân lên nắm quyền, Chu Vĩnh Khang cũng được cất nhắc từ Phó Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Quốc gia Trung Quốc lên Tổng giám đốc kiêm Bí thư đảng ủy. Sau đó ông Khang làm Bộ trưởng Bộ Đất đai và tài nguyên, rồi Bí thư Tứ Xuyên trong 3 năm. Đại hội đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 16, ông Khang thành Phó trưởng ban Chính pháp, sang đại hội 17 Chu Vĩnh Khang vào Thường vụ, giữ ghế Trưởng ban Chính pháp Trung ương, quyền lực khuynh thành. Nhiều nhà quan sát cho rằng Giang Trạch Dân chính là “quý nhân” của Chu Vĩnh Khang. Vậy thì những hoạt động phạm tội của ông Khang những năm 1990 dưới thời Giang Trạch Dân rõ ràng ít nhiều có liên quan đến cựu lãnh đạo này nên khi Chu Vĩnh Khang bị khai trừ đảng, chuyển cơ quan điều tra tiến hành thủ tục truy tố thì Giang Trạch Dân cũng nên có thông điệp nào đó. Vì vậy một số quan điểm cho rằng lần xuất hiện này của Giang Trạch Dân mang thông điệp ông không “dây dưa” gì với Chu Vĩnh Khang. Ngoài ra, tháp tùng Giang Trạch Dân thăm bảo tàng lần này lại là Quách Thanh Côn và Phó Chính Hoa, Bộ trưởng và Thứ trưởng Công an Trung Quốc, 2 “công thần” trong vụ lật đổ Chu Vĩnh Khang. Thông tin ông Dân đi bảo tàng sau 2 tháng mới được công bố chính thức ngay sát ngày công bố vụ Chu Vĩnh Khang cũng là một hành động biểu hiện ủng hộ Tập Cận Bình, rằng Giang Trạch Dân sẽ không can thiệp và Tập Cận Bình “cứ yên tâm làm tới”.
Chu Vĩnh Khang
Chu Vĩnh Khang (sinh 3 tháng 12 năm 1942) là một lãnh đạo cao cấp về hưu của Đảng cộng sản Trung Quốc (CCP), nguyên Bộ trưởng Bộ Công an, từng giữ chức trong Ban thường vụ bộ chính trị lần thứ 17 và chủ nhiệm Ủy ban Chính trị - Pháp luật trung ương từ năm 2007 đến năm 2012. Trên cương vị đó, Chu giám sát các lực lượng an ninh và các cơ quan thực thi pháp luật của Trung Quốc. Chu từng là ủy viên Hội đồng Quốc vụ viện cho đến tháng 3 năm 2008 và là thành viên của Văn phòng Ủy ban trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc. Ông từng giữ chức thị trưởng thành phố Bàn Cẩm ở tỉnh Liêu Ninh từ năm 1983 đến 1985 và giữ chức bộ trưởng công an của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ năm 2002 đến 2007. Ông về hưu tại Đại hội Đảng lần thứ 18 năm 2012. Trong thời gian còn đương chức, Chu Vĩnh Khang được cho là đã dính líu đến nhiều vụ tham nhũng, lạm dụng quyền hành và bị cáo buộc là một trong những thủ phạm chính trong cuộc đàn áp môn khí công Pháp Luân Công.
Bảo tàng Guggenheim Bilbao là một bảo tàng nghệ thuật đương đại. Công trình được xây dựng bên cạnh sông Nervion thành phố Bilbao, một thành phố sôi động phía bắc Vương quốc Tây Ban Nha. Đây là bảo tàng hiện đại được thiết kế với hình khối ấn tượng, một thành công rực rỡ trong sự nghiệp của nhà thiết kế tài danh, tiêu biểu cho ngôn ngữ thiết kế của chủ nghĩa Giải tỏa kết cấu (Deconstruction) mà chính kiến trúc sư Frank O Gehry là một trong những nhân tố tiên phong. Nằm ở quận 1 kinh doanh và công nghiệp cũ, bảo tàng Guggenheim có vai trò khởi đầu trong việc tái sinh lại thành phố. Khu vực này có liên kết tốt với những quận trung tâm và lịch sử, cùng với những tòa nhà văn hóa và hành chính như tòa thị chính, đại học và bảo tàng nghệ thuật. Thiết kế bảo tàng là Kiến trúc sư Frank O Gehry. Được thiết kế với ngôn ngữ kiến trúc theo chủ nghĩa Giải tỏa kết cấu (Deconstruction) mà chính Frank O Gehry là một trong những kiến trúc sư tiên phong tiêu biểu, có thể nói đây là một công trình được ngưỡng mộ nhất của kiến trúc đương đại, nó được ca ngợi như là một “khoảng khắc tín hiệu trong văn hóa kiến trúc”. Từ tính chất phức tạp của lý luận, đây là kiểu ngôn ngữ thiết kế coi trọng phép ẩn dụ cũng như tính bất thường của hình thức, trên cơ sử sử dụng phổ biến kết cấu mới, vật liệu mới. Ý tưởng chủ đạo của thiết kế bảo tàng Guggenheim Bilbao là mô phỏng hình dáng hình ảnh của máy móc công nghiệp, một hình ảnh tiêu biểu cho văn minh công nghiệp đang bùng nổ và thịnh hành ở các nước Phương Tây giai đoạn cuối của thế kỷ 20. Việc chồng xếp các khối cong đa hình theo nhiều lớp và cao độ thể hiện chất ngẫu hứng, cảm giác ấn tượng về thị giác khiến người xem có những cảm nhận khác nhau. Đây cũng là lý do để bảo tàng Guggenheim Bilbao được so sánh và đặt nick name “khối rác công nghiệp”. Ấn tượng mang lại là một công trình kiến trúc to lớn, một tòa nhà mang tính thời trang được tạo ra với một cấu trúc, bố cục lạ thường. Sự khác biệt tạo ra bởi kết hợp chất liệu mới và không thể chê với các mảng khối hết sức rõ ràng. Vòng ngoài của công trình là những bố cục khối vuông với vật liệu đá. Hình thái chuyển động khối đạt cao trào ở khối kiến trúc trung tâm với những mảng cong liên tiếp bọc Titanium. Sau 18 năm trôi qua, Guggenheim Billbao vẫn còn xứng đáng là một trong những thiết kế tuyệt đẹp, phức tạp nhất. Sự gợi cảm của vật liệu: ti tan, kính và đá vôi dựng trên những đường cong toán học và hình học bắt mắt, vẫn luôn thu hút mọi ánh nhìn của mọi thời đại. Billbao hội tụ tất cả sự nổi tiếng, tinh tế và uy tín của nhà hát Opera Sydney và tháp Eiffel. Bạn đang có nhu cầu thiết kế nhà ở, bạn muốn có một ngôi nhà đẹp phong cách độc đáo. Hãy liên hệ với chúng tôi để được các kiến trúc sư tư vấn. Địa chỉ email của bạn sẽ được bảo mật. Các trường có dấu * là cần phải nhập.
Bảo tàng Guggenheim Bilbao
Bảo tàng Guggenheim Bilbao là một bảo tàng nghệ thuật hiện đại và đương đại, được thiết kế bởi kiến trúc sư người Mỹ gốc Canada Frank Gehry, được xây dựng bởi Ferrovial, và nằm ở Bilbao, Xứ Basque, Tây Ban Nha. Nó được xây bên cạnh sông Nervion, mà chạy qua thành phố Bilbao ra đến biển Đại Tây Dương. Guggenheim là một trong 7 viện bảo tàng thuộc Quỹ Solomon R. Guggenheim của Hoa Kỳ. Bảo tàng có các cuộc triển lãm thường trực và di chuyển, trình bày các công trình của các nghệ sĩ Tây Ban Nha và quốc tế. Là một trong những tác phẩm được ngưỡng mộ nhất của kiến trúc đương đại, công trình đã được ca ngợi như là một "khoảng khắc tín hiệu trong văn hóa kiến trúc", bởi vì nó đại diện cho "một trong những khoảnh khắc hiếm hoi khi các nhà phê bình, học giả và cả công chúng nói chung đã hoàn toàn thống nhất quan điểm". Bảo tàng được thường xuyên bầu chọn là một trong những công trình quan trọng nhất đã được hoàn thành từ năm 1980 đến năm 2010 trong World Architecture Survey (Quan sát kiến trúc thế giới) giữa các chuyên gia kiến trúc.
Địa chất (Geology) là nghiên cứu về trái đất (geo có nghĩa là trái đất, và ology có nghĩa là nghiên cứu). Đây là một định nghĩa đơn giản nhất cho một cái gì đó rất phức tạp. Địa chất liên quan đến việc nghiên cứu các vật liệu cấu tạo nên trái đất, các tính năng và cấu trúc được tìm thấy trên Trái đất cũng như các quá trình hoạt động của chúng. Địa chất cũng thực hiện việc nghiên cứu lịch sử của tất cả cuộc sống đã từng xảy ra hoặc đang xảy ra trên trái đất hiện nay. Nghiên cứu cuộc sống diễn ra như thế nào và hành tinh của chúng ta đã thay đổi ra sao theo thời gian là một phần quan trọng của địa chất. Thông thường, địa chất được chia thành hai loại: vật lý địa chất và lịch sử địa chất. Vật lý địa chất thực hiện việc nghiên cứu các đặc tính vật lý của trái đất và các quá trình tác động lên chúng. Chúng bao gồm các núi lửa, động đất, đá, núi và đại dương hay bất kỳ đặc tính nào của trái đất. Lịch sử địa chất là nghiên cứu về lịch sử của trái đất. Lịch sử địa chất tập trung vào những gì đang xảy ra với Trái đất kể từ khi nó được hình thành. Chúng cũng nghiên cứu những thay đổi trong cuộc sống trong suốt thời gian qua. Trong lịch sử địa chất, bạn có thể thực hiện một chuyến du hành quay trở lại thời gian từ lúc hình thành trái đất và tiến đến thời gian đó để chứng kiến những thay đổi trong bản thân Trái đất và sự sống trên đó. Địa chất đã được quan tâm từ những con người xa xưa như người Hy Lạp cổ đại ở thế kỷ thứ 4. Aristotle là một trong những người đầu tiên quan sát về trái đất. Đây cũng là lần đầu tiên các nhà khoa học và triết học ghi nhận một sự khác biệt giữa các loại đá và khoáng sản. Người La Mã đã trở nên rất thành thạo trong việc khai thác mỏ đá để sử dụng trong việc xây dựng đế chế của mình, đặc biệt là đá cẩm thạch. Trong thế kỷ 17, các hóa thạch đã được sử dụng như là một cách để hiểu những gì đã xảy ra với trái đất theo thời gian. Những hóa thạch đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc tranh luận về tuổi của trái đất. Trong suốt thời gian đó và thậm chí trong một số trường hợp ngày hôm nay, các nhà thần học và các nhà khoa học đã có mâu thuẫn về tuổi của trái đất. Các nhà thần học cho rằng Trái đất đã được chỉ khoảng 6.000 năm tuổi, trong khi các nhà khoa học tin rằng nó lớn hơn rất nhiều số tuổi đó. Trong thế kỷ 18, các nhà khoa học bắt đầu tập trung về khoáng sản và quặng khoáng sản kể từ khi khai thác mỏ là một phần quan trọng của nền kinh tế toàn cầu. Trong thế kỷ này, hai giả thuyết chính đã đứng ra giải thích một số tính năng vật lý của trái đất. Một giả thuyết cho rằng tất cả các loại đá lắng đọng trong bồn biển rộng lớn và sau đó bị lộ ra khi mực nước biển bị hạ thấp liên tục theo thời gian. Giả thuyết thứ hai cho rằng một số loại đá được hình thành thông qua nhiệt hoặc cháy (lắng đọng từ dung nham của núi lửa). Cuộc tranh luận này tiếp tục cho đến thế kỷ 19 cho đến khi James Hutton đã chứng minh rằng một số loại đá được hình thành bởi quá trình hoạt động của núi lửa (nhiệt & lửa) và những loại khác được hình thành bởi những trầm tích. Hutton cũng giải thích rằng tất cả các quá trình chúng ta thấy chúng xảy ra ngày hôm nay, cũng chính là những quy trình đã xảy ra trong quá khứ địa chất và chúng đã xảy ra rất chậm. Nói cách khác, sự xói mòn của núi ngày nay chính là quá trình xói mòn của núi diễn ra trong quá khứ. Lý thuyết này được gọi là Uniformitarianism mà chỉ đơn giản nói rằng “Hiện tại là chìa khóa để mở ra quá khứ.” James Hutton, được biết đến như là cha đẻ của Địa chất học hiện đại. Khi Uniformitarianism đã được chấp nhận bởi cộng đồng các nhà khoa học. Các nhà địa chất bắt đầu hiểu cách hóa thạch có thể giúp họ xác định tuổi của trái đất như thế nào và các lớp đất đá khác nhau được gọi là Địa tầng. Các hóa thạch hoạt động như đánh dấu lại cho phép các nhà địa chất xác định thứ tự xuất hiện của chúng, cho phép họ tương quan với địa tầng đá tìm thấy trên một khoảng cách rất lớn, và giúp họ hiểu những thay đổi của cuộc sống và môi trường của Trái đất trong qua thời gian. Các bước nhảy vọt lớn tiếp theo của địa chất xảy ra trong những năm 1900. Một nhà khoa học, Alfred Wegener đề xuất một lý thuyết gọi là Continental Drift. Wegener cho rằng các lục địa di chuyển xung quanh trên bề mặt của trái đất và liên kết với nhau để tạo thành một siêu lục địa gọi là Pangaea. Ông trích dẫn một số mẫu chứng cứ để chứng minh lý thuyết của mình bằng những mảnh ghép, các khối đá tương tự hoặc hóa thạch có thể được tìm thấy trên cả hai mặt của một đại dương và lục địa. Ông cho rằng các lục địa ‘thả nổi’ hoặc ‘trôi dạt’ vào các vị trí của chúng. Tuy nhiên, ông không thể giải thích làm thế nào điều này xảy ra. Cộng đồng khoa học bác bỏ lý thuyết của ông cho đến những năm 1940. Sự bùng nổ của công nghệ liên quan đến Thế chiến II đã mang những tiến bộ trong sonar và radar. Năm 1947, hai nhà địa chất học đã lập bản đồ đáy biển, trong đó tiết lộ bằng chứng cho thấy lớp vỏ đại dương được tạo ra ở các sống núi giữa đại dương. Điều này được biết đến như hiện tượng tách giãn đáy đại dương. Những sống núi giữa đại dương được tìm thấy dưới đáy đại dương và những vết nứt lớn hoặc lỗ thông hơi trong lớp vỏ đại dương. Magma từ vỏ trái đất đẩy dần lên qua các vết nứt (giống như lấy kem đánh răng từ lọ). Vì thế nó đẩy lớp vỏ hiện tại khiến các châu lục di chuyển ra xung quanh. Điều này dẫn đến các lý thuyết kiến tạo mảng dựa trên ý tưởng rằng trái đất được chia thành các mảng kiến tạo và những mảng kiến tạo di chuyển để đáp ứng với đáy biển lan rộng. Hãy tưởng tượng lấy một quả trứng luộc và thả nó trên sàn nhà. Các vết nứt từ vỏ trứng lan ra xung quanh. Các khu vực giữa các vết nứt này được gọi là các mảng kiến tạo và các vết nứt được gọi là ranh giới. Các nguyên tắc tương tự áp dụng cho trái đất. Nếu chúng ta có thể hút hết tất cả nước trên hành tinh này thì chúng ta có thể nhìn thấy đáy đại dương và chúng ta cũng sẽ có thể nhìn thấy những vết nứt hoặc ranh giới.
Địa chất học
Địa chất học là một nhánh trong khoa học Trái Đất, là môn khoa học nghiên cứu về các vật chất rắn và lỏng cấu tạo nên Trái Đất, đúng ra là nghiên cứu thạch quyển bao gồm cả phần vỏ Trái Đất và phần cứng của manti trên. Địa chất học tập trung nghiên cứu: cấu trúc, đặc điểm vật lý, động lực, và lịch sử của các vật liệu trên Trái Đất, kể cả các quá trình hình thành, vận chuyển và biến đổi của các vật liệu này. Giải quyết các vấn đề của địa chất liên quan đến rất nhiều chuyên ngành khác nhau. Lĩnh vực này cũng rất quan trọng trong việc khai thác khoáng sản và dầu khí. Ngoài ra, nó cũng nghiên cứu giảm nhẹ các tai biến tự nhiên và cổ khí hậu cùng các lĩnh vực kỹ thuật khác.
Ngôi sao hành động giải thích về quyết định mà anh mới đưa ra sau khi hoàn tất “Diệp Vấn 3”, cũng như tiết lộ mục tiêu mới cho sự nghiệp bản thân. Chân Tử Đan có thể nổi danh tại châu Á, nhưng phải mất hai thập kỷ dài, anh mới được khán giả phía bên kia bờ Thái Bình Dương thực sự để ý tới dù từng tham gia Blade II (2004). Đó chính là nhờ Diệp Vấn - bộ phim võ thuật xoay quanh nhất đại tông sư môn phái Vịnh Xuân quyền năm 2008. Ngôi sao võ thuật Hoa ngữ có nhiều chia sẻ về phần ba của “Diệp Vấn”, từ chuyện đóng phim cùng Mike Tyson tới việc “Người Sắt” Robert Downey Jr. cũng là fan của loạt phim. Như cuộc phỏng vấn với tờ The Hollywood Reporter đã tiết lộ, khi Chân Tử Đan tới nước Mỹ, họ thường gọi anh là Diệp Vấn và bản thân ngôi sao thì nhận được một cuộc điện thoại tri ân từ “Người Sắt” Robert Downey Jr. Hồi đầu năm 2014, dù bị giới phê bình chê bai đủ đường, Tây du ký: Đại náo thiên cung vẫn kiếm được tới hơn 1 tỷ nhân dân tệ tại Trung Quốc. Trong phim, Chân Tử Đan sắm vai Tề Thiên Đại Thánh. Nhưng rồi anh quyết định không tham gia phần hai, nhường lại vai diễn cho Quách Phú Thành trong tác phẩm sắp sửa ra mắt vào dịp Tết Nguyên đán 2016. “Vừa sắm vai chính, vừa làm chỉ đạo võ thuật rất vất vả. Nhưng điều quan trọng là tôi đã cống hiến tất cả cho nhân vật. Tôi nói với đạo diễn Trịnh Bảo Thụy và các nhà đầu tư rằng nếu mình tham gia phần 2, đó sẽ chỉ là sự lặp lại đầy nhàm chán”, ngôi sao chia sẻ với tờ South China Morning Post. Giống như vậy, sau khi Diệp Vấn 2 trở thành bộ phim ăn khách nhất Hong Kong năm 2010 với 43 triệu HKD, Chân Tử Đan cũng không có ý định tham gia hay thực hiện tiếp phần ba, dù nhân vật võ sư nổi tiếng vẫn là chủ đề được công chúng quan tâm. Bằng chứng là việc The Grandmaster - Nhất đại tông sư của đạo diễn Vương Gia Vệ, cũng xoay quanh Diệp Vấn và do Lương Triều Vỹ thể hiện, thu tới 300 triệu nhân dân tệ tại Trung Quốc và gặt hái hàng loạt giải thưởng điện ảnh danh giá năm 2013. Nhưng rồi sau 5 năm, Chân Tử Đan đã hoàn thành Diệp Vấn 3, với lý do rằng: “Tôi nghĩ đây chính là tác phẩm biểu tượng cho toàn bộ sự nghiệp của mình. Tôi từng thực hiện vô số bộ phim hành động trước Diệp Vấn. Nhưng đây là lần đầu tiên một tác phẩm giúp tôi giành được tình cảm của công chúng, thu hút thêm nhiều fan trên khắp toàn thế giới, chỉ trong quãng thời gian ngắn ngủi”. Diệp Vấn (1893 - 1972), tên thật Diệp Kế Vấn, là một võ sư nổi tiếng người Trung Quốc. Ông được xem là người có công lớn trong việc hình thành và quảng bá hệ phái Vịnh Xuân quyền tại Hong Kong. Một trong những đệ tử thành danh của ông chính là ngôi sao võ thuật Lý Tiểu Long. Bộ phim Diệp Vấn năm 2008 lấy bối cảnh thập niên 1930, khi người võ sư không mở lớp dạy học trò mà chỉ sống thầm lặng ở nhà với vợ, tập luyện và nghiên cứu võ nghệ với bạn bè tại Phật Sơn. Khi phát xít Nhật đặt chân tới Trung Quốc, Diệp Vấn bị cuốn vào vòng xoáy thời đại, buộc phải giao đấu với những kẻ xâm lược. Không chỉ giành thắng lợi tại phòng vé, bộ phim nhận 12 đề cử tại giải thưởng Kim Tượng 2009 và giành chiến thắng ở hạng mục Phim truyện xuất sắc. Bước sang phần hai, Diệp Vấn cùng vợ di cư sang Hong Kong, tiếp tục phải đối mặt với những người Anh cao ngạo. Cũng giống như hai tập trước, Diệp Vấn 3 do đạo diễn Diệp Vỹ Tín thực hiện, lấy bối cảnh Hong Kong cuối những năm 1950. Giờ Diệp Vấn đã có cuộc sống ổn định bên vợ con. Nhưng khi chính quyền làm ngơ trước những kẻ ngoại quốc có tiền, muốn chiếm lấy ngôi trường mà cậu con thứ Diệp Chính của ông theo học, người võ sư không thể ngồi yên. Nhân vật có cuộc đấu với Frank - tay buôn bán nhà đất bất chính do Mike Tyson thể hiện, cũng như đứng trước thách thức từ cao thủ Trương Thiên Chí (Trương Tấn) - người muốn phân định xem đâu mới là Vịnh Xuân chính tông. Nếu chúng tôi có làm phần bốn, có lẽ tôi sẽ đấu với người ngoài hành tinh chăng? Diệp Vấn 3 có những màn đánh võ, nhưng đây thực chất là tác phẩm xoay quanh ý nghĩa cuộc đời của mỗi con người”. Điều thú vị là đối thủ còn lại của Chân Tử Đan trên màn ảnh, Trương Tấn, là người nổi danh sau Nhất đại tông sư. Khi bộ phim của đạo diễn Vương Gia Vệ được thực hiện, đoàn làm phim Diệp Vấn, trong đó có cả Chân Tử Đan, từng có lần “lời qua tiếng lại” trên mặt báo với dự án đó, đặc biệt là về chuyện tranh chấp tên phim. Không chỉ dừng lại ở đó, Diệp Vấn 3 còn thay thế Hồng Kim Bảo bằng Viên Hòa Bình ở vị trí chỉ đạo võ thuật. Đạo diễn họ Viên cũng chính là người đứng sau các pha hành động của Nhất đại tông sư và thắng giải Chỉ đạo hành động xuất sắc tại giải thưởng Kim tượng 2014. Khi còn là một cậu thiếu niên, Chân Tử Đan có quãng thời gian tập luyện với đội wushu Bắc Kinh và gặp gỡ Viên Hòa Bình khi đội tuyển của mình tới Hong Kong. Sau này, người chỉ đạo hành động chọn anh cho vai chính bộ phim Thái Cực Túy quyền (1984). Kể từ đó, Chân Tử Đan luôn coi Viên Hòa Bình là sư phụ trong con mắt mình. Phần cuối loạt phim xoay cuộc đời nhất đại tông sư môn phái Vịnh Xuân quyền đào sâu khai thác câu chuyện tâm lý gia đình cảm xúc, kèm theo nhiều pha hành động đầy kịch tính. Với Diệp Vấn 3, Chân Tử Đan luôn dành trọng sự tin tưởng cho sư phụ. Anh nói: “Viên Hòa Bình luôn tạo ra các thế võ tùy theo người diễn viên. Tôi không bao giờ lo mình phải lặp lại những gì ông ấy đã làm cho Lương Triều Vỹ ở Nhất đại tông sư. Viên biết thành công của hai tập phim trước ra sao, nên ông ấy đã tìm mọi cách để giúp Diệp Vấn 3 đạt được kỳ vọng của công chúng”. Trong thời gian qua, Chân Tử Đan và Viên Hòa Bình cũng mới cùng nhau hoàn tất Ngọa hổ tàng long 2, chuẩn bị ra rạp vào dịp Tết Nguyên đán 2016. Đây là phần tiếp theo của tác phẩm hành động kiếm hiệp nổi tiếng năm 2000 do Lý An thực hiện, từng nhận bốn giải Oscar. Tuy nhiên, nó gặp không ít chỉ trích sau khi đoạn trailer được tung ra, cho thấy phim sẽ sử dụng hoàn toàn tiếng Anh. Tuy nhiên, Chân Tử Đan lại có cái nhìn khác về vấn đề đó. Anh cho biết: “Họ đã thai nghén dự án nhiều năm trời. Ban đầu tôi nghĩ thật khó để có thể nối tiếp những gì Lý An đã làm. Nhưng nhà sản xuất Harvey Weinstein đã thuyết phục và đưa tôi đến dự án. Tác phẩm chứa đựng những ý tưởng và góc nhìn hoàn toàn mới mẻ so với phần một. Còn chuyện sử dụng tiếng Anh không phải là vấn đề lớn. Như với The Last Emperor của Bernardo Bertolucci, dù lấy bối cảnh Trung Quốc nhưng dùng ngôn ngữ là tiếng Anh và vẫn được khán giả đón nhận nồng nhiệt. Hay như Kung Fu Panda bởi đó thực chất cũng là một phim kiếm hiệp. Nói cách khác, chúng tôi không muốn bó buộc mình chỉ ở các thị trường Hoa ngữ. Ngọa hổ tàng long 2 thu hút không ít khán giả quốc tế và họ sẽ cảm thấy hoàn toàn thoải mái với ngôn ngữ tiếng Anh”. Từ đó, Chân Tử Đan đem đến một chia sẻ thú vị khác: “Tôi sẽ tập trung cho các bộ phim ngoại trong tương lai”. Điều đó là sự thật khi anh đang chuẩn bị hoàn tất Rogue One: A Star Wars Story (2016) - tác phẩm ngoại truyện của Chiến tranh giữa các vì sao, kể lại các sự kiện diễn ra ngay trước Star Wars Episode IV: A New Hope (1977). Do hợp đồng đã ký với Disney, ngôi sao không thể tiết lộ chi tiết về dự án, mà chỉ có thể cho biết rằng mình “sẽ tham gia nhiều cảnh hành động. Tôi lần đầu xem Star Wars khi mới 14 tuổi. Không thể tin nổi hơn ba thập kỷ sau đó, tôi lại trở thành người Trung Quốc đầu tiên có mặt trong thương hiệu phim khoa học viễn tưởng lừng danh”. Trở lại Diệp Vấn 3, thêm một lần nữa Chân Tử Đan cho rằng đây là lần cuối anh sắm vai nhất đại tông sư môn phái Vịnh Xuân quyền, hay thậm chí là thực hiện một tác phẩm hành động võ thuật. Chân Tử Đan bộc bạch: “Tôi đã làm phim võ thuật quá nhiều năm rồi. Tôi không nghĩ còn nhân vật nào có thể đem tới cho mình cảm giác thỏa mãn như Diệp Vấn. Với ba tập phim, giờ là thời điểm thích hợp để khép lại tất cả. Nếu khán giả có yêu cầu thêm một tập phim Diệp Vấn nữa, tôi không chắc. Nhưng tôi thực sự hy vọng đây là bộ phim võ thuật cuối cùng trong sự nghiệp của bản thân”. Ngừng đóng phim võ thuật không có nghĩa là ngừng đóng phim hành động. Anh giải thích: “Như Ngọa hổ tàng long 2, đó là phim kiếm hiệp. Sự khác biệt là rất lớn. Phim võ thuật sử dụng nhiều sức mạnh của phần eo và bàn chân, những cú đấm đá. Còn phim kiếm hiệp tập trung vào tinh thần của người đánh võ, thường được chuyển thể từ các nguyên tác võ thuật”. Chân Tử Đan trấn an người hâm mộ thêm rằng mình vẫn còn rất nhiều nhiệt huyết để thực hiện các tác phẩm hành động hiện đại. “Chỉ là chúng không chứa đựng những cảnh hành động dài như trong phim võ thuật thôi. Tôi muốn được tiếp tục bởi còn rất nhiều ý tưởng sáng tạo mà tôi chưa có dịp thực hiện”. Hoặc không, hãy đem đến cho Chân Tử Đan một dự án hành động võ thuật sử dụng tiếng Anh. “Như thế, tôi có thể rút lại quyết định mới đưa ra. Bởi tôi rất muốn được đem văn hóa Trung Hoa đến với lượng khán giả mới tại phương Tây, dưới tư cách là một diễn viên và đạo diễn”. Chân Tử ĐanChân Tử Đan, sinh ngày 27 tháng 7 năm 1963, là nam diễn viên hành động người Trung Quốc. Ngoài ra anh còn là một đạo diễn, nhà chỉ đạo võ thuật và nhà sản xuất điện ảnh. Chân Tử Đan từng hai lần nhận được đề cử giải Kim Tượng. Anh được coi là người trẻ nhất trong số những nhà chỉ đạo võ thuật xuất sắc nhất thế giới, nhiều lần được trao giải thưởng về chỉ đạo võ thuật tại các liên hoan phim Hồng Kông và châu Á.Bạn có biết: Năm 1997 Chân Tử Đan từng mở hãng phim tên là Bullet nhưng nay đã giải tán.Ngày sinh: 27/07/1963Chiều cao: 1.73 mPhim tiêu biểu: Hoàng Phi Hồng (1992), Tân Long Môn khách sạn (1992), Vịnh Xuân quyền (1994), Diệp Vấn (2008), Họa bì (2008),.Vợ: Lương Tịnh Từ (1993 - 1994), Uông Thi Thi (2003 - nay)Con: 3. Chân Tử Đan, sinh ngày 27 tháng 7 năm 1963, là nam diễn viên hành động người Trung Quốc. Ngoài ra anh còn là một đạo diễn, nhà chỉ đạo võ thuật và nhà sản xuất điện ảnh. Chân Tử Đan từng hai lần nhận được đề cử giải Kim Tượng. Anh được coi là người trẻ nhất trong số những nhà chỉ đạo võ thuật xuất sắc nhất thế giới, nhiều lần được trao giải thưởng về chỉ đạo võ thuật tại các liên hoan phim Hồng Kông và châu Á. Bạn có biết: Năm 1997 Chân Tử Đan từng mở hãng phim tên là Bullet nhưng nay đã giải tán. Ngôi sao võ thuật Hoa ngữ có nhiều chia sẻ về phần ba của “Diệp Vấn”, từ chuyện đóng phim cùng Mike Tyson tới việc “Người Sắt” Robert Downey Jr. cũng là fan của loạt phim. Phần cuối loạt phim xoay cuộc đời nhất đại tông sư môn phái Vịnh Xuân quyền đào sâu khai thác câu chuyện tâm lý gia đình cảm xúc, kèm theo nhiều pha hành động đầy kịch tính. Michael Jackson được coi là người phát minh ra điệu nhảy Moonwalk, giày phi trọng lực và tạo ra những sản phẩm giúp phá bỏ nạn phân biệt chủng tộc.
Diệp Vấn 3
Diệp Vấn 3 là một bộ phim điện ảnh Hồng Kông năm 2015 của đạo diễn Diệp Vĩ Tín, do Hoàng Bách Minh sản xuất và chỉ đạo hành động bởi Viên Hòa Bình. Đây là phần thứ ba trong loạt phim Diệp Vấn kể về cuộc đời của võ sư Diệp Vấn và Chân Tử Đan tiếp tục thủ vai chính. Bộ phim cũng có sự góp mặt của Mike Tyson, và vai học trò Lý Tiểu Long của Diệp Vấn được Trần Quốc Khôn thủ vai. Quay phim chính bắt đầu vào tháng 3 năm 2015 và kết thúc vào tháng 6 năm đó. Phim có buổi chiếu ra mắt tại Hồng Kông vào ngày 16 tháng 12 năm 2015 và chính thức được phát hành tại Hồng Kông, Singapore, Malaysia vào ngày 24 tháng 12 năm 2015. Phim được chiếu tại Đài Loan vào ngày 31 tháng 12 năm 2015, New Zealand và Vương quốc Anh vào ngày 15 tháng 1 năm 2016 và một tuần sau ở Úc. Bộ phim đã được phát hành tại Hoa Kỳ vào ngày 22 tháng 1 năm 2016 và được phát hành ở Trung Quốc đại lục vào ngày 4 tháng 3 năm 2016.
Số nguyên tố là một trong những định nghĩa toán học vô cùng quan trọng. Vậy số nguyên tố là gì? Thế nào là số nguyên tố? Mời các bạn đọc bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn về kiến thức toán học cơ bản này nhé. Số nguyên tố là tập hợp số tự nhiên chỉ chia hết cho 1 và chính nó. Hay hiểu một cách đơn giản số nguyên tố là số tự nhiên lớn hơn 1, nếu ngoài chữ số 1 và bản thân chính số đó thì nó không chia hết cho số nào khác nữa. Đặc biệt, có 2 trường hợp không được xét là nguyên tố đó chính là số 0 và số 1. Không thể giới hạn số lượng số nguyên tố cũng như tập hợp các số nguyên tố. Nói cách khác, số nguyên tố là vô hạn. Khi hai số nguyên tố nhân với nhau thì tích của chúng không thể là một số chính phương. Ước tự nhiên nhỏ nhất khác 1 của một số tự nhiên được coi là số nguyên tố. Ước bé nhất là một số dương khác 1 của một tập hợp số b bất kỳ là một số nguyên tố nếu không vượt quá căn bậc hai của b. Số nguyên tố cùng nhau là số tự nhiên có ước chung lớn nhất bằng một. Ví dụ: Cho hai số là 7 và 8. Hỏi hai số đó có phải số nguyên tố cùng nhau hay không?Lời giải:. Nhận thấy ước chung lớn nhất của 7 và 8 là 1. Như vậy có thể kết luận hai số 7 và 8 là hai số nguyên tố cùng nhau. Hai số 6 và 27 không phải là hai số nguyên tố cùng nhau do ước số chung lớn nhất của chúng là 3, khác 1. Số siêu nguyên tố là số nguyên tố mà khi bỏ một số tuỳ ý các chữ số bên phải của nó thì phần còn lại vẫn tạo thành một số nguyên tố. Ví dụ: số 37337 được coi là số siêu nguyên tố bởi khi ta bỏ một chữ số 7 ở bên tay trái số này đi sẽ còn 3733 thì đây vẫn là một số nguyên tố. Khi kiểm tra số nguyên tố, nếu số đó nhỏ hơn 2 thì kết luận đó không phải số nguyên tố. Khi đếm số ước của n trong đoạn từ 2 đến căn bậc hai của n. Nếu số đó không có ước nào trong đoạn từ 2 đến căn bậc hai của n thì nó là số nguyên tố. Kết quả ngược lại thì đó không phải là số nguyên tố. Có một phương pháp đơn giản để tìm số nguyên tố là chia thử nghiệm. Với cách này, bạn chỉ cần chia số cần kiểm ta theo lý thuyết số nguyên tố là được. Tuy nhiên, đây được đánh giá là phương pháp chậm, gây mất nhiều thời gian và có thể kéo theo nhiều sai số trong quá trình thực hiện. Bước 2: Kiểm tra nếu n nhỏ hơn 2 thì đưa ra kết luận n không phải số nguyên tố. Bước 3: Lặp từ 2 tới ( n – 1 ), nếu bạn trong khoảng này tồn tại số mà n chia hết thì đưa ra kết luận n không phải là số nguyên tố. Nếu kết quả ngược lại n là số nguyên tố. Theo định nghĩa về số nguyên tố thì số 2 là số nguyên tố chẵn duy nhất. Do đó, ta sẽ dễ dàng loại được 2 ra khỏi vòng lặp, khi đó trong thân vòng lặp bạn chỉ cần kiểm tra các số lẻ. Đây là cách được đánh giá là tối ưu hơn cách 1 đáng kể. Sốc nặng vớ loạt ảnh ‘f.u.ll kh.ô.ng che” của Ngọc Trinh Khiến CĐM xịt máu mũi …. 5 Những định nghĩa khác liên quan tới số nguyên tố5.1 Số nguyên tố cùng nhau5.2 Số siêu nguyên tố. 6 Cách tìm ra số nguyên tố6.1 Ý tưởng kiểm tra số nguyên tố6.2 Cách tìm số nguyên tố đơn giản. Sốc nặng vớ loạt ảnh ‘f.u.ll kh.ô.ng che” của Ngọc Trinh Khiến CĐM xịt máu mũi ….
Số nửa nguyên tố
Trong toán học, số nửa nguyên tố (tiếng Anh: semiprime, còn gọi là biprime, 2-almost prime, hoặc số pq) là số tự nhiên được tạo thành từ tích của hai số nguyên tố (không nhất thiết phân biệt). Một vài số nửa nguyên tố đầu tiên là 4, 6, 9, 10, 14, 15, 21, 22, 25, 26,. (dãy số A001358 trong bảng OEIS). Tính đến năm 2008, số nửa nguyên tố lớn nhất được biết đến là (243.112.609 − 1)2, với hơn 25 triệu chữ số. Nó là bình phương của số nguyên tố lớn nhất được biết. Bình phương của bất kì số nguyên tố nào cũng đều là số nửa nguyên tố, do đó số nửa nguyên tố tiếp theo được biết đến vẫn sẽ là bình phương của số nguyên tố lớn nhất được biết, trừ khi tìm ra được một phương pháp khẳng định một số lớn là số nửa nguyên tố mà không cần biết hai nhân tử của nó. φ(n) = (p − 1) (q − 1) = p q − (p + q) + 1 = n − (p + q) + 1.
Tác phẩm “Ông già và biển cả” với tên tiếng Anh là “The Old Man and the Sea” được viết bởi nhà văn người Mỹ – Ernest Miller Hemingway. Đây là một tiểu thuyết ngắn được ông viết vào năm 1951 tại Cuba và được xuất bản vào một năm sau đó. “ Ông già và biển cả” được coi là tác phẩm thành công nhất của Ernest Hemingway. Tác phẩm này giúp Ernest Hemingway mang về giải thưởng Pulitzer, cũng như góp phần để giúp ông nhận được giải Nobel Văn học năm 1954. Tại Việt Nam, “Ông già và biển cả” được phát hành năm 1999 bởi Nhà xuất bản Văn học, do Lê Huy Bắc và các cộng sự của ông biên dịch. Câu chuyện bắt đầu như thế này: “Lão đã già, một mình một thuyền câu cá trên dòng nhiệt lưu, đã tám mươi tư ngày qua lão không bắt được lấy một mống cá nào”. Không những vậy, người bạn đồng hành của ông phải rời xa trước khi bắt đầu chuyến đi. Mở đầu khiến chúng ta ít nhiều cảm thấy bi quan, chán nản. Tuy vậy, Satiago không như thế, lão mạnh mẽ đến lạ thường, đôi mắt lão cho biết điều đó: “Mọi thứ trên người lão đều toát lên vẻ già nua, trừ đôi mắt”. Vâng, lão mạnh mẽ, sự lao động không ngừng mệt mỏi, bất chấp thời gian và tuổi tác để được chạm tay tới thành công. Ông lão Santiago là một người yêu đại dương – sống hòa mình vào biển cả. Lão tự tìm cho mình niềm vui trên những chuyến ra khơi bằng những câu hát, bài ca, thể hiện niềm say sưa yêu đời. Cảm nhận trong mình từng thay đổi của thiên nhiên. Để rồi từ đó, không bao giờ lão cho phép mình bỏ cuộc, không bao giờ ngừng khát khao và ước mơ được chinh phục biển cả. Lão săn một con cá kiếm khổng lồ – đẹp và dũng mãnh. Cuộc chiến giữa lão già và con cá kiếm trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết, cuộc chiến diễn ra miệt mài ngày đêm. Con cá quá mạnh mẽ trong khi sức lão đã cạn dần. Thế nhưng, lão đã chiến thắng, chiến thắng bằng niềm tin, chiến thắng bằng chính sự dùng cảm và nỗ lực mà lão bỏ ra. Điều đỏ thể hiện một chân lý: “Cuộc sống này chỉ thực sự kết thúc khi chúng ta thôi không còn ước mơ, thôi không còn hy vọng.”. Lại nói về đối thủ của ông lão Santiago, độc giả chắc hẳn sẽ phải thực sự ấn tượng với nhân vật đặc biệt này. Bởi nó không phải chỉ là một sinh vật giữa đại dương, một đối tượng đi săn thông thường của những người đánh cá. Đối thủ ấy-con cá kiếm toát lên vẻ đẹp dũng mãnh, hiên ngang đối diện với hiểm nguy rình rập. Nó đã chiến đấu đến tận hơi thở cuối cùng, nó cũng giống như ông lão Santiago, tận hết khả năng để khẳng định chính mình. “Khi ấy, con cá mang cái chết trong mình, sực tỉnh, phóng vút lên khỏi mặt nước phô hết tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực. Nó dường như treo lơ lửng trong không trung, phía trên ông lão và chiếc thuyền. Thoáng chốc, nó rơi sầm xuống làm nước bắn tung, trùm lên cả ông lão lẫn con thuyền”. Phải, nó là hiện thân của vẻ đẹp cao thượng, bởi ngay đến cái chết nó cũng toát lên sức mạnh của bản thân!. Xây dựng hình tượng ông lão Santiago và con cá kiếm, Hemingway muốn đề cao vẻ đẹp ẩn chứa bên trong mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người. Đây là điều đặc biết làm nên sức hút của tác phẩm. Chúng ta cần phải chinh phục tự nhiên nhưng cũng không quên sống hài hoà và yêu mến. Santiago từng gọi con cá kiếm là “người anh em”, dù là đối thủ nhưng ông lão vẫn luôn luôn tôn trọng và khâm phục sức mạnh của nó. Ở điểm này, nhà văn đạt từng giải Nobel còn khơi gợi một “phần chìm” quan trọng trong “Nguyên lý tảng băng trôi”: “Thừa nhận vẻ đẹp cũng như hành động không thể khác của đối thủ nói riêng và con người nói chung là thái độ cần thiết để chúng ta giữ thăng bằng trong cuộc sống, để tránh nhìn đời, nhìn người phiến diện, để biết cảm thông và chia sẻ với người khác hơn”…. Thế nhưng, câu chuyện chưa dừng lại ở đây, nó vẫn còn một nửa sau với kịch tính đến từ đàn cá mập hung dữ, chỉ hăm he tấn công xác con cá kiếm khổng lồ. Liệu ông lão có một lần nữa vượt qua được hay không? Khi mà xác thân đã rã rời sau hàng giờ chiến đấu liên tục với con cá kiếm ở phần đầu tác phẩm? Bạn đọc hẳn sẽ phải bất ngờ với cái kết của câu chuyện sâu sắc và đầy tính giáo dục này…. “Ông già và biển cả” đã khép lại nhưng những bài học mà tác phẩm mang đến cho tất cả mọi người vẫn còn nguyên giá trị :“Hãy giữ cho đầu óc luôn tỉnh táo và biết cách chịu đựng như – một – con – người”. Cuộc hành trình đơn độc nhọc nhằn của ông lão già nua để thực hiện một khát vọng chinh phục lớn lao như minh chứng cho một chân lý của cuộc đời: “Con người có thể bị huỷ diệt nhưng không thể bị đánh bại”. Sẽ mãi là như thế…. Tôi là Hoàng Lão Hạc, kĩ thuật viên nội dung của reviewsach.net. Yêu thích sách trinh thám các thể loại. Thích Piano, nhẹ nhàng tình cảm. Hoặc bạn có thể click vào facebook profile này của tôi để cùng bình luận.
Ông già và biển cả
Ông già và Biển cả (tên tiếng Anh: The Old Man and the Sea) là một tiểu thuyết ngắn được Ernest Hemingway viết ở Cuba năm 1951 và xuất bản năm 1952. Nó là truyện ngắn dạng viễn tưởng cuối cùng được Hemingway viết và được xuất bản khi ông còn sống. Đây cũng là tác phẩm nổi tiếng và là một trong những tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Tác phẩm đoạt giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1953. Nó cũng góp phần quan trọng để nhà văn nhận Giải Nobel văn học năm 1954. Trong tác phẩm này ông đã triệt để dùng nguyên lý mà ông gọi là "tảng băng trôi", chỉ mô tả ba phần nổi còn lại bảy phần chìm, khi mô tả sức mạnh của con cá, sự chênh lệch về lực lượng, về cuộc chiến đấu không cân sức giữa con cá hung dữ với ông già. Tác phẩm là bản anh hùng ca ca ngợi sức lao động và khát vọng của con người. Câu chuyện xoay quanh cuộc sống đánh cá lênh đênh, gian nan của ông lão người Cuba, Santiago, người đã cố gắng chiến đấu trong ba ngày đêm với một con cá kiếm khổng lồ trên biển vùng Giếng Lớn khi ông câu được nó.
Tiêu chuẩn xếp hạng sao tại Việt NamTiêu chuẩn xếp hạng sao tại Việt Nam3.1 Tiêu chí xếp hạng khách sạn 1 sao 3.2 Tiêu chí xếp hạng khách sạn 2 sao 3.3 Tiêu chí xếp hạng khách sạn 3 sao 3.4 Tiêu chí xếp hạng khách sạn 4 sao 3.5 Tiêu chí xếp hạng khách sạn 5 sao. Có bao giờ bạn thắc mắc về các tiêu chuẩn xếp hạng sao của khách sạn? Một khách sạn đạt chuẩn 5 sao sẽ khác gì so với khách sạn 2,3 sao? Hãy cùng Vietnam Booking đi tìm kiếm câu trả lời ngay sau đây. Ngày nay, khi đặt phòng khách sạn, điều mà nhiều người quan tâm chính là tiêu chuẩn xếp hạng sao của khách sạn đó. Có nhiều cách xếp hạng sao khác nhau trên Thế Giới. Có nhiều ý kiến tranh luận cho rằng một khách sạn 5 sao ở nước này chưa hẳn sẽ phù hợp với tiêu chuẩn ở một quốc gia khác. Liệu điều đó có thật sự đúng. Để hiểu rõ hơn về tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn, quý khách hãy tham khảo bài viết dưới đây:. Lịch sử ghi nhận vào năm 1962, Tổ chức Du lịch Thế Giới WTO đã tiến hành xây dựng một hệ thống xếp hạng khách sạn được công nhận toàn cầu. Mãi cho đến năm 1995, khắp thế giới có khoảng hơn 100 hệ thống phân loại được sử dụng, phần lớn là dựa vào mô hình của WTO nhưng được tùy biến cho phù hợp với điều kiện văn hóa địa phương. Hàng loạt đề án xếp hạng khách sạn được sự dụng bởi các tổ chức khác nhau trên khắp Thế Giới với các phương pháp phân cấp khác nhau như bằng các con số, các chữ cái, ngôi sao, vương miện.Tạp chí Forbes Travel, tên cũ là Mobil Travel là tổ chức đầu tiên đưa ra hệ thống đánh giá bằng ngôi sao. Theo cách phân loại này, càng nhiều ngôi sao cho thấy sự tiện nghi hơn, sang trọng hơn, cao cấp hơn. Ngày nay, phương thức xếp hạng khách sạn bằng ngôi sao được nhiều quốc gia ưa chuộng áp dụng, trong đó có Việt Nam. Vậy tại sao phải xếp hạng sao khách sạn? Thực tế, từ mục đích ban đầu chỉ nhằm thông báo trước cho khách du lịch các đánh giá khách quan dựa trên chỉ tiêu cơ bản được kiểm chứng, việc xếp hạng khách sạn đã dần trở nên phổ biến và giờ đây còn mang mục đích quảng bá, giúp khách sạn khẳng định tên tuổi của mình. Một khách sạn càng nhiều sao chứng tỏ địa chỉ lưu trú đó càng có chất lượng cao. Sao là tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng dịch vụ và tiện nghi trong từng khách sạn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy một khách sạn đạt chuẩn 5 sao tại Việt Nam có khi chỉ đạt tiêu chuẩn 4 sao khi đặt lên cán cân so sánh tiêu chí xếp hạng khách sạn quốc tế mà thôi. Tiêu chí xếp sao của khách sạn Châu Âu được tổ chức HOTREC (Hiệp hội khách sạn, nhà hàng và quán cà phê Châu Âu) đánh giá và xếp hạng. Tại Việt Nam, xếp hạng sao khách sạn được Tổng cục Du lịch thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch quản lý. Khách sạn đạt tiêu chuẩn 1 sao phải đảm bảo 100% phòng nghỉ có phòng tắm, dịch vụ dọn phòng và vật dụng cá nhân cần thiết như xà phòng, dầu gội. Dưới đây là bảng đánh giá tiêu chí khách sạn 1 sao:. - Đối với phòng ngủ: Trang trí nội thất hài hoà, đủ ánh sáng lượng khá. - Các loại dịch vụ ăn, uống: phục vụ các món ăn Âu, Á, tiệc với số lượng các món ăn hạn chế và các món ăn dễ chế biến; phục vụ một số loại nước giải khát thông dụng. - Đối với phòng ngủ:Trang trí nội thất hài hoà, đủ ánh sáng. Trang thiết bị đồng bộ, chất lượng tốt. - Các loại dịch vụ ăn, uống: phục vụ các món ăn Âu, Á, tiệc với số lượng các món ăn hạn chế và các món ăn dễ chế biến; phục vụ một số loại nước giải khát thông dụng. Hơn hẳn các khách sạn 1 sao, 2 sao về chất lượng dịch vụ và tiện nghi phòng, khách sạn 3 sao được đánh giá là chỗ nghỉ phân khúc tầm trung mang đến nhiều trải nghiệm với mức giá phù hợp nhất. Khách sạn 3 sao thường phải có danh mục phòng riêng cũng như nhà hàng, các thiết bị phòng gym cơ bản và phòng hội nghị . Dưới đây là bảng mô tả chi tiết các tiêu chí đánh giá khách sạn đạt chuẩn 3 sao. - Kiến trúc, xây dựng đẹp, vật liệu xây dựng tốt, nội ngoại thất được thiết kế hợp lý. - Từ 3 tầng trở lên có thang máy riêng cho khách, cho nhân viên phục vụ và hàng hoá. - Đối với buồng ngủ: Trang trí nội thất hài hoà, đủ ánh sáng. Trang thiết bị đồng bộ. - Các loại dịch vụ ăn, uống: phục vụ các món ăn Âu, Á, tiệc với số lượng các món ăn hạn chế và các món ăn dễ chế biến; phục vụ một số loại nước giải khát thông dụng. Nếu như khách sạn từ 3 sao trở xuống chỉ cần đáp ứng các nhu cầu cần thiết thì khách sạn 4 sao cần có dịch vụ hỗ trợ khách hàng, sảnh tiếp tân kèm ghế ngồi, dịch vụ đồ uống, quầy bar mini, phục vụ 16/24 giờ và dịch vụ đỗ xe. Để được công nhận và xếp hạng 4 sao, khách sạn cần phải đáp ứng được những tiêu chuẩn:. - Kiến trúc, xây dựng kiểu dáng đẹp, vật liệu xây dựng chất lượng cao, nội ngoại thất được thiết kế hợp lý, đẹp. - Trang trí nội thất đẹp, hài hoà, đủ ánh sáng. Trang thiết bị đồng bộ, chất lượng cao. - Có thảm chất lượng cao trải toàn bộ trong buồng ngủ, hành lang, cầu thang. Ti vi màu với mạch VIDEO cho 100% tổng số buồng, có trung tâm phát hình của khách sạn. - Các loại dịch vụ ăn, uống: phục vụ các món ăn Âu, Á, tiệc với số lượng các món ăn hạn chế và các món ăn dễ chế biến; phục vụ một số loại nước giải khát thông dụng. Để xứng đáng đạt chỉ tiêu 5 sao, các khách sạn này phải đảm bảo cơ sở vật chất và phòng ốc phải đáp ứng mọi yêu cầu dành cho khách sạn 5 sao cũng như đội ngũ nhân viên cao cấp luôn sẵn sàng đáp ứng các dịch vụ và chăm sóc khách hàng. Về cơ bản để được xếp hạng khách sạn Việt Nam 5 sao, hệ thống lưu trú cần đảm bảo các tiêu chí sau:. - Kiến trúc cá biệt, kiểu dáng đẹp, vật liệu xây dựng cao cấp. Nội ngoại thất được thiết kế đẹp, trang nhã, toàn cảnh được thiết kế thống nhất. - Đồng bộ, hiện đại, chất lượng cao, trang trí nghệ thuật, hấp dẫn (khuyến khích mang tính dân tộc). - Trang trí nội thất đẹp, hài hoà, đủ ánh sáng. Trang thiết bị đồng bộ, hiện đại chất lượng cao
Xếp hạng khách sạn
Xếp hạng khách sạn thường được sử dụng để phân loại chất lượng khách sạn. Cùng với sự phát triển của tiêu chuẩn Đánh giá khách sạn, các khái niệm mới, các định nghĩa liên quan nối tiếp ra đời. Từ mục đích ban đầu chỉ nhằm thông báo trước cho khách du lịch các đánh giá khách quan dựa trên chỉ tiêu cơ bản được kiểm chứng, thử thách; việc Xếp hạng khách sạn đã trở thàn thiết yếu, nhằm mục đích quảng bá, khẳng định tên tuổi của một khách sạn khi được đạt "chuẩn". Đã có hàng loạt các đề án đánh giá được sử dụng bởi các tổ chức khác nhau trên khắp thế giới. Các hệ thống quốc gia về phân loại khách sạn rất khác nhau trên cả phương diện phân loại lẫn phương pháp phân cấp bằng các chữ cái, các con số, số sao, vương miện,. và có tính chất bắt buộc hoặc tự nguyện. Có hệ thống sử dụng các ngôi sao (*) như một biểu tượng cho cấp độ phân loại của khách sạn, càng nhiều ngôi sao cho thấy sự tiện nghi hơn, sang trọng hơn, cao cấp hơn. Năm 1958, Tạp chí Forbes Travel, tên cũ là Mobil Travel, đầu tiên đưa ra hệ thống đánh giá bằng ngôi sao.
Cùng thuộc một lĩnh vực nghiên cứu nhưng mỗi ngành lại tập trung vào các khía cạnh cụ thể. Đối với người ngoại đạo, khoa học máy tính (computer science) và công nghệ thông tin (information technology) có vẻ không khác nhau nhiều. Trên thực tế, có ba lĩnh vực quan trọng liên quan đến việc nghiên cứu máy tính được giảng dạy ở cấp đại học là kỹ thuật máy tính (computer engineering), công nghệ thông tin (information technology) và khoa học máy tính (computer science). Đây là các chuyên ngành trong cùng một lĩnh vực nghiên cứu. Tuy nhiên, mỗi chuyên ngành tập trung vào các khía cạnh cụ thể của lĩnh vực và nghề nghiệp trong ba chuyên ngành này cũng phân hóa rõ rệt. Mentor Trần Quốc Tuấn - Đại học trực tuyến FUNiX sẽ đưa ra các thông tin để phân biệt hai chuyên ngành phổ biến được giảng dạy tại đại học là khoa học máy tính và công nghệ thông tin cũng như cơ hội nghề nghiệp của từng lĩnh vực. Người nghiên cứu khoa học máy tính là các nhà khoa học. Họ tập trung vào lý thuyết ứng dụng tính toán. Điều đó có nghĩa là họ trả lời được câu hỏi "vì sao" đằng sau các chương trình máy tính. Sử dụng thuật toán, cấu trúc dữ liệu và toán cao cấp, các nhà khoa học máy tính phát minh ra những cách thức mới để thao tác và truyền tải thông tin. Họ thường quan tâm đến phần mềm, hệ điều hành và việc triển khai. Các nhà khoa học máy tính có thể thấy và hiểu được mã máy. Sinh viên ngành khoa học máy tính sẽ học nguyên tắc cơ bản của các ngôn ngữ lập trình khác nhau, đại số tuyến tính và rời rạc, thiết kế và phát triển phần mềm. Tóm lại, các nhà khoa học máy tính có thể nói chuyện với máy tính. Chuyên ngành này dựa trên toán học - ngôn ngữ của máy tính. Những người theo đuổi ngành này sẽ hiểu tại sao máy tính hoạt động và có thể tạo ra một chương trình hoặc hệ điều hành với những tính năng như ý muốn. Khoa học máy tính là một chuyên ngành phát triển nhanh chóng và được kỳ vọng sẽ mở rộng cơ hội việc làm với mức lương cao. Nếu bạn đang theo đuổi một bằng khoa học máy tính, dưới đây là một số công việc tiềm năng:. - Lập trình viên phát triển ứng dụng (Applications software developer): Áp dụng tư duy sáng tạo vào các ứng dụng và chương trình, nhà phát triển phần mềm thiết kế và xây dựng các chương trình, ứng dụng cho máy tính và thiết bị công nghệ. Ví dụ, Angry Birds hay Microsoft Office đều do các nhà phát triển phần mềm làm ra. - Kỹ sư hệ thống (Systems engineer): Các kỹ sư hệ thống thiết kế và tạo ra các loại hệ thống này để sử dụng cho máy tính cá nhân, điện thoại và thậm chí cả xe hơi. Hệ điều hành cung cấp nền tảng cho máy tính và thiết bị hoạt động. Microsoft Windows, Linux và iOS là các ví dụ về các loại hệ điều hành. - Phát triển web (Web developer): Các nhà phát triển web không phải là nhà thiết kế đồ họa. Các nhà thiết kế đồ họa tạo ra những hình ảnh bạn thấy trên các trang web; nhà phát triển web lập trình mã tạo nên chức năng trang web. Các nhà phát triển web tích hợp đồ họa, âm thanh và video vào trang web và theo dõi lưu lượng truy cập, hiệu suất cũng như khả năng của trang web. Về cơ bản, các chuyên gia công nghệ thông tin là những người sử dụng công nghệ. Công nghệ thông tin sử dụng các hệ điều hành, phần mềm và ứng dụng có cùng nhau để tạo ra một hệ thống lớn hơn giải quyết một vấn đề cụ thể. Công nghệ thông tin xây dựng một mạng lưới từ các khối đã được thiết lập để thực hiện một nhiệm vụ, như dịch vụ đặt hàng nguồn cung cấp tự động. Do tính chất của công việc, các chuyên gia công nghệ thông tin có xu hướng tương tác với khách hàng và đồng nghiệp bên ngoài phòng ban của họ. Họ có thể giải thích cho khách hàng cách giải quyết các vấn đề công nghệ hoặc làm việc với chủ doanh nghiệp để xây dựng kế hoạch công nghệ đáp ứng nhu cầu kinh doanh của họ. Sinh viên công nghệ thông tin sẽ nghiên cứu mạng và thiết kế cơ sở dữ liệu theo chiều sâu, và thu nhận các lý thuyết toán cơ bản và toán cao cấp. Chuyên gia công nghệ thông tin là người sử dụng công nghệ để quản lý hệ thống lớn. Ở mọi cấp độ, từ các cửa hàng theo chuỗi đến các tập đoàn đa quốc gia, doanh nghiệp đều cần công nghệ thông tin. Trong thập kỷ tới, cơ hội nghề nghiệp trong ngành này được dự đoán sẽ tăng trưởng nhanh hơn mức trung bình. Tùy thuộc vào trình độ học vấn của bạn, bằng cấp về công nghệ thông tin có thể đem đến một thu nhập vừa ý. Dưới đây là một số vị trí phổ biến:. - Nhà phân tích bảo mật thông tin (Information security analyst): Họ làm việc để ngăn chặn các cuộc tấn công mạng bằng cách theo dõi mạng lưới kinh doanh để tìm ra vi phạm, các điểm yếu và tạo ra kế hoạch khẩn cấp trong trường hợp bị tấn công. - Chuyên gia hỗ trợ máy tính (Computer support specialist): Họ cung cấp lời khuyên và trợ giúp khắc phục sự cố cho cá nhân và doanh nghiệp có câu hỏi về phần mềm của họ. - Quản trị viên cơ sở dữ liệu (Database administrator): Họ sử dụng phần mềm và các chương trình để tổ chức và lưu trữ thông tin cho mọi doanh nghiệp từ doanh nghiệp tài chính đến các công ty vận chuyển. - Quản trị viên hệ thống (Systems administrator): Họ thực hiện việc bảo trì và vận hành hàng ngày của mạng doanh nghiệp, gồm mạng LAN, WAN, mạng nội bộ và các hệ thống liên lạc khác. Các nhà khoa học máy tính thiết kế và phát triển chương trình máy tính, phần mềm và ứng dụng. Các chuyên gia công nghệ thông tin sử dụng và khắc phục sự cố các chương trình, phần mềm và ứng dụng đó. Hai ngành nghề này làm việc cùng nhau để đảm bảo phần cứng, phần mềm và giao diện người dùng (UI) kết hợp thuận lợi để các máy tính có thể thực hiện nhiệm vụ mà doanh nghiệp và cá nhân yêu cầu. Các bạn trẻ muốn theo đuổi ngành công nghệ thông tin và khoa học máy tính có thể theo học tại Đại học trực tuyến FUNiX. Cùng với bài giảng online của các giáo sư quốc tế, sinh viên được hướng dẫn, kèm cặp kiến thức bởi mentor là các chuyên gia công nghệ, nhà tuyển dụng… tại các công ty, tập đoàn công nghệ Việt Nam. Sinh viên có thể theo học từng chứng chỉ chuyên môn như Lập trình viên mobile, Lập trình viên ứng dụng doanh nghiệp, Chuyên viên hệ thống thông tin. hoặc theo học bằng Kỹ sư phần mềm được Bộ Giáo dục Đào tạo công nhận.
Nhà khoa học máy tính
Nhà khoa học máy tính là một người có được kiến thức về khoa học máy tính, nghiên cứu về nền tảng lý thuyết của thông tin và tính toán và ứng dụng của họ. Các nhà khoa học máy tính thường làm việc trên khía cạnh lý thuyết của các hệ thống máy tính, trái ngược với khía cạnh phần cứng mà các kỹ sư máy tính chủ yếu tập trung (mặc dù có sự chồng chéo). Mặc dù các nhà khoa học máy tính cũng có thể tập trung công việc và nghiên cứu vào các lĩnh vực cụ thể (như thiết kế và phát triển cấu trúc dữ liệu và thuật toán, công nghệ phần mềm, lý thuyết thông tin, lý thuyết cơ sở dữ liệu, lý thuyết phức tạp tính toán, phân tích số, lý thuyết ngôn ngữ lập trình, đồ họa máy tính và thị giác máy tính), nền tảng của họ là nghiên cứu lý thuyết về điện toán mà từ đó các lĩnh vực khác có thể dựa vào đó để phát triển tiếp. Mục tiêu hàng đầu của các nhà khoa học máy tính là phát triển hoặc xác nhận các mô hình, thường là toán học, để mô tả các thuộc tính của các hệ thống dựa trên máy tính (bộ xử lý, chương trình, máy tính tương tác với con người, máy tính tương tác với các máy tính khác, v.v.) với mục tiêu tổng thể là khám phá thiết kế mang lại lợi ích hữu ích (nhanh hơn, nhỏ hơn, rẻ hơn, chính xác hơn, v.v.).
Ở Trung Quốc thời nhà Chu, thế kỷ VI-V trước Công Nguyên, để bảo vệ thành, hào, các bá Vương chư Hầu đã đặt ra thần Thành hào (hào có nước gọi là trì, không nước gọi là hoàng). Như vậy, Thành hoàng xuất hiện ở Trung Quốc cổ đại với tính chất là thần coi giữ, bảo vệ cho cái thành. Ở Việt Nam, Thành hoàng là vị thần được tôn thờ chính trong các đình làng, là vị thần linh cai quản toàn bộ thôn xã, là thần hộ mệnh, phù hộ và che chở cũng như ban phúc cho dân làng. Danh hiệu Thành Hoàng xuất hiện vào năm 822, Thời Đường Mục Tông và vị Thành Hoàng đầu tiên ở nước ta là vị nhân thần tên là Tô Lịch. Thái thú nhà Đường khi ấy là Lý Nguyên Gia, thấy ngoài cửa bắc thành Long Biên có một dòng nước chảy ngược mà địa thế khả quan, mới tìm và chọn một nơi cao ráo để dời phủ lỵ đến đó…Nhân dịp ấy, y giết trâu đặt rượu, mời khắp các vị kỳ lão hương thôn đến dùng và thuật rõ là muốn tâu vua Tàu xin phụng Vương (thần sông Tô Lịch) làm Thành Hoàng. Đến khi Cao Biền đắp thành Đại La, nghe đủ sự linh dị, thì lập tức sắm lễ điện tế, dâng cho hiệu là Đô Phủ Thành Hoàng Thần Quân. Đời Lý Thái Tổ lúc dời đô (năm 1010), thường mộng thấy một cụ đầu bạc, phảng phất trước bệ rồng…(Sau khi hỏi rõ lai lịch) nhà vua liền sai quan Thái Chúc đưa rượu chè đến tế, phong làm Quốc Đô Thăng Long Thành Hoàng Đại Vương. Dân cư đến cầu đảo hay thề nguyền điều chi, thì lập tức họa phúc linh ứng ngay. Sau đó, các triều đại độc lập tiếp tục duy trì và phát triển bằng nhiều đợt sắc phong. Thời nhà Trần, Tô Lịch lại được phong thêm các mỹ tự: “Bảo Quốc vào năm Trùng Hưng thứ nhất, Hiển linh vào năm Trùng Hưng thứ tư, Định bang vào năm Hưng Long thứ 21. Đời Lê (1442) cho lập các đàn thờ các thần thiên nhiên để cúng tế. Vào thời Nguyễn, quan niệm chính thống về Thành Hoàng được duy trì và mở rộng ra các trấn, tỉnh. Dân ta tin rằng: Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần hoàng ấy; vậy phải thờ phụng để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày việc thờ thần một thịnh…. Như vậy, việc thờ Thành hoàng xuất hiện ở nước ta ban đầu là ở đô thị do nhu cầu cần có một vị thần bảo hộ cho một thành trì. Còn ở các làng quê, nông thôn Việt Nam thì thật khó có thể xác định chính xác niên đại của các Thành hoàng. Theo các nguồn tư liệu khác nhau thì có lẽ Thành hoàng du nhập về nông thôn nước ta từ vào khoảng thế kỷ 13 đến thể kỷ 15. Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật của Thành hoàng nông thôn Việt Nam là những vị thần đã được nhân dân thờ từ trước, sau đó mới được vua phong tước vương với danh vị Thành hoàng. Tại đình Phi Xá, xã Canh Hoạch, huyện Tiên Lữ (nay thuộc tỉnh Hưng Yên), có tấm bia ghi rõ Trần Thái Tông (1225-1258) phong Đoàn Thượng Phúc làm phúc thần, nhưng bia lại dựng vào năm 1563; còn hai chữ Thành hoàng lần đầu tiên được ghi trong văn bản là tấm bia xã Thường Sơn (Thủy Nguyên, Hải Phòng) thờ ông tù trưởng Lại Bốn, cũng người đời Trần, do tiến sĩ Nguyễn Đình Tuấn soạn, dựng năm 1487, kể rõ Thành hoàng ở đây do bốn xã thờ chung. Vị Thành hoàng này hiệu là Lã Nam Để Đế Lang. Đây là nguồn tài liệu quý chứng tỏ cuối thế kỷ 15 đã có việc thờ Thành hoàng ở nông thôn. Việc thờ Thành hoàng ở làng xã trở nên phổ biến khi triều đình biểu dương công trạng của các bậc trung thần, nghĩa sĩ và những người có công lao với nước bằng việc lập đền cho dân làng ở gần thờ khi họ hy sinh vì dân, vì nước hay khi họ chết đi. Tục này lan truyền từ làng nọ sang làng kia, làng nào cũng muốn tìm một vị làm chủ tế của làng mình. Làng nào có người anh hùng hào kiệt, hay có công khai lập làng, lập ấp thì khi mất đi rồi dân làng sẽ thờ ngay người đó, làng nào không có thì đi cầu lấy một vị về thờ,… cho nên làng nào cũng có đình, có đền hoặc miếu thờ. Thành hoàng là một biểu tượng cổ xưa có gốc từ Trung Hoa để chỉ vị thần đại diện cho một tòa thành lớn có hào bao quanh, vị thần này được thờ nhằm để bảo vệ cho tòa thành đó. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng bắt đầu du nhập vào Việt Nam từ thời nhà Đường (khoảng thế kỷ thứ IX) rồi phát triển qua các triều đại phong kiến độc lập của nước ta. Các Thành hoàng được phong các mỹ tự, các tước vị được phong là do có công giúp dân, giúp nước. Tuy nhiên, việc thờ vị thần cai quản thành trì này không sâu đậm và không dài lâu ở các thành đô ở nước ta. Tín ngưỡng thờ Thành hoàng bắt đầu lan truyền đến các vùng nông thôn nơi tín ngưỡng thờ thần in đậm dấu ấn trong nét văn hóa của người dân làm nông nghiệp lúa nước. Chẳng bao lâu, nhân dân đồng lòng suy tôn Thành hoàng làng là những vị thần bảo vệ cho cuộc sống của người dân trong làng, nhất là những nhân vật lịch sử từng có công tạo lập hay phát triển đời sống kinh tế – văn hóa – xã hội cho làng, nước. Thành hoàng làng đảm bảo cho sự thống nhất cộng đồng. Trải qua tiến trình lịch sử, Thành hoàng được thiêng hóa, lịch sử hóa. Xu thế lịch sử hóa Thành hoàng chứng tỏ người dân luôn mong muốn cho làng mình gắn bó với lịch sử dân tộc.
Thành hoàng
Thành hoàng (chữ Hán: 城隍) là vị thần được tôn thờ chính trong đình làng Việt Nam. Vị thần này dù có hay không có họ tên & lai lịch, dù xuất thân bất kỳ từ tầng lớp nào, thì cũng là chủ tể trên cõi thiêng của làng và đều mang tính chất chung là hộ quốc tỳ dân (hộ nước giúp dân) ở ngay địa phương đó. Xét về cái tục thờ Thần hoàng (hiểu là thần Thành hoàng) này từ trước đời Tam Quốc (Trung Quốc) trở về trước vẫn đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi. Đến đời nhà Đường, Lý Đức Dụ làm tướng, mới bắt đầu lập miếu Thần hoàng ở Thành Đô; kế đến nhà Tống, nhà Minh, thiên hạ đâu đâu cũng có lập miếu thờ. Nước ta thuở bấy giờ đang lúc nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kế đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ thần đã thịnh hành rồi. Nhưng cứ xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh sơn (ngọn núi có tiếng), đại xuyên (sông lớn); triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên (núi sông) ấy để làm chủ tể (người đứng đầu) cho việc ấm tí một phương thôi.
Trải nghiệm khách hàng trong tiếng Anh là Customer Experience, thường viết tắt là CX. Trải nghiệm khách hàng là nhận thức và cảm xúc của khách hàng về mọi điều liên quan đến một công cy hay một doanh nghiệp. - Trải nghiệm khách hàng bao gồm sự tương tác hướng tới khách hàng trong suốt hành trình của khách hàng (còn được gọi là điểm tiếp xúc) có tác động rõ ràng hoặc tinh tế đến lòng trung thành của khách hàng. - Trải nghiệm khách hàng cũng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như nhận diện thương hiệu và trách nhiệm xã hội của công ty. - Muốn có trải nghiệm khách hàng tốt, đồng nghĩa với việc tất cả các touchpoint (điểm tiếp xúc) đều phải mang lại cho khách hàng những cảm xúc tích cực, qua đó tạo nên lợi thế cạnh tranh trực tiếp cho doanh nghiệp. Các con số đã chỉ ra rằng 89% khách hàng cảm thấy thất vọng khi họ phải lặp đi, lặp lại các vấn đề trên các kênh khác nhau, ở thời điểm khác nhau. Hơn nữa 87% khách hàng mong muốn các thương hiệu cần có cơ chế để cung cấp các trải nghiệm khách hàng được nhất quán hơn. - Tìm kiếm trên di động được dự báo tạo ra con số là 27,8 tỉ truy vấn, nhiều hơn rất nhiều so với tìm kiếm trên các thiết bị khác (máy tính, ipad …). Tới 99.7% các thiết bị di động được sử dụng để truy cập internet. Nền tảng ứng dụng trên di động vẫn đang và sẽ bùng nổ trong tương lai. Thứ 3: Thực tế tăng cường hay thực tế ảo (AR/VR) sẽ là tương lai của các tương tác giữa khách hàng/người dùng và các sản phẩm. Là điểm nhấn của năm 2018, AR/VR hứa hẹn vẫn sẽ làm mưa làm gió trong việc tạo dựng và nâng cao trải nghiệm của khách hàng, người mua sản phẩm. - Video content là một dạng content marketing sử dụng video để truyền tải thông tin truyền thông (từ người gửi) đến khách hàng (người nhận). - Xem, đọc, và nghe và còn hơn thế nữa, đó chính là những giá trị mà video sẽ mang lại cho khách hàng của bạn. Mặt khác, video thu hút người xem sẽ có được khả năng viral (khả năng lan truyền, lan tỏa) cực nhanh trên các nền tảng video, nền tảng mạng xã hội. - Đồng thời, các tương tác của video content với khách hàng lúc nào cũng nhiều hơn các hình thức khác rất nhiều, ngoài ra việc kết hợp được với các công cụ khác đã giúp video content trở thành một công cụ tuyệt vời trong những năm gần đây cũng như tương lai. Thứ 5: Trí tuệ nhân tạo (AI) là một nhân tố không thể không nhắc tới. Trí tuệ nhân tạo (AI) không phải là thứ để thay thế sự tương tác của con người, mà thay vào đó nó là một phương tiện tạo điều kiện cho khách hàng có những trải nghiệm mới mẻ hơn, khách quan hơn, công bằng hơn, và thậm chí cá nhân hơn và hài lòng hơn.
Trải nghiệm khách hàng
Trải nghiệm khách hàng (Customer experience) bắt nguồn từ một tập hợp các tương tác giữa khách hàng và sản phẩm, doanh nghiệp hoặc một phần của doanh nghiệp. Trải nghiệm này hoàn toàn mang tính cá nhân và bao hàm sự tham gia của khách hàng ở các cấp độ khác nhau (lý trí, tình cảm, thể chất và tinh thần).Meyer và Schwager (2007) giải thích cụ thể hơn rằng trải nghiệm khách hàng là những phản ứng trong tâm trí và chủ quan của khách hàng đối với bất kỳ liên hệ trực tiếp hoặc gián tiếp nào với một công ty. Liên hệ trực tiếp thường được bắt đầu bởi khách hàng, xảy ra trong quá trình mua, sử dụng và trải nghiệm các dịch vụ. Liên hệ gián tiếp xảy ra khi khách hàng tình cờ bắt gặp các đại diện của một sản phẩm, dịch vụ hoặc nhãn hiệu của doanh nghiệp. Liên hệ gián tiếp thường có các hình thức như là tiếp thị truyền miệng, quảng cáo, tin tức, đánh giá, v.v. Đánh giá của trải nghiệm phụ thuộc vào sự so sánh giữa mong đợi của khách hàng và các trải nghiệm thực tế đến từ sự tương tác với công ty.
Thời gian hoàn vốn vào vai trò hết sức đặc biệt vào kế hoạch kinh doanh cùng cải cách và phát triển của những doanh nghiệp lớn. Trong bài viết này, chúng tôi đang trả lời phương pháp tính thời hạn hoàn vốn chuẩn tuyệt nhất năm 2020.Bạn đang xem: Thời gian hòa vốn. Thời gian hoàn vốn (Paybaông chồng period) được phát âm là khoảng thời gian quan trọng để tham gia án tạo ra dòng tiền thuần bằng chính chi phí đầu tư ban đầu. Nói một giải pháp đơn giản, thời hạn hoàn vốn đầu tư là khoảng chừng thời gian đầu tư đạt cho điểm hòa vốn. Đây chính là một quy định phân tích hay được sử dụng để đánh giá tiềm năng của dự án công trình. Tức là trước khi ra quyết định tiến hành một dự án nào kia, nhà đầu tư chi tiêu luôn quyên tâm đến mất bao nhiêu thọ nhằm chúng ta tịch thu lại số vốn quăng quật ra?. Nhà đầu tư rất có thể dựa trên những tiêu chí khác nhau để Reviews dự án. Mỗi tiêu chuẩn để sẽ sở hữu đông đảo ưu với điểm yếu riêng biệt. Khi lựa chọn tiêu chuẩn thời gian trả vốn để reviews thì sẽ sở hữu được hầu như ưu, nhược điểm nhỏng sau:. Cách tính đơn giản và dễ dàng, dễ dàng áp dụng cùng được thực hiện như một luật pháp kết quả trong việc chắt lọc sút những dự án công trình ko khả thi. Phương thơm pháp này tập trung quyên tâm tới các vấn đề rủi ro vào thời gian nđính, cân xứng cùng với đông đảo dự án có quy mô vừa với bé dại. Đáp ứng phương châm chiến lược của các công ty chi tiêu hy vọng thu hồi vốn nhanh, tăng vòng xoay vốn. - Không chăm chú mang lại cực hiếm thời gian của chi phí tệ, 100 triệu lúc này được reviews ngang bởi với 100 triệu chiếm được vào 3 năm tiếp theo. Đồng thời cũng không quan tâm cho dòng tiền chiếm được sau thời hạn hoàn tiền. - Chụ trọng mọi tác dụng ngắn hạn hơn lâu năm. Vậy yêu cầu ko tương thích mang lại vấn đề reviews công dụng tổng thể của một dự án. lúc tính thời hạn hoàn vốn thì có 2 trường thích hợp xảy ra như sau: (1) Thu nhập vày chi tiêu mang về đều bằng nhau theo các năm và (2) Thu nhập bởi khoản đầu tư chi tiêu mang lại ko đều bằng nhau theo các năm. - Thu nhập của dự án trong một năm hoàn toàn có thể gây ra nghỉ ngơi các thời gian khác nhau đầy đủ được quy ước về thời gian thời điểm cuối năm để tính tân oán. Cách 2: Khi số vốn bắt buộc tịch thu nhỏ hơn thu nhập cá nhân của năm tiếp sau thì ta áp dụng bí quyết sau để tính ra số tháng còn lại nhằm tiếp tục thu hồi vốn. Trên thực tế thì những tác dụng dự trù nhận được sau này đông đảo không chắc chắn là, không thể tính trước các khủng hoảng rủi ro không bình thường xẩy ra. Do đó, bạn cũng có thể sử dụng thêm những phương thức Review dự án công trình khác ví như cách thức tỷ suất hoàn vốn đầu tư nội cỗ giỏi phương thức quý giá hiện tại ròng. Sau đó, ta áp dụng công thức tựa như tương tự như cách tính thời gian hoàn vốn solo giản (bên cạnh việc áp dụng các dòng vốn phân tách khấu nlỗi đang tính làm việc trên nỗ lực do những dòng vốn danh nghĩa.). Việc tính toán thù thời hạn hoàn vốn đầu tư được ưu tiên bắt đầu bởi -3.000 chi phí khía cạnh trong giai đoạn ban đầu. Giai đoạn đầu tiên vẫn trả lại 1.000. Sử dụng phxay tính chiết khấu cực hiếm hiện tại, số lượng này là 1.000/1.04 = 961,54. Do đó, sau tiến độ đầu tiên, dự án công trình vẫn cần 3.000 - 961,54 = 2.038,46 để hòa vốn. Sau khi dòng tiền ưu đãi là 1.000/(1.04)^2 = 924,56 vào tiến độ nhị với 1.000/(1.04)^3 = 889,00 vào tiến trình ba, số dư dự án công trình ròng rã là 3.000 - (961,54 + 924,56 + 889,00) = 224,90. Do kia, sau thời điểm thanh khô toán quy trình thiết bị tư: 1.000/(1.04)^4 = 854,80, dự án sẽ sở hữu được số dư là 629,90. Suy ra, thời gian hoàn vốn đầu tư chiết khấu vẫn lâm vào hoàn cảnh tiến trình đồ vật bốn => Dự án khả thi. Mong rằng, phần nhiều kiến thức về phương pháp tính thời gian hoàn vốn tương tự như các ví dụ minh họa vẫn là nguồn bốn liệu hữu ích cho bạn trong quy trình tiếp thu kiến thức. Hãy liên hệ cùng với Luận Vnạp năng lượng 2S - Đơn vị chăm viết luận vnạp năng lượng thuê sinh hoạt TPHCM đáng tin tưởng t nếu khách hàng chạm mặt trở ngại nhé!
Thời gian hoàn vốn
Thời gian hoàn vốn trong ngân sách vốn đề cập đến khoảng thời gian cần thiết cho sự trở về trên một khoản đầu tư để "trả nợ" số tiền đầu tư ban đầu. Ví dụ, một khoản đầu tư 1000 USD trở lại 500 USD mỗi năm sẽ có thời gian hoàn vốn hai năm. giá trị thời gian của tiền không đưa vào tài khoản. Thời gian hoàn vốn trực giác các biện pháp bao lâu một cái gì đó cần thiết để "trả tiền cho chính nó". Tất cả các yếu tố khác là như nhau, thời gian hoàn vốn ngắn hơn là thích hợp hơn thời gian hoàn vốn lâu hơn. Thời gian hoàn vốn được sử dụng rộng rãi vì dễ sử dụng mặc dù công nhận những hạn chế, mô tả dưới đây. Thuật ngữ này cũng được sử dụng rộng rãi trong các loại khác của lĩnh vực đầu tư, thường xuyên đối với năng lượng hiệu quả công nghệ, thay đổi bảo trì, nâng cấp, hoặc khác. Ví dụ, một bóng đèn huỳnh quang compact có thể được mô tả là có một thời gian hoàn vốn của một số lượng nhất định của năm hoặc thời gian hoạt động, giả sử chi phí nhất định.
Tản Đà là một nhà thơ, nhà văn và đồng thời cũng là một nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Ông còn được biết đến với tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu. Sở dĩ ông sử dụng bút danh Tản Đà là vì đó là chữ kết hợp giữa núi Tản Viên và sông Đà của quê hương ông. Với tư tưởng tiến bộ, cá tính và tứ thơ lãng mạn ông được đánh giá chính là một người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới. – Tản Đà sinh ngày 19 tháng 5 năm 1889 ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây và nay là huyện Ba Vì, Hà Nội. Gia đình ông thuộc dòng dõi quyền quý và có khoa bảng. Và tổ tiên trước đây cũng có nhiều đời làm quan dưới triều Lê. – Tuy nhiên sau đó khi Gia Long lên ngôi dòng họ này thề sẽ không đi thi làm quan. Tuy nhiên do hoàn cảnh khó khăn nên khi tới đời của cha ông tức là Nguyễn Danh Kế nên đành phải có lỗi với tổ tiên, Cha ông đi thi và làm quan cho triều Nguyễn và từng giữ đến chức Ngự sử trong Kinh và là người rất nổi tiếng. – Là một người phong lưu nên cha ông thường lui tới làm khách quen của bà Lưu Thị Hiền. Đây là một đào hát tài sắc ở Nam Định. Sau đó đã lấy bà về làm lẽ khi ông làm tri phủ Xuân Trường (Nam Định). Bà cũng chính là người có tài hát hay và làm thơ nôm và Tản Đà là con út của cuộc lương duyên này. – Trong số các người con , thì có người anh ruột cùng cha khác mẹ là Nguyễn Tái Tích. Đây là người có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc đời của ông. Từ nhỏ đã sống cùng anh nên cũng nhiều lần phải di chuyển tới những nơi ông Tích được bổ nhiệm. + Cuộc đời của Tản Đà có nhiều biến cố. Năm 3 tuổi cha mất sau đó cuộc sống gia đình trở nên lúng túng. Do bất hòa với chồng nên mẹ ông đã trở lại làm nghề ca xướng và sau này chị cũng đã theo mẹ làm nghề đó. Đó cũng chính là những dấu ấn khó phai trong cuộc đời của ông. + Từ nhỏ ông đã được giáo dục theo tư tưởng và khoa cử Nho giáo. Ông học rất giỏi, rất thích làm văn và cũng được anh hết lòng chỉ dẫn nên thông thạo văn chương. Và tại thời điểm đó ông có một số sáng tác được đánh giá rất cao. + Khi mới 15 tuổi ông đã nổi tiếng là thần đồng của tỉnh Sơn Tây. Và cũng có thể nói rằng ông đã dành phần lớn cuộc đời niên thiếu của mình cho chuyện thi cử. Đến năm 19 tuổi ông mới cảm nhận được tình yêu khi có sự rung cảm tình ái với con gái nhà tư tưởng Đỗ Thận. Sau này ông lại yêu con gái của tri phủ huyện Vĩnh Tường. Các mối tình này đều không được hồi đáp. + Những năm tiếp theo ông tiếp tục theo con đường khoa của tuy nhiên đã trượt rất nhiều lần. Sau này ông dã kết giao với nhà tư sản Bạch Thái Bưởi. Lúc này ông đa tìm hiểu về cách mạng Tân Hợi và có được nhiều sáng tác xuất sắc trong giai đoạn này. Sau đó năm 1915 ông lấy bà Nguyễn Thị Tùng là con gái ông Nguyễn Mạnh Hương và trở thành anh em cọc chèo với nhà văn Phan Khôi. Đến năm 1916 ông lấy bút danh Tản Đà. + Từ năm 1915 đến năm 1926 được đánh giá là những năm thành công nhất trong cuộc đời và sự nghiệp của Tản Đà. Khi đó ông đã xuất bản tập Khối tình con I rất nổi tiếng và sau đó là cuốn “Giấc mộng con” và một số vở tuồng người cá, Tây Thi…. + Vào năm 1917 Nam Phong tạp chí được ra đời do Phạm Quỳnh sáng lập và bài của Tản Đà có mặt trên tạp chí này từ số đầu tiên. Sau đó cũng có giai đoạn Giấc mộng con của Tản Đà bị phê phán nên ông đã thôi cộng tác với báo. Trong những năm tiếp theo ông đã tích cực sáng tác văn chương và được đánh giá rất cao. + Đến năm 1922 Tản Đà thành lập Tản Đà thư điếm là nhà xuất bản riêng của ông. Tại đây ông đã sáng tác rất nhiều tác phẩm hay để đời và xuất bản chúng để đến gần hơn với độc giả. Ngoài ra thư cục này cũng dã xuất bản một số tác phẩm nổi tiếng của Ngô Tất Tố, Đoàn Tư Thuật. + Sau này khi Hữu Thanh Tạp chí bị đình bản và ông đã cho ra đời An Nam Tạp chí. Đây là tờ báo mà ông đã dành phần lớn cuộc đời của mình để cống hiến nhưng đó cũng chính là dấu mốc bắt đầu cuộc đời lận đận của ông. + Khi làm chủ An Nam tạp chí vào thời kỳ đầu ông chưa quá thiêu thốn về tiền bạc. Tuy nhiên sau đó ông đã túng quẫn và những cuộc đi du lịch thực chất chỉ là các cuộc trốn nợ, giải sầu hoặc cũng có thể tìm người tài trợ cho báo. Đến năm 1931 ông có cuộc bút chiến nổi tiếng với Phan Khôi về luân lý Tống nho. + Đến năm 1933 khi phong trào Thơ Mới đang phát triển mạnh thì An Nam tạp chí đã chính thức bị đình bản. Sự kiện này khi đó bị nhiều người thuộc phong trào Thơ Mới đưa ra đùa cợt. Ngay cả Tờ Phong hóa của Tự lực văn đoàn cũng rất hăng hái chê ông. Khi đó ông gần như bị cô độc và tên tuổi của ông gần như bị lui vào dĩ vãng. Và khi đó cuộc sống củ ông nghèo khó lại càng nghèo khó hơn và ông phải chạy vạy người xuôi để kiếm sống. + Những năm cuối của cuộc đời này nhưng ông gần như được quan tâm trở lại. Sau nhiều chiến thắng phe Thơ Mới đã không còn đả kích Tản Đà nữa và họ nhìn nhận một cách khách quan hơn về những gì mà Tản Đà đã cống hiến và xem ông như là một Thánh của làng thơ. Trước đây khi chê ông tới không có chỗ chê thì nay lại hết sức ca ngợi các sáng tác thơ Đường do ông dịch. + Sau này ông dành phần lớn thời gian cho việc dịch thuật với một số sáng tác nổi tiếng. Sau một thời gian chống chọi với bệnh gan ông đã qua đời ở cái tuổi 50. Sau này có nhiều nhà thơ, nhà văn đã có các sáng tác về ông. Đặc biệt trong Thi Nhân Việt Nam Hoài Thanh và Hoài Chân cũng đã tôn ông lên làm chủ súy của hội Tao Đàn và ở những trang đầu tiên. Hay nói cách khác đã đề cao vai trò của ông với tư cách như là một người mở lối cho thi ca Việt Nam vào một giai đoạn tươi đẹp.
Tản Đà
Tản Đà (chữ Hán: 傘沱, 19 tháng 5 năm 1889 - 7 tháng 6 năm 1939) tên thật Nguyễn Khắc Hiếu (阮克孝), là một nhà thơ, nhà văn và nhà viết kịch nổi tiếng của Việt Nam. Bút danh Tản Đà của ông là tên ghép giữa núi Tản Viên và sông Đà, quê hương ông. Trong văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20, Tản Đà nổi lên như một ngôi sao sáng, vừa độc đáo, vừa dồi dào năng lực sáng tác. Ông là một cây bút phóng khoáng, xông xáo trên nhiều lĩnh vực. Đi khắp miền đất nước, ông đã để lại nhiều tác phẩm với nhiều thể loại. Ông đã từng làm chủ bút tạp chí Hữu Thanh, An Nam tạp chí. Với những dòng thơ lãng mạn và ý tưởng ngông nghênh, đậm cá tính, ông được đánh giá là người chuẩn bị cho sự ra đời của thơ mới trong nền văn học Việt Nam, là "gạch nối giữa hai thời kỳ văn học cổ điển và hiện đại". Ngoài sáng tác thơ, Tản Đà còn giỏi trong việc dịch thơ Đường thành thơ lục bát và được biết đến như một người dịch thơ Đường ra ngôn ngữ Việt hay nhất.
Phết tế bào cổ tử cung hay phiến đồ âm đạo (có người còn gọi nôm na là phết tế bào âm đạo – tiếng Anh: Pap smear, tức là xét nghiệm Pap) là một xét nghiệm tếbào học để tìm những tếbào bất thường trong lớp biểu mô cổ tử cung. Mục đích của việc này là để phát hiện ung thư cổ tử cung – một bệnh lý ác tính rất thường gặp ở phụ nữ, nhất là ở các nước đang phát triển. Đây là một xét nghiệm đơn giản, thường được thực hiện ở các phòng khám phụ khoa, và là bước đầu tiên trong bộ ba xét nghiệm dùng để tầm soát đồng thời cũng để chẩn đoán ung thư cổ tử cung. Cách đọc kết quả một xét mẫu tế bào cổ tử cung cũng khá phức tạp với một số phân loại khác nhau. Tại Việt Nam, trước đây xét nghiệm này thường được gọi tên là phết mỏng tế bào âm đạo, nhưng tên gọi trên không chính xác vì thực chất là lấy tế bào của cổ tử cung chứ không phải của âm đạo, nên một số tài liệu mới gần đây đã gọi xét nghiệm này là phết tế bào cổ tử cung, hoặc phết mỏng tế bào cổ tử cung, hoặc cũng gọi tắt là xét nghiệm Pap. Phết tế bào cổ tử cung được chỉ định cho những bệnh nhân sau: • Kiểm tra định kỳ cho tất cả các phụ nữ đã có quan hệ tình dục. Thời gian giữa các lần làm hiện chưa thống nhất. Có một số đề nghị được chấp nhận rộng rãi, như theo đề nghị của Hội Ung thư Hoa Kỳ thì mỗi phụ nữ đã có quan hệ tình dục nên được phết tế bào cổ tử cung mỗi năm một lần. Sau 3 lần liên tiếp với kết quả bình thường thì khoảng thời gian làm lại có thể thưa ra tùy theo đánh giá của bác sĩ. Thời gian này có thể là mỗi 3 năm, cho đến lúc 60 tuổi. Nếu trên tuổi này mà kết quả vẫn bình thường thì có thể loại khỏi chương trình tầm soát. Bệnh nhân không đặt thuốc âm đạo, không giao hợp, không thụt rửa âm đạo trong 24-48 giờ trước đó. Không làm khi có tình trạng viêm nhiễm âm đạo, cổ tử cung nặng, cấp tính, hoặc khi có tình trạng xuất huyết âm đạo, tử cung.
Phết tế bào cổ tử cung
Phết tế bào cổ tử cung (tiếng Anh: Pap smear, tức là xét nghiệm Pap) là một xét nghiệm tế bào học để tìm những tế bào bất thường trong lớp biểu mô cổ tử cung. Mục đích của việc này là để phát hiện ung thư cổ tử cung – một bệnh lý ác tính rất thường gặp ở phụ nữ, nhất là ở các nước đang phát triển. Đây là một xét nghiệm đơn giản, thường được thực hiện ở các phòng khám phụ khoa, và là bước đầu tiên trong bộ ba xét nghiệm dùng để tầm soát đồng thời cũng để chẩn đoán ung thư cổ tử cung. Cách đọc kết quả một xét mẫu tế bào cổ tử cung cũng khá phức tạp với một số phân loại khác nhau. Năm 1928, George Nicolas Papanicolaou – một bác sĩ người Hi Lạp giới thiệu những phát hiện mới của mình về một phương pháp chẩn đoán ung thư mới với tựa đề bài báo là "New Cancer Diagnosis" (Phương pháp chẩn đoán ung thư mới). Cũng từ năm này, Papanicolaou đến và làm việc tại Hoa Kỳ. Tại đây, năm 1939, ông cùng với một đồng nghiệp của mình là bác sĩ Herbert Traut, một nhà bệnh học về phụ khoa, làm phết tế bào âm đạo cho nhiều bệnh nhân, và từ đó chứng minh khả năng chẩn đoán ung thư cổ tử cung ở giai đoạn sớm của phương pháp này.
4 Tôi cần phải trở lại làm việc. Tôi vẫn có thể cho con bú sữa mẹ?. Sữa mẹ là thức ăn hoàn hảo cho em bé của bạn. Các tổ chức về sức khỏe bao gồm Viện Hàn lâm bác sĩ gia đình Mỹ (AAFP), Hiệp hội Y khoa Mỹ (AMA), Viện Hàn lâm Nhi khoa Mỹ (AAP) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo các bà mẹ nuôi con bằng sữa mẹ. Mặc dù các bác sĩ và các chuyên gia đều đồng ý rằng sữa mẹ là tốt nhất. Tuy nhiên, một số bà mẹ không thể cho con bú sữa mẹ, hoặc lựa chọn không cho con bú sữa mẹ. Quyết định là tùy thuộc vào bạn. Hãy nhìn vào những ưu điểm của việc nuôi con bằng sữa mẹ và bú bình dưới đây. Hãy suy nghĩ về tình hình cá nhân và sở thích của bạn. Nói chuyện với bác sĩ của bạn và người thân của bạn. Sau đó, với tất cả các thông tin này, bạn có thể đưa ra quyết định tốt nhất cho bạn và em bé của bạn. Sữa mẹ một cách tự nhiên chứa tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết cho em bé của bạn. Các chất dinh dưỡng trong sữa mẹ cũng thay đổi theo thời gian để đáp ứng với các thay đổi về nhu cầu dinh dưỡng của bé. Sữa mẹ cũng dễ tiêu hóa hơn so với sữa công thức. Nó cũng chứa đầy đủ các kháng thể giúp bảo vệ em bé của bạn khỏi bị nhiễm trùng. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho thấy rằng trẻ em được nuôi bằng sữa mẹ có thể có chỉ số thông minh cao hơn so với những trẻ không được bú sữa mẹ. Các bệnh ung thư ở trẻ em như bệnh bạch cầu cấp và u lympho. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp tử cung của bạn thu nhỏ kích thước như trước khi mang thai. Nó cũng có thể giúp bạn giảm cân bởi vì cơ thể của bạn phải đốt cháy năng lượng để sản xuất sữa mẹ. Giai đoạn này của bạn sẽ không trở lại trong vòng một vài tháng (mặc dù bạn không nên hy vọng sử dụng việc nuôi con bằng sữa mẹ như là một biện pháp tránh thai). Prolactin, các hormone tạo sữa, dường như tạo ra một sự điềm tĩnh đặc biệt ở các bà mẹ. Bà mẹ cho con bú cũng có thể ít bị căng thẳng hơn (và ít bỏ lỡ công việc hơn nếu họ đang làm việc) vì con của họ ít mắc bệnh hơn. Nhu cầu dinh dưỡng sẽ được đáp ứng: Trẻ sơ sinh có một nhu cầu đặc biệt về chất dinh dưỡng. Sữa công thức sẽ đáp ứng đầy đủ về nhu cầu dinh dưỡng của trẻ. Nếu có thể, cố gắng tìm một người chăm sóc bé gần nơi làm việc của bạn, do đó bạn có thể thăm em bé của bạn ít nhất một lần trong ngày và cho con bú sữa mẹ. Bạn cũng có thể vắt sữa và để dành sữa mẹ trong thời gian làm việc. (Bạn có thể mua hoặc thuê một máy vắt sữa bằng điện hoặc điều khiển bằng tay.) Sau đó, người chăm sóc em bé của bạn có thể cho bé bú sữa mẹ khi bạn đang không ở cùng bé. Nếu bạn muốn tiếp tục cho con bú sữa mẹ khi bạn quay trở lại với công việc, hãy cố gắng lên kế hoạch trước. Bạn hãy nói chuyện với người quản lý của bạn về thời gian bạn sẽ cần trong ngày để cho em bé bú hoặc để vắt sữa. Nếu bạn đang lập kế hoạch vắt sữa để cho con bạn uống, bạn sẽ cần một phòng riêng được trang bị với một máy vắt sữa bằng điện. Một số bà mẹ lo lắng rằng họ không tạo ra đủ sữa cho nhu cầu của em bé. Một số bà mẹ khác lo lắng rằng họ không có khả năng vắt đủ sữa cho em bé của họ. Đối với những trường hợp này, việc bổ sung thêm sữa công thức là tốt. Tuy nhiên, tốt nhất bạn nên thảo luận với bác sĩ hoặc các chuyên gia về nuôi con bằng sữa mẹ trước khi bạn bắt đầu bổ sung thêm sữa công thức cho con bạn. Vì việc bổ sung thêm sữa công thức vào chế độ ăn của trẻ có thể làm bạn giảm tạo sữa. Hoặc, bé có thể bắt đầu thích bú bình hơn bú sữa mẹ vì dễ dàng hơn so với mút vú của bạn. Sữa công thức cho trẻ sơ sinh là một sự thay thế tốt cho sữa mẹ. Nếu bạn đã xem xét các lựa chọn của bạn và cảm thấy bạn đã thực hiện quyết định tốt nhất, thì bạn không có bất kỳ lý do để cảm thấy tội lỗi. Em bé của bạn vẫn sẽ nhận được dinh dưỡng mà bé cần và bạn sẽ có thể gắn kết với em bé của bạn trong thời gian bú bình và các hoạt động khác.
Nuôi con bằng sữa mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ, còn được gọi là cho bú sữa mẹ, là nuôi trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ bằng sữa từ nhũ hoa phụ nữ. Cho bú mẹ nên bắt đầu trong giờ đầu sau sinh và đến khi đứa trẻ không còn muốn bú nữa. Trong vài tuần đầu đời, trẻ có thể bú tám đến mười hai lần một ngày. Thời gian một lần bú thường mười đến mười lăm phút, trên mỗi bầu ngực. Số lần bú giảm khi đứa trẻ lớn hơn. Một số người mẹ vắt sữa để có thể dùng sau đó khi con của họ đang được người khác chăm sóc. Nuôi con bằng sữa mẹ có lợi cho cả mẹ và con. Sữa công thức cho trẻ sơ sinh không có nhiều lợi ích. Mỗi năm, ước tính trên toàn cầu có hơn một triệu trẻ sơ sinh có thể được cứu sống bằng cách cho bú sữa mẹ nhiều hơn. Bú sữa mẹ làm giảm nguy cơ bị viêm nhiễm đường hô hấp và tiêu chảy. Điều này đúng tại cả các quốc gia phát triển và đang phát triển. Các lợi ích khác bao gồm nguy cơ thấp hơn mắc bệnh hen phế quản, dị ứng thức ăn, bệnh không dung nạp gluten, bệnh tiểu đường loại 1, ung thư bạch cầu.
Năm 2016 Theo thống kê của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, ở Việt Nam có khoảng 200.000 người có chứng tự kỷ. Năm 2018, theo thống kê của các chuyên gia, Việt Nam có khoảng một triệu trẻ tự kỷ và 8 triệu người bị ảnh hưởng trực tiếp. Hiện Việt Nam chưa có nghiên cứu chính thức số lượng người mắc tự kỷ và con số này vẫn tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng biến thể trên gen COMT làm tăng nguy cơ mù cảm xúc (alexithymia) cùng với rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Alexithymia xảy ra ở 10% người bình thường và 50% người mắc tự kỷ. Mỗi người tự kỷ là một thế giới đầy sắc màu mà chúng ta chưa khám phá đủ. Hãy cùng Genetica® lan tỏa những thông điệp hiểu đúng về tự kỷ. Bài viết được dịch và biên tập bởi Thắm Nguyễn, tham vấn y khoa Bác Sĩ Chuyên khóa II Thái Thị Thanh Thủy, Trưởng khoa Tâm Lý Trẻ Em, bệnh viện Nhi Đồng 2, TP.HCM. Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Tự kỷ ám thị, hay tên gọi chính xác là rối loạn phổ tự kỷ (ASD), đại diện cho một nhóm lớn về các rối loạn phát triển tính cách do suy giảm các kỹ năng tương tác xã hội, vấn đề về giao tiếp ngôn ngữ và phi ngôn ngữ, liên tục lặp lại một vài hành vi, hoặc có hoạt động và sở thích, mong muốn cực kỳ hạn chế. ASD đề cập đến một loạt các tình trạng xuất hiện rõ ràng, xuất phát từ các vấn đề liên quan đến sự phát triển của hệ thần kinh. ASD ảnh hưởng đến khoảng 1-2% dân số thế giới và được đặc trưng bởi:. Hội chứng này đã trờ thành căn bệnh rối loạn phát triển thời thơ ấu phổ biến nhất. Theo Trung tâm phòng chống dịch bệnh năm 2007, 1 trên 150 trẻ em ở Hoa Kỳ mắc các rối loạn phổ tự kỷ. Thống kê từ Bộ Giáo dục Hoa Kỳ và các cơ quan chính phủ khác chỉ ra rằng chẩn đoán tự kỷ đang gia tăng với tỷ lệ 10 đến 17% mỗi năm. Tự kỷ có thể ảnh hưởng đến bất kỳ cá nhân nào bất kể dân tộc, sắc tộc và tầng lớp xã hội. Và, các bé trai mang hội chứng này nhiều gấp bốn lần so với các bé gái. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy gia đình, cộng đồng có thể giúp cải thiện chất lượng cuộc sống của người mắc chứng tự kỷ. Quan điểm về trẻ tự kỷ thiếu sự đồng cảm thật ra không hoàn toàn chính xác. Thực tế là nhiều người tự kỷ biểu lộ cảm xúc và sự đồng cảm một cách khác biệt mà người bình thường không nhận ra, chỉ có chuyên gia hay người cũng mắc chứng tự kỷ mới hiểu được. Không phải chỉ có một chứng tự kỷ mà có nhiều dạng phụ, hầu hết bị ảnh hưởng bởi sự kết hợp của các yếu tố di truyền và môi trường. Bởi vì tự kỷ là một rối loạn phổ, mỗi người, mỗi trẻ tự kỷ có những điểm mạnh và thách thức riêng biệt. Trẻ tự kỷ gặp khó khăn hơn các trẻ khác trong học hỏi, suy nghĩ và giải quyết vấn đề có thể bao gồm từ kỹ năng đơn giản đến những vấn đề mang tính thử thách trong cuộc sống. Mức độ ảnh hưởng có thể từ nhẹ đến nặng tùy theo mức độ của rối loạn tự kỷ. Trẻ không tự chủ động đánh răng rửa mặt, mặc quần áo, cần có sự giúp đỡ của ba mẹ, sợ hãi hoặc không giao tiếp với người lạ, khó giải quyết vấn đề, quản lý cảm xúc hoặc trẻ có thể vẫn tự làm được các hoạt động vệ sinh cá nhân, nói những câu ngắn hay hoặc giao tiếp với người khác tuy không trôi chảy hoặc rõ ràng. Một số trẻ mắc hội chứng tự kỷ ám thị có thể cần sự hỗ trợ đáng kể trong cuộc sống hàng ngày, trong khi những trẻ khác có thể cần ít hỗ trợ hơn và trong một số trường hợp, sống hoàn toàn độc lập. Những bất thường của rối loạn tự kỷ gây ảnh hưởng kéo dài suốt đời đến các chức năng cá nhân ở nhiều lĩnh vực như học tập, các mối quan hệ thích ứng xã hội và khả năng độc lập. Một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của chứng tự kỷ, và nó thường đi kèm với sự nhạy cảm của các giác quan và các vấn đề y tế như rối loạn tiêu hóa, động kinh hoặc rối loạn giấc ngủ, cũng như các thách thức về sức khỏe tâm thần như lo lắng, trầm cảm và các vấn đề về chú ý. Rối loạn phổ tự kỷ là một khuyết tật phát triển phức tạp, thường xuất hiện trong thời thơ ấu và ảnh hưởng đến khả năng giao tiếp và tương tác của một người với người khác. Hiện tại, chứng tự kỷ không có phương pháp chữa trị rõ ràng và không thể được chẩn đoán thông qua xét nghiệm thai kỳ. Chậm phát triển trí tuệ đã là một thuật ngữ lỗi thời, hiện nay được gọi thiểu năng trí tuệ. Các nghiên cứu dịch tễ học gần đây cho thấy khoảng 30% trẻ em mắc tự kỷ cũng bị thiểu năng trí tuệ. Vì vậy, rõ ràng là tự kỷ và thiểu năng trí tuệ có thể cùng xuất hiện, nhưng điều quan trọng là chúng không giống nhau. Rối loạn phổ tự kỷ là những khiếm khuyết về phát triển, đặc trưng là gặp khó khăn trong giao tiếp, tương tác xã hội và hành vi. Các triệu chứng và biểu hiện khác nhau của tự kỷ là một “phổ” rộng. Một số người tự kỷ biểu hiện các triệu chứng nhẹ trong khi số khác lại có các triệu chứng nghiêm trọng. Mặt khác, thiểu năng trí tuệ thường để chỉ năng lực trí tuệ khi 18 tuổi ở dưới mức trung bình. Điều này chủ yếu được ghi nhận khi có điểm số IQ dưới 70 và gặp khó khăn về kỹ năng sống như tự chăm sóc bản thân, giao tiếp, và các kỹ năng xã hội. Vì vậy, sự khác biệt chính giữa tự kỷ và chậm phát triển trí tuệ là những người tự kỷ không phải lúc nào cũng bị suy giảm trí tuệ. Thực tế, một số người tự kỷ có thể có chỉ số IQ bình thường hay rất cao. Tuy nhiên, chúng ta cũng khó biết được những khó khăn trong giao tiếp và kỹ năng xã hội mà những người tự kỷ gặp phải, mà những khó khăn này cũng thuộc về chậm phát triển trí tuệ. Trẻ có thể không nói được những câu thông thường theo bảng đánh giá sự phát triển bình thường theo lứa tuổi, khó hiểu giao tiếp phi ngôn ngữ, khó kết bạn và tạo các mối quan hệ bạn bè, xã hội, khó duy trì sự trò chuyện, tương tác. Thể hiện sự khó chịu quá mức trước những thay đổi, bao gồm thức ăn mới hoặc thay đổi kế hoạch khác thường lệ. Quan tâm quá mức tới một vấn đề nào đó như: con số, chữ, một vài món đồ chơi. Hãy đưa trẻ đến các cơ sở chuyên khoa để thăm khám cho trẻ bất cứ khi nào bạn thấy trẻ có điều gì đó bất thường hay không ổn. Việc phát hiện và điều trị sớm có ý nghĩa to lớn đối với việc hòa nhập và phát triển các kỹ năng của trẻ. Các nhà khoa học chưa xác định được chắc chắn nguyên nhân gây tự kỷ, nhưng căn bệnh này có thể xuất phát từ cả gen di truyền lẫn môi trường. Nguyên nhân của bệnh tự kỷ có thể được chia thành "vô căn" (idopathic), không rõ nguyên nhân trong phần lớn các trường hợp và "thứ phát" (secondary), trong đó có thể xác định được những bất thường trong nhiễm sắc thể, rối loạn gen đơn hoặc do tác nhân từ môi trường. Có khoảng 15% người mắc chứng tự kỷ được chẩn đoán chứng tự kỷ thứ phát và 85% còn lại mắc chứng tự kỷ vô căn. Các nhà nghiên cứu đã xác định được một số gen liên quan đến chứng tự kỷ. Các nghiên cứu về người tự kỷ đã phát hiện bất thường ở một số vùng của não. Các nghiên cứu khác cũng nhận thấy não của người tự kỷ có nồng độ serotonin hoặc các chất dẫn truyền thần kinh khác bất thường. Sự bất thường này cho thấy hội chứng tự kỷ thường là kết quả của việc gián đoạn sự phát triển bình thường ở não trong đầu giai đoạn phát triển thai nhi. Sự gián đoạn này xuất phát từ khiếm khuyết trong các gen kiểm soát sự phát triển của não bộ và điều chỉnh cách các nơ-ron giao tiếp với nhau. Đây là những phát hiện sơ bộ và cần nghiên cứu thêm. Nguy cơ anh chị em của người mắc chứng tự kỷ vô căn cũng mang bệnh tự kỷ ở mức 4%, kết hợp với nguy cơ 4 đến 6% mang các tình trạng nhẹ hơn bao gồm hội chứng về rối loạn ngôn ngữ, xã hội hoặc hành vi. Anh và em trai có nguy cơ mắc bệnh tự kỷ cao hơn (khoảng 7%), kết hợp với nguy cơ 7% với các triệu chứng phổ tự kỷ nhẹ hơn, trong khi chị và em gái có nguy cơ chỉ khoảng 1 đến 2%. Nếu nguyên nhân gây nên bệnh tự kỷ là do sự bất thường ở nhiễm sắc thể hoặc thay đổi gen đơn, nguy cơ các anh chị em khác cũng mắc tự kỷ sẽ phụ thuộc vào nguyên nhân di truyền cụ thể. Cho đến nay, hàng trăm gen liên quan với chứng tự kỷ thông qua các nghiên cứu di truyền trên hơn 10.000 bệnh nhân ASD và gia đình của họ. Trong khi có rất nhiều yếu tố đóng góp vào sự phát triển của trẻ tự kỷ, thì các nghiên cứu về anh-chị-em, đặc biệt là cặp song sinh lại chỉ ra rằng các gen của một người đóng vai trò lớn trong sự phát triển của chứng tự kỷ ám thị. Một cơ sở di truyền liên quan đến tự kỷ được nhận thấy xuất hiện ở khoảng 30% những người được chẩn đoán mắc rối loạn này. Nghiên cứu gần đây về trẻ em Việt Nam mắc tự kỷ đã xác nhận vai trò của rất nhiều gen, có khả năng rất phổ biến, có liên quan đến tự kỷ ám thị, bao gồm CHD8, DYRK1A, GRIN2B, SCN2A, OFD1 và MDB5. Tuy nhiên, nghiên cứu tương tự này đã chỉ ra rằng sự phát triển của chứng tự kỷ trong dân số Việt Nam có thể bị ảnh hưởng riêng biệt bởi các gen khác, như IGF1, LAS1L và SYP. Đột biến ở những gen này và các gen khác có thể tác động tiêu cực đến nhiều khía cạnh của hệ thần kinh. Ví dụ, một số đột biến này có thể làm thay đổi cấu trúc hoặc chức năng của các synap thần kinh (kết nối) giữa các tế bào thần kinh (tế bào não), và những thay đổi liên quan đến sự phát triển của trẻ tự kỷ. Có một vài tình trạng liên quan đến bệnh tự kỷ xuất phát từ đột biến trên một gen đơn, bao gồm các hội chứng rối loạn di truyền (fragile X) và hội chứng Rett. Nhưng có ít hơn 1% các trường hợp mắc tự kỷ không biến chuyển thành hội chứng lại có thể có nguyên nhân từ đột biến ở bất kỳ gen đơn nào. Vì vậy, ít nhất cho đến nay, không có thứ gọi là gen “tự kỷ” - có nghĩa là không có gen duy nhất nào bị đột biến liên tục ở những người tự kỷ. Dường như cũng không có bất kỳ gen nào gây ra bệnh tự kỷ mỗi khi nó bị đột biến. Tuy nhiên, danh sách các gen liên quan đến tự kỷ vẫn đang gia tăng. Các nhà nghiên cứu đã kiểm tra 65 gen mà họ cho là liên quan mật thiết đến bệnh tự kỷ, và hơn 200 gen khác có liên kết yếu hơn. Nhiều trong số các gen này có vai trò quan trọng giúp liên lạc giữa các tế bào thần kinh hoặc kiểm soát biểu hiện của các gen khác. Cho đến nay, hàng trăm gen liên quan với Rối loạn phổ Tự kỷ (ASD) đã được phát hiện thông qua các nghiên cứu di truyền trên hơn 10.000 bệnh nhân ASD và gia đình của họ. Dựa trên các nghiên cứu này, báo cáo G-Autism phân tích hơn 1200 biến thể để đánh giá nguy cơ tự kỷ của con bạn. Chỉ cần mẫu nước bọt của bạn là đủ. Công nghệ tiên tiến của chúng tôi cho phép tách chiết DNA chỉ từ mẫu nước bọt, điều này khiến quy trình lấy mẫu đơn giản, an toàn, và thuận tiện hơn so với mẫu máu ở những phương pháp xét nghiệm thông thường. Hiện nay, số lượng trẻ đến khám và điều trị chứng tự kỷ tại các bệnh viện ngày càng tăng, các cơ sở y tế không đủ nhân lực để đáp ứng chăm sóc và điều trị nội trú nên tại bệnh viện thường chỉ có thể nhận những trẻ có cha mẹ chưa thành thục chuẩn kỹ năng chăm sóc, trẻ ở những tỉnh không có trung tâm can thiệp, ở vùng xa. Phần lớn trẻ tự kỷ nhẹ sẽ được nhân viên y tế tư vấn và hướng dẫn cha mẹ, gia đình tự chăm sóc. Để trẻ tự kỷ có thể tự chăm sóc mình, phát triển các kỹ năng sống, hòa nhập tốt hơn, rất cần sự chung tay góp sức của toàn xã hội. Liên kết thực hiện các chương trình, các hoạt động, dự án mang lại lợi ích cho cộng đồng tự kỷ. Chăm sóc trẻ tự kỷ tại nhà và trường lớp: mọi người cần kiên nhẫn, lập thời gian biểu cho trẻ, với thời gian đều đặn cho các bữa ăn, giờ học và giờ đi ngủ; cố gắng giảm thiểu sự gián đoạn đối với thói quen này. Nếu có sự thay đổi lịch trình không thể tránh khỏi, hãy chuẩn bị trước cho trẻ, khen thưởng, củng cố những hành vi tốt. Dành nhiều thời gian trò chuyện với trẻ; tìm hiểu các tín hiệu, động cơ phía sau sự giận dữ của trẻ, cung cấp cho trẻ chế độ dinh dưỡng đầy đủ, phong phú, cân bằng với nhiều thực phẩm thiên nhiên như rau xanh, trái cây, các loại cá giàu omega 3, 6. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm về yếu tố di truyền liên quan đến tự kỷ, bạn có thể làm giải mã gen kiểm tra yếu tố di truyền để có thêm sự hỗ trợ tối ưu cho trẻ.
Dịch tễ học hội chứng tự kỷ
Dịch tễ học hội chứng tự kỷ nghiên cứu về tỷ lệ mắc và phân bố hội chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD). Một đánh giá toàn cầu năm 2012 ước tính tỷ lệ hiện nhiễm rối loạn phổ tự kỷ trung bình 62 trường hợp trên 10.000 người. Tuy nhiên, thiếu bằng chứng từ các nước thu nhập thấp và trung bình. ASD trung bình tỷ lệ nam/ nữ là 4,3: 1. Số trẻ được biết bị tự kỷ đã tăng lên đáng kể kể từ những năm 1980, ít nhất một phần do những thay đổi trong thực hành chẩn đoán; không rõ liệu tỷ lệ có thực sự tăng lên hay không; và cũng không thể loại trừ các yếu tố nguy cơ môi trường chưa xác định. Nguy cơ bị tự kỷ có mối liên kết đến một số yếu tố tiền sản, bao gồm cả tuổi thai và bệnh tiểu đường ở người mẹ trong thai kỳ. ASD có liên quan đến một số rối loạn di truyền và động kinh. Tự kỷ là một rối loạn phát triển thần kinh phức tạp. Nhiều nguyên nhân đã được đưa ra, nhưng lý thuyết nhân quả của nó vẫn còn là mối hoài nghi, cuối cùng vẫn không thực sự biết rõ.
Charles VI (3 tháng 12 năm 1368 – 21 tháng 10 năm 1422 còn được gọi là Charles le Bienaimé hay Charles le Fol hoặc le Fou) là vị vua Pháp từ 1380 đến khi qua đời năm 1422, hưởng thọ 53- 54 tuổi. Năm 11 tuổi, Charles đăng quang vua Pháp năm 1380 tại nhà thờ Đức Bà Reims. Năm 1385 ông cưới Isabeau xứ Bavaria và có với bà 14 người con. Trước khi Charles VI thực sự trị vì vào năm 1388, người chú là Philippe II của Bourgogne nắm quyền nhiếp chính. Charles lên ngôi trị vì khi mới chỉ 11 tuổi rưỡi trong thời gian Chiến tranh trăm năm. Chính phủ được giao cho bốn người chú của ông, công tước xứ Burgandy, Berry, Anjou và Bourbon. Trong thời gian trị vị của những người chú của ông, nguồn tài chính của vuơng quốc do cha ông, Charles V, đã bị lãng phí và suy kiệt do lợi nhuận cá nhân của những công tước, những người có lợi ích thường xuyên khác nhau hoặc thậm chí phản đối. Khi các quỹ hoàng gia cạn kiệt, các loại thuế mới phải được tăng lên, đã gây ra nhiều cuộc nổi dậy. Sau đó Charles sa thải những người chú của mình và mang lại quyền lực cho những cố vấn cũ của mình. Các điều kiện chính trị và kinh tế trong vương quốc được cải thiện đáng kể và Charles đã giành được danh hiệu “Người yêu dấu”. Nhưng vào tháng 8 năm 1392 trên đường đến Bretagne, với đội quân của mình trong khu rừng Le Mans,Charles đột nhiên phát điên và nhờ bốn hiệp sĩ giết chết em trai mình, Louis I, Công tước xứ Orleans, ông nội của Louis XII, vua Pháp tương lai. Từ đó, ông đã có biệt danh là “the Mad”. Một cuộc đấu tranh quyết liệt sau đó để giành quyền lực bị thêm căng thẳng giữa anh trai của nhà vua, Louis xứ Orleans và anh em họ, John xứ Burgundy. Khi John xúi giục nhà vua Charles giết em ruột của mình đã xảy ra một cuộc nội chiến năm 1407 giữa những người Burgundy và người Armagnac. Cả hai bên đã vô tình cung cấp đất nước Pháp phần lớn sang cho người Anh do sự hỗn loạn về chính trị. Chính John xứ Burgundy đã bị ám sát năm 1419, với con trai, người thừa kế của Charles VI là Charles VII có liên quan. Để trả thù, con trai của John, Philip xứ Burgundy đã dẫn Charles VI kí hiệp ước đình đám và khét tiếng là Hiệp ước thành Troyes (năm 1420).Điều này làm mất lòng con cháu của ông và vô tình công nhận vua Henry V là quốc vương kế vị hợp pháp để của ông trên ngai vàng Pháp. Tuy vậy Henry V lại qua đời trước ông chỉ vài tuần trong thời gian Chiến tranh trăm năm và người con trai của Henry V là Henry VI (do chính con gái của ông Catherine de Valois đẻ ra) làm người kế vị và gây tranh chấp cho nhiều năm và thế hệ sau này. Một đồng xu của Charles VI, một đôi, được đúc ở La Rochelle vào năm 1420. Những thành công ban đầu của Charles VI với Marmousets khi các cố vấn của ông nhanh chóng tan biến do những cơn rối loạn tâm thần mà ông trải qua bắt đầu ở tuổi 20. Bệnh tâm thần có thể đã được truyền qua nhiều thế hệ thông qua mẹ của anh, Joanna ở Bourbon. Mặc dù vẫn được các đối tượng của mình gọi là Charles Người yêu dấu, anh ta còn được biết đến với cái tên Charles the Mad. Tập đầu tiên được biết đến của Charles xảy ra vào năm 1392 khi người bạn và cố vấn của ông, Olivier de Clisson, là nạn nhân của một vụ giết người toan tính. Mặc dù Clisson sống sót, Charles vẫn quyết tâm trừng phạt kẻ ám sát, Pierre de Craon, người đã lánh nạn ở Bretagne. John V, Công tước xứ Bretagne không sẵn lòng trao anh ta, vì vậy Charles đã chuẩn bị một cuộc thám hiểm quân sự. Những người đương thời cho biết Charles dường như đang ở trong một “cơn sốt” để bắt đầu chiến dịch và ngắt kết nối trong bài phát biểu của mình. Charles lên đường với một đội quân vào ngày 1 tháng 7 năm 1392. Sự tiến bộ của quân đội diễn ra chậm chạp, điều đó suýt khiến Charles rơi vào tình trạng thiếu kiên nhẫn. Khi nhà vua và người hộ tống của anh ta đang đi qua khu rừng gần Le Mans vào một buổi sáng tháng 8 nóng nực, một người phong cùi chân trần mặc giẻ rách đã lao lên ngựa của nhà vua và nắm lấy dây cương của anh ta. “Cưỡi không, vua cao quý!” anh hét lên: “Quay lại! Anh bị phản bội!” Những người hộ tống của nhà vua đã đánh trả người đàn ông đó, nhưng không bắt giữ anh ta, và anh ta theo đám rước trong nửa giờ, lặp lại tiếng khóc của anh ta. Công ty nổi lên từ rừng vào buổi trưa. Một trang bị buồn ngủ từ mặt trời làm rơi cây thương của nhà vua, tiếng kêu lớn chống lại một chiếc mũ sắt được mang bởi một trang khác. Charles rùng mình, rút thanh kiếm ra và hét lên “Tiến lên chống lại những kẻ phản bội! Họ muốn giao tôi cho kẻ thù!” Nhà vua thúc ngựa và bắt đầu vung kiếm vào những người bạn đồng hành của mình, chiến đấu cho đến khi một trong những người lính của anh ta và một nhóm binh lính có thể tóm lấy anh ta từ trên đỉnh và đặt anh ta xuống đất. Anh nằm yên và không phản ứng, nhưng rơi vào trạng thái hôn mê. Nhà vua đã giết một hiệp sĩ được gọi là “Kẻ khốn của Polignac” và một số người đàn ông khác. Thời kỳ của bệnh tâm thần tiếp tục trong suốt cuộc đời của nhà vua. Trong một năm 1393, anh ta không thể nhớ tên mình và không biết mình là vua. Khi vợ anh đến thăm, anh hỏi người hầu của mình là ai và ra lệnh cho họ chăm sóc những gì cô yêu cầu để cô sẽ để anh một mình. Trong một tập phim vào năm 1395, 96, anh ta tuyên bố mình là Saint George và áo choàng của anh ta là một con sư tử với thanh kiếm đâm xuyên qua nó. Lúc này, anh ta nhận ra tất cả các cán bộ trong gia đình, nhưng không biết vợ cũng không có con. Thỉnh thoảng anh ta chạy điên cuồng qua các hành lang của nơi cư trú ở Paris, Hôtel Saint-Pol, và để giữ anh ta ở bên trong, các lối vào đã được dựng lên. Năm 1405, anh từ chối tắm hoặc thay quần áo trong năm tháng. Các giai đoạn loạn thần sau này của anh không được mô tả chi tiết, có lẽ vì sự giống nhau của hành vi và ảo tưởng của anh. Giáo hoàng Pius II, người được sinh ra dưới triều đại Charles VI, đã viết trong Bình luận của mình rằng có những lúc Charles nghĩ rằng mình được làm bằng thủy tinh, và điều này khiến ông phải tự bảo vệ mình bằng nhiều cách khác nhau để không bị vỡ. Anh ta được cho là có những thanh sắt được may trong quần áo, để anh ta không bị vỡ nếu tiếp xúc với người khác. Tình trạng này đã được gọi là ảo tưởng thủy tinh. Thư ký của Charles VI, Pierre Salmon, đã dành nhiều thời gian để thảo luận với nhà vua trong khi ông bị gián đoạn tâm thần. Trong nỗ lực tìm cách chữa trị căn bệnh của nhà vua, ổn định tình hình chính trị hỗn loạn và bảo đảm tương lai của chính mình, Salmon đã giám sát việc sản xuất hai phiên bản sách hướng dẫn được chiếu sáng đẹp mắt cho vương quyền tốt được gọi là Đối thoại của Pierre Salmon. Vào ngày 29 tháng 1 năm 1393, một quả bóng đeo mặt nạ, được biết đến với cái tên Bal des Ardents (“Quả bóng của những người đàn ông đang cháy”) vì thảm kịch xảy ra sau đó, đã được tổ chức bởi Isabeau of Bavaria để tổ chức lễ cưới của một trong những người phụ nữ của cô- chờ đợi tại khách sạn Saint-Pol. Theo đề nghị của Huguet de Guisay, nhà vua và bốn vị lãnh chúa khác đã hóa trang thành những người đàn ông hoang dã và nhảy múa. Họ mặc quần áo “trong trang phục bằng vải lanh được may trên cơ thể và ngâm trong sáp hoặc sân bằng nhựa để giữ một cây gai dầu, để chúng có vẻ xù xì và lông từ đầu đến chân”. Theo đề nghị của một Yvain de Foix, nhà vua ra lệnh rằng những người cầm đuốc phải đứng ở bên cạnh phòng. Tuy nhiên, anh trai của nhà vua Louis I, Công tước xứ Orleans, người đến muộn, đã tiếp cận với một ngọn đuốc sáng để khám phá danh tính của những kẻ giả mạo, và anh ta đốt cháy một trong số họ. Có hoảng loạn khi đám cháy lan rộng. Nữ công tước Berry ném đoàn tàu áo choàng của mình lên nhà vua. Một số hiệp sĩ cố gắng dập tắt ngọn lửa đã bị thiêu rụi nghiêm trọng. Một người khác – Jean, con trai của Lord of Nantouillet – đã tự cứu mình bằng cách nhảy vào bồn nước rửa chén. Vào ngày 17 tháng 9 năm 1394, Charles bất ngờ công bố một sắc lệnh mà trong đó, ông tuyên bố, về bản chất, trong một thời gian dài, ông đã lưu ý đến nhiều khiếu nại được kích động bởi sự thái quá và những hành vi sai trái mà người Do Thái đã phạm phải đối với các Kitô hữu và các công tố viên , sau khi thực hiện nhiều cuộc điều tra, đã phát hiện ra nhiều vi phạm của người Do Thái về thỏa thuận mà họ đã thực hiện với anh ta. Do đó, anh ta đã ra sắc lệnh, với tư cách là một đạo luật và đạo luật không thể hủy bỏ, rằng từ đó không có người Do Thái nào nên sống trong các lãnh địa của mình (“Ordonnances”, vii. Theo Religieux de St. Denis, nhà vua đã ký sắc lệnh này với sự khẳng định của nữ hoàng (“Chron. Sắc lệnh không được thi hành ngay lập tức, một thời gian nghỉ ngơi được cấp cho người Do Thái để họ có thể bán tài sản và trả nợ. Những người mắc nợ họ đã tham gia để chuộc lại nghĩa vụ của họ trong một thời gian định sẵn, nếu không, những cam kết của họ được giữ trong cầm đồ sẽ được người Do Thái bán. Sự khiêu khích là hộ tống người Do Thái đến biên giới của vương quốc. Sau đó, nhà vua đã giải phóng các Kitô hữu khỏi các khoản nợ của họ. Với Charles VI bị bệnh tâm thần, từ năm 1393, vợ của ông, bà Isabeau đã chủ trì một cố vấn về nhiếp chính, trên đó là những người lớn của vương quốc. Philip the Bold, Công tước xứ Burgundy, người đóng vai nhiếp chính trong thời thiểu số của nhà vua (từ năm 1380 đến năm 1388), là người có ảnh hưởng lớn đến nữ hoàng (ông đã tổ chức hôn nhân hoàng gia trong thời gian trị vì). Ảnh hưởng dần dần chuyển sang Louis I, Công tước xứ Orleans, anh trai của nhà vua, một ứng cử viên khác cho quyền lực, và người ta nghi ngờ, người yêu của nữ hoàng. Sự cạnh tranh sẽ tăng lên từng chút một và cuối cùng dẫn đến cuộc nội chiến hoàn toàn. Các nhiếp chính mới đã bãi nhiệm các cố vấn và quan chức khác nhau mà Charles đã bổ nhiệm. Về cái chết của Philip the Bold vào tháng 4 năm 1404, con trai John the Fearless tiếp quản các mục tiêu chính trị của cha anh, và mối thù với Louis leo thang. John, người ít liên kết với Isabeau, một lần nữa mất ảnh hưởng tại tòa án. Năm 1407, Louis of Orleanséans bị sát hại trong đền thờ Vie Vie du ở Paris. John không từ chối trách nhiệm, cho rằng Louis là một bạo chúa đã phung phí tiền bạc. Charles, con trai của Louis, Công tước mới của thành phố Orleans, đã quay sang cha vợ của mình, Bernard VII, Bá tước Armagnac, để hỗ trợ chống lại John the Fearless. Điều này dẫn đến cuộc Nội chiến Armagnac-Burgundian, kéo dài từ năm 1407 đến năm 1435, ngoài triều đại của Charles, mặc dù cuộc chiến với người Anh vẫn đang diễn ra. Với việc người Anh chiếm phần lớn đất nước, John the Fearless đã tìm cách chấm dứt mối thù với hoàng gia bằng cách thương lượng với Dauphin Charles, người thừa kế của nhà vua. Họ gặp nhau tại cây cầu ở Montereau vào ngày 10 tháng 9 năm 1419, nhưng trong cuộc họp, John đã bị giết bởi Tanneguy du Chastel, một tín đồ của Dauphin. Người kế vị của John, Philip the Good, Công tước Burgundy mới, đã ném rất nhiều bằng tiếng Anh. Triều đại của Charles VI được đánh dấu bằng cuộc xung đột tiếp tục với người Anh, được gọi là Chiến tranh Trăm năm. Một nỗ lực sớm cho hòa bình xảy ra vào năm 1396 khi con gái của Charles, cô bé Isabella ở Valois gần bảy tuổi, kết hôn với Richard II, 29 tuổi của Anh. Tuy nhiên, đến năm 1415, mối thù giữa hoàng gia Pháp và Nhà Burgundy đã dẫn đến sự hỗn loạn và vô chính phủ trên khắp nước Pháp mà Henry V của Anh rất muốn tận dụng. Henry đã lãnh đạo một cuộc xâm lược mà đỉnh điểm là sự thất bại của quân đội Pháp tại Trận Agincourt hồi tháng Mười. Năm 1420, Hiệp ước Troyes là một thỏa thuận được ký bởi Henry V của Anh và Charles VI của Pháp, công nhận Henry là người kế vị của Charles, và quy định rằng những người thừa kế của Henry sẽ kế vị ông ta trên ngai vàng của Pháp. Nó khinh miệt Dauphin Charles (với tuyên bố thêm, vào năm 1421, rằng Charles trẻ tuổi là bất hợp pháp). Nó cũng đã hứa hôn với con gái của Charles VI, Catherine de Valois, với Henry V (xem Vua Anh của Pháp). Hiệp ước coi thường Dauphin của Pháp ủng hộ vương miện tiếng Anh là một hành động trắng trợn chống lại lợi ích của giới quý tộc Pháp. Dauphin đã phong ấn số phận của mình, trong mắt của vị vua điên, khi anh ta tuyên bố mình là nhiếp chính, nắm quyền hành hoàng gia, và từ chối tuân theo lệnh của nhà vua để trở về Paris. Khi Hiệp ước Troyes được hoàn thành vào tháng 5 năm 1420, Dauphin Charles chỉ mới 17 tuổi. Charles VI qua đời vào ngày 21 tháng 10 năm 1422 tại Paris, tại khách sạn Saint-Pol. Ông được an táng tại Nhà thờ Thánh Denis, nơi vợ của ông là Isabeau xứ Bavaria được chôn cất cùng ông sau khi bà qua đời vào tháng 9 năm 1435.
Isabeau xứ Bavaria
Isabeau xứ Bavaria (tiếng Pháp: Isabeau de Bavière; 1370 – 24 tháng 9 năm 1435), hay còn gọi là Elisabeth xứ Bavaria-Ingolstadt hoặc Isabelle, thuộc dòng dõi nhà Wittelsbach với tư cách là con gái lớn của Công tước Stephen III của Bavaria-Ingolstadt và Taddea Visconti của Milan. Bà trở thành Vương hậu của Vương quốc Pháp khi kết hôn với Quốc vương Charles VI vào năm 1385. Khi chỉ tầm 16 tuổi, Isabeau được đưa sang nước Pháp theo sự chấp thuận của vị Vua trẻ người Pháp, cặp đôi đã cưới 3 ngày ngay sau cuộc gặp gỡ đầu tiên. Theo đúng nghi thức vương triều Pháp, công nương Isabeau được vinh danh vào năm 1389 với một lễ đăng quang xa hoa và nhập cảnh vào Paris cùng năm đó. Năm 1392, Vua Charles phải chịu cuộc khủng hoảng đầu tiên và bị một căn bệnh tâm thần suốt đời và tiến triển ngày càng nặng nề hơn, dẫn đến việc rút khỏi chính phủ định kỳ. Các khủng hoảng chính trị xảy ra với tần suất ngày càng tăng, khiến tòa án bị chia rẽ bởi các phe phái chính trị và chìm đắm trong sự hoang phí xã hội.
Nguyễn Huy Phan(1928-1997) là Thiếu tướng (1988), Giáo sư (1984), Tiến sĩ khoa học (1983), nhà khoa học Việt Nam chuyên về Phẫu thuật tạo hình, người đặt nền móng cho ngành Phẫu thuật tạo hình và vi phẫu thuật ở Việt Nam, nguyên Phó Viện trưởng Viện 108, Trưởng Tiểu ban ngoại Cục Quân y… Ông cũng là người thành lập Bộ môn Phẫu thuật tạo hình đầu tiên tại Trường Đại học Y Hà Nội năm (1991), được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân. Giáo sư Nguyễn Huy Phan (ở phía Bắc) cùng với Tiến sĩ, bác sĩ Võ Văn Châu (ở phía Nam) là hai người đi tiên phong trong lĩnh vực vi phẫu thuật Việt Nam. Tổ chi họ của ông di cư tới thôn Dương Đình, xã Dương Xá (cách làng Sủi hơn 1 km) khoảng trên 200 năm trước. Thuở nhỏ, ông chứng kiến cảnh bệnh tật, chết đi sống lại của anh trai mình khi bị viêm ruột thừa cấp. Khâm phục Giáo sư Tôn Thất Tùng chỉ bằng một can thiệp phẫu thuật chính xác, kịp thời đã cứu sống được anh trai, Nguyễn Huy Phan luôn mơ ước được trở thành bác sĩ ngoại khoa. Năm 1946, 18 tuổi, ông vào Đại học Y khoa Hà Nội. Đang học năm thứ nhất Đại học, kháng chiến toàn quốc 1946 bùng nổ, Nguyễn Huy Phan gia nhập quân đội với tư cách là tự vệ chiến đấu kiêm cứu thương. Trong một lần đến kiểm tra đơn vị, thanh tra quân y, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, phát hiện ra Nguyễn Huy Phan còn quá trẻ, làm việc say mê, lại có những hiểu biết về ngoại khoa nên đã khuyên Nguyễn Huy Phan đi học… Năm 1947, ông được đi học trường Y tại Tuyên Quang, cứ 6 tháng học lại đi phục vụ chiến dịch vài ba tháng. Trong một chiến dịch, ông bắt gặp một cô dân công bị thương đến độ méo mó, dị dạng khuôn mặt. Tuy cứu sống được cô gái, song không giữ được khuôn mặt xinh đẹp cho cô, ông luôn cảm thấy ám ảnh… Ông nung nấu quyết tâm trở thành bác sĩ ngoại khoa chuyên phẫu thuật tạo hình. Năm 1951, học xong năm thứ tư, thời chiến chưa đủ điều kiện để tổ chức thi bác sĩ, ông nhận chức danh y sĩ cao cấp và đi phục vụ các mặt trận ở phía Bắc Việt Nam, từ chiến dịch Trung du đến chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Tháng 1-1955 Nguyễn Huy Phan thi đỗ bác sĩ Đại học Y khoa Hà Nội rồi được giữ lại giảng dạy bộ môn giải phẫu. Mùa thu 1955, bác sĩ Nguyễn Huy Phan được cử đi làm nghiên cứu sinh tại Liên Xô với đề tài mà từ lâu ông vẫn ấp ủ: Phẫu thuật tạo hình vùng cổ mặt. Tại đây, trong suốt 4 năm nghiên cứu học tập, ông đã trực tiếp tham gia giải phẫu ở viện Chấn thương – Chỉnh hình và viện Phẫu thuật thẩm mỹ trung ương Matxcơva. Tháng 9-1959, Nguyễn Huy Phan bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ y học với đề tài: Điều trị phẫu thuật các khối u máu vùng hàm mặt và trở thành Phó tiến sĩ (tương đương Tiến sĩ hiện nay) y học đầu tiên ở Việt Nam. Về nước, ông đảm nhận chức vụ Trưởng khoa Phẫu thuật Tạo hình Bệnh viện Quân y 108, từ 1978-1990 là Phó Giám đốc Bệnh viện. Năm 1983 ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ y khoa (tương đương Tiến sĩ khoa học hiện nay) với đề tài Tạo hình phức hợp trong điều trị các dị chứng vết thương hoả khí lớn vùng hàm mặt. Ông được phong Học hàm Phó giáo sư vào năm 1980, Giáo sư vào năm 1984, Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1988, Thầy thuốc Nhân dân năm 1988. Năm 1991 Nguyễn Huy Phan thành lập và là trưởng Bộ môn Phẫu thuật tạo hình đầu tiên trường Đại học Y Hà Nội. Thiếu tướng, Giáo sư Nguyễn Huy Phan, mất năm 1997 sau một thời gian bị mắc bệnh ung thư mà ông giấu gia đình, đồng nghiệp để toàn tâm toàn ý cống hiến. Giáo sư, Thiếu tướng Nguyễn Huy Phan là người tiên phong trong phẫu thuật tạo hình Việt Nam. Ông là tác giả 118 tài liệu và công trình khoa học về phẫu thuật tạo hình và vi phẫu thuật, 110 bài viết và báo cáo khoa học về lĩnh vực phẫu thuật chung, 23 tài liệu bằng tiếng nước ngoài…. Nguyễn Huy Phan đã đặt nền móng và gặt hái được nhiều thành công trong việc phẫu thuật tạo hình mà đỉnh cao là công trình Giải phẫu tạo hình dương vật. Năm 1969 Nguyễn Huy Phan thực hiện ca phẫu thuật tạo hình dương vật đầu tiên ở Việt nam, ông tiến hành với 6 lần mổ kéo dài trong 7 tháng điều trị tại chỗ. Ca phẫu thuật thành công làm nức lòng Nguyễn Huy Phan và cộng sự là những học trò của ông. Tính đến năm 1979 thì thầy trò ông đã tiến hành thành công 25 ca phẫu thuật tạo hình dương vật. Quy trình phẫu thuận tạo hình này có 6 thì mổ, mỗi thì cách nhau khoảng một tháng. Kết quả của quá trình phẫu thuật rất thành công. Với người đã có vợ, cảm giác hạnh phúc trong quan hệ vợ chồng hầu như không bị ảnh hưởng gì; những người chưa vợ nếu tinh hoàn, tuyến tiền liệt… vẫn còn đầy đủ chức năng thì có thể lấy vợ, sinh con bình thường. Mùa Đông 1979, Nguyễn Huy Phan được Hội phẫu thuật tạo hình Pháp mời sang tham gia một số cơ sở tạo hình ở Paris, Lyon, Marseille và dự Hội nghị phẫu thuật tạo hình lần thứ 24 của Pháp với sự tham gia của khoảng 500 đại biểu trong và ngoài nước. Tuy không có trong chương trình nghị sự, ông đã được dành 15 phút để trình bày những kinh nghiệm của mình trong việc tạo hình dương vật và hội nghị đã sôi nổi thảo luận đến 25 phút về bản báo cáo này – một ngoại lệ hiếm có trong các hội nghị khoa học quốc tế. Từ đó cho đến năm 1986, Nguyễn Huy Phan cùng các cộng sự của mình, cũng bằng kỹ thuật ngoại khoa quy ước (phẫu thuật quy ước, đôi khi còn được gọi là phẫu thuật kinh điển, phẫu thuật thông thường) tuy có vài thay đổi tiểu tiết trong thứ tự tiến hành, đã phẫu thuật thành công thêm 29 ca tạo hình dương vật nữa. Kỹ thuật mổ vi phẫu chỉ mới xuất hiện vào những năm 1920, sau khi phát minh ra kính hiển vi và Carl Nylen lần đầu tiên trong lịch sử dùng kính hiển vi để mổ tai giữa thành công. Bước sang thập kỷ 1960, với kỹ thuật hiện đại, con người đã sáng chế được nhiều công cụ y học tiên tiến. Trên thế giới, những năm của thập lỷ 1970 là thời kỳ nở rộ của kỹ thuật vi phẫu mạch máu – thần kinh tạo nên sự bùng nổ trong kỹ thuật ngoại khoa. Năm 1975, sau chiến dịch Hồ Chí Minh, Việt Nam thống nhất đã tạo nhiều thuận lợi cho việc tận dụng những tiến bộ từ nguồn thông tin khoa học kỹ thuật thế giới nói chung và y học nói riêng vào Việt Nam. Nguyễn Huy Phan đã theo dõi được những tiến bộ khoa học của nền y học thế giới, đặc biệt là kỹ thuật ngoại khoa. Năm 1977, phát hiện tại Tổng y viện Cộng hoà Sài Gòn có một chiếc kính hiển vi để mổ mà không dùng, Nguyễn Huy Phan đã xin điều về Quân y viện 108 Hà Nội. Năm 1980, Nguyễn Huy Phan là người đã tiên phong thực hiện nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện kỹ thuật mổ vi phẫu tại Việt Nam. Ông đã lập một phòng thí nghiệm với kính mổ và sưu tầm những kim chỉ khâu cực mảnh, đèn đốt lưỡng cực…, tự sáng tạo thêm những dụng cụ cần thiết khác từ các dụng cụ vẫn dùng để mổ mắt… Từ phòng thí nghiệm này, ông đã thí nghiệm thành công việc mổ nối các động mạch tĩnh chủ bụng, chậu chung, đùi chuột cống trắng rồi ứng dụng vào kỹ thuật vi phẫu tạo hình trong lâm sàng. Năm 1981, lần đầu tiên ở Việt Nam, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, bác sĩ Nguyễn Huy Phan thực hiện thành công việc nối một ngón tay đứt lìa khỏi bàn tay. Tiếp đó là việc nghiên cứu để cải tiến phẫu thuật tạo hình áp dụng kỹ thuật vi phẫu mạch máu – thần kinh. Năm 1991, Nguyễn Huy Phan đã mổ thành công ca tạo hình dương vật đầu tiên ở Việt Nam bằng kỹ thuật vi phẫu mạch máu – thần kinh. Với kỹ thuật này, chỉ phải tiến hành một thì mổ kéo dài trong khoảng 9-10 giờ được thực hiện bởi hai kíp mổ phối hợp nhịp nhàng. Cho tới đầu năm 1995, Nguyễn Huy Phan đã tiến hành thành công 10 ca tạo hình dương vật bằng kỹ thuật vi phẫu mạch máu – thần kinh. Việc làm của ông đã được sự theo dõi sát sao của các Hội Phẫu thuật tạo hình thế giới, đặc biệt là Pháp và Mỹ. Từ những ứng dụng vi phẫu thuật đầu tiên của Nguyễn Huy Phan, theo Phó Giáo sư Nguyễn Tài Sơn, cho đến năm 2014: vi phẫu Việt Nam đã có 35 năm kinh nghiệm, có thể thực hiện tất cả các loại vạt tự do trên cơ thể để che phủ các khuyết hổng tổ chức do chấn thương sau phẫu thuật cắt các khối u, hoặc tạo dựng lại các cơ quan bị khuyết hổng như mũi, môi, ngực, vành tai, dương vật,… Trình độ kỹ thuật và tỷ lệ thành công của Việt Nam tương đương với các trung tâm nghiên cứu lớn trên thế giới. Năm 1991, ông được cử làm Chủ tịch Hội Việt Mỹ góp phần vào quá trình bình thường hóa quan hệ với Mỹ,. Theo lời mời của ông một nhóm các bác sĩ phẫu thuật tạo hình Hoa Kỳ, dẫn đầu bởi bác sĩ Craig Merrel đã tình nguyện đến Việt Nam và bắt đầu chương trình điều trị cho các bệnh nhân cần sự can thiệp của vi phẫu thuật. Bác sĩ Craig Merrel cùng các đồng nghiệp đã giới thiệu các kỹ thuật cao trong ngành đến các chuyên gia hàng đầu của Việt Nam. Craig Merrel và Nguyễn Huy Phan nhanh chóng thân thiết, gắn bó như những người anh em, cùng hết lòng truyền dạy kỹ thuật vi phẫu cho các bác sĩ trẻ tại bệnh viện 108. Phó giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Bắc Hùng: Tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội năm 1966, được cử đi làm nghiên cứu sinh tại Viện Phẫu thuật hàm mặt và Tạo hình, trường Đại học Y Vacsava, Ba Lan năm 1974, bảo vệ thành công luận án Phó tiến sĩ năm 1978. Về nước, ông giữ chức vụ Trưởng Khoa Phẫu thuật Tạo hình Bệnh viện Quân y 108. Năm 1990, là Phó Giám đốc, Tổng Chủ nhiệm khoa ngoại Bệnh viện này. Ông đảm nhận vị trí Phó Giám đốc Bệnh viện đến năm 2005. Năm 1997 Nguyễn Bắc Hùng được giao nhiệm vụ là Trưởng Bộ môn Phẫu thuật tạo hình, Trường Đại học Y Hà Nội. Những chức vụ của ông là kế nhiệm vị trí của thầy giáo của mình là Nguyễn Huy Phan và được thầy tin tưởng đề cử làm. tay đứt lìa, 1964: Smith khâu thần kinh theo từng bó sợi, 1965: Tamai khâu nối thành công ngón tay cái, 1973: Taylor, Daniel: Chuyển vạt mô tự do.
Nguyễn Huy Phan
Nguyễn Huy Phan(1928-1997) là Thiếu tướng (1988), Giáo sư (1984), Tiến sĩ khoa học (1983), nhà khoa học Việt Nam chuyên về Phẫu thuật tạo hình, người đặt nền móng cho ngành Phẫu thuật tạo hình và vi phẫu thuật ở Việt Nam, nguyên Phó Viện trưởng Viện 108, Trưởng Tiểu ban ngoại Cục Quân y… Ông cũng là người thành lập Bộ môn Phẫu thuật tạo hình đầu tiên tại Trường Đại học Y Hà Nội năm (1991), được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân. Giáo sư Nguyễn Huy Phan (ở phía Bắc) cùng với Tiến sĩ, bác sĩ Võ Văn Châu (ở phía Nam) là hai người đi tiên phong trong lĩnh vực vi phẫu thuật Việt Nam. Nguyễn Huy Phan sinh ngày 14 tháng 7 năm1928 tại xã Dương Xá, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Ông là người con thuộc dòng họ khoa bảng Nguyễn Huy ở Làng Sủi (Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội). Tổ chi họ của ông di cư tới thôn Dương Đình, xã Dương Xá (cách làng Sủi hơn 1 km) khoảng trên 200 năm trước. Thuở nhỏ, ông chứng kiến cảnh bệnh tật, chết đi sống lại của anh trai mình khi bị viêm ruột thừa cấp.
NGHE ĐĨA1.Tu theo pháp môn nào của đạo Phật dễ giác ngộ2.Những câu hỏi về Thiền tông 13. Hành đúng lời Đức Phật dạy chắc chắn được giải thoát4.Những câu hỏi về Thiền Tông 25. Huyền ký của Đức Phật và Những vị Ngộ Thiền7. Đức Phật Dạy Tu Thiền Tông8. Cuộc đời và ngộ đạo của 36 vị tổ sư thiền tông9. Huyền ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông11. Đức vua Trần Nhân Tông dạy con cách giữ nước, tín ngưỡng, công thức giải thoát và sự thật nơi trái đất này. Đức vua Trần Nhân Tông dạy con cách giữ nước, tín ngưỡng, công thức giải thoát và sự thật nơi trái đất này. – Các điều kiện người tu theo Thiền tông, phải là con người có đầu óc thực tế, xem những hiện tượng trong vũ trụ này một cách hết sức khoa học, không tưởng tượng, không thêu dệt, không sợ sệt, không cần đến những điều kỳ bí, không bợ đỡ bất cứ ai. Đặc biệt, không làm nô lệ cho ai, cũng đừng tán tụng người khác và cũng đừng cầu xin ai; mà phải quay trở lại chính mình là chính. Vì con người chúng ta luôn tìm kiếm những điều hư ảo bên ngoài, rồi tự thêu dệt thêm, tô điểm thêm, bịa thêm những việc không có thật! Cốt yếu chỉ vì tiền, vì danh, vì lợi và vì muốn đề cao mình hoặc đề cao người khác v.v…. Thứ nhất: Chỉ cho tất cả những ai thích tìm hiểu bản chất thật sự về con người và vạn vật. Tất cả cuộc sống trên trái đất này là nói hẹp, còn nói rộng là khắp trong càn khôn vũ trụ này là do nhân duyên và nhân quả , bởi lực cuốn hút của vật lý âm dương, căn bản này là chung trong 1 Tam giới, ngoài ra không có thứ gì khác. Thứ hai: Chỉ rõ sự vận hành nơi trái đất này cũng như trong càn khôn vũ trụ này nó phải luân chuyển theo chu kỳ: Thành– Trụ – Hoại – Diệt, không sai sót một chút nào, dù là nhỏ nhất hay lớn nhất, rất công bằng và tuyệt đối. Danh từ trong Nhà Phật gọi là Sanh – Tử – Luân – Hồi, đi trong sáu nẻo. Bất cứ ai, dù có cao sang, quyền uy tột đỉnh, có thần thông phép mầu đến cỡ nào, gọi mây, kêu gió, sai khiến thần linh v.v… Cũng là nằm trong vòng cuốn hút của vật lý cả!. Thứ ba: Chỉ cách vượt ra ngoài sự cuốn hút của nhân quả, nhân duyên và âm dương, được trở về nguồn cộị của chính mình. Muốn được trở về nguồn cội của chính mình phải tu theo pháp môn Thiền tông, chứ trên đời này không có pháp môn nào khác! Vì vậy, Đức Phật được gọi là vị Giáo chủ trong cõi Ta bà Thế giới này, không ai hơn Ngài được. Bởi vậy, Đức Phật chỉ cho con người biết:. – Về vô hình: Ai ai cũng có Phật tánh thanh tịnh. Đây là thứ quí nhất của mỗi con người, không gì quí bằng. Nó thường hằng, thanh tịnh, không thể dùng ngôn từ hay mắt phàm phu mà thấy hay biết được! Muốn biết được “nó”: Chỉ có cách là tâm vật lý mình tập làm sao cho được tự nhiên thanh tịnh, tức khắc sẽ cảm nhận được ngay! Vì chỗ thực tế và đặc biệt này, nên Ngài Xá Lợi Phất khi được “ Rơi vào tánh Thanh tịnh Phật tánh” của chính ông, ông có trình với Đức PHật chỗ kỳ diệu này. Còn Ngài Ma Ha Ca Diếp khi cảm nhận được, không nói ra lời được, chỉ mỉm miệng cười thôi, Như Lai liền công nhận sự cảm nhận của Ngài. – Về hữu hình: Vạn vật trên trái đất này nói riêng, còn khắp trong càn khôn vũ trụ nói chung, luôn luôn lúc nào cũng luân chuyển và vận hành bởi qui luật vật lý. Nó rất trật tự, rất công bằng, qua “công thức” nhân quả và nhân duyên. Con người đã “ bước vào vòng xoáy cuốn hút” của nhân quả và nhân duyên rồi, không cách nào làm trái “luật tự nhiên” của nhân quả và nhân duyên được. Vì vậy, chúng ta xem xét kỹ trong thế giới này có cái gì sanh ra mà không phải do âm dương sanh ra không? Bởi vậy, Đức Phật bảo: Vạn vật trên trái đất này, hay khắp trong càn khôn vũ trụ này, dù ở cõi trời nào, hay ở bất cứ cõi nào trong lục đạo luân hồi? Dù quyền uy tột đỉnh đến đâu đi chăng nữa, giàu sang hay bần cùng hèn hạ, đối với luật nhân duyên, nhân quả và lực hút vật lý của âm dương không cách nào tránh được! Vì vậy, bất cứ ai sống trong Tam giới này, đều coi như những mớ rác trong bộ máy khổng lồ nhân quả, nhân duyên, âm dương, đang xay xát chúng ta mà thôi!. Ba cái căn bản trên Đức Phật dạy: Duy nhất bảo chúng ta phải biết cách vượt ra sự cuốn hút vật lý của nhân quả, nhân duyên và âm dương, mới trở về nguồn cội của chính chúng ta được! Nếu chúng ta không tu theo Thiền tông , mà tu theo bất cứ thiền gì, dụng công cở nào, đạt thời gian bao lâu, thành tựu được những gì, cảm hoá hàng triệu người đi chăng nữa, cũng còn nằm trong vòng xoáy của ba thứ trên cả! Phần cao tột này, chỉ dành riêng cho những ai có ý chí lớn, còn người không thích tìm hiểu thì coi như vô phần! Ngoài con đường Thiền tông học, trên trái đất này không có con đường nào khác; dù chúng ta có làm bất cứ việc gì ở thế gian này cũng là đi vào con đường nhân quả, nhân duyên và lệ thuộc vào qui luật của vật lý âm dương cả. Vì chúng ta hiểu sai lời Đức Phật dạy, nên:. Cũng vì không tìm hiểu lời của Đức Phật dạy giác ngộ là gì và giải thoát là sao, nên ngày xưa cũng như hiện nay, có nhiều vị Thầy tu hồi còn nhỏ, đến khi đã hơn 100 tuổi rồi mà giác ngộ và giải thoát cũng không biết, nên khi lâm chung dạy đệ tử mình ghi nơi linh vị mình là “ Cầu cho Giác linh của Thầy về với cõi Phật!” Cũng vì không hiểu giác ngộ và giải thoát, nên ở nước ngoài có nhiều vị bỏ ra hằng mấy chục tỷ đô la Mỹ để làm phước, cầu được giải thoát; còn trong nước ta cũng có nhiều vị bỏ ra hằng tỷ đồng để đúc chỉ 1 cây cột chùa cũng để cầu giải thoát. Cũng vì không biết đó, có nhiều vị muốn giác ngộ và giải thoát, đến tìm hỏi những vị thầy dạy dụng công hành thiền như thế này, ngồi thiền kiểu nọ, cả mấy năm trời mà không có kết quả; rồi đi nghe những vị thầy giàu óc tưởng tượng dạy:. – Thiền sư Trí Hoàng, ngồi trong thiền thất tu thiền 20 năm, được coi là “vô địch”, không ai hơn được, Ngài thường giảng thiền, giảng đạo cho rất nhiều người chung quanh nghe. Những người chung quanh coi Ngài là một vị Thiền sư ngộ đạo, phong tặng Ngài danh hiệu cao qúi là “Tôn sư Hòa thượng Thiền sư”. Vì thời đó, không ai tu thiền hơn Ngài, những lời giảng thiền, giảng đạo của Ngài thật hay, vang danh khắp một vùng rộng lớn ở nước Trung Hoa. Cũng vì danh Ngài vang xa như vậy, nên một ngày nọ, Thiền sư Huyền Sách giả danh là một người phật tử bình thường đến hỏi về cách tu thiền của Thiền sư Trí Hoàng. – Hiện giờ, mỗi khi ngồi thiền và nhập định, tâm tôi rất định và an vui. – Trước khi tôi xin làm đệ tử Hòa thượng, xin Hòa thượng cho tôi hỏi một câu, nếu Hòa thượng trả lời thuyết phục được tôi, tôi xin làm đệ tử; còn Hòa thượng trả lời không thuyết phục được tôi, tôi xin từ giã đi nơi khác để học đạo Thiền tông mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy. Chúng ta thấy đó, một vị Thiền sư ngồi tu thiền suốt 20 năm trong thiền thất, lại là đệ tử của một vị Tổ Thiền tông chánh thống, chỉ một câu hỏi bình thường của người hiểu Thiền tông như Ngài Huyền Sách lại không trả lời được! Cái lỗi lớn của Thiền sư Trí Hoàng là không chịu tìm hiểu kỹ lối tu theo Thiền tông là tu làm sao, có dụng công hay không dụng công để nhận ra Phật tánh của chính mình, coi việc tu hành của mình có đúng với lời của Đức Phật dạy không, hay chư Tổ Thiền tông dạy chưa? Vì đinh ninh việc tu hành của mình là đúng với chánh pháp của Như Lai dạy, nên không cần học hỏi với ai. Bởi vậy, bị một câu hỏi của Ngài Huyền Sách, hết sức chí lý lại rất bình thường mà Ngài không trả lời được, thật là xấu hổ! Một câu hỏi thực tế và rõ ràng như vậy, Thiền sư Trí Hoàng bị “bứng” ra khỏi Thiền tông thất mà 20 năm ông ngồi tu thiền, được nhiều người phong tặng: “Tôn sư Hòa thượng Thiền sư”; khoe khoang với mọi người là mình đã đạt được đạo, thấu triệt Thiền tông! Cái đặc biệt của Thiền sư Trí Hoàng là, khi tu hành bị người khác hỏi không đáp được đành thốt lên:. – Không ngờ, tôi ngồi thiền 20 năm trong Thiền tông thất, dạy thiền, dạy đạo cho nhiều người, trong 20 năm tôi “làm việc ấy”, khác nào tôi “nấu cát mà muốn thành cơm”! Thật là… Cốt truyện của Thiền sư Trí Hoàng, chúng ta quyết chí tu theo Thiền tông để giác ngộ “Yếu chỉ Thiền tông”, cố gắng hơn là đạt được “Bí mật Thiền tông”, sau cùng được “Rơi tánh Thanh tịnh Phật tánh” của chính mình, chứ chúng ta đừng “nấu cát mà muốn thành cơm” như Thiền sư Trí Hoàng đã làm trong 20 năm, rồi tự đổ bỏ đi thật là uổng công vậy! Nhìn sự tu hành của Thiền sư Trí Hoàng, chúng ta cố gắng tu theo pháp môn Thiền tông học, chắc chắn sẽ nhận ra Phật tánh của chính mình, không phải làm những việc vô ích mà Thiền sư Trí Hoàng đã làm suốt 20 năm! (Đây là điệp khúc thứ hai). Chúng ta muốn giác ngộ và giải thoát phải tìm hiểu như sau:. Khi chúng ta hiểu rõ ràng 3 mật ý nói trên thì mới mong “tu” giác ngộ và giải thoát được. Khi chúng ta nhận ra 3 mật ý nói trên rồi mà thực hiện đúng nữa, thì tâm vật lý của chúng ta đã bắt đầu nó vận hành theo qui Phật tánh của nó. Còn Tánh người của chúng ta cứ để cho nó tự nhiên trôi theo dòng luân hồi của nó. Sau cùng, Phật tánh của chúng ta sẽ dần hiển lộ ra, việc chúng ta trở về quê hương chân thật của mình chỉ là thời gian mau hay là chậm mà thôi, tùy theo sự cố gắng của mỗi người vậy. Khi chúng ta hiểu 3 phần bí yếu nói trên, chúng ta sẽ hiểu tại sao:. 2- Kinh sau cùng là Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Phật dạy vạn vật là thường. – Không tin những chuyện không thuận lý, cũng gọi là mê tín, tức tin lầm.
Thiền tông
Thiền tông (tiếng Trung: 禪宗; bính âm: chán-zōng, tiếng Nhật: zen-shū (禅宗, tiếng Nhật: zen-shū)), còn gọi là Phật Tâm tông là một pháp môn tu tập. Tổ sư Thiền là một tông phái Phật giáo Đại thừa xuất phát từ 28 đời Tổ sư Ấn Độ và truyền bá lớn mạnh ở Trung Quốc, tuy nhiên các thiền sư trong Thiền tông tự coi tông phái mình tách biệt không thuộc Đại thừa hay Tiểu thừa. Thiền tông sinh ra trong khoảng thế kỉ thứ 6, thứ 7, khi Bồ-đề-đạt-ma đưa phép Thiền của đạo Phật vào Trung Quốc cùng với phần lớn huyền học của đạo Lão. Nơi đây, Thiền tông trở thành một tông phái lớn, với mục đích là hành giả trực nhận được bản thể của sự vật và đạt giác ngộ, như Phật Thích-ca Mâu-ni đã đạt được dưới gốc cây Bồ-đề. Tông phái này được đưa vào Việt Nam từ Trung Quốc với tên gọi là Thiền tông, và qua Triều Tiên với tên gọi là Seon, hay Nhật Bản là Zen. Thiền tông Trung Quốc được sáng lập trong thời kì Phật pháp đang là đối tượng tranh luận của các tông phái.
Vanvn- Trước khi gây chấn động văn đàn với tác phẩm Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp đã công bố trên báo Văn Nghệ hai truyện ngắn (Mỵ, Vết trượt). Nếu tiếp tục cách khai thác chất liệu sáng tác và bút pháp của những truyện ngắn này, có lẽ ông vẫn tìm được một vị trí trong văn học sử nhưng không thể trở thành hiện tượng độc đáo gây nhiều tranh cãi như chúng ta chứng kiến suốt ba thập niên văn học. Trong thế kỷ 20 ở nước ta, trên lĩnh vực văn xuôi hư cấu xuất hiện nhiều tài năng đa dạng, tầm cỡ, nhưng thiết nghĩ hai tác gia có tính cách tân và mang số phận kỳ lạ nhất là Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Huy Thiệp. Một người cầm bút trong xã hội thuộc địa; một người trong bối cảnh đất nước thống nhất, hòa bình. Một người vào nghề và hoàn thành sự nghiệp khi tuổi đời còn rất trẻ; một người khởi nghiệp khi đã qua tuổi thanh niên và có nhiều trải nghiệm cay đắng trong cuộc đời. Một người chủ yếu thành công ở lĩnh vực tiểu thuyết; một người đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật truyện ngắn. Mượn cách nói của M. Bakhtin, cả hai là những nghệ sĩ thiên bẩm biết cách nhìn thế giới bằng con mắt của thể loại. Như những ngôn sứ trong Kinh Thánh từng không được chấp nhận trên quê hương mình, dư luận xã hội đã có lúc nghi kỵ, thậm chí lên án hai văn tài nói trên. Những mũi tên bắn vào tác phẩm Vũ Trọng Phụng chủ yếu khi ông đã nằm xuống, còn Nguyễn Huy Thiệp thì phải chịu trận và chống đỡ với những làn sóng đả kích khi đang sức sáng tạo để tiếp tục khẳng định chính mình. Nói hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp là sản phẩm của thời Đổi mới có lẽ cũng đúng, nhưng tác động của thời cuộc may lắm là kích thích và tạo môi trường tương đối thuận lợi cho tác phẩm được công bố. Còn sự thật thì Nguyễn Huy Thiệp là sản phẩm của chính Nguyễn Huy Thiệp, với nội công thâm hậu mà ông rèn luyện trong mười năm dạy học ở Tây Bắc, miền đất của Những ngọn gió Hua Tát. Xét riêng về thể truyện ngắn, có thể xếp Nguyễn Huy Thiệp bên cạnh Nam Cao. Phong cách Nam Cao thống nhất trong sự viên mãn; phong cách Nguyễn Huy Thiệp thống nhất trong sự biến hóa khó lường: trữ tình dân gian, hiện thực khắc nghiệt pha lẫn yếu tố kỳ ảo. Đó còn là những truyện kể qua ngôn ngữ sân khấu, với những xung đột được đẩy đến cao trào. Không có gì khó hiểu khi nhà thơ trong văn xuôi này cũng là tác giả của những vở kịch đặc sắc mang chiều sâu tư tưởng. Rất tiếc là kịch của Nguyễn Huy Thiệp ít được dàn dựng trên sân khấu nên vẫn còn xa lạ với công chúng. Khoảng trống Nguyễn Huy Thiệp để lại hôm nay có lẽ còn lâu lắm mới được lấp đầy. Người đời chắc chắn sẽ đọc lại Nguyễn Huy Thiệp và sẽ còn dành nhiều giấy mực để luận bàn về tác phẩm của ông.
Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp (29 tháng 4 năm 1950 - 20 tháng 3 năm 2021) là nhà văn đương đại Việt Nam trong địa hạt kịch, truyện ngắn và tiểu thuyết với những góc nhìn mới, táo bạo. Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn (1986) nhưng được coi là người đạt đỉnh cao nghệ thuật của truyện ngắn với một loạt tác phẩm như: Tướng về hưu, Không có vua, Tuổi 20 yêu dấu, Những ngọn gió Hua Tát, Những người thợ xẻ, Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết. Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 29 tháng 4 năm 1950 tại Thái Nguyên, quê ở huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội. Thuở nhỏ ông cùng gia đình lưu lạc khắp nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, từ Thái Nguyên qua Phú Thọ, Vĩnh Phúc. Năm 1960, gia đình chuyển về quê, định cư ở xóm Cò, thôn Khương Hạ, xã Khương Ðình, huyện Thanh Trì (nay là phường Khương Đình, quận Thanh Xuân), Hà Nội. Năm 1970, ông tốt nghiệp khoa sử Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và, theo ông, bị đưa về làng dạy học tại Tây Bắc đến năm 1980, vì bố ông có làm việc với Pháp cho nên lý lịch ông bị xếp vào loại "không sạch".
Kỹ thuật hàng không vũ trụ là một lĩnh vực STEM tập trung vào thiết kế, phát triển, thử nghiệm và vận hành máy bay và tàu vũ trụ. Lĩnh vực này bao gồm việc tạo ra mọi thứ từ máy bay không người lái thu nhỏ đến tên lửa liên hành tinh hạng nặng. Tất cả các kỹ sư hàng không vũ trụ cần phải có kiến thức tuyệt vời về vật lý vì tất cả các máy bay đều bị chi phối bởi các quy luật chuyển động, năng lượng và lực. Lĩnh vực này đề cập đến những thứ bay được. Các kỹ sư hàng không tập trung vào máy bay trong khi các kỹ sư du hành vũ trụ tập trung vào tàu vũ trụ. Kỹ thuật hàng không vũ trụ dựa nhiều vào vật lý và toán học; ngay cả những tính toán sai lầm nhỏ cũng có thể gây tử vong khi làm việc với máy bay và tàu vũ trụ. Kỹ thuật hàng không vũ trụ là một lĩnh vực chuyên môn cao và không phải tất cả các trường có chương trình kỹ thuật đều cung cấp chuyên ngành này. Nói một cách đơn giản nhất, các kỹ sư hàng không vũ trụ làm việc trên bất cứ thứ gì bay được. Họ thiết kế, thử nghiệm, sản xuất và bảo trì nhiều loại máy bay và phương tiện vũ trụ có người lái và tự hành. Lĩnh vực này thường được chia thành hai chuyên ngành phụ:. Kỹ sư hàng không làm việc trên máy bay; đó là họ thiết kế và thử nghiệm các phương tiện bay trong bầu khí quyển của trái đất. Drone, trực thăng, máy bay thương mại, máy bay chiến đấu và tên lửa hành trình đều nằm trong tầm ngắm của một kỹ sư hàng không. Các kỹ sư du hành vũ trụ giải quyết việc thiết kế, phát triển và thử nghiệm các phương tiện rời khỏi bầu khí quyển của trái đất. Điều này bao gồm một loạt các ứng dụng quân sự, chính phủ và khu vực tư nhân như tên lửa, tên lửa, phương tiện không gian, tàu thăm dò hành tinh và vệ tinh. Hai lĩnh vực phụ này chồng chéo lên nhau đáng kể trong các bộ kỹ năng mà chúng yêu cầu, và thông thường cả hai chuyên ngành đều nằm trong cùng một khoa ở các trường đại học. Các nhà tuyển dụng lớn nhất của các kỹ sư hàng không vũ trụ có xu hướng có các sản phẩm và nghiên cứu liên quan đến cả hàng không và du hành vũ trụ. Bản chất của các công việc kỹ thuật hàng không vũ trụ thay đổi đáng kể. Một số kỹ sư dành phần lớn thời gian của họ trước máy tính sử dụng các công cụ mô hình hóa và mô phỏng. Những người khác làm việc nhiều hơn trong các đường hầm trên không và trong các mô hình quy mô thử nghiệm hiện trường cũng như máy bay và phương tiện vũ trụ thực tế. Các kỹ sư hàng không vũ trụ cũng thường tham gia vào việc đánh giá các đề xuất dự án, tính toán rủi ro an toàn và phát triển quy trình sản xuất. Máy bay được điều chỉnh bởi các quy luật vật lý, vì vậy tất cả các kỹ sư hàng không vũ trụ đều có nền tảng đáng kể trong vật lý và các lĩnh vực liên quan. Máy bay và tàu vũ trụ cũng cần phải chịu được lực cực lớn và nhiệt độ khắc nghiệt trong khi vẫn có trọng lượng nhẹ. Vì lý do này, các kỹ sư hàng không vũ trụ thường sẽ có kiến thức vững chắc về khoa học vật liệu. Các kỹ sư hàng không vũ trụ cần phải có kỹ năng vững chắc về toán học và các khóa học bắt buộc hầu như luôn bao gồm phép tính đa biến và phương trình vi phân. Để tốt nghiệp sau bốn năm, lý tưởng là học sinh sẽ hoàn thành phép tính một biến ở trường trung học. Các khóa học chính cũng sẽ bao gồm hóa học đại cương, cơ học và điện từ học. Các kỹ sư hàng không vũ trụ, những người đang hy vọng thăng tiến sự nghiệp và có tiềm năng kiếm tiền sẽ là khôn ngoan nếu bổ sung các môn học kỹ thuật của họ với các khóa học về viết / giao tiếp, quản lý và kinh doanh. Kỹ năng trong những lĩnh vực này là điều cần thiết cho các kỹ sư cấp cao, những người giám sát các kỹ sư và kỹ thuật viên khác. Nhiều chương trình kỹ thuật nhỏ chỉ đơn giản là không cung cấp kỹ thuật hàng không vũ trụ vì tính chất chuyên môn hóa cao của lĩnh vực này và nhu cầu tiếp cận với thiết bị và phương tiện đắt tiền. Các trường dưới đây, được liệt kê theo thứ tự bảng chữ cái, đều có các chương trình ấn tượng. Học viện Công nghệ California: Caltech là một trường khó có thể xuất hiện trong danh sách này, vì trường đào tạo ngành Hàng không vũ trụ chứ không phải chuyên ngành chính. Sinh viên quan tâm đến Kỹ thuật hàng không vũ trụ sẽ hoàn thành các yêu cầu nhỏ ngoài một chuyên ngành trong chuyên ngành như kỹ thuật cơ khí. Tỷ lệ 3 trên 1 sinh viên / giảng viên của Caltech và các Phòng thí nghiệm hàng không vũ trụ tốt nghiệp xuất sắc khiến nó trở thành nơi mà ngay cả một sinh viên ngành kỹ thuật hàng không vũ trụ cũng có thể làm việc chặt chẽ với giảng viên và sinh viên sau đại học trong lĩnh vực này. Đại học Hàng không Embry-Riddle : Mặc dù Embry-Riddle ở Bãi biển Daytona không có xu hướng đứng đầu bảng xếp hạng các chương trình kỹ thuật hàng không vũ trụ, việc tập trung vào lĩnh vực hàng không và khuôn viên trường có sân bay riêng có thể khiến nó trở thành một cơ sở lý tưởng cho những sinh viên có sở thích về mặt trái đất của kỹ thuật hàng không vũ trụ. Trường đại học cũng dễ tiếp cận hơn bất kỳ trường nào khác ở đây: điểm SAT và ACT chỉ trên mức trung bình một chút thường sẽ là đủ. Georgia Tech : Với hơn 1.200 chuyên ngành kỹ thuật hàng không vũ trụ, Georgia Tech có một trong những chương trình lớn nhất trong cả nước. Với quy mô lớn, nhiều nguồn lực bao gồm hơn 40 giảng viên theo dõi nhiệm kỳ, phòng thí nghiệm học tập hợp tác (Aero Maker Space) và nhiều cơ sở nghiên cứu có thể xử lý các quá trình đốt cháy và thử nghiệm khí động học tốc độ cao. Học viện Công nghệ Massachusetts: MIT là nơi có đường hầm gió từ năm 1896, và AeroAstro của nó là lâu đời nhất và là một trong những cơ sở có uy tín nhất trong nước. Sinh viên tốt nghiệp đã đảm nhận các vị trí hàng đầu tại NASA, Lực lượng Không quân và nhiều công ty tư nhân. Cho dù thiết kế máy bay không người lái hay vệ tinh vi mô, sinh viên sẽ nhận được nhiều kinh nghiệm thực tế trong các cơ sở như Phòng thí nghiệm Hệ thống Không gian và Phòng thí nghiệm Gelb. Đại học Purdue : Purdue đã tốt nghiệp 24 phi hành gia, 15 người trong số họ từ Trường Hàng không và Du hành vũ trụ. Trường đại học là nơi có sáu Trung tâm Xuất sắc liên quan đến kỹ thuật hàng không vũ trụ, và sinh viên có rất nhiều cơ hội để tham gia vào nghiên cứu, bao gồm thông qua SURF, Chương trình Học bổng Nghiên cứu Đại học Mùa hè. Đại học Stanford : Stanford là một trong những trường đại học danh tiếng và chọn lọc nhất trong cả nước, và chương trình Hàng không & Du hành vũ trụ của trường luôn được xếp hạng trong số những trường tốt nhất trong nước. Chương trình đại học dựa trên dự án và tất cả sinh viên học cách hình thành, thiết kế, triển khai và vận hành các hệ thống liên quan đến kỹ thuật hàng không vũ trụ. Vị trí của Stanford ở trung tâm của Thung lũng Silicon mang lại lợi thế cho trường này cho các nghiên cứu kỹ thuật liên quan đến tự động hóa, lập trình nhúng và thiết kế hệ thống. Đại học Michigan : Được thành lập hơn 100 năm trước, chương trình hàng không vũ trụ của Michigan có lịch sử lâu đời và phong phú. Chương trình tốt nghiệp khoảng 100 sinh viên đại học mỗi năm, và họ được hỗ trợ bởi 27 giảng viên theo nhiệm kỳ. Trường đại học có 17 cơ sở nghiên cứu hỗ trợ công việc trong lĩnh vực kỹ thuật hàng không vũ trụ. Chúng bao gồm Đài quan sát núi Peach, một đường hầm gió siêu thanh, và Phòng thí nghiệm Kỹ thuật đốt và đẩy. Theo Cục Thống kê Lao động , mức lương trung bình hàng năm cho các kỹ sư hàng không vũ trụ ở Hoa Kỳ là 113.030 USD vào năm 2017 (các thợ máy và kỹ thuật viên làm việc trên máy bay và thiết bị điện tử hàng không có thể kiếm được một nửa số tiền đó). PayScale đưa ra mức lương đầu sự nghiệp điển hình cho các kỹ sư hàng không vũ trụ là 68.700 đô la mỗi năm và mức lương trung bình giữa sự nghiệp là 113.900 đô la mỗi năm. Mức lương có thể thay đổi đáng kể tùy thuộc vào việc người sử dụng lao động là tư nhân, chính phủ hay cơ sở giáo dục. Các mức lương này đặt các kỹ sư hàng không vũ trụ vào giữa tất cả các lĩnh vực kỹ thuật. Các chuyên gia hàng không vũ trụ có xu hướng kiếm được ít hơn một chút so với các kỹ sư điện , nhưng nhiều hơn một chút so với các kỹ sư cơ khí và nhà khoa học vật liệu . Từ hóa học đến lập trình máy tính, nghệ thuật cho đến Thế chiến II, Chúng tôi cung cấp hướng dẫn, mẹo và tài nguyên để giúp bạn hiểu thêm về thế giới xung quanh chúng ta.
Ngành du hành vũ trụ
Astronautics, ngành du hành vũ trụ (hay vũ trụ học) là lý thuyết và thực hành điều hướng ngoài khí quyển của Trái đất. Thuật ngữ astronautics (ban đầu là astronautique trong tiếng Pháp) được đặt ra vào những năm 1920 bởi J.-H. Rosny, chủ tịch của học viện Goncourt, tương tự như aeronautics. Do có một mức độ chồng chéo kỹ thuật giữa hai lĩnh vực này, thuật ngữ hàng không vũ trụ (aerospace) thường được sử dụng để mô tả cả hai cùng một lúc. Năm 1930, Robert Esnault-Pelterie xuất bản cuốn sách đầu tiên về lĩnh vực nghiên cứu mới. Thuật ngữ cosmonautics (ban đầu là cosmonautique bằng tiếng Pháp) được giới thiệu vào năm 1930 bởi Ary Sternfeld với cuốn sách Initiation à la Cosmonautique (Giới thiệu về du hành vũ trụ học) (cuốn sách này đem lại cho ông giải Prix REP-Hirsch, sau đó được gọi là giải Prix d Astronautique, của Hiệp hội Thiên văn Pháp năm 1934. Như với hàng không học, các hạn chế khối lượng, nhiệt độ, và các lực lượng bên ngoài đòi hỏi rằng các ứng dụng trong không gian phải tồn tại được dưới các điều kiện khắc nghiệt: chân không cao, các bức xạ bắn phá của không gian liên hành tinh và các vành đai từ của quỹ đạo trái đất thấp.
Bộ phim truyền hình dài tập Bad Genius ( Thiên tài bất hảo) đang là đề tài gây sốt khắp đất Thái vì quá cuốn hút và hấp dẫn. Tính đến thời điểm hiện tại, bộ phim đã đi được gần nửa chặng đường phát sóng và nhận được phản hồi vô cùng tích cực đến từ phía khán giả, thậm chí còn được nhận xét hay hơn cả bản gốc. Cùng với sức hút của bộ phim, nhân vật chính cũng chính là ‘linh hồn’ của bộ phim, Lynn (do Juné Plearnpichaya thủ vai) cũng nhận được rất nhiều sự quan tâm của khán giả đang theo dõi Thiên tài bất hảo. Một cô gái chỉ mới 20 tuổi thử sức mình với một dạng nhân vật khó, không những phải làm tròn vai mà còn phải làm cho Lynn của bản truyền hình là chính mình chứ không phải bản sao của một ai khác. Sự cố gắng và nỗ lực từ chưa biết diễn xuất vai của mình như thế nào đến một vai diễn Lynn chỉn chu tròn trịa đã được đền đáp xứng đáng bằng phản hồi từ người xem. Theo dõi Thiên tài bất hảo liệu đã bao giờ bạn tò mò về profile của nữ ca sĩ diễn viên đảm nhận nhân vật nữ sinh ‘thiên tài gian lận’ này chưa? Trước tiên, bật mí cho các bạn rằng chẳng kém cạnh Lynn phiên bản trong phim nữ chính Juné Plearnpichaya cũng là một cô gái vô cùng hoàn hảo. Một cô gái sinh ra trong một gia đình giàu có, đã từng theo học ở nước ngoài, thạo 3 thứ tiếng, đang là sinh viên trường top đầu ở Thái lan và vô vàn những thành tích và năng khiến đáng nể khác. Nào, hãy cùng Saostar tìm hiểu ‘tất tần tật’ về nữ chính Lynn của Thiên tài bất hảo ngay dưới đây. Juné Plearnpichaya sinh ngày 4 tháng 7 năm 2000 ( 20 tuổi). Tuy nhiên, mọi người thường gọi cô nàng với cái tên Juné BNK48 nhiều hơn thay vì tên thật bởi cô nàng là thành viên của nhóm nhạc nữ BNK48. Cái tên Juné đi cùng cô nàng từ khi bước chân vào làng giải trí. Biệt danh thật của cô là Pam do cha mẹ cô đặt.Bên cạnh việc hoạt động trong ngành giải trí, cô nàng còn đích thị là người thừa kế sáng giá của gia đình khi sinh ra trong một gia đình giàu có, bố mẹ đều làm kinh doanh. Cha cô là giám đốc điều hành của một trong những công ty viễn thông hàng đầu Thái Lan trong khi mẹ cô là chủ một chuỗi cửa hàng bánh mì nổi tiếng toàn quốc. Juné Plearnpichaya chính xác là một rich kid thực thụ dù cô nàng rất ít khi chia sẻ về gia đình giàu có của mình trước truyền thông. Dù cả bố và mẹ đều không làm về nghệ thuật nhưng tài năng nghệ thuật từ nhỏ đã giúp cô nàng 20 tuổi gắn bó với sự nghiệp ca hát và diễn xuất của bản thân. Một ca sĩ kiêm diễn viên có thể nói 3 thứ tiếng bao gồm tiếng Thái, tiếng Anh và tiếng Nga.Trong bộ phim Thiên tài bất hảo, Juné đã có cơ hội thể hiện khả năng tiếng anh của mình khi qua Úc thực hiện phi vụ truyền đáp án trong kì thi STIC. Cô từng là sinh viên trao đổi năm 2016-2017 tại Nga.Khoảng thời gian du học tại Nga đã giúp Juné xây dựng cho mình thêm một ngôn ngữ mới, đó là tiếng Nga. Hiện cô đang là sinh viên năm 3 của Đại học Chulalongkorn, Khoa Kiến trúc. Đại học Chulalongkorn còn được biết đến với tên gọi khác là ‘Đại học Hoàng gia Thái lan’ ngôi trường top đầu và lâu đời nhất ở Bangkok. Theo học tại ngôi trường đại học danh giá này sẽ luôn là niềm tự hào và vinh dự của bất cứ ai. Ngoài ra, Chulalongkorn còn là nơi theo học của rất nhiều siêu sao Thái lan như Yaya Urassaya, Peach Pachara,March Chutavuth,Win Metawin, Taew Natapohn,…v…v. Ngôi trường Chulalongkorn đi đầu về chất lượng giảng dạy, ngoài ra còn quy tụ rất nhiều rich kid, trai xinh gái đẹp theo học mà mỗi khi nhắc đến đều khiến người nghe thốt lên vì ghen tị. Juné ra mắt với tư cách là một nữ diễn viên trong bộ phim truyền hình năm 2019 One Year 365 Wan Ban Chun Ban Tur. Cô ấy hiện đang thể hiện kỹ năng diễn xuất tuyệt vời của mình trong Bad Genius The Series. Để có được vai nữ chính Lynn trong Thiên tài bất hảo, cô nàng đã phải vượt qua rất nhiều thí sinh đến casting vai diễn này, may mắn cô là người đã lọt mắt xanh của đạo diễn Pat. Khi bắt đầu thực hiện những cảnh quay đầu tiên, June BNK48 đã gặp không ít khó khăn khi chưa thể truyền đạt được nội dung kịch bản. Trong quá trình quay phim, Juné đã phải cố gắng nỗ lực rất nhiều để có thể hoàn thành tốt vai diễn của mình. Đến khi bộ phim đóng máy, đạo diễn Pat đã nhận xét rằng Juné là người đã làm tốt nhất trong số 4 diễn viên chính của phim. Profile cực đỉnh này của Juné Plearnpichaya hi vọng sẽ giúp bạn hiểu nhiều hơn về cô gái xinh đẹp, tài năng thế hệ mới của điện ảnh Thái lan này. Netizen cho rằng căn bếp của Vũ Khắc Tiệp chưa xứng tầm với độ xa hoa của siêu biệt thự. Quản lý Phi Nhung chính thức xác nhận nữ ca sĩ đã nhiễm Covid-19 và do tình hình trở nặng nên hiện đang điều. Có nhiều "thuyết âm mưu" xoay quanh vụ phong sát ngầm cực gắt của "Én nhỏ" Triệu Vy. Sau khi tin đồn ăn chặn tiền từ thiện bị chia sẻ rầm rộ trên mạng xã hội, tối 26/8, ca. Từng là cặp nghệ sĩ được khán giả yêu thích, Mik Thongraya và Bow Maylada xác nhận chia tay vào.
Thiên tài bất hảo
Thiên tài bất hảo (tên gốc tiếng Thái: Chalard Games Goeng (ฉลาดเกมส์โกง), còn được biết rộng rãi tại thị trường quốc tế với tên tiếng Anh: Bad Genius) là một phim điện ảnh trộm cướp tâm lý của Thái Lan năm 2017 do hãng Jor Kwang Films sản xuất và GDH 559 phát hành. Phim do Nattawut Poonpiriya đạo diễn, với sự tham gia diễn xuất của nữ người mẫu Chutimon Chuengcharoensukying với vai diễn đầu tiên cho nhân vật Lynn, một học sinh tài giỏi đã đưa kế hoạch quay cóp trong các kỳ thi của mình lên tầm quốc tế. Lấy cảm hứng từ câu chuyện có thật về các thí sinh gian lận trong kỳ thi SAT, bộ phim đã tạo ra bối cảnh học đường với các bài kiểm tra cùng với các vấn đề xã hội như bất bình đẳng giới. Dàn diễn viên chính ngoài Chuengcharoensukying còn có Chanon Santinatornkul, Teeradon Supapunpinyo và Eisaya Hosuwan trong vai các bạn học cùng lớp với Lynn là Bank, Pat và Grace, trong khi đó nam ca sĩ, nhà sản xuất âm nhạc Thaneth Warakulnukroh đảm nhiệm vai bố của Lynn. Thiên tài bất hảo được quay tại các địa điểm thuộc Thái Lan và Úc.
Tranh thêu chữ thập là một loại hình tranh trên vải, được thêu bằng chỉ màu theo hình dấu chữ thập (+). Ở phương Tây người ta gọi là Cross stitch với nghĩa tương tự. Nguyên lý của tranh thêu chữ thập là gì? Chính là tạo điểm ảnh. Giống như công nghệ ảnh ngày nay. Để tạo lên bức tranh là do nhiều điểm ảnh (dấu +) với những màu sắc khác nhau. Loại vải được sử dụng cũng rất đặc biệt, khác với vải thêu thường. Nó được gọi là vải AIDA. Đây là loại vải mà có lỗ khá dễ luồn kim. Và các sợi vải đan với nhau như kiểu đan rổ dày đặc. Người ta sẽ in các mã màu lên vải. Ở viền tranh, tờ hướng dẫn sẽ ghi chú để người thêu lựa chọn đúng màu chỉ. Khi giặt, màu in trên vải sẽ biến mất. Tranh chỉ còn vải trắng và chỉ màu. Thông thường có hai loại chỉ là chỉ bóng và chỉ không bóng. Trong đó chỉ thêu bóng sẽ có độ sáng cao hơn. Tuy nhiên chỉ thêu không bóng lại có vẻ sang trọng hơn. Tranh thêu chữ thập có hai loại. Tranh chữ thập thêu kín, và tranh thêu chữ thập 3D. Trong đó, tranh thêu 3D thực chất là tranh “thêu 1 phần, in sẵn 1 phần”. Nghĩa là sẽ có những họa tiết cứng. Thứ mà sẽ không phai màu khi giặt. Ta sẽ chỉ thêu một số họa tiết mà thôi. Mona Lisa là thương hiệu tranh thêu chữ thập, tranh gắn đá cao cấp, thiên về chất lượng.
Thêu chữ thập
Thêu chữ thập hay còn gọi là X-stitch là phương pháp thêu trên những loại vải thô có chia các ô đều để các mũi khâu có thể thành hình chữ thập một cách đều đặn. Có hai loại vải chính dùng để thêu Cross-Stitch là vải Aida và vải Evenweave (vải thô). Vải Aida là loại vải chính dùng để thêu Cross-Stitch. Thêu chữ thập là một trong những hình thức lâu đời nhất của nghề thêu và có ở khắp nơi trên thế giới. Nhiều bảo tàng truyền thống trưng bày những mẫu quần áo được trang trí bằng thêu chữ thập, đặc biệt là ở châu Âu và châu Á. Thêu chữ thập hai chiều bằng chỉ cotton đỏ và đen với họa tiết hình học hoặc hoa văn trên vải lanh là nét đặc trưng của nghề thêu dân gian ở Trung và Đông Âu. Thêu chữ thập đã xuất hiện từ cả ngàn năm trước, trên địa bàn gần như là khắp thế giới. Người ta đã tìm thấy những hoạ tiết thêu chữ thập trên tấm trang trí bàn thờ Chúa trời ở Jelusalem, trên trang phục các thổ dân da đỏ châu Mỹ, trên đồ trang sức của thổ dân châu Úc, trên hoàng bào của vua Trung quốc và trên….
Chính phủ Ấn Độ vừa có bước đi nhằm hủy bỏ phần quy định trong hiến pháp có nội dung trao quy chế đặc biệt cho phần Kashmir thuộc Ấn Độ kiểm soát. Đây là điều chưa từng xảy ra, và nhiều khả năng sẽ châm ngòi cho tình trạng bạo loạn. Điều 370 có nội dung nhạy cảm, bởi đây là điều khoản đảm bảo trao quyền tự trị quan trọng cho bang có đông người Hồi giáo này. Toàn bộ vùng Kashmir là nơi có tranh chấp giữa Ấn Độ và Pakistan. Mỗi bên đều tuyên bố mình có toàn đối với vùng này, nhưng chỉ kiểm soát được từng phần. Đã có tình trạng nổi dậy dai dẳng từ lâu nay ở phần Kashmir do Ấn Độ kiểm soát. Giữa Ấn Độ và Pakistan, đều là các cường quốc hạt nhân, đã có hai cuộc chiến và một cuộc xung đột hạn chế ở vùng lãnh thổ trên Dãy Himalaya kể từ khi Ấn Độ giành độc lập khỏi Anh và phân chia ra thành hai quốc gia, Ấn Độ và Pakistan, hồi 1947. Pakistan đã lên án Ấn Độ trong việc quyết định hủy bỏ quy chế đặc biệt đối với phần Kashmir do Ấn Độ quản lý và gọi quyết định đó là bất hợp pháp. Pakistan nói sẽ "thực hiện mọi khả năng có thể" để đáp trả. "Ấn Độ đang chơi trò chơi nguy hiểm, điều sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho hòa bình và ổn định trong khu vực," Ngoại trưởng Shah Mehmood Qureshi nói. Bước đi của chính phủ do đảng BJP theo chủ nghĩa dân tộc Hindu đã gây ra cơn giận dữ trong quốc hội. Một số chuyên gia pháp lý gọi đó là cuộc tấn công vào hiến pháp. Cựu thủ hiến bang này, bà Mehbooba Mufti nói rằng việc xóa bỏ Điều 370 về mặt hiệu lực khiến cho Ấn Độ trở thành lực lượng chiếm đóng. "Ngày hôm nay đánh dấu ngày đen tối nhất trong nền dân chủ Ấn Độ," bà viết trong một tin ở Twitter, và nói thêm rằng "quyết định đơn phương" của chính phủ là "bất hợp pháp và vi hiến". Trong việc phân chia Ấn Độ hồi 1947, Jammu và Kashmir, cũng giống như các vùng khác có đông người Hồi giáo sinh sống, được trông đợi là sẽ thuộc về Pakistan. Nhưng người trị vì tại tiểu vương quốc này, người ban đầu muốn độc lập, đã theo Ấn Độ để đổi lấy việc được giúp đỡ chống lại cuộc xâm chiếm của các bộ tộc từ Pakistan. Vào 1949, một điều khoản đặc biệt đã được bổ sung vào hiến pháp, theo đó trao cho Jammu và Kashmir quyền tự trị. Điều 370 cho phép bang này có hiến pháp riêng, có lá cờ riêng, và độc lập trên mọi vấn đề trừ quan hệ ngoại giao, quốc phòng và thông tin liên lạc. Một điều khoản khác sau đó được bổ sung thêm vào Điều 370, là Điều 35A, quy định các đặc quyền dành cho cư dân thường trú tại bang này, trong đó gồm cả công ăn việc làm trong cơ quan chính phủ và đặc quyền sở hữu bất động sản tại bang. Nó được coi như để bảo vệ bản sắc địa lý đặc biệt của nơi được coi là bang duy nhất có đông dân là người Hồi giáo tại Ấn Độ. Chính phủ công bố một sắc lệnh của tổng thống, hủy bỏ toàn bộ Điều 370 trừ một điều khoản nói bang này là một phần không thể tách rời của Ấn Độ. Sắc lệnh cũng đề xuất phân chia bang này thành hai vùng. Bộ trưởng Nội vụ Amit Shah trình sắc lệnh ra quốc hội giữa lúc có nhiều cuộc biểu tình phản đối lớn nổ ra. Ông nói sắc lệnh sẽ sớm trở thành luật sau khi được tổng thống ký, bởi việc hủy bỏ điều khoản này chỉ cần có sắc lệnh tổng thống là đủ. Ngay sau khi tuyên bố được đưa ra, Bộ trưởng Pháp luật và Tư pháp công bố một sắc lệnh tổng thống chưa ký, trong đó nêu chi tiết các thay đổi dự kiến. Việc thay đổi Điều 370 cũng đòi phải được sự đồng ý của chính quyền bang, nhưng Jammu và Kashmir đã nằm dưới sự lãnh đạo của một vị thống đốc kể từ 6/2018, khi BJP rút lui khỏi liên minh thành lập chính quyền bang với Đảng Dân chủ Nhân dân (PDP) trong vùng. Điều này về mặt hiệu lực có nghĩa là bang này chịu sự lãnh đạo trực tiếp từ Delhi thông qua thống đốc, người đã đồng ý với dự luật. Vùng Kashmir do Ấn Độ quản lý, nơi có khoảng 12 triệu dân, là một bang nằm trong tình trạng kiểm soát nghiêm ngặt. Các điều kiện giống như là giới nghiêm đã được áp đặt, và giới chức ban hành lệnh cấm tụ tập quá bốn người. Hàng chục ngàn binh lính Ấn Độ đã được triển khai tới khu vực trước khi tuyên bố được đưa ra hôm thứ Hai; các du khách được yêu cầu rời đi trước khi có các cảnh báo về nguy cơ khủng bố. Lệnh hạn chế các mạng di động và internet đã được ban bố, khiến vùng này hầu như bị cắt rời khỏi các phần còn lại của Ấn Độ. Vài giờ trước khi tuyên bố được đưa ra hôm thứ Hai, hai cựu thủ hiến của bang này, ông Omar Abdullah và bà Mehbooba Mufti, bị đặt dưới chế độ quản chế tại gia.
Thu hồi tình trạng đặc biệt của Jammu và Kashmir
Vào ngày 5 tháng 8 năm 2019, Chính phủ Ấn Độ đã thu hồi tình trạng cách đặc biệt, hoặc tự chủ hạn chế, được cấp theo Điều 370 của Hiến pháp Ấn Độ thành Jammu và Kashmir - một khu vực được quản lý bởi Ấn Độ bao gồm phần lớn hơn của Kashmir từng là chủ đề tranh chấp giữa Ấn Độ, Pakistan và Trung Quốc kể từ năm 1947. Trong số các hành động của chính phủ Ấn Độ đi kèm với việc thu hồi là cắt đứt đường dây liên lạc trong Thung lũng Kashmir, một khu vực bị kìm kẹp bởi một cuộc nổi dậy ly khai kéo dài. Một số chính trị gia hàng đầu Kashmir bị bắt giam, trong đó có cựu thủ tướng, Các quan chức chính phủ đã mô tả những hạn chế này như được thiết kế để ngăn chặn bạo lực, và biện minh cho việc thu hồi để cho phép người dân của tiểu bang truy cập các chương trình của chính phủ như đặt chỗ, quyền giáo dục và quyền thông tin. Phản ứng ở Thung lũng Kashmir trên thực tế đa giảm sự im lặng vì liên lạc bị cắt đứt.
Có 2 vấn đề sức khỏe đang gây nhức nhối với cộng đồng đó là huyết áp cao và huyết áp thấp. Người ta nhắc nhiều đến các chỉ số “huyết áp” kèm theo thông điệp theo dõi chỉ số huyết áp như theo dõi chính chỉ số sức khỏe của bạn và gia đình. Vậy huyết áp là gì? Thế nào được coi là huyết áp cao và huyết áp thấp? Mời bạn đọc cùng tham khảo một số thông tin bổ ích về huyết áp qua bài viết dưới đây. Huyết áp là áp lực máu cần thiết tác động lên thành động mạch nhằm đưa máu đến nuôi dưỡng các mô trong cơ thể. Huyết áp được tạo ra do lực co bóp của tim và sức cản của động mạch. Ở người bình thường, huyết áp ban ngày cao hơn ban đêm, huyết áp hạ xuống thấp nhất vào khoảng 1-3 giờ sáng khi ngủ say và huyết áp cao nhất từ 8 – 10 giờ sáng. Khi vận động, gắng sức thể lực, căng thẳng thần kinh hoặc khi xúc động mạnh đều có thể làm huyết áp tăng lên. Và ngược lại, khi cơ thể được nghỉ ngơi, thư giãn, huyết áp có thể hạ xuống. Khi bị lạnh gây co mạch, hoặc dùng một số thuốc co mạch hoặc thuốc co bóp cơ tim, ăn mặn có thể làm huyết áp tăng lên. Ở môi trường nóng, ra nhiều mồ hôi, bị tiêu chảy… hoặc dùng thuốc giãn mạch có thể gây hạ huyết áp. Huyết áp tối đa (còn gọi là huyết áp tâm thu hoặc ngắn gọn là số trên), bình thường từ 90 đến 139 mm Hg (đọc là milimét thuỷ ngân). Huyết áp tối thiểu (còn gọi là huyết áp tâm trương hoặc ngắn gọn là số dưới), bình thường từ 60 đến 89 mm Hg. Khi tim đập, huyết áp sẽ thay đổi từ cực đại (áp lực tâm thu) đến cực tiểu (áp lực tâm trương). Huyết áp sẽ giảm dần khi máu theo động mạch đi xa khỏi tim. Trên thực tế, cả 2 tình trạng huyết áp cao và huyết áp thấp đều gây nguy hiểm tới sức khỏe của người bệnh. Bất cứ ai trong số chúng ta cũng đều nên nắm rõ các chỉ số huyết áp để theo dõi huyết áp của mình nằm trong vùng nào để điều chỉnh chế độ ăn uống và lối sống cho phù hợp. Huyết áp bình thường: Đối với người trưởng thành, khi các chỉ số huyết áp tâm thu dưới 120mmHg và huyết áp tâm trương dưới 80mmHg thì được gọi là huyết áp bình thường. Huyết áp cao: Khi chỉ số huyết áp tâm thu lơn hơn 140 mmHG và huyết áp tâm trương lớn hơn 90 mmHg thì được chẩn đoán là huyết áp cao. Tiền cao huyết áp là mức giá trị của các chỉ số huyết áp nằm giữa huyết áp bình thường và cao huyết áp (Huyết áp tâm thu từ 120-139 mmHg hoặc huyết áp tâm trương từ 80-89 mmHg). Huyết áp thấp: Hạ huyết áp (huyết áp thấp) được chẩn đoán khi huyết áp tâm thu dưới 90 mmHg hoặc giảm 25 mmHg so với bình thường. Để kết luận một người bị tăng huyết áp hay không người ta cần căn cứ vào trị số huyết áp của nhiều ngày. Do đó phải đo huyết áp thường xuyên, nhiều lần trong ngày, theo dõi trong nhiều ngày. Phải đo huyết áp cả hai tay sau 5 phút nằm nghỉ và sau tối thiểu 1 phút ở tư thế đứng. Chỉ số huyết áp cao lên khi cơ thể vận động quá sức, tinh thần căng thẳng, lo âu hồi hộp. Và huyết áp có thể hạ xuống trong trường hợp bị tiêu chảy, mất sức, ra nhiều mồi hôi, dùng thuốc giãn mạch… Do đó chúng ta cần tìm hiểu lỹ hơn về các yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp. Có hai yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến huyết áp chính là yếu tố bên trong cơ thể và yếu tố bên ngoài cơ thể. Cùng xem những yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp để có phương pháp phòng ngừa hiệu quả nhé!. Sức bóp của tim: Là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến huyết áp. Tim đập nhanh hay chậm đều tác động trực tiếp đến huyết áp. Nếu tim đập càng nhanh thì tạo nên áp lực máu đến thành động mạnh càng lớn từ đó huyết áp sẽ tăng cao và ngược lại. Sức cản của động mạch: động mạch co giãn tốt, máu sẽ lưu thông dễ dàng hơn từ đó giúp huyết áp ổn định. Nếu thành mạch đàn hồi kém hoặc bị xơ vữa động mạch thì lượng máu sẽ lưu thông khó khăn hơn. Như vậy sức cản của động mạch càng lớn thì rất dễ dẫn đến nguy cơ cao huyết áp. Lượng máu: lượng máu trong cơ thể thấp, không đủ nhiều để tạo áp lực lên thành mạch thì rất dễ có nguy cơ huyết áp thấp. Trong những trường hợp cơ thể bị mất nhiều máu dẫn đến thiếu máu đi khắp cơ thể sẽ làm giảm huyết áp. 3 yếu tố bên trong cơ thể kể trên có quan hệ mật thiết với nhau, nếu một trong 3 yếu tố có vấn đề thì sẽ ảnh hưởng đến khả năng làm việc của 2 yếu tố còn lại và dẫn đến tình trạng huyết áp cao hoặc huyết áp thấp. Tư thế ngồi: Khoa học đã chứng minh tư thế ngồi hoặc đứng sẽ làm ảnh hưởng đến chỉ số huyết áp trung bìnhcủa mỗi người. Đây là một yếu tố ít ai ngờ tới và thường xuyên mắc phải. Ngồi sai tư thế sẽ làm lượng máu lưu thông khó khăn và dẫn đến huyết áp luôn ở mức không ổn định. Thói quen ăn uống, sinh hoạt: chế độ ăn uống hằng ngày không chỉ ảnh hưởng đến huyết áp mà còn ảnh hưởng đến nhiều bệnh lý khác. Ăn mặn, ăn nhiều dầu mỡ, uống nhiều rượu bia, cà phê, thuốc lá… sẽ ảnh làm xơ cứng thành mạch, huyết áp. Sinh hoạt không điều độ, làm việc căng thẳng, thường xuyên thức khuya, ít tập thể dục… cũng là những nguyên nhân làm huyết áp không ổn định. Trong thời đại ngày nay, con người luôn phải bận rộn và đối mặt với tình trạng stress nặng nề làm huyết áp bất ổn. Không ai phủ nhận mức độ nguy hiểm của huyết áp cao và huyết áp thấp. Người ta coi đây là các sát thủ thầm lặng với sức khỏe con người bởi diễn biến âm thầm, các triệu chứng không rõ ràng và các biến chứng nguy hiểm mà nó để lại. Nếu như huyết áp cao là bệnh thuờng gặp và gia tăng theo tuổi, là nguyên nhân gây tử vong và di chứng thần kinh nặng nề như liệt nửa người, hôn mê với đời sống thực vật, đồng thời có thể thúc đẩy suy tim, thiếu máu cơ tim làm ảnh hưởng nhiều đến chất lượng sống (không cảm thấy khoẻ khoắn, mất khả năng lao động) và gia tăng khả năng tử vong. Huyết áp cao còn là một trong những yếu tố nguy cơ của đột quỵ, nhồi máu cơ tim, suy tim và phình động mạch, ngoài ra nó còn là nguyên nhân gây ra suy thận mãn và biến chứng ở mắt. Tăng áp lực máu động mạch sẽ dẫn tới giảm tuổi thọ trung bình. Biến chứng tức thời: Có thể nguy hiểm đến tính mạng, gồm tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim cấp, bóc tách động mạch chủ, phù phổi cấp, suy thận cấp. Biến chứng lâu dài: Xảy ra nếu bệnh nhân sau một thời gian dài tăng huyết áp mà không được chẩn đoán và điều trị đúng. Biến chứng gồm: Rối loạn tiền đình, bệnh lý mắt, tim to, suy tim, đau thắt ngực do thiếu máu cục bộ cơ tim, suy thận mạn, đau cách hồi. Nếu so sánh với huyết áp cao, huyết ấp thấp trước mắt không dẫn đến biến chứng như tai biến mạch máu não, nghẽn tắc cơ tim nên nhiều người chủ quan với căn bệnh này. Tuy nhiên, ít người biết được rằng huyết áp thấp cũng có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm không kém. Khi người bệnh bị tụt huyết áp nhiều lần, hệ thống thần kinh bị suy giảm chức năng, cơ thể không tự kịp điều chỉnh để cung cấp đủ dinh dưỡng và oxy cho các cơ quan có chức năng sống còn như não, tim, thận gây ra các tổn thương cho các cơ quan này. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh huyết áp thấp có thể dẫn đến tình trạng đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, suy thận… thậm chí nguy hiểm đến tính mạng. Nhiều trường hợp huyết áp thấp có thể dẫn tới tai biến mạch máu não, trong đó phần lớn là nhồi máu não, tỷ lệ này chiếm khoảng 30%. Ngoài ra, người bị tụt huyết áp cấp có thể gây sốc, đặc biệt nguy hiểm đến tính mạng trong những trường hợp như đang lái xe, làm việc trên tầng cao… Nếu huyết áp thấp kéo dài, còn làm cho các cơ quan thận, gan, tim, phổi suy yếu nhanh chóng. Để kiểm soát huyết áp bạn cần có một chế độ ăn uống sinh hoạt hợp lý, bổ sung các loại thực phẩm giàu kali, canxi và vitamin tổng hợp bằng nhiều thực phẩm tốt như sữa, trứng, rau xanh, các loại đậu, cá… và hạn chế ăn mặn. Dinh dưỡng đầy đủ sẽ giúp cơ thể cung cấp đầy đủ lượng máu và oxy nuôi dưỡng cơ thể từ đó thúc đẩy khả năng hoạt động của cơ tim, thành mạch. Nếu bổ sung một chế độ dinh dưỡng không đủ chất sẽ khiến cơ thể kiệt quệ, dễ dẫn đến tình trạng thiếu máu và gây nguy cơ huyết áp thấp. Bên cạnh đó, việc giữ cho tinh thần luôn vui vẻ, thoải mái, không làm việc quá sức và có thời gian nghỉ ngơi thư giãn. Áp lực, lo âu kéo dài là nguyên nhân khiến huyết áp không ổn định. Tốt hơn hết bạn nên dành thời gian khoảng 30 phút mỗi ngày để tập luyện thể dục, các bài tập nhẹ nhàng để tăng cường sức đề kháng cho cơ thể. Ngoài ra chúng ta nên điều chỉnh các tư thế đứng, ngồi, nằm để đảm bảo lượng máu lưu thông dễ dàng hơn nhé. Theo dõi, kiểm tra huyết áp thường xuyên là việc làm vô cùng quan trọng giúp kiểm soát được chỉ số huyết áp của bạn và các thành viên trong gia đình. Nếu bạn là người bận rộn không có nhiều thời gian đến bác sĩ hoặc bạn muốn tiết kiệm chi phí thì có thể tự trang bị cho mình một chiếc máy đo huyết áp tại nhà. Đây là cách vừa tiết kiệm chi phí và thời gian vừa tiện lợi có thể dùng mọi lúc mọi nơi. Việc sở hữu cho mình và gia đình 1 chiếc máy đo huyết áp là vô cùng cần thiết bởi bạn có thể theo dõi huyết áp cho chính mình và các thành viên trong gia đình ngay tại nhà. Điều quan trọng là bạn cần lựa chọn cho mình chiếc máy đo huyết áp phù hợp và chất lượng. Máy đo huyết áp Omron là thương hiệu số 1 được các chuyên gia y tế khuyên dùng. Máy đo huyết áp Omron cho kết quả đo chính xác cao nhờ ứng dụng cảm biến thông tin sinh học và công nghệ xử lý fuzzy. Đây chính là dòng sản phẩm đang bán chạy nhất hiện nay được sản xuất trên công nghệ intellisense tiên tiến từ Nhật Bản. Màn hình LCD lớn cho kết quả hiển thị rõ ràng, chỉ số dễ hiểu. Dòng máy đo huyết áp cao cấp này xứng đáng là thiết bị y tế đáng đầu tư của nhiều gia đình Việt. Nhờ ứng dụng công nghệ “cảm biến thông tin sinh học” thành công, máy đo huyết áp OMRON (Nhật Bản) được Hiệp hội y tế Hoa kỳ, Hiệp hội tăng huyết áp Châu Âu chứng nhận lâm sàng về độ chính xác, an toàn và tiện dùng khi sử dụng. Máy đo huyết áp OMRON là sản phẩm lý tưởng cho mọi gia đình nhờ tính năng ưu việt, công nghệ hiện đại, kết quả đo có độ chính xác cao và được hội tim mạch Việt Nam khuyên dùng. Ngoài ra, máy đo huyết áp Omron dễ sử dụng, kết quả hiển thị rõ ràng nên mọi người đều có thể tự kiểm tra thông số huyết áp tại nhà
Huyết áp
Huyết áp là áp lực đẩy do sự tuần hoàn của máu trong các mạch máu, và là một trong những dấu hiệu chính cho biết cơ thể còn sống hay đã chết. Khi tim đập, huyết áp thay đổi từ cực đại (áp lực tâm thu) đến cực tiểu (áp lực tâm trương). Huyết áp trung bình, gây ra do sức bơm của tim và sức cản trong mạch máu, sẽ giảm dần khi máu theo động mạch đi xa khỏi tim. Huyết áp giảm nhanh nhất khi máu chạy trong các động mạch nhỏ và các tiểu động mạch và tiếp tục giảm khi máu đi qua các mao mạch và huyết áp đạt mức nhỏ nhất trong tĩnh mạch quay trở lại tim. Các yếu tố ảnh hưởng đến huyết áp bao gồm: trọng lực, các van trong tĩnh mạch, nhịp thở, co cơ. Thuật ngữ "huyết áp" thường được dùng để chỉ áp lực đo ở cánh tay, mặt trong của tay ở vị trí cùi chỏ (động mạch tay). Huyết áp được biểu thị bằng một phân số mà tử số là áp lực tâm thu, mẫu số là áp lực tâm trương, đơn vị áp lực là milimet thủy ngân (mmHg), ví dụ: 140/90.
Sâu trong mỗi con người luôn tồn tại một điều bí ẩn nào đó, có thể là quá khứ, sự che dấu, và thậm chí là một nhân cách khác trong bản thân mình. Sẽ không có một ai tự nguyện thể hiện tất cả thầm kín nhất và bạn chỉ có thể tìm thấy những điều này qua những trang sách dưới ngòi bút tuyệt diệu của các tác giả. Còn cuốn tiểu thuyết nào khác ngoài “Bá tước Monte Cristo” – nơi lột tả hết sự trái ngang của những mối quan hệ, sự tàn nhẫn của lòng hận thù và ẩn sâu trong đó là cả những thông điệp về chân lý cuộc sống. Bá tước Monte Cristo được ví như một chuyến phiêu lưu ngoạn mục trên đại dương khi đưa độc giả vòng quanh khắp các thành phố lớn ở Châu Âu và các sự kiện lịch sử đặc trưng. Vốn nghĩ giọng văn phải dồn dập nhưng tác giả Alexandre Dumas đã dựng toàn bộ câu chuyện theo lối kể từ từ, bình tĩnh trong suốt hơn 650 trang sách. Với những ai chưa từng đọc qua văn học cổ điển sẽ cảm thấy khó “cảm” được tác phẩm nổi tiếng này. Bởi số lượng nhân vật khá nhiều, đa dạng về tên gọi, bối cảnh thay đổi nhanh chóng và cách thể hiện từng câu chuyện có chút rời rạc và phức tạp. Nhưng với những ai ưa thích vén từng màn bí mật thì “Bá tước Monte Cristo” hoàn toàn đáp ứng được bạn với một trận chiến tâm lý hết sức ảo diệu. Giọng văn đậm chất phương Tây xưa, cách xây dựng biến cố lồng vào các sự kiện lịch sử và phương thức “bày binh bố trận” xử lý kẻ thù một cách đầy mưu mẹo. Tưởng chừng như các chương truyện không hề liên quan với nhau nhưng khi đọc gần đến những chương cuối, độc giả như vỡ ra bởi sự kết nối tinh tế của nhà văn tài năng này. Tác giả Alexandre Dumas đã lấy bối cảnh truyện lúc nước Pháp lúc có sự thay đổi hai triều đại và chiến tranh các nước Châu Âu lân cận. Xuất bản năm 1844 với hình thức tiểu thuyết dài kỳ, cuốn sách đã làm làn sóng bàn tán lúc bấy giờ nóng hơn bao giờ hết. Bởi dư luận ngạc nhiên với cách thức mà vua Napoleon trở lại Pháp như chính sự tái sinh của bá tước Monte Cristo. Không đi quá sâu vào lịch sử, Dumas dựng lên câu chuyện gây cấn và hấp dẫn hơn qua sự nghiệt ngã của số phận dưới tay thượng đế. Truyện kể về tấn bi kịch cuộc đời của anh chàng thủy thủ điển trai Edmond Dantes. Anh chàng dường như có tất cả khi anh vừa bước xuống con tàu Pharaon: gia đình, tiền bạc, tình yêu và sự nghiệp. Dantes được lên chức thuyền trưởng con tàu Pharaon, có cha già thân yêu, có lợi tức đồng niên cao, và có mối tình thơ với nàng Mercedes xinh đẹp. Tưởng chừng như không bao lâu nữa, anh sẽ có lễ đính hôn với cô nàng Mercedes và cuộc sống đầy sung mãn hạnh phúc. Nhưng cuộc sống nào giống cuộc đời và rồi một bi kịch khủng khiếp đã xảy ra với Dantes. Những chàng trai khác trong làng đã ghen tị với cuộc sống của Dantes: Danglars mơ ước với chức thuyền trưởng của anh, Fernand sinh lòng đố kị vì anh chiếm được trái tim nàng Mercedes và Caderousse ganh ghét sự thành công của anh. Chính vì lẽ đó, những con người ti tiện, dơ bẩn nhất trên thế giới này đã ngồi chung bàn rượu và vạch ra cái kế hoạch bỏ tù Dantes đầy tinh vi. Đương nhiên, không thể bỏ qua sự góp tay của quan chưởng lý De Villefort – nhân danh là tay sai của pháp lý – đã tống chàng thanh niên trẻ tuổi này vào tù với một tội danh không có thật. Càng nghiệt ngã hơn khi chính bản thân Dantes cũng không biết lý do tại sao mình bị bỏ tù. Đây chính sự thật đầy khắc nghiệt của cuộc đời, sóng gió luôn ập tới lúc những phút giây hạnh phúc nhất của đời người và bạn mãi mãi không biết được nguyên nhân từ đâu cho đến khi sóng đã yên biển đã lặng và mọi sự đã rồi. Trong ngục tối của nhà tù If, Dantes sống vật vờ đến khiếp đảm, tưởng chừng như sẽ chết dần chết mòn theo năm tháng. Nhưng ngay lúc này đây, như một phép màu diệu kỳ Dantes đã gặp được vị linh mục “điên điên dại dại” trong nhà tù tối mịt này. Sự xuất hiện của người linh mục già như một minh chứng cho chân lý hiển nhiên trong cuộc sống “thượng đế luôn có mắt”. Với đầu óc trí tuệ của mình, linh mục đã giải đáp cho những câu hỏi băn khoăn về tội danh của Dantes. Ông dạy Dantes cách sống, dạy anh những ngôn ngữ mới, vốn kiến thức đầy uyên bác và chỉ cho anh nơi giấu những kho báu quý giá,… tất cả những thứ ấy đã trở thành công cụ trả thù lợi hại của Dantes sau này. Hai “cha con” đã lên kế hoạch tẩu thoát đầy ngoạn mục và tinh vi, nhưng than ôi, ông trời có để mọi việc diễn ra hoàn hảo bao giờ khi “người cha” đã đến lúc gần đất xa trời. Đến đây độc giả lại một lần nữa chiêm ngưỡng sự tài hoa của tác giả Alexandre Dumas với cách vượt ngục hết sức vi diệu dựa trên hoàn cảnh đầy éo le. Lợi dụng cái chết của vị linh mục, Dantes đã thoát khỏi cảnh ngục tù sau 14 năm ròng rã bằng cách thay thế xác chết bị ném xuống biển cả bên lâu đài If. May mắn đã đến với anh chàng xấu số này khi anh tìm thấy kho báu trên đảo Monte Cristo và sở hữu toàn bộ gia tài có giá trị liên hoàn. Với câu chuyện này tác giả truyền đến cho chúng ta một thông điệp: hãy cứ hy vọng và đợi chờ vì biết đâu được điều gì tốt đẹp sẽ đến vào ngày mai. Câu chuyện đi vào kịch tích và hấp dẫn hơn khi Dantes trở về Pháp và phát hiện cha già chết vì đói và Mercedes đã cưới chồng, chính tên kẻ thù đã hãm hại anh. Với lòng hận thù, anh chàng bắt đầu kế hoạch trả thù đầy tinh vi của mình với những thân phận giả đầy bí hiểm. Bước chân vào giới thượng lưu, dấn thân vào cuộc sống của họ, quen biết với những đứa con của họ và cái tên bá tước Monte Cristo trở nên bí hiểm hơn bao giờ hết. Nhưng cũng trong những chương truyện này, độc giả bất chợt nhận ra sự đối lập trong tính cách và con người anh: một Edmond Dantes thiện lương ôn nhu với người thân của mình và một Monte Cristo tàn nhẫn với kẻ thù của mình. Cả Danglars, Villefort, Fernand, Caderousse, Mercedes,… ai cũng đều giấu cho riêng mình những bí mật sâu kín nhất. Anh từng bước hạ gục từng người, vạch trần bộ mặt dối trá của họ khiến cả thế giới đều khiếp sợ. Sự tàn nhẫn của anh lộ rõ ngay từ lúc lên kế hoạch và đẩy lên đỉnh điểm cho đến khi anh đánh chủ ý lên những đứa con ngây thơ của kẻ thù. Nhưng than ôi, những đứa trẻ này có tội tình gì? Nếu ví như mỗi sự vật đều có một dải ngân hà riêng của nó và cuốn sách cũng vậy, thì những đứa trẻ chính là ngôi sao sáng nhất trong dải ngân hà này. Cha chúng đê tiện và xấu xa bao nhiêu thì bọn trẻ lại thánh thiện, chân thành bấy nhiêu. Hai mặt đối lập này đã góp phần đẩy kịch tích trong truyện lên cao nhất và thức tỉnh phần “người” đang ngủ yên của Monte Cristo. Sự trả thù của bá tước Monte Cristo khiến cả thế giới kêu la vì sự mức độ tàn nhẫn nhưng cũng khiến người đọc chợt nhận ra một sự thật hiển nhiên tồn tại bao đời nay. Thông thường đại bộ phận mọi người sẽ trực tiếp trừng trị chính kẻ ác nhân gây ra tội ác nhưng tác giả lại chọn cho vị bá tước này một con đường gián tiếp giáng tội lên những thân người xung quanh. “Tội của những người cha còn rơi lên đầu con cái đến tận ba bốn đời.”. Chúng ta đã từng là những đứa con, là những người bạn, người thân và rồi sẽ là cha là mẹ, thế nên hơn ai hết chúng ta sẽ hiểu được cảm giác nhìn những người thân nhất gánh cái hậu quả do mình làm ra. Hay nói một cách trực ngôn hơn là việc vốn do bản thân mình làm nhưng quả báo lại giáng lên những người thân của mình. Ôi cái cảm giác ấy hẳn nó kinh khủng lắm mấy bạn ơi! Vì thế bạn ơi, đừng nói chuyện không suy nghĩ, đừng hành động vội vã và đừng sống một cách tùy tiện. Như hàng ngàn cuốn sách văn học cổ điển khác, Bá tước Monte Cristo khép lại với những câu hỏi tự vấn của độc giả. Liệu sự trả thù có khiến bản thân mình cảm thấy hạnh phúc hơn? Liệu chúng ta có thống khoái khi từng người ngã xuống? Không, không hề có một chút an yên và thoải mái, tâm hồn Dantes bị bủa vây giữa những gì chàng muốn làm và phải làm. Anh chàng bị lún sâu vào hận thù đến nỗi không nhận ra tình yêu vừa chớm nở ngay cạnh bên. Tại sao sau ngần ấy đau khổ, anh chàng không tìm cho mình một cuộc sống hạnh phúc hơn mà lại đi vào con đường hận thù đầy cô đơn? Có lẽ là dụng ý của tác giả mà cũng có lẽ đó chính là hành vi cư xử đúng “con người” nhất trong Edmond và trong mỗi chúng ta. Liệu có mấy ai dửng dưng nhìn bọn kẻ thù nhởn nhơ khi đã gây ra từng ấy chuyện với mình?. “Trên đời này không có hạnh phúc mà cũng chẳng có bất hạnh, chỉ là sự chuyển biến từ trạng thái này qua trạng thái khác. Chỉ có những người nào đã trải qua cảnh khổ cực mới hưởng thụ được cảnh sung sướng. Chỉ có kẻ nào sắp chết mới biết cuộc sống là thiên đường.”. Thông qua cuốn sách chúng ta cũng nhận được những thông điệp đầy giá trị về cuộc sống và cuộc đời. Nếu cuộc sống đẹp đẽ và đầy mơ mộng thì cuộc đời lại khắc nghiệt và sóng gió. Nhưng hãy tin rằng nếu thượng đế lấy đi của bạn một thứ gì thì ngài sẽ trả lại cho bạn một thứ khác tốt đẹp hơn thế. Và rằng nhân quả luôn tồn tại ẩn mình trong hàng vạn biến đổi nhân sinh. Có lẽ nhân quả mãi dạo chơi đến muộn nên nhiều người nghĩ là nhân quả không đến ư? Không đâu, nó vẫn đến và đến ngay lúc bạn đang trên cái đỉnh cao hạnh phúc ấy chứ. Bạn thấy đấy, Danglars, Villefort, Fernand, có ai mà không phải ngã xuống trong giàu sang sung sướng? Ngay cả khi họ đã ở tuổi tứ tuần, con trai con gái đến tuổi cập kê, thì báo ứng vẫn đến và giáng một đòn đau đớn hủy hoại tất cả. Và vị bá tước huyền bí Monte Cristo kia chỉ là người nhân danh Chúa trời mà thôi. Thế nên, thay vì cố chấp với những việc mình phải làm, tại sao mình không sống với những gì đã xảy ra. Điều đó sẽ khiến bản thân mình thấy hạnh phúc hơn và trân trọng những khoảnh khắc nhỏ bé trong cuộc sống. Việc sống trọn vẹn từng khoảnh khắc sẽ khiến bản thân cảm thấy tốt hơn là sống cho những thứ phù phiếm bên ngoài. Cuốn sách “Bá Tước Monte Cristo” không dạy bạn cách sống nhưng cho bạn những cái nhìn mới về cuộc sống. Hy vọng rằng những thông điệp này hữu ích với bạn và phần nào giúp bạn tìm được cách sống phù hợp với bản thân nhất. – Idol đời đầu của tớ là DBSK, và BTS là điểm kết đầy trọn vẹn của tuổi xuân tớ. – Thích nghe nhạc, xem phim, viết lách và bị ấn tượng bởi những ca từ, lời thoại của nó.
Bá tước Monte Cristo
Bá tước Monte Cristo (tiếng Pháp: Le Comte de Monte Cristo) là một tiểu thuyết phiêu lưu của Alexandre Dumas cha. Cùng với một tác phẩm khác của ông là Ba người lính ngự lâm, tác phẩm thường được xem là tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Dumas. Cuốn sách này đã được viết xong năm 1844. Giống như nhiều tiểu thuyết khác của ông, tiểu thuyết này đã được mở rộng từ cốt truyện do người giúp việc cho nhà văn Auguste Maquet cộng tác. Câu chuyện xảy ra tại Pháp, Ý, các đảo trong Địa Trung Hải và Levant trong thời kỳ các sự kiện lịch sử trong năm 1815–1838 (ngay trước sự kiện Một trăm ngày dưới sự cai trị của Louis-Philippe của Pháp). Sự sắp đặt lịch sử là yếu tố cơ bản của cuốn sách. Câu chuyện chủ yếu liên quan đến các chủ đề công lý, sự báo thù, lòng từ bi, và lòng khoan dung, và được kể theo phong cách một câu chuyện phiêu lưu. Dumas lấy ý tưởng cho cuốn Bá tước Monte Cristo từ một câu chuyện thật mà ông tìm thấy trong một quyển hồi ký của một người đàn ông có tên Jacques Peuchet.
Cuộc sống cơ cực của những người muốn rời TP.HCM, ‘tụi em chỉ gồng được 1-2 tháng thôi’. Có câu nói rằng: “Chia ba thiên hạ Gia Cát Lượng, thống nhất sơn hà Lưu Bá Ôn”. Trong dòng sông dài lịch sử, trước có Gia Cát Lượng, sau có Lưu Bá Ôn, hai nhân vật truyền kỳ này không chỉ thần cơ diệu toán mà còn thành tựu công danh, làm nên những kỳ tích lưu truyền hậu thế. Người đời gọi Lưu Bá Ôn là thần đồng, sách chỉ xem qua một lần là nhớ, 12 tuổi thi đậu tú tài, 23 tuổi đỗ tiến sĩ, chỉ tiếc ông sinh không hợp thời. Ông làm tiến sĩ triều Nguyên đúng vào lúc triều đình sức cùng lực kiệt, tài năng của Lưu Bá Ôn không cách nào phát huy. Sau ba lần vào ra chốn quan trường, Lưu Bá Ôn cuối cùng đã chọn quy ẩn vào núi sâu. Sau này anh hùng bốn phía nổi lên, Chu Nguyên Chương đánh hạ Nam Kinh đã tìm kiếm nhân tài khắp nơi. Nghe nói đến đại danh của Lưu Bá Ôn, Chu Nguyên Chương lập tức tái hiện điển cố “Tam cố mao lư” (ba lần thăm lều cỏ). Từ đó Lưu Bá Ôn xuống núi trở thành mưu sĩ của Chu Nguyên Chương. Sau đó, Lưu Bá Ôn phụ tá Chu Nguyên Chương dẹp loạn thành công. Năm 1368, Chu Nguyên Chương phong thưởng cho những khai quốc công thần ở Nam Kinh, Lý Thiện Trường được làm đệ nhất Công tước, còn Lưu Bá Ôn chỉ được phong làm đệ tam Bá tước (5 tước vị thời xưa gồm: Công, Hầu, Bá, Tử, Nam), địa vị cách xa khiến người ta ấm ức. Chu Nguyên Chương sở dĩ làm thế là bởi lý do rất đơn giản: ông không yên tâm về Lưu Bá Ôn. Nếu nói phần thưởng vua ban là “bèo bọt”, thế thì món quà của Mã hoàng hậu dành cho ông lại có thể nói là “sâu nặng”. Mã hoàng hậu đã ban thưởng cho Lưu Bá Ôn ba thứ trái: 2 quả táo và 1 quả lê. Lưu Bá Ôn nhận được trái cây, ông vô cùng kinh ngạc và sau đó nhanh chóng hiểu ra ý tứ của Mã hoàng hậu. Ông lập tức dặn dò người nhà thu dọn đồ đạc, sáng sớm hôm sau vào cung điện diện kiến Chu Nguyên Chương. Ông nói mình tuổi tác đã cao nên xin được cáo lão về quê. Vua nghe xong ba lần mời ông ở lại, nhưng ông nhất mực chối từ. Nhờ sự giúp đỡ của Mã hoàng hậu, cuối cùng Lưu Bá Ôn cũng về đến quê nhà ở Thanh Điền (Chiết Giang). Vậy món quà của Mã hoàng hậu có ngụ ý gì? Trong tiếng Hán, chữ “Táo” (棗) đọc là ‘zǎo’ cùng âm với chữ “Tảo” (早), nghĩa là sớm. Còn chữ “Lê” (梨) đọc là ‘lí’ cùng âm với chữ “Ly” (離), nghĩa là rời khỏi. Hai quả táo và một quả lê, tức là “棗棗梨” (zǎo zǎo lí), cùng âm với ‘tảo tảo ly”, ngụ ý là “rời khỏi sớm”, ý tứ là ngài nên rời khỏi chốn quan trường sớm một chút, đó mới là thượng sách. Người thông minh như Lưu Bá Ôn lập tức hiểu được ngụ ý trong đó, cho nên lựa chọn rời khỏi triều đình. Ông vốn tưởng rằng sau đó có thể ở quê an hưởng tuổi già, nhưng Chu Nguyên Chương vẫn không yên tâm, ngày ngày đều ban tặng lễ vật nhằm bức bách Lưu Bá Ôn trở lại triều đình. Lưu Bá Ôn biết bản thân không thể quay về quê cũ, trong lòng sầu muộn, bệnh tình càng trở nên nguy kịch. Hồ Duy Dung đã sai người mang thuốc đến cho Lưu Bá Ôn, gọi đó là “ngự dược”, tức là thuốc vua ban. Lưu Bá Ôn uống xong, biết rằng đại nạn sắp đến, liền để lại 16 chữ cho hai con trai là Lưu Liễn và Lưu Cảnh: “Không được làm địch với Hồ Duy Dung, không được đi quá gần với Chu Lệ”. Vài ngày sau, Lưu Bá Ôn ôm hận mà tạ thế. 16 chữ di ngôn của Lưu Bá Ôn sau này đã ứng nghiệm, chỉ tiếc là Lưu Liễn và Lưu Cảnh không nghe theo. Kết quả, Lưu Liễn “làm địch với Hồ Duy Dung” nên bị Hồ Duy Dung giăng cạm bẫy mà chết. Còn Lưu Cảnh lại “đi quá gần với Chu Lệ”. Song sau khi Chu Lệ soán ngôi và trở thành hoàng đế, con người chính trực như Lưu Cảnh không những từ chối làm quan mà còn từ chối gọi “Hoàng đế”, chỉ gọi là “Điện hạ”. Kết quả Lưu Cảnh bị Chu Lệ nghi kỵ rồi tống vào ngục, cuối cùng bị bức phải tự sát. Hai con trai của Lưu Bá Ôn vì không nghe di ngôn của cha mà dẫn đến hoạ diệt thân, kết cục còn bi ai hơn cả cha mình. Lại nói, không lâu sau khi Lưu Bá Ôn qua đời, có lời gièm pha nói rằng ông đã tìm đến nơi phong thuỷ tốt của thiên tử để xây lăng mộ. Chu Nguyên Chương biết được lập tức lệnh cho khâm sai phái người đào phần mộ của Lưu Bá Ôn. Khi đào đến mộ phần, người ta thấy một điều kỳ lạ: trong quan tài không có người, chỉ có một quyển sách. Những người hiếu kỳ mở sách ra xem thì sợ đến ngây người. Đây chính là một quyển luật của triều Minh, chương đầu tiên ghi 6 chữ: “Người mở quan xem xác, trảm!”. Thì ra Lưu Bá Ôn đã sớm dự tính được rằng Chu Nguyên Chương với rất nhiều nghi kỵ sẽ đào mộ phần, nên dùng cách “trộm xà đổi cột”: Lệnh cho con trai chôn thi hài của mình một cách lặng lẽ, còn phần mộ an táng theo cách “khua chiêng gióng trống” thì chỉ có một quyển luật Đại Minh. Sau khi khâm sai trình lên quyển luật Đại Minh, Chu Nguyên Chương xem xong mới thở dài: “Lưu Bá Ôn dự liệu như Thần, quả nhiên là nhân tài ngàn năm khó gặp!”. Thầy thuốc Nhân dân Trần Đình Chiến lý giải nguyên nhân vì sao tập khí công có thể khỏi bệnh. Hơn 1.400 công dân Đắk Lắk ở Đồng Nai muốn về quê, nhưng chỉ gần nửa ‘được về’
Lưu Bá Ôn
Lưu Bá Ôn (chữ Hán: 劉伯溫, 1310-1375), tên thật là Lưu Cơ (劉基), tên tự là Bá Ôn (伯溫), thụy hiệu Văn Thành (文成); là nhà văn, nhà thơ và là công thần khai quốc nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong những nhân vật có nhiều huyền thoại, là người đã đề cao tư tưởng "Quan bức, dân phản", đồng thời là tác giả tản văn "Mại cam giả ngôn" nổi tiếng nhằm đả kích giới "thống trị thối nát". Lưu Bá Ôn là người huyện Thanh Điền (nay là huyện Văn Thành), tỉnh Chiết Giang. Ông sinh ra trong một gia đình Nho học từng có truyền thống chiến đấu dũng cảm chống lại quân xâm lược Nguyên Mông trước đây. Nhờ siêng học, đam mê đọc sách, ông sớm làu thông kinh sử, văn chương, binh pháp và thiên văn. Đương thời có câu khen ông là: Thông binh pháp ai hơn Tôn Võ - Giỏi thiên văn phải kể Lưu Cơ. Lưu Bá Ôn đã là một thiếu niên đắc chí, nên tha thiết muốn tận trung góp sức với triều đình nhà Nguyên, để làm nên những sự nghiệp oanh liệt. Năm Nguyên Thống thứ nhất đời Nguyên Thuận Đế (1333), ông thi đỗ Tiến sĩ, được bổ nhiệm làm quan.
Tối 28/8: Thêm 12.103 ca COVID-19; Miền Trung báo động bùng COVID-19 từ người hoàn thành cách ly. Hạt giống vàng (P.4): Những thanh niên Đài Loan đầu tiên tìm được Đại Pháp từ Internet. Bản giao hưởng số 9 được xem là một trong những kiệt tác của Beethoven, được soạn khi ông điếc hoàn toàn. Bản giao hưởng này là tác phẩm được biết đến nhiều nhất trong tất cả các tác phẩm của âm nhạc cổ điển châu Âu và đóng một vai trò văn hóa nổi bật trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, âm nhạc trong chương thứ tư (bỏ phần lời) được dùng làm bài ca chính thức của Liên Minh châu Âu. Bản giao hưởng số 9 cung rê thứ, opus 125 là tác phẩm giao hưởng trọn vẹn cuối cùng do Ludwig van Beethoven biên soạn. Hoàn thành vào năm 1824, nó sử dụng một phần nội dung của bài thơ ode An die Freude (“Ode hoan ca”) của Friedrich Schiller làm lời ca cho những người đơn ca và đồng ca thể hiện trong chương cuối. Đây là thử nghiệm đầu tiên mà nhà soạn nhạc vĩ đại sử dụng giọng hát con người ở cùng cấp độ với các nhạc cụ trong một bản giao hưởng. Bản giao hưởng này có lẽ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất trong tất cả các tác phẩm của âm nhạc cổ điển châu Âu, và được xem là một trong những kiệt tác của Beethoven, được soạn khi ông điếc hoàn toàn. Có thể nói nó đóng một vai trò văn hóa nổi bật trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, âm nhạc trong chương thứ tư (bỏ phần lời) được dùng làm bài ca chính thức của Liên Minh châu Âu. Hiệp hội London (The Society of London – sau này là Royal Philharmonic Society) đặt hàng bản giao hưởng vào năm 1817. Beethoven bắt đầu làm việc với bản giao hưởng cuối cùng vào năm 1818 và kết thúc vào đầu năm 1824. Khoảng 10 năm sau bản giao hưởng số 8. Tuy nhiên, Beethoven bắt đầu sáng tác tác phẩm này sớm hơn. Ông đã muốn đặt An die Freude vào nhạc rất sớm từ năm 1793. Ông đã làm điều đó, nhưng thật không may tác phẩm này bị mất vĩnh viễn. Từ chủ đề cho chương scherzo có thể lần ngược về bản fugue được viết vào năm 1815. Đoạn mở đầu cho phần thanh nhạc của bản giao hưởng gây ra rất nhiều khó khăn cho Beethoven. Bạn ông, Anton Schindler, sau này kể lại: “Khi anh ấy bắt đầu sáng tác chương 4, sự nỗ lực bắt đầu như chưa bao giờ có. Mục đích là tìm ra cách đi vào phần mở đầu của đoạn tụng ca của Schiller. Một hôm Beethoven nhảy vào phòng và la lớn “Tôi tìm ra rồi, tìm ra rồi” Sau đó anh ấy cho tôi xem phác thảo của những từ “cho chúng tôi hát bản tụng ca của Schiller bất tử”. Tuy nhiên, đoạn mở đầu đó đã không có trong sản phẩm cuối cùng, và Beethoven đã trải qua rất nhiều thời gian viết lại phần đó cho đến khi nó thành hình dáng như chúng ta thấy ngày hôm nay. Giao hưởng số 9 của Beethoven thuộc vào số ít tác phẩm của nền nghệ thuật thế giới, như những đỉnh núi cao nhất, trội hơn tất cả những gì mà những thiên tài nghệ thuật của nhân loại tạo nên. Cũng như những bài thơ của Homerk “Thần khúc” (Divina commedia) của Dante, tranh “Đức mẹ” của Raphael, “Faust” của Goethe hoặc khúc Messe (Die hohe Messe) của Bach, giao hưởng số 9, là con đẻ của thời đại của mình, đồng thời là sự thể hiện những lý tưởng và hoài bão của loài người. Nhạc sĩ hoàn thành bản giao hưởng vào cuối đời nhưng đã nghiền ngẫm trong suốt cuộc đời mình. Hồi còn trẻ, say sưa với những tư tưởng của cuộc cách mạng Pháp, Beethoven tìm tòi thể hiện âm nhạc bài thơ ca ngợi (Ode) “Hướng tới niềm vui” (Ode to Joy) của Schiller, mà ông đã lấy lời thơ ấy viết màn hợp xướng chương cuối của giao hưởng số 9. Những tư tưởng về tình hữu ái nhân loại, về tự do được đưa vào giao hưởng đã thôi thúc ông mãi trên suốt cả con đường sáng tác. Không phải ngẫu nhiên mà chủ đề âm nhạc của chương cuối nảy sinh trước khi có bản giao hưởng, và có thể tìm thấy trong các tác phẩm khác của Beethoven không ít những hình ảnh tương tự với chủ đề ấy. Nói một cách khác, giao hưởng số 9 – là sự tổng kết những tìm tòi tư tưởng nghệ thuật của nhạc sĩ. Bản giao hưởng được xây dựng trong thời gian mà thời kỳ cách mạng Pháp đã đi vào dĩ vãng, và thế lực phản động đang ngự trị ở châu Âu. Những hy vọng đã đổi thành thất vọng. Trong nghệ thuật đã nảy sinh một trào lưu mới – chủ nghĩa lãng mạn, thể hiện những tâm trạng mới. Công trạng của người nghệ sĩ ca ngợi Trí tuệ, Tự do, Niềm tin trong thời kỳ đen tối ấy càng có ý nghĩa lớn. Giao hưởng số 9 – một bản tuyên ngôn âm nhạc của thế kỷ 19. Giao hưởng số 9 – tác phẩm cải cách sâu sắc. Lần đầu tiên lời hát được đưa vào giao hưởng. Thủ pháp táo bạo ấy rất cần thiết đối với Beethoven. Sự phát triển của tư tưởng của bản giao hưởng đã gợi ý việc đưa lời hát vào như tiếng nói của nhân loại, tính cụ thể của lời ca cần cho việc diễn đạt kết luận tư tưởng chủ yếu của quan điểm triết học to lớn. Nhưng cái đó không hạn chế cái mới của Beethoven. Ông đổi vị trí của Scherzo và Adagio, viết những đoạn ngoài cùng của chương Scherzo theo hình hình thức sonata allegro. Thiên tài Beethoven đã đạt đến độ trưởng thành tột bực trong giao hưởng số 9. Bản giao hưởng gây xúc động mạnh bởi tính bi kịch của những nỗi đau khổ của nhân loại, cuộc đấu tranh tư tưởng lớn lao, tư tưởng cao cả, nguồn cảm hứng của chủ nghĩa nhân văn tổng kết con đường sáng tác của Beethoven – nhà soạn nhạc giao hưởng. Bản giao hưởng số 9 mở ra những triển vọng mới đối với nền nghệ thuật âm nhạc của những thế hệ tiếp theo. Bản giao hưởng số 9 của Beethoven có lẽ là tác phẩm được nhiều người biết đến, một số người coi nó là một bản thánh ca về cuộc sống con người. Do vậy không có gì ngạc nhiên khi nó được chuyển thể và sử dụng vào trong nhiều loại hình văn hóa đại chúng, như điện ảnh, truyền hình, âm nhạc. Dưới đây là một vài tác phẩm có liên quan. Năm 1964, Maurice Béjart sáng tác vở ballet Ballet du XXe siècle dựa trên bản “Giao hưởng số 9”, và được nhiệt liệt tán thưởng. Tại hầu hết các Thế Vận Hội từ nửa sau thế kỷ 20, chương bốn được trình diễn như một phần của các lễ nghi thức. Bản Giao Hưởng số 9 đã được các phi hành gia của phi hành đoàn Apollo 11 đem lên để tại Mặt trăng năm 1969 như một thông điệp thân ái của con người đến các nền văn minh ngoài hành tinh. Trong màn sương tối lờ mờ, bất định, hiện ra phần mở đầu của bản giao hưởng. Hồi hộp, đầy bí ẩn của đợi chờ, tiếng vê (tremolo) chập chờn mờ ảo của violin, trên nền tremolo ấy thấp thoáng những bóng lờ mờ các motiv, nhạc sĩ đang lần dò những tuyến mạch của chủ đề chính sau này, nó đã hình thành, và sau một sự chuẩn bị lâu dài, bằng sự nỗ lực hùng mạnh của dàn nhạc, cuối cùng, khẳng định chủ đề chính. Xuất hiện hình tượng thuyết nguồn gốc vũ trụ, dường như từ bóng tối của vô biên vũ trụ xuất hiện và tuyên bố về mình một cách uy quyền, mệnh lệnh: “Tôi đang có ở đây”. Nhưng vũ trụ sinh ra xù xì, đầy rẫy những mâu thuẫn sôi sục, nảy sinh không khí đấu tranh, xung đột. Sự phát triển sôi động đó dẫn đến chủ đề phụ – phản đề trữ tình đối với chủ đề một, âm nhạc mang màu sắc trưởng, xuất hiện cao trào anh hùng ca – những tia sáng đầu tiên của thắng lợi. Và bỗng nhiên trở lại một sự yên lặng hung dữ, những tiếng kèn hiệu nghiêm trọng thông báo trận chiến đấu bắt đầu, gợi lại trong ký ức những hình tượng người khổng lồ một mắt trong sử thi anh hùng cổ đại. Ngôn ngữ của bản giao hưởng bị mất tính chất tạo hình, nhưng thay vào đó là áp lực kịch tính và thoái trào kiệt sức, trong âm thanh rùng rợn của chủ đề chính, trong tính nhất quán, nhằm một mục tiêu nhất định của sự phát triển âm nhạc, đã thể hiện được hình tượng uy nghi, hùng tráng của hành động, của cuộc chiến đấu. Giai đoạn tột cùng của cuộc chiến đấu trùng hợp với sự bắt đầu phần nhắc lại (Reprise). Từ lúc ấy sự hoạt động đưa đến không thương xót sự kết thúc bi thảm trong đoạn đuôi (Coda). Âm nhạc có sắc thái tang lễ trọng thể. Tuy vậy “ý kiến tối hậu” không thể bác bỏ được vẫn thuộc về chủ đề chính quyền uy và hùng dũng.). Phá bỏ lối viết cũ, Beethoven để khúc Scherzo ngay sau chương I. Nó xóa bỏ yếu tố bi thảm lúc đầu – Scherzo – cảnh huy hoàng có khí thế và hiệu lực, nó lao nhanh dồn dập như một trận bão lửa, tạo nên ấn tượng lúc thì mang tính chất anh hùng ca, lúc thì phóng túng, mơ mộng. Nhưng trong dòng âm thanh như đuổi theo nhau đó khuôn phép nghiêm ngặt về nhịp điệu vẫn khống chế. Những phần ngoài cùng được viết ở hình thức sonata allegro – một cải tiến mới mẻ nữa, tương phản với phần trio mang tính chất phong cảnh phong tục, với nhiều màu sắc tươi sáng của đồng quê. Thể hiện lý tưởng đạo đức, vẻ đẹp và tính chất hùng vĩ của âm nhạc đầy cảm hứng bởi ý tưởng cao cả về đạo đức và hoàn thiện, sứ mệnh và nghĩa vụ của con người. Tính chất minh bạch sáng sủa, sự hài hòa của lý trí và tình cảm bao trùm niềm suy tư triết lý tỉnh táo ấy. Dòng nhạc thong thả, đầy đặn, sự luân chuyển và bổ sung lẫn nhau của hai chủ đề và các biến tấu của chúng rất chặt chẽ và hợp lý, hơi thở của giai điệu vô cùng rộng rãi. Điệu trưởng chiếm ưu thế hầu như khắp nơi trong nền tảng dàn nhạc đầy chất giai điệu tươi sáng, chỉ có hai lần bị phá vỡ do sự xâm nhập của chủ đề chính của chương I – như muốn nhắc rằng đạt được sự rõ ràng và cân đối ấy phải trả bằng một giá đắt.). Chương cuối với phần đầu tràn lên dữ dội, khôi phục cái lạc điệu tưởng như đã được khắc phục. Nhưng điều đó chỉ là sự cố gắng để quay về. Tuy vậy, sự trở về đã không thể có được logic phát triển của “những sự kiện” nhất quyết dẫn đến thắng lợi của niềm vui. Những chủ đề của những chương trước – những đoạn đường đã bị vượt qua – nối tiếp nhau đi, nhưng chủ đề nào cũng bị bè cello “cự tuyệt” bằng cách nói cương quyết: không một chủ đề nào có thể nói là chủ đề của chương cuối. Cần phải tìm cái nào đó có phẩm chất mới, hơn hẳn tất cả những gì đã có từ trước đến nay và có thể nói lên kết quả phát triển tư tưởng âm nhạc của bản giao hưởng. Một khoảnh khắc yên lặng trong dàn nhạc. Và cuối cùng chủ đề mới ấy xuất hiện, chủ đề Niềm Vui. Chính nhờ tính chất mộc mạc mà nó được xem như một sự phát triển rõ ràng. Đầu tiên là cello và contrebass diễn tấu chủ đề ấy, sau đó từng nhóm nhạc cụ khác và cuối cùng, cả dàn nhạc. Đó là niềm vui đã vượt qua đau khổ, chiến thắng cái ác, là thành quả của sự hài hòa cân đối cao độ của nội tâm và sự thoải mái về tinh thần của con người.
Giao hưởng số 9 (Beethoven)
Bản giao hưởng số 9 cung rê thứ, opus 125 là tác phẩm giao hưởng trọn vẹn cuối cùng do Ludwig van Beethoven biên soạn. Hoàn thành vào năm 1824, nó sử dụng một phần nội dung của bài ode An die Freude ("Ode hoan ca") của Friedrich Schiller làm lời ca cho những người đơn ca và đồng ca thể hiện trong chương cuối. Đây là thử nghiệm đầu tiên mà nhà soạn nhạc vĩ đại sử dụng giọng hát con người ở cùng cấp độ với các nhạc cụ trong một bản giao hưởng. Bản giao hưởng này có lẽ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất trong tất cả các tác phẩm của âm nhạc cổ điển châu Âu, và được xem là một trong những kiệt tác của Beethoven, được soạn khi ông điếc hoàn toàn. Có thể nói nó đóng một vai trò văn hóa nổi bật trong xã hội hiện đại. Đặc biệt, âm nhạc trong chương thứ tư (bỏ phần lời) được dùng làm bài ca chính thức của Liên Minh châu Âu (xem Ode hoan ca). Hiệp hội London (The Society of London - sau này là Royal Philharmonic Society) đặt hàng bản giao hưởng vào năm 1817.
Trong kinh tế học có lẽ không ai là còn xa lạ với từ vĩ mô là gì. Một cụm từ chỉ sự rộng lớn của lĩnh vực kinh tế mà nhiều người quan tâm. Song thực ự câu hỏi còn rất nhiều phân vân đó là vĩ mô có ý nghĩa gì? Kinh tế vĩ mô khác gì với kinh tế vi mô. Trong bài viết này Tuyduyinvest.vn sẽ giúp bạn làm rõ các khái niệm này. Theo Từ điển tiếng Việt thì Vĩ mô là một cụm từ thể hiện tầm rộng lớn hay rất lớn. Tuỳ vào từng hoàn cảnh sử dụng mà nó đóng vai trò là danh từ hay tính từ. Trong đó danh từ được hiểu là quy mô lớn nhất, còn tính từ thì chỉ phạm vi hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Trái với vĩ mô là vi mô. Theo danh từ thì vi mô chỉ đối tượng có quy mô nhỏ trong hệ thống, là cấp thấp nhất. Theo tính từ thì nó thuộc cấp đơn vị kinh tế cơ sở. Có sự phân biệt hoàn toàn với vi mô. Trong kinh tế học thì vĩ mô và vi mô có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Kinh tế vĩ mô chuyên nghiên cứu về nền kinh tế trong tổng thể của nền kinh tế. Bao gồm cấu trúc, đặc điểm và hành vi của cả nền kinh tế nói chung. Kinh tế vĩ mô trong tiếng Anh là gì. Dựa trên khái niệm phân tích về đề kinh tế tổng thể thì nó mở rộng cùng với sự phát triển của xã hội và nhận thức của con người. Trong xã hội thì kinh tế là lĩnh vực tạo ra giá trị đồng thời với sự tác động của con người vào thiên nhiên. Mục đích là làm thỏa mãn nhu cầu cần thiết của con người. Còn khái niệm kinh tế vi mô, tiếng anh là microeconomics chỉ tập trung nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng doanh nghiệp. Đồng thời xác định giá và lược của các nhân tố và sản phẩm trên thị trường. Con người sẽ nghiên cứu cách thức phân bổ nguồn lực kinh tế để sử dụng với mục đích khác nhau. Vĩ mô và vi mô là 2 cụm từ trái nghĩa nhau. Nhưng không phải vì thế mà kinh tế vĩ mô và kinh tế vi mô lại khác nhau hoàn toàn. Nó có điểm giống nhau về mặt kinh tế thì là bộ phận cấu thành đều cần bổ sung cho nhau, không thể tách rời. Trong quản lý kinh tế nếu chỉ giải quyết vi mô, chỉ quản lý kinh doanh mà không có sự điều chỉnh về kinh tế vi mô, nằm trong tầm quản lý kinh tế nhà nước thì nền kinh tế chung sẽ bất ổn. Hậu quả là nền kinh tế của quốc gia không thể phát triển được. Mục tiêu nghiên cứu: bao gồm nghiên cứu về cung cầu, giá của của hàng hoá, dịch vụ, mức tiêu thụ, phúc lợi kinh tế…Nó sẽ phân tích thất bại của thị trường bắt nguồn từ đâu cũng như điều kiện cần có để cạnh tranh hoàn hảo. Phạm vi nghiên cứu: trong lý luận cơ bản kinh tế học như cung, cầu, giá cả, thị trường. Các lý thuyết về hành vi tiêu dùng, hành vi sản xuất, cấu trúc thị trường, Lao động, vốn, tài nguyên…. Vai trò: Kinh tế vi mô có vai trò xác định giá của một sản phẩm cùng giá của các yếu tố sản xuất. Mục tiêu nghiên cứu: Toàn bộ vấn đề thu nhập quốc gia, mức giá chung, phân phối việc làm, tiền tệ…Nó có sự liên kết giữa chính phủ với các tập đoàn lớn để giúp họ phát triển và đánh giá chính sách kinh tế các chiến lược quản trị hiệu quả. Vai trò: Nhằm duy trì ổn định giá chung và giải quyết các vấn đề kinh tế nổi cộm như lạm phát, giảm phát, thất nghiệp, đói nghèo. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng mô hình hoá. Mỗi mục tiêu nghiên cứu thì kinh tế vĩ mô sẽ mô tả bằng một mô hình riêng cùng các giả thiết tương đồng với mô hình đó. Môi phương pháp phân tích, nghiên cứu về kinh tế đều không thể có sự hoàn hảo hoàn toàn. Nó vẫn còn tồn tại về hạn chế khó tránh khỏi. Ví dụ trong kinh tế vĩ mô khi phân tích bằng sự sai sót của các thành phần liên quan. Nó sẽ không chứng minh được toàn bộ sự thật vì với một tổng thể thì đúng còn với một cá nhân thì không. Trong khi tìm hiểu về vĩ mô là gì thì có rất nhiều các khái niệm liên quan. Nếu bạn nghiên cứu các khái niệm này để đảm bảo có sự phân tích, dự báo kinh tế vĩ mô là gì chính xác nhất. GDP là chỉ số quan trọng nhất trong khi tìm hiểu về từ vĩ mô là gì. Nó là thước đo tổng sản lượng và tổng thu nhập của quốc gia. Chỉ số thu nhập được tính trong giai đoạn nhất định. Chỉ số GDP tốt sẽ phản ánh thước đo chính sách của nền kinh tế và dự báo về các khoản phúc lợi an sinh xã hội được đầu tư. Ngoài ra, các tính GDP còn dựa vào phương pháp thu nhập và phương pháp sản xuất. CPI là chỉ số giá tiêu dùng. Nó phản ánh một cách tương đối về hướng, mức độ biến động của các mặt hàng bán lẻ. Đồng thời là tác động của chúng tới sinh hoạt của các gia đình hiện nay. Chỉ số này tăng thì giá trung bình trên thị trường tăng và ngược lại. Đây là chỉ số phản ánh tỷ lệ trao đổi tiền tệ giữa các quốc gia đang hợp tác với nhau. Tỷ giá hối đoái sẽ được tính toán, quyết định bởi nguồn Cung và Cầu ngoại tệ:. Nguồn cầu: Là lượng tiền ngoại tệ mà thị trường muốn mua vào thông qua việc sử dụng tiền nội tệ. Trong sự phân tích của kinh tế vĩ mô thì nguồn cung lớn cầu thì giá trị đồng ngoại tệ giảm và tỷ giá hối đoái tăng. Nếu nguồn cung nhỏ hơn cầu thì giá trị đồng ngoại tệ tăng và tỷ giá hối đoái giảm. Lợi suất trái phiếu được tính bằng tiền của nhà đầu tư đang sở hữu cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nguyên tắc chung thì các chỉ số, điều kiện môi trường thay đổi có thể ảnh hưởng đến tầm quan trọng của nền kinh tế vĩ mô. Một ví dụ thực tế của nền khủng hoảng ở Mỹ vào năm 2007. Nó sụp đổ trong lĩnh vực bất động sản mà các nhà phân tích tập trung vào các chỉ số liên quan đến thị trường này. Nghiên cứu nguyên nhân và hậu quả đối với biến động ngắn của thu nhập quốc gia. Nghiên cứu yếu tố quyết định cho sự phát triển bền vững của kinh tế. Vĩ mô là gì bắt nguồn từ những học thuyết trong kinh tế chính trị. Các nhà nghiên cứu kinh tế học vĩ mô phát triển mô hình để giải quyết các trong nền kinh tế của quốc gia như Thu nhập, Sản lượng, tiêu dùng hay thất nghiệp, lạm phát…Hiểu rõ được nó sẽ được ra được các chiến lược cụ thể và chính xác nhất. CFDs vs CỔ PHIẾU CHỨNG KHOÁN: Trên sàn giao dịch CFDs bạn có thể thực hiện giao dịch trên ứng dụng hoặc website. Nếu giao dịch CFDs cổ phiếu chứng khoán thì bạn không sở hữu cổ phiếu chứng khoán đó, không chịu giới hạn trong giao dịch như cổ đông, và bạn có thực hiện giao dịch bất cứ lúc nào more. BÁN KHỐNG - SHORT SELLING: Khi mua cổ phiếu chứng khoán, thông thường nhà giao dịch chỉ đạt được lợi nhuận khi tỷ giá tăng. Để đạt lợi nhuận trong thời kỳ giá cổ phiếu giảm là rất khó, nếu như không kiến thức giao dịch chuyên môn, vì thị trường cổ phiếu biến động, giá cổ phiếu có thể thay đổi vài trăm lần và dẫn tới tài khoản giao dịch bị ‘cháy’. GIAO DỊCH TRONG NGÀY - DAY TRADING: Một trong những ưu điểm của giao dịch CFDs là tính linh hoạt cao, nhà giao dịch đặt lệnh mua bán hoặc đóng lệnh mà không chịu bất kỳ giới hạn về thời gian. Khác với CFDs, thời gian giao dịch và giữ vị trí của cổ phiếu truyền thống thường trong thời gian dài thậm chí lên đến vài tháng. Giữ vị trí giao dịch trong một thời dài sẽ làm rủi ro gia tăng do các chi phí phát sinh (phí qua đêm, phí hoa hồng .v.v) khi giữ lệnh more. Tuduyinvest được sáng lập bởi một đội ngũ trẻ tài năng trong khu vực Đông Nam Á, với những ý tưởng sáng tạo, tinh thần nhiệt huyết và chuyên môn trong lĩnh vực giao dịch tài chính phái sinh. Khát vọng của chúng tôi là đem đến thông tin chính xác, giá trị kiến thức hữu ích, hỗ trợ nhà giao dịch tài chính phái sinh trong quá trình đầu tư tài chính.
Kinh tế học vĩ mô
Kinh tế học vĩ mô hay là kinh tế tầm lớn (Macroeconomic) là một phân ngành của kinh tế học chuyên nghiên cứu về đặc điểm, cấu trúc và hành vi của cả một nền kinh tế nói chung. Kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô là hai lĩnh vực chung nhất của kinh tế học. Trong khi kinh tế học vi mô chủ yếu nghiên cứu về hành vi của các cá thể đơn lẻ, như công ty và cá nhân người tiêu dùng, kinh tế học vĩ mô lại nghiên cứu các chỉ tiêu cộng hưởng như GDP, tỉ lệ thất nghiệp, và các chỉ số giá cả để hiểu cách hoạt động của cả nền kinh tế. Nghiên cứu nguyên nhân và hậu quả của biến động ngắn đối với thu nhập quốc gia (còn gọi là chu kỳ kinh tế). Nghiên cứu những yếu tố quyết định cho tăng trưởng kinh tế bền vững. Kinh tế học vĩ mô bắt nguồn từ các học thuyết kinh tế chính trị. Nó kế thừa hệ thống tri thức của môn kinh tế chính trị. Kinh tế học vĩ mô hình thành từ những nỗ lực tách các quan điểm chính trị ra khỏi các vấn đề kinh tế.
Thượng Tọa là người xuất gia tu hành lớn tuổi có tác phong đạo đức đáng được mọi người trong và ngoài đạo Phật kính trọng. Theo Tứ Phần Luật, Tỳ kheo được phân chia làm 4 cấp theo tuổi hạ được tính, cứ mỗi năm ba tháng âm lịch từ ngày trăng tròn tháng 4 đến ngày trăng tròn tháng 7, cùng nhau tu tập tại một nơi nào đó để an tâm tu học, tinh chuyên giữ giới, sau ba tháng ấy, được kể là một hạ. Hạ Tọa (0 đến 9 hạ), Trung Tọa (10 đến 19 hạ), Thượng Tọa (20 đến 49 hạ) và Trưởng Lão (50 hạ trở lên). Hòa Thượng, tiếng Phạn là Upadhayaya, dịch nghĩa là sanh lực, tức là vị tu hành lâu năm có đời sống phẩm hạnh thanh tịnh và do đó khiến cho đạo lực của đệ tử được phát sinh. Theo kinh Phạm Võng, Hòa Thượng là một trong hai vị sư truyền giới trong hội đồng truyền giới Tỳ kheo Bồ Tát: Hòa Thượng (thầy đỡ đầu) và A Xà Lê (thầy giáo thọ). Ở Việt nam xưa kia, Hòa Thượng được dùng để gọi một vị sư trụ trì một ngôi chùa hoặc là do sự kính trọng những vị tu hành có tuổi cao, có cốt cách đạo hạnh. Ở Việt Nam, trước năm 1963, danh xưng thường gọi những người mới xuất gia, nếu nhỏ tuổi ở miền Bắc gọi là Chú Tiểu, miền Trung gọi là Chú Điệu, miền Nam gọi là Ông Đạo. Những vị đã thọ Tỳ Kheo Giới từ 20 tuổi đến 60 tuổi đời đều gọi là Thầy và nếu trên 60 tuổi đời gọi là Sư Ông hay Sư Cụ ở miền Bắc và gọi là Ôn ở miền Trung. Ngược lại các vị được gọi thì tự xưng mình là “bần tăng” hay “bần ni” mà không tự xưng mình là Thầỵ Ở miền Bắc còn có danh từ “sư bác” để gọi những vị lớn tuổi mới xuất gia, đã thọ sa di thay vì gọi là Thầy. Theo Hiến Chương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (trước năm 1975) qui định thì nhửng Tăng sĩ đã thọ giới Tỳ Kheo có tuổi đời từ 20 đến 40 tuổi là Đại Đức, từ 40 đến 60 tuổi đời là Thượng Tọa và từ 60 tuổi đời trở lên là Hòa Thượng. Hòa Thượng là các vị có 60 tuổi đời sắp lên, trong đó có 30 tuổi hạ, Tthượng toạ là những vị có 50 tuổi đời, trong đó có 20 tuổi hạ. Hai chức vị Thượng Tọa và Hòa Thượng phải qua một tiến trình đề cử và suy tôn của một đại hội toàn quốc hay do giáo lệnh của Đức Tăng Thống phê chuẩn. Thông thường muốn được đề cử Thượng Tọa các vị Đại đức đã thọ Tỳ Kheo giới, theo thầy hoặc tăng chúng an cư kết hạ liên tục trong suốt 20 năm và muốn được đề cử chức vị Hòa thượng phải là người đã thọ Tỳ Kheo giới và có an cư kết hạ 30 năm trở lên. Những Tăng sĩ tuy đã thọ Tỳ Kheo Giới nhưng không sống theo tăng đoàn tu học mỗi năm 3 tháng vào mùa mưa, tức từ ngày trăng tròn tháng 4 âm lịch đến ngày trăng tròn tháng 7 âm lịch, nhằm tinh chuyên giới hạnh thì không đủ điều kiện và tư cách để thụ phong chức vị Thượng Tọa hay Hòa Thượng. Đối với người nữ xuất gia, sau khi lãnh thọ 10 giới sa di được gọi là Sa Di ni hay Ni cô. Những nữ tu sĩ Phật giáo khi đến tuổi 18, dù đã thọ giới sa di hay chưa cũng phải thọ giới thức Xoa ma Na trong hai năm trước khi được thọ giới tỳ kheo ni. Ngoài ra, những người trước kia đã từng lập gia đình nay sống độc thân (vì thôi chồng hay chồng chết), nếu muốn thọ giới thức Xoa ma na phải đợi 10 năm sau ngày ly hôn hay ngày chồng chết mới được thọ giới Thức Xoa Ma Na. Khi đã được thọ giới Tỳ Kheo ni, nữ tu sĩ Phật Giáo được gọi là Tỳ Kheo ni hay là Sư cô. Theo tổ chức Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, chức vị Ni Sư ngang hàng với chức vị Thượng toạ, là những vị Sư cô trên 45 tuổi đời, đã thọ giới Tỳ kheo ni và có trên 25 tuổi đạo. Ngoài ra, còn có chức vị Ni Trưởng ngang hàng với chức vị Hoà thượng là các vị Ni sư có trên 60 tuổi đời và trên 40 tuổi đạo. Chúng tôi không thấy có danh xưng Hoà Thượng Ni trong tổ chức Phật Giáo Việt Nam trước năm 1975 cũng như sau năm 1975. Các chức vị Thượng Tọa, Ni sư, Ni Trưởng và Hòa Thượng hiện nay tại Việt Nam phải qua một tiến trình đề cử của giáo hội địa phương và các ban ngành chuyên môn liên hệ và được giáo hội trung ương xét duyệt tấn phong. Trong đạo Phật, việc xưng hô không mang tính cách chức vị quyền thế như các phẩm tước ngoài đời. Tăng đoàn xuất gia tỳ kheo tự tôn trọng và kính nể nhau về tuổi đạo chứ không phải tuổi đờị Người lớn tuổi hơn nhưng thọ Tỳ kheo sau người nhỏ tuổi cũng phải kính trọng vị nhỏ tuổi đời, xem như người đi trước, như bậc đàn anh trong đạo. Khi giao tiếp với chư tăng ni, Phật tử tại gia, bao gồm cả thân nhân của chư tăng ni, thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, và thường xưng là con (trong tinh thần Phật pháp, người thọ ít giới bổn tôn kính người thọ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính theo tuổi tác người con theo nghĩa thế gian) để tỏ lòng khiêm cung. Cũng có thể xưng tên hay pháp danh của mình khi nói chuyện. Riêng với những Phật tử tại gia cao tuổi có thể xưng tôi hay chúng tôi với những vị tăng ni trẻ hơn mình. Sau khi qui y Tam bảo và thọ 5 giới, mỗi vị cư sĩ Phật Tử tại gia có một vị Thầy (người đại diện Tam Bảo) truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng Thầy. Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn Nam tông chỉ có Sư, không có hay chưa có Ni. Khi chư Tăng ni tiếp xúc với quí vị Phật tử tại gia, chư Tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi, hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni; cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi Phật tử là đạo hữu, hay quí đạo hữu, hay pháp danh, hay tên ngoài đời. Việc một vị tăng hay ni trẻ tuổi xưng Thầy hay Cô gọi một Phật tử tại gia nhiều tuổi bằng “con” thực là không thích đáng. Không nên gọi như vậy. Theo truyền thống đông phương, tuổi tác rất được kính trọng trong xã hội, dù tại gia hay xuất gia. Đối với Phật tử tại gia, khi xưng hô với các vị xuất gia, chúng ta nên thận trọng, tuy giữ thái độ khiêm cung, nhưng không hạ mình và đừng tạo cho mình và người đối tượng một bức tường ngăn cách giữa hai tầng lớp: hàng tăng lữ xuất gia và hàng tín đồ tại gia. Việc một số Phật tử xưng hô với một vị Ni sư tại một ngôi chùa ni tại quận Cam là “Hòa Thượng Ni” có thể là do sự cung kính thái quá của họ đối với vị Ni sư đó nhưng cũng có thể do sự thiếu hiểu biết về các danh xưng trong đạo Phật.
Tì-kheo
Tì-kheo hay Tỳ-kheo (chữ Nho: 比丘) là danh từ phiên âm từ chữ bhikkhu trong tiếng Pali và chữ bhikṣu trong tiếng Phạn, có nghĩa là "người khất thực" (khất sĩ 乞士, khất sĩ nam 乞士男). Ta còn thấy cách đọc trại khác là Tỉ-kheo, Tỉ-khâu. Cách phiên âm Hán-Việt khác là Bật-sô (苾芻), Bị-sô (備芻), Tỉ-hô (比呼). Ngoài ra còn có những danh từ dịch theo ý như Trừ sĩ (除士), Huân sĩ (薰士), Phá phiền não (破煩惱), Trừ cận (除饉), Bố ma (怖魔). Nữ tu xuất gia theo đạo Phật thì gọi là tì-kheo-ni. Thuật ngữ vốn thường được dùng ở Ấn Độ chỉ cho giai đoạn thứ tư trong cuộc đời của người theo đạo Bà-la-môn, trong đó người chủ gia đình rời bỏ đời sống gia đình ("xuất gia" và quy y), sống bằng hạnh khất thực và tìm cầu chân lý giải thoát. Trong Phật giáo, thuật ngữ có nghĩa là một tăng sĩ Phật giáo, người từ bỏ cuộc sống thế tục, thụ lãnh giới luật. Gần tương đương với thuật ngữ Sa-môn (zh. 淨戒): "giới luật thanh tịnh".Theo quan điểm nguyên thủy, chỉ có những người sống viễn ly mới có thể đạt được Niết-bàn.
Bên cạnh các nguồn năng lượng mặt trời, nước, địa nhiệt… Năng lượng gió là một trong những nguồn năng lượng sạch đang được ưu tiên phát triển. Với những lợi ích lâu dài mà năng lượng gió mang đến cho chúng ta, hãy cùng Tansonnhatairport tìm hiểu ngay về loại năng lượng này nhé!. Gió là một dạng năng lượng mặt trời và nó là kết quả của việc mặt trời, bề mặt không bằng phẳng của trái đất và việc quay tròn của trái đất đốt nóng không đều trong bầu khí quyển. Gió thổi hướng và tốc độ thay đổi và có thể bị biến đổi do nước, khu vực và địa hình địa lý. Con người sử dụng gió (năng lượng động năng) để phục vụ rất nhiều mục đích như: chèo thuyền buồm, thả diều và thậm chí là tạo ra điện. Cụm từ năng lượng gió có thể miêu tả là quá trình gió được sử dụng để tạo ra năng lượng cơ học hay năng lượng điện. Tuabin gió chuyển hóa động năng thành cơ năng. Cơ năng có thể được dùng để sử dụng cho các nhiệm vụ khác nhau như (xay hoặc nghiền ngũ cốc, bơm nước), hoặc chúng có thể được chuyển hóa để tạo ra điện. Gió được dùng để tạo ra điện bằng cách sử dụng động năng do không khí tạo ra trong chuyển động. Bằng cách sử dụng tuabin gió năng lượng gió được chuyển thành năng lượng điện. Đầu tiên, năng lượng gió tác động lên cánh tuabin làm chúng quay, tuabin quay. Lúc này, động năng được biến đổi thành năng lượng quay, bằng cách tạo một trục được nối với máy phát điện, và năng lượng điện được tạo ra thông qua điện từ học. Là nguồn năng lượng tái tạo, có thể được thay thế cho các nguồn năng lượng không thể tái tạo khác. Nếu chúng được đưa vào sử dụng nhiều sẽ giảm thiểu việc sử dụng quá mức tài nguyên thiên nhiên. Vì là nguồn năng lượng sạch nên năng lượng gió không làm ảnh hưởng xấu và gây ô nhiễm môi trường. Tiết kiệm chi phí, không tốn chi phí xây dựng lắp đặt, mua nguyên liệu nhiều. Tiết kiệm diện tích, chỉ cần một khoảng đất nhỏ là có thể lắp các tuabin gió phục vụ cho việc tạo ra năng lượng điện. Tua bin gió đã xuất hiện cách đây hơn một thế kỷ. Ở Anh và Mỹ việc sản xuất điện bằng năng lượng gió được diễn ra vào năm 1887 và 1888, tuy nhiên Đan Mạch là nơi năng lượng gió hiện đại được phát triển lần đầu tiên, các tuabin gió trục ngang được xây dựng vào năm 1891. Tua bin gió hiện đại được chia theo hai nhóm: tua bin gió trục ngang và tua bin gió trục dọc. Tua bin gió trục ngang (HAWTS): Phải đặt trên tháp cao, sử dụng cánh ngang giúp thu được gió ở năng lượng tối đa, hiệu suất cao hơn trục đứng. Do là mô hình truyền thống nên dễ lắp đặt dễ bảo trì. Được sử dụng phổ biến cho mục đích gia đình và các hệ thống điện. Tua bin gió trục đứng (VAWTS): Phù hợp với gió không ổn định, do địa hình thấp nên sẽ tạo ra điện yếu, không cần sử dụng đuôi điều hướng vì quạt vẫn sẽ quay ở bất kỳ hướng gió nào. Dễ lắp đặt trong khu dân cư, nơi chật hẹp. Tuổi thọ của tua bin gió trục đứng cao hơn so với trục ngang. Công suất của tua bin gió đã tăng lên theo thời gian. Năm 1985, tua bin gió thường có công suất định mức là 0.05 megawatt (MW) và đường kính rôto là 15 mét. Các dự án năng lượng điện từ gió hiện nay có công suất tuabin khoảng 2 MW trên bờ và 3 – 5MW ở ngoài khơi. Lượng điện mà các chuỗi tua bin gió đa năng có thể tạo ra được là vào khoảng từ 100KW đến cỡ vài MW. Các tua bin gió lớn hơn thì có chi phí cao và thường được lắp đặt ở những khu vực người ta thường gọi là cánh đồng tua bin gió, chúng dùng để cung cấp điện cho một khu vực dân cư nhất định. Trong những năm gần đây do nguồn nhiên liệu hóa thạch đang ngày càng cạn kiệt cùng với tác động ô nhiễm của chúng đối với môi trường nên số lượng tuabin gió cũng tăng lên đáng kể đặc biệt ở những khu vực gần biển lớn, hoặc khan hiếm tài nguyên thiên nhiên. Các loại tua bin nhỏ hơn dưới 100KW thì được sử dụng trong các gia đình, cáp truyền thông, hoặc bơm nước. Đôi khi chúng cũng được sử dụng để liên kết các máy phát điện chạy bằng dầu diesel, các pin và hệ thống pin quang năng. Hệ thống này được gọi là hệ thống gió lai (hybrid wind) được sử dụng ở các khu vực chưa thể lắp đường dây điện hoặc các khu vực vùng sâu vùng xa. Là một trong những ngành công nghệ năng lượng tái tạo phát triển nhanh nhất. Năng lượng gió đã và đang được sử dụng ở rất nhiều nơi trên thế giới. Trước tác động xấu do việc sử dụng quá mức gây cạn kiệt nguồn tài nguyên và ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường. Việc phát triển và tăng cường các dự án năng lượng sạch sẽ là bài toán cần thiết cho tình hình hiện tại.
Năng lượng gió
Năng lượng gió là động năng của không khí di chuyển trong bầu khí quyển Trái Đất. Năng lượng gió là một hình thức gián tiếp của năng lượng mặt trời. Sử dụng năng lượng gió là một trong các cách lấy năng lượng xa xưa nhất từ môi trường tự nhiên và đã được biết đến từ thời kỳ Cổ đại.
Bạn đã từng nghe danh của thành phố di sản Potsdam? Bạn muốn du học hay làm việc tại nơi này? Vậy thì bài viết này dành cho bạn. Chúng ta cùng khám phá những nét đặc biệt của thành phố Potsdam Đức nhé. Potsdam là thành phố nằm ở phía Bắc nước Đức, là thủ phủ của bang Brandenburg và là thành phố đông dân nhất của bang. Từ Potsdam, chỉ cần chạy xe 40 phút về hướng đông bắc là có thể tới thủ đô Berlin. Năm 1990, Potsdam được công nhận là thành phố có cảnh quan được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tính tới thời điểm tháng 12/2018, dân cư sinh sống tại thành phổ vào khoảng 178.089 người, thuộc vào những thành phố đông dân của Đức. Nhắc tới thành phố Potsdam, nơi không thể không nhắc tới là cung điện Sanssouci – cung điện mùa hè của Friedrich Đại đế II – vua nước Phổ, một danh lam thắng cảnh được xây dựng theo lối kiến trúc của thế kỉ 18 và cũng là nơi có lượt du khách tham quan nhiều nhất tại châu Âu với hơn 2 triệu lượt mỗi năm. Cung điện Sanssouci thường được so sánh với cung điện Versailles với hơn 200 phòng lớn nhỏ, bốn phòng khiêu vũ và một nhà hát theo trường phái Rococo. Cùng với đó là hơn 400 bức tượng từ thế giới cổ đại của các vị thần dung để trang trí mặt tiền và lan can, mái nhà. Cung điện tráng lệ này được xây để đáp ứng nhu cầu của vua Friedrich II, nơi ông có thể nghỉ ngơi và thư giãn bỏ đi mọi ưu phiền về các buổi thiết triều ở kinh thành Berlin. Tên của cung điện này bắt nguồn từ một từ tiếng Pháp (Sans Souci), dịch ra là “không lo lắng”, “vô tư” hoặc “vô ưu” ,là một nơi để thư giãn, không dính líu đến việc chính sự. Cung điện nó được xây dựng trên đỉnh của một ngọn đồi bậc thang ở trung tâm của công viên. Trụ sở của hãng phim Babelsberg – một trong những trung tâm sản xuất phim và truyền hình hiện đại nhất ở Đức và Châu Âu cũng được đặt tại Potsdam. Tại Potsdam có hơn 13.000 doanh nghiệp hoạt động. Potsdam và khu vực lân cận là một trong những địa điểm phát triển về ngành công nghệ sinh học hàng đầu ở Đức với hơn 12.000 người lao động. Potsdam có tới 3 trường hệ đại học công lập với tổng cộng hơn 25.000 sinh viên được đăng ký tại các trường đại học trong học kỳ mùa đông 2018/19. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học là 17%, vượt mức trung bình trên toàn quốc là 9%. Tiền thân là Đại học bang Brandenburg và Đại học Luật và Quản trị Potsdam-Babelsberg. Trường có bốn cơ sở ở Potsdam, Brandenburg, bao gồm Trung tâm mới ở Sanssouci và Babelsberg Park. Đại học Potsdam là một trong những đại học lớn nhất ở Brandenburg với 5 chuyên ngành: khoa học quản lí, luật, mỹ thuật, kinh tế và khoa học xã hội. Có khoảng hơn 8.000 nhân viên và các nhà khoa học, học giả làm việc tại trường. Trường cũng lọt vào danh sách “Excellence in Teaching” của Stifterverband für die Deutsche Wissenschaft (Trung tâm sáng tạo trong hệ thống khoa học Đức của cộng đồng doanh nghiệp) và tổ chức hội nghị Bộ trưởng giáo dục và Văn hóa trong các bang thuộc Cộng hòa liên bang Đức (Kultusministerkonferenz). Trong bảng xếp hạng gần đây của Trung tâm giáo dục đại học và phát triển (CHE). chương trình đào tạo thạc sĩ khoa học chính trị, thạc sĩ quản lý công và thạc sĩ quản lý hành chính của Đại học Potsdam được xếp hạng trong top cao nhất tại Đức và tại châu Âu. Đại học Điện ảnh Babelsberg (Filmuniversität Babelsberg) là trường giảng dạy về ngành truyền thông lâu đời nhất và lớn nhất ở Đức cũng nằm tại thành phố Potsdam. Đại học Khoa học Ứng dụng Potsdam (Fachhochschule Potsdam) là một trường đại học mới, được thành lập năm 1991 dưới sự bảo trợ của bang Brandenburg với khoảng 3500 sinh viên theo học. Khoa kĩ thuật xây dựng, thiết kế và kiến trúc đô thị được giảng dạy tại cơ sở 1. Còn khoa xã hội, công nghệ thông tin và các thư viện, trung tâm thông tin, viện thông tin tài liệu…đóng tại cơ sở 2. Ngoài các trường đại học công lập, thành phố này còn là nơi đặt trụ sở của Đại học Khoa học Ứng dụng Thể thao và Quản trị Potsdam (Fachhochschule für Sport und Management Potsdam) và trường đại học tư thục Clara Hoffbauer Potsdam. Thành phố Potsdam đã phát triển thành một địa điểm tập trung cho lĩnh vực nghiên cứu. Có hơn 30 tổ chức nghiên cứu trong các lĩnh vực Potsdam như. Chuyển mình cùng với thời hiện đại, phát triển theo xu hướng tất yếu của xã hội, nhưng thành phố Potsdam vẫn còn lưu giữ được những hiện vật, những cung điện tráng lệ nguy nga cùng với khuôn viên, nhà vườn của thời vua chúa xa xưa. Bất cứ ai đến đây đều được hòa mình vào những điều thú vị mà Potsdam mang lại, để tìm hiểu đời sống văn hóa từ hơn 100 năm trước, từ trang phục dạ hội cho đến những bản nhạc khiêu vũ, mọi thứ đều mang hơi hướng những năm đầu của thế kỉ 20. Potsdam sẽ mang tới những kỉ niệm khó quên bởi thành phố như sợi dây gắn kết giữa quá khứ và hiện tại, vẫn còn lưu giữ những nét đẹp của thời gian, những vẻ đẹp xưa cũ nhưng vô cùng tân thời.
Đại học Potsdam
Đại học Potsdam (tiếng Đức: Universität Potsdam) là một trường đại học công nằm ở Potsdam, gần Berlin, Đức. Trường có bốn cơ sở ở Potsdam, Brandenburg, bao gồm Trung tâm mới ở Sanssouci và Babelsberg Park. Đại học Potsdam là một trong những đại học lớn nhất ở Brandenburg với nhiều ngành đào tạo khác nhau, vùng Potsdam và Berlin cũng là một trong những vùng tập trung nhiều trung tâm nghiên cứu của nước Đức. Có khoảng hơn 8.000 nhân viên và các nhà khoa học, học giả làm việc tại trường. Trường cũng lọt vào danh sách "Excellence in Teaching" của Stifterverband für die Deutsche Wissenschaft (Trung tâm sáng tạo trong hệ thống khoa học Đức của cộng đồng doanh nghiệp) và tổ chức hội nghị Bộ trưởng giáo dục và Văn hóa trong các bang thuộc Cộng hòa liên bang Đức (Kultusministerkonferenz).
Nhiều người khi mua hàng hiện nay thường hay nói kiểm tra mã vạch xem có đúng không. Nhưng thực chất mã vạch là gì không phải ai cũng biết. Bài viết này giúp các bạn nhận biết được những thông tin sản phẩm mà nhà sản xuất mã hóa vào trong mã vạch. Mã vạch trước hết là một dãy ký tự có thể là số hoặc chữ số. Theo định nghĩa, mã vạch là phương pháp lưu trữ và truyền tải thông tin bằng một loại ký hiệu chuyên biệt. Đây là 1 ký hiệu gồm tổ hợp các khoảng trắng và vạch thẳng để biểu thị các mẫu tự, ký hiệu và con số. Nếu mắt thường nhìn vào mã vạch bạn rất khó có thể biết được nó là gì. Nhưng chính những sự thay đổi trong độ rộng của vạch và khoảng trắng sẽ là biểu thị thông tin số hay chữ số dưới dạng mà máy có thể đọc được. Phần đọc dành cho người dùng nhận biết thông tin sản phẩm được thể hiện dưới dạng chữ số. Khi nhìn vào dãy số này người ta sẽ biết được nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm thông qua quy ước mã số cho các quốc gia trên thế giới của Tổ chức GS1. Mã vạch được in ấn bởi các loại máy in mã vạch chuyên dụng, được thiết lập các thông số đúng quy luật. Vì thế, không phải máy in nào cũng có thể in mã vạch. Mã vạch sẽ được thu nhận bằng một loại máy quét mã vạch. Đó là một loại máy thu nhận hình ảnh của mã vạch từ đó chuyển thông tin tới máy tính để mã hóa. Vì thế, đó là lý do vì sao người ta chỉ sử dụng mã vạch kèm theo các thiết bị hỗ trợ. Mã vạch giống như một chứng minh thư của hàng hóa. Thông qua mã vạch chúng ta có thể biết chính xác nguồn gốc xuất xứ của hàng hóa. Tùy vào quốc gia và vùng lãnh thổ mà quy định về mã vạch sẽ khác nhau. Mã vạch của hàng hóa sẽ bao gồm hai phần, bao gồm: mã số của hàng hóa để con người nhận diện và mã vạch để các loại máy quét đọc nhận diện. Tùy theo dung lượng thông tin, dạng thức thông tin được mã hóa và mục đích sử dụng mà người ta chia ra làm rất nhiều loại. Hiện nay, ở Việt Nam hàng hóa trên thị trường đa phần được áp dụng chuẩn mã vạch EAN. Mã vạch EAN gồm 13 con số chia làm 4 nhóm, gồm: mã quốc gia hoặc vùng lãnh thổ gồm 3 chữ số đầu. Mã số doanh nghiệp gồm 4, 5, hoặc 6 số tiếp theo do tổ chức GS1 Việt Nam cấp cho khách hàng. Mã số hàng hóa có thể là 2, 3 hoặc 4 số tiếp theo do doanh nghiệp tự cấp cho sản phẩm của mình. Số cuối cùng là số về kiểm tra (tính từ trái qua). Bài viết trên đây đã giải thích sơ lược về mã vạch là gì và ý nghĩa của nó. Hy vọng bài viết đã giúp bạn giải đáp băn khoăn về mã vạch cũng như các thông tin cơ bản của nó. Nếu có nhu cầu mua máy in mã vạch, máy quét mã vạch, giấy in, mực in, quý khách hàng có thể liên hệ đến Thế Giới Mã Vạch - Địa chỉ cung cấp các thiết bị mã số mã vạch uy tín, chất lượng trên thị trường hiện nay.
Mã vạch
Mã vạch là sự thể hiện thông tin trong các dạng nhìn thấy trên các bề mặt của sản phẩm, hàng hóa mà máy móc có thể đọc được. Nguyên thủy thì mã vạch lưu trữ dữ liệu theo bề rộng của các vạch được in song song cũng như của khoảng trống giữa chúng, nhưng ngày nay chúng còn được in theo các mẫu của các điểm, theo các vòng tròn đồng tâm hay chúng ẩn trong các hình ảnh. Mã vạch có thể được đọc bởi các thiết bị quét quang học gọi là máy đọc mã vạch hay được quét từ hình ảnh bằng các phần mềm chuyên biệt. Nội dung của mã vạch là thông tin về sản phẩm như: Nước đăng ký mã vạch, tên doanh nghiệp, lô, tiêu chuẩn chất lượng đăng ký, thông tin về kích thước sản phẩm, nơi kiểm tra. Ý tưởng về mã vạch được phát triển bởi Norman Joseph Woodland và Bernard Silver. Năm 1948 khi đang là sinh viên ở trường Đại học tổng hợp Drexel, họ đã phát triển ý tưởng này sau khi được biết mong ước của một vị chủ tịch của một công ty buôn bán đồ ăn là làm sao để có thể tự động kiểm tra toàn bộ quy trình.
Đã bao giờ bạn được ai đó hỏi rằng: tình yêu là gì? Nếu từng trải qua một tình yêu thật sự thì chắc chắn bạn sẽ có hàng tá câu trả lời dành cho câu hỏi này. Tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng vốn có mà trong cuộc đời ai cũng phải từng trải qua ít nhất một lần. Thứ tình cảm này khiến người ta có thể trở nên mù quáng, say mê và đắm chìm trong cảm xúc với người yêu. Vậy tình yêu là gì? Đó là thứ cảm xúc gì mà lại khiến người ta trở nên như vậy?. 5 triết lý phải nhớ trong tình yêu1. Đừng yêu chỉ vì nghĩ tình yêu là một điều hay ho mà thanh xuân phải có2. Đừng cố gắng biến tình bạn trở thành tình yêu một cách vội vàng3. Hãy yêu đúng người và yêu bằng sự cao thượng đầy bao dung4. Khi yêu một người đừng bao giờ bị tác động bởi bất cứ điều gì5. Tình yêu không tranh giành. Đừng yêu chỉ vì nghĩ tình yêu là một điều hay ho mà thanh xuân phải có. Khi yêu một người đừng bao giờ bị tác động bởi bất cứ điều gì. Cách để định nghĩa tình yêu là gì thật sự không quá khó khăn như nhiều người vẫn nghĩ, nếu bạn đã và đang yêu một ai đó chắc chắn bạn sẽ trả lời rằng: tình yêu là khi hai người được ở bên cạnh nhau, quan tâm, chia sẻ và chăm sóc cho nhau, cùng nhau nấu ăn, xem phim, vui đùa… Đó là cảm nhận thực tế về tình yêu của đa số những người đang yêu. Có 2 loại tình yêu được cho là thiêng liêng nhất chính là tình yêu giữa những người thân trong gia đình và tình yêu lứa đôi. Tình yêu là một khái niệm đa nghĩa trong cách diễn đạt và cách hiểu của mọi người, nhưng theo nghĩa chung nhất, tình yêu là trạng thái tình cảm của chủ thể này đối với một chủ thể khác ở mức cao hơn sự thích thú và phải nảy sinh ý muốn được gắn kết với chủ thể đó ở một khía cạnh hay mức độ nhất định. Tình yêu được cho là loại cảm xúc mạnh mẽ nhất, đẹp đẽ nhất nhưng cũng khó nắm bắt, định nghĩa nhất, ngay cả khi đem ra so sánh với các loại cảm xúc khác. Nói một cách chung quy, tình yêu chính là cung bật cảm xúc của một người dành cho một đối tượng nào đó. Thứ cảm xúc này được thể hiện dựa trên sự quan tâm, lo lắng, hi sinh dành cho đối phương một cách chân thành, không toan tính. – Nói về tình yêu gia đình thì bao gồm tình yêu giữa bố mẹ dành cho con cái, con cái dành cho bố mẹ và tình yêu thương giữa các anh chị em. Tình yêu giữa bố mẹ và con cái là loại tình yêu thiên liêng và chân thực nhất không thể thay đổi được dù có bất cứ chuyện gì xảy ra. Kể từ giây phút bạn được sinh ra trên đời cũng chính là lúc bạn nhận được thứ tình yêu đầu tiên của bố mẹ dành cho mình. Thứ tình cảm này nó sẽ đi theo suốt quãng đời của bạn. Dù bạn có lớn khôn, trưởng thành và rời xa gia đình đi đến bất cứ đâu, bố mẹ vẫn luôn lo lắng và dõi theo bạn. Vì thế cho dù cuộc sống có đối đãi với bạn thế nào đi nữa thì hãy luôn ghi nhớ rằng luôn có ít nhất 1 người trên thế giới này yêu thương bạn hơn cả chính mình. Đó chính là bố mẹ. – Nói về loại tình yêu thứ 2 đó chính là tình cảm trai gái, sự rung động của một người khi gặp người khác giới. Tình yêu này rất đa dạng và khó có thể phân biệt được. Loại tình yêu này cần phải trải qua nhiều giai đoạn mới hình thành và hoàn thiện được. Khi bạn gặp ai đó, bạn cảm thấy con tim rung động, bạn chú ý, để mắt đến họ, bạn muốn tìm hiểu nhiều thứ về họ và bạn bắt đầu nghĩ đến họ nhiều hơn. Đây chính là giai đoạn đầu của tình yêu mà người ta vẫn hay gọi là “say nắng”. Cho đến khi bạn cảm thấy hình bóng của họ cứ mãi xuất hiện trong đầu bạn, bạn luôn muốn dành những điều tốt đẹp nhất cho người ấy. Lúc này bạn bắt đầu xuất hiện suy nghĩ muốn sở hữu, muốn bên cạnh người ấy. Đây chính là lúc bạn đã bước vào đoạn giữa của tình yêu. Vậy đoạn cuối hay đỉnh điểm của tình yêu là gì?. Trong cuộc sống, cái gì có bắt đầu thì sẽ có kết thúc, tuy nhiên tình yêu là thứ khác thường nó không tuân theo một quy luật nào cả. Bạn có thể so sánh tình yêu cũng giống như thời gian, nó cứ trôi và trôi mãi một cách đều đặn, đôi khi có cao trào nhưng không có đỉnh điểm, không có điểm dừng. Nếu bạn yêu một ai đó chân thành, bạn cùng chung sống bên người ấy đến già đi, nhiều người sẽ cảm thấy tình yêu lúc về già không còn như ban đầu nữa, hay là nó đã mất đi? Thực chất, nó vẫn còn đấy, không phải bị mất đi mà là lắng đọng. Đối với những cặp vợ chồng chung sống lâu năm, tình yêu sẽ đọng lại theo thời gian và không còn cao trào như lúc mới yêu và chính những giây phút lắng đọng này khiến nhiều người bị mất phương hướng dẫn đến việc tan vỡ. Để yêu một người không hề đơn giản như bạn nghĩ, tuổi trẻ chúng ta thường vô tư nghĩ rằng khi thấy ai đó hợp mắt, hợp điều kiện thì sẽ yêu và chỉ cần yêu là được. Nhưng tình yêu của những người trưởng thành thì lại hoàn toàn khác, họ có trách nhiệm với cảm xúc của mình và trách nhiệm hơn nữa với người mình yêu. Xã hội ngày nay, nhiều người sử dụng tình yêu như một loại “dụng cụ” để trục lợi cá nhân. Tình yêu dần phát triển theo thời đại và ngày một bị biến chất thành nhiều kiểu tiêu cực để thỏa mãn nhu cầu của mỗi người. Liệu tình yêu đích thực có còn tồn tại?. Chúng ta vẫn thường hay xem những bộ phim tình sử như Romeo và Juliet chết vì nhau, Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài nằm chung một huyệt mộ để được ở cạnh nhau và nhiều những câu chuyện khác nói về tình yêu. Liệu đó có phải là tình yêu đích thực? Câu trả lời chính là “đúng”, đây chính là minh chứng cho tình yêu đích thực. Trở lại với định nghĩ về tình yêu ở trên, khi chìm đắm trong tình yêu đích thực, bạn sẽ lo lắng và hi sinh thân mình để bảo vệ người mình yêu, bạn có thể cùng sống hoặc cùng chết, miễn là được bên cạnh đối phương. Tuy nhiên, đừng nhầm lẫn giữa tình yêu đích thực với sự chiếm hữu. Tình yêu đích thực là mong người mình yêu luôn sống vui, hạnh phúc cho dù có ở bên cạnh mình hay không; còn chiếm hữu chính là muốn sở hữu người yêu một cách độc đoán, không quan tâm đến cảm nhận và mong muốn của người ấy như thế nào, chỉ cần bạn có được người mình yêu. Chiếm hữu chỉ là một khía cạnh của tình yêu chứ không phải là tình yêu đích thực. Khi bạn gặp một người quan tâm đến bạn và làm tất cả để bạn vui nhưng họ sẽ không bắt ép bạn phải ở bên cạnh họ, chỉ cần bạn vui là được, những lúc bạn buồn hay gặp khó khăn họ đều xuất hiện và giúp đỡ bạn một cách tình nguyện. Chứng tỏ bạn đã gặp được một người yêu mình chân thành. Yêu đơn phương thật lòng cũng là một tình yêu chân chính, chỉ là bạn không được đáp trả tình cảm lại mà thôi. Dục vọng chính là thứ bản năng có sẵn trong mỗi con người, ai cũng có cảm xúc, ai cũng có những dục vọng cá nhân nhưng người ta hơn nhau ở chỗ là biết kiềm chế và làm chủ được dục vọng của bản thân mình. Tình yêu đi kèm với dục vọng, điều này không sai nhưng nó cũng không hoàn toàn đúng. Để nhận biết được đâu là tình yêu chân chính và đâu là dục vọng cá nhân của một người thì không phải là điều dễ dàng, chúng ta phải thật tinh tế và nhạy bén kèm theo sự tỉnh táo trong tình yêu thì mới có thể phân biệt được thứ tình cảm đối phương dành cho mình là gì. – Khi một bạn thật sự yêu một ai đó, bạn sẽ muốn bên cạnh để chia sẻ những điều trong cuộc sống với họ nhiều hơn là sex. – Bạn luôn hào hứng vào huyên thuyên nói về mối quan hệ của cả hai. Khi bên cạnh người ấy, thời gian và không gian đối với bạn gần như không tồn tại. – Bạn luôn muốn tìm hiểu, lắng nghe và chia sẻ với người ấy những cảm xúc của họ và luôn muốn mang hạnh phúc đến cho họ. – Bạn muốn được ra mắt người thân, bạn bè của họ, bạn muốn được là một phần trong cuộc sống của nửa kia. – Cuối cùng là bạn yêu họ trên tinh thần tự nguyện, không làm tổn thương nhau, thừa nhận trách nhiệm và lòng yêu thương. – Bạn sẽ chỉ tập trung vào ngoại hình của họ, bạn chỉ quan tâm đến những điểm nổi bật trên cơ thể họ. – Bạn chỉ muốn giữ mối quan hệ bạn bè và hoàn toàn không muốn tiến xa hơn hay chia sẻ cảm xúc của bạn với họ. – Sau những cuộc trò chuyện, bạn chỉ muốn rời đi, không cử chỉ yêu thương, không ôm ấp, ăn sáng hay ngủ lại. Hãy xác định lại tình cảm của mình với người ấy xem đó là tình yêu chân chính hay chỉ là dục vọng thông thường. Trong một mối quan hệ, bạn hãy luôn lắng nghe trực giác của bản thân, chú ý đến những dấu hiệu hay lời cảnh báo cho thấy bạn có nguy cơ bị lợi dụng hoặc gặp nguy hiểm. Nếu có cảm giác mình bị lừa dối hay nhận thấy người ấy không thật lòng với mình, bạn không thoải mái trong các cuộc hẹn và không có cảm giác gần gũi hơn sau thời gian cả hai bên nhau thì tốt nhất nên dừng mối quan hệ này lại, đừng lo sợ sẽ làm họ buồn hay sợ mất người ấy. Nếu bạn không chắc chắn về mối quan hệ của mình thì hãy dành ra thời gian suy nghĩ và nhìn lại những gì đã qua, đánh giá vấn đề khách quan hoặc nhờ sự trợ giúp của người thân hay các chuyên gia tâm lý. Tuổi trẻ chúng ta thường thấy bạn bè đều có đôi, ý nghĩ yêu cho “bằng bạn bằng bè” liền xuất hiện trong đầu chúng ta, yêu để trải nghiệm, để không phí hoài tuổi trẻ . Hãy nhớ, tình yêu chỉ đến khi tìm được người thích hợp cho dù đến sớm hay muộn vì tình yêu không chỉ là một danh từ, mà còn là một động từ bao gồm tổ hợp những việc cần làm, phải làm và nên làm…. Bình bạn mang tính chất ổn định, sâu lắng trái ngược với tình yêu nồng nàn, da diết. Đừng nóng vội mà nhầm lẫn giữa hai loại cảm xúc này, hãy tỉnh táo để nhận ra đầu là tình bạn và đâu là tình yêu. Đừng vì một phút nông nỗi, mất phương hướng mà đánh mất đi người bạn tốt đẹp, thân thiết nhé. Đôi khi tình bạn còn đáng quý hơn tình yêu. Khi xác định yêu thì hãy yêu bằng một tình yêu đích thực, yêu không chiếm hữu, yêu dựa trên sự cao thượng và bao dung. Hãy tôn trọng cảm xúc và mong muốn của người yêu, chỉ cần họ thoải mái, cảm thấy vui vẻ, hạnh phúc là bạn cũng vui rồi, mặc dù không nhất thiết phải ở bên cạnh bạn. Đừng bao giờ đặt ra hàng loạt các tiêu chuẩn về người yêu, vì khi đó không phải là bạn đang tìm người yêu mà bạn đang tìm một người phù hợp cho sự lựa chọn của bạn mà thôi. Người ta thường nói “ghét của nào trời trao của đó”, tình yêu thật sự sẽ đến một cách bất ngờ mà bạn sẽ không được báo trước, với những điều mơ hồ mà bạn chẳng thể biết được lý do. Dù đó có là kiểu người mà bạn “không ưa” từ trước nhưng một khi đến thời điểm thì yêu thôi. Người ta có thể giành một món đồ, giành một chức vụ, tiền bạc chứ ai lại giành tình yêu. Tình yêu là cảm xúc, không phải thứ đồ vật vô tri. Nếu bạn cố tranh giành thì chỉ có được thể xác chứ không phải cảm xúc của người ấy. Hãy luôn ghi nhớ, tình yêu chỉ hạnh phúc và trọn vẹn khi cả hai người tự nguyện bên nhau. Tình yêu là gì? Một câu hỏi khó nhưng lại có vô vàng câu trả lời. Nếu nói về tình yêu thì có lẽ không bao giờ có hồi kết. Hãy hiểu một cách đơn giản: tình yêu là cảm xúc thiêng liêng giữa người với người. Còn nếu bạn muốn biết nó như thế nào thì hãy trải nghiệm ít nhất một lần trong đời. Bạn sẽ không còn muốn đặt ra câu hỏi “tình yêu là gì” nữa.
Tình yêu
Tình yêu, hay ái tình, là một loạt các cảm xúc, trạng thái tâm lý và thái độ khác nhau dao động từ tình cảm cá nhân ("Tôi yêu mẹ tôi") đến niềm vui sướng ("Tôi yêu món ăn"). Tình yêu thường là một cảm xúc thu hút mạnh mẽ và nhu cầu muốn được ràng buộc gắn bó. Tình yêu cũng được coi là một đức tính đại diện cho lòng tốt, lòng trắc ẩn và tình cảm của con người, như "mối quan tâm trung thành và nhân từ không ích kỷ vì lợi ích của người khác". Tình yêu cũng có thể mô tả các hành động từ bi và tình cảm đối với người khác, bản thân hoặc động vật. Tình yêu với các hình thức khác nhau của nó hoạt động như một cảm xúc hỗ trợ chính cho các mối quan hệ giữa các cá nhân và, do tầm quan trọng tâm lý trung tâm của nó, là một trong những chủ đề phổ biến nhất trong nghệ thuật sáng tạo. Tình yêu đã được đặt ra là một chức năng để giữ cho con người cùng nhau chống lại mối đe dọa và để tạo điều kiện cho sự phát triển của loài người.
Khái niệm về thành phẩm, bán hàng và ý nghĩa của công tác bán hàng. Khái niệm doanh thu bán hàng, các khoản dảm ngoài trừ doanh thu bán hàng, nguyên tắc xác định doanh thu bán hàng và kết quả bán hàng. Nhiệm vụ của kế toán thành phẩm, bán hàng và xác định kết qủa kinh doanh. Trị giá vốn thực tế thành phẩm xuất kho để bán theo phương thức chuyển hàng đi cho khách hàng hoặc gửi đi cơ sở nhận bán hàng đại lý,ký gửi. Trị gián vốn thực tế thành phẩm xuất kho đổi lấy vật tư hàng hoá của đơn vị khác( hàng đổi hàng không tương tự). Trị giá vốn thực tế thành phẩm xuất kho để biếu tặng thanh toán tiền lương, tiền thưởng cho các cán bộ CNV. Trị giá vốn thực tế thành phẩm nhập kho khách hàng trả lại hàng gửi đại lý, ký gửi bán hàng không được. I. Thực tế công tác kế toán thành phẩm bán hàng và xác định kết quả kinh doanh của công ty cổ phần. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của Công ty cổ phần Ngọc Anh. Trong cơ chế mới, với sự hoạt động của nhiều thành phần kinh tế tính độc lập, tự chủ trong các doanh nghiệp ngày càng cao hơn mỗi doanh nghiệp phải năng động sáng tạo trong kinh doanh, phải chịu trách nhiệm trước kết quả kinh doanh của mình, bảo toàn được vốn kinh doanh và quan trọng hơn là kinh doanh có lãi. Muốn như vậy các doanh nghiệp phải nhận thức được vị trí khâu tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá vì nó quyết định đến kết quả kinh doanh của kinh doanh nghiệp và là cơ sở để doanh nghiệp có thu nhập bù đắp chi phí bỏ ra, thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà Nước. Bên cạnh đó, múc đích hoạt động của doanh nghiệp là lợi nhuận nên việc xác định đứng đắn KQKD nói chung về kết quả bán hàng nói riêng là rất quan trọng. Do vậy bên cạnh các biện pháp quản lý chung, việc tổ chức hợp lý công tác kế toán bán háng là rất cần thiết giúp doanh nghiệp có đầy đủ thông tin kịp thời và chính xác để đưa ra quyết định kinh doanh đứng đắn. Doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế cao là cơ sở doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển ngày càng vững chắc trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh sôi động và quyết liệt. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kế toán bán hàng vận dụng lý luận đã được học tập tại trường kết hợp với thực tế thu nhận được từ công tác kế toán tại công ty cổ phần Ngọc Anh, ”em đã chọn đề tài” Kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng” để nghiên cứu và viết chuyên đề của mình. Chương II: Thực tế công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng. Chương III: Nhận xét và kiến nghị về công tác kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng tại Công ty cổ phần Ngọc Anh. Trong DNSXCN: Thành phẩm những sản phẩm đã kết thúc toàn bộ quy trình công nghệ sản xuất do doanh nghiệp tiến hành hoặc thuêu ngoài gia công tác chế biến và đã được kiểm nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật quy định và đã nhập cho kho thành phẩm. + Thành phẩm là kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất và gắn với một quy trình công nghệ sản xuất nhất định trong phạm vi một doanh nghiệp . + Sản phẩm là kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất cung cấp dịch vụ. + Thành phẩm duy nhất chỉ là sản phẩm hoàn thành ở giai đoạn cuối cùng của quy trình công nghệ sản xuất . + Sản phẩm: Bao gồm thành phẩm và nửa thành phẩm. Thành phần là bộ phận chủ yếu của hàng hoá trong doanh nghiệp sản xuất .Hàng hoá trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bao gồm: Thành phẩm, nửa thành phẩm, vật tư và dịch vụ cung cấp và khách hàng. Bán hàng là quá trinh sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra và bán sản phẩm mua vào. Cung cấp dịch vụ và thực hiện công việc đã thoả mãn thuận theo hợp đồng trong một kỳ hoạc nhiều kỳ như: Cung cấp dịch vụ vận tải, du lịch, cho thuê TSCĐ theo phương thức cho thuêu hoạt động. Doanh nghiệp đem bán sản phẩm , hàng hoá cung cấp dịch vụ đồng thời đã thu được tiền hoặc có quyền thu tiền của người mua. Quá trình bán hàng thực chất là quá trình trao đổi quyền sở hữu giữa người bán và người mua trên thị trường hoạt động. Khi tiến hành giao dịch giữa doanh nghiệp với bên ngoài hoạc bên sử dụng tài sản doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý đó là giá trị tài sản có thể trao đổi hoạc giá trị một khoản nợ được thanh toán một cách tự nguyện giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong sự trao đổi ngang giá trên thị trường hoạt động. Hành háo cung cấp nhằm để thoả mãn nhu cầu của các tổ chức kinh tế khác, các cá nhân bên ngoài Công ty, Tổng công ty hoạc tập đoàn sản xuất gọi là bán cho bên ngoài. Trong trường hợp hàng hoá cung cấp giữa các đơn vị trong cùng một công ty, Tổng công ty, tập đoàn… được gọi là bán hàng nội bộ. Công tác bán hàng có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó là giai đoạn tái sản xuất . Doanh nghiệp khi thực hiện tốt công tác bán hàng sẽ tạo điều kiện thu hồi vốn, bù đắp chi phí, thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế, đầu tư phát triển tiếp, nâng cao đời sống của ngừơi lao động. Gía trị thành phẩm theo nguyên tắc phải được ghi nhận theo giá gốc( trị giá thực tế) trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì giá trị thành phẩm phải phán ánh theo giá trị thuần theo giá trị có thực hiện được. Trong thực tế, doanh nghiệp thường sản xuất nhiều mặt hàng và hoạt động nhập xuất thành phẩm trong doanh nghiệp luôn có biến động lớn do nhiều nguyên nhân, để phục vụ cho việc hoạch toán hàng ngày kịp thời, kế toán thành phẩm còn có thể sử dụng giá hoạch toán để ghi chép và phiếu nhập, phiếu xuất và ghi sổ kế toán ghi tiếp thành phẩm. + Thành phẩm do các bộ phận sản xuất chính và sản xuất của doanh nghiệp sản xuất ra phải được ghi nhận theo giá thành sản xuất thực tế bao gồm. Chi phí nguyên liệu, vật liệu, trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung để sản xuất thành phẩm. + Thành phẩm thuê ngoài gia công để chế biến được ghi nhận theo giá thành thực tế gia công chế biến bao gồm. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. Chi phí thuê gia công. Chi phí vận chuyển bôc giỡ khi giao, nhận công nhân. Phải tuân thủ nguyên tắc tính theo giá gốc, nhưng do thành phẩm nhập từ các nguồn nhập và là hoạt động trong quá khứ của các kỳ kế toán khác nhau. Do đó có thể xác định giá gốc của thành phẩm xuất kho, kế toán có thể sử dụng một trong những phương pháp tính giá hàng tồn kho sau. – Doanh thu là tổng giá trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt động sản xuất kinh doanh thông thương của doanh nghiệp , góp phần vốn chủ sở hữu. Doanh thu trong doanh nghiệp bao gồm: Tổng giá trị cao có lợi ích kinh tế doanh nghiệp đã thu được hoạc sẽ thu được như: Doanh thu bán hàng: doanh thu cung cấp dịch vụ: doanh thu hoạt động tài chính, tiền lãi, bản quyền, tổ chức và lợi nhuận được chia. Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoạc bán hàng cho người mua. Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu hàng hoá hoạc kiểm soát hàng hoá . Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng. Doanh thu bán hàng bao gồm: Doanh thu bán hàng ra ngoài và doanh thu bán hàng nội bộ. – Chiết khấu thương mại:là các khoản doanh nghiệp bán giảm giá niêm iết cho khách hàng mua hàng với khối lượng lớn. – Hàng bán bị trả lại: là giá trị khối lượng hàng bán đã xác định là bán hàng hoàn thành bị khách hàng trả lại và từ chối thanh toán. – Giảm giá hàng bán: là khoản giảm trừ cho khách hàng do khách hàng hoá kém phẳm chất, sai quy cách hoặc lạc hậu thị hiếu. Bán hàng trực tiếp là phương thức giao hàng cho người mua trực tiếp tại kho( hoặc trực tiếp tại phân xưởng không qua kho) của doanh nghiệp.Khi giao hàng hoặc cung cấp dịch vụ cho người mua, doanh nghiệp đã nhận được tiền hoặc có quyền thu tiền của người mua, giá trị của hàng hoá đã hoàn thành, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ đã được ghi nhận. Phương thức gửu hàng đi là phương thức bên bán gửu hàng đi cho khách hàng theo các điều kiện của hợp đồng kinh tế đã ký kết. Số hàng gửu đi vẫn thuộc quyền kiểm soát của bên bán, khi khách hàng thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán thì lợi ích và rủi ro được chuyển giao toàn bộ cho người mua, giá trị hàng hoá đã được thực hiện và là thời điểm bên bán được ghi nhận được ghi nhận doanh thu bán hàng. Kế toán bán hàng theo phương thức gửi đại lý, ký gửi bán đúng giá hưởng hoa hồng. Phương thức bán hàng gửi đại lý, ký gửi bán đúng giá hưởng hoa hông là đúng phương thức bên giao đại lý, ký gửi bên ( bên đại lý) để bán hàng cho doanh nghiệp.Bên nhận đại lý, ký gửi người bán hàng theo đúng giá đã quy định và được hưởng thù lao dưới hình thức hoa hồng. Theo luật thuế GTGT, nếu bên đại lý bán theo đúng giá quy định của bên giao đại lý thì toàn bộ thuế GTGT đầu ra cho bên giao đại lý phải tính nộp NSNN, bên nhận đại lý không phải nộp thúê GTGT trên phần hoa hồng được hưởng. Bán hàng theo trả chậm, trả góp là phương thức bán hàng thu tiền nhiều lần, người mua thanh tóan lần đầu ngay tại thời điểm mua. Số tiền còn lại, người mua chấp nhận trả dần ở các kỳ tiếp theo và phải chịu mặt tỷ lệ lãi xuất nhất định. Xét về bản chất, hàng bán trả chậm trả góp vẫn được quyền sở hữu của đơn vị bán, nhưng quyền kiểm soát tái sản và lợi ích kinh tế sẽ thu được của tài sản đã được chuyển giao cho người mua. Vì vậy, doanh nghiệp thu nhận doanh thu bán hàng theo giá bán trả ngay và ghi nhận vào doanh thu hoạt động tài chính phần lãi trả chậm tính trên khoản phải trả nhưng trả chậm, phù hợp với thời điểm ghi nhận doanh thu được xác nhận. Phương thức hàng đổi hàng là phương thức bán hàng doanh nghiệp đem sản phẩm , vật tư, hàng hoá để đổi lấy hàng hoá khác không tương tự giá trao đổi là giá hiện hành của hàng hoá , vật tư tương ứng trên thị trường. – Tổ chức theo dõi phản ánh chính xác, đầy đủ kịp thời và giám sát chặt chẽ về tình hình hiện có sự biến động của loại thành phẩm hàng hoá về các mặt số lượng, quy cách chất lượng và giá trị. – Theo dõi, phản ánh, kiểm soát chặt chẽ hoạt động bán hàng và cung cấp dịch vụ, hoạt động tài chính và các hoạt động khác.
Bán hàng
Bán hàng là hoạt động liên quan đến việc bán một lượng hàng hóa hoặc dịch vụ trong một khoảng thời gian định trước. Người bán hoặc nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ hoàn thành bán hàng để phản hồi việc mua lại, chiếm hữu, yêu cầu hoặc tương tác trực tiếp với người mua tại điểm bán hàng. Sau khi thông qua quyền sở hữu (tài sản hoặc quyền sở hữu) sản phẩm, và thanh toán giá cả, giao kèo sẽ được thực hiện theo một mức giá thỏa thuận. Trong đó, người bán thường hoàn tất việc bán hàng trước khi được thanh toán. Trong trường hợp tương tác gián tiếp, người bán hàng hóa hoặc dịch vụ thay mặt chủ sở hữu được gọi là nhân viên bán hàng, nhưng điều này thường đề cập đến người bán hàng trong cửa hàng / cửa hàng. phổ biến, bao gồm nhân viên bán hàng, trợ lý cửa hàng và nhân viên bán lẻ. Ở các quốc gia luật theo Thông luật, doanh số bán hàng thường được điều chỉnh bởi Thông luật và bộ luật thương mại. Tại Hoa Kỳ, luật quản lý doanh thu hàng hóa có phần thống nhất trong phạm vi hầu hết các nghĩa vụ pháp lý đã áp dụng Điều 2 của Bộ luật thương mại thống nhất, mặc dù có một số biến thể không đồng nhất.
Bài viết được tham vấn chuyên môn cùng Thạc sĩ - Bác sĩ Huỳnh An Thiên - Khoa Khám bệnh và Nội khoa, Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Đà Nẵng. Thang điểm Glasgow là một công cụ đánh giá ý thức của bệnh nhân sau chấn thương não cấp tính. Sau này, thang điểm cũng được sử dụng cho các bệnh nhân chấn thương hay rối loạn tri giác nói chung. Cách thực hiện và ý nghĩa thang điểm Glasgow là một trong những tiếp cận bệnh nhân cơ bản mà tất cả các nhân viên y tế đều nắm vững. Thang đo hôn mê của Glasgow được mô tả vào năm 1974 bởi Graham Teasdale và Bryan Jennett. Đây là một công cụ giúp đánh giá tình trạng hôn mê và suy giảm ý thức dựa trên các bằng chứng thực tế. Nói một cách khác, thang điểm Glasgow là một tiêu chuẩn về mức độ ý thức của bệnh nhân bị tổn thương não cấp tính do thương tật. Theo thời gian, thang điểm Glasgow ngày càng chứng minh được vai trò của nó và trở thành thang điểm đáng tin cậy, khách quan để ghi lại mức độ ý thức ban đầu và diễn tiến sau đó ở một người sau khi bị chấn thương não, từ các nhân viên cấp cứu ban đầu tại nơi bị chấn thương như tai nạn xe hơi hoặc chấn thương thể thao, cho đến các bác sĩ chuyên khoa thần kinh hay tại các đơn vị chăm sóc đặc biệt. Cùng với các bằng chứng hình ảnh học tổn thương sọ não, thang điểm này khá đơn giản nhưng vẫn cho kết quả tương quan tốt với những chấn thương não nghiêm trọng. Theo đó, đối với những bệnh nhân cần đánh giá thang điểm Glasgow, việc này cần thực hiện lần đầu là tại hiện trường, tại thời điểm nhập viện và sau đó cứ sau bốn giờ trừ khi có chỉ định khác. Đây là những dấu hiệu lâm sàng rất quan trọng, làm cơ sở để xác định sự cải thiện hoặc diễn tiến xấu hơn trong tri giác của bệnh nhân. Thang đo hôn mê Glasgow phân tích ý thức của bệnh nhân theo ba tiêu chí khác nhau, bao gồm đáp ứng bằng mắt, bằng lời nói và vận động. Điểm tối đa cho mỗi tiêu chí trong thang điểm là khác nhau nhưng tổng điểm tối đa có thể là 15 và điểm thấp nhất có thể là 3. Mỗi chấn thương não có những đặc điểm khác nhau, về cơ địa người bệnh, cơ chế chấn thương hay mức độ tổn thương. Tuy nhiên, nhìn chung, ý nghĩa thang điểm Glasgow trong hôn mê giúp phân loại mức độ chấn thương não, điểm càng thấp tiên lượng càng nặng:. Theo đó, ngoài những chỉ định thông thường của việc đặt nội khí quản, chủ động kiểm soát hô hấp, thang điểm Glasgow từ 8 trở xuống cũng là một yếu tố thúc đẩy can thiệp sớm để bảo toàn cho tính mạng của người bệnh. Đồng thời, ý nghĩa thang điểm Glasgow trong hôn mê còn thể hiện qua diễn tiến điểm số theo thời gian. Tốc độ giảm sút của điểm càng nhanh, trong thời gian ngắn, tiên lượng cũng sẽ càng nặng. Sự đánh giá một cách tin cậy của thang điểm hôn mê Glasgow là mấu chốt trong vấn đề theo dõi và chăm sóc cho người bệnh. Cùng với các bằng chứng nghiên cứu vai trò của thang điểm Glasgow trên thực tế, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau để đánh giá thang điểm này. Tuy nhiên, các thành phần cơ bản của thang điểm dường như bất biến theo thời gian. Do đó, một trong những mục tiêu khi sử dụng thang điểm Glasgow là phải có một cách tiếp cận đúng tiêu chuẩn để đánh giá và tăng cường tính nhất quán trong việc sử dụng thang điểm này. Đây là cách giao tiếp cơ bản của người bệnh với môi trường bên ngoài. Các bước trong đánh giá đáp ứng bằng mắt và bằng lời nói vẫn hằng định trong thang điểm Glasgow từ lúc ra đời. Phản ứng mở mắt khi có lực tác động là cách phản ánh chính xác nhất với khả năng đáp ứng với các kích thích từ bên ngoài ở bệnh nhân hôn mê. Trong đó, cách đánh giá đáp ứng bằng lời nói sẽ dễ gây nhầm lẫn hơn. Người bệnh có thể trả lời bằng những từ không phù hợp nhưng vẫn hiểu nghĩa thì vẫn được đánh giá điểm cao hơn so với những âm thanh không thể hiểu được. Thành phần của các tiêu chí đáp ứng bằng vận động ban đầu gồm năm thành phần và đã được thay đổi vào năm 1976 bằng cách kết hợp thêm một bước thứ sáu. Thành phần này giúp phân biệt giữa gập duỗi theo hướng bình thường và một cách bất thường hay bệnh lý. Các nghiên cứu quan sát trước đây cho thấy có sự khác biệt tương đối lớn về khả năng đánh giá tiêu chí đáp ứng bằng vận động giữa nhân viên y tế có kinh nghiệm và các nhân viên ít kinh nghiệm hơn. Chính vì vậy, việc tập huấn, kiểm tra và tự kiểm tra trong các lần đánh giá thang điểm Glasgow là rất cần thiết nhằm đạt tính thống nhất là tin cậy cao. Ngoài ra, còn có các yếu tố khác như trình độ học vấn hay kinh nghiệm của nhân viên y tế của có thể là thay đổi kết quả đánh giá tri giác người bệnh theo thang điểm Glasgow. Tóm lại, thang điểm Glasgow có thể giúp xác định những thay đổi về ý thức ở những bệnh nhân chấn thương sọ não. Đây là một công cụ đòi hỏi các nhân viên y tế phải hiểu rõ mục đích và cách thực hiện. Trong đó, xác định đúng các bệnh nhân cần đánh giá sẽ là bước đầu tiên trong việc sử dụng thang đo đúng cách. - Giảm 50% chi phí đối với khách hàng có chỉ định điều trị sau khám. Chương trình áp dụng giới hạn cho kỹ thuật tương ứng từng bệnh viện và cho khách hàng lần đầu thực hiện kỹ thuật điều trị này tại Vinmec. Đau cột sống thắt lưng là tình trạng rất phổ biến trong cộng đồng. Theo thống kê có 80% người lớn từng bị đau lưng ít nhất một lần trong đời. Chứng đau lưng có thể xuất hiện ở mọi . Bệnh nhân Phạm Xuân Triển không may mắn bị tai nạn lao động, nhập viện Vinmec Hải Phòng trong tình trạng chấn thương vùng bụng kín. Với sự hỗ trợ không chỉ vì trách nhiệm của người thầy thuốc mà . Cách đây 5 tháng, em bị ngã xe vỡ đốt sống L2, xẹp lún đốt sống L1, thoát vị đĩa đệm và thoái hóa các đốt sống còn lại. Ngoài ra, em hay bị đau về sáng và đêm, lúc . Em bị chấn thương cột sống và đã phẫu thuật vít đinh. Kết quả phẫu thuật tốt nhưng sau phẫu thuật thì tê bàn chân, cắn các ngón chân, chạm vào da thấy ghê. Vậy bác sĩ cho em hỏi . Mẹ em năm nay 63 tuổi bị ngã gãy đốt sống cổ c5 và c6, chấn thương cột sống liệt tủy không hoàn toàn. Hiện mẹ em mổ rồi. Giờ mẹ bị liệt nửa người từ eo xuống chân, vẫn .
Thang điểm hôn mê Glasgow
Thang điểm hôn mê Glasgow (tiếng Anh: Glasgow Coma Scale) là một phương pháp đánh giá tình trạng ý thức của người bệnh một cách lượng hóa. Được thiết lập để lượng giá độ hôn mê của nạn nhân bị chấn thương đầu, hiện nay người ta còn dùng thang điểm Glasgow trong những trường hợp bệnh lý khác. Thang điểm này khá khách quan, đáng tin cậy, có giá trị tiên lượng và rất thuận tiện trong việc theo dõi diễn tiến của người bệnh. Số điểm của một bệnh nhân cụ thể được ghi một cách ngắn gọn là điểm Glasgow (tiếng Anh: Glasgow Coma Score, viết tắt GCS). Thang điểm này được giới thiệu lần đầu vào năm 1974 bởi hai giáo sư khoa thần kinh tại trường Đại học Glasgow là Graham Teasdale và Bryan J. Jennett. Về sau, hai ông cùng viết cuốn Xử trí các chấn thương đầu (Management of Head Injuries) (Nhà xuất bản FA Davis, 1981 ISBN 0803650191), là một tác phẩm nổi tiếng trong giới chuyên môn.
Bán khống chứng khoán (Short Sales) là hình thức giao dịch chứng khoán mà người bán không sở hữu. Thay vào đó, họ mượn chứng khoán để bán với mong muốn kiếm lợi nhuận bằng cách mua và trả lại chứng khoán này khi giá chứng khoán giảm. Mượn cổ phiếu nào đó khi dự báo giá sẽ giảm trong tương lai, thường thông qua môi giới. Mua lại chính cổ phiếu đã bán với giá thấp hơn khi bán ra ban đầu và thực hiện chuyển số cổ phiếu này về tài khoản người cho mượn cổ phiếu. Tuy nhiên, nếu giá cổ phiếu vẫn tiếp tục tăng thì người thực hiện bán khống bị lỗ do phải mua lại cổ phiếu với giá cao hơn để hoàn trả lại khoản đã mượn để bán. Giả sử các cổ phiếu của công ty ABC có thị giá 10.000 đồng/cổ phiếu. Người X dự báo giá cổ phiếu này tương lai sẽ giảm và muốn bán khống thông qua việc mượn 10.000 cổ phiếu của người B nhờ giới thiệu của nhân viên môi giới chứng khoán. Tổng giá trị số cổ phiếu mượn về là 100.000.000 đồng, tuy nhiên, người X chưa phải bỏ ra khoản tiền nào cho việc này mà thay vào đó sẽ nhận được 100.000.000 đồng tiền mặt nhờ bán cổ phiếu trên thị trường. Sau đó, giá cổ phiếu công ty ABC rớt giá đúng như suy luận của người X còn 8.000 đồng/cổ phiếu. Thời điểm này, người X thực hiện mua lại 10.000 cổ phiếu với tổng số tiền thực hiện là 80.000.000 đồng. Như vậy, người X có lời 20.000.000 đồng từ việc bán khống cổ phiếu ABC. Ở một diễn biến khác, người X sẽ bị lỗ 20.000.000 đồng nếu cổ phiếu công ty ABC tăng lên 12.000 đồng/cổ phiếu. Hiện nay, Ủy ban chứng khoán Nhà nước chưa cho phép áp dụng bán khống chứng khoán trên thị trường chứng khoán cơ sở. Nhà đầu tư chỉ có thể kiếm lợi nhuận nhờ sự tăng giá của cổ phiếu. Trên thế giới, một số thị trường chứng khoán cho phép bán khống như tại Mỹ, Nhật Bản hay Singapore. Một trong những tỷ phú nổi tiếng về việc bán khống chứng khoán là George Soros. Ông đã kiếm được hàng tỷ USD nhờ việc này. Thương vụ đình đàm của ông là sự kiện "Ngày thứ tư đen" năm 1992. Khí đó, Chính phủ Anh quyết định rút đồng Bảng khỏi Cơ chế tỷ giá hối đoái châu Âu (ERM) do đồng tiền này mất giá quá mạnh. George Soros bán khống hơn 10 tỷ Bảng và kiếm được khoảng 1 tỷ USD lợi nhuận. Năm 2013, Soros đã kiếm lời khoảng 1,2 tỷ USD nhờ bán khống đồng Yên Nhật khi ông tận dụng sự yếu kém của kinh tế nước này khi xảy ra giảm phát và suy thoái cùng với sự chần chừ của Ngân hàng Trung ương trong việc bơm tiền kích thích nền kinh tế. Bán khống chứng khoán không được phép trên thị trường cơ sở tại Việt Nam, nhưng nhà đầu tư có thể làm được việc này trên thị trường chứng khoán phái sinh nhờ phương thức giao dịch hai chiều của thị trường này. Cụ thể, nhà đầu tư sẽ có 2 vị thế có thể tham gia vào thị trường phái sinh là vị thế mua hợp đồng - Long position (có lợi nhuận khi điểm số tăng) và bán hợp đồng - Short position (có lợi nhuận khi điểm số giảm). Khi tham gia vị thế Short, nhà đầu tư sẽ thực hiện bán khống hợp đồng tương lai chỉ số VN30 (sản phẩm phái sinh phổ biến nhất tại Việt Nam bên cạnh Hợp đồng tương lai Trái phiếu Chính phủ). Với người đầu tư chứng khoán trên thị trường thì các kiến thức về phương pháp đầu tư luôn rất bổ ích, trong đó không thể không kể tới hình thức bán khống chứng khoán.
Bán khống
Bán khống trong tài chính có nghĩa là một cách kiếm lợi nhuận từ sự tụt giảm giá của một loại chứng khoán như cổ phiếu hay trái phiếu. Phần lớn các nhà đầu tư theo một khoản đầu tư dài hạn, hy vọng rằng giá của loại chứng khoán đó sẽ lên. Để thu lợi từ việc giá cổ phiếu đi xuống, người bán khống có thể mượn một lượng chứng khoán và bán nó đi, mong muốn rằng nó sẽ giảm giá trong tương lai để người bán khống có thể mua nó lại với mức giá thấp hơn và hưởng lợi nhuận từ sự chênh lệch giá bán và mua. Bán khống có thể gây ra tình trạng giảm giá chứng khoán trong ngắn hạn và tăng giá trong dài hạn vì khi đến hạn, nhà đầu tư phải mua chứng khoán để hoàn trả số chứng khoán đã bán khống trước đó.
sự thay đổi tốc độ phản ứng hoá học khi có mặt một chất gọi là chất XT (x. Chất xúc tác). Bản chất của hiện tượng XT: bằng tương tác với các phân tử chất phản ứng, chất XT làm cho phản ứng diễn tiến theo một lộ trình khác với trường hợp không có chất XT; năng lượng hoạt hoá đối với các phân tử phản ứng trong trường hợp này thấp hơn và do đó, tốc độ phản ứng lớn hơn. Nói cách khác, chất XT làm thay đổi (nói chung là làm nhanh) tốc độ của phản ứng nhưng không làm thay đổi cân bằng nhiệt động của hệ phản ứng. Nhiều quá trình trong công nghiệp hoá học được thực hiện nhờ có chất XT, vd. sản xuất axit sunfuric, tổng hợpamoniac, chế biến dầu mỏ, vv. Các quá trình xảy ra trong cơ thể sinh vật được thực hiện nhờ các chất XT gọi là enzim. Khái niệm XT được nhà hoá học Thuỵ Điển Becxêliut (J. J. Berzelius) đưa ra năm 1835. Ngày nay, XT là lĩnh vực quan trọng của hoá học và công nghiệp hoá chất.
Xúc tác
Quá trình xúc tác là quá trình làm thay đổi tốc độ của một phản ứng hóa học của một hay nhiều chất phản ứng, nhờ vào sự tham gia của một chất thêm vào gọi là chất xúc tác. Không giống các chất phản ứng khác trong phản ứng hóa học, một chất xúc tác không bị mất đi trong quá trình phản ứng. Với một chất xúc tác, cần ít năng lượng giải phóng hơn để đạt được trạng thái trung gian, nhưng tổng năng lượng giải phóng từ chất phản ứng sang chất tạo thành không đổi, có thể tăng tốc độ phản ứng hoá học lên nhiều lần, hàng chục lần, hàng trăm lần, nên rút ngắn được thời gian, tăng cao hiệu suất sản xuất. Chất xúc tác sinh học (hay còn gọi là Enzym) là protein đẩy nhanh tốc độ phản ứng hóa học. Chất xúc tác vật lý là chất có tác dụng thay đổi tính chất vật lý của chất bị tác dụng. Điển hình là các chất bôi trơn hoặc chất gây đông tụ. Chất xúc tác làm giảm năng lượng hoạt hóa của phản ứng. Chất xúc tác làm xúc tác cho phản ứng thuận thì cũng làm xúc tác cho phản ứng nghịch nên chất xúc tác làm cho phản ứng nhanh đạt tới trạng thái cân bằng, không làm chuyển dịch cân băng, không thay đổi ΔH.
Ngày 17-1-1961, trong bài diễn văn từ biệt Nhà Trắng trước khi chuyển giao chính quyền cho Tổng thống mới đắc cử Ken-nơ-đi, Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao nói: "Ngày nay, sự kết hợp bộ máy quân sự khổng lồ với nền công nghiệp sản xuất vũ khí tạo thành một hiện tượng hòan toàn mới trong xã hội Mỹ. Sự liên kết đó thể hiện ở tất cả các thành phố, tại nghị viện lập pháp của liên bang và các bang, cũng như trong tất cả các cơ quan của chính quyền liên bang. Trong khi thừa nhận sự cần thiết của một sự phát triển như thế, chúng ta phải thấy trước những hậu quả nghiêm trọng của sự liên kết này, đang đe dọa làm cạn kiệt nguồn lao động, tài nguyên và đe dọa chính sự tồn tại của nước Mỹ. Trong các cơ quan chính phủ, chúng ta phải ngăn chặn, không để cho cái tổ hợp công nghiệp - quân sự đó có được ảnh hưởng quá đáng, không cho phép tổ hợp công nghiệp - quân sự đe dọa tự do và dân chủ của chúng ta". 10 năm sau lời cảnh báo của Tổng thống Mỹ Ai-xen-hao, trước sự bành trướng ảnh hưởng không có giới hạn của tổ hợp công nghiệp - quân sự, Thượng nghị sĩ Mắc Ga-vơn đã nhận xét rằng, tổ hợp công nghiệp - quân sự Mỹ đã thật sự trở thành mối nguy hại từ bên trong nghiêm trọng nhất, đe dọa sự phát triển của nước Mỹ. Còn thượng nghị sĩ Prốc-xmai thì đánh giá tổ hợp công nghiệp - quân sự giống như “một con quái vật” có ảnh hưởng không chỉ ở Mỹ mà trên khắp thế giới. Trong 50 năm qua, tổ hợp quân sự - công nghiệp luôn là đề tài “nóng” được tranh luận, tố cáo và phê phán sôi nổi, thu hút nhiều nhà nghiên cứu, lý luận, hoạch định chính sách và hoạt động chính trị thuộc nhiều màu sắc, khuynh hướng chính trị khác nhau ở Mỹ cũng như trên thế giới. Theo ý kiến của đa số các nhà nghiên cứu, tổ hợp công nghiệp - quân sự Mỹ đứng đằng sau âm mưu phát động và tiến hành các cuộc chiến tranh đẫm máu, trong đó Mỹ trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia trong thế kỷ XX, như Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. Những cuộc chiến tranh đó là nơi thử nghiệm và “cấp chứng chỉ” cho các loại vũ khí mới nhất, hiện đại nhất, để tổ hợp công nghiệp - quân sự đưa vào sản xuất hàng loạt và trang bị cho quân đội Mỹ. Tổ hợp công nghiệp - quân sự cũng là nơi khởi phát các “sáng kiến chiến lược” trong cuộc chạy đua vũ trang tốn kém nhất và tàn bạo nhất trong thời kỳ “chiến tranh lạnh” giữa Mỹ và Liên Xô cùng với các nước xã hội chủ nghĩa khác. Sau “chiến tranh lạnh”, tổ hợp công nghiệp - quân sự cũng là nơi khởi phát tham vọng thực hiện chiến lược toàn cầu nhằm giành quyền bá chủ của Mỹ trên thế giới, hay còn gọi là xây dựng “Thế kỷ Mỹ”. Năm 1999, báo “Foreign Policy In Focus” (Mỹ) viết: "Tổ hợp công nghiệp - quân sự không biến mất sau khi kết thúc “chiến tranh lạnh”. Nó chỉ đơn giản là được tổ chức lại. Trong cơn sốt sáp nhập các công ty và các hãng công nghiệp quân sự do chính quyền của Tổng thống Bin Clin-tơn khuyến khích và ủng hộ, ba tập đoàn sản xuất vũ khí lớn nhất là “Lockheed Martin”, “Boeing”, “Raytheon” của Mỹ hằng năm chia nhau các hợp đồng của Lầu Năm Góc trị giá 30 tỉ USD, cho phép Lầu Năm Góc bỏ ra hơn ¼ ngân sách quân sự để mua từ súng trường đến tên lửa. Năm 1999, kế hoạch ngân sách 5 năm của Lầu Năm Góc dưới thời chính quyền Tổng thống Bin Clin-tơn xác định từ năm 1999 đến năm 2003 tăng 50% ngân sách mua vũ khí, từ 44 tỉ USD đến 63 tỉ USD mỗi năm. Ngoài ra, tổ hợp công nghiệp - quân sự bắt đầu tiến hành một chiến dịch vận động nhằm gia tăng chi phí cho xuất khẩu vũ khí ra thị trường thế giới, đưa Mỹ trở thành nước xuất khẩu vũ khí nhiều nhất thế giới. Để xuất khẩu vũ khí, tổ hợp công nghiệp - quân sự Mỹ đứng đằng sau các âm mưu gây xung đột và chiến tranh. Những sáng kiến này xuất phát trước hết từ lợi nhuận mà không xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan là bằng cách nào để bảo vệ nước Mỹ tốt hơn, ít tốn kém hơn trong thời kỳ sau "chiến tranh lạnh". Tổ hợp công nghiệp - quân sự thời kỳ sau “chiến tranh lạnh” còn là cơ sở để Mỹ thực hiện học thuyết "cuộc cách mạng trong quân sự". Cuộc cách mạng này không chỉ xuất phát từ sự đổi mới tư duy của Lầu Năm Góc, mà còn xuất phát từ những tham vọng làm giàu không biết tới giới hạn của các nhà thầu quân sự Mỹ. Theo đuổi tham vọng chế tạo các thế hệ vũ khí siêu hiện đại, không có đối thủ cạnh tranh, nhằm giành ưu thế toàn diện trên mặt đất, trên không, trong vũ trụ, trên biển, Mỹ đang tạo ra tổ hợp công nghiệp - quân sự mới. Lúc đó, trong xã hội Mỹ hình thành cái gọi là “tam giác sắt quyền lực” gồm Quốc hội, Lầu Năm Góc và giới công nghiệp quân sự. Vì thế, đằng sau cuộc chiến tranh ở Áp-ga-ni-xtan (năm2001), chiến tranh I-rắc (năm 2003), “cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố”, kế hoạch xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia mà thực chất là lá chắn tên lửa trên quy mô toàn cầu, đều có bàn tay đạo diễn của tổ hợp công nghiệp - quân sự. Theo nhiều chuyên gia nghiên cứu phương Tây, để bảo đảm an ninh và ảnh hưởng trên thế giới, Mỹ không cần duy trì một đội quân khổng lồ và cực kỳ hiện đại như vậy. Cũng chính vì thế, ngân sách quân sự của Mỹ đã phình to ra tới mức chiếm hơn một nửa tổng cộng ngân sách quân sự của tất cả các trên thế giới. Đây thực sự là một nguy cơ không chỉ đe dọa sự phát triển và thịnh vượng của nước Mỹ, mà còn là nguy cơ nghiêm trọng đối với hòa bình và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới./.Theo TCCS. Dự kiến 1.000 đại biểu chính thức tham dự Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII
Tổ hợp quân sự–công nghiệp
Thuật ngữ Tổ hợp quân sự - công nghiệp (tiếng Anh: Military–industrial complex (MIK)) được sử dụng trong các phân tích phê phán xã hội để mô tả sự hợp tác chặt chẽ và quan hệ lẫn nhau giữa các chính trị gia, quan chức quân sự và đại diện của ngành công nghiệp vũ khí. Tại Mỹ các Think tank như ví dụ PNAC (Project for the New American Century) được coi là có thể có liên quan nhóm lợi ích loại này, trong khi một bộ trưởng quốc phòng đã buộc phải từ chức ở Nga vào năm 2012, vì ông đã cố gắng để hạn chế sự toàn năng của tổ hợp loại này. Khái niệm về một tổ hợp quân sự-công nghiệp được nhà xã hội học người Mỹ Charles Wright Mills nghĩ ra vào năm 1956, trong cuốn sách Sức mạnh của giới ưu tú (The Power Elite). Mills mô tả lợi ích lẫn nhau chặt chẽ giữa quân đội, giới tinh hoa kinh tế và chính trị ở Mỹ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Phù hợp đặc biệt là chương thứ chín "Sự thăng tiến của quân đội". Thuật ngữ "tổ hợp quân sự-công nghiệp" không được Mills nói tới.
Kinh tế học ( tiếng Anh: Economics) là bộ môn khoa học xã hội giúp con người hiểu về cách thức vận hành của nền kinh tế nói chung và cách thức ứng xử của từng chủ thể tham gia vào nền kinh tế nói riêng. Kinh tế học tập trung vào việc sử dụng và quản lý các nguồn lực hạn chế để đạt được thỏa mãn tối đa nhu cầu vật chất của con người. Đặc biệt, kinh tế học nghiên cứu hành vi trong sản xuất, phân phối và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong thế giới có nguồn lực hạn chế. Phân tích kinh tế có thể được áp dụng trên toàn xã hội, trong kinh doanh , tài chính , chăm sóc sức khỏe và chính phủ. Phân tích kinh tế đôi khi cũng được áp dụng cho các đối tượng khác nhau như tội phạm, giáo dục, xã hội học, luật học và nhiều ngành khoa học khác. Nghiên cứu kinh tế học thường được chia thành hai loại. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô. Kinh tế học vi mô tập trung vào cách người tiêu dùng và nhà sản xuất cá nhân đưa ra quyết định của họ. Điều này bao gồm một người, một hộ gia đình, một doanh nghiệp hoặc một tổ chức chính phủ. Kinh tế vi mô bao gồm từ cách các cá nhân này giao dịch với nhau đến cách giá cả bị ảnh hưởng bởi cung và cầu hàng hóa. Cũng được nghiên cứu là hiệu quả và chi phí liên quan đến sản xuất hàng hóa và dịch vụ, cách phân chia và phân bổ lao động, tính không chắc chắn, rủi ro và lý thuyết trò chơi chiến lược . Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế tổng thể. Điều này có thể bao gồm một khu vực địa lý riêng biệt, một quốc gia, một lục địa hoặc thậm chí toàn thế giới. Các chủ đề được nghiên cứu bao gồm chính sách tài khóa và tiền tệ của chính phủ, tỷ lệ thất nghiệp, tăng trưởng được phản ánh bởi những thay đổi trong Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và chu kỳ kinh doanh dẫn đến mở rộng, bùng nổ, suy thoái và suy thoái. Ngoài ra còn có trường phái tư tưởng kinh tế. Hai trong số phổ biến nhất là C lassical và Keynesian . Quan điểm cổ điển tin rằng thị trường tự do là cách tốt nhất để phân bổ nguồn lực và vai trò của chính phủ nên được giới hạn trong vai trò của một trọng tài công bằng, nghiêm khắc. Ngược lại, cách tiếp cận của Keynes tin rằng thị trường không hoạt động tốt trong việc phân bổ nguồn lực một mình và chính phủ phải thỉnh thoảng bước vào và chủ động phân bổ lại nguồn lực một cách hiệu quả. Một số nhánh của tư tưởng kinh tế nhấn mạnh chủ nghĩa kinh nghiệm trong kinh tế học, thay vì logic hình thức – cụ thể là kinh tế vĩ mô hoặc kinh tế vi mô Marshall, cố gắng sử dụng các quan sát thủ tục và kiểm tra sai lệch liên quan đến khoa học tự nhiên. Vì các thí nghiệm thực sự không thể được tạo ra trong kinh tế học, các nhà kinh tế thực nghiệm dựa vào việc đơn giản hóa các giả định và phân tích dữ liệu hồi tố. Tuy nhiên, một số nhà kinh tế cho rằng kinh tế học không phù hợp với thử nghiệm thực nghiệm và các phương pháp như vậy thường tạo ra câu trả lời không chính xác hoặc không nhất quán. Website tổng hợp thông tin kinh tế thị trường, tài chính chứng khoán, kết nối doanh nghiệp. Cơ hội đầu tư khởi nghiệp, hợp tác kinh doanh. VnBiz.com.vn - Website tổng hợp thông tin kinh tế thị trường, tài chính, chứng khoán, kết nối doanh nghiệp. Cơ hội đầu tư khởi nghiệp, hợp tác kinh doanh
Xã hội học kinh tế
Xã hội học kinh tế là nghiên cứu về nguyên nhân và kết quả xã hội của các hiện tượng kinh tế khác nhau. Lĩnh vực này có thể được chia thành thời kỳ cổ điển và thời kỳ đương đại, được gọi là "Xã hội học kinh tế mới". Thời kỳ cổ điển đặc biệt quan tâm đến tính hiện đại và các khía cạnh cấu thành của nó, bao gồm hợp lý hóa, thế tục hóa, đô thị hóa và phân tầng xã hội. Vì xã hội học chủ yếu phát sinh như một phản ứng đối với sự hiện đại mang tính tư bản chủ nghĩa, kinh tế học đóng một vai trò trong quá trình tìm hiểu xã hội học cổ điển. Thuật ngữ cụ thể "xã hội học kinh tế" lần đầu tiên được đặt ra bởi William Stanley Jevons vào năm 1879, sau đó được sử dụng trong các công trình của Émile Durkheim, Max Weber và Georg Simmel từ năm 1890 đến năm 1920. Công việc của Weber về mối quan hệ giữa kinh tế và tôn giáo và "văn hóa tỉnh ngộ " của hiện đại phương Tây có lẽ là mang tính biểu tượng nhất của ra cách tiếp cận thiết lập trong giai đoạn cổ điển của xã hội học kinh tế.
Phim Harry Potter Và Hoàng Tử Lai xoay quanh năm học thứ sáu của Harry Potter ở Hogwarts là một năm đầy thú vị. Điều thú vị đầu tiên trong bộ phim online này là việc chào đón một giáo sư mới tại Hogwarts, thầy Horace Slughorn, người dạy cho Harry nhiều điều thú vị trong môn độc dược của thầy Snape hắc ám. Trong phim, thầy Slughorn còn cho Harry mượn một quyển sách cũ nát thuộc về chủ nhân tên là Hoàng Tử Lai. Quyển sách có nhiều ghi chú nguệch ngoạc ở lề mỗi trang giấy, và đây lại là người khuyên giúp Harry có thể tiến bộ trong pháp thuật của mình. Cũng trong năm học này, thầy Dumbledore mở một lớp học riêng cho Harry. Khi xem phim này, các bạn sẽ nhận ra thầy Dumbledore còn cho Harry xem những kí ức về những bí mật đen tối của quá khứ Voldermort tại lớp học riêng này. Nhiều điều thú vị và bí ẩn đang chờ đón các bạn ở cuối phim Harry Potter Và Hoàng Tử Lai.
Harry Potter và Hoàng tử lai
Harry Potter và Hoàng tử lai (tiếng Anh: Harry Potter and the Half-Blood Prince) là quyển sách thứ sáu trong bộ sách giả tưởng nổi tiếng Harry Potter của tác giả J.K. Rowling. Cũng như các quyển trước, nó cũng trở thành một trong những best-seller (sách bán chạy nhất) của năm nó xuất bản. Quyển sách này được tung ra bản tiếng Anh cùng lúc trên toàn thế giới vào ngày 16 tháng 7 năm 2005, đặc biệt là ở Anh, Mỹ, Canada và Úc. Chỉ trong 24 giờ đầu tiên, nó đã bán được hơn 6,9 triệu quyển khắp nước Mỹ. Cuộc phiêu lưu mới này gồm một loạt các khám phá về quá khứ của Chúa tể Voldemort, kèm theo những miêu tả sinh động về tuổi mới lớn với những xúc cảm ngây thơ, vui nhộn và nỗi căm hận đắng cay của Harry đối với "Hoàng tử Lai". Tại Việt Nam, quyển truyện Harry Potter này được Nhà xuất bản Trẻ xuất bản theo bản dịch của dịch giả Lý Lan vào ngày 24 tháng 9 năm 2005. Cũng như quyển năm, bản dịch này được in trọn bộ thay vì chia ra thành nhiều tập như bản dịch các quyển 1-4.
Mô tả nội dung môn học: Môn học này giới thiệu các khái niệm cơ bản và phương pháp phân tích nghĩa của ngôn ngữ tự nhiên với nhiều chủ đề về ngữ nghĩa. Môn học giúp sinh viên làm việc với dữ liệu ngôn ngữ thực. Các bài tập dựa trên các khái niệm ngữ nghĩa và các vấn đề có tính triết lý và thực tế, khuyến khích học sinh xây dựng một kiến thức vững chắc về ngữ ngữ nghĩa, làm rõ các vấn đề bằng cách phân tích và tổng hợp các đặc điểm ngữ nghĩa khác nhau trong tiếng Anh. Nội dung bao gồm các chủ đề trong lý thuyết ngữ nghĩa, phạm trù ngữ nghĩa, ngữ cảnh và suy luận, vai trò đề (chữ ngữ), và các hành vi lời nói.
Ngữ nghĩa học
Ngữ nghĩa học là nghiên cứu ngôn ngữ và triết học về ý nghĩa trong ngôn ngữ, ngôn ngữ lập trình, logic hình thức và ký hiệu học. Nó liên quan đến mối quan hệ giữa các từ, cụm từ, dấu hiệu, và những biểu tượng -và những gì chúng đại diện cho trên thực tế. Trong từ vựng khoa học quốc tế ngữ nghĩa học cũng được gọi là ý nghĩa học. Từ ngữ nghĩa được sử dụng đầu tiên bởi Michel Bréal, một nhà triết học người Pháp. Nó biểu thị một loạt các ý tưởng khác nhau từ phổ biến đến kỹ thuật cao. Nó thường được sử dụng trong ngôn ngữ thông thường để biểu thị một vấn đề về sự hiểu biết bắt nguồn từ việc lựa chọn từ hoặc hàm ý. Vấn đề hiểu biết này đã là chủ đề của nhiều câu hỏi chính thức, trong một thời gian dài, đặc biệt là trong lĩnh vực ngữ nghĩa hình thức. Trong ngôn ngữ học, đó là nghiên cứu về việc giải thích các dấu hiệu hoặc biểu tượng được sử dụng trong các tác nhân hoặc cộng đồng trong các trường hợp và bối cảnh cụ thể.
3 Những lợi ích khi sử dụng xăng sinh học3.1 Bảo vệ môi trường3.2 Bảo vệ động cơ3.3 Có ý nghĩa đối với nông nghiệp3.4 Đảm bảo an ninh năng lượng. Xăng sinh học (gasohol hay biogasoline) là một loại nhiên liệu lỏng, được tạo ra bằng cách sử dụng cồn sinh học ethanol giống như là phụ gia nhiên liệu trộn vào xăng thay thế cho phụ gia chì. Ethanol được tạo ra qua quá trình lên men các sản phẩm hữu cơ như xen-lu-lô, tinh bột, lignocellulose và các chế phẩm nông nghiệp khác. Tại Việt Nam, nguyên liệu chính để sản xuất cồn sinh học là sắn lát khô. Cồn sinh học đem pha chế với tỷ lệ thích hợp với xăng khoáng – thông thường là A92, tạo thành xăng sinh học có thể thay thế hoàn toàn cho loại xăng sử dụng phụ gia chì truyền thống. Khí hiệu: “Ex”, trong đó x là tỷ lệ phần trăm cồn sinh học ethanol. Vậy xăng sinh học E5 có thể hiểu là loại nhiên liệu chứa 5% ethanol và 95% xăng khoáng truyền thống. Tương tự, xăng E10 là loại nhiên liệu chứa 10% ethanol và 90% xăng khoán truyền thống. Từ những năm 1930, ethanol đã bắt đầu được dùng để chạy xe nhưng sau đó không được chú ý phát triển. Những năm 1970, loại nhiên liệu này được quan tâm và sử dụng ở Brazil và Mỹ. Trong hơn 10 năm trở lại đây, đứng trước nguy cơ cạn kiệt dầu mỏ và chính phủ các nước bắt đầu có những chính sách hỗ trợ xăng sinh học mới được sử dụng rộng rãi. Hiện nay, hơn 50 nước trên thế giới đã và đang sử dụng loại nhiên liệu thân thiện với môi trường này. Trong đó, dẫn đầu là Mỹ và Brazil, tiếp đến là Ấn Độ, Thái Lan,… Một số quốc gia sử dụng xăng sinh học khá sớm trong bảng sau:. Brazil sớm đưa vào sản xuất nhiên liệu ethanol dựa trên những cánh đồng mía bạt ngàn ngay từ những năm 1970. Cho đến hiện tại thì quốc gia này sản xuất ethanol lớn thứ 2 thế giới và là nước xuất khẩu ethanol nhiều nhất. Mỹ bắt đầu sử dụng E10 từ năm 2012, đến đầu năm 2013 đã có khoảng 11 triệu xe lưu thông ở nước này có khả năng chạy xăng E85. Tuy nhiên, nguồn cung nhiên liệu quá ít nên loại xăng này hầu như không sản xuất được. Cho nên, xăng sinh học phổ biến ở Mỹ vẫn là E10. Sử dụng loại xăng này tạo ra ít hơn 20% lượng khí thải độc hại (CO, HC) so với các loại xăng khoáng thông thường. Cho nên xăng sinh học được coi là rất thân thiện với môi trường. Loại xăng này có thành phần oxy cao hơn vì được pha thêm ethanol, giúp cháy sạch và triệt để hơn. Trị số octan của xăng sinh học cao, do đó khả năng chống kích nổ tốt hơn. Hơn nữa, hàm lượng oxi có trong xăng cao giúp quá trình cháy diễn ra tốt hơn, từ đó làm tăng công suất, hạn chế sự tiêu hao nhiên liệu. Đồng thời làm giảm sự ăn mòn máy móc, kéo dài tuổi thọ cho động cơ. Việc trồng sắn và một số cây khác cung cấp cho các nhà máy để sản xuất nhiên liệu sinh học đã góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động. Cùng với đó là người dân sẽ có thu nhập cao hơn, đảm bảo chất lượng cuộc sống. Điều này góp phát triển nền nông nghiệp ngày càng lớn mạnh. Hiện nay, nguồn năng lượng từ dầu mỏ đang dần có nguy cơ cạn kiệt. Chính vì vậy, việc thay thế xăng khoáng bằng xăng sinh học đóng góp một phần không nhỏ trong việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới. Xăng sinh học là loại nhiên liệu có khả năng tái tạo nên vô cùng thích hợp để thay thế các loại xăng khoáng. Loại xăng sinh học được sử dụng phổ biến ở nước ta là xăng E5, chúng là xăng A92 pha thêm 5% ethanol. Khi sử dụng nhiên liệu này bạn cần chú ý một số điều sau:. Nếu không sử dụng xe từ 3 tháng trở lên thì không nên dùng xăng E5. Bởi vì, không khí nước ta luôn nóng ẩm, nên lượng nước trong không khí sẽ dễ bị xăng hấp thụ. Từ đó, làm xăng giảm chất lượng, gây hư hỏng động cơ, gặp khó khăn khi khởi động máy do có nước tích tụ dưới đáy bình xăng. Không sử dụng xăng sinh học cho xe sử dụng động cơ cũ, cụ thể là trước năm 1993, dùng carburateur. Vì axit có trong xăng sẽ tác động xấu đến nhựa, gioăng cao su, polymer của động cơ. Thay đổi kết cấu động cơ để phù hợp với loại xăng sinh học bạn sử dụng để công suất hoạt động của động cơ được ổn định. Một lưu ý khác là nếu sử dụng xăng có tỷ lệ ethanol cao hơn 10% sẽ làm ảnh hưởng đến một số chi tiết cao su, kim loại, nhựa, polymer của động cơ. Tuy nhiên, với xăng sinh học E5 có hàm lượng ethanol là 5% nên các ảnh hưởng trên không xảy ra. Trong bài viết trên, chúng tôi đã mang đến cho các bạn đọc một số kiến thức như xăng sinh học là gì, những lợi ích và một số lưu ý khi sử dụng loại xăng này. Từ đó, ta có thể thấy được những ưu điểm vượt trội khi sử dụng loại nhiên liệu này cho xe. Đồng thời cũng khẳng định được rằng, xăng sinh học xứng đáng là một giải pháp nhiên liệu trong tương lai. Tôi là Phạm Xuân Thanh – Tôi đã có kinh nghiệm hơn 3 năm review đánh giá về các loại máy móc công nghiệp, thiết bị vệ sinh công nghiệp, cách chăm sóc xe hơi. Tôi hy vọng những kiến thức mà tôi chia sẻ có thể giúp mọi người hiểu rõ hơn về các công dụng, chức năng của các loại thiết bị công nghiệp và các cách chăm sóc xe hơi này.
Xăng sinh học
Xăng sinh học là loại xăng được sản xuất từ sinh khối ví dụ như tảo. Giống như loại xăng được sản xuất truyền thống, nó chứa từ 6 (hexane) đến 12 (dodecane) nguyên tử cacbon trên mỗi phân tử và có thể được sử dụng trong động cơ đốt trong. Xăng sinh học thì khác so về mặt hóa học so với biobutanol và ethanol sinh học, vì những loại này là alcohol, không phải hydrocarbon. Các công ty ví dụ như Diversified Energy Corporation đang phát triển các cách tiếp cận để lấy nguồn triglyceride và thông qua một quá trình khử oxy và tái tạo (bẻ gãy phân tử, đồng phân hóa, quá trình thơm hóa, và sản xuất các phân tử dạng vòng) để sản xuất ra xăng sinh học. Xăng sinh học này được làm ra với ý định tương xứng về các đặc tính hóa học, động lực học và đốt cháy với loại dầu hỏa giống nó, nhưng với nồng độ octane cao hơn. Các công ty khác cũng đang theo đuổi những cách tiếp cận tương tự dựa trên phương pháp tách tạp chất của dầu bằng hydro. Và cuối cùng là, vẫn có những công ty tập trung vào việc sử dụng sinh khối gỗ để chuyển đổi thành xăng sinh học bằng việc sử dụng các quy trình lên men.
Ba Lan có rất nhiều trường đại học được phân bố ở các thành phố khác nhau trên khắp các thành phố tại Ba Lan như: Đại học Công Nghệ Poznan, Đại học Công Nghệ Warsaw, Đại học công nghệ Cracow, Đại học Công nghệ Lodz,… Các trường đại học này ở Ba Lan luôn nổi tiếng về giáo dục và dự án nghiên cứu chất lượng cao. Đây cũng là lí do vì sao các sinh viên trong và ngoài nước khi học tập tại Ba Lan lại dành được những thành tích cao tại các kỳ thi quốc tế. Sinh viên tốt nghiệp từ các trường về công nghệ và kỹ thuật luôn có trình độ cao hơn hẳn thể hiện ở việc nhóm sinh viên đến từ Khoa điện và Kỹ thuật Hàng không của trường Đại học Công nghệ Warsaw đã xây dựng thành công vệ tinh nhân tạo đầu tiên ở Ba Lan cùng với trung tâm nghiên cứu – học viện khoa học Ba Lan. Các trường kỹ thuật ở Ba Lan là một trong số các trường được quốc tế hóa nhất ở Ba Lan. Mỗi năm các trường này đón nhận rất nhiều sinh viên quốc tế theo học đến từ nhiều quốc gia khác nhau ở khắp các châu lục. Các trường kỹ thuật tại Ba Lan có những mối liên kết với những doanh nghiệp trong nước và quốc tế. Trong đó có rất nhiều các doanh nhân nổi tiếng tốt nghiệp từ những trường đại học này. Được thành lập năm 1945, trường có hệ thống giáo dục tiên tiến, năng động với 9 khoa chính bao hàm nhiều chuyên ngành nhỏ khác nhau. Đây là ngôi trường có truyền thống đào tạo kỹ sư và được biết đến với những thành tựu về nghiên cứu, khoa học, giáo dục và hợp tác quốc tế, là một trong những trường đại học lớn nhất và hiện đại nhất Ba Lan với hơn 20 000 sinh viên mỗi năm. Mục tiêu chính của Khoa là để giáo dục các kỹ sư chuyên nghiệp và các nhà quản lý, thành thạo ngoại ngữ, có thể chứng minh kiến thức của họ trong lĩnh khoa học, kỹ thuật, công nghệ, quản lý và kinh doanh. Đại học công nghệ Gdansk tọa lạc ở thành phố Gdansk, được quốc tế công nhận về chất lượng chương trình giáo dục ở tất cả các chuyên ngành. Đại học công nghệ Gdansk đào tạo nhiều ngành học thuật gồm các khoa: nông nghiệp; hóa học; điện tử, tin học và viễn thông; Điện và kĩ thuật điều khiển; Vật lý và toán học ứng dụng; kỹ thuật dân dụng và kỹ thuật điện, Kỹ thuật máy; Kỹ thuật tàu và đại dương; Quản lý và kinh tế học với các hệ đào tạo: đại học, thạc sỹ và tiến sĩ. Với tính chất liên tục đổi mới và đề cao ứng dụng thực hành, trường đại học công nghệ Gdansk hướng đến mục tiêu đào tạo những kỹ sư quốc tế cho tương lai. Trường được thành lập năm 1816, là 1 học viện giáo dục đứng hàng đầu tại Ba Lan cung cấp trên 80 lĩnh vực nghiên cứu và chuyên môn trong khoa học nhân văn và khoa học tự nhiên. Đại học Warsaw đã được đánh giá cao không chỉ bởi uy tín của trường ở giáo dục chất lượng cao của mà còn có các chương trình nghiên cứu hiện đại, phù hợp với những nhu cầu của thế giới cũng. C sở hạ tầng thuộc Đại học UW không ngừng được cải tiến và phát triển như cải tạo, mở rộng các tòa nhà trường đại học nhằm cung cấp môi trường thuận lợi để nghiên cứu. Trường hợp tác với hầu hết các công ty nước ngoài, các tổ chức và các nền giáo dục nổi tiếng trên toàn cầu nhằm tăng cường vị trí của trường Đại học Warsaw. Thành phố Pozan cổ kính, với vẻ đẹp của riêng mình đã hấp dẫn bao trái tim từ khắp nơi trên thế giới đến đây để thưởng thức những hoạt động văn hóa đa dạng, đặc sắc cùng hàng loạt các hoạt động, sự kiện quốc tế được tổ chức tại đây. Vẻ đẹp hiện đại của thành phố được tìm thấy ở các trung tâm thương mại, nét cổ kính từ các công trình kiến trúc cổ xưa với các nhà thờ, bảo tàng, tòa thị chính. Pozan cũng mang những nét đẹp tự nhiên, với những công viên mang phạm vi nằm trong và cả vượt ra ngoài biên giới thành phố. Trong đó có công viên Citadel nằm bao quanh dấu tích của một tòa pháo đài trong Thế chiến II; Vườn quốc gia Wielkopolski, nơi có phạm vi vượt ra ngoài Poznan khoảng 10 dặm, nơi chứa một loạt sông hồ và các loại hình giải trí, những con đường mòn trải dài và những quán ăn, quán giải khát luôn luôn mở cửa chào đón du khách. – Poznan thu hút những người có tham vọng, can đảm và sẵn sàng đối mặt với những thách thức mới, với nhiều cơ hội phát triển. Bạn chỉ cần mất một vài ngày để cảm nhận bầu không khí tuyệt vời và cuộc sống thoải mái tại nơi đây. – Thành phố còn thích hợp cho các hoạt động kinh doanh, các hoạt động thưởng thức văn hóa và giải trí. – Thành phố Poznan cung cấp nền giáo dục hàng đầu. Hệ thống trường đại học tại đây chiếm những vị trí hàng đầu tại không những chỉ ở Ba Lan, nhiều trường đại học có tên tuổi trên thế giới như đại học kinh tế, đại học công nghệ, đại học khoa học y tế. Các trường học và trung tâm giáo dục là những cơ sở hiện đại nhất ở Ba lan. Ở đây bạn có thể theo đuổi đam mê, ước mơ và hòa bão của bản thân cũng như trao đổi và trải nghiệm nhiều kinh nghiệm quý báu. Cũng giống như đa phần các nước khác, có hai kì nhập học chính tại Ba Lan đó là kì xuân (tháng 2) và kì thu (tháng 10). Ngành học tại Ba Lan rất đa dạng từ khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng đến các ngành liên quan đến nghệ thuật. Các ngành sẽ được giảng dạy bằng tiếng bản địa (tiếng Ba Lan) hoặc tiếng Anh. Tuy nhiên, chương trình dạy bằng tiếng Anh và tiếng Ba Lan sẽ có những nét khác biệt. Ngành học được giảng dạy bằng tiếng Anh (bao gồm cả hệ cử nhân và thạc sỹ) tại Ba Lan được dành cho sinh viên quốc tế rất đa dạng từ kinh tế, tài chính, công nghệ, y học, ngôn ngữ, du lịch, nghệ thuật, thiết kế đồ họa, báo chí, truyền thông… nên hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu về ngành học. Học phí trung bình tại Ba Lan khoảng 3000 – 4000 euro/năm cho sinh viên quốc tế ngoài khu vực EU cùng với mức sinh hoạt phí được coi là “rất mềm” so với các nước khác tại Châu Âu, Ba Lan rõ ràng là lựa chọn lí tưởng cho sinh viên Việt Nam với ước mơ du học chi phí thấp. Đây chính là thời điểm cần vạch ra lộ trình để chuẩn bị cho kì học năm 2016 tới. Việc chọn trường và chọn ngành rất quan trọng để có định hướng rõ ràng về công việc trong tương lai. Tại Ba Lan, có trên dưới 500 trường Đại học với rất nhiều ngành học, chính vì thế việc chọn trường và chọn ngành học phù hợp với mình cần phải xác định rõ ngay từ lúc đầu. Một trong các giấy tờ quan trọng nhất và yêu cầu đầu tiên là bằng cấp, học bạ cùng chứng chỉ tiếng Anh. Khi du học Ba Lan có lợi thế là nếu chưa có đủ trình độ tiếng Anh, bạn hoàn toàn có thể theo học khóa tiếng Anh dự bị trước khi vào học thẳng chuyên ngành. Ngoài các giấy tờ về bằng cấp học bạ, chứng chỉ tiếng Anh thì khi du học Ba Lan, các học sinh cần chuẩn bị hồ sơ tài chính để chứng minh thu nhập. Đây là một trong những yếu tố rất quan trọng để xin visa tại Đại sứ quán Ba Lan. Tuy không quá “nặng nề” như khi du học các nước Anh, Úc, Mỹ, Canada. nhưng không thể vì thế mà coi nhẹ việc chứng minh tài chính tại Ba Lan. Chứng minh tài chính ngoài sổ tiết kiệm mở theo yêu cầu của Đại sứ quán cần phải chứng minh cả thu nhập hàng tháng của người đứng ra bảo lãnh tài chính cho bạn đi du học. Với nhiều bạn, chứng minh tài chính được coi là “rào cản” khi đi du học vì chưa biết cách chứng minh như thế nào. Việc chứng minh tài chính cần có sự logic để Đại sứ quán thấy bạn có đủ điều kiện để theo học tại đất nước của họ và yếu tố quan trọng để được cấp visa. Chương trình học thạc sĩ kinh tế đại học Wroclaw được mở cho các sinh viên muốn theo đuổi ngành quản trị kinh tế. Chương trình cung cấp các kĩ năng kinh tế, các năng lực cần thiết cho sinh viên để họ sẵn sàng đối mặt với những thách thức ngày càng phức tạp trong xã hội hiện nay. Khóa học bao gồm những lĩnh vực kinh tế truyền thống hay hiện đại, kinh tế vi mô, kinh tế quản lý, marketing, kế toán, thị trường vốn,… Ngoài ra, nó cũng bao gồm các vấn đề kinh tế quốc tế và quản lý kinh doanh trên toàn cầu và trong thị trường chung Châu Âu. Trường đại học Warsaw nằm ngay tại thủ đô của Ba Lan và trường có 3.500 sinh viên nước ngoài theo học các chuyên ngành: Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ…Các nhóm nghiên cứu tại trường đã giành được công nhận trên toàn thế giới trong các chương trình nghiên cứu quốc tế. Trường tham gia vào hơn 150 chương trình mỗi năm từ các nguồn vốn tài trợ của EU và các tổ chức quốc tế. Khi theo học ngành kinh tế tại trường đại học Warsaw, sinh viên sẽ được giảng dạy bằng tiếng anh và sẽ được tìm hiểu về nền kinh tế, kinh tế phát triển và kinh tế quốc tế. Sinh viên muốn theo học sẽ phải thông qua các bài kiểm tra nói hoặc viết và những nghiên cứu. Ngoài ra, sinh viên phải có bằng chứng minh về khả năng ngôn ngữ của mình và tối thiểu phải đạt loại B2 hoặc phải có giấy xác nhận từ trường đại học mà sinh viên đã theo học về khả năng ngôn ngữ của bản thân. Đại học Vistula là một trong những trường đại học tư nhân đầu tiên được thành lập tại Balan và được bầu chọn bởi rất nhiều tổ chức là trường đaị học uy tín. Năm 2014, trường có sự liên kết với trường Kinh Tế London do đó sinh viên theo học có thể nhận được bằng kép từ 2 trường đại học danh tiếng. Với ngành thạc sĩ Kinh tế, trường sẽ đào tạo sinh viên trong vòng 2 năm bằng tiếng Anh hoặc tiếng Balan. Chương trình đào tạo dựa trên các nghiên cứu thực tiễn và giáo dục tốt nhất do Bộ Khoa học và Giáo dục đề ra. Sinh viên sẽ được giảng dạy bởi các chuyên gia nổi tiếng và được đào tạo những kĩ năng xã hội giúp ích cho sự phát triển trong tương lai và có sự chuẩn bị tốt để làm việc trong môi trường quốc tế. Trường đại học Lazarski là một trong bốn trường đại học tư thục hàng đầu Balan với các chuyên ngành đào tạo về kinh tế, tài chính và quan hệ quốc tế. 96% học sinh tốt nghiệp tại trường này đều có việc làm khi ra trường. Hơn nữa sau khi tốt nghiệp, sinh viên sẽ có cơ hội làm việc tại các công ty hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế và các công ty quốc tế. Các kĩ năng đào tạo cứng cũng như kĩ năng mềm sẽ cung cấp lợi thế cho sinh viên trong tương lai. Bạn đang có kế hoạch Du học ở Ba Lan? Thật tuyệt vời, chúng tôi luôn luôn sẵn sàng chào đón bạn. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn một số thông tin hữu ích về chi phí sinh hoạt và một phép tính so sánh nho nhỏ giữa Ba Lan và các nước Châu Âu khác. Trong bảng trên bạn có thể thấy giá trung bình ở các nước. Sự chênh lệch về chi phí, giá cả giữa Ba Lan vàcác nước Châu Âu có thể dễ dàng nhìn thấy. Đối với 1 căn hộ có một phòng ngủ ở trung tâm thành phố bạn chỉ phải trả 350,00 Eur nhưng con số đó tăng lên gấp 2 lần nếu bạn ở Vương Quốc Anh hoặc Thụy Điển. Túi tiền của bạn cũng sẽ tiết kiệm hơn khi bạn thưởng thức một bữa ăn trưa tại một nhà hàng giá rẻ ở Ba Lan (quán rượu, món ăn Châu Á, thịt nướng, vv). Khi xem xét một bữa ăn có 2 món trong một nhà hàng thuộc tầm trung thì bạn sẽ phải trả 25 Euro ở đất nước Ba Lan xinh đẹp. Trong khi đó ở Thụy Điển cùng một bữa ăn như trên bạn phải mất hơn 55 Euro. Giá cả dành cho các phương tiện công cộng thì khá rẻ ở Ba Lan và Cộng Hòa Séc (hầu như là giống nhau). Tất cả phụ thuộc vào loại giảm giá và thành phố mà bạn sinh sống. Nếu bạn là người yêu thích việc luyện tập thể dục thì Ba Lan chính là một lựa chọn tuyệt vời dành cho bạn. Phí hàng tháng chỉ khoảng 25 Euro. Ngoài ra, các câu lạc bộ thể dục ở Ba Lan được trang bị rất đầy đủ máy móc và bao gồm cả dịch vụ phòng tắm hơi, rất tiện lợi cho bạn thư giãn sau giờ tập luyện căng thẳng. Trong khoảng thời gian rảnh rỗi, bạn nên đi xem phim vì giá vé xem phim 3D chỉ 25 Euro cao hơn một chút nhưng vẫn được coi là rẻ so với Vương Quốc Anh, Đức và Thụy Điển.
Trường đại học Tiếng Ba Lan cho Người nước ngoài Łódź
Trường tiếng Ba Lan cho người nước ngoài (SoPfF / SJPdC) - một tổ chức giáo dục, một phần của Đại học Łódź. Mục đích chính của nó là chuẩn bị cho sinh viên nước ngoài học tại các trường đại học Ba Lan. Trường tiếng Ba Lan cho người nước ngoài được thành lập năm 1952 tại Łódź. Lúc đầu, nó chỉ tập trung vào việc cho phép mọi người từ các quốc gia khác học tại các trường đại học Ba Lan, nhưng từ đầu những năm 1990, nó đã được chuyển đổi thành một cơ sở giáo dục và học viện. SoPfF ở Łódź là tổ chức lâu đời nhất của loại hình này ở Ba Lan và trong hơn ba mươi năm, đây là trường duy nhất hoạt động ở loại hình này trong nước. Nó đã giáo dục mọi người từ hơn 80 quốc gia trên thế giới. Mỗi năm có khoảng 300 sinh viên tốt nghiệp từ SoPfF. Trong tất cả các năm hoạt động của trường, nhân viên của trường đã cố gắng tạo ra các sách bài tập độc đáo cho người nước ngoài sẵn sàng học tiếng Ba Lan. Họ cũng đã chuẩn bị, với sự giúp đỡ đáng kể của chính các sinh viên, các từ vựng đa ngôn ngữ khác nhau - một sự trợ giúp vô giá cho bất kỳ ai dạy và học tiếng Ba Lan.
Bê tông tươi còn gọi là bê tông thương phẩm, có thể hiểu đơn giản là loại bê tông được trộn sẵn. Bê tông tươi là hỗn hợp các nguyên liệu bao gồm cát, đá, xi măng, nước và phụ gia theo tỉ lệ chuẩn, tạo ra sản phẩm bê tông có đặc tính và cường độ khác nhau. Sử dụng bê tông tươi còn phụ thuộc vào đặc điểm của từng công trình, dự án. Không phải nhà xây hay công trình nào cũng sử dụng bê tông tươi. Hiện nay, bê tông tươi được ứng dụng rộng rãi cho các công trình công nghiệp xây dựng. Chẳng hạn như nhà cao tầng, nhà phố, nhà có diện tích nhỏ hẹp, biệt thự cao cấp cùng một số công trình nhà ở dân dụng khác. So với bê tông thủ công, bê tông tươi có những điểm vượt trội, tiện ích hơn, đa năng hơn, nên chẳng có gì lạ khi sản phẩm bê tông tươi ngày càng được ưu ái. Hiện nay ứng dụng của bê tông tươi ngày càng rộng. Không chỉ dừng lại trong các công trình dự án ở trên, bê tông tươi còn được dùng để làm móng, mái, trở thành vật liệu chính để xây nhà bê tông cốt thép. Nói chung, bê tông tươi đang dần chiếm lĩnh phần lớn thị trường, thay thế bê tông thủ công. Tương lai không xa, có lẽ bê tông tươi sẽ “thống trị” hoàn toàn. – Sử dụng bê tông tươi, quá trình thi công nhanh hơn, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí. Bởi vì, suy cho cùng bê tông thủ công phải có quá trình chuyên chở vật liệu rồi tiến hành trộn mới đưa vào sử dụng, tốn khá nhiều thời gian trong khâu trộn bê tông này. – Không tốn mặt bằng tập kết vật liệu, cũng không tốn mặt bằng để trộn bê tông. Do đó phù hợp với các công trình diện tích nhỏ, mặt bằng đất hẹp. Vì bê tông tươi đã được trộn sẵn theo tỉ lệ chuẩn nhất định, sử dụng trực tiếp trong quá trình xây dựng, không trộn. – Trong quá trình xây dựng, tiết kiệm thời gian đồng nghĩa với việc tiết kiệm chi phí. Hơn nữa, bê tông thủ công cần tốn phí vận chuyển vật liệu, nhân công trộn bê tông, nguyên vật liệu rơi vãi, hao mòn trong xây dựng. Bê tông tươi tiết kiệm được khoản chi phí này. – Sạch sẽ, gọn gàng, đảm bảo vệ sinh môi trường cho công trình cũng như việc đảm bảo vệ sinh cho hàng xóm lân cận. Hơn nữa, những ngày trở gió, việc trộn bê tông rất khó khăn, làm bẩn mặt bằng. Nếu dùng bê tông tươi thì bạn không gặp phải tình trạng này. – Công nhân không vất vả, không cần xách bê tông lên mà chỉ cần bươm lên bằng ca bơm. – Vì trộn bằng máy móc và kiểm định theo tiêu chuẩn nên chất lượng đồng đều hơn. – Giảm tối đa các rủi ro, nguy hiểm trong quá trình xây dựng vì cách thi công bê tông tươi đơn giản, dẫn bằng ca bơm, không cần khuân vác hay kéo ròng rọc từng xô bê tông. – Dự toán chi phí xây nhà đổ bê tông tươi đơn giản hơn, bỏ đi các khâu tính toán vật liệu lắt nhắt như đất, cát, đá, sỏi, xi măng… Dùng bê tông tươi, xác định chi phí từ ban đầu. Chỉ cần chọn nhà sản xuất đáng tin cậy mà bạn cảm thấy an tâm, sau đó đặt hàng là xong. – Khi đổ bê tông tươi, không gây tiếng ồn như bê tông thủ công, nhất là khi trời mưa gió. – Phù hợp cho mọi địa hình thi công, tiện ích của bê tông tươi lý tưởng trên cả mong đợi. – Khi thi công nhà gặp trời mưa hoặc xây nhà mùa mưa, dùng bê tông tươi dễ bảo quản. – Trong bê tông tươi có các chất phụ gia, bổ sung thêm khả năng chống thấm, cách nhiệt, tính liên kết nhanh. Do đó, quá trình đổ bê tông tươi diễn ra tiện lợi, nhanh chóng hơn. – Bê tông tươi được trộn sẵn nên rất khó kiểm tra chất lượng bê tông tươi. Thành phần trong bê tông tươi rất khó được kiểm chứng nếu như gia chủ hoặc chủ đầu tư không có kinh nghiệm. Một số nhà thầu lợi dụng việc này để thay đổi vật liệu tốt thành vật liệu xấu. Bê tông tươi không chất lượng, thành phẩm sau khi xây xong khó đạt tiêu chuẩn. – Bê tông tươi phải được sử dụng ngay sau khi xuất xưởng, nếu không để lâu ngày chất lượng sẽ giảm nhanh. Chưa kể, một số trường hợp dùng xi măng giảm thêm phụ gia kết dính tạo ra bê tông tươi “dỏm”. Ngoài ra còn có hình thức gian lận là chủ thầy hoặc tài xế xe chở bê tông “hợp tác” với nhân viên trộn bê tông để kiếm tiền riêng, bỏ túi từ 100.000 – 300.000 đồng/m3 bê tông tươi. Hình thức này gặp khá nhiều nếu như chủ nhà không có kinh nghiệm. Do đó, cần cẩn trọng hơn khi sử dụng bê tông tươi trong xây dựng. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chia sẻ thông tin đến Quý khách là hiện tại LE VAN GROUP chỉ cung cấp 2 dịch vụ chính là xây nhà trọn gói và sửa nhà trọn gói, chúng tôi không cung cấp bê tông. Xây dựng nhà xưởng là một trong những vấn đề được nhà đầu tư quan tâm sâu sắc. Chọn dịch vụ xây dựng nhà phố đẹp và những lưu ý cần biết “Nhà là nơi bão dừng sau. Vật liệu xi măng, còn được gọi là xi măng. Dưới tác động của vật lý và hóa học, nó. Mã số doanh nghiệp: 0312064778 được đăng ký bởi Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Tp. HCM ngày 26/11/2012
Bê tông tươi
Bê tông tươi là bê tông trộn sẵn, hay gọi là bê tông thương phẩm. Đây là một hỗn hợp gồm cốt liệu cát, đá, xi măng, nước và phụ gia theo những tỉ lệ tiêu chuẩn để có sản phẩm bê tông với từng đặc tính cường độ khác nhau. Sản phẩm bê tông tươi được ứng dụng cho các công trình công nghiệp, cao tầng và cả các công trình nhà dân dụng với nhiều ưu điểm vượt trội so với việc trộn thủ công thông thường, do việc sản xuất tự động bằng máy móc và quản lý cốt liệu từ khâu đầu vào giúp kiểm soát chất lượng, hơn nữa rút ngắn thời gian thi công và mặt bằng tập trung vật liệu. Trên thị trường hiện nay, có nhiều hãng cung cấp bê tông tươi tại nhiều khu vực khác nhau, tập trung phần lớn tại các thành phố lớn và vùng xây dựng phát triển. Bê tông tươi được ứng dụng cho các công trình xây dựng và cả các công trình nhà dân dụng với nhiều ưu điểm vượt trội so với việc trộn bê tông thủ công thông thường. Bởi việc sản xuất tự động bằng máy móc và quản lý cốt liệu từ khâu đầu vào đã giúp bạn kiểm soát chất lượng.
Mức độ nguy hiểm của bệnh viêm dạ dày ruột1. Mất cân bằng cơ thể2. Biến chứng ở cơ quan khác3. Hội chứng tán huyết u-rê máu5. Giảm tác dụng của thuốc điều trị. Cách điều trị bệnh viêm dạ dày ruột1. Điều chỉnh chế độ ăn uống3. Phương án cho trẻ nhỏ. Viêm dạ dày ruột là bệnh về đường tiêu hóa rất phổ biến hiện nay. Mặc dù không quá nguy hiểm nhưng nếu phát hiện muộn và điều trị sai cách thì những hệ lụy nghiêm trọng rất dễ phát sinh. Chính vì thế mà bạn cần nắm được các thông tin về bệnh để chủ động hơn trong điều trị cũng như phòng ngừa. Viêm dạ dày ruột là thuật ngữ mô tả sự nhiễm trùng xảy ra ở đường tiêu hóa do các tác nhân như vi khuẩn, virus kích hoạt nên. Bệnh lý này thường gây ra rất nhiều triệu chứng khó chịu ảnh hưởng tới sức khỏe và cuộc sống. Bệnh viêm dạ dày ruột nếu sớm phát hiện và có biện pháp can thiệp đúng đắn thì có thể hết trong khoảng 7 – 10 ngày. Tuy nhiên, đối với trường hợp bệnh do virus gây ra thì đến nay vẫn chưa có phương pháp điều trị chuyên biệt. Nhiễm vi khuẩn, ký sinh trùng hay virus được các chuyên gia cho rằng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự bùng phát của bệnh viêm dạ dày ruột. Điều này được diễn giải cụ thể như sau:. Có 2 chủng viurus được cho là tác nhân chính gây ra bệnh viêm dạ dày cấp đó là Norovirus và Rotavirus. Norovirus: Có thể lây lan qua đường ăn uống hay tiếp xúc với những đối tượng đang bị nhiễm loại virus này. Rotavirus: Ảnh hưởng nhiều nhất đến trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Rotavirus thường lây lan rất nhanh và có thể làm bùng phát các ổ dịch. Đây cũng là một nguyên nhân phổ biến khiến bạn mắc bệnh viêm dạ dày ruột. E.Coli và Salmonella là 2 tác nhân chính gây ra bệnh lý này. Trong đó vi khuẩn Salmonella thường có ở các loại bò sát, gia cầm hay trứng. Các chuyên gia cho biết, mặc dù không phổ biến nhưng một số loại ký sinh trùng cũng có thể là tác nhân. Và phổ biến nhất phải kể đến là Giardia lamblia, chiếm gần 10% trong tổng số những nguyên nhân gây bệnh. Ngoài ra, một số yếu tố khác cũng được cho là có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Điển hình như các yếu tố sau đây:. Tác dụng phụ của thuốc: Một số loại thuốc như kháng sinh hay chống viêm không steroid hay thuốc kháng acid có chứa magie thường rất dễ gây ra các phản ứng không mong muốn ở đường tiêu hóa. Các bệnh về tiêu hóa khác: Điển hình như bệnh Corhn, viêm loét dạ dày tá tràng, bệnh celiac, hội chứng ruột kích thích cũng có thể làm xuất hiện các triệu chứng của bệnh viêm dạ dày ruột. Dị ứng thực phẩm: Không dung nạp đường sữa hay chất làm ngọt nhân tạo hoặc phản ứng với các thực phẩm dễ gây kích ứng cũng có thể dẫn đến rối loạn tiêu hóa và phát sinh triệu chứng. Tiêu chảy kèm theo biểu hiện nôn ói. Trong một số trường hợp nhiễm trùng thì phân có thể dính dịch nhầy hay máu. Thường xuyên bị đau bụng. Tuy nhiên cơn đau có thể giảm bớt sau mỗi lần đi tiêu. Ngoài ra bạn có thể gặp các biểu hiện toàn thân khác như đau đầu, đau cơ hay sốt. Tình trạng tiêu chảy và nôn ói kéo dài sẽ rất dễ khiến cho cơ thể bị mất nước. Lúc này người bệnh sẽ thường gặp phải một số triệu chứng điển hình như:. Trường hợp mất nước nặng còn gây ra các triệu chứng như nhịp tim nhanh, lẫn lộn, đi tiểu rất ít, hôn mê… Đây là tình trạng cấp cứu cần nhận được chăm sóc y tế kịp thời. Tình trạng mất nước khi bị viêm dạ dày ruột thường xuất hiện ở người lớn tuổi, phụ nữ mang thai hay khi bị tiêu chảy nặng. Bệnh viêm dạ dày ruột trong trường hợp không được khắc phục kịp thời sẽ rất dễ phát sinh ra các biến chứng không mong muốn. Nhất là ở các đối tượng như người già, trẻ em hay phụ nữ mang thai. Ngoài ra, những người đang mắc bệnh mãn tính hay có hệ miễn dịch suy yếu cũng có nguy cơ cao gặp biến chứng. Sử dụng steroid trong thời gian dài hay điều trị ung thư bằng hóa trị cũng được cho là làm tăng nguy cơ phát sinh biến chứng. Tình trạng này sẽ phát sinh khi bạn bị mất nước và điện giải nặng. Đây được cho là biến chứng thường gặp nhất của bệnh lý này. Mất nước có thể làm tụt huyết áp, đồng thời cũng sẽ làm giảm cung cấp máu tới nhiều cơ quan khác trong cơ thể. Nếu không được can thiệp kịp thời có thể dẫn đến suy thận cấp. Các cơ quan khác trong cơ thể có phản ứng với hiện tượng nhiễm trùng tiêu hóa là một vấn đề hiếm gặp. Tuy nhiên, bệnh viêm dạ dày ruột vẫn có thể gây ra một số vấn đề như viêm da, viêm mắt hay viêm khớp…. Bệnh viêm dạ dày ruột có thể khiến cho thành ruột của bạn bị tổn thương. Điều này có thể làm giảm sản sinh men lactase cần thiết cho việc tiêu hóa lactose trong sữa. Không dung nạp lactose thường sẽ đi kèm với các triệu chứng như đau bụng, đầy bụng, đi tiêu nhiều nước sau khi uống sữa. Tình trạng này có thể sẽ tự thuyên giảm khi hết nhiễm trùng, thành ruột được phục hồi trở lại. Đây là một trong những biến chứng hiếm gặp, thường phát sinh ở bệnh viêm dạ dày ruột do một số chủng E.coli gây ra. Hội chứng này có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng như giảm tiểu cầu, thiếu máu hay suy thận. Tình trạng tiêu chảy và nôn ói thường xuyên mà bệnh viêm dạ dày ruột gây ra sẽ làm giảm lượng thuốc điều trị hấp thu vào cơ thể. Điển hình nhất là các thuốc trị đái tháo đường, thuốc điều trị động kinh hay thuốc tránh thai. Hiện nay, việc điều trị bệnh viêm dạ dày ruột tập trung chủ yếu vào vấn đề bổ sung nước và chăm sóc dưới sự theo dõi của bác sĩ. Các loại thuốc chỉ được cân nhắc chỉ định trong những trường hợp thật sự cần thiết. Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu mà bạn cần lưu tâm khi bị bệnh viêm dạ dày ruột. Bởi triệu chứng điển hình nhất của bệnh viêm dạ dày ruột là tiêu chảy kèm theo nôn ói nhiều. Điều này khiến cho cơ thể mất nước rất nhanh. Nếu không kịp thời bổ sung nước thì người bệnh có thể gặp phải các triệu chứng nghiêm trọng. Nhất là khi mất nước hoặc điện giải ở mức độ nặng. Bác sĩ khuyên rằng, sau mỗi lần bị tiêu chảy, bạn nên bổ sung cho cơ thể ít nhất 200ml nước. Nếu bạn bị nôn ói thì 5 – 10 phút sau nên bổ sung nước nhưng chú ý uống với tốc độ chậm rãi. Bình thường mỗi ngày bạn cần đáp ứng cho cơ thể đủ 2 lít nước nhưng khi đang bị mất nước thì phải uống nhiều hơn. Nên bổ sung nước lọc và đừng dại dột thay thế nó với các loại nước có chứa đường. Khi đang bị viêm dạ dày ruột thì đồng nghĩa với việc đường tiêu hóa của bạn đang bị tổn thương. Việc điều chỉnh chế độ ăn uống được cho là có vai trò rất quan trọng trong việc cải thiện triệu chứng và hàn gắn tổn thương. Lúc này bạn nên tạm ngưng các loại thức ăn rắn và thay vào đó là ăn các thực phẩm dễ tiêu như cháo, súp, cơm nhão, bánh mỳ nướng… Cần loại bỏ các thực phẩm như chất béo, sữa, cafeine ra khỏi khẩu phần ăn. Bởi chúng có thể gây kích thích niêm mạc đường ruột đang bị tổn thương. Đừng quên chia nhỏ bữa ăn cũng như chú ý cân bằng lượng thức ăn trong các bữa để giảm áp lực cho hệ tiêu hóa. Đồng thời nên bổ sung một số chế phẩm sữa lên men để giúp tổn thương ở đường ruột được phục hồi nhanh chóng hơn. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể chỉ định một số loại thuốc phù hợp để khắc phục triệu chứng và hỗ trợ cải thiện bệnh. Khi xuất hiện các biểu hiện nôn ói, tiêu chảy hay nhiễm khuẩn nặng thì các thuốc chống nôn, thuốc kháng sinh hay thuốc chống động kinh có thể sẽ được dùng. Tuy nhiên, tất cả các thuốc này đều tiềm ẩn nguy cơ gây ra rất nhiều tác dụng phụ. Nên tham khảo kỹ ý kiến bác sĩ trước khi điều trị với bất cứ loại thuốc nào. Đặc biệt tuyệt đối không tự ý mua các thuốc giảm đau hay kháng viêm về dùng để khắc phục triệu chứng của bệnh. Trong trường hợp đối tượng bị viêm dạ dày ruột là trẻ em thì các bậc phụ huynh cần chú ý nhiều hơn. Bởi trẻ em là nhóm đối tượng nhạy cảm nên việc điều trị bệnh cũng sẽ có phần phức tạp hơn. Bù nước và điện giải: Cần sử dụng các dung dịch chứa chất điện giải chuyện biệt dành cho trẻ em. Nên tham khảo kỹ ý kiến bác sĩ để lựa chọn đúng loại và dùng đúng cách. Chế độ ăn: Cho trẻ ăn các thực phẩm dễ tiêu hóa, đồng thời chia nhỏ bữa ăn để hệ tiêu hóa của trẻ làm việc tốt hơn. Hạn chế thức ăn nhanh, đồ ăn và thức uống nhiều đường. Nghỉ ngơi: Tránh để trẻ vận động mạnh hay la hét nhiều bởi có thể khiến triệu chứng thêm nặng nề. Sử dụng thuốc: Tuyệt đối không tự ý cho trẻ dùng bất cứ một loại thuốc nào khi chưa nhận được chỉ định từ phía bác sĩ. Vệ sinh: Giữ gìn vệ sinh cá nhân cho trẻ, thường xuyên thay mới quần áo ít nhất 24 giờ/lần. Trước khi tiếp xúc với trẻ bạn nên rửa tay sạch sẽ. Viêm dạ dày ruột là bệnh lý không chỉ dễ lây lan và còn dễ tái phát ngay cả khi đã kết thúc quá trình điều trị. Điều chỉnh những thói quen trong sinh hoạt và ăn uống là cách tốt nhất để bạn ngăn ngừa bệnh lý này. Tránh dùng chung đồ dùng cá nhân, chén bát với những đối tượng đang sống chung với bệnh. Trước khi nấu ăn cần rửa kỹ tất cả các loại thực phẩm với nước muối loãng. Hạn chế đến những nơi đông người hay những nơi có không khí ô nhiễm, nhiều mầm bệnh. Ăn uống lành mạnh, thường xuyên rèn luyện thể dục thể thao mỗi ngày để nâng cao đề kháng cũng như miễn dịch cho cơ thể. Đối với bệnh viêm dạ dày ruột, để khắc phục nhanh triệu chứng thì bạn cần phát hiện đúng cách. Chú ý chăm sóc đúng cách, đồng thời sử dụng thuốc khi được chỉ định để nhanh chóng đẩy lùi bệnh. Tránh chủ quan để bệnh diễn tiến nặng khiến việc điều trị trở nên khó khăn và dễ phát sinh biến chứng nguy hiểm. Viêm dạ dày đang ngày càng phổ biến và có xu hướng tăng cao trong những năm gần đây. Viêm loét dạ dày là một trong những căn bệnh về đường tiêu hóa thường gặp. Bệnh lý này xảy…
Viêm dạ dày ruột
Viêm dạ dày ruột hoặc tiêu chảy nhiễm trùng (tiếng Anh: gastroenteritis) là một tình trạng viêm nhiễm đường tiêu hóa liên quan đến cả dạ dày và ruột non. Nó gây ra hỗn hợp vừa tiêu chảy, nôn mửa, đau bụng và chuột rút. Hệ quả là sốt, thiếu năng lượng và mất nước có thể xảy ra, và có thể kéo dài ít hơn 2 tuần. Viêm dạ dày ruột đã được gọi là viêm dạ dày và virus dạ dày. Mặc dù không liên quan đến cúm, nó cũng đã được gọi nhầm là cúm dạ dày và bệnh cúm dạ dày. Viêm dạ dày ruột thường do virus gây ra. Tuy nhiên, vi khuẩn, ký sinh trùng và nấm cũng có thể gây viêm dạ dày ruột. Ở trẻ em, virus rota là nguyên nhân phổ biến nhất gây ra bệnh nặng. Ở người lớn, norovirus và Campylobacter là những nguyên nhân phổ biến. Ăn thực phẩm chế biến không đúng cách, uống nước bị ô nhiễm hoặc tiếp xúc gần với người bị nhiễm bệnh có thể lây bệnh. Việc điều trị nói chung là giống nhau khi có hoặc không có chẩn đoán xác định, vì vậy thường không cần xét nghiệm để xác nhận.
Bảo vệ về mặt pháp lý cho trẻ em chưa đầy đủ, chưa có những điều luật thực sự rõ ràng về vấn đề lạm dụng trẻ em. Bên cạnh đó, hệ thống thực thi luật pháp còn yếu thậm chí thiếu nghiêm túc trong việc xử lý những đối tượng lạm dụng trẻ em. Sự yếu kém trong các trong việc quản lý các hoạt động của các cơ sở, trung tâm việc làm, dịch vụ giải trí dẫn đến tình trạng lách luật để lạm dụng sức lao động như tăng giờ làm, giảm tiền công, không chú ý tới sự phát triển của trẻ. Trước hết cần rà soát và tiến hành sửa đổi, bổ xung những điều luật liên quan đến chăm sóc, bảo vệ trẻ em và chính sách quốc gia cho phù hợp với công ước quốc tế về Quyền trẻ em, công ước xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) cũng như Hiệp ước quốc tế khác về quyền con người. Xây dựng hệ thống quốc gia tiếp nhận, theo dõi, điều tra các trường hợp khiếu nại về lạm dụng và sao nhãng trẻ em, tiến hành truy tố những đối tượng vi phạm. Tập huấn cho các cán bộ pháp luật, cán bộ làm công tác xã hội và các kiểm soát viên về cách thức giải quyết về các trường hợp lạm dụng trẻ em theo phương thức thân thiện với trẻ. Cần nâng cao việc tuyên truyền nhận thức về Quyền trẻ em nói chung, lạm dụng trẻ em nói riêng thông qua các mô hình Câu lạc bộ Pháp luật, qua báo chí và các chương trình phát thanh, truyền hình. Việc này cần phải có định hướng lâu dài và liên tục để trong đó nhấn mạnh đến tuyên truyền ngăn chặn lạm dụng trẻ em cũng như hậu quả của việc ngược đãi trẻ em góp phần hình thành nên các quan điểm chống lại sự lạm dụng trẻ em (nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi của cộng đồng về lạm dụng trẻ em). Bên cạnh đó, cần huy động cộng đồng tham gia vào công tác truyền thông phòng chống lạm dụng trẻ em. Trẻ em có thể là những người tham gia tích cực vào công tác phòng chống lạm dụng trẻ em. Cần có các diễn đàn dành riêng cho trẻ em trên các phương tiện thông tin đại chúng để các em nói lên tiếng nói của mình. Việc tiến hành một nghiên cứu mang tầm quốc gia về lạm dụng trẻ em ở Việt Nam là cần thiết trong đó thực hiện rõ mục tiêu: lấy trẻ em làm trung tâm, qua đó có thể giúp các nhà hoạch định chính sách đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế hiện tượng lạm dụng trẻ em cũng như có cái nhìn đầy đủ và khái quát về vấn đề lạm dụng trẻ em. Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển (TaDRI) là một tổ chức khoa học công nghệ phi chính phủ, phi lợi nhuận được thành lập theo quyết định số 1364/QĐ - LHH của Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam ngày 11/10/2006 và giấy phép hoạt động khoa học công nghệ số A-571 do Bộ Khoa học.
Lạm dụng trẻ em
Lạm dụng trẻ em hoặc ngược đãi trẻ em là ngược đãi về thể chất, tình dục và/hoặc tâm lý hoặc bỏ bê trẻ em, đặc biệt là bởi cha mẹ hoặc người chăm sóc. Lạm dụng trẻ em có thể bao gồm bất kỳ hành động hoặc không hành động của cha mẹ hoặc người chăm sóc dẫn đến tác hại thực sự hoặc tiềm ẩn cho trẻ và có thể xảy ra trong nhà của trẻ, hoặc trong các tổ chức, trường học hoặc cộng đồng mà trẻ tương tác. Các thuật ngữ lạm dụng trẻ em và ngược đãi trẻ em thường được sử dụng thay thế cho nhau, mặc dù một số nhà nghiên cứu đã phân biệt giữa chúng, coi việc ngược đãi trẻ em như một thuật ngữ ô để che giấu sự bỏ bê, bóc lột và buôn bán trẻ. Các khu vực pháp lý khác nhau đã phát triển các định nghĩa riêng về những gì cấu thành lạm dụng trẻ em nhằm mục đích đưa trẻ em ra khỏi gia đình hoặc truy tố tội hình sự. Toàn bộ lịch sử được ghi lại chứa các tài liệu tham khảo về các hành vi có thể được mô tả là lạm dụng trẻ em hoặc ngược đãi trẻ em, nhưng các nghiên cứu chuyên môn về chủ đề này thường được coi là đã bắt đầu từ những năm 1960.
Ngành công nghiệp thú cưng được đánh giá là có tiềm năng lớn tại Việt Nam đang phát triển với sự tham gia của rất nhiều các tên tuổi lớn trong và ngoài nước. Doanh nghiệp hãy tận dụng tốt cơ hội để đón đầu làn sóng đang tăng trưởng nhanh này. Theo báo cáo của Pet Fair Asia, doanh số của ngành Chăm sóc thú cưng tại khu vực Đông Nam Á là 4 tỷ USD, trong đó Việt Nam chiếm 13% đương với 500 triệu USD và dự báo tăng trưởng 11% một năm, điều này khẳng định tiềm năng của thị trường thú cưng là rất lớn. Bên cạnh đó, Việt Nam đang sở hữu một thế hệ người trẻ năng động, hiểu biết và tư duy cởi mở, cùng với mức độ thâm nhập internet cao. Theo báo cáo của We are social tháng 1 năm 2021, Việt Nam có gần 72 triệu người dùng internet, trong đó 68 triệu thường xuyên hoạt động trên các nền tảng mạng xã hội và dành hơn 6h đồng hồ mỗi ngày sử dụng internet.Thị trường thú cưng tiềm năng và thói quen, hành vi sử dụng internet của 72 triệu người dùng Việt Nam tạo cơ hội lớn để thâm nhập thị trường cho nền tảng công nghệ mới như Pety, thoả mãn nhu cầu chia sẻ và thể hiện bản thân, tạo lập phong cách sống mới không chỉ trong cộng đồng yêu thú cưng mà cả giới trẻ. Theo xu thế chung, khi đời sống vật chất càng đầy đủ thì nhu cầu tinh thần của con người ngày càng cao. Họ bắt đầu tìm kiếm những hoạt động khác để làm phong phú cuộc sống, trong đó phải kể tới nuôi thú cưng. Với thói quen nuôi chó mèo trong nhà có từ xưa, ngày nay con người, đặc biệt là những người trẻ Việt Nam đang biến nó thành một phong cách sống, dành nhiều tình cảm và chăm sóc vật nuôi như một thành viên trong gia đình. Với lợi thế về cộng đồng 30 ngàn thành viên trên Ứng dụng của người yêu thú cưng Pety, chúng tôi đã tiến hành khảo sát, đồng thời tham khảo một số báo cáo quốc tế, và có được báo cáo thực tế về hành vi, nhu cầu của người nuôi thú cưng tại Việt Nam như sau. Chúng tôi hi vọng giúp được quý doanh nghiệp, các marketer ngành hàng thú cưng có thêm insight để lập kế hoạch kinh doanh và marketing phù hợp. Trong những năm gần đây, số lượng và chất lượng người nuôi thú cưng tại Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Thú cưng ngày nay được nhân cách hoá và trở thành một thành viên trong gia đình. Điều đó mở ra rất nhiều cơ hội cho các sản phẩm và dịch vụ thú cưng phát triển. Theo khảo sát, chi phí dành cho mua đồ ăn cho thú cưng chiếm tới 77% trong khi đó, tỷ lệ dành cho mua đồ dùng phụ kiện, chăm sóc là 23%. Tại Việt Nam, thị trường thức ăn dành cho chó rất đa dạng với các thương hiệu nhập khẩu từ Pháp, Mỹ, Thái Lan… Khách hàng có thể dễ dàng thay đổi khẩu vị cho thú cưng của mình từ thức ăn dạng hạt đóng túi với thịt xay đóng hộp. Theo khảo sát, 14% thức ăn cho thú cưng là thức ăn khô hoặc thức ăn hộp, 29% sử dụng thức ăn tươi nhà làm. Tuy nhiên, 51% họ ưa thích cách sử dụng thức ăn hộp và thức ăn nhà làm. Điều này cũng dễ hiểu khi thức ăn khô có ưu điểm là tiện lợi, dễ dàng sử dụng, dễ dàng sử dụng. Trong khi đó thức ăn ướt lại có dinh dưỡng và hương vị thơm ngon hơn. Người nuôi thú cưng có xu hướng kết hợp 2 phương pháp trên cho thú cưng. Dịch vụ cho thú cưng cũng ngày càng đa dạng, bạn có thể đã biết tới dịch vụ spa grooming, thăm khám và trị bệnh, trông giữ thú cưng, phối và nhân giống. nhưng cũng có một số dịch vụ khá đặc biệt như hoả thiêu và nghĩa trang cho thú cưng với chi phí cũng khá đắt đỏ từ 2,5-10 triệu đồng, tùy vào từng gói dịch vụ. Cũng theo khảo sát, có tới 87% khách hàng tìm kiếm thông tin online, tuy nhiên, người nuôi thú cưng vẫn gặp những khó khăn như thiếu thông tin chăm sóc thú cưng chính xác, khó tìm phòng khám uy tín, không được cung cấp thông tin rõ ràng về chất lượng dịch vụ và giá cả,. Điểm mấu chốt về tương lai của ngành công nghiệp thú cưng là chủ sở hữu thú cưng đang tìm kiếm các sản phẩm và dịch vụ tốt hơn, thuận tiện hơn cho thú cưng của họ. Tương lai của thị trường kinh doanh thú cưng không phải là với các sản phẩm và dịch vụ được sản xuất hàng loạt và tiêu chuẩn hóa. Chủ sở hữu thú cưng muốn các thành viên gia đình bốn chân yêu quý của họ được hưởng cùng chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt như họ sẽ đối xử với chính mình. Thiếu thời gian có nghĩa là chủ sở hữu thú cưng không phải lúc nào cũng có thể tương tác với thú cưng của họ theo cách họ muốn. Điều này sẽ tăng nhu cầu cho các thiết bị thông minh có thể cung cấp giám sát và tương tác. Điều đó cũng có nghĩa là việc đặt vé trực tuyến cho các dịch vụ thú cưng và thú y cần phải đủ dễ dàng để phù hợp với chủ sở hữu có lịch trình bận rộn. Các công ty sản phẩm và dịch vụ thú cưng có khả năng cung cấp sự tiện lợi, cá nhân hóa và chất lượng sẽ phát triển mạnh. Ngành công nghiệp thú cưng được đánh giá là có tiềm năng lớn tại Việt Nam đang phát triển với sự tham gia của rất nhiều các tên tuổi lớn trong và ngoài nước. Doanh nghiệp hãy tận dụng tốt cơ hội để đón đầu làn sóng đang tăng trưởng nhanh này. Nếu bạn muốn trao đổi thêm với Pety về thị trường, về ngành hay đang tìm kiếm các sự hợp tác, hãy liên hệ với chúng tôi. Đội ngũ của Pety sẵn sàng chia sẻ và hướng tới sự hợp tác win - win, bền vững.
Ngành công nghiệp thú cưng
Ngành công nghiệp thú cưng (Pet industry) là ngành công nghiệp thị trường gắn liền với các động vật bầu bạn (Companion animals). Ngành thú cưng bao gồm những thứ sản phẩm, dịch vụ gắn liền với hoạt động sản xuất, tiêu dùng và văn hóa gắn với thị trường thú cưng. Bên cạnh ngành thức ăn cho thú cưng chuyên về dinh dưỡng còn có đồ chơi cho thú cưng và chăm sóc sức khỏe cho thú cưng, các dịch vụ và sản phẩm mới như taxi cho thú cưng, nhà trẻ cho thú cưng (nội trú cũi), khách sạn cho thú cưng, cà phê thú cưng, thiết bị CNTT, phát thanh truyền hình, công viên giải trí và dịch vụ tang lễ cho thú cưng (mất mát thú nuôi) đang xuất hiện trên thị trường, bên cạnh đó các dịch vụ về vận chuyển thú cưng, dịch vụ làm hộ chiếu thú cưng, bảo hiểm cho thú cưng cũng phát triển mạnh mẽ, trong trên tất cả, thức ăn cho thú cưng là phân khúc chi tiêu lớn nhất, tiếp theo là chăm sóc thú y, tuy nhiên, trong mỗi phân đoạn thị trường, có một mức độ thay đổi về loại, chất lượng và giá cả của hàng hóa và dịch vụ.
Vốn hóa thị trường là số tiền bỏ ra mua toàn bộ 1 doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại. Hãy tưởng tượng: 1 công ty là 1 thùng bia và mỗi lon bia là 1 cổ phiếu. Giá 1 lon bia là 10.000 đồng ( ~ 1 cổ phiếu) thì giá trị của 1 doanh nghiệp (1 thùng bia 20 lon) sẽ là 10.000 x 20 lon = 200.000 đồng. Ta gọi 200.000 đồng là vốn hóa thị trường của doanh nghiệp. Số lượng cổ phiếu lưu hành: KLCP = 3.345.935.389 cổ phiếu. (thuật ngữ chứng khoán: Số lượng cổ phiếu đọc là khối lượng cổ phiếu). Vốn hóa thị trường (tỷ đồng): 55,480. — trùng khớp với kết quả mà chúng ta tính toán!. Bạn chỉ cần đọc cái mục nào có chữ vốn hóa thị trường hay vốn hóa là được. Lưu ý: Các website có thể có sai khác nhỏ khi tính toán vốn hóa các mã cổ phiếu. Mỗi công ty niêm yết đều có giá trị vốn hóa riêng của mỗi công ty. Vốn hóa thị trường là mức giá cộng đồng đầu tư xem xét và giao dịch tại một thời điểm, nó phụ thuộc vào biến động giá cổ phiếu!. Giá cổ phiếu thì phụ thuộc vào: Lợi nhuận, mức độ rủi ro, tài sản, triển vọng, và cả tâm lý đám đông… Do đó, tùy thuộc vào hoạt động của doanh nghiệp mà mức vốn hóa thị trường thay đổi. Ngoài ra, vốn hóa thị trường còn phụ thuộc vào sự phát hành thêm cổ phiếu ra công chúng của doanh nghiệp. Có đến 17/20 công ty vốn hóa lớn nhất toàn TTCK Việt Nam là nằm ở sàn Hồ Chí Minh (HOSE), còn lại 3/20 mã nằm ở sàn Upcom. Vì những yêu cầu nghiêm ngặt, và cao hơn nên thường các công ty lớn hay được niêm yết tại sàn HOSE. Theo Knoema tính toán, vốn hóa thị trường chứng khoán toàn cầu ước tính là 67.600 tỷ USD trong năm 2018. Vốn hóa thị trường tại Hoa Kỳ là 30.436 tỷ USD, chiếm 45,02% vốn hóa toàn thế giới. Trong đó, 5 quốc gia đứng đầu gồm Mỹ (30,4 ngàn tỷ USD), Trung Quốc (6,3 ngàn tỷ USD), Nhật Bản (5,2 ngàn tỷ USD), Hồng Kong (3,8 ngàn tỷ USD), Pháp (2,4 ngàn tỷ USD) chiếm 71.37% vốn hóa thế giới!. Vốn hóa là giá trị thay đổi hàng ngày (thậm chí là giây), nó phụ thuộc vào biến động cổ phiếu. Khi giá cổ phiếu tăng lên thì vốn hóa cổ phiếu tăng lên, khi giá cổ phiếu giảm xuống thì vốn hóa thị trường của ông ty giảm xuống!. Ta thấy ở bảng trên: Mycrosoft đã tăng 2 bậc, và tại ngày 31/03/2019 là công ty có giá trị vốn hóa cao nhất thế giới với 905 tỷ USD, tiếp theo sau là: Apple với giá trị vốn hóa là 895 tỷ USD. Các con số này cũng sẽ thay đổi theo thời gian, bởi thị trường chứng khoán về dài dạn sẽ luôn tăng giá và vốn hóa các công ty sẽ ngày càng lớn. Ở thị trường chứng khoán Việt Nam, bạn sẽ thường nghe nói các từ Blue-chip, Midcap, Penny… Ở khía cạnh nào đó nó cũng thể hiện mức vốn hóa của cổ phiếu. VN30: Nhóm Large-Cap: Là chỉ số vốn hóa đo lường sự tăng trưởng 30 công ty có vốn hóa thị trường lớn nhất và thanh khoản lớn nhất thị trường, nhóm VN30 chiếm tầm 70% toàn thị trường. VNMidcap: Là chỉ số vốn hóa đo lường sự tang trưởng của 70 công ty vốn hóa cỡ vừa của ở Việt Nam. VN100: Là sự kết hợp 100 công ty gồm 30 công ty ở nhóm VN30 và 70 công ty nhóm VNMidcap. VNSmallCap: Thiết kế để đo lường sự tăng trưởng quy mô ở những công ty nhỏ. Vốn hóa thị trường thể hiện quy mô lớn nhỏ của một công ty nên điều này được đánh giá là quan trọng. Đối với các quỹ đầu tư và nhiều nhà đầu tư thì vốn thị trường là yếu tố quyết định cơ bản cần quan tâm, vì lý do thanh khoản, và rủi ro. Vốn hóa thị trường là thứ rất dễ tính toán và hiệu quả để đánh giá thước đo rủi ro từng doanh nghiệp. Những công ty có vốn hóa càng cao thì rủi ro có xu hướng thấp hơn và ngược lại. Do đó, các quỹ và nhà đầu tư sẽ đề ra biện pháp để đa dạng hóa danh mục sao cho tối ưu và mang lại lợi nhuận cao, trong mức rủi ro chấp nhận. Các công ty vốn hóa lớn (Large cap) thường được thành lập lâu. Khi đầu tư vào công ty lớn, thường không mang lại lợi nhuận lớn trong ngắn hạn; tuy nhiên về lâu dài, các công ty thường tăng giá nhất quán về giá cổ phiếu và được chi trả cổ tức. Các Công ty có vốn hóa ở mức vừa (Mid Cap) được thành lập hoạt động trong ngành dự kiến sẽ có sự tăng trưởng nhanh chóng, và đang trong quá trình mở rộng. Nên những công ty này thường có rủi ro cao hơn các công ty lớn, và chúng hấp dẫn vì tiềm năng phát triển của chúng. Các công ty vốn hóa nhỏ (Small Cap) nó thể hiện ở độ trẻ, cũng như ngách thị trường, ngành công nghiệp mà họ hướng đến. Công ty nhỏ được xem là rủi ro hơn do quy mô, thị trường họ phục vụ, chúng cũng nhạy cảm với nền kinh tế hơn. Do đó, công ty vốn hóa nhỏ rủi ro hơn, và giá cổ phiếu cũng dễ biến động tăng hay giảm hơn. Dù ở TTCK, thì những công ty vốn hóa lớn là đối tượng được chú ý của hầu hết nhà đầu tư, nên nó thành hạt nhân trong danh mục đầu tư của họ. Ngoài việc định giá cổ phiếu đắt rẻ thông qua các chỉ số tài chính như P/E, P/B, P/S… thì Warren Buffett sử dụng tỷ số Vốn Hóa Thị Trường/GDP (GNI) nhằm đánh cổ phiếu của một đất nước là đắt hay rẻ. Muốn biết cổ phiếu ở một nước như Mỹ, Nhật, Đức, Thái Lan, Việt Nam là đắt hay rẻ thì hãy cứ đêm chỉ số Vốn Hóa toàn bộ thị trường/GDP ra mà tính. Khi so sánh tỷ lệ Vốn hóa Thị Trường/GDP của 1 quốc gia với mức trung bình lịch sử, sẽ ước tính được mức định giá hiện tại và lợi nhuận dự kiến của 1 đất nước. Ở quốc tế, chúng ta hay sử dụng chỉ số GNI để chính xác hơn. Ví dụ: Một công ty Hàn Quốc kinh doanh tại Thái Lan thì được tính GNI cho Hàn Quốc và GDP cho Thái Lan. Số âm thể hiện tương quan nghịch. Tức là khi chỉ số Vốn hóa thị trường/GNI càng cao so với trung bình lịch sử thì lợi nhuận mang lại của thị trường trong 3 năm tiếp theo càng thấp. Và khi vốn hóa thị trường/GNI càng thấp thì hiệu quả đầu tư chứng khoán của thị trường càng cao!. Chỉ số Vốn hóa thị trường/GNI thấp nhất ở giai đoạn cuối năm 2012, đó là tiền đề TTCK thế giới nói chung tăng trưởng tốt trong 3 năm tiếp theo, và những năm sau này. Tuy nhiên, khi đánh giá Vốn hóa thị trường/GNI vào thời điểm 30/6/2019, thì hầu hết đang ở mức cao hơn rất nhiều so với trung bình lịch sử… Và kết quả hứa hẹn, kênh đầu tư chứng khoán sẽ không hấp dẫn như những năm trước. Ví dụ ở Mỹ, dòng đầu tiên, năm 2012 chỉ số vốn hóa/GNI là 102%, nhưng hiện tại là 170%!. Vốn hóa thị trường (Market Capitalization) và Giá trị thị trường (market value), đều để đánh giá tài sản, giá trị của công ty. Tuy nhiên có khác nhau nhiều ở góc độ tính toán và cả tính chính xác. Vốn hóa thị trường = số lượng cổ phiếu đang lưu hành X giá hiện tại của một cổ phiếu. Nên nó phụ thuộc vào Giá cổ phiếu và số lượng cổ phiếu lưu hành. Giá trị thị trường nhìn chung cũng hay được dùng thay cho vốn hóa thị trường ở những công ty niêm yết. (nhưng nó không phải là thuật ngữ trùng nhau). Tuy nhiên, bản chất chung là nó thể hiện phụ thuộc vào các yếu tố liên quan đến doanh nghiệp từ vĩ mô, lợi nhuận, ROE, triển vọng… thường liên quan đến định giá cổ phiếu hơn. Trên thế giới, có những quỹ đầu tư chuyên tập trung vào các dạng cổ phiếu vốn hóa lớn vừa và nhỏ, tùy vào mục đích và chiến lược của từng quỹ. Ở Dragon Capital thường săn những công ty lớn. Ngay cả các huyên thoại đầu tư cũng có những chiến lược đầu tư như Buffett thường mua các công ty vững mạnh có vốn hóa lớn. Trong khi, Peter Lynch thích đầu tư vào những công ty tăng trưởng vốn hóa nhỏ. Thường thì theo thời gian, các cổ phiếu vốn hóa lớn, vừa hay vốn hóa nhỏ sẽ lần lượt dẫn đầu thị trường vì nhóm cổ phiếu thường bị ảnh hưởng và nhạy cảm với từng gia đoạn phát triển thị trường hoặc kinh tế. Đó là lý do tại sao nhiều nhà đầu tư đa dạng hóa, duy trì sự pha trộn của các công ty có vốn hóa thị trường khác nhau trong danh mục đầu tư của họ. Khi các cổ phiếu lớn đang giảm giá, rất có thể các cổ phiếu nhỏ hoặc midcap đang tăng lên và có khả năng giúp bù đắp những tổn thất. Để xây dựng danh mục đầu tư với sự pha trộn giữa các cổ phiếu có vốn hóa khác nhau. Bạn cần xem xét:. Một danh mục đầu tư đa dạng có chứa nhiều nhóm vốn hóa thị trường sẽ giúp có thể giúp giảm rủi ro đầu tư trong bất kỳ lĩnh vực nào, và giúp cho bạn theo đuổi mục tiêu tài chính trong tương lai của mình. Hiệu quả chiến lược vốn hóa trong 10 năm gần nhất. – Như chúng ta thấy ở bảng trên, ta có:. Thường công ty vốn hóa nhỏ nên khi nhà đầu tư lớn, hay quỹ muốn mua cổ phiếu thì dễ tác động đến giá và giá sẽ tăng lên. Những công ty nhỏ có khả năng tăng trưởng nhanh hơn. Một công ty có doanh thu 100 tỷ để tăng lên 200 tỷ thì dễ dàng hơn một công ty 10.000 tỷ lên 20.000 tỷ. Những công ty nhỏ rủi ro hơn, như Ngọ chia sẻ ở trên thì công ty nhỏ sẽ rủi ro hơn, tức là dễ tăng nhanh và giảm nhanh hơn; vì chịu đựng rủi ro cao hơn, nên nó thường có mức sinh lời cao hơn. Bất cứ chiến lược đầu tư nào đều nên xuất phát từ sự hiểu biết cụ thể của bản thân nhà đầu tư. Một bạn tuổi trẻ sẽ có những điểm khác với nhà đầu tư lớn tuổi. Một nhà đầu tư tiền tiết kiệm 100 triệu/tháng, 40 triệu/tháng hay 5 triệu/tháng sẽ có những chiến lược khác nhau.
Giá trị vốn hóa thị trường
Giá trị vốn hoá thị trường (tiếng Anh: market capitalisation, hoặc rút ngắn market cap, còn gọi là giá trị theo thị trường chứng khoán hay còn gọi là "vốn hóa") là tổng giá trị của số cổ phần của một công ty niêm yết. Đây là sản phẩm có giá trị thị trường của tổng giá trị của số lượng cổ phiếu đang lưu hành của công ty. Các cổ phiếu tự nắm giữ không được tính đến trong việc tính toán vốn hóa thị trường. Giá trị vốn hóa thị trường là thước đo quy mô của một doanh nghiệp, là tổng giá trị thị trường của doanh nghiệp, được xác định bằng số tiền bỏ ra để mua lại toàn bộ doanh nghiệp này trong điều kiện hiện tại. Vốn hóa tổng của các thị trường chứng khoán hoặc các khu vực kinh tế có thể được so sánh với các chỉ số kinh tế khác. Tổng giá trị vốn hóa thị trường của tất cả các công ty giao dịch công khai trên toàn thế giới vào tháng 1 năm 2007 là US 51.2 nghìn tỷ USD và tăng lên ở mức cao 57,5 nghìn tỷ USD vào tháng 5 năm 2008.
Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) đã có những hoạt động cụ thể để nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề già hóa dân số, khai thác những cơ hội, đồng thời giải quyết những thách thức đặt ra. UNFPA đã hỗ trợ việc nghiên cứu và thu thập thông tin để cung cấp cơ sở dữ liệu vững chắc cho việc đề ra các chính sách, kế hoạch và đảm bảo rằng vấn đề già hóa dân số được lồng ghép vào các chương trình phát triển quốc gia và chiến lược xóa đói giảm nghèo. Dân số già một trong những xu hướng quan trọng nhất của thế kỷ XXI. Cứ 8 người trên thế giới thì sẽ có 1 người ở độ tuổi 60 trở lên. Chừng nào mà tỷ lệ sinh tiếp tục giảm, tuổi thọ tiếp tục tăng thì số người già vẫn sẽ tăng theo tỷ lệ dân số. Mặc dù, già hóa dân số là một hiện tượng toàn cầu nhưng tiến trình này xảy ra nhanh hơn ở các quốc gia đang phát triển, bao gồm cả những quốc gia có dân số trẻ đông hơn. Sự đóng góp của người già cho xã hội là vô giá. Rất nhiều những đóng góp của họ không thể đo đếm về mặt kinh tế như sự chăm sóc, tình nguyện và việc truyền lại truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ. Người già còn giữ vị trí quan trọng như những người lãnh đạo, thường nắm vai trò trong việc giải quyết các mâu thuẫn trong gia đình, xã hội và ngay cả trong những trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, họ cũng là đối tượng dễ bị tổn thương bởi mạng lưới hỗ trợ xã hội yếu kém, thu nhập thấp hay là nạn nhân của nạn phân biệt đối xử, lạm dụng. Đặc biệt, phụ nữ lớn tuổi dễ bị tổn thương bởi sự phân biệt trong xã hội, bị từ chối quyền thừa kế tài sản. Bên cạnh đó, phụ nữ có xu hướng sống thọ hơn nam giới, do đó, họ có thể phải chịu đựng cuộc sống thiếu thốn, đói nghèo trầm trọng hơn khi họ già đi. Mặc dù, nhiều người cao tuổi hiện nay đã có sức khỏe tốt hơn, nhưng tuổi tác cùng với những thay đổi về sinh lý cũng làm tăng nguy cơ bệnh tật và tàn tật. Các chính sách và chương trình cộng đồng cần giải quyết thêm nhu cầu của những người cao tuổi nghèo khó và không có khả năng chăm sóc sức khỏe cho bản thân. Ngoài ra, các môi trường thân thiện cũng rất cần thiết để đảm bảo sự an toàn, sức khỏe và sự độc lập cho người cao tuổi. Ví dụ như nhà ở giá phải chăng và phương tiện giao thông dễ tiếp cận có thể giúp người cao tuổi trở thành thành viên tích cực của xã hội. Việc ngăn ngừa, điều tra và giải quyết những vấn đề liên quan đến sự kỳ thị, lạm dụng hay bạo lực đối với người cao tuổi cũng vô cùng quan trọng. Nhiều người cao tuổi cần sự chăm sóc, trách nhiệm này thường thuộc về gia đình của họ. Nhưng sự suy giảm tỷ lệ sinh và việc đô thị hóa nhanh chóng cũng làm thay đổi quan hệ gia đình truyền thống, đôi khi gánh nặng đặt vào mạng lưới hỗ trợ xã hội. Khi số người cao tuổi tăng lên, các gia đình sẽ cần sự hỗ trợ chăm sóc họ và sự bảo trợ xã hội ngày càng trở nên cần thiết hơn đối với người cao tuổi. Các khoản lương hưu có thể giúp giảm đói nghèo đối với rất nhiều người cao tuổi, nó không chỉ hỗ trợ người cao tuổi mà còn cho cả gia đình họ, thậm chí giúp phá vỡ chu kỳ đói nghèo liên thế hệ. Lương hưu còn giúp nâng cao vị trị của người cao tuổi, giúp cân bằng các mối quan hệ giữa các thế hệ trong gia đình. Nhật Bản có dân số già nhanh hơn bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Vào cuối thập niên này, tỷ lệ cứ một đứa trẻ dưới 15 tuổi sẽ tương ứng với 3 người về hưu và trong 6 người Nhật Bản sẽ có 1 người trên 80 tuổi. Dân số quốc gia này sẽ sớm giảm gần 1 triệu người mỗi năm và nhiều người dự đoán rằng một lúc nào đó trong thế kỷ tới, người Nhật Bản cuối cùng cũng sẽ “chết”. Nhiều quốc gia đang khuyến khích việc nhập cư để giải quyết vấn đề về dân số. Tuy nhiên, Nhật Bản không áp dụng giải pháp này, thay vào đó họ đã phát triển một loạt các sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao. Người cao tuổi ở Nhật Bản nắm giữ một nửa tài sản của đất nước. Một nền kinh tế được chi phối bởi ngành dược phẩm, chăm sóc sức khỏe và trang thiết bị y tế đang thịnh hành xung quanh họ. Có thể kể đến những thiết kế đồ nội thất và thiết bị hỗ trợ thông minh dành riêng cho người cao tuổi đã và đang được sử dụng phổ biến ở Nhật Bản. Nhà vệ sinh thông minh được lắp đặt thiết bị cảm biến y tế đo lượng đường trong máu dựa trên nước tiểu và huyết áp của người sử dụng. Thiết kế ô tô thông minh có thể hạn chế bất kỳ hoạt động bất thường và nguy hiểm của người lái. Hệ thống chăm sóc y tế thông qua máy tính, bác sĩ và các y tá sẽ tương tác với bệnh nhân từ xa thông qua các công nghệ hiện đại. Robot thú cưng có thể biểu hiện các cảm xúc như bất ngờ, hạnh phúc hay tức giận giúp kích thích phản ứng cho những người cao tuổi bị chứng sa sút trí nhớ. Những chiếc giường có thể biến thành xe lăn giúp hỗ trợ người cao tuổi gặp khó khăn trong việc di chuyển…. Chính phủ Nhật Bản cũng có những biện pháp để giải quyết những vấn đề liên quan đến sự già hóa dân số của quốc gia này. Đối với vấn đề thiếu hụt lực lượng lao động, Chính phủ đã kêu gọi các công ty kinh doanh tuyển dụng nhiều phụ nữ hơn và thúc đẩy họ lên những vị trí cao. Việc khuyến khích phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động của đã nhận được những thành công nhất định. Đối với vấn đề suy giảm về mức sinh, một số người cho rằng một nguyên nhân gây ra tình trạng này là do văn hóa truyền thống Nhật Bản chưa chấp nhận việc trẻ em sinh ra từ các bà mẹ chưa lập gia đình. Xu hướng kết hôn muộn và không sinh con đầu lòng cho tới độ tuổi cuối 30 cũng là một nguyên nhân. Ngay cả khi có một sự thay đổi mang tính cách mạng trong thái độ truyền thống của Nhật Bản cũng phải mất nhiều năm để người dân thích nghi giúp tăng tỷ lệ sinh và hướng đến sự ổn định dân số. Việc suy giảm số người trẻ tuổi cũng gây ảnh hưởng đến sự hoạt động của các tường trung học, đại học cũng như cho ngành công nghiệp và thương mại. Điều này cũng có nghĩa là việc duy trì quỹ lương hưu cho người cao tuổi cũng trở nên khó khăn hơn. Một cách để đối phó với số lượng lao động trẻ đang giảm là tăng nhập khẩu hàng hóa thành phẩm từ các quốc gia có mức thu nhập tương đối thấp. Cán cân thanh toán của Nhật Bản có thể cho phép duy trì việc này trong một thời gian. Một cách khác để đối phó với tình trạng thiếu hụt lao động là việc tăng cường sử dụng robot trong sản xuất và cung cấp dịch vụ. Việc này sẽ dần loại bỏ các công việc nhất định. Một quốc gia ở châu Âu cũng phải đối mặt với tính trạng già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng, đó là Thụy Điển. Theo dự báo, trong hai thập kỷ tới, số người trên 80 tuổi ở Thụy Điển sẽ tăng từ khoảng 500.000 - 800.000 người. Thay đổi nhân khẩu học được cho là một trong những thay đổi về mặt xã hội lâu dài và quan trọng nhất xảy ra ở quốc gia này. Xu hướng kéo dài tuổi thọ trở thành một thách thức đối với mô hình phúc lợi xã hội của Thụy Điển. Khi tỷ lệ người cao tuổi tăng, nhu cầu về các dịch vụ phúc lợi xã hội cũng gia tăng theo. Sẽ là một nhiệm vụ khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn lực để chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi. Để giải quyết những thách thức đặt ra, Chính phủ Thụy Điển đã tìm kiếm và chú trọng phát triển các giải pháp tích cực và hiện đại. Trong đó công nghệ đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Hiện nay, chúng ta đang chứng kiến xu hướng toàn cầu hóa khi mà những loại dược phẩm mới và phương pháp chăm sóc sức khỏe tiên tiến có thể chữa được nhiều bệnh cấp tính đang được phát triển. Các sáng kiến về chăm sóc sức khỏe đóng vai trò cần thiết trong việc giải quyết thách thức về dân số, các loại thuốc sinh học hiện đại có thể cung cấp cho nhiều người dân Thụy Điển. Một ví dụ điển hình khác ở quốc gia này đó là những nỗ lực tuyệt vời đã được thực hiện để tạo ra máy trợ thính tốt hơn. Ngoài việc hỗ trợ thính giác, nó còn giúp giảm nguy cơ gia tăng các chứng bệnh liên quan đến tuổi tác khác như chứng sa sút trí nhớ. Bên cạnh đó, hệ thống chăm sóc sức khỏe công cộng của Thụy Điển từ nhiều năm nay đã được biết đến trên toàn thế giới. Mục tiêu cốt lõi của hệ thống y tế công cộng là khuyến khích mọi người dân giữ được sức khỏe tốt suốt cả cuộc đời. Trên thực tế, y học và công nghệ thông tin hiện đại đang ngày càng có thể phát hiện được các loại bệnh tật có thể ảnh hưởng đến các cá nhân ngay trước khi bệnh phát tác. Giống như nhiều hình thức đầu tư khác, chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển thường có thể đạt được nhiều hơn ở một mức chi phí thấp. Ngoài ra, Thụy Điển đã có những chính sách để khuyến khích các gia đình sinh thêm con thứ 2, 3 hoặc 4. Một chương trình được tài trợ bởi liên bang dành cho các bậc cha mẹ Thụy Điển tham gia nhận nuôi các trẻ em mồ côi ở châu Phi hay ở các nước phát triển. Nhờ chương trình này, số lượng trẻ em tại Thụy Điển sẽ tăng lên, hứa hẹn số người sắp tham gia vào lực lượng lao động nhiều hơn. Một giải pháp tiềm năng khác là một chính sách nhập cư mở cửa. Có rất nhiều đàn ông và phụ nữ trên toàn thế giới ở độ tuổi lao động nhưng hiện không có việc làm. Nếu họ được khuyến khích đến Thụy Điển thì lực lượng lao động ở quốc gia này sẽ tăng lên đáng kể. Điều này có sẽ giúp giải quyết vấn đề thiếu tiền để vận hành quỹ chăm sóc sức khỏe và trợ cấp người cao tuổi, đồng thời giải quyết khủng hoảng tài chính ở lĩnh vực dịch vụ cho người cao tuổi. Thêm vào đó, khuyến khích việc nghỉ hưu muộn để duy trì một cộng đồng lao động to lớn cũng là một giải pháp đáng chú ý. Đức, một cường quốc kinh tế của châu Âu cũng đang phải đối mặt với vấn đề già hóa dân số. Trong 15 năm tới, Đức có thể mất 5 triệu người trong lực lượng lao động. Tuy nhiên, dự báo về nhân khẩu học cũng cần phải có những thay đổi đáng kể, bởi số người nhập cư của quốc gia này đang dao động mạnh mẽ và khó dự đoán được. Một trong những giải pháp được đưa ra là chính sách nhập cư. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ giải quyết được phần nào vấn đề này. Hạn chế về việc dịch chuyển lao động từ các nước thành viên EU ở Đông Âu cuối cùng đã được dỡ bỏ, Berlin hy vọng việc này sẽ giúp tăng thêm 100.000 lao động trong những năm tới. Một giải pháp cũng gây tranh cãi ở Đức đó là việc nâng độ tuổi nghỉ hưu từ 65 lên 67. Những thay đổi này được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 2012-2029. Đối với Đức, vấn đề già hóa dân số còn tạo ra nhiều áp lực lên lực lượng lao động hơn cả vấn đề thất nghiệp ở thanh niên. Tỷ lệ thất nghiệp ở thanh niên Đức là 7,9%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực như Anh 20% hay Tây Ban Nha 40%. Vào năm 2015, lần đầu tiên trong vòng 30 năm qua, tỷ lệ sinh ở Đức đã tăng lên là 1,5 trẻ/một bà mẹ. Đây có thể là thành công nhờ sự hỗ trợ tập trung của các gia đình và nền kinh tế tăng trưởng. Tỷ lệ sinh của quốc gia này được dự kiến sẽ tương đối ổn định trong tương lai gần. Bên cạnh đó, tuổi thọ trung bình trong những thập kỷ gần đây liên tục tăng nhanh hơn sự mong đợi của các nhà nhân khẩu học. Nếu như Đức giữ được mức tăng trưởng kinh tế hiện tại trong những thập kỷ tới, thì 3 yếu tố thúc đẩy sự gia tăng dân số là nhập cư, sinh đẻ và tuổi thọ trung bình cũng sẽ theo chiều hướng tăng, dẫn đến dân số tương đối ổn định. Trong trường hợp này, nếu Đức có thể đưa người nhập cư tham gia vào lực lượng lao động và tăng tỷ lệ tham gia làm việc của người cao tuổi thì đây sẽ là cơ hội tốt để gia tăng tài trợ cho các chương trình phúc lợi xã hội hiện có. Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Xin vui lòng gõ tiếng Việt có dấu
Già hóa dân số
Già hóa dân số hay lão hóa dân số là sự gia tăng độ tuổi trung vị của dân số một vùng do tỷ suất sinh giảm và/hoặc tuổi thọ trung bình tăng. Ở một số nước, tuổi thọ trung bình tăng lên và dân số đang dần bị lão hóa (xu hướng này ban đầu tăng cao ở các nước có nền kinh tế phát triển, nhưng nay cũng thấy ở một số nước kinh tế kém phát triển hơn) Tình trạng dân số bị lão hóa hiện nay đang đạt đỉnh trong lịch sử nhân loại. Liên Hợp Quốc dự đoán tỷ lệ lão hóa dân số trong thế kỷ XXI sẽ vượt mức thế kỷ trước. Già hóa dân số là sự thay đổi phân bố dân số một nước theo hướng tăng cao tỉ lệ người cao tuổi. Điều này thường được phản ánh qua việc tăng độ tuổi bình quân và độ tuổi trung vị của dân số, giảm thiểu tỷ lệ trẻ nhỏ, và gia tăng tỷ lệ dân số trung niên. Tình trạng lão hóa dân số xảy ra khắp thế giới. Hiện tượng này diễn ra sớm nhất ở các nước có trình độ phát triển cao nhất, nhưng nay lại tăng nhanh hơn ở các vùng ít phát triển hơn, nghĩa là lượng người cao tuổi sẽ tập trung cao ở các vùng ít phát triển hơn trên thế giới.
Phim Shinko Và Phép Lạ Nghìn Năm kể về câu chuyện của một cô bé 9 tuổi tên Shinko, một cô bé có một trí tưởng tượng phong phú đến tuyệt vời. Qua những câu chuyện do ông kể, cô bé hình dung ra được mọi thứ từ nghìn năm trước một cách vô cùng sống động. Và trong phim hay này, rồi một hôm, một cô bé nhút nhát tên là Kiiko từ Tokyo chuyển đến ngôi làng nhỏ bé của Shinko. Cũng từ đó nhờ vào trí tưởng tượng của Shinko mà câu chuyện về tình bạn bắt đầu, cả hai cùng đắm mình vào chuyến phiêu lưu về câu chuyện của nghìn năm trước. Xem phim Shinko Và Phép Lạ Nghìn Năm và chắc chắn các bạn sẽ thích phim online này!
Shinko và phép lạ nghìn năm
Shinko và phép lạ nghìn năm (tiếng Nhật: マイマイ新子と千年の魔法, マイマイしんことせんねんのまほう Hepburn: Mai Mai Shinko to Sennen no Mahō) là một bộ phim anime thực hiện bởi Madhouse và Shochiku đảm nhận phần phân phối công chiếu năm 2009. Bộ phim được làm dựa trên cuốn tiểu thuyết tự truyện Maimai Shinko (マイマイ新子) của Takagi Nobuko. Bộ phim lấy bối cảnh 10 năm sau thế chiến thứ hai tại một thị trấn tù túng nơi đã từng là nơi tập trung của những nhà phong kiến Nhật Bản với cốt truyện xoay quanh cuộc sống hằng ngày của cô bé tên Shinko người có trí tưởng tượng phong phú có thể thấy được hình ảnh quá khứ của thị trấn nhiều năm về trước và bạn bè của cô. Bộ phim cũng nói về cuộc sống của người sống trong thị trấn, những người luôn duy trì lối sống từ thời phong kiến vốn ăn rất sâu vào tiềm thức nhưng vẫn sẵn sàng giúp đỡ người khác. Bộ phim đã ra mắt tại Liên hoan phim quốc tế Locarno ở Thụy Sĩ vào ngày 15 tháng 8 năm 2009. Sau đó công chiếu tại Nhật Bản lần đầu vào ngày 21 tháng 11 năm 2009, tuy nhiên vì lý do nào đó bộ phim lại chiếu rất hạn chế trong thời gian bảy tháng.
Giới khoa học tìm thấy chứng cứ mới có liên quan đến sự tuyệt chủng của người Neanderthal. Kết quả phân tích ADN cho thấy người Neanderthal tại phía tây châu Âu đã chết gần hết cách đây khoảng 50.000 năm, tức trước khi loài người hiện đại xuất hiện đến vài ngàn năm. Sau đó, một nhóm nhỏ người Neanderthal nỗ lực chiếm lại các phần của châu Âu, kéo dài được sự tồn tại của mình thêm 10.000 năm nữa trước khi biến mất hoàn toàn, theo báo cáo trên chuyên san Molecular Biology and Evolution. Đây là thành quả nghiên cứu của một nhóm chuyên gia quốc tế, đã hợp tác phân tích các nguồn chiết xuất ADN từ xương hóa thạch của 13 người Neanderthal sống rải rác tại châu Á và châu Âu, cách đây từ 100.000 đến khoảng 35.000 năm trước. Kết quả cho thấy hóa thạch ở Tây Âu có niên đại hơn 48.000 năm lại ít đa dạng về gene, giảm đến 6 lần so với những hóa thạch cổ hơn và so với người Neanderthal ở châu Á. Các chuyên gia đưa ra giả thuyết có thể lúc đó đã xảy ra một số sự kiện, chẳng hạn như thay đổi khí hậu, khiến dân số Neanderthal giảm mạnh ở phương Tây cách đây 50.000 năm. Tuy nhiên, nhóm ở miền nam ấm áp hơn vẫn tiếp tục trụ lại được, cho phép họ sinh sôi một lần nữa trước khi tuyệt chủng. Tình trạng đa dạng về gene thấp có thể khiến một giống loài ít có khả năng chống chọi trước sự thay đổi trong môi trường sống và đối diện với nguy cơ tuyệt diệt. “Thật quá ngạc nhiên khi biết được người Neanderthal ở châu Âu gần bị diệt chủng, nhưng sau đó phục hồi, và tất cả những điều này diễn ra nhiều năm trước khi chủng người này tiếp xúc với người hiện đại”, BBC dẫn lời trưởng nhóm Love Dalen của Viện Bảo tàng lịch sử tự nhiên Thụy Điển ở Stockholm. Điều này cho thấy người Neanderthal có thể nhạy cảm hơn nhiều trước sự thay đổi khí hậu. Sự xuất hiện của loài người hiện đại ở châu Âu vào thời điểm Neanderthal tuyệt chủng cung cấp một chứng cứ gián tiếp rằng Homo sapiens có tác động chưa xác định đối với quá trình này. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng sự thay đổi về thời tiết và những yếu tố khác cũng có thể đóng vai trò quan trọng. Việc mất đi sự đa dạng về gene ở Tây Âu trùng hợp với giai đoạn khí hậu gọi là đồng vị ô xy 3, khi nhiệt độ giảm mạnh ở một số thời điểm. Neanderthal là họ hàng gần gũi trong thang bậc tiến hóa với người hiện đại. Chủng người này từng định cư ở châu Âu, Trung Đông và Trung Á. Nguyên nhân khiến họ bị quét sạch khỏi bề mặt trái đất vẫn còn là đề tài gây tranh cãi trong giới khoa học.
Tuyệt chủng của người Neanderthal
Tuyệt chủng của người Neanderthal hay Tuyệt chủng người Neanderthal là sự biến mất đột ngột của người Neanderthal trong thời gian khi người hiện đại bắt đầu xuất hiện tại lục địa Âu Á. Kể từ khi phát hiện ra di cốt người Neanderthal, thì vị trí người Neanderthal trong cây phả hệ của con người và mối quan hệ của họ với người hiện đại đã được tranh luận sôi nổi. Vào thời gian khác nhau đã có sự phân loại khác nhau, coi họ là một loài riêng biệt (Homo neanderthalensis), hoặc là một phân loài (Homo sapiens neanderthalensis). Tháng Tám năm 2014 một nhóm nghiên cứu báo cáo về một phân tích mới của 40 di chỉ ở Tây Âu, kết luận rằng người Neanderthal đã chết cách đây khoảng 40 Ka BP (Kilo annum before present: ngàn năm trước đây) . Số liệu này, sớm hơn nhiều so với ước tính trước đây, thu được nhờ sự cải thiện độ chính xác của phương pháp định tuổi carbon phóng xạ C14. Các nhà nghiên cứu còn muốn mở rộng cuộc điều tra của họ về các di chỉ ở Đông Âu và Siberia, mà người Neanderthal có thể đã sống sót ở đó.
Sàn giao dịch là một trung tâm trao đổi mua bán, nơi mà các chứng khoán, phái sinh, và công cụ tài chính khác được giao dịch. Chức năng cốt lõi của một sàn giao dịch là đảm bảo cho việc giao dịch được diễn ra một cách công bằng và qui củ. Cũng như phổ biến hiệu quả thông tin về giá của các chứng khoán đang được giao dịch trên sàn. Sàn giao dịch cung cấp cho các doanh nghiệp, chính phủ và tổ chức khác một nền tảng để có thể bán chứng khoán cho cộng đồng nhà đầu tư. Sàn giao dịch có thể là một địa điểm cụ thể, nơi mà những nhà giao dịch đến gặp nhau để thực hiện giao dịch, hoặc là một nền tảng điện tử. Nó còn có thể được gọi là sàn giao dịch cổ phiếu (share exchange) hoặc là sở giao dịch chứng khoán (bourse), tùy theo vị trí địa lí. Sàn giao dịch có mặt tại hầu hết các quốc gia trên thế giới. Những sàn giao dịch lớn có thể kể đến là Sàn giao dịch Chứng khoán New York (NYSE), Sàn giao dịch Chứng khoán NASDAQ, Sàn giao dịch Chứng khoán London (NSE) và Sàn giao dịch Chứng khoán Tokyo (TSE). Các giao dịch đang được thực hiện ngày càng nhiều trên những sàn giao dịch điện tử. Đây là dạng sàn giao dịch hiện đại có khả năng đảm bảo sự công bằng trong giao dịch mà không cần các thành viên phải có mặt trực tiếp tại sàn giao dịch truyền thống (trading floor). Đến năm 2016, sàn giao dịch kiểu truyền thống (trading floor) của NYSE thực hiện chưa đến 15% trên tổng khối lượng giao dịch chứng khoán ở Mỹ. Các giao dịch hiện tại đang được phân bổ trên nhiều sàn giao dịch khác nhau. Việc này làm gia tăng đáng kể các chương trình giao dịch tần suất cao cũng như việc ứng dụng những thuật toán phức tạp của nhà giao dịch trên sàn. Mỗi sàn giao dịch sẽ có những yêu cầu khác nhau cho việc niêm yết chứng khoán của các công ty hay các tập đoàn. Một số sàn có thể sẽ yêu cầu khó khăn hơn những sàn khác, nhưng những yêu cầu cơ bản của một sàn giao dịch sẽ bao gồm gồm báo cáo tài chính, báo cáo lợi nhuận có kiểm toán, và mức vốn tối thiểu. Ví dụ, sàn NYSE yêu cầu doanh nghiệp phải có số vốn chủ sỡ hữu tối thiểu là 4 triệu USD để được niêm yết trên sàn.
Sàn giao dịch
Sàn giao dịch hay sàn là một thị trường (cái chợ) được tổ chức cho việc trao đổi hàng hóa, chủ yếu là giữa các mã chứng khoán, hàng hóa, ngoại hối, tiền mã hóa, hợp đồng tương lai và hợp đồng quyền chọn. Tên "sàn" có nguồn gốc từ thế kỷ 13, nhà trọ tên là Ter Beurze tại Bruges, Bỉ, nơi các thương nhân và nhà buôn nước ngoài từ khắp châu Âu tiến hành trao đổi trong những năm cuối thời kỳ trung cổ. Tòa nhà này, được thành lập bởi Robert van der Buerze như một ký túc xá, đã hoạt động từ năm 1285. Các nhà quản lý của nó đã trở thành nổi tiếng với cung cấp tư vấn tài chính đúng đắn cho các thương nhân và các thương gia thường xuyên lui tới tòa nhà. Dịch vụ này được gọi là "Purse Beurze" đó là cơ sở của từ "sàn", có nghĩa là một nơi được tổ chức để giao dịch. Cuối cùng tòa nhà này đã trở thành một nơi chỉ để trao đổi các hàng hoá. Trong thế kỷ 18, mặt tiền của Ter Beurze được xây dựng lại với một mặt tiền rộng các cột.
Đau là một cảm giác rất khó chịu, có tính chất cảm tính, đi kèm với đó là những tổn thương có thật hoặc tiềm tàng của các tổ chức, hoặc được mô tả là có những tổn thương trước đó. Có rất nhiều mức độ đau khác nhau như đau do bong gân, đau do gãy xương, đau do ung thư giai đoạn xâm lấn. Bên cạnh đó cũng có rất nhiều thuốc giảm đau mức độ khác nhau. Ví dụ: Dùng NSAIDs để điều trị các cơn đau nhẹ, dùng Opioid để kiểm soát cơn đau nặng. Bài viết dưới đây Heal Central xin chia sẻ tới các bạn đọc tổng quan về các thuốc giảm đau cùng với nguyên tắc sử dụng chúng trong thực hành lâm sàng. Thuốc giảm đau là các thuốc có tác dụng giảm cảm giác đau, theo các cơ chế tác dụng khác nhau. Paracetamol (Acetaminophen) và các thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs): Các thuốc này chủ yếu dùng cho đau ngoại vi. Một số thuốc trong nhóm này có thể mua mà không cần đơn của bác sĩ (OTC). Các thuốc giảm đau opioid: Các thuốc nhóm này dùng chủ yếu cho đau nội tạng, các loại đau mà nhóm thuốc trên không đáp ứng được. Còn được gọi là thuốc giảm đau trung ương. Các thuốc nhóm này được Nhà nước quản lý rất chặt chẽ và không thể mua dễ dàng được. Đau là một triệu chứng khó chịu. Nhiều người, đặc biệt là người già, trẻ em và một số đối tượng nhạy cảm khác, họ chịu đau kém hơn người trưởng thành khỏe mạnh. Hầu như không có ai thích cảm giác đau. Nếu quá đau đớn, bệnh nhân có thể bị sốc. Một số trường hợp bệnh lý thì lại làm cho bệnh nhân đau đớn liên tục (ví dụ như ung thư), làm giảm chất lượng cuộc sống. Vì vậy thuốc giảm đau thực sự rất quan trọng. Vấn đề nổi cộm hiện nay là sự lạm dụng nhiều thuốc giảm đau trên lâm sàng, đến từ cả phía bác sĩ cũng như bệnh nhân. Đặc biệt các thuốc giảm đau ngoại vi bị lạm dụng rất nhiều, cùng với kháng sinh và các corticoid. Vì vậy chúng ta thực sự cần một cơ chế pháp lý tốt hơn để quản lý việc sử dụng các loại thuốc giảm đau này. Paracetamol, hay còn gọi là Acetaminophen, là một thuốc giảm đau ngoại vi kinh điển và có vô số biệt dược chứa Paracetamol trên thị trường. Nó phổ biến đến nỗi không rõ biệt dược gốc của nó là thuốc nào. Paracetamol mặc dù là một thuốc giảm đau ngoại vi và cũng không có cấu trúc steroid, nhưng nó không được xếp vào nhóm các NSAIDs vì thuốc này không có tác dụng chống viêm, nó chỉ có tác dụng hạ sốt và giảm đau. Paracetamol được chỉ định cho các trường hợp đau nhẹ đến trung bình: Đau răng, đau họng, đau cơ – xương – khớp, đau đầu, đau nửa đầu, đau bụng, sốt, cảm cúm, cảm lạnh. Paracetamol nhìn chung là một thuốc an toàn và lành tính, có thể sử dụng cho nhiều đối tượng, ít tác dụng phụ, không gây loét dạ dày như các thuốc NSAIDs, không ảnh hưởng đến chức năng thận, không ảnh hưởng đến khả năng kết tập tiểu cầu. Quá liều Paracetamol có thể gây viêm gan tối cấp và suy gan, có thể dẫn đến tử vong. Đã có những trường hợp tự tử bằng Paracetamol. Giải độc đặc hiệu ngộ độc Paracetamol bằng N-acetylcystein, một loại thuốc long đờm. Thông thường liều dùng Paracetamol là 10-15 mg/kg cân nặng. Nếu làm tròn tính cho người trưởng thành thì là khoảng 500-1000 mg/lần, mỗi lần dùng cách nhau 4-6 giờ, tối đa 4000 mg/ngày. Tuy nhiên mức liều này cũng rất tương đối, có những trường hợp uống vượt quá mức liều tối đa nhiều lần mà không gặp phải vấn đề gì. Nguyên nhân được cho là do đáp ứng khác nhau giữa các cá thể. Bình thường ở gan, Paracetamol sẽ được chuyển hóa theo 2 con đường chính là liên hợp glucuronide và liên hợp sulfate làm mất hoạt tính của thuốc, ngoài ra sẽ có một phần nhỏ thuốc được chuyển hóa theo con đường CYP2E1 tạo ra NAPQI (N-acetyl-p-benzoquinone imine), đây là một chất độc với tế bào gan và nhanh chóng được bất hoạt bằng glutathione. Khi quá liều Paracetamol, lượng NAPQI tạo ra quá nhiều, nguồn glutathione nội sinh để bất hoạt NAPQI không đủ, dẫn đến lượng NAPQI tăng cao và gây hoại tử tế bào gan, gây ra viêm gan tối cấp và suy gan. N-acetylcystein sẽ cung cấp nhóm –SH (thiol, sulfhydryl) tự do để làm nguyên liệu tổng hợp thêm glutathione, từ đó giúp giảm lượng NAPQI trong tế bào gan. Các phân tử N-acetylcystein cũng có thể trực tiếp làm bất hoạt tế bào gan nhờ nhóm –SH tự do này. Đây là một nhóm thuốc rộng lớn với vô số thuốc đã được tiếp thị trên thị trường, nhưng cũng đã có những thuốc phải rút khỏi thị trường. Các thuốc nhóm này đều tựu chung lại có 4 tác dụng như sau:. Cơ chế tác dụng của nhóm các thuốc này liên quan đến sự ức chế một enzyme có tên là cyclooxygenase (COX), bao gồm 2 đồng phân là COX-1 và COX-2 (Paracetamol ức chế 2 enzyme này ở ngoại vi rất yếu nên không gây ra tác dụng chống viêm). COX-1 còn được gọi là COX sinh lý, đóng góp nhiều vai trò quan trọng trong sinh lý bình thường của cơ thể. COX-2 còn được gọi là COX bệnh lý, thường tìm thấy ở các ổ viêm (nó cũng chịu một trách nhiệm nhỏ trong các quá trình sinh lý bình thường). Các thuốc của chúng ta đều ức chế cả 2 enzyme này, điều quan trọng chỉ là chúng ức chế enzyme nào nhiều hơn. NSAIDs ức chế 2 enzyme là COX-1 và COX-2, từ đó làm giảm tổng hợp cả các prostaglandin sinh lý cũng như bệnh lý. Giảm tổng hợp prostaglandin bệnh lý làm giảm đáp ứng viêm, giảm đau do viêm. Ức chế chọn lọc COX-2: Celecoxib, Piroxicam và Meloxicam liều thấp (liều cao không còn ức chế ưu tiên COX-2 nữa). Do các NSAIDs giảm chuyển acid arachidonic theo con đường COX nên nó được tăng cường đi vào theo con đường LOX (lipoxygenase), làm tăng tổng hợp leukotriene gây co thắt cơ trơn khí phế quản, có thể gây nên cơn hen giả. Do đó chống chỉ định sử dụng NSAIDs cho những bệnh nhân bị hen phế quản. Các chỉ định của NSAIDs bao gồm các trường hợp đau từ nhẹ đến trung bình: Sốt, đau răng, đau cơ – xương – khớp, đau do chấn thương, đau bụng, đau đầu và đau nửa đầu, đau bụng kinh, sốt, cảm lạnh, cảm cúm. Aspirin là một thuốc rất đặc biệt trong nhóm này, nó được sử dụng chủ yếu cho chỉ định dự phòng huyết khối động mạch nguyên phát hoặc thứ phát do có tác dụng chống kết tập tiểu cầu. Mặc dù các NSAIDs không chọn lọc COX khác cũng có tác dụng chống kết tập tiểu cầu, nhưng các tác dụng của các NSAIDs khác là do ức chế COX-1 có hồi phục, còn Aspirin thì ức chế COX-1 không hồi phục (do acetyl hóa enzyme), do đó nó mới được lựa chọn cho chỉ định này chứ không phải là các NSAIDs khác. Các NSAIDs đều có tác dụng không mong muốn trên đường tiêu hóa rất nổi bật, đó là gây loét dạ dày – tá tràng. Cơ chế chính là do NSAIDs ức chế COX-1 ở dạ dày làm giảm tổng hợp prostaglandin sinh lý, làm giảm yếu tố bảo vệ dạ dày. Ngoài ra, cơ chế phụ là do các NSAIDs đều có bản chất là acid yếu, do đó khi uống gây kích ứng dạ dày. Các biện pháp khắc phục bao gồm: Dùng dạng giải phóng đặc biệt (viên bao tan trong ruột), dùng thêm các thuốc bảo vệ niêm mạc dạ dày (Misoprostol, Sucralfate) hoặc thuốc làm giảm yếu tố tấn công (thuốc kháng histamine H2 như Cimetidine, Ranitidine, Famotidine và Nizatidine; thuốc ức chế bơm proton như Omeprazole, Lansoprazole, Rabeprazole, Pantoprazole, Esomeprazole và Dexlansoprazole). Thuốc ức chế COX-2 chọn lọc (Celecoxib) cho thấy tác dụng không mong muốn trên đường tiêu hóa giảm đi, nhưng tác dụng không mong muốn trên tim mạch lại tăng lên so với các thuốc ức chế COX không chọn lọc. Nguyên nhân là do bình thường sự ức chế COX-1 gây ức chế kết tập tiểu cầu (do ức chế thromboxan synthase tiểu cầu), còn ức chế COX-2 gây ức chế tổng hợp prostacyclin nội mạc mạch máu (hay prostaglandin I2, viết tắt PGI2), đây là yếu tố ức chế kết tập tiểu cầu. Do vậy khi ức chế cả 2 enzyme COX thì NSAIDs vẫn có tác dụng ức chế kết tập tiểu cầu, nhưng khi ức chế chọn lọc COX-2 thì thromboxan synthase không được ức chế đáng kể, trong khi PGI2 thì bị ức chế nhiều, do vậy Celecoxib làm tăng nguy cơ gây kết tập tiểu cầu, làm tăng nguy cơ các biến cố trên tim mạch. Một tác dụng không mong muốn khác của các NSAIDs là trên thận. Các NSAIDs đều ức chế COX nên ức chế sự hình thành prostaglandin sinh lý ở tiểu động mạch đến, làm co tiểu động mạch đến, dẫn đến giảm mức lọc cầu thận và có thể gây suy thận. NSAIDs cũng có thể liên quan đến một số tình trạng nghiêm trọng như hội chứng Stevens-Johnson, hội chứng Lyell, viêm da tróc vảy… nhưng tỷ lệ hiếm. Các thuốc giảm đau nhóm này đều là các thuốc giảm đau trung ương, có tác dụng mạnh và giảm đau sâu trong nội tạng. Về cấu trúc, các thuốc đều có liên quan cấu trúc với Morphine, một loại thuốc giảm đau opioid nổi tiếng được chiết xuất từ nhựa cây thuốc phiện Papaver somniferum. Người ta có thể sử dụng trực tiếp Morphine làm thuốc giảm đau, hoặc dùng nó để bán tổng hợp ra Codeine là một thuốc giảm đau yếu hơn, đồng thời giảm ho, hoặc tổng hợp toàn phần các thuốc nhóm này dựa trên cấu trúc khung cơ bản tương tự Morphine, như Methadone, Pethidine, hay Fentanyl. Trong phần này chúng ta sẽ nói trọng tâm chỉ về các thuốc opioid được sử dụng chủ yếu với tác dụng giảm đau mà không nói chi tiết đến các opioid đặc biệt khác (ví dụ như một số thuốc đối kháng receptor opioid như Naloxone hay Naltrexone). Nhìn chung, các thuốc giảm đau opioid đều là thuốc chủ vận receptor opioid. Các receptor này trong cơ thể được biết đến nhiều nhất là 3 loại: µ, δ và κ. Trong đó receptor µ chịu trách nhiệm quan trọng nhất trong tác dụng giảm đau của các opioid.
Thuốc ức chế trung ương
Thuốc ức chế trung ương, hoặc thuốc ức chế, là một loại thuốc làm giảm mức độ truyền dẫn thần kinh, từ đó có thể làm giảm hoặc giảm kích thích hoặc kích thích, trong các khu vực khác nhau của não. Những thuốc ức chế này cũng thỉnh thoảng được gọi là "thuốc hạ tâm trạng" do chúng giảm mức độ kích thích khi uống. Các thuốc kích thích hoặc "nâng tâm trạng" làm tăng chức năng thần kinh và/hoặc thể chất, do đó loại thuốc ức chế là đối nghịch với thuốc kích thích, chứ không phải thuốc với thuốc chống ức chế. Thuốc ức chế được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới như thuốc theo toa và cả theo các hình thức bất hợp pháp. Rượu là một thuốc ức chế rất nổi bật. Rượu có thể hoặc nhiều khả năng là một vấn đề lớn trong thanh thiếu niên và giới trẻ. Khi sử dụng thuốc ức chế, các tác dụng thường bao gồm mất điều hòa, giải tỏa căng thẳng, giảm đau, an thần hoặc buồn ngủ, suy giảm nhận thức/trí nhớ, cũng như trong một số trường hợp là hưng phấn, phân liệt, giãn cơ, hạ huyết áp hoặc nhịp tim, suy hô hấp và các hiệu ứng của thuốc chống co giật, và thậm chí gây mê hoàn toàn hoặc tử vong ở liều cao.
Phần mềm hệ thống là phần mềm máy tính thiết kế cho việc vận hành và điều khiển phần cứng máy tính và cung cấp một kiến trúc cho việc chạy phần mềm ứng dụng. Phần mềm hệ thống có thể được chia thành hai loại, hệ điều hành và phần mềm tiện ích. Phần mềm ứng dụng là một loại chương trình có khả năng làm cho máy tính thực hiện trực tiếp một công việc nào đó người dùng muốn thực hiện. Điều này khác với phần mềm hệ thống tích hợp các chức năng của máy tính, nhưng có thể không trực tiếp thực hiện một tác vụ nào có ích cho người dùng. Phần mềm hệ thống là phần mềm máy tính thiết kế cho việc vận hành và điều khiển phần cứng máy tính và cung cấp một kiến trúc cho việc chạy phần mềm ứng dụng. Phần mềm hệ thống có thể được chia thành hai loại, hệ điều hành và phần mềm tiện ích. Phần mềm ứng dụng là một loại chương trình có khả năng làm cho máy tính thực hiện trực tiếp một công việc nào đó người dùng muốn thực hiện. Điều này khác với phần mềm hệ thống tích hợp các chức năng của máy tính, nhưng có thể không trực tiếp thực hiện một tác vụ nào có ích cho người dùng. Phần mềm ứng dụng là những phàn mềm mềm đáp ứng nhu cầu sử dụng riêng của người dùng: Paint(vẽ), Chrome (Duyệt web), Word (soạn thảo),.
Phần mềm hệ thống
Phần mềm hệ thống là phần mềm máy tính thiết kế cho việc vận hành và điều khiển phần cứng máy tính và cung cấp một kiến trúc cho việc chạy phần mềm ứng dụng. Phần mềm hệ thống có thể được chia thành hai loại, hệ điều hành và phần mềm tiện ích. Hệ điều hành (đại diện tiêu biểu là Microsoft Windows, Mac OS X và Linux), cho phép các phần của một máy tính làm việc với nhau bằng cách truyền dẫn dữ liệu giữa Bộ nhớ chính và ổ đĩa hoặc xuất dữ liệu ra thiết bị xuất. Nó cũng cung cấp một kiến trúc cho việc chạy phần mềm hệ thống cấp cao và phần mềm ứng dụng. Nhân là phần lõi của một hệ điều hành, cái mà định nghĩa một API cho các chương trình ứng dụng (bao gồm cả một vài phần mềm hệ thống) và trình điều khiển thiết bị. Device driver ví dụ như BIOS và thiết bị phần sụn cung cấp chức năng cơ bản để vận hành và điều khiển phần cứng kết nối hoặc xây dựng từ bên trong máy tính. Giao diện người dùng "giúp cho người dùng tương tác với máy tính".
Nói đến sa mạc Sahara, người ta hình dung ra ngay cảnh mặt trời chói chang, cát bụi khô nóng, những cây xương rồng gai góc vươn mình trong bão cát, hay những chú lạc đà lững thững bước đi trong sa mạc. Nhưng đó không phải là tất cả những gì Sahara có. Vậy bạn biết gì về sa mạc rộng lớn này? Nó có phải là sa mạc lớn nhất thế giới không? Và sau đây, Migola Travel sẽ bật mí 10 sự thật thú vị về sa mạc huyền thoại này. Từ Sahara được lấy từ ngôn ngữ Ả Rập có nghĩa là Đại sa mạc, có rất nhiều đặc điểm nổi bật đem lại cái tên có 1-0-2 cho nơi đây. Như là những đụn cát khổng lồ, sông, suối, cao nguyên đá, các thung lũng khô cằn, ốc đảo tươi xanh và cuối cùng là hệ động thực vật và bò sát đa dạng. Sa mạc Sahara được bao bọc bởi Đại Tây Dương ở rìa phía Tây, núi Atlas và biển Địa Trung Hải ở phía Bắc, biển Đỏ ở phía Tây, Sudan và thung lũng sông Niger ở phía Nam. Sa mạc được chia thành các vùng Tây Sahara, trung tâm dãy núi Tibesti, một vùng núi hoang mạc và cao nguyên. Ở phía Bắc, Sahara vươn đến biển Địa Trung Hải của Libya. Các nhà khoa học phát hiện sa mạc Sahara ngày càng mở rộng. Từ năm 1962 tới nay, sa mạc này đã rộng thêm gần 650.000 km2. Tuy địa hình rộng lớn và được nhiều người ví vón là "sa mạc của những sa mạc", song, Sahara không phải là sa mạc lớn nhất thế giới. Nếu xếp cùng Nam Cực và Bắc Cực thì Sahara chỉ xếp thứ .3 thôi nhé !. Vào thời điểm cuối cùng của Kỉ Băng Hà, sa mạc Sahara từng là khu vực ẩm ướt với nhiều cây xanh và nhiều loài động vật sinh sống. Các hóa thạch khủng long cũng đã được tìm thấy trong lòng sa mạc Sahara. Khoảng 4.000 năm trước, đây vẫn là một vùng trù phú với nhiều loài động thực vật. Tuy nhiên, Trái Đất thay đổi góc nghiêng từ 22,1 độ sang 24,5 độ theo chu kỳ 41.000 năm (hiện tại đang là 23,44 độ và giảm dần). Và chính sự dao động quỹ đạo hành tinh nghìn năm trước đã tác động và chấm dứt sự màu mỡ này, thay vào đó là vùng sa mạc khô hạn, cằn cỗi. Các nhà khoa học tin rằng, sâu trong lớp cát Sahara là dấu tích của các dòng sông cũ, các lớp động vật, thực vật. Sa mạc Sahara nằm gần đường Bắc hồi quy, cách đường xích đạo của Trái Đất 23 độ 27’ Bắc, 23 độ 17’ Nam. Nơi đây cả năm chịu sự khống chế của khí hậu áp nhiệt đới cao và vùng gió mùa Đông Bắc. Gió Đông Bắc làm giảm khí lưu và gió từ lục địa đến. Hơi nước ngưng tụ nên khí hậu ở đây cực kì khô hạn, lượng mưa trung bình của khu vực này dưới 100 mm/ năm. Có nơi thậm chí không có giọt mưa nào trong nhiều năm. Diện tích khô hạn của Sahara đứng đầu toàn cầu do việc mưa ít và ảnh hưởng của việc chăn thả và khai khẩn quá độ khiến sa mạc Sahara không ngừng mở rộng về phía Nam. Khu vực sa mạc khô hạn, ít mây, ánh sáng mặt trời chói chang, quanh năm sóng nhiệt cuồn cuộn, hơi nóng khô người. Nơi đây có nhiệt độ trung bình từ 25 độ C trở lên. Nhiệt độ bình quân trong tháng nóng nhất là tháng 7 từ 35 -37 độ C và thời gian duy trì mức nhiệt này rất dài. Ban ngày, ngoài trời nóng như thiêu đốt, nếu để quả trứng trong cát, nó sẽ…chín ngay. Nhiệt độ cao kỷ lục của Sahara được ghi nhận ở Azizia, Libya, vào năm 1922, lên tới 57,7 độ C. Nhưng đến đêm, gió lạnh cắt da cắt thịt. Sự thay đổi nhiệt độ trong ngày của Sahara càng khiến điều kiện sống nơi đây thêm khắc nghiệt. Một sa mạc khô cằn không ai nghĩ đến việc sẽ tìm thấy sách với một số lượng khổng lồ lên đến hơn 6000 cuốn sách cùng những bản chép tay quý hiểm. Thành phố Chinguetti nằm ở Tây Phi Mauritania chính là kho sách khổng lồ giữa sa mạc Sahara rộng lớn. Thành phố này đã từng là một trong những trung tâm giao thông nhộn nhịp và giàu có của các thương lái đến từ Châu Âu và Bắc Phi. Nhiều thi sĩ, nhà khoa học, bác sĩ, luật sư. đã ra đời. Nơi đây ẩn chứa những bản kinh Koran cổ xưa nhất từ thế kỉ thứ 9. Đây là kho báu đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới cần phải bảo tồn. Sa mạc Sahara được biết đến với những đồi cát khổng lồ. Tuy nhiên, Sahara sở hữu địa hình đa dạng. Bề mặt sa mạc giãn nở nhiều địa hình khác nhau như cao nguyên đá tảng, những vùng đồng bằng rộng lớn bao phủ bởi sỏi, thung lũng khô cằn và cả những vùng đất mặn. Các khối núi lớn ở đây có thể kể tên như Ahaggar, Tibesti. Sa mạc nổi tiếng này còn có các đồng bằng muối, núi, sông, suối. nhưng chỉ có 30% là cát. Các nhà khoa học đã mất rất nhiều năm để lí giải cho các dạng địa hình này. Động vật ở Sahara phong phú hơn mọi người từng nghĩ rất nhiều. Có khoảng 70 loài động vật có vú sinh sống tại đây, 20 loài trong số chúng là những loài có kích thước lớn. Ngoài ra còn có 90 loài chim, 100 loài bò sát. Trong đó lạt đà là loài động vật rất thích hợp sống ở sa mạc Sahara, nó có thể thích nghi với điều kiện sống khắc nghiệt nơi đây và là phương tiện chủ yếu để di chuyển qua sa mạc rộng lớn này. Sa mạc Sahara còn là quê hương của bọ cạp Deathstellker. Đây là loài độc nhất trong các loại bọ cạp. Đó là những loài cây sinh trưởng nhanh và có khả năng chịu hạn tốt như xương rồng, cỏ giấy. Một vài loài có thể mọc mầm sau 10 phút và ra rễ sau đó 10 tiếng. Ở khu vực tiếp giáp của Địa Trung Hải, oliu là loài cây phổ biến. Phần trung tâm của sa mạc Sahara có thảm thực vật vô cùng hạn chế.
Sa mạc Sahara
Sahara (tiếng Ả Rập: الصحراء الكبرى‎, aṣ-Ṣaḥrāʾ al-Kubrā , nghĩa là sa mạc lớn) là sa mạc lớn nhất trên Trái Đất, là hoang mạc lớn thứ 3 trên Trái Đất (sau Châu Nam Cực và Bắc Cực), với diện tích hơn 9.000.000 km², xấp xỉ diện tích của Hoa Kỳ và Trung Quốc. Sahara ở phía bắc châu Phi và có tới 2,5 triệu năm tuổi. Được bao bọc bởi biển Đại Tây Dương ở phía Tây, dãy núi Atlas và Địa Trung Hải ở phía Bắc, Biển Đỏ (Hồng Hải) và Ai Cập ở phía Đông; Sudan và thung lũng sông Niger ở phía Nam. Điểm cao nhất trong sa mạc là đỉnh núi Emi Koussi với độ cao 3415 m so với mực nước biển, thuộc dãy núi Tibesti phía Bắc nước Tchad. Trong suốt kỷ nguyên băng hà, vùng Sahara đã từng ẩm ướt hơn ngày nay rất nhiều. Và cũng đã từng có rất nhiều loài động, thực vật sinh sống nơi đây. Tuy nhiên ngày nay,ngoại trừ vùng thung lũng sông Nin là có thể trồng được nhiều rau và một số ít nơi khác như vùng cao nguyên phía Bắc, gần Địa Trung Hải là có thể trồng cây ôliu còn phần lớn vùng này không thể canh tác được.
Bộ phim có kinh phí sản xuất là 700 triệu yên (5,5 triệu đô la Mỹ), trở thành bộ anime có kinh phí lớn thứ hai tại thời điểm đó (cho đến khi bị Dịch vụ giao hàng của phù thủy Kiki vượt qua vào năm sau). Lấy bối cảnh phản địa đàng năm 2019, Akira kể về cuộc đời của Kaneda Shotaro, thủ lĩnh của một băng bōsōzoku mà người bạn thời thơ ấu của cậu, Shima Tetsuo, vô tình lĩnh hội được niệm động lực sau một tai nạn xe máy, trở thành một mối đe dọa khó lường đến toàn thể quân đội trong bối cảnh đầy hỗn loạn và bất ổn ở một siêu đô thị tương lai giả tưởng đầy lộn xộn Neo-Tokyo. Hầu hết các thiết kế và bối cảnh nhân vật đều được chuyển thể từ manga, cốt truyện lại có sự khác biệt đáng kể và không tích hợp nhiều phần của nửa cuối manga. Phần soundtrack của bộ phim chủ yếu dựa vào nhạc gamelan truyền thống của Indonesia cũng như nhạc Nō Nhật Bản, được Yamashiro Shōji sáng tác và Yamashirogumi Geinoh thực hiện. Akira công chiếu tại Nhật Bản vào ngày 16 tháng 7 năm 1988 bởi Toho. Nó được phát hành vào năm sau tại Hoa Kỳ bởi nhà phân phối phim hoạt hình tiên phong Streamline Pictures. Nó đã thu hút được sự ủng hộ của người hâm mộ cuồng nhiệt quốc tế sau nhiều lần được biểu diễn trên sân khấu và phát hành VHS, cuối cùng thu về hơn 80 đô la Mỹ từ việc bán hàng triệu băng đĩa hình trên toàn thế giới. Nó được các nhà phê bình đánh giá là một trong những bộ phim hoạt hình và phim điện ảnh khoa học viễn tưởng vĩ đại nhất từng được thực hiện, cũng như là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hoạt hình Nhật Bản. Đây cũng là một bộ phim quan trọng của thể loại cyberpunk, đặc biệt là tiểu thể loại cyberpunk Nhật Bản, cũng như hoạt hình dành cho người lớn. Bộ phim đã có một tác động đáng kể đến văn hóa đại chúng trên toàn thế giới, mở đường cho sự phát triển của anime và văn hóa đại chúng Nhật Bản trong văn hóa phương Tây cũng như ảnh hưởng đến nhiều tác phẩm hoạt hình, truyện tranh, phim điện ảnh, âm nhạc, truyền hình và trò chơi điện tử. Vào ngày 16 tháng 7 năm 1988, một điểm kỳ dị đã phá hủy phần lớn thành phố Tokyo. Đến năm 2019, Tokyo đã được xây dựng lại. Hiện được biết đến là Neo-Tokyo, nó bị ảnh hưởng bởi bóng ma tham nhũng, các cuộc biểu tình chống chính phủ, khủng bố, và xung đột giữa các băng nhóm và đang trên bờ vực sụp đổ. Trong một cuộc xung đột quy mô lớn, Kaneda Shōtarō với bản tính hung hăng đã lãnh đạo băng nhóm bōsōzoku nổi loạn chống lại băng nhóm Clown đối thủ. Người bạn thân nhất của Kaneda là Shima Tetsuo đã vô tình đâm xe máy vào Takashi, một siêu năng lực gia (người có khả năng ngoại cảm) đã trốn thoát khỏi phòng thí nghiệm của chính phủ với sự hỗ trợ của một tổ chức kháng chiến. Vụ tai nạn đã đánh thức siêu năng lực của Tetsuo, thu hút sự chú ý của một dự án bí mật của chính phủ do Đại tá của Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản Shikishima chỉ đạo. Được siêu năng lực gia Masaru trợ giúp, Shikishima đã bắt lại Takashi, đưa Tetsuo đi cùng và bắt bớ cả Kaneda cùng với băng nhóm của cậu. Shikishima và trưởng nhóm nghiên cứu của ông, Tiến sĩ Ōnishi, phát hiện ra rằng Tetsuo sở hữu năng lực tâm linh mạnh mẽ tương tự như Akira, siêu năng lực gia được cho là đã hủy diệt cả Tokyo. Siêu năng lực gia đồng nghiệp của Takashi là Kiyoko đã báo trước cho Shikishima biết về sự hủy diệt sắp xảy ra ở Neo-Tokyo. Tuy nhiên, quốc hội của Neo-Tokyo bác bỏ những lo ngại của Shikishima, buộc ông phải cân nhắc việc giết Tetsuo để ngăn chặn một đại thảm họa khác. Trong khi đó, Tetsuo trốn thoát khỏi bệnh viện, đánh cắp chiếc xe máy của Kaneda, và đã lên kế hoạch chạy trốn khỏi Neo-Tokyo với bạn gái của anh, Kaori. Băng nhóm Clown phục kích họ, nhưng sau một trận đòn dữ dội, họ được băng nhóm của Kaneda giải cứu. Tuy nhiên, trong lúc nói chuyện với Kaneda, Tetsuo bỗng dưng bị đau đầu dữ dội và nhìn thấy những ảo giác kì lạ. Sau khi bất tỉnh, cậu được đưa trở lại bệnh viện. Kaneda gia nhập chi bộ kháng chiến của Kei sau khi nghe lén được kế hoạch giải cứu Tetsuo và các siêu năng lực gia khác của họ. Tại bệnh viện, các siêu năng lực gia đối đầu với Tetsuo, cậu đã chống trả quyết liệt bằng sức mạnh tâm linh của mình và bỏ trốn. Sức mạnh tâm linh này bắt đầu khiến cậu trở nên cao ngạo và mất ổn định. Kaneda, Kei, và nhóm kháng chiến đột nhập vào bệnh viện và bị cuốn vào cuộc chiến ngăn chặn Tetsuo của Shikishima và các siêu năng lực gia. Cậu đã đánh bại tất cả bọn họ với sức mạnh tâm linh vượt trội và bỏ trốn khỏi bệnh viện sau khi ép Kiyoko tiết lộ là cậu có thể nhận được sự trợ giúp từ Akira, người đang được đông xác ở bên dưới công trường xây dựng Sân vận động Olympic. Kei và Kaneda thoát khỏi sự giam giữ của quân đội nhờ sự giúp đỡ của Kiyoko. Shikishima tiến hành một cuộc đảo chính chống lại chính phủ Neo-Tokyo và chỉ đạo tất cả các lực lượng quân đội tiêu diệt Tetsuo. Tetsuo quay trở lại nơi từng là hang ổ của băng đảng, quán bar Harukiya, để lấy thuốc phiện nhằm có thể điều khiển được sức mạnh của mình. Cậu tàn sát cả nhân viên pha chế của quán và phá hủy quán bar. Khi những người bạn cũ của cậu là Yamagata và Kai đến và đối đầu với cậu, cậu giết Yamagata một cách tàn nhẫn trước mặt Kai; Kaneda được Kai kể lại những gì đã xảy ra và thề sẽ trả thù cho người bạn mình. Tetsuo hoành hành khắp Neo-Tokyo, đến kho lưu trữ đông lạnh của Akira bên dưới sân vận động. Kiyoko đã liên kết tâm linh với Kei để chiến đấu với Tetsuo, nhưng cậu đánh bại cô một cách dễ dàng và khai quật di hài của Akira. Kaneda đã sử dụng súng trường laser để chiến đấu với Tetsuo trong một trận đấu tay đôi, và Shikishima đã sử dụng vũ khí không gian để bắn vào cậu, nhưng cả hai đều không thể ngăn cản được. Shikishima và Kaori đến gần sân vận động và bắt gặp Tetsuo đang đau đớn tột cùng; Shikishima đề nghị đưa Tetsuo trở lại bệnh viện, chữa lành vết thương và giúp kiểm soát năng lực của cậu, trong khi Kaori cố gắng kiềm chế Tetsuo. Tuy nhiên, Kaneda chạy tới nơi và một lần nữa lại đấu tay đôi với Tetsuo. Tetsuo không thể kiểm soát được sức mạnh của mình và biến thành một khối thịt khổng lồ, hấp thụ toàn bộ vật chất, nuốt chửng Kaneda và tiêu diệt Kaori. Các siêu năng lực gia buộc phải thức tỉnh Akira để ngăn chặn nó. Sau khi đoàn tụ với những người bạn của mình, Akira tạo ra một điểm kỳ dị khác kéo Tetsuo và Kaneda vào một không gian khác. Các siêu năng lực gia dịch chuyển Shikishima đến nơi an toàn khi điểm kỳ dị phá hủy Neo-Tokyo không khác gì đại thảm họa trước đó xảy ra ở Tokyo. Họ cũng đồng ý giải cứu Kaneda dù biết trước hậu quả là họ sẽ không thể nào quay trở lại chiều không gian này. Tại điểm kỳ dị, Kaneda được trải nghiệm thời thơ ấu của Tetsuo và các siêu năng lực gia, kể cả ký ức Tetsuo ngày xưa thường dựa dẫm vào Kaneda, và cách những đứa trẻ siêu năng lực gia được đào tạo và biến đổi trước khi Tokyo bị hủy diệt. Các siêu năng lực gia đưa Kaneda trở về thế giới, báo cho anh biết là Akira sẽ đưa Tetsuo đến nơi an toàn kèm theo một thông tin là Kei đang phát triển siêu năng lực. Điểm kỳ dị biến mất, và nước lũ nhấn chìm cả thành phố. Ōnishi bị phòng thí nghiệm đổ ập xuống người và chết không lâu sau đó. Kaneda phát hiện ra rằng Kei và Kai vẫn sống sót và họ lái xe rời khỏi đống đổ nát, trong khi Shikishima ngắm bình minh. Còn Tetsuo thì đã trở thành một dạng tồn tại không xác định vào cuối bộ phim. Trên hệ thống tổng hợp kết quả đánh giá Rotten Tomatoes, phim nhận 90% điểm đồng thuận dựa trên 48 bài đánh giá, đạt số điểm trung bình là 7,62/10. Các chuyên gia của trang web nhất trí rằng: "Akira đẫm máu và bạo lực một cách khủng khiếp, nhưng hiệu ứng hoạt hình dị thường và động năng tuyệt đối của nó đã góp phần thiết lập tiêu chuẩn cho anime hiện đại.". Bamboo Dong của Anime News Network khen ngợi DVD của Phiên bản Giới hạn vì phụ đề tiếng Anh được "dịch một cách xuất sắc" và phần lồng tiếng Anh đáng được tuyên dương, "bản dịch tiếng Anh được dịch rất sát và các diễn viên lồng tiếng lồng cảm xúc vào trong lời thoại". Raphael See của THEM Anime tán dương "những hiệu ứng đặc biệt đáng kinh ngạc và hoạt hình rõ ràng, sắc nét" của bộ phim. Chris Beveridge nhận xét về hiệu ứng âm thanh tiếng Nhật, điều này mang đến "âm trường chuyển tiếp phát huy hiệu quả khi cần thiết. Đối thoại được bố cục hợp lý, với một số thời điểm quan trọng được định hướng sử dụng một cách hoàn hảo". Janet Maslin của The New York Times khen ngợi các hình vẽ nghệ thuật của Otomo, nói rằng "các bức họa của Neo-Tokyo về đêm rất phức tạp và chi tiết đến mức tất cả các cửa sổ của từng tòa nhà chọc trời khổng lồ đều có vẻ gì đó khác biệt. Và những phong cảnh đêm này rực sáng với màu sắc tinh tế, rực rỡ ". Richard Harrison của The Washington Post nhận xét về nhịp độ của bộ phim, nói rằng tác giả "đã rút gọn nguyên tác của truyện tranh để đảm bảo tính mạch lạc, mặc dù nó có một chút yếu tố không trọn vẹn của "Back to the Future phần II" đối với câu chuyện. Điều đó hầu như không quan trọng, vì bộ phim chuyển động với động năng mà bạn sẽ cảm thấy gắn bó với nó như thể nó là cuộc đời bạn". Akira hiện được coi là một trong những bộ phim hoạt hình điện ảnh hay nhất mọi thời đại và đã thúc đẩy sự phổ biến phim hoạt hình điện ảnh ở Mỹ và nói chung, bên ngoài Nhật Bản nói riêng. Nó vẫn được ngưỡng mộ vì hình ảnh đặc biệt của nó. Trong cuộc bình chọn năm 2005 của Channel 4 về 100 phim hoạt hình hay nhất mọi thời đại bao gồm cả điện ảnh và truyền hình, Akira đứng ở vị trí thứ 16. Trong danh sách 500 phim hay nhất mọi thời đại của tạp chí Empire, Akira đứng ở vị trí thứ 440. Nó cũng một lần nữa xuất hiện trong danh sách 100 Bộ phim hay nhất của điện ảnh thế giới của tạp chí Empire. IGN cũng xếp nó vị trí thứ 14 trong danh sách 25 phim hoạt hình hay nhất mọi thời đại. Bộ phim cũng xếp thứ 16 trong danh sách 50 phim hoạt hình điện ảnh hay nhất của Time Out và đứng thứ 5 trong danh sách 50 bộ phim hoạt hình điện ảnh hay nhất của Total Film. Bộ phim đã được tạp chí Wizard&aposs Anime xếp hạng nhất trong danh sách "50 Anime hàng đầu được phát hành tại Bắc Mỹ" vào năm 2001. Nó được xếp thứ 4 trong danh sách "10 Phim hoạt hình hay nhất dành cho người lớn" của The Hollywood Reporter năm 2016. Akira cũng được coi là một trong những bộ phim khoa học viễn tưởng hay nhất mọi thời đại. Nó được xếp thứ 22 trong danh sách các bộ phim khoa học viễn tưởng và kỳ ảo hay nhất theo The Guardian, và được tích hợp trong danh sách 50 bộ phim khoa học viễn tưởng hay nhất của Film4, và đứng thứ 27 trong danh sách 50 bộ phim khoa học viễn tưởng của Complex. Phelim O&aposNeill của The Guardian đã so sánh tầm ảnh hưởng của Akira đến thể loại khoa học viễn tưởng với hai bộ phim Blade Runner và 2001: A Space Odyssey của Stanley Kubrick. Akira được coi là một bộ phim mang tính bước ngoặt của thể loại cyberpunk, đặc biệt là thể loại cyberpunk Nhật Bản. Viện phim Anh mô tả Akira đã đặt nền móng cho thể loại cyberpunk, cùng với Blade Runner và Neuromancer. Rob Garratt của South China Morning Post gọi Akira là một trong những "ảo mộng của khoa học viễn tưởng có tầm ảnh hưởng nhất từng được hiện thực hóa" trên màn ảnh, sánh ngang với tầm ảnh hưởng của Blade Runner. Akira cũng được ghi nhận là bước đột phá của phim hoạt hình dành cho người lớn, chứng minh cho khán giả toàn cầu thấy rằng hoạt hình không chỉ là sản phẩm dành cho trẻ em. Akira được nhiều nhà phê bình coi là một bộ phim hoạt hình mang tính bước ngoặt, một bộ phim có tầm ảnh hưởng nhiều đến nghệ thuật trong thế giới anime sau khi được phát hành. Nhiều họa sĩ minh họa trong ngành công nghiệp manga cho rằng bộ phim có ảnh hưởng quan trọng. Chẳng hạn, mangaka Kishimoto Masashi hồi tưởng lại cảm giác bị mê hoặc bởi phong cách nghệ thuật của áp phích bộ phim và muốn bắt chước phong cách đó của Otomo Katsuhiro. Bộ phim đã có một tác động đáng kể đến văn hóa đại chúng trên toàn thế giới. Bộ phim đã mở đường cho sự phổ biến của anime cũng như văn hóa đại chúng Nhật Bản tới phương Tây. Akira được coi là tiền thân của làn sóng cộng đồng người hâm mộ anime thứ hai bắt đầu vào đầu những năm 1990 và đã thu hút được sự quan tâm của người hâm mộ cuồng nhiệt kể từ đó. Nó được ghi nhận là đã thiết lập bối cảnh cho hàng loạt thương hiệu anime đình đám như Pokémon, Dragon Ball và Naruto trở thành hiện tượng văn hóa toàn cầu. Theo The Guardian, "bộ anime đình đám năm 1988 đã dạy cho các nhà làm phim phương Tây những ý tưởng mới trong lối dẫn chuyện, và giúp các nhà làm phim hoạt hình phát triển". Khi Tokyo được chọn đăng cai Thế vận hội Mùa hè 2020 trong quá trình đấu thầu năm 2013, một số bình luận viên cho rằng Akira đã dự đoán được sự kiện trong tương lai. Năm 2017, Akira đã được giới thiệu trong một số chương trình quảng bá Olympic Tokyo. Vào tháng 2 năm 2020, trong Đại dịch COVID-19 và 147 ngày trước Thế vận hội, một cảnh ở Akira kêu gọi hủy bỏ Thế vận hội 2020 (147 ngày trước sự kiện) đã dẫn đến một xu hướng truyền thông xã hội kêu gọi hủy bỏ Thế vận hội 2020. Thế vận hội mùa hè cuối cùng đã bị hoãn lại đến năm 2021, thay vì bị hủy bỏ hoàn toàn. Akira là một trong bốn bộ phim được đề cử cho giải thưởng "Phim hoạt hình hay nhất" tại Lễ trao giải American Anime Awards năm 2007, nhưng nó đã thất bại trước Final Fantasy VII: Advent Children.
Akira (phim 1988)
Akira (Nhật: アキラ, Akira) là một bộ anime điện ảnh cyberpunk hậu tận thế năm 1988 của Nhật Bản do Otomo Katsuhiro đạo diễn, Suzuki Ryōhei và Katō Shunzō sản xuất, và được Otomo và Hashimoto Izo biên kịch, dựa trên manga cùng tên năm 1982 của Otomo. Bộ phim có kinh phí sản xuất là 700 triệu yên (5,5 triệu đô la Mỹ), trở thành bộ anime có kinh phí lớn thứ hai tại thời điểm đó (cho đến khi bị Dịch vụ giao hàng của phù thủy Kiki vượt qua vào năm sau).Lấy bối cảnh phản địa đàng năm 2019, Akira kể về cuộc đời của Kaneda Shotaro, thủ lĩnh của một băng bōsōzoku mà người bạn thời thơ ấu của cậu, Shima Tetsuo, vô tình lĩnh hội được niệm động lực sau một tai nạn xe máy, trở thành một mối đe dọa khó lường đến toàn thể quân đội trong bối cảnh đầy hỗn loạn và bất ổn ở một siêu đô thị tương lai giả tưởng đầy lộn xộn Neo-Tokyo. Hầu hết các thiết kế và bối cảnh nhân vật đều được chuyển thể từ manga, cốt truyện lại có sự khác biệt đáng kể và không tích hợp nhiều phần của nửa cuối manga.
Hiện nay, thuật ngữ “hộ tịch” là một thuật ngữ quen thuộc đối với mỗi cá nhân để chỉ những quyền lợi cơ bản cũng như các sự kiện hợp pháp của công dân. Việc đăng ký hộ tịch được xác định là nhiệm vụ quan trọng của các cấp chính quyền nhằm theo dõi được thực trạng và sự biến động về hộ tịch, đồng thời kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, gia đình. Luật sư tư vấn luật về hộ tịch và quản lý hộ tịch trực tuyến: 1900.6568. Hộ tịch là những sự kiện được quy định tại Điều 3 của Luật này, xác định tình trạng nhân thân của cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư. Hộ tịch là một khái niệm tập hợp rất nhiều sự kiện hộ tịch và theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Hộ tịch năm 2014 thì Hộ tịch là những sự kiện hộ tịch như: khai sinh, kết hôn, nhận cha mẹ, con, thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, bổ sung thông tin hộ tịch, khai tử. Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận hoặc ghi vào Sổ hộ tịch các sự kiện hộ tịch của cá nhân, tạo cơ sở pháp lý để Nhà nước bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, thực hiện quản lý về dân cư. Mục đích chính của đăng ký hộ tịch là để tạo ra hệ thống pháp luật (văn bản pháp luật thậm chí là văn bản quy phạm pháp luật) được sử dụng để thiết lập và bảo vệ các quyền dân sự của cá nhân. Mục đích thứ hai là tạo ra một nguồn dữ liệu cho việc biên soạn các số liệu thống kê quan trọng, phục vụ cho hoạt động thống kê dân số của nhà nước. Mục đích quản lý hộ tịch là công việc thường xuyên của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện để theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, để từ đó góp phần tạo cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, …. Hộ tịch trong tiếng anh được dịch là Civil Status. Một số thuật ngữ liên quan đến hộ tịch như sau:. Việc đăng ký hộ tịch đã tạo cơ sở pháp lý bảo đảm một số quyền nhân thân cơ bản của cá nhân (như quyền đối với họ tên, quyền thay đổi họ tên, quyền xác định dân tộc, quyền được khai sinh, quyền kết hôn… đã được ghi nhận trong Bộ Luật Dân sự). Thông qua việc đăng ký khai sinh đã bảo đảm quyền được khai sinh, một trong những quyền quan trọng đầu tiên của trẻ em theo tuyên bố tại Công ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em:. “Trẻ em phải được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền ngay từ khi ra đời, có họ tên, có quốc tịch và trong chừng mực có thể, quyền được biết cha mẹ mình là ai và được chính cha mẹ mình chăm sóc”; Tuy nhiên, quyền được khai sinh không phải là quyền riêng có của trẻ em mà là quyền của bất cứ cá nhân nào; theo quy định của Bộ Luật Dân sự thì việc bảo đảm quyền đăng ký hộ tịch cũng đồng nghĩa với việc bảo đảm quyền nhân thân cơ bản của mỗi cá nhân. Theo Bộ luật Dân sự năm 1995, Điều 54 qui định: “Đăng ký hộ tịch là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác nhận sự kiện sinh, tử, kết hôn, ly hôn, giám hộ, nuôi con nuôi, thay đổi họ, tên, quốc tịch, xác định dân tộc, cải chính hộ tịch và các sự kiện khác theo qui định của pháp luật”. – Căn cứ vào quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, ghi vào sổ đăng ký hộ tịch các việc về ly hôn, xác định cha, mẹ, con, thay đổi quốc tịch, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy hôn nhân trái pháp luật, hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc những sự kiện khác theo qui định của pháp luật”. Hiện nay, hệ thống cơ quan quản lý hộ tịch ở nước ta được tổ chức theo nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Theo đó, tương ứng với mỗi cơ quan quản lý có thẩm quyền chung của một cấp hành chính có một cơ quan chuyên ngành cùng cấp có nhiệm vụ giúp cơ quan quản lý có thẩm quyền chung đó thực hiện việc quản lý hộ tịch. Quản lý hộ tịch là một nội dung quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp. Những cơ quan có thẩm quyền trong quản lý hộ tịch gồm có: Chính phủ – cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước ta; Bộ Tư pháp; Bộ ngoại giao; Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự của việt nam ở nước ngoài; Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp, Ủy ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tư pháp; Ủy ban nhân dân cấp xã và công chức tư pháp hộ tịch. Vì vậy, quản lý hộ tịch là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của chính quyền các cấp, nhằm theo dõi thực trạng và sự biến động về hộ tịch, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân và gia đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách về kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và dân số, kế hoạch hóa gia đình. Nếu như hoạt động quản lý dân cư được coi là nội dung quan trọng hàng đầu trong tổng thể hoạt động quản lý xã hội thì quản lý hộ tịch, với các lợi ích của nó được coi là khâu nằm ở vị trí trung tâm của hoạt động quản lý dân cư. Mặt khác, hoạt động quản lý hộ tịch là lĩnh vực thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của Nhà nước, bởi các lý do sau:. Thứ nhất, quản lý hộ tịch là cơ sở để Nhà nước hoạch định các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng,…và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách đó. Thông tin về hộ tịch ngày càng đầy đủ, chính xác, kịp thời sẽ là nguồn tài sản thông tin hết sức quý giá hỗ trợ đắc lực cho việc hoạch định các chính sách xã hội một cách chính xác, có tính khả thi, tiết kiệm chi phí xã hội. Thứ hai, hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch thể hiện tập trung nhất, sự tôn trọng của Nhà nước đối với việc thực hiện một số quyền nhân thân cơ bản của công dân như: quyền đối với họ và tên, quyền thay đổi họ tên, quyền xác định dân tộc, quyền được khai sinh, quyền được khai tử, quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền được nuôi con nuôi và được nhận làm con nuôi, quyền đối với quốc tịch…đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992, Bộ luật dân sự năm 1995 và đến Bộ luật dân sự năm 2005 tiếp tục khẳng định lại. Ở phương diện này, một mặt, đăng ký hộ tịch chính là để người dân thực hiện, hưởng thụ các quyền nhân thân đó, mặt khác, các thông tin về căn cước của mỗi cá nhân thể hiện trên giấy tờ hộ tịch (giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn…) là sự khẳng định có giá trị pháp lý về đặc điểm nhân thân của mỗi người, mà qua đó, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có thể đánh giá người đó có hoặc không có khả năng, điều kiện tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định. Thứ ba, quản lý hộ tịch có vai trò to lớn đối với việc đảm bảo trật tự xã hội. Một hệ thống hộ tịch chính xác, đầy đủ sẽ giúp cho việc truy nguyên nguồn gốc cá nhân được thực hiện một cách dễ dàng. Các giấy tờ về hộ tịch được thực hiện theo thủ tục chặt chẽ có giá trị là sự khẳng định chính thức của Nhà nước về vị thế của một cá nhân trong gia đình và xã hội. Điều này càng có ý nghĩa hơn trong hoạt động tư pháp, khi cần xác định năng lực hành vi và năng lực pháp luật của một cá nhân, các cơ quan tiến hành tố tụng luôn cần đến Giấy khai sinh của cá nhân đó bởi Giấy khai sinh thể hiện đầy đủ thông tin về cá nhân như: ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, dân tộc, quốc tịch, họ tên cha mẹ, nghề nghiệp cha mẹ….của cá nhân đó. Từ sự phân tích trên cho thấy, sự cần thiết của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch có ý nghĩa rất quan trọng cho việc phát triển các mặt đời sống xã hội của một quốc gia. Để từ đó xây dựng nên một hệ thống quản lý hộ tịch thật hiệu quả nhằm phục vụ cho công tác quản lý của Nhà nước ta hiện nay. Trong quá trình thực hiện công tác đăng ký, quản lý hộ tịch vẫn còn gặp một số khó khăn, tồn tại nhất định cụ thể như: Tình trạng đăng ký quá hạn ở lĩnh vực đăng ký khai sinh vẫn còn xảy ra ở một số đơn vị do nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về hộ tịch của cán bộ và nhân dân còn có hạn chế. Việc sử dụng phần mềm đăng ký và quản lý hộ tịch dùng chung của Bộ Tư pháp còn gặp nhiều vướng mắc như: Thiếu nhiều trường thông tin khi nhập dữ liệu dẫn đến các tờ khai khi in ra bị thiếu thông tin. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về công tác đăng ký, quản lý hộ tịch tương đối đầy đủ nhưng một số nội dung chưa quy định chi tiết, gây khó khăn cho cơ sở trong quá trình triển khai thực hiện…. Kết luận: Đăng ký và quản lý hộ tịch là các nội dung quan trọng của công tác quản lý dân cư của Nhà nước. Việc đăng ký hộ tịch là công việc giúp cho công dân có các giấy tờ xác nhận của Nhà nước về hộ tịch, trên cơ sở đó Nhà nước có trách nhiệm bảo hộ các quan hệ đó. Điều kiện, trình tự thủ tục bổ sung tên cha vào Giấy khai sinh của con? Xác nhận cha cho con và thủ tục thêm tên cha trong giấy khai sinh mới nhất. Đăng ký lại khai sinh khi bị mất hết giấy tờ hộ tịch gốc. Thủ tục đăng ký lại khai sinh. Luật này quy định về hộ tịch; quyền, nghĩa vụ, nguyên tắc, thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch; Cơ sở dữ liệu hộ tịch và quản lý nhà nước về hộ tịch. Tải về và hướng dẫn áp dụng quy định của luật hộ tịch cùng các văn bản hướng dẫn. Các vấn đề rắc rối trong quản lý hộ tịch, kết nối Luật Dương Gia để được giải đáp. Luân chuyển bí thư đoàn xã làm công chức tư pháp hộ tịch. Điều kiện làm công chức tư pháp hộ tịch. Điều động công chức tư pháp hộ tịch sang công chức lao động. Điều động cán bộ công chức, điều kiện thủ tục điều động công chức.
Đăng ký hộ tịch
Đăng ký hộ tịch, hay nói gọn là hộ tịch, là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (thường là các cơ quan hành pháp, cơ quan quản lý hành chính nhà nước) ghi và lưu lại lại các sự kiện hộ tịch quan trọng của công dân. Hộ tịch được hiểu là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một người từ khi sinh ra đến khi chết. Sự kiện quan trọng thường được ghi nhận bao gồm việc khai sinh, khai tử, kết hôn, ly hôn, hủy việc kết hôn, ly thân tư pháp, nhận nuôi con nuôi, hợp pháp hoá lãnh sự. Ngoài ra, ở một số nước, việc nhập cư, di dân, và bất kỳ thay đổi nơi cư trú, chỗ ở có thể bị yêu cầu phải thông báo đến cơ quan nhà nước.
Trong lịch sử từ lâu đời, Thái Lan và Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ song phương cùng phát triển. Thái Lan có đại sứ quán tại thủ đô Hà Nội, tương tự, Việt Nam cũng có đại sứ quán ở Băng Cốc. Cả hai quốc gia đều là thành viên của hiệp hội ASEAN. Cả hai đất nước đều ít nhiều chịu ảnh hưởng văn hóa của Ấn Độ trong suốt chiều dài lịch sử phát triển, ví dụ điển hình là Xiêm (quốc hiệu cũ của Thái Lan) và Chăm Pa (vương quốc cổ phía nam Việt Nam). Tuy vậy, phải đến thế kỷ 16, Xiêm và Chăm Pa mới có những quan hệ giao thương chính thức đầu tiên. Sau khi triều đại Chúa Nguyễn bị lật đổ, chúa Nguyễn Ánh cùng các cận thần sang cầu cứu nước Xiêm với mục đích trả thù. Binh lính Xiêm tràn sang miền nam Việt Nam nhưng cuối cùng bị quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ đánh bại. Thái Lan có tham gia vào chiến tranh Việt Nam và về phe của Hoa Kỳ do lo sợ sự lan truyền của chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới và ngay tại đất nước của chính mình. Thái Lan đã cử 12-15 000 quân tham chiến, với con số hơn 2000 binh lính tử nạn đã được ghi nhận. Sau năm 1975, mối quan hệ Thái Lan – Việt Nam trở nên căng thẳng và bất ổn. Sau khi chế độ Khmer Đỏ bị lật đổ, quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Campuchia và gây ra xung đột vũ trang lớn với Thái Lan do nước này có nhiều ủng hộ đối với Khmer Đỏ. Chiến tranh biên giới nổ ra giữa hai bên càng làm cho mối quan hệ hữu nghị bị xấu đi trầm trọng. Tới năm 1989, khi quân đội Việt Nam rút khỏi Campuchia, tình hình căng thẳng mới được giải tỏa. Sau công cuộc Đổi mới của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh năm 1986, Việt Nam hòa nhập và giao lưu nhiều hơn với bạn bè quốc tế, quan hệ Thái – Việt từ đó cũng khởi sắc và tích cực hơn. Thái Lan, một trong những thành viên sáng lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN, ủng hộ Việt Nam tham gia vào tổ chức này. Năm 1995, Việt Nam chính thức trở thành một thành viên của ASEAN. Quan hệ ngoại giao Thái – Việt trở thành quan hệ đối tác chiến lược, thúc đẩy cùng phát triển. Theo thống kê năm 2015, Thái Lan là nhà đầu tư lớn thứ mười tại Việt Nam với số vốn là 7 tỷ đô la Mỹ. Thái Lan cũng là đối tác thương mại lớn thứ năm của Việt Nam.
Quan hệ Ba Lan – Việt Nam
Quan hệ Ba Lan–Việt Nam là mối quan hệ giữa Cộng hòa Ba Lan và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong lịch sử. Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1950. Mặc dù có những khác biệt về mặt địa lý, chính trị, xã hội và chế độ, hai nước chia sẻ sự đồng cảm lớn về lịch sử do có thời gian dài chống lại giặc ngoại xâm, chủ yếu là từ Nga và Trung Quốc, cũng như một lịch sử dài các cuộc bành trướng, cũng như tinh thần dân tộc và lòng yêu nước, tinh thần bền bỉ ở cả hai quốc gia. Ba Lan có đại sứ quán ở Hà Nội trong khi Việt Nam có đại sứ quán ở Warszawa. Mặc dù hai quốc gia có ít mối liên hệ do vị trí địa lý khác biệt, nhưng hai quốc gia dù sao cũng có chung một lịch sử tương tự: họ có một số lịch sử lâu đời nhất và lâu đời nhất ở Châu Âu và Châu Á. Cả Ba Lan và Việt Nam đều được công nhận vì đã đánh bại hai đế chế hùng mạnh trong lịch sử tương ứng của họ, đế chế Ottoman và Mông Cổ và cứu từng lục địa khỏi các mối đe dọa của các đế chế này.
Các sự kiện thể thao và nhất là bóng đá luôn thu hút được rất nhiều sự quan tâm của khán giả trên toàn thế giới. Hàng năm, các sự kiện thể thao sẽ được tổ chức tại các sân vận động lớn, đặc biệt là những sự kiện thu hút hàng trăm ngàn lượt người cổ vũ. Để tìm hiểu rõ hơn về những sân vận động lớn nhất thế giới. hãy cùng theo dõi danh sách 10 sân vận động lớn nhất của chúng tôi dựa trên sức chứa chỗ ngồi. Chắc chắn sẽ khiến mọi người ngạc nhiên. Được xây dựng vào năm 1989, sân vận động của Hàn Quốc có sức chứa hơn 150.000 người và cũng là sân vận động lớn nhất thế giới tính đến thời điểm hiện nay. Sân vận động hình bầu dục làm say mê khán giả với chỗ ngồi thoải mái để theo dõi các sự kiện. Các sự kiện phổ biến nhất là bóng đá, đấu vật, thể dục dụng cụ và biểu diễn nghệ thuật. Đặc biệt là chuỗi sự kiện thể thao Wrestling Championship và New Japan Pro Wrestling kéo dài hai ngày một đêm, sân vận động đã đạt kỷ lục với số khán giả tham dự lần lượt là 150.000 và 190.000 người. Sân vận động này ban đầu được xây dựng vào năm 1984 và được cải tạo gần đây vào năm 2011. Sức chứa chỗ ngồi được tăng cường để chứa 120.000 khán giả. Đây là sân vận động bóng đá lớn thứ hai trên thế giới và lớn nhất ở Ấn Độ. Vào năm 1997, hơn 137.000 khán giả đã theo dõi trận bóng đá Bán kết Cúp Liên đoàn. nên phổ biến là nơi diễn ra một số giải bóng đá, các trận đấu quốc gia và quốc tế, bao gồm FIFA World Cup vào năm 1986. Ngoài phục vụ các hoạt động thể thao như bóng đá, sân vận động còn được sử dụng làm sân khấu cho các sự kiện âm nhạc & văn hóa. Là một trong những sân vận động nổi tiếng ở Mỹ, sân vận động Michigan được xây dựng vào năm 1927 với chi phí 1,4 triệu đô la và có sức chứa hơn 113.000 người, theo báo cáo của Daily Telegraph. Có biệt danh là ‘The Big House’, sân vận động là nhà của đội bóng đá Wolverines ,Michigan. Sức chứa kỉ lục nhất mà sân vận động này có được là 100.000 khán giả cho tất cả các trận bóng đá kể từ năm 1975. Cho đến nay, hơn 200 trận bóng đá của câu lập bộ đã được diễn ra tại đây. Đặc biệt sân vận động này cũng đạt được kỷ lục về việc thu hút lượng lớn đám đông tham dự theo NHL Winter Classic năm 2014 và nơi đây cũng thường xuyên tổ chức các buổi lễ tốt nghiệp tại thành phố Michigan. Nằm ở Pennsylvania, sân vận động Beaver là một trong những sân vận động lâu đời nhất ở Mỹ. Sân vận động lớn thứ hai ở Mỹ và lớn thứ tư trên thế giới. Được đặt theo tên của Thống đốc Pennsylvania. Sân vận động này thuộc sở hữu của Đại học bang Pennsylvania, ban đầu được xây dựng vào năm 1909 và sau đó được mở rộng để tổ chức các chương trình lớn hơn. Trận đấu bóng đá giữa đội chủ nhà và Nebraska đã thu hút số lượng khán giả tối đa là 110.753 người. Sân vận động Estio Azteca nằm ở khu vực ngoại ô thành phố Mexico.được xem là một trong những sân vận động bóng đá nổi tiếng và mang tính biểu tượng trên thế giới. Được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1996 với sức chứa 80.000 chỗ ngồi và được cải tạo để chứa hơn 105.000 khán giả. Sân vận động được sử dụng cho các trận đấu bóng đá của Club America, đội bóng đá quốc gia Mexico. Sân vận động đã tổ chức 2 trận chung kết FIFA World Cup vào năm 1970 và 1986. Sân vận động này còn là nơi diễn ra trận tứ kết năm 1986 giữa Argentina và Anh, với sự góp mặt của “Ngôi sao Thế kỷ” Maradona. Là sân nhà của đội bóng đá Buckeyes của Đại học tiểu bang Ohio, Sân vận động Ohio có sức chứa 104.000 khán giả. Còn được gọi là ‘Móng ngựa’ hay chỉ là ‘Chiếc giày’, sân vận động đã chứng kiến các trận đấu bóng đá quốc gia kể từ năm 1922. Trong hai thập kỷ qua, sân vận động này cũng đã tổ chức một số buổi hòa nhạc như Pink Floyd, Elton John, U2, Rolling Stones, v.v. Vào năm 2014, hệ thống đền nâng cấp đã được lắp đặt bên trong sân bóng đá để chơi các trận đấu đêm. Đó là một cảnh tượng tuyệt vời khi bạn có thể thưởng thức những trận bóng hấp dẫn về đêm. Là một trong 10 sân vận động lớn nhất thế giới. Đây là ngôi nhà của đội bóng bầu dục Aggie Texas A & M và có sức chứa 102.500 người. Sân vận động bóng đá được đặt theo tên của người sáng lập, E.K. Kyle, người từng tốt nghiệp tại Texas A & M. Đồng thời là nhà tiên phong trong việc thúc đẩy các hoạt động thể thao sôi nổi diễn ra ở trường học. Được đặt theo tên của Robert Neyland, huấn luyện viên bóng đá của Đại học Tennessee, sân vận động có sức chứa 102.000 khán giả. Sân vận động cũng tổ chức các hội nghị quốc gia và đây là sân nhà của Liên đoàn bóng đá quốc gia. Được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1921, sân vận động được The Sports News đánh giá là sân vận động số 1 vào năm 2001. Đồng thời, sân vận động Neyland còn nhận được vinh dự là nơi tổ chức FIFA World Cup 2018 và 2022. Sân vận động Tiger được xây dựng vào năm 1924 tại Louisiana, Hoa Kỳ với sức chứa ban đầu khá nhỏ, chỉ khoảng 12.000 khán giả. Tuy nhiên, sau khi cải tạo, công suất đã được tăng lên để chứa gần 101.000 khán giả. Đây cũng là sân nhà của đội bóng đá LSU và nằm trong Đại học bang Louisiana. Sân vận động này cũng được biết đến với tên gọi khác là ‘Death Valley’-‘Thung lũng Chết’, vì rất khó để cho các đối thủ có để đánh bại đội chủ nhà ngay trên sân. Với hệ thống đèn chiếu sáng hỗ trợ tuyệt vời, đây cũng là nơi lý tưởng để tổ chức các trận bóng cũng như sự kiện về đêm. Được xây dựng vào năm 1924, sân vận động ban đầu là Đài tưởng niệm chiến tranh và do đó có tên là Darrell K Royal-Texas Memorial. Sau khi trải qua nhiều lần cải tạo và nâng cấp, sân vận động hiện có thể chứa hơn 100.000 khán giả. Sân vận động này là sân vận động lớn thứ 10 trong danh sách 10 sân vận động lớn nhất thế giới, đồng thời là một phần của Đại học Texas, Austin và là nhà của Đội bóng đá Austin Longhorn. Đây là sân vận động lớn thứ tám ở Hoa Kỳ. Năm 1996, sân vận động chính thức được đặt theo tên Darrell K Royal của Quân đoàn Hoa Kỳ, người đã góp phần làm nên chiến thắng của Đội bóng đá Texas trong rất nhiều trận đấu quan trọng trên cương vị là một huấn luyện viên. Là một phần quan trọng trong các giải đấu lớn cũng như các hoạt động thể thao, các sân vận động cũng được xem là những chứng nhân lịch sử nơi ghi nhận những trận đấu hấp dẫn nhất từ trước tới nay trong làng thể thao thế giới. Hy vọng rằng, với những chia sẻ trên đây của chúng tôi về những sân vận động lớn nhất thế giới, đã giúp bạn có thể những thông tin hữu ích. Nhất là với những người hâm mộ thể thao cuồng nhiệt. Mình là admin chính, đồng thời cũng là Founder của Cộng đồng Fifa, mình rất thích bóng đá và có nhiều năm kinh nghiệm trong việc viết lách chuyên ngành bóng đá. Gần đây, mình cũng khá hứng thú với game bài và cá cược, mình đang dành thời gian nghiên cứu về nó để có nhiều bài viết chất lượng cho các bạn như các bài viết về bóng đá hiện tại vậy. Hãy luôn ủng hộ và theo dõi mình nhé.
Sân vận động Michigan
Sân vận động Michigan (tiếng Anh: Michigan Stadium), có biệt danh là "The Big House", là một sân vận động bóng bầu dục của Đại học Michigan ở Ann Arbor, Michigan. Đây là sân vận động lớn nhất ở Hoa Kỳ và Tây Bán cầu, là sân vận động lớn thứ ba thế giới và là địa điểm thể thao lớn thứ 34. Sức chứa chính thức của sân là 107.601 người, nhưng có thể chứa tối đa lên tới 115.000 người. Sân vận động Michigan được xây dựng vào năm 1927 với chi phí 950.000 đô la (tương đương 14 triệu đô la vào năm 2019) và có sức chứa ban đầu là 72.000 người. Trước khi xây dựng sân vận động, Wolverines đã chơi bóng bầu dục tại Ferry Field. Mỗi trận đấu trên sân nhà kể từ ngày 8 tháng 11 năm 1975 đều thu hút hơn 100.000 khán giả, đã kéo dài hơn 200 sự kiện. Vào ngày 7 tháng 9 năm 2013, trận đấu giữa Michigan và Notre Dame Fighting Irish đã thu hút 115.109 khán giả, kỷ lục khán giả của một trận đấu bóng bầu dục đại học kể từ năm 1948, và là một kỷ lục khán giả trong một trận đấu tại NCAA, vượt qua kỷ lục 114.804 người của hai năm trước đó của cùng một trận đấu.
Kỹ năng mềm là gì? Phân biệt kỹ năng mềm với các loại kỹ năng khác. Kỹ năng mềm có cần thiết hay không? Bật mí một số kĩ năng mềm có thể bạn chưa biết giúp bạn tạo đà phát triển. Khi bạn quan tâm đến vấn đề rèn luyện khả năng trao đổi, giao tiếp trong cộng đồng xã hội, bạn sẽ được nghe đến rất nhiều các loại kỹ năng. Trong đó kỹ năng này bao trùm kỹ năng kia, kỹ năng kia bổ sung kỹ năng này. Tương tự như vậy, Kỹ năng mềm và Kỹ năng sống không phải là hai phạm trù khoa học giống nhau, nhưng cũng không phải là hai phạm trù khác nhau. Kỹ năng mềm là một phần của kỹ năng sống, hay nói cách khác, kỹ năng sống rất rộng lớn, nó bao gồm kỹ năng mềm và rất nhiều loại kỹ năng khác. Trong bài biết này, bạn và tôi, chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn và trọng tâm về kỹ năng mềm nhé. Kỹ năng mềm là những kiến thức thực tế trong cuộc sống có thể có được do học hỏi từ nhiều nguồn đáng tin cậy. Có được qua quá trình chúng ta trải nghiệm cuộc sống để từ đó đúc rút ra được những kĩ năng. Trong khi đó kĩ năng cứng là được học từ việc đào tạo bài bản kiến thức trên trường, lớp…. Khả năng đặc biệt hoặc bẩm sinh của riêng bản thân mình, tạo nên đặc trưng cá thể. Trong thực tế cuộc sống, kỹ năng mềm quyết định phần lớn tỷ lệ thành công của bạn. Có thể bạn có kiến thức chuyên môn ổn – hay chính là kỹ năng cứng khá tốt nhưng điều đó cũng chỉ nắm chắc được ¼ tỉ lệ thành công còn ¾ còn lại phụ thuộc vào những kỹ năng mềm bạn đã trang bị được cho chính mình. Ví dụ bạn là sinh viên đại học vừa tốt nghiệp với tấm bằng giỏi, thành tích trong suốt quá trình học tập đều rất xuất sắc. Tuy nhiên, khi đi phỏng vấn xin việc, nhà tuyển dụng phát hiện bạn khuyết thiếu các kỹ năng mềm cần thiết: là một người kinh doanh nhưng lại không có kỹ năng đàm phán và giao tiếp, là một nhà quản trị nhưng lại không biết sắp xếp thời gian, là một designer nhưng lại không có kỹ năng làm việc nhóm… Chính những điều này sẽ trở thành điểm trừ làm bạn mất đi công việc hằng mơ ước. Như đã nói ở trên, kỹ năng mềm quyết định phần lớn đến tỉ lệ thành công của bạn trong cả công việc và cuộc sống cá nhân hàng ngày. Thực tế chứng minh, chỉ có khoảng từ 12 – 17% người thành đạt được tạo nên từ kiến thức chuyên sâu, hơn 80% còn lại thành đạt bởi kỹ năng mềm của họ. Vậy tại sao, khi còn là một học sinh, sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường, chúng ta không tự rèn luyện lấy một cút kỹ năng mềm để ứng phó với xã hội ngoài kia?. Kỹ năng mềm bao gồm những kỹ năng cơ bản nhưng lại rất quan trọng đối với mỗi chúng ta trong nhiều mặt: công việc, cuộc sống thường ngày, những mối quan hệ xung quanh…Kỹ năng mềm chính là những kỹ năng thuộc về xúc cảm, tính cách của con người. Đây là những kỹ năng mà bất cứ ai cũng có thể học được. Kỹ năng mềm không có khuôn mẫu cụ thể, không thể hình thành một tiêu chuẩn đánh giá nhất định, cứng nhắc, cũng không mang tính chuyên môn mà nó là khả năng ngoại giao, làm việc nhóm, lãnh đạo… của bạn, những kỹ năng đối ngoại của bạn và quyết định đến sự thành công của bạn. Kỹ năng mềm thực sự rất quan trọng trong cuộc sống hiện tại khi mà đất nước ta đang trên đà phát triển, hội nhập, những cơ hội lớn cũng vì thế mà mở ra nhiều hơn cho chúng ta, đặc biệt là những người trẻ tuổi – thế hệ sinh viên – thanh niên Việt Nam. Tuy nhiên, đối với thế hệ trẻ – sinh viên và các bậc phụ huynh thì dường như kỹ năng mềm không được chú trọng, đề cao. Phần lớn suy nghĩ của mọi người là phải làm sao để học tập thật tốt, có được tấm bằng đại học loại xuất sắc, loại giỏi để sau này có một công việc ổn định mà họ không nghĩ đến rằng: nếu ai cũng chỉ cố gắng học để có tấm bằng “xịn” để xin một công việc ổn định với thu nhập cao thì giữa hàng loạt người giống nhau như vậy, hồ sơ xin việc với những giấy tờ của bạn có điểm gì khác biệt với những điều khác? Đâu là điểm mạnh của bạn? Đâu là lý do xứng đáng để người tuyển dụng phải chọn bạn? Đó chính là lý do mà chúng ta hay nói chính xác hơn là tự bản thân mỗi người phải trang bị cho chính mình những kỹ năng làm việc, cũng như những trải nghiệm phong phú về nhiều lĩnh vực. Vậy chúng ta phải làm thế nào để trang bị cho mình được những kỹ năng mềm ấy? Câu trả lời chính là: Cách duy nhất để trau dồi kỹ năng mềm cho bản thân chính là học hỏi luyện tập thường xuyên bởi chỉ khi chúng ta học hỏi luyện tập thường xuyên thì kỹ năng mới được hình thành và lặp đi lặp lại, hình thành phản xạ để từ đó dần trở thành một phần kỹ năng mềm của bản thân một cách trực tiếp và hiệu quả nhất. Trung tâm đào tạo này rất chú trọng chất lượng, thường xuyên đổi mới cách thức dạy cũng như đầu tư trang thiết bị tiên tiến, phù hợp nhu cầu học viên, đội ngũ giảng viên tâm huyết, chất lượng cao. + Edulike: Đây là một trong những trung tâm hàng đầu trong việc đào tạo kỹ năng mềm và giao tiếp Tiếng Anh. Trung tâm giúp học viên có được những kỹ năng cần thiết bằng cách đi thẳng vào vấn đề đồng thời sử dụng các công cụ hội nhập kinh tế giúp học viên được tiếp xúc và phối hợp hài hoà giữa lý thuyết và thực tiễn. + Connect: Connect được biết đến là một trung tâm đào tạo kỹ năng mềm vô cùng chuyên nghiệp bằng cách hướng nghiệp đúng đắn cho học viên. Trung tâm sử dụng phương pháp học hiện đại, lối dạy trẻ trung, năng động, linh động phù hợp mọi đối tượng học viên. Bên cạnh đó, trung tâm còn kết nối học viên với các nhà tuyển dụng, tạo cơ hội việc làm cho học viên. Tham gia các câu lạc bộ: giúp phát triển bản thân để chính mình có thể làm quen, thích nghi với môi trường cần sự năng động, linh hoạt như vậy trong tương lai. Tại mỗi trường học đều có các câu lạc bộ giúp học sinh, sinh viên năng động hơn, thỏa sức sáng tạo, giao lưu, trao đổi. Đến đây phải kể đến rất nhiều các câu lạc bộ học thuật, nghệ thuật, các câu lạc bộ hoặc đội tình nguyện… giúp học sinh, sinh viên rèn luyện tính tự tin, khả năng lãnh đạo, khả năng làm việc nhóm và rất nhiều các kỹ năng khác. Và một lời khuyên nhỏ cho bạn đó là bạn hãy tìm cho mình một công việc làm thêm, part-time hay full time đều được, một công việc mà cần đến sự trao đổi, đối diện trực tiếp, phải tiếp xúc với nhiều người, nó tạo cho bạn một môi trường học tập, trau dồi trực tiếp, giúp bạn học được khả năng thích nghi cũng như việc xử lý công việc một cách linh hoạt, chủ động hơn. Đừng xem nhẹ việc đi làm thêm, đôi khi chính những công việc làm thêm của bạn sẽ mang đến cho bạn những kỹ năng, những kinh nghiệm đáng giá mà bạn có lẽ chưa từng được trải nghiệm trước đây. Mọi thứ chúng ta đều phải học, có học mới biết được nó như thế nào, ra làm sao, mới hiểu được bản chất của nó cũng như những lợi ích mà nó mang lại cho cuộc sống của chúng ta. Chính vì vậy, khi còn trẻ, còn khỏe, còn nhiều cơ hội phía trước, bạn phải trang bị cho mình những kỹ năng cần thiết nhất – kỹ năng mềm để có thể trải nghiệm cuộc sống dễ dàng hơn. Có cái nhìn tổng quan, đánh giá và nhận thức bản thân ở nhiều khía cạnh khác nhau để tự hoàn thiện bản thân. Như vậy, việc rèn luyện kỹ năng mềm là điều cần thiết đối với mọi thành phần, đối tượng trong xã hội. Kỹ năng mềm kết hợp hài hoà với kỹ năng cứng, kỹ năng chuyên môn sẽ giúp bạn làm việc hiệu quả và bước dần lên “vũ đài” của sự công.
Kỹ năng mềm
Kỹ năng mềm (Soft skills) hay còn gọi là Kỹ năng thực hành xã hội là thuật ngữ liên quan đến trí tuệ xúc cảm dùng để chỉ các kỹ năng quan trọng trong cuộc sống con người như: kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới. Kỹ năng mềm khác với kỹ năng cứng để chỉ trình độ chuyên môn, kiến thức chuyên môn hay bằng cấp và chứng chỉ chuyên môn. Kỹ năng "mềm" chủ yếu là những kỹ năng thuộc về tính cách con người, không mang tính chuyên môn, không thể sờ nắm, không phải là kỹ năng cá tính đặc biệt, chúng quyết định khả năng bạn có thể trở thành nhà lãnh đạo, thính giả, nhà thương thuyết hay người hòa giải xung đột. Những kỹ năng "cứng" ở nghĩa trái ngược thường xuất hiện trên bản lý lịch-khả năng học vấn của bạn, kinh nghiệm và sự thành thạo về chuyên môn.
Trong văn hóa cổ xưa, các câu chuyện Thần tiên hạ phàm giúp cho con người có được nhận thức chân chính về sinh mệnh, đồng thời tin tưởng vào nguồn gốc cao quý của chính mình. Có lẽ, sự cao quý trong nguồn gốc sinh mệnh càng khiến con người ta xem trọng việc tu thân dưỡng tính, trọng đức hành thiện, mong có ngày được trở về ngôi nhà thật sự của mình. Trích tiên, tức Thần tiên hạ phàm, là một trong những chủ đề thường thấy trong văn hóa cổ xưa. Trong các câu chuyện cổ tích, thần thoại, tiểu thuyết, hay truyền kỳ dã sử qua các triều đại khác nhau cũng có rất nhiều ghi chép. Ví dụ, Lý Bạch là Thái Bạch Kim Tinh hạ phàm, Đông Phương Sóc là Mộc Tinh giáng thế, Bao Chửng là Văn Khúc Tinh Quân chuyển sinh, ngoài ra còn có rất nhiều tiên nhân thánh giả khác nữa. Danh tác “Hồng Lâu Mộng” cũng mượn chủ đề “Trích tiên”, qua đó đã diễn một vở kịch về muôn hình muôn vẻ nhân tình thế thái nơi thế gian. Bảo Ngọc sau khi trải qua một phen tình kiếp, trong tâm đã rèn giũa ra được ánh quang minh, tu thành bậc chính giác, cuối cùng nhìn thấu thật giả của cõi hồng trần, theo một tăng một đạo du ngoạn khắp đất trời. Trong thế giới “Hồng Lâu Mộng”, tiền thân của Giả Bảo Ngọc là một hòn đá thiêng còn sót lại khi Nữ Oa vá trời. Hòn đá trong sáng long lanh ở dưới chân núi Thanh Ngạnh hấp thụ tinh hoa nhật nguyệt, cuối cùng tự thông linh tính, trở thành Thông linh bảo ngọc đi lại tự do như ý. Thông linh bảo ngọc tiêu diêu tự tại, đến du ngoạn các nơi cõi thiên giới. Một ngày kia, nó đến nơi của Cảnh Ảo tiên tử. Tiên tử biết nó rất có lai lịch, liền giữ nó lại làm Thần Anh thị giả chầu chực ở cung Xích Hà. Bên bờ sông Linh Hà ở Tây phương, bên cạnh hòn đá Tam Sinh có một cây Giáng Châu tiên thảo. Thần Anh thấy nó duyên dáng đáng yêu, ngày ngày lấy nước cam lồ tưới bón, nó mới tươi tốt sống lâu. Cây tiên hấp thụ tinh hoa của trời đất, lại được nước cam lồ chăm bón, dần dần cây Giáng Châu thoát được hình cây, hóa thành hình người, tu luyện thành người con gái, suốt ngày rong chơi ngoài cõi trời Ly Hận, đói thì ăn quả “Mật Thanh”, khát thì uống nước bể “Quán Sầu”. Chỉ vì chưa trả được ơn bón tưới, cho nên trong lòng nó vẫn mắc míu, khi nào cũng cảm thấy như còn vương một mối tình gì đây. Gần đây, Thần Anh bị lửa trần rực cháy trong lòng, nhân gặp trời đất thái bình thịnh vượng muốn xuống cõi trần để qua kiếp “ảo duyên”, nên đã đến trước mặt vị tiên Cảnh Ảo ghi sổ. Cảnh Ảo liền hỏi đến mối tình bón tưới, biết chưa trả xong, muốn nhân đó để kết liễu câu chuyện. Nàng Giáng Châu nói: “Chàng ra ơn mưa móc mà ta không có nước để trả lại. Chàng đã xuống trần làm người, ta cũng phải đi theo. Ta lấy hết nước mắt của đời ta để trả lại chàng, như thế mới trang trải xong!”. Thông linh bảo ngọc tuy có thể tiêu diêu tự tại, nhưng nó lại buồn vì bản thân không có tài vá trời nên mới bị Nữ Oa bỏ lại, rất lấy làm tủi phận, ngày đêm kêu khóc buồn rầu. Một hôm, trong lúc nó đang than phiền, thì Mang Mang đạo sĩ, Diễu Diễu chân nhân thấy viên bảo ngọc trong sáng long lanh, cho rằng đây quả đúng là một linh vật. Hai vị bèn quyết định giúp nó thác sinh vào một gia tộc thi lễ trâm anh, ở vùng đất trù phú phồn hoa, quê làng phú quý êm ấm mà trải nghiệm một phen, rồi sau dẫn y bước trên chính đạo nơi bờ bên kia. Thần Anh thị giả hạ phàm, biết bao nhiêu oan gia phong lưu cũng theo đó lần lượt giáng thế. Mang Mang đạo sĩ, Diễu Diễu chân nhân vì để độ thoát những người này, đã đến nơi Cảnh Ảo tiên tử cho biết lai lịch của Thông linh bảo ngọc, rồi biên ra vở kịch lớn với biết bao ân ân oán oán. Trải qua không biết mấy đời mấy kiếp, Không Không đạo nhân tầm tiên học đạo đã phát hiện viên bảo ngọc, cũng đã nhìn thấy bộ kỳ thư được khắc trên thân nó. Nội dung của bộ kỳ thư khá tường tận, từ chuyện đầu thai vào đâu, trải qua đoạn đường thế nào, cả đến những việc vụn vặt trong gia đình, tư tình, thơ tứ trong khuê các, đều chép đủ cả. Đó cũng chính là kịch bản mà sau khi Bảo Ngọc đầu thai sẽ phải trình diễn vậy. Tào Tuyết Cần sau khi trải qua một phen mộng ảo, đã mượn nhờ thông linh biên soạn “Thạch Đầu Ký”. Sau Tào Tuyết Cần mười năm đọc bộ sách này ở trong hiên Điệu Hồng, thêm bớt năm lần, xếp thành mục lục, chia ra từng chương hồi, lại đề là “Kim lăng thập nhị thoa”. Tác phẩm ngoài tác dụng giải khuây cho mọi người sau những bữa cơm trà, cũng để lại cho người đời một cái nhìn sâu sắc về kiếp nhân sinh mộng ảo. Một giấc mộng với ảo ảnh huyền diệu mê hoặc con người trong danh, lợi, tình; những đắm say dù vô cùng ngắn ngủi nhưng cũng đủ xót xa cả đời. Một lần nữa tác phẩm đã cho người đời thêm hiểu về cảm ngộ danh lợi ở đời như kiếp mây trôi bèo dạt, vinh hoa phú quý là hư vô phảng phất, tình ái ngọt ngào như nước chảy hoa rơi. “Mộng đẹp, mây tan mộng; hoa bay, nước cuốn hoa. Nhắn bảo bạn nhi nữ, buồn hão chuốc chi mà?”, đây là ca khúc đầu tiên Giả Bảo Ngọc nghe tiên nhân hát trong lúc xuất thần dạo chơi nơi Thái Hư cảnh ảo. “Ve vẩy tay tiên, xạ lan ngào ngạt, Phất phơ tà áo, hoàn bội gần xa. Mặt hoa đào, làn tóc mây xanh ngắt, Môi anh đào, răng hạt lựu hương pha. Tuyết múa, gió quay, lưng ong mềm mại, Mặt tươi, da bóng, châu thúy chói lòa. Thấp thoáng trong hoa, như mừng như giận. Nhởn nhơ mặt nước, khi bổng, khi là. Mày liễu cau cau, muốn nói mà còn e lệ, Gót sen chầm chậm, muốn dừng mà vẫn dạo qua. Phẩm chất đáng khen, giá trong ngọc sáng. Áo quần rất đẹp, lộng lẫy văn hoa, Kể dung mạo, hương lồng ngọc giát, Ví phong tư, rồng cuốn, phượng sa. Trắng như hoa mai tuyết phủ, Sạch như bông huệ sương pha. “Nhàn tĩnh như cỗi thông mọc trong không cốc, Diễm lệ như mây ráng soi dưới trùng ba. Văn vẻ như rồng bơi trong đầm uốn khúc,Quang thái như trăng rọi trên sông Ngân Hà.”. Thần tiên tỉ tỉ đầu tiên Bảo Ngọc trông thấy chính là Cảnh Ảo tiên tử cai quản những việc nợ trăng tình gió, gái giận trai si ở cõi trần. Nàng cho Bảo Ngọc hay, hôm nay tương phùng, vốn chẳng phải chuyện ngẫu nhiên. Nàng mời Bảo Ngọc nếm thử rượu ngon nơi tiên giới, lắng nghe 12 tiên khúc “Hồng Lâu Mộng” nàng vừa mới sáng tác. Chuyến du ngoạn lần này của Bảo Ngọc đã nói ra vận số của hai phủ Ninh Vinh, vận mệnh và thân phận của “Kim Lăng thập nhị thoa” (12 cô gái đất Kim Lăng). Cảnh Ảo tiên tử vốn định ghé qua Vinh Quốc phủ để nghênh đón Giáng Châu tiên tử đến chơi, trên đường gặp linh hồn hai ông Ninh công, Vinh công. Linh hồn hai ông Ninh công, Vinh công nói rằng, bởi gia tộc có công với xã tắc từ đầu quốc triều, đời đời được hưởng công danh phú quý, tính đến nay đã hơn trăm năm. Bây giờ số vận đã hết, không thể kéo lại được nữa. Con cháu tuy nhiều, nhưng chẳng có ai nối nghiệp. Chỉ có cháu đích tôn là Bảo Ngọc, có chút thông minh đĩnh ngộ, may ra có thể thành đạt được, nhưng vì tính nó ngang trái kỳ quặc, sợ không ai dìu dắt vào đường chính. Trong đoạn truyền kỳ này, thông qua Thông linh bảo ngọc, con người thế gian có thể thấy được thần tích thượng cổ Nữ Oa vá trời, khổ tâm độ hóa người đời của Mang Mang đạo sĩ, Diễu Diễu chân nhân, những lời nhắn nhủ tha thiết của linh hồn hai ông Ninh công và Vinh công, căn nguyên của Không Không đạo nhân khi sao chép “Thạch Đầu Ký”. Từ Thiên thượng xuống nhân gian, thần linh các giới đều nhất nhất an bài tường tận, tận tâm trải đường cho những thiên nhân tiên tử giáng thế này. Lớn đến thời vận đổi thay, nhỏ đến những chuyện vụn vặt nơi khuê các, ngâm thơ đối ẩm, thưởng nguyệt xem hoa. Thật đúng là một màn kịch chốn nhân gian, hao tâm tổn trí biết bao chư Thần. Trong dự ngôn trong tôn giáo cũng như vô số các nhà tiên tri, vào thời mạt kiếp khi hoa Ưu Đàm khai nở, đó cũng chính là lúc Đức Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương hạ thế truyền Pháp cứu độ chúng sinh, vô số chúng Thần nơi thiên thượng đều sẽ lần lượt hạ thế chuyển sinh thành người để tìm kiếm chân kinh, nghe giảng Phật Pháp. Tào Tuyết Cần kể rằng bản thân đã trải qua một phen mộng ảo, mượn nhờ hòn đá thiêng mà biên soạn một giấc mộng chốn lầu hồng. Thế duyên của một tảng đá còn như vậy, thử hỏi nhân duyên của người đời há chẳng càng trân quý hơn sao?. Hồng Lâu Mộng thức tỉnh thế nhân (P.1): Ái tình xoay vần, giải một chữ “mộng”
Giả Bảo Ngọc
Giả Bảo Ngọc (chữ Hán: 賈寶玉, bính âm: Jia Baoyu) có nghĩa là viên ngọc quý gia bảo là nhân vật hư cấu, một trong bộ ba nhân vật chính trong tiểu thuyết Hồng lâu mộng, của nhà văn Tào Tuyết Cần. Bảo Ngọc là con trai út của Giả Chính và Vương phu nhân. Lâm Đại Ngọc là nỗi đam mê không bao giờ với tới được của Giả Bảo Ngọc, nhưng chính Giả Bảo Ngọc mới là người được Tào Tuyết Cần kí gửi tâm sự. Giả Bảo Ngọc chính là hòn đá thừa thãi không được sử dụng đầu thai mà thành. Có thể suy ra rằng Tào Tuyết Cần đã gửi vào Hồng Lâu Mộng tinh thần chán nản, bất đắc chí vì thất bại trong đường hoạn lộ. Ba vạn sáu ngàn năm trăm hòn đá vá trời, kích cỡ cao mười hai trượng, vuông hai bốn trượng, tất thảy đều được trọng dụng, chỉ trừ có “Thạch huynh”. 36500 là số ngày trong năm nhân với 100 lần, 12 và 24 là số tháng trong năm và số giờ trong ngày. Những chi tiết này ám chỉ rằng: câu chuyện về hòn đá có ý nghĩa vượt thời gian.
Nghĩa trang Père-Lachaise (tiếng Pháp: Cimetière du Père-Lachaise) là nghĩa trang lớn nhất của thành phố Paris, Pháp và là một trong những nghĩa trang nổi tiếng nhất thế giới. Nằm tại quận 20, nghĩa trang Père-Lachaise là một trong những địa điểm thu hút nhiều khách du lịch nhất tại Paris, mỗi năm hàng trăm ngàn lượt người đã đến đây để được thăm viếng những ngôi mộ nổi tiếng đã có từ 200 năm qua. Nghĩa trang Père-Lachaise được thiết kế với chủ ý kiêm luôn chức năng của một công viên cho Paris. Hiện nay đây có thể coi là một trong những khu vực cây xanh rộng và đẹp nhất của thủ đô với diện tích trên 44 hécta và 5.300 cây xanh, nhiều nhất là cây thích, cây tần bì, cây trắc bách diệp và cây dẻ. Ngoài ra, đây cũng có thể coi là thiên đường của các loại chim, mèo hoang và thằn lằn. Ngày 1 tháng 4 năm 1986, nghĩa trang trở thành vườn bảo tồn (jardin du souvenir) của Paris và cho đến nay vẫn là khu vực cây xanh duy nhất của thủ đô nước Pháp có danh hiệu này. Hiện nay các ngôi mộ trong Nghĩa trang Père-Lachaise được chia thành 97 khu (division) khác nhau, trong đó riêng khu 87 là nhà để tro (columbarium) và nơi hỏa táng (crématorium). Ở trung tâm nghĩa trang, nằm ở khu 55 đối diện với cổng chính ở đại lộ Ménilmontant là một nhà thờ nhỏ (chapelle) và đài tưởng niệm những người đã khuất (monument aux morts). Ngoài ra còn có một số đài tưởng niệm khác:. Một loạt đài tưởng niệm các nạn nhân trại tập trung Đức Quốc xã (monuments aux déportés) nằm ở khu 97, đối diện với Bức tường Công xã. Khu 97 cũng là khu gần như dành riêng để chôn cất các chiến sĩ tình nguyện Pháp trong Nội chiến Tây Ban Nha, chiến sĩ kháng chiến Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai và các nhà hoạt động cánh tả của Pháp. Nghĩa trang Père-Lachaise nằm trên một trong bảy ngọn đồi cổ ở Paris. Thời kỳ Trung cổ, ngọn đồi có tên Champ-l’Evêque (vùng đất của Giám mục) vì nó thuộc về Tổng Giám mục Paris. Từ thế kỉ 12, vùng đất này thường được gọi là Mont-aux-Vignes (đồi nho) do người ta trồng nho ở đây. Năm 1430, một thương gia giàu có tên là Régnault de Wandonne đã mua lại mảnh đất này để xây dựng một folie – một ngôi biệt thự cực kì sang trọng (xuất phát từ danh từ folie trong tiếng Pháp có nghĩa là điên khùng, chi tiêu vô độ). Hai thế kỉ sau đó, những linh mục Dòng Tên đã mua lại ngôi biệt thự và mảnh đất để làm nơi nghỉ ngơi và dưỡng bệnh. Biệt thự đã từng là nơi nghỉ ngơi trong vài tiếng đồng hồ của vua Louis XIV, vì vậy ngọn đồi được đổi tên thành Mont-Louis (đồi vua Louis). Tuy vậy người ta thường biết đến ngọn đồi vì đây là nơi ở từ năm 1675 đến khi mất năm 1709 của linh mục François d’Aix de La Chaise (1624-1709), thường được gọi là le Père La Chaise (Giám mục La Chaise), giáo sĩ nghe xưng tội của vua Louis XIV, người đã tác động đến vua Louis XIV giúp hạn chế việc đàn áp những người theo Giáo lý Giăng-xen (jansénisme). Bá tước de la Chaise, em trai của vị Giám mục, đã tổ chức nhiều buổi lễ hội trên vùng đất này để phô trương sự giàu có. Nhưng đến năm 1762, giáo hội Dòng Tên đã phải nhượng lại quả đồi để trả nợ cho Giám mục Jacy. Theo năm tháng, những khu vườn trên đồi bị bỏ hoang không ai chăm sóc, vì vậy ngày 9 tháng Thông gió năm XI (tức là ngày 28 tháng 2 năm 1803), những người thừa kế đã một lần nữa bán lại quả đồi cho Nicolas Frochot, tỉnh trưởng tỉnh Seine (Préfet de la Seine) để đổi lấy 180.000 franc. Ngày 1 tháng 12 năm 1780, nghĩa trang Những người vô tội (cimetière des Innocents) được lệnh đóng cửa theo luật cấm nghĩa trang trong nội đô Paris năm 1786 để bảo vệ sức khỏe người dân. Thành phố Paris bắt đầu lâm vào tình trạng thiếu nơi chôn cất, vì vậy để giải quyết quyền chôn cất cho những người không theo đạo, những người bị rút phép thông công, các diễn viên kịch và những người nghèo, Napoléon Bonaparte, lúc này là Quan tổng tài Pháp đã ra sắc lệnh:. Từ đầu thế kỉ 19, một loạt nghĩa trang mới đã được thành lập tại ngoại vi Paris, đó là Nghĩa trang Montmartre ở phía bắc, Nghĩa trang Montparnasse ở phía nam, Nghĩa trang Passy ở phía tây và Nghĩa trang Đông. Chính quyền tỉnh Paris quyết định chuyển đổi 17,58 hécta (17.580 mét vuông) đất của đồi Mont-Louis thành Nghĩa trang Đông. Việc thiết kế nghĩa trang được giao cho kiến trúc sư theo trường phái tân cổ điển (néo-classique) Alexandre Théodore Brongniart vào năm 1803. Với cương vị Tổng giám sát các công trình công cộng của tỉnh Seine (département de la Seine) và thành phố Paris (ville de Paris), Brongniart đã lần đầu tiên thiết kế khu vườn của nghĩa trang theo kiểu Anh, với những lối đi không đều và rất nhiều loại cây bao quanh những khu mộ được điêu khắc cẩn thận. Ngày 1 tháng Đồng cỏ năm XII (tức ngày 21 tháng 5 năm 1804), nghĩa trang được chính thức khai trương bằng buổi lễ chôn cất một bé gái 5 tuổi tên là Adélaïde Paillard de Villeneuve, con gái của một người đánh chuông ở Faubourg Saint-Antoine.
Nghĩa trang Montparnasse
Nghĩa trang Montparnasse (tiếng Pháp: Cimetière du Montparnasse) là một trong các nghĩa trang lớn và nổi tiếng của Paris. Ban đầu, tại Montparnasse có ba trang trại lớn. Đến thế kỷ 17 thì khu đất này trở thành khu lăng mộ riêng của các tu sĩ thuộc dòng tu Saint-Jean-de-Dieu. Từ đầu thế kỉ 19, một loạt nghĩa trang mới đã được thành lập tại ngoại vi Paris, đó là Nghĩa trang Montmartre ở phía bắc, Nghĩa trang Passy ở phía tây và Nghĩa trang Père-Lachaise ở phía đông. Tỉnh trưởng tỉnh (préfecture) Seine là Nicolas Frochot đã mua lại khu đất của các tu sĩ ở Montparnasse để mở nghĩa trang thứ 4 ở phía Đông Paris. Lễ chôn cất đầu tiên ở đây là vào ngày 25 tháng 7 năm 1824. Bên trong nghĩa trang vẫn còn giữ được một trong rất nhiều cối xay bột của quận Montsouris và Montparnasse trước kia. Hiện nay, với diện tích 19 ha, đứng thứ hai trong các nghĩa trang của Paris sau Père Lachaise, nghĩa trang Montparnasse là một trong những không gia xanh quan trọng của thành phố. Người ta đã thống kê có khoảng 1.200 cây chủ yếu gồm: cây đoạn, cây hòe, trắc bách diệp, phong, cây tần bì và thông.
Hôm nay (13/4), Google vinh danh Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan (Mỹ) nổi tiếng với những bộ sưu tập nghệ thuật hiếm có trên khắp thế giới. Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan (Metropolitan Museum of Art, gọi tắt là bảo tàng MET) là một trong những viện bảo tàng mỹ thuật lớn nhất của Hoa Kỳ, địa chỉ tại Đại lộ số 5 và Phố 82, phía Đông Công viên Trung tâm của thành phố New York. Bảo tàng sở hữu rất nhiều bộ sưu tập nghệ thuật giá trị và các đồ tạo tác độc đáo nhất trên thế giới. Viện bảo tàng này được thành lập năm 1870 và mở cửa đón khách năm 1872. Năm 1907, bảo tàng mới thực sự là chủ sở hữu của nhiều tuyệt phẩm nghệ thuật, đầu tiên là của Renoir, rồi sau đó là của các họa sĩ Matisse, Manet, Monet, Durer, Rembrandt lần lượt tựu về. Hơn ba triệu tác phẩm nghệ thuật đã hội tụ ở đây. Trong bảo tàng có nhiều hiện vật quý hiếm về nghệ thuật Ai Cập cổ đại và phương Ðông cổ, những báu vật Hy Lạp cổ đại, La Mã, Hồi giáo Trung cổ, đặc biệt là hội họa châu Âu thế kỷ XX. Trong số các kiệt tác mỹ thuật thế giới được trưng bày tại Bảo tàng phải kể đến các tuyệt tác “Ðức Mẹ với Chúa Hài Ðồng và cây đàn” của Raphael, “Thần Vệ Nữ và cây đàn” của Titian, “Phong cảnh Toledo” của El Greco…. Đây là một bảo tàng khổng lồ nên nếu du khách muốn tới tham quan thì nên vào website chính thức của Met để xem hướng dẫn trải nghiệm trọn vẹn chuyến đi có thể kéo dài hàng tuần. Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan trưng bày gần như hầu hết các giai đoạn nghệ thuật của tất cả các quốc gia trên thế giới. Đi qua dãy tầng trệt bằng đá trắng rộng và cao, lúc nào cũng đông đúc người ngồi nghỉ mệt hoặc đợi bạn đồng hành để cùng vào thăm Bảo tàng. Tiếp đến là phòng tiếp tân rộng với một bình hoa tươi khổng lồ. Nếu quan tâm đến văn hóa Ai Cập, du khách sẽ được hướng dẫn đi về phía tay trái, trước khi đến Đền Dendun - một tòa nhà được bảo tồn từ thế kỷ thứ XV trước Công nguyên, sẽ dẫn đến những phòng triển lãm văn hóa nghệ thuật Ai Cập. Các phòng triển lãm này trình bày theo thứ tự thời gian, qua một quá trình văn minh của 36 thế kỷ, từ năm 3000 trước Công nguyên đến năm 641. Hình ảnh một vài hiện vật quý hiếm của Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan được giới thiệu qua phác thảo của Google. Du khách cũng có thể chọn đi vào các phòng triển lãm tranh của các họa sĩ Mỹ danh tiếng như George O›Keefe, Mary Cassatt, John Singer Sargent, Edward Hopper. Phòng triển lãm này nổi tiếng nhờ những sưu tập về nghệ thuật sơ khai của Michael Rockefeller. Đẹp nhất là phòng kính đầy những tuyệt tác về kính vẽ của Tiffani, trong đó có những bức Tiffani vẽ cho nhà riêng của ông ở Long Island. Ngoài ra, còn có những tác phẩm của Frank Lloyd Wright, Louis Sullivan. Phòng triển lãm nghệ thuật sơ khai trưng bày những hiện vật về văn hóa từ châu Phi đến châu Mỹ trong khoảng thời gian 3000 năm, người xem sẽ thấy rõ sự khác biệt giữa văn minh của các quốc gia trên thế giới. Hội họa Âu Châu được trưng bày ở tầng hai, nơi có hơn 30 gian phòng triển lãm nhiều tuyệt tác của Cezanne, Van Gogh, có cả một căn phòng dành riêng cho Rodin, 17 bức tranh của Rembrands, Renoir, Monet, hay của các họa sĩ Ý Boticelli, Raphael hoặc của họa sĩ Tây Ban Nha El Greco. Ngoài ra, MET cũng trưng bày các tác phẩm của châu Á như tranh thủy mặc, trướng liễn của Trung Hoa, những bình sứ cổ, tấm bình phong ý nghĩa, đồ dùng thanh nhã của Nhật, lụa vẽ của Đại Hàn, những đồ trang sức sặc sỡ, cầu kỳ của Ấn Độ.
Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan
Metropolitan Museum of Art (viết tắt là the Met) là một trong những viện bảo tàng mỹ thuật lớn nhất của Hoa Kỳ, đặt tại trung tâm Thành phố New York. Viện bảo tàng này được thành lập năm 1870 và mở cửa đón khách năm 1872. Trong viện bảo tàng có các bộ sưu tập rất quý hiếm về nghệ thuật Ai Cập cổ đại và phương Đông cổ, nghệ thuật châu Âu gồm các kiệt tác của Titian, Georges de La Tour, Rembrandt, Monet, Van Gogh. và những báu vật khác thuộc Hy Lạp cổ đại, La Mã, nghệ thuật Hồi giáo Trung cổ, đặc biệt là hội họa châu Âu thế kỷ 20. Trong số các kiệt tác mỹ thuật thế giới được trưng bày tại viện bảo tàng phải kể đến Đức mẹ với Chúa hài đồng và cây đàn của Raphael, Thần Vệ nữ và cây đàn của Titian, Phong cảnh Toledo của El Greco. Hằng năm the Met thu hút hơn 4 triệu người đến tham quan. Cơ quan lập pháp nhà nước New York đã cấp cho Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan một Đạo luật thành lập vào ngày 13 tháng 4 năm 1870, "với mục đích thiết lập và duy trì ở Thành phố này một Bảo tàng và Thư viện Nghệ thuật; khuyến khích và phát triển việc nghiên cứu mỹ thuật, và ứng dụng nghệ thuật vào sản xuất và cuộc sống tự nhiên; nâng cao kiến thức chung về các môn học liên quan; và vì các mục tiêu trên, cung cấp các hoạt động giải trí và giáo dục mang tính phổ thông.
Lá húng quế tây có nhiều đặc tính công dụng hữu tích cho sức khỏe của bạn.Lá húng tây xuất hiện như thế nào?Thành phầnTác dụng lá húngCách sử dụngSử dụng húng quế tây khô như thế nào?Lá húng tây mua ở đâu tại Hà Nội và Hồ Chí Minh. Húng tây được biết đến là một loại rau ăn sống, có mùi thơm. Đây là một giống cây bụi và hiện nay nó có mặt ở tất cả các quốc gia. Lá húng tây sinh trưởng, phát triển mạnh nhất vào mùa hè. Húng tây không những là loại rau thơm ăn kèm để tăng hương vị của món ăn mà nó còn đem lại rất nhiều lợi ích cho sức khỏe con người. Nông Sản Dũng Hà là đơn vị, thương hiệu chuyên phân phối, cung cấp các loại thực phẩm, nông sản sạch an toàn, đảm bảo vệ sinh, chất lượng. Giá lá húng tây không quá cao so với các loại rau thơm khác và có thể tìm mua ở rất nhiều cửa hàng thực phẩm sạch khác nhau. Ý nghĩa tên gọi lá húng tây: Húng quế Tây còn có tên gọi khác là quế Châu Âu. Hay tên tiếng anh là sweet basil có đặc điểm là: lá có mùi hăng, rất thơm, mát và có vị ngọt. Húng tây được xem là một loại rau sạch mang đến nhiều công dụng cho người dùn. Đặc điểm hình dạng: Lá Húng Tây có hình tròn, trơn. Vị của húng tây tuy không the nhưng rất thơm. Rau húng tây dùng ăn sống cùng các món ăn, hoặc là nguyên liệu thêm vào các món salad, mì Ý, pizza hay thịt nướng. Đặc biệt, quế tây có mặt nhiều nhất trong các loại sốt như: xúp pho mát, xúp cà chua, xốt pho mát, xốt cà chua. Thành phần các chất có trong lá húng tây bao gồm: tinh dầu, thymol, linalol, axit phenolic, flavonoid. - Giúp bảo vệ tim: Quế tây có chứa thành phần các chất chống oxy hóa có tác dụng chống viêm hiệu quả, ngăn ngừa nguy cơ mắc một số bệnh tim mạch. - Chống lại vi khuẩn có hại: Húng tây có tác dụng ngăn ngừa sự xâm nhập của các vi khuẩn có hại cho sức khỏe con người. Sử dụng húng tây có thể chống nấm hiệu quả. Không những thế, tinh dầu húng tây hay các sản phẩm có chứa thành phần húng tây có công dụng kháng sinh, chống lại nhiều loại vi khuẩn. - Ngăn ngừa mụn trứng cá: lá húng tây đã nhận xét là có khả năng kháng khuẩn, ngăn ngừa vi khuẩn hiệu quả. Đặc biệt, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, húng tây có tác dụng trị mụn tốt. Ngăn ngừa được sự hình thành của các tác nhân gây mụn. - Bảo vệ xương: Khớp khớp là một trong những bộ phận quan trọng. Do vậy, việc bảo vệ hệ xương khớp là một cần thiết. Thành phần chất canxi, vitamin K, magie, sắt cùng các loại khoáng chất và vitamin khác có tác dụng kích thích sự phát triển khỏe mạnh của xương khớp đồng thời đẩy lùi các tác nhân gây bệnh. - Chống mệt mỏi: hàm lượng sắt có trong húng tây có tác dụng duy trì, sản sinh năng lượng cho cơ thể, đảm bảo quá trình hoạt động suốt ngày dài. Theo nghiên cứu, lá húng tây có khả năng cung cấp hàm lượng sắt khuyến nghị hằng ngày. ==> Bạn có thể xem tác dụng của lá vừng mang lại cho bạn tại đây. Quế tây là loại rau thơm, là nguyên liệu không thể thiếu của một số món ăn như: xào, salad, rau trộn,. Húng quế tây khô là thành phẩm được làm từ húng tây tươi ngon, nguyên chất. Là nguyên liệu xuất hiện trong các loại nước trái cây, sốt cà chua, pesto, súp cà chua. Hương vị của lá húng tây kết hợp cùng mùi vị của một số loại rau mùi khác tạo nên hương vị không thể chối từ của các loại nước sốt pizza. Chúng ta có thể kết hợp húng quế tây khô cùng một số gia vị khác như: xạ hương, tỏi, chanh. Các nguyên liệu này kết hợp cùng thịt, cá, mì, đậu, gạo, trứng, súp lơ, cà chua, khoai tây, bí ngòi, các món hầm, món súp, salad thì quả là một điều tuyệt vời. Ngày nay, lá húng tây là một trong những loại rau phổ biến và được các chị em nội trợ tìm mua rất nhiều. Tuy nhiên, để lựa chọn được sản phẩm chất lượng thì không phải điều dễ dàng. Nhiều người thường thắc mắc nên mua lá húng tây ở đâu tại Hà Nội và Hồ Chí Minh. Chúng tôi - Nông Sản Dũng Hà là thương hiệu hàng đầu về cung cấp, phân phối các sản phẩm đặc sản vùng miền số 1 thị trường. Ngoài ra, đến với Dũng Hà bạn còn được thỏa thích lựa chọn những loại thực phẩm sạch có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, được đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Ngoài ra, chúng tôi còn chuyên cung cấp rau củ sạch Đà Lạt được thu mua trực tiếp của các hộ nông dân tại Đà Lạt. Chúng tôi tự hào là đơn vị cung cấp thực phẩm sạch hàng đầu tại Việt Nam. Với kinh nghiệm nhiều năm phục vụ các khách hàng khó tính nhất, chúng tôi đã có những chính sách riêng biệt giúp hai bên đi đến tiếng nói chung trong vấn đề cung cấp hàng hóa. Trong năm 2018, chúng tôi sẽ mở rộng cung cấp thực phẩm sạch cho các đơn vị nhà nước, nhà hàng cao cấp, hệ thống trường học, các bếp ăn công nghiệp,…
Húng tây
Húng tây (tiếng Anh: Basil, , hoặc US: ; Ocimum basilicum), còn được gọi là húng quế tây, húng quế lá to hay đại húng, là một loại rau thơm thuộc họ Hoa môi. Húng tây là loài bản địa của vùng nhiệt đới từ Trung Phi cho tới Đông Nam Á. Nó là loại cây khó sống khi gặp điều kiện bất lợi, và được dùng trong nhiều nền ẩm thực trên toàn thế giới. Tùy thuộc vào loài và giống cây, lá sẽ có vị hơi tương tự tiểu hồi cần, với mùi hương hắc, nồng, hơi ngọt. Có rất nhiều thứ húng tây, cũng như nhiều loài có quan hệ gần hoặc loài lai cũng được gọi tên tiếng Anh "basil". Loài hay được sử dụng làm gia vị thường được gọi là húng ngọt hay húng Genovese, ngoài ra còn có một số loài khác như húng quế (O. basilicum var. Trong khi hầu hết các thứ húng tây được trồng như là cây hàng năm, một số lại được trồng như cây lâu năm tại những vùng khí hậu nhiệt đới ấm, và một giống cây được gọi là "húng xanh Phi". Húng tây là một loài rau thơm hàng năm, thỉnh thoảng là loài lâu năm, sử dụng phần lá.
Top +99 Những câu nói hay về tình bạn thân và tình bạn rạn nứt/ phản bội/ giả dối/ chơi xấu/ đểu hay nhất 2021. Đá cầu là môn thể thao nhẹ nhàng được nhiều người ưa chuộng. Đá cầu bắt nguồn từ Trung Quốc và hiện nay đã phổ biến ở nhiều quốc gia. Tuy nhiên môn đá cầu tiếng anh là gì vẫn là câu hỏi thắc mắc của nhiều người. Như đã nói, đá cầu là môn thể thao có lịch sử đến từ nước bạn Trung Quốc. Chính xác hơn là đá cầu có từ thời Tống từ rất lâu đời cho đến thời điểm hiện tại. Tên bắt đầu của môn đá cầu có tên là Chien Tsu. Dịch sang tiếng Việt Nam có thể hiểu là Mũi Tên. Trong tiếng Anh được gọi là Shuttlecock Kicking. Phiên âm chuẩn phát âm như sau:. Cũng tựa như những môn thể thao khác thì đá cầu cũng được sử dụng để tham gia thi đấu. Vì vậy bạn cần năm được những thuật ngữ liên quan trong quá trình thi đấu để hiểu hơn về môn thể thao này. Quả cầu này không phải cầu mây mà chính là quả cầu được nhắc đến trong môn Shuttlecock kicking được làm từ lông vũ và đế cao su. Ngoài ra khi quan tâm đến sân đá cầu tiếng anh thì bạn nhất định phải biết đến những thuật ngữ về sân. Tấm thẻ này được sử dụng khi cầu thủ vi phạm luật lệ theo quy định. Và thẻ vàng trong đá cầucũng tương tự như thẻ vàng trong bóng đá. Như vậy là thông qua những liệt kê này thì các bạn chắc hẳn cũng đã nắm được môn đá cầu tiếng anh là gì. Bây giờ đã đến lúc bạn cần tìm hiểu nhiều hơn về môn đá cầu và các loại hình đá cầu. Đá cầu giải trí là hình thức đá cầu tự phát không có sự ràng buộc. Thông thường có thể có từ 1-2 người hoặc hơn chơi đá cầu để rèn luyện sức khỏe và giải trí. Đây là loại hình không có quy luật cụ thể mà chủ yếu là quy định của những người chơi. Cách chơi vẫn theo sự thống nhất không được dùng tay tâng cầu và không được tiếp đất. Ngoài chủ đề “môn đá cầu tiếng anh là gì” thì chủ đề đang nhận được sự quan tâm của nhiều người tương đương nữa đó chính là hình thức đá cầu chuyên nghiệp là gì. Thông thường hình thức này sẽ được chia thành 2 loại: Đá cầu đơn và đá cầu đôi. Tương đương với 1 hoặc 2 cầu thủ của mỗi đội. Với hình thức đá cầu chuyên nghiệp thì sẽ tuân theo những quy định sẵn. Không giống như đá cầu nghệ thuật, hình thức thi đấu chuyên nghiệp không thiên về quy định mà chủ yếu là làm cách nào để ghi điểm chiến thắng. Đây là loại hình đá cầu đòi hỏi sự khéo léo và không phải ai cũng làm được. Đá cầu kiểng cũng như tâng bóng nghệ thuật. Lối tâng càng đẹp mắt thì càng nhận được sự yêu thích của khán giả. Hình thức đá cầu nghệ thuật không theo quy định nhất định nhưng người chơi cần phải thành thạo tất cả những bước cơ bản hiện có trong đá cầu. Khi bạn đặt ra câu hỏi môn đá cầu tiếng anh là gì thì chắc chắn là bạn đang quan tâm đến môn đá cầu. Và một phần không thể thiếu đó chính là lợi ích của việc chơi đá cầu. – Đá cầu giúp tăng chiều cao cơ thể và phát triển cơ bắp hiệu quả. Nhờ vào việc hoạt động thường xuyên và di chuyển mà chiều cao trở nên cải thiện hơn. Điều này rõ rệt nhất ở lứa tuổi vị thành niên. – Đá cầu giúp cho hoạt động của con người trở nên nhạy bén hơn nhờ vào phản xạ tự nhiên trong các pha xử lý tình huống đá cầu. – Xua đi năng lượng tiêu cực và giảm béo hiệu quả. Một người nếu không chịu khó vận động sẽ dễ bị béo phì. Vì vậy bạn cần thường xuyên đá cầu để giảm béo và giữ gìn vóc dáng hơn. – Kết nối cộng đồng, tạo ra nhiều mối quan hệ lành mạnh hơn cho mỗi cá nhân.
Đá cầu
Đá cầu là một môn thể thao thường được chơi nhiều ở Việt Nam và Trung Quốc, trong đó người chơi tìm cách điều khiển một quả cầu ở trên không sao cho không bị rơi xuống đất bằng các bộ phận của cơ thể, trừ tay. Bắt nguồn là một trò chơi dân gian ở Trung Quốc, ngày nay, môn thể thao này cũng được chơi trên sân tương tự như cầu lông, cầu mây hay bóng chuyền, với lưới chia đôi hai phần sân. Ngoài ra đá cầu còn được chơi với hình thức một nhóm người chơi tâng cầu, hoặc đá với nhau thành vòng tròn, thường được chơi ở những nơi công cộng, rộng rãi,., và đặc biệt là ở trường học. Lúc này sân chơi không giới hạn và không có lưới. Trong những năm gần đây, môn thể thao này đã có xu hướng du nhập vào Châu Âu, Mỹ và một số vùng khác trên thế giới. Những tư liệu đầu tiên về đá cầu là vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên tại Trung Quốc. Môn thể thao này đã được chơi ở lần lượt tại các nước Châu Á. Tại Việt Nam, đá cầu được hình thành và phát triển từ các trò chơi dân gian như tâng cầu, chuyền cầu….
Để giải đáp thắc mắc của nhiều bạn học sinh muốn theo đuổi ngành học này, bài viết dưới đây chúng ta cùng tìm hiểu ngành khí tượng thủy văn là gì? Ra trường làm gì?. Ngành khí tượng thủy văn bao gồm hai bộ môn là khí tượng và thủy văn. Trong đó, học khí tượng sẽ được học về những biểu hiện và dự báo khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, độ ẩm,… Còn học thủy văn sẽ học về sự vận động, phân phối và chất lượng của nước trên Trái Đất. Khí tượng học là khoa học nghiên cứu các quá trình và các hiện tượng của khí quyển. Việc nghiên cứu bao gồm không chỉ vật lý, hóa học và động lực học của khí quyển mà nó còn mở rộng ra và bao gồm cả những hiệu ứng trực tiếp của khí quyển lên bề mặt trái đất, đại dương và cuộc sống nói chung thông qua các yếu tố và hiện tượng khí tượng. Các yếu tố khí tượng bao gồm nhiệt độ, khí áp, độ ẩm, gió, mây, mưa. Chúng luôn biến động theo thời gian và không gian trong mối tương tác lẫn nhau theo những quy luật phức tạp của tự nhiên. Thủy văn học là khoa học nghiên cứu về tính chất, sự chuyển động và phân bố của nước (thể lỏng và thể rắn) trong toàn bộ Trái đất. Nó có quan hệ tương tác về vật lý và hóa học của nước với phần còn lại của Trái đất và quan hệ của nó với sự sống của Trái đất, và như vậy nó bao gồm cả chu trình thủy văn và tài nguyên nước. Ví dụ như: dự báo Lũ lụt, hạn thủy văn, sạt lở bờ sông, xâm nhập mặn, nước dưới đất, . Học ngành Khí tượng thủy văn đòi hỏi sinh viên có khả năng chuyên sâu lý luận, điều tra, quản lý mạng lưới, nghiên cứu và dự báo thời tiết, khí hậu, khí tượng nông nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và an ninh quốc phòng. Đây là một nhà khoa học có trình độ cao trong việc phân tích các tình huống thời tiết để thiết lập các dự báo. + Hiện nay, với sự phát triển kinh tế xã hội, nhu cầu về nghiên cứu và nhân lực ngành khí tượng, thủy văn, hai dương đang đứng trước những cơ hội phát triển và hội nhập quốc tế. Vấn đề Biến đổi khí hậu và ứng phó trước tình hình biến đổi khí hậu đã được Chính phủ thông qua và duyệt triển khai với ngân sách lớn nhằm cải tạo điều kiện làm việc và đầu tư nghiên cứu. Các Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở Khoa học công nghệ… các tỉnh/ thành phố trong cả nước. Các trạm khí tượng, thủy văn và hải văn thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, các trạm dùng riêng. Các trạm khí tượng thuộc Đài khí thượng, thủy văn khu vực (9 đài khu vực). Trung tâm quản lý khí tượng, thuỷ văn biển và hải đảo, sân bay và trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia. Các công ty xây dựng, thiết kế về Thủy lợi, Thủy điện, Công trình thủy,. + Ở phía Nam chỉ duy nhất có trường Đại học Tài nguyên và Môi trường TP.HCM là đào tạo cả 2 chuyên ngành là Khí tượng và ngành Thủy văn.
Khí tượng học thủy văn
Khí tượng học thủy văn (Hydrometeorology) là một nhánh của khí tượng thủy văn chuyên nghiên cứu sự chuyển đổi nước và năng lượng giữa bề mặt đất và bầu khí quyển thấp hơn. Các nhà thủy văn thường sử dụng các nhà khí tượng học và các sản phẩm do các nhà khí tượng học tạo ra Ví dụ, một nhà khí tượng học dự báo mưa 2-3 inch tại một khu vực cụ thể và sau đó một nhà thủy văn sẽ dự báo tác động cụ thể của cơn mưa đó lên trên địa hình. UNESCO có một số chương trình và hoạt động liên quan đến việc nghiên cứu các mối nguy hiểm tự nhiên có nguồn gốc khí tượng thủy văn và giảm thiểu tác động của chúng. Trong số các mối nguy hiểm này là kết quả của các quá trình tự nhiên hoặc các hiện tượng khí quyển, thủy văn hoặc hải dương học như lũ lụt, lốc xoáy nhiệt đới, hạn hán và sa mạc hóa. Nhiều quốc gia đã thiết lập một khả năng khí tượng thủy văn để hỗ trợ dự báo, cảnh báo và thông báo cho công chúng về những mối nguy đang phát triển này.
Trong thế giới tài chính, quản lý rủi ro là quá trình xác định, phân tích và chấp nhận hoặc giảm thiểu sự không chắc chắn trong các quyết định đầu tư. Về cơ bản, quản lý rủi ro xảy ra khi nhà đầu tư hoặc người quản lý quỹ phân tích và cố gắng xác định khả năng thua lỗ trong một khoản đầu tư, chẳng hạn như rủi ro đạo đức , sau đó thực hiện hành động thích hợp (hoặc không hành động) dựa trên mục tiêu đầu tư và khả năng chấp nhận rủi ro của quỹ. Rủi ro là không thể tách rời khỏi lợi nhuận. Mọi khoản đầu tư đều có một mức độ rủi ro nào đó, được coi là gần bằng 0 đối với T-bill của Hoa Kỳ hoặc rất cao đối với một thứ gì đó chẳng hạn như chứng khoán ở thị trường mới nổi hoặc bất động sản ở các thị trường lạm phát cao. Rủi ro có thể định lượng được cả về mặt tuyệt đối và tương đối. Sự hiểu biết vững chắc về rủi ro ở các dạng khác nhau của nó có thể giúp các nhà đầu tư hiểu rõ hơn về các cơ hội, sự đánh đổi và chi phí liên quan đến các phương pháp đầu tư khác nhau. Vậy quản lý rủi ro là gì? Những vấn đề liên quan xoay quanh quy trình quản lý rủi ro là gì? Cùng Beatdautu.com tìm hiểu qua bài viết này nhé. Quản lý rủi ro xảy ra ở khắp mọi nơi trong lĩnh vực tài chính. Nó xảy ra khi nhà đầu tư mua trái phiếu kho bạc thay vì trái phiếu công ty, khi nhà quản lý quỹ bảo hiểm rủi ro tiền tệ của mình bằng các dẫn xuất tiền tệ và khi ngân hàng thực hiện kiểm tra tín dụng đối với một cá nhân trước khi cấp hạn mức tín dụng cá nhân. Các nhà môi giới chứng khoán sử dụng các công cụ tài chính như quyền chọn và hợp đồng tương lai, còn các nhà quản lý tiền tệ sử dụng các chiến lược như đa dạng hóa danh mục đầu tư, phân bổ tài sản và định cỡ vị thế để giảm thiểu hoặc quản lý rủi ro hiệu quả. Quản lý rủi ro không đầy đủ có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho các công ty, cá nhân và nền kinh tế. Ví dụ, cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn vào năm 2007 đã giúp kích hoạt cuộc Đại suy thoái bắt nguồn từ các quyết định yếu kém về quản lý rủi ro , chẳng hạn như những người cho vay mở rộng thế chấp cho những cá nhân có tín dụng kém; các công ty đầu tư đã mua, đóng gói và bán lại các khoản thế chấp này; và các quỹ đã đầu tư quá mức vào chứng khoán được thế chấp (MBS) được đóng gói lại, nhưng vẫn rủi ro. Vậy quản lý rủi ro là gì? Quản lý rủi ro là quá trình đưa ra và thực hiện các quyết định nhằm giảm thiểu các tác động tiêu cực của rủi ro đối với tổ chức. Các tác động bất lợi của rủi ro có thể là khách quan hoặc có thể định lượng được như phí bảo hiểm và chi phí yêu cầu bồi thường, hoặc chủ quan và khó định lượng như tổn hại danh tiếng hoặc giảm năng suất. Bằng cách tập trung chú ý vào rủi ro và cam kết các nguồn lực cần thiết để kiểm soát và giảm thiểu rủi ro, một doanh nghiệp sẽ tự bảo vệ mình khỏi sự không chắc chắn, giảm chi phí và tăng khả năng kinh doanh liên tục và thành công. Rủi ro tồn tại khi có cơ hội lãi hoặc lỗ. Về tổn thất, chúng tôi thường gọi rủi ro là rủi ro có thể xảy ra mất mát, hoặc đơn giản là rủi ro có thể xảy ra. Một đám cháy là một sự phơi bày. Sản phẩm bị lỗi hoặc nội dung phỉ báng là sự phơi bày trách nhiệm pháp lý. Tổn thất kinh doanh do một tòa nhà bị hư hại hoặc danh tiếng bị hoen ố cũng là một điều dễ bị phơi bày. Xác suất là khả năng xảy ra một sự kiện và mức độ nghiêm trọng là mức độ và chi phí của tổn thất dẫn đến. Rủi ro thuần túy – Rủi ro trong đó các kết quả có thể xảy ra là thua lỗ hoặc không mất mát. Nó bao gồm những thứ như mất cháy, một tòa nhà bị trộm, có một nhân viên tham gia vào một vụ tai nạn xe cơ giới, v.v. Rủi ro đầu cơ – Rủi ro trong đó kết quả có thể là lỗ, lãi hoặc hiện trạng. Nó bao gồm những thứ như đầu tư vào thị trường chứng khoán và các quyết định kinh doanh như dòng sản phẩm mới, địa điểm mới, v.v. Có nhiều lý do để quản lý rủi ro. Một số trong số chúng bao gồm:. Nhiều doanh nghiệp làm những việc để ngăn ngừa tổn thất hoặc giảm thiểu rủi ro hàng ngày nhưng không nghĩ đó là quản lý rủi ro. Hầu hết những người kinh doanh và quản lý thận trọng đều chú ý làm những việc như ngăn ngừa tai nạn, bảo vệ tài sản và giữ cho khách hàng và nhân viên không bị tổn hại. Bất kỳ nỗ lực nào để quản lý rủi ro đều tích cực. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải tuân theo một quy trình chính thức để đảm bảo tính thống nhất và kỹ lưỡng. Sau đây là các yếu tố cần thiết của quá trình quản lý rủi ro. Xác định rủi ro: Bạn nên lập biểu đồ rủi ro theo cách cho phép bạn xác định những rủi ro phổ biến và nghiêm trọng hơn để bạn biết những lĩnh vực mà bạn cần cam kết nguồn lực. Định lượng và ưu tiên: Lập bản đồ rủi ro là một cách để thực hiện điều này. Về cơ bản, bạn lập biểu đồ tất cả các rủi ro đã xác định trên bản đồ. Bản đồ sẽ giúp bạn nhận thức được những rủi ro mà bạn cần tập trung. Làm việc với nhà môi giới của bạn để đảm bảo rằng bạn được bảo hiểm cho tất cả các rủi ro thích hợp và tìm cách ngăn ngừa và giảm thiểu những rủi ro này. Hình ảnh bên phải là một mẫu bản đồ rủi ro chung. Tuy nhiên, bản đồ rủi ro thường được thay đổi để phản ánh nhu cầu của tổ chức. Nhạy cảm với rủi ro, không bất lợi với rủi ro: Nhạy cảm với rủi ro không giống như bị hoang tưởng. Nhận ra rằng có những rủi ro liên quan đến mọi thứ. Thực hiện một cách tiếp cận có chủ ý và phương pháp để đối phó với rủi ro, đồng thời phải thực tế. Xác định rủi ro trong các quyết định kinh doanh: Việc xác định rủi ro trong các quyết định kinh doanh cũng giống như quá trình xác định bất kỳ rủi ro nào. Điều quan trọng là phải kỹ lưỡng và sử dụng tất cả các nguồn có sẵn. Những rủi ro này có thể được ưu tiên và lập bản đồ giống như tất cả các rủi ro khác. Chúng ta có xu hướng nghĩ về “rủi ro” trong các thuật ngữ chủ yếu là tiêu cực. Tuy nhiên, trong thế giới đầu tư, rủi ro là cần thiết và không thể tách rời khỏi hiệu suất mong muốn. Một định nghĩa chung về rủi ro đầu tư là sự sai lệch so với kết quả mong đợi. Chúng ta có thể thể hiện độ lệch này theo nghĩa tuyệt đối hoặc tương đối với một cái gì đó khác, chẳng hạn như điểm chuẩn thị trường. Mặc dù độ lệch đó có thể tích cực hoặc tiêu cực, nhưng các chuyên gia đầu tư thường chấp nhận ý kiến rằng độ lệch đó ngụ ý một mức độ nào đó về kết quả dự kiến cho các khoản đầu tư của bạn. Do đó, để đạt được lợi nhuận cao hơn, người ta phải chấp nhận rủi ro lớn hơn. Nó cũng là một ý tưởng được chấp nhận chung rằng rủi ro gia tăng đi kèm với hình thức gia tăng biến động. Trong khi các chuyên gia đầu tư liên tục tìm kiếm — và đôi khi tìm — cách để giảm bớt sự biến động như vậy, không có thỏa thuận rõ ràng giữa họ về cách thực hiện tốt nhất. Mức độ biến động mà nhà đầu tư nên chấp nhận hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng chấp nhận rủi ro của nhà đầu tư cá nhân, hoặc trong trường hợp của một chuyên gia đầu tư, mức độ chấp nhận mà mục tiêu đầu tư của họ cho phép. Một trong những thước đo rủi ro tuyệt đối được sử dụng phổ biến nhất là độ lệch chuẩn , một thước đo thống kê về sự phân tán xung quanh một xu hướng trung tâm. Bạn nhìn vào lợi tức trung bình của một khoản đầu tư và sau đó tìm độ lệch chuẩn trung bình của nó trong cùng một khoảng thời gian. Các phân phối chuẩn (đường cong hình chuông quen thuộc) chỉ ra rằng lợi tức đầu tư kỳ vọng có thể là một độ lệch chuẩn so với mức trung bình 67% của thời gian và hai độ lệch chuẩn so với độ lệch trung bình 95% của thời gian. Điều này giúp các nhà đầu tư đánh giá rủi ro về mặt số lượng. Nếu họ tin rằng họ có thể chịu đựng được rủi ro, về mặt tài chính và tình cảm, họ sẽ đầu tư. Ví dụ, trong khoảng thời gian 15 năm từ ngày 1 tháng 8 năm 1992 đến ngày 31 tháng 7 năm 2007, tổng lợi nhuận trung bình hàng năm của S&P 500 là 10,7%. Con số này tiết lộ những gì đã xảy ra trong cả thời kỳ, nhưng nó không cho biết những gì đã xảy ra trên đường đi. Độ lệch chuẩn trung bình của S&P 500 trong cùng thời kỳ đó là 13,5%. Đây là sự khác biệt giữa lợi nhuận trung bình và lợi nhuận thực tế tại nhiều điểm nhất định trong suốt thời kỳ 15 năm. Khi áp dụng mô hình đường cong hình chuông, bất kỳ kết quả nhất định nào phải nằm trong một độ lệch chuẩn của giá trị trung bình khoảng 67% thời gian và trong khoảng hai độ lệch chuẩn khoảng 95% thời gian. Do đó, một nhà đầu tư S&P 500 có thể kỳ vọng lợi nhuận, tại bất kỳ thời điểm nào trong khoảng thời gian này, là 10,7% cộng hoặc trừ độ lệch chuẩn 13,5% khoảng 67% thời gian; anh ta cũng có thể giả định tăng hoặc giảm 27% (hai độ lệch chuẩn) 95% thời gian. Nếu anh ta có thể chịu được khoản lỗ, anh ta đầu tư. Kỷ luật quản lý rủi ro đã được phát triển trong những năm qua. Do đó, quá trình đo lường rủi ro và ấn định các giá trị số cho chúng cũng đã phát triển trong những năm qua. Các biện pháp rủi ro trước đây rất đơn giản và thô sơ. Theo thời gian, các nhà đầu tư đã bắt đầu tham gia ngày càng nhiều hơn vào lĩnh vực quản lý rủi ro. Do đó, một số biện pháp mới hơn phức tạp và nâng cao về mặt toán học và do đó cung cấp kết quả tốt hơn. Trong bài viết này, chúng ta sẽ xem xét kỹ hơn một số thước đo rủi ro đã được sử dụng trong suốt nhiều năm. Một trong những phương pháp sớm nhất được sử dụng để đo lường rủi ro là phân tích phạm vi đơn giản. Điều này có nghĩa là phạm vi các kết quả có thể xảy ra liên quan đến một tài sản được xem xét. Điểm cao nhất và điểm thấp nhất của phạm vi được ghi chú xuống và trừ đi. Kết quả cuối cùng là độ rộng của phạm vi. Các khoản đầu tư có chiều rộng nhỏ nhất tức là độ lệch ít nhất so với giá trị kỳ vọng được coi là ít rủi ro nhất. Ví dụ: lợi nhuận kỳ vọng từ chứng chỉ tiền gửi có thể thay đổi từ 3% đến 4%. Tuy nhiên, khi nói đến vốn chủ sở hữu, phạm vi có thể là 0% đến 100%. Do đó, chứng chỉ tiền gửi được coi là ít rủi ro hơn so với tài sản vốn chủ sở hữu. Khi thời gian trôi qua, các nhà đầu tư nhận ra rằng bản thân phạm vi này không đưa ra bức tranh thực sự về mức độ rủi ro của tài sản. Điều này là do về mặt lý thuyết, phạm vi tài sản vốn chủ sở hữu là vô hạn. Tuy nhiên, khi nhìn nhận thực tế, nhiều cổ phiếu vốn chủ sở hữu rất ổn định. Có những cổ phiếu của các công ty blue-chip đã mang lại lợi nhuận ổn định trong nhiều năm. Do đó, dữ liệu của quá khứ gần đây nên được xem xét trong khi xem xét mức độ rủi ro của một tài sản. Do đó, hãy bắt đầu thực hành sử dụng dữ liệu gần đây làm tiêu chuẩn để dự đoán giá trị có thể có trong tương lai. Phương pháp này khá đơn giản, xác suất của các giá trị khác nhau trong phạm vi được tìm ra bằng cách phân tích dữ liệu trong quá khứ. Giá trị và xác suất sau đó được nhân với nhau để tìm ra giá trị mong đợi. Ví dụ,nếu có 60% cơ hội rằng cổ phiếu sẽ sinh lời 10% và có 40% cơ hội rằng nó sẽ sinh lời 20%. Giá trị kỳ vọng là 0,6 * 10 + 0,4 * 20 = 6% + 8% = 14%! Trong trường hợp này, lợi nhuận kỳ vọng là 14%. Một trong những cách để quản lý rủi ro là tối đa hóa giá trị kỳ vọng dựa trên dữ liệu quá khứ. Với thời gian trôi qua nhiều hơn, các nhà đầu tư bắt đầu tham gia vào lĩnh vực quản lý rủi ro. Các ngân hàng đầu tư bắt đầu thuê một số nhân tài toán học sáng giá nhất trong nước để nghiên cứu và tính toán. Đây là khi các phương pháp thống kê như độ lệch chuẩn được giới thiệu trong các tài liệu về quản lý rủi ro.
Quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro là việc xác định, đánh giá và ưu tiên hóa rủi ro (định nghĩa trong ISO 31000 là ảnh hưởng của sự không chắc chắn về mục tiêu) tiếp theo là việc áp dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực để giảm thiểu, theo dõi và kiểm soát xác suất xảy ra hoặc ảnh hưởng của các sự kiện không may hoặc để tối đa hoá việc thực hiện các cơ hội. Mục tiêu của quản lý rủi ro là để đảm bảo sự không chắc chắn này không làm lệch hướng các hoạt động của các mục tiêu kinh doanh. Rủi ro có thể đến từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm sự không chắc chắn trong thị trường tài chính, các mối đe dọa từ thất bại của dự án (ở bất kỳ giai đoạn nào trong thiết kế, phát triển, sản xuất, hoặc vòng đời duy trì), trách nhiệm pháp lý, rủi ro tín dụng, tai nạn, nguyên nhân tự nhiên và thiên tai, tấn công từ đối thủ, hoặc các sự kiện có nguyên nhân gốc rễ không chắc chắn hoặc không thể đoán trước. Có hai loại sự kiện, nghĩa là sự kiện tiêu cực có thể được phân loại là rủi ro trong khi sự kiện tích cực được phân loại là cơ hội.
Hiện nay, việc ứng dụng y học hạt nhân trong chẩn đoán và điều trị các loại bệnh, đặc biệt là bệnh ung thư đang ngày càng trở nên phổ biến. Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là sự chính xác, an toàn và đem lại hiệu quả điều trị cao cho người bệnh. Y học hạt nhân là một chuyên ngành y tế sử dụng các đồng vị phóng xạ, hoặc các dược phẩm phóng xạ để chẩn đoán, quản lý, điều trị và nghiên cứu một số căn bệnh như cường giáp, ung thư tuyến giáp, u lympho và đau xương. Y học hạt nhân cũng được gọi là “X-quang được thực hiện từ bên trong” “phương thức hình ảnh sinh lý” hoặc “endo radiology” bởi vì nó có khả năng ghi lại bức xạ được phát ra từ bên trong cơ thể chứ không phải là bức xạ được tạo ra bởi các nguồn bên ngoài. Với bước tiến vượt bậc của ngành y học, hiện nay y học hạt nhân đã được ứng dụng rất nhiều vào việc chẩn đoán và điều trị các loại bệnh lý khác nhau như: Chẩn đoán trong ung thư tuyến giáp hoặc chẩn đoán và đánh giá chức năng của thận, tiêu hóa, tim mạch, thần kinh, bệnh lý xương khớp, nội tiết thậm chí là trong nhi khoa. Những trường hợp bị ung thư tuyến giáp biệt hóa sau khi phẫu thuật, bị đau di căn do ung thư xương, bệnh basedow cũng có thể ứng dụng y học hạt nhân để điều trị bệnh. Và hơn hết, phương pháp điều trị này đã mang lại kết quả rất đáng khích lệ với mức độ an toàn cao. Tùy thuộc vào từng loại tình trạng y tế mà các đồng vị phóng xạ hoặc các dược phẩm phóng xạ được đưa vào trong cơ thể con người bằng nhiều đường khác nhau, ví dụ như uống hoặc tiêm. Các chất đồng vị phóng xạ có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo, khi được đưa vào cơ thể sẽ đi theo dòng tuần hoàn đến từng cơ quan, tế bào của người bệnh dưới các dạng như rắn, lỏng, khí, dịch,. Bên cạnh đó, việc lựa chọn loại đồng vị phóng xạ hoặc một dược phẩm phóng xạ thích hợp còn phụ thuộc vào từng loại bệnh. Từ đó, giúp tập trung chính xác vào nơi bị tổn thương của cơ thể. Nhờ vào phương pháp này mà các bác sĩ có thể chẩn đoán sớm và chính xác bệnh lý của một cơ quan cụ thể trong cơ thể, đồng thời điều trị tập trung chính vào một vị trí mà không làm ảnh hưởng nhiều tới các tổ chức xung quanh. Ứng dụng y học hạt nhân vào việc chẩn đoán và điều trị bệnh là một phương pháp điều trị có chọn lọc, điều trị trúng đích nên thường mang lại kết quả cao và an toàn đối với người bệnh. Ưu điểm vượt trội của y học hạt nhân là các tia bức xạ có quãng chạy và khả năng đâm xuyên trong tổ chức rất ngắn cho nên các tế bào ác tính hay các tế bào gây ra bệnh sẽ bị tiêu diệt một cách nhanh chóng và có chọn lọc, không gây ảnh hưởng tới các khu vực lân cận. Nhờ vào ưu thế vượt trội này mà nó thường được áp dụng nhiều trong việc điều trị ung thư, điển hình là ung thư di căn đa ổ, nhỏ, rải rác vào phổi hoặc xương.Ngoài ra, những phần phóng xạ không được hấp thụ hết sẽ được đào thải ra ngoài cơ thể thông qua đường nước tiểu và phân. Bên cạnh việc sử dụng các đồng vị phóng xạ nguồn hở để chẩn đoán và điều trị các loại bệnh thì việc sử dụng các nguồn bức xạ chiếu ngoài, chẳng hạn như máy gia tốc cũng được ứng dụng phổ biến. Nhờ vào việc ứng dụng máy xạ trị gia tốc tuyến tính trong điều trị ung thư mà các bệnh nhân có thể cải thiện đáng kể thời gian sống của mình. Ví dụ như những bệnh nhân bị ung thư thực quản hoặc có các khối u ác tính ở vùng trung thất đều gặp nhiều khó khăn trong việc điều trị bằng xạ trị, bởi vì nhiều cơ quan lân cận có thể bị ảnh hưởng bởi bức xạ khi tiến hành xạ trị. Vì vậy xạ trị bằng máy gia tốc tuyến tính với kỹ thuật điều biến liều IMRT là một lựa chọn thích hợp cho các bệnh nhân ung thư nói chung. Các bác sĩ sẽ sử dụng hình ảnh PET/CT để giúp xác định được chính xác khu vực có khối u ác tính, từ đó đưa ra kế hoạch xạ trị chính xác. Bởi vì nhiều trường hợp, chụp CT và MRI không phát hiện được các khối u, tuy nhiên có thể nhìn thấy rõ chúng trên hình ảnh PET. Vì vậy, ứng dụng kỹ thuật này sẽ đem lại hiệu quả điều trị cao hơn, chính xác hơn và an toàn hơn cho bệnh nhân. Những phụ nữ đang trong thời kỳ mang thai hoặc đang cho con bú không nên lựa chọn phương pháp điều trị bằng y học hạt nhân. Bởi vì khi điều trị, nồng độ phóng xạ của các chất phóng xạ được đào thải qua sữa hoặc qua đường khác có thể làm ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của trẻ. Ngoài ra, những bệnh nhân đã điều trị i-ốt 131 cho ung thư tuyến giáp thì sau khi điều trị ít nhất 12 tháng mới nên có thai để không làm ảnh hưởng tới những biến đổi về mặt di truyền cũng như tránh các tác dụng phụ cho cả mẹ và bé. Vì vậy, bạn nên lựa chọn điều trị bằng y học hạt nhân tại các cơ sở y tế lớn, có uy tín không chỉ trong hệ thống các bệnh viện nói chung mà còn phải nổi bật, đi đầu trong lĩnh vực chẩn đoán, điều trị ung thư. Mặc dù phóng xạ chỉ gây tổn thương mô và làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư khi tiếp xúc với liều lượng lớn, song rủi ro phóng xạ từ các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh như chụp . Xạ hình chức năng thận là kỹ thuật chẩn đoán đơn giản, dễ tiến hành, rất có giá trị trong các bệnh lý của thận. Chụp xạ hình thận không chỉ cung cấp các thông tin về chức năng của . Người thân của em vừa mổ tuyến giáp, đang chuẩn bị điều trị phác đồ Iod. Tuy nhiên, trong thời gian chờ điều trị, bác sĩ dặn không được ăn muối biển và muối Iot. Vậy bệnh nhân mổ tuyến . Em uống iod 131 liều 100 cách ly đến ngày thứ 10 thì có gặp và tiếp xúc gần với bạn em. Hôm sau, em mới biết bạn mới có thai khoảng 1-2 tuần, em lo quá không biết có .
Hạt nhân phóng xạ
Một hạt nhân phóng xạ (hoặc đồng vị phóng xạ) là một nguyên tử có năng lượng hạt nhân dư thừa, làm cho nó không ổn định. Năng lượng dư thừa này có thể được sử dụng theo một trong ba cách: phát ra từ hạt nhân dưới dạng bức xạ gamma; chuyển đến một trong số các electron của nó để giải phóng nó dưới dạng electron chuyển đổi; hoặc được sử dụng để tạo và phát ra một hạt mới (hạt alpha hoặc hạt beta) từ hạt nhân. Trong các quá trình đó, hạt nhân phóng xạ được cho là trải qua quá trình phân rã phóng xạ. Những phát thải này được coi là bức xạ ion hóa vì chúng đủ mạnh để giải phóng một electron khỏi một nguyên tử khác. Sự phân rã phóng xạ có thể tạo ra một hạt nhân ổn định hoặc đôi khi sẽ tạo ra một hạt nhân phóng xạ không ổn định mới có thể trải qua quá trình phân rã hơn nữa. Phân rã phóng xạ là một quá trình ngẫu nhiên ở cấp độ của các nguyên tử đơn lẻ: không thể dự đoán khi nào một nguyên tử cụ thể sẽ phân rã.
Tiến bộ xã hội của nước mình nhanh thật ; hai mươi năm trước nói đến tình dục đồng giới còn chưa mấy ai hiểu, bây giờ đã có nhiều đám cưới cô dâu chú rể cùng giới tính. Cũng bởi đi quá nhanh kiểu đi tắt đón đầu nên cái bất cập, cái sai lạc trong hiểu biết và ứng xử với những vấn đề giới tính là một trong các nguyên nhân gây ra các kiểu scandal (xcang-đan) rất hot (nóng) đang thường ngày xảy ra. Đời sống tình dục của loài người là một hoạt động sinh lí bình thường như mọi hành vi và bản năng sống khác của con người như ăn uống, làm việc kiếm sống, giao tiếp với mọi người. Vâng, rất bình thường, rất hồn nhiên, thanh tục là do nơi quan niệm được giáo dục, tốt xấu là do hành vi ấy có làm phiền nhiễu đến người khác hay không. Điều quan tâm ở đây là giống như sức khỏe nói chung, sức khỏe tình dục cũng lúc khỏe lúc yếu, lúc ốm đau bệnh tật. Chỉ khác mỗi điều, khi ốm đau bệnh khác, người ta dễ kể bệnh khám bệnh còn khi có trục trặc về chuyện “ sinh hoạt tế nhị “ hoặc bất thường về “ của quí” ít ai không ngần ngại khi nói đến chuyện này. Nói thật dễ hiểu, BTTD là mọi biểu hiện không bình thường của tâm lí tình dục và các hành vi tình dục của riêng một người hay cùng với những người khác. Những biểu hiện này muôn màu muôn vẻ, có thể kín đáo hoặc “khoe khoang”, nhưng trước đây đều bị kết tội chung là “ hư hỏng”, “bệnh hoạn”, “thiếu đạo đức”. Do bị kết tội oan nên bệnh bị “ủ” lại, không được phát hiện, điều chỉnh và chữa chạy. Các biểu hiện của BTTD có thể là: ưa thích mùi vị gợi dục hoặc hình ảnh gợi dục kiểu ham muốn lấy trộm đồ lót để hít ngửi, ngắm nghía; thích mặc đồ lót lấy được của người khác giới; thích khỏa thân hay phô bày bộ phận sinh dục để ngắm hoặc khoe.; ham muốn với người chết; ham muốn hành vi tình dục với người cùng giới, ham muốn tình dục với nhiều người, ham muốn tình dục với người khác hẳn độ tuổi: già thích trẻ, trẻ thích người già; có những hành vi bạo lực gây đau đớn cho chính mình hay bạn tình; lạm dụng thủ dâm bằng những đồ vật từ quả dưa chuột đến cái vòng ê-ku. Nghĩa là muôn hình vạn trạng nghe rất kì quặc và. phải đỏ mặt. Từ xa xưa, trong quá trình tiến hóa bản năng sống còn của con người đã được định hình và luôn hình thành những nhân tố mới so sự phát triển của xã hội, trong đó bản năng tình dục là bản năng mạnh mẽ nhất vì nó quyết định sự duy trì nòi giống. Bản năng này tổng hòa các hoạt động “lục phủ ngũ tạng” của hoạt động bên trong con người với những phản ứng do bên ngoài tác động. Để có thể sinh con đẻ cái ông trời lập trình cho con người phải có hành vi yêu đương được phụ họa bằng rất nhiều cái gọi là yếu tố sinh dục phụ. Ví dụ, người ta ai cũng có một mùi vị rất riêng tư có tính chất “đánh dấu” đồng thời có đặc tính hấp dẫn tình dục. Dây thần kinh sọ não số 1 là dây khứu giác, nó vừa to vừa ngắn nghĩa là tốc độ dẫn truyền lên não nhanh nhạy nhất, nên nó cũng có nhiệm vụ đưa cảm xúc mùi vị vào hỗ trợ cho hành vi tình dục. Thi vị hóa thì người ta yêu nhau nên quen HƠI rồi mới bén tiếng. Vậy nên người có sở thích hít ngửi đồ lót cũng không phải hư hỏng gì mà thực chất chỉ là một xu hướng tình dục thiên về cảm xúc mùi vị. Ở các nước phát triển có nền khoa học cơ bản vững chắc, họ đã có môn học sexology (tạm dịch là tình dục học, giới tính học) nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đời sống tình dục như: chức năng, lợi ích, thái độ ứng xử của hoạt động tình dục, sự trưởng thành, xu hướng phát triển, xu hướng tình dục, tình dục của các nhóm người trong xã hội, đặc biệt là những biến thể (variations), các rối loạn bất thường và biến thái tình dục (dysfuntions, pervertions). Mặc dù còn những tranh luân khoa học, những rào cản về tôn giáo, đạo đức truyền thống, tình dục học đã đưa ra những quan niệm nhân văn nhân đạo làm thay đổi nhận thức chung của cộng đồng theo hướng tiến bộ. Thật vậy, từ chỗ coi BTTD là tội phạm, bệnh hoạn vô đạo đức đến việc coi nó là tình trạng bệnh lí; đến nay người ta coi đa số loại biểu hiện BTTD là xu hướng tình dục từ đó đã thừa nhận người có giới tính thứ ba bình đẳng về mọi phương diện trong xã hội và một số nước đã công nhận hôn nhân đồng giới. Đối với nước ta, tuy còn mới mẻ nhưng BTTD đã có chỗ đứng trong cộng đồng và đặt ra vấn đề nhìn nhận nó sao cho khoa học để được cuộc sống tiếp nhận. Bắt đầu từ hiểu biết đúng đắn, điều chỉnh hành vi cá nhân phù hợp, phân biệt được những BTTD có tính chất tội phạm để phòng chống. Sau cùng, sức khỏe tình dục là một phần của sức khỏe chung nên giữ gìn bằng cách phòng bệnh vẫn là tốt nhất. Giữ gìn sức khỏe tình dục sao cho lành mạnh là hạnh phúc của mọi người. Hơn hẳn mọi sinh linh khác, con người được tình yêu nâng đỡ, chắp cánh và săn sóc cho tình dục hạn chế tối đa sự BTTD. Hiểu và cảm thông với BTTD là nhân đạo, nhưng thái độ nhân văn không đồng nghĩa với khuyến khích cổ vũ cho BTTD. Khi thấy mình hoặc bạn tình “có cái gì đấy” không bình thường trong “chuyện ấy” hãy biết tìm đến phòng tư vấn giới tính học. Đẩy mạnh sử dụng đất đá thải mỏ để san lấp mặt bằng các dự án trọng.
Biến thái tính dục
Biến thái tính dục hay trụy lạc là một khái niệm dùng để chỉ về những loại hành vi của con người mang tính lệch lạc hay lệch chuẩn với văn hoá xã hội hoặc những quan điểm mang tính chính thống. Biến thái thông thường được sử dụng để mô tả hành vi lệch chuẩn văn hóa mang tính bất thường trái với thuần phong mỹ tục hoặc hành vi đó để lại những ám ảnh. Đây cũng là danh từ chung mà nhiều người dành cho những kẻ có hành vi lệch chuẩn văn hoá nơi công cộng. Khái niệm về biến thái mang tính chủ quan, tùy thuộc vào nhận thức của từng cá nhân nó thay đổi theo từng thời kỳ và từng cá nhân, cộng đồng chẳng hạn như trước đây những kẻ hư hỏng, thác loạn, trụy lạc, bội đạo được cho là biến thái, sau này thuật ngữ này dùng để chỉ thiên về những hành vi lệch chuẩn văn hoá noi công cộng Có một số ý kiến cho rằng biến thái là tên gọi mọi hình thái lệch lạc về giới tính và là cách gọi trong điện ảnh mà các bộ phim xã hội đen Hong Kong hay dùng và trước đây thì cách hiểu cho rằng có nhiều kiểu biến thái nhưng thường có nghĩa là đồng tính.
Mâm ngũ quả là một mâm có năm loại trái cây khác nhau thường được các gia đình Việt chuẩn bị để lên bàn thờ trong những ngày Tết nguyên đán. Thông qua cách trình bày, màu sắc và tên gọi của năm loại trái cây trong mâm ngũ quả này mà mỗi gia đình đều gửi gắm vào đó những mong muốn, nguyện cầu cho năm mới. Tùy vào vùng miền và thời kỳ mà hiện nay, mâm ngũ quả đã thay đổi nhiều và mang ý nghĩa trang trí ngày Tết nhiều hơn là ý nghĩa tâm linh. Người phương Đông thường tin vào thuyết Ngũ hành: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Đây cũng là 5 yếu tố tạo nên vạn vật theo thuyết duy vật cổ đại. Do đó, 5 loại quả trên mâm tượng trưng cho ngũ hành, số 5 tượng trưng cho sự sống, sự đầy đủ, thể hiện ước muốn của người Việt Nam là sẽ đạt được ngũ phúc lâm môn: Phú – Quý – Thọ – Khang – Ninh. Không chỉ vậy, trong văn hóa phương Đông, không chỉ mâm ngũ quả mà nhiều quy luật tự nhiên khác cũng được gắn với chữ “ngũ” như: ngũ hành, ngũ cốc, ngũ quan, ngũ vị, ngũ tạng…. Còn một nguồn gốc nữa về mâm ngũ quả là trong kinh Vu-lan-bồn (Ullambana Sutra) do Phật thuyết cho Mục Kiền Liên về cách cứu mẹ ông khỏi kiếp ngạ quỷ, có nhắc đến việc chuẩn bị mâm ngũ quả dưới hình thức “trái cây năm màu” để cúng dường chư Tăng. Theo quan niệm nhà Phật thì trái cây 5 màu tượng trưng cho ngũ căn gồm: tín căn (lòng tin), tấn căn (ý chí kiên trì), niệm căn (ghi nhớ), định căn (tâm không loạn), huệ căn (sáng suốt). Ngũ (五): là năm, là biểu tượng chung của sự sống. Ngũ quả thể hiện được sự đầy đủ các loại trái cây trong đất trời dùng để thờ cúng. Trong sách Chiêm thư, người ta thường nhìn và mâm ngũ quả để dự đoán mùa màng trong năm được hay mất, dần dần về sau, mâm ngũ quả trở thành tượng trưng cho sự cầu thị được mùa của người nông dân. Chọn 5 thứ quả theo quan niệm người xưa là ngũ hành ứng với mệnh của con người. Chọn số lẻ tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi. Quả là biểu tượng cho sự sung túc với hình tượng mỗi quả là vũ trụ, bên trong quả có chứa hạt, tượng trưng cho sao, mang ý nghĩa sinh sôi trường tồn và tái sinh bất tận của sự sống. Các loại quả được chọn thường có hình dáng, cấu tạo gợi tả điều tốt lành, có vị ngọt, thơm, không đắng hoặc cay. Do điều kiện địa lý tự nhiên của người Việt có sự khác biệt và thay đổi theo vùng miền nên mâm ngũ quả cũng được trình bày với các loại quả và hình thức khác nhau. Chuối xanh: màu xanh của trái chuối tượng trưng cho hành Mộc, mang ý nghĩa như bàn tay ngửa để che chở đem lại sự bình an, sung túc, đùm bọc và gắn kết. Phật thủ: có hình dạng đặc biệt như những bàn tay của Phật, che chở bảo vệ cho gia đình. Táo: táo tây, táo ta, táo tàu: tượng trưng cho sự phú quý, giàu sang. Bưởi: bưởi căng tròn, mát lạnh, hứa hẹn sự ngọt ngào, may mắn trong cuộc sống. Cam, quất: Theo âm Hán của từ “quất” gần giống âm của từ “cát”. Bày quất trên mâm ngũ quả ý nghĩa mang lại sung túc, ăn nên làm ra, dồi dào sức sống. Trong đó, chuối, bưởi, đào, hồng, quýt có thể thay thế bằng cam, táo, lê… Nói chung, người miền Bắc không có phong tục khắt khe về mâm ngũ quả và hầu như tất cả các loại quả đều có thể bày được, miễn là có nhiều màu sắc. Dưa hấu: căng tròn, mát lạnh, hứa hẹn sự ngọt ngào, may mắn trong cuộc sống. Sung: thể hiện mong muốn có sự sung túc, tròn đầy, sung mãn về sức khỏe hay tiền bạc. Xoài: (phát âm giống như “xài”): Cầu mong cho việc tiêu xài không thiếu thốn. Ngoài ra còn có các loại qủa khác như: Mãng cầu Xiêm; Thơm/khóm (dứa); Dừa; Nho; Sa-pô-chê (Hồng xiêm); Thanh long. Khác với miền Bắc, các gia đình miền Nam thường kiêng kỵ kỹ lưỡng hơn khi bày mâm ngũ quả. Việc chưng trái có tên mang ý nghĩa xấu lên mâm ngũ quả của người miền Nam sẽ không có chuối vì phát âm như “chúi nhủi”, ngụ ý thất bại, không có cam vì “quýt làm cam chịu”, không có lê vì “lê lết”, không có táo vì người Nam gọi táo là “bom”, không có lựu vì “lựu đạn” và không có cả sầu riêng vì nặng mùi. Không chỉ trong dịp Tết Nguyên Đán, đôi khi mâm ngũ quả cũng được sử dụng trong ngày cưới của người Việt. Khi nhà trai mang Lễ Vật sang nhà gái để xin rước cô dâu về, thường mang theo mâm ngũ quả được chuẩn bị rất kỹ càng với nhiều ý nghĩa thiêng liêng để ngầm mang lại điều tốt lành, hạnh phúc cho đôi trẻ.
Mâm ngũ quả
Mâm ngũ quả là một mâm trái cây có chừng năm thứ trái cây khác nhau thường có trong ngày Tết Nguyên Đán của người Việt. Thông thường là trên bàn thờ tổ tiên hoặc trên bàn tiếp khách. Các loại trái cây bày lên thể hiện nguyện ước của gia chủ qua tên gọi, màu sắc và cách sắp xếp của chúng. Mâm ngũ quả hiện nay đã thay đổi rất nhiều, mang ý nghĩa trang trí cho không gian xuân nhiều hơn là ý nghĩa tâm linh. Trong kinh Vu-lan-bồn (Ullambana Sutra) do Phật thuyết cho Mục-Kiền-Liên về cách cứu mẹ ông khỏi kiếp ngạ quỷ có nhắc đến việc chuẩn bị mâm ngũ quả dưới hình thức "trái cây năm màu" để cúng dường chư Tăng, mà theo quan niệm nhà Phật trái cây 5 màu tượng trưng cho ngũ căn: tín, tấn, niệm, định và huệ. Dấu tích lễ Vu-lan có từ rất sớm ở Ấn Độ được nhắc trong tác phẩm Mahabharata (thế kỉ V trước công nguyên đến thế kỉ V sau công nguyên). Tại Trung Quốc, Lương Vũ Đế nhà Lương theo truyền thuyết là người đầu tiên cử hành hội Vu-lan-bồn vào năm 538 tại chùa Đồng Thái.
Đặc khu kinh tế là mô hình phát triển kinh tế được nhiều quốc gia áp dụng. Đây được xem như một chiến lược, sự đầu tư nhằm xây dựng sự phồn vinh trên đấu trường quốc tế. Trong những năm gần đây, chính phú đã tích cực huy động vốn đầu tư vào các khu kinh tế tiềm năng, nhằm phát triển kinh tế đa lĩnh vực. Vậy đặc khu kinh tế là gì? Cùng Bstyle tìm hiểu trong bài viết này nhé. Đặc khu kinh tế (tiếng Anh: Special Economic Zones – SEZ) là các khu vực kinh tế được thành lập trong một quốc gia với mục đích thu hút đầu tư trong và ngoài nước. bằng các biện pháp khuyến khích đặc biệt. Thuật ngữ đặc khu kinh tế được sử dụng để nói về các khu vực kinh tế tại đó, các công ty không bị đánh thuế hoặc bị đánh thuế nhẹ nhằm khuyến khích hoạt động kinh tế. Đặc khu kinh tế được xác định riêng bởi từng quốc gia. Theo Ngân hàng thế giới năm 2008, đặc khu kinh tế là “khu vực giới hạn về mặt địa lý, thường được đảm bảo về mặt vật lý (có rào chắn); có quản lý hoặc người điều hành, và được nhận các lợi ích dựa trên vị trí thực tế trong khu vực (lợi lích miễn thuế, thủ tục đơn giản hóa). Các đặc khu kinh tế SEZ xuất hiện từ cuối những năm 1950 tại các nước công nghiệp. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi (miễn giảm thuế, đơn giản hóa thủ tục, chính sách linh hoạt về lao động). Cơ sở hạ tầng tiện lợi, điều kiện sống thật tốt cho những người làm việc trong khu vực này. Vị trí địa lý chiến lược ( gắn với cảng biển, cảng hàng không quốc tế, v.v.). Lợi thế chính của các đặc khu kinh tế (SEZ) có thể được tóm tắt là thúc đẩy công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế thông qua tăng trưởng bền vững. Bên cạnh đó, đặc khu kinh tế xuất hiện còn giúp giảm được chi phí xuất nhập khẩu, gia tăng tính cạnh tranh trên thị trường mục tiêu. Bảng so sánh sau sẽ giúp bạn được cái nhìn tổng quan về đặc khu kinh tế là gì so với khu công nghiệp thông thường. Dưới đây là sự khác biệt giữa hai loại đặc khu đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Dự thảo luật đặc khu kinh tế do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam chủ trì xây dựng (gọi tắt là Dự thảo Luật Đặc Khu). Dự thảo Luật Đặc khu đã được Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ học thứ 4 (tháng 10/2017), được tiếp thu chỉnh lí và trình tiếp vào kì họp thứ 5. Tuy nhiên, ngày 9 tháng 6 năm 2018, Chính phủ Việt Nam thông báo đã đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam lùi việc thông qua Dự án Luật Đặc khu sang kì họp thứ 6 Quốc hội khóa 14 (tháng 10.2018) để có thêm thời gian nghiên cứu. Ngày 11 tháng 6 năm 2018, Quốc hội cho ý kiến về việc rút nội dung biểu quyết thông qua Dự án Luật Đặc khu, kết quả biểu quyết 423 đại biểu tán thành rút trong tổng số 432 đại biểu tham gia biểu quyết (tổng số đại biểu Quốc hội là 487, 55 đại biểu không tham gia biểu quyết) chiếm tỉ lệ 87.45%. Đặc khu là gì? Có vai trò như thế nào trong sự phát triển kinh tế hiện nay. Nhằm tạo động lực phát triển các vị trí tiềm năng trở thành khu kinh tế đa ngành, đa lĩnh vực. Trên thế giới hiện nay, có trên 4300 khu tinh tế tự do tại hơn 140 quốc gia đáp ứng đúng các nhu cầu hiện đại và tiên tiến nhất. Ba đặc khu kinh tế của Việt Nam bao gồm Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc dự kiến sẽ tạo nên một sức hút cực lớn với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Theo ước tính của Bộ Tài chính, ba đề án đặc khu kinh tế cần khoảng 70 tỉ USD (khoảng 1,57 triệu tỉ đồng), Vân Đồn cần 270 nghìn tỉ (2018-2030), Bắc Vân Phong 400 nghìn tỉ (2019-2025), và Phú Quốc 900 nghìn tỉ (2016-2030). Ngày 22 tháng 5 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ra quyết định số 31/2013/QĐ-TTg về việc thành lập Khu kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Khu kinh tế Phú Quốc chính thức được thành lập khi quyết định này có hiệu lực từ ngày 10 tháng 7 năm 2013. Theo quy hoạch tổng thể tới năm 2030 sửa đổi, Phú Quốc sẽ có 3 khu đô thị lớn, 15 khu du lịch sinh thái, 2 khu du lịch phức hợp và 5 sân gold. Dự kiến, Phú Quốc sẽ trở thành đặc khu kinh tế vào năm 2020. Đặc khu kinh tế Vân Đồn là một khu kinh tế ở miền Bắc Việt Nam được thành lập vào năm 2007 với mục tiêu trở thành một trung tâm sinh thái biển đảo chất lượng cao và dịch vụ cao cấp, đồng thời là trung tâm hàng không, đầu mối giao thương quốc tế, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tỉnh Quảng Ninh. Khu kinh tế Vân Đồn bao gồm một khu phi thuế quan và một khu thuế quan có diện tích rộng 2.200 km2 trong đó diện tích đất là 551,33 km2, vùng biển rộng 1620k2. Đặc khu Bắc Vân Phong được thành lập năm 2006 với mục tiêu trở thành mộ hạt nhân tăng trưởng kinh tế, trung tâm đô thị – công nghiệp – dịch vụ – du lịch của khu vực Nam Trung Bộ. Đây là một đặc khu kinh tế tổng hợp lấy khu cảng trung chuyển container quốc tế làm chủ đạo. Có một khu phi thuế quan và một khu thế quan ngăn cách nhau bằng tường rào. Khu kinh tế Bắc Vân Phong có diện tích hơn 1500km2 trong đó phần biển rộng hơn 800km2. Với lợi thế là cảng nước sâu Đầm Môn có thể tiếp nhận tàu 200.000 DWT ra vào dễ dàng, giao thông thuận lợi do nằm trên giao lộ Bắc Nam và tây nguyên. Những khái niệm về đặc khu kinh tết là gì trên đây được Bstyle.vn cung cấp sẽ giúp cho bạn đọc có cái nhìn tổng quan hơn về đặc khu kinh tế. Hy vọng thông tin chúng tôi cung cấp sẽ là những thông tin hữu ích cho mọi người. Website cập nhật kiến thức & thông tin các lĩnh vực kinh tế, tài chính, đầu tư, kỹ năng, kinh nghiệp kinh doanh, quản trị, phát triển doanh nghiệp và sự nghiệp cá nhân.
Đặc khu kinh tế
Đặc khu kinh tế, hay khu kinh tế đặc biệt (SEZ) là một khu vực được luật kinh doanh và thương mại khác với phần còn lại của đất nước. Các SEZ nằm trong biên giới quốc gia và mục tiêu bao gồm tăng cán cân thương mại, việc làm, tăng đầu tư, tạo việc làm và quản trị hiệu quả. Để khuyến khích các doanh nghiệp thành lập trong khu vực, các chính sách tài chính được đưa ra. Những chính sách này thường bao gồm đầu tư, thuế, giao dịch, hạn ngạch, hải quan và quy định lao động. Ngoài ra, các công ty có thể được cung cấp các ngày lễ thuế, khi thành lập chính họ trong một khu vực, họ được cấp một khoảng thời gian đánh thuế thấp hơn. Việc tạo ra các đặc khu kinh tế của nước sở tại có thể được thúc đẩy bởi mong muốn thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Lợi ích mà một công ty đạt được khi ở trong một khu kinh tế đặc biệt có thể có nghĩa là nó có thể sản xuất và kinh doanh hàng hóa với giá thấp hơn, nhằm mục đích cạnh tranh toàn cầu.
Đứng đầu danh sách các hãng xe sang hiện đang làm mưa làm gió tại Việt Nam thì nên nhắc ngay đến hãng xe Lamborghini. Đây là thương hiệu xe thể thao cao cấp đến từ Ý, và là một trong những hãng xe sản xuất siêu xe nổi tiếng, cũng như có giá bán đắt nhất trên thế giới. Mức giá các mẫu xe bán tại Việt Nam cũng không thấp hơn 15 tỷ đồng, và thậm chí có xe cao hơn 40 tỷ đồng. Hãng xe này chính thức đến Việt Nam vào năm 2014 và phân phối dưới hình thức nhập khẩu nguyên chiếc. Hiện nay, các dòng xe đang được bán tại thị trường nội địa bao gồm các mẫu xe như: Huracan LP 580-2, Huracan LP 610-4, Huracan Performante, Aventador S LP 700-4, Urus. Năm 2008, hãng xe Audi là thương hiệu xe sang thuộc tập đoàn Volkswagen Motors đến từ Đức, chính thức có mặt tại Việt Nam. Với thiết kế dễ nhận biết qua logo là 4 hình tròn xếp chồng lên nhau, đây là hãng xe được cả khách hàng nam lẫn nữ ưa chuộng, bởi thiết kế sang trọng, đẳng cấp, phù hợp với tất cả đối tượng người dùng. Hiện nay hãng đang phân phối xe tại thị trường Việt Nam theo hình thức nhập khẩu xe nguyên chiếc các phiên bản SUV, Crossover và sedan. Hãng xe BMW chính thức có mặt tại Việt Nam từ năm 1994, đây là thương hiệu xe thể thao, đẳng cấp đến từ Đức, thông qua hợp đồng với xí nghiệp sản xuất ô tô Hòa Bình. Sau đó, Euro Auto chính thức giành được quyền nhập khẩu xe BMW tại thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, Euro Auto vướng mắc về pháp lý là một phần không nhỏ, giúp Thaco trở thành đơn vị phân phối mới của thương hiệu xe sang này từ năm 2018. Mercedes Benz là một trong các hãng xe hơi sang trọng được ưa chuộng nhất tại thị trường Việt Nam. Nếu bạn đi trên đường thì hầu như chúng ta sẽ thường bắt gặp logo ngôi sao 3 cánh của hãng xe này. Không chỉ về thiết kế và trang thiết bị sang trọng, hiện đại, mà xe còn là biểu tượng cho sự thành công với slogan “the best or nothing”, nghĩa là chỉ có “tốt nhất hoặc không có gì”. Hãng Mercedes có trụ sở chính tại Stuttgart nước Đức. Hiện đã có nhà máy lắp ráp và sản xuất ô tô tại Việt Nam với phụ tùng và linh kiện nhập khẩu từ Đức. Land Rover - một trong các hãng xe ô tô sang trọng đến từ Anh, là một phần của công ty Jaguar Land Rover thuộc tập đoàn Tada Motors, Ấn Độ. Đặc biệt, để tạo điều kiện cho tất cả các khách hàng yêu mến dòng xe hạng sang này, Land Rover đã kinh doanh thêm những chiếc xe đã qua sử dụng với giá tốt. Hãng này mong muốn tất cả mọi người đều có cơ hội sở hữu xe Land Rover hoặc khách hàng có thể đổi cũ lấy mới với giá như ý hơn. Bentley - thương hiệu xe hạng sang đến từ vương quốc Anh, là công ty con của tập đoàn Volkswagen, Đức. Đây là một trong những hãng xe hạng sang đích thực chỉ dành cho giới thượng lưu Việt Nam sở hữu khi giá thành vào khoảng trên 10 tỷ đồng/chiếc. Đặc biệt, luôn có giới hạn cho những mẫu xe được thiết kế và sản xuất từ hãng xe này. Điều này tạo nên sự nóng lòng mong đợi của không ít khách hàng Việt nói riêng và trên thế giới nói chung trước thông tin một mẫu xe Bentley mới sắp được ra mắt. Có lẽ vì thế, mẫu xe nào của hãng cũng bán hết chỉ trong thời gian ngắn. Trong đó, Bentley Bentayga là dòng xe SUV đặc biệt phá cách của hãng so với các phiên bản Sedan mang thương hiệu sang trọng, lịch lãm. Hãng xe Aston Martin chính thức được thành lập tại Việt Nam vào ngày 16/3/2019, đây là hãng xe ô tô mới có thương hiệu đến từ Anh, gia nhập vào thị trường nội địa trong năm nay. Giá xe của hãng này có mức thấp nhất từ 15 tỷ đồng trở lên và không hề thấp khi định vị phân khúc khách hàng rất rõ ràng. Mặc dù vừa đến Việt Nam nhưng những mẫu xe của hãng Aston Martin vẫn được khá nhiều khách hàng trong giới “chơi xe” cao cấp ưa chuộng và chọn mua. Hiện nay hãng đang cung cấp vào thị trường Việt Nam hai mẫu siêu xe đẳng cấp là Vantage và DB11. Đây là một thương hiệu xe thể thao hạng sang đến từ Ý, hãng xe Maserati chính thức có mặt tại Việt Nam vào cuối năm 2015. Mức giá xe của hãng này hiện được bán tại Việt Nam có giá thấp nhất cũng đã 4,7 tỷ đồng và cao nhất là 10,5 tỷ đồng. Trong đó, hai mẫu xe có phiên bản giới hạn “tốt gỗ” và “tốt cả nước sơn” Levante và Quatroporte 2019 vừa được hãng công bố chỉ có 50 chiếc được sản xuất và bán trên toàn cầu. Điều này tạo nên sự canh tranh không ít của những chủ nhân mới, trước giờ rao bán mẫu xe này của Hãng. Hãng xe Jaguar cũng là thương hiệu xe hạng sang đến từ Anh, thuộc một phần trong công ty con Jaguar Land Rover của tập đoàn Tata Motor, Ấn Độ. Một trong những hãng đang có vị trí dẫn đầu trong phân khúc xe hạng sang trên thế giới. Hiện nay, hãng xe Jaguar đang được bán tại Việt Nam các phiên bản xe như E-Pace, F-Pace, F-Type, I-Pace, XE, XF, XJ với mức giá thấp nhất được bán ra thị trường rơi vào khoảng 2,2 tỷ và cao nhất là trên 10 tỷ. Hiện nay hãng xe ô tô hạng sang này đang cung cấp ra thị trường nội địa các mẫu xe như: QX60, QX70, QX80. Chỉ cần bỏ ra tầm giá từ 3 tỷ đồng, bạn đã có thể sở hữu những chiếc Crossover và SUV đẳng cấp cùng trang thiết bị vô cùng hiện đại, tiện nghi, không gian nội thất rộng rãi. Lexus là thương hiệu thuộc phân khúc xe ô tô hạng sang của hãng xe Toyota. Mức giá của các dòng xe oto này hiện đang được rao bán thấp nhất là 2,5 tỷ đồng và cao nhất là khoảng 8 tỷ đồng. Đây cũng là một trong những dòng xe hạng sang được bán chạy nhất của hãng Toyota tại thị trường trong nước hiện nay. Hãng Volvo chính thức có mặt tại Việt Nam từ năm 2016, dưới hình thức hợp tác giữa Volvo Thụy Điển và công ty Cổ Phần Dịch Vụ Tổng Hợp Sài Gòn SAVICO. Volvo được mệnh danh là hãng xe có an toàn nhất thế giới khi trang bị các tính an toàn hiệu quả và có tính ưu việt. Hãng Mini thuộc quyền sở hữu của thương hiệu xe sang BMW, có nguồn gốc đến từ Anh. Đây có thể là hãng xe “kén” người dùng nhất hiện nay. Phân khúc khách hàng là những đối tượng có tiền và cũng phải có niềm đam mê mãnh liệt dành cho mẫu xe Mini Cooper này, bởi thực sự chiếc xe sẽ không hữu dụng cho những đối tượng mong muốn tiện ích hiện đại và không gian nội thất rộng rãi cho nhiều người. Hiện xe đang được bán trên thị trường trong nước với các mẫu xe như: Mini 3 door, Mini 5 door, Mini Convertible với mức giá từ 1,5 tỷ đồng trở lên. Porsche là một trong các hãng xe ô tô hạng sang đến từ Đức, có đại lý bán hàng và trung tâm dịch vụ tại 2 thành phố lớn của Việt nam, là TPHCM vào năm 2007 và Hà Nội vào năm 2012. Từ khi ra mắt đến thời điểm hiện tại, Porsche được giới “chơi xe” biết đến và săn lùng như một dòng xe thể thao đẳng cấp khi chỉ cần bỏ ra số tiền từ khoảng 3,5 tỷ trở lên là có thể sở hữu ngay một mẫu xe thời thượng. Nếu bạn đang tìm hiểu mua xe và có các thắc mắc chưa thể giải đáp, hãy gọi ngay cho chúng tôi theo số điện thoại 0906 870 699. Đội ngũ tư vấn của chúng tôi sẽ giải đáp và tư vấn cho bạn chiếc xe phù hợp nhất.
Xe sang trọng
Xe sang trọng hay xe hơi hạng sang là một chiếc xe có mục đích cung cấp cho hành khách (và thường là người lái) sự thoải mái, mức độ trang bị cao cấp hơn và chất lượng đẳng cấp hơn so với xe thông thường (như xe kinh tế, được dùng làm thiết bị vận chuyển giá rẻ cơ bản) với giá cả đắt hơn xe gốc. Thuật ngữ này là chủ quan và có thể dựa trên chất lượng của chính chiếc xe hoặc hình ảnh thương hiệu của nhà sản xuất. Các nhãn hiệu xe sang được coi là có vị trí cao hơn các nhãn hiệu xe cao cấp, Tuy nhiên, không có sự khác biệt nhất định giữa hai loại này. Theo truyền thống, những chiếc xe sang là những chiếc sedan cỡ lớn, tuy nhiên, những chiếc xe sang trọng hiện đại ngày nay có kích thước rất đa dạng từ những chiếc xe cỡ nhỏ (hatchback, SCUV,.) cho đến những chiếc xe sedan và SUV cỡ lớn.
Tôn Trung Sơn (1866-1925) còn có tên là Tôn Văn, Tôn Dật Tiên, người huyện Hương Sơn (nay là Trung Sơn) tỉnh Quảng Đông. Ông là nhà cách mạng dân chủ vĩ đại của Trung Quốc.Bạn đang xem: Theo hồ chí minh, ưu điểm lớn nhất của chủ nghĩa tam dân của tôn trung sơn là gì?. Sớm giác ngộ tư tưởng dân tộc – dân chủ, nên sau khi tốt nghiệp trường Y khoa Bác Tế (Quảng Châu), ông đã dấn thân vào con đường hoạt động cứu dân cứu nước. Năm 1894, ông thành lập Hưng Trung Hội ở Honolulu (Hawaii) là Hội cách mạng đầu tiên của giai cấp tư sản Trung Quốc đề ra Cương lĩnh: “Đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, sáng lập chính phủ hợp quần”. Hội đã thu hút nhiều nhân sĩ và thanh niên Trung Quốc yêu nước tham gia, quyên góp kinh phí, mua sắm vũ khí chuẩn bị các cuộc khởi nghĩa Quảng Châu (1895), Huệ Châu (1898) dự định kết hợp với phong trào phản đế của Nghĩa Hòa Đoàn ở miền Bắc, nhưng đã không thành công, ông lại phải lưu vong ra nước ngoài. Tháng Tám năm 1905, Hưng Trung Hội của Tôn Trung Sơn, Hoa Hưng Hội của Hoàng Hưng (tức Hoàng Khắc Cường) cùng với các Hội đảng khác họp tại Tokyo (Nhật Bản) lập ra một tổ chức cách mạng thống nhất lấy tên “Trung Quốc Đồng Minh Hội” gọi tắt là Đồng Minh Hội có cương lĩnh chính trị là : “Đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, sáng lập Dân quốc, bình quân địa quyền”. Tôn Trung Sơn được bầu làm Tổng lý. Tổng bộ Đồng Minh Hội được xây dựng theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” đứng đầu là Tổng lý, dưới có ba bộ “Chấp hành”, “Bình nghị” và “Tư pháp”. Tháng 11 – 1905, tờ Dân báo, cơ quan ngôn luận của Đồng Minh Hội phát hành số đầu tiên. Trong “Lời nói đầu của Dân báo”, Tôn Trung Sơn đã khái quát Cương lĩnh chính trị của Đồng Minh Hội thành ba chủ nghĩa “Dân tộc – Dân quyền – Dân sinh”, gọi tắt là Chủ nghĩa Tam dân. Nhưng chẳng bao lâu sau, mọi thành quả cách mạng lại bị rơi vào tay bọn quân phiệt phản động Viên Thế Khải! Tôn Trung Sơn lại phải trải qua một chặng đường đấu tranh mới đầy gian lao khổ ải. Năm 1912, ông cải tổ Đồng Minh Hội thành Quốc Dân Đảng, tiếp tục hoạt động chống bè lũ quân phiệt Bắc dương. “Cái chết đột ngột của nhà cách mạng dân chủ, người bạn vĩ đại của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, là một cái tang chung cho nhân dân toàn quốc, và do đó đã hình thành một phong trào tuyên truyền chính trị rộng lớn… chủ nghĩa Tam dân mới chống đế quốc phong kiến, được truyền bá khắp nước rất nhanh chóng. Thật ra không phải đến khi Tôn Trung Sơn qua đời, thì chủ nghĩa Tam dân mới được truyền bá rộng khắp, mà ngay khi sinh thời của ông, nó đã có ảnh hưởng tới nhiều nước và nhiều nhà yêu nước, cách mạng trên thế giới. Ngay đối với nước ta, trong 25 năm đầu thế kỷ XX, cụ Phan Bội Châu – nhà chí sĩ yêu nước tiêu biểu của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc đường lối cách mạng và tư tưởng của Tôn Trung Sơn. Năm 1904, khi lập ra Duy Tân Hội, cụ Phan đã đề ra cương lĩnh chính trị “Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước Quân chủ lập hiến (2), và nhất là khi Cụ đã chuyển hướng sang theo tư tưởng dân chủ và thành lập Việt Nam Quang phục hội năm 1912, đề ra tôn chỉ duy nhất là “Đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục Việt Nam, thành lập nước Cộng hòa Dân quốc” Phan Bội Châu được bầu làm Tổng lý, cơ cấu tổ chức và chức viên của Hội cũng na ná như Đồng Minh Hội của Tôn Trung Sơn, cũng có ba bộ: Bộ Tổng vụ, Bộ Bình nghi và Bộ Chấp hành”. Hội cũng có “đội quân Quang phục”, đề ra “phương lược” chế định quốc kỳ, quân kỳ, phát hành quân dụng phiếu… Trong “Lời phi lộ của Việt Nam Quang phục hội” nhấn mạnh ý nghĩa:. Đến năm 1924, Phan Bội Châu lại thêm một lần nữa “noi theo” Trung Quốc Quốc dân đảng của Tôn Trung Sơn, cải tổ Quang Phục Hội thành Việt Nam Quốc Dân Đảng. Cụ đã khởi thảo Chương trình và Đảng cương, và như Cụ nói: “Quy mô tổ chức ở trong bản Chương trình này tất thảy đều dựa theo khuôn mẫu của Trung Quốc Quốc dân đảng mà châm chước thêm bớt cho đúng với tình hình nước ta, cũng là một thủ đoạn tùy thời cải cách đó vậy” (3). Như vậy Phan Bội Châu, có lẽ là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, cũng là người sớm nhất được tiếp xúc với Tôn Trung Sơn hai lần ở Yokohama Nhật Bản (1905) đàm đạo tư tưởng, chủ trương cách mạng và sau này một lần ở Nam Kinh (1912) hoạt động trên đất Trung Quốc, nhận sự giúp đỡ của các đảng nhân phái cách mạng, chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, nên khi được tin Tôn Trung Sơn từ trần, Phan Bội Châu có đôi câu đối viếng ghi đậm mối cảm tình sâu đậm đó. Lo vì thiên hạ, vui vì thiên hạ, bị nhiều năm áp bức do bọn Đế quốc chủ nghĩa, cùng chia nước mắt để khóc tiên sinh” (4). Nhưng khi tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, chúng ta cũng thấy có chỗ khác biệt, kể cả sắp xếp ngôn từ lẫn giới thuyết nội dung tư tưởng như: “Tôn Trung Sơn viết “Tam dân chủ nghĩa” tức là Chủ nghĩa ba dân: chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân quyền, chủ nghĩa dân sinh. Tôn Trung Sơn không nói: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do, Dân sinh hạnh phúc như chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngược lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh không viết “chủ nghĩa” dân tộc độc lập…. Về nội dung, Hồ Chí Minh chủ trương dân tộc bị áp bức Việt Nam đoàn kết với Liên Xô, với giai cấp vô sản các nước và các dân tộc bị áp bức khác đánh đổ chủ nghĩa đế quốc thống trị Việt Nam, gắn chủ nghĩa quốc tế, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở liên minh công nông. Sau khi giành được độc lập rồi, phải củng cố nền độc lập, xây dựng một quốc gia giàu mạnh, bình đẳng với các nước trên thế giới, độc lập gắn liền với tự do. Bởi thế mà Hồ Chí Minh mới nhấn mạnh trong tư tưởng của Người đã có thêm một mệnh đề khái quát tầm cỡ triết học mang tính thời đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” và luôn gắn kết ý nghĩa thực tiễn “độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì” (11). (10) Dẫn lại theo trang bìa 3 cuốn sách Chủ nghĩa Tam dân. Viện TTKHXH xuất bản, Hà Nội, 1995.
Chủ nghĩa Tam Dân
Chủ nghĩa Tam Dân hay Học thuyết Tam Dân (phồn thể: 三民主義, giản thể: 三民主义) là một cương lĩnh chính trị do Tôn Dật Tiên đề xuất, với tinh thần biến đất nước Trung Hoa (khi đó đang trong triều đại nhà Thanh) thành một quốc gia tự do, phồn vinh và hùng mạnh. Việc kế thừa và hiện thực ngày nay thể hiện rõ nhất trong tổ chức chính quyền của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Triết lý này cũng xuất hiện trong dòng đầu tiên của Quốc ca Trung Hoa Dân Quốc. Cương lĩnh (hay học thuyết) chính trị này bao gồm: Dân tộc độc lập (民族独立), Dân quyền tự do (民權自由), Dân sinh hạnh phúc (民生幸福). Chủ nghĩa Tam dân có ảnh hưởng đến cả Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch, cả hai đều mến mộ Tôn Trung Sơn, cho dù là đối thủ của nhau và đều hay được xem là những nhà cai trị độc đoán. Năm 1894, khi tổ chức Hưng Trung Hội được thành lập, Tôn Dật Tiên mới chỉ hình thành hai nguyên tắc đại cương: dân tộc và dân quyền. Ông đã chọn ý tưởng thứ ba - dân sinh, trong chuyến đi ba năm đến châu Âu từ năm 1896 đến năm 1898.
Từ xưa loại đá Hổ Phách được biết đến có tác dụng phòng chống cảm cúm, tăng cường sức đề kháng cho con người. Là biểu tượng của vua chúa, giúp xua đi những năng lượng không tốt và gia tăng sinh khi cho cơ thể. Vậy cụ thể đá Hổ Phách là gì? Và đá Hổ Phách có công dụng gì? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu ngay ở bài viết dưới đây. 4 Vòng, đá Hổ Phách có tác dụng gì?4.1 Ý nghĩa trang sức4.2 Ý nghĩa chữa bệnh. Hổ phách hay còn có tên gọi quốc tế là Amber. Và nó chính là loại đá được hình thành từ cây nhựa đã cách đây hàng triệu năm. Loại đá này thường ở quanh các thực vật hay côn trùng nhỏ. Và con người cũng đã xác định được hơn một nghìn tên mẫu côn trùng nằm trong Hổ Phách. Cũng nhờ chính loại đá này đã giúp ích cho các nhà cổ sinh tái tạo được cuộc sống trong giai đoạn nguyên thủy được tốt đẹp hơn. Bên cạnh đó thì Hổ Phách còn là chứng tích thời gian. Và nó là vật phẩm có giá trị nhờ sỡ hữu vẻ đẹp huyền bí. Được dùng để làm ra những món vật trang sức từ rất sớm. Người Hy Lạp xem Hổ Phách chính là electron, hoặc có thể là được tạo ra do trời. Nguyên nhân là nó mang điện khi được cọ sát với vải và có khả năng hút được các thành phần rất nhỏ. Theo một nhà văn cổ Nicias cho rằng, Hổ Phách là do tinh chất của mặt trời lặn tích tụ ở trong lòng đại dương. Rồi sau đó nó trôi dạt vào bờ. Người La Mã đã chiếm đóng và quản lí chặt chẽ các vùng đang sản xuất Hổ Phách. Hoàng đế La Mã được coi là một người vô cùng sành sỏi về Hổ Phách. Theo nhà sử học Pliny ở La Mã thì ở triều đại Nero thì giá một nô lệ mạnh khỏe không bằng giá của Hổ Phách. Còn người Đức khi đốt Hổ Phách lên chính vì nghe hương thơm của nó nên đặt là đá cháy (bernstein). Ở thời Trung Cổ thì Hổ phách không màu được sử dụng làm các chuỗi hạt cầu nguyện. Trên thị trường hiện có hai nguồn cung cấp Hổ Phách chính đó là các quốc gia vùng Baltic và Cộng hòa Dominica. Hổ phách vùng Baltic thì cổ hơn vì vậy được ưa chuộng hơn trên thị trường. Tuy nhiên thì Hổ Phách ở Dominica có nhiều xác côn trùng hơn. Trong vùng Baltic, thì mỏ Hổ Phách lớn nhất nằm ở phía tây Kaliningrad thuộc Nga. Bên cạnh đó người ta còn tìm thấy Hổ Phách ở một số nơi như: Lithuania, Estonia, Latvia, Ba Lan, v.v. Vòng hay đá Hổ Phách được rất nhiều người ưa chuộng. Bởi nó không chỉ đẹp mà còn mang lại nhiều công dụng tốt cho con người. Chi tiết như sau:. Màu sắc long lanh của Hổ Phách nên rất được yêu thích. Từ thời kỳ đồ đá nó đã được con người sử dụng làm những món đồ trang trí. Trang sức như dây chuyền, nhẫn được làm từ Hổ Phách thường có màu cam, vàng, đỏ rất thu hút. Trong lòng Hổ Phách thường sẽ có sự trộn lẫn của vỏ hạt, lá, hoa, v.v. của các loại thực vật đem đến những hình thù lạ mắt. Tuy nhiên sự đặc biệt hơn nằm ở chỗ các viên Hổ Phách ở trong lòng nó có xác của những loại côn trùng. Loại này có giá trị rất lớn về mặt trị giá sưu tầm chứ không riêng gì trang sức. Hổ Phách có mối liên hệ mật thiết với chakra tinh thểm rối dương với cổ họng. Đồng thời nó còn rất tốt cho thận và gan của con người. Hổ Phách có giá trị làm sạch tinh thần, cơ thể cũng như môi trường xung quanh. “Tinh thể” này có khả năng hút được bệnh ra khỏi cơ thể, hồi phục hệ thần kinh và cân bằng bán cầu não. Hổ Phách còn tăng sự tự tin, mang lại niềm vui và may mắn cho con người. Hổ Phách có giá trị tri thức vô tận, là chứng nhân cho trái đất đánh thức được các ký ức của con người.
Hổ phách
Hổ phách (琥珀), còn được gọi là huyết phách (血珀), minh phách (明珀), hồng tùng chi, (tiếng Latinh: succinum), là nhựa cây đã hóa đá (hóa thạch) từ thời đại đồ đá mới, được đánh giá cao về màu sắc và vẻ đẹp tự nhiên. Các phân tích cho thấy hổ phách có công thức cấu tạo là C40H64O4, viết gọn là (C10H16O)4. Hổ phách thường gặp dưới dạng khối nhựa cứng hoặc dạng nhũ đá với các khối to nhỏ không đều nhau, nhìn trong suốt với màu rất đẹp; một số trường hợp còn thấy rõ trong mảnh hổ phách chứa các động vật hóa thạch nguyên vẹn. Đem đun nóng, hổ phách tỏa mùi hương dễ chịu. Hổ phách dẫn nhiệt rất kém. Thales đã phát hiện ra từ 600 năm trước Công nguyên rằng khi chà xát liên tục vào miếng vải hoặc miếng len thì hổ phách sinh điện. Hổ phách được sử dụng trong nhiều công nghệ. Đông y cổ truyền cho rằng hổ phách có vị ngọt, tính bình vào bốn kinh tâm, can, phế và bàng quang; có tác dụng an thần, định kinh, lợi tiểu tiện, tán ư huyết; chỉ dành cho người hỏa suy, thủy thịnh.
Chuyển động Brown là chuyển động ngẫu nhiên của các hạt trong chất lỏng do va chạm của chúng với các nguyên tử hoặc phân tử khác. Chuyển động Brown còn được gọi là pedesis, xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là “nhảy vọt lên”. Mặc dù một hạt có thể lớn so với kích thước của nguyên tử và phân tử trong môi trường xung quanh, nó có thể chuyển động do va chạm với nhiều khối lượng nhỏ, chuyển động nhanh. Chuyển động Brown có thể được coi là hình ảnh vĩ mô (có thể nhìn thấy) của một hạt chịu ảnh hưởng của nhiều hiệu ứng ngẫu nhiên vi mô. Chuyển động Brown lấy tên từ nhà thực vật học người Scotland Robert Brown, người đã quan sát thấy các hạt phấn hoa chuyển động ngẫu nhiên trong nước. Ông mô tả chuyển động vào năm 1827 nhưng không thể giải thích được. Trong khi pedesis lấy tên của nó từ Brown, ông ấy không phải là người đầu tiên mô tả nó. Nhà thơ La Mã Lucretius mô tả chuyển động của các hạt bụi vào khoảng năm 60 trước Công nguyên, được ông sử dụng làm bằng chứng về nguyên tử. Hiện tượng vận chuyển vẫn chưa được giải thích cho đến năm 1905 khi Albert Einstein xuất bản một bài báo giải thích phấn hoa được chuyển động bởi các phân tử nước trong chất lỏng. Cũng như Lucretius, lời giải thích của Einstein là bằng chứng gián tiếp về sự tồn tại của các nguyên tử và phân tử. Vào đầu thế kỷ 20, sự tồn tại của những đơn vị vật chất nhỏ bé như vậy chỉ là lý thuyết. Năm 1908, Jean Perrin đã kiểm chứng bằng thực nghiệm giả thuyết của Einstein, giả thuyết này đã mang lại cho Perrin giải Nobel Vật lý năm 1926 “cho công trình nghiên cứu cấu trúc không liên tục của vật chất”. Mô tả toán học của chuyển động Brown là một phép tính xác suất tương đối đơn giản, có tầm quan trọng không chỉ trong vật lý và hóa học mà còn để mô tả các hiện tượng thống kê khác. Người đầu tiên đề xuất mô hình toán học cho chuyển động Brown là Thorvald N. Thiele trong một bài báo về phương pháp bình phương nhỏ nhất được xuất bản năm 1880. Một mô hình hiện đại là quá trình Wiener, được đặt tên để vinh danh Norbert Wiener, người đã mô tả chức năng của một quá trình ngẫu nhiên thời gian liên tục. Chuyển động Brown được coi là quá trình Gaussian và quá trình Markov với đường đi liên tục xảy ra trong thời gian liên tục. Bởi vì chuyển động của các nguyên tử và phân tử trong chất lỏng và chất khí là ngẫu nhiên, theo thời gian, các hạt lớn hơn sẽ phân tán đều trong môi trường. Nếu có hai vùng vật chất gần nhau và vùng A chứa số hạt nhiều gấp đôi vùng B thì xác suất một hạt rời vùng A để vào vùng B cao gấp đôi xác suất một hạt rời vùng B để vào vùng A. Sự khuếch tán, sự chuyển động của các hạt từ một vùng có nồng độ cao hơn đến thấp hơn, có thể được coi là một ví dụ vĩ mô của chuyển động Brown. Bất kỳ yếu tố nào ảnh hưởng đến chuyển động của các hạt trong chất lỏng đều ảnh hưởng đến tốc độ chuyển động Brown. Ví dụ, nhiệt độ tăng, số lượng hạt tăng, kích thước hạt nhỏ và độ nhớt thấp làm tăng tốc độ chuyển động. Hầu hết các ví dụ về chuyển động Brown là các quá trình vận chuyển bị ảnh hưởng bởi các dòng lớn hơn, nhưng cũng thể hiện hiện tượng pedesis. Tầm quan trọng ban đầu của việc xác định và mô tả chuyển động Brown là nó hỗ trợ lý thuyết nguyên tử hiện đại. Ngày nay, các mô hình toán học mô tả chuyển động Brown được sử dụng trong toán học, kinh tế, kỹ thuật, vật lý, sinh học, hóa học và một loạt các ngành khác. Có thể khó phân biệt giữa chuyển động do chuyển động Brown và chuyển động do các tác động khác. Ví dụ, trong sinh học, một người quan sát cần có khả năng biết một mẫu vật đang chuyển động vì nó có tính di động (có khả năng tự di chuyển, có thể do lông mao hoặc lông roi) hay vì nó chịu chuyển động Brown. Thông thường, có thể phân biệt giữa các quá trình bởi vì chuyển động Brown có vẻ giật, ngẫu nhiên hoặc giống như rung động. Tính di động thực sự thường xuất hiện dưới dạng một con đường, hoặc chuyển động khác là xoắn hoặc quay theo một hướng cụ thể. Trong vi sinh vật học, tính di động có thể được xác nhận nếu một mẫu được cấy trong môi trường bán rắn di chuyển ra khỏi đường đâm. Vụ cá cược nghìn đô: Nhà vật lý và YouTuber đã đặt cược 10.000 đô la cho các định luật vật lý
Chuyển động Brown
Mặc dù chuyển động trộn lẫn của các hạt bụi được gây ra chủ yếu bởi dòng không khí, sự chuyển động lấp lánh, lấp lánh của các hạt bụi nhỏ, quả thực, gây ra chủ yếu bởi các động lực Brown đúng sự thật. Trong khi Jan Ingenhousz mô tả chuyển động bất thường của các hạt bụi than trên bề mặt của rượu vào năm 1785, việc phát hiện ra hiện tượng này thường được ghi nhận cho nhà thực vật học Robert Brown năm 1827. Brown đang nghiên cứu hạt phấn của cây Clarkia pulchella lơ lửng trong nước dưới một kính hiển vi khi ông quan sát các hạt phút, bị đẩy ra bởi các hạt phấn hoa, thực hiện một chuyển động jittery. Bằng cách lặp lại thí nghiệm với các hạt vật chất vô cơ, ông đã có thể loại trừ rằng chuyển động liên quan đến cuộc sống, mặc dù nguồn gốc của nó vẫn chưa được giải thích. Người đầu tiên mô tả toán học đằng sau chuyển động Brown là Thorvald N. Thiele trong một bài báo về phương pháp hình vuông nhỏ nhất được xuất bản năm 1880. Điều này được theo sau độc lập bởi Louis Bachelier năm 1900 trong luận án tiến sĩ của ông "Lý thuyết về đầu cơ", trong đó ông trình bày một phân tích ngẫu nhiên về thị trường chứng khoán và các lựa chọn.
Các đàn chim và cá điều chỉnh chuyển động cơ thể của chúng để tránh những kẻ săn mồi, tìm kiếm thức ăn hoặc bạn tình, hoặc tối ưu hóa các thông số môi trường như nhiệt độ . Các loài chim và cá sử dụng trí thông minh bầy đàn, hành vi xã hội và động lực di chuyển để chia sẻ thông tin giữa nhóm của chúng nhằm tạo ra lợi thế sinh tồn lớn hơn. Mục tiêu tối ưu hóa PSO là tìm chức năng tối ưu để tối đa hóa độ chính xác hoặc độ chính xác hoặc giảm thiểu tổn thất. Mục tiêu của PSO là tìm ra sự tối ưu toàn cầu trên một không gian tìm kiếm. Một nhóm trong thuật toán được đại diện bởi một tập hợp các hạt và mục tiêu của chúng tôi là giảm thiểu hoặc tối đa hóa hàm tối ưu hóa được đề xuất f (x). Một bầy là một tập hợp các hạt trong không gian tìm kiếm. Mỗi hạt có một vị trí và một vận tốc, giống như một con chim trong một đàn. Vị trí của họ được cập nhật dựa trên kinh nghiệm trước đây của họ và kinh nghiệm của nhóm. PSO được khởi tạo với các hạt có vị trí ngẫu nhiên và vận tốc ngẫu nhiên để tìm kiếm giải pháp tối ưu cho một chức năng thể dục. Khởi tạo giá trị thể dục tốt nhất của hạt, pbest và giá trị thể dục tốt nhất của bầy đàn, gbest đến vô cùng. Đối với mỗi lần lặp lại, hãy đánh giá giá trị phù hợp cho từng hạt. Nếu giá trị thể chất của hạt nhỏ hơn giá trị tốt nhất của hạt, thì hãy cập nhật pbest với vị trí của hạt vì nó là giải pháp tốt nhất hiện tại đạt được cho đến nay. Sau khi tìm các giá trị pbest và gbest, hãy cập nhật vận tốc và vị trí của hạt theo công thức được đưa ra bên dưới. Hệ số Gia tốc c1> c2 hỗ trợ tìm kiếm toàn cầu trong khi c2> c1 hữu ích cho tìm kiếm cục bộ. Tìm kiếm kết thúc khi đạt được số lần lặp tối đa hoặc khi đạt được tiêu chí lỗi mong muốn. Khi bạn đã có pbest và gbest, hãy tính vận tốc hạt và vị trí mới cho đến khi bạn đạt được số lần lặp tối đa hoặc đạt được tiêu chí mong muốn. Tối ưu hóa bầy đàn (PSO) là một kỹ thuật tối ưu ngẫu nhiên mạnh mẽ, là một kỹ thuật tối ưu hóa đơn giản với ít tham số hơn có khả năng giải quyết các vấn đề phức tạp. Nó được lấy cảm hứng từ hành vi xã hội của một đàn chim hoặc đàn cá được phát triển bởi Tiến sĩ Eberhart và Tiến sĩ Kennedy vào năm 1995. Trong kỹ thuật PSO, các phần tử bầy đàn cân bằng kiến thức cá nhân cũng như bầy đàn để tìm ra optima tốt nhất. Netflix, Inc. là nhà cung cấp dịch vụ truyền thông và công nghệ của Mỹ và công ty sản xuất có trụ sở chính tại Los Gatos, California. Tìm hiểu kiến thức cơ bản về Nhà sản xuất & Người tiêu dùng bảng điều khiển Kafka với bài viết và video thực hành này Trong thế giới dữ liệu lớn, nền tảng phát trực tuyến đáng tin cậy là điều bắt buộc. Đó là nơi Kafka bước vào. Nam giới chơi thể thao có nhiều khả năng hẹn hò với phụ nữ không chơi thể thao hơn phụ nữ chơi thể thao hẹn hò với nam giới không chơi thể thao Những người đàn ông chơi / chơi thể thao có nhiều khả năng hẹn hò với một phụ nữ không chơi hơn những phụ nữ đã chơi / chơi thể thao là để hẹn hò với những người đàn ông không chơi, χ2 (1, N = 104) = 3,83, p =. Selenium là một bộ công cụ để tự động hóa các trình duyệt web. Bạn có thể sử dụng nó cho một số tác vụ như kiểm tra, duyệt web, thực hiện một số hành động trên web, cắt nội dung web và hơn thế nữa. Padres kết thúc mùa giải trên sân nhà bằng các trận đấu vào thứ Bảy và Chủ nhật với Atlanta Braves trước khi kết thúc mùa giải vào tuần sau với loạt ba trận tại Los Angeles Dodgers và San Francisco Giants. Với việc Braves, Dodgers và Giants đều đang tìm kiếm các chức vô địch và bến playoff, người quản lý của Padres, Jayce Tingler đã nói trong ZOOM truyền thông hôm thứ Bảy về tầm quan trọng của việc Padres chơi để giành chiến thắng trong tám trận cuối cùng của mùa giải. Tay phải Pedro Avila đã giành được chiến thắng Triple-A đầu tiên của mình vào đêm thứ Sáu trong khi tay đập được chỉ định Patrick Kivlehan ghi bàn trong trận thứ hai liên tiếp và lần thứ ba trong một nhịp bốn trận. Avila, 24 tuổi, người Venezuela, không cho phép chạy trong ba lần đánh và đi bộ với năm đòn đánh trong năm hiệp không ghi bàn để hạ mức trung bình ba-A kiếm được của anh ấy xuống còn 3. Cô ấy đã được rang trong phần bình luận của một bài đăng đánh giá cao. Sau khi quay phim Spectre, Daniel Craig đã nói một số điều tồi tệ về việc sẽ đóng vai James Bond một lần nữa. Ngôi sao No Time To Die giờ rất hối hận. Cốt truyện của Carmel trong Nine Perfect Strangers đã có một bước ngoặt đáng kinh ngạc. Nhưng có một điều mà người xem thắc mắc đó là đôi mắt của cô. Giáo dục giới tính mùa 3 trở lại Netflix. Người hâm mộ tự hỏi liệu Alistair Petrie (Mr. Groff) và Connor Swindells (Adam) có liên quan gì ngoài đời thực hay không. Bạn muốn thay đổi tên của mình trên Facebook? Thật dễ dàng để thực hiện chỉ trong vài bước đơn giản. Nếu bạn luôn không đạt được mục tiêu 10.000 bước hàng ngày tùy ý đó, chúng tôi có tin tốt. Sức khỏe của bạn cũng có thể được hưởng lợi nhiều nếu bạn đi ít bước hơn. Garden State là tiểu bang duy nhất ở Hoa Kỳ, nơi bạn tự bơm xăng là bất hợp pháp. Và nhân tiện, lái xe vào lúc hoàng hôn và trong những ngày trăng tròn cũng không mang lại lợi ích gì cho bạn. Ảnh: Mattel Chúng tôi đã thấy một cảnh với Batman, Aquaman và Flash trên chiếc Batmobile mới trong đoạn giới thiệu thứ hai của Justice League, nhưng chúng tôi đã bỏ sót những hình ảnh chi tiết. Những hình ảnh về chiếc xe mới của người dơi vừa xuất hiện từ Comic-Con, và chúng rất hoành tráng. Nếu bạn có một cuốn Kinh thánh trong tay, rất có thể nó được in thành hai cột văn bản cho mỗi trang, một thông lệ đã có từ vài thế kỷ trước (ít nhất là từ thế kỷ 15). Nếu Liên Minh Huyền Thoại là một trò chơi dành cho thiết bị di động, tôi muốn nghĩ rằng nó sẽ giống như một phiên bản được sản xuất khéo léo của tựa game ăn khách Flappy Bird năm ngoái: dễ thương, quyến rũ, buồn bã ở những điểm thấp khó và chóng mặt ở những điểm cao. Riot có lẽ cảm thấy khác về điều này, bằng chứng là Blitzcranks Poro Roundup. Tafari Robertson nói chuyện với các sinh viên đang ngồi để phản đối Tổng thống Connor Clegg của toàn thể sinh viên. Trong một trường hợp liên quan đến Alex Jones, những giọt nước mắt trắng, một tài khoản Instagram phân biệt chủng tộc, một chính phủ sinh viên giống Illuminati và khả năng bất khuất của người Caucasian để vượt qua những sơ hở, các sinh viên tại Đại học Bang Texas ở San Marcos đã tiếp quản trung tâm sinh viên của trường sau khi một nỗ lực thất bại trong việc lật đổ chủ tịch chính phủ sinh viên và nhà hoạt động chống phân biệt chủng tộc ngược Connor Clegg. Mặt trăng có tốc độ vừa phải để không đâm vào Trái đất hoặc thoát ra ngoài không gian.
Tối ưu bầy đàn
Phương pháp tối ưu bầy đàn là một trong những thuật toán xây dựng dựa trên khái niệm trí tuệ bầy đàn để tìm kiếm lời giải cho các bài toán tối ưu hóa trên một không gian tìm kiếm nào đó. Phương pháp tối ưu bầy đàn là một dạng của các thuật toán tiến hóa quần thể đã được biết đến trước đây như thuật giải di truyền(Genetic algorithm (GA)), Thuật toán đàn kiến(Ant colony algorithm). Tuy vậy PSO khác với GA ở chỗ nó thiên về sử dụng sự tương tác giữa các cá thể trong một quần thể để khám phá không gian tìm kiếm. PSO là kết quả của sự mô hình hóa việc đàn chim bay đi tìm kiếm thức ăn cho nên nó thường được xếp vào các loại thuật toán có sử dụng trí tuệ bầy đàn. Được giới thiệu vào năm 1995 tại một hội nghị của IEEE bởi James Kennedy và kỹ sư Russell C. Eberhart. Thuật toán có nhiều ứng dụng quan trọng trong tất cả các lĩnh vực mà ở đó đòi hỏi phải giải quyết các bài toán tối ưu hóa. Để hiểu rõ thuật toán PSO hãy xem một ví dụ đơn giản về quá trình tìm kiếm thức ăn của một đàn chim.
Chủ nghĩa tự do (liberalism) hay cách “tiếp cận tự do” là một trong những trường phái quan trọng nhất trong lý thuyết quan hệ quốc tế. Xuất hiện từ thời kỳ cải cách tôn giáo thế kỷ 16 ở Châu Âu, chủ nghĩa tự do đã phát triển thành một trường phái gồm nhiều nhánh tư tưởng khác nhau mặc dù cùng chung những giả định cơ bản. Theo đó, chủ nghĩa tự do đề cao vai trò của các cá nhân, hạn chế vai trò của nhà nước, nhấn mạnh nguyên tắc thượng tôn pháp luật đồng thời bảo vệ các quyền tự do dân sự cá nhân, quyền sở hữu tư nhân… Theo đó, đối với chính trị trong nước, chủ nghĩa tự do cho rằng các chính thể cần tôn trọng và bảo vệ quyền tự do của các cá nhân, đặc biệt là các quyền tự do dân sự, đồng thời hạn chế sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động của nền kinh tế. Đối với chính trị quốc tế, chủ nghĩa tự do đề cao vai trò của các cá nhân, tổ chức với tư cách là các tác nhân trong quan hệ quốc tế bên cạnh nhà nước. Khác với chủ nghĩa hiện thực vốn nhấn mạnh khía cạnh ích kỷ, xấu xa của bản chất con người và cho rằng quan hệ quốc tế là một trò chơi có tổng bằng không trong đó các quốc gia luôn cạnh tranh lẫn nhau, chủ nghĩa tự do nhấn mạnh khả năng tiến bộ của con người và cho rằng các quốc gia thay vì cạnh tranh có thể hợp tác với nhau để cùng đạt được lợi ích chung, đặc biệt là thông qua các thể chế quốc tế. Đặc biệt, chủ nghĩa tự do giành nhiều quan tâm đối với mối quan hệ giữa chính trị trong nước và chính sách đối ngoại cũng như quan hệ quốc tế của các quốc gia. Mở toang “hộp đen” của chủ thể nhà nước, chủ nghĩa tự do đã chỉ ra tác động của sự tương tác giữa các chủ thể trong chính trị đối nội đến sự hình thành các chính sách đối ngoại của quốc gia, trái ngược với giả định của chủ nghĩa hiện thực coi nhà nước như một chủ thể đơn nhất. Có thể nói từ Immanuel Kant với “Nền hòa bình vĩnh cửu”, đến bài tổng hợp mang tính xây dựng trường phái của học giả Andrew Moravcsik (1999), rồi các phân nhánh bổ sung như “trò chơi hai tầng nấc” (two level games) (Putman 1988) hay “tiếp cận xã hội” (Schirm 2009), những tư tưởng của chủ nghĩa tự do đã đặc biệt nhấn mạnh vai trò của các yếu tố chính trị đối nội đối với chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của các quốc gia. Bức tranh đa diện về phương diện lý thuyết, và sự phân chia mới-cũ trong các phiên bản đã gây không ít khó khăn cho các nhà nghiên cứu khi muốn tiếp cận có hệ thống trường phái tự do. Trong bối cảnh đó, sự phân loại chủ nghĩa tự do của Moravcsik có ưu điểm vì xây dựng được tổng quan về nhiều góc nhìn, trên phương thức vừa bổ sung lại vừa bao hàm sự sàng lọc thành một hệ thống cấu trúc. Theo Moravcsik, chủ nghĩa tự do dựa trên ba giả định chủ yếu:. Vai trò của hệ thống quốc tế được hiểu như một thế giới phụ thuộc lẫn nhau, khác với giả định của chủ nghĩa hiện thực coi hệ thống thế giới bắt nguồn từ sự phân chia quyền lực giữa các quốc gia. Theo đó, hệ thống quốc tế dưới góc nhìn của các nhà tự do là một hệ thống thỏa thuận giữa các lực lượng bắt nguồn từ nội tại mỗi quốc gia. – Mô hình tự do cộng hòa: Sự lựa chọn chính sách đối ngoại của các quốc gia bắt đầu từ thể chế mà nó đại diện. Mô thức tự do cộng hòa nhấn mạnh lực đẩy của thể chế chính trị thông qua mức độ đại diện của người dân và nhóm dân sự đến các quyết định đối ngoại của Nhà nước. Đại diện nổi bật nhất của lập luận này là thuyết hòa bình nhờ dân chủ. Hai kết luận dựa trên quan sát thực nghiệm của thuyết hòa bình nhờ dân chủ là tâm điểm của giới học thuật phương Tây từ nhiều năm qua: (i) Hai nước có chế độ dân chủ không bao giờ xảy ra chiến tranh với nhau và (ii) Tồn tại mối tương tác giữa dân chủ và tính phi hiếu chiến của một chính phủ. Một hướng nghiên cứu mở rộng theo xu hướng này nhấn mạnh tính khác biệt giữa các hệ thống chính trị và mức độ tổ chức xã hội giữa các quốc gia tương đồng cùng đuợc đánh giá là “dân chủ”. Chẳng hạn như giữa mức độ tập trung quyền lực nhà nước ở nước Pháp (mạnh) và Mỹ (yếu) với mức độ tổ chức xã hội của hai nước này – theo chiều hướng ngược lại: yếu ở Pháp và mạnh ở Mỹ. Điều này có thể đưa ra nhiều chỉ dấu giải thích các lựa chọn chính sách đối ngoại của hai chính phủ này. – Mô hình tự do lý tưởng: Tương tự như mô hình cộng hòa đề cao các yếu tố nội tại của mức độ đại diện mang tính thể chế, mô hình tự do lý tưởng cũng nhấn mạnh đến mức độ đại diện trong trục quy chiếu tương tự, nhưng với trọng tâm khác là thang giá trị và chuẩn tắc. Có thể bắt gặp ở mô hình này và chủ nghĩa kiến tạo nhiều nét tương đồng khi cùng đưa bản sắc, chuẩn tắc và giá trị lên bàn cân đối chiếu với hành động của các quốc gia. Hiểu một cách đơn giản hai trường phái này gặp nhau ở việc xem thang giá trị là nguồn gốc chính giải thích một chính sách hay một lập trường của chính phủ quốc gia phản ánh trên diễn đàn quốc tế. Thang giá trị đóng vai trò quan trọng bởi vì nó đem lại tính chính đáng cho các quyết sách và hợp thức hóa các lựa chọn qua mô thức tạo đồng thuận của số đông. Moravcsik lập luận trong bài viết của mình rằng, ba nền tảng của mô hình tự do lý tưởng hội tụ qua: (i) Bản sắc dân tộc, được định nghĩa gắn liền với khái niệm quốc gia thông qua lãnh thổ và quyền công dân, (ii) Ý thức hệ chính trị, bắt nguồn từ dòng tư tưởng chủ đạo mà nước đó thụ hưởng và (iii) Quy luật điều tiết kinh tế xã hội với trọng tâm là góc nhìn hay tập quán cộng đồng về một quan điểm nào đó. Sự mở cửa thị trường tự do, chẳng hạn, sẽ phụ thuộc nhiều vào các chuẩn tắc trong việc định hình vai trò quản lý của Nhà nước hay việc xã hội đó chấp nhận tính cộng đồng hay chủ nghĩa cá nhân nhiều hơn. – Mô hình tự do lợi ích: Xuất phát điểm của mô hình này là quan điểm cho rằng các quyết định chiến tranh hay hòa bình, mở cửa hay bế quan, tự do hay bảo hộ,… của mỗi quốc gia đều là kết quả của quá trình vận động hành lang của các nhóm lợi ích trong mỗi nước. Thông thường đằng sau bất kỳ quyết định chính sách công nào cũng đều tạo thành nhiều nhóm khác nhau hưởng lợi hay chịu tác động tiêu cực từ các chính sách đó. Các nhóm vì thế có xu hướng tập hợp với nhau để vận động Nhà nước bảo vệ quyền lợi của các thành viên mình đại diện hay cố gắng ảnh hưởng để giành lấy lợi ích riêng cho bản thân. Lợi ích hay kỳ vọng hưởng lợi càng nhiều thì động lực để các nhóm tham gia tranh giành ảnh hưởng tác động đến quá trình hoạch định chính sách càng lớn. Và ngược lại, cái giá thua thiệt do chính sách sắp được ban hành càng cao thì khả năng hình thành các nhóm đối lập để vận động chống lại chính sách đó càng nhiều.Dựa vào phân loại mô hình trên dẫn đến ba phương thức áp dụng cách tiếp cận tự do trong thực tiễn nghiên cứu: (i) Nếu theo mô hình tự do cộng hòa thì góc nhìn phân tích tính đại diện hay ảnh hưởng của thể chể sẽ đóng vai trò tâm điểm; (ii) Nếu theo mô hình tự do lý tưởng thì góc nhìn thang giá trị, phân tích thang giá trị, chuẩn tắc xã hội sẽ đóng vai trò tâm điểm; (iii) Nếu theo mô hình tự do lợi ích thì góc nhìn lợi ích, phân tích sự chuyển động của những nhóm vận động hành lang sẽ đóng vai trò tâm điểm. Tóm lại, dưới góc nhìn của chủ nghĩa tự do, Nhà nước được mô hình hóa như là một đấu trường cạnh tranh của các tổ chức xã hội, cá nhân và các chính sách đối ngoại là kết quả của một sự dàn xếp giữa các chủ thể trong nước tìm cách thực thi các quyền lợi thông qua: thể chế, lợi ích và thang giá trị (hay chuẩn tắc). Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Chủ nghĩa tự do
Chủ nghĩa tự do là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn gốc từ phong trào Khai sáng ở phương Tây, nhưng thuật ngữ này mang nhiều nghĩa khác nhau trong các giai đoạn khác nhau. Như tại Mỹ, khái niệm chủ nghĩa tự do (liberalism) có ý nói đến chủ nghĩa tự do xã hội (Social liberalism), chủ nghĩa tự do hiện đại, trong khi ở các nơi khác nó vẫn mang ý nghĩa ban đầu của chủ nghĩa tự do cổ điển (classical liberalism). Một cách khái quát, chủ nghĩa tự do nhấn mạnh đến quyền cá nhân. Nó đi tìm kiếm một xã hội có đặc điểm là tự do tư tưởng, quyền dân sự và chính trị cho mỗi cá nhân, và hạn chế quyền lực cai trị (nhất là của nhà nước và tôn giáo), pháp trị, tự do trao đổi tư tưởng, một nền kinh tế thị trường hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tự do, và một hệ thống chính phủ minh bạch trong đó các quyền của công dân được bảo vệ.
Đối với trẻ, mọc răng là một trong những quá trình phát triển không kém phần quan trọng. Trong những tháng đầu đời, từ 4 – 7 tháng tuổi, trẻ sẽ bắt đầu mọc những răng đầu tiên. Thường là răng cửa giữa hàm dưới. Trong khi hầu hết trẻ sơ sinh mọc những chiếc răng đầu tiên sau khi sinh vài tháng, một số trẻ sinh ra đã có một hoặc nhiều chiếc răng. Chúng được gọi là răng sơ sinh. Răng sơ sinh tương đối hiếm, cứ 2.000 ca sinh thì có 1 trẻ. Điều này có thể khiến bố mẹ hoang mang, lo lắng nhưng thường không ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, điều này có thể gây cản trở việc bú hoặc có nguy cơ nghẹt thở ở trẻ. Bài viết sau đây sẽ cung cấp các thông tin đầy đủ về hiện tượng răng sơ sinh ở trẻ, mời bạn theo dõi nhé!. Đó là những răng xuất hiện trong miệng trẻ khi vừa mới sinh ra hoặc trong 3 tháng đầu sau sinh. Răng bẩm sinh có sẵn được cho là phổ biến hơn răng mọc giai đoạn sơ sinh gấp ba lần. Các nghiên cứu đã báo cáo rằng: một đến hai phần ba số răng sơ sinh rụng trong năm đầu tiên của cuộc đời. Tuy nhiên răng chỉ hơi lung lay lúc mới sinh thường nhanh chóng ổn định. Nếu đến 4 tháng tuổi vẫn còn thì răng có tiên lượng tốt. Các triệu chứng mọc răng có thể bắt đầu sớm nhất khi trẻ được 3 tháng tuổi. Nhưng trong những trường hợp này, con bạn sẽ không mọc răng thật trong một tháng hoặc hơn sau đó. Răng bẩm sinh xuất hiện quá nhanh sau khi sinh nên bé có thể không biểu hiện các dấu hiệu mọc răng thông thường như: chảy nước dãi, quấy khóc và cắn ngón tay. Tình trạng này có vẻ hiếm, nhưng có một số điều kiện nhất định có thể làm tăng khả năng trẻ sinh ra có răng sớm. Những chiếc răng này có thể gặp ở trẻ sơ sinh bị hở hàm ếch hoặc hở môi. Trẻ sinh ra với những bất thường ở ngà răng (mô vôi hóa giúp hình thành răng) cũng có thể bị mọc răng bẩm sinh. Tỷ lệ răng sơ sinh ở nam và nữ cũng khác nhau. Một số báo cáo tỷ lệ nam chiếm ưu thế và số khác không có sự khác biệt hoặc nữ giới chiếm ưu thế. Trong một nghiên cứu về trẻ sơ sinh bị sứt môi vòm, tỷ lệ nam giới chiếm ưu thế rõ rệt ở trẻ sơ sinh có răng bẩm sinh và sứt môi / vòm miệng hai bên. Tỷ lệ nữ chiếm ưu thế nhẹ ở trẻ sơ sinh có răng bẩm sinh và sứt môi/vòm miệng một bên. Trẻ mọc răng sơ sinh hiếm khi gặp ở trẻ sinh non. Có vẻ như có xu hướng di truyền liên quan đến việc phát triển răng sơ sinh. Có đến 60% trường hợp báo cáo tiền sử gia đình có răng sơ sinh với kiểu hình trội của nhiễm sắc thể. 10% trẻ sứt môi / vòm miệng hai bên có răng bẩm sinh và 2% trẻ sứt môi / vòm miệng một bên có răng bẩm sinh. Sứt môi / vòm miệng có thể là một đặc điểm của một số hội chứng mà răng sơ sinh cũng được báo cáo đi kèm: Hội chứng Meckel-Gruber; Hội chứng Pierre Robin . Những đứa trẻ được sinh ra từ những bà mẹ tiếp xúc với hàm lượng polychlorinated biphenyls và dibenzofurans cao trong vụ tai nạn môi trường Yusheng ở Đài Loan được phát hiện có 10% nguy cơ mọc răng bẩm sinh. Có đến 75% răng sơ sinh ở trẻ xuất hiện theo cặp ở vị trí răng cửa giữa hàm dưới. Có thể vì đây là những chiếc răng đầu tiên khi mọc bình thường. Đôi khi chỉ một trong những chiếc răng này xuất hiện sớm. Nhiều răng bẩm sinh ở trẻ rất hiếm gặp, mặc dù tỷ lệ này ở trẻ bị sứt môi/vòm miệng là 21% trong một nghiên cứu. Hầu hết các trường hợp răng bẩm sinh chỉ liên quan đến một chiếc răng. Sinh ra với nhiều răng lại càng hiếm. Răng cửa dưới là phổ biến nhất, tiếp theo là răng cửa trên. Dưới 1 phần trăm trẻ sơ sinh có răng bẩm sinh được sinh ra với răng hàm. Ít nhất 90% số răng sơ sinh là răng sữa và không quá 10% số răng sơ sinh là răng sữa (hàm trên) so với răng bình thường. Răng sơ sinh có thể bình thường về kích thước, hình dạng và màu sắc. Tuy nhiên chúng thường nhỏ, hình nón và có màu vàng nâu. Chúng thường lỏng lẻo và dễ bị mòn, đổi màu. Mô nướu sưng với một chiếc răng chưa mọc nhưng có thể sờ thấy được. Người mẹ có thể cảm thấy đau đớn khi cho trẻ bú vì luôn có khả năng trẻ cắn. Mặc dù em bé có răng bẩm sinh có thể được huấn luyện để không cắn, nhưng có thể mất thời gian để làm như vậy. Trong trường hợp điều này không xảy ra, mẹ có thể cân nhắc chuyển sang cho con bú bình hoặc máy hút sữa để đỡ khó chịu và đau đớn. Cũng có khả năng các bà mẹ đang cho con bú bị loét trên vú do sự ma sát liên tục giữa da mềm của vú bà mẹ và những chiếc răng sắc nhọn. Khó ăn: mất nước, suy dinh dưỡng dẫn đến nhẹ cân, thấp bé (không phát triển được). Nguy cơ có thể xảy ra khi con bạn hít phải chiếc răng vào đường thở và phổi nếu chiếc răng bị gãy. Lo ngại về khả năng phát triển của sâu răng. Vì men răng thường không có hoặc kém phát triển. Chụp X-quang nên được thực hiện ngay sau khi sinh để xác định xem răng đó có phải là răng sữa bình thường hay răng thừa. Bên cạnh đó, đánh giá được mức độ phát triển của chân răng, men và ngà răng và mối liên quan với các răng khác. Ngoài ra còn xác định chính xác loại răng mà trẻ sơ sinh của bạn có sẽ xác định nguy cơ biến chứng. Điều này cũng sẽ giúp bác sĩ của bạn xác định xem điều trị có cần thiết hay không. Việc nhổ răng thường có thể được thực hiện chỉ với bôi tê tại chỗ vì chân răng thường kém phát triển. Mức vitamin K hoặc tiêm vitamin K dự phòng nên được thực hiện trước khi nhổ răng ở trẻ sơ sinh dưới 10 ngày tuổi. Nhổ răng có thể được xem xét nếu răng này là:. Liên quan đến sứt môi/vòm miệng do sự can thiệp của thiết bị tạo hình vòm miệng. Nhổ răng (hoặc rụng tự nhiên) có thể phức tạp do sự phát triển của “răng còn sót lại ở trẻ sơ sinh”, được cho là xảy ra với khoảng 9% và cần phải tiến hành phẫu thuật lần thứ hai. Do đó, nếu việc nhổ răng sẽ được thực hiện dưới sự tiêm tại chỗ hoặc gây mê toàn thân, thì nên nạo mô răng bên dưới. Đắp nhựa composite để tạo hình vòm trên mép răng để lưỡi lướt trên răng. Răng sơ sinh là tình trạng hiếm gặp nhưng cha mẹ cũng không nên quá lo lắng. Việc xử trí răng bẩm sinh hoàn toàn dễ dàng. Điều quan trọng là cần xác định xem liệu răng bẩm sinh có đi kèm những vấn đề bệnh lý nào khác không, để có thể điều trị kịp thời cho trẻ. Từ đó đến nay, HON đã thực hiện chứng nhận cho các trang web y tế uy tín hàng đầu thế giới như WebMD, Mayo Clinic… Thư viện Y khoa Quốc gia Hoa Kỳ (US National Library of Medicine – NLM) gợi ý chứng nhận “HONcode” là một trong những cơ sở để xác định sự tin cậy của một trang tin chuyên về y tế. YouMed đã phải tuân thủ nghiêm ngặt 8 tiêu chí để có thể được HON chứng nhận. 2 tiêu chí nổi bật nhất là tất cả bài viết đều được dẫn nguồn chính thống và được viết bởi 100% Bác sĩ, Dược sĩ. Chính đều này tạo nên điểm khác biệt giữa YouMed và các trang web khác.
Thiếu răng bẩm sinh
Thiếu răng bẩm sinh ở người là một bệnh di truyền hiếm gặp, đặc trưng bởi thiếu một số răng hoặc toàn bộ các răng từ khi sinh ra. Trong thuật ngữ chuyên ngành nước ngoài, bệnh này có tên là Anodontia. Vì Anodonta (viết nghiêng) cũng là tên của một chi động vật thuộc họ Lucinidae (như trai, hàu, sò biển) thuộc lớp thân mềm hai vỏ, nên để tránh nhầm lẫn, thuật ngữ nước ngoài còn gọi bệnh này bằng tên đầy đủ hơn là Anodontia vera (không viết nghiêng). Bệnh cũng còn được gọi là bệnh "không phát sinh răng" (tooth agenesis), hoặc gọi tắt là "thiếu răng bẩm sinh". Đây là một rối loạn di truyền hiếm gặp, thường kế thừa theo phương thức di truyền gen lặn ở nhiễm sắc thể thường. Bình thường mỗi người sinh ra đều có trung bình 20 răng sữa, sau đó các răng sữa này sẽ được thay thế bởi các răng vĩnh viễn, rồi đến khi trưởng thành có đủ 32 răng. Tuy nhiên, một số trẻ đến tuổi mọc răng (khoảng từ 6 tháng tuổi trở lên) mà lại thiếu rất nhiều răng, nếu có thì các răng bất thường (nhọn, mọc lệch), thậm chí mãi đến khi lớn vẫn thiếu hoặc hoàn toàn không có răng.
Trà Nhật chia ra làm nhiều loại, tiếng Nhật phiên âm chung cho từ "trà" là "cha", trà xanh là "Ocha", trong đó người Nhật lại chia ra làm nhiều loại trà: trà cành, trà búp, trà mới, trà cuốn. Cụ thể cùng baonongsan.com tìm hiểu ở bài viết này nha. Trong tiếng Nhật, trà được phiên âm là “Cha”. Trà xanh gọi là “Ocha”, và. Trà Nhật chia ra làm nhiều loại, tiếng Nhật phiên âm chung cho từ “trà” là “cha”, trà xanh là “Ocha”, trong đó người Nhật lại chia ra làm nhiều loại trà: trà cành, trà búp, trà mới, trà cuốn… Cụ thể cùng baonongsan.com tìm hiểu ở bài viết này nha. Trong tiếng Nhật, trà được phiên âm là “Cha”. Trà xanh gọi là “Ocha”, và trà đỏ gọi là “Kocha”. Ở Nhật có rất nhiều loại trà xanh, nó được trồng tập trung tại những khu vực có khí hậu ấm, trong đó trà của tỉnh Shizuoka chiếm hơn một nửa tổng sản lượng trà của toàn nước Nhật. Tại Nhật Bản, trà xanh thành phẩm dùng để làm thức uống phổ biến. Nói về trà ở Nhật Bản, người ta nghĩ ngay đến trà xanh. Như đúng tên gọi, Ryokucha có màu xanh và được chia thành nhiều loại dựa trên thời điểm hái lá và mức độ hấp thụ ánh sáng mặt trời. Không chỉ riêng gì Nhật Bản, nhiều quốc gia khác cũng cực chuộng loại trà này. Trà xanh có vị nhẹ như cỏ, không gắt. Rất nhiều người thích kết hợp với chanh và nhân sâm khi uống để đẩy vị trà xanh lên. Nhìn chung, trà xanh khá được lòng nhiều người. Loại trà này sử dụng hết tất cả những gì còn sót lại của trà xanh, bao gồm vụn trà, búp trà và lá trà nhỏ. Đây là những loại trà phục vụ miễn phí ở các quán ăn, đặc biệt là các quán sushi bởi vì sushi và cặn trà luôn là cặp bài trùng đi đôi với nhau. Du khách đừng nghĩ đây không phải là loại trà thượng hạng nên mùi vị của nó cũng thuộc dạng “thường thường bậc trung”. Vị cặn trà khá mạnh nên đẩy hương vị của số một số món ăn như sushi lên. Nếu ưa thích món trà xanh, chắc chắn du khách sẽ không thể bỏ lỡ cơ hội thử qua cặn trà này đâu. Sencha – loại trà xanh nổi tiếng của xứ sở hoa anh đào, được hấp ngay sau khi hái xuống từ cây (trong trạng thái lá trà vẫn còn tươi). Sở dĩ người ta phải thực hiện ngay công đoạn này bởi để tránh quá trình lên men vốn xảy ra rất nhanh ở trà. Bằng cách làm như vậy trà xanh sẽ giữ được hương vị Sencha thơm ngon lâu hơn các loại trà khác. Tùy thời gian hấp mà độ tươi của trà thay đổi, thời gian hấp càng lâu thì độ tươi càng giảm và kèm theo đó là màu trà càng chuyển sang màu xanh lục. Để phân biệt trà Sencha cũng hơi phức tạp bởi nó được chia làm nhiều loại, tuy nhiên phổ biến nhất là dựa vào độ tươi và màu sắc của thành phẩm. Sắc xanh lục là biểu thị cho lá trà đã được hấp nhiều giờ và rất kĩ. Sau thời gian thu hoạch để làm trà Sencha từ cuối tháng 2 đến hết tháng năm thì chồi non và lá trà bắt đầu phát triển. Đây chính là thời gian thu hoạch để làm trà Bancha. Với trà được làm từ lá trà trong tháng 6 thì gọi là nibancha, trong tháng 8 gọi là sanbancha và trong tháng 10 gọi là yonbancha. Trà bancha được làm từ thân trên ngọn cây và những lá trà già hơn và bị loại ra trong quá trình sản xuất sencha. So với sencha, trà Bancha chát hơn và không thơm bằng nên nó được sử dụng để làm thức uống nhẹ sau bữa ăn. Trà bancha chứa nhiều flor hơn các loại trà khác nên nó có tác dụng chống sâu răng và hôi miệng. Trà bancha được làm từ các lá trà non hơn, có mùi thơm dễ chịu và ít chát hơn được gọi là “senryu”. Genmaicha chính là tổng hợp từ trà Sencha trộn thêm gạo rang được làm từ “gạo lứt” nguyên cám (là gạo chưa bóc vỏ lụa, tức là “genmai”). Gạo rang sẽ đem lại hương thơm đặc trưng cho genmai-cha. Đặc điểm của thức uống này chính là trộn gạo rang và trà với tỉ lệ 1:1 nên loại trà này nhạt và ít caffein hơn trà nguyên chất Sencha. Vậy nên Genmai-cha rất được ưa chuộng dùng vào buổi tối và dành riêng cho người già và trẻ nhỏ, những người có sức khỏe nhạy cảm. Khác với hai loại trà ở trên Hojicha được sao ở nhiệt độ cao để tạo ra thành phẩm có màu nâu đặc trưng riêng và hương thơm ngào ngạt. Nhiệt độ chuẩn nhất là 200 độ C. Đặc biệt khi trà đạt độ chín tới thì nghệ nhân phải đưa ra khỏi máy sao và làm lạnh ngay để giữ cho hương vị trà không bị nồng quá mức, chính vì vậy người chế biến đòi hỏi phải có tay nghề và kĩ thuật ổn định. Khi pha Hojicha có mùi thơm nồng rất lâu và cực kì dễ uống cho mọi đối tượng. Đây là loại trà được dùng trong trà đạo Nhật Bản. Ở dạng chưa nghiền bột được gọi là “Tencha”. Matcha có màu xanh sáng và độ ngọt cũng như độ chát tùy theo độ sáng của bột. Matcha càng sáng màu thì càng ngọt. Khi cây chè lên khoảng 2-3 lá non thì người ta dùng vải mỏng hoặc mành che ánh nắng mặt trời không cho chiếu vào các chồi non. Trong quá trình làm tencha, người ta sấy khô sau khi đã hấp chồi non. Trong quá trình sấy khô, gân lá và thân mảnh được loại bỏ trước khi đem nghiền thành bột. Matcha rất dễ dùng, là một thức uống thơm ngon, bổ dưỡng làm tinh thần con người phấn chấn, dễ chịu hơn sau cả ngày dài mệt mỏi. Matcha có thể hòa tan trong nước nên nó cung cấp toàn bộ chất dinh dưỡng khi thưởng trà. Bột matcha cũng là một nguyên liệu trong rất nhiều các món ăn truyền thống ở Nhật Bản. “Kuki” trong tiếng Nhật nghĩa là “thân” hay “cành”, chính vì vậy Kukicha là thứ trà được làm từ các cành chồi non, có vị ngọt thanh và hương thơm thoang thoảng đặc biệt. Khi pha mùi vị trà lan tỏa khắp nơi khiến chỉ cần ngửi thôi cũng thấy nhẹ nhàng hơn rồi. Mecha là loại trà quý phái nhất trong danh sách các loại trà truyền thống của người Nhật, được tuyển chọn kĩ càng trong khâu nguyên liệu, đồng thời công đoạn chế biến cũng rất tinh tế. Mecha là trà búp non chọn trong quá trình chế biến các loại trà cao cấp nên có vị ngọt và vị đậm tự nhiên lôi cuốn người dùng. Dạng trà này đặc biệt hơn một chút so với các thứ trà khác ở chỗ chúng được bỏ qua giai đoạn chuốt thẳng khi chế biến, mà thường chỉ cho vào lò sấy quay bằng gió nhiệt. Điều đó tạo cho Tam-ryokucha hình dạng cuộn tròn chứ không thẳng và có vị chát dịu, nên khi thưởng thức du khách chỉ nên nhấm nháp từng chút một. Vào mùa đông ở Nhật Bản rất lạnh giá. Băng tuyết trùm lên tất cả các trang trại trồng chè. Lúc này, những cây chè tạm thời ở trạng thái ngừng hoạt động và lớn lên. Đồng thời vị ngon cơ bản thứ năm, umani của những lá chè được ủ kín. Khi thời tiết ấm lên, cây chè thức dậy, phát triển các chồi bíp, hương vị chè trở nên bung tỏa mạnh mẽ hơn. Mùa thu hoạch chè mới phụ thuộc vào thời tiết, thường thì qua một quãng thời gian lạnh lẽo, khi trời vừa ấm lên. Những lá trà được hái đầu tiên rất tươi ngon và ngọt ngào, được người dân Nhật Bản gọi bằng cái tên thông dụng “ichibancha” hơn là shincha. Ở Nhật có quan niệm rằng những ai uống loại trà mới được chọn vào ngày thứ 88 sau ngày xuân phân (ngày 04 tháng 2) sẽ có thể có một năm dồi dào sức khỏe. Shincha giàu axit amin, vitamin và hầu hết chỉ được phân phối tại thị trường Nhật Bản.
Trà đạo Nhật Bản
Trà đạo, tiếng Nhật: sadō (茶道), được biết đến như một loại nghệ thuật thưởng thức trà trong văn hóa Nhật Bản, Trà đạo được phát triển từ khoảng cuối thế kỷ 12. Theo truyền thuyết của Nhật Bản, vào khoảng thời gian đó, có vị cao tăng người Nhật là sư Eisai (1141-1215), sang Trung Hoa để tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong sân chùa. Sau này chính Eisai này đã sáng tác ra cuốn "Khiết Trà Dưỡng Sinh Ký" (Kissa Yojoki), nội dung ghi lại mọi chuyện liên quan tới thú uống trà. Từ đó, dần dần công dụng giúp thư giãn lẫn tính hấp dẫn đặc biệt của hương vị trà đã thu hút rất nhiều người dân Nhật đến với thú uống trà. Họ đã kết hợp thú uống trà với tinh thần Thiền của Phật giáo để nâng cao nghệ thuật thưởng thức trà, phát triển nghệ thuật này trở thành trà đạo (chado, 茶道), một sản phẩm đặc sắc thuần Nhật. Từ việc đơn giản uống trà, chuyển sang cách pha và uống trà, rồi nghi thức thưởng thức trà cho đến khi đúc kết thành trà đạo, đây là một tiến trình không ngừng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới đó là cải biến tục uống trà du nhập từ ngoại quốc trở thành một tôn giáo trong nghệ thuật sống của chính dân tộc mình, một đạo lý với ý nghĩa đích thực của từ này.
Vì văn học Anh và văn học Mỹ đóng một vai trò quan trọng trong đó thuật ngữ văn học được quan tâm, việc xác định sự khác biệt giữa văn học Anh và văn học Mỹ là điều cần thiết cho sinh viên văn học. Như bạn có thể đã biết, văn học bao gồm rất nhiều tác phẩm viết, đặc biệt là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật vĩnh cửu và nó không bị giới hạn trong một khu vực địa lý cụ thể, nhưng nó được lan truyền ở hầu hết mọi quốc gia. Ví dụ, tác phẩm văn học xuất bản ở Pháp được gọi là văn học Pháp trong khi tác phẩm văn học xuất bản ở Ấn Độ được gọi là văn học Ấn Độ. Do đó, văn học là một môn học phân tán trong mọi ngóc ngách của thế giới. Mặc dù văn học khác nhau từ nước này sang nước khác, kết quả của việc học văn học cũng giống như ở chỗ nó khiến bạn trở thành một người có tư duy phản biện; một đặc điểm cần thiết cho sự phát triển tính cách và tính cách của một người. Bài viết này tìm cách khám phá hai phần địa lý của văn học: văn học Anh và văn học Mỹ. Để bắt đầu, chỉ cần nhớ rằng một lần, khi nước Mỹ là thuộc địa của Anh, cả hai thuật ngữ đều có nghĩa giống nhau. Nó bắt đầu có ý nghĩa khác nhau từ đầu thế kỷ 17 khi nước Mỹ không còn là tác phẩm văn học thuộc địa của Anh chỉ mới nở rộ. Văn học Anh đề cập đến bộ sưu tập các tác phẩm văn học viết ở Anh và các thuộc địa của nó từ thế kỷ thứ 7 cho đến ngày nay. Có thể thấy rõ, nó có một lịch sử tuyệt vời và được nhiều người yêu thích, nơi nó được phân loại theo thời gian theo nhiều thời đại: văn học Anh cổ (c.658-1100), văn học Trung Anh (1100-1500), Phục hưng Anh (1500-1660) , Thời kỳ tân cổ điển (1660-1798), văn học thế kỷ 19, văn học Anh từ năm 1901 bao gồm văn học hiện đại, hậu hiện đại và thế kỷ 20. Trong số nhiều nhà văn từ các vùng khác nhau của thế giới nói tiếng Anh, những người có đóng góp to lớn cho sự phát triển của văn học Anh là William Shakespeare, Jane Austen, Charlotte Bronte, Virginia Woolf, William Wordsworth, W.B. Vì văn học là sự thể hiện các biểu hiện của nhà văn đối với cuộc sống trong nền kinh tế xã hội của họ, bất kỳ loại văn học nào cũng mô tả một nền văn hóa nhất định. Văn học Anh, bởi tất cả các hình thức, thể loại và phong cách của nó, phản ánh văn hóa của người Anh. Các đặc điểm được biết đến nhiều nhất của văn học Anh bao gồm sự dí dỏm, miêu tả cách cư xử, sự khác biệt giữa các lớp học, các chủ đề được nhấn mạnh về cốt truyện và đặc tính. So sánh, văn học Mỹ là một khái niệm xuất hiện trong quá khứ gần đây. Đó là việc sản xuất các tác phẩm văn học được viết trong bối cảnh nước Mỹ mô tả văn hóa và chủ đề Mỹ. Nước Mỹ, ban đầu là thuộc địa của Anh, là một phần của văn học Anh cho đến khi đất nước giành được độc lập và mọi khía cạnh của đất nước: kinh tế, giáo dục, văn học, nghệ thuật, văn hóa, và các khía cạnh xã hội thay đổi và các thương hiệu mới bị nghiền ngẫm. Nguồn gốc của văn học Mỹ bắt nguồn từ đầu thế kỷ 17. Văn học Mỹ phần lớn được định hình bởi lịch sử của đất nước và những ý tưởng cách mạng xuất hiện trong các cuộc chiến tranh dân sự và cách mạng. Đánh giá bởi sự khác biệt rõ ràng và tinh tế ở trên, có thể hiểu rằng văn học Anh và văn học Mỹ là hai quan niệm khác nhau mặc dù văn học Mỹ đã từng là một phần của văn học Anh.
Văn học Mỹ
Văn học Mỹ trong bài viết này có ý nói đến những tác phẩm văn học được sáng tác trong lãnh thổ Hoa Kỳ và nước Mỹ thời thuộc địa. Để bàn luận chi tiết hơn về thi ca và kịch nghệ, xin xem thi ca Hoa Kỳ và Kịch nghệ Hoa Kỳ. Suốt lịch sử đầu, Mỹ là một tập hợp các thuộc địa của Anh quốc bên duyên hải phía đông của Hoa Kỳ ngày nay. Vì thế, truyền thống văn học của Mỹ khởi đầu có sự liên hệ tới truyền thống bề rộng hơn của Văn học Anh. Tuy nhiên, các tính chất riêng Mỹ và bề rộng sáng tác của nó thường khiến cho nó được xem ngày nay có một truyền thống và hướng đi khác biệt.
Theo thống kê có khoảng 80 % mẹ bầu mắc phải bệnh tiểu đường thai kỳ. Thông thường căn bệnh này sẽ được phát hiện khi mẹ bầu mang thai ở tuần thứ 24. Vậy bệnh tiểu đường thai kỳ là gì? Bệnh có gây nguy hiểm đến sức khỏe của mẹ và bé hay không? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về vấn đề này. Tiểu đường thai kỳ là căn bệnh xuất hiện phổ biến ở mẹ bầu trong quá trình mang thai và bệnh sẽ tự hết khi các mẹ đã sinh con. Nguyên nhân gây ra căn bệnh này là do hormone tiết ra từ nhau thai là giảm độ nhạy của insulin với tế bào, hay còn gọi là đề kháng insulin. Trong khi mang thai, insulin hoạt động kém hiệu quả dẫn đến đường huyết tăng cao tạo tiền đề cho bệnh tiểu đường phát triển. Hầu hết những mẹ bầu mắc bệnh tiểu đường thai kỳ sẽ được phát hiện ở tuần thai thứ 24. Khi mắc phải căn bệnh này, các mẹ bầu thường xuyên có cảm giác khát nước, hoa mắt, chóng mặt, tăng cân đột ngột, đi tiểu nhiều lần, cơ thể trở nên suy nhược,…. Bệnh tiểu đường thai kỳ thường dễ gặp phải ở những người béo phì, có tiền sử mắc bệnh tiểu đường thai kỳ ở lần mang thai trước, mẹ bầu mang thai ở độ tuổi ngoài 40, đặc biệt là những mẹ bầu bị béo phì, thừa cân. Cũng giống như các căn bệnh tiểu đường khác, tiểu đường thai kỳ là căn bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của cả mẹ và bé. Nếu không có biện pháp chữa trị và kiểm soát bệnh kịp thời, bệnh tiểu đường thai kỳ ở mức độ nặng sẽ rất dễ chuyển biến nặng hơn, gây ra bệnh tiểu đường tuýp 2, gây nguy cơ tử vong cho con người. Dưới đây là những mối nguy hiểm do bệnh tiểu đường thai kỳ gây ra cho mẹ và thai nhi. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh, nếu mẹ bầu mắc bệnh tiểu đường thai kỳ thì ở những lần mang thai tiếp theo nguy cơ các mẹ mắc phải căn bệnh này là khá cao. Thực tế, có không ít mẹ bầu mắc bệnh tiểu đường thai kỳ trong nhiều lần mang thai liên tiếp. Tiền sản giật là biến chứng do nhiễm độc thai nghén thường phát triển sau tuần 20 của thai kỳ và chiếm tỉ lệ 5 – 8% số phụ nữ mang thai. Nguyên nhân gây ra biến chứng nguy hiểm này là do mẹ bầu mắc phải bệnh tiểu đường thai kỳ. Căn bệnh này có thể làm tăng nguy cơ tiền sản giật hoặc sản giật ở người mẹ, gây tổn thương gan, thận, chảy máu, khiến thai nhi chậm phát triển, suy thai, thậm chí chết trong tử cung. Tiểu đường thai kỳ là một trong những nguyên nhân khiến cho thai nhi bị tăng trọng lượng. Nhiều nghiên cứu cho thấy, những bé có mẹ bị tiểu đường thai kỳ sẽ có chỉ số cân nặng cao hơn gấp 3,5 lần so với những bé khác. Bên cạnh đó, nếu mẹ bị thừa cân và tiểu đường trước khi mang thai thì nguy cơ này còn có thể gấp 5,5 lần. Khi thai phát triển quá lớn sẽ khiến người mẹ rất khó sinh và trẻ thường dễ bị gãy xương hoặc tổn thương não trong quá trình sinh nở. Chế độ ăn nhiều đường kết hợp với việc đi tiểu thường xuyên sẽ khiến các mẹ bầu đứng trước nguy cơ mắc bệnh nhiễm nấm candida ở vùng kín. Căn bệnh này sẽ tái phát nhiều lần và rất dễ khiến người bệnh đứng trước nguy cơ bị nhiễm trùng đường tiểu do nấm candida gây ra. Nếu mẹ bầu bị tiểu đường thai kỳ sẽ khiến thai nhi to và việc sinh nở trở nên khó khăn hơn. Lúc này, mẹ bầu sẽ rất dễ đối diện với tình trạng băng huyết sau sinh. Tức mẹ bầu sẽ bị mất máu nhiều hơn 500ml trong vòng 24 giờ đầu tiên sau khi sinh. Nếu tình trạng này kéo dài và không được khắc phục kịp thời sẽ rất dễ gây tử vong cho người mẹ. Nếu mẹ bầu mắc bệnh tiểu đường thai kỳ thì thai nhi rất dễ bị dị tật bẩm sinh. Hầu hết các trẻ bị dị tật bẩm sinh thường xuất hiện ở 3 tháng đầu của thai kỳ. Lúc này, đường huyết ở cơ thể của người mẹ tăng lên khiến thai nhi bị biến đổi gen hoặc một số gen có dấu hiệu bất thường và gây ra tình trạng dị tật bẩm sinh. Trong lúc mẹ bầu bị tiểu đường thai kỳ thì cơ thể của bé vẫn tiếp tục sản xuất thêm lượng insulin cần thiết để có thể kiểm soát lượng glucose dư thừa trước đây. Chính vì thế, lượng đường trong máu của trẻ sẽ nhanh chóng bị hạ xuống và khiến trẻ bị hạ đường huyết sau sinh. Bên cạnh đó, trẻ rất dễ mắc các bệnh về phổi và bị vàng da sau sinh, gây khó thở nếu có mẹ mắc phải bệnh tiểu đường thai kỳ. Nếu bệnh tiểu đường không được kiểm soát tốt thì sẽ rất dễ làm tăng nguy cơ sảy thai, thai lưu trong bụng mẹ khá cao. Bên cạnh đó, bệnh tiểu đường thai kỳ còn có thể gây co giật dẫn đến hôn mê và tổn thương não cho trẻ nếu không được phát hiện kịp thời. Chính vì vậy, các mẹ bầu bị tiểu đường thai kỳ nên hết sức thận trọng với căn bệnh này. Hy vọng thông tin trên sẽ giúp mẹ bầu hiểu rõ hơn về bệnh tiểu đường thai kỳ là gì? Vốn dĩ tiểu đường thai kỳ là căn bệnh khá nguy hiểm, có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm. Chính vì thế, trong quá trình mang thai, các mẹ nên chú ý đến chế độ ăn uống cũng như tiến hành thăm khám đường huyết định kỳ để dễ dàng kiểm soát bệnh tiểu đường thai kỳ hiệu quả. Mắc bệnh tiểu đường thai kỳ có được uống sữa bầu không là vấn đề. Tiểu đường thai kỳ có ăn chuối được không? Một câu hỏi khiến rất nhiều. Các mẹ ơi, mắc bệnh tiểu đường thai kỳ có được ăn bưởi không ạ?. Bất cứ bà mẹ nào mang thai cũng đều hy vọng những điều tốt đẹp.
Bệnh tiểu đường thai kỳ
Bệnh tiểu đường thai kỳ là tình trạng người phụ nữ không mắc bệnh tiểu đường phát triển tăng đường huyết khi mang thai. Bệnh tiểu đường thai kỳ thường dẫn đến một vài triệu chứng; tuy nhiên, nó làm tăng nguy cơ tiền sản giật, trầm cảm và cần phải sinh mổ. Trẻ sinh ra từ những bà mẹ bị tiểu đường thai kỳ được điều trị kém có nguy cơ quá lớn, có lượng đường trong máu thấp sau khi sinh và vàng da. Nếu không được điều trị, nó cũng có thể dẫn đến thai chết lưu. Về lâu dài, trẻ em có nguy cơ thừa cân và phát triển bệnh tiểu đường loại 2 cao hơn. Bệnh tiểu đường thai kỳ là do không đủ insulin trong tình trạng kháng insulin. Các yếu tố nguy cơ bao gồm thừa cân, trước đây bị tiểu đường thai kỳ, tiền sử gia đình mắc bệnh tiểu đường loại 2 và mắc hội chứng buồng trứng đa nang. Chẩn đoán bằng xét nghiệm máu. Đối với những người có nguy cơ bình thường, sàng lọc được khuyến khích giữa 24 và 28 tuần mang thai. Đối với những người có nguy cơ cao, xét nghiệm có thể xảy ra ở lần khám tiền sản đầu tiên.
Cùng tham gia cộng đồng vì sức khỏe và cuộc sống hạnh phúc hơn! Hãy điểm qua những nội dung mới của Hello Bacsi. “Y học cổ truyền là gì?” là câu hỏi được rất nhiều người bệnh quan tâm khi việc điều trị không chỉ đơn giản sử dụng mỗi Tây y, đặc biệt là bệnh mãn tính. Y học cổ truyền là ngành Đông y có nguồn gốc xuất phát từ Trung Hoa và Việt Nam. Các thầy thuốc nổi tiếng được xem là bậc tổ của nghề y Việt Nam bao gồm Hải Thượng Lãn Ông và Tuệ Tĩnh. Dựa trên nền tảng của Âm Dương – Ngũ Hành, y học cổ truyền Việt Nam đã hình thành từ rất lâu trước khi nền y học phương Tây xuất hiện. Từ thời Văn Lang hay Ðại Việt, y học Việt Nam dựa trên nền tảng của sự kết hợp lý luận y học phương Ðông với kinh nghiệm chữa bệnh của cộng đồng gồm 54 dân tộc. Thêm vào đó là khả năng hiểu biết, sử dụng các nguồn dược liệu, thảo dược phong phú trong vùng nhiệt đới đã tạo ra nền y học cổ truyền Việt Nam. Mục tiêu chính của phương pháp điều trị y học cổ truyền chính là tập trung vào việc điều chỉnh, cân bằng những yếu tố Âm – Dương trong cơ thể. Điều này có thể giúp cải thiện sức khỏe và phục hồi nhanh chóng. Y học phương Tây có những phương pháp kiểm tra sức khỏe người bệnh như xét nghiệm, siêu âm, nội soi, X-quang… Trong khi đó, y học cổ truyền lại có thể chẩn đoán được bệnh bằng các phương pháp ngoại quan tứ chuẩn. Đây là phương pháp nhận biết và xác định bệnh thông qua việc tìm hiểu hoàn cảnh, điều kiện sống và dấu hiệu nhận biết của người bệnh. Việc quan sát bên ngoài sẽ giúp bác sĩ y học cổ truyền biết được tình hình bệnh tật trong cơ thể phản ánh ra ngoài. Y học cổ truyền thường chú trọng đến việc xem xét các bộ phận ở mặt, mắt, lưỡi… do những bộ phận này có mối liên hệ với phủ tạng bên trong. Việc chẩn đoán sẽ được nhận định thông qua cách cung cấp thông tin của người bệnh. Bác sĩ sẽ chú ý đến những tính chất về âm thanh của người bệnh như tiếng thở, tiếng ho, tiếng rên… từ người bệnh. Phương pháp này chẩn đoán bệnh dựa trên việc thu thập các câu trả lời về thói quen sinh hoạt hằng ngày, chế độ ăn uống, tâm sinh lý… Việc hỏi người bệnh là 1 yếu tố hết sức quan trọng để nhận được những thông tin về tiền sử bệnh, diễn tiến bệnh từ lúc khởi bệnh đến lúc thăm khám, đồng thời để hoàn thiện thông tin đã chẩn đoán trước đó. Đây là phương pháp bác sĩ dùng dụng cụ hỗ trợ kèm theo để khám. Bác sĩ có thể sờ nắn để xem vị trí và tính chất của bệnh, thường xem tại da, thịt, tay chân và bụng hoặc cũng có thể xem mạch. Song song với tứ chẩn, y học cổ truyền cũng cần kết hợp thêm những chẩn đoán cận lâm sàng của y học hiện đại như xét nghiệm máu, xét nghiệm hình ảnh các cơ quan trong cơ thể. Sự kết hợp giữa y học hiện đại và y học cổ truyền ngày càng được áp dụng phổ biến khi chẩn đoán và điều trị bệnh. Các phương pháp điều trị bệnh trong y học cổ truyền có thể chia ra thành 3 phương pháp bao gồm châm cứu, dùng thuốc uống, thuốc bôi và xoa bóp. Y học cổ truyền có thể giúp mang lại hiệu quả điều trị bệnh một cách an toàn và lâu dài. Tuy nhiên, bạn nên hỏi bác sĩ về việc kết hợp phương pháp Tây y và y học cổ truyền để đảm bảo an toàn và nâng cao hiệu quả điều trị nhé!. Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa. Hello Bacsi mong muốn trở thành nền tảng thông tin y khoa hàng đầu tại Việt Nam, giúp bạn đưa ra những quyết định đúng đắn liên quan về chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ bạn cải thiện chất lượng cuộc sống.
Y học Cổ truyền Việt Nam
Y học Cổ truyền Việt Nam (tiếng anh: Vietnamese traditional medicine) là một ngành y học nghiên cứu, ứng dụng các kiến thức, kinh nghiệm trong phòng ngừa, chẩn đoán, duy trì, cải thiện, điều trị và phục hồi bệnh thể chất và tinh thần dựa trên các hiểu biết từ y học dân gian, y học phương đông và y học hiện đại. Y học cổ truyền Việt Nam bị chi phối nhiều bởi Đông y với nguồn gốc xuất phát từ Trung Hoa. Các vị thầy thuốc nổi tiếng được xem là bậc tổ của nghề y Việt Nam là Lý Quốc Sư, Hải Thượng Lãn Ông (còn lưu truyền bộ Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh) và Tuệ Tĩnh (tác giả của câu nói nổi tiếng "Nam dược trị Nam nhân" - thuốc Nam dùng chữa bệnh cho người Nam). Y học cổ truyền Việt Nam phát triển cùng chiều dài lịch sử của dân tộc, chịu ảnh hưởng nhiều từ nền kinh tế nông nghiệp và nền văn hóa phương đông, hiện nay dưới ánh sáng của khoa học, Y học cổ truyền đã bước vào 1 giai đoạn mới.
5 Chơi như thế nào đây?5.1 Nhảy bao bố truyền thống:5.2 Nhảy bao bố đôi5.3 Chạy bao bố:. Có ai còn nhớ thời điện thoại thông minh chưa được ra đời, mọi người thường giải trí như thế nào không? Nào là ô ăn quan, lò cò, nhảy dây,… Trong đó, nhảy bao bố chắc là trò mà cá nhân mình thấy ấn tượng, nhớ nhất và mong muốn một lúc nào đó, được thấy lại cảnh tượng đó ở những đứa con của mình. Không như những trò chơi khác, thường đòi hỏi tối thiểu hai người chơi. Nhảy bao bố thì không giới hạn gì cả, không giới hạn số lượng người, cũng không giới hạn độ tuổi. Ai cũng có thể tham gia và chung vui. Nên chú ý chiều cao của người chơi, để lựa chọn độ dài bao bố phù hợp. Dựa vào số lượng người chơi, các bạn có thể chọn diện tích theo ý muốn. Nhưng mình vẫn khuyến khích chọn những nơi rộng rãi như: Sân tập thể, công viên, bãi biển…. Các bạn có chú ý một điểm ở những nơi mình chọn là gì không? Đúng vậy, đây là những nơi công cộng, nhiều người qua lại, và bởi vì đó. Sẽ có những người lạ lại xem và những cổ động viên miễn phí. Nhưng cũng cần chú ý nhé, vì một số nơi họ sẽ không thích ồn ào, náo nhiệt đâu. Nhảy bao bố hiện nay có nhiều biến thể khác nhau, để trò chơi mang tính kịch tính và vui nhộn. Đây là dạng nhảy ta hay thấy nhất ở các hội khỏe Phù Đổng ở các cấp cho học sinh. Thể lệ thường được tiến hành như sau:. Trước khi chơi, trọng tài điểm số người chơi để chia thành 2 đội (ứng với 2 chi đoàn), mỗi đội có 4 người (2 nam, 2 nữ). Khi chơi, có bao nhiêu đội tham gia thì kẻ bấy nhiêu hàng dọc và kẻ hai vạch ranh giới ở hai đầu các hàng dọc, cách nhau khoảng 10m, một vạch là mốc xuất phát và một vạch làm điểm quay đầu. Trong cuộc chơi, người chơi nào nhảy trước hiệu lệnh xuất phát, nhảy chưa đến vạch điểm quy định, nhảy chưa đến đích đã bỏ bao ra đều phạm quy và bị loại. Khi người nhảy trước chưa về đến vạch tiếp sức mà người tiếp theo đã nhảy trước thì phạm quy. Phần thắng thuộc về đội có ít lần phạm quy nhất, trường hợp số người phạm qui như nhau hoặc không có đội nào phạm quy thì phần thắng thuộc về đội kết thúc trước phần thi của mình. Trường hợp có hai đội bằng điểm nhau thi chọn mỗi đội 01 VĐV tham gia thi quyết định. Thể lệ cũng được tiến hành tương tự như trên, nhưng thay vì một người một bao bố, thì lần này dùng 2 người cùng nhảy trong một bao bố. Điều này đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng và ăn ý của hai người. Thể lệ cũng giống như nhảy bao bố truyền thống, nhưng mang tính phiêu lưu và nguy hiểm hơn. Bao bố trong lần này được sử dụng cần là bao bố có khả năng bọc kín người, và được cột chắc lại. Ở trạng thái hơi cúi người xuống.Người chơi cần sử dụng thêm nón bảo hiểm để giữ an toàn. Nhiều bạn cứ nghĩ nhảy bao bố dễ mà, có gì đâu mà khó. Thế mà, khi bước vào bao rồi nhảy lại ăn mấy cú ngã liên tiếp. Mình sẽ hướng dẫn các bạn cách thao tác với bao như thế nào để không còn ăn mấy cú ngã điếng người kia mà với mấy mẹo này, các bạn còn có thể dễ dàng về nhất nữa đó. Khởi động: bước này rất quan trọng nhé, vì nó giãn các cơ, giúp cho nhịp nhảy đều hơn, đồng thời, tránh các chấn thương trong lúc nhảy. Và các cơn đau ê ẩm, sau khi nhảy. Tập các bài tập giữ thăng bằng: Việc khó nhất khi nhảy bao bố là giữ thăng bằng, vậy nên tập các bài tập đơn giản như giữ người ở tư thế trái cây như dưới hình càng lâu càng tốt thì các bạn có thể tránh được những sự vấp té rồi. Nhảy theo nhịp: Lúc nhảy, các bạn cần chú ý nhảy đều. Với những trò chỉ có 1 hiệp, các bạn cứ hết sức mà nhảy về đích. Nhưng, với nhảy bao bố nhiều hiệp, thì cần phải giữ nhịp thở ổn định, thì tốc độ mới dứt khoát được. Vậy nên, các bạn phải tập nhảy sao cho đều với nhịp thở của mình. Nhảy lên hít vào, nhảy xuống thở ra. Động tác chuẩn: Khi nhảy cần phải co duỗi người hợp lí, không được nhảy quá cao (tốn sức), cũng không nên tiếp đất hạ trọng tâm quá thấp (ngã đó).
Nhảy bao bố
Nhảy bao bố là một trò chơi cộng đồng đơn giản dành cho nhiều lứa tuổi khác nhau, rất phổ biến trong sinh hoạt cộng đồng thế giới. Trước khi chơi, trọng tài điểm số người chơi để chia thành hai đội, mỗi đội có từ 5 đến 7 người, nếu nhiều người cùng chơi thì chia làm ba hay bốn đội có số người bằng nhau. Khi chơi, có bao nhiêu đội tham gia thì kẻ bấy nhiêu hàng dọc và kẻ hai vạch ranh giới ở hai đầu các hàng dọc, cách nhau khoảng 5m, một vạch là mốc xuất phát và một vạch làm điểm quay đầu. Trước khi chơi, mỗi đội được phát một bao bố loại 100 kg và xếp thành một hàng dọc trước ô hàng của đội hiệu, người tham gia trò chơi đứng đúng vạch quy định. Khi trọng tài thổi tiếng còi thứ nhất, báo hiệu cuộc chơi bắt đầu, những người đứng đầu ở các đội bước vào trong bao bố, hai tay giữ chặt miệng bao. Khi nghe tiếng còi thứ hai, thì bắt đầu nhảy, người chơi phải nhanh chân nhảy từng bước một đến vạch phía trước rồi quay trở lại vạch xuất phát đưa bao cho người thứ hai.
Các Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Mỹ (viết tắt là AMNH ) là một bảo tàng lịch sử tự nhiên trên Upper West Side của Manhattan , thành phố New York . Trong Công viên Theodore Roosevelt, đối diện với Công viên Trung tâm , khu phức hợp bảo tàng bao gồm 26 tòa nhà liên thông với 45 phòng triển lãm cố định, ngoài ra còn có một cung thiên văn và một thư viện. Các bộ sưu tập của bảo tàng chứa hơn 34 triệu mẫu vật về thực vật, động vật, hóa thạch, khoáng chất, đá, thiên thạch, hài cốt người và hiện vật văn hóa nhân loại, cũng như các bộ sưu tập chuyên biệt cho mô đông lạnh và dữ liệu bộ gen và vật lý thiên văn, trong đó chỉ một phần nhỏ có thể được hiển thị tại bất kỳ thời điểm nào. Bảo tàng chiếm hơn 2 triệu feet vuông (190.000 m 2 ). AMNH có 225 nhân viên khoa học toàn thời gian, tài trợ cho hơn 120 chuyến thám hiểm lĩnh vực đặc biệt mỗi năm, và trung bình khoảng năm triệu lượt truy cập hàng năm. Tuyên bố sứ mệnh của Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ là: "Khám phá, giải thích và phổ biến — thông qua nghiên cứu khoa học và giáo dục — kiến thức về văn hoá loài người, thế giới tự nhiên và vũ trụ.". Trước khi xây dựng khu phức hợp hiện tại, bảo tàng được đặt trong tòa nhà Arsenal ở Công viên Trung tâm . Việc thành lập bảo tàng đã hiện thực hóa giấc mơ của Tiến sĩ tự nhiên học Albert S. Bickmore . Bickmore, học trò một thời của nhà động vật học Louis Agassiz , đã vận động không mệt mỏi trong nhiều năm để thành lập bảo tàng lịch sử tự nhiên ở New York. Đề xuất của ông, được sự ủng hộ của các nhà tài trợ đắc lực, đã giành được sự ủng hộ của Thống đốc New York , John Thompson Hoffman , người đã ký dự luật chính thức thành lập Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ vào ngày 6 tháng 4 năm 1869. Năm 1874, nền tảng được đặt cho tòa nhà đầu tiên của bảo tàng, hiện đang bị nhiều tòa nhà trong khu phức hợp mà ngày nay chiếm gần hết Quảng trường Manhattan che khuất tầm nhìn. Tòa nhà Gothic thời Victoria ban đầu , được khai trương vào năm 1877, được thiết kế bởi Calvert Vaux và J. Wrey Mold , cả hai đều đã được xác định chặt chẽ với kiến trúc của Công viên Trung tâm. Tòa nhà ban đầu sớm bị che khuất bởi dãy phía nam của bảo tàng, được thiết kế bởi J. Cleaveland Cady , một công trình bằng đá nâu tân Romanesque mộc mạc , chịu ảnh hưởng của HH Richardson . Nó kéo dài 700 feet (210 m) dọc theo Phố Tây 77, với các tháp góc cao 150 feet (46 m). Đá granit và đá màu nâu hồng của nó, tương tự như đá tìm thấy ở Đảo Grindstone trên sông St. Lối vào Central Park West , Đài tưởng niệm Theodore Roosevelt của Bang New York, được hoàn thành bởi John Russell Pope vào năm 1936, là một tượng đài Beaux-Arts đã được nâng cấp . Nó dẫn đến một vương cung thánh đường La Mã rộng lớn, nơi du khách được chào đón bằng một bộ xương của một con Barosaurus đang nuôi để bảo vệ con mình khỏi một con Allosaurus . Bạn cũng có thể đến bảo tàng thông qua tiền sảnh đường 77, được đổi tên thành "Phòng trưng bày lớn" và có một chiếc xuồng Haida được treo hoàn toàn . Hội trường dẫn vào triển lãm lâu đời nhất còn tồn tại trong bảo tàng, hội trường của người da đỏ Bờ biển Tây Bắc . Kể từ năm 1930, ít được thêm vào bên ngoài của tòa nhà ban đầu. Kiến trúc sư Kevin Roche và công ty Roche-Dinkeloo của ông đã chịu trách nhiệm quy hoạch tổng thể bảo tàng từ những năm 1990. Nhiều cải tạo cả bên trong và bên ngoài đã được thực hiện. Công việc cải tạo Sảnh Khủng long đã được thực hiện bắt đầu từ năm 1991, và bảo tàng cũng đã khôi phục lại bức tranh tường ở Nhà tưởng niệm Roosevelt vào năm 2010. Năm 1992, công ty Roche-Dinkeloo đã thiết kế Thư viện AMNH tám tầng. Tuy nhiên, toàn bộ quy hoạch tổng thể cuối cùng không được thực hiện đầy đủ, và đến năm 2015, bảo tàng bao gồm 25 tòa nhà riêng biệt được kết nối kém. Mặt tiền phía nam của bảo tàng, kéo dài từ Phố 77 từ Công viên Trung tâm đến Đại lộ Columbus, đã được làm sạch, sửa chữa và tái tạo vào năm 2009. Steven Reichl, phát ngôn viên của bảo tàng, cho biết công việc sẽ bao gồm việc khôi phục lại 650 khung cửa sổ và đá màu đen anh đào. Nhà tư vấn của bảo tàng về lần cải tạo mới nhất là Wiss, Janney, Elstner Associates, Inc. , một công ty kiến trúc và kỹ thuật có trụ sở chính tại Northbrook, Illinois . Vào năm 2014, bảo tàng đã công bố kế hoạch cho một tòa nhà phụ trị giá 325 triệu đô la, 195.000 foot vuông (18.100 m 2 ), Trung tâm Richard Gilder về Khoa học, Giáo dục và Đổi mới, ở phía Đại lộ Columbus. Được thiết kế bởi Studio Gang, Higgins Quasebarth & Partners và kiến trúc sư cảnh quan Reed Hilderbrand, mặt tiền bằng đá granit Milford màu hồng của tòa nhà mới sẽ có thiết kế kết cấu, đường cong lấy cảm hứng từ các yếu tố địa hình tự nhiên được trưng bày trong bảo tàng, bao gồm "địa tầng địa chất, sông băng đục khoét các hang động, hẻm núi uốn lượn và các khối băng ", như một sự tương phản nổi bật với phong cách kiến trúc High Victorian Gothic , Richardson Romanesque và Beaux Arts của bảo tàng . Bản thân bên trong sẽ có một lối vào mới từ Đại lộ Columbus ở phía bắc Đường 79; một cấu trúc lưu trữ nhiều tầng chứa các mẫu vật và đồ vật; phòng trưng bày các đồ vật này; một hội trường côn trùng; một "bức tường tìm đường" "diễn giải" và một nhà hát. Việc mở rộng này ban đầu được cho là ở phía nam của bảo tàng hiện có, chiếm các phần của Công viên Theodore Roosevelt. Việc mở rộng đã được di dời sang phía tây của bảo tàng hiện tại, và diện tích của nó bị giảm bớt do sự phản đối của việc xây dựng trong công viên. Tòa nhà phụ thay thế sẽ thay thế ba tòa nhà hiện có dọc theo phía đông của Đại lộ Columbus, với hơn 30 kết nối đến bảo tàng hiện có, và nó sẽ cao sáu tầng, cùng chiều cao với các tòa nhà hiện có. Các kế hoạch mở rộng đã được Ủy ban Bảo tồn Địa danh Thành phố New York xem xét kỹ lưỡng . Vào ngày 11 tháng 10 năm 2016, Ủy ban Bảo tồn Địa danh đã nhất trí thông qua việc mở rộng. Việc xây dựng Trung tâm Gilder, dự kiến sẽ động thổ vào năm tới sau các giai đoạn phát triển thiết kế và Tuyên bố Tác động Môi trường , sẽ đòi hỏi việc phá dỡ ba tòa nhà bảo tàng được xây dựng từ năm 1874 đến năm 1935. Bảo tàng chính thức đệ trình kế hoạch xây dựng việc mở rộng trong Tháng 8 năm 2017, nhưng do sự phản đối của cộng đồng, việc xây dựng đã không bắt đầu cho đến tháng 6 năm 2019. Dự án dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2022. Hai vị chủ tịch đầu tiên của bảo tàng là John David Wolfe (1870–1872) và Robert L. Stuart (1872–1881), cả hai đều là những người sáng lập bảo tàng. Bảo tàng đã không được đặt vững vàng cho đến khi chủ tịch thứ ba, Morris K. Jesup (cũng là một trong những người sáng lập ban đầu), bổ nhiệm vào năm 1881. Jesup là chủ tịch trong hơn 25 năm, giám sát việc mở rộng và phần lớn thời kỳ vàng son của nó. thăm dò và thu thập. Tổng thống thứ tư, Henry Fairfield Osborn , được bổ nhiệm vào năm 1906 sau cái chết của Jesup. Osborn củng cố việc mở rộng bảo tàng, phát triển nó thành một trong những bảo tàng lịch sử tự nhiên hàng đầu thế giới. F. Trubee Davison là tổng thống từ năm 1933 đến năm 1951, với A. Perry Osborn là quyền Tổng thống từ năm 1941 đến năm 1946. Alexander M. White là tổng thống từ năm 1951 đến năm 1968. Gardner D. Stout là tổng thống từ năm 1968 đến năm 1975. Ellen V. Futter là chủ tịch của bảo tàng từ năm 1993. Những cái tên nổi tiếng gắn liền với bảo tàng bao gồm nhà cổ sinh vật học và địa chất học Henry Fairfield Osborn ; thợ săn khủng long của sa mạc Gobi , Roy Chapman Andrews (một trong những nguồn cảm hứng cho Indiana Jones ); : 97–8 nhiếp ảnh gia Yvette Borup Andrews ; George Gaylord Simpson ; nhà sinh vật học Ernst Mayr ; các nhà nhân học văn hóa tiên phong Franz Boas và Margaret Mead ; nhà thám hiểm và nhà địa lý học Alexander H. Rice, Jr . ; và nhà điểu học Robert Cushman Murphy . JP Morgan cũng là một trong những nhà hảo tâm nổi tiếng của bảo tàng. Được đặt theo tên của nhà phân loại học Carl Akeley , Hội trường Akeley của Động vật có vú châu Phi là một hội trường hai tầng nằm ngay phía sau Theodore Roosevelt rotunda. 28 dioramas của nó mô tả chi tiết tỉ mỉ phạm vi hệ sinh thái tuyệt vời được tìm thấy ở châu Phi và các loài động vật có vú đặc hữu của chúng. Trung tâm của hội trường là một đàn voi châu Phi tám con trong đội hình báo động đặc trưng. Mặc dù các loài động vật có vú thường là đặc điểm chính trong quần thể dioramas, các loài chim và hệ thực vật của các khu vực đôi khi cũng được giới thiệu. Trong 80 năm kể từ khi Akeley Hall được thành lập, nhiều loài trong số đó đã trở nên nguy cấp, một số loài nghiêm trọng và các địa điểm bị phá rừng. Mặc dù vậy, chưa có loài nào bị tuyệt chủng, một phần là nhờ công của chính Carl Akeley (xem Vườn quốc gia Virunga ). Hội trường kết nối với Hội trường của các Dân tộc Châu Phi. Hội trường Động vật có vú châu Phi lần đầu tiên được đề xuất cho bảo tàng bởi Carl Akeley vào khoảng năm 1909. Ý tưởng ban đầu của ông bao gồm bốn mươi dioramas sẽ thể hiện những cảnh quan và động vật đang biến mất nhanh chóng của châu Phi. Đề xuất của Akeley đã gây được tiếng vang với cả hội đồng quản trị và chủ tịch bảo tàng lúc đó là Henry Fairfield Osborne . Để tài trợ cho việc tạo ra nó, Daniel Pomeroy, một người được ủy thác của bảo tàng và đối tác tại JP Morgan, đã đề nghị các nhà đầu tư quan tâm cơ hội đồng hành cùng các chuyến thám hiểm của bảo tàng ở châu Phi để đổi lấy tiền tài trợ. Akeley bắt đầu thu thập các mẫu vật cho hội trường ngay từ năm 1909, khi chạm trán với Theodore Roosevelt nổi tiếng trong chuyến thám hiểm châu Phi Smithsonian-Roosevelt (hai trong số những con voi có trong tác phẩm trung tâm của bảo tàng được tặng bởi Roosevelt, một con bò, do chính Roosevelt bắn, và một con bê, bị bắn bởi con trai ông Kermit). Trong những chuyến thám hiểm ban đầu này, Akeley sẽ được đi cùng với người học việc cũ của mình trong lĩnh vực phân loại là James L. Clark và nghệ sĩ, William R. Leigh . Khi Akeley trở lại châu Phi để thu thập khỉ đột cho cuộc diorama đầu tiên của hội trường, Clark vẫn ở lại và bắt đầu lùng sục khắp đất nước để tìm các nghệ sĩ tạo nền. Sự xuất hiện cuối cùng của các nhóm sinh cảnh đầu tiên sẽ có tác động rất lớn đến bảo tàng. Sự phân loại khéo léo của Akeley và Clark kết hợp với nền được vẽ dưới sự chỉ đạo của Leigh đã tạo ra ảo ảnh về cuộc sống của những con vật này khiến các triển lãm khác của bảo tàng có vẻ buồn tẻ khi so sánh (phong cách triển lãm ban đầu của bảo tàng vẫn có thể được nhìn thấy trong khu vực nhỏ dành cho chim và động vật của New York). Sau cái chết bất ngờ của Akeley trong chuyến thám hiểm Eastman-Pommeroy năm 1926, trách nhiệm hoàn thành hội trường thuộc về James L. Clark. Mặc dù bị cản trở bởi sự khởi đầu của cuộc Đại suy thoái vào năm 1929, niềm đam mê của Clark với châu Phi và sự tận tâm của anh với người cố vấn cũ của mình đã giúp dự án tiếp tục tồn tại. Năm 1933, Clark thuê nghệ sĩ kiến trúc James Perry Wilson để hỗ trợ Leigh vẽ nền. Có đầu óc kỹ thuật hơn Leigh, Wilson sẽ thực hiện nhiều cải tiến đối với các kỹ thuật của Leigh, bao gồm một loạt các phương pháp để giảm thiểu sự biến dạng do các bức tường cong của dioramas gây ra. Năm 1936, William Durant Campbell , một thành viên hội đồng quản trị giàu có với mong muốn được nhìn thấy châu Phi, đã đề nghị tài trợ cho một số dioramas nếu được phép tự mình lấy các mẫu vật. Clark đồng ý với sự sắp xếp này và ngay sau khi Campbell rời đi để thu thập các mẫu vật okapi và tê giác đen cùng với nghệ sĩ Robert Kane. Campbell sẽ tham gia, với tư cách này hay năng lực khác, với một số cuộc thám hiểm tiếp theo khác. Bất chấp những thất bại bao gồm sốt rét, lũ lụt, sự can thiệp của chính phủ nước ngoài và thậm chí là vụ đắm thuyền, những cuộc thám hiểm này sẽ thành công trong việc thu được một số mẫu vật ấn tượng nhất của Akeley Hall. Trở lại bảo tàng, Kane sẽ tham gia cùng Leigh và Wilson, cùng với một số nghệ sĩ khác trong việc hoàn thành các dioramas còn lại của hội trường. Mặc dù việc xây dựng hội trường đã được hoàn thành vào năm 1936, các dioramas sẽ dần dần mở cửa từ giữa những năm 1920 đến đầu những năm 1940. Sảnh Động vật có vú Châu Á, đôi khi được gọi là Sảnh Vernay-Faunthorpe của Động vật có vú Châu Á, là một sảnh một tầng nằm ngay bên trái của Theodore Roosevelt Rotunda. Nó chứa 8 dioramas hoàn chỉnh, 4 dioramas một phần, và 6 nhóm môi trường sống của động vật có vú và các địa điểm từ Ấn Độ , Nepal , Miến Điện , và Malaysia . Hội trường mở cửa vào năm 1930 và, tương tự như Akeley Hall of Động vật có vú châu Phi, tập trung vào 2 con voi châu Á . Tại một thời điểm, một gấu trúc khổng lồ và con hổ Siberia cũng là một phần của bộ sưu tập của Hall, ban đầu dự định là một phần của một liền kề Hall of Động vật có vú Bắc Á (dự kiến trong vị trí hiện tại của Stout Hall of Peoples châu Á). Những mẫu vật này hiện có thể được nhìn thấy trong Hội trường Đa dạng Sinh học. Các mẫu vật cho Hội trường Động vật có vú châu Á đã được thu thập trong sáu cuộc thám hiểm do Arthur S. Vernay và Đại tá John Faunthorpe dẫn đầu (được ghi nhận bởi các mảng cách điệu ở cả hai lối vào). Cuộc thám hiểm được tài trợ hoàn toàn bởi Vernay, một nhà buôn đồ cổ giàu có, sinh ra ở Anh, ở New York. Ông mô tả chi phí này như một sự tưởng nhớ của Anh đối với sự tham gia của Mỹ trong Thế chiến thứ nhất.
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Hoa Kỳ
Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Quốc gia Hoa Kỳ (tiếng Anh: National Museum of Natural History) là một bảo tàng lịch sử tự nhiên do Viện Smithsonian quản lý, đặt ở Trung tâm Mua sắm Quốc gia (National Mall) ở Washington, D.C., Hoa Kỳ. Bảo tàng được tự do thăm viếng và mở cửa 364 ngày một năm. Năm 2016, có 7,1 triệu du khách, là bảo tàng được viếng thăm thứ tư trên thế giới và là bảo tàng lịch sử tự nhiên được truy cập nhiều nhất trên thế giới. Khai trương năm 1910, bảo tàng của National Mall là một trong những tòa nhà Smithsonian đầu tiên được xây dựng độc quyền để giữ các bộ sưu tập quốc gia và các cơ sở nghiên cứu . Tòa nhà chính có diện tích khoảng 140.000 m2 với diện tích 30.200 m2 của khu triển lãm và không gian công cộng, và nhà ở cho trên 1.000 nhân viên. Bộ sưu tập của bảo tàng chứa hơn 126 triệu mẫu vật gồm thực vật, động vật, hóa thạch, khoáng vật, đá, thiên thạch, di cốt người và các hiện vật văn hoá của con người. Năm 2016, lần thứ hai được thăm viếng nhất của tất cả các viện bảo tàng Smithsonian.
Người Hobbit 3 : Đại chiến 5 cánh quân - The Hobbit 3 : The Battle of the Five Armies là bộ phim thuộc thể thoại sử thi huyền thoại phiêu lưu của Mỹ. Đây cũng là phần cuối trong loạt phim The Hobbit của đạo diễn Peter Jackson dựa trên cuốn tiểu thuyết gốc The Hobbit của nhà văn J. R. R Tokien, và cũng lấy bối cảnh trượt loạt 3 phần phim Chúa tể những chiếc nhẫn. Kịch bản ngoài đạo diễn, còn có sự góp mặt của Fran Walsh, Philippa Boyens và Guillermo Del Toro. Picture vẫn là nhà phát hành cho phần cuối của loạt phim. Người hobbit 3 : Đại chiến 5 cánh quân được công chiếu chính thức vào ngày 11 tháng 11 tại New Zealand, tại Anh phim được công chiếu vào ngày 12 tháng 12 và tại Hoa Kỳ là 17 tháng 12 trong năm 2014. Phim thu về 956 triệu USD trên toàn cầu, trở thành phim có doanh thu cao thứ 2 năm 2014 và thứ 30 mọi thời đại tại thời điểm đó. Phim nhận được đề cử biên tập âm thanh xuất sắc nhất tại lễ trao giải Oscar năm 2017. Thời lượng 144 phút nên tiết tấu phim khá chậm, tuy nhiên thay vì tạo ra các cao trào liên tục thì đạo diễn Peter Jackson lại chọn hướng khai thác vào nhiều tình huống bên lề khiến tổng thể bộ phim không có trọng tâm nhất định. Những thông điệp về quyền lực, tính đố kỵ và lòng vị tha không được truyền tải rõ ràng, dù phân đoạn thể hiện tâm ma của Thorin gây nhiều ấn tượng. Đổi lại, the hobbit 3 : Đại chiến 5 cánh quân vẫn hội tụ nhiều yếu tố làm thoả mãn các fan trung thành của phim với hình ảnh sắc nét, từ cảnh vật thiên nhiên, đến những lâu đài nguy nga, cánh rừng xanh mướt được đầu tư kỹ lưỡng và chân thực. Hiệu ứng 3D trong phim cũng mang lại nhiều hứng thú hơn trong các màn chiến đấu giữa các phe phái, đặc biệt là trận đại chiến 5 cánh quân huyền thoại. Kỹ thuật quay phim 48 khung hình / giây mang lại hình ảnh mượt mà và chi tiết, từ các dàn quân đến những động tác điêu luyện của hoàng tử Legolas và nàng Tauriel xinh đẹp, từ thân thủ bất phàm của Thorin cho đến sự hung dữ của đoàn quân Orc. Tất cả góp phần tạo nên một bức tranh hoàn hảo về phần kết thúc một series ăn khách trong mùa giáng sinh.
Người Hobbit
Người Hobbit: Đại chiến Năm cánh quân (tựa gốc: The Hobbit: The Battle of the Five Armies) là một bộ phim điện ảnh sử thi kỳ ảo của Mỹ công chiếu năm 2014 do Peter Jackson làm đạo diễn, với phần kịch bản được Jackson, Fran Walsh, Philippa Boyens và Guillermo del Toro cùng chắp bút. Đây là phần thứ ba và phần cuối trong loạt phim chuyển thể ba phần của Peter Jackson dựa trên cuốn tiểu thuyết The Hobbit của J. R. R. Tolkien, sau các phần trước là Hành trình vô định (2012) và Đại chiến với rồng lửa (2013); ba phần phim kể trên cùng nằm trong loạt tiền truyện loạt bộ ba phim điện ảnh Chúa tể những chiếc nhẫn của Jackson. Tác phẩm do New Line Cinema, Metro-Goldwyn-Mayer, Warner Bros. Pictures và WingNut Films hợp tác sản xuất. Riêng Warner Bros còn làm nhà phân phối bộ phim. Đại chiến Năm cánh quân có buổi chiếu ra mắt ở Luân Đôn vào ngày 1 tháng 12 năm 2014, sau đấy được phát hành vào ngày 11 tháng 12 năm 2014 tại New Zealand, 12 tháng 12 năm 2014 tại Liên hiệp Anh và ngày 17 tháng 12 năm 2014 tại Mỹ.
Thập tự chinh là một loạt các chiến dịch quân sự được tiến hành vì lý do tôn giáo bởi nhiều quốc gia Công giáo La Mã ở Châu Âu, đặc biệt là nước Pháp và Đế quốc La Mã Thần thánh. Các cuộc thập tự chinh cụ thể để khôi phục lại kiểm soát của người Kitô giáo tới vùng Đất Thánh là các cuộc chiến tranh kéo dài trong thời gian gần 200 năm, từ năm 1095 đến năm 1291. Các chiến dịch ở Tây Ban Nha và Đông Âu được tiếp tục vào thế kỷ 15. Các cuộc thánh chiến chủ yếu của lực lượng Công giáo La Mã (diễn ra sau khi Sự ly khai Đông Tây và hầu hết xẩy ra trước Cải cách Tin lành) nhằm vào người Hồi giáo, những người đã chiếm đóng vùng Cận đông kể từ thời vương quốc Hồi giáo Rashidun, Mặc dù các chiến dịch này cũng được tiến hành để chống lại người Slav, người Balt ngoại đạo, người Do Thái, người Nga và Kitô hữu Chính Thống, người Mông Cổ, người Cathar, người Hussite, người Waldensian, nước Phổ cổ, và kẻ thù chính trị của các giáo hoàng. Phe Chính Thống giáo cũng tham gia chiến đấu chống lại lực lượng Hồi giáo trong một số cuộc thập tự chinh. Những người tham gia Thập tự chinh thường là tự nguyện và đã được cấp một lễ rửa tội tập thể. Các cuộc thập tự chinh ban đầu có mục tiêu là chiếm lại Jerusalem và Đất Thánh từ tay người Hồi giáo và các chiến dịch của họ được tiến hành để trả lời lời kêu gọi từ những người Kitô giáo của Đế quốc Byzantine để giúp họ chống lại sự bành trướng của người Seljuk Turk Hồi giáo vào vùng Anatolia. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để mô tả các chiến dịch tiếp theo được tiến hành tới tận thế kỷ 16 ở vùng lãnh thổ bên ngoài Levant, các chiến dịch này thường nhằm vào dân ngoại đạo, dị giáo và những người bị rút phép thông công bởi một tập hợp các lý do tôn giáo, kinh tế và chính trị. Sự ganh đua giữa hai quyền lực Thiên chúa giáo và Hồi giáo cũng đã dẫn đến các liên minh giữa các phe phái tôn giáo chống lại đối thủ của họ, chẳng hạn như liên minh của người Thiên chúa giáo với Vương quốc Hồi giáo Rum trong cuộc Thập tự chinh lần thứ năm. Các cuộc thập tự chinh đã tác động sâu rộng đến chính trị, kinh tế và xã hội, một số ảnh hưởng số trong đó kéo dài tới tận thời nay. Vì các cuộc xung đột nội bộ giữa các vương quốc Thiên chúa giáo và quyền lực chính trị, một số trong những cuộc thập tự chinh đã bị lệch khỏi mục tiêu ban đầu của họ, chẳng hạn như cuộc Thập tự chinh lần thứ tư, Kết quả là một cuộc bao vây được nhắm vào thành phố Constantinople và các thuộc địa của đế chế Byzantine bởi người Venice và quân Thập tự chinh. Cuộc Thập tự chinh thứ sáu là cuộc thập tự chinh đầu tiên được khởi hành mà không cần sự cho phép chính thức của Giáo hoàng. Các cuộc Thập tự chinh lần thứ bảy, thứ tám và thứ chín kết quả là người Mamluk và Hafsid đã chiến thắng, cuộc Thập tự chinh lần thứ chín đánh dấu sự kết thúc của các cuộc thập tự chinh trong vùng Trung Đông. Đất Thánh là nơi cực kỳ quan trọng đối với người Kitô giáo, vì nơi đây là nơi sinh ra, giảng đạo, bị đóng đinh và phục sinh của Chúa Giêsu thành Nazareth, Người Kitô luôn coi Chúa Giêsu như là Đấng Cứu thế hay Messiah. Đến cuối thế kỷ thứ 4, sau khi Hoàng đế La Mã Constantine chuyển đổi sang Thiên chúa giáo (năm 313) và sau đó thành lập đế quốc Byzantine sau sự phân rẽ của Đế quốc La Mã, Đất Thánh đã trở thành một khu vực chủ yếu là của người Kitô giáo. Các lễ hội tôn giáo được tiến hành cho nhiều lễ kỷ niệm và cho những sự kiện trong cuộc đời của Chúa Giê-xu tại các địa điểm quan trọng. Jerusalem nói riêng giữ một ý nghĩa quan trọng trong đạo Hồi vì nó là địa điểm để lên thiên đường của tiên tri Muhammad người mà người Hồi giáo tin là vị tiên tri quan trọng nhất của Allah và Jerusalem được xem là địa điểm thiêng liêng thứ ba trong số những địa điểm thiêng liêng nhất của người đạo Hồi. Sự hiện diện của người Hồi giáo tại Đất Thánh bắt đầu với việc người Hồi giáo xâm chiếm Syria trong thế kỷ thứ 7 dưới sự lãnh đạo của Rashidun Khalip. Chiến thắng của các đội quân Hồi giáo ngày càng tăng áp lực vào Đế quốc Byzantine Chính thống giáo Đông, người ban đầu đã tuyên bố khu vực là lãnh thổ của họ (một phần của Đế quốc Đông La Mã mà Byzantine được thừa kế) – sự kiện này cũng bao gồm cuộc tấn công cuối cùng của người Seljuk Thổ Nhĩ Kỳ. Jerusalem cũng có tầm quan trọng lịch sử với tôn giáo của người Do Thái vì nó là địa điểm của Western Wall-Bức tường phía Đông- phần cuối cùng còn lại của Đền thờ thứ hai. Người Do Thái coi Israel như là quê hương của tổ tiên của họ và đã đi thăm thành phố kể từ khi nó bị chiếm đóng bởi người La Mã và bị từ bỏ bởi người Do Thái sau cuộc nổi loạn của họ vào năm 66-73 AD. Một yếu tố khác góp phần vào sự thay đổi thái độ của phương Tây về phía phương Đông vào năm 1009, khi Quốc vương Hồi giáo al-Hakim bi-Amr Allah triều Fatimid đã ra lệnh phá hủy Nhà thờ Thánh Sepulchre. Trong năm 1039 người thừa kế ông ta sau khi yêu cầu thanh toán một khoản tiền lớn đã cho phép đế quốc Byzantine xây dựng lại nó. Người hành hương đã được phép đến vùng đất Thánh trước và sau khi Nhà thờ Sepulchre được xây dựng lại. Người Hồi giáo đã nhận ra rằng có rất nhiều của cải đến Jerusalem từ những người hành hương, vì lý do này và cả những lý do khác, sự khủng-bố nhắm vào người hành hương cuối cùng cũng dừng lại. Tuy nhiên, thiệt hại vẫn xẩy ra và bạo lực của người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk đã trở thành một phần của mối quan tâm mà lan rộng hỗ trợ cho các cuộc thập tự chinh Thiên chúa giáo trên toàn thế giới. Nguồn gốc của các cuộc thập tự chinh nằm trong sự phát triển của các nước Tây Âu trước đó trong thời Trung cổ, cũng như tình hình đang ngày một xấu đi của Đế quốc Byzantine ở phía đông gây ra bởi các làn sóng tấn công mới của người Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ. Các phân tích về Đế quốc Carolingian vào những năm cuối thế kỷ 9, kết hợp với sự ổn định tương đối của các địa phương biên giới châu Âu sau sự kiện những người Viking, Slavs và Magyar được Kitô giáo hóa, đã xảy ra việc một số lượng lớn các chiến binh có vũ trang và đầy nhiệt tình đã chiến đấu với nhau một cách không đúng chỗ ( các chiến binh dù đã được Kitô giáo hóa nhưng họ vẫn là những chiến binh và nghề nghiệp của họ chỉ là đánh giết ) và thường tiến hành khủng-bố dân chúng địa phương. Giáo Hội đã cố gắng để ngăn chặn nạn bạo lực này với các phong trào Thỏa thuận ngừng bắn và Hòa bình của Thiên Chúa, tuy đã thu được phần nào thành công nhưng các chiến binh được đào tạo luôn luôn tìm kiếm một lối thoát để phát huy các kỹ năng của họ và cơ hội để mở rộng lãnh thổ đang ngày càng trở nên kém hấp dẫn trước giới đại quý tộc. Năm 1063, Giáo hoàng Alexander II đã ban phước lành của mình để giáo dân ở Iberia tiến hành cuộc chiến tranh của họ chống lại người Hồi giáo, ông đã cấp cả một tiêu chuẩn của giáo hoàng (vexillum Sancti Petri) và một lễ rửa tội cho những người đã thiệt mạng trong trận chiến. Lời cầu khẩn của Hoàng đế Byzantine, người lúc này đang bị đe dọa bởi người Seljuk đã được lọt vào những đôi tai sẵn sàng lắng nghe. Những gì xảy ra từ năm 1074, giữa Hoàng đế Michael VII với Đức Giáo Hoàng Gregory VII và từ năm 1095 giữa Hoàng đế Alexios I Komnenos với Giáo hoàng Urban II. Một nguồn xác định trong hồ sơ của Trung Quốc Michael VII như là một người cai trị của Hy Lạp (Fulin), đã gửi một phái đoàn tới nhà Tống-Trung Quốc năm 1081. Một học giả Trung Quốc cho rằng đặc sứ này và thậm chí cả Byzantine nữa trong năm 1091 yêu cầu Trung Quốc hỗ trợ trong cuộc chiến chống lại người Thổ. Các cuộc thánh chiến là một phần lối thoát cho một niềm đạo đức tôn giáo mãnh liệt lúc này càng ngày càng tăng lên vào cuối thế kỷ 11 trong số các công dân là giáo dân ở châu Âu. Một người thập tự quân sau khi đã thề một lời thề trang trọng và nhận được một cây thánh giá từ tay của Đức Giáo Hoàng hay legate-đại diện của ông ta và được từ đó người này được coi là một “người lính của Giáo Hội”. Đây là một phần của Investiture Controversy ( sự trao quyền đầy Tranh cãi ), vốn bắt đầu khoảng năm 1075 và vẫn còn tiếp diễn đến cuộc Thập tự chinh đầu tiên. Khi hai phe thuộc Investiture Controversy cố gắng để thu hút ý kiến ủng hộ của công chúng cho họ, làm cho mọi người trở nên tham gia vào một cuộc tranh cãi tôn giáo mạnh mẽ một cách cá nhân. Kết quả là họ đã đánh thức đạo đức Kitô giáo một cách mạnh mẽ và vì lợi ích cộng đồng trong các vấn đề tôn giáo, và ý thức này lại được tăng cường hơn nữa bằng các tuyên truyền về tôn giáo, mà chủ trương là Just Wa-Chỉ bằng chiến tranh ( ý nói không có thương lượng) để chiếm lại Thánh Địa từ tay người Hồi giáo. Đất Thánh bao gồm Jerusalem (nơi theo thần học Kitô giáo đã xảy ra cái chết, phục sinh và bay vào thiên đường của Chúa Giê-xu) và Antioch (thành phố đầu tiên của Giáo dân Kitô giáo). Hơn nữa, sự tha tội ( rửa tội? em ko rành lắm) là một nhân tố thúc đẩy bất kỳ người nào còn biết kính Chúa, những người đã phạm tội ác mà muốn thoát khỏi sự trừng phạt muôn đời không thể cưỡng lại của Địa ngục. Đây là một vấn đề tranh cãi nóng bỏng trong các cuộc Thánh chiến là liệu những gì được gọi là “tha tội-rửa tội” có ý nghĩa thật sự hay không ( hay bị lợi dụng). Hầu hết những người tham gia Thập tự chinh đều tin rằng bằng cách tái chiếm Jerusalem họ sẽ đi thẳng lên thiên đàng sau khi họ chết trận. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề tranh cãi xung quanh chính xác những gì các giáo hoàng đã hứa trong thời gian này. Một giả thuyết là nếu một người đã chết trong chiến đấu để lấy lại Jerusalem trong thời gian “tha tội-rửa tội” được áp dụng-> sẽ được lên thiên đàng, đây là chính xác những gì Giáo hoàng Urban II nói trong bài phát biểu của mình. Điều này có nghĩa rằng nếu quân viễn chinh đã thành công và trong trường hợp tái chiếm được Jerusalem thì những người sống sót sẽ không được xoá tội và không được lên thiên đàng ( Hoàn toàn hợp lý, Giáo hoàng ban sự xóa tội cho những người hy sinh khi tái chiếm Jerusalem-họ là người tử vì đạo và được lên thiên đàng, vậy những người không tử trận thì không được xoá tội, vậy muốn lên đó thì họ phải tự tử khi vừa mới thu được thắng lợi để được lên thiên đàng?). Nguyên nhân trực tiếp của cuộc Thập tự chinh đầu tiên là hoàng đế Byzantine Alexios I đề nghị Giáo hoàng Urban II cử lính đánh thuê đến để giúp ông chống lại người Hồi giáo lúc này đang ồ vào lãnh thổ của đế quốc Byzantine. Năm 1071, tại Trận Manzikert ( sẽ có một bài riêng về trận này) Đế chế Byzantine bị đánh bại, dẫn đến sự mất mát phần lớn vùng Tiểu Á (hiện nay là Thổ Nhĩ Kỳ) và họ chỉ còn giữ được vùng duyên hải. Mặc dù cố gắng hòa giải sau Sự ly khai Đông Tây giữa Catholic Church ( Công giaó La Mã ) ở phía tây châu Âu và Giáo hội Chính Thống phương Đông đã không thành công, hoàng đế Alexius I hy vọng cho một phản ứng tích cực từ phía Giáo hoàng Urban II và đã có nó. Khi những cuộc Thập tự chinh đầu tiên được truyền bá trong năm 1095, các hoàng tử Kitô giáo ở miền Bắc xứ Iberia đang chiến đấu ở vùng núi Galicia và Asturias, các xứ Basque và Navarre ( Basque thuộc nay TBN và Navarre nay thuộc Pháp ), đã có các thành công liên tục trong khoảng một trăm năm. Sự sụp đổ của vùng Toledo và Vương quốc León của người Moor trong năm 1085 là một chiến thắng lớn, nhưng điểm nóng chảy ( điểm thay đổi mang tính bản lề ) của phong trào Reconquista vẫn còn nằm trong tương lai. Sự mất đoàn kết của các tiểu vương Hồi giáo là một yếu tố tối cần thiết. Trong khi phong trào Reconquista ( tái chiếm các vùng đất thuộc TBN ngày nay khỏi tay người Hồi giáo) là ví dụ nổi bật nhất về phản ứng của châu Âu để chống lại các Cuộc chinh phục của người Hồi giáo, nhưng đây không phải là ví dụ duy nhất. Robert Guiscard-tay phiêu lưu người Norman đã chinh phục xứ Calabria năm 1057 và giữ được Sicily-vùng lãnh thổ truyền thống của Đế quốc Byzantine trước sự xâm lược của người Hồi giáo. Các thành bang có hải quân phát triển như Pisa, Genoa và Catalonia tất cả đều tích cực chiến đấu chống lại vương quốc Majorca của người Hồi giáo, và giải phóng được vùng bờ biển nước Ý và Catalonia khỏi các cuộc tấn công của người Hồi giáo. Trước đó rất lâu Syria, Lebanon, Palestine, Ai Cập… quê hương của Kitô giáo đã bị chinh phục bởi đội quân của người Hồi giáo. Những đêm trường lịch sử của việc mất mát những lãnh thổ nhạy cảm này vào tay một kẻ thù tôn giáo đã tạo ra một động lực mạnh mẽ để đáp ứng lời kêu gọi của hoàng đế Byzantine Alexius I về một cuộc thánh chiến để bảo vệ Thiên Chúa giáo và để tái chiếm các vùng đất bị mất bắt đầu từ Jerusalem. Đức Giáo Hoàng Gregory VII đã có những tranh cãi về các giá trị giáo lý của một cuộc thánh chiến và đổ máu nhân danh Chúa với những khó khăn trong việc giải quyết các câu hỏi phán xét việc bạo lực mang lại lợi lộc cho ai. Quan trọng hơn nữa là Đức Giáo Hoàng quan tâm đến việc các Kitô hữu hành hương đến Đất Thánh bị bức hại. Thánh Saint Augustine xứ Hippo-bản sao về mặt trí tuệ của Giáo hoàng Gregory, đã biện minh cho việc sử dụng vũ lực trong việc phục vụ Chúa Kitô trong The City of God-Thành phố của Thiên Chúa, và chỉ bằng chiến tranh của Kitô giáo mới có thể nâng cao vị thế của một nhà lãnh đạo mạnh mẽ đầy tham vọng của châu Âu, như Gregory đã nhìn nhận về chính mình. Những người miền Bắc sẽ tăng cường củng cố xung quanh Rome, và các hiệp sĩ chuyên gây rắc rối của họ có thể sẽ thấy được nghề nghiệp phù hợp với họ ( tiếp tục nghề đâm chém ở phương Đông ). Những nỗ lực trước đây của nhà thờ để ngăn chặn bạo lực, chẳng hạn như khái niệm “Hòa bình của Thiên Chúa” đã không thu được thành công như mong đợi. Về phía nam của Rome, người Norman đã cho thấy họ đáng sợ như thế nào đối với cả hai người Ả Rập (ở Sicily) và Byzantine (trên đất liền). Một quyền bá chủ của người La tinh ( phương Tây) ở các quốc gia Trung cận động sẽ cung cấp đòn bẩy trong việc giải quyết tranh chấp giữa Giáo hoàng trước uy quyền tối cao của Giáo trưởng Constantinople, việc này đã dẫn đến việc Sự ly khai lớn trong năm 1054, một rạn nứt không thể giải quyết bằng sức mạnh của người Frank. Tại Đế quốc Byzantine, điểm yếu của Hoàng đế phía Đông đã bị bộc lộ bởi sự thất bại thảm hại trong Trận Manzikert trong năm 1071, lãnh thổ châu Á của đế chế ở khu vực phía tây Anatolia và vùng xung quanh Constantinople đã thất thủ.
Thập tự chinh thứ tư
Cuộc Thập tự chinh lần thứ tư (1202–1204) ban đầu được dự định là để chinh phục người Hồi giáo và kiểm soát Jerusalem bằng cách tiến hành một cuộc xâm lược vào Ai Cập. Nhưng thay vào đó, trong tháng 4 năm 1204, quân Thập tự chinh Tây Âu đã xâm lược và chinh phục thành phố Constantinopolis của Kitô hữu (Chính Thống giáo Đông phương), thủ đô của Đế quốc Đông La Mã (Đế quốc Byzantine). Đây được xem là một trong các hành vi cuối cùng trong sự ly khai lớn giữa Chính Thống giáo Đông phương và Giáo hội Công giáo La Mã. Quân viễn chinh đã thành lập Đế quốc La Tinh (1204-1261) và thành bang Latin khác ở các vùng đất của Byzantine mà họ chinh phục.
Kinh tế chính trị quốc tế là gì? Chương một sẽ trả lời câu hỏi này theo ba cách: nêu các ví dụ; so sánh Kinh tế chính trị quốc tế với các môn học tương tự khác như kinh tế học, khoa học chính trị và xã hội học; thảo luận những nguyên tắc cơ bản của Kinh tế chính trị quốc tế. Định nghĩa một cách đơn giản, Kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu những vấn đề quốc tế không thể giải quyết được chỉ bằng những phân tích kinh tế, chính trị hoặc xã hội học đơn thuần. Kinh tế chính trị quốc tế là môn khoa học tập trung nghiên cứu những quan hệ phụ thuộc phức tạp chi phối các vấn đề quốc tế nổi bật nhất trong thế giới của chúng ta ngày nay. Do những vấn đề quốc tế đương đại quan trọng không thể giải quyết được nếu chỉ dựa trên quan điểm của một môn khoa học độc lập hay bằng sự phân tích những chủ thể và hành động diễn ra ở một cấp độ cụ thể như cấp độ cá nhân, nhà nước hay hệ thống quốc tế; nên nhu cầu nghiên cứu Kinh tế chính trị quốc tế đang ngày càng tăng. Lĩnh vực nghiên cứu này giúp tháo bỏ những rào chắn chia cắt và cô lập những phương pháp phân tích truyền thống, áp dụng phương pháp nghiên cứu các vấn đề và sự kiện một cách toàn diện. Trong chương này, mâu thuẫn giữa Mỹ và Trung Quốc về nhân quyền sẽ được đề cập đến như là trường hợp nghiên cứu điển hình trong kinh tế chính trị quốc tế. Trường hợp nghiên cứu này sẽ mô tả mâu thuẫn cơ bản giữa mối tương tác năng động của hai mặt của đời sống mà chúng ta gọi là “xã hội và cá thể”, “chính trị và kinh tế”, hay “nhà nước và thị trường”, những giá trị của cuộc sống và những cách mà những giá trị và lợi ích đó ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa quốc gia và chính trị. Thế giới khá phức tạp, trên mọi cấp độ đều được khắc họa bởi những nhân tố phụ thuộc lẫn nhau. Chúng ta phụ thuộc vào một người khác theo nhiều cách và trên nhiều cấp độ. Vì vậy, sự tồn tại của loài người luôn chứa đựng những mâu thuẫn, ranh giới gây nên những xung đột chia rẽ lợi ích, quan điểm hoặc những hệ thống giá trị liên quan đến những người khác. Việc phân tích những nguyên nhân gây mâu thuẫn và hậu quả của nó – những hậu quả đó sẽ được giải quyết như thế nào là mục đích của khoa học xã hội và nhân văn nhằm nâng cao nhận thức về loài người. Kinh tế chính trị quốc tế góp phần đạt được mục đích này bằng việc tập trung vào những xung đột cụ thể mà lâu nay là chủ đề thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học xã hội. Kinh tế chính trị quốc tế vừa là quá khứ vừa là tương lai của khoa học xã hội. Là quá khứ bởi lẽ kinh tế chính trị quốc tế chính là sự quay lại nghiên cứu nguồn gốc của khoa học xã hội, trước khi hành vi xã hội của loài người bị phân tán thành những lĩnh vực nghiên cứu độc lập như kinh tế học, khoa học chính trị, xã hội học, lịch sử và triết học. Là tương lai bởi lẽ trong thế giới phức tạp ngày nay, các vấn đề xã hội quan trọng nhất trở thành vấn đề mang tính chất quốc tế hoặc đa quốc gia mà chỉ có thể được hiểu rõ nhất thông qua việc nghiên cứu tổng hợp dựa trên nhiều công cụ hoặc quan điểm, chứ không thể chỉ dựa vào một công cụ hay quan điểm duy nhất. …một phạm vi rộng mở và bao la, là nơi mà bất kỳ người nào quan tâm tới hành vi con người trong xã hội có thể tự do nghiên cứu. Không có hàng rào cũng như biên giới nào giam hãm những nhà sử học trong lĩnh vực lịch sử, những nhà kinh tế trong lĩnh vực kinh tế. Các nhà khoa học chính trị không có quyền đặc biệt nào để chỉ viết về chính trị, cũng như những nhà xã hội học chỉ viết về những mối quan hệ xã hội. … kinh tế chính trị quốc tế không phải là một môn học đặc biệt và bị gò bó trong khuôn khổ của môn học với phương pháp luận đã được định sẵn. Thay vào đó kinh tế chính trị quốc tế là một tập hợp các vấn đề cần phải nghiên cứu và có xu hướng bị bỏ quên bởi những môn học đã tồn tại từ lâu sử dụng những công cụ có sẵn. Kinh tế chính trị quốc tế không thể thay thế cho những môn khoa học xã hội độc lập khác. Môn học này sẽ gắn kết các môn học đó vào một lĩnh vực rộng mở không rào cản bó buộc, nhằm phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của xã hội đầy phức tạp của chúng ta. Kinh tế chính trị quốc tế sẽ giúp chúng ta hiểu được thế giới của những ảnh hưởng lẫn nhau giữa con người với con người một cách toàn diện. Đây có thể là một tham vọng nhưng là cần thiết cho xã hội của chúng ta hôm nay và cho tương lai của những nhà lãnh đạo trong quá trình giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội. Tại sao chúng ta phải nghiên cứu môn kinh tế chính trị quốc tế? Có ba lý do chính sau: đây là môn học thú vị, quan trọng và hữu ích. Thứ nhất, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học thú vị. Samuel Johnson lập luận rằng “một người chán ghét kinh tế chính trị quốc tế thì có nghĩa là anh ta chán ghét cuộc sống”. Kinh tế chính trị quốc tế là toàn bộ cuộc sống. Nhiều hành động và sự tương tác lẫn nhau đã gắn kết loài người trên toàn cầu. Nghiên cứu môn học này là cơ hội để tìm hiểu những vấn đề thú vị nhất trên thế giới. Thứ hai, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học quan trọng. Kinh tế chính trị quốc tế mở ra những trang đầu tiên của mỗi ngày bởi lẽ những sự kiện kinh tế chính trị quốc tế ảnh hưởng đến tất cả chúng ta như là công dân của thế giới, là cư dân của các quốc gia dân tộc cụ thể, và là người tham gia hàng ngày vào hệ thống thị trường toàn cầu. Những sự kiện kinh tế chính trị quốc tế đang ảnh hưởng đến tất cả chúng ta và điều quan trọng là chúng ta cần hiểu rõ những sự kiện đó để biết được chúng ta phải gắn kết và có thể gây ảnh hưởng đến các vấn đề toàn cầu như thế nào. Thứ ba, Kinh tế chính trị quốc tế là một môn học hữu ích. Những người chủ các đơn vị tổ chức tư nhân hay nhà nước đều đang tìm kiếm những người lao động có khả năng suy nghĩ rộng và tư duy phê phán, là người hiểu rõ những hệ thống phức tạp và luôn vận động, những người coi trọng sự ảnh hưởng của các điều kiện xã hội và những giá trị thay thế. Nói tóm lại, các ông chủ cần những người hiểu được bối cảnh quốc tế của hoạt động hàng ngày của loài người. Kinh tế chính trị học là một môn khoa học xã hội giải quyết trực tiếp nhất những nhu cầu đó. Để hiểu được những điểm cơ bản của kinh tế chính trị quốc tế, chúng ta cần phân tích tên của môn học này. Trước hết, từ “quốc tế” (international) trong cụm từ này có nghĩa là môn học sẽ giải quyết những vấn đề xuyên biên giới quốc gia, có liên quan đến hai hay nhiều quốc gia-dân tộc. Ngày nay người ta hay dùng từ “toàn cầu” thay cho từ “quốc tế”, bởi vì nhiều vấn đề ảnh hưởng đến toàn thể thế giới chứ không phải chỉ một vài dân tộc, nên đòi hỏi phải có cách hiểu và cách tiếp cận toàn cầu. Thứ hai, từ “chính trị” (political) ngụ ý việc sử dụng quyền lực nhà nước để quyết định những vấn đề trong xã hội như ai có cái gì, khi nào và như thế nào. Chính trị học là một quá trình lựa chọn tập thể, dẫn đến cạnh tranh và xung đột lợi ích, những giá trị của các chủ thể khác nhau bao gồm tổ chức xã hội các cá nhân, doanh nhân và các đảng phái chính trị. Quá trình chính trị khá phức tạp và đa tầng, liên quan đến nhiều quốc gia dân tộc, các quan hệ song phương, đa phương giữa hai hay nhiều quốc gia dân tộc, các tổ chức quốc tế, các liên minh khu vực và các thoả thuận toàn cầu. Cuối cùng, từ “kinh tế” (economy) hay “kinh tế học” (economics) đề cập đến việc phân bố các nguồn tài nguyên khan hiếm cho các mục đích sử dụng khác nhau và giữa các cá nhân thông qua quy trình thị trường phi tập trung. Khi phân tích dưới góc độ chính trị hay kinh tế người ta thường xem xét cùng một câu hỏi, tuy nhiên phân tích dưới góc độ kinh tế thường ít tập trung vào những vấn đề quyền lực nhà nước và lợi ích quốc gia mà chú trọng nhiều đến những vấn đề doanh thu, lợi nhuận và lợi ích cá nhân. Kinh tế chính trị kết hợp cả hai cách này để có thể nắm bắt được bản chất cơ bản của xã hội một cách đầy đủ hơn. “Quốc tế”, “chính trị” và “kinh tế” không tác động lẫn nhau trong một môi trường chân không. Môi trường văn hoá và xã hội phải được xem xét cùng với những giá trị của các chủ thể khác nhau. Những quá trình phát triển lịch sử của các vấn đề quan trọng cũng không thể bị bỏ qua. Vì thế, kinh tế chính trị quốc tế nhằm làm sang tỏ sự tương tác phức tạp của những con người thực trong thế giới thực với những thái độ, tình cảm và lòng tin của họ. Ở một góc độ nào đó, nghiên cứu kinh tế chính trị quốc tế là nghiên cứu cuộc sống hiện đại. Tại Washington, sau một ngày đàm phán liên tục, Tổng thống Clinton và chủ tịch Giang Trạch Dân cuối cùng đã thoả thuận được một số hiệp định thương mại quan trọng nhưng dường như lại làm rộng thêm khoảng cách giữa hai cường quốc về vấn đề nhân quyền. Trung Quốc đồng ý mua máy bay dân sự của Mỹ trị giá 3 tỷ đô la Mỹ và chấp nhận mở đường cho các công ty Mỹ tham gia cạnh tranh bán lò phản ứng hạt nhân cho Trung Quốc. Qua những cuộc gặp gỡ cấp cao, ông Giang nổi lên như là một nhân vật lớn trên thế giới, chỉ huy một trong những đội quân mạnh nhất và một trong những nền kinh tế mạnh nhất và phát triển nhanh nhất trên thế giới. Ông Giang làm chủ sân khấu cùng với tổng thống Clinton một cách bình đẳng, trong khi vẫn đang phải chịu đựng những lời chỉ trích nhức nhối về vấn đề nhân quyền ở Trung Quốc. Nhưng ông Giang vẫn nhận được sự kính trọng miễn cưỡng của Washington vì những áp lực mà ông này gây ra cho Washington . Vấn đề thương mại và mậu dịch trong quan hệ hai nước khá phức tạp nhưng rất quan trọng. Tổng thống Bill Clinton phải chọn giữa hai lợi ích quốc gia trái ngược nhau. Lợi ích kinh tế của cả Trung Quốc và Mỹ sẽ được đảm bảo bằng việc cho phép hàng hoá Trung Quốc thâm nhập thị trường Mỹ, một hình thức tương tự như quy chế tối huệ quốc (MFN), mặc dù đôi khi ở Mỹ nó được gọi bằng cái tên “Quan hệ thương mại bình thường” (NTR). Tuy nhiên Trung Quốc đã từng vi phạm nhân quyền theo chuẩn mực của văn hoá phương Tây. Kể từ cao trào của Chiến tranh lạnh năm 1962, chính sách của Mỹ không dành quy chế tối huệ quốc cho những nước vi phạm các chuẩn mực về nhân quyền của Mỹ. Vì vậy vấn đề là liệu chính sách đối nội của Trung Quốc về nhân quyền có phải là nhân tố trong chính sách kinh tế của Mỹ đối với Trung Quốc hay không. Sự căng thẳng giữa lợi ích kinh tế của Mỹ và các nguyên tắc đạo đức của nước này đã gây nên mâu thuẫn giữa hai cường quốc – vấn đề mà tổng thống Mỹ Clinton và Chủ tịch nước Trung Quốc Giang Trạch Dân đã nhiều lần tìm cách giải quyết thông qua các cuộc đối thoại trực tiếp. Để giải quyết vấn đề này, tổng thống Clinton và chủ tịch Giang đương nhiên trở thành chủ thể của kinh tế chính trị quốc tế. Họ phải đối mặt với vấn đề kinh tế quốc tế (thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ) nhưng cũng có dính líu tới chính trị quốc tế và chính trị nội bộ dựa trên những khác biệt văn hoá xã hội cơ bản giữa truyền thống nhân quyền ở Mỹ và Trung Quốc. Vấn đề chính trị của họ ở đây chính là làm thế nào để dung hoà lợi ích chung của hai bên giữa thương mại và quan điểm văn hoá nhân quyền đối lập nhau dù cho luật của Mỹ quy định hai vấn đề này phải gắn chặt với nhau. Tổng thống Clinton thừa nhận những tiến bộ của Trung Quốc trong một số lĩnh vực quan tâm, đó là điều kiện đạt được để có thể tuyên bố một số thỏa thuận kinh doanh giữa hai nước mà lâu nay chưa giải quyết được. Trong bài phát biểu khai mạc, ông Giang nói rằng: “Tổng thống Clinton và tôi có chung quan điểm rằng Trung Quốc và Mỹ có khả năng bổ sung cho nhau ở mức độ cao và một tiềm năng hợp tác kinh tế thương mại lớn”. Nhưng tổng thống Clinton khẳng định rằng người Trung Quốc có thể không mong có được sự thịnh vượng trong khi vẫn đàn áp tự do chính trị và xã hội. Clinton còn nói rằng Mỹ và Trung Quốc có “những bất đồng sâu sắc” về cách đối xử của chính quyền Bắc Kinh đối với các công dân của mình thậm chí còn tìm cách làm tăng thêm khoảng cách trong quan hệ thương mại hai nước. Khi xác định chính sách đối với Trung Quốc, tổng thống Clinton phải tính đến nhiều hình thức ảnh hưởng lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ, cũng như những ảnh hưởng đến các quốc gia khác. Clinton cần xem xét những quan điểm khác nhau về những hành động đó và những cách thức khác nhau sẽ ảnh hưởng đến người dân, hai dân tộc và hệ thống quốc tế; coi trọng những nhân tố lịch sử và sự khác biệt văn hoá sâu sắc. Nhưng cuối cùng, tổng thống Clinton cũng phải chọn giải pháp nới rộng đặc quyền thương mại MFN cho Trung Quốc nhằm thoả mãn một vài lợi ích kinh tế và chính trị, mặc dù Trung Quốc rõ ràng không đạt được tiến bộ nào trong vấn đề nhân quyền.
Kinh tế chính trị quốc tế
Kinh tế chính trị quốc tế (tiếng Anh: International Political Economy - IPE) là môn học thuộc ngành khoa học chính trị, nghiên cứu về sự tương tác giữa các yếu tố kinh tế và chính trị trong quan hệ quốc tế. Các học giả kinh tế chính trị quốc tế nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới toàn cầu hóa như thị trường kinh tế và tài chính quốc tế, phát triển quốc tế (chẳng hạn như sự nghèo khổ và vai trò của các tổ chức trong việc phát triển), rủi ro chính trị. Đầu thập niên 1970, một loạt các sự kiện quốc tế như khủng hoảng dầu lửa năm 1973, sự sụp đổ hệ thống Bretton Woods, hay yêu sách của các nước đang phát triển về việc thiết lập một Trật tự Kinh tế Quốc tế Mới (NIEO) buộc các nhà hoạch định chính sách cũng như các học giả phải quan tâm hơn tới sự tương tác giữa các yếu tố chính trị và kinh tế trong các sự kiện quan hệ quốc tế. Các học giả kinh tế chính trị quốc tế như Susan Strange khẳng định là các nghiên cứu trước đây về quan hệ quốc tế đã nhấn mạnh quá mức vai trò của luật pháp, chính trị và lịch sử ngoại giao.
Chi ngân sách Nhà nước là việc phân phối và sử dụng quĩ ngân sách Nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của Nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Cơ cấu chi ngân sách Nhà nước là nội dung các khoản chi và tỉ trọng của các khoản chi trong tổng chi ngân sách Nhà nước. Chi ngân sách Nhà nước là quá trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào ngân sách Nhà nước và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Do đó, chi ngân sách Nhà nước là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của Nhà nước. Cũng giống như thu ngân sách Nhà nước, để đánh giá và phân tích các khoản chi. Người ta cũng xây dựng các tiêu chí, và chính các tiêu chí này là căn cứ để phân loại các khoản chi. Là khoản chi có tính đều đặn, liên tục gắn với nhiệm vụ thường xuyên của Nhà nước về quản lý kinh tế - xã hội. Chi thường xuyên được mang tính ổn định, phần lớn mang tính tiêu dùng và gắn với cơ cấu tổ chức có tính bắt buộc. Là khoản chi nhằm tạo cơ sở vật chất kĩ thuật, có tác dụng làm cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Thông thường là các khoản chi lớn, không mang tính ổn định, có tính tích luỹ, gắn với mục tiêu, định hướng, qui mô vốn phụ thuộc vào nguồn, tính chất…. Bao gồm các khoản chi để Nhà nước thực hiện nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay trong nước, vay nước ngoài khi đến hạn và các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế. Chi tích luỹ: Là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế; là những khoản chi đầu tư phát triển và các khoản tích lũy khác. Chi tiêu dùng: Là các khoản chi không tạo ra sản phẩm vật chất để tiêu dùng trong tương lai; bao gồm chi cho hoạt động sự nghiệp, quản lý hành chính, quốc phòng, an ninh.
Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước, ngân sách chính phủ, hay ngân sách quốc gia là một phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Khoản 14 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước 2015 của Việt Nam định nghĩa: Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện trong một khoản thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của cộng đồng và nhà nước của từng cộng đồng.
Nếu được hỏi về ngân hàng trung ương là gì bạn có trả lời được không? Ngân hàng trung ương mang đến những chức năng như thế nào? Để thay đổi thị trường ngoại hối thì ngân hàng trung ương hướng đến những phương thức nào? Các nghiệp vụ không thể thiếu của ngân hàng trung ương hiện nay là gì? Tất cả các thông tin cần thiết cho bạn sẽ có trong bài viết này. Nếu được hỏi ngân hàng trung ương là gì bạn sẽ trả lời thế nào? Nếu bạn không làm trong ngành ngân hàng thì câu trả lời cho vấn đề này sẽ gặp khó khăn và không thể đưa ra được định nghĩ chính xác cho bản thân mình. Để biết chính xác được ngân hàng trung ương là gì thì timviec365.vn sẽ cho bạn đáp án chính xác nhất. Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay xe theo nhiệm vụ và chức năng, được phân loại thành ngân hàng nhà nước và ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhà nước còn gọi là ngân hàng trung ương thực hiện nhiệm vụ quản lý thị trường tiền tệ (money market), đảm bảo dòng chảy tiền tệ (cash flow)đáp ứng các yêu cầu của hoạt động kinh tế, thông qua việc thực hiện các chings sách tiền tệ và kết hợp với chính sách tài khóa của chính phủ. Các ngân hàng thương mại là trung gian tài chính, hoạt động theo luật tài chính ngân hàng. Ngân hàng trung ương là một định chế của nhà nước có nhiệm vụ chủ yếu của mình là kiểm soát về tiền tệ và kiểm soát các hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Trong tiếng Anh thì ngân hàng trung ương được dùng với cụm từ là “central bank” là cơ quan có trách nhiệm thi hành chính sách về tiền tệ với một đất nước. Vậy bạn sẽ hỏi mục đích hay mục tiêu của ngân hàng trung ương là gì hiện nay khi hình thành đó đúng không? Mục tiêu hoạt động của ngân hàng trung ương việc thực hiện các kế hoạch, các hoạt động giúp ổn định việc cung tiền, ổn định lại giá trị của tiền tệ, giải cứu các ngân hàng thương mại đang có nguy cơ đổ vợ, kiểm soát lãi suất của các ngân hàng trên thị trường tiền tệ hiện nay. Ngân hàng trung ương được giao trọng trách là độc quyền trong việc phát hành tiền tệ của một quốc gia theo quy định của pháp luật ban hành. Khi phát hành tiền tệ cần có sự phê duyệt thông qua về mệnh giá, về mức phát hành, về loại tiền,… dưới sự chỉ huy của chính phủ để mang đến sự thống nhất hệ thống tiền tệ của một quốc gia và đảm bảo cho sự an toàn trong việc lưu thông tiền tệ của quốc gia đó. Tiền tệ được ngân hàng trung ương phát hành là đồng tiền lưu thông hợp pháp duy nhất, và có tính cưỡng chế trong việc lưu hành. Khi phát hành tiền tệ thì ngân hàng trung ương cần đảm bảo các điều kiện về số lượng tiền cần phát hành, phương thức phát hành cũng như là thời điểm để phát hành nhằm đảm bảo phát triển nền kinh tế và sự ổn định của tiền tệ. Việc phát hành tiền tệ trên giấy cần đảm bảo trên cơ sở có vàng ngang bằng. Do đó việc phát hành tiền lưu thông dựa trên số lượng vàng lưu trữ của ngân hàng trung ương, điều này mang đến những bất cập khi không đáp ứng được yêu cầu lưu thông và trao đổi hàng hóa. Do đó, ngày nay khi phát hành tiền tệ thường sẽ dựa trên nghiên cứu về nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế của một quốc gia. Thứ nhất, thực hiện hoạt động mở tài khoản và nhận tiền gửi từ các ngân hàng trung gian. Ngân hàng trung ương sẽ nhận tiền gửi từ các ngân hàng trung ương với hai dạng là tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán. Thứ hai, hoạt động cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn được nắm giữ bởi các ngân hàng trung gian. Điều kiện để cấp tín dụng rất khắt khe vì nó liên quan đến việc phải phát hành một lượng tiền giấy mới. Ngân hàng trung ương chính là ngân hàng đóng vai trò “người cho vay cuối cùng” trong chuỗi vay tiền tệ của các ngân hàng. Thứ ba, ngân hàng trung ương chính là trung tâm để thanh toán và bù trừ cho các ngân hàng trung gian, góp phần tiết kiệm chi phí thanh toán cho toàn xã hội và các ngân hàng trung gian, giúp vốn luân chuyển trong hệ thống ngân hàng được nhanh chóng. Thứ nhất, làm nhiệm vụ thủ quỹ cho kho bạc nhà nước bằng việc thực hiện công tác quản lý tài khoản vầ các công cụ tài chính khác như trái phiếu, tín phiếu. của kho bạc nhà nước. Thứ hai, thực hiện việc quản lý dự trữ quốc gia với các loại tài sản chiến lược như vàng, ngoại tệ chứng từ có giá của nước ngoài và phải đảm bảo việc quản lý dự trữ không bị xuống dưới mức tối thiểu theo quy định của pháp luật. Thứ tư, ngân hàng trung ương chính là đại lý, là người đại diện và là người tư vấn về tài chính tiền tệ cho chính phủ nhà nước của một quốc gia. Khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất cần đảm bảo sao cho dòng tiền của quốc gia hấp dẫn với các nhà đầu tư những việc làm đó sẽ khiến cho hoạt động của các ngân hàng thương mại trở nên phức tạp hơn. Khi thay đổi lãi suất khiến các nhà đầu tư có thể tiết kiệm bằng tiền của quốc gia như vậy nó sẽ mang lại cho bạn thêm thu nhập. Về phía các ngân hàng thương mại sẽ làm tăng chi phí vay của ngân hàng với ngân hàng trung ương. Từ việc tăng lãi suất sẽ dẫn đến tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động tiền gửi trong nhân dân hiện nay. Trên thị trường mở sẽ diễn ra các giao dịch, để tăng dự trữ của ngân hàng trung ương thì ngân hàng cần mua công cụ chứng khoán. Và việc cho vay trong các doanh nghiệp sẽ tăng lên trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng trung ương sẽ kích thích sự phát triển của nền kinh tế của quốc gia. Thông quá cách thay đổi các điều kiện, từ đó giúp ngân hàng trung ương có thể giới hạn được khối lượng tín dụng cần phát hành cho các ngân hàng thương mại và tại sự thay đổi khối lượng tiền tệ của quốc gia, đất nước đó. Để giảm giảm hoặc tăng giá trị đồng tiền của một quốc giá thì ngân hàng trung ương cần hoạt động trên thị trường ngoại hối. Để làm được điều này thì ngân hàng trung ương cần thực hiện việc rút tiền hoặc “bơm” tiền vào thị trường quốc tế. Tài sản của ngân hàng trung ương có thể đặt vào các ngân hàng trung ương khác hoặc sử dụng cách trao đổi tiền tệ trực tiếp. Thứ nhất, nghiệp vụ thị trường mở với sở giao dịch chính là đơn vị để thực hiện công tác xem xét, việc công nhận tổ chức tín dụng thành cách thành viên tham gia vào thị trường mở. Thực hiện các giao dịch về giấy tờ, mua bán các loại giấy tờ có giá trị, tỷ lệ chênh lệch, tỷ lệ giao dịch, thời hạn cần mua, thực hiện hoạt động thanh toán và hoạt toán. Thực hiện việc quản lý và cung cấp các thông tin về nghiệp vụ thị trường mở đảm bảo được bảo mật thông tin và cung cấp thông tin chính xác. Các phương thức giao dịch của thị trường mở gồm có mua kỳ hạn, mua hẳn, bán kỳ hạn, bán hẳn với việc sử dụng đầu thầu lãi suất và đấu thầu khối lượng. Thứ hai, nghiệp vụ tái cấp vốn đây là hình thức cấp tín dụng của ngân hàng nhà nước với mục đích là cung cấp vốn ngắn hạn và các phương thức thanh toán cho các tổ chức tín dụng. Thứ ba, nghiệp vụ cho vay qua đêm, tham gia thị trường liên ngân hàng và nghiệp vụ thấu chi và đây là nghiệp vụ nhằm đáp ứng phần vốn thiếu hụt trong tài khoản thanh toán điện tử hiện nay. Thứ tư, thực hiện nghiệp vụ về chiết khấu giấy tờ có giá trị trong ngân hàng trên cả nước. Sở giao dịch được giao nhiệm vụ là trở thành đại lý phát hành tín phiếu kho bạc cho kho bạc của nhà nước và sử dụng hình thức đấu thầu trực tiếp với các nhà đầu tư (investor) như các tổ chức tín dụng, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại nước ta, các định chế tài chính theo quy định của pháp luật. Phối hợp với kho bạc của nhà nước để thực hiện các công tác đấu thầu tín phiếu, giám sát và kiểm tra việc tổ chức đấu thầu cho hoạt động phát hành tín phiếu và đảm bảo trong quá trình đó tuân thủ với quy định của pháp luật. Thứ nhất, nghiệp vụ về việc quản lý dự trữ ngoại hối của nhà nước, thông qua việc quản lý ngoại hối để thực hiện các chính sách tiền tệ của quốc gia, đảm bảo an toàn cho nguồn vốn ngoại tệ, khả năng thanh toán và khả năng sinh lời từ nghiệp vụ quản lý dự trữ ngoại hối. Thứ hai, thực hiện nghiệp vụ thị trường ngoại tệ liên ngân hàng với nhau của các ngân hàng trên toàn quốc. Qua chia sẻ về ngân hàng trung ương là gì giúp bạn có được những hiểu biết về ngân hàng trung ương và những vấn đề có liên quan đến ngân hàng trung ương. Bên cạnh đó nếu bạn đang muốn tìm việc làm trong ngành ngân hàng thì timviec365.vn chính là một địa chỉ uy tín và chất lượng để bạn có thể tin tưởng tìm việc làm cho bản thân.
Ngân hàng trung ương
Ngân hàng trung ương (có khi gọi là ngân hàng dự trữ, hoặc cơ quan hữu trách về tiền tệ) là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/nhóm quốc gia/vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.
Đại dịch Cúm được xem là bộ phim đại dịch bệnh có nét tương đồng với dịch bệnh SAR Covid đang hoành hành tại Việt Nam 2020 - 2021. Vì thế, bộ phim Hàn Quốc này đang cực kỳ HOT trở lại và có tỷ lệ lượt xem cao ngất. Phim lấy bối cảnh một chuyến tàu chở người vượt biên trái phép đến Hàn Quốc bị chìm. Và hiểm họa đã đến khi trên tàu có một số người mang mầm bệnh nguy hiểm. Và điều đáng tiếc đã xảy ra, dịch bệnh cướp đi nhiều sinh mạng. Lúc này nhân viên cứu hỏa Kang Ji-Koo và bác sĩ Kim In-Hae phải nhanh chóng tìm ra được chuẩn loại virus này. Virus này có cực kỳ nguy hiểm, chỉ trong vòng 36h nhiễm bệnh sẽ giết chết con người nếu không được chữa trị. Và thời trở thành nỗi ám ảnh cực đại khi Kim In Hae phát hiện ra chính con gái mình đã phải mắc virus này. Bối cảnh của phim Hàn Quốc - Alive là một thành phố hoang tàn, chết chóc bởi do cuộc bùng phát virus bất ngờ, mang cơn đại dịch đến khiến người dân trở nên điên loạn. Trong tình cảnh điện và internet đều bị ngắt, hai nhân vật chính là Joon Woo và Yoo Bin sống trong chung cư phải vật lộn tìm mọi cách để sống sót. Nội dung phim tập trung khai thác vào sự cô độc, và khả năng sinh tồn vốn có của 2 con người bình thường không có năng lực gì đặc biệt. Phim có những cảnh gây cấn, hấp dẫn khiến người xem không thể rời mắt. Bộ phim này khắc họa hình ảnh về đất nước Hàn Quốc hoang tàn sau khi trải qua trận đại dịch khủng khiếp. Hậu quả của đại dịch này đã khiến những người sống sót còn lại phải di tản khắp nơi để tránh zombie (xác sống). Và bán đảo Peninsula cũng vậy, vùng đất này trở nên hoang tàn và đầy chết chóc, ám ảnh với thây ma xuất hiện khắp nơi trên đảo. Đây là một bộ phim đại dịch hay, có nội dung lôi cuốn, giúp bạn có những phút giây thư giãn tuyệt vời, đặc biệt với những fan cuồng phim zombie. Bạn cùng đừng bỏ qua Train to Busan 1: Chuyến Tàu Sinh Tử nhé! Chính phần 1 đã giúp tên tuổi phim Hàn Quốc, đặc biệt là thể loại Zombie của Hàn Quốc gây ấn tượng với các nước trên thế giới. Bộ phim là sự truyền tải thông điệp của đạo diễn, ông muốn dùng virus corona so sánh ví von về nỗi sợ và chủ nghĩa phân biệt chủng tộc. Ông nói: “Virus không phân biệt, kỳ thị một ai, vậy tại chúng ta lại như thế?” Và ông cũng muốn nhấn mạnh thông điệp đến với mọi người rằng, thời điểm này chính là lúc nhân loại phải đồng lòng, đoàn kết với nhau để đánh bại đại dịch nguy hiểm này. The Hot Zone là một bộ phim đại dịch xoay quanh câu chuyện có thật đáng sợ về nguồn gốc của virus Ebola. Đây là một loại virus cực kỳ nguy hiểm, gây chết người với khả năng lây nhiễm rất cao có nguồn gốc từ các khu rừng ẩm ướt ở Trung Phi. Năm 1989, tại Hoa Kỳ trong một phòng thí nghiệm ở Washington DC, loại virus này đã bất ngờ xuất hiện. Vì không thể nào tìm được cách tạo ra phương thuốc chống lại virus ngay lúc đó, nên một nhóm bác sĩ của phòng thí nghiệm này đã phải cố gắng bằng mọi giá để ngăn chặn dịch bệnh cho nó không lây lan ra ngoài. Liệu sự cố gắng này có thể hay không? Cùng xem phim bạn nhé. Liệu bạn có bao giờ suy nghĩ: Điều gì sẽ xảy ra khi xác sống trở lại cuộc sống? Phim The Cured có nội dung nói về bối cảnh sau khi đã tìm ra phương thuốc chữa cho những người nhiễm virus xác sống trên thế giới. Diễn tả quá trình cứu chữa những xác sống hòa nhập lại cuộc sống, trong số đó có Senan. Senan là một người bị ám ảnh bởi những điều mình đã làm khi bị nhiễm bệnh và anh đã phải cố gắng rất nhiều để hòa nhập với cộng đồng. Nhưng liệu rằng xã hội có sẵn sàng mở lòng chấp nhận những người như anh. Bộ phim đại dịch The Cured có kịch bản chặt chẽ, là câu chuyện về tội lỗi và sự cứu rỗi cùng nhiều tình tiết hấp dẫn, kinh dị. Phim nói về sự nỗ lực tìm kiếm cách để cứu chữa con gái mình của người cha Andy. Do bị kẹt lại một vùng nông thôn Úc sau trận đại dịch kinh hoàng, Andy cũng không thể tránh khỏi được bệnh dịch trong khi cố thoát khỏi đám zombie đang săn đuổi mình. Nghiệt ngã hơn là anh chỉ có 48 tiếng để cứu đứa con gái sơ sinh của mình bằng cách tìm một chỗ ở an toàn. Đồng thời anh cũng phải khống chế được “con thú” dữ đang dần trỗi dậy trong người mình để bảo vệ con gái. Liệu rằng Andy có làm được không? Hãy xem phim bạn nhé. Được dựa theo một tiểu thuyết cùng tên của M. R. Carey năm 2014, phim The Girl With All The Gifts xoay quanh câu chuyện về loại dịch bệnh zombie.
Đại dịch cúm (phim)
Đại dịch cúm (tiếng tiếng Triều Tiên: 감기; Romaja: Gamgi; có tên tiếng Anh là Flu hoặc The Flu) là một bộ phim thảm kịch năm 2013 của Hàn Quốc do Kim Sung-su viết kịch bản và làm đạo diễn, kể về sự bùng phát của một chủng H5N1 đột biến gây chết người trong vòng 36 giờ kể từ khi ủ bệnh, làm quận Budang của thành phố Seongnam, nơi có dân số của gần nửa triệu người rơi vào hỗn loạn. Phim có sự tham gia của Jang Hyuk và Soo Ae. Anh em Ju Byung-woo và Ju Byung-ki là những kẻ buôn người sống tại Seoul, họ phát hiện ra chiếc xe buôn người vận chuyển những người nhập cư bất hợp pháp đã chết do một căn bệnh không xác định. Họ nhìn thấy và bắt người sống sót duy nhất là Monssai rồi gọi cho ông chủ, kẻ mua người của họ ở Budang, Byung-woo đã bị lây bệnh và Monssai trốn thoát. Hai anh em họ đến một bệnh viện và trên đường đi họ đã truyền bệnh cho những người khác làm dịch bệnh lan truyền khắp thành phố. Tại Contagion Center ở Budang, bác sĩ Kim In-hae bị kỷ luật vì làm mất hồ sơ quan trọng khi xe của cô bị rơi xuống trục mỏ vào ngày hôm trước.
Hôm nay New Ocean sẽ cùng các bạn khám phá một ngôi trường đại học Hàn Quốc mới. Nơi đây sẽ cho bạn nhiều lựa chọn hấp dẫn khi du học Hàn Quốc. Đó chính là trường Đại học Chung-Ang. Đại học Chung-Ang có tiền thân là trường mầm non thuộc hệ thống tu viện công giáo từ năm 1918, sau này trở thành trường nữ sinh đào tạo giáo viên mầm non năm 1922. Cho tới hơn 30 năm sau, vào năm 1953, trường chính thức trở thành trường Đại học Chung-Ang. Từ đó cho tới nay, nhà trường không ngừng phát triển và đã khẳng định được uy tín và chất lượng giáo dục bậc đại học của mình. Hiện tại, sinh viên du học Hàn Quốc tại trường Đại học Chung-Ang có thể đăng ký theo học tại một trong hai cơ sở sau: cơ sở chính nằm tại bên dàng sông Hàn, thủ đô Seoul và cơ sở thứ hai hiện ở Daedeok-myeon, Anseong-si, Gyeonggi-do. Dù bạn học tập tại đâu thì vẫn luôn nhận được những điều kiện học tập và sinh hoạt thuận tiện nhất. Với khuôn viên rộng khoảng hơn 10.000 m2 , nhà trường xây dựng đầy đủ mọi cơ sở cần thiết cho sinh viên sử dụng, như thư viện rộng lớn với hơn 1 triệu đầu sách và tài liệu học tập đa dạng, khu ký túc xá trong khuôn viên trường với đầy đủ các dịch vụ thiết yếu cho cuộc sống như máy bán hàng tự động, mạng internet, điện thoại, ngân hàng, bưu diện, trạm ATM, các quán café, nhà ăn,…Như vậy có thể thấy, sinh viên Đại học Chung-Ang có đầy đủ mọi thứ ngay trong khuôn viên nhà trường với chất lượng phục vụ tốt nhất. – Điều kiện nhâp học: tốt nghiệp trung học phổ thông với GPA từ 7.0 trở lên. Giữa muôn vàn những trường đại học danh tiếng tại Hàn Quốc, trường Đại học Chung-Ang vẫn luôn là một đia chỉ hấp dẫn nhiều bạn sinh viên quốc tế khi du học nơi đây. Vậy những lý do gì đã khiến các bạn lựa chọn ngôi trường này trong hành trình du học Hàn Quốc của mình?. 1/ Trước tiên phải kể tới đó là niềm yêu thích mà những sinh viên từng theo học tại Đại học Chung-Ang đánh giá về ngôi trường này. Những kết quả bình chọn của sinh viên đã đưa tên tuổi nhà trường ngày càng xích gần tới các bạn sinh viên hơn. 2/ Cùng với đánh giá của sinh viên là sự công nhận của Bộ Giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực về những cải cách đào tạo xuất sắc của nhà trường trong nhiều năm qua. Những cải cách này giúp Đại học Chung-Ang luôn cung cấp chương trình giáo dục chất lượng và hiệu quả. 3/ Nhà trường không ngừng mở rộng các mối quan hệ và hợp tác với các trường đại học trên thế giới. Cho tới nay đã có tới hơn 70 trường đại học ở 20 quốc gia đặt quan hê với nhà trường. Chính mối quan hệ rộng khắp giúp tên tuổi nhà trường tới gần với sinh viên quốc tế và thu hút nhiều bạn tới đây khi tới Hàn Quốc nghiên cứu và học tập. 4/ Nguồn học bổng của nhà trường khá hấp dẫn, hàng năm nhiều suất học bổng du học Hàn Quốc giá trị đã được trao cho các bạn sinh viên quốc tế có năng lực. Đây là nguồn động viên, khích lệ và là động lực để nhiều bạn phấn đấu. 5/ Không chỉ dừng lại ở chất lượng giáo dục, danh tiếng của nhà trường còn gắn liền với tên tuổi của nhiều ngôi sao nổi tiếng của làng giải trí Hàn Quốc như Jang Na Ra, Kim Hee Sun, Huyn Bin, Yuri,…những người đã tốt nghiệp từ các chuyên ngành sân khấu, điện ảnh và nhiếp ảnh hàng đầu của Hàn Quốc tại Đại học Chung-Ang. Như vậy có thể thấy trường Đại học Chung-Ang hứa hẹn là điểm đến hấp dẫn cho chúng ta khi tới du học Hàn Quốc trong tương lai. Em quan tâm du học thạc sĩ hàn quốc bằng tiếng anh, ielts 7.0, GPA 2.98/4.0 Ngàn. New Ocean Study là bộ phận chuyên tư vấn Du học, hợp tác chặt chẽ với hơn 500 trường THPT/CĐ/ĐH và Tổ chức Giáo dục Quốc tế danh giá trên thế giới.
Đại học Chung-Ang
Đại học Chung-Ang (hay còn gọi là Đại học Trung ương, viết tắt là CAU) là một trường đại học tư thục danh tiếng có trụ sở ở Seoul. Theo tờ báo Korea Joongang Daily vào năm 2013, CAU xếp hạng thứ 8 trên khắp đất nước Hàn Quốc, đặc biệt đây là trường đại học số một quốc gia trong lĩnh vực sân khấu, điện ảnh và nhiếp ảnh. Bên cạnh đó, trường xếp hạng thứ 7 về danh tiếng, thứ 7 về các văn bản được công bố trên SCI và xếp hạng 4 về tỉ lệ trao đổi sinh viên ra nước ngoài (5,1%). Dựa theo thống kê các trường đại học trên thế giới của công ty Quacquarelli Symonds (QS) năm 2013, CAU xếp hạng thứ 12 ở Hàn Quốc và thứ 71 ở châu Á.CAU được cấp phép thành trường đại học năm 1953, mặc dù lúc ban đầu đây là một trường mẫu giáo hệ thống tu viện năm 1918 và là một trường nữ sinh cho những giáo viên mẫu giáo từ năm 1922. Trường đại học tuyên bố năm 2018 sẽ là kỉ niệm 100 năm của họ. Trường có 33600 sinh viên đại học, 5200 sinh viên đã tốt nghiệp, 700 giáo sư và 500 cán bộ giáo viên làm việc bán thời gian.
Kể từ năm 1995, ngày 28 tháng 2 hằng năm là một trong những ngày lễ chính thức ở Đài Loan. Đây là ngày tưởng niệm những nạn nhân đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) đàn áp và giết chết trong một cuộc tổng nổi dậy toàn quốc năm 1947. Sự kiện này thường được biết đến với tên gọi “Thảm sát 228” (228 Massacre) vì nó đã bắt đầu vào ngày 28/2/1947. Trên 1.000 người xếp tưởng niệm nạn nhân của thảm sát 228 tại Đài Bắc vào tháng 2/2015. Sau khi xảy ra cuộc thảm sát 228 vào năm 1947, Tưởng Giới Thạch tuyên bố tiến hành thiết quân luật (martial law) trên toàn bộ đảo quốc Đài Loan. Kể từ đó, Quốc dân đảng (Chinese Nationalist Party – Kuomintang – KMT) dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch, đã áp dụng chế độ cai trị độc tài, độc đảng, cũng như tiến hành sử dụng nhiều biện pháp đàn áp dã man đối với phe đối lập. Giai đoạn này còn được gọi là thời kỳ “khủng bố trắng” (White Terror) trong lịch sử Đài Loan. Sau khi Thế chiến thứ 2 chấm dứt, Nhật Bản thua trận và đã trao trả Đài Loan cho Trung Hoa Dân Quốc (The Republic of China) và chính quyền đương thời của Quốc dân đảng vào năm 1945, chấm dứt 50 năm cai trị của Đế quốc Nhật Bản tại đây. Sau khi tiếp quản Đài Loan, chính quyền Quốc dân đảng đã thu tóm và “quốc doanh hóa” tất cả các ngành kinh tế mũi nhọn của đảo quốc, kể cả các ngành kinh doanh vốn thuộc về tư nhân lúc trước. Các mặt hàng nhu yếu phẩm như cà phê, trà, thuốc lá, v.v. trở thành kinh doanh đặc quyền của chính phủ mới. Đời sống của người dân Đài Loan trở nên thiếu thốn hơn rất nhiều so với thời bảo hộ của Nhật Bản (1895-1945) khi các mặt hàng thiết yếu đều bị nhà nước quản lý chặt chẽ. Cùng lúc, cuộc nội chiến tại Trung Hoa lục địa giữa Quốc dân đảng và người cộng sản còn đòi hỏi tài nguyên của Đài Loan phải được ưu tiên sử dụng cho quân đội tại lục địa. Vào năm 1947, giá gạo tại Đài Loan đắt gấp 400 lần so với Thượng Hải trong khi Đài Loan là nơi sản xuất ra gạo. Ngoài ra, chính quyền mới bài xích và kỳ thị người Đài Loan qua việc chỉ sử dụng nhân viên công quyền từ những người mới đến từ Trung Hoa và biết sử dụng tiếng “quốc ngữ” Quan thoại (Mandarin), vốn là ngôn ngữ chỉ phổ thông ở Bắc Kinh chứ không phải ở Đài Loan. Triển lãm tại Bảo tàng lịch sử Đài Loan về thời kỳ Nhật chiếm đóng. Về mặt xã hội, sau 50 năm là thuộc địa của Nhật, người Đài Loan đã tiếp nhận nền văn hóa Đông Kinh, sử dụng tiếng Nhật và có cách cư xử với nhau như người Nhật. Điều này tạo ra mâu thuẫn giữa người Đài Loan và những người Trung Hoa mới nhập cư, vì những người mới thì không thể chấp nhận văn hóa Nhật và cho rằng Nhật Bản là kẻ thù của họ. Thế nên, ngay cả giới trí thức tại Đài Loan cũng bị chính quyền mới coi thường chỉ vì họ đã được đào tạo bởi người Nhật Bản. Việc chỉ sử dụng người mới đến từ Trung Hoa và kỳ thị giới tinh hoa Đài Loan đã tạo ra một sự “độc quyền về chính trị” tại đây, dẫn đến tình trạng tham nhũng xảy ra một cách thường xuyên và tràn lan. Những xáo trộn về kinh tế, xã hội và chính trị tại thời điểm ấy đã dần dần tạo nên một sự bất ổn âm ỉ trong xã hội Đài Loan mà chỉ cần một mồi lửa nhỏ là sẽ bùng cháy. Đêm 27/2/1947, các nhân viên của Cục quản lý thuốc lá độc quyền (Tobacco Monopoly Office) và cảnh sát Đài Bắc phát hiện một phụ nữ trung niên là bà Lin Jiang-mai bán thuốc lá dạo trên đường phố. Bán thuốc lá lẻ bị xem là hành vi buôn lậu vào thời điểm ấy, vì đó là mặt hàng kinh doanh độc quyền của chính phủ. Các nhân viên của Cục quản lý thuốc lá và cảnh sát lập tức tiến hành tịch thu giỏ hàng của bà Lin và hai bên xảy ra tranh chấp. Cảnh sát đã dùng báng súng đánh vào đầu của bà và có tài liệu ghi là bà đã tử vong tại chỗ. Những người dân xung quanh vì cảm thấy bất bình với hành vi sử dụng bạo lực của các nhân viên chính phủ nên đã lên tiếng phản đối. Một viên cảnh sát đã nổ súng vào đám đông và bắn chết một người. Từ đêm đó cho đến ngày hôm sau, 28/2/1947, người dân đã tập trung tại cổng trụ sở của Cục quản lý thuốc lá ở thủ đô Đài Bắc và biểu tình yêu cầu chính phủ phải xử lý hình sự nhân viên cảnh sát đã gây ra án mạng. Thế nhưng, chính quyền Đài Loan lúc đó lại quyết định sử dụng bạo lực để trấn áp. Quân đội và cảnh sát đã dẹp tan người biểu tình bằng cách bắn trực tiếp vào đám đông đang tụ tập. Việc làm này đã dẫn đến tình trạng bạo động dâng cao hơn và có nhiều người tham gia vào đoàn người biểu tình hơn. Biểu tình ngày 28/2/1947 trước cửa Cục quản lý thuốc lá độc quyền ở Đài Bắc. Một số người biểu tình ở Đài Bắc đã chiếm được đài phát thanh và phát ra lời kêu gọi trên toàn quốc. Một cuộc nổi dậy của người Đài Loan phản đối chính quyền Quốc dân đảng đã bùng nổ vào ngày 28/2/1947. Trong những tuần tiếp sau đó, xung đột liên tục xảy ra giữa người biểu tình và chính quyền, cũng như giữa người Đài Loan và những người Trung Hoa mới đến từ lục địa. Một Ủy ban hòa giải (Committee on Settlement) được giới trí thức Đài Loan thành lập để đàm phán với phe chính phủ. Đồng thời, họ cũng kêu gọi người dân không sử dụng bạo lực, đặc biệt là với những người Trung Hoa mới đến từ lục địa để giảm bớt căng thẳng. Một bản kiến nghị gồm 32 điều, trong đó có những đòi hỏi về sự tự chủ cũng như quyền được tham gia vào các ban ngành chính phủ, được tranh cử vào Quốc Hội và các quyền chính trị khác của người Đài Loan, đã được ủy ban này đề ra với chính phủ Quốc dân đảng. Thống đốc Đài Loan lúc đó, Chen Yin, đã dùng kế sách hòa hoãn với Ủy ban hòa giải nhằm có thể nhanh chóng ổn định an ninh trật tự, và đã tỏ vẻ đồng ý với bản kiến nghị. Tuy nhiên, trên thực tế, lực lượng quân đội của Quốc dân đảng tại Phúc Kiến đã được huy động, và vào ngày 8/3/1947 đã tấn công vào Đài Loan để trấn áp cuộc nổi dậy. Hàng nghìn người đã bị xử tử tại chỗ mà không cần thông qua xét xử. Cuộc nổi dậy kéo dài gần 1 tháng trên toàn Đài Loan cuối cùng đã chấm dứt bằng máu và sinh mạng của hàng chục nghìn người dân vô tội. Theo một số tài liệu, con số nạn nhân thiệt mạng trong cuộc thảm sát ngày 28/2/1947 có thể lên đến gần 30.000 người. Ông Pan Hsin-hsing và hình người thân bị giết trong cuộc thảm sát 228. Khi đó ông mới 6 tuổi. Có rất nhiều nạn nhân của cuộc thảm sát 228 thuộc về tầng lớp tinh hoa của Đài Loan thời ấy. Từ vụ việc xử lý không thỏa đáng một người bán thuốc lá dạo của chính quyền, người dân đã nhìn thấy được sự bất cập của một nhà nước độc tài không có pháp trị, và họ quyết tâm phải thay đổi điều đó. Sau khi quân đội Quốc dân đảng khống chế được toàn bộ tình hình Đài Loan vào tháng 3 năm 1947, rất nhiều người vẫn tiếp tục bị bắt giữ và giam cầm nhiều năm sau đó, thậm chí một số còn bị thủ tiêu trong thời kỳ “khủng bố trắng.”. Thế nhưng, những người đấu tranh cho tự do dân chủ ở Đài Loan không hề chùn bước. Quá trình dân chủ hóa của Đài Loan kéo dài trên dưới 40 năm, từ tháng 2/1947 đến tháng 7/1987, và gặp sự đàn áp rất khốc liệt từ phía chính quyền. Trong suốt 40 năm đó, các nạn nhân của cuộc thảm sát 228 không hề được nhắc đến và cũng không có ai đòi công lý cho họ. Tuy nhiên, sau khi Đài Loan chuyển đổi thành công sang thể chế dân chủ vào năm 1987, công cuộc đòi hỏi minh bạch hóa sự kiện 228 bắt đầu có những chuyển biến tích cực. Năm 1995, Tổng thống Đài Loan Lee Teng-hui – một người từng là nạn nhân của “khủng bố trắng” trong thời kỳ thiết quân luật – đã công bố ngày 28/2 hằng năm là ngày tưởng niệm các nạn nhân của cuộc thảm sát 228, cũng như đại diện cho chính phủ Quốc dân đảng chính thức xin lỗi họ. Công viên Hòa Bình 228 ở Đài Bắc là nơi tưởng niệm các nạn nhân của thảm sát 228. Từ đó cho đến nay, ngày càng có nhiều tài liệu về thảm sát 228 và các nạn nhân được xuất bản. Nhiều cuộc vận động đòi hỏi công lý cho các nạn nhân (transitional justice) đã được thực hiện và hiện tại, đã có những dự thảo luật về vấn đề này đang được đề ra và thảo luận tại Quốc hội Đài Loan. Trong dịp kỷ niệm 70 năm cuộc thảm sát 228 vào tháng 2/2017, chính phủ Đài Loan công bố sẽ bạch hóa tất cả hồ sơ mật liên quan đến sự kiện lịch sử này để mọi người dân đều có thể hiểu rõ hơn về một giai đoạn, tuy đau thương nhưng lại rất quan trọng trong quá trình dân chủ hóa đất nước. Đóng góp ngay hôm nay và trở thành một phần của Luật Khoa - một tạp chí độc lập và phi lợi nhuận. Chúng tôi nói không với mọi hình thức kiểm duyệt và không đặt quảng cáo. Tìm hiểu thêm về Luật Khoa tại đây.
Khủng bố trắng (Đài Loan)
Khủng bố Trắng ở Đài Loan (tiếng Trung: 白色恐怖; bính âm: báisè kǒngbù) là việc đàn áp các nhà bất đồng ý kiến tiếp theo sau sự kiện ngày 28 tháng 2 của Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở tại đảo Đài Loan. Thời kỳ thiết quân luật ở Đài Loan kéo dài 38 năm và 57 ngày từ 19 tháng 5 năm 1949 đến 15 tháng 7 năm 1987. Thời kỳ thiết quân luật này của Đài Loan là thời kỳ thiết quân luật lâu nhất trên thế giới vào thời điểm nó được dỡ bỏ, nhưng đã bị vượt qua bởi thiết quân luật ở Syria của nhà cầm quyền đương thời dài hơn nửa thế kỷ, kéo dài từ năm 1963. Thuật ngữ "Khủng bố Trắng" theo nghĩa rộng nhất của nó đề cập đến toàn bộ giai đoạn từ 1947 đến 1987. Khoảng 140.000 người Đài Loan đã bị cầm tù trong thời gian này, trong đó có khoảng 3.000 đến 4.000 người bị xử tử vì sự chống đối thực sự hoặc được cảm nhận của họ đối với chính phủ Kuomintang (Trung Quốc Quốc dân Đảng) do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Tuy nhiên, hầu hết các vụ truy tố thực tế diễn ra vào năm 1950-1953.
“Kiểm thử phần mềm, ai làm chẳng được” – Một trong những nhận định phổ biến nhất về công việc của một Tester. Nếu bạn đã từng ít nhất một lần nghe nhận định này, đây chính là bài viết “giải oan” cho nghề kiểm thử phần mềm mà bạn nên đọc. Để giải oan cho những Tester, ITviec đã có một buổi trò chuyện vô cùng thú vị với một Tester đầy kinh nghiệm – anh Huỳnh Công Thành – Founder của AskTester.com để nghe anh chia sẻ thêm về nghề kiểm thử phần mềm, nhu cầu tuyển dụng cũng như những lời khuyên dành cho Tester trẻ. Testing, hay còn gọi là kiểm thử phần mềm, là một công việc vô cùng quan trọng trong chu kỳ phát triển phần mềm. Theo anh Thành chia sẻ, Testing là một công việc thú vị, mang lại nhiều giá trị và cũng ngày càng phổ biến. Cảm giác tự hào khi sản phẩm ra thị trường không có bug, người dùng thích. Điều đó chứng tỏ mình đã đóng góp giá trị tạo nên sự thành công cho phần mềm. Kiểm thử phần mềm cũng là một trong những ngành “hot” hiện nay. Cơ hội phát triển và chế độ đãi ngộ rất cạnh tranh. Về điểm trừ thì giá trị đóng góp của công việc Testing không rõ ràng so với phát triển phần mềm. Nếu sản phẩm đầu ra của Developer là dòng code, tính năng sản phẩm hay sản phẩm hoàn thiện. Còn sản phẩm của Tester là góp phần giúp sản phẩm hoàn thiện, nhờ vào việc tìm bug. Nhiều người vẫn có nhiều ngộ nhận về nghề kiểm thử phần mềm này, phổ biến nhất vẫn là “Kiểm thử phần mềm, ai làm chẳng được”. Nhận định trên khiến nhiều bạn trẻ cứ ứng tuyển vào ngành Testing mà không hề đắn đo rằng mình đã được đào tạo bài bản hay chưa. Hoặc phần lớn là Developer chưa tìm được việc phù hợp cũng ứng tuyển làm Tester. Cũng vì ngộ nhận “kiểm thử phần mềm ai làm chẳng được” nên một số bạn ngoài nền tảng kiến thức kỹ thuật tốt lại có tố chất của một Tester giỏi nhưng không chọn làm Tester vì “làm tester nghe không ‘oách’ bằng Developer” hay vì ngộ nhận là thu nhập của Tester không cao. Thực tế từ anh và bạn bè anh cho thấy thu nhập của Tester hoàn toàn có thể cạnh tranh với Developer. Nhiều người vẫn thường nói “Developers make. Tuy nhiên, càng gắn bó lâu với nghề test anh càng nhận thấy kiểm thử phần mềm thực ra cũng không hẳn chỉ là “break software”. Developer viết code, xây dựng tính năng sản phẩm dựa theo yêu cầu đặc tả. Trong khi Tester đóng vai trò như người thanh tra, đánh giá và kiểm soát chất lượng của sản phẩm thông qua việc tìm lỗi. Trong những năm đầu mới làm test, anh thấy rất phấn khích, xen lẫn tự hào mỗi lần tìm được bug làm “crash” sản phẩm và gây “lao tâm khổ tứ” Developer. Anh gần như xem bug là kết quả cuối cùng của Tester cũng như đấu tranh quyết liệt để Developer có thể sửa lỗi của mình. Tuy nhiên, một sản phẩm nhiều lỗi cũng không có gì là tốt cả. Suy cho cùng, mục đích cuối cùng của Testing vẫn là việc hỗ trợ team Developer tìm lỗi, ngăn ngừa lỗi để cũng ra được sản phẩm đúng thời hạn và “đủ tốt”. Tùy vào dự án, sản phẩm, giai đoạn Testing, loại Testing mà công việc của từng Tester sẽ khác nhau nhưng thông thường vẫn sẽ xoay quanh quy trình kiểm thử phần mềm như đã có nhắc đến ở trên. Ngoài ra, Nếu sản phẩm có bản cập nhật mới thì Tester sẽ tham gia thực thi Regression Test. Kỹ năng mà anh Thành muốn chia sẻ là kỹ năng đặt câu hỏi, đặt vấn đề. Testing không chỉ gói gọn trong việc xác nhận sản phẩm có vận hành đúng theo yêu cầu khách hàng hay không, mà còn là đánh giá xem những yêu cầu đó có hợp lí hay chưa dưới góc nhìn người dùng. Việc đặt câu hỏi tốt sẽ giúp gợi mở nhiều vấn đề quan trọng của sản phẩm. Từ đó giúp cung cấp thông tin đầy đủ cho chủ sản phẩm hoặc quản lý dự án, để đánh giá đúng về tình trạng sản phẩm. Ví dụ, khi nhận yêu cầu Test một sản phẩm, đa số Tester chỉ dừng ở mức nhận yêu cầu, viết – chạy test case. Nếu sản phẩm vận hành đúng theo yêu cầu đặc tả ban đầu thì cho Test Case “Passed.”. Sau đó, anh đã gợi ý cho Project Manager về thao tác để thêm vào sản phẩm, vì đó là hành vi mà người dùng có khả năng thực hiện. Khách hàng cũng đồng ý và sản phẩm cũng tốt hơn. Ngoài ra, anh nghĩ sự tò mò, sáng tạo cũng đóng vai trò quan trọng trong con đường sự nghiệp của một Tester. Vì tò mò giúp bạn luôn muốn tìm hiểu, khám phá thêm về sản phẩm. Còn sáng tạo giúp bạn nghĩ ra nhiều trường hợp kiểm thử thú vị mà các đặc tả, tài liệu hướng dẫn ban đầu chưa bao phủ hết. Testing hiện đang “hot” nên con đường phát triển gần như là không có giới hạn. Điều quan trọng là bạn không nên tự giới hạn năng lực bản thân. Hãy cố gắng trau dồi, nâng cấp kỹ năng và sẵn sàng đón nhận khi thử thách, cơ hội đến. Để bước vào nghề Tester hoặc để trau dồi kỹ năng kiểm thử phần mềm, bạn có nhiều sự lựa chọn như tham gia các khóa học online/offline, thi chứng chỉ, hay học hỏi từ bạn bè, cộng đồng, v.v… Một số khóa học online mà bạn có thể tham khảo:. Anh Thành vẫn thỉnh thoảng viết blog chia sẻ kiến thức về kiểm thử phần mềm ở AskTester.com, các bạn có hứng thú ghé ngang để cùng trao đổi về kiểm thử phần mềm. Phù hợp văn hóa công ty, nhóm: Nghĩa là khi phỏng vấn, anh đánh giá xem ứng viên liệu có phù hợp với văn hóa của công ty và nhóm của mình hay không. Kỹ năng chuyên môn: Yêu cầu kỹ năng cũng tùy thuộc vào level của Tester. Trong nhiều trường hợp, ứng viên không nhất thiết phải đáp ứng đầy đủ yêu cầu của vị trí. Quan trọng là bạn đó phải cho anh thấy khả năng, tiềm năng của một Tester trong tương lai. Còn chi tiết như thế nào thì gặp anh phỏng vấn sẽ rõ (cười). Đa dạng: Anh ưu tiên những bạn có những kỹ năng kiến thức đặc biệt để có thể bổ sung và tạo sự đa dạng trong team. Mục đích là tăng cường sự hỗ trợ cũng như tính linh hoạt trong team. Theo quan điểm anh Thành, nghề Testing vẫn còn đang rất “hot” về lương cũng như cơ hội việc làm, thậm chí anh nghĩ nó sẽ vẫn “hot” ít nhất trong 5-10 năm tới. “Lý do đơn giản là khi nào người ta còn làm phần mềm thì Testing vẫn là hoạt động không thể thiếu. Chưa kể, Việt Nam cũng đang nhận được nhiều thiện cảm của giới phần mềm về nguồn nhân lực Developer, Tester” – Anh Thành chia sẻ thêm về lý do cho sức hấp dẫn của nghề. Tuy nhiên, cơ hội thì nó cũng đi kèm với thách thức. Một vài thách thức anh chia sẻ rằng có thể diễn ra và thậm chí đang diễn ra:. “Testing” hiện đã không còn mang ý nghĩa đơn thuần là “manual testing” nghĩa là viết test case, chạy test case thủ công đơn thuần. Testing ngày nay gần như bao hàm ý nghĩa là Tester sẽ làm những gì cần thiết để test sản phẩm của mình. Đó có thể là chạy test case thủ công, đó cũng có thể là phải viết automation để tự động hóa công việc test thủ công của mình. Đó cũng có thể là hỗ trợ developer phân tích debug lỗi hay đóng góp ý tưởng để cải thiện tính năng sản phẩm v.v. Ngoài ra, mọi người nên thường xuyên vào các trang web về tuyển dụng như ITViec.com để cập nhật tình hình tuyển dụng, yêu cầu công việc để có thể chủ động lên kế hoạch phát triển bản thân tương ứng. Công nghệ thay đổi hằng ngày hằng giờ. Để có thể bắt kịp xu hướng và test một cách hiệu quả, Tester phải thường xuyên cập nhật kiến thức về công nghệ thông tin, kiến thức, kỹ thuật test mới. Bạn có thể tham gia diễn đàn, hội thảo, meetup về Testing để trao dồi, rèn luyện kỹ năng. Một trong những cách để tự trau dồi kiến thức cho bản thân rất thú vị mà anh Thành khuyên các Tester trẻ nên làm đó chính là viết blog. Bạn không cần phải đợi đến khi trở thành “expert” để có thể viết blog và chia sẻ. Bạn cũng không cần năng khiếu về viết lách để có thể viết blog. Ngoài việc giúp bạn rèn luyện kỹ năng viết, trình bày (kỹ năng trình bày đóng vai trò quan trọng trong Testing), viết blog còn giúp bạn nâng cao kiến thức Testing vì khi viết bạn sẽ phải nghiên cứu cặn kẽ, thấu hiểu vấn đề sâu rộng, tổng hợp thông tin chi tiết. Hơn hết, những kinh nghiệm, kiến thức bạn chia sẻ, không chỉ giúp bạn tự “ôn tập,” mà còn giúp ích cho những bạn khác. Hãy tạo ngay một blog và bắt đầu viết. Nếu không có công nghệ mới gì để viết, hãy viết về kinh nghiệm bạn từng trải qua, hay thậm chí là một lỗi/ thất bại và bài học bạn rút ra. Tiếng Anh đóng vai trò quan trọng trong công việc (đặc biệt là các dự án outsource). Tuy nhiên, có một thực tế là nhiều bạn luôn phàn nàn, hay “bị” phàn nàn về kỹ năng tiếng Anh khi làm việc nhưng lại lười không chịu học tiếng Anh, hay bỏ ngang giữa chừng vì không thấy hiệu quả như mong muốn.
Kiểm thử phần mềm
Kiểm thử phần mềm (tiếng Anh: Software testing) là một cuộc kiểm tra được tiến hành để cung cấp cho các bên liên quan thông tin về chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ được kiểm thử. Kiểm thử có thể cung cấp cho doanh nghiệp một quan điểm, một cách nhìn độc lập về phần mềm để từ đó cho phép đánh giá và thấu hiểu được những rủi ro trong quá trình triển khai phần mềm. Đáp ứng được mọi yêu cầu hướng dẫn khi thiết kế và phát triển phần mềm. Có thể triển khai được với những đặc tính tương tự. Và đáp ứng được mọi nhu cầu của các bên liên quan. Tùy thuộc vào từng phương pháp, việc kiểm thử có thể được thực hiện bất cứ lúc nào trong quá trình phát triển phần mềm. Theo truyền thống thì các nỗ lực kiểm thử được tiến hành sau khi các yêu cầu được xác định và việc lập trình được hoàn tất nhưng trong Agile (là một tập hợp các phương pháp phát triển phần mềm linh hoạt dựa trên việc lặp đi lặp lại và gia tăng giá trị) thì việc kiểm thử được tiến hành liên tục trong suốt quá trình xây dựng phần mềm.
Đôi khi tôi thấy có những dự đoán khẳng định tương lai thế giới này phụ thuộc vào Trung Quốc, hoặc dự đoán ngược lại là Trung Quốc sẽ mãi mãi khó có thể lung lay được địa vị số một của Mỹ. Xin chớ hỏi vị trí của Brazil và Ấn Độ ở đâu. Vẽ lại bản đồ địa chính trị thế giới là một việc thú vị nhưng cũng làm phân tán sự chú ý. Thế kỷ 21 sẽ không được quyết định bởi sự lựa chọn trừu tượng của các quốc gia; ngược lại lực lượng thúc đẩy sự biến đổi thế giới là một tầng lớp trung lưu toàn cầu mới nổi lên. Câu chuyện của thế giới hai thập niên vừa qua đại để là sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng địa chính trị chuyển dịch mạnh mẽ từ phương Tây sang phương Đông. Quá trình tái cân bằng ấy sẽ còn tiếp tục một thời gian nữa. Thế nhưng sự so sánh địa vị tương đối giữa các cường quốc có từ trước với các cường quốc mới nổi lên đã che lấp một số động lực cơ bản hơn. So với sự biến đổi có thể xảy ra trong mối quan hệ giữa các quốc gia thì tình hình xảy ra bên trong các quốc gia ấy cũng rất đáng lưu ý. Sau hai chục năm nữa, thế giới hiện nay nơi người nghèo chiếm số đông sẽ trở thành thế giới hầu hết là tầng lớp trung lưu. Dĩ nhiên Chính phủ sẽ vẫn là hình thức tổ chức chính trị chủ yếu của các quốc gia. Của cải xã hội tăng lên chưa chắc đã có thể thay thế các đặc tính của văn hóa và dân tộc. Trong một số trường hợp, của cải thậm chí có thể tăng cường các đặc tính đó. Sự phục hồi chủ nghĩa dân tộc có thể trở thành mối đe dọa lớn đối với hòa bình và an ninh thế giới. Nhưng sự tái phân phối chưa từng có sức mạnh giữa kẻ cai trị với kẻ bị trị sẽ dẫn dắt hành động của phần lớn những kẻ mới bước lên sân khấu toàn cầu . Viện Nghiên cứu An ninh của Liên minh châu Âu (European Union Institute for Security Studies, EUISS) có trụ sở tại Paris mới đây đã công bố một bản báo cáo có sức thuyết phục dưới cái tên “Xu thế Toàn cầu năm 2030” (Global Trends 2030), cung cấp cho ta những số liệu cơ sở. Bản báo cáo cho biết : căn cứ theo xu thế hiện nay, tầng lớp trung lưu toàn cầu sẽ từ 2 tỷ người tăng lên 3,2 tỷ người vào năm 2020 và 4,9 tỷ người vào năm 2030 (dự tính tổng số dân toàn thế giới năm 2030 là hơn 8 tỷ người). Nói cách khác đây là lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, số người thuộc tầng lớp trung lưu sẽ vượt qua số người nghèo. Các nhà kinh tế có thể tranh cãi định nghĩa chính xác về tầng lớp trung lưu. EUISS định nghĩa những người có thu nhập khả dụng mỗi ngày từ 10 tới 100 USD là người thuộc tầng lớp trung lưu. Một định nghĩa khác đưa ra tiêu chuẩn cao hơn, coi những người có mức tiêu dùng thấp nhất mỗi ngày vào khoảng 15 USD là thuộc tầng lớp trung lưu. Xét theo tiêu chuẩn của phương Tây thì như thế cũng vẫn còn rất thấp – nhưng hãy thử nghĩ xem, có bao nhiêu người đang tồn tại với mức sống mỗi ngày 1 USD. Điều quan trọng là với ngay cả ước tính bảo thủ nhất, sức mạnh kinh tế sẽ được tái phân phối không thể thay đổi. Đáng chú ý nhất là sự biến đổi của châu Á. Số lượng người tiêu dùng ở mức trung lưu tại Trung Quốc hiện nay đã là hơn 160 triệu, chỉ kém nước Mỹ. Nhưng con số ấy chỉ chiếm có khoảng 12% tổng số dân Trung Quốc. EUISS dự tính đến năm 2030 tỷ lệ này sẽ lên tới 74%. Tại Ấn Độ, năm 2025 sẽ có một nửa số dân vượt qua ngưỡng thu nhập mỗi ngày 10 USD và đến năm 2040 thì 90% số dân Ấn Độ sẽ thuộc tầng lớp trung lưu. Trào lưu này sẽ lan ra tới các vùng khác bên ngoài châu Á. Đến năm 2030 số người đạt tiêu chuẩn tầng lớp trung lưu tại Brazil sẽ chiếm hơn hai phần ba số dân, còn số lượng người tiêu dùng tầng lớp trung lưu ở Trung Mỹ và châu Mỹ Latinh sẽ đuổi kịp Bắc Mỹ. Châu Phi biến đổi chậm hơn nhưng đến năm 2030 số người tầng lớp trung lưu vẫn tăng ít nhất gấp đôi so với hiện nay. Dĩ nhiên thu nhập khả dụng của những người tiêu dùng mới bước lên tầng lớp trung lưu này vẫn còn rất thấp so với tầng lớp trung lưu ở Bắc Mỹ và châu Âu. Nhưng tỷ lệ người các nước giàu trong tổng số người thuộc tầng lớp trung lưu toàn cầu có lẽ sẽ giảm hơn một nửa, từ 64% hiện nay hạ xuống còn 30%. Ảnh hưởng của biến đổi nói trên đối với tình hình trật tự chính trị bên trong các nước mới nổi lên sẽ sâu xa chẳng kém gì ảnh hưởng đối với mối quan hệ giữa các cường quốc mới nổi với các cường quốc có từ trước. Tầng lớp trung lưu sau khi lớn mạnh lên rất có thể sẽ yêu cầu chính phủ các nước phải cư xử có trách nhiệm hơn. Điều đó chưa chắc có nghĩa là họ sẽ mạnh mẽ yêu cầu thực hành chế độ dân chủ đại nghị kiểu phương Tây, nhưng tầng lớp tinh hoa cầm quyền hiện có (thông thường là độc đoán) sẽ phải chịu sức ép đến từ tầng lớp trung lưu. Sự phổ cập giáo dục – nhất là phổ cập trong nữ giới – và các tiến bộ không thể ngăn cản của công nghệ số sẽ thúc đẩy tầng lớp trung lưu tích cực hơn trong việc đòi tăng cường quyền phát ngôn của mình trong các tổ chức xã hội. Cuộc cách mạng công nghệ số đã thể hiện đầy đủ ảnh hưởng của nó trong thế giới Ả-rập. Việc mọi người cùng được hưởng thông tin tức thời và hầu như miễn phí đã đem lại cho tầng lớp trung lưu toàn cầu một thứ vũ khí mạnh mẽ trong cuộc đấu tranh giành quyền định đoạt số phận mình ở mức độ cao hơn. Số người dùng internet ở Trung Quốc hiện nay đã vượt tổng số dân nước Mỹ. Phương Tây quan tâm khi thấy triển vọng đáng mừng mấy tỷ người sẽ thoát khỏi nghèo đói thì gắn liền với viễn cảnh rất nhiều người – rất có thể là nhiều nhất trong lịch sử – sẽ tiếp nhận các giá trị quan cơ bản như tự do cá nhân, tôn trọng con người và pháp trị. Mức độ giàu có của xã hội không có mối liên hệ tất nhiên với sự tăng tiến tự do của cá nhân; cũng vậy, phồn vinh cũng không có quan hệ trực tiếp với dân chủ. Song có rất nhiều chứng cớ cho thấy khi xã hội càng giàu lên và trình độ giáo dục của xã hội càng cao thì số người tán thành các giá trị quan phổ quát sẽ càng nhiều. Các chính quyền chuyên chế trên toàn cầu sẽ đấu tranh chống lại sự giác ngộ chính trị ấy. Điều đó không có nghĩa là thế giới sẽ trở nên ổn định hơn và hòa bình hơn. Các cường quốc sẽ vẫn đọ sức với nhau. Khi phải chịu sức ép từ trong nước mình, các chính phủ rất có thể sẽ tìm kiếm kẻ thù ở bên ngoài biên giới. Sự cạnh tranh tìm kiếm nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự không tương hợp giữa nguyện vọng của tầng lớp trung lưu toàn cầu mới nổi với khả năng của chính phủ đều sẽ thúc đẩy các chính quyền chuyên chế đánh thức lũ ma quỷ của chủ nghĩa bài ngoại. Các định chế quản trị toàn cầu có thể bị rạn nứt mà không được hỗ trợ. Phải chăng trong tương lai thế giới khắp nơi sẽ giàu có hơn và càng thiết tha đòi tự do hơn? Chắc hẳn sẽ có tin mừng cho những người giữ niềm hy vọng ấy. Cách mạng Văn hóa, với tên gọi đầy đủ là Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản, là một trong những chiến dịch tuyên truyền lớn nhất và quan trọng nhất của Mao Trạch Đông, gây nên một giai đoạn hỗn loạn xã hội kéo dài suốt một thập kỷ tại Trung Quốc.
Tầng lớp trung lưu
Thông thường, thuật ngữ tầng lớp trung lưu hay giới trung lưu thường được dùng để chỉ những người có một mức độ độc lập kinh tế nào đó, nhưng không có ảnh hưởng quá lớn trong xã hội hay quyền lực trong xã hội của họ. Thuật ngữ này thường bao gồm các nhà buôn, những người có tay nghề, quan chức, và một số nông dân cũng như thợ thủ công có trình độ cao. Trong khi đa số người Mỹ tự coi mình thuộc tầng lớp trung lưu, chỉ 20% trong số đó có phong cách sống của Tầng lớp trung lưu ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, số 20% đó cũng được coi là Tầng lớp trung lưu chuyên nghiệp và là những thành viên có ảnh hưởng trong xã hội vì công việc của họ và tầng lớp này được coi là người tạo nên khuynh hướng chủ đạo của Mỹ. Các thứ bậc xã hội, và những định nghĩa thứ bậc đó rất khác biệt. Có nhiều nhân tố có thể dùng để định nghĩa tầng lớp trung lưu của một xã hội, như tài chính, các ứng xử và đất đai thừa kế. Tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia khác, tài chính là nhân tố quan trọng nhất định nghĩa vị trí một người trong xã hội.
Các vấn đề về cổ phần ưu đãi của công ty cổ phần được quy định tại Luật doanh nghiệp 2014. Trong công ty cổ phần, vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Tuy nhiên cổ phần trong công ty cổ phần có nhiều loại, chứ không đơn giản chỉ là một loại, bao gồm:. Là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hằng năm. Cổ tức được chia hằng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Mức cổ tức cố định cụ thể và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức (Điều 117 Luật doanh nghiệp 2014). Tuy nhiên, bù lại cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do Điều lệ công ty quy định (Điều 116 Luật doanh nghiệp 2014). Các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này. Tuy nhiên, bên cạnh việc có số phiếu biểu quyết nhiều hơn cổ đông phổ thông thì cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác. Như vậy, bên cạnh cổ phần phổ thông thông thường, công ty cổ phần còn có các cổ phần ưu đãi và những cổ đông sở hữu số cổ phần ưu đãi này sẽ được hưởng những quyền lợi đặc biệt mà cổ đông phổ thông không được hưởng. Trong quá trình hoạt động của mỗi doanh nghiệp sau khi thành lập công ty. Nếu doanh nghiệp xuất bán hàng hóa, dịch vụ, tư vấn thì phải tiến hành các thủ tục xuất hóa đơn giá trị gia tăng. Tư vấn giải đáp việc tăng vốn của doanh nghiệp tư nhân. Tư vấn thông tin cụ thể cho khách hàng. Tư vấn thủ tuc cụ thể cho khách hàng có nhu cầu
Cổ phần ưu đãi biểu quyết
Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết là cổ phiếu có số phiếu biểu quyết nhiều hơn so với cổ phiếu phổ thông. Số phiếu biểu quyết của một cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ công ty quy định. Chỉ có tổ chức được Chính phủ uỷ quyền và cổ đông sáng lập được quyền nắm giữ cổ phiếu ưu đãi biểu quyết. Ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập chỉ có hiệu lực trong ba năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau thời hạn đó, cổ phiếu ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập được chuyển đổi thành cổ phần phổ thông và họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông. Biểu quyết về các vấn đề thuộc thẩm quyền của ĐHCĐ. Các quyền khác như cổ đông phổ thông, trừ việc chuyển nhượng cổ phiếu đó cho người khác.
Có những người luôn sợ hãi những cây cầu. Những người mắc bệnh Gephyrophobia (hội chứng sợ những cây cầu) thường cố tránh đi qua cầu, chấp nhận đi đường vòng để không phải đi ngang qua chúng. Tất nhiên, khá nhiều cây cầu cũng có thể là trải nghiệm khó khăn cho những người mắc chứng sợ độ cao. Tuy nhiên, với một số cây cầu, kinh hoàng dường như là phản ứng hợp lý duy nhất. Ở đây, chúng ta sẽ xem xét 10 cây cầu sẽ khiến bất kỳ ai cũng chân run lẩy bẩy khi bước qua cầu. Cầu Royal Gorge, cây cầu cao nhất thế giới cho đến năm 2001, được xây dựng vào năm 1929 với giá 350.000 đô la. Cầu dài 384m bắc ngang qua hẻm núi Royal hùng vĩ của bang Colorado. Nước sông Arkansas cuồn cuộn chảy bên dưới với tiếng vang như sấm ở độ cao 291m, thỉnh thoảng lại có người lái những chiếc bè tung nước trắng xóa chiến đấu chống lại thiên nhiên. Người ta chỉ mất 6 tháng để xây dựng cây cầu. Hai sợi dây cáp chính, mỗi sợi nặng 200 tấn, bao gồm 2.100 sợi cáp riêng lẻ được xoắn với nhau. 1.292 tấm ván gỗ được bắt bù-loong để tạo thành sàn của cây cầu. Vì không có khung thẳng đứng đỡ cho cây cầu, nó có xu hướng di chuyển theo chuyển động bước chân. Điều này có thể làm bạn bối rối khi băng qua cây cầu nối liền hẻm núi ở độ cao 291m, với một dòng sông cuồn cuộn chảy dưới chân bạn. Nếu không thích đi ngang qua cầu, bạn luôn có thể thử những chiếc giỏ khí cầu; nó sẽ đưa bạn sang phía bên kia mà không cần phải hoảng sợ. Để băng qua Titlis Cliff Walk, trước tiên bạn cần phải leo lên núi Titlis; bạn sẽ thấy cây cầu đang chờ mình trên đỉnh núi. Sau đó, bạn phải đi bộ qua hang động của sông băng qua một đường hầm trong lòng núi để đến được nó. Titlis Cliff Walk cao khoảng 3.000m so với mực nước biển và dài 100m nhưng chỉ rộng 1m. Nó nối liền 2 vách đá trên dãy núi Alps của Thụy Sĩ. Cây cầu bắc qua một vực sâu khoảng 500m. Bạn sẽ phải đi 150 bước để tiến về phía bên kia. Còn bên dưới là vực thẳm. Khi đã đến được phía bên kia, bạn có thể ngồi vào chiếc ghế nâng “Ice Flyer” lên đỉnh phía bên kia của sông băng. Chúng ta chỉ có thể tự hỏi tại sao không ai nghĩ rằng chỉ cần leo lên phía núi bên kia. Lâu đài có tất cả mọi thứ mà một lâu đài nên có. Nằm trên đỉnh của một vách đá, có vẻ như nó sẽ bị chiếm giữ bởi một công chúa và một đôi rồng. Cây cầu không kém phần tuyệt vời so với lâu đài. Nó vượt qua 90m của con sông Pollat và mang đến tầm nhìn rực rỡ cho lâu đài. Cầu được xây dựng chỉ nhằm mục đích ngắm cảnh. Maximillian II đã xây dựng những trạm dừng để ngắm cảnh xung quanh khu vực và để chiêm ngưỡng tòa lâu đài. Vào những năm 1840, ông đã ủy thác việc xây dựng cây cầu làm quà sinh nhật cho người phối ngẫu của mình. Marie, may mắn thay lại thích leo núi và vì thế không sợ độ cao. Ngay cả con đường dẫn đến Puente de Ojuela cũng khó đi qua, nhưng bản thân cây cầu mới thật sự kinh hoàng. Cây cầu dài khoảng 300m và lơ lửng ở độ cao gần 100m trên một khe núi. Cây cầu chỉ rộng 0,6m. Rất may, Puente de Ojuela hiện chỉ được sử dụng bởi người đi bộ, nhưng nó từng được sử dụng bởi những con lửa chở hàng trong quá khứ. Cây cầu ban đầu được xây dựng vào năm 1898 và được sử dụng để chuyển vàng bạc khai thác từ các mỏ địa phương và vận chuyển nhu yếu phẩm. Cây cầu đu đưa khi bạn đi trên nó và mặc dù nó có tay vịn, khoảng trống giữa các tấm ván khá rộng, nghĩa là bạn có thể nhìn rõ hẻm núi bên dưới nếu đủ can đảm để nhìn xuống. Giao thông cũng di chuyển theo cả hai chiều trên cầu; vì vậy, bạn có thể thấy mình bị chen lấn khi đi trên cầu. Nếu đủ can đảm để đi qua cây cầu (được thiết kế bởi chính những người đã thiết kế cầu Brooklyn), bạn sẽ có thể ghé thăm bảo tàng thị trấn ma và một trong những mỏ bị bỏ hoang. Cầu treo Ghasa có lẽ nên được gọi là cầu đu đưa Ghasa. Do độ cao và khu vực dễ bị ảnh hưởng bởi gió lớn, cây cầu bị lắc lư, bập bênh khi người dân địa phương, du khách hay gia súc đi qua. Cây cầu trông mỏng manh, nhưng vẫn được cho là khá cứng cáp. Nó vẫn được sử dụng để vận chuyển gia súc, mặc dù những con thú đôi khi được che mắt để ngăn chúng hoảng loạn khi băng qua cầu. Và bạn có thể hiểu lý do tại sao. Giá như chúng ta cũng có thể che mắt mọi người. Cây cầu được cho là đã xây dựng để giảm bớt tắc nghẽn trên các cây cầu khác và được sử dụng hàng ngày bởi người dân địa phương đưa gia súc của họ qua nó, điều này làm cho ý tưởng về ùn tắc giao thông trở nên đáng quan tâm. Một trong những cây cầu trông khác thường hơn, cây cầu Iya Kazurabashi nằm ở thung lũng Iya, giữa những ngọn núi và suối nước nóng, Nhật Bản. Cây cầu dài 45m và nằm ở độ cao 14m trên sông Iyagawa. Nó được xây dựng từ một loại cây tên là Hardy Kiwi, mặc dù tương đối chắc chắn, nhưng không thực sự phù hợp để xây dựng cây cầu vì nó không bền và dễ bị mục nát. Không phải là loại vật liệu có chất lượng tốt để xây cầu. Tuy nhiên, Hardy Kiwi đã được sử dụng. Người ta nói rằng đây là việc làm có chủ ý để cây cầu có thể bị cắt ra nhanh chóng trong trường hợp có quân xâm lược, do đó ngăn chặn được quân đội xâm lược vượt qua hẻm núi. Cây cầu được xây dựng lại 3 năm một lần, và dây leo được buộc vào những cây tuyết tùng cao ở hai bên hẻm núi. Ngày nay, vì lý do sức khỏe và an toàn, dây leo dùng để che giấu các dây cáp thép bên trong chúng. Tuy nhiên, những khoảng trống rộng giữa các bậc của cây cầu, cho chúng ta tầm nhìn thẳng đứng của dòng sông bên dưới, và sự rung chuyển tự nhiên khi đi dọc theo nó vẫn đủ để khiến hầu hết du khách sợ hãi. Cầu Q’eswachaka, nằm trên đường Great Inca qua dãy núi Andes, là ví dụ tốt nhất của loại cầu treo Inca còn sót lại. Những cây cầu có tầm quan trọng sống còn trong việc kết nối và củng cố đế chế Inca, và chúng tiếp tục được sử dụng như một phần thông thường của hệ thống đường bộ trong nhiều thế kỷ sau đó. Một lần nữa, trong thời gian xung đột, những cây cầu đã bị triệt phá để bảo vệ cư dân khỏi những kẻ xâm nhập. Khi người Tây Ban Nha xâm chiếm, nhiều cây cầu đã bị đốt cháy. Cầu của người Inca được tạo ra bằng cách bện các sợi dây leo tự nhiên để làm sàn, tay vịn và các mối liên kết dọc giữa sàn và tay vịn để bảo vệ. Các cột đá neo các dây thừng ở hai bên cầu. Băng qua cầu không phải là một trải nghiệm suôn sẻ, và việc xây dựng lỏng lẻo của công trình cho phép người đi bộ có thể nhìn rõ con sông bên dưới. Cộng đồng địa phương làm mới cây cầu mỗi năm, thu hoạch cỏ và bện thành dây thừng. Các cư dân của mỗi bên của cây cầu sau đó làm việc với nhau để kéo các sợi dây qua. Họ không phá hủy cây cầu cũ cho đến khi cây cầu mới được xây dựng song song với nó. Mỗi cộng đồng bắt đầu làm việc ở đầu cầu của họ và gặp nhau ở giữa cây cầu. Toàn bộ cây cầu có thể được xây dựng lại trong ba ngày, sau đó các cộng đồng tập trung lại để ăn mừng. Cầu Kuandinsky trải dài 570m, bắc qua sông Vitim ở Siberia. Ban đầu, nó là một cây cầu đường sắt; đây là một cây cầu cho xe chạy không chính thức. Nó chỉ rộng hơn 2m và không có lan can hay biện pháp phòng ngừa an toàn dưới bất kỳ hình thức nào để ngăn ô tô lao xuống vùng nước đóng băng bên dưới. Nó bị rỉ sét và những thanh ngang bằng gỗ đã mục nát trong điều kiện khắc nghiệt. Không có sửa chữa lớn được thực hiện trên cây cầu, vì công ty đường sắt xây dựng nhưng chưa từng sử dụng nó, và không ai khác sẽ chịu trách nhiệm về nó. Người dân địa phương, có lẽ bị cái lạnh thường xuyên làm cho rối trí, bắt đầu sử dụng cây cầu như một lối tắt qua sông. Những chiếc xe hạng nặng có khả năng phá vỡ tà vẹt, và các lỗ được phủ bằng bất kỳ tấm ván dự phòng hoặc những mẫu gỗ nào có thể được tìm thấy nằm xung quanh. Điều này có nghĩa là họ phải ra khỏi xe và sửa chữa đường trên cầu. Và, chỉ để thêm vào, gỗ lót cầu được biết đến là cực kỳ trơn khi ướt. Dường như, các bác tài sẽ có nhiều điều để bàn tán trên chặng đường dài. Đôi khi, các nhà thiết kế cầu dường như là người thích những trò rắc rối, kinh dị.
Hội chứng sợ những cây cầu
Hội chứng sợ những cây cầu, có tên khoa học là Gephyrophobia, là một loại rối loạn lo âu hoặc ám ảnh cụ thể đặc trưng bởi sự sợ hãi của những cây cầu. Kết quả là, người mắc phải hội chứng sợ những cây cầu có thể tránh các tuyến đường sẽ đưa họ qua cầu. Một số giải thích có thể có của hội chứng này là nỗi sợ hãi lái xe khi qua khỏi hoặc đi trên những cây cầu, nỗi sợ hãi của một cơn gió thổi một cây cầu, nỗi sợ hãi về tính toàn vẹn cấu trúc của cây cầu, hoặc nỗi sợ rằng cây cầu sẽ sụp đổ nếu họ cố gắng để vượt qua nó. Nỗi sợ hãi này trùng lặp với hội chứng sợ độ cao vì hội chứng sợ những cây cầu có xu hướng trở nên trầm trọng hơn trong những cây cầu cao so với những cái gần sát mặt nước / mặt đất bên dưới. Tiến sĩ Michael Liebowitz, người sáng lập Phòng khám Rối Loạn Lo âu tại Viện Tâm thần Bang New York, nói, "Nó không phải là một loại ám ảnh cô lập, bởi nó thường là một phần của các loại ám ảnh tổng quát hơn.
Nhiều công ty tập trung nỗ lực của họ, để thúc đẩy bán hàng, trong việc tạo ra các chiến dịch tiếp thị hiệu quả. Đây là một thủ tục mang lại hiệu quả tích cực, và đó là lý do tại sao các tập đoàn lớn đầu tư số tiền rất lớn vào loại chiến dịch này. Hiện tại, với Dữ liệu lớn và dữ liệu được thu thập thông qua phần mềm chúng tôi sử dụng, có thể tạo ra các chiến dịch thực sự hiệu quả. Nhưng ngay cả như vậy, quảng cáo không phải là tất cả và có những lựa chọn thay thế rất tích cực như MRP. Với MRP, bạn có thể cải thiện lợi nhuận của doanh nghiệp mà không cần phải bán thêm số lượng sản phẩm hoặc dịch vụ. Điều này có vẻ phản trực giác, nhưng không phải vậy. Những chiến thuật này cũng không liên quan đến việc tăng giá trị của sản phẩm, mà có thể khá bất lợi về khả năng cạnh tranh. Thực hành MRP đi theo một hướng rất khác . MRP là viết tắt của lập kế hoạch nguyên vật liệu, hoặc lập kế hoạch yêu cầu nguyên vật liệu. Một quá trình trong đó công ty tập trung vào việc lập kế hoạch các nguyên vật liệu cần thiết để cải tiến việc sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ của mình. Bằng cách đó, bạn có thể tăng hiệu quả, giảm chi phí và đưa ra các quyết định giúp bạn đạt được kết quả tốt hơn. Giảm tồn kho nguyên vật liệu. Đối với điều này, nó cho phép kiểm soát tốt hơn việc sản xuất, giao hàng và mua hàng. Bên cạnh đó, nó có thể giúp phát hiện các vấn đề, cải thiện các phương pháp tiếp cận dài hạn của công ty, v.v. Trước sự xuất hiện của MRPKhi máy tính phổ biến trong toàn ngành công nghiệp, có những phương pháp khác như ROP (Điểm đặt hàng) hoặc ROQ (Số lượng đặt hàng) để quản lý sản xuất và tồn kho trong ngành. Trong thời gian Thế chiến IIViệc có trong tay tất cả các nguyên liệu cần thiết để đáp ứng nhu cầu mà không bị dự trữ quá nhiều trở nên đặc biệt quan trọng, bởi vì hiệu quả phải được cải thiện do nguồn lực khan hiếm. Đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự, cần cải tiến để có những gì cần thiết vào đúng thời điểm. Đó là những mầm đầu tiên hiện nay là MRP, mặc dù nó vẫn còn rất non nớt và không thể được coi là một phương pháp MRP hoàn chỉnh. Nhưng sau chiến tranh, khi các nhà máy phải thích nghi trở lại với sản xuất cho mục đích dân dụng, với những gì học được trong cuộc xung đột, việc kiểm soát hàng tồn kho, sản xuất và hậu cần có thể được cải thiện. El chương trình Polaris (Chương trình hạt nhân của Vương quốc Anh), một sự thay đổi mô hình là cần thiết, và đó cũng là một bước ngoặt khác để cải thiện MRP. Cùng với sự xuất hiện của Phương pháp Toyota, vào năm 1964, nó bắt đầu mở rộng trong toàn ngành, với Black & Decker là công ty đầu tiên áp dụng nó. Với sự xuất hiện của những chiếc máy tính đầu tiên, phần mềm MRP nó sẽ tiếp tục giúp việc triển khai ở nhiều công ty hơn và nâng cao hiệu quả của họ. Bằng cách này, vào những năm 70, khái niệm sẽ xuất hiện như chúng ta biết ngày nay. Năm 1983, Oliver Wight sẽ phát triển MRP II, và vào cuối những năm 80, một phần ba ngành công nghiệp đang sử dụng phần mềm MRP II. Trong phần trước, khái niệm MRP II cũng đã được giới thiệu, điều này có thể gây ra nhiều nhầm lẫn hơn nữa. Do đó, trong phần này, bạn sẽ có thể đánh giá cao sự khác biệt giữa cả hai. Về cơ bản, MPR tôi có thể trả lời các câu hỏi về bao nhiêu và khi nào Bạn phải mua vật liệu để phù hợp với nhu cầu sản xuất thực tế. Có nghĩa là, bạn có thể dự đoán các nhu cầu để nâng cao hiệu quả và việc lập kế hoạch sản xuất có thể được thực hiện. Và nó hoạt động dựa trên hai thông số cơ bản: thời gian và công suất. Với sự ra đời của phần mềm, mọi thứ dễ dàng hơn nhiều và có thể tự động tính toán số lượng sản phẩm được sản xuất và số lượng vật liệu chính xác cần thiết cho sản xuất. Nhưng đối với điều này, nhu cầu phải được phân tích cẩn thận. Gần đây, Dữ liệu lớn và AI Nó cũng có thể giúp cải thiện các hệ thống MRP này, vì chúng có thể phân tích nhu cầu hiệu quả hơn để xác định những gì cần thiết. Điều này đặc biệt quan trọng khi nói đến tuyên bố độc lập. Bạn nên biết rằng chúng tồn tại hai loại nhu cầu, cái độc lập, vì nó là một nhu cầu trong đó chỉ ảnh hưởng đến các điều kiện thị trường đối với thành phẩm. Điều này có thể dao động rất nhiều, ví dụ, doanh số bán xe có thể thay đổi tùy thuộc vào số lượng khách hàng quyết định mua một mẫu xe cụ thể, nền kinh tế, v.v. Mặt khác, nhu cầu phụ thuộc đơn giản hơn nhiều và được hướng đến các công ty sản xuất nguyên liệu thô hoặc các bộ phận. Ví dụ, nếu càng bán được nhiều ô tô, người ta biết rằng nhu cầu thép để làm ra chúng sẽ lớn hơn, cho phép một xưởng đúc tăng sản lượng để đáp ứng nhu cầu đó. Hệ thống MRP I có từ những năm 60-70 và không bao gồm một số khía cạnh của sản xuất hiện đại nhất. Đó là lý do tại sao nó phát sinh một sự tiến hóa được gọi là MRP II trong những năm 80. Một mô hình lập kế hoạch toàn diện hơn cho ngành công nghiệp hiện đại có khả năng tính toán các nguồn lực cần thiết, thời gian và cũng có thể tính đến tổ chức kinh doanh. Nói cách khác, nếu MRP I trả lời các câu hỏi bao nhiêu và khi nào, MRP II cũng có thể trả lời những nguồn nào có sẵn. Và điều này cho phép ngành công nghiệp có thể xác định các vấn đề về năng lực sản xuất và có thể giải quyết chúng. Điều này sẽ không chỉ trang bị cho công ty những gì họ cần mà còn có thể giúp công ty thích ứng tốt hơn với những thay đổi trong lĩnh vực này. hiện nay, phần mềm MRP hiện tại, mặc dù được gọi đơn giản là MRP, thường được gọi là mô hình MRP II. Một số ví dụ về các chương trình như vậy là:. Katana MRP, một phần mềm thông minh và trực quan để quản lý các nguồn lực cho ngành. IP &O thông minh, một phần mềm MRP dựa trên web để chạy từ bất kỳ thiết bị tương thích nào. Deltek Costpoint, một phần mềm hướng đến việc quản lý công việc, sản xuất và các công ty đang tìm kiếm các giải pháp thông minh. ERPAG, một phần mềm khác về cơ bản được định hướng cho ERP, nhưng điều đó có thể cung cấp một số chức năng MRP cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phần mềm OpenPro Enterprise, một phần mềm mã nguồn mở dành cho ERP tiên tiến, tích hợp nhiều công cụ khác nhau như báo cáo KPI thời gian thực, CRM, HRMS, v.v. MRPeasy, một chương trình MRP đơn giản cho phép trả lời các câu hỏi về chi phí sản xuất hiện tại là bao nhiêu và khi nào các đơn đặt hàng được yêu cầu sẽ sẵn sàng. Lý tưởng cho các công ty từ 10 đến 200 công nhân. Trong các chương trình này có các mục đi qua lịch trình sản xuất chính, danh sách các thành phần hoặc vật liệu cần thiết và tình trạng tồn kho hiện tại. Với điều này, phần mềm sẽ xử lý thông tin để đưa ra một số kết quả dưới dạng kết quả đầu ra, chẳng hạn như dự báo hàng tồn kho, lịch trình xây dựng theo đơn đặt hàng và các báo cáo khác. Nhân tiện, điều đó chương trình hoặc kế hoạch tổng thể sản xuất o PMP (trong tiếng Anh là MPS hoặc Master Production Schedule), được sử dụng làm đầu vào, về cơ bản nó là một phương pháp để xác định sản phẩm cuối cùng sẽ được sản xuất và thời hạn hoàn thành để đáp ứng đơn đặt hàng của khách hàng và dự báo nhu cầu sẽ có. Một khái niệm khác mà bạn nên biết là BOM (Hóa đơn nguyên vật liệu), tức là danh sách các nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Như tôi đã đề cập trong phần trước, một số chương trình này thực sự Công cụ ERP, và nó là điều đó trong nhiều trường hợp cả hai khái niệm có thể bị nhầm lẫn. Trên thực tế, ERP thực hiện một số chức năng của MRP, vì vậy rất nhiều phần mềm hiện có có thể thực hiện cả hai chức năng trong một bộ duy nhất. Một số khác biệt mà bạn nên biết là:. MRP không sử dụng cơ sở dữ liệu tập trung như ERP. MRP dựa trên một kế hoạch sản xuất tổng thể, trong khi ERP được chia thành nhiều khía cạnh tương tác với nhau và tất cả các bộ phận đều có đầy đủ thông tin. MRP phát sinh từ kinh nghiệm của một công ty, trong khi ERP cần phải điều chỉnh hoạt động sản xuất của một công ty để có thể áp dụng nó. ERP được tạo thành từ các mô-đun hoặc chức năng cụ thể, trong khi MRP là một mô hình mở hơn. Vì lý do này, ERP là một cái gì đó cụ thể hơn cho một số lĩnh vực nhất định. MRP II cũng cho phép mô phỏng để dự đoán nhu cầu trong tương lai, điều mà ERP không làm được. Giống như bất kỳ phương pháp nào, MRP có những ưu điểm và nhược điểm của nó. Một cái gì đó quan trọng cần được đánh giá trước khi triển khai hệ thống trong một ngành công nghiệp. Nó cho phép cải thiện sản xuất, điều chỉnh giá cả để làm cho chúng có năng lực hơn. Cải thiện sản xuất và đáp ứng nhu cầu sẽ chuyển thành dịch vụ tốt hơn. Nó cho phép cung cấp sự linh hoạt để thích ứng với mô hình và thích ứng với những thời điểm cần thiết. các bất lợi chúng được giảm bớt nếu việc thực hiện được thực hiện với cam kết tuân thủ mô hình MRP và không có sai sót nào (và thường là có, vì cần độ chính xác cao để nó hoạt động bình thường). Đó là, những hạn chế thường xảy ra khi MRP được sử dụng không đúng cách và người ta quên rằng MRP chỉ là một công cụ phần mềm và không liên quan đến việc đưa ra quyết định. Triển khai hệ thống MRP trong một công ty không phải là một nhiệm vụ dễ dàng Và nó nên được thực hiện một cách thận trọng như tôi đã trích dẫn ở trên. Một số lỗi cơ bản là do sử dụng dữ liệu không chính xác (giá trị thực so với giá trị lý thuyết), quản lý kém khả năng biến động của thị trường, ước tính kém về năng lực thực sự của công ty, yếu tố con người, không lường trước được các cuộc khủng hoảng kinh tế, v.v. Nếu không, nó có thể tương tự như một .
Lập kế hoạch yêu cầu vật liệu
Lập kế hoạch yêu cầu vật liệu (MRP) là một kế hoạch sản xuất, lập kế hoạch và kiểm soát hàng tồn kho được sử dụng để quản lý các quy trình sản xuất. Hầu hết các hệ thống MRP đều dựa trên phần mềm, nhưng cũng có thể tiến hành MRP bằng tay. Đảm bảo nguyên liệu có sẵn cho sản xuất và sản phẩm có sẵn để giao cho khách hàng. Lập kế hoạch hoạt động sản xuất, lịch giao hàng và hoạt động mua hàng. Trước MRP và trước khi máy tính thống trị ngành công nghiệp, các phương pháp sắp xếp lại điểm (ROP) / sắp xếp lại số lượng (ROQ) như EOQ (số lượng đặt hàng kinh tế) đã được sử dụng trong sản xuất và quản lý hàng tồn kho. MRP ban đầu được tạo ra để cung cấp cho chương trình Polaris sau đó, vào năm 1964, để đáp ứng với Chương trình sản xuất của Toyota, Joseph Mitchicky đã phát triển kế hoạch yêu cầu vật liệu (MRP). Công ty đầu tiên sử dụng MRP là Black & Decker vào năm 1964, với Dick Alban là người lãnh đạo dự án. Cuốn sách 1975 Yêu cầu vật liệu Lập kế hoạch có phụ đề Cách sống mới trong quản lý sản xuất và hàng tồn kho.
Khái niệm 1: Ngôn ngữ lập trình là một dạng ngôn ngữ máy tính, được dùng để viết ra phần mềm, tập lệnh hoặc các hướng dẫn cho máy tính làm theo. Hiện nay có rất nhiều ngôn ngữ lập trình đang được sử dụng. Mặc dù các ngôn ngữ cũng có điểm chung tương đồng nhưng mỗi ngôn ngữ lại có các cú pháp sử dụng riêng. Công việc của các lập trình viên là họ phải học các quy tắc, cú pháp và cấu trúc ngôn ngữ rồi thực hiện viết mã nguồn trong một trình soạn thảo hoặc IDE và biên dịch code thành ngôn ngữ máy để máy tính có thể hiểu được. Các ngôn ngữ script không yêu cầu trình biên dịch mà sử dụng các trình thông dịch để thực thi script. Khái niệm 2: Ngôn ngữ lập trình là dạng ngôn ngữ được chuẩn hóa theo một hệ thống các quy tắc riêng, sao cho qua đó người lập trình có thể mô tả các chương trình làm việc dành cho thiết bị điện tử mà cả con người và các thiết bị đó đều hiểu được. Hiển nhiên, ngôn ngữ lập trình dùng để viết nên các chương trình phần mềm. Vậy, một ngôn ngữ này được cấu tạo bởi những bộ phận cơ bản nào để thực hiện được điều này?. Mỗi ngôn ngữ lập trình có thể được xem như là một tập hợp của các chi tiết kỹ thuật chú trọng đến cú pháp, từ vựng, và ý nghĩa của ngôn ngữ. Các ngôn ngữ lập trình có thể được chia thành một số mô hình sau đây. Mỗi ngôn ngữ có thể thuộc nhiều loại. Chú ý: Còn rất nhiều mô hình khác có thể được sử dụng để phân loại ngôn ngữ lập trình. Ở đây chỉ liệt kê những mô hình phổ biến và nổi bật nhất.
Ngôn ngữ máy tính
Trong khoa học máy tính, ngôn ngữ máy tính là hệ thống giao tiếp với máy tính. Các ngôn ngữ như vậy được sử dụng để tạo mã máy tính hoặc mã chương trình, tập hợp các hướng dẫn tạo thành một chương trình máy tính được thực hiện bởi máy tính. Ngôn ngữ máy tính là một trong hai thành phần của phần mềm chạy trên phần cứng máy tính, phần còn lại là dữ liệu. Máy tính chỉ có thể thực thi các lệnh mã máy là một phần của kiến trúc tập lệnh. Bởi vì những hướng dẫn này rất khó để con người đọc và viết các chương trình phức tạp bằng mã máy hoặc các ngôn ngữ lập trình cấp thấp khác là một công việc tốn thời gian, hầu hết các lập trình viên viết mã nguồn của họ bằng ngôn ngữ lập trình bậc cao. Mã nguồn này được dịch sang mã máy bởi trình biên dịch hoặc trình thông dịch, để máy tính có thể thực thi nó để thực hiện các tác vụ của nó. Trình biên dịch tạo mã đối tượng thường bằng ngôn ngữ máy, nhưng cũng có thể ở ngôn ngữ trung gian ở mức thấp hơn nguồn.
Ý được biết đến là quốc gia có nhiều tác phẩm nghệ thuật, kiến trúc và ẩm thực lớn nhất thế giới. Vậy du lịch Ý có gì? Tại sao Ý thu hút khách du lịch hàng đầu thế giới? Hôm nay hãy cùng tìm hiểu với bọn mình nhé!. Lý do tạo nên sức hấp dẫn của Italia – Du lịch Ý có gì vậy nhỉ?1.1 Kiến trúc La Mã vĩ đại1.2 Những hồ nước tuyệt đẹp – Du lịch Ý có gì đẹp?1.3 Venice – Thành phố tuyệt vời của du lịch Ý1.4 Di sản thế giới – Du lịch Ý có gì hấp dẫn?1.5 Cái nôi nghệ thuật thế giới – Du lịch Ý có gì mà thu hút đến vậy?1.6 Nền ẩm thực đến từ sự đơn giản. 1.5 Cái nôi nghệ thuật thế giới – Du lịch Ý có gì mà thu hút đến vậy?. Mua quà gì về nhà khi du lịch Ý – Du lịch Ý có gì?3.1 Giày dép3.2 Quần áo3.3 Rượu vang Ý3.4 Túi xách. Ý được xem là cái nôi của nền văn hoá cổ đại. Khi du lịch Ý, bạn sẽ thấy nơi đây có rất nhiều công trình kiến trúc cổ. Nhiều du khách cũng như các nhà khảo cổ học đã tìm đến và khai quật. Những dấu tích của triều đại La Mã vẫn còn sót lại trên đất nước Ý hiện đại. Gợi lại thời kỳ hoàng kim của một trong những triều đại vĩ đại nhất trong lịch sử loài người. Quảng trường Roman Forum chính là trung tâm của La Mã xưa. Là nơi lưu giữ những toà nhà cũ, những ngôi đền cổ có tuổi đời hàng nghìn năm. Nhiều ngọn núi ở khu vực phía Bắc nước Ý được bao quanh bởi những hồ nước tuyệt đẹp, tạo nên khung cảnh sơn thủy hữu tình. Điển hình là hồ Como gần biên giới Thuỵ Sỹ được bao quanh bởi núi và đồi. Đồng thời đây là nơi được các ngôi sao quốc tế ưu ái lựa chọn để nghỉ dưỡng. Những hồ nước ở đây đẹp nhất vào mùa xuân và mùa hạ. Những hồ nước chảy qua dãy An – Pơ được coi là bí mật của nước Ý xinh đẹp. Lạc giữa hồ Maggiore, bạn có thể ngắm mặt nước tĩnh lặng, long lanh như ngọc trai. Những bến phà hối hả trên nền dãy An – Pơ khổng lồ. Hồ Maggiore nổi tiếng bởi luôn tràn ngập ánh nắng và mặt nước trong veo tựa như một bức mành che phủ phía chân trời. Du lịch Ý có gì? Mỗi khi nhắc đến Venice, người ta không quên mô tả nó bằng những từ ngữ đẹp đẽ nhất như thành phố tuyệt vời, tuyệt tác của các tuyệt tác, thành phố đáng sống, nơi khởi nguồn của cái đẹp…Venice là thành phố nổi độc đáo ở Ý. Mang vẻ đẹp cổ kính, có thể khiến trái tim của bất kỳ người nào tan chảy. Nói không ngoa, Venice là cục nam châm hút du khách từ khắp nơi trên thế giới đến Ý. 54 là số lượng công trình được công nhận là di sản thế giới. Con số này đưa Ý lên top những quốc gia có số lượng di sản thế giới nhiều hơn bất kì quốc gia nào. Trong số 54 di sản, Ý chỉ có 4 di sản tự nhiên, còn lại tất cả đều là các di sản văn hóa. Điều đặc biệt là các di sản này rất đa dạng, từ các hang động cổ cho đến các công trình đồ sộ như Tháp Nghiêng Pisa. Có thể nói, âm nhạc luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong nền văn hoá của Ý. Đây là đất nước của dòng nhạc Opera, những dòng nhạc cụ cổ điển như dương cầm, violin,…và hệ thống các ký hiệu âm nhạc hiện đại. Với nền tảng nghệ thuật, Ý cũng là một trong những quốc gia mà người dân được xem là lạc quan và lãng mạn nhất thế giới. Không chỉ riêng âm nhạc, điện ảnh của Ý cũng có từ lâu đời. Đây là quốc gia đặt những bước đầu tiên cho nền công nghiệp phim ảnh ở Châu Âu. Phim Ý thường dẫn đầu về số lượng giải Oscar. Những bộ phim kinh điển, mang tính nhân văn sâu sắc của điện ảnh Ý luôn được đánh giá cao. Qua đó giúp thế giới hiểu hơn về văn hoá, con người Ý. Những tác phẩm điện ảnh nổi bât của quốc gia hình chiếc ủng này có thể kể đến như: Thất thủ thành Troy, phim sử thi hoành tráng như Đánh chiếm thành Rome hay The Good, the Bad and the Ugly…. Đúng như tên gọi của nó, món ăn của người Ý đơn giản đến khó tin. Hầu hết, các món ăn của người Ý thường được chế biến bằng những nguyên liệu ít nhất có thể. Ví dụ, món ăn truyền thống có từ lâu đời của Ý là Bruschetta. Với một lát bánh mì dày được ăn kèm với tỏi, dầu ăn và cà chua. Hay món salad Caprese vốn là món ăn nổi tiếng bậc nhất của miền nam nước Ý cũng được thực hiện gồm phô mai Mozzarella, húng quế, cà chua và một ít rau thơm Oregano. Ở Ý, chất lượng của rau củ làm nên sự khác biệt lạ kỳ trong các món ăn. Họ tập trung đầu tư khâu nguyên liệu sao cho tươi ngon, mang đúng tinh thần của món ăn đơn giản. Những nguyên liệu khi đứng một mình thường rất nhạt, vô vị nhưng khi được kết hợp, chúng lại trở nên rất đặc biệt, đậm đà hương vị. Du lịch Ý mà không thử thì thật đang tiếc đấy!. Địa điểm đứng đầu trong danh sách nên tham quan nhất khi du lịch Ý. Được xây dựng vào thế kỷ 12 với hình dáng ban đầu không có gì khác với những ngọn tháp khác trên thế giới. Nhưng vì xây dựng trên nền đất lún nên theo thời gian tháp mới có hình dáng nghiêng đặc trưng như hiện nay. Nơi đây trở thành một trong những địa danh tham quan độc đáo nhất Ý. Hiện nay, sau nhiều nỗ lực cứu vãn sau nguy cơ sụp đổ, tháp nghiêng Pisa đã có độ nghiêng ổn định 3,9 độ. Bất kỳ du khách nào du lịch Venice, Ý cũng đều dành thời gian ghé qua Thánh đường St.Mark.Họ muốn chiêm ngưỡng kiến trúc Byzantine mái vòm độc đáo và các bức tranh ghép tuyệt đẹp cùng nhiều hiện vật vô giá khác. Đặc biệt, một số tòa tháp của thánh đường còn được dát vàng. Đây cũng là lý do điểm đến không thể không ghé qua một lần khi du lịch Venice, Ý này còn được gọi là Nhà thờ vàng. Trevi là một công trình điêu khắc vô cùng nguy nga, tráng lệ và thu hút rất đông khách đến tham quan và du lịch. Những bức tượng thần Neptune, thần Tritons, cá ngựa,…đều được chạm khắc rất tinh xảo từ đá vôi và đá cẩm thạch. Có một điều thú vị được truyền tai nhau là nếu chúng ta ném những đồng xu xuống đài phun nước thì những điều may mắn sẽ đến với ta. Có số liệu thống kê cho rằng mỗi ngày có đến hơn 3000 Euro được du khách ném xuống đài phun nước này và người ta đã sử dụng số tiền này để giúp những người nghèo tại Rome. Thật là nhân văn!. Nếu như bạn là một người thích mạo hiểm, thích du lịch khám phá thì hãy đến với núi lửa Vesuvius tại Ý. Núi lửa tại đây vẫn còn đang hoạt động. Khi đến đây, du khách sẽ được trực tiếp nhìn vào miệng núi lửa. Nếu may mắn bạn còn có thể được chứng kiến sức tàn phá khủng khiếp khi núi lửa phun trào. Bên dưới chân núi lửa là một công viên quốc gia, nơi chắc chắn sẽ mang đến cho bạn những trải nghiệm hết sức tuyệt vời. Những bãi đá tuyệt đẹp cùng một thị trấn nhỏ với kiến trúc độc đáo. Nơi đây được xây dựng bên sườn đồi và vách đá, điểm tô thêm những ngôi nhà đầy màu sắc đã giúp bờ biển Amalfi trở thành điểm đến tuyệt vời nhất Ý phải ghé qua một lần. Không chỉ vậy, bờ biển này đã trở thành bối cảnh của nhiều bộ phim và truyền hình nổi tiếng thế giới. Kênh đào Grand Canal là con đường giao thông hình chữ S nổi tiếng của Venice. Đây cũng là con đường giao thông chính tại Venice. Đến đây, du khách sẽ có được những trải nghiệm thú vị và lãng mạn bậc nhất như ngồi thuyền Gondolas, ngắm cầu Rialto cùng thành phố Venice xinh đẹp. Lắng nghe những giai điệu truyền thống du dương mà ca sĩ chính là những người lái thuyền cực kì vui tính. Theo kinh nghiệm thì nếu du lịch Venice, Ý vào tháng 9, bạn còn có thể chứng kiến cuộc đua thuyền trên kênh đào Grand Canal diễn ra hàng năm. Nơi này được coi là một trong các nơi đẹp và nổi tiếng nhất của Rome. Là một công trình kiến trúc tuyệt tác và có sức hút rất lớn với du khách không chỉ trong nước mà còn khắp nơi trên thế giới bởi những quán cà phê tuyệt đẹp. Đứng từ đây, bạn có thể đắm mình vào màn trình diễn vô cùng đặc sắc của những nghệ sĩ, quan sát được cuộc sống của thành phố. Nằm ở ngay trung tâm của thành phố Rome, được xây dựng bằng bê tông và đá. Đây là đấu trường được xem là lớn nhất của Đế chế La Mã. Là một công trình kiến trúc vĩ đại nhất của La Mã với sức chứa của nó từ 50.000 cho đến 80.000 khán giả. Đấu trường này được xây dựng vào khoảng những năm 70-80 sau công nguyên. Đây là công trình kiến trúc đã được UNESCO công nhận là di sản của thế giới.
Du lịch Ý
Với hơn 46,1 triệu lượt khách du lịch mỗi năm, Ý là quốc gia thu nhập từ du lịch cao thứ năm thế giới, là quốc gia đón nhiều du khách thứ năm trên thế giới, xếp sau Pháp (79,5 triệu khách), Hoa Kỳ (62,3 triệu khách), Trung Quốc (57,6 triệu khách) và Tây Ban Nha (56,7 triệu lượt khách). Du khách đến thăm nước Ý bởi sự phong phú về nghệ thuật, ẩm thực, lịch sử, thời trang và văn hóa, bờ biển tuyệt đẹp và những bãi biển, núi, và di tích cổ vô giá. Nước Ý cũng có nhiều di sản thế giới nhất so với bất kỳ nước nào khác trên thế giới. Du lịch là một trong những ngành phát triển và có lợi nhuận nhất và nhanh nhất của Ý, với doanh thu ước tính 136,1 tỷ euro. Roma, là thủ đô của Đế chế La Mã hùng mạnh và có ảnh hưởng, thu hút hàng ngàn thành phố và quốc gia từ khắp nơi trên đế quốc, trong đó bao gồm hầu hết các vùng Địa Trung Hải, Bắc Phi, Trung Anh (Anh) và các bộ phận của Trung Đông. Thương nhân và thương gia đã đến Ý từ các bộ phận khác nhau của thế giới.
Trong quá trình tích lũy tư bản, tư bản chẳng những tăng lên về quy mô, mà còn không ngừng biến đổi trong cấu tạo của nó. C. Mác phân biệt cấu tạo kỹ thuật, cấu tạo giá trị và cấu tạo hữu cơ của tư bản. – Về mặt hình thái hiện vật, mỗi tư bản đều bao gồm tư liệu sản xuất và sức lao động để sử dụng những tư liệu sản xuất đó. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó trong quá trình sản xuất gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Ví dụ: để biểu thị cấu tạo kỹ thuật cửa tư bản, người thường dùng các chỉ tiêu như số năng lượng hoặc số lượng máy móc do một công nhân sử dụng trong sản xuất, ví dụ 100 kW điện/1 công nhân, 10 máy dệt/1 công nhân. – Về mặt giá trị, mỗi tư bản đều chia thành hai phần tư bản bất biến (c) và tư bản khả biến (v). Tỷ lệ giữa số lượng giá trị của tư bản bất biến và số lượng giá trị của tư bản khả biến cần thiết để tiến hành sản xuất gọi là cấu tạo giá trị của tư bản. – Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị của tư bản có quan hệ chặt chẽ với nhau, những sự thay đổi trong cấu tạo kỹ thuật của tư bản sẽ dẫn đến những sự thay đổi trong cấu tạo giá trị của tư bản. Để biểu hiện mối quan hệ đó, C. Mác dùng phạm trù cấu tạo hữu cơ của tư bản. Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật của tư bản quyết định và phản ánh những sự biến đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. + Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, do tác động thường xuyên của tiến bộ khoa học – công nghệ, cấu tạo kỹ thuật của tư bản ngày càng tăng, kéo theo sự tăng lên của cấu tạo giá trị của tư bản, nên cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng ngày càng tăng lên. Sự tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản biểu hiện ở chỗ tư bản bất biến tăng tuyệt đối và tương đối, còn tư bản khả biến có thể tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm xuống một cách tương đối. Sự giảm xuống một cách tương đối của lư bản khả biến cũng sẽ làm cho cầu về sức lao dộng giảm một cách tương đối. Vì vậy, một số công nhân lâm vào tình trạng thất nghiệp. Như vậy, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên trong quá trình tích lũy chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn thất nghiệp trong chủ nghĩa tư bản. Còn nguyên nhân sâu xa của nạn thất nghiệp lại chính là ở quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hãy viết một đoạn văn ngắn (từ 7-10 câu) kể về việc học tập của em trong học kì I. 30/01/2017 9,004
Cấu tạo hữu cơ của tư bản
Cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo giá trị của tư bản, do cấu tạo kỹ thuật quyết định và phản ánh sự thay đổi của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Trong chừng mực cấu tạo giá trị đó do cấu tạo kĩ thuật của tư bản quyết định và phản ánh trạng thái cấu tạo kĩ thuật của tư bản. Do tác động thường xuyên của tiến bộ khoa học và công nghệ, cấu tạo hữu cơ của tư bản cũng không ngừng biến đổi theo hướng ngày càng tăng lên. Điều đó biểu hiện ở chỗ: bộ phận tư bản bất biến tăng nhanh hơn bộ phận tư bản khả biến, tư bản bất biến tăng tuyệt đối và tăng tương đối, còn tư bản khả biến thì có thể tăng tuyệt đối, nhưng lại giảm xuống một cách tương đối. Theo đó, lợi nhuận siêu ngạch theo C.Mác nó là khoảng dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ tư bản trong nông nghiệp luôn thấp hơn cấu tạo hữu cơ tư bản trong công nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông phẩm và giá cả sản xuất chung.