title
stringlengths 2
84
| link
stringlengths 20
112
| poem_text
stringlengths 47
126k
⌀ | author_name
stringclasses 348
values |
---|---|---|---|
Gặp Chị Điên | poem.php?poem=gap_chi_dien__huy_can | Chủ nhật qua tôi gặp một người điên
Trên mặt ngây thơ nét nét dịu hiền
Lấp loáng dọi hai mắt đà mờ ảo.
Sự sống thọt, đời không tỉnh táo
Chị cầm roi nhưng nào biết đánh ai.
Các trẻ em bu quanh chị, đùa dai,
Chị vút gió rồi đứng cười rờn rợn.
Người qua phố xem lâu, cũng chán
Bỏ chị đi như chợ vãn chiều hôm.
Chị là ai? Đau khổ lắm? Tay ôm
Bó quần áo rách tươm như giẻ vụn.
Chị đứng đó, thuyền trôi mất hướng
Mà bỗng nhiên biển hoá đá mênh mông.
Hỡi tâm hồn mắc cạn giữa dòng
Có phải chị còn chờ mong hướng gió?
Ai nhìn được trong tâm hồn mờ tỏ,
Trong não cân đã loang loang lổ vùng đêm?
Mắt chị nhìn đâu leo lét ngọn đèn,
Tôi bất giác nhớ ngày nhật thực
Bóng tối ăn hoen mặt trời sáng rực.
Đời tôi đã gặp nhiều chết nhiều đau,
Đã thấy những thân người như hoa héo nhựa xàu
Sự sống khô đi như dòng nước cạn
Nhưng nói sao hết lòng tôi đau đớn
Thấy chị đứng, đi, da thịt hồng tươi
Nói năng mà như không sống nữa rồi…
Sương chiều xuống như xoá nhoà cây cỏ.
Trong mắt chị chút hồn còn mờ tỏ
Cũng dường như pha loãng biến trong sương.
Chị về đâu? Mẹ chị đến, yêu thương
Nâng đầu chị như tay già chống chọi
Với trái sắp rơi, với hồn sắp tối.
Chuyện đau thương mẹ chị kể đầu đuôi,
Chuyện gia tài xâu xé, tình nghĩa pha phôi,
Chuyện đời cũ hơi tiền làm lạnh máu…
Chị mất trí, bị “cuộc đời” lừa đảo.
Sau màn sương trắng đục mặt trời chiều
Đỏ bầm như cục máu uất ai treo,
Cả hồn chị đã tím bầm trong đó.
Tôi tưởng nghe trong hồn ai sụp đổ
Rít vang lên cả quá khứ bạo tàn
Trong buổi chiều sương trắng lạnh màu tang.
12/54 – 5/59 | Huy Cận |
Hoa Sấu Bầy Ong | poem.php?poem=hoa_sau_bay_ong__huy_can | Mấy hôm chiều lại cơn giông
Có lùm hoa sấu trước song, quên mình
Chiều nay mây tạnh nắng lên
Đàn ong quen lại đến tìm lùm hoa
Ồ hoa đậu trái bây giờ?
Bầy ong ngơ ngẩn một bờ sấu xanh. | Huy Cận |
Học Sinh | poem.php?poem=hoc_sinh__huy_can | Gió thổi sân trường chiều chủ nhật
- Ôi! Thời thơ bé tuổi mười lăm
Nắng hoe rải nhặt hoa trên đất
Đời dịu vừa như nguyệt trước rằm.
Bốn vách nghiêm trang tiếng đọc bài
Đầu xanh dặm chục, nét văn khôi
Chiều xuân chim sẻ vô trong lớp
Ông giáo trông lên; chúng bạn cười.
Lén mắt thầy, xem lại bức thư
Của người cô họ, chú hiền từ
Bàn tay vơ vẩn đưa trang sách
Mộng tưởng phiêu lưu bức địa đồ.
Đôi guốc nằm hiên kéo bốn mùa
Tiền nhà ít gửi, biết chi mua!
Áo dài cọ mãi đôi tay rách,
Gương lược thăm hoài tóc ngắn thưa.
Chủ nhật nhiều khi chán nản ghê
Tung tăng sân bóng chạy tư bề
Bên vườn ông đốc dăm hoa nở
Đêm tới mau mau hái trộm về.
Lên gác yên tâm nghĩ sự đời
Hương nồng quanh gối vẩn vơ chơi
Giường bên cửa sổ, cây đưa mắt,
Không chịu mùng che để ngó trời.
Họ sống bình yên, bước lặng thinh.
Không nghe hoa bướm gọi bên mình.
Hừng hờ đi giữa hương yêu mến
Chân bước chưa khi rộn ái tình.
Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn,
Tuổi hai mươi đến, có ai ngờ!
Một hôm trận gió tình yêu lại
Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ. | Huy Cận |
Nằm Nghe Người Thở | poem.php?poem=nam_nghe_nguoi_tho__huy_can | Nằm nghe người thở bên ta
Nghe ta cùng thở vui hoà đêm nay
Nghe xe nghìn kiếp đưa quay
Nóng muôn hạt gió lừng bay ngực đời.
Trong hơi ta, trong hơi người
Lại nghe nằm nghỉ đất trời ban sơ
Hơi ta thành tựu thuở xưa,
Hơi người dằng dặc bao giờ cho tan!
Nghìn năm một cuộc giao hoan
Trước chưa xương thịt, sau tàn thịt xương,
Hoạ còn hơi thở hoa hương
Cho hồn gặp gỡ âm dương lối về... | Huy Cận |
Ngã Ba Đồng Lộc | poem.php?poem=nga_ba_dong_loc__huy_can | Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) là nơi giặc Mỹ đã đánh phá vô cùng ác liệt trong cuộc chiến tranh phá hoại vừa qua (trung bình một mét vuông ba quả bom lớn). Quân dân ta đã chiến thắng vẻ vang tại ngã ba Đồng Lộc, luôn luôn đường vẫn thông xe.
Con ơi, bố về thăm Hà Tĩnh quê ta
Bố kể con nghe về ngã ba Đồng Lộc.
Trên mặt đất này có muôn triệu ngã ba
Và có rất nhiều ngã ba nổi tiếng:
Có những ngã ba nối những dòng sông lớn của một đại châu, sóng dựng trùng trùng:
Có những ngã ba nối những con đường dài chạy từ các thủ đô to
Như những mạch máu khổng lồ
Trên thân hình trái đất
Trong đó mỗi con người là một hạt hồng cầu đỏ chói.
Có những ngã ba, là nơi gặp gỡ của những dòng văn minh lớn đông, tây, kim, cổ...
Tất cả những ngã ba trên, con có thể học biết trong sách địa dư, trên những bản đồ.
Mai sau lớn lên con có thể đến thăm và chụp ảnh nữa...
Xong rồi con có thể quên...
Nhưng con ơi, con chớ có quên ngã ba Đồng Lộc.
Trong đời mỗi người cũng có những ngã ba đường
Trong đời một dân tộc cũng có những ngã ba quyết định
Những ngã ba vận mệnh
Những cái nút trên dặm dài lịch sử
Gặp những ngã ba đời, con sẽ nghĩ suy
Và con ơi, muốn tìm đúng hướng đi
Con sẽ nhớ đến ngã ba Đồng Lộc.
Ngã ba Đồng Lộc:
Là ngã ba nhưng nào có phân vân
Nào có đắn đo do dự
Là ngã ba trên chặng đường quyết liệt
Những hướng đi đã quyết
Không phải cho một lần
Mà cho tất cả mọi lần
Không phải cho một người
Mà cho tất cả quê hương đất nước:
Hướng về Nam, một nửa mình Tổ quốc
Các ngã ba khác trên đời làm bằng nước, bằng sông, bằng thủy triều lên xuống.
Hay bằng đá, bằng đất
Bằng xi măng cốt sắt
Bằng vôi trắng, gạch nâu
Bằng đèn xanh, đèn đỏ đủ màu
Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã.
Nhưng ngã ba Đồng Lộc xây bằng xương máu
Khi con về quê, con nhớ viếng thăm
Mộ mười cô kề bên đường đỏ.
Các cô như còn đứng đó
Chờ lấp hố bom
Đường thông xe, các cô mới đi nằm
Các cô để lại tuổi thanh niên
Mười chín, hai mươi, hăm hai tuổi
Cho đất nước, quê hương
Hồn trong như suối,
Bình minh đời sáng rực vừng dương.
Con sẽ đi thăm mời cô La Thị Tám
Từ trường học lại về trận địa đầu non
Đứng giữa đàn bò, đàn bê mũm mĩm
Trên sườn núi cao cỏ đã mượt màu xanh
Như mảng da non trên thân thể đang lành
Cô sẽ chỉ cho con xem
Những hố bom loang lổ
Như đất trên mặt trăng
Mỗi thước vuông ba quả bom to bự.
Cô sẽ chỉ con xem
Nghìn vạn điểm lăn bom nổ chậm
Cô từng đến cắm cờ
Mỗi một lần chạy thi với cái chết.
Đôi chân cô nhanh hơn kíp nổ
Cô là một ngọn cờ đỏ của quê ta
Nghìn năm sau lịch sử sẽ còn ghi
Những năm tháng chiến tranh ác liệt
Nghìn vạn chuyến xe đi
Qua trái tim ngã ba Đồng Lộc
Máu qua tim máu lọc
Xe vượt qua ngã ba xe xốc tới miền Nam.
Và con ơi, bố ngồi nghĩ miên man
Bạn bè ta trong cơn gió lốc
Hẳn cũng đang vượt những ngã ba Đồng Lộc.
Những ngã ba Việt Nam
Dọc đường dài kẻ địch còn găm
Nhiều bom nổ chậm
Nhưng chẳng hề chi!
Khắp năm châu còn nhiều La Thị Tám
Nhiều Võ Thị Tân
Đường sẽ thông xe đi về cách mạng.
Hà Tĩnh 1971 | Huy Cận |
Ngậm Ngùi | poem.php?poem=ngam_ngui__huy_can | Nắng chia nửa bãi; chiều rồi...
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu.
Sợi buồn con nhện giăng mau;
Em ơi !Hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
Lòng anh mở với quạt này;
Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
Ngủ đi em, mộng bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ...
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ...
- Hồn em đã chín mấy mùa thương đau?
Tay anh em hãy tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi... | Huy Cận |
Nhạc Sầu | poem.php?poem=nhac_sau__huy_can | Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường
Phố đìu hiu màu khói cũ lên sương
Sương hay chính bụi tàn phai lả tả
Từng tiếng lệ: ấy mộng sầu úa lá
Chim vui đâu cây đã gãy vài cành
Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh
Môi tái nhạt nào mà cười héo vậy?
Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy
Xe tang đi về tận thế giới nào?
Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó
Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ
Trần gian sao? Đây thành phố đang quen
Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền
Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy!
Và ngựa ơi, đi nhịp đằm chớ nhảy
Kẻo thân đau, chưa quên nệm giường đời
Ai đi đưa, xin đưa tận cuối trời
Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi
Người đã chết - một vài ba đầu cúi
Dăm bảy lòng thương xót đến bên mồ
Để cho hồn khi sắp xuống hư vô
Còn được thấy trên mặt người ấm áp
Hình dáng cuộc đời từ nay xa tắp
Xe tang đi, xin đường chớ gập ghềnh
Không gian ơi, xin hẹp bớt mông mêng
Ảo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt!
Và ngươi nữa, tiếng gió buồn thê thiết
Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô đơn
Hàng cờ đen là bóng quạ chập chờn
Báo tin xấu, dẫu hồn người đã xế...
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế!
Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương
Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương
Tiếng nức nở gởi gió đường quạnh quẽ!
Sầu chi lắm! Trời ơi chiều tận thế! | Huy Cận |
Nhớ Hờ | poem.php?poem=nho_ho__huy_can | Lâng lâng chiều nhẹ ghé muôn tai
Trong bóng chiều như mờ tiếng ai
Thổi lạc hương rừng cơn gió đến
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung!
Có ai đàn lẻ để tơ chùng?
Có ai tiễn biệt nơi xa ấy
Xui bước chân đây cũng ngại ngùng…
Câm lặng. Hoa rơi cánh đợi chờ.
Chiều đi, ở lại mộng bơ vơ
Thoảng vòng tóc gió qua bên má,
Khiến động làn da rợn ý sờ. | Huy Cận |
Nhớ Mẹ Năm Lụt | poem.php?poem=nho_me_nam_lut__huy_can | Năm ấy lụt to tận mái nhà
Mẹ con lên chạn – Bố đi xa
Bốn bề nước réo, nghe ghê lạnh
Tay mẹ trùm con, tựa mẹ gà.
Mẹ cắn bầm môi cho khỏi khóc
Thương con lúc ấy biết gì hơn?
Nước mà cao nữa không bè thúng
Nếu chết trời ơi! Ôm lấy con.
Gọi với láng giềng, lời mẹ dặn
“Xẩy chi cứu giúp lấy con tôi!”
Tiếng dờn giữa nước mênh mông trắng
Đáp lại từ xa một tiếng “ời”
Nước, nước… lạnh tê như số phận
Lắt lay còn ngọn mấy hàng cau
Nhưng mà mẹ thức ngồi canh chạn
Mắt mẹ trừng sâu hơn nước sâu.
Vậy đó mẹ ơi, đời của mẹ
Đường trơn bấu đất mẹ kiên gan
Nuôi con lớn giữa bao cay cực
Nước lụt đời lên mẹ cắn răng.
Năm ấy vườn cau long mấy gốc
Rầy đi một dạo, trái cau còi
Trên đầu tóc mẹ thêm chùm bạc
Lụt xuống, còn vương mảnh nước soi. | Huy Cận |
Quanh Quẩn | poem.php?poem=quanh_quan__huy_can | Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười,
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.
Đời nhạt tẻ như tàu không đổi chuyến!
Đứng xem ngoài hay quay gót nhìn trong
Cùng thuộc rồi bàn ghế ở trong phòng,
Và trong đó: những hồn quen biết quá!
Đời nghèo thế! Không dành tôi chút lạ…
Đến ái ân cũng hết cả đợi chờ
Và mỗi ngày sau những giấc ngủ trưa
Mùng buông xuống không che sầu vũ trụ
À! Thế đấy, chốn hằng ngày cư trú
Ván bài đời may mắn chỉ ù suông
Ôi! Tâm tư ngăn giữa bốn bờ tường
Chờ gió mới, nhưng cửa đều đóng kín! | Huy Cận |
Sớm Mai Gà Gáy | poem.php?poem=som_mai_ga_gay__huy_can | Tiếng gà gáy ơi! Gà gáy ơi!
Nghe sao ấm áp tựa nghe đời
Tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp
Trâu dậy trong ràn, em cựa nôi
Cha dậy đi cày trau kịp vụ
Hút vang điếu thuốc khói mù bay
Nhút cà, cơm ủ trong bồ trấu
Chút cá kho tương mẹ vội bày
Gà gáy nhà ta, gáy láng giềng
Ta nghe thuộc mỗi tiếng gà quen
Cha ơi con chửa nghe gà chú!
Nó cũng như mày hay ngủ quên.
Hàng cau mở ngọn đón ngày vào
Xóm nhỏ nép bên triền núi cao
Gà lại gáy dồn thêm đợt nữa
Nắng lên xoè quạt đỏ như mào.
Gà gáy ơi! Tiếng gà gáy ơi!
Nghe sao rạo rực buổi mai đời!
Thương cha lủi thủi không còn nữa
Chẳng sống bây giờ thôn xóm vui...
1962
(Tuyển tập Huy Cận 1986) | Huy Cận |
Tạo Hoá Sinh Em | poem.php?poem=tao_hoa_sinh_em__huy_can | Tạo hoá sinh em đẹp thế kia
Để rồi lại sẽ xoá em đi
Sinh anh yêu đắm, yêu da diết
Để một ngày kia hết biết gì
Như nhựa hè lên chín trái cây
Cho anh ôm ngực tròn đầy
Anh ôm đôi gót hây hây đỏ
Như sớm chân trời mọc đỏ hây. | Huy Cận |
Thu Rừng | poem.php?poem=thu_rung__huy_can | Bỗng dưng buồn bã không gian,
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u.
Nai cao gót lẫn trong mù
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Sắc trời trôi nhạt dưới khe;
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng.
Sầu thu lên vút, song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.
Non xanh ngây cả buồn chiều
- Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia. | Huy Cận |
Thuyền Đi | poem.php?poem=thuyen_di__huy_can | Trăng lên trong lúc đang chiều,
Gió về trong lúc ngọn triều mới lên.
Thuyền đi, sông nước ưu phiền;
Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơị
Sang đêm thuyền đã xa vời;
Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn.
Canh khuya tạnh vắng bên cồn,
Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang.
Thuyền người đi một tuần trăng,
Sầu ta theo nước, tràng giang lững lờ.
Tiễn đưa đôi nuối đợi chờ
Trông nhau bữa ấy; bây giờ nhớ nhau | Huy Cận |
Tình Mất | poem.php?poem=tinh_mat__huy_can | Ôi! Những kẻ tôi chỉ chào một bận,
Chân xa mau, lòng chưa kịp giao thân,
Trên đường tôi nếu trở lại vài lần,
Chắc ta đã yêu nhau rồi, - hẳn chứ...
Một lời nói nếu có gan ướm thử;
Một bàn tay đừng lưỡng lự trao thơ;
Một lúc nhìn thêm, đôi lúc tình cờ,
Chắc có lẽ đã làm nên luyến ái...
Yêu biết mấy nếu có lần gặp lại!
Tôi vụng về, tôi ngơ ngác, nên chi
Người bên tôi mà để người đi,
Tôi làm nũng, quyết giữ lòng kiêu hãnh;
Người ở đó, tôi làm như ghẻ lạnh;
Người đi rồi, thôi mong mỏi gì đâu!
Những bàn tay đáng lẽ phải giao nhau,
Hờ hững thế! Không chịu cầm lưu luyến.
Ôi! Những kẻ cùng tôi không hứa hẹn!
Người không quen nhưng tôi chắc sẽ yêu;
Mặt vừa nhìn mà chân đã muốn theo;
Tình mới chép một hai dòng nhật ký;
Tên viết tắt, tin rằng lòng nhớ kỹ
Bạn một hôm đi đến rất tình cờ;
Tình quên đi ở trong những bức thơ
Viết không gửi, xếp nằm trong sách cũ;
Ôi! Bao kẻ chỉ một lần gặp gỡ!
Bởi vì sao lòng tôi rất thương đau
Khi nghĩ thầm: "nếu ta đã gần nhau!..." | Huy Cận |
Tình Tự | poem.php?poem=tinh_tu__huy_can | Sáng hôm nay hồn em như tủ áo
Ý trong veo là lượt xếp từng đôi.
Áo đẹp chưa anh! Hoa thắm thêu đời
Áo mơ ước anh bận giùm chiếc nhé.
Vàng rạng cùng xanh, hồng cười với tía,
Xin mời anh chọn hình sắc yêu đương.
Hồn em đây đủ muôn ánh nghê thường,
Anh hãy bận hồn em màu sáng chói.
Anh có biết hôm nay là ngày hội.
Của lòng ta. Em trần thiết, trang hoàng.
Anh đã về; em nghe dưới chân vang
Hoa lá nở với chuông rền giọng thắm
Thủa chờ đợi, ôi, thời gian rét lắm.
Đời tàn rơi cùng sao rụng cảnh canh thâu;
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,
Gió than thở biết mấy lời van vỉ?
Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỉ.
Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa
Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ
Tình rộng quá, đời không biên giới nữa.
Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở
Màu thanh thiên rời rợi, gió long lanh:
Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh | Huy Cận |
Tràng Giang | poem.php?poem=trang_giang__huy_can | Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài
H.C.
Tặng Trần Khánh Dư
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song,
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy giòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà. | Huy Cận |
Trăng Xuân | poem.php?poem=trang_xuan__huy_can | Đầu năm gió mát tựa hè
Nứt bung hoa gạo, bốn bề trăng xuân
Sông là người đẹp khoả thân
Núi xanh mơn mởn, bước gần bước xa
Lá ngô, lá mía rì rà
Áo đêm xuân khéo, mượt mà dải tơ | Huy Cận |
Trò Chuyện Với Kim Tự Tháp | poem.php?poem=tro_chuyen_voi_kim_tu_thap__huy_can | Năm nghìn năm đứng cười sa mạc,
Nắm chắc trong tay vĩnh viễn rồi!…
- Kim tự tháp! Ngươi thấy gì tự bấy?
- Thấy gió thổi bốn mùa, cát dậy;
Cát vung lên rát mặt thời gian,
- Kim tự tháp! Người vẫn cười ngạo nghễ?
Chấp năm tháng, xoa những đầu thế kỉ?
- Buổi đầu tiên tôi tưởng vậy, say sưa
Không cho ngày tàn, cắm mặt trời trưa
Trên đỉnh nhọn như kim cương lấp loáng
Trên mũ mão đầu Thiên Vương chói rạng.
- Nhưng rồi sao, Kim tự tháp ngàn năm?
- Trong lòng tôi một xác ép vua nằm;
Dưới chân tôi vạn thần dân chết lụi.
Vua muốn thắng thời gian vòi vọi
Nằm yên trong giấc đá, kín bưng.
Suốt đời vua lo chỗ ngủ cuối cùng,
Ôm cái chết mong thắng dần cái chết.
Thời gian thổi, hồn vua không sợ rét;
Mặt trời quay, trục tháp chẳng mòn xoay.
Vua ngủ yên nhưng tôi thức đêm ngày;
Cát, cát, cát nổi từng cơn dữ dội,
Cát thổi đập vào mình tôi nhức nhối.
Tôi thức vua cho vua biết: giữa trăng sao
Hạn nằm trong vĩnh viễn chẳng còn bao
“Dậy vua ơi! Cái chết chẳng thể rào
Được cái chết”. Vua ngủ mê giấc đá
Lở chân trời nhiều bạn tôi tàn tạ,
Hất ra ngoài vĩnh viễn xác vua phơi…
Tôi thấy thời gian rúng lạnh bốn chân tôi…
- Ngươi còn thấy những gì, Kim tự tháp?
- Từng thế kỉ những đoàn người cúi rạp
Dưới chân tôi rồi biến mất mù tăm…
Nhưng cũng đôi khi có những trán đăm đăm
Soi vằng vặc vào mặt tôi mà hỏi:
“Chất cái chết lên cao, trên mấy tầng mây nổi
Đã tấc nào thành sự sống hay chưa,
Hỡi nghìn năm Kim tự tháp chơ vơ!”
Tôi chết điếng trong lòng tôi tự đó
Tôi chết sững, chết thêm lần nữa
Trong từng vân, từng thớ đá thân tôi….
- Ngươi thấy gì, Kim tự tháp, nữa thôi?
- May tôi còn thấy giữa muôn trùng gió lộng
Thấy cái chết muốn trở thành sự sống
Cát kêu lên nỗi hoài vọng lớn lao:
Là cái chết khô, cát muốn hoá tế bào
Của tươi mát, thịt da, hoa lá…
Thấy cái sống muốn mọc từ cát đá”.
Trong chiều xanh, rìa sa mạc mênh mông
Ngô đầu mùa phơi phới đâm bông.
Bóng Kim tự tháp trải lên bờ sông mát,
(Chuyện ghi lại bên bờ gió cát)
Ai Cập, 7-1962 | Huy Cận |
Vạn Lý Tình | poem.php?poem=van_ly_tinh__huy_can | Người ở bên trời, ta ở đây;
Chờ mong phương nọ, ngóng phương nầy.
Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm,
Vạn lý sầu lên núi tiếp mây.
Nắng đã xế về bên xứ bạn;
Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy.
Trông về bốn phía không nguôi nhớ,
Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay.
Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt,
Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày.
Chiếu chăn không ấm người nằm một
Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay. | Huy Cận |
Xuân | poem.php?poem=xuan__huy_can | Luống đất thơm hương mùa mới dậy,
Bên đường chân rộn bước trai tơ.
Cây xanh cành đẹp xui tay với;
Sông mát tràn xuân nước đậm bờ.
Ồ những người ta đi hóng xuân;
Cho tôi theo với, kéo tôi gần!
Rộn ràng bước nhịp hương vương gót,
Nhựa mạnh tuôn trào tưởng dính chân.
Bắt gặp mùa tươi lên rún rẩy,
Trong cành hoa trẻ, cổ chim non.
- Có ai gửi ý trong xuân cũ,
Đất nở muôn xuân vẫn chẳng mòn. | Huy Cận |
Xuân Ý | poem.php?poem=xuan_y__huy_can | Đêm vừa nhẹ, gió vừa mơn
Cây chen ánh nguyệt trải vờn bóng xanh
Khuya nay, mùa động đầu cành
Đồng trăng lục nhạt, vàng thanh lối gần
Trăng êm cho gió thanh tân
Hương rừng tỉnh dậy ái ân xuống đồng
Đêm say không khí say nồng
Nghìn cây mở ngọn, muôn lòng hé phơi...
Khuya nay trong những mạch đời
Máu thanh xuân dậy thức người héo hon
Ngón tay tưởng búp xuân tròn
Có người ra dạo vườn non thẫn thờ | Huy Cận |
Đoạn Tuyệt | poem.php?poem=doan_tuyet__silva_kaputikyan | Знаю, знаю, что она красива,
Что глаза - темнее ночи звездной...
Уходи. От нашего разрыва
Рухнут стены... Прочь, пока не поздно!
Не гляди в глаза мои украдкой,
Эти слезы - вздор, и что в них толку!
Плачь не плачь, а счастье было кратко,
Плачь не плачь, а горю длиться долго.
Уходи скорей. Открыты двери.
Не следи за мной в тоске неловкой.
Сердце не свыкается с потерей,
Коль к тебе привязано веревкой.
Ты отходишь, и петля невольно
Затянулась, будто мы все ближе!
Это больно. Понимаешь? Больно.
Оторвись! Уйди скорей! Уйди же!
Em vẫn biết rằng cô ta đẹp lắm
Rằng đôi mắt – đen hơn cả trời đêm…
Anh đi đi. Đổ xuống những bức tường
Hãy tránh ra, một khi còn chưa muộn.
Và đôi mắt em anh đừng nhìn trộm
Dòng nước mắt này có được gì đâu!
Khóc hay không – đau khổ vẫn dài lâu
Khóc hay không – hạnh phúc thì quá ngắn.
Anh đi đi. Những cánh cửa mở toang
Đừng nhìn em trong nỗi buồn như thế
Với mất mát, con tim còn xa lạ
Bởi bằng dây đã từng buộc vào anh.
Anh bước đi, dây thòng lọng vô tình
Siết chặt lại, có vẻ ta gần hẳn
Nhưng anh biết không, ta càng đau đớn
Hãy bứt ra! Và hãy bước cho nhanh! | Silva Kaputikyan |
Em Bảo Anh Đi Đi | poem.php?poem=em_bao_anh_di_di__vo_danh | Да, я сказала: "Уходи", -
Но почему ты не остался?
Сказала я: "Прощай, не жди", -
Но как же ты со мной расстался?
Моим словам наперекор
Глаза мне застилали слезы.
Зачем доверился словам?
Зачем глазам не доверялся?
Em bảo anh đi đi
Sao anh không đứng lại?
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh lại ra đi.
Lời nói gió bay đi
Đôi mắt huyền đẫm lệ
Sao mà anh ngốc thế
Không nhìn vào mắt em.
Em bảo anh: “Đi đi!”
Sao anh không ở lại?
Em bảo anh: “Đừng đợi!”
Sao anh lại ra đi?
Những lời em trái ngược
Mắt em lệ đầy vơi
Tại sao anh tin lời?
Sao không nhìn đôi mắt? | Silva Kaputikyan |
Mấy Năm Sau | poem.php?poem=may_nam_sau__silva_kaputikyan | Я образ твой хочу сберечь.
Я не хочу с тобою встреч.
Порой спешу с пути свернуть,
Чтоб не столкнуться где-нибудь.
Да, я хочу, любимый мой,
Чтоб жил ты в памяти моей
Таким, как был ты той зимой,
Той давней ночью без огней.
Чтоб как тогда меня любил
И той же синью цвел твой взор, -
Чтоб ты нежнее снега был
И жег сильнее, чем костер.
Чтоб снова таяла зима
От жарких губ, от слов твоих,
Чтоб вновь я верила сама '
В неповторимость смысла их!
Казалось мне тогда - ты мог
Забыть и славу и себя
И мир восторга и тревог
К ногам моим сложить, любя.
Я образ твой хочу сберечь,
Я не хочу с тобою встреч,
С тобой, потухшим, серым, злым.
Ступай один путем своим.
Em muốn giữ gìn hình ảnh của anh
Nhưng gặp mặt cùng anh, em không muốn
Em bây giờ vội vàng rẽ sang đường
Để nơi nào đó không còn đụng chạm.
Vâng, em muốn để cho, anh yêu ạ
Anh mãi sống trong kỷ niệm của em
Anh là cái người của một mùa đông
Và của cái đêm ngày xưa không lửa.
Để cho anh yêu em như ngày đó
Và màu xanh ngày ấy ánh mắt anh
Để cho anh hơn cả tuyết – dịu dàng
Và cháy bừng mạnh mẽ hơn đống lửa.
Để cho mùa đông tan đi lần nữa
Vì bờ môi cháy bỏng, những lời anh
Và để em một lần nữa, tự mình
Tìm điều đặc biệt những lời nói đó!
Ngày ấy em ngỡ rằng anh có thể
Quên bản thân mình, quên sự vinh quang
Cả thế giới lo lắng và hân hoan
Sẽ quì xuống dưới chân em, yêu quí.
Em muốn giữ gìn hình ảnh của anh
Nên em không muốn cùng anh gặp mặt
Anh giờ nhạt nhẽo, tầm phơ, chán ngắt
Hãy bước đường anh, và chỉ một mình. | Silva Kaputikyan |
Cho Gió Cuốn Đi | poem.php?poem=cho_gio_cuon_di__nguyen_thanh_ha | Tôi hờ hững đóng gói một nỗi buồn
Gửi đi và biến thành kẻ khác
Để anh – gã đàn ông mang trái tim phờ phạc
Đứng lại ven đường
Nếu như ngày chỉ có mười tám tiếng đồng hồ
Hoặc đêm, hoặc ngày ngắn lại
Loài người đi về vội vã
Người ta yêu nhau vội vã
Hẳn gì ta đã nhớ nhau?
Kỷ niệm vò lại nát nhàu
Hương tóc em không còn làm đêm anh thao thức
Tình yêu không còn bùng cháy lên trong lồng ngực
Thì thôi,
Mình chia tay
Niềm vui không thể đi vay
Nỗi buồn có cho đi cũng không ai dám nhận
Thôi ta đành để lẫn
Giữa cuộc đời cho gió cuốn đi. | Nguyễn Thanh Hà |
Mùa Bão Lũ | poem.php?poem=mua_bao_lu__nguyen_phan_que_mai | Mùa bão lũ
Cha chống lại căn nhà
Gió tốc liêu xiêu
Mẹ xốc lại đôi quang gánh
Quằn nặng nỗi lo
Con thu mình co ro
Giấc mơ sũng ướt
Mùa bão lũ
Nhòa ranh giới giữa trời và nước
Bà run run ôm kỷ vật
Nếu lụt, biết cất chỗ mô?
Ông đau đáu dõi chân trời xa
Con trai mình vẫn ở trên tàu đánh cá
Mùa bão lũ
Em đi học đôi chân trượt ngã
Sách vở uớt nhòe nước mắt nước mưa
Cô gầy hơn trong tiếng giảng bài trưa
Tiếng giảng bài
Cố át tiếng cuồng phong trời đất
Mùa bão lũ
Thuyền như lá
Mạng nguời là cỏ
Nhà cửa là rơm
Miếng cơm
Trộn với bùn và nuớc
Mùa bão lũ
Chúng ta, chúng ta có thể làm gì được
Ngoài việc gửi vài trăm ngàn đồng hỗ trợ nạn nhân?
Ngoài việc cảm thấy đắng miệng trong những bữa cơm
Khi xem chương trình thời sự?
18/8/07 | Nguyễn Phan Quế Mai |
Vòng Xoáy | poem.php?poem=vong_xoay__nguyen_phan_que_mai | Cơn mê chập chờn mộng mị
Ngắn ngủi thời gian
Tiếng thở đều thúc giục sợi tóc lại xanh, cho những lo toan lại chìm xuống đáy
Ngày mới
Email điện thoại đuổi theo em theo em
Hổn hển những công việc không tên
Em không kịp ngước nhìn mùa thu đang vàng dần qua cửa
Không kịp ngắm lá bàng thắp lửa
Đốt cháy mùa Đông rồi tự đốt cháy mình
Tế bào thời gian như những sinh linh
Khắc khoải chết dần trong vòng quay thói quen vô thức
Ký ức rong rêu ngăn tình yêu
Buổi sáng đuổi bắt buổi chiều
Email đuổi bắt họp hành, điện thoại
Tiếng chim gù buổi sáng vuột khỏi tay xa vời, xa mãi
Cổ vật ngày mới ngắm bình minh
Tíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíc….
…Thèm một ngày úp mặt vào anh
Nghe bình yên vỡ òa trên sóng trắng… | Nguyễn Phan Quế Mai |
Một Năm Có Mười Hai Tháng | poem.php?poem=mot_nam_co_muoi_hai_thang__nguyen_trong_van | Một năm có mười hai tháng
Tháng nào anh cũng vắng em
Tầm tầm mưa bụi tháng giêng
Tóc em đính cườm đi hội
Nhớ ôi lần đầu bối rối
Trước người lúng liếng dao cau
Làng em kề bên sông Cầu
Dòng sông bốn mùa mở gió
Nhớ ôi chùm hoa gạo đỏ
Màu son chạm với tuổi mình
Sao em không trả lời anh
Đường về vòng qua Quán Dôc
Tránh thôi kẻo không gặ mặt
Em chào: Anh lấy vợ đi
Xòe tay anh bấm hàng giờ
Một, chạp, giêng, hai, ba, bốn
Cả năm có mười hai tháng
Tháng nào anh cũng vắng em
Anh không bán được ưu phiền
Nên đành với tình dan díu
Bỗng nghe sấm rền tháng sáu
Dòng sông vẫy gọi nhau về
Tương tư như dải sương mờ
Giăng ngang nẻo dâu tháng chạp
Chiều qua anh nghe em hát:
Người ơi, người ở đừng về. | Nguyễn Trọng Văn |
Đợi Em Ngày Giáp Tết | poem.php?poem=doi_em_ngay_giap_tet__thach_quy | Trời đã tết. Khói xanh mờ bụi nước
Góc vườn con hoa mận đã đơm khuy
Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc
Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về | Thạch Quỳ |
Quạt Cho Bà Ngủ | poem.php?poem=quat_cho_ba_ngu__thach_quy | Vẫy quạt thật đều
Ngấn nắng thiu thiu
Đậu trên tường trắng
Căn nhà đã vắng
Cốc chén lặng im
Đôi mắt lim dim
Ngủ ngon bà nhé
Hoa xoan, hoa khế
Chín lặng trong vườn
Ba mơ tay cháu
Quạt đầy hương thơm | Thạch Quỳ |
Với Con | poem.php?poem=voi_con__thach_quy | Con ơi con thức dậy giữa ngày thường
Nghe chim hót đừng nghe mê mải quá
Qua đường đất đến con đường sỏi đá
Cha e con đến lớp muộn giờ.
Con ơi con nàng Bạch Tuyết trong mơ
Không thể nào yêu con thay mẹ được
Và vì thế, nếu khuy áo con bị đứt
Thì nói lên để mẹ khâu cho.
Và con ơi trên ấy ngân hà
Có thể rồi con sẽ lên đến được
Nhưng đêm nay thì con cần phải học
Bốn phép tính cộng trừ hay đọc một trang thơ.
Con ơi con, nếu thầy giáo dạy con
Có ánh sáng bảy màu trong ánh sáng
Thì con hỡi hãy khêu cho rạng
Ngọn bấc đèn con hãy vặn lên to.
Con ơi con, trái đất thì tròn
Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật
Tất cả đấy đều là sự thật
Nhưng cái bánh đa tròn, điều đó thật hơn!
Mẹ hát lời cây lúa để ru con
Cha cày đất để làm nên hạt gạo
Chú bộ đội ngồi trên mâm pháo
Bác công nhân quai búa, quạt lò.
Vì thế nên, lời cha dặn dò
Cũng chưa hẳn đã là điều đúng nhất
Cha mong con lớn lên chân thật
Yêu mọi người như cha đã yêu con. | Thạch Quỳ |
Huyền Thoại Trong Tay | poem.php?poem=huyen_thoai_trong_tay__pham_anh | Ngày xưa Trọng Thủy đã nắm tay Mỵ Châu thế nào
Mà Cổ Loa chìm trong dâu bể
Con gái ngàn năm vẫn khờ dại thế
Hóa kiếp ngọc trai còn đau đáu một chuyện tình.
Người ta có thể cầm tay nhau băng qua cuộc tử sinh
Hoặc có thể mất nhau vì nắm tay không đủ chặt
Khi Orphée cố giữ người yêu đừng tan biến mất
Mở tay chỉ còn một chút hư không
Có một lần sau tất cả những chờ mong
Anh đã nắm tay em đặt tình yêu vào đó
Từ thưở ấy Prométhée mang lửa
Xuống trần gian sưởi ấm trái tim người
Em lang thang suốt một cõi đời
Lạnh như mùa đông, vô hình như gió
Vẫn rải lông ngỗng bằng lá thu rực đỏ
Để nhớ đường tìm lại
Một
Bàn
Tay…. | Phạm Anh |
Trăng Nghẹn | poem.php?poem=trang_nghen__hoai_tuong_phong | Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp.
Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác,
Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai.
Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen,
Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ.
Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn đó,
Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê.
Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi,
Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm.
Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa thèm quá,
Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn.
Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn,
Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ.
Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu,
Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân.
Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê,
Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu.
Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu,
Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi.
Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi:
Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất,
Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất,
Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa.
Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn,
Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ.
Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ,
Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê. | Hoài Tường Phong |
Bà Bủ | poem.php?poem=ba_bu__to_huu | Bà bủ nằm ổ chuối khô
Bà bủ không ngủ bà lo bời bời...
Đêm nay tháng chạp mồng mười
Vài mươi bữa nữa Tết rồi hết năm.
Bà bủ không ngủ bà nằm
Bao giờ thằng út về thăm một kỳ
Từ ngày nó bước ra đi
Nó đi giải phóng đến khi nào về?
Bao giờ hết giặc về quê?
Đêm đêm bà bủ nằm mê khấn thầm...
Bà bủ không ngủ, bà nằm
Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù
Ngoài hiên gió núi ù ù
Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về...
Đêm nay bộ đội rừng khe
Mưa ướt dầm dề, gió buốt chân tay
Nó đi đánh giặc đêm nay
Bước run, bước ngã, bước lầy, bước trơn
Nhà còn ổ chuối lửa rơm
Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì?
Năm xưa cơm củ ngon chi
Năm nay cơm gié nhà thì vắng con!
Bà bủ gan ruột bồn chồn
Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồi... | Tố Hữu |
Bài Ca Mùa Xuân 1961 | poem.php?poem=bai_ca_mua_xuan_1961__to_huu | Tôi viết bài thơ xuân
Nghìn chín trăm sáu mốt
Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt
Nắng soi sương giọt long lanh...
Rét nhiều nên ấm nắng hanh
Đắng cay lắm mới ngọt lành đó chăng?
Giã từ năm cũ bâng khuâng
Đã nghe xuân mới lâng lâng lạ thường!
Chào xuân đẹp! Có gì vui đấy
Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy
Như buổi đầu hò hẹn, say mê
Anh nắm tay em, sôi nổi, vụng về
Mà nói vậy: "Trái tim anh đó
Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ:
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Phần cho thơ, và phần để em yêu..."
Em xấu hổ: "Thế cũng nhiều anh nhỉ!"
Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí
Dắt nhau đi, cho đến sáng mai nay
Anh đón em về, xuân cũng đến trong tay!
Ôi tiếng hót vui say con chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng
Xuân ơi xuân, vui tới mông mênh
Biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh
Thơ đã hát, mát trong lời chúc:
Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh
Tam Đảo, Ba Vì vui núi xuân xanh...
Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu!
Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều!
Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu
Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng...
Ôi tiếng của cha ông thuở trước
Xin hát mừng non nước hôm nay:
Một vùng trời đất trong tay
Dẫu chưa toàn vẹn, cũng bay cờ hồng!
Việt Nam, dân tộc anh hùng
Tay không mà đã thành công nên người!
Có gì đẹp trên đời hơn thế
Người yêu người sống để yêu nhau
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay!
Đời vui đó, hôm nay mở cửa
Như dãy hàng bách hóa của ta
Hỡi những người yêu, hãy ghé mua hoa
Và đến đó, sắm ít quà lễ cưới:
Lụa Nam Định đẹp tươi mát rượi
Lược Hàng Đào chải mái tóc xanh!
Ta còn nghèo, phố chật nhà gianh
Nhưng cũng đủ vài tranh treo Tết...
Đời vui đó, tiếng ca Đoàn kết
Ta nắm tay nhau xây lại đời ta
Ruộng lúa, đồng khoai, nương sắn, vườn cà
Chuồng lợn, bầy gà, đàn rau, ao cá
Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá
Mỗi hòn than, mẩu sắn, cân ngô
Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ!
Ồ thích thật, bài thơ miền Bắc
Rất tự do nên tươi nhạc, tươi vần
Cả không gian như xích lại gần
Thời gian cũng quên tuần quên tháng.
Đời trẻ lại. Tất cả đều cách mạng!
Rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng
Quê hương ta rộn rã cuộc vui chung
Người hợp tác nên lúa dày thêm đó.
Đường nở ngực. Những hàng dương liễu nhỏ
Đã lên xanh như tóc tuổi mười lăm
Xuân ơi Xuân, em mới đến dăm năm
Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội
Như hôm nay, giữa công trường đỏ bụi
Những đoàn xe vận tải nối nhau đi
Hồng Quảng, Lào Cai, Thái Nguyên, Việt Trì
Tên đất nước reo vui bao tiếng gọi...
Nào đi tới! Bác Hồ ta nói
Phút giao thừa, tiếng hát đêm xuân
Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân
Mời những bàn chân, tiến lên phía trước.
Tất cả dưới cờ, hát lên và bước!
Đi ta đi! Khai phá rừng hoang
Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?
Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?
Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy
Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?
Hỡi những người trai, những cô gái yêu
Trên những đèo mây, những tầng núi đá
Hai bàn tay ta hãy làm tất cả!
Xuân đã đến rồi. Hối hả tương lai
Khói những nhà máy mới ban mai...
Tôi viết cho ai bài thơ 61?
Đêm đã khuya rồi, rét về tê buốt
Hà Nội rì rầm... Còi thổi ngoài ga
Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa
Tiếng xình xịch, chạy dọc đường Nam Bộ...
Ôi đâu phải con tàu! Trái tim ta đó
Tiếng đập thình thình, muốn vỡ làm đôi!
Ta biết em rất khỏe, tim ơi
Không khóc đấy. Nhưng sao mà nóng bỏng
Như lửa cháy trong lòng ta gió lộng?
Mấy hôm nay, như đứa nhớ nhà
Ta vẩn vơ hoài, rạo rực, vào ra
Nghe tiếng mõ và nghe tiếng súng
Miền Nam dậy, hò reo náo động!
Ba con tôi đã ngủ lâu rồi
Còn bao nhiêu chưa được ngủ trong nôi
Miền Bắc thiên đường của các con tôi!
Gà gáy sáng. Thơ ơi, mang cánh lửa
Hãy bay đi! Con chim kêu trước cửa
Thêm một ngày xuân đến. Bình minh
Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh
Như hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ
Treo trước mắt của loài người ta đó:
Hòa bình
ấm no
Cho
Con người
Sung sướng
Tự do! | Tố Hữu |
Bài Ca Quê Hương | poem.php?poem=bai_ca_que_huong__to_huu | 20 năm dằng dặc xa quê
Nay mới về thăm mừng tái tê...
Mới được nghe giọng hờn dịu ngọt
"Huế giải phóng nhanh, mà anh lại muộn về!"
Ôi, cơ chi anh được về với Huế
Không đợi trưa nay, phượng nở với cờ
Về với phá Tam Giang, như con trích con chuồn dưới bể
Về với từng lá bến Tuần, lợp nón bài thơ...
Cơ chi anh sớm được về bên nội
Hôn nỗi đau tan nát Phù Lai
Như quê bạn Niệm Phò trơ trụi
Đạn bom cày cả nương sắn, đồng khoai!
Cơ chi anh sớm được về bên ngoại
Giữ bờ tre, bên nước Thanh Lương
Thương các cậu, các dì chịu khảo tra, không nói
Đào hầm nuôi cán bộ tháng năm trường!
Quê hương ơi, sao mà da diết thế
Giọng đò đưa... lòng Huế đó chăng?
Vì dù đèn tắt, đã có trăng
Khổ em thì em chịu, biết làm răng đặng chừ...
Câu hò xưa mối tương tư
Thiết tha đôi lứa, mà như đôi miền!
Bây giờ, nước lớn, thuyền lên
Bắc Nam mình lại nối liền thịt da
Bây giờ, hết nỗi gần xa
Anh vào Hương Thủy, anh ra Phong Điền
Đường làng, lạ mấy cũng quen
Bước chân cứ nhớ, chẳng quên lối nào.
Ngày đi, lòng vẫn tự hào
Nay về, càng ngẩng đầu cao với trời.
Thừa Thiên, đẹp cảnh, đẹp người
Núi xanh khí phách, biển ngời sức xuân!
Núi này, Bạch Mã, Hải Vân
Mây đưa Anh Giải phóng quân lên đèo
Biển này, cửa Thuận sóng reo
Thanh thanh vành mũ tai bèo là em.
Hương Giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta, vẫn ngày đêm tự tình
Vẫn là duyên đó, quê anh
Gió mưa tan, lại trong lành mặt gương.
Bến nghèo, xưa chuyến đò ngang
Nay cầu chống Mỹ, xe sang dập dìu
Tràng Tiền, biết mấy là yêu!
Tuổi thơ áo trắng, sớm chiều bướm bay.
Ngự Bình, thông lại xanh cây
Bên kia Vọng Cảnh, bên này Thiên Thai
Bức tranh non nước tuyệt vời
Bàn tay ta lại xây đời ta đây!
Hoàng cung, thôi đã rêu dày
Ngẩn ngơ thần tượng còn say thuở nào?
Tươi rồi, cuộc sống thanh tao
Bát cơm hến cũng ngọt ngào lòng ta.
Huế ơi, đẹp lắm quê nhà
Câu Nam ai hóa bài ca anh hùng
Ai đi qua đó miền Trung
Xin mời ghé lại, vui cùng Huế tôi!
Kỷ niệm tháng 5-1975 | Tố Hữu |
Bà Má Hậu Giang | poem.php?poem=ba_ma_hau_giang__to_huu | Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc
Phèng la kêu, trống giục vang đồng
Đường quê đỏ rực cờ hồng
Giáo lê sáng đất, tầm vông nhọn trời
Quyết một trận, quét đời nô lệ
Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông!
Hỡi ôi! Việc chửa thành công
Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang
Giặc lùng, giặc đốt xóm làng
Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà
Một vùng trắng bãi tha ma
Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa
Có ai biết, ai ngờ trong đó
Còn chơ vơ một ổ lều con
Đạn bom qua, hãy sống còn
Núp sau lưng rộng một hòn đá to.
Có ai biết trong tro còn lửa
Một má già lần lữa không đi
Ở đây sóng gió bất kỳ
Má ơi, má ở làm chi một mình?
Rừng một dải U Minh tối sớm
Má lom khom đi lượm củi khô
Ngày đêm củi chất bên lò
Ai hay má cất củi khô làm gì?
Hay má lẫn quên vì tuổi tác
Hay má liều một thác cho yên?
Bỗng đâu một buổi mai lên
Trên đường quê ấy qua miền nghĩa quân
Một tán quỷ rần rần rộ rộ
Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê
Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê
Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan!
Chúng rảo bước. Lính quan nện gót
Mắt nhìn quanh lục mót dạng người
Đồng không, lạnh vắng, im hơi
Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua
Ách là! Thằng quan ba dừng bước
Rút ống dòm, và ngước mắt nheo
Xa xa, sau lớp nhà xiêu
Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên...
Hắn khoái trá cười điên sằng sặc
Nhe hàm răng sáng quắc như gươm
Vẫy tay lũ tớ gườm gườm
Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn.
Rồi lặng lặng bước chân hùm sói
Tiến dần lên tia khói, vây quanh...
Má già trong túp lều tranh
Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô
Một mình má, một nồi to
Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười...
Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt?
Má già run, trán toát mồ hôi
Chạy đâu? Thôi chết, chết rồi!
Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành.
Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ
Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay
Rung rinh bậc cửa tre gầy
Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi!
Hắn rướn cổ, giương mi, trơn mắt
Như hổ mang chợt bắt được mồi
Trừng trừng trông ngược trông xuôi
Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to.
Hắn rống hét: "Con bò cái chết!
Một mình mày ăn hết này sao?
Đừng hòng che được mắt tao
Khai mau, du kích ra vào nơi đâu?
Khai mau, tao chém mất đầu!"
Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô
Má ngã xuống bên lò bếp đỏ
Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng
Má già nhắm mắt, rưng rưng
"Các con ơi! ở trong rừng U Minh
Má có chết, một mình má chết
Cho các con trừ hết quân Tây!"
Thằng kia bỗng giậm gót giày
Đạp lên đầu má: "Mẹ mày, nói không?"
Lưỡi gươm lạnh toát kề hông
"Các con ơi! Má quyết không khai nào!"
Sức đâu như ngọn sóng trào
Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây
Má hét lớn: "Tụi bay đồ chó!
Cướp nước tao, cắt cổ dân tao!
Tao già không sức cầm dao
Giết bay, có các con tao trăm vùng!
Con tao, gan dạ anh hùng
Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm!
Thân tao chết, dạ chẳng sờn!"
Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi!
Một dòng máu đỏ lên trời
Má ơi, con đã nghe lời má kêu!
Nước non muôn quý ngàn yêu
Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang. | Tố Hữu |
Bầm Ơi! | poem.php?poem=bam_oi__to_huu | Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm...
Bầm ơi có rét không bầm!
Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn
Bầm ra ruộng cấy bầm run
Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non
Mạ non bầm cấy mấy đon
Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.
Mưa phùn ướt áo tứ thân
Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu!
Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều
Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe!
Con đi trăm núi ngàn khe
Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm
Con đi đánh giặc mười năm
Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi.
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền.
Nhớ thương con bầm yên tâm nhé
Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân.
Con đi xa cũng như gần
Anh em đồng chí quây quần là con.
Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí
Bầm quý con, bầm quý anh em.
Bầm ơi, liền khúc ruột mềm
Có con có mẹ, còn thêm đồng bào
Con đi mỗi bước gian lao
Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm!
Bao bà cụ từ tâm như mẹ
Yêu quý con như đẻ con ra.
Cho con nào áo nào quà
Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi.
Con đi, con lớn lên rồi
Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con!
Nhớ con, bầm nhé đừng buồn
Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm.
Mẹ già tóc bạc hoa râm
Chiều nay chắc cụng nghe thầm tiếng con...
1948 | Tố Hữu |
Con Cá, Chột Nưa | poem.php?poem=con_ca_chot_nua__to_huu | Năm sáu ngày mệt xỉu
Thuốc làm khuây mấy điếu
Vài ba hớp nước trong
Suy nghĩ chuyện bao đồng
Vẫn không ngoài chuyện đói.
Đầu sàn canh bốc khói
Chén cá nức mùi thơm
Lên họa với mùi cơm
Sao mà như cám dỗ!
Muốn ngủ mà không ngủ
Cái bụng cứ nằn nì:
“Ăn đi thôi, ăn đi!
Chết làm chi cho khổ!”
Nghe hắn thầm quyến rũ
Tôi đỏ mặt bừng tai:
“Im đi cái giọng mày
Tao thà cam chịu chết!”
Hắn nằm im đỡ mệt
Rồi tha thiết van lơn:
“Đời mới hai mươi xuân
Chết làm chi cho khổ!”
Hắn nói to nói nhỏ
Kể lể chuyện đê hèn
Tôi vẫn cứ nằm yên
Hắn liền thay chiến thuật:
“Thôi thì thôi cứ vật
Nhưng phải ráng cầm hơi
Theo với bạn với đời
Cho đến ngày kết quả.
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết ai ngờ?
Thế vẫn tròn danh dự
Không can chi mà sợ
Có hôi miệng hôi mồm
Còn có nước khi hôm
Uống vô là sạch hết!”
Lần này tôi thú thiệt:
Lời hắn cũng hay hay
Lí sự cũng đủ đầy
Nghe ra chừng phải quá!
Ăn đi vài con cá
Năm bảy cái chột nưa
Có ai biết, ai ngờ
Thế vẫn tròn danh dự!
Nhưng mà tôi lưỡng lự
Suy nghĩ rồi lắc đầu
Đành không ai biết đâu
Vẫn không làm thế được!
Từ khi chân dấn bước
Trên con đường đấu tranh
Tôi sẵn có trong mình
Đôi mắt thần: chủ nghĩa
Đã đứng trong đoàn thể
Bênh vực lợi quyền chung
Sống chết có nhau cùng
Không được xa hàng ngũ
Không thể gì quyến rũ
Mua bán được lương tâm
Danh dự của riêng thân
Là của chung đồng chí
Phải giữ gìn tỉ mỉ
Như tròng mắt con ngươi
Đến cạn máu tàn hơi
Không xa rời kỷ luật
Phải trải lòng chân thật
Không một nét quanh co
Không một bóng lờ mờ
Không một nhăn ám muội!
Bụng nghe, chừng biết tội
Từ đó hết nằn nì
Không dám thở than chi
Và tôi cười đắc thắng. | Tố Hữu |
Emily, Con... | poem.php?poem=emily_con__to_huu | Ê mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc...
- Đi đâu cha?
- Ra bờ sông Pô-tô-mác
- Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có Lầu ngũ giác.
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ...
Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Ôi những linh hồn
Còn, mất
Hãy cháy lên, cháy lên Sự thật!
Giôn-xơn!
Tội ác bay chồng chất
Cả nhân loại căm hờn
Con quỷ vàng trên mặt đất.
Mày không thể mượn nước son
Của Thiên Chúa, và màu vàng của Phật!
Mác Na-ma-ra
Mày trốn đâu? Giữa bãi tha ma
Của toà nhà năm góc
Mỗi góc, một châu.
Mày vẫn chui đầu
Trong lửa nóng
Như đà điểu rúc đầu trong cát bỏng.
Hãy nhìn đây!
Nhìn ta phút này!
Ôi không chỉ là ta với con gái nhỏ trong tay
Ta là Hôm nay
Và con ta, Ê-mi-ly ơi, con là mãi mãi!
Ta đứng dậy,
Với trái tim vĩ đại
Của trăm triệu con người
Nước Mỹ.
Để đốt sáng đến chân trời
Một ngọn đèn
Công lý.
Hỡi tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ
Nhân danh ai?
Bay mang những B 52
Những na-pan, hơi độc
Từ toà Bạch Ốc
Từ đảo Guy-am
Đến Việt Nam
Để ám sát hoà bình và tự do dân tộc
Để đốt những nhà thương, trường học
Giết những con người chỉ biết yêu thương
Giết những trẻ em chỉ biết đi trường
Giết những đồng xanh bốn mùa hoa lá
Và giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc hoạ!
Nhân danh ai?
Bay chôn tuổi thanh xuân của chúng ta trong những quan tài
Ôi những người con trai khoẻ đẹp
Có thể biến thiên nhiên thành điện, thép
Cho con người hạnh phúc hôm nay!
Nhân danh ai?
Bay đưa ta đến những rừng dày
Những hố chông, những đồng lầy kháng chiến
Những làng phố đã trở nên pháo đai ẩn hiện
Những ngày đêm đất chuyển trời rung...
Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng
Đến em thơ cũng hoá thành những anh hùng
Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ
Và hoa trái cũng biến thành vũ khí!
Hãy chết đi, chết đi
Tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ!
Và xin nghe, nước Mỹ ta ơi!
Tiếng thương đau, tiếng căm giận đời đời
Của một người con. Của một con người thế kỷ
Ê-mi-ly, con ơi!
Trời sắp tối rồi...
Cha không bế con về được nữa!
Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa
Đêm nay mẹ đến tìm con
Con sẽ ôm lấy mẹ mà hôn
Cho cha nhé
Và con sẽ nói giùm với mẹ:
Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn!
Oa-sinh-tơn
Buổi hoàng hôn
Còn mất?
Đã đến phút lòng ta sáng nhất
Ta đốt thân ta
Cho ngọn lửa chói loà
Sự thật.......... | Tố Hữu |
Em Ơi... Ba Lan | poem.php?poem=em_oi_ba_lan__to_huu | Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng ngàn
Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng
Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn
Có phải Sô-panh tình chứa chan
Nâng đàn ca, cô gái Ba Lan
Có phải A-đam hồn vĩ đại
Bay trên đầu thế kỷ nhân gian...
Em đi cùng anh lên thành xưa
Vác-xa-va ấm nắng ban trưa
Nét vàng lịch sử vừa tươi lại
Trong cuộc hồi sinh, tạnh gió mưa
Hãy nghe em từng viên đá lát
Những con đường, tiếng hát đau thương
Ba Lan, Ba Lan
Thịt da đã bao lần tan nát
Nước mất, tim về vọng cố hương
Hãy nghe em từng viên ngói đỏ
Những mái nhà phố cũ hồi xuân
Máu đã quyện, em ơi, trong đó
Máu Ba Lan và máu Hồng quân!
Ôi máu đọng mười lăm năm trước
Bốn triệu hồn kêu Nước trong đêm
Em ơi em, làm sao quên được
Ốt-sơ-ven-xim, ốt-sơ-ven-xim!
Nhớ nghe em, những đôi giày nhỏ
Tưởng còn đi chập chững chân son
Những mái tóc vàng tơ đóng bó
Dệt thành chăn rợn bóng oan hồn!
Anh đã đến quê em Cra-cốp
Như quê anh lộng lẫy cung đền
Hồng quân cứu Va-ven xinh đẹp
Như Thạch Sanh đánh ó cứu nàng tiên...
Anh đã đến quê em Ban-tích
Sóng ngời xanh, ngọc bích biển khơi
Đã xóa sạch những ngày Đăng-dích
Màu Ba Lan trong trắng đỏ tươi
Khắp quê em, mùa xuân đến rồi
- Dù đêm qua chút tuyết còn rơi
- Hỡi người chị bên đường quét tuyết
Xuân đến rồi, nắng đỏ trên môi.
Nắng trên cao cần trục xây nhà
Nắng lưng tàu phấp phới đi xa
Nắng đỏ ngực anh, người thủy thủ
Đẹp như lò Nô-va Hu-ta
Khắp quê em, mùa xuân mang tên
Những người con đẹp của trăm miền
Hôm nay gọi nhau về Đại hội
Mở thêm đường, đi lên, đi lên
Mùa xuân đó, quê em ấm áp
Chân người đi, vào cuộc đời chung
Ngựa đang kéo đồng lên hợp tác
Đường ta đi tấp nập vô cùng! | Tố Hữu |
Hãy Nhớ Lấy Lời Tôi | poem.php?poem=hay_nho_lay_loi_toi__to_huu | Có những phút làm nên lịch sử
Có cái chết hóa thành bất tử
Có những lời hơn mọi bài ca
Có con người như chân lý sinh ra.
Nguyễn Văn Trỗi!
Anh đã chết rồi
Anh còn sống mãi
Chết như sống, anh hùng, vĩ đại.
Hỡi người Anh, đã khép chặt đôi môi
Tiếng anh hô: Hãy nhớ lấy lời tôi!
Đang vang dội. Và ánh đôi mắt sáng
Của Anh đã chói ngời trên báo Đảng
Nghìn năm sau sẽ nhớ lại hôm qua
Một sáng mùa thu, giữa khám Chí Hòa
Anh đi giữa hai tên gác ngục
Và sau chúng, một người linh mục.
Anh bước lên, nhức nhói chân đau,
Dáng hiên ngang vẫn ngẩng cao đầu
Quần áo trắng một màu thanh khiết
Thây gầy yếu mạnh hơn cái chết.
Bầy giết thuê và lũ viết thuê
Hai hàng đen, súng cắm lưỡi lê
Anh bước tới, mắt nhìn, bình thản
Như chính Anh là người xử án.
Cỏ trong vườn mát dưới chân Anh
Đời vẫn tươi màu lá rau xanh
Đây miếng đất của Anh đòi giải phóng
Đây máu thịt của Anh đòi cuộc sống.
Anh thét to: "Ta có tội gì đây?"
Chúng trói Anh vào cọc, mấy vòng dây
Mười họng súng. Một băng đen bịt mắt.
Anh thét lớn: "Chính Mỹ kia là giặc!"
Và tay Anh giật phắt mảnh băng đen
Anh muốn thiêu, bằng mắt, lũ đê hèn
Với cái chết, Anh muốn nhìn giáp mặt
Như ngọn lửa không bao giờ dập tắt!
Chúng run lên, xông trói chặt Anh hơn
Đôi môi Anh đã khô cháy căm hờn:
Phải chiến đấu không sợ gì súng đạn!
Lệnh: Hàng đầu quỳ xuống! Một giây thôi
Anh thét lên: Hãy nhớ lấy lời tôi:
Đả đảo đế quốc Mỹ!
Đả đảo Nguyễn Khánh!
Hồ Chí Minh muôn năm!
Hồ Chí Minh muôn năm!
Hồ Chí Minh muôn năm!
Phút giây thiêng, Anh gọi Bác ba lần!
Súng đã nổ, mười viên đạn Mỹ
Anh gục xuống. Không. Anh thẳng dậy
Anh hãy còn hô: Việt Nam muôn năm!
Máu tim Anh nhuộm đỏ đất Anh nằm.
Mắt đã nhắm, không một lời rên rỉ,
Anh chết vậy, như thiên thần yên nghỉ.
Chẳng cần đâu, cây thánh giá sắt tây
Của tay người linh mục ném bên thây!
Anh đã chết, Anh Trỗi ơi, có biết
Máu kêu máu, ở trên đời, tha thiết!
Du kích quân Ca-ra-cát đã vì Anh
Bắt một tên giặc Mỹ giữa đô thành.
Anh đã chết. Anh chẳng còn thấy nữa
Lửa kêu lửa, giữa miền Nam rực lửa
Như trái tim Anh, ôi lửa nào bằng!
Phút cuối cùng, chói lọi khối sao băng...
Hãy nhớ lấy lời tôi!
Nguyễn Văn Trỗi
Lời Anh dặn, chúng tôi xin nhớ:
Hãy sống chết quang vinh
Trước kẻ thù không sợ
Vì Tổ quốc hi sinh
Như đời Anh, người thợ.
23-10-1964 | Tố Hữu |
Khi Con Tu Hú | poem.php?poem=khi_con_tu_hu__to_huu | Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi
Ngột làm sao chết mất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu... | Tố Hữu |
Lạ Chưa? | poem.php?poem=la_chua__to_huu | Lạ chưa vẫn ở bên em
Mà anh cứ nhớ; cứ thèm gần hơn!
Cứ lo em giận em hờn
Mải mê anh để cô đơn em buồn ...
Cơ chi chắp được đôi hồn
Như chim đôi cánh lượn hôn mây trời
Cơ chi đi suốt đường đời
Như hình với bóng sóng đôi tháng ngày!
Em cười anh cũng vui lây
Anh đau, em lại lệ cay, xót thầm
Qua bao xao động, thăng trầm
Tâm ca được mấy tri âm không lời?
Tình yêu là thế em ơi!
Hai người mà hóa một người, trăm năm ... | Tố Hữu |
Lão Đầy Tớ | poem.php?poem=lao_day_to__to_huu | Gánh nước, cuốc vườn cau
Đất bụi lấm đầy đầu
Mà chủ còn hất hủi!
Như cái kiếp ăn mày
Ngồi ăn trong góc xó
Buồn thiu như con chó
Áo rách chẳng ai may
Quần rách giơ tuốt cả!
Lạnh thì nằm chòng queo
Trơ trụi như con mèo
Không có vài tấm rạ!”
Tôi riết chặt bàn tay
Của lão: “Bao nhiêu nỗi
Đau buồn và tức tối
Sẽ tan biến ngày mai…
Ông đã nghe ai nói
Có một xứ mênh mông
Nửa tây và nửa đông
Mạnh giầu riêng một cõi?
Nơi không vua, không quan
Không hạng người ô uế
Không hạng người nô lệ
Sống đau xót, lầm than.
Nơi tiêu diệt lòng tham
Không riêng ai của cải
Hàng triệu người thân ái
Cùng chung sức nhau làm
Để cùng nhau vui sướng
Ai già nua tật nguyền
Thì cứ việc ngồi yên
Đã sẵn tiền nuôi dưỡng”.
Lão ngơ ngác nhìn tôi
Rối rít: “Ồ hay nhỉ!
Ai già nua được nghỉ
Cũng no ấm trọn đời?
Ai cũng có nhà cửa
Cũng sung sướng bằng nhau?
Đã không ai đè đầu
Làm chi có đầy tớ?
Cậu bảo: Cũng không xa?
- Nước Nga?
- Ờ nước ấy”.
Và há mồm khoan khoái
Lão ngồi mơ nước Nga… | Tố Hữu |
Mẹ Suốt | poem.php?poem=me_suot__to_huu | Lặng nghe mẹ kể ngày xưa
Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình
Mẹ rằng: Quê mẹ Bảo Ninh
Mênh mông sông biển, lênh đênh mạn thuyền
Sớm chiều, nước xuống triều lên
Cực thân từ thuở mới lên chín mười
Lớn đi ở bốn cửa người
Mười hai năm lẻ, một thời xuân qua
Lấy chồng, cũng khổ con ra
Tám lần đẻ, mấy lần sa, tội tình!
Nghĩ mà thương mẹ cha sinh
Thương chồng con lại thương mình xót xa
Bây chừ sông nước về ta
Đi khơi đi lộng, thuyền ra thuyền vào
Bây giờ biển rộng trời cao
Cá tôm cũng sướng, lòng nào chẳng xuân!
Ông nhà theo bạn "xuất quân"
Tui nay cũng được vô chân "sẵn sàng"
Một tay lái chiếc đò ngang
Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày
Sợ chi sóng gió tàu bay
Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua!
Kể chi tuổi tác già nua
Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng!
Ngẩng đầu, mái tóc mẹ rung
Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ...
Gan chi gan rứa, mẹ nờ?
Mẹ rằng: Cứu nước mình chờ chi ai?
Chẳng bằng con gái, con trai
Sáu mươi còn một chút tài đò đưa
Tàu bay hắn bắn sớm trưa
Thì tui cứ việc sớm trưa đưa đò...
Ghé tai mẹ, hỏi tò mò:
Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo?
Mẹ cười: Nói cứng, phải xiêu
Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!
Nghe ra, ông cũng vui lòng
Tui đi, còn chạy ra sông dặn dò:
"Coi chừng sóng lớn, gió to
Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình!"
Vui sao, câu chuyện ơn tình
Nắng trưa cồn cát Quảng Bình cũng say... | Tố Hữu |
Ta Đi Tới | poem.php?poem=ta_di_toi__to_huu | Ta đi giữa ban ngày
Trên đường cái, ung dung ta bước.
Đường ta rộng thênh thang tám thước
Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên
Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên
Đường cách mạng, dài theo kháng chiến...
Đến hôm nay đường xuôi về biển
Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi
Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!
Ai về với quê hương ta tha thiết
Sông Hương, Bến Hải, Cửa Tùng...
Ai vô đó, với đồng bào, đồng chí
Nói với Nửa - Việt Nam yêu quý
Rằng: nước ta là của chúng ta
Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa!
Chúng ta, con một cha, nhà một nóc
Thịt với xương, tim óc dính liền.
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.
Dù ai rào giậu ngăn sân
Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ!
Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa
Chúng nó chẳng còn mong được nữa
Chặn bàn chân một dân tộc anh hùng.
Những bàn chân từ than bụi, đầy bùn
Đã bước dưới mặt trời cách mạng.
Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng
Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu
Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu
Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp!
Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp,
Rắn như thép, vững như đồng.
Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp
Cao như núi, dài như sông
Chí ta lớn như biển Đông trước mặt!
Ta đi tới, không thể gì chia cắt
Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau
Trời ta chỉ một trên đầu
Bắc Nam liền một biển.
Lòng ta không giới tuyến
Lòng ta chung một Cụ Hồ
Lòng ta chung một Thủ đô
Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam! | Tố Hữu |
Tiếng Ru | poem.php?poem=tieng_ru__to_huu | Con ong làm mật yêu hoa
Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời
Con người muốn sống con ơi
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.
Một ngôi sao chẳng sáng đêm
Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng.
Một người, đâu phải nhân gian?
Sống chăng, một đống lửa tàn mà thôi!
Núi cao bởi có đất bồi
Núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu?
Muôn dòng sông đổ biển sâu
Biển chê sông nhỏ, biển đâu nước còn?
Tre già yêu lấy măng non
Chắt chiu như mẹ yêu con tháng ngày
Mai sau con lớn hơn thày
Các con ôm cả hai tay đất tròn. | Tố Hữu |
Từ Ấy | poem.php?poem=tu_ay__to_huu | Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ... | Tố Hữu |
Việt Nam Máu Và Hoa | poem.php?poem=viet_nam_mau_va_hoa__to_huu | Khao khát trăm năm, mãi đợi chờ
Hôm nay vui đến, ngỡ trong mơ
Một trời êm ả, xanh không tưởng
Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ
Đây cuộc hồi sinh, buổi hóa thân
Mùa đông thế kỷ chuyển sang xuân
Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu
Người vươn lên, như một thiên thần!
Thế này chăng? Thuở xưa hoang dã
Chàng Sơn Tinh thắng giặc Thủy Tinh
Càng dâng nước, càng cao ngọn núi
Chân Trường Sơn đạp sóng Thái Bình.
Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm.
Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc, và cho Tất cả
Lá cờ này là máu là da
Của ta, của con người, vô giá.
Trắng khăn tang, em chẳng khóc đâu
Hỡi em gái mất cha mất mẹ
Nước mắt rơi, làm nhòa mặt quân thù
Em phải bắn, trúng đầu giặc Mỹ.
Tình thương lớn, mạnh hơn lửa thép
Trận địa đây xây giữa lòng người
Dẫu mưa nắng, trái đất tròn vẫn đẹp
Đời yêu ta, ta phải thắng cho Đời.
Cút sạch đi, bầy sói hôi tanh!
Đã đến buổi cuối cùng phán quyết:
Trả về ta, đất rộng trời xanh
Cho bay, những hố bom làm huyệt.
Lịch sử muốn bay cúi đầu tội lỗi
Dưới gươm thiêng hùng khí Thủ đô
Cả bốn biển hoan hô Hà Nội
Pháo đài bay rụng đỏ mặt hồ.
Ngọc Hà em! Lộng lẫy hoa tươi
Xin thơm khắp miền Nam, miền Bắc
Chắc Bác Hồ vui, xin kính dâng Người
Và tặng cả anh em cùng ta đánh giặc.
Không nỗi đau nào riêng của ai
Của chung nhân loại, chiến công này,
Việt Nam ơi, máu và hoa ấy
Có đủ mai sau, thắm những ngày?
Chưa dễ lành đâu, những vết thương
Nửa mình còn nhức, hỡi quê hương!
Song mùa vui đã mang xuân tới
Đã tắt hôm nay lửa chiến trường.
Rừng núi đã xanh màu giải phóng
Hãy trào lên, ơi sóng Cửu Long
Quét phăng những rác bùn ứ đọng
Những thép gai ngăn mặt, cắt lòng.
Ta lại về ta, những đứa con
Máu hòa trong máu, đỏ như son.
Sài Gòn ơi, Huế ơi! Xin đợi
Tái hợp, huy hoàng, cả Nước non!
Xuân 1973 | Tố Hữu |
Cuộc Chia Ly Màu Đỏ | poem.php?poem=cuoc_chia_ly_mau_do__nguyen_my | Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ.
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ
Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly
Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy
Không che được nước mắt cô đã chảy
Những giọt long lanh, nóng bỏng,
sáng ngời
Chảy trên bình minh đang hé giữa
làn môi
Và rạng đông đang hừng trên nét mặt
Một rạng đông với màu hồng ngọc
Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai…
Ngày mai sẽ là ngày sum họp
Đã toả sáng những tâm hồn cao đẹp!
Nắng vẫn còn ngời trên những lá si
Và người chồng ấy đã ra đi…
Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế
Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói, tôi nghe những tiếng thì thào
“Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau…”
Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
Cái màu đỏ như màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp
Một làng xa giữa đêm gió rét…
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi
Như không hề có cuộc chia ly…
1964 | Nguyễn Mỹ |
Bà Bán Cau | poem.php?poem=ba_ban_cau__huynh_van_nghe | Nắng hạn đường xa nối chân mây...
Còn đi đâu, đi mãi hỡi ai?
Mặc gánh nặng oằn, hai vai chịu,
Dưới trời mưa lửa chỉ chau mày.
Mẹ ơi! Cảnh ấy dẫu trăm năm,
Ngàn năm, hay muôn vạn ngàn năm
Một phút sau này con còn sống
Cảnh kia còn đốt mãi lòng con.
Con đường xe cong uống trên đồng khô,
Xóm làng xa, nắng chang, lim dim ngủ,
Trời cao, cao vút điểm mây khô,
Từ giữa trời xanh: nguồn nắng đổ.
Trên đường cát xa thăm thảm ấy,
Bà bán cau, gánh nặng trên vai oằn,
Lẹ làng đi, dưới chân cát cháy
Nón, dù đâu? Nắng đốt chiếc khăn rằn.
Gió bốc khói tung lên cuồn bụi trắng,
Xóm mờ xa khuất dạng sau rừng tre.
Mồ hôi chảy vòng quanh đôi má rám
Bà bán cau bước mãi dưới trưa hè.
Động lòng, bóng cây thầm nhắc nhủ.
“Bà má ơi! Ghé gánh nghỉ chân già!”
Nhưng không nghe, bà cứ đi, đi mãi,
Nhớ chiều nay, trước ngõ, đám con chờ.
Tân Uyên 1935 | Huỳnh Văn Nghệ |
Bà Mẹ Việt Nam | poem.php?poem=ba_me_viet_nam__huynh_van_nghe | Có mặt nước bốn ngàn năm lịch sử
Bốn ngàn năm tranh sống với thời gian
Máu anh hùng tô non sông cẩm tú
Mồ hôi dân kết đọng ngọn lúa vàng
Mẹ Việt Nam tuổi bốn mươi thế kỷ
Gót Cà Mau đầu tận ải Nam Quan
Cửu Long Giang, buông dài làn sóng tóc
Dựa Trường Sơn, đứng gác Thái Bình Dương.
Ngàn thuở trước làm dâu nhà Hồng Lạc
Một giòng con hăm lăm triệu Tiên Rồng
Con trung hiếu, trai khôn và gái đẹp
Cùng mẹ hiền lo xây dựng non sông
Có biển rộng, sông dài, rừng núi đẹp
Đồng phì nhiêu, lúa mía ngập mênh mang
Và âm thầm bao nhiêu vàng, than thép
Dưới mỏ sâu chờ đợi bước vinh quang.
Giặc cướp nước đánh hơi từ bốn phía
Kéo về đây thực hiện mộng tham tàn
Tên núi sông trờ thành tên chiến địa
Chống xâm lăng thành truyền thống nhân dân.
Gặp thời loạn, mẹ phất cờ khởi nghĩa
Bầy con ngoan đứng dậy diệt quân thù.
Lũ cướp nước đã bao phen khiếp vía
Trở về quê không rửa kịp máu đầu.
Nay giặc Pháp lại mang đầu trở lại.
Dù tầm vông phải chọi với xe tăng
Mẹ vững tin nơi bầy con trung hiếu
Ngày mai đây diệt chúng cứu giang sơn.
Rồi Việt Nam của rừng vàng biển bạc
Của bình yên sáng lạng tiếng chim quyên
Sẽ nguyên vẹn, mẹ nghe chăng khúc hát
Khải hoàn ca từng nhịp đã vang lên.
Chiến khu Đ, cuối 1946 | Huỳnh Văn Nghệ |
Bên Bờ Sông Xanh | poem.php?poem=ben_bo_song_xanh__huynh_van_nghe | Bờ sông xanh hôm nay buộc ngựa
Kiếm gối đầu theo gió thổi hồn cao
Thơ tôi đây cũng hoa bướm muôn màu
Lòng tôi đây ,cũng vui sầu như bạn
Tôi cũng biết nhớ thương tơ tưởng
Nào chỉ là võ tướng hay thi nhân
Tôi là người lăn lóc trên đường trần
kông phân biệt lúc mài gươm múa bút
Đời chiến sỹ máu hoà lệ mực
Còn yêu thương là chiến đấu không thôi
Suốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôi
Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác
Trên lưng ngựa múa gươm vừa ca hát
Lòng ta say chiến trận đã thành thơ
Máu quân thù chảy đỏ quê hương yta
Còn vần thơ nào hay hơn nữa
Bạn dừng ngại vì người thơ mê ngủ
Quên cuộc đời,tìm mộng để làm thơ
Bạn đừng lo tôi say máu quân thù
Quên ghi chép những vần thơ huyền diệu
có chiến đấu thơ mới thêm vần điệu
Càng hát ca gươm càng sắc bén thêm
Nợ kiếm cung nghiên bút biết sao đền
Nếu không biết vừa làm thơ,giết giặc
gửi lại bạn những vần thơ trên cát
Và giờ đây tôi qua bến ,lên đường
15/10/1948 | Huỳnh Văn Nghệ |
Bến Cũ | poem.php?poem=ben_cu__huynh_van_nghe | Kính gởi Việt kiều ở hải ngoại
Đây bến cũ chốn muôn thuyền đợi gió
Buồm phập phồng như phổi nhịp bên hông
Neo buông sâu như những sợi tơ lòng
Thuyền lớn, nhỏ toàn chứa đầy hy vọng.
Trời quang đãng mây đen vừa tan bóng
Thuyền sắp đi, bến đã động lòng thương
Ai phăng neo vội vã để đoạn trường!
Nhưng gió mới căng buồm thuyền chuyển động.
Thuyền lớn nhỏ toàn chứa đầy hy vọng
Trời xa khơi màu hứa hẹn xanh xanh
Thuyền ra đi, chim bể báo tin lành
Bến ngậm lệ đành để thuyền vượt sóng.
Rồi từ đấy bến xưa hằng mong ngóng.
Cây đa già lá rụng đã bao phen
Nhưng biệt mù khơi, nào thấy bóng thuyền,
Những thuyền xưa cùng nhau đi đuổi mộng
Về đây thôi, hỡi những thuyền hy vọng.
Chở về đây những mộng đẹp xa xôi!
Lưu luyến chi bến lạ chốn quên người
Để bến tưởng thuyền xưa đà lạc hướng.
Bangkok 1944 | Huỳnh Văn Nghệ |
Bờ Sông Bị Chiếm | poem.php?poem=bo_song_bi_chiem__huynh_van_nghe | Mất cả bờ sông xanh
Mất luôn con đường đá đỏ
Thôi hết rồi nước ngọt
Thôi hết rồi gió mát bờ tre
Gái Tân Uyên ứa lệ trưa hè
Thương vườn cũ dâu, chè không ai tưới.
Trai Tân Tịch về bờ sông hái bưởi
Cũng chết oan dưới mũi súng quân thù.
Mỏi mòn thương nhớ người xa,
Vườn xơ xác gốc trầu buồn ủ rũ
Dây kẽm gai rối nuồi đường bến cũ
Mắc cỡ tây chụp phủ bãi rau lang
Hàng tháp canh như chó dữ nhe răng
Từng loạt súng dọa ánh trăng, dòng nước.
Tàu há mồm, chuyển xuôi, chuyển ngược
Chỉ sâu thêm mặt nước, vết căm hờn.
Mất bờ sông là mất một nửa chiến khu
Mất nước ngọt, bờ tre gió mát.
Thuyền tiếp tế, lúa khoai chìm đáy nước
Đường giao thông liên lạc đứt đôi bờ.
Nhưng quân thù vẫn sợ lòng chiến khu
Cờ đỏ vẫn phất cao cành cổ thụ
Giữa lòng dân hoa vẫn nở niềm tin:
Việt Minh còn sẽ chiếm lại sông xanh.
Chiến khu Đ - 1950 | Huỳnh Văn Nghệ |
Bức Thư Thành | poem.php?poem=buc_thu_thanh__huynh_van_nghe | Bức thư ai từ Sài Gòn yêu mến
Vượt bót đồn về đến chiến khu.
Dấu lệ rơi trên nét chữ đã mờ
Lời êm ả, dịu dàng và tha thiết:
“Chốn thị thành hoa thôi nở từ lâu
Mây trắng bay tuôn về nẻo chiến khu
Nên thương nhớ cũng dồn về hướng đó.
Nơi cờ đỏ sao vàng còn rạng rỡ
Phải chăng anh, người chiến sĩ hiên ngang
Gửi theo đây, này áo ấm, khăn len
Anh đỡ mệt những đêm ngoài sương gió...”
Một trời thương trong một phong bì nhỏ
Mở ra xem nức nở cả lòng ta
Đây chiến khu nơi suối hát, chim ca
Nhưng ta vẫn cứ nhớ nhung thành thị.
Nơi lần đầu tiên ta cầm vũ khí
Theo bóng cờ son dứt áo ra đi.
Lệ người thương còn ướt chiếc khăn tay.
Nơi thuở ấy ôi đau lòng thế kỷ
Ngọn tầm vông, xông vào đầu súng máy.
Xương anh hùng còn gửi đất Thị Nghè.
Ngày báo cừu lưỡi kiếm cứ lăm le
Mỗi sáng chào cờ nhìn về hướng ấy.
Thề lấy lại Thủ đô và Thành thị
Máu xâm lăng phải tưới đỏ quê hương.
Giải phóng Sài Gòn trăm nhớ, ngàn thương.
Đây chiến khu, biết bao chiều lau súng.
Ta nhớ em, hỡi xa vắng Thị Thành
Em tủi nhục ở trong vòng tạm chiếm
Biết bao giờ nguôi hận chiến khu xanh.
Chiến khu Đ 1947 | Huỳnh Văn Nghệ |
Cái Chết Của Anh Xiểng | poem.php?poem=cai_chet_cua_anh_xieng__huynh_van_nghe | Đầu năm 1946, ông Nguyễn Văn Xiểng, Nghị sĩ Quốc hội người thiểu số tỉnh Biên Hòa trên đường đi Hà Nội để họp Quốc hội lần đầu tiên, bị giặc bắt giết hại tại Xuân Lộc.
Anh Xiểng mở mắt tròn xoe
Trừng trừng nhìn lũ giặc
Đang trói vòng anh
Sau xe Jeep
Giữa biển nắng trưa vàng
Ngoảnh đầu nhìn ngọn núi Chứa Chan
Nhớ lại ngày anh trúng cử:
Đồng bào Xuân Lộc
Từ rừng xanh, núi đỏ kéo về đây.
Tiệc mừng anh, đêm ấy cả rừng say
Trăng lảo đảo, trên chăn mây, gối núi.
Mới hôm qua, chia tay trên bờ suối
Mừng mừng, tủi tủi, mến thương.
Từng con chim, cái sóc, cành hương
Cũng thỏ thẻ vuốt ve, lưu luyến...
Một dây siết hai cổ tay tê điếng
Nhựa đường trưa như điện đốt bàn chân
Nhưng ngọn núi Chứa Chan
Vẫn cao đầu hiên ngang dưới nắng.
Lời kêu gọi của núi rừng
Còn vang lừng trong từng tiếng suối, lời chim.
Anh vẫn đứng lặng im,
Trước bao nhiêu lời dụ, dọa:
“Không biết nói thì cúi đầu cũng được
Chịu đầu Tây, cho về huyện làm quan
Không thì xe sẽ kéo xác trên đường”.
Anh vẫn đứng lặng im
Hiên ngang như ngọn núi.
Máu căm thù dâng lên trong mắt đỏ
Nhìn lũ giặc như hùm thiêng nhìn chó
Bỗng gầm lên mấy tiếng vang trời:
“Không, không đầu Tây
Tao thề chết tại đây!”
Chiếc xe hốt hoảng rồ ga
Phóng tới như điên, kéo anh ngã gục
Từ cao xa ngọn Chứa Chan còn thấy
Thây một anh hùng dân tộc
Đuổi theo xe như một khối căm hờn
Máu anh đỏ mãi ruộng vườn
Núi rừng Xuân Lộc nhớ thương đời đời.
Hà Nội 1956 | Huỳnh Văn Nghệ |
Cây Thông Già Và Anh Thợ Rừng | poem.php?poem=cay_thong_gia_va_anh_tho_rung__huynh_van_nghe | Dưới bóng cây thông già
Anh thợ rừng nghỉ trưa
Gác đầu trên cán búa
Nghe chim hát vu vơ...
Mơ thấy thông thành người
Một lão già râu bạc
Ngồi kể lể chuyện đời
Lời ôn tồn tha thiết:
“Lưỡi búa anh bén quá
Chặt tôi đành sao anh
Chúng mình nào xa lạ...
Cùng khổ trong chiến tranh.
Cả họ rừng tôi đây
Con sóc đến cây cầy
Không một người theo Tây
Không một ai theo Mỹ
Chúng tôi quyết bám rễ
Đứng giữ mảnh đất này
Dù đội bom chịu lửa
Một bước chẳng hề lui
Rừng ta che bộ đội
Rừng ta vây quân thù
Tuy rừng chưa biết nói
Chuyện rừng đã nên thơ.
Quân thù đã phá hủy
Hai triệu mẫu rừng xanh
Mối thù này phải trả
Hỡi loài người văn minh
Đất rừng còn nhức nhối
Hố bom khoét thân mình
Cây dầu còn rỉ máu
Vết đạn vẫn chưa lành.
Rừng đang kêu cấp cứu
Ú ớ chẳng nên lời
Tiếng rừng nào ai hiểu
Chỉ gió thổi, thông reo.
Anh hãy thương rừng với
Chặt nhẹ búa mà thôi
Để núi rừng đâm chồi
Sống cho đời thêm đẹp
Vì lợi ích cả nước
Trước mắt và lâu dài
Nghĩ kỹ mới ra tay
Kẻo ngày mai ân hận.
Lời Bác Hồ căn dặn
“Phải trồng cây, gây rừng”
Khó khăn cùng ráng chịu
Tiêu diệt rừng sao đang.
Rừng chết dễ như chơi
Vừa ngã xuống, vừa cười
Thương đời không bóng mát
Ai che đất, che trời.
Chim thú không chỗ sống
Bước lưu vong ngậm ngùi
Mất rừng tan tổ ấm
Của tổ tiên loài người.
Dân mình còn gian khổ
Hòa bình chưa ăn mừng
Lo thiếu gạo, thiếu gỗ
Nhưng phải bảo vệ rừng.
Ngày mai rừng tươi lại
Cho người đỡ nắng mưa
Thêm lúa thơm, gỗ quý
Suối trong veo, bốn mùa...”
Anh thợ rừng tỉnh giấc
Ngơ ngác nhìn mênh mông
Tìm ông già râu bạc
Chỉ chim hót cành thông.
Đường về lúa ngoảnh lại
Chỉ thấy ngọn thông già
Như một chàng dũng sĩ
Đứng gác rừng bao la.
7-3- 1976 | Huỳnh Văn Nghệ |
Chiến Khu Đ Chống Bão | poem.php?poem=chien_khu_d_chong_bao__huynh_van_nghe | Rùng rợn giữa đêm mưa
Tiếng vợ khóc gọi chồng chới với:
“Con trôi rồi, con trôi theo bè chuối...!”
Không tiếng trả lời
Chỉ từ nóc nhà tranh
Tiếng chó đứng sủa hời.
Trời sáng rồi, mưa vẫn cứ rơi
Những nóc nhà trôi
Những thân cây đổ.
Suối ngập thành sông, sông tràn thành biển
Mênh mông sóng vỗ chân trời.
Thôi hết rồi, hết lúa, hết khoai
Chiến khu Đồng Nai lại đói.
Con ngậm củ mài, cha nhơi củ chuối.
Ứớt mắt chồng nhìn vợ nuốt vỏ khoai
Đứt ruột mẹ tiếng con thơ đòi bú.
Voi cũng trôi tận Cù lao Phố
Mấy con trâu vướng cột cầu Gành.
Một tượng Phật dời lên nóc đình
Đành chắp tay nhìn dòng nước lũ.
Trút cả hũ, còn không đầy nắm muối
Cho ngày ăn cả đại đội Lam Sơn.
Ba người chia một vắt cơm.
Tạm đỡ dạ cả tiểu đoàn chủ lực.
Chèo chống ngày đêm, lênh đênh trên mặt nước.
Vớt của, vớt người.
Thân trần chèo chống dưới mưa.
Tiếng cười vẫn nô đùa sóng gió.
Từng manh chiếu, quả dừa, chiếc bừa, bó đũa.
Vớt lên mang trả lại từng người.
Đồn Rạch Đông nước ngập sắp trôi
Lính ngụy lên nóc đồn kêu cầu cứu:
“Huyện đội Vĩnh Cửu ơi... Vĩnh Cửu,
Cứu chúng em, ơn trả, nghĩa đền”.
Chiến sĩ ta, cười reo lên
Nghe lệnh đồng chí chính trị viên:
“Chèo nhanh lên, cứu chúng nó...”
Nhưng giặc Pháp muốn thừa cơ trận bão
Đánh chiến khu, một trận cho tiêu tan
Dồn sức tấn công, lừa bịp, chiêu hàng.
Tăng cường truyền đơn và bom pháo.
Cả chiến khu đêm nay không ngủ
Tụ năm, tụ ba,
Bàn tán về tiểu đoàn ba trăm ba:
“Dù thiếu cơm, dù thiếu áo
Đánh giặc càng hay,
Ăn củ mì cũng giỏi
Thế nào cũng thắng, và... phải thắng!”
Bỗng được tin loa:
“Ta tiêu diệt hoàn toàn đồn Bến Sắn”.
Tiệc liên hoan có bát cơm gạo trắng
Tiếng cười, tiếng hát, vang rừng.
Hà Nội 1960. | Huỳnh Văn Nghệ |
Đám Ma Nghèo | poem.php?poem=dam_ma_ngheo__huynh_van_nghe | Đám ma ai giữa mưa dầm gió lạnh!
Bốn người khiêng lắt lẻo chiếc quan tài
Người vợ kêu trời khan cả giọng
Ẵm con thơ lần bước dưới mưa rơi.
Sau góa phụ còn hai con trẻ dại
Dắt díu nhau, nheo nhóc khóc không thôi.
Và sau nữa... không còn ai nữa hết.
Bầy chó theo sủa mãi đám ma côi.
Biên Hòa 1938 | Huỳnh Văn Nghệ |
Du Kích Đồng Nai | poem.php?poem=du_kich_dong_nai__huynh_van_nghe | Kính tặng anh Chín Quỳ - người chỉ huy du kích Đồng Nai.
Chiến khu Đ có từ thuở ấy
Có một anh đồng chí
Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi
Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai
Lập chiến khu nuôi chí lớn.
Nước ngọt, dân thương, rừng rộng
Tiếng súng đêm đêm phá mộng bọn lính, tề
Bạn với núi rừng, trái cam, măng le.
Đêm lắng nghe gió trời muôn dặm:
Thuyền Hít-le chìm đắm.
Biển Liên Xô sóng đỏ dâng trào
Pháp mở cửa Đông Dương quỳ gối
Rước Nhật vào
Hơn hai triệu đồng bào chết đói...
Chi đội vũ trang mới tròn tiểu đội
Cơ sở nhân dân chỉ nội huyện Tân Uyên.
Phải chống ngụy, tề bố ráp ngày đêm
Suất năm năm, hai chính quyền Pháp, Nhật.
Ngày đói ăn rau, đêm lo thao thức
Mỗi năm thêm nấm mộ giữa rừng:
Ba Tôn, Bảy Chiếp, Út Liễng, Tư Mừng...
Bỗng một chiều sương
Gió thu đang tơ vàng lá cám.
Động bước chân ai, giật mình rừng thẳm.
Anh Giỏi về, người thợ xưởng Ba Son.
Lá cờ son
Tay anh hé mờ
Lệ du kích Đồng Nai thấm vào vải đỏ.
Giữa mùa thu mà hoa nở thình lình.
Đọc truyền đơn như đọc bức thư tình
Từng chữ một đánh vần đến thuộc
Chiến khu xanh đêm vui đỏ đuốc
Suối mừng reo, tiếng guốc nhịp đều đều.
Chợ Tân Uyên bỗng lên giá lụa điều
Mua lụa đỏ cũng bị tra, bị đánh.
Cờ Việt Minh, ngôi sao năm cánh
Như tim vàng ngự giữa lòng son.
Cách mạng đến giữa mùa trăng tháng Tám
Chiến khu Đ, rừng vắng bóng tưng bừng.
Sợi dây thừng thắt bao đạn quanh lưng
Áo rách vai, đầu trần, đi khởi nghĩa.
Những tròng mắt bừng bừng ánh lửa
Gót chân chai giậm vỡ nhựa đường.
Cờ đỏ sao vàng
Đã ngập trời Nam Bộ:
Những đoàn người như thác đổ
Tiếng hò reo đất lở nghiêng trời
Bọn giặc Nhật rụng rời
Quỳ dâng lại Sài Gòn và lục tỉnh
Người du kích Đồng Nai gác tòa thị sảnh
Ngỡ từ nay hết nghe lạnh rừng sâu.
Bắc Sơn 1954 | Huỳnh Văn Nghệ |
Đường Về | poem.php?poem=duong_ve__huynh_van_nghe | Xe cũ quá kêu vang trên đường sắt,
Núi sầu che, mút mắt núi sầu che.
Xe chở lòng hay lòng đã chở xe?
Nghe ngóng quá, lòng ơi sao nặng quá!
Phải ta cứ ở nhà mơ ước nữa,
Đi làm chi mà về với đau thương.
Máu đào tuôn, cứ để máu đào tuôn
Trên đường ấy để lần sau tránh bước.
Ôi đau đớn! Chưa đi đà biết trước:
Bước lên đường là tan một giấc mơ.
Đi gặp nhau để hết nhớ mong chờ,
Tình thú vị chỉ trong thơ qua lại.
Đã lỡ bước, nên đến không muốn thấy
Nhác trông cây không trái với không chim.
Để tìm gì trong bạn chút phần tim
Người đã hứa tặng ta từ xa cách.
Nào đâu những hoa vàng chào chim khách,
Tấm khăn tình phơ phất đón sân ga.
Đâu môi duyên cười đón bạn phương xa
Và lòng mở, tim run, tay siết chặt?
Ta chỉ gặp lạnh lùng trong giếng mắt
Trên đường về xe gầm thét kêu thương...
Ta lặng yên, nén lệ, ngắm mây ngàn.
Sài Gòn 1938 | Huỳnh Văn Nghệ |
Em Bé Liên Lạc | poem.php?poem=em_be_lien_lac__huynh_van_nghe | Nhà em ở xóm Cây Dâu
Trước kia ở đợ giữ trâu cho người
Nay em đánh giặc được rồi
Một mình bảo đảm thơ từ qua sông
Ngày đêm nước lớn, nước ròng
Em ôm thân chuối bơi không cần thuyền.
Mẹ em ngồi đứng không yên
Thương em thù giặc, ngày đêm phập phồng
Nghe từng loạt súng bờ sông
Mà nghe như đạn xé lòng, xé gan.
Quân thù vừa tóm được em
Mẹ lăn vào bót xin đem em về
“Nó chăn trâu bắt làm gì
Nó chưa đủ sức đánh Tây đâu mà...”
Ba ngày bị đánh, bị tra
Mắt lồi, má tím, máu trào môi đen
Mẹ em cũng hết lời khuyên:
“Cứ khai cho mẹ, để yên cho rồi
Thà rằng con sống mồ côi
Còn hơn để mẹ suốt đời khóc con!”.
Lắc đầu em cố nói “không”
Giặc hăm cắt cổ, thả sông, em cười.
Hôm sau dòng nước Đồng Nai
Đưa ra biển cả một thây không đầu.
Mẹ em, chị Sáu Cây Dâu
Xin đi bộ đội trả thù cho con.
Chiến khu Đ - 1953 | Huỳnh Văn Nghệ |
Giữ Bí Mật | poem.php?poem=giu_bi_mat__huynh_van_nghe | Bắt được anh du kích
Thằng Tây xồm vểnh râu
Tuốt dao găm hăm dọa
Hỏi dồn dập mấy câu:
“Mầy ăn gì để sống,
Đánh với ông bấy lâu
Chiến khu bị phong tỏa
Gạo, cơm hết còn đâu?
Mầy ăn gì để sống?
Trâu bò chết hết rồi
Cầy bừa bị đốt sạch
Đập nát hết lúa rồi.
Mầy ăn gì để sống?
Củ chụp hay củ nần
Ăn cái gì là chính
Sống được mãi trong rừng.
Nói thì ông sẽ thả.
Không thì đừng trách trời
Dao găm này mổ bụng
Cũng lòi ra mà thôi...”.
Anh du kích không nói.
Răng cắn chặt lấy môi
Trước mưa roi đẫm máu
Miệng anh cứ như cười.
Thằng Tây càng căm tức:
“Tao quyết sẽ giết mầy,
Khám phá điều bí mật.
Mổ bụng mầy rõ ngay.
Anh du kích không nói
Dao găm rạch dạ dày
Thằng Tây trợn mắt trắng.
Nhìn mấy mảnh khoai mì!
Anh du kích đã chết rồi
Đồng bào thương tiếc, cúng xôi mỗi mùa.
Bình Định 1953 | Huỳnh Văn Nghệ |
Hành Quân | poem.php?poem=hanh_quan__huynh_van_nghe | Đoàn quân đi như thân rắn uốn
Quanh đồi, qua suối, qua đồng,
Qua xóm làng như dải lụa cong cong
Êm như dòng nước.
Trẻ em chạy theo nhìn không chớp mắt.
Đếm hoài chưa hết đoàn quân.
Lúa khoai mừng đếm ướt những bàn chân,
Cành lá ngụy trang múa reo trên mũ áo.
Cơm vắt ban đêm ngày không đỏ lửa,
Thương đồng chí anh nuôi cặp mắt mơ màng.
Chiếc nồi đồng há miệng thênh thang
Như buồn ngủ ngáp dài vô tận.
Thương anh trinh - liên suốt ngày lận đận
Chạy như thoi gác trước canh sau.
Thương chị cứu thương mũ chẳng vừa đầu.
Vì tiếc mãi chưa “hy sinh” búi tóc.
Đường gập ghềnh, quanh co, hố, dốc,
Thương anh công binh lo từng bước cho đoàn,
Nối cây rừng thành cầu dọc, cầu ngang
Lưỡi rựa bén chưa bao giờ được nghỉ
Thương đoàn ngựa thồ vừa đi vừa thở
Lưng nặng oằn chân bước mãi không than.
Bờ suối xanh mừng có lệnh nghỉ chân
Cả ngựa lẫn người cong lưng uống nước.
Thương đồng chí chỉ huy
Tới giờ đi rút vội điếu thuốc
Thương cả đoàn quân đi dưới nắng mưa
Áo ướt rồi khô, khô rồi lại ướt,
Nước lắt ống tre; muối mè cơm vắt
Nương áo nhau lần bước đêm rừng.
Cũng mệt rã rời, mỏi cả tay chân
Nhưng chị cứu thương đến đâu
Nghe cười tràn đến đó.
Cũng có người vừa đi vừa mớ.
Nhưng cả đoàn quân chung một giấc mơ:
“Ông Địa cười xe địch sẽ thành tro,
Xung phong ra đường vung cao mã tấu.
Giặc quỳ xuống lạy xin tha thứ:
“Cho em về kẻo tội nghiệp vợ con”.
“Nhưng thôi đừng đi lính nữa nghe không?”.
Bận trở về được đi đường tắt.
Súng giặc nặng vai, đầu thêm mũ sắt.
Giày đinh thu được rộng chật cứ mang
Vang bước đoàn quân chiến thắng giữa đường làng,
Đêm liên hoan đồng bào mừng trăng sáng.
1955 | Huỳnh Văn Nghệ |
Hình Ảnh Bác Hồ Trong Lòng Nam Bộ. | poem.php?poem=hinh_anh_bac_ho_trong_long_nam_bo__huynh_van_nghe | Nhớ ngày sau kháng chiến.
Giữa thành phố Sài Gòn
Một chiến sĩ bị thương.
Lấy máu mình đang chảy
Tô lên tường năm chữ
“Thành phố Hồ Chí Minh”
Rồi mới đành lòng tắt thở
Cuộc kháng chiến bắt đầu từ đó
Sử Việt Nam, thêm một trang đỏ anh hùng.
“Thành phố Hồ Chí Minh”
Một lời thề thiêng liêng
Khắc sâu bằng chữ đỏ
Trong lòng người Nam Bộ
Như máu thắm lòng tim.
Giặc phá hủy miếu đình
Đốt nhà thờ, trường học
Không làm sao đốt được
Hình ảnh Bác trong lòng dân
Hình ảnh Bác khắp nơi
Theo dân đi kháng chiến
Khắp bưng biền, rừng thẳm
Thờ bên ảnh đức Chúa Trời
Bên cạnh Phật Thích Ca
Trong ba lô chiến sĩ
Trong cặp vở học trò
Trong bức tranh họa sĩ
Trong vần điệu nhà thơ
Giữa cơ quan, đơn vị
Sao mắt Bắc sáng ngời
Truyền niềm tin, dũng khí.
Khẩu hiệu thành tiếng sét
Kết thúc những mít tinh
“Hồ Chí Minh muôn năm!”
Khẩu hiệu thành khúc hát
Mẹ ru con giữa rừng.
“Hồ Chủ tịch muôn năm!”
Quyết thành câu khai báo
Khi bị giặc khảo tra.
Cũng là lời trăn trối
Khi sắp sửa lìa đời.
Bao năm trời khói lửa
Chỉ mong có mặt ngày
Bác vào thăm Nam Bộ.
Nước reo vui Đổng Nai.
Vinh quanh thay anh thợ sơn
Ngày giải phóng Sài Gòn
Trèo lên cổng thành phố
Tô vàng son năm chữ
“Thành phố Hồ Chí Minh”.
Hà Nội, 19-02-1960 | Huỳnh Văn Nghệ |
Hội Nghị Bình Công | poem.php?poem=hoi_nghi_binh_cong__huynh_van_nghe | Ngọn đèn dầu leo lét
Đại đội họp bình công.
Đại đội phó giải thích
Chiến sĩ chưa chịu thông.
Hầu hết cho rằng vội:
“Kháng chiến chưa thành công
Chúng mình còn có tội
Với dân tộc, núi sông.
Chỉ những người chiến đấu
Đến giọt máu cuối cùng
Mới cần được bình công
Trước chúng mình tất cả.
Bao người mòn ngục tối
Bao xác lạc giữa rừng,
Ai bờ sông, hóc núi
Người còn mộ, người không.
Họ cần được khen thưởng
Chớ chưa phải chúng ta.
Chúng mình còn sung sướng
Còn đánh giặc được mà.
Đồng ý các đồng chí
Gác lại cuộc bình công
Độc lập làm luôn thể
Một lần đỡ mất công.
Giờ lo đánh giặc đã
Rủi có chết thì thôi,
Thành công khen tất cả
Cho về thủ đô chơi”.
Đại đội phó lúng túng
Nghe họ nói hay hay,
Nhìn ông đại đội trưởng
Nhờ kết luận kẻo khuya.
“Thi đua là lệnh Bác
Để kháng chiến thành công.
Muốn thi đua giết giặc
Đại đội phải bình công.
Chuyện trước, sau sẽ hay
Kể từ trận ngày mai
Có bình công khen thưởng
Anh em mình ráng ghi
Cả công mình, công bạn”.
Đèn tắt, lệnh giải tán
Anh em cười vang rừng.
Mò mắc võng, giăng màn
Vừa thách thi chiến đấu.
1954 | Huỳnh Văn Nghệ |
Lịch Sử Quê Hương | poem.php?poem=lich_su_que_huong__huynh_van_nghe | Ngày xưa có đoàn người từ miền Bắc
Chán ghét vua quan áp bức.
Họ đạp núi rừng vượt sóng bể khơi.
Đi vào Nam làm lại cuộc đời
Tìm đất mới gieo mầm hạnh phúc.
Có con sông cũng từ hướng Bắc
Vượt núi rừng ghềnh thác
Tràn vào Nam cuộn cả bóng mây cao.
Người gặp sông
Ngụm nước mát ngọt ngào
Thề với trăng sao cùng nhau kết bạn
Chung nhịp bước về miền Nam nắng sáng
Nơi trời xanh nhởn nhơ đàn cò trắng
Nơi đồng xanh ngơ ngẩn đám nai vàng.
Bờ hoang vu hạ trại một chiều sương
Lột da nai
Lửa cơm chiều bốc khói
Họ đặt tên Đồng Nai cho trời đất mới.
Bao ngày gian khổ
Hằng trăm năm tranh đấu với núi rừng
Mồ hôi, nước mắt, tay sưng
Mới có được góc trời Nam tươi mát
Đồng lúa thơm, vườn bưởi đường, cam mật
Tiếng trẻ thơ cười hát sân trường,
Hồi chuông chùa êm gõ sườn non
Mái tranh vàng khói cơm chiều quyến luyến.
Thuyền dưới bến dập dìu buồm cánh én.
Xe trên đường lẻng kẻng nhạc ngựa vang.
Ôi! Tân Uyên quê mẹ đẹp muôn vàn.
Bắc Sơn 1954 | Huỳnh Văn Nghệ |
Lời Chim | poem.php?poem=loi_chim__huynh_van_nghe | Hỡi Thượng đế, Người ban cho đôi cánh,
Con mừng thầm tưởng tránh khỏi trần ai.
Cho ăn trái, tưởng khỏi phiền tranh cạnh
Với lòng tham vô tận của người đời.
Con cứ tưởng: phước trời riêng con hưởng
Khi mới bay chập chững dưới chân đồi.
Con cứ tưởng: khi tập tành hát xướng
Rằng đời chim chỉ để hát ca thôi.
Nhưng Đông đến, mùa trời khe khắt quá,
Lá hoa rơi trơ trọi nhánh cây ngàn.
Mải mê hát khi cây còn quả đỏ
Nên bao lần đói lạnh lúc Đông sang!
Người ta lại theo con lên núi đỏ.
Vào rừng xanh phá ổ, đốn cây cao
Họ giành giựt cùng con từng trái nhỏ,
Để đem về làm vui miệng cho nhau.
Chịu sao nổi nỗi tham tàn nhân loại,
Cánh chim non dễ bay thấu tận trời,
Trí chim kém dễ gì qua cung bẫy,
Lời đau thương nào thấu được tai ai.
Đã bao phen con ước mong bay thẳng
Đến thiên cung xin đổi số phần con,
Xin Thượng Đế cho chim ăn mây trắng
Và cho chim lót ổ giữa trăng tròn.
Nhưng kiếp này vì yêu thương đã lỡ
Nên con đành vương nặng nợ trần ai.
Chung số phận cùng con bao thi sĩ
Mộng đài trăng gác lại để thương người.
Sài Gòn 1945 | Huỳnh Văn Nghệ |
Mất Tân Uyên | poem.php?poem=mat_tan_uyen__huynh_van_nghe | Chỉ có mây bay lên trên trời vắng!
Đáy sông xanh đâu còn bóng lầu son.
Tiếng xe ngựa vang xa trong dĩ vãng
Đây tro tàn, gạch nát, ôi tang thương.
Nhớ Tân Uyên thuở thanh bình yêu mến
Gái nhà quê hợp chợ má hồng tươi
Thuyền bốn phương về đây lưu luyến bến
Dòng sông xanh êm thắm nhẹ nhàng trôi.
Chiến tranh đến chuyển rung trời đất Việt
Mẹ lo buồn rười rượi trước ngày mai.
Lệnh Nguyễn Bình vừa oai nghiêm, tha thiết:
“Đồng bào ơi! Ta quyết chiến phen này!”.
Lệnh truyền xuống tiếng reo hò vang dậy,
Lửa Tân Uyên cao ngọn đuốc tưng bừng
Ra mặt trận chen chân trai lẫn gái
Mang trầu cau mẹ bám gót dân quân.
Trận Tân Uyên cuối mùa Đông năm ấy
Lần đầu tiên giặc Pháp nếm chua cay.
Lần đầu tiên đạo viễn chinh lừng lẫy
Phải lui về bỏ lại mấy trăm thây.
Rồi từ đó Tân Uyên thành chiến địa
Máu quân thù tiếp tục chảy không thôi
Dòng sông xanh đã nhuộm màu máu tía,
Thuyền bến xưa phiêu bạt bốn phương trời.
Và từ đó dân Tân Uyên anh dũng
Vào chiến khu dựng lại mái lều tranh
Quyết kháng chiến cho đến ngày toàn thắng
Bóng cờ son in lại đáy sông xanh.
Chiến khu Đ 1949 | Huỳnh Văn Nghệ |
Mẹ Buồn | poem.php?poem=me_buon__huynh_van_nghe | Thấy mẹ buồn, con hỏi
“Má tiếc gì má ơi!
Nhà mình con đốt rồi
Kẻo mai thành bót giặc”.
Mẹ nhìn con âu yếm
Vuốt tóc con, mỉm cười
“Thằng này nó coi tôi
Như học trò của nó
Má đẻ ra mày đó
Không nhớ, má nhắc cho.
Nhà má có ra tro
Con càng lo đánh giặc.
Nhưng mà má chỉ tiếc
Cái ống ngoáy trầu thôi
Bằng đồng chùi sáng dới
Bỏ quên trong lúc chạy
Bây giờ đồng cũng chảy...”
Bìa rừng ngồi ngắm khói lên
Mẹ buồn vì lỡ:
Bỏ quên ống ngoáy trầu.
Chiến khu Đ 1947 | Huỳnh Văn Nghệ |
Mẹ Nam Con Bắc | poem.php?poem=me_nam_con_bac__huynh_van_nghe | Mẹ bắt được lá thăm
Cầm lo le, bối rối
Nhờ cán bộ đọc giùm
Tên đứa con bộ đội.
“Anh tên Nguyễn Văn Đối
Quê quán ở Hưng Yên
Sở cao su Thuận Lợi
Nhập ngũ cướp chính quyền”.
Mẹ mừng rơi nước mắt,
Khoe khắp cả xóm làng:
Được đứa con người Bắc
Chiến sĩ của trung đoàn.
Được phép về nhìn mẹ
Đối mừng, kể đuôi đầu.
Mẹ bảo: “Nói chậm nhé
Má nghe chẳng kịp đâu”.
Mẹ làm gà hái bưởi
Bảo ăn, Đối chối từ
Mẹ giận: “Mày chê hả?
Tao đánh đòn bây giờ”.
“Má có gì ăn nấy
Mới là tình mẹ con
Ăn xong tao vá áo
Mới cho về trung đoàn”.
Một hôm đi công tác
Đối bị bắt vào đồn.
Mẹ thương con đứt ruột
Chạy sứt cả da chơn.
“Con mày sao người Bắc?
Thằng Tây trợn mắt nhìn
Mẹ vừa kể vừa khóc
Ứớt cả mắt ngụy binh.
“Chúng tôi vào Nam Bộ
Từ thuở nọ lâu rồi.
Con tôi, tôi biết rõ
Áo ba lỗ vá vai
Nhà tôi nó trồng khoai
Bây giờ đang có củ.
Cả làng ai cũng rõ
Ông hỏi lại mà coi!”.
Một ngụy binh người Bắc
Đi điều tra việc này
Trở về: “Thưa quan sếp
Lời bà nói không sai”.
Anh Đối được thả ngay
Cả làng cười khúc khích.
Bỗng hôm nào mẹ chết
Vì mảnh đạn ca nông.
Chết không chịu nhắm mắt
Vì đợi mãi đứa con.
Ba ngày anh Đối khóc
Đầu quấn chiếc khăn tang
Tình mẹ Nam con Bắc
Rào rạt lòng trung đoàn.
1953
Giữa năm 1946, ở Biên Hòa có tổ chức phong trào mẹ chiến sĩ. Đồng bào mỗi xã bắt thăm được tên cán bộ hay chiến sĩ nào thì nhận người ấy làm “con kháng chiến” (Ghi chú của tác giả) | Huỳnh Văn Nghệ |
Mộng Làm Thơ | poem.php?poem=mong_lam_tho__huynh_van_nghe | Chàng chỉ muốn làm thơ bằng máu
Trên mây hồng cho gió rải cùng trời
Để những người đau khổ khắp nơi nơi
Ngừng than thở
Và thương nhau khi trông hàng chữ máu
Nhưng e rằng chữ biến khi mây tan...
Câu thơ mình thiên hạ cũng dần quên,
Chàng lại muốn, ôi điên cuồng thay thi sĩ.
Lấp muôn sao nên vần thơ chàng nghĩ
Để trên trời ngàn thế kỷ không phai
Người trăng sao sẽ nhớ thương hoài
Quân cướp nước cướp cả quyền mực giấy
Sách chợ đời chưa thấy một vần thơ
Thơ yêu nước đọng đáy lòng thi sĩ
Như nguồn sâu chờ gặp biển bao la.
Vì thế, biết bao đêm buồn trở giấc
Nhớ vần thơ nhốt giữa lòng thổn thức
Nên đêm đêm đành đứng ngắm trời đông
Để ánh muôn sao chói cõi lòng!
Sài Gòn 1937 | Huỳnh Văn Nghệ |
Một Trận Chống Càn | poem.php?poem=mot_tran_chong_can__huynh_van_nghe | Rùng rợn tiếng loa vang
Giữa rừng khuya giá lạnh
“Chống càn... chống càn
Đồng bào chuẩn bị chống càn...”
Máy nói trung đoàn tiếp theo reo lệnh:
“Chôn ngay máy tiện
Tắt hết lửa lò
Tháo giấu máy in
Gánh dời kho gạo
Sơ tán hết trẻ thơ, già yếu
Ngụy trang cả hầm lúa, hang heo...”
Máy nói cứ reo...
Trinh sát chạy chân không bén đất.
Tin tức trở về từng phút, từng giây.
“Tây đã vào Đất Cuốc
Xe tăng gầm phía Bào Đế, Tân Dân
Ở Lạc An, chúng đang đốt nhà dân
Nhổ từng gốc khoai
Cướp từng tô thóc,
Phía Cây Đào, rền tiếng súng cà nông
Đất Tân Tịch rỗ hố bom, đại bác”.
Rách nát thân dừa
Xác xơ ngọn chuối
Hai vợ chồng nhìn nhau không nói
Nhặt từng mảnh xương con
Gói lại
Đem chôn
Lệ trào tuôn
Không tắt lửa căm hờn
Trong bốn mắt.
Ôi chiến khu Tân Uyên!
Lại cháy nữa mái tranh, rẫy lúa,
Lại chảy nữa máu đồng bào đau khổ
Ngồi đứng không yên
Tiểu đoàn chủ lực từ Long Nguyên
Mừng được lệnh đạp đêm về căn cứ.
Cành lá ướt, sương vuốt ve mũ, áo
Đồng bào gánh bánh, nước đón mừng...
Trời vừa rạng đông
Sông Đồng Nai bỗng cười tung sóng trắng
Thủy lôi ta hạ tàu giặc ở Xóm Đèn
Tây trắng cố dìm Tây đen
Chen nhau bơi, chui đầu vào lưới đạn.
Địa lôi ta nổ trên đường Hố Cạn
Làm gục đầu mấy chiếc xe tăng
Nát thây bọn ngụy thổ, Việt gian.
Còn hai chân vướng tòn teng trên cành.
Băng hầm chông, lựu đạn.
Dân quân hạ “ông lớn” khắp nơi.
Bọn nhảy dù chân chưa bén lúa tươi
Bị cọc bén chĩa ngay lòi ruột
Con “đầm già” bị một chùm đạn mút
Lảo đảo bay về khói vuốt theo đuôi.
“Giàn nhạc” ca nông đã câm họng lâu rồi
Chiếc “cán gáo” đã chuồn mất hút
Tiếng kèn của tiểu đoàn chủ lực
Đã vang rền phía Lò Than
Đồng bào reo mừng
Mẹ vội hái củi khô
Đun thêm nồi bánh tét,
Vừa vái Trời, với Phật.
“Phù hộ trung đoàn, giết giặc lập công!”.
Nồi bánh tét chưa sôi
Tin giặc đã chạy rồi
Bỏ lại cả lon quan, xác lính.
Đêm liên hoan mẹ hò lanh lảnh:
“Khu Đ đi dễ khó về
Lính đi bỏ mạng, quan về mất lon”.
Chiến Khu Đ - 1952 | Huỳnh Văn Nghệ |
Nấm Mộ Giữa Rừng | poem.php?poem=nam_mo_giua_rung__huynh_van_nghe | Đêm thao thức bên lò lựu đạn
Ngày say sưa quay máy tiện, máy bào.
Quá sức, ốm đau
Chén thuốc rễ cây rừng không cứu được.
Lòng anh em xót xa từng nhịp cuốc
Chôn anh, chiếu rách bó thân gầy.
Gỗ mộ bia có đề rõ tháng, ngày.
Chức vụ, họ tên, quê quán.
Nhưng mới ba mùa mưa, nắng.
Gỗ sơn kia không chịu nổi sức rừng.
Mộ bia mòn, chỉ còn chữ “công nhân”.
Còn tên, tuổi mối gặm dần hết cả.
Quê quán anh: Ba Son hay Cẩm Phả?
Mộ bia đành không ghi giữ được lâu.
Tinh thần anh, chim hát mãi nghìn thu.
Chiến khu Đ - 1951 | Huỳnh Văn Nghệ |
Ngày Hội | poem.php?poem=ngay_hoi__huynh_van_nghe | Biên Hòa đã mất
Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao.
Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiên hào
Đêm tập một, hai vang trường Đất Cuốc
Già, trẻ, gái, trai rộn ràng tập hát
Tiến quân ca.
Anh Nguyễn Bình cũng đã về đây
Xem địa thế thấy sông dài rừng thẳm
Tình quân dân đầm ấm
Anh xuống ngựa buộc cương
Đồng bào mừng, thầm gọi “ông Trung ương”.
“Của Bác Hồ gửi cho Nam Bộ”
Lạc An bỗng tưng bừng ngày hội
Kéo về đây đến bốn, năm chi đội
Kim Trương, Tô Ký, Vũ Đức, Tấn Chùa,
Chiến khu Đ của tiểu đội ngày xưa
Bỗng lớn lên như Phù Đổng.
Xóm thôn rộn ràng cờ, trống
Chim rừng hốt hoảng
Tìm cành cao nhất đứng nhìn nhau.
Giữa rừng vang từng nhịp búa thầu
Của binh công xưởng đầu tiên làm lựu đạn.
Đáy sông xanh cũng xôn xao mây trắng
Thuyền ngược xuôi gạo, muối, giọng hò.
Phố Biên Hoa thị xã mến yêu
Chiến sĩ Lạc An yêu giấc ngủ.
Chiến khu Đ - 1947 | Huỳnh Văn Nghệ |
Nhớ Bắc | poem.php?poem=nho_bac__huynh_van_nghe | Ai về Bắc ta đi với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở cõi
Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long.
Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng!
Mà ta con cháu mấy đời hoang
Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ
Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương
Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ
Xem nhịp từng câu vọng cổ buồn
Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ
Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng.
Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên
Chinh Nam say bước quá xa miền
Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm
Muốn trở về quê, mơ cảnh tiên.
Chiến khu Đ 1946
Trong một ghi chép khác, tác giả ghi bài thơ là “Tiễn bạn về Bắc”, viết ở Sài Gòn năm 1940, có thêm một đoạn:
Ai đi về Bắc xin thăm hỏi
Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa
Hoàn Kiếm từ xưa linh quy hỡi
Bao giờ mang trả kiếm dân ta. | Huỳnh Văn Nghệ |
Nhờ Bà Cô | poem.php?poem=nho_ba_co__huynh_van_nghe | Giặc về lấy miễu Bà Cô
Đóng đồn kiểm soát đôi bờ sông xanh.
Bắt dân đắp lũy xây thành
Giết người ngay giữa sân đình sớm trưa.
Đồng bào bàn tán xôn xao:
“Bà Cô thiêng lắm, lẽ nào sợ Tây
Quân ta muốn đánh bót này
Xin bà phò hộ trở tay dễ dàng...”.
Xóm trên, xóm dưới luận bàn
Trăm mưu, ngàn kế trung đoàn tấn công.
Người thì chỉ cách qua sông
Đường đi nước bước thuộc lòng từng ly.
Người xin mở cửa thép gai
Người thề cướp súng cối xay cạnh đình.
Buồng thờ chúng nhốt tù binh
“Tượng bà, chúng bện bù nhìn gác sông”.
Tình hình nắm vững ngoài, trong
Trung đoàn quyết định tấn công bất ngờ.
Đêm qua súng nổ vang bờ
Nhiều người van vái Bà Cô dậy làng.
“Lạy bà phù hộ trung đoàn
Chiếm đồn giết giặc cho làng nước yên!”
Rực trời lửa bốc cháy lên
Trẻ già mừng rỡ reo vang đôi bờ:
“Nhờ Bà Cô, nhờ Bà Cô!”
Nhưng trung đoàn biết là nhờ nhân dân!
Trận xong giải thích cả tuần
Đồng bào mới chịu chính mình thắng Tây.
Chiến khu Đ 1949 | Huỳnh Văn Nghệ |
Rừng Đẹp | poem.php?poem=rung_dep__huynh_van_nghe | Rừng đẹp như một bài thơ cổ
Cành cao vượn hú
Ríu rít tổ chim.
Bờ suối đỏ hoa sim
Thảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa.
Đêm trăng một người một ngựa
Lỏng cương cho gió ráo mồ hôi.
Hội nghị giữa trời
Chim, lá cũng góp lời góp ý.
Mắc võng cây này qua cây ấy
Củi khô lửa cháy ấm đêm đông.
Tắm, ăn nước suối một giòng.
Chung cho cả ngựa, người, trên, dưới.
Củ mì luộc chia đôi chấm muối
Mặn bùi tình nghĩa anh em.
Cửa mở suốt đêm
Doanh trại, nhà dân, cơ quan chính phủ
Chung một mái tranh
Cởi mở tâm tình
Rách lành manh áo che thân
Không phân biệt nhân dân, cán bộ.
Rồi những chiều nào đó
Kháng chiến thành công
Giữa cảnh ngựa xe thành phố
Gặp lại bạn bè hay với con, với vợ
Ngồi kể lại chuyện rừng xanh núi đỏ
Tình chiến khu còn đậm mãi ấm chè thơm.
Chiến khu Đ - 1951 | Huỳnh Văn Nghệ |
Rừng Nhớ Người Đi... | poem.php?poem=rung_nho_nguoi_di__huynh_van_nghe | Kính tặng Trung tướng Nguyễn Bình, những chiến sĩ Lạc An, đã từ biệt chiến khu Đ để về Đồng Tháp năm 1946.
Từ độ chàng đi vung kiếm thép
Mịt mù khói lửa khuất binh nhung.
Rừng xanh thương nhớ như chinh phụ
Hồi hộp nghe từng tin chiến công.
Chòi cũ còn đây mái xác xơ
Tro tàn bếp lạnh, nhớ người xưa
Còn đâu những sáng tưng bừng nắng
Thử súng rền vang dưới bóng cờ.
Còn đây mái suối, chiếc cầu con
Bến đá chân anh bước đã mòn
Chim lắng, nước ngừng không hát nữa
Bãi hoang, dấu ngựa cỏ rêu phong.
Ngày đi có bướm chim đưa tiễn
Cành xanh bịn rịn vuốt yên cương.
Từ biệt Lạc An về Đồng Tháp.
Đâu biết rừng xanh cũng đoạn trường.
Từ đó Lạc An mang nhớ thương
Ba thu sầu rụng lá muôn vàn
Bốn phương lửa khói tung mù mịt
Rừng ngại ngùng cho cánh phượng hoàng.
1947 | Huỳnh Văn Nghệ |
Sông Đồng Nai | poem.php?poem=song_dong_nai__huynh_van_nghe | Đồng Nai sông nước anh hùng.
Nguồn xa, xa tận núi rừng hoang vu.
Lệ tiên kết đọng hồ sâu
Còn mơ cao rộng nhớ màu gió trăng
Xông pha vượt núi băng ngàn,
Gặp Là Ngà nghĩa bạn vàng kết đôi
Thề: “Dù trắc trở núi đồi
Cũng liều sống thác tìm trời tự do...”
Đôi lòng nặng chí giang hồ
Ngàn thu say bước trở về biển xanh.
Đường xa lên thác xuống gành
Ruộng đồng lưu luyến thị thành mến ưa.
Lệ đời tràn ngập hồn thơ
Bao phen lũ hận bẻ bờ đau thương.
Gió ngang, thuyền ngược trăm đường
Đồng Nai hòa Thái Bình Dương dâng trào.
1940 | Huỳnh Văn Nghệ |
Tết Quê Người | poem.php?poem=tet_que_nguoi__huynh_van_nghe | Đêm hôm nay hoa đào cùng hẹn nở
Để ngày mai chào đón khách du xuân
Nâng cốc rượu người người vui rạng rỡ
Nghe rân ran pháo nổ xa gần.
Đêm hôm nay bao nhiêu người hớn hở
Nói cười vang giữa những cảnh xum vầy
Khoe áo đẹp, con ngoan và tiền của
Chúc cho nhau hạnh phúc mãi tràn đầy.
Đêm hôm nay cũng có bà mẹ khổ
Mỏi trông con quên cả lễ giao thừa
Đêm hôm nay chạnh đau lòng chinh phụ
Đếm tuổi con để nhớ thuở chồng xa.
Đêm hôm nay nơi tha hương lữ thứ
Khách chinh phu dừng bước lại bên đường
Ánh sao mờ phía chân trời xứ sở
Như mũi gươm, ôi! Nhức nhối, đoạn trường.
Bangkok 1942 | Huỳnh Văn Nghệ |
Thú Tội | poem.php?poem=thu_toi__huynh_van_nghe | Mẹ hỡi! Con đành cam bất hiếu
Để mẹ buồn và thất vọng vì con
Con còn biết làm sao cho mẹ hiểu
Nỗi lòng con cũng chua xót đời con.
Phải mẹ để mặc cho con ngu dốt
Không hiểu đời và thế giới bao la,
Con có thể tìm vui và hạnh phúc
Giữa gia đình đầm ấm tháng năm qua.
Mẹ lại nhịn trầu cau mua mực viết
Nhịn bánh quà để mua sách cho con.
Những lúc ấy, mẹ ơi có biết
Mẹ vô tình đã mua lấy đau buồn.
Giở con lại vụng khờ hơn thiên hạ
Chịu thua tình và thất bại với tiền
Phải mẹ biết con muốn làm thi sĩ
Thì mẹ ơi! Chỉ xiết nỗi ưu phiền.
Mẹ kể như một đứa con đã mất
Cây mẹ trồng sẽ không trái bao giờ
Công vun tưới bằng mồ hôi, nước mắt
Để không ngờ chỉ hái những hoa sâu.
Tân Uyên 1939 | Huỳnh Văn Nghệ |
Tiếng Hát Giữa Rừng | poem.php?poem=tieng_hat_giua_rung__huynh_van_nghe | Ngựa bỗng dừng chân
Bên quân y viện:
Giật mình nghe tiếng
Quốc ca vang.
Phải chăng giờ chào cờ buổi sáng
Hay hội nghị cơ quan?
Sao chỉ một người cất giọng
Hát đi, rồi hát lại nhiều lần.
Xuống ngựa, buộc cương
Hỏi ra mới biết:
Bác sĩ đang cưa chân
Một chiến sĩ bị thương
Bằng cưa thợ mộc...
Bác sĩ vừa cưa vừa khóc
Chị cứu thương mắt cũng đỏ hoe
Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre
Anh chiến sĩ cứ mê mải hát.
Cưa cứ cưa, xương cứ đứt
Máu cứ rơi từng vết đỏ bông.
Hai bàn tay siết chặt đôi hông.
Dồn hết phổi vào trong tiếng hát:
“Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc...”.
Đã hát đi hát lại bao lần
Vẫn chưa đứt xương chân
Vẫn chưa ngừng máu đỏ
Vừa xong băng bó
Anh lịm đi
Hồi hộp cả núi rừng
Tiếng hát mới chịu ngưng.
Ảnh Bác Hồ như rưng rưng nước mắt.
Trở lên yên ngựa đi từng bước
Cúi đầu nén nỗi đau thương
Nhưng lửa căm hờn
Bỗng dựng cao đầu ngựa dậy
Vang trời ngựa hí
Chí phục thù cháy bỏng tay cương.
CKĐ. 1946 | Huỳnh Văn Nghệ |
Tình Súng | poem.php?poem=tinh_sung__huynh_van_nghe | Đêm qua ôm súng nằm mê
Thấy ngày độc lập về quê thăm nhà.
Bờ sông đã thấy mẹ già
Đầu phơ, tóc bạc, mắt mờ, gậy rung.
Nhìn con một phút, ngại ngùng
Ôm con, mẹ khóc, ngập ngừng lời thương.
“Thật mày là Vệ Quốc đoàn
Trời ơi danh dự, vinh quang cho nhà!
Thằng này nó vẫn giống cha.
Càng cao, càng lớn lại vừa đẹp trai
Lại thêm khẩu súng trên vai
Ngôi sao trên nón, oai như ông thần.
Hỏi mày giết giặc mấy thằng
Vợ con, sự nghiệp, chiến công những gì?”
Ta nghẹn ngào nhìn mẹ
Sung sướng ngập tràn lòng
“Thưa mẹ đây báng súng
Còn ghi mấy chiến công,
Chỗ này là trận Bưng Còng
Còn đây Bến Sắn thành công mới rồi
Trảng Bom lửa cháy ngập trời
Là Ngà xe giặc, tơi bời giữa trưa
Còn đây là trận GÒ Dưa
Lệnh kèn chưa dứt, giặc thua tan tành.
Máu thù mã tấu còn tanh
Súng còn thơm khói, đôi chân ướt lầy.
Vết thương Mỹ Quới còn đây
Nhăn nheo da ngực khác gì huân chương”.
Mẹ hôn vết thương con
Như lễ gắn huân chương cho mẹ.
Hôn báng súng như dâu hiền mới cưới.
Bàn tay gầy, vuốt mãi tóc con trai...
Giữa cơn mê văng vẳng tiếng ru hời.
Bỗng giật mình tỉnh giấc
Báng súng âm bàn tay.
Mấy tiếng ó ma lai
Ngân dài rừng khuya vắng.
Súng gọi gươm chào hôn nhau lẻng kẻng.
Không ai chờ sáng
Cả trung đoàn đã đứng dậy, hành quân.
Bước chập chờn, luyến tiếc giấc mơ Xuân. | Huỳnh Văn Nghệ |
Trả Lời Thơ Lan | poem.php?poem=tra_loi_tho_lan__huynh_van_nghe | “... Không đâu em, lòng anh nào đã chết
Và nguồn thơ nào đã cạn bao giờ.
Anh còn đây, còn yêu mến ước mơ
Và thương nhớ biết bao giờ phai nhạt.
Nguồn máu đỏ trong tim còn rào rạt
Hình ảnh em đượm mát góc trời quê.
Cũng bao đêm anh mong thấy anh về...
Nhưng tỉnh dậy, trăng thề đành lỗi hẹn.
Ôi mong đợi héo tàn bao bóng nến
Nhớ thương anh mòn mỏi cột lều tranh
Có bao giờ tình anh nỡ phụ mình!
Nhưng em hỡi! Chờ thái bình thiên hạ.
Em vẫn rõ anh là thân chiến mã
Nợ kiếm cung oằn oại gánh yên cương.
Tiếng non sông giục bước ra sa trường...”
Sài Gòn 1944 | Huỳnh Văn Nghệ |
Trốn Học | poem.php?poem=tron_hoc__huynh_van_nghe | Trường chưa tan buổi học
Mẹ gặp con trong rừng
Liền bẻ cành bắt cúi
Đánh mấy lằn đỏ lưng.
Hỏi: “sao mày trốn học?”
Biết nói sao bây giờ
Mẹ hăm chiều bỏ đói
Con ấp úng xin thưa:
“Má ơi! Thầy của con
Như là không biết thương
Những trò nghèo áo rách
Mỗi bữa mỗi đánh đòn.
Bảo về thay quần áo
Mà quần áo đâu còn
Bộ này sao rách mãi
Để đau tủi thân con.
Xấu hổ và sợ đau
Không tiền may áo mới
Nên con đành trốn học
Để chờ ngày mẹ giàu”.
Cành roi rời khỏi tay
Khăn rằn lau nước mắt
Mẹ ôm con vào ngực
Chim rừng ngơ ngác bay.
Biên Hòa 1939 | Huỳnh Văn Nghệ |
Trở Về | poem.php?poem=tro_ve__huynh_van_nghe | Kỷ niệm một giấc mơ ở chiến khu.
Bảo Chánh, tháng 6 năm 1947.
Mây hường vương trước ngõ
Tiếng sáo trỗi mơ màng
Hương đào đâu phương phất
Chập chờn mấy cánh loan.
Thiên thai là nơi đây
Nơi nữ tiên hò hẹn
Nơi xưa nàng đưa tiễn
Ngày ta quyết xuống trần.
Thơ ta đề cửa sổ
Nét chữ vẫn chưa phai
Ghi mối tình muôn thuở
Trần tục với bồng lai.
Gót ngọc ai dần đến
Rèm châu nhẹ vén lên
“Ôi nàng tiên yêu mến
Anh đây rồi nhớ, quên?”.
Áo lam, quần lụa trắng
Khăn ngà, đôi dõn son
Hai mẹ con bước thoảng
Êm ái như đôi hồn.
Không ai nghe lời ta
Nàng không đoái nhìn ta
Cả lòng ta sụp đổ
Người đi qua hững hờ.
Mây hường tan trước ngõ
Tiếng sáo dứt bao giờ
Bầy loan theo nàng biến
Còn mình ta bơ vơ.
Thoảng hương thừa tơ tóc
Nhắc tình ấm ngày xưa
Rưng rưng hàng lệ ngọc
Nàng ơi, ta đâu ngờ!
Ta nhầm nàng sao được
Ngày xưa trong tay nhau.
Giống ta từng nét mặt
Con ta, ta quên nào!
Quay nhìn vào gương cũ:
Ta đã chết đi rồi!
Bị trần gian bao phủ
Mấy lớp đời tanh hôi.
Trán nhăn buồn nhân loại
Mắt sâu sầu thế gian
Máu thù chưa rửa sạch
Đôi bàn tay gian nan.
Nợ trần đâu đã trả
Bao năm sống với đời
Tình thương lòng tràn ngập
Tôi nào kể chi tôi.
Dưới tầng mây dày đặc
Đưa lên tận lòng tôi
Lời oán hờn u uất
Tiếng thở than ngàn đời.
Vung kiếm tan lầu ngọc
Vội chắp cánh về trần.
Tôi giật mình tỉnh giấc
Sung sướng giữa ngàn xuân. | Huỳnh Văn Nghệ |
Về Làng | poem.php?poem=ve_lang__huynh_van_nghe | Lẻn về thăm lại làng xưa
Vườn cây xơ xác gió lùa lá khô
Sông xanh không một chuyến đò
Đồi cao vắng tiếng chuông chùa công phu.
Ruộng đồng hoang trắng xương trâu
Nhà tan, cửa nát, lòng sầu mênh mông...
Lan ơi, từ độ thương chồng,
Ngờ chăng em, cảnh tan lòng hôm nay!
Nhớ ngày tay bạn trong tay
Vườn thơm chia trái, sông dài buông mơ.
Chiều nay người ngựa bơ vơ
Nhớ em nuôi bốn con thơ trong tù.
Súng đồn khua động chiến khu.
Quay về vó ngựa như tơ vương lòng.
Đồn thù phải đổ xuống sông.
Tình ta nối lại một dòng mơ xanh.
Tân Hòa, Chiến khu Đ - 1950 | Huỳnh Văn Nghệ |
Xuân Chiến Khu | poem.php?poem=xuan_chien_khu__huynh_van_nghe | Xuân vẫn về đây giữa chiến khu
Rừng thiêng nay bỗng hết âm u
Núi non hớn hở thay màu áo
Suốt biếc ngân reo chuỗi hạt châu
Ánh sáng tưng bừng trên lá non
Chim đồi mát giọng hát vén von
Xa xa vọng gác thùng nhịp trống
Bướm giật mình bay: những mảnh hồn
Chiếc sĩ từng đoàn dưới nắng tươi
Bên hoa ngồi kể chuyện, nô cười:
“- Xuân sau ăn tết nơi đâu nhỉ?
- Tùy bóng cờ kia sẽ trả lời”.
Phấp phới cờ bay dưới gió xuân
Quân ca từng khúc nhịp xa, gần
Từng đoàn chiến sĩ đi ra trận
Có bướm chim đưa tận núi rừng.
Tết kháng chiến đầu tiên
Chiến khu Đ -1946 | Huỳnh Văn Nghệ |
Bán Sầu | poem.php?poem=ban_sau__bich_khe | Sầu đâu sầu lạ lùng
Sầu theo lẽo đẽo ngàn trùng cũng theo
Bán sầu chi đó tệ
Xưa đã từng có kẻ bán hoàng thiên
Người bán trời không chứng mới là phiền
Còn tôi bán hàng sầu tiền chẳng lấy
Sầu nhấm ma men men khó tẩy
Sầu mời thần ngủ ngủ không ngon
Này sầu hoa sầu cỏ sầu núi non
Sầu tất cả bà con say tỉnh dở
Chưa nói đến tớ sầu vì tớ
Bôn ba mà vỡ lỡ nét tan thương
Ma dắt lối quỷ đưa đường
Sầu đây đó sầu vương chằng chịt mãi
Tôi muốn bán hàng sầu không vốn lãi
Khỏe tinh thần hầu tính lại cuộc trăm năm
Để sầu, thêm rối ruột tằm | Bích Khê |
Cuối Thu | poem.php?poem=cuoi_thu__bich_khe | Đêm nay hồn lặng làm sao
Cảnh thu ôm cả chiêm bao vào lòng
Sao xanh lợt tím tơ đồng
Gió ơi là gió, buồn đông thổi về
Không gian mưa lệ đầm đìa
Đầy sân trắng toát hoa lê đầu mùa
Trời lam ứ đặc tình thu
Ô kìa mây bạc nặng lùa về tây!
Hồn sao không động mà say!
Chà đôi chim khướu nó bay tung trời ...
Nhạc đâu bỗng vót từng khơi
Hồn theo với nhạc, hồn ơi là hồn
Buồn thôi như rượu thấm dồn
Lên men nồng khướt, xoay tròn trên không | Bích Khê |
Đồ Mi Hoa | poem.php?poem=do_mi_hoa__bich_khe | Lòng nao nức như hương trầm mới dậy:
Gió tâm tư say chúi nửa lừng mơ...
Đêm kim sa hay sao mà run rẩy? --
Không khí men, trăng liễu mướt đường tơ.
Đây một đóa đồ mi, -- ta đón lấy,
„p hồn hoa... đem giặt giữa bài thơ.
Đài nộn nhụy hóa nguồn trinh tinh khiết
Ướp một làn hương rượu quyện lâng lâng;
Tràng cánh trắng biến ra da thịt tuyết,
Một tiên nương mừa tựa một giai nhân,
Ngửng đôi mắt chứa mùa xuân phẩm tiết,
Giữa bài thơ... đưa vẳng tiếng ngân ngân.
Ôi sắc đẹp! anh hoa dồn vũ trụ!
Phẩm tràng sinh! tinh chất khí âm dương!
Mi làm long phím lòng muôn trinh nữ;
Muôn tài hoa nghiêng trước vẻ thiên hương.
Mi rớt ngọc cho vang muôn tình tứ;
Mi nhả sâm ngọt lịm vạn sầu thương.
Giai nhân đi trong chiêm bao ẻo lả
Để lời ca gợn sóng khí hoa men;
Tay búp sen kẻ lên vàng óng ả
Những đường thêu kim tuyến rúng đêm huyền.
-- Ngừng hơi thở... ta nép trong bóng lá
Để vần thơ theo nhịp điệu thuyền quyên.
Ta những muốn sầu thương thôi biểu lộ
-- Sắc trong màu, màu trong sắc; hân hoan...
Ta những muốn mùa đông nhường lại chỗ.
-- Nhạc gầy hương, hương gầy nhạc; lan man...
Ta những muốn màn đen về cõi mộ
-- Cả không gian là bể sáng tràn lan...
Rồi sắc đẹp hiện ra trong chính phẩm
Linh thiêng như mây nước đỉnh Nga My!
Và muôn hồn hoa lên vì say ngấm.
Và muôn lòng phát tiết cả uy nghi;
-- Đêm nầy đây ngời ngọc ngà sa gấm
Sắc đẹp vừa hiện giữa đóa đồ mi. | Bích Khê |
Duy Tân | poem.php?poem=duy_tan__bich_khe | Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới
Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong.
Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng
Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng.
Trong vòm xanh. Màu cưới màu, bình lặng,
Gây phương phi: chiếu sáng ngả sang mờ
Vì hình dung những sắc mát, non, tơ,
Như mặt trời mọc qua khóm liễu, một
Hoàng hôn. Ôi đàn môi, chim báu tới:
Chữ biến hình ảnh mới, lúc trong ngâm
Chữ điêu khắc, tỉa nghệ thuật sầu câm,
Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng.
Lúc trong ngâm, giữa kho vàng mộng tưởng,
Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng
(Những con cừu tim trẻ mướt như lông
Nên da thịt lên làn sa lụa mỏng,
Mỗi con cừu bốc lên men hy vọng...)
Thơ nhịp nhàng ý nhị nhịp theo thơ.
Tôi cắn vào trái bổ vỏ xanh mơ
Tìm chất quý thơm tinh mùi khoái lạc
Bằng hơi mộng, trong hàm răng, tản mác
Mộng?
Thiên tài ?
Trên hỗn độn khỏa thân
Đẹp tỷ mỷ, hỡi rung động truyền thần
Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái
Người họa điệu với thiên nhiên, ân ái
Buồn, và xanh trờị (Tôi trôi với bờ
êm biếc -- khóc với thu: lời úa ngô
Vàng... khi cách biệt -- giữa hồn xây mộ --
Tình hôm qua -- dài hôm nay thương nhớ,
Im lặng nhìn bông ý, lặng lờ lên
Những dáng hình thanh khí...) Giữa mông mênh,
Đường nhiếp ảnh, sắc khua màu -- Tiếng thở
Hỡi hội họa, đến muôn đời nức nở.
Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Ta
Lời nối lời bố thí lộc tinh hoa
Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy
Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy
Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương
Và mới mẻ -- trên viễn cổ Đông phương !
(Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật ?)
Thơ lõa thể ! -- Giai nhân tuần trăng mật,
Nữ thần ơi ! Ta nô lệ bên người ! | Bích Khê |
Gõ Bồn | poem.php?poem=go_bon__bich_khe | Liêu trai trở lại lánh vòng trần
Ma Phật mơ hồ mộng với thân!
Mặt ngọc bên trời tàn bóng nguyệt
Mình ta trước cửa thưởng hoa xuân
Gõ bồn chẳng thấy ai tao khách
Cách núi khôn tìm bóng cố nhân
Một tiếng trên không trong ác lặn
Hạc kêu bay lẫn đám phù vân | Bích Khê |
Hiện Hình | poem.php?poem=hien_hinh__bich_khe | Gió thiệt đa tình hôn mặt hoa,
Thơm tho mùi thịt bắt say ngà!
Gió đi chới với trong khung trắng
Lộ nửa vần thơ, nửa điệu ca.
Tôi ráp lại xem. ôi! sự lạ!
Một người thiếu nữ hiện trong trăng.
Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt;
Da thịt phô bầy ý tuyết băng.
Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc
Mắt như xuân mà ngọt tợ hương:
Ôi sao là khúc Ba sinh lụy
Rào rạt như đầy nỗi cảm thương!
Tiếng ngọc, màu trăng quấn quít nường
Phút giây người bộ mỏng như sương.
- Nường tan ra nhạc? - Tan ra nhạc!
Khung trắng trời mây trắng lạ thường! | Bích Khê |
Hoàng Hoa | poem.php?poem=hoang_hoa__bich_khe | Lam nhung ô! màu lưng chừng trời;
Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi.
Vàng phai nằm im ôm non gầy;
Chim yên neo mình ôm xương cây.
Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa:
Đông nam mây đùn nơi thành xa...
Oanh già theo quyên quên tin chàng!
Đào theo phù dung: thư không sang!
Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi:
Làn trăng theo chàng qua muôn nơi;
Theo chàng ta làm con chim uyên;
Làn mây theo chàng bên nhung yên.
Chàng ơi! hồn say trong mơ màng,
- Hồn ta? hay là hồn tình lang?
Non Yên tên bay ngang muôn đầu...
Thâm khuê oan gì giam xuân sâu?
- Ai xây bờ xanh trên xương người?!
Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?! | Bích Khê |
Hồ Xuân Hương | poem.php?poem=ho_xuan_huong__bich_khe | Canh sương quán lạnh nguyệt tà song
Bên gối hương lan đến ấp lòng.
Người vợ trong thơ gần cách mộng
Đêm nay chẳng biết có về không?
Văn chương quán thế không ai biết
Trong mộng mình về thưởng với tôi
Xanh liễu ngoài song thay đổi lá
Đã ghen tài sắc mấy đêm rồi?
Đêm nay nửa gối nghiêng nghiêng mộng
Muôn dặm người xa đã thấy về
Xanh liễu ngoài song vừa đổi biếc
Màu thi sắc lá đọ dung nghi. | Bích Khê |
Subsets and Splits