title
stringlengths
2
84
link
stringlengths
20
112
poem_text
stringlengths
47
126k
author_name
stringclasses
348 values
Gặp Chị Điên
poem.php?poem=gap_chi_dien__huy_can
Chủ nhật qua tôi gặp một người điên Trên mặt ngây thơ nét nét dịu hiền Lấp loáng dọi hai mắt đà mờ ảo. Sự sống thọt, đời không tỉnh táo Chị cầm roi nhưng nào biết đánh ai. Các trẻ em bu quanh chị, đùa dai, Chị vút gió rồi đứng cười rờn rợn. Người qua phố xem lâu, cũng chán Bỏ chị đi như chợ vãn chiều hôm. Chị là ai? Đau khổ lắm? Tay ôm Bó quần áo rách tươm như giẻ vụn. Chị đứng đó, thuyền trôi mất hướng Mà bỗng nhiên biển hoá đá mênh mông. Hỡi tâm hồn mắc cạn giữa dòng Có phải chị còn chờ mong hướng gió? Ai nhìn được trong tâm hồn mờ tỏ, Trong não cân đã loang loang lổ vùng đêm? Mắt chị nhìn đâu leo lét ngọn đèn, Tôi bất giác nhớ ngày nhật thực Bóng tối ăn hoen mặt trời sáng rực. Đời tôi đã gặp nhiều chết nhiều đau, Đã thấy những thân người như hoa héo nhựa xàu Sự sống khô đi như dòng nước cạn Nhưng nói sao hết lòng tôi đau đớn Thấy chị đứng, đi, da thịt hồng tươi Nói năng mà như không sống nữa rồi… Sương chiều xuống như xoá nhoà cây cỏ. Trong mắt chị chút hồn còn mờ tỏ Cũng dường như pha loãng biến trong sương. Chị về đâu? Mẹ chị đến, yêu thương Nâng đầu chị như tay già chống chọi Với trái sắp rơi, với hồn sắp tối. Chuyện đau thương mẹ chị kể đầu đuôi, Chuyện gia tài xâu xé, tình nghĩa pha phôi, Chuyện đời cũ hơi tiền làm lạnh máu… Chị mất trí, bị “cuộc đời” lừa đảo. Sau màn sương trắng đục mặt trời chiều Đỏ bầm như cục máu uất ai treo, Cả hồn chị đã tím bầm trong đó. Tôi tưởng nghe trong hồn ai sụp đổ Rít vang lên cả quá khứ bạo tàn Trong buổi chiều sương trắng lạnh màu tang. 12/54 – 5/59
Huy Cận
Hoa Sấu Bầy Ong
poem.php?poem=hoa_sau_bay_ong__huy_can
Mấy hôm chiều lại cơn giông Có lùm hoa sấu trước song, quên mình Chiều nay mây tạnh nắng lên Đàn ong quen lại đến tìm lùm hoa Ồ hoa đậu trái bây giờ? Bầy ong ngơ ngẩn một bờ sấu xanh.
Huy Cận
Học Sinh
poem.php?poem=hoc_sinh__huy_can
Gió thổi sân trường chiều chủ nhật - Ôi! Thời thơ bé tuổi mười lăm Nắng hoe rải nhặt hoa trên đất Đời dịu vừa như nguyệt trước rằm. Bốn vách nghiêm trang tiếng đọc bài Đầu xanh dặm chục, nét văn khôi Chiều xuân chim sẻ vô trong lớp Ông giáo trông lên; chúng bạn cười. Lén mắt thầy, xem lại bức thư Của người cô họ, chú hiền từ Bàn tay vơ vẩn đưa trang sách Mộng tưởng phiêu lưu bức địa đồ. Đôi guốc nằm hiên kéo bốn mùa Tiền nhà ít gửi, biết chi mua! Áo dài cọ mãi đôi tay rách, Gương lược thăm hoài tóc ngắn thưa. Chủ nhật nhiều khi chán nản ghê Tung tăng sân bóng chạy tư bề Bên vườn ông đốc dăm hoa nở Đêm tới mau mau hái trộm về. Lên gác yên tâm nghĩ sự đời Hương nồng quanh gối vẩn vơ chơi Giường bên cửa sổ, cây đưa mắt, Không chịu mùng che để ngó trời. Họ sống bình yên, bước lặng thinh. Không nghe hoa bướm gọi bên mình. Hừng hờ đi giữa hương yêu mến Chân bước chưa khi rộn ái tình. Vậy đó bỗng nhiên mà họ lớn, Tuổi hai mươi đến, có ai ngờ! Một hôm trận gió tình yêu lại Đứng ngẩn trông vời áo tiểu thơ.
Huy Cận
Nằm Nghe Người Thở
poem.php?poem=nam_nghe_nguoi_tho__huy_can
Nằm nghe người thở bên ta Nghe ta cùng thở vui hoà đêm nay Nghe xe nghìn kiếp đưa quay Nóng muôn hạt gió lừng bay ngực đời. Trong hơi ta, trong hơi người Lại nghe nằm nghỉ đất trời ban sơ Hơi ta thành tựu thuở xưa, Hơi người dằng dặc bao giờ cho tan! Nghìn năm một cuộc giao hoan Trước chưa xương thịt, sau tàn thịt xương, Hoạ còn hơi thở hoa hương Cho hồn gặp gỡ âm dương lối về...
Huy Cận
Ngã Ba Đồng Lộc
poem.php?poem=nga_ba_dong_loc__huy_can
Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) là nơi giặc Mỹ đã đánh phá vô cùng ác liệt trong cuộc chiến tranh phá hoại vừa qua (trung bình một mét vuông ba quả bom lớn). Quân dân ta đã chiến thắng vẻ vang tại ngã ba Đồng Lộc, luôn luôn đường vẫn thông xe. Con ơi, bố về thăm Hà Tĩnh quê ta Bố kể con nghe về ngã ba Đồng Lộc. Trên mặt đất này có muôn triệu ngã ba Và có rất nhiều ngã ba nổi tiếng: Có những ngã ba nối những dòng sông lớn của một đại châu, sóng dựng trùng trùng: Có những ngã ba nối những con đường dài chạy từ các thủ đô to Như những mạch máu khổng lồ Trên thân hình trái đất Trong đó mỗi con người là một hạt hồng cầu đỏ chói. Có những ngã ba, là nơi gặp gỡ của những dòng văn minh lớn đông, tây, kim, cổ... Tất cả những ngã ba trên, con có thể học biết trong sách địa dư, trên những bản đồ. Mai sau lớn lên con có thể đến thăm và chụp ảnh nữa... Xong rồi con có thể quên... Nhưng con ơi, con chớ có quên ngã ba Đồng Lộc. Trong đời mỗi người cũng có những ngã ba đường Trong đời một dân tộc cũng có những ngã ba quyết định Những ngã ba vận mệnh Những cái nút trên dặm dài lịch sử Gặp những ngã ba đời, con sẽ nghĩ suy Và con ơi, muốn tìm đúng hướng đi Con sẽ nhớ đến ngã ba Đồng Lộc. Ngã ba Đồng Lộc: Là ngã ba nhưng nào có phân vân Nào có đắn đo do dự Là ngã ba trên chặng đường quyết liệt Những hướng đi đã quyết Không phải cho một lần Mà cho tất cả mọi lần Không phải cho một người Mà cho tất cả quê hương đất nước: Hướng về Nam, một nửa mình Tổ quốc Các ngã ba khác trên đời làm bằng nước, bằng sông, bằng thủy triều lên xuống. Hay bằng đá, bằng đất Bằng xi măng cốt sắt Bằng vôi trắng, gạch nâu Bằng đèn xanh, đèn đỏ đủ màu Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã. Nhưng ngã ba Đồng Lộc xây bằng xương máu Khi con về quê, con nhớ viếng thăm Mộ mười cô kề bên đường đỏ. Các cô như còn đứng đó Chờ lấp hố bom Đường thông xe, các cô mới đi nằm Các cô để lại tuổi thanh niên Mười chín, hai mươi, hăm hai tuổi Cho đất nước, quê hương Hồn trong như suối, Bình minh đời sáng rực vừng dương. Con sẽ đi thăm mời cô La Thị Tám Từ trường học lại về trận địa đầu non Đứng giữa đàn bò, đàn bê mũm mĩm Trên sườn núi cao cỏ đã mượt màu xanh Như mảng da non trên thân thể đang lành Cô sẽ chỉ cho con xem Những hố bom loang lổ Như đất trên mặt trăng Mỗi thước vuông ba quả bom to bự. Cô sẽ chỉ con xem Nghìn vạn điểm lăn bom nổ chậm Cô từng đến cắm cờ Mỗi một lần chạy thi với cái chết. Đôi chân cô nhanh hơn kíp nổ Cô là một ngọn cờ đỏ của quê ta Nghìn năm sau lịch sử sẽ còn ghi Những năm tháng chiến tranh ác liệt Nghìn vạn chuyến xe đi Qua trái tim ngã ba Đồng Lộc Máu qua tim máu lọc Xe vượt qua ngã ba xe xốc tới miền Nam. Và con ơi, bố ngồi nghĩ miên man Bạn bè ta trong cơn gió lốc Hẳn cũng đang vượt những ngã ba Đồng Lộc. Những ngã ba Việt Nam Dọc đường dài kẻ địch còn găm Nhiều bom nổ chậm Nhưng chẳng hề chi! Khắp năm châu còn nhiều La Thị Tám Nhiều Võ Thị Tân Đường sẽ thông xe đi về cách mạng. Hà Tĩnh 1971
Huy Cận
Ngậm Ngùi
poem.php?poem=ngam_ngui__huy_can
Nắng chia nửa bãi; chiều rồi... Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá rầu. Sợi buồn con nhện giăng mau; Em ơi !Hãy ngủ... anh hầu quạt đây. Lòng anh mở với quạt này; Trăm con chim mộng về bay đầu giường. Ngủ đi em, mộng bình thường! Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ... Cây dài bóng xế ngẩn ngơ... - Hồn em đã chín mấy mùa thương đau? Tay anh em hãy tựa đầu, Cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi...
Huy Cận
Nhạc Sầu
poem.php?poem=nhac_sau__huy_can
Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế! Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường Phố đìu hiu màu khói cũ lên sương Sương hay chính bụi tàn phai lả tả Từng tiếng lệ: ấy mộng sầu úa lá Chim vui đâu cây đã gãy vài cành Ôi chiều buồn! Sao nắng quá mong manh Môi tái nhạt nào mà cười héo vậy? Ai chết đó? Trục xoay và bánh đẩy Xe tang đi về tận thế giới nào? Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó Thê lương vậy mà ai đành lìa bỏ Trần gian sao? Đây thành phố đang quen Nhưng chốc rồi nẻo vắng đã xa miền Đường sá lạ thôi lạnh lùng biết mấy! Và ngựa ơi, đi nhịp đằm chớ nhảy Kẻo thân đau, chưa quên nệm giường đời Ai đi đưa, xin đưa tận cuối trời Chớ quay lại nửa đường mà làm tủi Người đã chết - một vài ba đầu cúi Dăm bảy lòng thương xót đến bên mồ Để cho hồn khi sắp xuống hư vô Còn được thấy trên mặt người ấm áp Hình dáng cuộc đời từ nay xa tắp Xe tang đi, xin đường chớ gập ghềnh Không gian ơi, xin hẹp bớt mông mêng Ảo não quá trời buổi chiều vĩnh biệt! Và ngươi nữa, tiếng gió buồn thê thiết Xin lặng giùm cho nhẹ bớt cô đơn Hàng cờ đen là bóng quạ chập chờn Báo tin xấu, dẫu hồn người đã xế... Ai chết đó? Nhạc buồn chi lắm thế! Kèn đám ma hay ấy tiếng đau thương Của cuộc đời? Ai rút tự trong xương Tiếng nức nở gởi gió đường quạnh quẽ! Sầu chi lắm! Trời ơi chiều tận thế!
Huy Cận
Nhớ Hờ
poem.php?poem=nho_ho__huy_can
Lâng lâng chiều nhẹ ghé muôn tai Trong bóng chiều như mờ tiếng ai Thổi lạc hương rừng cơn gió đến Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung! Có ai đàn lẻ để tơ chùng? Có ai tiễn biệt nơi xa ấy Xui bước chân đây cũng ngại ngùng… Câm lặng. Hoa rơi cánh đợi chờ. Chiều đi, ở lại mộng bơ vơ Thoảng vòng tóc gió qua bên má, Khiến động làn da rợn ý sờ.
Huy Cận
Nhớ Mẹ Năm Lụt
poem.php?poem=nho_me_nam_lut__huy_can
Năm ấy lụt to tận mái nhà Mẹ con lên chạn – Bố đi xa Bốn bề nước réo, nghe ghê lạnh Tay mẹ trùm con, tựa mẹ gà. Mẹ cắn bầm môi cho khỏi khóc Thương con lúc ấy biết gì hơn? Nước mà cao nữa không bè thúng Nếu chết trời ơi! Ôm lấy con. Gọi với láng giềng, lời mẹ dặn “Xẩy chi cứu giúp lấy con tôi!” Tiếng dờn giữa nước mênh mông trắng Đáp lại từ xa một tiếng “ời” Nước, nước… lạnh tê như số phận Lắt lay còn ngọn mấy hàng cau Nhưng mà mẹ thức ngồi canh chạn Mắt mẹ trừng sâu hơn nước sâu. Vậy đó mẹ ơi, đời của mẹ Đường trơn bấu đất mẹ kiên gan Nuôi con lớn giữa bao cay cực Nước lụt đời lên mẹ cắn răng. Năm ấy vườn cau long mấy gốc Rầy đi một dạo, trái cau còi Trên đầu tóc mẹ thêm chùm bạc Lụt xuống, còn vương mảnh nước soi.
Huy Cận
Quanh Quẩn
poem.php?poem=quanh_quan__huy_can
Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu Tới hay lui vẫn chừng ấy mặt người Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười, Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện. Đời nhạt tẻ như tàu không đổi chuyến! Đứng xem ngoài hay quay gót nhìn trong Cùng thuộc rồi bàn ghế ở trong phòng, Và trong đó: những hồn quen biết quá! Đời nghèo thế! Không dành tôi chút lạ… Đến ái ân cũng hết cả đợi chờ Và mỗi ngày sau những giấc ngủ trưa Mùng buông xuống không che sầu vũ trụ À! Thế đấy, chốn hằng ngày cư trú Ván bài đời may mắn chỉ ù suông Ôi! Tâm tư ngăn giữa bốn bờ tường Chờ gió mới, nhưng cửa đều đóng kín!
Huy Cận
Sớm Mai Gà Gáy
poem.php?poem=som_mai_ga_gay__huy_can
Tiếng gà gáy ơi! Gà gáy ơi! Nghe sao ấm áp tựa nghe đời Tuổi thơ gà gáy ran đầu bếp Trâu dậy trong ràn, em cựa nôi Cha dậy đi cày trau kịp vụ Hút vang điếu thuốc khói mù bay Nhút cà, cơm ủ trong bồ trấu Chút cá kho tương mẹ vội bày Gà gáy nhà ta, gáy láng giềng Ta nghe thuộc mỗi tiếng gà quen Cha ơi con chửa nghe gà chú! Nó cũng như mày hay ngủ quên. Hàng cau mở ngọn đón ngày vào Xóm nhỏ nép bên triền núi cao Gà lại gáy dồn thêm đợt nữa Nắng lên xoè quạt đỏ như mào. Gà gáy ơi! Tiếng gà gáy ơi! Nghe sao rạo rực buổi mai đời! Thương cha lủi thủi không còn nữa Chẳng sống bây giờ thôn xóm vui... 1962 (Tuyển tập Huy Cận 1986)
Huy Cận
Tạo Hoá Sinh Em
poem.php?poem=tao_hoa_sinh_em__huy_can
Tạo hoá sinh em đẹp thế kia Để rồi lại sẽ xoá em đi Sinh anh yêu đắm, yêu da diết Để một ngày kia hết biết gì Như nhựa hè lên chín trái cây Cho anh ôm ngực tròn đầy Anh ôm đôi gót hây hây đỏ Như sớm chân trời mọc đỏ hây.
Huy Cận
Thu Rừng
poem.php?poem=thu_rung__huy_can
Bỗng dưng buồn bã không gian, Mây bay lũng thấp giăng màn âm u. Nai cao gót lẫn trong mù Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về. Sắc trời trôi nhạt dưới khe; Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng. Sầu thu lên vút, song song Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu. Non xanh ngây cả buồn chiều - Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
Huy Cận
Thuyền Đi
poem.php?poem=thuyen_di__huy_can
Trăng lên trong lúc đang chiều, Gió về trong lúc ngọn triều mới lên. Thuyền đi, sông nước ưu phiền; Buồm treo ráng đỏ giong miền viễn khơị Sang đêm thuyền đã xa vời; Người ra cửa biển nghe hơi lạnh buồn. Canh khuya tạnh vắng bên cồn, Trăng phơi đầu bãi, nước dồn mênh mang. Thuyền người đi một tuần trăng, Sầu ta theo nước, tràng giang lững lờ. Tiễn đưa đôi nuối đợi chờ Trông nhau bữa ấy; bây giờ nhớ nhau
Huy Cận
Tình Mất
poem.php?poem=tinh_mat__huy_can
Ôi! Những kẻ tôi chỉ chào một bận, Chân xa mau, lòng chưa kịp giao thân, Trên đường tôi nếu trở lại vài lần, Chắc ta đã yêu nhau rồi, - hẳn chứ... Một lời nói nếu có gan ướm thử; Một bàn tay đừng lưỡng lự trao thơ; Một lúc nhìn thêm, đôi lúc tình cờ, Chắc có lẽ đã làm nên luyến ái... Yêu biết mấy nếu có lần gặp lại! Tôi vụng về, tôi ngơ ngác, nên chi Người bên tôi mà để người đi, Tôi làm nũng, quyết giữ lòng kiêu hãnh; Người ở đó, tôi làm như ghẻ lạnh; Người đi rồi, thôi mong mỏi gì đâu! Những bàn tay đáng lẽ phải giao nhau, Hờ hững thế! Không chịu cầm lưu luyến. Ôi! Những kẻ cùng tôi không hứa hẹn! Người không quen nhưng tôi chắc sẽ yêu; Mặt vừa nhìn mà chân đã muốn theo; Tình mới chép một hai dòng nhật ký; Tên viết tắt, tin rằng lòng nhớ kỹ Bạn một hôm đi đến rất tình cờ; Tình quên đi ở trong những bức thơ Viết không gửi, xếp nằm trong sách cũ; Ôi! Bao kẻ chỉ một lần gặp gỡ! Bởi vì sao lòng tôi rất thương đau Khi nghĩ thầm: "nếu ta đã gần nhau!..."
Huy Cận
Tình Tự
poem.php?poem=tinh_tu__huy_can
Sáng hôm nay hồn em như tủ áo Ý trong veo là lượt xếp từng đôi. Áo đẹp chưa anh! Hoa thắm thêu đời Áo mơ ước anh bận giùm chiếc nhé. Vàng rạng cùng xanh, hồng cười với tía, Xin mời anh chọn hình sắc yêu đương. Hồn em đây đủ muôn ánh nghê thường, Anh hãy bận hồn em màu sáng chói. Anh có biết hôm nay là ngày hội. Của lòng ta. Em trần thiết, trang hoàng. Anh đã về; em nghe dưới chân vang Hoa lá nở với chuông rền giọng thắm Thủa chờ đợi, ôi, thời gian rét lắm. Đời tàn rơi cùng sao rụng cảnh canh thâu; Và trăng lu xế nửa mái tình sầu, Gió than thở biết mấy lời van vỉ? Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỉ. Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa Yêu giữa đời mà hồn ở trong mơ Tình rộng quá, đời không biên giới nữa. Đây cửa mộng lòng em, anh hãy mở Màu thanh thiên rời rợi, gió long lanh: Hồn nhớ thương em dệt áo dâng anh
Huy Cận
Tràng Giang
poem.php?poem=trang_giang__huy_can
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài H.C. Tặng Trần Khánh Dư Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song, Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy giòng. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều. Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật. Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc... Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa Lòng quê dờn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Huy Cận
Trăng Xuân
poem.php?poem=trang_xuan__huy_can
Đầu năm gió mát tựa hè Nứt bung hoa gạo, bốn bề trăng xuân Sông là người đẹp khoả thân Núi xanh mơn mởn, bước gần bước xa Lá ngô, lá mía rì rà Áo đêm xuân khéo, mượt mà dải tơ
Huy Cận
Trò Chuyện Với Kim Tự Tháp
poem.php?poem=tro_chuyen_voi_kim_tu_thap__huy_can
Năm nghìn năm đứng cười sa mạc, Nắm chắc trong tay vĩnh viễn rồi!… - Kim tự tháp! Ngươi thấy gì tự bấy? - Thấy gió thổi bốn mùa, cát dậy; Cát vung lên rát mặt thời gian, - Kim tự tháp! Người vẫn cười ngạo nghễ? Chấp năm tháng, xoa những đầu thế kỉ? - Buổi đầu tiên tôi tưởng vậy, say sưa Không cho ngày tàn, cắm mặt trời trưa Trên đỉnh nhọn như kim cương lấp loáng Trên mũ mão đầu Thiên Vương chói rạng. - Nhưng rồi sao, Kim tự tháp ngàn năm? - Trong lòng tôi một xác ép vua nằm; Dưới chân tôi vạn thần dân chết lụi. Vua muốn thắng thời gian vòi vọi Nằm yên trong giấc đá, kín bưng. Suốt đời vua lo chỗ ngủ cuối cùng, Ôm cái chết mong thắng dần cái chết. Thời gian thổi, hồn vua không sợ rét; Mặt trời quay, trục tháp chẳng mòn xoay. Vua ngủ yên nhưng tôi thức đêm ngày; Cát, cát, cát nổi từng cơn dữ dội, Cát thổi đập vào mình tôi nhức nhối. Tôi thức vua cho vua biết: giữa trăng sao Hạn nằm trong vĩnh viễn chẳng còn bao “Dậy vua ơi! Cái chết chẳng thể rào Được cái chết”. Vua ngủ mê giấc đá Lở chân trời nhiều bạn tôi tàn tạ, Hất ra ngoài vĩnh viễn xác vua phơi… Tôi thấy thời gian rúng lạnh bốn chân tôi… - Ngươi còn thấy những gì, Kim tự tháp? - Từng thế kỉ những đoàn người cúi rạp Dưới chân tôi rồi biến mất mù tăm… Nhưng cũng đôi khi có những trán đăm đăm Soi vằng vặc vào mặt tôi mà hỏi: “Chất cái chết lên cao, trên mấy tầng mây nổi Đã tấc nào thành sự sống hay chưa, Hỡi nghìn năm Kim tự tháp chơ vơ!” Tôi chết điếng trong lòng tôi tự đó Tôi chết sững, chết thêm lần nữa Trong từng vân, từng thớ đá thân tôi…. - Ngươi thấy gì, Kim tự tháp, nữa thôi? - May tôi còn thấy giữa muôn trùng gió lộng Thấy cái chết muốn trở thành sự sống Cát kêu lên nỗi hoài vọng lớn lao: Là cái chết khô, cát muốn hoá tế bào Của tươi mát, thịt da, hoa lá… Thấy cái sống muốn mọc từ cát đá”. Trong chiều xanh, rìa sa mạc mênh mông Ngô đầu mùa phơi phới đâm bông. Bóng Kim tự tháp trải lên bờ sông mát, (Chuyện ghi lại bên bờ gió cát) Ai Cập, 7-1962
Huy Cận
Vạn Lý Tình
poem.php?poem=van_ly_tinh__huy_can
Người ở bên trời, ta ở đây; Chờ mong phương nọ, ngóng phương nầy. Tương tư đôi chốn, tình ngàn dặm, Vạn lý sầu lên núi tiếp mây. Nắng đã xế về bên xứ bạn; Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy. Trông về bốn phía không nguôi nhớ, Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay. Cơn gió hiu hiu buồn tiễn biệt, Xa nhau chỉ biết nhớ vơi ngày. Chiếu chăn không ấm người nằm một Thương bạn chiều hôm, sầu gối tay.
Huy Cận
Xuân
poem.php?poem=xuan__huy_can
Luống đất thơm hương mùa mới dậy, Bên đường chân rộn bước trai tơ. Cây xanh cành đẹp xui tay với; Sông mát tràn xuân nước đậm bờ. Ồ những người ta đi hóng xuân; Cho tôi theo với, kéo tôi gần! Rộn ràng bước nhịp hương vương gót, Nhựa mạnh tuôn trào tưởng dính chân. Bắt gặp mùa tươi lên rún rẩy, Trong cành hoa trẻ, cổ chim non. - Có ai gửi ý trong xuân cũ, Đất nở muôn xuân vẫn chẳng mòn.
Huy Cận
Xuân Ý
poem.php?poem=xuan_y__huy_can
Đêm vừa nhẹ, gió vừa mơn Cây chen ánh nguyệt trải vờn bóng xanh Khuya nay, mùa động đầu cành Đồng trăng lục nhạt, vàng thanh lối gần Trăng êm cho gió thanh tân Hương rừng tỉnh dậy ái ân xuống đồng Đêm say không khí say nồng Nghìn cây mở ngọn, muôn lòng hé phơi... Khuya nay trong những mạch đời Máu thanh xuân dậy thức người héo hon Ngón tay tưởng búp xuân tròn Có người ra dạo vườn non thẫn thờ
Huy Cận
Đoạn Tuyệt
poem.php?poem=doan_tuyet__silva_kaputikyan
Знаю, знаю, что она красива, Что глаза - темнее ночи звездной... Уходи. От нашего разрыва Рухнут стены... Прочь, пока не поздно! Не гляди в глаза мои украдкой, Эти слезы - вздор, и что в них толку! Плачь не плачь, а счастье было кратко, Плачь не плачь, а горю длиться долго. Уходи скорей. Открыты двери. Не следи за мной в тоске неловкой. Сердце не свыкается с потерей, Коль к тебе привязано веревкой. Ты отходишь, и петля невольно Затянулась, будто мы все ближе! Это больно. Понимаешь? Больно. Оторвись! Уйди скорей! Уйди же! Em vẫn biết rằng cô ta đẹp lắm Rằng đôi mắt – đen hơn cả trời đêm… Anh đi đi. Đổ xuống những bức tường Hãy tránh ra, một khi còn chưa muộn. Và đôi mắt em anh đừng nhìn trộm Dòng nước mắt này có được gì đâu! Khóc hay không – đau khổ vẫn dài lâu Khóc hay không – hạnh phúc thì quá ngắn. Anh đi đi. Những cánh cửa mở toang Đừng nhìn em trong nỗi buồn như thế Với mất mát, con tim còn xa lạ Bởi bằng dây đã từng buộc vào anh. Anh bước đi, dây thòng lọng vô tình Siết chặt lại, có vẻ ta gần hẳn Nhưng anh biết không, ta càng đau đớn Hãy bứt ra! Và hãy bước cho nhanh!
Silva Kaputikyan
Em Bảo Anh Đi Đi
poem.php?poem=em_bao_anh_di_di__vo_danh
Да, я сказала: "Уходи", - Но почему ты не остался? Сказала я: "Прощай, не жди", - Но как же ты со мной расстался? Моим словам наперекор Глаза мне застилали слезы. Зачем доверился словам? Зачем глазам не доверялся? Em bảo anh đi đi Sao anh không đứng lại? Em bảo anh đừng đợi Sao anh lại ra đi. Lời nói gió bay đi Đôi mắt huyền đẫm lệ Sao mà anh ngốc thế Không nhìn vào mắt em. Em bảo anh: “Đi đi!” Sao anh không ở lại? Em bảo anh: “Đừng đợi!” Sao anh lại ra đi?   Những lời em trái ngược Mắt em lệ đầy vơi Tại sao anh tin lời? Sao không nhìn đôi mắt?
Silva Kaputikyan
Mấy Năm Sau
poem.php?poem=may_nam_sau__silva_kaputikyan
Я образ твой хочу сберечь. Я не хочу с тобою встреч. Порой спешу с пути свернуть, Чтоб не столкнуться где-нибудь. Да, я хочу, любимый мой, Чтоб жил ты в памяти моей Таким, как был ты той зимой, Той давней ночью без огней. Чтоб как тогда меня любил И той же синью цвел твой взор, - Чтоб ты нежнее снега был И жег сильнее, чем костер. Чтоб снова таяла зима От жарких губ, от слов твоих, Чтоб вновь я верила сама ' В неповторимость смысла их! Казалось мне тогда - ты мог Забыть и славу и себя И мир восторга и тревог К ногам моим сложить, любя. Я образ твой хочу сберечь, Я не хочу с тобою встреч, С тобой, потухшим, серым, злым. Ступай один путем своим. Em muốn giữ gìn hình ảnh của anh Nhưng gặp mặt cùng anh, em không muốn Em bây giờ vội vàng rẽ sang đường Để nơi nào đó không còn đụng chạm. Vâng, em muốn để cho, anh yêu ạ Anh mãi sống trong kỷ niệm của em Anh là cái người của một mùa đông Và của cái đêm ngày xưa không lửa. Để cho anh yêu em như ngày đó Và màu xanh ngày ấy ánh mắt anh Để cho anh hơn cả tuyết – dịu dàng Và cháy bừng mạnh mẽ hơn đống lửa. Để cho mùa đông tan đi lần nữa Vì bờ môi cháy bỏng, những lời anh Và để em một lần nữa, tự mình Tìm điều đặc biệt những lời nói đó! Ngày ấy em ngỡ rằng anh có thể Quên bản thân mình, quên sự vinh quang Cả thế giới lo lắng và hân hoan Sẽ quì xuống dưới chân em, yêu quí. Em muốn giữ gìn hình ảnh của anh Nên em không muốn cùng anh gặp mặt Anh giờ nhạt nhẽo, tầm phơ, chán ngắt Hãy bước đường anh, và chỉ một mình.
Silva Kaputikyan
Cho Gió Cuốn Đi
poem.php?poem=cho_gio_cuon_di__nguyen_thanh_ha
Tôi hờ hững đóng gói một nỗi buồn Gửi đi và biến thành kẻ khác Để anh – gã đàn ông mang trái tim phờ phạc Đứng lại ven đường Nếu như ngày chỉ có mười tám tiếng đồng hồ Hoặc đêm, hoặc ngày ngắn lại Loài người đi về vội vã Người ta yêu nhau vội vã Hẳn gì ta đã nhớ nhau? Kỷ niệm vò lại nát nhàu Hương tóc em không còn làm đêm anh thao thức Tình yêu không còn bùng cháy lên trong lồng ngực Thì thôi, Mình chia tay Niềm vui không thể đi vay Nỗi buồn có cho đi cũng không ai dám nhận Thôi ta đành để lẫn Giữa cuộc đời cho gió cuốn đi.
Nguyễn Thanh Hà
Mùa Bão Lũ
poem.php?poem=mua_bao_lu__nguyen_phan_que_mai
Mùa bão lũ Cha chống lại căn nhà Gió tốc liêu xiêu Mẹ xốc lại đôi quang gánh Quằn nặng nỗi lo Con thu mình co ro Giấc mơ sũng ướt Mùa bão lũ Nhòa ranh giới giữa trời và nước Bà run run ôm kỷ vật Nếu lụt, biết cất chỗ mô? Ông đau đáu dõi chân trời xa Con trai mình vẫn ở trên tàu đánh cá Mùa bão lũ Em đi học đôi chân trượt ngã Sách vở uớt nhòe nước mắt nước mưa Cô gầy hơn trong tiếng giảng bài trưa Tiếng giảng bài Cố át tiếng cuồng phong trời đất Mùa bão lũ Thuyền như lá Mạng nguời là cỏ Nhà cửa là rơm Miếng cơm Trộn với bùn và nuớc Mùa bão lũ Chúng ta, chúng ta có thể làm gì được Ngoài việc gửi vài trăm ngàn đồng hỗ trợ nạn nhân? Ngoài việc cảm thấy đắng miệng trong những bữa cơm Khi xem chương trình thời sự? 18/8/07
Nguyễn Phan Quế Mai
Vòng Xoáy
poem.php?poem=vong_xoay__nguyen_phan_que_mai
Cơn mê chập chờn mộng mị Ngắn ngủi thời gian Tiếng thở đều thúc giục sợi tóc lại xanh, cho những lo toan lại chìm xuống đáy Ngày mới Email điện thoại đuổi theo em theo em Hổn hển những công việc không tên Em không kịp ngước nhìn mùa thu đang vàng dần qua cửa Không kịp ngắm lá bàng thắp lửa Đốt cháy mùa Đông rồi tự đốt cháy mình Tế bào thời gian như những sinh linh Khắc khoải chết dần trong vòng quay thói quen vô thức Ký ức rong rêu ngăn tình yêu Buổi sáng đuổi bắt buổi chiều Email đuổi bắt họp hành, điện thoại Tiếng chim gù buổi sáng vuột khỏi tay xa vời, xa mãi Cổ vật ngày mới ngắm bình minh Tíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíctắctíc…. …Thèm một ngày úp mặt vào anh Nghe bình yên vỡ òa trên sóng trắng…
Nguyễn Phan Quế Mai
Một Năm Có Mười Hai Tháng
poem.php?poem=mot_nam_co_muoi_hai_thang__nguyen_trong_van
Một năm có mười hai tháng Tháng nào anh cũng vắng em Tầm tầm mưa bụi tháng giêng Tóc em đính cườm đi hội Nhớ ôi lần đầu bối rối Trước người lúng liếng dao cau Làng em kề bên sông Cầu Dòng sông bốn mùa mở gió Nhớ ôi chùm hoa gạo đỏ Màu son chạm với tuổi mình Sao em không trả lời anh Đường về vòng qua Quán Dôc Tránh thôi kẻo không gặ mặt Em chào: Anh lấy vợ đi Xòe tay anh bấm hàng giờ Một, chạp, giêng, hai, ba, bốn Cả năm có mười hai tháng Tháng nào anh cũng vắng em Anh không bán được ưu phiền Nên đành với tình dan díu Bỗng nghe sấm rền tháng sáu Dòng sông vẫy gọi nhau về Tương tư như dải sương mờ Giăng ngang nẻo dâu tháng chạp Chiều qua anh nghe em hát: Người ơi, người ở đừng về.
Nguyễn Trọng Văn
Đợi Em Ngày Giáp Tết
poem.php?poem=doi_em_ngay_giap_tet__thach_quy
Trời đã tết. Khói xanh mờ bụi nước Góc vườn con hoa mận đã đơm khuy Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về
Thạch Quỳ
Quạt Cho Bà Ngủ
poem.php?poem=quat_cho_ba_ngu__thach_quy
Vẫy quạt thật đều Ngấn nắng thiu thiu Đậu trên tường trắng Căn nhà đã vắng Cốc chén lặng im Đôi mắt lim dim Ngủ ngon bà nhé Hoa xoan, hoa khế Chín lặng trong vườn Ba mơ tay cháu Quạt đầy hương thơm
Thạch Quỳ
Với Con
poem.php?poem=voi_con__thach_quy
Con ơi con thức dậy giữa ngày thường Nghe chim hót đừng nghe mê mải quá Qua đường đất đến con đường sỏi đá Cha e con đến lớp muộn giờ. Con ơi con nàng Bạch Tuyết trong mơ Không thể nào yêu con thay mẹ được Và vì thế, nếu khuy áo con bị đứt Thì nói lên để mẹ khâu cho. Và con ơi trên ấy ngân hà Có thể rồi con sẽ lên đến được Nhưng đêm nay thì con cần phải học Bốn phép tính cộng trừ hay đọc một trang thơ. Con ơi con, nếu thầy giáo dạy con Có ánh sáng bảy màu trong ánh sáng Thì con hỡi hãy khêu cho rạng Ngọn bấc đèn con hãy vặn lên to. Con ơi con, trái đất thì tròn Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật Tất cả đấy đều là sự thật Nhưng cái bánh đa tròn, điều đó thật hơn! Mẹ hát lời cây lúa để ru con Cha cày đất để làm nên hạt gạo Chú bộ đội ngồi trên mâm pháo Bác công nhân quai búa, quạt lò. Vì thế nên, lời cha dặn dò Cũng chưa hẳn đã là điều đúng nhất Cha mong con lớn lên chân thật Yêu mọi người như cha đã yêu con.
Thạch Quỳ
Huyền Thoại Trong Tay
poem.php?poem=huyen_thoai_trong_tay__pham_anh
Ngày xưa Trọng Thủy đã nắm tay Mỵ Châu thế nào Mà Cổ Loa chìm trong dâu bể Con gái ngàn năm vẫn khờ dại thế Hóa kiếp ngọc trai còn đau đáu một chuyện tình. Người ta có thể cầm tay nhau băng qua cuộc tử sinh Hoặc có thể mất nhau vì nắm tay không đủ chặt Khi Orphée cố giữ người yêu đừng tan biến mất Mở tay chỉ còn một chút hư không Có một lần sau tất cả những chờ mong Anh đã nắm tay em đặt tình yêu vào đó Từ thưở ấy Prométhée mang lửa Xuống trần gian sưởi ấm trái tim người Em lang thang suốt một cõi đời Lạnh như mùa đông, vô hình như gió Vẫn rải lông ngỗng bằng lá thu rực đỏ Để nhớ đường tìm lại Một Bàn Tay….
Phạm Anh
Trăng Nghẹn
poem.php?poem=trang_nghen__hoai_tuong_phong
Bảy tuổi biết leo lưng trâu, không từng ngồi xe đạp. Không biết lời bải buôi để mua lòng người khác, Nên thua thiệt cả đời vì không thể dối lừa ai. Ngơ ngác buổi ra thành, trước cuộc sống đua chen, Mười năm sau chưa gội rửa cho mình thành dân chợ. Lớp phèn hết bám chân, nhưng chất chân quê vẫn còn đó, Tôi tranh thủ những tháng hè, thích về lại thăm quê. Bè bạn theo đuôi trâu một thời, mơ ước nhìn tôi, Tưởng tôi thoát kiếp ngài, nhởn nhơ hóa bướm. Tôi nhìn vẻ hồn nhiên của đám bạn xưa thèm quá, Cộng một chút phù hoa đâu thêm lớn tâm hồn. Mỗi lần về quê bè bạn cũ lại vắng hơn, Gái mười bảy đã lấy chồng, trai hai mươi đòi vợ. Cô bạn xưa nách con ngang nhà mua chịu rượu, Đôi mắt ướt một thời bẽn lẽn ngó bàn chân. Xóm bên sông nhiều cô gái rời quê, Về thăm nhà xênh xang lụa là hàng hiệu. Vài căn nhà xây, đổi đời nhờ những đồng tiền báo hiếu, Khởi sắc một vùng quê sao nghe có chút bùi ngùi. Đồng bằng quê hương tôi nhiều cái nhất ngậm ngùi: Sản lượng lúa nhiều, vùng cá ba sa lớn nhất, Đầu tư văn hóa thấp và khó nghèo cũng nhất, Và cũng dẫn đầu, những cô gái lấy chồng xa. Chập tối buồn ra nhìn bến nước cô đơn, Vầng trăng vừa lên đã bị mây mưa vần vũ. Tôi chợt nhớ lần lỗi hẹn đầu đời, trăng cũ, Vầng trăng nghẹn hoài, chưa tỏa sáng một vùng quê.
Hoài Tường Phong
Bà Bủ
poem.php?poem=ba_bu__to_huu
Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ bà lo bời bời... Đêm nay tháng chạp mồng mười Vài mươi bữa nữa Tết rồi hết năm. Bà bủ không ngủ bà nằm Bao giờ thằng út về thăm một kỳ Từ ngày nó bước ra đi Nó đi giải phóng đến khi nào về? Bao giờ hết giặc về quê? Đêm đêm bà bủ nằm mê khấn thầm... Bà bủ không ngủ, bà nằm Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài hiên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về... Đêm nay bộ đội rừng khe Mưa ướt dầm dề, gió buốt chân tay Nó đi đánh giặc đêm nay Bước run, bước ngã, bước lầy, bước trơn Nhà còn ổ chuối lửa rơm Nó đi đánh giặc đêm hôm sưởi gì? Năm xưa cơm củ ngon chi Năm nay cơm gié nhà thì vắng con! Bà bủ gan ruột bồn chồn Con gà đã gáy đầu thôn sáng rồi...
Tố Hữu
Bài Ca Mùa Xuân 1961
poem.php?poem=bai_ca_mua_xuan_1961__to_huu
Tôi viết bài thơ xuân Nghìn chín trăm sáu mốt Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt Nắng soi sương giọt long lanh... Rét nhiều nên ấm nắng hanh Đắng cay lắm mới ngọt lành đó chăng? Giã từ năm cũ bâng khuâng Đã nghe xuân mới lâng lâng lạ thường! Chào xuân đẹp! Có gì vui đấy Hỡi em yêu? Mà má em đỏ dậy Như buổi đầu hò hẹn, say mê Anh nắm tay em, sôi nổi, vụng về Mà nói vậy: "Trái tim anh đó Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ: Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều Phần cho thơ, và phần để em yêu..." Em xấu hổ: "Thế cũng nhiều anh nhỉ!" Rồi hai đứa hôn nhau, hai người đồng chí Dắt nhau đi, cho đến sáng mai nay Anh đón em về, xuân cũng đến trong tay! Ôi tiếng hót vui say con chim chiền chiện Trên đồng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng Xuân ơi xuân, vui tới mông mênh Biển vui dâng sóng trắng đầu ghềnh Thơ đã hát, mát trong lời chúc: Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh Tam Đảo, Ba Vì vui núi xuân xanh... Chào 61! Đỉnh cao muôn trượng Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hướng Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau Trông Bắc trông Nam, trông cả địa cầu! Trải qua một cuộc bể dâu Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình Nổi chìm kiếp sống lênh đênh Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều! Nghe hồn Nguyễn Trãi phiêu diêu Tiếng gươm khua, tiếng thơ kêu xé lòng... Ôi tiếng của cha ông thuở trước Xin hát mừng non nước hôm nay: Một vùng trời đất trong tay Dẫu chưa toàn vẹn, cũng bay cờ hồng! Việt Nam, dân tộc anh hùng Tay không mà đã thành công nên người! Có gì đẹp trên đời hơn thế Người yêu người sống để yêu nhau Đảng cho ta trái tim giàu Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay! Đời vui đó, hôm nay mở cửa Như dãy hàng bách hóa của ta Hỡi những người yêu, hãy ghé mua hoa Và đến đó, sắm ít quà lễ cưới: Lụa Nam Định đẹp tươi mát rượi Lược Hàng Đào chải mái tóc xanh! Ta còn nghèo, phố chật nhà gianh Nhưng cũng đủ vài tranh treo Tết... Đời vui đó, tiếng ca Đoàn kết Ta nắm tay nhau xây lại đời ta Ruộng lúa, đồng khoai, nương sắn, vườn cà Chuồng lợn, bầy gà, đàn rau, ao cá Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá Mỗi hòn than, mẩu sắn, cân ngô Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ! Ồ thích thật, bài thơ miền Bắc Rất tự do nên tươi nhạc, tươi vần Cả không gian như xích lại gần Thời gian cũng quên tuần quên tháng. Đời trẻ lại. Tất cả đều cách mạng! Rũ sạch cô đơn, riêng lẻ, bần cùng Quê hương ta rộn rã cuộc vui chung Người hợp tác nên lúa dày thêm đó. Đường nở ngực. Những hàng dương liễu nhỏ Đã lên xanh như tóc tuổi mười lăm Xuân ơi Xuân, em mới đến dăm năm Mà cuộc sống đã tưng bừng ngày hội Như hôm nay, giữa công trường đỏ bụi Những đoàn xe vận tải nối nhau đi Hồng Quảng, Lào Cai, Thái Nguyên, Việt Trì Tên đất nước reo vui bao tiếng gọi... Nào đi tới! Bác Hồ ta nói Phút giao thừa, tiếng hát đêm xuân Kế hoạch năm năm. Mời những đoàn quân Mời những bàn chân, tiến lên phía trước. Tất cả dưới cờ, hát lên và bước! Đi ta đi! Khai phá rừng hoang Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng? Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy? Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông Chảy Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều? Hỡi những người trai, những cô gái yêu Trên những đèo mây, những tầng núi đá Hai bàn tay ta hãy làm tất cả! Xuân đã đến rồi. Hối hả tương lai Khói những nhà máy mới ban mai... Tôi viết cho ai bài thơ 61? Đêm đã khuya rồi, rét về tê buốt Hà Nội rì rầm... Còi thổi ngoài ga Một chuyến tàu chuyển bánh đi xa Tiếng xình xịch, chạy dọc đường Nam Bộ... Ôi đâu phải con tàu! Trái tim ta đó Tiếng đập thình thình, muốn vỡ làm đôi! Ta biết em rất khỏe, tim ơi Không khóc đấy. Nhưng sao mà nóng bỏng Như lửa cháy trong lòng ta gió lộng? Mấy hôm nay, như đứa nhớ nhà Ta vẩn vơ hoài, rạo rực, vào ra Nghe tiếng mõ và nghe tiếng súng Miền Nam dậy, hò reo náo động! Ba con tôi đã ngủ lâu rồi Còn bao nhiêu chưa được ngủ trong nôi Miền Bắc thiên đường của các con tôi! Gà gáy sáng. Thơ ơi, mang cánh lửa Hãy bay đi! Con chim kêu trước cửa Thêm một ngày xuân đến. Bình minh Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh Như hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ Treo trước mắt của loài người ta đó: Hòa bình ấm no Cho Con người Sung sướng Tự do!
Tố Hữu
Bài Ca Quê Hương
poem.php?poem=bai_ca_que_huong__to_huu
20 năm dằng dặc xa quê Nay mới về thăm mừng tái tê... Mới được nghe giọng hờn dịu ngọt "Huế giải phóng nhanh, mà anh lại muộn về!" Ôi, cơ chi anh được về với Huế Không đợi trưa nay, phượng nở với cờ Về với phá Tam Giang, như con trích con chuồn dưới bể Về với từng lá bến Tuần, lợp nón bài thơ... Cơ chi anh sớm được về bên nội Hôn nỗi đau tan nát Phù Lai Như quê bạn Niệm Phò trơ trụi Đạn bom cày cả nương sắn, đồng khoai! Cơ chi anh sớm được về bên ngoại Giữ bờ tre, bên nước Thanh Lương Thương các cậu, các dì chịu khảo tra, không nói Đào hầm nuôi cán bộ tháng năm trường! Quê hương ơi, sao mà da diết thế Giọng đò đưa... lòng Huế đó chăng? Vì dù đèn tắt, đã có trăng Khổ em thì em chịu, biết làm răng đặng chừ... Câu hò xưa mối tương tư Thiết tha đôi lứa, mà như đôi miền! Bây giờ, nước lớn, thuyền lên Bắc Nam mình lại nối liền thịt da Bây giờ, hết nỗi gần xa Anh vào Hương Thủy, anh ra Phong Điền Đường làng, lạ mấy cũng quen Bước chân cứ nhớ, chẳng quên lối nào. Ngày đi, lòng vẫn tự hào Nay về, càng ngẩng đầu cao với trời. Thừa Thiên, đẹp cảnh, đẹp người Núi xanh khí phách, biển ngời sức xuân! Núi này, Bạch Mã, Hải Vân Mây đưa Anh Giải phóng quân lên đèo Biển này, cửa Thuận sóng reo Thanh thanh vành mũ tai bèo là em. Hương Giang ơi, dòng sông êm Quả tim ta, vẫn ngày đêm tự tình Vẫn là duyên đó, quê anh Gió mưa tan, lại trong lành mặt gương. Bến nghèo, xưa chuyến đò ngang Nay cầu chống Mỹ, xe sang dập dìu Tràng Tiền, biết mấy là yêu! Tuổi thơ áo trắng, sớm chiều bướm bay. Ngự Bình, thông lại xanh cây Bên kia Vọng Cảnh, bên này Thiên Thai Bức tranh non nước tuyệt vời Bàn tay ta lại xây đời ta đây! Hoàng cung, thôi đã rêu dày Ngẩn ngơ thần tượng còn say thuở nào? Tươi rồi, cuộc sống thanh tao Bát cơm hến cũng ngọt ngào lòng ta. Huế ơi, đẹp lắm quê nhà Câu Nam ai hóa bài ca anh hùng Ai đi qua đó miền Trung Xin mời ghé lại, vui cùng Huế tôi! Kỷ niệm tháng 5-1975
Tố Hữu
Bà Má Hậu Giang
poem.php?poem=ba_ma_hau_giang__to_huu
Trời Hậu Giang, tù và dậy rúc Phèng la kêu, trống giục vang đồng Đường quê đỏ rực cờ hồng Giáo lê sáng đất, tầm vông nhọn trời Quyết một trận, quét đời nô lệ Quăng máu xương, phá bẻ xiềng gông! Hỡi ôi! Việc chửa thành công Hôm nay máu chảy đỏ đồng Hậu Giang Giặc lùng, giặc đốt xóm làng Xác xơ cây cỏ, tan hoang cửa nhà Một vùng trắng bãi tha ma Lặng im, không một tiếng gà gáy trưa Có ai biết, ai ngờ trong đó Còn chơ vơ một ổ lều con Đạn bom qua, hãy sống còn Núp sau lưng rộng một hòn đá to. Có ai biết trong tro còn lửa Một má già lần lữa không đi Ở đây sóng gió bất kỳ Má ơi, má ở làm chi một mình? Rừng một dải U Minh tối sớm Má lom khom đi lượm củi khô Ngày đêm củi chất bên lò Ai hay má cất củi khô làm gì? Hay má lẫn quên vì tuổi tác Hay má liều một thác cho yên? Bỗng đâu một buổi mai lên Trên đường quê ấy qua miền nghĩa quân Một tán quỷ rần rần rộ rộ Mắt mèo hoang, mũi chó, râu dê Súng trường nhọn hoắt lưỡi lê Khét nồng khí chết, tanh dề máu oan! Chúng rảo bước. Lính quan nện gót Mắt nhìn quanh lục mót dạng người Đồng không, lạnh vắng, im hơi Chỉ đôi bóng quạ ngang trời loáng qua Ách là! Thằng quan ba dừng bước Rút ống dòm, và ngước mắt nheo Xa xa, sau lớp nhà xiêu Một tia khói nhỏ ngoằn ngoèo bay lên... Hắn khoái trá cười điên sằng sặc Nhe hàm răng sáng quắc như gươm Vẫy tay lũ tớ gườm gườm Như bầy chó đói chực chồm miếng ăn. Rồi lặng lặng bước chân hùm sói Tiến dần lên tia khói, vây quanh... Má già trong túp lều tranh Ngồi bên bếp lửa, đun cành củi khô Một mình má, một nồi to Cơm vừa chín tới, vùi tro, má cười... Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt? Má già run, trán toát mồ hôi Chạy đâu? Thôi chết, chết rồi! Gót giày đâu đã đạp rơi liếp mành. Một thằng cướp, mắt xanh mũi lõ Đốc gươm dài tuốt vỏ cầm tay Rung rinh bậc cửa tre gầy Nghênh ngang một ống chân đầy lối đi! Hắn rướn cổ, giương mi, trơn mắt Như hổ mang chợt bắt được mồi Trừng trừng trông ngược trông xuôi Trông vào bếp lửa: Một nồi cơm to. Hắn rống hét: "Con bò cái chết! Một mình mày ăn hết này sao? Đừng hòng che được mắt tao Khai mau, du kích ra vào nơi đâu? Khai mau, tao chém mất đầu!" Má già lẩy bẩy như tàu chuối khô Má ngã xuống bên lò bếp đỏ Thằng giặc kia đứng ngõ trừng trừng Má già nhắm mắt, rưng rưng "Các con ơi! ở trong rừng U Minh Má có chết, một mình má chết Cho các con trừ hết quân Tây!" Thằng kia bỗng giậm gót giày Đạp lên đầu má: "Mẹ mày, nói không?" Lưỡi gươm lạnh toát kề hông "Các con ơi! Má quyết không khai nào!" Sức đâu như ngọn sóng trào Má già đứng dậy, ngó vào thằng Tây Má hét lớn: "Tụi bay đồ chó! Cướp nước tao, cắt cổ dân tao! Tao già không sức cầm dao Giết bay, có các con tao trăm vùng! Con tao, gan dạ anh hùng Như rừng đước mạnh, như rừng chàm thơm! Thân tao chết, dạ chẳng sờn!" Thương ôi! Lời má lưỡi gươm cắt rồi! Một dòng máu đỏ lên trời Má ơi, con đã nghe lời má kêu! Nước non muôn quý ngàn yêu Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang.
Tố Hữu
Bầm Ơi!
poem.php?poem=bam_oi__to_huu
Ai về thăm mẹ quê ta Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm... Bầm ơi có rét không bầm! Heo heo gió núi, lâm thâm mưa phùn Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần. Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt, thương bầm bấy nhiêu! Bầm ơi, sớm sớm chiều chiều Thương con, bầm chớ lo nhiều bầm nghe! Con đi trăm núi ngàn khe Chưa bằng muôn nỗi tái tê lòng bầm Con đi đánh giặc mười năm Chưa bằng khó nhọc đời bầm sáu mươi. Con ra tiền tuyến xa xôi Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền. Nhớ thương con bầm yên tâm nhé Bầm của con, mẹ Vệ quốc quân. Con đi xa cũng như gần Anh em đồng chí quây quần là con. Bầm yêu con, yêu luôn đồng chí Bầm quý con, bầm quý anh em. Bầm ơi, liền khúc ruột mềm Có con có mẹ, còn thêm đồng bào Con đi mỗi bước gian lao Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm! Bao bà cụ từ tâm như mẹ Yêu quý con như đẻ con ra. Cho con nào áo nào quà Cho củi con sưởi, cho nhà con ngơi. Con đi, con lớn lên rồi Chỉ thương bầm ở nhà ngồi nhớ con! Nhớ con, bầm nhé đừng buồn Giặc tan, con lại sớm hôm cùng bầm. Mẹ già tóc bạc hoa râm Chiều nay chắc cụng nghe thầm tiếng con... 1948
Tố Hữu
Con Cá, Chột Nưa
poem.php?poem=con_ca_chot_nua__to_huu
Năm sáu ngày mệt xỉu Thuốc làm khuây mấy điếu Vài ba hớp nước trong Suy nghĩ chuyện bao đồng Vẫn không ngoài chuyện đói. Đầu sàn canh bốc khói Chén cá nức mùi thơm Lên họa với mùi cơm Sao mà như cám dỗ! Muốn ngủ mà không ngủ Cái bụng cứ nằn nì: “Ăn đi thôi, ăn đi! Chết làm chi cho khổ!” Nghe hắn thầm quyến rũ Tôi đỏ mặt bừng tai: “Im đi cái giọng mày Tao thà cam chịu chết!” Hắn nằm im đỡ mệt Rồi tha thiết van lơn: “Đời mới hai mươi xuân Chết làm chi cho khổ!” Hắn nói to nói nhỏ Kể lể chuyện đê hèn Tôi vẫn cứ nằm yên Hắn liền thay chiến thuật: “Thôi thì thôi cứ vật Nhưng phải ráng cầm hơi Theo với bạn với đời Cho đến ngày kết quả. Ăn đi vài con cá Năm bảy cái chột nưa Có ai biết ai ngờ? Thế vẫn tròn danh dự Không can chi mà sợ Có hôi miệng hôi mồm Còn có nước khi hôm Uống vô là sạch hết!” Lần này tôi thú thiệt: Lời hắn cũng hay hay Lí sự cũng đủ đầy Nghe ra chừng phải quá! Ăn đi vài con cá Năm bảy cái chột nưa Có ai biết, ai ngờ Thế vẫn tròn danh dự! Nhưng mà tôi lưỡng lự Suy nghĩ rồi lắc đầu Đành không ai biết đâu Vẫn không làm thế được! Từ khi chân dấn bước Trên con đường đấu tranh Tôi sẵn có trong mình Đôi mắt thần: chủ nghĩa Đã đứng trong đoàn thể Bênh vực lợi quyền chung Sống chết có nhau cùng Không được xa hàng ngũ Không thể gì quyến rũ Mua bán được lương tâm Danh dự của riêng thân Là của chung đồng chí Phải giữ gìn tỉ mỉ Như tròng mắt con ngươi Đến cạn máu tàn hơi Không xa rời kỷ luật Phải trải lòng chân thật Không một nét quanh co Không một bóng lờ mờ Không một nhăn ám muội! Bụng nghe, chừng biết tội Từ đó hết nằn nì Không dám thở than chi Và tôi cười đắc thắng.
Tố Hữu
Emily, Con...
poem.php?poem=emily_con__to_huu
Ê mi-ly, con đi cùng cha Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc... - Đi đâu cha? - Ra bờ sông Pô-tô-mác - Xem gì cha? Không con ơi, chỉ có Lầu ngũ giác. Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe Đừng có hỏi cha nhiều con nhé! Cha bế con đi, tối con về với mẹ... Oa-sinh-tơn Buổi hoàng hôn Ôi những linh hồn Còn, mất Hãy cháy lên, cháy lên Sự thật! Giôn-xơn! Tội ác bay chồng chất Cả nhân loại căm hờn Con quỷ vàng trên mặt đất. Mày không thể mượn nước son Của Thiên Chúa, và màu vàng của Phật! Mác Na-ma-ra Mày trốn đâu? Giữa bãi tha ma Của toà nhà năm góc Mỗi góc, một châu. Mày vẫn chui đầu Trong lửa nóng Như đà điểu rúc đầu trong cát bỏng. Hãy nhìn đây! Nhìn ta phút này! Ôi không chỉ là ta với con gái nhỏ trong tay Ta là Hôm nay Và con ta, Ê-mi-ly ơi, con là mãi mãi! Ta đứng dậy, Với trái tim vĩ đại Của trăm triệu con người Nước Mỹ. Để đốt sáng đến chân trời Một ngọn đèn Công lý. Hỡi tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ Nhân danh ai? Bay mang những B 52 Những na-pan, hơi độc Từ toà Bạch Ốc Từ đảo Guy-am Đến Việt Nam Để ám sát hoà bình và tự do dân tộc Để đốt những nhà thương, trường học Giết những con người chỉ biết yêu thương Giết những trẻ em chỉ biết đi trường Giết những đồng xanh bốn mùa hoa lá Và giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc hoạ! Nhân danh ai? Bay chôn tuổi thanh xuân của chúng ta trong những quan tài Ôi những người con trai khoẻ đẹp Có thể biến thiên nhiên thành điện, thép Cho con người hạnh phúc hôm nay! Nhân danh ai? Bay đưa ta đến những rừng dày Những hố chông, những đồng lầy kháng chiến Những làng phố đã trở nên pháo đai ẩn hiện Những ngày đêm đất chuyển trời rung... Ôi Việt Nam, xứ sở lạ lùng Đến em thơ cũng hoá thành những anh hùng Đến ong dại cũng luyện thành chiến sĩ Và hoa trái cũng biến thành vũ khí! Hãy chết đi, chết đi Tất cả chúng bay, một bầy ma quỷ! Và xin nghe, nước Mỹ ta ơi! Tiếng thương đau, tiếng căm giận đời đời Của một người con. Của một con người thế kỷ Ê-mi-ly, con ơi! Trời sắp tối rồi... Cha không bế con về được nữa! Khi đã sáng bùng lên ngọn lửa Đêm nay mẹ đến tìm con Con sẽ ôm lấy mẹ mà hôn Cho cha nhé Và con sẽ nói giùm với mẹ: Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn! Oa-sinh-tơn Buổi hoàng hôn Còn mất? Đã đến phút lòng ta sáng nhất Ta đốt thân ta Cho ngọn lửa chói loà Sự thật..........
Tố Hữu
Em Ơi... Ba Lan
poem.php?poem=em_oi_ba_lan__to_huu
Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan Đường bạch dương sương trắng nắng ngàn Anh đi, nghe tiếng người xưa vọng Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn Có phải Sô-panh tình chứa chan Nâng đàn ca, cô gái Ba Lan Có phải A-đam hồn vĩ đại Bay trên đầu thế kỷ nhân gian... Em đi cùng anh lên thành xưa Vác-xa-va ấm nắng ban trưa Nét vàng lịch sử vừa tươi lại Trong cuộc hồi sinh, tạnh gió mưa Hãy nghe em từng viên đá lát Những con đường, tiếng hát đau thương Ba Lan, Ba Lan Thịt da đã bao lần tan nát Nước mất, tim về vọng cố hương Hãy nghe em từng viên ngói đỏ Những mái nhà phố cũ hồi xuân Máu đã quyện, em ơi, trong đó Máu Ba Lan và máu Hồng quân! Ôi máu đọng mười lăm năm trước Bốn triệu hồn kêu Nước trong đêm Em ơi em, làm sao quên được Ốt-sơ-ven-xim, ốt-sơ-ven-xim! Nhớ nghe em, những đôi giày nhỏ Tưởng còn đi chập chững chân son Những mái tóc vàng tơ đóng bó Dệt thành chăn rợn bóng oan hồn! Anh đã đến quê em Cra-cốp Như quê anh lộng lẫy cung đền Hồng quân cứu Va-ven xinh đẹp Như Thạch Sanh đánh ó cứu nàng tiên... Anh đã đến quê em Ban-tích Sóng ngời xanh, ngọc bích biển khơi Đã xóa sạch những ngày Đăng-dích Màu Ba Lan trong trắng đỏ tươi Khắp quê em, mùa xuân đến rồi - Dù đêm qua chút tuyết còn rơi - Hỡi người chị bên đường quét tuyết Xuân đến rồi, nắng đỏ trên môi. Nắng trên cao cần trục xây nhà Nắng lưng tàu phấp phới đi xa Nắng đỏ ngực anh, người thủy thủ Đẹp như lò Nô-va Hu-ta Khắp quê em, mùa xuân mang tên Những người con đẹp của trăm miền Hôm nay gọi nhau về Đại hội Mở thêm đường, đi lên, đi lên Mùa xuân đó, quê em ấm áp Chân người đi, vào cuộc đời chung Ngựa đang kéo đồng lên hợp tác Đường ta đi tấp nập vô cùng!
Tố Hữu
Hãy Nhớ Lấy Lời Tôi
poem.php?poem=hay_nho_lay_loi_toi__to_huu
Có những phút làm nên lịch sử Có cái chết hóa thành bất tử Có những lời hơn mọi bài ca Có con người như chân lý sinh ra. Nguyễn Văn Trỗi! Anh đã chết rồi Anh còn sống mãi Chết như sống, anh hùng, vĩ đại. Hỡi người Anh, đã khép chặt đôi môi Tiếng anh hô: Hãy nhớ lấy lời tôi! Đang vang dội. Và ánh đôi mắt sáng Của Anh đã chói ngời trên báo Đảng Nghìn năm sau sẽ nhớ lại hôm qua Một sáng mùa thu, giữa khám Chí Hòa Anh đi giữa hai tên gác ngục Và sau chúng, một người linh mục. Anh bước lên, nhức nhói chân đau, Dáng hiên ngang vẫn ngẩng cao đầu Quần áo trắng một màu thanh khiết Thây gầy yếu mạnh hơn cái chết. Bầy giết thuê và lũ viết thuê Hai hàng đen, súng cắm lưỡi lê Anh bước tới, mắt nhìn, bình thản Như chính Anh là người xử án. Cỏ trong vườn mát dưới chân Anh Đời vẫn tươi màu lá rau xanh Đây miếng đất của Anh đòi giải phóng Đây máu thịt của Anh đòi cuộc sống. Anh thét to: "Ta có tội gì đây?" Chúng trói Anh vào cọc, mấy vòng dây Mười họng súng. Một băng đen bịt mắt. Anh thét lớn: "Chính Mỹ kia là giặc!" Và tay Anh giật phắt mảnh băng đen Anh muốn thiêu, bằng mắt, lũ đê hèn Với cái chết, Anh muốn nhìn giáp mặt Như ngọn lửa không bao giờ dập tắt! Chúng run lên, xông trói chặt Anh hơn Đôi môi Anh đã khô cháy căm hờn: Phải chiến đấu không sợ gì súng đạn! Lệnh: Hàng đầu quỳ xuống! Một giây thôi Anh thét lên: Hãy nhớ lấy lời tôi: Đả đảo đế quốc Mỹ! Đả đảo Nguyễn Khánh! Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm! Phút giây thiêng, Anh gọi Bác ba lần! Súng đã nổ, mười viên đạn Mỹ Anh gục xuống. Không. Anh thẳng dậy Anh hãy còn hô: Việt Nam muôn năm! Máu tim Anh nhuộm đỏ đất Anh nằm. Mắt đã nhắm, không một lời rên rỉ, Anh chết vậy, như thiên thần yên nghỉ. Chẳng cần đâu, cây thánh giá sắt tây Của tay người linh mục ném bên thây! Anh đã chết, Anh Trỗi ơi, có biết Máu kêu máu, ở trên đời, tha thiết! Du kích quân Ca-ra-cát đã vì Anh Bắt một tên giặc Mỹ giữa đô thành. Anh đã chết. Anh chẳng còn thấy nữa Lửa kêu lửa, giữa miền Nam rực lửa Như trái tim Anh, ôi lửa nào bằng! Phút cuối cùng, chói lọi khối sao băng... Hãy nhớ lấy lời tôi! Nguyễn Văn Trỗi Lời Anh dặn, chúng tôi xin nhớ: Hãy sống chết quang vinh Trước kẻ thù không sợ Vì Tổ quốc hi sinh Như đời Anh, người thợ. 23-10-1964
Tố Hữu
Khi Con Tu Hú
poem.php?poem=khi_con_tu_hu__to_huu
Khi con tu hú gọi bầy Lúa chiêm đang chín trái cây ngọt dần Vườn râm dậy tiếng ve ngân Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không... Ta nghe hè dậy bên lòng Mà chân muốn đạp tan phòng hè ôi Ngột làm sao chết mất thôi Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu...
Tố Hữu
Lạ Chưa?
poem.php?poem=la_chua__to_huu
Lạ chưa vẫn ở bên em Mà anh cứ nhớ; cứ thèm gần hơn! Cứ lo em giận em hờn Mải mê anh để cô đơn em buồn ... Cơ chi chắp được đôi hồn Như chim đôi cánh lượn hôn mây trời Cơ chi đi suốt đường đời Như hình với bóng sóng đôi tháng ngày! Em cười anh cũng vui lây Anh đau, em lại lệ cay, xót thầm Qua bao xao động, thăng trầm Tâm ca được mấy tri âm không lời? Tình yêu là thế em ơi! Hai người mà hóa một người, trăm năm ...
Tố Hữu
Lão Đầy Tớ
poem.php?poem=lao_day_to__to_huu
Gánh nước, cuốc vườn cau Đất bụi lấm đầy đầu Mà chủ còn hất hủi! Như cái kiếp ăn mày Ngồi ăn trong góc xó Buồn thiu như con chó Áo rách chẳng ai may Quần rách giơ tuốt cả! Lạnh thì nằm chòng queo Trơ trụi như con mèo Không có vài tấm rạ!” Tôi riết chặt bàn tay Của lão: “Bao nhiêu nỗi Đau buồn và tức tối Sẽ tan biến ngày mai… Ông đã nghe ai nói Có một xứ mênh mông Nửa tây và nửa đông Mạnh giầu riêng một cõi? Nơi không vua, không quan Không hạng người ô uế Không hạng người nô lệ Sống đau xót, lầm than. Nơi tiêu diệt lòng tham Không riêng ai của cải Hàng triệu người thân ái Cùng chung sức nhau làm Để cùng nhau vui sướng Ai già nua tật nguyền Thì cứ việc ngồi yên Đã sẵn tiền nuôi dưỡng”. Lão ngơ ngác nhìn tôi Rối rít: “Ồ hay nhỉ! Ai già nua được nghỉ Cũng no ấm trọn đời? Ai cũng có nhà cửa Cũng sung sướng bằng nhau? Đã không ai đè đầu Làm chi có đầy tớ? Cậu bảo: Cũng không xa? - Nước Nga? - Ờ nước ấy”. Và há mồm khoan khoái Lão ngồi mơ nước Nga…
Tố Hữu
Mẹ Suốt
poem.php?poem=me_suot__to_huu
Lặng nghe mẹ kể ngày xưa Chang chang cồn cát nắng trưa Quảng Bình Mẹ rằng: Quê mẹ Bảo Ninh Mênh mông sông biển, lênh đênh mạn thuyền Sớm chiều, nước xuống triều lên Cực thân từ thuở mới lên chín mười Lớn đi ở bốn cửa người Mười hai năm lẻ, một thời xuân qua Lấy chồng, cũng khổ con ra Tám lần đẻ, mấy lần sa, tội tình! Nghĩ mà thương mẹ cha sinh Thương chồng con lại thương mình xót xa Bây chừ sông nước về ta Đi khơi đi lộng, thuyền ra thuyền vào Bây giờ biển rộng trời cao Cá tôm cũng sướng, lòng nào chẳng xuân! Ông nhà theo bạn "xuất quân" Tui nay cũng được vô chân "sẵn sàng" Một tay lái chiếc đò ngang Bến sông Nhật Lệ, quân sang đêm ngày Sợ chi sóng gió tàu bay Tây kia mình đã thắng, Mỹ này ta chẳng thua! Kể chi tuổi tác già nua Chống chèo xin cứ thi đua đến cùng! Ngẩng đầu, mái tóc mẹ rung Gió lay như sóng biển tung, trắng bờ... Gan chi gan rứa, mẹ nờ? Mẹ rằng: Cứu nước mình chờ chi ai? Chẳng bằng con gái, con trai Sáu mươi còn một chút tài đò đưa Tàu bay hắn bắn sớm trưa Thì tui cứ việc sớm trưa đưa đò... Ghé tai mẹ, hỏi tò mò: Cớ răng ông cũng ưng cho mẹ chèo? Mẹ cười: Nói cứng, phải xiêu Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông! Nghe ra, ông cũng vui lòng Tui đi, còn chạy ra sông dặn dò: "Coi chừng sóng lớn, gió to Màn xanh đây mụ, đắp cho kín mình!" Vui sao, câu chuyện ơn tình Nắng trưa cồn cát Quảng Bình cũng say...
Tố Hữu
Ta Đi Tới
poem.php?poem=ta_di_toi__to_huu
Ta đi giữa ban ngày Trên đường cái, ung dung ta bước. Đường ta rộng thênh thang tám thước Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên Đường qua Tây Bắc, đường lên Điện Biên Đường cách mạng, dài theo kháng chiến... Đến hôm nay đường xuôi về biển Mới tinh khôi màu đất đỏ tươi Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi! Ai về với quê hương ta tha thiết Sông Hương, Bến Hải, Cửa Tùng... Ai vô đó, với đồng bào, đồng chí Nói với Nửa - Việt Nam yêu quý Rằng: nước ta là của chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa! Chúng ta, con một cha, nhà một nóc Thịt với xương, tim óc dính liền. Dù ai nói ngả nói nghiêng Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân. Dù ai rào giậu ngăn sân Lòng ta vẫn giữ là dân Cụ Hồ! Ta đã lớn lên rồi trong khói lửa Chúng nó chẳng còn mong được nữa Chặn bàn chân một dân tộc anh hùng. Những bàn chân từ than bụi, đầy bùn Đã bước dưới mặt trời cách mạng. Những bàn chân của Hóc Môn, Ba Tơ, Cao Lạng Lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu Những bàn chân đã vùng dậy đạp đầu Lũ chúa đất xuống bùn đen vạn kiếp! Ta đi tới, trên đường ta bước tiếp, Rắn như thép, vững như đồng. Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp Cao như núi, dài như sông Chí ta lớn như biển Đông trước mặt! Ta đi tới, không thể gì chia cắt Mục Nam Quan đến bãi Cà Mau Trời ta chỉ một trên đầu Bắc Nam liền một biển. Lòng ta không giới tuyến Lòng ta chung một Cụ Hồ Lòng ta chung một Thủ đô Lòng ta chung một cơ đồ Việt Nam!
Tố Hữu
Tiếng Ru
poem.php?poem=tieng_ru__to_huu
Con ong làm mật yêu hoa Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời Con người muốn sống con ơi Phải yêu đồng chí, yêu người anh em. Một ngôi sao chẳng sáng đêm Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng. Một người, đâu phải nhân gian? Sống chăng, một đống lửa tàn mà thôi! Núi cao bởi có đất bồi Núi chê đất thấp núi ngồi ở đâu? Muôn dòng sông đổ biển sâu Biển chê sông nhỏ, biển đâu nước còn? Tre già yêu lấy măng non Chắt chiu như mẹ yêu con tháng ngày Mai sau con lớn hơn thày Các con ôm cả hai tay đất tròn.
Tố Hữu
Từ Ấy
poem.php?poem=tu_ay__to_huu
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim... Tôi buộc lòng tôi với mọi người Để tình trang trải với trăm nơi Để hồn tôi với bao hồn khổ Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời. Tôi đã là con của vạn nhà Là em của vạn kiếp phôi pha Là anh của vạn đầu em nhỏ Không áo cơm, cù bất cù bơ...
Tố Hữu
Việt Nam Máu Và Hoa
poem.php?poem=viet_nam_mau_va_hoa__to_huu
Khao khát trăm năm, mãi đợi chờ Hôm nay vui đến, ngỡ trong mơ Một trời êm ả, xanh không tưởng Mặt đất bình yên giấc trẻ thơ Đây cuộc hồi sinh, buổi hóa thân Mùa đông thế kỷ chuyển sang xuân Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu Người vươn lên, như một thiên thần! Thế này chăng? Thuở xưa hoang dã Chàng Sơn Tinh thắng giặc Thủy Tinh Càng dâng nước, càng cao ngọn núi Chân Trường Sơn đạp sóng Thái Bình. Chúng muốn đốt ta thành tro bụi Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm Chúng muốn ta bán mình ô nhục Ta làm sen thơm ngát giữa đầm. Ta sẵn sàng xé trái tim ta Cho Tổ quốc, và cho Tất cả Lá cờ này là máu là da Của ta, của con người, vô giá. Trắng khăn tang, em chẳng khóc đâu Hỡi em gái mất cha mất mẹ Nước mắt rơi, làm nhòa mặt quân thù Em phải bắn, trúng đầu giặc Mỹ. Tình thương lớn, mạnh hơn lửa thép Trận địa đây xây giữa lòng người Dẫu mưa nắng, trái đất tròn vẫn đẹp Đời yêu ta, ta phải thắng cho Đời. Cút sạch đi, bầy sói hôi tanh! Đã đến buổi cuối cùng phán quyết: Trả về ta, đất rộng trời xanh Cho bay, những hố bom làm huyệt. Lịch sử muốn bay cúi đầu tội lỗi Dưới gươm thiêng hùng khí Thủ đô Cả bốn biển hoan hô Hà Nội Pháo đài bay rụng đỏ mặt hồ. Ngọc Hà em! Lộng lẫy hoa tươi Xin thơm khắp miền Nam, miền Bắc Chắc Bác Hồ vui, xin kính dâng Người Và tặng cả anh em cùng ta đánh giặc. Không nỗi đau nào riêng của ai Của chung nhân loại, chiến công này, Việt Nam ơi, máu và hoa ấy Có đủ mai sau, thắm những ngày? Chưa dễ lành đâu, những vết thương Nửa mình còn nhức, hỡi quê hương! Song mùa vui đã mang xuân tới Đã tắt hôm nay lửa chiến trường. Rừng núi đã xanh màu giải phóng Hãy trào lên, ơi sóng Cửu Long Quét phăng những rác bùn ứ đọng Những thép gai ngăn mặt, cắt lòng. Ta lại về ta, những đứa con Máu hòa trong máu, đỏ như son. Sài Gòn ơi, Huế ơi! Xin đợi Tái hợp, huy hoàng, cả Nước non! Xuân 1973
Tố Hữu
Cuộc Chia Ly Màu Đỏ
poem.php?poem=cuoc_chia_ly_mau_do__nguyen_my
Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ Tươi như cánh nhạn lai hồng Trưa một ngày sắp ngả sang đông Thu, bỗng nắng vàng lên rực rỡ. Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ Tiễn đưa chồng trong nắng vườn hoa Chồng của cô sắp sửa đi xa Cùng đi với nhiều đồng chí nữa Chiếc áo đỏ rực như than lửa Cháy không nguôi trước cảnh chia ly Vườn cây xanh và chiếc nón trắng kia Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy Không che được nước mắt cô đã chảy Những giọt long lanh, nóng bỏng, sáng ngời Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi Và rạng đông đang hừng trên nét mặt Một rạng đông với màu hồng ngọc Cây si xanh gọi họ đến ngồi Trong bóng rợp của mình, nói tới ngày mai… Ngày mai sẽ là ngày sum họp Đã toả sáng những tâm hồn cao đẹp! Nắng vẫn còn ngời trên những lá si Và người chồng ấy đã ra đi… Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế Những cánh hoa đỏ vẫn còn rung nhè nhẹ Gió nói, tôi nghe những tiếng thì thào “Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau…” Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy Cái màu đỏ như màu đỏ ấy Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp Một làng xa giữa đêm gió rét… Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi Như không hề có cuộc chia ly… 1964
Nguyễn Mỹ
Bà Bán Cau
poem.php?poem=ba_ban_cau__huynh_van_nghe
Nắng hạn đường xa nối chân mây... Còn đi đâu, đi mãi hỡi ai? Mặc gánh nặng oằn, hai vai chịu, Dưới trời mưa lửa chỉ chau mày. Mẹ ơi! Cảnh ấy dẫu trăm năm, Ngàn năm, hay muôn vạn ngàn năm Một phút sau này con còn sống Cảnh kia còn đốt mãi lòng con. Con đường xe cong uống trên đồng khô, Xóm làng xa, nắng chang, lim dim ngủ, Trời cao, cao vút điểm mây khô, Từ giữa trời xanh: nguồn nắng đổ. Trên đường cát xa thăm thảm ấy, Bà bán cau, gánh nặng trên vai oằn, Lẹ làng đi, dưới chân cát cháy Nón, dù đâu? Nắng đốt chiếc khăn rằn. Gió bốc khói tung lên cuồn bụi trắng, Xóm mờ xa khuất dạng sau rừng tre. Mồ hôi chảy vòng quanh đôi má rám Bà bán cau bước mãi dưới trưa hè. Động lòng, bóng cây thầm nhắc nhủ. “Bà má ơi! Ghé gánh nghỉ chân già!” Nhưng không nghe, bà cứ đi, đi mãi, Nhớ chiều nay, trước ngõ, đám con chờ. Tân Uyên 1935
Huỳnh Văn Nghệ
Bà Mẹ Việt Nam
poem.php?poem=ba_me_viet_nam__huynh_van_nghe
Có mặt nước bốn ngàn năm lịch sử Bốn ngàn năm tranh sống với thời gian Máu anh hùng tô non sông cẩm tú Mồ hôi dân kết đọng ngọn lúa vàng Mẹ Việt Nam tuổi bốn mươi thế kỷ Gót Cà Mau đầu tận ải Nam Quan Cửu Long Giang, buông dài làn sóng tóc Dựa Trường Sơn, đứng gác Thái Bình Dương. Ngàn thuở trước làm dâu nhà Hồng Lạc Một giòng con hăm lăm triệu Tiên Rồng Con trung hiếu, trai khôn và gái đẹp Cùng mẹ hiền lo xây dựng non sông Có biển rộng, sông dài, rừng núi đẹp Đồng phì nhiêu, lúa mía ngập mênh mang Và âm thầm bao nhiêu vàng, than thép Dưới mỏ sâu chờ đợi bước vinh quang. Giặc cướp nước đánh hơi từ bốn phía Kéo về đây thực hiện mộng tham tàn Tên núi sông trờ thành tên chiến địa Chống xâm lăng thành truyền thống nhân dân. Gặp thời loạn, mẹ phất cờ khởi nghĩa Bầy con ngoan đứng dậy diệt quân thù. Lũ cướp nước đã bao phen khiếp vía Trở về quê không rửa kịp máu đầu. Nay giặc Pháp lại mang đầu trở lại. Dù tầm vông phải chọi với xe tăng Mẹ vững tin nơi bầy con trung hiếu Ngày mai đây diệt chúng cứu giang sơn. Rồi Việt Nam của rừng vàng biển bạc Của bình yên sáng lạng tiếng chim quyên Sẽ nguyên vẹn, mẹ nghe chăng khúc hát Khải hoàn ca từng nhịp đã vang lên. Chiến khu Đ, cuối 1946
Huỳnh Văn Nghệ
Bên Bờ Sông Xanh
poem.php?poem=ben_bo_song_xanh__huynh_van_nghe
Bờ sông xanh hôm nay buộc ngựa Kiếm gối đầu theo gió thổi hồn cao Thơ tôi đây cũng hoa bướm muôn màu Lòng tôi đây ,cũng vui sầu như bạn Tôi cũng biết nhớ thương tơ tưởng Nào chỉ là võ tướng hay thi nhân Tôi là người lăn lóc trên đường trần kông phân biệt lúc mài gươm múa bút Đời chiến sỹ máu hoà lệ mực Còn yêu thương là chiến đấu không thôi Suốt một đời gươm chẳng ráo mồ hôi Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác Trên lưng ngựa múa gươm vừa ca hát Lòng ta say chiến trận đã thành thơ Máu quân thù chảy đỏ quê hương yta Còn vần thơ nào hay hơn nữa Bạn dừng ngại vì người thơ mê ngủ Quên cuộc đời,tìm mộng để làm thơ Bạn đừng lo tôi say máu quân thù Quên ghi chép những vần thơ huyền diệu có chiến đấu thơ mới thêm vần điệu Càng hát ca gươm càng sắc bén thêm Nợ kiếm cung nghiên bút biết sao đền Nếu không biết vừa làm thơ,giết giặc gửi lại bạn những vần thơ trên cát Và giờ đây tôi qua bến ,lên đường 15/10/1948
Huỳnh Văn Nghệ
Bến Cũ
poem.php?poem=ben_cu__huynh_van_nghe
Kính gởi Việt kiều ở hải ngoại Đây bến cũ chốn muôn thuyền đợi gió Buồm phập phồng như phổi nhịp bên hông Neo buông sâu như những sợi tơ lòng Thuyền lớn, nhỏ toàn chứa đầy hy vọng. Trời quang đãng mây đen vừa tan bóng Thuyền sắp đi, bến đã động lòng thương Ai phăng neo vội vã để đoạn trường! Nhưng gió mới căng buồm thuyền chuyển động. Thuyền lớn nhỏ toàn chứa đầy hy vọng Trời xa khơi màu hứa hẹn xanh xanh Thuyền ra đi, chim bể báo tin lành Bến ngậm lệ đành để thuyền vượt sóng. Rồi từ đấy bến xưa hằng mong ngóng. Cây đa già lá rụng đã bao phen Nhưng biệt mù khơi, nào thấy bóng thuyền, Những thuyền xưa cùng nhau đi đuổi mộng Về đây thôi, hỡi những thuyền hy vọng. Chở về đây những mộng đẹp xa xôi! Lưu luyến chi bến lạ chốn quên người Để bến tưởng thuyền xưa đà lạc hướng. Bangkok 1944
Huỳnh Văn Nghệ
Bờ Sông Bị Chiếm
poem.php?poem=bo_song_bi_chiem__huynh_van_nghe
Mất cả bờ sông xanh Mất luôn con đường đá đỏ Thôi hết rồi nước ngọt Thôi hết rồi gió mát bờ tre Gái Tân Uyên ứa lệ trưa hè Thương vườn cũ dâu, chè không ai tưới. Trai Tân Tịch về bờ sông hái bưởi Cũng chết oan dưới mũi súng quân thù. Mỏi mòn thương nhớ người xa, Vườn xơ xác gốc trầu buồn ủ rũ Dây kẽm gai rối nuồi đường bến cũ Mắc cỡ tây chụp phủ bãi rau lang Hàng tháp canh như chó dữ nhe răng Từng loạt súng dọa ánh trăng, dòng nước. Tàu há mồm, chuyển xuôi, chuyển ngược Chỉ sâu thêm mặt nước, vết căm hờn. Mất bờ sông là mất một nửa chiến khu Mất nước ngọt, bờ tre gió mát. Thuyền tiếp tế, lúa khoai chìm đáy nước Đường giao thông liên lạc đứt đôi bờ. Nhưng quân thù vẫn sợ lòng chiến khu Cờ đỏ vẫn phất cao cành cổ thụ Giữa lòng dân hoa vẫn nở niềm tin: Việt Minh còn sẽ chiếm lại sông xanh. Chiến khu Đ - 1950
Huỳnh Văn Nghệ
Bức Thư Thành
poem.php?poem=buc_thu_thanh__huynh_van_nghe
Bức thư ai từ Sài Gòn yêu mến Vượt bót đồn về đến chiến khu. Dấu lệ rơi trên nét chữ đã mờ Lời êm ả, dịu dàng và tha thiết: “Chốn thị thành hoa thôi nở từ lâu Mây trắng bay tuôn về nẻo chiến khu Nên thương nhớ cũng dồn về hướng đó. Nơi cờ đỏ sao vàng còn rạng rỡ Phải chăng anh, người chiến sĩ hiên ngang Gửi theo đây, này áo ấm, khăn len Anh đỡ mệt những đêm ngoài sương gió...” Một trời thương trong một phong bì nhỏ Mở ra xem nức nở cả lòng ta Đây chiến khu nơi suối hát, chim ca Nhưng ta vẫn cứ nhớ nhung thành thị. Nơi lần đầu tiên ta cầm vũ khí Theo bóng cờ son dứt áo ra đi. Lệ người thương còn ướt chiếc khăn tay. Nơi thuở ấy ôi đau lòng thế kỷ Ngọn tầm vông, xông vào đầu súng máy. Xương anh hùng còn gửi đất Thị Nghè. Ngày báo cừu lưỡi kiếm cứ lăm le Mỗi sáng chào cờ nhìn về hướng ấy. Thề lấy lại Thủ đô và Thành thị Máu xâm lăng phải tưới đỏ quê hương. Giải phóng Sài Gòn trăm nhớ, ngàn thương. Đây chiến khu, biết bao chiều lau súng. Ta nhớ em, hỡi xa vắng Thị Thành Em tủi nhục ở trong vòng tạm chiếm Biết bao giờ nguôi hận chiến khu xanh. Chiến khu Đ 1947
Huỳnh Văn Nghệ
Cái Chết Của Anh Xiểng
poem.php?poem=cai_chet_cua_anh_xieng__huynh_van_nghe
Đầu năm 1946, ông Nguyễn Văn Xiểng, Nghị sĩ Quốc hội người thiểu số tỉnh Biên Hòa trên đường đi Hà Nội để họp Quốc hội lần đầu tiên, bị giặc bắt giết hại tại Xuân Lộc. Anh Xiểng mở mắt tròn xoe Trừng trừng nhìn lũ giặc Đang trói vòng anh Sau xe Jeep Giữa biển nắng trưa vàng Ngoảnh đầu nhìn ngọn núi Chứa Chan Nhớ lại ngày anh trúng cử: Đồng bào Xuân Lộc Từ rừng xanh, núi đỏ kéo về đây. Tiệc mừng anh, đêm ấy cả rừng say Trăng lảo đảo, trên chăn mây, gối núi. Mới hôm qua, chia tay trên bờ suối Mừng mừng, tủi tủi, mến thương. Từng con chim, cái sóc, cành hương Cũng thỏ thẻ vuốt ve, lưu luyến... Một dây siết hai cổ tay tê điếng Nhựa đường trưa như điện đốt bàn chân Nhưng ngọn núi Chứa Chan Vẫn cao đầu hiên ngang dưới nắng. Lời kêu gọi của núi rừng Còn vang lừng trong từng tiếng suối, lời chim. Anh vẫn đứng lặng im, Trước bao nhiêu lời dụ, dọa: “Không biết nói thì cúi đầu cũng được Chịu đầu Tây, cho về huyện làm quan Không thì xe sẽ kéo xác trên đường”. Anh vẫn đứng lặng im Hiên ngang như ngọn núi. Máu căm thù dâng lên trong mắt đỏ Nhìn lũ giặc như hùm thiêng nhìn chó Bỗng gầm lên mấy tiếng vang trời: “Không, không đầu Tây Tao thề chết tại đây!” Chiếc xe hốt hoảng rồ ga Phóng tới như điên, kéo anh ngã gục Từ cao xa ngọn Chứa Chan còn thấy Thây một anh hùng dân tộc Đuổi theo xe như một khối căm hờn Máu anh đỏ mãi ruộng vườn Núi rừng Xuân Lộc nhớ thương đời đời. Hà Nội 1956
Huỳnh Văn Nghệ
Cây Thông Già Và Anh Thợ Rừng
poem.php?poem=cay_thong_gia_va_anh_tho_rung__huynh_van_nghe
Dưới bóng cây thông già Anh thợ rừng nghỉ trưa Gác đầu trên cán búa Nghe chim hát vu vơ... Mơ thấy thông thành người Một lão già râu bạc Ngồi kể lể chuyện đời Lời ôn tồn tha thiết: “Lưỡi búa anh bén quá Chặt tôi đành sao anh Chúng mình nào xa lạ... Cùng khổ trong chiến tranh. Cả họ rừng tôi đây Con sóc đến cây cầy Không một người theo Tây Không một ai theo Mỹ Chúng tôi quyết bám rễ Đứng giữ mảnh đất này Dù đội bom chịu lửa Một bước chẳng hề lui Rừng ta che bộ đội Rừng ta vây quân thù Tuy rừng chưa biết nói Chuyện rừng đã nên thơ. Quân thù đã phá hủy Hai triệu mẫu rừng xanh Mối thù này phải trả Hỡi loài người văn minh Đất rừng còn nhức nhối Hố bom khoét thân mình Cây dầu còn rỉ máu Vết đạn vẫn chưa lành. Rừng đang kêu cấp cứu Ú ớ chẳng nên lời Tiếng rừng nào ai hiểu Chỉ gió thổi, thông reo. Anh hãy thương rừng với Chặt nhẹ búa mà thôi Để núi rừng đâm chồi Sống cho đời thêm đẹp Vì lợi ích cả nước Trước mắt và lâu dài Nghĩ kỹ mới ra tay Kẻo ngày mai ân hận. Lời Bác Hồ căn dặn “Phải trồng cây, gây rừng” Khó khăn cùng ráng chịu Tiêu diệt rừng sao đang. Rừng chết dễ như chơi Vừa ngã xuống, vừa cười Thương đời không bóng mát Ai che đất, che trời. Chim thú không chỗ sống Bước lưu vong ngậm ngùi Mất rừng tan tổ ấm Của tổ tiên loài người. Dân mình còn gian khổ Hòa bình chưa ăn mừng Lo thiếu gạo, thiếu gỗ Nhưng phải bảo vệ rừng. Ngày mai rừng tươi lại Cho người đỡ nắng mưa Thêm lúa thơm, gỗ quý Suối trong veo, bốn mùa...” Anh thợ rừng tỉnh giấc Ngơ ngác nhìn mênh mông Tìm ông già râu bạc Chỉ chim hót cành thông. Đường về lúa ngoảnh lại Chỉ thấy ngọn thông già Như một chàng dũng sĩ Đứng gác rừng bao la. 7-3- 1976
Huỳnh Văn Nghệ
Chiến Khu Đ Chống Bão
poem.php?poem=chien_khu_d_chong_bao__huynh_van_nghe
Rùng rợn giữa đêm mưa Tiếng vợ khóc gọi chồng chới với: “Con trôi rồi, con trôi theo bè chuối...!” Không tiếng trả lời Chỉ từ nóc nhà tranh Tiếng chó đứng sủa hời. Trời sáng rồi, mưa vẫn cứ rơi Những nóc nhà trôi Những thân cây đổ. Suối ngập thành sông, sông tràn thành biển Mênh mông sóng vỗ chân trời. Thôi hết rồi, hết lúa, hết khoai Chiến khu Đồng Nai lại đói. Con ngậm củ mài, cha nhơi củ chuối. Ứớt mắt chồng nhìn vợ nuốt vỏ khoai Đứt ruột mẹ tiếng con thơ đòi bú. Voi cũng trôi tận Cù lao Phố Mấy con trâu vướng cột cầu Gành. Một tượng Phật dời lên nóc đình Đành chắp tay nhìn dòng nước lũ. Trút cả hũ, còn không đầy nắm muối Cho ngày ăn cả đại đội Lam Sơn. Ba người chia một vắt cơm. Tạm đỡ dạ cả tiểu đoàn chủ lực. Chèo chống ngày đêm, lênh đênh trên mặt nước. Vớt của, vớt người. Thân trần chèo chống dưới mưa. Tiếng cười vẫn nô đùa sóng gió. Từng manh chiếu, quả dừa, chiếc bừa, bó đũa. Vớt lên mang trả lại từng người. Đồn Rạch Đông nước ngập sắp trôi Lính ngụy lên nóc đồn kêu cầu cứu: “Huyện đội Vĩnh Cửu ơi... Vĩnh Cửu, Cứu chúng em, ơn trả, nghĩa đền”. Chiến sĩ ta, cười reo lên Nghe lệnh đồng chí chính trị viên: “Chèo nhanh lên, cứu chúng nó...” Nhưng giặc Pháp muốn thừa cơ trận bão Đánh chiến khu, một trận cho tiêu tan Dồn sức tấn công, lừa bịp, chiêu hàng. Tăng cường truyền đơn và bom pháo. Cả chiến khu đêm nay không ngủ Tụ năm, tụ ba, Bàn tán về tiểu đoàn ba trăm ba: “Dù thiếu cơm, dù thiếu áo Đánh giặc càng hay, Ăn củ mì cũng giỏi Thế nào cũng thắng, và... phải thắng!” Bỗng được tin loa: “Ta tiêu diệt hoàn toàn đồn Bến Sắn”. Tiệc liên hoan có bát cơm gạo trắng Tiếng cười, tiếng hát, vang rừng. Hà Nội 1960.
Huỳnh Văn Nghệ
Đám Ma Nghèo
poem.php?poem=dam_ma_ngheo__huynh_van_nghe
Đám ma ai giữa mưa dầm gió lạnh! Bốn người khiêng lắt lẻo chiếc quan tài Người vợ kêu trời khan cả giọng Ẵm con thơ lần bước dưới mưa rơi. Sau góa phụ còn hai con trẻ dại Dắt díu nhau, nheo nhóc khóc không thôi. Và sau nữa... không còn ai nữa hết. Bầy chó theo sủa mãi đám ma côi. Biên Hòa 1938
Huỳnh Văn Nghệ
Du Kích Đồng Nai
poem.php?poem=du_kich_dong_nai__huynh_van_nghe
Kính tặng anh Chín Quỳ - người chỉ huy du kích Đồng Nai. Chiến khu Đ có từ thuở ấy Có một anh đồng chí Sau Nam Kỳ khởi nghĩa năm bốn mươi Đưa chi bộ về rừng Đồng Nai Lập chiến khu nuôi chí lớn. Nước ngọt, dân thương, rừng rộng Tiếng súng đêm đêm phá mộng bọn lính, tề Bạn với núi rừng, trái cam, măng le. Đêm lắng nghe gió trời muôn dặm: Thuyền Hít-le chìm đắm. Biển Liên Xô sóng đỏ dâng trào Pháp mở cửa Đông Dương quỳ gối Rước Nhật vào Hơn hai triệu đồng bào chết đói... Chi đội vũ trang mới tròn tiểu đội Cơ sở nhân dân chỉ nội huyện Tân Uyên. Phải chống ngụy, tề bố ráp ngày đêm Suất năm năm, hai chính quyền Pháp, Nhật. Ngày đói ăn rau, đêm lo thao thức Mỗi năm thêm nấm mộ giữa rừng: Ba Tôn, Bảy Chiếp, Út Liễng, Tư Mừng... Bỗng một chiều sương Gió thu đang tơ vàng lá cám. Động bước chân ai, giật mình rừng thẳm. Anh Giỏi về, người thợ xưởng Ba Son. Lá cờ son Tay anh hé mờ Lệ du kích Đồng Nai thấm vào vải đỏ. Giữa mùa thu mà hoa nở thình lình. Đọc truyền đơn như đọc bức thư tình Từng chữ một đánh vần đến thuộc Chiến khu xanh đêm vui đỏ đuốc Suối mừng reo, tiếng guốc nhịp đều đều. Chợ Tân Uyên bỗng lên giá lụa điều Mua lụa đỏ cũng bị tra, bị đánh. Cờ Việt Minh, ngôi sao năm cánh Như tim vàng ngự giữa lòng son. Cách mạng đến giữa mùa trăng tháng Tám Chiến khu Đ, rừng vắng bóng tưng bừng. Sợi dây thừng thắt bao đạn quanh lưng Áo rách vai, đầu trần, đi khởi nghĩa. Những tròng mắt bừng bừng ánh lửa Gót chân chai giậm vỡ nhựa đường. Cờ đỏ sao vàng Đã ngập trời Nam Bộ: Những đoàn người như thác đổ Tiếng hò reo đất lở nghiêng trời Bọn giặc Nhật rụng rời Quỳ dâng lại Sài Gòn và lục tỉnh Người du kích Đồng Nai gác tòa thị sảnh Ngỡ từ nay hết nghe lạnh rừng sâu. Bắc Sơn 1954
Huỳnh Văn Nghệ
Đường Về
poem.php?poem=duong_ve__huynh_van_nghe
Xe cũ quá kêu vang trên đường sắt, Núi sầu che, mút mắt núi sầu che. Xe chở lòng hay lòng đã chở xe? Nghe ngóng quá, lòng ơi sao nặng quá! Phải ta cứ ở nhà mơ ước nữa, Đi làm chi mà về với đau thương. Máu đào tuôn, cứ để máu đào tuôn Trên đường ấy để lần sau tránh bước. Ôi đau đớn! Chưa đi đà biết trước: Bước lên đường là tan một giấc mơ. Đi gặp nhau để hết nhớ mong chờ, Tình thú vị chỉ trong thơ qua lại. Đã lỡ bước, nên đến không muốn thấy Nhác trông cây không trái với không chim. Để tìm gì trong bạn chút phần tim Người đã hứa tặng ta từ xa cách. Nào đâu những hoa vàng chào chim khách, Tấm khăn tình phơ phất đón sân ga. Đâu môi duyên cười đón bạn phương xa Và lòng mở, tim run, tay siết chặt? Ta chỉ gặp lạnh lùng trong giếng mắt Trên đường về xe gầm thét kêu thương... Ta lặng yên, nén lệ, ngắm mây ngàn. Sài Gòn 1938
Huỳnh Văn Nghệ
Em Bé Liên Lạc
poem.php?poem=em_be_lien_lac__huynh_van_nghe
Nhà em ở xóm Cây Dâu Trước kia ở đợ giữ trâu cho người Nay em đánh giặc được rồi Một mình bảo đảm thơ từ qua sông Ngày đêm nước lớn, nước ròng Em ôm thân chuối bơi không cần thuyền. Mẹ em ngồi đứng không yên Thương em thù giặc, ngày đêm phập phồng Nghe từng loạt súng bờ sông Mà nghe như đạn xé lòng, xé gan. Quân thù vừa tóm được em Mẹ lăn vào bót xin đem em về “Nó chăn trâu bắt làm gì Nó chưa đủ sức đánh Tây đâu mà...” Ba ngày bị đánh, bị tra Mắt lồi, má tím, máu trào môi đen Mẹ em cũng hết lời khuyên: “Cứ khai cho mẹ, để yên cho rồi Thà rằng con sống mồ côi Còn hơn để mẹ suốt đời khóc con!”. Lắc đầu em cố nói “không” Giặc hăm cắt cổ, thả sông, em cười. Hôm sau dòng nước Đồng Nai Đưa ra biển cả một thây không đầu. Mẹ em, chị Sáu Cây Dâu Xin đi bộ đội trả thù cho con. Chiến khu Đ - 1953
Huỳnh Văn Nghệ
Giữ Bí Mật
poem.php?poem=giu_bi_mat__huynh_van_nghe
Bắt được anh du kích Thằng Tây xồm vểnh râu Tuốt dao găm hăm dọa Hỏi dồn dập mấy câu: “Mầy ăn gì để sống, Đánh với ông bấy lâu Chiến khu bị phong tỏa Gạo, cơm hết còn đâu? Mầy ăn gì để sống? Trâu bò chết hết rồi Cầy bừa bị đốt sạch Đập nát hết lúa rồi. Mầy ăn gì để sống? Củ chụp hay củ nần Ăn cái gì là chính Sống được mãi trong rừng. Nói thì ông sẽ thả. Không thì đừng trách trời Dao găm này mổ bụng Cũng lòi ra mà thôi...”. Anh du kích không nói. Răng cắn chặt lấy môi Trước mưa roi đẫm máu Miệng anh cứ như cười. Thằng Tây càng căm tức: “Tao quyết sẽ giết mầy, Khám phá điều bí mật. Mổ bụng mầy rõ ngay. Anh du kích không nói Dao găm rạch dạ dày Thằng Tây trợn mắt trắng. Nhìn mấy mảnh khoai mì! Anh du kích đã chết rồi Đồng bào thương tiếc, cúng xôi mỗi mùa. Bình Định 1953
Huỳnh Văn Nghệ
Hành Quân
poem.php?poem=hanh_quan__huynh_van_nghe
Đoàn quân đi như thân rắn uốn Quanh đồi, qua suối, qua đồng, Qua xóm làng như dải lụa cong cong Êm như dòng nước. Trẻ em chạy theo nhìn không chớp mắt. Đếm hoài chưa hết đoàn quân. Lúa khoai mừng đếm ướt những bàn chân, Cành lá ngụy trang múa reo trên mũ áo. Cơm vắt ban đêm ngày không đỏ lửa, Thương đồng chí anh nuôi cặp mắt mơ màng. Chiếc nồi đồng há miệng thênh thang Như buồn ngủ ngáp dài vô tận. Thương anh trinh - liên suốt ngày lận đận Chạy như thoi gác trước canh sau. Thương chị cứu thương mũ chẳng vừa đầu. Vì tiếc mãi chưa “hy sinh” búi tóc. Đường gập ghềnh, quanh co, hố, dốc, Thương anh công binh lo từng bước cho đoàn, Nối cây rừng thành cầu dọc, cầu ngang Lưỡi rựa bén chưa bao giờ được nghỉ Thương đoàn ngựa thồ vừa đi vừa thở Lưng nặng oằn chân bước mãi không than. Bờ suối xanh mừng có lệnh nghỉ chân Cả ngựa lẫn người cong lưng uống nước. Thương đồng chí chỉ huy Tới giờ đi rút vội điếu thuốc Thương cả đoàn quân đi dưới nắng mưa Áo ướt rồi khô, khô rồi lại ướt, Nước lắt ống tre; muối mè cơm vắt Nương áo nhau lần bước đêm rừng. Cũng mệt rã rời, mỏi cả tay chân Nhưng chị cứu thương đến đâu Nghe cười tràn đến đó. Cũng có người vừa đi vừa mớ. Nhưng cả đoàn quân chung một giấc mơ: “Ông Địa cười xe địch sẽ thành tro, Xung phong ra đường vung cao mã tấu. Giặc quỳ xuống lạy xin tha thứ: “Cho em về kẻo tội nghiệp vợ con”. “Nhưng thôi đừng đi lính nữa nghe không?”. Bận trở về được đi đường tắt. Súng giặc nặng vai, đầu thêm mũ sắt. Giày đinh thu được rộng chật cứ mang Vang bước đoàn quân chiến thắng giữa đường làng, Đêm liên hoan đồng bào mừng trăng sáng. 1955
Huỳnh Văn Nghệ
Hình Ảnh Bác Hồ Trong Lòng Nam Bộ.
poem.php?poem=hinh_anh_bac_ho_trong_long_nam_bo__huynh_van_nghe
Nhớ ngày sau kháng chiến. Giữa thành phố Sài Gòn Một chiến sĩ bị thương. Lấy máu mình đang chảy Tô lên tường năm chữ “Thành phố Hồ Chí Minh” Rồi mới đành lòng tắt thở Cuộc kháng chiến bắt đầu từ đó Sử Việt Nam, thêm một trang đỏ anh hùng. “Thành phố Hồ Chí Minh” Một lời thề thiêng liêng Khắc sâu bằng chữ đỏ Trong lòng người Nam Bộ Như máu thắm lòng tim. Giặc phá hủy miếu đình Đốt nhà thờ, trường học Không làm sao đốt được Hình ảnh Bác trong lòng dân Hình ảnh Bác khắp nơi Theo dân đi kháng chiến Khắp bưng biền, rừng thẳm Thờ bên ảnh đức Chúa Trời Bên cạnh Phật Thích Ca Trong ba lô chiến sĩ Trong cặp vở học trò Trong bức tranh họa sĩ Trong vần điệu nhà thơ Giữa cơ quan, đơn vị Sao mắt Bắc sáng ngời Truyền niềm tin, dũng khí. Khẩu hiệu thành tiếng sét Kết thúc những mít tinh “Hồ Chí Minh muôn năm!” Khẩu hiệu thành khúc hát Mẹ ru con giữa rừng. “Hồ Chủ tịch muôn năm!” Quyết thành câu khai báo Khi bị giặc khảo tra. Cũng là lời trăn trối Khi sắp sửa lìa đời. Bao năm trời khói lửa Chỉ mong có mặt ngày Bác vào thăm Nam Bộ. Nước reo vui Đổng Nai. Vinh quanh thay anh thợ sơn Ngày giải phóng Sài Gòn Trèo lên cổng thành phố Tô vàng son năm chữ “Thành phố Hồ Chí Minh”. Hà Nội, 19-02-1960
Huỳnh Văn Nghệ
Hội Nghị Bình Công
poem.php?poem=hoi_nghi_binh_cong__huynh_van_nghe
Ngọn đèn dầu leo lét Đại đội họp bình công. Đại đội phó giải thích Chiến sĩ chưa chịu thông. Hầu hết cho rằng vội: “Kháng chiến chưa thành công Chúng mình còn có tội Với dân tộc, núi sông. Chỉ những người chiến đấu Đến giọt máu cuối cùng Mới cần được bình công Trước chúng mình tất cả. Bao người mòn ngục tối Bao xác lạc giữa rừng, Ai bờ sông, hóc núi Người còn mộ, người không. Họ cần được khen thưởng Chớ chưa phải chúng ta. Chúng mình còn sung sướng Còn đánh giặc được mà. Đồng ý các đồng chí Gác lại cuộc bình công Độc lập làm luôn thể Một lần đỡ mất công. Giờ lo đánh giặc đã Rủi có chết thì thôi, Thành công khen tất cả Cho về thủ đô chơi”. Đại đội phó lúng túng Nghe họ nói hay hay, Nhìn ông đại đội trưởng Nhờ kết luận kẻo khuya. “Thi đua là lệnh Bác Để kháng chiến thành công. Muốn thi đua giết giặc Đại đội phải bình công. Chuyện trước, sau sẽ hay Kể từ trận ngày mai Có bình công khen thưởng Anh em mình ráng ghi Cả công mình, công bạn”. Đèn tắt, lệnh giải tán Anh em cười vang rừng. Mò mắc võng, giăng màn Vừa thách thi chiến đấu. 1954
Huỳnh Văn Nghệ
Lịch Sử Quê Hương
poem.php?poem=lich_su_que_huong__huynh_van_nghe
Ngày xưa có đoàn người từ miền Bắc Chán ghét vua quan áp bức. Họ đạp núi rừng vượt sóng bể khơi. Đi vào Nam làm lại cuộc đời Tìm đất mới gieo mầm hạnh phúc. Có con sông cũng từ hướng Bắc Vượt núi rừng ghềnh thác Tràn vào Nam cuộn cả bóng mây cao. Người gặp sông Ngụm nước mát ngọt ngào Thề với trăng sao cùng nhau kết bạn Chung nhịp bước về miền Nam nắng sáng Nơi trời xanh nhởn nhơ đàn cò trắng Nơi đồng xanh ngơ ngẩn đám nai vàng. Bờ hoang vu hạ trại một chiều sương Lột da nai Lửa cơm chiều bốc khói Họ đặt tên Đồng Nai cho trời đất mới. Bao ngày gian khổ Hằng trăm năm tranh đấu với núi rừng Mồ hôi, nước mắt, tay sưng Mới có được góc trời Nam tươi mát Đồng lúa thơm, vườn bưởi đường, cam mật Tiếng trẻ thơ cười hát sân trường, Hồi chuông chùa êm gõ sườn non Mái tranh vàng khói cơm chiều quyến luyến. Thuyền dưới bến dập dìu buồm cánh én. Xe trên đường lẻng kẻng nhạc ngựa vang. Ôi! Tân Uyên quê mẹ đẹp muôn vàn. Bắc Sơn 1954
Huỳnh Văn Nghệ
Lời Chim
poem.php?poem=loi_chim__huynh_van_nghe
Hỡi Thượng đế, Người ban cho đôi cánh, Con mừng thầm tưởng tránh khỏi trần ai. Cho ăn trái, tưởng khỏi phiền tranh cạnh Với lòng tham vô tận của người đời. Con cứ tưởng: phước trời riêng con hưởng Khi mới bay chập chững dưới chân đồi. Con cứ tưởng: khi tập tành hát xướng Rằng đời chim chỉ để hát ca thôi. Nhưng Đông đến, mùa trời khe khắt quá, Lá hoa rơi trơ trọi nhánh cây ngàn. Mải mê hát khi cây còn quả đỏ Nên bao lần đói lạnh lúc Đông sang! Người ta lại theo con lên núi đỏ. Vào rừng xanh phá ổ, đốn cây cao Họ giành giựt cùng con từng trái nhỏ, Để đem về làm vui miệng cho nhau. Chịu sao nổi nỗi tham tàn nhân loại, Cánh chim non dễ bay thấu tận trời, Trí chim kém dễ gì qua cung bẫy, Lời đau thương nào thấu được tai ai. Đã bao phen con ước mong bay thẳng Đến thiên cung xin đổi số phần con, Xin Thượng Đế cho chim ăn mây trắng Và cho chim lót ổ giữa trăng tròn. Nhưng kiếp này vì yêu thương đã lỡ Nên con đành vương nặng nợ trần ai. Chung số phận cùng con bao thi sĩ Mộng đài trăng gác lại để thương người. Sài Gòn 1945
Huỳnh Văn Nghệ
Mất Tân Uyên
poem.php?poem=mat_tan_uyen__huynh_van_nghe
Chỉ có mây bay lên trên trời vắng! Đáy sông xanh đâu còn bóng lầu son. Tiếng xe ngựa vang xa trong dĩ vãng Đây tro tàn, gạch nát, ôi tang thương. Nhớ Tân Uyên thuở thanh bình yêu mến Gái nhà quê hợp chợ má hồng tươi Thuyền bốn phương về đây lưu luyến bến Dòng sông xanh êm thắm nhẹ nhàng trôi. Chiến tranh đến chuyển rung trời đất Việt Mẹ lo buồn rười rượi trước ngày mai. Lệnh Nguyễn Bình vừa oai nghiêm, tha thiết: “Đồng bào ơi! Ta quyết chiến phen này!”. Lệnh truyền xuống tiếng reo hò vang dậy, Lửa Tân Uyên cao ngọn đuốc tưng bừng Ra mặt trận chen chân trai lẫn gái Mang trầu cau mẹ bám gót dân quân. Trận Tân Uyên cuối mùa Đông năm ấy Lần đầu tiên giặc Pháp nếm chua cay. Lần đầu tiên đạo viễn chinh lừng lẫy Phải lui về bỏ lại mấy trăm thây. Rồi từ đó Tân Uyên thành chiến địa Máu quân thù tiếp tục chảy không thôi Dòng sông xanh đã nhuộm màu máu tía, Thuyền bến xưa phiêu bạt bốn phương trời. Và từ đó dân Tân Uyên anh dũng Vào chiến khu dựng lại mái lều tranh Quyết kháng chiến cho đến ngày toàn thắng Bóng cờ son in lại đáy sông xanh. Chiến khu Đ 1949
Huỳnh Văn Nghệ
Mẹ Buồn
poem.php?poem=me_buon__huynh_van_nghe
Thấy mẹ buồn, con hỏi “Má tiếc gì má ơi! Nhà mình con đốt rồi Kẻo mai thành bót giặc”. Mẹ nhìn con âu yếm Vuốt tóc con, mỉm cười “Thằng này nó coi tôi Như học trò của nó Má đẻ ra mày đó Không nhớ, má nhắc cho. Nhà má có ra tro Con càng lo đánh giặc. Nhưng mà má chỉ tiếc Cái ống ngoáy trầu thôi Bằng đồng chùi sáng dới Bỏ quên trong lúc chạy Bây giờ đồng cũng chảy...” Bìa rừng ngồi ngắm khói lên Mẹ buồn vì lỡ: Bỏ quên ống ngoáy trầu. Chiến khu Đ 1947
Huỳnh Văn Nghệ
Mẹ Nam Con Bắc
poem.php?poem=me_nam_con_bac__huynh_van_nghe
Mẹ bắt được lá thăm Cầm lo le, bối rối Nhờ cán bộ đọc giùm Tên đứa con bộ đội. “Anh tên Nguyễn Văn Đối Quê quán ở Hưng Yên Sở cao su Thuận Lợi Nhập ngũ cướp chính quyền”. Mẹ mừng rơi nước mắt, Khoe khắp cả xóm làng: Được đứa con người Bắc Chiến sĩ của trung đoàn. Được phép về nhìn mẹ Đối mừng, kể đuôi đầu. Mẹ bảo: “Nói chậm nhé Má nghe chẳng kịp đâu”. Mẹ làm gà hái bưởi Bảo ăn, Đối chối từ Mẹ giận: “Mày chê hả? Tao đánh đòn bây giờ”. “Má có gì ăn nấy Mới là tình mẹ con Ăn xong tao vá áo Mới cho về trung đoàn”. Một hôm đi công tác Đối bị bắt vào đồn. Mẹ thương con đứt ruột Chạy sứt cả da chơn. “Con mày sao người Bắc? Thằng Tây trợn mắt nhìn Mẹ vừa kể vừa khóc Ứớt cả mắt ngụy binh. “Chúng tôi vào Nam Bộ Từ thuở nọ lâu rồi. Con tôi, tôi biết rõ Áo ba lỗ vá vai Nhà tôi nó trồng khoai Bây giờ đang có củ. Cả làng ai cũng rõ Ông hỏi lại mà coi!”. Một ngụy binh người Bắc Đi điều tra việc này Trở về: “Thưa quan sếp Lời bà nói không sai”. Anh Đối được thả ngay Cả làng cười khúc khích. Bỗng hôm nào mẹ chết Vì mảnh đạn ca nông. Chết không chịu nhắm mắt Vì đợi mãi đứa con. Ba ngày anh Đối khóc Đầu quấn chiếc khăn tang Tình mẹ Nam con Bắc Rào rạt lòng trung đoàn. 1953 Giữa năm 1946, ở Biên Hòa có tổ chức phong trào mẹ chiến sĩ. Đồng bào mỗi xã bắt thăm được tên cán bộ hay chiến sĩ nào thì nhận người ấy làm “con kháng chiến” (Ghi chú của tác giả)
Huỳnh Văn Nghệ
Mộng Làm Thơ
poem.php?poem=mong_lam_tho__huynh_van_nghe
Chàng chỉ muốn làm thơ bằng máu Trên mây hồng cho gió rải cùng trời Để những người đau khổ khắp nơi nơi Ngừng than thở Và thương nhau khi trông hàng chữ máu Nhưng e rằng chữ biến khi mây tan... Câu thơ mình thiên hạ cũng dần quên, Chàng lại muốn, ôi điên cuồng thay thi sĩ. Lấp muôn sao nên vần thơ chàng nghĩ Để trên trời ngàn thế kỷ không phai Người trăng sao sẽ nhớ thương hoài Quân cướp nước cướp cả quyền mực giấy Sách chợ đời chưa thấy một vần thơ Thơ yêu nước đọng đáy lòng thi sĩ Như nguồn sâu chờ gặp biển bao la. Vì thế, biết bao đêm buồn trở giấc Nhớ vần thơ nhốt giữa lòng thổn thức Nên đêm đêm đành đứng ngắm trời đông Để ánh muôn sao chói cõi lòng! Sài Gòn 1937
Huỳnh Văn Nghệ
Một Trận Chống Càn
poem.php?poem=mot_tran_chong_can__huynh_van_nghe
Rùng rợn tiếng loa vang Giữa rừng khuya giá lạnh “Chống càn... chống càn Đồng bào chuẩn bị chống càn...” Máy nói trung đoàn tiếp theo reo lệnh: “Chôn ngay máy tiện Tắt hết lửa lò Tháo giấu máy in Gánh dời kho gạo Sơ tán hết trẻ thơ, già yếu Ngụy trang cả hầm lúa, hang heo...” Máy nói cứ reo... Trinh sát chạy chân không bén đất. Tin tức trở về từng phút, từng giây. “Tây đã vào Đất Cuốc Xe tăng gầm phía Bào Đế, Tân Dân Ở Lạc An, chúng đang đốt nhà dân Nhổ từng gốc khoai Cướp từng tô thóc, Phía Cây Đào, rền tiếng súng cà nông Đất Tân Tịch rỗ hố bom, đại bác”. Rách nát thân dừa Xác xơ ngọn chuối Hai vợ chồng nhìn nhau không nói Nhặt từng mảnh xương con Gói lại Đem chôn Lệ trào tuôn Không tắt lửa căm hờn Trong bốn mắt. Ôi chiến khu Tân Uyên! Lại cháy nữa mái tranh, rẫy lúa, Lại chảy nữa máu đồng bào đau khổ Ngồi đứng không yên Tiểu đoàn chủ lực từ Long Nguyên Mừng được lệnh đạp đêm về căn cứ. Cành lá ướt, sương vuốt ve mũ, áo Đồng bào gánh bánh, nước đón mừng... Trời vừa rạng đông Sông Đồng Nai bỗng cười tung sóng trắng Thủy lôi ta hạ tàu giặc ở Xóm Đèn Tây trắng cố dìm Tây đen Chen nhau bơi, chui đầu vào lưới đạn. Địa lôi ta nổ trên đường Hố Cạn Làm gục đầu mấy chiếc xe tăng Nát thây bọn ngụy thổ, Việt gian. Còn hai chân vướng tòn teng trên cành. Băng hầm chông, lựu đạn. Dân quân hạ “ông lớn” khắp nơi. Bọn nhảy dù chân chưa bén lúa tươi Bị cọc bén chĩa ngay lòi ruột Con “đầm già” bị một chùm đạn mút Lảo đảo bay về khói vuốt theo đuôi. “Giàn nhạc” ca nông đã câm họng lâu rồi Chiếc “cán gáo” đã chuồn mất hút Tiếng kèn của tiểu đoàn chủ lực Đã vang rền phía Lò Than Đồng bào reo mừng Mẹ vội hái củi khô Đun thêm nồi bánh tét, Vừa vái Trời, với Phật. “Phù hộ trung đoàn, giết giặc lập công!”. Nồi bánh tét chưa sôi Tin giặc đã chạy rồi Bỏ lại cả lon quan, xác lính. Đêm liên hoan mẹ hò lanh lảnh: “Khu Đ đi dễ khó về Lính đi bỏ mạng, quan về mất lon”. Chiến Khu Đ - 1952
Huỳnh Văn Nghệ
Nấm Mộ Giữa Rừng
poem.php?poem=nam_mo_giua_rung__huynh_van_nghe
Đêm thao thức bên lò lựu đạn Ngày say sưa quay máy tiện, máy bào. Quá sức, ốm đau Chén thuốc rễ cây rừng không cứu được. Lòng anh em xót xa từng nhịp cuốc Chôn anh, chiếu rách bó thân gầy. Gỗ mộ bia có đề rõ tháng, ngày. Chức vụ, họ tên, quê quán. Nhưng mới ba mùa mưa, nắng. Gỗ sơn kia không chịu nổi sức rừng. Mộ bia mòn, chỉ còn chữ “công nhân”. Còn tên, tuổi mối gặm dần hết cả. Quê quán anh: Ba Son hay Cẩm Phả? Mộ bia đành không ghi giữ được lâu. Tinh thần anh, chim hát mãi nghìn thu. Chiến khu Đ - 1951
Huỳnh Văn Nghệ
Ngày Hội
poem.php?poem=ngay_hoi__huynh_van_nghe
Biên Hòa đã mất Chiến khu Đ cờ vẫn đỏ ngọn cao. Du kích Tân Uyên ngày đào đắp chiên hào Đêm tập một, hai vang trường Đất Cuốc Già, trẻ, gái, trai rộn ràng tập hát Tiến quân ca. Anh Nguyễn Bình cũng đã về đây Xem địa thế thấy sông dài rừng thẳm Tình quân dân đầm ấm Anh xuống ngựa buộc cương Đồng bào mừng, thầm gọi “ông Trung ương”. “Của Bác Hồ gửi cho Nam Bộ” Lạc An bỗng tưng bừng ngày hội Kéo về đây đến bốn, năm chi đội Kim Trương, Tô Ký, Vũ Đức, Tấn Chùa, Chiến khu Đ của tiểu đội ngày xưa Bỗng lớn lên như Phù Đổng. Xóm thôn rộn ràng cờ, trống Chim rừng hốt hoảng Tìm cành cao nhất đứng nhìn nhau. Giữa rừng vang từng nhịp búa thầu Của binh công xưởng đầu tiên làm lựu đạn. Đáy sông xanh cũng xôn xao mây trắng Thuyền ngược xuôi gạo, muối, giọng hò. Phố Biên Hoa thị xã mến yêu Chiến sĩ Lạc An yêu giấc ngủ. Chiến khu Đ - 1947
Huỳnh Văn Nghệ
Nhớ Bắc
poem.php?poem=nho_bac__huynh_van_nghe
Ai về Bắc ta đi với Thăm lại non sông giống Lạc Hồng Từ độ mang gươm đi mở cõi Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Ai nhớ người chăng? Ôi Nguyễn Hoàng! Mà ta con cháu mấy đời hoang Vẫn nghe trong máu buồn xa xứ Non nước Rồng Tiên nặng nhớ thương Vẫn nghe tiếng hát thời quan họ Xem nhịp từng câu vọng cổ buồn Vẫn thương vẫn nhớ mùa vải đỏ Mỗi lần phảng phất hương sầu riêng. Sứ mạng ngàn thu dễ dám quên Chinh Nam say bước quá xa miền Kinh đô nhớ lại xa muôn dặm Muốn trở về quê, mơ cảnh tiên. Chiến khu Đ 1946 Trong một ghi chép khác, tác giả ghi bài thơ là “Tiễn bạn về Bắc”, viết ở Sài Gòn năm 1940, có thêm một đoạn: Ai đi về Bắc xin thăm hỏi Hồn cũ anh hùng đất Cổ Loa Hoàn Kiếm từ xưa linh quy hỡi Bao giờ mang trả kiếm dân ta.
Huỳnh Văn Nghệ
Nhờ Bà Cô
poem.php?poem=nho_ba_co__huynh_van_nghe
Giặc về lấy miễu Bà Cô Đóng đồn kiểm soát đôi bờ sông xanh. Bắt dân đắp lũy xây thành Giết người ngay giữa sân đình sớm trưa. Đồng bào bàn tán xôn xao: “Bà Cô thiêng lắm, lẽ nào sợ Tây Quân ta muốn đánh bót này Xin bà phò hộ trở tay dễ dàng...”. Xóm trên, xóm dưới luận bàn Trăm mưu, ngàn kế trung đoàn tấn công. Người thì chỉ cách qua sông Đường đi nước bước thuộc lòng từng ly. Người xin mở cửa thép gai Người thề cướp súng cối xay cạnh đình. Buồng thờ chúng nhốt tù binh “Tượng bà, chúng bện bù nhìn gác sông”. Tình hình nắm vững ngoài, trong Trung đoàn quyết định tấn công bất ngờ. Đêm qua súng nổ vang bờ Nhiều người van vái Bà Cô dậy làng. “Lạy bà phù hộ trung đoàn Chiếm đồn giết giặc cho làng nước yên!” Rực trời lửa bốc cháy lên Trẻ già mừng rỡ reo vang đôi bờ: “Nhờ Bà Cô, nhờ Bà Cô!” Nhưng trung đoàn biết là nhờ nhân dân! Trận xong giải thích cả tuần Đồng bào mới chịu chính mình thắng Tây. Chiến khu Đ 1949
Huỳnh Văn Nghệ
Rừng Đẹp
poem.php?poem=rung_dep__huynh_van_nghe
Rừng đẹp như một bài thơ cổ Cành cao vượn hú Ríu rít tổ chim. Bờ suối đỏ hoa sim Thảm cỏ xanh điểm vàng quả bứa. Đêm trăng một người một ngựa Lỏng cương cho gió ráo mồ hôi. Hội nghị giữa trời Chim, lá cũng góp lời góp ý. Mắc võng cây này qua cây ấy Củi khô lửa cháy ấm đêm đông. Tắm, ăn nước suối một giòng. Chung cho cả ngựa, người, trên, dưới. Củ mì luộc chia đôi chấm muối Mặn bùi tình nghĩa anh em. Cửa mở suốt đêm Doanh trại, nhà dân, cơ quan chính phủ Chung một mái tranh Cởi mở tâm tình Rách lành manh áo che thân Không phân biệt nhân dân, cán bộ. Rồi những chiều nào đó Kháng chiến thành công Giữa cảnh ngựa xe thành phố Gặp lại bạn bè hay với con, với vợ Ngồi kể lại chuyện rừng xanh núi đỏ Tình chiến khu còn đậm mãi ấm chè thơm. Chiến khu Đ - 1951
Huỳnh Văn Nghệ
Rừng Nhớ Người Đi...
poem.php?poem=rung_nho_nguoi_di__huynh_van_nghe
Kính tặng Trung tướng Nguyễn Bình, những chiến sĩ Lạc An, đã từ biệt chiến khu Đ để về Đồng Tháp năm 1946. Từ độ chàng đi vung kiếm thép Mịt mù khói lửa khuất binh nhung. Rừng xanh thương nhớ như chinh phụ Hồi hộp nghe từng tin chiến công. Chòi cũ còn đây mái xác xơ Tro tàn bếp lạnh, nhớ người xưa Còn đâu những sáng tưng bừng nắng Thử súng rền vang dưới bóng cờ. Còn đây mái suối, chiếc cầu con Bến đá chân anh bước đã mòn Chim lắng, nước ngừng không hát nữa Bãi hoang, dấu ngựa cỏ rêu phong. Ngày đi có bướm chim đưa tiễn Cành xanh bịn rịn vuốt yên cương. Từ biệt Lạc An về Đồng Tháp. Đâu biết rừng xanh cũng đoạn trường. Từ đó Lạc An mang nhớ thương Ba thu sầu rụng lá muôn vàn Bốn phương lửa khói tung mù mịt Rừng ngại ngùng cho cánh phượng hoàng. 1947
Huỳnh Văn Nghệ
Sông Đồng Nai
poem.php?poem=song_dong_nai__huynh_van_nghe
Đồng Nai sông nước anh hùng. Nguồn xa, xa tận núi rừng hoang vu. Lệ tiên kết đọng hồ sâu Còn mơ cao rộng nhớ màu gió trăng Xông pha vượt núi băng ngàn, Gặp Là Ngà nghĩa bạn vàng kết đôi Thề: “Dù trắc trở núi đồi Cũng liều sống thác tìm trời tự do...” Đôi lòng nặng chí giang hồ Ngàn thu say bước trở về biển xanh. Đường xa lên thác xuống gành Ruộng đồng lưu luyến thị thành mến ưa. Lệ đời tràn ngập hồn thơ Bao phen lũ hận bẻ bờ đau thương. Gió ngang, thuyền ngược trăm đường Đồng Nai hòa Thái Bình Dương dâng trào. 1940
Huỳnh Văn Nghệ
Tết Quê Người
poem.php?poem=tet_que_nguoi__huynh_van_nghe
Đêm hôm nay hoa đào cùng hẹn nở Để ngày mai chào đón khách du xuân Nâng cốc rượu người người vui rạng rỡ Nghe rân ran pháo nổ xa gần. Đêm hôm nay bao nhiêu người hớn hở Nói cười vang giữa những cảnh xum vầy Khoe áo đẹp, con ngoan và tiền của Chúc cho nhau hạnh phúc mãi tràn đầy. Đêm hôm nay cũng có bà mẹ khổ Mỏi trông con quên cả lễ giao thừa Đêm hôm nay chạnh đau lòng chinh phụ Đếm tuổi con để nhớ thuở chồng xa. Đêm hôm nay nơi tha hương lữ thứ Khách chinh phu dừng bước lại bên đường Ánh sao mờ phía chân trời xứ sở Như mũi gươm, ôi! Nhức nhối, đoạn trường. Bangkok 1942
Huỳnh Văn Nghệ
Thú Tội
poem.php?poem=thu_toi__huynh_van_nghe
Mẹ hỡi! Con đành cam bất hiếu Để mẹ buồn và thất vọng vì con Con còn biết làm sao cho mẹ hiểu Nỗi lòng con cũng chua xót đời con. Phải mẹ để mặc cho con ngu dốt Không hiểu đời và thế giới bao la, Con có thể tìm vui và hạnh phúc Giữa gia đình đầm ấm tháng năm qua. Mẹ lại nhịn trầu cau mua mực viết Nhịn bánh quà để mua sách cho con. Những lúc ấy, mẹ ơi có biết Mẹ vô tình đã mua lấy đau buồn. Giở con lại vụng khờ hơn thiên hạ Chịu thua tình và thất bại với tiền Phải mẹ biết con muốn làm thi sĩ Thì mẹ ơi! Chỉ xiết nỗi ưu phiền. Mẹ kể như một đứa con đã mất Cây mẹ trồng sẽ không trái bao giờ Công vun tưới bằng mồ hôi, nước mắt Để không ngờ chỉ hái những hoa sâu. Tân Uyên 1939
Huỳnh Văn Nghệ
Tiếng Hát Giữa Rừng
poem.php?poem=tieng_hat_giua_rung__huynh_van_nghe
Ngựa bỗng dừng chân Bên quân y viện: Giật mình nghe tiếng Quốc ca vang. Phải chăng giờ chào cờ buổi sáng Hay hội nghị cơ quan? Sao chỉ một người cất giọng Hát đi, rồi hát lại nhiều lần. Xuống ngựa, buộc cương Hỏi ra mới biết: Bác sĩ đang cưa chân Một chiến sĩ bị thương Bằng cưa thợ mộc... Bác sĩ vừa cưa vừa khóc Chị cứu thương mắt cũng đỏ hoe Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre Anh chiến sĩ cứ mê mải hát. Cưa cứ cưa, xương cứ đứt Máu cứ rơi từng vết đỏ bông. Hai bàn tay siết chặt đôi hông. Dồn hết phổi vào trong tiếng hát: “Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc...”. Đã hát đi hát lại bao lần Vẫn chưa đứt xương chân Vẫn chưa ngừng máu đỏ Vừa xong băng bó Anh lịm đi Hồi hộp cả núi rừng Tiếng hát mới chịu ngưng. Ảnh Bác Hồ như rưng rưng nước mắt. Trở lên yên ngựa đi từng bước Cúi đầu nén nỗi đau thương Nhưng lửa căm hờn Bỗng dựng cao đầu ngựa dậy Vang trời ngựa hí Chí phục thù cháy bỏng tay cương. CKĐ. 1946
Huỳnh Văn Nghệ
Tình Súng
poem.php?poem=tinh_sung__huynh_van_nghe
Đêm qua ôm súng nằm mê Thấy ngày độc lập về quê thăm nhà. Bờ sông đã thấy mẹ già Đầu phơ, tóc bạc, mắt mờ, gậy rung. Nhìn con một phút, ngại ngùng Ôm con, mẹ khóc, ngập ngừng lời thương. “Thật mày là Vệ Quốc đoàn Trời ơi danh dự, vinh quang cho nhà! Thằng này nó vẫn giống cha. Càng cao, càng lớn lại vừa đẹp trai Lại thêm khẩu súng trên vai Ngôi sao trên nón, oai như ông thần. Hỏi mày giết giặc mấy thằng Vợ con, sự nghiệp, chiến công những gì?” Ta nghẹn ngào nhìn mẹ Sung sướng ngập tràn lòng “Thưa mẹ đây báng súng Còn ghi mấy chiến công, Chỗ này là trận Bưng Còng Còn đây Bến Sắn thành công mới rồi Trảng Bom lửa cháy ngập trời Là Ngà xe giặc, tơi bời giữa trưa Còn đây là trận GÒ Dưa Lệnh kèn chưa dứt, giặc thua tan tành. Máu thù mã tấu còn tanh Súng còn thơm khói, đôi chân ướt lầy. Vết thương Mỹ Quới còn đây Nhăn nheo da ngực khác gì huân chương”. Mẹ hôn vết thương con Như lễ gắn huân chương cho mẹ. Hôn báng súng như dâu hiền mới cưới. Bàn tay gầy, vuốt mãi tóc con trai... Giữa cơn mê văng vẳng tiếng ru hời. Bỗng giật mình tỉnh giấc Báng súng âm bàn tay. Mấy tiếng ó ma lai Ngân dài rừng khuya vắng. Súng gọi gươm chào hôn nhau lẻng kẻng. Không ai chờ sáng Cả trung đoàn đã đứng dậy, hành quân. Bước chập chờn, luyến tiếc giấc mơ Xuân.
Huỳnh Văn Nghệ
Trả Lời Thơ Lan
poem.php?poem=tra_loi_tho_lan__huynh_van_nghe
“... Không đâu em, lòng anh nào đã chết Và nguồn thơ nào đã cạn bao giờ. Anh còn đây, còn yêu mến ước mơ Và thương nhớ biết bao giờ phai nhạt. Nguồn máu đỏ trong tim còn rào rạt Hình ảnh em đượm mát góc trời quê. Cũng bao đêm anh mong thấy anh về... Nhưng tỉnh dậy, trăng thề đành lỗi hẹn. Ôi mong đợi héo tàn bao bóng nến Nhớ thương anh mòn mỏi cột lều tranh Có bao giờ tình anh nỡ phụ mình! Nhưng em hỡi! Chờ thái bình thiên hạ. Em vẫn rõ anh là thân chiến mã Nợ kiếm cung oằn oại gánh yên cương. Tiếng non sông giục bước ra sa trường...” Sài Gòn 1944
Huỳnh Văn Nghệ
Trốn Học
poem.php?poem=tron_hoc__huynh_van_nghe
Trường chưa tan buổi học Mẹ gặp con trong rừng Liền bẻ cành bắt cúi Đánh mấy lằn đỏ lưng. Hỏi: “sao mày trốn học?” Biết nói sao bây giờ Mẹ hăm chiều bỏ đói Con ấp úng xin thưa: “Má ơi! Thầy của con Như là không biết thương Những trò nghèo áo rách Mỗi bữa mỗi đánh đòn. Bảo về thay quần áo Mà quần áo đâu còn Bộ này sao rách mãi Để đau tủi thân con. Xấu hổ và sợ đau Không tiền may áo mới Nên con đành trốn học Để chờ ngày mẹ giàu”. Cành roi rời khỏi tay Khăn rằn lau nước mắt Mẹ ôm con vào ngực Chim rừng ngơ ngác bay. Biên Hòa 1939
Huỳnh Văn Nghệ
Trở Về
poem.php?poem=tro_ve__huynh_van_nghe
Kỷ niệm một giấc mơ ở chiến khu. Bảo Chánh, tháng 6 năm 1947. Mây hường vương trước ngõ Tiếng sáo trỗi mơ màng Hương đào đâu phương phất Chập chờn mấy cánh loan. Thiên thai là nơi đây Nơi nữ tiên hò hẹn Nơi xưa nàng đưa tiễn Ngày ta quyết xuống trần. Thơ ta đề cửa sổ Nét chữ vẫn chưa phai Ghi mối tình muôn thuở Trần tục với bồng lai. Gót ngọc ai dần đến Rèm châu nhẹ vén lên “Ôi nàng tiên yêu mến Anh đây rồi nhớ, quên?”. Áo lam, quần lụa trắng Khăn ngà, đôi dõn son Hai mẹ con bước thoảng Êm ái như đôi hồn. Không ai nghe lời ta Nàng không đoái nhìn ta Cả lòng ta sụp đổ Người đi qua hững hờ. Mây hường tan trước ngõ Tiếng sáo dứt bao giờ Bầy loan theo nàng biến Còn mình ta bơ vơ. Thoảng hương thừa tơ tóc Nhắc tình ấm ngày xưa Rưng rưng hàng lệ ngọc Nàng ơi, ta đâu ngờ! Ta nhầm nàng sao được Ngày xưa trong tay nhau. Giống ta từng nét mặt Con ta, ta quên nào! Quay nhìn vào gương cũ: Ta đã chết đi rồi! Bị trần gian bao phủ Mấy lớp đời tanh hôi. Trán nhăn buồn nhân loại Mắt sâu sầu thế gian Máu thù chưa rửa sạch Đôi bàn tay gian nan. Nợ trần đâu đã trả Bao năm sống với đời Tình thương lòng tràn ngập Tôi nào kể chi tôi. Dưới tầng mây dày đặc Đưa lên tận lòng tôi Lời oán hờn u uất Tiếng thở than ngàn đời. Vung kiếm tan lầu ngọc Vội chắp cánh về trần. Tôi giật mình tỉnh giấc Sung sướng giữa ngàn xuân.
Huỳnh Văn Nghệ
Về Làng
poem.php?poem=ve_lang__huynh_van_nghe
Lẻn về thăm lại làng xưa Vườn cây xơ xác gió lùa lá khô Sông xanh không một chuyến đò Đồi cao vắng tiếng chuông chùa công phu. Ruộng đồng hoang trắng xương trâu Nhà tan, cửa nát, lòng sầu mênh mông... Lan ơi, từ độ thương chồng, Ngờ chăng em, cảnh tan lòng hôm nay! Nhớ ngày tay bạn trong tay Vườn thơm chia trái, sông dài buông mơ. Chiều nay người ngựa bơ vơ Nhớ em nuôi bốn con thơ trong tù. Súng đồn khua động chiến khu. Quay về vó ngựa như tơ vương lòng. Đồn thù phải đổ xuống sông. Tình ta nối lại một dòng mơ xanh. Tân Hòa, Chiến khu Đ - 1950
Huỳnh Văn Nghệ
Xuân Chiến Khu
poem.php?poem=xuan_chien_khu__huynh_van_nghe
Xuân vẫn về đây giữa chiến khu Rừng thiêng nay bỗng hết âm u Núi non hớn hở thay màu áo Suốt biếc ngân reo chuỗi hạt châu Ánh sáng tưng bừng trên lá non Chim đồi mát giọng hát vén von Xa xa vọng gác thùng nhịp trống Bướm giật mình bay: những mảnh hồn Chiếc sĩ từng đoàn dưới nắng tươi Bên hoa ngồi kể chuyện, nô cười: “- Xuân sau ăn tết nơi đâu nhỉ? - Tùy bóng cờ kia sẽ trả lời”. Phấp phới cờ bay dưới gió xuân Quân ca từng khúc nhịp xa, gần Từng đoàn chiến sĩ đi ra trận Có bướm chim đưa tận núi rừng. Tết kháng chiến đầu tiên Chiến khu Đ -1946
Huỳnh Văn Nghệ
Bán Sầu
poem.php?poem=ban_sau__bich_khe
Sầu đâu sầu lạ lùng Sầu theo lẽo đẽo ngàn trùng cũng theo Bán sầu chi đó tệ Xưa đã từng có kẻ bán hoàng thiên Người bán trời không chứng mới là phiền Còn tôi bán hàng sầu tiền chẳng lấy Sầu nhấm ma men men khó tẩy Sầu mời thần ngủ ngủ không ngon Này sầu hoa sầu cỏ sầu núi non Sầu tất cả bà con say tỉnh dở Chưa nói đến tớ sầu vì tớ Bôn ba mà vỡ lỡ nét tan thương Ma dắt lối quỷ đưa đường Sầu đây đó sầu vương chằng chịt mãi Tôi muốn bán hàng sầu không vốn lãi Khỏe tinh thần hầu tính lại cuộc trăm năm Để sầu, thêm rối ruột tằm
Bích Khê
Cuối Thu
poem.php?poem=cuoi_thu__bich_khe
Đêm nay hồn lặng làm sao Cảnh thu ôm cả chiêm bao vào lòng Sao xanh lợt tím tơ đồng Gió ơi là gió, buồn đông thổi về Không gian mưa lệ đầm đìa Đầy sân trắng toát hoa lê đầu mùa Trời lam ứ đặc tình thu Ô kìa mây bạc nặng lùa về tây! Hồn sao không động mà say! Chà đôi chim khướu nó bay tung trời ... Nhạc đâu bỗng vót từng khơi Hồn theo với nhạc, hồn ơi là hồn Buồn thôi như rượu thấm dồn Lên men nồng khướt, xoay tròn trên không
Bích Khê
Đồ Mi Hoa
poem.php?poem=do_mi_hoa__bich_khe
Lòng nao nức như hương trầm mới dậy: Gió tâm tư say chúi nửa lừng mơ... Đêm kim sa hay sao mà run rẩy? -- Không khí men, trăng liễu mướt đường tơ. Đây một đóa đồ mi, -- ta đón lấy, „p hồn hoa... đem giặt giữa bài thơ. Đài nộn nhụy hóa nguồn trinh tinh khiết Ướp một làn hương rượu quyện lâng lâng; Tràng cánh trắng biến ra da thịt tuyết, Một tiên nương mừa tựa một giai nhân, Ngửng đôi mắt chứa mùa xuân phẩm tiết, Giữa bài thơ... đưa vẳng tiếng ngân ngân. Ôi sắc đẹp! anh hoa dồn vũ trụ! Phẩm tràng sinh! tinh chất khí âm dương! Mi làm long phím lòng muôn trinh nữ; Muôn tài hoa nghiêng trước vẻ thiên hương. Mi rớt ngọc cho vang muôn tình tứ; Mi nhả sâm ngọt lịm vạn sầu thương. Giai nhân đi trong chiêm bao ẻo lả Để lời ca gợn sóng khí hoa men; Tay búp sen kẻ lên vàng óng ả Những đường thêu kim tuyến rúng đêm huyền. -- Ngừng hơi thở... ta nép trong bóng lá Để vần thơ theo nhịp điệu thuyền quyên. Ta những muốn sầu thương thôi biểu lộ -- Sắc trong màu, màu trong sắc; hân hoan... Ta những muốn mùa đông nhường lại chỗ. -- Nhạc gầy hương, hương gầy nhạc; lan man... Ta những muốn màn đen về cõi mộ -- Cả không gian là bể sáng tràn lan... Rồi sắc đẹp hiện ra trong chính phẩm Linh thiêng như mây nước đỉnh Nga My! Và muôn hồn hoa lên vì say ngấm. Và muôn lòng phát tiết cả uy nghi; -- Đêm nầy đây ngời ngọc ngà sa gấm Sắc đẹp vừa hiện giữa đóa đồ mi.
Bích Khê
Duy Tân
poem.php?poem=duy_tan__bich_khe
Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong. Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng. Trong vòm xanh. Màu cưới màu, bình lặng, Gây phương phi: chiếu sáng ngả sang mờ Vì hình dung những sắc mát, non, tơ, Như mặt trời mọc qua khóm liễu, một Hoàng hôn. Ôi đàn môi, chim báu tới: Chữ biến hình ảnh mới, lúc trong ngâm Chữ điêu khắc, tỉa nghệ thuật sầu câm, Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng. Lúc trong ngâm, giữa kho vàng mộng tưởng, Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng (Những con cừu tim trẻ mướt như lông Nên da thịt lên làn sa lụa mỏng, Mỗi con cừu bốc lên men hy vọng...) Thơ nhịp nhàng ý nhị nhịp theo thơ. Tôi cắn vào trái bổ vỏ xanh mơ Tìm chất quý thơm tinh mùi khoái lạc Bằng hơi mộng, trong hàm răng, tản mác Mộng? Thiên tài ? Trên hỗn độn khỏa thân Đẹp tỷ mỷ, hỡi rung động truyền thần Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái Người họa điệu với thiên nhiên, ân ái Buồn, và xanh trờị (Tôi trôi với bờ êm biếc -- khóc với thu: lời úa ngô Vàng... khi cách biệt -- giữa hồn xây mộ -- Tình hôm qua -- dài hôm nay thương nhớ, Im lặng nhìn bông ý, lặng lờ lên Những dáng hình thanh khí...) Giữa mông mênh, Đường nhiếp ảnh, sắc khua màu -- Tiếng thở Hỡi hội họa, đến muôn đời nức nở. Ta nhịp nhàng ý nhị nhịp theo Ta Lời nối lời bố thí lộc tinh hoa Của âm điệu, mơ màng run lẩy bẩy Một hỗn hợp đẹp xô bồ say dậy Bằng cảm tình, bằng hình ảnh yêu thương Và mới mẻ -- trên viễn cổ Đông phương ! (Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật ?) Thơ lõa thể ! -- Giai nhân tuần trăng mật, Nữ thần ơi ! Ta nô lệ bên người !
Bích Khê
Gõ Bồn
poem.php?poem=go_bon__bich_khe
Liêu trai trở lại lánh vòng trần Ma Phật mơ hồ mộng với thân! Mặt ngọc bên trời tàn bóng nguyệt Mình ta trước cửa thưởng hoa xuân Gõ bồn chẳng thấy ai tao khách Cách núi khôn tìm bóng cố nhân Một tiếng trên không trong ác lặn Hạc kêu bay lẫn đám phù vân
Bích Khê
Hiện Hình
poem.php?poem=hien_hinh__bich_khe
Gió thiệt đa tình hôn mặt hoa, Thơm tho mùi thịt bắt say ngà! Gió đi chới với trong khung trắng Lộ nửa vần thơ, nửa điệu ca. Tôi ráp lại xem. ôi! sự lạ! Một người thiếu nữ hiện trong trăng. Khăn hồng chùi lệ ngấn đôi mắt; Da thịt phô bầy ý tuyết băng. Nường hé môi ra. Bay điệu nhạc Mắt như xuân mà ngọt tợ hương: Ôi sao là khúc Ba sinh lụy Rào rạt như đầy nỗi cảm thương! Tiếng ngọc, màu trăng quấn quít nường Phút giây người bộ mỏng như sương. - Nường tan ra nhạc? - Tan ra nhạc! Khung trắng trời mây trắng lạ thường!
Bích Khê
Hoàng Hoa
poem.php?poem=hoang_hoa__bich_khe
Lam nhung ô! màu lưng chừng trời; Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi. Vàng phai nằm im ôm non gầy; Chim yên neo mình ôm xương cây. Đây mùa Hoàng hoa, mùa Hoàng hoa: Đông nam mây đùn nơi thành xa... Oanh già theo quyên quên tin chàng! Đào theo phù dung: thư không sang! Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi: Làn trăng theo chàng qua muôn nơi; Theo chàng ta làm con chim uyên; Làn mây theo chàng bên nhung yên. Chàng ơi! hồn say trong mơ màng, - Hồn ta? hay là hồn tình lang? Non Yên tên bay ngang muôn đầu... Thâm khuê oan gì giam xuân sâu? - Ai xây bờ xanh trên xương người?! Ai xây mồ hoa chôn đời tươi?!
Bích Khê
Hồ Xuân Hương
poem.php?poem=ho_xuan_huong__bich_khe
Canh sương quán lạnh nguyệt tà song Bên gối hương lan đến ấp lòng. Người vợ trong thơ gần cách mộng Đêm nay chẳng biết có về không? Văn chương quán thế không ai biết Trong mộng mình về thưởng với tôi Xanh liễu ngoài song thay đổi lá Đã ghen tài sắc mấy đêm rồi? Đêm nay nửa gối nghiêng nghiêng mộng Muôn dặm người xa đã thấy về Xanh liễu ngoài song vừa đổi biếc Màu thi sắc lá đọ dung nghi.
Bích Khê