id
stringlengths 1
8
| url
stringlengths 31
389
| title
stringlengths 1
250
| text
stringlengths 5
274k
|
---|---|---|---|
19853277 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Rothenbuch | Rothenbuch | Rothenbuch là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 1.700 người.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của cộng đồng |
19853279 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sailauf | Sailauf | Sailauf là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 3.600 người.
Tham khảo
Thư mục
Rudolf J. Lippert: Sailauf und Eichenberg im Lichte der Überlieferung. tự xuất bản, Obertshausen 2003. (Tiếng Đức)
Werner Konrad, Ferdl Kraus, Waldemar Lippert: Sailauf-Eichenberg. Trong Bildern um die Jahrtausendwende, Geiger-Verlag 2000. (Tiếng Đức)
Sailauf Eichenberg. Bilder aus über 100 Jahren dorflicher Vergangenheit , của Ferdinand Kraus (lời tựa), Fred Maier (lời tựa), Karl Strom (lời tựa), Gerhard Steigerwald (lời tựa), Maria Reinhardt, Herta Hubertus, Bruno Eisert, Gottfried Baumann, Geiger-Verlag 1996. (Tiếng Đức)
Liên kết ngoài
Structural data 1998 |
19853280 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sch%C3%B6llkrippen | Schöllkrippen | Schöllkrippen là một phố chợ nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây đặt trụ sở Verwaltungsgemeinschaft (hiệp hội đô thị) của Schöllkrippen và có dân số khoảng 4.300 người (2020).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của Cộng đồng hành chính |
19853281 | https://vi.wikipedia.org/wiki/N%E1%BB%AF%20sinh%20%28phim%20truy%E1%BB%81n%20h%C3%ACnh%29 | Nữ sinh (phim truyền hình) | Nữ sinh là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Hãng phim Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh do Xuân Phước làm đạo diễn. Phim được chuyển thể từ bộ ba tiểu thuyết Nữ sinh, Buổi chiều Windows và Bồ câu không đưa thư của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh. Phim phát sóng vào lúc 18h00 Chủ Nhật đến thứ 3 hàng tuần, bắt đầu từ ngày 22 tháng 7 năm 2008 và kết thúc vào ngày 9 tháng 8 năm 2008 trên kênh HTV9.
Nội dung
Dựa trên loạt tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, Nữ sinh theo chân câu chuyện học đường với Xuyến (Thu Thảo), Thục (Minh Phương), Cúc Hương (Ngọc Ánh). Họ là những người bạn cấp ba thân thiết, cùng chia sẻ với nhau từng kỷ niệm vui và đáng nhớ. Hoàng Gia (Quang Vinh) – một giáo viên mới ra trường – đã nhận bổ nhiệm về trường Marie Curie dạy môn văn, đồng thời làm chủ nhiệm lớp 11C. Trước khi đi dạy chính thức, thầy Gia thường ngồi ở cà phê Cây Sứ gần trường. Điều này vô tình thu hút sự chú ý của Xuyến – Thục – Cúc Hương. Họ thường xuyên đến chọc ghẹo anh và rồi cũng trở nên thân thiết. Sau một thời gian làm quen, Hoàng Gia bỗng nhiên biến mất khiến cả ba tò mò tìm hiểu. Họ đã phát hiện ra chàng trai tại quán cà phê kia chính là giáo viên sắp về trường mình dạy...
Diễn viên
Quang Vinh trong vai Hoàng Gia
Thu Thảo trong vai Xuyến
Minh Phương trong vai Thục
Vũ Ngọc Ánh trong vai Cúc Hương
Sỹ Đạt trong vai Hùng "chĩa"
Trần Anh Hiếu trong vai Hoàng Hòa
Công Ninh trong vai Ba Hưng
Thiên Bảo trong vai Giám đốc Văn
Ngọc Xuân trong vai Kim Khánh
Thái Quốc Nguyên trong vai Hoàng Anh
Phùng Ngọc Huy trong vai Phán Củi
Nam Cường trong vai Sơn
Cùng các sinh viên tại trường Cao đẳng Sân khấu – Điện ảnh Thành phố Hồ Chí Minh.
Ca khúc trong phim
Bài hát trong phim là ca khúc "Nữ sinh", do nhạc sĩ Lê Quốc Dũng sáng tác và Quang Vinh, Bảo Thy thể hiện.
Sản xuất
Đạo diễn Xuân Phước là người cầm trịch vai trò đạo diễn cho bộ phim. Phần kịch bản – chuyển thể từ các truyện của Nguyễn Nhật Ánh – được viết bởi Quốc Hưng với độ dài 10 tập. Chia sẻ về việc chuyển thể tiểu thuyết lên màn ảnh, Xuân Phước cho biết phim đã thay đổi khá nhiều ở các tập sau (dựa trên Buổi chiều Windows) để phù hợp với thời cuộc, bởi "Thời trước, các bạn trẻ còn ít biết đến máy tính, nhưng nay thì chuyện viết blog, mạng... là rất bình thường".
Trong quá trình tìm diễn viên cho tác phẩm, Xuân Phước đã nhắm chọn ca sĩ Quang Vinh làm một trong những diễn viên chính bởi độ phủ sóng của anh với lớp khán giả trẻ. Đây là vai diễn đầu tiên trong sự nghiệp diễn xuất của Quang Vinh. Để tham gia vào đoàn phim, anh quyết định tạm gác các hoạt động âm nhạc của mình và chuyên tâm vào vai diễn, bất chấp số tiền cát-xê ít ỏi. Các diễn viên chính khác còn bao gồm Thu Thảo, Minh Phương và Vũ Ngọc Ánh. Phim khởi quay từ tháng 2 năm 2008 tại trường Trung học phổ thông Marie Curie, sau đó lên sóng HTV9 vào tháng 7 cùng năm.
Đón nhận
Thời điểm lên sóng, bộ phim đã nhận về những phản ứng trái chiều từ người xem, đặc biệt là các độc giả trung thành với nguyên tác của Nguyễn Nhật Ánh. Ở mặt tích cực, tác phẩm được nhận xét là một bộ phim "sạch sẽ, dễ xem"; có dàn diễn viên teen tự nhiên, nhí nhảnh. Dù vậy, kinh nghiệm diễn xuất của ba diễn viên chính Nữ sinh bị nhận xét còn non tay, chưa lột tả hết tính cách nhân vật trong truyện. Nhiều tình tiết bị thay đổi, làm mất đi tinh thần của loạt tiểu thuyết gốc cũng gây nên phản ứng bất bình từ một bộ phận khán giả.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Nữ sinh trên HPLUS Phim
Phim teen
Phim học đường
Phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2008
Phim truyền hình Việt Nam phát sóng trên kênh HTV9
Phim Việt Nam thập niên 2000 |
19853282 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Sommerkahl | Sommerkahl | Sommerkahl là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 1.300 người (2020).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Mỏ đồng Wilhelmine |
19853283 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Stockstadt%20am%20Main | Stockstadt am Main | Stockstadt am Main (chính thức: ) là một phố chợ nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 8.000 người (2020).
Tham khảo
Liên kết ngoài |
19853284 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Waldaschaff | Waldaschaff | Waldaschaff là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức.
Tham khảo |
19853285 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Weibersbrunn | Weibersbrunn | Weibersbrunn là một đô thị nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số gần 2.000 người.
Tham khảo
Thư mục
Julia Hecht, Klaus Reder: Die Landgerichte Aschaffenburg và Rothenbuch um 1860 . Würzburg 2002. (Tiếng Đức)
Johann Ludwig Klauprecht: Forstliche Statistik des Spessarts . Aschaffenburg 1826. (Tiếng Đức)
Rudolf Virchow (1852): Đừng chết tôi là Spessart . Neuauflage, Hildesheim 1968. (Tiếng Đức)
Liên kết ngoài
Trang web đô thị |
19853286 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Westerngrund | Westerngrund | Westerngrund là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài |
19853287 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Wiesen%2C%20Bayern | Wiesen, Bayern | Wiesen () là một xã nằm ở huyện Aschaffenburg thuộc vùng hành chính Unterfranken, bang Bayern, Đức. Nơi đây có dân số khoảng 1.000 người.
Tham khảo |
19853291 | https://vi.wikipedia.org/wiki/FC%20Volendam | FC Volendam | Câu lạc bộ bóng đá Volendam () là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp có trụ sở tại Volendam, Hà Lan. Câu lạc bộ đang chơi ở Eredivisie, giải đấu hàng đầu của bóng đá Hà Lan từ mùa giải 2022–23 sau khi thăng hạng. Với biệt danh "de Palingboeren", câu lạc bộ được thành lập với tên Victoria vào năm 1920, đổi tên thành RKSV Volendam vào năm 1923 và nổi lên như một câu lạc bộ chuyên nghiệp độc quyền, FC Volendam, vào năm 1977, sau khi tách khỏi câu lạc bộ mẹ. Đội chơi các trận đấu trên sân nhà tại sân vận động Kras có sức chứa 6.984 người, nơi đội đã có trụ sở từ năm 1975.
Câu lạc bộ nổi tiếng là câu lạc bộ heen-en-weer ("câu lạc bộ qua lại") do có nhiều lần thăng hạng và xuống hạng giữa hạng nhất và hạng hai của bóng đá Hà Lan. Họ đã đạt được 10 lần thăng hạng lên Eredivisie; một kỷ lục. Volendam cũng lọt vào hai trận chung kết KNVB Cup - vào các năm 1957–58 và 1994–95 - kết thúc với thất bại lần lượt trước hai câu lạc bộ có trụ sở tại Rotterdam là Sparta và Feyenoord.
Lịch sử
Danh hiệu
Cầu thủ
Cho mượn
Ban huấn luyện
Tham khảo
Liên kết ngoài |
19853292 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Bobingen | Bobingen | Bobingen (Swabia : Boobenge ) là một thị trấn thuộc huyện Augsburg, bang Bayern, Đức. Nơi đây nằm bên bờ sông Wertach và Singold, cách Augsburg khoảng 13 km về phía nam.
Tham khảo
Liên kết ngoài |
19853293 | https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%B6nigsbrunn | Königsbrunn | Königsbrunn (Swabia: Kenigsbrunn ) là thị trấn lớn nhất của huyện Augsburg, thuộc bang Bayern, Đức. Nơi đây nằm ở tả ngạn sông Lech, cách Augsburg khoảng 10 km về phía nam.
Tham khảo
Liên kết ngoài |
19853294 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Stadtbergen | Stadtbergen | Stadtbergen (Swabia: Staberga) là một thị trấn thuộc huyện Augsburg, bang Bayern, Đức. Nơi đây nằm ở ngoại ô Augsburg, cách trung tâm thành phố Augsburg về phía tây.
Tham khảo |
19853295 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ernst%20I%20x%E1%BB%A9%20Sachsen-Coburg%20v%C3%A0%20Gotha | Ernst I xứ Sachsen-Coburg và Gotha | Ernst I (tiếng Đức: Ernst Anton Karl Ludwig; 2 tháng 1 năm 1784 – 29 tháng 1 năm 1844) từng là công tước có chủ quyền cuối cùng của Sachsen-Coburg-Saalfeld (với công hiệu là Ernst III) từ năm 1806 đến năm 1826 và là công tước có chủ quyền đầu tiên của Sachsen-Coburg và Gotha từ năm 1826 đến năm 1844. Ernst đã chiến đấu chống lại Napoléon Bonaparte, và thông qua các dự án xây dựng cũng như việc thành lập một nhà hát cung đình, ông đã để lại dấu ấn mạnh mẽ cho Coburg - nơi ông cư trú.
Năm 1825, người họ hàng của ông là Friedrich IV xứ Sachsen-Gotha-Altenburg qua đời mà không có con cái thừa tự, vì thế mà các công tước Ernestine được thừa kế tài sản và lãnh thổ của Sachsen-Gotha-Altenburg, trong đó Ernst nhận được Gotha nhưng phải mất Saalfeld cho Công tước xứ Sachsen-Meiningen. Từ dấu mốc này, Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld được đổi thành Sachsen-Coburg và Gotha và khai sinh ra Nhà Sachsen-Coburg và Gotha.
Ông là cha của Vương tế Albrecht, chồng của Nữ vương Victoria. Vì thế, các vị quân chủ của Vương quốc Anh từ vua Edward VII cho đến Nữ vương Elizabeth II đều là hậu duệ dòng nam của Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha. Ernst là anh trai của Thân vương Ferdinand xứ Sachsen-Coburg và Gotha, người đã kết hôn với Thân vương nữ Mária Antónia nữ thừa kế của Nhà Koháry, một trong 3 chủ đất lớn nhất ở Vương quốc Hungary, và tạo ra Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, nắm giữ các ngai vàng Vương quốc Bồ Đào Nha và Vương quốc Bulgaria sau này. Ông cũng là anh trai của Thân vương Leopold, người đã được bầu chọn lên ngai vàng của Vương quốc Bỉ vào năm 1831 và con cháu ông vẫn trị vì vương quốc này cho đến tận ngày nay.
Đối với Nữ vương Victoria, Ernst vừa là bố chồng vừa là cậu ruột của bà, vì mẹ của Victoria là Victorie xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld, em gái ruột của ông.
Cuộc sống đầu đời
Ernst sinh ngày 2 tháng 1 năm 1784. Ông là con trai cả của Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Nữ bá tước Augusta xứ Reuss-Ebersdorf. Em trai út của ông, Leopold, sau này được bầu làm vị vua đầu tiên của Vương quốc Bỉ.
Vào ngày 10 tháng 5 năm 1803, ở tuổi 19, Ernst được tuyên bố là đã đủ tuổi trường thành và vì cha ông bị bệnh nặng nên ông đã đảm nhận vị trí nhiếp chính vương cho công quốc. Khi cha ông qua đời năm 1806, ông kế vị trở thành công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld với công hiệu Ernst III. Tuy nhiên, ông không thể ngay lập tức nắm quyền quản lý chính thức vùng đất của mình, vì công quốc đã bị quân đội Đệ Nhất Đế chế Pháp của Napoléon I chiếm đóng. Năm sau, Hòa ước Tilsit (1807) được ký kết, công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld được thống nhất (trước đó đã bị giải thể) và Ernst được phục vị. Điều này xảy ra do Đế quốc Nga tạo áp lực lên Pháp, vì chị gái của ông là Công nữ Juliane đã kết hôn với em trai của Sa hoàng Nga.
Hôn nhân và hậu duệ
Ernest kết hôn với Công nữ Louise xứ Sachsen-Gotha-Altenburg ở Gotha vào ngày 31 tháng 7 năm 1817. Họ có hai người con:
Ernst II, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha (21 tháng 6 năm 1818 – 22 tháng 8 năm 1893), kết hôn với Alexandrine xứ Baden vào ngày 3 tháng 5 năm 1842.
Công tử Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha (26 tháng 8 năm 1819 – 14 tháng 12 năm 1861), kết hôn với Nữ vương Victoria của Vương quốc Liên hiệp Anh vào ngày 10 tháng 2 năm 1840. Họ có 9 người con.
Cuộc hôn nhân không hạnh phúc vì cả hai vợ chồng đều lăng nhăng, Ernst và Louise ly thân vào năm 1824 và chính thức ly hôn vào ngày 31 tháng 3 năm 1826. Là những người thừa kế của Coburg, những đứa trẻ ở lại với cha của họ. Louise qua đời năm 1831.
Tại Coburg vào ngày 23 tháng 12 năm 1832, Ernst kết hôn với cháu gái của mình là Nữ công tước Marie xứ Württemberg, con gái của chị gái ông, Antoinette. Họ không có con. Cuộc hôn nhân này khiến Marie vừa là em họ đời đầu của Công tử Albrecht vừa là mẹ kế của ông.
Ernst có ba đứa con ngoài giá thú:
Berta Ernestine von Schauenstein (26 tháng 1 năm 1817 – Coburg, 15 tháng 8 năm 1896), sinh ra bởi Sophie Fermepin de Marteaux. Cô kết hôn với người anh họ đầu tiên của mình là Eduard Edgar Schmidt-Löwe von Löwenfels, con trai ngoài giá thú của chị gái của cha cô, Juliane.
Ernst Albert và Robert Ferdinand, cặp song sinh sinh năm 1838, sinh ra bởi Margaretha Braun. Chúng được ban tước hiệu Freiherren xứ Bruneck vào năm 1856.
Điền trang
Sau năm 1813, Ernst là tướng Phổ và tham gia các hoạt động quân sự chống lại quân Pháp của Hoàng đế Napoléon I. Ông đã chiến đấu trong các trận Lützen và Leipzig (1813), và năm 1814 đã tiến vào pháo đài Mainz của Pháp.[1] Sau trận Leipzig, ông chỉ huy Quân đoàn 5. After the battle of Leipzig, he commanded the 5. Armeekorps.
Sau thất bại của Napoléon trong trận Waterloo, Đại hội Viên vào ngày 9 tháng 6 năm 1815 đã trao cho Ernst một khu vực rộng 450 km2 với 25.000 cư dân xung quanh thị trấn Sankt Wendel. Diện tích của nó được tăng thêm phần nào nhờ Hiệp ước Paris thứ hai. Năm 1816, khu đất này được đổi tên thành Thân vương quốc Lichtenberg. Ernst bán nó cho Vương quốc Phổ vào năm 1834.
Năm 1825, Friedrich IV, Công tước xứ Sachsen-Gotha-Altenburg, chú của Louise, người vợ đầu tiên của Ernst, qua đời mà không có người thừa kế. Điều này dẫn đến việc sắp xếp lại các công quốc Ernestine. Chỉ với tư cách là một thành viên của triều đại Ernestine (chứ không phải với tư cách là chồng của Louise), Ernest mới có quyền đòi thừa kế tài sản của cố công tước. Tuy nhiên, lúc đó ông đang làm thủ tục ly hôn với Louise, và các chi nhánh khác đã lợi dụng điều này như một đòn bẩy để đạt được một thỏa thuận tốt hơn cho mình bằng cách nhấn mạnh rằng ông ta không nên thừa kế Gotha. Họ đạt được thỏa hiệp vào ngày 12 tháng 11 năm 1826: Ernst nhận Gotha, nhưng phải nhượng Saalfeld cho Sachsen-Meiningen. Sau đó ông trở thành "Ernst I, Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha". Mặc dù ông đã đưa ra hiến pháp cho Coburg vào năm 1821 nhưng ông không can thiệp vào hệ thống chính quyền ở Gotha.
Tại Coburg, Ernst chịu trách nhiệm về nhiều dự án xây dựng khác nhau, bao gồm cả việc thành lập Hofttheater trong tòa nhà mới. Schlossplatz như ngày nay phần lớn là do hoạt động dưới sự cai trị của ông. Ông chủ yếu được nhớ đến vì sự phát triển kinh tế, giáo dục và hiến pháp của các lãnh thổ của mình, cũng như vị trí quốc tế quan trọng mà gia tộc Coburg đạt được.
Qua đời
Ernst qua đời vào ngày 29 tháng 1 năm 1844 và ban đầu được chôn cất tại Morizkirche nhưng sau đó được an táng trong lăng mộ mới xây ở Friedhof am Glockenberg.
Vinh danh
Ông đã nhận được các vinh dự sau:
Tổ tiên
Tham khảo
August Beck: Ernst I.: Herzog Ernst Anton Karl Ludwig von Sachsen-Koburg-Gotha. In: Allgemeine Deutsche Biographie (ADB). Band 6, Duncker & Humblot, Leipzig 1877, p. 313–317.
Carl-Christian Dressel: Die Entwicklung von Verfassung und Verwaltung in Sachsen-Coburg 1800–1826 im Vergleich. Duncker & Humblot Berlin 2007, .
Friedrich Knorr: Ernst I., Herzog von Sachsen-Coburg-Saalfeld. In: Neue Deutsche Biographie (NDB). Band 4, Duncker & Humblot, Berlin 1959, , pp. 620.
Heide Schulz: Freue Dich, Coburg. Die Ode H. C. A. Eichstädts zum Royal Wedding 1840, in: Coburger Geschichtsblätter'' 20, 2012, p. 25–54, ISSN 0947-0336.
Công tước xứ Sachsen-Coburg và Gotha
Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld
Công tử Sachsen-Coburg và Gotha
Công tử Sachsen-Coburg-Saalfeld
Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha
Gia tộc Sachsen-Coburg-Saalfeld
Quân vương Tin Lành
Sinh năm 1784
Mất năm 1844
Bắc Đẩu Bội tinh hạng nhất |
19853296 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Schwabm%C3%BCnchen | Schwabmünchen | Schwabmünchen (Swabia: Mingkchinga) là một thị trấn nằm ở huyện Augsburg trong vùng hành chính Schwaben, thuộc bang Bayern, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Gymnasium's homepage
Realschule's homepage
Hauptschule's homepage |
19853298 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Meitingen | Meitingen | Meitingen là một phố thị thuộc huyện Augsburg, bang Bayern, Đức. Nơi đây nằm ở tả ngạn sông Lech, cách Donauwörth về phía nam và cách Augsburg về phía bắc.
Tham khảo |
19853299 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Thierhaupten | Thierhaupten | Thierhaupten là một phố thị thuộc huyện Augsburg trong vùng hành chính Schwaben, bang Bayern, trung nam nước Đức.
Tham khảo |
19853301 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Walkertshofen | Walkertshofen | Walkertshofen là một đô thị nằm ở huyện Augsburg, thuộc bang Bayern, Đức.
Tham khảo |
19853303 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Vyacheslav%20Dmitriyevich%20Zudov | Vyacheslav Dmitriyevich Zudov | Vyacheslav Dmitriyevich Zudov (, sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942) là một nhà du hành vũ trụ Liên Xô đã nghỉ hưu.
Ông được chọn làm phi hành gia vào ngày 23 tháng 10 năm 1965. Ông bay vào vũ trụ với chức vụ Sĩ quan chỉ huy trong chuyến du hành vũ trụ Soyuz 23 từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 10 năm 1976. Ông nghỉ hưu ngày 14 tháng 5 năm 1987.
Zudov đã kết hôn và có hai người con.
Giải thưởng
Anh hùng Liên Xô
Phi công-Phi hành gia Liên Xô
Huy chương "Hai mươi năm Chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại 1941-1945"
Huy chương "Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Vladimir Il'ich Lenin"
Huy chương "50 năm Lực lượng vũ trang Liên Xô"
Huy chương "Vì Công trạng trong Thám hiểm Vũ trụ" (Liên bang Nga)
Tham khảo
Sinh năm 1942
Nhân vật còn sống
Người Bor, Nizhny Novgorod (tỉnh)
Phi hành gia Liên Xô
Anh hùng Liên Xô
Sĩ quan Không quân Liên Xô
Người nhận Huân chương Lenin
Người nhận huy chương "Vì Công trạng trong Thám hiểm Vũ trụ" |
19853309 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20Minh%20Ti%E1%BA%BFn | Trần Minh Tiến | Trần Minh Tiến sinh năm 1967 là một sĩ quan cao cấp của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam, hàm Đại tá. Ông hiện giữ chức vụ Phó Thủ trưởng thường trựcCơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an, Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an.
Sự nghiệp
Đại tá Trần Minh Tiến sinh năm 1967, trưởng thành từ cơ sở, là cán bộ Công an tỉnh Hà Nam; từng đảm nhiệm các chức vụ: Trưởng Công an huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, Trưởng Phòng Cảnh sát hình sự; Phó Giám đốc Công an, Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Hà Nam. Tháng 3/2021, đồng chí được Bộ trưởng Bộ Công an điều động, bổ nhiệm làm Giám đốc Công an tỉnh Lâm Đồng. Năm 2022, đồng chí được điều động đến nhận công tác và giữ chức Giám đốc Công an tỉnh Nam Định.
Ngày 30/1/2024, tại Hà Nội, Thượng tướng Nguyễn Duy Ngọc, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng - Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an đã trao quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an về việc điều động Đại tá Trần Minh Tiến, Giám đốc Công an tỉnh Nam Định giữ chức vụ Cục trưởng, Chánh Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an.
Lịch sử phong quân hàm
Tham khảo |
19853311 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202023%20%E2%80%93%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20Nam | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 – Giải đấu Nam | Giải đấu nam khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 là giải đấu thứ 15 của nội dung thi đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nam tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ. Giải đấu diễn ra trong khoảng thời gian mười ngày bắt đầu từ ngày 25 tháng 10 và kết thúc giải đấu bằng trận chung kết vào ngày 3 tháng 11.
Với ba lần là nhà đương kim vô địch, Argentina đã giành được huy chương vàng lần thứ 11 khi đánh bại đội chủ nhà Chile với tỉ số 3–1 trong trận chung kết, đội lần đầu tiên lọt vào trận chung kết. Canada giành huy chương đồng khi đánh bại Hoa Kỳ với tỉ số 3–2. Với tư cách là đội chiến thắng, Argentina đủ điều kiện trực tiếp tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024 tại Paris, Pháp.
Vòng loại
Tổng cộng có tám đội vượt qua vòng loại để tranh tài tại giải đấu. Với tư cách là nước chủ nhà, Chile tự động vượt qua vòng loại và tham dự giải đấu. Hai đội đứng đầu tại Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2022 và Đại hội Thể thao Trung Mỹ và Caribe 2023 cũng đã vượt qua vòng loại. Số suất tham dự còn lại đến từ Cúp Liên châu Mỹ 2022. Khi Chile lọt vào top hai tại Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2022, số đội vượt qua vòng loại đã được thêm vào Cúp Liên châu Mỹ 2022, nghĩa là bốn đội đủ điều kiện tham dự giải đấu. Nếu Canada và/hoặc Hoa Kỳ vẫn không vượt qua được vòng loại, một trận play-off giữa các quốc gia và đội xếp thứ ba tại Cúp Liên châu Mỹ sẽ diễn ra. Vì cả hai quốc gia đều vượt qua vòng loại nên trận play-off là không cần thiết và đội có thành tích tốt nhất kế tiếp tại Cúp Liên châu Mỹ (chưa vượt qua vòng loại) sẽ đủ điều kiện. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2023, Liên đoàn Khúc côn cầu Liên châu Mỹ đã công bố các đội và bảng đấu đủ điều kiện tham gia giải đấu.
Các đội vượt qua vòng loại
Đội hình
Vòng sơ loại
Bảng A
Bảng B
Phân loại thứ hạng năm đến tám
Sơ đồ
Cross-overs
Thứ hạng bảy và tám
Thứ hạng năm và sáu
Vòng tranh huy chương
Sơ đồ
Bán kết
Tranh huy chương đồng
Tranh huy chương vàng
Thống kê
Bảng xếp hạng cuối cùng
Cầu thủ ghi bàn
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Liên đoàn Khúc côn cầu Liên châu Mỹ
Tham khảo
Nam
Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ
2023
Nội dung thi đấu nam tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 |
19853321 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Karl%20Zuegg | Karl Zuegg | Karl Zuegg (28 tháng 2 năm 1914 – 26 tháng 12 năm 2005) là một doanh nhân người Ý đến từ Lana, Nam Tirol. Ông là giám đốc điều hành của công ty nước ép trái cây và mứt Zuegg có trụ sở tại Lana, từ năm 1940 đến năm 1986.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Sinh năm 1914
Mất năm 2005
Người Lana, Nam Tirol
Doanh nhân Ý thế kỷ 20 |
19853334 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Zuelania | Zuelania | Zuelania guidonia là một loài cây bụi hoặc cây gỗ bản địa của Tây Ấn, Trung Mỹ và bắc Nam Mỹ và là loài duy nhất của chi Zuelania. Loài này từng được xếp vào Họ Mùng quân, nhưng phân tích phát sinh loài dựa trên dữ liệu ADN chỉ ra rằng loài này, cùng với họ hàng gần của nó trong các chi Casearia, Samyda, Hecatostemon, và Laetia, nên được xếp vào một họ rộng hơn là Họ Liễu.
Tham khảo |
19853337 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20ch%C6%B0%C6%A1ng%20truy%E1%BB%87n%20Oshi%20no%20Ko%20%E2%80%93%20D%C6%B0%E1%BB%9Bi%20%C3%A1nh%20h%C3%A0o%20quang | Danh sách chương truyện Oshi no Ko – Dưới ánh hào quang | Oshi no Ko – Dưới ánh hào quang là một bộ manga Nhật Bản được viết cốt truyện bởi Akasaka Aka và minh họa bởi Yokoyari Mengo. Oshi no Ko phát hành trên tạp chí Tuần san Young Jump của nhà xuất bản Shueisha từ tháng 4 năm 2020 và các chương của nó được biên soạn trong 13 tập tankōbon đến tháng 11 năm 2023. Bộ truyện đã được cấp phép để phát hành tại Bắc Mỹ bởi Yen Press và được xuất bản đồng thời bởi Shueisha trên nền tảng Manga Plus của họ. Bộ truyện theo chân một bác sĩ và bệnh nhân vừa qua đời của anh, cả hai người được tái sinh thành cặp song sinh của một thần tượng nổi tiếng của Nhật Bản và men theo những thăng trầm của ngành giải trí nước này khi họ cùng nhau lớn lên.
Tại Việt Nam, trong năm 2023, bộ truyện đã được Công ty Cổ phần Xuất bản và Truyền thông IPM mua bản quyền phát hành với tập đầu tiên được ra mắt vào tháng 9 năm 2023.
Danh sách
Danh sách các chương truyện chưa đóng thành tập tankōbon
Các chương truyện dưới đây chưa được xuất bản thành tập tankōbon.
131.
132.
133.
134.
135.
136.
137.
138.
139.
140.
141.
Tham khảo
Danh sách các tập và chương truyện của manga |
19853341 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20t%C3%A0ng%20Siam | Bảo tàng Siam | Bảo tàng Siam () là một bảo tàng khám phá nằm ở đường Sanam Chai, Băng Cốc, Thái Lan. Bảo tàng được thành lập vào năm 2007 trên nền đất của Bộ Thương mại trước đây. Nó được tạo ra để dạy về bản sắc dân tộc và lịch sử của người dân Thái Lan, và mối quan hệ của họ với các nền văn hóa lân cận. Phương châm của bảo tàng là “Chơi + Học = เพลิน” (nghĩa là 'vui vẻ' trong tiếng Thái); thông qua một loạt các triển lãm tương tác, bảo tàng cho thấy sự phát triển của Thái Lan từ xưa đến nay.
Kiến trúc
Bảo tàng ban đầu được xây dựng như bộ văn phòng của Bộ Thương mại dưới thời Vua Vajiravudh (Rama VI, 1910–1925) trị vì. Mảnh đất trước đây thuộc về hoàng cung nơi từng là nơi ở của một số hoàng tử của Vua Rama III. Tòa nhà được xây dựng theo phong cách Tân cổ điển, được thiết kế bởi kiến trúc sư Mario Tamagno người Ý, phối hợp với kỹ sư E.G. Gollo và kiến trúc sư khác tên Guadrelli, và các yếu tố trang trí bởi Vittorio Novi. Công trình được xây dựng từ năm 1921 đến 1922. Tòa nhà nhận được giải thưởng ASA Architectural Conservation Award vào năm 2006, và đã được đăng ký thành di tích cổ.
Ga Sanam Chai MRT, mở cửa vào năm 2020, nằm đối diện bảo tàng.
Triển lãm
Triển lãm cố định đầu tiên của bảo tàng có tựa đề Tiểu luận về Thái Lan (). Khám phá lịch sử Thái Lan qua nhiều khía cạnh khác nhau.
Mỗi căn phòng của bảo tàng bao gồm một chủ đề khác nhau như 'Thái tiêu biểu', 'Bangkok', 'Ayutthaya Mới', 'Cuộc sống làng quê', 'Thay đổi;, 'Chính trị và Truyền thông', 'Thái Lan và thế giới', 'Thái Lan ngày nay', Thái Lan ngày mai', 'Giới thiệu Suvarnabhumi', 'Suvarnabhumi', 'Phật giáo', 'Thành Lập Ayutthaya', 'Xiêm' và 'Căn phòng chiến tranh'. Ngoài ra còn có phòng bản đồ và một rạp chiếu phim sống động với màn hình dài toàn cảnh để xem phim về lịch sử Thái Lan. The museum also has temporary exhibits and learning activities.
Triển lãm thường trực thứ hai của bảo tàng, tựa đề Giải mã Thái Lan () được phát hành vào năm 2017, và tìm cách giải mã ý nghĩa của Thái Lan. Nó hướng tới giới trẻ và thanh niên nhiều hơn.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Museum of Siam
Siam
Quận Phra Nakhon
Di tích cổ đã được đăng ký ở Bangkok |
19853371 | https://vi.wikipedia.org/wiki/FK%20Transinvest | FK Transinvest | FK Transinvest là một câu lạc bộ bóng đá của Litva,
Thành tích
Pirma lyga (D2)
2023
Cúp bóng đá Litva
2023
Đội hình hiện tại
Tham khảo
Transinvest
Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 2022 |
19853372 | https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Philippines | Cảnh sát Quốc gia Philippines | Cảnh sát Quốc gia Philippines hay Công an Quốc gia Philippines (tiếng Filipino: Pambansang Pulisya ng Pilipinas, tiếng Anh: Philippine National Police, viết tắt: PNP), gọi tắt là Công an Philippines, là lực lượng cảnh sát vũ trang quốc gia ở Philippines. Trụ sở chính quốc gia của nó đặt tại Camp Crame ở Bagong Lipunan ng Crame, thành phố Quezon. Hiện tại, lực lượng này có khoảng 228.000 nhân viên để giám sát dân số hơn 100 triệu người.
Cơ quan này được quản lý và kiểm soát bởi Ủy ban Cảnh sát Quốc gia và là một phần của Bộ Nội vụ và Chính quyền Địa phương (DILG). Các sĩ quan cảnh sát địa phương được kiểm soát hoạt động bởi thị trưởng thành phố hoặc thành phố. Mặt khác, DILG tổ chức, đào tạo và trang bị cho PNP để thực hiện các chức năng của cảnh sát với tư cách là lực lượng cảnh sát có quy mô quốc gia và mang tính chất dân sự.
PNP được thành lập vào ngày 29 tháng 1 năm 1991, khi Dân quân Philippines và Cảnh sát Quốc gia Tổng hợp được sáp nhập theo Đạo luật Cộng hòa 6975 năm 1990.
Cảnh sát theo quốc gia
Tham khảo |
19853377 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20t%E1%BA%ADp%20phim%20Lycoris%20Recoil%3A%20Qu%C3%A1n%20c%C3%A0%20ph%C3%AA%20b%E1%BA%A5t%20%E1%BB%95n | Danh sách tập phim Lycoris Recoil: Quán cà phê bất ổn | Lycoris Recoil: Quán cà phê bất ổn là một bộ anime truyền hình nguyên tác của xưởng A-1 Pictures. Tác phẩm được công bố vào tháng 12 năm 2021. Adachi Shingo đảm nhận vai trò đạo diễn bộ phim, với câu chuyện gốc của Asaura, thiết kế nhân vật của Imigimuru và âm nhạc do Mutsuki Shūhei sáng tác. Bộ anime lên sóng vào ngày 2 tháng 7 năm 2022 trên Tokyo MX, GYT, GTV và BS11. Sayuri trình bày nhạc hiệu kết thúc "Hana no Tō". Bộ phim được phát sóng ở Đông Nam Á trên Aniplus Asia.
Ngày 22 tháng 6 năm 2022, Crunchyroll đã cấp phép tác phẩm bên ngoài khu vực Châu Á. Trong cùng ngày, phiên bản lồng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha từ thị trường Mỹ được công bố sẽ ra mắt vào ngày 23 tháng 7.
Danh sách tập phim
Tại gia
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Danh sách các tập anime
Danh sách tập phim anime |
19853385 | https://vi.wikipedia.org/wiki/55%20Cancri%20d | 55 Cancri d | 55 Cancri d (viết tắt là 55 Cnc d), tên chính thức là Lipperhey (), là một ngoại hành tinh quay quanh sao giống Mặt Trời 55 Cancri A. 55 Cancri d là hành tinh thứ năm và là hành tinh ngoài cùng trong hệ hành tinh 55 Cancri, với khoảng cách giữa hành tinh này và sao chủ tương tự khoảng cách giữa Sao Mộc và Mặt Trời. 55 Cancri d được phát hiện vào ngày 13 tháng 6 năm 2002.
Chú thích
Liên kết ngoài
55 Cancri
Chòm sao Cự Giải
Ngoại hành tinh phát hiện năm 2002
Hành tinh khổng lồ |
19853387 | https://vi.wikipedia.org/wiki/LPL%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202023 | LPL mùa giải 2023 | LPL mùa giải 2023 là mùa giải thứ 11 của League of Legends Pro League (LPL), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Hàn Quốc dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 14 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 15 tháng 4 năm 2023. Giải Mùa Hè bắt đầu vào ngày 29 tháng 5 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 5 tháng 8 năm 2023.
Đội quán quân giải Mùa Xuân, JD Gaming, và á quân, Bilibili Gaming, đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2023. JD Gaming cũng đã vô địch giải Mùa Hè, trực tiếp giúp họ đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2023. Bilibili Gaming đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2023 thông qua điểm tích lũy, trong khi cả LNG Esports và Weibo Gaming cũng đủ điều kiện tham dự Chung kết thế giới 2023 thông qua vòng loại khu vực.
Giải Mùa Xuân
Vòng bảng giải Mùa Xuân sẽ diễn ra từ ngày 14 tháng 1 đến ngày 25 tháng 3 năm 2023. 17 đội sẽ chơi tổng cộng 136 trận và tất cả các trận đấu Vòng bảng sẽ được thi đấu theo thể thức Bo3. Mười đội dẫn đầu Vòng bảng sẽ tiến vào Vòng loại trực tiếp. Hai đội đứng đầu vòng loại trực tiếp Giải Mùa Xuân đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2023.
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Giải Mùa Hè
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Điểm tích lũy
Vòng loại khu vực
Vòng loại khu vực là giải đấu bao gồm bốn đội đứng đầu LPL dựa trên số điểm vô địch (trừ 2 đội đã đủ điều kiện trực tiếp tham gia Chung kết thế giới 2023). Hai đội đứng đầu đối đầu với nhau, đội chiến thắng giành được một suất tham dự Chung kết thế giới. Đồng thời, hai đội đứng sau thi đấu với nhau, đội thua sẽ bị loại. Hai đội còn lại sau đó tranh giành suất LPL cuối cùng tại Chung kết thế giới 2023.
Giải thưởng
Giải Mùa Xuân
MVP: Scout, LNG Esports
Tân binh nổi bật: Leave, EDward Gaming
Đội hình tiêu biểu 1:
Đội hình tiêu biểu 2:
Đội hình tiêu biểu 3:
Giải Mùa Hè
MVP: Scout, LNG Esports
Tân binh nổi bật: Tangyuan, Royal Never Give Up
Đội hình tiêu biểu 1:
Đội hình tiêu biểu 2:
Đội hình tiêu biểu 3:
Mùa giải
MVP của năm: Knight, JD Gaming
Tân binh của năm: Heng, Team WE
Ban huấn luyện xuất sắc: JD Gaming
Ngoại binh xuất sắc: Ruler, JD Gaming
Quản lí của năm: Houlin, JD Gaming
Tham khảo
Liên Minh Huyền Thoại năm 2023
Thể thao điện tử năm 2023
en:2023 LPL season |
19853390 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mi%20Mi%20Khaing | Mi Mi Khaing | Mi Mi Khaing ( ; 1916 – 15 tháng 3 năm 1990) là một học giả và nhà văn người Myanmar, tác giả của nhiều cuốn sách và bài báo về cuộc sống ở Miến Điện trong thế kỷ 20. Bà nổi tiếng là một trong những phụ nữ đầu tiên viết bằng tiếng Anh về văn hóa và truyền thống Miến Điện.
Tiểu sử
Sinh ra trong một gia đình người Môn, Mi Mi Khaing lớn lên trong thời kỳ thuộc địa Anh ở Miến Điện và được học ở các trường học của Anh. Bà theo học tại St. John's Convent School, và đạt được bằng cử nhân (Hons) đầu tiên từ Đại học Yangon và sau đó là bằng Cử nhân từ trường đại học King's College London.<ref name=DWW>'Daw Mi Mi Khaing (1916–1990)', in Anne Commire, ed., Dictionary of Women Worldwide. Republished at encyclopedia.com. Accessed 11 February 2020.</ref> Bà kết hôn với Sao Saimong, một học giả nổi tiếng và là thành viên của gia đình hoàng gia Bang Kengtung, nằm ở bang Shan. Ngoài sự nghiệp văn chương, bà thành lập trường Cao đẳng Kambawza ở Taunggyi và giữ chức vụ hiệu trưởng. Bà sau đó trở thành người khiếm thị do khối u não, nhưng đã học đọc và viết bằng chữ nổi Braille.
Nhà địa chất Yin Yin Nwe là con gái của bà.
Tác phẩm
SáchBurmese Family (1946, 1962), Bloomington, IN, Indiana University Press, 1962.Cook and Entertain the Burmese Way (1978), Karoma Publishers, 1978.The World of Burmese Women'' (1984), London, Zed Press, 1984.
Báo
(với Charles S. Brant)
Tham khảo
Đọc thêm
Maxim, Sarah (1987). The World of Burmese Women. The Journal of Asian Studies, Vol. 46, No. 3 (Aug., 1987), pp. 699–700.
Clague, John (1948). Burmese Family: Review. International Affairs, Vol. 24, No. 2 (Apr., 1948), p. 298.
Sinh năm 1916
Mất năm 1990
Nhà báo Myanmar
Nhà văn Myanmar
Người khiếm thị
Người Bago |
19853398 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Las%20Vigas | Las Vigas | Las Vigas là khu đô thị tự trị thuộc bang Guerrero, México. Khu đô thị nằm khoảng phía đông nam thành phố thủ phủ bang Chilpancingo. Las Vigas được thành lập từ khu đô thị San Marcos theo phê duyệt năm 2021 và có hiệu lực từ ngày 21 tháng 5 năm 2022.
Địa lý
Khu đô thị Las Vigas nằm trên vùng Costa Chica ở phía đông Guerrero, phía tây giáp San Marcos, phía bắc giápTecoanapa, phía đông giáp Florencio Villarreal và phía nam là Thái Bình Dương. Hầu hết khu đô thị này nằm trong lưu vực thoát nước của Vũng Tecomate, kéo dài đến phần phía tây nam và thuộc Khu đa dạng sinh học quan trọng Lagunas Costeras de Guerrero. Phần đông bắc này nằm trong lưu vực sông Nexpa là ranh giới tự nhiên với Florencio Villarreal.
Las Vigas có khí hậu ôn đới ẩm, nhiều mưa vào hè. Nhiệt độ trung bình dao động từ .
Lịch sử
Las Vigas và vùng phụ cận đề nghị thành lập chính quyền khu đô thị tự trị ít nhất là từ năm 2014. Ngày 31 tháng 8 năm 2021, nghị viện bang Guerrero phê chuẩn việc thành lập khu đô thị Las Vigas từ 19 địa phương thuộc San Marcos trước đây. Bản sửa đổi hiến pháp bang liên quan đến thành lập khu đô thị được thông qua ngày 13 tháng 1 năm 2022 và có hiệu lực ngày 21 tháng 5 năm 2022.
Hành chính
Las Vigas sẽ tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên với tư cách là một khu đô thị tự trị độc lập vào năm 2024. Chính quyền khu đô thị sẽ bao gồm một thị trưởng, một ủy viên hội đồng (tiếng Tây Ban Nha: síndico) và sáu ủy viên (regidores).
Nhân khẩu học
Trong Điều tra dân số México năm 2020, các địa phương thuộc Las Vigas hiện nay có 9.449 dân. Theo đó, thủ phủ khu đô thị thành phố Las Vigas ghi nhận 4.762 dân.
Kinh tế và hạ tầng
Vùng đất bằng phẳng của Las Vigas rất thích hợp cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Sông Nexpa tưới tiêu cho toàn khu đô thị và đổ vào hồ chứa Revolución Mexicana. Tại vũng Tecomate có nghề đánh bắt cá và làm muối thủ công.
Quốc lộ Liên bang 200 chạy qua thủ phủ khu đô thị, kết nối với San Marcos và Acapulco ở phía tây, Cruz Grande và Ometepec ở phía đông.
Las Vigas có giáo dục trung học, trong đó có trường dự bị Đại học tự trị Guerrero.
Tham khảo
Khởi đầu năm 2022 ở México
Đô thị bang Guerrero
Nguồn CS1 tiếng Tây Ban Nha (es)
Tọa độ trên Wikidata |
19853402 | https://vi.wikipedia.org/wiki/100%20baht%20%28ti%E1%BB%81n%20Th%C3%A1i%29 | 100 baht (tiền Thái) | Tiền giấy 100 baht (100฿) là một trong những tờ tiền giấy Thái baht được sử dụng phổ biến và được sử dụng từ năm 1892. Tiền giấy sê ri thứ 17 hiện đang được lưu hành được giới thiệu vào năm 2018. Sê ri thứ 15, 16 và 16 (đặc biệt) cũng được lưu hành phổ biến. Mặt phải của tiền giấy là ảnh chân dung của Vua Vajiralongkorn, vua trị vì hiện tại. Mặt còn lại là hình Vua Chulalongkorn và Vua Vajiravudh.
Sê ri thứ 11
Mặt phải khắc họa chân dung Vua Bhumibol vùng với Phra Garuda Pah (biểu tượng của gia đình hoàng gia). Mặt còn lại là hình Cung điện Hoàng gia và Wat Phra Kaew.
Sê ri thứ 12
Mặt phải khắc họa chân dung Vua Bhumibol. Mặt còn lại là hình tượng Vua Naresuan Đại đế tại Đền tưởng niệm Don Chedi ở tỉnh Suphanburi.
Tiền giấy 100 baht không được thiết kế cho sê ri thứ 13.
Sê ri thứ 14
Mặt phải khắc họa chân dung Vua Bhumibol. Mặt còn lại là khái niệm "Cải cách giáo dục ở Xiêm" bao gồm (từ trái sang phải)
Ngôi trường, một nhóm học sinh trong đồng phục học sinh Thái.
Một quyển sách, và một ngọn nến đang cháy.
Hai vị vua tại Đại học Chulalongkorn, bao gồm Vua Chulalongkorn và Vua Vajiravudh.
Sư thầy đang dạy học sinh bên trong wat (chùa); trong quá khứ, chùa là nơi chính cho giáo dục ở Xiêm trước khi trường học xây dựng.
Sê ri thứ 15
Mặt phải khắc họa chân dung Vua Bhumibol. Mặt còn lại có hai thiết kế; loại I và II.
Loại I:
Mặt trái giống với sê ri 14, với một số điều chỉnh về thiết kế và kiểu chữ.
Loại II:
Mặt trái bao gồm (từ trái sang phải)
Một cảnh chấm dứt chế độ nô lệ tại Xiêm bởi Vua Chulalongkorn, nó là một bức tranh được vẽ tại Đại cung Ananta Samakhom.
Chân dung Vua Vua Chulalongkorn.
Sê ri thứ 16
Mặt phải khắc họa chân dung mới của Vua Bhumibol do ông già đi. Mặt trái được thiết kế theo ý tưởng của từ Vương triều Thonburi, Vua Taksin Đại đế. Các yếu tố bao gồm (từ trái sang phải):
Pháo đài Wi Chai Prasith.
Tượng đài Vua Taksin tại Wongwian Yai.
Tượng của ông (ảnh trung tâm).
Cung điện Thonburi (Phra Ratcha Wang Doem).
Bức phù điêu minh họa cảnh ông thuyết phục đội quân của mình chiến đấu trong thời chiến.
Sê ri thứ 16 (đặc biệt)
Tờ tiền giấy 100 sê ri thứ 16 được phát hành để tưởng nhớ và tri ân Vua Bhumibol quá cố. Mặt phải vẫn được giữ nguyên như sê ri thứ 16. Tuy nhiên, mặt trái sẽ minh họa những việc ông đã làm cho nông thôn Thái Lan. Từ trái sang phải;
Chuyến đi hoàng gia của ông đến vùng nông thôn Chiang Mai, cưỡi trên hắc mã.
Hai máy bay đang hoạt động Royal Rainmaking Project.
Nhà vua thảo luận với người dân địa phương, ngồi trên xe ô tô.
Hình ảnh biểu tượng của nhà vua đổ mồ hôi mũi (hình trung tâm).
Nhà vua quan sát cánh đồng lúa.
Gia đình Hoàng tộc, bao gồm; Vương hậu Sirikit, Ubol Ratana, Vajiralongkorn, Sirindhorn và Chulabhorn.
Sê ri thứ 17
Ý tưởng thiết kế của sê ri 17 dựa trên chủ đề tưởng nhớ các vị vua hiện tại Vương triều Chakri. Mặt sau của tiền giấy 100 baht in hình Vua Rama V và Rama VI của Thái Lan.
Những bức tranh bên cạnh của mỗi vị vua là những hoạt động đáng chú ý được thực hiện cho Xiêm. Tiền giấy 100 baht;
Vua Chulalongkorn Đại đế - chuyến đi hoàng gia đến Na Uy; hình ảnh cho thấy đích thân ông lái xe với Sam Eyde tại Notodden, Na Uy. Họ đang thảo luận về điện khi nhà vua khởi xướng việc sử dụng điện ở Xiêm sau khi trở về từ Na Uy.
Vua Vajiravudh - cưỡi hắc mã đến buổi thành lập Wild Tiger Corps (กองเสือป่า) và Boy Scouts ở Thái Lan.
Tham khảo
https://www.bot.or.th/Thai/Banknotes/HistoryAndSeriesOfBanknotes/Pages/Banknote_Series16.aspx
https://www.bot.or.th/Thai/Banknotes/HistoryAndSeriesOfBanknotes/Pages/100_16.aspx
https://www.bot.or.th/Thai/Banknotes/HistoryAndSeriesOfBanknotes/Pages/100_15.aspx
Tiền tệ Thái
Tiền giấy Thái Lan |
19853404 | https://vi.wikipedia.org/wiki/V.League%20Awards | V.League Awards | V.League Awards là một chuỗi các giải thưởng được Công ty Cổ phần Bóng đá Chuyên nghiệp Việt Nam (VPF) trao tặng hàng năm dành cho các cầu thủ, huấn luyện viên trưởng, trọng tài xuất sắc nhất trong suốt một mùa bóng của Giải bóng đá Vô địch Quốc gia (V.League). Các giải thưởng này thường được trao vào buổi lễ tổng kết hoặc đêm gala tổng kết các giải bóng đá chuyên nghiệp quốc gia vào cuối mùa giải.
Cầu thủ xuất sắc nhất mùa giải
Đội hình tiêu biểu của giải
Những cầu thủ được in đậm đã giành giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất trong cùng mùa giải.
Vua phá lưới
Cầu thủ trẻ xuất sắc nhất mùa giải
Huấn luyện viên xuất sắc nhất mùa giải
Bàn thắng đẹp nhất mùa giải
Giải phong cách
Trọng tài xuất sắc nhất mùa giải
Xem thêm
Quả bóng vàng Việt Nam
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vietnamese football trophies and awards |
19853418 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202023%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%99i%20h%C3%ACnh%20N%E1%BB%AF | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 – Đội hình Nữ | Bài viết này là danh sách của tất cả các đội tham gia tại giải đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nữ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 ở Santiago, Chi-lê. Danh sách có thể có tối đa 16 vận động viên.
Tuổi và số lần khoác áo tính đến ngày 26 tháng 9 năm 2023 và các câu lạc bộ mà họ thi đấu trong mùa giải 2023.
Bảng A
Argentina
16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Argentina, được công bố vào ngày 26 tháng 9 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Fernando Ferrara
Trinidad và Tobago
16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Trinidad và Tobago:
Huấn luyện viên trưởng: Akim Toussaint
Uruguay
16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Uruguay.
Huấn luyện viên trưởng: Nicolás Tixe
Hoa Kỳ
16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Hoa Kỳ, được công bố vào ngày 19 tháng 9 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: David Passmore
Bảng B
Canada
16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Canada, được công bố vào ngày 26 tháng 9 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Daniel Kerry
Chile
16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Chile, được công bố vào ngày 14 tháng 9 năm 2023.
Huấn luyện viên trưởng: Sergio Vigil
Cuba
Mexico
Tham khảo
Giải đấu Nữ |
19853421 | https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng%20an%20t%E1%BB%89nh%20L%C3%A2m%20%C4%90%E1%BB%93ng | Công an tỉnh Lâm Đồng | Công an tỉnh Lâm Đồng là cơ quan Công an cấp tỉnh ở Việt Nam, thuộc hệ thống tổ chức của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam tại Lâm Đồng. Công an tỉnh Lâm Đồng có trách nhiệm tham mưu cho Bộ Công an, Tỉnh ủy Lâm Đồng, Ủy ban Nhân dân tỉnh Lâm Đồng về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; chủ trì và thực hiện thống nhất quản lí Nhà nước về bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng; trực tiếp đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, các loại tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; tổ chức xây dựng lực lượng Công an thành phố cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại.
Trụ sở: Số 4 Trần Bình Trọng, phường 5, thành phố Đà Lạt
Lịch sử
Lãnh đạo hiện nay
Giám đốc: Đại tá Trương Minh Đương
Phó Giám đốc: Đại tá Lê Hồng Phong
Phó Giám đốc: Đại tá Nguyễn Xuân Thống
Phó Giám đốc: Đại tá Đinh Xuân Huy
Phó Giám đốc: Đại tá Bùi Đức Thịnh
Phó Giám đốc: Đại tá Vũ Tuấn Anh
Tổ chức
Khối Cơ quan
An ninh – Tình báo
Phòng An ninh đối ngoại (PA01)
Phòng An ninh đối nội (PA02)
Phòng An ninh chính trị nội bộ (PA03)
Phòng An ninh kinh tế (PA04)
Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (PA05)
Phòng Kỹ thuật nghiệp vụ (PA06)
Phòng Ngoại tuyến (PA07)
Phòng Quản lý xuất nhập cảnh (PA08)
Phòng An ninh điều tra (PA09)
Phòng Tình báo (PB01)
Cảnh sát
Văn phòng Cơ quan CSĐT (PC01)
Phòng Cảnh sát hình sự (PC02)
Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu (PC03)
Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC04)
Phòng Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường (PC05)
Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội (PC06)
Phòng Cảnh sát PCCC & CNCH (PC07)
Phòng Cảnh sát giao thông (PC08)
Phòng Cảnh sát đường thủy (PC08B)
Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09)
Phòng Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (PC10)
Phòng Cảnh sát cơ động (PK02)
Trại giam Đại Bình (PC11)
Hậu cần
Phòng Hậu cần (PH10)
Phòng tài chính (PH01)
Bệnh viện Công an tỉnh
Xây dựng lực lượng
Phòng Tổ chức - Cán bộ (PX01)
Phòng Tham mưu (PV01)
Phòng pháp chế và cải cách hành chính, tư pháp (PV03)
Thanh tra Công an tỉnh Lâm Đồng (PX05)
Trung tâm huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ (PX02)
Cơ quan UBKT Đảng ủy Công an tỉnh (PX06)
Phòng Hồ sơ (PV06)
Phòng Công tác Đảng và công tác Chính trị (PX03)
Phòng Xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc (PV05)
Khối Đơn vị trực thuộc
Công an các thành phố/thị xã/huyện trực thuộc tỉnh
Công an thành phố Đà Lạt
Công an thành phố Bảo Lộc
Công an huyện Bảo Lâm
Công an huyện Cát Tiên
Công an huyện Di Linh
Công an huyện Đạ Huoai
Công an huyện Đạ Tẻh
Công an huyện Đam Rông
Công an huyện Đơn Dương
Công an huyện Đức Trọng
Công an huyện Lạc Dương
Công an huyện Lâm Hà
Khen thưởng
Giám đốc qua các thời kỳ |
19853427 | https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3nh%20s%C3%A1t%20Qu%E1%BB%91c%20gia%20Indonesia | Cảnh sát Quốc gia Indonesia | Cảnh sát Quốc gia Indonesia hay Công an Quốc gia Indonesia (tiếng Indonesia: Kepolisian Negara Republik Indonesia, tiếng Anh: The State Police of the Republic of Indonesia, viết tắt: POLRI) gọi tắt là Công an Indonesia, là lực lượng cảnh sát và thực thi pháp luật quốc gia của Cộng hòa Indonesia. Được thành lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1946, trước đây nó là một phần của quân đội nước này từ năm 1962. Cảnh sát chính thức tách khỏi lực lượng vũ trang vào ngày 1 tháng 4 năm 1999 trong một quá trình chính thức hoàn thành vào ngày 1 tháng 7 năm 1999.
Tổ chức này hiện độc lập và dưới sự bảo trợ trực tiếp của Tổng thống Indonesia. Cảnh sát Quốc gia Indonesia chịu trách nhiệm thực thi pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ trị an trên toàn Indonesia. Tổ chức này nổi tiếng vì tham nhũng, bạo lực và kém năng lực.
Cảnh sát Quốc gia Indonesia cũng tham gia vào các nhiệm vụ quốc tế của Liên hợp quốc, và sau khi được huấn luyện đặc biệt, đã đảm bảo an ninh cho sứ mệnh của UNAMID nhằm bảo vệ những người di tản trong nước ở Darfur.
Tổng cộng, đến năm 2020, tổng số nhân sự mà Cảnh sát Quốc gia Indonesia sở hữu là 440.000 người, và con số này đang tăng lên hàng năm, bao gồm 34.000 nhân viên Brimob, với tới 7.000 nhân viên cảnh sát nước và cảnh sát hàng không. Polri cũng được hỗ trợ bởi khoảng 1 triệu thành viên tình nguyện viên Senkom Mitra Polri trên khắp đất nước là những thường dân hỗ trợ cảnh sát.
Trụ sở của Cảnh sát Quốc gia Indonesia đặt tại Kebayoran Baru, Nam Jakarta và số điện thoại khẩn cấp của Cảnh sát Quốc gia Indonesia là 110, phục vụ khắp Indonesia 24 giờ.
Cảnh sát theo quốc gia
Tham khảo
Văn phòng Trung ương Quốc gia của Interpol |
19853436 | https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sea%20Devil%20%28SS-400%29 | USS Sea Devil (SS-400) | USS Sea Devil (SS-400/AGSS-400) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm đầu tiên của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên chi cá đuối Manta (Manta birostria). Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện được năm chuyến tuần tra, đánh chìm bảy tàu Nhật Bản bao gồm một tàu ngầm với tổng tải trọng 29.519 tấn. Sau khi xung đột chấm dứt nó được xếp lại lớp như một "tàu ngầm phụ trợ" AGSS-400 và tiếp tục phục vụ trong các cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1964. Con tàu cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu ngoài khơi Nam California vào năm 1964. Sea Devil được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Sea Devil được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 18 tháng 11, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 2, 1944, được đỡ đầu bởi bà Sherman K. Kennedy, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 24 tháng 5, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Ralph Emerson Styles.
Lịch sử hoạt động
Phần thưởng
Sea Devil được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm bảy tàu Nhật Bản bao gồm một tàu ngầm với tổng tải trọng 29.519 tấn.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-400 Sea Devil
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Triều Tiên
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu bị đánh chìm như mục tiêu
Xác tàu đắm ngoài khơi bờ biển California
Sự cố hàng hải năm 1964
Tàu thủy năm 1944 |
19853439 | https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sea%20Dog%20%28SS-401%29 | USS Sea Dog (SS-401) | USS Sea Dog (SS-401/AGSS-401) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên bộ Cá nhám góc. Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện được năm chuyến tuần tra, đánh chìm chín tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 21.469 tấn. Sau khi xung đột chấm dứt nó được xếp lại lớp như một "tàu ngầm phụ trợ" AGSS-401 và tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1968. Con tàu cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1973. Sea Dog được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Sea Dog được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 1 tháng 11, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 3, 1944, cùng lúc với tàu ngầm chị em , và được đỡ đầu bởi bà Claire Dowden Lowrance, phu nhân Hạm trưởng tương lai. Nó được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 6, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Vernon Long Lowrance.
Lịch sử hoạt động
Phần thưởng
Sea Dog được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm chín tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 21.469 tấn.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-401 Sea Dog
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II |
19853442 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Franz%20x%E1%BB%A9%20Sachsen-Coburg-Saalfeld | Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld | Franz xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld (tên đầy đủ bằng tiếng Đức: Franz Friedrich Anton, Herzog von Sachsen-Coburg-Saalfeld; 15 tháng 7 năm 1750 – 9 tháng 12 năm 1806), là một trong những công tước có chủ quyền thuộc dòng Ernestine, nhánh trưởng của Nhà Wettin, ông cai trị Công quốc Sachsen-Coburg-Saalfeld. Là tổ tiên phụ hệ của dòng dõi các quân chủ đến từ Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha ở châu Âu vào thế kỷ XIX và XX như Vương quốc Bỉ, Vương quốc Bulgaria, Vương quốc Bồ Đào Nha (cho đến khi vua Manuel II qua đời), Vương quốc Anh (kể từ vua Edward VII cho đến Elizabeth II).
Franz là một nhà cai trị không nổi bật trong Đế chế La Mã Thần thánh, nhưng ông đã trở nên quan trọng và nổi tiếng trong lịch sử châu Âu thông qua các con cái của mình. Trong đó, người con trai trưởng là Công tước Ernst I, người đã khai sinh ra Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha, đồng thời là cha chồng của Nữ vương Victoria. Người con trai thứ 2 là Thân vương Ferdinand liên hôn với Nhà Koháry, một trong ba chủ nhất giàu có nhất của Vương quốc Hungary, lập ra Vương tộc Sachsen-Coburg và Gotha-Koháry, lên nắm quyền quân chủ của Vương quốc Bồ Đào Nha (1837) và Vương quốc Bulgaria (1887). Người con trai út của ông là Công tử Leopold, đã được bầu lên ngai vàng của Vương quốc Bỉ vào năm 1831 và hậu duệ của ông vẫn trị vì vương quốc này cho đến tận ngày nay.
Tiểu sử
Franz sinh ngày 15 tháng 7 năm 1750. Ông là con trai cả của Ernst Friedrich, Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld và Công nữ Sophie Antoinette xứ Brunswick-Wolfenbüttel.
Franz nhận được một nền giáo dục tư thục, cẩn thận và toàn diện dành cho một thế tử thừa thế ngai vàng và trở thành một người sành nghệ thuật. Franz đã khởi xướng một bộ sưu tập sách và tranh minh họa lớn cho công quốc vào năm 1775, cuối cùng bộ sưu tập này đã mở rộng lên đến 300.000 bức tranh khắc trên tấm đồng hiện được lưu giữ tại Veste Coburg.
Franz gia nhập quân đội liên minh vào năm 1793, sau khi đất nước của ông bị quân đội Cách mạng Pháp xâm lược. Các lực lượng liên minh bao gồm Hannover, Hessen và Anh. Ông đã tham gia nhiều hoạt động chống Pháp.
Franz kế vị cha mình làm Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld vào năm 1800. Để trả nợ cho cha mình, Schloss Rosenau đã bị bán đi, nhưng vào năm 1805, ông đã mua lại tài sản này làm nơi ở mùa hè cho gia đình công tước.
Hoàng đế Franz II đã giải tán Đế chế La Mã Thần thánh vào ngày 6 tháng 8 năm 1806, sau khi bị Hoàng đế Napoléon I đánh bại trong Trận Austerlitz. Công tước Franz qua đời 4 tháng sau đó vào ngày 9 tháng 12 năm 1806. Ngày 15 tháng 12 năm 1806, Sachsen-Coburg-Saalfeld, cùng với các công quốc Ernestine khác, gia nhập Liên bang Rhein theo kế hoạch của Công tước và các bộ trưởng của ông.
Cuộc hôn nhân đầu tiên
Tại Hildburghausen vào ngày 6 tháng 3 năm 1776, Franz kết hôn với Bá nữ Sophie xứ Sachsen-Hildburghausen, con gái của Ernst Friedrich III, Công tước xứ Sachsen-Hildburghausen và Công nữ Ernestine xứ Sachsen-Weimar-Eisenach. Bà qua đời vào ngày 28 tháng 10 năm 1776, chỉ 7 tháng sau đám cưới. Không có hậu duệ nào được sinh ra từ cuộc hôn nhân này.
Cuộc hôn nhân thứ 2 và hậu duệ
Tại Ebersdorf vào ngày 13 tháng 6 năm 1777, Franz kết hôn với Nữ bá tước Augusta Reuss xứ Ebersdorf, con gái của Heinrich XXIV, Bá tước Reuss xứ Ebersdorf và vợ ông là Nữ bá tước Karoline Ernestine xứ Erbach-Schönberg. Họ có 10 người con, 7 người trong số họ sống sót đến tuổi trưởng thành:
{| class="wikitable"
!Name
!Ngày sinh
!Ngày mất
!Tuổi thọ
!Chú thích
|-
|Công nữ Sophie Friederike Karoline Luise
|19 tháng 8 năm 1778, tại Coburg
|8 tháng 7 năm 1835, tại Tušimice, Bohemia
|56 năm
|Kết hôn vào ngày 23 tháng 2 năm 1804 với Emmanuel von Mensdorff-Pouilly (sau này là Bá tước von Mensdorff-Pouilly).
|-
|Công nữ Antoinette Ernestine Amalie
|28 tháng 8 năm 1779, tại Coburg
|14 tháng 3 năm 1824, tại St. Petersburg
|44 năm
|Kết hôn ngày 17 tháng 11 năm 1798 với Công tước Alexander xứ Württemberg.
|-
|Công nữ Juliane Henriette Ulrike ("Sau khi kết hôn, Juliane lấy tên là Anna Fyodorovna trong lễ rửa tội Chính thống Nga)
|23 tháng 9 năm 1781, tại Coburg
|15 tháng 8 năm 1860, tại Elfenau, gần Berne, Thụy Sĩ
|78 năm
|Kết hôn vào ngày 26 tháng 2 năm 1796 với Đại công tước Konstantin Pavlovich, em trai của Sa hoàng Aleksandr I của Nga (họ ly hôn năm 1820).
|-
|Con trai chết non
|1782
|1782
| –
|
|-
|Ernst I Anton Karl Ludwig, Công tước xứ Sachsen-Coburg and Gotha
|2 tháng 1 năm 1784, tại Coburg
|29 tháng 1 năm 1844, tại Gotha
|60 năm
|Kết hôn ngày 31 tháng 7 năm 1817 với Công nữ Louise xứ Sachsen-Gotha-Altenburg; cha của Vương tế Albert, chồng của Nữ vương Victoria. Sau khi họ ly hôn năm 1826 và cái chết của Louise năm 1831, ông kết hôn với cháu gái Marie xứ Württemberg, con gái của chị gái ông Antoinette.
|-
|Công tử Ferdinand Georg August
|28 tháng 3 năm 1785, tại Coburg
|27 tháng 8 năm 1851, tại Viên
|66 năm
|Kết hôn vào ngày 30 tháng 11 năm 1815 với Thân vương nữ Mária Antónia Koháry; cha của Fernando II của Bồ Đào Nha và Victoria, Nữ công tước xứ Nemours, và ông nội của Ferdinand I của Bulgaria. Thông qua cuộc hôn nhân của mình, ông trở thành người sáng lập ra nhánh Công giáo Koháry của dòng Sachsen-Coburg và Gotha.
|-
|Công nữ Marie Luise Victorie
|17 tháng 8 năm 1786, tại Coburg
|16 tháng 3 năm 1861, tại Frogmore House
|74 năm
|Kết hôn vào ngày 21 tháng 12 năm 1803 Carl Friedrich Wilhelm Emich, Thân vương xứ Leiningen, có 2 con. Sau khi ông qua đời, bà kết hôn với Vương tử Edward của Liên hiệp Anh, Công tước xứ Kent và Strathearn vào ngày 11 tháng 7 năm 1818, con trai thứ tư của Vua George III, và sinh ra Nữ hoàng Victoria.
|-
|Công nữ Marianne Charlotte
|7 tháng 8 năm 1788, tại Coburg
|23 tháng 8 năm 1794, tại Coburg
|6 năm
|
|-
|Công tử Leopold Georg Christian Frederick
|16 tháng 12 năm 1790, tại Coburg
|10 tháng 12 năm 1865, tại Laeken
|74 năm
|Kết hôn lần đầu vào ngày 2 tháng 5 năm 1816 Vương tôn nữ Charlotte Augusta xứ Wales, con gái của George IV của Anh, người qua đời vì biến chứng khi sinh con vào ngày 6 tháng 11 năm 1817. Kết hôn lần thứ hai vào ngày 9 tháng 8 năm 1830 với Louise Marie của Orléans, con gái của Louis-Philippe I của Pháp và các con của ông bao gồm Léopold II của Bỉ và Hoàng hậu Charlotte của Mexico. Vị vua đầu tiên của Vương quốc Bỉ với vương hiệu Leopold I.
|-
|Công tử Franz Maximilian Ludwig
|12 tháng 12 năm 1792, tại Coburg
|3 tháng 1 năm 1793, tại Coburg
|22 ngày
|
|}
Hậu duệ dòng nam của ông đã thành lập các vương tộc cai trị ở Vương quốc Bỉ, Vương quốc Anh, Vương quốc Bồ Đào Nha và Vương quốc Bulgaria, trong khi vẫn giữ các công quốc Sachsen-Coburg và Gotha cho đến năm 1918. Con trai ông là Leopold cai trị với vương hiệu Leopold I của Bỉ. Fernando cháu trai của ông trị vì Vương quốc Bồ Đào Nha theo luật jure uxoris với vương hiệu Ferdinand II của Bồ Đào Nha trong khi chắt trai là Ferdinand trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Bulgaria hậu Ottoman. Một trong những cháu gái của ông là Hoàng hậu Charlotte của México, trong khi một người khác là Nữ vương Victoria của Vương quốc Anh. Sau khi chắc trai của ông là Vương tử Edward, Thân vương xứ Wales tiếp nhận ngai vàng Vương quốc Anh vào năm 1901, Nhà Sachsen-Coburg và Gotha chính thức trở thành một triều đại của Vương quốc Anh cho đến khi tên vương tộc được George V của Anh đổi thành Windsor vào năm 1917.
Tổ tiên
Tham khảo
August Beck: Franz Friedrich Anton, Herzog von Sachsen-Koburg-Saalfeld. In: Allgemeine Deutsche Biographie (ADB) vol. VII, Duncker & Humblot, Leipzig 1877, p. 296.
Carl-Christian Dressel: Die Entwicklung von Verfassung und Verwaltung in Sachsen-Coburg 1800 - 1826 im Vergleich, Duncker & Humblot, Berlin 2007, .
Christian Kruse: Franz Friedrich Anton von Sachsen-Coburg-Saalfeld: 1750 - 1806, in: Jahrbuch der Coburger Landesstiftung'', Coburg 1995.
Công tước xứ Sachsen-Coburg-Saalfeld
Công tử Sachsen-Coburg-Saalfeld
Gia tộc Sachsen-Coburg-Saalfeld
Sinh năm 1750
Mất năm 1806 |
19853449 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BA%A3o%20t%C3%A0ng%20ng%C3%A2n%20h%C3%A0ng%20Th%C3%A1i%20Lan | Bảo tàng ngân hàng Thái Lan | Bảo tàng ngân hàng Thái Lan là một bảo tàng ở Băng Cốc, Thái Lan. Bảo tàng được đặt trong Cung điện Bang Khun Phrom, nơi ở cũ của Công chúa Paribatra Sukhumbandhu, người con thứ 33 của Vua Chulalongkorn. Ngân hàng Thái Lan, khu vực phía Bắc cũng có bảo tàng tại Chiang Mai. Vào tháng 6 năm 2017, bảo tàng đã được mở cửa lại.
Trưng bày
Bảo tàng có 14 phòng, nó nhiều khu vực trưng bày lịch sử tiền tệ Thái và ngân hàng Thái Lan. Độ tuổi của các đồng xu khác nhau có nhiều đồng xu Thái cổ được tìm thấy tại các địa điểm khai quật như đồng Phù Nam (thế kỷ 1 – 7), đồng Sri Vijaya (thế kỷ 8 – 13), Sukhothai, (thế kỷ 13 – 14), đến thế kỷ 14 – 19, from the Lan Na ở phía Bắc Thái Lan.
Bảo tàng trưng bày tiền giấy từ thời Vua Rama IV trị vì vào năm 1853 và những tài liệu vào cuối thập niên 1850, khi Nữ vương Victoria của Đảo Anh đã tặng Thái Lan một máy đúc tiền và việc đúc tiền Thái bắt đầu từ năm 1858.
Tại phòng tiếp khách hoàng gia, có nhiều bức chân dung và ảnh xung quanh những đồ nội thất xa xỉ để kỉ niệm lần viếng thăm của Elizabeth II và Thân vương Philippos, Công tước xứ Edinburgh, vào năm 1996.
Vào ngày 28 tháng 12 năm 2006, Cung điện Bang Khun Phrom kỷ niệm 100 năm thành lập, tổ chức các buổi biểu diễn truyền thống Thái để kỷ niệm.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bảo tàng ngân hàng Thái Lan
Bảo tàng ngân hàng Thái Lan, khu vực phía Bắc (Chiang Mai)
Ngân hàng
Bảo tàng ngân hàng |
19853451 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Queen%20Elizabeth%20%28phim%202023%29 | Queen Elizabeth (phim 2023) | Queen Elizabeth là một bộ phim nói tiếng Malayalam của Ấn Độ năm 2023 do M Padmakumar đạo diễn và Ranjith Manambarakkat, M. Padmakumar và Sreeram Manambarakkar sản xuất. Nó có Meera Jasmine trong vai chính. Bộ phim là một câu chuyện vui nhộn, hơi độc đáo xoay quanh một phụ nữ thành thị, người phải đối mặt với một số thăng trầm trong cuộc sống. Dàn diễn viên còn lại bao gồm Narain, Shweta Menon, Johny Antony, Neena Kurup, Jude Anthany Joseph, Manju Pathros và VK Prakash. Queen Elizabeth ra rạp vào ngày 29 tháng 12 năm 2023. Sau đó, dự kiến ra mắt trên ZEE5 vào ngày 14 tháng 2 năm 2024.
Câu chuyện
Một nghệ sĩ giải trí nhẹ nhàng lấy bối cảnh thành thị. Phim kể về một người phụ nữ cứng đầu chưa chồng tên Elizabeth, có cuộc sống giản dị. Trong khi nhân vật của cô bị những người xung quanh không tán thành thì Alex lại đang theo đuổi để thu phục cô. Mọi chuyện thay đổi khi Elizabeth đến Coimbatore để họp kinh doanh. Cô được chẩn đoán mắc bệnh ung thư tuyến tụy giai đoạn 3. Elizabeth phát hiện ra rằng mình chỉ còn sống được 3 tháng nữa và thay đổi tính cách của mình. Cô kết bạn với nhân viên của mình và tạo dựng mối quan hệ với gia đình. Cô kết bạn với Alex và dần yêu anh ta. Ở phần cuối, Elizabeth tiết lộ về căn bệnh của mình với người yêu và họ đến thăm bác sĩ Vysakh. Người ta tiết lộ rằng bác sĩ đã tư vấn cho Elizabeth đang bị rối loạn tâm thần do cái chết của con cô vì bệnh ung thư tuyến tụy và Elizabeth không bị ung thư. Cao trào cho thấy Elizabeth đã kết hôn với Alex và đang sống hạnh phúc.
Dàn diễn viên
Meera Jasmine trong vai Elizabeth Thiên thần Simon
Narain vai Alex
Shweta Menon trong vai Tiến sĩ Shanti Krishna
Johny Antony trong vai Varghese Pothan
Neena Kurup vai Salomi
Jude Anthany Joseph trong vai Abin
Manju Pathrose vai Sheeba
VK Prakash vai Simon
Ramesh Pisharody trong vai Abhilash
Vineeth Vishwam trong vai Sumesh
Mallika Sukumaran vai Gracy
Arya vai Sangeetha
Shruthi Rajanikanth trong vai Roshni
Saniya Babu vai Hoa Hồng
Anjana Appukuttan trong vai Sindhu
Renji Panicker vai bác sĩ Vysakh
Bậc thầy Vashisht trong vai Jagan
Chithra Nair vai Arya
Pearle Maaney vai người nổi tiếng
Sản xuất
Bộ phim chứng kiến sự tái hợp của dàn diễn viên chính Meera Jasmine và Narain sau 17 năm, sau khi họ xuất hiện cùng nhau trong Achuvinte Amma (2005) và Minnaminnikoottam (2008). Buổi chụp hình của Nữ hoàng Elizabeth bắt đầu ở Kochi vào tháng 4 năm 2023. Và nó được gói vào ngày 1 tháng 5 năm 2023.
Thu nhận
Bộ phim đã tạo ra những đánh giá tích cực. OnManorama nhận xét: “Phim khá hấp dẫn và sẽ phù hợp với những ai thích xem phim thuộc thể loại hài lãng mạn. Malayalam Samayam đánh giá bộ phim 3 trên 5. OTT Play cũng đánh giá bộ phim 3 trên 5 khi nhận xét: “Bộ phim đáp ứng tiêu chí dành cho một bộ phim giải trí gia đình.”
Người giới thiệu
Queen Elizabeth at IMDb
Queen Elizabeth on ZEE5
Thể loại:Phim năm 2023 |
19853453 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Jet%20lag | Jet lag | Jet lag hay chứng mất đồng bộ là một tình trạng sinh lý tạm thời xảy ra khi nhịp sinh học của cơ thể không đồng bộ với múi giờ của địa điểm mà người đó đang ở và là kết quả điển hình của việc di chuyển quãng đường dài nhanh chóng qua nhiều múi giờ (đông-tây hoặc xuyên kinh tuyến Tây-Đông). Ví dụ: một người bay từ Thành phố New York đến London, tức là từ tây sang đông, cảm thấy như thể thời gian sớm hơn năm giờ so với giờ địa phương và một người di chuyển từ London đến New York, tức là từ đông sang tây, có cảm giác như thời gian “muộn hơn” năm giờ so với giờ địa phương.
Sự dịch pha khi di chuyển từ đông sang tây được gọi là độ trễ pha của vòng tròn sinh học, trong khi đi từ tây sang đông là sự lệch pha của vòng tròn sinh học. Hầu hết du khách thấy rằng việc điều chỉnh múi giờ khó hơn khi đi du lịch về phía đông.
Việc này xảy ra khi một người di chuyển quá nhanh qua nhiều múi giờ khác nhau, khiến cho đồng hồ sinh học của cơ thể không thể bắt kịp theo chu kỳ thực tế.
Trước đây jet lag đây được phân loại là một trong rối loạn giấc ngủ nhịp sinh học.
Tình trạng bị chứng mệt mỏi do lệch múi giờ có thể kéo dài vài ngày trước khi du khách hoàn toàn thích nghi với múi giờ mới; và trung bình phải mất một ngày cho mỗi múi giờ để đạt được khả năng thích ứng sinh học. Jet lag đặc biệt là một vấn đề đối với phi công, phi hành đoàn và những người thường xuyên đi di di chuyển. Các hãng hàng không có các quy định nhằm chống lại sự mệt mỏi của phi công do bị lệch múi giờ.
Người bị hội chứng jet lag bao gồm các triệu chứng sau:
Rối loạn giấc ngủ, mất ngủ, thờ ơ hay mệt mỏi (thường vào ban ngày).
Khó chịu, nhầm lẫn, khó tập trung.
Ăn mất ngon.
Các rối loạn về tiêu hóa chẳng hạn như táo bón hoặc tiêu chảy.
Trầm cảm nhẹ.
Triệu chứng có thể khác nhau giữa mỗi người, có thể biểu hiện một hoặc nhiều triệu chứng. Thông thường, các triệu chứng của jet lag xảy ra trong 1-2 ngày đầu sau chuyến đi, khi khoảng cách di chuyển thay đổi ít nhất 2 múi giờ.
Tham khảo
Y học hàng không
Nhịp sinh học
Rối loạn giấc ngủ
Múi giờ
en:Jet lag |
19853459 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202023%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%99i%20h%C3%ACnh%20Nam | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 – Đội hình Nam | Bài viết này là danh sách của tất cả các đội tham gia tại giải đấu khúc côn cầu trên cỏ dành cho nam tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 ở Santiago, Chi-lê. Danh sách có thể có tối đa 16 vận động viên.
Tuổi và số lần khoác áo tính đến ngày 26 tháng 9 năm 2023 và các câu lạc bộ mà họ thi đấu trong mùa giải 2023.
Bảng A
Argentina
Chile
Mexico
Peru
Bảng B
Brazil
Canada
16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Canada:
Huấn luyện viên trưởng: Patrick Tshutshani
Trinidad và Tabago
Hoa Kỳ
16 cầu thủ sau đây có tên trong đội tuyển Hoa Kỳ:
Huấn luyện viên trưởng: Harendra Singh
Tham khảo
Đội hình Nam |
19853460 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Max%20Alleyne | Max Alleyne | Max Lewis Rowe Alleyne (sinh ngày 21 tháng 7 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Manchester City tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Đời tư
Max Lewis Rowe Alleyne được sinh ra vào ngày 21 tháng 7 năm 2005 ở Bristol, và là con trai của cựu vận động viên cricket người Anh, Mark Alleyne.
Sự nghiệp thi đấu
Manchester City
Alleyne có trận ra mắt cho đội U-18 Southampton trong mùa giải 2020–21 khi mới 15 tuổi. Anh rời học viện Southampton để gia nhập Manchester City vào năm 2021 với mức phí 1,5 triệu bảng. Anh ký hợp đồng chuyên nghiệp đầu tiên với City vào tháng 7 năm 2022.
Anh được đưa vào đội 1 Manchester City vào ngày 14 tháng 12 năm 2023, có tên trong băng ghế dự bị trong trận thắng 3-2 trước Sao Đỏ Beograd tại UEFA Champions League.
Sự nghiệp quốc tế
Là một cầu thủ đại diện cho Anh trên đấu trường quốc tế, anh cũng đủ điều kiện để chơi cho Barbados.
Phong cách thi đấu
Alleyne thi đấu ở vị trí trung vệ.
Danh hiệu
Manchester City
FIFA Club World Cup: 2023
Tham khảo
Sinh năm 2005
Nhân vật còn sống
Trung vệ bóng đá
Hậu vệ bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Anh
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh |
19853472 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202023 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 ở Santiago, Chile được tổ chức từ ngày 25 tháng 10 đến ngày 4 tháng 11 năm 2023. Đây là giải đấu thứ 15 của nội dung thi đấu khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ. Tổng cộng có tám đội nam và tám đội nữ (mỗi đội có tối đa 16 vận động viên) tranh tài ở mỗi giải đấu. Các trận đấu được diễn ra tại Trung tâm Huấn luyện Khúc côn cầu trên cỏ, nằm trong cụm Công viên Sân vận động Quốc gia ở Santiago.
Đội giành chiến thắng trong mỗi giải đấu đủ điều kiện tham dự Thế vận hội Mùa hè 2024 ở Paris, Pháp.
Vòng loại
Tổng cộng có tám đội nam và nữ đủ điều kiện tham dự giải đấu. Nước chủ nhà Chile tự động giành quyền tham dự cả hai giải đấu. Hai đội đứng đầu tại Đại hội Thể thao Trung Mỹ và Caribe 2023 và Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2022 cũng đủ điều kiện tham dự. Ba đội đứng đầu chưa vượt qua vòng loại tại Cúp Liên châu Mỹ Nam và Nữ 2022 (sau khi tính kết quả của hai giải đấu trên) cũng đủ tiêu chuẩn. Nếu Canada và/hoặc Hoa Kỳ vẫn chưa vượt qua vòng loại, trận đấu play-off giữa các quốc gia và đội xếp thứ ba tại Cúp Liên châu Mỹ sẽ diễn ra. Nếu cả hai quốc gia đều vượt qua vòng loại, trận đấu loại trực tiếp là không cần thiết và đội có thành tích tốt nhất kế tiếp hai đội đứng đầu tại mỗi Cúp Liên châu Mỹ (chưa vượt qua vòng loại) cũng sẽ vượt qua vòng loại.
Tóm tắt
Vòng loại Nam
Chile lọt vào top hai tại Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2022, nghĩa là số lượng quốc gia mà nước chủ nhà được phân bổ lại như một số lượng suất tham dự bổ sung thông qua Cúp Liên châu Mỹ 2022.
Vì Canada và Hoa Kỳ đã vượt qua vòng loại Cúp Liên châu Mỹ nên một suất bổ sung đã có sẵn thông qua giải đấu này.
Vòng loại Nữ
Chile lọt vào top hai tại Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2022, nghĩa là số lượng quốc gia mà nước chủ nhà được phân bổ lại như một số lượng suất tham dự bổ sung thông qua Cúp Liên châu Mỹ 2022.
Vì Canada và Hoa Kỳ đã vượt qua vòng loại Cúp Liên châu Mỹ nên một suất bổ sung đã có sẵn thông qua giải đấu này.
Tóm tắt huy chương
Bảng tổng sắp huy chương
Danh sách huy chương
Xem thêm
Khúc côn cầu trên cỏ tại Thế vận hội Mùa hè 2024
Liên kết ngoài
Results book
Tham khảo
Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023
Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023
Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ
Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 |
19853476 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nucleus%20RTOS | Nucleus RTOS | Nucleus RTOS là hệ điều hành thời gian thực (RTOS) được sản xuất bởi Bộ phận Phần mềm nhúng của Mentor Graphics, một doanh nghiệp con của Siemens, và hỗ trợ nền tảng hệ thống nhúng 32- và 64-bit. Hệ điều hành (OS) này được thiết kế cho các hệ thống nhúng thời gian thực để sử dụng trong các ngành y tế, công nghiệp, tiêu dùng, hàng không vũ trụ và Internet vạn vật (IoT). Nucleus được phát hành lần đầu tiên vào năm 1993. Phiên bản mới nhất là 3.x và bao gồm các tính năng như quản lý năng lượng, mô hình quy trình, hỗ trợ 64-bit, chứng nhận an toàn và hỗ trợ hệ thống đa lõi điện toán không đồng nhất trên bộ xử lý chip (SOC).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hệ điều hành nhúng |
19853486 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kh%C3%BAc%20c%C3%B4n%20c%E1%BA%A7u%20tr%C3%AAn%20c%E1%BB%8F%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20Li%C3%AAn%20ch%C3%A2u%20M%E1%BB%B9%202023%20%E2%80%93%20Gi%E1%BA%A3i%20%C4%91%E1%BA%A5u%20N%E1%BB%AF | Khúc côn cầu trên cỏ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023 – Giải đấu Nữ | The women's field hockey tournament at the 2023 Pan American Games was the 10th edition of the field hockey event for women at the Pan American Games. It took place over a ten-day period beginning on 26 October, and culminating with the medal finals on 4 November.
The defending champions Argentina won their eighth title by defeating the United States 2–1 in the final. The hosts Chile won the bronze medal by defeating Canada 2–0. As winners, Argentina qualified directly for the 2024 Summer Olympics in Paris, France.
Vòng loại
Tổng cộng có tám đội vượt qua vòng loại để tranh tài tại giải đấu. Với tư cách là nước chủ nhà, Chile tự động vượt qua vòng loại và tham dự giải đấu. Hai đội đứng đầu tại Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2022 và Đại hội Thể thao Trung Mỹ và Caribe 2023 cũng đã vượt qua vòng loại. Số suất tham dự còn lại đến từ Cúp Liên châu Mỹ 2022. Khi Chile lọt vào top hai tại Đại hội Thể thao Nam Mỹ 2022, số đội vượt qua vòng loại đã được thêm vào Cúp Liên châu Mỹ 2022, nghĩa là bốn đội đủ điều kiện tham dự giải đấu. Nếu Canada và/hoặc Hoa Kỳ vẫn không vượt qua được vòng loại, một trận play-off giữa các quốc gia và đội xếp thứ ba tại Cúp Liên châu Mỹ sẽ diễn ra. Vì cả hai quốc gia đều vượt qua vòng loại nên trận play-off là không cần thiết và đội có thành tích tốt nhất kế tiếp tại Cúp Liên châu Mỹ (chưa vượt qua vòng loại) sẽ đủ điều kiện. Vào ngày 13 tháng 7 năm 2023, Liên đoàn Khúc côn cầu Liên châu Mỹ đã công bố các đội và bảng đấu đủ điều kiện tham gia giải đấu.
Các đội vượt qua vòng loại
Đội hình
Vòng sơ loại
Tất cả các giờ đều là giờ địa phương (UTC−4).
Bảng A
Bảng B
Phân loại thứ hạng năm đến tám
Sơ đồ
Cross-overs
Thứ hạng bảy và tám
Thứ hạng năm và sáu
Vòng tranh huy chương
Sơ đồ
Bán kết
Tranh huy chương đồng
Tranh huy chương vàng
Thống kê
Bảng xếp hạng cuối cùng
Cầu thủ ghi bàn
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Liên đoàn Khúc côn cầu Liên châu Mỹ
Tham khảo
Nữ
Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ
2023
Nội dung thi đâu nữ tại Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023
Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ 2023
Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ |
19853492 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A0y%20%C4%91%E1%BA%BF%20xu%E1%BB%93ng | Giày đế xuồng | Giày đế xuồng là giày và ủng có đế ở dạng nêm, sao cho một mảnh vật liệu, thường là cao su, đóng vai trò vừa là đế vừa là gót.
Thiết kế này có từ thời Hy Lạp cổ đại. Các diễn viên Hy Lạp thường mang những đôi giày này để biểu thị địa vị. Những điều này rất quan trọng để khán giả có thể xác định ai là người quan trọng trong các vở kịch trên sân khấu. Theo Trung tâm Kennedy, "các diễn viên bi kịch sẽ đi những đôi giày được gọi là 'buskins', hay giày đế cao, để tượng trưng cho sự vượt trội của họ so với các diễn viên truyện tranh, những người sẽ đi tất trơn."
Dành cho phụ nữ
Giày đế xuồng dành cho phụ nữ phổ biến hơn và thường có đế ở phía sau dày hơn nhiều so với phía trước, khiến chúng trở thành bốt hoặc giày cao gót. Giày đế xuồng dành cho phụ nữ được phổ biến rộng rãi bởi Salvatore Ferragamo, người đã giới thiệu thiết kế này tới thị trường Ý vào cuối những năm 1930. Sự phát triển của giày đế xuồng ngày càng trở nên sặc sỡ và táo bạo trong suốt những năm 1970-1990.
Dành cho nam giới
Giày bốt đế xuồng nam thường có gót thấp. Những đôi bốt nam loại này trở nên phổ biến trong những năm 1970.
Một số dạng bốt đế xuồng, có đế dày trong suốt.
Có rất nhiều kiểu dáng có sẵn trong danh mục giày đế xuồng, các kiểu phổ biến nhất là đế xuồng thấp, đế xuồng dây chữ T, đế xuồng dây đeo mắt cá chân, đế xuồng nền tảng và đế xuồng kín ngón chân.
Thời trang cao cấp
Trong thế giới thời trang cao cấp, Ferragamo đã phát minh ra giày đế xuồng vào những năm 1940 do các lệnh trừng phạt kinh tế chống lại Ý. Ferragamo không còn đủ khả năng mua thép để làm giày cao gót truyền thống. Ông đã thử nghiệm với những mảnh nút chai Sardinia. Được dán và cắt tỉa cho đến khi toàn bộ khoảng trống giữa đế và gót trở nên chắc chắn.
Tham khảo
Thư mục
Thời trang thập niên 1970
Thời trang thập niên 2000
Thời trang thập niên 2010 |
19853512 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hugo%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29 | Hugo (định hướng) | Hugo hoặc HUGO có thể đề cập đến:
Nghệ thuật và giải trí
Hugo (phim), phim điện ảnh năm 2011 của đạo diễn Martin Scorsese
Giải thưởng Hugo, một giải thưởng khoa học viễn tưởng và giả tưởng mang tên Hugo Gernsback
Hugo (nhượng quyền thương mại), nhượng quyền truyền thông dành cho trẻ em dựa trên một chú quỷ lùn
Hugo (chương trình truyền hình), một chương trình truyền hình được chiếu lần đầu từ năm 1990 đến năm 1995
Hugo (trò chơi điện tử), một số trò chơi điện tử được phát hành từ năm 1991 đến năm 2000
Hugo (album), album năm 2022 của Loyle Carner
Danh nhân và nhân vật hư cấu
Victor Hugo, một nhà thơ, tiểu thuyết gia và nhà viết kịch người Pháp thuộc phong trào Lãng mạn.
Hugo (tên), bao gồm danh sách những người có tên hoặc họ là Hugo cũng như các nhân vật hư cấu
Hugo (nhạc sĩ), diễn viên kiêm ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ gốc Thái Chula Chak Charvannagesh (s. 1981)
Hugo (cầu thủ bóng đá, sinh 1964), cầu thủ bóng đá người Brasil
Hugo (cầu thủ bóng đá, sinh 1974), cầu thủ bóng đá người Brasil
Hugo (cầu thủ bóng đá, sinh 1976), cầu thủ bóng đá người Bồ Đào Nha
Hugo (cầu thủ bóng đá, sinh 1980), cầu thủ bóng đá người Brasil
Hugo (cầu thủ bóng đá, sinh 1983), cầu thủ bóng đá người Brasil
Hugo Cabral (sinh 1988), cầu thủ bóng đá người Brasil
Hugo (cầu thủ bóng đá, sinh 1997), cầu thủ bóng đá người Brasil
Hugo (cầu thủ bóng đá, sinh 2001), cầu thủ bóng đá người Brasil
Các địa điểm ở Hoa Kỳ
Hugo, Alabama, một cộng đồng chưa hợp nhất
Hugo, Colorado, một thị trấn theo luật định
Hugo, Minnesota, một thị trấn
Hugo, Missouri, một cộng đồng chưa hợp nhất
Hugo, Oklahoma, một thành phố
Hugo, Oregon, khu vực chưa hợp nhất
Hugo, West Virginia, một cộng đồng chưa hợp nhất
HUGO
HUGO (hệ thống cáp), cáp viễn thông ngầm
Human Genome Organization
HUGO Gene Nomenclature Committee (HGNC), thường (không chính xác) được gọi là "HUGO."
Hawaiian Underwater Geological Observatory - xem Kama'ehuakanaloa Seamount
Công dụng khác
Hugo (linh vật), linh vật của đội Charlotte Hornets
Hugo (phần mềm), một trình tạo trang tĩnh
2106 Hugo, một tiểu hành tinh được đặt theo tên của nhà văn người Pháp Victor Hugo
Hugo (miệng núi lửa), một miệng núi lửa trên Sao Thủy
Hugo's, một chuỗi cửa hàng tạp hóa ở Hoa Kỳ
Bão Hugo, một cơn bão vào tháng 9 năm 1989
HU-GO, một chiếc xe điện được sản xuất tại Đại học Hafertepe, Thổ Nhĩ Kỳ
Hugo (cocktail), đồ uống
Xem thêm
Hugh (định hướng)
Hughes (định hướng)
Hugues, một cái tên nhất định
Huw, một cái tên nhất định
Ugo (định hướng) |
19853518 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%8Bnh%20danh%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD | Định danh điện tử | Định danh điện tử là việc xác định danh tính một người mà không cần người đó phải xuất trình giấy tờ tùy thân, thông qua ứng dụng công nghệ để định danh họ trên môi trường điện tử. Thông thường có 2 hình thức định danh điện tử phổ biến là định danh bằng căn cước điện tử và định danh bằng ứng dụng trên thiết bị di động.
Tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/2022/NĐ-CP quy định về định danh và xác thực điện tử vào ngày 05/9/2022. Trong đó, Khoản 3 Điều 3 quy định:
“Định danh điện tử là hoạt động đăng ký, đối soát, tạo lập và gắn danh tính điện tử với chủ thể danh tính điện tử.”
Định danh điện tử bằng căn cước điện tử
Hình thức này đã được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, điển hình như: Estonia, Malaysia, Trung Quốc, Ấn Độ…
Tại Việt Nam
Công dân được định danh qua thẻ căn cước công dân, đến ngày 01/7/2024 là thẻ căn cước.
Định danh điện tử bằng ứng dụng trên thiết bị di động
Tại một số nước
Ở Estonia, cho ra đời ứng dụng trên thiết bị di động có tên Mobile-ID và Smart-ID cho phép định danh và xác thực giao dịch trực tuyến, với Mobile-ID thì người dùng cần sử dụng thẻ sim do nhà mạng cung cấp, còn với Smart-ID thì chỉ cần có mạng wifi là có thể sử dụng được.
Ở Trung Quốc, Alipay chính là ứng dụng trên thiết bị di động dùng để thí điểm cấp căn cước số được nước này phát triển vào năm 2018.
Tại Việt Nam
Bộ Công an cũng tạo lập một ứng dụng trên thiết bị di động có tên VNeID để định danh và xác thực điện tử.
Trong đó, Khoản 12 Điều 3 Nghị định 59/2022/NĐ-CP giải thích rõ:
“VNeID là ứng dụng trên thiết bị số; “dinhdanhdientu.gov.vn”, “vneid.gov.vn” là trang thông tin định danh điện tử do Bộ Công an tạo lập, phát triển để phục vụ hoạt động định danh điện tử và xác thực điện tử trong giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ hành chính công và các giao dịch khác trên môi trường điện tử; phát triển các tiện ích để phục vụ cơ quan, tổ chức, cá nhân.”
Theo đó, ứng dụng này có 5 tính năng cơ bản: tích hợp giấy tờ cá nhân, khai báo y tế, đăng ký cư trú, hỗ trợ giao dịch trực tuyến, tố giác tội phạm. Với 2 mức độ như sau:
Mức độ 1, bao gồm những thông tin quy định tại khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 7 Nghị định 59/2022/NĐ-CP như sau:
“Thông tin cá nhân: số định danh cá nhân; họ, chữ đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính.
Thông tin sinh trắc học: Ảnh chân dung.”
Mức độ 2, bao gồm những thông tin quy định tại Điều 7 hoặc Điều 8 Nghị định 59/2022/NĐ-CP như sau:
“Danh tính điện tử công dân Việt Nam gồm:
Thông tin cá nhân: số định danh cá nhân; họ, chữ đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính.
Thông tin sinh trắc học: Ảnh chân dung, vân tay.
Danh tính điện tử người nước ngoài bao gồm:
Thông tin cá nhân: số định danh cá nhân; họ, chữ đệm và tên; ngày, tháng, năm sinh; giới tính; quốc tịch; Số, ký hiệu, ngày, tháng, năm, loại giấy tờ và nơi cấp hộ chiếu hoặc giấy tờ có giá trị đi lại quốc tế.
Thông tin sinh trắc học: Ảnh chân dung, vân tay.”
Lưu ý: Mức độ 1 có thể đăng ký tại nhà thông qua ứng dụng VNeID, còn với mức độ 2 thì bắt buộc phải đăng ký tại cơ quan công an.
Hiện không bắt buộc người dân phải đăng ký, sử dụng ứng dụng này.
Chú thích
Nhận dạng cá nhân
Định danh điện tử |
19853521 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Exallias%20brevis | Exallias brevis | Exallias brevis là loài cá biển duy nhất thuộc chi Exallias trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1868.
Từ nguyên
Tên chi được Latinh hóa từ éxallos (έξαλλος) trong tiếng Hy Lạp cổ đại với nghĩa là “khác thường”, hàm ý có lẽ đề cập đến sự khác biệt của loài này với chi gốc Salarias. Tính từ định danh brevis trong tiếng Latinh có nghĩa là “nhỏ bé, ngắn gọn”, hàm ý có lẽ đề cập đến phần thân của loài cá này ngắn hơn và sâu hơn (tính từ lưng đến bụng) so với các loài Salarias khác.
Phân bố và môi trường sống
Từ Biển Đỏ dọc theo Đông Phi, E. brevis có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Hawaii, quần đảo Marquises và đảo Henderson (quần đảo Pitcairn), ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu và quần đảo Ogasawara, xa về phía nam đến Nam Phi, Úc và đảo Rapa Iti. Ở Việt Nam, E. brevis được ghi nhận tại cồn Cỏ (Quảng Trị), cù lao Chàm (Quảng Nam), đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), cù lao Câu (Bình Thuận).
E. brevis sống trên các rạn san hô, độ sâu đến ít nhất là 21 m.
Mô tả
Tổng chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở E. brevis là 14,5 cm. Loài này có một xúc tu phân nhánh phía trên mỗi mắt. Cá cái và cá con bao phủ khắp cơ thể bởi những đốm nâu, trong khi cá đực chỉ có đốm nâu trên đầu và đốm đỏ ở phần thân còn lại. Cá đực cũng có vây lưng và vây đuôi màu đỏ.
Số gai vây lưng: 12; Số tia vây lưng: 12–13; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 14–15.
Sinh thái
Trứng của E. brevis có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ.
E. brevis thường được tìm thấy trong các loài san hô như Acropora, Pocillopora, Seriatopora, Porites và Millepora, cũng là nguồn thức ăn của chúng. Cá đực chuẩn bị làm tổ bằng cách gặm một lượng lớn các mô san hô. Vết cắn của E. brevis là nguyên nhân gây ra các đốm trắng trên quần thể một số loài san hô ở quần đảo Hawaii và vịnh Aqaba, được gọi là Tẩy trắng đa điểm (Multifocal Bleaching - MFB).
Tham khảo
B
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá biển Đỏ
Cá Israel
Cá Ai Cập
Cá Mozambique
Cá Nam Phi
Cá Comoros
Cá Réunion
Cá Maldives
Cá Việt Nam
Cá Philippines
Cá New Guinea
Cá Nhật Bản
Cá Hawaii
Động vật được mô tả năm 1868 |
19853522 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A0y%20h%E1%BB%9F%20ng%C3%B3n | Giày hở ngón | Giày hở ngón là giày của phụ nữ (thường là court, slingback, bootie hoặc bất kỳ giày công sở nào khác) bên trong có một lỗ mở ở hộp ngón chân để các ngón chân lộ ra ngoài.
Giày hở ngón phổ biến bắt đầu từ thập niên 1940 nhưng đã không còn phổ biến vào thập niên 1960. Giày hở ngón có sự hồi sinh ngắn ngủi vào những năm 1970/80 trước khi trở nên lỗi mốt vào giữa những năm 1990. Gần đây hơn, chúng đã trở nên phổ biến trở lại, với các biến thể như "giày bốt hở ngón" xuất hiện.
Tham khảo
Giày
Thời trang thế kỷ 20
Thời trang thế kỷ 21 |
19853535 | https://vi.wikipedia.org/wiki/UEFA%20Europa%20League%202024%E2%80%9325 | UEFA Europa League 2024–25 | UEFA Europa League 2024–25 sẽ là mùa giải thứ 54 của giải bóng đá câu lạc bộ cấp hai châu Âu do UEFA tổ chức và là mùa giải thứ 16 kể từ khi giải đấu được đổi tên từ UEFA Cup thành UEFA Europa League. Đây sẽ là mùa giải đầu tiên của UEFA Europa League thi đấu theo thể thức mới của hệ thống Thụy Sĩ.
Trận chung kết sẽ diễn ra vào ngày 21 tháng 5 năm 2025 tại sân vận động San Mamés ở Bilbao, Tây Ban Nha. Đội vô địch UEFA Europa League 2024–25 sẽ tự động đủ điều kiện tham gia giai đoạn vòng bảng UEFA Champions League 2025–26 và giành quyền thi đấu với đội vô địch UEFA Champions League 2024–25 trong Siêu cúp UEFA 2025.
Phân bổ các đội bóng
Lịch trình
Lịch trình của giải đấu như sau. Các trận đấu được lên lịch vào thứ Năm, ngoại trừ trận chung kết diễn ra vào thứ Tư, mặc dù ngoại lệ có thể diễn ra vào thứ Ba hoặc thứ Tư do xung đột lịch trình.
Xem thêm
Tham khảo
Liên kết ngoài |
19853540 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Wildflecken | Wildflecken | Wildflecken là một đô thị nằm ở huyện Bad Kissingen, thuộc bang Bayern, Đức.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Lịch sử của Trại Wildflecken
Lịch sử trại tị nạn ở Wildflecken
Trang web của Hội Cựu chiến binh Wildflecken
Tiểu đoàn công binh 54 |
19853568 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nannette%20Streicher | Nannette Streicher | Nannette Streicher (tên khai sinh là Anna-Maria Stein; 2 tháng 1 năm 1769, Augsburg - 16 tháng 1 năm 1833, Viên) là một nhà chế tạo piano, nhà soạn nhạc, nhà giáo dục âm nhạc và nhà văn người Đức.
Tiểu sử
Nannette là con thứ sáu của nhà chế tạo đại phong cầm và piano Johann Andreas Stein ở Augsburg (1728–1792) – người đã sáng lập nên một đế chế đàn piano lớn mạnh và vĩ đại. Bà nắm quyền lãnh đạo công ty của cha mình vào khoảng năm 1790. Năm 1793 Nannette kết hôn với nhạc sĩ Johann Andreas Streicher (1761–1833) và cùng ông chuyển đến Viên vào năm 1794. Ban đầu bà hợp tác với người em trai ruột mới 16 tuổi của mình là Matthias Andreas Stein (1776-1842). Hai người đặt tên công ty là Geschwister Stein. Vào mùa thu năm 1802, Nannette và em trai tách ra, bà sau đó tiếp tục chế tạo đàn piano với tên mình là Nannette Streicher Stein. Nannette là bạn thân của nhà soạn nhạc Ludwig van Beethoven, ông cũng sở hữu một trong những cây đàn mà bà sản xuất. Công ty tiếp tục hoạt động sau khi Nannette qua đời dưới sự điều hành của con trai bà là Johann Baptist Streicher và sau đó là con trai ông - Emil, sau khi ông qua đời vào năm 1871.
Tham khảo
Đọc thêm
Uta Goebl-Streicher, Jutta Streicher und Michael Ladenburger (eds.). Beethoven and the Viennese piano.
Catalog of the collection of old musical instruments, Part I. Vienna: Kunsthistorisches Museum, 1966.
Women's Conversation Lexikon, Volume 9, 1837, pp. 449–452.
Danh sách đĩa nhạc
Jan Vermeulen. Franz Schubert. Works for fortepiano. Volume 1. Played on the 1826 Nannette Streicher piano.
Amy & Sara Hamann. Beethoven. Piano Duets (Complete). Played on Yamaha disklavier, fortepianos after Stein 1784 and Nannete Streicher 1815. Label: Grand piano
Lambert Orkis. Beethoven. Appassionata. Played on a fortepiano after Nannette Streicher ca 1814-1820 by Thomas and Barbara Wolf. Label: Bridge 9169
Heidi Kommerell. Felix Mendelssohn. Songs without words. Played on a fortepiano Nannette Streicher 1829. Label: Audite.
Fritz Neumeyer, Rolf Junghanns. Diabelli, Weber. Vierhändige Klaviermusik Von Weber Und Diabelli. Played on a fortepiano from Nannette Streicher 1816. Not on label.
Liên kết ngoài
Sinh năm 1769
Mất năm 1833
Nghệ sĩ Áo
Nhạc cổ điển |
19853569 | https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C6%B0u%20Ho%C3%A0n | Lưu Hoàn | Lưu Hoàn ( ) là nhân vật hư cấu xuất hiện trong tiểu thuyết thần thánh và ác quỷ của nhà Minh, " Phong Thần Diễn Nghĩa ", là một đệ tử Triệt Giáo trên đảo Cửu Long và sau đó bị Long Kiết Công Chúa giết chết .
Hành trạng
Lưu Hoàn, một thầy khí công đến từ đảo Cửu Long , đã đốt cháy Tây Kỳ cùng với La Tuyên và sau đó bị Long Kiết Công Chúa giết chết.
Cuốn tiểu thuyết xuất hiện lần đầu ở chương 64, khi La Tuyên nổi lửa để đốt Tây Kỳ, nguyên văn ghi lại: Ân Giao và La Tuyên truyền ra nghinh tiếp, thấy đạo nhân này mọc râu quai nón, mặt vàng, thân thể vạm vỡ. Ân Giao liền mời ngồi và tiếp đãi rất hậu. La Tuyên hỏi đạo sĩ: "Vì sao hiền đệ đến trễ vậy?" Ðạo sĩ đáp: "Tiểu đệ cần luyện thêm một phép nữa cho hoàn bị rồi mới đến đây hiệo lực với sư huynh." Ân Giao hỏi: "Chẳng hay nhị đạo sư danh hiệu là gì?" Ðạo sĩ mới đến đáp: "Bần đạo là Lưu Hoàn ở Cửu Long đảo."
Về sau, khi La Tuyên thất trận ở Tây Kỳ, Lưu Hoàn bị Long Kiết Công Chúa giết chết trên đường chạy trốn. Lưu Hoàn được Khương Tử Nha phong là Tiếp hỏa thiên quân.
Chú thích |
19853570 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Asahi%2C%20Toyama | Asahi, Toyama | là thị trấn thuộc huyện Shimoniikawa, tỉnh Toyama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 11.081 người và mật độ dân số là 49 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 226,3 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Toyama
Kurobe
Nyūzen
Niigata
Itoigawa
Nagano
Hakuba
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Toyama |
19853572 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Takko%2C%20Aomori | Takko, Aomori | là thị trấn thuộc huyện Sannohe, tỉnh Aomori, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 4.968 người và mật độ dân số là 21 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 242 km2.
Tham khảo
Thị trấn của Aomori |
19853573 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Android%2015 | Android 15 | Android 15 (tên mã không chính thức: Vanilla Ice Cream) là phiên bản thứ 15 của hệ điều hành Android, được làm ra bởi Google. Dự kiến sẽ ra mắt một phiên bản mới nhất vào tháng 5 năm 2024 tức Quý 2 năm 2024. Android 15 là phiên bản cập nhật của Android 14, có giao diện và những tính mới cho nhà phát triển và cho những người sử dụng nó. Hiện nay, Google đã cho ra mắt những bản dựng với Android 15 sắp tới.
Tính năng
Làm mới các widget màn hình khóa
Xem thêm
Lịch sử phiên bản Android
Tham khảo
Android (hệ điều hành)
Phần mềm năm 2024 |
19853574 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Cung%20%C4%91i%E1%BB%87n%20X%C3%B4%20vi%E1%BA%BFt | Cung điện Xô viết | Cung điện Xô viết (, Dvorets Sovetov) là một dự án trung tâm hội nghị chính trị từng được lên kế hoạch thế chỗ Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ ở Moskva và đóng vai trò như nơi chủ trì các phiên họp của Xô viết Tối cao. Với chiều rộng và chiều cao , khu đại sảnh của công trình có sức chứa lên tới 20.000 người và một khi được hoàn thiện, cung điện cao sẽ trở thành cấu trúc nhân tạo cao nhất thế giới với thể tích bên trong tương đương thể tích gộp lại của 6 tòa nhà chọc trời cao nhất nước Mỹ.
Tham khảo
Cước chú
Thư mục
Sơ cấp
(2013 reprint)
The definitive official description of the final configuration being built in 1940 and the planned mechanical systems.
Thứ cấp
Note: The 2007 hardcopy Russian edition cites an invalid . Here, the valid code is referenced to the 2013 reprint
Liên kết ngoài
Công trình xây dựng tại Moskva
Văn hóa Liên Xô
Kiến trúc Stalin |
19853576 | https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A1u%20%C4%91i%E1%BB%81u%20C%C3%B4ng%20an | Sáu điều Công an | Sáu điều Công an (), chính thức gọi là Quy định về Tăng cường Công tác An ninh Công cộng trong Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản (), là một chỉ thị được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ban hành ngày 13 tháng 1 năm 1967. Nội dung trong sáu điều này dùng để chỉ đạo những tổ chức của Đảng và Nhà nước thực hiện các bước trừng phạt thành phần phản cách mạng, củng cố chuyên chính vô sản và xác định các hạng "thành viên xấu của xã hội". Đây là một trong những lời biện minh chính thức chính cho cuộc đàn áp hàng triệu người trong Cách mạng Văn hóa. Năm 1979, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hủy bỏ nó sau khi chỉ thị này bị đổ lỗi vì một số lượng lớn các hình phạt bất công và tố cáo sai lầm đi kèm với Cách mạng Văn hóa.
Sáu điều
Chỉ thị này được chia thành sáu điều được đặt tên như vậy. Những điều này là:
Tác động
Sáu điều này vốn nổi tiếng vì được sử dụng trong Cách mạng Văn hóa để bức hại hàng triệu người với những lời tố cáo không có thật là chống đối Mao Chủ tịch hoặc các hoạt động phản cách mạng khác, hoặc đơn giản là sai lầm giai cấp. Chúng từng được Bè lũ Bốn tên lợi dụng hòng trừng phạt những người bất đồng chính kiến và bất kỳ ai khác bị coi là thế lực thù địch. Sau sự sụp đổ của Bè lũ Bốn tên, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bãi bỏ tài liệu này vào ngày 17 tháng 2 năm 1979 và buộc tội Bè lũ Bốn tên và cựu Bộ trưởng Bộ Công an Tạ Phú Trị với nhiều tội danh.
Tham khảo
Cách mạng Văn hóa |
19853577 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%BAc%20Long%20Coffee%20%26%20Tea | Phúc Long Coffee & Tea | Phúc Long Coffee & Tea là một thương hiệu trà và cà phê nổi tiếng tại Việt Nam, được thành lập vào năm 1968 tại Bảo Lộc, Lâm Đồng. Phúc Long cung cấp các sản phẩm trà và cà phê chất lượng cao, kết hợp hương vị truyền thống Việt Nam với phong cách hiện đại và sáng tạo.
Lịch sử
Năm 1968, Phúc Long được ra đời tại cao nguyên chè danh tiếng Bảo Lộc, Lâm Đồng, với kỳ vọng mang đến những sản phẩm trà và cà phê chất lượng.
Vào những năm 80, Phúc Long khai trương ba cửa hàng đầu tiên tại Thành phố Hồ Chí Minh trên đường Lê Văn Sỹ, Trần Hưng Đạo và Mạc Thị Bưởi, nhằm giới thiệu sản phẩm trà và cà phê thuần Việt đến với khách hàng trong nước cũng như quốc tế.
Năm 2000, công ty trách nhiệm hữu hạn Sản Xuất Thương Mại Phúc Long chính thức được thành lập.
Năm 2007, Phúc Long sở hữu đồi chè tại Thái Nguyên và xây dựng nhà máy chế biến trà và cà phê tại Bình Dương, được trang bị nhiều thiết bị và máy móc hiện đại, có chứng nhận HACCP.
Năm 2012, cửa hàng Phúc Long Coffee & Tea tại trung tâm thương mại Crescent Mall Quận 7 ra mắt, đánh dấu việc Phúc Long chính thức mở rộng vào ngành đồ ăn và thức uống với cửa hàng hoạt động theo mô hình tự phục vụ trong không gian hiện đại.
Năm 2015, Phúc Long xây dựng được 10 cửa hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh, từng bước định vị thương hiệu gắn liền với những sản phẩm và thức uống trà và cà phê đậm vị.
Năm 2018, Phúc Long xây dựng nhà máy thứ 2 tại Bình Dương, sở hữu hai đồi chè Thái Nguyên và Bảo Lộc, và mở rộng thương hiệu ra phía Bắc, với cửa hàng đầu tiên tại Hà Nội.
Năm 2022, Phúc Long bắt tay với Masan Group, một tập đoàn kinh tế đa ngành tại Việt Nam, sau khi Masan chi 110 triệu USD để mua 51% cổ phần Phúc Long.
Hình ảnh
Sản phẩm và dịch vụ
Phúc Long cung cấp một loạt các sản phẩm trà và cà phê, bao gồm cả trà đen, trà xanh, trà oolong, cà phê Robusta và Arabica. Họ cũng cung cấp các loại trà trái cây, trà sữa, và các loại cà phê pha chế. Ngoài ra, Phúc Long còn có các sản phẩm liên quan như bánh ngọt, bánh mì sandwich, và các loại đồ ăn nhẹ khác.
Phát triển bền vững
Phúc Long cam kết với việc phát triển bền vững, từ việc chọn lựa nguyên liệu đến quy trình sản xuất. Họ tập trung vào việc cung cấp các sản phẩm chất lượng cao từ các nguồn cung ứng đáng tin cậy, đồng thời cũng chú trọng đến việc bảo vệ môi trường và cộng đồng.
Thành tựu
Phúc Long đã nhận được nhiều giải thưởng và công nhận trong ngành, bao gồm Giải thưởng Chất lượng Quốc gia và Giải thưởng Sản phẩm Vàng. Họ cũng đã được công nhận là một trong những thương hiệu hàng đầu Việt Nam trong lĩnh vực trà và cà phê.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức của Phúc Long Coffee & Tea
Nhãn hiệu cà phê
Công ty cà phê Việt Nam
Quán cà phê
Thương hiệu ẩm thực Việt Nam |
19853578 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hugo%20%28tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%20%C4%91i%E1%BB%87n%20t%E1%BB%AD%29 | Hugo (trò chơi điện tử) | Trò chơi điện tử Hugo đề cập đến hơn chục trò chơi điện tử chuyển thể từ những mùa đầu tiên của chương trình giải trí tương tác Hugo của ITE (Đan Mạch) nằm trong nhượng quyền thương mại Hugo. Từ năm 1992 đến năm 2000, ITE sẽ phát triển và xuất bản nhiều bộ sưu tập khác nhau về các kịch bản khác nhau của một trò chơi cơ bản, cũng như các phiên bản cập nhật sau này của chúng, dành cho một số nền tảng máy tính và console, trong hầu hết các trường hợp chỉ nhắm mục tiêu riêng cho thị trường Châu Âu.
Các phiên bản Hugo cổ điển phát hành từ những năm 1990 là trò chơi hành động gần giống với phiên bản đầu tiên của chương trình trò chơi truyền hình dành cho trẻ em mà chúng dựa trên đó, trong đó người chơi hướng dẫn nhân vật chính là một chú quỷ lùn nhỏ, thân thiện, để điều hướng an toàn qua các môi trường nguy hiểm trong một số minigame đa dạng nhưng đơn giản. Việc hoàn thành một loạt các kịch bản chính nhất định, sau đó là cảnh cuối cùng của trò chơi là Hugo đã giải cứu vợ con mình khỏi một mụ phù thủy độc ác hoặc tìm thấy một kho báu ẩn giấu.
Kể từ năm 2011, Krea Media (Hugo Games/5th Planet Games) đã phát triển một loạt trò chơi di động làm lại một số minigame cổ điển được chuyển thành endless runners. Một loạt trò chơi máy đánh bạc trực tuyến đầy cảm hứng cũng đã được ra mắt từ năm 2016.
Lịch sử
Trò chơi máy tính
Ha trò chơi trên Amiga, Hugo (có tựa ban đầu là Hugo - På Nye Eventyr: Del 1) và phần sau, Hugo 2 (ban đầu là Hugo - På Nye Eventyr: Del 2) được phát hành vào năm 1991 và 1992, được chuyển sang PC vào năm 1992–1993. Chúng được phát hành lại dưới dạng bản tổng hợp năm 1994, Hugo (Hugo På Nye Eventyr), và được chuyển sang PC với tên gọi Hugo (Hugo: Äventyret Går Vidare) vào năm 1995–1996. Cả hai trò chơi đều tương tự như trò chơi truyền hình dành cho trẻ em cùng tên trong đó thí sinh sẽ cố gắng hoàn thành các chuỗi trò chơi để thu thập điểm và tránh chướng ngại vật bằng điện thoại và các trò chơi kết thúc giống hệt trò chơi gốc với những gì được thấy trên TV.
Các bản phát hành PC sau này gồm có Hugo 3 đến Hugo 6, Hugo: Wild River (1998), và các phần tổng hợp cập nhật của chúng Hugo Gold (1998), Hugo Platin (1999) và Hugo XL (1999). Furthermore, several of the releases were partially incorporated into 2000's Hugo - Die Geburtstagsparty and Hugo Safari (both of which were also based on newer Hugo works) and the Hugo Classic Collection (compiling the first titles). Phần sau bao gồm bảy hoặc tám bản phát hành (tùy thuộc vào quốc gia), bao gồm Hugo Classic 1-4 dựa trên loạt gốc (ngoài Hugo Classic 5-6 dựa trên Hugo: Jungle Island).
Trò chơi Console
Hai trò chơi PlayStation sử dụng lại tựa đề Hugo (1998) and Hugo 2 (1999), là những phiên bản làm lại một phần của trò chơi máy tính. Chúng có cùng một kịch bản nhưng có đồ họa và âm thanh được cải tiến (bao gồm các bản nhạc cho từng màn), cộng với hoạt ảnh mở đầu được kết xuất trong trò chơi thứ hai. Ý tưởng ban đầu đầy tham vọng hơn, hứa hẹn "một cốt truyện mới cho Hugo và những kịch bản mới đặc biệt sử dụng cả công nghệ 2D và 3D."
Hugo cũng được Laguna và Infogrames chuyển sang Game Boy với tên gọi Hugo 2 vào năm 1997. Phiên bản này có đồ họa và lối chơi đơn giản hóa và sau đó được chuyển sang Game Boy Color bởi Bit Managers và Infogrames vào năm 1999 với tựa đề Hugo 2½.
Nội dung
Trong câu chuyện thông thường của trò chơi, một phù thủy độc ác tên là Scylla (thường được đặt tên khác nhau ở nhiều quốc gia khác nhau, bao gồm cả Afskylia trong phiên bản gốc của Đan Mạch) đến nhà của gã quỷ lùn Hugo và một lần nữa bắt cóc vợ anh là Hugolina và ba đứa con nhỏ của họ (Rit, Rat và Rut) vì cô cần chúng để làm đẹp một cách kỳ diệu. Hugo phải trải qua một loạt cuộc phiêu lưu mạo hiểm để tiếp cận và giải cứu Hugolina và các con, thậm chí có thể loại bỏ Scylla đáng ghét và độc ác để mang lại hòa bình cho Troll Forest Rừng Quỷ Lùn). Tuy nhiên, mụ phù thủy đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho Hugo khi bà theo dõi sự tiến bộ của anh thông qua quả cầu pha lê và sử dụng phép thuật để ngăn chặn anh, trước đó đã đặt đủ loại bẫy quanh co trên nhiều con đường khác nhau dẫn đến một trong những "hang đầu lâu" của cô. Điển hình là khi Hugo đến được nơi ẩn náu của Scylla, mụ phù thủy sẽ đích thân gặp quỷ lùn với niềm tin rằng hắn không thể thắng và giờ cô phải bị đánh bại bằng cách này hay cách khác để thực sự kết thúc trò chơi. Một số phiên bản còn có các đoạn kết thúc thay thế thậm chí có thể không có Scylla.
Bản phát hành PlayStation Hugo 2 độc đáo ở phần cốt chuyện của trò chơi tiếp tục từ nơi phần đầu tiên sau khi rời đi, nơi gia đình của Hugo đã được giải cứu nhưng ác nhân Scylla đã bỏ trốn và giờ quay lại để trả thù. Khi Hugo đang trở về nhà trên một chiếc máy bay cũ cùng những người thân yêu của mình sau lễ kỷ niệm, Scylla bay đến lâu đài chính của cô, nơi cô làm phép thuật để có được sức mạnh trên các đám mây để bắt Hugolina một lần nữa và phá hủy máy bay. Các con của Hugo đều nhảy dù xuống trước khi máy bay của anh rơi xuống vùng núi tuyết. Một lần nữa, Hugo cần phải vượt qua nhiều mối nguy hiểm đang rình rập trước mắt để cứu vợ anh thoát khỏi tay Scylla, kẻ luôn dùng mọi phép thuật xảo quyệt và đen tối của mình để ngăn cản anh. Lần này, trước tiên anh cũng cần phải tìm ba đứa con mất tích của mình trên đường đi.
Phiên bản di động Hugo 2/Hugo 2½ cũng rất đặc biệt vì Scylla đã tự mình bắt được Hugo và anh phải trốn thoát khỏi cô ta và đoàn tụ với Hugolina.
Lối chơi
Người chơi phải hoàn thành một số minigame bao gồm các sự kiện thời gian nhanh lặp lại, các phần giải đố đơn giản và đoán. Hầu hết trong số đó sử dụng đồ họa 2D hoặc 2.5D và có nhân vật Hugo được điều khiển bằng bàn phím hoặc cần điều khiển khi Hugo sử dụng nhiều phương tiện di chuyển khác nhau để vượt qua các cấp độ. Hugo thường sẽ bắt đầu mỗi phần chơi với ba mạng sống, với một cảnh cắt cảnh có liên quan khi bất kỳ mạng sống nào bị mất. Trong trò chơi, Hugo (lồng tiếng Đan Mạch bởi Michael Brockdorf và tiếng Đức bởi Michael Habeck, Oliver Grimm và Oliver Baier) và Scylla (lồng tiếng Đan Mạch bởi Winnie Engell và bằng tiếng Đức bởi Karin Kernke) giao tiếp với người chơi bằng giọng nói số hóa, đồng thời có thể đập (hoặc làm xước) màn hình từ bên trong, làm vỡ bức tường thứ tư.
Các minigame
Theo thứ tự phát hành:
"Labyrinth": Hugo phải tìm đường đi qua một mê cung dưới lòng đất, tránh thuốc nổ và các toa xe được khai thác trước khi hộp TNT phá hủy mê cung. Hoàn thành phần chính, Hugo sẽ phải băng qua một cây cầu treo nguy hiểm trước khi đối mặt với ba cánh cửa, một trong số đó dẫn đến phòng chứa kho báu. Xuất hiện lần đầu trong Skærmtrolden Hugo (trò chơi Hugo gốc được phát hành cho Commodore 64, Amiga và DOS vào năm 1990-1991), và sau đó được sử dụng lại trong Hugo Gold, Hugo Die Geburtstagsparty, và ở dạng làm lại trong Hugo Retro Mania.
"Handcar" (hay "Train"): Hugo tìm thấy dấu vết cũ dẫn tới hang ổ của Scylla. Người chơi giúp con troll và xe tay của nó đến đích bằng cách thay đổi đường ray, né tránh đầu máy hơi nước đang lao tới và thu thập túi vàng. Được giới thiệu trong Hugo - På Nye Eventyr và Hugo I/II (PC), Hugo Gold, Hugo XL, Hugo Die Geburtstagsparty, Hugo Classic 1 (PC), Hugo (PlayStation) và ở dạng làm lại trong Hugo Troll Race.
"Plane": Hugo bay máy bay hai tầng cánh vượt qua cơn giông bão dữ dội do Scylla triệu tập về phía hang ổ của cô, tránh những đám mây sét và bóng bay mang bom trong khi thu thập vàng. Đã được giới thiệu trong Hugo - På Nye Eventyr Del 2 và Hugo I/II (PC), và được làm lại cho Hugo Gold, Hugo XL, Hugo Safari, Hugo Classic 1 và Hugo (PlayStation). Cũng được giới thiệu dưới dạng làm lại trong Hugo: The Magic Journey.
"Forest": Hugo chu du trong rừng để tìm kiếm nơi ẩn náu của Scylla trong khi tránh những cái bẫy do Scylla giăng ra, một kẻ nào đó cũng gửi một đám mây bão bao trùm khu rừng khi cô phát hiện ra rằng Hugo đang trên đường đến (toàn bộ khu rừng trở nên tối tăm và xấu xa). Được giới thiệu trong Hugo - På Nye Eventyr Del 2 và Hugo I/II (PC), Hugo Gold, Hugo XL, Hugo Classic 1 và Hugo (PlayStation). Được làm lại cho Hugo Rainforest với tất cả đồ họa mới và các chướng ngại vật khác nhau (tương tự như trong Swamp), đồng thời cuộn sang trái và không phải. Phiên bản này cũng được đưa vào Hugo Classic 4.
"Mountaineering" (hay "Mountain"): Hugo chạy vòng quanh một ngọn núi trên con đường vách đá dẫn đến hang ổ của Scylla trên đỉnh núi trong khi né những tảng đá và vực sâu khổng lồ và cố gắng thu thập những túi vàng. Được giới thiệu trong Hugo - På Nye Eventyr, Hugo I/II (PC), Hugo Gold, Hugo XL, Hugo Safari, Hugo Cổ điển 1 và Hugo (PlayStation).
"Minetrack": Scylla ẩn náu trong một khu mỏ bỏ hoang và Hugo lao xuống hầm mỏ để tìm lối vào hang ổ của cô, tránh chướng ngại vật ở phía trên đường hầm và hành lang và thu thập vàng. Được giới thiệu trong Hugo 6, Hugo Die Geburtstagsparty, Hugo Classic 4 và Hugo 2 (PlayStation).
"Scuba": Hugo lặn qua sông, tránh các sinh vật dưới nước và thu thập các rương kho báu. Hugo phải tiếp tục nổi lên để bổ sung không khí và luôn rẽ đúng hướng để tránh thác nước. Đã được giới thiệu trong Hugo 3, Hugo Gold, Hugo XL và Hugo (PlayStation).
"Ice Cavern": Hugo đã tìm thấy một lối vào bí mật phía sau hang ổ của Scylla, nhưng trước tiên anh cần phải vượt qua một vực sâu lớn bằng cách nhảy qua những cột băng đang di chuyển trong khi thu thập ba vật phẩm ma thuật, thứ tự của chúng phải được ghi nhớ chính xác để mở cánh cửa khi đến được nó. Hugo cũng cần phải liên tục di chuyển để tránh các bẫy được kích hoạt. Đã được giới thiệu trong Hugo 3 (PC), Hugo Gold, Hugo 2 (PlayStation), Hugo Platin và Hugo The Birthday Party.
"Lumberjack": Hugo trôi xuôi dòng trên những khúc gỗ trôi nổi, nhảy giữa những khúc gỗ để tránh cành cây và thu thập bao tải vàng. Nếu Hugo đứng trên khúc gỗ quá lâu sẽ mất thăng bằng. Đã được giới thiệu trong Hugo 3, Hugo Gold, Hugo XL và Hugo (PlayStation).
"Skateboard": Hugo trượt xuống một nửa ống bằng gỗ trong khi tránh những tảng đá, hố cầu và đập hải ly, đồng thời thu thập các túi vàng. Đã được giới thiệu trong Hugo 3, Hugo Gold, Hugo XL, Hugo Die Geburtstagsparty và Hugo (PlayStation). Cũng được làm lại hoàn toàn cho Hugo Troll Race 2.
"Balloon": Hugo lái một khinh khí cầu lao xuống hẻm núi sông đến nơi ẩn náu của Scylla trong khi tránh chướng ngại vật. Khi khinh khí cầu của mình bị thủng, Hugo phải hạ cánh khẩn cấp xuống đáy khe núi mà không chạm vào vách đá. Đã được giới thiệu trong Hugo 4, Hugo Platin và Hugo Classic 2 (PC).
"Dolmen Cave": Một kịch bản "Mê cung" được sửa đổi trong đó Hugo điều hướng một mê cung dưới lòng đất bị ma ám để lên đến đỉnh núi và đi vào hang ổ của Scylla từ bên dưới. Người chơi phải nhanh chóng tìm ra con đường phù hợp, tránh mọi nguy hiểm để đến được thang máy trước khi Scylla triệu hồi lũ lụt tràn vào mê cung và nhấn chìm anh. Đã được giới thiệu trong Hugo 4, Hugo Platin, Hugo Die Geburtstagsparty và Hugo Classic 2 (PC).
"Moor" (hay "Swamp"): Hang động của Scylla được bao quanh bởi một đầm lầy ma quái mà Hugo phải tránh các hố bùn và bầy chim trong khi bị một đàn dơi truy đuổi, trước khi giải câu đố để mở cánh cổng dẫn đến nơi ẩn náu của Scylla. Đã được giới thiệu trong Hugo 6, Hugo Classic 4 và Hugo 2 (PlayStation).
"Snowboard": Hugo trượt tuyết xuống một ngọn đồi, đi theo hướng tới hang ổ của Scylla. Thật không may, mụ phù thủy biết kế hoạch của Hugo và đã gây ra một trận tuyết lở, khiến trò chơi thêm đồng hồ tích tắc. Con đường thường bị chia cắt, để lại một số ngõ cụt và đi qua những con dốc nhanh và chậm khi Hugo đu người trên ván trượt tuyết của mình để tránh những quả bóng tuyết khổng lồ và thu thập vàng. Đã được giới thiệu trong Hugo 4, sau đó được làm lại hai lần, lần đầu cho cả Hugo Platin và Hugo Classic 2, sau đó là cho Hugo 2 (PlayStation).
"Nimbus" (hay "Motoracer"): Hugo lái một chiếc mô tô Nimbus, Hugo điều hướng một con đường núi cũ dẫn đến một hang ổ khác của Scylla, né dê, ổ gà, đá và các chướng ngại vật khác. Người chơi phải vừa thu thập xăng vừa theo dõi bản đồ và chỉ đạo cho Hugo. Đã được giới thiệu trong Hugo 4, Hugo Platin, Hugo Die Geburtstagsparty và Hugo Classic 2. Đây cũng là một trong những minigame bị cắt giảm từ Hugo 2 cho PlayStation.
"Parachute": Hugo được phóng từ máy ném đá để nhảy dù xuống hang ổ của Scylla trên một hòn đảo nhỏ, né tránh bầy chim, bóng bay mang bom và mây bão trong khi thu thập túi vàng. Đã được giới thiệu trong Hugo 5, Hugo Platin và Hugo Classic 3 (PC). Đây cũng là một trong những minigame bị cắt giảm từ Hugo 2 cho PlayStation.
"Sledge": Hugo trượt xuống một ngọn đồi, tránh thuốc nổ, chim, người tuyết và quả bóng tuyết trong khi thu thập túi vàng. Đã được giới thiệu trong Hugo 5, Hugo Platin, Hugo Classic 3 và Hugo 2 (PlayStation).
"Cliffhanger": Hugo leo lên trên sườn núi lửa trong khi tránh những tượng đầu thú bốc lửa, những vụ phun trào dung nham quả cầu lửa và vụ nổ hỗn loạn cũng như thu thập các túi vàng. Anh cũng phải lên tới đỉnh trước khi Scylla bay tới đó. Đã được giới thiệu trong Hugo 5, Hugo Platin, Hugo Die Geburtstagsparty, Hugo Classic 3 và Hugo 2 (PlayStation).
"Log Bridge": Hugo băng qua hẻm núi bằng cách nhảy qua những thân cây có ngọn bằng phẳng và một cây cầu được đặt kỳ lạ trong khi tránh thuốc nổ, hải ly và bẫy thép. Ở rìa đường đua là những con cú và ếch theo thứ tự cụ thể mà người chơi cần phải ghi nhớ. Được giới thiệu trong Hugo 5, Hugo Platin và Hugo Classic 3.
"Rolling Stones": Hugo (chạy về phía màn hình) chạy trốn khỏi những tảng đá khổng lồ, tránh những chướng ngại vật như ngõ cụt, rễ cây và hố dung nham. Nếu Hugo hết thời gian, ngòi nổ do Scylla thắp sáng sẽ chạm tới thùng bột làm nổ tung cầu treo, nhưng trên đường đi anh cũng phải tìm ra manh mối về cách mở cổng vào hang ổ của cô sau khi qua cầu an toàn. Nó được giới thiệu trong Hugo 6 và Hugo Classic 4. It was also one of the cut levels from Hugo 2 for the PlayStation. The scenario was almost completely remade for the end-level boss fights against Scylla in Hugo Troll Race 2.
"Wild River": Hugo cưỡi một chiếc thùng xuôi dòng sông, dẫn thẳng vào một hang ổ khác của Scylla, đồng thời tránh những xoáy nước và những tảng đá. Có những đoạn thác nước mà Hugo phải đóng nắp thùng và hướng mình sang trái hoặc phải, sử dụng bản đồ để tìm đường. Đã được giới thiệu trong Hugo 6, Hugo Die Geburtstagsparty và Hugo Classic 4. Đây cũng là một trong những minigame bị cắt giảm từ Hugo 2 cho PlayStation.
Hugo dành cho PlayStation cũng có kịch bản "Núi lửa" từ Jungle Island dưới dạng một trò chơi nhỏ có phần thưởng ẩn.
Các kết thúc
Nếu người chơi cố gắng hoàn thành cuộc hành trình và về đích, Hugo sẽ tiến tới một trong những trò chơi nhỏ cuối cùng đóng vai trò là trò chơi thưởng thêm:
"Rope" (or "Skull Cave"): Cảnh kết thúc nguyên gốc và thường xuyên nhất của trò chơi thường là Scylla. Cuối cùng, Hugo cũng đến trước mặt mụ phù thủy đang giam giữ gia đình anh trong một cái lồng, và bây giờ anh phải đoán và chọn đúng một trong ba sợi dây để có cơ hội đánh bại Scylla trong một cảnh hoàn toàn dựa vào may mắn. Hai sợi dây sẽ luôn giải thoát gia đình Hugo nhưng lại thay đổi số phận của Scylla. Cô sẽ chạy trốn bằng cách biến mình thành một con đại bàng để bay đi, điều này sẽ nhân đôi số điểm tổng thể, hoặc cuối cùng cô sẽ bị trói một cách kỳ diệu bằng một sợi dây thừng và nhanh chóng lao thẳng ra ngoài cửa sổ từ bệ phóng lò xo, tăng gấp ba lần số điểm trong kết quả tốt nhất (một số phiên bản đưa ra số điểm bổ sung lên tới 2026 điểm thay vì nhân số điểm khi chiến thắng). Tuy nhiên, nếu Hugo chọn hoàn toàn sai, chính anh là người bị trói và phóng ra khỏi hang ổ theo cách tương tự, thất bại nghiêm trọng khiến điểm số của trò chơi không thay đổi. Xuất hiện trong Hugo - På Nye Eventyr, Hugo I/II(PC), Hugo 3, Hugo 4, Hugo 5, Hugo 6, Hugo Gold, Hugo Platin, Hugo XL, Hugo Die Geburtstagsparty, Hugo Safari, Hugo Rainforest, Hugo (PlayStation), và Hugo Classic 1-4, và ở dạng sửa đổi trong Hugo Retro Mania, cũng xuất hiện trong trò chơi đánh bạc trực tuyến Hugo.
"Key": Hugo phải chọn đúng chìa khóa để mở rương kho báu của Scylla. Nếu anh đoán sai hoặc mất quá nhiều thời gian để lựa chọn, một trong hai cái bẫy sẽ kích hoạt và bắt giữ anh. Xuất hiện trong Hugo 3, Hugo 4, Hugo 5, Hugo 6, Hugo Gold, Hugo Platin, Hugo Die Geburtstagsparty, Hugo Safari và Hugo Classic 1-4.
"Lightning Bolt" (hay "Witch"): Hugo phải nhảy qua một bàn cờ lớn để lấy chìa khóa và mở cánh cửa dẫn đến căn phòng kho báu của Scylla trong lâu đài của cô (phòng giam của Hugolina trong trò chơi PlayStation thứ hai), tránh những phép thuật tia sét do Scylla triệu hồi từ ban công phía trên cùng với tất cả những người còn lại và mạng sống còn lại từ trò chơi chính theo ý của anh. Một số phiên bản bao gồm giới hạn thời gian dưới dạng bom nổ, một số khác có túi vàng để tùy ý thu thập. Xuất hiện trong Hugo 3, Hugo 4, Hugo 5, Hugo 6, Hugo Gold, Hugo Platin, Hugo Die Geburtstagsparty, Hugo Safari, Hugo 2 (PlayStation) và Hugo Classic 1-4.
Một số trò chơi có các minigame cuối cùng thay thế không diễn ra trong hang ổ của Scylla:
"Apple Harvest": Sau cuộc chạm trán với hình ảnh ba chiều Scylla, hai đứa con của Hugo ném táo từ trên cây trong khi Hugo cố gắng bắt đủ táo vào giỏ để làm nước trái cây. Xuất hiện trong Hugo Platin.
"Magic Hands": Một trò chơi đoán mò trong đó người chơi quan sát Rut, một trong những đứa con của Hugo, đặt một hạt dưới một chiếc vỏ và xáo trộn một số vỏ và phải chọn chiếc vỏ có hạt bên dưới. Xuất hiện trong Hugo Platin và Hugo XL và được giấu trong Hugo dành cho PlayStation (người chơi cần hoàn thành trò chơi ở chế độ giải trí, thu thập tất cả tiền thưởng, sau đó hoàn thành thành công phần cuối của Ropes cảnh mà không để Scylla trốn thoát.).
"Fireflies": Kết thúc này chỉ được phát hành cho chương trình truyền hình. Trong trò chơi này, Hugo muốn đọc một cuốn sách về một con đom đóm khi đèn tắt. Sau đó, anh vào rừng để bắt đom đóm. Người chơi cần điều khiển Hugo đến phía bên trái của con đom đóm và thu thập nó bằng lưới của mình, sau đó đưa nó cho hải ly trong chiếc cốc thần kỳ của mình. Khi thời gian kết thúc, người chơi sẽ có kết quả là đã thu thập được bao nhiêu con đom đóm.
Đón nhận
Trò chơi nhận được nhiều đánh giá trái chiều và thường tiêu cực. Theo Francisco Delgada từ tạp chí pcmanía của Tây Ban Nha, tuy Hugo "không phải là một trò chơi tệ", nhưng nó "hơi nhạt nhẽo và lặp đi lặp lại, đặc biệt là vì phiên bản trò chơi điện tử chỉ khác với [trò chơi] truyền hình ở sự khó khăn của nó". Arkadiusz Matczyński từ tạp chí Świat Gier Komputerowych của Ba Lan đã giới thiệu đây là một trò chơi "tuyệt vời" dành cho người dùng Amiga trẻ tuổi, nhưng lưu ý rằng những khán giả trưởng thành hơn có thể nhanh chóng cảm thấy nhàm chán.
Các bài đánh giá về PlayStation thường khắc nghiệt hơn nhiều. Mike Goldsmith từ Arcade đã viết về các bản phát hành PlayStation: "Được quảng cáo là 'thiết kế dành cho trẻ em từ 6 tuổi trở lên, Hugo tốt nhất sẽ trông đơn giản, tệ nhất là trịnh trọng - thật đáng xấu hổ khi xét đến chất lượng của các trò chơi giải trí giáo dục có thể được chuyển từ PC và Mac". Tạp chí Maniac của Đức gọi chúng là một trong những game PlayStation tệ nhất. Năm 2003, PlanetStation trước đó đã cho cả Hugo và Hugo 2 điểm thấp nhất có thể là 1 sao, đã đưa Hugo vào danh sách năm trò chơi tệ nhất trong 50 số tạp chí. Nhìn lại, PlayStation Official Magazine đã liệt kê Hugo, được mô tả là "thứ rác rưởi đẫm máu", đứng đầu danh sách những nhân vật PlayStation tồi tệ nhất. Vào năm 2012, Game Informer đã thực hiện một video cổ điển có phần Phát lại nhằm chế nhạo PlayStation Hugo và Bubsy 3D.
Tuy nhiên, loạt trò chơi đã thành công lớn về mặt thương mại. Trò chơi PC đầu tiên vẫn là trò chơi PC đĩa mềm bán chạy số 1 tại Đức trong một thời gian dài vào năm 1995, kể cả vào tháng 3, tháng 6, tháng 7, tháng 10,PC Games 39 (12/1995), page 124. và năm 1995, cũng như trò chơi trên Amiga 500 bán chạy số 1 vào tháng 9 năm 1996, trong khi Hugo 3 đứng thứ 2 khi ra mắt năm 1996. Trước đây, Hugo là một trong những trò chơi máy tính bán chạy nhất ở Tây Ban Nha vào năm 1992. Vào tháng 8 năm 1998, Hugo 2 dành cho Game Boy đã nhận được giải thưởng doanh số "Vàng" từ Verband der Unterhaltungssoftware Deutschland (VUD), cho thấy doanh số bán hàng ít nhất 100.000 chiếc trên khắp các nước Đức, Áo và Thụy Sĩ. Đây là trò chơi GB bán chạy thứ 2 ở Đức vào tháng 9 năm 1999. Do đó, Hugo Gold đã được vinh danh là Tác phẩm kinh điển của tháng tại Computerspielemuseum Berlin.
Di sản
Phiên bản làm lại của Krea Media
Trò chơi slot trực tuyến
Trò chơi slot trực tuyến Hugo dựa trên trò chơi này được Play'n GO phát triển vào năm 2016 (ở Đan Mạch, được phát hành độc quyền cho RoyalCasino.dk). Câu chuyện của nó liên quan đến việc tìm kiếm kho báu trong hầm mỏ và giải cứu Hugolina khỏi Afskylia/Scylla. Tiếp theo đó là Hugo 2 một phần dựa trên Ice Cavern vào năm 2018. Phần năm 2019, Hugo's Adventure có các yếu tố từ minigame máy bay và dây thừng. Hugo Carts, lấy cảm hứng từ kịch bản đường hầm mỏ nhưng có Hugo và Hugolina hợp tác chống lại Scylla, được phát hành vào năm 2021. Một trò chơi slot khác, Hugo Legacy'' có chủ đề lấy cảm hứng từ đường hầm mỏ cùng với phiên bản mang tính biểu tượng của trò chơi cuối sợi dây, được phát hành vào năm 2023.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hugo (1995), Hugo (1996), Hugo (1998), Hugo 2 (1999), và Hugo 2½ tại MobyGames
Hugo tại Giant Bomb
Amiga Hugo games tại HOL database
Classic Hugo games tại Hugo-Troll.de
Trò chơi điện tử năm 1992
Trò chơi điện tử hành động
Trò chơi Commodore 64
Trò chơi Game Boy Color
Trò chơi PlayStation
Trò chơi trên Windows |
19853582 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20Cristina%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha%20%281854%29 | María Cristina của Tây Ban Nha (1854) | María Cristina của Tây Ban Nha (Madrid, 5 tháng 1 năm 1854 – Madrid, 8 tháng 1 năm 1854) là con gái của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha và Phối vương Francisco de Asís của Tây Ban Nha. Là con gái của quân chủ Tây Ban Nha, María Cristina được hưởng tước hiệu Infanta của Tây Ban Nha.
Tiểu sử
María Cristina được sinh ra tại Cung điện Vương thất Madrid vào ngày 5 tháng 1 năm 1854, tám năm sau khi cha mẹ của Vương nữ kết hôn. Người bác họ của Vương nữ, Carlo Ludovico, từng là Công tước xứ Parma cho đến năm 1849, đã có mặt khi Vương nữ chào đời. María Cristina là người con thứ tư và là con gái thứ hai của Isabel II của Tây Ban Nha và Francisco de Asís của Tây Ban Nha. Isabel và Francisco là anh em họ theo cả họ cha lẫn mẹ, vì cả hai đều là cháu của Carlos IV của Tây Ban Nha và María Luisa của Parma, cũng như của Francesco I của Hai Sicilie và María Isabel của Tây Ban Nha. Vương nữ được đặt tên là María Cristina để vinh danh bà ngoại là Maria Cristina của Hai Sicilie, góa phụ của Fernando VII của Tây Ban Nha và từng là nhiếp chính trong khi Isabel II chưa đủ tuổi để tự cai trị từ năm 1833 đến năm 1840. Trước đó, Isabel II và Francisco đã có hai con trai là Luis Fernando và Fernando Francisco, lần lượt được sinh ra vào năm 1849 và 1850 và một con gái là Isabel được sinh ra vào năm 1851. Mối quan hệ quá gần về mặt huyết thống Vương thất lúc bấy giờ có thể là nguyên nhân khiến María Cristina không có sức khỏe tốt và là lý do tại sao Vương nữ qua đời vào ngày 8 tháng 1 năm 1854, khi chỉ được ba ngày tuổi. Trong những năm tiếp theo, Isabel II sinh thêm được nhiều người con, trong số đó gồm có Alfonso XII, Pilar, Paz và Eulalia của Tây Ban Nha.
Thi thể của Vương nữ được chôn cất tại Pantéon de Infantes của Tu viện San Lorenzo de El Escorial, trong căn phòng thứ sáu, nơi được gọi là lăng mộ của trẻ sơ sinh với dòng văn bia rằng:
Gia phả
Tham khảo
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương nữ
Sinh năm 1854
Mất năm 1854 |
19853583 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Margarita%20Teresa%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha | Margarita Teresa của Tây Ban Nha | Margarita Teresa của Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: Margarita Teresa de España, tiếng Đức: Margarethe Theresia von Spanien; tiếng Anh: Margaret Theresa of Spain; 12 tháng 7 năm 1651 – 12 tháng 3 năm 1673), là Vương nữ Tây Ban Nha, chị gái của Carlos II của Tây Ban Nha, Quốc vương Tây Ban Nha cuối cùng của Vương tộc Habsburgo và là Hoàng hậu La Mã Thần thánh, Vương hậu Hungary và Bohemia thông qua cuộc hôn nhân với Leopold I của Thánh chế La Mã. Margarita Teresa là nhân vật trung tâm trong bức tranh nổi tiếng Las Meninas của Diego Velázquez và là chủ đề trong nhiều bức tranh sau này của ông.
Những năm đầu đời
Margarita Teresa sinh ngày 12 tháng 7 năm 1651 tại Madrid, là con đầu lòng của Felipe IV của Tây Ban Nha và Maria Anna của Áo. Vốn có quan hệ bác cháu, Maria Anna nhỏ hơn chồng 29 tuổi.
Ông bà nội của Margarita là Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo. Ông bà ngoại của Vương nữ là Ferdinand III của Thánh chế La Mã và María Ana của Tây Ban Nha, con gái của ông bà nội Vương nữ.
Cuộc hôn nhân của cha mẹ Margarita Teresa hoàn toàn được dàn xếp vì lý do chính trị, chủ yếu là sinh ra người thừa kế nam mới cho ngai vàng Tây Ban Nha sau khi Baltasar Carlos của Tây Ban Nha qua đời vào năm 1646. Ngoài Baltasar Carlos, người con duy nhất còn sống trong cuộc hôn nhân đầu tiên của Felipe IV là Vương nữ María Teresa, sau này trở thành vợ của Louis XIV của Pháp. Sau khi Margarita chào đời, từ năm 1655 đến năm 1661, bốn người con nữa (một gái và ba trai) được sinh ra từ cuộc hôn nhân giữa Felipe IV và Maria Anna, nhưng chỉ có một người sống sót là Carlos II của Tây Ban Nha.
Mặc dù cha mẹ là họ hàng gần, Margarita không có biểu hiện các vấn đề về sức khỏe và dị tật nghiêm trọng như em trai Carlos. Thời thơ ấu, Margarita Teresa từng bị bệnh nặng nhưng vẫn qua khỏi. Theo ghi nhận đương thời, Margarita có vẻ ngoài cuốn hút và tính cách sôi nổi. Bố mẹ và bạn bè thân thiết gọi Vương nữ là "thiên thần nhỏ". Margarita Teresa lớn lên trong gian phòng riêng của Vương hậu ở Vương thất Alcazar của Madrid, được bao quanh bởi nhiều thị nữ và người hầu. Vương nữ rất thích kẹo và luôn giấu chúng khỏi các bác sĩ có nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe răng miệng cho Margarita Teresa. Cả cha và ông ngoại của Margarita Teresa đều vô cùng yêu thương Vương nữ. Trong những bức thư cá nhân của Felipe IV, Quốc vương đã gọi con gái là "niềm vui của ta". Margarita Teresa được hướng dẫn những quy tắc lễ nghi nghiêm ngặt của triều đình Madrid và nhận được một nền giáo dục tốt.
Đính ước và hôn nhân
Vào nửa sau của những năm 1650, tại triều đình Viên, nhu cầu về một cuộc hôn nhân khác giữa hai nhánh Tây Ban Nha và Áo của Hoàng tộc Habsburg được đưa ra bàn luận. Liên minh giữa hai bên là cần thiết để củng cố vị thế của cả hai quốc gia, đặc biệt là chống lại Vương quốc Pháp. Ban đầu, Vương nữ María Teresa, con gái lớn của Felipe IV, được đề xuất kết hôn với người thừa kế của Thánh chế La Mã là Đại vương công Leopold Ignaz. Nhưng vào năm 1660 và theo các điều khoản của Hiệp ước Pyrenees, María Teresa kết hôn với Quốc vương Pháp Louis XIV. Theo thỏa thuận hôn nhân, María Teresa phải từ bỏ quyền kế vị ngai vàng Tây Ban Nha để đổi lấy một khoản tiền lớn như một phần hồi môn, tuy nhiên số tiền này không bao giờ được chi trả.
Đã có đề nghị về một cuộc hôn nhân giữa Margarita Teresa và Hoàng đế Leopold I (là cậu cũng như là anh họ bên nội của Vương nữ - cha mẹ của Leopold I chính là María Ana của Tây Ban Nha và Ferdinand III của Thánh chế La Mã, tức ông bà ngoại của Margarita Teresa). Tuy nhiên, triều đình Madrid do dự trong việc đồng ý với đề nghị này, vì Vương nữ có thể thừa kế vương miện Tây Ban Nha nếu em trai Carlos qua đời. Bá tước xứ Fuensaldaña, đại sứ Tây Ban Nha tại Pháp, đã đề nghị gả Margarita cho Charles II của Anh. Tuy nhiên, Quốc vương Felipe IV bác bỏ ý tưởng này, trả lời rằng Quốc vương Anh nên tìm vợ ở Pháp.
Vào tháng 10 năm 1662, tân Đại sứ Hoàng gia ở Tây Ban Nha, Bá tước Franz Eusebius xứ Pötting, bắt đầu một trong những nhiệm vụ ngoại giao chính là tổ chức hôn lễ giữa Vương nữ và Hoàng đế. Các cuộc đàm phán của phía Tây Ban Nha do Ramiro Núñez de Guzmán, Công tước xứ Medina de las Torres lo liệu. Vào ngày 6 tháng 4 năm 1663, lễ đính hôn giữa Margarita Teresa và Leopold I cuối cùng được công bố và thỏa thuận hôn nhân được ký kết vào ngày 18 tháng 12. Trước lễ cưới chính thức (theo phong tục, phải diễn ra ở Viên), một bức chân dung khác của Vương nữ được gửi đến để Hoàng đế biết mặt cô dâu của mình.
Ngày 17 tháng 9 năm 1665, Quốc vương Felipe IV qua đời. Trong di chúc của mình, Felipe IV không đề cập đến việc hứa hôn của Margarita Teresa; trên thực tế, dựa trên bối cảnh mà tài liệu được để lại cho thấy rằng vị Quốc vương quá cố vẫn do dự gả con gái cho người họ hàng bên Áo vì Felipe IV muốn tìm cách đảm bảo quyền của con gái với tư cách là người cai trị tiềm năng của Vương quyền Tây Ban Nha trong trường hợp con trai Carlos qua đời:
Maria Anna của Áo, hiện là Thái hậu và là Nhiếp chính của vương quốc đã thay mặt cho con trai Carlos II trì hoãn đám cưới của con gái. Cuộc hôn nhân chỉ được đồng ý sau những nỗ lực ngoại giao căng thẳng từ phía Hoàng đế. Ngày 25 tháng 4 năm 1666, lễ cưới ủy nhiệm cuối cùng đã được tổ chức tại Madrid, trong buổi lễ không chỉ có sự tham dự của Thái hậu Maria Anna, Quốc vương Carlos II và đại sứ Hoàng gia mà còn có cả giới quý tộc địa phương; chú rể được đại diện bởi Antonio de la Cerda, Công tước thứ 7 xứ Medinaceli.
Ngày 28 tháng 4 năm 1666, Margarita Teresa di chuyển từ Madrid đến Viên cùng với đoàn tùy tùng riêng của mình. Vương nữ nghỉ chân vài ngày tại Dénia trước khi lên tàu của hạm đội Vương thất Tây Ban Nha vào ngày 16 tháng 7, lần lượt được hộ tống bởi các tàu của Dòng Chiến sĩ Toàn quyền Malta và Đại công quốc Toscana. Sau một khoảng thời gian ngắn để dừng chân ở Barcelona vì Margarita gặp một số vấn đề về sức khỏe, đoàn tàu đi đến cảng Finale Ligure và đến nơi vào ngày 20 tháng 8. Ở đó, Margarita Teresa được Luis Guzman Ponce de Leon, Thống đốc Milano tiếp đón. Đoàn xe rời Finale vào ngày 1 tháng 9 và đến Milano mười ngày sau đó, mặc dù lễ nhập cảnh chính thức phải đến ngày 15 tháng 9 mới được tổ chức. Sau khi dành gần như toàn bộ tháng 9 ở Milano, Vương nữ tiếp tục hành trình qua Venezia và đến Trento vào đầu tháng 10. Tại mỗi điểm dừng chân, Margarita đều nhận được những lễ chào mừng vinh danh Vương nữ. Ngày 8 tháng 10, đoàn tùy tùng Tây Ban Nha đã đến thành phố Roveredo, nơi người đứng đầu đoàn tùy tùng của Margarita Teresa là Francisco Fernández de la Cueva, Công tước thứ 8 xứ Alburquerque đã chính thức Vương nữ cho Thân vương Ferdinand Joseph xứ Dietrichstein và Bá tước Ernst Adalbert xứ Harrach, Thân vương Giám mục xứ Trent, đại diện của Leopold I. Vào ngày 20 tháng 10, đoàn tùy tùng mới của Áo rời Roveredo, băng qua sông Tirol, qua Carinthia và Styria và đến vào ngày 25 tháng 11 tại quận Schottwien, cách Viên 12 dặm, nơi Hoàng đế đến để đón cô dâu.
Hoàng hậu La Mã thần thánh và Vương hậu Đức
Margarita Teresa chính thức đến Viên vào ngày 5 tháng 12 năm 1666 và Ll cưới chính thức được cử hành bảy ngày sau đó. Lễ hội mừng nhân dịp hôn lễ là một trong những lễ hội lộng lẫy nhất trong thời kỳ Baroque, và kéo dài gần hai năm.
Hoàng đế Leopold I ra lệnh xây dựng một nhà hát ngoài trời gần Burggarten ngày nay, với sức chứa 5.000 người. Nhân dịp sinh nhật của Margarita vào tháng 7 năm 1668, nhà hát đã tổ chức buổi ra mắt vở opera Il pomo d'oro (Quả táo vàng). Vở opera được sáng tác bởi Antonio Cesti, vở opera được người đương thời gọi là "vở kịch của thế kỷ" do tính hoành tráng và chi phí đầu tư cho vở opera. Một năm trước đó, Leopold I đã tổ chức một buổi biểu diễn múa ba lê kết hợp cưỡi ngựa và đích thân cưỡi ngựa Speranza của mình. Do hỗ trợ từ kỹ thuật, vở ballet đã tạo cho khán giả cảm giác như ngựa và xe ngựa đang lơ lửng trên không.
Bất chấp sự chênh lệch về tuổi tác, ngoại hình kém hấp dẫn của Leopold I và vấn đề sức khỏe của Margarita Teresa, theo ghi nhận đương thời, hai vợ chồng đã có một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Hoàng hậu luôn gọi chồng mình là "Cậu" (tiếng Đức: Onkel), và Leopold I gọi vợ là "Gretl" (từ viết tắt tên tiếng Đức của Margarita là Margarethe). Cặp đôi có nhiều sở thích chung, đặc biệt là về nghệ thuật và âm nhạc.
Trong sáu năm chung sống, Margarita Teresa sinh được bốn người con, trong đó chỉ có một người sống qua tuổi ấu thơ:
Ferdinand Wenceslaus Joseph Michael Eleazar (28 tháng 9 năm 1667 – 13 tháng 1 năm 1668), Đại vương công Áo.
Maria Antonia Josepha Benedicta Rosalia Petronella (18 tháng 1 năm 1669 – 24 tháng 12 năm 1692), Nữ Đại vương công Áo, được thừa hưởng quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha của mẹ, kết hôn với Maximilian II xứ Bayern và là mẹ của Joseph Ferdinand của Bayern.
Johann Leopold (sinh và mất ngày 20 tháng 2 năm 1670), Đại vương công Áo.
Maria Anna Josepha Antonia Apollonia Scholastica (9 tháng 2 năm 1672 – 23 tháng 2 năm 1672), Nữ Đại vương công Áo.
Margarita Teresa được cho là đã thúc đẩy chồng trục xuất người Do Thái khỏi Viên vì tin rằng họ phải chịu trách nhiệm về cái chết của con mình. Trong lễ kỷ niệm Corpus Christi năm 1670, Hoàng đế đã ra lệnh phá hủy Hội đường của người Do Thái ở Viên và một nhà thờ được xây dựng trên địa điểm này theo lệnh của Leopold I.
Ngay cả sau khi kết hôn, Margarita Teresa vẫn giữ phong tục và lối sống Tây Ban Nha của mình. Hoàng hậu hầu như chỉ được bao quanh bởi đoàn tùy tùng bản địa của cô (bao gồm các thư ký, cha giải tội và bác sĩ), Hoàng hậu yêu thích nền âm nhạc và ba lê của văn hóa Tây Ban Nha và hầu như ít học được tiếng Đức.
Qua đời
Sức khỏe trở nên suy yếu do sáu lần mang thai trong sáu năm (bao gồm bốn lần sinh con thành công và hai lần sảy thai) và bốn tháng sau lần mang thai thứ bảy, Margarita qua đời vào ngày 12 tháng 3 năm 1673, ở tuổi 21. Hoàng hậu được chôn cất tại Hầm mộ Hoàng gia ở Viên. Chỉ bốn tháng sau, Leopold I - mặc dù rất đau buồn trước cái chết của "Margareta duy nhất" - đã tái hôn với Claudia Felicitas của Áo, Nữ Đại vương công Áo thuộc nhánh Tirol của Hoàng tộc Habsburg.
Sau cái chết của Margarita Teresa, quyền kế vị ngai vàng Tây Ban Nha của Hoàng hậu được chuyển giao người con gái duy nhất còn sống là Maria Antonia Josepha của Áo. Sau cái chết của Maria Antonia vào năm 1692, con trai của Maria Antonia là Joseph Ferdinand của Bayern được coi là người thừa kế của ngai vàng Tây Ban Nha. Sau cái chết của Joseph Ferdinand vào năm 1699, quyền thừa kế ngai vàng bị tranh chấp bởi cả Hoàng đế Leopold I và Louis XIV của Pháp, con rể của Felipe IV của Tây Ban Nha, dẫn đến Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha. Kết quả sự thiết lập nhánh Tây Ban Nha của Vương tộc Bourbon với Quốc vương Felipe V, cháu nội của María Teresa của Tây Ban Nha, chị gái của Margarita Teresa.
Hình tượng trong nghệ thuật
Không lâu trước khi Margarita chào đời, họa sĩ Diego Velázquez đã trở lại triều đình Madrid. Từ năm 1653 đến năm 1659, Vương nữ là đối tượng của một loạt các bức chân dung. Ba trong số bức chân dung - Infanta Margarita Teresa trong Bộ váy Hồng (1660), Infanta Margarita trong Bộ váy Trắng và Bạc (1656) và Infanta Margarita Teresa trong Bộ váy Xanh (1659) được gửi đến triều đình Viên và hiện được trưng bày trong Bảo tàng Kunsthistorisches. Trong những bức tranh cuối cùng về Vương nữ thuở 8 tuổi do Velázquez thực hiện, có thể thấy thái độ trưởng thành và trang trọng hơn của Margarita do cuộc hôn nhân sắp tới của Vương nữ với Hoàng đế.
Bức tranh nổi tiếng nhất của Velazquez trong loạt tranh chân dung của Margarita Teresa là Las Meninas (1656), hiện ở Bảo tàng Prado thuộc Madrid. Trong đó, họa sĩ đã vẽ Vương nữ 5 tuổi trong phòng vẽ của mình khi đang vẽ chân dung cha mẹ Vương nữ. Xung quanh Margarita là các thị nữ cùng các cận thần khác, nhưng đôi mắt của Margarita lại hướng về cha mẹ và có thể thấy ảnh phản chiếu của Quốc vương và Vương hậu ở tấm gương trên tường. Bức tranh này là nguồn cảm hứng cho Picasso và ông đã tạo ra hơn 40 biến thể của tác phẩm vào năm 1957.
Tác phẩm Infanta Margarita Teresa trong Bộ váy Hồng (1660), trước đây được ghi nhận là của Velázquez, hiện được coi là một trong những kiệt tác của con rể Velázquez là Juan Bautista Martínez del Mazo. Martínez del Mazo cũng là tác giả của bức "Chân dung Infanta Margarita trong tang phục" (1666), trong đó Margarita được vẽ chân dung ngay sau cái chết của cha và trước khi diễn ra đám cưới. Cả hai bức tranh cũng được đưa vào bộ sưu tập của Bảo tàng Prado. Danh tính tác giả của bức "Chân dung Infanta Margarita" (1655) được trưng bày tại Viện bảo tàng Louvre hiện vẫn còn bị các nhà nghiên cứu nghi ngờ.
Hầu hết những bức chân dung của Margarita Teresa khi trưởng thành, được họa bởi một số họa sĩ châu Âu, được lưu giữ trong bộ sưu tập của Bảo tàng Kunsthistorisches ở Viên, ttrong số đó là "Bức chân dung toàn thân của Infanta Margarita Teresa, Hoàng hậu" (1665) của Gerard Du Chateau và "Chân dung Hoàng hậu Margarita Teresa trong trang phục sân khấu" (1667) của Jan Thomas van Ieperen. Một trong những bức chân dung cuối cùng của Margarita Teresa là "Chân dung Hoàng hậu Margarita Teresa và con gái Maria Antonia" (khoảng năm 1670) của Jan Thomas van Ieperen, hiện đang trưng bày ở Hofburg, trong đó Hoàng hậu được phác họa cùng đứa con sống qua tuổi ấu thơ duy nhất. Nhiều bản sao chân dung của Margarita Teresa cũng được bảo quản và hiện được trưng bày trong các bộ sưu tập của các bảo tàng trên khắp thế giới.
Gia phả
<center>
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Andics, Hellmut, Die Frauen der Habsburger (Vienna: Jugend und Volk, 1985). In German.
Beutler, Gigi, Die Kaisergruft (Vienna, 2001). In German.
Hamann, Brigitte, Die Habsburger: Ein Biografisches Lexicon (Munich: Piper, 1988). In German.
Ingrao, Charles W., Editor and author, In Quest and Crisis: Emperor Joseph I and the Habsburg Monarchy, Hardcover: 278 pages, Purdue University Press (1 June 1979), in English, ,
Ingrao, Charles W., The Habsburg Monarchy, 1618–1815 (New Approaches to European History) [Paperback], # Paperback: 288 pages, Cambridge University Press; 2 edition (2 October 2000), in English, ,
Kann, Robert A., A History of the Habsburg Empire, 1526–1918, Paperback, 661 pages, University of California Press, edition (26 November 1980), in English .
Kann, Robert A., The Peoples of the Eastern Habsburg Lands, 1526–1918 (History of East Central Europe), [Hardcover],# 464 pages, Univ of Washington Press, (July 1984), in English, ,
Magosci, Paul Robert, ´´Historical Atlas of Central Europe (History of East Central Europe, Vol. 1, 1), Paperback: 288 pages, University of Washington Press, in English, Revised Exp edition (October 2002), ,
Olivan Santaliestra, Laura, "My sister is growing up very healthy and beautiful, she loves me" – The Childhood of the Infantas Maria Teresa and Margarita Maria at Court'', pp. 165–185 in: Grace E. Coolidge – The Formation of the Child in Early Modern Spain, Farnham: Ashgate Publishing 2014,
Wheatcroft, Andrew, "The Habsburgs, Embodiyng Empire" [Paperback], 416 pages, Penguin Books, (Non-Classics) (1 May 1997), in English, ,
Liên kết ngoài
Infanta Margarita Teresa trong Bộ váy Xanh tại Bảo tàng Kunsthistorisches, Viên
|-
|-
|-
Vương nữ Tây Ban Nha
Hoàng nữ Áo
Vương nữ
Hoàng hậu La Mã Thần thánh
Vương hậu Hungary
Vương hậu Bohemia
Hoàng hậu
Vương hậu
Người Tây Ban Nha thế kỷ 17
Người Áo thế kỷ 17
Sản phụ tử vong
Bài Wikipedia trích dẫn từ Encyclopaedia Britannica 1911 với dẫn chiếu từ Wikisource
Nguồn CS1 tiếng Đức (de)
Sinh năm 1651
Mất năm 1673 |
19853585 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20de%20la%20Concepci%C3%B3n%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha | María de la Concepción của Tây Ban Nha | María de la Concepción Francisca de Asís của Tây Ban Nha (Madrid, 26 tháng 12 năm 1859 - Madrid, 21 tháng 10 năm 1861), con gái của Nữ vương Isabel II của Tây Ban Nha và Phối vương Francisco de Asís của Tây Ban Nha. Là con gái của một quân chủ Tây Ban Nha, María de la Conception được nhận tước hiệu Infanta của Tây Ban Nha.
Tiểu sử
María de la Concepción được sinh ra tại Cung điện Vương thất Madrid, là người con thứ tám và con gái thứ tư của Isabel II của Tây Ban Nha và Francisco de Asís của Tây Ban Nha. Vương nữ được rửa tội vào ngày 27 tháng 12 năm 1859 tại nhà nguyện của Cung điện Oriente, cha mẹ đỡ đầu của Vương nữ là María Luisa Fernanda của Tây Ban Nha và Antoine của Pháp.
Vài tháng sau khi em gái María del Pilar ra đời, María de la Concepción đã qua đời vào ngày 21 tháng 10 năm 1861. Vương nữ được chôn cất trong Pantéon de Infantes thuộc Tu viện San Lorenzo de El Escorial, trong phòng mộ thứ sáu, nơi được gọi là lăng mộ của trẻ sơ sinh với dòng văn bia rằng:
Huân chương
Ngày 27 tháng 12 năm 1859: Bậc Dame của Huân chương Vương hậu María Luisa.
Gia phả
Tham khảo
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương tộc Borbón (Tây Ban Nha)
Vương nữ
Sinh năm 1859
Mất năm 1861 |
19853586 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mar%C3%ADa%20Ana%20c%E1%BB%A7a%20T%C3%A2y%20Ban%20Nha | María Ana của Tây Ban Nha | María Ana của Tây Ban Nha (tiếng Tây Ban Nha: María Ana de España, tiếng Đức: Maria Anna von Spanien; tiếng Anh: Maria Anna of Spain; 18 tháng 8 năm 1606 – 13 tháng 5 năm 1646) là Vương nữ Tây Ban Nha và là Hoàng hậu La Mã Thần thánh, Vương hậu Hungary và Bohemia thông qua cuộc hôn nhân với Ferdinand III của Thánh chế La Mã. María Ana từng nhiều lần đảm nhiệm vai trò nhiếp chính trong thời gian chồng vắng mặt, đặc biệt là khi Ferdinand III ở Bohemia năm 1645.
Là con gái của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, trước khi kết hôn với Ferdinand III, María Ana được coi là người vợ tiềm năng của Charles I của Anh (bấy giờ là Thân vương xứ Wales). Sự kiện này được biết đến trong lịch sử gọi là "Hôn ước Tây Ban Nha" (the Spanish match), đã gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị trong nội bộ Vương quốc Anh và Scotland. Tại triều đình Viên, María Ana tiếp tục thể hiện văn hóa Tây Ban Nha bản địa của mình, từ quần áo đến âm nhạc và cũng thúc đẩy việc thắt chặt mối quan hệ giữa nhánh Đế quốc và nhánh Tây Ban Nha của Hoàng tộc Habsburg.
Những năm đầu đời
María Ana của Tây Ban Nha sinh ra tại Cung điện El Escorial, gần Madrid, vào ngày 18 tháng 8 năm 1606, là con thứ tư và là con gái thứ ba của Felipe III của Tây Ban Nha và Margarete của Áo, Nữ Đại vương công Áo thuộc nhánh Nội Áo của Hoàng tộc Habsburg. Trong số bảy anh chị em của María Ana, chỉ có bốn người sống qua tuổi ấu thơ: Ana (sau này là vợ của Louis XIII của Pháp), Felipe IV của Tây Ban Nha, Carlos (qua đời khi còn trẻ vào năm 1632) và Fernando (sau này là Hồng y-Infante và Thống đốc của Hà Lan thuộc Tây Ban Nha). Cha mẹ của María Ana, tức là Felipe III và Margarete có quan hệ họ hàng gần và có rất nhiều liên hệ với nhau thông qua hôn nhân của tổ tiên: thông qua cha của Felipe III, Felipe III chính là anh họ của Margarete và thông qua mẹ của Quốc vương, Felipe III là cháu gọi cô lẫn dì của Margarete. Ngoài ra, thông qua Margarete cũng là em họ của Felipe III thông qua mẹ. María Ana được rửa tội vào ngày 8 tháng 9, ngày Lễ sinh nhật của Đức Maria và được đỡ đầu bởi chị gái Ana và Francisco de Sandoval y Rojas, Công tước thứ 1 xứ Lerma.
Đính hôn
Ngay từ khi còn nhỏ, María Ana đã có một vai trò quan trọng trong các dự tính hôn nhân của Felipe III. Ở tuổi thiếu niên, Vương nữ được hứa hôn với Đại vương công Johann Karl, con trai cả và là người thừa kế của Ferdinand II của Thánh chế La Mã và người vợ đầu là Maria Anna xứ Bayern và cũng là anh họ của Vương nữ. Tuy nhiên, cuộc hôn nhân không diễn ra vì Johann Karl đã qua đời vào năm 1618.
Năm 1622, Quốc vương James I của Anh nhận được lời đề nghị gả María Ana từ Felipe IV của Tây Ban Nha, anh trai của María Ana để thắt chặt mối quan hệ giữa hai quốc gia thông qua cuộc hôn nhân giữa Vương tử Charles, Thân vương xứ Wales và Infanta María Ana. Bản thân James I mong rằng cuộc hôn nhân giữa Charles và María Ana sẽ khiến Tây Ban Nha trao trả lại vùng Pfalz cho vợ chồng con gái Elizabeth. Phía Luân Đôn và Madrid bắt đầu có những hoạt động đàm phán tích cực. Cuộc hôn nhân tiềm năng giữa Thân vương xứ Wales và Infanta Tây Ban Nha được biết đến trong lịch sử với cái tên "Hôn ước Tây Ban Nha" (The Spanish match) và gây ra một cuộc khủng hoảng chính trị nội bộ ở cả Anh và Scotland. Năm 1623, Thân vương xứ Wales cùng với George Villiers, Công tước thứ 1 xứ Buckingham, đến thăm Madrid để gặp nàng dâu sắp cưới. Tuy nhiên, María Ana thà vào tu viện còn hơn là kết hôn với tín hữu Kháng Cách và Charles sẽ không cải sang Công giáo. Cuối cùng, cuộc hôn nhân không diễn ra vì lý do chính trị cũng như vì sự miễn cưỡng của vị tân vương của Tây Ban Nha trong việc thiết lập hôn nhân với Vương tộc Stuart dù bên Anh đã chấp nhận một hiệp ước rất có lợi cho phía Tây Ban Nha. Charles sau cùng đã kết hôn với một người Công giáo sùng đạo là Henriette Marie của Pháp thuộc Vương tộc Bourbon.
Hôn nhân
Cuối năm 1626, María Ana đính hôn với Đại vương công Ferdinand, em trai của vị hôn phu đầu tiên của Vương nữ và là trữ quân mới của Hoàng đế Ferdinand II. Lễ đính hôn chính thức diễn ra trước một loạt cuộc đàm phán được tiến hành vào năm 1625. Cùng năm đó, Ferdinand lên ngôi Quốc vương Hungary, và năm 1627, Ferdinand trở thành Quốc vương Bohemia. Nội dung của các cuộc đàm phán là về cuộc sống của María Ana tại triều đình của người chồng tương lai. Bất chấp mong muốn của Ferdinand rằng cha giải tội của María Ana sẽ là Tu sĩ Dòng Tên Ambrosio de Peñalosa, Diego Quiroga là người được bổ nhiệm. Theo thỏa thuận hôn nhân được hai bên ký kết vào năm 1628 có ghi rằng María Ana có thể giữ quyền thừa kế ngai vàng Tây Ban Nha, nhưng chị gái của Vương nữ là Ana, người kết hôn với Louis XIII của Pháp năm 1615, thì buộc phải từ bỏ quyền thừa kế.
Tháng 12 năm 1629, María Ana rời Madrid đến Viên, tròn ba năm sau khi đính hôn và gần năm năm sau khi lời hỏi cưới lần đầu được đề xuất. Chuyến hành trình phải mất hơn một năm mới hoàn thành. Trên đường đi bằng đường biển ở Genova, đã có sự cố phát sinh do một trận dịch hạch bùng phát ở Bán đảo Ý. Vì lý do đó, đoàn người không thể dừng lại ở Bologna, nơi Hồng y Antonio Barberini, cháu trai của Giáo hoàng Urbanô VIII, đang đợi Vương nữ đến để trao Hoa hồng Vàng. Đoàn người chuyển đến Napoli và María Ana đã nhận được Hoa hồng Vàng tại đây. Infanta sau đó di chuyển qua Lãnh địa Giáo hoàng sau khi Vương nữ thực hiện chuyến hành hương đến Vương cung Thánh đường Thánh Casa. Trong đoạn hành trình đó, María Ana được tầng lớp quý tộc ở Roma tháp tùng, dẫn đầu bởi một người cháu khác của Giáo hoàng Urbanô VIII là Taddeo Barberini, Thân vương xứ Palestrina. Ngày 26 tháng 1 năm 1631, Vương nữ đến Trieste và gặp Đại vương công Leopold Wilhelm của Áo, em chồng tương lai của mình. Ngay ngày hôm đó, María Ana kết hôn với Quốc vương Ferdinand của Hungary và Bohemia theo phương thức ủy nhiệm, với người đại diện cho Ferdinand là Leopold Wilhelm. Sau hôn lễ, Leopold Wilhelm hộ tống María Ana đến Viên.
Trước hôn lễ chính thức, vì không tin tưởng vào những bức chân dung trước đó mà mình đã nhìn thấy về ngoại hình của Vương nữ, Ferdinand đã bí mật gặp mặt cô dâu của mình. Ngài Oberhofmeister (tạm dịch: quản sự) yêu cầu được diện kiến María Ana. Trong chuyến thăm, Ferdinand đi cùng với một số quý tộc. Bị ấn tượng bởi vẻ đẹp của Vương nữ, Ferdinand ngay lập tức tiết lộ danh tính và bắt chuyện với María Ana bằng tiếng Tây Ban Nha. Tình yêu và sự tôn trọng mà vị Ferdinand dành cho vợ kéo dài trong suốt cuộc hôn nhân của hai người. Ferdinand một lòng với María Ana và không bao giờ có con ngoại hôn.
Ngày 20 tháng 2 năm 1631, tại Viên, María Ana kết hôn với Quốc vương Ferdinand của Hungary và Bohemia. Lễ hội mừng lễ cưới của hai người kéo dài một tháng. Cuộc hôn nhân được mô tả là hòa hợp. María Ana được miêu tả là người vui tính, thân thiện và thông minh, tân Vương hậu đã xoa dịu tính cách u sầu của Ferdinand.
Hoàng hậu La Mã Thần thánh và Vương hậu Đức
María Ana đến triều đình Viên với thời trang, kịch sân khấu, khiêu vũ và âm nhạc mang phong cách Tây Ban Nha (bao gồm cả tiếng guitar đầu tiên). Với tư cách là vợ của người thừa kế, María Ana duy trì mối quan hệ tốt đẹp với tất cả các thành viên trong gia đình chồng, nhưng Vương nữ có mối quan hệ phức tạp với mẹ kế của Ferdinand là Hoàng thái hậu Eleonora Gonzaga, người chỉ lớn hơn María Ana tám tuổi, chủ yếu là do sự cạnh tranh giữa hai người trong việc giành ảnh hưởng tại triều đình. María Ana cũng dành nhiều sự quan tâm cho nghệ thuật, đặc biệt là hội họa. Vương nữ đã sưu tầm các tác phẩm của các họa sĩ người Ý, Tây Ban Nha và Flemish cuối thời kỳ Phục hưng và đầu thời kỳ Baroque.
Tại Regensburg, ngày 22 tháng 12 năm 1636, Ferdinand được bầu làm Quốc vương La Mã Đức, và một tuần sau, Ferdinand được Tổng giám mục Mainz trao Vương miện. María Ana đăng cơ với tư cách là Vương hậu Đức một tháng sau đó, vào ngày 21 tháng 1 năm 1637. Sau cái chết của cha vào ngày 15 tháng 2 năm 1637, Ferdinand trở thành tân Hoàng đế La Mã Thần thánh với đế hiệu Ferdinand III và cũng trở thành Quốc vương cai trị Hungary và Bohemia. María Ana do đó cũng trở thành Hoàng hậu La Mã Thần thánh và Vương hậu thực sự của Hungary và Bohemia. Lễ đăng cơ của María với tư cách là Vương hậu Hungary được cử hành tại Pressburg.
María Ana tham gia chính trị với tư cách là cố vấn cho chồng, là người hòa giải giữa Hoàng đế và họ hàng bên Tây Ban Nha. Dù luôn bảo vệ quyền lợi của chồng nhưng María Ana cũng không quên quyền lợi của các anh trai là Quốc vương Felipe IV và Hồng y-Infante Fernando. Tại triều đình của mình, chủ yếu bao gồm người Tây Ban Nha, khách viếng thăm thường là đại sứ Tây Ban Nha và các nhà ngoại giao khác. Trong thời gian vắng mặt tại triều đình ở Viên, Hoàng đế đã bổ nhiệm vợ làm nhiếp chính, chẳng hạn như vào năm 1645, trong Chiến tranh Ba mươi năm, khi Ferdinand III đang ở Vương quốc Bohemia.
Qua đời
Vào tháng 3 năm 1645 María Ana và các con rời khỏi Linz vì sự đổ bộ của quân đội Thụy Điển Kháng Cách và chuyển đến Viên. Đến tháng 4, quân Thụy Điển chuẩn bị vượt sông Danube và đe dọa chiếm đóng thành phố. Hoàng thất do đó tạm thời chạy trốn đến Graz. Sau khi trở về Viên, María Ana và gia đình lại buộc phải chuyển đến Linz vì bệnh dịch. Lần mang thai thứ sáu của María Ana được ghi nhận vào tháng 1 năm 1646. Bốn tháng sau, vào ngày 12 tháng 5, tại lâu đài Linz, María Ana đột nhiên cảm thấy sốt, chảy nhiều máu và qua đời vào sáng hôm sau. Đứa trẻ trong bụng của María Ana được mổ lấy ra và được đặt tên là Maria nhưng chỉ sống được vài giờ. Ngày 24 tháng 5, cả hai mẹ con được đặt trong cùng một quan tài, được chuyển đến Viên và chôn cất trong Hầm mộ Hoàng gia, nơi chứa sẵn quan tài chứa hài cốt của hai người con trai đã qua đời trước đó của María Ana. Đoàn tang lễ được tháp tùng bởi đại sứ Tây Ban Nha và các thị nữ của Hoàng hậu. Rất đau buồn trước cái chết của vợ con, Hoàng đế không thể đến dự tang lễ. Tuy nhiên, sau khi trở về Viên vào cuối tháng 8, Ferdinand III cũng đã bày tỏ lòng kính trọng đối với hài cốt của vợ, và vào tháng 9, Ferdinand III tuyên bố lễ đính hôn của con gái lớn Maria Anna với Baltasar Carlos của Tây Ban Nha, Thân vương xứ Asturias. Tuy nhiên, Vương tử đã qua đời chỉ một tháng sau đó. Các thành viên trong hộ gia (household) của cố Hoàng hậu, những người đa theo María Ana từ Tây Ban Nha, gồm có cha giải tội và các thị nữ, đã sống tại triều đình Viên thêm vài năm sau khi Hoàng hậu qua đời.
Con cái
María Ana và Ferdinand III có sáu người con:
Ferdinand IV (8 tháng 9 năm 1633 – 9 tháng 7 năm 1654), Quốc vương La Mã Đức, Hungary và Bohemia.
Maria Anna (22 tháng 12 năm 1634 – 16 tháng 5 năm 1696), Vương hậu Tây Ban Nha.
Philipp August (15 tháng 7 năm 1637 – 22 tháng 6 năm 1639), Đại vương công Áo.
Maximilian Thomas (21 tháng 12 năm 1638 – 29 tháng 6 năm 1639), Đại vương công Áo.
Leopold I (9 tháng 6 năm 1640 – 5 tháng 5 năm 1705), Hoàng đế Thánh chế La Mã.
Maria (sinh và mất ngày 13 tháng 5 năm 1646), Nữ Đại vương công Áo.
Hình tượng trong nghệ thuật
Claire Jowitt xem nhân vật Vương nữ Donusa trong vở kịch The Renegado năm 1624 của Philip Massinger như một câu chuyện ngụ ngôn về thỏa thuận hôn nhân bất thành của María Ana.
Năm 1634, nhà thơ kiêm viết kịch người Tây Ban Nha là Pedro Calderón de la Barca, để vinh danh chiến thắng của quân Tây Ban Nha và Áo trước quân Thụy Điển trong trận Nördlingen, đã dựng một buổi biểu diễn ở Madrid trong đó María Ana, cùng chồng là một trong số các diễn viên.
Ngoại trừ một vài bức chân dung của María Ana khi còn nhỏ thì hầu hết đều nằm trong bộ sưu tập của Bảo tàng Kunsthistorisches ở Viên. Bức chân dung đầu tiên được họa bởi Juan Pantoja de la Cruz, khi Vương nữ được một tuổi. Bộ sưu tập của Bảo tàng Nghệ thuật Portland bao gồm một bức chân dung của María Ana trong những năm 1630, được họa bởi Felipe Diriksen. Một bức chân dung khác của Infanta María Ana, bấy giờ là Vương hậu Hungary và Bohemia được Diego Velázquez, họa sĩ cung đình Madrid thực hiện và hiện là một phần trong bộ sưu tập của Bảo tàng Prado. Các bức chân dung của Hoàng hậu do Frans Luycx (họa sĩ tại cung đình Viên), Bartolomé González y Serrano, Rodrigo de Villandrando, Justus Sustermans, Juan van der Hamen và các họa sĩ vô danh khác thực hiện được lưu giữ trong bộ sưu tập của Bảo tàng Kunsthistorisches, Bảo tàng Prado, phòng trưng bày của Cung điện Esterházy ở Eisenstadt và Bảo tàng Fesch ở Ajaccio.
Gia phả
<center>
Ghi chú
Tham khảo
Nguồn tài liệu
Liên kết ngoài
Worldroots.com
Vương nữ Tây Ban Nha
Vương nữ Bồ Đào Nha
Hoàng nữ Áo
Vương nữ
Hoàng hậu La Mã Thần thánh
Vương hậu Hungary
Vương hậu Bohemia
Hoàng hậu
Vương hậu
Sinh năm 1606
Mất năm 1646
Sản phụ tử vong
Nguồn CS1 tiếng Đức (de)
Bài viết có văn bản tiếng Tây Ban Nha |
19853592 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20%C4%90%C3%B4i%20N%E1%BB%AF | Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Đôi Nữ | Nội dung biểu diễn đôi nữ bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 diễn ra từ ngày 6 đến ngày 7 tháng 10 năm 2023 tại Nhà thi đấu thể thao dưới nước của Trung tâm thể thao Olympic Hàng Châu.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Tham khảo
Liên kết ngoài
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022
Đôi Nữ |
19853594 | https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%91uu%20Savi | Ñuu Savi | Ñuu Savi (tiếng Mixtec: "dân mưa") là khu đô thị tự trị thuộc bang Guerrero, México. Ñuu Savi cách thủ phủ bang Chilpancingo về phía đông nam. Khu đô thị được hình thành từ Ayutla de los Libres theo phê duyệt năm 2021 và có hiệu lực từ ngày 21 tháng 5 năm 2022.
Địa lý
Khu đô thị Ñuu Savi nằm ở vùng Costa Chica phía đông bang Guerrero, phía bắc giáp Acatepec, phía đông giáp San Luis Acatlán, phía nam giáp Cuautepec và phía tây giáp Ayutla de los Libres. Khu đô thị này có diện tích .
Ñuu Savi có khí hậu ôn đới ẩm, nhiều mưa vào hè. Nhiệt độ trung bình dao động từ , và lượng mưa trung bình hàng năm là từ .
Lịch sử
Thủ phủ Coapinola của Ñuu Savi là nơi định cư lâu đời nhất trong khu vực và từng là trung tâm của chính quyền địa phương Mixtec. Năm 1487, Đế quốc Mexica kiểm soát khu vực này và được sáp nhập vào tỉnh Ayotlán (Ayutla ngày nay) trên ranh giới với Yopitzinco của dân Yope.
Dân Mixtec tại Ayutla bị gạt ra lề xã hội đã khiến họ thức tỉnh chính trị và muốn tự trị. Thập niên 1970, nhà hoạt động địa phương như Hilario Ramírez Morales thúc đẩy việc này nhưng bị ám sát năm 1981. Phong trào dấy lên từ cuộc nổi dậy Zapatista năm 1994 dẫn đến việc chính quyền México báo trả, kể cả việc cưỡng bức triệt sản, hay quân đội México xử tử 11 thủ lĩnh bản địa ở El Charco năm 1998. Từ năm 2012, tình hình an ninh được cải thiện khi dân địa phương thành lập nhóm tự vệ riêng mình liên kết với .
Năm 2018, quyền tự trị gần hơn hết khi Ayutla trở thành khu đô thị đầu tiên ở Guerrero tổ chức các cuộc bầu cử phi đảng phái theo luật tục. Sau khi lấy thêm ý kiến dân địa phương, ngày 31 tháng 8 năm 2021, cơ quan lập pháp bang Guerrero phê duyệt thành lập đô thị Ñuu Savi bao gồm các cộng đồng dân Mixtec của Ayutla de los Libres. Việc thành lập được thể hiện qua bản sửa đổi hiến pháp bang được thông qua ngày 13 tháng 1 năm 2022 và có hiệu lực ngày 21 tháng 5 năm 2022.
Hành chính
Ñuu Savi sẽ tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên với tư cách là một khu đô thị tự trị độc lập vào năm 2024. Một chính quyền lâm thời được chỉ định vào tháng 8 năm 2023, do thị trưởng Donaciano Morales Porfirio đứng đầu. Chính quyền khu đô thị San Nicolás bao gồm một chủ tịch, một ủy viên hội đồng (tiếng Tây Ban Nha: síndico) và sáu ủy viên (regidores).
Nhân khẩu học
Trong Điều tra dân số México năm 2020, các địa phương bao gồm khu đô thị Ñuu Savi hiện nay có dân số 11.099 người. Thủ phủ Coapinola có 387 cư dân. Các địa phương đông dân nhất là Ahuacachahue 1.505 người và La Concordia 1.125 người.
Kinh tế và hạ tầng
Ñuu Savi là một trong những khu đô thị nghèo nhất bang Guerrero. Không có bệnh viện, chỉ có giáo dục tiểu học và telesecundaria (từ xa). Nền kinh tế địa phương dựa vào nông nghiệp tự cung tự cấp với cây trồng chính là ngô, đậu và mía.
Tham khảo
Khởi đầu năm 2022 ở México
Đô thị bang Guerrero
Nguồn CS1 tiếng Tây Ban Nha (es)
Tọa độ trên Wikidata |
19853610 | https://vi.wikipedia.org/wiki/VCS%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202024 | VCS mùa giải 2024 | VCS mùa giải 2024 là mùa giải thứ 12 của Vietnam Championship Series (VCS), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của Việt Nam dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 20 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 6 tháng 4 năm 2024.
Những thay đổi
Các đội
MGN Box Esports đã đổi tên đội Liên Minh Huyền Thoại của mình thành MGN Blue Esports để bước vào mùa giải 2024.Saigon Buffalo đã đổi tên đội Liên Minh Huyền Thoại của mình thành Vikings Esports để bước vào mùa giải 2024.
Thể thức
Vòng bảng
8 đội tham gia thi đấu.
Thi đấu theo thể thức vòng tròn 2 lượt tính điểm.
Tất cả các trận đấu đều là Bo3.
6 đội có thành tích tốt nhất đủ điều kiện vào vòng loại trực tiếp.
Cách thức chọn bên (áp dụng cho cả Vòng bảng và Vòng loại trực tiếp) :
Đối với ván đấu đầu tiên, đội "Chủ nhà" sẽ được quyền chọn bên.
Từ ván đấu thứ 2, đội thua được quyền chọn bên.
Đối với các ván đấu quyết định (ván 3 với Bo3, ván 5 với Bo5 khi 2 đội có tỷ số hoà), đội chọn bên sẽ được xác định thông qua chiến thắng trong trận đấu 1vs1.
Vòng loại trực tiếp
6 đội tham gia thi đấu.
Thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua.
Tất cả các trận đấu đều là Bo5.
Các đội hạt giống số 1 và 2 lọt vào vòng 2, trong khi các đội hạt giống số 3, 4, 5 và 6 thi đấu với nhau tại vòng 1.
Đội hạt giống số 1 được quyền chọn một trong hai đội thắng tại vòng 1 để thi đấu ở vòng 2, trong khi đội hạt giống số 2 phải thi đấu với đội còn lại.
Giải Mùa Xuân
Vòng bảng giải Mùa Xuân sẽ diễn ra từ ngày 20 tháng 1 đến ngày 17 tháng 3 năm 2024. 8 đội sẽ chơi tổng cộng 56 trận và tất cả các trận đấu vòng bảng sẽ được thi đấu theo thể thức Bo3. Sáu đội dẫn đầu vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp, diễn ra từ ngày 21 tháng 3 đến ngày 6 tháng 4 năm 2024. Hai đội đứng cuối vòng bảng sẽ phải tham gia vòng thăng hạng Mùa Hè 2024. Đội đứng đầu vòng loại trực tiếp Giải Mùa Xuân đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2024.
Vòng bảng
Vòng loại trực tiếp
Tham khảo
Liên Minh Huyền Thoại năm 2024 |
19853611 | https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sea%20Fox%20%28SS-402%29 | USS Sea Fox (SS-402) | USS Sea Fox (SS-402) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên một loài trong họ Cá nhám đuôi dài. Nó đã phục vụ trong Thế Chiến II và thực hiện được bốn chuyến tuần tra khi xung đột chấm dứt. Nó được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IIA để tiếp tục phục vụ trong các cuộc Chiến tranh Lạnh, Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam. Con tàu được chuyển cho Thổ Nhĩ Kỳ năm 1970 để tiếp tục hoạt động như là chiếc TCG Burakreis (S335) cho đến năm 1996; con tàu sau cùng bị tháo dỡ để làm nguồn phụ tùng. Sea Fox được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm bốn Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động tại Việt Nam.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Sea Fox được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 2 tháng 11, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 28 tháng 3, 1944, cùng lúc với tàu ngầm chị em , và được đỡ đầu bởi bà Robert N. Robertson. Nó được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 13 tháng 6, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Roy Craig Klinker.
Lịch sử hoạt động
Phần thưởng
Sea Fox được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm bốn Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động tại Việt Nam.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-402 Sea Fox
USS Sea Fox website
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Triều Tiên
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm trong Chiến tranh Việt Nam
Tàu được Hải quân Hoa Kỳ chuyển cho Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ
Tàu ngầm của Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II |
19853613 | https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Atule%20%28SS-403%29 | USS Atule (SS-403) | USS Atule (SS-403/AGSS-403) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá ngân. Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được bốn chuyến tuần tra và đánh chìm sáu tàu Nhật Bản, bao gồm một tàu khu trục cũ, với tổng tải trọng 33.379 tấn. Sau khi xung đột kết thúc, nó tiếp tục hoạt động rồi được nâng cấp trong khuôn khổ Dự án GUPPY IA, và đã phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1970. Con tàu được chuyển giao cho Peru và hoạt động như là chiếc BAP Pacocha (SS-48) cho đến khi bị đắm do tai nạn va chạm với một tàu đánh cá vào ngày 26 tháng 8, 1988. Atule được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Atule được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 25 tháng 11, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 6 tháng 3, 1944, được đỡ đầu bởi cô Elizabeth Louise Kauffman, con gái Chuẩn đô đốc James L. Kauffman, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng 6, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân John Howard Maurer.
Lịch sử hoạt động
Phần thưởng
Atule được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm sáu tàu Nhật Bản, bao gồm một tàu khu trục cũ, với tổng tải trọng 33.379 tấn.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-403
USS Atule website
Kill Record: USS Atule
John Bryan Rushing Jr - U.S.S. Atule crewman reminisces (45 minute video)
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu được Hải quân Hoa Kỳ chuyển cho Hải quân Peru
Tàu ngầm của Hải quân Peru
Tàu bị đắm do tai nạn
Xác tàu đắm tại Thái Bình Dương
Sự cố hàng hải năm 1988
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu đắm ở Thái Bình Dương
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II |
19853620 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20B%C3%B4ng%20Sen%20cho%20quay%20phim%20xu%E1%BA%A5t%20s%E1%BA%AFc | Giải Bông Sen cho quay phim xuất sắc | Giải Quay phim xuất sắc là một phần nằm trong một số hạng mục trao thưởng của Liên hoan phim Việt Nam, trao cho cá nhân các nhà quay phim hay đạo diễn hình ảnh của những tác phẩm tham dự Liên hoan. Giải thưởng này này bắt đầu từ kỳ Liên hoan phim lần thứ 2 với hai hạng mục Phim thời sự – tài liệu – khoa học và Phim truyện nhựa. Sau đó giải thưởng này có thêm trong hạng mục Phim thiếu nhi hay Phim hoạt hình. Từ kỳ Liên hoan phim lần thứ 10 đến Liên hoan phim lần thứ 19 có thêm giải Quay phim xuất sắc trong hạng mục Phim video. Đến kỳ Liên hoan phim lần thứ 15 – năm 2007 – giải Quay phim xuất sắc trong hạng mục Phim hoạt hình được thay thế bởi các giải dành cho họa sĩ.
Tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 14 diễn ra năm 2004, ban tổ chức có thêm giải Kỹ thuật xuất sắc dành cho các hạng mục, nhằm khuyến khích các nhà quay phim phát huy tài năng.
Danh sách nhận giải
Kỷ lục nhận giải
Phim thiếu nhi / Phim hoạt hình : Nguyễn Thủy Hằng (5 lần)
Phim truyện nhựa / điện ảnh: Lý Thái Dũng, Nguyễn K'Linh đều có 4 lần giành giải Quay phim xuất sắc, riêng Lý Thái Dũng có thêm một giải Kỹ thuật xuất sắc.
Phim tài liệu – khoa học: Lương Đức, Nguyễn Thước, Lê Mạnh Thích (cùng 3 lần)
Phim video: Trịnh Quang Tùng (2 lần)
Đạt giải nhiều hạng mục: Phi Tiến Sơn (phim video, phim thiếu nhi, phim điện ảnh)
Thập niên 1970
Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 1 năm 1970 chưa có hình thức trao giải cho cá nhân.
Thập niên 1980
Thập niên 1990
Thập niên 2000
Thập niên 2010
Thập niên 2020
Tham khảo |
19853623 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Glyptoparus%20delicatulus | Glyptoparus delicatulus | Glyptoparus delicatulus là loài cá biển duy nhất thuộc chi Glyptoparus trong họ Cá mào gà. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1959.
Từ nguyên
Tên chi được ghép bởi hai âm tiết: glyptó (γλυπτό trong tiếng Hy Lạp cổ đại; “điêu khắc”) và hậu tố parous trong tiếng Latinh (“sản xuất; sinh ra”), không rõ hàm ý, có lẽ chỉ đến mào thịt trên đỉnh đầu của cá đực loài này (ở cá cái thấp và kém phát triển). Tính từ định danh delicatulus trong tiếng Latinh có nghĩa là “rất mảnh mai”, cũng không rõ hàm ý điều gì, có lẽ là kích thước nhỏ bé của chúng.
Phân bố và môi trường sống
Từ Đông Phi, G. delicatulus có phân bố trải dài về phía đông đến quần đảo Australes, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu và quần đảo Ogasawara, xa về phía nam đến bãi cạn Rowley và rạn san hô Great Barrier (Úc). Ở Việt Nam, G. delicatulus được ghi nhận tại cù lao Câu (Bình Thuận).
G. delicatulus sống trên các rạn san hô chết phủ thảm tảo, hoặc khu vực hỗn hợp san hô lẫn cát trong đầm phá, độ sâu đến ít nhất là 14 m.
Mô tả
Tổng chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở G. delicatulus là 5 cm.
Số gai vây lưng: 12; Số tia vây lưng: 16–17; Số gai vây hậu môn: 2; Số tia vây hậu môn: 18–19.
Sinh thái
Trứng của G. delicatulus có chất kết dính, được gắn vào chất nền thông qua một tấm đế dính dạng sợi. Cá bột là dạng phiêu sinh vật, thường được tìm thấy ở vùng nước nông ven bờ.
Tham khảo
D
Cá Ấn Độ Dương
Cá Thái Bình Dương
Cá Kenya
Cá Mozambique
Cá Seychelles
Cá Réunion
Cá Maldives
Cá Việt Nam
Cá Nhật Bản
Cá Fiji
Cá Tonga
Động vật được mô tả năm 1959 |
19853632 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kamiichi%2C%20Toyama | Kamiichi, Toyama | là thị trấn thuộc huyện Nakaniikawa, tỉnh Toyama, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính thị trấn là 19.351 người và mật độ dân số là 82 người/km2. Tổng diện tích thị trấn là 236,7 km2.
Địa lý
Đô thị lân cận
Toyama
Toyama
Namerikawa
Uozu
Kurobe
Khí hậu
Tham khảo
Thị trấn của Toyama |
19853633 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Shosanbetsu%2C%20Hokkaid%C5%8D | Shosanbetsu, Hokkaidō | là ngôi làng thuộc huyện Tomamae, phó tỉnh Rumoi, Hokkaidō, Nhật Bản. Tính đến ngày 1 tháng 10 năm 2020, dân số ước tính ngôi làng là 1.080 người và mật độ dân số là 3,9 người/km2. Tổng diện tích ngôi làng là 279,5 km2.
Tham khảo
Làng của Hokkaidō |
19853634 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Hoa%20xu%C3%A2n%20ca | Hoa xuân ca | Hoa xuân ca là một chương trình đại nhạc hội do Ban Sản xuất các chương trình giải trí, Đài truyền hình Việt Nam sản xuất với sự tài trợ của VPBank, được phát sóng vào lúc 20 giờ tối ngày 28 hoặc 29 Tết hằng năm trên các kênh sóng của VTV từ năm 2023 đến nay.
Nội dung
Hoa xuân ca lan tỏa những cảm xúc thiêng liêng, khơi gợi niềm nỗi thương của mỗi người khi hướng về quê hương và tình thân gia đình trong dịp Tết. Đại nhạc hội là thời điểm bùng nổ của âm thanh, màu sắc, vũ đạo và nhiều phương thức trình diễn đều tập trung vào Tết.
Sản xuất
Tên gọi của chương trình được lựa chọn dựa theo tựa đề của bài hát cùng tên của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Mùa đầu tiên (2023)
Mùa đầu tiên của chương trình do Trần Thanh Phương làm đạo diễn âm nhạc, Phạm Hoàng Nam và Trần Anh Phương làm đạo diễn sân khấu, cùng với sự xuất hiện của các ca sĩ Mỹ Tâm, Trần Thu Hà, Đen Vâu, Tùng Dương, Thu Minh, Hồ Ngọc Hà, Soobin Hoàng Sơn, Phan Mạnh Quỳnh, Hoàng Thùy Linh, Uyên Linh, Văn Mai Hương, Ngọc Mai, Hà Lê, Bùi Lan Hương, Lân Nhã, Phương Mỹ Chi... Quốc Khánh và Jennifer Phạm là người dẫn chương trình mùa đầu tiên. Mùa đầu tiên của chương trình được phát sóng vào lúc 20 giờ 10 phút ngày 20 tháng 1 năm 2023 (tức ngày 29 tháng Chạp năm Nhâm Dần) trên các kênh VTV1 và VTV3.
Mùa thứ hai (2024)
Mùa thứ hai của chương trình có chủ đề "Hành trình trở về". Chương trình ghi hình liên tục trong 6 ngày cùng với 100 thành viên trong ekip, 23 ca khúc và hơn 30 nghệ sĩ tham dự chương trình. Sân khấu của chương trình được đầu tư quy mô, hoành tráng mang đậm sắc màu dân gian đương đại; được thiết kế bởi năm con đường cùng dẫn đến sân khấu trung tâm truyền đi thông điệp mọi ngả đường đều kết nối con người Việt trở về ngôi nhà thân thương của mình. Chương trình có sự góp mặt của các nghệ sĩ nổi tiếng như Kim Tử Long, Hồ Ngọc Hà, Mỹ Tâm, Trần Thu Hà, Đen Vâu, Tùng Dương, Thu Phương, Issac, Phan Mạnh Quỳnh, Tăng Duy Tân, Phương Mỹ Chi, Văn Mai Hương, Uyên Linh, Hồ Quỳnh Hương, Hoàng Thùy Linh, Hòa Minzy, Hoàng Hải, Mono, Binz... Quốc Khánh và Thụy Vân là người dẫn chương trình mùa thứ hai. VPBank là nhà tài trợ chính cho chương trình. Khi được tham gia dẫn dắt chương trình, Thụy Vân từng nói:
Trước khi vào phần trình diễn của mình, nữ ca sĩ Hồ Ngọc Hà đã phải cắt phăng chiếc váy bạc triệu của mình đến 2 lần để có thể thoải mái trình diễn. Mùa 2 của chương trình được phát sóng vào lúc 20 giờ 10 phút ngày 8 tháng 2 năm 2024 (tức ngày 29 tháng Chạp năm Quý Mão) trên VTV1, VTV3, VTV8, VTV9 và VTV Cần Thơ.
Chủ đề của chương trình
2024: Hành trình trở về
Nhà tài trợ
Clear (Unilever Việt Nam) (2023)
VPBank (2024)
Giải thưởng
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hoa xuân ca trên YouTube
Hoa xuân ca trên Facebook
Chương trình truyền hình
Chương trình truyền hình Việt Nam |
19853645 | https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1ch%20m%E1%BA%A1ng%20Th%C3%A1ng%20T%C3%A1m%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29 | Cách mạng Tháng Tám (định hướng) | Trong tiếng Việt, Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương đánh đổ ách thống trị của thực dân và chế độ quân chủ, giành độc lập tự do. Ngoài ra, Cách mạng Tháng Tám còn đựoc lấy làm:
Quảng trường Cách mạng Tháng Tám nằm ở trước mặt Nhà hát lớn Hà Nội, thuộc phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội
Đường Cách Mạng Tháng Tám: một tuyến đường trục huyết mạch trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, nối từ ngã sáu Phù Đổng (Quận 1) đến ngã tư Bảy Hiền (quận Tân Bình) |
19853647 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Mustafa%20Suleyman | Mustafa Suleyman | Mustafa Suleyman (sinh tháng 8/1984) là một nhà nghiên cứu người Anh chuyên về trí tuệ nhân tạo và là một doanh nhân. Suleyman là người đồng sáng lập và đứng đầu về mảng AI trong công ty trí tuệ nhân tạo DeepMind, một công ty được điều hành dưới trướng Google. Sau khi rời DeepMind vào năm 2022, Suleyman mở công ty khởi nghiệp trí tuệ nhân tạo Inflection AI.
Những năm đầu đời và học vấn
Bố của Suleyman là một tài xế người Syria và mẹ của ông là một y tá người Anh. Suleyman sống với bố mẹ và hai em trai ở Caledonian, khu Islington, London, Anh..
Ông học ở trường Tiểu học Thornhill - một trường công tại Islington. Sau đó ông chuyển trường và tiếp tục học tại trường tiểu học Queen Elizabeth’s School - một trường sinh có tiếng tại Barnet. Trong khoảng thời gian đó, ông đã gặp Demis Hassabis - nhà đồng sáng lập của DeepMind thông qua em trai của Demiss, cũng là bạn thân của ông. Suleyman từng chia sẻ rằng ông và Hassabis đã từng thảo luận về cách tạo ra ảnh hưởng tích cực trên toàn thế giới. Suleyman sau đó theo học tại trường Đại học Mansfield ở Oxford trước khi nghỉ học vào năm 19 tuổi.
Sự Nghiệp
Sự Nghiệp
Sau khi bỏ học vào năm 19 tuổi, Suleyman cùng với người bạn đại học Mohammed Mamdani đã thành lập Muslim Youth Helpline một đường dây nóng tư vấn cho các bạn trẻ vị thành niên theo Đạo Hồi. Sau một khoảng thời gian, tổ chức này đã trở thành một trong những dịch vụ hỗ trợ sức khỏe tinh thần lớn nhất cho người theo Đạo Hồi tại Anh.
Sau khi thành lập Muslim Youth Helpline, Suleyman làm sĩ quan cảnh sát về nhân quyền cho Ken Livingstone - thị trưởng của London. Sau đó, ông tạo ra Reo Partners - một công ty tư vấn sử dụng phương pháp giải quyết mâu thuẫn để nhận định được các khó khăn xã hội. Với tư cách là nhà đàm phán và cố vấn viên, Suleyman đã làm việc cho một tệp khách hàng khá lớn như Liên hợp Quốc, chính phủ Hà Lan và Quỹ quốc tế Bảo vệ thiên nhiên.
Sự nghiệp ở DeepMind ở Google
Suleyman đồng sáng lập ra công ty trí tuệ nhân tạo DeepMind và giữ chức vụ giám đốc sản xuất tại đây. Công ty nhanh chóng chiếm được vị thế tiên phong trong lĩnh vực AI và được tài trợ bởi Founders Fund, Elon Musk and Scott Banister, và những người khác.
Năm 2014, DeepMind được Google mua lại với giá 400 triệu bảng Anh và trở thành thương vụ mua bán lớn nhất tại Châu Âu tại thời điểm đó. Suleyman trở thành người đứng đầu trong mảng AI của DeepMind, chịu trách nhiệm đưa các công nghệ của DeepMind vào sản phẩm của Google.
Vào tháng 2/2016, Suleyman cho ra mắt DeepMind Health tại tổ chức Royal Society of Medicine. DeepMind Health xây dựng công nghệ hỗ trợ bác sĩ cho Dịch vụ Sức Khỏe quốc tế (NHS) và các đối tác khác nhằm phát triển các dịch vụ y tế ở tuyến đầu. Dưới trướng của Suleyman, DeepMind cũng phát triển các nghiên cứu hợp tác với nhiều tổ chức sức khỏe ở Anh như bệnh viện mắt Moorfields Eye Hospital NHS Foundation Trust.
Năm 2016, Suleyman đã nỗ lực đưa thuật toán của Deepmind vào trung tâm dữ liệu của Google để làm giảm mức năng lượng cần thiết cho quá trình làm mát. Thuật toán DeepMind đã đánh giá hàng tỷ phương án vận hành cho người điều khiển trung tâm và đưa ra các đề xuất dựa trên mức năng lượng tiêu hao được dự đoán. Thuật toán còn phát hiện ra một phương pháp mới để làm mát trung tâm điều khiển, giúp giảm 40% lượng năng sử dụng để làm mát, và cải thiện 15% hiệu năng sử dụng tổng năng lượng của trung tâm dữ liệu.
Vào tháng 8/2019, Suleyman buộc phải rời công ty sau các cáo buộc chèn ép nhân viên. Công ty đã thuê một luật sư ngoài để điều tra vụ việc, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn thì Suleyman rời DeepMind và gia nhập công ty mẹ Google với chức vị Phó Chủ tịch. Ban lãnh đạo đã gửi thông báo đến toàn bộ nhân viên trong DeepMind về những gì xảy ra. Theo Tờ Báo Insider về các chi tiết của vụ việc, “cách lãnh đạo của Suleyman không hề đạt chuẩn như kỳ vọng.
Sự nghiệp sau khi rời DeepMind
Kể từ tháng 6/2019, Suleyman làm việc trong ban quản trị của The Economist Group - công ty xuất bản tờ báo Economist. Vào tháng 12/2019, Suleyman thông báo rằng ông sẽ rời DeepMind để gia nhập vào Google.
Inflection AI
Suleyman rời Google vào tháng 1/2022 và làm việc với tư cách là đối tác liên doanh cho Greylock partner Tháng 3/2022, ông cùng với Reid Hoffman sáng lập ra Inflection AI - một mô hình AI tiên phong trong giới trí tuệ nhân tạo. Inflection AI được phát triển với mục đích tạo ra các AI có thể giúp con người “giao tiếp" với máy tính. Công ty không chỉ tuyển dụng những nhân viên cũ của Google và Meta mà còn huy động được 225 triệu USD trong lần gọi vốn đầu tiên.
Năm 2023, Inflection AI cho ra mắt chatbot đàm thoại tên Pi với trí tuệ riêng biệt. Pi “có thể nhớ được những cuộc hội thoại trước đó và dường như có thể nắm bắt tâm lý người dùng sau một khoảng thời gian. Suleyman cho biết mục tiêu lâu dài của Chatbot Pi là trở thành một “nhà quản lý số” được thiết kế chủ yếu để đối thoại với người dùng, đặt ra câu hỏi và hỗ trợ về mặt cảm xúc cho người dùng.
Quan điểm về "Hành vi đạo đức của AI"
Suleyman luôn đưa ra những quan điểm tiêu biểu trong các cuộc tranh luận về đạo đức của AI Ông cũng đã nêu lên quan điểm của mình về vai trò quan trọng của các doanh nghiệp, chính phủ và xã hội trong việc thúc đẩy các công ty công nghệ phải có trách nhiệm với sản phẩm của mình. Ông cũng khuyến khích việc đưa ra các giải pháp công nghệ để các nhà lãnh đạo doanh nghiệp ưu tiên trách nhiệm xã hội bên cạnh những công việc được giao. Khi vẫn làm ở DeepMind, Suleyman đã thành lập một đơn vị nghiên cứu các tác động của AI đến thế giới thực nhằm giúp các nhà công nghệ áp dụng những kết quả này vào thực tế.
Suleyman cũng là đồng chủ tịch sáng lập Partnership on AI một tổ chức bao gồm các đại diện đến từ Amazon, Apple, DeepMind, Meta, Google, IBM, và Microsoft. Tổ chức này nghiên cứu và xây dựng các phương pháp vận hành tốt nhất cho công nghệ AI, nâng cao hiểu biết của mọi người về AI. Partnership on AI hoạt động như một nền tảng mở để thảo luận về AI cũng như các tác động của AI lên con người và xã hội. Hội đồng quản trị của Partnership on AI cũng bình đẳng về số lượng của các thành viên thuộc tổ chức thương mại và phi lợi nhuận.
Vào tháng 9/2023, Suleyman cùng với nhà nghiên cứu Michael Bhaskar cho ra mắt cuốn sách The Coming Wave. Cuốn sách viết về những rủi ro khó tránh khỏi của AI và công nghệ sinh học tổng hợp, đồng thời đưa ra các giải pháp nhằm ngăn chặn những rủi ro này. The Coming Wave được đề cử trong danh sách Giải thưởng the 2023 Financial Times Business Book of the Year Award - một giải thưởng thường niên được trao cho cuốn sách kinh doanh hay nhất của năm. Và trong tháng 2/2024, cuốn sách The Coming Wave được Công ty Cổ Phần Xuất bản Khoa học và Giáo dục Thời Đại (TIMES) chuyển thể sang phiên bản tiếng Việt với tựa đề Sóng Thần Công Nghệ
Đời sống các nhân và thành tựu
Năm 2017, Suleyman sống tại Peckham với vợ sắp cưới. Theo tờ báo Business Insider Suleyman theo cánh tả chính trị. Năm 2023, ông được TIME bầu chọn vào danh sách 100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lĩnh vực AI
Mục lục tham khảo
External links |
19853651 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i%20Oscar%20l%E1%BA%A7n%20th%E1%BB%A9%2096 | Giải Oscar lần thứ 96 | Lễ trao giải Oscar lần thứ 96 là lễ trao giải thường niên sắp diễn ra do Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh tổ chức, nhằm tôn vinh những tác phẩm điện ảnh xuất sắc nhất năm 2023. Buổi lễ dự kiến sẽ được diễn ra tại Nhà hát Dolby ở Hollywood, Los Angeles, California vào ngày 10 tháng 3 năm 2024, do Hamish Hamilton làm đạo diễn và được phát sóng trên truyền hình tại Mỹ bởi đài ABC. Jimmy Kimmel tiếp tục là người dẫn chương trình tổng thể của buổi lễ, đánh dấu đây là lần thứ tư mà Kimmel làm nguời dẫn chương trình cho giải Oscar, sau buổi lễ lần thứ 89, lần thứ 90 và lần thứ 95.
Đề cử và đoạt giải
Giải thưởng chính
Người chiến thắng được liệt kê lên đầu hàng, được đánh dấu bằng in đậm và biểu thị bằng biểu tượng dấu thập kép (‡).
Giải Governor
Viện Hàn lâm đã tổ chức buổi lễ trao giải Governor vào ngày 9 tháng 1 năm 2024, do John Mulaney làm người dẫn chương trình. Các giải thưởng được trao cho những người sau đây trong buổi lễ:
Giải Oscar danh dự
Angela Bassett
Mel Brooks
Carol Littleton
Giải thưởng nhân đạo Jean Hersholt
Michelle Satter
Phim có nhiều chiến thắng và đề cử
Thông tin buổi lễ
Ngày 17 tháng 10 năm 2023, Raj Kapoor và Katy Mullan được công bố là những giám đốc sản xuất, với Hamish Hamilton làm đạo diễn của buổi lễ; trong đó Mullan là giám đốc sản xuất của công ty sản xuất chương trình Done and Dusted của Hamilton. Ngày 15 tháng 11 cùng năm, Jimmy Kimmel được công bố là người dẫn chương trình của buổi lễ, đánh dấu đây là năm thứ hai liên tiếp và là lần thứ tư tổng thể trong lịch sử ông làm người dẫn chương trình của giải Oscar.
Ngày 30 tháng 11 năm 2023, ABC và Viện Hàn lâm thông báo rằng buổi lễ sẽ được tổ chức sớm hơn một tiếng, bắt đầu vào lúc 4 giờ chiều theo giờ PT (7 giờ tối theo giờ ET), qua đó cho phép các chương trình phát sóng trong nửa tiếng vào khung giờ vàng sau khi kết thúc buổi lễ. Trong khi đó, ABC cũng cho biết rằng một tập phim mới của Abbott Elementary sẽ được phát sóng sau buổi lễ, dự kiến phát sóng vào lúc 7 giờ 30 phút tối theo giờ PT (10 giờ 30 phút tối theo giờ ET). Với sự thay đổi này, buổi preshow (chương trình thảm đỏ trước buổi lễ) sẽ giảm xuống còn nửa tiếng.
Ngày 29 tháng 1 năm 2024, nghệ sĩ hài và phát thanh viên người Anh Amelia Dimoldenbergngười dẫn chương trình cho chương trình phỏng vấn trên YouTube Chicken Shop Dateđược công bố là đại sứ truyền thông và phóng viên thảm đỏ của buổi lễ. Dimoldenberg đã tham gia vào nhiều sự kiện của mùa giải Oscar lần này, bao gồm bữa tiệc chiêu đãi của những người được đề cử giải Oscar, nơi cô tham dự một buổi sản xuất video của Viện Hàn lâm với những người được đề cử. Bên cạnh việc phỏng vấn những người được đề cử và những tài năng khác có mặt trên thảm đỏ của giải Oscar, cô cũng sẽ tham gia vào chương trình "Oscars 96 Behind the Scenes Tour" (Chuyến tham quan hậu trường của giải Oscar lần thứ 96).
Các quy tắc đa dạng
Đây sẽ là năm đầu tiên mà các quy tắc đa dạng cho hạng mục Phim hay nhất trở thành bắt buộc. Tháng 6 năm 2020, theo sáng kiến Academy Aperture 2025, Viện Hàn lâm đã thiết lập một tập hợp các tiêu chuẩn đại diện và bao gồm mà một bộ phim sẽ được yêu cầu để đáp ứng để cạnh tranh trong thể loại. Đối với các giải Oscar lần thứ 94 và lần thứ 95 (những bộ phim được phát hành vào năm 2021 và 2022), các nhà làm phim chỉ được yêu cầu phải gửi một biểu mẫu "Tiêu chuẩn hòa nhập của Viện hàn lâm" (Academy Inclusion Standards) một cách bí mật chỉ với mục đích cung cấp dữ liệu. Có bốn tiêu chuẩn chung, trong đó một bộ phim phải đáp ứng hai tiêu chuẩn để được xem xét cho hạng mục Phim hay nhất, bao gồm: (a) "sự trình bày, chủ đề và câu chuyện trên màn ảnh"; (b) "đội ngũ lãnh đạo và dự án sáng tạo"; (c) "sự tiếp cận và cơ hội của ngành"; và (d) "phát triển đối tượng".
Theo như lời giải thích của Alissa Wilkinson trên tạp chí Vox vào năm 2020, các tiêu chuẩn "về cơ bản được chia thành hai nhóm lớn: các tiêu chuẩn thúc đẩy sự đại diện toàn diện hơn và các tiêu chuẩn thúc đẩy việc làm toàn diện hơn". Các tiêu chuẩn này nhằm mục đích cung cấp cơ hội việc làm lớn hơn cho các nhóm chủng tộc và dân tộc "ít đại diện", phụ nữ, những người thuộc cộng đồng LGBTQ+ và những người khuyết tật về nhận thức hoặc thể chất, nhưng không tính những người bị mắc các bệnh khuyết tật trí tuệ như rối loạn phổ tự kỷ.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Oscars Channel trên YouTube (do Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh điều hành)
Lễ trao giải Oscar
Hoa Kỳ năm 2024
Giải thưởng điện ảnh năm 2023
Giải thưởng Hoa Kỳ năm 2024
Los Angeles năm 2024 |
19853657 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Akamatsu%20Ry%C5%8Dko | Akamatsu Ryōko | (24 tháng 8 năm 1929 - 7 tháng 2 năm 2024) là cựu chính khách người Nhật Bản. Trước đây bà từng học tại Đại học Tokyo và giữ chức vụ làm Bộ trưởng Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ Nhật Bản từ ngày 9 tháng 8 năm 1993 đến ngày 30 tháng 6 năm 1994.
Tham khảo
Sinh năm 1929
Mất năm 2024
Cựu sinh viên Đại học Tokyo
Bộ trưởng Giáo dục Nhật Bản
Nữ chính khách Nhật Bản thế kỷ 20
Chính khách Nhật Bản thế kỷ 20
Chính khách từ Ōsaka
Đại sứ Nhật Bản tại Uruguay
Nữ bộ trưởng Nhật Bản |
19853664 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Doodh%20pati%20chai | Doodh pati chai | Doodh pati chai () là một loại thức uống làm từ
trà, có nguồn gốc từ tiểu lục địa Ấn Độ, được tiêu thụ ở Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Afghanistan và Nepal. Trong đó, sữa cùng với đường được đun sôi với trà. Doodh pati chai khác với saada chai ở chỗ nó chỉ sử dụng sữa (trái ngược với nước) và trà. Loại trà này khá phổ biến ở Nam Á. Nó đắt hơn một chút so với saada chai thông thường.
Từ nguyên
Trong nhiều ngữ chi Ấn-Arya, chai hoặc cha là từ để chỉ trà. Điều này xuất phát từ tiếng Ba Tư (chay), bắt nguồn từ từ tiếng Trung có nghĩa là trà (). Doodh có nghĩa là sữa và pati có nghĩa là lá. Vì vậy, thuật ngữ Doodh pati chai có nghĩa đen là sữa và lá trà.
Chuẩn bị
Một phương pháp chuẩn bị là cho nước vào nồi và đun sôi cùng với nhiều loại gia vị khác nhau như thảo quả xanh, gừng, bạch đậu khấu đen, quế, tiêu đen, đinh hương đen, thì là, nhục đậu khấu, bột gừng khô, cũng như nghệ tây ở tầng lớp thượng lưu đến trung lưu. Khi nước và gia vị sôi, người ta cho trà vào. Hỗn hợp này sau đó được để lại để ủ. Sau đó, sữa nguyên kem được thêm vào hỗn hợp rồi hầm trong thời gian dài cho ngấm. Đường thường được thêm vào tùy theo khẩu vị của mỗi người. Sau khi khuấy kỹ ở nhiệt độ thấp, dụng cụ lọc trà được sử dụng trước khi phục vụ chai. Nó thường được rót vào cốc nhưng một số người thích uống theo cách cổ điển hơn là từ mép đĩa.
Tiêu dùng
Doodh pati chai được tiêu thụ chủ yếu ở miền bắc Ấn Độ và Pakistan, nơi nó được luộc cùng với bạch đậu khấu, gừng và nhiều loại gia vị khác. Thông thường, nó có sẵn ở các dhaba ven đường và chaiwala ở các góc phố, nhưng phổ biến nhất là được chuẩn bị tại nhà, mặc dù ít hơn so với loại bằng nước. Nó chủ yếu được tiêu thụ ở miền Bắc Ấn Độ và Pakistan, mặc dù thỉnh thoảng nó cũng được tiêu thụ ở Nepal và Bangladesh và đã lan rộng đến cả Trung Đông do sự phổ biến của nó.
Doodh pati cũng thường được phục vụ ở các quán dhaba và chaiwala ven đường trên khắp Nam Á. Chúng cũng được tiêu thụ trong thời gian rảnh rỗi sau một ngày bận rộn.
Xem thêm
Ẩm thực Ấn Độ
Ẩm thực Bangladesh
Ẩm thực Pakistan
Tham khảo
Ẩm thực Ấn Độ
Ẩm thực Bangladesh
Ẩm thực Pakistan
Trà hỗn hợp
Trà sữa
Thức uống
Trà |
19853667 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Alfie%20Whiteman | Alfie Whiteman | Alfie Malik Whiteman (sinh ngày 2 tháng 10 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Anh hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Tottenham Hotspur tại Giải bóng đá Ngoại hạng Anh.
Sự nghiệp thi đấu
Tottenham
Whiteman gia nhập học viện của câu lạc bộ Tottenham Hotspur vào năm 2015. Vào năm 2019, anh ký hợp đồng với câu lạc bộ có thời hạn đến năm 2022.
Vào ngày 26 tháng 11 năm 2020, Whiteman được tung vào sân thay cho Joe Hart ở phút thứ 82, trong trận thắng 4-0 trước Ludogorets Razgrad ở UEFA Europa League.
Cho mượn tại Degerfors
Vào ngày 12 tháng 8 năm 2021, Whiteman gia nhập câu lạc bộ Degerfors tại Allsvenskan dưới dạng cho mượn trong phần còn lại của mùa giải 2021. Anh trở lại Tottenham sau khi mùa giải kết thúc vào tháng 12 năm 2021. Whiteman tiếp tục được cho mượn tại Degerfors vào tháng 2 năm 2022, và trở lại Tottenham vào tháng 12 năm 2022.
Quay trở lại Tottenham
Vào ngày 22 tháng 2 năm 2023, có thông báo rằng Whiteman đã gia hạn hợp đồng với Tottenham đến năm 2025.
Sự nghiệp quốc tế
Whiteman có ông ngoại là người Pakistan nên đủ điều kiện đại diện cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Pakistan.
Đời tư
Whiteman theo học tại trường Park View School ở Tottenham.
Thống kê sự nghiệp
Tham khảo
Sinh năm 1998
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Anh
Cầu thủ bóng đá Anh ở nước ngoài
Thủ môn bóng đá nam
Cầu thủ bóng đá Tottenham Hotspur F.C.
Cầu thủ bóng đá Degerfors IF
Cầu thủ bóng đá Allsvenskan
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thụy Điển
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Anh |
19853677 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nagaoka%20Keiko | Nagaoka Keiko | là chính khách người Nhật Bản. Trước đây, bà từng giữ chức vụ làm Bộ trưởng Giáo dục, Văn hóa, Thể thao, Khoa học và Công nghệ từ ngày 10 tháng 8 năm 2022 đến ngày 13 tháng 9 năm 2023.
Tham khảo
Sinh năm 1953
Nhân vật còn sống
Người Shibuya
Chính khách Tōkyō
Cựu sinh viên đại học Gakushuin
Hạ nghị sĩ Nhật Bản
Chính khách Đảng Dân chủ Tự do (Nhật Bản)
Nữ chính khách Nhật Bản thế kỷ 21 |
19853683 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0%20Th%E1%BB%9D%20Ti%E1%BB%87c%20C%C6%B0%E1%BB%9Bi%20Gi%C3%A0y%20Cao%20G%C3%B3t | Nhà Thờ Tiệc Cưới Giày Cao Gót | Nhà Thờ Tiệc Cưới Giày Cao Gót () là một tòa nhà hình giày cao gót ở thị trấn Bố Đại, Gia Nghĩa, Đài Loan. Được quản lý bởi Cục Quản lý Khu thắng cảnh quốc gia Bờ biển Tây Nam
Lịch sử
Việc xây dựng được hoàn thành vào ngày 10 tháng 1 năm 2016 và được đưa vào thử nghiệm vào tháng 2 năm 2016. Công trình chính thức khai trương vào ngày 23 tháng 7 năm 2016 Cuối năm đó, nhà thờ đã nhận được chứng nhận Kỷ lục Guinness thế giới là công trình hình giày cao gót lớn nhất thế giới. Vào năm 2017, Cục Du lịch Đài Loan đã lên kế hoạch nâng cấp cơ sở vật chất xung quanh nhà thờ và triển khai một loạt chương trình khuyến mãi cho nhà thờ.
Kiến trúc
Công trình có hình dáng giống chiếc giày cao gót, cao 17,76 m, rộng 11,91 m và dài 25,16 m. Công trình bao gồm hơn 300 mảnh kính màu xanh lam.
Sự kiện
Công trình này nổi tiếng vì được sử dụng làm địa điểm tổ chức đám cưới. Mặc dù được gọi một cách thông tục là 'nhà thờ', nhưng địa điểm này không được thánh hiến và không có chức năng tôn giáo.
Xem thêm
Danh sách các điểm du lịch ở Đài Loan
Tham khảo
Khởi đầu năm 2016 ở Đài Loan
Công trình xây dựng huyện Gia Nghĩa
Nhà nguyện lễ cưới |
19853684 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Stephanie%20Del%20Valle | Stephanie Del Valle | Stephanie Del Valle Díaz (sinh ngày 30 tháng 12 năm 1996) là một nhạc sĩ và người mẫu đến từ Puerto Rico. Cô đăng quang Hoa hậu Thế giới 2016 và là người thứ hai đến từ Puerto Rico đoạt danh hiệu này, sau Wilnelia Merced tại Hoa hậu Thế giới 1975.
Sự nghiệp
Del Valle theo học Đại học Pace ở Thành phố New York, nơi cô đang học luật và truyền thông. Trước khi tham gia các cuộc thi sắc đẹp, Del Valle là nàng thơ của nhà thiết kế thời trang người Puerto Rico Carlos Alberto. Cô nói được ba thứ tiếng; Tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anh và tiếng Pháp.
Các cuộc thi sắc đẹp
Hoa hậu Thế giới Puerto Rico 2016
Del Valle đã thi đấu tại Hoa hậu Thế giới Puerto Rico vào năm 2016, đại diện cho thành phố Toa Baja. Cuối cùng, cô đã giành được danh hiệu Hoa hậu Thế giới Puerto Rico 2016 và được trao vương miện bởi người đoạt danh hiệu tiền nhiệm Keysi Marie Vargas Vélez. Cô cũng từng đoạt giải Tài năng trong cuộc thi.
Hoa hậu Thế giới 2016
Cô đại diện cho Puerto Rico tại cuộc thi Hoa hậu Thế giới 2016 được tổ chức tại Oxon Hill, Maryland, Hoa Kỳ. Cô lọt vào Top 21 vòng thi Hoa hậu Tài năng. Trong đêm chung kết, Del Valle, với tư cách là một trong Top 5 thí sinh lọt vào vòng chung kết, đã được hỏi - "Nếu bạn có cơ hội thay đổi điều gì đó về thế giới, đó sẽ là gì?" Cô ấy trả lời:
Cuối cùng, cô đã được trao vương miện Hoa hậu Thế giới 2016 tại sự kiện này bởi Hoa hậu Thế giới 2015, Mireia Lalaguna của Tây Ban Nha. Đây là lần thứ hai Puerto Rico giành vương miện Hoa hậu Thế giới, sau Wilnelia Merced, Hoa hậu Thế giới 1975.
Tham khảo
Liên kết ngoài |
19853690 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202022%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%93ng%20%C4%91%E1%BB%99i%20N%E1%BB%AF | Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 – Đồng đội Nữ | Nội dung biểu diễn đồng đội nữ, bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 diễn ra từ ngày 6 đến ngày 8 tháng 10 năm 2023 tại Nhà thi đấu thể thao dưới nước của Trung tâm thể thao Olympic Hàng Châu.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ chuẩn Trung Quốc (UTC+08:00)
Kết quả
Nguồn:
Chú thích
R - Dự bị nhưng không tham dự bất kỳ nội dung nào
Tham khảo
Đồng đội Nữ |
19853691 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018 | Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 | Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 được tổ chức tại Sân vận động thể thao dưới nước Gelora Bung Karno, Khu liên hợp thể thao Gelora Bung Karno, Jakarta, Indonesia từ ngày 27 tháng 8 đến ngày 29 tháng 8 năm 2018.
Chỉ có các nội dung dành cho nữ được tổ chức trong hai nội dung thi đấu. Trung Quốc một lần nữa "thống trị" giải đấu khi giành cả hai huy chương vàng trước Nhật Bản. Trong khi đó Nhật Bản xếp hạng hai và giành hai huy chương bạc.
Lịch thi đấu
Quốc gia tham dự
Tổng cộng 94 vận động viên đến từ 11 quốc gia tranh tài môn bơi nghệ thuật tại Đại hội thể thao châu Á 2018:
Danh sách huy chương
Bảng tổng sắp huy chương
Liên kết ngoài
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018
Official Result Book – Artistic Swimming
Tham khảo
2018
Môn thi đấu tại Đại hội Thể thao châu Á 2018
Đại hội Thể thao châu Á
Giải đấu thể thao dưới nước quốc tế tổ chức bởi Indonesia |
19853701 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018%20%E2%80%93%20%C4%90%C3%B4i%20N%E1%BB%AF | Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 – Đôi Nữ | Nội dung biểu diễn đôi nữ bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 diễn ra từ ngày 27 đến ngày 28 tháng 8 năm 2018 tại Sân vận động thể thao dưới nước Gelora Bung Karno.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ miền Tây Indonesia (UTC+07:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Liên kết ngoài
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018
Artistic Swimming - Women's Duets | Asian Games 2018 Jakarta Palembang
Tham khảo
Đôi Nữ |
19853703 | https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C6%A1i%20ngh%E1%BB%87%20thu%E1%BA%ADt%20t%E1%BA%A1i%20%C4%90%E1%BA%A1i%20h%E1%BB%99i%20Th%E1%BB%83%20thao%20ch%C3%A2u%20%C3%81%202018%20%E2%80%93%20%C4%90%E1%BB%93ng%20%C4%91%E1%BB%99i%20N%E1%BB%AF | Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 – Đồng đội Nữ | Nội dung biểu diễn đồng đội nữ, bộ môn bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018 diễn ra vào ngày 29 tháng 8 năm 2018 tại Sân vận động thể thao dưới nước Gelora Bung Karno.
Lịch thi đấu
Tất cả các giờ đều là Giờ miền Tây Indonesia (UTC+07:00)
Kết quả
Chú thích
FR — Dự bị trong nội dung free
RR — Dự bị trong nội dung technical và free
TR — Dự bị trong nội dung technical
Liên kết ngoài
Bơi nghệ thuật tại Đại hội Thể thao châu Á 2018
Tham khảo
Đồng đội Nữ |
19853706 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Kaijuu%208-gou | Kaijuu 8-gou | là một loạt shōnen manga do họa sĩ Matsumoto Naoya sáng tác và minh họa. Manga được đăng lần đầu trên tạp chí Shōnen Jump+ từ tháng 7 năm 2020, và sau đó được Shūeisha tổng hợp và phát hành thành 11 tập tankōbon tính đến tháng 12 năm 2023. Câu chuyện kể về Hibino Kafka, một người đàn ông sau khi vô tình ăn phải kaiju đã có được khả năng biến thành loài đó và bây giờ Kafka phải học cách sử dụng sức mạnh của mình trong khi cố gắng hết sức để vượt qua kỳ thi lần cuối cũng như để thực hiện lời hứa mà anh đã hứa với một người bạn từ thuở nhỏ.
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Một nghiên cứu chỉ ra điểm khác biệt của Monster #8 đối với những bộ shōnen manga khác.
Một bài đánh giá của Kadokawa về bộ manga.
Liên kết ngoài
(anime)
Manga dài tập
Shōnen manga
Manga năm 2020
Manga năm 2024
Anime năm 2024
Anime dài tập dựa trên manga
Anime truyền hình dài tập sắp phát sóng
Truyện tranh mạng Nhật Bản
Production I.G
Manga Shūeisha
Manga Viz Media
Tiểu thuyết Viz Media
Kaiju
Jump J-Books
Anime Crunchyroll
Toho Animation
Kịch bản truyền hình của Ōkouchi Ichirō
Anime và manga khoa học giả tưởng
Anime và manga phiêu lưu
Chương trình của TV Tokyo
Biến đổi hình dạng trong tác phẩm giả tưởng
Truyện tranh mạng bản in
Manga phát hành bởi IPM
Anime truyền hình dài tập năm 2024 |
19853708 | https://vi.wikipedia.org/wiki/PCS%20m%C3%B9a%20gi%E1%BA%A3i%202024 | PCS mùa giải 2024 | PCS mùa giải 2024 là mùa giải thứ 5 của Pacific Championship Series (PCS), giải đấu thể thao điện tử chuyên nghiệp của khu vực Thái Bình Dương dành cho bộ môn Liên Minh Huyền Thoại. Mùa giải được chia làm 2 giai đoạn: Mùa Xuân và Mùa Hè. Giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu vào ngày 19 tháng 1 và kết thúc với trận chung kết tổng vào ngày 7 tháng 4 năm 2024.
Thể thức
Vòng bảng
Có tổng cộng 2 vòng :
Vòng 1
8 đội tham gia thi đấu.
Thi đấu theo thể thức vòng tròn 1 lượt.
Tất cả các trận đấu đều là Bo3.
Cả 8 đội đều lọt vào vòng 2.
Vòng 2
Thi đấu theo thể thức vòng tròn 1 lượt.
Tất cả các trận đấu đều là Bo3.
Kết quả vòng 1 được giữ nguyên, chuyển tiếp sang vòng 2.
8 đội tham gia thi đấu được chia thành 2 bảng đấu, mỗi bảng 4 đội:
4 đội đứng đầu vòng 1 sẽ được xếp vào bảng Đối đầu (Contender group):
Cả 4 đội đều lọt vào vòng loại trực tiếp, trong đó 2 đội đứng đầu bảng sẽ lọt vào vòng 2 của vòng loại trực tiếp, 2 đội còn lại sẽ lọt vào vòng 1 của vòng loại trực tiếp.
4 đội còn lại sẽ được xếp vào bảng Đột phá (Breakout group):
2 đội đứng đầu bảng sẽ lọt vào vòng 1 của vòng loại trực tiếp.
Vòng loại trực tiếp
Thi đấu theo thể thức nhánh thắng nhánh thua.
Tất cả các trận đấu đều là Bo5.
11 đội tham gia thi đấu, bao gồm:
6 đội PCS.
3 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp LJL giải mùa xuân.
2 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp LCO giải mùa xuân.
8 đội xuất phát từ vòng 1, trong khi đó 3 đội còn lại lọt thẳng vào vòng 2:
2 đội đứng đầu bảng Đối đầu (Contender group) của PCS.
1 đội đứng đầu vòng loại trực tiếp LJL giải mùa xuân.
Giải Mùa Xuân
Vòng bảng giải Mùa Xuân sẽ bắt đầu từ ngày 19 tháng 1 năm 2024. 8 đội sẽ chơi tổng cộng 56 trận (28 trận mỗi vòng) và tất cả các trận đấu vòng bảng sẽ được thi đấu theo thể thức Bo3. Sáu đội dẫn đầu vòng 2 vòng bảng sẽ tiến vào vòng loại trực tiếp cùng vớ các đại diện đến từ LJL và LCO, diễn ra từ ngày 11 tháng 3 đến ngày 7 tháng 4 năm 2024 . Đội đứng đầu vòng loại trực tiếp Giải Mùa Xuân đủ điều kiện tham dự Mid-Season Invitational 2024.
Vòng bảng
Vòng 1
Vòng 2
Bảng Đối đầu
Bảng Đột phá
Vòng loại trực tiếp
Vòng 1
Bảng A
Bảng B
Vòng Cơ hội cuối cùng - LCQ
Vòng 2
Tham khảo
Liên Minh Huyền Thoại năm 2024 |
19853711 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Virgil%20K.%20Meroney | Virgil K. Meroney | Virgil Kersh Meroney II (16 tháng 2 năm 1921 – 27 tháng 6 năm 1980) là một đại tá Không quân Hoa Kỳ. Trong Thế chiến II, ông là phi công ách với 9 chiến công khi điều khiển chiếc P-47 Thunderbolt, khiến ông trở thành phi công xuất sắc P-47 duy nhất trong Liên đoàn chiến đấu số 352. Ông bị bắn hạ rồi bị bắt làm tù binh trước khi vượt ngục thành công. Ông từng thực hiện các nhiệm vụ trong Chiến tranh Triều Tiên và Chiến tranh Việt Nam trước khi giải ngũ khỏi không quân vào năm 1970.
Đầu đời
Meroney sinh ngày 16 tháng 2 năm 1921, ở Pine Bluff, Arkansas.
Binh nghiệp
Vào tháng 5 năm 1937, ông gia nhập Lực lượng Vệ binh Quốc gia Arkansas và được lệnh nhập ngũ vào tháng 5 năm 1940. Năm 1941, ông kết hôn với Mildred Louise, nhũ danh Duckett (1921–2009). Họ có hai con trai: Virgil III và Douglas.
Vào ngày 27 tháng 3 năm 1942, ông tham gia khóa huấn luyện bay của Không lực Lục quân Hoa Kỳ và nhận phù hiệu phi công. Vào ngày 30 tháng 10 năm 1942, ông được sắc phong hàm thiếu úy tại Luke Field ở Arizona.
Thế chiến II
Vào tháng 12 năm 1942, Meroney được cử đến Westover Field ở Massachusetts, ông được chỉ định vào Phi đoàn chiến đấu số 487 trong Liên đoàn chiến đấu số 352 và vào tháng 1 năm 1943, ông hoàn thành khóa huấn luyện trong chiếc P-47 Thunderbolt. Vào tháng 6 năm 1943, Liên đoàn số 352 đổ bộ lên Vương quốc Anh và được chỉ định đến Không quân Hoàng gia Bodney ở Watton, Norfolk. Điều khiển những chiếc P-47 trong chiến đấu, Meroney đã bắn hạ chiếc máy bay Đức đầu tiên và chia chiến công khác với một đồng đội phi công chiến đấu vào ngày 1 tháng 12 năm 1943.
Meroney lập chiến công thứ hai vào ngày 4 tháng 12 năm 1943, cùng với chiến công chung. Ông bắn hạ chiếc máy bay Đức thứ tư vào ngày 29 tháng 1 năm 1944 và vào ngày 30 tháng 1, ông bắn hạ chiếc máy bay Đức thứ năm, trở thành phi công ách đầu tiên trong Liên đoàn chiến đấu số 352.
Meroney tiếp tục lập chiến công. Vào ngày 8 tháng 3, trong khi hộ tống các máy bay ném bom Mỹ rút lui sau nhiệm vụ ném bom trên Berlin, phi đội của Meroney đã giao chiến với ba chiếc Bf 109 do phi công Đức chỉ huy đang cố gắng tấn công các máy bay ném bom. Khi Mietusch tấn công các máy bay ném bom từ phía sau, ông đã bắn hạ được một trong những chiếc B-17 nhưng đáp lại bị Meroney bắn hạ, buộc Mietusch phải nhảy dù thoát khỏi chiếc máy bay, và công nhận Meroney với chiến công thứ tám. Vào ngày 16 tháng 3, ông bắn hạ chiếc máy bay Đức thứ 9, đây là chiến công cuối cùng của ông trong chiến tranh. Vào tháng 4 năm 1944, Liên đoàn số 352 chuyển sang chiếc P-51 Mustang. Vào ngày 8 tháng 4 năm 1944, khi oanh tạc một sân bay Đức, Meroney bị hỏa lực phòng không bắn hạ và ông nhảy thoát ra khỏi chiếc P-51 bị hư hỏng. Ông bị quân Đức bắt và bị giam làm tù binh cho đến tháng 4 năm 1945, khi ông vượt ngục và tìm cách liên lạc với Quân đội Hoa Kỳ đang tiến về sông Rhein.
Trong Thế chiến II, Meroney được công nhận đã bắn phá hủy 9 máy bay quân địch cộng thêm 2 chiến công chung và 1 chiếc bị hư hại. Vì những thành tích của mình trong chiến tranh, ông được trao Ngôi sao Bạc, 5 Huân chương Thập tự Phi hành Xuất sắc và 4 Huân chương Không quân. Khi phục vụ trong Liên đoàn số 352, chiếc P-47 được đặt theo tên vợ ông, mang tên "Sweet Louise".
Chiến tranh Lạnh
Sau khi trở về Hoa Kỳ, từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 1 năm 1946 Meroney là người hướng dẫn bay tại Luke Field và tiếp tục phục vụ trong Không quân Hoa Kỳ mới thành lập. Từ năm 1950, ông chỉ huy Phi đoàn hộ tống chiến đấu số 561 của Liên đoàn hộ tống chiến đấu số 12 và dẫn đầu đơn vị này đến Anh từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1951. Ông sau đó được chỉ định vào Phi đoàn thử nghiệm số 1211 tại Kwajalein từ tháng 9 đến tháng 11 năm 1952, nơi ông tham gia nhiệm vụ lấy mẫu sau vụ thử hạt nhân Operation Ivy.
Từ tháng 5 đến tháng 8 năm 1953, ông được chỉ định đến Nhật Bản, nơi ông điều khiển các chiếc F-84 Thunderjet tham chiến trong những tháng cuối cùng của Chiến tranh Triều Tiên. Meroney đảm nhận nhiều cương vị chỉ huy và tham mưu trong 15 năm tiếp theo. Năm 1968, trong Chiến tranh Việt Nam, ông được chỉ định vào Không đoàn chiến thuật số 8 tại Căn cứ Không quân Hoàng gia Thái Lan Ubon, ông giữ chức Phó Tư lệnh Tác chiến và kế tiếp là Phó Tư lệnh, điều khiển chiếc F-4 Phantom II trong các nhiệm vụ chiến đấu. Ông thực hiện 141 nhiệm vụ chiến đấu và đã thực hiện hai nhiệm vụ chiến đấu cùng con trai mình là Virgil III, trước khi con trai ông tử trận vào ngày 1 tháng 3 năm 1969, sau khi máy bay của ông bị hỏa lực phòng không bắn hạ trong một nhiệm vụ không kích vào ban đêm phá hủy mục tiêu quân địch ở tỉnh Khammuane, Lào.
Meroney trở về Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 1969 và được chỉ định vào sở chỉ huy Bộ Tư lệnh Không quân Chiến thuật tại Căn cứ Không quân Langley ở Virginia, nơi ông giữ chức vụ Phụ tá Viên trưởng An toàn và sau đó là Viên trưởng An toàn trước khi giải ngũ khỏi không quân vào ngày 31 tháng 12 năm 1970.
Qua đời
Meroney qua đời vì bệnh ung thư vào ngày 27 tháng 6 năm 1980, ở tuổi 59. Ông được an táng tại Nghĩa trang Graceland ở Pine Bluff.
Chiến công
Nguồn: Air Force Historical Study 85: USAF Credits for the Destruction of Enemy Aircraft, World War II
Huân chương
Chú thích
Ghi chú
Tham khảo
Phi công Không lực Lục quân Hoa Kỳ trong Thế chiến thứ hai
Phi công Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam
Tù nhân chiến tranh bị Đức giam giữ trong Thế chiến thứ hai |
19853712 | https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Spikefish%20%28SS-404%29 | USS Spikefish (SS-404) | USS Spikefish (SS-404/AGSS-404) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên họ Cá cờ. Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được bốn chuyến tuần tra và đánh chìm một tàu ngầm Nhật Bản tải trọng 1.660 tấn. Sau khi xung đột chấm dứt, nó tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1963. Con tàu cuối cùng bị đánh chìm như một mục tiêu ngoài khơi Long Island vào năm 1964. Spikefish được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Spikefish được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 29 tháng 1, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 26 tháng 4, 1944, được đỡ đầu bởi bà Harvey W. Moore, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 6, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Nicholas John Nicholas.
Lịch sử hoạt động
Phần thưởng
Spikefish được tặng thưởng ba Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm một tàu ngầm Nhật Bản tải trọng 1.660 tấn.
Tham khảo
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-404
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu bị đánh chìm như mục tiêu
Xác tàu đắm ngoài khơi bờ biển tiểu bang New York
Sự cố hàng hải năm 1964
Tàu thủy năm 1944
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Lạnh
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ trong Thế Chiến II |
19853714 | https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sea%20Owl%20%28SS-405%29 | USS Sea Owl (SS-405) | USS Sea Owl (SS-405/AGSS-405) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên họ Cá vây tròn.Nó đã phục vụ trong giai đoạn sau của Thế Chiến II, thực hiện được ba chuyến tuần tra, đánh chìm hai tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 1.689 tấn. Sau khi xung đột chấm dứt con tàu vẫn hoạt động trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh, được trang bị ống hơi trong Chương trình Công suất đẩy dưới nước lớn hơn (GUPPY), và đã phục vụ cho đến năm 1969. Nó cuối cùng bị bán để tháo dỡ vào năm 1971. Sea Owl được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày.
Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi.
Sea Owl được đặt lườn tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Kittery, Maine vào ngày 7 tháng 2, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 7 tháng 5, 1944, được đỡ đầu bởi bà Thomas L. Gatch, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 17 tháng 7, 1944 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Carter Lowe Bennett.
Lịch sử hoạt động
Phần thưởng
Sea Owl được tặng thưởng năm Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Nó được ghi công đã đánh chìm hai tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 1.689 tấn.
Tham khảo
Ghi chú
Chú thích
Thư mục
Liên kết ngoài
NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-405
www.USSSeaOwl.com
Lớp tàu ngầm Balao
Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ
Tàu ngầm trong Thế chiến II
Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh
Tàu thủy năm 1944 |
19853716 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh%20Ng%E1%BB%8Dc%20Quy%C3%AAn | Trịnh Ngọc Quyên | Trịnh Ngọc Quyên (sinh năm 1969) là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông hiện giữ chức vụ Bí thư Đảng ủy, Giám đốc Học viện An ninh nhân dân.
Sự nghiệp
Thiếu tướng Trịnh Ngọc Quyên sinh năm 1969, quê ở huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Ông là Phó Giáo sư, tiến sĩ chuyên ngành Khoa học An ninh.
Trong quá trình công tác ông từng là Cục phó - Thư ký Thứ trưởng Bộ Công an. Vào tháng 3 năm 2013, ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Ninh. Đến năm 2018, ông tiếp tục được bổ nhiệm lại chức vụ Phó Giám đốc Công an Quảng Ninh.
Năm 2016, ông được công nhận chức danh Phó giáo sư.
Ông được Bộ Công an điều động và bổ nhiệm giữ chức vụ Giám đốc Công an tỉnh Bình Dương từ ngày 1 tháng 4 năm 2019.
Ngày 28 tháng 4 năm 2023, ông được bổ nhiệm chức vụ Giám đốc Học viện An ninh nhân dân thay ông Lê Văn Thắng từ ngày 1 tháng 5 năm 2023.
Tháng 7 năm 2023, Ông được Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng thăng cấp bậc hàm Thiếu tướng.
Lịch sử thụ phong cấp bậc hàm
Tham khảo
Sinh năm 1969
Nhân vật còn sống
Giám đốc Học viện An ninh nhân dân
Thiếu tướng Công an nhân dân Việt Nam |
19853725 | https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20tr%C3%B2%20ch%C6%A1i%20Hugo | Danh sách trò chơi Hugo | Nhượng quyền truyền thông Hugo bao gồm nhiều trò chơi điện tử dựa trên hoặc lấy cảm hứng từ trò chơi truyền hình tương tác cùng tên ban đầu được phát triển bởi Đan Mạch ITE Media của Đan Mạch. Hàng chục trò chơi thuộc nhiều thể loại khác nhau đã được phát hành quốc tế trên nhiều nền tảng khác nhau kể từ năm 1990 và đã bán được hơn 10 triệu bản tính đến năm 2008.
Dòng Hugo cổ điển
Từ năm 1992 đến năm 2000, ITE Media đã chuyển thể chương trình truyền hình cổ điển Hugo của họ thành hàng chục bộ sưu tập các kịch bản khác nhau cho một số nền tảng máy tính và console. Chúng cũng được sắp xếp lại cho một số bản tái phát hành Classic Hugo trong những năm 2000.
Dòng Hugo: Jungle Island
Một số trò chơi điện tử chuyển thể từ trò chơi truyền hình cùng tên đã được ITE Media phát triển và phát hành vào đầu những năm 2000.
Dòng Agent Hugo
Loạt trò chơi Agent Hugo là phần khởi động lại theo chủ đề nhại lại James Bond của loạt Hugo do ITE Media phát triển và phát hành. Bản gốc Agent Hugo chỉ được phát hành ở Châu Âu vào năm 2005, tiếp theo là Agent Hugo: Roborumble (2006), Agent Hugo: Lemoon Twist (2007) và Agent Hugo: Hula Holiday (2008). Không giống như các trò chơi Hugo cổ điển, các trò chơi trong loạt này không phải là sự tổng hợp các kịch bản đơn giản từ chương trình truyền hình mà là các trò chơi hành động bắn súng góc nhìn người thứ ba hoàn chỉnh tương tự như một số trò chơi Hugo độc lập trước đó.
Các trò chơi Hugo khác của ITE
Skærmtrolden Hugo
Trò chơi Hugo đầu tiên dựa trên chương trình truyền hình gốc Hugo Eleva2ren được phát triển bởi Thomas Villadsen và Uffe Jakobsen cho SilverRock Productions (sau này là Interactive Television Entertainment và ITE Media). Skærmtrolden Hugo ban đầu được phát hành cho máy tính Commodore 64 và Amiga trước Giáng sinh năm 1990 và trên toàn thế giới (như Hugo trong phiên bản tiếng Anh) vào năm 1991, và sau đó được chuyển sang PC DOS ngay sau đó. Trò chơi diễn ra tại một mỏ vàng cũ đầy rẫy những nguy hiểm, mà Hugo phải điều hướng để tìm phòng chứa kho báu. Cơ chế chơi của Skærmtrolden Hugo rất đơn giản và việc hoàn thành toàn bộ trò chơi có thể mất chưa đầy mười phút. Skærmtrolden Hugo đã trở thành trò chơi bán chạy nhất ở Đan Mạch với 30.000 bản được bán ra trong chiến dịch Giáng sinh.
Hugo: Winter Games
Một bộ sưu tập các trò chơi nhỏ có chủ đề Giáng sinh được xuất bản năm 1997 cho PC. Còn được gọi là Hugo: PC Calendar hoặc Chirstmas CD-ROM, Trò chơi ban đầu được phát hành ở Đan Mạch với tên gọi Hugo i Sneen (Hugo in the Snow). Trong đó, Scylla đã đặt một lời nguyền lên Làng Giáng sinh của ông già Noel và người duy nhất có thể ngăn cản lời nguyền này là Hugo. Bằng cách hoàn thành 24 trò chơi nhỏ khác nhau đại diện cho mỗi ngày của tháng 12 trước đêm Giáng sinh, tên quỷ lùn phải hóa giải bùa chú của Scylla và cuối cùng đối đầu và đóng băng cô ta.
Hugo Saves Christmas
Một bộ sưu tập các trò chơi nhỏ có chủ đề Giáng sinh được xuất bản cho PC vào năm 1998. Trong trò chơi, Hugo lại đến để ngăn chặn âm mưu mới nhất của Scylla nhằm phá hoại đêm Giáng sinh của trẻ em khắp nơi. Lần này, anh phải giải cứu ông già Noel khỏi bị giam cầm trong nơi ở của chính Scylla, Lâu đài Đầu lâu, và giành lại toàn bộ nơi này cho ông già Noel bằng cách thay thế chủ đề đen tối của nó bằng đồ trang trí Giáng sinh và cuối cùng đánh bại Scylla. Còn được gọi là Hugo: PC Calendar, trò chơi được phát hành ở Đan Mạch với tên gọi Hugo Redder Julen , ở Đức với tên Hugo rettet das Weihnachtsfest , ở Argentina với tên Hugo salva la Navidad và ở Nga với tên Кузя спасает Рождество. Đã được phát hành lại như một phần của Trollbox 1 (đi kèm cùng với Hugo 5 và Stinky & Biber) vào năm 2000.
Hugo: The Magic Oak
Một bộ sưu tập các minigame về giáo dục được phát hành cho PC vào năm 1999. Đây là trò chơi đầu tiên có sự tham gia của con trai sơ sinh của Hugo là Rat trong vai nhân vật chính khi phép thuật của Scylla đưa cậu vào sâu trong Rừng Quỷ, từ đó người chơi phải hướng dẫn cậu trở về với gia đình. Nó còn được gọi là Hugo: Learn & Play, cũng tương tự như Hugo: The Enchanted Egg ở Đan Mạch, Hugo: Tajemný Les ở Cộng hòa Séc, Hugo: Taikatammi ở Phần Lan, Hugo: The Magic Oak ở Argentina, Hugo: Die Zaubereiche ở Đức, Hugo: Zaczarrowany Dąb ở Ba Lan, Hugo: The Magic Monkey ở Thổ Nhĩ Kỳ và Кузя и его друзья: Волшебное дерево ở Nga.
Scylla's Revenge
Trong bộ sưu tập minigame trên PC này, mụ phù thủy đáng ghét Scylla đã trở lại một lần nữa trong bối cảnh Giáng sinh, nhưng lần này, mụ cố gắng loại bỏ ông già Noel và tất cả các yêu tinh mãi mãi. Cô sử dụng một câu thần chú độc ác nhốt tất cả họ trong những khối băng và giờ họ có nguy cơ bị đóng băng bên trong trừ khi Hugo có thể cứu họ kịp thời. Trò chơi được phát hành ở Đan Mạch với tên gọi Hugo: Afskylias Hævn, và cũng được phát hành ở Đức với tên gọi Hugo Wintergames 3 , ở Ba Lan với tên Hugo: Christmas Adventure , và ở Nga với tên Кузя: Новый год ( Kuzya/Hugo: New Year ).
Hugo in the Hut
Một trò chơi năm 2000 cho PC.
Hugo: Quest for the Sunstones
Hugo: Black Diamond Fever
Hugo: New Year
Ban đầu có tựa đề Kuzya: New Year, trò chơi điện tử nền tảng 2D của Nga dành cho Windows này được ITE và MediaHouse phát hành vào năm 2001.
Hugo: The Bewitched Rollercoaster
Trong bộ sưu tập minigame trên PC năm 2001 này, Scylla đã phá hủy nguồn điện tại công viên giải trí nhằm phá hỏng khoảng thời gian vui vẻ của bọn trẻ. Con trai của Hugo, Rat và con ruồi Buzzy bắt tay vào một cuộc tìm kiếm xuyên thời gian và không gian (bao gồm Ai Cập cổ đại, miền Tây hoang dã, thời kỳ đồ đá, thời Trung cổ và La Mã cổ đại) để tìm những món đồ có thể giúp họ sửa chữa tàu lượn siêu tốc và giúp Hugo trả thù Scylla. Có tựa đề là Hugo: Den Forheksede Rutschebane / Hugo: Leg Og Lær 3 ở Đan Mạch, Hugo: Taikavuoristorata ở Phần Lan, Hugo: Die verhexte Achterbahn ở Đức, Hugo: Zaklęta Kolejka ở Ba Lan và Кузька: Путешественник во времени (Kuzya/Hugo: Người du hành thời gian) ở Nga.
Hugo: The Magic Journey
Trong trò chơi giáo dục PC năm 2001 này, con gái của Hugo thực hiện hành trình tìm kiếm kho báu mà tổ tiên cô đã đánh mất khi họ bị Scylla tấn công nhiều thế kỷ trước. Nó có tựa đề là Hugo: Den Magiske Rejse/Hugo: Leg Og Lær 2 ở Đan Mạch, Hugo: Cesta kolem světa (Around the World) ở Séc, Hugo: Fantastische Welt ở Đức, Hugo Taikamatka ở Phần Lan, Hugo: Magiczna podróż ở Ba Lan, Hugo Sihirli Yolculuk ở Thổ Nhĩ Kỳ và Кузя и его друзья: Большое путешествие (Kuzya/Hugo and His Fiends: A Great Trip) ở Nga. Trò chơi bị một số người ở Thổ Nhĩ Kỳ coi là tai tiếng do nó mô tả đất nước này.
Hugo: The Secrets of the Forest
Trong trò chơi giáo dục trên PC năm 2002 tổng hợp 8 minigame, Scylla biến một lớp trẻ em thỏ thành đá trong khi cô tìm kiếm trong rừng một loại nấm quý hiếm mà cô cần cho phép thuật của mình. Sử dụng cuộn giấy mà Scylla đánh rơi, con gái của Hugo là Ruth cần thu thập các nguyên liệu để tạo ra thuốc giải độc cho bùa chú tà ác. Nó cũng có tựa đề là Hugo: Den Magiske Trylledrik/Hugo: Leg Og Lær 4 ở Đan Mạch, Hugo Taikajuoma ở Phần Lan, Hugo: Der magische Zaubertrank ở Đức, Hugo: Magiczny napój ở Ba Lan, Hugo: Ormanın Büyüsü ở Thổ Nhĩ Kỳ và Magiczny Elixir ở Nga.
Hugo: The Forces of Nature
Một trò chơi giáo dục được phát hành cho PC vào năm 2002. Trong trò chơi này, Scylla đã rời khỏi hang ổ của mình để đến đại hội các phù thủy, để lại Don Croco một mình với cuốn sách bùa chú của mình. Kết quả là phép thuật bùng phát gây ra hàng loạt thảm họa thiên nhiên trên hòn đảo nơi người Kikurian sinh sống. Hugo phải đứng lên chống lại các thế lực tự nhiên và cuối cùng là chiến đấu với Scylla đang quay trở lại. Có tựa đề Hugo: Naturens Kræfter/Hugo: Leg Og Lær 6 ở Đan Mạch, Hugo: Sila prírody ở Cộng hòa Séc, Hugo ja luonnonvoimat ở Phần Lan, Hugo im Bann der Element ở Đức, Hugo: Naturkrafterna ở Ba Lan, Hugo: Naturkrafterna ở Thụy Điển, Hugo: Doğanın Güçleri ở Thổ Nhĩ Kỳ và Силы природы ở Nga.
Hugo: Heroes of the Savannah
Một trò chơi giáo dục năm 2002 dành cho PC.
Hugo and the Animals of the Ocean
Một trò chơi giáo dục năm 2002 dành cho PC.
Hugo in Space
Trong trò chơi PC mang tính giáo dục năm 2002 này, Scylla và đội quân tay sai của cô du hành vào vũ trụ để tìm kiếm một tiểu hành tinh nằm ở phía bên kia của Sao Diêm Vương. Lõi của nó bao gồm toàn bộ những viên kim cương đen quý hiếm sẽ khiến cô mạnh mẽ hơn vô cùng và biến tất cả các sinh vật trong rừng quỷ lùn thành nô lệ của cô. Hugo, lúc đó đang có kỳ nghỉ cùng gia đình trong không gian, một lần nữa họ phải lên đường ngăn chặn âm mưu của cô, vì họ cần phải hoàn thành năm nhiệm vụ trên Hệ Mặt trời. để thu thập đủ nhiên liệu tàu vũ trụ để chiến đấu vượt qua hạm đội không gian của Scylla để đến căn cứ khai thác của cô ấy cho nổ tung nó cùng với tiểu hành tinh, sau đó họ đuổi theo tàu vũ trụ của Scylla để phá hủy nó trước khi cô có thể quay trở lại Trái Đất. được phát hành với tên Hugo På Rumfart/Hugo: Leg Og Lær 8 ở Đan Mạch, Hugo Avaruudessa ở Phần Lan, Hugo im Weltraum ở Đức, ở Ba Lan và Кузя в космосе ở Nga.
Hugo: The Evil Mirror
Hugo Frog Fighter
Một trò chơi năm 2002 dành cho PlayStation, tương tự như phiên bản nâng cao của Frogger.
Hugo: Smakkaball
Được phát hành cho PC vào năm 2003. Hugo tham gia một giải đấu thể thao đấu trường "smakkaball" cùng với gia đình, bạn bè và thậm chí cả kẻ thù truyền kiếp của mình. Được phát hành ở Nga với tên gọi Кузя: Троллебол (Kuzya: Trolloboi).
Hugo: Bukkazoom!
Hugo: Runamukka
Một trò chơi hành động từ trên xuống trên PC năm 2004.
Hugo: Cannon Cruise
Hugo: Penguin Battle
Phát hành năm 2005 cho PC. Trong trò chơi này, Scylla sử dụng phép thuật nhân bản để thành lập một đội quân chim cánh cụt độc ác dẫn đầu bởi các bản sao của chính cô và cố gắng đóng băng toàn bộ thế giới để chinh phục nó. Hugo đang lái chiếc "hugocopter" của mình phải làm tan băng và khôi phục nó, đồng thời ngăn chặn Scylla một lần nữa bằng cách tiêu diệt tất cả các bản sao. Có tựa đề là Hugo: Schlacht im ewigen Eis (Battle in Eternal Ice) ở Đức, Hugo: Bitwa Pingwinów ở Ba Lan và Кузя спасает лето (Hugo/Kuzya Saves Summer) ở Nga.
Các trò chơi Hugo của các hãng khác
Hugo (1994 Game Boy game) Hugo cho Game Boy được Laguna Video Games phát hành dưới dạng tựa rất khác so với loạt phim những năm 1990, mặc dù có cùng tựa. Trò chơi thực chất là sự chuyển đổi từ Crazy Castle 2 của Kemco. Trong cốt chuyện của trò chơi, vợ của Hugo là Hugolina bị bắt cóc bởi Horned King, người cai trị lâu đài Arbarus (trong một cốt chuyện đang phát triển thông thường hơn của trò chơi, Hugolina đã bị kẻ thù không đội trời chung của Hugo - phù thủy Scylla, giam giữ trong lâu đài), và Hugo phải giải thoát cho cô và đánh bại Nhà vua.
Hugo: New Year 2
Ban đầu có tựa đề Кузя: Новый год 2, đây là trò chơi nền tảng 2D được phát triển bởi NDS Đan Mạch và được MediaHouse phát hành cho Windows vào năm 2001.
Hugo: Magic in the Troll Woods
Ban đầu có tựa là Hugo: Magi i Troldeskoven ở Đan Mạch (Hugo - Zauberei im Trollwald ở Đức, Hugo: Magi i Trollskogen ở Thụy Điển). Trò chơi nền tảng này được phát triển bởi Attractive Games và được Krea Medie phát hành vào năm 2009 cho PS2, Wii, Windows và Nintendo DS. Đây là phần khởi động lại hoàn toàn của loạt trò chơi, trong đó có một nhân vật quỷ lùn Hugo khác với tư cách là một phù thủy tập sự ở một thế giới khác.
Hugo Troldeakademiet: Den Forsvundne Kæmpe
Một trò chơi platform năm 2010 do Krea Medie phát hành cho Nintendo DS ở Đan Mạch, bên cạnh phiên bản tiếng Thụy Điển có tựa đề Hugo: Den Försvunna Jätten. Đây là phần tiếp theo đầu tiên của Hugo: Magic in the Troll Woods.
Hugo Troldeakademiet: Kampen om Krystalkortet
Còn được gọi là Hugo: The Jacket on the Crystal Map, đây là một trò chơi năm 2010 do Krea Media phát hành cho Nintendo DS và là phần thứ ba trong loạt trò chơi khởi động lại bị hủy bỏ của họ.
Hugo: Game Factory
Ban đầu có tựa đề là Hugo Spielewerkstatt (các tựa khác bao gồm Hugo: Fabryka Gier ở Ba Lan), đây là một trình tạo trò chơi nền tảng 2D đơn giản được phát triển bởi Krea Medie và được UIG Entertainment phát hành lần đầu vào tháng 12 năm 2010.
Hugo: The Adventure with English
Một trò chơi điện tử mang tính giáo dục dành cho Windows ban đầu được MediaHouse phát hành ở Nga. Một phiên bản tiếng Ba Lan được Cenega phát hành với tên gọi Hugo: Przygoda z angielskim.
Hugo: The Adventure with English 2
Một trò chơi điện tử giáo dục của Nga dành cho Windows do MediaHouse phát hành.
Hugo: De Första Tecknen
Một trò chơi điện tử của Thụy Điển được Krea Medie phát hành cho Windows vào năm 2010 (Hugo: First Signs ở Phần Lan).
Hugo: Utmaningen i Tornet
Một trò chơi platform của Thụy Điển được Krea Medie phát hành cho Windows vào năm 2010 (Hugo: Tornin Arvoitus ở Phần Lan).
Hugo Retro Mania
Hugo Troll Race
Hugo World
Một trò chơi quản lý làng freemium do Hugo Games phát hành và ra mắt chính thức vào năm 2014. Trò chơi lấy bối cảnh trong vũ trụ Hugo truyền thống và các nhân vật kinh điển như vợ của Hugo là Hugolina và các con của họ quay trở lại cùng với Scylla và người bạn đồng hành của cô là Don Croco. Được cập nhật lần cuối vào năm 2017 và ngừng sản xuất vào năm 2023.
Hugo Troll Wars
Một trò chơi chiến lược thời gian thực/phòng thủ tháp trực tuyến theo phong cách Clash of Clans được Hugo Games phát hành cho nhiều nền tảng khác nhau, bao gồm Kindle, Android, iOS, Windows và Facebook, đồng thời ra mắt lần đầu cho các thiết bị iOS vào năm 2013. Trò chơi lấy bối cảnh trong vũ trụ Hugo thay thế, nơi người chơi đóng vai trò là một chỉ huy cho Hugo - Vua quỷ lùn hoặc kẻ thù truyền kiếp của anh là Scylla - Nữ hoàng phù thủy độc ác trong cuộc xung đột vĩnh cửu giữa hai bên. Còn có thêm chế độ nhiều người chơi PvP và các yếu tố xã hội. Được cập nhật lần cuối vào năm 2015 và ngừng hoạt động vào năm 2023.
Ronaldo & Hugo: Superstar Skaters
Một trò chơi di động endless runner miễn phí được phát triển bởi Fuzzy-Frog Games và được Hugo Games phát hành cho Android và iOS, có sự góp mặt của ngôi sao bóng đá Cristiano Ronaldo.
Hugo Flower Flush
Một trò chơi điện tử ghép ô do Hugo Games phát hành và ra mắt thử nghiệm cho iOS và Android vào năm 2015. In it, Hugo and Hugolina must collect find the rare Enchanted Flowers before Scylla can use them as ingredients for an evil spell.
Hugo Troll Race 2: Rail Rush
Phần tiếp theo của Hugo Troll Race ban đầu, một trò chơi endless runner được phát triển bởi Fuzzy-Frog Games và được 5th Planet Games phát hành vào năm 2016 cho Android và iOS. Trong bản sao này của Subway Surfers, người chơi điều khiển Hugo hoặc Hugolina cố gắng giải cứu người kia khỏi bị bắt cóc. Hai giai đoạn xen kẽ liên tục của trò chơi trong đó con quỷ lùn được chọn hoặc lái xe chở mìn để đuổi theo Scylla đang bay bằng chổi, hoặc chạy trốn khỏi mụ phù thủy để đánh bại mụ ta bằng một bùa chú làm chệch hướng thành công.
Hugo Adventure: The Mystery Islands
Ban đầu được công bố là Hugo Mystery Island.
Hugo (2016)
Một trò chơi slot trực tuyến được phát triển bởi 5th Planet Games và được Play'n GO phát hành vào ngày 16 tháng 8 năm 2016. Like Hugo Retro Mania, Giống như Hugo Retro Mania'', trò chơi dựa trên các kịch bản minigame "Labyrinth" và phần cuối "Ropes" từ chương trình truyền hình gốc và một số trò chơi cổ điển.
Hugo 2 (2018)
Một trò chơi slot trực tuyến được phát triển bởi 5th Planet Games và được Play'n GO phát hành vào ngày 16 tháng 8 năm 2016. Nó là sự chuyển thể từ kịch bản "Ice Cave" từ chương trình truyền hình và một số trò chơi cổ điển.
Hugo Goal
Một trò chơi slot trực tuyến được phát triển bởi 5th Planet Games và được Play'n GO phát hành vào ngày 31 tháng 5 năm 2018.
Hugo's Adventure
Trò chơi slot trực tuyến được phát triển bởi 5th Planet Games và được Play'n GO phát hành vào ngày 5 tháng 9 năm 2019.
Hugo Carts
Một trò chơi va chạm trực tuyến nhiều người chơi do Spearhead Studios phát triển và FunFair Games phát hành với sự hợp tác của chủ sở hữu bản quyền 5th Planet Games vào ngày 29 tháng 9 năm 2022.
Hugo: Up & Away
Một trò chơi va chạm trực tuyến nhiều người chơi do Spearhead Studios phát triển và FunFair Games phát hành với sự hợp tác của chủ sở hữu bản quyền 5th Planet Games vào ngày 29 tháng 9 năm 2022.
Hugo Legacy
Một trò chơi slot trực tuyến được Play'n GO phát hành vào ngày 10 tháng 8 năm 2023.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hugo Games
HugoNet (đã lưu trữ)
Bukkazoom (đã lưu trữ)
Runamukka (đã lưu trữ)
Smakkaball (đã lưu trữ)
Danish listing of Hugo games
Game finder by platform
Danh sách trò chơi điện tử theo loạt |
19853727 | https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n%20h%C3%B3a%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%C3%B4ng | Văn hóa phương Đông | Văn hóa phương Đông (Eastern culture) hay còn gọi là Văn minh phương Đông (Eastern civilization) là một thuật ngữ bao trùm chỉ về di sản văn hóa đa dạng của những yếu tố về chuẩn mực xã hội, giá trị đạo đức, phong tục truyền thống, hệ thống tín ngưỡng, hệ thống chính trị, văn vật và kỹ nghệ của thế giới phương Đông. Mặc dù không có thuật ngữ "văn hóa phương Đông" đơn lẻ và tổng quát, nhưng có các nhóm nhỏ trong nội hàm đó, chẳng hạn như các quốc gia ở Đông Á, Đông Nam Á hoặc Nam Á, cũng như tính nguyên hợp trong các khu vực văn hóa này. Chúng bao gồm sự truyền bá của tôn giáo phương Đông chẳng hạn như Phật giáo hoặc Ấn Độ giáo, việc sử dụng phổ biến Hán tự hoặc Phạn văn trong các văn bản chính danh, các gốc rễ ngôn ngữ, sự kết hợp của các món ăn trong ẩm thực và truyền thống xã hội, cùng nhiều điều khác.
Tổng quan
Phương Đông với tư cách là một khu vực địa lý (phía Đông), không rõ ràng và không được xác định cụ thể. Thông thường hơn, hệ tư tưởng của cư dân một quốc gia sẽ được sử dụng để phân loại nó thành một xã hội phương Đông. Có một số bất đồng về việc những quốc gia nào nên hoặc không nên được đưa vào danh mục này và vào thời điểm nào. Nhiều phần của Đế quốc Đông La Mã (Byzantine) được coi là khác biệt với thế giới phương Tây và do đó được hầu hết các học giả gán cho đế chế này là phương Đông. Đế quốc Byzantine chủ yếu bị ảnh hưởng bởi các tập quán phương Đông do sự gần gũi và tương đồng về văn hóa với Iran và Bán đảo Ả Rập, do đó thiếu các đặc điểm được coi là "văn hóa phương Tây". Cả các tác giả Đông và Tây Âu thường coi Byzantium là một tập hợp các ý tưởng tôn giáo, chính trị và triết học trái ngược với các ý tưởng của phương Tây. Rất khó để xác định cá nhân nào phù hợp với loại nào, và sự tương phản Đông-Tây đôi khi bị chỉ trích là thuyết tương đối và tùy tiện.
Chủ nghĩa toàn cầu đã truyền bá tư tưởng và giá trị phương Tây rộng rãi đến mức hầu hết các nền văn hóa hiện đại, ở một mức độ nào đó, đều bị ảnh hưởng từ các khía cạnh của văn hóa phương Đông. Hình mẫu quan điểm về "phương Đông" (Occidentalism) đã được gắn nhãn là Chủ nghĩa phương Đông (Orientalism), song song với thuyết huyền bí—thuật ngữ chỉ các quan điểm rập khuôn thế kỷ XIX về "phương Tây". Khi người châu Âu (người Tây phương) khám phá ra thế giới rộng lớn hơn, các khái niệm cũ đã được điều chỉnh. Khu vực trước đây được coi là Phương Đông ("phía Đông") đã trở thành Cận Đông khi lợi ích của các cường quốc châu Âu can thiệp vào Nhật Bản ở thời kỳ Minh Trị và Trung Quốc vào thời nhà Thanh lần đầu tiên vào thế kỷ XIX. do đó, Chiến tranh Trung-Nhật năm 1894–1895 xảy ra ở Viễn Đông trong khi những rắc rối xung quanh sự suy tàn của Đế chế Ottoman đồng thời xảy ra ở Cận Đông. Nhà khảo cổ học người Anh D.G. Hogarth xuất bản cuốn The Nearer East vào năm 1902, giúp xác định thuật ngữ và phạm vi của nó, bao gồm Albania, Montenegro, miền nam Serbia và Bulgaria, Hy Lạp, Ai Cập, tất cả vùng đất Đế quốc Ottoman, toàn bộ Bán đảo Ả Rập và các phần phía Tây của Iran. Thuật ngữ Trung Đông trong giữa thế kỷ XIX bao gồm lãnh thổ phía đông của Đế quốc Ottoman, nhưng phía Tây Trung Quốc—Đại Ấn Độ và Đại Ba Tư—hiện được sử dụng đồng nghĩa với "Cận Đông" trong hầu hết các ngôn ngữ.
Gia đình có tầm quan trọng rất lớn trong văn hóa phương Đông nơi họ dạy con cái về việc gia đình là nơi che chở chúng và là cội nguồn gốc gác tạo nên bản sắc của chúng như thế nào. Cha mẹ mong đợi sự gắn kết từ con cái của họ. Cha mẹ đặt ra luật lệ, gia quy (có câu: "phép có phép nước, gia có gia quy") và con cái phải tuân theo nề nếp phép tắc đó và đây được gọi là sự hiếu thảo, sự kính trọng đối với cha mẹ và lễ phép với người lớn tuổi, và nó là một khái niệm bắt nguồn từ Trung Quốc với đức tính chữ Hiếu (孝) từ những lời thuyết dạy trong Nho giáo. Trẻ em được cho là có khả năng tự chủ nên khó thể hiện cảm xúc. Giới trẻ phương Đông cũng phải thể hiện sự cung kính lễ phép thông qua cử chỉ và cung cách nói chuyện lễ độ. Theo truyền thống, con cái phải chăm sóc cha mẹ khi chúng lớn lên. Người con trai (đặc biệt là con trai trưởng/con cả/anh hai) được mong đợi sẽ ở lại gia đình để coi sóc hương hỏa, mồ mả của gia đình dòng tộc, trong khi con gái sẽ phải được gả đi để sống với gia đình nhà chồng. Trong văn hóa Trung Quốc, trẻ em đôi khi phải chăm sóc phụng dưỡng người lớn tuổi (cao niên/赡养), và ở nhiều cộng đồng hải ngoại khác nhau, người ta có thể thấy trẻ em Trung Quốc sống với ông bà cha mẹ.
Chú thích
Văn hóa
Phương Đông |
Subsets and Splits