text
stringlengths
78
4.36M
domain
stringclasses
2 values
Hoa hậu Hoàn vũ 1964 là cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ 13 được tổ chức vào ngày 1 tháng 8 năm 1964 tại Nhà hát Thính phòng Miami Beach ở Miami Beach, Florida, Hoa Kỳ. Cuộc thi có 60 thí sinh tham gia với vương miện thuộc về người đẹp Corinna Tsopei đến từ Hy Lạp và được trao bởi Hoa hậu Hoàn vũ 1963 Iêda Maria Vargas đến từ Brazil. Kết quả Thứ hạng Các giải thưởng đặc biệt Từ năm 1952 đến 1964, cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ được tổ chức đồng thời với cuộc thi Hoa hậu Mỹ nên các giải phụ có thể trao cùng một lúc cho cả hai cuộc thi. Giám khảo Jacques Bergerac Edilson Cid Varela William Dossier Seshu Hyakowa Ingemar Johansson Syed Khan Earl Wilson Luz Marina Zuluaga – Hoa hậu Hoàn vũ 1958 đến từ Colombia Thí sinh Cuộc thi có tổng cộng 60 thí sinh tham gia: Thông tin về các cuộc thi quốc gia Tham gia lần đầu Đổi tên bắt đầu tham gia với tên gọi Malaysia thay cho Malaya. Trở lại Lần cuối tham gia vào năm 1952: Lần cuối tham gia vào năm 1954: Lần cuối tham gia vào năm 1958: Lần cuối tham gia vào năm 1960: Lần cuối tham gia vào năm 1961: Lần cuối tham gia vào năm 1962: Thay thế – Doreen Swan được thay thế bởi Wendy Barrie. Bỏ cuộc – Vera Wee Tham khảo 1964 Năm 1964
wiki
Trường trung học phổ thông chuyên Lam Sơn là trường trung học phổ thông (THPT) công lập nằm ở thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Là một trong những trường trung học phổ thông chuyên đầu tiên của cả nước và duy nhất của tỉnh Thanh Hoá, tuyển chọn và đào tạo học sinh năng khiếu cấp THPT các môn văn hóa, ngoại ngữ trên địa bàn toàn tỉnh Thanh Hóa. Tên gọi Lam Sơn được lấy từ tên địa danh Lam Sơn gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo và kết thúc bằng việc giành lại độc lập cho nước Đại Việt và sự thành lập nhà Hậu Lê. Trường THPT chuyên Lam Sơn ngày nay kế tục và phát triển từ Collège de Thanh Hoa, thành lập năm 1931, sau đó là Collège Đào Duy Từ (1943-1950). Từ năm 1951, trường mang tên trường phổ thông cấp III Lam Sơn. Ngày nay, trường bao gồm 3 khối lớp 10,11,12 với các lớp Chuyên: Toán, Ngữ Văn, tiếng Anh, Vật Lí, Hoá Học, Sinh Học, Lịch Sử, Địa Lí, Tin Học. Trong đó, chuyên Toán và chuyên Anh mỗi chuyên được chia ra gồm 2 lớp. Lịch sử Giai đoạn 1931 - 1943 Collège de Thanh Hoa được thành lập và là trường trung học duy nhất của toàn tỉnh Thanh Hóa. Giai đoạn 1943 - 1950 Trường mang tên Collège Đào Duy Từ . Năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp nổ ra toàn quốc, nhà trường phải sơ tán về nông thôn. Sau hai năm phân tán, năm 1948, trường tập trung về vùng Cốc (thuộc huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa ngày nay), dạy trong các đình, chùa, nhà dân, lán lớp tự dựng với 22 lớp (từ tiểu học, trung học đến chuyên khoa). Trong giai đoạn này, do chiến tranh, có nhiều giáo viên, học sinh sơ tán đến từ Hà Nội và các tỉnh lân cận. Năm học đầu tiên dưới chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa của trường Lam Sơn không phải vào tháng 9/1945 như bài giới thiệu "Lịch sử trường College de Thanh Hóa – Đào Duy Từ - Lam Sơn (1931 – 2004) " trên website của trường PTTH Đào Duy Từ. Theo cố GS-TS Dương Thiệu Tống, nguyên giáo sư tiếng Anh của trường lúc bấy giờ thì trường khai giảng vào tháng 10/1945 và hiệu trưởng là ông Ưng Quả, người nói giọng Huế. Giai đoạn 1950 - nay Năm 1951: Đổi tên thành trường phổ thông cấp III Lam Sơn. Tháng 10/1954: Trở về thị xã Thanh Hóa. Lúc đầu trường đặt tại trường Mission cũ (Nay là phòng giáo dục và trung tâm giảng dạy Kỹ thuật tổng hợp). Cuối năm 1955: Trường trở về vị trí của College Thanh Hóa (Nay là xí nghiệp may Quân Nhu, đường Minh Khai). Năm 1957: Bắt đầu xây dựng khu trường mới tại địa chỉ hiện nay. Năm 1959: Hoàn chỉnh xây dựng khu trường mới. Một bộ phận thầy giáo và học sinh Lam Sơn được chuyển đi thành lập 2 trường cấp 3 mới là: Thọ Xuân và Hà Trung. Năm 1964: Hội trường lần thứ nhất. Năm 1965: Kháng chiến lần thứ hai. Tháng 1/1965: Sơ tán 4 lớp về Đông Xuân, 11 lớp còn lại vẫn ở lại thị xã Thanh Hóa. Tháng 9/1965: Thành lập trường cấp 3 Đông Sơn. Trường cấp 3 Lam Sơn sơ tán về xã Đông Văn, huyện Đông Sơn. Năm 1969: Chuyển về địa điểm xã Đông Tân (Nay là doanh trại quân đội nhân dân Việt Nam). Năm 1970: Chuyển về thị xã Thanh Hóa Năm 1972: Sơ tán về Đông Tiến huyện Triệu Sơn. Năm 1973: Trở về thị xã Thanh Hóa. Năm 1975: Thành lập trường cấp 3 Hàm Rồng . Tháng 9/1982: Khối chuyên Văn – Toán từ PTTH Hàm Rồng chuyển về trường PTTH Lam Sơn. Năm 1989: Trường được hội đồng Nhà nước tặng Huân Chương Lao động hạng 3. Ngày 20/08/1992: tách làm 2 trường Đổi tên trường PTTH Lam Sơn thành Trường PTTH Đào Duy Từ: Có nhiệm vụ giảng dạy chương trình PTTH cho học sinh TP Thanh Hóa. Tách khối chuyên ra thành lập Trường PTTH chuyên Lam Sơn: Có nhiệm vụ giảng dạy và bồi dưỡng học sinh năng khiếu toàn tỉnh tại địa chỉ mới số 89 Hàn Thuyên, Ba Đình, thị xã Thanh Hóa. Sau đó trường Đào Duy Từ trở lại tên cũ từ năm 1992 và vẫn ở vị trí cũ của trường PTTH Lam Sơn ngày trước: 33 Lê Quý Đôn, phường Ba Đình, thành phố Thanh Hóa. Năm học 2016-2017: trường Trung học phổ thông chuyên Lam Sơn được chuyển về cơ sở mới tại 307 Lê Lai, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa. Danh sách hiệu trưởng của trường qua các thời kỳ Thành tích Đường lên đỉnh Olympia Cựu học sinh tiêu biểu Trần Mai Ninh : Nhà thơ, nhà cách mạng của Việt Nam. Phan Diễn : Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, thường trực ban bí thư (khóa IX). Nguyễn Dy Niên : Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao chính phủ nước CHXHCN Việt Nam (giai đoạn 2000-2006). Lê Thành Long : Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Thành Vinh: Á quân Olympia 2000, Huy chương bạc Olympic Hóa học quốc tế năm 2000 tại Đan Mạch Đỗ Quang Yên: Huy chương bạc Olympic Toán học quốc tế năm 1998, Huy chương vàng Olympic Toán học quốc tế năm 1999. Lê Văn Thành: Thư kí toà soạn Báo Tiền Phong Tham khảo Liên kết ngoài Trang web của trường L Lam Sơn Trường trung học tại Thanh Hóa
wiki
là một bộ light novel isekai của Nhật Bản do Baba Okina viết và do Kiryuu Tsukasa minh họa. Light novel được Kadokawa Shoten xuất bản dưới ấn hiệu Kadokawa Books trong nước từ tháng 10 năm 2015, ở Việt Nam được Sakura books mua bản quyền và xuất bản vào năm 2018. Họa sĩ Kakashi Asahiro bắt đầu thực hiện phần manga chuyển thể từ tháng 12 năm 2015, đăng thường kì trên tạp chí Young Ace Up và nay đã có đến 12 tập tankōbon. Phiên bản anime sản xuất bởi Millepensee được phát sóng vào năm 2021. Tổng quan Tại một thế giới nơi dũng giả và quỷ vương chiến đấu, ma pháp khốc liệt của dũng giả và quỷ vương khiến một lớp học nơi thế giới khác phát nổ. Những học sinh trong lớp học bị chết vì vụ nổ ấy chuyển sinh sang thế giới đó. Nhân vật chính, một học sinh ngồi ở cuối lớp bị tái sinh thành một con quái vật nhện. Thế nhưng với ý chí mạnh mẽ bất thường, cô đã dần dần chấp nhận và học cách thích nghi hơn với thế giới. Nhân vật Nhân vật chính Shiraori Các tên gọi khác: Ác mộng Mê cung, Shiro (Trắng/ White), Thống lĩnh quân đoàn 10 Chủng tộc: Thần Cô là nhân vật chính theo suốt ngôi kể ngay sau khi các nhân vật trong lớp được chuyển sinh. Sau khi tái sinh, cô là một con nhện ma vô cùng yếu kém trong Hệ thống các quái vật của thế giới mới nhưng cô đã phát triển mạnh mẽ và thoát ly ra khỏi ràng buộc Hệ thống khi cố tiêu hoá một quả bom năng lượng M.A. cực lớn. Cô có thân phận giả là Wakaba Hiiro do chính D - hay Wakaba thực sự trao ký ức khi vụ nổ tại lớp học xảy ra và thân phận thật trước kia chỉ là một con nhện bé nhỏ sống trong góc lớp học. Schlain Zagan Analeit Các tên gọi khác: Shun, Yamada Shunshuke, Dũng giả Chủng tộc: Con người Cậu còn được gọi ngắn gọn là Shun - Tứ hoàng tử của Vương quốc Analeit. Ngoài được sinh ra trong thân phận danh giá, cậu còn là một thiên tài trong thế giới mới chuyển sinh, cùng với đa phần các học sinh khác, cậu sinh ra sau 9 tháng kể từ khi tái sinh, ngôi kể của Schlain bắt đầu khi cậu 16 tuổi và tham gia học viện phép thuật. Cậu sở hữu danh hiệu Dũng giả mạnh mẽ sau cái chết của anh trai cùng với lòng tốt bụng và tinh thần đồng đội cao. Dòng thời gian Thời gian được kể theo 2 nhân vật chính khác nhau, vì vậy chúng cũng được kể theo 2 khoảng thời điểm khác nhau. Nếu coi thời gian của Shiraori là mốc do sự kiện của cô tiếp nối ngay sau tái sinh thì thời gian các sự kiện của Schlain Zagan Analeit (Shun) là 16 năm sau, khi cậu mới trưởng thành và bắt đầu vào học tại học viện. Các nhân vật khác Thần D (đứng đầu các Administrator) Một trong những người bạn cùng lớp Shun. Ban đầu cô được ngụ ý là quá khứ của White và là một otaku cũng từng là nạn nhân của bắt nạt. Tuy nhiên, được tiết lộ rằng cô thực sự là một vị thần cấp cao, người đã bỏ dở nhiệm vụ của mình. Cô cũng là người đã tái sinh các bạn cùng lớp của mình sau khi họ chết trong một vụ nổ, lỗi một phần là do cuộc chiến giữa Anh hùng và Ma vương trước đó, và tạo ra White bằng cách đưa ký ức của cô cho con nhện cưng của lớp để làm cho nó giống như "Wakaba" đã chết, chỉ để tránh bị các vị thần khác phát hiện và kéo cô về làm việc. Cô cũng là người tạo ra hệ thống RPG trên thế giới, đây là lời nguyền mà cô đặt lên nhân loại sau khi họ suýt phá hủy hành tinh một lần, ban cho họ những kỹ năng để phát triển và đưa họ trở lại sau cái chết của họ để chữa lành thế giới. Trong suốt câu chuyện, cô rất hứng thú với sự phát triển của Shiro và lúc nào cũng theo dõi. Sariel Güliedistodiez Nhân loại Dustin LXI (đứng đầu nhà thờ) Hugo Baint von Renxandt Hyrince Quarto Julius Zagan Analeit Karnatia Seli Anabald Ronandt Orozoi Schlain Zagan Analeit (nhân vật chính) Suelecia Analeit Yuri Ullen Ma tộc Ariel (đứng đầu ma tộc) "Ma vương" hiện tại và là tổ tiên của tất cả quái nhện trên thế giới. Mặc dù nhìn thì như là một cô gái ở tuổi teen, cô thực sự là một trong những sinh vật già nhất trên hành tinh. Cô đối mặt với Shiro sau khi cô cuối cùng thoát khỏi ngục tối và cố gắng giết Shiro do những tổn thương mà cô đã gây ra. Tuy vậy, sau nhiều lần thất bại, cả hai đồng ý ngừng giết nhau và bắt đầu đi du lịch chung, cuối cùng gạt bỏ mối bất bình của cả hai sang một bên và xây dựng một mối quan hệ bà-cháu rất bền chặt. Trong phim, cô tiến hành cuộc chiến chống lại loài người và thường được xem như một tên bạo loạn. Tuy nhiên, cô làm vậy vì gần như bắt đầu có ý nghĩa sau khi được tiết lộ rằng hành tinh đang chết, hệ thống RPG trên thế giới thu thập năng lượng của các kỹ năng của con người sau cái chết của họ để chữa lành hành tinh. Sophia Keren (ソフィア・ケレン, Sofia Keren) / Shouko Negishi (根岸彰子, Negishi Shouko) Một trong những người bạn cùng lớp Shun, có biệt danh là "Vampy". Cô tái sinh thành một ma cà rồng được sinh ra từ cha mẹ con người do một đột biến. Cô gặp được Shiro khi còn là một đứa bé sơ sinh và sau đó được Shiro và Ariel cứu sống sau khi gia đình cô bị phá hủy trong một cuộc chiến tranh. Bị bắt nạt ở kiếp trước vì có gương mặt xấu xí, cô ban đầu không thích ai đó trong lớp cũ nhắc quá khứ của mình ra, kể cả White, nhưng theo thời gian đã phát triển một mối quan hệ rất thân thiết, giống như chị em với cô. Trong phần mở đầu, cô đưa ra sự trợ giúp lôi kéo người bạn cùng lớp - Hugo và sau đó được tiết lộ là một Thống lĩnh của quân đoàn của Ma vương. Balto Phthalo Wrath Felmina Bloe Phthalo Agner Ricep Sanatoria Pilevy Elf Potimas Harrifenas (đứng đầu tộc elf) Filimøs Harrifenas Anna Thuật ngữ Các chương Trong bản tiểu thuyết mạng, mỗi chương (chap) được kí hiệu bằng những kí tự khác nhau, những kí tự này cũng được dùng lại trong bản in ấn. Light novel không chỉ đi theo nội dung chính về nhân vật chính mà còn có những chương ngoại truyện với những khía cạnh khác nhau kể rõ về từng nhân vật. Chương "#" (theo số thứ tự): chương này kể về nhân vật chính và hành trình của nhân vật chính qua mê cung rộng lớn. Chương "S": thuật lại cuộc đời trưởng thành của nhân vật Shun bên ngoài mê cung. Chương "K": kể về Katia, con gái của Duke. Chương "B": nhân vật đại diện cho chương này là Balto thuộc phe Quỷ tộc. Chương "Y": thuật lại những trận đánh quỷ của Anh hùng Julius, anh trai Shun. Truyền thông Light novel Baba Okina lúc đầu viết tiểu thuyết dưới hình thức Web novel trên trang viết tiểu thuyết do người dùng tạo Shōsetsuka ni Narō vào ngày 27 tháng 5 năm 2015. Tiểu thuyết sau đó nhận bản in ấn từ Kadokawa Shoten dưới ấn hiệu Kakokawa Books và xuất bản thành một light novel vào 22 tháng 12 năm 2015, với Kiryu Tsutaka trợ giúp minh họa. Yen Press cho biết tại Sakura-Con 2017 rằng họ đã cấp phép bản dịch tiếng Anh của light novel và xuất bản bộ tiểu thuyết dưới ấn hiệu Yen On vào tháng 11 cùng năm. Nhà xuất bản Văn học Hồ Chí Minh xuất bản bộ light novel với bản tiếng Việt vào tháng 11 năm 2018. Manga Kakashi Asahiro ra mắt phần chuyển thể manga của bộ light novel trên tạp chí Young Ace Up của Kadokawa Shoten vào ngày 22 tháng 12 năm 2015. Tập tankōbon đầu tiên phát hành vào ngày 9 tháng 7 năm 2016. Manga của light novel còn nhận thêm một bản ngoại truyện thể loại hài kịch với tựa đề , được Tori Gratin minh họa và bắt đầu đăng thường kì trên tạp chí Young Ace Up kể từ 18 tháng 7 năm 2019. Nội dung kể về nhân vật chính tự tách thành bốn con nhện. Tập đầu tiên của manga ngoại truyện xuất bản vào ngày 3 tháng 3 năm 2020. Anime Vào 6 tháng 7 năm 2018, bộ light novel được thông báo sẽ nhận bản anime chuyển thể và phát sóng trên truyền hình. Tin tức này được Kadokawa xác nhận tại hội nghị Anime Expo 2018 vào ngày hôm sau, và đến ngày 8 tháng 8 thì công ty đăng tải một video PV dài 3 phút của bản anime kèm theo giọng lồng tiếng của Yūki Aoi cho nhân vật chính. Bản anime do hãng phim Millepensee sản xuất. Đón nhận Tổng cộng cả hai bộ light novel và manga của Tôi là nhện đó, có sao không? đã bán được 1,2 triệu bản tính đến tháng 7 năm 2018, con số này tăng lên 1,4 triệu bản tính đến tháng 8 năm 2019. Bộ light novel đứng thứ ba trong bạng mục tankōbon của bảng xếp hạng Kono Light Novel ga Sugoi! (tạm dịch Cuốn Light Novel này thật tuyệt!) vào năm 2017 và sau đó vươn lên vị trí thứ hai trong mục của bảng xếp hạng năm 2018. Tham khảo Liên kết ngoài trên Kadokawa trên ấn hiệu Kadokawa Books trên tạp chí Young Ace Up Trang của manga ngoại truyện Kumo desu ga, nani ka? Kumo-ko yonshimai no nichijō trên tạp chí Young Ace Up Anime truyền hình dài tập năm 2021 Medialink
wiki
Francis Hauksbee (1660-1713), hay còn được gọi là Francis Hauksbee già để phân biệt với Francis Hauksbee trẻ là nhà khoa học người Anh. Đóng góp đáng kể nhất của ông đó chính là những đóng góp về điện. Nghiên cứu về điện Mặc dù là con người ít học, Francis Hauksbee là một người có năng khiếu bẩm sinh về khoa học, nhất là thiết kế và chế tạo thiết bị thí nghiệm. Điều đó mang lại không ít phát hiện quan trọng. Ngay từ đầu thập niên 1700, Hauksbee tìm hiểu về ánh sáng khí áp, thứ hay xuất hiện khi người ta lắc khí áp kế. Trong hoàn cảnh nhiều người còn chưa hiểu bản chất của hiện tượng này là gì, ông có một liên tưởng rất quan trọng, đó chính là liên tưởng nó với điện. Ông cho rằng thứ lóe sáng đó được sinh ra bởi sự cọ xát của thủy ngân với thành trong của khí áp kế. Từ đó Hauksbee nghiên cứu xem có sự tương tự nào với các chất liệu nào khác không. Công việc này đã dẫn đến một kết quả, đó là sự cải tiến máy phát tĩnh điện của Otto von Guericke. Hauksbee đã chia sẻ là ông đã tạo ra ánh sáng trong ống thủy tinh đủ để đọc sách. Hauksbee còn có hình dung về các đường lực điện dù không hiểu bản chất. Tuy nhiên, ông hiểu sai về hiện tượng nhiễm điện hưởng ứng. Qua đời Francis Hauksbee được chôn cất ở St Dunstan's-in-the-West, Luân Đôn vào ngày 29 tháng 4 năm 1713. Chú thích Sinh năm 1660 Mất năm 1713 Nhà vật lý Anh Hội viên Hội Hoàng gia
wiki
Nghề làm pho mát hay thợ làm pho mát (tiếng Anh: Cheesemaker) là một người thực hiện các công đoạn chế biến làm ra pho mát từ các sản phẩm sữa tươi. Những người chế biến pho mát điêu luyện được gọi là nghệ nhân là pho mát. Việc sản xuất pho mát, giống như nhiều quy trình bảo quản thực phẩm cho phép dinh dưỡng và giá trị kinh tế của một vật liệu thực phẩm, trong trường hợp này sữa, được bảo quản. Nó cho phép người tiêu dùng để lựa chọn (trong giới hạn nhất định) khi tiêu thụ thức ăn hơn là phải sử dụng sản phẩm sữa ngay lập tức, và nó cho phép sản phẩm được thay đổi, gia giảm nguyên liệu theo đó cung cấp giá trị dinh dưỡng cao hơn. Lịch sử Nghề làm pho mát ít nhất đã có lịch sử 4.000 năm. Khảo cổ học đã cung cấp những bằng chứng về sự tồn tại của việc sản xuất pho mát tại các nền văn minh Ai Cập cổ đại. Nghề làm pho mát có thể bắt nguồn từ tập tục du mục, du canh du cư và từ nhu cầu lưu trữ, tích trữ sữa bò, sữa dê, sữa cừu do đặc điểm của dân du mục phải di chuyển nhiều, Sữa ban đầu được tích trữ trong dạ dày dê (ủ trong dạ dày) vì lớp lót dạ dày của họ có chứa một hỗn hợp của axit lactic, vi khuẩn tự nhiên như các chất gây phân hóa sữa và men dịch vị, sữa sẽ lên men và đông đặc. Công việc Công việc của thợ làm pho mát là thực hiện việc chuyển đổi sữa thành pho mát. Sữa có thể được lấy từ một con bò, dê, cừu hoặc trâu, mặc dù trên toàn thế giới, sữa bò được sử dụng phổ biến nhất. Thợ làm pho mát thực hiện các thao tác thủ công và kỹ năng thực hành để sản xuất một sản phẩm với đặc điểm cụ thể và yêu cầu cảm quan (đông kết, mùi thơm, hương vị, kết cấu thực phẩm như độ cô đặc, độ sánh...) phù hợp. Trong nhà máy chế biến pho mát theo kiểu công nghiệp hiện đại các yếu tố nghề của thợ làm pho mát được giữ lại đến mức độ nào đó, nhưng có nhiều khoa học hơn so với cách làm thủ công truyền thống. Điều này được thể hiện đặc biệt là trong các nhà máy sử dụng máy vi tính để hỗ trợ sản xuất. Chất lượng của sản phẩm cuối cùng có thể được biết từ trước vì theo quy trình chặt chẽ. Ngược lại, thợ làm pho mát là cá nhân có xu hướng để hoạt động trên một quy mô nhỏ hơn nhiều và bán sản phẩm "làm bằng tay", mỗi lô có thể khác nhau, chất lượng hàng hóa, sản phẩm khác nhau, lô trước có thể khác với lô sau nhưng khách hàng của họ mong đợi giống như với rượu vang và các loại trà và hầu hết các sản phẩm tự nhiên. Để làm cho pho mát, thợ làm pho mát đem sữa tươi (tiệt trùng hoặc không) đổ vào trong thùng pho mát và giữ nhiệt độ cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của các vi khuẩn ăn lactoza và do đó lên men lactoza thành axit lactic. Những vi khuẩn trong sữa có thể được tự nhiên, sau đó làm đông lạnh hoặc đóng băng khô. Sau khi sữa đông pho mát đã sẵn sàng, sữa pho mát phải được đem đi tiêu thụ. Thợ làm pho mát cũng cần phải có tay nghề cao trong việc đánh giá, phân loại xếp hạng của pho mát để đánh giá chất lượng, những khuyết tật ẩn giấu và phù hợp cho phát hành từ các cửa hàng trưởng thành để bán. Làm nghệ nhân làm pho mát ở Hoa Kỳ đã trở thành phổ biến hơn trong thời gian gần đây, như một phần mở rộng của thủ công của việc sản xuất pho mát. Tham khảo Nghề Pho mát
wiki
Thế kỷ 11 TCN bắt đầu vào ngày đầu tiên của năm 1100 TCN và kết thúc vào ngày cuối cùng của năm 1001 TCN. Sự kiện 1089 TCN : Melanthus , vị vua huyền thoại của Athens , qua đời sau 37 năm trị vì và được kế vị bởi con trai ông là Codrus . 1069 TCN : Ramses XI qua đời, kết thúc Vương triều thứ hai mươi . Ông được kế vị bởi Smendes I , người đã thành lập Vương triều 21 . 1068 TCN : Codrus , vị vua huyền thoại của Athens , chết trong trận chiến chống lại quân xâm lược Dorian sau 21 năm trị vì. Truyền thống Athen coi ông là vị vua cuối cùng nắm giữ quyền lực tuyệt đối. Các nhà sử học hiện đại coi ông là vị vua cuối cùng có câu chuyện cuộc đời là một phần của thần thoại Hy Lạp . Ông được kế vị bởi con trai của mình là Medon . 1064 TCN : Chu Văn vương chết sau 53 năm trị vì . 1052 TCN : Chu Vũ vương mang quân diệt nhà Thương , Thương vương Đế Tân nhảy vào lộc đài tự thiêu . 1050 TCN : Người Philistines chiếm được Hòm Giao ước từ Israel trong trận chiến. (Gần một ngày nào đó) 1048 TCN : Medon, Vua của Athens , qua đời sau 20 năm trị vì và được kế vị bởi con trai của ông là Acastus . 1047 TCN : Chu Vũ vương chết sau 17 năm trị vì . 1044 TCN : Sau cái chết của Smendes I , vua của Ai Cập , ông được kế vị bởi hai người đồng nhiếp chính, Psusennes I và Neferkare Amenemnisu . 1040 TCN : David , Vua của Israel, được sinh ra. 1039 TCN : Neferkare Amenemnisu , vua của Ai Cập , qua đời. 1021 TCN : Chu công Đán chết . 1012 TCN : Acastus , Vua của Athens , qua đời sau 36 năm trị vì và được kế vị bởi con trai của ông là Archippus. 1010 TCN : Chu Thành vương chết sau 37 năm trị vì . 1004 TCN : Tề Thái công chết sau 49 năm trị vì . Những năm 1000 trước Công nguyên: Bằng chứng lâu đời nhất về nông nghiệp ở vùng cao nguyên Kenya . 1000 TCN: Bảng chữ cái Phoenicia được phát minh. 1010 TCN : David kế vị Ish-bosheth . 1000 TCN : Người Latinh đến Ý . Tham khảo Thiên niên kỷ 2 TCN Thế kỷ
wiki
Curcuma saraburiensis là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được Thawatphong Boonma và Surapon Saensouk mô tả khoa học đầu tiên năm 2019. Mẫu định danh: Boonma. T. no. 2; thu thập ngày 21 tháng 10 năm 2017 tại huyện Phra Phutthabat, tỉnh Saraburi, Thái Lan. Tên gọi trong tiếng Thái là สระบุรีรําลึก (Saraburi-rum-luek). Từ nguyên Tính từ định danh saraburiensis lấy theo tỉnh Saraburi, nơi thu thập mẫu. Phân bố Loài này có tại tỉnh Saraburi, miền trung Thái Lan. Môi trường sống là rừng lá sớm rụng ở cao độ 50–300 m. Ra hoa trong mùa mưa, từ tháng 6 đến tháng 9. Tạo quả tháng 10. Mô tả Cây thảo lâu năm với thân rễ hình trứng ngắn, ruột màu nâu nhạt và có mùi thơm, kích thước 1‒2 × 2‒3 cm. Rễ củ (tìm thấy vào cuối mùa mưa đến cuối mùa hè năm sau) với các rễ chùm. Chồi lá cao 30‒50 cm; bẹ không phiến lá 1‒2, màu xanh lục với màu đỏ ở gốc hoặc màu đỏ. Các bẹ lá màu xanh lục với màu đỏ ở gốc; lưỡi bẹ cong rộng, 2‒4 mm; cuống lá xanh lục, 8‒14 cm. Lá 4‒7, hình elip-hình trứng hẹp, dài 16‒22 cm và rộng 7‒9 cm, đỉnh nhọn thon, gốc tù-thon nhỏ dần, mép nguyên, màu xanh lục ở cả hai mặt, mặt trên nhẵn nhụi và mặt dưới có lông tơ. Cụm hoa đầu cành trên thân giả, hình trụ, dài 8‒12 cm; cuống màu xanh lục, dài 20‒25 cm, nhẵn nhụi. Các lá bắc sinh sản có 3‒7 hoa mỗi lá bắc, hình trứng rộng, đỉnh thuôn tròn, màu lục nhạt với đường dọc màu lục nhạt hay trắng và 2 vệt tròn màu trắng, 2‒2,5 × 2‒2,5 cm. Lá bắc mào hình trứng rộng, bên ngoài nhẵn nhụi, màu lục nhạt với đường dọc màu lục xen kẽ với đường màu lục nhạt hoặc màu trắng, bên trong nhẵn nhụi, màu trắng với các rìa màu xanh lục, 2‒3 × 2‒3 cm, đỉnh tròn-tù. Lá bắc con màu trắng, hình trứng rộng, dài ~8 mm, đỉnh nhọn. Hoa màu trắng pha vàng nhạt. Đài hoa màu trắng, hình ống, dài 15‒18 mm, nhẵn nhụi. Tràng hoa màu trắng, nhẵn nhụi, ngắn hơn lá bắc; thùy tràng lưng hình mũi mác-hình trứng, ~10 × 5‒7 mm, màu vàng nhạt; các thùy bên hình mác-hình trứng, 7‒10 × 5‒7 mm, màu vàng nhạt. Các nhị lép bên thuôn dài hẹp, ~14 × 2‒3 mm, đỉnh thuôn tròn, màu trắng với 3‒4 vạch đỏ. Cánh môi hình trứng ngược, xẻ sâu tới 9 mm, màu trắng với 2 vệt màu tía ở hai bên và 4 vạch đỏ, 2 vạch ở mỗi bên, 8‒10 × 12‒14 mm. Nhị màu trắng; bao phấn dài 5‒6 mm; chỉ nhị phẳng; không cựa. Bầu nhụy gần hình cầu, 1‒2 × 1,5‒2 mm, 3 lá noãn, nhẵn nhụi. Vòi nhụy rất thanh mảnh. Đầu nhụy màu trắng, 1‒2 × 1‒2 mm, nhẵn nhụi. Tuyến mật 2, rất mảnh mai, dài ~2 mm. Hạt màu nâu nhạt với các áo hạt màu trắng xé rách, bề mặt nhẵn, ~3 × 5 mm. Về hình thái có nhiều điểm tương đồng với C. parviflora, C. larsenii và C. rhabdota. Sử dụng Làm cây cảnh mang điềm lành. Chú thích S Thực vật được mô tả năm 2019 Thực vật Thái Lan
wiki
Samsung Galaxy Y (GT-S5360) là điện thoại thông minh Android của Samsung, công bố vào tháng 8 năm 2011. Tính năng chính của nó là kết nối 3G với tốc độ lên đến 7.2Mbit/s và Wifi. Tính năng Galaxy Y sử dụng Android 2.3.5 Gingerbread OS với giao diện TouchWiz độc quyền từ Samsung, tích hợp sẵn các ứng dụng mạng xã hội và các tính năng đa phương tiện, bao gồm Google Voice Search, và kênh âm thanh cải tiến 5.1. Có một jack âm thanh chuẩn 3.5 mm 4-pin. Thiết bị sử dụng vi xử lý 832 MHz ARMv6, 290 MB bộ nhớ trong và hỗ trợ lên đến 32 GB lưu trữ ngoài thông qua thẻ nhớ microSD. Điện thoại có máy ảnh 2 MP, màn hình độ phân giải 240x320 đa chạm cùng với bàn phím tùy biến SWYPE. Điện thoại cung cấp tùy chọn kết nối như HSDPA 3G lên đến 7.2Mbit/s và kết nối Wifi. Chiếc điện thoại cũng cung cấp điều khiển từ xa cho phép khóa thiết bị, theo dõi và xóa dữ liệu từ xa. Bộ xử lý Galaxy Y sử dụng 832 MHz ARMv6 cùng với Broadcom VideoCore IV. Bộ nhớ Galaxy Y hỗ trợ 384MB RAM và 190MB bộ nhớ trong và thẻ microSDHC (lên đến 32GB). Màn hình Galaxy Y sử dụng màn hình QVGA (240*320) TFT LCD cảm ứng điện dung với mật độ điểm ảnh (PPI) là 133. Máy ảnh Đằng sau thiết bị là máy ảnh 2-megapixel fixed-focus không có đèn flash có thể quay video độ phân giải tối đa QVGA. Galaxy Y không có máy ảnh trước. Biến thể Thiết bị bao gồm bảy biến thể: S5360L, S5360B (Brazil), S5360T, S5363, S5367, S5368, và S5369. Sự khác nhau đó là băng thông, SAR levels, màu sắc, vỏ thiết kế, dịch vụ vận chuyển và thuế. S5360L (châu Mỹ La Tinh) hỗ trợ băng thông 850 và 1900 MHz UMTS. S5363 thường được xem là biến thể của nhà mạng được đổi tên. S5369 là bản khóa mạng ở thị trường Ý. S5367 là Galaxy Y TV, phát hành vào tháng 4 năm 2012. Nó là biến thể được phân biệt bằng thiết bị thu TV kĩ thuật số; một số tính năng khác bao gồm thẻ nhớ 2 GB MicroSD, hỗ trợ đa chạm, và máy ảnh 3.15 Mpix. Xem thêm Samsung Galaxy (series) Samsung Galaxy Y Pro DUOS Samsung Galaxy Pocket Tham khảo Liên kết Full phone specifications GSMArena page on Galaxy Y Google Play Android Website Features Galaxy Y Samsung Electronics Sản phẩm của Samsung Electronics Điện thoại di động Samsung Điện thoại thông minh Thiết bị Android Điện thoại di động được giới thiệu năm 2011
wiki
Núi Alam-Kūh (; also: Alam Kooh) – Mount Alam – là một ngọn núi ở dãy núi Alborz ở phía bắc của Iran, huyện Kelardasht của tỉnh Mazandaran, tạo thành đỉnh cao của khối núi akht-e Suleyman. Với độ cao 4.848 m,, nó là đỉnh cao thứ hai ở Iran sau núi Damavand. Lịch sử leo núi Cuộc leo núi lần đầu tiên lên đỉnh cao được ghi nhận đã được anh em người Đức Bornmüller thực hiện từ Hazarchal qua mặt phía Nam trong suốt cuộc thăm dò thực vật sáu tháng của họ về Alborz năm 1902. Douglas Busk, một người leo núi người Anh, leo lên Alam-Kuh qua sườn núi phía đông năm 1933 và một lần nữa vào năm 1934 từ phía sườn phía tây . Mặt đá hoa cương ở phía bắc cao 800 mét, cung cấp một số các tuyến leo núi khó khăn và thú vị nhất ở nước này tương đương với các tuyến leo núi chính ở dãy núi Alps ở châu Âu. Ngoài các nhà leo núi địa phương, mặt phía Bắc thu hút các đội leo núi châu Âu. Sự xuất hiện đầu tiên được biết đến từ phía bắc là bởi một toán người Đức (Gorter / Steinauer) vào năm 1936 qua ngọn núi tây bắc. Sau đó, các đội Pháp và Ba Lan đã thiết lập các tuyến đường khác ở phía Bắc vào những năm 1960 và 1970, đây là các tuyến kéo dài nhiều ngày theo tiêu chuẩn cao. Kế tiếp là một đội tuyển Anh đã lên đỉnh thành công vào năm 1978. Lên đỉnh vào mùa đông đầu tiên ở phía bắc đã được thực hiện bởi Mohammad Nouri vào năm 1991. Trận động đất 2004 Hầu hết các dây thừng cố định đã bị hư hỏng nghiêm trọng trong trận động đất mạnh 6,3 độ richter và hậu quả của vụ đá rơi vào năm 2004. Ngọn núi này đã đóng cửa cho những người leo núi trong vài tháng vì mối nguy hiểm của các tảng đá rơi và dây cáp rời. Địa hình và phương pháp tiếp cận Dãy núi hỗ trợ tuyết và sông băng thường trực. Mặc dù dốc phía nam của dãy núi có xu hướng khô và cằn cỗi, các thung lũng phía Bắc dẫn đến Biển Caspian (cung cấp cách tiếp cận tốt nhất cho các ngọn núi) ẩm ướt và cây cối xum xê. Xem thêm List of Ultras of West Asia Tham khảo Liên kết ngoài "Alam Kuh, Iran" on Peakbagger SummitPost website "Alam Kuh" on Peakware "Iran: Alam Kuh" in The American Alpine Journal, 2002 Mountains of Iran
wiki
Hiệp Trấn (chữ Hán: 協鎮 - tiếng Anh: Defense Command Lieutenant Governor) là vị quan văn với chức vị cao thứ 2, sau quan Trấn thủ (hay Tổng trấn), tại một trấn trong các triều đại Việt nam. Tuy vây, thời Nguyễn Gia Long, tại các đơn vị hành chính quan trọng và rộng lớn như Bắc thành hoặc Gia Định thành, mỗi thành đều có nhiều trấn, và mỗi trấn không phải do một vị Trấn thủ, mà do một vị Hiệp trấn cai nhiệm với thuộc quan là Tham hiệp trấn. Các Hiệp trấn (ví dụ quan Hiệp trấn Sơn Tây Thượng) tại thành được đặt dưới quyền quan Tổng trấn. Ở các tỉnh miền Trung, mỗi trấn lại tiếp tục do một vị Trấn thủ cai nhiệm và ở 4 dinh trực thuộc triều đình (trực lệ tứ dinh), không đặt chức Trấn thủ nên Cai bạ là chức quan cao nhất tại các dinh này. Sau cuộc cải cách hành chính năm Minh Mạng 12 Tân Mão 1831, các chức liên quan đến trấn, như Trấn thủ, Hiệp trấn, Tổng trấn đều được bãi bỏ và chức Hiệp trấn được thay thế bằng chức Bố chính. Lịch sử Tại Việt nam, chức Hiệp trấn được biết đến vào thời Trịnh-Nguyễn phân tranh, khi các đạo thừa tuyên được đổi thành trấn hoặc dinh. Tại Đàng Ngoài, Hiệp trấn là vị quan văn cao thứ 2 sau quan Trấn thủ (hoặc Đốc trấn, Lưu thủ). Tại Đàng Trong, thời gian đầu, cơ quan chính quyền địa phương có lẽ vẫn áp dụng quan chế thời Đàng Ngoài. Thời chúa Sãi năm 1614, chúa tổ chức lại quan chế và hành chính, đặt ra ba ty là ty Xá sai, ty Tướng thần và ty Lệnh sử tại Chính dinh Phú Xuân để trông coi mọi việc. Các quan đứng đầu các trấn, dinh thời này là Trấn thủ, Cai bạ và Ký lục.[6] Thời Nguyễn, chức Cai bạ được tiếp tục dùng cho đến năm Minh Mạng 8 Đinh Hợi 1827, đổi thành chức Hiệp trấn. Năm Minh Mạng 12 Tân Mão 1831, chức Hiệp trấn được đổi thành chức Bố chính sứ. Các vị quan Hiệp trấn nổi tiếng Việt Nam Trong lịch sử Việt Nam, Lê Quý Đôn đã từng giữ chức Hiệp trấn Thuận Hóa và Hiệp trấn Nghệ An. Cháu bốn đời của Vũ Nghị Công Mạc Cửu là Mạc Cơ Dung, được vua Gia Long phong Hà Tiên Hiệp trấn năm 1816. Tham khảo Chức quan phong kiến
wiki
Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận Hướng dẫn Giải bài tập Ngữ văn lớp 11 Để học tốt Ngữ văn lớp 11, mời các bạn học sinh tham khảo tài liệu: Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận, với nội dung tài liệu đã được cập nhật chi tiết sẽ là nguồn thông tin hữu ích để giúp các bạn học sinh có kết quả cao hơn trong học tập. Lời giải hay bài tập Ngữ văn lớp 11: Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận Luyện tập Đề 1 1. Phân tích đề: Đây là dạng đề định hướng rõ nội dung nghị luận. – Vấn đề cần nghị luận: Giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác). – Yêu cầu về nội dung: + Bức tranh cụ thể, sinh động về cuộc sống xa hoa nhưng thiếu sinh khí của những người trong phủ chúa Trịnh, tiêu biểu là thế tử Trịnh Cán. + Thái độ phê phán nhẹ nhàng mà thấm thía cũng như dự cảm về sự suy tàn đang tới gần của triều Lê – Trịnh thế kỉ XVIII. – Yêu cầu về phương pháp: Sử dụng thao tác lập luận phân tích kết hợp với nêu cảm nghĩ; dùng dẫn chứng trong văn bản. Vào phủ chúa Trịnh là chủ yếu. a) Mở bài: Giới thiệu đoạn trích. b) Thân bài: – Bức tranh phủ chúa: + Cuộc sống xa hoa hưởng lạc tột độ * Dẫn chứng + Uy quyền tối thượng của nhà chúa * Dẫn chứng – Đánh giá về giá trị hiện thực của bức tranh phủ chúa: + Phản ánh đúng bản chất của hiện thực một cách sâu sắc. + Tỏ thái độ không đồng tình với hiện thực đó – mang ý nghĩa nhân văn. c) Kết bài: Nhấn mạnh giá trị hiện thực sâu sắc và ý nghĩa nhân văn của đoạn trích. Đề 2 a) Phân tích đề: – Vấn đề cần nghị luận: Tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc của Hồ Xuân Hương. – Yêu cầu về nội dung: + Dùng văn tự Nôm. + Sử dụng các từ ngữ thuần Việt đắc dụng. + Sử dụng hình thức đảo trật tự từ trong câu. – Yêu cầu về phương pháp: Sử dụng thao tác lập luận phân tích kết hợp với bình luận, dẫn chứng thơ Hồ Xuân Hương là chủ yếu. b) Lập dàn ý: GV hướng dẫn HS căn cứ vào kết quả phân tích đề để lập dàn ý. —————————- Trên đây đã giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu: Giải bài tập Ngữ văn lớp 11: Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận, để giúp các bạn học tốt môn Ngữ văn 11. Cùng chủ đề này, mời các bạn tham khảo bài soạn văn mẫu bài Phân tích đề, lập dàn ý bài văn nghị luận mà đã sưu tầm, tổng hợp.
vanhoc
Tôn Đại hoặc Tôn Đới (chữ Hán: 荪岱 hoặc 逊戴,1590 - 1649), nguyên văn Mãn văn không rõ, còn được gọi là Ba Ước Đặc Cách cách (巴约特格格), trong "Mãn văn lão đương" xưng là Mông Cổ Cách cách, Ái Tân Giác La, công chúa của nhà Thanh. Cuộc sống Tôn Đại sinh vào ngày 21 tháng 6 (âm lịch) năm Minh Vạn Lịch thứ 18 (1590) trong gia tộc Ái Tân Giác La. Bà là con gái thứ tư của Thư Nhĩ Cáp Tề, mẹ bà là Tứ thú Phúc tấn Qua Nhĩ Giai thị. Trát Tát Khắc Đồ, Khác Hi Bối lặc Đồ Luân, Hòa Huệ Bối lặc Tắc Tang Vũ và Nặc Mục Đại đều là anh em cùng mẹ của bà. Cha của bà là Thư Nhĩ Cáp Tề vì bất hòa với Nỗ Nhĩ Cáp Xích mà bị u cấm đến chết. Trong những năm đầu Thiên Mệnh, bà được nuôi dưỡng trong cung. Năm Thiên Mệnh thứ 2 (1617), tháng 2, Quận chúa Tôn Đại hạ giá Ân Cách Đức Nhĩ, Thai cát của Ba Ước Đặc bộ thuộc Nội Khách Nhĩ Khách, vì vậy mà xưng "Ba Ước Đặc Cách cách". Năm Thiên Mệnh thứ 9 (1624), tháng 9, Ân Cách Đức Nhĩ suất bộ chúng quy phụ nhà Thanh. Năm Thiên Thông thứ 9 (1635), Ngạch phò và bà chuyển đến sinh sống tại Liêu Dương, sau Ân Cách Đức Nhĩ được phong Tam đẳng Tử (三等子). Năm Sùng Đức nguyên niên (1636), Ngạch phò Ân Cách Đức Nhĩ qua đời. Tháng 11, Hoàng Thái Cực sách phong bảy vị Công chúa, bà được phong làm Hòa Thạc Công chúa. Năm Thuận Trị thứ 6 (1649), tháng 4, bà qua đời, thọ 60 tuổi, được truy thụy "Đoan Thuận" (端顺). Tương quan Vào thời điểm thành hôn, tuổi tác của bà lớn hơn tuổi xuất giá bình thường của nữ nhân thời bấy giờ khá nhiều. Có người cho rằng đó là là vì thân phận "Phủ nữ" của bà, Nỗ Nhĩ Cáp Xích giữ bà trong cung để thiết lập mối quan hệ "Mãn - Mông liên hôn", cũng có người cho rằng bà là người con gái của Thư Nhĩ Cáp Tề đã gả cho Lý Như Bá như trong lời tấu của Cấp sự trung Lý Kỳ Trân vào năm Minh Vạn Lịch thứ 47. Ngay cả Ân Đức Cách Nhĩ cũng không phải lần đầu kết hôn. Căn cứ vào năm Thiên Mệnh thứ 2, rằng: "Tháng 7, Mông Cổ Ân Cách Đức Nhĩ Đài cát về, nghĩ sẽ đem Nguyên phối Thê tử đưa đi cưới người khác, để chuẩn bị đón con gái Hãn vương... Ngày 16 tháng 10, Ân Cách Đức Nhĩ Đài cát đến, vẫn chưa đem Nguyên phối Thê tử đi cưới người khác". Có thể thấy được Ân Cách Đức Nhĩ không chỉ có Nguyên phối, mà còn khiến Nguyên phối cùng Tôn Đại công chúa chung sống trong hậu trạch. Tuy rằng chỉ là Thái Tổ dưỡng nữ, nhưng Tôn Đại công chúa xuất thân cao, mẹ đẻ là quý tộc Bát Kỳ, cho nên đã có thể đường hoàng gả cho Mông Cổ đại quý tộc. Bên cạnh đó, Tôn Đại công chúa cũng thường nằm trong danh sách chư vị Hoàng nữ được ban vật phẩm tốt nhất, cuối cùng có được danh xưng Hòa Thạc công chúa. Hậu duệ Công chúa có ít nhất là hai con trai và hai con gái với Ân Cách Đức Nhĩ Con trai Tứ tử: Ngạch Nhĩ Khắc Đái Thanh (额尔克戴青). Được phong Nhị đẳng Công. Năm 1621 được Nỗ Nhĩ Cáp Xích đặt tên. Từng cưới Quận chúa - trưởng nữ của Tế Nhĩ Cáp Lãng, và lần lượt hai Quận quân - trưởng nữ và ngũ nữ của Đoan Trọng Thân vương Bác Lạc, trở thành Hòa Thạc Ngạch phò. Ngũ tử: Tác Nhĩ Cáp (索尔哈), Ngạch phò của Cố Luân Thục Tuệ Trưởng Công chúa. Con gái Gả cho Hoành Khoa Thái (宏科泰) - trưởng tử của A Mẫn. Gả cho Giản Thân vương Phí Dương Vũ. Chú thích Công chúa nhà Thanh
wiki
Đề bài: Em hãy nghị luận xã hội về tự tin và mất tự tin. Có thể nói rằng chính trong cuộc sống của chúng ta, có rất nhiều yếu tố tạo nên sự thành công của một con người. Và có lẽ rằng trong đó không thể không kể đến sự tự tin. Và chính những sự tự tin như cũng đã giúp con người có thêm sức mạnh và như cũng đã để đạt được những điều mà bản thân mình mong muốn. Bên cạnh đó, ngược lại nếu như bạn mất tự tin sẽ kìm hãm, và không có tự tin nó cũng sẽ làm chậm lại sự thành công của chúng ta. Chúng ta mà không khắc phục được sự mất tự tin thì chắc chắn chúng ta sẽ chẳng bao giờ đạt được những gì mà mình mong muốn cả. Thật dễ để cho bạn có thể nhận biết một con người có được sự tự tin trong cuộc sống xung quanh mình. Họ chính là những con người mà bản thân họ như cũng đã luôn luôn tin vào khả năng của bản thân. Và ở họ như luôn luôn vững vàng, lạc quan trong cuộc sống. Có thể thấy được mỗi khi gặp thất bại, họ dường như luôn biết rút ra những bài học cho mình, chứ ở họ tuyệt đối không có sự chán nản, gục ngã hay kể cả là những sự tự dằn vặt bản thân. Họ cũng đã mạnh mẽ biết đứng lên từ vấp ngã.Xem thêm: Tuyên ngôn Độc lập là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, có tầm vóc tư tưởng cao đẹp và là một áng văn chính luận mẫu mực. Dường như chính những sự tự tin không phải tự nhiên mà có.Và cũng đã có những người là do cá tính, nhưng tóm lại để mà có được sự tự tin đó thì dường như chính mỗi người đều phải trải qua một quá trình rèn luyện, quá trình học tập, làm việc chăm chỉ. Và cũng có lẽ rằng chính những sự tự tin được rèn luyện trong cuộc sống hàng ngày. Ta như thấy được từ những điều vặt vãnh như thật nhỏ nhặt nhất như việc tự tin trình bày vấn đề trước lớp. Và chúng ta hãy thật tự tin để thuyết phục gia đình trong việc chọn trường đại học trong tương lai… Ngày nay có được sự tự tin giúp chúng ta được nhiều người xung quanh tin tưởng chúng ta hơn rất nhiều. Họ như cũng thêm yêu mến và quý trọng. Và có thể thấy được chính những sự tự tin còn như đã giúp cho bản thân chúng ta đạt được những điều mà mình mong muốn, những mục tiêu chúng ta đã đề ra. Tuy nhiên, phải chắc chắn một điều đó là không phải ai cũng có được sự tự tin này. Ngược lại thì đã có không ít người mất tự tin trong cuộc sống ngày nay và điều đó cũng như trong công việc. Họ dường như chính là những người luôn sợ hãi, không dám tin vào bản thân, họ thật đã như không dám làm những gì mình muốn và quá quan tâm đến việc người khác nghĩ về những hành động của bạn và mặc cho dù bạn biết đó chính là hành động đúng đắn. Họ như cũng đã không dám thay đổi bản thân. Bản thân họ đường như đã không dám quyết đoán, và cũng như đã không tự đưa ra được quyết định. Sự mất tự tin cản trở họ đạt được thành công.Xem thêm: Nụ cười hài hước trong bài ca dao: Chàng dẫn thế em lấy làm sang… Để cho con lợn, con gà nó ăn Có lẽ rằng chính những người mất tự tin xuất hiện xung quanh, và điều đó cũng có thể thấy được ngay bản thân chúng ta thì dường như cũng sẽ có những khi mất tự tin. Có thể nói rằng ngay cả công việc chúng ta cần làm ngay lúc này đây cũng chính là phải tập ra những quyết định cho riêng mình. Các bạn cũng phải rèn luyện bản thân thật nhiều về cả kiến thức cũng như những kĩ năng sống. Và cũng từ đó có thể hoàn thiện bản thân và để cho bạn có những tin tưởng vào khả năng của bản thân. Tuy nhiên, chúng ta phải khẳng định rằng ngày nay chúng ta cũng cần tránh việc quá tự tin dẫn đến tính chủ quan và kiêu ngạo. Chúng ta hãy thật biết tin tưởng vào khả năng của mình nhưng cũng không có nghĩa là bỏ qua những ý kiến đóng góp của những người xung quanh. Có thể thấy được một con người chỉ có thể phát triển khi chúng ta đã phải biết tiếp thu những ý kiến để hoàn thiện bản thân. Ngoài ra, có thể nói chúng ta như cũng cần phải biết mình đang ở vị trí nào. Và có như thế chúng ta mới có thể xác định được phương hướng, những hướng đi tiếp theo của mình một cách đúng đắn nhất. Có thể nói rằng sự tự tin là một đức tính tốt và cũng chính vì vậy thì bản thân mỗi người chúng ta cần hàng ngày, và hàng giờ hãy rèn luyện nó. Và ngay từ những việc nhỏ nhặt hay xoàng xĩnh trong cuộc sống đến những việc trọng đại trong cuộc đời. Và chỉ khi mà chúng ta có được sự tự tin vào bản thân thì lúc đó chúng ta mới có thể vượt qua bão tố cuộc đời để có thể đạt được thành công mà mình mong muốn.Xem thêm: Anh (chị) hãy phân tích nét phong cách triết luận trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm trong chương Đất nước (trích trường ca Mặt đường khát vọng) Nguồn: Văn mẫu hay
vanhoc
SOSTAC là một mô hình marketing được PR Smith phát triển vào những năm 1990 và sau đó được soạn thảo trong cuốn sách Marketing Communications năm 1998 và một loạt hướng dẫn về mô hình SOSTAC của ông, phải kể đến như "SOSTAC Guides to your Perfect Plan" (2011),  và  "SOSTAC Guide to your Perfect Digital Marketing Plan" (2020). Tên của mô hình SOSTAC được ghép bởi những chữ cái đầu của sáu khía cạnh marketing cơ bản mà PR Smith đề ra: Tình huống (Situation), Mục tiêu(Objective), Chiến lược (Strategy), Chiến thuật (Tactics), Hành động (Action) và Kiểm soát(Control) Ứng dụng và lợi ích Mô hình SOSTAC dường như chứa một chiến lược tiếp thị chung có thể được áp dụng trong các tình huống thương mại khác nhau. Nó bao gồm phân tích SWOT chuyên sâu, giúp các doanh nghiệp sẵn sàng cho các chiến dịch tiếp thị; sự khác biệt chính là SOSTAC cũng tập trung vào các giai đoạn thực hiện của quy trình, về truyền thông tiếp thị và tiếp thị kỹ thuật số. Cấu trúc của mô hình SOSTAC là một logic đơn giản, dựa trên phân tích tình huống chuyên sâu, thông báo cho các quyết định tiếp theo được đưa ra về chiến lược và chiến thuật. Nhờ đó, mô hình có tính có tính ứng dụng cao, cung cấp bản phác thảo, kết cấu, cấu trúc giúp xây dựng một bản kế hoạch tổng thể  ở nhiều mức độ và nhiều tình huống khác nhau như: Kế hoạch marketing, kế hoạch truyền thông tiếp thị, kế hoạch quảng cáo,... Nhờ đó, các chuyên gia tiếp thị đã điều chỉnh phù hợp để có thể ứng dụng mô hình SOSTAC cho một số tình huống cụ thể, bao gồm tiếp thị trực tiếp và tiếp thị điện tử. Các bước trong quy trình cũng đã được điều chỉnh để phát triển hệ thống bảo mật Internet và kế hoạch kinh doanh của công ty. Lợi ích của SOSTAC đã được một số chuyên gia tiếp thị công nhận "SOSTAC is a system for going through the steps and building a marketing plan.", Professor Philip Kotler "SOSTAC is a great approach for anyone going ahead and building a marketing plan.", Sam Howe, Director of CATV Marketing, Southwestern Bell "It appears that we are following the principles of SOSTAC",David Solomon, Marketing Director, TVX "We use SOSTAC within our own marketing planning.", John Leftwick, Marketing Director, Microsoft UK "I think SOSTAC is very good in terms of identifying, if you like, major component parts of what you’re doing in marketing", Peter Liney, Concorde Marketing Manager Các bước trong mô hình Mô hình đưa ra một quy trình hợp lý để thể hiện kế hoạch tiếp thị thông qua 6 bước: Situation (Phân tích tình huống) — Where are we now? ‍Objectives (Xác định mục tiêu) — Where do we want to be? ‍Strategy (Xác lập chiến lược) — How do we get there? ‍Tactics (Xác lập chiến thuật) — How exactly do we get there? ‍Action (Hành động)— What is our plan? ‍Control (Kiểm soát) — Did we get there? Phân tích tình huống (Situation) Phân tích tình huống là bước đầu tiên tối quan trọng đối với bất kỳ loại kế hoạch tiếp thị nào. Thực hiện phân tích tình huống để có một cái nhìn tổng quan về doanh nghiệp. Nó giúp ta xác định vị trí doanh nghiệp tại thời điểm này để có thể phác thảo chiến lược phù hợp. Các phân tích về tình huống được hiểu là: Tập hợp các phương pháp được sử dụng để tìm hiểu khả năng của tổ chức, khách hàng, khách hàng tiềm năng và môi trường kinh doanh bằng cách phân tích các yếu tố bên trong và bên ngoài có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp , có thể bao gồm các chủ thể phân tích sau: a. Phân tích khách hàng: Doanh nghiệp cần tìm hiểu Chân dung khách hàng (Customer Persona). Nếu không biết khách hàng của mình là ai hoặc họ muốn gì thì doanh nghiệp không thể cung cấp cho khách hàng các sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng nhu cầu hoặc tăng thêm giá trị cho cuộc sống của họ. Phân tích khách hàng giúp doanh nghiệp hiểu rõ khách hàng là ai để doanh nghiệp có thể quyết định phân khúc muốn nhắm đến như một phần trong kế hoạch tiếp thị. Doanh nghiệp cần biết thông tin về nhân khẩu học, vị trí của khách hàng, cách khách hàng tìm thấy doanh nghiệp, cách họ mua hàng, nhận thức và tương tác với thương hiệu như thế nào và khách hàng có những góp ý, ý kiến gì đối với chính bản thân doanh nghiệp và các đối thủ trong ngành của doanh nghiệp. b. Phân tích sản phẩm Doanh nghiệp cần đánh giá những giá trị mà sản phẩm hoặc dịch vụ của mình mang lại cho khách hàng để có thể chủ động tích cực tìm kiếm là một quan điểm, hướng đi phù hợp với thị trường sản phẩm. c. Phân tích đối thủ cạnh tranh Đối thủ là ai? Làm thế nào để họ có lợi thế cạnh tranh so với chúng ta về giá cả, uy tín, dịch vụ khách hàng và quy mô? Làm thế nào để ta có một lợi thế cạnh tranh so với họ?,... Đó chính là những câu hỏi mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải đi tìm câu trả lời để có thể xác định được những điểm mạnh cũng như điểm yếu của sản phẩm, hướng đến xây dựng chiến lược, kế hoạch phù hợp với năng lực doanh nghiệp. d. Phân tích môi trường hoạt động kinh doanh Doanh nghiệp cần có cái nhìn tổng quan đối với các yếu tố vi mô và vĩ mô của môi trường kinh doanh đang hoạt động bởi chúng có tác động trực/ gián tiếp đối với các chiến lược của doanh nghiệp. Phân tích PESTEL (đôi khi được gọi là phân tích PEST) là một công cụ hỗ trợ doanh nghiệp theo dõi môi trường họ đang hoạt động khi xem xét 6 yếu tố kinh doanh quan trọng: Political (Chính trị), Economic (Kinh tế), Sociocultural (Văn hóa xã hội), Technological (Công nghệ), Environmental (Môi trường), Legal (Pháp lý). e. Phân tích SWOT Sử dụng các phát hiện từ phân tích môi trường nội bộ và môi trường bên ngoài, doanh nghiệp có thể tiến hành phân tích SWOT. Trong đó doanh nghiệp xem xét Điểm mạnh (Strengths), Điểm yếu (Weaknesses), Cơ hội (Opportunities) và Nguy cơ (Threats) có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp và hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp. Thông qua phân tích SWOT, doanh nghiệp sẽ nhìn rõ mục tiêu của mình cũng như các yếu tố trong và ngoài tổ chức có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực tới mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Trong quá trình xây dựng kế hoạch chiến lược, phân tích SWOT đóng vai trò là một công cụ căn bản nhất, hiệu quả cao giúp doanh nghiệp có cái nhìn tổng thể không chỉ về chính doanh nghiệp mà còn những yếu tố luôn ảnh hưởng và quyết định tới sự thành công của doanh nghiệp. Xác định mục tiêu (Objectives) Bước hai trong mô hình SOSTAC là xác định mục tiêu. Một kế hoạch tiếp thị cần được xác định rõ các mục tiêu dài hạn (liên quan đến tầm nhìn, sứ mệnh doanh nghiệp) cũng như các mục tiêu trong ngắn hạn, có thể tham khảo Mục tiêu 5S được PR Smith xác định như sau: Sale - Tăng doanh số và thị phần. Serve - Thêm giá trị cho những gì cung cấp tới khách hàng. Sizzle - Độ dính và yếu tố "WOW". Speak - Giao tiếp hai chiều với khách hàng. Save - Định lượng hiệu quả đạt được Mỗi mục tiêu trong 5S đều phải đảm bảo tính hiệu quả bằng cách đáp ứng mô hình SMART — Specific, Measurable, Achievable, Relevant, Time-bound Xác lập chiến lược (Strategy) "Chiến lược là bức tranh lớn về cách lập kế hoạch để đạt được các mục tiêu đã đặt ra. Nó là một trong những phần khó khăn nhất trong kế hoạch tiếp thị SOSTAC" , theo PR Smith.Ở bước này, doanh nghiệp cần xác định rõ những dự định về phân chia thị trường, phân khúc khách hàng tập trung, hành động, thông điệp sử dụng cho mục tiêu từng phân khúc đã vạch ra và đánh giá hiệu quả kế hoạch so với đối thủ cạnh tranh. Theo PR Smith, các thành phần trong một chiến lược Truyền thông marketing có thể được phác họa bởi cụm từ "STOP & SIT", cụ thể như sau: Segmentation _ Phân khúc Target Markets _ Định hướng mục tiêu Objectives _ Xác lập mục tiêu Positioning _ Định vị Stages _ Giai đoạn Integration _ Tích hợp Tools _ Công cụ Xác lập chiến thuật (Tactic) Xác lập chiến thuật (Tactics) là việc phác thảo chi tiết về chiến lược, cụ thể là các phương pháp sẽ sử dụng để đạt được mục tiêu của mình. Có thể áp dụng Marketing Mix, cụ thể là 7Ps Marketing để tập trung hơn và có hướng đi rõ ràng trong việc thực hiện những mục tiêu. Xác lập chiến thuật marketing trong bối cảnh Digital Marketing lên ngôi có thể được minh họa như sau : Đầu tiên, các doanh nghiệp cần đặt những câu hỏi: Ta có dữ liệu gì về khách hàng, ta cần gì? Những phương pháp sẽ sử dụng để tiếp cận họ? Những phương pháp sẽ sử dụng để tiếp cận họ? Những công cụ và kỹ thuật sẽ sử dụng? Như vậy các chiến thuật có thể bao gồm các chi tiết hỗn hợp tiếp thị và truyền thông, kết hợp kỹ thuật số,... cụ thể như sau: SEO. Định vị SEO mang lại cho một công ty khả năng cạnh tranh với các đối thủ. Chiến dịch PPC. Cũng như SEO, việc nghiên cứu và lựa chọn từ khóa, trong số những thứ khác, sẽ cung cấp cho bạn những ý tưởng nhất định để điều chỉnh ngân sách của bạn. Tiếp thị liên kết. Trong Tiếp thị liên kết, mặt khác, một công ty hợp tác với các chi nhánh (blogger, nhà xuất bản, công ty, tổ chức, v.v.) để quảng bá thương hiệu của mình. Email Marketing. Bạn cần thực hiện chiến lược email để đảm bảo rằng cơ sở khách hàng hiện tại của bạn nhận được bản tin thường xuyên. Các chiến thuật có thể bao gồm tất cả các loại chiến dịch để giữ tỷ lệ nhấp tốt, tỷ lệ mở và chuyển đổi. Hành động (Action) Sau khi đã đề ra những chiến thuật, doanh nghiệp cần thực thi một số hoạt động để đạt được mục tiêu đã đề ra. Theo PR Smith, giai đoạn hành động thường là một bước suy nghĩ lại, nhưng đó là một sai lầm lớn. Không có một chiến lược và chiến thuật tuyệt vời nào để giảm bớt những hành động gây ra hậu quả tiêu cực, doanh nghiệp sẽ không thể đạt được mục tiêu đã đề ra. Kiềm soát (Control) Bước cuối cùng của mô hình SOSTAC là kiểm soát để có thể xác định được  liệu doanh nghiệp có đang đi đúng hướng để đạt được mục tiêu. Chính vì thế, giám sát tiến độ cũng là một bước quan trọng. Cần phải đặt các hệ thống giúp doanh nghiệp đánh giá tiến độ định kỳ - hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng hoặc hàng quý. PR Smith cho biết, có thể sử dụng phân tích trang web, KPI, hồ sơ khách truy cập trang web, kiểm tra khả năng sử dụng, khảo sát sự hài lòng của khách hàng, tần suất báo cáo, ai báo cáo cho ai những gì xảy ra và xem những phản hồi đó như một phần của quy trình giám sát này. Tham khảo Xem thêm SOSTAC Website www.PRSmith.org PRSmithPerfectPlan4minutes PRSmithPefectPlan3minutes
wiki
Ngoài các bài thơ được sáng tác một cách rải rác từ thời niên thiếu cho đến khi qua đời, di sản văn chương của Aleksandr S. Pushkin còn có: Sử thi 1820: Ruslan và Lyudmila 1820/21: Người tù ở Kavkaz 1821: Bài ca Gavriil 1821/22: Anh em lũ cướp 1821/22: Vadim 1821/23: Đài phun nước Bakhchisaray 1824: Đoàn người Sygan 1825: Bá tước Nulin 1825: Chàng rể 1829: Poltava 1829/30: Tazit 1830: Căn nhà nhỏ ở Kolomna 1830: Chuyện ông cố đạo và người làm công Balda 1830: Chuyện nhà gấu 1831: Chuyện vua Saltan 1825/32: Yevgeny Onegin 1832: Yezersky 1833: Angelo 1833: Chuyện ông lão đánh cá và con cá vàng 1833: Chuyện nàng công chúa chết chóc và bảy tráng sĩ 1833: Kị sĩ đồng 1834: Chuyện con gà trống vàng Kịch 1825: Boris Godunov 1830: Bi kịch nhỏ Văn xuôi 1827: Người da đen của Pyotr Đại đế (tiểu thuyết chưa hoàn thành) 1827: Cuốn tiểu thuyết về những bức thư (tiểu thuyết) 1831: Tập truyện của ông Ivan Petrovich Belkin quá cố (tập truyện ngắn) 1833: Dubrovsky (tiểu thuyết chưa hoàn thành) 1834: Con đầm pích (truyện ngắn) 1834: Kirjali (truyện ngắn) 1834: Lịch sử cuộc nổi dậy Pugachyov (tiểu thuyết) 1835: Cuộc hành trình đến Arzrum trong một kế hoạch năm 1829 (du ký) 1835: Đêm Ai Cập (tiểu thuyết chưa hoàn thành) 1836: Người con gái viên đại úy (tiểu thuyết) 1836: Roslavlyov (tiểu thuyết chưa hoàn thành) 1837: Biên niên sử làng Goryukhino (tiểu thuyết chưa hoàn thành) Chuyển thể Hình ảnh Xem thêm Aleksandr Sergeyevich Pushkin Tham khảo Bộ sưu tập các hình minh họa sách của Pushkin
wiki
Dịch giả Phạm Đức Hùng Truyện ngắn đặc sắc thế giới – Dịch giả Phạm Đức Hùng – Kỳ cuối KHÁCH NGỒI DAI ANTON PAVLOVICH CHEKHOV (NGA) Ông Winkeladvokat Selterskij cố mở mắt. Mọi vật đã chìm vào giấc ngủ. Những con chim nhỏ đã ngừng hót ở trong rừng. Vợ ông Selterskij đã đi ngủ từ lâu, người hầu gái và những người khác đang sống ở trong nhà nghỉ của ông ở thôn quê cũng đã ngủ; nhưng ông vẫn chưa thể đi vào phòng ngủ, mặc dù mắt ông cứ nhíu lại. Vì ông đại tá về hưu Peregarin, người sống ở nhà nghỉ bên cạnh là khách sang chơi đang ngồi ở nhà nghỉ của ông. Ngay sau bữa trưa ông Peregarin đã sang nhà ông và vẫn ngồi như bị dính vào ghế sô pha. Bằng giọng khàn khàn đáng ghét ông Peregarin kể chuyện mình đã bị một con chó điên cắn vào năm 1842 ở Krementschug. Khi ông ta kể xong thì ông ta lại bắt đầu kể lại câu chuyện từ đầu. Ông Selterskij không biết làm thế nào để ông khách ra về. Ông luôn nhìn đồng hổ, kêu đau đầu, cứ năm phút lại đi ra ngoài một lần và để ông khách ngồi lại một mình, nhưng chẳng ăn thua gì. Ông khách không hiểu ý ông Selterskij và tiếp tục kể chuyện về con chó điên. Lão già kì cục này sẽ còn ngồi ở đây đến sáng mất!- ông Selterskij bực bội nghĩ. Đúng là một kẻ chậm hiểu! Và nếu lão ta vẫn không hiểu ý mình thì mình sẽ nói thẳng vào mặt lão. Ông Selterskij nói to: “Ông biết tại sao tôi lại rất thích cuộc sống ở nhà nghỉ chứ?” “Không, tại sao?” “Vì ở đây người ta có thể tùy ý điều hòa cuộc sống của mình. Việc duy trì một nền nếp nhất định là điều khó thực hiện ở trong thành phố, trong khi việc đó ở làng quê thì thật dễ dàng. Gia đình tôi ngủ dậy lúc chín giờ, ăn trưa vào lúc ba giờ chiều, mười giờ ăn tối và đi ngủ vào lúc khoảng mười một giờ. Tôi luôn ở trên giường vào lúc mười hai giờ đêm. Nếu sau mười hai giờ tôi mới đi nằm thì y như rằng sáng hôm sau tôi bị nhức đầu.” “Lạ nhỉ… Nhưng điều đó còn phụ thuộc vào thói quen. Ngày trước tôi có một người quen, một nhà lãnh đạo thực thụ tên là Kjuschkin. Tôi đã làm quen với ông ta ở Sserpuchow. Vậy mà cái ông Kjuschkin này…” Và ông đại tá bắt đầu chóp chép miệng, nói lắp bắp và khoa chân múa tay kể chuyện về ông Kjuschkin đó. Chuông đồng hổ điểm mười hai giờ, sau đó kim đồng hồ sắp chỉ mười hai rưỡi, nhưng ông ta vẫn kể chuyện. Mồ hôi lạnh toát ra trên trán ông Selterskij. Ông Selterskij nghĩ ở trong đầu: Lão ta vẫn không hiểu ý mình! Đơn giản là lão ta ngu ngốc! Hay là lão già đần độn này tưởng rằng mình thích lão ấy sang chơi nhỉ? Làm thế nào để lão ra về đây? “Ông hãy nói xem”, ông Selterskij ngắt lời ông đại tá, “tôi phải làm gì? Tôi đang bị đau cổ quá! Đúng là xúi quẩy! Hôm nay tôi đã đi thăm một người quen, con của ông ta bị bệnh bạch hầu. Hình như tôi đã bị lây. Đúng rồi, tôi biết chắc là mình đã bị lây bệnh!” “Cũng có thể!” ông Peregarin thản nhiên nói. “Bệnh này nguy hiểm lắm đấy! Không chỉ có mình tôi mắc bệnh thôi đâu, tôi cũng có thể truyền bệnh cho người xung quanh. Bệnh này dễ lây nhất! Chả lẽ tôi lại không truyền bệnh sang ông, thưa ông đại tá!” “Truyền bệnh sang tôi á? Tôi đã sống cùng với những người bị bệnh thương hàn mà tôi đã không hề bị lây. Không nhẽ bỗng dưng tôi lại bị lây bệnh từ ông? Một lão già lẩn thẩn như tôi thì chả bệnh nào lây sang được. Người già thường kháng bệnh tốt. Trong lữ đoàn của chúng tôi đã có một viên đại tá già tên là Trèsbien… người Pháp. Thế mà lão Trèsbien này…” Bây giờ ông Peregarin kể về sự khỏe mạnh của ông Trèsbien đó. Đồng hồ điểm mười hai rưỡi. “Thưa ông đại tá, xin lỗi ông, cho tôi được phép ngắt lời ông. Ông thường đi ngủ vào lúc mấy giờ?” “Vào khoảng hai hoặc ba giờ gì đó. Có thể tôi sẽ thức trắng đêm nếu ngồi trò chuyện vui vẻ hoặc tôi bị những cơn đau nhức của bệnh phong thấp hành hạ. Chẳng hạn như hôm nay tôi sẽ chỉ đi ngủ vào khoảng bốn giờ, vì buổi chiều tôi đã ngủ đẫy giấc. Hơn nữa tôi có thể thức nhiều ngày liên tục. Có lẽ là do trong chiến tranh hàng tuần trời chúng tôi không được nằm ngủ. Ví dụ như câu chuyện sau đây mà tôi rất muốn kể cho ông nghe. Trung đoàn của chúng tôi đang ở trước cửa ngõ Achalzych…” “Xin lỗi ông. Còn tôi thì thường đi ngủ vào lúc mười hai giờ. Tôi luôn phải dậy vào lúc chín giờ, cho nên nhất định tôi phải đi ngủ sớm hơn.” “Đương nhiên rồi. Việc dậy sớm rất có lợi cho sức khỏe. Khi đó chúng tôi đang ở trước cửa ngõ Achalzych…” “Tôi hoàn toàn không biết mình bị làm sao nữa. Lúc thì cảm thấy người rét run lên, lúc thì lại nóng phừng phừng. Tôi luôn bị như thế trước cơn đau. Tôi cần phải nói với ông rằng thỉnh thoảng tôi bị những cơn đau thần kinh kỳ quái hành hạ. Vào khoảng một giờ đêm… tôi không hề bị đau vào ban ngày… Tai tôi ù đi, tôi mất hết ý thức, tôi nhảy lên và ném bất cứ vật nặng nào tôi đang cầm ở trên tay vào bất cứ ai ở gần tôi. Nếu tôi tìm thấy dao thì tôi ném dao; nếu tìm thấy ghế thì tôi ném ghế. Bây giờ tôi đang bị rét run lên như mọi lần trước khi bị cơn đau hành hạ. Cơn đau luôn luôn bắt đầu cùng với cơn rùng mình.” “Thế mà ông chả nói! … Ông nên đi chữa trị đi!” “Đã có vài bác sĩ điều chị cho tôi, nhưng vẫn không có kết quả… Giờ đây tôi phải chủ động cảnh báo cho các thành viên trong gia đình mình trước các cơn bệnh để họ kịp thời tránh xa tôi. Ngoài ra tôi chẳng biết làm gì để chống lại bệnh tật…” “Lạ thế nhỉ… Trên thế giới có biết bao nhiêu là chứng bệnh! Nào là dịch hạch, dịch tả và nhiều bệnh khác nữa…” Ông đại tá lắc đầu và trở nên trầm ngâm. Hai người im lặng một lát. Mình sẽ đọc cho lão ta nghe một đoạn trong tác phẩm của mình, ông Selterskij tự nhủ. Chắc chắn là mình vẫn để cuốn tiểu thuyết mà mình đã viết từ thuở còn là học sinh trung học ở trong ngăn kéo tủ… “Thưa ông đại tá”, giọng nói của ông Selterskij cắt đứt dòng suy nghĩ của ông khách. “Ông có muốn tôi đọc cho ông nghe một đoạn trong tác phẩm của tôi không? Tôi đã viết nó trong thời gian rảnh rỗi… Đây là một cuốn tiểu thuyết gồm năm chương, có một chương mở đầu và một chương kết thúc…” Và không đợi ông khách trả lời, ông Selterskij đứng bật dậy, lấy từ ngăn kéo tủ ra một tập bản thảo cũ, đã ố vàng, ngoài bìa đề “Nước lặng. Tiểu thuyết gồm năm chương.” Bằng cách này thì chắc chắn mình sẽ làm cho lão ta phải ra về, ông Selterskij nghĩ trong đầu và lật dở từng trang tác phẩm được viết khi còn trẻ của mình. Mình sẽ đọc cho lão ta nghe thật lâu, cho đến khi lão phát chán…”Ông đại tá! Ông nghe tôi đọc nhé!” “Hay đấy… tôi nghe đây.” Ông Selterskij bắt đầu đọc. Ông đại tá bắt chéo chân, ngồi lại cho thoải mái hơn, với nét mặt nghiêm trang, tỏ ý sẵn sàng ngồi lâu và chăm chú lắng nghe… Cuốn tiểu thuyết được bắt đầu bằng việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Khi đồng hồ điểm một giờ thì ông Selterskij đọc đến đoạn mô tả lâu đài mà người anh hùng tên là Graf Valentin trong cuốn tiểu thuyết sống ở trong đó.”Thật tuyệt khi sống ở trong một lâu đài như vậy!” Ông Peregarin thở dài. “Ông tả cảnh mới hay làm sao! Tôi có thể ngồi đây cả đời để nghe ông đọc!” – Cứ đợi đấy, – ông Selterskij nghĩ bụng. Mi sẽ không chịu lâu được nữa đâu! Vào lúc một rưỡi ông đọc đến đoạn ông miêu tả vẻ ngoài cường tráng của người anh hùng sống ở trong lâu đài. Vào lúc hai giờ ông đọc bằng giọng mệt mỏi, nhỏ dần: “Ngài hỏi tôi muốn gì ư? Ồ, ở đó tôi muốn rằng bàn tay bé nhỏ, yếu ớt của nàng run rẩy trong bàn tay tôi dưới vòm trời phương Nam… Chỉ ở đó trái tim tôi mới có thể đập dưới mái vòm của thánh đường tình yêu… Tôi khao khát tình yêu! Ôi tình yêu!… Thưa ông đại tá! Tôi không thể đọc được nữa… tôi kiệt sức rồi!” “Thôi, ông dừng lại đi! Ngày mai ông sẽ đọc nốt phần còn lại. Bây giờ chúng ta sẽ tán gẫu một chút… Tôi vẫn chưa kể cho ông nghe chúng tôi đã trải qua những gì khi ở trước cửa ngõ Achalzych… ” Ông Selterskij kiệt sức buông người xuống ghế sô pha, nhắm mắt lại và nghe ông khách kể chuyện tiếp… – Ta đã thử đủ mọi cách rồi, – ông Selterskij nghĩ. Lão ta mới lì lợm làm sao! Bây giờ thì lão sẽ ngồi đến bốn giờ… Ôi Chúa ơi! Mình sẵn sàng mất một trăm rúp, nếu lão ra về… À! Ta sẽ thử vay tiền lão! Cách này chắc là hiệu nghiệm… “Thưa ông đại tá!” ông Selterskij ngắt lời ông khách. Tôi lại phải ngắt lời ông. Tôi xin ông giúp một việc… Trong thời gian gần đây tôi đã chi tiêu khá nhiều tiền khi nghỉ mát ở đây. Trong nhà tôi chẳng còn đồng bạc nào và đang đợi đến cuối tháng tám mới có tiền.” “Muộn quá rồi…” ông Peregarin thở phì phò, nhìn quanh tìm chiếc mũ lưỡi trai. “Sắp ba giờ rồi… Ông vừa nói gì nhỉ?” “Tôi muốn vay hai hoặc ba trăm rúp. Ông có biết ai có thể cho tôi vay tiền không?” “Tôi chả biết đâu. Đã đến lúc ông đi ngủ rồi!… Tạm biệt ông nhé!… Rất cám ơn lòng hiếu khách của ông… Cho tôi gửi lời chào bà nhà nhé!…” Ông đại tá vớ lấy chiếc mũ của mình rất nhanh và đi ra cửa. “Ông định đi đâu đấy?” Ông Selterskij mừng rơn. “Tôi đã có ý định hỏi vay tiền ông… Vì tôi biết ông rất sẵn lòng giúp đỡ người khác… Tôi đã hy vọng rằng…” “Chào ông nhé. Ông đi ngủ ngay đi! Chắc là bà nhà sẽ rất tức giận, vì tôi đã bắt ông phải thức lâu như vậy. Tôi về ngay đây. Tạm biệt ông nhé!” Ông Peregarin cười trừ, vội vàng bắt tay chủ nhà, đội mũ lên đầu và ra về. Ông Selterskij vui như mở cờ trong bụng. TIÊM CHỦNG FRANK WEDEKIND (Đức) Khi kể cho các bạn, những độc giả yêu quý của tôi câu chuyện này, tôi tuyệt nhiên không định đưa ra cho các bạn một ví dụ mới về sự ranh mãnh của đàn bà hay sự ngu ngốc của đàn ông; thực ra tôi kể nó cho các bạn vì nó chứa đựng những sự kì quặc tâm lí nào đó, sẽ làm cho các bạn và bất kì ai cũng phải thích thú, và người ta có thể tận dụng lợi thế lớn của những sự kì quặc tâm lí này trong cuộc sống nếu như hiểu rõ chúng. Nhưng chủ yếu, ngay từ đầu tôi không muốn bị trách móc khi đã định khoe khoang những tội lỗi của mình trong quá khứ, khoe khoang sự nông nổi mà ngày nay tôi hối hận từ đáy lòng và tôi không còn hứng thú lẫn có khả năng để làm những việc đó nữa, khi mà tóc đã bạc, đầu gối đã run. “Anh không có gì phải sợ, chàng trai trẻ yêu quý của em”, Fanny đã nói với tôi vào một buổi tối tuyệt vời khi chồng chị ta về nhà, “vì những người chồng nhìn chung chỉ ghen chừng nào họ không có lí do để ghen. Từ lúc họ thực sự có lí do để ghen thì họ bị mù quáng triền miên.” “Anh không tin vào sự biểu lộ trên khuôn mặt của lão ta”, tôi rụt rè đáp lại. “Anh có cảm giác, nhất định lão đã nhận thấy điều gì đó.” “Anh yêu, anh hiểu sai sự biểu lộ đó rồi”, chị ta nói. “Vẻ mặt của lão chỉ là kết quả của cách em nghĩ ra mà em đã áp dụng với lão để bảo vệ lão triệt để chống lại bất cứ sự ghen tuông nào và bảo vệ lão vĩnh viễn trước việc lão luôn luôn bị một mối nghi ngờ về anh tấn công.” “Cách ấy là cách gì?” tôi ngạc nhiên hỏi. “Đấy là một cách giống như việc tiêm chủng. Vào một ngày nọ, khi em quyết định coi anh là người tình của em thì em cũng đã nói thẳng với lão rằng em quý anh. Từ hôm ấy ngày nào em cũng nhắc lại với lão điều đó vào lúc ngủ dậy và khi đi ngủ. Em đã nói với lão: Anh có đủ mọi lí do để ghen với cậu thanh niên đáng yêu ấy, vì em thực sự rất quý cậu ấy, nhưng anh yên tâm, em sẽ không phản bội anh, bởi chỉ có cậu ấy yêu em, còn em thì mãi chung thủy son sắt với anh. Và anh hãy coi đó là niềm hãnh diện của mình.” Lúc đó tôi mới hiểu tại sao thỉnh thoảng chồng của chị ta lại rất độ lượng nhìn tôi với một nụ cười lạ lùng, thương hại và khinh bỉ khi anh ta nghĩ rằng tôi không nhìn anh. “Và em thực sự tin rằng cách này có hiệu quả lâu dài?” tôi dè dặt hỏi. “Điều đó là chắc chắn”, chị ta đáp lại một cách đầy tự tin. Mặc dù vậy tôi vẫn rất nghi ngờ về sự chắc chắn trong chiến thuật tâm lí của chị ta, cho đến một ngày biến cố dưới đây đã khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Hồi ấy tôi sống trong một phòng nhỏ có sẵn đồ đạc ở tầng năm của một ngôi nhà cao tầng cho thuê trong một ngõ hẹp tại trung tâm thành phố và có thói quen ngủ dậy muộn. ( Một buổi sáng đầy nắng ấm cánh cửa phòng tôi mở ra vào khoảng mười giờ, và chị ta bước vào phòng tôi. Những gì xảy ra tiếp theo không cho thấy bằng chứng về một trong những sự mù quáng lạ lùng nhất, nhưng lại dễ hiểu nhất có thể có trong đời sống tinh thần của con người mà tôi sẽ không bao giờ kể ra ở đây). Chị ta cũng trút bỏ cái vỏ bọc cuối cùng và liên kết với tôi. Ngoài ra các bạn hoàn toàn không phải chờ đợi sự úp mở, sự mập mờ gì trong lời kể của tôi. Tôi luôn luôn phải nhấn mạnh rằng, điều đó không giúp tôi nói chuyện với các bạn bằng những sự khiếm nhã. Một lúc sau hầu như chiếc chăn đã phủ kín sự quyến rũ của cơ thể chị ta khi những bước chân vang lên ngoài cửa; có tiếng gõ cửa, và tôi chỉ còn kịp kéo nhanh cái chăn lên trùm kín đầu chị ta khi chồng chị ta bước vào phòng, mặt mũi anh ta đầm đìa mồ hôi và anh ta thở phì phò vì đã rán sức leo một trăm hai mươi bậc thang lên phòng tôi, nhưng với một gương mặt hớn hở, hạnh phúc, phấn khởi. “Tôi muốn hỏi cậu xem cậu có đi chơi cùng với Röbel, Schletter và tôi hay không. Chúng ta đi bằng tàu hỏa đến Ebenhausen và từ đó đi Ammerland bằng xe đạp. Thực ra hôm nay tôi muốn làm việc ở nhà; nhưng vợ tôi đã đi đến nhà vợ chồng Brüchmann từ sáng sớm để thăm đứa con út bị ốm của họ, và bây giờ tôi thấy chẳng còn bụng dạ nào mà ở nhà nữa trong cái thời tiết nắng ấm rực rỡ này. Tôi đã gặp Röbel và Schletter ở quán cà phê Luitpold, và khi đó chúng tôi đã hẹn nhau đi chơi. Chuyến tàu chúng ta sẽ đi chạy vào lúc mười giờ năm bảy phút.” Trong khi đó tôi đã có chút ít thời gian để bình tĩnh lại. “Anh thấy đấy”, tôi mỉm cười, “em đang không ngủ một mình.” “Ừ, tôi nhận ra rồi”, anh ta đáp lại với một nụ cười có vẻ ranh mãnh. Đồng thời đôi mắt của anh ta hấp háy, còn hàm dưới của anh ta thì đưa đi đưa lại. Anh ta lưỡng lự bước một bước về phía trước và bây giờ đứng ngay sát trước chiếc ghế dựa mà trên đó tôi thường để quần áo ngoài của tôi trước khi đi ngủ. Ở trên cùng đống quần áo để trên ghế là một chiếc áo lót vải phin nõn mỏng không có ống tay với chữ kí được thêu bằng chỉ màu đỏ và phía trên cái áo lót là đôi tất dài bằng lụa đen xuyên thấu có gót vải màu vàng tươi. Vì không có gì khác nữa của một người đàn bà có thể nhìn thấy được nên anh ta hau háu dán mắt nhìn vào toàn bộ đống quần áo ở trên ghế. Đó là khoảnh khắc căng thẳng đối với tôi. Chỉ thiếu chút nữa là anh ta nhớ ra trong đống quần áo để ở trên ghế có những cái mà anh ta đã nhìn thấy ở đâu đó trong đời này. Ngay lập tức tôi phải nghĩ ra cách đánh lạc hướng sự chú ý từ cái nhìn tai hại của anh ta, để anh ta phải chú ý vào tôi. Nhưng thật khó để làm được điều đó. Cái ý nghĩ xuất hiện chớp nhoáng trong đầu tôi này khiến tôi làm một điều hết sức thô bạo đến nỗi ngày nay, sau hai mươi năm, tôi vẫn chưa tha thứ cho mình, mặc dù hồi ấy nhờ đó mà tôi thoát khỏi tình cảnh trớ trêu. “Em đang không ngủ một mình”, tôi nói. “Nhưng nếu anh có linh cảm về vẻ tuyệt đẹp của cô gái đang ngủ với em thì anh sẽ ghen tị với em.” Đồng thời cánh tay của tôi ghì chặt chiếc chăn trùm trên đầu vợ anh ta, đến nỗi tôi thấy động đậy ở chỗ tôi đoán là mồm của chị ta, khiến chị ta phải nín thở và nằm im cho đến khi ông chồng của chị ta bỏ đi. Anh ta thèm thuồng nhìn lên nhìn xuống những đường lượn sóng ở trên chiếc chăn. Và bây giờ tôi làm một việc liều lĩnh. Tôi kéo chiếc chăn ngược lên đến cổ và giữ chặt, thành thử chỉ còn mặt của vợ anh ta là bị chăn che kín. “Đã bao giờ trong đời mình anh nhìn thấy một cơ thể phụ nữ tuyệt mỹ như thế này chưa?” Tôi hỏi luôn anh ta. Anh ta trố mắt nhìn, nhưng rõ ràng là anh ta thấy ngượng. “Đẹp, đẹp… công nhận là đẹp… cậu có con mắt tinh đời đấy… thôi, bây giờ tôi đi đây… xin cậu thứ lỗi cho tôi về việc… về việc tôi đã làm phiền cậu nhé.” Đồng thời anh ta trở ra cửa, còn tôi thì tỏ ra bình tĩnh kéo chăn xuống. Sau đó tôi nhanh chóng nhảy ra khỏi giường và đứng cạnh cửa ngay trước mặt anh ta, để anh ta không thể nhìn thấy đôi tất ở trên ghế nữa. “Nhất định em sẽ đi Ebenhausen bằng chuyến tàu trưa”, tôi nói trong khi tay tôi đã nắm lấy tay nắm cửa. “Tại đó mọi người có thể đợi em ở quán ăn trên đường ra bưu điện. Sau đó chúng ta cùng nhau đi Ammerland. Đó sẽ là một chuyến đi tuyệt vời. Em rất cám ơn anh về lời mời đi chơi cùng.” Anh ta còn nói vời lời bông đùa thân mật và sau đó rời khỏi phòng của tôi. Tôi đứng ngây ra cho đến khi tôi nghe thấy tiếng bước chân của anh ta nhỏ dần ở ngoài hành lang. Tôi muốn tránh mô tả tình cảnh bi đát vì tức giận và tuyệt vọng mà người vợ tồi tệ của anh ta lâm vào sau cảnh tượng ấy. Tâm hồn chị ta như bị tan nát và chị ta tỏ ra căm ghét và khinh bỉ tôi, khi tôi chưa bao giờ đón nhận chị ta trong đời mình. Trong khi vội vàng mặc quần áo, chị ta đe dọa tôi bằng việc nhổ nước bọt vào mặt tôi. Dĩ nhiên tôi đã không hề có phản ứng gì. “Bây giờ em định đi đâu?” “Tôi không biết… đi nhảy cầu tự tử… đi về nhà… hoặc cũng có thể đi đến nhà vợ chồng Brüchmann để thăm đứa con út bị ốm của họ… tôi chưa biết là mình sẽ đi đâu.” Vào lúc hai giờ chiều tôi, chồng Fanny, Röbel và Schletter ngồi cùng nhau bên dưới những cây dẻ rợp bóng mát trong sân quán ăn trên đường ra bưu điện ở Ebenhausen, và chúng tôi ăn gà rán với món xa lát tươi ngon. Chồng Fanny trấn an tôi trong tâm trạng hết sức vui vẻ, trong khi tôi ngờ vực quan sát trạng thái tâm lí của anh ta. Anh ta ném những cái nhìn đau đớn, sắc lẹm về phía tôi và mỉm cười khoái trá xoa hai bàn tay một cách đắc thắng, mà không cho biết điều gì làm cho anh ta vui trong lòng đến thế. Chuyến đi diễn ra suôn sẻ, và khoảng mười giờ đêm chúng tôi đã trở về thành phố. Khi tàu đến ga chúng tôi rủ nhau đi uống bia. “Các cậu cứ đến quán bia trước đi nhé”, chồng Fanny nói, “tớ đi thẳng về nhà và đón vợ tớ ra uống cùng. Cả ngày hôm nay cô ấy đã phải ngồi trông đứa trẻ bị ốm và chúng ta thật có lỗi nếu bây giờ chúng ta để cô ấy ở nhà một mình.” Không lâu sau đó vợ chồng Fanny đi vào quán bia chúng tôi đã hẹn nhau. Dĩ nhiên cuộc nói chuyện của chúng tôi khi uống bia xoay quanh chuyến đi lúc chiều, việc chẳng có gì xảy ra trong chuyến đi của tất cả những người tham gia được phóng đại hết cỡ thành những chuyện phiêu lưu kỳ thú. Fanny hơi lầm lì, hơi bối rối và không thèm nhìn tôi. Nhưng chồng chị ta lại càng thể hiện rõ hơn thái độ đắc thắng khó hiểu đối với tôi trên khuôn mặt hiện giờ nhiều hơn trên khuôn vui vẻ lúc chiều nay. Nhưng giờ đây những cái nhìn có chút kiêu hãnh, đắc thắng của anh ta hướng vào người vợ trầm tư đang ngồi im của anh ta nhiều hơn hướng vào tôi. Điều đó không có gì khác, như thể anh ta đã nếm trải sự mãn nguyện nào đó trong lòng đang làm anh ta vô cùng hạnh phúc. Mãi một tháng sau, khi tôi và Fanny lần đầu tiên lại ở bên nhau khi chỉ có hai chúng tôi thì điều khó hiểu đó mới được sáng tỏ. Sau khi tôi lại một lần nữa phải nhẫn nại chịu đựng những lời quở mắng thậm tệ nhất của chị ta thì tôi cố làm lành với chị ta. Sau đó chị ta tâm sự với tôi, chồng chị ta đứng khoanh tay trước ngực diễn giảng cho chị ta khi họ đã ở nhà sau cuộc uống bia hôm ấy như sau: “Em yêu, bây giờ anh đã tìm hiểu kỹ chàng trai yêu quý của em. Ngày nào em cũng thú nhận với anh rằng em quý cậu ta, và đồng thời em hoàn toàn không nhận thấy cậu ta đang coi em là trò đùa. Sáng nay anh đã bắt gặp cậu ta ở trong phòng của mình, dĩ nhiên khi đó cậu ta không ở một mình. Tất nhiên giờ đây đã hoàn toàn hiểu rõ, tại sao cậu ta không thích em và đã khinh khỉnh khước từ những tình cảm của em. Vì người tình của cậu ta là một phụ nữ có vẻ đẹp cơ thể quyến rũ, tuyệt trần, nên đương nhiên với những sự quyến rũ đã hơi tàn lụi của mình, em không thể đọ được với cô ta đâu.” Các bạn độc giả yêu quý, đó là tác dụng của việc tiêm chủng. Tôi chỉ kể lại nó cho các bạn, để các bạn có thể bảo vệ mình trước thủ đoạn tinh quái này. ĐÁNH NHAU THOMAS MANN Tôi rất sửng sốt khi Johnny Bishof nói với tôi rằng Jappe và Do Escobar muốn đánh nhau, và rằng chúng tôi sẽ đi xem chúng đánh nhau. Việc đó xảy ra trong kỳ nghỉ hè, ở Travemuende (1) , vào một ngày nóng nực có gió thổi nhẹ từ trong đất liền ra biển và mặt biển phẳng lặng đã lùi ra xa. Có lẽ chúng tôi đã tắm biển khoảng bốn mươi nhăm phút và đang nằm dưới cầu tàu bằng gỗ của bãi tắm trên nền cát mịn cùng với Juergen Brattstroem – con trai của chủ tàu. Johnny và Brattstroem nằm ngửa, hoàn toàn trần truồng, trong khi đó tôi đã cuốn chiếc khăn tắm của mình xung quanh hông, điều đó làm cho tôi tự nhiên hơn. Brattstroem hỏi tôi, tại sao tôi làm vậy, và vì tôi không biết trả lời ra sao cho nên Johnny mỉm cười thân mật, kẻ cả nói: Có lẽ tao đã hơi quá lớn để nằm trần truồng. Thực ra tôi lớn hơn và phổng phao hơn cậu ta và Brattstroem, thậm chí có thể già hơn chúng một chút, khi đó tôi khoảng mười ba tuổi. Cho nên tôi im lặng, chấp nhận sự giải thích của Johnny, mặc dù nó chứa đựng một sự giễu cợt nhất định dành cho tôi. Vì trong ba đứa chúng tôi thì dễ dàng nhận thấy tôi là đứa hơi nực cười, nếu tôi bé hơn và trẻ con hơn Johnny, kẻ luôn cho mình là đã lớn và trưởng thành. Ngoài ra cậu ta có thể ngước nhìn cậu bé khác cao hơn mình bằng đôi mắt màu xanh, xinh như mắt con gái đang khoái chí mỉm cười một cách giễu cợt cùng với một sự biểu lộ như thể cậu ta muốn nói: Mày là một thằng cao kều đáng ghét! Hình mẫu của nam tính và của những chiếc quần dài đã không là gì đối với cậu, hình mẫu mà có ý nghĩa rất lớn đối với đám con trai chúng tôi như là sức mạnh, lòng dũng cảm và đủ loại đức tính cứng rắn vào khoảng thời gian không lâu sau chiến tranh, và nhiều thứ khác được xem là không có nam tính. Nhưng Johnny, với tư cách là người nước ngoài hay nói cho chính xác hơn là đứa con lai, không bị ảnh hưởng bởi quan niệm này, trái lại cậu ta có cái gì đó của một người phụ nữ đang giữ gìn sắc đẹp của mình và cười nhạo những người khác ít làm điều đó hơn. Ngoài ra cậu ta còn là cậu bé đầu tiên của thành phố được ăn mặc một cách thanh lịch và rất quý tộc, cụ thể là cậu ta mặc những chiếc áo lính thuỷ dành cho trẻ em theo kiểu Ăng lê thực thụ có cổ bằng vải gai màu xanh, các nút buộc, các sợi dây, một cái còi bằng bạc ở túi ngực và một cái mỏ neo ở trên tay áo bồng lên, hẹp lại ở chỗ cổ tay. Mọi đứa trẻ khác ăn mặc như thế đều bị chế giễu là ăn mặc cầu kỳ và bị phạt. Nhưng cậu ta thì không bị làm sao, vì mọi người cho rằng cậu mặc bảnh bao như thế là lẽ thường tình, và cậu không hề phải chịu đựng điều đó. Cậu ta trông giống như một thần ái tình bé nhỏ, gầy gò khi cậu nằm ở đó với hai khuỷu tay được giơ lên, gối đầu có mái tóc dài, xoăn, mềm mại, màu vàng, hơi dài theo kiểu Ăng lê lên hai bàn tay mảnh khảnh. Cha cậu là một thương gia người Đức đã nhập quốc tịch Anh và đã chết trước đây vài năm. Nhưng mẹ, bà Bishop, cậu là một người Anh thuộc dòng dõi quý tộc, một quý bà có bản tính hiền lành, dịu dàng và một khuôn mặt dài, người đã sống ở thành phố của chúng tôi cùng với hai đứa con, Johnny và một cô con gái nhỏ cũng xinh đẹp, có phần hơi ranh mãnh. Hàng ngày bà ấy vẫn chỉ mặc đồ đen để chịu tang chồng, và có lẽ bà tôn trọng ý nguyện cuối cùng của chồng mình, khi để cho các con lớn lên ở Đức. Chắc là bà sống rất phong lưu. Bà sở hữu một ngôi nhà rộng rãi ở ngoại ô thành phố và một ngôi biệt thự ven biển, thỉnh thoảng bà còn đi nghỉ dưỡng cùng với Johnny và Sissie (2) ở những nơi xa. Bà không giao thiệp rộng, mặc dù xã hội luôn rộng mở đối với bà. Nói đúng hơn bà sống như thể vì việc để tang chồng mình, như thể cá nhân bà lảng tránh mọi giao du, vì tầm nhận thức của các gia đình quyền quý ở thành phố chúng tôi quá hạn hẹp đối với bà, nhưng bà lo lắng về việc giao tiếp rộng của các con mà bà vẫn thường xuyên giám sát bằng sự thận trọng kín đáo, nếu bà không tự quyết định được, khi chúng được mời tham gia các trò chơi tập thể, tham gia khoá học khiêu vũ và nghi thức xã giao v.v…, đó là, bà chỉ để cho Johnny và Sissie chơi với những đứa trẻ của các gia đình có thế lực – tất nhiên không theo một nguyên tắc rõ ràng, nhưng theo từng trường hợp cụ thể. Vì vậy, từ lâu bà Bishop đã góp phần dạy dỗ tôi, khi bà ấy dạy tôi rằng, để được những người khác tôn trọng thì không có gì cần thiết hơn là tự nhận ra giá trị của bản thân mình. Không còn người đàn ông trụ cột trong gia đình, cái gia đình nhỏ của bà không cho thấy có dấu hiệu nào của sự sa sút, lụn bại thường gợi lên sự ngờ vực của người ngoài như đối với các gia đình khác có hoàn cảnh tương tự. Hơn nữa, không có họ hàng thân thuộc, không có tước vị, tiếng tăm, sự nổi tiếng và địa vị, cuộc sống của bà bị biệt lập và đòi hỏi rất nhiều cố gắng, đến nỗi người ta sẵn sàng ngấm ngầm nhượng bộ bà và tình bạn giữa các con của bà với những đứa trẻ cùng trang lứa được đánh giá rất cao. Còn việc kết bạn với Juergen Brattstroem thì trước hết là vì cha của cậu ấy giàu có, được đề bạt vào các chức vụ của các cơ quan nhà nước, ông ấy đã xây cho mình và các con một ngôi nhà bằng đá sa thạch màu đỏ ở gần Burgfeld (3) , giáp ranh với ngôi nhà của bà Bishop. Vì vậy Juergen, với sự cho phép thận trọng của bà Bishop, là bạn chơi trong vườn và bạn học hàng ngày vẫn cùng nhau đi về của Johnny – một cậu bé trầm tĩnh, kín đáo, không có những đặc điểm cá tính nổi bật, đã bí mật quản lí một cửa hàng nhỏ bán cam thảo. Như đã nói ở trên, tôi rất sợ trước thông báo của Johnny về cuộc đấu tay đôi giữa Jappe và Do Escobar sẽ diễn ra một cách nghiêm trọng vào lúc mười hai giờ tại Leuchtenfeld (4) . Điều đó có thể trở nên khủng khiếp, vì Jappe và Escobar là hai gã thiếu niên mạnh khoẻ, liều lĩnh có máu hiệp sĩ, cuộc đối đầu của chúng chắc chắn gây nên sự lo lắng. Tôi hình dung ra chúng vẫn to béo và rắn rỏi như thuở nào, mặc dù độ tuổi của chúng không thể quá mười lăm. Jappe xuất thân từ tầng lớp trung lưu của thành phố; hắn ta ít bị giám sát và nói cho đúng ra từ lâu chúng tôi đã gọi hắn là một kẻ vô dụng (ý tôi muốn nói là kẻ lêu lổng), nhưng thuộc hạng chơi bời. Do Escobar là kẻ không có nhân cách, một ngoại kiều kì cục, thậm chí không phải là học sinh chính thức, mà chỉ là học sinh dự thính (một hình thức học lộn xộn, nhưng lại rất tuyệt!) – kẻ trả tiền ăn ở tại những nhà dân nào đó và được hoàn toàn tự do. Cả hai đều là những kẻ đi ngủ muộn, hay la cà ở các quán rượu, buổi tối đi phất phơ ngoài đường, bám theo các cô gái, cả gan sử dụng ma tuý, nói một cách ngắn gọn: Chúng là bạn của nhau. Mặc dù chúng không sống ở trong khách sạn nghỉ dưỡng (nơi mà thực sự không hợp với chúng) mà sống ở đâu đó trong thành phố nhỏ thì chúng vẫn ở trong khu vườn nghỉ dưỡng như những người thanh lịch đang sống ở trong khách sạn. Và tôi biết rằng, vào buổi tối, đặc biệt là vào ngày chủ nhật, khi mà tôi đã nằm từ lâu ở trên giường trong một trong những ngôi nhà kiểu Thuỵ Sĩ, thiu thiu ngủ trong tiếng nhạc du dương dành cho khách nghỉ dưỡng thì chúng ngông nghênh lượn lờ trước mái lều vải rộng của tiệm bán bánh ngọt cùng với những thanh niên ăn chơi khác trong dòng người đi tắm và đi tham quan về, tìm đến những trò tiêu khiển của người lớn. Sau đó chúng cãi nhau – chỉ có trời mới biết tại sao và như thế nào. Có thể là chúng chỉ chạm vai vào nhau trong khi đi vơ vẩn và từ việc này đã chuẩn bị đánh nhau vì danh dự. Johnny, kẻ dĩ nhiên cũng đã ngủ từ lâu và cũng chỉ nghe tin đồn về việc cãi cọ giữa chúng, nói bằng giọng trẻ con rất dễ thương, hơi đục của mình rằng, có thể việc đó liên quan đến một cô gái, và điều đó không khó hiểu khi cả Jappe và Do Escobar đều rất ngổ ngáo. Nói tóm lại, chúng đã không làm ầm lên mà đã thoả thuận về thời gian và địa điểm đánh nhau trước những người làm chứng bằng những lời lẽ thô lỗ và cứng rắn. Hôm nay, vào lúc mười hai giờ chúng hẹn nhau ở Leuchtenfeld. Vũ sư Knaak của thành phố Hamburg, người tiếp đãi và chủ trì các buổi gặp mặt ở trong khách sạn nghỉ dưỡng, cũng đã chứng khiến và hứa có mặt ở bãi Cá voi. Johnny rất háo hức đi xem đánh nhau, cậu ta hoặc Brattstroem không hề chia sẻ nỗi sợ hãi mà tôi cảm thấy. Trong khi cậu phát âm âm “r” (5) theo cách đáng yêu của mình một cách giòn tan, cậu khẳng định một lần nữa rằng cả hai sẽ đánh nhau thật sự như kẻ thù. Cả Jappe và Do Escobar đều rất khoẻ, đều là những kẻ mất dạy hung hãn. Thật thú vị là chúng sẽ thực sự biết được kẻ nào trong hai đứa bọn chúng là kẻ hung hãn nhất. Johnny cho rằng Jappe có một bộ ngực nở nang và bắp tay, bắp chân cuồn cuộn, vì hàng ngày cậu ta có thể quan sát Jappe tắm. Còn Do Escobar thì rất vạm vỡ và hung hăng, thành thử thật khó dự đoán kẻ nào sẽ thắng. Điều lạ lùng là Johnny rất tự tin nói về những khả năng của Jappe và Do Escobar, đồng thời cậu ta nhìn hai cánh tay trẻ con yếu ớt của mình mà cậu chưa hề dùng để đánh ai hoặc để tự vệ. Về phần mình thì tôi chỉ muốn tránh xa trận đánh nhau. Điều đó thật buồn cười. Tuy nhiên, trận đánh nhau sắp xảy ra cũng rất hấp dẫn tôi. Nhất định tôi phải đi đến đó và xem từ đầu đến cuối, vì tôi đã nghe nói về nó – điều này giống như là sự hết lòng vì bạn bè, nhưng ở trong cuộc tranh đấu khó khăn với những cảm giác bất đắc dĩ; cùng với một nỗi xấu hổ và sợ hãi ghê ghớm của một cậu bé không thích đánh nhau, không được can đảm lắm như tôi, cả gan xem những hành động can đảm ở chỗ đánh nhau; cùng với một nỗi bồn chồn trước những hồi hộp, lo lắng sâu kín mà việc xem trận đánh nhau khốc liệt, nghiêm trọng và gần như là sinh tử, sẽ xuất hiện trong tôi và tôi đang cảm thấy trước; đương nhiên cũng cùng với một nỗi lo sợ, nhút nhát thông thường rằng ở đó tôi muốn từ bỏ những đòi hỏi cho riêng bản thân mình, mâu thuẫn với bản tính con người thật của tôi, mà sẵn sàng cùng chịu tai hoạ – cùng với nỗi lo sợ bị lôi cuốn và bị cưỡng ép, hoá ra tôi cũng là một cậu bé can trường, một bằng chứng cho thấy tôi cũng thích đi xem đánh nhau. Nhưng mặt khác tôi không thể không đặt mình vào vị trí của Jappe và Do Escobar và hiểu những cảm giác lo lắng mà tôi tin là chúng đang có. Tôi hình dung ra sự xúc phạm, sự thách đấu ở trong khu vườn nghỉ dưỡng; cùng với chúng, vì phép lịch sự, tôi nén lại ham muốn ngay lập tức lao vào nhau cùng với những nắm đấm. Tôi thử trải qua sự phẫn uất, sự lo lắng, sự căm thù ngùn ngụt, mù quáng, sự khao khát trả thù mà chúng đã phải nếm trải trong đêm. Cuối cùng, trút bỏ hoàn toàn sự nhút nhát, tôi tưởng tượng mình đang đánh nhau một cách tàn nhẫn và điên cuồng với một địch thủ cũng tàn nhẫn như mình trong giấc mơ, dùng hết sức bình sinh đấm vào cái mồm đáng ghét của gã, đến nỗi cả hàm răng gã rơi ra, kèm theo một cú đạp dã man vào bụng dưới làm gã chìm xuống dưới những con sóng màu đỏ, sau đó tôi thức giấc ở trên giường của mình trong những tiếng mắng yêu của bố mẹ với tinh thần đã được trấn tĩnh bằng những miếng vải ép bọc nước đá (6) . Chúng tôi nằm dưới cầu tàu đến muời một rưỡi, sau đó đứng dậy để mặc quần áo. Tôi gần như bị kiệt sức vì sự hồi hộp, không chỉ khi ở trong phòng thay đồ mà cả sau đó, khi chúng tôi đã mặc xong quần và rời khỏi bãi tắm, tim tôi đập thình thịch, như thể chính tôi là kẻ sắp phải đánh nhau với Jappe hoặc Do Escobar, trước tất cả những người chứng kiến và ở vào thế bất lợi. Tôi vẫn còn nhớ rõ ba đứa chúng tôi đã đi xuống chiếc cầu nhỏ bằng gỗ bắc từ chỗ thay quần áo chếc xuống bãi tắm. Tất nhiên chúng tôi nhún nhảy để làm chiếc cầu võng xuống tối đa và để chúng tôi bật lên cao như bật lên từ bàn nhún. Nhưng khi đã xuống đến bên dưới, chúng tôi không đi theo lối đi giữa những chiếc lều vải và những chiếc ghế mây có mái che chạy dọc bờ biển mà đi theo hướng vào sâu trong đất liền, chính là đi về phía khách sạn nghỉ dưỡng, trước khi rẽ trái. Mặt trời chiếu cái nắng như thiêu như đốt trên các cồn cát và làm bốc lên hơi khô nóng từ mặt đất chỉ có những cây cúc gai, cỏ lác mọc thưa thớt, đang đâm vào chân chúng tôi. Không có một âm thanh nào ngoài tiếng vo vo liên tục của những con nhặng xanh dường như đang bay đứng yên trong cái nóng hầm hập, bất thình lình chúng nhao đi và lại bắt đầu phát ra tiếng vo ve đều đều, khó chịu ở chỗ khác. Từ lâu, sự mát mẻ của việc tắm biển đem lại đã không còn tác dụng. Brattstroem và tôi thay phiên nhau nhấc mũ lên cho thoáng khí, để ráo mồ hôi. Cậu ấy đội chiếc mũ thuỷ thủ Thuỵ Điển có lưỡi trai bằng vải sơn chìa ra đằng trước, tôi đội chiếc mũ nồi len Helgoland (7) , còn gọi là Tam-o-shanter (8) . Johnny ít chịu khổ sở vì trời nóng nhờ sự gầy gò của mình và cũng rất có thể là do quần áo của cậu ta thích hợp cho mùa hè hơn quần áo của chúng tôi. Trong bộ quần áo lính thuỷ nhẹ, thoải mái được may bằng vải rằn ri, cổ và hai bắp chân để lộ ra, cái đầu nhỏ xinh xắn đội chiếc mũ màu xanh da trời, được tô điểm bằng dải ruy băng ngắn có dòng chữ tiếng Anh, đôi chân gầy và dài đi giầy da màu trắng cổ ngắn, hợp thời trang và gần như không có gót, cậu ta đi bằng những bước chân sải rộng về phía trước với đầu gối hơi cong ở giữa Brattstroem và tôi, hát bài ca đường phố quen thuộc thời bấy giờ Ngư dân bé nhỏ bằng giọng quyến rũ của mình; cậu ta hát bằng lời bài ca đã bị xuyên tạc do bọn thanh niên láo lếu bịa ra. Vì cậu ta thường hát như vậy. Với tất cả sự hồn nhiên cậu ta đã học thuộc lời của một vài bài hát đã bị xuyên tạc và hoàn toàn không ngượng ngùng khi cất tiếng hát. Nhưng sau đó cậu ta giả vờ nghiêm nét mặt, nói: “Chết thật, ai lại đi hát những bài hát đã bị xuyên tạc cơ chứ!”, và làm như thể tôi và Brattstroem mới là những kẻ đã hát bậy bạ về người ngư dân bé nhỏ. Tôi chẳng còn bụng dạ nào để ý đến chuyện hát hò, nhất là khi chúng tôi đến gần chỗ sắp xảy ra đánh nhau. Chúng tôi đã đi qua vùng có cỏ sắc nhọn mọc trên các đụn cát và đang đi vào khu vực có rêu mọc bị cát phủ, tiếp theo là đi xuống đồng cỏ thưa thớt, đó là Leuchtenfeld, nơi chúng tôi đặt chân đến, được gọi tên theo ngọn đèn hải đăng (9) màu vàng, hình trụ nhô cao lên ở tít đằng xa về phía bên trái. Sau đó, chúng tôi bất ngờ đến nơi mà Jappe và Do Escobar đã hẹn nhau. Đó là một nơi yên tĩnh, nóng bức, hoạ hoằn mới có người qua lại, tầm nhìn bị che khuất bởi khóm liễu. Trên bãi đất trống ở phía trong khóm liễu, những người trẻ ngồi và nằm thành vòng tròn như một hàng rào sống. Hầu như tất cả mọi người đều già hơn chúng tôi, xuất thân từ những tầng lớp xã hội khác nhau. Có lẽ chúng tôi là những khán giả đến sau cùng. Mọi người chỉ còn đợi vũ sư Knaak, người cần phải hiện diện với tư cách là trọng tài điều khiển cuộc đấu. Nhưng cả Jappe lẫn Do Escobar đều đã có mặt. Tôi nhận ra chúng ngay lập tức. Chúng ngồi cách xa nhau trong vòng tròn người ngồi xung quanh và làm như thể không nhìn thấy nhau. Sau khi gật đầu chào một vài người quen chúng tôi cũng ngồi khoanh chân xuống nền đất bỏng rát. Một số người đang hút thuốc. Cả Jappe và Do Escobar đều ngậm thuốc lá ở khoé miệng, trong khi chúng nhắm một mắt, lim dim vì khói thuốc, dĩ nhiên người ta nhận thấy rằng, hai gã đều tin chắc mình sẽ thắng trong lúc ngồi như thế và thản nhiên hút thuốc, trước khi chúng đánh nhau. Cả hai đều đã ăn mặc như những người đàn ông trưởng thành, nhưng trông Do Escobar bảnh bao hơn hẳn Jappe. Gã ta đi đôi giầy mũi nhọn hoắt màu vàng hợp với bộ com lê mùa hè màu xám sáng của mình, mặc áo sơ mi màu mầu hồng, đeo cà vạt bằng lụa, sặc sỡ, đội chiếc mũ rơm hình trụ, vành nhỏ, hơi lệch về phía sau để búi tóc dầy, chắc, đen bóng và được bôi sáp thơm lộ ra ở bên dưới chiếc mũ; ngoài ra ở bên trên trán gã còn chải ngược mái tóc đã được rẽ ngôi ra phía sau. Thỉnh thoảng gã đưa tay phải lên và lắc để chiếc vòng bằng bạc mà gã đang đeo tụt xuống, chui vào trong măng séc tay áo. Jappe ăn mặc giản dị hơn nhiều. Hai chân của hắn ở trong hai ống quần hẹp, bó sát, có màu sáng hơn áo khoác ngoài và áo gi lê, phía dưới bị nhét vào trong giầy cao cổ và bị buộc chặt lại bằng dây giầy. Trái ngược với Do Escobar, Jappe đội chiếc mũ thể thao kẻ ô vuông được kéo sụp xuống trán, che đi mái tóc quăn, màu vàng của hắn. Hắn đang ngồi xổm, hai tay bó gối, và đương nhiên người ta nhận thấy, trước tiên là hắn mặc áo sơ mi không cài măng séc tay, sau đó là móng trên những ngón tay bị đan chéo vào nhau của hắn hoặc là đã bị cắt quá ngắn hoặc là bị gặm cụt vì tật hay gặm móng tay. Ngoài ra, mặc dù có phong cách hút thuốc liên tục và riêng biệt thì tâm trạng của hắn khi ở giữa đám đông vẫn nặng nề, thậm chí bối rối và rất trầm ngâm. Người đang chống lại hắn, không ai khác chính là Do Escobar, kẻ đang liên tục nói to bằng giọng khàn khàn với âm “r” giòn tan với những người ngồi gần gã, trong khi gã để cho khói thuốc tuôn ra đằng mũi. Giọng nói khàn khàn của gã làm tôi ghê tởm, và mặc dầu Jappe có những chiếc móng tay qua ngắn thì tôi vẫn muốn quay mặt đi, để khỏi phải nhìn Do Escobar như hắn, kẻ thỉnh thoảng lại cố gắng ngoái cổ lại nói chuyện với những người ngồi phía sau mình, còn không thì dường như chỉ im lặng nhìn khói của điếu thuốc lá mà hắn đang hút bay lên. Sau đó ông Knaak đến;- tôi còn nhìn thấyông ấy trong bộ pyjama bằng vải flannel kẻ sọc, màu xanh nhạt đi đến gần với những bước chân nhẹ nhàng từ phía khách sạn nghỉ dưỡng, ngả mũ chào và dừng lại ở bên ngoài vòng tròn người đang ngồi. Tôi không nghĩ là ông thích đến, nói đúng hơn tôi tin là ông miễn cưỡng đến. Tuy nhiên, ông đã ban tặng sự hiện diện của mình cho một cuộc đánh nhau; nhưng có lẽ địa vị của ông, mối quan hệ khó khăn của ông đối với đám thiếu niên nam khoẻ mạnh, hay thích gây gổ buộc ông phải đến. Ông có nước da bánh mật, đẹp trai và béo (chủ yếu béo ở vùng hông). Vào thời gian mùa đông ông dạy khiêu vũ và cách cư xử cả ở trong một nhóm gia đình chơi thân với nhau lẫn ở câu lạc bộ giải trí cho nhiều người cùng một lúc, và trong mùa hè đảm nhiệm chức vụ Người đứng ra tổ chức các bữa tiệc lớn và Trưởng ban quản lý bãi tắm của khách sạn nghỉ dưỡng ở Travemuende. Với đôi mắt sáng và dáng đi nhẹ nhàng, uyển chuyển của mình, nhờ đó, trước tiên ông cẩn thận đặt hai đầu bàn chân chĩa hẳn ra ngoài xuống đất và để cho phần còn lại của bàn chân chạm đất sau, với cách ăn nói tự tin và có văn hoá, với niềm tự hào giống như lúc bước ra sân khấu khi ông xuất hiện giữa đám đông, với nét thanh lịch lạ thường, riêng biệt trong phong cách của mình ông là niềm vui của phái đẹp, trong khi đó phái mạnh, nhất là các cậu thiếu niên hay chê bai, lại không tin tưởng ông. Tôi đã thường ngẫm nghĩ về địa vị của ông Francois Knaak (11) ở trong xã hội và thấy nó thật đặc biệt và tuyệt vời. Bố mẹ ông là những người nghèo hèn, còn ông thì hoàn toàn bay bổng với sự thận trọng của mình trong lối sống quý tộc mà không thuộc về giới quý tộc, ông là tấm gương của chúng tôi và được trả công với cương vị là người giám hộ và thầy giáo dạy khiêu vũ. Cả Jappe và Do Escobar đều là học sinh của ông, bọn chúng không ở lớp học tư như Johnny, Brattstreom và tôi mà ở trong lớp học tập thể tại câu lạc bộ giải trí, và đó là nơi mà ông Knaak bị bọn thiếu niên coi thường (vì chúng tôi lễ phép hơn khi học khiêu vũ và cách cư xử ở lớp học tư). Một gã đã học cách cư xử lịch sự cùng với các bé gái, bị đồn thổi là mặc áo coóc xê, túm lấy vạt dưới áo khoác ngoài dài đến đầu gối bằng các đầu ngón tay, khẽ nhún đầu gối, uốn éo và bất ngờ nhảy lên cao để dang hai chân ra, sau đó rơi phịch trở lại xuống sàn lát gỗ: Vậy gã thực sự có phải là con trai không? Mối nghi ngờ này đè nặng lên ông Knaak; đồng thời sự tin chắc quá mức của ông ta ngày càng tăng lên. Sự thăng tiến của ông trong nhiều năm rất có ý nghĩa, và điều đó (một sự hình dung khôi hài!) đã là tiền đề để ông có vợ và con ở Hamburg. Việc ông là người lớn và người ta luôn gặp ông ở phòng khiêu vũ giúp ông tránh khỏi việc bị lộ tẩy xuất thân từ tầng lớp thấp kém trong xã hội. Ông luôn tự hỏi: Gã có khả năng tập thể dục không? Đã có khi nào gã tập thể dục chưa? Gã có lòng dũng cảm không? Gã có sức lực không? Nói tóm lại, gã có được coi là quý tộc không? Ông không thể hiện được những phẩm chất đáng kính hơn làm đối trọng cho ông trong những cuộc gặp mặt với giới văn nghệ sĩ để ông nhận được sự kính trọng của họ. Thậm chí có những gã thiếu niên lêu lổng thẳng thừng gọi ông là đồ khỉ và là một kẻ hèn nhát. Chắc là ông ta biết điều đó, và vì thế hôm nay ông đến đây để chứng tỏ sự quan tâm của ông đến cuộc đánh nhau thực sự và để duy trì quan hệ với đám thiếu niên như một người bạn, mặc dù với tư cách là trưởng ban quản lí bãi tắm ông không được phép cổ suý cho việc đánh nhau vì danh dự một cách bất hợp pháp. Nhưng theo sự hiểu biết của tôi ông ta không cảm thấy thoải mái khi phải làm trọng tài điều khiển cuộc đấu và hiểu rõ đó là một việc làm nguy hiểm. Một số người nhìn ông bằng ánh mắt lạnh lùng, và ông lo lắng nhìn quanh mình, mặc dầu mọi người đã đến đông đủ. Ông ta xin lỗi một cách lịch sự về việc đến muộn của mình. Ông nói, một cuộc toạ đàm với ban giám đốc khách sạn nghỉ dưỡng liên quan đến buổi gặp mặt vào ngày thứ Bảy đã níu chân ông. Sau đó ông hỏi bằng giọng oai nghiêm: “Hai đối thủ đã sẵn sàng rồi chứ? Thế thì chúng ta có thể bắt đầu.” Ông chống ba toong, đứng bắt chéo chân ở ngoài vòng tròn người đang ngồi, bặm môi mím chặt bộ ria mép mềm, màu nâu của mình và đưa mắt sành sỏi nhìn. Jappe và Do Escobar đứng dậy, vứt thuốc lá đang hút dở đi và bắt đầu chuẩn bị đánh nhau. Do Escobar chuẩn bị rất nhanh. Gã ném mũ, áo khoác ngoài và áo gi lê của mình xuống đất, sau đó cởi cà vạt, cởi cúc ở cổ áo, tháo dây đeo quần và cũng ném chúng xuống đất. Tiếp theo, hắn bỏ áo sơ mi mầu hồng ra khỏi quần, cởi phăng ra và hắn chỉ còn mặc mỗi chiếc áo lót bằng vải thun có sọc trắng, đỏ để lộ cánh tay mọc đầy lông màu đen từ bắp tay trở xuống. “Chuẩn bị xong chưa, đồ khốn?” hắn hỏi Jappe trong khi hắn bước nhanh vào giữa khoảng trống trước mặt mọi người và ưỡn ngực khởi động khớp vai. – Gã không tháo chiếc vòng đeo tay bằng bạc ra. Jappe vẫn chưa chuẩn bị xong, quay mặt sang phía Do Escobar, lông mày dựng ngược lên và gườm gườm nhìn xuống đôi chân của gã như thể muốn nói: “Mày cứ đợi đấy! Tao sẽ làm cho mày phải ngậm miệng lại.” Mặc dù Jappe có bờ vai rộng hơn, nhưng trông hắn có vẻ không khoẻ và lì lợm bằng Do Escobar, khi hắn đứng đối diện với Do Escobar. Hai chân của Jappe ở trong hai ống quần bó sát chùng xuống theo hình chữ X, chiếc áo sơ mi mỏng, mầu trắng đã hơi ngả vàng của hắn có hai ống tay rộng lúc này đã được cài măng séc và hai chiếc dây đeo quần bằng cao su màu sám đè lên trông rất khó coi, trong khi chiếc áo lót có kẻ sọc của Do Escobar và chủ yếu là những chiếc lông màu đen ở trên hai cánh tay của gã có tác dụng làm cho gã trở nên hiếu chiến và rất đáng gờm. Cả hai đều tái mét mặt, nhưng người ta nhìn thấy điều đó rõ hơn ở Jappe, vì bình thường hắn có đôi má hồng. Hắn có khuôn mặt của một gã thiếu niên tóc vàng hoạt bát và hơi thô lỗ với cái mũi hếch và một cái sống mũi có tàn nhang. Ngược lại mũi của Do Escobar lại ngắn, thẳng, khoằm xuống, và người ta nhìn thấy hàng ria mép màu đen mọc lún phún ở trên đôi môi hé mở của gã. Hai tay buông thõng xuống, chúng đứng gần như sát vào nhau và nhìn xuống bụng của nhau với vẻ mặt tức giận, tỏ ý khinh bỉ đối thủ. Rõ ràng là chúng không biết nên bắt đầu đánh nhau như thế nào, điều đó hoàn toàn phù hợp với cảm nhận của tôi. Một đêm trọn vẹn và một nửa ngày đã trôi qua kể từ khi chúng thách đấu, và thời gian đã làm nguội đi sự ham muốn đánh nhau của chúng mà tối hôm qua sục sôi và chỉ được kiềm chế bởi phép lịch sự. Giờ đây chúng cần phải làm những gì mà hôm qua chúng đã rất muốn làm vì sự kích thích cao độ vào giờ phút quyết định khi có hiệu lệnh với trái tim lạnh lùng trước đám đông đã tụ họp. Nhưng thực ra chúng là những thiếu niên có giáo dục và không phải là các võ sĩ giác đấu thời thượng cổ. Đương nhiên, lúc bình thường chúng cũng e ngại đấm lên thân thể lành lặn của người khác . Tôi nghĩ vậy, và có lẽ cả Jappe lẫn Do Escobar đều đang ở trong tâm trạng như thế. Nhưng vì danh dự nên chúng bắt đầu đẩy vào ngực nhau bằng năm đầu ngón tay, như thể chúng nghĩ có thể dễ dàng đẩy ngã đối thủ xuống đất bằng sự khinh bỉ, và rõ ràng là để khiêu khích nhau. Nhưng lúc này, khi mà Jappe bắt đầu nghiến răng đẩy Do Escobar, thì Do Escobar ngừng đẩy lại. “Xin lỗi ông bạn nhé!” Do Escobar nói trong khi gã lùi lại hai bước và quay đi. Gã làm như vậy là để nhét lại cái móc đeo quần ở sau lưng cho chắc hơn, vì gã đã tháo dây đeo quần ra, và vì hông của gã nhỏ nên chắc là cái quần của gã bắt đầu tụt xuống. Khi gã đã nhét lại cái móc đeo quần và cài lại thắt lưng gã nói lúng búng trong miệng điều gì đó bằng tiếng Tây Ban Nha mà không ai hiểu. Có lẽ hắn gã đã nói rằng bây giờ gã mới thực sự sẵn sàng đánh nhau. Gã quay người và lại bước đến trước mặt Jappe. Rõ ràng là gã đang rất kiêu căng. Trước tiên Jappe và Do Escobar đẩy nhẹ nhau bằng bàn tay. Nhưng bỗng nhiên, rất bất ngờ, chúng đấm nhau túi bụi. Chúng đánh nhau được khoảng ba giây thì đột nhiên lại dừng lại. Johnny ngồi cạnh tôi, miệng ngậm một cọng cỏ mỏng, nói: “Bây giờ chúng đang đấu trí, tao cá với chúng mày rằng Jappe đang làm cho thằng Do Escobar mất tinh thần. Nó quá mánh lới. Chúng mày hãy nhìn xem, nó luôn liếc mắt nhìn những người khác. Thằng Jappe tỏ ra rất bản lĩnh. Chúng mày có giám cá với tao rằng nó sẽ nện cho Do Escobar một trận nhừ tử không?” Jappe và Do Escobar lùi lại, thở hổn hển, hai tay nắm lại chống nạnh, đứng cách xa nhau ra. Chắc chắn cả hai đã cảm thấy đau, vì vẻ mặt chúng trông rất tức giận, và cả hai đều bĩu môi tỏ ý căm tức, như thể chúng muốn nói: mày đang nghĩ cách làm cho tao thật đau đớn phải không! Đôi mắt của Jappe đỏ ngầu, còn Do Escobar thì nhe răng trắng ởn khi chúng lại lao vào đánh nhau. Bây giờ chúng đánh nhau bằng tất cả sức lực, lần lượt đánh vào vai, cẳng tay và ngực của nhau. “Đánh như thế thì hề hấn gì”, Johnny nói bằng giọng đáng yêu. “Cứ đánh như thế kia thì sẽ chẳng có thằng nào bị thua cả. Chỉ tổ tốn sức. Chúng phải đấm vào cằm của nhau, nghĩa là từ dưới lên đến xương hàm.” Nhưng đúng lúc ấy Jappe áp sát Do Escobar, vì thế Do Escobar đã kẹp chặt được cả hai cánh tay của Jappe bằng cánh tay trái vào ngực của mình như kẹp trong một cái cái ê tô và liên tục đấm bằng tay phải vào mạng sườn của Jappe. Mọi người nhao nhao phản đối. “Không được khoá tay!” nhiều người hét lên và đứng phắt dậy. Ông Knaak hốt hoảng nhảy vào giữa. “Không được khoá tay!” ông ta cũng hét lên. “Do Escobar, rõ ràng là cậu đang khoá tay Jappe! Như vậy là phạm luật.” Ông tách bọn chúng ra và nhắc nhở Do Escobar một lần nữa rằng việc khoá tay nhau là hoàn toàn bị cấm. Sau đó ông ta lại ra đứng ở ngoài vòng tròn người ngồi xung quanh. Người ta nhìn thấy rõ Jappe đang nổi điên lên. Mặt tái nhợt, gã xoa xoa mạng sườn của mình trong khi gã quan sát Do Escobar cùng với cái gật đầu chậm rãi và báo trước những đòn trả đũa. Và khi gã bắt đầu hiệp tiếp theo thì nét mặt của gã tỏ rõ sự quyết tâm ấy để mọi người trông đợi những đòn quyết định của gã. Và đúng như thế, ngay sau khi hiệp đấu mới được bắt đầu, Jappe đã có một cú ra đòn, – hắn sử dụng mánh khoé mà có lẽ gã đã nghĩ ra từ trước. Một cú vung tay trái lên đánh lừa khiến cho Do Escoar phải lấy tay che mặt; nhưng trong khi Jappe vung tay trái lên gã đấm mạnh bằng tay phải vào bụng của Do Escobar đến nỗi hắn phải cúi gập người về phía trước với khuôn mặt tái mét. “Được lắm!”, Johnny nói. “Bây giờ thằng Do Escobar đang bị đau. Có thể nó đang cố chịu đựng và tìm cách phục thù.” Nhưng cú đấm vào bụng quá mạnh, và rõ ràng là hệ thống thần kinh của Do Escobar đã bị tổn hại. Mọi người đều nhận thấy rằng hắn không còn có thể tung ra được những cú đấm chính xác, đồng thời đôi mắt hắn biểu lộ như thể hắn không còn tỉnh táo nữa. Do hắn cảm thấy cơ bắp mỏi nhừ, cho nên hắn xử sự như sau vì thói kiêu căng: Hắn bắt đầu giả vờ nhanh nhẹn để khiêu khích Jappe bằng sự nhanh nhẹn của mình và làm cho Jappe mất tập trung. Bằng những bước chân ngắn hắn nhảy múa xung quanh sát người Jappe cùng với những câu nói vô nghĩa khác nhau, ngoài ra hắn còn cố gắng cười mỉa. Điều đó làm cho tôi có cảm tượng là gã rất can đảm trong thế bất lợi của mình. Nhưng Jappe hoàn toàn không mất tập trung mà xoay người theo Do Escobar một cách dễ dàng bằng gót giầy và giáng cho Do Escobar nhiều cú đấm mạnh trong khi gã chống đỡ những đòn khiêu khích yếu ớt của Do Escobar bằng tay trái. Tuy nhiên nhân tố định đoạt số phận của Do Escobar lại là hoàn cảnh, khi chiếc quần của hắn liên tục bị tụt xuống, vì thế chiếc áo lót bằng vải thun của gã bị tuột ra ngoài quần và co lên, để lộ một phần cơ thể có làn da nâu của hắn, làm cho vài người cười phá lên. Tại sao hắn lại tháo dây đeo quần ra kia chứ! Đáng lẽ hắn không nên khoe thân hình vạm vỡ của mình. Vì từ lúc này cho đến khi trận đánh nhau kết thúc cái quần đã gây nhiều phiền toái cho hắn. Hắn luôn muốn kéo quần lên và nhét áo lót vào trong quần. Bởi vì, mặc dù hắn đang ở trong tình thế bất lợi nhưng hắn không chịu đựng nổi cảm giác mọi người nhìn mình trong bộ dạng lôi thôi, nực cười. Và cuối cùng, khi hắn chỉ đánh trả Jappe bằng một tay, còn tay kia thì cố kéo quần lên, Jappe đã giáng một cú đấm thôi sơn vào mũi hắn mà cho đến ngày nay tôi vẫn không hiểu tại sao nó không bị vỡ ra. Nhưng máu mũi của Do Escobar trào ra, hắn quay đi và bỏ ra chỗ khác, cố gắng bịt mũi bằng tay phải ngăn không cho máu chảy, đồng thời đưa tay trái về phía sau ra hiệu điều gì đó. Jappe đứng yên, dạng hai chân vòng kiềng ra, tay lăm lăm cú đấm, và đợi Do Escobar quay lại. Nhưng Do Escobar không quay lại nữa. Tôi thấy Jappe chơi đẹp hơn Do Escobar và nghĩ rằng đã đến lúc kết thúc cuộc đấu. Dĩ nhiên là Jappe đã muốn đấm tiếp vào cái mũi đang chảy máu của Do Escobar; nhưng chắc chắn Do Escobar không muốn đánh nhau tiếp, và lúc này hắn càng muốn dừng cuộc đấu vì bản thân hắn đang bị chảy máu. Người ta lau máu mũi cho hắn. Kinh quá! Tôi chưa hề nhìn thấy ai bị chảy nhiều máu mũi như thế. Máu đã chảy qua các kẽ ngón tay của hắn xuống quần áo, làm vấy bẩn chiếc quần dài sáng màu và nhỏ giọt xuống đôi giầy màu vàng. Đó là sự dơ bẩn, mà không là gì khác, và trong tình thế này hắn từ chối đánh nhau tiếp, coi đó là vô nhân đạo. Hơn nữa quan điểm của hắn cũng chính là quan điểm của đa số những người đang có mặt tại đây. Ông Knaak đi vào vòng tròn người ngồi xung quanh và tuyên bố cuộc đấu kết thúc. “Như thế là đủ để giải quyết vấn đề danh dự rồi”, ông ta nói. “Cả hai đều đã rất cừ.” Người ta nhận thấy ông cảm thấy nhẹ nhõm, vì cuộc đấu đã kết thúc thật nhẹ nhàng. “Nhưng rõ ràng là không có thằng nào toi đời”, Johnny ngạc nhiên, nói một cách thất vọng. Tuy nhiên, ngay cả Jappe cũng hoàn toàn đồng ý kết thúc cuộc đấu và thở phào nhẹ nhõm đi đến chỗ để quần áo của mình. Lời khen ngọt ngào, giả tạo của ông Knaak được hiểu là cuộc đấu tay đôi đã hoà. Jappe chỉ được chúc mừng một cách kín đáo; một vài người cho Do Escobar mượn khăn mùi soa của mình, vì chiếc khăn mùi soa của hắn đã nhanh chóng bị ướt sũng vì máu. Sau đó có tiếng hô lên: “Đánh nhau tiếp đi! Bây giờ đến lượt đôi khác.” Đó cũng là nguyện vọng của đám đông đang ngồi ở đây. Trận đánh nhau giữa Jappe và Do Escobar đã diễn ra quá ngắn, chỉ đúng mười phút, không hề lâu hơn. Mọi người đã tập trung ở đây, họ còn thời gian, họ cần phải làm điều gì đó! Vậy thì phải có hai người khác thi đấu tiếp, bất cứ ai xung phong đều đáng được gọi là một chàng trai! Không có ai giơ tay. Nhưng tại sao lúc này tim tôi lại bắt đầu đập thình thịch? Điều tôi lo sợ đã xảy ra: Những lời yêu cầu ra thi đấu đang lan truyền trong đám đông khán giả. Nhưng giờ đây tại sao tôi lại luôn cảm thấy gần như là mình vui mừng về khoảnh khắc hồi hộp này cùng với nỗi sợ hãi, và tại sao tôi lại vui mừng ngay sau khi nó xuất hiện, khi mà tôi quay cuồng với những cảm xúc trái ngược? Tôi nhìn Johnny: Cậu ta thờ ơ và hoàn toàn điềm tĩnh ngồi cạnh tôi, xoay xoay gọng cỏ ở trên miệng và nhìn quanh với vẻ mặt cởi mở, tò mò, xem có còn cặp thiếu niên ngổ ngáo, mạnh khoẻ nào nữa muốn đấm vỡ mũi của nhau để cho cậu thích thú hay không. Tại sao cá nhân tôi buộc phải cảm thấy mình bị lựa chọn và bị đề nghị ra thi đấu tiếp trong sự kích thích cao độ đối với bản thân nhằm vượt qua sự nhút nhát của mình bằng sự ráng sức phi thường, kì diệu, hướng sự chú ý của tất cả mọi người vào tôi, để tôi xung phong ra thi đấu như một người hùng? Quả nhiên, như thể do sự tự phụ hoặc là do quá nhút nhát, tôi đang định giơ tay xung phong ra thi đấu thì ở đâu đó trong đám đông khán giả có tiếng hô táo tợn cất lên: “Bây giờ đến lượt ông Knaak phải thi đấu!” Mọi con mắt đổ dồn vào ông Knaak. Không phải là tôi đã nói là ông ta sẽ lâm vào nguy hiểm khi làm trọng tài cho cuộc đấu phải đó sao? Nhưng ông đáp lại: “Cám ơn. Thời trai trẻ tôi đã đánh nhau đủ rồi.” Ông ta đã tránh được việc phải ra thi đấu. Ông đã khôn khéo thoát khỏi nguy hiểm, đã viện cớ tuổi tác của mình, ông nói ngắn gọn là trước đây mình hoàn toàn không né tránh một trận đánh nhau thực thụ nào, và dĩ nhiên không hề khoác lác mà chỉ biết nói một cách thành thật, trong khi ông thú nhận bằng sự tự chế giễu dễ thương rằng mình đã bị đánh. Mọi người không còn tranh cãi với ông nữa. Họ nhận thấy, nếu như không thể, thì thật khó buộc ông phải ra thi đấu. “Thế thì vật nhau thôi vậy!” có ai đó lên tiếng. Yêu cầu này được ít người vỗ tay. Nhưng trong khi mọi người đang bàn tán sôi nổi về việc đó thì Do Escobar cất lên giọng Tây Ban Nha ở phía sau chiếc khăn lau mũi đầy máu (và điều đó gây nên ấn tượng khó chịu mà tôi không bao giờ quên): “Vật nhau là hèn nhát. Người Đức chỉ dám vật nhau thôi!” – Một câu nói quá hớ hênh của hắn mà ngay lập tức bị la ó ầm ĩ. Và ông Knaak đã đáp lại hắn một cách đích đáng: “Cũng có thể. Nhưng hình như thỉnh thoảng người Đức cũng nện cho người Tây Ban Nha một trận ra trò.” Tiếng cười rộ lên tán thưởng; vị thế của ông ta được củng cố rất nhiều từ sự đáp lại này, và chắc chắn lúc này không ai còn để ý đến Do Escobar nữa. Cho dù việc vật nhau có phần nào buồn tẻ hơn thì đa số mọi người vẫn muốn xem, chính vì thế mà các học sinh còn chơi đủ thứ trò chơi vận động như là nhảy cừu, trồng cây chuối, đi bằng hai tay và nhiều trò chơi khác tương tự để giết thì giờ. “Nào, bọn mình về thôi!” Johnny nói với Brattstroem và tôi, đồng thời cậu ta đứng dậy. Đó là tính cách của Johnny Bishop. Cậu đã đến, vì cậu muốn chứng kiến một trận đấu với kết cục thực sự đẫm máu. Và khi trận đánh nhau đã không diễn ra như cậu kỳ vọng thì cậu nhanh chóng bỏ đi. Cậu ta đã để lại cho tôi những ấn tượng đầu tiên về sự vượt trội vốn có của tính cách dân tộc Anh mà sau này tôi đã dần dần nhận ra và rất khâm phục. (1) Một quận của thành phố Hansestadt Luebeck ở bang Schleswig-Holstein, miền Bắc nước Đức. (2) Em gái của Johnny. (3) Một vùng ở Luebeck – một thành phố thương hội tại miền Bắc nước Đức. (4) Một địa danh ở Luebeck. (5) Phụ âm “r” trong tiếng Đức thường được phát âm như “g” trong tiếng Việt. Tuy nhiên, ở một số vùng người ta phát âm âm “r” như “r” trong tiếng Việt, đầu lưỡi cong lên kết hợp với răng cửa tạo ra âm “r” nghe rất giòn. (6) Thời trước, ở châu Âu người ta hay dùng những miếng vải ép bọc nước đá để chế ngự thần kinh và những cơn mê sảng hoặc để hạ sốt nhanh. (7) Tên một hòn đảo nằm xa đất liền nhất ở vùng Bắc hải của Đức. (8) Mũ có chóp. (9) Từ “hải đăng” trong tiếng Đức là Leuchtturm. (11) Tên đầy đủ của ông Knaak. Francois là tên, Knaak là họ. GẶP MAY ELISABETH LANGÄSSER (ĐỨC) Tôi nghe cuộc độc thoại lạ lùng, đang kết thúc này trên chiếc ghế băng trong vườn của một an dưỡng đường ở thôn quê, an dưỡng đường mà đồng thời là nhà dưỡng lão. Lúc đó tôi đang đợi một người quen, người mà chúng tôi đã lôi ra từ hầm nhà ông ta với một cú sốc thần kinh ngay trước khi kết thúc cuộc chiến tranh gần đây; đầu của ông ta luôn đung đưa qua lại tíc tắc như một quả lắc của đồng hồ… luôn luôn tíc tắc, rất nhịp nhàng, rất đều đặn, không một ai trong chúng tôi (cả tôi, cả chồng tôi lẫn những người bạn chơi bài Tây của ông ấy) lấy làm lạ về điều đó, nếu giờ đồng hồ đang là nửa giờ hoặc trọn giờ đồng hồ, còn nghe thấy cả tiếng bính boong – tiếng tíc tắc và tiếng bính boong. Nhưng thôi, tôi sẽ kể câu chuyện này vào một dịp khác. An dưỡng đường cũng là một thiên đường thực sự. Vườn hoa đẹp, có các cây cổ thụ, ngôi nhà phía sau kia là một ngôi biệt thự thôn quê thuộc tỉnh Brandenburg ở miền biên giới; hai chái nhà đơn giản và một cầu thang bên ngoài ở giữa – hơi nhỏ một chút, nó như là một dinh thự ở Caputh (1) hoặc Bernau (2) . Như đã nói, ngôi biệt thự thực sự là một thiên đường, vì nó hiện ra ngay đằng sau nghĩa trang. Khi đó tất cả chúng tôi đều mong muốn một điều gì đó tương tự như để chúng tôi được nghỉ ngơi ở trong đó bốn tuần. Nhưng ai có được may mắn ấy? Một người phụ nữ già hơn ngồi cạnh tôi; bà ta có thực sự già hơn hay không, tôi không thể nói một cách chắc chắn được. Bà ấy bị điên, điều đó thì chắc chắn. Thật khó tin là bà ấy hầu như chỉ ở trong nhà dưỡng lão. Nhưng già hay không già – lúc đó không có ai trong chúng tôi thích soi gương. Trông bà này cũng thế: Nếu bây giờ tôi để ý đến điều đó, thì bà ta không già mà cũng chẳng trẻ – đương nhiên là không trẻ rồi – tuy nhiên khuôn mặt bà ta hoàn toàn nhẵn bóng như một quả trứng dưới mái tóc bạc phơ. Mọi người sẽ nói, có nhiều những khôn mặt như thế. Đương nhiên rồi. Chỉ có điều là không phải tất cả đều điên, và hơn nữa không phải tất cả đều bị nhốt – nếu không thì họ ở chỗ nào? Rất có thể là thông thường bà ta đã không làm cho tôi chú ý đến, hoặc là những gì bà ta kể đã không đọng lại trong tôi; trong thời gian này có rất nhiều bất hạnh, cho nên điều đó hoàn toàn không phụ thuộc vào ít hơn hay nhiều hơn những người như thế – thực ra mọi người đã không nhớ điều đó. (Ngày nay tôi lại nói: Tạ ơn Chúa! Nếu không thì họ ở chỗ nào?) Bởi vì, bình thường một người chắc chắn đã không làm tôi chú ý đến như vậy. Ví dụ như, trong khi xếp hàng, hoặc là ở chỗ nhận tem phiếu, thế nào người ta cũng nếm trải những điều tương tự. Nhưng ở đây sự việc là hoàn toàn khác. Mọi người đã không được kể lại gì; khi đó họ đã nghe được một điều gì đó, điều mà nói cho đúng ra là rõ ràng không dành cho ai đó, họ đã có cảm giác bị nguyền rủa như đọc một bức thư mở bị bỏ quên. Thực vậy: đọc một bức thư mở. Tôi tin sự so sánh này là chính xác, dĩ nhiên mọi sự so sánh đều khập khiễng. Vì rằng mọi người đã đọc một cái gì đó mà có lẽ họ không được phép biết. Họ hầu như không nói: Như thế nào? Hoặc: Có thật thế không? Hay: ồ! Vì thế người phụ nữ chồm lên như bị đánh và nhìn ai đó một cách tức giận. Tất nhiên rồi- ‘một cách tức giận’ hoàn toàn không phải là sự biểu lộ dành cho cái nhìn này – chỉ có một người điên mới có thể nhìn ai đó như vậy… rất liều lĩnh và như là đến từ một thế giới khác. Đương nhiên là tôi đã hoảng sợ, nếu như một nữ y tá không ở gần đó trong suốt thời gian tôi ngồi cạnh bà ấy. Đúng ra người ta hoàn toàn không được phép gọi những kẻ đê tiện này là y tá. Khi một người lặng lẽ ghì từ phía sau và giữ người bệnh trong sự ghì chặt của mình và sau đó đẩy họ đi bằng khuỷu tay, không thèm nói lấy một lời… y như một cái đầu máy xe lửa kềnh càng bọc vải có sọc trắng xanh -. Thật là thô bạo. Điều đó nhất định phải chấm dứt. Nếu không thì họ ở chỗ nào? “Quả thực tôi đã là một đứa trẻ xinh xắn”, bà ta nói. “Đôi mắt to tròn. Một thân hình đẹp như búp bê. Bố mẹ tôi thích và thường xuyên cho tôi đi chụp ảnh. Tại sao không kia chứ? Tại sao lại không kia chứ? Đương nhiên họ có đủ tiền cho tôi đi chụp ảnh. Bây giờ tôi vẫn còn giữ các bức ảnh của mình ở trước một khu rừng, và một số ảnh khác lại ở trong một vườn hoa trên một cái ghế băng bằng gỗ bạch dương. Em trai bé nhỏ của tôi đã phải gục đầu lên vai tôi – ”Đúng là Haensel và Gretel’ (3) mọi người nói như thế về bức ảnh này. Một lần chụp ảnh khác, tôi chả biết tại sao, tôi đã giương một cái ô Nhật Bản lên trên đầu khi mặc cái váy thêu. Tôi đã là một đứa trẻ may mắn. Gia đình tôi khá giả; tôi thích cái gì là có thể có cái đó, không có con búp bê nào đủ lớn đối với tôi. Việc học hành ở trường của tôi cũng đạt kết quả tốt. Tôi được điểm một (4) ở hầu hết các môn học, chỉ có môn Thủ công là luôn được điểm năm (5) . Cô giáo của tôi nói điều đó quả là đáng tiếc, và thế là mẹ tôi ngồi xuống và làm các bài Thủ công cho tôi – Khi đó tôi được toàn là điểm một từ môn Tôn giáo cho đến môn Thủ công. Việc học hành của tôi cứ tiếp tục như thế. Lên bảy tuổi tôi được bố mua cho một cái xe ba bánh nhỏ, mười tuổi được một cái xe to hơn và năm mười bốn tuổi tôi được bố mẹ mua cho một cái xe đạp nữ thực thụ. Chúng tôi đi du lịch – lúc thì đi Bayern, lúc thì đi Helgoland. Sau đó bố tôi mất. Em trai tôi và tôi không nhận thức được nhiều về điều đó. Thời gian cứ dần trôi đi: năm này tôi học bơi ngửa, năm sau tôi học chơi điabôlô, năm tiếp theo chúng tôi sưu tập một đống bưu ảnh và năm tiếp theo nữa chúng tôi sưu tập tem quảng cáo. Tôi thường gặp may trong việc trao đổi: chỉ mất một hộp hương liệu cà phê “Pfeiffer và Diller ” là tôi có được vé vào xem triển lãm thế giới; chỉ với một gói xà phòng bột hiệu “Cô gái” là tôi có ngay giấy mời vào xem chương trình biểu diễn nghệ thuật hiện đại và nghệ thuật mới của Darmstadt (6) . Sau đó chiến tranh thế giới (7) xảy ra và qua đi mà chúng tôi không hề hấn gì. Tuy nhiên khi nó mới bắt đầu chúng tôi còn có tất cả mọi thứ để ăn, đến cuối cuộc chiến thì chúng tôi phải nhờ vào sự cứu đói của các tín đồ phái Quây-cơ. Vào năm lớp mười, lần đầu tiên tôi yêu say đắm một thầy giáo, mặc dù tôi không thích sự mơ mộng và hoàn toàn không có tính dâm đãng. Từ đó tôi rất hay yêu say đắm và cũng được yêu tha thiết. Tôi đã nhận được lời cầu hôn đầu tiên và chẳng bao lâu là lời cầu hôn thứ hai, rồi lời cầu hôn thứ ba, dù rằng quả là có rất nhiều đàn ông trẻ đã tử trận trong chiến tranh. Thế đấy, bởi vì tôi thật sự đáng yêu, và có lẽ tôi cũng có sức quyến rũ thực sự, như mọi người hồi ấy nói như vậy. Tôi là cô gái thứ năm trong lớp của mình lấy chồng. Chồng tôi là bồi thẩm, thủ trưởng của ông ấy gọi tôi là “người phụ nữ bé nhỏ”. Lúc đầu chúng tôi chưa muốn có con, để còn thưởng thức cuộc sống, có đẻ thì dù thế nào cũng không đẻ nhiều hơn hai con: chỉ một trai, một gái là đủ. Dĩ nhiên tôi lại gặp may, và mọi thứ diễn ra như đã được sắp đặt sẵn. Trước tiên cậu con trai ra đời, tôi đặt tên nó là Harald, sau đó là cô con gái bé bỏng Brigitte, một đứa trẻ dễ thương. Chồng tôi là một luật sư rất có tài, kể cả về phương diện làm ăn, buôn bán, một người đàn ông tốt bụng, đáng yêu. Ông ấy đã có thể ở lại làm công chức nhà nước, nhưng để thành đạt nhanh hơn, và còn để kiếm được nhiều tiền hơn nữa, ông ấy đã trở thành cố vấn pháp luật của các công ty. Đầu tiên ở Koeln, sau này ở Hamburg, cuối cùng ở Koenigsberg. Liên tục đi về phía Bắc, sau đó về phía Đông Bắc, chúng tôi dừng lại ở phía Đông và sau cùng mua cho mình một điền trang nhỏ ở Romintener Heide (7) có khu săn bắn và nơi câu cá. Thực ra sự bất hạnh của chúng tôi bắt đầu từ việc gì ngày nay tôi không còn nhớ chính xác. Có thể chúng tôi đã không nên đi khỏi phía Tây nước Đức quá xa đến như vậy, nhưng ai có thể lường trước được điều đó? Hồi đó đi lên phía Bắc làm ăn là thức thời, đi về phía Đông còn thức thời hơn nữa và có nhiều con là mốt thời thượng. Vì vậy tôi đã đưa ra một quyết định khó khăn là đẻ thêm một đứa nữa, nhưng lần đó tôi đã bị sẩy thai. Tôi thử một lần nữa: lại bị như vậy. Sau lần thứ ba thì tôi bỏ cuộc. Trong khi đó chồng tôi cũng ngày càng già đi và bị bệnh loét dạ dày. Đương nhiên điều đó cũng không có gì là quá tồi tệ, chúng tôi đã gặp may nhiều trong cuộc sống, cuộc phẫu thuật cho chồng tôi diễn ra theo nguyện vọng, khi đó, không ai biết tại sao, chồng tôi bất ngờ bị bệnh tắc mạch máu. Tôi rất buồn, nhưng bọn trẻ là nguồn động viên lớn đối với tôi. Ngay trước lúc chiến tranh (9) nổ ra, cậu con trai mười tám tuổi, cô con gái mười sáu. Mọi thứ vẫn diễn ra bình thường: đầu tiên Harald thi lấy bằng tú tài, sau đó đi lao động công ích, rồi đi lính. Nó đã gặp may: vì nó có năng khiếu về máy móc, kỹ thuật, nên nó được điều động về tiểu đội thông tin và ban đầu được ở phía sau mặt trận. Còn Brigitte, cao lớn và có tóc vàng như chồng tôi, thì đã trở thành đội trưởng quản lý thanh niên lao động công ích ở trong phủ thống đốc. Có lẽ tất cả đã tốt đẹp, nếu như Harald không xung phong vào đội lính dù vì tham vọng nhận được huân chương hiệp sĩ. Chỉ ít lâu sau nó tham chiến và tử trận ở gần Monte Cassino (10) … gần như vào cùng một ngày, khi mà Brigitte đẻ thằng Heiko bé bỏng, cha của nó là một lính SS (11) . Dĩ nhiên lúc này Brigitte không muốn làm đội trưởng quản lý thanh niên lao động công ích nữa mà trở về nhà cùng với cậu con trai. Thằng bé lớn lên trông rất kháu khỉnh, Brigitte gặp may và đính hôn với một sĩ quan không quân lái máy bay khu trục đánh đêm, người mà tử trận chỉ ít lâu sau cuộc đổ bộ của những người Anh vào miền Bắc nước Pháp, nhưng Brigitte đã gặp may và trước đó đã kịp kết hôn uỷ quyền (12) với cậu ta. Khi đứa trẻ vừa mới bắt đầu biết chạy, chúng tôi nhận thấy vận may đã rời bỏ giới lãnh đạo Đức Quốc xã. Mọi thứ đều trở nên hỗn loạn, người Nga ngày một đến gần, cuối cùng chúng tôi phải bỏ chạy. Lúc đó đang là mùa đông, chúng tôi phải bỏ lại tất cả, chỉ mang theo được hai va li. Dĩ nhiên các chuyến tàu chật ních người chạy trốn, đó là những tàu chở hàng, các toa xe chở gia súc, các xe goòng trống trải; chúng tôi gặp may và lên được một toa xe được che kín đi từ Dirschau (13) đến Schneidenmuehl (14) . ở Schneidenmuehl đoàn tàu chở chúng tôi phải dừng lại để cho đám thương binh và những toán lính đang tháo chạy ào ra đường ray lên tàu. Tất cả chúng tôi bị đuổi xuống, hai cái va li của mẹ con tôi bị vất xuống đường ray, và chỉ khi các toán lính đã lên tàu và ngồi chật kín các toa xe chúng tôi mới được phép đi cùng – một số người phải ngồi trên nóc toa, đứng chen chân ở vị trí tiếp giáp giữa các toa, trên các bậc lên xuống, miễn sao lên được tàu là tốt lắm rồi. Con gái tôi đưa thằng con của nó cho tôi bế và leo xuống đường ray để tìm hai chiếc va li. Nó cũng đã gặp may và tìm thấy vai li của mình và đưa nó lên nóc toa cho tôi. Lúc đó tàu bắt đầu chạy, và một con tàu chạy ngược chiều từ một phía khác đi qua bên cạnh chúng tôi. Ngay lập tức con gái tôi bị tàu cán phải, tôi quấn kín chiếc chăn len cho đứa trẻ, nhưng dĩ nhiên vào sáng hôm sau nó đã bị chết. Chúng tôi đi tiếp, những đứa trẻ khác cũng bị chết rét ở trên nóc toa, ngày càng có nhiều người chạy trốn mới lên tàu, sau đó, để có chỗ ngồi, chúng tôi phải ném những cái xác trẻ con lạnh cứng xuống lớp tuyết dày. Cuối cùng chúng tôi đến Berlin và vào một trại tị nạn. Chúng ta bị thất trận, tôi đã gặp may, vùng ngoại thành được giao nộp cho người Nga mà hầu như không có tiếng súng, ở gần đấy có một doanh trại dã chiến với rất nhiều vỏ đồ hộp. Khi đi ngang qua đó và khi có thể vẫn không có bánh mì để ăn, chúng tôi đi ra xa hơn khỏi trại tị nạn và đi vào trong doanh trại bị bỏ lại, nơi mà còn có khoai tây; tuy nhiên khi tôi đi vào đến nơi, tất cả mọi người đã nhét đầy các bao đựng khoai tây của mình, các kho chứa đã trống không. Tôi cần phải làm gì? Tôi đã gặp may: ở trong một cái thùng to bằng gỗ được đổ đầy nước có rất nhiều khoai tây đã được gọt vỏ bị bỏ lại – tôi xắn tay áo lên cao và vớt các củ khoai tây ra. Ba lô của tôi đã gần đầy, tôi mò một lần nữa thật sâu xuống đáy thùng và cả hai tay dính đầy cứt, đầy cứt màu mâu, nhão nhoét, thối hoắc; lính Đức đã phải đi đại tiện vào trong thùng gỗ trước khi rời bỏ doanh trại. Lúc đó tôi mới thấy đời mình tràn đầy bất hạnh, tôi khoác ba lô lên vai và bắt đầu gào lên: ‘Cuộc đời cứt đái này… cuộc đời khốn nạn này!'” Bà ta gào rất to, cô y tá – ngay lập tức xuất hiện – bất ngờ đứng đằng sau bà ta và đẩy bà ta về phía an dưỡng đường. “Cuộc đời cứt đái!” bà ta gào thét, và tôi cũng gào theo; cả hai chúng tôi đều gào lên, bà ta chống trả quyết liệt, còn tôi thì đánh túi bụi vào người cô y tá béo phục phịch. Điều không may cho cô ta là lúc đó ông bạn của chúng tôi đi tới. Đầu của ông ta lắc lư theo nhịp tíc tắc, nhưng không nghe thấy tiếng bính boong, sau đó ông ta cùng với chúng tôi đánh tới tấp vào người cô y tá… Cuối cùng tôi tự trấn tĩnh lại và ở lại đó. Chính xác là tôi còn ở lại đó bốn tuần, đúng lúc an dưỡng đường có một phòng trống, thời tiết lại tuyệt đẹp. Đại để, đó là quãng thời gian đẹp nhất của đời tôi: được ăn những món ăn ngon và được nghỉ ngơi yên tĩnh, rốt cuộc tôi thấy cô y tá rất đáng mến, chúng tôi còn kết bạn với nhau. Trước đây cô ta đã từng đính hôn với một anh thợ đọc khí kế (15) . Nhưng thôi, tôi sẽ kể câu chuyện này vào một dịp khác. (1), (2) Các địa danh thuộc tỉnh Brandenburg (ngày nay là bang Brandenburg) (3) Haensel và Gretel là tên của hai nhân vật chính trong một câu chuyện cổ tích của anh em nhà Grimm. Haensel và Gretel là hai chị em ruột. Cả hai bị lạc ở trong rừng. (4), (5) ở trường học của Đức người ta chấm bài theo thang điểm 5, trong đó điểm 1 là cao nhất và điểm 5 là thấp nhất. (6) Là một giai đoạn lịch sử nghệ thuật xuất hiện vào đầu thế kỉ 20, thành phố Darmstadt là một trung tâm của nghệ thuật mới ở Đức. (7) Một địa danh ở Ba Lan. (8) ở đây tác giả đang nói đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (9) Chiến tranh thế giới lần thứ hai (10) Một tu viện ở Italia (11) SS là chữ viết tắt của Schutzstafel trong tiếng Đức, có nghĩa là “đội bảo vệ”, là tổ chức quân sự của Đảng Đức Quốc xã. (12) Một hình thức kết hôn trong thời gian chiến tranh, khi mà chú rể vắng mặt vì đang ở ngoài mặt trận. (13), (14) Hai địa danh ở Ba Lan. (15) Nguyên văn bằng tiếng Đức: Gasmann. Đây là một thuật ngữ cũ để gọi những người thợ chuyên đi đọc đồng hồ đo lượng khí tiêu thụ và sửa chữa, nếu hệ thống ống dẫn khí trong các gia đình có sự cố. BÁNH MỲ WOLFGANG BORCHERT (ĐỨC) Đột nhiên bà vợ thức giấc. Bây giờ là hai giờ rưỡi đêm. Bà ngẫm nghĩ, tại sao mình lại tỉnh giấc. À ra thế! Có ai đó đã đụng phải chiếc ghế đẩu ở trong bếp. Bà dỏng tai nghe ngóng. Trong bếp rất yên ắng. Và khi bà khua tay sang phần giường bên cạnh mình, bà thấy trống không. Bà không nghe thấy gì, ngay cả hơi thở của chồng bà. Bà đứng dậy và đi mò mẫm qua căn hộ tối tăm vào phòng bếp. Bà nhìn thấy một cái gì đó trăng trắng ở cạnh tủ lạnh. Bà bật điện lên. Bà và chồng mình mặc quần áo ngủ đứng đối diện nhau. Cái đĩa dùng để đựng bánh mỳ đang ở trên bàn ăn. Bà nghĩ, ông chồng đã cắt bánh mỳ. Con dao vẫn còn nằm ở bên cạnh chiếc đĩa. Trên khăn trải bàn có những mảnh vụn bánh mỳ. Khi bà đi ngủ vào buổi tối, bà luôn phủi sạch khăn trải bàn. Tối nào cũng vậy. Nhưng giờ đây những mảnh vụn bánh mỳ nằm trên khăn trải bàn và con dao cũng nằm ở trên đó. Bà cảm thấy cái lạnh giá của gạch lát nền đang truyền dần qua đôi chân trần lên người bà. Và bà không nhìn cái đĩa nữa. “Anh đã nghĩ, ở đây có cái gì đó”, ông chồng nói và nhìn quanh bếp. “Em cũng đã nghe thấy cái gì đó”, bà vợ trả lời, đồng thời bà thấy, trong đêm chồng bà trông đã thực sự già trong bộ quần áo ngủ. Ông ấy quá già so với tuổi sáu mươi ba. Thỉnh thoảng trông ông ấy trẻ hơn vào ban ngày. Đúng là vợ mình trông đã già, ông chồng nghĩ, bà ấy trông càng già trong bộ quần áo ngủ. Nhưng điều đó có thể là do mái tóc. Ở những người phụ nữ sự già nua luôn hiện rõ trên mái tóc vào ban đêm. “Em nên đi dép vào. Đi chân trần trên nền gạch lát lạnh giá em sẽ bị cảm lạnh đấy.” Bà ấy không nhìn ông, vì bà không thể chịu đựng nổi khi nghe ông nói dối. Ông ấy đã nói dối, sau khi họ đã cưới nhau được ba mươi chín năm. “Anh đã nghĩ, ở đây có cái gì đó”, ông ấy nói lại một lần nữa và lại bối rối nhìn từ góc bếp này sang góc bếp khác, “anh đã nghe thấy ở đây có tiếng động. Khi đó anh nghĩ, ở đây có cái gì đó.” “Em cũng đã nghe thấy tiếng động. Nhưng có lẽ ở đây đã hoàn toàn không có gì.” Bà cầm lấy cái đĩa ở trên bàn, đặt nó xuống bên dưới mép bàn và phủi những mảnh vụn bánh mỳ ở trên chiếc khăn trải bàn xuống cái đĩa. “Đúng đấy, có lẽ ở đây đã hoàn toàn không có gì”, ông ấy ngượng ngùng nhắc lại. Bà gỡ thế bí cho ông ấy: “Anh hãy lại đây! Có thể tiếng động ở bên ngoài. Anh đi ngủ đi. Kẻo bị cảm lạnh đấy.” Ông ấy nhìn ra ngoài cửa sổ. “Đúng vậy, có lẽ tiếng động ở bên ngoài, Anh nghĩ, nó phát ra từ chỗ này.” Bà đưa tay lên công tắc đèn. Bà nghĩ, bây giờ mình phải tắt điện đi, nếu không thì mình cứ phải nhìn cái đĩa, mình không được phép nhìn nó nữa. “Đi ngủ đi anh”, bà nói và tắt điện, “có lẽ tiếng động ở bên ngoài. Cái máng hứng nước mưa luôn va vào tường khi có gió thổi. Chắc chắn là cái máng hứng nước mưa rồi. Khi có gió thổi nó luôn va vào tường làm phát ra tiếng lạch cạch.” Cả hai vợ chồng đi mò mẫm qua hành lang tối tăm vào phòng ngủ. Đôi chân trần của họ giẫm lạch bạch trên nền nhà. “Đúng là gió rồi”, ông chồng nói, “gió đã thổi suốt đêm.” Khi bà vợ đã nằm ở trên giường, bà nói: “Đúng đấy, gió đã thổi suốt đêm. Có lẽ cái máng hứng nuớc mưa đã phát ra tiếng động. “Có lẽ là thế, anh đã nghĩ, tiếng động phát ra từ trong bếp.” Ông chồng nói điều đó, như thể ông ấy đã sắp chìm vào giấc ngủ. Nhưng bà nhận thấy, giọng nói của ông ấy không được tự nhiên khi ông ta nói dối. “Trời lạnh quá”, bà nói và khẽ ngáp, “em chùm chăn đây. Chúc anh ngủ ngon.” “Chúc em ngủ ngon”, ông ta đáp lại và nói thêm: “Đúng vậy, trời đang rất lạnh.” Sau đó sự im lặng bao trùm phòng ngủ của đôi vợ chồng. Một lúc lâu sau bà nghe thấy chồng mình nhai một cách khẽ khàng và thận trọng. Bà cố ý thở sâu và đều đặn. Nhưng ông ta cũng nhai rất đều đặn, nhờ đó bà dần dần ngủ thiếp đi. Tối hôm sau, ông chồng ngồi vào bàn ăn sau khi đi làm về. Bà đẩy cho ông ấy chiếc đĩa đựng bốn lát bánh mỳ. Thường thường ông chỉ ăn ba lát. “Hôm nay anh cố ăn bốn lát nhé!”, bà nói và đi ra khỏi chỗ bóng đèn hắt xuống bàn ăn. “Em không thích loại bánh mày này. Anh ăn thêm một lát nữa đi! Em không muốn ăn.” Bà nhìn thấy chồng mình cúi sâu xuống đĩa bánh mỳ. Ông ấy không ngẩng mặt lên. Trong khoảnh khắc này bà không cầm được nỗi xót xa. “Em không thể chỉ ăn có hai lát bánh mỳ”, ông ấy nói trong khi vẫn cúi gằm mặt xuống ăn. “Em chỉ ăn được thế thôi. Em cảm thấy đầy bụng khi ăn bánh mỳ vào buổi tối. Anh ăn nữa đi!” Một lúc sau bà ngồi xuống cạnh bàn ở bên dưới bóng đèn. BAN ĐÊM CHUỘT CỐNG VẪN NGỦ WOLFGANG BORCHERT (Đức) Chiếc cửa sổ rỗng tuếch trên bức tường lẻ loi toang hoác dưới trời chiều tím ngắt. Những đám mây bụi lơ lửng giữa những phần còn sót lại của những ống khói trước đây đã từng vươn lên thẳng đứng. Bãi đổ nát im phăng phắc. Juergen ngồi nhắm mắt lại. Ngay lập tức cậu ta chỉ còn thấy một màu đen. Cậu nhận thấy rằng có ai đó đã đến và giờ đây đang đứng lặng lẽ, lờ mờ ở trước mặt cậu. “Bây giờ thì mọi người tìm thấy mình rồi!”, cậu nghĩ. Nhưng khi cậu hé mắt nhìn thì cậu chỉ thấy đôi chân ở trong hai ống quần rách rưới. Đôi chân vòng kiềng, nên cậu có thể nhìn xuyên qua khe hở giữa chúng. Cậu đánh liều vén hai ống quần lên và cậu nhận ra đó là chân của một người đàn ông đã đứng tuổi. Ông ta cầm một con dao và xách một cái giỏ. Trên các đầu ngón tay của ông vẫn còn dính đất. “Cháu đang ngủ ở đây à? Đúng không?” người đàn ông hỏi và nhìn từ trên xuống đỉnh đầu Juergen. Cậu nheo mắt nhìn xuyên qua khe hở giữa hai chân của ông vào mặt trời và nói: “Không, cháu không ngủ. Cháu phải trông coi ở đây.” Người đàn ông gật gật đầu: “Ra thế, vì vậy cháu phải có chiếc gậy to phải không?” “Vâng”, Juergen mạnh dạn trả lời và nắm chắc chiếc gậy. “Cháu trông coi cái gì?” “Cháu không thể nói điều đó cho bác biết được đâu.” Hai tay cậu cầm chắc chiếc gậy. “Chắc là cháu đang trông coi tiền, đúng không?” – người đàn ông đặt chiếc giỏ xuống đất và lau lau con dao vào quần mình. “Không đúng. Cháu không trông tiền”, Juergen khinh khỉnh đáp lại. “Cháu đang trông cái khác.” “Thế thì cháu trông cái gì vậy?” “Cháu không thể nói cho bác biết điều đó được.” “Không nói thì thôi. Vậy thì, đương nhiên bác cũng không nói cho cháu biết, bác có gì ở trong giỏ.” Người đàn ông hẩy chân vào chiếc giỏ và gập con dao lại. “Cóc cần. Mình thừa biết trong giỏ có gì rồi”, Juergen tỏ vẻ khinh thường. Cậu nói: “Trong giỏ của bác có thức ăn dành cho thỏ chứ gì?” “Ồ! Đúng rồi”, người đàn ông ngạc nhiên nói, “cháu đúng là một cậu bé cừ khôi. Cháu mấy tuổi rồi?” “Cháu lên chín rồi”, Juergen đáp. “Vậy á! Chín tuổi rồi cơ đấy. Thế thì cháu cũng biết ba nhân ba bằng mấy chứ?” “Đương nhiên rồi”, Juergen trả lời, và để kéo dài thời gian, cậu còn nói: “Phép tính đó rất dễ.” Sau đó cậu nhìn qua khe hở giữa hai chân của người đàn ông. “Thế ba lần chín thì bằng bao nhiêu?” cậu hỏi lại người đàn ông, “hai bảy. Cháu tính được ngay.” “Đúng rồi”, người đàn ông nói, “và bác cũng có từng ấy con thỏ.” Juergen há hốc miệng: “Hai mươi bảy con cơ ạ?” “Cháu có thể đến nhà bác để xem chúng. Nhiều con còn rất non. Cháu có muốn không?” “Cháu … không đi được đâu. Cháu… còn phải trông coi chứ”, Juergen ngập ngừng nói. “Trông liên lục à?” người đàn ông hỏi, “đêm cháu cũng trông á?” “Đêm cháu cũng trông. Liên tục. Lúc nào cháu cũng trông.” Cậu đưa mắt nhìn đôi chân vòng kiềng của người đàn ông. “Từ thứ Bảy cháu đã trông rồi”, cậu nói thầm. “Nhưng cháu không hề về nhà sao?” Cháu còn phải ăn chứ.” Juergen nhấc lên một hòn đá. Dưới đó có một nửa chiếc bánh mỳ gối và một chiếc hộp bằng tôn. “Cháu hút thuốc à?” người đàn ông hỏi, “cháu có tẩu chứ?” Juergen nắm chắc chiếc gậy của mình và rụt rè nói: “Cháu … cuốn thuốc lá. Cháu không thích hút thuốc bằng tẩu.” “Tiếc thật”, người đàn ông nói và cúi xuống chiếc giỏ của mình, “cháu đã có thể yên tâm đi xem những con thỏ của bác, nhất là những con non. Có thể cháu đã lựa chọn cho mình một con. Nhưng cháu không thể rời khỏi đây.” “Đúng đấy”, Juergen buồn rầu nói, “cháu không rời khỏi đây được.” Người đàn ông xách chiếc giỏ và đứng thẳng người lên. “Thế thì thôi vậy. Nếu như cháu cần phải ở lại đây – thật là tiếc.” Và ông ta quay người bước đi. “Nếu bác không kể với người khác”, khi đó Juergen nói nhanh, “thì cháu có thể nói cho bác biết rằng cháu ở lại đây là vì những con chuột cống.” Người đàn ông bước lùi lại một bước và nói: “Vì những con chuột cống à?” “Vâng, chúng ăn xác chết mà. Chúng sống được là do chúng ăn xác người chết.” “Ai nói vậy?” “Thầy giáo của chúng cháu.” “Thế cháu trông coi lũ chuột cống à?” “Cháu không trông coi chúng!”, đoạn cậu ta nói rất nhỏ: “Chính em trai cháu đang nằm ở dưới chỗ kia.” Juergen chỉ chiếc gậy vào chỗ những bức tường bị đổ sụp. “Nhà của cháu đã bị trúng bom. Ngay lập tức ánh sáng ở tầng hầm tắt ngấm. Còn em trai cháu thì bị chôn vùi trong đống đổ nát. Trước lúc đó, chúng cháu còn gọi nhau. Nó bé hơn cháu nhiều. Nó mới lên bốn. Nó cần phải sống chứ? Nó bé hơn cháu nhiều mà!” Người đàn ông nhìn từ trên xuống đỉnh đầu Juergen. Nhưng sau đó, đột nhiên bác nói: “Có đúng là thầy giáo của bọn cháu không nói cho các cháu biết rằng chuột cống ngủ vào ban đêm không?” “Không”, Juergen nói thầm và bỗng dưng trông cậu rất mệt mỏi, “thầy giáo của chúng cháu đã không nói điều đó.” “Vậy à!” người đàn ông nói, “không thể thế được, thầy giáo mà không hề biết điều đó thì thật là tệ. Ban đêm chuột cống vẫn ngủ. Lúc đó cháu có thể yên tâm đi về nhà. Lũ chuột cống luôn luôn ngủ vào ban đêm. Hễ trời tối là chúng ngủ.” Juergen lấy gậy đào những cái hốc nhỏ ở đống đổ nát. “Đây là những chiếc giường nhỏ, xinh xắn”, cậu nghĩ, “tất cả những cái hốc này đều là những chiếc giường nhỏ.” Khi ấy người đàn ông nói (đồng thời đôi chân vòng kiềng của bác ấy luôn nhúc nhích ): “Thế này nhé! Bây giờ bác đi nhanh về nhà để cho thỏ ăn, và khi trời tối bác sẽ quay lại đây đón cháu. Có thể bác sẽ mang cho cháu một con. Cháu thích một con non hay một con như thế nào?” Juergen đào tiếp một cái hốc nhỏ nữa. “Những con thỏ non xinh xắn. Những con màu trắng, màu sám, màu sám trắng. Cháu chưa biết được”, cậu nói nhỏ và ngước nhìn người đàn ông, “nếu lũ chuột cống thực sự ngủ vào ban đêm thì…” Người đàn ông leo qua những chỗ còn sót lại của những bức tường ra đường. “Đương nhiên rồi”, bác nói khi đã ra đến đường, “thầy giáo của các cháu nên bỏ nghề, nếu thầy ấy không hề biết điều đó.” Sau đó Juergen đứng dậy và nói: “Bác mang cho cháu một con nhé! Một con màu trắng, được không ạ?” “Để bác thử tìm xem”, người đàn ông vừa nói vừa bước đi, “nhưng cháu phải đợi ở đây rất lâu đấy. Sau đó bác sẽ cùng đi với cháu về nhà, cháu hiểu chưa? Đương nhiên là bác cần phải nói cho bố cháu biết cách làm chuồng thỏ. Vì bố con cháu nhất định phải biết điều đó.” “Vâng”, Juergen nói, “cháu sẽ đợi. Cháu còn phải trông cho đến khi trời tối kia mà. Chắc chắn là cháu sẽ đợi.” Đoạn cậu nói với theo: “Ở nhà cháu có sẵn ván mỏng từ chiếc hòm gỗ bị vỡ rồi.” Nhưng người đàn ông đã không còn nghe thấy câu nói đó của Juergen. Bác ấy đi bằng đôi chân vòng kiềng về phía mặt trời đã đỏ ối và Juergen có thể nhìn thấy mặt trời chiếu sáng qua khe hở giữa đôi chân của bác. Còn cái giỏ thì lủng lẳng ở trên tay. Trong đó có thức ăn dành cho thỏ. Những ngọn lá xanh, chúng hơi bị xám lại vì bụi. CHIẾC ĐỒNG HỒ BẾP WOLFGANG BORCHERT (Đức) Từ xa họ đã nhìn thấy anh đang đi về phía mình. Anh có khuôn mặt rất già, nhưng qua dáng đi của anh, người ta nhận ra rằng anh mới hai mươi tuổi. Với khuôn mặt già nua của mình anh ngồi xuống ghế băng cùng họ. Sau đó anh cho họ xem thứ anh đang cầm trên tay. “Đó là chiếc đồng hồ bếp của gia đình cháu”, anh nói và nhìn tất cả những người đang cùng ngồi tắm nắng trên chiếc ghế băng, “cháu nói thật đấy, cháu vừa mới tìm thấy nó. Nó là thứ còn sót lại.” Anh giơ ra trước mặt một chiếc đồng hồ bếp hình tròn, màu trắng, có mặt to bằng cái đĩa và lấy ngón tay nhẹ nhàng phủi bụi trên những chữ số được sơn màu xanh. “Cháu biết”, anh phân trần, ” nó chẳng còn giá trị gì nữa. Và nó cũng không thật đẹp, nó chỉ giống như một cái đĩa có màu sơn trắng. Nhưng cháu thấy các chữ số màu xanh trông vẫn rất đẹp. Tất nhiên, các kim đồng hồ chỉ được làm bằng tôn. Và giờ đây chúng cũng không quay nữa, không bao giờ quay nữa. Chiếc đồng hồ đã bị hỏng máy, điều đó là chắc chắn. Nhưng trông nó vẫn như mọi khi. Ngay cả khi nó không chạy nữa.” Anh cẩn thận vẽ một vòng tròn theo mép mặt đồng hồ và khẽ nõi: “Thế là chỉ có nó còn sót lại.” Những người ngồi tắm nắng trên ghế băng không nhìn anh. Một người đàn ông nhìn xuống giầy của mình, còn chị phụ nữ nhìn vào chiếc xe nôi. Sau đó có ai đó nói: “Chắc là anh đã mất tất cả rồi chứ?” “Vâng, đúng thế”, anh vui vẻ nói, “như bác thấy đấy, nhưng cũng là mất tất cả! Chỉ có cái đồng hồ này còn sót lại.” Và anh lại giơ cái đồng hồ lên cao, như thể những người khác chưa nhìn thấy nó. “Nhưng đúng là nó không chạy nữa”, chị phụ nữ nói. “Đúng rồi, nó không chạy nữa. Nó đã bị hỏng, dĩ nhiên là em biết điều đó. Tuy nhiên, trông nó vẫn như mọi khi với hai màu sơn: trắng và xanh.” Và anh lại cho họ xem cái đồng hồ của mình. “Còn điều tốt đẹp nhất là gì”, anh xúc động nói tiếp, “thì quả thật cháu vẫn tuyệt nhiên chưa nói cho các bác và các anh chị biết. Điều tốt đẹp nhất là ở chỗ, nó dừng lại vào lúc hai rưỡi. Đúng hai rưỡi, các bác và các anh chị thử nghĩ mà xem.” “Thế thì chắc chắn là nhà của anh đã bị trúng bom vào lúc hai rưỡi”, người đàn ông bĩu môi nói, “điều đó thì tôi đã thường xuyên được nghe mọi người kể. Khi bom rơi trúng nhà, những chiếc đồng hồ đều bị dừng lại. Đó là do sức ép.” Anh ngắm nghía chiếc đồng hồ của mình và lắc đầu: “Không phải thế đâu, bác ạ, không phải thế, bác nhầm rồi. Chuyện này chẳng liên quan gì đến bom cả. Không nhất thiết lúc nào bác cũng phải nói về bom đạn. Không nhất thiết. Vào lúc hai rưỡi, ở nhà cháu đã xảy ra một chuyện hoàn toàn khác. Chuyện đó bác không biết được đâu. Vì việc nó đã dừng lại vào lúc hai rưỡi là một câu chuyện vui. Và nó không dừng lại vào lúc bốn giờ mười lăm hay bảy giờ. Vì cháu luôn về nhà vào lúc hai rưỡi, vào ban đêm. Gần như hôm nào cháu cũng về nhà vào lúc hai rưỡi. Đó quả thật là một câu chuyện vui.” Anh nhìn những người khác, nhưng họ không nhìn anh. Anh không bắt gặp ánh mắt của họ. Khi đó anh gật đầu nói với chiếc đồng hồ của mình: “Đương nhiên là lúc đó tao đang đói, đúng không? Và lần nào đói bụng tao cũng đi vào bếp. Gần như lần nào cũng vào lúc hai rưỡi. Và sau đó, như mày biết đấy, mẹ tao xuất hiện. Tao đã cố gắng mở cửa thật khẽ, nhưng lần nào bà cũng nghe thấy. Và nếu tao mà cố tìm thứ gì đó để ăn trong phòng bếp tối tăm thì đèn bất ngờ bật sáng. Sau đó bà đứng quanh quẩn ở đó trong chiếc áo len đan, cổ quàng khăn màu đỏ, đi chân đất trên nền bếp được lát gạch vuông. Mắt bà chỉ mở he hé vì ánh sáng quá chói đối với bà. Đơn giản là vì bà đã ngủ. Vào ban đêm mà. Sau đó bà nói: “Con lại ăn quá muộn rồi.” Không bao giờ bà nói nhiều hơn. Chỉ một câu: Con lại ăn quá muộn rồi. Sau đó bà dọn ra cho tao những món ăn nóng hổi và nhìn tao ăn, hai bàn chân luôn xoa vào nhau vì nền nhà rất lạnh. Không bao giờ bà đi giầy vào ban đêm. Và bà ngồi thật lâu bên cạnh tao, cho đến khi tao ăn no. Sau đó tao còn nghe thấy bà thu dọn bát đĩa khi tao đã tắt đèn đi ngủ. Đêm nào cũng thế. Và gần như lần nào cũng vào lúc hai rưỡi. Đến nỗi tao thấy việc bà nấu ăn cho mình vào lúc hai rưỡi đêm là hoàn toàn hiển nhiên. Đúng là bà đã luôn làm việc ấy vàn lần nào cũng chỉ nói mỗi câu đó. Và tao nghĩ, mọi thứ sẽ mãi mãi như thế, như thể điều đó đối với tao là rất bình thường. Tất cả mọi thứ đã luôn luôn như thế.” Anh buông tiếng thở dài não nuột trong khi mọi người im lặng. Sau đó anh khẽ nói: “Còn bây giờ thì sao?” và nhìn những người khác. Nhưng không ai nhìn anh. Anh lại khẽ nói với chiếc đồng hồ: “Bây giờ, bây giờ tao mới hiểu được rằng đó là thiên đường. Một thiên đường đích thực.” Mọi người vẫn im lặng. Sau đó chị phụ nữ hỏi: “Thế còn gia đình anh thì sao?” Anh mỉm cười gượng gạo: “À, chị muốn hỏi về bố mẹ em phải không? Họ cũng mất cả rồi. Em đã mất tất cả. Chị hãy hình dung xem. Mất tất cả.” Anh cười gượng và nhìn từng người một nhưng họ không nhìn anh. Khi ấy anh lại giơ cao chiếc đồng hồ, cười và nói: “Chỉ còn lại duy nhất cái đồng hồ này. Và điều tốt đẹp nhất là nó đã dừng lại đúng vào lúc hai rưỡi. Chính xác vào lúc hai rưỡi.” Sau đó anh không nói gì nữa. Nhưng anh có một khuôn mặt rất già. Còn người đàn ông ngồi cạnh anh thì nhìn giầy của mình. Nhưng ông ta không nghĩ về giầy mà đang miên man nghĩ về từ “thiên đường”… CỦI CHO NGÀY MAI WOLFGANG BORCHERT (ĐỨC) Anh đóng cửa tầng ở phía sau mình một cách khẽ khàng và không gây tiếng động. Anh đã muốn tự kết liễu cuộc đời, cuộc đời mà anh không hiểu và không được những người anh yêu quý hiểu. Và giờ đây anh không thể chịu đựng nổi sự ngăn cách này với họ. Nỗi khổ đó vẫn đang tồn tại, lớn lên, đến nỗi nó bao trùm lên tất cả, và không dễ gì tự vơi đi. Đó là những lần anh có thể khóc vào ban đêm mà những người anh yêu quý không nghe thấy anh khóc. Đó là khi anh nhận thấy mẹ mình, người anh yêu quý, già đi. Đó là khi anh có thể ngồi cùng với những người khác ở trong phòng, có thể cười với họ và đồng thời anh cảm thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết. Đó là khi những người khác không nhận thấy điều đó còn anh thì nhận thấy. Là khi họ không hề muốn nhận ra điều ấy. Đó là sự ngăn cách với những người anh yêu quý mà anh không thể chịu đựng nổi. Lúc này anh đang đứng ở cầu thang và muốn đi lên gác thượng để tự kết liễu cuộc đời. Cả đêm anh đã ngầm nghĩ, anh sẽ tự tử như thế nào, và anh đã đi đến quyết định là trước hết anh cần phải đi lên gác thượng, vì ở trên đó anh chỉ có một mình và đó là điều kiện tiên quyết để anh thực hiện tất cả những bước tiếp theo. Anh không có súng để tự bắn mình, còn uống thuốc độc thì anh thấy không chắc chắn là mình sẽ chết. Không có sự hổ thẹn nào lớn hơn, nếu sau đó anh được bác sĩ cứu sống và phải chịu đựng những ánh mắt đầy trách móc, thương hại của những người khác, những người vừa là niềm yêu thương vừa là nỗi sợ hãi đối với anh. Việc gieo mình xuống sông tự vẫn anh thấy quá lâm li, còn việc nhảy xuống từ cửa sổ để tự tử thì anh lại thấy quá thê thảm. Không, tốt nhất là anh đi lên gác thượng. Chỉ mình anh ở trên đó. Trên đó im lặng. Ở trên đó mọi người sẽ không để ý. Và trước hết, ở trên đó có các dầm ngang của kèo nhà và sọt đựng quần áo cùng với dây thừng. Khẽ đóng cửa tầng phía sau mình lại, không do dự anh bám vào tay vịn cầu thang và chậm rãi đi lên trên. Ánh sáng của bầu trời xám ngắt chiếu qua mái thủy tinh hình cầu ở trên cầu thang được chăng lưới mắt cáo khá dày như mạng nhện làm cho khoảng cầu thang trên cùng bên dưới mái che được chiếu sáng nhiều nhất. Anh nắm chặt tay vịn cầu thang sạch sẽ, mầu nâu sáng, khẽ đi lên trên và không gây ra tiếng động. Khi đó anh phát hiện ra ở trên tay vịn cầu thang có một đường vạch dài màu trắng, cũng có thể là hơi vàng vàng. Anh dừng lại và sờ tay ba, bốn lần lên đường vạch. Sau đó anh nhìn xuống phía dưới. Đường vạch màu trắng chạy dọc suốt tay vịn. Anh hơi cúi người xuống. Đúng vậy, anh có thể nhìn theo nó xuống tận những tầng tối hơn. Ở đấy nó cũng có màu vàng vàng, nhưng nó vẫn có màu sáng hơn màu gỗ của tay vịn. Anh di ngón tay một vài lần dọc theo đường vạch màu trắng, sau đó, đột nhiên anh nói: Mình đã hoàn toàn quên đường vạch này ở trên tay vịn cầu thang. Anh ngồi xuống cầu thang và nghĩ: Bây giờ mình đang định tự kết liễu cuộc đời và suýt nữa đã quên tiệt chuyện đó. Tuy nhiên bây giờ thì mình nhớ đã cầm cái dũa nhọn của Karlheinz, chạy xuống cầu thang rất nhanh, đồng thời dũi mạnh mũi dũa vào tay vịn bằng gỗ mềm. Ở những khúc ngoặt mình đã dũi rất mạnh để chạy chậm lại. Khi mình ở bên dưới thì toàn bộ tay vịn từ tầng thượng xuống đến tầng trệt đã bị dũi một rãnh sâu. Mình đã làm chuyện đó. Buổi tối tất cả bọn trẻ con đều bị tra hỏi. Cậu bé sống ở bên cạnh và cả hai cô bé ít tuổi hơn mình và Karlheinz cũng bị tra hỏi. Bà chủ nhà nói, phải mất ít nhất bốn mươi mác để sửa chữa. Nhưng các ông bố, bà mẹ cho rằng, rãnh xước đó chắc chắn không phải do đứa nào đó trong lũ trẻ con gây ra, không có đứa trẻ nào lại làm xấu tay vịn cầu thang trong ngôi nhà mình đang sống. Họ có biết đâu rằng mình đã làm chuyện đó bằng chiếc dũa nhọn. Khi không có gia đình nào muốn trả bốn mươi mác (*) cho việc sửa chữa tay vịn bà chủ nhà đã kê vào hóa đơn tiền thuê nhà lần sau của mỗi hộ thêm năm mác tiền sửa chữa cầu thang bị phá hoại nặng. Sau đó số tiền này đã được dùng để trải vải sơn toàn bộ cầu thang. Và bà Daus đã được bồi thường chiếc găng tay mà bà đã làm rách khi bám vào bề mặt lờm xờm của tay vịn cầu thang. Một người thợ mốc đến, bào nhẵn hai cạnh của rãnh sâu, sau đó trám chúng lại bằng ma tít từ gác thượng xuống đến tầng trệt. Mình chính là người gây ra chuyện này. Giờ đây mình muốn tự tử và hầu như đã quên điều đó. Anh ngồi xuống cầu thang, lấy ra một mảnh giấy và viết: Cháu là người đã làm xước tay vịn cầu thang. Sau đó anh viết lên bên trên dòng chữ đó: Gửi bác Kaufmann, chủ nhà. Anh lấy hết tiền ở trong túi quần ra, tất cả lả hai mươi hai mác, và khi đó anh ta gấp mảnh giấy lại. Anh nhét nó vào túi ngực. Chắc chắn mọi người sẽ tìm thấy nó ở trong đó, anh nghĩ, nhất định họ sẽ tìm thấy nó. Và anh đã hoàn toàn quên rằng không còn ai nhớ đến chuyện đó nữa. Anh đã quên rằng chuyện đó đã xảy ra cách đây mười một năm. Anh đứng dậy, bậc cầu thang khẽ kêu cọt kẹt. Bây giờ anh muốn đi lên gác thượng. Anh đã kết thúc mọi chuyện với tay vịn cầu thang và có thể đi lên trên, nơi chỉ có mình anh và là nơi yên tĩnh. Ở đó anh muốn nói to với mình một lần nữa rằng anh không còn chịu đựng nổi sự ngăn cách với những người mà anh yêu quý nữa, và sau đó anh muốn làm và sẽ làm việc đó. Ở bên dưới có tiếng cửa mở. Anh ta nghe thấy mẹ mình nói: Vậy thì con hãy nói với chị đừng quên bột giặt, tuyệt nhiên không được quên bột giặt. Con hãy nói với chị rằng con trai của mẹ đã bắt đầu lấy xe đi chở củi rồi, để ngày mai chúng ta có thể giặt giũ. Nhất định chị không được phép quên bột giặt, con hãy nói với chị điều đó. Con hãy nói với chị, đó là một sự đỡ đần đáng kể đối với bố. Hãy nói với chị rằng bố không còn phải lấy xe đi chở củi nữa và rằng con trai của mẹ đã thực sự trở về. Con trai của mẹ đã đi và lấy củi dành cho ngày mai. Nhất định chị không được quên bột giặt. Hôm nay con trai mẹ đã đi lấy củi một mình. Bố con nói, việc đó sẽ làm cho anh vui. Nhiều năm rồi anh đã không thể làm việc đó. Giờ đây anh có thể đi lấy củi cho gia đình mình. Cho ngày mai để giặt giũ. Hãy nói với chị rằng một mình anh đã mang xe đi chở củi và rằng chị đừng quên mang bột giặt về cho mẹ. Một mình anh đi lấy củi rồi. Anh nghe thấy giọng của đứa em gái trả lời. Sau đó cửa được đóng lại và cô gái chạy xuống cầu thang. Anh có thể nhìn theo bàn tay bé nhỏ của cô gái lướt dọc theo tay vịn cầu thang xuống đến bên dưới. Đoạn, anh chỉ còn nghe thấy tiếng bước chân của cô. Sau đó im lặng. Bỗng có tiếng ồn ào, sau đó lại im lặng. Anh lững thững đi xuống cầu thang, chậm chạp bước từ bậc này xuống bậc khác. Mình cần phải đi lấy củi, anh nói, đương nhiên rồi, đúng là mình đã quên tiệt việc đó. Nhất định mình cần phải đi lấy củi, cho ngày mai. Anh bước xuống cầu thang mỗi lúc một nhanh hơn, đồng thời liên tục vỗ bàn tay mình vào tay vịn cầu thang. Củi, anh nói, đúng là mình cần phải đi lấy củi. Cho gia đình mình. Cho ngày mai. Củi của gia đình mình. Và anh ta nhảy những bước dài xuống các bậc cầu thang cuối cùng. Ở tận trên cùng, ánh sáng của bầu trời xám ngắt chiếu qua mái thủy tinh dày. Nhưng ở dưới này cần phải có các ngọn đèn soi sáng. Ngày nào cũng thế. Tất cả mọi ngày. —————– (*) Đơn vị tiền tệ trước đây của Đức. HẾT LINK FULL Truyện ngắn đặc sắc thế giới – Dịch giả Phạm Đức Hùng – Kỳ 1 Truyện ngắn đặc sắc thế giới – Dịch giả Phạm Đức Hùng – Kỳ 2 Truyện ngắn đặc sắc thế giới – Dịch giả Phạm Đức Hùng – Kỳ cuối
vanhoc
Bảo tàng Mikhail Kutuzov tại Bolesławiec (tiếng Ba Lan: Muzeum Michaiła Kutuzowa w Bolesławcu) là viện bảo tàng hiện không còn tồn tại, có trụ sở tại Bolesławiec. Bảo tàng được đơn vị Hồng quân trên địa bàn thành phố đưa vào vận hành. Bảo thàng tọa lạc tại số 14, đường Kutuzowa 14. Nơi đây năm 1813, thống chế Nga Mikhail Kutuzov qua đời vì bệnh thương hàn. Phía Nga cho xây dựng bảo tàng sau khi họ quản lý thị trấn Bolesławiec vào tháng 2 năm 1945. Đại tá Alexander Ipatov thuộc Hồng quân là người chỉ huy xây dựng. Bộ sưu tập của bảo tàng gồm đồ nội thất, tranh, đồ họa, gốm sứ và thiết bị quân sự (súng cầm tay, quân phục). Ngoài các hiện vật liên quan đến Kutuzów, cơ sở này còn tổ chức một cuộc triển lãm vinh danh Paweł Zaitsev - một trung úy Liên Xô lấy thân mình che hố ở boong ke. Vào những năm 1970, phía Nga cho xây dựng thêm một phòng chiếu phim vào tòa nhà bảo tàng, trình chiếu truyện và phim của Liên Xô dành cho trẻ em ("Hãy đợi đấy! "). Bảo tàng đóng cửa vào năm 1991, một phần bộ sưu tập được vận chuyển về lãnh thổ Nga. Năm 2010, các tác phẩm được trưng bày như một phần của cuộc triển lãm tạm thời được tổ chức tại Bảo tàng Pháo binh, Binh chủng Công binh và Lực lượng Truyền thông ở Saint Petersburg. Một phần của bộ sưu tập bị thất lạc. Nhà chức trách Ba Lan không có khả năng tiếp quản các hiện vật đã thu thập được, vì trên thực tế, Bảo tàng Kutuzov được hưởng đặc quyền ngoài lãnh thổ (như các cơ quan ngoại giao). Tòa nhà sau này được chuyển đổi thành Bảo tàng Gốm sứ tại Bolesławiec. Tham khảo Bolesławiecki Bảo tàng Ba Lan
wiki
Hướng dẫn Trọn bộ giáo án Ngữ văn 10. Soạn bài: Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt Ngày soạn:01/03/2016 Lớp dạy: 10B2 Ngày dạy: 8/03/2016 Tiết 73: NHỮNG YÊU CẦU VỀ SỬ DỤNG TIẾNG VIỆT MỤC TIÊU BÀI HỌC – Nắm được những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt ở các phương diện: phát âm, chữ viết, dùng từ, ngữ pháp và phong cách ngôn ngữ. – Củng cố vững chắc kĩ năng viết đoạn văn, đồng thời thấy được mối quan hệ chặt chẽ giữa các kĩ năng đó với kĩ năng lập dàn ý. CHUẨN BỊ CỦA GV VÀ HS III. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC – GV tổ chức giờ dạy theo cách kết hợp các phương pháp: gợi tìm, kết hợp các hình thức trao đổi, thảo luận, trả lời các câu hỏi. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC Câu 1. Vì sao ngày nay chúng ta phải nêu cao ý thức chuẩn hóa tiêng Việt? *D. Vì tất cả những lí do trên. Câu 2. Đảm bảo những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt sẽ đem lại những hiệu quả nào? *D. Cả A, B, C đều đúng. Vào bài: Ở tiết 64 “Khái quát lịch sử tiếng Việt”, chúng ta đã thấy ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam giàu và đẹp như thế nào. Nhưng muốn ngôn ngữ của chúng ta luôn giàu và đẹp thì trước hết ta phải giữ gìn được sự trong sáng của tiếng Việt và muốn giữ gìn được sự trong sáng thì chúng ta phải tuân theo những yêu cầu chung khi sử dụng. Đó cũng chính là nội dung mà cô, trò chúng ta sẽ tìm hiểu ngày hôm nay qua bài “Những yêu cầu về sử dụng tiếng Việt” Củng cố, dặn dò * Củng cố – Nắm được nội dung bài học – Vận dụng vào việc nói và viết của bản thân trong thực tế. * Dặn dò – Học thuộc lý thuyết – Làm các bài tập còn lại trong SGK
vanhoc
Đảo Redang (tiếng Mã Lai: Pulau Redang) là một hòn đảo thuộc quận Kuala Nerus thuộc bang Terengganu, Malaysia. Đây là một trong những hòn đảo lớn nhất ngoài khơi bờ biển phía đông của Malaysia bán đảo. Nơi đây nổi tiếng với nước biển trong vắt và bãi biển cát trắng. Đây là một trong chín hòn đảo, tạo thành một công viên bảo tồn hải dương mang đến cơ hội lặn bằng ống thở (snorkeling) và lặn có bình khí cho khách du lịch. Quần đảo Quần đảo Redang bao gồm các đảo Pulau Redang, Pulau Lima, Pulau Paku Besar, Pulau Paku Kecil, Pulau Kerengga Kecil, Pulau Kerengga Besar, Pulau Ekor Tebu, Pulau Ling và Pulau Pinang. Pulau Redang là hòn đảo lớn nhất trong tất cả các hòn đảo trong Công viên hải dương, dài khoảng 7 km (4,3 mi) và rộng 6 km (3,7 mi). Đỉnh cao nhất của nó là Bukit Besar ở độ cao 359 mét (1.178 feet) so với mực nước biển. Ranh giới của công viên hải dương Pulau Redang được thiết lập bằng một tuyến nối tất cả các điểm cách bờ biển 2 hải lý (3,7 km) từ Pulau Redang, Pulau Lima, Pulau Ekor Tebu và Pulau Pinang. Các hòn đảo khác gần đó là Pulau Pereaverian Besar, Pulau Pereaverian Kecil, Pulau Lang Tengah, Pulau Kapas và Pulau Susu Dara cũng được công nhận và bảo vệ như một công viên hải dương. Ngày nay, chỉ những hòn đảo lớn hơn như Redang, Lang Tengah, Pereaverian và Kapas có cơ sở nghỉ dưỡng cho du khách. Việc quản lý các công viên hải dương chủ yếu liên quan đến việc bảo vệ các hệ sinh thái biển và đất liền nhạy cảm bằng cách kiểm soát tác động từ các hoạt động của con người. Chúng bao gồm quản lý ô nhiễm chất thải và bảo tồn các rạn san hô và môi trường sống trên cạn. Du lịch Trái ngược với quần đảo Pereaverian lân cận, Redang có hình ảnh cao cấp hơn, vì hầu như tất cả các chỗ ở trên đảo đều là các resort. Bãi biển lớn nhất là Pasir Panjang ở phía đông, có nửa tá khu nghỉ dưỡng. Bãi biển được bao phủ bởi cát trắng mềm mại. Các khu nghỉ mát bãi biển khác nằm ở Teluk Dalam ở phía bắc và Teluk Kalong ở phía nam. Do nước biển rất trong nên san hô và cá có thể được nhìn thấy chỉ cách bãi biển vài mét. Các hoạt động lặn biển có bình khí hay lặn biển bằng ống thở (snorkeling) được nhiều du khách yêu thích nhất, vì đó là cơ hội tốt để ngắm nhìn các rạn san hô cùng với những đàn cá, hải quỳ và cá mập con. Ngoài ra trên đảo còn có một khu vực bảo tồn rùa biển, và du khách cũng có cơ hội bơi hoặc lặn với chúng. Đảo Redang cung cấp các hệ sinh thái động thực vật phong phú. Do đó, những chuyến đi trekking trên đảo rất phù hợp cho những du khách thích khám phá thiên nhiên và đắm mình vào không gian yên tĩnh. Hai con đường trekking phổ biến là con đường ở làng Jalan Pasir Panjang và con đường từ Pasir Panjang đến Teluk Dalam. Bộ phim Summer Holiday được quay tại Laguna Redang Island Resort, và một bản sao của quán trà hiện đóng vai trò là cửa hàng lưu niệm của khu nghỉ mát. Khí hậu Redang có khí hậu nhiệt đới với nhiệt độ ổn định khoảng 30 °C (86 °F) và giông bão thường xuyên nhưng ngắn. Giống như phần còn lại của bờ biển phía đông của Malaysia, Redang bị ảnh hưởng bởi gió mùa đông bắc từ Biển Đông, vì vậy hầu hết các khu nghỉ mát đều đóng cửa và lịch trình vận chuyển phà bị hạn chế nghiêm trọng giữa tháng 10 và tháng 3. Lượng mưa hàng tháng thay đổi trong suốt cả năm, với tháng 11 đến tháng 2 là những tháng ẩm nhất, trong khi tháng 4 đến tháng 8 là khô nhất. Đảo trải qua trung bình khoảng 2.600 mm (100 in) mưa mỗi năm. Giao thông Không có đường hàng không nào đến đảo Redang. Kuala Terengganu là thành phố duy nhất để có phương tiện ra đảo bằng hai bến tàu Merang hoặc Shahbandar trên những chiếc thuyền được điều hành bởi các khu nghỉ mát. Hình ảnh Xem thêm Đảo Tioman Langkawi Kuala Terengganu Terengganu Tham khảo Đảo Malaysia
wiki
Chợ gạo Bà Đắc là một khu chợ ở ấp An Thiện, xã An Cư, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, đây là chợ gạo lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long. Chợ giao dịch hơn 2 triệu tấn gạo mỗi năm. Vị trí Chợ Bà Đắc nằm dọc theo Quốc lộ 1, điểm đầu là cầu Bà Đắc, điểm cuối là cầu An Cư, thuộc địa bàn xã An Cư, huyện Cái Bè. Chợ nằm phía sau sông An Cư, chạy dài 1.500m. Vị trí chợ thuận lợi kết hợp mua bán, vận chuyển đường sông lẫn đường thủy. Lịch sử Chợ hình thành vào khoảng năm 1985, do một số chủ nhà máy xay xát lúa ở thị trấn Cái Bè đến mở các nhà máy tại đây. Đến những năm 1990, số lượng nhà máy ngày càng nhiều. Về sau, do ảnh hưởng của tro trấu, bị bặm nhiều nhà máy xay xát bị dời đi, nên còn lại chủ yếu là nhà máy lau bóng gạo, nhà kho và là nơi thu mua. Khoảng từ năm 1994, nhà máy lau bóng gạo đầu tiên được xây dựng bởi doanh nhân Nguyễn Văn Thành. Mua bán Có đa dạng chủng loại gạo ở đây: gạo hạt dài, hạt tròn, gạo lức, tấm cám,...các giống là gạo Việt, gạo Campuchia, gạo Thái, gạo Đài Loan, gạo Nhật. Hàng hóa đa dạng để chọn lựa, dồi dào nên tập trung nhiều thương buôn. Mỗi ngày có từ 200 đến 300 xe tải các tỉnh về đây lấy hàng, cao điểm có thể gấp đôi. Các kênh, rạch, sông gần chợ là nơi tập trung đông đúc ghe, thuyền neo đậu để vận chuyển. Chợ hoạt động gần như xuyên suốt ngày đêm, thương lái khắp các tỉnh đến đây mua hàng. Chợ gạo Bà Đắc là chợ gạo đầu mối lớn nhất vùng, chi phối tình hình mua bán lúa gạo toàn khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Theo Phòng Kinh tế - Hạ tầng huyện Cái Bè thì chợ hiện có 120 doanh nghiệp kinh doanh thu mua, xay xát và lau bóng gạo. Cụm công nghiệp An Thạnh 1 đang được đầu tư để tăng hiệu quả hoạt động khu chợ và di dời do chợ nằm sát Quốc lộ 1 thường xuyên gây ùn tắc giao thông. Bên cạnh tình trạng ùn tắc do xe tải xoay trở vào lấy hàng thì vấn nạn phổ biến là chở quá tải trọng thường xuyên diễn ra. Chú thích Liên kết ngoài Chợ tại Tiền Giang Khởi đầu năm 1985 ở Việt Nam
wiki
ĐÔI NÉT VỀ QUAN THƯỢNG THƯ-THI SĨ DƯƠNG KHUÊ Cụ Dương Khuê (1839-1902), hiệu Vân Trì, xuất thân trong một gia đình nhà Nho; là con cả Đô ngự sử Dương Quang, và là anh ruột của danh sĩ Dương Lâm; quê ở làng Vân Đình huyện Sơn Minh phủ Ứng Hòa tỉnh Hà Đông (nay thuộc thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa , Hà Nội). Nhờ chuyên cần, cụ Dương Khuê là người văn hay, chữ tốt. Năm 1864, cụ Cụ Dương Khuê thi Hội đỗ Cử nhân, cùng khoa này Nguyễn Khuyến đỗ Hội nguyên. Năm Mậu Thìn (1868), thời vua Tự Đức, ông dự thi Đình đỗ Đệ Tam giáp Tiến sĩ. Sau khi đỗ Tiến sĩ, Dương Khuê được bổ làm tri phủ Bình Giang ( Hải Dương ), rồi được thăng làm Bố chánh. Đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ XIX, trước việc tay lái buôn người Pháp Jean Dupuis uy hiếp các quan chức người Việt ở Bắc Kỳ để tự do sử dụng sông Hồng, ông ở trong nhóm những sĩ phu cương quyết chống lại. Ông đã dâng sớ lên can vua Tự Đức: không nên nhượng bộ Pháp nữa, nên ông bị giáng xuống làm Chánh sứ sơn phòng lo việc khai hoang. Năm 1873, người Pháp đem quân đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Sau khi thương thuyết, họ chịu trả lại bốn thành cho triều đình Huế, thì Dương Khuê được điều động làm Án sát Hải Phòng. Năm 1878, nhân lễ “ngũ tuần khánh thọ ” của mình, vua Tự Đức xuống chỉ cho ông làm Đốc học Nam Định. Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Bố chính, Tham tá Nha kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình. Năm 1897, Toàn quyền Paul Doummer xóa bỏ điều 7 của Hòa ước Giáp Thân 1884, đặt cơ sở cho guống máy cai trị của Chính phủ bảo hộ, thì Dương Khuê xin cáo quan, lúc 58 tuổi, được tặng hàm Thượng thư bộ Binh. Trong sự nghiệp sáng tác thơ của ông, nổi tiếng là bài Hồng hồng, Tuyết tuyết, đây là bài thơ phổ cập cho những người bắt đầu hát ca trù. Hai anh em Dương Khuê, Dương Lâm, cùng với các tài tử văn nhân như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm,…, góp phần làm nghệ thuật ca trù trở nên nổi tiếng. Dương Khuê mất ngày 6 tháng Ba năm Nhâm Dần (1902). Nghe tin, bạn thân ông là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ nổi tiếng nhan đề Khóc bạn để viếng ông (trong đó mở đầu bằng câu: “Bác Dương thôi đã thôi rồi”). Tác phẩm của ông để lại có Vân Trì thi thảo (Bản thảo thơ Vân Trì); và một số bài ca trù, bài văn, câu đối, trướng… Trước đây, ông vẫn được xem là một đại biểu của khuynh hướng “thoát ly hưởng lạc” trong văn học Việt Nam ở nửa cuối thế kỷ XIX. Song gần đây, bước đầu giới nghiên cứu đã có cách lý giải mới đối với phần tâm sự của ông gửi gắm trong thơ văn. Là một viên chức buổi giao thời, đường làm quan không mấy suôn sẻ…, vì thế các sáng tác của ông, chính là một phương tiện giúp ông giải tỏa những bất mãn đối với hiện thực… Tuy có làm thơ chữ Hán, nhưng ông nổi tiếng nhờ những bài ca trù. Với sự tinh luyện về ngôn ngữ và sự hài hòa trong thanh điệu của ông, khiến những bài ấy luôn cuốn hút người nghe bởi lời ca-thơ của cụ Dương Khuê đã đạt đến trình độ “thanh thoát, uyển chuyển và hóm hỉnh” như nhận xét của giới chuyên môn. Dòng họ Dương của cụ Dương Khuê, vốn có nguồn gốc từ Hà Tĩnh, ra định cư ở vùng Vân Đình (Hà Tây) từ thời chúa Trịnh Cương (1709-1725). Từ thời Dương Khuê, dòng họ này trở nên nổi tiếng nhờ tên tuổi ông và người em trai ông là Dương Lâm. Cụ Dương Lâm (1851-1920), từng giữ chức Phó Tổng tài Quốc sử quán nhà Nguyễn, rồi được thăng hàm Thái tử Thiếu Bảo (năm 1902), làm chủ bút báo Đồng Văn… sau xin cáo quan về hưu ở quê để dạy học và viết sách (năm 1903)..Cụ Dương Lâm là người tao nhã, yêu nước, có tài văn chương, và là một nhà giáo giỏi. Các cháu nội của hai ông cũng là những văn nghệ sĩ, nhà khoa học nổi tiếng như: nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, Giáo sư-Tiến sĩ Dương Thiệu Tống, nhà thơ Dương Tuyết Lan, Nhà khoa học Dương Nguyệt Ánh (đang làm việc cho Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ), nhạc sĩ Dương Thụ, nhạc sĩ kiêm thi sĩ Dương Hồng Kỳ. Đại tá Dương Xuân Bình (Sưu tầm)
vanhoc
ChuChu TV là tên vắn tắt của 5 kênh YouTube giải trí giáo dục Ấn Độ: ChuChu TV Nursery Rhymes & Kids Songs, ChuChu TV Surprise Eggs Toys, ChuChu School, ChuChu TV Funzone 3D Nursery Rhymes và ChuChuTV Storytime - Bedtime Stories For Kids. Cả năm kênh trên đều hướng tới phục vụ khán giả là trẻ em. Mỗi video thường xuất hiện 5 bạn nhỏ ChuChu, ChaCha, Chiku và Chika(bao gồm cả Cussly). Đằng sau những video công phu là những kiến thức bổ ích cho người xem. Tính đến tháng 10 năm 2018, cả năm kênh của ChuChuTV đạt được gần 26 triệu người đăng ký, trong đó kênh ChuChu TV Nursery Rhymes & Kids Songs đạt 20,2 triệu người đăng ký, hơn 4 triệu người so với Little Baby Bum, và nằm trong Danh sách những kênh được đăng ký nhiều nhất YouTube. Hiện nay, cả Little Baby Bum và ChuChu TV là hai kênh được khán giả trên toàn thế giới yêu thích nhất. Giải thưởng Đạt nút bạc, nút vàng, nút kim cương YouTube (kênh ChuChu TV Nursery Rhymes & Kids Songs) Đạt nút bạc, nút vàng Youtube (kênh ChuChu TV Surprise Eggs Toys) Đạt nút bạc YouTube (2 kênh ChuChuTV ChuChuTV Storytime - Bedtime Stories For Kids và ChuChu TV Funzone 3D Nursery Rhymes) Có video Johny Johny Yes Papa của kênh ChuChu TV Nursery Rhymes & Kids Songs hiện có 1,4 tỷ lượt xem, nằm trong Danh sách những video được xem nhiều nhất YouTube Ứng dụng Nhà sản xuất ChuChu TV đã phát hành ứng dụng giải trí đầu tiên mang tên “My ChuChu Coloring Book” vào ngày 2 tháng 1 năm 2015, sau đó là “My ChuChu Puzzle” ra mắt vào ngày 10 tháng 2 năm 2015. ChuChu TV đã khởi chạy phiên bản Pro của ứng dụng vào ngày 13 tháng 11 năm 2017. Nền tảng hạ tầng Chuchu TV có trên YouTube KIDS, ROKU và có sẵn trên Amazon Prime Video ở Ấn Độ. Tham khảo Người nhận Nút Play Kim cương YouTube Kênh YouTube ra mắt năm 2013
wiki
Edwin Mattison McMillan (18.9.1907 – 7.9.1991) là nhà vật lý người Mỹ và là người đầu tiên đã tạo ra nguyên tố sau urani (transuranium element). Ông đã đoạt Giải Nobel Hóa học chung với Glenn Seaborg năm 1951. Cuộc đời và Sự nghiệp McMillan sinh tại Redondo Beach, California, nhưng năm sau gia đình ông di chuyển về Pasadena, California. Ông bắt đầu vào học ở Học viện Công nghệ California từ năm 1924. Ông làm một dự án nghiên cứu với Linus Pauling. Ông đậu bằng cử nhân khoa học năm 1928 và bằng thạc sĩ khoa học năm 1929. Năm 1932 ông đậu bằng tiến sĩ ở Đại học Princeton với bản luận án mang tên "Deflection of a Beam of HCI Molecules in a Non-Homogeneous Electric Field" dưới sự giám sát của Edward Condon. Ông gia nhập nhóm của Ernest Lawrence ở Đại học California tại Berkeley ngay sau khi nhận bằng tiến sĩ, và vào làm việc trong Phòng thí nghiệm bức xạ Berkeley khi phòng này được thành lập năm 1934. Những kỹ năng thí nghiệm của ông đã dẫn tới việc khám phá ra oxy-15 chung với M. Stanley Livingston và beryli-10 chung với Samuel Ruben. Năm 1940 ông và Philip Abelson tạo ra neptuni, khi sử dụng cyclotron (máy gia tốc cộng hưởng từ) ở đây làm một thí nghiệm phân hạt nhân của urani-239 cùng với neutron. Chất đồng vị của neptuni mới được tìm thấy đã được tạo ra bằng việc hấp thu neutron vào urani-239 và sự phân rã beta tiếp theo. McMillan hiểu rõ nguyên tắc cơ bản của phản ứng và bắt đầu bắn phá urani-239 bằng deuteri để tạo ra nguyên tố 94. Sau đó ông chuyển tới nghiên cứu radar ở Học viện Công nghệ Massachusetts, và Glenn T. Seaborg đã hoàn thành công việc nói trên. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ông tham gia nghiên cứu về radar, sonar tại Học viện Công nghệ Massachusetts ở Cambridge, Massachusetts, gần San Diego, và khoảng tháng 11 năm 1942 ông được tuyển mộ tham gia dự án Manhattan ở Phòng thí nghiệm Quốc gia Los Alamos. Sau chiến tranh, ông vào làm việc trong Phòng thí nghiệm bức xạ Berkeley, và trở thành trưởng phòng, sau khi Ernest Lawrence qua đời năm 1958. Năm 1945 ông đã đưa ra ý tưởng cải thiện cyclotron, dẫn đến sự phát triển của synchrotron. Synchrotron được sử dụng để tạo ra các nguyên tố mới ở Phòng thí nghiệm bức xạ Berkeley, mở rộng Bảng tuần hoàn vượt xa 92 nguyên tố đã được biết trước năm 1940. Năm 1946, ông trở thành giáo sư ở Đại học California tại Berkeley. Năm 1954 ông được bổ nhiệm làm phó giám đốc Phòng thí nghiệm bức xạ Lawrence, thăng chức giám đốc năm 1958. Ông tiếp tục làm việc ở đây cho tới khi nghỉ hưu năm 1973. Ông được bầu vào Viện Hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ năm 1947, làm chủ tịch viện này từ năm 1968 tới 1971. Giải thưởng Năm 1951 ông được trao Giải Nobel Hóa học chung với Glenn T. Seaborg, cho công trình "khám phá ra các nguyên tố sau urani". Huy chương này hiện được lưu giữ ở Viện bảo tàng Lịch sử quốc gia Hoa Kỳ, một phân ban của Viện Smithsonian. Năm 1963 ông được trao Giải Nguyên tử vì Hòa bình. Tham khảo Tác phẩm McMillan, E. M."Focusing in Linear Accelerators", University of California Radiation Laboratory, Lawrence Berkeley National Laboratory, United States Department of Energy (through predecessor agency the Atomic Energy Commission), (ngày 24 tháng 8 năm 1950). McMillan, E. M."A Thick Target for Synchrotrons and Betatrons", University of California Radiation Laboratory, Lawrence Berkeley National Laboratory, United States Department of Energy (through predecessor agency the Atomic Energy Commission), (ngày 19 tháng 9 năm 1950). McMillan, E. M."The Transuranium Elements: Early History (Nobel Lecture)", University of California Radiation Laboratory, Lawrence Berkeley National Laboratory, United States Department of Energy (through predecessor agency the Atomic Energy Commission), (ngày 12 tháng 12 năm 1951). McMillan, E. M."Notes on Quadrupole Focusing", University of California Radiation Laboratory, Lawrence Berkeley National Laboratory, United States Department of Energy (through predecessor agency the Atomic Energy Commission), (ngày 9 tháng 2 năm 1956). McMillan, E. M."Some Thoughts on Stability in Nonlinear Periodic Focusing Systems", University of California Radiation Laboratory, Lawrence Berkeley National Laboratory, United States Department of Energy (through predecessor agency the Atomic Energy Commission), (ngày 5 tháng 9 năm 1967). McMillan, E. M."Some Thoughts on Stability in Nonlinear Periodic Focusing Systems [Addendum]", University of California Radiation Laboratory, Lawrence Berkeley National Laboratory, United States Department of Energy (through predecessor agency the Atomic Energy Commission), (ngày 29 tháng 3 năm 1968). Liên kết ngoài Biography and Bibliographic Resources, from the Office of Scientific and Technical Information, United States Department of Energy Annotated Bibliography for Edwin McMillan from the Alsos Digital Library for Nuclear Issues McMillan's Nobel Foundation biography McMillan's Nobel Lecture The Transuranium Elements: Early History Sinh năm 1907 Mất năm 1991 Nhà hóa học Hoa Kỳ Người Hoa Kỳ đoạt giải Nobel Người đoạt giải Nobel Hóa học Cựu sinh viên Đại học Princeton Giáo sư Đại học California tại Berkeley Người Mỹ gốc Scotland
wiki
Nguyễn Huy Ánh (1934-1972), nguyên là một tướng lĩnh Không Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông là một trong số ít sĩ quan Không quân được đào tạo trực tiếp từ trường Võ bị Không quân của Pháp. Trong thời gian tại ngũ, ông không phải biệt phái sang một lĩnh vực quân sự nào khác, mà chỉ phục vụ cho chuyên môn của mình. Năm 1972, ông mang cấp bậc Chuẩn tướng Tư lệnh một Sư đoàn Không quân của Quân lực Cộng hòa thì bị tử nạn khi đang thi hành công vụ. Ông được truy thăng cấp bậc Thiếu tướng Tiếu sử & Binh nghiệp Ông sinh vào tháng 7 năm 1934, trong một gia đình điền chủ khá giả tại Bến Tre, miền Tây Nam phần Việt Nam. Thiếu thời ông học Tiểu học ở quê nhà. Khi học lên trên, do gia đình có điều kiện nên ông được đi học ở trường Trung học Phan Thanh Giản Cần Thơ. Năm 1952, ông tốt nghiệp Trung học chương trình Pháp tại với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Quân đội Quốc gia Việt Nam Đầu năm 1953, từ dân chính ông dự thi trúng tuyển, nhập ngũ vào Quân chủng Không quân của Quân đội Quốc gia, mang số quân: 54/600.329. Được đi du học khóa huấn luyện căn bản Hoa tiêu tại trường Không quân Marrakech ở Maroc (thuộc địa của Pháp). Sau đó, chuyển sang trường Võ bị Không quân Salon de Provence và trực tiếp thụ huấn tại căn cứ Không quân Avord, miền nam Paris, Pháp. Quân đội Việt Nam Cộng hòa Năm 1955, ông tốt nghiệp Thủ khoa với cấp bậc Thiếu úy. Sau đó, về nước phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông được cử làm huấn luyện viên phi cơ quan sát tại Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang. Qua năm 1956, ông là sĩ quan đầu tiên được cử đi du học lớp Huấn luyện Hoa tiêu Trực thăng tại căn cứ Không quân Air Force Base Randolph tại San Antonio, Tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Cùng thời điểm này, ông được thụ huấn thêm các loại trực thăng H.13 và H.19. Trở về nước, tiếp tục làm huấn luyện viên, ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm. Đầu năm 1959, ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Chỉ huy trưởng Phi đoàn 1 Trực thăng thay thế Đại úy Nguyễn Đức Hớn. Đến năm 1962, ông được lệnh bàn giao chức vụ Chỉ huy trưởng Phi đoàn trực thăng lại cho Thiếu tá Nguyễn Hữu Hậu. Ngay sau đó, ông được chỉ định vào chức vụ Chỉ huy trưởng Phi đoàn 215. Cuối năm 1963, sau cuộc đảo chính Tổng thống Ngô Đình Diệm, ông được thăng cấp Thiếu tá chuyển sang Chỉ huy Phi đoàn 211. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1965, ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Không đoàn 74 chiến thuật tại căn cứ Bình Thủy, Cần Thơ. Tháng 12 cuối năm, ông thuyên chuyển ra miền Trung giữ chức vụ chức Tư lệnh Không đoàn 62 chiến thuật đóng tại Phi trường Nha Trang. Đầu năm 1970, ông nhận lệnh bàn giao Không đoàn 62 lại cho Trung tá Vũ Văn Ước. Đầu tháng 3 cùng năm, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh đầu tiên Sư đoàn 4 Không quân tân lập tại Bình Thủy, Cần Thơ. Ngày lễ Quốc khánh Đệ nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1971, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Tử nạn Chiều ngày 27 tháng 4 năm 1972, vào lúc 17 giờ 10 bị tử nạn phi cơ trực thăng tại Bình Thủy trong lúc ông đích thân lái chiếc UH.1 của đơn vị thuộc quyền để câu đưa một chiếc quan sát cơ O.1 lâm nạn vì lý do kỹ thuật tại khoảng 5 cây số về hướng tây nam căn cứ Bình Thủy. Trên đường về, khi còn cách phi trường khoảng 3 cây số, lúc quẹo vào phi đạo, chiếc quan sát cơ lắc mạnh do ảnh hưởng của gió làm cho giây cáp câu bị đứt, sợi dây khi đứt đàn hồi búng ngược lên cuốn vào cánh quạt của đuôi trực thăng làm gẫy trục cánh quạt, gây cho ông và phi hành đoàn đều bị tử nạn. Khi tử nạn, ông hưởng dương 38 tuổi. Ông được truy thăng hàm Thiếu tướng và truy tặng Đệ Tứ đẳng Bảo quốc Huân chương, kèm theo Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu. Tang lễ được tổ chức theo lễ nghi Quân cách dành cho tướng lĩnh. An táng tại Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa. Ngay sau đó, Đại tá Nguyễn Hữu Tần, đang là Tham mưu phó tại Bộ Tư lệnh Không quân được cử thay thế chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 4 Không Quân. Huy chương -Bảo quốc Huân chương đệ nhị đẳng-Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu (truy tặng).-33 huy chương Quân sự, Dân sự và Ngoại quốc Gia đình Phu nhân: Bà Nguyễn Ngọc Ánh Suzanne (sinh năm 1938, sau 1975 sang Pháp định cư và từ trần năm 2010) Chú thích Tham khảo Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). ''Lược sử Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sinh năm 1934 Mất năm 1972 Thiếu tướng Quân lực Việt Nam Cộng hòa Người Bến Tre
wiki
Ea Bar là một xã thuộc huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam. Địa lý Xã Ea Bar nằm phía đông nam huyện Buôn Đôn, nằm trên trục đường tỉnh lộ 17E (tỉnh lộ 5 cũ), cách thành phố Buôn Ma Thuột 10 km, cách trung tâm huyện 14 km, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Cư M'gar Phía tây giáp xã Ea Nuôl và xã Cuôr Knia Phía nam giáp thành phố Buôn Ma Thuột Phía bắc giáp xã Cuôr Knia và huyện Cư M'gar. Xã Ea Bar có diện tích 24,32 km², dân số năm 2018 là 17.474 người, mật độ dân số đạt 719 người/km². Có 10 dân tộc anh em cùng sinh sống ở đây, như: Kinh, Tày, Nùng, Êđê, Ja rai, Mường, Thái, Hoa, Dao và Chăm. Người đồng bào dân tộc thiểu số chiếm khoảng 36% dân số toàn xã Ea Bar. Có 04 tôn giáo đang hoạt động đó là Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành và Cao Đài. Hành chính Xã Ea Bar được chia thành 15 thôn, buôn: 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 15, 16, 16A, 17A, 17B, 18, 18A, 18B và 4 buôn: Knia 1, Knia 2, Knia 3, Knia 4. Lịch sử Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 100/1994/NĐ-CP về việc thành lập xã Ea Bar thuộc thị xã Buôn Mê Thuột trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của xã Cuôr Knia và xã Cư Êbur. Ngày 21 tháng 1 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 08/CP về việc chuyển xã Ea Bar thuộc thành phố Buôn Ma Thuột về huyện Ea Súp quản lý. Ngày 7 tháng 10 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 61-CP về việc chuyển xã Ea Bar thuộc huyện Ea Súp về huyện Buôn Đôn mới thành lập quản lý. Ngày 15 tháng 8 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 49/2001/NĐ-CP về việc sáp nhập 930 ha diện tích tự nhiên và 4.006 nhân khẩu của xã Ea Bar vào xã Cuôr Knia quản lý. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Ea Bar có 2.600 ha diện tích tự nhiên và 14.407 nhân khẩu. Ngày 13 tháng 8 năm 2021, HĐND tỉnh Đắk Lắk ban hành Nghị quyết số 35/NQ-HĐND về việc: Sáp nhập một phần diện tích thôn 12 vào thôn 10. Sáp nhập phần còn lại của thôn 12 vào thôn 11. Sáp nhập thôn 17 và thôn 16A thành thôn 16. Chú thích Tham khảo
wiki
USS Cobbler (SS-344) là một được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá cobbler Nam Úc thuộc họ Cá mù làn. Hoàn tất quá trễ để có thể tham gia Thế Chiến II, nó lần lượt được nâng cấp trong khuôn khổ các Dự án GUPPY II và GUPPY III để tiếp tục phục vụ trong giai đoạn Chiến tranh Lạnh cho đến năm 1973. Nó được chuyển giao cho Thổ Nhĩ Kỳ, và tiếp tục hoạt động như là chiếc TCG Çanakkale (S 341) cho đến năm 1998. Số phận sau cùng của con tàu hiện không rõ. Thiết kế và chế tạo Thiết kế của lớp Balao được cải tiến dựa trên dẫn trước, là một kiểu tàu ngầm hạm đội có tốc độ trên mặt nước cao, tầm hoạt động xa và vũ khí mạnh để tháp tùng hạm đội chiến trận. Khác biệt chính so với lớp Gato là ở cấu trúc lườn chịu áp lực bên trong dày hơn, và sử dụng thép có độ đàn hồi cao (HTS: High-Tensile Steel), cho phép lặn sâu hơn đến . Con tàu dài và có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Chúng trang bị động cơ diesel dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng cho bốn động cơ điện, đạt được công suất khi nổi và khi lặn, cho phép đạt tốc độ tối đa và tương ứng. Tầm xa hoạt động là khi đi trên mặt nước ở tốc độ và có thể hoạt động kéo dài đến 75 ngày. Tương tự như lớp Gato dẫn trước, lớp Balao được trang bị mười ống phóng ngư lôi , gồm sáu ống trước mũi và bốn ống phía phía đuôi tàu, chúng mang theo tối đa 24 quả ngư lôi. Vũ khí trên boong tàu gồm một hải pháo 4 inch/50 caliber, một khẩu pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đơn và một khẩu đội Oerlikon 20 mm nòng đôi, kèm theo hai súng máy .50 caliber. Trên tháp chỉ huy, ngoài hai kính tiềm vọng, nó còn trang bị ăn-ten radar SD phòng không và SJ dò tìm mặt biển. Tiện nghi cho thủy thủ đoàn bao gồm điều hòa không khí, thực phẩm trữ lạnh, máy lọc nước, máy giặt và giường ngủ cho hầu hết mọi người, giúp họ chịu đựng cái nóng nhiệt đới tại Thái Bình Dương cùng những chuyến tuần tra kéo dài đến hai tháng rưỡi. Cobbler được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat Company ở Groton, Connecticut vào ngày 3 tháng 4, 1944. Nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 4, 1945, được đỡ đầu bởi bà James B. Rutter, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 8 tháng 8, 1945 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân J. B. Grady. Lịch sử hoạt động Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài NavSource Online: Submarine Photo Archive - SS-344 Cobbler History of Turkish Submarines (1948-1972) Lớp tàu ngầm Balao Tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ Tàu ngầm trong Thế chiến II Tàu ngầm trong Chiến tranh Lạnh Tàu được Hải quân Hoa Kỳ chuyển cho Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ Tàu ngầm của Hải quân Thổ Nhĩ Kỳ Tàu thủy năm 1945
wiki
Thuyết minh về một món ăn mẹ làm Gợi ý Nhắc đến người mẹ thân yêu là em nghĩ đến những bữa ăn gia đình ấm cúng với bao món ăn ngon do chính tay mẹ làm. Có một món được gọi là "món tủ" của người, nguyên liệu rất dễ tìm, đơn giản nhứng dưới đôi tay tài hoa của mẹ, chúng được chế biến thành món ăn thật hấp dẫn: món mì xào giòn. Để làm món mì xào giòn, ta cần chuẩn bị mười hai vắt mì tươi, một cái cật heo, một bộ lòng gà, 100gram nấm rơm búp, l00gram bông cải, 50gram đậu hoà lan, một chiếc đùi gà (hoặc ức gà), 150g tôm bạc thẻ, hai trái cà chua, hai trái ớt, 150gram xương heo nấu lấy một chén nước lèo, 50gram hành ta, một củ tỏi, một củ hành tây, hai muỗng cà phê dầu mè, một muỗng súp bột năng, nửa muỗng cà phê thuốc muối, l00gram bột mì hoặc bột năng để rắc mì, mỡ nước hoặc dầu ăn, muối, tiêu, đường, bột ngọt, xì dầu ngò, dấm. Để chuẩn bị làm món ăn này, cần đem mì trụng sơ nước sôi rồi để ráo, sau đó gỡ mì cho rời ra. Cật heo bổ đôi, lạng bỏ lõm trong của cật rửa sạch, ngâm cật trong nước có pha chút dấm và muối độ 15 phút, vớt ra, rửa sạch, xắt ra từng miếng độ dày l,5cm. Lòng gà và gan xắt mỏng, mề xắt hoa (khía ngang và khía dọc có bảng khoảng một li). Nấm rơm gọt rửa sạch, trụng sơ nước sôi có cho chút muối cho nấm được giòn. Bông cải cắt miếng vừa ăn, trụng sơ nước sôi. Đậu hoà lan tước xơ hai bên mép, trụng sơ nước sôi có cho chút muối và thuốc muối cho đậu được xanh. Với đùi gà ta lóc nạc, xắt mỏng; tôm bạc thẻ ta rửa sạch, bóc vỏ, rút bỏ chỉ đen, để ráo. Cà chua tỉa hoa một quả, còn lại xắt dọc theo trái độ 8 miếng (xắt theo múi xà). Hành ta và tỏi băm nhỏ. Còn hành tây tỉa lá, hoặc xắt dọc theo củ có bảng độ một cm. Xem thêm: Văn nghị luận: Bàn luận về sức khỏe Sau giai đoạn sơ chế, ta bắt đầu chiên mì. Đầu tiên, rây bột mì (hoặc bột năng) vào các sợi mì đã luộc chín, cho mì này vào chảo mỡ đã cho một ít tỏi đập dập, chiên từng cọng cho mì được vàng và giòn. Tiếp đến, ta xào thịt. Bắc chảo mỡ nóng, phi hành tỏi cho thơm, cho thịt gà vào xào. Với cật heo, lòng gà ta cũng xào lên cho đều, nêm tiệu, xì dầu, đường, bột ngọt cho vừa ăn. Khi thịt săn, cho nấm rơm, bông cải, đậu hoà lan, sau cùng cho cà chua và hành tây, nêm lại cho vừa ăn, nhắc xuống, cho dầu hào và dầu mè (xào cho rau cải vừa chín tới mới ngon). Khi các phần của món ăn đã nấu xong, ta bắc ra trang trí món ăn. Đầu tiên, cho mì ra đĩa, phía trên cho hỗn hợp rau và thịt. Khi gần ăn thì hâm sốt lại cho nóng chế lên mì, ở giữa để cà chua và ớt tỉa hoa, rắc tiêu và ngò cho thơm, dùng nóng với xì dầu, ớt xắt khoanh mỏng. Món mì xào giòn có thể nấu dùng trong những bữa ăn thường ngày hoặc được nằm trong thực đơn của những quán ăn bình dân. Với riêng em, món ăn này gắn với hình ảnh người mẹ đảm đang và vô cùng khéo léo, tinh tế. Vanmau.edu.vn
vanhoc
Đề bài: Cảm nhận của em về bài thơ Con cò của Chế Lan Viên Bài làm Chế Lan Viên là một nhà thơ tài năng của nền văn học Việt Nam. Ông có một phong cách nghệ thuật rõ nét, độc đáo đó là những suy tưởng, triết lý đậm chất trí tuệ và tính hiện đại. Đặc biệt, nhà thơ còn có nhiều sáng tạo trong nghệ thuật xây dựng hình ảnh thơ: hình ảnh thơ đa dạng, phong phú, kết hợp giữa thực và ảo. “Con cò” là một bài thơ như thế. Con cò – hình tượng thơ xuyên suốt bài thơ và cũng là tên tác phẩm được khai thác từ trong ca dao truyền thống. Hình ảnh này xuất hiện rất phổ biến trong ca dao và dùng với nhiều ý nghĩa. Đó là hình ảnh người nông dân chân lấm tay bùn, vất vả cực nhọc; là người phụ nữ cần cù, lam lũ nhưng tất cả đểu giàu đức hi sinh. Trong bài thơ này, nhà thơ vận dụng hình tượng ấy để làm biểu trưng cho tấm lòng người mẹ và những lời hát ru. Bài thơ có bố cục ba phần ba đoạn với những nội dung được gắn với nhau bằng một lôgic khá mạch lạc: Hình ảnh con cò qua những lời ru bắt đầu đến với tuổi thơ ấu; Hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của tuổi thơ, trở nên gần gũi và sẽ theo cùng con người trên mọi chặng của cuộc đời; từ hình ảnh con cò, suy ngẫm và triết lý về ý nghĩa của lời ru và lòng mẹ đối với cuộc đời mỗi người. Xuyên suốt bài thơ, hình tượng con cò được bổ sung biến đồi trong mối quan hệ với cuộc đời con người, từ thơ bé đến trưởng thành và suốt cả đời người. Mở đầu bài thơ, hình ảnh con cò được gợi ra liên tiếp từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru. Ở đây tác giả chỉ lấy vài chữ trong mỗi câu ca dao nhằm gợi nhớ những câu ca dao ấy. Những câu ca dao được gợi lại đã thể hiện ít nhiều sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh con cò trong ca dao. Câu "con cò Cổng Phủ con cò Đồng Đăng" gợi tả không gian và khung cảnh quen thuộc của cuộc sống ngày xưa từ làng quê đến phố xá. Hình ảnh con cò gợi vẻ nhịp nhàng, thong thả, bình yên của cuộc sống vốn ít biến động thời xưa. Câu ca dao “con cò mà đi ăn đêm” hình ảnh con cò lại tượng trưng cho những con người cụ thể là người mẹ, người phụ nữ nhọc nhằn vất vả, lặn lội kiếm sống… Qua lời ru của mẹ, hình ảnh con cò đến với tâm hồn ấu thơ một cách vô thức. Đây chính là sự khởi đầu con đường đi vào thế giới tâm hồn của con người qua lời ru, của ca dao, dân ca. Con trẻ chưa hiểu nội dung, ý nghĩa của bài ca dao nhưng chúng được vỗ về trong âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru. Chúng được đón nhận bằng trực giác tình yêu và sự che chở của người mẹ. Và khép lại đoạn thơ là hình ảnh thanh bình của cuộc sống. Sau những năm tháng nằm nôi, cánh cò trở thành người bạn đồng hành của tuổi thơ: “Cò trắng đến làm quen Cò đứng ở quanh nơi Rồi cò vào trong tổ Con ngủ yên thì cò cũng ngủ Cánh của cò, hai đứa đáp chung đôi” Đến tuổi tới trường: “Con theo cò đi học Cánh trắng cò bay theo gót đôi chân”. Và khi con trưởng thành: "Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ Trước hiên nhà Và trong hơi mát câu văn…”. Con cò từ trong lời ru đã đi vào tiềm thức của tuổi thơ trở nên gần gũi, thân thiết và theo con người đi suốt cuộc đời. Từ trong ca dao, cánh cò đã được tiếp tục sự sống của nó trong tâm thức con người. Hình ảnh ấy được xây dựng bằng sự liên tưởng như được bay ra từ trong ca dao để sống trong lòng con người, theo cùng và nâng đỡ con người trong từng chặng đường. Hình ảnh con cò gợi ý nghĩa biểu tượng về lòng mẹ, về sự dìu dắt, nâng đỡ dịu dàng và bền bỉ của người mẹ. Đến phần thứ ba của bài thơ, hình ảnh cánh cò đã được đồng nhất với hình ảnh người mẹ. Tấm lòng của mẹ như cánh cò lúc nào cũng ở gần bên con trong suốt cuộc đời: “Dù ở gần con Dù ờ xa con Lên rừng xuống bể Cò sẽ tìm con Cò mãi yêu con" Từ đây, nhà thơ khẳng định một quy luật của tình cảm có ý nghĩa bền vững, rộng lớn và sâu sắc: tình mẫu tử. "Con dù lớn vẫn là con của mẹ Đi suốt đời lòng mẹ vẫn theo con" Câu thơ đi từ cảm xúc đến liên tưởng để khái quát thành những triết lý. Dù đi đâu, bên mẹ hay đến phương trời khác, dù còn nhỏ hay dã lớn khôn thì con vẫn được mẹ hết lòng thương yêu, che chở. “Một con cò thôi Con cò mẹ hát Cũng là cuộc đời Vỗ cánh qua nôi” Lời ru cũng là khúc hát yêu thương. Sự hoá thân của người mẹ vào cánh cò mang nhiều ý nghĩa sâu xa, kết tụ những hi sinh, gian khổ, nhọc nhằn để những lời yêu thương càng trở nên sâu sắc, đằm thắm. Câu thơ cuối là một hình ảnh rất đẹp. Cánh cò vỗ qua nôi như dáng mẹ đang nghiêng xuống chở che, đang nói với con những lời tha thiết của lòng mẹ. Bài thơ sử dụng thể thơ tự do nhưng cũng có câu mang dáng dấp của thể thơ 8 chữ. Thể thơ tự do giúp tác giả khả năng thể hiện cảm xúc một cách linh hoạt, dễ dàng biến đổi. Các đoạn thơ được bắt đầu bằng câu thơ ngắn, có cấu trúc giống nhau, nhiều chỗ lặp lại hoàn toàn gợi âm điệu lời ru. Đặc biệt, giọng thơ gợi được âm hưởng của lời ru nhưng không phải là một lời ru thực sự. Đó còn là giọng suy ngẫm triết lý. Nó làm cho bài thơ không cuốn người ta vào hẳn điệu ru êm ái đều đặn mà hướng vào sự suy ngẫm, phát hiện. Không chỉ vậy, trong bài thơ này, Chế Lan Viên vẫn chứng tỏ được sức sáng tạo trong việc tạo ra những hình ảnh nghệ thuật giàu sức gợi. Đó là việc vận dụng sáng tạo hình ảnh con cò trong ca dao. Hình ảnh con cò là nơi xuất phát, là điểm tựa cho những liên tưởng tưởng tượng hình ảnh của tác giả. Chế Lan Viên đã chứng minh rằng hình ảnh biểu tượng dù gần gũi, quen thuộc đến đâu vẫn có khả năng hàm chứa những ý nghĩa mới, có giá trị biểu cảm. “Con cò” của Chế Lan Viên là một bài thơ độc đáo. Viết về một đề tài không mới: tình mẫu tử; chọn những thi liệu đã thành truyền thống: hình ảnh con cò và âm điệu lời ru. Song, bằng sức sáng tạo và tài năng nghệ thuật, Chế Lan Viên đã để lại cho văn học một tứ thơ lạ và đầy suy tưởng sâu sắc. Đọc “Con cò”, ta như thấy trong mình ăm ắp những yêu thương mà cả cuộc đời của mẹ đã dành trọn cho mình.
vanhoc
Cung điện Paszkówka (Ba Lan: Pałac w Paszkówce) - một cung điện gia đình thế kỷ XIX thời kỳ Phục hưng Gothic Wężyków nằm ở làng Paszkówka, nằm ở Malopolskie, ở phía nam-tây của Kraków. Hiện tại, cung điện có một khách sạn sang trọng. Kiến trúc Cung điện Paszkówka được thiết kế bởi kiến trúc sư Kraków nổi tiếng, thế kỷ 19, Feliks Księżarski, inter alia, nhà thiết kế của Collegium Novum, tòa nhà chính của Đại học Jagiellonia. Tòa nhà cũ là chỉ có một tầng, với một thành lũy-cầu thang gác cuối cùng, mà ở bên ngoài tạo thành một tháp. Kiến trúc của cung điện được thiết kế theo phong cách kiến trúc Neo-Gothic, với các yếu tố Neo-Gothic của người Anh. Theo các nhà phê bình kiến trúc, cung điện không thể giống theo tất cả các hình thức kiến trúc Neo-Gothic và như vậy được gắn mác "giả". Các thuộc tính kiến trúc khác biệt chính của tòa nhà là của một tòa tháp Mauretania, phần nhà xây thô và đỉnh tháp. Bên dưới các cửa sổ trên tầng thứ nhất được nhìn thấy là các họa tiết thần thoại. Cung điện thế kỷ XIX nằm trong một kiểu vườn cảnh quan đặc trưng của Anh. Ở đó, trồng những cây chanh, sồi và cây sừng già. Một phần của khu phức hợp cung điện là khách sạn "Spichlerz", được xây dựng trên nền móng xác thực của kho thóc trước đây. Tham khảo Tọa độ không có sẵn trên Wikidata Cung điện Ba Lan Lâu đài Ba Lan
wiki
Macropharyngodon vivienae là một loài cá biển thuộc chi Macropharyngodon trong họ Cá bàng chài. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1978. Từ nguyên Từ định danh của loài được đặt theo tên của nhà sinh vật biển Mireille L. Rarmelin-Vivien, người đã thu thập mẫu vật của loài. Phạm vi phân bố và môi trường sống M. vivienae có phạm vi phân bố nhỏ hẹp ở vùng biển Tây Nam Ấn Độ Dương. Loài này được ghi nhận ngoài khơi Madagascar, cũng như dọc theo bờ biển phía nam Mozambique đến Nam Phi. M. vivienae sống xung quanh các rạn san hô trên nền đáy cát và đá vụn ở độ sâu khoảng từ 10 đến 30 m. Mô tả M. vivienae có chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận là 11 cm. Cá cái có màu đỏ nhạt với các đốm màu đỏ sẫm hơn trên vảy. Đầu được phủ chi chít bởi các chấm màu vàng. Phía sau nắp mang, ở phần thân trên có một đốm đen được viền màu xanh lam. Một đốm đen nhỏ hơn (không có viền) thường xuất hiện ở phần sau của vây lưng. Vây đuôi trong suốt. Cá đực có kiểu màu tương tự cá cái nhưng đốm đen ở sau nắp mang lớn hơn và có nhiều vệt đốm màu xanh lam óng nằm bên trong đốm đen này. Đầu có các dải vàng viền xanh lam. Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 11; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 11; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5. Sinh thái Thức ăn của M. vivienae là các loài thủy sinh không xương sống nhỏ ở tầng đáy. Loài này có thể sống đơn độc hoặc hợp thành đàn nhỏ. Tham khảo V Cá Ấn Độ Dương Cá Mozambique Cá Nam Phi Cá Madagascar Động vật được mô tả năm 1978
wiki
Phân tích bài thơ chiều tối Hướng dẫn Ban biên tập hy vọng những bài văn đạt điểm cao dưới đây sẽ là nguồn thông tin tham khảo quý giá để các bạn có thể làm tốt đề bài của mình. Chúc các bạn đạt điểm cao khi lam bài phân tích bài thơ chiều tối của chủ tịch Hồ Chí Minh. Phân tích bài thơ chiều tối bài mẫu 1: Ông Phạm Văn Đồng trong bài viết Hồ Chủ tịch – hình ảnh của dân tộc có nói đại ý: Hồ Chủ tịch là người rất giàu tình cảm, và vì giàu tình cảm mà Người mới đi làm cách mạng. Trong thế giới tình cảm bao la của Người dành cho nhân dân, cho các cháu nhỏ, cho bầu bạn gần xa, hẳn có một chỗ dành cho tình cảm gia đình. Bài Chiều tối có lẽ hé mở cho ta nhìn thấy một thoáng ước mơ thầm kín về một mái nhà ấm, một chỗ dừng chân trên con đường dài muôn dặm. Chiều tối là bài thơ thứ 31 trong tập Nhật kí trong tù, ghi lại cảm xúc của nhà thơ trên đường bị giải đi qua hết nhà lao này đến nhà lao khác. Trên con đường khổ ải ấy, một chiều kia, Người chợt nhận thấy cánh chim chiều: Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Câu thơ không giản đơn chỉ ghi lại cảnh vật mà còn bộc lộ mối tình cảm của nhà thơ. Làm sao biết rõ được là chim đang mỏi, và làm sao nói chắc được mục đích của chim và về rừng tìm chốn ngủ, như thể ở trong lồng chim mà ra? Câu thơ chỉ là tín hiệu cho thấy là trời đã chiều, mọi vật hoạt động ban ngày đã mỏi mệt, đã đến lúc tìm chốn nghỉ ngơi, câu thơ tương phản với hình ảnh chùm mây cô đơn ở dưới: Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không Câu thơ dịch tuy đẹp nhưng ý thơ có phần nhẹ hơn so với nguyên tác chữ Hán. Nó bỏ mất chữ “cô” trong “cô vân”, nghĩa là chòm mây cô đơn, trơ trọi, rất có ý nghĩa. Hai từ “trôi nhẹ” cũng không lột tả được ý của mấy chữ “mạn mạn độ”. Bởi vì “độ” là hoạt động nhằm đi từ bờ này sang bờ kia, ví như “độ thuyền” đi thuyền sang sông, “độ nhật” ở cho qua ngày. “Độ thiên không” là chuyển dịch từ chân trời này sang chân trời kia, con đường của mây mới xa vời vô hạn biết chừng nào! Còn “mạn mạn” là dáng vẻ trì hoãn, chậm chạp. Chòm mây cô đơn đi từ chân trời này sang chân trời kia; mà lại còn chậm chạp, trì hoãn nữa, thì biết bao giờ mới tới nơi? Và hiển nhiên khi trời tối nó vẫn còn lửng lơ bay giữa bầu trời! Chòm mây cô đơn trôi chậm rãi giữa tầng không là hình ảnh ẩn dụ về người tù đang bị giải trên đường xa vạn dặm, chưa biết đâu là điểm dừng! Trong hình ảnh ấy hẳn còn gửi gắm tình cảm thương mình cô đơn, sốt ruột và khao khát có một mái nhà. Chỉ hai câu thơ mà vừa tả cảnh vật, vừa tả người, tả tình người. Đó là cái hàm súc, dư ba của thơ cổ điển. Nếu hai dòng đầu đã nói tới chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ và chòm mây cô đơn chưa biết dừng nơi nào, thì hai dòng sau của bài thơ hiện diện một chốn ngủ của con người. Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết, lò than đã rực hồng. Trong bản dịch, người dịch đã đưa vào chữ “tối” lộ liễu, trong khi thi pháp thơ cổ chỉ muốn người dọc tự cảm thấy chiều tối phủ xuống mà không cần một sự thông báo trực tiếp nào. Điều đó làm lộ tứ thơ, nhưng đó là cái khó của người dịch. Điều đáng chú ý là một cảnh lao động gia đình, rất đỗi bình thường, dân dã: cô em xóm núi xay ngô hạt, ngô hạt xay xong, bếp đã hồng. Cô em, bếp lửa tượng trưng cho cảnh gia đình. Ngô hạt xay xong, bếp đỏ hồng, lại tượng trưng cho công việc và nghĩ ngơi. Một không khí ấm cúng đối với người lữ thứ. Điều đáng chú ý thứ hai là trong nguyên tác chữ “hồng” là ấm, nóng chứ không phải là màu đỏ, càng chứng tỏ điều nhà thơ nghĩ đến là sức ấm nóng, chứ không phải ánh sáng hồng. Bếp lạnh, tro tàn là tượng trưng cho sự cô quạnh, lẻ loi. Điều đáng chú ý thứ ba là nhà thơ đứng ở núi như thế, y như thể đứng gần gũi bên cạnh. Lại nữa nhà thơ phải đứng rất lâu mới thấy được cảnh thời gian trôi trong câu: Cô em xóm núi xay ngô hạt, Ngô hạt xay xong bếp đã hồng? Đây chỉ là bài thơ trên đường. Vậy đó chỉ là cảnh tưởng tượng trong tâm tưởng, trước xóm núi bên đường, xuất hiện như là biểu trưng của mái ấm gia đình, nơi đoàn tụ của những người thân thuộc. Cái kết này tuy không sáng bừng lên màu hồng lạc quan cách mạng như ai đó hiểu, cũng vẫn ấm áp tình người, làm cho nỗi lòng người đi vơi bớt nỗi cô đơn, tịch mịch. Cùng với hình ảnh ấy một ước mơ thầm kín về mái ấm gia đình thấp thoáng đâu đó. Nếu ta chú ý tới bài thơ trước bài này là bài Đi đường: “Đi đường mới biết gian lao, Núi cao rồi lại núi cao chập chùng” – một con đường vô tận; và bài sau đó là bài Đêm ngủ ở Long Tuyền: “Đôi ngựa ngày đi chẳng nghỉ chân, Món “gà năm vị”: tối thường ăn; Thừa cơ rét, rệp xông vào đánh, Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần”; thì ta sẽ thấy sự xuất hiện khung cảnh gia đình kia là rất dễ hiểu. Nó chứng tỏ trái tim của nhà cách mạng vẫn đập theo những nhịp của con người bình thường, gần gũi với mọi người. Phân tích bài thơ chiều tối bài mẫu 2: Chiều tối" là bài thơ ra đời trong khoảng thời gian đầu khi bác ở trong tù. Cũng trong thời gian đầu ấy, đã có nhiều bài thơ Bác ghi lại ảnh "trên đường"chuyển lao ("Năm mươi ba cây số một ngày_Áo mũ đầm mưa sách hết ngày")_Mới đến nhà lao Thiên Bảo) và bài này cũng nằm trong mạch các bài thơ "Đi đường"ấy. Bài thơ thể hiện một phong cách nghệ thuật nhất quán là sự thống nhất trong đa dạng của tập "Nhật kí trong tù".Đó chính là sự vận động của hình tượng thơ, trong thơ Bác bao giờ cũng từ bóng tồi hướng ra ánh sáng, từ lạnh lẽo đến ấm áp, từ nỗi buồn đến niềm vui. Điều này cũng được thể hiện rõ trong bài thơ "Chiều tối ". Trong bức tranh thiên nhiên nơi núi rừng xa lạ có gì như thoáng buồn ẩn chứa những liên tưởng mơ hồ: Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không (Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ Chòm mây lơ lửng giữa tầng không ) Câu thơ mang màu sắc của cổ thi bởi bút pháp miêu tả chấm phá và những thi liệu quen thuộc cửa thơ cổ xưa. Không nói đến thời gian chính xác nhưng hình ảnh "cánh chim"đủ sức diễn tả không gian còn mang ý nghĩa thời gian. Hai câu đầu diễn tả cảnh vật trong một buổi chiều tối. Hình ảnh cánh chim và đám mây vừa giàu chất minh hoạ vừa nhớ đến tứ thơ quen thuộc của thi ca cổ điển. Sự mệt mỏi của cánh chim sự cô đơn của đám mây chiều là cảnh vật được nhìn qua tâm trạng của người tù tha phương. Trong lúc mệt mỏi ấy người tù vẫn dành cho thiên nhiên một tình yêu lớn, người đã vẽ lên bức tranh đẹp và đậm chất cổ điển. Đó là biểu tượng của một buổi chiều tà, một chiều thu êm ả nhưng cảnh vật thoáng vẻ buồn, mệt mỏi và đơn chiếc. Cảnh ấy có sự hài hoà với lòng người. Rõ ràng đó chính là sự đồng điệu giữa thiên nhiên và tâm trạng con người được thể hiện khá đậm nét. Song hình tượng thơ không dừng lại ở đó mà có sự vận động rất độc đáo. Từ một bức tranh thiên nhên, lời thơ đã chuyển sang một bức tranh sinh hoạt bình dị. Thời gian từ chiều muộn đã chuyển sang chiều tối. Cảm xúc của con người không còn thoáng buồn nữa mà đã thấy vui. Không gian cũng bừng sáng lên màu đỏ "rực hồng" của lò than: Cô em xóm núi xay ngô tối Xay hết lò than đã rực hồng. Hình ảnh cô gái xay ngô tối trở thành hình ảnh trung tâm của bài thơ, toát lên vẻ trẻ trung, khoẻ mạnh sống động. Vẻ đẹp của bức tranh thể hiện ở hình ảnh người lao động. Tâm hồn Hồ Chí Minh luôn hướng về tương lai, về nơi có ánh sáng ấm áp của sự sống.Câu thơ mang đậm sắc thái hiện đại. Tác giả sử dụng thành công cấu trúc lặp liên hoàn:"Ma bao túc","bao túc ma" hành động xay ngô lặp đi lặp lại diễn tả vòng tuần hoàn của cối xay ngô. Ở đó người ta nhận ra nhịp điệu trôi chảy của thời gian nhưng kì diệu chính là ở chỗ nhịp điệu của thời gian hoà vào nhịp điệu trong cuộc sống. Buổi chiều êm ả đã kết thúc để bước vào đêm tối, song đêm tối không lẽo âm u mà bừng sáng bằng ngọn lửa hồng. Từ hai câu đầu đến hai câu cuối của bài thơ "Chiều tối" là sự vận động của tứ thơ từ nỗi buồn sang niềm lạc quan, từ bóng tối ra ánh sáng. Hai câu trên cảnh buồn và lòng cũng không vui. Cảnh ấy, tình ấy thể hiện ở hính ảnh cánh chim mỏi mệt về rừng và chòm mây cô đơn chầm chậm trôi qua lưng trời. Hai câu thơ lại là một niềm vui thể hiện ở hình ảnh ánh lửa hồng bỗng rực sáng lên.Ánh lửa hồng là niền vui của con người làm tan đi cái cô đơn, mệt mỏi tàn lụi của buổi chiều nơi núi rừng hiu quạch. Dó cũng chính là nét cổ điển nhưng vẫn khá hiện đại của bài thơ. Sự vận động của hình tượng thơ từ thiên nhiên quạch vắng đến con ngýời lao động, đến sự sống đến ánh sáng và tương lai được thể hiện hết sức tự nhiên, giàu cảm xúc. Sự vận động này trong tư tưởng Hồ Chí Minh nằm xuyên suốt trong các bài thơ của tập "Nhật kí trong tù". Bài thơ kết lại bằng chữ "hồng "chính là nhãn tự của bài thơ thu được cả linh hồn sức sống của toàn bài. Cả bức tranh bừng sáng bởi chữ"hồng"đó. Nó thể hiện niềm tin tưởng ý chí, nghị lực kiên cường của người tù cộng sản Hồ Chí Minh. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh của ngọn lửa hồng mang lại cho người đọc cảm giác ấm áp và niềm vui. Ngọn lửa của sự sống vẫn còn lung linh tươi sáng và sưởi ấm mãi muôn đời. Bài thơ vừa mang phong vị cổ điển vừa có phẩm chất hiện đại, dào dạt cảm xúc của thi nhân trước thiên nhiên và những con người lao động bình dị mà cao đẹp. Cảnh chiều tà vùng sơn cước trong cái nhìn của người tù trên đường lưu đày sự chuyển đổi của thời gian, cảnh vật ….đã làm cho bừc tranh "chiều tối"không kết thúc với bóng đêm u tối, với cái buốt lạnh của núi rừng mà ấm sáng bởi ngọn lửa hồng -ngọn lửa của một trái tim, mọt tấm lòng yêu sự sống, yêu đời, yêu đát nước và lòng thương người vô hạn. Phân tích bài thơ chiều tối bài mẫu 3: 1: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, luận đề Hồ Chí Minh là nhà cách mạng, lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Bên cạnh sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Người cũng để lại một sự nghiệp văn học đa dạng, phong phú. Nhật ký trong tù là tập thơ viết bằng chữ Hán của Hồ Chí Minh trong thời kỳ Người bị giam giữ ở nhà lao của bọn Tưởng Giới Thạch từ mùa thu 1942 đến mùa thu 1943. Tập thơ chẳng những cung cấp cho ta những hiểu biết về chế độ lao tù khắc nghiệt của chính quyền Tưởng Giới Thạch, mà quan trọng hơn còn giúp ta hiểu rõ vẻ đẹp tâm hồn của chính bản thân người đã sáng tạo ra nó, nhà cách mạng, nhà thơ Hồ Chí Minh. Có thể thấy rõ điều đó qua hai bài Chiều tối (Mộ) và Giải đi sớm (Tảo giải) trong tập thơ. Cả hai bài thơ Bác đều viết trong gông cùm xiềng xích, trên đường chuyển lao đầy cực nhọc, khổ ải. Ý 2: Những biểu hiện cụ thể: Là nhật ký, tác phẩm còn là tập thơ trữ tình nên thiên về việc bộc lộ thế giới bên trong, thế giới tâm hồn của người sáng tạo. Đó là lòng nhân ái bao la, là tình yêu cuộc sống sâu nặng, là tâm hồn của con người có sự tự do tinh thần tuyệt đối, là cốt cách vững vàng… a. Lòng nhân ái bao la, tình yêu cuộc sống sâu nặng – Yêu thiên nhiên, tạo vật. Qua hai bài thơ, hình ảnh thiên nhiên luôn chiếm vị trí nổi bật. Bác nâng niu từng biểu hiện của sự sống: “cánh chim”, “đám mây”… Có ai ngờ, thiên nhiên lại hiện lên đẹp và sáng đến thế trong bài thơ Bác bị giải đi vào lúc nửa đêm. – Quan tâm tới con người. Dù trong hoàn cảnh nào, Bác cũng không quên nghĩ tới con người. Hình ảnh thiếu nữ xay ngô tối với Bác là vẻ đẹp của cuộc sống bình dị. Ngọn lửa hồng reo vui trong bếp lửa gia đình, lòng Bác như cũng reo vui với nó (dẫn chứng). b. Một tâm hồn tự do, không tù ngục, xích xiềng nào giam giữ nổi. Gặp cảnh bình minh trên đường đi chuyển lao, lòng Bác tràn ngập niềm hân hoan (dẫn chứng). c. Một tâm hồn có tinh thần “thép” vượt qua những đọa đày về thể xác, mọi thử thách khốc liệt về tinh thần. – Qua hình ảnh “quyện điểu” và “cô vân”, ta bắt gặp thoáng buồn, thoáng cô đơn rất người của Bác. Nhưng trước ngọn lửa hồng Bác quên đi việc mình chưa được dừng chân trên con đường đày ải mà để lòng mình reo vui cùng ngọn lửa, để hình ảnh tỏa ấm trên trang thơ, xua tan cái lạnh lẽo, cô đơn của lòng người và cảnh vật. Ngọn lửa hồng trở thành vẻ đẹp tinh thần của nhà cách mạng. – Giá rét căm căm từng đợt, quất ngược sự giá buốt vào mặt nhưng Bác không để cái khắc nghiệt của thiên nhiên chế ngự mình. Câu thơ đọc lên nghe rắn rỏi lạ thường: “Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng – Nghênh diện thu phong trận trận hàn”. d. Một tâm hồn lạc quan, tin tưởng – Cả hai bài thơ kết thúc bằng hình ảnh ngọn lửa hồng và cảnh bình minh mang lại cảm giác phấn chấn, lạc quan. Lời thơ ám dụ vời vợi lòng tin. e. Một hồn thơ phong phú – Thi hứng đã đến với Người trong những giờ phút nặng nề, cực nhọc nhất của cuộc đời, ngay cả trong lúc đối với người bình thường, cảm xúc thơ dễ bị triệt tiêu nhất hoặc không cất lên nổi: “Người đi thi hứng bỗng thêm nồng”. Cốt cách thi nhân ở Bác thể hiện ở niềm rung động trước cái đẹp, dù trong cảnh huống nào. – Niềm rung động ấy được thể hiện bằng những vần thơ vừa cổ kính, vừa hiện đại của một tâm hồn nghệ sĩ mang cốt cách phương Đông. Hồn thơ Hồ Chí Minh bắt rễ rất sâu vào truyền thống dân tộc, truyền thống phương Đông. Phân tích bài thơ chiều tối bài mẫu 4: Bị bắt ở Túc Vinh, Bác Hồ bị đưa đến nhà giam huyện Tĩnh Tây. Sau 42 ngày đêm bị hành hạ khốn khổ ở đây mà không được xét xử gì, đúng ngày “song thập” – quốc khánh nước Trung Hoa thời Quốc dân đảng – Bác bị chúng giải đi Thiên Bảo. Trong chặng đường từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo, Bác làm 5 bài thơ, 5 lần ghi nhật kí. Qua những dòng “nhật kí” – thơ đó, có thể hình dung khá cụ thể tình cảnh của Người trong chuyến đi này. Bài thứ nhất Tầu lộ (Đi đường) cho biết đây là đường núi cheo leo vất vả, cứ đi qua hết dãy núi này lại tiếp những dãy núi khác. Vậy mà mỗi ngày Bác phải đi đến năm chục cây số “trèo núi qua truông”, “dầm mưa dãi nắng” như Trần Dân Tiên đã kể. Tối đến, dừng lại trong nhà giam xã nào đó thì cái đêm “nghỉ ngơi” sau một ngày hành trình gian khổ ấy mới hảm hại. Cái “đêm ngủ ở Long Tuyền” hai chân Bác bị cùm chéo lại còn bị rét, rệp “giáp kích” suốt đêm. Đêm đầu tiên đến Thiên Bảo cũng khổ không kém. Sau một ngày đi bộ năm mươi ba cây số “áo mũ dầm mưa rách hết giày” đến nơi nghỉ thì cái nhà lao tương đối lớn mà Bác phải đi mấy ngày trời mới tới này không có được một chỗ ngủ yên cho người tù và Người đã phải “Ngồi trên hố xí đợi ngày mai”! Mộ (chiều tối) là bai thơ thứ ba trong chùm thơ 5 bài sáng tác trong chặng đường Bác bị giải từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo. Khác những bài kia, Mộ không kể chi những nỗi dọc đường mà là một bài thơ tức cảnh, một bức tranh chấm phá về thiên nhiên Bác gặp trên đường đi: nhan đề bài thơ đã thuyết minh thời điểm sáng tác, cái thời điểm nhà thơ cảm nhận thế giới xung quanh, nảy ra thi hứng. Đó là lúc “chiều tối”, đã suốt ngày “tay bị trói”, “cổ đeo xích”, bị giải đi “qua núi qua truông”…mà vẫn chưa được nghỉ. Và khi nghỉ đêm thì chắc chắn cũng tay trói chân cùm trong xà lim, trên rạ bẩn với muỗi rệp…Tức là, ở thời điểm “Chiều tối” ấy, những đày đọa ban ngày cũng chưa qua và những đày đọa ban đêm sắp tới. I.Phân tích: Bài thơ tứ tuyệt, như tên gọi, là một bức tranh vẽ cảnh chiều tối, một cảnh tối vùng núi. Bố cục bài thơ cũng là bố cục bức tranh, một bố cục có tính chất cổ điển: hai câu đầu là mấy nét chấm phá dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnh chiều, hai câu sau là những nét đậm nổi bật lên trên bình diện thứ nhất, là trung tâm của bức tranh. 1.Hai câu đầu: Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ Cô vân mạn mạn độ thiên không. Trong thơ, trong tranh xưa, và nói chung, trong thế giới thẩm mĩ cổ điển phương Đông, hình ảnh cánh chim bay về rừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng, ước lệ diễn tả cảnh chiều. “Phi yến thu tâm”, “quyện điểu quy lâm”, những nhóm từ ấy thường gặp trong thơ chữ Hán. “Chim bay về núi tối rồi” (Ca dao), “Chim hôm thoi thóp về rừng” (Truyện Kiều), “Ngàn mây gió cuốn chim bay mỏi” (Bà Huyện Thanh Quan)…và bao nhiêu nữa, những câu thơ tiếng Việt xưa có cánh chim chiều. Dường như không có nét vờn vẽ mấy cánh chim xa xa, bức tranh chưa rõ là cảnh chiều. Thi sĩ Huy Cận, với cái nhìn rất thi sĩ cảm thấy bóng chiều tà như sa xuống từ cánh chim bay xa dần về phía chân trời và đã viết một câu thơ thật hay: Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa. Bài thơ của Bác Hồ mở đầu bằng cánh chim lấy từ thế giới nghệ thuật cổ điển phương Đông đó và chỉ với câu đầu, cái phong vị, cái không khí cổ thi đã khá rõ. Câu thứ hai “Cô vân mạn mạn độ thiên không” được dịch thành thơ: “Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”. Như vậy là bỏ đi chữ “cô” không dịch, còn hai chữ điệp âm mạn mạn thì dịch là nhẹ. Về chữ “cô”, trong tiếng Việt, từ gốc Hán này thường kết hợp với một tiếng khác thành một từ mới mà ý nghĩa “lẻ loi cô độc” có phần đậm hơn vì nó đứng trong hệ thống từ vựng Hán ngữ: cô độc, cô đơn, cô quả, cô quạnh, thân cô thế cô…Do đó, “cô vân” chỉ dịch là “chòm mây” theo chúng tôi là hợp lí. Không nên làm đậm thêm ý lẻ loi cô độc của chữ “cô” vốn không có gì đậm trong câu thơ chữ Hán của Bác. Đáng tiếc ít nhiều chăng là ở chỗ này, “cô” là chữ được sử dụng đậm đặc trong thơ Đường và mang dấu ấn thơ Đường rất rõ, bỏ đi sẽ không khỏi làm nhạt đi chút sắc màu Đường của bài thơ. Bỏ đi hai chữ láy âm “mạn mạn” cũng có cái thiệt thòi ấy. “Mạn mạn” là một trong rất ít những từ láy âm đặc biệt thường xuất hiện với mật độ cao trong thơ Đường, cũng như du du, xứ xứ, mang mang…và mỗi từ ấy có một sắc thái ý nghĩa riêng chỉ có trong thơ Đường. Cho nên, có nhà nghiên cứu bảo rằng, chúng năm trong hệ từ vựng khép kín của Đường thi (Đọc Ngục trung nhật kí – Học tập phong cách ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhữ Thành). Thỉnh thoảng ta gặp du du, mạn mạn…trong thơ chữ Hán của Bác Hồ và đó là một dấu hiệu rõ rệt của chất Đường thi trong thơ của Bác. Câu thơ dịch không thể giữ lại được những từ ngữ có giá trị đánh dấu ấy cử thơ Đường khiến cho màu sắc Đường ít nhiều giảm đi trong bản dịch, song điều đó khó tránh được trong việc dịch thơ. Một đặc điểm quan trọng trong cấu trúc nghệ thuật thơ Đường mà nhà nghiên cứu gọi là mã nghệ thuật của nó là “quy sự vật ra thành một quan hệ xây dựng trên sự thống nhất lại bằng tư duy nhìn hiện tượng xét bên ngoài, về mặt giác quan, là mâu thuẫn” (thi (Đọc Ngục trung nhật kí – Học tập phong cách ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhữ Thành). Cho nên, thi nhân đời Đường thường lấy động tả tĩnh, lấy chậm tả nhanh, dùng điểm vễ diện, mượn sáng nói tối…Điều đó không chỉ thuộc về biện pháp thể hiện, bút pháp nghệ thuật mà còn như là thuộc về phương thức nghệ thuật, về tư duy thẩm mĩ, có cơ sở tiến triết học, lịch sử, xã hội của nó. Nói thơ Bác nhiều bài có dáng dấp thơ Đường, trước hết là ở chỗ này mà câu thơ đang nói đây là một biểu hiện rõ nhất. Bác cảm nghe cái không gian bao la yên tĩnh của cảnh chiều muộn nơi rừng núi diễn tả cái bao la yên tĩnh đó bằng hình ảnh chòm mây mọt mình đang chầm chậm trôi lờ lững ngang qua bầu trời. Bầu trời chiều phải thoáng đãng, cao rộng, phải trong trẻo và yên tĩnh đến thế nào thì mới làm nổi bật lên hình ảnh chòm mây lẻ loi lưng trời, và mới thấy được nó đang trôi chầm chậm (mạn mạn) ngang qua (độ) bầu không mênh mông như vậy. Không gian mênh mông vô tận, thời gian như dừng lại, lắng xuống. Phải có một tâm hồn êm ả thư thái như thế nào mới có thể theo dõi một chòm mây trôi lơ lửng thong thả giữa bầu trời như vậy. Chính những chữ “cô”, “mạn mạn” và bút pháp mượn điểm vẽ diện, lấy cái cực nhỏ diễn tả cái bao la, dùng cái di động thể hiện cái yên tĩnh làm cho câu thơ Bác trở nên rất Đường. Đường trong cấu trúc nghệ thuật, trong cả từ ngữ, chi tiết, hình tượng, âm điệu, tức là trong từng yếu tố. Do đó, chúng tôi chưa thấy có căn cứ để đồng ý với ý kiến cho rằng chỉ có “cấu trúc nghệ thuật của Bác lại rất Đường” (Nhữ Thành). Nhất là ý kiến đó không thật phù hợp với nhiều bài thơ, nhiều câu thơ của Bác, trong đó có những câu đang nói ở đây, đều đậm đặc những “yếu tố” Đường, đồng thời cũng rất tiêu biểu cho “cấu trúc thơ Đường”, mặc dì khi dịch ra câu thơ tiếng Việt chất Đường đã bị nhạt đi ít nhiều. Hai câu đầu bài Mộ rất cổ điển, đất Đường thi. Một cảnh trời chiều thật thi vị, vừa cổ kính, vừa quen thuộc, thân thiết.Liệu tình cảm thiên nhiên, sự giao hòa với tạo vật của Bác còn cần phải chứng minh? Đó cũng là một ýếu tố tinh thần truyền thống kết tinh vững bền trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng của thời đại. Song trong thẳm sâu tâm hồn, hồn thơ Hồ Chí Minh, đâu phải chỉ có tầm hồn nghệ sỹ cổ điển. Trong tranh xưa vẽ cảnh chiều – tranh bằng tranh và tranh bằng thơ – cánh chim thường chỉ là một nét vẽ thuần túy có ý nghĩa thẩm mĩ, một nét nên thơ, nên họa cần thiết thêm vào để gợi cảnh chiều, thế thôi. Cũng có khi nhìn kĩ, đọc kĩ, có thể thấy cái hồn, cái thần toát lên từ nhiều nét chấm phá sơ sài và gợi cảm trong bức tranh không gian rộng lớn đó: cảm giác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa… Hoàng Trung Thông khi thưởng thức một cách tâm đắc bài thơ Chiều tối của Bác Hồ, đã liên tưởng đến một bài thơ của Liễu Tông Nguyên đời Đường mà hai câu đầu là: Thiên sơn điểu phi tuyệt Vạn kính nhân tông diệt Dịch nghĩa: Nghìn non bóng chim bay đã tắt Muôn nẻo, dấu người mất Bài Độc tọa Kính Đình sơn của Lí Bạch cũng có hai câu trên là: Chúng điểu cao phi tận Cô vân độc khứ nhàn Dịch nghĩa Bầy chim cao bay hết Chòm mây một mình trôi Cả hai bài thơ đều là những nét chấm phá cổ điển gợi cảnh không gian bao la, với những cánh chim cao bay. Lí Bạch confcos chòm mây trôi nhàn nhã một mình lưng trời, cũng như trong bài thơ của Bác. Song, có phải những cánh chim trong hai bài cổ thi trên đây đều bay mãi vào chốn xa xăm, vô tận vô cùng. Đường bay của chúng là vô tận: càng bay càng mất hút trong cõi tuyệt mù của bầu trời mênh mông. Hai câu thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyên đều kết thúc bằng tận hoặc tuyệt. Thi nhân xưa nhìn theo cánh chim bay mất hút và như đã cảm nghe cái mênh mang vô tận vô cùng của trởi đất “Thiên địa chi du du” (Thơ Trần Tử Ngang)… Trở lại câu thơ Bác Hồ: “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”. Cánh chim ở đây không chỉ là mấy nét vờn vẽ của một họa sĩ: dường như Bác không nhìn theo cánh chim bay về hướng rừng chỉ với cái nhìn thưởng thức thẩm mĩ của một người nghệ sĩ, mà nhiều hơn là với đôi mắt lưu luyến, trừu mến của một tấm lòng yêu thương, cảm thông đối với một biểu hiện của sự sống. Đây là những con chim có sự sống, có sinh hoạt nhịp nhàng hàng ngày của chúng. Chúng không “cao phi tận”, “phi tuyệt”, bay vào chốn vô cùng vô hạn để biến mất trong cõi hư không siêu hình, mà là những cánh chim “về rừng tìm chốn ngủ”, sau một ngày “lao động” chuyên cần mệt mỏi, ngủ để sáng hôm sau lại tiếp tục nhịp sống tuần tự của đời chim. Câu thơ 7 chữ mà có tới 4 động từ, trạng từ diễn tả hoạt động, trạng thái sinh hoạt của sinh mệnh chim (quyện, qui, tầm, túc). Đường bay, hoạt động bay ấy có mục tiêu cụ thể gần gũi: về rừng tìm cây để ngủ trong đêm. Câu thơ của Bác đã đưa cánh chim từ cõi hư không phảng phất ý vị siêu hình trở về với thế giới hiện thực sự sống hàng ngày, bình thường giản dị song bất diệt trên trái đất này. Bác Hồ đã nhận xét có tính chất phê phán: “Cổ thi thiên ái nhiên tuyệt mĩ – Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp”. Song chính Bác là người có tấm lòng, có mối giao hòa đặc biệt với thiên nhiên. Dường như Bác sinh ra để làm chuyện hòa hợp với suối rừng, sống ở căn nhà sàn mây vách gió, giữa tiếng chim rừng, bông hoa núi…Có điều, lắm khi lòng yêu thiên nhiên đặc biệt đó không phải chỉ vì thiên nhiên đẹp, mà còn có gì nữa thật sâu xa. Nhà nhiếp ảnh Đinh Đăng Định kể lại:Có lần anh định bẻ một cành lá để khỏi vướng ống kính, Bác vội ngăn lại: Bác thương cành lá. Khu nhà sàn trong phủ Chủ tịch có cây bụt mọc bị bệnh lá vàng đang lụi chết, Bác thương cái cây, Bác tự tìm cách chữa cho nó và cây đã xanh trở lại. Đàn cá rô trong ao vườn Bác thường ríu rít rộn ràng mỗi khi Bác ra với chúng, vì: “hàng ngày Bác vẫn gọi rô luôn”…Xuân Diệu đã nhận xét sâu sắc: “Sự yêu thương của Bác đã thành tấm lòng tạo hóa: Bác sống như trời đất của ta”. Tình cảm thiên nhiên của Bác Hồ, trong chiều sâu chính là lòng yêu thương sự sống Nguồn:
vanhoc
Eumenes xứ Cardia (, 362—316 TCN) là một danh tướng và học giả người Hy Lạp, phục vụ trong quân đội Macedonia của vua Philippos II của Macedonia và Alexandros Đại đế. Trong cuộc nội chiến đẫm máu giữa các Diadochi sau khi Alexandros qua đời, Eumenes tham gia vào phe bảo vệ vương triều Argos của Alexandros. Eumenes là một người dân của xứ Cardia trong vùng Chersonese của Thrace. Ngay từ lúc còn trẻ, ông đã được vua Philippos II tuyển làm thư ký riêng và sau khi Philippos II chết ông tiếp tục phò trợ cho Alexandros Đại đế và theo Alexandros trong cuộc viễn chinh xâm lược Ba Tư. Sau khi Alexandros qua đời (323 TCN), Eumenes nắm quyền chỉ huy của một bộ phận lớn quân đội phò trợ cho vua Archieaus, con trai nhỏ tuổi của Alexandros. Vùng Cappadocia và Paphlagonia được giao cho Eumenes quản lý, tuy nhiên các khu vực này không hoàn toàn khuất phục Eumenes. Leonantus và Antigonos I Monophthalmos được Nhiếp chính quan Perdiccas phái đến trấn áp bạo loạn ở nơi này. Tuy nhiên Antigonos không tuân lệnh của Perdiccas còn Leonantus thì thất bại trong việc thuyết phục Eumenes theo ông ta về châu Âu. Eumenes sau đó theo phe của Perdiccas và được ông giao trọng trách trấn giữ Cappadocia. Cùng lúc đó Craterus và Antipatros vừa mới trấn áp cuộc khởi nghĩa của các thành bang Hy Lạp trong chiến tranh Lamia, bây giờ họ đem quân sang châu Á mưu lật đổ Perdicas, và mục tiêu đầu tiên của họ là Cappadocia, nơi Eumenes trấn giữ. Tuy nhiên Crateus và Neoptolemos, Tổng trấn (satrap) của Armenia sau đó đã bị Eumenes đánh bại tại một nơi gần Hellespont vào năm 321 TCN. Neoptolemos tử trận, còn Craterus chết vì vết thương quá nặng. Sau khi Perdiccas bị quân lính của mình giết chết tại Ai Cập (320 TCN), các tướng lãnh Macedonia nhanh chóng chuyển mũi dùi về phía Eumenes: họ "tuyên án" tử hình ông và đề cử hai tướng Antipater và Antigonus cầm quân đi thảo phạt Eumenes. Eumenes, bị phản bội bởi một thuộc hạ, quyết định rút lui tới Nora. Một pháo đài mạnh nằm ở biên giới của Cappadocia và Lycaonia. Suốt hơn một năm sau đó các địch thủ của Eumenes không thể nào hạ được ngôi thành này và sau cùng cái chết của Antipater đã khiến cho nội bộ các tướng lĩnh thù địch Eumenes bắt đầu có sự xào xáo. Trước khi chết, Antipater đã truyền lại chức vụ Nhiếp chính cho Polyperchon chứ không phải con mình là Cassander, vì vậy Cassander quyết định liên minh với Antigonus và Ptolemaios, còn Eumenes thì lại theo về phe của Polyperchon. Sau đó Eumenes đã rời Nora và xua quân uy hiếp các vùng Syria, Phoenicia. Năm 318 TCN Antigonus xua quân tấn công và Eumenes buộc phải rút lui để hội quân với các Tổng trấn của các trấn thuộc lưu vực sông Tigris. Sau hai trận chiến với kết quả không rõ ràng tại Paraitacene (317 TCN) và Gabience (316 TCN), Eumenes bị quân lính của mình phản bội và bắt giao cho Antigonus. Theo Plutarch và Diodorus, Eumenes đã đánh thắng Antigonus nhưng ông lại để Antigonus đoạt mất doanh trại chứa kho tàng của quân đội mình, nơi cất giữ các chiến lợi phẩm có được trong suốt 30 năm chiến đấu của các chiến binh Khiên Bạc (Argyraspids) tinh nhuệ; không chỉ chứa vàng bạc châu báu mà còn có những phụ nữ và trẻ em người Hy Lạp. Sau đó Antigonus gởi một bức thư tới các chiến binh Khiên Bạc thuyết phục họ nộp Eumenes cho ông, đổi lại Antigonus sẽ trả tất cả những gì mà ông lấy được cho họ. Trước lời hứa hẹn hấp dẫn đó, những chiến binh Khiên Bạc không ngần ngại gì phản bội lại vị tướng lãnh của mình. Eumenes rơi vào tay Antigonus và, sau một thời gian đắn đo Antigonus quyết định xử tử ông (316 TCN). Ở đây, một nguyên nhân dẫn đến cái chết của Eumenes là việc quân đội và các tướng lãnh Macedonia luôn luôn ngờ vực ông. Mặc dù là một vị tướng tài ba, nhưng Eumenes không thể nào có được lòng trung thành của các binh sĩ dưới quyền và cái chết là một kết quả tất yếu. Ông là một tướng lãnh tài năng và đầy tận tâm trong việc duy trì sự thống nhất của đế quốc do đại đế Alexandros để lại, nhưng những nỗ lực của ông lại bị hủy hoại bởi các tướng lãnh và tổng trấn của Alexandros, những nhà quý tộc Macedonia luôn ganh tị với một vị "tướng bàn giấy" Hy Lạp "dị tộc". Có thể nói, Eumenes là một nhân vật đầy bi kịch, một người luôn cố gắng làm điều đúng đắn nhưng cuối cùng lại bị hãm hại bởi những kẻ thù tàn nhẫn và những thuộc hạ phản bội. Xem thêm Hisutorie, một truyện tranh manga do Iwaaki Hitoshi sáng tác, dựa trên cuộc đời thật của Eumenes. Tham khảo Plutarch - tiểu sử của Eumenues viết bởi Plutarch. Plutarch so sánh tiểu sử của ông với Sertorius của La Mã. Diodorus - Eumenes được đề cập rất nhiều trong các cuố sách 16-18 của bộ sách lịch sử của Diodorus. Tham khảo Liên kết ngoài 1911 Mục từ về Eumenes of Cardia tại Encyclopædia Britannica Tiểu sử của Eumenes, viết bởi Plutarch Thư viện Lịch sử, viết bởi Diodorus Sinh năm 362 TCN Mất năm 316 TCN Người Hy Lạp thế kỷ thứ IV TCN Ancient Thracian Greeks Tướng lĩnh Hy Lạp cổ đại Alexandros Đại Đế Người Hy Lạp cổ đại tại Vương quốc Macedonia Vương triều Orontes Mất thập niên 310 TCN Năm 316 TCN Năm 362 TCN Tướng Hy Lạp cổ đại
wiki
Thanh Hà vương Cao Nhạc (chữ Hán: 高岳, 511 - 555), tự Hồng Lược, tướng lĩnh nhà Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Bắc Tề, hoàng thân nhà Bắc Tề. Xuất thân Ông là em họ của Cao Hoan, quyền thần nhà Đông Ngụy. Cha là Phiên, tự Phi Tước, được nhà Đông Ngụy truy tặng Thái úy, thụy là Hiếu Tuyên công. Nhạc mồ côi cha từ sớm, nhà nghèo nên chưa được mọi người biết đến. Khi trưởng thành, tính tình của ông đôn hậu, thẳng thắn, vẻ ngoài sáng láng, thầm trầm mà có khí phách. Ban đầu nhà Nhạc ở Lạc Ấp (tức Lạc Dương), mỗi khi Cao Hoan có việc đến Lạc Ấp, đều nghỉ lại ở nhà Nhạc. Mẹ Nhạc là Sơn thị, nửa đêm thức dậy, thấy phòng Hoan có ánh sáng, ngầm đến xem xét, thì nhận ra không có đèn, lấy làm lạ, bèn đến chỗ thầy bói mà hỏi. Được 1 quẻ Đại Hữu thuộc Càn, giảng rằng: "May mắn, Dịch nói: phi long tại thiên, gặp được bậc đại nhân vậy. Đây là phi long cửu ngũ đại nhân, quý không thể nói hết." Sơn thị quay về nói lại với Cao Hoan. Về sau Cao Hoan khởi binh ở Tín Đô, Sơn thị nghe tin, mừng lắm, nói với Nhạc rằng: "Điềm ánh sáng đỏ, nay đã ứng nghiệm rồi. Mày nên đi theo ông ấy, cùng mưu tính việc lớn." Nhạc bèn đến Tín Đô. Cao Hoan gặp ông thì rất vui mừng. Sự nghiệp Phụng sự Cao Hoan Năm Trung Hưng đầu tiên (531), Nhạc nhận chức Tán kỵ thường thị, Trấn đông tướng quân, Kim tử quang lộc đại phu, lĩnh Vũ vệ tướng quân. Giao chiến với họ Nhĩ Chu ở Hàn Lăng, Cao Hoan nắm trung quân, Cao Ngang nắm tả quân, Nhạc nắm hữu quân. Trung quân gặp bất lợi, Nhĩ Chu Triệu thừa thế xua quân tiến đánh, Nhạc dựng cờ hô to, đón đánh trận địa của Triệu, Cao Hoan mới lui về an toàn, sau đó hăng hái xông lên, đại phá quân địch. Nhạc nhờ công được phong làm Vệ tướng quân, Hữu quang lộc đại phu, vẫn lĩnh Vũ vệ. Năm Thái Xương đầu tiên (532), ông làm Xa kỵ tướng quân, Tả quang lộc đại phu, lĩnh Tả hữu vệ, phong tước Thanh Hà quận công, thực ấp 2000 hộ. Sơn thị được phong Quận quân, thụ chức nữ thị trung, vào hầu Hoàng hậu. Khi ấy Nhĩ Chu Triệu vẫn đang chiếm cứ Tịnh Châu, Cao Hoan tiến hành chinh thảo, lệnh cho Nhạc ở lại trấn thủ kinh sư, dời sang làm Phiêu kỵ đại tướng quân, Nghi đồng tam tư. Năm Thiên Bình thứ 2 (535) nhà Đông Ngụy, ông làm Thị trung, 6 châu quân sự đô đốc, gia chức Khai phủ. Nhạc vời gọi những bậc danh hiền thời ấy, dùng làm liêu thuộc, được mọi người khen ngợi. Ông được ban chức Đô giám điển thư, lại được làm Thị trung, Sứ trì tiết, 6 châu đại đô đốc, Ký Châu Đại trung chính. Không lâu sau ông được làm Kinh kỳ đại đô đốc, coi việc quân từ 6 châu đến Kinh kỳ. Khi ấy Cao Hoan làm việc ở Tấn Dương, Nhạc cùng bọn Tôn Đằng ở kinh sư phụ chính, người thời bấy giờ gọi Nhạc và bọn Tôn Đằng, Cao Long Chi, Tư Mã Tử Như là "tứ quý". Năm Nguyên Tượng thứ 2 (539), vì mẹ bệnh nên ông rời chức. Nhạc không cởi thắt lưng, hết sức chăm sóc mẹ. Khi bà mất, ông khóc thương thảm thiết, Cao Hoan rất lo lắng, mỗi ngày đều sai người đến khuyên giải. Sau đó, ông quay lại nhận chức cũ. Năm sau, ông được kiêm chức Lĩnh quân tướng quân. Đầu những năm Hưng Hòa (539 – 542), Cao Trừng vào triều, Nhạc ra làm Sứ trì tiết, đô đốc, Ký Châu thứ sử,Thị trung, Phiêu kỵ, Khai phủ nghi đồng như cũ. Năm thứ 3 (541), ông chuyển ra làm Thanh Châu thứ sử. Nhạc cầm quyền lâu ngày, khiến cho trong triều ngoài cõi đều kính sợ. Khi ông ra ngoài làm việc, trăm họ nghe phong thanh thì tránh xa. Năm Vũ Định đầu tiên (543), ông làm Tấn Châu thứ sử, Tây Nam đạo đại đô đốc, được tiếng là hiểu việc vùng biên cương. Khi ấy, Nhạc có bệnh, Cao Hoan lệnh cho ông quay về Tịnh Châu chữa trị, khỏi bệnh, quay lại nhận chức. Phụng sự Cao Trừng Khi Cao Hoan mất, Hầu Cảnh làm phản, Cao Trừng triệu Nhạc về Tịnh Châu, cùng tính kế đánh dẹp. Lương Vũ đế thừa cơ phái Trinh Dương hầu Tiêu Uyên Minh đến Hàn Sơn, ngăn nước Tứ Thủy, rót vào Bành Thành, giúp sức cho Hầu Cảnh. Nhạc làm tổng soái các cánh quân đến đánh, cùng bọn Hành đài Mộ Dung Thiệu Tông đại phá quân Lương, bắt sống Tiêu Uyên Minh và bọn Đại tướng Hồ Quý Tôn, cùng mấy vạn người. Hầu Cảnh đưa quân đến Qua Dương, cùng bọn Lưu Phong giằng co. Nhạc đưa quân quay về đuổi đánh, Cảnh đại bại, 1 ngựa chạy thoát. Năm thứ 6 (548), ông nhờ công được phong làm Thị trung, Thái úy, còn lại như cũ; được ban tước Tân Xương huyện tử. Sau đó, Nhạc lại được bái làm Sứ trì tiết, Hà Nam tổng quản, đại đô đốc, thống lĩnh bọn Mộ Dung Thiệu Tông, Lưu Phong đi đánh Vương Tư Chính ở Trường Xã. Tư Chính đóng chặt cửa thành cố thủ, bọn Nhạc ngăn nước sông Vị rót vào thành. Khi đánh thành, Thiệu Tông chết đuối, Lưu Phong trúng tên mà chết, lại thêm viện binh Tây Ngụy đến cứu Tư Chính, Nhạc trong ngoài chống giữ, rất có mưu lược. Thành không còn gì nguyên vẹn. Cao Trừng thân chinh đến nơi, được vài ngày thì hành bị hạ, bắt được Tư Chính. Ông nhờ công được ban tước Chân Định huyện nam, Trừng lấy đó làm công mình, nên chỉ ban thưởng thế thôi! Phụng sự Cao Dương Cao Trừng bị giết, Cao Dương ra Tấn Dương nắm quyền, lệnh cho Nhạc giữ quan chức cũ, kiêm Thượng thư tả bộc xạ, trấn thủ Kinh sư. Đầu những năm Thiên Bảo (550 – 559) nhà Bắc Tề, ông được tiến phong làm Thanh Hà quận vương, Sứ trì tiết, Phiêu kỵ đại tướng quân, Khai phủ nghi đồng tam tư, Tông sư, Kinh Châu mục. Năm thứ 5 (554), được gia chức Thái Bảo. Năm ấy, Lương Nguyên đế bị quân Tây Ngụy vây bức, sai sứ cấp báo, cầu viện binh. Mùa đông, triều đình ban chiếu cho Nhạc làm Tây nam đạo Đại hành đài, thống lĩnh bọn Tư đồ Phan Nhạc đi cứu Giang Lăng. Tháng giêng năm thứ 6 (555), quân Tề đến Nghĩa Dương, Kinh Châu đã rơi vào tay quân Tây Ngụy, ông nhân đó cướp bóc từ nam Trường Giang đến Dĩnh Châu, thứ sử Lục Pháp Hòa dâng châu đầu hàng. Nhạc trước đưa bọn Lục Pháp Hòa về kinh sư, sau sai Mộ Dung Nghiễm giữ Dĩnh Thành. Triều đình biết Giang Lăng đã mất, ban chiếu cho ông trở về. Cái chết Nhạc có công trận ở Hàn Sơn, Trường Xã, lại thu hàng Dĩnh Châu, uy danh rất lớn. Ông tính tình xa xỉ, ưa thích tửu sắc, thường bày tiệc múa hát, các vương đều không theo kịp. Ban đầu, Bình Tần vương Cao Quy Ngạn mồ côi từ nhỏ, được Cao Hoan gởi nuôi trong nhà của Nhạc, vì bị đối xử lạnh nhạt, nên ngầm oán hận trong lòng, mà không dám nói ra. Về sau, Quy Ngạn được sủng ái, làm Lĩnh quân tướng quân, ông lại cho rằng mình có ơn với hắn ta, nên không đề phòng gì. Nhạc ở phía nam kinh thành xây dựng phủ trạch, xin mở con ngõ sau. Quy Ngạn tâu với Văn Tuyên đế Cao Dương rằng: "Thanh Hà xây phủ trạch, phỏng theo hoàng cung, làm ra con ngõ dài, chỉ là không có cửa khuyết mà thôi." Cao Dương nghe vậy thì ghét lắm, dần xa lánh Nhạc. Về sau Cao Dương thu nạp ca kỹ Tiết thị (thường gọi là Tiết Muội) vào cung, mà Nhạc từng gọi chị em họ Tiết đến mua vui. Tiết Thư cậy em được ủng ái, xin cho cha làm Tư đồ, Cao Dương cả giận đem cô ta ra cưa chết, rồi lại trách Nhạc "gian dâm dân nữ". Ông đáp: "Thần vốn muốn lấy các cô ấy, hiềm rằng bọn họ tính tình khinh bạc không thể dùng được, chứ không hề gian dâm." Cao Dương nghe xong càng giận. Theo Bắc Tề thư, tháng 11 năm thứ Thiên Bảo 6 (555), Cao Dương sai Quy Ngạn đến nhà trách mắng Nhạc. Nhạc lo sợ không biết làm sao, được vài ngày thì hoăng, nên mọi người đều cho là ông bị ban rượu độc mà chết, khi ấy được 44 tuổi. Triều đình ban chiếu cho Đại Hồng Lô giám hộ tang sự, tặng Sứ trì tiết, đô đốc Ký, Định, Thương, Doanh, Triệu, U, Tể, 7 châu chư quân sự, Thái tể, Thái phó, Định Châu thứ sử, Giả hoàng việt, ban cho xe màn, 2000 tấm lụa, thụy là Chiêu Vũ. Nhạc chết rồi, Cao Dương vẫn chưa hết giận. Bấy giờ Tiết tần (Tiết Muội được phong làm Tần) đang có mang, đợi cô ta sinh xong, Cao Dương đem chém, bày đầu trong bữa tiệc ở Đông Sơn (đông Nghiệp Thành), những người dự tiệc trông thấy đều kinh hãi. Cao Dương còn đem tro cốt của Tiết tần chế thành cây đàn tỳ bà, ôm đàn, rơi nước mắt mà nói: "Người đẹp khó gặp lại!" (Nguyên văn: giai nhân nan tái đắc) Sau khi mất Từ khi theo Cao Hoan ra trận, Nhạc có quân đội riêng, có tiếng là tinh nhuệ, tích trữ rất nhiều binh khí sắc bén và hơn ngàn bộ giáp. Cuối thời Cao Trừng, ông cho rằng 4 biển vô sự, dâng biểu xin giao nạp. Cao Trừng không nhận. Cao Dương lên nắm quyền, Nhạc lại xin nạp, cũng không được nhận. Đến khi hoăng, trong di biểu tạ ơn lại xin nạp, tang lễ xong xuôi, triều đình mới thu nạp. Trong những năm Hoàng Kiến (560 - 561), ông được đưa vào thờ trong miếu của Cao Trừng. Về sau Cao Quy Ngạn bị kết tội mưu phản, Vũ Thành đế Cao Trạm xét lại việc cũ, đem cả nhà Cao Quy Ngạn hơn trăm người thưởng cho gia đình Nhạc làm nô bộc. Sau đó lại truy niệm chiến công của ông, truy tặng Thái Sư, Thái bảo, còn lại như cũ. Con là Mại kế tự. Bắc Tề diệt vong, Mại theo lệ vào nước Chu. Nhà Tùy thay ngôi nhà Bắc Chu, Mại mất trong những năm Khai Hoàng (581 - 600). Tham khảo Bắc Tề thư Người họ Cao tại Trung Quốc Người tự sát Tướng nhà Bắc Ngụy Tướng nhà Đông Ngụy Tướng nhà Bắc Tề Sinh năm 511 Mất năm 555
wiki
Giải thích ý nghĩa đoạn thơ trong bài Tiếng ru Gợi ý Tố Hữu là một nhà thơ lớn trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Thơ ống toả sáng đến mọi tâm hồn vì dạt dào lòng nhân ái, vì chan chứa tình yêu thương giữa con người với con người mà tiêu biểu là bài Tiếng ru: Con ong làm mật yêu hoa Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời Con người muốn sống con ơi Phải yêu đồng chí yêu người anh em… Chúng ta nên hiểu đoạn thơ trên như thế nào? Các loài sinh vật muốn tồn tại và phát triển phải gắn bó với môi trường mình sống. Cũng như: Con ong làm mật yêu hoa Con cá bơi yêu nước, con chim ca yêu trời Mỗi mùa hoa nở rộ, chắc hẳn các bạn đều thấy loài ong bay lượn khắp nơi bởi lẽ hoa chính là nguồn sống của ong. Con ong làm mật để sống. Còn gì thích thú hơn khi ngắm nhìn đàn cá tung tăng bơi lội, thân hình lấp lánh dưới làn nước trong veo. Bầu trời xanh mênh mông và không khí thoáng đãng là môi trường sống của chim. Thật thanh bình khi trên nền trời chấp chới những đàn chim đang sải cánh và mỗi buổi hoàng hôn, ánh nắng hắt lên viền quanh cánh chim chiều thật rực rỡ. Cánh chim chắc phải yêu biết mấy bầu trời tự do, yêu biết mấy nơi sống của nó. Phải chăng vì vậy mà đã có một lần, Tố Hữu khóc thương con chim bị chết trong lồng vì bị mất tự do. Xem thêm: Miêu tả con vật ta yêu và thế giới loài vật quanh ta - Cảm nghĩ về con chó Rõ ràng hai câu thơ mở đầu đã nêu lên mối quan hệ tự nhiên giữa sinh vật và môi trường sống. Các loài vật tách rời khỏi môi trường sống thì sẽ chết, đó là quy luật tất yếu của tự nhiên. Đúng vậy, con cá không thể sống trên cạn, con ong không thể sống thiếu hoa, con chim không thể cất cánh trong lồng chật hẹp. Chỉ qua hai câu thơ, Tố Hữu đã để lại trong chúng ta nhiều suy nghĩ về tình cảm yêu thương, gắn bó với môi trường sống của mỗi loài. Nếu hai câu đầu nói về quy luật của tự nhiên, hai câu thơ sau nhà thơ khéo léo chuyển sang nói về cuộc sống con người: Con người muốn sống con ơi Phải yêu đồng chí yêu người anh em Bằng lời thơ ngọt ngào, tình cảm, tác giả đã khẳng định rằng con người không thể sống cô độc mà phải có tình yêu thương, yêu thương đồng chí và anh em của mình. Vậy trước hết, chúng ta phải hiểu đúng đắn thế nào là tình đồng chí, tình anh em. Nói đến tình đồng chí là nói đến tình cảm của những người bạn bè, những người cùng chí hướng và lí tưởng với mình. Tình đồng chí thể hiện mối quan hệ xã hội gắn bó mà chúng ta cảm thấy vừa thiêng liêng, vừa gần gũi. Nói đến đồng chí là nói đến những người luôn giúp đỡ nhau, yêu thương che chở cho nhau như những người ruột thịt. Cũng như thế, nói đến tình anh em, nhân dân ta ngày xưa đã có câu: Xem thêm: Cảm nhận về bài thơ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương Anh em như thể chân tay Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần Tình cảm ấy từ xưa đã sâu nặng đối với mỗi người chúng ta. Đó chính là tình cảm anh em ruột thịt trong gia đình, tình cảm anh em trong họ hàng, làng xóm. Tại sao con người muốn sống thì "phải yêu đồng chí, yêu người anh em"? Câu hỏi ấy được trả lời qua nhiều thế hệ từ xưa đến nay. Tình đồng chí, tình anh em rất cần thiết đối với con người như con ong cần hoa, con cá cần nước, con chim cần bầu trời, chúng ta phải hiểu con người muốn sống thì phải yêu đồng chí, yêu người anh em. Thật bất hạnh khi con người không có tình yêu thương. Chính tình yêu thương đã quyết định sự tồn tại của con người. Dường như tình cảm ấy đã thấm sâu trong máu thịt của mỗi người. Con người không có tình yêu thương sẽ cô độc biết bao, lẻ loi biết bao. Người đó sẽ phải một mình chống lại tất cả khó khăn rồi cuối cùng sẽ gục ngã vì không có tình yêu thương hay nói đúng hơn là không được yêu thương. Như những năm đất nước ta còn bị chiến tranh, các chiến sĩ cách mạng sống cô đơn trong tù. Họ đã phải thốt lên: "Cô đơn thay là cảnh thân tù”, nhưng khi nghĩ đến đồng bào, đồng chí anh em, đến Tổ quốc thì dường như họ được tiếp thêm sức mạnh, giúp họ đứng vững trước khó khăn. Xem thêm: Hãy trình bày quan niệm của anh (chị) về hạnh phúc và cách có được hạnh phúc. Quả thật, tình yêu thương đã khiến con người đẹp hơn, vĩ đại và đáng kính trọng hơn. Rõ ràng để có được cuộc sống cao đẹp ấy, chúng ta phải biết yêu thương nhau, đùm bọc, che chở nhau, đoàn kết với nhau. Hãy giữ lấy tình cảm yêu thương giữa con người với con người bởi lẽ đó là nguồn gốc của mọi hạnh phúc cũng như con ong cần hoa, con cá cần nước, con chim cần bầu trời. Bản thân mỗi chúng ta cũng được hưởng tình yêu của người thân trong gia đình, của thầy cô, bè bạn. Đáp lại, chúng ta phải giúp đỡ, chan hoà với bạn, yêu kính bố mẹ, thầy cô và những người thân. Mỗi chúng ta hãy giữ gìn và trân trọng những tình cảm trong sáng ấy để tâm hồn mãi vui tươi. Bốn câu thơ mở đầu của bài Tiếng ru của Tố Hữu đã nêu lên một vấn đề xã hội rất lớn, đó là tình yêu thương của con người VỚI con người, có lòng yêu thương con người sẽ tồn tại và hạnh phúc. Có gì đẹp trên đời hơn thế Người với người sống để yêu nhau (Tố Hữu) Tố Hữu đã gửi gắm vào những vần thơ lời ca ngợi, lời khuyên nhủ mọi người hãy sống để yêu thương bởi tình yêu thương là cốt lõi của mọi tình cảm cao đẹp khác, bởi tình yêu thương làm cho con người sống ngày càng có ý nghĩa hơn. Bài thơ đúng là Tiếng ru của mẹ và mãi mãi lắng đọng trong tâm hồn mỗi người chúng ta. Vanmau.edu.vn
vanhoc
Kể về một dòng sông mà em biết Bài làm Quê tôi là một ngôi làng nhỏ nằm bên cạnh dòng sông hiền hòa uốn khúc. Mỗi khi nhắc đến quê tôi lại nhớ đến câu hát: “trong tim ai cũng có một dòng sông riêng mình, tim tôi luôn gắn bó với dòng sông tuổi thơ…” Quả thực dòng sông quê tôi đẹp lắm. Từ lúc còn bé, tôi đã thích sông, tôi thường ngồi bên bờ sông ôn bài, vẽ hoặc nhìn những cây lục bình trôi bập bềnh trên mặt nước. Buổi sáng, khi mặt trời chưa mọc, dòng sông như được phủ bằng một màn sương mỏng. Buổi trưa, nước sông gờn gợn lăn tăn. Những ngày hè nóng bức tôi thường nhảy ùm xuống sông, lặn ngụp trong làn nước mát để xua đi cái nóng oi ả, tôi có cảm giác như sông đang ôm gọn tôi vào lòng. Sông dịu dàng như một người mẹ đối với con. Dòng sông này đã để lại cho tôi những kỉ niệm êm đềm. Nhớ ngày nào tôi chưa biết bơi, mẹ dắt tôi ra sông tắm, tôi sợ và hét ầm rồi khóc. Thế mà giờ đây tôi bơi lội rất giỏi như một con rái cá. Tôi thầm cảm ơn sông đã giúp tôi trở thành một con người mạnh mẽ và đó cũng chính là món quà mà sông đã dành cho tôi. Sông đẹp nhất vào các ban đêm khi có trăng sáng. Trăng tròn vành vạnh như một chiếc đĩa vàng soi bóng xuống dòng sông. Dòng sông nhận được ánh sáng dìu dịu của trăng trở nên bàng bạc, lấp lánh. Gió thổi nhẹ, tôi ra bãi cát ven sông hỏng mát và vui chơi.
vanhoc
Tiếng Jrai (Gia Rai) là một ngôn ngữ thuộc ngữ chi Malay-Polynesia, được người Jrai tại Việt Nam và Campuchia sử dụng. Số lượng người nói tiếng Jrai là khoảng 332.557. Họ chủ yếu là các nhóm sắc tộc sinh sống tại khu vực Tây Nguyên của Việt Nam. Họ là nhóm lớn nhất trong số các nhóm dân tộc vùng cao của Tây Nguyên, được gọi là Đêga hoặc người Thượng, và 25% dân số ở tỉnh Ratanakiri của Campuchia. Ngôn ngữ này thuộc phân nhóm ngôn ngữ Chăm của ngữ tộc Malay-Polynesia, và vì thế có quan hệ gần gũi với tiếng Chăm ở miền trung Việt Nam. Một số lượng người Jrai cũng sống tại Hoa Kỳ, tái định cư tại đây sau Chiến tranh Việt Nam. Âm vị học Chịu ảnh hưởng của nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer xung quanh, các từ của các thứ tiếng Chăm khác nhau tại Đông Nam Á, bao gồm cả tiếng Jrai (Gia Rai), đã trở thành từ hai âm tiết với trọng âm trên âm tiết thứ hai. Ngoài ra, tiếng Jrai đã phát triển theo kiểu Môn-Khmer, làm mất đi gần như mọi khác biệt nguyên âm trong âm tiết ban đầu. Trong khi các từ ba âm tiết cũng tồn tại, nhưng chúng chỉ là những từ vay mượn. Một từ trong tiếng Jrai điển hình có thể biểu diễn như sau: (C)(V)-C(C)V(V)(C) trong đó các giá trị trong ngoặc là tùy chọn và "(C)" trong cụm "C(C)" là thể hiện cho phụ âm nước /l/, /r/ hay bán nguyên âm /w/, /y/. Trong phương ngữ Jrai nói tại Campuchia, "(C)" trong cụm "C(C)" cũng có thể là phụ âm xát vòm mềm kêu /ɣ/, một âm vị được người Jrai tại Campuchia sử dụng, nhưng không được chứng thực tại Việt Nam. Nguyên âm của âm tiết thứ nhất trong từ hai âm tiết thông thường nhất là nguyên âm giữa-trung tâm không uốn tròn môi, /ə/, trừ khi phụ âm đầu tiên là âm bật thanh môn không kêu /ʔ/. Nguyên âm thứ hai của âm tiết có trọng âm sinh ra nguyên âm đôi. Đọc thêm Pittman R. S. (1957). Jrai as a member of the Malayo-Polynesian family of languages. Fargo, N.D.: Summer Institute of Linguistics, Đại học North Dakota. Reed R. (1976). Jorai primer, guide and writing book. Vietnam education microfiche series, no. VE55-01/08/04. Huntington Beach, Calif: Summer Institute of Linguistics. Tong Nang N. (1975). An outline of Jarai grammar. Vietnam data microfiche series, no. VD55-01. Huntington Beach, Calif: Summer Institute of Linguistics. Tham khảo Liên kết ngoài Ethnologue report for Jarai language Preliminary research on Jarai phonology in Cambodia Fairly comprehensive bibliography of Jarai language research Ngôn ngữ Chăm Ngôn ngữ tại Việt Nam Ngôn ngữ tại Campuchia
wiki
sinh ngày 20 tháng 3 năm 1983, là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nhật Bản hiện thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Strasbourg tại Ligue 1. Kawashima thi đấu ở Nhật Bản cho các câu lạc bộ Omiya Ardija, Nagoya Grampus Eight và Kawasaki Frontale trước khi sang Bỉ chơi cho Lierse năm 2010. Sau đó, anh gia nhập thi đấu cho Standard Liège từ 2012 đến 2015, và Dundee United ở Scotland từ 2015 đến 2016. Kawashima ra mắt đội tuyển quốc gia Nhật Bản vào năm 2008. Anh đã đại diện cho quốc gia của mình tại các kỳ World Cup 2010, 2014, 2018, 2022 và các kỳ Asian Cup 2011, 2015, 2019, ra sân 95 trận đấu. Danh hiệu Nhật Bản Cúp bóng đá châu Á: Cúp bóng đá châu Á 2011 Cá nhân Đội hình tiêu biểu J.League: 2009 Giải Fair-Play J.League: 2009 Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ '' Quốc tế Tham khảo Liên kết ngoài Thủ môn bóng đá Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản ở nước ngoài Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Pháp Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Scotland Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Bỉ Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-20 quốc gia Nhật Bản Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Nhật Bản Cầu thủ Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2010 Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014 Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
wiki
Dua Lipa (; , sinh ngày 22 tháng 8 năm 1995) là một nữ ca sĩ, nhạc sĩ, nhà thiết kế thời trang, diễn viên, người mẫu đến từ Anh Quốc. Sự nghiệp âm nhạc của cô bắt đầu từ năm 14 tuổi với các video ca nhạc tại nhà được đăng tải trên YouTube. Năm 2015, sau khi quyết định từ bỏ sự nghiệp người mẫu, cô ký hợp đồng với Warner Music Group, phát hành đĩa đơn đầu tiên. Dua Lipa đã nhận được nhiều đánh giá tích cực và vô vàn giải thưởng lớn nhỏ trong suốt thời gian hoạt động nghệ thuật, trong đó phải kể đến 6 giải thưởng Brit Awards, 3 giải thưởng Grammy Awards, 2 kỷ lục Guinness thế giới. Việc phát hành đĩa đơn "New Rules" đã là một bước tiến lớn trong sự nghiệp của bông hồng Anh Quốc, giúp cô nhận được 5 đề cử tại Brit Awards 2018, giữ kỷ lục là nghệ sĩ nữ được đề cử nhiều nhất trong một đêm tại lễ trao giải này. Với sức bùng nổ của "New Rules" tiếp tục lan rộng tại thị trường châu Mỹ và toàn cầu, Dua Lipa đã dần chiếm được thiện cảm của các nhà đánh giá chuyên môn cũng như khán giả, dấu ấn quan trọng nhất trong giai đoạn này của cô là nhận được giải thưởng cho Nghệ sĩ mới xuất sắc nhất tại Grammy Awards 2019. Khoảng thời gian sau đó, cô liên tiếp cho ra mắt nhiều bản nhạc nổi tiếng khác như "One Kiss", "IDGAF", "Kiss and Make Up", "Electricity", trong đó ca khúc đầu tiên được nhắc đến đạt vị trí #1 trên 34 bảng xếp hạng khác nhau, và ca khúc sau cùng chiến thắng giải Grammy cho ca khúc nhạc dance xuất sắc nhất năm. Trong năm 2018, Dua Lipa cũng đảm nhận vai trò hát chính trong trận chung kết UEFA Champions League giữa Real Madrid và Liverpool tại sân vận động NSC Olimpiyskiy, với sức chứa lên đến 60.000 người. Đây cũng chính là nơi bắt nguồn cho cơn sốt viral mang tên "One Kiss" trên Tiktok vào giữa năm 2022. Cuối năm 2019, Dua Lipa phát hành ca khúc nổi tiếng nhất cho đến thời điểm hiện tại của mình, "Don't Start Now", đây là ca khúc thành công nhất của nghệ sĩ nữ trong năm tại thị trường Hoa Kỳ. Lần lượt hai đĩa đơn dẫn đường sau đó "Physical" và "Break My Heart" cũng được ra mắt để quảng bá cho album "Future Nostalgia". Album phòng thu thứ 2 của Dua Lipa là một cơn lốc xoáy với thị trường âm nhạc trong thời gian đại dịch COVID-19 bùng phát dữ dội với quy mô toàn cầu. Cũng chính từ đó, cô được ca ngợi là người dẫn đầu làm nổi bật xu thế "retro", người mang disco quay trở lại với hiện đại, là một game-changer cho làng nhạc pop, hay cũng được gọi là Nữ Hoàng nhạc Disco thời đại mới. "Future Nostalgia" được vinh danh là album ca nhạc hay nhất năm tại Brit Awards và cũng là album nhạc pop xuất sắc nhất tại Grammy Awards 2021. Thuở thơ ấu Dua Lipa lớn lên cùng với tài năng âm nhạc được biểu lộ từ rất sớm. Từ nhỏ, cô đã khám phá ra nguồn cảm hứng âm nhạc của bản thân khi được tặng những chiếc album đầu tiên ("Whoa, Nelly!" của Nelly Furtado và "M!ssundaztood" của P!nk). Lipa được học rất nhiều về thanh nhạc và nhạc cụ, đầu tiên là bắt đầu với nhạc cụ Cello, tuy rất yêu thích nó, nhưng cô chia sẻ đã phải bỏ cuộc vì quá khổ sở để di chuyển. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, Dua cùng gia đình chuyển đến Priština, thủ đô Kosovo. Cũng vào thời điểm này, sự lan rộng của văn hóa hip hop đến Kosovo ngày càng phát triển, đặc biệt hơn là bố của Dua lại tham gia sản xuất một số buổi hòa nhạc lớn tại nơi đây nên cô có dịp được tham dự các lễ hội âm nhạc với sự góp mặt của Method Man, Redman, Snoop Dog và 50 Cent. Từ đó, Dua nhận ra trong phong cách âm nhạc của mình có sự tác động lớn bởi văn hóa này. Tự thân quay trở lại Luân Đôn năm 14 tuổi, Dua Lipa bắt đầu với công việc người mẫu cho các cửa hàng thời trang của ASOS Marketplace cho đến khi cô được yêu cầu phải giảm cân lập tức để thực hiện các bộ sưu tập ảnh khác, cô đã từ chối và quyết định từ bỏ công việc này. Sự nghiệp 2015–18: Dua Lipa và See in Blue Năm 2015, Lipa bắt đầu cho ra mắt ca khúc đầu tay của mình với Warner Music Group, mang tên "New Love". Tiếp sau đó là đĩa đơn đầu tiên được quảng bá rộng rãi, "Be The One", vào tháng 10 năm 2015. Ca khúc đã đạt được những thành công vang dội trên khắp châu Âu, bao gồm vị trí số 1 trên các bảng xếp hạng chính thức ở Bỉ, Ba Lan và Slovakia, và các thứ hạng khác trong top 10 của hơn 11 quốc gia thuộc châu Âu. Vào ngày 18 tháng 2 năm 2016, Lipa tiếp tục cho phát hành đĩa đơn "Last Dance", tiếp theo là "Hotter than Hell" vào ngày 6 tháng 5 cùng năm. Ngày 26 tháng 8, đĩa đơn thứ 5 mang tên "Blow Your Mind (Mwah)" được phát hành, trở thành ca khúc đầu tiên của cô xuất hiện trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ, ra mắt ở vị trí 72. "Blow Your Mind (Mwah)" cũng đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Dance Clubs Songs và đạt vị trí 23 trên Billboard Mainstream Top 40. Ở những nơi khác, bài hát cũng đạt được thành công nhất định, đạt vị trí top 20 tại Bỉ, Hungary, New Zealand và Scotland. Ở Anh Quốc, đĩa đơn đứng ở vị trí thứ 30, trở thành đĩa đơn xếp hạng cao thứ hai của Lipa trên lãnh thổ Anh (sau "Be The One" ở vị trí 9). Tiếp tục sau đó là các ca khúc khác đã và đang trở nên rất phổ biến tại thị trường Việt Nam như: "No Lie", "Scared to Be Lonely",... Album phòng thu đầu tay của cô được phát hành vào ngày 2 tháng 6 năm 2017, trong đó bao gồm đĩa đơn thứ bảy, "New Rules" , đã trở thành bài hát hot nhất của Lipa vào thời điểm đó. Việc đặt chân lên vị trí đầu bảng xếp hạng các ca khúc thành công trong tuần tại Anh Quốc, nó đã trở thành ca khúc đầu tiên trong gần hai năm của một nghệ sĩ nữ đạt được thành tích trên tại quốc gia này, kể từ sau "Hello" của Adele vào năm 2015. 2019–nay: Future Nostalgia Danh sách đĩa nhạc Dua Lipa (2017) Future Nostalgia (2020) Chuyến lưu diễn Headlining The Self-Titled Tour (2017–2018) Future Nostalgia Tour (2022) Giải thưởng và đề cử Tham khảo Liên kết ngoài MusicFeeds interview (April 2016) See in Blue documentary (The Fader, December 2016) Sinh năm 1995 Ca sĩ Anh thế kỷ 21 Nữ người mẫu Anh Nữ ca sĩ pop Anh Nhân vật còn sống Ca sĩ Luân Đôn Ca sĩ nhạc synthpop Nghệ sĩ của Warner Bros. Records Nữ ca sĩ thế kỷ 21 Người Anh gốc Albania Người Anh gốc Kosovo Người đoạt giải BRIT Ca sĩ Vương quốc Liên hiệp Anh thế kỷ 21 Nhà hoạt động xã hội Vương quốc Liên hiệp Anh Người Vương quốc Liên hiệp Anh theo chủ nghĩa nữ giới Nhà hoạt động xã hội Anh Người Anh theo chủ nghĩa nữ giới Ca sĩ mezzo-soprano Anh Người đoạt giải Grammy Người Westminster Nhạc sĩ theo chủ nghĩa nữ giới Cựu sinh viên Trường Sân khấu Sylvia Young Người bảo vệ quyền trẻ em Nhà hoạt động quyền LGBT Anh Ca sĩ tự sáng tác người Anh
wiki
Oracle Database (thường được gọi là Oracle DBMS hoặc đơn giản là Oracle) là một hệ quản trị cơ sở dữ liệu đa mô hình do Tập đoàn Oracle sản xuất và tiếp thị. Đây là cơ sở dữ liệu thường được sử dụng để chạy các khối lượng công việc xử lý giao dịch trực tuyến (OLTP), kho dữ liệu (DW) và hỗn hợp (OLTP & DW). Cơ sở dữ liệu Oracle có sẵn bởi một số nhà cung cấp dịch vụ tại chỗ, trên đám mây hoặc dưới dạng cài đặt đám mây kết hợp. Nó có thể được chạy trên máy chủ của bên thứ ba cũng như trên phần cứng Oracle (Exadata tại chỗ, trên Oracle Cloud hoặc tại Đám mây của Khách hàng). Lịch sử Larry Ellison cùng hai người bạn và đồng nghiệp cũ của mình, Bob Miner và Ed Oates, bắt đầu một công ty tư vấn có tên Phòng thí nghiệm Phát triển Phần mềm (SDL) vào năm 1977. SDL đã phát triển phiên bản gốc của phần mềm Oracle. Cái tên Oracle xuất phát từ tên mã của một dự án do CIA tài trợ mà Ellison đã từng làm việc trong thời gian trước đây làm việc cho Ampex. Bản phát hành và phiên bản Các sản phẩm của Oracle tuân theo quy ước đánh số và đặt tên bản phát hành tùy chỉnh. Chữ "c" trong bản phát hành hiện tại, Oracle Database 19c, là viết tắt của "Cloud". Các bản phát hành trước (ví dụ: Cơ sở dữ liệu Oracle 10g và Cơ sở dữ liệu Oracle9i) đã sử dụng các hậu tố "g" và "i" tương ứng là viết tắt của "Grid" và "Internet". Trước khi phát hành Cơ sở dữ liệu Oracle8i, không có hậu tố nào được quy ước đặt tên Cơ sở dữ liệu Oracle. Lưu ý rằng không có v1 của Cơ sở dữ liệu Oracle, vì đồng sáng lập Larry Ellison "biết rằng sẽ không ai muốn mua phiên bản 1". Việc đánh số phát hành RDBMS của Oracle đã sử dụng các mã sau: Tham khảo Hệ quản trị cơ sở dữ liệu
wiki
Désirée Patricia Bernard (sinh ngày 2 tháng 3 năm 1939) là một luật gia người người Guyana, là nữ thẩm phán đầu tiên tại Tòa thượng thẩm năm 1980 và Tòa phúc thẩm tối cao năm 1992. Bà được bổ nhiệm làm Chánh án tối cao Guyana năm 1996, và là Thẩm phán của Tòa án Công lý Caribbea năm 2005. Năm 2014, bà được bổ nhiệm vào Tòa phúc thẩm Bermuda. Đầu đời và giáo dục Bernard được sinh ra tại Georgetown vào ngày 2 tháng 3 năm 1939, là con duy nhất của William và Maude Bernard. Cha bà là một trung sĩ cảnh sát. Bà theo học trường St Ambrose ở Georgetown và giành được một vị trí tại trường trung học Bishops. Bà dự định trở thành một giáo viên, cho đến khi một người bạn của gia đình khuyến khích bà theo học ngành luật. Bà có bằng Cử nhân Luật hạng ưu của Đại học London năm 1963. Nghề nghiệp Bernard đủ điều kiện làm luật sư vào năm 1964 và hành nghề tư nhân cho đến năm 1980. Bà được bổ nhiệm làm Thẩm phán năm 1970 và là Ủy viên Lời thề và Công chứng năm 1976. Bernard được bổ nhiệm làm Thẩm phán nữ đầu tiên tại Tòa án tối cao Guyana năm 1980, và là nữ thẩm phán Tòa phúc thẩm tiên vào năm 1992. Sau đó, bà trở thành Chưởng hiến Tư pháp của Guyana. Năm 1997, bà phán quyết rằng Janet Jagan có quyền lập hiến làm Tổng thống sau khi cuộc bầu cử bị thách thức tại tòa án. Bernard đã phục vụ như một thẩm phán của Tòa án Công lý Caribbea từ khi cơ quan này thành lập năm 2005, công lý nữ duy nhất của tòa án, cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2014. Khi bà nghỉ hưu Tòa án đã có một phiên họp đặc biệt để vinh danh bà, với Chưởng hiến Tư pháp và Tổng thư ký Caricom phát biểu ca ngợi vai trò tiên phong của Bernard trong việc khuyến khích phụ nữ hành nghề luật trong khu vực." Năm 2011, Bernard được bổ nhiệm làm thẩm phán của Tòa án Hành chính Ngân hàng Phát triển Liên Mỹ tại Washington, D.C.. Vào tháng 12 năm 2014, bà được Thống đốc George Fergusson bổ nhiệm vào Tòa phúc thẩm Bermuda. Bernard là người sáng lập Hiệp hội Phụ nữ Caribbean, phục vụ từ năm 1970 đến năm 1974, và là phụ nữ đầu tiên và duy nhất giữ chức Chủ tịch của Tổ chức Hiệp hội Luật sư Khối thịnh vượng chung năm 1976. Năm 1981, bà được chỉ định làm chủ tịch của một hồi đồng kiểm tra tất cả các luật nhằm xóa bỏ phân biệt đối xử đối với phụ nữ, dẫn đến bãi bỏ một số luật và bãi bỏ Đạo luật Bastardly. Năm 1987, bà thành lập Hiệp hội Luật sư Phụ nữ Guyana. Bà đã tham gia vào việc thành lập Văn phòng Trợ giúp pháp lý Georgetown và làm Chủ tịch Hội đồng quản trị trong nhiều năm. Bà cũng là Chủ tịch Câu lạc bộ Toastmistress Georgetown và là thành viên của nhiều hiệp hội bao gồm Hiệp hội người tiêu dùng Guyana, Hội đồng của Đại học Guyana, Hội đồng Nhận con nuôi Guyana và Hiệp hội hướng đạo nữ Guyana. Bernard là một báo cáo viên của Ủy ban Liên hợp quốc về xóa bỏ phân biệt đối xử từ năm 1982 đến năm 1984, và sau đó là Chủ tịch của Ủy ban từ năm 1985 đến năm 1989. Bernard đã viết bài về các vấn đề giới và pháp lý. Năm 2013, bà đã hoàn thành nghiên cứu về "Tính tương thích của Tòa án Công lý Caribbean với Hiệp ước Chaguaramas sửa đổi" sau khi nhận được học bổng từ Viện Nghiên cứu Pháp lý Cao cấp ở London. Giải thưởng và danh dự Bernard đã nhận được hai trong số ba giải thưởng quốc gia cao nhất của Guyana, Cacique Crown of Honor và Huân chương Roraima. Năm 2005, bà nhận được Giải thưởng ba năm 1 lần của CARICOM dành cho phụ nữ với vai trò ủng hộ sự phát triển của phụ nữ. Năm 1989, Bernard đã được trao giải thưởng của Đại học Guyana cho thành tựu về luật. Năm 2007, bà được Đại học Tây Ấn trao tặng một Tiến sĩ Luật danh dự. Vào tháng 10 năm 2017, bàđược Hiệp hội hữu nghị Guyana-Jamaica vinh danh tại thành phố New York. Cuộc sống cá nhân Bernard là người độc thân và có một cô con gái nuôi, Carol, một luật sư ở Trinidad và Tobago. Bà là người theo đạo Thiên chúa và là người phụ nữ đầu tiên làm pháp quan của Giáo phận Anh giáo Guyana. Tác phẩm Tham khảo Cựu sinh viên Đại học Luân Đôn Sinh năm 1939 Nhân vật còn sống
wiki
Trong những cuộc trò chuyện xuyên suốt cuốn sách Chữa lành những sang chấn tuổi thơ, Oprah Winfrey và bác sĩ Perry tập trung vào việc hiểu con người, hành vi và bên trong nội tâm chúng ta. “Chúng tôi hy vọng rằng thông qua những trang sách này, chúng tôi sẽ giúp mọi người đồng cảm hơn với bản thân và những người khác khi chúng ta học cách chuyển từ câu hỏi ‘Bạn có vấn đề gì vậy?’ sang ‘Chuyện gì đã xảy ra với bạn?’”, bà bày tỏ. Chữa Lành Những Sang Chấn Tuổi Thơ sẽ giúp độc giả hiểu được hành vi của người khác và cả chính chúng ta thông qua những câu chuyện trong quá khứ của Winfrey, khi bà từng trải qua “sự tổn thương do phải đối mặt với nhiều đau buồn và nghịch cảnh khi còn nhỏ. Trong những cuộc trò chuyện xuyên suốt cuốn sách, Oprah Winfrey và bác sĩ Perry tập trung vào việc hiểu con người, hành vi và bên trong nội tâm chúng ta. Đó là một sự thay đổi tinh tế nhưng sâu sắc trong cách tiếp cận của chúng ta đối với những tổn thương và cho phép chúng ta hiểu quá khứ của mình để dọn đường cho tương lai, mở ra cánh cửa giúp phục hồi và chữa lành một cách mạnh mẽ. Nói về quyển sách Chữa lành những sang chấn tuổi thơ, Oprah Winfrey chia sẻ: “Điều tôi được biết sau các cuộc trò chuyện với quá nhiều các nạn nhân phải chịu sang chấn, bị lạm dụng hoặc bỏ rơi là: sau khi thấm thía những trải nghiệm đau lòng, đứa trẻ bắt đầu cảm thấy đau. Khao khát được cần đến, được công nhận và được có giá trị bắt đầu lớn dần. Khi lớn lên, đứa trẻ thiếu mất khả năng đặt ra tiêu chuẩn cho những gì mình xứng đáng. Vá nếu sự thiếu thốn ấy không được giải quyết, điều tiếp theo xảy đến sẽ là hành vi tự huỷ hoại, bạo lực, lang chạ hoặc nghiện ngập. Đó là nơi công việc của tôi bắt đầu – công việc đào bới cái gốc rễ đã ăn sâu từ lâu trước khi ta lên tiếng nói rõ chuyện đã xảy ra với mình. Tiến sĩ Perry đã giúp tôi mở mang tầm mắt về cách mà những trải nghiệm đau đớn, cay nghiệt, đáng sợ hoặc cô lập có thể bị chôn sâu trong não bộ, dù chúng chỉ thoáng qua vài giây hoặc đã kéo dài nhiều năm. Khi bộ não ta phát triển và liên tục thu thập trải nghiệm mới để hiểu về thế giới xung quanh, mỗi khoảnh khắc đến sau lại chồng lên tất cả những khoảnh khắc đến trước. Tôi luôn hiểu rõ câu nói trong hạt sồi có cây sồi. Và qua công việc của mình với Tiến sĩ Perry, tôi biết cả điều này cũng đúng: Nếu muốn hiểu cây sồi, ta phải trở lại với hạt sồi.” Tiến sĩ Bruce D. Perry sẽ giải thích trong cuốn sách Chữa lành những sang chấn tuổi thơ ( What Happened To You? | Conversations On Trauma, Resilience, And Healing ) giúp chúng ta hiểu được cách bộ não phản ứng trước căng thẳng hay sang chấn đầu đời, từ đó ta sẽ hiểu rõ cách mà những điều đã qua có thể định hình con người ta, cách ta hành xử và lý do vì sao ta lại làm những việc mà ta đang làm. Qua lăng kính này, ta có thể hình thành một ý thức mới về giá trị bản thân và sau cùng là điều chỉnh lại phản ứng của mình đối với các hoàn cảnh, tình huống và các mối quan hệ. Nói cách khác, đó là bí quyết để ta định hình lại cuộc đời mình. “Chữa Lành Những Sang Chấn Tuổi Thơ” là cuốn sách giúp bạn khám phá những tác động của mất mát đau thương, ngược đãi, lạm dụng tình dục, phân biệt chủng tộc, kỳ thị nữ giới, bạo lực gia đình, bạo lực cộng đồng, các vấn đề bản dạng giới và tình dục, án oan… để từ đó giúp ta hiểu thêm về sức khỏe, quá trình chữa lành cũng như khả năng phục hồi và trưởng thành sau sang chấn. Và câu hỏi cơ bản “Điều gì đã xảy ra?” có thể giúp mỗi chúng ta hiểu thêm một chút về cách mà những trải nghiệm – cả tốt lẫn xấu – định hình con người mình. Khi chia sẻ những câu chuyện và khái niệm khoa học này, tác giả hy vọng mỗi người đọc, theo từng cách riêng, sẽ có được những chiêm nghiệm riêng để từ đó có thể sống tốt hơn, trọn vẹn hơn. Quỳnh Anh
vanhoc
Bài làm Văn thơ Hồ Chí Minh là di sản tinh thần vô giá, sự nghiệp chính của Người không phải là sự nghiệp văn học nhưng trên con đường hoạt động cách mạng, Người đã nhận ra vai trò của văn học và đã biến văn chương trở thành vũ khí chiến đấu sắc bén. Đó cũng là quan điểm văn chương của Hồ Chí Minh. Trong bài “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi”, Hồ Chí Minh đã viết: “Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông Nay ở trong thơ nên có thép Nhà thơ cũng phải biết xung phong” Thơ xưa thường lấy thiên nhiên làm đối tượng phản ánh, thể hiện lói sống thanh cao, trong sạch. Trong thời đại cách mạng, Hồ Chí Minh quan niệm thơ ca không phải chỉ có chất lãng mạn mà còn phải có cả chất “thép”. Chất “thép” được Người đề cập đến ở đây là tính chiến đấu, vũ khí văn học, nhà thơ phải biến mình trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Hồ Chí Minh xem hoạt động văn học là hoạt động tinh thần phong phú phục vụ hiệu quả cho sự đấu tranh cách mạng. “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em phải là người chiến sĩ trên mặt trận ấy”(Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951). Người đã chỉ ra bản chất của văn học đứng từ góc độ người chiến sĩ để nhìn nhận văn học. Hồ Chí Minh quan niệm sức mạnh của văn học cốt ở tính chân thật, hiên thực. Người yêu cầu người nghệ sĩ phải miêu ta cho đúng, cho hay, cho chân thật hiện thực cuộc sống và con người cách mạng, phải tánh lối viết cầu kì, rắc rối, xa lạ. Văn chương phải đi vào nỗi đau khổ con người, đi vào cuộc chiến đấu của dân tộc, phát hiện và ngợi ca những con người anh hùng, cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc chiến chống kẻ thù. Người yêu cầu người cầm bút phải ý thức,giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Đồng thời cũng phải thể hiện được tinh thần dân tộc, tinh thần nhân dân và được nhân dân yêu thích.
vanhoc
Mataram (tiếng Indonesia: Kota Mataram) là thủ phủ của tỉnh Tây Nusa Tenggara ở Indonesia. Thành phố được bao quanh ở tất cả các phía trên đất liền bởi huyện Tây Lombok (Kabupaten Lombok Barat) và nằm ở phía tây của đảo Lombok, Indonesia. Đây cũng là thành phố lớn nhất của tỉnh Tây Nusa Tenggara với dân số khoảng 402.296 người trong Tổng điều tra dân số năm 2010; ước tính chính thức mới nhất (tính đến tháng 1 năm 2014) là 420.941 người. Ngoài vai trò là thủ phủ, Mataram còn là trung tâm hành chính, giáo dục, thương mại, công nghiệp và dịch vụ của tỉnh. Ba thị trấn tạo thành thành phố Mataram từ tây sang đông đó là Ampenan, Mataram và Cakranegara. Chúng là những thị trấn riêng biệt, nhưng được điều hành cùng nhau. Đại khái thì Ampenan là thành phố cảng lâu đời, Mataram là trung tâm văn phòng và chính phủ còn Cakranegara là trung tâm thương mại. Thành phố được phân chia về mặt hành chính thành sáu quận (kecamatan), cụ thể là Ampenan, Cakranegara, Mataram, Pejanggik, Selaparang và Sekarbela. Mataram chứa 50 kungung và 297 kampung. Thành phố có sân bay quốc tế Lombok (Bandara Internasional Lombok) (IATA: LOP, ICAO: WADL) gần thị trấn Praya ở huyện Trung Lombok, cảng biển Lembar ở phía tây nam và cảng phà Labuhan Lombok nối thành phố với Poto Tano trên đảo Sumbawa. Trung tâm thành phố Mataram nằm gần bờ biển phía tây của Lombok, vì vậy nó rất gần với trung tâm du lịch bãi biển Senggigi trên đảo, cách một quãng ngắn về phía bắc từ Ampenan. Mataram từng là thủ phủ của huyện Tây Lombok trước khi được tách ra vào năm 2000, sau đó thủ phủ của huyện Tây Lombok được dời về thị trấn Gerung. Mataram cũng là nơi nắm quyền của vua Mataram (Seraja), đôi khi được kiểm soát bởi hai nước láng giềng, Singaraja và Bali thời xưa. Hành chính Dr. Zulkiflymansyah, thống đốc của tỉnh Tây Nusa Tenggara (Mataram là thủ phủ của tỉnh). Nhiệm kì từ 2018-2023. M. Zainul Majdi, thống đốc của tỉnh Tây Nusa Tenggara. Nhiệm kì từ 2008-2018. H Ahyar Abduh – H Mohan Roliskana đã tuyên thệ nhậm chức tại tòa thị chính của thành phố Mataram, nhiệm kì từ 2010-2015 vào ngày 10/08/2010. 63,2% cư dân của thành phố đã tham gia bỏ phiếu bầu thị trưởng mới của thành phố (175.386 người tham gia bỏ phiếu) trên tổng dân số khoảng 277.499 người của thành phố. Ranh giới Thành phố gồm 6 quận và 50 kampung. Quận Cakranegara Mataram Selaparang Pejanggik Ampenan Sekarbela Dịch vụ và phát triển Điện ở thành phố được cung cấp bởi một nhà máy phát điện PLN ở bờ biển phía tây của hòn đảo, ngay phía nam thị trấn Ampenan. Mataram và toàn bộ hòn đảo đã phải chịu đựng các vấn đề nghiêm trọng về cung cấp điện trong nhiều năm, với thời gian lên đến đỉnh điểm là vào giữa năm 2010. Mặc dù nhà máy PLN được đảm bảo sẽ cung cấp điện ổn định từ tháng 8 năm 2010, vấn đề này vẫn tồn tại và hòn đảo vẫn phải chịu sự cố mất điện hàng ngày thường xuyên. Nguồn cung cấp nước của thành phố chủ yếu từ sườn núi Rinjani và thành phố có một hệ thống đập nhỏ để đệm hệ thống (?). Nước ở thành phố đang bị thiếu hụt do nguồn cung cấp nước đang gặp vấn đề (?). Tỉnh Tây Nusa Tenggara đang bị đe dọa với một cuộc khủng hoảng nước gây ra bởi sự suy thoái của rừng và nguồn nước ngầm. 160.000 hecta trong tổng số 1.960.000 hecta rừng được cho là đã bị ảnh hưởng. Trưởng phòng Bảo vệ Môi trường và Dịch vụ Lâm nghiệp Rừng Tây Nusa Tenggara Andi Pramari tuyên bố vào thứ Tư, ngày 6/5/2009 rằng, "Nếu tình trạng này không được giải quyết, có thể dự đoán rằng trong vòng năm năm nữa, mọi người ở khu vực này có thể khó lấy được nước". Không chỉ vậy, năng suất nông nghiệp trong giá trị gia tăng sẽ giảm và giếng của người dân đang bị thiếu nước. Nạn trộm cắp gỗ cũng góp phần gây ra vấn đề này. Do sự chậm trễ trong việc mở sân bay Quốc tế Lombok mới ở huyện Trung Lombok đã dẫn tới việc đóng cửa sân bay Selaparang ở Ampenan đã bị trì hoãn. Vì vậy sân bay Selaparang tiếp tục được sử dụng cho cả các chuyến bay nội địa và quốc tế cho đến khi bị đóng cửa vào ngày 30/9/2011. Việc mở rộng sân bay Selaparang bị hạn chế bởi vị trí ở gần kề với những ngọn đồi ở phía bắc. Tình trạng phát triển đô thị hiện nay ở đảo là một hạn chế lớn đối với việc mở rộng các sân bay và đường băng hiện có. Việc khai trương sân bay quốc tế Lombok được dự kiến sẽ tăng cường sự phát triển không nhỏ của thành phố Mataram nói riêng và cả tỉnh Tây Nusa Tenggara nói chung. Sân bay quốc tế Lombok là một sân bay quốc tế mới được thành lập ở phía Đông Nam thành phố Mataram và ngay phía nam của thị trấn Praya. Các cột mốc của dự án Lombok trị giá 138,9 triệu đô la Mỹ (Giai đoạn 1) là: Đánh giá kế hoạch tổng thể năm 1993 vào năm 2005; thiết kế chi tiết từ năm 2005-2006; đấu thầu đầu tư từ năm 2005-2007; đấu thầu xây dựng vào năm 2007; thực hiện từ năm 2008-2011; đi vào hoạt động từ năm 2011 trở đi. Đại học Mataram được thành lập vào ngày 1/10/1962, nằm ở thành phố Mataram. Trường là nơi cung cấp của giáo dục đại học chính trong tỉnh. Nhân khẩu Dân số của thành phố vào khoảng 362.243 người (2008), trong đó có 177.719 người là nam giới và 184.524 người là nữ giới. Cục Thống kê Trung ương tỉnh Tây Nusa Tenggara cho biết, dân số thành phố Mataram 40,74% chưa kết hôn, 52,01% đã kết hôn, 2,51% đã ly hôn và 4,75% là người góa phụ. Dân tộc Người Sasak là người dân bản địa của Lombok và chiếm phần lớn cư dân ở thành phố Mataram. Mataram cũng xuất hiện người Bali, Java, Peranakan, Trung Quốc và một phần nhỏ là người Ả Rập Indonesia, chủ yếu là người gốc Yemen đến khi thành phố từng được gọi là "Ampenan". Mặc dù là cư dân thành thị, nhưng những người Sasak ở Mataram vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc và văn hóa Sasak. Nguyên nhân của sự bùng nổ bạo loạn ở Lombok vào ngày 17/1/2000 được cho là bởi những ảnh hưởng từ phía bên ngoài. Sau khi những rắc rối trôi qua, cộng đồng người dân Mataram đã trở lại sống hòa thuận. Tôn giáo 80% dân số thành phố theo đạo Hồi, theo sau là Ấn Độ giáo với 14% dân số. Một số tôn giáo khác như Kitô giáo, Phật giáo và Nho giáo. Ngôn ngữ Cư dân Mataram thường nói tiếng Sasak, Bahasa Sasak, là ngôn ngữ bản địa của người dân Lombok. Tiếng Indonesia là ngôn ngữ được sử dụng rộng rãi nhất trong bối cảnh kinh doanh chính thức, giáo dục và chính phủ. Khi ở nhà hoặc nơi công cộng, cư dân Mataram có xu hướng sử dụng tiếng Sasak. Tham khảo Liên kết ngoài Kabupaten Lombok Tengah, huyện Trung Lombok Kabupaten Lombok Timur, huyện Đông Lombok Kabupaten Lombok Barat, huyện Tây Lombok Khu dân cư ở Lombok Địa lý Lombok Tỉnh lỵ Indonesia Thành phố của Indonesia
wiki
Chinawut-Stéphane Indracusin hay Chinawut Indracusin (tiếng Thái: ชินวุฒ อินทรคูสิน, sinh ngày 13 tháng 08 năm 1989) còn có nghệ danh là Chin, là một ca sĩ, diễn viên, người mẫu, vũ công và nhà soạn nhạc người Thái Lan. Tiểu sử Sinh ngày 13 tháng 8 năm 1989 tại Bangkok, Thái Lan, có mẹ là người Pháp và cha là người Thái Lan, anh có một em gái là Sophie Marguerite, một nữ diễn viên và vũ công. Chinawut bắt đầu sự nghiệp từ rất sớm bằng cách đăng ký với hãng thu âm lớn nhất Thái Lan, GMM Grammy đã chọn anh cho G-JUNIOR. Chin cuối cùng đã có cơ hội phát hành album của riêng mình, "Chin Up" vào tháng 5 năm 2007. Chin đã đi đến Thành phố New York để làm việc với album Có lẽ tôi xấu. Vào mùa thu năm 2008, Chin đã thực hiện một quảng cáo của Malaysia giới thiệu một chiếc Sony Skinny T. Với quảng cáo này, anh đã thu âm một số bài hát của mình bằng tiếng Trung, bao gồm 'Term Mai Keuy Tem', 'Roo Chai Mai Wa Ruk' và 'Keun Tee Neung'. Anh hiện là người dẫn chương trình cho Máy ảnh kỹ thuật số Sony Skinny T ở Malaysia và là ca sĩ nổi tiếng ở Malaysia. Chin đóng vai chính trong bộ phim truyền hình gốc Đài Loan Love 18 với vai Joshua. Và vào năm 2016, anh đã phát hành đĩa đơn mới "Jub - Yo" x Gavin Duval. Anh còn phục vụ Quân đội Hoàng gia Thái Lan với tư cách là thành viên của Lực lượng Vũ trang và là nghệ sĩ của Quân đội Hoàng gia Thái Lan. Sự nghiệp Chinawut bắt đầu sự nghiệp của mình từ rất sớm khi đăng ký với hãng thu âm lớn nhất ở Thái Lan, GMM Grammy đã chọn anh ấy cho chương trình phát triển nghệ sĩ trẻ G-JUNIOR. Năm 2003, Chin và hai nhạc sĩ khác trong G-JUNIOR, Jay và Guy đã cùng nhau thành lập một nhóm nhạc tên là Big 3. Âm nhạc mà họ phát hành vào thời điểm đó được dán nhãn là hip hop nhưng sau đó đã được tái tạo được phân loại thành pop và R&B. Sau khi phát hành album "We are Big 3", các chàng trai quyết định tiếp tục sự nghiệp của riêng mình. Chin and Guy phát hành album thứ hai vào năm 2006 với G-JUNIOR và 10 Club. Năm 2007, Chin cuối cùng đã được trao cơ hội phát hành album của riêng mình, "Chin Up " vào tháng 5 năm 2007. Đĩa đơn solo đầu tiên của anh ấy được tung ra, "Pak Mai Trong Gub Jai" đã trở nên cực kỳ thành công ngay lập tức, đứng đầu bảng xếp hạng Thái Lan trong nhiều tuần liên tiếp. Kết quả là, Chin ngày nay là một trong những nghệ sĩ tuổi teen hàng đầu ở Thái Lan. Chin đã đến Thành phố New York để làm việc cho album 'Có lẽ tôi tồi tệ'. Vào mùa thu năm 2008, Chin đã thực hiện một quảng cáo Malaysia giới thiệu một chiếc Sony Skinny T. Đối với quảng cáo này, anh đã thu âm một số bài hát của mình bằng tiếng Trung, bao gồm cả 'Term Mai Koi Tem', ' Roo Chai Mai Wa Ruk 'và gần đây là' Koon Tee Neung '. Anh ấy hiện là người trình bày cho Sony Skinny T Digital Camera tại Malaysia và là một ca sĩ đang ngày càng nổi tiếng ở Malaysia. Ngày 16 tháng 12 năm 2008 anh phát hành album đơn thứ hai "Maybe I'm Bad " gồm 10 bài hát hàng đầu của anh, "One Night Stand" hoặc "Keun Tee Neung". Các bài hát nổi tiếng khác trong album mới này bao gồm "Too Fast Too Serious" và "Hua jai mai chai gra-dard". Cho đến nay, anh ấy đã có 3 video âm nhạc từ album này, một cho "Keun Tee Neung" có sự góp mặt của chính anh, "Too Fast Too Serious" có sự tham gia của anh và ca sĩ sắp ra mắt của Thái Lan trong cùng một hãng DUCKBAR, Fifi-Natasha Josephine Blake và cuối cùng là một cho " Hua hai mai chai gra-dart "có sự tham gia của anh, em gái Sophie và người mẫu Singaporian-Thụy Điển Ase Wang. Chin cũng đã đóng vai chính trong bộ phim truyền hình Đài Loan gốc Love - 18 với vai Joshua và vào năm 2016, anh ấy đã phát hành đĩa đơn mới của mình Jub - Yo x Gavin Duval. Đời tư Chin có mối quan hệ với diễn viên Đài One Pantila Pansirithanachote (Nghệ danh: Lily). Sự nghiệp ca hát Songs as a group member Chinawut appeared as a group member of these groups as following: We Are Big 3 (As Big 3), 2003 Ten Club (As G – Jr), 2006 Music albums and singles Album CHIN UP, 2007 Single Mai Mee Krai Bog Rak, 2008 Album Maybe I'm Bad, 2008 Single Kon Ru Jai (Ost. Series Love-18 Rak Woon Wai Hua Jai 18), 2009 Single Kon Tam Ma Da (Ost. Drama Soot Sanaeha), 2009 Single My Love My Code (Ost. Commercial Ad: CAT 009), 2009 Single Kuen Nee Yak Dai Gee Krang, 2010 Single lan La Feat. Bank Opal, 2010 Single Hai Rak Dern Tang Ma Jer Gun (Ost. Drama 4 Hua Jai Hang Kun Kao: Pathapee Leh Ruk), 2010 Single Nai Wa Ja mai Look Gun Feat. Ter Chantavit Dhanasevi (Ost, Drama Muad Opas), 2011 Single My Bad Habit (Ost. Commercial Ad:Shampoo Pantene), 2012 Single Ter Ja You Nai Jai Kong Chan Sa Mer Feat.Cheranut Yusanonda (Ost. Movie Tong Sook 13), 2013 Single Ya Bok Chan Wa Hai Pai (Ost. Drama Quý ông nhà Jutathep Series: Koon Chai Roon Na Pee / Ảo vọng giàu sang), 2013 Single Nee Kor Rak (feat. Varitthisa Limthammahisorn) (Ost. Drama Nee Kor La Sa Kor Rak), 2014 Single Jab – Yo Chin Chinawut x Gavin Duval", 2017 Single Tian Mai Sin Sang (Ost. Drama Sang Jak Poh Series: Tien Mai Sin Sang), 2017 Single Bpert Jai (Ost. Drama Lab Luang Jai), 2019 Single Kum Nai Jai (Ost. In Time with You), 2021 Single Jub Meua Tur Wai (Ost. Me Always You), 2021 Songs featuring Chin Chinawut Song: First Love First Hurt – B-O-Y Feat.Chin Chinawut, 2008 Song: Took krung tee Kid Tueng Ter – Auttapon Prakopkong Feat.Chin Chinawut, 2010 Song: Whatever Whenever – Kitti Chiawongsakul Feat.Chin Chinawut, 2011 Song: Sorry – Southside Feat.Chin Chinawut, 2011 Song: Gae Ngao rue Aow Jing – Tatan Feat.Chin Chinawut, 2013 Music albums *= Promoted Single Lồng tiếng Birdland Dan Ma Had sa Jan As Jemy (First episode date: ngày 4 tháng 6 năm 2011 (2552)) International career Chin Up: Malaysia Album, 2010 (2551) Yu Jian Ni (Chinese Singles), 2010 (2551) Maybe I’m Bad: Malaysia Album, 2011 (2552) OST. Love.18 (Chinese Singles), 2011 (2552) Sự nghiệp phim ảnh Phim điện ảnh Phim truyền hình T.V. shows 2017 CH7 – Gương mặt thân quen Thái Lan (season 3): Competitor Code: S4 2017 – Chin cũng xuất hiện The Candle Mask (Ca sĩ giấu mặt), The Mask Singer Thailand Season 3 to sing a song Sunday Morning by Maroon 5 in group C. And lost to The Diamond Tiara Mask. Anh lộ mặt nạ ngày 9 tháng 11 năm 2017. 2019 WorkpointTV - 10Fight10 (ss1) (Team White) - thắng trận đấu với Isariya Patharamanop (2-0) 2020 CH7 – Masterchef Celebrity Thailand (top 5 chung cuộc) Awards Tham khảo Sinh năm 1989 Người Thái Lan Nhân vật còn sống Người Bangkok Ca sĩ Thái Lan Nam diễn viên Thái Lan Ca sĩ pop Thái Lan
wiki
Tân Lý Đông là một xã thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, Việt Nam. Năm 2018 xã đã được Ủy ban nhân dân tỉnh công nhận là xã Nông Thôn Mới, hiện nay đường sá trên địa bàn xã đã được đầu tư đồng bộ góp phần thuận tiện cho việc giao lưu hàng hoá và đi lại của người dân. Xã có diện tích 15,97 km², dân số năm 2019 là 4239 hộ với 18.534 người, mật độ dân số đạt 1.195 người/km². Xã Tân Lý Đông nằm về phía đông Bắc của huyện Châu Thành cách trung tâm huyện khoảng 3,3 km và cách TP. Hồ Chí Minh 60 km đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc cạnh tranh, thu hút đầu tư từ bên ngoài cũng như thuận lợi trong phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển các loại hình công nghiệp và nông nghiệp phục vụ đô thị, xã Tân Lý Đông có hai tuyến tỉnh lộ 866 và 866B đi qua địa bàn nên rất thuận lợi về giao thông và là cửa ngỏ đi vào khu công nghiệp Long Giang, phía đông giáp cổng sau khu Công nghiệp Tân Hương nên thuận lợi cho thương mại - dịch vụ và mua bán nhỏ lẽ phục vụ cho nhu cầu của Công nhân ở hai khu công nghiệp. Trong tương lai xã Tân Lý Đông sẽ thành lập cụm công nghiệp Tân Lý Đông với diện tích 50 ha để góp phần giải quyết việc làm cho người dân của địa phương và các khu vực lân cận. Chú thích Tham khảo
wiki
Công quốc Trinidad là một quốc gia không được công nhận tồn tại trong thời gian ngắn được tuyên bố vào năm 1893 khi James Harden-Hickey người Mỹ tuyên bố chủ quyền Đảo Trindade không có người ở ở Nam Đại Tây Dương. Ông tự xưng là James I, Hoàng tử của Trinidad, và có ý định để quần đảo trở thành một chế độ độc tài quân sự dưới sự lãnh đạo của ông. Anh và Brazil sau đó đã nổ ra tranh cãi về lãnh thổ, và nó trên thuẹc tế được công nhận là một phần của bang Espírito Santo ở đông nam Brazil. Tên gọi Tên ban đầu của hòn đảo, Trindade, trong tiếng Bồ Đào Nha có nghĩa là "Ba Ngôi"; Trinidad là từ mang ý nghĩa tương tự trong tiếng Tây Ban Nha. Không rõ tại sao Harden-Hickley lại chọn dịch tên từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Tây Ban Nha, thay vì tiếng Anh.Trước đó, Đảo Ascension gần đó đã được đổi tên từ tên tiếng Bồ Đào Nha ban đầu là Ascensão khi nó được chuyển giao cho người Anh. Lịch sử trái|nhỏ|Tem của Công quốc Trinidad, 1893 Trong khi đi du lịch đến Tây Tạng trước khi kết hôn, Harden-Hickey để ý đến hòn đảo nhỏ bé Trindade ở Nam Đại Tây Dương, chưa từng được bất kỳ quốc gia nào tuyên bố chủ quyền và về mặt pháp lý. Năm 1893, với mong muốn có một quốc gia độc lập, nơi ông có thể phục vụ với tư cách là người cai trị nó, ông đã tuyên bố chủ quyền hòn đảo và tự xưng là James I, Hoàng tử của Trinidad. Ông đã thiết kế tem bưu chính, quốc kỳ và quốc huy, và thiết lập một đội quân hiệp sĩ, Thập tự giá của Trinidad. Ông mua một chiếc xe hơi để vận chuyển những người từ thuộc địa đến, bổ nhiệm M. Le Comte De la Boissiere làm Ngoại trưởng, và mở văn phòng lãnh sự tại 217 West 36th Street ở Thành phố New York. Ông đã phát hành trái phiếu chính phủ để tài trợ cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đảo. Vào tháng 7 năm 1895, người Anh đã cố gắng chiếm giữ hòn đảo, dựa trên tuyên bố của họ vào chuyến thăm năm 1700 của nhà thiên văn học người Anh Edmund Halley. Người Anh dự định sử dụng hòn đảo này như một trạm truyền hình cáp điện báo. Tuy nhiên, các nỗ lực ngoại giao của Brazil, cùng với sự hỗ trợ của Bồ Đào Nha, đã thúc đẩy một yêu sách thành công về chủ quyền của Brazil, dựa trên việc phát hiện ra hòn đảo vào năm 1502 bởi các nhà hàng hải Bồ Đào Nha. Để chứng tỏ chủ quyền đối với hòn đảo, bang Espírito Santo, nơi đã tuyên bố chủ quyền với hòn đảo, đã xây dựng một cột mốc vào ngày 24 tháng 1 năm 1897. Ngày nay Ngày nay, Brazil đánh dấu sự hiện diện của mình trên đảo bằng căn cứ Hải quân Brazil thường trực trên đảo chính. Tham khảo Khởi đầu năm 1893 ở Nam Mỹ Vi quốc gia ở Brasil Quốc gia và vùng lãnh thổ khởi đầu năm 1893 Cựu quốc gia quân chủ Nam Mỹ Chấm dứt năm 1895 Espírito Santo Cựu quốc gia không được công nhận Vi quốc gia
wiki
Freak Show là một bộ phim hài kịch Mỹ năm 2017 của đạo diễn Trudie Styler và được viết bởi Patrick J. Clifton và Beth Rigazio, dựa trên tiểu thuyết cùng tên của James St. James. Ngôi sao điện ảnh Alex Lawther, Abigail Breslin, AnnaSophia Robb, Ian Nelson, Celia Weston, Laverne Cox và Bette Midler. Bộ phim đã được công chiếu trên toàn thế giới tại Liên hoan phim quốc tế Berlin vào ngày 13 tháng 2 năm 2017. Nó được phát hành vào ngày 12 tháng 1 năm 2018, bởi IFC Films. Diễn viên Alex Lawther vai Billy Bloom, một thiếu niên vui tính, tốt bụng và là học sinh mới tại một trường trung học cực kỳ bảo thủ Eddie Schweighardt vai Billy Bloom trẻ Abigail Breslin vai Lynette, đội trưởng đội cổ vũ và ong chúa trường trung học, và đối thủ của Billy Bette Midler vai Muv, mẹ của Billy Larry Pine vai ba của Billy AnnaSophia Robb vai Blah Blah Blah / Mary Jane Ian Nelson vai Mark "Flip" Kelly, bạn của Billy Lorraine Toussaint vai Flossie, bảo mẫu của Billy Laverne Cox vai Felicia, một phóng viên Willa Fitzgerald vai Tiffany Celia Weston vai Florence Walden Hudson vai Bib Oberman Sản xuất Vào ngày 2 tháng 10 năm 2015, thông báo rằng Trudie Styler sẽ ra mắt đạo diễn của cô ấy với bộ phim người lớn trẻ LGBT Freak Show, dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của James St. James. Patrick J. Clifton và Beth Rigazio chuyển thể tiểu thuyết, trong khi các nhà sản xuất của bộ phim sẽ là Celine Rattray, Charlotte Ubben và Styler thông qua Maven Pictures cùng với Drew Barrymore và Nancy Juvonen Phim hoa, và Jeffrey Coulter và Bryan Rabin. Quay phim chính trên phim bắt đầu vào ngày 27 tháng 10 năm 2015 tại Thành phố New York. Dan Romer sáng tác số điểm của bộ phim. Phát hành Bộ phim đã có buổi ra mắt thế giới tại Liên hoan phim quốc tế Berlin vào ngày 13 tháng 2 năm 2017. Ngay sau đó, IFC Films mua quyền phân phối của Hoa Kỳ cho bộ phim. Nó được phát hành vào ngày 12 tháng 1 năm 2018. Tiếp nhận Trên trang web tổng hợp đánh giá Rotten Tomatoes, bộ phim giữ tỷ lệ phê duyệt 51% dựa trên 37 đánh giá và xếp hạng trung bình 5,51/10. Đồng thuận quan trọng của trang web đọc, "Freak Show dựa vào các màn trình diễn hấp dẫn và rõ ràng là ý định tốt để bao quát cho câu chuyện sáo rỗng và hướng đi không đồng đều của nó - và đối với một số người xem, nó có thể là đủ." Trên Metacritic, bộ phim có điểm trung bình là 54 trên 100, dựa trên 8 chỉ trích, cho thấy "đánh giá hỗn hợp hoặc trung bình". Tham khảo Liên kết ngoài Phim liên quan đến LGBT thập niên 2010 Phim hài-chính kịch thập niên 2010 Phim hài-chính kịch Mỹ Phim về tuổi mới lớn của Mỹ Phim Mỹ Phim chính kịch thiếu niên Mỹ Phim đạo diễn đầu tay Phim dựa trên tiểu thuyết Mỹ Phim lấy bối cảnh ở thành phố New York Phim quay tại thành phố New York Phim của Flower Films Phim tuổi mới lớn liên quan đến LGBT Phim liên quan đến đồng tính nam
wiki
Keizer (IPA: ) là một thành phố trong Quận Marion, tiểu bang Oregon, Hoa Kỳ. Thành phố được đặt tên của Thomas Dove và J.B. Keizer, hai nhà tiên phong đã đến bằng xe ngựa kéo, và sau đó lập hồ sơ xin cấp đất theo Đao luật Ban đất năm 1850. Dân số là 32.203 người theo điều tra dân số năm 2000. Ước tính năm 2006 là 34.880 cư dân. Lịch sử Khu vực định cư ban đầu là ở gần bờ Sông Willamette. Cộng đồng được đặt tên của Thomas Dove Keizur, một trong các người định cư đầu tiên. Bằng cách nào đó lúc làm sổ sách xin cấp đất, tên của ông bị đánh vần sai. Khu định cư này bị thiệt hại trong lần lụt lội năm 1861, và các cư dân đã tái xây dựng nhà của họ trên đất cao hơn. Các trận lụt sau đó nữa trong năm 1943, 1945, 1946 và 1948 đã làm chậm sự phát triển của cộng đồng, và không phát triển mãi cho đến khi các con đập được xây dựng trong thập niên 1950 để điều tiết dòng chảy của sông Willamette giúp Keizer bắt đầu thịnh vượng. Nhiều lần thành phố Salem muốn sáp nhập cộng đồng đang phát triển này nằm gần bên cạnh địa giới của mình. Bắt đầu vào năm 1964, một số cư dân của Keizer đã cố thuyết phục người dân của Keizer thành lập thành phố riêng của mình. Mãi đến ngày 2 tháng 11 năm 1982, với sự hỗ trợ của cộng đồng chưa được tổ chức gần bên cạnh là Clear Lake, các cư dân đã bỏ phiếu đồng thuận tổ chức Keizer thành một thành phố. Địa lý Nằm ở vị trí (45.000491, -123.021885). Theo Văn phòng Điều tra Dân số Hoa Kỳ, thành phố có tổng diện tích là 19,1 km² (7,4 mi²). 18,7 km² (7,2 mi²) là đất và 0,4 km² (0,2 mi²) hay 2.03% là nước. Tham khảo Liên kết ngoài City of Keizer Keizer Chamber of Commerce Thành phố của Oregon
wiki
ông nào giàu nói câu này có thể mình nghi ngờ nhưng Jack Ma nói thì mình tin, có những người đàn ông sau khi lấy vợ phát tài rất nhanh, chỉ trong thời gian ngắn đã tạo dựng được cơ nghiệp, trước đó thì chẳng có gì cả. không phải được vợ giúp tiền. Mà đó là sự bổ sung hoàn hảo nhanh. Đối với Tướng học thì gọi là tướng phu thê Hắc Bạch, Bát Tự – Tứ trụ người ta gọi là sự bổ khuyết dụng thần của người vợ dành cho người chồng, đối với Phật giáo gọi đó là cộng nghiệp. Ví dụ 1 anh dụng thần là Thủy tài tinh, nhưng thủy yếu thế, lấy được 1 cô vợ thủy vượng thì tất nhiên anh ta gặp đúng dụng thần và phát tài. Một anh có khuôn mặt hình kim, lại bị hỏa chế thì tuy hình kim mà da thịt khô héo, lấy được 1 cô thủy vượng thì hỏa của anh đó bị chế ngự, người Kim hình được phục hồi và sự nghiệp lên nhanh. Đối với cộng nghiệp đó là sau khi kết hôn, người vợ sẽ gánh thay người chồng những nghiệp không tốt, và cùng chia sẻ nghiệp tốt, nhờ đó người chồng giảm đi nghiệp xấu và đời lên nhanh. Jack Ma tướng mặt hình Kim, bị Hỏa chế nên tuổi trẻ rất nghèo, xin việc mãi không được. Nhờ có vợ tướng Kim đới Thủy chế hỏa bổ sung Thủy mà anh ta phát nhanh, ngoài ra Vợ còn nhiều tướng đẹp của 1 người phụ nữ vượng phu hỗ trợ. Obama tướng tai dựng là tai dữ nhưng nhờ vợ có tướng chuông úp nên Obama làm tổng thống. Quả thật đằng sau một người đàn ông thành công có bóng dáng của 1 người vợ tướng đẹp. Tuy nhiên có một số người đàn ông sau khi lấy vợ thì lại phá sản, làm ăn lao đao hoài, trường hợp này là ngược lại với những điều trên. Do Tướng, Số khắc phá nhau, Nghiệp xấu cùng cộng hưởng tạo nên sự suy bại.
vanhoc
Thực thần (Hangul: 식샤를 합시다, tiếng Anh: Let's Eat) bộ phim truyền hình của đài tvN dài 16 tập, phát sóng vào thứ năm hằng tuần lúc 23:00 (KST). Với sự tham gia của các diễn viên Lee Soo Kyung, Yoon Doo Joon (BEAST), Yoon So-hee. Nội dung Bộ phim nói về bốn người độc thân, đói khát về thức ăn lẫn tình cảm. Câu chuyện còn xoay quanh những vụ án bí ẩn tại chung cư của ba nhân vật chính (Lee Soo Kyung. Goo Dae Young, Yoon Jin Yi). Mỗi tập phim đều có cảnh mọi người thưởng thức món ăn rất ngon lành và vui vẻ. Diễn viên Diễn viên chính Lee Soo Kyung vai Lee Soo Kyung (33 tuổi, phòng 805) là một người phụ nữ độc thân hiện đang làm thư ký tại văn phòng luật sư Kim Hak Moon vì vậy cô khá đa nghi do đặc thù công việc của mình. Cô thực sự là một người sành ăn vì vậy cô luôn cùng với Yoon Jin Yi và Goo Dae Young đi ăn với lý do đi cùng Jin Yi vì không ưa Goo Dae Young cho lắm. Cô luôn tìm đến những món ăn ngon khi buồn bực cùng người quen và sau khi làm quen với Goo Dae Young thì tâm trạng của cô vui vẻ hơn. Yoon Doo Joon vai Goo Dae Young (29 tuổi, phòng 806)sống độc lập từ lúc còn là sinh viên, vì vậy nên có kinh nghiệm sống cao và biết rất nhiều nơi có món ăn ngon, cách để thưởng thức món ăn sao cho ngon. Làm tại một công ty bảo hiểm và là ông hoàng bảo hiểm nên rất biết cách ăn nói (hầu như tập nào cũng diễn tả một món ăn và cách thưởng thức chúng), kể cả nói dối để trốn tránh tình cảm của khách hàng nữ và Yoon Jin Yi. Anh rất quan tâm và lo lắng cho Jin Yi giống như người em của mình cũng như mọi người. Anh rất tốt bụng (chỉ cần lời xin lỗi của Goo Dae Young khi bị cô trình báo với cảnh sát). Yoon So Hee vai Yoon Jin Yi (23 tuổi, phòng 804) cùng cảnh ngộ với Goo Dae Young nhưng lại rất lạc quan với nụ cười ngây thơ (câu cửa miệng: ''Anh/Chị là tuyệt nhất). Cùng với Lee Soo Kyung và Goo Dae Young nên cô cũng cảm nhận được vị ngon và dần sành ăn giống hai người. Diễn viên phụ Shim Hyung Tak vai Kim Hak Moon (35 tuổi) là một luật sư với ngoại hình tốt nhưng lại độc thân ở tuổi 35 vì còn vương vấn tình cảm với Lee Soo Kyung. Biệt danh khá đặc biệt là Kim Hậu Môn. Rất thích cách ăn uống của Lee Soo Kyung nên tìm được mối tình mới ở tập cuối (là cô gái có cách ăn khá giống Lee Soo Kyung tại một nhà hàng). Lee Do Yun (이도연) vai luật sư Oh Do Yun (29 tuổi) Tuy mang một vóc dáng khó nhìn nhưng lại luôn tưởng bở rằng Kim Hak Moon và Goo Dae Yuong thích mình. Theo như lời cô nói thì trước kia cô rất béo và đang trong thời kì giảm cân nên cô ăn rất ngon miệng. Jang Won Young vai Choi Kyu Shik (40 tuổi, quản lý văn phòng) là chồng của Park Kyung Mi và là đồng nghiệp của Lee Soo Kyung. Rất khéo miệng và cũng rất sành ăn. Jung Soo Young vai Park Kyung Mi (33 tuổi, vợ của Kyu Shik) là bạn của Lee Soo Kyung. Là một người bạn tốt luôn tâm sự, nấu ăn và đãi bạn một bữa ăn ngon khi bạn rủ. Cô đã 'thẩm vấn' Goo Dae Young khi biết hai người hẹn hò chính thức. Khách mời Lee Yong Nyuh (이용녀) vai Bae Mi Ja (tập 1) Lee Sang Woo vai khách hàng ly hôn (tập 8) Kang Ye Bin vai người phụ nữ hẹn hò (tập 9) Lee Il Hwa vai mẹ của Hyun Kwang Suk (tập 16) Kim San Ho vai chủ nhà hàng của bạn Hak Moon Jung Eun Pyo vai cảnh sát viên Uhm Hyun Kyung vai người phụ nữ ăn thức ăn ngon (tập 16) Kim Hyun Sook vai Lee Young Ae (tập 16) Ra Mi Ran vai quản lý Ra (tập 16) Lee Yoon Mi vai chủ cửa hàng chó Heo Goo Yun (허구연) vai ba của Dae Young Lee Yong Joo vai đội trưởng bóng rổ Sam Hammington (샘 해밍턴) vai chủ nhà hàng cua Choi Sung Joon vai đừng hỏi tại sao Jung Eun-pyo vai nhân viên cảnh sát (tập 14) Jung Kyung-ho vai nhân viên cơ quan nhà ở (tập 15) Lee Il-hwa vai mẹ của Kwang-suk (tập 16)Uhm Hyun-kyung vai khách hàng ăn trong nhà hàng (tập 16)Kim Hyun-sook vai Lee Young-ae, khách hàng cà phê (tập 16)Ra Mi-ran' vai quản lý Ra, khách hàng cà phê (tập 16) Nhạc phim Let's Eat OST phần 1 Let's Eat OST phần 2 Let's Eat OST phần 3 Let's Eat OST phần 4 Let's Eat OST phần 5 Let's Eat OST phần 6 Đánh giá Tham khảo Liên kết ngoài Let's Eat trang chủ tvN Phim truyền hình TVN (Hàn Quốc) Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2013
wiki
Đề bài: Viết một đoạn văn ngắn nói về gia đình em Bài làm Đại gia đình em có tám người. Ông bà nội đã ngoài 80 tuổi vẫn khỏe mạnh, minh mẫn. Chú Kiều là sĩ quan Hải quân đã và đang trấn giữ đảo Trường Sa. Cô Uyên là con út của ông bà, là kĩ sư địa chất thường đi công tác trên Tây Bắc. Bài văn về gia đình em Bố em là con cả của ông bà, tên là Nguyễn Đức Thìn, 50 tuổi, lái xe lửa trên đường Bắc – Nam. Mẹ em là Nguyễn Thị Bình, 46 tuổi làm y tá bệnh viện thị xã. Chị gái em là Nguyễn Thị Cẩm Tú, học lớp 10, rất xinh đẹp, học giỏi. Em là Nguyễn Đức Châu 8 tuổi, béo ục ịch, học lớp 2, chị gái em gọi là "Trâu Đen". Ngày tết, ngày giỗ, chú Kiều, cô Uyên mới về chơi, ông bà vui lắm.
vanhoc
Đề bài: Em hãy miêu tả con voi mà em từng trông thấy Tả con voi – Bài làm 1 Trong một lần đi vườn bách thú em đã có dịp quan sát một con voi rất lớn và em ất ấn tượng với nó. Trước kia em chỉ biết đến loài voi qua tranh ảnh, phim thì nay em đã có dịp quan sát một cách trực tiếp. Con voi này khá lớn và nó có màu xám. Bốn chân của nó to như chiếc cột nhà em khoảng một vòng tay em mới có thể ôm xuể. Tai to ở hai bên đầu và rất lớn, bè bè, mỏng. Em ấn tượng nhất với chiếc vòi của nó, chiếc vòi dài, hơi sun sun và nó dùng vòi để uống nước. Khi em đứng từ xa nhìn vào thì cặp mắt tròn xoe của nó cứ nhìn chằm chằm vào mọi người xung quanh. Đây là một chú voi chắc hẳn đã khá lớn tuổi vì em thấy nó có chiếc ngà màu trắng và khá dài, cong vút lên. Thân mình của con voi hơi vuông và cái bụng thì tròn. Nó khá cao và có chiếc đuôi ở phía sau phe phẩy với phần lông đuôi rất cứng. Chú voi bị nhốt ở một khu khá rộng. Một nửa là khu nhà có mái che chắc chắn và một nửa là cây cối và một hồ nước nhỏ xây bằng gạch để chứa nước cho voi uống. Những người đi thăm sở thú thường đem theo hoa quả và cho voi ăn. Nó thò vòi ra ngoài khung sắt để ăn những loại quả mà mọi người cho nó.Xem thêm: Bức thư xúc động gửi miền Trung mùa bão lũ Em rất ấn tượng với chú voi ở vườn bách thú và đối với em dây là một chuyến đi chơi rất thú vị và là một kỷ niệm khó quên với em. Tả con voi Tả con voi – Bài làm 2 Chủ nhật tuần trước bố mẹ có đưa em đi Hà Nội chơi. Em được đến rất nhiều nơi trong đó em ấn tượng nhất là khi đến vườn bách thú. Tại đây có rất nhiều loài động vật hoang dã và em ấn tượng nhất chính là con voi cao lớn. Trong chú voi to lớn, cao sừng sững. Nó có màu xám và da không được trơn bóng. Phần đầu của nó cũng rất lớn với hai cái tai hai bên như hai cái quạt mo lớn vậy. Hai chiếc tai nằm xẹp xuống hai bên và thi thoảng lại vẫy vẫy để đuổi ruồi muỗi, trông rất đáng yêu. Chiếc vòi của nó hướng ra phía trước và khá dài, sun sun nom giống con đỉa khổng lồ vậy. Chiếc vòi có khá nhiều công dụng đó chính là để uống nước và vươn ra ngoài để lấy thức ăn mà mọi người tham quan cho nó. Nó là một chú voi khá lâu năm bởi chiếc vòi của nó rất dài và trắng. Mắt voi không quá lớn so với thân hình của nó và nó hay nhìn xung quanh quan sát mọi người. Thân của voi trông khá nặng nề và vuông vắn với bốn chiếc chân chắc khỏe. Phía sau cùng của nó chính là chiếc đuôi vói những sợi lông dài, cúng trông giống chiếc chổi xể để bà quét sân vậy. Khi thăm chuồng voi ban đầu khi thấy nó thò vòi ra khỏi hàng rào sắt thì em cảm thấy rất sợ hãi. Tuy nhiên sau đó em thấy nó rất hiền và mọi người cho nó ăn cũng rất thú vị nên em cũng đã thử cho nó ăn một khúc mía.Xem thêm: Kể lại một câu chuyện xảy ra trong lớp học hoặc trong đời sống khiến anh (chị) băn khoăn trăn trở nhiều về đạo đức và lối sống hiện nay Em rất thích ngắm nhìn những loài động vật, đặc biệt là chú voi mà em đã trông thấy. Đó chính là một kỷ niệm thú vị, khó quên của em. Loan Trương
vanhoc
Đề bài: Kể lại kỷ niệm ngày đầu tiên em đi học Bài làm Dù cho tới hôm nay đã hơn tám mùa thu tựu trường đã qua, nhưng em vẫn không thể nào quên được ngày đầu tiên tới trường. Một kỷ niệm vô cùng thiêng liêng làm em nhớ mãi. Cách đây tám năm, lần đầu tiên em được mẹ dắt tay tới lớp để dự buổi khai giảng đầu tiên khi vào lớp một, kỷ niệm đó vẫn mãi theo em. Đêm hôm trước, em sống trong một tâm trạng vô cùng háo hức, hồi hộp nôn nao khó tả. Một tâm trạng vừa lo lắng, vừa mong chờ của tất cả cô cậu lần đầu bước chân vào lớp một. Việc em đi học lớp một là một sự việc vô cùng trọng đại trong căn nhà bé nhỏ của em. Từ trước đó một tuần, mẹ em đã mua về một chiếc cặp sách có hình chú siêu nhân người nhện vô cùng đáng yêu, kèm theo những cuốn vở, rồi những cuốn sách giáo khoa tập tô, tập vẽ, những hộp bút chì bút mực vô cùng đẹp. Em xếp tất cả những thứ mẹ mua cho mình vào từng ngăn trong chiếc cặp sách xinh đẹp đó, mọi thứ đã sẵn sàng cho một ngày trọng đại của đời em. Ba cũng mua về cho em nhiều bộ quần áo mới để em có thể diện tới lớp đi học cùng các bạn. Trong đó có một bộ vô cùng đẹp ba bảo để con trai mặc hôm lễ khai giảng. Đó chính là một chiếc quần bò màu xanh có hai túi hộp ở đầu gối vô cùng oách và một chiếc áo sơ mi trắng vô cùng dễ thương. Mẹ mặc thử cho em bộ quần áo đó, trông em chững chạc hẳn lên, ấy là bố mẹ em bảo vậy chứ em có biết chững chạc nó là gì đâu. Tối hôm đó, mẹ cho em lên giường từ sớm, mẹ đọc cho em bao nhiêu là câu chuyện cổ tích nhưng em mãi không ngủ được. Bởi trong lòng cứ suy nghĩ miên man mãi không biết ngày mai sẽ như thế nào. Ngày hôm sau, em tỉnh dậy lúc 6:30 phút mẹ bảo em đánh răng rửa mặt rồi cho em dùng bữa sáng nhẹ nhàng, sau đó giúp em mặc quần áo chỉnh tề đeo chiếc cặp sách lên vai. Em chào bà và ba của mình để đi học mà tâm trạng hoang mang lắm. Ngồi sau lưng mẹ để tới trường tiểu học gần nhà, em cảm thấy ngôi trường hôm nay sao xa thế, mặc dù mọi ngày thi thoảng mẹ vẫn đèo em qua đây nhưng em không thấy nó xa như hôm nay. Xe của mẹ dừng ở trước cổng trường tiểu học nơi mà em sẽ theo học suốt năm năm đầu đời, trên cổng trường có treo băng- giôn đỏ thắm có hàng chữ gì đó, em không đọc được nên có hỏi mẹ. Mẹ bảo đó là hàng chữ “Chào mừng các bạn học sinh bước vào năm học mới” Trong sân trường có rất nhiều anh chị lớp lớn đang chạy nhảy vui đùa, họ trò chuyện với nhau rất vui vẻ, không khí nơi sân trường vô cùng huyên náo vui nhộn. Ai cũng rạng rỡ phấn khởi diện trên người những bộ quần áo đẹp nhất, lộng lẫy nhất. Em nhìn xung quanh có rất nhiều bạn học xinh xắn nắm chặt tay mẹ, nép mình trốn sau lưng mẹ như em, chắc các bạn ấy cũng là học sinh mới như em, nhìn cái dáng điệu rụt rè kia là em biết liền. Em có để ý tới một bạn gái, bạn ấy đang núp sau lưng mẹ, bạn ấy có khuôn mặt vô cùng dễ thương như công chúa trong mấy phim hoạt hình mà em thường xem. Bạn ấy thắt hai bím tóc vô cùng duyên dáng và diện bộ váy trắng trông rất đẹp. Em đang bỡ ngỡ thì tiếng trống trường vang lên ba tiếng rất rõ ràng. Các anh chị bắt đầu xếp thành hàng ngay ngắn, rồi mẹ em cũng dắt tay em lại phía lớp 1A2 trao cho cô giáo. Cô giáo của em là một người vô cùng xinh đẹp cô mặc một chiếc áo dài màu xanh ngọc bích càng làm cho nước da trắng của mình thêm nổi bật, mái tóc cô đen dài buông tới nửa lưng trông vô cùng thướt ta. Cô nhìn em cười thân thiện rồi tự giới thiệu rằng “Chào Khôi Nguyên! Cô là Thanh Mai cô sẽ là giáo viên chủ nhiệm của con trong năm nay”. Mẹ em mỉm cười chào cô rồi khẽ nhắc em khoanh tay chào cô. Em vội vàng khoanh tay “Con chào cô ạ. Con tên là Khôi Nguyên”. Cô giáo nắm lấy tay em rồi dẫn về chỗ mà em sẽ đứng. Trong giây phút buông bàn tay mẹ ra em có chút sợ hãi, nhưng khi nắm lấy bàn tay ấm áp của cô giáo thì em lại thấy tự tin hơn rất nhiều. Buổi khai giảng vô cùng trang trọng, thầy hiệu trưởng trường tiểu học của em lên đọc những lời động viên khích lệ các em học sinh và thầy cô giáo trong năm học mới. Rồi tới tiết mục văn nghệ vô cùng vui vẻ. Sau khi buổi khai giảng kết thúc, chúng em được cô giáo chủ nhiệm dẫn về lớp học của mình. Ở trong lớp cô giáo bắt đầu sắp xếp vị trí cho chúng em và cho các bạn trong lớp làm quen với nhau. Thật bất ngờ là em được xếp ngồi gần bạn gái dễ thương giống công chúa mà em nhìn thấy trên sân trường. Hai chúng em đã nhanh chóng hỏi tên nhau hóa ra bạn ấy tên là Diễm My. Em rất vui khi cô giáo đã phân em ngồi cạnh cô bạn gái dễ thương này. Chúng em đã cùng nhau bắt đầu ngày tựu trường đầu tiên như thế, rồi cùng nhau học tập biết bao nhiêu tri thức trong cuộc sống. Cho dù giờ đây, kỷ niệm ngày đầu tiên tựu trường đã khá xa rồi nhưng với em nó vẫn là một kỷ niệm của thời thơ ấu không thể nào quên được. Đông Thảo
vanhoc
Hội Khoa học Kỹ thuật Biển Việt Nam là tổ chức xã hội nghề nghiệp phi lợi nhuận của những người và các tổ chức hoạt động nghiên cứu giảng dạy hay sản xuất liên quan đến khoa học kỹ thuật biển tại Việt Nam. Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam. Hội có tên giao dịch bằng tiếng Anh là Vietnam Marine Science & Technology Association, viết tắt là VIMASTA. Điều lệ Hội hiện hành đã sửa đổi, được Bộ Nội vụ Việt Nam phê duyệt tại Quyết định số 892/QĐ-BNV ngày 24 tháng 9 năm 2012. Trụ sở Hội đặt tại địa chỉ P405, nhà A27, số 18 đường Hoàng Quốc Việt, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Hoạt động Ngày 03/02/2018 tại Hà Nội Hội Khoa học và Kỹ thuật Biển Việt Nam đã tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V nhiệm kỳ 2018 – 2023. Dự án nhận chìm bùn ở Bình Thuận Giữa năm 2017 dư luận xôn xao về "Dự án nhận chìm bùn ở Bình Thuận" do Công ty Điện lực Vĩnh Tân 1 đưa ra, nhằm nhận chìm gần 1 triệu m³ bùn, cát xuống vùng biển Bình Thuận. Dự án được coi là đã tham khảo tư vấn của nhiều nhà khoa học nhưng thực tế một số trong đó bị mạo danh, đơn vị tư vấn đều không liên lạc gì với họ. Một trong số đó là tiến sĩ Nguyễn Tác An, Phó Chủ tịch Hội Khoa học và Kỹ thuật Biển Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang, bức xúc nói như vậy với báo Pháp Luật TP.HCM ngày 19/7/2017. Tham khảo Liên kết ngoài Hội Địa chất Biển Việt Nam Website Tổng cục Biển và Hải đảo IMarEST, Institute of Marine Engineering, Science and Technology Website, Viện Kỹ thuật, Khoa học và Công nghệ Hàng hải Website của ICES, International Council for the Exploration of the Sea, Hội đồng Quốc tế về Nghiên cứu Biển Biển Hải dương học
wiki
Phó Giới Tử (, ? – 65 TCN), người Nghĩa Cừ, Bắc Địa , sứ giả nhà Tây Hán. Ông đã từng 2 lần đi sứ Tây Vực, giết chết Lâu Lan vương, lưu danh hậu thế. Sự nghiệp Phó Giới Tử nhờ tòng quân mà được quan chức. Thời Chiêu đế, Quy Từ, Lâu Lan giết sứ giả nhà Hán, cắt đứt con đường tơ lụa. Trong những năm Nguyên Phượng (80 TCN – 75 TCN), Giới Tử làm Tuấn mã giám, xin đi sứ Đại Uyển, nhân đó ban chiếu trách tội Quy Từ, Lâu Lan. Ông đến Lâu Lan, vương tạ tội, cho biết sứ giả Hung Nô đang trên đường đến Ô Tôn, có đi qua Quy Từ. Giới Tử đến Quy Từ, vương cũng tạ tội. Ông từ Đại Uyển trở về Quy Từ, biết sứ giả Hung Nô đang ở đấy, bèn dẫn bộ hạ đến giết hắn ta. Trở về tâu lại, có chiếu bái Giới Tử làm Trung lang, thăng làm Bình nhạc giám. Năm 78 TCN, Giới Tử xin đi sứ Lâu Lan, Quy Từ, đại tướng quân Hoắc Quang đồng ý. Năm sau, ông mang theo binh sĩ và các thứ tiền, vàng, mượn danh nghĩa ban thưởng, đến Lâu Lan. Lâu Lan vương An Quy (安歸) nguyên là con tin ở Hung Nô, nên không có ý gần gũi Giới Tử. Ông giả cách bỏ đi, đến biên giới phía tây, bày tiền vàng ra cho dịch quán xem. An Quy biết tin, ham của báu, đến gặp sứ giả. Giới Tử cùng ngồi uống rượu với ông ta, vờ muốn nói chuyện riêng. An Quy bèn theo ông vào lều, tráng sĩ theo sau đâm chết ông ta. Bộ hạ của An Quy tan chạy. Giới Tử cáo dụ người Lâu Lan, tuyên bố sẽ lập con tin Lâu Lan đang ở Hán làm vương, không ai dám chống lại. Sau khi về triều, được phong Nghĩa Dương hầu, thực ấp 700 hộ; hai tráng sĩ thích sát An Quy đều được bổ làm Thị lang. Nhà Hán lập Úy Đồ Kỳ (尉屠耆) làm Lâu Lan vương. Đánh giá Phó Giới Tử xông pha Tây Vực, lập được kỳ công, được muôn đời sau ngưỡng mộ. Người Trung Quốc khi nhắc đến Con đường tơ lụa, không thể không nhắc đến trước là Trương Khiên, sau là Phó Giới Tử. Ban Siêu ném bút tòng quân, chính là muốn học theo 2 bậc tiền nhân này. Hậu sự Phó Giới Tử được phong tước Nghĩa Dương hầu (義陽侯). Năm 65 TCN, Giới Tử chết, con trai Phó Sưởng (傅敞) phạm tội, không được thừa kế, xóa bỏ phong quốc. Trong những năm Nguyên Thủy (1 CN - 5 CN), chắt của Phó Giới Tử là Phó Trường (傅長) được nối tước Nghĩa Dương hầu. Đến khi Vương Mãng soán ngôi thì bị hủy. Các đại thần Tào Ngụy Phó Tốn, Phó Hỗ là hậu duệ của Phó Giới Tử, thành lập nên môn phiệt Bắc Địa Phó thị. Tham khảo Hán thư Chú thích Người Cam Túc Năm sinh thiếu Mất năm 65 TCN Nhà ngoại giao Trung Quốc Nhân vật quân sự Tây Hán Nhân vật chính trị Tây Hán
wiki
Bài làm Cốt lõi làm nên một tác phẩm văn học ngoài những yếu tố cơ bản đòi hỏi nhà văn phải tìm kiếm được một nhân vật tiêu biểu làm nên tên tuổi của tác giả. Con người là đối tượng để văn học phản ánh và phục vụ, văn học phản chiếu toàn bộ hiện thực cuộc sống xung quanh nhân vật đó. Từ hiện thực khốc liệt cho đến những phẩm chất đáng quý, đáng được ngợi ca. Văn học đã tìm đến để cùng đồng cảm xót thương, trân trọng và ca ngợi họ. Và trong giai đoạn văn học 1930-1945, 1945-1975, ta dễ dàng tìm thấy qua các tác phẩm như là Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài), Vợ nhặt (Kim Lân) và Chí Phèo (Nam Cao)… Con người là đối tượng quan trọng nhất trong cuộc sống. Cuộc sống, không có con người thì không khác gì là một mảnh đất bỏ hoang, mất đi cái phần hồn thiết yếu. Thế nên, từ đời sống thực cho đến đời sống trên trang giấy, hình ảnh không thể thiếu đó chính là con người. Hình tượng con người trong văn học đã làm rung cảm trái tim của biết bao nhiêu thế hệ, gợi lên sự xót thương, đồng cảm của những tâm hồn nhạy cảm, đồng điệu và tinh tế. Có người từng nói rằng: văn học và lịch sử có mối quan hệ mật thiết. Vì vậy mà mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, số phận người nông dân trong mỗi giai đoạn ấy cũng khác nhau. Tiêu biểu nhất trong giai đoạn 1930-1945 là nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Nam Cao, chị Dậu trong Tắt Đèn của Ngô Tất Tố, chị em Liên trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam. Đến với giai đoạn 1945-1975, nổi bật nhất là Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, anh cu Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân. Điểm chung của những nhân vật ấy đều là những người nông dân lương thiện, hiền lành bị chế độ xã hội lúc bấy giờ áp bức, dồn vào ngõ cụt. Tất cả, những người nông dân ấy đều rơi vào những bi kịch không mong muốn. Các tác phẩm ra đời, dùng nhân vật tiêu biểu đại diện cho một tầng lớp nông dân bị áp bức chính là để cho con người của thế hệ sau này nhìn lại quá khứ của những con ngườ trong những giai đoạn trước đây đã sống khốn khổ và cơ cực đến thé nào để từ đó ta lại càng thấy trân trọng cuộc sống hơn, yêu chuộng thời bình như hiện nay hơn. Bắt đầu nói đến con quỷ dữ của làng Vũ Đại mà nhà văn Nam Cao đã đặt bút viết. Chí Phèo ngay từ đầu không phải là một kẻ đầu đường xó chợ, cũng không có cái tên nghe chói tai như là “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Anh vốn là một người nông dân bản tính hiền lành, lương thiện nhưng chế độ xã hội lúc bấy giờ quá đáng sợ, đã đẩy Chí vào con đường tội lỗi. Vì sự cám dỗ của bà Ba và sự ghen tuông vô cớ của bá Kiến đã đẩy Chí vào nhà tù thực dân – một lò luyện mà khi ai từ đó trở ra đều mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Một tờ giấy trắng đã bị nhuốm màu, loang lổ những vết mực khó phai, nhưng bản chất nó vẫn là một tờ giấy trắng. Đó là một sự thật không thể chối bỏ, giấy trắng vẫn là giấy trắng, Chí Phèo vẫn là Chí Phèo, vẫn người nông dân có bản tính lương thiện. Số phận đã đẩy đưa như vậy, ngoài việc tìm đến rượu, chửi bới, nằm ăn vạ với cái nơi từng mang ơn dưỡng dục nuôi nấng thì Chí còn biết làm gì nữa. Không một ai hồi đáp lại những tiếng chửi chói tai, dường như xem anh là một người vô hình, không tồn tại. Có than trách số phận cũng không đổi lại được gì. Chính là kêu trời, trời không thấu, kêu đất, đất không dung. Cuộc sống ấy có phải khắc nghiệt quá rồi không? Chí Phèo đã làm gì nên tội? Đáng nói là hơn là khi Chí vừa thấy con đường mới tốt đẹp hơn cho cuộc sống sau này, lại một lần nữa bị dồn xuống tận cùng của bi kịch. Ai cũng từng nghĩ rằng, Nam Cao mang Thị Nở đến chính là để giải thoát “con quỷ dữ” khỏi Chí, nhưng không. Sự xuất hiện của bát cháo hành vừa là liều thuốc bổ vừa là liều thuốc độc. Thị Nở đã đến và khơi dậy cái bản tính lương thiện, làm cho Chí cảm nhận cuộc sống và khao khát được làm người lương thiện. Nam Cao để Thị Nở đến chính là một bước ngoặt để vực dậy, đẩy lùi mọi bản tính xấu xí của Chí để tôn vinh cái lòng hướng thiện của anh. Nhưng thương xót cũng phải tùy vào hoàn cảnh, lịch sử giai đoạn ấy đã chi phối ngòi bút của nhà văn, đã để Thị Nở đến cự tuyệt quyền làm người của Chí đẩy anh vào hố sâu của bi kich, không còn một lối thoát. “Ai cho tao lương thiện?”, một câu hỏi vừa như để hỏi vừa như để than trách rằng cuộc đời quá bất công với anh, muốn hoàn lương sống như trước đây cũng không thể. Bất kì ai nghe được câu hỏi ấy, tưởng tượng sự viêc diễn ra trước mắt đều dâng lên một nỗi chua xót, nghe sao mà đau lòng quá. Số phận của những người nông dân thời bấy giờ là thế đấy, sinh ra đã không nơi nương tựa lại bị bọn cường hào ác bá cậy quyền áp bức, dồn ép con người vào bước đường sinh tử. Nam Cao dường như dự đoán đượct ương lai, nếu không cải cách lại chế độ xã hội lúc ấy thì sẽ còn rất nhiều những thanh niên trai tráng như Chí Phèo phải ngồi tù và biến đổi cả nhân hình lẫn nhân tính, chưa hết, nhà văn còn dự tính vòng tuần hoàn này sẽ lặp lại một lần nữa, Chí Phèo con sẽ ra đời ở chi tiết “Thị nở nhìn nhanh xuống bụng… Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng bóng người lại qua”. Hay kể đến Mị, một cô con dâu nhà quan lớn nhưng sống còn thua xa con trâu, con ngựa trong chính căn nhà ấy. Ngay từ đầu trang viết, Tô Hoài đã cho nhân vật xuất hiện một cách độc đáo, gợi sự tò mò dẫn dắt người đọc vào hành trình khám phá cuộc đời, số phận của nhân vật. Đó là hình ảnh “cô gái ngồi quay sợi gai, bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, mặt lúc nào cũng “buồn rười rượi”. Vì món nợ truyền kiếp của ba mẹ mà Mị bị bắt về nhà thống lí Pá Tra làm vợ A Sử. Mang tiếng là con dâu, nhưng thực chất là con dâu gạt nợ. Như cái phận là “dâu gạt nợ”, ngày ngày, Mị “lầm lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Tuổi trẻ còn phơi phới, xuân xanh còn đầy nhưng lại không được thỏa mãn, Mị chỉ biết đắm mình trong công việc, quần quật xuống khi không có thời gian để nghỉ ngơi. Sống cũng không được mà chết cũng không xong. Mị từ lâu sống như người mất hồn, cam chịu, nhẫn nhịn nhưng đâu đó trong lòng cô vẫn sống dậy một nỗi khao khát mãnh liệt. Mị muốn được sống. Mị muốn được tự do. Điều ước của Mị cũng là của chung cho tất cả những người con gái cùng chung hoàn cảnh. Nhưng may mắn hơn Chí Phèo, cuộc đời của Mị được cứu thoát bởi chính sự vùng dậy, khao khát sống mạnh mẽ trỗi dậy. Lựa chọn việc cứu thoát và cùng bỏ trốn với A Phủ, cuộc đời Mị đã trở nên tươi sáng hơn vì cô đã đi đúng đường, Phiềng Sa – một nơi vẽ lên một cuộc đời rất khác của Mị. Chế độ xã hội lúc bây giờ quá khắc nghiệt, bọn cường quyền cậy thế ức hiếp dân lành. Điển hình là hai hoàn cảnh, hai số phận của Chí và Mị. Cả hai đều là nhân vật đại diện cho những kiếp người lầm than, khốn khổ, bị đẩy vào bước đường cùng không chốn dung thân. Người không ra người, ma không ra ma, sống như đã chết. Một con người bị tha hóa mất hết nhân tính, một người bị giam cầm mất hết cả sức sống vốn có. Tất cả đều là do chế độ xã hội lúc bấy giờ đã dùng cường quyền đẩy người nông dân vào bước đường tha hóa. Số phận con người cũng vì vậy mà thay đổi, đa phần đều đi theo chiều hướng tiêu cực. Lại kể đến nạn đói năm 1945 đã giết chết biết bao nhiêu người, ” người chết như ngả rạ”. “Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường” đã miêu tả được quang cảnh nơi đây, cái đói tràn đến, ùa nhanh đến không kịp đỡ. Vào thời điểm này con người chỉ muốn có đủ cơm no để sống qua ngày, khát vọng về tình thương, về một gia đình hạnh phúc cũng là một điều quá xa vời. Thế mà điều ấy lại đến với Tràng, ngay lúc thời buổi khó khăn thế này, thân mình còn lo chưa xong, anh lại “nhặt” Thị về làm vợ. Chỉ bằng mấy lời nói bông đùa mà một người dở hơi, xấu xí lại còn nghèo như anh đã có một mái ấm gia đình hạnh phúc, điều mà anh luôn khao khát bấy lâu nay. Người xưa thường có câu “trong cái rủi có cái may”, hoàn cảnh của Tràng bây giờ thì ngược lại “trong cái may lại ẩn chứa lắm những điều rủi ro”. Cái đói cái khổ bao trùm khắp nơi, khối nhà còn không có gì để ăn, ngay cả Tràng thân mình còn nuôi không nổi lại rước thêm một người, một miệng ăn, biết có “nuôi nổi nhau sống qua cái thì này không nữa?”. Gánh nặng đè nặng lên đôi vai người con, hiểu được nhiều lẽ đời trong cuộc sống, bà cụ Tứ chẳng những không trách mắng mà còn lại động viên an ủi, niềm nở chào đón nàng dâu bằng một nồi “chè khoán” đầy tình thương. Điểm tạo mấu chốt, để lại dấu ấn cho tác phẩm ngoài việc Tràng nhặt vợ còn đọng lại ở nồi chè khoán của bà cụ Tứ. Một minh chứng cho thấy rằng nạn đói năm ấy tàn khốc đến mức khiến con người phải ăn cháo cám để sống qua ngày, không những vậy có khối nhà còn không có để mà ăn. Kim Lân đã thành công khi tái hiện thật đầy đủ về nạn đói năm ấy, dường như đã gợi lên được nhiều xúc cảm trong lòng người đọc. Chắc có lẽ cũng có người sẽ thấy thương, thấy tội cho những con người sống vào năm khó khăn ấy. Sống trong cái nghèo, cái khổ khát vọng duy nhất là mong muốn được đổi đời, hi vọng sẽ có một thứ ánh sáng màu nhiệm soi rọi vào cuộc đời tăm tối của mình. Đó là khát vọng của chị em Liên – nhân vật trong truyện ngắn Hai đứa trẻ của nhà văn Thạch Lam. Hai con người bé nhỏ ấy có những hoài bão ước mơ về một Hà Nội nhộn nhịp, xa hoa. Những con người phố huyện, mẹ con chị Tí, bác Siêu, gia đình bác Xẩm, cụ Thi và hai chị em Liên ngày ngày đều sống trong sự tăm tối, phố huyện nơi họ ở nghèo đến xơ xác. Thứ duy nhất họ tâm niệm, ước mong là một thứ ánh sáng vĩnh hằng, soi rọi để thay đổi cuộc đời tăm tối của họ. Đặc điểm nổi bật của Thạch Lam trong tác phẩm chính là tạo nên sự đối lập giữa ánh sáng của đoàn tàu về đêm và bóng tối bao trùm khắp phố huyện. Tạo nên một mảng đối lập, sự thật ánh sáng của đoàn tàu rực rỡ nhưng cũng chỉ vụt qua rồi biến mất. Ánh sáng của đoàn tàu chính là thứ án hsáng màu nhiệm soi rọi vào cuộc đời tăm tối của họ, nhưng rồi nó cũng vụt tắt, chứng minh được rằng ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn cũng chỉ là một ước mơ xa vời. Còn rất nhiều biến cố xảy ra trong cuộc đời của những người nông dân trong cả hai giai đoạn ấy. Số phận của họ đã được sắp đặt từ trước, có chạy trời cũng không khỏi nắng. Sống ở thời điểm bây giờ, nhìn về quá khứ lại thấy xót thấy thương biết bao, chính mình phần nào cũng thấu hiểu cho những hoàn cảnh bất hạnh ấy. Chưa chắc gì nếu chúng ta là họ, chúng ta lại có thể kiên cường, mạnh mẽ sống và nuôi khát vọng như thế. May mắn hơn đã có những con người, sống đời sống của nhân vật để thấu hiểu tường tận mọi cung bậc cảm xúc, hỉ nộ ái ố để thuật lại, thể hiện một cách rõ ràng để ngày nay có cái nhìn toàn diện hơn về lịch sử đời sống con người ngày xưa. Thạch Lam, Kim Lân, Tô Hoài và Nam Cao ngoài ra còn rất nhiều nhà văn khác đã tìm thấy tái hiện lại hiện thực, thể hiện sự đồng cảm, xót thương, ngợi ca trân trọng những người nông dân ấy. Giá trị nhân đạo trong tác phẩm chính là được thể hiện qua những điều đó. Biểu hiện của giá trị nhân đạo còn được thể hiện ở cái kết của tác phẩm. Điểm khác biệt của các tác phẩm ở hai giai đoạn chính là lúc kết thúc, cách xử lí bi kịch mà tác giả dành cho nhân vật của mình. Như đã nói, văn học gắn liền với lịch sử, thế nên hoàn cảnh xã hội bấy giờ thế nào thì cũng tái hiện trong văn học như vậy. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám, bi kịch con người còn chưa có hướng xử lí tốt hơn, ngoài việc tìm đến cái chết hay buồn bã, chịu đựng thì không thể làm gì khác. Nhưng từ sau cách mạng tháng Tám, đã có “mặt trời chân lí”, ánh sáng cách mạng soi đường dẫn dắt và giúp con người giải quyết bi kịch một cách tốt đẹp hơn, cuộc sống về sau cũng hạnh phúc hơn. Chính vì nhìn ra điều đó mà các tác giả như Tô Hoài, Kim Lân đã tạo cho nhân vật mình một hướng đi tốt hơn, cách để thoát khỏi bi kịch của cuộc sống. So với thời kỳ trước cách mạng tháng tám con người đều bị dồn vào đường cùng phải tìm đến cái chết để kết thúc bi kịch của cuộc đời mình, thì giai đoạn sau con người thường có cái kết viên mãn hơn. Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người. Cuộc sống chính là mảnh đất màu mỡ để cho văn học khám phá và khai thác. Văn học cũng giống như những con ong đi tìm mật ở những nhụy hoa mà con người lại chính là những bông hoa rực rỡ hương sắc ấy. Dù cho số phận đã định đoạt cuộc sống của họ đầy những đau thương thương mất mát hay phải rơi vào rơi vào bi kịch không lối thoát thì ở họ vẫn toát lên được những phẩm chất đáng quý đáng trân trọng. Điển hình như Chí Phèo có là con quỷ dữ của làng Vũ Đại nhưng trong anh vẫn còn bản chất lương thiện chỉ vì đời sống xã hội bây giờ quá khắt khe nên con đường hoàn lương của anh dường như không thể thực hiện được. Dù vậy cũng không thể chối bỏ được bản chất của Chí vẫn là một người nông dân hiền lành lương thiện. Văn học và con người dường như là một vòng tuần hoàn, văn học viết về con người và sau đó quay lại phục vụ cho con người. Văn học đã hoàn thành nhiệm vụ của mình tái hiện lại hiện thực cuộc sống, đồng thời nâng cao được phẩm chất đáng quý và thể hiện chân thực nhất bi kịch của con người. Không chỉ là người nông dân mà còn có người nông dân tri thức, người phụ nữ trong xã hội phong kiến…. Văn học đã tìm đến những số phận ấy để đồng cảm và thay những con người ấy lên tiếng, bộc bạch những nỗi tâm sự, tố cáo tội ác của bọn cường hào ác bá. Có thể nói văn học và con người có mối quan hệ mật thiết và không thể thiếu.
vanhoc
Phố Khâm Thiên là một con phố trên địa bàn quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Phố này dài 1.170 m, bắt đầu từ đường Lê Duẩn và kết thúc tại ngã tư Tôn Đức Thắng – Nguyễn Lương Bằng. Con phố này nay thuộc hai phường Khâm Thiên và Thổ Quan, quận Đống Đa. Lịch sử Phố Khâm Thiên chạy qua nhiều thôn cũ: Tương Thuận, Khâm Đức, Tô Tiền, Trung Tả, Quan Thổ, Xã Đàn thuộc hai tổng Tiền Nghiêm và Hữu Nghiêm, huyện Thọ Xương trước kia. Theo bản đồ Hồng Đức (1470–1497), nơi đây xưa có đài Khâm Thiên Giám hay còn gọi là Tư Thiên Giám, có nhiệm vụ theo dõi thời tiết, thiên văn và nghiên cứu lịch pháp. Thời Pháp thuộc, toàn bộ phố này thuộc huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông, sau thuộc Đại lý đặc biệt Hà Nội. Những năm 1930 – 1945, nơi đây là phố cô đầu, tiệm nhảy, sòng bạc nổi tiếng, phía sau phố là những túp lều xiêu vẹo của dân lao động nghèo nàn tăm tối. Đêm B52 Ngày 26/12/1972, trong thời kì Chiến tranh Việt - Mỹ, vào hồi 22 giờ 45 phút, Hoa Kỳ đã đem máy bay B.52 đến ném bom rải thảm suốt dọc dải phố này (và khu phố Chợ Khâm Thiên), làm chết 283 người, bị thương 266 người, phá hủy hoàn toàn 534 ngôi nhà và làm hư hỏng 1.200 ngôi nhà khác nữa. Chú thích Khâm Thiên
wiki
Binta Bello là một cựu giáo viên của lớp, ủy viên nhà nước, và Phó roi thiểu số hiện tại ở Hạ viện Nigeria. Bello đại diện cho Quốc hội liên bang Kaltungo/Shongom của Nhà nước Gombe. Cô là người phụ nữ duy nhất trong ban lãnh đạo của Nhà. Cuộc sống ban đầu và giáo dục Bello được sinh ra ở Igbuzo, bang Delta, có cha là sĩ quan quân đội. Bà đã di chuyển khắp đất nước trước khi trở về Nhà nước Gombe bản địa của mình. Bà đã nhận được chứng chỉ cấp II từ WTC Bajoga, bang Gombe năm 1988, bằng Cao đẳng Quản trị Công tại Đại học Jos năm 1995, và bằng B.Sc. Quản trị công tại Đại học Maiduguri năm 2010 Sự nghiệp Bello làm việc với tư cách là Ủy viên phụ trách các vấn đề phụ nữ ở bang Gombe từ năm 2007 đến năm 2010 Sau đó, bà đã tranh cử với tư cách là Đại diện cho Hiệp hội Liên bang Kaltungo/Shongom trên nền tảng của PDP mà bà đã giành được. năm 2019, bà thua cuộc bầu cử vào APC. Đảng Amos Bulus APC có 80.549 và PDP có 63.312 . Năm 2017, bà trao quyền cho 640 phụ nữ trong các kỹ năng mới. Tham khảo Nữ chính khách Nigeria Sinh năm 1970 Nhân vật còn sống
wiki
Hướng dẫn “Trong cuộc sống đời thường, chúng ta hầu như không nhận ra rằng mình nhận nhiều hơn là cho đi, và chỉ khi có lòng biết ơn thì cuộc sống mới trở nên phong phú ” (D. Bonhoeffer). Thật đúng như vậy, con người chúng ta được xem là loài động vật bậc cao, đứng lên trên muôn loài trên Trái Đất này ngoài sáng tạo ra ngôn ngữ còn có hoạt động của tư duy. Trong sự phức hợp của phần kiến trúc thượng tầng này, thì lòng biết ơn chính là một trong những điều làm nên sự đặc biệt. Biết ơn là sự ghi nhớ và trân trọng những gì mình nhận được từ người khác. Lòng biết ơn là sự thể hiện sự biết ơn của mình đối với những thành quả lao động của ông cha ta để lại. Lòng biết ơn là cơ sở khẳng định phẩm chất của con người. Lòng biết ơn được thể hiện rất phong phú trong cuộc sống hằng ngày của mỗi chúng ta. Sự biết ơn được phát huy hàng ngày, hằng giờ, từ những hành động nhỏ lẻ cho đến những hoạt động lớn lao. Con người Việt Nam có truyền thống ngoan hiền, hiếu thảo, lòng biết ơn được thể hiện thông qua phong tục thờ cúng ông bà, tổ tiên. Thể hiện tinh thần biết ơn sâu sắc của con cháu dành cho ông bà, cha mẹ, những người đã có công lao sinh thành, nuôi dưỡng. Không những vậy, họ còn thờ cúng tất cả những bậc nhân thần (những con người bình thường, có công với đất nước, sau khi mất được tôn lên làm thần), những Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Cảnh, tấm ảnh Bác Hồ giản dị linh thiêng được treo ở vị trí trang trọng giữa nhà… Đó được xem là truyền thống tốt đẹp của tín ngưỡng dân gian, như một dòng chảy, một sợi dây liên kết suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Là điều mà chúng ta không thể dễ dàng bắt gặp ở nhiều dân tộc khác. Có lẽ Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có nhiều ngày tưởng niệm nhất trên thế giới trong suốt một năm. Ngày 27/7, ngày 22/12, ngày 20/10…, đó là những ngày lễ trọng đại của đất nước, để tri ân các anh hùng liệt sĩ, những bà mẹ Việt Nam bất khuất, đảm đang. Đó là tiếng nói lên tiếng cho lòng biết ơi đối với những con người đã vì đất nước ngã xuống cho hòa bình dân tộc. Không thể không kể đến truyền thống tôn sư trọng đạo của con dân Việt. Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến, người thầy chỉ đứng sau “Quân” và “Phụ mẫu”, địa vị luôn được kính trọng. Ngày nay, bước vào xã hội hiện đại, thì người giáo viên lại càng được tôn trọng. Lòng biết ơn đã là một chuẩn mực đạo đức đẹp trong tâm thức người con dân Việt. Như D. Bonhoeffer đã nói: “Trong cuộc sống đời thường, chúng ta hầu như không nhận ra rằng mình nhận nhiều hơn là cho đi, và chỉ khi có lòng biết ơn thì cuộc sống mới trở nên phong phú ”. Lòng biết ơn là đức tính quan trọng của mỗi con người. Người sống có lòng biết ơn là những người thấu hiểu đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”, họ nhận thức được bản thân mình khi được sinh ra đã mang trong mình một cái ơn lớn của đất trời, của vũ trụ. Sống trong cái vũ trụ ấy, việc nhận được và cho đi đó là một lối sống văn hóa, tình nghĩa, từ những gì chúng ta nhận được và trao cho nhau, chúng ta đang góp sức xây dựng một cuộc sống xinh đẹp, tươi sáng. Để có thể xây dựng được một môi trường như vậy, việc chúng ta chính là hành động ngay bây giờ. Không phải chỉ có những hành động lớn lao thì mới thể hiện được lòng biết ơn, mà nó tồn tại trong những hành động hằng ngày. Biết ơn đối với bát cơm mà mỗi ngày mẹ nấu, biết ơn những giọt mồ hôi thấm áo trên đôi vai hao gầy của cha. Biết ơn ông bà đã kể cho chúng ta nghe những câu chuyện thấm tình gia đình. Biết ơn những lời giảng nhiệt tình của thầy cô trên lớp, biết ơn bác bảo vệ nhỏ nhắn trước cổng trường ngày ngày trông coi ngôi trường thân yêu của mình. Biết ơn dân tộc khi bản thân ta mang một trái tim đỏ, một màu da vàng, một bọc trứng trăm con cùng nở.
vanhoc
ARIA Charts là một loại bảng xếp hạng thuộc lĩnh vực âm nhạc ở Úc dựa trên doanh số phát hành, tiêu thụ đĩa đơn do Hiệp hội Công nghiệp Thu âm Úc đảm nhận và quản lý. Bảng xếp hạng này ghi nhận lại những album và đĩa đơn bán chạy nhất thuộc các thể loại khác nhau ở Úc. Sự biên soạn lại vị trí trên bảng xếp hạng được bắt đầu vào ngày 26 tháng 6 năm 1988 mà trước đó, từ giữa năm 1983, ARIA đã được cấp giấy phép của "Kent Music Report" (sau này được đổi tên thành "Australian Music Report" (Bảng báo cáo âm nhạc Úc) cho đến khi nó được dừng xuất bản vào năm 1999). Bảng xếp hạng ARIA charts bao gồm: Top 100 đĩa đơn bán chạy nhất mỗi tuần Top 100 album bán chạy nhất mỗi tuần Top 100 đĩa đơn kỹ thuật số bán chạy nhất mỗi tuần Top 100 album kỹ thuật số bán chạy nhất mỗi tuần Top 50 đĩa đơn bán chạy nhất về thể chất mỗi tuần Top 50 album bán chạy nhất về thể chất mỗi tuần Top 20 đĩa đơn bán chạy nhất tại Úc mỗi tuần Top 20 album bán chạy nhất tại Úc mỗi tuần Top 20 nhạc dance bán chạy nhất mỗi tuần Top 20 quốc gia phát hành (album hoặc đĩa đơn) bán chạy nhất mỗi tuần Top 20 phiên bản biên soạn lại bán chạy nhất mỗi tuần Top 50 bản catalogue album bán chạy nhất mỗi tuần Top 50 phiên bản bán chạy nhất tại các câu lạc bộ mỗi tuần Top 40 đĩa đơn bán chạy nhất ở thành thị mỗi tuần Top 40 album bán chạy nhất ở thành thị mỗi tuần Top 40 đĩa nhạc DVD bán chạy nhất mỗi tuần Top 100 phiên bản (album và đĩa đơn) trên bảng xếp hạng cuối năm vào mỗi năm Top 100 phiên bản (album và đĩa đơn) trên bảng xếp hạng thập kỷ Tốp 5 đĩa đơn và album được xuất bản lần đầu tiên trên tờ báo "News Limited" vào mỗi ngày chủ nhật. Tất cả các thể loại nhạc trên bảng xếp hạng được công bố trên trang web của ARIA Chart vào mỗi buổi tối chủ nhật lúc 6:30 chiều, để kịp in ấn và phát hành ngay ngày hôm sau. Danh sách xếp hạng được in ra là phiên bản rút gọn của một bảng xếp hạng đầy đủ, bảng danh sách này chỉ tóm gọn trong 50 đĩa đơn và album đầu cộng với 40 bài hát kỹ thuật số. Báo cáo danh sách các bảng xếp hạng ở ARIA đều được liệt kê đầy đủ như trên, có sẵn thông qua thuê bao e-mail trả tiền mỗi tuần. Những báo cáo này được tải lên dịch vụ web Archive Pandora theo định kỳ. Chú thích Liên kết ngoài Trang web chính thức của ARIA Charts Tài liệu lưu trữ của ARIA Charts từ năm 1989 Bảng xếp hạng thu âm Úc
wiki
Stronti titanat là một hợp chất hóa học vô cơ có thành phần là stronti oxit và nguyên tố titan với công thức hóa học được quy định là SrTiO3. Từ lâu hợp chất này đã được coi là một vật liệu nhân tạo hoàn toàn, mãi cho đến năm 1982 khi dạng tự nhiên của nó được phát hiện tại Siberia, được đặt tên tausonit và được IMA công nhận. Khoáng chất tausonit là một khoáng chất rất hiếm trong tự nhiên, tồn tại dưới dạng thức là những tinh thể rất nhỏ. Ứng dụng quan trọng nhất của nó là ở dạng tổng hợp, trong đó đôi khi nó có dạng thức có ứng dụng dùng để mô phỏng kim cương, là thành phần trong các loại kính có tính chính xác cao, trong biến trở và trong gốm sứ cải tiến. Tên tausonit đã được đặt theo tên của Lev Vladimirovich Tauson (1917-1989), nhà địa hóa học người Nga. Không sử dụng tên thương mại cho sản phẩm tổng hợp bao gồm stronti mesotitanat, Fabulit, Diagem và Marvelit. Ngoài khoáng chất được tìm thấy tại địa phương phát hiện lần đầu nó ở Massun Murun ở Cộng Hòa Sakha, tausonit tự nhiên cũng được tìm thấy ở Cerro Sarambi, khu vực Concepción, Paraguay và dọc theo sông Kotaki ở Honshū, Nhật Bản. Tham khảo Hợp chất stronti
wiki
Năng lượng hóa học là tiềm năng của một chất hóa học trải qua quá trình biến đổi thông qua phản ứng hóa học để biến đổi các chất hóa học khác. Các ví dụ bao gồm pin, thực phẩm, xăng dầu, v.v... Phá vỡ hoặc tạo ra liên kết hóa học liên quan đến năng lượng, mà có thể được hấp thụ hoặc phát triển từ một hệ thống hóa học. Năng lượng có thể được giải phóng hoặc hấp thụ do phản ứng giữa một tập hợp các chất hóa học bằng với chênh lệch giữa hàm lượng năng lượng của sản phẩm và chất phản ứng, nếu nhiệt độ ban đầu và nhiệt độ cuối cùng là như nhau. Sự thay đổi năng lượng này có thể được ước tính từ năng lượng liên kết của các liên kết hóa học khác nhau trong các chất phản ứng và sản phẩm. Nó cũng có thể được tính từ, năng lượng bên trong của sự hình thành các phân tử chất phản ứng, và năng lượng bên trong của sự hình thành các phân tử sản phẩm. Sự thay đổi năng lượng bên trong của một quá trình hóa học bằng nhiệt lượng trao đổi nếu nó được đo trong các điều kiện có thể tích không đổi và nhiệt độ ban đầu và nhiệt độ cuối cùng bằng nhau, như trong một thùng chứa kín như nhiệt lượng kế bom. Tuy nhiên, trong điều kiện áp suất không đổi, như trong các phản ứng trong các mạch mở ra khí quyển, sự thay đổi nhiệt đo được không phải lúc nào cũng bằng sự thay đổi năng lượng bên trong, bởi vì công việc thể tích áp suất cũng giải phóng hoặc hấp thụ năng lượng. (Sự thay đổi nhiệt ở áp suất không đổi được gọi là thay đổi entanpi; trong trường hợp này là entanpy của phản ứng, nếu nhiệt độ ban đầu và cuối cùng bằng nhau). Một thuật ngữ hữu ích khác là nhiệt của quá trình đốt cháy, đó là năng lượng chủ yếu của các liên kết đôi yếu của oxy phân tử được giải phóng do phản ứng đốt cháy và thường được áp dụng trong nghiên cứu nhiên liệu. Thực phẩm tương tự như các nhiên liệu hydrocarbon và carbohydrate, và khi nó bị oxy hóa thành carbon dioxide và nước, năng lượng được giải phóng tương tự như nhiệt của quá trình đốt cháy (mặc dù năng lượng này không được đánh giá giống như nhiên liệu hydrocarbon - xem năng lượng thực phẩm). Thế năng hóa học là một dạng năng lượng tiềm năng liên quan đến sự sắp xếp cấu trúc của các nguyên tử hoặc phân tử. Sự sắp xếp này có thể là kết quả của các liên kết hóa học trong một phân tử hoặc cách khác. Năng lượng hóa học của một chất hóa học có thể được chuyển đổi thành các dạng năng lượng khác bằng phản ứng hóa học. Ví dụ, khi nhiên liệu bị đốt cháy, năng lượng hóa học của oxy phân tử được chuyển thành nhiệt, và tương tự là trường hợp tiêu hóa thức ăn được chuyển hóa trong cơ thể sinh vật. Thực vật xanh biến đổi năng lượng Mặt Trời thành năng lượng hóa học (chủ yếu là oxy) thông qua quá trình quang hợp và năng lượng điện có thể được chuyển đổi thành năng lượng hóa học và ngược lại thông qua các phản ứng điện hóa. Tham khảo Hóa học Năng lượng hóa học
wiki
Đường Hải Yến Chuyện yêu Có lẽ chẳng bao giờ Phan biết, Phan là một trò chơi nghiêm túc với tôi, trò chơi không ràng buộc nhưng đầy hy vọng. Giả thử Phan là chàng, và tôi là Khuê biết đâu đã kịp hôn nhau ở một góc công viên nào đó không chừng.1/Sạch. Ngón dài. Móng hồng.Chẳng biết đã bao lần tay ấy tiếp xúc với những centinmet run và nhạy trên bờ vai ngần ngà của chị Mạc Khuê, và bây giờ là của nàng Tô Thị nhà phố Bích Câu ấy. Lúc này ở đây chàng sạch sẽ, kiểu được chăm sóc tuyệt đối của đàn ông có vợ. Cố thoát mắt khỏi khuôn ngực chàng, nơi chiếc áo sơ mi trắng đang photocopy rõ nét hai dải lượn của chiếc áo may ô, tôi tự hỏi sao bỗng nhiên mình dịu dàng, nhất là khi mắt chàng nhìn bồn chồn và tin cậy: “Khuê có hay nhắc đến anh không?”Lập tức tưởng tượng ra Khuê, mới chiều nay bế con cùng chồng về chơi nhà, bờ vai vẫn ngần ngà, tóc cắt cao, mặt trong lẻo. Lấy anh rể tôi rồi Mạc Khuê trẻ hẳn, mẹ kêu trông Khuê trẻ hơn tôi (chắc chưa lần nào phải đóng vai Tô Thị).Bóng đèn từ trần nhà rọi xuống khoảng sáng an toàn đủ để chàng nói thêm vài câu chán chán mà không thấy tôi đang xòa tóc che mặt, thụt sâu vào ghế để buông ra một lời nửa như an ủi nửa là chế giễu: “Không làm sao cho người khác thấy hết mình đang khổ như thế nào Di nhỉ?”Chàng chợt nhớ:“Thứ bảy mà Mạc Anh không đi chơi?”Tôi cắn môi, định nói thật thì chàng thêm:“Sao chẳng thấy bạn trai”Vậy là tôi giả vờ cười buồn:“Không có ai”.Và tôi nghĩ đến Quang, đến Phan, đến Thạch… thỉnh thoảng hay gặp họ giữa đường, nói chuyện bóng gió tế nhị nhưng xong xuôi lại cười ầm ĩ. Nhất là Phan, lúc nào cũng cười được, cũng rủ người khác đi café, đi bi-da được. 2/Tôi bỏ học đến nhà Nhân, rủ Nhân đi mua quần áo. Lúc đang ngắm tôi hì hục thắt đi thắt lại cái khăn không xấu không đẹp Nhân buông một câu: “Sao?”Tôi trả cái khăn về chỗ cũ, “sao” lại mà mặt đã không thể không trông rã rời.Nhân thấy tôi vậy là nghiêm trang ngay:“Đừng ngại, nói ra cho nhẹ người”.Cái giọng dịu dàng kích thích giãi bày nhưng Nhân không để tôi kịp nói ra cho nhẹ người đã:“Hôm qua Phan hỏi tao Mạc Anh có hay đi chơi”.“Thế mày trả lời sao?”“Tao bảo không nhưng nó chẳng tin, nói ngữ mày thì làm sao ở nhà nổi”.Tôi “ừ, làm sao ở nhà nổi” mà thấy tức: “Phan chán chết, gặp cô nào cũng nhìn”.Nhân gắt:“Mày thì hơn gì?”Tôi hơn gì Phan? Ai tôi cũng nhớ, lại luôn làm như chẳng nhớ ai, nhưng tôi không tin Phan. Phan háo hức vậy mà giờ vẫn chưa yêu được ai thì chắc là rất vụng về. Tôi thì lại sợ nhất đàn ông vụng về.“Tao chán kiểu quan hệ không tâm điểm như với Phan rồi”“Mày thích Di hơn chứ gì?”Thế là đã đủ cho một cuộc bình bấu sốt sắng nhưng Nhân vẫn chưa thôi:“Mày quên là người ta đã có vợ à, không nghĩ đến bản thân à?”Nghĩ nhiều chứ, nhân vật hàng đầu trong trí não tôi mà.“Mày không hợp đâu”Tôi biết Nhân muốn nói gì, tôi “đừng” thật yếu ớt mà thấy mình buồn lắm. 3/Chủ nhật.Hôm qua chàng đánh nàng Tô Thị phố Bích Câu một cái tát. Chàng kể vậy với tôi bằng cái giọng thì - ít - nhất - có - một - người - hiểu - và - không - đánh - giá- xấu - về - mình. Nhân lúc Mạc Khuê về chơi tôi mách, lén dò xem thái độ của Khuê. Rõ là Khuê qua cái thời thích kháo những chuyện giật gân với tôi rồi, Khuê thở dài:“Mày thấy đấy, đàn ông đẹp mà tử tế thì phải nghi ngờ ngay từ đầu”Tôi ghi câu nói đáng giá ấy vào đầu đồng thời tưởng tượng luôn cái cảnh Khuê ghen, nếu đọc được ý nghĩ của em gái Khuê.Nhân đến nhà kèm theo Phan, ngắm Mạc Khuê rồi thầm thì: “Di đâu?”Tôi thờ ơ: “Hôm nay có Khuê, Di trốn”.Cái kiểu mặt dửng dưng ấy tôi thừa sức làm, thấy cũng không phải vật vã cho lắm để làm được vậy.Ra đến ngõ Nhân còn cố:“Di có vẻ còn yêu Mạc Khuê nhỉ?”Phan cười: “Anh này yếu đuối”, rồi Phan nổ máy xe rì rì.Tôi im lặng nhìn Nhân, nếu Phan biết tôi yêu thế nào chắc Phan tội nghiệp lắm. 4/Chiều nghỉ học, cả nhóm ồn ào kéo nhau đến nhà Phan. Ngay khi vừa vào, thấy Phan áo xống phong phanh, tóc còn nguyên nếp chải ướt rượt là tôi đã định chỉ một chút rồi về, mặc mọi người hỉ hả với nhau sẽ ở lại chơi nguyên cả một buổi.“Tự nhiên nhé”, Phan nheo mắt.“Phan thơm quá”, một ý ngĩ buột qua khiến tôi không tự nhiên nổi, hình dung ra cảnh Phan cởi trần vung vít bọt xà phòng khắp ngực.Ra về Nhân hỏi bâng quơ:“Thấy Phan hay không”Tôi:“Thấy”Rồi tôi ngại:“Nhưng hơi vui tính”.Nhân bắt đầu lên giọng bực:“Vâng, chắc phải can đảm lắm mới yêu được đàn ông vui tính như thế”“Tao thì lại không có ưu điểm đó”“Ừ, nhưng mày có ưu điểm khác là yếu đuối mà lại bướng”.Biết sẽ cãi nhau, tôi im lặng. 5/Học chung ngần ấy năm rồi mà như không có gì để nói. Tôi nhìn Phan, nghĩ sao loại tình cảm tuổi hoa niên này chẳng chịu đến với mình sớm hơn, giờ lại như đã quá tuổi.Chàng nháy mắt với tôi, ngó Phan rồi chào về, không quên bắt tay vỗ vai thân mật. Phan cười nhưng tôi không cười nổi, thấy cử chỉ này của chàng có vẻ trịch thượng, chắc trong mắt chàng bọn tôi đáng thương như nhau. “Sao Mạc Khuê và Di chia tay?““Sao họ chia tay?”. Tôi đã tự hỏi câu này đến chục lần, hỏi luôn Khuê nhưng bị trả lời như gắt: “Không yêu”. Tôi chẳng tin. Không yêu mà được chừng ấy thời gian, không yêu mà chồng con rồi còn nói xấu, không yêu mà vợ rồi còn đến nhà.“Di khổ vậy được mấy năm rồi đấy nhỉ?”Tôi không trả lời mà nghĩ đến vẻ mặt chàng sọm đi, già lắm mỗi lần nhắc đến Mạc Khuê.“Yêu thực sự thì ai cũng giống ai” - Phan trịnh trọng.Tôi định ừ nhưng lại thôi. 6/Đi uống cafe, Phan dẫn tôi lòng vòng các phố rồi rẽ vào ngõ, rồi trèo mấy bậc thang chóng mặt rồi chui được vào cái góc quán bé tẹo, bé tẹo và ấm sực đến khó tin.Nếu giờ Phan tỏ tình chắc không hợp, tôi nghĩ mà tự nhiên thấy nhẹ nhõm, nỗi nhẹ nhõm xót xa và lạ lẫm. Có lẽ chẳng bao giờ Phan biết, Phan là một trò chơi nghiêm túc với tôi, trò chơi không ràng buộc nhưng đầy hy vọng. Giả thử Phan là chàng, và tôi là Khuê biết đâu đã kịp hôn nhau ở một góc công viên nào đó không chừng. Lãng mạn nhưng nhàm chán lắm! (theo nhận xét của Khuê!) Cái mà những cậu trai bằng tuổi không dám hoặc không biết đem lại cho tôi. Kể cả Phan, có cái nói mà cũng nhát. Mà mặt thế là mặt yêu rồi, làm sao giấu tôi được.Tôi òa khóc, muốn làm ra thật xúc động, muốn trừng phạt Phan, muốn chết đi để cho khuất mắt Phan cái người mà Phan thích nhưng cứ làm như thể chẳng sân si.Phan bối rối nhìn quanh rồi cầm tay tôi:“Sao thế, Mạc Anh sao thế?”Tôi cứ để yên vậy mà hoảng hốt nhớ chàng, mà tự trấn an dù sao Phan cũng là người tôi thèm được khóc trước mặt, thèm được cầm lấy tay như là đã của mình. 7/Cuối buổi tôi thôi khóc, ngồi sau xe ríu rít thăm Nhân.Trước khi bấm chuông cửa, Phan quay sang tôi cười: “Chắc Nhân sẽ ngạc nhiên lắm”Tôi bối rối cười theo. Rồi Phan chuyền tay qua vai tôi. Tôi càng bối rối hơn, nghĩ bối rối thế này âu cũng là xao động vì người ta lắm.Biết đâu yêu được không chừng. Mục lục Chuyện yêu Chuyện yêu Đường Hải YếnChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: Được bạn: ct.ly đưa lên vào ngày: 1 tháng 9 năm 2006
vanhoc
Nguyễn Khải (tên khai sinh: Nguyễn Mạnh Khải; 3 tháng 12 năm 1930 - 15 tháng 1 năm 2008), là một nhà văn người Việt Nam được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh và là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà văn trưởng thành sau cách mạng tháng 8 năm 1945. Ông là đại biểu Quốc hội khóa VII; Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa III. Tiểu sử Quê nội Nguyễn Khải ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi. Đang học trung học thì gia nhập Cách mạng tháng Tám. Trong Kháng chiến chống Pháp, ông gia nhập đội tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Bắt đầu viết văn từ những năm 1950, được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột (phần I năm 1959, phần II năm 1962). Sau năm 1975 Nguyễn Khải chuyển vào sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông rời quân đội năm 1988 với quân hàm đại tá để về làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa VII. Nguyễn Khải mất ngày 15 tháng 1 năm 2008 tại Thành phố Hồ Chí Minh do bệnh tim. Ông có ba người con, hai trai một gái, trong đó người con trai út là Nguyễn Khải Hoàn, Chủ tịch Tập đoàn bất động sản Khải Hoàn Land. Sự nghiệp Chủ đề các tác phẩm của Nguyễn Khải khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội-chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống. Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo. Năm 1982, Nguyễn Khải nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm. Năm 2000, nhà văn được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật. Tác phẩm Mùa lạc của Nguyễn Khải thường được trích dạy trong sách giáo khoa phổ thông môn Văn học nhiều năm qua. Trong bộ sách giáo khoa Ngữ văn bộ mới (lớp 12), tác phẩm này được thay bằng Một người Hà Nội, cũng là một truyện ngắn xuất sắc của ông. Tác phẩm Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch. Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều tác phẩm như: Xung đột (1959-1962), Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960), Thời gian của người (1985)... Tác phẩm tiểu thuyết Thượng đế thì cười (2003), mang giọng văn hồi ký về cuộc đời viết lách của ông.Tác phẩm cuối cùng của ông là tuỳ bút Đi tìm cái tôi đã mất (2006) ghi lại những trăn trở của Nguyễn Khải vào những năm cuối đời. Các tác phẩm nổi bật của Nguyễn Khải Mùa xuân ở Chương - Mỹ (1954) Người con gái quang vinh (1956) Xung đột (truyện, 1959) Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960) Hãy đi xa hơn nữa (truyện vừa, 1963) Người trở về (tập truyện vừa, 1964) Họ sống và chiến đấu (ký sự, 1966) Hoà - Vang (bút ký, 1967) Đường trong mây (tiểu thuyết, 1970) Ra đảo (1970) Chủ tịch huyện (truyện, 1972) Chiến sĩ (tiểu thuyết, 1973) Tháng ba Tây nguyên (ký, 1976) Cách mạng (kịch, 1978) Gặp gỡ cuối năm (tiểu thuyết, 1982) Thời gian của người (1985) Điều tra về một cái chết (tiểu thuyết, 1986) Vòng sống đến vô cùng (truyện, 1987) Một cõi nhân gian bé tí (tiểu thuyết, 1989) Một người Hà Nội (tập truyện ngắn, 1990) Cha và các con và... (tiểu thuyết, 1990) Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (tập truyện vừa, 1993) Một thời gió bụi (truyện ngắn, 1993) Hà Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn, 1995) Chút phấn của đời (truyện ngắn và kịch, 1999) Chuyện nghề (1999) Nắng chiều (tập truyện ngắn, 2001) Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2002) Mẹ và các con (tập truyện ngắn thiếu nhi, 2002) Sống ở đời (tập truyện, 2003) Ký sự & Kịch (2003) Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, 2003) Nghề văn cũng lắm công phu (truyện - tạp văn, 2003) Vòng tròn trống rỗng (kịch, 2003) Một chặng đường (tiểu thuyết, 2005) Đi tìm cái tôi đã mất (tùy bút, 2006) Các tác phẩm khác của ông có thể kể tới: Ước gì tôi được trẻ lại, Tự bạch, Người ngu, Người mơ mộng, Nếp Nhà, Má Hồng, Đời khổ, Đất Mỏ, Đàn ông, Đàn bà, Đã từng có ngày vui, Chị Mai, Cái thời lãng mạn, Buổi sớm mai, Bố con, Bảy đô một đêm, Bắt đầu từ một câu nói, Bạn viết cũ, Anh Thanh Tịnh, Đứa con nuôi,... Giải thưởng Trong suốt sự nghiệp, Nguyễn Khải đã nhận nhiều giải thưởng văn học như: Giải thưởng Văn học Lê Thanh Nghị (Liên khu III, 1951), Giải thưởng Văn nghệ Việt Nam (1951-1952), Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam (1982), Giải thưởng Văn học Đông Nam Á (2000), Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (đợt II - 2000) và Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng. Tham khảo Liên kết ngoài "Đi tìm cái tôi đã mất" Vĩnh biệt nhà văn Nguyễn Khải, Vietnamnet 20:39' 15/01/2008 (GMT+7) [http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/tac-gia-mua-lac-qua-doi-1895459.html Tác giả 'Mùa lạc' qua đời], Thoại Hà, VnExpress 16/1/2008 08:51 GMT+7 Nhà văn Việt Nam thời kỳ 1945–1975 Nhà văn Việt Nam thời kỳ từ 1976 Người Hà Nội Người Nam Định Người nhận giải thưởng Hồ Chí Minh Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam Sinh năm 1930 Mất năm 2008 Nhà văn Việt Nam Người họ Nguyễn tại Việt Nam
wiki
Helena Margarida dos Santos e Costa, hay Helena Costa, (sinh ngày 15 tháng 4 năm 1978) là một huấn luyện viên bóng đá người Bồ Đào Nha. Hiện tại, cô đang giữ vị trí Trưởng bộ phận Tuyển dụng của câu lạc bộ bóng đá Watford. Costa có bằng thạc sĩ về Khoa học Thể thao và bằng Huấn luyện cấp A của Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA). Từ năm 2012 đến 2014, Costa đã trở thành huấn luyện viên trưởng của đội tuyển nữ quốc gia Iran. Sau đó, cô đã tạo nên lịch sử khi trở thành người phụ nữ đầu tiên huấn luyện một đội bóng đá chuyên nghiệp nam ở Pháp, đó là đội Clermont Foot vào năm 2014. Tuy nhiên, trước khi mùa giải bắt đầu, Costa đã từ chức vì thiếu giao tiếp và sự tôn trọng từ phía câu lạc bộ. Costa cũng đã trở thành huấn luyện viên trưởng của đội tuyển nữ quốc gia Qatar từ năm 2015 đến năm 2016. Sự nghiệp huấn luyện của Costa được đánh giá cao vì đã phá vỡ các rào cản và thách thức các định kiến về giới tính trong thế giới bóng đá, đặc biệt là trong một thế giới mà nam giới chiếm ưu thế. Sự Nghiệp Helena Margarida dos Santos e Costa, hay Helena Costa, là một huấn luyện viên bóng đá người Bồ Đào Nha. Cô sở hữu bằng thạc sĩ về khoa học thể thao và bằng A của UEFA về huấn luyện. Trước đó, từ năm 1997 đến năm 2010, cô đã huấn luyện các đội trẻ của Benfica, giúp đội đứng thứ hai trong giải vô địch quốc gia năm 2005. Ngoài ra, cô còn quản lý đội bóng hạng thấp Cheleirense và đội bóng nữ S.U. 1º Dezembro và Odivelas, giành được nhiều chức vô địch và đưa đội Odivelas lên hạng nhất với tư cách là nhà vô địch hạng hai.Từ năm 2008 đến năm 2011, Costa là người tìm kiếm tài năng cho câu lạc bộ Scotland Celtic F.C. tại Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Cô cũng quay lại Celtic làm người tìm kiếm tài năng cho các đợt riêng biệt vào năm 2012 và năm 2013. Với tư cách là một huấn luyện viên quốc tế, cô đã dẫn dắt đội nữ Qatar giành chiến thắng đầu tiên của họ vào năm 2012.Vào ngày 22 tháng 10 năm 2012, Costa được bổ nhiệm làm huấn luyện viên của đội tuyển nữ Iran và dẫn dắt họ trong hai năm (2012-2014), nhưng không thể đưa đội đến World Cup 2015. Tham khảo
wiki
Hướng dẫn Một cậu bé có tính rất xấu là hay nổi nóng. Một hôm, cha cậu bé đưa cho cậu một túi đinh rồi nói với cậu: “Mỗi khi con nổi nóng với ai đó thì hãy chạy ra sau nhà và đóng một cái đinh lên hàng rào gỗ”. Ngày đầu tiên cậu bé đã đóng tất cả 37 cái đinh lên hàng rào. Nhưng sau vài tuần, cậu bé đã tập kiềm chế dần cơn giận của mình và số lượng đinh cậu đóng lên hàng rào ngày một ít đi. Cậu nhận thấy rằng kiềm chế cơn giận của mình dễ hơn là phải đóng một cây đinh lên hàng rào.
vanhoc
My Way là album phòng thu thứ hai của nam ca sĩ nhạc R&B người Mỹ Usher, phát hành bởi hãng đĩa LaFace vào ngày 16 tháng 9 năm 1997. Album có sự góp giọng của Monica, Jermaine Dupri, và Lil' Kim. Bốn đĩa đơn từ album đã được phát hành: "You Make Me Wanna...", "Nice & Slow", "My Way", "Bedtime". Hầu hết các ca khúc trong My Way được sản xuất bởi Babyface và Jermaine Dupri. Album đã ra mắt với vị trí thứ 15 trên bảng xếp hạng Billboard 200 với 66,000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu phát hành, và vị trí thứ 4 trên bảng Billboard R&B/Hip-Hop Albums. Sau đó, My Way đã đạt vị trí quán quân trên bảng Billboard R&B/Hip-Hop Albums trong ba tuần lễ liên tiếp, cùng với vị trí thứ 4 trên bảng xếp hạng Billboard 200, album trở thành một thành công lớn đối với Usher. Album đã được chứng nhận 6 đĩa bạch kim ở Mỹ, và giành được tận sáu đề cử trong lễ trao giải Grammy. Tính riêng ở Mỹ, My Way đã được tiêu thụ 6 triệu bản, và 7 triệu bản trên toàn thế giới. Danh sách ca khúc Chú thích "Come Back" bao gồm một đoạn nhạc mẫu ca khúc "Funky" của cặp đôi Ultramagnetic MCs. "One Day You'll Be Mine" bao gồm một đoạn nhạc mẫu ca khúc "Footsteps in the Dark" của nhóm nhạc The Isley Brothers. Xếp hạng Xếp hạng cuối thập kỉ Tham khảo Album năm 1997 Album của Usher it:My Way (disambigua)#Musica
wiki
Nội dung bài viết1 Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 1 2 Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 2 3 Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 3 4 Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 4 5 Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 5 Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 1 Ngày nay, có bao người chỉ vừa mới gặp, dù chỉ là một trở ngại nho nhỏ là đã nản chí. Thế nhưng, bên cạnh đó vẫn có những con người có ý chí, nghị lực, quyết tâm đạt được mục đích chính đáng của mình. Và từ chính những trải nghiệm của bản thân, họ đã nhận ra rằng: Có chí thì nên. Đây cũng chính là một bài học cho cuộc sống được truyền lại từ bao đời nay và trở thành bài học vô cùng quý giá cho biết bao thế hệ. Để hiểu được tại sao câu tục ngữ này lại có giá trị to lớn đến như vậy đối với đời sống của con người, chúng ta hãy cùng tìm hiểu? Trước hết, chúng ta phải hiểu được ý nghĩa của lời khuyên này. Có chí thì nên mang ý nghĩa rất sâu sắc. Trong câu trên, “chí” được hiểu là ý chí, là hoài bão, lí tưởng tốt đẹp, là nghị lực, sự kiên trì của con người. Còn “nên” là sự thành công, thành đạt trong mọi việc. Từ đó, ta hiểu câu trên nhằm khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn của ý chí trong cuộc sống. Khi ta làm bất cứ một việc gì, nếu chúng ta có ý chí, nghị lực thì nhất định chúng ta sẽ kiên trì vượt qua được mọi khó khăn, chông gai của cuộc sống để đi đến thành công. Còn nếu thiếu ý chí, ta sẽ không làm được gì cả, dần sẽ cảm thấy chán nản, buông xuôi khi gặp khó khăn. Vậy tại sao có “ý chí” thì con người sẽ có tất cả? Chúng ta sẽ cùng đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi này. Ý chí là mặt năng động, là nỗ lực khắc phục khó khăn của con người. Xét về tâm lí học, thì ý chí chính là một thuộc tính cá nhân. Nó không được tự sinh ra mà là được hình thành, tôi luyện trong quá trình con người đấu tranh với khó khăn, thiếu thốn, thử thách trong cuộc sống. Do vậy, không khải ai cũng có ý chí. Nhưng trong thực tế, có trường hợp người vốn thiếu quyết tâm, kém ý chí phấn đấu vậy mà do những va vấp, thất bại nên họ trở nên có ý chí cầu tiến, có quyết tâm thực hiện mục tiêu đã định. Những con người như thế ngày càng nhiều trong xã hội. Vậy người có ý chí là người không sợ nguy hiểm, không chùn bước trước khó khăn, kiên trì theo đuổi mục đích, dồn mọi nỗ lực để khắc phục khó khăn. Vậy nên, chúng ta dễ hiểu tại sao người có ý chí là người luôn thành công trong mục đích đề ra của mình. Không chỉ là cơ sở dẫn đến thành công trong cuộc sống, “ý chí” còn giúp chúng ta hình thành những nhân cách tốt đẹp trong mỗi con người. Trong quá trình gắng hết sức mình thực hiện những mục tiêu đã đề ra, ý chí và những phẩm chất của con người được hình thành. Những phẩm chất này vừa đặc trưng cho cá nhân với tư cách là môt nhân cách, vừa có ý nghĩa to lớn cho đời sống và lao động của họ. Những phẩm chất tốt làm cho con người trở nên tích cực hơn. Ý chí được biểu hiện trong hành động, thoảng qua những phẩm chất cơ bản là tính mục đích, tính độc lập, tính quyết đoán, tính kiên trì, tính dũng cảm và tính tự chủ. Vậy tại sao biết có ý chí thì có lợi ích to lớn như vậy mà nhiều người vẫn thiếu sự quyết tâm, thiếu ý chí tinh thần phấn đấu? Dường như, sự tự giác, tự thân vận động của chính bản thân họ đã bị mất đi do cuộc sống quá tiện nghi và đầy đủ. Họ hài lòng với cuộc sống an nhàn nên thiếu sự nỗ lực, ý ý chí cầu tiến. Sẽ tai hại hơn khi chính họ chưa được dạy cách thích ứng với mọi tình huống bất ngờ xảy đến, chưa được rèn luyện. Những người bi quan không có sự kiên trì, quyết tâm, thấy việc nặng nhọc trước mắt là đùn đẩy, có suy nghĩ là sẽ không làm được, từ bỏ tất cả mọi thứ. Những người ấy chỉ nhìn sự việc một cách phiến diện, bó hẹp trong cái khuôn khổ mà họ tự tạo ra – một cái vỏ bọc đầy bi quan. Họ chỉ thấy cái xấu, cái bất lợi trước mắt nhưng lại quên đi lợi ích lâu dài. Lại có những người vừa mới gặp thử thách là bỏ cuộc. Việc chấp nhận thất bại nhanh chóng ấy là do người đó thiếu sự tự tin, họ sợ thất bại nên không dám nhìn nhận sự thật dù có thể sự thật ấy quá phũ phàng. Và cũng đôi khi có người đã nỗ lực hết sức mình để vượt qua thử thách nhưng lại không đạt được kết quả mong muốn. Điều đó cũng sẽ dẫn đến việc người ấy bị áp lực đè nặng, để rồi nản chí, dừng cuộc đua nửa chừng trong khi bản thân họ mới đi được một phần ba chặng đường. Thật ra, chả có gì lạ cả. Con người từ cổ chí kim vẫn chạy đường trường trên cái lối mòn chông gai này. Cũng chính từ cái giá trị của ý chí nên xã hội luôn tôn trọng những ai vượt qua gian khó để đạt được mục đích của mình và mục đích càng cao lại càng thêm vinh dự, tự hào. Vì vậy, chúng ta đã cố gắng hết sức, hãy sử dụng hết khả năng của mình thì dù có thất bại đi chăng nữa, chúng ta cũng được thông cảm, bản thân cũng không ân hận gì. Thất bại khi đã cố gắng, điều đó đâu đáng để ta buồn, có thất bại mới có thành công, có nghị lực mới đạt kết quả. Có chí thì nên là một đức tính không thể thiếu được trong cuộc sống. Vì con đường đưa ta đến thành công luôn có rất nhiều chông gai, chướng ngại. Để tiến tới thành công, ý chì và nghị lực là những yếu tố đầu tiên giúp ta vượt qua những thử thách ấy. Có ý chí vững vàng, chúng ta sẽ không ngần ngại vượt qua khó khăn, rèn luyện, hoàn thiện bản thân mình để có thể theo đuổi những ước mơ, hoài bão của mình. Ý chí góp thêm sức mạnh cho ta vững tin trước những tai ương, biến cố của của cuộc sống. Có được ý chí, nghị lực sẽ giúp con người chúng ta năng động, sáng tạo và giúp ta có thể có những giải pháp tốt nhất để ta có thể vượt qua khó khăn, gian khổ và đạt được mục đích của mình. Nếu không có ý chí, con người chúng ta sẽ không thể nào thành công trong cuộc sống. Chúng ta ngần ngại, rụt rè không dám đối diện với những chướng ngại, thử thách trên đường đời. Thế nhưng trong xã hội hiện nay, vẫn còn rất nhiều người thiếu ý chí, thiếu nghị lực. Họ rất dễ nản chí, yếu đuối ngại công việc, sợ khó sợ khổ hay dễ ngả lòng và bi quan trước khó khăn. Những con người ấy sẽ thiếu tự tin, hay dựa dẫm vào người khác, thiếu bản lĩnh và ít khi đạt được thành công trong cuộc sống. Trong thực tế cuộc sống, ta đã gặp nhiều tấm gương dùng ý chí nghị lực của mình để vượt qua mọi khó khăn, trở ngại, vượt qua những éo le trong cuộc sống để vươn tới thành công. Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký, từ nhỏ đã bị liệt cả hai tay, nhưng vì ham học và có ý chí nghị lực vươn lên mà thầy đã tập viết bằng chân. Nhờ sự cố gắng, kiên trì bền bỉ mà thầy đã sống có ích cho xã hội, là tấm gương sáng để học trò noi theo. Còn xưa, Mạc Đĩnh Chi, nhà nghèo, phải lấy ánh sáng của đom đóm làm đèn học. Nhờ sự kiên trì như thế mà ông đã đỗ đạt, làm quan giúp ích cho nhân dân. Nếu lật lại những trang sử hào hùng của dân tộc, có thể thấy cha ông ta đã trải qua rất nhiều chông gai, thử thách trong công cuộc giữ nước và dựng nước. Tưởng chừng như những lúc khó khăn có thể nhấn chìm con người, nhưng không, với ý chí quật cường, lòng quyết tâm cao độ, ông cha ta đã cố gắng và chiến thắng. Nhân dân ta đã đánh đổ được ách đô hộ của thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đưa đất nước trở thành một đất nước hòa bình, độc lập, tự do. Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại – nhân vật tiêu biểu với hai bàn tay trắng, nghị lực bền bỉ và sự quyết tâm đã ra đi tìm đường cứu nước, đưa nước nhà thoát khỏi cảnh đô hộ, lầm than của bọn xâm lược,… Có ý chí là chìa khóa để đưa ta đến thành công. Tuy nhiên ngoài ý chí ra chúng ta cần phải biết vận dụng óc thông minh sáng tạo của mình để đạt được hiệu quả cao trong công việc. Ngoài ra trong cuộc sống, chúng ta cần phải biết dung hòa giữa lí trí và tình cảm để đạt được kết quả tốt nhất trong công việc. Ý chí đưa ta đến thành công vì thế ngay từ bây giờ chúng ta cần phải rèn luyện bản thân mình có ý chí và nghị lực. Chúng ta cần phải học tập thật tốt, rèn luyện bản thân mình. Đồng thời chúng ta cần phải đề ra các mục đích cao đẹp và quyết tâm thực hiện. Đồng thời không được nản chí trước khó khăn, tìm ra các phương pháp để thực hiện và giải quyết những khó khăn trong cuộc sống. Câu tục ngữ “có chí thì nên” bao hàm ý nghĩa sâu xa. Qua đó, ông cha ta đã khuyên nhủ chúng ta phải kiên trì, nhẫn nại để đạt được thành công. Kiên trì, nhẫn nại là đức tính cần có của mỗi con người. Trong cuộc sống, ai cũng có mơ ước, hoài bão nhưng mơ ước sẽ vẫn là mơ ước nếu ta không kiên trì theo đuổi. Nhẫn nại luôn là động lực, là sức mạnh giúp con người vượt qua mọi khó khăn và tiến lên phía trước. Có chí thì nên, câu châm ngôn “như đinh đóng cột” ấy đặt chúng ta trước một phương châm, một kim chỉ nam định hướng cho cuộc đời mình. Đó là một chân lí chắc chắn.Nó khẳng định giá trị, ý nghĩ của ý chí và cả sự kiên trì lẫn bên trong. Câu nói giản dị này như một lời khuyên, lời nhắn nhủ quý báu và hơn thế nữa, như một chân lí hiển nhiên của cuộc đời, khiến cho ai đó mỗi khi đọc lên phải tự ngẫm lại mình. Với mỗi tâm hồn thế hệ 8x, 9x thời đại mới, những người đang đứng trước nhiều thử thách về năng lực trí tuệ, trước những đòi hỏi lớn về tiếp nhận tri thức mới mẻ… mà “thiếu chí” và “nhụt chí” thì hẳn là khó có thể đi tới đích mình cần trên con đường lập thân, lập nghiệp. Tôi nghĩ, chắc nhiều bạn học sinh còn mải chơi quên học hoặc học chưa hết sức, chắc hẳn sẽ giật mình khi nghe ai nói tới câu tục ngữ Có chí thì nên. Vậy nên, hãy tu dưỡng đức tính này ngay từ những việc nhỏ nhất đi nhé. Hiểu rõ ý nghĩa của lời khuyên Có chí thì nên, mọi người chúng ta phải biết rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, ý chí của mình ngay từ nhỏ và ngay trong từng việc nhỏ nhặt nhất. Vì có như vậy nó mới trở thành một nét đẹp trong mỗi con người. Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 2 “Không có gì nghèo bằng không có tài, không có gì hèn bằng không có chí”. (Uông Cách) Trên đường đời, ai trong chúng ta không một lần gặp thất bại vì “nhân vô thập toàn”, nhưng con người dễ nản chí khi gặp khó khăn trở ngại. Bởi vậy, ông cha ta ngàn xưa đã khuyên nhủ ta phải cốgắng vươn lên mới đạt được thành công.Câu tục ngữ “Có chí thì nên” đã được truyền lại từ bao đời nay như bài học quý giá. Đây chính là bí quyết để thành công trong cuộc sống. Vậy “có chí thì nên” có ý nghĩa như thế nào? “Chí” là gì? Là hoài bão, lí tưởng tốt đẹp, ý chí, nghị lực, sự kiên trì. Chí là điều cần thiết để con người vượt qua trở ngại. “Nên” là thế nào? Là sự thành công, thành đạt trong mọi việc. Vậy “có chí thì nên” nghĩa là thế nào? Câu tục ngữ nhằm khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn của ý chí trong cuộc sống. Khi ta làm bất cứ một việc gì, nếu chúng ta có ý chí, nghị lực và sự kiên trì thì nhất định chúng ta sẽ vượt qua được mọi khó khán, trở ngại để đi đến thành công. Một tấm gương tiêu biểu cho tinh thần rèn luyện y chí để thành công chính là Cao Bá Quát. Thuở nhỏ, Cao Bá Quát đãnổi tiếng vềtài văn thơ đối đáp thông minh và tài hoa, song chữ viết rất xấu. Tính khí tuy ngông ngạo, nghịch ngợm nhưng Cao Bá Quát Tất chịu khó và kiên trì trong học tập. Học và làm, bao giờ ông cũng thực hiện đến nơi đến chốn, là được mới chịu. Việc tập viết chữ cho tốt là một ví dụ. Đêm đến, Cao Bá Quát thường thức khuya miệt mài trên trang giấy để tập viết. Buồn ngủ, ông tự buộc tóc mình lên xà nhà để mỗi lần “gật” bị tóc giật đau phải tỉnh lại. Chân muốn chạy, ông buộc chân vào cạnh bàn. Tự mình “trị” mình, Cao Bá Quát kiên trì, không tự tha thứ, nản lòng. Do đó, sau này chữ ông rất đẹp, đẹp như “rồng bay phượng múa”. Mẫu chữ đẹp của ông hiện nay còn lưu lại trong bài đề tựa cuối cùng của Mai Am thi tập của công chúa Lại Đức, tự Thục Khanh, hiệu Mai Am, con gái vua Minh Mệnh. Tấm gương tiêu biểu nhất về “có chí thì nên” chính là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bác Hồ kết thúc bản di chúc bằng câu: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Mong muốn, ý chí, quyết tâm của Bác đã được thể hiện ngay từ thời niên thiếu. Năm 1906, Nguyễn Tất Thành theo cha vào Huế lần thứ hai và học ở trường tiểu học Pháp-Việt Đông Ba. Tháng 9 năm 1907, Bác vào học tại trường Quốc học Huế, nhưng bị đuổi học vào cuối tháng 5 năm 1908 vì tham gia phong trào chống thuế ở Trung Kì. Người cha bị triều đình khiển trách vì “hành vi của hai con trai”. Hai anh em Tất Đạt và Tất Thành bị giám sát chặt chẽ. Nguyễn Tất Thành quyết định vào miền Nam để tránh sự kiểm soát của triều đình. Với ý chí quyết tâm mạnh mẽ, Bác đã đi tìm đường cứu nước. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, từ Bến Nhà Rồng, Bác lấy tên Văn Ba, lên đường sang Pháp trong vai phụ bếp trên chiếc tàu buôn Đô đốc Latouche-Tréville, với mong muốn học hỏi những tinh hoa và tiến bộ từ các nước phương Tây. Bác phải chịu muôn vàn gian khổ khi ở nước ngoài, trong những ngày tháng bị giam cầm ở Trung Quốc. Bác đã lãnh đạo nhân dân ta kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ thành công, thống nhất đất nước, đem lại độc lập tự do cho dân tộc. “Sức mạnh không đến từ thể chất. Nó đến từ ý chí bất khuất”. Tại sao người có ý chí, nghị lực sẽ thành công? Bởi vì đây là một đức tính không thể thiếu được trong cuộc sống khi ta làm bất cứ việc gì. Đường đời không bao giờ bằng phẳng mà luôn có những khó khăn, thử thách. Chonên muốn thành công đều phải trải qua một quá trình, một thời gian rèn luyện lâu dài. Có khi thành công đó lại được đúc rút kinh nghiệm từ nhiều thất bại khác nhau. Chính ý chí, nghị lực, lòng kiên trì là sức mạnh giúp ta đi đến thành công. Càng gian nan chịu đựng thử thách trong công việc thì sự thành công càng vinh quang, càng đáng tự hào. “Không có việc gì khó Chỉ sợ lòng không bền Đào núi và lấp biển Quyết chí ắt làm nên”. (HồChí Minh) Thật đáng thương cho những người nản chí, nhụt chí! Đây là những con người khi gặp thất bại, khó khăn, thử thách thì tỏ ra tuyệt vọng. Họ không cố gắng vượt qua mà chỉ biết ngồi than thân trách phận. Những người này không chì làm hại chính bản thân mình vì không thành công trên đường đời, mà còn làm hại cả gia đình, xã hội. “Đường đi khó không khó vì ngăn sông, cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. (Nguyễn Bá Học) Đối với học sinh chúng ta, câu tục ngữ trên có ý nghĩa sâu sắc vì trong học tập và rèn luyện, muốn thành công, học sinh cần phải rèn luyện ý chí, không ngừng nỗ lực vượt khó khăn, thử thách để đạt mục đích. Chúng ta phải biết rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, ý chí của mình ngay từ lúc nhỏ, đặc biệt là ý chí cầu tiến. Vì có như vậy mới trở thành nét sống đẹp trong mỗi con người. Người học sinh cần tu dưỡng ý chí, bắt đầu từ những việc nhỏ, để khi ra đời làm được việc lớn. “Học vấn có chùm rễđắng ngắt nhưng hoa quả lại rất ngọt ngào”. (Ngạn ngữ Nga) Tóm lại, câu tục ngữ “Có chí thì nên” khẳng định vai trò, ý nghĩa to lớn trong cuộc sống. Khi chúng ta bắt đầu làm bất cứ một việc gì đó, nếu ta có ý chí nghị lực và sự kiên trì quyết tâm nhất định thì chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn trở ngại để đi đến thành công, chiến thắng như bài thơ Đi đường mà Bác Hồ đã đúc kết: “Đi đường mới biết gian lao Núi cao rồi lại núi cao trập trùng Núi cao lên đến tận cùng Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 3 Trong cuộc sống có những lúc chúng ta gặp phải những khó khăn trắc trở, có những lúc chúng ta sẽ vượt qua được điều đó Nhưng cũng có những lúc chúng ta cảm thấy rất khó khăn và nản chí thì hãy nhớ đến câu tục ngữ có chí thì nên. Đầu tiên chúng ta cần phải hiểu được ý nghĩa của câu tục ngữ này. Có chí thì nên là một lời khuyên chân thành dành cho chúng ta. Chí ở đây được hiểu là nghị lực và sự kiên trì của con người, dù có gặp khó khăn thử thách cũng sẽ vượt qua được. Còn nên chính là sự thành công của con người trong cuộc sống. Từ đây chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của câu tục ngữ này. Khi chúng ta làm bất cứ một việc gì đó nếu như có ý chí thì nhất định sẽ thành công. Còn nếu như chúng ta không có ý chí thì sẽ rất khó đạt được thành công bởi cái gì cũng cần vượt qua được những khó khăn thử thách. Nếu như thiếu ý chí và sự vươn lên thì chúng ta sẽ không thể thành công được. Ý chí chính là sự khắc phục khó khăn của con người. Ý chí không tự sinh ra và không tự mất đi, nó được hình thành và tôi luyện trong cuộc sống. Do vậy con người không phải ai cũng có ý chí mà cần được tôi luyện thử thách trong cuộc sống thì mới hình thành nên ý chí. Câu tục ngữ có hàm ý khuyên chúng ta cần biết vượt qua những khó khăn thử thách trong cuộc sống thì mới có thể thành công được. Mặc dù đôi lúc chúng ta sẽ thất bại nhưng hãy biến nó thành bài học để chúng ta biết vươn lên để thành công hơn. Những người có ý chí thường sẽ thành công hơn trong cuộc sồng và giúp con người có mục tiêu lý tưởng cao đẹp hơn. Trong quá trình hoàn thành những mục tiêu đã đặt ra con người ta sẽ hình thành nên ý chí. Những phẩm chất tốt đẹp cũng từ đây là ra. Những người không có ý chí thì rất khó thành công, bởi làm việc cũng cảm thấy khó khăn nhiều lúc còn cảm thấy chán nản mới gặp một tý khó khăn đã cảm thấy chán. Những người như vậy sẽ cảm thấy cuộc sống không có ý nghĩa và rất nhanh chán. Ý chí là một trong những điều không thể thiếu được trong cuộc sống của tất cả mỗi người. Để vượt qua được những khó khăn thử thách trong cuộc sống thì mỗi con người cần đặt ra những mục tiêu nhất định và có ý chí để thực hiện được những khó khăn ấy. Có ý chí vững vàng thì chúng ta sẽ chẳng sợ bất cứ điều gì. Ý chí sẽ giúp chúng ta vững bước trên con đường tương lai và đạt được những thành quả nhất định. Có chí thì nên chính là những chân lý mà chúng ta cần tiếp thu nếu như muốn đạt được những thành công nhất định. Mỗi con người cần biết tu dưỡng, rèn luyện, ý chí chỉ của mình để luôn tự tin hơn trong cuộc sống. Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 4 Kho tàng tục ngữ Việt Nam giàu có, óng ánh sắc màu trí tuệ. Nó đúc kết bao kinh nghiệm quý báu trong dân gian. Là bài học nhân sinh, cách ứng xử, nó dạy khôn, dạy khéo để làm người. Chỉ nói về lòng kiên trì, ý chí của con người mà nhân dân ta có biết bao câu tục ngữ mang tính giáo dục sâu sắc, tiêu biểu là câu “Có chí thì nên”. Vậy chí là gì? Là hoài bão, lí tưởng tốt đẹp, là nguồn động lực để ta thực hiện mơ ước, mục đích của bản thân, là điều cần thiết mà mỗi con người cần có. Bên cạnh đó, ý chí thường được đi đôi với sự kiên trì. Nhưng chỉ có ý chí không thôi thì không đủ, chúng ta còn phải có tri thức. Tri thức là sức mạnh. Trong thời đại phát triển mạnh mẽ của thông tin, khoa học kĩ thuật hiện nay, chúng ta còn phải biết trang bị cho mình những kiến thức đầy đủ và hợp lí. Nên là gì? Là sự thành công trong mọi việc hoặc một việc nào đó, là kết quả của ý chí, kiên trì và vốn tri thức của bản thân. Một bài học giáo dục rất hay của người xưa, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ hiện nay. Đôi khi chính chúng ta phải nhìn nhận rằng số người thiếu sự quyết tâm, ý chí phấn đấu cầu tiến ngày càng nhiều trong xã hội. Dường như chính bản thân họ, đúng hơn là sự tự giác, tự thân vận động đã bị mất đi trong cái tiện nghi đầy đủ. Vì lẽ đó mà họ lại sống một cách an nhàn, thiếu sự nỗ lực, ý chí cầu tiên. Và sẽ tai hại hon khi chính họ chưa được rèn luyện, được dạy cách thích ứng với mọi tình huống bất ngờ xảy đến. Mặt khác còn có những người lại bi quan, không có sự kiên trì, quyết tâm, thấy việc nặng nhọc trước mắt là đùn đẩy, có suy nghĩ là sẽ không làm được, từ bỏ tất cả mọi thứ. Những con người ấy chỉ nhìn sự việc qua một khía cạnh, một khía cạnh bó hẹp trong cái khuôn khổ mà họ tự tạo ra. Một cái vỏ bọc của sự bi quan. Họ chỉ thấy cái xấu, cái bất lợi trước mắt nhưng lại quên đi lợi ích lâu dài. Bên cạnh đó lại có những người mới vừa gặp thử thách đầu tiên là lại tự bỏ cuộc. Chuyện này đã quá quen thuộc. Việc từ bỏ nhanh chóng ấy là do người đó thiếu sự tự tin, cẩu tiến, sợ thất bại, họ không dám nhìn nhận sự thật dù có thể là phũ phàng. Và rằng đôi khi có nhiều người đã nỗ lực hết sức mình để vượt qua thử thách nhưng lại không đạt được kết quả mong muốn. Có lẽ vì hành trang kiến thức họ mang theo bên mình không đủ để làm việc đó. Nên đôi lúc, điều đó lại dẫn đến việc người ấy sẽ bị áp lực đè nặng, để rồi nản chí, dừng cuộc đua nửa chừng trong khi bản thân họ chỉ mới đi một phần ba chặng đường. Là con người, ai cũng có ý chí và sự kiên trì thực hiện nó mà ta không hề biết, có lẽ, vì những việc đó quá đỗi bình thường, xảy ra xung quanh ta mọi lúc mọi nơi đó thôi. Chẳng hạn như khi còn bé, muốn được khen hoặc được một viên kẹo, gói bánh thì ta phải cố gắng ngoan ngoãn, vâng lời, đó là ý chí, hoặc khi ta muốn biết bơi, ta phải có ý chí quvết tâm và kiên trì luyện tập thì mới thành công,… Và còn rất nhiều việc khác ta thể hiện ý chí dù ta không quan tâm là mấy. Quan trọng là cái ý chí của ta còn nhỏ, nó không đủ khả năng làm nhữngviệc to lớn. Nhưng nếu biết phát huy và nuôi dưỡng ý chí nhỏ này lớn lên thì đó là một bước đầu trong sự thành công của bạn rồi đấy! Điều đó hoàn toàn có cơ sở. Người có ý chí, nghị lực thì lại luôn thành công. Vì đây là một đức tính không thể thiếu mà ai cũng cần phải có, khi muốn việc gì đó, ta đều phải sử dụng đến nó. Muốn thành công phái trải qua quá trình rèn luyện lâu dài. Đôi lúc sự thành công lại được rút từ những kinh nghiệm thất bại. Ý chí, nghị lực bền bi và sự kiên trì là sức mạnh quan trọng nhất giúp ta đi đến thành công. Càng gian nan, chịu đựng thử thách trong công việc thì thành công càng vinh quang, càng đáng tự hào. Văn hóa con người vẫn chỉ quảng bá và đề cao sự kiên cường. Chúng ta đều được dạy lúc nằm nôi là một khi đã quyết định hưóng đi và mục tiêu thì nhất định phải vững lòng theo đuổi đến cùng. Phải theo đuổi cho đến khi thắng lợi vẻ vang hay thất bại hào hùng, nhưng chúng ta tuyệt không được dạy cách rút lui kịp thời, cách bỏ cuộc đúng lúc. Sa lầy trong cuộc chiến, bám trụ một cách bền gan chôn vùi thêm bao sinh mạng cũng mặc kệ. Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, từ cuộc kháng chiến chống quân Minh của vua tôi nhà Lê đến cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ của nhân dân ta trong những năm vừa qua, tất cả đều thử thách ý chí kiên trì bền gan vững chí của cả dân tộc để rồi ta lại dành được độc lập nhu mong ước đánh tan lũ bán nước, cướp nước. Trong lao động sản xuất và công cuộc xây dựng nước, chỉ với ý chí, nghị lực và đôi bàn tay mà dân ta đã xây dựng nên non sông gấm vóc để giờ đây ta có một cuộc sống hòa bình và một xã hội văn minh. Nhìn những con đê sừng sững đôi bờ sông Cầu, sông Hồng, sông Đáy, sông Thương, hay những ruộng đất màu mỡ, ta lại càng thấy khâm phục ông cha ta biết bao nhiêu… Bác Hồ, lãnh tụ vĩ đại – nhân vật tiêu biểu với nghị lực bền bỉ và sự quyết tâm đã ra đi tìm đường cứu nước, đưa nước nhà thoát khỏi cảnh đô hộ, lầm than của bọn xâm lược,… Trong học tập, đức tính kiên trì lại càng rất cần thiết để có được thành công. Từ một em bé mẫu giáo vào lớp một, bắt đầu cầm phấn viết chữ o đầu tiên đến khi biết đọc, biết viết, biết làm toán rồi lần lượt mỗi năm một lớp, phải mất 12 năm mới hoàn thành những kiến thức phổ thông. Trong quá trình lâu dài không có lòng kiên trì luyện tập, cố gắng học hành, làm sao có ngày cầm được bằng tốt nghiệp. Người bình thường đã vậy, với những người như Nguyễn Ngọc Kí, lòng kiên trì bền bỉ lại càng cần thiết để vượt qua khó khăn. Vốn bị liệt hai tay từ nhỏ, anh đã kiên trì luyện viết bằng chân để có thể đến –lớp cùng bạn bè. Đức kiên trì và ý chí vượt bao khó khăn, gian khổ đã giúp anh chiến thắng số phận. Anh đã học xong phổ thông, học xong đại học và trở anh thầy giáo, một nhà giáo ưu tú. Chắc hắn trong chúng ta ai cũng biết danh hài Hoài Linh đại tài nhí. Từ nhỏ, danh hài Hoài Linh đã phải đi bán hàng rong để có thể kiếm sông qua ngày và nuôi cho các anh em gia đình. Chú bắt đàu sự nghiệp ca hát từ khi gặp một đoàn nhạc kịch trong một lần bán hàng rong. Chú đã cố gắng lấy lòng tin của mọi người trong đoàn, càng ngày càng có chỗ đứng trong xã hội, được mọi người yêu thích. Chú càng cố gắng hơn, khắc phục những lỗi nhỏ trong vai diễn của mình nên bây giờ, chú ấy đã trở thành một danh hài nổi tiếng trong nước mà ai cũng yêu mến. Không chỉ trong nước, hãy bước xa hơn, bước ra ngoài thế giới rộng lớn này, ta sẽ thấy được còn rất nhiều con người kiên trì, quyết tâm như Bác, như thầy Ký. Ai cũng biết đó là Ê-đi-xơn, nhờ sự nỗ lực, ý chí mà ông đã sáng chế ra bóng đèn điện sau 10000 lần thất bại. Lin-coln phải rất cố gắng để trở thành tổng thống của Hoa Kì. Hê-len, nhà văn, nhà giáo dục nổi tiếng, luôn giúp đỡ những người có hoàn cảnh giống mình. Nhờ ý chí, nghị lực, bà luôn phấn đấu không ngừng dù cửa sổ tâm hồn của bà không nhìn được, dù không được ngắm nhìn vẻ đẹp muôn màu của thế giới xung quanh… Ngoài ra, còn có các danh nhân mà ai cũng biết đến như: Niu-tơn, Mari Quyri,… Từ đó, ta thấy được rằng những nhân vật, danh nhân nổi tiếng đều có ý chí quyết tâm rất cao và nghị lực bền bỉ. Họ, những con người tài năng ấy là những tấm gương sáng cho chúng ta học tập theo. Vậy nên, ý chí, nghị lực luôn có mặt và ở xung quanh ta, nó rất cần thiết. Nếu chỉ một lần thất bại mà đã vội nản lòng, nhụt chí thì sẽ không bao giờ ta đạt được mục đích, và ta sẽ chẳng bao giờ nếm được cái mùi vị tuyệt vời của sự thành công đâu! Nếu Ê-đi-xơn nhụt chí ngay từ lần đầu chế tạo bóng đèn điện thì sẽ chẳng bao giờ ông làm ra được nó cả. Hãy nghĩ thử xem, nếu ai cũng nản lòng, thất bại như vậy thì có lẽ nhân loại sẽ không bao giờ được sống trong cái xã hội văn minh, hiện đại này với tivi, máy tính, hay các trang thiết bị thông minh,… đâu! Thế thì sao? Con người sẽ mãi mãi sống trong thời cổ đại mà thôi! "Có chí thì nên", câu châm ngôn "như đinh đóng cột" ấy đặt chúng ta trước một phương châm, một kim chỉ nam định hướng cho cuộc đời mình. Đó là một chân lí chắc chắn. Nó khẳng định giá trị, ý nghĩ của ý chí và cả sự kiên trì sẵn bên trong. Câu nói giản dị này như một lời khuyên, lời nhắn nhủ quý báu hơn thế nữa, như một chân lí hiển nhiên của cuộc đời, khiến cho ai đó mỗi đọc lên phải tự ngẫm lại mình. Với mỗi tâm hồn thế hệ 8x, 9x thời đại mới những người đang đứng trước nhiều thử thách về năng lực trí tuệ, trước những đòi hỏi lớn về tiếp nhận tri thức mới mẻ… mà "thiếu chí" và "nhụt chí” thì hẳn là khó có thể đi tới đích mình cần trên con đường lập thân, lập nghiệp. Tôi nghĩ, chắc nhiều bạn học sinh còn mải chơi quên học hoặc học chưa hết sức, chắc hắn sẽ giật mình khi nghe ai nói tới câu tục ngữ: Có chí thì nên. Vậy nên, hãy tu dưỡng đức tính này ngay từ những việc nhỏ nhất đi nhé. Nghị luận xã hội về câu tục ngữ: Có chí thì nên – Bài làm 5 Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta có một số người chỉ mới gặp khó khăn một chút mà đã nản chí không thực hiện nữa. Mặt khác, một số người họ phải gặp rất nhiều khó khăn trên con đường đạt tới mục đích, thành công của họ, nhưng họ vẫn không vội nản lòng mà họ còn kiên quyết, quyết tâm làm sao đạt được mục đích đó. Những người đó đã làm theo câu tục ngữ "có chí thì nên" của cha ông từ bao đời nay. Nó cho thấy được sự quyết tâm kiên trì, không bao giờ nản lòng trước khó khăn của con người Việt Nam ta qua bao thế hệ. Chúng ta cần hiểu rõ về câu tục ngữ "có chí thì nên" như thế nào? Thật vậy, câu tục ngữ "có chí thì nên" là một trong những câu tục ngữ rất bổ ích vì nó giúp cho ta có được sự kiên trì khi làm một việc gì đó trong cuộc sống của mình. Theo cách hiểu của ta thì câu tục ngữ "có chí thì nên" có ngụ ý gì? Chúng ta hiểu được chữ "chí" tượng trưng cho ý trí, nghị lực, sự kiên quyết. Chữ "nên" thể hiện được sự thành công, sự thành đạt, kết quả. Vậy ngụ ý của nguyên câu tục ngữ "có chí thì nên" cho ta thấy được sự chủ động, quyết chí làm một việc gì đó, tuy gặp nhiều trở ngại, khó khăn nhưng vẫn không nản lòng, thì mới đạt được kết quả mà mình mong muốn. Tại sao câu tục ngữ này lại quan trọng đến thế? Vì nó mang lại cho chúng ta một sự quyết tâm trong lòng, nghị lực để chúng ta vươn lên trong cuộc sống, vượt qua mọi khó khăn để đạt được mục đích của bản thân mình. Qua những điều này chúng ta có thể thấy được trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều người có ý trí quyết tâm vượt khó, để đạt được thành quả của mình như Nguyễn Ngọc Kí mặc dù bị liệt hai tay nhưng thầy vẫn luôn cố gắng vươn lên học tập tốt và trở thành một người hữu ích cho xã hội. Câu tục ngữ "có chí thì nên" giúp ta có được sự quyết tâm, nghị lực trong cuộc sống, vì thế ta cần phải chia sẻ câu tục ngữ này cho các bạn trẻ, tất cả những người gặp khó khăn trong cuộc sống, để họ vươn lên vượt khó và trở thành những người có ích trong xã hội. Bên cạnh đó có một số người chỉ mới đụng phải khó khăn mà đã vội nản lòng, không làm nữa. Đó là những người không có ý trí, luôn luôn ở dưới mọi người, không bao giờ thành công trong mọi việc. Qua đó chúng ta hiểu được sự quan trọng của sự nỗ lực quyết tâm trong cuộc sống để đạt được kết quả tốt. Riêng bản thân tôi, tôi vẫn đang cố gắng để có thể đạt được những kết quả mà mình mong muốn.
vanhoc
Hình thành từ thời cổ đại, vùng đất trung tâm Châu Âu (hiện nay là nước Áo) bị chiếm đóng trong thời tiền La Mã bởi những bộ tộc Celtic khác nhau. Vương quốc Celtic của vùng Noricum sau đó bị thống trị bởi Đế chế La Mã và trở thành một tỉnh của nó. Petronell- Carnuntum ở Đông Áo ngày nay từng là một căn cứ quân sự quan trọng khiến thành phố thủ đô trở thành tỉnh Upper Pannonia. Carnuntum từng là nhà cho 50.000 người trong gần 400 năm. “Heidentor” – tàn dư của thành phố quân sự La Mã Carnuntum. Sau sự sụp đổ của đế chế La Mã, khu vực này bị xâm lăng bởi người Bavaria, người Slav, và người Avar. Charlemagne chinh phục khu vực này vào năm 788 sau công nguyên,khuyến khích thuộc địa hóa và giới thiệu Kito giáo. Là một phần của Đông Francia, khu vực chủ chốt mà hiện nay bao gồm Áo đã truyền lại cho nhà Babenberg. Khu vực này được biết đến như là marchia orientalis và đã được trao cho hầu tước Leopold thuộc dòng họ Babenberg vào năm 976. Ghi nhận đầu tiên cho thấy tên Áo có từ năm 996, nơi nó được nhắc đến là Ostarrîchi, đề cập đến lãnh thổ của dòng họ Babenberg. Năm 1156, Privilegium Minus thưởng Áo cho một vị công tước. Năm 1192, dòng họ Babenberg cũng giành lại được các công quốc của Styria. Với cái chết của Frederick II năm 1246, dòng họ Babenberg bị dập tắt. Kết quả là, Ottokar II của Bohemia nắm quyền kiểm soát hoàn toàn công quốc của Áo, Styria và Carinthia. Triều đại của ông đã kết thúc với thất bại của mình tại Dürnkrut dưới bàn tay Rudolph I của Đức vào 1278. Sau đó, cho đến khi Thế chiến I, lịch sử của Áo phần lớn do triều đại Habsburg cầm quyền. Với vai trò trung tâm của mình, từ lâu giáo dục Áo đã được đánh giá cao và có một truyền thống lâu dài; thu hút đông đảo sinh viên du học Áo với lịch sử 650 năm đào tạo giáo dục bậc cao.
vanhoc
Suthi Khlongrua (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1978) là một vận động viên quần vợt xe lăn chuyên nghiệp Thái Lan. Sự nghiệp Anh có thứ hạng cao nhất ở đơn là vị trí số 38 vào ngày 24 tháng 7 năm 2017, đôi là vị trí số 36 vào ngày 11 tháng 6 năm 2007. Khlongrua đã từng giành được huy chương đồng tại Đại hội Thể thao Người khuyết tật châu Á 2010 sau khi đánh bại đôi Trung Quốc là Xiaomin và Zujun trong hai set đấu là 6-1, 6-4. Anh cũng đoạt huy chương vàng cho đoàn thể thao khuyết tật Thái Lan tại Đại hội Thể thao Người khuyết tật Đông Nam Á 2017 ở nội dung đôi nam cùng với Wittaya Peemee, anh cũng giành được huy chương bạc ở nội dung đơn nam. Khlongrua cũng một là vận động viên quần vợt xe lăn Thái Lan tại Thế vận hội Mùa hè dành cho Người khuyết tật. Ở nội dung đơn nam, anh bị loại ở vòng 1 vào các kỳ 2008, 2012, 2016. Còn ở nội dung đôi nam, anh cũng chỉ có tiến vào vòng 2 vào năm 2008 và 2012. Tham khảo Liên kết ngoài Sinh năm 1978 Nhân vật còn sống Vận động viên quần vợt xe lăn Nam vận động viên quần vợt Thái Lan
wiki
Blues nơi đảo xanh () là bộ phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2022 với dàn diễn viên toàn sao gồm Lee Byung-hun, Shin Min-ah, Cha Seung-won, Lee Jung-eun, Uhm Jung-hwa, Han Ji-min, và Kim Woo-bin. Bộ phim xoay quanh câu chuyện tình yêu ngọt ngào và cay đắng, cuộc sống đầy những nốt thăng, trầm về những con người trên đảo Jeju. Bộ phim được phát sóng trên đài tvN vào khung giờ 21:10 (KST) Thứ bảy và Chủ nhật. Đồng thời phim sẽ được phát sóng trên nền tảng dịch vụ xem phim trực tuyến Netflix. Diễn viên Vai chính Lee Byung-hun trong vai Lee Dong-seok Ryu Hae-jun trong vai Lee Dong-seok thời niên thiếu Một chàng trai sinh ra và lớn lên ở vùng nông thôn của đảo Jeju. Anh bán tất cả các loại mặt hàng từ xe tải của mình để kiếm sống. Anh không có nhà riêng nên phụ thuộc rất nhiều vào chiếc xe tải vừa là cửa hàng vừa là nhà. Shin Min-a trong vai Min Seon-ah TBA trong vai Min Seon-ah thời niên thiếu Một người mẹ đơn thân, với quá khứ bi thương đã tìm đến hòn đảo Jeju để quên đi những chuyện đau lòng trong quá khứ và làm việc cùng với Lee Dong-seok. Cha Seung-won trong vai Choi Han-soo Kim Jae-won trong vai Choi Han-soo thời niên thiếu Một người đàn ông quyết định trở về quê hương sau thời gian dài định cư ở thành phố. Anh là giám đốc chi nhánh ngân hàng ở Pureung. Anh lớn lên trong một gia đình nghèo và học đại học ở Seoul, anh đang cố gắng lo cho con gái đi du học golf. Anh là mối tình đầu của Jeong Eun-hee. Lee Jung-eun trong vai Jeong Eun-hee Shim Dal-gi trong vai Jeong Eun-hee thời niên thiếu Một chủ cửa hàng cá sống ở đảo Jeju, bất ngờ được đoàn tụ với mối tình đầu Choi Han Soo sau 30 năm. Uhm Jung-hwa trong vai Go Mi-ran Một người phụ nữ trở quyết định trở về quê hương sau thời gian dài định cư ở thành phố vì cuộc sống khó khăn. Cô là bạn thân của Choi Han-soo và Jeong Eun-hee. Han Ji-min trong vai Lee Young-ok Một haenyo vào ban ngày và điều hành một quán bar vào ban đêm. Nhìn bề ngoài, cô rất tươi sáng, dễ thương và dạn dĩ. Nhưng vì một lý do không rõ, cô ấy tránh trở nên quá thân thiết với những người khác. Vì điều này cô luôn bị bao vây bởi những tin đồn không tốt trong cộng đồng haenyo. Kim Woo-bin trong vai Park Jeong-joon Một thuyền trưởng có trái tim ấm áp. Mặc dù mọi người dường như đang có xu hướng chuyển lên Seoul nhưng anh vẫn ở lại để bảo vệ đảo Jeju quê hương và gia đình của mình. Anh không tham lam bất cứ điều gì và cũng chẳng có mục tiêu cao cả, ước mơ của anh chỉ đơn giản là được sống ở Jeju với người phụ nữ anh yêu. Vai phụ Kim Hye-ja trong vai Kang Ok-dong, mẹ của Lee Dong-seok. Go Doo-shim trong vai Hyeon Chun-hee, một người phụ nữ có tính cách nhẫn tâm đã làm việc hơn 60 năm. Bae Hyun-sung trong vai Jung Hyun, một nam sinh trung học 18 tuổi sinh ra ở Jeju. Roh Yoon-seo trong vai Bang Young-joo, một nữ sinh trung học sinh ra ở Jeju muốn trốn lên Seoul. Park Ji-hwan trong vai Jung In-kwon, bố của Jung Hyun và là một thờ làm đá tại một mỏ dầu ở Jeju. Choi Young-jun trong vai Bang Ho-sik, bố của Bang Young-joo và là một thờ làm đá tại một mỏ dầu ở Jeju. Kang Yi-seok trong vai Bang Ho-sik thời niên thiếu Ki So-yu trong vai Son Eun-gi, cháu gái của Hyun Chun-hee. Khánh mời xuất hiện đặc biệt Kim Kwang-kyu trong vai Kim Myung-bo, giám đốc chi nhánh ngân hàng SS Pureung ở Jeju, bạn cùng lớp với Hansoo. Cho Hye-jung trong vai bạn của Young-ok. Jung Sung-il trong vai Kim Tae-hoon, chồng cũ của Min Sun-ah. Sản xuất Phát triển Bộ phim do Kim Gyu-tae đạo diễn và kịch bản được chấp bút bởi Noh Hee-kyung, do Studio Dragon sản xuất. Mỗi tập phim sẽ kể về từng câu chuyện của nhân vật. Tuyển diễn viên Vào ngày 20 tháng 4 năm 2021, có thông tin cho rằng Shin Min-ah và Kim Woo-bin đã được mời đóng chính trong bộ phim và cả 2 đều tích cực xem xét. Dàn diễn viên chính thức được công báo vào ngày 10 tháng 10 năm 2021. Bộ phim là sự trở lại của Kim Woo-bin sau 5 năm vóng bóng màn ảnh nhỏ, với bộ phim anh tham gia trước đó là Yêu không kiểm soát vào năm 2016. Quay phim Quá trình quay phim diễn ra ở đảo Jeju sau khi công bố dàn diễn viên chính thức vào tháng 10 năm 2021. Bộ phim lấy bối cảnh chủ yếu ở đảo Jeju với hơn 70% cảnh quay. Vào ngày 9 tháng 2 năm 2022, có thông tin cho rằng nam diễn viên Lee Byung-hun đã có kết quả xét nghiệm dương tình với COVID-19 và đang tự cách ly. Quá trình quay phim bị tạm hoãn kể từ ngày 7 tháng 2. Sau đó vào ngày 21 tháng 2, nam diễn viên Lee Byung-hun đã thông báo rằng anh đã có kết quả xét nghiệm âm tính với COVID-19. Vào ngày 17 tháng 2, nữ diễn viên Han Ji-min xác nhận cô đã hoàn thành việc quay phim cho vai diễn của mình. Vào ngày 27 tháng 3, nữ diễn viên Shin Min-a xác nhận cô đã hoàn thành việc quay phim cho vai diễn của mình. Nhạc phim Phần 1 Phần 2 Phần 3 Phần 4 Phần 5 Phần 6 Phần 7 Part 8 Tỷ lệ người xem Tham khảo Liên kết ngoài Phim truyền hình TVN (Hàn Quốc) Chương trình truyền hình tiếng Triều Tiên Phim truyền hình lãng mạn Hàn Quốc Phim truyền hình của Studio Dragon Phim truyền hình Hàn Quốc ra mắt năm 2022
wiki
Một vũ trụ de Sitter là một nghiệm vũ trụ học cho các phương trình trường Einstein của thuyết tương đối rộng, được đặt theo tên của Willem de Sitter. Một nghiệm như vậy mô hình vũ trụ như là một không gian phẳng và bỏ qua vật chất thông thường, vì vậy động lực học của vũ trụ chỉ bị chi phối bởi hằng số vũ trụ, được cho là tương ứng với năng lượng tối trong vũ trụ của chúng ta hoặc trường giản nỡ (inflation field) trong vũ trụ sơ khai. Theo các mô hình giãn nở và các quan sát hiện tại về sự mở rộng gia tăng của vũ trụ, các mô hình phù hợp của vũ trụ học vật lý đang hội tụ về một mô hình nhất quán trong đó vũ trụ của chúng ta được mô tả tốt nhất như là vũ trụ de Sitter vào một thời điểm. giây sau điểm kỳ dị Big Bang, và xa trong tương lai. Biểu thức toán học Một vũ trụ de Sitter không có vật chất thông thường nhưng có hằng số vũ trụ dương () xác định tốc độ mở rộng . Hằng số vũ trụ càng lớn thì tốc độ giãn nở càng lớn: Người ta thường mô tả một một phần của nghiệm này như một vũ trụ giãn nở có dạng FLRW trong đó hệ số tỷ lệ được cho bởi trong đó hằng số là hằng số Hubble và là thời gian. Như trong tất cả các không gian FLRW, , hệ số tỷ lệ, mô tả sự mở rộng của các khoảng cách trong không gian vật lý. Tham khảo Vũ trụ học vật lý Phình to vũ trụ
wiki
Thịt dê là một trong những nguyên liệu bổ dưỡng và được sử dụng để chế biến nhiều món ăn, đặc biệt là đối với các dân cư ở vùng Trung Á. Thịt dê là thịt từ các loài dê nhà (Capra aegagrus hircus). Trên toàn thế giới, thịt dê ít được tiêu thụ rộng rãi hơn thịt lợn, thịt bò, thịt cừu và thịt gà, thịt gia cầm. Danh sách Dưới đây là danh sách các món dê, sử dụng thịt dê như một thành phần chính. Boodog hay bodog (tiếng Mông Cổ: боодог) là một món ăn trứ danh trong ẩm thực Mông Cổ, nguyên liệu là một con dê, cừu (hoặc những loại gia súc nhỏ) rồi nhét đầy những viên đá nướng bên trong để nhằm làm chín thịt sau khi ruột và xương đã được lấy sạch qua đường cổ họng. Những viên đá nóng sẽ làm thịt chín dần từ trong ra ngoài. Dê núi Ninh Bình là tên gọi thông dụng của các món đặc sản ẩm thực được chế biến từ thịt dê sống ở miền núi đá vôi Ninh Bình như tái dê, lẩu dê, dê xào, dê nướng, dê né, dê hấp, dê hầm. Dê tái chanh: Dùng thịt dê tươi, có phần nạc dày và phần da, dê xắt lát mỏng, nhúng qua nước sôi cho tái và bóp cùng nước cốt chanh, gừng, tỏi, ớt, tiêu, lá chanh thái sợi… khi ăn kẹp chuối xanh, sả, sung quả và chấm với tương bần. Tái dê: Thịt dê nhúng vào nước sôi cho chín tái, sau đó thái nhỏ, mỏng đều. Lấy vừng đã rang giã dập, sả thái nhỏ, lá chanh, gừng, ớt tươi thái nhỏ, nước chanh, bột ngọt đổ vào thịt dê tái đã thái, trộn đều. Ăn kèm theo lá sung, chuối xanh, khế, lá mơ và tương gừng để chấm. Có ba loại tái dê. Tái nhúng là cách thịt dê thái mỏng thành lát rồi nhúng vào nước đang sôi, thịt dê được dai hơn. Tái lăn là cách thịt dê thái mỏng rồi lăn qua chảo mỡ nóng. Loại tái này khi ăn có vị thơm và bùi béo. Tái vừng: thịt dê thái mỏng lăn qua chảo mỡ nóng như cách làm trên, sau đó đưa ra bóp trộn kỹ với vừng hoặc lạc rang tán nhỏ cùng một số gia vị khác. Dê nhúng mẻ: Cho dầu ăn vào chảo nóng phi thơm hành tím, sả, cà chua, cho mẻ vào đun sôi, nêm gia vị vừa ăn. Khi ăn cho từng ít thịt dê vào nhúng tái, vớt ra đĩa, ăn tới đâu nhúng tới đó. Dê sau khi nhúng mẻ được ăn kèm với bún tươi, cuốn bánh tráng, khế, chuối xanh, dưa leo, rau sống và chấm mắm nêm rất đậm vị. Dê hấp: Thịt dê có thể hấp cùng lá tía tô hoặc sả. Khi ăn chấm với nước tương bần có pha thêm chút đường, ăn kèm sau gia vị, sung muối, khế, chuối, dứa Dê xào lăn: Đun sôi một nồi nước nhỏ có pha dấm, cho thịt dê đã thái lát mỏng vào chần qua. Vớt thịt dê ra, rửa sạch lại, để cho ráo nước rồi ướp với nước cốt dứa, bột cà ri, bột canh, hạt nêm và một ít tỏi, gừng, sả. Xào cùng hành tây, tía tô, nêm gia vị vừa ăn Dê xào sa tế: Thịt dê được ướp cùng sa tế, dầu hào, giấm, đường, sả, ớt, bột năng. Ướp khoảng 20 phút. Bắc chảo lên bếp, phi thơm hành tỏi, cho thịt vào xào nhanh trên lửa to, có thể xào cùng với hành tây, ớt ngọt. Dê xào thập cẩm: Thịt dê, cần tây, củ cải đỏ, mộc nhĩ, giá đậu, hành, tỏi… tất cả nguyên liệu thái nhỏ dưới dạng hạt lựu, trộn thêm với bột năng, rượu trắng vừa đủ. Món ăn được xào trong lửa to, chín tới để thịt mềm, ngọt và các loại rau củ được giòn. Dê xào sả ớt: Thịt dê chọn phần đùi trước hoặc đùi sau, thái miếng đẹp mắt và ướp cùng tỏi, sả, ớt, sau đó xào nhanh tay trong lửa to. Khi thịt còn tái thì cho ớt chuông vào xào cùng, ớt vừa chín tới là tắt bếp, lấy ra đĩa rắc thêm chút vừng rang và dùng nóng. Dê nướng mọi: Thịt dê làm sạch, để ráo nước, thái miếng nhỏ vừa ăn. Trộn mè và thêm chút dầu ăn vào rồi đem nướng chín tới. Khi ăn lấy sa tế trộn chung với chao, ăn kèm tía tô, húng, quế. Dê hầm ngũ vị: Dê xắt miếng vuông 3 cm ướp cùng ngũ vị hương cho ngấm. Sau đó xào trên bếp cho thịt săn lại, đổ nước ninh nhừ cùng ít rượu trắng, khoai tây và cà rốt cho đến khi nước trong nồi còn sóng sánh là ăn được. Món ăn rất hợp với bánh mỳ, cơm nóng. Dê ngũ vị thơm ngon được nướng bằng vỉ đồng ít khói theo phong cách hoàng tộc triều Nguyễn rất tốt cho sức khỏe. Dê nướng ngũ vị: Thịt dê thái miếng vừa ăn, ướp với tỏi, sa tế, bột nêm, đường và ít dầu ăn. Để khoảng 15 phút cho ngấm sau đó xếp lên vỉ, nướng trên bếp than hoa. Tiết canh dê: có thể chọn uống tiết dê tươi bằng cách hứng tiết chảy uống khi tiết hãy còn nóng hổi hoặc là chế biến món tiết canh dê truyền thống. Khi làm món này, ngoài tiết dê còn có các thành phần phụ băm nhỏ như lòng, sụn, thịt bì, lạc rang và các gia vị khác như hạt tiêu, lá chanh, rau thơm. Tiết canh dê có vị ngọt, mát thường dùng để khai vị, thường được ăn kèm với rau húng quế, ngổ, tía tô, hạt tiêu, ớt tươi, rượu trắng. Tuy được khuyến cáo là chứa rất nhiều vi khuẩn, virus, ký sinh trùng có hại Chân dê hầm thuốc bắc: Chân dê cạo sạch, đem trần qua nước nóng rồi chặt miếng vừa ăn. Khi ninh cho gói đồ tiềm, hành tím và gia vị vào đun nhỏ lửa. Khi nước săm sắp mặt thịt là có thể đem ra dùng nóng. Nước hầm chấm rau và ăn kèm với bún Canh sơn dược thịt dê: Là bài thuốc bổ dưỡng dành cho các mẹ bầu, người mới ốm dậy. Món canh được nấu từ thịt dê nạc, sơn dược, cà rốt cùng các vị thuốc bắc như đương quy, câu kỳ tử, xuyên khung, hoàng kỳ, gừng, táo đỏ, rượu Cháo thịt dê: Thịt dê rửa sạch, để ráo, cắt mỏng, ướp muối, tiêu, mắm ngon, hành, gừng, phi thơm hành, xào chín tới. Gạo vo sạch, cho vào nồi đất ninh nhừ, gần được cho dê xào vào ninh cùng để thịt dê tiết ra vị ngọt. Khi ăn múc cháo ra tô, rắc thêm hành, rau thơm lên trên, ăn nóng. Cháo gan dê: Gạo tẻ ninh nhừ cho gan dê xào mỡ hành vào ninh, khi cháo nhừ bắc ra ăn nóng cùng hành hoa. Lẩu dê: Nồi lẩu dê cay cay, thơm mùi sả, hành và nước dùng đậm đà. Với món lẩu dê này, có thể ăn kèm đậu phụ, các loại rau, váng đậu rán giòn Ngọc dương hay ngọc hành hay còn gọi là dái dê, pín dê, cà dê là tinh hoàn của con dê được dùng để chế biến thành những món ăn ngon và bổ, nó thuộc vào nhóm những món ngẩu pín. Nầm dê nướng: Vú dê mua về xắt mỏng, rửa sạch, để ráo, ướp cùng chao, tiêu xay, dầu hào, tương ớt, sả băm, tỏi, bột ngũ vị hương cho ngấm mới đem đi nướng. Dê ủ trấu: Dê núi sau khi cắt tiết được cạo lông sạch sẽ, nhồi lá sả vào bụng. Phủ trấu lên toàn thân dê và đốt rơm để mồi lửa. Nhờ hơi nóng của trấu, thịt dê sẽ chín om, da vàng rộm, tạo ra món tái đúng nghĩa. Dê ủ trấu thành phẩm không chín hoàn toàn, không mất nước, khi thái thịt xoăn thành từng lọn nhỏ ăn mềm, ngọt. Dê né: Thịt dê thái hình quân cờ, to, không cần tẩm ướp gia vị. Miếng thịt sau khi chiên ngập trong dầu ăn sẽ giòn tan bên ngoài, tái hồng bên trong, kẹp cùng hương nhu, đinh lăng, húng, xả, chấm chao hoặc tương Cà ri dê: là món ăn hấp dẫn bất kỳ ai trong tiết trời lạnh. Không chỉ thơm mùi cà ri, món ăn còn chinh phục bạn bởi khoai và thịt mềm nhừ, thơm mùi cốt dừa và đậm đà vị dê. Dê tagine: được nấu từ thịt dê, khoai lang, gia vị đặc trưng của Tây Bắc như hạt dổi, hạt mắc mật, tương ớt Mường Khương. Dê hoong: được nấu từ phần đùi hoặc bẹ sườn dê, khoai mì, đậu phộng, nước cốt dừa béo theo hương vị miền Tây Nam Bộ. Dê bóp: Thịt dê bóp gia vị cùng mè, đậu phộng xay nhuyễn và đu đủ sợi, hành tây… tạo nên món gỏi có vị bùi đặc trưng. Lòng dê xào nghệ Birria Bocksbraten Cabrito là một món dê con quay Chakna Chivito Chui jhal: Món ăn từ tỉnh Khulna, Bangladesh Dhansak Súp tiêu dê (Goat meat pepper soup) Goat roti Heuk yeomso tang: Một món thịt dê đen của Hàn Quốc Hyderabadi biryani Isi ewu một món ăn truyền thống của người Igbo làm từ đầu dê Kaldereta Kokoretsi Mannish water Mute (súp) Nasi kebuli Sate kambing – Làm từ thịt dê nướng Seco (thực phẩm) Sup kambing Tongseng Tsamarella Tham khảo Liên kết ngoài
wiki
Aristophanes (tiếng Hy Lạp là Ἀριστοφάνης, sinh 446 – mất 386 TCN), là một nhà soạn hài kịch của Hy Lạp cổ đại. Các tác phẩm của ông mang tính châm biếm, đả kích chính trị, phê bình văn học,... Ông đã viết trên 40 tác phẩm mà ngày nay người ta chỉ còn biết từng đoạn. Chỉ còn 11 tác phẩm là còn được nguyên vẹn. Ông là một nhà thơ, một nhà viết kịch người Hy Lạp sống vào thế kỉ thứ 5 TCN. Theo một số tài liệu thì ông sinh vào năm 445 TCN tại thành bang Athen. Ông là một người khá bí ẩn và khó tìm hiểu nhưng ông chính là một trong những học giả, một thi sĩ, kịch gia vĩ đại nhất của Hy Lạp nhất là thể loại hài kịch. Sự nghiệp Sự nghiệp ông để lại cho đời bao gồm 44 vở hài kịch, trong đó bao gồm các vở hài kịch châm biếm chính trị, phê bình văn học và các vở hài kịch xã hội. Các tác phẩm được biết đến của ông bao gồm: Những con ếch, Những đám mây, Lysistrata... Ông lên án chiến tranh, ca ngợi hòa bình và những người yêu hòa bình. Một số tác phẩm khác: Những hiệp sĩ, Hòa bình, Đại hội phụ nữ, Những con chim... là những tác phẩm cũng rất đặc sắc và mang đầy màu sắc ý nghĩa nhân văn. Aristophane được đánh giá là người có thứ văn chương hoàn hảo, duyên dáng nhất. Platon cho rằng, ai muốn biết về lịch sử Athen, chỉ cần cho họ xem những tác phẩm của Aristophane, thế là đủ. Các tác phẩm còn nguyên vẹn Hiện còn 11 tác phẩm còn nguyên vẹn: Những người Acharniens (425 TCN): công kích phe chiến tranh Các kị sĩ (424 TCN): ông đả kích Cléon, một người được cho là mị dân Những đám mây (423 TCN): châm biếm Socrate rằng đã lầm lẫn với phái Ngụy biện. Ong vò vẽ (422 TCN): Châm biếm triều đình Athens và biến triều đình này thành trò cười. Hòa bình (421 TCN): Lại một tác phẩm công kích phe chiến tranh Đàn chim (414 TCN): Công kích các chính thể không tưởng trong chính trị, so sánh xã hội trong sáng của loài chim với những cái xấu của chính trị Athens lúc bấy giờ. Lysistrata (411 TCN): Chống chiến tranh, nhất là cuộc chiến ở bán đảo Peloponnese, khiến Athens điêu tàn. Tham khảo Văn học Hy Lạp Hài kịch Mất thập niên 380 TCN Năm 386 TCN Năm 446 TCN
wiki
Tự dùng thuốc, hay tự chữa trị là một hành vi của con người trong đó cá nhân dùng dược chất/thuốc hay bất kỳ tác động ngoại sinh nào để có thể tự điều trị bệnh về thể chất và tâm lý. Các loại thuốc tự dùng phổ biến rộng rãi là những loại thuốc không bán theo toa, thường được sử dụng để điều trị các vấn đề sức khỏe thông thường tại nhà, cũng như thực phẩm bổ sung. Những loại thuốc này không yêu cầu bác sĩ phải kê đơn mới có được, ở một số quốc gia, thuốc sẵn có tại các siêu thị và cửa hàng tiện lợi. Tâm lý học trong tự điều trị bằng thuốc thần kinh thường nằm trong bối cảnh cụ thể của việc sử dụng thuốc kích thích, rượu, thức ăn cải thiện tâm trạng,... với mục đích giảm đau khổ về tinh thần, căng thẳng và lo lắng tâm thần, bao gồm bệnh tâm thần và chấn thương tâm lý, trong một số trường hợp cá biệt thuốc gây tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe về thể chất và cả tinh thần nếu thúc đẩy bởi cơ chế gây nghiện. Ở các sinh viên trong chương trình postsecondary (đại học/cao đẳng), việc tự chữa trị cho chính mình bằng các loại thuốc Adderall, Ritalin và Concerta đã được thuật lại và bàn luận trong các chuyên đề. Các sản phẩm được bán trên thị trường tỏ ra hữu ích cho hành vi tự dùng thuốc, nhưng đôi khi dựa trên cơ sở bằng chứng không đáng tin cậy. Lời tuyên bố nicotine có giá trị dược liệu đã được sử dụng để tiếp thị thuốc lá như một loại thuốc tự dùng. Nhưng lời tuyên bố này đã bị các nhà nghiên cứu độc lập bác bỏ do không chính xác. Tuyên bố về sức khỏe từ bên thứ ba chưa được thẩm định lại và không có sự điều chỉnh nào về việc sử dụng thực phẩm bổ sung. Trong đông y con người thường xem tự dùng thuốc như một cách đạt đến sự độc lập cá nhân, và tự dùng thuốc cũng là quyền con người, là một đều cơ bản, liên quan chặt chẽ đến quyền từ chối điều trị y tế. Tự dùng thuốc có thể tự làm hại bản thân không chủ ý. Tham khảo Nghiện Lo lắng Sức khỏe tinh thần Rối loạn khí sắc Dược khoa Căng thẳng
wiki
Các nhà thiên văn học đã tìm ra bằng chứng cho một vành đai tiểu hành tinh lớn quanh ngôi sao Vega, ngôi sao sáng thứ hai trên bầu trời đêm phía Bắc. Các nhà khoa học đã sử dụng dữ liệu lấy từ Kính thiên văn không gian Spitzer của NASA và Đài quan sát không gian Herschel của Tổ chức không gian châu Âu, với NASA là một thành viên chủ chốt. Khám phá về một vành đai các tiểu hành tinh và mảnh vụn quanh Vega khiến cho ngôi sao này trở nên giống với một ngôi sao khác từng quan sát với cái tên Fomalhaut. Các dữ liệu đều chỉ ra cả hai ngôi sao có hai vành đai, một phía bên trong, ấm và một phía bên ngoài, lạnh hơn được ngăn cách bởi một khoảng trống. Cấu trúc này tương tự với vành đai tiểu hành tinh và vành đai Kuiper ở ngay trong Hệ Mặt Trời của chúng ta. Điều gì đang giữ khoảng cách giữa hai lớp vành đai quanh Vega và Fomalhaut? Kết quả nghiên cứu gợi ý rằng câu trả lời rất có thể là nhiều hành tinh. Vành đai tiểu hành tinh trong Hệ Mặt Trời nằm giữa Sao Hỏa và Sao Mộc, và được giữ bởi trọng lực từ các hành tinh đất và các hành tinh khí khổng lồ, và vành đai Kuiper được tạo nên bởi các hành tinh khí khổng lồ. “Dữ liệu của chúng tôi khẳng định một phát hiện gần đây rằng các hệ đa hành tinh là rất phổ biến bên ngoài Hệ Mặt Trời của chúng ta,” theo lời của Kate Su, một nhà thiên văn học tại Đài quan sát Steward tại Đại học Arizona, Tucson. Su đã trình bày những kết quả vừa tìm được vào thứu ba tại buổi gặp mặt Hội Thiên văn học Mỹ ở Long Beach, California, và là tác giả chính của một bài luận về những phát hiện này, sẽ được đăng trên tờ Astrophysical Journal. Vega và Fomalhaut giống nhau về nhiều mặt. Cả hai ngôi sao này đều gấp đôi khối lượng Mặt Trời và tỏa ra một thứ ánh sáng nóng hơn, thiên về màu xanh hơn khi nhìn thấy. Cả hai ngôi sao đều khá gần chúng ta, cách chúng ta khoảng 25 năm ánh sáng. Theo các nhà khoa học hai ngôi sao vào khoảng 400 triệu năm tuổi, nhưng Vega có thể gần mốc 600 triệu năm hơn. Fomalhaut chỉ có một hành tinh duy nhất quay quanh nó, Fomalhaut b, nằm ở rìa của vành đai sao chổi của ngôi sao. Kính thiên văn Herschel và Spitzer dò tìm ánh sáng hồng ngoại tỏa ra từ các đám bụi lạnh và ấm trong các vành quanh Vega và Fomalhaut, nhờ đó tìm ra các vành đai tiểu hành tinh quanh Vega cũng như khẳng định sự tồn tại của các vành đai khác quanh hai ngôi sao này. Các sao chổi và các vụ va chạm của các khối đá lớn đã tạo ra bụi ở hai vành này. Vành đai phía bên trong của hai hệ không thể được quan sát trong ánh sáng nhìn thấy được vì ánh sáng từ hai ngôi sao đã lấn át chúng. Cả hai vành đai bên trong và bên ngoài đều chứa nhiều vật liệu thô hơn so với vành đai tiểu hành tinh và Kuiper của chúng ta. Có hai lí do cho việc này: hai hệ sao này trẻ hơn Hệ Mặt Trời rất nhiều, và các hệ này rất có thể đã hình thành từ một đám khí và bụi lớn hơn nhiều so với hệ của chúng ta. Khoảng cách giữa vành đai mảnh vụn phía bên trong và bên ngoài quanh Vega và Fomalhaut cũng tỉ lệ với khoảng cách giữa vành đai tiểu hành tinh và Kuiper của chúng ta. Khoảng cách này tương ứng với một tỉ lệ khoảng 1:10, tức là vành đai phía ngoài xa ngôi sao chủ gấp 10 lần so với vành đai phía trong. Còn với khoảng cách lớn giữa hai vành đai, rất có thể có vài hành tinh chưa được tìm thấy cỡ Sao Mộc hoặc nhỏ hơn, tạo ra một vùng không có bụi giữa hai vành đai. Một hệ sao tương tự là HR 8799, với bốn hành tinh nằm giữa hai đĩa mảnh vụn tương tự nhau. “Nhìn chung, khoảng cách lớn giữa hai vành đai có thể là một bằng chứng cho sự tồn tại của nhiều hành tinh đang quay quanh Vega và Fomalhaut,” Su cho biết. Nếu thực sự có các hành tinh không nhìn thấy đang quay quanh Vega và Fomalhaut, thì các hành tinh này sẽ không thể nằm trong vùng không nhìn thấy mãi. “Các thiết bị mới trên Kính thiên văn không gian James Webb của NASA sẽ có thể tìm ra các hành tinh này,” theo lời của đồng tác giả nghiên cứu Karl Stapelfeldt, giám đốc Phòng thí nghiệm Các hành tinh ngoài trái đất và Thiên văn vật lý vũ trụ tại Trung tâm Goddard của NASA tại Greenbelt, Md. Theo Science Daily
vanhoc
Vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2004 diễn ra từ tháng 3 năm 2003. Đội đương kim vô địch Nhật Bản và đội tuyển chủ nhà Trung Quốc được đặc cách vào vòng chung kết. Ở vòng sơ loại, 20 đội có thứ hạng thấp được chia làm 7 bảng (6 bảng 3 đội và 1 bảng 2 đội) thi đấu vòng tròn một lượt chọn đội nhất mỗi bảng vào vòng loại chính. Ở vòng loại chính, 28 đội (21 đội có thứ hạng cao và 7 đội từ vòng sơ loại) được chia làm 7 bảng, mỗi bảng 4 đội, thi đấu vòng tròn hai lượt chọn 2 đội nhất nhì tham dự vòng chung kết cùng 2 đội tuyển Nhật Bản và Trung Quốc. Các quốc gia không tham dự Sau đây là danh sách các quốc gia trực thuộc AFC không cử đội tuyển tham dự giải (trong ngoặc vuông là vị trí của họ trên bảng xếp hạng của FIFA tại thời điểm trước khi vòng loại bắt đầu): [176] [192] Vòng sơ loại Bảng A Tất cả các trận đấu đều đá ở Malé, Maldives Bảng B Tất cả các trận đấu đều đá ở Colombo, Sri Lanka Bảng C Tất cả các trận đấu đều đá ở Kathmandu, Nepal Bảng D Tất cả các trận đấu đều đá ở Hồng Kông Bảng ETất cả các trận đấu đều đá ở Singapore Bảng F ''Tất cả các trận đấu đều đá ở Thimphu, Bhutan Bảng G Vòng loại Bảng A </noinclude>{| class="wikitable" style="text-align:center;" |- !width=175 |Đội !width=20 abbr="Điểm" |Pts !width=20 abbr="Số trận" |Pld !width=20 abbr="Thắng" |W !width=20 abbr="Hòa" |D !width=20 abbr="Thua" |L !width=20 abbr="Bàn thắng" |GF !width=20 abbr="Bàn thua" |GA !width=20 abbr="Hiệu số" |GD |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |13||6||4||1||1||13||6||+7 |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |9||6||3||0||3||10||7||+3 |- |align="left"| |8||6||2||2||2||3||5||−2 |- |align="left"| |4||6||1||1||4||3||11||−8 |}Thi đấu ở Tashkent, Uzbekistan.Thi đấu ở Bangkok, Thái Lan. Bảng B NB: Palestine thi đấu trên các sân trung lập thay cho sân nhà của họ do bất ổn về chính trị.{| class="wikitable" style="text-align:center;" |- !width=175 |Đội !width=20 abbr="Điểm" |Pts !width=20 abbr="Số trận" |Pld !width=20 abbr="Thắng" |W !width=20 abbr="Hòa" |D !width=20 abbr="Thua" |L !width=20 abbr="Bàn thắng" |GF !width=20 abbr="Bàn thua" |GA !width=20 abbr="Hiệu số" |GD |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |16||6||5||1||0||17||5||+12 |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |11||6||3||2||1||10||6||+4 |- |align="left"| |4||6||1||1||4||3||11||−8 |- |align="left"| |2||6||0||2||4||3||11||−8 |}Bảng C Thi đấu ở Jeddah, Ả Rập Xê Út.{| class="wikitable" style="text-align:center;" |- !width=175 |Đội !width=20 abbr="Điểm" |Pts !width=20 abbr="Số trận" |Pld !width=20 abbr="Thắng" |W !width=20 abbr="Hòa" |D !width=20 abbr="Thua" |L !width=20 abbr="Bàn thắng" |GF !width=20 abbr="Bàn thua" |GA !width=20 abbr="Hiệu số" |GD |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |18||6||6||0||0||31||1||+30 |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |10||6||3||1||2||9||13||−4 |- |align="left"| |7||6||2||1||3||15||15||0 |- |align="left"| |0||6||0||0||6||0||26||−26 |}Bảng D{| class="wikitable" style="text-align:center;" |- !width=175 |Đội !width=20 abbr="Điểm" |Pts !width=20 abbr="Số trận" |Pld !width=20 abbr="Thắng" |W !width=20 abbr="Hòa" |D !width=20 abbr="Thua" |L !width=20 abbr="Bàn thắng" |GF !width=20 abbr="Bàn thua" |GA !width=20 abbr="Hiệu số" |GD |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |15||6||5||0||1||16||5||+11 |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |15||6||5||0||1||13||6||+7 |- |align="left"| |4||6||1||1||4||2||8||−6 |- |align="left"| |1||6||0||1||5||2||14||−12 |}1 Trận đấu bị hủy ở phút thứ 61 khi Iran dẫn trước CHDCND Triều Tiên 1-0 do các cầu thủ Triều Tiên rời khỏi sân bóng. Iran được xử thắng 3-0, nhưng Iran cũng được yêu cầu phải thi đấu trận đấu chính thức trên sân nhà tại giải đấu của AFC hoặc FIFA tiếp theo mà không có khán giả. 2 Trận đấu bị hủy do CHDCND Triều Tiên không duyệt thị thực cho đội tuyển Jordan, khiến họ không thể nhập cảnh. Jordan được xử thắng 3-0 và CHDCND Triều Tiên bị AFC cấm tham dự vòng loại Cúp bóng đá châu Á 2007. Bảng E{| class="wikitable" style="text-align:center;" |- !width=175 |Đội !width=20 abbr="Điểm" |Pts !width=20 abbr="Số trận" |Pld !width=20 abbr="Thắng" |W !width=20 abbr="Hòa" |D !width=20 abbr="Thua" |L !width=20 abbr="Bàn thắng" |GF !width=20 abbr="Bàn thua" |GA !width=20 abbr="Hiệu số" |GD |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |15||6||5||0||1||24||2||+22 |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |12||6||4||0||2||30||4||+26 |- |align="left"| |9||6||3||0||3||8||13||−5 |- |align="left"| |0||6||0||0||6||0||43||−43 |}Thi đấu ở Incheon, Hàn Quốc.Thi đấu ở Muscat, Oman. Bảng F{| class="wikitable" style="text-align:center;" |- !width=175 |Đội !width=20 abbr="Điểm" |Pts !width=20 abbr="Số trận" |Pld !width=20 abbr="Thắng" |W !width=20 abbr="Hòa" |D !width=20 abbr="Thua" |L !width=20 abbr="Bàn thắng" |GF !width=20 abbr="Bàn thua" |GA !width=20 abbr="Hiệu số" |GD |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |13||6||4||1||1||16||4||+12 |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |13||6||4||1||1||14||9||+5 |- |align="left"| |5||6||1||2||3||9||12||−3 |- |align="left"| |3||6||1||0||5||4||18||−14 |}Thi đấu ở Kuala Lumpur, Malaysia.Thi đấu ở Manama, Bahrain. Bảng G NB: Tất cả các trận đấu của Sri Lanka trên sân nhà đều phải thi đấu trên sân trung lập.{| class="wikitable" style="text-align:center;" |- !width=175 |Đội !width=20 abbr="Điểm" |Pts !width=20 abbr="Số trận" |Pld !width=20 abbr="Thắng" |W !width=20 abbr="Hòa" |D !width=20 abbr="Thua" |L !width=20 abbr="Bàn thắng" |GF !width=20 abbr="Bàn thua" |GA !width=20 abbr="Hiệu số" |GD |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |14||6||4||2||0||10||2||+8 |- bgcolor=#ccffcc |align="left"| |13||6||4||1||1||13||5||+8 |- |align="left"| |7||6||2||1||3||16||10||+6 |- |align="left"| |0||6||0||0||6||1||23||−22 |}<noinclude> 1 Syria bỏ cuộc khi trận đấu đang diễn ra. Turkmenistan được xử thắng 3-0. Tham khảo Liên kết ngoài Qualifying Round Results RSSSF details Cúp bóng đá châu Á 2004 2004
wiki
Etelvina Villanueva y Saavedra (1897-1969) là một nhà thơ và nhà giáo dục người Bolivia. Năm 1923, María Sánchez Bustamante đã tổ chức nhóm nữ quyền đầu tiên ở Bolivia El Ateneo Femenino với mục tiêu đạt được sự bình đẳng dân sự và chính trị cũng như thúc đẩy sự phát triển nghệ thuật của họ. Thành viên của Hiến chương là các nghệ sĩ, nhà báo, giáo viên và nhà văn và bao gồm Leticia Antezana de Alberti, Elvira Benguria, Fidelia Corral de Sánchez, Marina Lijerón (người sau này sẽ kết hôn để Betachini), Julia Reyes Ortiz de Canedo, Ema Alina Palfray, Emma Pérez de Carvajal, María Josefa Saattedra, Ana Rosa Tornero de Bilbao la Vieja, Ana Rosa Vásquez và Etelvina Villanueva y Saattedra. Họ đã tổ chức tạp chí riêng của họ " Eco Femenino ". Từ khi thành lập, Tornero đã điều hành tạp chí in các bài viết văn học và các bài báo về nữ quyền. Vào những năm 1930, Villanueva y Saattedra đã thành lập một nhóm nữ quyền quan trọng khác, Legión Femenina de Giáo dục Phổ biến de America (Legion dành cho Giáo dục Phổ biến Hoa Kỳ). Nhóm này đã tìm cách cải thiện tình trạng của phụ nữ, bất kể tầng lớp xã hội, bằng cách ủng hộ những thay đổi trong bộ luật hợp pháp. Họ cung cấp hỗ trợ cho những người mẹ và trẻ em nghèo và được bảo vệ. Họ đã có thể làm điều này bởi vì họ lập luận rằng họ là những người mẹ tự nhiên và vì vậy đây là một hình thức làm mẹ nhưng ở cấp độ cao hơn và với một thuật ngữ mới, "làm mẹ xã hội". Thêm vào đó, tổ chức này đã cho phép phụ nữ Bolivia tham gia các cuộc tranh luận về nữ quyền trên bình diện quốc tế. Tham khảo Nữ nhà văn thế kỷ 20 Mất năm 1969 Sinh năm 1897
wiki
Bảng E của Giải vô địch bóng đá thế giới 1994 là một trong sáu bảng đấu tại vòng bảng giải vô địch bóng đá thế giới 1994 ở Hoa Kỳ. Trận đấu đầu tiên diễn ra vào ngày 18 tháng 6 năm 1994 và trận đấu cuối cùng diễn ra đồng thời vào ngày 28 tháng 6 năm 1994. Bảng này bao gồm Ý, Cộng hòa Ireland, México, và Na Uy. México nhất bảng nhờ hơn số bàn thắng. Ireland và Ý cũng giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp, kết thúc vòng bảng với thành tích bằng nhau và Ireland xếp nhì bảng nhờ trận thắng trước Ý. Ý giành quyền vào vòng đấu loại trực tiếp khi là một trong bốn đội xếp thứ ba có thành tích tốt nhất. Na Uy xếp cuối bảng do ghi ít hơn số bàn thắng (1 bàn). Đây là bảng đấu duy nhất trong lịch sử World Cup cả 4 đội đều kết thúc với cùng số điểm và hiệu số bàn thắng thua. Bảng xếp hạng |} Các trận đấu Giờ thi đấu tính theo giờ địa phương (EDT/UTC–4, CDT/UTC–5, PDT/UTC–7) Ý vs Cộng hòa Ireland Ray Houghton ghi bàn thắng duy nhất giúp Cộng hòa Ireland thắng Ý. Na Uy vs México Bàn thắng duy nhất của trận đấu được ghi bởi Kjetil Rekdal ở phút 85 giúp Na Uy thắng México. Ý vs Na Uy México vs Cộng hòa Ireland Ý vs México Cộng hòa Ireland vs Na Uy Chú thích Tham khảo Tài liệu tham khảo Bảng E Cộng hòa Ireland tại giải vô địch bóng đá thế giới 1994 Bảng E Bảng E Na Uy tại giải vô địch bóng đá thế giới 1994
wiki
Đề bài: Có dịp em được bố mẹ hay anh chị đưa đi công viên chơi ở đó có rất nhiều con vật. Em hãy viết bài văn tả con hổ ngoài sở thú – con vật mà em thích nhất. Chúng ta thường biết đến hổ là chúa sơn lâm, vị vua của rừng già qua những bộ phim hoạt hình hay trong những kênh thế giới động vật. Hổ là một con vật dũng mãnh chính vì sự dũng mãnh ấy khiến cho muôn loài khiếp sợ nó. Cũng chính vì thế mà nó được tôn là chúa của muôn loài tức là người cao nhất vậy. Hiện nay thì những con vật hoang dã ấy được nuôi dưỡng trong những sở thú để bảo tồn nguồn gen quý tránh được sự sát hại của những con người độc ác và tránh nguy cơ tuyệt chủng. Một lần nọ tôi cùng ba má đến thăm sở thú, tôi rất thường xuyên đến đây vì cuối tuần nào ba má cũng cho tôi đi chơi, cũng như là để ba má giải tỏa những căng thẳng trong công việc. Lần nào đến tôi cũng đến thăm vị chúa sơn lâm ấy. Thân hình của nó cũng rất to, nó thấp chứ không được cao như những con ngựa vằn hay linh dương thế mà trên kênh phim ta lại thấy nó có thể bắt được những con ngựa ấy. tại sao vậy?. Chính bởi vì chúng rất nhanh mặc dù thấp nhưng nó không trở thành hạn chế của con hổ ấy.Xem thêm: Tả con chó vện lớp 4 Toàn thân nó khoác lên một bộ lông đẹp khoang đen khoang cam nhìn rất đẹp. Cách phối màu trên thân hình ấy cũng rất tinh tế. Ở những chỗ như: cổ, bên trong chân… có những đám lông màu trắng rất đẹp, nhìn như những sợi kem bông mà tôi đang cầm vậy. Đôi mắt nó tinh tường lắm thấy thức ăn nó vô cùng nhanh nhẹn và thể hiện sự sắc sảo trong đôi mắt của mình. Nhìn vào những lúc nó buồn bã bực tức đôi mắt ấy hiện lên thật sự dữ tợn. Tưởng rằng nếu chẳng may bị lọt vào đó sẽ bị xé xác ngay lập tức. Thế nhưng cũng có lúc ánh mắt ấy lại hiền từ thân thiện lắm. mặc cho mình đứng đấy nó cứ lững thững đi qua đi lại rồi lại nằm xuống. Những chiếc răng nanh của nó rất sắc nhọn như những chiếc kim cỡ sắc nhọn và bự. Mỗi khi người ta cho nó ăn thì những chiếc răng sắc nhọn ấy hé ra trông thật là đáng sợ. Nó dùng bộ hàm ấy mà như xé tan nát miếng thịt sống. Trên những bàn chân của hổ có những móng vuốt thật sắc nhọn, chính cái bàn chân ấy để giúp cho nó vồ lấy thức ăn. Tôi thấy mến nó bởi vì nó là một loài vật có uy quyền và có sức khỏe rất mạnh. Chính sự hiếu kì ấy giúp cho tôi gần nó hơn ngắm nhìn nó mọi tư thế. Và cuối tuần đến xem nó ngày càng một lớn lên to khỏe như thế nào.Xem thêm: Phân tích và bình luận về vẻ đẹp tâm hồn của hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục trong truyện Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
vanhoc
Safi Faye (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1943) là một đạo diễn phim và nhà dân tộc học người Senegal. Bà là người phụ nữ châu Phi Hạ Sahara đầu tiên đạo diễn một bộ phim được phát hành thương mại vào năm 1975, Kaddu Beykat. Bà đã làm đạo diễn cho một số bộ phim tài liệu và viễn tưởng tập trung vào cuộc sống nông thôn ở Sénégal. Tiểu sử Những năm đầu và giáo dục Safi Faye sinh năm 1943 tại Dakar, Sénégal, trong một gia đình Serer quý tộc. Cha mẹ bà, Fayes, đến từ Fad'jal, một ngôi làng phía nam Dakar. Bà theo học trường bình thường ở Rufisque và nhận chứng chỉ giảng dạy vào năm 1962 hoặc 1963, bắt đầu giảng dạy ở Dakar. Năm 1966, bà đến Liên hoan nghệ thuật âm nhạc Dakar và gặp nhà dân tộc học và nhà làm phim người Pháp Jean Rouch. Ông khuyến khích bà làm phim như một công cụ dân tộc học. Bà đã có một vai diễn trong bộ phim năm 1971 của ông ấy là Petit à petit. Faye đã nói rằng bà không thích bộ phim của Rouch nhưng việc hợp tác với anh đã cho phép bà học về làm phim và cinéma-vérité. Vào những năm 1970, bà theo học ngành dân tộc học tại École pratique des hautes études và sau đó tại Trường Điện ảnh Lumière. Bà tự hỗ trợ mình bằng cách làm việc như một người mẫu, diễn viên và thực hiện các hiệu ứng âm thanh trong phim. Năm 1979, bà nhận bằng tiến sĩ dân tộc học từ Đại học Paris. Từ 1979 đến 1980, Faye học sản xuất video ở Berlin và là giảng viên khách mời tại Đại học Tự do Berlin. Bà đã nhận được một chứng chỉ cao hơn về dân tộc học từ Sorbonne vào năm 1988. Sự nghiệp điện ảnh Bộ phim đầu tiên của Faye, trong đó bà cũng đóng, là một đoạn ngắn năm 1972 có tên La Passante (Người qua đường), rút ra từ những trải nghiệm của bà là một phụ nữ nước ngoài ở Paris. Bộ phim theo một người phụ nữ (Faye) đi bộ xuống một con phố và nhận thấy phản ứng của những người đàn ông gần đó. Bộ phim điện ảnh đầu tiên của Faye là Kaddu Beykat, có nghĩa là Tiếng nói của người nông dân bằng tiếng Wolof và được cả thế giới biết đến với cái tên Letter from My Village hay News from My Village. Bà đã nhận được sự hỗ trợ tài chính cho Kaddu Beykat từ Bộ Hợp tác Pháp. Được phát hành vào năm 1975, đây là bộ phim đầu tiên được thực hiện bởi một phụ nữ châu Phi cận Sahara được phân phối thương mại và được quốc tế công nhận cho Faye. Khi phát hành, bộ phim đã bị cấm chiếu ở Sénégal. Năm 1976, bộ phim đã giành được giải thưởng FIPRESCI từ Liên đoàn phê bình phim quốc tế (gắn liền với Chhatrabhang) và giải thưởng OCIC. Bộ phim tài liệu năm 1983 của Faye Selbé: One Among Many kể về một người phụ nữ 39 tuổi tên là Sélbe, người làm việc để hỗ trợ tám đứa con của mình kể từ khi chồng cô rời khỏi làng để tìm việc làm. Selbé thường xuyên trò chuyện với Faye, người vẫn ở ngoài màn hình và mô tả mối quan hệ của cô với chồng và cuộc sống hàng ngày ở làng. Những bộ phim của Faye được biết đến nhiều hơn ở châu Âu so với ở châu Phi - bản địa của cô, nơi chúng hiếm khi được trình chiếu. Cuộc sống cá nhân Faye, sống ở Paris, đã ly dị và có một con gái. Đóng phim Năm 1972: La Passante (Người qua đường) 1975: Kaddu Beykat (Thư từ làng tôi) 1979: Fad'jal (Hãy đến và làm việc) 1979: Goob na nu (Vụ thu hoạch đang diễn ra) 1980: Man Sa Yay (Tôi, Mẹ của bạn) 1981: Les âmes auolesil (Linh hồn dưới ánh mặt trời) 1983: Selbe: One Among Many (hoặc Selbe và rất nhiều người khác) 1983: 3 ans 5 mois (Ba năm năm tháng) 1985: Racines noires (Rễ đen) 1985: Elsie Haas, femme peintre et cinéaste d'Haiti (Elsie Haas, Haiti Woman Painter và Filmmaker) 1989: Tesito 1996: Rêu Chú thích Tham khảo Liên kết ngoài Nữ diễn viên điện ảnh Sénégal Nhân vật còn sống Sinh năm 1943
wiki
Hướng dẫn Bài thơ Bánh trôi nước thuộc loại thơ vịnh vật khá phổ biến trong thơ ca trung đại, thường được dùng để gửi gắm một cách kín đáo suy nghĩ hay thái độ, quan điểm của tác giả trước một vấn đề nào đó có tính chất xã hội được nhiều người quan tâm. Tuy hình thức bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật với quy định khá chặt chẽ về nghệ thuật và nội dung nhưng ngôn ngữ thơ thì thuần là lời ăn tiếng nói hằng ngày của người lao động. "Bảy nổi ba chìm" là thành ngữ phổ biến mang nghĩa hàm ngôn, dùng để chỉ những số phận long đong, lận đận, vất vả trăm bề. Thành ngữ này đã được Hổ Xuân Hương vận dụng vào bài thơ thật tự nhiên và phù hợp, diễn tả chính xác sự suy ngẫm và nỗi ngậm ngùi, chua xót của nữ sĩ trước tình cảnh riêng của bản thân và tình cảnh chung của phụ nữ thời ấy. Đúng như lời đúc kết của đại thi hào Nguyễn Du: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung! Thấu hiểu điều đó nên Hồ Xuân Hương đã dùng những từ ngữ bình dân, nôm na nhưng rất giàu khả năng gợi tả để thể hiện thân phận phụ thuộc ấy: Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,
vanhoc
Y Vinh Tơr (sinh ngày 16 tháng 8 năm 1976) là người M'Nông, chính trị gia nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông hiện là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XV, Trưởng Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk. Ông nguyên là Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk; Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk; Bí thư Thị ủy thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk; Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh Đắk Lắk; Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bí thư Tỉnh đoàn tỉnh Đắk Lắk. Y Vinh Tơr là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, học vị Kỹ sư Lâm sinh, Thạc sĩ Quản lý công, Cao cấp lý luận chính trị. Ông là chính trị gia người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên xuất phát từ công tác thanh niên. Xuất thân và giáo dục Y Vinh Tơr sinh ngày 16 tháng 8 năm 1976 tại phường Tân Lập, thị xã Buôn Ma Thuột, nay là thành phố tỉnh lỵ tỉnh Đắk Lắk, Việt Nam, quê quán tại xã Đắk Liêng, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. Ông là người M'Nông, lớn lên và tốt nghiệp 12/12 ở Buôn Ma Thuột, sau đó theo học đại học ngành Lâm nghiệp từ năm 1994, tốt nghiệp Kỹ sư chuyên ngành Lâm sinh năm 1998, trình độ C tiếng Anh. Tháng 4 năm 2010, ông tới Hà Nội, theo học cao học tại chức tại Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội và nhận bằng Thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công vào tháng 7 năm 2011. Y Vinh Tơr được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 23 tháng 3 năm 2003, trở thành đảng viên chính thức ngày 23 tháng 3 năm 2004. Trong quá trình hoạt động Đảng và Nhà nước, ông theo học các khóa tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chi nhánh Khu vực III – Đà Nẵng từ tháng 8 năm 2006 đến tháng 7 năm 2007, nhận bằng Cao cấp lý luận chính trị. Nay, ông thường trú tại Tổ dân phố 1, phường Tân Lập, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk. Sự nghiệp Công tác thanh niên Tháng 1 năm 2000, Y Vinh Tơr bắt đầu sự nghiệp của mình khi được tuyển dụng vào lâm trường, vị trí nhân viên Phòng Kỹ thuật, Lâm trường huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. Cùng năm, ông được luân chuyển tạm thời làm Chuyên viên Phòng Bảo trợ xã hội, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Lắk từ tháng 7 đến tháng 9, và bắt đầu công tác thanh niên từ tháng 10 cùng năm ở Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh Đắk Lắk với vị trí Chuyên viên Văn phòng Tỉnh đoàn. Năm 2002, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Tỉnh đoàn, nhậm chức Phó Trưởng ban Công tác thanh niên vào tháng 4 năm 2004. Tháng 5 năm 2005, ông được bổ nhiệm làm Trưởng ban Thanh niên Nông thôn, Công dân và Đô thị, và được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh đoàn. Tháng 1 năm 2006, ông nhậm chức Chánh Văn phòng Tỉnh đoàn, rồi Trưởng ban Tổ chức – Kiểm tra Tỉnh đoàn vào tháng 8 cùng năm. Tháng 11 năm 2008, Y Vinh Tơr được bầu làm Phó Bí thư kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh đoàn khóa IX, nhiệm kỳ 2007 – 2012. Tháng 8 năm 2011, ông được bầu làm Bí thư Tỉnh đoàn Đắk Lắk và tái đắc cử chức vụ này vào năm 2012, khóa X, nhiệm kỳ 2012 – 2017. Tháng 10 năm 2012, Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk tổ chức hội nghị, quyết định bổ sung ông làm Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XV, phân công kiêm nhiệm Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh. Tháng 12 cùng năm 2012, tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, ông được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đoàn. Tính đến năm 2014, ông có gần 15 năm công tác thanh niên ở Đắk Lắk. Đắk Lắk Tháng 9 năm 2014, Y Vinh Tơr được miễn nhiệm vị trí Bí thư Tỉnh đoàn, kết thúc công tác thanh niên, chuyển sang giai đoạn mới khi chuyên chức làm Bí thư Đảng ủy Khối các cơ quan tỉnh. Tháng 10 năm 2015, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ 16, ông tái đắc cử là Tỉnh ủy viên. Tháng 12 cùng năm, Tỉnh ủy Đắk Lắk điều chuyển ông về thị xã Buôn Hồ, vào Ban Thường vụ Thị ủy, nhậm chức Bí thư Thị ủy Buôn Hồ, lãnh đạo thị xã này cả nhiệm kỳ. Ngày 15, tháng 10 năm 2020, tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ 17, ông tiếp tục tái đắc cử Tỉnh ủy viên, được bầu làm Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy khóa XVII. Tháng 1 năm 2021, Y Vinh Tơr là đại biểu tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 13 và được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII, nhiệm kỳ 2021 – 2026 vào ngày 30 tháng 1. Ngày 19 tháng 3 năm 2021, Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk tổ chức kỳ họp chuyên đề, nhất trí tỷ lệ 76/76 (100%) bầu Y Vinh Tơr làm Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk khóa IX, ông cũng được miễn nhiệm chức vụ Bí thư Thị ủy Buôn Hồ vào thời gian này. Tháng 5 năm 2021, ông trúng cử Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk, và vào kỳ họp thứ nhất để kiện toàn các chức danh lãnh đạo chủ chốt nhiệm kỳ mới của Hội đồng nhân dân tỉnh khóa X, ông được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk nhiệm kỳ 2021 – 2026. Tính đến năm 2021, ông cũng là Đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk ba nhiệm kỳ từ năm 2011. Trung ương Ngày 28 tháng 6 năm 2022, Y Vinh Tơr được điều về trung ương, Thủ tướng Phạm Minh Chính quyết định bổ nhiệm ông làm Thứ trưởng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc. Đại biểu Quốc hội Tháng 4 năm 2021, Y Vinh Tơr ứng cử Đại biểu Quốc hội Việt Nam, thuộc nhóm Đảng, Chính quyền Đắk Lắk. Ông là ứng cử viên của đơn vị bầu cử số ba, gồm thị xã Buôn Hồ và các huyện Ea H'Leo, Krông Búk, Krông Năng, Ea Kar. Ông đã trúng cử với tỷ lệ 77,01%, trở thành Đại biểu Quốc hội khóa XV nhiệm kỳ 2021 – 2026, đồng thời là Tổ trưởng tổ Đảng, Trường Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Đắk Lắk. Khen thưởng Trong sự nghiệp của mình, Y Vinh Tơr nhận được những giải thưởng như: Bốn (4) bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk về hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2004, 2006, 2008, 2012; Chiến sỹ thi đua cấp tỉnh năm 2013; Ba (3) bằng khen của Trung ương Đoàn năm 2005, 2007, 2012; Một bằng khen của Tỉnh ủy Đắk Lắk năm 2013; Một bằng khen của Tổng cục Chính trị, Bộ Công an năm 2014; Bằng khen của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc năm 2018; Xem thêm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII Chú thích Liên kết ngoài Ủy viên dự khuyết Trung ương khóa XIII Y Vinh Tơr. Sinh năm 1976 Nhân vật còn sống Người Đắk Lắk Người M'Nông Cựu sinh viên Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Ủy viên Dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh Đắk Lắk
wiki
Ủy ban Olympic Philippines (POC) (; ; ) là Ủy ban Olympic quốc gia Philippines. POC là 1 tổ chức tư nhân, phi chính phủ, bao gồm và là tổ chức mẹ của tất cả các Hiệp hội Thể thao Quốc gia (NSA) tại Philippines. Nó được công nhận bởi Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) là có quyền duy nhất cho đại diện của Philippines trong Thế vận hội, Đại hội Thể thao châu Á, Đại hội Thể thao Đông Nam Á và các cuộc thi sự kiện thể thao đa môn khác. POC độc lập về tài chính và không nhận được bất kỳ khoản trợ cấp nào từ chính phủ, mặc dù thành viên NSA của nó nhận được một số hỗ trợ tài chính từ Ủy ban Thể thao Philippines. Thay vào đó, POC hỗ trợ các hoạt động của riêng mình với các khoản tiền được tạo ra từ các tài trợ, phí cấp phép sử dụng nhãn hiệu Olympic, trợ cấp IOC và tiền thu được từ các dự án và quyên góp đặc biệt. Lịch sử Thể thao được tổ chức lần đầu tiên được giới thiệu ở Philippines trong đơn vị hành chính Hoa Kỳ của những hòn đảo với sự ra đời của Liên đoàn điền kinh nghiệp dư Philippines (PAAF) vào tháng 1 năm 1911. PAAF đã tổ chức khai mạc Đại hội Thể thao Viễn Đông vào năm 1913 được sự tham gia của Trung Quốc, Nhật Bản, và nước chủ nhà, Philippines. Vận động viên Olympic người Philippines đầu tiên là David Nepomuceno, người đã tham gia Điền kinh trong các nội dung chạy nước rút 100 mét và 200 mét tại Thế vận hội Mùa hè 1924 ở Paris. Tuy nhiên, chỉ đến năm 1929 khi Ủy ban Olympic Quốc tế được công nhận PAAF là Ủy ban Olympic Quốc gia Philippines. Sự công nhận là một năm sau khi vận động viên bơi lội Teofilo Yldefonso giành được huy chương Olympic đồng đầu tiên của Philippines trong nội dung bơi ếch 200 mét tại Thế vận hội Mùa hè 1928 ở Amsterdam. Năm 1975, PAAF được đổi tên thành Ủy ban Olympic Philippines (POC) sau khi thành lập Bộ Phát triển Thể thao và Thanh niên, bãi bỏ một cách hiệu quả trước đây. Chính phủ Ban điều hành Ủy ban Olympic Philippines được quản lý bởi ban điều hành, bao gồm chủ tịch, chủ tịch, phó chủ tịch thứ nhất và thứ hai, tổng thư ký, thủ quỹ, kiểm toán viên và chủ tịch trước đây. Ban điều hành cũng được tham gia bởi bốn thành viên được bầu bởi các thành viên hội đồng quản trị và bất kỳ thành viên IOC nào có mặt trong nước. Ban điều hành tổ chức ít nhất một cuộc họp mỗi tháng và đưa ra các hành vi hợp lệ nếu đa số các thành viên của nó có mặt từ bảy người trở lên trong mọi trường hợp. Các quyết định của POC được bầu bởi các thành viên của ban điều hành và trong trường hợp bắt buộc, chủ tịch quyết định về vấn đề liên quan. Hoa hồng hoặc ủy ban cũng được tổ chức bởi POC. Tư cách thành viên, trọng tài, đạo đức, kỹ thuật, cách thức và phương tiện và hoa hồng của vận động viên là hoa hồng thường trực của POC. Việc tạo ra các khoản hoa hồng bổ sung phải được sự chấp thuận của ban điều hành theo đề nghị của Chủ tịch. Chủ tịch Ambrosio Padilla là chủ tịch đầu tiên của Ủy ban Olympic Philippines (POC) phục vụ từ năm 1975 đến năm 1976. Trước đây ông từng là chủ tịch tiền nhiệm của POC, Liên đoàn điền kinh nghiệp dư Philippines từ năm 1970 đến năm 1975. Chủ tịch có quyền gọi một cuộc họp đặc biệt của ban điều hành theo yêu cầu bằng văn bản gửi đến tổng thư ký. Đặc quyền này cũng có thể được đa số ban điều hành. Chủ tịch cũng đề nghị thành lập một ủy ban mới trong POC, cũng như bổ nhiệm từng chủ tịch và thành viên của ủy ban, và nhiệm vụ, nhiệm vụ và chính quyền của họ, tất cả đều phải được sự chấp thuận của hội đồng. Xem thêm Cuộc bầu cử Ủy ban Olympic Philippines năm 2016 và 2018 Ủy ban Thể thao Philippines Project Gintong Alay Tham khảo Liên kết ngoài Trang web Ủy ban Olympic Philippines Ủy ban Olympic quốc gia A Khởi đầu năm 1975 ở Philippines Tổ chức thể thao khởi đầu năm 1975
wiki
Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất bao gồm bảy tiểu vương quốc và có sáu Hoàng gia. (Cả Sharjah và Ras Al Khaimah đều được cai trị bởi cùng một gia tộc). Gia tộc Al Nahyan (chi nhánh của Nhà Al Falahi) Hoàng gia cai trị Abu Dhabi. Gia tộc Al Maktoum (chi nhánh của Nhà Al Falasi) Hoàng gia cai trị Dubai. Gia tộc Al Qasimi (cũng đọc là Al Qassimi) Hoàng gia cai trị hai trong bảy tiểu vương quốc: Sharjah và Ras Al Khaimah. Gia tộc Al Nuaimi Hoàng gia cai trị Ajman. Gia tộc Al Mualla Hoàng gia cai trị Umm Al Quwain. Gia tộc Al Sharqi Hoàng gia cai trị Fujairah. Hoàng gia Al Nahyan — Abu Dhabi Sheikh Dhiyab bin Isa Al Nahyan (1761–1793) Sheikh Shakhbut bin Dhiyab Al Nahyan (1793–1816) Sheikh Muhammad bin Shakhbut Al Nahyan (1816–1818) Sheikh Tahnun bin Shakhbut Al Nahyan (1818–1833) Sheikh Khalifa bin Shakhbut Al Nahyan (1833–1845) Sheikh Saeed bin Tahnun Al Nahyan (1845–1855) Sheikh Zayed bin Khalifa Al Nahyan (1855–1909) Sheikh Tahnun bin Zayed Al Nahyan (1909–1912) Sheikh Hamdan bin Zayed Al Nahyan (1912–1922) Sheikh Sultan bin Zayed Al Nahyan (1922–1926) Sheikh Saqr bin Zayed Al Nahyan (1926–1928) Sheikh Shakhbut bin Sultan Al Nahyan (1928–1966) Sheikh Zayed bin Sultan Al Nahyan (1966–2004), người sáng lập UAE Emir Sheikh Khalifa bin Zayed Al Nahyan (2004–present), Tổng thống UAE và cai trị Abu Dhabi. Thái tử Sheikh Mohammad bin Zayed Al Nahyan — Thái tử Abu Dhabi và Tư lệnh Tối cao Lực lượng vũ trang UAE. Sheikh Sultan bin Zayed bin Sultan Al Nahyan — Phó Thủ tướng. Sheikh Hamdan bin Zayed bin Sultan Al Nahyan — Đại diện Tiểu quốc tại khu vực phía Tây Abu Dhabi. Sheikh Nahyan bin Mubarak Al Nahyan — Bộ trưởng Bộ giáo dục cao học và nghiên cứu khoa học. Sheikh Abdullah Bin Zayed Al Nahyan — Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Sheikh Mansour bin Zayed Al Nahyan — Bộ trưởng Bộ các vấn đề Tổng thống. Hoàng gia Al Maktoum — Dubai Cựu Sheikh Rashid bin Saeed Al Maktoum - cựu cai trị Dubai Emir Sheikh Mohammed bin Rashid Al Maktoum — Phó Tổng thống và Thủ tướng UAE; cai trị Dubai. Thái tử Sheikh Hamdan bin Mohammed bin Rashid Al Maktoum - aka Fazza Phó cai trị Sheikh Hamdan bin Rashid Al Maktoum - Bộ trưởng Bộ Tài chính UAE Phó cai trị Sheikh Maktoum bin Mohammed bin Rashid Al Maktoum Chủ tịch hãng hàng không Emirates Sheikh Ahmed bin Saeed Al Maktoum. Hoàng gia Al Qasimi — Sharjah Sheikh Khalid bin Sultan Al Qasimi (1866 – 14/4/1868) Sheikh Salim bin Sultan Al Qasimi (14/4/1868 – 3/1883) Sheikh Ibrahim bin Sultan Al Qasimi (1869 – 1871) Sheikh Saqr bin Khalid Al Qasimi (3/1883 – 1914) Sheikh Khalid bin Ahmad Al Qasimi (13/4/1914 – 21/11/1924) Sheikh Sultan bin Saqr Al Qasimi II (21/11/1924 – 1951) Sheikh Mohammed bin Saqer Al Qasimi (1951 – 5/1951) Sheikh Saqr bin Sultan Al Qasimi (5/1951 – 24/6/1965) - cai trị lần thứ nhất Sheikh Khalid bin Mohammed Al Qasimi (24/6/1965 – 24/1/1972) Sheikh Saqr bin Sultan Al Qasimi (25/1/1972 – 1972) - cai trị lần thứ 2 Sheikh Sultan bin Muhammad Al Qasimi (1972 – 17/6/1987) - cai trị lần thứ nhất Sheikh Abdulaziz bin Mohammed Al Qasimi (17–23/6/1987) Sheikh Sultan bin Muhammad Al Qasimi (23/6/1987 – nay) - cai trị lần thứ 2 Thái tử và Phó cai trị Sheikh Sultan bin Mohamed bin Sultan Al Qasimi — Thái tử và Phó cai trị Sharjah Hoàng gia Al Qasimi — Ras Al Khaimah Sheikh Ibrahim bin Sultan Al Qasimi (1866 – 5/1867) Sheikh Khalid bin Sultan Al Qasimi (5/1867 – 14/4/1868) Sheikh Salim bin Sultan Al Qasimi (14/4/1868 – 1869) Sheikh Humaid bin Abdullah Al Qasimi (1869 – 8/1900) Sheikh Khalid bin Ahmad Al Qasimi (1914–1921) Sheikh Sultan bin Salim Al Qasimi (19/7/1921 – 4/1948) Sheikh Saqr bin Mohammad Al Qassimi (2/1948 – 27/10/2010) Sheikh Saud bin Saqr Al Qasimi (27/10/2010 – nay) Sheikh Fahim bin Sultan Al Qasimi — cựu Tổng thư ký GCC và bộ trưởng Hoàng gia Al Nuaimi — Ajman Sheikh Rashid bin Humaid Al Nuaimi (1816–1838) Sheikh Humaid bin Rashid Al Nuaimi (1838–1841) Sheikh Abdelaziz bin Rashid Al Nuaimi (1841–1848) Sheikh Humaid bin Rashid Al Nuaimi (1848–1864) Sheikh Rashid bin Humaid Al Nuaimi II (1864–1891) Sheikh Humaid bin Rashid Al Nuaimi II (1891–1900) Sheikh Abdulaziz bin Humaid Al Nuaimi (1900–1910) Sheikh Humaid bin Abdulaziz Al Nuaimi (1910–1928) Sheikh Rashid bin Humaid Al Nuaimi III (1928–1981) Sheikh Humaid bin Rashid Al Nuaimi III (1981–nay) Hoàng gia Al Mualla — Umm Al Quwain Sheikh Rashid bin Majid Al Mualla (1768–1820) Sheikh Abdullah bin Rashid Al Mualla (1820–1853) Sheikh Ali bin Abdullah Al Mualla (1853–1873) Sheikh Ahmad bin Abdullah Al Mualla (1873–1904) Sheikh Rashid bin Ahmad Al Mualla (1904–1922) Sheikh Abdullah bin Rashid Al Mualla II (1922–1923) Sheikh Hamad bin Ibrahim Al Mualla (1923–1929) Sheikh Ahmad bin Rashid Al Mualla (1929–1981) Sheikh Rashid bin Ahmad Al Mualla II (1981–2009) Sheikh Saud bin Rashid Al Mualla (2009–nay) Hoàng gia Al Sharqi — Fujairah Sheikh Hamad bin Abdullah Al Sharqi Sheikh Saif bin Hamad Al Sharqi Sheikh Mohammed bin Hamad Al Sharqi Sheikh Hamad bin Mohammed Al Sharqi (1975–nay) Hoàng thân thừa kế Sheikh Mohammed bin Hamad bin Mohammed Al Sharqi — Thái tử Fujairah. Tham khảo Người Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Hoàng gia Gia đình hoàng gia Trung Đông Xã hội Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất
wiki
Mildred Trouillot-Aristide (sinh năm 1963) là một luật sư người Mỹ kết hôn với Jean-Bertrand Aristide, cựu Tổng thống Haïti, năm 1996. Mildred Trouillot lớn lên ở vùng Bronx. Cả cha cô, Emile và mẹ, Carmelle, đều là người bản địa của Haïti. Anh rời Haïti năm 1958, cô năm 1960. Họ tìm được công việc ở thành phố New York, nơi Emile làm việc trong một nhà máy thép. Carmelle làm việc như một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm. Mildred tốt nghiệp trường trung học St. Barnabas, City College of New York và Đại học Luật Pennsylvania. Cô đã thực hành kiện tụng thương mại cho công ty luật Robinson, Silverman, Pearce, Aronsohn và Berman ở Manhattan. Cô gặp Aristide tại một bài giảng mà anh đã đưa ra vào năm 1992. Năm 1994, cô đi làm việc cho chính phủ của Aristide lưu vong ở Washington, DC với tư cách là một người viết diễn văn, cũng như làm công việc pháp lý. Họ kết hôn vào ngày 20 tháng 1 năm 1996, trong một buổi lễ đơn giản tại Port-au-Prince. Đó là một cuộc hôn nhân gây tranh cãi ở Haïti. Aristide được bầu làm Tổng thống khi ông còn là linh mục Công giáo, và đã từ bỏ chức tư tế khi ông kết hôn với Mildred. Cặp vợ chồng có hai cô con gái, Christine Aristide, sinh tháng 11 năm 1996 và Michaelle Aristide, sinh năm 1998. Tham khảo Nhân vật còn sống Sinh năm 1963
wiki
Đất sét tự khô (tên gọi khác sứ lạnh, đất nặn) là chủng loại đất sét nhân tạo có đặc điểm tự khô khi tiếp xúc với không khí sở dĩ có tên gọi này vì hợp chất chính cấu thành nên loại đất sét này gồm có các loại bột, hồ dán (keo) và một số phụ gia hóa học. Ngay khi đưa ra ngoài không khí, đất sét tự động khô cứng lại, quá trình khô nhanh hay chậm tùy thuộc vào chất lượng và cách pha trộn của nhà sản xuất. Ví dụ ở nhiệt độ phòng từ 25 đến 32 độ C thì các loại Đất sét Nhật Bản sẽ có thời gian khô từ 1-2 ngày, Đất Sét Thái thời gian khô từ 2-4 ngày. Ngoài ra nếu đưa đất sét tự khô vào môi trường càng lạnh hoặc càng nóng sẽ khô cứng rất nhanh nhưng dễ dẫn đến tình trạng đất bị nứt. Do đó để bảo quản loại đất sét này người ta thường sử dụng các loại túi gói được hàn kín miệng hoặc túi zip để tránh không khí lọt vào. Đất sét tự khô có ưu điểm là thân thiện với môi trường, dễ sử dụng với hầu hết người dùng ở mọi lứa tuổi. Sau khi khô hoàn toàn sẽ khiến đất sét tự khô có độ cứng rất cao và chịu được tác động va chạm mạnh kể cả rơi từ các tòa nhà cao tầng hoặc xe ô tô cán qua. Điểm yếu nhất của dòng đất sét này là sợ tiếp xúc với nước, nếu ngâm trong nước đất sét tự động bị tan rã. Tính đến nay vẫn chưa có tài liệu khoa học nào xác thực được ai là người đầu tiên phát minh ra công thức chế tạo đất sét tự khô, phần lớn người tiêu dùng ở các nước Châu Á biết đến loại đất sét này từ các video clip phô diễn kỹ thuật điêu khắc của các nghệ sĩ thủ công người Nhật và Thái Lan. Ứng dụng trong đời sống & sinh hoạt Chế tác tượng Làm hoa đất sét Nặn đồ chơi Chống mối mọt công trình, bịt ổ điện Bảo quản, sử dụng đất. Kem mềm, kem ủ cho đất sét - Đất sét nếu để ngoài không khí sẽ bị khô trên bề mặt sau 2-3 tiếng, khô toàn bộ sau 72 tiếng(tùy vào độ dày của của đất) - Đất sét nên được bảo quản nơi khô ráo. Khi dùng thừa đất nên cho số đất thừa đó vào túi kiếng hoặc màng bọc thực phẩm có phết một lớp kem ủ dành cho đất sét. Sau đó cho vào túi nilon hoặc túi zip, khóa chặt mép lại để không khí không lọt vào trong. Tiếp đó lấy khăn ẩm(cho khăn vào nước rồi vắt sao cho khi cầm khăn lên, nước không rỏ xuống) quấn quanh túi nilon, sau đó cho thành phẩm vào hộp có nắp. -Khi đất sét mua về chưa dùng đến nên để yên, không động vào khi chưa thực sự dùng, để vào hộp có nắp-Kem ủ sử dụng để bảo quản đất, giữ cho đất lâu bị khô, thoa vào khuôn thì đất không bị dính khuôn, ngoài ra khi sử dụng nhào cùng với kem làm mềm sẽ khiến thành phẩm bóng đẹp 1 cách tự nhiên -Kem mềm sử dụng làm bề mặt đất láng mịn hơn, khi đất hơi khô bề mặt cho kem này vào nhồi kỹ thì đất sẽ mềm lại -Đối với đối tượng sử dụng đất sét này để làm mô hình, làm tượng, đồ trang sức,...cần rửa sạch tay trước khi dùng, hoặc dùng găng tay cao su để làm. Trong quá trình nặn có thể dùng nước để làm đất nhão ra một chút, sử dụng dụng cụ chuyên dụng để làm mất các đoạn vị hở do vết cắt. Sử dụng màu acrylic để tảo màu cho đất bằng cách trộn màu với đất. Có thể sử dụng miếng giấy bạc, vo lại để tạo hình sau đó bắp lớp đất lên, như vậy sẽ dễ xác định dáng hình mà không bị tốn đất(không nên dùng cách này để làm hoa hay khay đựng đồ, hoặc các đồ có độ giầy không cao) Tự khô Vật liệu điêu khắc Vật liệu thủ công
wiki
Có ai đã từng đắm say, yêu một cây cỏ nhành hoa vì màu sắc của nó? Có văn nhân, nghệ sĩ nào mà không từng rung động lòng mình, trái tim xốn xang trước vẻ đẹp của tạo vật, của hoa lá, thiên nhiên? Có ai đã từng mê mẩn một loài hoa bởi hương thơm riêng của nó? Nếu hoa hồng hấp dẫn lòng người bởi sắc đỏ rực rỡ cùng vẻ đẹp lộng lẫy, kiêu sa, hoa bằng lăng say đắm hồn người bởi sắc tím mộng mơ, hoa sữa mãi thành dấu ấn trong lòng người bởi hương thơm ngạt ngào, hoa hướng dương thu hút ta bởi trông chúng như những mặt trời tí hon thì nhắc tới hoa cúc, người ta lại nhớ đến loài hoa với sắc vàng rực cùng mùi hương nhè nhẹ.Những bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về loài hoa đặc trưng của mùa thu này. Khi viết, các bạn cần tả các bộ phận như thân, lá, hoa theo cách cảm nhận, cách suy nghĩ của riêng bản thân mình và lưu ý là lồng cả cảm xúc của chính mình trong đó. Chúc các bạn thành công! Mùa thu- mùa của thiên nhiên đất trời, mùa của lòng người. Nói đến mùa thu, tôi lại nhớ đến lời thơ của Huy Cận có những câu thơ thật hay nói về hoa cúc. Hoa cúc đã in sâu vào lòng tôi bởi vẻ đẹp riêng của nó, bởi hoa cúc đã trở thành biểu tượng cho mùa thu. Như chúng ta đã biết rằng, hoa cúc không mọc thành từng cây riêng lẻ mà mọc thành từng cụm. Thân hoa cúc màu xanh đậm, rất mảnh dẻ nhưng nó thể chứa tới vài bông hoa đấy. Lá cúc mọc xung quanh thân cây, có màu xanh đậm, giống như những bàn tay nhỏ xinh xinh vươn ra từ một thân luôn rung rinh trong nắng, trong gió. Hoa cúc có rất nhiều màu, phổ biến nhất là màu trắng và màu nhưng tôi thích nhất vẫn là màu vàng rực. Để có được những bông hoa đẹp say đắm lòng người ấy, đầu tiên, từ những nụ hoa bé nhỏ như bàn tay em bé ấy phải vươn mình ra đón giọt sương buổi sớm, đón ánh mặt trời và được bàn tay con người kì công chăm sóc, những nụ hoa ấy mới dần dần trở thành những bông hoa. Khi ấy, những nụ hoa sẽ nở bung ra, mỗi bông ho với nhiều cánhđan xen khoác trên mình tấm áo vàng rực cứ như là một thiếu nữ đang ở tuổi xuân sắc, trông mới thật điệu đà, duyên dáng làm sao! Dưới ánh mặt trời, mỗi bông hoa cúc lại càng lộng lẫy hơn. Sắc vàng ấy đã thu hút biết bao cô bướm, chị gió đến bầu bạn! Hoa cúc không khó để chăm sóc, chỉ cần vào ngày nắng, bạn nhớ tưới cho nó ít nước nếu không, cây sẽ tàn, lá sẽ chuyển màu, không còn màu vàng tươi hay trắng tinh khôi nữa, và sẽ dần héo úa mà chết thôi. Hoa cúc đã trở thành biểu tượng cho mùa thu. Nó hấp dẫn lòng người bởi vẻ đẹp rất riêng. Những cánh rừng hoa cúc vàng tươi đã khơi nguồn cảm hứng cho bao văn nhân, nghệ sĩ, đã trở thành điểm đến để chụp ảnh của bao người. Vừa rồi, gia đình tôi đã chụp một bộ ảnh tại vườn hoa cúc ở Đà Lạt mà mọi người ai cũng khen đẹp. Cứ như một cách tự nhiên, hoa cúc đã trở thành niềm yêu mến của biết bao người. Hoa cúc sẽ mãi hấp dẫn lòng người bởi mỗi loài hoa trên thế gian này đều ở trong trái tim con người với những suy nghĩ, những xúc cảm, những tình yêu khác nhau. Tôi sẽ mãi yêu hoa cúc vì nó còn gắn liền với mùa tựu trường của học trò! “Mừng Tết đến vạn lộc đến nhà nhà, cánh mai vàng, cành đào hồng thắm tươi…” Nhắc đến Tết người ta thường nghĩ ngay tới hoa đào, hoa mai như những đặc trưng rất riêng, tín hiệu của ngày Tết. Nhưng cũng có không ít gia đình chọn mua thêm một chậu cúc vàng tươi trong dịp năm hết Tết đến. Tết này, nhà em cũng có một chậu cúc vàng để ở phòng khách. Chậu cây được đặt ở gần bàn tiếp khách nhà em. Chậu cây không to lắm, cao chừng 50 cm nhưng đủ toát lên một vẻ đẹp làm sáng bừng căn phòng. Cúc được trồng trong một chậu nhỏ nâu đất có hoa văn đẹp mắt. Thân cây nhỏ như chiếc đũa cả, màu xanh đậm với một lớp lông mỏng màu trắng. Thân cây dạng rỗng, mảnh mai. Từ thân đâm ra những cành nhỏ li ti với rất nhiều lá xanh. Lá cúc cũng một màu xanh đậm, lá hẹp bản, có những đường gân nổi rõ. Ở mỗi cành đâm ra những hoa, những nụ thích mắt. Hoa cúc màu vàng tươi như màu nắng. Cánh hoa nhỏ, thuôn dài, xếp đan xen, chồng lên nhau từng lớp, che chở cho một nhị hoa tí hon bên trong. Nụ hoa nhỏ xinh, tròn, màu xanh non điểm xuyết sắc vàng của hoa. Nhiều cây cúc được trồng thành một khóm đặt ngay ngắn trong chậu, cây nào cũng đơm hoa, cây nào cũng tỏa ngát. Trong tiết trời se se lạnh của những ngày Tết, sắc vàng của hoa cúc như gọi về một chút nắng ấm của sớm mai sưởi ấm trái tim con người. Hương hoa cúc không nồng mà lan tỏa dịu nhe, quyện vào trong gió, len lỏi khắp cả căn nhà. Mẹ em nói rằng cúc tượng trưng cho sự ấm áp, may mắn, đủ đầy, báo hiệu một năm mới thịnh vượng. Có lẽ bởi lí do đó mà nhiều gia đình chọn cho mình một chậu cúc vàng để chơi Tết.
vanhoc
Chủ nghĩa duy danh là một quan điểm siêu hình trong triết học theo đó những thuật ngữ phổ quát và trừu tượng và các tiên đề (hay mệnh đề vị ngữ) tồn tại, trong khi cái phổ quát hay những vật trừu tượng, thì không. Có ít nhất hai phiên bản chính của Chủ nghĩa duy danh. Một phiên bản từ chối sự tồn tại của cái phổ quát-tức những thứ có thể tạo mẫu cho những thứ cụ thể (ví dụ, tính người, sức mạnh). Một phiên bản khác phủ nhận một cách cụ thể sự tồn tại của những vật trừu tượng-những vật không tồn tại trong không thời gian.. Chủ nghĩa duy danh có thể tìm thấy nguồn gốc trong triết học Platon, đối lập với Chủ nghĩa duy thực-quan niệm rằng tồn tại cái phổ quát bên trên và bên ngoài cái cụ thể. Tuy nhiên, thuật ngữ duy danh (chẳng hạn tiếng Anh là nominalism) bắt nguồn từ tiếng Latin nomen (tên gọi) chỉ có từ thời Trung Cổ với Roscellinus. Chú thích Tham khảo và đọc thêm Adams, Marilyn McCord. William of Ockham (2 volumes) Notre Dame, IN: Notre Dame University Press, 1987. American Heritage Dictionary of the English Language, Fourth Edition, 2000. Bacon, John (2008). "Tropes", The Stanford Encyclopedia of Philosophy, Edward N. Zalta (ed.). (link) Borges, Jorge Luis (1960). "De las alegorías a las novelas" in Otras inquisiciones (pg 153-56). Burgess, John (1983). Why I am not a nominalist. Notre Dame J. Formal Logic 24, no. 1, 93–105. Burgess, John & Rosen, Gideon. (1997). A Subject with no Object. Princeton University Press. Courtenay, William J. Adam Wodeham: An Introduction to His Life and Writings, Leiden: E. J. Brill, 1978. Feibleman, James K. (1962). "Nominalism" in Dictionary of Philosophy, Dagobert D. Runes (ed.). Totowa, NJ: Littlefield, Adams, & Co. (link) Goodman, Nelson (1977) The Structure of Appearance, 3rd ed. Kluwer. Hacking, Ian (1999). The Social Construction of What?, Harvard University Press. Karin Usadi Katz and Mikhail G. Katz (2011) A Burgessian Critique of Nominalistic Tendencies in Contemporary Mathematics and its Historiography. Foundations of Science. See link Klima, Gyula (2008). "The Medieval Problem of Universals", The Stanford Encyclopedia of Philosophy, Edward N. Zalta (ed.). (link) MacLeod, M. & Rubenstein, E. (2006). "Universals", The Internet Encyclopedia of Philosophy, J. Fieser & B. Dowden (eds.). (link) Mill, J. S., (1872). An Examination of William Hamilton's Philosophy, 4th ed., Chapter XVII. Oberman, Heiko. The Harvest of Medieval Theology: Gabriel Biel and Late Medieval Nominalism, Grand Rapids, MI: Baker Academic, 2001. Penner, T. (1987). The Ascent from Nominalism, D. Reidel Publishing. Peters, F. (1967). Greek Philosophical Terms, New York University Press. Porter, R. (2006). The Health Ethics Typology: Six Domains to Improve Care. Socratic Publishing. ISBN 0-9786699-0-8 Price, H. H. (1953). "Universals and Resemblance", Ch. 1 of Thinking and Experience, Hutchinson's University Library. Quine, W. V. O. (1961). "On What There is," in From a Logical Point of View, 2nd/ed. N.Y: Harper and Row. Quine, W. V. O. (1969). Set Theory and Its Logic, 2nd ed. Harvard University Press. (Ch. 1 includes the classic treatment of virtual sets and relations, a nominalist alternative to set theory.) Robson, John Adam, Wyclif and the Oxford Schools: The Relation of the "Summa de Ente" to Scholastic Debates at Oxford in the Late Fourteenth Century, Cambridge, England: Cambridge University Press, 1961. Rodriguez-Pereyra, Gonzalo (2008). "Nominalism in Metaphysics", The Stanford Encyclopedia of Philosophy, Edward N. Zalta (ed.). (link) Utz, Richard, "Literary Nominalism." Oxford Dictionary of the Middle Ages. Ed. Robert E. Bjork. Oxford: Oxford University Press, 2010. Vol. III, p. 1000. Russell, Bertrand (1912). "The World of Universals," in The Problems of Philosophy, Oxford University Press. Williams, D. C. (1953). "On the Elements of Being", Review of Metaphysics, vol. 17. Liên kết ngoài Nominalism, Realism, Conceptualism, from The Catholic Encyclopedia. Rose, Burgess: Nominalism Reconsidered in The Oxford handbook of philosophy of mathematics and logic Nominalism in Metaphysics from The Stanford Encyclopedia of Philosophy Richard Utz and Terry Barakat, "Medieval Nominalism and the Literary Questions: Selected Studies." Perspicuitas Bản thể học Lý thuyết siêu hình
wiki
Hướng dẫn Chẳng bao giờ em làm được một việc tốt đáng kể hay chỉ ít là làm người khác thấy vui, chỉ trừ có một lần khi em còn học lớp 2. Lần đó em đã nhặt được của rơi và trả lại cho người mất.Chiều hôm ấy, em trực nhật nên phải ở lại lớp một lúc để đổ rác. Lúc em đang đi trên sân trường thì bỗng em giẫm phải một vật gì cưng cứng. Em cúi xuống nhặt lên thì thấy: ồ! hoá ra là một cuốn tiểu thuyết khổ 18x7cm của nhà sách Trí Tuệ cuốn đầu giáo sư Powel của tác giả A.R Belger. Cuốn sách này được bọc ngoài bằng nilon trong nên có lẽ người mất mới mua về chưa đọc. Em cũng chưa đọc nó nhưng đã biết ít nhiều về nó qua lời nói của bố mẹ. Hình như nó là một cuốn tiểu thuyết rất hay. Em lật xem bìa sau của cuốn sách thì thấy một đoạn văn ngắn kể lại tóm tắt nội dung cuốn sách. Nó càng làm em chắc chắc về suy nghĩ của mình. Trong đầu em hiện lên ý nghĩ lấy luôn cuốn sách này. Thế là, em ngó xung quanh xem có ai không. Thôi chết! Còn bác bảo vệ. Em chờ bác bảo vệ để ý đi chỗ khác rồi nhanh tay đút luôn cuốn sách vào cặp tung tăng chạy ra khỏi cổng trường. Trên đường, em không thôi nghĩ về nhưng tình tiết hấp dẫn, li kì của cuốn sách. Ôi! thú vị biết bao! Nhưng cái đầu em không chỉ nghĩ đến một chuyện nó lái sang một chuyện khác. Chuyện về người bị mất. Vì có cái đầu ham nghĩ nên em không biết phải phân xử ra sao, mang về đọc và giữ của riêng hay trả lại cho người bị mất đây! Hai phương án cứ đánh nhau, xáo trộn trong đầu em. Vừa lúc đó, em về dến nhà. Em chào bố mẹ rồi đặt mình lên chiếc giường ở phòng riêng. Em lại tiếp tục suy nghĩ. Mà phải rồi! Mẹ là người có kinh nghiệm trong cuộc sống, mình nên hỏi mẹ xem sao! Em nghĩ, thế là em chạy xuống tầng 1, đưa cuốn sách cho mẹ và kể đầu đuôi câu chuyện cho mẹ nghe. Nghe xong, mẹ cười và bảo: – Bây giờ, con hãy đặt mình vào tình huống như người mất mà xem. Chắc chắn con sẽ rất buồn và lo lắng vì bố mẹ sẽ mắng khi làm mất cuốn sách khá đắt: 25.000đ cơ mà! Đấy, con hãy tự nghĩ và quyết định đi. – Quả thật nếu em là người mất thì cũng sẽ có những cảm giác như mẹ nói. Mà nếu các bạn biết thì lòng tin của các bạn đối với em sẽ chẳng ra gì nữa! Em quyết định sẽ trả lại. Sáng hôm sau, em mang cuốn sách đưa cho cô Tổng phụ trách. Vừa lúc đó, có một chị lớp Năm hớt hơ hớt hải chạy đến. Khi cô Tổng phụ trách đưa chị cuốn sách và giới thiệu em với chị thì chị ấy cảm ơn em rối rít. Lúc em về lớp, các bạn xô đến quanh em và khen em. Khi đó em thực sự là rất vui. Bây giờ em mới biết giá trị của những việc làm tốt. Nó vô hình nhưng nó lại có thể mang niềm vui cho tất cả mọi người. Tham khảo thêm tại đây: Kể về một việc tốt em đã làm Đó là một ngày đầy ý nghĩa đối với tôi. Một ngày tôi không thể quên. Cáu chuyện như sau: Hôm đó, ba mẹ tôi được nghỉ nên đưa chị em tôi về quê thăm ông bà. Tôi rất háo hức. Không biết dạo này ông bà thế nào? Gặp tôi chắc ông bà mừng phải biết Bên đường, những hàng tre xanh ngắt. Xa xa, những bác nông dân đang làm đồng. Đi thêm một đoạn nữa, lấp ló sau bụi cây bàng già là ngôi nhà cổ xưa của ông bà tôi. Gặp nhau, mọi người mừng rỡ, tíu tít chào hỏi. Tôi nhanh chóng cất đồ rồi chạy ra sân chơi với bọn trẻ con. Chơi được một lúc thì chán, chúng tôi cùng thi nhau nghĩ ra những trò chơi mới. Chợt có đứa nói: “Chị Thuỳ Anh bày trò chơi trên thành phố cho bọn em chơi đi”. Tôi nghĩ một lúc rồi nói với lũ trẻ: “Chúng ta chơi trò trêu gà đi”. Bọn trẻ có vẻ không hài lòng. Tôi bực mình: “Đứa nào không chơi thì cút”. Nghe thế, chúng sợ sệt vội hò nhau chia thành hai phe chơi trò đuổi bắt gà. Thấy chúng tôi chơi trò này, bà cũng không hài lòng, bảo: “Thôi, các cháu chơi trò khác đi, gà nhà ta dạo này yếu lắm”. Nghe thấy thế, tôi bực mình cả với bà và bảo chúng cứ chơi tiếp. Một lúc sau, tôi thấy một chú gà nằm lăn ra đất. Tôi tưởng nó ngủ, hoá ra không phải, vì mệt quá, nó đã chết. Tôi sợ hãi cùng bọn trẻ đi tìm một cái hộp chôn chú gà xuống đất. Sau đó, ai về nhà nấy, coi như không có chuyện gì. Buổi tối, khi ăn cơm, ông tôi nói với cả nhà: “Nhà mình bị mất một con gà. Không hiểu nó chết ở đâu hay ai bắt mất?”. Tôi im lặng coi như không Ịbiết. Ăn cơm xong, tôi cùng chị chuẩn bị đồ đạc để mai về thành phố sớm. Đêm đó, tôi ngủ không yên. Sáng sớm, bà vào đánh thức chị em tôi dậy. Ông bà và bọn trẻ con tiễn chị em tôi ra tận đầu làng. Tôi thấy hối hận quá. Tôi quay lại ôm chầm lấy bạ: “Cháu xin lỗi, lần sau cháu sẽ nghe lời bà”. Ông bà xoa đầu tôi, mim cười: “Cháu biết nhận lỗi thế là tốt. Thôi về đi kẻo muộn”. Tôi như trút được một gánh nặng, chào ông bà và chay ra xe. Sau chuyện đó, tôi hiểu rằng cần phải lắng nghe những gì người lớn khuyên bảo, cần phải biết dũng cảm nhận lỗi và sửa chữa lỗi lầm. Tham khảo thêm tại đây:Kể về một lần em mắc lỗi (bỏ học, nói dối, không làm bài,… ) Gia đình em theo bố chuyển ra thị xã đã được hơn một năm. Hôm nay, em mới có dịp về thăm quê. Vừa lên xe, em đã nhận ra cô Nga, cô giáo chủ nhiệm lớp 6A mà em rất quý mến. Em khoanh tay lễ phép chào cô. Cô mỉm cười kéo tay em ngồi xuống ghế bên cạnh, ân cần hỏi thăm tình hình học tập và sinh hoạt của em. Gặp cô, em mừng lắm. Bao nhiêu kỉ niệm tốt đẹp về cô lại trỗi dậy trong tâm trí em… Hồi ấy, quê em còn nghèo lắm. Đường làng quanh co, gồ ghề. Sau mỗi cơn mưa, đất nhão thành bùn dính bết vào chân, đi lại rất khó khăn. Nông dân làm việc quần quật suốt ngày ngoài đồng, quanh năm vất vả. Trẻ em phải phụ giúp cha mẹ những việc nhỏ như chăn trâu, cắt cỏ, dọn dẹp nhà cửa… Hằng ngày, em đi học cùng bạn Lâm. Nhà bạn ấy cách nhà em một xóm. Hôm đó, chờ mãi không thấy Lâm đến rủ, em đành tới trường một mình. Suốt mấy ngày mưa phùn lây rây, không khí ẩm ướt và lạnh lẽo. Mặt trời bị che khuất sau những đám mây xám xịt. Đến lớp, em thấy bạn nào cũng co ro vì lạnh, chân tay, quần áo lem nhem bùn đất. Cô Nga nhìn chúng em với ánh mắt ái ngại và thương cảm. Cô khen chúng em chịu khó rồi bắt đầu giảng bài như thường lệ. Chúng em say mê nghe, quên cả trời đang mưa lạnh. Giờ chơi, các bạn ùa ra hành lang, túm năm tụm ba chuyện trò vui vẻ. Em nhớ tới Lâm và định bụng tan học sẽ đến thăm xem bạn ấy vì sao mà nghỉ học. Buổi trưa, ăn cơm xong, nghĩ tới đoạn đường đến nhà Lâm, em ngại quá. Em chui tọt vào chăn rồi ngủ quên mất. Mãi đến tối, em lấy hết can đảm dấn bước trên con đường trơn trượt để đến nhà Lâm. Em ngạc nhiên khi thấy bên ngọn đèn, cô Nga đang hướng dẫn Lâm làm toán. Lâm quàng chiếc khăn kín cổ, mặt đỏ bừng như người đang sốt. Nhìn cảnh ấy, lòng em dâng lên một cảm xúc khó tả. Em thương Lâm và cô giáo bao nhiêu thì lại tự trách mình bấy nhiêu. Lẽ ra tan học, em phải đến với Lâm ngay để giúp bạn ấy chép bài, làm bài mới đúng. Em thật có lỗi. Dường như nhận ra vẻ bối rối của em, cô Nga tươi cười bảo: “Đạt tới thăm Lâm đấy ư? Tốt lắm! Cô và hai em cùng giải mấy bài toán khó này nhé!”. Thế rồi cô tiếp tục hướng dẫn cho tới lúc bạn Lâm tự giải được bài. Mẹ Lâm nói với em: “Hôm qua, Lâm ra đồng giúp bác nhổ cỏ lúa suốt buổi chiều nên bị cảm. Đêm nó sốt cao quá nên sáng nay phải nghi học. Nó mong cháu mãi đấy!”. Nghe bác nói, em càng ân hận, trách mình sao quá vô tình. Chín giờ khuya, cô Nga cùng em trở về trên con đường lầy lội. Cô dặn em: “Nếu mai Lâm chưa đi học được thì Đạt nhớ chép bài cho Lâm nhé! Bạn bè phải giúp đỡ nhau lúc khó khăn, em ạ!”. Em tần ngần đứng nhìn theo ánh đèn trong tay cô xa dần mà lòng dâng lên niềm kính phục và quý mến vô hạn. Hơn một năm sống và học tập trong ngôi trường mới, em luôn nhớ đến những ngày thơ ấu dưới mái trường làng với bao kỉ niệm khó quên về thầy cô và bạn bè thân yêu. Mái trường nơi quê nghèo nhưng ấm áp tình người. Tham khảo thêm tại đây:Kể về một thầy giáo hay một cô giáo mà em quý mến Năm nay, em đã là học sinh lớp 6 nhưng những kỉ niệm hồi còn thơ ấu em không bao giờ quên. Trong những kỉ niệm ấy có chuyện rèn luyện chữ viết hồi em học lớp 3. Em trở thành học sinh giỏi Văn cũng là nhờ một phần vào những ngày rèn luyện gian khổ ấy. Trong các môn học, em sợ nhất môn Chính tả vì chữ em rất xấu. Mỗi khi đến giờ chép Chính tả theo lời cô đọc, em thấy khổ sở vô cùng. Chưa bao giờ em đạt điểm cao môn này. Nhiều buổi tối, em giở tập, lặng nhìn những điểm kém và lời phê nghiêm khắc của cô giáo rồi buồn và khóc. Mẹ thường xuyên theo dõi việc học tập của em. Biết chuyện, mẹ không rày la trách mắng mà ân cần khuyên nhủ: Con lớn rồi, phải cố tập viết sao cho đẹp. Ông bà mình bảo nét chữ là nết người đấy con ạ! Em ngẫm nghĩ và thấy lời khuyên của mẹ rất đúng. Vi thế em quyết tâm tập viết hằng ngày, đến bao giờ chữ em trở nên sạch đẹp mới thôi. Em tự đề ra cho mình kế hoạch mỗi ngày dành ra một tiếng đồng hồ tập chép. Trước hết, em chép lại những bài tập đọc trong sách giáo khoa. Sau đó, tập chép những bài thơ ngắn. Mẹ dạy em cách cầm bút sao cho thoải mái để viết lâu không bị mỏi tay. Em học theo và đã quen dần với cách cầm bút ấy. Mỗi bài, em viết nhiều lần ra giấy nháp, khi nào tự thấy đã tương đối sạch đẹp thì mới chép vào vở. Xong xuôi em nhờ mẹ chấm điểm. Những bài đầu, mẹ chi cho điểm 5, điểm 6 vì em viết còn sai Chính tả và nét chữ chưa đều. Em không nản chí, càng cố gắng hơn. Đến bài thứ chín, thứ mười, em đã có nhiều tiến bộ. Những dòng chữ đều đặn, ngay hàng thẳng lối hiện dần ra dưới ngòi bút của em. Mẹ không ngừng động viên làm cho em tăng thêm quyết tâm phấn đấu. Lần đầu tiên được cô giáo cho điểm mười Chính tả, em vô cùng Sung sướng. Cô giáo khen em trước lớp và khuyên các bạn hãy coi em là gương tốt để học tập. Em luôn nhớ lời mẹ và thầm cảm ơn mẹ. Em cầm quyển vở có điểm 10 đỏ tươi về khoe với mẹ. Mẹ xoa đầu em nói: – Thế là con đã chiến thắng được bản thân. Con đã trở thành người học sinh có ý chí và nghị lực trong học tập. Mẹ tự hào vệ con. Ba con biết tin này chắc là vui lắm! Từ đó, cái biệt danh Tuấn gà bới mà các bạn tinh nghịch trong lớp đặt cho em không còn nữa. Tuy vậy, em vẫn kiên trì tập viết để nét chữ ngày một đẹp hơn. Sau Tết, em sẽ tham gia hội thi Vở sạch chữ đẹp do trường tổ chức. Đúng là Có chi thì nên, Có công mài sất co ngày nên kim, phải không các bạn? Tham khảo thêm tại đây:Kể về một kỉ niệm hồi thơ ấu làm em nhớ mãi Ở lớp 6A, em thân nhất với Khoa. Bạn ấy là học sinh giỏi và ngoan nên được nhiều người quý mến. Hàng ngày đến lớp Khoa thường mặc bô đồng phục quy định của trường: Chiếc quần tây xanh đậm và chiếc áo sơ mi trắng. Khoa có làn da hơi ngăm đen, dáng người cao thon thả, khuôn mặt hình trái xoan với chiếc mũi hếch ngộ nghĩnh và đôi mắt lúc nào cũng như cười. Khoa là người vui tính và hay nói chuyện vui đùa suốt ngày, với bạn bè thì luôn nhiệt tình giúp đỡ. Điểm số các môn học, các bài kiểm tra thường kỳ của bạn ấy lúc nào cũng cao. Học giỏi như vậy nhưng chẳng bao giờ thấy cậu có một hành vi nhỏ nào biểu hiện của tính kênh kiệu. Bạn bè kể cả nam lẫn nữ đều mến và quý Khoa. Cô giáo thường khen Khoa có tính tự lực cao và đó cũng là tính cách đẹp của Khoa mà chúng tôi cần học hỏi. Khoa không chỉ là một học sinh giỏi mà cũng là một người chăm làm. Việc gì đến tay Khoa cũng được bạn làm chu đáo và cẩn thận. Ở nhà Khoa là mội đứa con ngoan. Ngoài việc học, Khoa còn giúp cha mẹ làm một số việc vặt để cha mẹ có thời gian nghỉ ngơi. Góc học tập của Khoa cũng rất gọn gàng và ngăn nắp. Sách vờ, đồ dùng học tập thứ nào ra thứ nấy…
vanhoc
Hội nghị thượng đỉnh G8 lần thứ 34 diễn ra tại trên hòn đảo phía bắc Hokkaidō, Nhật Bản từ ngày 7 tháng 7 đến 9 tháng 7 năm 2008 với sự tham dự của các nhà lãnh đạo 8 quốc gia có nền công nghiệp phát triển nhất thế giới bao gồm Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Canada (từ 1976) và Nga (từ 1998) cùng với Chủ tịch Ủy ban châu Âu (từ 1981). Thành phần tham dự G8 Canada Stephen Harper, Thủ tướng. Đức Angela Merkel, Thủ tướng. Hoa Kỳ George W. Bush, Tổng thống. Nga Dmitry Medvedev, Tổng thống. Nhật Bản Yasuo Fukuda, Thủ tướng. Pháp Nicolas Sarkozy, Tổng thống Ý Silvio Berlusconi, Thủ tướng. Vương quốc Anh và Bắc Ireland Gordon Brown, Thủ tướng. Liên minh châu Âu Jose Manuel Barroso, Chủ tịch Hội đồng châu Âu. Khách mời G8+5 Các nhà lãnh đạo 5 quốc gia có nến kinh tế đang phát triển lớn nhất thế giới gồm: Ấn Độ Manmohan Singh, Thủ tướng. Brasil Luiz Inácio Lula da Silva, Tổng thống. México Felipe Calderón, Tổng thống. Nam Phi Thabo Mbeki, Tổng thống. Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, Chủ tịch Các nhà lãnh đạo khác Algérie Abdelaziz Bouteflika, Tổng thống. Ethiopia Meles Zenawi, Thủ tướng. Ghana John Agyekum Kufuor, Tổng thống. Hàn Quốc Lee Myung-bak, Tổng thống. Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono, Tổng thống. Nigeria Umaru Yar'Adua, Tổng thống. Sénégal Abdoulaye Wade, Tổng thống. Tanzania Jakaya Mrisho Kikwete, Tổng thống. Úc Kevin Rudd, Thủ tướng. Các tổ chức quốc tế Liên minh châu Phi Cộng đồng các Quốc gia Độc lập Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Quốc tế Tổ chức Năng lượng Quốc tế Liên Hợp Quốc UNESCO Ngân hàng Thế giới Tổ chức Y tế Thế giới Tổ chức Thương mại Thế giới Chú thích 2008 Nhật Bản năm 2008 Hokkaidō G8 G8 Quan hệ quốc tế năm 2008 G8
wiki
Mặn hơn muối là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi M&T Pictures do Nhâm Minh Hiền làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 20h00 từ thứ 2 đến thứ 5 hàng tuần bắt đầu từ ngày 28 tháng 10 năm 2015 và kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 2015 trên kênh HTV7. Nội dung Mặn hơn muối xoay quanh Thủy (Ngọc Lan) – một cô gái hiền lành, sống cuộc sống bình dị tại một ngôi làng ven biển làm nghề muối. Sóng gió bất ngờ ập đến khi cha cô đột ngột bị tai nạn qua đời. Đau đớn hơn khi người gây ra cái chết đó lại là Nghĩa (Hồ Giang Bảo Sơn), người yêu của Thủy. Thủy phải chịu đựng quá nhiều những nỗi đau và mất mát đều dồn dập đến cùng lúc, nhưng rồi cô dần vượt qua bằng sự cảm thông, chia sẻ của Quân (Công Danh). Đúng lúc tình cảm giữa họ chớm nở thì Cúc (Minh Thảo) quay về. Cúc dùng mọi cách để níu kéo Quân và cấu kết với Khoa (Quang Tuấn) phá hoại nghề muối của bà con diêm dân... Diễn viên Ngọc Lan trong vai Thủy Quốc Huy trong vai Thiện Quang Tuấn trong vai Khoa Hồ Giang Bảo Sơn trong vai Nghĩa Mỹ Dung trong vai Bà Loan Thành Lũy trong vai Ông Nhật Bella Mai trong vai Nguyệt Công Danh trong vai Quân Minh Thảo trong vai Cúc Khánh Hiền trong vai Trúc Thủy Phạm trong vai Phương Khanh Thạnh trong vai Ông Thắng Thủ Tín trong vai Ông Khiêm Thiên Ngọc trong vai Bà Nhàn Trịnh Tài trong vai Thịnh Cùng một số diễn viên khác.... Nhạc phim Đời muối mặn Sáng tác: Minh Đăng Thể hiện: Diệu Hiền Vị mặn quê hương Sáng tác: Phương Đăng Thể hiện: Trang Anh Thơ Sản xuất Bộ phim được đạo diễn Nhâm Minh Hiền ấp ủ trong 10 năm kể từ khi anh xem bộ phim tài liệu "Mặn hơn muối" và dự định sẽ sản xuất bộ phim dài tập nói về cuộc sống của những người diêm dân. Thời gian bấm máy bộ phim ở thời điểm nắng gắt nên mọi người trong đoàn gần như kiệt sức trên trường quay. Gần hai tháng ở trường quay, họ đã dần quen với cái nắng cháy da, cái gió thổi rát mặt - những trải nghiệm lam lũ mà diêm dân đã trải qua. Giải thưởng Tham khảo Liên kết ngoài Mặn hơn muối trên HPLUS Films Phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2015 Phim truyền hình Việt Nam phát sóng trên kênh HTV7
wiki
Jehane Nour el Din Ragai () (sinh ở Cairo, Ai Cập) là một Giáo sư danh dự Hóa học tại Đại học Hoa Kỳ tại Cairo (AUC). Bà là tác giả của cuốn sách phi hư cấu The Scientist and the Forger, được xuất bản bởi Imperial College Press năm 2015. Tiểu sử và học vấn Jehane Ragai sinh ra ở Cairo, Ai Cập và là con gái của người đã đấu tranh giành quyền bầu cử cho phụ nữ và lãnh đạo phong trào nữ quyền Ai Cập từ giữa những năm 1940 đến giữa những năm 1950 Doria Shafik (1908–1975). Ragai có được bằng tú tài Pháp của Trường French Lycee ở Cairo, một tấm bằng cử nhân khoa học môn hoá học năm 1966 (magna cum laude) và một tấm bằng thạc sĩ khoa học lĩnh vực khoa học trạng thái rắn (1968) đều từ Đại học Hoa Kỳ đặt tại Cairo. Năm 1976, bà nhận được bằng tiến sĩ do Đại học Brunel ở phía Tây London, Anh cấp. Sự nghiệp Jehane Ragai là giảng viên khoa Hóa học của Đại học Hoa Kỳ tại Cairo (AUC) từ năm 1970 đến tận khi bà về hưu với chức danh Giáo sư danh dự năm 2014. Ragai chủ yếu hứng thú với việc nghiên cứu về hoá học bề mặt và công trình được xuất bản của bà đề cập đến sự tiếp xúc của chất khí/rắn và chất lỏng/rắn. Bà cũng có niềm say mê với hoá học khảo cổ học và đã cho xuất bản vài bài báo đề cập đến mối liên quan giữa cổ điển học và khoa học. Bà đã chủ trì Thượng viện Đại học AUC (1998–2000), Phòng Hóa học AUC (2000–2006) và là điều tra viên chính, dẫn đầu nhóm nghiên cứu về hoá học bề mặt ở Trung Tâm Nghiên cwud Công nghệ và Khoa học Youssef Jameel (STRC) tại AUC. Bà là người chỉ huy chương trình AUC Chemistry Graduate (2010-mùa thu 2014). Ragai đã nhận nhiều giải thưởng AUC Trustees cũng như các giải thưởng Trường Khoa học và Kỹ thuật với vai trò là trưởng phòng hóa học. Năm 2013, bà nhận được giải thưởng giáo viên giỏi nhất toàn trường đại học. Với sự niềm say mê khác là ngành hóa học khảo cổ, bà đã là nhà tư vấn cho dự án Nhân sư của Trung tâm Nghiên cứu Hoa Kỳ ở Ai Cập (ARCE), với việc đã từng phục vụ cho Ủy ban Quốc gia về Nghiên cứu Nhân sư và 7 năm liền (2001–2008) là thành viên của Hội đồng Thống đốc ARCE. Là một phần của dự án này, bà nghiên cứu các đặc tính của vữa cổ Ai Cập ở Đền Kephren Valley và Nhân sư. Ragai đã có nhiều năm (2008–2016) giữ vai trò của một thành viên Ban giám khảo giải thưởng quốc tế về khoa học vật lý giải thưởng L'Oréal-UNESCO dành cho phụ nữ trong khoa học được tổ chức bởi Người đoạt giải Nobel Christian de Duve và Pierre Gilles de Gennes. Bà đã được mời về giảng dạy ở nhiều trường đại học: Cambridge (Anh), Cornell, Exeter, North Carolina tại Raleigh, Princeton, Rutgers, Lund, Gothenburg và Cardiff; cũng như tại Hội Triết học Mỹ, bảo tàng Mahmoud Khalil ở Cairo, Đại học Hoa Kỳ ở Paris, Bảo tàng Fitzwilliam ở Cambridge (Anh) và CNRS ở Marseille. Gia đình Người chồng đầu của bà là Ali Tosson Islam (1945–1999). Năm 2010, bà đã kết hôn với Sir John Meurig Thomas (1932–). Tham khảo Sinh năm 1944 Nhân vật còn sống
wiki
Jarmila Gajdošová và Matthew Ebden là đương kim vô địch, nhưng thất bại trong trận bán kết trước Sania Mirza và Horia Tecău. Kristina Mladenovic và Daniel Nestor giành chức vô địch, khi đánh bại Mirza và Tecău trong trận chung kết, 6–3, 6–2. Hạt giống Kết quả Chung kết Nửa trên {{16TeamBracket-Compact-Tennis3-Byes | RD1=Vòng một | RD2=Vòng hai | RD3=Tứ kết | RD4=Bán kết | RD1-seed01=1 | RD1-team01= A-L Grönefeld A Peya | RD1-score01-1=6 | RD1-score01-2=77 | RD1-score01-3= | RD1-seed02= | RD1-team02= V Dushevina J-J Rojer | RD1-score02-1=3 | RD1-score02-2=65 | RD1-score02-3= | RD1-seed03=Alt | RD1-team03= A Rosolska J Brunström | RD1-score03-1=3 | RD1-score03-2=4 | RD1-score03-3= | RD1-seed04= | RD1-team04= J Zheng S Lipsky | RD1-score04-1=6 | RD1-score04-2=6 | RD1-score04-3= | RD1-seed05=Alt | RD1-team05= L Hradecká M Emmrich | RD1-score05-1=1 | RD1-score05-2=65 | RD1-score05-3= | RD1-seed06= | RD1-team06= A Spears D Inglot | RD1-score06-1=6 | RD1-score06-2=77 | RD1-score06-3= | RD1-seed07= | RD1-team07= C Black J Murray | RD1-score07-1=2 | RD1-score07-2=4 | RD1-score07-3= | RD1-seed08=5 | RD1-team08= B Soares | RD1-score08-1=6 | RD1-score08-2=6 | RD1-score08-3= | RD1-seed09=3 | RD1-team09= L Huber M Melo | RD1-score09-1=2 | RD1-score09-2=2 | RD1-score09-3= | RD1-seed10= | RD1-team10= L Raymond M Fyrstenberg | RD1-score10-1=6 | RD1-score10-2=6 | RD1-score10-3= | RD1-seed11= | RD1-team11= S-w Hsieh R Klaasen | RD1-score11-1=5 | RD1-score11-2=3 | RD1-score11-3= | RD1-seed12= | RD1-team12= K Mladenovic D Nestor | RD1-score12-1=7 | RD1-score12-2=6 | RD1-score12-3= | RD1-seed13=WC | RD1-team13= A Tomljanović J Duckworth | RD1-score13-1=5 | RD1-score13-2=6 | RD1-score13-3=[7] | RD1-seed14= | RD1-team14= D Hantuchová L Paes | RD1-score14-1=7 | RD1-score14-2=4 | RD1-score14-3=[10] | RD1-seed15= | RD1-team15= A Parra Santonja D Marrero | RD1-score15-1=77 | RD1-score15-2=4 | RD1-score15-3=[5] | RD1-seed16=8 | RD1-team16= E Vesnina M Bhupathi | RD1-score16-1=63 | RD1-score16-2=6 | RD1-score16-3=[10] | RD2-seed01=1 | RD2-team01= A-L Grönefeld A Peya | RD2-score01-1=6 | RD2-score01-2=65 | RD2-score01-3=[5] | RD2-seed02= | RD2-team02= J Zheng S Lipsky | RD2-score02-1=2 | RD2-score02-2=77 | RD2-score02-3=[10] | RD2-seed03= | RD2-team03= A Spears D Inglot | RD2-score03-1=77 | RD2-score03-2=5 | RD2-score03-3=[8] | RD2-seed04=5 | RD2-team04= B Soares | RD2-score04-1=65 | RD2-score04-2=7 | RD2-score04-3=[10] | RD2-seed05= | RD2-team05= L Raymond M Fyrstenberg | RD2-score05-1=4 | RD2-score05-2=1 | RD2-score05-3= | RD2-seed06= | RD2-team06= K Mladenovic D Nestor | RD2-score06-1=6 | RD2-score06-2=6 | RD2-score06-3= | RD2-seed07= | RD2-team07= D Hantuchová L Paes | RD2-score07-1=6 | RD2-score07-2=2 | RD2-score07-3=[10] | RD2-seed08=8 | RD2-team08= E Vesnina M Bhupathi | RD2-score08-1=0 | RD2-score08-2=6 | RD2-score08-3=[6] | RD3-seed01= | RD3-team01= J Zheng S Lipsky | RD3-score01-1=3 | RD3-score01-2=6 | RD3-score01-3=[10] | RD3-seed02=5 | RD3-team02= B Soares | RD3-score02-1=6 | RD3-score02-2=4 | RD3-score02-3=[7] | RD3-seed03= | RD3-team03= K Mladenovic D Nestor | RD3-score03-1=6 | RD3-score03-2=6 | RD3-score03-3= | RD3-seed04= | RD3-team04= | RD3-score04-1=3 | RD3-score04-2=3 | RD3-score04-3= | RD4-seed01= | RD4-team01= | RD4-score01-1=3 | RD4-score01-2=1 | RD4-score01-3= | RD4-seed02= | RD4-team02= Nửa dưới Tham khảo Main Draw Đôi nam nữ Giải quần vợt Úc Mở rộng theo năm - Đôi nam nữ
wiki
Blanche của Pháp (1 tháng 4 năm 1328 - 8 tháng 2 năm 1382) là con gái của vua Charles IV của Pháp và người vợ thứ ba của ông, Jeanne xứ Évreux. Blanche là hậu duệ nữ cuối cùng còn sống sót của một vị vua cuối của nhánh chính triều đại Capet. Con gái duy nhất của Vua Balnche là con gái và là đứa con hợp pháp duy nhất còn sống sót đến tuổi trưởng thành của Charles IV. Giống như với những người từng là bác ruột của bà làm Vua Pháp, Louis X và Philip V, đều không để lại những hậu duệ nam hợp pháp sống sót. Do đó Blanche là người duy nhất còn sống sót của nhánh chính, nhà Capet. Mười hai năm trước, một quy tắc chống lại sự kế vị của phái nữ, được cho là bắt nguồn từ luật Salic, đã được công nhận là sự kiểm soát kế vị ngai vàng của Pháp. Theo đó quy tắc này đã khiến cho cô con gái Marie 1 tuổi của Charles (1327 - 6 tháng 10 năm 1341) đã không thành công với tư cách là nữ quốc vương Pháp. Mẹ bà, Jeanne cũng mang bầu tại thời điểm Charles qua đời, vì nếu có thể đó là một đứa con trai thì đứa con trai đó sẽ được làm quốc vương Pháp sau khi sinh ra, tuy vậy Jeanne lại sinh ra Blanche, khiến cho bà và chị gái bà mãi mãi không được làm Quốc vương Pháp theo bộ luật này. Điều đó khiến cho Philippe, Công tước xứ Valois, nhiếp chính của Vua, nhanh chóng lên làm Vua, lập nên nhánh phụ và triều đại thứ 2, Valois. Vào thời điểm này, một quy tắc kế tiếp nữa, một lần nữa được cho là dựa trên luật Salic, đã được công nhận là cấm không chỉ thừa kế bởi một người phụ nữ, mà còn thừa kế thông qua một dòng nữ. Hôn nhân Blanche kết hôn vào ngày 8 tháng 1 năm 1345 với anh họ Philippe xứ Valois, con trai của vua Philippe VI của Pháp và vương hậu Jeanne. Họ không có con chung, nhưng Philippe có con ngoài giá thú. Ông đã qua đời vào năm 1376 và tước hiệu với đất đai trở về lãnh địa vương gia. Blanche qua đời năm 1382 và được chôn cất trong nhà nguyện của nhà thờ Đức Bà trong Vương cung thánh đường Thánh Denis. Nguồn Vương nữ Pháp Sinh năm 1328 Mất năm 1382 Vương tộc Capet Vương nữ Người Công giáo La Mã Vương tộc Capet Công chúa Pháp Công tước phu nhân xứ Orléans
wiki
Tuyến Shinbundang (Tiếng Hàn: 신분당선; Hanja: 新盆唐線) hoặc Tuyến DX là một tuyến dài 31 km (19 mi) của Tàu điện ngầm Thủ đô Seoul. Đây là tàu điện ngầm thứ năm trên thế giới chạy hoàn toàn không người lái và là tuyến tàu điện ngầm hoàn toàn không người lái thứ hai mở ở Hàn Quốc sau Tuyến 4 Tàu điện ngầm Busan. Nó kết nối ga Gangnam và ga Gwanggyo trong 37 phút, một kỳ tích đạt được khi trở thành tuyến đầu tiên vận hành toa tàu điện ngầm thế hệ tiếp theo của Hàn Quốc với tốc độ trên 90 km/h (56 dặm/giờ), với tốc độ trung bình nhanh nhất so với bất kỳ tàu điện ngầm nào trong nước. Tuyến đầu tiên được khai trương vào tháng 10 năm 2011 đi qua 6 ga giao nhau với ba tuyến hiện có tại ga Gangnam (tuyến 2), ga Yangjae (tuyến 3) và ga Jeongja (tuyến Bundang). Giai đoạn 2 khai trương vào ngày 30 tháng 1 năm 2016, bổ sung thêm 6 nhà ga ở phía nam, mở rộng tuyến để phục vụ Suji-gu, Yongin và Thành phố mới Gwanggyo, Suwon. Việc xây dựng phần mở rộng của Giai đoạn 3 về phía bắc đến ga Sinsa bắt đầu vào năm 2016, dự kiến ​​mở cửa vào tháng 1 năm 2022. Việc xây dựng bắt đầu vào giữa năm 2005, bắt đầu có doanh thu vào tháng 9 năm 2011. Tuy nhiên, do lũ lụt vào cuối tháng 7 năm 2011, việc khai thác bị trì hoãn và cuối cùng được khai thác vào ngày 28 tháng 10 năm 2011. Đã có một cuộc tranh luận giữa Thành phố Seongnam và Thành phố Suwon về việc liệu Migeum có nên được đưa vào phần mở rộng Giai đoạn 2 của Tuyến Shinbundang hay không. Những người ủng hộ lập luận rằng khoảng cách giữa Ga Jeongja và SB01, một ga được lên kế hoạch ban đầu để đi theo hướng Jeongja sẽ dài bất thường ở mức 3,76 km (2,34 mi). Họ cũng lập luận rằng việc bao gồm Migeum sẽ làm giảm giao thông trong khu vực. Trong khi đó, phe đối lập Suwon tuyên bố rằng việc bổ sung này sẽ làm trì hoãn thời gian di chuyển đến Gwanggyo, một khu vực dự kiến ​​xây dựng của Suwon. Ga Gwanggyo Jungang (Đại học Ajou) đã khai trương trạm trung chuyển xe buýt ngầm vào đầu tháng 3 năm 2016, nơi cửa lưới được lắp đặt trên các bệ xe buýt để những người đi xe buýt từ khắp Suwon có thể chuyển thẳng đến tàu điện ngầm. Giá đi tuyến Shinbundang cao hơn giá vé tiêu chuẩn cho phần còn lại của hệ thống tàu điện ngầm Seoul. Chi phí tối thiểu hiện tại là 2.150 won để đi (giá vé tàu điện ngầm cơ bản là 1.250 won cùng với phụ phí 900 won khi sử dụng tuyến). Nếu qua Ga Jeongja, 200 won sẽ được tính trên 900 won phụ phí. Giai đoạn Giai đoạn 1 đã giảm bớt thời gian từ nội thành Seoul đến Bundang, nơi chủ yếu là khu dân cư trong Khu vực Thủ đô Seoul. Giai đoạn 1 dài 17,3 km (10,7 mi) và giao với một số tuyến tàu điện ngầm ở đông nam Seoul cũng như với Tuyến Bundang. Thời gian đi từ đầu này đến đầu kia là 16 phút. Việc xây dựng kéo dài khoảng sáu năm, bắt đầu từ giữa năm 2005 và kết thúc vào cuối tháng 10 năm 2011. Tổng chi phí ước tính là 1,169 nghìn tỷ won. Giai đoạn 2, phần mở rộng về phía nam của tuyến, được thiết kế chủ yếu để giảm bớt đông đúc giữa Yongin, Suji-gu và Bundang, Seoul, vì Suji-gu không phải là một thành phố được quy hoạch như Bundang nhưng được phát triển đột ngột và tự phát với các khu chung cư lớn. Do đó, Suji-gu thậm chí còn đông dân cư hơn Bundang, dẫn đến giao thông đông đúc trên các tuyến đường nối. Mục đích khác là kết nối nhanh chóng thành phố Gwanggyo mới được quy hoạch với Seoul. Do các nhà đầu tư và chủ sở hữu của Giai đoạn 1 và 2 là khác nhau, nên khoản phụ phí 300 won đã được tính thêm trên số tiền phụ phí 900 won nếu qua Ga Jeongja. Cư dân của Suji và Gwanggyo đã chỉ trích sự phân biệt giá vé, mặc dù một khoản tiền hoàn lại được cung cấp cho những người đi thường xuyên giữa Ga Pangyo và Ga Văn phòng Dongcheon / Suji-gu (200 won đối với Dongcheon và 100 won đối với Văn phòng Suji-gu). Thị trưởng Yongin và Suwon, cùng với các quan chức từ Gyeonggi-do đã yêu cầu Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải giảm giá vé, thông báo rằng họ đang cố gắng cắt giảm giá vé bằng cách sử dụng các khoản vay lãi suất thấp nhưng sẽ mất ít nhất một năm để nó được hoàn thiện. Giai đoạn 3, một phần mở rộng về phía bắc của tuyến, sẽ kéo dài tuyến về phía tây bắc của Gangnam đến Ga Yongsan. Đoạn tuyến bổ sung này ước tính trị giá ít nhất 400 tỷ won.  Bởi vì một phần của tuyến nằm bên trong Yongsan Garrison, giai đoạn này được chia thành hai phần. Một đoạn, một đoạn kéo dài từ Gangnam đến Sinsa, bắt đầu xây dựng vào năm 2016 và dự kiến ​​sẽ mở cửa vào tháng 1 năm 2022. Đoạn còn lại, một đoạn mở rộng từ Sinsa đến Yongsan, sẽ bắt đầu xây dựng và sẽ mở cửa sau năm 2027. Giai đoạn 4, một phần mở rộng thêm của tuyến, sẽ kéo dài tuyến về phía tây nam đến Homaesil và Ga Hwaseo của Suwon. Nó sẽ được xây dựng vào năm 2020 và mở cửa sau năm 2027. Một cân nhắc bổ sung sẽ là xây dựng tuyến về phía bắc vượt ra khỏi ga Yongsan và kết thúc xung quanh ga Gwanghwamun và ga Gyeongbokgung, giúp hành khách dễ dàng đi đến Gangnam từ khu thương mại trung tâm của Seoul. Không rõ liệu ý tưởng này có bị loại bỏ hay bị lùi lại để đánh giá lại sau này nhưng lại nổi lên như một lời hứa trong chiến dịch tháng 3 năm 2012 của Hong Sa-duk để mở rộng tuyến gần Ga Gyeongbokgung. Thời gian hoạt động Từ Ga Gangnam, các chuyến tàu chạy từ 5:30 sáng đến 24:50 đêm vào các ngày trong tuần và đến 11:48 tối vào cuối tuần và ngày lễ. Tuy nhiên, chuyến tàu cuối cùng đến Gwanggyo khởi hành lúc 24:26 các ngày trong tuần và 23:48 vào các ngày cuối tuần, chuyến còn lại sẽ chỉ đến Ga Jeongja. Các chuyến tàu được tự động hóa và chạy cứ 2,5 phút một chuyến trong giờ cao điểm đến 8 phút trong giờ thấp điểm. Hệ thống tín hiệu SBL Line dựa trên công nghệ điều khiển tàu dựa trên thông tin liên lạc (CBTC) hiện đại, sử dụng liên lạc vô tuyến kỹ thuật số hai chiều giữa các đoàn tàu thông minh và thiết bị ven đường và mạng lưới các máy tính ATS / ATO được thiết kế với độ tin cậy và tính sẵn sàng của hệ thống rất cao. Các sân ga có thể chứa các đoàn tàu 10 toa ở độ cao 200 mét nhưng ban đầu các đoàn tàu 6 toa sẽ được sử dụng. Bản đồ tuyến Ga Giai đoạn 1 được khai trương vào ngày 28 tháng 10 năm 2011, và kéo dài từ Gangnam đến Jeongja. Giai đoạn 2 được khai trương vào ngày 30 tháng 1 năm 2016, kéo dài tuyến thêm 6 ga từ Jeongja đến Gwanggyo. Ga Migeum khai trương vào tháng 4 năm 2018, cung cấp dịch vụ chuyển tuyến sang Tuyến Bundang. Việc xây dựng Giai đoạn 3 bắt đầu vào tháng 3 năm 2017 giữa Sinsa và Gangnam, dự kiến khai trương vào ngày 28 tháng 5 năm 2022. Kế hoạch mở rộng Sinsa ~ Yongsan Mặc dù ban đầu được lên kế hoạch mở đồng thời với phần mở rộng Sinsa-Gangnam, do phần mở rộng từ Sinsa đến Yongsan có khả năng chia sẻ các tuyến đường với dòng GTX A mới được phê duyệt tới Ilsan, việc xây dựng ban đầu sẽ bắt đầu vào năm 2016 chỉ giữa Sinsa và Gangnam, dự kiến khai trương vào ngày 29 tháng 1 năm 2022. Các ga giữa Sinsa và Yongsan sẽ xây dựng khi Nhà tù Yongsan chuyển ra ngoài và trở thành một công viên công cộng, với kế hoạch chia nó từ Dongbinggo đến ga Noksapyeong, ga Seoul, ga Tòa thị chính (City Hall), ga Gwanghwamun, ga Gyeongbokgung, điểm dừng tại ga Samsong ở Goyang. Tuy nhiên, phần mở rộng Yongsan sẽ bắt đầu xây dựng sớm hơn phần mở rộng Samsong, vì phần mở rộng này vẫn chưa được đánh giá. Khởi công: Không xác định Hoàn thành: Năm 2027 (Dự kiến) GwanggyoJungang (Đại học Ajou) ~ Homaesil Phần mở rộng về phía tây nam đến Homaesil đã thông qua nghiên cứu về khả thi kinh tế vào cuối năm 2019. Dự kiến việc xây dựng sẽ bắt đầu vào năm 2023, có khả năng mở cửa vào năm 2027, do việc xây dựng thường mất 5 năm để hoàn thành. Việc mở rộng thêm tới Bongdam của Thành phố Hwaseong đã được đề xuất nhưng chưa được đánh giá. Khởi công: Năm 2023 Hoàn thành: Năm 2027 Homaesil ~ Phần mở rộng nhánh Bongdam Khởi công: Chưa xác định Hoàn thành: Chưa xác định Xem thêm Tàu điện ngầm ở Hàn Quốc Tàu điện ngầm thủ đô Seoul Tài liệu tham khảo Tuyến Shinbundang Bundang Tuyến tàu điện ngầm Seoul
wiki
Râu ngô (râu bắp) là tên gọi chung của các sợi mỏng, sáng như tơ, phát triển như một phần của quả ngô (maize); búi hoặc tua của các sợi mượt nhô ra từ chóp quả ngô. Tai được bao trong lá sửa đổi được gọi là vỏ trấu. Mỗi sợi riêng lẻ là một kiểu kéo dài, gắn liền với một bầu nhụy riêng. Thuật ngữ này có thể bắt nguồn từ đâu đó giữa năm 1850 và 1855. Phát triển Lên đến 1000 noãn (hạt tiềm năng) hình thành trên mỗi bắp ngô, mỗi hạt tạo ra một dải râu ngô từ đầu của nó cuối cùng xuất hiện từ cuối quả. Sự xuất hiện của ít nhất một sợi râu từ một bắp ngô nhất định được xác định là giai đoạn tăng trưởng R1 và sự xuất hiện của râu ở 50% số cây trong một cánh đồng ngô được gọi là "râu giữa". Các râu dài từ các noãn cơ bản trong suốt 10 đến 14 ngày trước đến giai đoạn tăng trưởng R1; điều này là do sự thay đổi hình dạng của các tế bào hiện tại thay vì sự sao chép của chúng. Sự kéo dài tiến triển ở mức 1,5 inch mỗi ngày lúc đầu, nhưng dần dần chậm lại khi toàn bộ chiều dài được tiệm cận. Độ giãn dài của một sợi râu ngô dừng lại ngay sau khi một hạt phấn bị bắt giữ, hoặc do sự lão hóa của râu 10 ngày sau khi nó xuất hiện. Nếu một noãn được thụ tinh thành công, râu ngô sẽ tách ra khỏi nó hai hoặc ba ngày sau đó. Mặt khác, râu sẽ được gắn vô thời hạn, và thụ tinh vẫn có thể (với cơ hội thành công giảm) trong 10 ngày sau khi râu xuất hiện. Vì lý do này, có thể lấy mẫu ngô đang phát triển từ một cánh đồng, lấy chúng ra một cách nhẹ nhàng bằng một con dao sắc, sau đó lắc chúng để đánh giá tiến trình thụ phấn dựa trên lượng râu ngô rơi ra. Chức năng Râu ngô là một phần đầu nhụy, cung cấp cho bề mặt hoa cái mà hạt phấn có thể bám vào và xác định con đường dài mà qua đó phấn hoa phải truyền vật liệu di truyền của nó. Đầu nhụy là chính đầu của râu ngô, có số lượng lông lớn hơn để giúp phấn hoa bám vào nó. Sự hình thành hạt trong lõi ngô đòi hỏi sự thụ phấn của râu ngô bên ngoài bởi gió hoặc côn trùng. Thông thường một vài hạt phấn hoa sẽ tiếp xúc, nhưng chỉ một hạt sẽ tham gia thành công thụ tinh của noãn để tạo thành hạt ngô. Đối với hạt phấn hoa, giao tử đực, để truyền vật liệu di truyền của nó đến noãn, nó phải nảy mầm và tạo thành một ống phấn kéo dài xuống gần hết chiều dài của sợi râu ngô. Thông thường có từ 400 đến 600 hạt được hình thành thành công theo cách này. Ống phấn hoa kéo dài với tốc độ hơn 1 centimet mỗi giờ, chỉ cần 24 giờ để tạo ra một con đường dài trong không gian liên bào của râu ngô, qua đó các tế bào tinh trùng (giao tử) đi qua để tham gia giao tử cái trong noãn. Ống phấn hoa được sản xuất bởi một tế bào sinh dưỡng duy nhất trong hạt phấn hoa, nó đi qua tế bào chất, nhân và hai tế bào tinh trùng của nó vào ống. Ống chỉ tự mở rộng ở đỉnh, trong một quá trình phụ thuộc trùng hợp Actin và hướng mà đỉnh tiến triển đáp ứng với mức AMP tuần hoàn, bao gồm cả chu kỳ cAMP bởi protein báo hiệu phấn hoa (PSiP). Râu ngô có thể kiểm soát các loại phấn hoa mà một bắp ngô sẽ chấp nhận thông qua sự biểu hiện của một số dạng gen nhất định của gen Gametophyte Factor 1. Nhiều loại ngô, thuộc loại everta, sẽ làm chậm đáng kể sự phát triển của ống phấn hoa từ bất kỳ phấn hoa nào không mang dạng Ga1-S hoặc Ga1-M tương tự, do đó ngăn chặn sự xâm nhập của gen (tự nhiên hoặc biến đổi) các loại ngô. Bỏng ngô vẫn tự do hiến tặng gen của mình thông qua phấn hoa của mình cho các loại ngô khác. Hiệu quả của hạn chế này có thể được đo bằng cách trồng ngô bên cạnh ngô vết lõm màu tím; hiệu ứng xenia sẽ gây ra sự hình thành của aitonones màu tím nếu hạt nhân cho phép chúng được thụ tinh bởi phấn hoa từ bên ngoài nhóm. Nông dân hữu cơ đang theo đuổi việc chuyển một số cơ chế này sang các chủng không phải bỏng ngô với mục đích ngăn ngừa sự thụ phấn vô tình của ngô GMO, theo quy định của Hoa Kỳ có thể khiến sản phẩm của họ bị từ chối là ngô hữu cơ và họ không có khiếu nại chống lại GMO người trồng trọt. Bệnh lý Độ ẩm cao khi râu vừa nhú đôi khi thu hút côn trùng, râu ngô có thể bị đứt, cản trở sự hình thành hạt. Các ứng dụng Râu ngô chứa nhiều hợp chất có hoạt tính dược lý và như vậy được sử dụng trong nhiều loại thuốc dân gian, bao gồm cả thuốc lợi tiểu và là chất ức chế sản xuất melanin. Xem thêm Cụm hoa Ngô Tham khảo Ngô
wiki
Đề bài: Chất Thơ Trong Truyện Ngắn Tôi Đi Học Của Thanh Tịnh Bài làm Không biết bao nhiêu thế hệ học trò đã từng đọc, từng học và từng nhầm lẫn một cách rất đáng yêu rằng truyện ngắn Tôi đi học của nhà văn Thanh Tịnh chính là bài tâp đọc đầu tiên của mình. Sự nhầm lẫn vô lí mà lại hết sức có lí. Vô lí vì bài tập đọc đầu tiên hẳn phải là các câu văn, đoạn văn hay bài thơ chứ khó có thể là cả một truyện ngắn. Còn có lí bởi học trò các thế hệ có thể quên đi nhiều bài tập đọc khác, như­ng hình như­ ít ai hoàn toàn quên đư­ợc những cảm xúc trong trẻo nguyên sơ mà từng dòng từng chữ của Tôi đi học gợi lên trong miền kí ức tuổi thơ của mình. Để có được điều đó, cũng bởi như nhận xét của nhà văn Thạch Lam: “Truyện ngắn nào hay cũng có chất thơ và bài thơ nào hay cũng có cốt truyện”. Để hiểu vì sao Tôi đi học là một truyện ngắn giàu chất thơ, chúng ta cần hiểu chất thơ là gì? Chất thơ là tính chất trữ tình – tính chất được tạo nên từ sự hoà quyện giữa vẻ đẹp của cảm xúc, tâm trạng, tình cảm với vẻ đẹp của cách biểu hiện nó để có thể khơi gợi những rung động thẩm mĩ và tình cảm nhân văn. Chất thơ là một thuật ngữ lý luận chỉ một phẩm chất đặc biệt của văn xuôi. Tác phẩm văn xuôi được xem là có chất thơ khi nội dung của nó đi sâu vào trạng thái cảm xúc, diễn tả diễn biến trong trạng thái chủ quan với những rung động tinh tế. Chất thơ còn nằm trong hình thức thể hiện. Đó là tính nhạc, sự hàm xúc của ngôn từ, đó là sự linh hoạt của các thủ pháp nghệ thuật tạo cho giọng văn, lời văn sức truyền cảm lớn. Một truyện ngắn (hoặc tác phẩm văn xuôi) được coi là giàu chất thơ khi mối bận tâm của người viết không đặt vào việc kể lại một biến cố, sự việc, hành động mà là việc làm bật lên một trạng thái của đời sống hoặc của tâm hồn con người. Trước hết, chất thơ được thể hiện ở chỗ truyện ngắn không có cốt truyện mà chỉ là dòng chảy cảm xúc, là những tâm tư tình cảm của một tâm hồn trẻ dại trong buổi khai trường đầu tiên với những cảm xúc ngọt ngào, man mác buồn nhưng cũng tưng bừng khi lần đầu tiên được cắp sách tới trường: “Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường… Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”. Những câu văn trong sáng, gợi cảm và giầu chất thơ kiểu như thế này đã để lại những dấu ấn đậm nét trong hành trang tinh thần của nhiều thế hệ bạn đọc. Có thể dễ dàng tìm thấy nhiều câu văn, nhiều đoạn văn đẹp và tha thiết trong các trang viết của ông. Thanh Tịnh thuộc loại nhà văn viết không nhiều. Tác phẩm của ông không gây ra những choáng váng, đột ngột mà nhẹ nhàng thấm sâu. Chừng nào con người còn yêu thương cảm xúc, còn nặng lòng gắn bó với quê hương, đồng loại thì còn tìm thấy trong những trang viết của Thanh Tịnh mối dây đồng cảm và niềm an ủi. Con người trong tình yêu, tình bạn, tình vợ chồng, cha con, con người với quê hương… tất cả đều được ngòi bút của ông trình bày một cách nhẹ nhàng, thanh thoát và đằm thắm. Thứ hai, trong truyện ngắn Tôi đi học, hình ảnh được tác giả huy động sử dụng với tần số lớn. Các hình ảnh này đều mang những đặc điểm chung: đẹp, lãng mạn và thi vị. Ngay ở phần mở đầu câu chuyện, tác giả đã dựng nên một khung cảnh cuối thu tuyệt đẹp để làm “chất xúc tác” cho những kỷ niệm tuổi thơ ùa về: “Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường”. Dọc theo câu chuyện, những hình ảnh giàu chất thơ như vậy thường xuyên xuất hiện: “Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”, “người nào áo quần cũng sạch sẽ, gương mặt cũng vui tươi và sáng sủa”, “trường Mỹ Lý vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa Ấp”, “một con chim liệng đến đứng trên bờ cửa sổ, hót mấy tiếng rụt rè rồi vỗ cánh bay cao”… Những hình ảnh so sánh trong truyện cũng thật đẹp, gợi cảm: “những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng”, “ý nghĩ ấy thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi”, “họ như con chim non đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ”…Có thể nói, trong một dung lượng truyện tương đối nhỏ, những hình ảnh lãng mạn, ý vị được sử dụng với số lượng khá lớn đã góp phần làm cho câu chuyện trở nên giàu chất thơ, hình tượng trong truyện trở nên lung linh, đẹp hơn rất nhiều. Thật vậy, theo như Trần Hữu Tá, “nhìn chung, tác phẩm Thanh Tịnh đậm chất trữ tình. Thông qua tâm hồn tác giả, hiện thực cuộc sống được phản ánh giản dị mà sâu sắc, không phải chỉ ở bề ngoài, mà ở cái linh hồn sâu kín bên trong. Văn Thanh Tịnh gợi cảm, đằm thắm và trong sáng” (Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, H., 2004, tr. 1636). Tôi đi học, một truyện ngắn giàu chất thơ, là tác phẩm rất tiêu biểu cho điều này.
vanhoc
Đảo chính, đảo chánh, chính biến, hay chánh biến () là việc lật đổ một chính phủ dùng biện pháp không theo hiến pháp - thường là thay đổi những viên chức cấp cao. Đảo chính hiện hành khi mà chính quyền bị lật đổ không còn nhận được sự ủng hộ của những lực lượng tham gia đảo chính. Một cuộc đảo chính có thể dùng bạo lực hay không bạo lực. Trong chính trị, cách mạng và đảo chính có những điểm giống và khác với nhau: Cách mạng và đảo chính đều được tiến hành nhằm lật đổ chế độ chính trị cũ, nhưng khác nhau ở mục tiêu sau đó: cách mạng là thay chế độ cũ bằng 1 chế độ mới tiến bộ hơn về cơ cấu và tính chất, còn đảo chính là thay thế 1 chính quyền này bằng 1 chính quyền khác có bản chất giống như cũ. Một cuộc đảo chính thường chỉ được thực hiện bởi một nhóm lãnh đạo nhắm vào một nhóm các lãnh đạo khác, trong khi một cuộc cách mạng thường được tổ chức bởi phần lớn quần chúng xã hội và thường lật đổ cả thể chế chính trị cũ của quốc gia. Chữ "coup d'état" là một nhóm từ ngữ tiếng Pháp, có nghĩa là "đánh nhà nước". Trong một số ngôn ngữ, từ "putsch" vốn là tiếng Đức cũng được dùng, sau cuộc đảo chính không thành của Adolf Hitler tại München trong năm 1923. Nguồn gốc tên gọi Tiếng Pháp Albert Vandal định nghĩa coup d'État là "một hành động bạo lực của một phần công quyền chống lại phần còn lại". Định nghĩa này dựa trên sự quan sát từ ba "coups d'État", cuộc đảo chính 18 fructidor năm V, cuộc đảo chính 18 Brumaire năm VIII và cuộc đảo chính ngày 2 tháng 12 năm 1851. Cả ba cuộc đảo chính này đều do thành phần hành pháp thực hiện chống lại thành phần lập pháp. Tiếng Việt Đảo chính (chữ Hán: 倒政) là một từ Hán Việt. Chữ đảo trong đảo lộn, đảo ngược, có nghĩa là "lật" hay "đổ"; chữ chính trong chính phủ, chính trị, chính quyền, có nghĩa là nắm quyền lực cai trị. Do vậy đảo chính ở đây có thể hiểu là "lật đổ chính quyền". Tránh nhầm lẫn với từ đảo chính (島正) mang nghĩa là "hòn đảo chính của một quần đảo", do chữ Quốc ngữ chỉ có thể biểu âm, không có khả năng biểu nghĩa được như chữ Hán và chữ Nôm khi có từ đồng âm khác nghĩa. Ví dụ Đảo chính quán bia Cuộc đảo chính Xô viết năm 1991 Cuộc đảo chính ở Kyrgyzstan tháng 3 năm 2005 Cuộc đảo chính lật đổ Tổng thống Chile Salvador Allende năm 1973 do tướng Augusto Pinochet lãnh đạo. Cuộc đảo chính ở Haiti năm 1986. Đảo chính Thái Lan 2006 Đảo chính Thổ Nhĩ Kỳ 2016 Đảo chính Myanmar 2021 Lịch sử Theo thống kê của Clayton Thyne và Jonathan Powell, đã có 457 cuộc đảo chính từ 1950 đến 2010, trong đó 227 (49,7%) thành công và 230 (50,3%) không thành công. Họ nhận thấy rằng cuộc đảo chính "phổ biến nhất ở châu Phi và châu Mỹ (tương ứng là 36,5% và 31,9%). Châu Á và Trung Đông đã trải qua lần lượt 13,1% và 15,8% tổng số đảo toàn cầu. số lần đảo chính: 2,6%. " Hầu hết các nỗ lực đảo chính xảy ra vào giữa những năm 1960, nhưng cũng có nhiều nỗ lực đảo chính vào giữa những năm 1970 và đầu những năm 1990. Cuộc đảo chính thành công đã giảm theo thời gian. Chính biến xảy ra trong thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh có nhiều khả năng dẫn đến các hệ thống dân chủ. Chính biến xảy ra trong cuộc nội chiến rút ngắn thời gian chiến tranh. Nghiên cứu cho thấy rằng các cuộc biểu tình thúc đẩy cuộc đảo chính, khi họ giúp giới tinh hoa trong bộ máy nhà nước để phối hợp các cuộc đảo chính. Loại Một nghiên cứu năm 2016 phân loại các cuộc đảo chính thành bốn kết quả có thể xảy ra: Cuộc đảo chính thất bại Không có thay đổi chế độ, chẳng hạn như khi một nhà lãnh đạo bất hợp pháp xáo trộn quyền lực mà không thay đổi danh tính của nhóm trong quyền lực hoặc các quy tắc quản lý Thay thế chế độ độc tài đương nhiệm hoặc chế độ, chính phủ hiện tại bằng thể chế chính trị khác Thay thế chế độ độc tài này bằng một chế độ độc tài khác Tham khảo Chuyển giao quyền lực chính trị
wiki
O. Henry Sau 20 năm Viên cảnh sát đi dọc theo đường phố, trông anh ta có vẻ gì nghiêm trọng. Đây là con đường mà ông ta đã đi tuần tra mỗi ngày. Không có gì để cho ông ta phải chú ý đến cả. Bây giờ đã 10 giờ đêm, trời khá lạnh. Vào giờ này đường phố chỉ còn lác đác một ít người đi đường vội vã về nhà. Trời mưa lất phất và gió quất vào mặt lạnh buốt.Viên cảnh sát dừng lại nhìn vào từng cánh cửa, xem chừng các cửa hiệu đã bắt đầu dọn dẹp và đóng cửa. Thỉnh thoảng ông ta dừng bước và nhìn trước ngó sau dọc theo con đường. Viên cảnh sát khu vực này đúng là một mẫu thanh niên đẹp trai, mạnh khỏe và rất tích cực trong công việc giữ gìn an ninh trật tự cho khu phố.Dân chúng trong khu phố này cũng chấp hành luật lệ nghiêm chỉnh. Họ trở về nhà sớm vào ban đêm. Người ta có thể thấy rõ ánh đèn sáng trong mỗi cửa hiệu hoặc nhà hàng nhưng ngay cả những khu thương mãi, kinh doanh người ta cũng đóng cửa rất đúng giờ.Bỗng nhiên, viên cảnh sát đột ngột đứng lại. Bên một cánh cửa hiệu chìm trong bóng tối, một gã đàn ông đang đứng im lặng. Khi viên cảnh sát bước tới gần, gã lên tiếng:- Chào thầy đội ! Xin lỗi thầy nhé ! Tôi đang đợi một người bạn. Hai mươi năm về trước chúng tôi đã hẹn với nhau là sẽ gặp nhau ở đây đêm nay. Có lẽ thầy đội ngạc nhiên lắm phải không ? Tôi xin giải thích để thầy rõ nếu thầy muốn. Khoảng chừng 20 năm về trước, nơi đây là một cửa hàng ăn. Phải rồi, tên gọi là &quot;Nhà hàng Joe Brady mập&quot; bởi vì lão chủ cửa hàng này rất to béo, mập mạp...Viên cảnh sát ngắt lời:- Nhà hàng đó vẫn còn ở đây 5 năm về trước.Nói xong, ông ta đứng sát vào gã đàn ông và nhìn kỹ vào mặt gã. Bên cánh cửa đầy bóng tối, ông ta cũng thấy rõ gã có khuôn mặt vuông và đôi mắt rất sáng. Một vết sẹo trắng bên mắt phải. ở chiếc cà vạt có đính một hạt kim cương khá lớn.- Hai mươi năm về trước, một đêm nọ... gã đàn ông nói. Tôi đã ăn cơm tối nơi đây với bạn tôi: Jimmy Wells. Hắn là một thằng bạn rất tốt của tôi, có thể nói là một người bạn rất tốt trên cuộc đời này. Tôi và hắn đã lớn lên ở đây, thành phố New York thân yêu và chúng tôi đã xem nhau như hai anh em. Hồi đó tôi mười tám và Jimmy, hai mươi. Sau bữa ăn tối đó, tôi đi về miền Tây. Tôi đã tìm được việc làm tốt và thành công lớn. Còn Jimmy, không có ai có thế bắt buộc hắn rời khỏi New York bởi vì hắn cho rằng New York là nơi lý tưởng nhất để sinh sống. Chúng tôi đồng ý và tin tưởng rằng: chúng tôi sẽ gặp lại nhau 20 năm sau tại đây. Chúng tôi nghĩ rằng: Sau 20 năm chúng tôi sẽ biết được thân thế, sự nghiệp của chúng tôi và tương lai chờ đón chúng tôi như thế nào !Viên cảnh sát nói:- Câu chuyện thật thú vị ! Một thời gian thật là dài để gặp lại nhau. Trong thời gian đó, anh có biết tin tức gì về ông bạn của anh không ? Khi anh đang làm ăn ở miền Tây ?- Vâng, có ạ ! Lúc đầu chúng tôi cũng biên thư cho nhau. Nhưng sau một vài năm, chúng tôi ngưng liên lạc. Ôi, miền Tây thật rộng lớn. Tôi đã đi khắp nơi và đi thật nhanh. Nhưng luôn luôn, tôi cũng nghĩ rằng tôi sẽ gặp lại bạn tôi: Jimmy - Hắn là một con người nghiêm túc, đúng đắn nhất thế giới. Hắn sẽ không bao giờ quên đêm hẹn hò này của 20 năm về trước. Tôi đã đi suốt hàng ngàn cây số để về đây đúng hẹn đêm nay và tôi sẽ rất sung sướng nếu hắn cũng đến đúng hẹn như tôi.Gã lôi từ túi áo ra một chiếc đồng hồ khá đẹp, mặt đính những hạt kim cương lóng lánh.- 10 giờ kém 3 phút ! Đúng 10 giờ đêm 20 năm về trước, chúng tôi đã nói lời &quot;Tạm biệt&quot; tại nơi đây.Viên cảnh sát đột ngột hỏi:- Trong thời gian ở miền Tây, anh thành công lắm phải không ?- Vâng, đúng vậy ! Tôi hy vọng rằng thằng bạn Jimmy của tôi chỉ thành công một nửa của tôi là được. Hắn chậm chạp hơn tôi. Tôi đã phải phấn đấu dữ dội lắm mới thành công. Tại New York, con người không thể thay đổi cuộc sống được dễ dàng. ở miền Tây, người ta biết phải làm gì để kiếm được nhiều lợi nhuận.Viên cảnh sát bước đi vài bước và nói:- Tôi phải đi đây... Tôi mong rằng anh bạn sẽ gặp lại ông bạn cũ. à ! Nhưng nếu ông bạn của anh không đến đúng hẹn đêm nay, anh có rời đây không ?- Không, tôi sẽ chờ ít nhất là nửa tiếng đồng hồ. Nếu Jimmy còn sống, tôi tin rằng hắn sẽ đến đây đúng giờ. Thôi, chào thầy đội !- Chào anh bạn !Viên cảnh sát bước đi, vừa đi vừa nhìn vào những dãy phố đang đóng cửa im lìm.Mưa gió lạnh buốt càng nặng nề hơn. Một vài bóng người vội vã bước nhanh trên đường phố, cố tìm những lối đi ít mưa tạt, gió lùa. Gã đàn ông vẫn đứng ở chỗ cánh cửa mờ tối để chờ đợi người bạn cũ. Gã có vẻ sốt ruột, đôi mắt nhìn suốt các con đường và kiên nhẫn chờ. Đã quá 20 phút... Bỗng một bóng người cao lớn khoác áo choàng dài băng nhanh qua đường hướng thẳng về phía gã đàn ông đang chờ đợi và lên tiếng hỏi:- Có phải anh Bob đấy không ?Gã đàn ông reo lên:- Có phải anh đấy không ? Jimmy Wells ?Người cao lớn mới đến vội nắm lấy hai bàn tay Bob, tức gã đàn ông đang chờ đợi và nói:- Đúng rồi, Bob đây rồi ! Tôi tin rằng tôi sẽ tìm thấy anh ở đây nếu anh còn sống. 20 năm thật là thời gian dài. Nhà hàng ăn ngày xưa đã không còn nữa Bob nhỉ ! Nếu còn, chúng ta sẽ ăn với nhau một bữa cơm tối đêm nay. Thế nào ? Miền Tây đã đem lại cho bạn nhiều chuyện tốt đẹp chứ ?- ừ ! Miền Tây đã cho tôi đủ thứ mà tôi muốn. ồ ! Jimmy ! Anh thay đổi quá nhiều. Tôi không ngờ anh lại cao lớn hơn hẳn ngày xưa như thế ?- Vâng, tôi có phát triển thêm chút ít sau khi tôi được 20 tuổi.- ở New York, anh làm ăn có khá không, Jimmy ?- Cũng tàm tạm thôi ! Tôi làm việc cho Thành phố này. Nào, đi Bob ! Chúng ta sẽ tìm một chỗ để nói chuyện về những năm tháng đã qua...Hai người sánh vai nhau bước đi. Gã đàn ông từ miền Tây trở về bắt đầu kể chuyện về cuộc đời gã. Người cao lớn kia, lắng nghe đầy vẻ quan tâm, cổ áo choàng của anh ta kéo lên che kín tai.Đến một góc đường có ánh đèn sáng chiếu ra từ một cửa hiệu, cả hai người đều quay nhìn kỹ vào mặt nhau. Gã đàn ông tên Bob đột nhiên dừng bước và kéo cánh ta ra khỏi vòng tay của người cao lớn kia. Gã la lên:- Anh không phải Jimmy Wells ! 20 năm thật dài nhưng không thể thay đổi hẳn một gương mặt, một cái mũi của bạn tôi ngày xưa. Người cao lớn mỉm cười bí hiểm và nói:- Phải rồi, nhưng đôi khi thời gian có thể thay đổi một người tốt thành người xấu. Anh Bob ạ ! Anh đã bị tôi bắt giữ 10 phút rồi đó ! Cảnh sát ở Chicago đã biết là anh đến New York đêm nay. Họ yêu cầu chúng tôi theo dõi anh. Anh hãy theo tôi, ngoan ngoãn là tốt ! Nhưng trước hết, tôi cho anh xem cái này. Anh có thể đến sát ánh đèn sáng cạnh cửa sổ kia để đọc cho rõ. Mảnh giấy này do một viên chức Cảnh sát tên Jimmy Wells gởi đến cho anh đấy !Tên Bob mở mảnh giấy, tay gã bỗng run lên khi đọc những dòng chữ trên đó:&quot;Bob ! Tôi đã đến đúng giờ hẹn tại chỗ. Tôi đã thấy rõ khuôn mặt mà cảnh sát Chicago muốn bắt giữ. Tôi không muốn đích thân bắt anh. Vì vậy tôi gửi đến một cảnh sát viên khác gặp anh để làm nhiệm vụ. Chào Bob ! Jimmy Wells&quot;. Mục lục Sau 20 năm Sau 20 năm O. HenryChào mừng các bạn đón đọc đầu sách từ dự án sách cho thiết bị di độngNguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Lời cuối:Cám ơn bạn đã theo dõi hết cuốn truyện.Nguồn: hành: Nguyễn Kim Vỹ. Nguồn: HùngĐược bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003
vanhoc