title
stringlengths 1
250
| url
stringlengths 37
44
| text
stringlengths 1
4.81k
|
---|---|---|
Hạt Đại diện Tông tòa Viêng Chăn
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813003
|
Hạt Đại diện Tông tòa Viêng Chăn (; ) là một Hạt Đại diện Tông tòa của Giáo hội Công giáo Rôma tại phía bắc nước Lào.
Là một Hạt Đại diện Tông tòa, Hạt Đại diện Tông tòa Viêng Chăn được giao cho một Giám mục hiệu tòa quản lí, đồng thời không thuộc một Giáo tỉnh nào, thay vào đó là chịu sự quản lí trực tiếp của Tòa Thánh thông qua Bộ Truyền giáo.
Hồng y Louis-Marie Ling Mangkhanekhoun là Đại diện Tông tòa đuơng nhiệm. Nhà thờ chính tòa của Hạt Đại diện Tông tòa là Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm ở Viêng Chăn, một trong những nhà thờ lớn nhất tại Lào.
Thống kê.
Hạt Đại diện Tông tòa bao phủ diện tích 74.195 km² bao gồm các tỉnh Huaphanh, Xiengkhuang, Viêng Chăn và đa phần diện tích tỉnh Borikhamxay.
Lịch sử.
Hạt Phủ doãn Tông tòa Viêng Chăn và Luang Prabang được thành lập vào ngày 14/6/1938, tách ra từ phía bắc Hạt Đại diện Tông tòa Lào.
13/3/1952, Hạt Phủ doãn Tông Tòa được nâng cấp thành một Hạt Đại diện Tông tòa và đổi tên thành Hạt Đại diện Tông tòa Viêng Chăn.
Phần lãnh thổ phía bắc của Hạt Đại diện Tông tòa xung quanh khu vực Luangprabang được tách ra vào ngày 3/3/1963 để thành lập Hạt Đại diện Tông tòa Luang Prabang.
|
María Luisa Josefina của Tây Ban Nha
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813008
|
María Luisa Josefina của Tây Ban Nha (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là "Infanta"Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María Luisa của Parma. Năm 1795, María Luisa Josefina kết hôn với người em họ đời đầu của mình là Ludovico, Thế tử xứ Parma. María Luisa trải qua những năm đầu tiên của cuộc hôn nhân tại triều đình Tây Ban Nha, nơi đứa con đầu lòng của hai vợ chồng là Công tôn Carlo Ludovico chào đời.
Năm 1801, Hiệp ước Aranjuez đã đưa chồng của María Luisa Jossefina lên ngai vàng Vương quốc Etruria, một vương quốc được thành lập từ Đại công quốc Toscana trước đây để đổi lấy việc từ bỏ Công quốc Parma, do đó Ludovico trở thành Ludovico I của Etruria. Hai vợ chồng đến Firenze, thủ đô của vương quốc vào tháng 8 năm 1801. Trong một chuyến thăm ngắn đến Tây Ban Nha vào năm 1802, María Luisa sinh đứa con thứ hai. Triều đại của chồng vương nữ ở Etruria không được thuận lợi bởi tình hình sức khoẻ của Ludovico I. Ludovico I mất năm 1803 ở tuổi 30, sau một cơn động kinh. María Luisa làm nhiếp chính cho con trai Ludovico II. Trong thời gian cầm quyền ở Firenze, Thái hậu María Luisa Jossefina đã cố gắng giành được sự ủng hộ của thần dân, nhưng việc cai trị Etruria của thái hậu đã bị chấm dứt bởi Napoléon Bonaparte, người đã buộc Thái hậu phải rời đi cùng các con của mình vào tháng 12 năm 1807. Theo một phần của Hiệp ước Fontainebleau, Napoléon đã hợp nhất Etruria dưới quyền cai trị của Đệ Nhất Đế chế Pháp.
Sau một cuộc gặp mặt vô ích với Napoléon ở Milano, María Luisa sống lưu vong cùng gia đình ở Tây Ban Nha. Triều đình Tây Ban Nha bị chia rẽ sâu sắc và một tháng sau khi María Luisa đến, đất nước rơi vào tình trạng bất ổn khi một cuộc nổi dậy của quần chúng nổ ra, được gọi là Cuộc binh biến Aranjuez, buộc cha của María Luisa phải thoái vị để ủng hộ con trai là Fernando VII lên ngôi. Napoléon mời hai cha con đến Bayonne, Đệ Nhất Đế chế Pháp, với lý do làm trung gian hòa giải, nhưng lại trao vương quốc Tây Ban Nha cho em trai của mình là Joseph Bonaparte lúc đó đang làm Quốc vương của Vương quốc Napoli và Sicilia.
|
María Luisa Josefina của Tây Ban Nha
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813008
|
Napoléon cho gọi các thành viên còn lại của vương thất Tây Ban Nha đến Pháp và khi vương thất rời đi vào ngày 2 tháng 5 năm 1808, người dân Madrid đã nổi dậy chống lại sự chiếm đóng của Pháp. Tại Pháp, María Luisa được đoàn tụ với cha mẹ khi lưu vong. María Luisa Jossefina là thành viên duy nhất của vương thất Tây Ban Nha trực tiếp chống đối Napoléon. Sau khi kế hoạch trốn thoát bí mật của María Luisa bị phát hiện, thái hậu bị tách khỏi con trai và bị giam cùng con gái như tù nhân trong một tu viện ở Roma.
María Luisa, được biết đến là Vương hậu Etruria trong suốt cuộc đời của mình, đã giành lại tự do vào năm 1814 khi Đế chế của Napoléon sụp đổ. Trong những năm tiếp theo, thái hậu tiếp tục sống ở Roma với hy vọng khôi phục lại các lãnh thổ cũ của con trai mình. Để đưa ra yêu sách của mình, María Luisa Josefina đã viết một quyển hồi ký, nhưng thất vọng khi Đại hội Viên (1814–15) đã không trả Công quốc Parma cho gia đình thái hậu, mà bằng Công quốc Lucca có diện tích nhỏ hơn nhiều, được tạo ra bằng cách tách một phần lãnh thổ của Đại công quốc Toscana trước đây. Như một sự an ủi, María Luisa được phép giữ lại danh hiệu Vương hậu của mình. Ban đầu miễn cưỡng chấp nhận thỏa thuận này, María Luisa đã không nắm chính quyền Lucca cho đến tháng 12 năm 1817. Với tư cách là một Nữ Công tước trị vì của Công quốc Lucca, Nữ Công tước đã coi thường hiến pháp do Đại hội Viên đặt ra. Trong thời gian ở trong cung điện của mình ở Roma, María Luía Josefina qua đời vì bệnh ung thư ở tuổi 41.
|
Trận Soledar
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813009
|
Trận Soledar là một loạt các cuộc đụng độ diễn ra trong và xung quanh khu định cư Soledar thuộc mặt trận Donbas trong cuộc xâm lược Ukraine của Nga. Trận chiến khốc liệt kết thúc với chiến thắng thuộc về phía Nga với việc chiếm được toàn bộ thị trấn Soledar (bao gồm cả mỏ muối khổng lồ ở đây). Các cuộc tấn công trực tiếp của Nga vào Soledar được nối lại vào cuối tháng 12 đến đầu tháng 1 năm 2023 và vào ngày 16 tháng 1 năm 2023, các lực lượng Nga đã chiếm được khu vực cuối cùng của khu công nghiệp và giành quyền kiểm soát thị trấn, cho phép quân Nga tiếp tục đe dọa vùng ngoại ô phía bắc và đông bắc của Bakhmut. Chiến thắng này có ý nghĩa bản lề cho trận chiến tiếp theo khốc liệt hơn tại Bakhmut, thời điểm này, phần lớn Soledar đã trở thành đống đổ nát. Trận chiến Soledar được ví von là "trận Grozny phiên bản 2023".
Bối cảnh.
Đầu năm 2023 thì thị trấn Soledar trở thành một trong những chiến trường đẫm máu kể từ đầu cuộc chiến của Nga tại Ukraine. Cả hai bên đều dồn mọi nguồn lực để kiểm soát thành phố chiến lược này. Giới quan sát phương Tây cho rằng việc chiếm được Soledar sẽ là một thắng lợi tinh thần với Nga sau nhiều tuần liên tục phải lui quân ở miền bắc, đông bắc và đông Ukraine. Việc kiểm soát thành phố này cũng cho phép Nga cắt đứt tuyến cung ứng cho Bakhmut, bao vây lực lượng Ukraine tại đây và tiến tới kiểm soát toàn bộ vùng Donbass ở miền đông Ukraine, chiến thắng ở Soledar cũng sẽ làm nâng cao danh tiếng của Yevgeny Prigozhin và các mỏ muối khổng lồ ở đây cũng có giá trị về kinh tế hoặc có thể dùng làm nơi cất giấu vũ khí, đạn dược. Nếu chiếm được Soledar, Nga có thể dồn sức tấn công để kiểm soát toàn bộ vùng Donbass. Đây có thể coi là thành công của Nga khi đã đưa được các đơn vị chủ lực cơ động của Ukraine vào hiểm địa Bakhmut.
Diễn biến.
Sau những nỗ lực tổ chức tấn công tổng lực, Quân đội Nga dưới sự góp sức đắc lực của lực lượng lính hợp đồng đánh thuê Wagner, đang từng bước làm chủ thị trấn chiến lược Soledar.
|
Trận Soledar
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813009
|
Chiến thuật Quân đội Nga sử dụng để tấn công Soledar không mới đó là sử dụng các nhóm tác chiến đặc nhiệm luồn sâu vào tuyến phòng ngự của Ukraine, giống như cách thức diễn ra tại cuộc chiến tranh Chesnya lần thứ hai. Quân đội Nga bao vây thì các đơn vị đặc nhiệm luồn sâu xung kích đã tấn công các vị trí phòng thủ của đối phương, đẩy đối phương vào vị trí định sẵn để sử dụng hỏa lực pháo binh, không quân tiêu diệt.
Tham gia mặt trận này có sự góp mặt của các chiến binh Wagner vốn được đào tạo chuyên nghiệp và các tay súng thuộc lực lượng Chechnya vốn là bậc thầy của tác chiến đô thị từng khiến gây thiệt hại nặng cho Quân đội Nga. Việc sử dụng các đơn vị tác chiến đặc nhiệm kết hợp với hỏa lực chi viện áp đảo khiến Quân đội Nga không phải tiến hành chiến tranh quy ước huy động binh lực quy mô để tấn công mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra. Việc sử dụng đặc nhiệm để đánh chiếm các vị phòng thủ cũng giảm thiểu tổn thất tối đa trong tác chiến bất đối xứng trong môi trường đô thị.
Bộ Quốc phòng Nga ngày 13 tháng 1 năm 2023 tuyên bố đã kiểm soát hoàn toàn Soledar, nơi chỉ cách thành phố Bakhmut khoảng 14 km về phía bắc. Đây cũng là nơi tập trung đông đảo các tay súng của tập đoàn lính đánh thuê Wagner, lực lượng nòng cốt trong các mũi tiến công vào hai thành phố. Tuy nhiên, các quan chức quốc phòng Anh cho biết quân đội Ukraine gần như chắc chắn vẫn duy trì được những vị trí cố thủ trong thành phố Soledar và chưa thất thủ hoàn toàn, bất chấp những cuộc tấn công dữ dội từ phía Nga. Giao tranh ở Bakhmut đã kéo dài 6 tháng qua và Nga đạt được rất ít tiến bộ, trong khi tổn thất mà phía Nga hứng chịu rất khủng khiếp. Mãi đến ngày 25 tháng 1 năm 2023 thì Quân đội Ukraine mới xác nhận với hãng tin AFP rằng họ đã rút khỏi thị trấn chiến lược Soledar. Sau nhiều tháng giao tranh ác liệt, kể cả trong những tuần qua, Lực lượng Vũ trang Ukraine đã rời khỏi Soledar và rút lui dọc theo vùng ngoại ô đến các cứ điểm đã được chuẩn bị trước
|
Syvash
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813013
|
Syvash hay Sivash (tiếng Nga và Ukraina: ; , chữ Kirin: Сываш, "bẩn"), còn gọi là là một khu vực đầm phá nông rộng lớn tại bờ biển phía tây của biển Azov. Doi đất Arabat tách biệt đầm phá này với biển, và vùng nước của Syvash có diện tích khoảng . Eo biển Henichesk là liên kết phía đông của đầm phá với biển Azov. Syvash giáp với bờ biển đông bắc của bán đảo Krym. Trung và Đông Syvash được xác định là các vùng đất ngập nước của Ukraina theo Công ước Ramsar. Kể từ Nga xâm chiếm Ukraina năm 2022, toàn bộ Syvash do Nga chiếm giữ.
Tổng quan.
Syvash gần như cắt bán đảo Krym khỏi đại lục, đóng vai trò là một phần ranh giới tự nhiên của nước cộng hòa tự trị. Doi đất Arabat () và hẹp () nằm ở phía đông, tách biệt đầm phá khỏi biển Azov. Hai thực thể nối với nhau ở phía bắc tại eo biển Henichesk bên cạnh cảng Henichesk. Về phía tây, eo đất Perekop tách đầm phá khỏi biển Đen và nối Krym với đại lục.
Syvash cực kỳ nông, điểm sâu nhất là khoảng , hầu hết diện tích sâu từ . Đáy đầm phá có lớp bùn dày tới . Do đầm phá rất nông, nước tại Syvash nóng lên vào mùa hè và sinh ra mùi thối. Diện tích bốc hơi rộng cũng khiến nước cực kỳ mặn. Lượng các loại muối khác nhau được ước tính là 200 triệu tấn. Một số nhà máy công nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản của Syvash. Khu vực Syvash là một vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế. Bờ của đầm phá thấp, hơi dốc, đầm lầy và nhiễm mặn. Vào mùa hè, lượng nước của Syvash giảm đáng kể, để lộ ra đất solonets cằn cỗi.
Syvash đôi khi được chia thành Tây Syvash và Đông Syvash. Chúng được nối với nhau qua eo biển Chongar. Nước của đầm phá là từ Bbển Azov và các sông Salgyr, Churuksa.
Lịch sử.
Trong Nội chiến Nga, Syvash trở nên nổi tiếng vì một cuộc vượt đầm bất ngờ của Hồng quân trong Chiến dịch Perekop-Chongar.
Thực vật.
Syvash có thể mang màu đỏ do vi tảo chịu mặn "Dunaliella salina".
Phần phía đông của Syvash ít mặn hơn và có những loài sậy và thực vật đất ngập nước khác.
|
Syvash
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813013
|
Các đảo lớn tại Trung Syvash chủ yếu là thảo nguyên, gồm các loài cỏ lông vũ, tulip, ngải tauric ("Artemisia taurica"), xô thơm, cỏ lúa mì mào, cỏ đuôi trâu.
Bờ của Syvash gồm một lượng lớn thực vật chịu mặn, bao gồm cỏ hậu ngạn, "Tripolium", mã đề, oải hương biển ("Limonium caspium"), cây bụi mặn ("Atriplex aucheri").
|
Tổng giáo phận Ōsaka-Takamatsu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813017
|
() là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Nhật Bản. Địa giới của tổng giáo phận bao gồm các tỉnh Ōsaka, Hyōgo, Wakayama và 4 tỉnh thuộc vùng Shikoku. Nhà thờ chính tòa Đức Mẹ Maria () là nhà thờ chính tòa của tổng giáo phận.
|
Lutjanus rivulatus
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813022
|
Lutjanus rivulatus là một loài cá biển thuộc chi "Lutjanus" trong họ Cá hồng. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1828.
Từ nguyên.
Tính từ định danh "rivulatus" trong tiếng Latinh có nghĩa là “gợn sóng”, hàm ý đề cập đến các vệt sọc màu xanh lam trên đầu của loài cá này.
Phân bố và môi trường sống.
"L. rivulatus" có phân bố rộng khắp vùng Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ phía nam Biển Đỏ và vịnh Ba Tư dọc theo Đông Phi trải dài về phía đông đến quần đảo Société và quần đảo Australes, ngược lên phía bắc đến đảo Kyūshū, xa về phía nam đến Nam Phi và Úc. "L. rivulatus" cũng xuất hiện tại vùng biển Việt Nam, bao gồm quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
"L. rivulatus" sống gần các rạn san hô xa bờ, thường thấy ở độ sâu đến ít nhất là 100 m, cá con sống trên các bãi cạn gần bờ và có nhiều tảo, thường gần các cửa sông.
Mô tả.
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "L. rivulatus" là 91,8 cm FL ("fork length": chiều dài từ mõm đến điểm chia đôi vây đuôi), thường bắt gặp với chiều dài trung bình khoảng 60 cm.
Loài này thường có màu nâu hơi đỏ, mỗi vảy cá có viền nâu nhạt kèm 2–3 đốm nhỏ màu xanh lam nhạt ở giữa. Đầu có vô số các vệt sọc xanh lam gợn sóng; môi nâu nhạt. Các vây phần lớn có màu vàng nhạt đến xám nâu. Cá con có 3–8 vạch nâu ở hai bên thân và hai đốm đen-trắng sát nhau, nằm dưới các tia vây lưng mềm trước nhất, ngang đường bên.
Số gai ở vây lưng: 10; Số tia vây ở vây lưng: 15–16; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 17.
"L. rivulatus" có thể bị nhầm lẫn với "Lutjanus stellatus" chưa trưởng thành vì đều có đốm trắng ở thân. Đốm trắng của "L. rivulatus" nằm ngay đường bên, nhưng của "L. stellatus" lại nằm trên đường bên. Đầu của "L. rivulatus" có nhiều đốm xanh, của "L. stellatus" chỉ có một sọc xanh nối giữa nắp mang và mõm. Vây hậu môn của "L. rivulatus" bo tròn ở rìa sau, của "L. stellatus" thì nhọn.
Sinh thái.
|
Lutjanus rivulatus
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813022
|
Sinh thái.
Thức ăn của "L. rivulatus" bao gồm cá nhỏ và nhiều loài thủy sinh không xương sống khác như chân đầu và giáp xác.
Sự tăng trưởng của "L. rivulatus" thay đổi theo vĩ độ, cũng như nhiệt độ nước. "L. rivulatus" ở vùng vĩ độ cao hơn (nước mát hơn), đạt độ dài theo tuổi (length-at-age) lớn hơn so với những cá thể ở vùng vĩ độ thấp hơn (nước ấm hơn). Độ tuổi lớn nhất mà "L. rivulatus" ước tính đạt được là 56 năm.
Giá trị.
"L. rivulatus" là một loại cá thực phẩm chất lượng và có tầm quan trọng đối với nghề đánh bắt thủ công. Loài này là thành phần của ngành nuôi trồng thủy sản ở Malaysia.
|
Dư vị
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813027
|
Dư vị ("Aftertaste") là cảm giác vị còn lưu lại sau khi nếm. Trong ẩm thực, dư vị hay hậu vị là cường độ hương vị của thức ăn hoặc đồ uống được cảm nhận ngay sau khi thức ăn hoặc đồ uống đó được lấy ra khỏi miệng hoặc đã nuốt trôi xuống họng. Dư vị của các loại thực phẩm và đồ uống khác nhau có thể thay đổi theo cường độ và theo thời gian, nhưng đặc điểm chung nhất của dư vị là nó được cảm nhận lưu lại sau khi thực phẩm hoặc đồ uống được nuốt hoặc nhổ ra.
Các đồ uống có cồn như rượu, bia, rượu mạnh (whisky) có dư vị rất mạnh, các loại thực phẩm có nhiều gia vị, chẳng hạn như ớt hạt tiêu, hoặc thực phẩm Ấn Độ (như cà ri) cũng có dư vị cay nồng. Các đồ uống khác như trà, cà phê thường để lại dư vị/hậu vị thoảng nhẹ tùy theo cảm nhận. Các cơ chế sinh học thần kinh của việc truyền tín hiệu vị giác (và dư vị) từ các thụ thể vị giác trong miệng đến não vẫn chưa được hiểu đầy đủ thấu đáo. Tuy nhiên, khu vực xử lý hương vị chính nằm ở thùy đảo đã được quan sát thấy có liên quan đến nhận thức dư vị.
Đặc điểm của dư vị thực phẩm là chất lượng thực phẩm, cường độ và thời gian, chất lượng thực phẩm sẽ mô tả hương vị thực tế của một loại thực phẩm và cường độ truyền đạt mức độ của hương vị đó. Thời lượng mô tả cảm giác dư vị của thức ăn kéo dài bao lâu. Thực phẩm có dư vị kéo dài thường có thời gian cảm giác dài. Vì cảm nhận vị giác là duy nhất đối với mỗi người, tùy vào sự tinh tế và cảm nhận, nhưng dù vậy các mô tả về chất lượng và cường độ vị giác đã được tiêu chuẩn hóa, đặc biệt là để sử dụng trong các nghiên cứu khoa học.
Đối với chất lượng hương vị, thực phẩm có thể được mô tả bằng các thuật ngữ thường được sử dụng "ngọt", "chua", "mặn", "đắng", ngũ vị ("umami") hoặc "không có vị" (vô vị). Mô tả về nhận thức dư vị chủ yếu dựa vào việc sử dụng những từ này để truyền đạt hương vị được cảm nhận sau khi lấy thức ăn ra khỏi miệng. Mô tả về cường độ hương vị cũng có thể thay đổi giữa các cá nhân, tùy vào sự sành điệu và gu ẩm thực của từng người.
|
Dư vị
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813027
|
Các biến thể của Thang tỷ lệ danh mục Borg hoặc các số liệu tương tự khác thường được sử dụng để đánh giá cường độ của thực phẩm. Các loại thực phẩm có dư vị riêng biệt được phân biệt theo thời gian cảm nhận mùi vị của chúng trong và sau khi ăn xong.
|
Hạt Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813029
|
Hạt Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh (; ) là một Hạt Đại diện Tông tòa của Giáo hội Công giáo Rôma tại Campuchia. Hạt Đại diện Tông tòa chịu sự quản lí trực tiếp của Tòa Thánh và được tiếp quản bởi Giám mục Olivier Schmitthaeusler của Hội Thừa sai Paris từ ngày 10/10/2010.
Hạt Đại diện Tông tòa bao phủ diện tích 31,946 km² ở phía nam Campuchia, bao gồm Phnôm Pênh và các vùng đô thị lân cận như Kep, Sihanoukville, Kandal, Takéo, Kampot, Kampong Speu và Koh Kong.
Lịch sử.
Hạt Đại diện Tông tòa Campuchia được thành lập vào ngày 30/8/1850. Từ năm 1860, Hạt Đại diện Tông tòa phụ trách luôn cả vùng Phsar Dek, Châu Đốc và Sóc Trăng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long thuộc Việt Nam. Vào năm 1924, tên đã được đổi thành Hạt Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh. Vào ngày 20/9/1955, Hạt Đại diện Tông tòa bắt đầu phụ trách toàn bộ Campuchia. Vào năm 1968, Hạt Đại diện Tông tòa được chia làm 3 phần, với vùng tây bắc trở thành Hạt Phủ doãn Tông tòa Battambang và vùng đông bắc trở thành Hạt Phủ doãn Tông tòa Kampong Cham.
Khi Khmer Đỏ lên nắm quyền, toàn bộ hoạt động tôn giáo bị ngăn cấm, và nhiều người Công giáo bị bức hại, đặc biệt là linh mục và các chức sắc Công giáo. Ngoài ra toàn bộ lượng người Việt theo Công giáo, thành phần Công giáo chiếm đa số ở Campuchia hoặc là bị xử tử, hoặc là bị trục xuất. Gần như toàn bộ số nhà thờ đều bị phá hủy. Lượng người Công giáo Hạt Đại diện Tông tòa quản lí sụt giảm từ 30 nghìn xuống mức ít hơn 10 nghìn tín đồ. Vào năm 1989, hiến pháp mới của Campuchia cho phép tự do tôn giáo trở lại, tuy nhiên các hoạt động truyền giáo vẫn bị ngăn cấm bởi Hội đồng Bộ trưởng Campuchia. Vào tháng 3/1990, chính phủ Campuchia đã cho phép một nhóm người Công giáo tổ chức lễ Phục Sinh, sự kiện tôn giáo công cộng đầu tiên ở Campuchia sau 15 năm.
Vào ngày 24/12/2009, linh mục người Pháp Olivier Schmitthaeusler thuộc Hội Thừa sai Paris được chỉ định làm Giám mục phó Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh hiệu tòa Catabum Castra. Ông đã trở thành Giám mục hiệu tòa Destombes vào ngày 1/10/2010.
|
Hạt Đại diện Tông tòa Phnôm Pênh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813029
|
Vào ngày 1/5/2015, Hội đồng Giám mục Campuchia mở một cuộc điều tra chính thức để xem xét tuyên tử đạo ở Tangkok, Kampong Thom, nơi Giám mục Giuse Chhmar Salas qua đời trong nhà tù Khmer Đỏ vào năm 1977. Cuộc điều tra đã xem xét lựa chọn tuyên tử đạo cho ít nhất 34 người bị xử tử hoặc ép chết từ tháng 4/1975 đến năm 1978.
|
Ivan Nikolaevich Zubachyov
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813036
|
Ivan Nikolaevich Zubachyov (; 1898–1944) là một sĩ quan Liên Xô tham gia trong trận phòng thủ Pháo đài Brest.
Tiểu sử.
Ông sinh ngày 28 tháng 2 năm 1898 tại làng Podlesnaya Sloboda, huyện Zaraysky, tỉnh Ryazan, trong một gia đình nông dân. Ông từng làm thợ rèn tại nhà máy Kolomna.
Năm 1918, ông gia nhập Đảng Cộng sản Nga (Bolshevik), và phục vụ trong Hồng quân, tham chiến trong Nội chiến Nga và Chiến tranh Ba Lan-Xô viết.
Zubachyov sau đó tiếp tục tham chiến trong Chiến tranh Mùa đông với cấp bậc đại úy và chức vụ chỉ huy tiểu đoàn thuộc trung đoàn 44. Trung đoàn của ông đóng quân tại pháo đài Brest từ tháng 5 năm 1941. Trong cuộc tấn công của quân Đức vào ngày 22 tháng 6, do sĩ quan chỉ huy trung đoàn Pyotr Mikhailovich Gavrilov bị cắt đứt với phân đội của ông trong pháo đài Kobryn, Zubachyov đã cầm quyền chỉ huy lực lượng phòng thủ tại địa điểm đóng quân của trung đoàn.
Ông bị bắt làm tù binh cùng với những người sống sót còn lại sau khi tòa thành thất thủ vào ngày 26 tháng 6 và dành phần đời còn lại của mình trong trại giam của quân Đức. Ông qua đời trong trại tù Nürnberg-Langwasser (Stalag XIII D) vào ngày 21 tháng 7 năm 1944.
|
Vương Thần Niệm
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813037
|
Vương Thần Niệm (chữ Hán: 王神念, 451 – 525) là tướng lãnh nhà Lương thời Nam Bắc triều trong lịch sử Trung Quốc.
Khởi nghiệp.
Nhà họ Vương là thành viên nhánh Ô Hoàn của sĩ tộc họ Vương ở huyện Kỳ quận Thái Nguyên .
Thần Niệm từ nhỏ ưa thích tư tưởng Nho học, rất am hiểu kinh điển nhà Phật. Thần Niệm lớn lên ở Bắc Ngụy, ban đầu được làm Châu chủ bộ.
Sự nghiệp.
Năm Cảnh Minh thứ 4 (503) nhà Bắc Ngụy, Thần Niệm là Thống quân dưới quyền Nhâm Thành vương Nguyên Trừng, tham gia tấn công Đông Quan, Đại Hiện, Hoài Lăng, Cửu Sơn của nhà Lương, riêng Thần Niệm chiếm được 2 thành Quan Yếu, Dĩnh Xuyên.
Tiếp đó Thần Niệm giữ Đông Quan, rồi lui về phía tây Sào Hồ. Sau đó Thần Niệm được thăng làm Dĩnh Xuyên thái thú. Năm Thiên Giám thứ 7 (508) nhà Lương, Thần Niệm chiếm quận, quy hàng nhà Lương. Quân Ngụy đến, Thần Niệm đưa gia thuộc sang miền nam, được phong tước Nam Thành huyện hầu, thực ấp 500 hộ. Năm sau, Thần Niệm đem quân tấn công Nam Duyện Châu của Bắc Ngụy. Về với nhà Lương chưa lâu, Thần Niệm được trừ làm An Thành nội sử, rồi trải qua các chức vụ Vũ Dương, Lịch Thành nội sử, đều nổi tiếng nhờ chính tích. Sau đó Thần Niệm được về triều, trừ làm Thái bộc khanh.
Năm Thiên Giám thứ 15 (516), Thần Niệm được nhận chức Chu y trực các, theo Tả vệ tướng quân Xương Nghĩa Chi cứu viện Trực các tướng quân Triệu Tổ Duyệt ở Hạp Thạch. Thần Niệm tấn công cầu nổi giăng ngang sông Hoài của quân Ngụy, không hạ được. Vì thế viện quân nhà Lương kẹt lại ở Lương Thành, khiến Hạp Thạch thất thủ. Sau đó Thần Niệm được rời triều đình, ra làm Trì tiết, Đô đốc Thanh, Ký 2 châu chư quân sự, Tín vũ tướng quân, Thanh, Ký 2 châu thứ sử.
Hậu sự.
Thần Niệm tính cương trực, coi châu quận nào ắt cấm chỉ thờ cúng mê tín. Bấy giờ đông bắc 2 châu Thanh, Từ có núi Thạch Lộc nhìn ra biển, từ trước có miếu thần, trong miếu có kẻ đồng cốt mê hoặc trăm họ, khiến xa gần tìm đến cầu khấn, lãng phí cực nhiều.
|
Vương Thần Niệm
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813037
|
Khi Thần Niệm đến, bèn hạ lệnh dẹp bỏ, nên phong tục liền đổi. Năm Phổ Thông thứ 5 (524), quân Lương bắc phạt, Thần Niệm giao chiến với Hà Gian vương Nguyên Sâm và chịu thất bại, sau đó được trưng về triều làm Hữu vệ tướng quân.
Năm sau (525), Thần Niệm được thăng làm Sứ trì tiết, Tán kỵ thường thị, Trảo nha tướng quân, vẫn giữ chức Hữu vệ như cũ. Thần Niệm từ nhỏ giỏi cưỡi ngựa bắn cung, đến già cũng không kém đi, từng ở trước mặt Lương Vũ đế, hai tay nắm đao, thuẫn, vừa đổi tay qua lại vừa giục ngựa tới lui, nổi bật giữa đội ngũ.
Cùng năm, Thần Niệm phát bệnh mà mất, hưởng thọ 75 tuổi. Triều đình giáng chiếu tặng bản quan, Hành Châu thứ sử, kiêm 1 bộ nhạc Cổ xuy, đặt thụy là Tráng.
Đầu thời Lương Nguyên đế, Thần Niệm được truy tặng Thị trung, Trung thư lệnh, đổi thụy là Trung công.
|
Vitalie Zubac
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813040
|
Vitalie Zubac (sinh năm 1894, ngày mất không rõ) là một chính khách Bessarabia. Ông sinh ra tại Necrasovca-Nouă.
Tiểu sử.
Ông từng là nghị sĩ của Nghị viện Moldova (1917–1918).
|
Như ý quân truyện
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813059
|
Như ý quân truyện (), dịch sang tiếng Anh là The Lord of Perfect Satisfaction, là tiểu thuyết khiêu dâm do tác giả khuyết danh viết vào thời Minh. Lấy bối cảnh thời Đường, truyện kể về sự nghiệp chính trị và đời sống tình cảm của nữ hoàng Võ Tắc Thiên. Đây được coi là một trong những cuốn tiểu thuyết khiêu dâm sớm nhất được xuất bản ở Trung Quốc, từng nhiều lần bị triều đình cấm đoán sau khi xuất bản.
Cốt truyện.
Hồi mới mười bốn tuổi, Võ Tắc Thiên trở thành một trong những tiểu thiếp của Đường Thái Tông. Mười hai năm sau, hoàng đế lâm bệnh nặng; đang lúc bận chăm sóc chồng trên giường bệnh, bà ngầm tư thông với thái tử Lý Trị. Ít lâu sau Thái Tông băng hà, bà buộc phải cạo đầu làm ni cô rồi vào chùa sống chung với những phi tần khác. Một năm sau, Lý Trị giờ là vua Đường Cao Tông nhớ tới tình cũ bèn ban chiếu chỉ đưa bà rời khỏi chùa rồi lấy làm vợ luôn. Sau khi Cao Tông qua đời bảy năm sau đó, bà dần dần tiếm quyền và trở thành nữ hoàng đế đầu tiên và duy nhất của Trung Quốc sau khi phế truất thái tử Đường Trung Tông.
Không hài lòng với đám tình nhân hiện tại, nữ hoàng Võ Tắc Thiên lúc này đã là một bà lão bảy mươi tuổi bèn phái quan hầu cận mang đến cho mình một nam nhân trinh bạch thành Lạc Dương tên là Tiết Ngao Tào (), theo lời dân gian đồn đại là kẻ cực kỳ sung mãn. Sau khi đích thân kiểm tra dương vật của gã họ Tiết, bà lao vào làm tình với hắn; rồi đặt cho hắn ta cái biệt danh "Như Ý Quân" và đổi niên lịch thành "Như Ý nguyên niên". Gã họ Tiết trở thành người tình yêu thích của Võ Tắc Thiên và bà xua đuổi những sủng nam khác của mình. Sau khi đe dọa tự thiến mình, gã đã thuyết phục được nữ hoàng đế trả lại ngai vàng cho Trung Tông. Khi sức khỏe của bà yếu dần, mối quan hệ tình ái đầy lãng mạn giữa Võ Tắc Thiên với Tiết Ngao Tào cũng phải đến lúc chấm dứt, và họ chia tay nhau theo nghi lễ phức tạp liên quan đến việc đốt cháy bộ phận sinh dục bằng long diên hương và diễn lại các tư thế quan hệ tình dục khác nhau mười lần mỗi cái.
|
Như ý quân truyện
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813059
|
Tiết Ngao Tào bỗng dưng biến mất tăm hơi và có kẻ kể lại mình đã tận mắt chứng kiến hắn ta hiện thân ở Thành Đô đắc đạo trường sinh nhiều năm sau.
Sáng tác.
"Như ý quân truyện" ghi chép lại quá trình lên nắm quyền của Võ Tắc Thiên đồng thời kể chi tiết về vô số lần quan hệ tình dục của bà, đặc biệt là với nhân vật nam chính Tiết Ngao Tào. Tiêu đề của truyện ám chỉ đến gã họ Tiết, sủng nam mới ba mươi tuổi được Nữ hoàng Võ Tắc Thiên phong tặng danh hiệu "Như Ý Quân". Ngoại trừ Tiết Ngao Tào, tất cả tình nhân còn lại của nữ hoàng đế được miêu tả trong "Như ý quân truyện" đều là nhân vật lịch sử. "Như ý quân truyện" "chỉ vỏn vẹn 45 trang" và chủ yếu được viết bằng văn ngôn, xen kẽ với một số đoạn hội thoại diễn tả bằng bạch thoại. Truyện trích dẫn sâu rộng và ám chỉ đến các tác phẩm nổi bật như "Sử ký", "Mạnh tử", "Luận ngữ", "Kinh Thi" và "Kinh Dịch". "Như ý quân truyện" cũng có những đoạn văn mô tả sâu rộng về cơ quan sinh dục "xem ra không có lợi cho việc kích thích ham muốn dâm dục"; chẳng hạn, dương vật của Tiết Ngao Tào đem ra so sánh với ốc sên và giun đất, trong khi cổ tử cung của Võ Tắc Thiên được viết "trông giống như một nhụy hoa được bao bọc trong một đài hoa bắt đầu mọc thành tua".
Lịch sử ấn bản.
Theo Liu Hui, lời nói đầu và phần tái bút của cuốn tiểu thuyết ngắn này lần lượt là vào năm 1514 và năm 1520, cho thấy rằng bản thân câu chuyện đã được viết vào khoảng thời gian đó. Tuy vậy, Charles Stone, từng xuất bản một bản dịch tiếng Anh và nghiên cứu phê bình về "Như ý quân truyện", đã xác định niên đại của truyện này là từ năm 1524 đến năm 1529, và biện minh rằng lời đề tựa và phần tái bút của nó có thể được viết lần lượt vào năm 1634 và năm 1760. Stone lập luận rằng "Như ý quân truyện" do học giả kiêm quan lại tên Hoàng Huấn chấp bút (; 14901540), là kẻ tạo ra cái gọi là tài liệu tham khảo sớm nhất được biết đến về "Như ý quân truyện" qua ba bài luận dài một trang ấn hành từ năm 1525 đến năm 1540.
|
Như ý quân truyện
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813059
|
"Như ý quân truyện" nhiều lần bị ngăn cấm sau khi xuất bản. Một bản rút gọn của câu chuyện này có nhan đề "Võ Chiếu truyện" () ấn hành vào khoảng năm 1587; lược bỏ tất cả thơ ca và ám chỉ có trong bản gốc, trong lúc ra mắt một dàn nhân vật ngắn hơn nhiều. Từng được lưu hành dưới dạng bản thảo, bản in sớm nhất của "Như ý quân truyện" được nhà xuất bản Ogawa Hikokurô tại Tokyo ấn hành vào năm 1763.
Ý nghĩa văn học.
"Như ý quân truyện" là một trong những cuốn sách khiêu dâm sớm nhất được xuất bản ở Trung Quốc, và được một số học giả coi là tiểu thuyết khiêu dâm đầu tiên viết bằng tiếng Trung. Charles Stone viết rằng "hầu hết tiểu thuyết khiêu dâm của Trung Quốc được viết trong một trăm năm sau cuối cùng đều lấy cảm hứng từ "Như ý quân truyện" hoặc vay mượn từ từ vựng của nó". Cùng với "Si bà tử truyện" () và "Tú tháp dã sử" (), "Như ý quân truyện" là một trong ba tác phẩm khiêu dâm được nhắc đến trong "Nhục bồ đoàn" nghi do văn nhân thời Thanh Lý Ngư chấp bút. Khoảng ba trăm năm sau khi nguyên tác "Như ý quân truyện" được xuất bản, Trần Thiên Trì () đã viết một cuốn tiểu thuyết khiêu dâm có cùng tiêu đề "Như ý quân truyện" thời Thanh kể về nhân vật nam chính với bản tính thiên phú được ba vị hoàng đế nhà Minh sủng ái rồi về sau đắc đạo trường sinh.
"Tuỳ Đường lưỡng triều chí truyện" (; 1619) sao chép từng chữ một số trang từ "Như ý quân truyện". Tương tự như vậy, "Nùng tình khoái sử" (; 1712) đạo văn phần lớn nguyên tác "Như ý quân truyện", nhưng bỏ qua "những đoạn liên quan không phù hợp nhằm giảm bớt sự miêu tả về tình dục".
|
Trái tim thiếu nữ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813060
|
Trái tim thiếu nữ (, Pinyin: Shàonǚ zhī xīn, Hán-Việt: "Thiếu nữ chi tâm") còn gọi là Hồi ức Mạn Na (曼娜回忆录) là cuốn tiểu thuyết viết tay khá nổi tiếng trong Cách mạng Văn hóa, được sao chép và lưu hành trên diện rộng vào khoảng năm 1974. Tác phẩm kể về câu chuyện tình yêu giữa nhân vật chính Mạn Na, anh họ Thiếu Hoa và bạn cùng lớp Lâm Đào, đây là tiểu thuyết khiêu dâm được lưu hành rộng rãi trong xã hội Trung Quốc dưới thời kỳ Cách mạng Văn hóa. Ngoài ra, theo ký ức của nhiều độc giả, "Hồi ức Mạn Na" không phải là tên riêng của "Trái tim thiếu nữ". "Trái tim thiếu nữ" và "Hồi ức Mạn Na" lúc đầu là hai cuốn sách hoàn toàn khác nhau.
Tóm lược.
Vì là thủ bản nên thực tế không có bản "Trái tim thiếu nữ" nào độc đáo. Tuy nhiên, dựa trên sự tổng hợp nội dung của nhiều phiên bản, có thể rút ra một phác thảo sơ bộ về câu chuyện.
Phiên bản thứ nhất.
Nữ chính Mạn Na (曼娜) vào học viện thể thao sau khi tốt nghiệp trung học vì điểm kém. Trong kỳ nghỉ, cô trở về quê hương ở đồng bằng Châu Giang. Lúc này cô gặp anh họ Thiếu Hoa (少华) đến từ quê nhà Phúc Kiến đi nghỉ mát, trong lúc giao tiếp, đôi bên nảy sinh xung đột tình dục rồi phát sinh quan hệ tình dục. Sau kỳ nghỉ hè, Thiếu Hoa được thông báo phải quay trở lại Liên Xô học tập. Hai năm sau, Mạn Na học lên năm thứ ba và được gặp Lâm Đào (林涛), một người bạn cùng lớp trong khoa. Năm hai mươi hai tuổi, hai người kết hôn, truyện dành một đoạn dài miêu tả tình tiết hai người làm tình. Mạn Na sau đó mang thai đôi nhưng Lâm Đào đột nhiên qua đời vì bệnh tật. Sau khi cặp song sinh của Mạn Na chào đời, cô tái hôn và hai cô con gái sinh đôi thường làm những điều "không thể nói ra" với cha dượng sau khi bước vào tuổi dậy thì.
Toàn bộ câu chuyện tập trung vào lần đầu tiên giữa Mạn Na và Thiếu Hoa và lần đầu tiên với Lâm Đào.
Phiên bản thứ hai.
Khi nữ chính Hoàng Vĩnh Hồng (黄永红) mười sáu tuổi, cô ấy phát hiện ra rằng mẹ đang lừa dối mình, và cô đã dán những tờ đại tự báo ở cổng trường.
|
Trái tim thiếu nữ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813060
|
Nhưng sau khi mẹ cô bị bắt, cô phát hiện ra rằng mọi người xung quanh cô, bao gồm cả cha và em trai đều đối xử với cô như kẻ thù. Hoàng Vĩnh Hồng rơi vào sự cô đơn và bối rối sâu sắc. Lúc này, bạn cùng lớp là Lý Quốc Hoa (李国华) đã an ủi cô rất nhiều, hai người dần dần nảy sinh tình cảm. Với sự tò mò và bốc đồng của tuổi mới lớn, họ đã có mối quan hệ xác thịt. Nhưng cha mẹ của Lý Quốc Hoa kiên quyết phản đối việc con trai họ kết giao với Hoàng Vĩnh Hồng. Thế rồi một chàng sinh viên đại học tên là Diêu Đại Minh (姚大明) đã bước chân vào cuộc đời của cô.
Sau khi Hoàng Vĩnh Hồng yêu Diêu Đại Minh, lần gặp mặt Lý Quốc Hoa đã làm sống lại mối quan hệ cũ. Cuối cùng, tình yêu ngầm giữa hai người đã bị Diêu Đại Minh phát hiện. Lý Quốc Hoa vô tình giết Diêu Đại Minh rồi tự sát. Hoàng Vĩnh Hồng cũng bị bắt vào tù, trong tù cô đã viết quyển hồi ký "Trái tim thiếu nữ".
Người ta nói rằng đây là cốt truyện của nguyên tác "Trái tim thiếu nữ", hoàn toàn khác với "Hồi ức Mạn Na". Đáng lẽ trong quá trình sao chép bằng tay, không hiểu sao tựa đề của cuốn sách đã được dán nhãn thành "Hồi ức Mạn Na".
Ảnh hưởng.
Trong Cách mạng Văn hóa, tình trạng thiếu thốn sách vở và bản thảo rất phổ biến, ngoài ra, "Trái tim thiếu nữ" chứa một số lượng lớn các mô tả về tình dục, đã thu hút nhiều người sao chép lẫn nhau và nó đã trở nên phổ biến trên toàn quốc trong một thời gian dài.
Năm 1975, "Trái tim thiếu nữ" và "Cái bắt tay thứ hai" bị Diêu Văn Nguyên xếp vào loại sách phản động. Trương Dương, tác giả truyện "Cái bắt tay thứ hai", thậm chí còn bị "Bè lũ Bốn tên" bắt giam và bị kết án tử hình, người nào không bị xử tử thì được cải tạo sau Cách mạng Văn hóa. Dưới thời kỳ Cách mạng Văn hóa, ai mà bị phát hiện đọc và sao chép tác phẩm này sẽ bị trừng phạt trong đơn vị, thậm chí bị phê đấu, cải tạo bằng lao động và các hình phạt khác, nếu tình hình nghiêm trọng, họ thậm chí còn bị kết án với tội danh côn đồ.
|
Trái tim thiếu nữ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813060
|
"Trái tim thiếu nữ" đã có một tác động tiêu cực nhất định vào thời điểm đó. Một số độc giả đã bắt chước âm mưu quan hệ tình dục với người khác (lúc đó cũng được coi là "hành vi côn đồ" bất hợp pháp), và một số thậm chí còn phạm tội tình dục thực sự từ ảnh hưởng của tiểu thuyết. Quan điểm này vẫn được duy trì cho đến ngày nay.
Năm 1998, tạp chí "Focus" đưa tin rằng có một số lượng lớn bản in "Trái tim thiếu nữ" không có số sách chính thức lưu hành trên thị trường. Năm 2004, có người định in lại truyện này nhưng sau khi in xong đã bị chính quyền cấm bán.
Năm 2017, "Trái tim thiếu nữ" được chuyển thể thành phim "Hương vị mối tình đầu" do Ngô Tuyên Nghi đóng vai chính, vẫn chưa được phát hành.
|
Thận lâu chí
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813061
|
Thận lâu chí () là tiểu thuyết khiêu dâm do tác giả khuyết danh viết vào thời Thanh. Lấy bối cảnh chủ yếu ở Quảng Châu thời Minh, truyện kể về sự nghiệp chính trị và đời sống tình cảm của anh chàng đa thê trẻ tuổi Tô Cát Sĩ (). Tác phẩm này được xuất bản lần đầu vào năm 1804, bản tiếng Anh do Patrick Hanan dịch trọn vẹn được phát hành vào năm 2014 với tựa đề Mirage.
Cốt truyện.
Cuốn tiểu thuyết diễn ra vào thời Minh. Tô Cát Sĩ (), dân Quảng Châu, còn gọi bằng biệt danh thời thơ ấu là Tiếu Quan (), không muốn nối gót cha mình vốn là một thương gia "công hành" tên Tô Vạn Khôi (), thay vào đó thích sống theo chủ nghĩa khoái lạc. Phụ thân của anh ta liên tục bị viên quan thu thuế tham nhũng tên là Hách () làm tiền, đây là kẻ có hàng chục thê thiếp cộng thêm 40 gái điếm giúp việc cho hắn. Nắm bắt được thực tế rằng tên quan này khó lòng thỏa mãn tình dục những người phụ nữ của hắn, nhà sư dị giáo Ma Lạt () bèn bắt cóc và làm cho từng người một mang thai. Trong khi đó, Tô có quan hệ tình cảm với chị dâu tương lai mà về sau đã bỏ anh ta để đến với gã tình nhân tốt hơn. Tô được kỹ nữ tên Như () làm quen qua màn liếm dương vật, rồi sau anh ta làm tình kiểu tay ba với cô nàng và ả gái điếm Dã Dung (). Xuyên suốt cuốn tiểu thuyết, Tô Cát Sĩ luôn tìm cách cải thiện khả năng tình dục của mình; cuối cùng anh ta trở thành "vĩ nam" sau khi gặp được nhà sư Tây Tạng trao cho anh ta một số loại thuốc kích dục.
Ấn bản.
Toàn truyện gồm 24 hồi, "Thận lâu chí" do tác giả khuyết danh sử dụng bút danh Dữu Lĩnh lao nhân () viết bằng Bạch thoại. Theo lời tựa của truyện do La Phù cư sĩ () chấp bút thì tác giả sinh trưởng ở Quảng Đông. "Thận lâu chí" được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1804 tại Trường Thục, Giang Tô; bản in thứ hai được chép lại vào năm 1857. Một quyển ấn bản đầu tiên của cuốn tiểu thuyết được lưu tại Thư viện Quốc gia Trung Quốc ở Bắc Kinh. Năm 2014, Nhà xuất bản Đại học Trung văn đã cho ấn hành "Mirage", bản dịch tiếng Anh trọn vẹn cuốn "Thận lâu chí" của Patrick Hanan.
|
Thận lâu chí
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813061
|
Trong phần giới thiệu bản dịch của mình, Hanan viết rằng "Thận lâu chí" là "cuốn tiểu thuyết sớm nhất" mô tả việc buôn bán thuốc phiện ở Trung Quốc.
Phân tích.
Theo dịch giả Patrick Hanan, tác giả ẩn danh của "Thận lâu chí" mà ông xếp vào loại "Bildungsroman", đã lấy cảm hứng từ "Hồng lâu mộng". Keith McMahon mô tả tương tự nhân vật chính Tô Cát Sĩ là một "Tây Môn Khánh được sửa đổi" cũng như là "kẻ đa thê nhân từ". Ông lập luận thêm rằng truyện này sử dụng lại nhiều chủ đề phổ biến được tìm thấy trong "tiểu thuyết bạch thoại trước đó", chẳng hạn như "nhà sư Tây Tạng đơn độc với liều thuốc kích dục hiệu nghiệm và dương vật có thể co vào" và "viên quan tham nhũng, dâm đãng và những kẻ ăn bám hắn ta".
Đón nhận.
"Thận lâu chí" đã nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ giới phê bình văn học. Nhà bình luận thế kỷ 19 Đái Bất Phàm (戴不凡) tuyên bố rằng "không có cuốn tiểu thuyết nào vượt qua nó" trong một trăm năm sau khi xuất bản. Trịnh Chấn Đạc, viết năm 1927, ca ngợi cuốn tiểu thuyết vì "chủ nghĩa hiện thực và phong cách uyển chuyển". Lin Chen cũng ghi nhận chủ nghĩa hiện thực trong "Thận lâu chí", nhưng chỉ trích "tính bắt chước và lý tưởng hóa chế độ đa thê" trong truyện. Cai Guoliang trong một chuyên luận năm 1985 về văn học thời Minh Thanh, nhận thấy đây là một trong những tiểu thuyết "hạng hai hoặc hạng ba" hay hơn của thời đại nhưng kém hơn so với những tác phẩm như "Hồng lâu mộng" và "Nho lâm ngoại sử".
Nhà bình luận "Choice" là P. F. Williams ca ngợi công việc dịch thuật "Mirage", xưng tụng "tuyệt vời" và nỗ lực thêm thắt chú thích và thông tin khác nhằm giải thích những ám chỉ cụ thể về văn hóa và ngôn ngữ Trung Quốc. Dylan Suher, trong một bài viết về Hanan dành cho tạp chí "Asymptote", đã gọi "Mirage" "có ý nghĩa lịch sử" và ghi nhận phong cách dịch thuật đặc biệt của Hanan là "không ngừng chú ý đến những nét trang nhã tạo nên sự sống động cho các tác phẩm hư cấu như "Mirage"".
|
Thận lâu chí
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813061
|
Trong khi coi tác phẩm gốc chỉ ở mức "OK" do sử dụng nhiều khái niệm nhàm chán và cốt truyện chậm, gần như nhiều tập, Suher đã viết rằng tác phẩm "có sức hấp dẫn của nó". Ông đặc biệt thích cách đối xử nhạy cảm với nhân vật chính và chủ đề "thương mại lòe loẹt", bảo tồn một phần đời sống của con người mà sẽ không được đề cập đến trong nguồn tài liệu chính thống hơn.
Trong khi thảo luận về cốt truyện và những ám chỉ của bản dịch trong một bài viết cho tờ "Asian Review of Books", nhà văn Jonathan Chatwin đã chỉ ra rằng cuốn tiểu thuyết "không chỉ đơn giản là tổng thể của những ám chỉ của nó" và nó có thể kết hợp việc sử dụng các phép chuyển nghĩa để tạo thành một "bức chân dung hấp dẫn về một xã hội đang trên đỉnh của thời kỳ hiện đại đang gây bất ổn" qua sử thi nhiều hồi trong tuyện. Nó phản ánh phong cách của các sử thi dài hơn và phổ biến hơn, bao gồm cả việc có hàng trăm nhân vật được đặt tên, nhưng bản dịch của Hanan giúp truyện dễ đọc hơn và là một cuốn sách đáng để "thưởng thức" với "tiếng Anh bản ngữ rõ ràng". Keith McMahon đã đánh giá tác phẩm được dịch năm 2014 "Mirage" trên tạp chí "Nan Nü" và hết mực ca ngợi "sự uyên bác và sức chịu đựng" của việc Hanan đã hoàn thành bản dịch trước khi qua đời. McMahon bày tỏ sự nghi ngờ của mình rằng bản dịch này sẽ bị một bản dịch khác vượt qua về "kỹ năng và độ chính xác" trong "một thời gian dài" sắp tới.
|
Nam Savo
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813078
|
Nam Savo là một vùng thuộc miền đông Phần Lan, thủ phủ là thành phố Mikkeli. Năm 2023, vùng có dân số là 130.318 người–đứng thứ 15 ở Phần Lan và có điện tích đất liền là 17.099,02 km² (2021). Bên cạnh thủ phủ Mikkeli, vùng còn có 2 trung tâm đô thị khác là thành phố Pieksämäki và thành phố Savonlinna.
Vùng Nam Savo tiếp giáp với:
Nam Savo nằm tại trung tâm của vùng hồ Phần Lan (, ) và là nơi tọa lạc của hồ Saimaa. Điểm cao nhất của vùng là đồi Paukkulanmäki nằm tại huyện Kangasniemi, có độ cao 225 m so với mặt nước biển.
|
Trần Nam Hải
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813079
|
Trần Nam Hải (sinh ngày 5 tháng 2 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Việt Nam hiện thi đấu ở vị trí tiền vệ cho Sông Lam Nghệ An tại giải vô địch quốc gia Việt Nam.
Thống kê sự nghiệp.
Đội tuyển quốc gia.
Ghi chú
Danh hiệu.
Câu lạc bộ.
Trẻ Sông Lam Nghệ An
Quốc tế.
U-23 Việt Nam
|
Tổng giáo phận Gwangju
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813080
|
Tổng giáo phận Gwangju (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Địa giới của tổng giáo phận bao gồm thành phố Gwangju và tỉnh Jeolla Nam.
Lịch sử.
Vào ngày 13/4/1937, Giáo hoàng Piô XI thành lập Hạt Phủ doãn Tông tòa Kwoszu. Ngày 12/7/1950, Giáo hoàng Piô XII đổi tên hạt này thành Hạt Phủ doãn Tông tòa Kwangju. Sau đó hạt được nâng cấp thành một Hạt Đại diện Tông tòa vào ngày 21/1/1957. Vào ngày 10/3/1962, Giáo hoàng Gioan XXIII đã nâng cấp Hạt Đại diện Tông tòa này thành một Tổng giáo phận.
|
Giao lộ Ebina
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813088
|
Giao lộ Ebina (Tiếng Nhật: ジャンクション), còn được gọi là Ebina JCT (Tiếng Nhật: JCT) , là một giao lộ nằm ở Ebina, Kanagawa, Nhật Bản. Nó là điểm giao nhau giữa Đường cao tốc Tomei (AH1), và . Nó nằm gần trên Tuyến Sagami.
|
Động đất ngoài khơi Miyagi 2005
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813091
|
xảy ra vào lúc 11:46 (theo giờ địa phương), ngày 16 tháng 8 năm 2005. Trận động đất có cường độ 7.2 richter, tâm chấn độ sâu khoảng 36 km, nằm ngoài khơi tỉnh Miyagi. Cơ quan khí tượng Nhật Bản đã phát cảnh báo sóng thần sau động đất. Hậu quả trận động đất đã làm 39 người bị thương.
|
Động đất Vịnh Suruga 2009
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813102
|
xảy ra lúc 5:07 (theo giờ địa phương), vào ngày 11 tháng 8 năm 2009. Trận động đất có cường độ 6.4 độ richter, tâm chấn độ sâu khoảng 26 km. Hậu quả trận động đất đã làm 1 người chết, 134 người bị thương.
|
Maarten de Jonge
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813108
|
Maarten de Jonge (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1985) là một cựu vận động viên đua xe đạp người Hà Lan đã thi đấu chuyên nghiệp cho 10 đội đua trong cả sự nghiệp của mình. Anh tuyên bố đã đặt vé cho Chuyến bay 370 và 17 của hãng hàng không Malaysia Airlines, nhưng đã hủy vé vào phút chót để tiết kiệm tiền.
Đến nay, chưa bao giờ được xác nhận độc lập rằng de Jonge đã từng đặt vé cho cả hai chuyến bay. Theo nguồn tin của Slate, de Jonge chỉ đề cập rằng anh muốn bay vào ngày MH17 bị rơi, nhưng anh chưa bao giờ đề cập rằng anh đã đặt vé cho chuyến bay đó. Slate cũng đề cập rằng không có lý do gì để de Jonge đặt chuyến bay trên MH370.
|
Maria Zuba
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813109
|
Maria Zuba (sinh ngày 6 tháng 4 năm 1951 tại Suchedniów) là một chính khách người Ba Lan. Bà được bầu vào Sejm vào ngày 25 tháng 9 năm 2005, nhận được 3397 phiếu bầu tại khu vực bầu cử Kielce với tư cách là ứng cử viên đại diện cho đảng Luật pháp và Công lý.
|
Trường Khanh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813116
|
Trường Khanh có thể là:
|
National Football League Draft
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813122
|
National Football League Draft, còn được gọi là NFL Draft hoặc có tên gọi chính thức là Player Selection Meeting (Cuộc họp tuyển chọn cầu thủ), là một sự kiện thường niên đóng vai trò là nguồn tuyển dụng cầu thủ phổ biến nhất cho giải đấu National Football League. Mỗi đội được lựa chọn cầu thủ theo thứ tự ngược lại so với thành tích của đội đó trong năm trước, có nghĩa là đội ở vị trí cuối cùng được xếp ở vị trí đầu tiên và nhà vô địch Super Bowl ở vị trí cuối cùng. Từ vị trí này, đội có thể chọn một cầu thủ hoặc đổi vị trí của mình cho một đội khác để lấy các vị trí hoặc cầu thủ khác. Vòng kết thúc khi mỗi đội đã chọn một cầu thủ hoặc đổi được vị trí của mình. Cuộc tuyển chọn đầu tiên được tổ chức vào năm 1936 và đã được tổ chức hàng năm kể từ đó.
Một số khía cạnh của cuộc tuyển chọn, bao gồm cả vị trí đội và số vòng, đã được thay đổi nhiều lần, nhưng phương pháp cơ bản vẫn giữ nguyên. Hiện tại, cuộc tuyển chọn bao gồm bảy vòng. Lý do ban đầu khi tạo chúng là để tạo sự công bằng giữa các đội khi đội tệ nhất sẽ có thể chọn cầu thủ giỏi nhất hiện có. Trong những năm đầu tiên của dự thảo, cầu thủ được chọn dựa trên tin đồn, phương tiện in ấn hoặc bằng chứng thô sơ khác về năng lực. Vào những năm 1940, một số thương hiệu bắt đầu tuyển dụng các tuyển trạch viên toàn thời gian. Thành công sau đó của những đội này cuối cùng đã buộc các thương hiệu khác cũng phải thuê tuyển trạch viên.
Thông thường, tên của các cuộc tuyển chọn hàng năm có dạng của mùa giải NFL mà những người chơi được chọn có thể bắt đầu thi đấu. Ví dụ: NFL Draft 2010 dành cho mùa giải NFL 2010 . Tuy nhiên, tên chính thức do NFL xác định đã nhiều lần thay đổi. Vị trí của cuộc tuyển chọn đã liên tục thay đổi trong những năm qua để phù hợp với độ nổi tiếng của nó. Cuộc tuyển chọn đã trở thành sự kiện quan trọng, phủ sóng các kênh truyền hình vào khung giờ vang. Trong những năm đầu, từ giữa những năm 1930 đến giữa những năm 1960, NFL Draft được tổ chức ở nhiều thành phố khác nhau theo nhượng quyền thương mại của NFL cho đến khi ổn định ở Thành phố New York bắt đầu từ năm 1965. Địa điểm tổ chức đã được giữ nguyên cho đến năm 2015.
|
National Football League Draft
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813122
|
Khi cuộc tuyển chọn được tổ chức trong tương lai, các địa điểm tổ chức sẽ được xác định thông qua quy trình đấu thầu hàng năm.
|
Lý Trường Khanh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813129
|
Lý Trường Khanh có thể là:
|
Mérida Open 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813141
|
Mérida Open Akron 2023 là một giải quần vợt nữ chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời và là một phần của WTA 250 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Yucatán Country Club ở Mérida, Mexico, từ ngày 20 đến ngày 26 tháng 2 năm 2023 để thay thế cho giải Abierto Zapopan.
Nội dung đơn.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Nội dung đôi.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
|
Nguyễn Văn Long
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813142
|
Nguyễn Văn Long (sinh năm 1974) là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, cấp bậc Thiếu tướng. Ông hiện là Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam,
Xuất thân và giáo dục.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Long sinh năm 1974, quê ở xã Cao xá, huyện Tân Yên, tỉnh Bắc Giang.
Ông tốt nghiệp Đại học hệ chính quy, chuyên ngành cảnh sát kinh tế khóa D19, Học viện Cảnh sát nhân dân.
Thân thế, sự nghiệp.
Quá trình công tác ông từng giữ các chức vụ: Phó Trưởng phòng thuộc Cục Tham mưu Cảnh sát, Trưởng phòng thuộc Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường, thuộc Tổng cục Cảnh sát.
Tháng 5 năm 2014, ông được bổ nhiệm chức vụ Phó Giám đốc Công an tỉnh Bắc Ninh.
Tháng 11 năm 2018, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Công an tỉnh Bắc Ninh .
Tháng 9 năm 2019, ông đảm nhận chức vụ Cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu.
Thứ trưởng Bộ Công an.
Tháng 1 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính bổ nhiệm ông Nguyễn Văn Long giữ chức Thứ trưởng Bộ Công an.
Ngày 17 tháng 1 năm 2022, Bộ Công an tổ chức lễ công bố và trao quyết định của Thủ tướng về việc bổ nhiệm chức vụ thứ trưởng Bộ Công an đối với thiếu tướng Nguyễn Văn Long, cục trưởng Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu (C03).Thừa ủy quyền của Thủ tướng, Bộ trưởng Tô Lâm đã trao quyết định bổ nhiệm chức vụ thứ trưởng Bộ Công an đối với thiếu tướng Nguyễn Văn Long.
|
Tử Huyên
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813144
|
Tử Huyên có thể là:
|
Mérida Open 2023 - Đơn
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813145
|
Camila Giorgi là nhà vô địch, đánh bại Rebecca Peterson trong trận chung kết, 7–6(7–3), 1–6, 6–2.
Đây là lần đầu tiên giải đấu được tổ chức.
|
Trọng Lâu
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813151
|
Trọng Lâu (Trùng Lâu) có thể là:
|
Mérida Open 2023 - Đôi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813154
|
Caty McNally và Diane Parry là nhà vô địch, đánh bại Wang Xinyu và Wu Fang-hsien trong trận chung kết, 6–0, 7–5.
Đây là lần đầu tiên giải đấu được tổ chức.
|
2023 tại Trung Quốc
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813155
|
Dưới đây là sự kiện trong năm tại Trung Quốc 2023.
|
Nghiêm Mỹ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813162
|
Nghiêm Mỹ (ngày 5 tháng 5 năm 1916 – ngày 11 tháng 8 năm 2000) là tiến sĩ khoa học, nha sĩ, nhà ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, từng là đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Jordan.
Tiểu sử.
Nghiêm Mỹ chào đời tại tỉnh Hà Đông (nay là Hà Nội), Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương ngày 5 tháng 5 năm 1916. Anh trai tên Nghiêm Đằng là phó hiệu trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, và em trai Nghiêm Thẩm là giáo sư khảo cổ học tại Việt Nam.
Năm 1973, ông sang làm Đại biện lâm thời của Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa tại Tehran.
Tháng 3 năm 1974, ông được bổ nhiệm làm đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Jordan.
Đời tư.
Theo cuốn "Who's Who in Vietnam", xuất bản năm 1974, Nghiêm Mỹ là người thờ cúng tổ tiên, có vợ và ba con. Ông còn là thành viên Câu lạc bộ Golf Wellington.
|
Trần Tâm
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813163
|
Trần Tâm (ngày 10 tháng 1 năm 1917 – ?) là chính khách Việt Nam Cộng hòa và Tổng thư ký kiêm Chủ tịch phân hội Việt Nam trực thuộc Liên minh Nhân dân châu Á chống Cộng sản.
Tiểu sử.
Trần Tâm quê quán tỉnh Thái Bình miền bắc Việt Nam, sinh ngày 10 tháng 1 năm 1917.
Từ năm 1932 đến năm 1945, ông từng tham gia các tổ chức chống thực dân Pháp. Từ năm 1947 đến năm 1949, ông là tham mưu trưởng lực lượng vũ trang kháng chiến chống thực dân, với quân hàm đại tá. Từ năm 1949 đến năm 1956, ông gia nhập các tổ chức chống thực dân và chống cộng sản.
Năm 1956, ông là phó chủ tịch phân hội Việt Nam trực thuộc Liên minh Nhân dân châu Á chống Cộng sản, về sau được thăng chức chủ tịch tổ chức này vào tháng 1 năm 1958.
|
Bửu Đôn
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813164
|
Bửu Đôn (ngày 23 tháng 12 năm 1935 – ngày 30 tháng 1 năm 2018) là kỹ sư Việt Nam, từng một thời giữ chức Bộ trưởng Bộ Công chánh Việt Nam Cộng hòa từ năm 1967 đến năm 1968.
Tiểu sử.
Bửu Đôn chào đời tại Huế, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương vào ngày 23 tháng 12 năm 1935 (có thuyết nói là ngày 7 tháng 3).
Sau khi học xong cấp hai, Bửu Đôn sang Pháp du học. Năm 1958, ông tốt nghiệp Khoa Kỹ thuật Xây dựng của Viện Ponts Quốc gia ở Paris nước Pháp. Năm 1959, ông tốt nghiệp Học viện Cơ khí và Lọc Hóa dầu Paris, rồi về nước.
Sau khi trở về nước, ông vào làm việc tại Sở Nghiên cứu Cầu đường Bộ Công chánh. Năm 1963, ông được thuyên chuyển về làm Chủ nhiệm Sở Lọc dầu Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng hòa. Sau cuộc đảo chính năm 1963, Sở Lọc dầu bị giải thể, ông được thuyên chuyển về Tổng cục Kế hoạch, làm trợ lý Cục trưởng Kế hoạch. Năm 1965, ông được bổ nhiệm làm Giám đốc Sở Cầu đường.
Năm 1967, ông lên làm Bộ trưởng Bộ Công chánh trong Nội các Nguyễn Văn Lộc. Năm 1968, Trần Văn Hương kế nhiệm Nguyễn Văn Lộc làm Thủ tướng, kỹ sư trong nội các mới là Lương Thế Siêu nhậm chức Bộ trưởng Bộ Công chánh và Giao thông Vận tải. Năm 1969, ông bỏ ra ngoài thành lập Vecco vào và giữ chức vụ tổng giám đốc của công ty này cho đến tháng 4 năm 1975.
Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Bửu Đôn cùng gia đình di cư sang Mỹ rồi làm cố vấn cho một công ty ở Côte d'Ivoire tại châu Phi. Về sau ông quay về Mỹ vào làm việc trong ngành công nghiệp máy tính non trẻ cho đến khi nghỉ hưu.
Bửu Đôn qua đời tại Silver Spring, Maryland, Hoa Kỳ vào ngày 30 tháng 1 năm 2018.
Đời tư.
Theo "Who's Who in Vietnam" xuất bản năm 1974 cho biết Bửu Đôn theo tín ngưỡng Phật giáo, có vợ và hai con.
|
Kezuriki
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813166
|
là dụng cụ nhà bếp truyền thống của Nhật Bản, tương tự như cái bào bằng gỗ hoặc mandoline. Nó được dùng để bào làm từ những khối cá ngừ vằn khô ().
Kỹ thuật được sử dụng để chuẩn bị nguyên liệu nấu ăn là kéo và đẩy một khối qua lưỡi dao trong thiết bị theo chuyển động tới lui. Những lát cá bào mỏng được giữ trong một ngăn kéo bằng gỗ ở dưới cùng của thiết bị và lấy ra bằng cách mở và đổ những miếng cá bào được sắp xếp đại khái thành hai kích cỡ cho các mục đích sử dụng khác nhau.
Lát cá bào mỏng là một thành phần chính của ẩm thực Nhật Bản. Lát cá bào lớn hơn, dày hơn gọi là , được đun sôi với để làm thành nước dùng . Lát cá bào nhỏ hơn, mỏng hơn thì gọi là , được dùng làm hương liệu và phủ lên trên nhiều món ăn Nhật chẳng hạn như .
Ngày nay, nhiều hộ gia đình Nhật Bản không còn sử dụng nữa, thay vào đó họ chọn mua những gói hoặc đã được bào sẵn tại các siêu thị.
|
Trần Kha
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813167
|
Trần Kha (giản thể: 陈珂, phồn thể: 陳珂, bính âm: "Chén Kē"; sinh ngày 9 tháng 8 năm 1995) là một nữ ca sĩ người Trung Quốc trực thuộc công ty giải trí Shanghai STAR48 Culture Media Co., Ltd. Cô là thành viên thế hệ thứ 5 của nhóm nhạc nữ thần tượng SNH48, và là thành viên của Đội G thuộc GNZ48.
Vào ngày 15 tháng 1 năm 2023, sau Đại cải tổ GNZ48 cô chuyển xuống là thành viên của Team Z
Sự nghiệp.
Ngày 25 tháng 7 năm 2015, cô trở thành thành viên thế hệ thứ 5 của SNH48. Ngày 4 tháng 12, cô chính thức ra mắt thông qua buổi công diễn đầu tiên "Theater Goddess", và chuyển đến Đội XII của SNH48.
Ngày 28 tháng 3 năm 2016, cô cùng SNH48 giành được Giải thưởng đột phá nhất trong năm và Giải thưởng kết hợp do khán giả bình chọn trong "Lễ hội âm nhạc Billboard phương Đông" lần thứ 23. Ngày 20 tháng 4, cô chuyển đến GNZ48 và gia nhập Đội G của GNZ48. Ngày 30 tháng 7, cô tham gia tổng tuyển cử "Fly Together" lần thứ 3. Ngày 7 tháng 9, cô cùng GNZ48 phát hành đĩa mở rộng đầu tiên "You Don't Know Me".
|
When Emma Falls in Love
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813171
|
"When Emma Falls in Love" ( "Khi Emma phải lòng") là một bài hát của nữ ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Mỹ Taylor Swift, trích từ album tái thu âm của cô mang tên "Speak Now (Taylor's Version)" (2023). Ca khúc do chính Swift sáng tác kiêm vai trò đồng sản xuất với Aaron Dessner. Bài hát theo góc nhìn của Swift khi chứng kiến mối tình đã kết thúc của một người bạn và sự ngưỡng mộ của cô ấy dành cho người cô yêu. Được pha trộn giữa nhạc đồng quê và pop, nhạc phẩm bắt đầu như một bản ballad du dương trước khi xây dựng phần điệp khúc. Bài hát đạt vị trí thứ 36 trên bảng xếp hạng "Billboard" Global 200 và tiến vào các bảng xếp hạng tại Úc, New Zealand, Canada và Hoa Kỳ.
Bối cảnh.
Taylor Swift đã phát hành album "Speak Now" vào năm 2010 và sau đó là ba album phòng thu tiếp theo dưới hãng thu âm Big Machine đến tháng 11 năm 2018 khi hợp đồng với hãng đã chính thức hết hạn. Cô đã rời khỏi Big Machine và đã ký hợp đồng với hãng thu âm mới Republic Records. Vào năm 2019, một doanh nhân người Mỹ tên là Scooter Braun đã mua lại hãng thu âm Big Machine. Sau khi mua lại hãng, quyền sở hữu bản gốc đối với tất cả sáu album phòng thu đầu tiên của Swift, bao gồm cả album "Speak Now" cũng đã được Braun mua lại. Vào tháng 8 năm 2019, Swift đã tố cáo việc Braun mua lại cả sáu album trên đồng thời cũng thông báo rằng cô sẽ thu âm lại cả sáu album phòng thu đầu tiên để tự mình sở hữu các bản gốc của chúng. Swift đã bắt đầu thu âm lại album từ tháng 11 năm 2020.
Vào ngày 5 tháng 5 năm 2023, tại buổi biểu diễn Nashville đầu tiên trong chuyến lưu diễn The Eras Tour, Swift đã chính thức thông báo về album tái thu âm tiếp theo là "Speak Now (Taylor's Version)", đồng thời cô cũng thông báo về ngày phát hành của album là ngày 7 tháng 7 năm 2023, Vào ngày hôm sau, cô đã đăng một bài đăng nói về album này trên mọi nền tảng mạng xã hội, viết rằng "Tôi yêu album này bởi vì nó kể câu chuyện về quá trình trưởng thành, lúng túng, bay bổng, đâm sầm vào tình yêu... và đã giúp tôi sống để muốn nói về nó". Swift nhấn mạnh những khó khăn mà cô đã từng phải đối mặt trong cuộc sống của mình trong thời gian mà cô viết bản ghi, trong đó có "sự trung thực tàn nhẫn, những lời thổ lộ mơ hồ và sự bâng khuâng hoang dại".
|
When Emma Falls in Love
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813171
|
Vào ngày 5 tháng 6, danh sách bài hát trong album đã chính thức được công bố với tổng cộng 22 bài hát, trong số đó có 16 bài hát được tái thu âm từ bản album gốc và sáu bài hát còn lại của album có thêm nhan đề "from the Vault", sáu bài hát này đã chưa được phát hành trước đó mặc dù đã được viết từ album "Speak Now" nhưng lại không thể vượt qua vòng kiểm duyệt để cho vào danh sách ca khúc vào năm 2010.
Sáng tác.
"When Emma Falls in Love" là một ca khúc đồng quê pha trộn với nhạc pop mang âm hưởng và nhạc tố từ nhạc pop đồng quê cổ điển từ Nashville, được đặc trưng bởi những tiếng băng cầm và giai điệu dương cầm. Bài hát mở đầu bằng một khúc nhạc dạo với những âm thanh du dương từ những nốt dương cầm, mang lại một bản ballad đầy nhẹ nhàng. Kế tiếp đó là một đoạn điệp khúc "đầy bùng nổ" với một loạt tiếng trống và guitar bass. Cây bút Melissa Ruggieri từ tạp chí "Billboard" lấy bài hát làm ví dụ cho sự "trẻ thơ" của album.
Với lời ca được kết cấu từ bài hát năm 2008 "Love Story", "When Emma Falls in Love" có chủ đề về tình yêu theo góc nhìn thứ ba khi nó viết về trải nghiệm của một cô bạn đã từng trải qua một mối tình đã kết thúc. Ở đoạn cuối của bài hát, người bạn của cô cũng đã rút ra bài học từ kinh nghiệm yêu đương của bạn mình và khẳng định với mong ước "được trở thành cô ấy". Nhiều độc giả nhận định rằng, "When Emma Falls in Love" thể hiện sự ngưỡng mộ của người bạn đối với cô ấy. Cassandra Green từ tạp chí "Elle Australia" đã ví bài hát như là một ví dụ về tình bạn để thể hiện tất cả những phẩm chất tốt nhất của cô ấy.
Phát hành.
Sau khi công bố danh sách bài hát trong bản album tái thu âm và khi biểu diễn trong chuyến Eras Tour, Swift đã xác nhận rằng, "When Emma Falls in Love" được lấy cảm hứng từ một người bạn của cô. Điều này khiến nhiều người đã phỏng đoán ca khúc kể về nữ diễn viên người Mỹ Emma Stone, một người bạn thân của Swift từ năm 2008. Vào ngày 7 tháng 7, Swift đã biểu diễn ca khúc trên Sân vận động Arrowhead ở Thành phố Kansas như là một phần của The Eras Tour.
Đón nhận.
"When Emma Falls in Love" đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ giới phê bình. Meliss Ruggieri từ tờ "USA Today" đã gọi bài hát là ca khúc vault hay nhất trong album.
|
When Emma Falls in Love
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813171
|
Will Hodgkinson từ tờ "The Times" đã phong tặng cho bài hát 4/5 sao và nhận xét bài hát có tính chất "hấp dẫn và bay bổng". Jonathan Keefe từ trang "Slant Magazine" đã khẳng định bài hát rất "ngoạn mục" và có thể đem lại "một số góc nhìn bên ngoài rất cần thiết" cho album. Kate Solomon từ tờ "I" lại coi bài hát là "cực kỳ tầm thường".
Đội ngũ thực hiện.
Đội ngũ thực hiện được điều chỉnh trên ghi chú trên bìa bản CD.
|
Super Shy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813172
|
"Super Shy" là một bài hát của nhóm nhạc nữ người Hàn Quốc NewJeans được phát hành dưới dạng đĩa đơn kỹ thuật số với vai trò là đĩa đơn đầu tiên trích từ đĩa mở rộng thứ hai của nhóm "Get Up" vào ngày 7 tháng 7 năm 2023. Ca khúc do Gigi, Kim Dong-hyun, Erika Casier, Kristine Bogan và thành viên của nhóm Danielle Marsh sáng tác kiêm vai trò đồng sản xuất với Frankie Scoca. Với chất liệu bubblegum và phong cách âm nhạc jersey club, "Super Shy" lấy cảm hứng từ trải nghiệm hồi hộp, bỡ ngỡ khi lần đầu được yêu và tỏ tình. Heewon Shin đảm nhận vai trò đạo diễn video âm nhạc cho ca khúc, sau khi phát hành, nhiều nhà phê bình đã đánh giá cao video này bởi sự gắn kết với phong cách hình ảnh của Wes Anderson.
Sau khi phát hành, "Super Shy" lọt vào các bảng xếp hạng tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Ireland, New Zealand và Vương quốc Anh.
Bối cảnh và phát hành.
Sau sự thành công của album đĩa đơn đầu tay "OMG". Vào tháng 1 năm 2023, giám đốc điều hành của ADOR, bà Min Hee-jin đã công bố về album mới trong một buổi phỏng vấn với tạp chí "Cine21". Vào ngày 4 tháng 4 năm 2023, trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí "Billboard", Minji cho biết họ đã hoàn thành công việc thu âm, trang báo "Star News" cũng đã thông báo về ngày phát hành của album là vào tháng 7 năm 2023 trong khi ca khúc mặt B của album sẽ được phát hành vào ngày 7 tháng 7.
Vào ngày 19 tháng 6 năm 2023, ADOR đã công bố về nhan đề của EP và hé lộ thêm ngày phát hành cùng với một bài hát là đĩa đơn chủ đạo trong EP là "Super Shy" và một bài hát mặt B tên "New Jeans". Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí "Rolling Stone", thành viên Hanni đã mô tả EP mang đến nhiều phong cách độc lạ hơn và có thể chứng minh thông điệp được gửi gắm từ nhóm nhạc.
Vào ngày 4 tháng 7 năm 2023, một đoạn video shorts được đăng trên YouTube có hiển thị những chiếc light stick hình thỏ kèm thêm với hashtag và ngày phát hành của bài hát. Sau khi phát hành đĩa đơn, NewJeans thông báo về ý định hợp tác và quảng bá bài hát với YouTube thông qua trào lưu "Dance Challenge" với hashtag "#ImSuperShy".
Sáng tác.
|
Super Shy
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813172
|
Sáng tác.
"Super Shy" là một ca khúc bubblegum với các ảnh hưởng từ nhạc tố Jersey club được đặc trưng bởi những tiếng trống trầm bị ngắt quãng theo kết cấu giai điệu pha trộn thêm với những tiếng synthesizer "nhẹ nhàng". Sau phần nhạc dạo trên, phần điệp khúc tiếp nối với lời hát của NewJeans được lặp lại xuyên suốt bài hát, "I'm super shy, super shy / But wait a minute while I / Make you mine, make you mine / Tteollineun jigeumdo / You're on my mind all the time / I wanna tell you but I'm / Super shy, super shy" mô tả bản thân đang thích ai đó và mong muốn được tỏ tình với người mình thích.
Video âm nhạc.
Video âm nhạc do chính Minji sản xuất, đồng thời do Heewon Shin làm đạo diễn. Video chính thức ra mắt trên nền tảng YouTube vào ngày 7 tháng 7 trên kênh của công ty Hybe Corporation. Vài ngày sau, nhóm nhạc tiếp tục đăng tải các video vũ đạo. Video âm nhạc bắt đầu bằng cảnh thành viên của nhóm, Danielle đang lái một chiếc xe đạp màu đỏ băng qua khắp các con phố ở Lisboa, Bồ Đào Nha để gặp các thành viên khác trong công viên. Sau đó, cả nhóm phát hiện ra một nhóm tập thể dục đang nhảy theo bài "Attention" của họ và nhanh chóng tham gia để biểu diễn ca khúc "Super Shy" khiến flash mob nhanh chóng xuất hiện tại quảng trường, công viên, đường phố và nhiều địa điểm khác.
Xuyên suốt video, các thành viên trong nhóm đều mặc váy quần vợt và đồng phục cổ vũ cùng với vũ đạo nhanh, năng lượng cao dựa trên động tác Waacking mà sau này đã trở thành một trào lưu trên mạng. Trong video, NewJeans đa số ăn mặc theo phong cách khá mới lạ như để các kiểu tóc vàng tẩy trắng hay mái ngố. David Renshaw từ tạp chí "The Fader" nhận định về tầm ảnh hưởng từ phong cách hình ảnh của nhà làm phim Wes Anderson trong toàn bộ video.
Định dạng bài hát.
Tải kĩ thuật số
|
Duyên hải phía Nam (Krym)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813180
|
Duyên hải phía Nam (; ; ), còn được gọi là Riviera Krym, là một khu vực địa lý nằm tại phía nam bán đảo Krym, khu vực được quốc tế công nhận là một phần của Ukraina nhưng hiện do Nga kiểm soát. Duyên hải phía Nam trải dài từ mũi Aya đến núi Kara Dag, có tổng chiều dài khoảng 180 km. Duyên hải phía Nam từ lâu đã là một địa điểm du lịch nổi bật, do có khí hậu tương đối ấm áp và có những lợi ích có mục đích đối với sức khỏe hô hấp, và ước tính thu hút khoảng 500.000 khách du lịch hàng năm ngay từ năm 1984.
Khí hậu.
Duyên hải phía Nam là phần ấm nhất của Krym, có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, tiếp giáp với khí hậu Địa Trung Hải mùa hè nóng, và dễ xảy ra lốc xoáy vào mùa đông và áp suất khí quyển cao vào mùa hè. Ví dụ, nhiệt độ tại thành phố Yalta đạt đỉnh vào khoảng 29,4 °C trong tháng 8 và giảm xuống mức thấp 2,2 °C vào tháng 2.
Duyên hải phía Nam có hệ thực vật đa dạng đáng kể, với số lượng khoảng 1.500 loài hầu hết liên quan đến các loài khác cũng được tìm thấy ở các khu vực xung quanh Địa Trung Hải. Trong số những loài này có bách xù, trúc đào, thông Aleppo, thông Thổ Nhĩ Kỳ, cây dầu thông, ô liu và cây dâu tây Hy Lạp. Vườn cây ăn quả, vườn nho và đồn điền trong lịch sử là một phần quan trọng của nền kinh tế địa phương.
Du lịch và điểm mốc.
Một số điểm mốc, cả tự nhiên và nhân tạo, tồn tại ở Duyên hải phía Nam và một số khu bảo tồn thiên nhiên tồn tại trong khu vực (trong đó có Khu bảo tồn thiên nhiên Karadag, Khu bảo tồn Mũi Martyan và Vườn bách thảo Nikitsky). Khu vực này rải rác có các thành tạo địa chất núi lửa, trong số đó có Núi Kara Dag và Ayu-Dag. Khu vực này còn được biết đến là một địa điểm nghỉ dưỡng, và là nơi có nhiều cung điện, trong số đó có cung điện Vorontsov ở Alupka, thành Sudak của người Genova, cung điện Livadia và cung điện Yusupov ở Koreiz.
Ngoài các tòa nhà, khu nghỉ dưỡng và khu bảo tồn tự nhiên, Duyên hải phía Nam còn có một số "đường mòn sức khỏe" theo đề xuất của bác sĩ lâm sàng người Nga Serge Botkin.
|
Duyên hải phía Nam (Krym)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813180
|
Trong số những con đường này có Đường mòn của Sa hoàng, được xây dựng dưới sự giám sát của Sa hoàng Aleksandr III.
Sau khi Botkin chết, đường mòn Botkin (Боткінська стежка) được tạo ra bởi những người ủng hộ các phương pháp của ông. Các lợi ích sức khỏe có mục đích của Duyên hải phía Nam, đặc biệt là đối với các bệnh về đường hô hấp, được Volodymyr Kubijovyč tuyên bố là nguyên nhân thu hút du khách đến khu vực, và tại thời điểm xuất bản cuốn Bách khoa toàn thư Ukraina đầu tiên, hơn 500.000 khách du lịch đã đến thăm Duyên hải phía Nam hàng năm, so với dân số tương đối ít ỏi của khu vực là 20.000 người.
Duyên hải phía Nam trong lịch sử là nơi sinh sống của một cộng đồng đồng tính đáng kể. Một bãi biển khỏa thân được mở tại khu định cư kiểu đô thị Simeiz trong thời Liên Xô, và thời Ukraina độc lập là Hedgehogs với một quán bar và câu lạc bộ đêm. Trước khi Liên bang Nga sáp nhập Krym, Hedgehogs từng là địa điểm nổi tiếng để những người đồng tính luyến ái từ Ukraina, Belarus và Nga tụ tập, thu hút khoảng 4.000 khách du lịch hàng năm.
Lịch sử.
Bằng chứng về sự định cư thời tiền sử đã được tìm thấy tại Duyên hải phía Nam, đặc biệt là các công cụ Oldowan được tìm thấy tại Echkidag, Gaspra, Ai-Petri và gần Sevastopol. Người Tauri sống ở Duyên hải phía Nam, xen kẽ với người Hy Lạp và La Mã. Ngày nay, một số tàn dư của những tương tác này vẫn còn, chẳng hạn như thành trì Charax và nhiều tên địa danh khác nhau (Simeiz, Gaspra, và Koreiz , trong số những tên khác). Cộng hòa Genova cũng thuộc địa hóa bờ biển, thuộc lãnh thổ của Gazaria thuộc Genova. Năm 1475, khu vực này bị Đế quốc Ottoman chinh phục, và khuất phục trước khi trở thành một phần của Nga sau Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1768–1774), cùng với phần còn lại của Krym.
Trong lịch sử, Duyên hải phía Nam là khu vực có nhiều người Tatar Krym sinh sống nhất của bán đảo Krym; theo điều tra nhân khẩu của Liên Xô năm 1939, khu Yalta có 29,51% là người Tatar Krym, khu Alushta là 63,14% người Tatar Krym và khu Sudak là 70,34% người Tatar Krym.
|
Duyên hải phía Nam (Krym)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813180
|
Tuy nhiên, kể từ khi trục xuất người Tatar Krym, người Nga đã được định cư rộng khắp; theo điều tra dân số Ukraina năm 2001, huyện Yalta có 66% là người Nga, khu Alushta là 67% là người Nga và khu Sudak là 59% là người Nga (so với 58,5% dân số của Cộng hòa Tự trị Krym nói chung).
Chính quyền.
Duyên hải phía Nam hiện nằm dưới quyền kiểm soát của Nga kể từ khi Liên bang Nga sáp nhập Krym, và theo ranh giới nội bộ của Nga và Ukraine trước năm 2020, khu vực được quản lý bởi các khu Yalta, Alushta và Sudak, cũng như thành phố Sevastopol và một phần của khu Feodosia. Sau khi Ukraina cải cách các đơn vị hành chính vào năm 2020, Duyên hải phía Nam được quy thuộc huyện Yalta và một phần của các huyện Bakhchysarai và Feodosia.
|
Adebayo Adeleye
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813193
|
Adebayo Adeleye (sinh ngày 17 tháng 5 năm 2000) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Nigeria hiện tại đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Hapoel Jerusalem tại Giải bóng đá Ngoại hạng Israel, và Đội tuyển bóng đá quốc gia Nigeria.
Sự nghiệp thi đấu.
Adebayo Adeleye đã gia nhập Hapoel Katamon năm 2018 từ B-United Football Academy, sau khi không thành công trong việc chơi ở Giải bóng đá Ngoại hạng Nigeria.
Vào tháng 8 năm 2019, Adeleye ra mắt chuyên nghiệp cho Hapoel Jerusalem trong trận thua 0-2 trước Hapoel Rishon LeZion. Mùa giải tiếp theo, anh đã giúp câu lạc bộ thăng hạng lên Giải bóng đá Ngoại hạng Israel với 19 trận giữ sạch lưới sau khi họ kết thúc với vị trí á quân ở Liga Leumit. Sau khi thăng hạng, anh ra mắt chuyên nghiệp vào tháng 8 năm 2021, giữ sạch lưới trong trận hòa 0–0 với Hapoel Nof HaGalil.
Sự nghiệp quốc tế.
Adeleye từng là thành viên của đội tuyển U-17 vào năm 2017 và U-20 Nigeria vào năm 2018. Tháng 6 năm 2022, anh được gọi triệu tập lên đội tuyển quốc gia nước này. Vào ngày 18 tháng 6 năm 2023, anh có trận ra mắt quốc tế, trong chiến thắng 3–2 trước Sierra Leone.
|
Eurométropole de Metz
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813195
|
Eurométropole de Metz là một đô thị, cấu trúc liên xã tập trung vào các thành phố của Metz. Nó nằm ở Moselle, Grand Est, vùng đông bắc Pháp. Nó được tạo ra dưới dạng "một cộng đồng khối dân cư" vào tháng 1 năm 2014 và trở thành "đô thị" vào tháng 1 năm 2018. Nó có diện tích 312,8 km2 và dân số 224.863 người vào năm 2019.
Bố cục.
Métropole này bao gồm 45 xã sau:
|
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nam trẻ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813196
|
Mili Poljičak là đương kim vô địch, nhưng không đủ điều kiện tham dự giải trẻ.
Henry Searle là nhà vô địch, đánh bại Yaroslav Demin trong trận chung kết, 6–4, 6–4. Searle là tay vợt Anh Quốc đầu tiên vô địch nội dung đơn nam trẻ Wimbledon sau Stanley Matthews vào năm 1962.
|
Unfavorable Semicircle
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813206
|
Unfavorable Semicircle là tên của một loạt kênh trên YouTube đã thu hút sự chú ý nhờ mật độ xuất bản video dày đặc và tính chất bất thường của các video đã xuất bản. BBC đã gọi Unfavorable Semicircle là "bí ẩn kỳ lạ nhất của YouTube". Unfavorable Semicircle cũng được coi là "một trong 10 kênh YouTube kỳ lạ nhất".
Nguồn gốc.
Vào tháng 3 năm 2015, một tài khoản YouTube có tên "Unfavorable Semicircle" đã được tạo; kênh bắt đầu tải lên một số lượng lớn video vào ngày 5 tháng 4 cùng năm. Kênh tiếp tục đăng một số lượng lớn video, tất cả đều có tiêu đề gồm biểu tượng cung Nhân Mã hoặc một số có sáu chữ số ngẫu nhiên hoặc cả hai, nhưng hầu hết đều thiếu mô tả. Các video thường hiển thị hình ảnh khó hiểu. Trong một số trường hợp, chúng chỉ hiển thị một chấm duy nhất trên hình nền màu nâu. Một số video không có âm thanh trong khi một số khác có âm thanh bị bóp méo. Một số video chỉ dài vài giây, trong khi những video khác dài hơn nhiều — một video hoàn toàn không có âm thanh có thời lượng lên tới 11 giờ.
Chú ý và biến mất.
Do mật độ tải lên và tính chất kỳ lạ của các video, mọi người bắt đầu chú ý đến Unfavorable Semicircle. Một cộng đồng nhỏ trên Reddit đã được thành lập để tìm hiểu kênh YouTube này. Đã có nhiều suy đoán về mục đích của kênh, bao gồm: một trò chơi ảo thuộc thế giới thực, công việc của một cá nhân có "tâm trí không bình thường", một kênh thử nghiệm tương tự như Webdriver Torso, một numbers station trực tuyến, và outsider art. Theo chuyên gia bảo mật máy tính Alan Woodward tại Đại học Surrey, nó có thể "quá phức tạp" để là một numbers station và cũng không chắc nó là một câu đố tuyển dụng vì chúng thường được thông báo theo một cách nào đó. Kênh Unfavorable Semicircle đã bị YouTube đình chỉ vào tháng 2 năm 2016, ngay sau khi BBC đưa tin về kênh YouTube này.
|
Meadow Fresh
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813212
|
Meadow Fresh là một thương hiệu sữa của New Zealand, hiện đang được quản lý bởi Goodman Fielder. Thương hiệu hiện đại ra đời là kết quả của việc hoán đổi thương hiệu vào tháng 9 năm 2005 giữa Dairy Foods, thuộc sở hữu của Graeme Hart, và New Zealand Milk, thuộc sở hữu của Fonterra.
Hai công ty nổi lên từ việc hoán đổi là:
Meadow Fresh sau đó đã được bán cho Goodman Fielder liên quan đến đợt IPO của công ty đó. Vào ngày 3 tháng 7 năm 2006, Meadow Fresh, Top Hat Convenience Foods và Goodman Fielder New Zealand hợp nhất để trở thành Goodman Fielder New Zealand.
Meadow Fresh NZ Ltd.
Meadow Fresh sản xuất và phân phối các sản phẩm sữa dưới các thương hiệu sau:
Meadow Fresh cũng có các thỏa thuận phân phối cho các sản phẩm của Fonterra Brands thông qua Dịch vụ Thực phẩm Tuyến đường.
Chai sữa thủy tinh.
Meadow Fresh là công ty cuối cùng ở New Zealand tiếp thị sữa đóng chai thủy tinh. Vào ngày 30 tháng 11 năm 2005, việc sản xuất sữa đóng chai thủy tinh tại nhà máy sản xuất Christchurch của họ đã ngừng hoạt động, chấm dứt kỷ nguyên này.
Các nhà máy sản xuất.
Công ty có các nhà máy như sau:
và có quyền thu mua pho mát tại
|
Giải quần vợt Wimbledon 2023 - Đơn nữ trẻ
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813213
|
Liv Hovde là đương kim vô địch, nhưng chọn tham dự ở vòng loại nội dung đơn nữ.
Clervie Ngounoue là nhà vô địch, đánh bại Nikola Bartůňková trong trận chung kết, 6–2, 6–2.
|
Lisa Mays
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813217
|
Lisa Mays (sinh ngày 10 tháng 10 năm 2000) là một vận động viên quần vợt người Úc.
Mays có thứ hạng đơn cao nhất trong sự nghiệp trên bảng xếp hạng của Hiệp hội Quần vợt Nữ (WTA) là thứ 846, đạt được vào ngày 31 tháng 12 năm 2018. Cô đã giành được hai danh hiệu đôi tại ITF Women's Circuit.
Mays ra mắt nhánh đấu chính của WTA Tour tại Sydney International 2022, nơi cô đánh cặp với Michaela Haet ở nội dung đôi nữ.
|
ATX Open 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813218
|
ATX Open 2023 là một giải quần vợt nữ chuyên nghiệp thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời và là một phần của WTA 250 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại The Westwood Country Club ở Austin, Hoa Kỳ, từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 5 tháng 3 năm 2023. WTA Tour lần đầu tiên trở lại Texas sau 11 năm.
Nội dung đơn.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Bảo toàn thứ hạng:
Vượt qua vòng loại:
Thua cuộc may mắn:
Nội dung đôi.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
|
ATX Open 2023 - Đơn
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813222
|
Marta Kostyuk là nhà vô địch, đánh bại Varvara Gracheva trong trận chung kết, 6–3, 7–5. Đây là danh hiệu đơn WTA Tour đầu tiên của Kostyuk.
Đây là lần đầu tiên giải đấu được tổ chức.
|
Nghệ thuật ẩm thực
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813223
|
Nghệ thuật ẩm thực ("Culinary arts") là nghệ thuật chuẩn bị thức ăn, nấu nướng và trình bày món ăn, thường được thể hiện ra ở dạng một bữa ăn. Những người làm việc trong lĩnh vực ẩm thực, đặc biệt là trong các cơ sở như nhà hàng thường được gọi là đầu bếp hoặc bếp trưởng (trù sư), mặc dù nói chung, thuật ngữ nghệ sĩ ẩm thực và chuyên gia ẩm thực cũng được sử dụng thông dụng. Cách cư xử trên bàn ăn (nghệ thuật bàn ăn) đôi khi được coi là một nghệ thuật ẩm thực. Các đầu bếp chuyên nghiệp chịu trách nhiệm chế biến các món ăn vừa đẹp mắt vừa ngon miệng và đỉnh cao là sự tinh tế sang trọng. Điều này thường đòi hỏi sự hiểu biết về khoa học thực phẩm, dinh dưỡng và chế độ ăn uống. Các món ăn đặc sản và các tổ chức các bữa tiệc quy mô tương đối lớn như khách sạn được xếp hạng là nơi làm việc chính sau nhà hàng.
Lịch sử.
Nguồn gốc của nghệ thuật ẩm thực bắt đầu từ con người nguyên thủy cách đây khoảng 2 triệu năm. Có nhiều giả thuyết khác nhau về cách con người sơ khai sử dụng lửa để nấu thịt. Theo nhà nhân chủng học Richard Wrangham, tác giả cuốn "Catching Fire: How Cooking Made Us Human" thì người nguyên thủy chỉ cần ném một miếng thịt sống vào ngọn lửa và xem nó cháy xèo xèo. Một giả thuyết khác cho rằng con người lần đầu tiên có thể đã vô tình thưởng thức thịt nướng khi phần thịt của một con thú vô tình bị giết trong đám cháy rừng được phát hiện, người nguyên thủy khi ăn họ thấy miệng hơn, dễ nhai và dễ tiêu hóa hơn so với thịt sống dai nhách họ thường vẫn ăn. Ngày nay, khoa học về nghệ thuật ẩm thực hiện đại nghiên cứu nhiều khía cạnh khác nhau của thực phẩm. Đào tạo về nghệ thuật ẩm thực có thể thực hiện được ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, thường là ở cấp đại học (cao đẵng) với các cơ sở do chính phủ tài trợ, tư nhân tài trợ hoặc thương mại.
Hành nghề.
Một phần không thể thiếu của nghệ thuật ẩm thực là các công cụ để chế biến, được gọi là dụng cụ nấu ăn hoặc đồ dùng nhà bếp, được sử dụng với cả đầu bếp chuyên nghiệp và đầu bếp gia đình (bà nội trợ).
|
Nghệ thuật ẩm thực
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813223
|
Những người chuyên nghiệp trong nghệ thuật ẩm thực thường gọi những dụng cụ này bằng thuật ngữ tiếng Pháp là "batterie de cuisine". Những công cụ này khác nhau về vật liệu và cách sử dụng. Dụng cụ nấu ăn được làm bằng bất cứ thứ gì từ gỗ, thủy tinh và các loại kim loại khác nhau, cho đến silicone và nhựa mới hơn có thể thấy trong nhiều nhà bếp ngày nay. Trong lĩnh vực nghệ thuật ẩm thực, có rất nhiều kỹ thuật nấu ăn khác nhau bắt nguồn từ các nền văn hóa khác nhau và tiếp tục phát triển theo thời gian khi các kỹ thuật này được chia sẻ giữa các nền văn hóa và tiến bộ với công nghệ mới. Các kỹ thuật nấu ăn khác nhau yêu cầu sử dụng một số dụng cụ, thực phẩm và nguồn nhiệt nhất định để tạo ra kết quả mong muốn cụ thể. Nhà bếp chuyên nghiệp có thể sử dụng một số kỹ thuật mà đầu bếp gia đình có thể không sử dụng, chẳng hạn như sử dụng bếp nướng chuyên nghiệp đắt tiền.
|
ATX Open 2023 - Đôi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813224
|
Erin Routliffe và Aldila Sutjiadi là nhà vô địch, đánh bại Nicole Melichar-Martinez và Ellen Perez trong trận chung kết, 6–4, 3–6, [10–8].
Đây là lần đầu tiên giải đấu được tổ chức.
|
Anchor (nhãn hiệu)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813225
|
Anchor là một nhãn hiệu sữa được thành lập tại New Zealand vào năm 1886, và là một trong những thương hiệu chính thuộc sở hữu của nhà xuất khẩu quốc tế có trụ sở tại New Zealand, Fonterra. Ở Malaysia, Singapore và Đài Loan, Fonterra sử dụng thương hiệu Fernleaf thay vì Anchor.
Ở New Zealand.
Trong lịch sử, nhãn hiệu sản phẩm sữa Anchor ở New Zealand thuộc sở hữu của New Zealand Dairy Group, tập đoàn này đã sáp nhập với Kiwi Co Operative vào năm 2001 để tạo thành Fonterra.
Việc sáp nhập sẽ khiến New Zealand hầu như không có cạnh tranh trong lĩnh vực sữa nội địa, nên cần phải có luật của chính phủ để thành lập Fonterra. Một trong những yêu cầu là Fonterra phải thoái vốn khỏi thương hiệu nội địa mạnh nhất của mình, Anchor, tại thị trường New Zealand. Điều này không ảnh hưởng đến thương hiệu quốc tế. Thương hiệu đã được bán cho những gì hiện tại là Goodman Fielder.
Từ năm 2001 đến 2005, Fonterra đã phát triển một trong những nhãn hiệu sữa nhỏ hơn mà ban đầu chỉ có ở Đảo Nam của New Zealand, Meadow Fresh trở thành một nhãn hiệu toàn quốc mang lại sự cạnh tranh tốt đến thương hiệu Anchor của các sản phẩm sữa. Năm 2005, Fonterra thực hiện hoán đổi thương hiệu với Goodman Fielder ngày nay, hoán đổi Meadow Fresh cho Anchor, cho phép Fonterra một lần nữa liên kết các thương hiệu sữa trong nước và quốc tế của mình.
Sữa Anchor.
Các sản phẩm Sữa tươi của Anchor có sẵn ở New Zealand, được sản xuất và tiếp thị bởi Fonterra Brands, một bộ phận của Fonterra. Nhà máy chính chế biến sữa Anchor ở New Zealand nằm ở Takanini, Auckland.
Ngoài các loại phổ biến có tỷ lệ phần trăm chất béo sữa khác nhau, họ còn cung cấp "Anchor-Xtra", có thêm calci (được bán trên thị trường cho các bậc cha mẹ "năng động hơn") và "Mega Milk" , có thêm vitamin, cũng như thêm calci, được bán cho trẻ em. Vào năm 2013, thương hiệu Anchor đã được bán tại Trung Quốc.
Sữa bột Anchor.
Sữa bột Anchor là sản phẩm chính của Anchor có sẵn ở một số nước đang phát triển, chẳng hạn như Guyana và Ethiopia.
Bơ Anchor và pho mát Anchor.
Bơ Anchor và Pho mát Anchor được bán ở New Zealand, nhưng thương hiệu cho những sản phẩm này ở New Zealand vẫn thuộc sở hữu của một công ty con Goodman Fielder. Đối với bơ và pho mát, nhãn hiệu này không được trả lại cho Fonterra trong quá trình hoán đổi nhãn hiệu nên không phải tất cả các sản phẩm mang nhãn hiệu Anchor đều là sản phẩm của Fonterra tại New Zealand.
|
Anchor (nhãn hiệu)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813225
|
Tuy nhiên, giống như hầu hết các sản phẩm sữa ở New Zealand, sữa vẫn được lấy từ các nhà cung cấp của Fonterra và đối với bơ và pho mát, cũng có khả năng Fonterra đã sản xuất các sản phẩm với Goodman Fielder chỉ đơn giản là đóng gói sản phẩm.
Bên ngoài New Zealand.
Trên bình diện quốc tế, thương hiệu Anchor được sở hữu 100% bởi Fonterra Co-Op Group. Nó có sẵn (và được sản xuất) ở nhiều khu vực, bao gồm:
Ở Vương quốc Anh, bơ Anchor được nhập khẩu từ New Zealand cho đến tháng 8 năm 2012 khi Arla Foods UK, công ty được cấp phép của Anh, chuyển sản xuất sang một nhà máy địa phương tại Westbury, Wiltshire, sử dụng kem của Anh.
Anchor Spreadable.
Anchor Spreadable là một trong những sản phẩm chuyên biệt của thương hiệu. Loại phết bơ này được làm mềm bằng dầu hạt cải và phết một cách dễ dàng, nhưng tuyên bố tiếp thị về việc phết bơ trực tiếp từ tủ lạnh đã bị nghi ngờ. Một chiến dịch vào năm 2003 cho Anchor Spreadable, được tạo bởi Jonti Picking, của Weebl and Bob nổi tiếng, bao gồm các quảng cáo truyền hình về những con bò lắc lư.
Anchor Spreadable, cũng như các sản phẩm bơ khác của New Zealand, đã bị cấm nhập khẩu vào EU trong một thời gian ngắn. Điều này được đưa ra sau một khiếu nại gửi tới Ủy viên Thương mại Châu Âu, Peter Mandelson, bởi nhà kinh doanh sữa của Đức, Egenberger.
|
Natalya Igorevna Seleznova
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813228
|
Natalya Igorevna Seleznova, phiên âm tiếng Việt là Na-tan-li-a I-ghê-ri-ê-na Xê-li-ê-nô-va (; sinh ngày 19 tháng 6 năm 1945), là một nữ diễn viên điện ảnh và sân khấu người Liên Xô cũ và Nga ngày nay.
Tiểu sử.
Bà được lên sân khấu lần đầu năm 6 tuổi, tham gia diễn xuất trong các vở kịch của . Tác phẩm điện ảnh tiêu biểu của bà bao gồm các vai diễn trong các bộ phim hài của đạo diễn Leonid Gaidai, chẳng hạn như "Kế hoạch «Y» và những cuộc phiêu lưu khác của Shurik" và "Ivan Vasilyevich đổi nghề".
|
Động đất ngoài khơi Kushiro 1993
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813234
|
là trận động đất xảy ra vào lúc 20:06 (JST), ngày 15 tháng 1. Trận động đất có cường độ 7.8 richter (theo JMA). Tâm chấn độ sâu khoảng 100 km. Không có cảnh báo sóng thần cho trận động đất này, nhưng trận động đất đã làm 2 người chết và 966 người bị thương.
|
Thuyết thần bí Cơ Đốc giáo
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813247
|
Thuyết thần bí Cơ Đốc giáo ("Christian mysticism") là truyền thống các thực hành thần bí và thần học thần bí trong Cơ đốc giáo "liên quan đến việc chuẩn bị [của con người] cho, ý thức và tác động của [...] sự hiện diện trực tiếp và biến đổi của Thiên Chúa" hoặc "Tình yêu thánh thiêng". Cho đến thế kỷ thứ sáu Tây lịch, việc thực hành cái mà ngày nay được gọi là thuyết thần bí được gọi bằng thuật ngữ "Contemplatio" c.q. "theoria", trong đó từ "Contemplatio" nghĩa là "chiêm niệm" còn tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp: θεωρία, "theoria" có nghĩa là "nhìn", "ngắm nghía", "nhận thức được"" sự tồn tại và hiện diện của Chúa hoặc Thần thánh. Cơ đốc giáo đã sử dụng cả thuật ngữ tiếng Hy Lạp ("theoria") và tiếng Latinh ("contemplatio" nghĩa là chiêm niệm) để mô tả các hình thức cầu nguyện khác nhau và quá trình nhận biết Chúa.
Các thực hành chiêm niệm bao gồm từ suy gẫm đơn giản trong lời cầu nguyện về Kinh thánh (tức là Lectio Divina) đến suy ngẫm về sự hiện diện của Chúa, dẫn đến thuyết thần học (sự kết hợp tâm linh với Chúa) và những hình ảnh xuất thần về sự kết hợp thần bí của linh hồn với Chúa. Ba giai đoạn được phân biệt trong thực hành chiêm niệm, đó là sự Catharsis (thanh lọc) chiêm niệm đúng nghĩa, và sự trông vọng về Chúa. Các thực hành chiêm nghiệm có một vị trí nổi bật trong Chính thống giáo Đông phương và Chính thống giáo phương Đông, và đã thu hút được sự quan tâm mới đối với Cơ đốc giáo phương Tây. Nguồn gốc của thuyết thần bí Kitô giáo có thể bắt nguồn từ Giáo hội sơ khai. Các sứ đồ và các môn đồ khác, những người có kinh nghiệm trực tiếp với Chúa Giê-su Christ, đã hình thành nền tảng cho tư tưởng thần bí của Cơ đốc giáo.
Thuyết thần bí Cơ Đốc giáo này thường được xem là việc thực hành những kiến thức kinh nghiệm về Đức Chúa Trời. Thuật ngữ này cũng có thể áp dụng cho điều bí ẩn trong Bí Tích Thánh Thể (bánh Thánh và rượu nho trong lễ ban thánh thể) của Công Giáo La Mã cũng như quan niệm về những ý nghĩa ẩn giấu của Thánh Kinh.
|
Thuyết thần bí Cơ Đốc giáo
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813247
|
Mặc dù đúng là Cơ Đốc hữu có thể kinh nghiệm sự hiện diện của Đức Chúa Trời, nhưng chủ nghĩa thần bí Cơ Đốc có xu hướng đề cao tri thức mang tính trải nghiệm và yêu thích những yếu tố huyền bí, tập trung vào sự bí ẩn để tăng trưởng thuộc linh. Thuyết thần bí có thể được tìm thấy trong nhiều tôn giáo và nó ít nhiều liên quan đến sự khổ hạnh và tìm kiếm sự hợp nhất với Đức Chúa Trời. Việc mong muốn được đến gần với Đức Chúa Trời sự kết hợp thần bí với Đức Chúa Trời hoàn toàn khác với sự gần gũi với Chúa mà các Cơ Đốc hữu được ơn gọi. Thuyết thần bí có xu hướng tìm kiếm trải nghiệm thực tế.
|
Threads
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813252
|
Threads là một nền tảng mạng xã hội trực tuyến của công ty công nghệ Mỹ Meta Platforms, hoạt động lần đầu vào ngày 5 tháng 7 năm 2023. Trong vòng 48 giờ kể từ khi ra mắt, mạng xã hội này đã đạt 80 triệu người dùng, phá kỷ lục về số người dùng đăng ký do ChatGPT thiết lập trước đó. Threads hoạt động tương tự như các trang tiểu blog khác như Twitter hay Facebook: người dùng có thể đăng bài viết, hình ảnh và video cũng như thích, trả lời, chia sẻ lại bài của người khác. Ứng dụng hoạt động trên các hệ điều hành iOS, Android. Để sử dụng, người dùng cần có sẵn tài khoản Instagram từ trước để đăng ký liên thông sang Threads, tên tài khoản cũng được giữ nguyên từ Instagram.
Sau khi tỉ phú Elon Musk mua lại Twitter, Meta đã tập trung nghiên cứu một mạng xã hội có tên Instagram Notes, tiền thân của Threads sau này, ứng dụng sẽ hoạt động tương tự như Instagram nhưng có tính năng viết bài. Tháng 1 năm 2023, nền tảng được phát triển với tên gọi "Project 92" (tạm dịch: Dự án 92). Từ tháng 3, một số thông tin về mạng này bắt đầu được hé lộ. Ngày 3 tháng 7, hình ảnh pre-launch của ứng dụng xuất hiện trên App Store (Apple), trong đó cho biết ngày ra mắt là vào 6 tháng 7.
Threads chính thức ra mắt vào ngày 5 tháng 7 tại 100 quốc gia, trong đó có Mỹ, Anh Quốc, Úc, New Zealand, Canada và Nhật Bản.
Tính năng và hoạt động.
Threads hoạt động với mục tiêu đem lại trải nghiệm tương tự như Twitter: có thể trao đổi thông tin online, viết bài, chia sẻ công khai (còn gọi là tiểu blog), trên hết gắn liền với Instagram. Một bài viết có thể chứa tối đa 500 ký tự và video dài 5 phút.
Ứng dụng hoạt động chủ yếu trên iOS và Android, phiên bản trình duyệt web được cho là đang trong quá trình xây dựng với đường link tài khoản sẽ có dạng threads.net/@user.
Threads bị chặn ở Iran do kiểm duyệt thông tin của chính phủ, cùng hoàn cảnh như nhiều mạng xã hội khác. Ở khu vực Liên minh châu Âu (EU), app cũng không có sẵn. Tại Trung Quốc, mặc dù bị chặn dưới hệ thống Phòng hỏa trường thành, Threads vẫn lọt top 4 thịnh hành trên App Store địa phương.
|
Monterrey Open 2023
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813262
|
Monterrey Open 2023 (còn được biết đến với Abierto GNP Seguros vì lý do tài trợ) là một giải quần vợt nữ thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời. Đây là lần thứ 15 Giải quần vợt Monterrey Mở rộng được tổ chức và là một phần của WTA 250 trong WTA Tour 2023. Giải đấu diễn ra tại Club Sonoma ở Monterrey, Mexico, từ ngày 27 tháng 2 đến ngày 5 tháng 3 năm 2023.
Nội dung đơn.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
Miễn đặc biệt:
Vượt qua vòng loại:
Nội dung đôi.
Vận động viên khác.
Đặc cách:
|
Vương Đức
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813263
|
Vương Đức (1957 - ) là đạo diễn điện ảnh người Việt Nam, ông được biết đến qua các phim "Những người thợ xẻ, Của rơi" và "Rừng đen..". Ông từng giữ vị trí Giám đốc Hãng phim truyện Việt Nam từ năm 2009.
Tiểu sử và sự nghiệp.
Vương Đức sinh năm 1957 tại Hà Nội, ông có một anh trai tên Vương Hòa và một em trai tên Vương Nam. Bố ông là nhà viết kịch Vương Lan, quê gốc Nghệ An; Vương đức là người con duy nhất theo lĩnh vực nghệ thuật. Năm 1975 ông học tại Đại học ngoại ngữ để chuẩn bị du học Liên Xô sau khi trúng tuyển vào khoa Hóa phóng xạ, nhưng ông lại theo học ngành điện ảnh tại trường VGIK, Liên Xô từ năm 1976 cùng với Việt Linh, Phương Hoa, Ngô Phương Lan, Hồng Ngát.
Tại Liên Xô, Vương Đức theo học lớp quay phim cho đến năm 1980, ông tham gia làm bộ phim tài liệu - là bài tập tốt nghiệp - về Đặng Thái Sơn do Trần Duy Hinh đạo diễn. Khi giúp bạn học đỡ máy quay từ trên cao Vương Đức bị chân máy quyệt vào ngực, vết rách khiến ông bị tràn dịch màng phổi, ông phải nằm viện 6 tháng. Trong thời gian du học, Vương Đức được bạn bè nhận xét là một người đa năng. Sau vụ tai nạn, Vương Đức không còn đủ sức khỏe để làm quay phim nên ông chuyển sang học lớp đạo diễn.
Năm 1986, Vương Đức tốt nghiệp về nước và làm việc tại Hãng phim truyện Việt Nam, ông tham làm trợ lý cho đạo diễn Trần Phương trong phim "Hoàng Hoa Thám". qua bộ phim này Vương Đức gặp được diễn viên Ngọc Bích, vợ của ông sau này. Năm 1993, ông được chỉ đạo bộ phim điện ảnh đầu tay là "Cỏ lau", bộ phim giành được một giải thưởng quốc tế. Năm 1999, ông tiếp thành công khi bộ phim "Những người thợ xẻ" giành được giải Bông sen Bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 12 và giải A của Hội điện ảnh Việt Nam. Năm 2001, Vương Đức cùng một số đạo diễn của Việt Nam tham gia hỗ trợ sản xuất phim "Người Mỹ trầm lặng". Bộ phim "Của rơi" do ông đạo diễn năm 2003 cũng đã giành giải Cánh diều Bạc. Vương Đức từng trả lời phỏng vấn rằng trong sự nghiệp, ông sẽ chỉ sản xuất 5 phim truyện điện ảnh.
|
Vương Đức
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813263
|
Tiếp tục với đề tài khác thác rừng như "Những người thợ xẻ", năm 2007 đạo diễn bộ phim "Rừng đen". Bộ phim giành được Giải khuyến khích tại giải Cánh diều 2007 và Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 16. Trong khoảng thời gian này, Vương Đức giữ vị trí Phó giám đốc phụ trách điện ảnh của Hãng phim truyện Việt Nam và là giảng viên khoa Đạo diễn của Đại học Sân khấu điện ảnh.
Năm 2009, Vương Đức giữ chức Giám đốc Hãng phim truyện Việt Nam và là vị giám đốc cuối cùng của hãng trước khi cổ phần hóa.
Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Nhà nước với cụm 3 tác phẩm Điện ảnh: Cỏ lau, Những người thợ xẻ và Của rơi.
Bộ phim gần đây nhất và có thể là bộ phim cuối cùng mà Vương Đức làm đạo diễn là "Nhà tiên tri", sản xuất năm 2015.
Gia đình.
Sau khi tốt nghiệp tại Liên Xô, Vương Đức về nước và kết hôn với Ngọc Bích, một nữ diễn viên soloist của Nhà hát Kịch Việt Nam và là chị gái của nghệ sĩ Đức Hải. Bà Ngọc Bích bỏ công việc tại Nhà hát để ở nhà buôn bán, đến năm 1994 bà trở lại làm diễn viên và công tác tại Nhà hát Tuổi trẻ.
Vợ chồng Vương Đức có một con gái cũng hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật.
Ghi nhận.
Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
|
Monterrey Open 2023 - Đơn
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813264
|
Donna Vekić là nhà vô địch, đánh bại Caroline Garcia trong trận chung kết, 6–4, 3–6, 7–5. Đây là danh hiệu WTA Tour thứ 4 của Vekić.
Leylah Fernandez là đương kim vô địch, nhưng chọn không tham dự giải đấu.
|
Monterrey Open 2023 - Đôi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813265
|
Yuliana Lizarazo và María Paulina Pérez là nhà vô địch, đánh bại Kimberly Birrell và Fernanda Contreras Gómez trong trận chung kết, 6–3, 5–7, [10–5].
Catherine Harrison và Sabrina Santamaria là đương kim vô địch, nhưng Harrison chọn không tham dự giải đấu. Santamaria đánh cặp với Kaitlyn Christian, nhưng thua ở vòng tứ kết trước Han Xinyun và Lidziya Marozava.
|
Tiếng Fingal
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813268
|
Tiếng Fingal hay phương ngữ Fingal là một ngôn ngữ Anh tuyệt chủng trước đây được nói ở Fingal, Ireland. Nó được cho là một nhánh của tiếng Anh trung đại, được đưa đến Ireland trong cuộc xâm lược của quân Norman, và bị tuyệt chủng đến vào giữa thế kỉ 19. Mặc dù người ta biết rất ít về tiếng Fingal, nó được cho là tương tự với phương ngữ Forth và Bargy của hạt Wexford.
Lịch sử.
Tiếng Fingal được nói ở vùng Fingal, theo truyền thống là một phần của hạt Dublin phía bắc sông Tolka. Nó được nói ở khu vực gần biên giới phía bắc. Cái tên "Fingal" là từ tiếng Ireland "Fine Gall", hay "lãnh thổ của người nước ngoài", có lẽ là một tham chiếu đến một khu định cư Bắc Âu trong khu vực. Nhà ngôn ngữ học Alf Sommerfelt đề xuất một ý tưởng của một ảnh hưởng của người Bắc Âu đối với phương ngữ Fingal, dù các học giả sau này đã không tìm thấy bằng chứng về một kết nối như vậy.
Như phương ngữ tiếng Yola ở Forth và Bargy ở hạt Wexford, tiếng Fingal được cho là bắt nguồn từ tiếng Anh trung đại, được giới thiệu bởi những người định cư "Anh cổ" sau sự xâm lược của quân Norman lên Ireland vào năm 1169. Tiếng Anh trung đại được thiết lập tốt ở đông nam Ireland cho đến thế kỉ 14, khi khu vực được Gael hóa lại và tiếng Anh bị thay thế. Như vậy, các phương ngữ Yola và Fingal sẽ là di vật duy nhất được chứng thực của giống gốc tiếng Anh này ở Ireland.
"Điệu nhảy Fingal".
Bài thơ rất có thể được sáng tác bởi một người bản ngữ tiếng Fingal là "The Fingallian Dance" ("Điệu nhảy Fingal"), một bài thơ ba khổ thơ ngắn được viết vào khoảng năm 1650 và 1660. Nó là một bài thơ hơi khiếm nhã về một người đàn ông đi xem những vũ công ở một trường đấu bò (đấu bò được luyện ở Ireland vào thế kỉ 17). Mặc dù bài thơ có thể được tiêu chuẩn hóa khi được viết ra, nó đưa một hương vị của tiếng Fingal, cụ thể là các dạng như "fat" cho "what" hoặc "fen" cho "when". Những từ khác cần giải thích là "ame" cho "them", "plack-keet" cho "placket" (một khe ở trên cùng của váy lót, ở đây được dùng để chỉ âm hộ) và abateing cho "abutting, bodering on".
<poem>"The Fingallian Dance" c.1650
[By my soul, I did spy]
[docile, tractable],
[to hell with them!]
[chance, here meaning "account"]
[thy] ["Keep quiet, for goodness' sake!"]
|
Tiếng Fingal
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813268
|
</poem>
"Purgatorium Hibernicum".
"Purgatorium Hibernicum" là một trò hề hài hước và tục tĩu hoặc khôi hài trên tác phẩm "Aeneid" của nhà thơ La Mã Virgil. Nó tồn tại trong ba phiên bản: bản gốc ("Purgatoriam Hibernicum"), một bản khác có tiêu đề "The Fingallian Travesty: the Sixt Book of Virgill's Aenoeids a la mode de Fingaule" (1670-5), và bản in được gọi là "The Irish Hudibras or The Fingallian Burlesque" (1689).
Hoàng tử của Virgil Aeneas và người yêu tiểu thuyết của ông Dido được biến đổi thành một người Fingal trẻ vụng về được gọi là 'Hoàng tử' Nees và một cựu nữ tu thô sơ Dydy. Các tên của tất cả nhân vật được chuyển đổi thành các dạng 'Ireland' giả và các địa điểm được nhắc đến trong văn bản của Virgil trở thành các địa điểm ở Fingal. Một phần của sự hài hước cho các người đọc Anh-Ireland của bài thơ là Nees và Dydy trò chuyện với nhau bằng tiếng Fingal rộng rãi. Dù ý định được cho là để chế giễu bài phát biểu của họ, nó được biểu diễn với sức sống và sự hóm hỉnh đến mức hiệu quả thực sự là mang đến cho người đọc sự đánh giá cao về sự phong phú của nó.
Đoạn trích ngắn dưới đây cung cấp một ví dụ tốt của tiếng Fingal. Trong nó Nees bắt gặp Dydy lại và xem vẻ bề ngoài của cô ta nhợt nhạt và không khỏe nhân ra rằng anh ta có thể chịu trách nhiệm cho cô ta 'ánh lửa; hoặc bệnh hoa liễu. Một vài đặc điểm cần giải thích 'V' được dùng thay cho 'W' trong tiếng Fingal; 'suggam' là một loại dây rơm; Ful dea ro bắt nguồn từ tiếng Ireland fuil Dé, a rogha 'máu của Chúa, người yêu của tôi':
Nees tiếp tục với một nỗ lực để nói chuyện ngọt ngào với Dydys và yêu cầu cô ta cho một 'pogue', nhưng nỗi sợ hãi của anh ta là chính đáng và Dydy không có gì trong số đó. Cô nói với anh rằng nếu anh nghĩ mình có thể có 'bout' nữa với cô, anh ta có thể nghĩ lại – sau khi anh ta "play'd the vagge" (là một người nói đùa) với cô ta và đưa cô "bagge" (từ chối cô ta) cô ta sẽ "vatch de vales" ('xem các bức tường', cảnh giác) và phá vỡ kế hoạch của anh:
Sau đó Dydy đi trên con đường của mình trong hầm cao.
"Những bức thư từ Ireland".
|
Tiếng Fingal
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813268
|
"Những bức thư từ Ireland".
Trong tác phẩm "Letters from Ireland" ("Những bức thư từ Ireland") (1698) của John Dunton, ông viết rằng trong Fingal "họ có một kiểu nói biệt ngữ đặc biệt với chính họ, và không hiểu một từ tiếng Ireland nào, và người Anh cũng ít hiểu". Dunton đưa ra một mẫu của ngôn ngữ; một lời than vãn mà một người mẹ đã chôn cất con trai bà, một người đánh cá và thợ săn giỏi. Lưu ý rằng "a roon" và "moorneeng" là từ những từ tiếng Ireland "a rúin" "tình yêu (bí mật)" (hô cách) và "múirnín" "tình yêu" (nđ. "chút tin tưởng"):
Cái này tạm dịch là:
<poem>
Robin my love
Robin my dear
Thou wast good for land, strand and mountain
Good with a tool and [at] roast[ing] a whiting
Ready the tackle
Gather the bannocks
Drink a groat at Nanny Halfpenny's [alehouse]
</poem>
Tiếng Anh Fingal hiện đại.
Mặc dù tiếng Fingal không còn được nói nữa, một số lượng lớn các từ phương ngữ duy nhất của Fingal còn tồn tại, đặc biệt là trong thị trấn và làng truyền thống ở Fingal như Swords (nay là một vùng ngoại ô lớn của Dublin), Skerries, Rush, Lusk, Donabate, Garristown, Oldtown, Balrothery, Portrane và Naul. Những nguồn chính cho những từ này bao gồm những bảng thuật ngữ trong một bài viết trong dân gian Tạp chí "Béaloideas" bởi J. J. Hogan và Patrick O'Neil và một cuốn sách trên truyền thuyết Fingal có tiêu đề là "Fair Fingall" bởi Patrick Archer.
Ví dụ từ bảng thuật ngữ của Archer bao gồm:
Ví dụ từ bảng thuật ngữ của Hogan và O'Neill bao gồm:
|
Lưu Trường Khanh (định hướng)
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813269
|
Lưu Trường Khanh có thể là:
|
Danh sách loài chuột chù voi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813274
|
Chuột chù voi là tên gọi chung của một nhóm gồm các loài thú nhỏ thuộc họ Macroscelididae trong bộ Macroscelidea. Trong tiếng Anh, mỗi loài trong họ này được gọi là "macroscelid", "elephant shrew" hoặc "sengi". Chúng chỉ được tìm thấy ở châu Phi, trong nhiều khu sinh học trải rộng từ rừng đến sa mạc. Các loài chuột chù voi có kích thước kháu nhau, từ chuột chù voi tai tròn Etendeka, dài cộng đuôi , đến chuột chù voi mặt xám, dài cộng đuôi . Chúng thường ăn côn trùng, động vật không xương sống và thực vật. Loài chuột chù voi duy nhất được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) ước tính số lượng là chuột chù voi mông vàng, với khoảng 13.000 cá thể và được phân loại là loài nguy cấp.
Có 16 loài chuột chù voi còn tồn tại chia thành 6 chi, và đều cùng thuộc họ đơn nhất Macroscelididae. Hàng chục loài chuột chù voi tuyệt chủng đã được phát hiện, mặc dù do các nghiên cứu và khám phá vẫn đang tiếp diễn, số lượng và phân loại chưa chắc chính xác.
Quy ước.
Mã tình trạng bảo tồn được liệt kê tuân theo Sách đỏ các loài bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Bản đồ phân bố được đính kèm nếu có thông tin. Khi không có thông tin về bản đồ phân bố, sẽ được thay thế bằng mô tả về phạm vi môi trường hoạt động của loài. Vùng phân bố dựa trên danh sách đỏ IUCN cho loài đó trừ khi có ghi chú khác. Tất cả các loài hoặc phân loài đã tuyệt chủng được liệt kê cùng với các loài còn tồn tại đã tuyệt chủng sau năm 1500 và được biểu thị bằng biểu tượng thập tự "".
Phân loại.
Bộ Macroscelidea bao gồm 20 loài thuộc họ đơn nhất Macroscelididae, và được chia thành 6 chi. Nhiều loài trong số này được chia tiếp thành các phân loài. Phân loại này không bao gồm các loài lai hoặc các loài tuyệt chủng thời tiền sử.
Họ Macroscelididae
Danh sách loài chuột chù voi.
Phân loại sau đây dựa trên phân loại của "Mammal Species of the World" (2005), cùng với các đề xuất bổ sung được chấp nhận rộng rãi kể từ khi sử dụng phân tích phát sinh chủng loại phân tử.
|
Hệ thống giải bóng đá Ý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813293
|
Hệ thống giải bóng đá Ý, đề cập đến hệ thống giải đấu được kết nối với nhau theo thứ bậc dành cho các hiệp hội bóng đá ở Ý. Nó bao gồm chín giải đấu quốc gia và khu vực, ba giải đầu tiên là chuyên nghiệp, sáu giải còn lại là nghiệp dư, do Liên đoàn bóng đá Ý thành lập. Một đội đến từ San Marino cũng thi đấu. Hệ thống này có thể thức phân cấp với việc thăng hạng và xuống hạng giữa các giải đấu ở các cấp độ khác nhau.
Về lý thuyết, một câu lạc bộ nghiệp dư địa phương có thể vươn lên đỉnh cao của bóng đá Ý và giành chiếc cúp "Scudetto". Trong khi điều này có thể khó xảy ra trong thực tế (ít nhất là trong thời gian ngắn hạn), chắc chắn phải có sự chuyển động đáng kể bên trong hệ thống các giải đấu. Hai cấp độ trên cùng chứa một giải đấu mỗi cấp độ. Bên dưới mức này, các cấp độ có các bộ phận song song dần dần, mỗi cấp bao gồm các khu vực địa lý nhỏ hơn dần dần.
Lịch sử.
Câu lạc bộ thể thao và cricket Genoa, sau này được gọi là Câu lạc bộ bóng đá và cricket Genoa được thành lập vào ngày 7 tháng 9 năm 1893, đội bóng lâu đời thứ tư của Ý (sau Torino F.C.C, Nobili Torino và Internazionale F.C. Torino), và là đội bóng lâu đời nhất của Ý, với 13 thập kỷ hoạt động. Tháng 3 năm 1898, Liên đoàn bóng đá Ý ( "Federazione Italiana del Football", sau này được gọi lại là "Federazione Italiana Giuoco Calcio", FIGC) được thành lập tại Turin. Với bốn câu lạc bộ tham gia Genoa, "FC Torinese" , "Internazionale di Torino" và "Società Ginnastica di Torino" ( "Hiệp hội thể dục của Torino" ). Các câu lạc bộ khác đã tồn tại nhưng quyết định không tham gia. Chức vô địch đầu tiên diễn ra vào một ngày duy nhất, ngày 8 tháng 5 năm 1898, tại Torino. Danh hiệu đã được giành bởi Genova.
FIGC gia nhập FIFA vào năm 1905 và giải vô địch chuyển sang cấu trúc giải đấu, dựa trên khu vực, trong cùng năm.
Sau khi Thế chiến thứ nhất gián đoạn các hoạt động bóng đá khác, bóng đá ngày càng phổ biến và các câu lạc bộ nhỏ hơn quyết định tham gia.
|
Hệ thống giải bóng đá Ý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813293
|
Vào mùa hè năm 1921, một hiệp hội thứ hai được thành lập trong thời gian ngắn để cạnh tranh với FIGC: "Confederazione Calcistica Italiana" (CCI), xuất hiện từ một cuộc tranh cãi giữa các câu lạc bộ lớn và nhỏ về cấu trúc của các giải đấu quốc gia. Do đó năm 1922 Ý có hai nhà vô địch "US Pro Vercelli" và "US Novese". Hai liên đoàn cuối cùng đã tái hợp nhất vào cuối mùa giải.
Việc chuyển sang một cấu trúc giải đấu quốc gia duy nhất xảy ra vào năm 1929 với mười tám đội ban đầu ở giải đấu hàng đầu. Đội vô địch giả đấu đầu tiên vào năm 1930 là Internazionale. Đội tuyển quốc gia Italia cũng đã vô địch World Cup vào năm 1934 và 1938.
Sau Thế chiến thứ hai, giải đấu nhanh chóng trở lại cấu trúc khu vực với sự phân chia nam bắc và một trận play-off trong vòng một năm trước khi Serie A được khôi phục và hoạt động trở lại. Torino là nhà vô địch giải đấu đầu tiên sau chiến tranh và đã giành được bốn chiếc vô địch liên tiếp. Tuy nhiên, chính Juventus, Milan và Internazionale đã thống trị giải đấu kể từ Thế chiến thứ hai kết thúc, cả ba đã giành trở thành nhà vô dịch ở 57 trong số 74 mùa giải.
Hệ thống giải đấu hiện tại có từ năm 1978, khi khu vực bán chuyên nghiệp bị giải tán. Vào năm đó, giải đấu Lega Pro hiện tại (khi đó được gọi là "Giải bán chuyên nghiệp quốc gia" ) gồm Serie C và Serie D bây giờ, đã trở thành một giải đấu chuyên nghiệp hoàn toàn, tổ chức hai giải đấu mới là Serie C1 và Serie C2. Do đó, Ý trở thành quốc gia duy nhất có hai giải bóng đá chuyên nghiệp riêng biệt, trước nước Anh tận 14 năm. Năm 2010, với sự phân chia giữa Lega Serie A và Lega Serie B, Ý trở thành quốc gia duy nhất có ba giải đấu chuyên nghiệp. Serie C đã thành lập trở lại vào năm 2014, bãi bỏ Serie C1 và Serie C2.
Hệ thống.
Hệ thống sử dụng nguyên tắc thăng hạng và xuống hạng. Hạng đấu đầu tiên của bóng đá Ý là Serie A, được quản lý bởi Lega Nazionale Professionisti Serie A và bao gồm 20 đội.
|
Hệ thống giải bóng đá Ý
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813293
|
Hạng thứ hai là Serie B, được tổ chức bởi Lega Nazionale Professionisti B. Cả hai giải đấu này bao gồm toàn bộ nước Ý.
Hạng thứ ba là Serie C. Nó được điều hành bởi Lega Italiana Calcio Professionistico; giải đấu có ba hạng đấu, mỗi hạng có 20 câu lạc bộ, thường được phân chia dựa trên vị trí mỗi vùng.
Ở hạng thứ tư là Serie D, một giải đấu gồm chín hạng đấu song song (trong đó các câu lạc bộ được phân chia theo vị trí địa lý) được tổ chức bởi Dipartimento "Interregionale" của Lega Nazionale Dilettanti. Bên dưới đây là năm cấp độ khác; ba trong số đó, Eccellenza, Promozione và Prima Cargetoria, được tổ chức bởi các ủy ban khu vực của Lega Nazionale Dilettanti; và hai cấp độ cuối cùng, Seconda Cargetoria và Terza Cargetoria, bởi các ủy ban tỉnh.
Tất cả 100 câu lạc bộ Serie A, Serie B và Serie C đều là các câu lạc bộ chuyên nghiệp
Từ mùa giải 2005 đến 2006, nếu hai hoặc nhiều đội kết thúc giải đấu với cùng số điểm, thì vị trí cuối cùng được tính theo các tiêu chí sau (được tính cho mọi hạng đấu):
Phụ nữ.
Hệ thống của phụ nữ được chia thành năm cấp độ. Từ năm 2002 đến 2013, Serie A2 tồn tại giữa Serie A và B, nhưng sau đó nó đã được đổi tên thành Serie B.
|
Gallois
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813311
|
Galois hay Gallois có thể là:
|
Đế quốc Nga sáp nhập Hãn quốc Krym
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813316
|
Đế quốc Nga sáp nhập lãnh thổ từng do Hãn quốc Krym kiểm soát vào ngày . Giai đoạn trước khi sáp nhập có dấu ấn là việc Nga can thiệp nội vụ Krym, một loạt cuộc nổi dậy của người Tatar Krym, trong khi Ottoman có sự mâu thuẫn. Sự kiện sáp nhập bắt đầu 134 năm Đế quốc Nga cai trị khu vực, kết thúc vào cách mạng năm 1917.
Sau khi qua tay vài thế lực trong Nội chiến Nga, Bolshevik thiết lập được quyền thống trị tại Krym vào năm 1921, bán đảo trở thành bộ phận của nước Nga Xô viết và sau là của Liên Xô. Năm 1944, nhà cầm quyền Liên Xô bắt đầu trục xuất người Tatar Krym bản địa nhằm thanh lọc sắc tộc. Đến năm 1954, khu vực được chuyển giao cho Ukraina Xô viết, và Ukraina độc lập vào năm 1991 sau khi Liên Xô tan rã. Liên bang Nga sáp nhập Krym vào tháng 3 năm 2014, nhưng không được quốc tế công nhận.
Mở đầu.
Krym độc lập (1774–1776).
Hãn quốc Krym có phần lớn cư dân là người Tatar Krym. Trước khi Nga đánh bại Đế quốc Ottoman trong chiến tranh năm 1768–1774, hãn quốc là bộ phận của Ottoman. Theo Hiệp định Küçük Kaynarca nhằm kết thúc chiến tranh, Đế quốc Ottoman buộc phải nhượng lại chủ quyền đối với Hãn quốc, và cho phép nó trở thành một nhà nước độc lập dưới ảnh hưởng của Nga. Người Tatar tại Krym không mưu cầu độc lập, và có tình cảm gắn bó mạnh mẽ với Đế quốc Ottoman. Trong vòng hai tháng ký kết hiệp định, chính phủ hãn quốc cử các phái viên đến Ottoman, yêu cầu họ "hủy bỏ tình trạng độc lập". Các phái viên nói rằng vì quân đội Nga vẫn đóng quân tại Yeni-Kale và Kerch, nên Hãn quốc không thể được coi là độc lập. Tuy nhiên, người Ottoman phớt lờ yêu cầu này, không muốn vi phạm thỏa thuận với Nga. Trong tình trạng hỗn loạn xảy ra sau thất bại của Ottoman, thủ lĩnh người Tatar Devlet Giray từ chối chấp nhận hiệp định vào thời điểm ký kết. Ông chiến đấu với người Nga ở Kuban trong chiến tranh, vượt eo biển Kerch đến Krym và chiếm thành phố Kaffa (Feodosia ngày nay). Devlet sau đó chiếm lấy ngai vàng Krym, soán vị Sahib Giray.
|
Đế quốc Nga sáp nhập Hãn quốc Krym
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813316
|
Bất chấp ông có những hành động chống lại Nga, Nữ hoàng Nga Yekaterina đã công nhận Devlet là khả hãn.
Tuy nhiên, cùng lúc đó bà chuẩn bị cho Şahin Giray lên nắm quyền, người này được bà ưa chuộng và cư trú tại triều đình Nga. Thời gian trôi qua, quyền cai trị của Devlet ngày càng trở nên không vững chắc. Vào tháng 7 năm 1775, ông cử một nhóm sứ giả đến Constantinople để đàm phán về việc Hãn quốc Krym tái gia nhập Đế quốc Ottoman. Hành động này trực tiếp thách thức Hiệp ước Küçük Kaynarca mà ông yêu cầu người Ottoman hủy bỏ. Nhà ngoại giao nổi tiếng Ahmed Resmî Efendi từng giúp soạn thảo hiệp định, người này từ chối cung cấp bất kỳ sự trợ giúp nào cho Hãn quốc, vì không muốn bắt đầu một cuộc chiến tranh thảm khốc khác với Nga. Nữ hoàng Yekaterina ra lệnh xâm chiếm Krym vào tháng 11 năm 1776. Quân của bà nhanh chóng giành quyền kiểm soát Perekop trên lối vào bán đảo. Vào tháng 1 năm 1777, Şahin Giray do Nga hỗ trợ tiến vào Krym qua eo biển Kerch, giống như Devlet từng làm. Devlet nhận thức được thất bại sắp xảy ra nên thoái vị và chạy trốn đến thủ đô Constantinople của Ottoman. Şahin được phong làm khả hãn bù nhìn, khiến người dân Hồi giáo trên bán đảo vô cùng tức giận. Khi biết tin này, Sultan Ottoman Abdul Hamid I đã lưu ý "Şahin Giray là một công cụ. Mục đích của người Nga là chiếm lĩnh Krym." Şahin là một thành viên của Nhà Giray cầm quyền, ông cố gắng thực hiện một loạt cải cách để "hiện đại hóa" Hãn quốc. Chúng bao gồm những nỗ lực nhằm tập trung quyền lực vào tay khả hãn, thiết lập chế độ cai trị "chuyên quyền" giống như ở Nga. Trước đây, quyền lực được phân chia giữa các thủ lĩnh của các thị tộc khác nhau, được gọi là "bey". Ông nỗ lực thiết lập hệ thống đánh thuế nhà nước, một đội quân nghĩa vụ hóa và tập trung hóa, đồng thời thay thế hệ thống pháp luật Ottoman dựa trên tôn giáo truyền thống bằng luật dân sự. Những cải cách này nhằm mục đích phá vỡ trật tự Ottoman cũ, nhưng bị người dân Krym coi thường.
Khởi nghĩa tại Krym (1777–1782).
|
Đế quốc Nga sáp nhập Hãn quốc Krym
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813316
|
Khởi nghĩa tại Krym (1777–1782).
Theo mệnh lệnh của Nữ hoàng Yekaterina, Şahin cho phép người Nga định cư tại bán đảo, khiến người Krym càng thêm tức giận. Một nhóm những người định cư này được gửi đến Yeni-Kale, nơi vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Nga sau khi phong Şahin làm khả hãn. Cư dân địa phương đã cùng nhau ngăn cản việc người Nga định cư, và nổi dậy chống lại Şahin. Khả hãn cử đội quân nghĩa vụ mà ông mới thành lập đi dẹp loạn, nhưng quân của ông lại đào ngũ theo quân nổi dậy. Cuộc nổi dậy lan rộng khắp bán đảo, sau đó quân nổi dậy tiến vào cung điện của Şahin ở Bakhchysarai. Trong cuộc nổi dậy này, những người Krym lưu vong ở Constantinople tạo áp lực để chính phủ Ottoman hành động. Nhượng bộ trước áp lực, chính phủ Ottoman gửi một hạm đội đến Krym, bề ngoài là để bảo vệ Hiệp định Küçük Kaynarca. Tuy nhiên, Nga đã hành động nhanh hơn khi quân Nga đến Yeni-Kale vào tháng 2 năm 1778, dập tắt cuộc nổi dậy trước khi hạm đội Ottoman đến. Khi hạm đội đến vào tháng 3, họ phát hiện ra rằng không còn phiến quân nào để hỗ trợ. Hạm đội Ottoman giao tranh một thời gian ngắn với hải quân Nga ngoài khơi Akita (Sevastopol ngày nay), nhưng bị "buộc" phải bỏ chạy. Şahin được phục vị làm khả hãn. Các cuộc giao tranh nhỏ giữa hải quân Ottoman và Nga tiếp tục cho đến tháng 10 năm 1778, khi hạm đội Ottoman phải trở về Constantinople trong thất bại.
Trong những năm tiếp theo, Şahin tiếp tục cố gắng và cải cách Hãn quốc. Sự ủng hộ dành cho chương trình cải cách của ông vẫn còn thấp, và nó bị hủy hoại nghiêm trọng do quyết định của Nữ hoàng Yekaterina về tái định cư người Hy Lạp Pontic tại Krym đến bờ biển phía bắc của biển Azov, ở bên ngoài Hãn quốc. Cộng đồng này theo đạo Thiên chúa, họ là một phần thiết yếu của tầng lớp thương gia Krym, và hầu hết đã sẵn sàng ủng hộ các cải cách của Şahin. Việc tái định cư này gây ra thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế Krym và càng làm suy yếu vị thế của khả hãn.
|
Đế quốc Nga sáp nhập Hãn quốc Krym
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813316
|
Thừa nhận thất bại tại Krym, Đế quốc Ottoman ký Công ước Aynali Kavak vào đầu năm 1779. Trong thỏa thuận, người Ottoman công nhận Şahin là khả hãn của Krym, hứa sẽ không can thiệp thêm vào Krym và thừa nhận rằng Krym nằm dưới ảnh hưởng của Nga. Người Krym không còn có thể mong đợi sự hỗ trợ từ Ottoman. Các cải cách của Şahin được tiến hành, dần dần loại bỏ người Tatar khỏi các vị trí có ảnh hưởng chính trị. Trong một thời gian ngắn, Krym duy trì yên bình.
Một cuộc nổi loạn mới bắt đầu vào năm 1781, được châm ngòi do việc người Tatar tiếp tục bị gạt ra ngoài lề trong chính phủ Hãn quốc. Nhiều thủ lĩnh thị tộc và quân của họ tập hợp lại tại bán đảo Taman, cách Krym qua eo biển Kerch. Vào tháng 4 năm 1782, một phần lớn quân đội của Şahin đào thoát sang quân nổi dậy và gia nhập với họ tại Taman. Liên lạc giữa các thủ lĩnh phiến quân, bao gồm cả hai anh em trai của Şahin, và giới tinh hoa hành chính Krym được diễn ra. Các quan chức tôn giáo ("ulama") và pháp luật ("kadı"), tức là những bộ phận quan trọng của trật tự Ottoman cũ, đã công khai tuyên bố ác cảm với Şahin. Lực lượng phiến quân tấn công Kaffa vào ngày . Quân của Şahin nhanh chóng bị đánh bại, và ông buộc phải trốn đến Kerch do Nga kiểm soát. Các thủ lĩnh phiến quân đã bầu anh trai của Şahin là Bahadır Giray làm khả hãn, và gửi một thông điệp tới chính phủ Ottoman để tìm kiếm sự công nhận. Tuy nhiên, không lâu sau đó Nữ hoàng Yekaterina cử Thân vương Grigory Potemkin khôi phục quyền lực cho Şahin. Không có sự phản đối đáng kể nào chống lại quân Nga xâm lược, và nhiều phiến quân đã bỏ chạy về qua eo biển Kerch. Nhờ vậy, khả hãn được phục vị vào tháng 10 năm 1782. Tuy nhiên, vào thời điểm này ông đã mất đi sự ủng hộ của cả người Krym và Nữ hoàng Yekaterina. Trong một bức thư gửi cố vấn người Nga cho Şahin, Yekaterina viết "Ông ấy phải chấm dứt cách đối xử tàn nhẫn và gây sốc này, đồng thời không cho họ [người Krym] lý do đúng đắn cho một cuộc nổi dậy mới".
|
Đế quốc Nga sáp nhập Hãn quốc Krym
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813316
|
Khi quân đội Nga tiến vào bán đảo, công việc thiết lập một cảng ven Biển Đen để Đế quốc sử dụng bắt đầu. Thành phố Akitar được chọn làm địa điểm xây dựng cảng, đây là nơi đóng quân của Hạm đội Biển Đen mới được thành lập. Tuy nhiên, việc phục vị cho Şahin Giray là không chắc chắn về tính bền vững, dẫn đến gia tăng ủng hộ việc sáp nhập Krym, dẫn đầu là Thân vương Potemkin.
Sáp nhập.
Vào tháng 3 năm 1783, Thân vương Potemkin đã thúc đẩy mạnh mẽ nhằm khuyến khích Nữ hoàng Yekaterina sáp nhập Krym. Vừa trở về từ Krym, ông nói với bà rằng nhiều người Krym sẽ "vui vẻ" phục tùng sự cai trị của Nga. Được khuyến khích từ tin tức này, Nữ hoàng Yekaterina ban hành một tuyên bố chính thức về việc thôn tính vào ngày . Người Tatar Krym không chống lại việc thôn tính, vì sau nhiều năm hỗn loạn họ thiếu nguồn lực và ý chí để tiếp tục chiến đấu. Nhiều người chạy trốn khỏi bán đảo, rời đến Anatolia. Cố vấn thân cận của Nữ hoàng khi đó là Bá tước Alexander Bezborodko viết trong nhật ký của mình rằng Nga buộc phải sáp nhập Krym:
Quan điểm này là xa thực tế, "độc lập" của Krym là một chế độ bù nhìn, và người Ottoman đóng vai trò rất ít trong các cuộc nổi dậy của Krym. Krym được sáp nhập vào Đế quốc với tên tỉnh Taurida. Cuối năm đó, Đế quốc Ottoman ký một thỏa thuận với Nga công nhận việc để mất Krym và các lãnh thổ khác do Hãn quốc nắm giữ. Thỏa thuận được ký vào ngày 28 tháng 12 năm 1783, người đàm phán là nhà ngoại giao Nga Yakov Bulgakov. Hiệp định chuyển nhượng chính thức được gọi là "Hiệp định Constantinople (1784)".
|
Những người dân quê tôi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813331
|
Những người dân quê tôi là một bộ phim tài liệu Việt Nam sản xuất bởi Xưởng phim điện ảnh Giải Phóng khu V, do Trần Văn Thủy làm đạo diễn và là tác phẩm đầu tay của ông. Phim công chiếu lần đầu vào năm 1970 và đã giành giải thưởng điện ảnh lớn ở trong nước và quốc tế.
Nội dung.
Phim tường thuật lại cuộc sống chiến đấu và câu chuyện của những người dân sinh sống tại tỉnh Quảng Đà dưới thời Chiến tranh Việt Nam, trong đó là một nhà sư tạm rời xa của Phật để vào đội du kích, cô du kích với nửa khuôn mặt hủy hoại bởi chiến tranh vẫn hồn nhiên yêu đời, hay chú bé giao liên mới 14 tuổi nhưng đã mang nặng mối thù bị giặc Mỹ tàn sát gia đình...
Sản xuất.
Giữa năm 1965, Trần Văn Thủy gia nhập lớp quay phim khai giảng bởi Trường Điện ảnh Việt Nam, tuy nhiên chỉ sau một nửa khóa tới khoảng tháng 8 năm 1966 ông đã bị cử vào B (miền Nam) để làm phóng viên quay phim chiến tranh, bất chấp vấn đề lý lịch gia đình và thực tế Trần Văn Thủy mới chỉ động đến máy quay phim đúng hai lần. Ông làm phóng viên tại Ban Tuyên huấn Khu V từ năm 1966 đến 1969, địa bàn hoạt động chủ yếu là tỉnh Quảng Đà. Những ngày đầu đến đây, thay vì làm công việc chính là quay phim thì Trần Văn Thủy phải đi làm nương rẫy để tích lương thực. Phải đến vài tháng sau đó, ông mới được điều xuống đồng bằng và bắt đầu ghi lại những thước phim đầu tiên từ dòng sông Thu Bồn. Một người phụ trách điện ảnh của ban tuyên huấn đã giao cho Trần Văn Thủy 30 hộp phim màu của Tây Đức và một máy quay 16 mm chất lượng tốt; số phim và máy này đều do một đoàn làm phim Trung Quốc để lại.
Bối cảnh chính của bộ phim được chọn tại khu chợ Bàn Thạch. Nhiều mảnh đời của những cư dân tại Quảng Đà đã được Trần Văn Thủy sưu tầm và ghi lại trong phim. Hầu hết những người từng xuất hiện trong phim sau này đều đã qua đời trong chiến tranh, duy có cô chiến sĩ tên Văn Thị Xoa là còn sống nhưng với một nửa khuôn mặt bị hủy hoại bởi đạn của địch.
|
Những người dân quê tôi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813331
|
Liệt sĩ, nhà thơ Triều Phương cũng là người đồng hành cùng Trần Văn Thủy trong quá trình hoạt động tại đây và về sau đã được ghi danh vào đồng biên kịch của bộ phim. Với sự hỗ trợ từ chính quyền và những người dân địa phương, ông đã dành rất nhiều công sức để hoàn thành công việc mặc cho điều kiện sinh hoạt khó khăn, và đến năm 1969 thì nhận nhiệm vụ cõng 27 hộp phim ông đã quay ra Bắc vì không đủ sức khỏe để ở lại chiến trường. Trong quá trình di chuyển, Trần Văn Thủy có lúc bị sốt nặng tưởng sắp chết, rồi khi về đến nơi cân nặng còn 42 kg và phải vào viện chữa trị thời gian dài.
Khi đem phim ra Bắc nộp cho Cục Điện ảnh, Trần Văn Thủy đã sớm gặp phải nhiều rắc rối ở khâu tráng phim. Việc tráng phim của ông đã gặp nhiều khó khăn do đây là phim màu Agfacolor, vốn không thể tráng với kĩ thuật của miền Bắc Việt Nam khi đó. Một luồng dư luận lúc ấy đã cáo buộc ông là "B quay" (đào ngũ), vin vào lý do phim không tráng được cho rằng Trần Văn Thủy chỉ "bấm cho hết" số phim được giao để ra Bắc; có người từng định bỏ toàn bộ số cuộn phim này để lấy hộp sạc phim gửi vào chiến trường B. Nhà quay phim Nguyễn Thế Đoàn, người được Trần Văn Thủy tin tưởng giao nhiệm vụ tráng phim, đã nỗ lực tìm cách tráng phim trong suốt ba tháng liền nhằm minh oan cho đồng nghiệp. Cuối cùng, ông pha thuốc và tráng phim theo kiểu tráng trực hình, là một cách tráng trắng đen dù phim là phim màu. Tuy nhiên trong quá trình tráng nhiều cảnh phim đã bị tráng "ẩu" bởi các nhân viên khác dẫn đến sự xuất hiện của hiệu ứng chớp chớp tại nhiều cảnh phim. Trần Văn Thủy khi biên tập phim đã định cắt bỏ toàn bộ các cảnh lỗi này nhưng được ông Đoàn khuyên giữ lại vì "cảm giác rất lạ" mà nó đem lại. Trần Văn Thủy tiếp tục công việc biên tập, chỉnh lý nội dung phim rồi đặt tên tác phẩm đầu tay là "Những người dân quê tôi".
Công chiếu và tiếp nhận.
Bộ phim đã có buổi ra mắt đầu tiên tại số 22 phố Hai Bà Trưng.
|
Những người dân quê tôi
|
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19813331
|
Một số văn nghệ sĩ cách mạng đã có mặt trong buổi chiếu này như nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, Hà Mậu Nhai cùng với các nhân viên của Xưởng phim Giải Phóng khu V. "Những người dân quê tôi" đã được in ra nhiều bản để chiếu cho đông đảo người xem ở những nơi khác nhau, cả ở trong chiến trường. Nhà nước sau đó cũng gửi phim đi tham dự Liên hoan phim tài liệu quốc tế và những liên hoan phim khác thuộc các nước xã hội chủ nghĩa. Tại DOK Leipzig, phim đã được trao giải Bồ câu bạc bởi hội đồng ban giám khảo trong đó có Roman Karmen, đáng chú ý là nhờ vào những cảnh tráng hỏng được khen ngợi của phim. Đến năm 1973, phim được trao giải Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1973 nhân kỉ niệm 20 năm điện ảnh cách mạng Việt Nam.
Nhà biên kịch Bành Bảo, viết trong cuốn "Lịch sử điện ảnh cách mạng Việt Nam" năm 1983 đã so sánh bộ phim với phim tài liệu đoạt giải Vàng Liên hoan phim Leipzig năm 1967 "Du kích Củ Chi", theo đó chỉ ra sự tương đồng trong chủ đề giữa hai bộ phim nhưng ở "Những người dân quê tôi" thì hướng tiếp cận lại vào những câu chuyện nhẹ nhàng hơn, "không quyết liệt như những nhân vật trong "Du kích Củ Chi"" mà "bắt nguồn từ cả một quá trình suy nghĩ, từng trải và giác ngộ". Tác giả cũng đề cập đến hạn chế về mặt kỹ thuật do "hoàn cảnh chiến tranh", nhưng nhấn mạnh tính chân thật mà nó đem lại cho người xem, mang dấu ấn của "Quảng Nam – Đà Nẵng anh dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ".
Năm 2021, bộ phim đã được đưa vào hồ sơ xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật ở lĩnh vực điện ảnh cho đạo diễn Trần Văn Thủy nhưng đã không được chấp thuận bởi hội đồng xét duyệt.
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.