title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Số người ủng hộ việc khôi phục Nhà nước Liên Xô với hệ thống chính trị giữ nguyên như trước kia đã giảm dần, theo một khảo sát năm 2016 chỉ có 12% số người được hỏi ủng hộ việc khôi phục nguyên trạng nhà nước Liên Xô, tuy nhiên 46% ủng hộ việc đoàn kết các nước cộng hòa Xô viết cũ trong một liên minh mới tương tự như Liên minh châu Âu.. Theo cuộc khảo sát của Sputnik Mneniya tại 9 nước trong số 11 quốc gia thuộc Liên Xô cũ vào năm 2016, phần lớn cư dân trên 35 tuổi (những người đã trải qua cuộc sống dưới thời Liên Xô) cho rằng cuộc sống ở Liên Xô tốt hơn so với thời kỳ sau khi đất nước tan rã. Ở Nga, 64% số người đã trải qua thời kỳ Liên Xô đánh giá rằng chất lượng cuộc sống thời đó cao hơn. Ở Ukraina, đồng ý với tuyên bố này có 60% số người trả lời, còn tỷ lệ cao nhất là ở Armenia (71%) và Azerbaijan (69%) Trong một cuộc thăm dò do Trung tâm Levada tổ chức vào tháng 4/2016, 56% người được hỏi cho biết họ mong muốn Liên Xô vẫn tồn tại. Một điều tra của Trung tâm Công luận Toàn Nga (VTsIOM) cho thấy 64% người Nga sẽ bỏ phiếu cho việc gìn giữ Liên Xô nếu như tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 1991. Trong cuộc khảo sát của Trung tâm Levada năm 2016, 53% số người được hỏi nuối tiếc vì sự sụp đổ của hệ thống kinh tế kế hoạch hóa, 43% nuối tiếc cảm giác được sống trong một siêu cường. Khảo sát của hai cơ quan điều tra dư luận ở Nga cho thấy: đa số người dân Liên Xô cũng không muốn đất nước Liên Xô tan rã. Cuối năm 2005, kết quả một cuộc điều tra dư luận của hai cơ quan độc lập nổi tiếng ở Nga cho thấy: 66% người Nga ngày nay cảm thấy nuối tiếc cho sự sụp đổ của Liên Xô; 76% số người cho rằng Liên Xô có rất nhiều điểm đáng để tự hào. 72% và 80% số người được hỏi lần lượt cho rằng Gorbachev và Yeltsin đã đẩy đất nước vào con đường sai lầm; chỉ có 1% số người được hỏi mong muốn sống dưới thời Yeltsin., 60% người Nga tin rằng: sự sụp đổ của Liên Xô gây nhiều tác hại nhiều hơn là lợi ích.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Trong cơn đại hồng thủy đó, nhiều nước cộng hòa hậu Xô viết đã rơi vào bạo lực sắc tộc sau khi có được độc lập, khiến cả trăm ngàn người thiệt mạng. Một cuộc thăm dò đã được tiến hành trong năm 2016 cho thấy có 35% người Ukraina nuối tiếc về sự sụp đổ của Liên Xô, 50% không nuối tiếc và 15% thấy phân vân. Trong số này, người miền Đông Ukraina (đa số là người gốc Nga) có tỷ lệ tiếc nuối cao gấp đôi so với người miền Tây (muốn Ukraina gia nhập EU và NATO). Những người già từng sống trong thời kỳ đó, hoặc người đang thất nghiệp có tỷ lệ tiếc nuối cao hơn. Năm 1991, Tổng thống Hoa Kỳ George H.W. Bush đã bày tỏ cảm xúc sung sướng của mình nhân sự kiện Liên Xô sụp đổ: "Sự kiện vĩ đại nhất từng diễn ra trên thế giới trong suốt cuộc đời của tôi, trong toàn bộ cuộc đời của mỗi chúng ta, chính là sự kiện này đây: Nhờ vào ân sủng của Thiên Chúa, nước Mỹ đã chiến thắng cuộc Chiến tranh Lạnh" . Với việc Liên Xô sụp đổ, Hoa Kỳ trở thành siêu cường duy nhất còn tồn tại trên thế giới. Theo sử gia Geoffrey Roberts, trên bình diện thế giới, sự sụp đổ của Liên Xô khiến phương Tây không còn một đối trọng đủ mạnh mẽ, thế giới ngày nay vẫn còn xa mới có thể gọi là an toàn. Theo tiến sĩ Marcus Papadopoulos, một chuyên gia về Nga, việc Liên Xô sụp đổ khiến cho sự can thiệp của Mỹ và phương Tây vào công việc nội bộ của các nước tăng mạnh, với các vi phạm luật pháp quốc tế ở mức độ chưa từng thấy. Nếu Liên Xô còn tồn tại thì những cuộc chiến tranh của phương Tây tấn công Nam Tư, Iraq, Libya, Syria... sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng bố và Hồi giáo cực đoan sẽ không bao giờ xảy ra. Quan hệ đối ngoại. Kể từ năm 1922 trở đi, chính sách đối ngoại Liên Xô có hai mục tiêu chính. Các công cụ được sử dụng trong các nỗ lực của Liên Xô để giành quyền kiểm soát trên vùng đất "Comintern", Quốc tế cộng sản (1919). Trong thời gian này, đã có một trận chiến cay đắng giữa những người theo xã hội chủ nghĩa và những người cộng sản vì lòng trung thành của người lao động ở châu Âu. Các nhà xã hội nắm giữ các giá trị dân chủ trong khi những người cộng sản tin vào cách mạng.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Cộng đồng, được thành lập bởi Lenin và những người khác, đòi hỏi một cuộc cách mạng trên toàn thế giới. Hy vọng cho sự đoàn kết của người bình thường sẽ được kiểm soát bởi Moskva. Đại hội lần thứ hai, hay cuộc họp Quốc tế được tổ chức vào tháng 7 năm 1920. Nó kêu gọi Liên Xô giành quyền kiểm soát Warszawa, biến Ba Lan thành một phần của liên minh quốc tế các nước Liên Xô. Tháng tiếp theo, "Comitern" đã sản xuất Hai mươi mốt điều kiện. Chương trình này nhằm bảo vệ và củng cố nước Nga Xô viết và trên thực tế, đã tuyên chiến với bất kỳ xã hội dân chủ / tư bản nào. Kế hoạch này yêu cầu tất cả những người cộng sản: Trong giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh (1921-1933), Điều kiện Hai mươi mốt không thể sống theo mong đợi. Mối quan hệ ngoại giao gần nhất duy nhất của Liên Xô khi đó là Đức. Hai quốc gia đã có mục tiêu tương thích. Đức muốn trả thù phần còn lại của châu Âu và các đồng minh vì sự tàn phá và tổn thất lãnh thổ trong Chiến tranh thế giới thứ hai (xem "Hòa ước Versailles"). Nga Xô viết đã tìm cách mạng trong tất cả các công nhân và sự đoàn kết của họ dưới sự bảo trợ của nhà nước Liên Xô. Mối quan hệ chính thức giữa Nga Xô viết và Đức bắt đầu vào ngày 3 tháng 3 năm 1918, với việc ký kết Hòa ước Brest-Litovsk. Hiệp ước không phải là một điều phổ biến trong hầu hết các Liên Xô và Lenin đã bị chỉ trích vì đã ký kết nó. Tuy nhiên, tại thời điểm một số hiệp ước là cần thiết. Kết quả là sự hình thành các doanh nghiệp Đức-Liên Xô cho mục đích phát triển công nghiệp ở Liên Xô. Cả Đức và Nga hoàn toàn tin rằng cùng nhau họ có thể lấy lại vùng đất đã mất cho Ba Lan. Mục tiêu này trở thành ưu tiên của quân đội Đức nơi Bộ R được thành lập để hoạt động cùng với quân đội Liên Xô trong nỗ lực này. Nga Xô viết và Đức đã tham dự Hội Quốc Liên bắt đầu vào ngày 10 tháng 4 năm 1922. Ba mươi bốn quốc gia đã tham dự. Mục đích là xây dựng lại kinh doanh và kinh tế châu Âu. Đó là cuộc họp đầu tiên như vậy kể từ Thế chiến thứ nhất nơi Đức và Liên Xô được mời.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Đại diện của mọi quốc gia, ngoại trừ Hoa Kỳ, tổ chức nợ Nga hoàng đòi thanh toán và trả lại tài sản. Nga Xô viết không coi mình phải chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ nước ngoài mà các Sa hoàng có được nhưng sẵn sàng thảo luận về vấn đề này tại Genève. Đại diện của Liên Xô, Georgi Chicherin, đã đề nghị trao đổi khoản nợ của Sa hoàng để gia hạn thiệt hại do quân Đồng minh đã chọn liên quan đến các vấn đề Nga trực tiếp theo cách mạng. Chicherin cũng yêu cầu hỗ trợ tài chính đáng kể dưới dạng tín dụng cho chính phủ Liên Xô. Thủ tướng Anh, David Lloyd George, đã cố gắng làm mất tín dụng cho Liên Xô và các khoản vay để hỗ trợ nền kinh tế Liên Xô. Chicherin từ chối các đề xuất của Georgi vì các điều kiện bao gồm trả nợ các khoản nợ của Sa hoàng. Đề xuất này cũng yêu cầu Liên Xô bảo đảm các khoản vay bằng tài sản của Liên Xô, trên thực tế, sẽ thuộc thẩm quyền của người cho vay phương Tây cho đến khi khoản nợ được trả hết. Nga luôn lo sợ một sự hiện diện mạnh mẽ của phương Tây được thiết lập dọc theo biên giới phía tây của nó. Ý tưởng về những người cho vay phương Tây nắm giữ tài sản của Nga tại vịnh là không thể chấp nhận được. Hội nghị Genève kết thúc vào ngày 19 tháng 5 mà không có thỏa thuận nào đạt được giữa Nga và phương Tây. Thay vào đó, Liên Xô đã tham gia một hiệp ước khác với Đức. Hiệp ước Rapallo được tạo ra bởi Walter Rathenau của Đức và Georgi Chicherin của Liên Xô trong thời gian, nhưng không phụ thuộc vào, Hội nghị Genoa. Trong hiệp ước này, Đức và Liên Xô đã xóa sạch tất cả các khoản nợ tích lũy với nhau, kể cả các khoản nợ của Sa hoàng. Đức được trao vị thế quốc gia được ưa chuộng nhất có nghĩa là nhượng bộ thương mại đáng kể. Đức đồng ý sản xuất vũ khí cho Liên Xô. Một điều không được Hòa ước Versailles cho phép. Sau Hội nghị Genève và cho đến năm 1933, Đức và Liên Xô ngày càng gắn bó với nhau. Trên trường quân sự, các phi công Đức đã được đào tạo tại Nga. Những phi công này sau đó sẽ trở thành một phần của Luftwaffe của Hitler. Đức và Liên Xô đã tiến hành các thí nghiệm chiến tranh xe tăng và khí đốt chung và chế tạo các nguyên mẫu cho tàu ngầm và máy bay chiến đấu.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Bằng cách đào tạo ở Liên Xô và hợp tác với Liên Xô về phát triển vũ khí, Đức đã có thể điều động xung quanh phần thứ năm của Hòa ước Versailles. Nhiệm vụ của phần này của hiệp ước chỉ đơn giản là, lực lượng quân đội Đức sẽ được xuất ngũ và giảm bớt theo quy định. Sau năm 1933, Đức Quốc Xã lên nắm quyền, hợp tác giữa 2 nước kết thúc do Adolf Hitler (lãnh đạo mới của Đức) rất căm ghét Liên Xô. Chính trị. Lập pháp. Liên Xô là quốc gia theo mô hình xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, mô hình chính trị của nhà nước Liên Xô là hình mẫu chung cho các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Khác với đa số các nhà nước cộng hòa khác trên thế giới theo nguyên tắc "tam quyền phân lập", hệ thống chính trị Xô viết theo nguyên tắc "tập trung dân chủ". Đảng Cộng sản lãnh đạo tối cao và toàn diện mọi mặt: chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa (điều 6 Hiến pháp Liên Xô). "Cơ quan quyền lực cao nhất" của Liên Xô là Xô viết Tối cao Liên Xô ("Верховный Совет"), có cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp và trực tiếp đảm nhiệm chức năng lập pháp. Cơ quan thường trực của Xô viết Tối cao là Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô. Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao Liên Xô là nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa, nhưng Tổng Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản mới là nhân vật số một. (Từ năm 1988 "cơ quan quyền lực cao nhất" là Đại hội Đại biểu Nhân dân, cơ quan thường trực của nó là Xô viết Tối cao). Ở các cấp địa phương "cơ quan quyền lực cao nhất" là Xô viết địa phương do nhân dân bầu. Tư pháp. Xô viết Tối cao bầu ra Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) và phê chuẩn thành phần Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ) là cơ quan chấp hành của nó, đảm nhiệm chức năng hành pháp ở trung ương. Tương tự, Xô viết địa phương bầu ra Ủy ban hành chính ("Испольнительный коммитет", viết tắt là "Исполком" - Ispolkom) để đảm nhiệm chức năng hành pháp ở địa phương. Xô viết Tối cao cũng bầu Chánh án Tòa án Tối cao đứng đầu cơ quan tư pháp trung ương là Toà án Tối cao.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Xô viết địa phương bầu chánh án toà án các cấp địa phương. Hiến pháp Liên Xô cũng quy định về các quyền cơ bản của công dân như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do hội họp, tự do tín ngưỡng... như các nhà nước hiện đại khác trên thế giới. Nhưng về thực chất đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị của Liên Xô là sự bao trùm của Đảng Cộng sản lên hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Liên Xô ("Коммунистическая партия Советского Союза - КПСС") là cơ quan lãnh đạo theo hiến pháp quy định, không do dân bầu. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, Liên Xô áp dụng hệ thống nhân sự theo "Nomenclatura" nghĩa là hệ thống cơ cấu cán bộ theo sự chỉ định của Đảng: ở mỗi cấp chính quyền hành chính, Xô viết hoặc tư pháp thì luôn song hành với đảng ủy (Parkom - "Партийный коммитет" viết tắt là Парком). Các đảng viên lãnh đạo đảng ủy (hay Parkom) luôn nắm các vị trí chi phối của các Xô viết theo một tỷ lệ đảm bảo sự lãnh đạo: ứng cử viên vào các Xô viết đều phải được sự đề cử của các Parkom và các liên danh ứng cử của đảng viên và người ngoài đảng bao giờ cũng có một tỷ lệ áp đảo của đảng viên. Đối với cơ quan hành pháp cũng vậy các chức vụ lãnh đạo của các Ispolkom là từ các Parkom, thường thì các phó bí thư đảng ủy là chủ tịch các uỷ ban hành chính (Ispolkom). Các Xô viết và các Ủy ban hành chính các cấp phải chấp hành các chỉ thị của cấp trên theo ngành dọc của mình và các chỉ thị, nghị quyết của Ủy ban đảng đồng cấp của địa phương mình và thường các chỉ đạo này là nhất quán với nhau. Ở cấp các nước Cộng hòa và cấp Liên bang cũng vậy: Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Xô viết tối cao, Chánh án Toà án tối cao thường là các Ủy viên Bộ chính trị của Đảng, đôi khi Tổng bí thư kiêm luôn Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao (như Brezhnev) hoặc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (như Khrushchov). Các Bộ trưởng thường là Ủy viên Bộ chính trị hoặc Trung ương Đảng. Khi họp Chính phủ hoặc Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao thì thực tế là họp Bộ Chính trị mở rộng.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Nhân sự các nhiệm kỳ của các cơ quan chính trị, nhà nước trùng với nhân sự của đại hội Đảng, khi một cá nhân thôi chức tại Parkom thì họ cũng thôi nhiệm vụ tại Xô viết hoặc Ispolkom... Tại Liên Xô chỉ đạo của Đảng là trực tiếp: Đảng ủy có thể đưa ra các chỉ đạo thẳng đến các Xô viết và các Ủy ban hành chính chứ không cần thiết phải biến các nghị quyết đảng đó thành các văn bản của các cơ quan này nữa. Hệ thống chính trị như vậy của nhà nước Liên Xô làm xã hội Xô viết mang đặc tính tập trung quyền lực rất lớn của Đảng. Có lúc nào đó đặc tính này có thể mang lại tác dụng tốt, đảm bảo sự lãnh đạo và thực hiện nhanh chóng, nhất quán về một chính sách mà không bị cuốn vào những tranh cãi mất thời gian, nhưng đồng thời các cấp ủy gần như không bị nhân dân kiểm soát mà chỉ phải chịu sự giám sát từ hệ thống kiểm tra trong nội bộ đảng, nếu hệ thống giám sát mà bị buông lỏng thì dễ dẫn đến hiện tượng lạm dụng quyền lực của các cấp ủy, hiện tượng vi phạm các quyền tự do của công dân được hiến pháp quy định, cũng như các tiêu cực khác ví dụ tình trạng không quy được trách nhiệm cá nhân... Trong giai đoạn sau của Liên Xô, hệ thống giám sát bắt đầu bị buông lỏng vào thời Khruschov, và phát tác vào thời kỳ được gọi là "thời kỳ trì trệ" thập niên 1980. Để hạn chế các khiếm khuyết của hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo tập quyền tập trung như vậy, năm 1985 Tổng bí thư Gorbachov đã tiến hành cải cách chính trị. Cuộc cải cách chính trị của Gorbachov có mục đích giảm bớt sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ cấu nhà nước và xã hội, cho phép thành lập hàng loạt các tổ chức hội đoàn, xã hội dân sự, tổ chức phi chính phủ... nhưng chính sách này là phản tác dụng, gây ra khủng hoảng chính trị và dẫn đến sự tan rã của Liên Xô. Kinh tế. Mô hình hệ thống kinh tế Liên Xô cơ bản là kinh tế nhà nước, là nền kinh tế phi cạnh tranh, không định hướng theo thị trường, chịu sự lãnh đạo của Đảng và tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ cả ở cấp vi mô và vĩ mô. Đây cũng là mô hình kinh tế chung của các Quốc gia xã hội chủ nghĩa.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Những đặc điểm tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng như vậy có tác dụng dễ dàng tập trung được nguồn lực quốc gia cho các mục tiêu trọng điểm, những ưu tiên của đất nước ví dụ điển hình như quá trình Công nghiệp hóa những năm 1930 đã thành công bất kể các căng thẳng của nền kinh tế, cũng như các dự án công nghiệp quốc phòng và các dự án khoa học lớn khác của Liên Xô sau này. Kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường nên kinh tế Liên Xô tránh được lạm phát, tránh được các khủng hoảng và các rủi ro của thị trường như trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá cả có khi được duy trì cố định trong vài chục năm. Nhưng về sau, thì kinh tế Liên Xô thường không gắn liền với hiệu quả kinh tế nên thường gây lãng phí rất lớn: kinh tế phát triển nhanh nhờ khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên nhưng năng suất lao động tăng không tương xứng. Việc lập kế hoạch chi tiết vẫn không thể nào sát được với thực tế cuộc sống, không thể tính được hết các yếu tố cung cầu, mức giá làm cho cung cân bằng với cầu. Các kế hoạch kinh tế không thể phân phối và sử dụng tài nguyên một cách hiệu quả nhất, các chỉ tiêu phát triển được duy trì cao nhưng mức sống của người dân tăng ngày càng chậm lại. Nền kinh tế không linh hoạt: một doanh nghiệp không hoàn thành kế hoạch sẽ ảnh hưởng lây lan, do đó kế hoạch được coi như pháp lệnh nhà nước và có tính bắt buộc rất cao. Vì kế hoạch hóa mang nhiều tính mệnh lệnh quan liêu và không sát nhu cầu xã hội khiến hàng hóa Liên Xô có chất lượng và tính cạnh tranh ngày càng thấp so với nước ngoài. Giá cả cố định trong một thời gian khá dài cộng với thu nhập tăng đều, điều này là có lợi cho đời sống của các tầng lớp dân cư, sức mua của người dân tăng cao, nhưng ngược lại sức mua tăng mà sản lượng và chất lượng hàng tiêu dùng không tăng kịp theo yêu cầu của xã hội nên gây nên nạn khan hiếm hàng hóa, tạo "văn hóa xếp hàng" ở mọi nơi, gây bức xúc trong dân chúng nhất là dân thành thị.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Lợi ích doanh nghiệp và người lao động phụ thuộc vào việc hoàn thành và vượt chỉ tiêu kế hoạch được giao mà ít có áp lực cạnh tranh (ở Liên Xô cạnh tranh chỉ dưới hình thức thi đua Xã hội chủ nghĩa). Từ những năm 1960, khi thị hiếu của người dân nâng cao, việc thi đua vượt chỉ tiêu tạo nên một số loại hàng hóa dư thừa lớn trong xã hội, nhưng một số loại hàng hóa khác thì lại bị thiếu do chính phủ không đầu tư sản xuất. Kết quả là một số loại hàng hóa thì thừa nhiều, một số khác thì lại thiếu gây mất cân đối trong nền kinh tế. Hàng hóa dư thừa cũng ít khi được Liên Xô xuất khẩu để kiếm lợi nhuận, mà nhiều khi được viện trợ cho các nước nghèo ở châu Á, châu Phi dưới hình thức viện trợ không hoàn lại. Việc không có cạnh tranh và sản xuất theo kế hoạch đồng thời thiếu những biện pháp khuyến khích tăng năng suất làm cho người lao động mất động lực dẫn đến sự sa sút kỷ luật và sự hăng hái lao động, làm nảy sinh thói bàng quan, vô trách nhiệm. Vào những năm Stalin và trong chiến tranh, người lao động làm việc dưới ảnh hưởng của tinh thần yêu nước và kỷ luật sắt, chính sách công nghiệp hóa có hiệu quả cao nên không có sự sa sút, nhưng về sau vì kém động lực kinh tế nên chiều hướng làm biếng dần trở nên phổ biến trong tâm lý người lao động. Đồng thời cách trả lương lao động mang tính bình quân chủ nghĩa không khuyến khích tính năng động và làm bất mãn những người muốn làm giàu. Để khuyến khích người lao động, từ những năm cuối thập kỷ 1970 Liên Xô cho áp dụng khoán sản phẩm trong các xí nghiệp công nghiệp ở phạm vi tổ đội lao động ("Бригадный подряд") nhưng kết quả chỉ thành công hạn chế và không gây được động lực lớn. Tác giả Gregory ở Viện Hoover, trong một bài luận năm 2018, tóm tắt các điểm yếu của nền kinh tế Liên Xô gồm: điểm yếu lớn nhất là lập kế hoạch dựa trên "cân đối nguyên vật liệu", và ở mức độ nhẹ hơn là "ràng buộc ngân sách mềm". Liên Xô chỉ lập kế hoạch chi tiết đến từng giao dịch cho một số sản phẩm chiến lược, còn các sản phẩm khác chỉ được lập kế hoạch ở mức độ tổng sản lượng. Tất cả mọi kế hoạch đều chỉ là dự thảo, có thể được điều chỉnh bất cứ lúc nào.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Việc áp dụng công nghệ mới hoặc làm giảm chi phí sản xuất không được đưa vào kế hoạch. Cơ quan lập kế hoạch không thể cân đối cung cầu bằng cách nâng hoặc hạ giá, vì vậy họ cân đối cung cầu bằng cách so sánh những vật liệu nào đang có sẵn với những vật liệu cần có - gọi là "cân đối nguyên vật liệu". Năm 1938 chỉ có 379 sự cân đối nguyên vật liệu ở trung ương được chuẩn bị cho một nền kinh tế có hàng triệu mặt hàng. Những sự cân đối này lại dựa trên những thông tin sai lệch. Các nhà sản xuất phải vận động để được phân bổ những mục tiêu thấp, che giấu năng lực sản xuất thật của họ. Những người sử dụng sản phẩm công nghiệp trong phép cân đối, ngược lại, lại khai vống lên những gì họ cần, để bảo đảm việc hoàn thành kế hoạch của riêng họ. Kế hoạch của mỗi năm là kế hoạch của năm trước đó cộng thêm một số điều chỉnh nhỏ. Việc này được áp dụng đến thập niên 1980, làm cho nền kinh tế giảm động lực tạo ra sản phẩm mới và áp dụng công nghệ mới bởi vì chúng đòi hỏi phải thiết kế lại hệ thống các cân đối. Janos Kornai, trong một nghiên cứu năm 1986, chỉ ra "ràng buộc ngân sách mềm" - xảy ra khi tương quan thu bù chi của doanh nghiệp không được tôn trọng - là một nguyên nhân khác làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa. Các doanh nghiệp thua lỗ không được phép phá sản, vì sẽ làm ảnh hưởng dây chuyền tới toàn bộ kế hoạch, do đó ngân hàng trung ương đã thường xuyên phát hành tiền để cứu chúng. Những điểm yếu này tác động nhiều vào nông nghiệp Xô viết khiến nó trở nên già cỗi, nông nghiệp và nông thôn chậm hiện đại hóa, khoảng cách thành thị – nông thôn ngày càng lớn, thanh niên nông thôn dồn hết vào thành phố, sản xuất nông nghiệp sa sút. Đến giữa những năm 1980 nông nghiệp và nông thôn đã là một vấn đề mất cân đối của kinh tế Xô viết. Tuy tổng sản lượng nông nghiệp Liên Xô vẫn đứng đầu châu Âu, nhưng một số sản phẩm nông nghiệp lại phải nhập khẩu từ nước ngoài.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Đảng và chính phủ Liên Xô đã có những cố gắng đầu tư cho nông nghiệp trong những năm 1970 – 1980 bằng các dự án thành lập các tổ hợp nông – công nghiệp nhưng vì chưa đánh giá hết những nguyên nhân gốc rễ và cách tiếp cận cũng mang tính quan liêu mệnh lệnh nên chương trình nhiều tham vọng này cũng không thành công. Đến giữa những năm 1980, nền kinh tế Xô viết đã bộc lộ những điểm yếu rất lớn. Tuy vẫn duy trì được vị thế nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (chỉ kém Mỹ) với GDP đạt 2,66 nghìn tỷ USD (năm 1990), có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhưng nền kinh tế Liên Xô đã bị lạc hậu hơn so với các nước kinh tế thị trường phát triển nhất như Mỹ, Nhật, Đức. Vào năm 1987, hàng tiêu dùng chỉ chiếm 24% sản lượng hàng hóa ở Liên Xô, phần còn lại là dành cho đầu tư công nghiệp và nhu cầu quốc phòng. Trong nền kinh tế tích tụ rất nhiều mâu thuẫn ảnh hưởng lớn lên xã hội và đó là nguyên nhân để Tổng bí thư Gorbachov tiến hành cải cách cải tổ ("perestroika"), tuy nhiên cải cách chỉ tập trung vào cơ cấu chính trị trong khi không quan tâm đến cải cách mô hình kinh tế nên đã thất bại và Liên Xô sụp đổ. Các quốc gia thành viên của Hội đồng Tương trợ Kinh tế: Ngoài ra còn một số quan sát viên. Hội đồng Tương trợ Kinh tế còn ký hiệp định với một số nước như: Nhân khẩu. Dân số. Đế quốc Nga bị mất vùng lãnh thổ với khoảng 30 triệu người sau khi Cách mạng Nga (Ba Lan: 18 triệu; Phần Lan: 3 triệu; România: 3 triệu; Các nước Baltic khẳng định 5 triệu và Kars đến Thổ Nhĩ Kỳ 400 nghìn người). Theo Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Liên Xô đã chịu 26,6 triệu thương vong trong chiến tranh thế giới thứ hai, bao gồm sự gia tăng tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh là 1,3 triệu. Tổng thiệt hại chiến tranh bao gồm các vùng lãnh thổ do Liên Xô sáp nhập năm 1939-1945. Mặc dù tốc độ tăng dân số giảm theo thời gian, nhưng nó vẫn tích cực trong suốt lịch sử của Liên Xô ở tất cả các nước cộng hòa, và dân số tăng lên hơn 2 triệu mỗi năm trừ thời kỳ chiến tranh, tập thể hoá và nạn đói. Sắc tộc.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Sắc tộc. Theo điều tra dân số năm 1989 l, dân số Liên Xô bao gồm 70% Đông Slav, 12% Thổ Nhĩ Kỳ và phần còn lại là cư dân thiểu số với tỷ lệ dưới 10% mỗi người. Mặc dù phần lớn dân số Liên Xô chấp nhận chủ nghĩa vô thần 60%, nhưng có đến 20% tôn giáo Chính thống giáo Nga, 15% theo Hồi giáo, và còn lại là các tôn giáo khác. Ngôn ngữ. Liên Xô đang thịnh hành trong các lĩnh vực châu Âu của Nhóm ngôn ngữ Đông Slav (tiếng Nga, tiếng Belarus và tiếng Ukraina), trong Nhóm ngôn ngữ gốc Balt là tiếng Litva và tiếng Latvia và tiếng Phần Lan, tiếng Estonia và tiếng Moldova (một ngôn ngữ thuộc Nhóm ngôn ngữ Rôman) đã được sử dụng ngoài sang tiếng Nga. Ở vùng Kavkaz, ngoài tiếng Nga, còn có tiếng Armenia, tiếng Azerbaijan và tiếng Gruzia. Ở phía Nga, có một số nhóm thiểu số nói Ngữ hệ Ural khác nhau; hầu hết các ngôn ngữ ở Trung Á là Ngữ chi Iran mà bởi tiếng Tajik trừ là Ngữ hệ Turk. Mặc dù Liên Xô không có ngôn ngữ chính thức là "de jure" trong phần lớn lịch sử của nó trước năm 1990 và tiếng Nga "ngôn ngữ giao tiếp giữa các quốc gia" () theo quy định tuy nhiên, trên "de facto" đã trở thành ngôn ngữ chính thức. Đối với vai trò và ảnh hưởng của nó tại Liên Xô. Tôn giáo. Liên Xô có nhiều tôn giáo khác nhau như Chính thống giáo (có số lượng tín đồ lớn nhất), Công giáo, Báp-tít và nhiều giáo phái Tin lành khác. Phần lớn Hồi giáo ở Liên Xô là Sunni, ngoại trừ đáng chú ý là Azerbaijan, phần lớn là người Shia. Do Thái giáo cũng có nhiều tín đồ. Các tôn giáo khác, được thực hành bởi một số ít tín đồ, bao gồm Phật giáo và Shaman giáo. Quân sự. Lịch sử quân sự Liên Xô bắt đầu vào những ngày tiếp theo năm 1917 vào Cách mạng Tháng Mười đã đưa những người Bolshevik lên nắm quyền. Chính phủ mới đã thành lập Hồng quân để chiến đấu với nhiều kẻ thù khác nhau trong Nội chiến Nga.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Vào những năm 1930-1940, Hồng quân đã tham gia một loạt cuộc chiến trong Thế chiến 2: tấn công Phần Lan; đã chiến đấu trong một cuộc chiến tranh biên giới ngắn ngủi (cùng với đồng minh Mông Cổ) với Nhật Bản và quốc gia phụ thuộc Mãn Châu Quốc, tấn công Ba Lan, sáp nhập các nước Baltic, Bessarabia và Bắc Bukovina, giao chiến với quân đội Đức Quốc xã và các quốc gia phụ thuộc Đức (Hungary, România, Bulgaria, Italy, Phần Lan). Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Hồng quân là lực lượng quân sự lớn đã đánh bại Đức Quốc xã. Sau chiến tranh, Hồng quân kiểm soát một phần của Đức và nhiều quốc gia ở Trung và Đông Âu, trở thành các quốc gia vệ tinh trong Hiệp ước Warszawa. Liên Xô trở thành đối thủ siêu cường duy nhất của Hoa Kỳ. Các cuộc chiến tranh lạnh giữa hai quốc gia dẫn đến tích tụ quân sự, chạy đua vũ trang và chạy đua vào không gian. Trong những năm 1950-1990, lực lượng vũ trang Liên Xô có nhiều quân số và vũ khí hạt nhân hơn bất kỳ quốc gia nào khác, lục quân Liên Xô có lực lượng mạnh nhất thế giới, trong khi Hải quân và Không quân Liên Xô đứng thứ 2 thế giới. Liên Xô sụp đổ năm 1991, không phải do thất bại quân sự mà là các yếu tố kinh tế và chính trị (xem Lịch sử Liên Xô (1985–1991)). Quân đội Liên Xô bao gồm năm dịch vụ vũ trang. Theo thứ tự quan trọng chính thức của họ, các khối vũ trang của Liên Xô là Lực lượng Tên lửa Chiến lược, Lực lượng Lục quân, Không quân, Lực lượng Phòng không và Lực lượng Hải quân. Hai lực lượng quân sự hóa khác của Liên Xô là Quân đội nội bộ, trực thuộc Bộ Nội vụ và Quân đội Biên phòng, trực thuộc KGB. Chương trình vũ trụ. Mở đầu. Vào tháng 8 năm 1957, Liên Xô đã thực hiện thử nghiệm thành công đầu tiên đối với R-7 Semyorka, tên lửa đạn đạo liên lục địa (ICB) đầu tiên trên thế giới. R-7 là đỉnh cao của nghiên cứu và phát triển dựa trên tên lửa V-2 của Đức Quốc xã, đã được phóng vào các quốc gia Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiếc đầu tiên trong số này, tên lửa R-1, là một bản sao của chiếc V-2, do các tù nhân Đức chế tạo dưới sự hướng dẫn của Sergey Korolyov.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Korolyov là một kỹ sư tên lửa, người đã sớm cải tiến thiết kế ban đầu của Đức. R-2 có thể bay xa gấp đôi so với R-1 và vào thời R-7, tên lửa đã có tầm bắn gần như toàn cầu, khiến chúng trở thành lựa chọn lý tưởng cho một phương tiện phóng vào không gian. Cuộc chạy đua vào không gian đã bắt đầu. Tiến xa hơn, đưa con người ra ngoài vũ trụ. Chỉ hai tháng sau khi Semyorka được thử nghiệm, Korolyov đã thành công trong việc đưa vật thể nhân tạo đầu tiên lên quỹ đạo quanh Trái đất. Vệ tinh này được gọi là Sputnik. Sau đó một tháng là Sputnik 2 mang theo động vật du hành vũ trụ đầu tiên, chú chó Laika. Vụ phóng của chúng là một thành công lớn về mặt tuyên truyền đối với Hoa Kỳ và ngay sau đó Korolyov được giao nhiệm vụ xây dựng dựa trên những thành tựu của Liên Xô trong không gian. Việc lập kế hoạch cho một sứ mệnh có người lái bắt đầu vào năm 1958 và kết quả là chương trình Vostok, chạy từ năm 1960 đến năm 1963. Chương trình đã thành công rực rỡ và vào tháng 4 năm 1961, Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên lên quỹ đạo Trái đất trên tàu Vostok 1, ông đã bay một vòng quanh Trái đất và hạ cánh thành công xuống thảo nguyên Kazakhstan. Ông đã tham gia cùng 5 nhà du hành vũ trụ đồng hành trong vòng 2 năm tới, bao gồm cả Valentina Tereshkova, người phụ nữ đầu tiên lên vũ trụ. Chương trình Vostok được nối tiếp bởi chương trình Voskhod, chương trình đã chứng kiến ​​Liên Xô đạt được những cột mốc quan trọng hơn. Điều quan trọng nhất trong số này là do phi hành đoàn của Voskhod 2 đạt được, khi Aleksei Leonov thực hiện chuyến đi bộ ngoài không gian đầu tiên vào ngày 18 tháng 3 năm 1965. Chạy đua với Hoa Kỳ. Mục tiêu tiếp theo của Korolyov là cố gắng hạ cánh một người đàn ông lên mặt trăng trước Hoa Kỳ. Để đạt được mục tiêu này, ông đã thiết kế tên lửa N1 cùng với các nhân viên tại phòng thiết kế OKB-1 của mình, cũng như làm việc trên thiết kế cho tàu vũ trụ có người lái Soyuz. Sau đó, vào tháng 1 năm 1966, Korolyov qua đời vì một cơn đau tim trong một cuộc phẫu thuật thường lệ. Chỉ đến thời điểm này, thế giới mới biết được danh tính của thiết kế trưởng người Nga.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Danh tính của ông đã được giữ bí mật trong suốt những năm 1950 và 1960, nhưng giờ đây ông đã được chôn cất với danh dự nhà nước tại nghĩa trang điện Kremli. Trách nhiệm hạ cánh một người lên mặt trăng giờ được giao cho chỉ huy thứ hai của Korolyov, Vasily Mishin, người đã phê duyệt vụ phóng Soyuz 1 vào năm 1967. Con tàu vũ trụ gặp sự cố, giết chết nhà du hành vũ trụ Vladimir Komarov. Các vấn đề khác đã xảy ra khi mỗi chuyến bay thử nghiệm N1 không người lái đều phát nổ. Những bước lùi này đã chứng kiến ​​Mỹ vượt lên trước Liên Xô trong cuộc chạy đua không gian và vào ngày 21 tháng 7 năm 1969, Neil Armstrong và Buzz Aldrin đã hạ cánh thành công lên mặt trăng. Mặc dù các kế hoạch cho một sứ mệnh của Nga vẫn tiếp tục kéo dài đến những năm 1970, chương trình này cuối cùng đã bị hủy bỏ vào năm 1974. Xây dựng trạm vũ trụ Hòa Bình. Trạm vũ trụ thành công nhất do Liên Xô xây dựng đã bay từ năm 1986 đến năm 2001. Nó được gọi là "Mir" (có nghĩa là "hòa bình") và được lắp ráp trên quỹ đạo. Nó đã tổ chức một số thành viên phi hành đoàn từ Liên Xô và các nước khác trong một buổi biểu diễn hợp tác không gian. Ý tưởng là giữ một tiền đồn nghiên cứu lâu dài trong quỹ đạo Trái đất thấp và nó tồn tại nhiều năm cho đến khi nguồn tài trợ bị cắt. Mir là trạm vũ trụ duy nhất được xây dựng bởi chế độ của một quốc gia và sau đó được điều hành bởi người kế nhiệm chế độ đó. Đến vào năm 2001, Nga đã thực hiện phá huỷ trạm Mir, vì nó tồn tại quá lâu, phục vụ nhân loại gấp ba lần thời hạn thiết kế ban đầu là 5 năm và dọn đường cho Trạm Vũ trụ Quốc tế vì Nga không có đủ kinh phí để vận hành cả hai trạm vũ trụ cùng một lúc. Mir cùng với tàu Progress sau đó cháy và tan vỡ trong khí quyển, những mảnh vỡ sót lại đã rơi xuống mặt Thái Bình Dương. Sau cuộc đua không gian. Ngoài các tàu thăm dò hành tinh của mình, Liên Xô còn rất quan tâm đến các trạm vũ trụ quay quanh quỹ đạo, đặc biệt là sau khi Mỹ công bố (và sau đó hủy bỏ) Phòng thí nghiệm trên quỹ đạo có người lái.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Khi Hoa Kỳ công bố Skylab, Liên Xô cuối cùng đã xây dựng và đưa vào hoạt động trạm Salyut. Năm 1971, một phi hành đoàn đã đến Salyut và dành hai tuần làm việc trên trạm. Thật không may, họ đã chết trong chuyến bay trở về do rò rỉ áp suất trong khoang chứa của tàu Soyuz 11. Cuối cùng, Liên Xô đã giải quyết được các vấn đề về Soyuz và trạm Salyut đã dẫn đến một dự án hợp tác chung với NASA về dự án Apollo–Soyuz. Sau đó, hai nước đã hợp tác xây dựng một loạt tàu con thoi-Mir và việc xây dựng Trạm Vũ trụ Quốc tế cùng với quan hệ đối tác với Nhật Bản và Châu Âu. Kế tục chương trình vũ trụ của Liên Xô. Chương trình không gian của Liên Xô phải đối mặt với những khó khăn khi Liên Xô tan rã. Thay vì cơ quan vũ trụ Liên Xô, Mir và các phi hành gia Liên Xô của họ (những người đã trở thành công dân Nga khi đất nước thay đổi) đến dưới sự quản lý của Cơ quan Vũ trụ Nga (Roscosmos), được thành lập vào năm 1992. Nhiều phòng thiết kế từng thống trị không gian và thiết kế hàng không vũ trụ đã bị đóng cửa hoặc được tái thiết thành các tập đoàn tư nhân. Nền kinh tế Nga trải qua những cuộc khủng hoảng lớn khiến chương trình vũ trụ bị ảnh hưởng. Cuối cùng, mọi thứ ổn định và đất nước tiến lên với kế hoạch tham gia vào Trạm vũ trụ Quốc tế (ISS), cùng với việc tiếp tục phóng các vệ tinh thông tin và thời tiết. Ngày nay, Roscosmos đã vượt qua những thay đổi trong lĩnh vực công nghiệp vũ trụ của Nga và đang tiến lên với các thiết kế tên lửa và tàu vũ trụ mới. Nó vẫn là một phần của tổ hợp ISS và đã tuyên bố thay vì chương trình vũ trụ Liên Xô, Mir và các phi hành gia Liên Xô của họ (những người đã trở thành công dân Nga khi đất nước thay đổi) thuộc về Roscosmos, Cơ quan Vũ trụ Nga mới thành lập. Nó đã tuyên bố quan tâm đến các sứ mệnh mặt trăng trong tương lai và đang nghiên cứu các thiết kế tên lửa mới và cập nhật vệ tinh. Cuối cùng, Nga muốn lên đặt chân lên sao Hỏa và tiếp tục khám phá Hệ Mặt trời. Khoa học và công nghệ. Một trong những chủ trương chính sách quan trọng nhất của Nhà nước Xô viết là việc đầu tư, phát triển khoa học.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Trong giai đoạn 1921-1930 đầu tư cho khoa học hàng năm tăng 30%, tính trung bình trong suốt thời kỳ Xô viết là 3% đến 3,5% GDP, còn cao hơn các nước tư bản phát triển khi đó. Ngay trong điều kiện kinh tế kiệt quệ do chiến tranh thế giới và cuộc nội chiến 1918-1922, nhà nước Xô viết vẫn dành một nguồn lực lớn để xây dựng cơ sở nghiên cứu cho các nhà khoa học lớn như Ivan Pavlov (giải Nobel năm 1905), Ilya Mechnikov (giải Nobel 1908) và nhiều nhà khoa học tên tuổi khác. Tốc độ phát triển đội ngũ khoa học kĩ thuật của Nhà nước Xô viết hết sức nhanh chóng, nếu trong 1913 là 11,6 ngàn thì đến 1975 con số này đã tăng lên gần 1,2 triệu, đến năm 1989 là 1,6 triệu người, chiếm 1/4 số lượng cán bộ khoa học của toàn thế giới. Liên Xô là cường quốc khoa học hàng đầu thế giới, đặc biệt là về toán học, vật lý lí thuyết, đại dương học, luyện kim, xúc tác hóa học, thủy động lực học từ trường. Liên Xô là nước đầu tiên xây dựng nhà máy điện nguyên tử (1954), chế tạo tàu phá băng đầu tiên, phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên (1957), đưa người đầu tiên bay vào vũ trụ (1961), và xây dựng trạm vũ trụ đầu tiên của loài người. Liên Xô cũng dẫn đầu trong nghiên cứu phản ứng nhiệt hạch và bom khinh khí, phát minh ra máy phát lượng tử (laser) cùng lúc với Mỹ. Ngành viễn thông, từ Internet toàn cầu đến các thiết bị di động đều là sản phẩm dựa trên phát minh của Viện sĩ Zhores Alferov (Nobel năm 2000), và còn rất nhiều thành tựu khoa học đỉnh cao khác. Những thành tựu khoa học Liên Xô được ghi nhận qua 14 Giải Nobel về vật lí, 1 giải nobel về hóa học, 1 giải về kinh tế học và ba giải Fields về toán học. A. Gurshtein, nhà khoa học Mỹ đã viết: Di sản. Hoài niệm Liên Xô vẫn là một quan niệm phổ biến, và không chỉ đối với Nga.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Trong cuộc trưng cầu dân ý diễn ra vào tháng 3 năm 1991 với đề nghị duy trì Liên Xô, rằng đó sẽ là "liên bang đổi mới của các nước cộng hòa có chủ quyền bình đẳng, trong đó quyền con người và quyền tự do của mọi người thuộc mọi quốc tịch sẽ được bảo đảm hoàn toàn", hơn 76% cử tri đã bỏ phiếu ủng hộ; Belarus (83%) thậm chí còn nhiệt tình hơn Ukraina (70%) và Nga (71%), và cử tri ở Trung Á nhiệt tình với việc duy trì Liên Xô hơn bất kỳ ai trong số họ. Có rất ít sự phản kháng đối với cuộc đảo chính đã cố gắng bảo vệ Liên Xô vào tháng 8 năm 1991, và có rất ít sự ủng hộ cho quyết định vội vàng và có thể vi hiến để chấm dứt Liên Xô vào tháng 12 năm 1991 - một "hiệp ước" khá kỳ dị, được thực hiện bởi tổng thống Nga Boris Yeltsin, người đã không có lập luận rõ ràng nào (theo những người tham gia, ông ta "say đến mức ngã ra khỏi ghế"), và trong bất kỳ trường hợp nào, không có cam kết nào trước đó về việc giải thể liên bang. Mức độ hỗ trợ của người dân cho nguyên tắc của một nhà nước Liên Xô đã luôn rất cao; trong cuộc khảo sát năm 2008 tại Nga, hơn một nửa người dân (57%) phần lớn hoặc hoàn toàn đồng ý rằng sự sụp đổ của Liên Xô đã là một "thảm họa", và gần hai phần ba (64%) cho rằng các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đã thành lập Cộng đồng các quốc gia Độc lập (CIS) nên tái lập Liên Xô như một quốc gia duy nhất hoặc ít nhất là hợp tác chặt chẽ hơn. Những con số đáng kể, thực sự, tiếp tục khẳng định rằng sẽ tốt hơn nếu hệ thống của Liên Xô vẫn còn, và ở dạng mà nó đã có được trước khi "perestroika". Chẳng hạn, khoảng một nửa trong số những người được Trung tâm Levada hỏi vào tháng 1 năm 2005, đã nghĩ rằng "sẽ tốt hơn nếu mọi thứ vẫn giữ nguyên như trước năm 1985. Tại sao? Bởi vì chúng ta là một quốc gia lớn, thống nhất và trật tự" (26%); Ngoài ra, có "sự chắc chắn trong tương lai" (24%) và "giá hàng tiêu dùng thấp và ổn định" (20%).
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Đối với "perestroika", chỉ 21% nghĩ rằng đó là một sự phát triển tích cực, nhưng gần gấp ba lần (56%) có quan điểm ngược lại. Và ngay cả khi có nhiều người tin rằng "perestroika" là cần thiết, thì họ cũng tin nó nên được tiến hành theo một cách khác: "không phá hủy trật tự xã hội chủ nghĩa" (33%), hoặc "phát triển vững chắc quan hệ thị trường trong nền kinh tế, nhưng không thúc đẩy phát triển hệ thống đa đảng" (19%). Nhìn lại, quá trình công nghiệp hóa vào cuối những năm 1920 và 1930 được coi là thời kỳ tích cực nhất trong toàn bộ thế kỷ XX của Nga, tiếp theo là những động thái hướng tới chính phủ hiến pháp vào đầu thế kỷ và 'tan băng' dưới thời Khrushchev ở những năm 1950 và đầu những năm 1960; "perestroika" được coi là gây thiệt hại nhất trong tất cả các thay đổi diễn ra trong cùng thời kỳ, theo sát sau đó là sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường trong những năm 1990 và tập thể hóa nông nghiệp trong những năm 1930. Khi được hỏi vào tháng 10 năm 2007, quan điểm của người Nga về cuộc cách mạng tháng Mười, hơn một nửa nghĩ rằng nó đã "mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử Nga" (24%) hoặc "kích thích sự phát triển kinh tế và xã hội" (31%), thay vì chia sẻ ý kiến ​​này vào năm 1990. Lenin là nhân vật trong lịch sử Nga, hơn ai hết, khơi dậy sự ủng hộ lớn nhất (27%); ông được theo sau bởi Giám đốc cục an ninh chính trị Felix Dzerzhinsky và sau đó là Joseph Stalin. Tỷ lệ 17% cho biết họ sẽ ủng hộ những người Bolshevik trong sự kiện giả thuyết về một cuộc cách mạng tháng Mười khác và 13% khác ít nhất sẽ hợp tác với họ, nhiều hơn 6% sẽ ủng hộ đối thủ của họ, mặc dù số lượng lớn hơn sẽ ở thế trung lập hoặc di cư. Ở cả ba quốc gia, những thay đổi diễn ra rõ ràng phức tạp hơn so với "quá trình chuyển đổi sang dân chủ": đó hầu như không phải là quá trình chuyển đổi dân chủ, mà là do quyết định của một bộ phận giới lãnh đạo.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Người Nga, ít nhất, thường thích sử dụng thuật ngữ trung lập "sự sụp đổ của Liên bang" ("raspad soyuza") cho những gì đã xảy ra vào cuối năm 1991, mà không đưa ra những đánh giá giá trị lớn hơn và phức tạp hơn. Ảnh hưởng. Liên Xô được cho là đã xây dựng những ảnh hưởng sau: Các nước đồng minh/vệ tinh. Những quốc gia liên minh với Liên Xô là thành viên của Hội đồng Tương trợ Kinh tế (đồng minh kinh tế), hoặc là thành viên Khối Warszawa (đồng minh quân sự) và thuộc khối Đông Âu. Các quốc gia này đều có (hoặc từng có) quân Liên Xô trú đóng trên lãnh thổ và bị Liên Xô chi phối về mặt chính trị và quân sự. Các quốc gia thân thiết. Đây là những quốc gia thường không tham gia vào bên nào, thuộc về các nước Thế giới thứ ba, song có các chính phủ thân Liên Xô tồn tại. Không phải chính thể nào cũng là đồng minh của Liên Xô mà hầu hết nó đều chỉ mang tính tạm thời. Các quốc gia thân Liên Xô song không theo chủ nghĩa cộng sản được để nghiêng: Các nước cộng sản đối lập. Có một số các quốc gia đối lập với Liên Xô và họ gần như không bị Moskva chi phối, trong khi vẫn chia sẻ quan điểm tương đồng về ý thức hệ: Các nước trung lập. Phần Lan là quốc gia hiếm hoi ở phương tây giữ thế trung lập. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Phần Lan đã chống cự thành công các cuộc tấn công từ Liên Xô, và cũng là quốc gia tư bản với kinh tế thị trường. Thế nhưng, Hiệp ước Phần Lan-Liên Xô năm 1948 đã phần nào hạn chế sự độc lập của Phần Lan trong chính sách ngoại giao của nước này. Hiệp ước buộc Phần Lan phải bảo vệ Liên Xô nếu có chiến tranh, đồng nghĩa với việc Phần Lan không thể gia nhập NATO và giúp Liên Xô có chỗ đứng trong vấn đề ngoại giao Phần Lan. Để ứng phó, Phần Lan phát triển chính sách Paasikivi–Kekkonen để vừa phát triển ngoại giao với phương Tây và kinh tế, cũng như giúp họ cân bằng ngoại giao với Nga. Thế nhưng ở phương Tây, nó vô tình tạo nên nỗi sợ Phần Lan hóa về nguy cơ các nước phương Tây không thể hỗ trợ nhau trước sự tấn công của Liên Xô. Phân cấp hành chính.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Phân cấp hành chính. Giai đoạn 1954–1991, Liên Xô bao gồm 15 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết: Và phần lớn các nước này lại được phân chia thành các tỉnh (ngoại trừ 5 nước Latvia, Litva, Estonia, Moldavia và Armenia). Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (RSFSR) được phân chia thành 16 nước "cộng hòa tự trị" (avtonomnaya respublika-"автономная республика"), 6 "khu" (krai-"край") và 49 "tỉnh" (oblast-"область"). Dưới cấp khu có thể có "tỉnh tự trị", dưới cấp tỉnh và khu còn có thể có các "vùng dân tộc" (thiểu số) (nationalny okrug-"национальный округ"), đến năm 1977 được đổi tên thành "vùng tự trị" (avtonomny okrug-"автономный округ"). Có tất cả năm tỉnh tự trị, 10 vùng tự trị. Trong một số nước cộng hòa (Nga, Gruzia, Azerbaidjan, Uzbekistan, Tadjikistan) còn có các nước "cộng hòa tự trị" và "tỉnh tự trị". Tất cả các đơn vị hành chính-lãnh thổ nói trên được phân chia thành các huyện (rayon-"район") và thành phố trực thuộc tỉnh, vùng và nước cộng hòa. Văn hóa. Đến thế kỷ 19, nghệ thuật văn học Nga đã đạt đến đỉnh cao của sự nổi tiếng thế giới như Aleksandr Pushkin, Lev Tolstoy, Fyodor Dostoyevsky và Anton Chekov đều được coi là biểu tượng của văn học cổ điển. Mặc dù có truyền thống vĩ đại này, tuy nhiên, các nhà văn và nghệ sĩ Liên Xô của thế kỷ 20 đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi bầu không khí chính trị thay đổi. Thời kỳ xung quanh Cách mạng Nga năm 1917 được đánh dấu bằng một đợt bùng nổ thử nghiệm và sáng tạo văn hóa. Anna Akhmatova và Marina Tsvetaeva đã sản xuất thơ tuyệt đẹp, trong khi các tác giả văn xuôi như Isaak Babel làm chủ truyện ngắn và tiểu thuyết. Marc Chagall và Vasily Kandinsky quay sang bức tranh trừu tượng, và Ballets Russes của Sergei Diaghilev được công chiếu một cách gây sốc khi Nghi lễ mùa xuân của Igor Stravinsky. Giám đốc nhà hát Vsevolod Meyerhold đã tinh chỉnh các phương pháp diễn xuất được cách điệu cao của ông, điều này ảnh hưởng đến nhà làm phim Sergei Eisenstein trong các bộ phim như "Chiến hạm Potemkin".
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Khi những năm 1920 phát triển, các nhà lãnh đạo chính trị đã cảnh giác với các loại hình nghệ thuật thử nghiệm này và sự kiểm duyệt được thắt chặt. Chính phủ đã tiếp quản báo in, thay thế các hiệp hội của các nhà văn và nhạc sĩ bằng các công đoàn do nhà nước kiểm soát, và đóng cửa các nhà hát và xưởng vẽ nghệ thuật. Những chiến thuật này đã ngăn chặn một cách hiệu quả bất kỳ tài liệu nào được coi là không phù hợp về mặt chính trị và sự sáng tạo bị kìm hãm nghiêm trọng. Năm 1934, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được tuyên bố chính thức là phương pháp duy nhất được chấp nhận để thể hiện nghệ thuật. Các nhà lãnh đạo cảm thấy rằng nghệ thuật nên không quá phức tạp, nên được sáng tác với mục đích chính là tuyên truyền và tôn vinh Đảng cộng sản, và thực tế là mô tả văn hóa vô sản. Sự chỉ trích đối với Đảng bị nghiêm cấm. Các nghệ sĩ chọn ở lại Liên Xô đã bị buộc phải làm việc trong giới hạn của Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Nhưng phản ứng đối với một số quy định này là không thể tưởng tượng: nhiều người di cư, những người khác đã tự sát, trong khi một số bị cầm tù và thậm chí bị xử tử. Một sự hồi sinh của văn học và nghệ thuật cuối cùng đã xuất hiện sau cái chết của Stalin. Năm 1954, "Thời báo New York" đã gọi cuốn tiểu thuyết của Ilya Ehrenburg là "The Thaw", vụ đánh bom nhỏ, vì cuộc kiểm tra quan trọng về cuộc sống ở một thị trấn nhà máy và thảo luận về các chủ đề cấm kỵ trước đây. Một phong cách văn xuôi mới khác do Vasily Aksyonov và Vladimir Voinovich dẫn đầu đã mô tả văn hóa giới trẻ hiện đại theo phong cách của J. D. Salinger. Thơ của Yevgeny Yevtushenko đã được đọc trong các sân vận động bóng đá đông đúc và "Một ngày trong cuộc đời của Ivan Denisovich Solanchitsyn" đã được xuất bản. Tuy nhiên, vào cuối những năm 1960, những xu hướng này đã bị đảo ngược một lần nữa và nhiều nhà văn trở lại im lặng hoặc rời khỏi đất nước. Trong suốt thế kỷ 20, đời sống văn hóa ở Liên Xô đã chịu sự kiểm soát chính trị.
Liên Xô
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4353
Mặc dù phần lớn tác phẩm của họ được tạo ra trong bí mật và bị chính phủ lên án, nhưng các nghệ sĩ Liên Xô đã đạt được sự công nhận đúng đắn trong lịch sử văn hóa thế giới. Thể thao. Truyền thống chuộng thể thao từ Nga trước Chiến tranh thế giới thứ nhất vẫn tiếp tục tồn tại ở Liên Xô, ngoại trừ việc tập thể thao không còn là đặc quyền của giới thượng lưu, mà mở cửa cho toàn dân. Thể dục, thể thao phổ biến cũng như thể thao hàng đầu, được nhà nước Liên Xô thúc đẩy mạnh mẽ. Có một tổ chức được thành lập đặc biệt trong thực thể liên bang, có nhiệm vụ là làm công tác thanh niên và tìm kiếm những tài năng đầy triển vọng, được đào tạo trong các trường thể thao. Trong Chiến tranh Lạnh, thể thao là một trong nhiều lĩnh vực của Liên Xô và phương Tây đã cạnh tranh gay gắt. Thể thao có ý nghĩa rất lớn đối với chính quyền Liên Xô cũng như các giải thưởng và huy chương vàng. Các vận động viên thường dành phần lớn thời gian của họ để đào tạo trong các cơ sở đẳng cấp thế giới mặc dù họ có thể là công nhân nhà máy hoặc sĩ quan quân đội. Sự kiện thể thao lớn nhất từng được Liên Xô tổ chức là Thế vận hội Mùa hè 1980 tại Moskva. Nó trở thành một dấu mốc trong lịch sử hiện đại khi tổng cộng 65 quốc gia (chủ yếu là Tây Âu) tẩy chay sự kiện do Chiến tranh Liên Xô–Afghanistan. Trước tháng 7 năm 1980 đã diễn ra Thế vận hội mùa đông tháng hai ở Lake Placid, New York và một trận đấu khúc côn cầu trên băng mà sau đó được biết đến với tên gọi "Phép màu trên băng". Kết quả của Liên Xô trong các giải đấu thể thao quốc tế lớn: Ngày lễ. Liên Xô chủ yếu có 8 ngày lễ, và các ngày lễ và ngày lễ khác tổng cộng khoảng 30 ngày.
Siêu dẫn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4428
Siêu dẫn là một hiện tượng vật lí xảy ra đối với một số vật liệu ở nhiệt độ đủ thấp và từ trường đủ nhỏ, đặc trưng bởi điện trở bằng 0 dẫn đến sự suy giảm nội từ trường (hiệu ứng Meissner). Siêu dẫn là một hiện tượng lượng tử. Trạng thái vật chất này không nên nhầm với mô hình lý tưởng dẫn điện hoàn hảo trong vật lý cổ điển, ví dụ từ thủy động lực học. Trong chất siêu dẫn thông thường, sự siêu dẫn được tạo ra bằng cách tạo một lực hút giữa một số electron truyền dẫn nào đó nảy sinh từ việc trao đổi phonon, làm cho các electron dẫn trong chất siêu dẫn biểu hiện pha siêu lỏng tạo ra từ cặp electron tương quan. Ngoài ra còn tồn tại một lớp các vật chất, biết đến như là các chất siêu dẫn khác thường, phô bày tính chất siêu dẫn nhưng tính chất vật lý trái ngược lý thuyết của chất siêu dẫn đơn thuần. Đặc biệt, có chất siêu dẫn nhiệt độ cao có tính siêu dẫn tại nhiệt độ cao hơn lý thuyết thường biết (nhưng hiện vẫn thấp hơn nhiều so với nhiệt độ trong phòng). Hiện nay chưa có lý thuyết hoàn chỉnh về chất siêu dẫn nhiệt độ cao. Sự khác biệt giữa vật siêu dẫn và vật dẫn điện hoàn hảo. Từ trường bên trong vật dẫn điện hoàn hảo và vật siêu dẫn dưới tác động của môi trường ngoài ở nhiệt độ phòng và nhiệt độ thấp (nhiệt độ nhỏ hơn nhiệt độ Curie). Từ trường bị đẩy ra khỏi vật siêu dẫn ở nhiệt độ thấp không phụ thuộc vào trạng thái ban đầu của vật liệu siêu dẫn ở nhiệt độ phòng. Trạng thái của vật siêu dẫn ở nhiệt độ thấp là trạng thái không thuận nghịch. Lịch sử. Đối với kim loại nói chung, ở nhiệt độ rất cao thì điện dẫn xuất λ tỉ lệ với nhiệt độ T. Ở nhiệt độ thấp, λ tăng nhanh khi T giảm. Nếu kim loại hoàn toàn tinh khiết, có thể nói rằng về nguyên tắc khi T=0 thì λ tiến tới vô cực, nghĩa là điện trở kim loại dần tiến tới 0.
Siêu dẫn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4428
Nếu kim loại có lẫn tạp chất thì ở nhiệt độ rất thấp (khoảng vài độ K) kim loại có điện trở dư không phụ thuộc nhiệt độ và tỉ lệ với nồng độ tạp chất. Thực tế không thể đạt tới nhiệt độ T=0 độ K và không thể có kim loại nguyên chất hoàn toàn, nên vật thể có điện trở bằng 0 chỉ là vật dẫn lý tưởng. Năm 1911, Heike Kamerlingh Onnes làm thí nghiệm với thủy ngân nhận thấy rằng sự phụ thuộc của điện trở thủy ngân vào nhiệt độ khác hẳn sự phụ thuộc đối với kim loại khác. Khi nhiệt độ thấp, điện trở thủy ngân không phụ thuộc vào nhiệt độ nữa, chỉ phụ thuộc vào nồng độ tạp chất. Nếu tiếp tục hạ nhiệt độ xuống tới Tc=4,1 độ K, điện trở đột ngột hạ xuống 0 một cách nhảy vọt. Hiện tượng nói trên gọi là hiện tượng siêu dẫn, và Tc là nhiệt độ tới hạn. Đến tháng 1 năm 1986 tại Zurich, hai nhà khoa học Alex Muller và Georg Bednorz tình cờ phát hiện ra một chất gốm mà các yếu tố cấu thành là: Lanthan, Đồng, Bari, Oxit kim loại. Chất gốm này trở nên siêu dẫn ở nhiệt độ 35 độ K. Một thời gian ngắn sau, các nhà khoa học Mỹ lại phát hiện ra những chất gốm tạo thành chất siêu dẫn ở nhiệt độ tới 98 độ K. Quá trình tìm kiếm, chế tạo chất siêu dẫn. Chất siêu dẫn có những đặc tính phổ biến như cản từ trường và bóp méo từ trường. Chất siêu dẫn hầu như không tồn tại các dòng chảy electron tự do, sử dụng kĩ thuật đo khe năng lượng sẽ biết được hiệu ứng siêu dẫn trên vật liệu đó. Ngoài ra, vật liệu siêu dẫn không phát ra các bức xạ nhiệt nhưng khi lượng bức xạ đủ mạnh sẽ gây giảm tính siêu dẫn mặc dù chất vẫn trong điều kiện siêu lạnh. Các đặc tính siêu dẫn đó chỉ xảy ra ở một nhiệt độ xác định, thường là nhiệt độ thấp.
Men ngọc (màu)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4431
Màu men gốm (tính từ): nói về tông màu của một sản phẩm hoặc một dòng gốm. Màu men gốm (danh từ): chỉ những sản phẩm mang sắc men có tính phân biệt hoặc tính đặc trưng. Ví dụ: Khi nói đến men ngọc, màu men celadon, men celadon, celadon hoặc dòng gốm cổ Trung Hoa là ta hiểu ngay đó là sản phẩm tráng men có màu xanh lục-xanh nước biển nhạt (thực tế thường biến đổi từ lục xám nhẹ đến lục ngả vàng). Nó có tên gọi như vậy do người ta tìm thấy màu này chủ yếu trong nước men của đồ gốm có xuất xứ từ Trung Quốc. Về mặt kỹ thuật, màu này được tạo thành bằng cách nung sản phẩm đã tráng men có chứa FeO, Cr2O3, NiO, SnO2 và TiO2 với hàm lượng thích hợp trong môi trường khử. Tọa độ màu. Số Hex = #ACE1AF RGB (r, g, b) = (172, 225, 175) CMYK (c, m, y, k) = (21, 0, 19, 12) HSV (h, s, v) = (123, 24, 88)
Hạt dẻ (màu)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4432
Màu hạt dẻ (tên tiếng Anh: Maroon) là màu hỗn hợp của màu nâu và màu tía. Mặc dầu về quan niệm nó là hỗn hợp màu, nó có thể coi như biến thể sẫm của màu đỏ chưa bão hòa. Tọa độ màu. Số Hex = #5c342c RGB (r, g, b) = (92, 52, 44) CMYK (c, m, y, k) = (0, 100, 100, 50) HSV (h, s, v) = (0, 100, 50)
Hình học giải tích
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4434
Hình học giải tích, cũng được gọi là hình học tọa độ hay hình học Descartes, là môn học thuộc hình học sử dụng những nguyên lý của đại số. Thường sử dụng hệ tọa độ Descartes cho những phương trình theo mặt phẳng, đường, đường cong, và đường tròn, nhiều khi có hai hay ba chiều đo. Theo một số người, hình học giải tích là nguồn gốc của toán học hiện đại.
Lam sẫm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4435
Màu lam sẫm (ultramarine), hay còn gọi là màu xanh hải quân, là biến thái sẫm màu của màu xanh lam. Một số người nhầm màu này với màu đen, đặc biệt khi nó liên quan đến màu quần áo. Nó có tên gọi xanh hải quân do đồng phục của Hải quân Hoàng gia Anh có màu này từ năm 1748 và sau đó được chấp nhận bởi các lực lượng hải quân khác trên thế giới. Tọa độ màu. Số Hex = #000080 RGB (r, g, b) = (0, 0, 128) CMYK (c, m, y, k) = (100, 100, 0, 50) HSV (h, s, v) = (240, 100, 50)
Nguyễn Cao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4437
Nguyễn Cao (1837 - 1887), tên đầy đủ là Nguyễn Thế Cao, hiệu là "Trác Hiên"; là một danh tướng nhà Nguyễn và là một nhà thơ Việt Nam ở thế kỷ 19. Tiểu sử. Nguyễn Cao sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, khoa bảng tại làng Cách Bi, huyện Quế Dương, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc phường Cách Bi, thị xã Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh). Cha là Nguyễn Thế Hanh, đỗ đầu thi Hương, làm Tri huyện các huyện: Thạch An, Tiên Minh, Thủy Đường. Mẹ là Nguyễn Thị Điềm, tục gọi là "Bà Huyện Quế Dương" thuộc dòng họ võ quan Nguyễn Đức ở Quế Ổ. Năm 1867, đời vua Tự Đức, Nguyễn Cao thi đỗ Giải Nguyên kỳ thi Hương khoa Đinh Mão, nhưng không ra làm quan ngay, mà về quê mở trường dạy học. Năm 1873, quân Pháp đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất, khi ấy ông mới ra làm quan và được giữ chức Tán lý quân vụ tỉnh Bắc Ninh (cho nên người đời còn gọi ông là Tán Cao). Ngay sau đó, ông cùng với Ngô Quang Huy, Phạm Thận Duật, Trương Quang Đản dẫn quân bao vây tỉnh thành Hà Nội, đánh bật đồn bốt của đối phương tại Gia Lâm ngày 4 tháng 12 năm 1873, rồi kéo quân về Siêu Loại đánh dẹp luôn quân phỉ, giữ yên cho dân chúng. Được triều đình tin cậy, ông được bổ làm tri huyện Yên Dũng, rồi tri phủ Lạng Giang. Khi đương chức, ông xin triều đình cho dân khai khẩn ruộng đất hoang ở vũng Nhã Nam, Phú Bình lập nhiều trang ấp, làng xóm. Năm 1882, Pháp tiến đánh Hà nội lần thứ hai, Nguyễn Cao lại đem quân về đánh Pháp tại Gia Lâm, rồi sau đó đem quân bao vây tỉnh thành Hà Nội. Ngày 27 tháng 3 năm 1883 ông đem quân đánh vào phố hàng Đậu, Cửa Đông (Hà Nội), sau đó rút quân về phía bắc sông Hồng. Ngày 15 tháng 5 năm ấy, Nguyễn Cao chỉ huy nghĩa quân đánh một trận lớn tại Gia Lâm. Trận này ông bị thương nặng, nhưng vẫn cố sức chiến đấu.
Nguyễn Cao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4437
Sau đó, ông còn đánh với Pháp nhiều trận khác nữa, như ở: Phả Lại, Yên Dũng, Quế Dương, Võ Giàng, Từ Sơn, Thuận Thành... Năm 1884, khi thành Bắc Ninh mất vào tay quân Pháp, Nguyễn Cao rút quân về thành Tỉnh Đạo, rồi cùng với Nguyễn Thiện Thuật, Ngô Quang Huy lãnh đạo phong trào "Tam tỉnh Nghĩa Đoàn" hoạt động trên các địa bàn Bắc Ninh, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Tây. Ngày 27 tháng 3 năm 1887, tại một trận đánh ở làng Kim Giang (Hà Tây) ông bị quân Pháp bắt. Đối phương dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, nhưng đều bị Nguyễn Cao cự tuyệt. Để giữ tròn khí tiết, ông đã tự rạch bụng, moi ruột, hỏi đối phương: "Ruột gan tao đây, bay xem có khúc nào phản thì bảo". Biết không thể dụ hàng được, ngày 14 tháng 4 năm Đinh Hợi (1887), quân Pháp đã đem Nguyễn Cao ra chém đầu tại vườn Dừa (gần Hồ Gươm, Hà Nội), lúc ấy ông mới 50 tuổi. Trong "Việt Nam vong quốc sử" của Phan Bội Châu, cái chết của Nguyễn Cao có phần khác hơn đôi chút: Con ông là Nguyễn Hào định làm cuộc kháng Pháp, nhưng bị đối phương phát giác nên bị sát hại. Thấy chồng con đều đã vong thân, bà vợ Nguyễn Cao sau đó cũng tự quyên sinh. Tác phẩm. Sinh thời, Nguyễn Cao làm thơ để tỏ chí. Hiện còn lưu truyền đôi ba bài, như: "Khấp Ái Bộc" ("Khóc chú giúp việc thân yêu"), "Văn Hà Nội chế đài Hoàng Diệu ai tín" ("Nghe tin Tổng đốc Hà Nội Hoàng Diệu mất"), "Trách dụ xuất thú" ("Trách kẻ dụ ra đầu thú")...Trong đó có bài "Tự Phận Ca" gồm 58 câu thơ chữ Hán, mà mỗi đoạn đều bắt đầu từ câu: Ta ta tạo vật, hề dĩ ngã vi sinh? ("Hỡi trẻ tạo hóa, sinh ta làm chi?"). Trích một đoạn (dịch nghĩa): Tưởng nhớ. Ngay khi Nguyễn Cao mất, Phụ chính Tôn Thất Thuyết (1835 - 1913), có làm bài "Vãn Nguyễn Cao" để điếu ông. Và trong dân gian cũng có thơ rằng: Tạm dịch: Nhiều địa phương (mà trước kia ông từng khai lập làng xóm, đóng quân) đã lập đền thờ hoặc thờ ông là Thành hoàng.
Nguyễn Cao
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4437
Tên ông được đặt cho một trong những đường phố lớn của thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Bắc Ninh. Nhiều trường học cũng đã mang tên ông.
Hồng đất
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4438
Màu hồng đất nói chung được coi là các biến thái trong khoảng từ màu hồng xậm đến màu tía ánh nâu nhạt. Tọa độ màu. Số Hex = #CC8899 RGB (r, g, b) = (204, 136, 153) CMYK (c, m, y, k) = (20, 47, 40, 0) HSV (h, s, v) = (345, 33, 80)
Xanh thủy tinh
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4439
Màu xanh thủy tinh (powder blue) là màu xanh lam nhạt. Tuy nhiên, nó cũng có thể chỉ tới các biến thể nhạt hơn của màu xanh lam, có lẽ là do kết quả của sự mập mờ về nguồn gốc của từ này. Tọa độ màu. Số Hex = #993366 RGB (r, g, b) = (0, 51, 153) CMYK (c, m, y, k) = (100, 80, 40, 0) HSV (h, s, v) = (220, 100, 60)
Chu kỳ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4440
Trong khoa học và đời sống nói chung, chu kỳ là khoảng thời gian giữa hai lần lặp lại liên tiếp của một sự việc, hay thời gian để kết thúc một vòng quay, một chu trình. Như vậy đơn vị đo chu kỳ là đơn vị đo thời gian. Trong toán học và một số lĩnh vực khác, chu kỳ có thể hiểu là độ dài giữa hai cấu trúc lặp lại. Trong chuyển động sóng. Trong chuyển động sóng, chu kỳ là thời gian giữa hai lần xuất hiện liên tiếp của đỉnh sóng tại một điểm. Liên hệ với tần số. Chu kỳ "T" là nghịch đảo của tần số "f": Liên hệ với bước sóng. Chu kỳ "T" bằng thời gian để sóng đi với vận tốc "v" đi hết một bước sóng λ: Trong thiên văn. Trong thiên văn học, chu kỳ quay của một thiên thể nói chung quanh một tâm nào đó là thời gian để thiên thể này hoàn thành một vòng quay trên quỹ đạo của nó, ví dụ chu kỳ quay của Mặt Trời và Hệ Mặt Trời xung quanh tâm Ngân Hà, chu kỳ quay của một hành tinh trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, chu kỳ quay của một vệ tinh tự nhiên trên quỹ đạo quanh hành tinh chủ của nó. Khái niệm chu kỳ quỹ đạo của một hành tinh hay vệ tinh có thể có giá trị khác nhau, tùy theo cách chọn điểm mốc tính. Chu kỳ tính theo một vị trí cố định trong không gian, tức là lấy nền các sao làm chuẩn, được gọi là chu kỳ theo sao. Đây là chu kỳ đích thực, đúng nghĩa là một vòng quay chính xác của hành tinh hay vệ tinh đó. Thông thường khi nói "chu kỳ quỹ đạo" mà không nói gì thêm thì đây chính là chu kỳ theo sao. Các khái niệm chu kỳ khác không đúng nghĩa là một vòng quay chính xác của hành tinh hay vệ tinh đó gồm có: Trong sinh học. Chu kỳ có thể dùng trong chu kỳ sinh trưởng, thời gian hoàn thành một vòng đời của loài vật. Trong sức khoẻ phụ nữ. Chu kỳ có thể dùng trong chu kỳ kinh nguyệt, thời gian từ ngày đầu tiên ra máu kinh đến trước lần ra máu kế tiếp. Ngoài ra. Còn một loại chu kì sinh học nữa trên cơ thể con người. Trong đó có 3 yếu tố mang tính chu kì là sức khỏe, trí tuệ và tình cảm. Một số nghiên cứu cho rằng con người bị ảnh hưởng nhiều bởi các chu kì này (có thời gian khác nhau).
Chu kỳ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4440
Một số người cho rằng có thể tránh các tai họa bằng cách tránh các ngày mà trạng thái của các yếu tố đó ở mức thấp nhất. Họ tránh quyết định các công việc mang tính bước ngoặt vào ngày mà trí tuệ của họ ở mức thấp. Trong cuộc sống sẽ có những ngày cả ba đường đều ở mức cực đại. Đó là những ngày rất tốt cho việc có một đứa con. Người ta cho rằng nếu cả cha và mẹ đứa bé khi giao hợp tại thời điểm đó thì đứa trẻ sinh ra sẽ có những khả năng khác thường. Tuy nhiên điều này không dễ xảy ra. Thế mới có chuyện cha mẹ đều là những người có trí tuệ chậm, kém nhưng con cái lại rất thông minh nhanh nhẹn. Tham khảo. Khá
Nâu tanin
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4441
Màu nâu tanin (tan) là màu nâu ánh hung đen. Tên gọi của nó có xuất xứ từ chữ "tannum", hay nước ép từ vỏ cây sồi, được sử dụng trong quy trình thuộc da. Kết quả của quy trình này thông thường tạo ra da với màu 'tanin'. Tọa độ màu. Số Hex = #D2B48C RGB (r, g, b) = (210, 180, 140) CMYK (c, m, y, k) = (18, 29, 45, 0) HSV (h, s, v) = (34, 33, 82)
Hồng y (màu)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4442
Màu hồng y là màu từ ánh đỏ tới hồng, nó có tên như vậy là do màu của áo choàng của các hồng y của Kitô giáo thường mặc. Nó cũng là màu "chính thức" của Viện công nghê Massachusetts và trường Đại học Stanford. Tọa độ màu. Số Hex = #C41E3A RGB (r, g, b) = (196, 30, 58) CMYK (c, m, y, k) = (0, 85, 70, 23) HSV (h, s, v) = (350, 85, 77)
Nhóm ngôn ngữ Rôman
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4445
Nhóm ngôn ngữ Rôman là một phân nhóm của nhóm ngôn ngữ gốc Ý (thuộc hệ Ấn-Âu). Nhóm này là hậu thân của tiếng Latinh bình dân được dùng bởi các dân bản địa sau khi Đế quốc La Mã sụp đổ. Nhóm Rôman được chia ra làm ba nhánh: nhánh phía Đông, nhánh phía Nam và nhánh Ý-Tây. Sơ đồ của Nhóm ngôn ngữ Rôman. Nhóm ngôn ngữ Rôman (thuộc Ngữ hệ Ấn-Âu)
Nhóm ngôn ngữ gốc Balt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4446
Nhóm ngôn ngữ Balt là một nhóm ngôn ngữ trong nhánh Balt-Slav của ngữ hệ Ấn-Âu. Nhón ngôn ngữ Balt là tiếng nói của các dân tộc Balt, ngày nay sống ở khu vực phía đông và đông nam của biển Balt. Các học giả thường xem nhóm này là một ngữ tộc gồm hai nhánh: Balt Tây (gồm toàn ngôn ngữ tuyệt chủng) và Balt Đông (gồm hai thứ tiếng còn tồn tại, tiếng Litva và tiếng Latvia). Phạm vi ảnh hưởng của nhóm Balt Đông có lẽ có thời từng chạm đến tận dãy Ural, nhưng tính xác thực của điều này còn chịu nhiều ngờ vực. Tiếng Phổ cổ, một ngôn ngữ Balt Tây biến mất vào thế kỷ XVIII, được coi là mang nhiều nét nguyên thủy nhất nhóm Balt.
17 tháng 4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4455
Ngày 17 tháng 4 là ngày thứ 107 trong lịch Gregory. Còn 258 ngày trong năm (259 ngày trong năm nhuận).
18 tháng 4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4467
Ngày 18 tháng 4 là ngày thứ 108 trong mỗi năm dương lịch thường (ngày thứ 109 trong mỗi năm nhuận). Còn 257 ngày nữa trong năm.
19 tháng 4
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4468
Ngày 19 tháng 4 là ngày thứ 109 trong mỗi năm dương lịch thường (ngày thứ 110 trong mỗi năm nhuận). Còn 256 ngày nữa trong năm.
Sóng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4469
Trong vật lý, toán học và các lĩnh vực liên quan, sóng là sự xáo trộn của một trường trong đó một thuộc tính vật lý dao động liên tục tại mỗi điểm hoặc truyền từ một điểm đến các điểm lân cận khác, hoặc dường như di chuyển trong không gian. Các sóng thường được nghiên cứu trong vật lý là sóng cơ học và sóng điện từ. Sóng cơ học là một biến dạng cục bộ trong một số môi trường vật lý mà truyền từ hạt này sang hạt khác bằng cách tạo ra các ứng suất cục bộ gây ra biến dạng ở các hạt lân cận. Ví dụ, sóng âm thanh trong không khí là các biến thể của áp suất cục bộ lan truyền do va chạm giữa các phân tử khí. Các ví dụ khác về sóng cơ học là sóng địa chấn, sóng trọng lực, sóng xoáy và sóng xung kích. Một sóng điện từ bao gồm sự kết hợp của các trường điện và từ biến đổi, lan truyền trong không gian theo các phương trình của Maxwell. Sóng điện từ có thể truyền qua môi trường điện môi phù hợp hoặc qua chân không; ví dụ như sóng vô tuyến, bức xạ hồng ngoại, ánh sáng nhìn thấy, bức xạ cực tím, tia X và tia gamma. Các loại sóng khác bao gồm sóng hấp dẫn, là nhiễu loạn trong trường hấp dẫn lan truyền theo thuyết tương đối rộng; sóng khuếch tán nhiệt; sóng plasma, kết hợp biến dạng cơ học và trường điện từ; sóng khuếch tán phản ứng, như trong phản ứng Belousov-Zhabotinsky; và nhiều loại khác. Sóng cơ học và điện từ dường như thường truyền qua không gian; nhưng, trong khi chúng có thể mang năng lượng, động lượng và thông tin thông qua vật chất hoặc không gian trống, chúng có thể làm điều đó mà không chuyển bất kỳ khối lượng nào. Trong toán học và điện tử học sóng được nghiên cứu như là tín hiệu. Mặt khác, một số sóng dường như không di chuyển chút nào, như sóng đứng (vốn là nền tảng cho âm nhạc) và sóng nhảy thủy lực. Một số loại sóng, giống như sóng xác suất của cơ học lượng tử, có thể hoàn toàn tĩnh. Một sóng phẳng dường như truyền theo một hướng xác định và có giá trị không đổi trên bất kỳ mặt phẳng nào vuông góc với hướng đó. Về mặt toán học, sóng đơn giản nhất là sóng hình sin. Sóng phức tạp thường có thể được mô tả là tổng của nhiều sóng phẳng hình sin.
Sóng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4469
Một sóng phẳng có thể là sóng ngang, nếu hiệu ứng của nó tại mỗi điểm được mô tả bằng một vectơ vuông góc với hướng truyền hoặc truyền năng lượng; hoặc sóng dọc, nếu các vectơ mô tả song song với hướng truyền năng lượng. Trong khi sóng cơ học có thể là cả ngang và dọc, sóng điện từ là ngang trong chân không. Một sóng vật lý hầu như luôn bị giới hạn trong một số vùng hữu hạn của không gian, được gọi là miền của nó. Ví dụ, sóng địa chấn do động đất tạo ra chỉ có ý nghĩa trong phần bên trong và bề mặt của hành tinh, vì vậy chúng có thể bị bỏ qua bên ngoài hành tinh. Tuy nhiên, sóng có miền vô hạn, trải rộng trên toàn bộ không gian, thường được nghiên cứu trong toán học và là công cụ rất có giá trị để hiểu sóng vật lý trong các miền hữu hạn. Mô tả sóng vật lý. Phương trình sóng. Mọi sóng đều thoả mãn một phương trình vi phân riêng phần gọi là phương trình sóng. Các phương trình sóng có thể có nhiều dạng, phụ thuộc vào môi trường truyền và kiểu lan truyền. Dạng đơn giản nhất, dành cho sóng lan truyền theo phương "x", theo thời gian "t" và dao động sóng thay đổi trên biến "y": Ở đây, "v" là vận tốc lan truyền sóng. Hàm sóng tổng quát thoả mãn phương trình trên, giải bởi d'Alembert, là: Một ví dụ khác về phương trình sóng là phương trình Schrödinger mô tả chuyển động của sóng hạt trong vật lý lượng tử. Nghiệm của phương trình này là hàm sóng mô tả xác suất tìm thấy hạt tại một điểm trong không-thời gian. Trong một môi trường đồng nhất và đẳng hướng, Joseph Fourier đã tìm thấy là mọi hàm sóng sẽ có dạng tổng quát sau: có thể được miêu tả như là sự chồng nhau của nhiều sóng điều hoà Ở đây "A"("x", "t") là biên độ của sóng điều hòa, ω là tần số góc, "k" là số sóng và φ là pha ban đầu. Nếu biên độ của sóng không phụ thuộc thời gian: thì sóng gọi là sóng dừng. Tần số góc liên hệ với tần số qua: Còn số sóng liên hệ với vận tốc lan truyền "v" của sóng qua: Ở đây λ là bước sóng và "f" là tần số. Tần số "f" liên hệ với chu kỳ "T" qua: Mọi sóng điều hoà đều có thể đặc trưng bởi biên độ, tần số, vận tốc và pha. Ngoài ra, sóng có thể được mô tả theo phương dao động. Thể loại sóng. Sóng ngang.
Sóng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4469
Thể loại sóng. Sóng ngang. Sóng ngang là sóng vật lý với các dao động vuông góc với phương lan truyền. Ví dụ: sóng lan truyền trên dây đàn khi gẩy đàn, sóng điện. Sóng dọc. Sóng dọc là sóng vật lý với các dao động nằm trùng với phương lan truyền, hoặc liên quan đến các biến đổi của các đại lượng vô hướng. Ví dụ: sóng âm thanh, sóng ánh sáng, Tính chất. Mọi sóng đều có thể biểu diễn bằng một sóng có một bước sóng λ di chuyển với một vận tốc v và có biên độ sóng thay đổi theo hàm số sin Phản ứng sóng. Khi sóng di chuyển đụng vật cản sẽ tạo ra các phản ứng sóng sau Phân cực. Các sóng ngang đều là có phân cực theo phương nào đó trong mặt phẳng vuông góc với phương lan truyền. Phân cực có thể có nhiều dạng. Có những sóng có dao động tròn, kết hợp cả sóng ngang và sóng dọc. Ví dụ: sóng nước với các phân tử nước trên bề mặt dao động xoay tròn theo hình elíp. Phân cực của sóng điện từ ở dải bước sóng mà tính hạt photon thể hiện rõ hơn thì bị phân cực photon ngẫu nhiên che mất, và chỉ hiện ra khi lọc bằng kính phân cực. Lưỡng tính Sóng Hạt của Phổ Tần Phóng Xạ. Theo nghiên cứu vật lý phóng xạ cho thấy Phóng Xạ Điện Từ có Phổ tần phóng xạ lưởng tính
Tần số góc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4473
Trong vật lý, tần số góc (hay tốc độ góc; ký hiệu là Ω hay ω) của một chuyển động tròn là đại lượng đo bằng góc mà bán kính quét được trong một đơn vị thời gian. Tốc độ góc của chuyển động tròn đều là đại lượng không đổi. Nó cũng là độ lớn vô hướng của vector vận tốc góc. Ngoài ra "vector tần số góc" formula_1 cũng được hiểu như vận tốc góc. Tần số góc (hay tốc độ góc) là độ lớn của vận tốc góc vectơ. Tần số góc có đơn vị đo là nghịch đảo thời gian. Trong hệ đo lường quốc tế (SI), tần số góc được đo bằng rad trên giây. Một vòng quay là 2π rad, bằng tốc độ góc ω nhân với thời gian đi hết một vòng quay (chính là chu kỳ "Τ"). Vậy nên: Trong đó: ω là tần số góc hoặc tốc độ góc (tính bằng radian trên giây), T là khoảng thời gian để quay hết 1 vòng (tính bằng giây) f là tần số thông thường (được đo bằng hertz) Tần số góc có thể hiểu như là một bội số của tần số. Nó được sử dụng thay tần số để tránh việc xuất hiện nhiều của π, trong các lĩnh vực liên quan nhiều đến chuyển động quay và dao động, như cơ học lượng tử, điện động lực học
Thánh địa Mỹ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4478
Thánh địa Mỹ Sơn thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 69 km và gần thành cổ Trà Kiệu, bao gồm nhiều đền đài Chăm Pa, trong một thung lũng đường kính khoảng 2 km, bao quanh bởi đồi núi. Đây từng là nơi tổ chức cúng tế của vương triều Chăm Pa. Thánh địa Mỹ Sơn được coi là một trong những trung tâm đền đài chính của Ấn Độ giáo ở khu vực Đông Nam Á và là di sản duy nhất của thể loại này tại Việt Nam. Thông thường người ta hay so sánh Thánh địa này với các tổ hợp đền đài chính khác ở Đông Nam Á như Borobudur (Java, Indonesia), Pagan (Myanmar), Wat Phou (Lào), Angkor Wat (Campuchia) và Prasat Hin Phimai (Thái Lan). Từ năm 1999, Thánh địa Mỹ Sơn đã được UNESCO chọn là một trong các di sản thế giới tân thời và hiện đại tại phiên họp thứ 23 của Ủy ban di sản thế giới theo tiêu chuẩn C (II) như là một ví dụ điển hình về trao đổi văn hoá và theo tiêu chuẩn C (III) như là bằng chứng duy nhất của nền văn minh châu Á đã biến mất. Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt quan trọng. Lịch sử. Mỹ Sơn có lẽ được bắt đầu xây dựng vào thế kỷ IV. Trong nhiều thế kỷ, Thánh địa này được bổ sung thêm các ngọn tháp lớn nhỏ và đã trở thành khu di tích chính của văn hóa Chămpa tại Việt Nam. Ngoài chức năng hành lễ, giúp các vương triều tiếp cận với các Thánh thần, Mỹ Sơn còn là trung tâm văn hóa và tín ngưỡng của các triều đại Chămpa và là nơi chôn cất các vị vua, thầy tu nhiều quyền lực. Những di vật đầu tiên được tìm thấy ghi dấu thời đại vua Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt) (trị vì từ năm 381 đến 413), vị vua đã xây dựng một Thánh đường để thờ cúng linga và Shiva. Mỹ Sơn chịu ảnh hưởng rất lớn của Ấn Độ cả về kiến trúc (thể hiện qua các đền tháp đang chìm đắm trong huy hoàng quá khứ), và về văn hóa—thể hiện qua các dòng bia ký bằng chữ Phạn cổ trên các tấm bia. Dựa trên các tấm bia văn tự khác, người ta biết nơi đây đã từng có một đền thờ đầu tiên được làm bằng gỗ vào thế kỷ IV.
Thánh địa Mỹ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4478
Hơn 2 thế kỷ sau đó, ngôi đền bị thiêu hủy trong một trận hỏa hoạn lớn. Vào đầu thế kỷ VII, vua Sambhuvarman (Phạm Phạn Chi) (trị vì từ năm 577 đến năm 629) đã dùng gạch để xây dựng lại ngôi đền còn tồn tại đến ngày nay (có lẽ sau khi dời đô từ Khu Lật về Trà Kiệu). Các triều vua sau đó tiếp tục tu sửa lại các đền tháp cũ và xây dựng các đền tháp mới để thờ các vị thần. Gạch là vật liệu tốt để lưu giữ ký ức của một dân tộc kỳ bí; và kỹ thuật xây dựng các tháp này của người Chăm cho tới nay vẫn còn bí ẩn. Người ta vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thích hợp nào về chất liệu gắn kết, phương thức nung gạch và xây dựng. Những ngọn tháp và lăng mộ có niên đại từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIV, nhưng các kết quả khai quật cho thấy các vua Chăm đã được chôn cất ở đây từ thế kỷ IV. Tổng số công trình kiến trúc là trên 70 chiếc. Thánh địa Mỹ Sơn có thể là trung tâm tôn giáo và văn hóa của nhà nước Chăm Pa khi thủ đô của quốc gia này là Trà Kiệu hay Đồng Dương. Khảo cổ học. Sau khi vương quốc Chiêm Thành lụi tàn, Thánh địa Mỹ Sơn đã chìm trong lãng quên hàng thế kỷ, đến năm 1885, nó mới được phát hiện. Mười năm sau, các nhà nghiên cứu bắt đầu thực hiện các cuộc phát quang, nghiên cứu khu di tích này. Có thể chia việc nghiên cứu của các nhà khoa học Pháp về Mỹ Sơn thành hai giai đoạn: Đến năm 1904, những tài liệu cơ bản nhất về Mỹ Sơn đã được L. Finot và H. Parmentier công bố. Từ công trình nghiên cứu của H. Parmentier, người ta biết cách đây hơn 100 năm Mỹ Sơn còn 68 công trình kiến trúc, và ông đã chia chúng thành các nhóm từ A, A’ đến N. Nhà nghiên cứu nghệ thuật F.S. Tern chia di tích Chăm Việt Nam thành 7 phong cách nghệ thuật theo quá trình tiến triển của nó. Mỹ Sơn có đủ đại biểu các phong cách, trong đó có 2 phong cách xuất phát từ Mỹ Sơn. Đặc biệt phong cách Mỹ Sơn A1 với xuất phát là đền A1 thường được gọi là kiệt tác kiến trúc của di tích Chăm.
Thánh địa Mỹ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4478
Các nhà khảo cổ học Pháp chia các công trình kiến trúc ở Mỹ Sơn ra làm 10 nhóm chính: A, A', B, C, D, E, F, G, H, K để đặt tên cho mỗi công trình theo kiểu ghép chữ cái và số. Kiến trúc. Về mặt kiến trúc thì các đền tháp, lăng mộ ở Mỹ Sơn là nơi hội tụ của các kiểu dáng khác nhau, từ những kiểu cổ đại hay kiểu Mỹ Sơn E1 (thế kỷ VIII, Mỹ Sơn E1 và F1), kiểu Hòa Lai (cuối thế kỷ VIII - đầu thế kỷ IX, Mỹ Sơn A2, C7 và F3), kiểu Đồng Dương (cuối thế kỷ IX - đầu thế kỷ X, Mỹ Sơn A10, A11-13, B4, B12), kiểu Mỹ Sơn A1 (thế kỷ X, Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1, C2, C5, D1, D2, D4), kiểu chuyển tiếp Mỹ Sơn A1-Bình Định (đầu thế kỷ XI - giữa thế kỷ XII, Mỹ Sơn E4, F2, nhóm K) và kiểu Bình Định (cuối thế kỷ XI - đầu thế kỷ XIV, Mỹ Sơn B1 và các nhóm G, H). Nghệ thuật và kiến trúc qua bố cục đền tháp mang ảnh hưởng lớn của phong cách Ấn Độ. Khu Thánh địa gồm nhiều cụm tháp, bố cục mỗi cụm tháp đều có một tháp chính ("Kalan") ở giữa và nhiều tháp phụ nhỏ bao bọc xung quanh. Kalan thường thờ Linga (sinh thực khí) hay linh tượng Shiva. Mặt trước mỗi cụm tháp là một tháp cổng ("Gopura"), tiếp đến tiền đình ("Mandapa"), hạng mục công trình có chức năng là nơi sắp xếp lễ vật và múa hát nghi thức hành lễ. Bên cạnh là một kiến trúc luôn quay về hướng Bắc (hướng thần tài lộc Kuvera), gồm 1 hay 2 phòng, gọi là Kósa Grha dùng để chứa đồ tế nhuyễn và thức ăn (cỗ) cúng chư thần. Các tháp đều có hình chóp, biểu tượng của đỉnh Meru thần Thánh, nơi cư ngụ của các vị thần Hindu. Cổng tháp thường quay về phía đông để tiếp nhận ánh sáng Mặt Trời. Nhiều tháp có kiến trúc rất đẹp với hình những vị thần được trang trí với nhiều loại hoa văn. Phần lớn những kiến trúc này hiện nay đã bị suy tàn, nhưng đây đó vẫn còn sót lại những mảng điêu khắc mang dấu ấn hoàng kim của các triều đại Chăm Pa huyền thoại.
Thánh địa Mỹ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4478
Những đền thờ chính ở Mỹ Sơn thờ một bộ linga hoặc hình tượng của thần Shiva - thần bảo hộ của các triều vua Chăm Pa. Những người cầu nguyện thời trước thường đi vòng quanh tháp theo chiều kim đồng hồ trên một lối nhỏ. Cụm tháp A (Kalan Mỹ Sơn A1) thờ một bộ Linga, có 6 ngôi đền nhỏ từ A2-A7 đối xứng nhau bao quanh thờ các vị thần phương hướng (trừ 2 hướng Đông, Tây): hướng Đông-thần sấm Indra, hướng Đông Nam-thần lửa Agni, hướng Nam-Diêm vương Yama, hướng Tây-thần bầu trời Varuna, hướng Tây Nam-thần Nirrti, hướng Tây Bắc-thần gió Vayu, hướng Bắc-thần Kuvera, hướng Đông Bắc-thần toàn năng Isána. Tháp A1 có 2 cửa chính đối diện nhau, quay về 2 hướng Đông và Tây. Bao phía ngoài, xa tháp chính A1 hơn, là các tháp phụ tương đối lớn, được ký hiệu từ A8-A12, phân bố trên một mặt bằng vuông vắn. Đối diện với cụm tháp A, là cụm tháp B (Kalan Mỹ Sơn B1) là cụm tháp trung tâm của Thánh địa Mỹ Sơn. Mặc dù chịu ảnh hưởng lớn từ Ấn Độ giáo, song biểu tượng của Phật giáo cũng tìm thấy ở Mỹ Sơn, vì đạo Phật Đại Thừa ("Mahayana") đã trở thành tín ngưỡng chính của người Chăm vào thế kỷ X. (Một số đền đài đã được xây dựng trong thời gian này, tuy nhiên vào thế kỷ XVII nhiều tòa tháp ở Mỹ Sơn đã được tu sửa và xây dựng thêm) thông tin này không chính xác. Đền đá. Tại Thánh địa Mỹ Sơn có một đền xây dựng bằng đá, nó cũng là đền đá duy nhất của các di tích Chăm. Văn bia tại Mỹ Sơn cho biết, đền này được trùng tu lần cuối cùng bằng đá vào năm 1234. Nhưng rất tiếc là xây dựng chưa hoàn thành. Khi người Pháp khám phá Mỹ Sơn nó có nền như ngày nay, phía trên là đống gạch khổng lồ mà họ phải dọn dẹp 2 tháng mới xong (theo Vòng tròn Mỹ Sơn, tác giả Parmentier, 1904) Ngày nay, ngôi đền này đã bị sập (có lẽ do bom Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, vì ngay sát tháp là một hố bom sâu hoắm vẫn dấu tích) nhưng hệ móng của nó cho thấy nó cao trên 30 m và đây là ngôi đền cao nhất của Thánh địa này.
Thánh địa Mỹ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4478
Các tài liệu thu thập được xung quanh khu đền này cho thấy nhiều khả năng đây là vị trí của ngôi đền đầu tiên vào thế kỷ IV. Bảo tồn. Công việc bảo tồn đầu tiên diễn ra năm 1937 bởi các nhà khoa học người Pháp. Trong giai đoạn từ năm 1937 đến 1938, đền A1 và các đền nhỏ xung quanh nó được trùng tu. Các năm sau, từ năm 1939 đến 1943, các tháp B5, B4, C2, C3, D1, D2 được trùng tu và gia cố lại. Tuy nhiên, nhiều tháp và lăng mộ (bao gồm tổ hợp A với tháp A1 đã từng rất tráng lệ - gồm tháp chính A1 cao 24 mét và 6 tháp phụ xung quanh, bị hủy diệt năm 1969) đã bị hủy diệt trong Chiến tranh Việt Nam. Phần lớn các đền đài trong các nhóm khu vực trung tâm như B, C và D còn tồn tại, và mặc dù rất nhiều pho tượng, bệ thờ và linga đã bị lấy về Pháp trong thời kỳ thực dân hay gần đây được chuyển tới các viện bảo tàng như Viện bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Viện bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh và Bảo tàng Nghệ thuật điêu khắc Chăm Đà Nẵng, vẫn có một viện bảo tàng thứ ba được thiết lập trong 2 ngôi đền với sự trợ giúp của người Đức và Ba Lan để trưng bày các mô hình các lăng mộ và hiện vật còn lại. Ngày 24 tháng 3 năm 2005 tỉnh Quảng Nam đã tổ chức lễ khánh thành nhà trưng bày, giới thiệu di tích Mỹ Sơn với diện tích 5.400 m² với nhà trưng bày chính rộng 1.000 m² ngay lối dẫn vào di tích (khoảng 1 km) do Nhật Bản tài trợ không hoàn lại. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều lo ngại về tình trạng của các công trình kiến trúc, một số trong đó có khả năng sập đổ. Trong giai đoạn từ năm 2002 đến 2004, Bộ Văn hóa và Thông tin Việt Nam đã chi khoảng 7 tỷ VNĐ (USD 440.000) cho dự án phục chế khẩn cấp Thánh địa Mỹ Sơn; một dự án của UNESCO được hỗ trợ bởi chính phủ Ý với số tiền là USD 800.000 và các cố gắng phục chế có nguồn vốn từ Nhật Bản hiện nay cũng đang góp phần ngăn chặn tình trạng xuống cấp của chúng. Các công việc phục chế tại đây cũng được "World Monuments Fund" (WMF) góp vốn.
Quần đảo Cát Bà
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4480
Quần đảo Cát Bà là một quần đảo gồm 367 đảo, trong đó có đảo Cát Bà ở phía nam vịnh Hạ Long, ngoài khơi thành phố Hải Phòng và tỉnh Quảng Ninh, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 30 km, cách thành phố Hạ Long khoảng 25 km. Về mặt hành chính, quần đảo thuộc huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Nơi đây đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Cơ sở hạ tầng khá phát triển với tổ hợp nhiều khách sạn, nhà nghỉ, khu nghỉ dưỡng, chùa chiền và đặc biệt là toàn bộ khu vực đảo đã được thành phố Hải Phòng triển khai các trạm thu phát sóng vô tuyến (Wifi). Cát Bà đang không ngừng được đầu tư và phát triển để trở thành địa điểm du lịch mang tầm vóc quốc tế trong tương lai. Vị trí địa lý. Quần đảo có tọa độ 106°52′- 107°07′Đông, 20°42′- 20°54′độ vĩ Bắc. Diện tích khoảng gần 300 km². Dân số 45.000 người (năm 2019). Các đảo nhỏ khác: hòn Cát Ông, hòn Cát Đuối, hòn Mây, hòn Quai Xa, hòn Tai Kéo... Cát Bà, còn gọi là đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất trên tổng số 1.969 đảo trên vịnh Lan Hạ.Theo truyền thuyết địa phương thì tên Cát Bà còn được đọc tên Các Bà. Vì có một thời các bà, các chị ở đây đứng ra lo việc hậu cần cho các ông đánh giặc trên một hòn đảo lân cận. Đảo có tên là đảo các Ông (Cát Ông). Như vậy, Cát Bà là đọc chệch của các Bà. Cát Bà là một hòn đảo đẹp và thơ mộng,đẹp lịch sử Tương truyền xưa kia tên đảo là "Các Bà", là hậu phương cho "Các Ông" theo Thánh Gióng đánh giặc Ân. Ở thị trấn Cát Bà hiện nay có đền Các Bà. Các bản đồ hành chính thời Pháp thuộc (như bản đồ năm 1938) còn ghi là "Các Bà". Như vậy có lẽ tên gọi "Các Bà" đã bị đọc chệch thành "Cát Bà". Trước đây đảo Cát Bà thuộc huyện Cát Bà, năm 1977 mới sáp nhập với huyện Cát Hải thành huyện Cát Hải mới. Trước đây đảo thuộc tỉnh Quảng Yên, sau thuộc khu Hồng Quảng, đến năm 1956 mới chuyển về thành phố Hải Phòng. Thị trấn Cát Bà hiện nay là huyện lị huyện Cát Hải.
Quần đảo Cát Bà
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4480
Trước năm 1945, thị trấn Cát Bà là phố Cát Bà, rồi đại lý Cát Bà thuộc huyện Cát Hải, tỉnh Quảng Yên. Sau năm 1945, trở thành thị xã Cát Bà. Đến năm 1957 thị xã Cát Bà đổi thành thị trấn và huyện Cát Bà mới thành lập. Khí hậu: Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng của đại dương nên các chỉ số trung bình về nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa cũng tương đương như các khu vực xung quanh, tuy nhiên có đặc điểm là mùa đông thì ít lạnh hơn và mùa hè thì ít nóng hơn so với đất liền. Cụ thể là: Địa hình Quần đảo gồm 367 hòn đảo lớn nhỏ nằm trên diện rộng khoảng 300 km². Đảo Cát Bà lớn nhất có diện tích 153 km², là đảo lớn thứ ba ở Việt Nam sau Phú Quốc và Cái Bầu, có đỉnh cao nhất 331m. Các đảo còn lại ít khi độ cao đạt 100-250m, phần nhiều là đảo nhỏ có độ cao dưới 100m và các hòn rất nhỏ thường chỉ cao 20-50m . Đây là một khu vực địa hình karst nhiệt đới bị ngập chìm do biển tiến Holocen, có cảnh quan độc đáo tương tự vịnh Hạ Long là phổ biển các chóp kiểu Phong Tùng và các chóp kiểu Phong Linh, các thung karst và phễu karst. Các hòn đảo là các chóp hoặc tháp kart đơn lẻ hoặc thành cụm, vách bờ dốc đứng nổi trên mặt nước biển trong xanh. Nhiều tên đảo gọi theo hình dáng của vạn vật như Ớt, Chuông, Mai Rùa, Lã Vọng, Đuôi Rồng, Báo và Sư Tử v.v. Ăn mòn sinh hóa và cơ học của nước biển do sóng và thủy triều tạo nên rìa bờ lõm vòng quanh đảo làm tăng vẻ kì dị, độc đáo hình dạng các hòn đảo. Trên đảo Cát Bà có các thung lũng karst như Trung Trang, Gia Luận, Tai Lai và Việt Hải. Chúng có độ cao 5-8m, chiều rộng 100-600m, có nơi rộng tới 1 km, kéo dài một vài tới chụckm, được lấp đầy bằng các trầm tích sông-biển Pleistocen muộn. QĐCB có rất nhiều hang động đẹp thuộc ba nhóm: hang ngầm cổ, hang nền và hang hàm ếch biển. Các hang ngầm cổ như động Hùng Sơn, động Hoa, hang Trung Trang v.v thường có độ cao trên 10m.
Quần đảo Cát Bà
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4480
Các hang nền phổ biến nhưng thường có kích thước nhỏ và thường có độ cao dưới 10m. Hang hàm ếch biển có khi xuyên thủng các khối đá vôi tạo thành hang luồn như hang Xích, hang Thủng, v.v. Địa hình đáy ven bờ QĐCB Bà gồm các dạng tùng áng, rạn san hô, đồng bằng đáy vịnh và luồng lạch. Tùng, áng là các thung lũng hoặc phễu karst bị biển ngập chìm. Tùng có 26 chiếc với hình dạng kéo dài (tùng Gấu, tùng Chàng .v.v.). Áng có 33 chiếc với hình dạng đẳng thước (áng Thảm, áng Vẹm và áng Kê, v.v.). Địa chất Về cấu trúc địa chất, quần đảo nằm trên bể Đông Bắc Bắc Bộ, ưu thế các đá trầm tích carbonat Paleozoi và trầm tích bở rời Đệ Tứ. Biểu hiện magma ở QĐCB không đáng kể với vài thể đá magma xâm nhập dạng mạch đã được xác định là spesartit và minet tại Hùng Sơn và Bến Bèo. Hệ tầng Phố Hàn "(D3-C1 ph)" có tuổi Đevon muộn - Cac bon sớm, phân bố chủ yếu ở phía TN Nam và giữa đảo Cát Bà, lộ ít hơn ở phía Bắc đảo, dày khoảng 400 – 650 m, gồm đá vôi xám đen phân lớp xen các đá lục nguyên và đá silic. Ở bờ vụng Cát Bà lộ ra mặt cắt địa tầng chuyển tiếp giữa Đevon và Carbon rất có giá trị khoa học và di sản địa chất. "Hệ tầng Bắc Sơn" ("C1-P2 bs") "(C1-P2 bs"), tuổi Carbon sớm - Permi muộn, phân bố rộng khắp, dày khoảng 700–1000 m, chủ yếu gồm đá vôi màu xám, xám sáng, phân lớp dày và dạng khối. Các trầm tích Đệ Tứ gồm trầm tích hệ tầng Vĩnh Phúc "(Q13 vp)" tuổi Pleistocen muộn, thành phần cát, cuội cấu tạo nên bậc thềm biển cao 5-8m ở Ao Cối và các trầm tích sông - biển ở các thung lũng Gia Luận, Trung Trang; Trầm tích hệ tầng Hải Hưng "(Q11-2 hh)," tuổi Holocen sớm - giữa và "Trầm" tích hệ tầng Thái Bình "(Q22-3 tb)." Các trầm tích hiện đại gồm có trầm tích bãi biển, bãi triều, bãi lầy sú vẹt và trầm tích đáy biển nông, thành phần từ sét, bột đến cát sạn.
Quần đảo Cát Bà
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4480
Biển tiến sau băng hà lần cuối cùng bắt đầu từ 17-18 nghìn năm trước, khi mực biển thấp hơn hiện nay 100 - 120m, đến khoảng 7-8 nghìn năm trước bắt đầu tràn ngập khu vực Cát Bà, mở rộng nhất vào 5-6 nghìn năm trước chính thức biến nơi này thành quần đảo. Lễ hội. Lễ hội của người dân Cát Bà giống như lễ hội của những người Kinh ở khu vực khác, tuy nhiên có thêm ngày 1 tháng 4 dương lịch là lễ hội ngày Bác Hồ về thăm làng cá.Còn có thêm lễ hội " Đền Bà " ở xã Hiền Hào. Đây cũng là một trong những lễ hội lớn của người dân địa phương. ngoài ra còn rất nhiều lễ hội khác. Du lịch. Trên đảo chính Cát Bà có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi là một nơi đang được đẩy mạnh phát triển du lịch sinh thái. phía đông nam của đảo có vịnh Lan Hạ, phía tây nam có vịnh Cát Gia có một số bãi cát nhỏ nhưng sạch, sóng không lớn thuận tiện cho phát triển du lịch tắm biển, nghỉ dưỡng. Trên biển xuất hiện nhiều núi đá vôi đẹp tương tự vịnh Hạ Long và Bái Tử Long. Ở một số đảo nhỏ, cũng có nhiều bãi tắm đẹp. Cát Bà với vẻ đẹp nguyên sơ và hùng vĩ, nó được mệnh danh là Hòn Ngọc của Vịnh Bắc Bộ Khu dự trữ sinh quyển. Quần đảo Cát Bà có rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rặng san hô, thảm rong - cỏ biển, hệ thống hang động, tùng áng, là nơi hội tụ đầy đủ các giá trị bảo tồn đa dạng sinh học, bảo đảm các yêu cầu của khu dự trữ sinh quyển thế giới theo quy định của UNESCO. Cát Bà đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới ngày 02 tháng 12 năm 2004. Ngày 1 tháng 4 năm 2005 tại đây đã diễn ra lễ đón nhận bằng quyết định của UNESCO và kỷ niệm sự kiện này. Việt Nam hiện có 06 khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO công nhận là: Cần Giờ, Cát Tiên, châu thổ sông Hồng, miền Tây Nghệ An, Kiên Giang và quần đảo Cát Bà.
Quần đảo Cát Bà
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4480
Tổng diện tích khu dự trữ sinh quyển Cát Bà rộng hơn 26.000 ha, với 2 vùng lõi (bảo tồn nghiêm ngặt và không có tác động của con người), 2 vùng đệm (cho phép phát triển kinh tế hạn chế song kết hợp với bảo tồn) và 2 vùng chuyển tiếp (phát triển kinh tế). Khu dự trữ sinh quyển Cát Bà là vùng hội tụ đầy đủ cả rừng mưa nhiệt đới trên đảo đá vôi, rừng ngập mặn, các rạn san hô, thảm rong và đặc biệt là hệ thống hang động. Sách đỏ Việt Nam. Gần 60 loài đã được coi là các loài đặc hữu và quý hiếm đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam như các loài động vật: ác là, quạ khoang, voọc đầu vàng, voọc quần đùi trắng và các loài thực vật như chò đãi, kim giao ("Podocarpus fleurii"), lá khôi ("Ardisia" spp.), lát hoa ("Chukrasia tubularis"),dẻ hương, thổ phục linh, trúc đũa, sến mật. Ngoài ra còn 8 loài rong, 7 loài động vật đáy cũng cần được bảo vệ. Đề cử di sản thế giới. Thất bại với đề cử di sản thiên nhiên thế giới (độc lập) năm 2014. Năm 2014, tại kỳ họp thứ 38 của Ủy ban Di sản thế giới tại Qatar Quần đảo Cát Bà từng được đưa ra bầu chọn là di sản thiên nhiên thế giới nhưng bị thất bại (Hồ sơ Quần đảo Cát Bà được các cơ quan tư vấn của UNESCO đặt ở mức N - Not recommended for inscription, tức không được khuyến khích để ghi danh vì lý do Cát Bà & Vịnh Lan Hạ nằm cùng quần thể với Vịnh Hạ Long, cần được đệ trình như là một quần thể). Trước đó, Cát Bà ứng cử hồ sơ di sản theo các tiêu chí sau: Đệ trình Vịnh Hạ Long - Cát Bà là di sản thiên nhiên thế giới. Với sự hỗ trợ của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) sáng kiến Liên minh Vịnh Hạ Long - Cát Bà được khởi xướng vào năm 2014 nhằm xây dựng cơ chế hợp tác giữa Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương từ đó thúc đẩy hoạt động bảo tồn, bảo vệ môi trường tại Vịnh Hạ Long và quần đảo Cát Bà.
Quần đảo Cát Bà
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4480
Năm 2015, Liên minh đã thành lập Ban lãnh đạo với định hướng  tăng cường sự tham gia của DN, giải quyết những thách thức về môi trường từ hoạt động của các du thuyền, hỗ trợ kỹ thuật cho UNESCO trong công tác quản lý Vịnh Hạ Long cũng như đề xuất mở rộng Di sản Thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long bao gồm quần đảo Cát Bà. Đại diện TP Hải Phòng cũng thông tin, tháng 7/2017, Hải Phòng đã nộp báo cáo tóm tắt về di sản đến Trung tâm Di sản thiên nhiên thế giới và đã được chấp nhận. Từ đó đến nay đã tập trung xây dựng hồ sơ và đến nay Hồ sơ chính đã được hoàn thành, đang lấy ý kiến các sở, ban ngành trước khi chuyển sang Quảng Ninh và trình Ủy ban Di sản quốc gia... Theo lộ trình, đầu tháng 9/2018, sẽ nộp Bộ hồ sơ lên Thường trực Trung tâm Di sản thiên nhiên thế giới và sẽ hoàn thiện lại theo ý kiến tham vấn, tháng 2/2019, sẽ trình bộ hồ sơ chính thức
Đồ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4481
Đồ Sơn là một quận nội thành thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Địa lý. Đồ Sơn là một bán đảo nhỏ do dãy núi Rồng vươn dài ra biển 5 km với hàng chục mỏm đồi cao từ 25 đến 130 m. Quận nằm ở phía đông nam thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 22 km về hướng đông nam, có vị trí địa lý: Đồ Sơn có một khu nghỉ mát gồm nhiều bãi biển có phong cảnh đẹp ở miền bắc Việt Nam. Do ở phía bắc và phía nam của quận là hai cửa sông Lạch Tray và Văn Úc thuộc hệ thống sông Thái Bình đổ ra biển đem theo nhiều phù sa, cộng thêm việc quai đê lấn biển ở Đảo Hòn Dấu để xây dựng khu Resort cao cấp, nên nước biển ở khu vực này đục (nhất là khu II) nhưng vẫn có sức thu hút du khách. Quận Đồ Sơn có diện tích tự nhiên là 42,37 km² và dân số là 102.234 người. Hành chính. Quận Đồ Sơn có 6 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 phường: Bàng La, Hải Sơn, Hợp Đức, Minh Đức, Ngọc Xuyên, Vạn Hương. Lịch sử. Đồ Sơn là bãi biển nổi tiếng từ thời nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc. Cũng được nhắc đến trong truyện Trống mái (1936) của nhà văn Khái Hưng. Thị xã Đồ Sơn được thành lập ngày 14 tháng 3 năm 1963 trên cơ sở tách khu vực Đồ Sơn và 2 xã: Vạn Sơn, Ngọc Hải thuộc huyện Kiến Thụy; cũng từ đó, thành lập 4 tiểu khu Vạn Hương, Vạn Sơn, Ngọc Hải, Ngọc Xuyên. Ngày 7 tháng 4 năm 1966, chuyển xã Bàng La thuộc huyện Kiến Thụy vào thị xã Đồ Sơn. Ngày 26 tháng 12 năm 1970, giải thể xã Bàng La, chuyển các thôn của xã Bàng La thành các tiểu khu trực thuộc thị xã Đồ Sơn. Ngày 5 tháng 3 năm 1980, thị xã Đồ Sơn nhập với 21 xã của huyện An Thụy là: Tú Sơn, Đại Hợp, Đoàn Xá, Hợp Đức, Hòa Nghĩa, Anh Dũng, Minh Tân, Tân Phong, Đông Phương, Đại Đồng, Hưng Đạo, Đa Phúc, Ngũ Đoan, Đại Hà, Tân Trào, Thụy Hương, Kiến Quốc, Ngũ Phúc, Thanh Sơn, Hữu Bằng, Thuận Thiên thành huyện Đồ Sơn, nội thị của thị xã Đồ Sơn trở thành thị trấn Đồ Sơn thuộc huyện cùng tên, tái lập xã Bàng La.
Đồ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4481
Từ đó, huyện Đồ Sơn gồm 1 thị trấn Đồ Sơn và 24 xã: Bàng La, Anh Dũng, Hưng Đạo, Đa Phúc, Hải Thành, Tân Thành, Hòa Nghĩa, Hợp Đức, Đông Phương, Đại Đồng, Hữu Bằng, Thuận Thiên, Ngũ Phúc, Kiến Quốc, Thụy Hương, Thanh Sơn, Đại Hà, Ngũ Đoan, Tân Trào, Đoàn Xá, Đại Hợp, Tú Sơn, Tân Phong, Minh Tân. Tuy nhiên, thị trấn Đồ Sơn không phải là huyện lỵ của huyện cùng tên Đồ Sơn, huyện lỵ của huyện đặt tại xã Thanh Sơn. Ngày 14 tháng 2 năm 1987, thành lập thị trấn Núi Đối, thị trấn huyện lỵ huyện Đồ Sơn trên cơ sở một phần các xã Minh Tân và Thanh Sơn. Tháng 6 năm 1988, huyện Đồ Sơn chia lại thành thị xã Đồ Sơn và huyện Kiến Thụy. Thị xã Đồ Sơn được tái lập gồm 4 phường: Ngọc Hải, Vạn Sơn, Vạn Hương, Ngọc Xuyên và xã Bàng La. Ngày 12 tháng 9 năm 2007, thị xã Đồ Sơn sáp nhập thêm xã Hợp Đức thuộc huyện Kiến Thụy và được chuyển thành quận Đồ Sơn theo Nghị định số 145/2007/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam. Đồng thời, chuyển xã Bàng La thành phường Bàng La; chia xã Hợp Đức thành 2 phường: Hợp Đức và Minh Đức. Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập phường Ngọc Hải và phường Vạn Sơn thành phường Hải Sơn. Từ đó, Quận Đồ Sơn có 6 phường như hiện nay. Nguồn gốc tên gọi Đồ Sơn. Đồ Sơn (塗山) nghĩa Hán là núi bùn, núi đất. Tên gọi này có từ xa xưa. Vào thời Mạc thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có viết: "Ông cùng với các lão tăng đàm luận và thường thả thuyền dạo chơi ở Kim Hải hay Úc Hải để xem đánh cá. Các danh sơn thắng cảnh như An Tử, Ngọa Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn, nơi nào ông cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh, quên cả sớm chiều". Tiềm năng du lịch của Đồ Sơn mới bắt đầu được khai thác bởi người Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX. Còn trước đó hơn 2 thế kỷ, trong các thế kỷ XVII - XVIII, dù tên gọi Đồ Sơn chưa được nhắc tới nhưng trong thư tịch và bản đồ cổ của những nhà hàng hải, thương nhân châu Âu tới Đàng Ngoài (chủ yếu là người Hà Lan và người Anh) thì tên gọi "Batsha" hay "Batshaw" đã xuất hiện phổ biển.
Đồ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4481
Ngày nay người ta đã xác định được vị trí của Batsha (Batshaw) ở các thế kỷ XVII - XVIII là một làng chài (hoặc xóm chài) nằm trên bán đảo Đồ Sơn. Theo như mô tả của nhà hàng hải người Anh ở thế kỷ XVII William Dampier trong cuốn sách "Du hành và Khám phá" năm 1688, cư dân sống ở làng chài mang tên Batsha (Đồ Sơn ngày nay) không chỉ làm nghề đánh cá mà còn kiêm luôn vai trò làm hoa tiêu dẫn đường cho những thuyền buôn phương Tây vào vùng cửa sông Thái Bình thuộc khu vực các huyện Tiên Lãng và Vĩnh Bảo (Hải Phòng). Đây là khu vực chủ yếu ở Đàng Ngoài nơi mà các thương thuyền đến từ phương Tây như Hà Lan hay Vương quốc Anh được tự do ra vào, buôn bán trao đổi hàng hoá và lưu trú lâu dài vào thời đó. Nhưng không phải chỉ những nhà hàng hải hay thương nhân châu Âu mới chú ý đến vai trò của Batsha (Batshaw) trên con đường thương mại của xứ Đàng Ngoài mà đến cả những tên tuổi vĩ đại trong lịch sử khoa học như Isaac Newton và Pierre-Simon Laplace cũng nhắc đến địa danh "Batsha" (Đồ Sơn) trong các tác phẩm của họ bởi hiện tượng thủy triều đặc biệt ở vùng biển Đồ Sơn. Trong tác phẩm khoa học kinh điển "Principia Mathematica" của nhà vật lý kiêm toán học vĩ đại người Anh Isaac Newton xuất bản (nguyên bản tiếng Latinh) lần đầu vào năm 1687 có nhắc đến địa danh cảng "Batsha" nằm trong vĩ độ 20°50' bắc, thuộc vương quốc "Tunquini" (xứ Đàng Ngoài), nơi mà thủy triều lên xuống chỉ một lần trong ngày. Newton cũng cho biết ông có được thông tin đó từ những nhà hàng hải, những người có thể đã từng du hành tới Đàng Ngoài trong thế kỷ XVII. Hơn một thế kỷ sau đó, một nhà nhà vật lý kiêm toán học vĩ đại khác là Pierre-Simon Laplace (người được giới khoa học mệnh danh là "Newton của nước Pháp") đã nhắc lại hiện tượng thủy triều ở "Batsha" trong tác phẩm nổi tiếng của ông xuất bản năm 1796 có tựa đề "Exposition du système du monde". Nguồn gốc của Kinh tộc Tam Đảo.
Đồ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4481
Nguồn gốc của Kinh tộc Tam Đảo. Vào năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) đời vua Lê Tương Dực, một nhóm ngư dân khoảng trên dưới 100 người từ bán đảo Đồ Sơn (khi đó thuộc huyện Nghi Dương, trấn Hải Dương, vốn là đất phát tích của Nhà Mạc) đã di cư theo đường biển đến lập nghiệp và bảo vệ chủ quyền biển đảo trên ba hòn đảo nhỏ (được gọi chung là Tam Đảo) thuộc châu Vĩnh An, trấn An Bang. Đến Hiệp định Pháp Thanh năm 1885 thì bị cắt về Trung Quốc. Sau này trở thành các thôn Vạn Vĩ (Wanwei), Vu Đầu (Wutou) và Sơn Tâm (Shanxin), ngày nay thuộc thành phố cấp huyện Đông Hưng, Phòng Thành Cảng, nằm trong địa phận quản lý của "địa cấp thị" Phòng Thành Cảng, Quảng Tây, Trung Quốc, gần biên giới Trung-Việt, cách cửa khẩu quốc tế Móng Cái khoảng 25 km theo đường bộ. Trải qua hơn 500 năm hòa nhập vào nền văn hóa địa phương, họ vẫn sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu và vẫn còn lưu giữ được nhiều truyền thống của người Việt từ xa xưa. Do chưa bị Hán hóa nên họ được gọi chung là Kinh tộc Tam Đảo. Kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế của toàn quận trong đó ngành Du lịch và dịch vụ chiếm khoảng 70%, đánh bắt thủy sản và nông nghiệp: chiếm 23% và Công nghiệp và xây dựng: 7%. Ước lượng đến năm 2005 GDP trên đầu người đạt khoảng 1.100 USD. Du lịch. Đồ Sơn là khu nghỉ mát lớn nhất miền Bắc. Đồ Sơn rất đông du khách từ khắp mọi miền Việt Nam cũng như khách quốc tế về đây tắm biển, nghỉ ngơi và leo núi, cắm trại, ngắm nhìn phong cảnh biển đẹp buổi chiều tà: Ngoài ra,khu du lịch Đồ Sơn còn vinh dự là nơi có hòn đảo nhân tạo đầu tiên của Việt Nam - đảo Hoa Phượng, toạ lạc tại trung tâm khu du lịch, được trang bị đầy đủ các tiện nghi hiện đại cực kỳ sang trọng như trung tâm thương mại cao cấp ở giữa đảo, bể bơi nhân tạo, phố ăn uống, khách sạn đẳng cấp 5 sao, khu biệt thự, bến du thuyền... là nơi lý tưởng để khách du lịch đến dừng chân và nghỉ dưỡng: Tệ nạn. Mại dâm.
Đồ Sơn
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4481
Mại dâm. Đồ Sơn nổi tiếng với dịch vụ mại dâm, tập trung ở 2 khu vực. Một là Xó Lặng ở khu 1 (10 nhà nghỉ). Hai là khu 203 hay còn gọi là Bộ Xây dựng (20 nhà nghỉ). Mỗi năm công an ra quân bắt được 1-3 vụ mại dâm tại đây, mỗi vụ khoảng 2 người. Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho biết, báo cáo của Hải Phòng cho thấy không phát hiện ra tệ nạn mại dâm tại Đồ Sơn, chỉ có một vài trường hợp, không đáng kể. Văn hóa. Trong dịp Tết, người dân khắp nơi đổ về Đồ Sơn viếng thăm đền Bà Đế, cầu phúc cho mưa thuận gió hoà. Ngoài ra hàng năm ở Đồ Sơn còn lễ hội đảo Dấu. Vào ngày này, người dân Đồ Sơn nói riêng và người dân buôn bán khắp nơi đi thuyền ra đảo cúng và thắp hương cầu may cho một năm buôn bán thuận lợi và sức khỏe bình an. Một trong các hoạt động văn hóa nổi bật là Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn. Lễ hội được tổ chức 2 vòng: Vòng sơ loại vào ngày 8 tháng 6 âm lịch và vòng chung kết vào ngày 9 tháng 8 âm lịch, thu hút rất đông du khách cả ở trong và ngoài nước. Các trận đấu vòng chung kết được truyền hình trực tiếp trên sóng truyền hình Hải Phòng.
Ba Bể (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4482
Ba Bể là một địa danh, tên một hồ nước ngọt tại tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam. Ngoài ra, danh xưng này còn được đặt cho:
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Vịnh Hạ Long là một vịnh nhỏ thuộc phần bờ tây vịnh Bắc Bộ tại khu vực biển Đông Bắc Việt Nam, bao gồm vùng biển đảo của thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh. Là trung tâm của một khu vực rộng lớn có những yếu tố ít nhiều tương đồng về địa chất, địa mạo, cảnh quan, khí hậu và văn hóa, với vịnh Bái Tử Long phía Đông Bắc và quần đảo Cát Bà phía Tây Nam, vịnh Hạ Long giới hạn trong diện tích khoảng 1.553 km² bao gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, phần lớn là đảo đá vôi, trong đó vùng lõi của vịnh có diện tích 335 km² quần tụ dày đặc 775 hòn đảo. Lịch sử kiến tạo địa chất đá vôi của vịnh đã trải qua khoảng 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau; và quá trình tiến hóa karst đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm với sự kết hợp các yếu tố như tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm và tiến trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể. Sự kết hợp của môi trường, khí hậu, địa chất, địa mạo, đã khiến vịnh Hạ Long trở thành quần tụ của đa dạng sinh học bao gồm hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới và hệ sinh thái biển và ven bờ với nhiều tiểu hệ sinh thái. 17 loài thực vật đặc hữu và khoảng 60 loài động vật đặc hữu đã được phát hiện trong số hàng ngàn động, thực vật quần cư tại vịnh. Những kết quả nghiên cứu, thám sát khảo cổ học và văn hóa học cho thấy sự hiện diện của những cư dân tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long từ khá sớm, đã tạo lập những hình thái văn hóa cổ đại tiếp nối nhau bao gồm văn hóa Soi Nhụ trong khoảng 18.000-7.000 năm trước Công Nguyên, văn hóa Cái Bèo trong 7.000-5.000 năm trước Công Nguyên và văn hóa Hạ Long cách ngày nay khoảng từ 3.500-5.000 năm. Tiến trình dựng nước và truyền thống giữ nước của dân tộc Việt Nam, trong suốt hành trình lịch sử, cũng khẳng định vị trí tiền tiêu và vị thế văn hóa của vịnh Hạ Long qua những địa danh mà tên gọi gắn với điển tích còn lưu truyền đến nay, như núi Bài Thơ, hang Đầu Gỗ, Bãi Cháy v.v.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Hiện nay, vịnh Hạ Long là một khu vực phát triển năng động nhờ những điều kiện và lợi thế sẵn có như có một tiềm năng lớn về du lịch, nghiên cứu khoa học, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, giao thông thủy đối với khu vực vùng biển Đông Bắc Việt Nam nói riêng và miền Bắc Việt Nam nói chung. Từ hơn 500 năm về trước trong bài thơ "Lộ nhập Vân Đồn", Nguyễn Trãi đã lần đầu tiên ca ngợi vịnh Hạ Long là "kỳ quan đá dựng giữa trời cao". Năm 1962 Bộ Văn hóa - Thông tin (Việt Nam) đã xếp hạng vịnh Hạ Long là di tích danh thắng cấp quốc gia đồng thời quy hoạch vùng bảo vệ. Năm 1994 vùng lõi của vịnh Hạ Long được UNESCO công nhận là Di sản Thiên nhiên Thế giới với giá trị thẩm mỹ (tiêu chuẩn vii), và được tái công nhận lần thứ 2 với giá trị ngoại hạng toàn cầu về địa chất-địa mạo (tiêu chuẩn viii) vào năm 2000. Cùng với vịnh Nha Trang và vịnh Lăng Cô của Việt Nam, vịnh Hạ Long là một trong số 29 vịnh được Câu lạc bộ những vịnh đẹp nhất thế giới xếp hạng và chính thức công nhận vào tháng 7 năm 2003. Vịnh Hạ Long cùng với đảo Cát Bà tạo thành một trong 21 khu du lịch quốc gia đầu tiên ở Việt Nam. Năm 2015, Cục Di sản văn hóa đã công bố về số lượng khách tham quan vịnh Hạ Long là trên 2,5 triệu lượt khách. Truyền thuyết về vịnh Hạ Long. Vịnh Hạ Long có từ xa xưa do những kiến tạo địa chất. Tuy nhiên, trong tâm thức của người Việt từ thời tiền sử với trí tưởng tượng dân gian và ý niệm về cội nguồn con Rồng cháu Tiên, một số truyền thuyết cho rằng khi người Việt mới lập nước đã bị giặc ngoại xâm, Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và nơi đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ. Tuy nhiên, tên gọi Hạ Long hay Bái Tử Long chỉ mới có từ thời Pháp thuộc. Lại có truyền thuyết khác nói rằng, vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chặn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long. Điều kiện tự nhiên và xã hội. Vị trí. Là một vịnh nhỏ, bộ phận của vịnh Bắc Bộ, vịnh Hạ Long được giới hạn với phía Đông Bắc giáp vịnh Bái Tử Long; phía Tây Nam giáp quần đảo Cát Bà; phía Tây và Tây Bắc giáp đất liền bằng đường bờ biển khoảng 120 km kéo dài từ thị xã Quảng Yên, qua thành phố Hạ Long, Thành phố Cẩm Phả đến hết huyện đảo Vân Đồn; phía Đông Nam và phía Nam hướng ra vịnh Bắc Bộ. Trong diện tích 1.553 km² gồm vùng lõi và vùng đệm, nằm tại các tọa độ từ 106°58'-107°22' Đông và 20°45'-20°50' Bắc, vịnh Hạ Long bao gồm 1.969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa được đặt tên. Môi trường và khí hậu. Vịnh Hạ Long là vùng biển đảo có khí hậu phân hóa 2 mùa rõ rệt: mùa hạ nóng ẩm với nhiệt độ khoảng 27-29 °C và mùa đông khô lạnh với nhiệt độ 16-18 °C, nhiệt độ trung bình năm dao động trong khoảng 15-25 °C. Lượng mưa trên vịnh Hạ Long vào khoảng từ 2.000 mm–2.200 mm tuy có tài liệu chi tiết hóa lượng mưa là 1.680 mm với khoảng trên 300 mm vào mùa nóng nhất trong năm (từ tháng 6 đến tháng 8) và dưới 30 mm vào mùa khô nhất trong năm (từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau).
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Hệ thủy triều tại vịnh Hạ Long rất đặc trưng với mức triều cường vào khoảng 3,5-4m/ngày. Độ mặn trong nước biển trên vùng vịnh dao động từ 31 đến 34.5 MT vào mùa khô nhưng vào mùa mưa, mức này có thể thấp hơn. Mực nước biển trong vùng vịnh khá cạn, có độ sâu chỉ khoảng 6m đến 10m và các đảo đều không lưu giữ nước bề mặt. Dân số. Trong số 1.969 đảo của Hạ Long hiện nay chỉ có khoảng 40 đảo là có dân sinh sống, những đảo này có quy mô từ vài chục đến hàng ngàn hecta tập trung chủ yếu ở phía Đông và Đông Nam vịnh Hạ Long. Mấy chục năm gần đây, nhiều vạn chài sống trôi nổi trên mặt nước, bắt đầu lên một số đảo định cư biến những đảo hoang sơ trở thành trù phú như đảo Sa Tô (thành phố Hạ Long), đảo Thắng Lợi (huyện đảo Vân Đồn). Dân số trên vịnh Hạ Long hiện nay khoảng 1.540 người, tập trung chủ yếu ở các làng đánh cá Cửa Vạn, Ba Hang, Cặp Dè (thuộc phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long). Cư dân vùng vịnh phần lớn sống trên thuyền, trên nhà bè để thuận tiện cho việc đánh bắt, nuôi trồng và lai tạo các giống thủy sản, hải sản. Ngày nay đời sống của cư dân vịnh Hạ Long đã phát triển do kinh doanh dịch vụ du lịch. Hiện nay, chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã có chủ trương di dời các hộ dân sống trong lòng vịnh lên bờ tái định cư, ổn định cuộc sống và bảo vệ cảnh quan môi trường vùng di sản. Đã có hơn 300 hộ dân sinh sống trên các làng chài trên vịnh Hạ Long đã được di dời lên bờ sinh sống tại Khu tái định cư Khe Cá (nay là Khu 8, phường Hà Phong, thành phố Hạ Long) từ tháng 5/2014, công việc này sẽ còn tiếp tục được triển khai. Tỉnh sẽ chỉ giữ lại một số làng chài để phục vụ du lịch tham quan. Tên gọi Hạ Long qua các thời kỳ lịch sử. Tên gọi Hạ Long đã thay đổi qua nhiều thời kỳ lịch sử, thời Bắc thuộc khu vực này được gọi là Lục Châu, Lục Hải. Các thời Lý, Trần, Lê vịnh mang các tên Hoa Phong, Hải Đông, An Bang, Vân Đồn, Ngọc Sơn hay Lục Thủy. Tên Hạ Long (rồng đáp xuống) mới xuất hiện trong một số thư tịch và các bản đồ hàng hải của Pháp từ cuối thế kỷ XIX.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Trên tờ "Tin tức Hải Phòng" xuất bản bằng tiếng Pháp có bài viết về sự xuất hiện của sinh vật giống rồng trên khu vực là vịnh Hạ Long ngày nay với nhan đề "Rồng xuất hiện trên vịnh Hạ Long", khi viên thiếu úy người Pháp Legderin, thuyền trưởng tàu Avalence cùng các thủy thủ bắt gặp một đôi rắn biển khổng lồ ba lần (vào các năm 1898, 1900 và 1902). Có lẽ người châu Âu đã liên tưởng con vật này giống như con rồng châu Á, loài vật huyền thoại được tôn sùng trong văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa các nước đồng văn châu Á nói chung. Bên cạnh những truyền thuyết của Việt Nam về Rồng Mẹ và Rồng Con đáp xuống khu vực vịnh đảo vùng Đông Bắc này, sự xuất hiện con vật lạ hiện hữu như rồng trong thực tại, có thể đã trở thành các lý do khiến vùng biển đảo Quảng Ninh được người Pháp gọi bằng cái tên vịnh Hạ Long từ đó và phổ biến đến ngày nay. Cảnh quan. Vùng di sản trên vịnh Hạ Long được thế giới công nhận (vùng lõi) có diện tích 434 km², như một hình tam giác với ba đỉnh là đảo Đầu Gỗ (phía Tây), hồ Ba Hầm (phía Nam) và đảo Cống Tây (phía Đông), bao gồm 775 đảo với nhiều hang động, bãi tắm. Vùng kế bên (vùng đệm), là di tích danh thắng quốc gia đã được bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng từ năm 1962. Địa hình Hạ Long là đảo, núi xen kẽ giữa các trũng biển, là vùng đất mặn có sú vẹt mọc và những đảo đá vôi vách đứng tạo nên những vẻ đẹp tương phản, kết hợp hài hòa, sinh động các yếu tố: đá, nước và bầu trời. Biển và đảo. Các đảo ở vịnh Hạ Long có hai dạng là đảo đá vôi và đảo phiến thạch, tập trung ở hai vùng chính là vùng phía Đông Nam vịnh Bái Tử Long và vùng phía Tây Nam vịnh Hạ Long. Theo thống kê của ban quản lý vịnh Hạ Long, trong tổng số 1.969 đảo của vịnh Hạ Long có đến 1.921 đảo đá với nhiều đảo có độ cao khoảng 200 m. Đây là hình ảnh cổ xưa nhất của địa hình có tuổi kiến tạo địa chất từ 250-280 triệu năm về trước, là kết quả của quá trình vận động nâng lên, hạ xuống nhiều lần từ lục địa thành trũng biển.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Quá trình carxtơ bào mòn, phong hóa gần như hoàn toàn tạo ra một vịnh Hạ Long độc nhất vô nhị, với hàng ngàn đảo đá nhiều hình thù, dáng vẻ khác nhau lô nhô trên mặt biển, trong một diện tích không lớn của vùng vịnh. Vùng tập trung các đảo đá có phong cảnh ngoạn mục và nhiều hang động đẹp là vùng trung tâm Di sản Thiên nhiên vịnh Hạ Long, bao gồm phần lớn vịnh Hạ Long (vùng lõi), một phần vịnh Bái Tử Long và vịnh Lan Hạ thuộc quần đảo Cát Bà (vùng đệm). Các đảo trên vịnh Hạ Long có những hình thù riêng, không giống bất kỳ hòn đảo nào ven biển Việt Nam và không đảo nào giống đảo nào. Có chỗ đảo quần tụ lại nhìn xa ngỡ chồng chất lên nhau, nhưng cũng có chỗ đảo đứng dọc ngang xen kẽ nhau, tạo thành tuyến chạy dài hàng chục kilômét như một bức tường thành. Đó là một thế giới sinh linh ẩn hiện trong những hình hài bằng đá đã được huyền thoại hóa. Đảo thì giống khuôn mặt ai đó đang hướng về đất liền (hòn Đầu Người); đảo thì giống như một con rồng đang bay lượn trên mặt nước (hòn Rồng); đảo thì lại giống như một ông lão đang ngồi câu cá (hòn Lã Vọng); phía xa là hai cánh buồm nâu đang rẽ sóng nước ra khơi (hòn Cánh Buồm); đảo lại lúp xúp như mâm xôi cúng (hòn Mâm Xôi); rồi hai con gà đang âu yếm vờn nhau trên sóng nước (hòn Trống Mái); đứng giữa biển nước bao la một lư hương khổng lồ như một vật cúng tế trời đất (hòn Lư Hương); đảo khác tựa như nhà sư đứng giữa mặt vịnh bao la chắp tay niệm Phật (hòn Ông Sư); đảo lại có hình tròn cao khoảng 40m trông như chiếc đũa phơi mình trước thiên nhiên (hòn Đũa), mà nhìn từ hướng khác lại giống như vị quan triều đình áo xanh, mũ cánh chuồn, nên dân chài còn gọi là hòn Ông v.v. Bên cạnh các đảo được đặt tên căn cứ vào hình dáng, là các đảo đặt tên theo sự tích dân gian (núi Bài Thơ, hang Trinh Nữ, đảo Tuần Châu), hoặc căn cứ vào các đặc sản có trên đảo hay vùng biển quanh đảo (hòn Ngọc Vừng, hòn Kiến Vàng, đảo Khỉ v.v.). Dưới đây là một vài hòn đảo nổi tiếng: Hòn Con Cóc.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Hòn Con Cóc nằm cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 12 km về phía Đông Nam, trên Vùng vịnh Hạ Long. Đây là hòn núi đá rất đẹp có góc nghiêng và hình dáng như một con cóc ngồi xổm giữa biển nước, cao khoảng 9 m. Hòn Đỉnh Hương (Lư Hương). Hòn Đỉnh Hương nằm phía tây nam hang Đầu Gỗ, nằm ngay sát với hòn Chó Đá. Hiện nay hình ảnh Hòn Đỉnh Hương được in trên tờ tiền 200.000 vnđ. Hòn Gà Chọi. Là một trong những hòn đảo nổi tiếng trên vịnh Hạ Long, hòn Gà Chọi (hay đôi khi gọi là Hòn Trống Mái) nằm gần hòn Đỉnh Hương ở phía Tây Nam của vịnh, cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 5 km. Đây là cụm gồm 2 đảo có hình thù giống như một đôi gà, một trống một mái, có chiều cao khoảng hơn 10m với chân thót lại ở tư thế rất chênh vênh. Là biểu tượng trên logo của vịnh Hạ Long, hòn Gà Chọi cũng là biểu tượng trong sách hướng dẫn du lịch Việt Nam nói chung. Đảo Ngọc Vừng. Đảo Ngọc Vừng nằm cách cảng tàu du lịch khoảng 34 km, thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, có đặc điểm là một trong số ít đảo đất trên vùng vịnh Hạ Long. Xung quanh đảo có nhiều bãi biển đẹp, có núi Vạn Xuân cao 182m và có di chỉ khảo cổ thuộc văn hoá Hạ Long rộng 45.000m². Đảo Ngọc Vừng rộng 12 km², có người ở, có bến cảng cổ Cống Yên thuộc hệ thống thương cảng cổ Vân Đồn từ thế kỷ XI, và có di tích thành cổ nhà Mạc, thành nhà Nguyễn. Phía đông của đảo có bãi cát dài tới hàng kilômét với cát trắng trải ra tới tận bến tàu. Khu vực này tương truyền trước kia có nhiều ngọc trai, đêm đêm phát sáng cả một vùng trời biển, nên có một số đảo mang tên đảo Ngọc như đảo Ngọc Vừng (ngọc phát sáng), hay Minh Châu (ngọc châu, ngọc sáng). Trước kia cư dân trên đảo sống bằng nghề đánh bắt hải sản và khai thác ngọc trai. Ngày nay cư dân ở đây vẫn còn mò trai lấy ngọc, đồng thời nghề nuôi trai lấy ngọc cũng đang phát triển mạnh. Đảo Ti Tốp.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Đảo Ti Tốp. Đảo Ti Tốp, thời Pháp thuộc mang tên hòn Cát Nàng, nằm trên khu vực vịnh Hạ Long cách Bãi Cháy chừng 14 km về phía Đông. Đảo được đặt tên Ti Tốp từ khi chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm vịnh Hạ Long cùng với nhà du hành vũ trụ người Nga Gherman Titov, vào năm 1962. Đảo Ti Tốp có bờ dốc đứng và bãi cát trắng phẳng hình vầng trăng nằm dưới chân. Các tour du lịch thường ghé tàu vào đảo để du khách lên bờ leo núi ngắm toàn cảnh vùng vịnh, tắm biển, chèo thuyền kay-ắc, kéo phao và kéo dù. Đảo Tuần Châu. Nằm cách cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 4 km về phía Tây Nam trên vùng vịnh Hạ Long, đảo Tuần Châu là một đảo đất rộng khoảng 3 km², gần bờ, có làng mạc và dân cư thưa thớt. Trước kia trên đảo các nhà khoa học đã tìm được nhiều di chỉ khảo cổ thuộc nền văn hóa Hạ Long. Từ năm 2001, một con đường lớn đã được xây dựng nối đảo với đất liền. Một tổ hợp dịch vụ vui chơi, giải trí, quần thể khách sạn, nhà hàng và bãi tắm sang trọng được xây dựng, đưa vào phục vụ góp phần làm thay đổi bộ mặt của Hạ Long từ năm du lịch 2003 tới nay. Các hang động nổi tiếng. Không chỉ những biến đổi của những đảo đá màu xanh đen trên mặt nước biếc vùng vịnh hấp dẫn du khách, trên những chiếc thuyền dơi màu nâu đỏ xuất phát từ bến tàu Hạ Long bắt đầu hành trình ngoạn cảnh, những khám phá lại tiếp tục khi du khách lên đảo, thăm thú những hang động ẩn chứa nhiều chứng tích lịch sử. Những hang động tại Hạ Long, theo các nhà thám hiểm địa chất người Pháp, khi nghiên cứu về vịnh Hạ Long đầu thế kỷ XX, khẳng định rằng hầu hết trong số chúng đều được kiến tạo trong thế Pleistocen kéo dài từ 2 triệu đến 11 ngàn năm trước, nằm trong 3 nhóm hang ngầm cổ, hang nền carxtơ và các hàm ếch biển. Hang Sửng Sốt. Hang Sửng Sốt, hay động Sửng Sốt nằm trên đảo Bồ Hòn ở trung tâm vịnh Hạ Long, được người Pháp đặt tên "Grotte des surprises" (động của những kỳ quan). Đây là một hang động rộng và đẹp vào bậc nhất của vịnh Hạ Long.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Nằm ở vùng trung tâm du lịch của vịnh với hệ thống trong tuyến du lịch bao gồm bãi tắm Ti Tốp - hang Bồ Nâu - động Mê Cung - hang Luồn - hang Sửng Sốt. Vị trí và diện tích: Hang Sửng Sốt là một hang dạng ống, nằm ở độ cao 25 m so với mực nước biển hiện tại. Diện tích khoảng 10.000 m², chiều dài hơn 200 m, chỗ rộng nhất 80 m, khoảng cách lớn nhất từ nền tới trần hang xấp xỉ 20 m. Hang được chia thành 2 ngăn chính. Quá trình phát hiện và quản lý: Đường lên hang Sửng Sốt quanh co uốn lượn dưới những tán lá rừng, với những bậc đá ghép cheo leo, khúc khuỷu. Động được chia làm hai ngăn chính, toàn bộ ngăn thứ nhất như một nhà hát lớn rộng thênh thang với trần hang được phủ bằng nhũ đá, những tượng đá, voi đá, hải cẩu, mâm xôi, hoa lá, mở ra một thế giới của cổ tích. Ngăn 2 cách biệt với ngăn 1 qua một lối đi hẹp. Bước vào lòng ngăn này, động mở ra một khung cảnh mới khác lạ hoàn toàn với lòng ngăn rộng có thể chứa được hàng ngàn người. Trong lòng ngăn 2 của hang Sửng Sốt có những hình tượng được gắn với truyền thuyết Thánh Gióng: cạnh lối ra vào là khối đá hình chú ngựa, thanh gươm dài và trong lòng hang có những ao hồ nhỏ như vết chân ngựa Gióng. Động Thiên Cung. Cách thành phố Hạ Long khoảng 8 km và cách bến tàu du lịch 4 km là đảo Vạn Cảnh, còn gọi là đảo Canh Độc có tọa độ 107°00'54" và 20°54'78". Trong sách "Đại Nam nhất thống chí" có ghi: "hòn Canh Độc lưng chừng đảo có động rộng rãi chứa được vài ngàn người, gần đó có hòn Cặp Gà, Hòn Mèo, Hòn La...". Ngày nay, qua khảo cứu, đảo Vạn Cảnh có đỉnh cao 189m, hình dáng như một chiếc ngai ôm hai hang động là hang Đầu Gỗ nằm chênh vênh trên cao và động Thiên Cung ở cách mép nước không xa. Hang Đầu Gỗ và động Thiên Cung cách nhau chừng 100m, được thông nhau bằng những lối đi quanh co, uốn lượn dưới tán lá rừng. Động Thiên Cung nằm ở lưng chừng đảo Canh Độc, ở độ cao 25m so với mực nước biển.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Du khách vừa bước vào cửa động Thiên Cung, lòng động đột ngột mở ra không gian có tiết diện hình tứ giác với chiều dài hơn 130 mét, với những măng đá như một đền đài mỹ lệ. Vách động cao và thẳng đứng được bao bọc bởi những nhũ đá và trên mỗi vách động ấy thiên nhiên đã khảm nhiều hình thù kỳ lạ, hấp dẫn người xem. Đó là 4 cột trụ to lớn giữa động mà từ chân cột tới đỉnh đều được chạm nổi nhiều hình thù kỳ lạ như chim cá, cảnh sinh hoạt của con người, hoa lá cành; là những thạch nhũ mang hình tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, tiên nữ múa hát; là trần hang với những điêu khắc người, chim, hoa, muông thú đang dự tiệc, hoàn toàn do bàn tay nhào nặn của tạo hóa tác thành qua hàng vạn năm. Cửa động nhỏ hẹp được giấu kín trong lòng núi nhưng càng đi vào bên trong, lòng động càng mở lớn và rộng, dẫn dắt người xem đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Hang Đầu Gỗ. Từ cửa Suốt nhìn vào hòn Canh độc, người ta thấy đầu của hòn núi này nhô ra trông giống như đầu một cây gỗ nổi lập lờ trên mặt nước. Hai bên "đầu gỗ" có hai hốc lõm vào, trông tựa như "mắt gỗ" mà thợ sơn tràng thường khoét vào đầu gỗ để kéo - lôi khi khai thác. Những cư dân vạn chài của vùng sông nước dã căn cứ vào hình dáng đó mà đặt tên cho cái hang mà họ thường lưu lại tại đảo này trong những ngày nghỉ ngơi, tránh mùa dông bão. Tên đảo Đầu gỗ; hang Đầu gỗ phải chăng đã được hình thành như vậy. Người Pháp khi lập bản đồ khu vực này, y cứ theo lời kể của cư dân sông nước mà ghi tên thành hang "daugo", cũng như tên "hòn đảo của những búi gai" thành "hongai" để rồi thành Hồng Gai. Có lẽ vì quá yêu lịch sử chiến công của thời Trần mà người ta cố ghép tên hang "Đầu gỗ", "Giấu gỗ" cho trận chiến Bạch Đằng năm 1288, gắn với tên tuổi của vị anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Khánh Dư. Trong sách "Đại Nam nhất thống chí" có ghi: "hòn Canh Độc lưng chừng đảo có động rộng rãi chứa được vài ngàn người, gần đó có hòn Cặp Gà, Hòn Mèo, Hòn La...".
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Động nói ở đây chính là hang "Đầu gỗ"; Động Thiên cung chỉ mới được phát hiện vào những năm tám mươi của thế kỉ trước. Đi hết động Thiên Cung cũng là lúc du khách bước chân sang hang Đầu Gỗ, còn gọi là hang Giấu Gỗ, một hang động với những nhũ đá tráng lệ. Tên gọi Hang Đầu Gỗ (tập trung gỗ) có từ sau khi tướng Trần Hưng Đạo chỉ huy ba quân giấu các cọc gỗ lim tại đây, trước khi đem đóng xuống lòng sông Bạch Đằng để bày thế trận cùng thủy quân đánh úp, đốt cháy đoàn thuyền tải lương thực của giặc Nguyên Mông vào mùa xuân năm 1288. Hiện các nhà khảo cổ còn tìm thấy rất nhiều khúc gỗ và mẩu gỗ vụn còn sót lại trong động. Nếu động Thiên Cung hoành tráng khoẻ khoắn, hiện đại thì hang Đầu Gỗ trầm mặc uy nghi nhưng cũng rất đồ sộ. Cuốn "Merveilles du Monde" (kỳ quan thế giới) của Pháp xuất bản năm 1938 chuyên về du lịch giới thiệu về các danh thắng nổi tiếng thế giới đã mệnh danh hang Đầu Gỗ là "Grotte des merveilles" (động của các kỳ quan). Cửa hang Đầu Gỗ ở lưng chừng vách núi và trong lòng hang được chia thành 3 ngăn chính. Ngăn phía ngoài hình vòm cuốn tràn ánh sáng tự nhiên, với trần hang như một bức tranh khổng lồ vẽ phong cảnh thiên nhiên hoang sơ với những đàn voi, những chú hươu sao, sư tử trong những tư thế sinh động. Phía dưới là rừng măng đá, nhũ đá nhiều màu với nhiều hình thù tùy theo trí tưởng tượng của từng người. Chính giữa lòng hang là một cột trụ đá khổng lồ hàng chục người ôm, từ phía dưới chân cột lên trên là những hình mây bay, long phi phượng vũ, hoa lá, dây leo. Qua ngăn thứ nhất, vào ngăn thứ 2 bằng một khe cửa hẹp lòng hang mở ra với ánh sáng chiếu vào mờ ảo, những bức tranh đá trở nên long lanh hơn và những chùm hoa đá lúc ẩn lúc hiện. Tận cùng hang là một chiếc giếng nước ngọt và những hình tượng bằng đá như đang diễn tả một trận hỗn chiến kỳ lạ. Năm 1917, hang Đầu Gỗ được vua Khải Định lên thăm và cho khắc một tấm văn bia với nội dung ca ngợi cảnh đẹp của non nước Hạ Long nói chung và hang Đầu Gỗ nói riêng.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Hiện nay, tấm bia đá vẫn còn ở phía bên phải cửa động tuy chữ đã bị mài mòn. Một số hang động khác. Ngoài hai hang động trên, du khách còn tham quan hàng chục hang động đẹp và quyến rũ khác như hang Bồ Nâu có cửa uốn vòng cung với nhũ đá buông xuống mềm mại như cành liễu; hang Hanh cách thành phố Cẩm Phả 9 km về phía tây, là một hang động đẹp và dài nhất so với các hang động hiện có trên vịnh Hạ Long, với chiều dài 1.300m chạy xuyên suốt dãy núi đá Quang Hanh ra tới biển; hang Trinh Nữ với tảng đá hình cô gái đứng xõa mái tóc dài hướng ra biển, và đối diện với nó là hang Trống (hay hang Con Trai) với bức tượng chàng trai hóa đá quay mặt hướng về phía hang Trinh Nữ; rồi hang Tiên Long, Ba Hang, hang Luồn, động Tiên Ông, động Tam Cung, động Lâu đài, Ba Hầm v.v. Báo cáo của ban quản lý vịnh Hạ Long cho biết hiện nay vẫn chưa thể thống kê hết được tất cả hang động trên 1.969 đảo. Địa chất địa mạo. Giá trị lịch sử địa chất của vịnh Hạ Long được đánh giá qua 2 yếu tố: "lịch sử kiến tạo" và "địa chất địa mạo (karst)": Lịch sử kiến tạo. Vịnh Hạ Long và các vùng lân cận là một phần của lãnh địa liên hợp (composite terrane) Việt-Trung, trải qua các quá trình tiến hoá tách trôi, va chạm và biến cải trong Tiền Cambri - Phanerozoi. Móng Tiền Cambri và Paleozoi hạ phần lớn bị che phủ, chỉ lộ ra vài nơi quanh vịnh Bắc Bộ, nhưng các thành tạo từ Ordovic đến nay lộ ra khá đầy đủ trên các vùng này. Lịch sử địa chất địa mạo của vịnh Hạ Long trải qua ít nhất 500 triệu năm với những hoàn cảnh cổ địa lý rất khác nhau, với nhiều lần tạo sơn-biển thoái và sụt chìm-biển tiến. Vịnh Hạ Long từng là khu vực biển sâu vào các kỷ Ordovic-Silua (khoảng 500-410 triệu nẳm trước); khu vực biển nông vào các kỷ Cacbon-Pecmi (khoảng 340-250 triệu năm trước); biển ven bờ vào cuối kỷ Paleogen đầu kỷ Neogen (khoảng 26-20 triệu năm trước) và trải qua một số lần biển lấn trong kỷ Nhân sinh (khoảng 2 triệu năm trước?).
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Vào kỉ Trias (240-195 triệu năm trước) khu vực vịnh Hạ Long là những đầm lầy ẩm ướt với những cánh rừng tuế, dương xỉ khổng lồ tích tụ nhiều thế hệ. Địa chất địa mạo. Vịnh Hạ Long có quá trình tiến hóa karst đầy đủ trải qua trên 20 triệu năm nhờ sự kết hợp đồng thời giữa các yếu tố như tầng đá vôi dày, khí hậu nóng ẩm và quá trình nâng kiến tạo chậm chạp trên tổng thể, với nhiều dạng địa hình karst kiểu Phong Tùng gồm một cụm đá vôi thường có hình chóp nằm kề nhau có đỉnh cao trên dưới 100m, cao nhất khoảng 200m; hoặc kiểu Phong Linh đặc trưng bởi các đỉnh tách rời nhau tạo thành các tháp có vách dốc đứng, phần lớn các tháp có độ cao từ 50-100m. Tỉ lệ giữa chiều cao và rộng khoảng 6 lần. Cánh đồng karst của Hạ Long là lòng chảo rộng phát triển trong các vùng karst có bề mặt tương đối bằng phẳng, thường xuyên ngập nước, được tạo thành theo những phương thức: hoặc nhờ kiến tạo liên quan các hố sụt địa hào; hoặc nhờ sụt trần của các thung lũng sông ngầm, hang động ngầm; hoặc cũng có thể nhờ tồn tại các tầng đá không hòa tan bị xói mòn mạnh mẽ nằm giữa vùng địa hình karst cao hơn vây quanh mà thành. Vịnh Hạ Long còn bao gồm địa hình karst ngầm là hệ thống các hang động đa dạng trên vịnh, được chia làm 3 nhóm chính: nhóm 1 là di tích các hang ngầm cổ, tiêu biểu là hang Sửng Sốt, động Tam Cung, động Lâu đài, động Thiên Cung, hang Đầu Gỗ, Thiên Long, v.v. Nhóm 2 là các hang nền karst tiêu biểu là Trinh Nữ, Bồ Nâu, Tiên Ông, Hang Trống. Nhóm 3 là hệ thống các hàm ếch biển mà tiêu biểu như 3 hang thông nhau ở cụm hồ Ba Hầm, hang Luồn, Ba Hang. Karst vịnh Hạ Long có ý nghĩa toàn cầu và có tính chất nền tảng cho khoa học địa mạo. Môi trường địa chất vịnh Hạ Long còn là nền tảng phát sinh các giá trị khác như đa dạng sinh học, văn hóa khảo cổ và các giá trị nhân văn khác. Đa dạng sinh học. Vịnh Hạ Long là nơi tập trung đa dạng sinh học với 2 hệ sinh thái điển hình là "hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới" và "hệ sinh thái biển và ven bờ".
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Trong mỗi hệ lớn nói trên lại có nhiều dạng sinh thái. Hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới. Hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vịnh Hạ Long rất đặc trưng, phong phú với tổng số loài thực vật sống trên các đảo khoảng trên 1.000 loài. Một số quần xã các loài thực vật khác nhau bao gồm các loài ngập mặn, các loài thực vật ở bờ cát ven đảo, các loài mọc trên sườn núi và vách đá, trên đỉnh núi hoặc mọc ở của hang hay khe đá. Các nhà nghiên cứu của Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên thế giới đã phát hiện 7 loài thực vật đặc hữu của vịnh Hạ Long. Những loài này chỉ thích nghi sống ở các đảo đá vôi vịnh Hạ Long mà không nơi nào trên thế giới có được, đó là: thiên tuế Hạ Long, khổ cử đại tím ("Chirieta halongensis"), cọ Hạ Long ("Livisona halongensis"), khổ cử đại nhung ("Chirieta hiepii"), móng tai Hạ Long, ngũ gia bì Hạ Long, hài vệ nữ hoa vàng. Một số tài liệu khác mở rộng danh sách thực vật đặc hữu của Hạ Long lên 14 loại, bao gồm cả những loại đã được người Pháp khám phá và đặt tên gắn với địa danh từ trước như sung Hạ Long, nhài Hạ Long, sóng bè Hạ Long, giềng Hạ Long, phất dụ núi, phong lan Hạ Long v.v. Danh sách những loài thực vật đặc hữu khác tại vịnh Hạ Long rất có thể còn được bổ sung nhiều hơn, do chưa có một công trình nghiên cứu nào thực sự đầy đủ, toàn diện về thực vật trên tất cả các đảo trong khu vực vịnh và vùng lân cận. Chẳng hạn loài trúc mọc ngược mà mấy năm gần đây các nhà khoa học mới phát hiện ra trên một số đảo đá của vịnh Hạ Long, một giống trúc có cành chĩa xuống đất, khác các giống trúc thông thường chĩa cành lên trời. Theo thống kê, hệ sinh thái rừng kín thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long có 477 loài mộc lan, 12 loài dương xỉ và 20 loài thực vật ngập mặn; đối với động vật người ta cũng thống kê được 4 loài lưỡng cư, 10 loài bò sát, 40 loài chim và 14 loài thú. Ở vùng này còn có loại khỉ thân nhỏ, hiện được nuôi theo phương pháp đặc biệt tại đảo Khỉ. Hệ sinh thái biển và ven bờ.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Hệ sinh thái biển và ven bờ. Hệ sinh thái biển và ven bờ của vịnh Hạ Long bao gồm trong đó "hệ sinh thái đất ướt" và "hệ sinh thái biển" với những điểm đặc thù: Hệ sinh thái đất ngập nước: Hệ sinh thái biển: Đến nay sơ bộ đánh giá hệ thực vật trong vùng vịnh Hạ Long có khoảng 347 loài, thực vật có mạch thuộc 232 chi và 95 họ. Trong tổng số 347 loài thực vật đã biết, có 16 loài đang nằm trong danh sách đỏ của Việt Nam đã nguy cấp và sắp nguy cấp. Trong các loài thực vật quý hiếm, có 95 loài thuộc cây làm thuốc, 37 loài cây làm cảnh, 13 loài cây ăn quả và 10 nhóm có khả năng sử dụng khác nhau. Các đảo tại vịnh Hạ Long có các loài động vật thân mềm đa dạng, đặc biệt là các loài cư trú trong hốc đá, và có tới 60 loài động vật đặc hữu. Hải sản Hạ Long được khai thác và nuôi trồng bao gồm bào ngư, hải sâm, sá sùng, tôm, cá, mực (mực ống, mực nang, mực thước), bạch tuộc, sò huyết, trai và điệp nuôi lấy ngọc. Tài liệu của Phân viện Hải dương học Hải Phòng cho thấy trong 1.151 loài động vật tại Hạ Long thì đã có tới gần 500 loài cá, 57 loài cua. Di chỉ khảo cổ và chứng tích lịch sử. Di chỉ khảo cổ. Năm 1937, ông Vũ Xuân Tảo, một công nhân lò nấu thủy tinh, trong lúc đào cát để làm nguyên liệu chế tạo thủy tinh đã tình cờ phát hiện được một chiếc rìu đá trên đảo Ngọc Vừng. Phát hiện này đã gây xôn xao các nhà khảo cổ học Pháp thời ấy, bước đầu xác định Hạ Long không chỉ là kỳ quan thiên nhiên mà còn là cái nôi của người tiền sử. Những nghiên cứu từ phía các nhà khảo cổ học Andecxen người Thụy Điển và chị em nhà Colani người Pháp sau đó đã cho thấy những công cụ đá, đồ đựng bằng gốm, đồ trang sức bằng đá và xương được phát hiện, thu thập ở Hạ Long đều thuộc thời đại hậu kỳ đá mới. Những di chỉ khảo cổ tại vịnh Hạ Long ban đầu được các nhà khoa học Pháp xếp vào khái niệm văn hóa Danhdola, trong đó Danhdola là tên đảo Ngọc Vừng do người Pháp đặt.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Khi miền Bắc Việt Nam được giải phóng, các nhà khoa học Việt Nam và các chuyên gia khảo cổ học Liên Xô đã tiến hành nhiều cuộc thám sát điều tra trên diện rộng, quy mô lớn trong khu vực vịnh Hạ Long và vùng lân cận. Những cuộc khảo sát năm 1960 đã phát hiện tại di chỉ Tấn Mài trên vùng vịnh những mảnh ghè của người vượn và tiếp đó là khai quật được những mũi tên đồng từ thời Hùng Vương. Những kết quả nghiên cứu đó đã cho phép khẳng định về một nền văn hóa Hạ Long cách nay khoảng từ 3.500-5.000 năm. Từ 1960 đến nay, sự thám sát và nghiên cứu rộng mở về khảo cổ học, văn hóa học tại trên 40 địa điểm, bao gồm trong đó Đồng Mang, Xích Thổ, Cột 8, Cái Dăm (thành phố Hạ Long) Soi Nhụ, Thoi Giếng (Móng Cái), Hà Giắt (Vân Đồn), hòn Hai Cô Tiên v.v. đã đưa đến kết luận quan trọng chứng minh cho sự tồn tại của người tiền sử trên vùng vịnh Hạ Long lùi xa hơn nữa. Không chỉ có một văn hóa Hạ Long từ khoảng 3-5 thiên niên kỷ trước, còn có nền văn hóa Soi Nhụ cách ngày nay trong khoảng 18.000-7.000 năm trước Công Nguyên, phân bố rộng trong khu vực vịnh Hạ Long và vịnh Bái Tử Long với các di chỉ tiêu biểu tại Mê Cung, Tiên Ông, Thiên Long. Các di vật còn lại chủ yếu là sản phẩm đã được sử dụng làm thức ăn như ốc núi (cyclophorus) và ốc suối (melania), một số hóa thạch của nhuyễn thể nước ngọt và một số công cụ lao động thô sơ tích tụ cấu tạo thành tầng văn hóa. Các nhà khoa học nhận thấy, phương thức sống chủ yếu của cư dân Soi Nhụ là bắt sò ốc, hái lượm, đào củ, đào rễ cây, biết bắt cá nhưng chưa có nghề đánh cá. So sánh với các cư dân văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn đương thời thì cư dân Soi Nhụ sống gần biển hơn nên chịu sự chi phối từ biển nhiều hơn, trực tiếp hơn. Bên cạnh nền văn hóa Soi Nhụ không thể không nói đến văn hóa Cái Bèo, cách ngày nay 7000-5000 năm trước Công Nguyên, được coi như giai đoạn gạch nối giữa văn hóa Soi Nhụ trước đó và văn hóa Hạ Long về sau.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Di chỉ khảo cổ Cái Bèo tập trung chủ yếu thuộc đảo Cát Bà (Hải Phòng) và Giáp Khẩu, Hà Gián thuộc vịnh Hạ Long. Văn hóa Cái Bèo là một trong những bằng chứng chắc chắn về sự đương đầu với biển khơi từ rất sớm của người Việt cổ, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố, sắc thái khác biệt vào một dòng văn hóa đá cuội truyền thống rất lâu đời trong khu vực Việt Nam và Đông Nam Á. Phương thức cư trú và sinh sống của người cổ đại Cái Bèo ngoài săn bắt hái lượm đã có thêm nghề khai thác sản vật từ biển. Tiếp nối không gián đoạn trong suốt tiến trình sơ sử, ba nền văn hóa mang tên Soi Nhụ-Cái Bèo-Hạ Long trên khu vực vịnh Hạ Long chứa đựng những giá trị nhất định, cho thấy vịnh Hạ Long và khu vực lân cận một thời đã từng là một cái nôi văn hóa của nhân loại. Những đặc điểm của nền văn hóa này chưa được giải mã toàn diện, và những kết quả thám sát khảo cổ học trong những năm gần đây vẫn tiếp tục hé lộ những bất ngờ mới mà một trong số đó là sự phát hiện di chỉ Đông Trong vào năm 2006. Trong một hang động tại Đông Trong, các nhà khảo cổ học phát hiện được di cốt người tiền sử, rìu đá, mảnh nồi gốm, trầm tích nhuyễn thể được sử dụng làm thức ăn và hàng trăm hạt chuỗi làm từ vỏ ốc, là một trong ba khu vực trên vùng vịnh Hạ Long tìm thấy di cốt người tiền sử sau Soi Nhụ và hòn Hai Cô Tiên. Chứng tích lịch sử, văn hóa và phong tục. Vịnh Hạ Long là nơi gắn liền với những trang sử của quân dân Việt Nam trong suốt thời kỳ dựng nước và giữ nước với những địa danh như Vân Đồn, nơi có hải cảng cổ tại miền Bắc Việt Nam vào thế kỷ XII. Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự hình thành thương cảng Vân Đồn: ""Kỷ Tỵ, (Đại Định) năm thứ 10 (1149). Mùa xuân, tháng hai, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào cảng Hải Đông (vịnh Hạ Long) xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương"."
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Thương cảng Vân Đồn với đặc điểm là có nhiều đảo đất, đảo đá ngang dọc, chia cắt biển thành nhiều vũng, luồng lạch sâu và kín gió, giúp cho thuyền bè neo đậu an toàn, không bị gió bão uy hiếp, đã khiến khu vực này trở nên sầm uất trong thông thương với khu vực và nhiều nơi trên thế giới. Bên cạnh thương cảng Vân Đồn, tại vùng vịnh Hạ Long còn có Núi Bài Thơ lịch sử, nơi lưu lại bài thơ chữ Hán của Lê Thánh Tông hoàng đế khắc trên đá từ năm 1468, nhân chuyến tuần du vùng biển phía Đông; và bút tích của chúa Trịnh Cương năm 1729. Bãi Cháy phía bờ Tây của vịnh, tương truyền gắn với sự tích những chiến thuyền chở lương thực của quân Nguyên-Mông bị quân dân nhà Trần do Trần Khánh Dư chỉ huy đốt cháy, dạt vào làm cháy cả cánh rừng trong khu vực. Trên vịnh còn có hang Đầu Gỗ, nơi còn vết tích hiện vật là những cây cọc gỗ được Trần Hưng Đạo cho đem giấu trước khi đóng xuống lòng sông Bạch Đằng, và cách vịnh không xa là cửa Sông Bạch Đằng, chứng tích của hai trận thủy chiến trong lịch sử chống ngoại xâm phương Bắc. Hàng trăm đảo, hang động, nhũ đá trong vịnh Hạ Long được đặt tên theo các huyền thoại, truyền thuyết, hoặc theo trí tưởng tượng dân gian phong phú của cộng đồng cư dân nơi đây. Về phong tục và văn hóa, ngư dân làng chài Cửa Vạn trên vùng vịnh Hạ Long hiện nay còn lưu giữ những câu hát giao duyên cổ xưa, đó là lối hát đúm, hò biển và hát đám cưới. Trong đó, theo cụ Nguyễn Văn Cải, ngư dân cao tuổi của làng chài Cửa Vạn, hát đám cưới của Hạ Long không kém gì lối hát của người quan họ Kinh Bắc, và đám cưới của cư dân vạn chài cũng khá đặc biệt vì theo phong tục chỉ được tổ chức trong những ngày rằm. Đây là lúc trên vịnh có trăng sáng, cá ăn tản, người dân chài không đi đánh cá. Các tiềm năng của vịnh Hạ Long. Tiềm năng du lịch, nghiên cứu.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Tiềm năng du lịch, nghiên cứu. Với các giá trị ngoại hạng về cảnh quan và địa chất, địa mạo, lại là trung tâm của khu vực có nhiều yếu tố đồng dạng bao gồm vịnh Bái Tử Long phía Đông Bắc, quần đảo Cát Bà với vịnh Cát Bà và vịnh Lan Hạ phía Tây Nam, vịnh Hạ Long hội tụ những điều kiện thuận lợi để phát triển ngành kinh tế du lịch với loại hình đa dạng. Đến vịnh Hạ Long, du khách có thể tham gia các hoạt động nghiên cứu khoa học, tham quan ngắm cảnh, tắm biển, bơi thuyền, thả dù, lặn khám phá rặng san hô, câu cá giải trí. Hiện nay, khách đến vịnh Hạ Long chủ yếu tham quan ngắm cảnh, tắm biển và bơi thuyền. Các loại hình du lịch du thuyền tại vịnh Hạ Long bao gồm tham quan vịnh ban ngày, đi tour buổi chiều ngắm hoàng hôn trên vịnh, du thuyền đêm để ngắm cảnh vịnh về đêm kết hợp với câu cá mực, thậm chí có thể tự chèo thuyền để khám phá vịnh. Trong những năm tới, ngành du lịch sẽ mở thêm nhiều tuyến điểm tham quan và tăng thêm nhiều loại hình du lịch khác. Hiện nay, Quảng Ninh là một trong những điểm du lịch lớn nhất cả nước. Quá trình đô thị hóa thành phố Hạ Long đang diễn ra mạnh mẽ về mọi mặt là một tiền đề vững chắc để phát triển du lịch. Hiện thành phố Hạ Long có khoảng 300 khách sạn từ 1 sao đến 5 sao với 4500 phòng nghỉ và nhiều khách sạn mini cơ bản đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch. Sự tăng trưởng về số lượng khách ở Hạ Long được đánh giá là nhanh nhất ở Việt Nam trong những năm gần đây. Năm 1996, vịnh Hạ Long đón 236 lượt khách, thì năm 2003 vịnh Hạ Long đón tới 1.306.919 lượt khách. Năm 2005, lượng khách đến vùng vịnh ước đạt 1,5 đến 1,8 triệu, và đến năm 2010 dự đoán vịnh Hạ Long sẽ là điểm đón tiếp 5-6 triệu lượt khách. Tuy nhiên, đã không đạt được. Là một trong 2 vịnh biển đẹp nhất Việt Nam bên cạnh vịnh Nha Trang, vịnh Hạ Long là nơi thường xuyên đón tiếp các tàu du lịch quốc tế chọn làm điểm dừng tham quan. Tiềm năng cảng biển và giao thông thủy.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Tiềm năng cảng biển và giao thông thủy. Bên đặc điểm là vịnh kín ít chịu tác động của sóng gió, vịnh Hạ Long cũng có hệ thống luồng lạch tự nhiên dày đặc và cửa sông ít bị bồi lắng. Điều kiện thuận lợi này cho phép xây dựng hệ thống giao thông cảng biển lớn bên cạnh cảng nước sâu Cái Lân (Hạ Long) và Cửa Ông (Cẩm Phả). Ngoài ra, Quảng Ninh còn có một hệ thống cảng phụ trợ như: Mũi Chùa, Vạn Gia, Nam Cầu Trắng. Mục tiêu đến năm 2010 sẽ xây dựng hoàn chỉnh cảng Cái Lân với 7 cầu cảng, công suất hơn 14 triệu tấn cho phép tiếp nhận tàu trọng tải trên 5 vạn tấn. Tiềm năng thủy hải sản. Vùng biển Quảng Ninh nói chung và vùng biển vịnh Hạ Long nói riêng chứa đựng nhiều hệ sinh thái có giá trị đa dạng sinh học, trữ lượng hải sản lớn. Vùng vịnh thích hợp cho việc nuôi trồng và đánh bắt hải sản do có các điều kiện thuận lợi: khí hậu tốt, diện tích bãi triều lớn, nước trong, ngư trường ven bờ và ngoài khơi có trữ lượng hải sản cao và đa dạng với cá song, cá giò, sò, tôm, bào ngư, trai ngọc các loại. Vấn đề tổ chức. Tuy thế, gần đây vịnh Hạ Long bị phản ánh trên các phương tiện truyền thông vì nạn "chặt chém", chất lượng dịch vụ kém, buông lỏng quản lý, gây ấn tượng xấu với du khách và sự đô thị hóa làm hại thắng cảnh thiên nhiên và tình trạng ô nhiễm môi trường, ô nhiễm dầu đáng quan ngại ở vịnh Hạ Long. Di sản Việt Nam và thế giới. Di sản quốc gia Việt Nam. Năm 1962, vịnh Hạ Long được Bộ Văn hóa-Thông tin Việt Nam xếp hạng di tích danh thắng cấp quốc gia với diện tích 1553 km² bao gồm 1969 hòn đảo. Các đảo trong vùng vịnh Hạ Long được quy hoạch là khu bảo tồn các di tích văn hoá-lịch sử và cảnh quan quốc gia, theo Quyết định Số 313/VH-VP của Bộ Văn hoá-Thông tin Việt Nam ngày 28 tháng 4 năm 1962 (ADB 1999). Các đảo này cũng có trong danh sách các khu rừng đặc dụng theo Quyết định Số 194/CT, ngày 9 tháng 8 năm 1986 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ).
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Năm 1995, vịnh Hạ Long, cùng với đảo Cát Bà, được Phân viện Hải dương học Hải Phòng đề nghị đưa vào danh sách hệ thống các khu bảo tồn biển. Năm 1999, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB 1999) đề xuất thành lập một khu bảo vệ có tên là Khu cảnh quan thiên nhiên vịnh Hạ Long rộng 155.300 ha, tuy nhiên hiện nay vẫn chưa thực hiện được. Di sản thế giới lần 1: giá trị thẩm mỹ. Ngày 21 tháng 12 năm 1991 Chính phủ Việt Nam cho phép xây dựng hồ sơ về cảnh quan vịnh Hạ Long để trình lên Hội đồng Di sản Thế giới xét duyệt di sản thiên nhiên thế giới. Năm 1993, hồ sơ khoa học về vịnh Hạ Long được hoàn tất và chuyển đến UNESCO để xem xét. Trong quá trình hoàn chỉnh hồ sơ, UNESCO lần lượt cử các đoàn chuyên gia đến Quảng Ninh khảo sát, hướng dẫn, nghiên cứu, thẩm định hồ sơ tại chỗ. Hồ sơ vịnh Hạ Long được chấp nhận đưa vào xem xét tại hội nghị lần thứ 18 của Hội đồng Di sản Thế giới. Ngày 17 tháng 12 năm 1994, trong kỳ họp thứ 18 tại Phuket, Thái Lan, Ủy ban Di sản Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới với giá trị ngoại hạng toàn cầu về mặt thẩm mĩ (tiêu chí VII), theo tiêu chuẩn của Công ước Quốc tế về bảo vệ Di sản tự nhiên và văn hóa của thế giới. Di sản thế giới lần 2: giá trị địa chất địa mạo. Đầu năm 1998, Ban Quản lý vịnh Hạ Long đã đề nghị TS. Trần Đức Thạnh ở Phân Viện Hải dương học tại Hải Phòng (nay là Viện Tài nguyên và Môi trường biển thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam) tiến hành nghiên cứu và đánh giá các giá trị địa chất và khả năng trình UNESCO công nhận vịnh Hạ Long là di sản Thế giới theo tiêu chí địa chất học. Kết quả nghiên cứu [4] cho thấy tính khả thi cao của việc trình UNESCO công nhận Di sản Địa chất vịnh Hạ Long và cần phải nghiên cứu bổ sung chi tiết về địa mạo karst. Tháng 9 năm 1998, theo đề nghị của Ban quản lý vịnh Hạ Long và IUCN, Tiến sĩ Tony Waltham, chuyên gia địa chất học, trường Đại học Trent Nottingham đã tiến hành nghiên cứu địa mạo vùng đá vôi karst vịnh Hạ Long với sự trợ giúp của TS.Trần Đức Thạnh.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Tiến sĩ Waltham Tony đã gửi bản báo cáo về giá trị địa mạo karst vịnh Hạ Long tới UNESCO tại Paris, Văn phòng IUCN tại Thụy Sĩ và Hà Nội, đồng gửi Ban quản lý vịnh Hạ Long. Ngày 25 tháng 2 năm 1999, sau khi nhận được báo cáo của Tiến sĩ Tony Waltham, UNESCO đã gửi thư tới Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Ủy ban quốc gia UNESCO Việt Nam và Ban quản lý vịnh Hạ Long yêu cầu xúc tiến việc chuẩn bị hồ sơ trình UNESCO công nhận về giá trị địa chất, địa mạo vùng đá vôi vịnh Hạ Long. Tới tháng 7 năm 1999, hồ sơ trình Hội đồng Di sản Thế giới để công nhận vịnh Hạ Long về giá trị địa chất với tư vấn khoa học của TS.Trần Đức Thạnh đã hoàn tất và được gửi đến Trung tâm Di sản thế giới tại Paris. Tháng 12 năm 1999 tại hội nghị lần thứ 23 Hội đồng Di sản Thế giới họp tại Thành phố Marrakech của Maroc, Hội đồng Di sản Thế giới đã đưa việc thẩm định hồ sơ để công nhận giá trị địa chất vịnh Hạ Long vào năm 2000. Tháng 3 năm 2000 Giáo sư Erery Hamilton Smith, chuyên gia của tổ chức IUCN được cử đến Hạ Long để thẩm định. Tháng 7 năm 2000, kỳ họp giữa năm của Trung tâm Di sản thế giới tại Paris đã chính thức đề nghị Ủy ban Di sản Thế giới công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thế giới bởi giá trị toàn cầu về địa chất, địa mạo, theo tiêu chuẩn VIII của UNESCO "là ví dụ nổi bật đại diện cho các giai đoạn của lịch sử Trái Đất, bao gồm bằng chứng sự sống, các tiến triển địa chất đáng kể đang diễn ra trong quá trình diễn biến của các kiến tạo địa chất hay các đặc điểm địa chất và địa văn". Ngày 2 tháng 12 năm 2000, căn cứ Công ước Quốc tế về bảo vệ Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới và kết quả xét duyệt hồ sơ địa chất vịnh Hạ Long, tại Hội nghị lần thứ 24 của Hội đồng Di sản Thế giới tại Thành phố Cairns, Queensland, Úc, Hội đồng Di sản Thế giới đã công nhận vịnh Hạ Long là di sản thế giới lần thứ 2 theo tiêu chuẩn (viii) về giá trị địa chất với hai giá trị nổi bật toàn cầu về lịch sử địa chất và địa mạo caxtơ. Đề cử di sản thế giới lần thứ 3.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Đề cử di sản thế giới lần thứ 3. Hiện nay, tỉnh Quảng Ninh đang xúc tiến đệ trình UNESCO công nhận vịnh Hạ Long là Di sản thế giới lần thứ 3, dựa trên những giá trị về khảo cổ học và đa dạng sinh học trong vùng vịnh. Bình chọn trong Bảy Kì quan Thiên nhiên Mới của Thế giới. Trong 4 năm từ 2007-2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cùng kết hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Thông tin và Truyền thông, báo Tuổi Trẻ các hội đoàn như Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên v.v... cùng tỉnh Quảng Ninh và nhiều địa phương khác, tổ chức vận động quy mô bầu chọn cho Hạ Long là một trong Bảy Kì quan Thiên nhiên Mới của Thế giới, là một cuộc bình chọn do Tổ chức tư nhân NewOpenWorld (NOWC). Cuộc bình chọn này không phải do Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc tổ chức và kết quả bầu chọn cũng không được tổ chức này công nhận, nên có những dư luận không đồng tình cũng như chỉ trích. Nhưng theo ông Trần Nhất Hoàng, Giám đốc Trung tâm Xúc tiến Văn hóa, Thể thao và Du lịch, thì cuộc thi là ""một cơ hội quảng bá cho Việt Nam, Thứ hai nữa là sau khi có danh hiệu, sẽ tiếp tục quảng bá, thu hút thêm nhiều khách du lịch tới Việt Nam thêm nữa"." Khi so với việc quảng bá trên kênh truyền thông quốc tế như CNN, BBC, mỗi lần mất khoảng 160.000 USD-200.000 USD (4 tỷ đồng) mà chỉ quảng cáo được trong 1 clip dài 30 giây, thì chi phí vận động là không đáng kể trong khi hiệu quả lại cao hơn nhiều. So với chi phí quảng bá du lịch hàng năm ở các nước cùng khu vực cũng là rất nhỏ, như Malaysia đầu tư 80 triệu USD, Thái Lan 70 triệu USD, và Singapore gần 60 triệu USD. Lúc 7h ngày 11 tháng 11 năm 2011 nhằm 2h ngày 12 tháng 11 năm 2011 (giờ Việt Nam), vịnh Hạ Long được tổ chức New7Wonders tuyên bố là một trong bảy kỳ quan thiên nhiên thế giới mới sau cuộc kiểm phiếu sơ bộ. Vấn đề bảo tồn. Tác động của chủ quan và khách quan đối với vùng vịnh. Hạ Long, Hải Phòng và Hà Nội là các Thành phố trung tâm quan trọng của sự phát triển kinh tế ở miền Bắc Việt Nam.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Sự phát triển kinh tế của các khu đô thị này, cùng với sự vươn lên nhanh chóng của các khu vực phía Nam Trung Quốc kể cả Hồng Kông, đều dẫn đến sự gia tăng về sức ép của con người tới vịnh Hạ Long. Khu vực ven biển tỉnh Quảng Ninh và Thành phố Hải Phòng hiện có mức tăng trưởng rất nhanh về sự phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt về mặt giao thông, tàu biển, khai thác than và các ngành du lịch, dịch vụ. Từ năm 1999, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) đã cảnh báo rằng việc xây dựng cảng mới ở vùng vịnh Hạ Long có thể dẫn đến sự gia tăng về giao thông đường biển trong khu vực, và phát triển cơ sở hạ tầng của du lịch sẽ là các mối đe dọa đối với vịnh. Ô nhiễm do chất thải công nghiệp, sự khai thác và đánh bắt tận diệt thủy sản cũng mang lại những đe dọa nghiêm trọng. Có những ý kiến cho thấy cần tiếp tục xem xét một cách thận trọng về sự phát triển trong vùng vịnh thông qua cơ cấu quản lý vì các giá trị quan trọng về mặt môi trường cho toàn vùng. Hiện nay, sự phát triển mở rộng đô thị và sự gia tăng dân số cơ học, việc xây dựng bến cảng và nhà máy; các hoạt động du lịch và dịch vụ, rác thải trong sinh hoạt và chế xuất, hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản đã không chỉ còn là nguy cơ, mà sự ô nhiễm môi trường và sự biến đổi cảnh quan của vịnh Hạ Long đã ở mức báo động. Do ô nhiễm, tình trạng những bãi san hô ở đáy biển sâu của vịnh Hạ Long đang trụi dần đi mà gần đây các nhà môi trường Việt Nam mới phát hiện ra. Mặt nước trong xanh của vịnh đang ngày càng đục dần, bồi lắng khiến các nhà khoa học lên tiếng cảnh báo nguy cơ vịnh Hạ Long có thể bị "đầm lầy hóa". Thêm vào đó, do khu vực vịnh Hạ Long có hàng ngàn hòn đảo mà phần lớn là núi đá vôi, nguồn nguyên liệu xây dựng tốt lại thuận tiện cho khai thác nên rất dễ bị tư nhân lợi dụng, gây biến dạng cảnh quan.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Ở một khía cạnh khác, biến đổi khí hậu toàn cầu với mực nước biển dâng cao sẽ tác động mạnh tới cảnh quan, hệ thống đảo, hang động và đa dạng sinh học của vịnh mà Việt Nam chưa đủ nhân lực, vật lực để sẵn sàng ứng phó. Về văn hóa cộng đồng, một vấn đề mà nhiều du khách quốc tế đã phàn nàn là ý thức về bảo vệ môi trường di sản của khách du lịch và của cộng đồng địa phương còn chưa cao, chưa xây dựng được hình ảnh, thương hiệu du lịch Hạ Long hiện đại, văn minh và lịch sự. Vẫn còn hiện tượng người ăn xin đeo bám khách du lịch, ảnh hưởng tới môi trường du lịch của di sản. Việc giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức trong mỗi người dân; sự hạn chế các khu lưu trú nghỉ dưỡng trên các đảo; nỗ lực kiểm soát theo tiêu chuẩn du lịch sinh thái và quy định bảo tồn di sản đối với cả mặt nước vùng đệm của di sản, đang là những vấn đề lớn đặt ra nhiều thách thức với chính quyền địa phương. Các nhũ đá trong hệ thống các hang động của di sản vịnh Hạ Long đang bị đập phá, cưa trộm, mang về bán cho những người muốn dùng để trang trí hòn non bộ (2016). Một số hang động còn bị đổ bê tông lên nền hang để lấy nơi bày bàn tiệc. Thêm vào đó, hoạt động của các thuyền chài và du khách cũng tạo ra nguồn rác thải gây ô nhiễm mà chính quyền còn chưa thể xử lí triệt để. Công tác bảo tồn. Trong những động thái nhằm ngăn chặn sự tác động tiêu cực của con người đến thiên nhiên vùng vịnh Hạ Long, chính quyền tỉnh Quảng Ninh đã cấm các loại xuồng máy cao tốc phục vụ du khách trong khu vực vịnh để bảo vệ môi trường và đa dạng sinh học trong vùng vịnh. Ngoài ra, tỉnh Quảng Ninh cũng thực hiện di dời các hộ dân sinh sống trên các vạn chài vào đất liền để bảo vệ môi trường nước của vịnh Hạ Long; đồng thời cấm bốc dỡ than đá trong khu vực di sản để chống ô nhiễm bụi than và bùn than cho vịnh theo khuyến cáo của UNESCO. Tại vịnh, một số người dân đã có ý thức tự nguyện giữ gìn cảnh quan, thông qua việc lập tổ hợp tác tự nguyện thu gom và xử lý rác thải.
Vịnh Hạ Long
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4483
Từ ngày 1 tháng 9 năm 2019, UBND thành phố Hạ Long nghiêm cấm việc dùng sản phẩm từ nhựa sử dụng một lần trên vịnh. Đây là một động thái quyết liệt, quan trọng nhằm bảo tồn môi trường vịnh. Sự tương đồng về cảnh quan, địa chất địa mạo, đa dạng sinh học, cũng như những giá trị văn hóa, khảo cổ của toàn vùng, bao gồm không chỉ vịnh Hạ Long mà còn cả quần đảo Cát Bà và vùng biển đảo vịnh Bái Tử Long khiến những nghiên cứu khoa học địa chất, khảo cổ, văn hóa, và những hoạt động du lịch, khai thác hải sản v.v. không còn bó hẹp trong phạm vi vùng vịnh. Đã có những ý kiến cho rằng cần xem xét việc mở rộng ngoại biên của khu vực bảo tồn, không chỉ giới hạn trong diện tích nhỏ hẹp của vùng vịnh Hạ Long hiện nay mà còn bao quát cả vùng biển đảo có những yếu tố đồng dạng, kéo dài từ Quần đảo Cát Bà lên sát biên giới Việt Trung. Với chiều dài khoảng 300 km và chiều rộng khoảng 60 km, toàn bộ khu vực này có thể được nhìn nhận và bảo tồn như một vùng sinh thái đặc biệt về biển của Việt Nam. Vịnh Hạ Long trong thi ca. Cách đây hơn 5 thế kỷ, Nguyễn Trãi đi ngang qua khu vực này và lần đầu tiên ca ngợi vịnh Hạ Long là kỳ quan, khi viết trong bài "Lộ nhập Vân Đồn": Vua Lê Thánh Tông đề trên vách đá Núi Bài Thơ năm 1468: Năm 1729, chúa Trịnh Cương cũng có những vần thơ ứng tác trước vẻ đẹp của Hạ Long: Trong số thơ chữ Nho của Hồ Xuân Hương có bài "Độ Hoa Phong" vịnh cảnh Hạ Long: Hình ảnh Hạ Long cũng xuất hiện trong thơ của những nhà thơ hiện đại, như Xuân Diệu: Không chỉ cảnh đẹp của Hạ Long, nguồn tài nguyên phong phú ở đây cũng là đề tài cho thi ca. Huy Cận viết trong bài "Đoàn thuyền đánh cá":
Hồ Ba Bể
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4484
Hồ Ba Bể là một hồ nước ngọt ở Bắc Kạn, Việt Nam. Đây là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam và là một trong một trăm hồ nước ngọt lớn nhất thế giới. Hồ nằm trong Vườn quốc gia Ba Bể, nơi đây được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam. Tên gọi. Hồ Ba Bể có tên tiếng địa phương (tiếng Tày) là "Slam Pé" - nghĩa là ba hồ. Tên gọi này bắt nguồn từ việc lòng hồ bị những dãy núi đá vôi chia thành ba hồ lớn thông với nhau bởi những eo nước hẹp. Ba hồ nước này đều có tên riêng: Pé Lầm, Pé Lù và Pé Lèng. Đặc điểm địa lý. Toàn bộ diện tích của Hồ Ba Bể nằm trong địa giới xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Hồ cách thành phố Bắc Kạn 70km về phía Tây Bắc. Hồ Ba Bể nằm ở cánh cung sông Gâm, địa hình gồ ghề và cắt xé bởi các ngọn núi cao từ 1.400m đến 1.600m và xen kẽ là các thung lũng. Hồ được hình thành từ cách đây hơn 200 triệu năm. Cuộc kiến tạo lục địa Đông Nam Á cuối kỷ Cambri, đã đưa một khối nước khổng lồ với diện tích bề mặt xấp xỉ 5 triệu m² và chiều dày hơn 30m lên lưng chừng vùng núi đá vôi, tạo ra hồ Ba Bể. Hồ Ba Bể nằm ở độ cao khoảng 145m so với mực nước biển, có diện tích mặt nước là hơn 650 ha, được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi có nhiều hang động và những suối ngầm. Độ sâu trung bình của hồ là 20-25 m vào mùa mưa nhưng có thể xuống xấp xỉ 10 m vào mùa khô. Hồ được cấp nước bởi hai con sông nhỏ là sông Chợ Lèng và sông Nam Cường rồi đổ ra sông Năng. Nước trong hồ di chuyển với vận tốc khoảng 0,5 m/s. Vào mùa lũ, vận tốc tăng lên đến 2,5-3 m/s. Có hai đảo nhỏ nổi lên giữa hồ là đảo An Mã và đảo Bà Góa. Hồ Ba Bể trong văn hóa. Từ lâu, hồ Ba Bể đã là một phần quan trọng trong cuộc sống của người Tày trong vùng. Điều này được thể hiện ở các truyền thuyết và lễ hội trong văn hóa. Sự tích hồ Ba Bể:. Ngày xưa, ở vùng Bắc Kạn, mỗi năm dân làng Nam Mẫu đều có tổ chức lễ cúng Phật lớn, gọi là lễ Vô Giá.
Hồ Ba Bể
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4484
Dân chúng khắp miền quay về tụ tập rất đông. Một hôm, có một bà lão bệnh cùi đến làng để xin ăn. Quần áo bà rách rưới, tả tơi. Người bà có mùi hôi hám, rất khó chịu, khiến mọi người phải lánh xa. Bà lão cui hủi này đến nhà nào xin ăn đều phì phào mấy tiếng đói lắm các ông các bà ơi, nhưng bà lão đi đến đâu cũng đều bị xua đuổi. Tuy nhiên, có người biết động lòng thương hại. Đó là một người đàn bà goá, ở với con trai. Bà góa này không những không kinh tởm mà còn kêu bà lão vào nhà cho ăn uống no đủ. Sau đó, bằng lòng cho bà lão ăn mày ngủ nhờ một đêm, ở góc vựa lúa, trong lều. Đến nửa đêm, hai mẹ con bỗng giật mình thức giấc, nghe có tiếng động ầm ầm dữ dội từ phía vựa thóc. Mở cửa vựa thóc ra, không thấy bà lão bị cùi đâu, mà là một con giao long lớn uốn mình ầm ầm như tiếng sấm, đầu gác lên giường đuôi thò xuống đất. Hai mẹ con kinh hãi trở ra, thao thức, lo sợ, không ngủ được nữa. Đến sáng, thấy bà lão đi ra từ vựa thóc, nói: Nói xong, bà lão liền biến mất. Hai mẹ con liền vội chia nhau báo cho dân làng nhưng ai nấy đều không tin Ngày hôm sau, trong lúc mọi người đang chen nhau đến dự lễ Phật giữa làng, bỗng nhiên, nước từ đâu cuồn cuộn chảy đến làm ngập cả một vùng rộng lớn. riêng nhà của bà góa và cậu con trai lương thiện đã được rải tro nên hễ nước dâng đến đâu là mảnh đất liền dâng cao hơn đến đấy. Hai mẹ con bà góa không chịu được cảnh dân làng chết trước mắt mình nên liền đem hai mảnh vỏ trấu thả xuống nước lập tức biến thành hai chiếc thuyền giúp hai mẹ con cứu vớt dân làng. Cả làng bị nước tràn ngập thì hoá thành ba cái hồ rộng lớn người ta gọi là Hồ Ba Bể. Nước không thể đi được từ hồ này sang hồ kia, vì có các đập đá lớn ngăn trở.
Hồ Ba Bể
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4484
Hồ Ba Bể rộng bát ngát, nước trong xanh như ngọc bích, nổi bật giữa núi rừng hùng vĩ của miền thượng du Bắc Việt.Giữa hồ là một hòn đảo nhỏ,người địa phương gọi đó là Hòn Bà Góa, đồng thời những người còn sống đã lập đèn thờ có tên An Mạ (nơi an nghỉ của dân làng). Lễ hội:. Người Tày sinh sống ở các bản làng bên bờ hồ Ba Bể đều tổ chức hội "Lồng tồng" (có nghĩa là "xuống đồng" trong tiếng Tày) vào ngày mùng 9 đến 11 tháng Giêng hàng năm. Lễ hội Lồng tồng được người dân nơi đây coi là lễ hội quan trọng bậc nhất vào dịp đầu năm mới, gắn liền với nền nông nghiệp trồng trọt, được tổ chức nhằm gửi gắm những mong ước của con người, cầu cho mưa thuận gió hòa, cây trồng tốt tươi, mang lại no ấm. Giá trị và hiện trạng. Giá trị lớn nhất của Hồ Ba Bể là cảnh quan địa chất độc đáo, giá trị nổi bật về địa chất địa mạo và giá trị to lớn về đa dạng sinh học. Năm 1995, Hồ Ba Bể đã được Hội nghị Hồ nước ngọt thế giới, tổ chức tại Mỹ, công nhận là một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ. Cuối năm 2004, Vườn quốc gia Ba Bể được công nhận là Vườn di sản ASEAN. Ngày 27/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký "Quyết định số 1419/QĐ-TTG" xếp hạng Danh lam thắng cảnh Hồ Ba Bể là Di tích quốc gia đặc biệt . Với thảm thực vật và động vật hoang dã phong phú, môi sinh hồ Ba Bể nay bị đe dọa nặng vì việc khai thác khoáng sản, nhất là mỏ sắt ở lưu vực hồ. Mặc dù Vườn Quốc gia Ba Bể đã quy định hơn 10.000 ha dưới sự bảo vệ của cơ quan này, việc thi hành vẫn còn nhiều thiếu sót khiến một số nhà khoa học đã báo động rằng hồ đang "chết dần".
Sa Pa (phường)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4485
Sa Pa là phường trung tâm của thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Địa lý. Phường Sa Pa nằm ở trung tâm thị xã Sa Pa, có vị trí địa lý: Phường có diện tích 6,25 km², dân số năm 2018 là 9.412 người, mật độ dân số đạt 1.506 người/km². Hành chính. Phường Sa Pa được chia thành 7 tổ dân phố đánh số từ 1 đến 7. Lịch sử. Trước đây, Sa Pa là một thị trấn huyện lỵ thuộc huyện Sa Pa. Điạ bàn phường Sa Pa hiện nay tương ứng với khu vực trung tâm của thị trấn này. Cuối năm 2018, thị trấn Sa Pa có 23,65 km² diện tích tự nhiên và 31.010 người. Ngày 11 tháng 9 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 767/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó: Sau khi thành lập, phường Sa Pa có 6,25 km² diện tích tự nhiên và 9.412 người.
Đà Lạt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4486
Đà Lạt là thành phố tỉnh lỵ trực thuộc tỉnh Lâm Đồng, nằm trên cao nguyên Lâm Viên, thuộc vùng Tây Nguyên, Việt Nam. Từ xa xưa, vùng đất này vốn là địa bàn cư trú của những cư dân người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Cuối thế kỷ 19, khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng dành cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer đã quyết định chọn cao nguyên Lâm Viên theo đề nghị của bác sĩ Alexandre Yersin, người từng thám hiểm tới nơi đây vào năm 1893. Trong nửa đầu thế kỷ 20, từ một địa điểm hoang vu, người Pháp đã quy hoạch và xây dựng lên một thành phố xinh đẹp với những biệt thự, công sở, khách sạn và trường học, một trung tâm du lịch và giáo dục của Đông Dương khi đó. Trải qua những khoảng thời gian thăng trầm của hai cuộc chiến tranh cùng giai đoạn khó khăn những thập niên 1970–1980, Đà Lạt ngày nay là một thành phố khá đông dân, đô thị loại I trực thuộc tỉnh, giữ vai trò trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa quan trọng của tỉnh Lâm Đồng và vùng Tây Nguyên, hướng đến là thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030. Với độ cao 1.500 mét so với mực nước biển và được các dãy núi cùng quần hệ thực vật rừng bao quanh, Đà Lạt thừa hưởng một khí hậu miền núi ôn hòa và dịu mát quanh năm. Lịch sử hơn một thế kỷ cũng để lại cho thành phố một di sản kiến trúc giá trị, được ví như một bảo tàng kiến trúc châu Âu thế kỷ XX. Những tài nguyên thiên nhiên và nhân văn phong phú giúp Đà Lạt trở thành một trong những điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam, mỗi năm thu hút hàng triệu du khách tới thăm viếng và nghỉ dưỡng. Đà Lạt còn là một trung tâm giáo dục và nghiên cứu khoa học, một thành phố đa dạng về tôn giáo với sự hiện diện của hàng trăm ngôi chùa, nhà thờ, tu viện... một vùng nông nghiệp trù phú đặc biệt với những sản phẩm rau và hoa. Nhờ khí hậu ôn hòa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và di sản kiến trúc phong phú, Đà Lạt còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như "Thành phố mù sương", "Thành phố ngàn thông", "Thành phố ngàn hoa", "Xứ hoa Anh Đào" hay "Tiểu Paris". Tên gọi.
Đà Lạt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4486
Tên gọi. Địa danh Đà Lạt được bắt nguồn từ chữ "Đạ Lạch", tên gọi của con suối Cam Ly. Khởi nguồn từ huyện Lạc Dương, thác Cam Ly chảy qua khu vực Đà Lạt theo hướng Bắc – Nam, trong đó đoạn từ khoảng Hồ Than Thở tới thác Cam Ly ngày nay được gọi là Đạ Lạch. Theo ngôn ngữ của người Thượng, "Da" hay "Dak" có nghĩa là nước, tên gọi Đà Lạt có nghĩa "nước của người Lạt", hay "suối của người Lạt (người Cơ Ho)". Trong một bài phỏng vấn đăng trên tạp chí "Revue Indochine" tháng 4 năm 1944, công sứ Cunhac, một trong những người tham gia xây dựng thành phố từ ngày đầu, đã nói: "Cho mãi tới những năm sau này, khung cảnh ban sơ vẫn không có gì thay đổi. Ở tại chỗ của cái hồ nước trước đó, con suối nhỏ của bộ lạc người Lát đã chảy qua và người ta đã gọi suối này là Đà Lạt". Vào thời kỳ đầu, các bản đồ cũng như sách báo thường chỉ nhắc đến địa danh Dankia hay Lang Biang. Nhưng sau khi Đà Lạt được chọn làm nơi nghỉ dưỡng thay vì Dankia, và đặc biệt từ khi nơi đây trở thành một thành phố, địa danh Đà Lạt mới xuất hiện thường xuyên. Những người có công kiến thiết thành phố còn sáng tạo một câu cách ngôn khéo léo bằng tiếng La Tinh: "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem", có nghĩa "Cho người này nguồn vui, cho người khác sự mát mẻ". Tác giả André Morval đã viết câu cách ngôn chiết tự này ở đầu một bài báo nhan đề "Dalat: Cité de la Jeunesse" với nội dung: "Những người khai sinh ra nơi nghỉ mát trên miền núi danh tiếng của chúng ta đã xác định một cách rất hợp lý những nét hấp dẫn và những đặc tính tốt bằng một câu cách ngôn ghép chữ đầu rất khéo léo để liền theo huy hiệu thành phố".
Đà Lạt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4486
Năm 1937, khi xây dựng chợ Đà Lạt mới thay cho ngôi chợ cũ bằng gỗ bị cháy, người ta đã đề dòng chữ "Dat Aliis Laetitiam Aliis Temperiem" trên tường đầu hồi của công trình, phía trên là huy hiệu thành phố hình tròn, tạc hình một đôi thanh niên nam nữ người dân tộc cùng với hình núi đồi nhấp nhô và hình hiệu một con cọp Với khí hậu ôn hòa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp và những di sản kiến trúc Pháp phong phú, Đà Lạt còn được gọi bằng nhiều cái tên khác như "Thành phố mù sương", "Thành phố ngàn thông", "Thành phố ngàn hoa", "Xứ hoa Anh Đào" hay "Tiểu Paris". Lịch sử. Vùng cao nguyên Lâm Viên từ xa xưa là địa bàn cư trú của người Lạch, người Chil và người Srê thuộc dân tộc Cơ Ho. Cuối thế kỷ 19, nhiều nhà thám hiểm người Pháp đã thực hiện những chuyến đi xuyên sâu vào vùng đất này. Tiên phong trong số họ là bác sĩ Paul Néis và trung úy Albert Septans với chuyến thám hiểm thực hiện đầu năm 1881. Năm 1893, nhận nhiệm vụ từ Toàn quyền Jean-Marie de Lanessan, bác sĩ Alexandre Yersin đã tiến hành khảo sát một tuyến đường bộ từ Sài Gòn xuyên qua vùng đất của người Thượng và kết thúc ở một địa điểm trên bờ biển Trung Kỳ. Ngày 21 tháng 6 năm 1893, trên hành trình thám hiểm, Alexandre Yersin đã tới cao nguyên Lâm Viên. Năm 1897, trong khi tìm kiếm một địa điểm để xây dựng trạm nghỉ dưỡng ("station balnéaire d'altitude") cho người Pháp ở Đông Dương, Toàn quyền Paul Doumer gửi thư hỏi ý kiến Alexandre Yersin. Khi nhận được thư của Paul Doumer, Alexandre Yersin gợi ý chọn cao nguyên Lâm Viên, một vùng đất lý tưởng thỏa mãn đầy đủ các điều kiện: độ cao thích hợp, diện tích đủ rộng, nguồn nước bảo đảm, khí hậu ôn hòa và có thể thiết lập đường giao thông. Cuối tháng 3 năm 1899, Paul Doumer cùng với Alexandre Yersin đích thân đến khảo sát thực tế tại cao nguyên Lâm Viên. Dự án xây dựng Đà Lạt bị gián đoạn khi Toàn quyền Paul Doumer trở về Pháp vào năm 1902 và Toàn quyền Paul Beau, người kế vị, thì không sốt sắng gì về việc xây dựng thị trấn miền núi.
Đà Lạt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4486
Mặc dù vậy, trong khoảng thời gian tiếp theo, nhiều đoàn khảo sát vẫn được gửi đến cao nguyên Lâm Viên để nghiên cứu và các tuyến đường giao thông tới Đà Lạt cũng dần hình thành. Giữa thập niên 1910, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ khiến nhiều người Pháp không thể về quê hương trong những kỳ nghỉ, Đà Lạt dần trở thành nơi họ tìm đến để tìm chút gì của nước Pháp miền ôn đới. Ngày 20 tháng 4 năm 1916, Hội đồng Phụ chính của vua Duy Tân thông báo Vụ thành lập thị tứ Đà Lạt. Toàn quyền Maurice Long đi thêm bước nữa khi bổ nhiệm Ernest Hébrard làm chủ sự quy hoạch thị trấn Đà Lạt. Hébrard là người chủ trương dùng mẫu kiến trúc cổ điển Âu châu nhưng thêm vào đó một số trang trí thuộc mỹ thuật Việt Nam để tạo ra phong cách riêng mà ông gọi là "une architecture indochinoise". Hébrard đã thực hiện lối kiến trúc này trong những công trình khác như tòa nhà của Viện Viễn Đông Bác cổ, Hà Nội. Nay lối kiến trúc này được áp dụng quy mô hơn ở Đà Lạt. Đặc biệt là Hébrard vẽ đồ án có vườn hoa, trường sở, sân vận động, biệt thự nhưng hoàn toàn không có công xưởng sản xuất để giữ y nguyên không gian trong lành và yên tĩnh của thị trấn này. Trong vòng ba mươi năm, từ một địa điểm hoang vu, một thành phố đã hình thành với đầy đủ hệ thống cơ sở hạ tầng, các trường học, bệnh viện, khách sạn, công sở và dinh thự. Trên diện tích tổng cộng là 1760 ha, thì 500 ha được chính quyền quy hoạch cho các cơ sở công chánh, 185 ha thuộc nhà binh, 173 ha cho công chức và 206 cho dân bản xứ. Phần còn lại còn lại (non 700 ha) thì bán cho người Pháp. Tới thập niên 1940, Đà Lạt bước vào giai đoạn cực thịnh của thời kỳ Pháp thuộc, "thủ đô mùa hè" của toàn Liên bang Đông Dương. Trong những năm chiến tranh, thành phố vẫn giữ vai trò một trung tâm du lịch nghỉ dưỡng và khoa học giáo dục của Việt Nam Cộng hòa. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, nhiều trường học, trung tâm văn hóa và các công trình kiến trúc tiếp tục ra đời. Đà Lạt cũng là nơi định cư của nhiều người di cư từ miền Bắc.
Đà Lạt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4486
Nhưng kể từ năm 1964, khi cuộc chiến tranh Việt Nam bước vào giai đoạn khốc liệt, việc phát triển đô thị ít được coi trọng, thay vào đó là sự xuất hiện của những công trình phục vụ cho mục đích quân sự. Sau chiến tranh, Đà Lạt tiếp tục bước vào một thời kỳ khó khăn khi phải đối mặt với vấn đề lương thực và thực phẩm, việc xây dựng phát triển thành phố vì thế không còn được chú trọng. Diện tích canh tác nông nghiệp mở rộng đã ảnh hưởng nhiều tới cảnh quan thiên nhiên và môi sinh của thành phố. Du lịch Đà Lạt giai đoạn này cũng trầm lắng bởi sự khó khăn chung của nền kinh tế Việt Nam. Từ cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, thành phố dần phát triển trở lại với làn sóng khách du lịch tìm tới ngày một đông và hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp tục được xây dựng. Sau năm 1975, thành phố Đà Lạt có 6 phường (đánh số thứ tự từ 1 đến 6) và 3 xã: Tà Nung, Xuân Thọ, Xuân Trường. Ngày 6 tháng 6 năm 1986, giải thể 6 phường hiện hữu, thay thế bằng 12 phường mới (đánh số thứ tự từ 1 đến 12). Ngày 6 tháng 3 năm 2009, chia xã Xuân Trường thành 2 xã: Xuân Trường và Trạm Hành, thành phố Đà Lạt bao gồm 12 phường và 4 xã trực thuộc. Ngày 24 tháng 7 năm 1999, Đà Lạt được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là đô thị loại II và ngày 23 tháng 3 năm 2009, Đà Lạt chính thức trở thành đô thị loại I trực thuộc tỉnh Lâm Đồng. Ngày 28/3/2023, Sở Nội vụ tỉnh Lâm Đồng cho biết vừa có báo cáo đề xuất phương án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 - 2030. Theo đó, đề xuất phương án sáp nhập Huyện Lạc Dương vào Đà Lạt kể từ năm 2025. Như vậy, Đà Lạt sẽ trở thành thành phố trực thuộc tỉnh có diện tích lớn nhất Việt Nam, với diện tích gần 1800km² và dân số khoảng 300.000 người. Địa lý. Thành phố Đà Lạt có diện tích 394,64 km², nằm trên cao nguyên Lâm Viên, nơi có độ cao khoảng 1.500 mét so với mực nước biển.
Đà Lạt
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=4486
Thành phố có tọa độ địa lý 11°48′36″ đến 12°01′07″ vĩ độ bắc và 108°19′23″ đến 108°36′27″ kinh độ đông, cách Thành phố Hồ Chí Minh 307 km về phía bắc, cách Hà Nội 1.500 km và cách Đà Nẵng 658 km về phía nam. Thành phố có vị trí địa lý: Dân số Đà Lạt từ kết quả Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2022 là 237.565 người. Đây là đô thị miền núi đông dân đứng thứ hai cả nước, chỉ sau thành phố Buôn Ma Thuột. Địa hình. Địa hình Đà Lạt được phân thành hai dạng rõ rệt: địa hình núi và địa hình bình nguyên trên núi. Địa hình núi phân bố xung quanh vùng cao nguyên trung tâm thành phố. Các dãy núi cao khoảng 1.700 mét tạo thành một vành đai chắn gió che cho khu vực lòng chảo trung tâm. Từ thành phố nhìn về hướng bắc, núi Langbiang như một tường thành theo hướng đông bắc – tây nam, kéo dài từ suối Đạ Sar đến hồ Dankia. Hai đỉnh cao nhất của dãy núi này có độ cao 2.167 mét và 2.064 mét. Án ngữ phía đông và đông nam Đà Lạt là hai dãy Bi Doup và Cho Proline. Về phía nam, địa hình núi chuyển tiếp sang bậc địa hình thấp hơn, đặc trưng là khu vực đèo Prenn với các dãy núi cao xen kẽ những thung lũng sâu. Trung tâm Đà Lạt như một lòng chảo hình bầu dục dọc theo hướng bắc – nam với chiều dài khoảng 18 km, chiều rộng khoảng 12 km. Những dãy đồi đỉnh tròn ở đây có độ cao tương đối đồng đều nhau, sườn thoải về hướng hồ Xuân Hương và dần cao về phía các vùng núi bao quanh. Nơi cao nhất trong trung tâm thành phố là dinh Nguyễn Hữu Hào trong Bảo tàng Lâm Đồng với độ cao 1.532 mét, còn điểm thấp nhất là thung lũng Nguyễn Tri Phương, độ cao 1.398 mét. Trên địa phận thành phố Đà Lạt, xen giữa vùng đồi thấp trung tâm thành phố và các dãy núi bao quanh, có thể thấy hơn 20 dòng suối có chiều dài trên 4 km, thuộc các hệ thống suối Cam Ly, Đa Tam và hệ thống sông Đa Nhim. Đây đều là những con suối đầu nguồn thuộc lưu vực sông Đồng Nai, trong đó hơn một nửa là các con suối cạn, chỉ chảy vào mùa mưa và cạn kiệt vào mùa khô.