title
stringlengths
1
250
url
stringlengths
37
44
text
stringlengths
1
4.81k
Vết đen
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5121
Vết đen trong tiếng Việt có thể có các nghĩa sau:
Tứ đại danh tác
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5127
Tứ đại danh tác () chỉ bốn tác phẩm văn học cổ điển được cho là danh tiếng nhất của Trung Quốc, xếp theo thứ tự thời gian xuất hiện:
Sách đỏ IUCN
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5128
Sách đỏ IUCN hay gọi tắt là Sách đỏ (tiếng Anh: "IUCN Red List of Threatened Species" hay "IUCN Red List") được bắt đầu từ năm 1964, là danh sách toàn diện nhất về tình trạng bảo tồn và đa dạng của các loài động vật và thực vật trên thế giới. Nó sử dụng một bộ tiêu chí để đánh giá nguy cơ tuyệt chủng của hàng ngàn loài và phân loài. Danh sách này được giám sát bởi Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế ("International Union for Conservation of Nature and Natural Resources", IUCN). Những tiêu chí này có liên quan đến tất cả các loài và tất cả các khu vực trên thế giới. Với cơ sở khoa học mạnh mẽ, Sách đỏ IUCN được công nhận là danh sách tốt nhất để điều tra đối với tình trạng đa dạng sinh học của một loài nào đó. Một loạt Sách đỏ khu vực được xuất bản bởi các quốc gia hoặc tổ chức, nhằm đánh giá nguy cơ tuyệt chủng đối với các loài trong một đơn vị quản lý. Dựa trên các tiêu chuẩn đánh giá tình trạng các loài của IUCN, chính phủ Việt Nam cũng công bố Sách đỏ Việt Nam để hướng dẫn, thúc đẩy công tác bảo vệ tài nguyên sinh vật thiên nhiên. Đây cũng là tài liệu khoa học dược sử dụng vào việc soạn thảo và ban hành các quy định, luật pháp của Nhà nước về bảo vệ tài nguyên sinh vật thiên nhiên, tính đa dạng sinh học và môi trường sinh thái. Danh sách đỏ của IUCN được đặt theo các tiêu chí chính xác để đánh giá nguy cơ tuyệt chủng của hàng nghìn loài và phân loài. Những tiêu chí này có liên quan đến tất cả các loài và tất cả các khu vực trên thế giới. Mục đích là để truyền đạt sự cấp bách của các vấn đề bảo tồn cho công chúng và các nhà hoạch định chính sách, cũng như giúp cộng đồng quốc tế cố gắng giảm thiểu sự tuyệt chủng của các loài.
Sách đỏ IUCN
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5128
Theo Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) (1996), các mục tiêu chính được nêu trong Sách đỏ là (1) để cung cấp thông tin dựa trên cơ sở khoa học về tình trạng của các loài và phân loài ở cấp độ toàn cầu, (2) để thu hút sự chú ý đến tầm nhìn và tầm quan trọng của việc đa dạng sinh học đang bị đe dọa, (3) ảnh hưởng đến chính sách và quyết định của quốc gia và quốc tế và (4) để cung cấp thông tin để hướng dẫn các hành động nhằm bảo tồn đa dạng sinh học. Những người đánh giá các loài bao gồm BirdLife International, Viện Động vật học (bộ phận nghiên cứu của Hiệp hội Động vật học Luân Đôn), Trung tâm giám sát bảo tồn thế giới và nhiều nhóm chuyên gia trong Ủy ban Sinh tồn IUCN (SSC). Nói chung, các đánh giá nghiên cứu của các tổ chức và nhóm này chiếm gần một nửa số loài trong Sách đỏ. IUCN đặt mục tiêu có danh mục của mọi loài được đánh giá lại sau mỗi năm năm nếu có thể hoặc ít nhất là cứ sau mười năm. Điều này được thực hiện theo cách đánh giá ngang hàng thông qua các nhóm chuyên gia của Ủy ban Sinh tồn IUCN (SSC), là Cơ quan Sách đỏ chịu trách nhiệm về một loài, nhóm loài hoặc khu vực địa lý cụ thể. Tính đến năm 2018, 26.197 loài hiện được phân loại là sắp nguy cấp, nguy cấp hoặc cực kỳ nguy cấp. Các văn bản đã phát hành. Sách đỏ IUCN công bố văn bản năm 2004 (Sách đỏ 2009) vào ngày 17 tháng 11 năm 2004. Văn bản này đã đánh giá tất cả 38.047 loài, cùng với 2.140 phân loài, giống, chi và quần thể. Trong đó, 15.503 loài nằm trong tình trạng gồm 7.180 loài động vật, 8.321 loài thực vật, và 2 loài nấm. Danh sách cũng công bố 784 loài loài tuyệt chủng được ghi nhận từ năm 1500. Như vậy là đã có thêm 18 loài tuyệt chủng so với bản danh sách năm 2000. Mỗi năm một số ít các loài tuyệt chủng lại được phát hiện và sắp xếp vào nhóm DD. Ví dụ, trong năm 2002 danh sách tuyệt chủng đã giảm xuống 759 trước khi tăng lên như hiện nay. Phiên bản Sách đỏ năm 2008 đã được phát hành ngày 6 tháng 10 năm 2008 trong Đại hội Bảo tồn Thế giới ở Barcelona có một số sửa đổi so với phiên bản 2007 và 2006.
Sách đỏ IUCN
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5128
Sách đỏ của các loài cây bị đe dọa 1964. Sách đỏ IUCN 1964 về Các loài cây bị đe dọa sử dụng trước tiêu chí cũ của hệ thống đánh giá Sách đỏ. Cây liệt kê được trong danh sách có thể không đầy đủ, do đó có sự xuất hiện danh sách đỏ hiện nay. IUCN khuyên tốt nhất là nên để kiểm tra cả hai Sách đỏ trực tuyến và năm 1997 và nhà máy xuất bản sách đỏ. Sách đỏ năm 2006. Trong danh sách của Sách đỏ năm 2006, đã được phát hành vào ngày 04 tháng 5 năm 2006, đánh giá 40.168 loài, cộng thêm 2.160 phân loài, giống, cá, và nhóm động vật. Sách đỏ năm 2007. Vào ngày 12 tháng 9 năm 2007, Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới (IUCN) đã công bố Sách đỏ IUCN năm 2007. Trong văn bản này, họ đã đưa ra phân loại của họ về cả khỉ đột phía tây ("Gorilla Gorilla") và khỉ đột sông Cross ("Gorilla Gorilla diehli" ) từ nguy cơ bị tuyệt chủng đến cực kỳ nguy cấp, đó là hạng mục cuối cùng trước khi bị tuyệt chủng trong tự nhiên, do Virus Ebola và những kẻ săn bắt trộm, cùng với các yếu tố khác. Russ Mittermeier, giám đốc của IUCN tại Thụy Sĩ dựa trên bộ Linh trưởng, chuyên gia của IUCN, nói rằng có 16.306 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng, nhiều hơn 188 loài so với năm 2006 (tổng cộng 41.415 loài trong Sách đỏ). Danh sách đỏ bao gồm đười ươi Sumatra ("Pongo abelii") trong hạng mục Cực kỳ nguy cấp và đười ươi Borneo ("Pongo pygmaeus") ở hạng mục Nguy cấp. Sách đỏ năm 2008. Sách đỏ năm 2008 đã được phát hành vào ngày 6 tháng 10 năm 2008, tại Hội nghị Bảo tồn Thế giới IUCN diễn ra tại Barcelona, và đã khẳng định được một "cuộc khủng hoảng tuyệt chủng", với gần như một trong bốn động vật có vú có nguy cơ biến mất mãi mãi. Nghiên cứu này cho thấy ít nhất 1.141 trong 5.487 động vật có vú trên Trái Đất được biết là đang bị đe dọa tuyệt chủng nguy cơ rất cao, và 836 loài được liệt kê như Thiếu dữ liệu. Sách đỏ năm 2012.
Sách đỏ IUCN
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5128
Sách đỏ năm 2012. Sách đỏ năm 2012 đã được phát hành ngày 19 tháng 7 năm 2012 tại Hội nghị Thượng đỉnh Bảo tồn Thiên nhiên Trái Đất Rio lần thứ 20; đã có gần 2.000 loài mới được thêm vào, với 4 loài vào danh sách tuyệt chủng, 2 danh sách khác lại được khám phá. IUCN đánh giá tổng cộng 63.837 loài trong đó tiết lộ 19.817 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng. Với 3.947 loài được mô tả như là "cực kỳ nguy cấp" và 5.766 là "nguy hiểm", trong khi hơn 10.000 loài được liệt kê là "dễ bị tổn thương". Đe dọa 41% các loài động vật lưỡng cư, 33% các loài san hô, 30% các loài cây lá kim, 25% động vật có vú, và 13% loài chim. Danh sách đỏ IUCN đã liệt kê 132,bổ sung thêm 32 chim đang có nguy cơ tuyệt chủng hoàn toàn loài thực vật và động vật từ Ấn Độ là "Cực kỳ nguy cấp".  Các danh mục phân loại. Các loài được xếp vào 9 bậc theo các tiêu chí về mức độ đe dọa tuyệt chủng như tốc độ suy thoái ("rate of decline"), kích thước quần thể ("population size"), phạm vi phân bố ("area of geographic distribution"), và mức độ phân tách quần thể và khu phân bố ("degree of population and distribution fragmentation"). Tuyệt chủng. Tuyệt chủng (tiếng Anh: "Extinct", viết tắt "EX") là một trạng thái bảo tồn của sinh vật được quy định trong Sách đỏ IUCN. Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng khi có những bằng chứng chắc chắn rằng cá thể cuối cùng đã chết. Tuyệt chủng trong tự nhiên. Tuyệt chủng trong tự nhiên (tiếng Anh: "Extinct in the Wild", viết tắt "EW") là một trạng thái bảo tồn của sinh vật. Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng trong tự nhiên khi các cuộc khảo sát kỹ lưỡng ở sinh cảnh đã biết và hoặc sinh cảnh dự đoán, vào những thời gian thích hợp (theo ngày, mùa năm) xuyên suốt vùng phân bố lịch sử của loài đều không ghi nhận được cá thể nào còn tồn tại. Các khảo sát nên vượt khung thời gian thích hợp cho vòng sống và dạng sống của đơn vị phân loại đó. Các cá thể của loài này chỉ còn được tìm thấy với số lượng rất ít trong sinh cảnh nhân tạo và phụ thuộc hoàn toàn vào chăm sóc của con người. Cực kỳ nguy cấp.
Sách đỏ IUCN
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5128
Cực kỳ nguy cấp. "Cực kỳ nguy cấp" (tiếng Anh: "Critically Endangered", viết tắt "CR") là một trạng thái bảo tồn của sinh vật. Một loài hoặc nòi được coi là "cực kỳ nguy cấp" khi nó phải đối mặt với "nguy cơ tuyệt chủng" trong tự nhiên rất cao trong một tương lai rất gần, khi quần thể loài suy giảm đến 80% hoặc diện tích phân bố chỉ còn trên khoảng 100 km². Nguy cấp. "Nguy cấp" (tiếng Anh: "Endangered", viết tắt "EN") là một trạng thái bảo tồn của sinh vật. Một loài bị coi là "Nguy cấp" khi nó phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên rất cao trong một tương lai rất gần nhưng kém hơn mức "cực kỳ nguy cấp".Quần thể bị suy giảm 50% hoặc diện tích phân bố còn 5000 km^2 Sắp nguy cấp. "Sắp nguy cấp" (tiếng Anh: "Vulnerable", viết tắt "VU") là một trạng thái bảo tồn của sinh vật. Một loài hoặc nòi bị đánh giá là Sắp nguy cấp khi nó không nằm trong 2 bậc "CR" và "Nguy cấp (EN)" nhưng phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên cao trong một tương lai không xa. Quần thể của chúng bị suy giảm 20% hoặc diện tích phân bố chỉ còn khoảng 20000 km^2. Sắp bị đe dọa. Sắp bị đe dọa (tiếng Anh: "Near-threatened", viết tắt "NT") là một trạng thái bảo tồn của sinh vật. Một loài hoặc nòi bị đánh giá là Sắp bị đe dọa (NT) khi nó sắp phải đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng trong tự nhiên cao trong một tương lai không xa. Ít quan tâm. Ít quan tâm (tiếng Anh: "Least concern", viết tắt "LC") là những loài ít được con người quan tâm (LC) hoặc không thỏa mãn đủ tiêu chí cần được bảo vệ trước nguy cơ tuyệt chủng. Thiếu dữ liệu. Thiếu dữ liệu (tiếng Anh: "Data deficient", viết tắt "DF") là những loài vẫn còn thiếu dữ liệu về tình trạng hiện nay để cung cấp thông tin đầy đủ (DD). Tuy nhiên những loài này có thể chuyển đổi thành các cấp khác khi đã có đủ thông tin về tình trạng hiện nay của chúng. Không được đánh giá. Không được đánh giá (tiếng Anh: "Not evaluated", viết tắt "NE") là những loài không được nghiên cứu nhiều do một số lý do. Trong tiêu chí đánh giá của IUCN năm 1994 thì có 8 bậc.
Sách đỏ IUCN
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5128
Bậc Ít nguy cấp (Lower Risk, LR) bao gồm 3 nhóm nhỏ là Sắp bị đe doạ, Ít quan tâm, và Phụ thuộc bảo tồn (Conservation Dependent, CD) (nay gộp vào nhóm Sắp bị đe dọa). Khi nói đến các loài, hay phân loài đang bị đe doạ, hoặc có nguy cơ tuyệt chủng thì có nghĩa là các loài thuộc bậc CR, EN, và VU. Có thể tuyệt chủng. Định nghĩa "Có thể tuyệt chủng" (tiếng Anh: "Possibly Extinct", viết tắt "PE" được sử dụng bởi Birdlife International, Cơ quan Sách Đỏ cho các loài chim trong Sách Đỏ của IUCN. BirdLife International đã khuyến nghị PE trở thành một tên chính thức cho các loài có nguy cơ tuyệt chủng và hiện tại nó đã được sử dụng, cùng với "Tuyệt chủng trong tự nhiên" cho các loài có quần thể sống sót trong điều kiện nuôi nhốt nhưng có khả năng bị tuyệt chủng trong tự nhiên (ví dụ: Vẹt đuôi dài xanh). Phiên bản. Đã có một số phiên bản có từ năm 1991 bao gồm: Đối với thực vật, Sách đỏ 1997 là nguồn quan trọng nhất. Chỉ trích. Năm 1997, Sách đỏ IUCN đã nhận sự chỉ trích với lý do bí mật xung quanh các nguồn dữ liệu của nó. Những cáo buộc này đã dẫn đến những nỗ lực của IUCN để cải thiện chất lượng tài liệu và dữ liệu của mình và đưa các đánh giá ngang hàng vào Sách Đỏ. Một bài xã luận của Nature đã lên tiếng bảo vệ sự liên quan đến Sách đỏ vào tháng 10 năm 2008. Có ý kiến ​​cho rằng sách đỏ của IUCN và các công trình tương tự dễ bị chính phủ và các tổ chức khác lạm dụng để đưa ra kết luận không phù hợp về tình trạng môi trường hoặc ảnh hưởng đến khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Hệ điều hành () là phần mềm hệ thống quản lý tài nguyên phần cứng máy tính, phần mềm và cung cấp các dịch vụ chung cho các chương trình máy tính. Đối với các chức năng phần cứng như đầu vào, đầu ra và cấp phát bộ nhớ, hệ điều hành đóng vai trò quan trọng giữa các chương trình và phần cứng máy tính, mặc dù mã ứng dụng thường được thực thi trực tiếp bởi phần cứng và thường thực hiện các lệnh hệ thống đến Chức năng hệ điều hành hoặc bị hệ điều hành làm gián đoạn. Hệ điều hành được tìm thấy trên nhiều thiết bị có máy tínhtừ điện thoại di động và bảng điều khiển trò chơi điện tử đến máy chủ web và siêu máy tính, cung cấp một môi trường cho phép người sử dụng phát triển và thực hiện các ứng dụng của họ một cách dễ dàng. Hệ điều hành chia sẻ thời gian lập lịch cho các tác vụ để sử dụng hệ thống một cách hiệu quả và cũng có thể bao gồm phần mềm kế toán để phân bổ chi phí thời gian xử lý, lưu trữ dung lượng lớn, in ấn và các tài nguyên khác. Hệ điều hành máy tính để bàn phổ biến nhất là hệ điều hành Microsoft Windows với thị phần khoảng 76,45%. macOS của Apple Inc. đứng ở vị trí thứ hai (17,72%), và các loại hệ diều hành Linux được xếp chung ở vị trí thứ ba (1,73%). Trong lĩnh vực di động (bao gồm cả điện thoại thông minh và máy tính bảng), thị phần của Android lên đến 72% vào năm 2020. Theo dữ liệu Quý III năm 2016, thị phần của Android trên điện thoại thông minh đang chiếm ưu thế với 87,5% với tốc độ tăng trưởng 10,3% mỗi năm, tiếp theo là iOS của Apple với 12,1% với thị phần giảm 5,2% mỗi năm, trong khi các hệ điều hành khác chỉ 0,3%. Các bản phân phối Linux đang chiếm ưu thế trong lĩnh vực máy chủ và siêu máy tính. Các lớp hệ điều hành chuyên biệt khác cũng được tạo ra để phục vụ cho các ứng dụng như các hệ thống nhúng và thời gian thực. Phân loại. Đơn nhiệm và đa nhiệm (đơn tác vụ và đa tác vụ). Hệ thống đơn tác vụ chỉ có thể chạy một chương trình tại một thời điểm, trong khi hệ điều hành đa tác vụ cho phép nhiều chương trình chạy đồng thời. Điều này đạt được bằng cách chia sẻ thời gian, trong đó thời gian của bộ xử lý được chia sẻ với nhiều quá trình.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Mỗi quá trình này bị gián đoạn lặp đi lặp lại trong thời gian bằng cách dùng một hệ thống con lập lịch tác vụ của hệ điều hành. Đa nhiệm có thể được đặc trưng trong các loại hợp tác và pre-emptive. Trong đa nhiệm phủ đầu, hệ điều hành cắt thời gian CPU và dành một vị trí cho mỗi chương trình. Hệ điều hành giống Unix, chẳng hạn như Solaris và Linux — cũng như không giống Unix, chẳng hạn như AmigaOS — hỗ trợ đa nhiệm pre-emptive. Đa nhiệm hợp tác đạt được bằng cách dựa vào mỗi quá trình để cung cấp thời gian cho các quá trình khác theo cách thức xác định. Phiên bản 16-bit của Microsoft Windows sử dụng đa tác vụ hợp tác; Phiên bản 32-bit của cả Windows NT và Win9x đều sử dụng tính năng đa tác vụ pre-emptive. Một người và nhiều người dùng. Hệ điều hành một người dùng không có phương tiện để phân biệt người dùng, nhưng có thể cho phép nhiều chương trình chạy song song. Hệ điều hành nhiều người dùng mở rộng khái niệm cơ bản về đa tác vụ với các cơ sở xác định các quy trình và tài nguyên, chẳng hạn như không gian đĩa, thuộc về nhiều người dùng và hệ thống cho phép nhiều người dùng tương tác với hệ thống cùng một lúc. Hệ điều hành chia sẻ thời gian lên lịch các tác vụ để sử dụng hiệu quả hệ thống và cũng có thể bao gồm phần mềm kế toán để phân bổ chi phí thời gian xử lý, lưu trữ hàng loạt, in ấn và các tài nguyên khác cho nhiều người dùng. Phân tán. Hệ điều hành phân tán quản lý một nhóm các máy tính nối mạng riêng biệt và làm cho chúng dường như là một máy tính duy nhất, vì tất cả các tính toán được phân phối (chia cho các máy tính cấu thành). Tạo khuôn mẫu. Trong bối cảnh điện toán đám mây và phân tán của một hệ điều hành, "tạo khuôn mẫu" đề cập đến việc tạo một hình ảnh máy ảo duy nhất làm hệ điều hành khách, sau đó lưu nó làm công cụ cho nhiều máy ảo đang chạy máy ảo. Kỹ thuật này được sử dụng cả trong ảo hóa và quản lý điện toán đám mây, và phổ biến trong các kho máy chủ lớn. Nhúng. Hệ điều hành nhúng được thiết kế để sử dụng trong các hệ thống máy tính nhúng. Chúng được thiết kế để hoạt động trên các máy nhỏ với ít quyền tự chủ hơn (ví dụ: PDA).
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Chúng rất nhỏ gọn và cực kỳ hiệu quả theo thiết kế và có thể hoạt động với một lượng tài nguyên hạn chế. Windows CE và Minix 3 là một số ví dụ về các hệ điều hành nhúng. Thời gian thực. Hệ điều hành thời gian thực là hệ điều hành đảm bảo xử lý các sự kiện hoặc dữ liệu theo một thời điểm cụ thể. Hệ điều hành thời gian thực có thể hoạt động đơn hoặc đa tác vụ, nhưng khi đa nhiệm, nó sử dụng các thuật toán lập lịch chuyên biệt để đạt được bản chất xác định của hành vi. Một hệ thống hướng sự kiện như vậy sẽ chuyển đổi giữa các tác vụ dựa trên mức độ ưu tiên của chúng hoặc các sự kiện bên ngoài, trong khi hệ điều hành chia sẻ thời gian chuyển đổi các tác vụ dựa trên các ngắt đồng hồ. Thư viện. Hệ điều hành thư viện là hệ điều hành trong đó các dịch vụ mà hệ điều hành điển hình cung cấp, chẳng hạn như mạng, được cung cấp dưới dạng thư viện và được cấu tạo với ứng dụng và mã cấu hình để xây dựng một kênh đơn lẻ: một không gian địa chỉ chuyên biệt, một hình ảnh máy, có thể được triển khai cho môi trường đám mây hoặc môi trường nhúng. Lịch sử. Máy tính ban đầu được chế tạo để thực hiện một loạt các tác vụ đơn lẻ, giống như một máy tính bỏ túi. Các tính năng cơ bản của hệ điều hành được phát triển vào những năm 1950, chẳng hạn như chức năng giám sát thường trú có thể tự động chạy các chương trình khác nhau liên tiếp để tăng tốc độ xử lý. Các hệ điều hành không tồn tại ở dạng hiện đại và phức tạp hơn cho đến đầu những năm 1960. Các tính năng phần cứng đã được thêm vào, cho phép sử dụng thư viện thời gian chạy, ngắt và xử lý song song. Khi máy tính cá nhân trở nên phổ biến vào những năm 1980, hệ điều hành được tạo ra cho chúng tương tự như khái niệm được sử dụng trên các máy tính lớn hơn. Vào những năm 1940, các hệ thống kỹ thuật số điện tử sớm nhất không có hệ điều hành. Các hệ thống điện tử thời này được lập trình trên hàng công tắc cơ học hoặc bằng dây nhảy trên bảng cắm.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Đây là những hệ thống có mục đích đặc biệt, ví dụ, tạo ra các bảng đạn đạo cho quân đội hoặc kiểm soát việc in phiếu tính lương từ dữ liệu trên thẻ giấy. Sau khi máy tính đa năng có thể lập trình được phát minh, các ngôn ngữ máy (bao gồm các chuỗi chữ số nhị phân 0 và 1 trên băng giấy đục lỗ) đã được giới thiệu để đẩy nhanh quá trình lập trình (Stern, 1981). Vào đầu những năm 1950, một máy tính chỉ có thể thực thi một chương trình tại một thời điểm. Mỗi người dùng chỉ được sử dụng máy tính trong một khoảng thời gian giới hạn và sẽ đến vào thời gian đã định cùng với chương trình và dữ liệu của họ trên thẻ giấy đục lỗ hoặc băng đục lỗ. Chương trình sẽ được tải vào máy và máy sẽ được thiết lập để hoạt động cho đến khi chương trình hoàn thành hoặc gặp sự cố. Các chương trình thường có thể được gỡ lỗi thông qua bảng điều khiển phía trước bằng cách sử dụng công tắc bật tắt và đèn bảng điều khiển. Người ta nói rằng Alan Turing là một bậc thầy về điều này trên cỗ máy Manchester Mark 1 thời kỳ đầu, và ông đã suy nghĩ ra khái niệm về hệ điều hành từ các nguyên tắc của máy Turing phổ quát. Các máy sau này đi kèm với các thư viện chương trình, sẽ được liên kết với chương trình của người dùng để hỗ trợ các hoạt động như nhập, xuất và biên dịch (tạo mã máy từ mã tượng trưng mà con người có thể đọc được). Đây là nguồn gốc của hệ điều hành hiện đại. Tuy nhiên, máy móc vẫn chạy một công việc duy nhất tại một thời điểm. Tại Đại học Cambridge ở Anh, hàng đợi việc làm trước đây là một dây chuyền giặt (dây phơi quần áo), từ đó người ta treo các cuộn băng dính với các giá treo quần áo màu khác nhau để chỉ ra mức độ ưu tiên công việc. Một hệ điều hành khác là Atlas Supervisor. Được giới thiệu cùng với Manchester Atlas vào năm 1962, hệ điều hành này được nhiều người coi là hệ điều hành hiện đại đầu tiên được biết đến. Brinch Hansen mô tả nó là "bước đột phá quan trọng nhất trong lịch sử hệ điều hành." Máy tính lớn (Mainframe).
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Máy tính lớn (Mainframe). Qua những năm 1950, nhiều tính năng quan trọng được đưa ra trong lĩnh vực hệ điều hành trên máy tính mainframe, bao gồm xử lý hàng loạt, đầu vào/đầu ra gián đoạn, đệm, đa nhiệm, spooling, thư viện runtime, liên kết nạp, và các chương trình cho sắp xếp các bản ghi trong tập tin. Các tính năng này được đưa vào hoặc không được đưa vào phần mềm ứng dụng theo tùy chọn của người lập trình ứng dụng, chứ không phải trong một hệ điều hành riêng biệt được sử dụng bởi tất cả các ứng dụng. Năm 1959, Hệ điều hành SHARE được phát hành dưới dạng tiện ích tích hợp cho IBM 704, và sau đó là các máy tính lớn 709 và 7090, mặc dù nó đã nhanh chóng bị IBSYS / IBJOB thay thế trên 709, 7090 và 7094. Trong những năm 1960, OS/360 của IBM đã đưa ra khái niệm về một hệ điều hành duy nhất cho toàn bộ dòng sản phẩm, điều này rất quan trọng cho sự thành công của các máy System / 360. Hệ điều hành máy tính lớn hiện tại của IBM là hậu duệ xa của hệ thống gốc này và các máy hiện đại tương thích ngược với các ứng dụng được viết cho OS/360. OS/360 cũng đi tiên phong trong khái niệm rằng hệ điều hành theo dõi tất cả tài nguyên hệ thống được sử dụng, bao gồm phân bổ không gian chương trình và dữ liệu trong bộ nhớ chính và không gian tập tin trong bộ nhớ phụ và khóa tập tin trong quá trình cập nhật. Khi một quá trình bị chấm dứt vì bất kỳ lý do gì, tất cả các tài nguyên này sẽ được hệ điều hành tái xác nhận quyền sở hữu. Hệ thống CP-67 thay thế cho S / 360-67 đã đi đầu cho việc toàn bộ dòng hệ điều hành IBM tập trung vào khái niệm máy ảo. Các hệ điều hành khác được sử dụng trên máy tính lớn dòng S / 360 của IBM bao gồm các hệ thống do IBM phát triển: COS / 360 (Hệ điều hành tương thích), DOS / 360 (Hệ điều hành đĩa), TSS / 360 (Hệ thống chia sẻ thời gian), TOS / 360 (Hệ điều hành băng Hệ thống), BOS / 360 (Hệ điều hành cơ bản) và ACP (Chương trình điều khiển hãng hàng không), cũng như một số hệ thống không phải của IBM: MTS (Hệ thống đầu cuối Michigan), MUSIC (Hệ thống đa người dùng cho máy tính tương tác) và ORVYL (Hệ thống chia sẻ thời gian của Stanford). Control Data Corporation đã phát triển hệ điều hành SCOPE vào những năm 1960, để xử lý hàng loạt.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Với sự hợp tác của Đại học Minnesota, hệ điều hành Kronos và sau đó là NOS đã được phát triển trong những năm 1970, hỗ trợ sử dụng đồng thời theo lô và chia sẻ thời gian. Giống như nhiều hệ thống chia sẻ thời gian thương mại, giao diện của nó là một phần mở rộng của hệ điều hành Dartmouth BASIC, một trong những nỗ lực tiên phong trong các ngôn ngữ lập trình và chia sẻ thời gian. Vào cuối những năm 1970, Control Data và Đại học Illinois đã phát triển hệ điều hành PLATO, sử dụng màn hình bảng plasma và mạng chia sẻ thời gian đường dài. Plato đã đổi mới đáng kể vào thời điểm đó, có tính năng trò chuyện thời gian thực và các trò chơi đồ họa cho nhiều người dùng. Năm 1961, Burroughs Corporation giới thiệu B5000 với hệ điều hành MCP (Master Control Program). B5000 là một máy xếp chồng được thiết kế để hỗ trợ độc quyền các ngôn ngữ cấp cao mà không có ngôn ngữ máy hoặc trình biên dịch; thực sự, MCP là hệ điều hành đầu tiên được viết độc quyền bằng một ngôn ngữ cấp cao (ESPOL, một phương ngữ của ALGOL). MCP cũng giới thiệu nhiều cải tiến đột phá khác, chẳng hạn như việc triển khai thương mại đầu tiên của bộ nhớ ảo. Trong quá trình phát triển AS / 400, IBM đã tiếp cận Burroughs để cấp phép cho MCP chạy trên phần cứng AS / 400. Đề xuất này đã bị ban lãnh đạo Burroughs từ chối để bảo vệ hoạt động sản xuất phần cứng hiện có của họ. MCP ngày nay vẫn được sử dụng trong dòng máy tính ClearPath / MCP của công ty Unisys. UNIVAC, nhà sản xuất máy tính thương mại đầu tiên, đã sản xuất một loạt hệ điều hành EXEC. Giống như tất cả các hệ thống khung chính đầu tiên, hệ thống định hướng hàng loạt này quản lý trống từ, đĩa, đầu đọc thẻ và máy in dòng. Vào những năm 1970, UNIVAC đã sản xuất hệ thống Real-Time Basic (RTB) để hỗ trợ chia sẻ thời gian quy mô lớn, cũng được lấy theo khuôn mẫu của hệ thống Dartmouth BC. General Electric và MIT đã phát triển Bộ giám sát điều hành toàn diện General Electric (GECOS), đưa ra khái niệm về các mức đặc quyền bảo mật được gọi. Sau khi được Honeywell mua lại, nó được đổi tên thành General Comprehensive Operating System (GCOS). Digital Equipment Corporation đã phát triển nhiều hệ điều hành cho các dòng máy tính khác nhau của mình, bao gồm hệ thống chia sẻ thời gian TOPS-10 và TOPS-20 cho các hệ thống lớp PDP-10 36-bit.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Trước khi UNIX được sử dụng rộng rãi, TOPS-10 là một hệ thống đặc biệt phổ biến trong các trường đại học và trong cộng đồng ARPANET sơ khai. RT-11 là hệ điều hành thời gian thực một người dùng cho máy tính mini lớp PDP-11 và RSX-11 là hệ điều hành đa người dùng tương ứng. Từ cuối những năm 1960 đến cuối những năm 1970, một số khả năng phần cứng đã phát triển cho phép phần mềm tương tự hoặc phần mềm được chuyển đổi chạy trên nhiều hệ thống. Các hệ thống ban đầu đã sử dụng vi lập trình để triển khai các tính năng trên hệ thống của chúng nhằm cho phép các kiến trúc máy tính cơ bản khác nhau có vẻ giống với các kiến trúc khác trong cùng một thế hệ máy. Trên thực tế, hầu hết các máy tính 360 sau 360/40 (ngoại trừ 360/165 và 360/168) là các triển khai được lập trình vi mô. Việc đầu tư lớn vào phần mềm cho các hệ thống này được thực hiện từ những năm 1960 đã khiến hầu hết các nhà sản xuất máy tính ban đầu tiếp tục phát triển các hệ điều hành tương thích cùng với phần cứng. Các hệ điều hành máy tính lớn được hỗ trợ đáng chú ý bao gồm: Máy vi tính. Những máy vi tính đầu tiên không có khả năng hoặc không cần đến hệ điều hành phức tạp đã được phát triển cho máy tính lớn và máy tính nhỏ; hệ điều hành tối giản được phát triển, thường được tải từ ROM và được gọi là "monitor." Một hệ điều hành đĩa ban đầu đáng chú ý là CP/M, được hỗ trợ trên nhiều máy vi tính đời đầu và được MS-DOS của Microsoft bắt chước triệt để. Hệ điều hành này đã trở nên phổ biến rộng rãi như là hệ điều hành được chọn cho các máy IBM PC (phiên bản tương đương của IBM được gọi là IBM DOS hoặc PC DOS). Vào những năm 1980, Apple Computer Inc. (nay là Apple Inc.) đã từ bỏ dòng máy vi tính Apple II phổ biến của mình để giới thiệu dòng máy tính Apple Macintosh với giao diện người dùng đồ họa (GUI) sáng tạo cho Mac OS. Sự ra đời của chip CPU Intel 80386 vào tháng 10 năm 1985, với kiến trúc 32-bit và khả năng phân trang, cung cấp cho các máy tính cá nhân khả năng chạy các hệ điều hành đa nhiệm giống như các máy tính mini và máy tính lớn trước đó. Microsoft đã đáp lại tiến độ này bằng cách thuê Dave Cutler, người đã phát triển hệ điều hành VMS cho Digital Equipment Corporation.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Cutler sau đó lãnh đạo sự phát triển của hệ điều hành Windows NT, đưa hệ điều hành này tiếp tục đóng vai trò là nền tảng cho dòng hệ điều hành của Microsoft. Steve Jobs, người đồng sáng lập Apple Inc., đã thành lập NeXT Computer Inc., công ty đã phát triển hệ điều hành NEXTSTEP. NEXTSTEP sau đó được Apple Inc. mua lại và sử dụng, cùng với mã nguồn từ FreeBSD để làm thành nhân cho hệ điều hành MacOS X (macOS sau lần đổi tên mới nhất). Dự án GNU được nhà hoạt động và lập trình viên Richard Stallman khởi động với mục tiêu tạo ra một phần mềm thay thế hoàn toàn miễn phí cho hệ điều hành UNIX độc quyền. Mặc dù dự án đã rất thành công trong việc nhân bản chức năng của các phần khác nhau của UNIX, nhưng việc phát triển nhân GNU Hurd tỏ ra không hiệu quả. Năm 1991, một sinh viên khoa học máy tính Phần Lan tên là Linus Torvalds, với sự hợp tác từ các tình nguyện viên cộng tác qua Internet, đã phát hành phiên bản đầu tiên của nhân Linux. Nó sớm được hợp nhất với các thành phần không gian người dùng GNU và phần mềm hệ thống để tạo thành một hệ điều hành hoàn chỉnh. Kể từ đó, sự kết hợp của hai thành phần chính thường được ngành công nghiệp phần mềm gọi đơn giản là "Linux", một quy ước đặt tên mà Stallman và Tổ chức Phần mềm Tự do vẫn phản đối, ưu tiên tên gọi GNU/Linux. Bản phân phối phần mềm Berkeley của Unix, được gọi là BSD, là dẫn xuất UNIX được Đại học California, Berkeley bắt đầu phân phối từ những năm 1970. Được phân phối tự do và chuyển qua nhiều máy tính mini, cuối cùng nó cũng thu được một lượng lớn người sử dụng trên PC, chủ yếu là dưới dạng các phiên bản FreeBSD, NetBSD và OpenBSD. Ví dụ. Hệ điều hành Unix và các sản phẩm tương tự. Unix ban đầu được viết bằng hợp ngữ. Ken Thompson đã viết B, chủ yếu dựa trên BCPL, dựa trên kinh nghiệm của ông trong dự án MULTICS. B được thay thế bằng C, và Unix, được viết lại bằng C, được phát triển thành một họ lớn, phức tạp gồm các hệ điều hành liên quan đến nhau có ảnh hưởng đến mọi hệ điều hành hiện đại (xem Lịch sử). Họ các hệ điều hành "giống Unix" là một nhóm hệ điều hành đa dạng, với một số danh mục con chính bao gồm Hệ thống V, BSD và Linux. Tên " UNIX " là nhãn hiệu của The Open Group cấp phép cho nó sử dụng với bất kỳ hệ điều hành nào đã được chứng minh là phù hợp với định nghĩa của họ.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
"Giống UNIX" thường được dùng để chỉ một tập hợp lớn các hệ điều hành giống với UNIX gốc. Các hệ thống giống Unix chạy trên nhiều loại kiến trúc máy tính. Chúng được sử dụng nhiều cho các máy chủ trong kinh doanh, cũng như các máy trạm trong môi trường học thuật và kỹ thuật. Các biến thể UNIX miễn phí, chẳng hạn như Linux và BSD, rất phổ biến ở những khu vực này. Bốn hệ điều hành được The Open Group (chủ sở hữu nhãn hiệu Unix) chứng nhận là Unix. HP -UX của HP và AIX của IBM đều là hậu duệ của System V Unix ban đầu và được thiết kế để chỉ chạy trên phần cứng của nhà cung cấp tương ứng. Ngược lại, Solaris của Sun Microsystems có thể chạy trên nhiều loại phần cứng, bao gồm máy chủ x86, Sparc và PC. MacOS của Apple, sự thay thế cho Mac OS (không phải Unix) trước đó của Apple, là một biến thể BSD dựa trên hạt nhân lai có nguồn gốc từ NeXTSTEP, Mach và FreeBSD. Khả năng tương tác giữa các hệ điều hành Unix đã được thực hiện bằng cách thiết lập tiêu chuẩn POSIX. Tiêu chuẩn POSIX có thể được áp dụng cho bất kỳ hệ điều hành nào, mặc dù ban đầu nó được tạo ra cho các biến thể Unix khác nhau. BSD và các sản phẩm con của nó. Một nhóm con của họ Unix là họ Phân phối Phần mềm Berkeley, bao gồm FreeBSD, NetBSD và OpenBSD. Các hệ điều hành này thường thấy nhất trên máy chủ web, mặc dù chúng cũng có thể hoạt động như một hệ điều hành máy tính cá nhân. Internet có phần lớn sự tồn tại của nó đối với BSD, vì nhiều giao thức hiện nay thường được máy tính sử dụng để kết nối, gửi và nhận dữ liệu qua mạng đã được triển khai và cải tiến rộng rãi trong BSD. World Wide Web cũng lần đầu tiên được trình diễn trên một số máy tính chạy hệ điều hành dựa trên BSD được gọi là NeXTSTEP. Năm 1974, Đại học California, Berkeley lắp đặt hệ thống Unix đầu tiên của mình. Theo thời gian, các sinh viên và nhân viên trong khoa khoa học máy tính ở đó bắt đầu thêm các chương trình mới để làm cho mọi thứ dễ dàng hơn, chẳng hạn như trình soạn thảo văn bản. Khi Berkeley nhận được máy tính VAX mới vào năm 1978 có cài đặt Unix, các sinh viên chưa tốt nghiệp của trường đã sửa đổi Unix nhiều hơn để tận dụng khả năng phần cứng của máy tính. Các Defense Advanced Research Projects Agency của Mỹ Bộ Quốc phòng mất sự quan tâm, và quyết định tài trợ cho dự án.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Nhiều trường học, tập đoàn và tổ chức chính phủ đã chú ý và bắt đầu sử dụng phiên bản Unix của Berkeley thay vì phiên bản chính thức do AT&T phân phối. Steve Jobs, sau khi rời Apple Inc. vào năm 1985, thành lập NeXT Inc., một công ty sản xuất máy tính cao cấp chạy trên một biến thể của BSD có tên là NeXTSTEP. Một trong những máy tính này được Tim Berners-Lee sử dụng làm máy chủ web đầu tiên tạo ra World Wide Web. Các nhà phát triển như Keith Bostic khuyến khích dự án thay thế bất kỳ mã không miễn phí nào có nguồn gốc từ Bell Labs. Tuy nhiên, sau khi việc này được thực hiện, AT&T đã khởi kiện. Sau hai năm tranh chấp pháp lý, dự án BSD đã sinh ra một số công cụ phái sinh miễn phí, chẳng hạn như NetBSD và FreeBSD (cả hai vào năm 1993) và OpenBSD (từ NetBSD vào năm 1995). macOS. macOS (trước đây là "Mac OS X" và sau này là "OS X") là một dòng hệ điều hành đồ họa lõi mở được phát triển, tiếp thị và bán bởi Apple Inc., hệ điều hành mới nhất được tải sẵn trên tất cả các máy tính Macintosh hiện đang vận chuyển. macOS là sự kế thừa của Mac OS cổ điển ban đầu, là hệ điều hành chính của Apple từ năm 1984. Không giống như người tiền nhiệm của nó, macOS là một hệ điều hành UNIX được xây dựng trên công nghệ đã được phát triển tại NeXT trong nửa sau của những năm 1980 và cho đến khi Apple mua lại công ty vào đầu năm 1997. Hệ điều hành được phát hành lần đầu tiên vào năm 1999 với tên gọi Mac OS X Server 1.0, sau đó vào tháng 3 năm 2001 bởi một phiên bản máy khách (Mac OS X v10.0 "Cheetah"). Kể từ đó, sáu phiên bản "máy khách" và " máy chủ " khác biệt hơn của macOS đã được phát hành, cho đến khi cả hai được hợp nhất trong OS X 10.7 "Lion". Trước khi hợp nhất với macOS, phiên bản máy chủmacOS Servercó kiến trúc giống hệt hệ điều hành cho máy tính để bàn và thường chạy trên dòng phần cứng máy chủ Macintosh của Apple. macOS Server bao gồm các công cụ phần mềm quản lý và quản lý nhóm công việc cung cấp quyền truy cập đơn giản vào các dịch vụ mạng chính, bao gồm tác nhân truyền thư, máy chủ Samba, máy chủ LDAP, máy chủ tên miền và các công cụ khác. Với Mac OS X v10.7 Lion, tất cả các khía cạnh máy chủ của Mac OS X Server đã được tích hợp vào phiên bản máy khách và sản phẩm được đổi tên thành "OS X" (bỏ "Mac" khỏi tên).
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Các công cụ máy chủ hiện được cung cấp dưới dạng ứng dụng. Linux. Nhân Linux bắt nguồn từ năm 1991, là một dự án của Linus Torvalds, khi đang là sinh viên đại học ở Phần Lan. Anh ấy đã đăng thông tin về dự án của mình trên một nhóm tin dành cho sinh viên và lập trình viên máy tính, đồng thời nhận được sự hỗ trợ và giúp đỡ từ các tình nguyện viên đã thành công trong việc tạo ra một nhân hoàn chỉnh và có chức năng. Linux giống Unix, nhưng được phát triển mà không có bất kỳ mã nguồn Unix nào, không giống như BSD và các biến thể của nó. Do mô hình giấy phép mở của nó, mã nhân Linux có sẵn để nghiên cứu và sửa đổi, dẫn đến việc nó được sử dụng trên nhiều loại máy tính từ siêu máy tính đến đồng hồ thông minh. Mặc dù các ước tính cho thấy Linux chỉ được sử dụng trên 1,82% của tất cả các PC "để bàn" (hoặc máy tính xách tay), nó đã được chấp nhận rộng rãi để sử dụng trong máy chủ và các hệ thống nhúng như điện thoại di động. Linux đã thay thế Unix trên nhiều nền tảng và được sử dụng trên hầu hết các siêu máy tính bao gồm cả 385 hàng đầu. Nhiều máy tính giống nhau cũng có trên Green500 (nhưng theo thứ tự khác nhau) và Linux chạy trên top 10. Linux cũng thường được sử dụng trên các máy tính nhỏ tiết kiệm năng lượng khác, chẳng hạn như điện thoại thông minh và đồng hồ thông minh. Nhân Linux được sử dụng trong một số bản phân phối phổ biến, chẳng hạn như Red Hat, Debian, Ubuntu, Linux Mint và Android, Chrome OS và Chromium OS của Google. Microsoft Windows. Microsoft Windows là một dòng hệ điều hành độc quyền được Tập đoàn Microsoft thiết kế và chủ yếu nhắm mục tiêu đến các máy tính dựa trên kiến trúc Intel, với ước tính 88,9% tổng mức sử dụng trên các máy tính được kết nối Web. Phiên bản mới nhất là Windows 11. Vào năm 2011, Windows 7 đã vượt qua Windows XP để trở thành phiên bản phổ biến nhất được sử dụng. Microsoft Windows được phát hành lần đầu tiên vào năm 1985, với tư cách là một môi trường điều hành chạy trên nền tảng MS-DOS, đây là hệ điều hành tiêu chuẩn được sử dụng trên hầu hết các máy tính cá nhân kiến trúc Intel vào thời điểm đó. Năm 1995, Windows 95 được phát hành chỉ sử dụng MS-DOS làm bootstrap. Để tương thích ngược, Win9x có thể chạy MS-DOS ở chế độ thực và với các driver 16-bit Windows 3.x. Windows ME, được phát hành năm 2000, là phiên bản cuối cùng trong gia đình Win9x.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Các phiên bản sau này đều dựa trên nhân của Windows NT. Phiên bản ứng dụng khách hiện tại của Windows chạy trên các vi xử lý IA-32, x86-64 và 32-bit ARM. Ngoài ra các vi xử lý Itanium vẫn được hỗ trợ trong phiên bản máy chủ cũ hơn Windows Server 2008 R2. Trước đây, Windows NT hỗ trợ các kiến trúc bổ sung. Các phiên bản máy chủ của Windows được sử dụng rộng rãi. Trong những năm gần đây, Microsoft đã chi ra số vốn đáng kể trong nỗ lực thúc đẩy việc sử dụng Windows như một hệ điều hành máy chủ. Tuy nhiên, việc sử dụng Windows trên máy chủ không phổ biến như trên máy tính cá nhân do Windows phải cạnh tranh với Linux và BSD để giành thị phần máy chủ. ReactOS là một hệ điều hành thay thế cho Windows, đang được phát triển trên các nguyên tắc của Windowsmà không sử dụng bất kỳ mã nguồn nào của Microsoft. Khác. Đã có nhiều hệ điều hành quan trọng trong thời của chúng nhưng hiện tại không còn được như vậy nữa, chẳng hạn như AmigaOS; OS/2 của IBM và Microsoft; Mac OS cổ điển, tiền thân không phải Unix của macOS của Apple; BeOS; XTS-300; Hệ điều hành RISC; MorphOS; Haiku; BareMetal và FreeMint. Một số vẫn được sử dụng trong các thị trường ngách và tiếp tục được phát triển như một nền tảng thiểu số cho các cộng đồng đam mê và các ứng dụng chuyên dụng. OpenVMS, trước đây của DEC, vẫn đang được VMS Software Inc. phát triển tích cực. Tuy nhiên, các hệ điều hành này hầu như chỉ được sử dụng trong học thuật, giáo dục hệ điều hành hoặc nghiên cứu về các khái niệm hệ điều hành. Ví dụ điển hình của một hệ thống đáp ứng cả hai vai trò là MINIX, trong khi ví dụ Singularity được sử dụng thuần túy cho nghiên cứu. Một ví dụ khác là Oberon được thiết kế tại ETH Zürich bởi Niklaus Wirth, Jürg Gutknecht và một nhóm sinh viên tại Viện Hệ thống Máy tính vào những năm 1980. Nó được sử dụng chủ yếu cho nghiên cứu, giảng dạy và công việc hàng ngày trong nhóm của Wirth. Các hệ điều hành khác đã không giành được thị phần đáng kể, nhưng đã đưa ra những đổi mới có ảnh hưởng đến các hệ điều hành chính thống, đặc biệt là Plan 9 của Bell Labs. Thành phần. Tất cả các thành phần của hệ điều hành đều tồn tại để làm cho các bộ phận khác nhau của máy tính hoạt động cùng nhau.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Tất cả phần mềm người dùng cần phải thông qua hệ điều hành để sử dụng bất kỳ phần cứng nào, cho dù nó đơn giản như chuột hoặc bàn phím hay phức tạp như một thành phần Internet. Nhân. Với sự hỗ trợ của phần sụn và trình điều khiển thiết bị, nhân của hệ điều hành cung cấp mức kiểm soát cơ bản nhất đối với tất cả các thiết bị phần cứng của máy tính. Nó quản lý quyền truy cập bộ nhớ cho các chương trình trong RAM, nó xác định chương trình nào có quyền truy cập vào tài nguyên phần cứng nào, nó thiết lập hoặc đặt lại trạng thái hoạt động của CPU để luôn hoạt động tối ưu và nó tổ chức dữ liệu trong các bộ nhớ lưu trữ tĩnh với các hệ thống tập tin trên các phương tiện như đĩa, băng, bộ nhớ flash... Thực hiện chương trình. Hệ điều hành cung cấp giao diện giữa chương trình ứng dụng và phần cứng máy tính, do đó chương trình ứng dụng chỉ có thể tương tác với phần cứng bằng cách tuân theo các quy tắc và thủ tục được lập trình trong hệ điều hành. Hệ điều hành cũng là một tập hợp các dịch vụ giúp đơn giản hóa việc phát triển và thực thi các chương trình ứng dụng. Việc thực thi một chương trình ứng dụng bao gồm việc tạo ra một quy trình bởi hạt nhân hệ điều hành để gán không gian bộ nhớ và các tài nguyên khác, thiết lập mức độ ưu tiên cho quy trình trong hệ thống đa tác vụ, tải mã nhị phân của chương trình vào bộ nhớ và bắt đầu thực thi chương trình ứng dụng. sau đó tương tác với người dùng và với các thiết bị phần cứng. Ngắt. Ngắt là trung tâm của hệ điều hành, vì chúng cung cấp một cách hiệu quả để hệ điều hành tương tác và phản ứng với môi trường của nó. Thay thếđể hệ điều hành "xem" các nguồn đầu vào khác nhau cho các sự kiện (bỏ phiếu) yêu cầu hành độngcó thể được tìm thấy trong các hệ thống cũ với ngăn xếp rất nhỏ (50 hoặc 60 byte) nhưng không bình thường trong các hệ thống hiện đại với ngăn xếp lớn. Lập trình dựa trên ngắt được hầu hết các CPU hiện đại hỗ trợ trực tiếp. Ngắt cung cấp cho máy tính một cách tự động lưu các ngữ cảnh đăng ký cục bộ và chạy mã cụ thể để đáp ứng các sự kiện.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Ngay cả những máy tính rất cơ bản cũng hỗ trợ ngắt phần cứng và cho phép lập trình viên chỉ định mã có thể chạy khi sự kiện đó diễn ra. Khi nhận được một ngắt, phần cứng của máy tính sẽ tự động tạm dừng bất kỳ chương trình nào hiện đang chạy, lưu trạng thái của nó và chạy mã máy tính trước đó được liên kết với ngắt; điều này tương tự như việc đặt dấu trang trong sách để trả lời một cuộc gọi điện thoại. Trong các hệ điều hành hiện đại, các ngắt được nhân của hệ điều hành xử lý. Ngắt có thể đến từ phần cứng của máy tính hoặc chương trình đang chạy. Khi một thiết bị phần cứng kích hoạt ngắt, hạt nhân của hệ điều hành sẽ quyết định cách đối phó với sự kiện này, thường bằng cách chạy một số mã xử lý. Số lượng mã đang được chạy phụ thuộc vào mức độ ưu tiên của ngắt (ví dụ: một người thường trả lời báo động bằng máy dò khói trước khi trả lời điện thoại). Xử lý ngắt phần cứng là một tác vụ thường được giao cho phần mềm được gọi là trình điều khiển thiết bị, phần mềm này có thể là một phần của nhân hệ điều hành, một phần của chương trình khác hoặc cả hai. Trình điều khiển thiết bị sau đó có thể chuyển tiếp thông tin đến một chương trình đang chạy bằng nhiều cách khác nhau. Một chương trình cũng có thể kích hoạt một ngắt đối với hệ điều hành. Ví dụ: nếu một chương trình muốn truy cập vào phần cứng, nó có thể làm gián đoạn nhân của hệ điều hành, điều này khiến quyền kiểm soát được chuyển lại cho nhân. Sau đó, nhân sẽ xử lý yêu cầu. Nếu một chương trình muốn có thêm tài nguyên (hoặc muốn loại bỏ tài nguyên) như bộ nhớ, nó sẽ kích hoạt ngắt để thu hút sự chú ý của nhân. Các chế độ. Các bộ vi xử lý hiện đại (CPU hoặc MPU) hỗ trợ nhiều chế độ hoạt động. Các CPU có khả năng này cung cấp ít nhất hai chế độ: chế độ người dùng và chế độ giám sát. Nói chung, hoạt động ở chế độ giám sát cho phép truy cập không hạn chế vào tất cả tài nguyên máy, bao gồm tất cả các lệnh MPU. Chế độ người dùng hoạt động đặt ra giới hạn đối với việc sử dụng lệnh và thường không cho phép truy cập trực tiếp vào tài nguyên máy.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
CPU cũng có thể có các chế độ khác tương tự như chế độ người dùng, chẳng hạn như chế độ ảo để mô phỏng các loại bộ xử lý cũ hơn, chẳng hạn như bộ xử lý 16 bit trên bộ xử lý 32 bit hoặc bộ xử lý 32 bit trên bộ xử lý 64 bit. Khi bật nguồn hoặc đặt lại, hệ thống bắt đầu ở chế độ giám sát. Khi một nhân hệ điều hành đã được tải và khởi động, ranh giới giữa chế độ người dùng và chế độ giám sát (còn được gọi là chế độ nhân) có thể được thiết lập. Chế độ giám sát được hạt nhân sử dụng cho các tác vụ cấp thấp cần quyền truy cập không hạn chế vào phần cứng, chẳng hạn như kiểm soát cách bộ nhớ được truy cập và giao tiếp với các thiết bị như ổ đĩa và thiết bị hiển thị video. Ngược lại, chế độ người dùng được sử dụng cho hầu hết mọi thứ khác. Các chương trình ứng dụng, chẳng hạn như bộ xử lý văn bản và trình quản lý cơ sở dữ liệu, hoạt động trong chế độ người dùng và chỉ có thể truy cập tài nguyên máy bằng cách chuyển quyền điều khiển sang hạt nhân, một quá trình gây chuyển sang chế độ giám sát. Thông thường, việc chuyển quyền điều khiển tới hạt nhân được thực hiện bằng cách thực hiện lệnh ngắt phần mềm, chẳng hạn như lệnh Motorola 68000 codice_1. Sự gián đoạn của phần mềm khiến bộ vi xử lý chuyển từ chế độ người dùng sang chế độ người giám sát và bắt đầu thực thi mã cho phép nhân thực hiện kiểm soát. Ở chế độ người dùng, các chương trình thường có quyền truy cập vào một tập hợp các lệnh hạn chế của bộ vi xử lý và thường không thể thực hiện bất kỳ lệnh nào có thể gây gián đoạn hoạt động của hệ thống. Trong chế độ người giám sát, các giới hạn thực thi lệnh thường được loại bỏ, cho phép hạt nhân truy cập không hạn chế vào tất cả các tài nguyên máy. Thuật ngữ "tài nguyên chế độ người dùng" thường đề cập đến một hoặc nhiều thanh ghi CPU, chứa thông tin mà chương trình đang chạy không được phép thay đổi. Các nỗ lực thay đổi các tài nguyên này thường gây ra chuyển đổi sang chế độ giám sát, nơi hệ điều hành có thể đối phó với hoạt động bất hợp pháp mà chương trình đang cố gắng làm, ví dụ, bằng cách buộc chương trình phải chấm dứt ("giết" chương trình). Quản lý bộ nhớ.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Quản lý bộ nhớ. Nhân hệ điều hành đa chương trình phải chịu trách nhiệm quản lý tất cả bộ nhớ hệ thống hiện đang được các chương trình sử dụng. Điều này đảm bảo rằng một chương trình không can thiệp vào bộ nhớ đã được chương trình khác sử dụng. Vì chương trình chia sẻ thời gian, mỗi chương trình phải có quyền truy cập độc lập vào bộ nhớ. Quản lý bộ nhớ hợp tác, được sử dụng bởi nhiều hệ điều hành ban đầu, giả định rằng tất cả các chương trình sử dụng tự nguyện trình quản lý bộ nhớ của nhân và không vượt quá bộ nhớ được cấp phát của chúng. Hệ thống quản lý bộ nhớ này hầu như không còn xuất hiện nữa, vì các chương trình thường chứa các lỗi có thể khiến chúng vượt quá bộ nhớ được cấp phát. Nếu một chương trình bị lỗi, nó có thể khiến bộ nhớ được sử dụng bởi một hoặc nhiều chương trình khác bị ảnh hưởng hoặc bị ghi đè. Các chương trình hoặc vi rút độc hại có thể cố ý thay đổi bộ nhớ của chương trình khác hoặc có thể ảnh hưởng đến hoạt động của chính hệ điều hành. Với tính năng quản lý bộ nhớ hợp tác, chỉ cần một chương trình hoạt động sai có thể làm hệ thống gặp sự cố. Bảo vệ bộ nhớ cho phép hạt nhân giới hạn quyền truy cập của một tiến trình vào bộ nhớ của máy tính. Có nhiều phương pháp bảo vệ bộ nhớ khác nhau, bao gồm phân đoạn bộ nhớ và phân trang. Tất cả các phương pháp đều yêu cầu một số mức hỗ trợ phần cứng (chẳng hạn như 80286 MMU), điều này không tồn tại trong tất cả các máy tính. Trong cả phân đoạn và phân trang, một số thanh ghi chế độ được bảo vệ chỉ định cho CPU địa chỉ bộ nhớ mà nó sẽ cho phép một chương trình đang chạy truy cập. Nỗ lực truy cập các địa chỉ khác sẽ kích hoạt ngắt khiến CPU vào lại chế độ giám sát, đặt hạt nhân phụ trách. Đây được gọi là vi phạm phân đoạn hoặc viết tắt là Seg-V, và vì rất khó để gán một kết quả có ý nghĩa cho một hoạt động như vậy và bởi vì nó thường là dấu hiệu của một chương trình hoạt động sai, nhân của hệ điều hành thường sử dụng để chấm dứt chương trình vi phạm và báo cáo lỗi.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Các phiên bản Windows 3.1 đến ME có một số mức độ bảo vệ bộ nhớ, nhưng các chương trình có thể dễ dàng phá vỡ nhu cầu sử dụng nó. Một lỗi bảo vệ chung sẽ được tạo ra, cho thấy một vi phạm phân đoạn đã xảy ra; tuy nhiên, hệ thống sẽ thường xuyên bị lỗi và đổ vỡ. Bộ nhớ ảo. Việc sử dụng địa chỉ bộ nhớ ảo (chẳng hạn như phân trang hoặc phân đoạn) có nghĩa là hạt nhân có thể chọn bộ nhớ mà mỗi chương trình có thể sử dụng tại bất kỳ thời điểm nào, cho phép hệ điều hành sử dụng cùng vị trí bộ nhớ cho nhiều tác vụ. Nếu một chương trình cố gắng truy cập bộ nhớ không nằm trong phạm vi bộ nhớ có thể truy cập hiện tại của nó, nhưng dù sao cũng đã được cấp phát cho nó, thì hạt nhân sẽ bị gián đoạn giống như khi chương trình vượt quá bộ nhớ được cấp phát. Trong UNIX, loại ngắt này được gọi là lỗi trang. Khi hạt nhân phát hiện lỗi trang, nó thường điều chỉnh phạm vi bộ nhớ ảo của chương trình đã kích hoạt nó, cấp cho nó quyền truy cập vào bộ nhớ được yêu cầu. Điều này cung cấp cho hạt nhân quyền lực tùy ý đối với nơi bộ nhớ của một ứng dụng cụ thể được lưu trữ, hoặc thậm chí nó đã thực sự được cấp phát hay chưa. Trong các hệ điều hành hiện đại, bộ nhớ được truy cập ít thường xuyên hơn có thể được lưu trữ tạm thời trên đĩa hoặc phương tiện khác để cung cấp không gian đó cho các chương trình khác. Điều này được gọi là hoán đổi, vì một vùng bộ nhớ có thể được nhiều chương trình sử dụng và những gì vùng bộ nhớ đó chứa có thể được hoán đổi hoặc trao đổi theo yêu cầu. "Bộ nhớ ảo" cung cấp cho lập trình viên hoặc người dùng nhận thức rằng có một lượng RAM trong máy tính lớn hơn nhiều so với thực tế. Đa nhiệm. Đa nhiệm đề cập đến việc chạy nhiều chương trình máy tính độc lập trên cùng một máy tính; tạo ra vẻ ngoài mà nó đang thực hiện các nhiệm vụ cùng một lúc. Vì hầu hết các máy tính có thể làm nhiều nhất một hoặc hai việc cùng một lúc, điều này thường được thực hiện thông qua chia sẻ thời gian, có nghĩa là mỗi chương trình sử dụng một phần thời gian của máy tính để thực thi.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Hạt nhân hệ điều hành chứa một chương trình lập lịch để xác định lượng thời gian mà mỗi tiến trình dành để thực thi và theo thứ tự kiểm soát thực thi sẽ được chuyển cho các chương trình. Kiểm soát được hạt nhân chuyển cho một quá trình, cho phép chương trình truy cập vào CPU và bộ nhớ. Sau đó, quyền điều khiển được trả lại cho hạt nhân thông qua một số cơ chế, để một chương trình khác có thể được phép sử dụng CPU. Cái gọi là chuyển quyền kiểm soát giữa hạt nhân và các ứng dụng được gọi là chuyển đổi ngữ cảnh. Một mô hình ban đầu điều chỉnh việc phân bổ thời gian cho các chương trình được gọi là đa nhiệm hợp tác. Trong mô hình này, khi điều khiển được hạt nhân chuyển cho một chương trình, nó có thể thực thi bao lâu tùy thích trước khi trả lại điều khiển một cách rõ ràng cho hạt nhân. Điều này có nghĩa là một chương trình độc hại hoặc bị trục trặc có thể không chỉ ngăn cản bất kỳ chương trình nào khác sử dụng CPU mà còn có thể treo toàn bộ hệ thống nếu nó đi vào một vòng lặp vô hạn. Các hệ điều hành hiện đại mở rộng khái niệm về quyền ưu tiên của ứng dụng đối với trình điều khiển thiết bị và mã hạt nhân, do đó hệ điều hành cũng có quyền kiểm soát ưu tiên đối với thời gian chạy nội bộ. Triết lý điều chỉnh đa nhiệm ưu tiên là đảm bảo rằng tất cả các chương trình đều có thời gian trên CPU. Điều này ngụ ý rằng tất cả các chương trình phải được giới hạn trong khoảng thời gian chúng được phép sử dụng trên CPU mà không bị gián đoạn. Để thực hiện điều này, các hạt nhân hệ điều hành hiện đại sử dụng ngắt định thời. Một bộ đếm thời gian chế độ được bảo vệ được đặt bởi hạt nhân sẽ kích hoạt việc quay trở lại chế độ giám sát sau khi thời gian được chỉ định trôi qua. (Xem phần trên về Ngắt và hoạt động ở chế độ kép.) Trên nhiều hệ điều hành người dùng duy nhất, đa nhiệm hợp tác là hoàn toàn phù hợp, vì các máy tính gia đình thường chạy một số lượng nhỏ các chương trình đã được thử nghiệm tốt. AmigaOS là một ngoại lệ, có tính năng đa nhiệm ưu tiên từ phiên bản đầu tiên của nó.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Windows NT là phiên bản đầu tiên của Microsoft Windows thực thi đa nhiệm ưu tiên, nhưng nó đã không tiếp cận thị trường người dùng gia đình cho đến khi có Windows XP (vì Windows NT được nhắm mục tiêu vào các chuyên gia). Truy cập đĩa và hệ thống tập tin. Quyền truy cập vào dữ liệu được lưu trữ trên đĩa là tính năng trung tâm của tất cả các hệ điều hành. Máy tính lưu trữ dữ liệu trên đĩa bằng cách sử dụng các tập tin, được cấu trúc theo những cách cụ thể để cho phép truy cập nhanh hơn, độ tin cậy cao hơn và tận dụng tốt hơn dung lượng có sẵn của ổ đĩa. Cách cụ thể mà các tập tin được lưu trữ trên đĩa được gọi là hệ thống tập tin và cho phép các tập tin có tên và thuộc tính. Nó cũng cho phép chúng được lưu trữ trong một hệ thống phân cấp các thư mục hoặc các thư mục được sắp xếp trong cây thư mục. Các hệ điều hành ban đầu thường hỗ trợ một loại ổ đĩa duy nhất và chỉ một loại hệ thống tập tin. Các hệ thống tập tin ban đầu bị hạn chế về dung lượng, tốc độ và các loại tên tập tin và cấu trúc thư mục mà chúng có thể sử dụng. Những hạn chế này thường phản ánh những hạn chế trong hệ điều hành mà chúng được thiết kế, khiến một hệ điều hành rất khó hỗ trợ nhiều hệ thống tập tin. Trong khi nhiều hệ điều hành đơn giản hơn hỗ trợ một số tùy chọn hạn chế để truy cập hệ thống lưu trữ, các hệ điều hành như UNIX và Linux hỗ trợ công nghệ được gọi là hệ thống tập tin ảo hoặc VFS. Hệ điều hành như UNIX hỗ trợ nhiều loại thiết bị lưu trữ, bất kể thiết kế hoặc hệ thống tập tin của chúng, cho phép chúng được truy cập thông qua giao diện lập trình ứng dụng chung (API). Điều này làm cho các chương trình không cần thiết phải có bất kỳ kiến thức nào về thiết bị mà chúng đang truy cập. VFS cho phép hệ điều hành cung cấp các chương trình có quyền truy cập vào số lượng thiết bị không giới hạn với vô số hệ thống tập tin được cài đặt trên chúng, thông qua việc sử dụng trình điều khiển thiết bị cụ thể và trình điều khiển hệ thống tập tin. Thiết bị lưu trữ được kết nối, chẳng hạn như ổ cứng, được truy cập thông qua trình điều khiển thiết bị.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Trình điều khiển thiết bị hiểu ngôn ngữ cụ thể của ổ đĩa và có thể dịch ngôn ngữ đó sang ngôn ngữ chuẩn được hệ điều hành sử dụng để truy cập tất cả các ổ đĩa. Trên UNIX, đây là ngôn ngữ của các thiết bị khối. Khi hạt nhân có sẵn một trình điều khiển thiết bị thích hợp, nó có thể truy cập nội dung của ổ đĩa ở định dạng thô, có thể chứa một hoặc nhiều hệ thống tập tin. Trình điều khiển hệ thống tập tin được sử dụng để dịch các lệnh được sử dụng để truy cập từng hệ thống tập tin cụ thể thành một tập hợp lệnh tiêu chuẩn mà hệ điều hành có thể sử dụng để nói chuyện với tất cả các hệ thống tập tin. Các chương trình sau đó có thể xử lý các hệ thống tập tin này trên cơ sở tên tập tin và các thư mục / thư mục, được chứa trong cấu trúc phân cấp. Chúng có thể tạo, xóa, mở và đóng các tập tin cũng như thu thập nhiều thông tin khác nhau về chúng, bao gồm quyền truy cập, kích thước, dung lượng trống và ngày tạo và sửa đổi. Sự khác biệt khác nhau giữa các hệ thống tập tin làm cho việc hỗ trợ tất cả các hệ thống tập tin trở nên khó khăn. Các ký tự được phép trong tên tập tin, phân biệt chữ hoa chữ thường và sự hiện diện của nhiều loại thuộc tính tập tin khác nhau khiến việc triển khai một giao diện duy nhất cho mọi hệ thống tập tin trở thành một nhiệm vụ khó khăn. Các hệ điều hành có xu hướng khuyến nghị sử dụng (và do đó hỗ trợ nguyên bản) các hệ thống tập tin được thiết kế đặc biệt cho chúng; ví dụ: NTFS trong Windows và ext3 và ReiserFS trong Linux. Tuy nhiên, trên thực tế, các trình điều khiển của bên thứ ba thường có sẵn để hỗ trợ cho các hệ thống tập tin được sử dụng rộng rãi nhất trong hầu hết các hệ điều hành đa năng (ví dụ: NTFS có sẵn trong Linux thông qua NTFS-3g, và ext2/3 và ReiserFS có sẵn trong Windows thông qua phần mềm của bên thứ ba). Hỗ trợ cho hệ thống tập tin rất đa dạng giữa các hệ điều hành hiện đại, mặc dù có một số hệ thống tập tin phổ biến mà hầu như tất cả các hệ điều hành đều bao gồm hỗ trợ và trình điều khiển. Hệ điều hành khác nhau tùy thuộc vào hỗ trợ hệ thống tập tin và định dạng đĩa mà chúng có thể được cài đặt.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Trong Windows, mỗi hệ thống tập tin thường bị giới hạn trong ứng dụng cho một số phương tiện nhất định; ví dụ: đĩa CD phải sử dụng ISO 9660 hoặc UDF và kể từ Windows Vista, NTFS là hệ thống tập tin duy nhất mà hệ điều hành có thể được cài đặt. Có thể cài đặt Linux trên nhiều loại hệ thống tập tin. Không giống như các hệ điều hành khác, Linux và UNIX cho phép bất kỳ hệ thống tập tin nào được sử dụng bất kể phương tiện nào được lưu trữ trong đó, cho dù đó là ổ cứng, đĩa (CD, DVD...), ổ USB flash, hoặc thậm chí được chứa trong một tập tin nằm trên hệ thống tập tin khác. Trình điều khiển thiết bị. Trình điều khiển thiết bị là một loại phần mềm máy tính cụ thể được phát triển để cho phép tương tác với các thiết bị phần cứng. Thông thường, điều này tạo thành một giao diện để giao tiếp với thiết bị, thông qua bus máy tính cụ thể hoặc hệ thống con giao tiếp mà phần cứng được kết nối, cung cấp các lệnh đến và/hoặc nhận dữ liệu từ thiết bị và ở đầu kia, các giao diện cần thiết cho hoạt động ứng dụng hệ thống và phần mềm. Đây là một chương trình máy tính chuyên biệt phụ thuộc vào phần cứng cũng là hệ điều hành cụ thể cho phép một chương trình khác, thường là hệ điều hành hoặc gói phần mềm ứng dụng hoặc chương trình máy tính chạy trong nhân hệ điều hành, tương tác một cách minh bạch với thiết bị phần cứng và thường cung cấp xử lý ngắt cần thiết cho bất kỳ nhu cầu giao tiếp phần cứng phụ thuộc thời gian không đồng bộ cần thiết nào. Mục tiêu thiết kế chính của trình điều khiển thiết bị là tính trừu tượng. Mỗi kiểu phần cứng (ngay cả trong cùng một loại thiết bị) đều khác nhau. Các mô hình mới hơn cũng được phát hành bởi các nhà sản xuất cung cấp hiệu suất đáng tin cậy hơn hoặc tốt hơn và các mô hình mới hơn này thường được kiểm soát khác nhau. Máy tính và hệ điều hành của chúng không thể biết cách điều khiển mọi thiết bị, cả hiện tại và tương lai. Để giải quyết vấn đề này, hệ điều hành về cơ bản ra lệnh cách mọi loại thiết bị phải được kiểm soát. Sau đó, chức năng của trình điều khiển thiết bị là chuyển các lệnh gọi chức năng được ủy quyền của hệ điều hành này thành các lệnh gọi cụ thể của thiết bị.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Về lý thuyết, một thiết bị mới, được điều khiển theo cách mới, sẽ hoạt động chính xác nếu có sẵn trình điều khiển phù hợp. Trình điều khiển mới này đảm bảo rằng thiết bị dường như hoạt động như bình thường theo quan điểm của hệ điều hành. Trong các phiên bản Windows trước Windows Vista và các phiên bản Linux trước 2.6, tất cả việc thực thi trình điều khiển là hợp tác, có nghĩa là nếu trình điều khiển đi vào một vòng lặp vô hạn, nó sẽ đóng băng hệ thống. Các bản sửa đổi gần đây hơn của các hệ điều hành này kết hợp quyền ưu tiên hạt nhân, trong đó hạt nhân ngắt trình điều khiển để cung cấp cho nó các nhiệm vụ, sau đó tự tách mình khỏi quy trình cho đến khi nó nhận được phản hồi từ trình điều khiển thiết bị hoặc cung cấp nhiều nhiệm vụ khác để thực hiện. Nối mạng. Hiện tại hầu hết các hệ điều hành đều hỗ trợ nhiều giao thức mạng, phần cứng và ứng dụng để sử dụng chúng. Điều này có nghĩa là các máy tính chạy các hệ điều hành khác nhau có thể tham gia vào một mạng chung để chia sẻ tài nguyên như máy tính, tập tin, máy in và máy quét bằng cách sử dụng kết nối có dây hoặc không dây. Về cơ bản, mạng có thể cho phép hệ điều hành của máy tính truy cập vào các tài nguyên của một máy tính từ xa để hỗ trợ các chức năng tương tự nếu các tài nguyên đó được kết nối trực tiếp với máy tính cục bộ. Điều này bao gồm mọi thứ từ giao tiếp đơn giản, đến sử dụng hệ thống tập tin được nối mạng hoặc thậm chí chia sẻ phần cứng âm thanh hoặc đồ họa của máy tính khác. Một số dịch vụ mạng cho phép truy cập tài nguyên của máy tính một cách minh bạch, chẳng hạn như SSH cho phép người dùng mạng truy cập trực tiếp vào giao diện dòng lệnh của máy tính. Mạng máy khách/máy chủ cho phép một chương trình trên máy tính, được gọi là máy khách, kết nối qua mạng với một máy tính khác, được gọi là máy chủ. Máy chủ cung cấp (hoặc máy chủ) các dịch vụ khác nhau cho các máy tính và người dùng mạng khác. Các dịch vụ này thường được cung cấp thông qua các cổng hoặc các điểm truy cập được đánh số ngoài địa chỉ IP của máy chủ.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Mỗi số cổng thường được liên kết với tối đa một chương trình đang chạy, chương trình này chịu trách nhiệm xử lý các yêu cầu đến cổng đó. Daemon, là một chương trình người dùng, có thể lần lượt truy cập các tài nguyên phần cứng cục bộ của máy tính đó bằng cách chuyển các yêu cầu đến nhân hệ điều hành. Nhiều hệ điều hành cũng hỗ trợ một hoặc nhiều giao thức mạng mở hoặc dành riêng cho nhà cung cấp, chẳng hạn như SNA trên hệ thống IBM, DECnet trên hệ thống của Digital Equipment Corporation và giao thức dành riêng cho Microsoft (SMB) trên Windows. Các giao thức cụ thể cho các tác vụ cụ thể cũng có thể được hỗ trợ như NFS để truy cập tập tin. Các giao thức như ESound hoặc esd có thể dễ dàng mở rộng qua mạng để cung cấp âm thanh từ các ứng dụng cục bộ, trên phần cứng âm thanh của hệ thống từ xa. Bảo mật. Một máy tính được bảo mật phụ thuộc vào một số công nghệ hoạt động bình thường. Một hệ điều hành hiện đại cung cấp quyền truy cập vào một số tài nguyên có sẵn cho phần mềm chạy trên hệ thống và cho các thiết bị bên ngoài như mạng thông qua hạt nhân. Hệ điều hành phải có khả năng phân biệt giữa các yêu cầu được phép xử lý và các yêu cầu khác không được xử lý. Mặc dù một số hệ thống có thể phân biệt đơn giản giữa "đặc quyền" và "không đặc quyền", các hệ thống thường có một dạng "nhận dạng người" yêu cầu, chẳng hạn như tên người dùng. Để thiết lập danh tính có thể có một quá trình "xác thực". Thường thì tên người dùng phải được trích dẫn và mỗi tên người dùng có thể có một mật khẩu. Các phương pháp xác thực khác, chẳng hạn như thẻ từ hoặc dữ liệu sinh trắc học, có thể được sử dụng thay thế. Trong một số trường hợp, đặc biệt là các kết nối từ mạng, tài nguyên có thể được truy cập mà không cần xác thực (chẳng hạn như đọc tập tin qua chia sẻ mạng). Cũng được bao hàm bởi khái niệm danh tính yêu cầu là "ủy quyền"; các dịch vụ và tài nguyên cụ thể mà người yêu cầu có thể truy cập sau khi đăng nhập vào hệ thống được liên kết với tài khoản người dùng của người yêu cầu hoặc với các nhóm người dùng được định cấu hình khác nhau mà người yêu cầu thuộc về.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Ngoài mô hình bảo mật cho phép hoặc không cho phép, một hệ thống có mức độ bảo mật cao cũng cung cấp các tùy chọn kiểm tra. Những điều này sẽ cho phép theo dõi các yêu cầu truy cập vào tài nguyên (chẳng hạn như "ai đã đọc tập tin này?"). Bảo mật nội bộ, hoặc bảo mật từ một chương trình đã chạy chỉ có thể thực hiện được nếu tất cả các yêu cầu có thể có hại phải được thực hiện thông qua các ngắt đối với nhân hệ điều hành. Nếu các chương trình có thể truy cập trực tiếp vào phần cứng và tài nguyên, chúng không thể được bảo mật. Bảo mật bên ngoài liên quan đến yêu cầu từ bên ngoài máy tính, chẳng hạn như đăng nhập vào bảng điều khiển được kết nối hoặc một số loại kết nối mạng. Các yêu cầu bên ngoài thường được chuyển qua trình điều khiển thiết bị đến nhân của hệ điều hành, nơi chúng có thể được chuyển vào các ứng dụng hoặc được thực hiện trực tiếp. Bảo mật của các hệ điều hành từ lâu đã trở thành mối quan tâm vì dữ liệu rất nhạy cảm được lưu trữ trên máy tính, mang tính chất thương mại và quân sự. Bộ Quốc phòng của Chính phủ Hoa Kỳ (DoD) đã tạo ra "Tiêu chí Đánh giá Hệ thống Máy tính Tin cậy" (TCSEC), đây là một tiêu chuẩn đặt ra các yêu cầu cơ bản để đánh giá hiệu quả của bảo mật. Điều này trở nên quan trọng đối với các nhà sản xuất hệ điều hành, bởi vì TCSEC được sử dụng để đánh giá, phân loại và lựa chọn các hệ điều hành đáng tin cậy đang được xem xét để xử lý, lưu trữ và truy xuất thông tin nhạy cảm hoặc đã được phân loại. Các dịch vụ mạng bao gồm các dịch vụ như chia sẻ tập tin, dịch vụ in, email, trang web và giao thức truyền tập tin (FTP), hầu hết trong số đó có thể có bảo mật bị xâm phạm. Ở tuyến đầu của bảo mật là các thiết bị phần cứng được gọi là tường lửa hoặc hệ thống phát hiện / ngăn chặn xâm nhập. Ở cấp độ hệ điều hành, có sẵn một số phần mềm tường lửa, cũng như hệ thống phát hiện / ngăn chặn xâm nhập. Hầu hết các hệ điều hành hiện đại đều có tường lửa phần mềm, được bật theo mặc định.
Hệ điều hành
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5132
Tường lửa phần mềm có thể được cấu hình để cho phép hoặc từ chối lưu lượng mạng đến hoặc từ một dịch vụ hoặc ứng dụng đang chạy trên hệ điều hành. Do đó, người ta có thể cài đặt và đang chạy một dịch vụ không an toàn, chẳng hạn như Telnet hoặc FTP, và không bị đe dọa bởi vi phạm bảo mật vì tường lửa sẽ từ chối tất cả lưu lượng cố gắng kết nối với dịch vụ trên cổng đó. Một chiến lược thay thế và chiến lược hộp cát duy nhất có sẵn trong các hệ thống không đáp ứng các yêu cầu ảo hóa của Popek và Goldberg, là trong đó hệ điều hành không chạy các chương trình người dùng dưới dạng mã gốc, mà thay vào đó là giả lập bộ xử lý hoặc cung cấp máy chủ cho p -code dựa trên hệ thống như Java. Bảo mật nội bộ đặc biệt thích hợp cho các hệ thống nhiều người dùng; nó cho phép mỗi người dùng của hệ thống có các tập tin riêng tư mà những người dùng khác không thể giả mạo hoặc đọc được. Bảo mật nội bộ cũng rất quan trọng nếu sử dụng bất kỳ mục đích nào, vì một chương trình có thể có khả năng vượt qua hệ điều hành, bao gồm cả việc bỏ qua kiểm tra. Phân loại và thuật ngữ. Khái niệm hệ điều hành được tách thành ba thành phần: giao diện người dùng (bao gồm giao diện đồ họa và/hoặc thông dịch dòng lệnh, còn gọi là "shell"), tiện ích hệ thống cấp thấp, và phần lõi—trái tim của hệ điều hành. Phần cứng <-> Phần lõi <-> Shell <-> Ứng dụng +-----------+ 1 2 3 Trong một số hệ điều hành, phần lõi và shell nằm tách rời hoàn toàn, do đó cho phép kết hợp nhiều phần lõi và shell với nhau (như hệ điều hành UNIX), trong hệ điều hành khác thì điều này chỉ là khái niệm.
Bắt cặp trình tự
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5177
Sắp xếp thẳng hàng trình tự (tiếng Anh là sequence alignment) là phương pháp sắp xếp hai hoặc nhiều trình tự nhằm đạt được sự giống nhau tối đa. Các trình tự này có thể được xen bằng các khoảng trống (thường được diễn tả bằng các gạch nối ngang) tại các vị trí có thể để làm sao tạo thành các cột giống nhau (identical) hoặc tương tự nhau (similar). tcctctgcctctgccatcat---caaccccaaagt tcctgtgcatctgcaatcatgggcaaccccaaagt Phương pháp này thường được dùng để nghiên cứu sự tiến hóa của các trình tự từ một tổ tiên chung, đặc biệt là các trình tự sinh học như trình tự protein hoặc trình tự DNA. Các bắt cặp không đúng trong trình tự tương ứng với các đột biến và các khoảng trống tương ứng với phần thêm vào hoặc xóa đi. Cũng có thể sử dụng sắp xếp thẳng hàng trình tự để nghiên cứu nhiều vấn đề khác như sự tiến hóa ngôn ngữ và độ tương đồng trong các văn bản. Thuật ngữ "sắp xếp thẳng hàng trình tự" cũng chỉ quá trình tạo ra sự sắp xếp này hay tìm ra các cách sắp xếp tốt nhất trong cơ sở dữ liệu gồm các trình tự riêng biệt. Sắp gióng cột đôi một (Pairwise alignment). Sắp gióng cột đôi một là phương pháp phục vụ cho việc tìm kiếm một trình tự sắp gióng cột toàn bộ hay (cục bộ) mà trùng khớp nhất của các chuỗi protein (amino acid) hay DNA (nucleic acid). Thông thường, mục đích của nó là tìm ra (mối quan hệ) đồng đẳng của một gene hay một sản phẩm-gên trong một cơ sở dữ liệu các thông tin mẫu đã có sẵn. Thông tin này là hữu ích để trả lời một loạt các câu hỏi sinh học khác nhau. Ứng dụng quan trọng nhất của sắp gióng cột đôi một là để xác định các chuỗi có cấu trúc hay chức năng chưa biết. Một ứng dụng quan trọng khác là trong việc nghiên cứu tiến hóa phân tử. Sắp gióng cột toàn bộ (Global alignment). Sắp gióng cột toàn bộ giữa hai trình tự là một phương pháp trong đó toàn bộ ký tự trên hai trình tự tham gia vào quá trình sắp xếp. Phương pháp này thường được áp dụng để tìm các trình tự tương cận gần. Khi các trình tự này cũng dễ dàng xác định bằng phương pháp sắp gióng cột cục bộ, các phương pháp sắp gióng cột toàn bộ không được xem như một kỹ thuật.
Bắt cặp trình tự
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5177
Hơn nữa, có một số mô hình tiến hóa phân tử như xáo trộn miền (domain shuffling) làm trở ngại tính ững dụng của các phương pháp này. Sắp gióng cột cục bộ (Local alignment). Sắp gióng cột cục bộ là phương pháp nhằm tìm kiếm các vùng có quan hệ bên trong các chuỗi - hay nói cách khác là chúng có chứa một tập con các ký tự (tạo bởi A, T, X, G) bên trong chuỗi. Ví dụ, vị trí 20-40 của chuỗi A có thể được sắp gióng cột với vị trí 50-70 của chuỗi B. Đây là kĩ thuật linh hoạt hơn sắp trình từ toàn bộ và có thuận lợi là các vùng liên quan xuất hiện ở các trật tự khác nhau ở hai protein (hay còn biết tới với tên là xáo trộn miền) có thể được xác định. Điều này là không thể đạt được với phương pháp sắp gióng cột toàn bộ. Tính chính xác của sắp gióng cột. Nơi thông thường xảy ra việc sắp xếp trình tự là ở cơ chế của sự tiến hóa phân tử. DNA mang các nguyên liệu di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, bằng cơ chế tự phân đôi bán bảo toàn của nó. Các thay đổi trong nguyên liệu đó là do các sai sót hay đột biến trong quá trình phân đôi, hoặc do virut và các cơ chế khác đôi khi dịch chuyển các chuỗi con bên trong nhiễm sắc thể và giữa các cá thể độc lập nhau. Kết quả là, một sắp xếp giữa các chuỗi cho thấy rằng chuỗi đó xuất phát từ cùng một tổ tiên chung thì chứa các chuỗi con trùng nhau. Trong trường hợp chuỗi di truyền, nó nhấn mạnh rằng chúng cùng mang thông tin của cùng một tổ tiên chung. Xem xét nơi xảy ra để biết xác suất xảy ra của các sự kiện này, chúng ta có thể ước lượng thời gian khi một chuỗi đi trệch ra khỏi tổ tiên chung hay thời gian cần thiết để một chuỗi có thể trở thành một chuỗi mới hoàn toàn. Tuy nhiên, vẫn có sự bất đồng về giá trị và ứng dụng tự nhiên của các xác suất đối với sự tiến hóa sinh học. Một hướng suy nghĩ cho rằng chỉ có thể xảy ra các thay đổi đơn giản, với tỉ lệ cố định (ứng dụng của Occam's Razor) trong khi một hướng khác cho rằng chỉ cần giai đoạn tiến hóa ngắn khi có các thay đổi cực kì lớn.
Tam quốc diễn nghĩa (định hướng)
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5180
Tam quốc diễn nghĩa là tên một tiểu thuyết lịch sử của La Quán Trung. Tiểu thuyết này sau đó đã được chuyển thể thành:
Trình tự motif
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5181
Một trình tự motif là một đoạn trình tự nucleotide hoặc amino acid phổ biến và có, hoặc cho là có, một chức năng sinh học nào đó. Ví dụ như motif về vị trí gắn thêm gốc "N"-glycosyl: trong đó chữ viết tắt là ký hiệu cho các amino acid theo kiểu viết tắt 3 chữ cái, (xem mã di truyền). Tổng quan. Khi trình tự motif xuất hiện trong exon của một gen, thì nó có thể mã hóa "motif cấu trúc" "của protein"; đó là nhân tố kiểu lập thể của cấu trúc bậc 3 của protein. Tuy nhiên, motif không cần phải được gắn với cấu trúc bậc hai đặc biệt. Trình tự DNA không mã hóa không được dịch mã thành protein và các acid nucleic với motif như vậy không cần phải khác so với dạng điển hình (ví dụ, DNA "dạng B" xoắn kép). Ngoài gen exon, còn có các motif trình tự điều hòa và motif bên trong "mảnh DNA", ví dụ như DNA vệ tinh. Một số trong chúng được cho là có ảnh hưởng đến hình dạng của acid nucleic (xem ví dụ RNA self-splicing), nhưng việc này chỉ thỉnh thoảng xảy ra. Ví dụ, một số protein gắn DNA mà có ái lực với motif thì chỉ gắn DNA ở dạng xoắn kép của nó. Chúng có thể nhận biết motif thông qua chuỗi xoắn kép hoặc đường rãnh nhỏ hơn. Motif mã hóa ngắn, mà xuất hiện trong cấu trúc bậc hai chưa đầy đủ, include those that label proteins for delivery to particular parts of a cell, or mark them for phosphorylation. Within a sequence or database of sequences, researchers search and find motifs using computer-based techniques of sequence analysis, such as BLAST. Such techniques belong to the discipline of bioinformatics. See also consensus sequence. Khi trình tự motif xuất hiện trong exon của một gen, thì nó có thể mã hóa "motif cấu trúc" "của protein"; đó là nhân tố kiểu lập thể của cấu trúc bậc 3 của protein. Tuy nhiên, motif không cần phải được gắn với cấu trúc bậc hai đặc biệt. Trình tự DNA không mã hóa không được dịch mã thành protein và các acid nucleic với motif như vậy không cần phải khác so với dạng điển hình (ví dụ, DNA "dạng B" xoắn kép). Ngoài gen exon, còn có các motif trình tự điều hòa và motif bên trong "mảnh DNA", ví dụ như DNA vệ tinh. Một số trong chúng được cho là có ảnh hưởng đến hình dạng của acid nucleic (xem ví dụ RNA self-splicing), nhưng việc này chỉ thỉnh thoảng xảy ra. Ví dụ, một số protein gắn DNA mà có ái lực với motif thì chỉ gắn DNA ở dạng xoắn kép của nó. Chúng có thể nhận biết motif thông qua chuỗi xoắn kép hoặc đường rãnh nhỏ hơn. Motif mã hóa ngắn, mà xuất hiện trong cấu trúc bậc hai chưa đầy đủ,
Thành phố Trung Quốc
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5183
Trung Quốc có nhiều thành phố lớn. Các đô thị lớn của Trung Quốc là Bắc Kinh, Thượng Hải, Hương Cảng (Hồng Kông), Quảng Châu, Thâm Quyến, Thiên Tân, Nam Kinh, Trùng Khánh, v.v. Các đô thị du lịch nổi tiếng: Bắc Kinh, Hàng Châu, Tô Châu, Côn Minh, v.v. Thành phố Trung Quốc có hai loại chính: Thành phố Trung Quốc có thể bao gồm các quận, thành phố cấp huyện (huyện cấp thị) và huyện.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Thụy Sỹ (còn được viết là "Thuỵ Sĩ"), tên đầy đủ là Liên bang Thụy Sỹ, là một nước cộng hòa liên bang tại châu Âu. Quốc gia này gồm có 26 bang, và thành phố Bern là nơi đặt trụ sở nhà đương cục liên bang. Quốc gia này nằm tại Tây – Trung Âu, có biên giới với Ý về phía nam, với Pháp về phía tây, với Đức về phía bắc, và với Áo cùng Liechtenstein về phía đông. Thụy Sỹ là quốc gia không giáp biển, có tổng diện tích 41.285 km² và về địa lý bao gồm dãy Alps, cao nguyên Thụy Sỹ và dãy Jura. Mặc dù dãy Alps chiếm phần lớn diện tích lãnh thổ quốc gia, song khoảng 8 triệu dân Thụy Sỹ hầu hết tập trung tại khu vực cao nguyên. Các thành phố lớn nhất toàn quốc cũng nằm tại khu vực cao nguyên, trong đó có hai thành phố toàn cầu và trung tâm kinh tế là Zurich và Geneva. Mốc thành lập Cựu Liên bang Thụy Sỹ là vào thời kỳ Trung Cổ, là kết quả từ một loạt thắng lợi quân sự chống lại Áo và Burgandy. Thụy Sỹ được chính thức công nhận độc lập từ Thánh chế La Mã theo Hòa ước Westfalen vào năm 1648. Thụy Sỹ có lịch sử trung lập về quân sự từ thời kỳ Cải cách Tin Lành; quốc gia này không nằm trong tình trạng chiến tranh trên bình diện quốc tế từ năm 1815 và không gia nhập Liên Hợp Quốc cho đến năm 2002. Tuy thế, Thụy Sỹ theo đuổi chính sách đối ngoại tích cực và thường xuyên tham gia vào các tiến trình kiến tạo hòa bình trên toàn cầu. Thụy Sỹ là nơi khai sinh của tổ chức Chữ thập đỏ, là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế, trong đó có văn phòng lớn thứ nhì của Liên Hợp Quốc. Trên cấp độ châu Âu, Thụy Sỹ là một thành viên sáng lập của Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu, song không phải là thành viên của Liên minh châu Âu và Khu vực kinh tế châu Âu. Tuy nhiên, Thụy Sỹ tham gia Khu vực Schengen và Thị trường chung châu Âu thông qua các hiệp định song phương. Thụy Sỹ nằm tại nơi giao nhau của châu Âu German và châu Âu La Tinh, có bốn khu vực ngôn ngữ và văn hóa: Đức, Pháp, Ý và Romansh.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Đa số dân chúng nói tiếng Đức, song bản sắc dân tộc Thụy Sỹ bắt nguồn từ một bối cảnh lịch sử chung, chia sẻ các giá trị như chủ nghĩa liên bang và dân chủ trực tiếp, và chủ nghĩa tượng trưng Alpes. Do đa dạng về ngôn ngữ, Thụy Sỹ có nhiều tên gọi bản địa: "Schweiz" (tiếng Đức); "Suisse" (tiếng Pháp); "Svizzera" (tiếng Ý); và "Svizra" hoặc (Romansh). Trên tiền xu và tem bưu chính, tên gọi trong tiếng Latinh (thường được rút ngắn thành "Helvetia") được sử dụng thay vì bốn ngôn ngữ chính thức. Tiền tệ của vùng đất chocolate - sô cô la là Franc Thụy Sỹ nằm trong số các quốc gia phát triển nhất trên thế giới, có của cải bình quân cao nhất (2010) và GDP PPP bình quân cao thứ 8 theo IMF (2011). Thụy Sỹ nằm vào hàng đứng đầu toàn cầu trên một vài số liệu về thành tựu quốc gia, bao gồm tính minh bạch chính phủ, tự do dân sự, chất lượng sinh hoạt, tính cạnh tranh kinh tế và phát triển con người. Zürich và Genève nằm trong số các thành phố đứng đầu thế giới về chất lượng sinh hoạt, theo Mercer năm 2009. Từ nguyên. Nguồn gốc danh xưng trong các ngôn ngữ chính thức của Thụy Sỹ. Địa danh "Schwyz" được chứng thực lần đầu vào năm 972 với dạng tiếng Thượng Đức Cổ "Suittes", rốt cuộc có lẽ liên quan đến "suedan" "đốt cháy", ám chỉ khu rừng bị đốt và phát quang để xây dựng. Tên gọi này được mở rộng ra khu vực do bang này thống trị, và sau Chiến tranh Schwaben năm 1499 thì dần được sử dụng cho toàn liên bang. Tên tiếng Đức-Thụy Sỹ của quốc gia là "Schwiiz" tuy đồng âm với "Schwyz" song được phân biệt nhờ sử dụng mạo từ xác định ('d'Schwiiz" để chỉ liên bang, song chỉ là "Schwyz" để chỉ bang và thị trấn). Tên tiếng Latinh "Confoederatio Helvetica" được tân từ hóa và được đưa vào dần sau khi thành lập liên bang năm 1848, gợi lại Cộng hòa Helvetii của Napoleón, xuất hiện trên tiền xu từ năm 1879, được ghi trong Cung điện liên bang vào năm 1902 và sau năm 1948 được sử dụng trong con dấu chính thức. (Mã ngân hàng ISO "CHF" cho franc Thụy Sỹ bắt nguồn từ tên Latinh của liên bang). "Helvetica" bắt nguồn từ "Helvetii", một bộ lạc sống trên cao nguyên Thụy Sỹ trước thời kỳ La Mã.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
"Helvetia" xuất hiện với thân phận nhân cách hóa quốc gia của Liên bang Thụy Sỹ trong thế kỷ XVII theo một vở kịch vào năm 1672 của Johann Caspar Weissenbach. Nguồn gốc tên tiếng Việt. Tên tiếng Việt của Thụy Sỹ bắt nguồn từ danh xưng tiếng Hán 瑞士 "Thụy Sỹ" (âm đọc ghi theo âm Hán Việt). Trong tiếng Pháp, Thụy Sỹ được gọi là "Suisse". Từ tiếng Pháp "Suisse" được phiên âm sang tiếng Quảng Đông là 瑞士 "Seoi6-si6". Dịch danh chữ Hán 瑞士 sau đó được truyền nhập sang các dạng tiếng Hán khác. Người nói các dạng tiếng Hán khác đó không đọc hai chữ Hán 瑞士 bằng âm đọc trong tiếng Quảng Đông mà đọc chúng bằng âm đọc tương ứng trong các dạng tiếng Hán đó. Khi tiếng Việt vay mượn tên gọi 瑞士 của tiếng Hán, hai chữ Hán 瑞士 đã được bằng âm Hán Việt của chúng. Lịch sử. Lịch sử sơ khởi. Dấu tích cổ nhất về sự hiện diện của họ Người tại Thụy Sỹ có niên đại khoảng 150.000 năm trước. Các khu định cư nông nghiệp cổ nhất được biết đến tại Thụy Sỹ nằm tại Gächlingen và có niên đại khoảng 5300 TCN. Các "bộ lạc văn hóa" sớm nhất được biết đến là thành viên của văn hóa Hallstatt và La Tène. Văn hóa La Tène phát triển và thịnh vượng vào cuối thời đại đồ sắt từ khoảng năm 450 TCN, có thể là dưới một số ảnh hưởng từ văn minh Hy Lạp và văn minh Etrusca (tại Ý ngày nay). Helvetii là một trong số các nhóm bộ lạc quan trọng nhất tại khu vực nay là Thụy Sỹ. Do thường xuyên bị các bộ lạc German quấy nhiễu, đến năm 58 TCN người Helvetii quyết định từ bỏ cao nguyên Thụy Sỹ và di cư đến miền tây Gallia, song quân đội của Julius Caesar truy kích và đánh bại họ trong trận Bibracte tại miền đông của Pháp ngày nay, buộc bộ lạc này chuyển về quê hương ban đầu của họ. Năm 15 TCN, Hoàng đế La Mã tương lai Tiberius cùng em trai là Drusus chinh phục dãy Alpes, hợp nhất khu vực này vào Đế quốc La Mã. Khu vực do người Helvetii chiếm giữ đầu tiên trở thành bộ phận của tỉnh Gallia Belgica thuộc La Mã, sau đó thuộc tỉnh Thượng Germania của đế quốc, trong khi phần miền đông của Thụy Sỹ ngày nay được hợp nhất vào tỉnh Raetia của đế quốc.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Trong thế kỷ thứ nhất và thứ hai, cư dân sống trên cao nguyên Thụy Sỹ được hưởng một thời kỳ thịnh vượng. Một số đô thị như Aventicum, Iulia Equestris và Augusta Raurica đạt đến quy mô đáng kể, có hàng trăm bất động sản nông nghiệp (Villae rusticae) được phát hiện tại vùng nông thôn. Khoảng năm 260, khu vực Agri Decumates phía bắc sông Rhine thất thủ khiến Thụy Sỹ lúc này trở thành vùng biên giới của Đế quốc La Mã. Các vụ tập kích lặp đi lặp lại của các bộ lạc Alamanni khiến các đô thị và kinh tế Lã Mã bị tàn phá, buộc cư dân phải tìm nơi trú ẩn gần các công sự La Mã. Đế quốc cho xây dựng một tuyến phòng thủ khác tại biên giới phía bắc (được gọi là Donau-Iller-Rhine-Limes), song đến cuối thế kỷ IV thì áp lực gia tăng từ người German buộc người La Mã từ bỏ quan niệm phòng thủ theo tuyến, và cao nguyên Thụy Sỹ cuối cùng mở ra cho các khu định cư của người German. Đến Sơ kỳ Trung Cổ, từ cuối thế kỷ IV, miền tây của Thụy Sỹ ngày nay là bộ phận lãnh thổ của Vương quốc Burgundia. Người Alemanni định cư tại Cao nguyên Thụy Sỹ vào thế kỷ V và tại các thung lũng thuộc dãy Alpes trong thế kỷ VIII, hình thành Alemannia. Lãnh thổ Thụy Sỹ ngày nay vào lúc đó bị phân chia giữa hai vương quốc này. Trong thế kỷ VI, sau chiến thắng của Clovis I trước người Alemanni tại Tolbiac vào năm 504 và rồi người Frank thống trị người Bourgogne, toàn thể khu vực trở thành bộ phận của Đế quốc Frank. Trong phần còn lại của thế kỷ VI, trong thế kỷ VII và VIII khu vực Thụy Sỹ tiếp tục nắm dưới quyền bá chủ của Frank (các triều đại Meroving và Caroling). Tuy nhiên, sau khi bành trướng dưới thời Charlemagne, Đế quốc Frank bị phân chia theo Hiệp ước Verdun vào năm 843. Khu vực nay là Thụy Sỹ bị phân chia giữa Trung Frank và Đông Frank cho đến khi thống nhất dưới quyền Thánh chế La Mã (một tập hợp các lãnh địa) vào khoảng năm 1000. Đến năm 1200, cao nguyên Thụy Sỹ gồm các lãnh địa của các gia tộc Savoy, Zähringer, Habsburg và Kyburg. Một số khu vực (Uri, Schwyz, Unterwalden sau gọi là "Waldstätten") do thánh chế trực tiếp quản lý.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Do không có hậu duệ theo dòng nam giới vào năm 1263, Triều đại Kyburg sụp đổ vào năm 1264; sau đó Gia tộc Habsburg dưới quyền Quốc vương Rudolph I (Hoàng đế Thánh chế vào năm 1273) đưa ra yêu sách đối với đất của nhà Kyburg và sáp nhập chúng để bành trướng lãnh thổ của họ đến miền đông cao nguyên Thụy Sỹ. Liên bang Thụy Sỹ Cũ. Liên bang Thụy Sỹ Cũ là một liên minh giữa các cộng đồng trong thung lũng tại miền trung dãy Alpes. Liên minh tạo thuận tiện cho quản lý các lợi ích chung và đảm bảo hòa bình trên các tuyến mậu dịch miền núi quan trọng. Hiến chương Liên bang năm 1291 được đồng thuận giữa các công xã nông thôn Uri, Schwyz và Unterwalden, được cho là văn kiện hình thành liên bang, mặc dù các liên minh tương tự có vẻ tồn tại từ nhiều thập niên trước đó. Đến năm 1353, liên minh tiếp nhận thêm các bang Glarus, Zug và các thành bang Lucerne, Zürich và Bern để hình thành "Liên bang Cũ" gồm tám bang và tồn tại cho đến cuối thế kỷ XV. Việc mở rộng này làm gia tăng quyền lực và thịnh vượng cho liên bang. Đến năm 1460, liên bang kiểm soát hầu hết lãnh thổ nằm về phía nam và phía tây của Sông Rhine cho đến dãy Alpes và dãy Jura, đặc biệt là sau các chiến thắng trước Vương triều Habsburg tại Áo, trước Charles Dũng cảm của Bourgogne trong thập niên 1470, và thành công của các lính đánh thuê Thụy Sỹ. Chiến thắng của Thụy Sỹ trong Chiến tranh Schwaben trước Liên minh Schwaben dưới quyền Hoàng đế Thánh chế La Mã Maximilian I vào năm 1499 giúp đem lại độc lập thực tế cho Thụy Sỹ trong Thánh chế La Mã. Liên bang Thụy Sỹ Cũ có được danh tiếng bất khả chiến bại trong các cuộc chiến ban đầu này, song việc mở rộng liên bang gặp phải một bước lùi vào năm 1515 khi Thụy Sỹ thất bại trong trận Marignano trước Pháp và Venezia. Chiến tranh kết thúc điều được gọi là kỷ "anh hùng" trong lịch sử Thụy Sỹ. Cải cách Tin Lành dưới quyền lãnh đạo của Zwingli thành công tại một số bang, song dẫn đến xung đột tôn giáo giữa các bang vào năm 1529 và năm 1531. Đến năm 1648, theo Hòa ước Westfalen, các quốc gia châu Âu công nhận Thụy Sỹ độc lập từ Thánh chế La Mã và tính chất trung lập của nước này.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Trong thời kỳ cận đại của lịch sử Thụy Sỹ, chủ nghĩa chuyên chế của các gia đình quý tộc phát triển, kết hợp với một cuộc khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ Chiến tranh Ba mươi Năm dẫn đến nông dân khởi nghĩa vào năm 1653. Trong bối cảnh cuộc đấu tranh này, xung đột giữa các bang Công giáo La Mã và Tin Lành vẫn dai dẳng, bùng phát thành bạo lực hơn nữa trong Chiến tranh Villmergen lần thứ nhất vào năm 1656, và Chiến tranh Toggenburg (Chiến tranh Villmergen lần thứ hai) vào năm 1712. Thời đại Napoléon. Năm 1798, chính phủ Cách mạng Pháp xâm chiếm Thụy Sỹ và áp đặt một hiến pháp thống nhất mới. Đây là hành động nhằm trung ương tập quyền hóa chính phủ quốc gia, bãi bỏ các bang trên thực tế. Ngoài ra, Mülhausen gia nhập Pháp còn thung lũng Valtellina gia nhập Cộng hòa Cisalpina (nay thuộc Ý). Chế độ mới mang tên Cộng hòa Helvetii, song rất không được lòng dân. Nó do quân đội ngoại quốc xâm lược áp đặt và phá hoại truyền thống từ nhiều thế kỷ, biến Thụy Sỹ thành một quốc gia vệ tinh của Pháp. Khi chiến tranh bùng phát giữa Pháp với các kình địch của họ, quân của Nga và Áo xâm chiếm Thụy Sỹ. Người Thụy Sỹ từ chối chiến đấu bên phía Pháp nhân danh Cộng hòa Helvetii. Năm 1803, Napoléon tổ chức một hội nghị gồm các chính trị gia hàng đầu Thụy Sỹ từ cả hai bên tại Paris. Kết quả là Đạo luật Điều giải, theo đó khôi phục phần lớn quyền tự trị của Thụy Sỹ và đưa lại một Liên bang gồm 19 bang. Từ đó về sau, chính trường Thụy Sỹ phần lớn liên quan đến cân bằng giữa truyền thống tự trị của các bang và nhu cầu về một chính phủ trung ương. Năm 1815, Đại hội Wien tái lập hoàn toàn nền độc lập của Thụy Sỹ và các cường quốc châu Âu đồng ý công nhận vĩnh viễn tính chất trung lập của Thụy Sỹ. Hiệp định cho phép Thụy Sỹ gia tăng lãnh thổ của mình, với việc tiếp nhận các bang Valais, Neuchâtel và Genève. Biên giới Thụy Sỹ không thay đổi kể từ đó, ngoại trừ một số điều chỉnh nhỏ. Quốc gia liên bang. Khôi phục quyền lực cho giai cấp quý tộc chỉ là tạm thời.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Sau một giai đoạn bất ổn với các xung đột bạo lực liên tiếp, nội chiến ("Sonderbundskrieg") bùng phát vào năm 1847 khi một số bang Công giáo La Mã nỗ lực lập một liên minh riêng biệt ("Sonderbund"). Chiến tranh kéo dài trong chưa tới một tháng, có ít hơn 100 người thiệt mạng. Mặc dù có quy mô nhỏ so với các náo loạn và chiến tranh khác tại châu Âu trong thế kỷ XIX, tuy thế cuộc nội chiến có tác động lớn đến tâm lý và xã hội Thụy Sỹ. Chiến tranh thuyết phục hầu hết người Thụy Sỹ về tính cần thiết của việc đoàn kết và sức mạnh trước các láng giềng. Người Thụy Sỹ từ tất cả tầng lớp xã hội, theo Công giáo La Mã hay Tin Lành, từ khuynh hướng tự do đến bảo thủ, nhận thấy rằng các bang sẽ có lợi hơn nếu các lợi ích kinh tế và tôn giáo của họ được hợp nhất. Do đó, trong khi phần còn lại của châu Âu xảy ra các cuộc khởi nghĩa cách mạng, thì người Thụy Sỹ lập ra một hiến pháp đề ra bố cục liên bang, phần lớn được lấy cảm hứng từ Hiến pháp Mỹ . Hiến pháp này tạo ra một nhà đương cục trung ương, trong khi để lại cho các bang quyền tự quản về các vấn đề địa phương. Quốc hội được chia thành một thượng viện (Hội đồng Các bang, mỗi bang có hai đại biểu) và một hạ viện (Hội đồng Quốc gia, có đại biểu được bầu từ toàn quốc). Bắt buộc phải trưng cầu dân ý để sửa đổi bất kỳ nội dung nào trong hiến pháp này. Một hệ thống cân và đo lường duy nhất được định ra và đến năm 1850 franc Thụy Sỹ trở thành đơn vị tiền tệ duy nhất của quốc gia. Điều 11 của hiến pháp ngăn cấm đưa binh sĩ đi phục vụ tại ngoại quốc. Một điều khoản quan trọng trong hiến pháp là nó có thể được soạn lại hoàn toàn nếu được cho là cần thiết, do đó cho phép việc phát triển toàn thể thay vì sửa đổi một phần tại một thời điểm. Điều này nhanh chóng chứng minh tính cần thiết khi dân số gia tăng và cách mạng công nghiệp tiếp sau đó dẫn đến các yêu cầu thay đổi hiến pháp cho phù hợp. Một dự thảo ban đầu bị dân chúng bác bỏ vào năm 1872 song bản sửa đổi được thông qua vào năm 1874. Nó xác định trưng cầu dân ý không cưỡng bách đối với pháp luật tại cấp độ liên bang.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Nó cũng xác định liên bang chịu trách nhiệm về các sự vụ phòng thủ, mậu dịch và lập pháp. Năm 1891, hiến pháp được điều chỉnh với các yếu tố dân chủ trực tiếp mạnh mẽ khác thường, điều này vẫn còn là độc nhất thế giới cho đến ngày nay. Lịch sử hiện đại. Thụy Sỹ không bị xâm chiếm trong hai đại chiến thế giới. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, Thụy Sỹ là nơi Vladimir Lenin sống lưu vong cho đến năm 1917. Tính trung lập của Thụy Sỹ bị nghi ngờ nghiêm trọng do một chính trị gia nước này tên là Robert Grimm thương lượng hòa bình giữa Đức và Nga vào năm 1917. Năm 1920, Thụy Sỹ gia nhập Hội Quốc Liên có trụ sở tại Genève, với điều kiện là họ được miễn bất kỳ yêu cầu quân sự nào. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, người Đức soạn thảo các kế hoạch xâm lược chi tiết đối với Thụy Sỹ, song nước này chưa từng bị tấn công. Thụy Sỹ có thể duy trì độc lập nhờ kết hợp răn đe quân sự, nhượng bộ với Đức, và may mắn do các sự kiện lớn hơn trong chiến tranh khiến Đức trì hoãn xâm lược. Chiến lược về quân sự của Thụy Sỹ thay đổi từ phòng thủ chiến lược tại biên giới để bảo vệ khu trung tâm kinh tế, sang chiến lược mang tên Reduit nhằm tiêu hao địch lâu dài có tổ chức và triệt thoái đến các vị trí cao kiên cố, có đủ dự trữ trên dãy Alpes. Thụy Sỹ là một căn cứ quan trọng về hoạt động tình báo đối với cả hai phe xung đột và thường làm trung gian giao thiệp giữa lực lượng Phe Trục và Đồng Minh. Trong suốt cuộc chiến, Thụy Sỹ giam giữ trên 300.000 người tị nạn và Chữ thập đỏ quốc tế có trụ sở tại Genève giữ vai trò quan trọng trong xung đột. Các chính sách nhập cư và tị nạn nghiêm ngặt cũng như quan hệ tài chính với Đức Quốc xã gây ra tranh luận, song chúng không kéo dài đến cuối thế kỷ XX. Sau chiến tranh, chính phủ Thụy Sỹ xuất khẩu tín dụng thông qua quỹ từ thiện mang tên Schweizerspende và cũng đóng góp cho Kế hoạch Marshall nhằm giúp châu Âu phục hồi, các nỗ lực này cuối cùng cũng làm lợi cho kinh tế Thụy Sỹ. Trong Chiến tranh Lạnh, nhà đương cục Thụy Sỹ từng xem xét chế tạo một bom hạt nhân.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Các nhà vật lý học hạt nhân hàng đầu tại Viện Công nghệ Liên bang Zürich biến điều này trở thành khả thi. Tuy nhiên, các vấn đề tài chính và ngân sách quốc phòng ngăn cản cung cấp lượng kinh phí đáng kể, và Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân năm 1968 được cho là một lựa chọn có giá trị. Toàn bộ các kế hoạch còn lại về phát triển vũ khí hạt nhân bị dừng lại vào năm 1988. Thụy Sỹ là nước cộng hòa phương Tây cuối cùng trao quyền tuyển cử cho nữ giới. Một số bang của Thụy Sỹ phê chuẩn quyền này vào năm 1959, còn ở cấp liên bang là vào năm 1971. Sau khi giành được quyền đi bầu ở cấp độ liên bang, tầm quan trọng chính trị của nữ giới nhanh chóng nổi lên, nữ giới đầu tiên trong Hội đồng Liên bang là Elisabeth Kopp, có nhiệm kỳ 1984–1989, và nữ tổng thống đầu tiên là Ruth Dreifuss vào năm 1999. Thụy Sỹ gia nhập Ủy hội châu Âu vào năm 1963. Năm 1979, một số khu vực của bang Bern giành được độc lập và hình thành bang Jura. Ngày 18 tháng 4 năm 1989, dân chúng Thụy Sỹ và các bang bỏ phiếu tán thành thay đổi hoàn toàn hiến pháp liên bang. Năm 2002, Thụy Sỹ trở thành một thành viên đầy đủ của Liên Hợp Quốc. Thụy Sỹ là một thành viên sáng lập của Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu, song không phải là thành viên của Khu vực kinh tế châu Âu. Đơn xin làm thành viên Liên minh châu Âu được gửi đi vào tháng 5 năm 1992, song không có tiến bộ từ khi dân chúng bác bỏ Khu vực Kinh tế châu Âu vào tháng 12 năm 1992. Từ đó có một số cuộc trưng cầu dân ý về vấn đề Liên minh châu Âu; do phản ứng khác nhau từ dân chúng nên đơn xin làm thành viên bị đóng băng. Tuy thế, pháp luật Thụy Sỹ dần được điều chỉnh để phù hợp với pháp luật Liên minh châu Âu, và chính phủ ký kết một số thỏa thuận song phương với tổ chức này. Ngày 5 tháng 6 năm 2005, cử tri Thụy Sỹ chấp thuận tham gia Hiệp ước Schengen. Địa lý. Thụy Sỹ trải dài qua sườn phía bắc và phía nam của Dãy Alpes tại Tây-Trung Âu, có sự đa dạng lớn về cảnh quan và khí hậu trong một diện tích hạn chế là . Dân số toàn quốc khoảng 8 triệu, khiến mật độ dân số bình quân là khoảng 195 người/km².
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Nửa phía nam có địa hình núi non hơn, và có dân cư thưa thớt hơn rất nhiều so với nửa phía bắc. Bang lớn nhất là Graubünden nằm hoàn toàn trên dãy Alpes, có mật độ dân số là 27 người/km². Thụy Sỹ nằm giữa các vĩ tuyến 45° và 48° Bắc, và các kinh tuyến 5° và 11° Đ. Quốc gia này gồm có ba khu vực địa hình cơ bản: Dãy Alpes Thụy Sỹ về phía nam, cao nguyên Thụy Sỹ hay cao nguyên Trung tâm, và dãy Jura về phía tây. Dãy Alpes là một dãy núi cao chạy dọc trung-nam của quốc gia, chiếm khoảng 60% diện tích toàn quốc. Đa số dân chúng Thụy Sỹ cư trú tại cao nguyên Thụy Sỹ. Trong số các thung lũng cao của dãy Alpes Thụy Sỹ, có nhiều sông băng với tổng diện tích là . Chúng là đầu nguồn của một số sông lớn, chẳng hạn như Rhine, Inn, Ticino và Rhône, chúng chảy theo bốn hướng cơ bản ra toàn châu Âu. Mạng lưới thủy văn học bao gồm một số thực thể nước ngọt vào hàng lớn nhất tại Trung-Tây Âu, như hồ Genève, Bodensee và hồ Maggiore. Thụy Sỹ có trên 1500 hồ và chứa 6% tài nguyên nước ngọt của châu Âu. Các hồ và sông băng chiếm khoảng 6% diện tích quốc gia. Sông Rhône chảy ra Địa Trung Hải tại vùng Camargue của Pháp còn sông Rhine chảy ra biển Bắc tại Rotterdam thuộc Hà Lan, cách nhau khoảng , song dòng chảy của chúng chỉ cách nhau khoảng trên dãy Alpes Thụy Sỹ. Thụy Sỹ có 48 núi cao từ trở lên so với mực nước biển. Monte Rosa là núi cao nhất với , song núi Matterhorn với độ cao () thường được cho là nổi tiếng nhất. Cả hai đều nằm trên dãy Alpes Pennines thuộc bang Valais, trên biên giới với Ý. Đoạn dãy Alpes Bern nằm ở trên thung lũng Lauterbrunnen gồm có 72 thác nước, được biết nhiều với các núi Jungfrau () Eiger và Mönch, cùng nhiều thung lũng đẹp như họa trong khu vực. Tại phía đông nam có thung lũng Engadin trải dài, gồm khu vực St. Moritz của bang Graubünden, cũng nổi tiếng; đỉnh cao nhất tại dãy Alpes Bernina là Piz Bernina (). Phần miền bắc đông dân hơn của Thụy Sỹ chiếm khoảng 30% tổng diện tích, được gọi là cao nguyên Thụy Sỹ.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Nó có cảnh quan rộng mở và đồi núi, một phần là rừng, một phần là thảo nguyên rộng thường dùng để chăn thả gia súc, hoặc để trồng rau và quả, song vẫn có nhiều đồi. Tại đó có các hồ nước lớn và các thành phố lớn nhất Thụy Sỹ. Khí hậu. Khí hậu Thụy Sỹ về tổng thể là ôn đới, song có thể khác biệt lớn giữa các địa phương, từ tình trạng băng giá trên các đỉnh núi, đến thường êm dịu tương tự khí hậu Địa Trung Hải tại mũi phía nam của Thụy Sỹ. Có một số khu vực thung lũng nằm tại phần phía nam của Thụy Sỹ, tại đó có một số cây cọ chịu lạnh. Mùa hè có xu hướng ấm và ẩm cùng các cơn mưa định kỳ, thích hợp cho đồng cỏ và gia súc. Mùa đông trên các dãy núi có ít ẩm hơn, có thể ổn định trong một thời gian dài nhiều tuần, trong khi tại các vùng thấp có xu hướng nghịch ôn trong các giai đoạn này, do đó không có Mặt trời trong nhiều tuần. Một hiện tượng thời tiết gọi là phơn có thể xảy ra tại bất kỳ lúc nào trong năm và mang đặc điểm là gió ấm bất ngờ, khiến không khí có độ ẩm tương đối rất thấp tại phía bắc của Alpes trong các giai đoạn mưa tại sườn nam của Alpes. Hiện tượng này xảy ra theo cả hai hướng qua Dãy Alpes, song phổ biến hơn là gió thổi từ miền nam. Tình trạng khô hạn nhất tồn tại trong toàn bộ các thung lũng núi cao nội địa, chúng nhận được mưa ít hơn do các đám mây mất đi phần lớn lượng ẩm khi vượt qua các dãy núi trước khi tiếp cận đến chúng. Các khu vực núi cao lớn như Graubünden vẫn khô hạn hơn các khu vực trước núi cao và như tại thung lũng chính của Valais các loại nho được trồng để làm rượu vang. Tình trạng ẩm nhất tồn tại trên vùng núi Alpes cao và tại bang Ticino, tại đó có nhiều ánh nắng gây các cơn mưa lớn. Giáng thủy có xu hướng trải vừa phải quanh năm với đỉnh điểm vào mùa hè. Mùa thu là mùa khô hạn nhất, mùa đông có ít giáng thủy hơn mùa hè, song mô hình thời tiết tại Thụy Sỹ không phải là một hệ thống ổn định và có thể biến thiên từ năm này sang năm khác. Môi trường.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Môi trường. Hệ sinh thái của Thụy Sỹ có thể đặc biệt dễ tổn thương, do nhiều thung lũng nhạy cảm bị các núi cao chia cắt nên thường tạo thành hệ sinh thái duy nhất. Các khu vực núi non cũng dễ bị tổn thương, có đa dạng về thực vật không tìm thấy tại các độ cao khác, và trải qua một số áp lực từ du khách và gia súc. Các điều kiện khí hậu, địa chất và địa hình của khu vực núi cao tạo nên một hệ sinh thái rất mong manh, đặc biệt nhạy cảm với biến đổi khí hậu. Tuy thế, theo Chỉ số Thành tựu Môi trường 2014, Thụy Sỹ xếp thứ nhất trong số 132 quốc gia về bảo vệ môi trường, do có điểm số cao về y tế công cộng môi trường, phụ thuộc nhiều vào nguồn năng lượng tái tạo (thủy điện và địa nhiệt), và kiểm soát phát thải khí nhà kính. Chính trị. Hiến pháp Liên bang được thông qua vào năm 1848 là căn cứ pháp lý của nhà nước liên bang hiện đại. Nó nằm trong số các hiến pháp lâu năm nhất của thế giới. Một hiến pháp mới được phê chuẩn vào năm 1999, song không tiến hành các biến đổi đáng kể về cấu trúc liên bang. Nó phác thảo các quyền lợi cơ bản và chính trị của các cá nhân và tham gia của công dân vào công vụ, phân chia quyền lực giữa liên bang và các bang, và xác định thẩm quyền và quyền hạn của liên bang. Có ba cơ cấu quản lý chính tại cấp độ liên bang: lưỡng viện quốc hội (lập pháp), Hội đồng Liên bang (hành pháp) và Tòa án Liên bang (tư pháp). Nghị viện Thụy Sỹ gồm có hai viện: Hội đồng Các bang gồm có 46 đại biểu (mỗi bang hai đại biểu và mỗi bán bang có 1 đại biểu), họ được bầu theo hệ thống riêng do mỗi bang xác định, và Hội đồng Quốc gia gồm 200 thành viên được bầu theo một hệ thống đại diện tỷ lệ, tùy theo dân số của mỗi bang. Thành viên của hai viện phục vụ trong bốn năm và chỉ phục vụ bán thời gian (gọi là "Milizsystem" hay cơ quan tư pháp công dân). Khi cả hai viện họp chung, họ được gọi là Nghị hội Liên bang. Thông qua trưng cầu dân ý, công dân có thể thách thức bất kỳ luật nào do nghị viện thông qua, và thông qua xướng nghị có thể đưa các sửa đổi vào hiến pháp liên bang, do đó biến Thụy Sỹ thành một nền dân chủ trực tiếp.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Hội đồng Liên bang gồm có chính phủ liên bang, chỉ đạo chính quyền liên bang và đóng vai trò là cơ quan cao nhất của quốc gia. Đây là một cơ cấu hiệp nghị gồm bảy thành viên, được Nghị hội Liên bang bầu ra theo nhiệm kỳ ủy thác bốn năm, Nghị hội Liên bang cũng thực thi giám sát Hội đồng. Tổng thống Liên bang được Nghị hội Liên bang bầu ra từ bảy thành viên này, theo truyền thống chức vụ này được luân phiên và có nhiệm kỳ một năm; Tổng thống chủ trì chính phủ và đảm nhiệm các chức năng tượng trưng. Tuy nhiên, tổng thống là một người đứng đầu bình đẳng, không có thêm quyền lực, và duy trì là người đứng đầu một cơ quan trong chính quyền. Chính phủ Thụy Sỹ là một liên minh của bốn chính đảng lớn kể từ năm 1959, mỗi đảng có một số lượng ghế trong nghị viện, chúng phản ánh đại thể tỷ lệ cử tri và đại diện của họ trong nghị viện liên bang. Phân bổ kiểu cũ là 2 thành viên CVP/PDC, 2 thành viên SPS/PSS, 2 thành viên FDP/PRD và 1 thành viên SVP/UDC tồn tại từ năm 1959 đến năm 2003 và được gọi là "công thức ma thuật". Sau bầu cử Hội đồng Liên bang năm 2015, bảy ghế trong hội đồng được phân bổ như sau: Chức năng của Tòa án Tối cao Liên bang là phân xử kháng án phán quyết của các tòa án cấp bang và liên bang. Các thẩm phán được Nghị hội Liên bang bầu ra, có nhiệm kỳ sáu năm. Dân chủ trực tiếp. Dân chủ trực tiếp và chủ nghĩa liên bang là các điểm nổi bật của hệ thống chính trị Thụy Sỹ. Công dân Thụy Sỹ là đối tượng của ba quyền lực tư pháp: tại cấp khu tự quản, bang và liên bang. Hiến pháp 1848/1999 xác định một hệ thống dân chủ trực tiếp (thỉnh thoảng gọi là "bán trực tiếp" hay "dân chủ trực tiếp đại diện"). Các công cụ của hệ thống này tại cấp độ liên bang, được gọi là quyền dân chúng (, , ), bao gồm quyền đệ trình một "xướng nghị liên bang" và một "trưng cầu dân ý", cả hai đều có thể lật đổ các quyết định của nghị viện. Bằng cách yêu cầu một cuộc "trưng cầu dân ý" liên bang, một nhóm công dân có thể thách thức một luật do nghị viện thông qua nếu họ thu thập được 50.000 chữ ký chống lại luật trong vòng 100 ngày.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Nếu vậy, một cuộc bỏ phiếu toàn quốc được lên kế hoạch để các cử tri quyết định theo thể thức đa số giản đơn về việc chấp thuận hay bác bỏ luật. Tập hợp gồm tám bang bất kỳ cũng có thể yêu cầu trưng cầu hiến pháp về một luật của liên bang. Tương tự, "xướng nghị hiến pháp" liên bang cho phép công dân đưa một sửa đổi hiến pháp ra bỏ phiếu toàn dân, nếu như trong vòng 18 tháng có 100.000 cử tri ký tên vào sửa đổi được đề xuất. Hội đồng Liên bang và Nghị hội Liên bang có thể bổ sung sửa đổi được đề xuất bằng một phản đề án, và sau đó cử tri cần phải cho biết họ ưu tiên gì hơn trong trường hợp hai đề xuất được chấp thuận. Do đó, các sửa đổi hiến pháp bất kể tiến hành dựa theo xướng nghị hoặc tại nghị viện, cần phải được chấp thuận bởi đa số kép theo phiếu phổ thông quốc gia và phiếu phổ thông cấp bang. Thủ đô. Luật Thụy Sỹ không định rõ một thủ đô chính thức, song nghị viện và chính phủ liên bang đặt tại Bern, trong khi các tòa án liên bang nằm tại các thành phố khác. Đơn vị hành chính. Liên bang Thụy Sỹ gồm có 20 bang và 6 bán bang: Các bang có một địa vị hiến pháp vĩnh viễn, và so với tình hình tại các quốc gia khác thì chúng có mức độ độc lập cao. Theo Hiến pháp Liên bang, toàn bộ 26 bang đều bình đẳng về địa vị. Mỗi bang có hiến pháp riêng, cùng nghị viện, chính phủ và tòa án riêng. Tuy nhiên, có khác biệt đáng kể giữa các bang, quan trọng nhất là về dân số và diện tích. Dân số các bang dao động từ 15.000 (Appenzell Innerrhoden) đến 1.253.500 (Zürich), và diện tích dao động từ (Basel-Stadt) đến (Graubünden). Các bang gồm có tổng cộng 2.485 khu tự quản. Tại Thụy Sỹ có hai vùng đất lọt vào: Büsingen thuộc về Đức, Campione d'Italia thuộc về Ý. Ngoại giao và tổ chức quốc tế. Thụy Sỹ có truyền thống tránh các liên minh có thể yêu cầu quân sự, chính trị và hành động kinh tế trực tiếp, và là nước trung lập kể từ khi kết thúc mở rộng vào năm 1515. Chính sách trung lập của họ được quốc tế công nhận trong Đại hội Wien năm 1815.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Phải đến năm 2002 Thụy Sỹ mới trở thành một thành viên đầy đủ của Liên Hợp Quốc và là quốc gia đầu tiên gia nhập tổ chức này theo trưng cầu dân ý. Thụy Sỹ duy trì quan hệ ngoại giao với hầu như toàn bộ các quốc gia và theo truyền thống đóng vai trò là một bên trung gian giữa các quốc gia khác. Thụy Sỹ không phải là thành viên của Liên minh châu Âu; người Thụy Sỹ kiên trì bác bỏ tư cách thành viên của tổ chức này kể từ đầu thập niên 1990. Tuy nhiên, Thụy Sỹ tham gia Khu vực Schengen. Một lượng lớn các tổ chức quốc tế đặt trụ sở của họ tại Thụy Sỹ, một phần là do chính sách trung lập của nước này. Genève là nơi khai sinh của Phong trào Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ và Công ước Genève, và từ năm 2006 là nơi đặt trụ sở Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Mặc dù Thụy Sỹ là một trong số các nước mới nhất gia nhập Liên Hợp Quốc, song Cung các Quốc gia tại Genève là trung tâm lớn thứ nhì của Liên Hợp Quốc sau trụ sở tại New York, và Thụy Sỹ là một thành viên sáng lập và là nơi đặt trụ sở của Hội Quốc Liên trước đây. Ngoài trụ sở của Liên Hợp Quốc, Thụy Sỹ còn là chủ nhà của nhiều cơ quan Liên Hợp Quốc, như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITU), Cao ủy Liên Hợp Quốc về người tị nạn (UNHCR) và khoảng 200 tổ chức quốc tế khác, trong đó có Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Tổ chức Sở hữu Trí tuệ Thế giới (WIPO). Các hội nghị thường niên của Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos có sự tham gia của các lãnh đạo doanh nghiệp và chính trị quốc tế nhằm thảo luận các vấn đề quan trọng của thế giới, trong đó có y tế và môi trường. Ngoài ra, trụ sở của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS) đặt tại Basel từ năm 1930. Hơn nữa, nhiều liên đoàn và tổ chức thể thao đặt tại khắp Thụy Sỹ, như Liên đoàn bóng rổ quốc tế tại Genève, Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) tại Nyon, Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) và Liên đoàn khúc côn cầu trên băng quốc tế đặt tại Zürich, Liên đoàn Xe đạp Quốc tế tại Aigle, và Ủy ban Olympic Quốc tế tại Lausanne. Quân sự.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Quân sự. Lực lượng vũ trang Thụy Sỹ gồm có Lục quân và Không quân, gồm chủ yếu là các binh sĩ nghĩa vụ từ các nam công dân tuổi từ 20 đến 34 (trong trường hợp đặc biệt lên đến 50). Do là một quốc gia nội lục, Thụy Sỹ không có hải quân song trên các hồ biên giới có sử dụng các tàu kiểm soát quân sự có vũ trang. Công dân Thụy Sỹ bị cấm phục vụ trong quân đội ngoại quốc, ngoại trừ Đội cận vệ Thụy Sỹ của Vatican, hoặc nếu họ có quốc tịch kép của một nước khác và cư trú tại đó. Cấu trúc của hệ thống dân quân Thụy Sỹ quy định rằng các binh sĩ giữ thiết bị mà Quân đội phát cho tại nhà, bao gồm toàn bộ vũ khí cá nhân. Một số tổ chức và chính đảng tranh luận về thực tiễn này Nghĩa vụ quân sự áp dụng cho toàn bộ nam công dân Thụy Sỹ; nữ giới có thể phục vụ tự nguyện. Nam giới thường nhận lệnh huấn luyện nghĩa vụ quân sự vào năm 18 tuổi. Khoảng hai phần ba thanh niên Thụy Sỹ phù hợp để phục vụ; có một số hình thức phục vụ thay thế đối với những người được đánh giá là không phù hợp. Mỗi năm có khoảng 20.000 người được huấn luyện tại các trung tâm tuyển quân trong khoảng thời gian từ 18 đến 21 tuần lễ. Cải cách "Lục quân XXI" được dân chúng thông qua vào năm 2003, thay thế mô hình "Lục quân 95" trước đó, giảm chiến binh từ 400.000 xuống khoảng 200.000. Trong đó, 120.000 người tại ngũ trong thời kỳ huấn luyện và 80.000 binh sĩ dự bị phi huấn luyện. Tổng thể, Thụy Sỹ từng ba lần tuyên bố tổng động viên nhằm đảm bảo tính toàn vẹn và tính trung lập của Thụy Sỹ. Lần đầu tiên nhằm ứng phó với Chiến tranh Pháp-Phổ 1870-1871. Lần thứ hai là nhằm ứng phó với bùng phát Chiến tranh thế giới thứ nhất vào tháng 8 năm 1914. Lần thứ ba diễn ra vào tháng 9 năm 1939 nhằm ứng phó trước việc Đức xâm lược Ba Lan; Henri Guisan được bầu làm tổng tư lệnh. Do có chính sách trung lập, quân đội Thụy Sỹ hiện không tham gia các xung đột quân sự tại nước ngoài, song nằm trong một số sứ mệnh duy trì hòa bình khắp thế giới.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Kể từ năm 2000 cơ quan lực lượng vũ trang cũng duy trì hệ thống thu thập tình báo Onyx nhằm theo dõi truyền thông vệ tinh. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, có một số nỗ lực nhằm hạn chế hoạt động quân sự hoặc thậm chí là bãi bỏ lực lượng vũ trang. Một cuộc trưng cầu dân ý đáng chú ý về vấn đề này được một nhóm chống quân phiệt phát động, được tổ chức vào năm 1989. Kết quả là thất bại khi hai phần ba cử tri bác bỏ đề xuất. Một cuộc trưng cầu dân ý tương tự được tổ chức không lâu sau Sự kiện 11 tháng 9 tại Hoa Kỳ có kết quả là 78% cử tri bác bỏ Thụy Sỹ có chính sách về súng độc nhất tại châu Âu do có tỷ lệ tương đối lớn (29%) công dân có vũ trang hợp pháp. Đa số lớn vũ khí được giữ tại nhà là loại được phát cho dân quân, song đạn dược không được phát. Kinh tế. Thụy Sỹ có một nền kinh tế ổn định, thịnh vượng và công nghệ cao, có được của cải lớn. Năm 2011, quốc gia này được xếp hạng giàu có nhất thế giới về bình quân đầu người ("giàu" được xác định bao gồm tài sản tài chính và phi tài chính), trong khi Báo cáo Của cải Toàn cầu Credit Suisse 2013 cho thấy rằng Thụy Sỹ có lượng của cải bình quân đầu người cao nhất trong năm đó. Thụy Sỹ là nền kinh tế lớn thứ 19 theo GDP danh nghĩa và lớn thứ 11 theo sức mua tương đương (2016). Đây là nước xuất khẩu lớn thứ 18 thế giới (2015) dù có kích thước nhỏ. Thụy Sỹ được xếp hạng cao nhất châu Âu về Chỉ số Tự do Kinh tế năm 2010. GDP danh nghĩa bình quân của Thụy Sỹ cao hơn của các nền kinh tế lớn tại Tây-Trung Âu và Nhật Bản. Báo cáo Cạnh tranh Toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế Thế giới xếp hạng kinh tế Thụy Sỹ là cạnh tranh nhất toàn thế giới (2016-2017), trong khi Liên minh châu Âu xếp hạng Thụy Sỹ là quốc gia sáng tạo nhất châu lục (2010). Trong phần lớn thế kỷ XX, Thụy Sỹ là quốc gia giàu có nhất tại châu Âu với một khoảng cách đáng kể (theo GDP/người). Năm 2007, thu nhập hộ gia đình trung bình tại Thụy Sỹ ước tính đạt 137.094 USD theo sức mua tương đương trong khi thu nhập trung bình là 95.824 USD.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Thụy Sỹ là một trong các quốc gia cân bằng tài khoản vãng lai lớn nhất theo tỷ lệ GDP. Thụy Sỹ có một số tập đoàn đa quốc gia lớn. Các công ty lớn nhất Thụy Sỹ theo doanh thu là Glencore, Gunvor, Nestlé, Novartis, Hoffmann-La Roche, ABB, Mercuria Energy Group và Adecco. Ngoài ra, còn phải chú ý đến UBS AG, Zurich Financial Services, Credit Suisse, Barry Callebaut, Swiss Re, Tetra Pak, The Swatch Group và Swiss International Air Lines. Thụy Sỹ được xếp vào hàng các nền kinh tế mạnh nhất thế giới. Lĩnh vực kinh tế quan trọng nhất của Thụy Sỹ là chế tạo. Ngành chế tạo phần lớn gồm sản xuất các mặt hàng hóa chất, y dược chuyên biệt, các dụng cụ đo lường khoa học và chính xác, và nhạc cụ. Mặt hàng xuất khẩu lớn nhất là hóa chất, máy móc/đồ điện tử, và thiết bị/đồng hồ chính xác. Xuất khẩu dịch vụ chiếm 1/3 tổng giá trị xuất khẩu. Lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là ngân hàng, bảo hiểm, du lịch và các tổ chức quốc tế là một ngành quan trọng khác của Thụy Sỹ. Khoảng hơn 5 triệu người làm việc tại Thụy Sỹ theo số liệu năm 2017, khoảng 25% người lao động thuộc một tổ chức công đoàn vào năm 2004. Thụy Sỹ có thị trường lao động linh hoạt hơn so với các quốc gia láng giềng và tỷ lệ thất nghiệp ở mức rất thấp. Tỷ lệ thất nghiệp tăng từ 1,7% trong tháng 6 năm 2000 lên đến đỉnh là 4,4% trong tháng 12 năm 2009. Tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 3,2% vào năm 2014 và không giảm thêm vào năm 2015 và 2016. Tăng trưởng dân số bắt nguồn từ di cư thuần là khá cao, ở mức 0,52% dân số vào năm 2004. Cư dân là công dân ngoại quốc chiếm 21,8% vào năm 2004, tương đương với Úc. GDP theo giờ làm việc cao thứ 16 thế giới, với 49,46 dollar quốc tế vào năm 2012. Khu vực tư nhân chiếm áp đảo trong kinh tế Thụy Sỹ và mức thuế tại đây thấp theo tiêu chuẩn Phương Tây. Thụy Sỹ là quốc gia tương đối dễ dàng để kinh doanh, đứng thứ 26 về Chỉ số thuận lợi kinh doanh (2016). Thụy Sỹ trải qua tăng trưởng chậm trong thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, tạo ra ủng hộ lớn hơn cho các cải cách kinh tế và hài hòa với Liên minh châu Âu.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Theo Credit Suisse, năm 2007 chỉ khoảng 37% cư dân sở hữu nhà ở, nằm vào hàng thấp nhất tại châu Âu. Giá nhà ở và thực phẩm cao hơn 171% và 145% so với các quốc gia EU vào năm 2007, tương đương với 113% và 104% so với Đức. Ngân sách liên bang Thụy Sỹ có quy mô 62,8 tỷ franc Thụy Sỹ vào năm 2010, tương đương 11,35% GDP quốc gia trong năm; tuy nhiên ngân sách khu vực (cấp bang) và ngân sách các khu tự quản không được tính vào trong ngân sách liên bang và tổng chi tiêu chính phủ là gần 33,8% GDP. Nguồn thu nhập chủ yếu của chính phủ liên bang là thuế giá trị gia tăng (33%) và thuế liên bang trực tiếp (29%) và chi tiêu chủ yếu nằm tại các khu vực phúc lợi xã hội và tài chính & thuế. Chi tiêu của Liên bang Thụy Sỹ tăng từ 7% GDP vào năm 1960 lên 9,7% vào năm 1990 và đến 10,7% vào năm 2010. Trong khi các lĩnh vực phúc lợi xã hội và tài chính & thuế tăng từ 35% vào năm 1990 lên 48,2% vào năm 2010, một sự suy giảm đáng kể chi tiêu đang diễn ra trong các lĩnh vực nông nghiệp và quốc phòng, từ 26,5% xuống 12,4% (ước tính vào năm 2015). Chủ nghĩa bảo hộ nông nghiệp là một ngoại lệ hiếm hoi trong chính sách mậu dịch tự do của Thụy Sỹ, nó góp phần khiến giá thực phẩm ở mức cao. Tự do hóa thị trường sản phẩm tụt hậu so với nhiều quốc gia EU theo đánh giá của OECD. Tuy thế, sức mua nội địa nằm vào hàng tốt nhất thế giới. Ngoài nông nghiệp, các hàng rào kinh tế và mậu dịch giữa Liên minh châu Âu và Thụy Sỹ là tối thiểu và Thụy Sỹ có các thỏa thuận mậu dịch tự do trên toàn cầu. Thụy Sỹ là một thành viên của Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA). Giáo dục và khoa học. Giáo dục tại Thụy Sỹ rất đa dạng do Hiến pháp Thụy Sỹ ủy thác cho các bang giữ thẩm quyền về hệ thống trường học. Tồn tại các trường học công lập và tư thục, trong đó có nhiều trường học quốc tế tư nhân. Tuổi tối thiểu đối với trường tiểu học là khoảng sáu tuổi tại toàn bộ các bang, song hầu hết các bang cung cấp một "trường học trẻ em" miễn phí bắt đầu từ năm 4 hoặc 5 tuổi.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Cấp tiểu học kéo dài đến lớp bốn, năm hoặc sáu, tùy theo trường học. Theo truyền thống, ngoại ngữ thứ nhất trong trường học luôn là một trong các ngôn ngữ chính thức khác của Thụy Sỹ, song gần đây tiếng Anh được đưa vào làm ngoại ngữ thứ nhất tại một số bang. Đến cuối cấp tiểu học (hoặc đầu cấp trung học), học sinh được phân loại theo khả năng của họ theo một vài (thường là ba) lĩnh vực. Những trẻ học nhanh hơn được dạy trong các lớp học tiên tiến để chuẩn bị cho học tập sâu hơn và kỳ thi tú tài, còn những trẻ tiếp thu chậm hơn một chút được tiếp nhận giáo dục thích ứng hơn với nhu cầu của chúng. Thụy Sỹ có 12 đại học, mười trường duy trì thuộc cấp bang và thường cung cấp lĩnh vực các môn học phi kỹ thuật. Đại học đầu tiên tại Thụy Sỹ được thành lập vào năm 1460 tại Basel (với một khoa y) và có truyền thống về nghiên cứu hóa học và y học tại Thụy Sỹ. Đại học lớn nhất tại Thụy Sỹ là Đại học Zürich với khoảng 25.000 sinh viên. Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sỹ tại Zürich (ETHZ) và Đại học Zürich được xếp thứ 20 và 54 theo Xếp hạng Học thuật Đại học Thế giới 2015 của Đại học Giao thông Thượng Hải. Hai học viện được chính phủ liên bang tài trợ là Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sỹ tại Zürich (ETHZ) thành lập vào năm 1855 và Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sỹ tại Lausanne (EPFL) được thành lập vào năm 1969- trước đó là một viện liên kết với Đại học Lausanne. Ngoài ra, tồn tại một số đại học khoa học ứng dụng (Fachhochschule). Trong nghiên cứu kinh doanh và quản trị, Đại học St. Gallen được xếp hạng thứ 329 trong Bảng xếp hạng đại học thế giới QS và xếp hạng nhất về chương trình mở toàn cầu theo "Financial Times." Thụy Sỹ có tỷ lệ cao thứ hai (gần 18% vào năm 2003) sinh viên ngoại quốc ở cấp đại học, sau Úc (hơn 18% một chút). Như để thích hợp với một quốc gia trong vai trò là nơi đặt trụ sở của nhiều tổ chức quốc tế, Viện Sau đại học Nghiên cứu Quốc tế và Phát triển (IHEID) đặt tại Genève là trường sau đại học nghiên cứu quốc tế và phát triển lâu năm nhất tại châu Âu lục địa, và được nhìn nhận phổ biến là một trong những trường uy tín nhất.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Nhiều nhà khoa học Thụy Sỹ từng nhận được giải thưởng Nobel, trong đó có nhà vật lý học nổi tiếng thế giới Albert Einstein, ông phát triển thuyết tương đối hẹp của mình trong thời gian làm việc tại Bern. Gần đây có các nhà khoa học Thụy Sỹ Vladimir Prelog, Heinrich Rohrer, Richard Ernst, Edmond Fischer, Rolf Zinkernagel và Kurt Wüthrich nhận giải Nobel. Tổng cộng, Thụy Sỹ giành hơn 100 giải Nobel trong toàn bộ các lĩnh vực và Giải Nobel Hòa bình được trao chín lần cho các tổ chức có trụ sở tại Thụy Sỹ. Genève và tỉnh Ain thuộc Pháp nằm kế bên cùng là nơi đặt phòng thí nghiệm lớn nhất thế giới là CERN, dành cho nghiên cứu vật lý hạt. Viện Paul Scherrer là trung tâm nghiên cứu quan trọng khác. Các phát minh đáng chú ý gồm có thuốc ảo giác lysergic acid diethylamide (LSD), kính hiển vi quét xuyên hầm và Velcro. Một số công nghệ cho phép thám hiểm các thế giới mới như bóng áp lực của Auguste Piccard và Bathyscaphe, cho phép Jacques Piccard tiếp cận điểm sâu nhất của đại dương thế giới. Văn phòng Không gian Thụy Sỹ tham gia một số công nghệ và chương trình không gian. Ngoài ra, họ còn là một trong 10 thể chế sáng lập Cơ quan Không gian châu Âu vào năm 1975 và đóng góp lớn thứ bảy cho ngân sách của cơ quan này. Trong khu vực tư nhân, một số công ty liên quan đến công nghiệp không gian như Oerlikon Space hay Maxon Motors họ cung cấp các cấu trúc tàu vũ trụ. Năng lượng, hạ tầng và môi trường. 56% điện năng tại Thụy Sỹ là từ thủy điện, và 39% là từ điện hạt nhân, kết quả là hệ thống phát điện gần như không thải CO2. Ngày 18 tháng 5 năm 2003, hai sáng kiến chống điện hạt nhân bị bác bỏ: "Moratorium Plus" nhằm mục tiêu cấm chỉ xây dựng nhà máy điện hạt nhân mới, và Điện năng Không Hạt nhân. Tuy nhiên, do tác động từ sự cố hạt nhân Fukushima tại Nhật Bản, Chính phủ Thụy Sỹ vào năm 2011 công bố rằng có kế hoạch kết thúc sử dụng năng lượng hạt nhân trong vòng hai hoặc ba thập niên tới. Tháng 11 năm 2016, cử tri Thụy Sỹ bác bỏ một đề xuất của Đảng Xanh về đẩy nhanh thôi dần năng lượng hạt nhân. Văn phòng Năng lượng Liên bang Thụy Sỹ (SFOE) chịu trách nhiệm về toàn bộ các vấn đề liên quan đến cung ứng năng lượng và sử dụng năng lượng.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Cơ quan này ủng hộ sáng kiến xã hội 2.000 W (trung bình một người dùng không quá 48 KWh mỗi ngày) nhằm cắt giảm sử dụng năng lượng quốc gia xuống hơn một nửa vào năm 2050. Thụy Sỹ có mạng lưới đường sắt dày đặc nhất tại châu Âu, gồm chuyên chở 596 triệu lượt hành khách mỗi năm (tính đến 2015). Năm 2015, mỗi công dân Thụy Sỹ đi trung bình bằng tàu hỏa, do đó là những người sử dụng đường sắt nhiều nhất. Gần như 100% mạng lưới được điện khí hóa. Đa số (60%) hệ thống do Đường sắt Liên bang Thụy Sỹ (SBB CFF FFS) điều hành. BLS AG vận hành đường sắt khổ tiêu chuẩn lớn thứ nhì, hai công ty đường sắt khác vận hành mạng lưới khổ nhỏ là Đường sắt Rhaetian (RhB) tại bang đông nam Graubünden, trong đó có một số đoạn là di sản thế giới, và Matterhorn Gotthard Bahn (MGB) đồng vận hành cùng RhB đối với Glacier Express giữa Zermatt và St. Moritz/Davos. Ngày 31 tháng 5 năm 2016, Đường hầm Gotthard qua dãy Alpes được khai thông, là đường hầm đường sắt dài nhất và sâu nhất thế giới với chiều dài . Mạng lưới đường bộ Thụy Sỹ được quản lý kết hợp công-tư, quỹ lấy từ phí đường bộ và thuế xe. Hệ thống xa lộ cao tốc Thụy Sỹ yêu cầu mua một tem thuế có giá 40 franc Thụy Sỹ mỗi năm theo lịch để sử dụng đường, áp dụng với cả xe chở khách và chở hàng. Hệ thống xa lộ cao tốc Thụy Sỹ có tổng chiều dài (tính đến năm 2000), và so với diện tích toàn quốc là thì đây cũng là một trong những hệ thống xa lộ dày đặc nhất thế giới. Sân bay Zürich là cửa ngõ hàng không quốc tế lớn nhất của Thụy Sỹ, chuyên chở 22,8 triệu lượt hành khách vào năm 2012. Các sân bay quốc tế khác là Sân bay Genève (13,9 triệu hành khách vào năm 2012), EuroAirport Basel-Mulhouse-Freiburg trên lãnh thổ Pháp, Sân bay Bern, Sân bay Lugano, Sân bay St. Gallen-Altenrhein và Sân bay Sion. Swiss International Air Lines là hãng hàng không quốc gia của Thụy Sỹ, có trung tâm chính là Zürich. Thụy Sỹ nằm trong số các quốc gia phát triển có thành tựu môi trường tốt nhất; Thụy Sỹ ký kết Nghị định thư Kyoto vào năm 1998 và phê chuẩn nó vào năm 2003. Cùng với Mexico và Hàn Quốc tạo thành Tổ chức Toàn vẹn Môi trường (EIG).
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Thụy Sỹ rất tích cực trong các quy định tái chế và chống xả rác, và là một trong những nước tái chế hàng đầu trên thế giới, với 66-96% vật liệu có thể tái chế đã được tái chế vào năm 2010, tùy theo khu vực. Chỉ số Kinh tế Xanh Toàn cầu 2014 xếp hạng Thụy Sỹ nằm trong 10 nền kinh tế xanh hàng đầu thế giới. Nhân khẩu. Năm 2022, dân số Thụy Sỹ ước đạt 8,508,698 người. Tương tự như các quốc gia phát triển khác, dân số Thụy Sỹ gia tăng nhanh chóng trong thời kỳ công nghiệp hóa, tăng bốn lần từ năm 1800 đến năm 1990. Tăng trưởng từ đó ổn định, và như hầu hết châu Âu, Thụy Sỹ hiện phải đối diện với kết cấu dân số lão hóa, song được dự báo tăng trưởng liên tục hàng năm cho đến năm 2035 phần lớn là do nhập cư và tỷ suất sinh gần đến mức thay thế. , cư dân là người ngoại quốc chiếm 23,3% dân số, một trong các tỷ lệ cao nhất tại thế giới phát triển. Hầu hết trong số họ (64%) đến từ Liên minh châu Âu hoặc các quốc gia EFTA. Người Ý là dân tộc đơn lẻ lớn nhất trong số người ngoại quốc với tỷ lệ 15,6% trong nhóm này, tiếp đến là người Đức (15,2%), di dân từ Bồ Đào Nha (12,7%), Pháp (5,6%), Serbia (5,3%), Thổ Nhĩ Kỳ (3,8%), Tây Ban Nha (3,7%), và Áo (2%). Di dân Sri Lanka với hầu hết là người tị nạn Tamil là nhóm lớn nhất trong những người gốc Á. Ngoài ra, số liệu từ năm 2012 cho thấy 34,7% dân số thường trú từ 15 tuổi trở lên tại Thụy Sỹ (tức khoảng 2,33 triệu người) có một xuất thân nhập cư. Một phần ba trong số đó (853.000) giữ quyền công dân Thụy Sỹ. Bốn phần năm số người có một xuất thân nhập cư là người nhập cư; còn một phần năm sinh tại Thụy Sỹ. Trong thập niên 2000, các tổ chức nội địa và quốc tế bày tỏ lo ngại về điều được nhìn nhận là gia tăng bài ngoại, đặc biệt là trong một số chiến dịch chính trị. Phản ứng trước một báo cáo phê phán, Hội đồng Liên bang lưu ý rằng "chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc đáng tiếc là hiện diện tại Thụy Sỹ", song phát biểu rằng tỷ lệ cao công dân ngoại quốc tại đây, cũng như việc người ngoại quốc hội nhập nhìn chung là không có vấn đề cho thấy sự cởi mở của Thụy Sỹ.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Ngôn ngữ. Thụy Sỹ có bốn ngôn ngữ chính thức: Tiếng Đức chiếm đa số (63,3% dân số nói vào năm 2014); tiếng Pháp (22,7%) tại miền tây; và tiếng Ý (8,1%) tại miền nam. Ngôn ngữ thứ tư là tiếng Romansh (0,5%), đây là một ngôn ngữ thuộc hệ Latinh và được nói ở quy mô địa phương tại bang Graubünden thuộc miền đông nam. Tuy nhiên, pháp luật liên bang và các đạo luật chính thức khác không cần thiết được ban hành bằng tiếng Romansh. Năm 2013, các ngôn ngữ được nói nhiều nhất tại nhà trong số cư dân thường trú từ 15 tuổi trở lên là tiếng Đức-Thụy Sỹ (60,1%), tiếng Pháp (23,4%), tiếng Đức tiêu chuẩn (10,1%), và tiếng Ý (8,4%). Trên hai phần năm (42,6%) cư dân thường trú biểu thị thường xuyên nói hơn một ngôn ngữ. Các ngôn ngữ khác được nói tại nhà gồm có tiếng Anh (4,6%), tiếng Bồ Đào Nha (3,5%), tiếng Albania (2.6%), tiếng Serbia và Croatia (2,5%), tiếng Tây Ban Nha (2,2%), và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ (1,3%). Chính phủ liên bang có nghĩa vụ giao thiệp bằng các ngôn ngữ chính thức, và trong nghị viện liên bang các bản dịch đồng thời được cung cấp giữa tiếng Đức, Pháp và Ý. Ngoài dạng chính thức, bốn khu vực ngôn ngữ của Thụy Sỹ cũng có dạng phương ngữ của mình. Vai trò của phương ngữ trong mỗi khu vực ngôn ngữ khác biệt đáng kể: Tại các khu vực nói tiếng Đức, tiếng Đức-Thụy Sỹ ngày càng trở nên thịnh hành hơn kể từ nửa cuối thế kỷ XX, đặc biệt là trong truyền thông, và được sử dụng làm ngôn ngữ thường nhật, trong khi giao thiệp bằng văn bản hầu như luôn sử dụng dạng tiếng Đức tiêu chuẩn của Thụy Sỹ. Tương phản, tại các khu vực nói tiếng Pháp, phương ngữ bản địa hầu như đã biến mất, trong khi các phương ngữ tại các khu vực nói tiếng Ý hầu như bị hạn chế trong bối cảnh gia đình và đàm thoại bình thường. Học một trong các ngôn ngữ quốc gia khác tại trường học là điều bắt buộc đối với toàn bộ học sinh Thụy Sỹ, do đó nhiều người Thụy Sỹ được giả định ít nhất là song ngữ, đặc biệt là những người thuộc các nhóm thiểu số ngôn ngữ. Y tế.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Y tế. Toàn thể công dân Thụy Sỹ được yêu cầu mua bảo hiểm y tế từ các công ty bảo hiểm tư nhân, ngược lại các công ty được yêu cầu chấp nhận bất kỳ người nào nộp đơn. Chi phí của hệ thống y tế Thụy Sỹ nằm vào hàng cao nhất, song có kết quả tốt so với các quốc gia châu Âu khác; các bệnh nhân là công dân Thụy Sỹ được báo cáo nhìn chung là hài lòng cao độ với hệ thống. Năm 2012, tuổi thọ dự tính khi sinh là 80,4 đối với nam giới và 84,7 đối với nữ giới — là con số cao nhất thế giới. Chi tiêu vào y tế đặc biệt cao với 11,4% GDP (2010), song ngang hàng với Đức và Pháp (11,6%) cùng các quốc gia châu Âu khác, và thấp hơn đáng kể chi tiêu tại Hoa Kỳ (17,6%). Từ năm 1990, ghi nhận được có tình trạng tăng dần chi phí, phản ánh chi phí cao của các dịch vụ được cung ứng. Do dân số đang lão hóa và các kỹ thuật y tế mới, chi tiêu cho y tế dường như sẽ tiếp tục tăng lên. Đô thị hóa. Từ hai phần ba đến ba phần tư dân số cư trú tại các khu vực đô thị. Thụy Sỹ biến đổi từ một quốc gia phần lớn cư dân sống tại nông thôn sang một quốc gia phần lớn cư dân sống tại đô thị trong vòng 70 năm. Tình trạng mở rộng đô thị này không chỉ tác động đến cao nguyên Thụy Sỹ mà còn đến dãy Jura và chân núi Alpes và có lo ngại gia tăng về sử dụng đất. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ XXI, tăng trưởng dân số tại khu vực đô thị cao hơn tại khu vực nông thôn. Thụy Sỹ có một mạng lưới thành phố dày đặc, có các thành phố cỡ lớn, vừa và nhỏ bổ khuyết cho nhau. Cao nguyên Thụy Sỹ có mật độ dân số rất cao với khoảng 450 người/km² và cảnh quan liên tục biểu thị dấu hiệu con người hiện diện. Sức nặng của các đại đô thị là Zürich, Genève–Lausanne, Basel và Bern có xu hướng gia tăng. Theo so sánh quốc tế, tầm quan trọng của các khu vực đô thị này mạnh hơn so với số lượng cư dân của chúng. Ngoài ra, hai trung tâm chính là Zürich và Genève được công nhận có chất lượng sinh hoạt đặc biệt cao. Tôn giáo. Thụy Sỹ không có quốc giáo, song hầu hết các bang (ngoại trừ Genève và Neuchâtel) công nhận các giáo hội chính thức, là Giáo hội Công giáo La Mã hoặc Giáo hội Cải cách Thụy Sỹ.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Các giáo hội này, và tại một số bang còn có các giáo đoàn Công giáo Cổ và Do Thái giáo, được tài trợ bằng thuế chính thức từ các tín đồ. Kitô Giáo là tôn giáo chủ yếu của Thụy Sỹ (khoảng 71% cư dân và 75% công dân Thụy Sỹ), bị phân chia giữa Công giáo La Mã (38,21% dân số), Giáo hội Cải cách Thụy Sỹ (26,93%), các giáo hội Tin Lành khác (2,89%) và các giáo phái Kitô khác (2,79%). Gần đây có sự nổi lên của phái Phúc Âm. Sự nhập cư lập nên các cộng đồng tôn giáo thiểu số đáng kể, như Hồi giáo (4,95%) và Chính thống giáo Đông phương (khoảng 2%). Theo một trưng cầu vào năm 2015 của Gallup International, 12% dân chúng Thụy Sỹ tự xác định là "người vô thần xác tín." Theo điều tra nhân khẩu năm 2000, các cộng đồng thiểu số Kitô khác gồm có Tân Mộ đạo (Pietism) (0,44%), Ngũ Tuần (0,28%), Giám Lý (0.13%), Tân Tông đồ (0,45%), Nhân Chứng Giê-hô-va (0,28%), giáo phái Tin Lành khác (0,20%), Công giáo Cổ (0,18%), các giáo phái Kitô khác (0,20%). Các tôn giáo phi Cơ Đốc là Ấn Độ giáo (0,38%), Phật giáo (0,29%), Do Thái giáo (0,25%) và khác (0,11%); 4,3% không tuyên bố. 21,4% vào năm 2012 tự tuyên bố là không giáo phái, tức không liên kết với bất kỳ giáo hội hoặc cơ cấu tôn giáo nào. Quốc gia có lịch sử cân bằng ngang nhau giữa Công giáo và Tin Lành, có sự đan xen phức tạp về phái chiếm đa số tại hầu hết lãnh thổ. Genève cải sang Tin Lành vào năm 1536, ngay trước khi John Calvin đến đó. Nơi này được quốc tế gọi là "Roma Tin Lành" do là căn cứ của nhiều nhà cải cách như Theodore Beza hay William Farel. Zürich trở thành một thành trì Tin Lành khác khoảng cùng thời điểm, khi Huldrych Zwingli và Heinrich Bullinger nắm quyền lãnh đạo tại đó. Có một bang là Appenzell bị phân chia chính thức giữa các phái Công giáo và Tin Lành vào năm 1597. Các thành phố lớn và bang mà chúng thuộc về (Bern, Genève, Lausanne, Zürich và Basel) là nơi Tin Lành chiếm ưu thế. Trung Thụy Sỹ cùng với Valais, Ticino, Appenzell Innerrhodes,Jura và Fribourg có truyền thống Công giáo.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Hiến pháp Thụy Sỹ 1848 do ảnh hưởng từ xung đột giữa các bang Công giáo và Tin Lành đương thời nên cố ý xác định một tình trạng hiệp thương, cho phép Công giáo và Tin Lành cùng tồn tại hòa bình. Một sáng kiến vào năm 1980 kêu gọi hoàn toàn tách biệt giáo hội và nhà nước đã bị 78,9% cử tri bác bỏ. Một số bang và thành phố có truyền thống Tin Lành ngày nay có một đa số nhỏ Công giáo, không phải vì phái này có tín đồ tăng lên, mà chỉ là vì từ khoảng năm 1970 có sự gia tăng dần lượng người không liên kết với bất kỳ giáo hội hoặc cơ cấu tôn giáo khác, đặc biệt là tại các khu vực truyền thống Tin Lành như thành phố Basel (42%), bang Neuchâtel (38%), bang Genève (35%), bang Vaud (26%), hay thành phố Zürich (>25%%). Văn hóa. Văn hóa Thụy Sỹ mang đặc điểm là đa dạng, phản ánh thông qua phạm vi rộng các phong tục truyền thống. Một khu vực có thể bằng một số cách thức để giữ liên kết mạnh với quốc gia láng giềng chia sẻ cùng ngôn ngữ với họ, bản thân Thụy Sỹ có gốc là văn hóa Tây Âu. Văn hóa Romash cô lập về ngôn ngữ tại bang Graubünden là ngoại lệ, nó tồn tại chỉ trên các thung lũng cao thuộc lưu vực sông Rhine và Inn và phấn đấu duy trì truyền thống ngôn ngữ hiếm của mình. Thụy Sỹ có nhiều cư dân có đóng góp nổi bật cho văn học, nghệ thuật, kiến trúc, âm nhạc và khoa học. Ngoài ra quốc gia này còn thu hút một số cá nhân sáng tạo trong thời kỳ bất ổn hoặc chiến tranh tại châu Âu. Thụy Sỹ có khoảng 1000 bảo tàng, được phân bổ trên toàn quốc; số lượng tăng gấp ba lần kể từ năm 1950. Trong số các cuộc trình diễn văn hóa quan trọng nhất được tổ chức thường niên có Lễ hội Paléo, Lễ hội Lucerne, Lễ hội Jazz Montreux, Liên hoan Phim Quốc tế Locarno và Art Basel. Chủ nghĩa biểu tượng Alpes đóng vai trò thiết yếu trong hình thành lịch sử quốc gia và bản sắc dân tộc Thụy Sỹ. Ngày nay một số vùng núi tập trung có văn hóa nghỉ dưỡng trượt tuyết sôi nổi vào mùa đông, và văn hóa đi bộ đường dài hoặc xe đạp leo núi vào mùa hè.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Các khu vực khác trong suốt năm có văn hóa giải trí phục vụ cho du lịch, song mùa xuân và mùa thu vắng vẻ hơn do ít du khách hơn. Văn hóa nông dân và mục dân truyền thống cũng chi phối tại nhiều khu vực, các nông trại nhỏ hiện diện khắp nơi khi ra khỏi các thành phố. Nghệ thuật dân gian được duy trì tồn tại trong các tổ chức khắp Thụy Sỹ, chủ yếu được thể hiện bằng âm nhạc, vũ đạo, thơ, khắc gỗ và thêu. Alphorn là một nhạc cụ giống như trumpet làm bằng gỗ, nó cùng với lối hát yodel và phong cầm là khái quát của âm nhạc truyền thống Thụy Sỹ. Văn học. Với tư cách liên bang, hình thành từ năm 1291 và khi đó hầu như chỉ bao gồm các khu vực nói tiếng Đức, dạng văn học sớm nhất của Thụy Sỹ được viết bằng tiếng Đức. Đến thế kỷ XVIII, tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ thời thượng tại Bern và nơi khác, với ảnh hưởng của các đồng minh và lãnh thổ lệ thuộc nói tiếng Pháp trở nên rõ ràng hơn. Trong số tác giả kinh điển của văn học tiếng Đức tại Thụy Sỹ có Jeremias Gotthelf (1797–1854) và Gottfried Keller (1819–1890). Các nhân vật phi thường của văn học Thụy Sỹ trong thế kỷ XX là Max Frisch (1911–1991) và Friedrich Dürrenmatt (1921–1990), có các tiết mục "Die Physiker" (Các nhà vật lý học) và "Das Versprechen" (Thề nguyện), được Hollywood dựng phim và phát hành vào năm 2001. Các nhà văn tiếng Pháp xuất chúng là Jean-Jacques Rousseau (1712–1778) và Germaine de Staël (1766–1817). Các tác giả gần đây hơn là Charles Ferdinand Ramuz (1878–1947) và Blaise Cendrars (1887–1961). Có lẽ sáng tạo văn học nổi tiếng nhất của Thụy Sỹ là "Heidi", một câu chuyện về cô bé mồ côi sống với ông trên dãy Alpes, đây là một trong số các sách thiếu nhi nổi tiếng nhất cho đến nay và trở thành một tượng trưng của Thụy Sỹ. Tác giả của truyện là Johanna Spyri (1827–1901), bà còn viết một số sách khác về đề tài tương tự. Truyền thông. Tự do báo chí và quyền tự do biểu đạt được đảm bảo trong hiến pháp liên bang của Thụy Sỹ. Thống tấn xã Thụy Sỹ (SNA) phát thông tin mỗi giờ bằng ba trong bốn ngôn ngữ chính thức về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
SNA cũng cấp tin tức cho hầu như toàn bộ truyền thông Thụy Sỹ và hàng chục dịch vụ truyền thông ngoại quốc. Thụy Sỹ có số đầu báo phát hành lớn nhất xét theo tỷ lệ với dân số và kích thước. Các báo có ảnh hưởng nhất là Tages-Anzeiger và Neue Zürcher Zeitung (NZZ) viết bằng tiếng Đức, và Le Temps viết bằng tiếng Pháp, song hầu như mỗi thành phố đều có ít nhất một báo địa phương. Sự đa dạng văn hóa giải thích việc có số lượng lớn báo chí. Chính phủ áp dụng kiểm soát nhiều hơn đối với truyền thông phát sóng so với truyền thông in ấn, đặc biệt là tài chính và cấp phép. Tập đoàn Phát sóng Thụy Sỹ SRG SSR chịu trách nhiệm sản xuất và phát sóng các chương trình phát thanh và truyền hình. Các phòng thu của SRG SSR được phân bố khắp các khu vực ngôn ngữ. Nội dung phát thanh được sản xuất tại sáu phòng thu trung ương và bốn phòng thu khu vực, trong khi các chương trình truyền hình được sản xuất tại Genève, Zürich và Lugano. Một mạng lưới cáp quy mô rộng cũng cho phép hầu hết người Thụy Sỹ tiếp cận với các chương trình từ các quốc gia láng giềng. Kiến trúc. Kiến trúc ở Thụy Sỹ có truyền thống lâu đời. Phong cách Romanesque của thế kỷ 12 có thể được tìm thấy trong các nhà thờ ở Basel, Sion, Chur, Geneva và Lausanne. Phong cách này, rất phong phú về biểu hiện, cũng có thể được tìm thấy ở nhiều lâu đài và pháo đài khắp đất nước, nhiều trong số đó vẫn còn ở trong tình trạng tốt. Các nhà thờ ở Schaffhausen, Zug và Zürich có phong cách Gothic, và các nhà thờ của Einsiedeln và St. Gallen có phong cách Baroque. Thể thao. Trượt tuyết, trượt ván trên tuyết và leo núi nằm trong số các môn thể thao phổ biến nhất tại Thụy Sỹ, đặc điểm tự nhiên của quốc gia này đặc biệt thích hợp cho các hoạt động như vậy. Thể thao mùa đông được cư dân bản địa và du khách luyện tập kể từ nửa sau thế kỷ XIX khi phát minh xe trượt băng tại St. Moritz. Các giải vô địch trượt tuyết thế giới đầu tiên được tổ chức tại Mürren (1931) và St. Moritz (1934). St. Moritz còn từng đăng cai Thế vận hội Mùa đông lần thứ 2 vào năm 1928 và lần thứ năm vào năm 1948.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Các môn thể thao được theo dõi nhiều nhất tại Thụy Sỹ là bóng đá, khúc côn cầu trên băng, trượt tuyết đổ đèo, vật dân tộc "Schwingen", và quần vợt. Trụ sở của Liên đoàn bóng đá thế giới (FIFA) và Liên đoàn khúc côn cầu trên băng thế giới (IIHF) đặt tại Zürich. Trên thực tế trụ sở của nhiều liên đoàn thể thao quốc tế khác cũng nằm tại Thụy Sỹ, như Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC), Bảo tàng Olympic và Tòa Trọng tài Thể thao (CAS) của IOC đặt tại Lausanne. Thụy Sỹ từng đăng cai Giải bóng đá vô địch thế giới 1954, và cùng với Áo đăng cai Giải vô địch bóng đá châu Âu 2008. Giải bóng đá vô địch quốc gia Thụy Sỹ (Swiss Super League) là hạng đấu bóng đá chuyên nghiệp cao nhất của quốc gia. Sân bóng đá cao nhất châu Âu với độ cao trên mực nước biển nằm tại Thụy Sỹ và mang tên "Sân vận động Ottmar Hitzfeld". Nhiều người Thụy Sỹ theo dõi khúc côn cầu trên băng và ủng hộ một trong 12 câu lạc bộ tại Giải hạng A, là giải đông đảo nhất tại châu Âu. Năm 2009, Thụy Sỹ lần thứ 10 đăng cai Giải vô địch khúc côn cầu trên băng thế giới. Do có nhiều hồ nên Thụy Sỹ là một nơi thu hút đối với môn thuyền buồm. Hồ lớn nhất Thụy Sỹ là hồ Genève là căn cứ của đội tuyển thuyền buồm Alinghi, là đội tuyển châu Âu đầu tiên giành chiến thắng Cúp châu Mỹ năm 2003 và bảo vệ được danh hiệu vào năm 2007. Quần vợt ngày càng trở nên phổ biến tại Thụy Sỹ, các vận động viên như Martina Hingis, Roger Federer, và Stanislas Wawrinka từng nhiều lần giành chiến thắng tại Grand Slam. Đua ô tô và các sự kiện thể thao ô tô bị cấm chỉ tại Thụy Sỹ sau tai nạn Le Mans năm 1955 tại Pháp, ngoại lệ là các sự kiện như leo đồi tốc độ. Trong giai đoạn này, Thụy Sỹ vẫn sản sinh các tay đua thành công, và Thụy Sỹ cũng chiến thắng Giải vô địch thế giới thể thao ô tô công thức A1 mùa 2007-2008. Tháng 6 năm 2007, Hội đồng Quốc gia Thụy Sỹ bỏ phiếu bỏ lệnh cấm, song Hội đồng Các bang Thụy Sỹ bác bỏ thay đổi và lệnh cấm vẫn duy trì.
Thụy Sĩ
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5185
Các môn thể thao truyền thống gồm có vật Thụy Sỹ hay "Schwingen". Đây là một truyền thống cổ xưa từ các bang miền trung nông thôn và được một số người nhìn nhận là môn thể thao quốc gia. Hornussen là môn thể thao bản địa Thụy Sỹ khác, giống như pha tạp giữa bóng chày và golf. Steinstossen là biến thể Thụy Sỹ của môn đẩy đá, một cuộc tranh tài bằng cách ném một khối đá nặng. Nó vốn chỉ được tập luyện trong phạm vi cư dân vùng núi cao từ thời kỷ tiền sử, và được ghi nhận diễn ra tại Basel trong thế kỷ XIII. Đây là trung tâm của Lễ hội Unspunnenfest được tổ chức lần đầu vào năm 1805, với biểu tượng là hòn đá 83,5 kg mang tên "Unspunnenstein". Ẩm thực. Ẩm thực Thụy Sỹ có nhiều khía cạnh, một số món như fondue, raclette hay rösti hiện diện trên toàn quốc, song mỗi bang phát triển nghệ thuật ẩm thực riêng của mình dựa theo khác biệt về khí hậu và ngôn ngữ. Ẩm thực Thụy Sỹ truyền thống sử dụng các nguyên liệu tương tự như của các quốc gia châu Âu khác, cũng như các sản phẩm sữa và pho mát độc nhất như Gruyère hay Emmental, được sản xuất tại các thung lũng Gruyères và Emmental. Có nhiều cơ sở hảo hạng, đặc biệt là tại miền tây Thụy Sỹ. Sôcôla được sản xuất tại Thụy Sỹ từ thế kỷ XVIII, song đạt được danh tiếng vào cuối thế kỷ XIX khi phát minh các công nghệ hiện đại khiến sản phẩm có chất lượng cao. Một bước đột phá là phát minh sôcôla sữa đặc vào năm 1875 bởi Daniel Peter. Người Thụy Sỹ bình quân tiêu thụ sôcôla lớn nhất thế giới. Đồ uống có cồn phổ biến nhất tại Thụy Sỹ là rượu vang. Thụy Sỹ nổi tiếng vì trồng nhiều loại nho do khác biệt lớn về điều kiện đất, không khí, độ cao và ánh sáng. Rượu vang Thụy Sỹ được sản xuất chủ yếu tại Valais, Vaud (Lavaux), Genève và Ticino, với đa số nhỏ là rượu vang trắng. Các ruộng nho được canh tác tại Thụy Sỹ từ thời La Mã, thậm chí các dấu tích nhất định có thể cho thấy nguồn gốc cổ xưa hơn. Các loại phổ biến nhất là Chasselas (gọi là Fendant tại Valais) và Pinot noir. Merlot là loại chủ yếu được sản xuất tại Ticino.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Kẽm là nguyên tố kim loại chuyển tiếp có ký hiệu là Zn và số nguyên tử là 30. Kẽm là nguyên tố đầu tiên trong nhóm 12 của bảng tuần hoàn. Kẽm là nguyên tố phổ biến thứ 24 trong lớp vỏ Trái Đất và có 5 đồng vị bền. Quặng kẽm phổ biến nhất là quặng sphalerit, một loại kẽm sulfide. Hầu hết lượng kẽm được khai thác tại khai mỏ ở Úc, Canada và Hoa Kỳ, sau đó quặng bị tuyển nổi, thiêu kết, và điện phân để ra sản phẩm tinh khiết. Một mặt nào đó, kẽm có tính chất hóa học giống như là magnesi, vì ion của chúng có bán kính và số oxy hóa ở điều kiện thường (+2) như nhau. Đồng thau (hợp kim của đồng và kẽm) đã được dùng ở Judea từ trước thế kỷ X TCN và ở Hy Lạp cổ đại từ thế kỷ VII TCN. Các mỏ kẽm tại Rajasthan đã được khai thác bởi con người từ thế kỷ VI TCN. Tuy nhiên, bằng chứng sớm nhất của con người tạo ra kẽm tinh khiết được tìm thấy ở Zawar, Rajasthan vào thế kỷ IX bằng cách chưng cất quặng kẽm. Mãi cho đến thế kỷ XII thì kẽm nguyên chất mới được sản xuất tại quy mô lớn ở Ấn Độ. Vào thời Trung cổ, trong giả kim thuật kẽm oxide được gọi là "len của nhà triết học" hoặc "tuyết trắng". Năm 1746, nhà hóa học người Đức Andreas Sigismund Marggraf được công nhận là tách được kẽm kim loại tinh khiết. Năm 1800, Luigi Galvani và Alessandro Volta đã phát hiện ra các đặc tính điện hóa học của kẽm. Từ các tính chất của kẽm con người đã dùng nguyên tố đó để làm lớp phủ chống ăn mòn trên thép, pin kẽm, và các hợp kim. Nhiều hợp chất kẽm được sử dụng phổ biến như kẽm cacbonat, kẽm gluconat (bổ sung dinh dưỡng), kẽm chloride (chất khử mùi), kẽm pyrithion (dầu gội đầu trị gàu), kẽm sulfide (sơn huỳnh quang), và kẽm methyl hay kẽm diethyl sử dụng trong hóa hữu cơ ở phòng thí nghiệm. Kẽm là một chất khoáng vi lượng thiết yếu cho sinh vật và sức khỏe con người, đặc biệt trong quá trình phát triển của thai nhi và trẻ sơ sinh. Khoảng 2 tỷ người ở các nước đang phát triển bị thiếu kẽm.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Trẻ em bị thiếu kẽm sẽ bị chậm phát triển, phát triển cơ quan sinh dục trễ, dễ nhiễm trùng và tiêu chảy; mỗi năm khoảng 800.000 trẻ em trên thế giới chết do bị thiếu kẽm. Các enzym liên kết với kẽm có vai trò quan trọng ở con người và nghiên cứu về hoá hữu cơ. Tiêu thụ quá nhiều kẽm ở người có thể gây hôn mê, mệt mỏi và bị các triệu chứng của việc thiếu đồng. Tính chất. Vật lý. Kẽm có màu trắng xanh, óng ánh và nghịch từ, mặc dù hầu hết kẽm phẩm cấp thương mại có màu xám xỉn. Phân bố tinh thể của kẽm loãng hơn sắt và có cấu trúc tinh thể sáu phương với một kết cấu lục giác không đều, trong đó mỗi nguyên tử có sáu nguyên tử gần nhất (cách 265,9 pm) trong mặt phẳng riêng của chúng và sáu nguyên tử khác tại khoảng cách lớn hơn 290,6 pm. Kẽm kim loại cứng và giòn ở hầu hết cấp nhiệt độ nhưng trở nên dễ uốn từ 100 đến 150 °C. Trên 210 °C, kim loại kẽm giòn trở lại và có thể được tán nhỏ bằng lực. Kẽm dẫn điện khá. So với các kim loại khác, kẽm có độ nóng chảy (419,5 °C, 787,1F) và điểm sôi (907 °C) tương đối thấp. Điểm sôi của nó là một trong số những điểm sôi thấp nhất của các kim loại chuyển tiếp, chỉ cao hơn thủy ngân và cadmi. Một số hợp kim với kẽm như đồng thau, là hợp kim của kẽm và đồng. Các kim loại khác có thể tạo hợp kim 2 phần với kẽm như nhôm, antimon, bismuth, vàng, sắt, chì, thủy ngân, bạc, thiếc, magnesi, cobalt, nickel, teluride và natri. Tuy cả kẽm và zirconi không có tính sắt từ, nhưng hợp kim của chúng lại thể hiện tính chất sắt từ dưới 35 K. Phân bố. Kẽm chiếm khoảng 75 ppm (0,0075%) trong vỏ Trái Đất, là nguyên tố phổ biến thứ 24. Đất chứa 5-770 ppm kẽm với giá trị trung bình 64 ppm. Nước biển chỉ chứa 30 ppb kẽm và trong khí quyển chứa 0,1-4 µg/m³. Nguyên tố này thường đi cùng với các nguyên tố kim loại thông thường khác như đồng và chì ở dạng quặng.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Kẽm là một nguyên tố ưa tạo quặng (chalcophile), nghĩa là nguyên tố có ái lực thấp với oxy và thường liên kết với lưu huỳnh để tạo ra các sulfide. Các nguyên tố ưa tạo quặng hình thành ở dạng lớp vỏ hóa cứng trong các điều kiện khử của khí quyển Trái Đất. Sphalerit là một dạng kẽm sulfide, và là loại quặng chứa nhiều kẽm nhất với hàm lượng kẽm lên đến 60-62%. Các loại quặng khác có thể thu hồi được kẽm như smithsonit (kẽm cacbonat), hemimorphit (kẽm silicat), wurtzit (loại kẽm sulfide khác), và đôi khi là hydrozincit (kẽm cacbonat). Ngoại trừ wurtzit, tất cả các khoáng trên được hình thành từ các quá trình phong hóa kẽm sulfide nguyên sinh. Tổng tài nguyên kẽm trên thế giới đã được xác nhận vào khoảng 1,9 tỉ tấn. Các mỏ kẽm lớn phân bố ở Úc và Mỹ, và trữ lượng kẽm lớn nhất ở Iran, trong đó Iran có trữ lượng lớn nhất. Với tốc độ tiêu thụ như hiện nay thì nguồn tài nguyên này ước tính sẽ cạn kiệt vào khoảng năm từ 2027 đến 2055. Khoảng 346 triệu tấn kẽm đã được sản xuất trong suốt chiều dài lịch sử cho đến năm 2002, và theo một ước lượng cho thấy khoảng 109 triệu tấn tồn tại ở các dạng đang sử dụng. Đồng vị. Kẽm trong tự nhiên là hỗn hợp của 5 đồng vị ổn định 64Zn, 66Zn, 67Zn, 68Zn và 70Zn, trong đó đồng vị 64 là phổ biến nhất (48,6% trong tự nhiên) với chu kỳ bán rã , do đó tính phóng xạ của nó có thể bỏ qua. Tương tự, (0,6%), có chu kỳ bán rã thường không được xem là có tính phóng xạ. Các đồng vị khác là (28%), (4%) và (19%). Một số đồng vị phóng xạ đã được nhận dạng. có chu kỳ bán rã 243,66 ngày, là đồng vị tồn tại lâu nhất, theo sau là có chu kỳ bán rã 46,5 giờ. Kẽm có 10 đồng phân hạt nhân.69mZn có chu kỳ bán rã 13,76 giờ. (tham số mũ "m" chỉ đồng vị giả ổn định). Các hạt nhân của đồng vị giả ổn định ở trong trạng thái kích thích và sẽ trở về trạng thái bình thường khi phát ra photon ở dạng tia gamma. có 3 trạng thái kích thích và có 2 trạng thái. Mỗi đồng vị , , và chỉ có một trạng thái kích thích.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Cơ chế phân rã phổ biến của đồng vị phóng xạ kẽm có số khối nhỏ hơn 66 là bắt electron, sản phẩm tạo thành là một đồng vị của đồng. Cơ chế phân rã phổ biến của đồng vị phóng xạ kẽm có số khối lớn hơn 66 là phân rã beta (β-), sản phẩm tạo ra là đồng vị của gali. Tính chất hóa học và các hợp chất. Khả năng phản ứng. Kẽm có cấu hình electron là [Ar]3d104s2 và là nguyên tố thuộc nhóm 12 trong bảng tuần hoàn. Nó là kim loại có độ hoạt động trung bình và là chất oxy hóa mạnh. Bề mặt của kim loại kẽm tinh khiết xỉn nhanh, thậm chí hình thành một lớp thụ động bảo vệ là Hydrozincit, , khi phản ứng với cacbon dioxide trong khí quyển. Lớp này giúp chống lại quá trình phản ứng tiếp theo với nước và hydro. Kẽm cháy trong không khí cho ngọn lửa màu xanh lục tạo ra khói kẽm oxide. Kẽm dễ dàng phản ứng với các acid, kiềm và các phi kim khác. Kẽm cực kỳ tinh khiết chỉ phản ứng một cách chậm chạp với các acid ở nhiệt độ phòng. Các acid mạnh như acid clohydric hay acid sulfuric có thể hòa tan lớp bảo vệ bên ngoài và sau đó kẽm phản ứng với nước giải phóng khí hydro. Tính chất hóa học của kẽm đặc trưng bởi trạng thái oxy hóa +2. Khi các hợp chất ở trạng thái này được hình thành thì các electron lớp "s" bị mất đi, và ion kẽm có cấu hình electron [Ar]3d10. Quá trình này cho phép tạo 4 liên kết bằng cách tiếp nhận thêm 4 cặp electron theo quy tắc bộ tám. Dạng cấu tạo hóa học lập thể là tứ diện và các liên kết có thể được miêu tả như sự tạo thành của các orbitan lai ghép sp3 của ion kẽm. Trong dung dịch, nó tạo phức phổ biến dạng bát diện là . Sự bay hơi của kẽm khi kết hợp với kẽm chloride ở nhiệt độ trên 285 °C chỉ ra sự hình thành , một hợp chất kẽm có trạng thái oxy hóa +1. Không có hợp chất kẽm nào mà kẽm có trạng thái oxy hóa khác +1 hoặc +2. Các tính toán chỉ ra rằng hợp chất kẽm có trạng thái oxy hóa +4 không thể tồn tại.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Tính chất hóa học của kẽm tương tự tính chất của các kim loại chuyển tiếp nằm ở vị trí cuối cùng của hàng đầu tiên như nickel và đồng, mặc dù nó có lớp d được lấp đầy electron, do đó các hợp chất của nó là nghịch từ và hầu như không màu. Bán kính ion của kẽm và magnesi gần như bằng nhau. Do đó một số muối của chúng có cùng cấu trúc tinh thể và trong một số trường hợp khi bán kính ion là yếu tố quyết định thì tính chất hóa học của kẽm và magnesi là rất giống nhau. còn nếu không thì chúng có rất ít nét tương đồng. Kẽm có khuynh hướng tạo thành các liên kết cộng hóa trị với cấp độ cao hơn và nó tạo thành các phức bền hơn với các chất cho N- và S. Các phức của kẽm hầu hết là có phối vị 4 hoặc 6, tuy nhiên phức phối vị 5 cũng có. Hợp chất. Hợp chất hai nguyên tố của kẽm được tạo ra với hầu hết á kim và tất cả các phi kim trừ khí hiếm. ZnO là chất bột màu trắng và hầu như không tan trong các dung dịch trung tính, vì là một chất trung tính nó tan trong cả dung dịch acid và base. Các chalcogenua khác (ZnS, ZnSe, và ZnTe) có nhiều ứng dụng khác nhau trong điện tử và quang học. Pnictogenua (, , và ), peroxide (), hydride (), và carbide () cũng tồn tại. Trong số 4 halide, có đặc trưng ion nhiều nhất, trong khi các hợp chất halide khác (, , và ) có điểm nóng chảy tương đối thấp và được xem là có nhiều đặc trưng cộng hóa trị hơn. Trong các dung dịch base yếu chứa các ion , hydroxide tạo thành ở dạng kết tủa màu trắng. Trong các dung dịch kiềm mạnh hơn, hydroxide này bị hòa tan và tạo zincat (). Nitrat , clorat , sulfat , phosphat , molybdat , cyanide , asenit , asenat Zn3(AsO4)2.8H2O và cromat (một trong những hợp chất kẽm có màu) là một vài ví dụ về các hợp chất vô cơ phổ biến của kẽm. Một trong những ví dụ đơn giản nhất về hợp chất hữu cơ của kẽm là acetat (). Các hợp chất hữu cơ của kẽm là dạng hợp chất mà trong đó có các liên kết cộng hóa trị kẽm-cacbon. Diethyl kẽm () là một thuốc thử trong hóa tổng hợp. Nó được công bố đầu tiên năm 1848 từ phản ứng của kẽm và ethyl iodide, và là hợp chất đầu tiên chứa liên kết sigma kim loại-cacbon.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Decamethyldizincocen chứa một liên kết mạnh kẽm-kẽm ở nhiệt độ phòng. Lịch sử. Thời kỳ cổ đại. Các mẫu vật riêng biệt sử dụng kẽm không nguyên chất trong thời kỳ cổ đại đã được phát hiện. Các loại quặng kẽm đã được sử dụng để làm hợp kim đồng-kẽm là đồng thau vài thế kỷ trước khi phát hiện ra kẽm ở dạng nguyên tố riêng biệt. Đồng thau Palestin có từ thế kỷ XIV TCN đến thế kỷ X TCN chứa 23% kẽm. Hiểu biết về cách sản xuất đồng thau phổ biến ở Hy Lạp cổ đại từ thế kỷ VII TCN, nhưng chỉ có vài mẫu được thực hiện. Các đồ trang trí bằng hợp kim chứa 80-90% kẽm với chì, sắt, antimon và các kim loại khác cấu thành phần còn lại, đã được phát hiện có độ tuổi là 2.500 năm. Một bức tượng nhỏ có thể từ thời tiền sử chứa 87,5% kẽm được tìm thấy ở di chỉ khảo cổ Dacia ở Transilvania (Romania ngày nay). Các viên thuốc cổ nhất được làm từ kẽm cacbonat hydrozincit và smithsonit. Các viên thuốc này được dùng để chữa đau mắt và được tìm thấy trên tàu La Mã Relitto del Pozzino bị đắm năm 140 TCN. Việc sản xuất đồ đồng thau đã được người La Mã biết đến vào khoảng năm 30 TCN, họ sử dụng công nghệ nấu calamin (kẽm silicat hay cacbonat) với than củi và đồng trong các nồi nấu. Lượng oxide kẽm giảm xuống và kẽm tự do bị đồng giữ lại, tạo ra hợp kim là đồng thau. Đồng thau sau đó được đúc hay rèn thành các chủng loại đồ vật và vũ khí. Một số tiền xu từ người La Mã trong thời đại Công giáo được làm từ loại vật liệu có thể là đồng thau calamin. Ở phương Tây, kẽm lẫn tạp chất từ thời cổ đại tồn tại ở dạng tàn dư trong lò nung chảy, nhưng nó thường bị bỏ đi vì người ta nghĩ nó không có giá trị. Bảng kẽm Bern là một tấm thẻ tạ ơn có niên đại tới thời kỳ Gaul La Mã được làm bằng hợp kim bao gồm phần lớn là kẽm. Một số văn bản cổ đại dường như cũng đề cập đến kẽm. Sử gia Hy Lạp Strabo, trong một đoạn văn lấy từ nhà văn trước đó trong thế kỷ IV TCN, đề cập tới "những giọt bạc giả", được trộn lẫn với đồng để làm đồng thau.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Điều này có thể đề cập đến một lượng nhỏ kẽm là phụ phẩm của quá trình nung chảy quặng sulfide. Charaka Samhita, cho là đã được viết vào 500 TCN hay trước đó nữa, đề cập đến một kim loại mà khi bị oxy hóa, tạo ra "pushpanjan", sản phẩm được cho là kẽm oxide. Các mỏ kẽm ở Zawar, gần Udaipur, Ấn Độ đã từng hoạt động từ thời đại Maurya vào cuối thiên niên kỷ 1 TCN. Việc nấu chảy và phân lập kẽm nguyên chất đã được những người Ấn Độ thực hiện sớm nhất vào thế kỷ XII. Một ước tính cho thấy rằng khu vực này đã sản xuất ra khoảng vài triệu tấn kẽm kim loại và kẽm oxide từ thế kỷ XII đến thế kỷ XVI. Một ước tính khác đưa ra con số sản lượng là 60.000 tấn kẽm kim loại trong giai đoạn này. Rasaratna Samuccaya, được viết vào khoảng thế kỷ XIV, đề cập đến hai loại quặng chứa kẽm; một loại được sử dụng để tách kim loại và loại khác được dùng cho y học. Các nghiên cứu trước đây và tên gọi. Kẽm đã từng được công nhận là một kim loại có tên gọi ban đầu là "Fasada" theo như y học Lexicon được cho là của vua Hindu Madanapala và được viết vào khoảng năm 1374. Nung chảy và tách kẽm nguyên chất bằng cách khử calamin với len và các chất hữu cơ khác đã được tiến hành vào thế kỷ XIII ở Ấn Độ. Người Trung Quốc cho tới thế kỷ XVII vẫn chưa học được kỹ thuật này. Các nhà giả kim thuật đã đốt kẽm kim loại trong không khí và thu được kẽm oxide trong một lò ngưng tụ. Một số nhà giả kim thuật gọi loại kẽm oxide này là "lana philosophica", tiếng Latin có nghĩa là "len của các nhà triết học", do nó được thu hồi từ búi len trong khi những người khác nghĩ nó giống như tuyết trắng và đặt tên nó là "nix album". Tên gọi của kẽm ở phương Tây có thể được ghi nhận đầu tiên bởi nhà giả kim Đức gốc Thụy Sĩ Paracelsus, ông đã gọi tên kim loại này là "zincum" hay "zinken" trong quyển sách của mình là "Liber Mineralium II" được viết vào thế kỷ XVI. Từ này có thể bắt nguồn từ tiếng Đức , và có thể có nghĩa là "giống như răng, nhọn hoặc lởm chởm" (các tinh thể kẽm kim loại có hình dạng giống như những chiếc kim). "Zink" cũng có thể ám chỉ "giống như tin (thiếc)" do mối quan hệ của nó (trong tiếng Đức "zinn" nghĩa là thiếc).
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Một khả năng khác có thể là từ đó xuất phát từ tiếng Ba Tư "seng" nghĩa là đá. Kim loại cũng có thể gọi là thiếc Ấn Độ, tutanego, calamin, và spinter. Nhà luyện kim người Đức Andreas Libavius đã nhận được một lượng vật liệu mà ông gọi là "calay" của Malabar từ một tàu chở hàng bắt được ở Bồ Đào Nha năm 1596. Libavius đã miêu tả các thuộc tính của mẫu vật có thể là kẽm này. Kẽm thường được nhập khẩu đến châu Âu từ các nước phương Đông trong thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII, nhưng rất đắt giá vào lúc đó. Tách kẽm. Việc tách kẽm kim loại đã được thực hiện ở Ấn Độ vào năm 1300, sớm hơn nhiều so với phương Tây. Trước khi nó được thực hiện ở châu Âu, nó đã được nhập khẩu vào Ấn Độ khoảng năm 1600. Việc tách kim loại kẽm ở phương Tây có thể đã đạt được những thành tựu một cách độc lập từ một số người. "Universal Dictionary" (Từ điển tổng hợp) của Postlewayt, một nguồn cung cấp thông tin kỹ thuật ở châu Âu, đã không đề cập đến kẽm trước năm 1751, nhưng nguyên tố này đã được nghiên cứu từ trước đó. Nhà luyện kim người Flanders là P.M. de Respour đã công bố rằng ông đã tách được kẽm kim loại từ kẽm oxide năm 1668. Sau đó, Étienne François Geoffroy đã miêu tả cách thức mà kẽm oxide cô đặc lại thành các tinh thể màu vàng trên các thanh sắt được đặt bên trên các quặng kẽm đang nóng chảy. Ở Anh, John Lane được cho là đã tiến hành các thí nghiệm để nung chảy kẽm, có thể ở Landore, trước khi ông phá sản năm 1726. Năm 1738, William Champion được cấp bằng sáng chế ở Đại Anh cho quá trình tách kẽm từ calamin trong một lò luyện theo kiểu bình cổ cong thẳng đứng. Công nghệ của ông một phần nào đó giống với cách được sử dụng trong các mỏ kẽm ở Zawar thuộc Rajasthan nhưng không có bằng chứng nào cho thấy ông đã đến vùng phương đông. Phương pháp của Champion được sử dụng suốt năm 1851. Nhà hóa học người Đức Andreas Marggraf được xem là có công trong việc phát hiện ra kẽm kim loại nguyên chất mặc dù nhà hóa học Thụy Điển là Anton von Swab đã chưng cất kẽm từ calamin 4 năm trước đó. Trong thí nghiệm năm 1746 của ông, Marggraf đã nung hỗm hợp calamin và than củi trong một buồng kín không có đồng để lấy kim loại.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Quy trình này được ứng dụng ở quy mô thương mại từ năm 1752. Các công trình sau này. Một người anh em của William Champion là John đã nhận được bằng sáng chế năm 1758 về việc nung kẽm sulfide thành một oxide có thể sử dụng trong quy trình chưng cất bằng lò cổ cong. Trước đó chỉ có calamin mới có thể được sử dụng để sản xuất kẽm. Năm 1798, Johann Christian Ruberg cải tiến quá trình nung chảy bằng cách xây dựng một lò nung chưng cất nằm ngang. Jean-Jacques Daniel Dony đã xây dựng một lò nung chảy nằm ngang theo một kiểu khác ở Bỉ, lò nung này có thể xử lý nhiều kẽm hơn. Bác sĩ người Ý Luigi Galvani khám phá ra vào năm 1780 rằng việc kết nối tủy sống của một con ếch vừa mới mổ với một sợi sắt có gắn một cái mốc bằng đồng thau sẽ làm cho chân ếch co giật. Ông ta đã nghĩ không chính xác rằng ông đã phát hiện một khả năng của nơ ron và cơ để tạo ra điện và gọi đó là hiệu ứng "điện động vật". Tế bào mạ và quá trình mạ đều được đặt tên theo Luigi Galvani và những phát hiện này đã mở đường cho pin điện, mạ điện và chống ăn mòn điện. Bạn của Galvani là Alessandro Volta đã tiếp tục nghiên cứu hiệu ứng này và đã phát minh ra pin Volta năm 1800. Đơn vị cơ bản của pin Volta là các tế bào mạ điện được đơn giản hóa, chúng được làm từ một tấm đồng và một tấm kẽm được gắn kết với nhau ở bên ngoài và ngăn cách bởi một lớp điện ly. Các tấm này được xếp thành một chuỗi để tạo ra tế bào Volta, các tế bào này tạo ra điện bằng các dòng electron chạy từ tấm kẽm qua tấm đồng và cho phép kẽm ăn mòn. Tính chất không từ tính của kẽm và không màu của nó trong dung dịch đã làm trì hoãn việc phát hiện ra những tính chất quan trọng của chíng trong sinh hóa và dinh dưỡng. Nhưng điều đó đã thay đổi vào năm 1940 khi mà cacbonic anhydrase, một loại enzym đẩy cacbon dioxide ra khỏi máu, đã cho thấy kẽm có vai trò quan trọng trong nó. Enzym tiêu hóa carboxypeptidase là enzym chứa kẽm thứ hai được phát hiện năm 1955. Sản xuất. Khai thác mỏ và xử lý. Kẽm là kim loại được sử dụng phổ biến thứ 4 sau sắt, nhôm và đồng với sản lượng hàng năm khoảng 13 triệu tấn.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Nhà sản xuất kẽm lớn nhất thế giới là Nyrstar, công ty sáp nhập từ OZ Minerals của Úc và Umicore của Bỉ. Khoảng 70% lượng kẽm trên thế giới có nguồn gốc từ khai thác mỏ, lượng còn lại từ hoạt động tái sử dụng. Kẽm tinh khiết cấp thương mại có tên gọi trong giao dịch tiếng Anh là "Special High Grade" ("SHG") có độ tinh khiết 99,995%. Trên toàn cầu, 95% kẽm được khai thác từ các mỏ quặng sulfide, trong đó ZnS luôn lẫn với đồng, chì và sắt sulfide. Có nhiều mỏ kẽm trên khắp thế giới nhưng chủ yếu ở Trung Quốc, Úc và Peru. Trung Quốc sản xuất 29% lượng kẽm toàn cầu năm 2010. Kẽm kim loại được sản xuất bằng luyện kim khai khoáng. Sau khi nghiền quặng, phương pháp tuyển nổi bọt được sử dụng để tách các khoáng dựa vào tính dính ướt khác nhau của chúng. Ở bước cuối cùng này thì kẽm chiếm 50%, phần còn lại là lưu huỳnh (32%), sắt (13%), và (5%). Công đoạn thiêu kết sẽ chuyển kẽm sulfide thành kẽm oxide: Lưu huỳnh dioxide sinh ra sẽ được thu hồi để sản xuất acid sulfuric. Nếu các mỏ có loại khoáng sản khác là kẽm cacbonat, kẽm silicat hoặc kẽm spinel như ở mỏ Skorpion, Namibia thì không sử dụng công đoạn thiêu kết này. Sau đó, người ta có thể dùng 2 phương pháp cơ bản trong luyện kim là nhiệt luyện ("pyrometallurgy") hoặc điện chiết ("electrowinning"). Quá trình nhiệt luyện khử kẽm oxide với cacbon hoặc cacbon mônoxide ở thành kim loại kẽm ở dạng hơi. Hơi kẽm được thu hồi trong bình ngưng. Quá trình được biểu diễn theo các phương trình dưới đây: Quá trình điện chiết tách kẽm từ quặng tinh bằng acid sulfuric: Sau đó, người ta dùng phương pháp điện phân để sản xuất kẽm kim loại. Acid sulfuric sinh ra được tái sử dụng trong bước trước đó. Kẽm có mặt ở dạng bụi trong lò hồ quang điện do sử dụng nguyên liệu mạ kẽm được thu hồ bởi nhiều quá trình, chủ yếu là quá trình Waelz (90% đến năm 2014). Tác động môi trường. Quá trình sản xuất từ quặng kẽm sulfide thải ra một lượng lớn lưu huỳnh dioxide và hơi cadmi. Xỉ nóng chảy và các chất cặn khác trong quá trình sản xuất cũng chứa một lượng kim loại nặng đáng kể.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Có khoảng 1,1 triệu tấn kẽm kim loại và 130 ngàn tấn chì đã được khai thác và nung chảy ở các thị trấn La Calamine và Plombières của Bỉ trong khoảng thời gian từ năm 1806 tới năm 1882. Bãi thải của mỏ trước đây rò rỉ kẽm và cadmi, và các trầm tích trong sông Geul chứa một lượng kim loại nặng đáng kể. Từ khoảng cách đây 2000 năm, lượng phát thải kẽm từ các nguồn khai thác mỏ và nung chảy đã thải ra tổng cộng 10 ngàn tấn mỗi năm. Đến năm 1850, lượng phát thải tăng lên gấp 10 lần, phát thải kẽm ở mức đỉnh vào khoảng 3,4 triệu tấn mỗi năm trong thập niên 1980 và giảm xuống 2,7 triệu tấn vào thập niên 1990, mặc dù theo một nghiên cứu năm 2005 về tầng đối lưu Bắc Cực chỉ ra rằng nồng độ kẽm không giảm. Các phát thải nhân tạo và tự nhiên xảy ra với tỷ lệ 20 trên 1. Hàm lượng kẽm trong các con sông chảy qua các khu công nghiệp và khu vực khai thác mỏ vào khoảng 20 ppm. Công tác xử lý nước thải hiệu quả đã làm giảm đáng kể hàm lượng này; ví dụ như công tác xử lý nước thải dọc theo sông Rhine đã làm giảm lượng kẽm xuống còn 50 ppb. Nồng độ kẽm ở mức 2 ppm ảnh hưởng xấu đến hàm lượng oxy trong máu cá. Đất ô nhiễm kẽm từ hoạt động khai thác quặng chứa kẽm, tuyển, hoặc nơi sử dụng bùn chứa kẽm để làm phân, có thể chứa hàm lượng kẽm ở mức vài gam kẽm/kg đất khô. Hàm lượng kẽm trong đất cao hơn 500 ppm ảnh hưởng tới khả năng hấp thu các kim loại cần thiết khác của thực vật, như sắt và mangan. Kẽm ở mức 2.000 ppm đến 180.000 ppm (18%) đã được ghi nhận trong một số mẫu đất. Ứng dụng. Kẽm là kim loại được sử dụng phổ biến hàng thứ tư sau sắt, nhôm, đồng tính theo lượng sản xuất hàng năm. Các ứng dụng chính của kẽm (số liệu là ở Hoa Kỳ) Chống ăn mòn và pin. Kim loại kẽm chủ yếu được dùng làm chất chống ăn mòn, ở dạng mạ. Năm 2009 ở Hoa Kỳ, 55% tương đương 893 nghìn tấn kẽm kim loại được dùng để mạ. Kẽm phản ứng mạnh hơn sắt hoặc thép và do đó nó sẽ dễ bị oxy hóa cho đến khi nó bị ăn mòn hoàn toàn.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Một lớp tráng bề mặt ở dạng bằng oxide và cacbonat ( là một chất ăn mòn từ kẽm. Lớp bảo vệ này tồn tại kéo dài ngay cả sau khi lớp kẽm bị trầy xước, nhưng nó sẽ giảm theo thời gian khi lớp ăn mòn kẽm bị tróc đi. Kẽm được phủ lên theo phương pháp hóa điện bằng cách phun hoặc mạ nhúng nóng. Mạ kẽm được sử dụng trên rào kẽm gai, rào bảo vệ, cầu treo, mái kim loại, thiết bị trao đổi nhiệt, và các bộ phận của ô tô. Độ hoạt động tương đối của kẽm và khả năng của nó bị oxy hóa làm nó có hiệu quả trong việc hi sinh anot để bảo vệ ăn mòn catot. Ví dụ, bảo vệ catot của một đường ống được chôn dưới đất có thể đạt hiệu quả bằng cách kết nối các anot được làm bằng kẽm với các ống này. Kẽm có vai trò như một anot (âm) bằng các ăn mòn một cách chậm chạp khi dòng điện chạy qua nó đến ống dẫn bằng thép. Kẽm cũng được sử dụng trong việc bảo vệ các kim loại được dùng làm catot khi chúng bị ăn mòn khi tiếp xúc với nước biển. Một đĩa kẽm được gắn với một bánh lái bằng sắt của tàu sẽ làm chậm tốc độ ăn mòn so với không gắn tấm kẽm này. Các ứng dụng tương tự như gắn kẽm vào chân vịt hoặc lớp kim loại bảo vệ lườn tàu. Với một thế điện cực chuẩn (SEP) 0,76 vôn, kẽm được sử dụng làm vật liệu anot cho pin. Bột kẽm được sử dụng theo cách này trong các loại pin kiềm và các tấm kẽm kim loại tạo thành vỏ bọc và cũng là anot trong pin kẽm-cacbon. Kẽm được sử dụng làm anot hoặc nhiên liệu cho tế bào nhiêu liệu kẽm/pin kẽm-không khí. Pin dòng oxy hóa khử kẽm-xêri cũng dựa trên một nửa tế bào âm kẽm. Hợp kim. Hợp kim của kẽm được sử dụng rộng rãi nhất là đồng thau, bao gồm đồng và khoảng từ 3% đến 45% kẽm tùy theo loại đồng thau. Đồng thau nhìn chung giòn và cứng hơn đồng và có khả năng chống ăn mòn rất cao. Các tính chất này giúp nó được sử dụng nhiều trong các thiết bị truyền thông, phần cứng máy tính, dụng cụ âm nhạc, và các van nước.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Các ứng dụng rộng rãi khác của hợp kim chứa kẽm bao gồm nickel bạc, máy đánh chữ bằng kim loại, hàn nhôm và mềm, và đồng điếu thương mại. Kẽm cũng được sử dụng trong các bộ phận đường ống hiện đại như là một sản phẩm thay thế các đường ống trước đây sử dụng hợp kim chì/thiếc. Các hợp kim chiếm 85-88% kẽm, 4-10% đồng, và 2-8% nhôm được sử dụng hạn chế trong một số trường hợp của các bệ nâng đỡ máy. Kẽm là một kim loại ban đầu được sử dụng trong việc sản xuất các đồng tiền 1 cent của Hoa Kỳ từ năm 1982. Lõi kẽm được áo một lớp đồng mỏng để tạo độ bắt mắt của đồng tiền bằng đồng. Năm 1994, kẽm được sử dụng để sản xuất 13,6 triệu đồng xu ở Hoa Kỳ. Các hợp kim chủ yếu là kẽm với một lượng nhỏ đồng, nhôm, và magnesi có ích trong việc đúc áp lực cũng như đúc quay, đặc biệt trong các ngành công nghiệp tự động, điện tử, và phần cứng. Các hợp kim này được chào bán trên thị trường với tên gọi là Zamak. Ví dụ về hợp kim kẽm nhôm, nó có điểm nóng chảy thấp và độ nhớt thấp nên có thể chế tạo ra những vật có hình dạng nhỏ và phức tạp. Nhiệt độ gia công thấp làm cho các sản phẩm đúc nguội nhanh và do đó có thế lắp ráp chúng một cách nhanh chóng. Một hợp kim khác được chào bán trên thị trường với tên gọi là Prestal chứa 78% kẽm và 22% nhôm và được cho là có độ cứng gần bằng thép nhưng lại dẻo như nhựa. Tính chất siêu nhựa này của hợp kim cho phép đúc chúng dễ dàng trong các khuôn bằng sứ và xi măng. Các hợp kim tương tự khi có thêm vào một lượng nhỏ chì có thể cán nguội thành các tấm. Hợp kim có 96% kẽm và 4% nhôm được sử dụng để làm khuôn dập cho các ứng dụng có tốc độ sản xuất thấp mà khuôn dập bằng kim loại đen có thể quá đắt. Trong việc xây các bề mặt ngoài, mái nhà hoặc các ứng dụng khác, kẽm được sử dụng ở dạng tấm kim loại và có thể dùng để cán, cuộn hoặc uốn người ta sử dụng các hợp kim của kẽm với titan và đồng. Là một vật liệu dễ gia công, không đắt mà nặng, kẽm được sử dụng để thay thế cho chì.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Do ngộ độc chì ngày càng nhiều nên kẽm được dùng làm vật nặng trong nhiều ứng dụng khác nhau như câu cá đến cân bằng lốp và bánh đà (bánh trớn). Kẽm cadmi tellurua (CZT) là một hợp kim bán dẫn có thể được chia thành một chuỗi các thiết bị cảm ứng nhỏ. Các thiết bị này tương tự như mạch tích hợp và có thể phát hiện nguồn năng lượng của các photon tia gama. Khi được đặt sau một mặt nạ hấp thụ, thiết bị cảm ứng CZT cũng có thể được sử dụng để xác định hướng của các tia gamma. Các ứng dụng công nghiệp khác. Gần 1/4 tổng sản lượng kẽm của Hoa Kỳ (2009) được dùng ở dạng hợp chất kẽm; có nhiều loại được dùng ở quy mô công nghiệp. Kẽm oxide được sử dụng rộng rãi để làm chất tạo màu trắng trong sơn, và làm chất xúc tác trong công nghiệp chế biến cao su. Nó cũng được dùng làm chất phân tán nhiệt cho cao su và phản ứng để bảo vệ các polyme của cao su trước các tia tử ngoại (cách bảo vệ chống tia tử ngoại tương tự cũng được cho vào nhựa chứa oxide kẽm). Các tính chất bán dẫn của kẽm oxide hữu ích trong các varistor và sản phẩm máy photocopy. Vòng tuần hoàn kẽm-kẽm oxide là một quy trình gồm 3 bước hóa nhiệt trong đó dùng kẽm và kẽm oxide để sản xuất hydro. Kẽm cloura thường được cho vào gỗ để làm chất bắt cháy và có thể được sử dụng để bảo quản gỗ. Nó cũng được dùng để tạo các hóa chất khác. Kẽm methyl () được dùng trong nhiều phản ứng tổng hợp hữu cơ. Kẽm sulfide (ZnS) được dùng làm chất tạo màu phát quang như trên các đồng hồ đeo tay, màn hình ti vi và tia X, và sơn phát quang. Các tinh thể kẽm được dùng trong các tia laser hoạt động trong dãi quang phổ hồng ngoại giữa. Kẽm sulfat là một chất hóa học trong nhuộm và tạo màu. Kẽm pyrithion được dùng trong sơn chống gỉ. Bột kẽm đôi khi được dùng làm chất tạo lực đẩy trong các mô hình tên lửa. Khi một hỗn hợp nén gồm 70% bột kẽm và 30% bột lưu huỳnh bị đốt cháy sẽ tạo ra một phản ứng hóa học mãnh liệt. Phản ứng này tạo ra kẽm sulfide cùng một lượng lớn khí nóng, nhiệt và ánh sáng. Kim loại kẽm dạng tấm được dùng để chế ra các thanh kẽm.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
, là đồng vị phổ biến nhất của kẽm, rất dễ bị kích hoạt neutron, được chuyển hóa thành phóng xạ rất cao, hạt nhân mới này có chu kỳ bán rã 244 ngày và sinh ra các tia phóng xạ gamma cường độ cao. Do vậy, kẽm oxide được dùng trong các lò phản ứng hạt nhân để làm chất chống ăn mòn cạn kiệt của trước khi sử dụng. Vì lý do tương tự, kẽm đã được đề xuất ở dạng vật liệu muối dùng trong các vũ khí hạt nhân (coban là một ví dụ khác, là một loại vật liệu muối phổ biến hơn). Một lớp áo kẽm được làm giàu đồng vị có thể được chiếu xạ mởi một dòng neutron cường độ năng lượng cao từ việc kích nổ vũ khí nhiệt hạt nhân, tạo thành một lượng lớn đồng vị làm tăng đáng kể bụi phóng xạ của vũ khí hạt nhân. Vũ khí như thế này không biết là đã có chế tạo, thử nghiệm hay sử dụng chưa. cũng được dùng làm đồng vị vết trong nghiên cứu làm thế nào mà các hợp kim chứa kẽm ăn mòn, hoặc con đường và vai trò của kẽm trong sinh vật. Các phức kẽm dithiocarbamat được dùng làm thuốc diệt nấm trong nông nghiệp; chúng gồm Zineb, Metiram, Propineb và Ziram. Kẽm naphthenat được dùng là chất bảo quản gỗ. Kẽm ở dạng ZDDP cũng được dùng làm chất phụ gia chống ăn mòn trong các bộ phận kim loại của các động cơ chạy dầu. Bổ sung trong khẩu phần ăn. Kẽm có trong hầu hết các khẩu phần ăn cung cấp dưỡng chất và vitamin hàng ngày. Các sản phẩm chế biến gồm kẽm oxide, kẽm acetat, và kẽm gluconat. Nó được tin là có tính chất chống oxy hóa, chúng có thể chống lại sự gia tăng tốc độ lão hóa của da và cơ trong cơ thể; các nghiên cứu chỉ ra sự khác biệt về các hiệu quả của nó. Kẽm cũng giúp làm tăng tốc sự hồi phục vết thương. Nó cũng có những tác dụng có lợi cho hệ miễn dịch của cơ thể. Do vậy, sự thiếu hụt kẽm có thể tác động đến hầu hết các phần của hệ miễn dịch ở con người. Hiệu quả của các hợp chất kẽm khi sử dụng để làm giảm thời gian hoặc mức độ nghiên trọng của triệu chứng cảm vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Một cuộc đánh giá một cách có hệ thống năm 2011 kết luận rằng việc bổ sung kẽm sẽ làm giảm nhẹ thời gian và độ nghiêm trọng của bệnh cảm. Kẽm đóng vai trò là một công cụ đơn giản, rẻ tiền và quan trọng trong điều trị các cơn tiêu chảy ở trẻ em ở những nước đang phát triển. Khi tiêu chảy kẽm trong cơ thể giảm, nhưng các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng kẽm bổ sung trong vòng 10 đến 14 điều trị có thể giảm thời gian và độ nghiêm trọng của những côn tiêu chảy và cũng có thể chống lại các cơn tiêu chảy trong vòng 3 tháng sau đó. Nghiên cứu bệnh về mắt liên quan đến tuổi tác xác định rằng kẽm góp một phần trong việc điều trị hiệu quả bệnh thoái hóa điểm vàng liên quan đến tuổi. Bổ sung kẽm là một cách điều trị hiệu quả bệnh rối loại di truyền liên quan đến hấp thu kẽm mà trước đây gây tử vong ở những trẻ mới mắc bệnh này bẩm sinh. Viêm dạ dày giảm mạnh khi uống kẽm, và hiệu ứng này có thể là do tính chất kháng khuẩn mạnh của các ion kẽm trong đường tiêu hóa, hoặc đối với sự hấp thụ kẽm và tái giải phóng từ các tế bào miễn dịch (tất cả hạch bạch cầu đều tiết ra kẽm), hoặc cả hai. Năm 2011, các nghiên cứu viên ở trường cao đẳng tư pháp hình sự John Jay thông báo rằng việc cung cấp kẽm trong khẩu phần ăn có thể làm ẩn đi sự hiện diện của ma túy trong nước tiểu. Các tuyên bố tương tự cũng được đăng trên các diễn đàn về chủ đề đó. Mặc dù chưa thử nghiệm trong điều trị ở người, dấu hiệu của một cơ thể đang phát triển ám chỉ rằng kẽm có thể ưu tiên tiêu diệt tế bào ung thư tuyến tiền liệt. Do kẽm có mặt tự nhiên trong tuyến tiền liệt và vì tuyến này dễ xâm nhập với các phương thức không xâm lấn một cách tương đối, tiềm năng của nó như là một tác nhân hóa trị loại bệnh ung thư này thể hiện nhiều hứa hẹn.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Tuy nhiên, các nghiên cứu khác đã minh họa rằng sử dụng kẽm bổ sung lâu dài với liều lượng vượt mức cho phép có thể thực tế làm gia tăng cơ hội phát triển ung thư tuyến tiền liệt, cũng có thể là do sự tích tụ tự nhiên của kim loại nặng này trong tuyến tiền liệt. Viên ngậm kẽm và trị cảm thông thường. Những kết quả tích cực nhất trong việc sử dụng viên ngậm kẽm được phát hiện trong nghiên cứu trên kẽm acetat, thể hiện qua việc acetat không liên kết với các ion kẽm. Các nghiên cứu cho đến nay cũng chưa đưa ra kết luận nhưng đã chỉ ra rằng các viên kẽm làm giảm các triệu chứng kẽm trong khi có thể gây ra tác dụng phụ như buồn nôn. Những lợi ích của kẽm dùng trong điều trị cảm đã được mô tả là "rất ít". Cơ chế sinh học của tác dụng này chưa rõ, nhưng lợi ích của các loại kẽm thoi có vẻ bị gây nên bởi các hiệu ứng tại chỗ trong vùng hầu họng, vì điều trị kẽm qua đường mũi cũng rút ngắn thời gian cảm. Dùng làm thuốc ngoài da. Kẽm dùng trong điều trị ngoài da thường được làm từ kẽm oxide. Các hợp chất này có thể chống cháy nắng trong mùa hè và khô vì lạnh trong mùa đông. Thoa một lớp mỏng trên vùng mặc tã của bé (perineum) mỗi lần thay tã lót có thể bảo vệ khỏi hăm do tã. Kẽm lactat được dùng trong kem đánh răng để chống chứng hôi miệng. Kẽm pyrithion được sử dụng rộng rãi trong dầu gội đầu do nó có chức năng chống gàu. Các ion kẽm là chất chống vi sinh rất hiệu quả thậm chí ở nồng độ thấp. Hóa hữu cơ. Có nhiều hợp chất kẽm hữu cơ quan trọng. Hóa học kẽm hữu cơ là một khoa học nghiên cứu về các hợp chất vô cơ của kẽm miêu tả đặc điểm vật lý, sự tổng hợp và các phản ứng của chúng.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Trong số các ứng dụng quan trọng phải kế đến là phản ứng Frankland-Duppa theo đó một oxalat ester(ROCOCOOR) phản ứng với alkyl halide R'X, kẽm và acid clohydrit để tạo ra ester α-hydroxycarboxylic RR'COHCOOR, phản ứng Reformatskii biến đổi α-halo-ester và aldehyde thành β-hydroxy-ester, phản ứng Simmons-Smith theo đó kẽm carbenoid (iodomethyl) iodide phản ứng với alken (hoặc alkin) và biến đổi chúng thành cyclopropan, phản ứng thêm vào của các hợp chất kẽm hữu cơ tạo thành các hợp chất carbonyl. "Phản ứng Barbier (1899) là sự cân bằng kẽm của phản ứng Grignard magnesi và tốt hơn là cả hai phản ứng". Sự có mặt của một lượng nước bất kỳ trong sự thành tạo magnesi hữu cơ halide sẽ không thành công, ngược lại phản ứng Barbier có thể thậm chí diễn ra trong môi trường nước. Mặt khác các kẽm hữu cơ ít ái nhân hơn Grignards, rất đắt và khó vận chuyển. Các hợp chất kẽm có hai gốc hữu cơ có trên thị trường là kẽm dimetyl, kẽm dietyl và kẽm diphenyl. Trong một nghiên cứu hợp chất kẽm hữu cơ hoạt động được xem là rẽ hơn nhiều so với tiền chất brom hữu cơ: Phản ứng song hợp Negishi cũng là một phản ứng quan trọng để tạo thành các liên kết carbon-carbon mới giữa các nguyên tử carbon không no trong alken, aren và alkyn. Các chất xúc tác là nickel và palladi. Một bước quan trọng trong chu vòng tuần hoàn xúc tác đó là kẽm halide trao đổi bằng cách thay thế gốc hữu cơ của nó với một halogen khác bằng kim loại palladi (nickel). Phản ứng song hợp Fukuyama là một kiểu phản ứng khác như phản ứng này có 3 gốc ester tham gia phản ứng để tạo thành một xeton. Kẽm có nhiều ứng dụng làm chất xúc tác trong tổng hợp hữu cơ như tổng hợp bất đối xứng, là một phương pháp rẻ và dễ thực hiện thay cho các chất phức kim loại quý. Các kết quả thu được bằng cách sử dụng chất điện phân kẽm chiral có thể so sánh với phương pháp thu được palladi, rutheni, iridi và các kim loại khác và do đó kẽm trở thành kim loại được lựa chọn ngày càng nhiều cho mục đích này. Vai trò sinh học. Kẽm là nguyên tố cần thiết để duy trì sự sống của con người cũng như các động vật khác, thực vật, và vi sinh vật.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Kẽm được tìm thấy trong gần 100 loại enzym đặc biệt (các nguồn khác cho rằng tới 300), có vai trò là các ion cấu trúc trong yếu tố phiên mã và được lưu trữ và vận chuyển ở dạng thionein kim loại. Nó là "kim loại chuyển tiếp phổ biến thứ 2 trong sinh vật" sau sắt và nó là kim loại duy nhất có mặt trong tất cả các lớp enzym. Trong các protein, các ion kẽm thường liên kết với các chuỗi amino acid của acid aspartic, acid glutamic, cystein và histidin. Việc miêu tả lý thuyết và tính toán của các liên kết kẽm trong các protein này cũng như đối với các kim loại chuyển tiếp khác còn khó khăn. Có từ 2-4 gam kẽm phân bố trong khắp cơ thể con người. Hầu hết kẽm nằm trong não, cơ, xương, thận và gan, tuy nhiên nồng độ kẽm cao nhất tập trung trong tuyến tiền liệt và các bộ phận của mắt. Tinh dịch đặc biệt rất giàu kẽm, vì đây là yếu tố quan trọng trong chức năng của tuyến tiền liệt và giúp phát triển cơ quan sinh dục. Kẽm đóng vai trò sinh học quan trọng đối với con người. Nó tương tác với một loạt các phối tử hữu cơ, và có vai trò quan trọng trong quá trình trao đổi chất của RNA và DNA, truyền tín hiệu và biểu hiện gen. Nó cũng quyết định quá trình chết rụng tế bào. Một nghiên cứu năm 2006 ước tính rằng khoảng 10% protein người (2.800) có thể phụ thuộc vào kẽm, thêm vào đó hàng trăm protein vận chuyển kẽm; một nghiên cứu tương tự về "in silico" trong loài thực vật "Arabidopsis thaliana" đã tìm thấy 2.367 protein liên quan đến kẽm. Trong não, kẽm được lưu trữ trong các synaptic vesicles đặc biệt bởi các tế bào thần kinh glutamatergic và có thể "điều chỉnh khả năng kích thích não". Nó có vai trò quan trọng trong synaptic plasticity và cũng như trong việc học. Tuy nhiên, nó được gọi là "ngựa đen của não" ("the brain's dark horse") vì nó cũng có thể là một chất độc thần kinh, homeostasis kẽm đóng vai trò quan trọng trong chức năng bình thường của não và hệ thần kinh trung ương. Enzym. Kẽm là một acid Lewis, là một chất xúc tác có ích trong quá trình hydroxyl hóa và các phản ứng enzym khác. Kim loại kẽm cũng là một chất có phối hợp hình học linh động, điều này cho phép các protein sử dụng nó để thay đổi cấu trúc protein một cách nhanh chóng để thực hiện các phản ứng sinh học.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Hai ví dụ về các enzym chứa kẽm là carbonic anhydrase và carboxypeptidase, đây là các enzym cần thiết trong các quá trình của chuyển hóa cacbon dioxide () và tiêu hóa protein theo thứ tự. Trong máu của động vật có xương sống, carbonic anhydrase chuyển hóa thành bicacbonat và cùng enzym đó chuyển bicacbonat trở lại thành khi thở qua phổi. Nếu không có enzym này, sự biến đổi này có thể diễn ra chậm hơn khoảng 1 triệu lần đối với máu bình thường có pH là 7 hoặc không thì pH phải 10 hoặc lớn hơn. Anhydrase không liên quan β-carbonic là cần thiết cho sự hình thành lá ở thực vật, sự tổng hợp indole acid acetic (auxin) và hô hấp kị khí (lên men rượu). Carboxypeptidase tách các liên kết peptit trong quá trình tiêu hóa protein. Liên kết cộng hóa trị phối hợp được tạo ra giữa các peptit đầu cuối và nhóm C=O gắn với kẽm, làm cho cacbon tích điện dương. Yếu tố này giúp tạo ra một hốc kị nước trên enzym gần kẽm, làm hút phần không phân cực của protein bị tiêu hóa. Các protein khác. Kẽm có vai trò cấu trúc toàn bộ trong cụm, xoắn và "ngón tay kẽm". Các kẽm finger tạo thành các bộ phận của một số yếu tố phiên mã ("transcription factor"), chúng là các protein nhận dạng trình tự DNA trong quá trình phiên mã và sao chép DNA. Mỗi ion thứ 9 hoặc 10 trong "ngón tay kẽm" giúp duy trình cấu trúc của các "ngón tay" bằng cách tạo liên kết với 4 amino acid trong nhân tố phiên mã. Yếu tố phiên mã bao bọc xung quanh xoắn DNA và sử dụng các finger của nó để liên kết một cách chính xác với chuỗi DNA. Trong huyết tương, kẽm bị ràng buộc và bị vận chuyển bởi albumin (60%, ái lực thấp) và transferrin (10%). Vì transferrin cũng vận chuyển sắt, khi lượng sắt tăng quá cao làm giảm khả năng hấp thụ kẽm và ngược lại. Phản ứng tương tự cũng xảy ra đối với đồng. Hàm lượng kẽm trong huyết tương ở mức tương đối ổn định bất kể lượng kẽm tiêu thụ vào là bao nhiêu. Các tế bào trong tuyến nước bọt, tuyến tiền liệt, hệ miễn dịch và ruột sử dụng tín hiệu kẽm như là cách để liên lạc với các tế bào khác. Kẽm có thể được giữ trong thionein kim loại trong vi sinh vật hoặc trong ruột hoặc gan động vật. Thionein kim loại trong các tế bào ruột có thể điều chỉnh sự hấp thụ kẽm khoảng 15-40%.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Tuy nhiên thiếu hoặc thừa kẽm có thể gây hại; đặc biệt thừa kẽm làm giảm hấp thụ đồng do thionein kim loại hấp thụ cả hai kim loại như đã phân tích ở trên. Chế độ ăn uống. Ở Mỹ, chế độ ăn chỉ định ("Recommended Dietary Allowance" - RDA) là 8 mg/ngày đối với nữ giới và 11 mg/ngày đối với nam giới. Chế độ ăn trung bình ở Mỹ năm 2000 là 9 mg/ngày đối với nữ giới và 14 mg/ngày đối với nam giới. Hàu, tôm hùm và các loại thịt đỏ, đặc biệt là thịt bò, thịt cừu và gan bò là các thực phẩm có hàm lượng kẽm cao. Hàm lượng kẽm trong thực vật thay đổi tùy theo hàm lượng nguyên tố này trong đất. Khi đất có đủ lượng kẽm, thực phẩm từ thực vật chứa kẽm nhiều như lúa mì, và các loại hạt khác (mè, anh túc, cỏ linh lăng, cần tây, mù tạc). Các nguồn thức ăn tự nhiên giàu kẽm khác bao gồm: các loại quả có nhân, ngũ cốc nguyên vẹn, hạt bí hay hạt hướng dương. Các nguồn khác trong thực phẩm tăng cường và chế độ ăn uống bổ sung cũng có nhiều dạng. Một báo cáo năm 1998 kết luận rằng kẽm oxide, là một trong những chất bổ sung phổ biến nhất ở Mỹ, và kẽm cacbonat là loại gần như không hòa tan và kém được hấp thu trong cơ thể. Bài báo này trích dẫn các nghiên cứu phát hiện rằng các hàm lượng kẽm plasma thấp sau khi ăn kẽm oxide và kẽm cacbonat so với những trường hợp sau khi tiêu thụ kẽm acetat và kẽm sulfat. Tuy nhiên, bổ sung kẽm vượt mức gây hại là một vấn đề trong số những người tương đối giàu, và có thể không nên vượt quá 20 mg/ngày ở người khỏe mạnh, mặc dù Hội đồng Nghiên cứu quốc gia Hoa Kỳ đưa ra mức trần là 40 mg/ngày. Tuy nhiên, trong việc tăng cường kẽm, một đánh giá năm 2003 cho rằng kẽm oxide trong ngũ cốc rẽ, ổn định và dễ hấp thu hơn các loại đắt tiền hơn. Một nghiên cứu năm 2005 phát hiện rằng nhiều hợp chất kẽm bao gồm cả dạng oxide và sulfat, không cho thấy sự khác biệt đáng kể về thống kê trong việc hấp thụ khi thêm vào bánh ngô.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Một nghiên cứu năm 1987 cho thấy rằng kẽm picolinat được hấp thụ tốt hơn so với kẽm gluconat hay kẽm citrat. Tuy nhiên, một nghiên cứu công bố năm 2008 khẳng định rằng kẽm glycinat được hấp thụ tốt nhất trong bốn loại bổ sung kẽm trên thị trường. Thiếu kẽm. Thiếu kẽm thường là do dinh dưỡng thiếu kẽm, nhưng cũng có thể liên quan đến sự hấp thu kẽm kém, acrodermatitis enteropathica, bệnh gan mãn tính, bệnh thận mãn tính, bệnh hồng cầu hình liềm, tiểu đường, bệnh ác tính và các bệnh mãn tính khác. Các triệu chứng thiếu kẽm nhẹ rất đa dạng. Biểu hiện lâm sàng bao gồm chậm tăng trưởng, tiêu chảy, bất lực và chậm phát dục, rụng tóc, tổn thương da và mắt, giảm cảm giác ngon miệng, thay đổi nhận thức, làm suy giảm khả năng bảo vệ của cơ thể, khiếm khuyết trong việc sử dụng carbohydrat, và sinh quái thai. Thiếu kẽm nhẹ làm giảm miễn dịch, mặc dù dư thừa kẽm cũng giảm miễn dịch. Động vật có chế độ ăn thiếu kẽm thì cần lượng thức ăn tăng gấp đôi để bù lại lượng kẽm so với các động vật được cung cấp đủ kẽm. Các nhóm có nguy cơ thiếu kẽm bao gồm người già, và những người suy thận. Kẽm chelat phytat được tìm thấy trong hạt và ngũ cốc cám có thể góp phần vào việc kém hấp thu kẽm. Mặc dù có những lo ngại, nhưng những người ăn chay phương Tây không được phát hiện là thiếu hụt kẽm nhiều so với những người ăn thịt. Các nguồn thực vật cung cấp kẽm như đậu khô, rau biển, ngũ cốc tăng cường, thực phẩm từ đậu nành, đậu phụng, các loại hạt, đậu Hà Lan, mầm hạt. Tuy nhiên, phytat trong nhiều loại hạt và chất xơ trong thực phẩm có thể ảnh hưởng đến việc hấp thụ kẽm và uống kẽm gần giới hạn biên có các hiệu ứng chưa được rõ. Có một vài bằng chứng cho thấy rằng sử dụng lượng kẽm nhiều hơn so với tiêu chuẩn của US RDA (15 mg) hàng ngày có thể là cần thiết cho những người có chế độ ăn uống mà phytat cao, như một số người ăn chay.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Việc tính toán này phải được cân đối với thực tế rằng có một lượng ít ỏi các chỉ số sinh học kẽm đầy đủ, và là chỉ số được sử dụng rộng rãi nhất, kẽm plasma, có độ nhạy và độ đặc hiệu kém. Chẩn đoán thiếu kẽm là một thách thức lâu dài. Thiếu kẽm là trường hợp thiếu vi chất dinh dưỡng phổ biến nhất ở thực vật, đặc biệt là trong đất có độ pH cao. Đất thiếu kẽm được canh tác trong các cánh đồng của phân nửa Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ, 1/3 ở Trung Quốc và hầu hết miền Tây Úc, và có những phản hồi đáng kể về việc bổ sung phân kẽm đã được báo cáo ở các khu vực này. Thực vật phát triển trong các loại đất thiếu kẽm dễ bị mắc bệnh hơn. Kẽm về cơ bản được bổ sung vào đất thông qua quá trình phong hóa từ các loại đá, nhưng con người đã đưa kẽm vào trong đất qua quá trình đốt nhiên liệu hóa thạch, chất thải mỏ, phân lân, đá vôi, phân, bùn thải và các hạt từ các bề mặt mạ kẽm. Kẽm dư thừa là chất độc đối với cây, mặc dù độ độc của kẽm ít phổ biến. Gần 2 tỉ người ở các nước đang phát triển bị thiếu kẽm. Ở trẻ em, thiếu kẽm làm gia tăng nhiễm trùng và tiêu chảy làm khoảng 800.000 trẻm em thiệt mạng mỗi năm trên toàn cầu. WHO có chủ trương bổ sung kẽm cho trẻ suy dinh dưỡng nặng và tiêu chảy. Bổ sung kẽm giúp ngăn ngừa bệnh tật và giảm tử vong, đặc biệt là trẻ em sinh thiếu cân hoặc chậm phát triển. Tuy nhiên, bổ sung kẽm không nên được phân phối một cách riêng lẻ vì một số trường hợp thiếu kẽm ở các quốc gia đang phát triển có thể liên quan đến sự tương tác của kẽm với các vi chất dinh dưỡng khác. Phục hồi đất. Ericoid Mycorrhizal Fungi Calluna, Erica và Vaccinium có thể phát triển trên đất giàu kẽm. Nông nghiệp. Thiếu kẽm trong nông nghiệp là sự thiếu hụt vi chất dinh dưỡng phổ biến nhất những loài cây trồng; đặc biệt phổ biến trong đất có pH cao. Thiếu kẽm trong đất trồng chiếm nửa diện tích của Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ, 1/3 ở Trung Quốc, và hầu hết ở Tây Úc, và phản ứng chủ yếu đối với phân kẽm đã được báo cáo ở những khu vực này.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Thực vật phát triển trên đất thiếu kẽm dễ bị sâu bệnh. Kẽm được bổ sung vào đất chủ yếu từ quá trình phong hóa đá, nhưng con người đã thêm kẽm qua việc đốt các nhiên liệu hóa thạch, chất thải mỏ, phân phosphat, thuốc trừ sâu (kẽm photphit), đá vôi, phân, bùn thải, và các hạt ở dạng xi mạ. Thừa kẽm cũng là chất độc đối với cây trồng, mặc dù ngộ độc kẽm ít phổ biến hơn. Cảnh báo. Độc tính. Mặc dù kẽm là vi chất cần thiết cho sức khỏe, tuy nhiên nếu hàm lượng kẽm vượt quá mức cần thiết sẽ có hại cho sức khỏe. Hấp thụ quá nhiều kẽm làm ngăn chặn sự hấp thu đồng và sắt. Ion kẽm tự do trong dung dịch là chất có độc tính cao đối với thực vật, động vật không xương sống, và thậm chí là cả động vật có xương sống. Mô hình hoạt động của ion tự do đã được công bố trong một số ấn phẩm, cho thấy rằng chỉ một lượng mỏ mol ion kẽm tự do cũng giết đi một số sinh vật. Một thí nghiệm gần đây cho thấy 6 micromol giết 93% "Daphnia" trong nước. Ion kẽm tự do là một acid Lewis mạnh đến mức có thể ăn mòn. Acid dịch vị chứa acid clohydric, mà hàm lượng kẽm kim loại trong đó dễ hòa tan trong đó gây ăn mòn kẽm chloride. Nuốt đồng xu 1 cent của Mỹ năm 1982 (97,5% kẽm) có thể làm hỏng niêm mạc dạ dày do khả năng hòa tan cao của các ion kẽm trong dịch vị. Có bằng chứng về sự thiếu hụt đồng khi uống ở mức thấp một lượng kẽm 100–300 mg/ngày; một thử nghiệm gần đây cho thấy số người nhập viện cao hơn liên quan đến các biến chứng tiết niệu so với "thuốc trấn an" trong số đàn ông lớn tuổi uống 80 mg/day. USDA RDA khuyến khích uống 11 và 8 mg Zn/ngày theo thứ tự đối với đàn ông và phụ nữ. Thậm chí ở các mức thấp hơn, gần với tiêu chuẩn RDA, có thể can thiệp với việc uống đồng và sắt, chống lại ảnh hưởng của cholesterol. Hàm lượng kẽm vượt quá 500 ppm trong đất gây rối cho khả năng hấp thụ các kim loại cần thiết khác của thực vật, như sắt và mangan.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Có những tình huống gọi là sự run kẽm hay ớn lạnh kẽm sinh ra do hít phải các dạng bột oxide kẽm nguyên chất phát sinh trong quá trình mạ vật liệu. Kẽm là thành phần bổ biến của hàm răng giả, nó có thể chứa 17 đến 38 mg kẽm/gram. Đã có những kiện cáo do mất chức năng, và thậm chí tử vong do sử dụng nhiều sản phẩm này. Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã khuyến cáo rằng kẽm phá hủy các thụ thể thần kinh trong mũi gây ra chứng mất khứu giác. Các báo cáo về chứng mất khứu giác cũng được quan sát trong thập niên 1930 khi các công tác chuẩn bị kẽm để sử dụng trong một nỗ lực không thành công để ngăn chặn sự lây nhiễm bệnh bại liệt. Ngày 16 tháng 6 năm 2009, FDA thông báo rằng những người sử dụng kẽm nên dừng sử dụng các sản phẩm trị cúm có gốc kẽm và yêu cầu loại bỏ các sản phẩm đó trong các cửa hàng. FDA nói rằng việc không cảm nhận được mùi có thể đe dọa đời sống vì người dân không thể cảm nhận được sự rò rỉ của gas hoặc khói và không thể nhận biết rằng thực phẩm có bị hư trước khi họ ăn. Nghiên cứu gần đây cho rằng kẽm pyrithion kháng khuẩn có thể gây phản ứng sốc nhiệt tiềm ẩn cảm ứng hơn có thể làm giảm tích toàn vẹn bộ gen với sự cảm ứng của PARP. Ngộ độc. Năm 1982, United States Mint bắt đầu đúc xu bằng đồng mạ kẽm nhưng chủ yếu là làm từ kẽm. Với các đồng kẽm mới, có khả năng gây ngộ độc kẽm, và có thể gây tử vong. Một trường hợp ăn liên tục trong thời gian dài 425 đồng xu kẽm (hơn 1 kg kẽm) gây tử vong do nhiễm vi khuẩn đường ruột và nhiễm trùng máu, trong khi một bệnh nhân khác ăn 12 gram kẽm chỉ cho thấy hôn mê và bất động. Một số ca khác liên quan đến ngộ độc kẽm từ việc nuốt các đồng xu kẽm cũng được ghi nhận. Các con chó đôi khi cũng nuốt các đồng xu và chỉ có cách dùng thuốc để loại chúng ra khỏi cơ thể.
Kẽm
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5198
Hàm lượng kẽm trong một số đồng xu có thể gây ra ngộ độc kẽm, mà thường gây tử vong ở chó, vì nó gây ra các chứng thiếu máu ("hemolytic anemia") nghiêm trọng, và cũng làm cho gan và thận bị tổn thương; các chứng nôn mửa và tiêu chảy. Kẽm có độc tính cao đối với vẹt và sự ngộ độc có thể làm chết chúng. Việc cho các con vẹt uống các loại nước ép trái cây trong các hộp mạ kẽm có thể làm cho chúng bị ngộ độc kẽm hàng loạt.
Dãy số thực
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5200
Dãy số thực là một danh sách (hữu hạn hoặc vô hạn) liệt kê các số thực theo một thứ tự nào đó. Định nghĩa. Theo quan điểm của lý thuyết tập hợp dãy số là một ánh xạ "a": formula_1, trong đó formula_2 là tập hợp số tự nhiên, hoặc tập con của tập số tự nhiên nhỏ hơn / lớn hơn một số tự nhiên "m" nào đó. Khi đó thay cho "a"(n) ta dùng ký hiệu an. Nếu X là hữu hạn ta có dãy hữu hạn: Ngược lại nó được xem là vô hạn. Đôi khi, dãy hữu hạn cũng có thể được xem là vô hạn với các phần tử từ thứ "m" trở đi là bằng nhau. Khi bắt đầu từ phần tử formula_3 dãy thường được ký hiệu: Người ta thường xét hơn các dãy bắt đầu từ phần tử formula_5. Sau đây sẽ chủ yếu đề cập đến các dãy số thực vô hạn. Nhiều định nghĩa và kết quả dưới đây có thể mở rộng cho dãy các phần tử trong không gian metric hoặc không gian topo. Ý nghĩa thực tế. Trong nhiều bài toán, dãy số có thể được tạo dựng qua quá trình thu thập dữ liệu. Các dữ liệu thu thập có thể gồm nhiều số từ "x"1, "x"2..."x""n". Tập hợp các số này "có thứ tự", nghĩa là có số đầu tiên ("x"1), số thứ 2 ("x"2) và các số tiếp theo. Biên của dãy. Cho dãy formula_6. Tập hợp các giá trị của dãy: được gọi là biên của dãy đó. Biên này không có thứ tự. Ví dụ, cho dãy formula_9, có biên là {-1,1}. Nó có 2 phần tử thay đổi là 1 và -1. Dãy số thực đơn điệu. Định nghĩa. Cho dãy số thực formula_10 với "x""n" là các số thực. Nó là Nếu dãy có được một trong hai tính chất này, ta gọi dãy đó là dãy đơn điệu. Ví dụ, với dãy formula_15, ta có formula_16. Do 2 > 1 nên formula_17, hay formula_18. Suy ra formula_15 là dãy tăng. Tính đơn điệu và dấu của đạo hàm. Một cách để xác định một dãy có đơn điệu hay không là dựa vào đạo hàm của hàm số tương ứng. Ví dụ như cho dãy formula_20. Xét hàm số: Lấy đạo hàm của nó, ta thu được: Đạo hàm này nhỏ hơn không khi "x" > e. Điều này xảy ra với mọi "n" > 2, nên dãy formula_24 là dãy giảm. Dãy số thực bị chặn. Dãy formula_10 bị chặn trên khi và chỉ khi tồn tại "T" ở đó formula_26, với mọi formula_12.
Dãy số thực
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5200
Số "T" được gọi là "giá trị chặn trên". Ngược lại, dãy formula_10 bị chặn dưới khi và chỉ khi tồn tại "D" ở đó formula_29, với mọi formula_12. Số "D" được gọi là "giá trị chặn dưới". Nếu một dãy có cả hai tính chất trên thì dãy đó được gọi là "dãy bị chặn". Ví dụ, dãy formula_31 bị chặn dưới bởi 3 vì nó luôn có giá trị dương lớn hơn hoặc bằng 3. Giới hạn của một dãy số thực. Khái niệm giới hạn của dãy số bắt nguồn từ việc khảo sát một số dãy số thực, có thể tiến "rất gần" một số nào đó. Chẳng hạn, xét dãy số thực: Khi cho "n" tăng lên vô hạn thì phân số formula_34 trở nên nhỏ tuỳ ý, do đó số hạng thứ n của dãy formula_35 có thể tiến gần đến 1 với khoảng cách nhỏ tuỳ ý. Người ta diễn đạt điều đó bằng định nghĩa sau Đinh nghĩa Cho dãy số thực ("x""n") và một số thực "x". Khi đó nếu: thì "x" được gọi là giới hạn của dãy ("x""n"). Khi đó ta cũng nói dãy (xn) hội tụ. Giới hạn của dãy thường được ký hiệu: Hoặc Tính chất. Nếu các dãy (xn) và (yn) hội tụ và thì và (nếu "L"2 khác 0)
Bánh chưng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5204
Bánh chưng ("chưng" trong "chưng cất", nghĩa là hấp nước, nhưng thực tế bánh được nấu bằng cách luộc) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông với đất trời. Nguyên liệu làm bánh chưng gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong. Bánh thường được làm vào các dịp Tết của dân tộc Việt, cũng như ngày giỗ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch). Sự tích. Là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt và nguồn gốc của nó về truyền thuyết liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc; là lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của Bánh Chưng, Bánh Giầy trong văn hóa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước. Theo cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, mục "Truyện bánh chưng" (Chưng bính truyện-蒸餅傳):Vua Hùng sau khi phá xong giặc Ân rồi, trong nước thái bình, nên lo việc truyền ngôi cho con, mới hội họp hai mươi hai vị quan lang công tử lại mà bảo rằng: "Ai đem lễ vật hợp với ý của ta đến dâng cúng Tiên Vương cho tròn đạo hiếu thì ta sẽ truyền ngôi cho" Các lang đua nhau đi tìm các vị trân kỳ, hoặc săn bắn, chài lưới, hoặc đổi chác, đều là của ngon vật lạ, nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Duy có lang thứ mười tám tên là Lang Liêu, mẹ hàn vi, đã bị bệnh qua đời rồi, trong nhà lại ít người nên khó bề toan tính, ngày đêm lo lắng, ăn ngủ không yên. Chợt nằm mơ thấy thần nhân bảo rằng: "Trong trời đất không có vật gì quý bằng gạo, vì gạo là vật để nuôi sống con người và có thể ăn mãi không chán, không có vật gì hơn được.
Bánh chưng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5204
Nếu giã gạo nếp gói thành hình tròn để tượng trưng cho Trời và lấy lá gói thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, ở trong làm nhân ngon, bắt chước hình trạng trời đất bao hàm vạn vật, ngụ ý công ơn dưỡng dục của cha mẹ, như thế thì lòng cha sẽ vui, nhà ngươi chắc được ngôi quý". Lang Liêu giật mình tỉnh dậy, vui mừng. Chàng lựa những hạt nếp trắng tinh, không sứt mẻ, đem vo cho sạch, rồi lấy lá xanh gói thành hình vuông, bỏ nhân ngon vào giữa, đem luộc chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Lại lấy nếp nấu xôi đem quết cho nhuyễn, nhào thành hình tròn để tượng trưng cho Trời, gọi là bánh giầy. Đúng kỳ hẹn, Vua hội họp các con lại để mang lễ vật đến cúng Tổ tiên. Các lang mang tới toàn là sơn hào hải vị, duy chỉ có Lang Liêu đem bánh hình tròn, bánh hình vuông đến dâng. Hùng Vương lấy làm lạ hỏi Lang Liêu, Lang Liêu trình bày như lời thần nhân đã bảo. Vua nếm thử thì thấy vị ngon vừa miệng ăn không chán, phẩm vật của các công tử khác không làm sao hơn được. Vua khen ngợi hồi lâu, rồi lấy lễ vật của Lang Liêu đem cúng tổ tiên. Vua dùng thứ bánh ấy để cung phụng cha mẹ trong các dịp lễ tết cuối năm. Thiên hạ mọi người đều bắt chước theo. Tục này còn truyền cho đến bây giờ, lấy tên của Lang Liêu, gọi là Tết Liệu. Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi mốt anh em kia đều chia nhau giữ các phiên trấn, lập làm bộ đảng, trấn thủ những nơi núi non hiểm trở. Về sau, anh em tranh giành lẫn nhau, mỗi người dựng "mộc sách" (hàng rào cây bằng gỗ) để che kín, phòng vệ. Vì thế, mới gọi là Sách, hay là Trại, là Trang, là Phường. Sách, hay Trại, Trang, Phường bắt đầu có từ đây vậy   Quan niệm truyền thống. Theo quan niệm phổ biến hiện nay, bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất, bánh giầy hình tròn tượng trưng cho trời. Tuy nhiên theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tày (Xứ Đoài, Kinh Bắc, Hưng Hóa) và bánh tét (miền Nam).
Bánh chưng
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=5204
Đồng thời bánh chưng và bánh giầy tượng trưng cho dương vật nam và âm vật nữ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam; còn tư tưởng trời đất là du nhập từ Trung Quốc. Gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về. Sơ chế. Khâu chuẩn bị nguyên liệu, vật liệu cho bánh chưng đặc biệt quan trọng để bánh có thể bảo quản được lâu dài không ôi thiu hay bị mốc. Thịt ướp dùng nước mắm, vo nếp không sạch, đãi đậu không kỹ hay rửa lá còn bẩn, không lau khô lá trước khi gói đều có thể khiến thành phẩm chóng hỏng. Quy trình gói bánh. Gói bánh. Thông thường có hai cách gói bánh chưng: gói bằng tay không hoặc gói theo khuôn hình vuông khoảng 20 cm x 20 cm x 7 cm sẵn có. Khuôn thường làm bằng gỗ. Cách gói tay không thông thường như sau: Với cách gói có khuôn các giai đoạn cũng được tiến hành như trên. Tuy nhiên, người ta cắt tỉa bớt lá dong cho gọn (vừa kích thước khuôn) và đặt trước các lớp lá xen kẽ nhau vào trong khuôn (3 hoặc 4 lá, nếu gói 4 lá bánh sẽ vuông đẹp hơn. Khi đó thường thì 2 lá xanh quay ra ngoài xếp tại 2 góc đối xứng nhau, và 2 lá xanh quay vào trong để tạo màu cho bánh). Sau khi đã cho nhân vào trong, các lớp lá lần lượt được gấp lại và sau đó được buộc lạt. Cách gói bánh có khuôn thì bánh đều nhau hơn và chặt hơn do được vỗ đều gạo, nén chặt, còn gói không khuôn thì bánh được gói nhanh hơn do đỡ mất công đo cắt lá theo kích thước khuôn. Bánh được gói không khuôn thì mặt trên lá được quay ra ngoài, còn với bánh có khuôn thì mặt dưới lá lại được quay ra ngoài. Luộc bánh. Lấy nồi to, dày với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói. Rải cuống lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuống lá thừa cho kín nồi. Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người luộc bánh thường canh giờ tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 8 đến 12 giờ.