id
stringlengths
14
14
uit_id
stringlengths
10
10
title
stringclasses
138 values
context
stringlengths
465
7.22k
question
stringlengths
3
232
answers
sequence
is_impossible
bool
2 classes
plausible_answers
sequence
0104-0035-0007
uit_019403
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ đầu lập quốc, Trung Hoa Dân Quốc kế thừa một số trường huấn luyện hải quân của triều đình Thanh, tuy nhiên do nhân tố quân phiệt cát cứ nên năng lực chiến hạm bị phân tán, đến thời kỳ Chính phủ Nam Kinh thống nhất thì hiện tượng đấu tranh nội bộ giữa các phe phái và tỉnh cực kỳ nghiêm trọng. Việc chiến tranh bùng phát ở mức độ nhất định cũng là cơ hội để Chính phủ Quốc dân chỉnh đốn, do chiến hạm bị quân Nhật tiêu diệt, để mất khu vực duyên hải nên toàn bộ lực lượng hải quân chuyển đến Tứ Xuyên, đơn vị huấn luyện hải quân chỉ còn lại Trường Hải quân Mã Vĩ Phúc Châu do Mân hệ nắm giữ.
Khi chiến tranh bùng phát thì Chính phủ Nam Kinh` đã di dời đến nơi nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Tứ Xuyên" ], "answer_start": [ 499 ] }
0104-0035-0008
uit_019404
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ đầu lập quốc, Trung Hoa Dân Quốc kế thừa một số trường huấn luyện hải quân của triều đình Thanh, tuy nhiên do nhân tố quân phiệt cát cứ nên năng lực chiến hạm bị phân tán, đến thời kỳ Chính phủ Nam Kinh thống nhất thì hiện tượng đấu tranh nội bộ giữa các phe phái và tỉnh cực kỳ nghiêm trọng. Việc chiến tranh bùng phát ở mức độ nhất định cũng là cơ hội để Chính phủ Quốc dân chỉnh đốn, do chiến hạm bị quân Nhật tiêu diệt, để mất khu vực duyên hải nên toàn bộ lực lượng hải quân chuyển đến Tứ Xuyên, đơn vị huấn luyện hải quân chỉ còn lại Trường Hải quân Mã Vĩ Phúc Châu do Mân hệ nắm giữ.
Ngôi trường còn lại duy nhất để đấu tranh hải quân khi chiến tranh diễn ra là ngôi trường nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Trường Hải quân Mã Vĩ Phúc Châu" ], "answer_start": [ 548 ] }
0104-0036-0001
uit_019405
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Cơ cấu đào tạo không quân của Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu sớm nhất vào năm 1913 khi Chính phủ Bắc Dương cho lập Trường Hàng không Nam Uyển, hoạt động tổng cộng được 15 năm, đào tạo được 4 khóa với tổng cộng 158 học viên phi hành. Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập Trường Phi cơ Quân sự tại Quảng Châu, lựa chọn 8 người tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố đi học tập phi hành. Năm 1929, Chính phủ Quốc Dân lập ban hàng không thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương tại Nam Kinh. Năm 1932, ban này đổi tên thành "Trường Hàng không Chính phủ Quốc dân", địa điểm tại Hàng Châu. Sau khi hành chiến bùng phát, trường chuyển đến Côn Minh, đến năm 1938 thì chính thức được đặt tên là "Trường Sĩ quan Không quân", sau kháng chiến trường trở về Hàng Châu.
Ngôi trường đào tạo lực lượng không quân của Trung Hoa Dân Quốc sớm nhất là ngôi trường nào?
{ "text": [ "Trường Hàng không Nam Uyển" ], "answer_start": [ 111 ] }
false
null
0104-0036-0002
uit_019406
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Cơ cấu đào tạo không quân của Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu sớm nhất vào năm 1913 khi Chính phủ Bắc Dương cho lập Trường Hàng không Nam Uyển, hoạt động tổng cộng được 15 năm, đào tạo được 4 khóa với tổng cộng 158 học viên phi hành. Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập Trường Phi cơ Quân sự tại Quảng Châu, lựa chọn 8 người tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố đi học tập phi hành. Năm 1929, Chính phủ Quốc Dân lập ban hàng không thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương tại Nam Kinh. Năm 1932, ban này đổi tên thành "Trường Hàng không Chính phủ Quốc dân", địa điểm tại Hàng Châu. Sau khi hành chiến bùng phát, trường chuyển đến Côn Minh, đến năm 1938 thì chính thức được đặt tên là "Trường Sĩ quan Không quân", sau kháng chiến trường trở về Hàng Châu.
Số lượng học viên phi hành đã tốt nghiệp từ ngôi trường đào tạo không quân sớm nhất Trung Hoa Dân Quốc là bao nhiêu?
{ "text": [ "158 học viên phi hành" ], "answer_start": [ 206 ] }
false
null
0104-0036-0003
uit_019407
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Cơ cấu đào tạo không quân của Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu sớm nhất vào năm 1913 khi Chính phủ Bắc Dương cho lập Trường Hàng không Nam Uyển, hoạt động tổng cộng được 15 năm, đào tạo được 4 khóa với tổng cộng 158 học viên phi hành. Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập Trường Phi cơ Quân sự tại Quảng Châu, lựa chọn 8 người tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố đi học tập phi hành. Năm 1929, Chính phủ Quốc Dân lập ban hàng không thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương tại Nam Kinh. Năm 1932, ban này đổi tên thành "Trường Hàng không Chính phủ Quốc dân", địa điểm tại Hàng Châu. Sau khi hành chiến bùng phát, trường chuyển đến Côn Minh, đến năm 1938 thì chính thức được đặt tên là "Trường Sĩ quan Không quân", sau kháng chiến trường trở về Hàng Châu.
Ngoi trường nào đã được Tôn Trung Sơn thành lập vào năm 1924?
{ "text": [ "Trường Phi cơ Quân sự" ], "answer_start": [ 262 ] }
false
null
0104-0036-0004
uit_019408
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Cơ cấu đào tạo không quân của Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu sớm nhất vào năm 1913 khi Chính phủ Bắc Dương cho lập Trường Hàng không Nam Uyển, hoạt động tổng cộng được 15 năm, đào tạo được 4 khóa với tổng cộng 158 học viên phi hành. Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập Trường Phi cơ Quân sự tại Quảng Châu, lựa chọn 8 người tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố đi học tập phi hành. Năm 1929, Chính phủ Quốc Dân lập ban hàng không thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương tại Nam Kinh. Năm 1932, ban này đổi tên thành "Trường Hàng không Chính phủ Quốc dân", địa điểm tại Hàng Châu. Sau khi hành chiến bùng phát, trường chuyển đến Côn Minh, đến năm 1938 thì chính thức được đặt tên là "Trường Sĩ quan Không quân", sau kháng chiến trường trở về Hàng Châu.
Ban hàng không đã được thành lập ở đâu trực thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương?
{ "text": [ "Nam Kinh" ], "answer_start": [ 467 ] }
false
null
0104-0036-0005
uit_019409
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Cơ cấu đào tạo không quân của Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu sớm nhất vào năm 1913 khi Chính phủ Bắc Dương cho lập Trường Hàng không Nam Uyển, hoạt động tổng cộng được 15 năm, đào tạo được 4 khóa với tổng cộng 158 học viên phi hành. Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập Trường Phi cơ Quân sự tại Quảng Châu, lựa chọn 8 người tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố đi học tập phi hành. Năm 1929, Chính phủ Quốc Dân lập ban hàng không thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương tại Nam Kinh. Năm 1932, ban này đổi tên thành "Trường Hàng không Chính phủ Quốc dân", địa điểm tại Hàng Châu. Sau khi hành chiến bùng phát, trường chuyển đến Côn Minh, đến năm 1938 thì chính thức được đặt tên là "Trường Sĩ quan Không quân", sau kháng chiến trường trở về Hàng Châu.
Vào năm 1938 thì ban hàng không thành lập năm 1929 đã có tên gọi là gì?
{ "text": [ "Trường Sĩ quan Không quân" ], "answer_start": [ 676 ] }
false
null
0104-0036-0006
uit_019410
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Cơ cấu đào tạo không quân của Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu sớm nhất vào năm 1913 khi Chính phủ Bắc Dương cho lập Trường Hàng không Nam Uyển, hoạt động tổng cộng được 15 năm, đào tạo được 4 khóa với tổng cộng 158 học viên phi hành. Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập Trường Phi cơ Quân sự tại Quảng Châu, lựa chọn 8 người tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố đi học tập phi hành. Năm 1929, Chính phủ Quốc Dân lập ban hàng không thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương tại Nam Kinh. Năm 1932, ban này đổi tên thành "Trường Hàng không Chính phủ Quốc dân", địa điểm tại Hàng Châu. Sau khi hành chiến bùng phát, trường chuyển đến Côn Minh, đến năm 1938 thì chính thức được đặt tên là "Trường Sĩ quan Không quân", sau kháng chiến trường trở về Hàng Châu.
Ngôi trường liên kết lực lượng không quân của Trung Hoa Dân Quốc sớm nhất là ngôi trường nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Trường Hàng không Nam Uyển" ], "answer_start": [ 111 ] }
0104-0036-0007
uit_019411
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Cơ cấu đào tạo không quân của Trung Hoa Dân Quốc bắt đầu sớm nhất vào năm 1913 khi Chính phủ Bắc Dương cho lập Trường Hàng không Nam Uyển, hoạt động tổng cộng được 15 năm, đào tạo được 4 khóa với tổng cộng 158 học viên phi hành. Năm 1924, Tôn Trung Sơn sáng lập Trường Phi cơ Quân sự tại Quảng Châu, lựa chọn 8 người tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố đi học tập phi hành. Năm 1929, Chính phủ Quốc Dân lập ban hàng không thuộc Trường sĩ quan lục quân Trung ương tại Nam Kinh. Năm 1932, ban này đổi tên thành "Trường Hàng không Chính phủ Quốc dân", địa điểm tại Hàng Châu. Sau khi hành chiến bùng phát, trường chuyển đến Côn Minh, đến năm 1938 thì chính thức được đặt tên là "Trường Sĩ quan Không quân", sau kháng chiến trường trở về Hàng Châu.
Ban hàng không đã được thành lập ở đâu trực thuộc Trường hải quân Trung ương?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Nam Kinh" ], "answer_start": [ 467 ] }
0104-0037-0001
uit_019412
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh nghiệp cứu quốc, có không ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Năm 1920, Lưu Hồng Sinh lập ra xưởng diêm Hồng Sinh Tô Châu. Năm 1927, diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh, do đó liên hiệp cùng hai doanh nghiệp dân tộc khác để hợp thành Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải. Năm 1931, Công ty diêm Đại Trung Hoa một năm sản xuất 150 nghìn hộp diêm, đương thời là doanh nghiệp diêm dân tộc có quy mô lớn nhất toàn quốc. Tháng 5 năm 1933, sản phẩm của Công ty diêm Đại Trung Hoa được trưng bày tại Triển lãm thế giới Chicago, diêm chất lượng cao và hộp diêm giàu đặc sắc văn hóa phương đông khiến cho rất nhiều khách tham quan khâm phục ngành công nghiệp diêm Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, Công ty diêm Đại Trung Hoa bị quân Nhật xác định là tài sản của địch nên bị thực thi quân quản, Công ty buộc phải ngừng sản xuất. Năm 1912, Phương Dịch Tiên lập ra Công nghiệp xã Hóa học Trung Quốc, là công xưởng hóa phẩm có quy mô lớn nhất Trung Quốc đương thời, sản xuất "hương muỗi Tam Tinh" nổi tiếng toàn quốc, "kem đánh răng Tam Tinh" là loại kem đánh răng đầu tiên của Trung Quốc, xà phòng giặt hiệu "Tiễn Đao", cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngoại quốc, được tán tụng là "quốc hóa đại vương". Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại.
Các nhà máy được các kỹ sư Nhật Bản sang thành lập thì có đặc điểm gì?
{ "text": [ "dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất" ], "answer_start": [ 205 ] }
false
null
0104-0037-0002
uit_019413
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh nghiệp cứu quốc, có không ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Năm 1920, Lưu Hồng Sinh lập ra xưởng diêm Hồng Sinh Tô Châu. Năm 1927, diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh, do đó liên hiệp cùng hai doanh nghiệp dân tộc khác để hợp thành Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải. Năm 1931, Công ty diêm Đại Trung Hoa một năm sản xuất 150 nghìn hộp diêm, đương thời là doanh nghiệp diêm dân tộc có quy mô lớn nhất toàn quốc. Tháng 5 năm 1933, sản phẩm của Công ty diêm Đại Trung Hoa được trưng bày tại Triển lãm thế giới Chicago, diêm chất lượng cao và hộp diêm giàu đặc sắc văn hóa phương đông khiến cho rất nhiều khách tham quan khâm phục ngành công nghiệp diêm Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, Công ty diêm Đại Trung Hoa bị quân Nhật xác định là tài sản của địch nên bị thực thi quân quản, Công ty buộc phải ngừng sản xuất. Năm 1912, Phương Dịch Tiên lập ra Công nghiệp xã Hóa học Trung Quốc, là công xưởng hóa phẩm có quy mô lớn nhất Trung Quốc đương thời, sản xuất "hương muỗi Tam Tinh" nổi tiếng toàn quốc, "kem đánh răng Tam Tinh" là loại kem đánh răng đầu tiên của Trung Quốc, xà phòng giặt hiệu "Tiễn Đao", cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngoại quốc, được tán tụng là "quốc hóa đại vương". Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại.
Nguyên nhân cho sự ra đời của Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải là gì?
{ "text": [ "diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh" ], "answer_start": [ 341 ] }
false
null
0104-0037-0003
uit_019414
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh nghiệp cứu quốc, có không ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Năm 1920, Lưu Hồng Sinh lập ra xưởng diêm Hồng Sinh Tô Châu. Năm 1927, diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh, do đó liên hiệp cùng hai doanh nghiệp dân tộc khác để hợp thành Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải. Năm 1931, Công ty diêm Đại Trung Hoa một năm sản xuất 150 nghìn hộp diêm, đương thời là doanh nghiệp diêm dân tộc có quy mô lớn nhất toàn quốc. Tháng 5 năm 1933, sản phẩm của Công ty diêm Đại Trung Hoa được trưng bày tại Triển lãm thế giới Chicago, diêm chất lượng cao và hộp diêm giàu đặc sắc văn hóa phương đông khiến cho rất nhiều khách tham quan khâm phục ngành công nghiệp diêm Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, Công ty diêm Đại Trung Hoa bị quân Nhật xác định là tài sản của địch nên bị thực thi quân quản, Công ty buộc phải ngừng sản xuất. Năm 1912, Phương Dịch Tiên lập ra Công nghiệp xã Hóa học Trung Quốc, là công xưởng hóa phẩm có quy mô lớn nhất Trung Quốc đương thời, sản xuất "hương muỗi Tam Tinh" nổi tiếng toàn quốc, "kem đánh răng Tam Tinh" là loại kem đánh răng đầu tiên của Trung Quốc, xà phòng giặt hiệu "Tiễn Đao", cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngoại quốc, được tán tụng là "quốc hóa đại vương". Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại.
Thông qua sự kiện nào mà các khách hàng có sự khâm phục dành cho ngành công nghiệp diêm tại Trung Quốc?
{ "text": [ "Triển lãm thế giới Chicago" ], "answer_start": [ 772 ] }
false
null
0104-0037-0004
uit_019415
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh nghiệp cứu quốc, có không ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Năm 1920, Lưu Hồng Sinh lập ra xưởng diêm Hồng Sinh Tô Châu. Năm 1927, diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh, do đó liên hiệp cùng hai doanh nghiệp dân tộc khác để hợp thành Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải. Năm 1931, Công ty diêm Đại Trung Hoa một năm sản xuất 150 nghìn hộp diêm, đương thời là doanh nghiệp diêm dân tộc có quy mô lớn nhất toàn quốc. Tháng 5 năm 1933, sản phẩm của Công ty diêm Đại Trung Hoa được trưng bày tại Triển lãm thế giới Chicago, diêm chất lượng cao và hộp diêm giàu đặc sắc văn hóa phương đông khiến cho rất nhiều khách tham quan khâm phục ngành công nghiệp diêm Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, Công ty diêm Đại Trung Hoa bị quân Nhật xác định là tài sản của địch nên bị thực thi quân quản, Công ty buộc phải ngừng sản xuất. Năm 1912, Phương Dịch Tiên lập ra Công nghiệp xã Hóa học Trung Quốc, là công xưởng hóa phẩm có quy mô lớn nhất Trung Quốc đương thời, sản xuất "hương muỗi Tam Tinh" nổi tiếng toàn quốc, "kem đánh răng Tam Tinh" là loại kem đánh răng đầu tiên của Trung Quốc, xà phòng giặt hiệu "Tiễn Đao", cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngoại quốc, được tán tụng là "quốc hóa đại vương". Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại.
Sự việc gì đã xảy ra vào ngày 25 tháng 7 năm 1940?
{ "text": [ "Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại" ], "answer_start": [ 1525 ] }
false
null
0104-0037-0005
uit_019416
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh nghiệp cứu quốc, có không ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Năm 1920, Lưu Hồng Sinh lập ra xưởng diêm Hồng Sinh Tô Châu. Năm 1927, diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh, do đó liên hiệp cùng hai doanh nghiệp dân tộc khác để hợp thành Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải. Năm 1931, Công ty diêm Đại Trung Hoa một năm sản xuất 150 nghìn hộp diêm, đương thời là doanh nghiệp diêm dân tộc có quy mô lớn nhất toàn quốc. Tháng 5 năm 1933, sản phẩm của Công ty diêm Đại Trung Hoa được trưng bày tại Triển lãm thế giới Chicago, diêm chất lượng cao và hộp diêm giàu đặc sắc văn hóa phương đông khiến cho rất nhiều khách tham quan khâm phục ngành công nghiệp diêm Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, Công ty diêm Đại Trung Hoa bị quân Nhật xác định là tài sản của địch nên bị thực thi quân quản, Công ty buộc phải ngừng sản xuất. Năm 1912, Phương Dịch Tiên lập ra Công nghiệp xã Hóa học Trung Quốc, là công xưởng hóa phẩm có quy mô lớn nhất Trung Quốc đương thời, sản xuất "hương muỗi Tam Tinh" nổi tiếng toàn quốc, "kem đánh răng Tam Tinh" là loại kem đánh răng đầu tiên của Trung Quốc, xà phòng giặt hiệu "Tiễn Đao", cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngoại quốc, được tán tụng là "quốc hóa đại vương". Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại.
Trung Quốc đã có loại kem đánh răng đầu tiên mang thương hiệu gì?
{ "text": [ "kem đánh răng Tam Tinh" ], "answer_start": [ 1302 ] }
false
null
0104-0037-0006
uit_019417
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh nghiệp cứu quốc, có không ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Năm 1920, Lưu Hồng Sinh lập ra xưởng diêm Hồng Sinh Tô Châu. Năm 1927, diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh, do đó liên hiệp cùng hai doanh nghiệp dân tộc khác để hợp thành Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải. Năm 1931, Công ty diêm Đại Trung Hoa một năm sản xuất 150 nghìn hộp diêm, đương thời là doanh nghiệp diêm dân tộc có quy mô lớn nhất toàn quốc. Tháng 5 năm 1933, sản phẩm của Công ty diêm Đại Trung Hoa được trưng bày tại Triển lãm thế giới Chicago, diêm chất lượng cao và hộp diêm giàu đặc sắc văn hóa phương đông khiến cho rất nhiều khách tham quan khâm phục ngành công nghiệp diêm Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, Công ty diêm Đại Trung Hoa bị quân Nhật xác định là tài sản của địch nên bị thực thi quân quản, Công ty buộc phải ngừng sản xuất. Năm 1912, Phương Dịch Tiên lập ra Công nghiệp xã Hóa học Trung Quốc, là công xưởng hóa phẩm có quy mô lớn nhất Trung Quốc đương thời, sản xuất "hương muỗi Tam Tinh" nổi tiếng toàn quốc, "kem đánh răng Tam Tinh" là loại kem đánh răng đầu tiên của Trung Quốc, xà phòng giặt hiệu "Tiễn Đao", cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngoại quốc, được tán tụng là "quốc hóa đại vương". Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại.
Các nhà máy được các kỹ sư Nhật Bản sang hợp tác thì có đặc điểm gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất" ], "answer_start": [ 205 ] }
0104-0037-0007
uit_019418
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh nghiệp cứu quốc, có không ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Năm 1920, Lưu Hồng Sinh lập ra xưởng diêm Hồng Sinh Tô Châu. Năm 1927, diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh, do đó liên hiệp cùng hai doanh nghiệp dân tộc khác để hợp thành Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải. Năm 1931, Công ty diêm Đại Trung Hoa một năm sản xuất 150 nghìn hộp diêm, đương thời là doanh nghiệp diêm dân tộc có quy mô lớn nhất toàn quốc. Tháng 5 năm 1933, sản phẩm của Công ty diêm Đại Trung Hoa được trưng bày tại Triển lãm thế giới Chicago, diêm chất lượng cao và hộp diêm giàu đặc sắc văn hóa phương đông khiến cho rất nhiều khách tham quan khâm phục ngành công nghiệp diêm Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, Công ty diêm Đại Trung Hoa bị quân Nhật xác định là tài sản của địch nên bị thực thi quân quản, Công ty buộc phải ngừng sản xuất. Năm 1912, Phương Dịch Tiên lập ra Công nghiệp xã Hóa học Trung Quốc, là công xưởng hóa phẩm có quy mô lớn nhất Trung Quốc đương thời, sản xuất "hương muỗi Tam Tinh" nổi tiếng toàn quốc, "kem đánh răng Tam Tinh" là loại kem đánh răng đầu tiên của Trung Quốc, xà phòng giặt hiệu "Tiễn Đao", cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngoại quốc, được tán tụng là "quốc hóa đại vương". Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại.
Nguyên nhân cho phát triển của Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải là gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh" ], "answer_start": [ 341 ] }
0104-0037-0008
uit_019419
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh nghiệp cứu quốc, có không ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Năm 1920, Lưu Hồng Sinh lập ra xưởng diêm Hồng Sinh Tô Châu. Năm 1927, diêm Thụy Điển bán phá giá tại Trung Quốc, xưởng diêm Hồng Sinh khó khăn trong cạnh tranh, do đó liên hiệp cùng hai doanh nghiệp dân tộc khác để hợp thành Công ty Cổ phần hữu hạn diêm Đại Trung Hoa Thượng Hải. Năm 1931, Công ty diêm Đại Trung Hoa một năm sản xuất 150 nghìn hộp diêm, đương thời là doanh nghiệp diêm dân tộc có quy mô lớn nhất toàn quốc. Tháng 5 năm 1933, sản phẩm của Công ty diêm Đại Trung Hoa được trưng bày tại Triển lãm thế giới Chicago, diêm chất lượng cao và hộp diêm giàu đặc sắc văn hóa phương đông khiến cho rất nhiều khách tham quan khâm phục ngành công nghiệp diêm Trung Quốc. Sau khi Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc, Công ty diêm Đại Trung Hoa bị quân Nhật xác định là tài sản của địch nên bị thực thi quân quản, Công ty buộc phải ngừng sản xuất. Năm 1912, Phương Dịch Tiên lập ra Công nghiệp xã Hóa học Trung Quốc, là công xưởng hóa phẩm có quy mô lớn nhất Trung Quốc đương thời, sản xuất "hương muỗi Tam Tinh" nổi tiếng toàn quốc, "kem đánh răng Tam Tinh" là loại kem đánh răng đầu tiên của Trung Quốc, xà phòng giặt hiệu "Tiễn Đao", cạnh tranh với sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngoại quốc, được tán tụng là "quốc hóa đại vương". Ngày 25 tháng 7 năm 1940, Phương Dịch Tiên bị đặc vụ của Nhật sát hại.
Trung Quốc đã có loại kem đánh răng kế tiếp mang thương hiệu gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "kem đánh răng Tam Tinh" ], "answer_start": [ 1302 ] }
0104-0038-0001
uit_019420
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1915, Tổng thống Viên Thế Khải mời kỹ sư quân sự từ các quốc gia như Đức, Đan Mạch, giao ước mua máy móc chế tạo từ công xưởng quân sự tại bang Connecticut, Hoa Kỳ để thành lập xưởng vũ khí Củng Huyện. Năm 1919, xưởng này chính thức đi vào sản xuất, là một trong bốn xưởng vũ khí lớn tại Trung Quốc đương thời. Năm 1938, xưởng vũ khí Củng Huyện bị máy bay Nhật Bản oanh tạc, phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Năm 1921, Phụng hệ quân phiệt Trương Tác Lâm hạ lệnh thiết lập xưởng quân giới Phụng Thiên. Tháng 4 năm 1922, xưởng này đổi tên thành xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh, là xưởng vũ khí có quy mô lớn nhất toàn quốc vào đương thời. Năm 1931, xưởng chế tạo thử nghiệm thành công súng trường tự động 10 viên, song sau sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931 thì bị quân Nhật chiếm lĩnh. Ngày 2 tháng 12 năm 1948, xưởng vũ khí Thẩm Dương bị Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu, trở thành trung tâm sản xuất súng cầm tay lớn nhất đương thời. Năm 1919, Công ty cổ phần hữu hạn quặng sắt Long Yên do chính phủ và tư nhân hợp tác được thành lập, sau đó quyết định lập xưởng luyện gang tại Thạch Cảnh Sơn Bắc Kinh Đầu năm 1922, xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn đã xây dựng được 2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi, công trình đã hoàn thành được 80%, song do thiếu vốn nên buộc phải ngừng xây dựng. Sau năm 1938, Công ty Hưng Trung do Nhật Bản khống chế đã chiếm lĩnh xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn, biến nó thành căn cứ gang thép hậu phương của quân Nhật. Từ năm 1919 đến năm 1949, xưởng gang thép Thạch Cảnh Sơn sản xuất được 286.000 tấn sản phẩm.
Kỹ sư quân sự từ các nước nào đã được mời bởi Tổng thống Viên Thế Khải vào năm 1915?
{ "text": [ "Đức, Đan Mạch" ], "answer_start": [ 73 ] }
false
null
0104-0038-0002
uit_019421
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1915, Tổng thống Viên Thế Khải mời kỹ sư quân sự từ các quốc gia như Đức, Đan Mạch, giao ước mua máy móc chế tạo từ công xưởng quân sự tại bang Connecticut, Hoa Kỳ để thành lập xưởng vũ khí Củng Huyện. Năm 1919, xưởng này chính thức đi vào sản xuất, là một trong bốn xưởng vũ khí lớn tại Trung Quốc đương thời. Năm 1938, xưởng vũ khí Củng Huyện bị máy bay Nhật Bản oanh tạc, phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Năm 1921, Phụng hệ quân phiệt Trương Tác Lâm hạ lệnh thiết lập xưởng quân giới Phụng Thiên. Tháng 4 năm 1922, xưởng này đổi tên thành xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh, là xưởng vũ khí có quy mô lớn nhất toàn quốc vào đương thời. Năm 1931, xưởng chế tạo thử nghiệm thành công súng trường tự động 10 viên, song sau sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931 thì bị quân Nhật chiếm lĩnh. Ngày 2 tháng 12 năm 1948, xưởng vũ khí Thẩm Dương bị Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu, trở thành trung tâm sản xuất súng cầm tay lớn nhất đương thời. Năm 1919, Công ty cổ phần hữu hạn quặng sắt Long Yên do chính phủ và tư nhân hợp tác được thành lập, sau đó quyết định lập xưởng luyện gang tại Thạch Cảnh Sơn Bắc Kinh Đầu năm 1922, xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn đã xây dựng được 2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi, công trình đã hoàn thành được 80%, song do thiếu vốn nên buộc phải ngừng xây dựng. Sau năm 1938, Công ty Hưng Trung do Nhật Bản khống chế đã chiếm lĩnh xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn, biến nó thành căn cứ gang thép hậu phương của quân Nhật. Từ năm 1919 đến năm 1949, xưởng gang thép Thạch Cảnh Sơn sản xuất được 286.000 tấn sản phẩm.
Do nguyên nhân nào mà quá trình hoạt động của xưởng vũ khí Củng Huyện năm 1938 phải dừng lại?
{ "text": [ "máy bay Nhật Bản oanh tạc" ], "answer_start": [ 352 ] }
false
null
0104-0038-0003
uit_019422
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1915, Tổng thống Viên Thế Khải mời kỹ sư quân sự từ các quốc gia như Đức, Đan Mạch, giao ước mua máy móc chế tạo từ công xưởng quân sự tại bang Connecticut, Hoa Kỳ để thành lập xưởng vũ khí Củng Huyện. Năm 1919, xưởng này chính thức đi vào sản xuất, là một trong bốn xưởng vũ khí lớn tại Trung Quốc đương thời. Năm 1938, xưởng vũ khí Củng Huyện bị máy bay Nhật Bản oanh tạc, phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Năm 1921, Phụng hệ quân phiệt Trương Tác Lâm hạ lệnh thiết lập xưởng quân giới Phụng Thiên. Tháng 4 năm 1922, xưởng này đổi tên thành xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh, là xưởng vũ khí có quy mô lớn nhất toàn quốc vào đương thời. Năm 1931, xưởng chế tạo thử nghiệm thành công súng trường tự động 10 viên, song sau sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931 thì bị quân Nhật chiếm lĩnh. Ngày 2 tháng 12 năm 1948, xưởng vũ khí Thẩm Dương bị Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu, trở thành trung tâm sản xuất súng cầm tay lớn nhất đương thời. Năm 1919, Công ty cổ phần hữu hạn quặng sắt Long Yên do chính phủ và tư nhân hợp tác được thành lập, sau đó quyết định lập xưởng luyện gang tại Thạch Cảnh Sơn Bắc Kinh Đầu năm 1922, xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn đã xây dựng được 2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi, công trình đã hoàn thành được 80%, song do thiếu vốn nên buộc phải ngừng xây dựng. Sau năm 1938, Công ty Hưng Trung do Nhật Bản khống chế đã chiếm lĩnh xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn, biến nó thành căn cứ gang thép hậu phương của quân Nhật. Từ năm 1919 đến năm 1949, xưởng gang thép Thạch Cảnh Sơn sản xuất được 286.000 tấn sản phẩm.
Xưởng vũ khí nào có quy mô lớn nhất tại Trung Quốc vào tháng 4 năm 1922?
{ "text": [ "xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh" ], "answer_start": [ 545 ] }
false
null
0104-0038-0004
uit_019423
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1915, Tổng thống Viên Thế Khải mời kỹ sư quân sự từ các quốc gia như Đức, Đan Mạch, giao ước mua máy móc chế tạo từ công xưởng quân sự tại bang Connecticut, Hoa Kỳ để thành lập xưởng vũ khí Củng Huyện. Năm 1919, xưởng này chính thức đi vào sản xuất, là một trong bốn xưởng vũ khí lớn tại Trung Quốc đương thời. Năm 1938, xưởng vũ khí Củng Huyện bị máy bay Nhật Bản oanh tạc, phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Năm 1921, Phụng hệ quân phiệt Trương Tác Lâm hạ lệnh thiết lập xưởng quân giới Phụng Thiên. Tháng 4 năm 1922, xưởng này đổi tên thành xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh, là xưởng vũ khí có quy mô lớn nhất toàn quốc vào đương thời. Năm 1931, xưởng chế tạo thử nghiệm thành công súng trường tự động 10 viên, song sau sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931 thì bị quân Nhật chiếm lĩnh. Ngày 2 tháng 12 năm 1948, xưởng vũ khí Thẩm Dương bị Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu, trở thành trung tâm sản xuất súng cầm tay lớn nhất đương thời. Năm 1919, Công ty cổ phần hữu hạn quặng sắt Long Yên do chính phủ và tư nhân hợp tác được thành lập, sau đó quyết định lập xưởng luyện gang tại Thạch Cảnh Sơn Bắc Kinh Đầu năm 1922, xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn đã xây dựng được 2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi, công trình đã hoàn thành được 80%, song do thiếu vốn nên buộc phải ngừng xây dựng. Sau năm 1938, Công ty Hưng Trung do Nhật Bản khống chế đã chiếm lĩnh xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn, biến nó thành căn cứ gang thép hậu phương của quân Nhật. Từ năm 1919 đến năm 1949, xưởng gang thép Thạch Cảnh Sơn sản xuất được 286.000 tấn sản phẩm.
Những công trình nào đã được xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn cho xây dựng vào năm 1922?
{ "text": [ "2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi" ], "answer_start": [ 1162 ] }
false
null
0104-0038-0005
uit_019424
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1915, Tổng thống Viên Thế Khải mời kỹ sư quân sự từ các quốc gia như Đức, Đan Mạch, giao ước mua máy móc chế tạo từ công xưởng quân sự tại bang Connecticut, Hoa Kỳ để thành lập xưởng vũ khí Củng Huyện. Năm 1919, xưởng này chính thức đi vào sản xuất, là một trong bốn xưởng vũ khí lớn tại Trung Quốc đương thời. Năm 1938, xưởng vũ khí Củng Huyện bị máy bay Nhật Bản oanh tạc, phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Năm 1921, Phụng hệ quân phiệt Trương Tác Lâm hạ lệnh thiết lập xưởng quân giới Phụng Thiên. Tháng 4 năm 1922, xưởng này đổi tên thành xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh, là xưởng vũ khí có quy mô lớn nhất toàn quốc vào đương thời. Năm 1931, xưởng chế tạo thử nghiệm thành công súng trường tự động 10 viên, song sau sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931 thì bị quân Nhật chiếm lĩnh. Ngày 2 tháng 12 năm 1948, xưởng vũ khí Thẩm Dương bị Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu, trở thành trung tâm sản xuất súng cầm tay lớn nhất đương thời. Năm 1919, Công ty cổ phần hữu hạn quặng sắt Long Yên do chính phủ và tư nhân hợp tác được thành lập, sau đó quyết định lập xưởng luyện gang tại Thạch Cảnh Sơn Bắc Kinh Đầu năm 1922, xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn đã xây dựng được 2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi, công trình đã hoàn thành được 80%, song do thiếu vốn nên buộc phải ngừng xây dựng. Sau năm 1938, Công ty Hưng Trung do Nhật Bản khống chế đã chiếm lĩnh xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn, biến nó thành căn cứ gang thép hậu phương của quân Nhật. Từ năm 1919 đến năm 1949, xưởng gang thép Thạch Cảnh Sơn sản xuất được 286.000 tấn sản phẩm.
Sản lượng của xưởng gang thép Thạch Cảnh Sơn trong giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1949 là bao nhiêu?
{ "text": [ "286.000 tấn" ], "answer_start": [ 1508 ] }
false
null
0104-0038-0006
uit_019425
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1915, Tổng thống Viên Thế Khải mời kỹ sư quân sự từ các quốc gia như Đức, Đan Mạch, giao ước mua máy móc chế tạo từ công xưởng quân sự tại bang Connecticut, Hoa Kỳ để thành lập xưởng vũ khí Củng Huyện. Năm 1919, xưởng này chính thức đi vào sản xuất, là một trong bốn xưởng vũ khí lớn tại Trung Quốc đương thời. Năm 1938, xưởng vũ khí Củng Huyện bị máy bay Nhật Bản oanh tạc, phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Năm 1921, Phụng hệ quân phiệt Trương Tác Lâm hạ lệnh thiết lập xưởng quân giới Phụng Thiên. Tháng 4 năm 1922, xưởng này đổi tên thành xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh, là xưởng vũ khí có quy mô lớn nhất toàn quốc vào đương thời. Năm 1931, xưởng chế tạo thử nghiệm thành công súng trường tự động 10 viên, song sau sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931 thì bị quân Nhật chiếm lĩnh. Ngày 2 tháng 12 năm 1948, xưởng vũ khí Thẩm Dương bị Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu, trở thành trung tâm sản xuất súng cầm tay lớn nhất đương thời. Năm 1919, Công ty cổ phần hữu hạn quặng sắt Long Yên do chính phủ và tư nhân hợp tác được thành lập, sau đó quyết định lập xưởng luyện gang tại Thạch Cảnh Sơn Bắc Kinh Đầu năm 1922, xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn đã xây dựng được 2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi, công trình đã hoàn thành được 80%, song do thiếu vốn nên buộc phải ngừng xây dựng. Sau năm 1938, Công ty Hưng Trung do Nhật Bản khống chế đã chiếm lĩnh xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn, biến nó thành căn cứ gang thép hậu phương của quân Nhật. Từ năm 1919 đến năm 1949, xưởng gang thép Thạch Cảnh Sơn sản xuất được 286.000 tấn sản phẩm.
Xưởng vũ khí nào có quy mô lớn nhất tại Trung Quốc vào tháng 4 năm 1949?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh" ], "answer_start": [ 545 ] }
0104-0038-0007
uit_019426
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1915, Tổng thống Viên Thế Khải mời kỹ sư quân sự từ các quốc gia như Đức, Đan Mạch, giao ước mua máy móc chế tạo từ công xưởng quân sự tại bang Connecticut, Hoa Kỳ để thành lập xưởng vũ khí Củng Huyện. Năm 1919, xưởng này chính thức đi vào sản xuất, là một trong bốn xưởng vũ khí lớn tại Trung Quốc đương thời. Năm 1938, xưởng vũ khí Củng Huyện bị máy bay Nhật Bản oanh tạc, phải ngưng hoạt động hoàn toàn. Năm 1921, Phụng hệ quân phiệt Trương Tác Lâm hạ lệnh thiết lập xưởng quân giới Phụng Thiên. Tháng 4 năm 1922, xưởng này đổi tên thành xưởng vũ khí Đông Tam Tỉnh, là xưởng vũ khí có quy mô lớn nhất toàn quốc vào đương thời. Năm 1931, xưởng chế tạo thử nghiệm thành công súng trường tự động 10 viên, song sau sự kiện ngày 18 tháng 9 năm 1931 thì bị quân Nhật chiếm lĩnh. Ngày 2 tháng 12 năm 1948, xưởng vũ khí Thẩm Dương bị Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp thu, trở thành trung tâm sản xuất súng cầm tay lớn nhất đương thời. Năm 1919, Công ty cổ phần hữu hạn quặng sắt Long Yên do chính phủ và tư nhân hợp tác được thành lập, sau đó quyết định lập xưởng luyện gang tại Thạch Cảnh Sơn Bắc Kinh Đầu năm 1922, xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn đã xây dựng được 2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi, công trình đã hoàn thành được 80%, song do thiếu vốn nên buộc phải ngừng xây dựng. Sau năm 1938, Công ty Hưng Trung do Nhật Bản khống chế đã chiếm lĩnh xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn, biến nó thành căn cứ gang thép hậu phương của quân Nhật. Từ năm 1919 đến năm 1949, xưởng gang thép Thạch Cảnh Sơn sản xuất được 286.000 tấn sản phẩm.
Những công trình nào đã được xưởng luyện gang Thạch Cảnh Sơn cho xây dựng vào năm 1938?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "2 lò nung sắt 250 tấn, 4 lò hơi" ], "answer_start": [ 1162 ] }
0104-0039-0001
uit_019427
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Từ năm 1931 đến năm 1936, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Trung Quốc đạt 9,3%, tình hình kinh tê-xã hội xuất hiện xu thế phát triển sôi nổi. Giá trị sản lượng công nông nghiệp của Trung Quốc đạt mức cao nhất cho đến thời điểm đó. Thời kỳ này, ngành điện lực mỗi năm tăng trưởng 9,4%, ngành than đá đạt 7%, ngành xi măng đạt 9,6%, ngành thép đạt 40%. Trên phương diện nông nghiệp, tiến hành xây dựng nông thôn với ba chủ thể lớn là hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục, cung cấp lượng lớn nguyên vật liệu và thực vật, đồng thời bắt đầu tiếp nhận chế độ kinh tế hiện đại do thị trường điều khiển.
Con số nói lên tốc độ tăng trưởng tại Trung Quốc trong lĩnh vực công nghiệp ở giai đoạn 1931-1936 là bao nhiêu?
{ "text": [ "9,3%" ], "answer_start": [ 82 ] }
false
null
0104-0039-0002
uit_019428
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Từ năm 1931 đến năm 1936, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Trung Quốc đạt 9,3%, tình hình kinh tê-xã hội xuất hiện xu thế phát triển sôi nổi. Giá trị sản lượng công nông nghiệp của Trung Quốc đạt mức cao nhất cho đến thời điểm đó. Thời kỳ này, ngành điện lực mỗi năm tăng trưởng 9,4%, ngành than đá đạt 7%, ngành xi măng đạt 9,6%, ngành thép đạt 40%. Trên phương diện nông nghiệp, tiến hành xây dựng nông thôn với ba chủ thể lớn là hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục, cung cấp lượng lớn nguyên vật liệu và thực vật, đồng thời bắt đầu tiếp nhận chế độ kinh tế hiện đại do thị trường điều khiển.
Thời điểm mà kinh tế-xã hội tại Trung Quốc phát triển thì ngành nào đã có giá trị sản lượng lên đến mức cao nhất?
{ "text": [ "công nông nghiệp" ], "answer_start": [ 168 ] }
false
null
0104-0039-0003
uit_019429
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Từ năm 1931 đến năm 1936, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Trung Quốc đạt 9,3%, tình hình kinh tê-xã hội xuất hiện xu thế phát triển sôi nổi. Giá trị sản lượng công nông nghiệp của Trung Quốc đạt mức cao nhất cho đến thời điểm đó. Thời kỳ này, ngành điện lực mỗi năm tăng trưởng 9,4%, ngành than đá đạt 7%, ngành xi măng đạt 9,6%, ngành thép đạt 40%. Trên phương diện nông nghiệp, tiến hành xây dựng nông thôn với ba chủ thể lớn là hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục, cung cấp lượng lớn nguyên vật liệu và thực vật, đồng thời bắt đầu tiếp nhận chế độ kinh tế hiện đại do thị trường điều khiển.
Ngành xi măng trong thời kỳ 1931-1936 đã đạt được tốc độ tăng trưởng là bao nhiêu?
{ "text": [ "9,6%" ], "answer_start": [ 333 ] }
false
null
0104-0039-0004
uit_019430
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Từ năm 1931 đến năm 1936, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Trung Quốc đạt 9,3%, tình hình kinh tê-xã hội xuất hiện xu thế phát triển sôi nổi. Giá trị sản lượng công nông nghiệp của Trung Quốc đạt mức cao nhất cho đến thời điểm đó. Thời kỳ này, ngành điện lực mỗi năm tăng trưởng 9,4%, ngành than đá đạt 7%, ngành xi măng đạt 9,6%, ngành thép đạt 40%. Trên phương diện nông nghiệp, tiến hành xây dựng nông thôn với ba chủ thể lớn là hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục, cung cấp lượng lớn nguyên vật liệu và thực vật, đồng thời bắt đầu tiếp nhận chế độ kinh tế hiện đại do thị trường điều khiển.
Trong thời kỳ năm 1931 đến năm 1936 thì 40% là tỷ lệ tăng trưởng của ngành nào?
{ "text": [ "ngành thép" ], "answer_start": [ 339 ] }
false
null
0104-0039-0005
uit_019431
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Từ năm 1931 đến năm 1936, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Trung Quốc đạt 9,3%, tình hình kinh tê-xã hội xuất hiện xu thế phát triển sôi nổi. Giá trị sản lượng công nông nghiệp của Trung Quốc đạt mức cao nhất cho đến thời điểm đó. Thời kỳ này, ngành điện lực mỗi năm tăng trưởng 9,4%, ngành than đá đạt 7%, ngành xi măng đạt 9,6%, ngành thép đạt 40%. Trên phương diện nông nghiệp, tiến hành xây dựng nông thôn với ba chủ thể lớn là hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục, cung cấp lượng lớn nguyên vật liệu và thực vật, đồng thời bắt đầu tiếp nhận chế độ kinh tế hiện đại do thị trường điều khiển.
Những chủ thể lớn trong quá trình xây dựng nông thôn là gì?
{ "text": [ "hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục" ], "answer_start": [ 440 ] }
false
null
0104-0039-0006
uit_019432
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Từ năm 1931 đến năm 1936, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Trung Quốc đạt 9,3%, tình hình kinh tê-xã hội xuất hiện xu thế phát triển sôi nổi. Giá trị sản lượng công nông nghiệp của Trung Quốc đạt mức cao nhất cho đến thời điểm đó. Thời kỳ này, ngành điện lực mỗi năm tăng trưởng 9,4%, ngành than đá đạt 7%, ngành xi măng đạt 9,6%, ngành thép đạt 40%. Trên phương diện nông nghiệp, tiến hành xây dựng nông thôn với ba chủ thể lớn là hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục, cung cấp lượng lớn nguyên vật liệu và thực vật, đồng thời bắt đầu tiếp nhận chế độ kinh tế hiện đại do thị trường điều khiển.
Thời điểm mà sản lượng tại Trung Quốc phát triển thì ngành nào đã có giá trị kinh tế-xã hội lên đến mức cao nhất?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "công nông nghiệp" ], "answer_start": [ 168 ] }
0104-0039-0007
uit_019433
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Từ năm 1931 đến năm 1936, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp Trung Quốc đạt 9,3%, tình hình kinh tê-xã hội xuất hiện xu thế phát triển sôi nổi. Giá trị sản lượng công nông nghiệp của Trung Quốc đạt mức cao nhất cho đến thời điểm đó. Thời kỳ này, ngành điện lực mỗi năm tăng trưởng 9,4%, ngành than đá đạt 7%, ngành xi măng đạt 9,6%, ngành thép đạt 40%. Trên phương diện nông nghiệp, tiến hành xây dựng nông thôn với ba chủ thể lớn là hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục, cung cấp lượng lớn nguyên vật liệu và thực vật, đồng thời bắt đầu tiếp nhận chế độ kinh tế hiện đại do thị trường điều khiển.
Những chủ thể lớn trong quá trình phát triển nông thôn là gì?`
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "hương thôn tự trị, hợp tác xã và bình quân giáo dục" ], "answer_start": [ 440 ] }
0104-0040-0001
uit_019434
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập, Trung Hoa Dân Quốc lập tức thi hành nghiêm ngặt cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt. Năm 1912 và 1913, Bộ Tài chính Trung Hoa Dân Quốc từng hai lần thiết lập Ủy ban chế độ tiền tệ, thảo luận vấn đề tiền tệ của quốc gia, song không đạt kết quả. Ngày 7 tháng 2 năm 1914, chính phủ công bố "Điều lệ Quốc tệ", quy định Trung Quốc sử dụng bản vị bạc, dùng đồng bạc làm quốc tệ. Tháng 12 năm 1914 và tháng 2 năm 1915, lần lượt Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân và Xưởng sản xuất tiền Giang Nam bắt đầu đúc tiền bạc mới có giá trị 1 nguyên. Năm 1935, Chính phủ Quốc dân ban hành pháp định mới, kết thúc gần 500 năm Trung Quốc sử dụng chế độ bản vị bạc. Năm 1918, sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc được thành lập tại Bắc Kinh. Năm 1927, Chính phủ định đô tại Nam Kinh, trung tâm phát hành công trái cũng dời theo, sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình bị mất ưu thế, tình hình kinh doanh xấu đi. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát toàn diện, Sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình ngừng làm việc vào đầu năm 1939.
Những việc làm nào đã được triển khai sau khi Trung Hoa Dân Quốc được thành lập?
{ "text": [ "cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt" ], "answer_start": [ 67 ] }
false
null
0104-0040-0002
uit_019435
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập, Trung Hoa Dân Quốc lập tức thi hành nghiêm ngặt cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt. Năm 1912 và 1913, Bộ Tài chính Trung Hoa Dân Quốc từng hai lần thiết lập Ủy ban chế độ tiền tệ, thảo luận vấn đề tiền tệ của quốc gia, song không đạt kết quả. Ngày 7 tháng 2 năm 1914, chính phủ công bố "Điều lệ Quốc tệ", quy định Trung Quốc sử dụng bản vị bạc, dùng đồng bạc làm quốc tệ. Tháng 12 năm 1914 và tháng 2 năm 1915, lần lượt Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân và Xưởng sản xuất tiền Giang Nam bắt đầu đúc tiền bạc mới có giá trị 1 nguyên. Năm 1935, Chính phủ Quốc dân ban hành pháp định mới, kết thúc gần 500 năm Trung Quốc sử dụng chế độ bản vị bạc. Năm 1918, sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc được thành lập tại Bắc Kinh. Năm 1927, Chính phủ định đô tại Nam Kinh, trung tâm phát hành công trái cũng dời theo, sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình bị mất ưu thế, tình hình kinh doanh xấu đi. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát toàn diện, Sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình ngừng làm việc vào đầu năm 1939.
Điều gì đã được công bố vào ngày 7 tháng 2 năm 1914?
{ "text": [ "Điều lệ Quốc tệ" ], "answer_start": [ 375 ] }
false
null
0104-0040-0003
uit_019436
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập, Trung Hoa Dân Quốc lập tức thi hành nghiêm ngặt cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt. Năm 1912 và 1913, Bộ Tài chính Trung Hoa Dân Quốc từng hai lần thiết lập Ủy ban chế độ tiền tệ, thảo luận vấn đề tiền tệ của quốc gia, song không đạt kết quả. Ngày 7 tháng 2 năm 1914, chính phủ công bố "Điều lệ Quốc tệ", quy định Trung Quốc sử dụng bản vị bạc, dùng đồng bạc làm quốc tệ. Tháng 12 năm 1914 và tháng 2 năm 1915, lần lượt Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân và Xưởng sản xuất tiền Giang Nam bắt đầu đúc tiền bạc mới có giá trị 1 nguyên. Năm 1935, Chính phủ Quốc dân ban hành pháp định mới, kết thúc gần 500 năm Trung Quốc sử dụng chế độ bản vị bạc. Năm 1918, sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc được thành lập tại Bắc Kinh. Năm 1927, Chính phủ định đô tại Nam Kinh, trung tâm phát hành công trái cũng dời theo, sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình bị mất ưu thế, tình hình kinh doanh xấu đi. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát toàn diện, Sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình ngừng làm việc vào đầu năm 1939.
Tiền bạc mới bắt đầu được xản xuất tại cơ sở nào đầu tiên?
{ "text": [ "Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân" ], "answer_start": [ 508 ] }
false
null
0104-0040-0004
uit_019437
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập, Trung Hoa Dân Quốc lập tức thi hành nghiêm ngặt cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt. Năm 1912 và 1913, Bộ Tài chính Trung Hoa Dân Quốc từng hai lần thiết lập Ủy ban chế độ tiền tệ, thảo luận vấn đề tiền tệ của quốc gia, song không đạt kết quả. Ngày 7 tháng 2 năm 1914, chính phủ công bố "Điều lệ Quốc tệ", quy định Trung Quốc sử dụng bản vị bạc, dùng đồng bạc làm quốc tệ. Tháng 12 năm 1914 và tháng 2 năm 1915, lần lượt Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân và Xưởng sản xuất tiền Giang Nam bắt đầu đúc tiền bạc mới có giá trị 1 nguyên. Năm 1935, Chính phủ Quốc dân ban hành pháp định mới, kết thúc gần 500 năm Trung Quốc sử dụng chế độ bản vị bạc. Năm 1918, sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc được thành lập tại Bắc Kinh. Năm 1927, Chính phủ định đô tại Nam Kinh, trung tâm phát hành công trái cũng dời theo, sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình bị mất ưu thế, tình hình kinh doanh xấu đi. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát toàn diện, Sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình ngừng làm việc vào đầu năm 1939.
Đầu năm 1939 thì cơ quan nào đã không còn hoạt động?
{ "text": [ "Sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình" ], "answer_start": [ 1039 ] }
false
null
0104-0040-0005
uit_019438
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập, Trung Hoa Dân Quốc lập tức thi hành nghiêm ngặt cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt. Năm 1912 và 1913, Bộ Tài chính Trung Hoa Dân Quốc từng hai lần thiết lập Ủy ban chế độ tiền tệ, thảo luận vấn đề tiền tệ của quốc gia, song không đạt kết quả. Ngày 7 tháng 2 năm 1914, chính phủ công bố "Điều lệ Quốc tệ", quy định Trung Quốc sử dụng bản vị bạc, dùng đồng bạc làm quốc tệ. Tháng 12 năm 1914 và tháng 2 năm 1915, lần lượt Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân và Xưởng sản xuất tiền Giang Nam bắt đầu đúc tiền bạc mới có giá trị 1 nguyên. Năm 1935, Chính phủ Quốc dân ban hành pháp định mới, kết thúc gần 500 năm Trung Quốc sử dụng chế độ bản vị bạc. Năm 1918, sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc được thành lập tại Bắc Kinh. Năm 1927, Chính phủ định đô tại Nam Kinh, trung tâm phát hành công trái cũng dời theo, sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình bị mất ưu thế, tình hình kinh doanh xấu đi. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát toàn diện, Sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình ngừng làm việc vào đầu năm 1939.
Vào năm 1918, nơi nào đã được chọn làm nơi ra đời cho sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên tại Trung Quốc?
{ "text": [ "Bắc Kinh" ], "answer_start": [ 812 ] }
false
null
0104-0040-0006
uit_019439
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập, Trung Hoa Dân Quốc lập tức thi hành nghiêm ngặt cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt. Năm 1912 và 1913, Bộ Tài chính Trung Hoa Dân Quốc từng hai lần thiết lập Ủy ban chế độ tiền tệ, thảo luận vấn đề tiền tệ của quốc gia, song không đạt kết quả. Ngày 7 tháng 2 năm 1914, chính phủ công bố "Điều lệ Quốc tệ", quy định Trung Quốc sử dụng bản vị bạc, dùng đồng bạc làm quốc tệ. Tháng 12 năm 1914 và tháng 2 năm 1915, lần lượt Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân và Xưởng sản xuất tiền Giang Nam bắt đầu đúc tiền bạc mới có giá trị 1 nguyên. Năm 1935, Chính phủ Quốc dân ban hành pháp định mới, kết thúc gần 500 năm Trung Quốc sử dụng chế độ bản vị bạc. Năm 1918, sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc được thành lập tại Bắc Kinh. Năm 1927, Chính phủ định đô tại Nam Kinh, trung tâm phát hành công trái cũng dời theo, sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình bị mất ưu thế, tình hình kinh doanh xấu đi. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát toàn diện, Sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình ngừng làm việc vào đầu năm 1939.
Những việc làm nào đã được triển khai sau khi Trung Hoa Dân Quốc được kết thúc?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt" ], "answer_start": [ 67 ] }
0104-0040-0007
uit_019440
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi thành lập, Trung Hoa Dân Quốc lập tức thi hành nghiêm ngặt cải cách kinh tế, thống nhất tiền tệ, cải cách tình trạng hỗn loạn của chế độ tiền tệ từ thời Thanh mạt. Năm 1912 và 1913, Bộ Tài chính Trung Hoa Dân Quốc từng hai lần thiết lập Ủy ban chế độ tiền tệ, thảo luận vấn đề tiền tệ của quốc gia, song không đạt kết quả. Ngày 7 tháng 2 năm 1914, chính phủ công bố "Điều lệ Quốc tệ", quy định Trung Quốc sử dụng bản vị bạc, dùng đồng bạc làm quốc tệ. Tháng 12 năm 1914 và tháng 2 năm 1915, lần lượt Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân và Xưởng sản xuất tiền Giang Nam bắt đầu đúc tiền bạc mới có giá trị 1 nguyên. Năm 1935, Chính phủ Quốc dân ban hành pháp định mới, kết thúc gần 500 năm Trung Quốc sử dụng chế độ bản vị bạc. Năm 1918, sở Giao dịch chứng khoán đầu tiên của Trung Quốc được thành lập tại Bắc Kinh. Năm 1927, Chính phủ định đô tại Nam Kinh, trung tâm phát hành công trái cũng dời theo, sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình bị mất ưu thế, tình hình kinh doanh xấu đi. Sau khi Chiến tranh kháng Nhật bùng phát toàn diện, Sở giao dịch chứng khoán Bắc Bình ngừng làm việc vào đầu năm 1939.
Tiền bạc mới bắt đầu được giao dịch tại cơ sở nào đầu tiên?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Tổng xưởng sản xuất tiền Thiên Tân" ], "answer_start": [ 508 ] }
0104-0041-0001
uit_019441
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Chính phủ Quốc dân phát hành lượng lớn "pháp tệ", khiến Trung Quốc lâm vào siêu lạm phát, Lượng phát hành tiền tệ từ 556,9 tỷ năm 1945, năm 1946 tăng lên hơn 8,2 nghìn tỷ nguyên, năm 1948 tăng lên 660 nghìn tỷ. Năm 1947, phát hành tiền giấy mệnh giá cao nhất là 50 nghìn, trong năm 1948 đạt đến 180 triệu. Tháng 8 năm 1948, Chính phủ Quốc dân thi hành cải cách chế độ tiền tệ, sử dụng "kim viên khoán" mới phát hành để thay thế cho "pháp tệ", kết quả là trong vòng 10 tháng, mệnh giá "kim viên khoán" tăng đến 10 triệu, giảm giá trị hơn 20 nghìn lần, khiến dân chúng Đại lục tổn thất cực lớn về kinh tế, ngân hàng tỉnh Tân Cương thậm chí còn phát hành tiền giấy mệnh giá 6 tỷ. Tháng 7 năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành "ngân viên khoán" để thay thế "kim viên khoán" đã gần như mất hết giá trị. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Đại lục có biến động, "ngân viên khoán" do đó cũng sụt giá mạnh, cuối cùng bị Nhân dân tệ do Đảng Cộng sản Trung Quốc phát hành thay thế Trong khi đó, "Đài tệ" do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành tại Đài Loan cũng sụt giá mạnh, gây nên siêu lạm phát, do đó trong tháng 6 năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải phát hành "Tân Đài tệ" để thay thế.
Siêu lạm phát đã diễn ra tại Trung Quốc do quyết định nào từ Chính phủ Quốc dân?
{ "text": [ "phát hành lượng lớn \"pháp tệ" ], "answer_start": [ 19 ] }
false
null
0104-0041-0002
uit_019442
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Chính phủ Quốc dân phát hành lượng lớn "pháp tệ", khiến Trung Quốc lâm vào siêu lạm phát, Lượng phát hành tiền tệ từ 556,9 tỷ năm 1945, năm 1946 tăng lên hơn 8,2 nghìn tỷ nguyên, năm 1948 tăng lên 660 nghìn tỷ. Năm 1947, phát hành tiền giấy mệnh giá cao nhất là 50 nghìn, trong năm 1948 đạt đến 180 triệu. Tháng 8 năm 1948, Chính phủ Quốc dân thi hành cải cách chế độ tiền tệ, sử dụng "kim viên khoán" mới phát hành để thay thế cho "pháp tệ", kết quả là trong vòng 10 tháng, mệnh giá "kim viên khoán" tăng đến 10 triệu, giảm giá trị hơn 20 nghìn lần, khiến dân chúng Đại lục tổn thất cực lớn về kinh tế, ngân hàng tỉnh Tân Cương thậm chí còn phát hành tiền giấy mệnh giá 6 tỷ. Tháng 7 năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành "ngân viên khoán" để thay thế "kim viên khoán" đã gần như mất hết giá trị. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Đại lục có biến động, "ngân viên khoán" do đó cũng sụt giá mạnh, cuối cùng bị Nhân dân tệ do Đảng Cộng sản Trung Quốc phát hành thay thế Trong khi đó, "Đài tệ" do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành tại Đài Loan cũng sụt giá mạnh, gây nên siêu lạm phát, do đó trong tháng 6 năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải phát hành "Tân Đài tệ" để thay thế.
Đến năm 1948 thì lượng tiền tệ được phát hành tại Trung Quốc là bao nhiêu?
{ "text": [ "660 nghìn tỷ" ], "answer_start": [ 197 ] }
false
null
0104-0041-0003
uit_019443
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Chính phủ Quốc dân phát hành lượng lớn "pháp tệ", khiến Trung Quốc lâm vào siêu lạm phát, Lượng phát hành tiền tệ từ 556,9 tỷ năm 1945, năm 1946 tăng lên hơn 8,2 nghìn tỷ nguyên, năm 1948 tăng lên 660 nghìn tỷ. Năm 1947, phát hành tiền giấy mệnh giá cao nhất là 50 nghìn, trong năm 1948 đạt đến 180 triệu. Tháng 8 năm 1948, Chính phủ Quốc dân thi hành cải cách chế độ tiền tệ, sử dụng "kim viên khoán" mới phát hành để thay thế cho "pháp tệ", kết quả là trong vòng 10 tháng, mệnh giá "kim viên khoán" tăng đến 10 triệu, giảm giá trị hơn 20 nghìn lần, khiến dân chúng Đại lục tổn thất cực lớn về kinh tế, ngân hàng tỉnh Tân Cương thậm chí còn phát hành tiền giấy mệnh giá 6 tỷ. Tháng 7 năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành "ngân viên khoán" để thay thế "kim viên khoán" đã gần như mất hết giá trị. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Đại lục có biến động, "ngân viên khoán" do đó cũng sụt giá mạnh, cuối cùng bị Nhân dân tệ do Đảng Cộng sản Trung Quốc phát hành thay thế Trong khi đó, "Đài tệ" do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành tại Đài Loan cũng sụt giá mạnh, gây nên siêu lạm phát, do đó trong tháng 6 năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải phát hành "Tân Đài tệ" để thay thế.
"Kim viên khoán" đã bị giảm giá trị như thế nào trong vòng 10 tháng?
{ "text": [ "giảm giá trị hơn 20 nghìn lần" ], "answer_start": [ 520 ] }
false
null
0104-0041-0004
uit_019444
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Chính phủ Quốc dân phát hành lượng lớn "pháp tệ", khiến Trung Quốc lâm vào siêu lạm phát, Lượng phát hành tiền tệ từ 556,9 tỷ năm 1945, năm 1946 tăng lên hơn 8,2 nghìn tỷ nguyên, năm 1948 tăng lên 660 nghìn tỷ. Năm 1947, phát hành tiền giấy mệnh giá cao nhất là 50 nghìn, trong năm 1948 đạt đến 180 triệu. Tháng 8 năm 1948, Chính phủ Quốc dân thi hành cải cách chế độ tiền tệ, sử dụng "kim viên khoán" mới phát hành để thay thế cho "pháp tệ", kết quả là trong vòng 10 tháng, mệnh giá "kim viên khoán" tăng đến 10 triệu, giảm giá trị hơn 20 nghìn lần, khiến dân chúng Đại lục tổn thất cực lớn về kinh tế, ngân hàng tỉnh Tân Cương thậm chí còn phát hành tiền giấy mệnh giá 6 tỷ. Tháng 7 năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành "ngân viên khoán" để thay thế "kim viên khoán" đã gần như mất hết giá trị. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Đại lục có biến động, "ngân viên khoán" do đó cũng sụt giá mạnh, cuối cùng bị Nhân dân tệ do Đảng Cộng sản Trung Quốc phát hành thay thế Trong khi đó, "Đài tệ" do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành tại Đài Loan cũng sụt giá mạnh, gây nên siêu lạm phát, do đó trong tháng 6 năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải phát hành "Tân Đài tệ" để thay thế.
Trước tình trạnh "Kim viên khoán" gần như giá trị biến mất thì chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã phát hành điều gì để thay thế?
{ "text": [ "ngân viên khoán" ], "answer_start": [ 735 ] }
false
null
0104-0041-0005
uit_019445
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Chính phủ Quốc dân phát hành lượng lớn "pháp tệ", khiến Trung Quốc lâm vào siêu lạm phát, Lượng phát hành tiền tệ từ 556,9 tỷ năm 1945, năm 1946 tăng lên hơn 8,2 nghìn tỷ nguyên, năm 1948 tăng lên 660 nghìn tỷ. Năm 1947, phát hành tiền giấy mệnh giá cao nhất là 50 nghìn, trong năm 1948 đạt đến 180 triệu. Tháng 8 năm 1948, Chính phủ Quốc dân thi hành cải cách chế độ tiền tệ, sử dụng "kim viên khoán" mới phát hành để thay thế cho "pháp tệ", kết quả là trong vòng 10 tháng, mệnh giá "kim viên khoán" tăng đến 10 triệu, giảm giá trị hơn 20 nghìn lần, khiến dân chúng Đại lục tổn thất cực lớn về kinh tế, ngân hàng tỉnh Tân Cương thậm chí còn phát hành tiền giấy mệnh giá 6 tỷ. Tháng 7 năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành "ngân viên khoán" để thay thế "kim viên khoán" đã gần như mất hết giá trị. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Đại lục có biến động, "ngân viên khoán" do đó cũng sụt giá mạnh, cuối cùng bị Nhân dân tệ do Đảng Cộng sản Trung Quốc phát hành thay thế Trong khi đó, "Đài tệ" do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành tại Đài Loan cũng sụt giá mạnh, gây nên siêu lạm phát, do đó trong tháng 6 năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải phát hành "Tân Đài tệ" để thay thế.
Tổ chức nào đã phát hành ra Nhân dân tệ?
{ "text": [ "Đảng Cộng sản Trung Quốc" ], "answer_start": [ 940 ] }
false
null
0104-0041-0006
uit_019446
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Chính phủ Quốc dân phát hành lượng lớn "pháp tệ", khiến Trung Quốc lâm vào siêu lạm phát, Lượng phát hành tiền tệ từ 556,9 tỷ năm 1945, năm 1946 tăng lên hơn 8,2 nghìn tỷ nguyên, năm 1948 tăng lên 660 nghìn tỷ. Năm 1947, phát hành tiền giấy mệnh giá cao nhất là 50 nghìn, trong năm 1948 đạt đến 180 triệu. Tháng 8 năm 1948, Chính phủ Quốc dân thi hành cải cách chế độ tiền tệ, sử dụng "kim viên khoán" mới phát hành để thay thế cho "pháp tệ", kết quả là trong vòng 10 tháng, mệnh giá "kim viên khoán" tăng đến 10 triệu, giảm giá trị hơn 20 nghìn lần, khiến dân chúng Đại lục tổn thất cực lớn về kinh tế, ngân hàng tỉnh Tân Cương thậm chí còn phát hành tiền giấy mệnh giá 6 tỷ. Tháng 7 năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành "ngân viên khoán" để thay thế "kim viên khoán" đã gần như mất hết giá trị. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Đại lục có biến động, "ngân viên khoán" do đó cũng sụt giá mạnh, cuối cùng bị Nhân dân tệ do Đảng Cộng sản Trung Quốc phát hành thay thế Trong khi đó, "Đài tệ" do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành tại Đài Loan cũng sụt giá mạnh, gây nên siêu lạm phát, do đó trong tháng 6 năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải phát hành "Tân Đài tệ" để thay thế.
"Kim viên khoán" đã bị giảm giá trị như thế nào trong vòng nhiều năm qua?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "giảm giá trị hơn 20 nghìn lần" ], "answer_start": [ 520 ] }
0104-0041-0007
uit_019447
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Chính phủ Quốc dân phát hành lượng lớn "pháp tệ", khiến Trung Quốc lâm vào siêu lạm phát, Lượng phát hành tiền tệ từ 556,9 tỷ năm 1945, năm 1946 tăng lên hơn 8,2 nghìn tỷ nguyên, năm 1948 tăng lên 660 nghìn tỷ. Năm 1947, phát hành tiền giấy mệnh giá cao nhất là 50 nghìn, trong năm 1948 đạt đến 180 triệu. Tháng 8 năm 1948, Chính phủ Quốc dân thi hành cải cách chế độ tiền tệ, sử dụng "kim viên khoán" mới phát hành để thay thế cho "pháp tệ", kết quả là trong vòng 10 tháng, mệnh giá "kim viên khoán" tăng đến 10 triệu, giảm giá trị hơn 20 nghìn lần, khiến dân chúng Đại lục tổn thất cực lớn về kinh tế, ngân hàng tỉnh Tân Cương thậm chí còn phát hành tiền giấy mệnh giá 6 tỷ. Tháng 7 năm 1949, Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành "ngân viên khoán" để thay thế "kim viên khoán" đã gần như mất hết giá trị. Trong khi đó, tình hình chính trị tại Đại lục có biến động, "ngân viên khoán" do đó cũng sụt giá mạnh, cuối cùng bị Nhân dân tệ do Đảng Cộng sản Trung Quốc phát hành thay thế Trong khi đó, "Đài tệ" do Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát hành tại Đài Loan cũng sụt giá mạnh, gây nên siêu lạm phát, do đó trong tháng 6 năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phải phát hành "Tân Đài tệ" để thay thế.
Trước tình trạnh "Kim viên khoán" gần như giá trị tăng lên thì chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đã công bố điều gì để thay thế?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "ngân viên khoán" ], "answer_start": [ 735 ] }
0104-0042-0001
uit_019448
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1928, Bộ Giao thông khởi thảo kế hoạch công lộ toàn quốc, lấy Lan Châu làm trung tâm công lộ, phân công lộ toàn quốc thành ba loại là quốc đạo, tỉnh đạo, huyện đạo, dự kiến hoàn thành trong 10 năm. Năm 1928, toàn quốc tổng cộng có 29.127 km công lộ. Chính phủ Quốc dân đưa xây dựng công lộ vào hàng chính yếu trong xây dựng kinh tế quốc gia. Tháng 5 năm 1932, Ban trù bị Ủy ban Kinh tế toàn quốc nhận nhiệm vụ giám sát xây dựng công lộ liên kết ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy. Đến cuối tháng 6 năm 1936, các tỉnh hoàn thành công lộ liên kết tổng cộng dài hơn 21.000 km, trên 30.000 km công lộ có thể qua lại. Từ năm 1935 đến năm 1936, xây dựng công lộ Tây An-Lan Châu ước tính dài 700 km, công lộ Bảo Kê-Hán Trung dài hơn 250 km, công lộ Hán Trung-Thất Bàn Quan dài hơn 150 km. Đến cuối năm 1936, toàn quốc tổng cộng có 108.117 km công lộ, mạng lưới công lộ Trung Quốc hoàn thành về cơ bản. Trước khi bùng phát chiến tranh kháng Nhật, Chính phủ Quốc dân xây dựng được tám mươi nghìn km công lộ, tạo điều kiện cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
Khoảng thời gian mà bộ Giao thông dự tính để hoàn thành kế hoạc công lộ là bao lâu?
{ "text": [ "10 năm" ], "answer_start": [ 194 ] }
false
null
0104-0042-0002
uit_019449
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1928, Bộ Giao thông khởi thảo kế hoạch công lộ toàn quốc, lấy Lan Châu làm trung tâm công lộ, phân công lộ toàn quốc thành ba loại là quốc đạo, tỉnh đạo, huyện đạo, dự kiến hoàn thành trong 10 năm. Năm 1928, toàn quốc tổng cộng có 29.127 km công lộ. Chính phủ Quốc dân đưa xây dựng công lộ vào hàng chính yếu trong xây dựng kinh tế quốc gia. Tháng 5 năm 1932, Ban trù bị Ủy ban Kinh tế toàn quốc nhận nhiệm vụ giám sát xây dựng công lộ liên kết ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy. Đến cuối tháng 6 năm 1936, các tỉnh hoàn thành công lộ liên kết tổng cộng dài hơn 21.000 km, trên 30.000 km công lộ có thể qua lại. Từ năm 1935 đến năm 1936, xây dựng công lộ Tây An-Lan Châu ước tính dài 700 km, công lộ Bảo Kê-Hán Trung dài hơn 250 km, công lộ Hán Trung-Thất Bàn Quan dài hơn 150 km. Đến cuối năm 1936, toàn quốc tổng cộng có 108.117 km công lộ, mạng lưới công lộ Trung Quốc hoàn thành về cơ bản. Trước khi bùng phát chiến tranh kháng Nhật, Chính phủ Quốc dân xây dựng được tám mươi nghìn km công lộ, tạo điều kiện cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
Độ dài công lộ mà cả nước đã có đến năm 1928 là bao nhiêu?
{ "text": [ "29.127 km" ], "answer_start": [ 235 ] }
false
null
0104-0042-0003
uit_019450
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1928, Bộ Giao thông khởi thảo kế hoạch công lộ toàn quốc, lấy Lan Châu làm trung tâm công lộ, phân công lộ toàn quốc thành ba loại là quốc đạo, tỉnh đạo, huyện đạo, dự kiến hoàn thành trong 10 năm. Năm 1928, toàn quốc tổng cộng có 29.127 km công lộ. Chính phủ Quốc dân đưa xây dựng công lộ vào hàng chính yếu trong xây dựng kinh tế quốc gia. Tháng 5 năm 1932, Ban trù bị Ủy ban Kinh tế toàn quốc nhận nhiệm vụ giám sát xây dựng công lộ liên kết ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy. Đến cuối tháng 6 năm 1936, các tỉnh hoàn thành công lộ liên kết tổng cộng dài hơn 21.000 km, trên 30.000 km công lộ có thể qua lại. Từ năm 1935 đến năm 1936, xây dựng công lộ Tây An-Lan Châu ước tính dài 700 km, công lộ Bảo Kê-Hán Trung dài hơn 250 km, công lộ Hán Trung-Thất Bàn Quan dài hơn 150 km. Đến cuối năm 1936, toàn quốc tổng cộng có 108.117 km công lộ, mạng lưới công lộ Trung Quốc hoàn thành về cơ bản. Trước khi bùng phát chiến tranh kháng Nhật, Chính phủ Quốc dân xây dựng được tám mươi nghìn km công lộ, tạo điều kiện cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
Trách nhiệm được giao vào tháng 5 năm 1932 cho Ban trù bị Ủy ban Kinh tế toàn quốc hoàn thành là gì?
{ "text": [ "giám sát xây dựng công lộ liên kết ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy" ], "answer_start": [ 414 ] }
false
null
0104-0042-0004
uit_019451
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1928, Bộ Giao thông khởi thảo kế hoạch công lộ toàn quốc, lấy Lan Châu làm trung tâm công lộ, phân công lộ toàn quốc thành ba loại là quốc đạo, tỉnh đạo, huyện đạo, dự kiến hoàn thành trong 10 năm. Năm 1928, toàn quốc tổng cộng có 29.127 km công lộ. Chính phủ Quốc dân đưa xây dựng công lộ vào hàng chính yếu trong xây dựng kinh tế quốc gia. Tháng 5 năm 1932, Ban trù bị Ủy ban Kinh tế toàn quốc nhận nhiệm vụ giám sát xây dựng công lộ liên kết ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy. Đến cuối tháng 6 năm 1936, các tỉnh hoàn thành công lộ liên kết tổng cộng dài hơn 21.000 km, trên 30.000 km công lộ có thể qua lại. Từ năm 1935 đến năm 1936, xây dựng công lộ Tây An-Lan Châu ước tính dài 700 km, công lộ Bảo Kê-Hán Trung dài hơn 250 km, công lộ Hán Trung-Thất Bàn Quan dài hơn 150 km. Đến cuối năm 1936, toàn quốc tổng cộng có 108.117 km công lộ, mạng lưới công lộ Trung Quốc hoàn thành về cơ bản. Trước khi bùng phát chiến tranh kháng Nhật, Chính phủ Quốc dân xây dựng được tám mươi nghìn km công lộ, tạo điều kiện cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
Độ dài công lộ Hán Trung-Thất Bàn Quan là bao nhiêu?
{ "text": [ "hơn 150 km" ], "answer_start": [ 777 ] }
false
null
0104-0042-0005
uit_019452
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1928, Bộ Giao thông khởi thảo kế hoạch công lộ toàn quốc, lấy Lan Châu làm trung tâm công lộ, phân công lộ toàn quốc thành ba loại là quốc đạo, tỉnh đạo, huyện đạo, dự kiến hoàn thành trong 10 năm. Năm 1928, toàn quốc tổng cộng có 29.127 km công lộ. Chính phủ Quốc dân đưa xây dựng công lộ vào hàng chính yếu trong xây dựng kinh tế quốc gia. Tháng 5 năm 1932, Ban trù bị Ủy ban Kinh tế toàn quốc nhận nhiệm vụ giám sát xây dựng công lộ liên kết ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy. Đến cuối tháng 6 năm 1936, các tỉnh hoàn thành công lộ liên kết tổng cộng dài hơn 21.000 km, trên 30.000 km công lộ có thể qua lại. Từ năm 1935 đến năm 1936, xây dựng công lộ Tây An-Lan Châu ước tính dài 700 km, công lộ Bảo Kê-Hán Trung dài hơn 250 km, công lộ Hán Trung-Thất Bàn Quan dài hơn 150 km. Đến cuối năm 1936, toàn quốc tổng cộng có 108.117 km công lộ, mạng lưới công lộ Trung Quốc hoàn thành về cơ bản. Trước khi bùng phát chiến tranh kháng Nhật, Chính phủ Quốc dân xây dựng được tám mươi nghìn km công lộ, tạo điều kiện cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
Độ dài của công lộ tại Trung Quốc đạt tám mươi nghìn km là kết quả đạt được trước khi sự kiện nào xảy ra?
{ "text": [ "bùng phát chiến tranh kháng Nhật" ], "answer_start": [ 912 ] }
false
null
0104-0042-0006
uit_019453
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1928, Bộ Giao thông khởi thảo kế hoạch công lộ toàn quốc, lấy Lan Châu làm trung tâm công lộ, phân công lộ toàn quốc thành ba loại là quốc đạo, tỉnh đạo, huyện đạo, dự kiến hoàn thành trong 10 năm. Năm 1928, toàn quốc tổng cộng có 29.127 km công lộ. Chính phủ Quốc dân đưa xây dựng công lộ vào hàng chính yếu trong xây dựng kinh tế quốc gia. Tháng 5 năm 1932, Ban trù bị Ủy ban Kinh tế toàn quốc nhận nhiệm vụ giám sát xây dựng công lộ liên kết ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang, An Huy. Đến cuối tháng 6 năm 1936, các tỉnh hoàn thành công lộ liên kết tổng cộng dài hơn 21.000 km, trên 30.000 km công lộ có thể qua lại. Từ năm 1935 đến năm 1936, xây dựng công lộ Tây An-Lan Châu ước tính dài 700 km, công lộ Bảo Kê-Hán Trung dài hơn 250 km, công lộ Hán Trung-Thất Bàn Quan dài hơn 150 km. Đến cuối năm 1936, toàn quốc tổng cộng có 108.117 km công lộ, mạng lưới công lộ Trung Quốc hoàn thành về cơ bản. Trước khi bùng phát chiến tranh kháng Nhật, Chính phủ Quốc dân xây dựng được tám mươi nghìn km công lộ, tạo điều kiện cho kinh tế Trung Quốc phát triển.
Độ dài quốc đạo Hán Trung-Thất Bàn Quan là bao nhiêu?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "hơn 150 km" ], "answer_start": [ 777 ] }
0104-0043-0001
uit_019454
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi lập quốc, do tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến, khoa học-kỹ thuật Trung Hoa Dân Quốc phát triển chậm chạp. Năm 1912, Chiêm Thiên Hựu mở "Hội Kỹ sư Trung Sơn" với trụ sở tại Quảng Châu, đến năm 1949 toàn quốc có tổng cộng 150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân cho lập "Viện Nghiên cứu Trung ương", Thái Nguyên Bồi đảm nhiệm chức vụ viện trưởng đầu tiên, đồng thời lập ra "chế độ bình nghị học thuật" và "chế độ viện sĩ", tổng cộng có 81 viện sĩ. Đồng thời kỳ, "Viện Nghiên cứu Bắc Bình" và "Viện Khoa học Tây bộ Trung Quốc" và các viện khoa học địa phương khác được lập ra, một số đại học lập viện nghiên cứu. Năm 1930, Viện Nghiên cứu Trung ương lập ra các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn, đặt cơ sở cho khoa học kỹ thuật Trung Quốc đại lục và Đài Loan.
Những nguyên nhân nào làm cho khoa học-kỹ thuật phát triển chậm tại Trung Quốc lúc mới lập quốc?
{ "text": [ "tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến" ], "answer_start": [ 21 ] }
false
null
0104-0043-0002
uit_019455
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi lập quốc, do tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến, khoa học-kỹ thuật Trung Hoa Dân Quốc phát triển chậm chạp. Năm 1912, Chiêm Thiên Hựu mở "Hội Kỹ sư Trung Sơn" với trụ sở tại Quảng Châu, đến năm 1949 toàn quốc có tổng cộng 150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân cho lập "Viện Nghiên cứu Trung ương", Thái Nguyên Bồi đảm nhiệm chức vụ viện trưởng đầu tiên, đồng thời lập ra "chế độ bình nghị học thuật" và "chế độ viện sĩ", tổng cộng có 81 viện sĩ. Đồng thời kỳ, "Viện Nghiên cứu Bắc Bình" và "Viện Khoa học Tây bộ Trung Quốc" và các viện khoa học địa phương khác được lập ra, một số đại học lập viện nghiên cứu. Năm 1930, Viện Nghiên cứu Trung ương lập ra các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn, đặt cơ sở cho khoa học kỹ thuật Trung Quốc đại lục và Đài Loan.
Hội kỹ sư Trung Sơn đã ra đời do sự thành lập của ai?
{ "text": [ "Chiêm Thiên Hựu" ], "answer_start": [ 252 ] }
false
null
0104-0043-0003
uit_019456
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi lập quốc, do tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến, khoa học-kỹ thuật Trung Hoa Dân Quốc phát triển chậm chạp. Năm 1912, Chiêm Thiên Hựu mở "Hội Kỹ sư Trung Sơn" với trụ sở tại Quảng Châu, đến năm 1949 toàn quốc có tổng cộng 150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân cho lập "Viện Nghiên cứu Trung ương", Thái Nguyên Bồi đảm nhiệm chức vụ viện trưởng đầu tiên, đồng thời lập ra "chế độ bình nghị học thuật" và "chế độ viện sĩ", tổng cộng có 81 viện sĩ. Đồng thời kỳ, "Viện Nghiên cứu Bắc Bình" và "Viện Khoa học Tây bộ Trung Quốc" và các viện khoa học địa phương khác được lập ra, một số đại học lập viện nghiên cứu. Năm 1930, Viện Nghiên cứu Trung ương lập ra các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn, đặt cơ sở cho khoa học kỹ thuật Trung Quốc đại lục và Đài Loan.
Tổ chức nào ra đời với chức vụ viện trưởng thuộc về Thái Nguyên Bồi đầu tiên?
{ "text": [ "Viện Nghiên cứu Trung ương" ], "answer_start": [ 426 ] }
false
null
0104-0043-0004
uit_019457
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi lập quốc, do tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến, khoa học-kỹ thuật Trung Hoa Dân Quốc phát triển chậm chạp. Năm 1912, Chiêm Thiên Hựu mở "Hội Kỹ sư Trung Sơn" với trụ sở tại Quảng Châu, đến năm 1949 toàn quốc có tổng cộng 150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân cho lập "Viện Nghiên cứu Trung ương", Thái Nguyên Bồi đảm nhiệm chức vụ viện trưởng đầu tiên, đồng thời lập ra "chế độ bình nghị học thuật" và "chế độ viện sĩ", tổng cộng có 81 viện sĩ. Đồng thời kỳ, "Viện Nghiên cứu Bắc Bình" và "Viện Khoa học Tây bộ Trung Quốc" và các viện khoa học địa phương khác được lập ra, một số đại học lập viện nghiên cứu. Năm 1930, Viện Nghiên cứu Trung ương lập ra các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn, đặt cơ sở cho khoa học kỹ thuật Trung Quốc đại lục và Đài Loan.
Các cơ quan nào được thành lập bởi Viện Nghiên cứu Trung ương vào năm 1930?
{ "text": [ "các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn" ], "answer_start": [ 811 ] }
false
null
0104-0043-0005
uit_019458
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi lập quốc, do tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến, khoa học-kỹ thuật Trung Hoa Dân Quốc phát triển chậm chạp. Năm 1912, Chiêm Thiên Hựu mở "Hội Kỹ sư Trung Sơn" với trụ sở tại Quảng Châu, đến năm 1949 toàn quốc có tổng cộng 150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân cho lập "Viện Nghiên cứu Trung ương", Thái Nguyên Bồi đảm nhiệm chức vụ viện trưởng đầu tiên, đồng thời lập ra "chế độ bình nghị học thuật" và "chế độ viện sĩ", tổng cộng có 81 viện sĩ. Đồng thời kỳ, "Viện Nghiên cứu Bắc Bình" và "Viện Khoa học Tây bộ Trung Quốc" và các viện khoa học địa phương khác được lập ra, một số đại học lập viện nghiên cứu. Năm 1930, Viện Nghiên cứu Trung ương lập ra các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn, đặt cơ sở cho khoa học kỹ thuật Trung Quốc đại lục và Đài Loan.
Số lượng đoàn thể khoa học-kỹ thuật có tại Trung Quốc đến năm 1949 là bao nhiêu?
{ "text": [ "150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật" ], "answer_start": [ 356 ] }
false
null
0104-0043-0006
uit_019459
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi lập quốc, do tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến, khoa học-kỹ thuật Trung Hoa Dân Quốc phát triển chậm chạp. Năm 1912, Chiêm Thiên Hựu mở "Hội Kỹ sư Trung Sơn" với trụ sở tại Quảng Châu, đến năm 1949 toàn quốc có tổng cộng 150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân cho lập "Viện Nghiên cứu Trung ương", Thái Nguyên Bồi đảm nhiệm chức vụ viện trưởng đầu tiên, đồng thời lập ra "chế độ bình nghị học thuật" và "chế độ viện sĩ", tổng cộng có 81 viện sĩ. Đồng thời kỳ, "Viện Nghiên cứu Bắc Bình" và "Viện Khoa học Tây bộ Trung Quốc" và các viện khoa học địa phương khác được lập ra, một số đại học lập viện nghiên cứu. Năm 1930, Viện Nghiên cứu Trung ương lập ra các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn, đặt cơ sở cho khoa học kỹ thuật Trung Quốc đại lục và Đài Loan.
Những nguyên nhân nào làm cho khoa học-kỹ thuật bị ngừng sản xuất tại Trung Quốc lúc mới lập quốc?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến" ], "answer_start": [ 21 ] }
0104-0043-0007
uit_019460
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi lập quốc, do tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến, khoa học-kỹ thuật Trung Hoa Dân Quốc phát triển chậm chạp. Năm 1912, Chiêm Thiên Hựu mở "Hội Kỹ sư Trung Sơn" với trụ sở tại Quảng Châu, đến năm 1949 toàn quốc có tổng cộng 150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân cho lập "Viện Nghiên cứu Trung ương", Thái Nguyên Bồi đảm nhiệm chức vụ viện trưởng đầu tiên, đồng thời lập ra "chế độ bình nghị học thuật" và "chế độ viện sĩ", tổng cộng có 81 viện sĩ. Đồng thời kỳ, "Viện Nghiên cứu Bắc Bình" và "Viện Khoa học Tây bộ Trung Quốc" và các viện khoa học địa phương khác được lập ra, một số đại học lập viện nghiên cứu. Năm 1930, Viện Nghiên cứu Trung ương lập ra các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn, đặt cơ sở cho khoa học kỹ thuật Trung Quốc đại lục và Đài Loan.
Tổ chức nào ra đời với chức vụ viện sĩ thuộc về Thái Nguyên Bồi đầu tiên?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Viện Nghiên cứu Trung ương" ], "answer_start": [ 426 ] }
0104-0043-0008
uit_019461
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau khi lập quốc, do tình trạng quân phiệt cát cứ, cùng với các cường quốc phương Tây cướp đoạt tài sản vật chất tại các tô giới, cộng thêm Nhật Bản xâm chiếm và Quốc-Cộng nội chiến, khoa học-kỹ thuật Trung Hoa Dân Quốc phát triển chậm chạp. Năm 1912, Chiêm Thiên Hựu mở "Hội Kỹ sư Trung Sơn" với trụ sở tại Quảng Châu, đến năm 1949 toàn quốc có tổng cộng 150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật. Năm 1928, Chính phủ Quốc dân cho lập "Viện Nghiên cứu Trung ương", Thái Nguyên Bồi đảm nhiệm chức vụ viện trưởng đầu tiên, đồng thời lập ra "chế độ bình nghị học thuật" và "chế độ viện sĩ", tổng cộng có 81 viện sĩ. Đồng thời kỳ, "Viện Nghiên cứu Bắc Bình" và "Viện Khoa học Tây bộ Trung Quốc" và các viện khoa học địa phương khác được lập ra, một số đại học lập viện nghiên cứu. Năm 1930, Viện Nghiên cứu Trung ương lập ra các sở nghiên cứu vật lý, hóa học, công trình, địa chất, thiên văn, đặt cơ sở cho khoa học kỹ thuật Trung Quốc đại lục và Đài Loan.
Số lượng đoàn thể khoa học-kỹ thuật có tại Trung Quốc đến năm 1912 là bao nhiêu?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "150 đoàn thể khoa học-kỹ thuật" ], "answer_start": [ 356 ] }
0104-0044-0001
uit_019462
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Trong lĩnh vực toán học, Trung Hoa Dân Quốc đạt đến trình độ quốc tế, các nhà toán học kiệt xuất phải kể đến như Trần Kiến Công, Tô Bộ Thanh, Hoa La Canh. Ngô Hữu Huấn là người tiên phong và khai sáng vật lý học cận đại Trung Quốc. Đại biểu của lĩnh vực hóa học là Hầu Đức Bảng, nhờ ông mà kỹ thuật sản xuất kiềm của Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới. Năm 1926, ông chế tạo được natri cacbonat đầu tiên tại châu Á, lấy "hồng tam giác" làm thương hiệu, giành giải vàng tại Triển lãm thế giới Philadenphia tại Hoa Kỳ, Triển lãm thương phẩm quốc tế Thụy Sĩ. Năm 1939, Hầu Đức Bảng phát minh "cách chế kiềm liên hiệp". Trúc Khả Trinh là người tiên phong trong lĩnh vực khí tượng học Trung Quốc, sáng lập khí tượng học hiện đại Trung Quốc. Lý Tứ Quang là đại biểu cho giới địa chất học Trung Quốc, ông từng theo học tại Nhật Bản, học tập đóng thuyền, muốn đóng tàu cần có sắt thép, ông lại sang Anh học tập địa chất học nhằm tìm kiếm quặng sắt. Thập niên 1920, ông đề xuất lý luận "địa chất lực học", nhờ đó tại các địa phương phát hiện tài nguyên dầu mỏ, phủ định luận điểm Trung Quốc nghèo dầu của giới khoa học phương Tây. Trên phương diện kiến trúc học, Mao Dĩ Thăng thiết kế và kiến tạo cầu Tiền Đường Giang, là cầu hai tầng đường bộ và đường sắt đầu tiên của Trung Quốc. Lương Tư Thành, Lâm Huy Nhân kế thừa và phát triển "phong cách kiến trúc dân tộc truyền thống Trung Quốc".
Tại Trung Hoa Dân Quốc thì những nhà toán học nào nổi tiếng?
{ "text": [ "Trần Kiến Công, Tô Bộ Thanh, Hoa La Canh" ], "answer_start": [ 113 ] }
false
null
0104-0044-0002
uit_019463
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Trong lĩnh vực toán học, Trung Hoa Dân Quốc đạt đến trình độ quốc tế, các nhà toán học kiệt xuất phải kể đến như Trần Kiến Công, Tô Bộ Thanh, Hoa La Canh. Ngô Hữu Huấn là người tiên phong và khai sáng vật lý học cận đại Trung Quốc. Đại biểu của lĩnh vực hóa học là Hầu Đức Bảng, nhờ ông mà kỹ thuật sản xuất kiềm của Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới. Năm 1926, ông chế tạo được natri cacbonat đầu tiên tại châu Á, lấy "hồng tam giác" làm thương hiệu, giành giải vàng tại Triển lãm thế giới Philadenphia tại Hoa Kỳ, Triển lãm thương phẩm quốc tế Thụy Sĩ. Năm 1939, Hầu Đức Bảng phát minh "cách chế kiềm liên hiệp". Trúc Khả Trinh là người tiên phong trong lĩnh vực khí tượng học Trung Quốc, sáng lập khí tượng học hiện đại Trung Quốc. Lý Tứ Quang là đại biểu cho giới địa chất học Trung Quốc, ông từng theo học tại Nhật Bản, học tập đóng thuyền, muốn đóng tàu cần có sắt thép, ông lại sang Anh học tập địa chất học nhằm tìm kiếm quặng sắt. Thập niên 1920, ông đề xuất lý luận "địa chất lực học", nhờ đó tại các địa phương phát hiện tài nguyên dầu mỏ, phủ định luận điểm Trung Quốc nghèo dầu của giới khoa học phương Tây. Trên phương diện kiến trúc học, Mao Dĩ Thăng thiết kế và kiến tạo cầu Tiền Đường Giang, là cầu hai tầng đường bộ và đường sắt đầu tiên của Trung Quốc. Lương Tư Thành, Lâm Huy Nhân kế thừa và phát triển "phong cách kiến trúc dân tộc truyền thống Trung Quốc".
Điều gì đã được làm bởi Ngô Hữu Huấn?
{ "text": [ "tiên phong và khai sáng vật lý học cận đại Trung Quốc" ], "answer_start": [ 177 ] }
false
null
0104-0044-0003
uit_019464
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Trong lĩnh vực toán học, Trung Hoa Dân Quốc đạt đến trình độ quốc tế, các nhà toán học kiệt xuất phải kể đến như Trần Kiến Công, Tô Bộ Thanh, Hoa La Canh. Ngô Hữu Huấn là người tiên phong và khai sáng vật lý học cận đại Trung Quốc. Đại biểu của lĩnh vực hóa học là Hầu Đức Bảng, nhờ ông mà kỹ thuật sản xuất kiềm của Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới. Năm 1926, ông chế tạo được natri cacbonat đầu tiên tại châu Á, lấy "hồng tam giác" làm thương hiệu, giành giải vàng tại Triển lãm thế giới Philadenphia tại Hoa Kỳ, Triển lãm thương phẩm quốc tế Thụy Sĩ. Năm 1939, Hầu Đức Bảng phát minh "cách chế kiềm liên hiệp". Trúc Khả Trinh là người tiên phong trong lĩnh vực khí tượng học Trung Quốc, sáng lập khí tượng học hiện đại Trung Quốc. Lý Tứ Quang là đại biểu cho giới địa chất học Trung Quốc, ông từng theo học tại Nhật Bản, học tập đóng thuyền, muốn đóng tàu cần có sắt thép, ông lại sang Anh học tập địa chất học nhằm tìm kiếm quặng sắt. Thập niên 1920, ông đề xuất lý luận "địa chất lực học", nhờ đó tại các địa phương phát hiện tài nguyên dầu mỏ, phủ định luận điểm Trung Quốc nghèo dầu của giới khoa học phương Tây. Trên phương diện kiến trúc học, Mao Dĩ Thăng thiết kế và kiến tạo cầu Tiền Đường Giang, là cầu hai tầng đường bộ và đường sắt đầu tiên của Trung Quốc. Lương Tư Thành, Lâm Huy Nhân kế thừa và phát triển "phong cách kiến trúc dân tộc truyền thống Trung Quốc".
Tại châu Á thì ai là người đã chế tạo ra natri cacbonat đầu tiên?
{ "text": [ "Hầu Đức Bảng" ], "answer_start": [ 265 ] }
false
null
0104-0044-0004
uit_019465
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Trong lĩnh vực toán học, Trung Hoa Dân Quốc đạt đến trình độ quốc tế, các nhà toán học kiệt xuất phải kể đến như Trần Kiến Công, Tô Bộ Thanh, Hoa La Canh. Ngô Hữu Huấn là người tiên phong và khai sáng vật lý học cận đại Trung Quốc. Đại biểu của lĩnh vực hóa học là Hầu Đức Bảng, nhờ ông mà kỹ thuật sản xuất kiềm của Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới. Năm 1926, ông chế tạo được natri cacbonat đầu tiên tại châu Á, lấy "hồng tam giác" làm thương hiệu, giành giải vàng tại Triển lãm thế giới Philadenphia tại Hoa Kỳ, Triển lãm thương phẩm quốc tế Thụy Sĩ. Năm 1939, Hầu Đức Bảng phát minh "cách chế kiềm liên hiệp". Trúc Khả Trinh là người tiên phong trong lĩnh vực khí tượng học Trung Quốc, sáng lập khí tượng học hiện đại Trung Quốc. Lý Tứ Quang là đại biểu cho giới địa chất học Trung Quốc, ông từng theo học tại Nhật Bản, học tập đóng thuyền, muốn đóng tàu cần có sắt thép, ông lại sang Anh học tập địa chất học nhằm tìm kiếm quặng sắt. Thập niên 1920, ông đề xuất lý luận "địa chất lực học", nhờ đó tại các địa phương phát hiện tài nguyên dầu mỏ, phủ định luận điểm Trung Quốc nghèo dầu của giới khoa học phương Tây. Trên phương diện kiến trúc học, Mao Dĩ Thăng thiết kế và kiến tạo cầu Tiền Đường Giang, là cầu hai tầng đường bộ và đường sắt đầu tiên của Trung Quốc. Lương Tư Thành, Lâm Huy Nhân kế thừa và phát triển "phong cách kiến trúc dân tộc truyền thống Trung Quốc".
Điều gì đã được ra đời bởi Trúc Khả Trinh?
{ "text": [ "khí tượng học hiện đại Trung Quốc" ], "answer_start": [ 700 ] }
false
null
0104-0044-0005
uit_019466
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Trong lĩnh vực toán học, Trung Hoa Dân Quốc đạt đến trình độ quốc tế, các nhà toán học kiệt xuất phải kể đến như Trần Kiến Công, Tô Bộ Thanh, Hoa La Canh. Ngô Hữu Huấn là người tiên phong và khai sáng vật lý học cận đại Trung Quốc. Đại biểu của lĩnh vực hóa học là Hầu Đức Bảng, nhờ ông mà kỹ thuật sản xuất kiềm của Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới. Năm 1926, ông chế tạo được natri cacbonat đầu tiên tại châu Á, lấy "hồng tam giác" làm thương hiệu, giành giải vàng tại Triển lãm thế giới Philadenphia tại Hoa Kỳ, Triển lãm thương phẩm quốc tế Thụy Sĩ. Năm 1939, Hầu Đức Bảng phát minh "cách chế kiềm liên hiệp". Trúc Khả Trinh là người tiên phong trong lĩnh vực khí tượng học Trung Quốc, sáng lập khí tượng học hiện đại Trung Quốc. Lý Tứ Quang là đại biểu cho giới địa chất học Trung Quốc, ông từng theo học tại Nhật Bản, học tập đóng thuyền, muốn đóng tàu cần có sắt thép, ông lại sang Anh học tập địa chất học nhằm tìm kiếm quặng sắt. Thập niên 1920, ông đề xuất lý luận "địa chất lực học", nhờ đó tại các địa phương phát hiện tài nguyên dầu mỏ, phủ định luận điểm Trung Quốc nghèo dầu của giới khoa học phương Tây. Trên phương diện kiến trúc học, Mao Dĩ Thăng thiết kế và kiến tạo cầu Tiền Đường Giang, là cầu hai tầng đường bộ và đường sắt đầu tiên của Trung Quốc. Lương Tư Thành, Lâm Huy Nhân kế thừa và phát triển "phong cách kiến trúc dân tộc truyền thống Trung Quốc".
Lý luận nào đã được đề xuất năm 1920 bởi Lý Tứ Quang?
{ "text": [ "địa chất lực học" ], "answer_start": [ 977 ] }
false
null
0104-0044-0006
uit_019467
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Trong lĩnh vực toán học, Trung Hoa Dân Quốc đạt đến trình độ quốc tế, các nhà toán học kiệt xuất phải kể đến như Trần Kiến Công, Tô Bộ Thanh, Hoa La Canh. Ngô Hữu Huấn là người tiên phong và khai sáng vật lý học cận đại Trung Quốc. Đại biểu của lĩnh vực hóa học là Hầu Đức Bảng, nhờ ông mà kỹ thuật sản xuất kiềm của Trung Quốc đứng hàng đầu thế giới. Năm 1926, ông chế tạo được natri cacbonat đầu tiên tại châu Á, lấy "hồng tam giác" làm thương hiệu, giành giải vàng tại Triển lãm thế giới Philadenphia tại Hoa Kỳ, Triển lãm thương phẩm quốc tế Thụy Sĩ. Năm 1939, Hầu Đức Bảng phát minh "cách chế kiềm liên hiệp". Trúc Khả Trinh là người tiên phong trong lĩnh vực khí tượng học Trung Quốc, sáng lập khí tượng học hiện đại Trung Quốc. Lý Tứ Quang là đại biểu cho giới địa chất học Trung Quốc, ông từng theo học tại Nhật Bản, học tập đóng thuyền, muốn đóng tàu cần có sắt thép, ông lại sang Anh học tập địa chất học nhằm tìm kiếm quặng sắt. Thập niên 1920, ông đề xuất lý luận "địa chất lực học", nhờ đó tại các địa phương phát hiện tài nguyên dầu mỏ, phủ định luận điểm Trung Quốc nghèo dầu của giới khoa học phương Tây. Trên phương diện kiến trúc học, Mao Dĩ Thăng thiết kế và kiến tạo cầu Tiền Đường Giang, là cầu hai tầng đường bộ và đường sắt đầu tiên của Trung Quốc. Lương Tư Thành, Lâm Huy Nhân kế thừa và phát triển "phong cách kiến trúc dân tộc truyền thống Trung Quốc".
Tại Hoa Kỳ thì những nhà toán học nào nổi tiếng?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Trần Kiến Công, Tô Bộ Thanh, Hoa La Canh" ], "answer_start": [ 113 ] }
0104-0045-0001
uit_019468
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ 1911-1936, nhân khẩu Trung Quốc tăng từ 410 triệu lên 530 triệu, mỗi năm tăng trưởng 1,03%. Mặc dù trong thời kỳ kháng chiến từng xuất hiện giảm dân số song đến cuối năm 1949 vẫn đạt 540 triệu. Từ thời kỳ Dân Quốc, mô hình nhân khẩu Trung Quốc bắt đầu chuyển biến từ thời đại truyền thống tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao, tỷ suất tăng trưởng thấp, sang tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao, nguyên nhân là tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc. Do chiến loạn nên khả năng kháng cự tai họa của xã hội giảm sút, thiên tai nhân họa gây nên lượng lớn người tử vong phi tự nhiên.
Tốc độ tăng trưởng dân số mỗi năm tại Trung Quốc trong thời kỳ 1911-1936 là bao nhiêu?
{ "text": [ "1,03%" ], "answer_start": [ 93 ] }
false
null
0104-0045-0002
uit_019469
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ 1911-1936, nhân khẩu Trung Quốc tăng từ 410 triệu lên 530 triệu, mỗi năm tăng trưởng 1,03%. Mặc dù trong thời kỳ kháng chiến từng xuất hiện giảm dân số song đến cuối năm 1949 vẫn đạt 540 triệu. Từ thời kỳ Dân Quốc, mô hình nhân khẩu Trung Quốc bắt đầu chuyển biến từ thời đại truyền thống tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao, tỷ suất tăng trưởng thấp, sang tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao, nguyên nhân là tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc. Do chiến loạn nên khả năng kháng cự tai họa của xã hội giảm sút, thiên tai nhân họa gây nên lượng lớn người tử vong phi tự nhiên.
Dân số tại Trung Quốc đã đạt con số bao nhiêu vào cuối năm 1949?
{ "text": [ "540 triệu" ], "answer_start": [ 191 ] }
false
null
0104-0045-0003
uit_019470
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ 1911-1936, nhân khẩu Trung Quốc tăng từ 410 triệu lên 530 triệu, mỗi năm tăng trưởng 1,03%. Mặc dù trong thời kỳ kháng chiến từng xuất hiện giảm dân số song đến cuối năm 1949 vẫn đạt 540 triệu. Từ thời kỳ Dân Quốc, mô hình nhân khẩu Trung Quốc bắt đầu chuyển biến từ thời đại truyền thống tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao, tỷ suất tăng trưởng thấp, sang tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao, nguyên nhân là tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc. Do chiến loạn nên khả năng kháng cự tai họa của xã hội giảm sút, thiên tai nhân họa gây nên lượng lớn người tử vong phi tự nhiên.
Tại Trung Quốc thì từ thời kỳ nào đã có sự thay đổi về mô hình dân số?
{ "text": [ "thời kỳ Dân Quốc" ], "answer_start": [ 205 ] }
false
null
0104-0045-0004
uit_019471
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ 1911-1936, nhân khẩu Trung Quốc tăng từ 410 triệu lên 530 triệu, mỗi năm tăng trưởng 1,03%. Mặc dù trong thời kỳ kháng chiến từng xuất hiện giảm dân số song đến cuối năm 1949 vẫn đạt 540 triệu. Từ thời kỳ Dân Quốc, mô hình nhân khẩu Trung Quốc bắt đầu chuyển biến từ thời đại truyền thống tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao, tỷ suất tăng trưởng thấp, sang tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao, nguyên nhân là tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc. Do chiến loạn nên khả năng kháng cự tai họa của xã hội giảm sút, thiên tai nhân họa gây nên lượng lớn người tử vong phi tự nhiên.
Lý do cho sự chuyển đổi về mô hình nhân khẩu tại Trung Quốc là gì?
{ "text": [ "tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc" ], "answer_start": [ 437 ] }
false
null
0104-0045-0005
uit_019472
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ 1911-1936, nhân khẩu Trung Quốc tăng từ 410 triệu lên 530 triệu, mỗi năm tăng trưởng 1,03%. Mặc dù trong thời kỳ kháng chiến từng xuất hiện giảm dân số song đến cuối năm 1949 vẫn đạt 540 triệu. Từ thời kỳ Dân Quốc, mô hình nhân khẩu Trung Quốc bắt đầu chuyển biến từ thời đại truyền thống tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao, tỷ suất tăng trưởng thấp, sang tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao, nguyên nhân là tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc. Do chiến loạn nên khả năng kháng cự tai họa của xã hội giảm sút, thiên tai nhân họa gây nên lượng lớn người tử vong phi tự nhiên.
Mô hình nhân khẩu tại Trung Quốc dần chuyển sang mô hình nào từ thời kỳ Dân Quốc?
{ "text": [ "tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao" ], "answer_start": [ 362 ] }
false
null
0104-0045-0006
uit_019473
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ 1911-1936, nhân khẩu Trung Quốc tăng từ 410 triệu lên 530 triệu, mỗi năm tăng trưởng 1,03%. Mặc dù trong thời kỳ kháng chiến từng xuất hiện giảm dân số song đến cuối năm 1949 vẫn đạt 540 triệu. Từ thời kỳ Dân Quốc, mô hình nhân khẩu Trung Quốc bắt đầu chuyển biến từ thời đại truyền thống tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao, tỷ suất tăng trưởng thấp, sang tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao, nguyên nhân là tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc. Do chiến loạn nên khả năng kháng cự tai họa của xã hội giảm sút, thiên tai nhân họa gây nên lượng lớn người tử vong phi tự nhiên.
Nhập khẩu tại Trung Quốc đã đạt con số bao nhiêu vào cuối năm 1949?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "540 triệu" ], "answer_start": [ 191 ] }
0104-0045-0007
uit_019474
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ 1911-1936, nhân khẩu Trung Quốc tăng từ 410 triệu lên 530 triệu, mỗi năm tăng trưởng 1,03%. Mặc dù trong thời kỳ kháng chiến từng xuất hiện giảm dân số song đến cuối năm 1949 vẫn đạt 540 triệu. Từ thời kỳ Dân Quốc, mô hình nhân khẩu Trung Quốc bắt đầu chuyển biến từ thời đại truyền thống tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao, tỷ suất tăng trưởng thấp, sang tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao, nguyên nhân là tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc. Do chiến loạn nên khả năng kháng cự tai họa của xã hội giảm sút, thiên tai nhân họa gây nên lượng lớn người tử vong phi tự nhiên.
Lý do cho sự chuyển đổi về xã hội nhân khẩu tại Trung Quốc là gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc" ], "answer_start": [ 437 ] }
0104-0045-0008
uit_019475
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Thời kỳ 1911-1936, nhân khẩu Trung Quốc tăng từ 410 triệu lên 530 triệu, mỗi năm tăng trưởng 1,03%. Mặc dù trong thời kỳ kháng chiến từng xuất hiện giảm dân số song đến cuối năm 1949 vẫn đạt 540 triệu. Từ thời kỳ Dân Quốc, mô hình nhân khẩu Trung Quốc bắt đầu chuyển biến từ thời đại truyền thống tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử cao, tỷ suất tăng trưởng thấp, sang tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao, nguyên nhân là tiến bộ kinh tế-xã hội và y học thời kỳ Dân Quốc. Do chiến loạn nên khả năng kháng cự tai họa của xã hội giảm sút, thiên tai nhân họa gây nên lượng lớn người tử vong phi tự nhiên.
Mô hình nhân khẩu tại Trung Quốc dần phát triển theo mô hình nào từ thời kỳ Dân Quốc?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "tỷ suất sinh cao, tỷ suất tử thấp, tỷ suất tăng trưởng cao" ], "answer_start": [ 362 ] }
0104-0046-0001
uit_019476
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1912, Chính phủ Bắc Dương công bố "Học chế Nhâm Tý-Quý Sửu", phân thành ba giai đoạn là giáo dục sơ đẳng (7 năm), giáo dục trung đẳng (4 năm) và giáo dục cao đẳng (đại học là 6-7 năm, giáo dục chuyên môn là 4 năm). Tháng 11 năm 1922, Chính phủ Bắc Dương ban hành "Học chế Nhâm Tuất", đánh dấu xác lập thể chế giáo dục hiện đại tại Trung Quốc. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, chính phủ mô phỏng chế độ giáo dục của Nhật Bản, thiết lập lượng lớn trường chuyên môn và đại học đơn khoa. Sau khi Chính phủ Quốc dân Bắc phạt, chế độ giáo dục của Hoa Kỳ trở thành chủ lưu. Những năm đầu Dân Quốc, số trường Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc đạt đến sáu nghìn, số học sinh theo học đạt ba trăm nghìn. Về sau này, do chủ nghĩa dân tộc dâng cao, Trung Quốc nổ ra phong trào ngăn chặn các trường Cơ Đốc giáo, sau khi Chính phủ Quốc dân thành lập, các trường Cơ Đốc giáo phải đăng ký với Bộ Giáo dục, không được ép buộc học chương trình tôn giáo, hay cưỡng chế tín ngưỡng và lễ bái tôn giáo. Đến thời kỳ năm 1948, ngoại trừ Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, các tỉnh thành khác đều có một đại học tổng hợp quốc lập. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, khu vực Đông Bắc thực thi giáo dục Nhật Bản hóa: tuyệt đại bộ phận giáo viên là người Nhật Bản, dùng tiếng Nhật giảng dạy, các trường trung tiểu học mỗi ngày phải bái vọng Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản, học sinh phải đọc thuộc lòng bằng tiếng Nhật "Quốc dân huấn".
Điều gì đã được ban hành bởi Chính phủ Bắc Dương vào năm 1922?
{ "text": [ "Học chế Nhâm Tuất" ], "answer_start": [ 268 ] }
false
null
0104-0046-0002
uit_019477
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1912, Chính phủ Bắc Dương công bố "Học chế Nhâm Tý-Quý Sửu", phân thành ba giai đoạn là giáo dục sơ đẳng (7 năm), giáo dục trung đẳng (4 năm) và giáo dục cao đẳng (đại học là 6-7 năm, giáo dục chuyên môn là 4 năm). Tháng 11 năm 1922, Chính phủ Bắc Dương ban hành "Học chế Nhâm Tuất", đánh dấu xác lập thể chế giáo dục hiện đại tại Trung Quốc. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, chính phủ mô phỏng chế độ giáo dục của Nhật Bản, thiết lập lượng lớn trường chuyên môn và đại học đơn khoa. Sau khi Chính phủ Quốc dân Bắc phạt, chế độ giáo dục của Hoa Kỳ trở thành chủ lưu. Những năm đầu Dân Quốc, số trường Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc đạt đến sáu nghìn, số học sinh theo học đạt ba trăm nghìn. Về sau này, do chủ nghĩa dân tộc dâng cao, Trung Quốc nổ ra phong trào ngăn chặn các trường Cơ Đốc giáo, sau khi Chính phủ Quốc dân thành lập, các trường Cơ Đốc giáo phải đăng ký với Bộ Giáo dục, không được ép buộc học chương trình tôn giáo, hay cưỡng chế tín ngưỡng và lễ bái tôn giáo. Đến thời kỳ năm 1948, ngoại trừ Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, các tỉnh thành khác đều có một đại học tổng hợp quốc lập. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, khu vực Đông Bắc thực thi giáo dục Nhật Bản hóa: tuyệt đại bộ phận giáo viên là người Nhật Bản, dùng tiếng Nhật giảng dạy, các trường trung tiểu học mỗi ngày phải bái vọng Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản, học sinh phải đọc thuộc lòng bằng tiếng Nhật "Quốc dân huấn".
Số học sinh tại các trường Cơ Đốc giáo vào những năm đầu Dân Quốc là bao nhiêu?
{ "text": [ "ba trăm nghìn" ], "answer_start": [ 672 ] }
false
null
0104-0046-0003
uit_019478
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1912, Chính phủ Bắc Dương công bố "Học chế Nhâm Tý-Quý Sửu", phân thành ba giai đoạn là giáo dục sơ đẳng (7 năm), giáo dục trung đẳng (4 năm) và giáo dục cao đẳng (đại học là 6-7 năm, giáo dục chuyên môn là 4 năm). Tháng 11 năm 1922, Chính phủ Bắc Dương ban hành "Học chế Nhâm Tuất", đánh dấu xác lập thể chế giáo dục hiện đại tại Trung Quốc. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, chính phủ mô phỏng chế độ giáo dục của Nhật Bản, thiết lập lượng lớn trường chuyên môn và đại học đơn khoa. Sau khi Chính phủ Quốc dân Bắc phạt, chế độ giáo dục của Hoa Kỳ trở thành chủ lưu. Những năm đầu Dân Quốc, số trường Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc đạt đến sáu nghìn, số học sinh theo học đạt ba trăm nghìn. Về sau này, do chủ nghĩa dân tộc dâng cao, Trung Quốc nổ ra phong trào ngăn chặn các trường Cơ Đốc giáo, sau khi Chính phủ Quốc dân thành lập, các trường Cơ Đốc giáo phải đăng ký với Bộ Giáo dục, không được ép buộc học chương trình tôn giáo, hay cưỡng chế tín ngưỡng và lễ bái tôn giáo. Đến thời kỳ năm 1948, ngoại trừ Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, các tỉnh thành khác đều có một đại học tổng hợp quốc lập. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, khu vực Đông Bắc thực thi giáo dục Nhật Bản hóa: tuyệt đại bộ phận giáo viên là người Nhật Bản, dùng tiếng Nhật giảng dạy, các trường trung tiểu học mỗi ngày phải bái vọng Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản, học sinh phải đọc thuộc lòng bằng tiếng Nhật "Quốc dân huấn".
Những nơi nào đến thời kỳ năm 1948 vẫn không có đại học tổng hợp quốc lập?
{ "text": [ "Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương" ], "answer_start": [ 1006 ] }
false
null
0104-0046-0004
uit_019479
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1912, Chính phủ Bắc Dương công bố "Học chế Nhâm Tý-Quý Sửu", phân thành ba giai đoạn là giáo dục sơ đẳng (7 năm), giáo dục trung đẳng (4 năm) và giáo dục cao đẳng (đại học là 6-7 năm, giáo dục chuyên môn là 4 năm). Tháng 11 năm 1922, Chính phủ Bắc Dương ban hành "Học chế Nhâm Tuất", đánh dấu xác lập thể chế giáo dục hiện đại tại Trung Quốc. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, chính phủ mô phỏng chế độ giáo dục của Nhật Bản, thiết lập lượng lớn trường chuyên môn và đại học đơn khoa. Sau khi Chính phủ Quốc dân Bắc phạt, chế độ giáo dục của Hoa Kỳ trở thành chủ lưu. Những năm đầu Dân Quốc, số trường Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc đạt đến sáu nghìn, số học sinh theo học đạt ba trăm nghìn. Về sau này, do chủ nghĩa dân tộc dâng cao, Trung Quốc nổ ra phong trào ngăn chặn các trường Cơ Đốc giáo, sau khi Chính phủ Quốc dân thành lập, các trường Cơ Đốc giáo phải đăng ký với Bộ Giáo dục, không được ép buộc học chương trình tôn giáo, hay cưỡng chế tín ngưỡng và lễ bái tôn giáo. Đến thời kỳ năm 1948, ngoại trừ Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, các tỉnh thành khác đều có một đại học tổng hợp quốc lập. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, khu vực Đông Bắc thực thi giáo dục Nhật Bản hóa: tuyệt đại bộ phận giáo viên là người Nhật Bản, dùng tiếng Nhật giảng dạy, các trường trung tiểu học mỗi ngày phải bái vọng Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản, học sinh phải đọc thuộc lòng bằng tiếng Nhật "Quốc dân huấn".
Giáo dục Nhật Bản được tiến hành tại khu vực Đông Bắc kể từ thời điểm nào?
{ "text": [ "sự kiện 18 tháng 9 năm 1931" ], "answer_start": [ 1152 ] }
false
null
0104-0046-0005
uit_019480
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1912, Chính phủ Bắc Dương công bố "Học chế Nhâm Tý-Quý Sửu", phân thành ba giai đoạn là giáo dục sơ đẳng (7 năm), giáo dục trung đẳng (4 năm) và giáo dục cao đẳng (đại học là 6-7 năm, giáo dục chuyên môn là 4 năm). Tháng 11 năm 1922, Chính phủ Bắc Dương ban hành "Học chế Nhâm Tuất", đánh dấu xác lập thể chế giáo dục hiện đại tại Trung Quốc. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, chính phủ mô phỏng chế độ giáo dục của Nhật Bản, thiết lập lượng lớn trường chuyên môn và đại học đơn khoa. Sau khi Chính phủ Quốc dân Bắc phạt, chế độ giáo dục của Hoa Kỳ trở thành chủ lưu. Những năm đầu Dân Quốc, số trường Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc đạt đến sáu nghìn, số học sinh theo học đạt ba trăm nghìn. Về sau này, do chủ nghĩa dân tộc dâng cao, Trung Quốc nổ ra phong trào ngăn chặn các trường Cơ Đốc giáo, sau khi Chính phủ Quốc dân thành lập, các trường Cơ Đốc giáo phải đăng ký với Bộ Giáo dục, không được ép buộc học chương trình tôn giáo, hay cưỡng chế tín ngưỡng và lễ bái tôn giáo. Đến thời kỳ năm 1948, ngoại trừ Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, các tỉnh thành khác đều có một đại học tổng hợp quốc lập. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, khu vực Đông Bắc thực thi giáo dục Nhật Bản hóa: tuyệt đại bộ phận giáo viên là người Nhật Bản, dùng tiếng Nhật giảng dạy, các trường trung tiểu học mỗi ngày phải bái vọng Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản, học sinh phải đọc thuộc lòng bằng tiếng Nhật "Quốc dân huấn".
Ai là những người mà mỗi ngày các học sinh tại Đông Bắc phải bái vọng?
{ "text": [ "Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản" ], "answer_start": [ 1353 ] }
false
null
0104-0046-0006
uit_019481
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1912, Chính phủ Bắc Dương công bố "Học chế Nhâm Tý-Quý Sửu", phân thành ba giai đoạn là giáo dục sơ đẳng (7 năm), giáo dục trung đẳng (4 năm) và giáo dục cao đẳng (đại học là 6-7 năm, giáo dục chuyên môn là 4 năm). Tháng 11 năm 1922, Chính phủ Bắc Dương ban hành "Học chế Nhâm Tuất", đánh dấu xác lập thể chế giáo dục hiện đại tại Trung Quốc. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, chính phủ mô phỏng chế độ giáo dục của Nhật Bản, thiết lập lượng lớn trường chuyên môn và đại học đơn khoa. Sau khi Chính phủ Quốc dân Bắc phạt, chế độ giáo dục của Hoa Kỳ trở thành chủ lưu. Những năm đầu Dân Quốc, số trường Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc đạt đến sáu nghìn, số học sinh theo học đạt ba trăm nghìn. Về sau này, do chủ nghĩa dân tộc dâng cao, Trung Quốc nổ ra phong trào ngăn chặn các trường Cơ Đốc giáo, sau khi Chính phủ Quốc dân thành lập, các trường Cơ Đốc giáo phải đăng ký với Bộ Giáo dục, không được ép buộc học chương trình tôn giáo, hay cưỡng chế tín ngưỡng và lễ bái tôn giáo. Đến thời kỳ năm 1948, ngoại trừ Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, các tỉnh thành khác đều có một đại học tổng hợp quốc lập. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, khu vực Đông Bắc thực thi giáo dục Nhật Bản hóa: tuyệt đại bộ phận giáo viên là người Nhật Bản, dùng tiếng Nhật giảng dạy, các trường trung tiểu học mỗi ngày phải bái vọng Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản, học sinh phải đọc thuộc lòng bằng tiếng Nhật "Quốc dân huấn".
Số học sinh tại các trường Cơ Đốc giáo vào những năm trước Dân Quốc là bao nhiêu?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "ba trăm nghìn" ], "answer_start": [ 672 ] }
0104-0046-0007
uit_019482
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1912, Chính phủ Bắc Dương công bố "Học chế Nhâm Tý-Quý Sửu", phân thành ba giai đoạn là giáo dục sơ đẳng (7 năm), giáo dục trung đẳng (4 năm) và giáo dục cao đẳng (đại học là 6-7 năm, giáo dục chuyên môn là 4 năm). Tháng 11 năm 1922, Chính phủ Bắc Dương ban hành "Học chế Nhâm Tuất", đánh dấu xác lập thể chế giáo dục hiện đại tại Trung Quốc. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, chính phủ mô phỏng chế độ giáo dục của Nhật Bản, thiết lập lượng lớn trường chuyên môn và đại học đơn khoa. Sau khi Chính phủ Quốc dân Bắc phạt, chế độ giáo dục của Hoa Kỳ trở thành chủ lưu. Những năm đầu Dân Quốc, số trường Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc đạt đến sáu nghìn, số học sinh theo học đạt ba trăm nghìn. Về sau này, do chủ nghĩa dân tộc dâng cao, Trung Quốc nổ ra phong trào ngăn chặn các trường Cơ Đốc giáo, sau khi Chính phủ Quốc dân thành lập, các trường Cơ Đốc giáo phải đăng ký với Bộ Giáo dục, không được ép buộc học chương trình tôn giáo, hay cưỡng chế tín ngưỡng và lễ bái tôn giáo. Đến thời kỳ năm 1948, ngoại trừ Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, các tỉnh thành khác đều có một đại học tổng hợp quốc lập. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, khu vực Đông Bắc thực thi giáo dục Nhật Bản hóa: tuyệt đại bộ phận giáo viên là người Nhật Bản, dùng tiếng Nhật giảng dạy, các trường trung tiểu học mỗi ngày phải bái vọng Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản, học sinh phải đọc thuộc lòng bằng tiếng Nhật "Quốc dân huấn".
: Những nơi nào đến thời kỳ năm 1948 vẫn không có trường học tổng hợp quốc lập?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương" ], "answer_start": [ 1006 ] }
0104-0046-0008
uit_019483
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1912, Chính phủ Bắc Dương công bố "Học chế Nhâm Tý-Quý Sửu", phân thành ba giai đoạn là giáo dục sơ đẳng (7 năm), giáo dục trung đẳng (4 năm) và giáo dục cao đẳng (đại học là 6-7 năm, giáo dục chuyên môn là 4 năm). Tháng 11 năm 1922, Chính phủ Bắc Dương ban hành "Học chế Nhâm Tuất", đánh dấu xác lập thể chế giáo dục hiện đại tại Trung Quốc. Thời kỳ Chính phủ Bắc Dương, chính phủ mô phỏng chế độ giáo dục của Nhật Bản, thiết lập lượng lớn trường chuyên môn và đại học đơn khoa. Sau khi Chính phủ Quốc dân Bắc phạt, chế độ giáo dục của Hoa Kỳ trở thành chủ lưu. Những năm đầu Dân Quốc, số trường Cơ Đốc giáo tại Trung Quốc đạt đến sáu nghìn, số học sinh theo học đạt ba trăm nghìn. Về sau này, do chủ nghĩa dân tộc dâng cao, Trung Quốc nổ ra phong trào ngăn chặn các trường Cơ Đốc giáo, sau khi Chính phủ Quốc dân thành lập, các trường Cơ Đốc giáo phải đăng ký với Bộ Giáo dục, không được ép buộc học chương trình tôn giáo, hay cưỡng chế tín ngưỡng và lễ bái tôn giáo. Đến thời kỳ năm 1948, ngoại trừ Nội-Ngoại Mông Cổ, Hắc Long Giang, Ninh Hạ, Hà Bắc, Thanh Hải, Tây Tạng, Tân Cương, các tỉnh thành khác đều có một đại học tổng hợp quốc lập. Sau sự kiện 18 tháng 9 năm 1931, khu vực Đông Bắc thực thi giáo dục Nhật Bản hóa: tuyệt đại bộ phận giáo viên là người Nhật Bản, dùng tiếng Nhật giảng dạy, các trường trung tiểu học mỗi ngày phải bái vọng Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản, học sinh phải đọc thuộc lòng bằng tiếng Nhật "Quốc dân huấn".
Ai là những người mà mỗi ngày các học sinh tại Trung Quốc phải bái vọng?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Hoàng đế Mãn Châu Quốc và Thiên hoàng Nhật Bản" ], "answer_start": [ 1353 ] }
0104-0047-0001
uit_019484
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Điều gì đã được công bố bởi Bộ Giáo dục vào năm 1918?
{ "text": [ "một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái" ], "answer_start": [ 30 ] }
false
null
0104-0047-0002
uit_019485
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Phương án mà Bộ giáo dục công bố năm 1918 được duy trì đến khi phương án nào xuất hiện?
{ "text": [ "phương án bính âm tiếng Hán" ], "answer_start": [ 213 ] }
false
null
0104-0047-0003
uit_019486
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Bộ Giáo đã công bố điều gì vào năm 1928?
{ "text": [ "phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ" ], "answer_start": [ 281 ] }
false
null
0104-0047-0004
uit_019487
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Phương án bính âm mà Bộ Giáo dục công bố năm 1928 có đặc điểm gì?
{ "text": [ "dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu" ], "answer_start": [ 351 ] }
false
null
0104-0047-0005
uit_019488
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Chữ giản thể bị tạm hoãn thi hành là do mệnh lệnh từ cơ quan nào?
{ "text": [ "Hành chính viện" ], "answer_start": [ 638 ] }
false
null
0104-0047-0006
uit_019489
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Phương án mà Bộ giáo dục công bố trước năm 1918 được duy trì đến khi phương án nào xuất hiện?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "phương án bính âm tiếng Hán" ], "answer_start": [ 213 ] }
0104-0047-0007
uit_019490
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Bộ Giáo đã công bố điều gì vào năm 1918?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ" ], "answer_start": [ 281 ] }
0104-0047-0008
uit_019491
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Phương án bính âm mà Bộ Giáo dục lên kế hoạch năm 1928 có đặc điểm gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu" ], "answer_start": [ 351 ] }
0104-0047-0009
uit_019492
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Năm 1918, Bộ Giáo dục công bố một phương án chữ cái chú âm tiếng Hán gồm 37 chữ cái, dù đây không phải là một phương án latinh hóa trực tiếp, song phương pháp dùng dấu hiệu để biểu thị thanh điệu được duy trì đến phương án bính âm tiếng Hán hiện nay. Năm 1928, Bộ Giáo dục công bố phương án bính âm latinh hóa thứ nhất-chữ La Mã Quốc ngữ, đặc điểm là dùng chữ cái để biểu thị thanh điệu。Năm 1935, Bộ Giáo dục công bố "bảng chữ giản thể phê chuẩn lần thứ nhất", tổng cộng có 324 chữ. Tuy nhiên, lần giản hóa này gây ra náo động lớn, Viện trưởng Khảo thí viện Đới Quý Đào đặc biệt phản đối. Tháng 2 năm 1936, Bộ Giáo dục theo mệnh lệnh của Hành chính viện, ra lệnh tạm hoãn thi hành phương án chữ giản thể
Chữ giản thể duy trì thi hành là do mệnh lệnh từ cơ quan nào?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Hành chính viện" ], "answer_start": [ 638 ] }
0104-0048-0001
uit_019493
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau Cách mạng Tân Hợi, với việc chế độ chuyên chế sụp đổ, báo chí tư nhân tại Trung Quốc bước vào một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Năm 1913, toàn quốc có hơn 500 tờ báo, mức độ tự do ngôn luận tương đối phát triển. Sau khi Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913, do giới tin tức tường thuật sâu sắc khiến Chính phủ Bắc Dương rất bất mãn. Do đó, Viên Thế Khải tiến hành cấm chỉ và chỉnh đốn ngành báo toàn quốc, khiến lượng lớn ký giả gặp họa, ngành báo tiêu điều, sự kiện được gọi là "Quý Sửu báo tai". Trước khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng phát vào năm 1941, lần lượt phát hành tại Trùng Khánh hơn 200 báo dân doanh, thông tấn xã, trừ "Tân Hoa nhật báo" và "Tạp chí Quần chúng" của Đảng Cộng sản, còn có "Quốc dân công báo", "Thời sự tân báo", Tây Nam nhật báo" cùng vô số báo chí, không chỉ được tự do trong các vấn đề kinh tế và dân sinh, mà trong vấn đề chính trị cũng không chịu hạn chế. Thậm chí đến sau khi nội chiến bùng phát vào nửa cuối năm 1946, do trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán nên Chính phủ Quốc dân vẫn cho phép "Tân Hoa nhật báo" phát hành tại khu vực họ kiểm soát.
Số lượng tờ báo tại Trung Quốc vào năm 1913 là bao nhiêu?
{ "text": [ "hơn 500 tờ báo" ], "answer_start": [ 157 ] }
false
null
0104-0048-0002
uit_019494
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau Cách mạng Tân Hợi, với việc chế độ chuyên chế sụp đổ, báo chí tư nhân tại Trung Quốc bước vào một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Năm 1913, toàn quốc có hơn 500 tờ báo, mức độ tự do ngôn luận tương đối phát triển. Sau khi Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913, do giới tin tức tường thuật sâu sắc khiến Chính phủ Bắc Dương rất bất mãn. Do đó, Viên Thế Khải tiến hành cấm chỉ và chỉnh đốn ngành báo toàn quốc, khiến lượng lớn ký giả gặp họa, ngành báo tiêu điều, sự kiện được gọi là "Quý Sửu báo tai". Trước khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng phát vào năm 1941, lần lượt phát hành tại Trùng Khánh hơn 200 báo dân doanh, thông tấn xã, trừ "Tân Hoa nhật báo" và "Tạp chí Quần chúng" của Đảng Cộng sản, còn có "Quốc dân công báo", "Thời sự tân báo", Tây Nam nhật báo" cùng vô số báo chí, không chỉ được tự do trong các vấn đề kinh tế và dân sinh, mà trong vấn đề chính trị cũng không chịu hạn chế. Thậm chí đến sau khi nội chiến bùng phát vào nửa cuối năm 1946, do trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán nên Chính phủ Quốc dân vẫn cho phép "Tân Hoa nhật báo" phát hành tại khu vực họ kiểm soát.
Sau sự kiện nào thì sự tiêu điều ập đến ngành báo tại Trung Quốc?
{ "text": [ "Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913" ], "answer_start": [ 226 ] }
false
null
0104-0048-0003
uit_019495
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau Cách mạng Tân Hợi, với việc chế độ chuyên chế sụp đổ, báo chí tư nhân tại Trung Quốc bước vào một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Năm 1913, toàn quốc có hơn 500 tờ báo, mức độ tự do ngôn luận tương đối phát triển. Sau khi Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913, do giới tin tức tường thuật sâu sắc khiến Chính phủ Bắc Dương rất bất mãn. Do đó, Viên Thế Khải tiến hành cấm chỉ và chỉnh đốn ngành báo toàn quốc, khiến lượng lớn ký giả gặp họa, ngành báo tiêu điều, sự kiện được gọi là "Quý Sửu báo tai". Trước khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng phát vào năm 1941, lần lượt phát hành tại Trùng Khánh hơn 200 báo dân doanh, thông tấn xã, trừ "Tân Hoa nhật báo" và "Tạp chí Quần chúng" của Đảng Cộng sản, còn có "Quốc dân công báo", "Thời sự tân báo", Tây Nam nhật báo" cùng vô số báo chí, không chỉ được tự do trong các vấn đề kinh tế và dân sinh, mà trong vấn đề chính trị cũng không chịu hạn chế. Thậm chí đến sau khi nội chiến bùng phát vào nửa cuối năm 1946, do trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán nên Chính phủ Quốc dân vẫn cho phép "Tân Hoa nhật báo" phát hành tại khu vực họ kiểm soát.
Sự kiện mà ngành báo tịa Trung Quốc tiêu điều và nhiều nhà báo gặp họa được gọi là gì?
{ "text": [ "Quý Sửu báo tai" ], "answer_start": [ 488 ] }
false
null
0104-0048-0004
uit_019496
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau Cách mạng Tân Hợi, với việc chế độ chuyên chế sụp đổ, báo chí tư nhân tại Trung Quốc bước vào một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Năm 1913, toàn quốc có hơn 500 tờ báo, mức độ tự do ngôn luận tương đối phát triển. Sau khi Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913, do giới tin tức tường thuật sâu sắc khiến Chính phủ Bắc Dương rất bất mãn. Do đó, Viên Thế Khải tiến hành cấm chỉ và chỉnh đốn ngành báo toàn quốc, khiến lượng lớn ký giả gặp họa, ngành báo tiêu điều, sự kiện được gọi là "Quý Sửu báo tai". Trước khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng phát vào năm 1941, lần lượt phát hành tại Trùng Khánh hơn 200 báo dân doanh, thông tấn xã, trừ "Tân Hoa nhật báo" và "Tạp chí Quần chúng" của Đảng Cộng sản, còn có "Quốc dân công báo", "Thời sự tân báo", Tây Nam nhật báo" cùng vô số báo chí, không chỉ được tự do trong các vấn đề kinh tế và dân sinh, mà trong vấn đề chính trị cũng không chịu hạn chế. Thậm chí đến sau khi nội chiến bùng phát vào nửa cuối năm 1946, do trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán nên Chính phủ Quốc dân vẫn cho phép "Tân Hoa nhật báo" phát hành tại khu vực họ kiểm soát.
Đảng Cộng Sản có những tờ báo nào?
{ "text": [ "Tân Hoa nhật báo\" và \"Tạp chí Quần chúng" ], "answer_start": [ 645 ] }
false
null
0104-0048-0005
uit_019497
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau Cách mạng Tân Hợi, với việc chế độ chuyên chế sụp đổ, báo chí tư nhân tại Trung Quốc bước vào một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Năm 1913, toàn quốc có hơn 500 tờ báo, mức độ tự do ngôn luận tương đối phát triển. Sau khi Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913, do giới tin tức tường thuật sâu sắc khiến Chính phủ Bắc Dương rất bất mãn. Do đó, Viên Thế Khải tiến hành cấm chỉ và chỉnh đốn ngành báo toàn quốc, khiến lượng lớn ký giả gặp họa, ngành báo tiêu điều, sự kiện được gọi là "Quý Sửu báo tai". Trước khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng phát vào năm 1941, lần lượt phát hành tại Trùng Khánh hơn 200 báo dân doanh, thông tấn xã, trừ "Tân Hoa nhật báo" và "Tạp chí Quần chúng" của Đảng Cộng sản, còn có "Quốc dân công báo", "Thời sự tân báo", Tây Nam nhật báo" cùng vô số báo chí, không chỉ được tự do trong các vấn đề kinh tế và dân sinh, mà trong vấn đề chính trị cũng không chịu hạn chế. Thậm chí đến sau khi nội chiến bùng phát vào nửa cuối năm 1946, do trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán nên Chính phủ Quốc dân vẫn cho phép "Tân Hoa nhật báo" phát hành tại khu vực họ kiểm soát.
Lý do mà Tân Hoa nhật báo vẫn được phát hành tại những khu vực họ kiểm soát đến nửa cuối năm 1946 là gì?
{ "text": [ "trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán" ], "answer_start": [ 968 ] }
false
null
0104-0048-0006
uit_019498
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau Cách mạng Tân Hợi, với việc chế độ chuyên chế sụp đổ, báo chí tư nhân tại Trung Quốc bước vào một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Năm 1913, toàn quốc có hơn 500 tờ báo, mức độ tự do ngôn luận tương đối phát triển. Sau khi Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913, do giới tin tức tường thuật sâu sắc khiến Chính phủ Bắc Dương rất bất mãn. Do đó, Viên Thế Khải tiến hành cấm chỉ và chỉnh đốn ngành báo toàn quốc, khiến lượng lớn ký giả gặp họa, ngành báo tiêu điều, sự kiện được gọi là "Quý Sửu báo tai". Trước khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng phát vào năm 1941, lần lượt phát hành tại Trùng Khánh hơn 200 báo dân doanh, thông tấn xã, trừ "Tân Hoa nhật báo" và "Tạp chí Quần chúng" của Đảng Cộng sản, còn có "Quốc dân công báo", "Thời sự tân báo", Tây Nam nhật báo" cùng vô số báo chí, không chỉ được tự do trong các vấn đề kinh tế và dân sinh, mà trong vấn đề chính trị cũng không chịu hạn chế. Thậm chí đến sau khi nội chiến bùng phát vào nửa cuối năm 1946, do trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán nên Chính phủ Quốc dân vẫn cho phép "Tân Hoa nhật báo" phát hành tại khu vực họ kiểm soát.
Sự kiện mà ngành báo tịa Cách mạng tiêu điều và nhiều nhà báo gặp họa được gọi là gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "Quý Sửu báo tai" ], "answer_start": [ 488 ] }
0104-0048-0007
uit_019499
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Sau Cách mạng Tân Hợi, với việc chế độ chuyên chế sụp đổ, báo chí tư nhân tại Trung Quốc bước vào một thời kỳ phát triển thịnh vượng. Năm 1913, toàn quốc có hơn 500 tờ báo, mức độ tự do ngôn luận tương đối phát triển. Sau khi Tống Giáo Nhân bị sát hại vào năm 1913, do giới tin tức tường thuật sâu sắc khiến Chính phủ Bắc Dương rất bất mãn. Do đó, Viên Thế Khải tiến hành cấm chỉ và chỉnh đốn ngành báo toàn quốc, khiến lượng lớn ký giả gặp họa, ngành báo tiêu điều, sự kiện được gọi là "Quý Sửu báo tai". Trước khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng phát vào năm 1941, lần lượt phát hành tại Trùng Khánh hơn 200 báo dân doanh, thông tấn xã, trừ "Tân Hoa nhật báo" và "Tạp chí Quần chúng" của Đảng Cộng sản, còn có "Quốc dân công báo", "Thời sự tân báo", Tây Nam nhật báo" cùng vô số báo chí, không chỉ được tự do trong các vấn đề kinh tế và dân sinh, mà trong vấn đề chính trị cũng không chịu hạn chế. Thậm chí đến sau khi nội chiến bùng phát vào nửa cuối năm 1946, do trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán nên Chính phủ Quốc dân vẫn cho phép "Tân Hoa nhật báo" phát hành tại khu vực họ kiểm soát.
Lý do mà Tân Hoa nhật báo vẫn được phát hành tại những khu vực họ hợp tác phát triển đến nửa cuối năm 1946 là gì?
{ "text": [], "answer_start": [] }
true
{ "text": [ "trên danh nghĩa đang tiến hành đàm phán" ], "answer_start": [ 968 ] }
0104-0049-0001
uit_019500
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Phong trào xã hội trong lịch sử cận đại Trung Quốc phần nhiều bắt nguồn từ tình cảm chủ nghĩa dân tộc. Phong trào chính trị trọng yếu thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc tại Đại lục là Phong trào Ngũ Tứ năm 1919 do thanh niên học sinh làm chủ nhằm kháng nghị Chính phủ Bắc Dương yếu kém về ngoại giao, một trong những khẩu hiệu nổi danh nhất là "ngoại tranh quốc quyền, nội trừng quốc tặc". Ngày 30 tháng 5 năm 1925, tại các nơi như Thanh Đảo, Thượng Hải bùng phát Phong trào Ngũ Tạp kháng nghị xưởng bông sợi Nhật Bản sa thải và hành hung phi pháp công nhân, có 13 người tử vong do bị trấn áp. Ngày 18 tháng 3 năm 1926, Quốc Dân đảng và Cộng sản đảng cùng phát động phong trào phản đế tại Bắc Kinh, yêu cầu phế trừ tất cả điều ước bất bình đẳng, bị Chính phủ Bắc Dương trấn áp bằng vũ lực.:370 Ngày 9 tháng 12 năm 1935, Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua "Bắc Bình học liên" phát động Phong trào 9 tháng 12, yêu cầu "đình chỉ nội chiến, nhất trí kháng Nhật" Tháng 2 năm 1946, học sinh Trung Quốc kháng nghị Liên Xô xâm phạm chủ quyền Trung Quốc, gọi là Phong trào phản Xô. Các phong trào cải cách trong thời kỳ này có phong trào cải tạo hí kịch Trung Quốc năm 1926 do phần tử tri thức phát động, yêu cầu phát triển hí kịch mang đặc sắc dân tộc Trung Quốc. Từ năm 1934 đến năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát động phong trào giáo dục công dân, đề xướng kỷ luật, phẩm đức, trật tự, ngăn nắp.
Mục đích của phong trào trọng yếu thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc tại Đại Lục là gì?
{ "text": [ "kháng nghị Chính phủ Bắc Dương yếu kém về ngoại giao" ], "answer_start": [ 239 ] }
false
null
0104-0049-0002
uit_019501
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Phong trào xã hội trong lịch sử cận đại Trung Quốc phần nhiều bắt nguồn từ tình cảm chủ nghĩa dân tộc. Phong trào chính trị trọng yếu thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc tại Đại lục là Phong trào Ngũ Tứ năm 1919 do thanh niên học sinh làm chủ nhằm kháng nghị Chính phủ Bắc Dương yếu kém về ngoại giao, một trong những khẩu hiệu nổi danh nhất là "ngoại tranh quốc quyền, nội trừng quốc tặc". Ngày 30 tháng 5 năm 1925, tại các nơi như Thanh Đảo, Thượng Hải bùng phát Phong trào Ngũ Tạp kháng nghị xưởng bông sợi Nhật Bản sa thải và hành hung phi pháp công nhân, có 13 người tử vong do bị trấn áp. Ngày 18 tháng 3 năm 1926, Quốc Dân đảng và Cộng sản đảng cùng phát động phong trào phản đế tại Bắc Kinh, yêu cầu phế trừ tất cả điều ước bất bình đẳng, bị Chính phủ Bắc Dương trấn áp bằng vũ lực.:370 Ngày 9 tháng 12 năm 1935, Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua "Bắc Bình học liên" phát động Phong trào 9 tháng 12, yêu cầu "đình chỉ nội chiến, nhất trí kháng Nhật" Tháng 2 năm 1946, học sinh Trung Quốc kháng nghị Liên Xô xâm phạm chủ quyền Trung Quốc, gọi là Phong trào phản Xô. Các phong trào cải cách trong thời kỳ này có phong trào cải tạo hí kịch Trung Quốc năm 1926 do phần tử tri thức phát động, yêu cầu phát triển hí kịch mang đặc sắc dân tộc Trung Quốc. Từ năm 1934 đến năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát động phong trào giáo dục công dân, đề xướng kỷ luật, phẩm đức, trật tự, ngăn nắp.
Khẩu hiểu nổi danh nhất trong Phong trào Ngũ Tứ là gì?
{ "text": [ "ngoại tranh quốc quyền, nội trừng quốc tặc" ], "answer_start": [ 337 ] }
false
null
0104-0049-0003
uit_019502
Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)
Phong trào xã hội trong lịch sử cận đại Trung Quốc phần nhiều bắt nguồn từ tình cảm chủ nghĩa dân tộc. Phong trào chính trị trọng yếu thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc tại Đại lục là Phong trào Ngũ Tứ năm 1919 do thanh niên học sinh làm chủ nhằm kháng nghị Chính phủ Bắc Dương yếu kém về ngoại giao, một trong những khẩu hiệu nổi danh nhất là "ngoại tranh quốc quyền, nội trừng quốc tặc". Ngày 30 tháng 5 năm 1925, tại các nơi như Thanh Đảo, Thượng Hải bùng phát Phong trào Ngũ Tạp kháng nghị xưởng bông sợi Nhật Bản sa thải và hành hung phi pháp công nhân, có 13 người tử vong do bị trấn áp. Ngày 18 tháng 3 năm 1926, Quốc Dân đảng và Cộng sản đảng cùng phát động phong trào phản đế tại Bắc Kinh, yêu cầu phế trừ tất cả điều ước bất bình đẳng, bị Chính phủ Bắc Dương trấn áp bằng vũ lực.:370 Ngày 9 tháng 12 năm 1935, Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua "Bắc Bình học liên" phát động Phong trào 9 tháng 12, yêu cầu "đình chỉ nội chiến, nhất trí kháng Nhật" Tháng 2 năm 1946, học sinh Trung Quốc kháng nghị Liên Xô xâm phạm chủ quyền Trung Quốc, gọi là Phong trào phản Xô. Các phong trào cải cách trong thời kỳ này có phong trào cải tạo hí kịch Trung Quốc năm 1926 do phần tử tri thức phát động, yêu cầu phát triển hí kịch mang đặc sắc dân tộc Trung Quốc. Từ năm 1934 đến năm 1949 Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc phát động phong trào giáo dục công dân, đề xướng kỷ luật, phẩm đức, trật tự, ngăn nắp.
Số người đã chết trong ngày 30 tháng 5 năm 1925 do sự bùng phát của Phong trào Ngũ Tứ là bao nhiêu?
{ "text": [ "13 người" ], "answer_start": [ 554 ] }
false
null