text
stringlengths 0
308k
| title
stringlengths 0
51.1k
⌀ | categories
stringlengths 0
57.3k
|
---|---|---|
Giải SDFCS cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất là một trong các giải của SDFCS dành cho nam diễn viên đóng vai chính trong một phim, được bầu chọn là xuất sắc nhất. Giải này được lập từ năm 1996. Năm Diễn viên Phim Vai diễn 1996 Kenneth Branagh Hamlet Hamlet 1997 Jack Nicholson As Good as It Gets Melvin Udall 1998 Ian McKellen Gods and Monsters James Whale 1999 Kevin Spacey American Beauty Lester Burnham Năm Diễn viên Phim Vai diễn 2000 Russell Crowe Gladiator Maximus Decimus Meridius 2001 Guy Pearce Memento Leonard 2002 Daniel Day-Lewis Gangs of New York William "Bill" Cutting 2003 Chiwetel Ejiofor Dirty Pretty Things Okwe 2004 Jim Carrey Eternal Sunshine of the Spotless Mind Joel Barish 2005 Philip Seymour Hoffman Capote Truman Capote 2006 Ken Takakura Riding Alone for Thousands of Miles (Qian li zou dan qi) Gou-ichi Takata 2007 Daniel Day-Lewis There Will Be Blood Daniel Plainview 2008 Mickey Rourke The Wrestler Randy Robinson | Giải SDFCS cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất | Giải thưởng SDFCS |
007: Quantum of Solace là một game thuộc thể loại bắn súng góc nhìn thứ nhất năm 2008 (bắn súng góc nhìn thứ ba dành cho hệ máy Nintendo DS và PlayStation 2) dựa trên các phim Casino Royale và Quantum of Solace. Game do Treyarch phát triển dành cho PlayStation 3, Xbox 360, Wii và PC (chuyển đổi sang hệ máy khác do Beenox đảm nhận), Eurocom dành cho PlayStation và Vicarious Visions dành cho Nintendo DS, đây là tựa game James Bond đầu tiên được phát hành bởi hãng Activision, vừa giành được giấy phép bản quyền James Bond từ EA vào năm 2006. Đây cũng là tựa game đầu tiên sở hữu giọng nói và diện mạo của Daniel Craig, cũng như của dàn diễn viên khác từng đóng James Bond như Judi Dench, Eva Green, Mads Mikkelsen, Jesper Christensen, Olga Kurylenko và Mathieu Amalric. Game được phát hành vào ngày 31 tháng 10 năm 2008 tại Châu Âu, ngày tháng 11 năm 2008 tại Bắc Mỹ và ngày 19 tháng 11 năm 2008 tại Úc. Game nhận được nhiều đánh giá trái chiều từ giới phê bình, với phiên bản PlayStation nhận được những đánh giá tốt nhất. Game khởi đầu từ việc James Bond bắt cóc Mr. White, một thành viên của tổ chức tội phạm-khủng bố chưa từng được biết đến trước đó mang tên Quantum. Trong lúc anh ta và thẩm vấn White, họ bị tên đặc vụ MI6 phản bội tên là Henry Mitchell lao vào tấn công, Bond giết được hắn trong lúc White nhân cơ hội trốn ra ngoài. Về sau, Bond theo dõi cuộc họp của các thành viên Quantum và chụp ảnh chúng; trong số đó có Dominic Greene, một nhà hoạt động môi trường nổi tiếng. Game chuyển sang cảnh Bond đáp xuống Bolivia, là nơi mà Greene đang cố bỏ tiền ra mua đất đai. Lúc này, Bond được gặp Camille Montes vốn định trả thù Tướng Medrano, kẻ đang cố gắng lật đổ chính phủ Bolivia. Bond phát hiện Medrano đã giết cả gia đình của Camille, và đây là lý do tại sao cô ấy muốn trả thù. Bond mở lời với Camille về cái chết của tình nhân cũ Vesper Lynd, kể lại các sự kiện của Casino Royale. Người chơi bám theo cốt truyện của Casino Royale, từ việc Bond đuổi theo Mollaka qua Madagascar, Bond thâm nhập vào Trung tâm Khoa học hạ thủ Dimitrios, cứu giúp Skyfleet khỏi tay Carlos, giết Bliss trên đường đến Montenegro, gặp Vesper, cứu giúp Le Chiffre khỏi tay Steven Obanno và người của hắn ta, cứu giúp Vesper khỏi tay Le Chiffre, và cuối cùng đối đầu với Vesper và Gettler Venice, nơi khiến Vesper bỏ mạng, lúc này game đưa người chơi quay trở lại khung cảnh hiện tại. Bond và Camille sớm đặt chân đến một khách sạn nằm giữa sa mạc Bolivia. đó, Greene và Medrano đang thảo luận về mảnh đất mà Greene muốn mua; Greene sẽ tài trợ cho nỗ lực lật đổ chính phủ của Medrano để đổi lấy mảnh đất mà anh ta muốn. Bond và Camille chia tay cuộc gặp mặt; Camille sau đó giết Medrano trong khi Bond hạ sát Greene. Trong cuộc chiến, các thùng nhiên liệu của khách sạn bị đốt cháy; Bond và Camille trốn thoát khỏi khách sạn trước khi nó phát nổ. Họ rời khỏi khu vực này bằng một chiếc trực thăng MI6. Trong cảnh phim kết thúc, để lộ ra rằng Mr. White và Guy Haines đang rà soát những bản báo cáo nhiệm vụ của MI6 và cập nhật về các nhiệm vụ của 007. Game kết thúc với cảnh phim Bond đứng bên ngoài ngôi nhà nói với rằng anh ta định ra đi. Phiên bản thế hệ thứ bảy của trò chơi thuộc thể loại bắn súng góc nhìn người thứ nhất, tương tự như các game khác như Call of Duty (cũng do Treyarch phát triển), nhưng trò chơi lại chuyển sang góc nhìn người thứ ba khi ẩn nấp, cũng như có thêm cơ chế gục ngã và các sự kiện thời gian trôi qua nhanh chóng. Phiên bản Wii của game có các tính năng điều khiển phù hợp với phần điều khiển từ xa Wii Remote và tính năng chia đôi màn hình ngoại tuyến nhiều người chơi với tối đa người chơi, điều mà các phiên bản khác thiếu. Phiên bản PlayStation của trò chơi, do Eurocom phát triển, là một game bắn súng góc nhìn người thứ ba qua vai, giống hệt như tựa game Bond trước đây mang tên 007: Everything or Nothing. Phiên bản này không bao gồm những màn chơi lấy bối cảnh tại sân bay Miami, trên tàu và Venice, nhưng nó bổ sung thêm một màn chơi mới lấy bối cảnh tại các bến tàu và tất cả các màn đều có thiết kế cấp độ trong game hơi khác so với phiên bản thế hệ thứ bảy. Phiên bản này cũng không có phần chơi mạng, cả trực tuyến và ngoại tuyến. Phiên bản DS của trò chơi được thiết kế khác với các phiên bản console của tựa game này. Người chơi DS theo hướng ngang và góc nhìn người thứ ba. Các chuyển động của Bond được điều khiển bằng cách kéo bút stylus xung quanh màn hình cảm ứng. Các hành động (chẳng hạn như bắn vũ khí) được thực hiện bằng cách nhấn các biểu tượng trên màn hình cảm ứng, trong khi các nút của DS được chuyển xuống chủ yếu bắt đầu cận chiến bằng tay. Có tổng cộng loại vũ khí trong phiên bản này. Cốt truyện trong phiên bản DS cũng hơi khác một chút. Nhân vật Camille bị cắt bỏ hoàn toàn, màn chơi mở đầu tại White's Estate được thay thế bằng màn mô phỏng đào tạo tại Trụ sở MI6 và, sau khi chiến đấu với các băng đảng đường phố Bolivia, màn chơi cuối cùng và màn đấu trùm chống lại Greene và Mr. White đều diễn ra tại địa điểm mang tên Guy Haines' Mansion. Giống như phiên bản PS2, phiên bản DS không có phần chơi mạng. Khi chơi trong phần chơi mạng, các khoản tiền được nhận dựa trên số điểm mà người chơi có được. Chúng được sử dụng dưới dạng tiền tệ dùng để mua sắm những cải tiến và nâng cấp hơn nữa. Chúng có thể được chi tiêu để mở khóa vũ khí mới, chất nổ, tiện ích (chẳng hạn như tăng sinh mạng hoặc độ chính xác của vũ khí tốt hơn) và các phụ kiện đính kèm dành cho vũ khí của người chơi. Các loại nâng cấp có thể được tích lũy theo bất kỳ thứ tự nào, thay vì theo thứ tự đã định và người chơi được phép xếp chồng lên nhau. Âm nhạc dành cho game do nhà soạn nhạc Christopher Lennertz thực hiện, người đã thu âm phần dây đàn cho bản nhạc của mình nước ngoài, nhưng sau thu âm cả phần kèn đồng, bộ gõ và guitar với các thành viên của dàn hợp xướng Hollywood Studio Symphony Los Angeles ngay tại hãng Capitol Records Studios. Game có một bài hát chủ đề khác với bài hát của bộ phim, "When Nobody Loves You" (Richard Fortus và Kerli viết lời nhạc; Fortus, Kerli và David Maurice trình diễn; David Maurice phụ trách khâu sản xuất và dàn dựng). Bài hát này được phát trên một đoạn phim mở đầu theo đúng truyền thống Bond, vốn độc quyền của trò chơi nhưng dựa trên cảnh rượt đuổi bằng tô (pre-credit) trong phim. 007: Quantum of Solace nhận được nhiều kiến trái chiều. Trang web tổng hợp kết quả đánh giá GameRankings và Metacritic chấm cho phiên bản PlayStation là 76.50% và 73/100 điểm, phiên bản Xbox 360 là 68.73% và 65/100 điểm, phiên bản PC là 68.50% và 70/100 điểm, phiên bản PlayStation là 67.17% và 65/100 điểm, phiên bản Nintendo DS là 63.00% và 65/100 điểm phiên bản Wii là 54.55% và 54/100 điểm. 007: Quantum of Solace tại MobyGames | ''007: Quantum of Solace | Casino Royale (phim 2006), Quantum of Solace, Bắn súng góc nhìn người thứ nhất |
Aspidium orosiense là một loài dương xỉ trong họ Tectariaceae. Loài này được C.Chr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1913. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Aspidium orosiense | Aspidium, Unresolved names |
Cuenca Cuenca (thành phố) là một đô thị trong tỉnh Cuenca, cộng đồng tự trị Castile-La Mancha Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích là 911,06 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2009 là người với mật độ người/km². Cuenca là tỉnh lỵ của tỉnh Cuenca. Thành lịch sử Cuenca là một di sản thế giới UNESCO, được đưa vào danh sách tại kỳ họp thứ 20, năm 1996. Trung bình Tháng Trung bình Th. 01 Th. 02 Th. 03 Th. 04 Th. 05 Th. 06 Th. 07 Th. 08 Th. 09 Th. 10 Th. 11 Th. 12 Độ cao nhất 18.8 9.4 11.1 14.2 15.7 20.1 25.9 30.7 30.3 25.5 16.6 13.1 10 Độ thấp nhất 6.3 -0.7 0.3 1.7 4.9 7.6 11.7 14.7 14.8 11.3 6.8 2.7 0.7 Lượng mưa ml year: 507 45 41 32 56 60 44 15 17 47 53 49 58 Nguồn: AEMET Cuenca là thành phố kết nghĩa với: Cuenca (Ecuador), Ecuador L'Aquila, Paju, Hàn Quốc Ronda, Tây Ban Nha Plasencia, Tây Ban Nha Cuenca1 cảnh thành phố Cuenca. File:Catedral Cuenca.jpg|Toàn cảnh nhà thờ Cuenca. File:Cuenca Colgadas (Các ngôi nhà treo). File:Cuenca Ermita de las nữ ẩn dật Anguishes File:Cuenca, iglesia de la Merced.jpg|Hội nghị Merced. File:Cuenca Convento de las nghị Carmelitas. File:Parador Nacional de Cuenca (portada) 065.jpg|Parador Nacional de Cuenca. File:Diputacion provincial de cuenca.jpg|Hội đồng thành phố Cuenca. alfonso viii.jpg|Đường Alfonso VIII. Cuenca5 Mayor. File:Cuenca Plaza mayor.JPG|Tòa nhà thị chính rio jucar 01.jpeg|Sông Júcar chảy qua Cuenca. puente san anton.jpg|Río Júcar nhìn từ cầu San Antón. Webcam in side street Cuenca Stroll Through La Mancha by The Guardian | Cuenca (thành phố) | Di sản thế giới tại Tây Ban Nha, Đô thị Cuenca |
Nastassja Kinski (sinh 24 tháng năm 1961) là một nữ diễn viên, quốc tịch Mỹ sinh ra Đức đã xuất hiện trong hơn 60 bộ phim. Cô nổi bật qua các phim Tess năm 1979 đề cử giải Oscar và cô giành giải César nữ diễn viên xuất sắc nhất,Paris, Texas năm 1984 giành giải tại Liên hoan phim Cannes, trong đó có Cành cọ vàng; phim Faraway, So Close! năm 1993 giành Giải thưởng lớn của ban giám khảo và đề cử Cành cọ vàng Liên hoan phim Cannes và giành Giải phim Đức cho phim hay nhất,... The Wrong Move (1975) To the Devil Daughter (1976) Tatort: Reifezeugnis (1977) Boarding School (1978) Passion Flower Hotel (1978) Così come sei (also known as Stay As You Are, 1978) Tess (1979) One from the Heart (1982) Cat People (1982) Exposed (1983) Moon in the Gutter (1983) Maria’s Lovers (1984) Paris, Texas (1984) The Hotel New Hampshire (1984) Unfaithfully Yours (1984) Harem (1985) Revolution (1985) Torrents of Spring (1989) The Sun Also Shines at Night (1990) The Secret (1990) Faraway, So Close! (1993) Terminal Velocity (1994) Crackerjack (1994) The Ring (1996) Fathers' Day (1997) One Night Stand (1997) Bella Mafia (1997) Little Boy Blue (1997) Savior (1998) Playing by Heart (1998) Your Friends Neighbors (1998) The Intruder (1999) The Claim (2000) The Magic of Marciano (2000) Time Share (2000) An American Rhapsody (2001) The Day the World Ended (2001) Town Country (2001) Blind Terror (TV 2001) Say Nothing (2001) Diary Of Sex Addict (2001) .com for Murder (2002) Paradise Found (2003) Les Liaisons dangereuses (TV miniseries 2003) À ton image (2004) Inland Empire (2006) | Nastassja Kinski | Nữ diễn viên thiếu nhi Đức, Sinh năm 1961, Nhân vật còn sống, Nữ diễn viên từ Berlin, Người ăn chay, Người Đức gốc Ba Lan |
Chai bia Huda. Bia Huda viết tắt của câu "Hãy uống đi anh". là một loại bia lager được sản xuất và đóng chai tại Huế bởi Hue Brewery Ltd. Bia đã giành được huy chương bạc tại Giải vô địch bia thế giới năm 2013. Huda có sẵn dưới dạng bia lon, đóng chai và bia tươi. Trụ sở chính của Công ty TNHH Nhà máy Bia Huế đặt tại đường Nguyễn Sinh Cung, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, bên dòng sông Hương. Công ty sở hữu thương hiệu được mua lại bởi Tập đoàn Carlsberg. Năm 2020, dòng bia Huda và Huda Ice Blast đã giành được hai Huy chương Vàng tại lễ trao giải Monde Selection. Trang web chính thức | Bia Huda | Bia Việt Nam, Nhãn hiệu Việt Nam, Nhãn hiệu bia |
Đậu lưỡi rồng là quả đậu non của đậu Pinto, đậu Cranberry thuộc loài đậu có vỏ Phaseolus vulgaris (shell bean). Đậu lưỡi rồng có hạt được bọc trong một vỏ da bóng (buffed) nhiều màu với các mẫu màu đỏ lốm đốm khắp bề mặt của vỏ. Những hạt có vỏ có màu xanh nhạt hồ trăn trong, kích thước nhỏ nhắn, và hình dạng có hình trứng và hơi cong. Đậu lưỡi rồng có thể được thu hoạch, hái và sử dụng để ăn cả vỏ và các hạt như một đậu non hoặc để phát triển tiếp thành đậu có vỏ để lấy hạt. | Đậu lưỡi rồng | Chi Đậu cô ve, Đậu ăn được, Quả đậu ăn được |
Arielle Dombasle (; sinh ngày 27 tháng 04 năm 1953) là một diễn viên, ca sĩ người Pháp. Năm Tên phim Vai diễn Ghi chú 1978 Perceval le Gallois Blanchefleur 1979 Tess Mercy Chant Je te tiens, tu me tiens par la barbichette Une actrice film publicitaire uncredited 1980 Justocoeur 1981 Putain d'histoire d'amour Antonella Les Fruits de la passion Nathalie érotique La Femme de l'aviateur Singer ("Paris ma séduit") Une robe noire pour un tueur La jeune droguée la moto 1982 Le Beau mariage Clarisse Ermine also Singer, Director, Writer, Composer Laissé inachevé Tokyo Sophie 1983 Sans soleil Herself Pauline la plage Marion La Belle captive La femme hystérique Rosette sort le soir Un été nommé désir Arielle 1984 Mode in France Herself Lace Maxine Pascal Rosette prend sa douche Penelope Last Los Motivos de Berta: Fantasía de Pubertad 1985 La Nuit La secrétaire Lace II Maxine Pascal 1986 The Boss' Wife Louise Roalvang Flagrant désir Marguerite Barnac 1987 Jeux d'artifices Arielle 1988 Les Pyramides bleues Elise Director, Writer 1989 El sueño del mono loco Marion Derain Try This One for Size Maggie 1991 Lola Zipper Loretta Mémoires 1992 La vie crevée Angèle Villa Mauresque Sandra Hors Saison Mme. Studer 1993 Grand bonheur L'actrice Miroslava Miroslava (adult) L'Arbre, le maire et la médiathèque Bérénice Beaurivage L'absence 1994 Un indien dans la ville Charlotte Fado majeur et mineur Leda 1995 Raging Angels Megan Un bruit qui rend fou (The Blue Villa) Sarah La Blonde À propos de Nice, la suite Celestial Clockwork Céleste also Singer, Soundtrack Fado majeur et mineur Leda Les Cent et une nuits La chanteuse la Garden-party 1996 Three Lives and Only One Death Helene Two Dads and One Mom Delphine Soyons amis! Arielle 1997 Jeunesse Clémence also Singer J'en suis! Rose Petipas Le Jour et la nuit Laure By her husband, Bernard-Henri Lévy 1998 L'ennui Sophie Hors jeu Arielle Dombasle Let There Be Light Dieu la blonde Bo Ba Bu 1999 Les Infortunes de la beauté Daphné C'est pas ma faute! Vanessa Goudard Le Temps retrouvé Madame de Farcy Astérix et Obélix contre César Mme Agecanonix Frau Methusalix 2000 30 Years Geneviève Amazon Margot Vatel Princess de Condé also Singer Le libertin La Marquise de Jerfeuil Les Eléphants de la planète Mars 2001 Les âmes fortes Madame Numance Gamer Valérie Fisher 2002 Deux Professor Barbez Hideous Man Crying woman 2003 Lovely Rita, sainte patronne des cas désespérés Mademoiselle Lecas 2004 Quand je serai star Diane de Montalte Genre humain première partie: Les parisiens, Le Sabine Duchemin Albert est méchant Barbara Lechat 2005 Le Courage d'aimer Sabine Duchemin 2006 Nouvelle chance Bettina C'est Gradiva qui vous appelle Léïla Gradia 2008 La Possibilité d'une île Déléguée Mexicaine aka Possibility of an Island Sagan Astrid 2009 King Shot in production Arielle Dombasle X Femmes, Season 1, Episode 1. Director and actress. Lelouch và Arielle Cantate 78 (1978) Je te salue mari (1980) Nada más (1988) single Amour symphonique (1990) Liberta (2000) Odysseus (2000) Où Tu Veux (2007) (2009) Hasta siempre (2010) Porque te vas'' (2011) Profile at Canal+ (French) | Arielle Dombasle | Sinh năm 1953, Nữ diễn viên điện ảnh Pháp, Nữ diễn viên truyền hình Pháp, Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ, Nữ ca sĩ Mỹ, Nhân vật còn sống, Người Mỹ gốc Pháp |
II liga (Druga Liga, là một giải đấu bóng đá Ba Lan. Đây là giải hạng ba của hệ thống giải đấu bóng đá Ba Lan. Kể từ mùa giải 2014/15, giải đấu bao gồm 18 đội. Hai đội đầu tiên giành chiến thắng sẽ được thăng hạng lên Liga. Các đội từ xếp hạng 15–18 tụt hạng xuống giải III Liga. Các đội sẽ thi đấu 34 hàng, mỗi hàng trận đấu (bao gồm 306 cuộc họp) chia làm hai vòng: mùa thu và mùa xuân. 18 câu lạc bộ sau đây thi đấu trong mùa giải liga II 2019. Câu lạc bộ Xếp hạng mùa giải 2019 Mùa giải đầu tiên tại II liga Błękitni Stargard 12 2013–14 Bytovia Bytów 16 (I liga, xuống hạng) 2019–20 Elana Toruń (I liga, xuống hạng) 2018–19 Garbarnia Kraków 18 (I liga, xuống hạng) 2019–20 GKS Katowice 17 2019–20 Górnik Łęczna 2018–19 Górnik Polkowice (III liga, thăng hạng) 2019–20 Gryf Wejherowo 14 2015–16 Lech II Poznań (III liga, thăng hạng) 2019–20 Legionovia Legionowo (III liga, thăng hạng) 2019–20 Olimpia Elbląg 13 2016–17 Pogoń Siedlce 2018–19 Resovia 10 2018–19 Skra Częstochowa 11 2018–19 Stal Rzeszów (III liga, bảng IV, thăng hạng) 2019–20 Stal Stalowa Wola 2010–11 Widzew Łódź 2018–19 Znicz Pruszków 2017–18 Lech II Poznan will play their home games in Stadion Amiki in Wronki. | II liga | Giải bóng đá hạng ba châu Âu |
Trao đổi oxy qua màng ngoài cơ thể Trao đổi oxy qua màng ngoài cơ thể hay ECMO hoặc (ECLS)) là một phương pháp hỗ trợ sự tuần hoàn và hô hấp khi tim hoặc phổi hay cả hai đều không thể hoạt động bình thường. Công nghệ này (ECMO) có thể thay thế tim hoặc phổi hay cả hai trong một thời gian ngắn. Trẻ em là đối tượng được sử dụng chủ yếu, tuy nhiên với trường hợp người lớn bị suy tim, suy hô hấp thì vẫn có thể sử dụng như bình thường. ECMO đưa máu ra bên ngoài cơ thể, sau đó loại bỏ carbon dioxide và thêm oxy vào tế bào hồng cầu. Tóm lại, công nghệ này được sử dụng để điều trị các ca bệnh trong giai đoạn cuối hoặc suy tim, suy hô hấp nghiêm trọng. Ngày nay một số trung tâm điều trị, ECMO còn được sử dụng khi bệnh nhân ngưng tim nhằm kéo dài sự sống để các bác sĩ tìm ra nguyên nhân gây ngưng tim. Tóm tắt ECMO Đường dẫn truyền máu ra vào của một máy ECMO Các trường hợp sử dụng ECMO trong điều trị đã được Tổ chức Hỗ trợ Sự sống Ngoài Cơ thể (tên tiếng Anh: Life Support Organization'') xuất bản và công bố, chủ yếu là các trường hợp bệnh nhân bị suy tim hoặc suy hô hấp. Ngoài ra, một số trường hợp dưới đây có thể được cân nhắc để sử dụng ECMO: Suy hô hấp nếu tỷ lệ sức căng oxy động mạnh và oxy hít vào (PaO2 FiO2) nhỏ hơn 100 mmHg mặc dù máy thở đã được sử dụng hết công suất. Suy hô hấp do nồng độ carbon dioxide cao bất thường với pH trong động mạch nhỏ hơn 7,20 Sốc tim Ngừng tim Tim gặp vấn đề sau khi phẫu thuật tim Dùng để duy trì sự sống trong khi cấy ghép tim hoặc đặt một thiết bị hỗ trợ tâm thất hay ghép phổi Tuy mang nhiều tranh cãi nhưng dùng ECMO để điều trị sốc do nhiễm trùng vẫn đang được nghiên cứu Hạ thân nhiệt, với nhiệt độ từ 24 đến 28 °C và bất ổn tim, hoặc với nhiệt độ dưới 24 °C. Trong các bản báo cáo dựa trên khoảng 51.000 người đã điều trị bằng ECMO cho thấy các ca suy hô hấp trẻ sơ sinh sống sót với tỷ lệ 75%, suy hô hấp trẻ em là 56% và suy hô hấp người lớn là 55%. Và với các ca suy hô hấp cấp tính, tỷ lệ sống sót sẽ dao động từ 50 đến 70% nếu sử dụng ECMO. Hầu hết các trường hợp chống chỉ định mang tính tương đối, có thể bị bỏ qua việc sử dụng ECMO để điều trị cho các bệnh nhân khác. Các trường hợp ấy là: Các điều kiện đã có từ trước làm ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống (tình trạng của hệ thần kinh trung ương, bệnh ác tính giai đoạn cuối, nguy cơ xuất huyết toàn thân với thuốc chống đông máu). Tuổi tác và kích thước cơ thể. Các ca bệnh nặng những người quá yếu, đã được điều trị nhưng quá lâu, hoặc đã chẩn đoán là tử vong. Veno-động mạch khi bệnh nhân suy hô hấp Veno-tĩnh mạch khi bệnh nhân suy hô hấp Có hai loại phổ biến nhất là ECMO tĩnh mạch-động mạch (VA) và ECMO tĩnh mạch-tĩnh mạch (VV). Trong cả hai phương thức trên, máu được đưa ra bên ngoài cơ thể từ hệ thống tĩnh mạch được thêm oxy rồi trả về cơ thể. Trong VCM ECMO, máu được trả về hệ động mạch và trong VV ECMO máu được trả về tĩnh mạch. Tuy nhiên, VV ECMO chỉ hỗ trợ việc hô hấp, không hỗ trợ cho tim. phương pháp này, người ta đặt một ống thông tĩnh mạch vào tĩnh mạch đùi bên trái hoặc bên phải để lấy máu ra bên ngoài và một ống thông động mạch vào động mạch đùi bên trái hoặc bên phải để trả máu vào cơ thể. Vị trí của đầu ống thông tĩnh mạch đùi phải được giữ ngay gần đường giao nhau của tĩnh mạch chủ dưới và tâm nhĩ phải, trong khi đầu của ống động mạch đùi phải trong động mạch chậu. người lớn, việc tiếp cận động mạch đùi được ưu tiên vì việc chèn vào đơn giản hơn trẻ nhỏ. phương pháp này, người ta đặt một ống thông vào tĩnh mạch đùi để đưa máu ra và tĩnh mạch cảnh trong bên phải để trả máu về. Ngoài ra, một ống thông hai có đầu được đưa vào tĩnh mạch chủ trên và tĩnh mạch dưới rút máu ra và đưa máu trở lại tâm nhĩ phải sau khi được thêm oxi. Bác sĩ lấy mẫu máu của một bé sơ sinh để xét nghiệm VV ECMO thường được sử dụng cho suy hô hấp, trong khi VA ECMO được sử dụng cho suy tim. Trong VV ECMO, tốc độ máu càng cao càng tốt vì nó hỗ trợ việc trao đổi oxi. Nhưng ngược lại, trong VA ECMO tốc độ máu phải đủ cao để có đủ áp lực và độ bão hòa oxyhemoglobin tĩnh mạch (đo trên máu thoát) nhưng đủ thấp để đảm bảo lượng máu được đưa ra. Nếu chất lỏng trong cơ thể bệnh nhân quá tải, biện pháp lợi tiểu tích cực sẽ được thực hiện đến khi ổn định trên ECMO. Ngược lại, biện pháp siêu lọc có thể đượ thực hiện dễ dàng trong khi bệnh nhân đang duy trì sự sống bằng ECMO. Khi máu ra khỏi tâm thất trái có thể hình thành máu đông do chức năng của tâm thất trái bị suy giảm. Sau khi bệnh nhân đã ổn định, cần đo độ bão hòa oxy trong máu được rút ra từ tĩnh mạch. Hậu quả phổ biến người lớn được điều trị bằng ECMO là chấn thương thần kinh, có thể bao gồm xuất huyết dưới màng nhện, nhồi máu, thiếu máu cục bộ vùng nhạy cảm của não, não thiếu oxy cục bộ, hôn mê không giải thích được, và chết não. Khả năng xuất huyết là từ 30-40% do thuốc chống đông máu chứa heparin được truyền vào liên tục làm rối loạn chức năng của tiểu cầu. Khắc phục việc phẫu thuật, duy trì số lượng tiểu cầu lớn hơn 100000/mm3. Tiểu cầu trong máu sẽ bị giảm do thuốc chống đông máu heparin, để khắc phục, sử dụng thuốc chống đông không có heparin. Ngoài ra, có một lưu lượng máu ngược dòng trong động mạch chủ và đi xuống ngay cả khi động mạch đùi và tĩnh mạch đang nối với máy ECMO. Nếu vị trí ống của đầu ống thông không duy trì vị trí cũ sẽ xảy hiện tượng máu có thể gây ra các cục máu đông. Nếu trẻ dưới 32 tuần tuổi sẽ không được sử dụng ECMO để duy trì sự sống do rủi ro xuất huyết nội sọ là rất cao. Một nghiên cứu năm 2014 đã tìm ra một kháng thể ức chế yếu tố XIIa mà không làm tăng nguy cơ xuất huyết trong khi đang duy trì sự sống bằng ECMO. Các thí nghiệm trên động vật sơ sinh cho thấy rằng điều trị ECMO có thể dẫn đến quá trình chết rụng tế bào của tế bào ruột làm tổn hại, ảnh hưởng đến hàng rào niêm mạc ruột và sự di chuyển của vi khuẩn. Điều này có thể giải thích mức độ nghiêm trọng của hội chứng đáp ứng viêm hệ thống trẻ sơ sinh. Việc sử dụng ECMO trên xác chết sẽ tăng tỷ lệ sống của các cơ quan cấy ghép. | Trao đổi oxy qua màng ngoài cơ thể | Hồi sức tích cực |
Sầm Tham (chữ Hán: 岑參, 715-770), là nhà thơ Trung Quốc thời Thịnh Đường (713-766). Theo nhiều nhà nghiên cứu văn học, thì ông là "nhà thơ tiêu biểu và xuất sắc nhất trong các nhà thơ biên tái đời Đường". Sầm Tham là người Nam Dương, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Cha ông từng làm Thứ sử (hai lần), và đã qua đời lúc Sầm Tham còn nhỏ. Nhà nghèo, ông phải tìm cách tự học Năm 744 đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), Sầm Tham thi đỗ Tiến sĩ lúc 29 tuổi, được bổ làm một chức quan nhỏ là Binh tào Tham quân. Năm 749, ông theo tướng Cao Tiên Chi đến An Tây (ra biên ải lần thứ nhất), nhưng chẳng bao lâu lại trở về kinh đô Trường An. Năm 754, ông ra biên ải lần thứ hai, làm Phán quan cho Tiết độ sứ An Tây là Phong Thường Thanh. Thời kỳ này, ông sáng tác rất nhiều thơ về chủ đề "biên tái". Sau loạn An Sử (755-763), từ Tửu Tuyền (nay thuộc Cam Túc), Sầm Tham đến Phượng Tường (nay thuộc Bảo Kê, Thiểm Tây) là nơi Đường Túc Tông (ở ngôi: 756-762) đang ở. Được bạn thân là nhà thơ Đỗ Phủ và Phòng Quân tiến cử, ông được giữ chức Hữu bổ khuyết. Thời Đường Đại Tông (ở ngôi: 762-779), Sầm Tham lại ra biên ải (lần thứ ba). Năm 766, ông được bổ làm Thứ sử Gia Châu (nên ông xưng là Sầm Gia Châu), nhưng sau đó bị bãi chức Lâm cảnh đói nghèo, năm 770, Sầm Tham mất trong quán trọ tại Thành Đô (nay là tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên) lúc 55 tuổi. Tác phẩm của ông để lại có Sầm Gia Châu thi tập (Tập thơ của họ Sầm Gia Châu) gồm quyển. Thời Thiên Bảo (niên hiệu của Đường Huyền Tông từ 742 đến 756), dân tộc Hán đánh nhau liên miên với các dân tộc khác vùng Tây Bắc, Đông Bắc và Tây Nam. Đây là một sự kiện lớn và là một đề tài lớn lúc bấy giờ, được nhiều nhà thơ (trong đó có Sầm Tham) khai thác. Sầm Tham, nhờ sống biên ải tương đối lâu, nên làm được rất nhiều thơ biên tái. Qua sự miêu tả sinh động, ông đã làm cho người đọc hình dung được phong cảnh, phong tục, cuộc sống với nhiều dạng vẻ nơi biên ải, tinh thần chiến đấu và nhớ quê của các tướng sĩ biên phòng. Tiêu biểu là những bài: "Tẩu Mã xuyên hành phụng tống Phong đại phu xuất sư tây chinh" (Bài hành "Sông Tẩu Mã" tiễn đại phu họ Phong xuất quân đánh giặc phương Tây), "Bạch tuyết ca tống Võ Phán quan quy kinh" (Bài ca Tuyết trắng tiễn Võ Phán quan về kinh), "Luân Đài ca phụng tống Phong đại phu xuất sư tây chinh" (Bài ca Luân Đài tuân lệnh tiễn Phong đại phu tây chinh), "Đề Mục Túc phong ký gia nhân" (Trên ngọn Mục Túc gửi người nhà), "Phùng nhập kinh sứ" (Gặp sứ vào kinh), "Sơn phòng xuân sự" (Cảnh xuân nhà trên núi), v.v...Bên cạnh đó, Sầm Tham còn làm một thơ thù tạc, cảm hoài; nhưng không hay bằng thơ biên tái. một số sách văn học sử Trung Quốc, Sầm Tham thường được xếp cạnh Cao Thích (702-765), vì cả hai cùng nổi danh về thơ biên tái. Song, thơ biên tái của Sầm Tham phong phú và nhiều vẻ hơn thơ biên tái của Cao Thích, rất có thể vì Sầm Tham sống biên ải lâu hơn Nói về điều này, sách Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập 2) có đoạn viết: :Đem so sánh thì thấy thơ Cao Thích du dương uyển chuyển, trong vị trữ tình nồng hậu, thể hiện khí thế hào phóng và tinh thần khảng khái, hiên ngang. Còn thơ Sầm Tham thì âm điệu dồn dập, cao vút, với phong cách lạ và đẹp, miêu tả cảnh biên cương tráng lệ, kỳ khôi, biến ảo khôn lường. Về mặt phong cách nghệ thuật độc đáo, mới mẻ và sự phong phú rộng rãi của diện sinh hoạt được phản ánh, thì rõ ràng Cao Thích không theo kịp Sầm Tham. Sầm Tham quả là nhà thơ tiêu biểu, xuất sắc nhất trong các nhà thơ biên tái đời Đường Thơ biên tái của Sầm Tham có nhiều bài hay, trích giới thiệu ba bài: :Phiên âm Hán-Việt: :1. Tẩu Mã xuyên hành, phụng tống Phong đại phu tây chinh :Quân bất kiến Tẩu Mã xuyên hành tuyết hải biên, :Bình sa mãng mãng hoàng nhập thiên. :Luân Đài cửu nguyệt phong dạ hống, :Nhất xuyên toái thạch đại như đẩu, :Tùy phong mãn địa thạch loạn tẩu. :Hung Nô thảo hoàng mã chính phì, :Kim Sơn tây kiến yên trần phi, :Hán gia đại tướng tây xuất sư. :Tướng quân kim giáp dạ bất thoát, :Bán dạ quân hành qua tương bát, :Phong đầu như đao diện như cát. :Mã mao đới tuyết hãn khí chưng, :Ngũ hoa liên tiền tuyền tác băng, :Mạc trung thảo hịch nghiễn thủy ngưng. :Lỗ kỵ văn chi ưng đảm nhiếp, :Liệu tri đoản binh bất cảm tiếp, :Xa Sư tây môn trử hiến tiệp :Tạm dịch: :Bài ca sông Tẩu Mã đưa tiễn Phong đại phu chinh tây :Ngươi chẳng thấy chạy ngựa đi bên biển tuyết kia :Cát nằm lớp lớp trời vàng khè? :Luân đài tháng Chín đêm gió rống. :Đá vụn trên không lớn bằng đấu, :Gió đưa đầy đất, đá chạy ẩu. :Hung Nô cỏ vàng, ngựa mập lù, :Kim Sơn phía tây khói bụi mù. :Hán gia đại tướng đi dẹp giặc, :Áo giáp đêm khuya mình vẫn mặc. :Tiếng xe, tiếng qua đêm cọ xát, :Gió thổi như dao, mặt như cắt, :Lông ngựa đóng tuyết, mồ hôi đặc, :Ngũ hoa, liên tiền băng đóng chặt. :Viết kịch trong màn, nước mực đọng. :Quân địch xa nghe đành sợ khiếp. :Qươm giáo đồ ngắn không dám tiếp, :Đồn binh cửa tây chờ báo tiệp :Phiên âm Hán-Việt: :2. Đề Mục Túc phong ký gia nhân :Mục Túc phong biên phùng lập xuân, :Hồ Lô hà thượng lệ triêm cân. :Khuê trung chỉ thị không tương ức, :Bất kiến sa trường sầu sát nhân. :Tạm dịch: :Trên ngọn Mục Túc gửi người nhà :Xuân về Mục Túc không hoa, :Hồ Lô bến vắng lệ nhòa mắt ai. :Phòng khuê chinh phụ có hay, :Chiến trường khói lửa sầu vây nát lòng. :Phiên âm Hán-Việt: :3. Bạch tuyết ca tống Vũ Phán quan quy kinh :Bắc phong quyển địa bạch thảo chiết :Hồ thiên bát nguyệt tức phi tuyết :Hốt như nhất dạ xuân phong lai :Thiên thụ vạn thụ lê hoa khai :Tán nhập châu liêm thấp la mạc :Hồ cừu bất noãn cẩm khâm bạc :Tướng quân giác cung bất đắc khống :Đô hộ thiết lãnh do trước :Tạm dịch: :Bài ca Tuyết trắng đưa Vũ phán quan về kinh đô :Gió bắc cuốn đất làm cỏ trắng tàn tạ, :Trời Hồ vào trăng tháng Tám tuyết bay đầy. :Dường như qua một đêm gió xuân thổi về, :Ngàn cây vạn cây hoa lê rộ nở. :Tan tác bay vào rèm châu làm ướt bức màn là, :Áo hồ cừu không đủ ấm, chăn gấm mỏng manh. :Tướng quân không giương nổi chiếc cung bằng sừng, :Áo sắt của đô hộ lạnh nhưng vẫn mặc. *Cao Thích *Sở nghiên cứu văn học thuộc Viện Khoa học xã hội Trung Quốc biên soạn (1993), Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II), Bản dịch do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam ấn hành, 1993. *Dịch Quân Tả, Văn học sử Trung Quốc (Quyển I, GS. Huỳnh Minh Đức dịch). Nhà xuất bản Trẻ, 1992. *Nguyễn Hiến Lê (1997), Đại cương văn học Trung Quốc (trọn bộ). Nhà xuất bản Trẻ. *Trần Lê Bảo, mục từ "Sầm Tham" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004. *Nhiều người dịch, Thơ Đường (Tập I). Nhà xuất bản văn học, 1987. | Sầm Tham | Sinh năm 715, Mất năm 770, Người Hà Nam (Trung Quốc), Nhà thơ Trung Quốc thời Đường, Năm sinh không rõ |
212 Warrior (tên tiếng Việt: Chiến binh 212) (còn được biến đến với tên gọi khác là Wiro Sableng 212 và Wiro Sableng Pendekar Kapak Maut Naga Geni 212) là một bộ phim hài hành động của Indonesia năm 2018 dựa trên bộ tiểu thuyết Wiro Sableng của Bastian Tito. Phim là sự hợp tác đầu tiên giữa một hãng phim của Indonesia với Fox International Productions. Một đoạn teaser của bộ phim đã được phát hành vào ngày 21 tháng 12 năm 2017 trên khắp các rạp chiếu phim Indonesia. Đoạn trailer đầu tiên được phát hành vào ngày 12 tháng năm 2018 và ra mắt trên ứng dụng truyền thông LINE. Bộ phim được phát hành vào ngày 30 tháng năm 2018. Đây là bộ phim cuối cùng của Fox International Productions trước khi đóng cửa vào năm 2017 và được xếp vào 20th Century Fox International. Vào thế kỷ 16 của Nusantara, Wiro Sableng (Vino G. Bastian) được người cố vấn Sinto Gendeng (Ruth Marini) giao nhiệm vụ bắt học trò cũ phản bội của cô, Mahesa Birawa (Yayan Ruhian). Được tham gia cùng với những người bạn của mình, Anggini (Sherina Munaf) Bujang Gila Tapak Sakti (Fariz Alfarizi), Wiro sẽ không chỉ khám phá ra định xấu xa của Mahesa mà còn khám phá ra thiên chức thực sự của anh ta với tư cách là một anh hùng. Vino G. Bastian trong vai Wiro Sableng Sherina Munaf trong vai Anggini Marsha Timothy trong vai Bidadari Angin Timur Fariz Alfarizi trong vai Bujang Gila Tapak Sakti Happy Salma trong vai Suci Dwi Sasono trong vai Raja Kamandaka Yayan Ruhian trong vai Mahesa Birawa Cecep Arif Rahman trong vai Bajak Laut Bagaspati Lukman Sardi trong vai Werku Alit Ruth Marini trong vai Sinto Gendeng T. Rifnu Wikana trong vai Kalasrenggi | ''212 Warrior | |
Nhân dưới bầu trời sao (tiếng Trung: 星空下的仁醫, tiếng Anh: Kids' Lives Matter), tên cũ: Bác sĩ nhi khoa (兒科醫生), Bệnh viện nhi đồng (兒童醫院). Là phim truyền hình tế hiện đại được chế tác bởi TVB. Diễn viên chính Trịnh Gia Dĩnh, Mã Quốc Minh, Chung Gia Hân, Châu Gia Di và La Tử Dật, diễn viên phụ Cung Từ Ân, Hải Tuấn Kiệt, Quách Thiếu Vân, Hà Đình, Trương Bảo Nhi. Giám chế Phương Hoành Chước. Bộ phim lấy cảnh thật tại Bệnh viên nhi đồng Hong Kong mới khánh thành Khải Đức Hong Kong. Bộ phim này là trong các phim được giới thiệu tại Tuần lễ tiết mục TVB 2021 và Triển lãm truyền hình Quốc tế Hong Kong 2021, cũng là trong bộ phim Khánh Đài Hướng tới kỷ niệm 55 năm của TVB. = Diễn viên Vai diễn Biệt danh/ Mối quan hệ Đỗ Yến Ca Lương Đỉnh Quân Wilson, giáo sư Lương Viện trưởng kiêm tổng giám hành chính Sư phụ của Huống Tùng Hân Qua đời vì nhồi máu cơ tim (Tập 2) Hải Tuấn Kiệt Châu Chấn Nghiêu Paul, viện trưởng Châu Viện trưởng tân nhiệm kiêm tổng giám hành chính Chồng của Lâm Minh Châu Châu Gia Di Mạch Hải Kỳ Kay, bác sĩ Mạch Chủ quản khoa ngoại tân nhiệm/ bác sĩ khoa ngoại Cấp trên kiêm bạn gái của Huống Tùng Hân, có tuyến tình cảm với anh ấy Vợ của Tô Bỉnh Lương Em dâu của Tô Di Hinh Cấp dưới của Châu Chấn Nghiêu, bất mãn anh ta Lý Cương Cựu viện trưởng = Diễn viên Vai diễn Biệt danh/ Mối quan hệ Tăng Triển Vọng (thanh niên) Huống Tùng Hân Amos, Dr. Fong, bác sĩ Huống, bác sĩ sao Kim Bác sĩ cố vấn khoa ngoại nhi Đồ đệ của Lương Đỉnh Quân Cấp dưới kiêm bạn trai của Mạch Hải Kỳ, có tuyến tình cảm với cô ấy Bạn học kiêm bạn tốt học viện của Hứa Cam Phong, Chương Dĩ Tâm Mã Quốc Minh Khổng Đức Hiền (thanh niên) Hứa Cam Phong Johnathan, Phần, Phần Gia, bác sĩ Hứa, bác sĩ râu xồm Bác sĩ phó cố vấn khoa ngoại nhi Cựu bác sĩ khoa ngoại nhi bệnh viện Tây Bắc Con trai kế của Trần Bội Như Anh trai cùng cha khác mẹ của Hứa Quân Nặc, Hứa Quân Ngôn Bạn học kiêm bạn tốt học viện của Huống Tùng Hân, Chương Dĩ Tâm Trịnh Gia Dĩnh Quách Tử Hào Đặng Vĩ Thông Larry, bác sĩ Đặng Bác sĩ chuyên khoa ngoại nhi Đối thủ cạnh tranh của Văn Bách Hi Cấp dưới trực thuộc Huống Tùng Hân Lâm Cảnh Trình Hà Tông Nghĩa Thomas, bác sĩ Hà Bác sĩ chuyên khoa ngoại nhi Cấp dưới trực thuộc Hứa Cam Phong Tôn Vịnh Hiên (lúc nhỏ) Văn Bách Hi Max, bác sĩ Văn, bác sĩ đẹp trai Bác sĩ nội trú chuyên khoa ngoại nhi Tốt nghiệp học viện khoa nước ngoài Cấp dưới trực thuộc Huống Tùng Hân Con trai của Văn Chí Đồ, Chung Hoài Sương Anh họ của Ngũ Lệ Bảo La Tử Dật Hà Đình Du Chi Hoa Esther, bác sĩ Du Bác sĩ nội trú chuyên khoa cơ sở ngoại nhi Thực tập sinh của Hứa Cam Phong Bạn học cùng kỳ của Diêu Bác Nhân, Nghiêm Gia Minh, Liên Trác Doanh, Lý Dĩnh Huyên Lâm Tử Siêu Diêu Bác Nhân Christopher, bác sĩ Diêu Bác sĩ nội trú chuyên khoa cơ sở ngoại nhi Thực tập sinh của Huống Tùng Hân Bạn học cùng kỳ của Du Chi Hoa, Nghiêm Gia Minh, Lý Dĩnh Huyên, Liên Trác Doanh = Diễn viên Vai diễn Biệt danh/ Mối quan hệ Tăng Hàng Sinh Đới Nhật Tiến Ted, bác sĩ Đới Bác sĩ cao cấp khoa ngoại lồng ngực Cấp trên của Chương Dĩ Tâm Chồng của Quách Bảo Tinh, có một con gái Lữ Tịnh Văn (Thanh niên) Chương Dĩ Tâm Eman, Tâm, bác sĩ Chương Bác sĩ phó cố vấn khoa ngoại lồng ngực Cựu bác sĩ không biên giới, được chuyển từ bệnh viện Nam Suden về bệnh viện An Ni Cấp dưới của Đới Nhật Tiến Bạn học cùng kỳ kiêm bạn tốt của Hứa Cam Phong, có tuyến tình cảm với anh ấy Bạn học cùng kỳ kiêm bạn tốt của Huống Tùng Hân Bạn tốt của Quách Bảo Tinh Bất mãn Châu Chấn Nghiêu Chung Gia Hân Lâm Chính Phong Nghiêm Gia Minh Duncan, bác sĩ Nghiêm Bác sĩ nội trú chuyên khoa cơ sở ngoại lồng ngực Thực tập sinh của Chương Dĩ Tâm Bạn học cùng kỳ của Du Chi Hoa, Diêu Bác Nhân, Lý Dĩnh Huyên, Liên Trác Doanh = Diễn viên Vai diễn Biệt danh/ Mối quan hệ Quách Thiếu Vân Quách Bảo Tinh Joey, Dr. Kwok, bác sĩ Quách Bác sĩ cao cấp khoa gây mê Vợ của Đới Nhật Tiến, có một con gái Bạn tốt của Chương Dĩ Tâm Cấp trên trực thuộc của Liên Trác Doanh Trương Bảo Nhi Liên Trác Doanh Candice, Can, bác sĩ Liên Bác sĩ nội trú chuyên khoa cơ sở khoa gây mê Thực tập sinh của Quách Bảo Tinh Con gái nuôi của Liên Thành Võ, Lan Tên gốc là Lâm Trác Doanh Có tuyến tình cảm với Văn Bách Hi Bạn học cùng kỳ của Diêu Bác Nhân, Nghiêm Gia Minh, Lý Dĩnh Huyên Trịnh Vịnh Khiêm Bác sĩ Mạc Bác sĩ khoa gây mê = Diễn viên Vai diễn Biệt danh/ Mối quan hệ Tạ Chỉ Luân Lữ Chỉ Tình Bella, bác sĩ Lữ Bác sĩ chuyên khoa nhi Huỳnh Bích Liên Lý Dĩnh Huyên Hayley, bác sĩ Lý Bác sĩ nội trú chuyên khoa cơ sở khoa nhi Thực tập sinh của Lữ Chỉ Tình Chị của Lý Dĩnh Gia Bạn học cùng kỳ của Du Chi Hoa, Diêu Bác Nhân, Nghiêm Gia Minh, Liên Trác Doanh Thái Chí Ân Bác sĩ trị liệu nhi đồng = Diễn viên Vai diễn Biệt danh/ Mối quan hệ Ngũ Lạc Di Ngũ Lệ Bảo Bobo tá phòng bệnh khoa nhi Cháu gái họ của Chung Hoài Sương Em gái họ của Văn Bách Hi Oan gia của Đặng Vĩ Thông, có tuyến tình cảm với anh ấy Trình Hạo tá trị liệu nhi đồng Trương Thi Hân tá phòng cấp cứu Dương Gia Bảo Triệu Bích Du Lý Minh Phù tá phòng phẫu thuật Lý Chỉ Tình Ngô Thiên Nhi Đinh Lạc Tư Đặng Mỹ Hân La Hân Linh Lương Văn Úy Du Miểu Miểu tá phòng bệnh khoa nhi La Dục Nghi La Nhật Tinh Vương Phi Ôn Tử Đồng Tiêu Lệ Văn Phan Gia Cần Trần Tĩnh Vân Phạm Văn Nhã Quách Thiên Du Lưu Gia Kỳ tá trị liệu nhi đồng Chu Phi Phi tá phòng bệnh tư Trần Niệm Quân tá trưởng phòng bệnh khoa nhi Tuần Tập Ngày Rating Ghi chú 01-05 18.5 Tổng rating trong ngày của tập là 23.2 06-10 18.9 11-15 1/11-5/11/2021 19.4 16-20 8/11-12/11/2021 21-25 Cả phim Tên bài hát Ca sĩ Viết nhạc Viết lời Biên nhạc Giám chế Công ty phát hành Trân trọng bản thân thật tốt (Nhạc chủ đề) Chung Gia Hân Trương Mỹ Hiền Huỳnh Triệu Minh Hà Triết Đồ, Vi Cảnh Vân Giải trí Tinh Mộng Em sẽ sợ hãi (Nhạc kết thúc) Cúc Tử Kiều Trương Gia Thành Dương Hi Johnny Yim Không dám mở miệng (Nhạc đệm) Cốc Vi Hà Gia Hào Cốc Vi Hà Triết Đồ, Lưu Dịch Thăng Never Too Late (Nhạc đệm) Lữ Kiều Ân Giang Huy Lữ Kiều Ân Giang Huy Ngày 17/8/2020: Tổ chức họp báo cử hành nghi thức bái thần và công bố tạo hình tại TVB City số 77 đường Tuấn Tài khu công nghiệp Tướng Quân Áo lúc 12:30 Ngày 14/10/2021: Tổ chức hoạt động tuyên truyền "Chuyên nghiệp xuất sắc, sáng tạo kỳ tích" tại Citywalk lúc 12:30. Ngày 17/10/2021: Phát sóng chế tác đặc biệt "Nhân dưới bầu trời sao, đồng lý chi tâm" lúc 19:30-20:00. Ngày 27/10/2021: Tổ chức hoạt động tuyên truyền "Dùng tâm chiếu cố, thắp sáng hi vong" tại TVB City Tướng Quân Áo lúc 16:30. Ngày 4/11/2021: Tổ chức hoạt động tuyên truyền "Kết hợp lực lượng, cổ vũ cho bạn" tại TVB City Tướng Quân Áo lúc 15:30. Ngày 11/11/2021: Tổ chức hoạt động tuyên truyền "Nhân khiêu chiến, yêu và thân dân" tại TVB City Tướng Quân Áo lúc 12:00. Bộ phim trở thành chủ đề hot được nhiều người quan tâm, có sự góp mặt của Chung Gia Hân, Hà Đình, Tạ Chỉ Luân, Huỳnh Bích Liên. Tập câu chuyện "Bệnh tim bẩm sinh" của nhân vật "Duệ Duệ" đã chạm đến trái tim của cộng đồng mạng. Diễn xuất của Khương Lệ Văn giành khá nhiều sự khen ngợi. Có rất nhiều lời khen diễn xuất tiến bộ tạo được tiếng vang cho tập phim tối hôm đó. Một kênh có tên là "Happy Hour" đã đăng lên Youtube và được lên top 13 thịnh hành. Trên trang Douban Trung Quốc đại lục, bộ phim đạt 9.1 điểm. Diễn viên nhí Lâm Tĩnh Văn và Ngô Gia Nghi cũng giành được lời khen từ Trịnh Gia Dĩnh và cộng đồng mạng. 台慶劇《星空下的仁醫》醫者童心 奇蹟降臨 TVB Weekly 台慶劇《星空下的仁醫》首播 TVB Weekly | ''Nhân dưới bầu trời sao | Phim TVB năm 2021 |
Nothofagus antarctica là một loài thực vật có hoa trong họ Nothofagaceae. Loài này được (G.Forst.) Oerst. mô tả khoa học đầu tiên năm 1872. Tập tin:Nothofagus antarctica D.jpg Tập tin:Action du vent PN.jpg Tập tin:Imagen Tập tin:Misodendrum punctulatum.jpg | ''Nothofagus antarctica | Chi Cử phương nam, Cây trang trí, Họ Cử phương nam |
Bắc Sơn (1931 2005) là một nhạc sĩ, diễn viên người Việt Nam. Trong sự nghiệp của mình, ông đã viết khoảng 500 ca khúc nhạc nhẹ, nhạc không lời, đặc biệt những ca khúc âm hưởng dân ca Nam bộ, tham gia góp mặt trong 60 bộ phim, là tác giả của khoảng 80 kịch bản phim và 100 vở kịch nói. Bắc Sơn tên thật Trương Văn Khuê, sinh ngày 25 tháng 12 năm 1931. Ông sinh ra và lớn lên tại xã Phước Lộc (nay là thị trấn Long Thành), huyện Long Thành, Đồng Nai. Năm ông 14 tuổi, cha ông hy sinh trong khi tham gia kháng chiến chống Pháp. Từ năm 1952 đến 1977, ông là giáo viên dạy học nhiều tỉnh. Ông chuyển vào Sài Gòn năm 1965 và bắt đầu được biết đến khi thực hiện chương trình "Quê Ngoại" trên truyền hình. Bài nhạc đầu tiên của ông là Giòng Đồng Nai sáng tác năm 1955 mà tận bốn năm sau mới được ca sĩ Anh Ngọc hát. Tiếp theo là một loạt bài Sóng vỗ bờ xa, Tình người ra biển, Nắng lên cho đẹp... Trong đó bài Nắng lên cho đẹp được dùng làm nhạc hiệu mở đầu chương trình Hương Quê hằng ngày trên Đài truyền hình Sài Gòn. Các bài nhạc nổi tiếng nhất của ông đều mang âm hưởng dân ca Nam bộ như Còn thương rau đắng mọc sau hè, Sa mưa giông, Em đi trên cỏ non, Tháng mấy anh về, Gió đưa bông sậy, Còn thương góc bếp chái hè, Con sáo sậu, Bông bí vàng... Riêng bài Còn thương rau đắng mọc sau hè được ông viết làm nhạc nền cho vở kịch truyền hình "Bếp lửa ấm" phát trên Đài Truyền hình Sài Gòn ngày 27 tháng 11 năm 1974. Người trình bày đầu tiên ca khúc này là ca sĩ Hoàng Oanh. Sau 1975, ca sĩ Hương Lan ghi âm lại tại Pháp và bài nhạc nhanh chóng phổ biến. Ca khúc này được Cục Nghệ thuật Biểu diễn chính thức cho phép lưu hành tại Việt Nam từ tháng năm 2017. Ngoài ra, ông còn viết tập nhạc truyện: Hoa đào năm ngoái, Bông bí vàng, Còn thương rau đắng mọc sau hè, Duyên ta như mây, Về thăm quê ngoại. Điều đặc biệt là Bắc Sơn rất ít xuất bản nhạc của mình vì chính ông tự nhận "bài nào cũng lỗ to". Bắc Sơn còn là một diễn viên nổi tiếng, ông tham gia diễn xuất trong khoảng 60 phim điện ảnh. Một vai được nhiều người biết tới như Sỹ (phim Xa và gần), Năm Ngưu (phim Vùng gió xoáy), Hai Bạc Liêu (phim Người tìm vàng), Phúc (phim Cô Nhíp), ông Tư (phim Con chó phèn)... Vai diễn Năm Ngưu trong phim Vùng gió xoáy đã giúp ông đoạt giải "Diễn viên xuất sắc" tại Liên hoan Phim toàn quốc lần thứ 9. Ngoài diễn xuất, Bắc Sơn cũng là tác giả của 80 kịch bản phim. Bắc Sơn mất ngày 23 tháng năm 2005, sau thời gian điều trị căn bệnh ung thư phổi. Bắc Sơn được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú ngày tháng năm 1997. Năm 2016, quỹ học bổng mang tên ông được An Nông Group lập ra mục đích để trao cho con em nghệ sĩ nghèo, công nhân hậu đài có hoàn cảnh khó khăn được đến trường. Ngoài ra, gia đình nhạc sĩ Bắc Sơn xây dựng ngôi trường dành cho con em công nhân các khu chế xuất và khu công nghiệp huyện Bình Chánh, tỉnh Long An. Trong đêm nhạc ngày 27 tháng 10 năm 2016, công ty Tượng sáp Việt đã trưng bày tượng sáp nhạc sĩ Bắc Sơn trong số 100 tượng sáp do công ty thực hiện nhằm tôn vinh những người có đóng góp trong văn hóa nghệ thuật Việt Nam. *16 cung đàn (1958) *Bông bí vàng *Bông bưởi hoa cau *Buồn một mình *Bức tranh cao nguyên *Cây khế sau hè *Cha *Chỉ sợ em thành núi biếc *Chùm bông hoa khế *Chùm bông sua đũa (Bắc Sơn Ngọc Bích) *Chùm hoa phượng nhỏ *Cối khuya *Con Tư Bến Tre *Còn nghe thương thầm *Con sáo sậu *Còn thương góc bếp chái hè *Còn thương rau đắng mọc sau hè (1974) *Dấu chân trên cỏ *Đi sống cuộc đời *Đôi mắt liêu trai *Đêm nghe bài vọng cổ *Em đi trên cỏ non *Giấc ngủ trên tay *Gió đưa bông sậy *Giọt sương nhớ lá *Giòng Đồng Nai (1955) *Hai mùa mưa nắng *Hoa nở xuân tình (1958) *Lặng lẽ *Lũy tre làng *Mẹ ngồi sàng gạo *Mình gặp nhau chăng (1958) *Mùa bông điên điển *Mùa bông điên điển *Mưa nắng cao nguyên *Nắng lên cho đẹp (1956) *Ngõ trúc vắng *Ngủ dưới chân mẹ (thơ Kiên Giang) *Người thủy thủ trầm lặng *Nhạc đêm *Qua nhịp cầu tre *Sa mưa giông *Sóng vỗ bờ xa (1956) *Tháng mấy em về *Thầm hỏi *Tiếng hát luống cày (1958) *Tình người ra biển (1956) *Về thăm quê ngoại *Vườn ổi sau hè *Đêm nghe bài vọng cổ Hợp soạn với Phùng Sửu năm 1960 *Tiếng gọi thao trường *Thanh niên thế hệ mới *Vùng lên *Lan *Lạnh *Mùa hoa sim năm sau *Suối mưa *Cho đẹp tuổi xanh *Đường Sài Gòn *Ganh đua *Lời buồn người mù *Màu xanh tương lai *Nối thêm mối dây *Về hè *Thương đời mồ côi *Tiếng hót họa mi Mỗi vở dài khoảng 60 phút. *Lưu Bình Dương Lễ (1956) *Những kẻ có lòng (1960) Bắc Sơn trên trang của Bộ Văn hóa-Thông tin Bắc Sơn trên trang Giai Điệu Xanh | Bắc Sơn | Nhạc sĩ nhạc vàng, Nhạc sĩ nhạc tình tự quê hương, Nhạc sĩ Việt Nam Cộng hòa, Người họ Trương tại Việt Nam, Nhạc sĩ Việt Nam thế kỷ 20, Nhạc sĩ Việt Nam thế kỷ 21, Phim và người giành giải Liên hoan phim Việt Nam, Nhạc sĩ hùng ca Việt Nam |
Fernando Manuel Fernandes da Costa Santos (sinh ngày 10 tháng 10 năm 1954) là một huấn luyện viên bóng đá chuyên nghiệp người Bồ Đào Nha và là cựu cầu thủ thi đấu vị trí hậu vệ. Hiện ông đang là huấn luyện viên của đội tuyển Ba Lan. Ông đã có tổng cộng 161 trận tại Primeira Liga và bàn thắng trong mùa giải, hầu như luôn là với Estoril. Sau khi giải nghệ, ông làm huấn luyện viên trong vài thập kỷ, bắt đầu câu lạc bộ chính của mình vào năm 1988. Santos đã dẫn dắt Big Three của Bồ Đào Nha, giành được năm danh hiệu lớn với Porto. Trong khoảng thời gian tốt hơn của những năm 2000, ông đã làm việc Hy Lạp, chủ yếu với AEK Athens và PAOK. Năm 2010, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia Hy Lạp, huấn luyện họ một kỳ FIFA World Cup và một kỳ UEFA Euro. Sau đó, ông đã dẫn dắt Bồ Đào Nha giành chức vô địch Euro 2016 và Nations League 2019, đây là hai danh hiệu lớn đầu tiên trong lịch sử của quốc gia này. Ông rời vị trí huấn luyện viên đội tuyển Bồ Đào Nha sau FIFA World Cup 2022, đã nắm quyền được năm. Sinh ra Lisbon, Santos kết thúc quá trình phát triển của mình với Benfica, gia nhập hệ thống đào tạo trẻ tuổi 16. Trận ra mắt cấp cao của anh ấy là với Estoril, đội mà ông đã đại diện cả ba cấp độ lớn của bóng đá Bồ Đào Nha. Santos ra mắt Primeira Liga vào ngày tháng năm 1975, chơi trọn vẹn 90 phút trong chiến thắng 2–0 trên sân nhà trước Farense. Ông đã kết thúc mùa giải đầu tiên của mình với 12 lần ra sân nữa, giúp đội của anh ấy đứng vị trí thứ tám. Santos ghi bàn thắng đầu tiên giải hạng cao nhất trong chiến dịch 1978–79, chỉ thua một trận giải VĐQG để cán đích vị trí thứ 11 chung cuộc. Trong giai đoạn 1979–80, ông chuyển đến đội bóng đồng hương Marítimo, nơi ông cũng là sự lựa chọn đầu tiên. Sau khi trở lại câu lạc bộ cũ của mình, ông đã thi đấu thêm tám năm nữa (năm năm Segunda Liga) trước khi giải nghệ tuổi 33. FC Porto Vô địch Giải bóng đá vô địch quốc gia Bồ Đào Nha: 1998-99 Vô địch Cúp liên đoàn Bồ Đào Nha: 1999-2000, 2000-01 Vô địch Siêu cúp Bồ Đào Nha: 1998, 1999 AEK Athens Vô địch Cúp bóng đá Hy Lạp: 2002 Bồ Đào Nha Vô địch Giải bóng đá vô địch Châu Âu (UEFA EURO): 2016 Vô địch Giải vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu (UEFA Nations League): 2019 *Cúp Liên đoàn các châu lục (FIFA Confederations Cup): Hạng ba 2017 Cá nhân HLV của năm Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp: 2001–02, 2004–05, 2008–09, 2009–10 HLV của thập kỷ Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp: 2000-10 HLV người Châu Âu của năm giải thưởng Alf Ramsey: 2016 HLV đội tuyển quốc gia xuất sắc nhất thế giới IFFHS: 2016, 2019 Huấn luyện viên nam xuất sắc nhất Giải quả cầu vàng (Globos de Ouro): 2017 PFA Platinum Aquina: 2019 | Fernando Manuel Fernandes da Costa Santos | Sinh năm 1954, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Bồ Đào Nha, Huấn luyện viên bóng đá Bồ Đào Nha |
Hiệp ước giới hạn và giảm quân bị hải quân, thường được gọi là Hiệp ước hải quân Luân Đôn, là một thỏa thuận giữa Anh, Nhật Bản, Pháp, và Hoa Kỳ, ký ngày 22 tháng năm 1930, quy định về chiến tranh tàu ngầm và hạn chế đóng tàu hải quân. Hiệp ước được ký kết tại Luân Đôn vào ngày 27 tháng 10 năm 1930 và hiệp ước có hiệu lực vào cùng ngày. Nó đã được đăng ký trong danh sách hiệp ước của Hội quốc Liên vào ngày tháng năm 1931. Thực đơn và Danh sách các Lời chúc rượu chính thức trong bữa tối chính thức khai mạc Hội nghị Hải quân Luân Đôn năm 1930. Việc ký kết hiệp ước gắn bó mật thiết với các cuộc đàm phán đang diễn ra trước khi bắt đầu chính thức Hội nghị Hải quân London năm 1930. Các cuộc đàm phán vẫn diễn ra trong suốt tiến trình của hội nghị và tiếp tục trong nhiều năm sau đó. Các điều khoản của hiệp ước được coi là sự mở rộng các điều khoản đã thỏa thuận trong Hiệp ước Hải quân Washington nhằm ngăn chặn một cuộc chạy đua vũ trang hải quân sau Thế chiến thứ nhất. Mục đích của hội nghị là hồi sinh những nỗ lực thất bại của Hội Nghị Hải quân Geneva năm 1927. Hội nghị tại Geneva thất bại do xich mích giữa Chính phủ Anh và Mỹ. Vấn đề ban đầu có khả năng nảy sinh từ các cuộc thảo luận giữa Tổng thống Herbert Hoover và Thủ tướng Ramsay MacDonald tại Trại Rapidan năm 1929, nhưng một loạt các yếu tố ảnh hưởng đến căng thẳng, làm trầm trọng thêm bởi các quốc gia khác tại hội nghị. Theo hiệp ước, trọng tải choáng nước tiêu chuẩn của tàu ngầm bị hạn chế mức với mỗi cường quốc chỉ được phép giữ ba tàu ngầm lên tới 2.800 tấn ngoại trừ Pháp chỉ được một chiếc. Cỡ súng tàu ngầm cũng lần đầu tiên bị hạn chế cỡ nòng với một ngoại lệ là tàu ngầm Pháp nói trên đã được đóng cho phép giữ lại pháo của nó. Điều khoản này nhằm đặt dấu chấm hết cho tưởng tàu ngầm 'súng lớn' được tiên phong bởi lớp của Anh và Surcouf của Pháp. Hiệp ước cũng thiết lập sự khác biệt giữa các tàu tuần dương được trang bị súng không lớn hơn (" tàu tuần dương hạng nhẹ theo cách nói không chính thức) và các tàu tuần dương có súng lên tới (" tàu tuần dương hạng nặng "). Số lượng tàu tuần dương hạng nặng bị hạn chế: Anh được phép nắm giữ 15 tàu với tổng trọng tải là Mỹ được 18 tàu với tổng trọng tải còn Nhật được có 12 chiếc với tổng trọng tải Đối với tàu tuần dương hạng nhẹ, không có con số nào được chỉ định nhưng giới hạn tổng trọng tải là đối với Mỹ, đối với Anh và đối với Nhật Bản. Trọng tải khu trục hạm cũng bị hạn chế, với khu trục hạm được định nghĩa là tàu dưới và súng không quá Người Mỹ và Anh được phép lên tới và Nhật Bản Điều 22 liên quan đến chiến tranh tàu ngầm đã tuyên bố luật quốc tế sẽ áp dụng cho chúng giống như đối với tàu nổi. Ngoài ra, các tàu buôn thể hiện "cố chấp từ chối dừng lại" hoặc "kháng cự chủ động" có thể bị đánh chìm mà không cần đưa thuyền viên và hành khách đến "nơi an toàn" trước tiên. Giai đoạn tiếp theo của nỗ lực kiểm soát vũ khí hải quân là Hội nghị Hải quân Geneva lần thứ hai vào năm 1932; và trong năm đó, đã cho "nghỉ hưu" hai thiết giáp hạm, mười hai tàu tuần dương, 25 tàu khu trục và 12 tàu ngầm, tất cả, 130.000 tấn Anh tàu hải quân (có thể bị loại bỏ hoặc đặt trong kho dự trữ). Các cuộc đàm phán giữa các bên ký kết hiệp ước khác vẫn tiếp tục trong những năm tiếp theo. Theo sau đó là Hiệp ước Hải quân Luân Đôn thứ hai năm 1936. Hiệp ước giới hạn vũ khí hải quân Hiệp ước hải quân London thứ hai Danh sách các hiệp ước được ký kết tại London. Hiệp ước Luân Đôn Danh sách các hiệp ước được ký kết tại London. Sự cố Ngày 15 tháng âm mưu đảo chính Nhật Bản Steiner, Zara S. (2005). The Lights that Failed: European International History 1919–1933. Oxford: Oxford University Press. OCLC 58853793 Văn bản của hiệp ước (tiếng Anh) | Hiệp ước giới hạn và giảm quân bị hải quân | Hải quân Hoa Kỳ thế kỷ 20, Hiệp ước của Hoa Kỳ, Hiệp ước của Vương quốc Liên hiệp Anh, Hiệp ước của Đệ Tam Cộng hòa Pháp, Hiệp ước của Đế quốc Nhật Bản, Hải quân Đế quốc Nhật Bản, Lịch sử hải quân Hoàng gia, Chính sách quốc phòng Vương quốc Liên hiệp Anh, Hiệp ước kiểm soát vũ khí, Lịch sử quân sự Vương quốc Liên hiệp Anh thế kỷ 20, Nhật Bản năm 1930, Pháp năm 1930, Lịch sử hải quân Nhật Bản, Lịch sử hải quân Pháp, Lịch sử hải quân, Hiệp ước hải quân, Quan hệ Mỹ-Nhật, Hiệp ước giữa hai cuộc thế chiến |
Corallus caninus là một loài trăn không độc được tìm thấy rừng mưa Nam Mỹ. Không có phân loài được công nhận. C. caninus Con trưởng thành dài khoảng 1,8 mét. Chúng đã phát triển răng cửa có khả năng dường như lớn hơn một cách cân đối so với răng của những con rắn không có nọc độc khác. Kiểu màu thường bao gồm màu bề mặt xanh lục bảo với một đường sọc dích dắc bất thường màu trắng bị gián đoạn xuống phía sau và bụng màu vàng. Trăn non có màu khác giữa màu da cam sáng và tối hoặc màu đỏ gạch trước khi thay da sang xanh ngọc lục bảo (sau khi độ tuổi 9-12 tháng). Tập tin:Corallus National Aquarium Baltimore Loài này được tìm thấy Nam Mỹ lưu vực Amazon của Colombia, Ecuador, Peru, bắc Bolivia, Brazil, và từ Venezuela đến Surinam và Guianas trong khu vực gọi là Tấm khiên phía Bắc. Loài trăn này chủ yếu ăn chim nhưng cũng ăn động vật có vú nhỏ. Con non cũng ăn thằn lằn, ếch nhái. Loài trăn này đẻ trứng với mỗi lứa từ 6-14 quả trứng. Trăn non mới nở có màu từ đỏ gạch đến vàng và dần chuyển màu. Corallus.com: Emerald Tree Boa at Corallus Dot Com. Truy cập ngày tháng năm 2008. Amazon Basins LLC. Truy cập ngày tháng năm 2008. Corallus caninuS Truy cập ngày tháng năm 2008. | ''Corallus caninus | Động vật Brasil, Động vật Bolivia, Động vật Ecuador, Động vật Guianas, Động vật Guiana thuộc Pháp, Động vật Guyana, Động vật Peru, Động vật Suriname, Động vật Venezuela, Động vật Guyane thuộc Pháp, Động vật bò sát Guyana, Động vật bò sát Nam Mỹ, Động vật được mô tả năm 1758, Động vật Amazon, Động vật bò sát Bolivia, Động vật bò sát Brasil, Động vật bò sát Ecuador, Động vật bò sát Peru, Động vật bò sát Venezuela |
Sân bay quốc tế Sabiha Gökçen là một trong những sân bay của Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Sân bay được đặt tên theo Sabiha Gökçen, nữ phi công quân sự đầu tiên của thế giới. Sân bay này nằm bên phần châu của Istanbul. Sân bay này được xây do Sân bay quốc tế Atatürk phía châu Âu của Istanbul không đủ rộng để đáp ứng số lượng khách tăng nhanh. Tuy nhiên, cả hai sân bay của Istanbul cộng lại chỉ đáp ứng được 20 triệu khách quốc tế và triệu khách nội địa và không thể đáp ứng nhu cầu vận chuyển năm 2007 vì sân bay này chỉ có công suất triệu khách quốc tế và 0,5 triệu khách nội địa/năm. Aerotur Airlines (Aktau, Taraz) AMC Airlines (Cairo) Air Arabia (Sharjah) Belle Air (Tirana) Condor Airlines (Frankfurt, Munich) Corendon Airlines (Amsterdam) easyJet London-Luton) Germanwings Cologne/Bonn, Dortmund, Stuttgart) Jazeera Airways (Kuwait) MyAir (Milan-Bergamo) Norwegian Air Shuttle (Oslo, starts 15 June) Pegasus Airlines (Adana, Ankara, Antalya, Bodrum, Dalaman, Diyarbakır, Düsseldorf, Ercan, Erzurum, Gaziantep, Kayseri, Malatya, Munich, Nuremberg, Samsun, Stuttgart, Tehran-Imam Khomeini, Trabzon, Van, Vienna, Zurich) ** Pegasus Airlines operated by Izair (Izmir) SunExpress TUIfly (Frankfurt, Hannover) Turan Air (Ganja) Turkish Airlines (Ankara, Antalya, Bodrum, Dalaman, İzmir) ** Turkish Airlines operated by SunExpress (Adana, Antalya, Cologne, Diyarbakir, Erzurum, Hannover, Kars, Nuremberg, Sivas, Trabzon, Van) Số lượt khác Năm (tháng) Nội địa Quốc tế Tổng 2007 (tất cả) 2.563.283 1.228.348 3.791.625 2006 (tất cả) 2.153.561 762.893 2.916.454 2005 (tất cả) 559.824 459.922 1.019.746 2004 (tất cả) 10.323 235.278 245.601 2003 (tất cả) 2.826 154.346 157.172 Nguồn | Sân bay quốc tế Sabiha Gökçen | Sân bay Thổ Nhĩ Kỳ, Istanbul |
Cố Luân Ôn Hiến Công chúa (chữ Hán: 固伦温宪公主, 1683 1702), Công chúa nhà Thanh, là Hoàng nữ thứ chín của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, xếp thứ tự là Ngũ Công chúa. Cố Luân Ôn Hiến Công chúa sinh ngày 22 tháng (âm lịch) năm Khang Hi thứ 22 (1683), mẹ là Đức phi Nhã thị, là em gái của Ung Chính Đế. Mặc dù là Hoàng nữ thứ nhưng Cố Luân Ôn Hiến Công chúa lại được xếp là Ngũ Công chúa. Từ nhỏ, Ngũ Công chúa đã được nuôi dưỡng bởi Nhân Hiến Hoàng thái hậu, rất được Thái hậu và Khang Hi Đế sủng ái, đãi ngộ cũng cao hơn so với các Công chúa khác Trong "vi Hoàng thái hậu Hoàng tử Công chúa đẳng dự bị trư nga kê đẳng sổ mục thanh đan (từ "Khang Hi triều Mãn văn chu phê"), đối với việc cung ứng cho Công chúa có ghi chép lại, Tứ Công chúa Cố Luân Khác Tĩnh Công chúa và Lục Công chúa Cố Luân Thuần Khác Công chúa đều chỉ được cân thịt heo (các Công chúa nhỏ hơn càng nhận được ít hơn), mà Ngũ Công chúa không những được cân thịt heo còn nhiều thêm ngỗng nửa con, gà một con. Cũng biết là vì nuôi dưỡng bên cạnh Thái hậu mà đãi ngộ của Ngũ Công chúa cao hơn các chị em khác. Năm Khang Hi thứ 39 (1700), Ngũ Công chúa được phong Hoà Thạc Ôn Hiến Công chúa, gả cho Thuấn An Nhan Ôn Hiến Công chúa kết hôn không tính là muộn trong Công chúa xuất giá thời Khang Hi. Ngũ Công chúa 18 tuổi được phong là Hoà Thạc Ôn Hiến Công chúa cũng vì Công chúa gả cho người Mãn, mà không phải Mông Cổ quý tộc những địa phương xa. Thuấn An Nhan là cháu nội Đông Quốc Duy cha của Hiếu Nhân Hoàng hậu, con trai Loan nghi sử Diệp Khắc Thư (叶克书), là gia tộc được xưng là "Đông bán triều" hiển hách thời bấy giờ. Cũng vì gả vào Đông gia mà phủ Công chúa được xây dựng Kinh Thành, cho dù gả đi cũng không cách quá xa gia đình. Trong Công chúa xuất giá của Khang Hi, hết người đã phải xa giá đến Mông Cổ hoặc Tây Tạng. Ôn Hiến Công chúa không phải xa giá có lẽ cũng vì Khang Hi Đế và Hoàng thái hậu không nỡ gả Công chúa đến những địa phương xa như vậy. Năm Khang Hi thứ 41 (1702), Khang Hi Đế phụng dưỡng Hoàng thái hậu đến Hành cung Nhiệt Hà nghỉ mát. Thái hậu mang theo Ôn Hiến Công chúa đã xuất giá cùng đi, không ngờ được Công chúa đột ngột qua đời vào ngày tháng 7, khi mới chỉ gần 20 tuổi Năm Khang Hi thứ 48 (1709), Thuấn An Nhan vì là phe phái của Hoàng bát tử Dận Tự mà bị tước đi "Ngạch phò", giam cầm, sau đó mới được thả ra. Năm Ung Chính nguyên niên (1723), tháng 3, Công chúa được truy phong "Cố Luân Ôn Hiến Công chúa". Năm Ung Chính thứ (1724), thụ phong Lĩnh thị vệ Nội đại thần, cùng năm mất. Năm Càn Long thứ 17 (1752), Huyện chúa Ái Tân Giác La thị, con gái thứ của Trang Khác Thân vương Dận Lộc, gả cho con trai Thuấn An Nhan là Nguyên Phương. Đây là thứ tử của Công chúa mà không phải là thân sinh. Từ nhỏ, Ôn Hiến Công chúa đã được nhận những sự giáo dục tốt nhất, Công chúa lại rất thông minh, về sau, trên tế văn của Ôn Hiến Công chúa (từ "Hoàng triều văn điển") có viết: Trong tế văn cho phụ nữ rất hiếm dùng những từ như "Thông tuệ", mà trong tế văn Ôn Hiến Công chúa lại xuất hiện các từ như "Thông tuệ túc hành", "Tính tự duyệt hồ thi thư", không chỉ vì Khang Hi Đế muốn an ủi Hoàng thái hậu, mà thực sự vì Ôn Hiến Công chúa thực sự tài hoa, đáng giá nhận được những đánh giá cao như vậy. Trong "Thanh Hoàng triều văn điển" có ghi chép lại tế văn truy phong Cố Luân Ôn Hiến Công chúa: Cha: Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế Mẹ: Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu Hoàng tứ tử Dận Chân, tức Ung Chính Đế. Hoàng lục tử Dận Tộ. Hoàng thất nữ. Hoàng thập nhị nữ. Hoàng thập tứ tử Dận Đề, tức Tuân Cần Quận vương. Năm Phim truyền hình Diễn viên 1998 Ung Chính Tiểu Điệp Niên Canh Nghiêu (雍正小碟年羹尧) Lâm Tiểu Lâu (林小楼) 2017 Hoa Lạc Cung Đình Thác Lưu Niên (花落宫廷错流年) Mao Na (毛娜) Thanh sử cảo Khang Hi triều Mãn văn chu phê Ôn Hiến | Cố Luân Ôn Hiến Công chúa | |
Melissa Joan Hart (sinh ngày 18 tháng năm 1976) là nữ diễn viên kiêm đạo diễn và nhà sản xuất truyền hình người Mỹ. Cô bắt đầu nghiệp diễn xuất từ năm tuổi bằng nhiều chương trình quảng cáo và xuất hiện trong các chương trình truyền hình nổi bật, trong đó có Kane Abel (1985), The Equalizer và Christmas Snow (1986). Cô nhận vai chính trong loạt chương trình hài kịch Clarissa Explains It All (1991) của đài Nickelodeon, với mùa kéo dài. Loạt chương trình đạt thành công về tỉ lệ người xem, giúp Hart sau đó tham gia vào trò chơi Director's Lab của đài Nickelodeon, tập phim hậu truyện của chương trình, giành trong số đề cử giải Young Artist Award và thu âm hai album phòng thu. Hart dừng việc học tại Trường Đại học New York để vào vai Sabrina trong bộ phim dành cho truyền hình, Sabrina the Teenage Witch và loạt chương trình truyền hình hài kịch tình huống cùng tên được trình chiếu trên đài ABC và The WB vào năm 1996. Loạt chương trình thu hút tỉ lệ người xem cao và kéo dài suốt mùa cho đến năm 2003, với một phiên bản hoạt hình phát hành năm 2013 do Ashley Tisdale thủ vai chính. Hart cùng bạn diễn Adrian Grenier từng xuất hiện trong video âm nhạc "(You Drive Me) Crazy" được phối lại của Britney Spears nhằm quảng bá cho bộ phim lãng mạn hài hước Drive Me Crazy (1999). Cô lần đầu đạo diễn trong Mute (2005), tham gia làm khách mời loạt phim Law Order: Special Victims Unit (2007), nhận vai chính trong bộ phim điện ảnh dành cho truyền hình đạt tỉ lệ người xem cao, Holiday in Handcuffs (2007) và cuộc thi Dancing with the Stars mùa thứ (2009). Hart nhận vai chính và tham gia làm đạo diễn trong mùa phim thứ hai của loạt phim hài kịch tình huống gia đình Melissa Joey (2010-2015). Tháng năm 2009, Hart điều hành cửa hàng kẹo SweetHarts tại Sherman Oaks, California. Cửa hàng bị đóng cửa vào tháng 12 năm 2011 bởi những cáo buộc có liên quan đến việc chấm dứt hợp đồng sai quy cách và phân biệt chủng tộc đối với một nhân viên cũ. Cửa hàng sau đó được mở cửa và sang lại cho một người chủ khác. Vào ngày 19 tháng năm 2003, Hart kết hôn cùng nhạc sĩ Mark Wilkerson tại Florence, Ý, cùng lúc được ghi hình cho loạt chương trình tài liệu Tying the Knot do hãng sản xuất Hartbreak Films của chính cô thực hiện. Cả hai đã có ba người con trai: Mason Walter Wilkerson (tháng năm 2006), Braydon "Brady" Hart Wilkerson (tháng năm 2008) và Tucker McFadden Wilkerson (tháng 12 năm 2012). Braydon lần đầu được ra mắt công chúng cùng bố mẹ trên tờ People số ngày tháng năm 2008. Gia đình của cô hiện đang ngụ tại Westport, Connecticut. Cô công khai ủng hộ Đảng Cộng hòa khi tweet tán thành ứng cử viên Mitt Romney ngay trước Ngày bầu cử tổng thống Hoa Kỳ vào năm 2012, gây nên nhiều tranh cãi từ phía chính trị cánh tả và trở thành chủ đề nổi bật trên Twitter, thu hút hơn 15.000 lượt người theo dõi mới. Ngoài ra, cô từng đi thi Celebrity Wheel of Fortune của đài truyền hình ABC Hoa Kỳ vào năm 2021 và thắng triệu USD trong vòng đặc biệt. +Chương trình truyền hình Năm Tựa đề Vai Chú thích 1985 ABC Weekend Special Cindy Tập: "The Adventures of Con Sawyer and Hucklemary Finn" 1985 Kane Abel Florentyna Rosnovski (7 tuổi) Được ghi nhận bằng tên Melissa Hart 1986 ' Laura Moore Tập: "Torn" (ghi nhận bằng tên Melissa Hart) 1986 Another World Roller-Skater Tập ngày 22 tháng 1991–94 Clarissa Explains It All Clarissa Darling Vai chính (65 tập) 1992 Nick Arcade Chính cô 1993 Are You Afraid of the Dark? Daphne Tập: "The Tale of the Frozen Ghost" 1995 Clarissa Clarissa Darling Chỉ sản xuất tập 1995 Touched by an Angel Claire Latham Tập: "Angels on the Air" 1996 Weinerville Chính cô/Subway Passenger Tập: "The Weinerville Election Special" "The Weinerville New Years Special: Lost In The Big Apple" 1996–2003 Sabrina the Teenage Witch Sabrina Spellman Vai chính (163 tập); Sản xuất, đạo diễn 1997 Clueless Sabrina Spellman Tập: Mr. Wright 1997 Boy Meets World Sabrina Spellman Tập: "The Witches of Pennbrook" 1997 You Wish Sabrina Spellman Tập: "Genie Without Cause" 1997 Teen Angel Sabrina Spellman Tập: "One Dog Night" 1998 Superman: The Animated Series Saturn Girl Irma Ardeen Lồng tiếng 1999 That '70s Show Mary Tập: "Eric gets Suspended" 1999–2000 Sabrina: The Animated Series Dì Hilda Spellman và dì Zelda Spellman Lồng tiếng 2000 Just Shoot Me! Krissy Tập: "Fast Times at Finchmont High" 2003 The Jamie Kennedy Experiment Chính cô Tập ngày 20 tháng 2004 North Shore Chính cô Tập: "Secret Service" 2005,2012 Robot Chicken Emily the Spy, Hilda Spellman và Sabrina Spellman (Lồng tiếng) Tập: "Operation Rich in Spirit", "Executed by the State" 2006 Justice League Unlimited Delia Deidre Dennis Dee Dee Lồng tiếng 2007 Law Order: Special Victims Unit Sarah Trent Tập: "Impulsive" 2009 Dancing With the Stars Chính cô 2010–2015 Melissa Joey Mel Burke Vai chínhNhà sản xuất 2010 When Was 17 Chính cô 2014 Motor City Masters Chính cô/khách mời Tập: "The Mother of All Design Challenges" 2015 The Mysteries of Laura K.C. Moss Tập: "The Mystery of the Deceased Documentarian" +Phim Năm Tựa đề Vai Chú thích 1986 Christmas Snow Amy Phim truyền hình (ghi nhận bằng tên Melissa Hart) 1995 Family Reunion: Relative Nightmare Samantha Phim truyền hình 1996 Sabrina the Teenage Witch Sabrina Sawyer Pilot movie for TV series 1996 Twisted Desire Jennifer Stanton Phim truyền hình 1997 ' Melanie Cambridge Phim truyền hình (ghi nhận bằng tên Melissa Hart) 1997 Two Came Back Susan Clarkson Phim truyền hình 1998 Silencing Mary Mary Stuartson Phim truyền hình 1998 Can't Hardly Wait Vicki, Yearbook Girl Không ghi nhận 1998 Sabrina Goes to Rome Sabrina Spellman Sophia Phim truyền hình 1999 Drive Me Crazy Nicole Maris 1999 Love, American Style Annabelle Phim truyền hình, phần "Love In The Old South" 1999 Sabrina, Down Under Sabrina Spellman Phim truyền hình 2000 Santa Mouse and the Ratdeer Molly Lồng tiếng 2000 Sunlight Grrrll 2000 Batman Beyond: Return of the Joker Delia Deidre Dennis Dee Dee Lồng tiếng 2001 Backflash C.J. Direct-to-video 2001 Recess: School's Out Becky Detweiller Lồng tiếng 2001 The Voyage to Atlantis: The Lost Empire Chính cô Short; spinoff of Atlantis: The Lost Empire 2001 Not Another Teen Movie Slow Clapper's cô Không ghi nhận 2002 Rent Control Holly Washburn Phim truyền hình 2002 Hold On Chính cô phim ngắn 2006 Dirtbags Kate Phim truyền hình 2006 Jesus, Mary and Joey Jackie 2007 Holiday in Handcuffs Trudie Chandler Phim truyền hình 2008 Whispers and Lies AKA Secrets of Pine Cove Jill Roperson Phim truyền hình 2009 Nine Dead Kelly Murphy 2009 My Fake Fiancé Jennifer Phim truyền hình 2011 Satin Lauren Wells 2014 Santa Con Rose DeMarco +Video âm nhạc Năm Tựa đề Vai Chú thích 1999 "(You Drive Me) Crazy" Britney Spears Bài hát xuất hiện trong nhạc phim Drive Me Crazy 2007 "I Get Money" 50 Cent 2008 "Anger Cage" Course of Nature Đồng đạo diễn Năm Giải Hạng mục Work Kết quả Ref. 1992 Young Artist Award Best Young Actress Starring in an Off-Prime Time or Cable Series Clarissa Explains It All 1993 Young Artist Award Best Young Actress Starring in Cable Series Clarissa Explains It All 1994 Young Artist Award Best Youth Actress Leading Role in Television Series Clarissa Explains It All 1995 Young Artist Award Best Youth Comedienne in TV Show Clarissa Explains It All 1997 Saturn Award Best Genre TV Actress Sabrina, the Teenage Witch 1997 Young Artist Award Best Performance in TV Comedy: Leading Young Actress Sabrina, the Teenage Witch 1997 YoungStar Award Best Young Actress in Comedy TV Series Sabrina, the Teenage Witch 1998 Kids' Choice Award Favorite Television Actress Sabrina, the Teenage Witch 1998 Young Artist Award Best Performance in TV Comedy Series: Leading Young Performer Sabrina, the Teenage Witch Best Performance in TV Movie or Feature Film: Young Ensemble The Right Connections 1999 Kids' Choice Award Favorite Television Actress Sabrina, the Teenage Witch 1999 Teen Choice Award Choice TV Actress Sabrina, the Teenage Witch 2000 Kids' Choice Award Favorite Movie Actress Drive Me Crazy Favorite Television Actress Sabrina, the Teenage Witch 2001 Kids' Choice Award Favorite Television Actress Sabrina, the Teenage Witch 2002 Kids' Choice Award Favorite Television Actress Sabrina, the Teenage Witch 2003 Kids' Choice Award Favorite Television Actress Sabrina, the Teenage Witch 2013 Young Artist Award Former Child Star Lifetime Achievement Award Clarissa Explains It the Teenage Witch Melissa Joan Hart trên Internet Off-Broadway Database | Melissa Joan Hart | Sinh năm 1976, Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 20, Nữ diễn viên Mỹ thế kỷ 21, Nữ diễn viên đến từ New York, Nữ diễn viên thiếu nhi Mỹ, Nữ ca sĩ Mỹ, Nữ diễn viên điện ảnh Mỹ, Nữ diễn viên sân khấu Mỹ, Nữ diễn viên truyền hình Mỹ, Đạo diễn truyền hình Mỹ, Nhà sản xuất truyền hình Mỹ, Nữ diễn viên lồng tiếng Mỹ, Nhân vật còn sống, Nữ ca sĩ thế kỷ 21 |
Cedrus brevifolia là một loài thực vật hạt trần trong họ Thông. Loài này được (Hook.f.) Elwes A.Henry miêu tả khoa học đầu tiên năm 1908.. Đây là loài bản địa dãy núi Troödos miền trung Síp. Loài này mọc rừng quốc gia Pafos. Loài này thường được xem là một đồng âm của Cedrus libani. | ''Cedrus brevifolia | |
Javier Botet López (sinh ngày 30 tháng năm 1977) là một nam diễn viên người Tây Ban Nha. Anh được biết đến qua các vai diễn phản diện (thường là quái vật) trong loạt phim REC (2007-2012), Mẹ ma (2013), Xác ướp (2017) và Slender Man trong bộ phim cùng tên (2018). Ngoài ra, anh cũng xuất hiện trong Lâu đài đẫm máu (2015), Ám ảnh kinh hoàng 2 (2016), Chú hề ma quái (2017), Quỷ quyệt: Chìa khóa quỷ dữ (2018) và Chuyện kinh dị lúc nửa đêm (2019). Botet được sinh ra Ciudad Real và là con trai của Agustín Andrés Botet Rodríguez và María del Carmen Servilia López Nieto. Khi năm tuổi, anh được chẩn đoán mắc hội chứng Marfan. Do bị rối loạn về gen quy định mô liên kết nên Botet có tứ chi, ngón tay và chân cực kỳ dài cùng với dáng người cao, gầy gò với chiều cao lên đến ft in (200 cm) và nặng 123 pounds (56 kg). Vì có hình dáng kỳ lạ cùng với sự say mê nghệ thuật nên Botet đã đóng vai diễn đầu tiên của mình vào năm 2005, trong bộ phim Beneath Still Waters của Brian Yuzna. Hai năm sau, anh đóng vai Tristana Medeiros trong bộ phim RED của Jaume Balagueró và Paco Plaza. Botet đã xuất hiện trong nhiều bộ phim điện ảnh, bao gồm cả vai Frankenstein trong bộ phim chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên của Teatros del Canal, cũng như trong Star Trek: Discovery với vai một cá thể người ngoài hành tinh được gọi là Ba'ul. Botet được trao giải Màquina del Temps (Time Machine) tại Liên hoan phim Sitges 2019, cùng với nữ diễn viên Maribel Verdú. Giải thưởng này được trao hàng năm cho các cá nhân có những đóng góp xuất sắc trong thể loại phim giả tưởng. Diễn viên (chương trình truyền hình) Năm Tập phim/Chương trình Vai Chú thích 2019 "The Sound of Thunder" Star Trek: Discovery (mùa 2, tập 6) Ba'ul species "The Long Night" Game of Thrones (mùa 8, tập 3) Wight Diễn viên (phim điện ảnh) Năm Phim Vai Chú thích 2005 Beneath Still Waters Humanoid 2007 REC Niña Medeiros 2009 REC 2 2012 REC 3: Genesis 2013 Mẹ ma Mẹ ma Witching Bitching Luismi 2015 Lâu đài đẫm máu 2016 The Other Side of the Door Myrtu Ám ảnh kinh hoàng 2 Ông kẹ Don't Knock Twice Ginger Special 2017 Xác ướp Set Chú hề ma quái Hobo Polaroid Entity 2018 Quỷ quyệt: Chìa khóa quỷ dữ KeyFace Slender Man: Gã không mặt Slender Man Mara Mara 2019 Chuyện kinh dị lúc nửa đêm Quỷ mất ngón Sản xuất Năm Phim Vai trò Chú thích 2017 Alien: Covenant'' Ghi hình chuyển động | Javier Botet López | Nam diễn viên điện ảnh Tây Ban Nha, Sinh năm 1977, Nhân vật còn sống |
Drasteria divergens là một loài bướm đêm thuộc họ Erebidae. Nó được tìm thấy California tới Colorado, phía bắc đến British Columbia. Sải cánh dài khoảng 44 mm. Con trưởng thành bay từ tháng đến tháng in California. Bug Guide Images | ''Drasteria divergens | Drasteria |
Trò chơi điện tử ứng dụng hóa Trò chơi điện tử ứng dụng hóa hay còn gọi tắt là Game hóa (tiếng Anh: một thuật ngữ về một xu hướng quản lý mới, cho phép doanh nghiệp, các công ty đưa các ứng dụng trong công việc ngoài đời thực vào trong một trò chơi nhằm giúp mọi người tìm hiểu, nghiên cứu và chơi để tăng năng suất làm việc. hay là việc ứng dụng các thành phần của Game vào trong các lĩnh vực khác để tạo ra một trải nghiệm thú vị cho người dùng, gắn kết người dùng với các ứng dụng phần mềm như website hay mobile app... Trong xu hướng phát triển vài năm gần đây, Game hóa đã trở thành thuật ngữ được dùng trong nhiều lĩnh vực như phát triển phần mềm, marketing, giáo dục, hoạt động nhân sự. Những Game hóa là mong muốn nhân viên mình làm công việc mà họ được giao. Hoặc bạn có thể theo dõi công việc nhân viên và rồi thưởng cho họ khi họ làm đúng việc mà họ được giao bằng điểm thưởng, huân chương, vị trí nào đó hoặc thậm chí là tiền. Đây là cách làm mới. Nếu bạn áp dụng cách quản lý này cho một cửa hàng nào đó, hay một siêu thị nào đó đang chạy chương trình điểm thưởng, thì đó cũng là một dạng của Game hóa. Đến nay, đây được xem là công cụ tạo động lực làm việc hàng đầu cho nhân viên. Thuật ngữ "Game hóa" được đặt ra vào năm 2002 bởi Nick Pelling, một lập trình viên máy tính người Anh đã phát minh, nó đã không được phổ biến cho mãi đến năm 2010. Thuật ngữ "Game hóa" đầu tiên được sử dụng rộng rãi trong năm 2010, trong một nghĩa cụ thể hơn, đề cập đến việc hợp nhất thực tế xã hội và khía cạnh phần thưởng vào phần mềm trò chơi. Một số doanh nghiệp đã tạo ra nền tảng game hóa. Trong tháng 10 năm 2007, Bunchball, được hỗ trợ bởi Adobe Systems Incorporated, là công ty đầu tiên cung cấp dịch vụ trò chơi cơ khí, trên Dunder Mifflin Infinity, các trang web cộng đồng cho TV NBC cho Văn phòng. Khách hàng Bunchball đã bao gồm Playboy, Chiquita, Bravo, và The USA Network. Vào tháng năm 2009, một startup Seattle có tên gọi là BigDoor được thành lập, cung cấp công nghệ game hóa đến các trang web không chơi game Badgeville ra mắt vào cuối năm 2010, và lớn lên 15 triệu USD trong ngân sách liên vốn trong năm đầu tiên hoạt động; nó cung cấp các dịch vụ gamification cho một số khách hàng lớn. Trong số các công ty doanh nghiệp thành lập, SAP AG, Microsoft, IBM, SAP, LiveOps, Deloitte, và các công ty khác đã bắt đầu sử dụng trong các ứng dụng khác nhau của việc game hóa và quy trình. Một sự kiện khám phá tương lai của việc game hóa, được tổ chức tại University of Waterloo Stratford Campus trong tháng 10 năm 2013. Triển khai Game hóa gồm hoạt động cơ bản: Thiết kế "tính game" và phát triển game. Tùy vào mục đích và lĩnh vực ứng dụng, việc phát triển game có thể là xây dựng các trò chơi vận động, xây dựng website và phần mềm có tính tương tác cao, hay phát triển ứng dụng giải trí trên PC, mobile. Một nhà văn nổi tiếng, một họa sĩ giỏi hay một lập trình viên lành nghề chưa chắc là lựa chọn tốt. Hoạt động này đòi hỏi người triển khai phải hiểu rõ các nguyên tắc cơ bản của thiết kế game để có thể tạo ra sản phẩm đúng đồ ban đầu của người thiết kế. Có lẽ chúng ta nên bắt đầu bằng một thực tế là con người luôn có mong muốn vui vẻ và tham gia vào các cuộc chơi. Chính vì vậy, nếu một sản phẩm phần mềm được làm ra chỉ với những tính năng phục vụ business thì người dùng sẽ chỉ sử dụng nó khi người ta cần, hoặc khi người ta "buộc phải làm việc" với ứng dụng phần mềm đó. Ngược lại, nếu các chương trình phần mềm máy tính, mobile app, các chương trình marketing có cơ chế khuyến khích, lôi kéo khách hàng tham gia và gắn bó lâu dài thì người dùng sẽ dành nhiều thời gian để tham gia với sự hứng khởi và tần suất đều đặn. Như vậy, mục đích của Gamification khá rõ ràng, với một số tiêu chí căn bản như sau: Gắn kết với người dùng, khách hàng tốt hơn Khiến khách hàng/người dùng dành nhiều thời gian hơn với các ứng dụng phần mềm, đặc biệt là các ứng dụng mobile app. Tạo ra động lực kích thích người dùng tham gia vào hoạt động của các chương trình marketing, các website, ứng dụng mobile như một phần trong cuộc sống của họ thông qua các mô thức tâm lý học hành vi. Tạo ra thị trường mới với những tiêu chí cạnh tranh, cuốn hút khách hàng tiêu dùng, người dùng sản phẩm phần mềm cũng như xây dựng một môi trường văn hóa doanh nghiệp với động lực thúc đẩy nhân viên hoàn toàn mới mẻ. Theo nhà tư vấn Gabe Zichermann, game hoá áp dụng những tưởng tốt nhất từ game giải trí vào công việc. Thay vì là giải trí đơn thuần thì game hóa tạo mối tương tác trong công việc. Hầu hết công việc đều rất chán, nhưng nếu chuyển sang mô hình game thì sẽ là điều tuyệt vời. tưởng này giúp nhân viên cảm thấy công việc thú vị hơn. Theo Duncan Lennox, CEO và đồng sáng lập công ty sản xuất ứng dụng game hóa Qstream, phát triển ứng dụng có khả năng áp dụng mô hình game vào công việc là điều không dễ vì ứng dụng doanh nghiệp phải có một giao diện thân thuộc với nhân viên và nhân viên phải sẵn lòng sử dụng. Hầu hết quá trình game hóa đều xoay quanh các giờ đào tạo cho nhân viên. Do vậy, Lennox cho biết công ty ông đưa ra một công cụ đào tạo cho nhân viên bán hàng với mỗi phần nội dung online chỉ khoảng phút. Hơn nữa, ứng dụng game hóa cần được thiết kế xoay quanh dữ liệu liên quan đến công việc của nhân viên. Tuy vậy, các nhà thiết kế cần phải cẩn thận khi đưa ra giải thưởng đúng với thái độ, tính sáng tạo của người dùng. Theo báo cáo của Beyond Nintendo, tỷ lệ sự tập trung của học sinh trong lớp học sử dụng công nghệ giáo dục qua các trò chơi đạt tới 92%. Các giáo viên cũng cho biết với các lớp học sử dụng các trò chơi để dạy học, học sinh thường yêu cầu được học môn đó nhiều hơn và cho rằng thời gian học môn đó hơi ngắn. Tại Mỹ, theo Joey J. Lee và Jessica Hammer của đại học Columbia, những kỹ thuật từ Gamification được áp dụng lớp học có thể giúp học sinh năng động trong việc học. Đây có thể coi như một phương hướng giúp học sinh nhận thức rõ các hành động thực tế và giúp học sinh nhận được những lợi ích thiết thực nhất ngay lập tức hơn là những lợi ích trong tương lai. Bởi trong các trò chơi thường bao gồm những sự trải nghiệm được lặp đi lặp lại và vì thế đôi khi học sinh thường phải đối mặt với những sự thất bại được lặp lại. Vì vậy, trong nhiều trò chơi thì cách duy nhất để học đó chính là chơi game để ít nhất một lần thất bại và sau đó sẽ hiểu, phân tích cũng như khắc phục từng lỗi một. Và như thế học sinh có thể cố gắng tiếp tục cho tới khi nào mà họ thành công. Việc áp dụng Gamification sẽ giúp cho học sinh tiếp thêm động lực thông qua việc lĩnh hội cảm xúc, sự chờ đợi, và sự cố gắng. | Trò chơi điện tử ứng dụng hóa | Kỹ thuật giao diện người dùng, Kinh tế học hành vi |
Banyuasin là một regency (huyện) thuộc tỉnh Nam Sumatra, Indonesia. Huyện có diện tích là 11.822,99 km² và dân số là 654.286 người vào năm 2000. Huyện lị là Pangkalan Balai. Phần lớn diện tích của huyện là vùng đất thấp ven biển. Tên của huyện bắt nguồn từ các thuật ngữ trong tiếng Java là banyu (nước) và asin (mặn), referring to its coastal geography. Huyện Banyuasin được chia thành 17 kecamatan (phó huyện/xã), là: Air Salek Banyuasin Banyuasin II Banyuasin III Betung Makarti Jaya Muara Padang Muara Sugihan Muara Telang Pulau Rimau Rambutan Rantau Bayur Sembawa Suak Tapeh Talang Kelapa Tanjung Lago Tungkal Ilir | Banyuasin | Nam Sumatra |
Minas Gerais () là một trong 26 bang của Brasil. Đây là bang đông dân thứ nhì của quốc gia, đây là bang giàu thứ nhì, diện tích rộng thứ Brasil. Thủ phủ bang là thành phố Belo Horizonte. Bang này nằm khu vực gần trung tâm địa lý của Brasil. Các sản phẩm chính khu vực này là cà phê và sữa. Bang Minas Gerais nổi tiếng với di sản kiến trúc và nghệ thuật thuộc địa các thành phố lịch sử như Ouro Preto, Diamantina, Tiradentes và Serro. phía nam có các suối nước nóng khoáng như Caxambu, São Lourenço, São Thomé das Letras, Monte Verde và các vườn quốc gia Caparaó và Canastra. Cảnh quan của bang này đặc trung với núi, thung lũng và các vùng đồng bằng màu mỡ. Tại Serra do Cipó, Sete Lagoas, Cordisburgo và Lagoa Santa, có các hang động và thác nước. Trang web của chính quyền bang Minas Gerais Trang web của Hội đồng lập pháp Minas Gerais Trang web của Tòa án Công lý Minas Gerais | Minas Gerais | Bang của Brasil |
Alconchel de Ariza là một đô thị tỉnh Zaragoza, Aragon, Tây Ban Nha. Theo điều tra dân số 2004 của Viện thống kê Tây Ban Nha (INE), đô thị này có dân số là 128 người. Diện tích đô thị này là 35 ki-lô-mét vuông. Đô thị này nằm độ cao 896 trên mực nước biển. Dữ liệu dân số Alconchel de Ariza giai đoạn 1842 và 2001: | Alconchel de Ariza | Đô thị Zaragoza |
iPad 10,2 inch (tên chính thức là iPad (thế hệ 8)) là một máy tính bảng được phát triển và tiếp thị bởi Apple Inc. với tư cách là sản phẩm kế thừa của iPad thế hệ 7. Nó được công bố vào ngày 15 tháng năm 2020 và phát hành vào ngày 18 tháng năm 2020. | iPad 10,2 inch | IPad, IOS, Máy tính bảng |
Đại hội Thể thao châu Âu (hay Âu vận hội, là một sự kiện thể thao đa môn quốc tế dành cho các đoàn thể thao của những quốc gia châu Âu. Đại hội thể thao này hiện đang được Ủy ban Olympic châu Âu (EOC) thiết lập và điều chỉnh các cơ chế, việc ra mắt đã được diễn ra tại đại hội lần thứ 41 của họ tại Roma vào ngày tháng 12 năm 2012. Kỳ đại hội thể thao châu Âu lần thứ nhất sẽ tổ chức tại Baku, Azerbaijan vào tháng năm 2015 với 20 môn thi đấu. Đại hội Thể thao châu Âu là sự kiện thể thao cấp châu lục theo mô hình của các châu lục khác như: Đại hội Thể thao châu Á, Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ, Đại hội Thể thao châu Phi và Đại hội Thể thao Thái Bình Dương. Tính đến năm 2015, mỗi châu lục đã có một đại hội thể thao theo mô hình Olympic truyền thống. Đại hội Thể thao châu Âu không liên quan đến Giải vô địch châu Âu, một sự kiện thể thao riêng của Liên đoàn Thể thao châu Âu tổ chức. Lầnthứ Năm Thành phốchủ nhà Quốc gia chủ nhà Ngày bắt đầu Ngày kết thúc Quốc gia Thí sinh Môn thểthao Nội dungthể thao Đoàn thể thaoxuất sắc nhất 2015 Baku 12 tháng 28 tháng 50 5.898 20 253 II 2019 Minsk 21 tháng 30 tháng 50 4.082 15 200 III 2023 Kraków tháng 25 tháng 50 TBA TBA TBA Các số liệu trong mỗi cho biết số lượng nội dung thi đấu cho mỗi môn thể thao được tranh tài tại các Đại hội Thể thao tương ứng. Môn thể thao (Phân môn) Cơ quan quản lý 2015 2019 Thế giới Châu Âu Nhảy cầu 17px FINA LEN Bơi lội 17px 42 Bơi nghệ thuật 17px Bóng nước 17px Bắn cung 17px WA WAE Điền kinh 17px IAAF EAA 11 Cầu lông 17px BWF BE Bóng rổ (3x3) 17px FIBA FIBAE Bóng đá bãi biển 17px FIFA UEFA Quyền Anh 17px AIBA EBC 15 15 Canoe nước rút 17px ICF ECA 15 16 Đua xe BMX 17px UCI UEC Xe đạp địa hình 17px Xe đạp đường trường 17px Xe đạp lòng chảo 17px 18 Đấu kiếm 17px FIE EFC 12 Acrobatic gymnastics 17px FIG UEG Aerobic gymnastics 17px Artistic gymnastics 17px 14 12 Rhythmic gymnastics 17px Trampoline 17px Judo 17px IJF EJU 18 15 Karate 17px WKF EKF 12 12 Sambo 17px FIAS ESF 18 Bắn súng 17px ISSF ESC 19 20 Bóng bàn 17px ITTF ETTU Taekwondo 17px WTF ETU Ba môn phối hợp 17px ITU ETU Bóng chuyền bãi biển 17px FIVB CEV Bóng chuyền 17px Đấu vật 17px UWW CELA 24 18 Tổng số nội dung thi đấu 253 200 (Tính đến kỳ đại hội 2019) đoàn thể thao còn lại là Albania, Andorra, Iceland, Liechtenstein, Malta và Monaco chưa từng giành huy chương. Thế vận hội Đại hội Thể thao Thế giới Đại hội Thể thao Khối Thịnh vượng chung Giải vô địch châu Âu (sự kiện thể thao đa môn) European Youth Olympic Festival Đại hội Thể thao châu Phi Đại hội Thể thao châu Đại hội Thể thao Thái Bình Dương Đại hội Thể thao Liên châu Mỹ ** Đại hội Thể thao Nam Mỹ Trang web chính thức | Đại hội Thể thao châu Âu | Sự kiện thể thao định kỳ thành lập năm 2015, Giải đấu thể thao quốc tế châu Âu, Sự kiện thể thao đa môn châu Âu |
Hoa hậu Hoàn vũ 1955 là cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ lần thứ được tổ chức vào ngày 22 tháng năm 1955 tại Nhà hát Thính phòng Long Beach Long Beach, California, Hoa Kỳ. Cuộc thi có 33 thí sinh tham gia. Hoa hậu Thụy Điển Hillevi Rombin, 21 tuổi đã giành chiến thắng trong cuộc thi này và được trao vương miện bởi Hoa hậu Hoàn vũ 1954 Miriam Stevenson đến từ Hoa Kỳ. Các nước và vùng lãnh thổ tham gia Hoa hậu Hoàn vũ 1955 và kết quả. Kết quả Thí sinh Hoa hậu Hoàn vũ 1955 * Hillevi Rombin Á hậu 1 * Maribel Arrieta Á hậu 2 * Maureen Hingert Á hậu 3 * Margit Nunke Á hậu 4 * Keiko Takahashi Top 15 * Isabel Sarli * Nicole De Mayer * Emília Lima * Cathy Diggles * Margaret Rowe * María Molina * Pastora Pagán * Solveig Borstad * Carlene King Johnson * Susana Duijm Giải thưởng Thí sinh Hoa hậu Thân thiện Maribel Arrieta Hoa hậu Diễu hành Margaret Rowe Nhà hát Thính phòng Long Beach, địa điểm chính thức diễn ra cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ 1955. Cuộc thi có tổng cộng 33 thí sinh tham gia: Quốc gia/Lãnh thổ Thí sinh Alaska Lorna McLeod Hilda Isabel Sarli Gorrindo Nicole De Mayer Emília Barreto Correia Lima Cathy Diggles Maureen Neliya Hingert Rosa Merello Catalán Clemencia Martínez de Montis Gilda Marín Leonor Carcache Rodríguez Maribel Arrieta Gálvez Margaret Rowe Sirkku Talja Claude Petit Margit Nünke Sonia Zoidou María del Rosario Molina Chacón Pastora Pagán Valenzuela Ilana Carmel Elena Fancera Keiko Takahashi Kim Mee-chong Hanya Beydoun Yolanda Mayen Rosa Argentina Lacayo Solveig Borstad Yvonne Berenguer de los Reyes Carmen Laura Betancourt Hillevi Rombin Inge Hoffmann Carlene King Johnson Susana Duijm Evelyn Laura Andrade Lần cuối tham gia vào năm 1953: Singapore Karin Pamella Rasmussen Gladir Leopardi Suna Soley 1955 | Hoa hậu Hoàn vũ 1955 | Năm 1955 |
Phong trào độc lập Ấn Độ bao gồm các hoạt động và tưởng nhằm chấm dứt Công ty Đông Ấn (1757-1858) và Đế quốc Ấn Độ thuộc Anh (1858-1947) tiểu lục địa Ấn Độ. Phong trào này kéo dài tổng cộng 190 năm (1757-1947). Các phong trào quân sự đầu tiên được tổ chức Bengal, nhưng sau đó họ đã vận động trong Đại hội toàn quốc Ấn Độ mới thành lập với các nhà lãnh đạo cấp tiến vừa phải chỉ tìm kiếm quyền cơ bản của họ xuất hiện trong các kỳ thi Dịch vụ Dân sự Ấn Độ cũng như nhiều quyền, cho người dân đối với đất đai. Phần đầu của thế kỷ 20 đã chứng kiến một cách tiếp cận triệt để hơn đối với tự trị chính trị do các nhà lãnh đạo đề xuất như Lal, Bal, Pal và Aurobindo Ghosh, V. O. Chidambaram Pillai. Các giai đoạn cuối cùng của cuộc đấu tranh tự trị kể từ những năm 1920 trở đi đã chứng kiến Quốc Đại thông qua chính sách của ông Mohandas Karamchand Gandhi về bất bạo động và chống đối dân sự và một số chiến dịch khác. Những người theo chủ nghĩa dân tộc như Netaji Subhash Chandra Bose, Bhagat Singh và Vinayak Damodar Sawarkar đã thuyết giảng cách mạng vũ trang để đạt được sự tự trị. Các nhà thơ và nhà văn như Subramaniya Bharathi, Allama Iqbal, Josh Malihabadi, Mohammad Ali Jouhar, Bankim Chandra Chattopadhyay và Kazi Nazrul Islam đã sử dụng văn chương, thơ và lời nói như một công cụ để nhận thức chính trị. Các nhà nữ quyền như Sarojini Naidu và Begum Rokeya đã thúc đẩy việc giải phóng phụ nữ Ấn Độ và sự tham gia của họ vào chính trị quốc gia. Babasaheb Ambedkar đã bảo vệ sự nghiệp của những bộ phận khó khăn của xã hội Ấn Độ trong phong trào tự trị lớn hơn. Giai đoạn Chiến tranh Thế giới lần thứ hai đã chứng kiến đỉnh cao của các chiến dịch do Phong trào Khá Ấn Độ dẫn đầu bởi Quốc hội, và phong trào Quân đội Quốc gia Ấn Độ do Netaji Subhas Chandra Bose chỉ huy. Phong trào tự trị Ấn Độ là một phong trào quần chúng bao gồm nhiều phần khác nhau của xã hội. Nó cũng trải qua một quá trình thay đổi về thức hệ liên tục. Mặc dù hệ tư tưởng cơ bản của phong trào này là chống thực dân, nó được hỗ trợ bởi một tầm nhìn về sự phát triển kinh tế tư bản độc lập cùng với cấu trúc chính trị thế tục, dân chủ, cộng hòa, và tự do dân chủ. Sau những năm 1930, phong trào này đã có định hướng xã hội chủ nghĩa vững chắc, do ảnh hưởng của nhu cầu của Bhagat Singh về Purn Swaraj (Hoàn thành Tự trị). Công việc của các phong trào này đã dẫn tới Đạo luật Độc lập Ấn Độ năm 1947, chấm dứt quyền bá chủ Ấn Độ và sự ra đời của Pakistan. Ấn Độ vẫn là Vương quốc của Hoàng gia cho đến ngày 26 tháng năm 1950, khi Hiến pháp Ấn Độ có hiệu lực, thành lập Cộng hòa Ấn Độ; Pakistan là một cường quốc cho đến năm 1956, khi nó đã thông qua hiến pháp cộng hòa đầu tiên của nó. Năm 1971, Đông Pakistan tuyên bố độc lập như Cộng hòa Nhân dân Bangladesh. Cách mạng xanh *Brown, Judith M. Gandhi's Rise to Power: Indian Politics 1915–1922 (Cambridge South Asian Studies) (1974) *MK Gandhi. My Experiments with Truth Editor's note by Mahadev Desai (Beacon Press) (1993) *Brown, Judith M., 'Gandhi and Civil Resistance in India, 1917–47', in Adam Roberts và Timothy Garton Ash (eds.), Civil Resistance and Power Politics: The Experience of Non-violent Action from Gandhi to the Present. Oxford New York: Oxford University Press, 2009. ISBN *Jalal, Ayesha. The Sole Spokesman: Jinnah, the Muslim League and the Demand for Pakistan (Cambridge South Asian Studies) (1994) *Gonsalves, Peter. Khadi: Gandhi's Mega Symbol of Subversion, (Sage Publications), (2012) *Gopal, Sarvepalli. Jawaharlal Nehru Volume One: 1889 1947 Biography (1975), standard scholarly biography *Singh, Jaswant. Jinnah: India, Partition, Independence (2010) *Wolpert, Stanley A. Jinnah of Pakistan (2005) *Wolpert, Stanley A. Gandhi's Passion: The Life and Legacy of Mahatma Gandhi (2002) *M.L. Verma Swadhinta Sangram Ke Krantikari Sahitya Ka Itihas (3 Volumes) 2006 New Delhi Praveen Prakashan ISBN 81-7783-122-4. *Sharma Vidyarnav Yug Ke Devta: Bismil Aur Ashfaq 2004 Delhi Praveen Prakashan ISBN 81-7783-078-3. *M.L. Verma Sarfaroshi Ki Tamanna (4 Volumes) 1997 Delhi Praveen Prakashan. *Mahaur Bhagwandas Kakori Shaheed Smriti 1977 Lucknow Kakori Shaheed Ardhshatabdi Samaroh Samiti. *South Asian History And Culture Vol.-2 pp. 16–36, Taylor And Francis group Ấn Độ | Phong trào độc lập Ấn Độ | Lịch sử Ấn Độ, Lịch sử Pakistan, Lịch sử Bangladesh |
Liên đoàn Khoa học Vô tuyến Quốc tế hay Liên đoàn Quốc tế về Khoa học Vô tuyến, viết tắt theo tiếng Anh là URSI (International Union of Radio Science) là một tổ chức phi chính phủ phi lợi nhuận quốc tế hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu Khoa học sóng Radio và ứng dụng của nó. URSI thành lập năm 1919, là thành viên liên hiệp khoa học của Hội đồng Khoa học Quốc tế (ISC) và của Hội đồng Quốc tế về Khoa học (ICSU) trước đây. Khoa học Radio bao gồm các kiến thức và nghiên cứu tất cả các khía cạnh của trường điện từ và sóng. URSI chịu trách nhiệm về việc khuyến khích và phối hợp trên quy mô quốc tế các nghiên cứu, ứng dụng, trao đổi khoa học, và giao tiếp trong các lĩnh vực khoa học radio. Khuyến khích và thúc đẩy các hoạt động quốc tế trong khoa học radio và các ứng dụng của nó, vì lợi ích của nhân loại; Khuyến khích việc áp dụng các phương pháp đo lường thông thường, đối chiếu lẫn nhau, chuẩn hoá các dụng cụ đo lường được sử dụng trong đo lường khoa học; Kích thích và nghiên cứu phối hợp của: ** Các khía cạnh khoa học của viễn thông bằng sóng điện từ, hướng dẫn và không điều khiển; ** Phát và truyền dẫn, tiếp nhận tín hiệu, và dò tìm các trường và sóng, và việc xử lý các tín hiệu nhúng trong chúng. Đại diện cho khoa học radio trong công chúng nói chung, và các tổ chức công cộng và tư nhân. URSI có ban điều hành và các Ban chuyên môn về các lĩnh vực xác định. Ban Tên Tên tiếng Anh Ban Đo lường điện Electromagnetic Metrology Ban Trường và Sóng Fields and Waves Ban Hệ thống Thông tin Vô tuyến và Xử lý Tín hiệu Systems and Signal Processing Ban Điện tử và Quang tử Electronics and Photonics Ban Môi trường Điện từ và Nhiễu Electromagnetic Environment and Interference Ban Truyền sóng và Viễn thám Wave Propagation and Remote Sensing Ban Radio và Truyền sóng tầng Điện ly Ionospheric Radio and Propagation Ban Sóng trong plasma Waves in Plasmas Ban Thiên văn học Vô tuyến Radio Astronomy Ban Điện từ trong Sinh học và học in Biology and Medicine Một số ban của URSI đang tham gia dự án quốc tế hợp tác với các cơ quan quốc tế khác, ví dụ như với Ủy ban Nghiên cứu Vũ trụ (COSPAR) trong dự án International Reference Ionosphere. URSI tổ chức Đại hội (General Assembly) ba năm một kỳ. Đại hội thứ 32 tổ chức Montreal, Canada từ 19 đến 26 tháng năm 2017. Các Đại hội nêu trong danh sách sau: '2020: Rome 2017: Montreal 2014: Bắc Kinh 2011: Istanbul 2008: Chicago 2005: New Delhi 2002: Maastricht 1999: Toronto 1996: Lille 1993: Kyoto 1990: Prague 1987: Tel Aviv 1984: Florence 1981: Washington DC 1978: Helsinki 1975: Lima 1972: Warsaw 1969: Ottawa 1966: Munich 1963: Tokyo 1960: London 1957: Boulder 1954: The Hague 1952: Sydney 1950: Zurich 1948: Stockholm 1946: Paris 1938: Venice 1934: London 1931: Copenhagen 1928: Brussels 1927: Washington DC 1922: Brussels Radio Science Bulletin là tạp chí URSI xuất bản hàng quý, đăng tải các nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực quan tâm của 10 ban nói trên. URSI Newsletter'' là phương tiện trao đổi giữa các nhà khoa học URSI URSI Official website United States National Committee of the International Union of Radio Science Website ISC, Hội đồng Khoa học Quốc tế | Liên đoàn Khoa học Vô tuyến Quốc tế | |
'Caecilia là một loài lưỡng cư thuộc họ Caeciliidae. Đây là loài đặc hữu của Venezuela. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các đồn điền, vườn nông thôn, và rừng trước đây suy thoái nghiêm trọng. La Marca, E., Señaris, C. Wilkinson, M. 2004. Caecilia flavopunctata. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng năm 2007. | null | Caecilia |
là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được George Bentham mô tả khoa học đầu tiên năm 1868 dưới danh pháp Wrightia cunninghamii. Năm 1991 Paul Irwin Forster chuyển nó sang chi Loài này có tại Australia, bao gồm Lãnh thổ Bắc Úc, Tây Úc, Queensland. | null | |
São Gonçalo do Abaeté là một đô thị thuộc bang Minas Gerais, Brasil. Đô thị này có diện tích 2687,41 km², dân số năm 2007 là 6156 người, mật độ 1,9 người/km². Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 | São Gonçalo do Abaeté | Đô thị bang Minas Gerais |
Pink Friday: Roman Reloaded là album phòng thu thứ hai của nghệ sĩ hip hop người Mỹ Nicki Minaj. Album phát hành ngày tháng năm 2012 dưới cả bản chuẩn và deluxe dưới hãng đĩa Universal Republic (Universal Music Group), Young Money và Cash Money. Minaj đã làm việc với nhiều nhà sản xuất khác nhau cho album này, gồm Hit-Boy, Dr. Luke, Ester Dean, Rico Beats, RedOne và Oak, cũng như các nghệ sĩ như Cam’ron, Rick Ross, Chainz, Lil Wayne, Nas, Drake, Young Jeezy, Chris Brown, Bobby và Beenie Man. Thể loại nhạc trong album được phân chia thành hai nửa: nửa đầu gồm các bài hát hip hop; nửa sau gồm các bài hát nhạc pop và dance, trong đó có mang một phần phong cách disco, teen pop, R&B, Eurodance, Europop và dance-pop. Từ khi được phát hành, Pink Friday: Roman Reloaded nhận được nhiều đánh giá khác nhau từ giới phê bình. Tại Mỹ, album ra mắt tại vị trí số một bảng xếp hạng Billboard 200, với 253.000 bản trong tuần đầu phát hành. Album cũng dẫn đầu bảng xếp hạng album tại Vương quốc Anh, tiêu thụ 47.000 bản tuần đầu tiên, đưa Minaj trở thành nữ nghệ sĩ nhạc rap đầu tiên làm được điều này. Nó còn đạt vị trí quán quân tại Canada và Scotland, lọt vào top New Zealand và Úc. Ngày 22 tháng năm 2012, album đã đạt chứng nhận đĩa Bạch kim cho doanh số triệu bản tiêu thụ được tại Mỹ. Đĩa đơn đầu tiên, "Starships", phát lần đầu trên On Air with Ryan Seacrest ngày 14 tháng năm 2012 và được phát hành qua iTunes cùng ngày, đã ra mắt tại vị trí trên bảng Billboard Hot 100, và đạt vị trí cao nhất là 5, trở thành đĩa đơn top 10 thứ hai của cô sau "Super Bass". "Starships" cũng lọt vào top 10 nhiều quốc gia trên thế giới. Các đĩa đơn tiếp theo đã được phát hành gồm "Right by My Side" (hợp tác với Chris Brown), "Beez in the Trap" (hợp tác với Chainz) và "Pound the Alarm". Để quảng bá cho album, Nicki Minaj đã khởi đầu chuyến lưu diễn đầu tiên của cô, Pink Friday Tour, bắt đầu từ tháng năm 2012, đi qua Bắc Mỹ, châu Á, châu Âu và Úc. Cô sẽ có chuyến lưu diễn tiếp theo Pink Friday: Reloaded Tour để quảng bá cho album châu Âu, bắt đầu từ tháng 10 năm 2012. Bảng xếp hạng (2012) Vị trícao nhất Australian Albums Chart Australian Urban Albums Chart Austrian Albums Chart 49 Belgian Albums Chart (Flanders) 23 Belgian Albums Chart (Wallonia) 35 Canadian Albums Chart Danish Albums Chart 25 Dutch Albums Chart 24 Finnish Albums Chart 48 French Albums Chart 20 Greek Albums Chart 32 Irish Albums Chart Italian Albums Chart 66 Mexican Albums Chart 39 New Zealand Albums Chart Norwegian Albums Chart Scottish Albums Chart Spanish Albums Chart 60 Swedish Albums Chart 37 Swiss Albums Chart 24 UK Albums Chart UK R&B Albums Chart US Billboard 200 US Top Rap Albums US Top R&B/Hip-Hop Albums Quốc gia Cấp bởi Chứng nhận Hoa Kỳ RIAA Bạch kim Khu vực Ngày phát hành Dạng đĩa Hãng đĩa Phiên bản Đức tháng năm 2012 CD, Nhạc số tải về Universal Music, Cash Money Chuẩn, đặc biệt Vương quốc Anh Universal Island, Cash Money Pháp Universal Music, Cash Money Úc Hoa Kỳ tháng năm 2012 Universal Music, Young Money, Cash Money Canada Nhật Bản 11 tháng năm 2012 Universal Music Japan, Cash Money Brasil 23 tháng năm 2012 Universal Music, Cash Money Trung Quốc Đan Mạch New Zealand Hà Lan | ''Pink Friday: Roman Reloaded | Album năm 2012, Album của Nicki Minaj, Album sản xuất bởi Benny Blanco, Album sản xuất bởi Dr. Luke, Album sản xuất bởi RedOne |
Ludwik Skumin Tyszkiewicz (1748 26 tháng năm 1808) là một nhà quý tộc người Ba Lan-Litva. Ông cũng từng là một Chỉ huy Litva từ năm 1780 đến năm 1791, Thủ quỹ Tổng quản Litva từ năm 1791, Đại nguyên soái Litva từ năm 1793 và là thành viên của Liên minh Targowica. Năm 1764, với tư cách là phái viên của Trakai, ông đã bầu cho Stanisław August Poniatowski lên ngôi vua. Sau đó, ông kết hôn với Konstancja Poniatowska, con gái của Hoàng tử Kazimierz Poniatowski, cháu gái của Stanisław II August vào ngày tháng năm 1775. Họ có với nhau một con gái tên là Anna, người sau này kết hôn với Bá tước Aleksander Stanisław Potocki. Năm 1776, Tyszkiewicz là phái viên của Hạ viện từ Vilnius. Đến năm 1778, ông được phong làm Nguyên soái Hạ viện. Năm 1782, ông trở thành người ủng hộ của Hội đồng Thường trực. Trong cuộc Chiến tranh Ba Lan Nga năm 1792, tại một cuộc họp diễn ra ngày 23 tháng 7, ông đã ủng hộ việc nhà vua gia nhập Liên minh Targowica. Trong phiên họp Hạ viện Sejm cuối cùng, ông đã được chọn làm người đàm phán với đại sứ Nga Jacob Sievers. Đến ngày 22 tháng năm 1793, ông ký hiệp ước nhượng đất cho Nga. Rồi đến ngày 25 tháng 9, ông tiếp tục nhượng đất cho Phổ, như một phần của Phân vùng thứ hai của Ba Lan. Năm 1795, ông là lãnh đạo của đảng Litva, bày tỏ sự tôn sùng đối với Catherine II. Vào ngày 25 tháng 11 năm 1776, ông nhận Huân chương Đại bàng trắng. Năm 1778 ông được trao Huân chương Thánh Stanislaus. Sau đó vào năm 1787, ông cũng nhận được Huân chương Thánh Alexander Nevsky và Thánh Andrew của nước Nga. Ông là người đã cho xây dựng Cung điện Tyszkiewicz Warsaw vào năm 1792 | Ludwik Skumin Tyszkiewicz | Mất năm 1808, Sinh năm 1748 |
Hang Đầu Gỗ Hang Đầu Gỗ là hang trên hòn Đầu Gỗ trong vịnh Hạ Long, thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam. Hang thuộc dạng karst trong khối núi đá vôi. Hang Đầu Gỗ là một trong những hang đẹp nhất Việt Nam, nằm cách Cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng km. Hang Đầu Gỗ rộng khoảng 5000 m2, cửa hang rộng 17 và cao 12 m. Hang Đầu Gỗ nằm độ cao 27m so với mực nước biển, cùng độ tuổi tạo thành với động Thiên Cung thời Pleistocen muộn cách ngày nay khoảng triệu năm. Hang Đầu Gỗ như tập trung được một quần thể kiến trúc cổ xưa. Hang Đầu Gỗ toát ra một vẻ đẹp cổ kính, hoang sơ và tĩnh mịch với nhiều cột đá, trụ đá, măng đá nhỏ nhắn, cao vút như muốn vươn tận trời xanh... Hang có hệ động thực vật đa dạng phong phú. Do có cửa hang được mở rộng nên độ ẩm trong lòng hang cao, cộng với sự tác động của ánh sáng mặt trời nên có thể thấy ngay được sự phát triển đa dạng của hệ thực vật, đặc biệt là rêu, cây dương xỉ và cây thân gỗ... Đây là một đặc điểm khác biệt so với nhiều hang động khác trên vịnh Hạ Long. Tự hang này chia thành ngăn. Ngăn thứ nhất, hệ thống nhũ đá có nhiều hình ảnh quen thuộc với cuộc sống: sư tử, trăn, rùa, và thậm chí cả hình ảnh đôi gà chọi... Ngăn thứ hai, bắt đầu bằng một bức tranh hoành tráng hình ảnh những hòn đảo đá lô nhô trên sóng nước cũng được khắc hoạ rõ nét trên bức tranh này. Ngăn thứ 3, là hình ảnh những cột đá khổng lồ, vừa không thô nhám, cứng nhắc, vừa xinh xắn, mềm mại. Về nguồn gốc tên gọi Đầu Gỗ, hiện nay, chúng ta thấy trên các tài liệu giới thiệu du lịch vịnh Hạ Long và trong dân gian, có cách giải thích khác nhau. Thuyết thứ nhất, theo truyền tụng của người dân địa phương và các cụ cao tuổi thì hang Đầu Gỗ cũng có tên là hang Giấu Gỗ (sau gọi chệch thành Đầu Gỗ) vì nó gắn liền với câu chuyện lịch sử. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ 13 của vua tôi nhà Trần, là nơi quân sĩ nhà Trần cất giấu những chiếc cọc gỗ trước khi đem xuống cắm dưới lòng sông Bạch Đằng (Yên Hưng) để xây dựng trận địa cọc tiêu diệt binh thuyền giặc. Câu chuyện này đã lý giải cho cái tên thuần Việt độc đáo của hang đồng thời nhắc nhở mọi người nhớ lại sự kiện chiến công oanh liệt của quân dân thời Trần chống quân xâm lược Nguyên Mông cách đây hơn thế kỷ. Người dân vẫn lưu truyền câu ca dao: "Hồng Gai có núi Bài Thơ/ Có hang Đầu Gỗ có chùa Long Tiên". Còn thuyết thứ thì giải thích dãy đảo Đầu Gỗ có hình cánh cung tạo ra trước hang Đầu Gỗ một vụng kín gió, nên ngư dân thường tụ về đây trong những ngày giông bão, hoặc sau một thời gian đánh bắt, họ thả neo sinh sống đông đúc và sửa chữa đóng lại thuyền bè tại đây nên có nhiều mấu gỗ sót lại. Có lẽ tên hang Đầu Gỗ hình thành từ sự việc này. Thuyết thứ giải thích, do hang nằm trên dãy đảo mà trông xa có dáng tựa một cây gỗ khổng lồ nên căn cứ vào hình dáng của đảo người ta đặt cho hang là Đầu Gỗ. Không chỉ liên quan đến cuộc xâm lược của người Mông Cổ mà hang Đầu Gỗ còn chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử khác. Năm 1918, vua Khải Định và Paul Doumer, một thống đốc người Pháp, đã đến thăm hang động. Ngạc nhiên trước vẻ đẹp của hang Đầu gỗ, vua Khải Định đã cho khắc một tấm văn bia đặt phía bên trái của hang để ca ngợi vẻ đẹp của nó. Năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có một chuyến đi đến hang Đầu Gỗ và rất thích thú với di sản thiên nhiên này. Tấm văn bia của vua Khải Định đặt trong hang Đầu Gỗ Vịnh Hạ Long Động Thiên Cung Hang Sửng Sốt | Hang Đầu Gỗ | Vịnh Hạ Long, Du lịch Quảng Ninh, Hang động Việt Nam |
Vũ Bằng (3 tháng năm 1913 tháng năm 1984), họ và tên đầy đủ là Vũ Đăng Bằng, là một nhà văn, nhà báo của Việt Nam. Ông là người có sở trường về viết truyện ngắn, tùy bút, bút ký. Ông đã vào Sài Gòn sau 1954 để làm báo và hoạt động tình báo. Ngoài bút hiệu Vũ Bằng, ông còn ký với các bút hiệu khác: Tiêu Liêu, Vịt Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm, Hoàng Thị Trâm. Vũ Bằng sinh ngày tháng năm 1913 tại Hà Nội và lớn lên trong một gia đình Nho học, quê gốc làng Lương Ngọc, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Ông theo học Trường Trung học Albert Sarraut, tốt nghiệp Tú tài Pháp. Ông là một người có tính cách cởi mở, thanh lịch và được mọi người quý như Người đàn ông quý tộc Cha mẹ Vũ Bằng sinh sáu người con, ba trai ba gái. Cha mất sớm, Vũ Bằng với mẹ là chủ một tiệm bán sách phố Hàng Gai (Hà Nội), nên không bị thiếu thốn. Ngay khi còn nhỏ ông đã say mê viết văn, làm báo. Năm 16 tuổi ông đã có truyện đăng báo, liền sau đó ông lao vào nghề văn, nghề báo với tất cả niềm say mê, chứ không phải vì mưu sinh. Năm 1935, ông lập gia đình với bà Nguyễn Thị Quỳ, người Bắc Ninh. Cuối năm 1946, Vũ Bằng cùng gia đình tản cư ra vùng kháng chiến. Cuối năm 1948, trở về Hà Nội, ông bắt đầu tham gia hoạt động trong mạng lưới tình báo cách mạng. Năm 1954, được sự phân công của tổ chức, ông vào Sài Gòn, để lại vợ và con trai Hà Nội (năm 1967, bà Quỳ qua đời) và tiếp tục hoạt động cho đến 30 tháng năm 1975. Vì nhiều nguyên nhân, trong đó có sự đứt đoạn đường dây liên lạc, mãi đến sau này, ông mới được công nhận là người hoạt động cách mạng và được truy tặng huân chương nhà nước Sài Gòn, ông lập gia đình với bà Phấn. Ông mất lúc giờ 30 phút ngày tháng năm 1984 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 71 tuổi. Ngày 13 tháng năm 2007, nhà văn Vũ Bằng được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Năm 17 tuổi (1931), ông xuất bản tác phẩm đầu tay Lọ Văn. Trong lãnh vực báo chí, ngay từ trong thập niên 30, thập niên 40, nghĩa là lúc ông còn rất trẻ, ông đã là chủ bút tờ Tiểu Thuyết Thứ Bảy, thư ký tòa soạn tờ Trung Bắc Chủ Nhật và cộng tác với nhiều tờ báo Hà Nội, Sài Gòn... Và "có thể nói trong lịch sử văn học từ những năm 30 cho đến năm 1954, Vũ Bằng là một trong những người hoạt động sôi nổi nhất"(Triệu Xuân) Mặc cho người mẹ cản ngăn, muốn ông du học Pháp để làm bác sĩ khoa, Vũ Bằng quyết chí theo nghiệp văn chương Đến khi in được vài truyện ngắn và tiểu thuyết, ông sa vào lãnh vực ăn chơi vào loại khét tiếng. Khoảng năm 1934 1935, Vũ Bằng nghiện phiện rất nặng suốt năm. Nhờ người cô ruột và nhờ vợ là Nguyễn Thị Quỳ thường xuyên săn sóc, khuyên nhủ, cộng với sự quyết tâm của bản thân nên ông đã cai được, rồi viết cả một cuốn tự truyện mang tên Cai. Sau năm 1954, Vũ Bằng vào Sài Gòn tiếp tục viết văn, làm báo. ông làm việc tại Việt Tấn Xã và cộng tác với nhiều tờ báo. Ông chuyên về dịch thuật nhiều hơn sáng tác. Đặc biệt với "cái ăn" ông viết rất tuyệt vời: Miếng ngon Hà Nội (bút ký, 1960), Miếng lạ miền Nam (bút ký, 1969) và trong Thương Nhớ Mười Hai (hồi ký, 1972). *Nhà văn Vũ Ngọc Phan: :Tiểu thuyết của Vũ Bằng rất gần với tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan về lối tả cảnh và nhân vật, dù là họ vào cảnh nghèo khổ hay cảnh giàu sang, bao giờ Vũ Bằng cũng tả bằng ngọn bút dí dỏm, nhạo đời hơi đá hoạt kê một chút; còn về cảnh, ông chỉ tả sơ sơ; ông chú trọng cả vào hành vi ấy là động tác của cuốn tiểu thuyết và gây nên những cảnh riêng biệt cho nhân vật... *Nhà văn Tô Hoài: :Những năm ấy Nam Cao đương với tôi trên Nghĩa Đô. Chúng tôi mải mê đọc Vũ Bằng… Nếu nhà nghiên cứu văn học nào lưu tâm đến những truyện ngắn Vũ Bằng thời kỳ ấy với truyện ngắn của Nam Cao và những truyện ngắn "Bụi tô", "Một đêm sáng giăng suông"… của tôi trên báo Hà Nội Tân văn có thể dễ dàng nhận thấy hai ngòi bút này hơi hướng Vũ Bằng. Chính chúng tôi vẫn thường thành tâm tự nhận xét ảnh hưởng ấy với anh ấy… *Thi sĩ Nguyễn Vỹ: :Anh có lối tả chân thật đặc biệt và trào phúng chuyên môn, có khi rất nhẹ nhàng khả ái như Alphonse Daudet, có khi cầu kỳ lý thú như Courteline. Tôi không nói Vũ Bằng là một văn hào, nhưng chắc chắn anh là một nhà văn Việt Nam độc đáo trên lĩnh vực tả chân trào phúng, trước kia và bây giờ. *Nhà văn Võ Phiến trong tác phẩm Văn Học Miền Nam: :Vũ Bằng có lúc tay nầy một tờ báo của Vũ Đình Long, tay kia một tờ khác của Nguyễn Doãn Vượng; có lúc một mình trông nom cả ba tờ báo Sài Gòn là Đồng Nai, Sài Gòn Mai và Tiếng Dân; lại có lúc vừa viết cho Dân Chúng, làm tổng thư ký báo Tin Điện, lại vừa hợp tác với người thứ ba làm báo Vịt Vịt... *Nhà văn Tạ Tỵ đã gọi Vũ Bằng là Người trở về từ cõi đam mê, và ông đã viết như sau: :Vũ Bằng là một hiện tượng. Trong suốt dòng sông của cuộc đời có mặt, Vũ Bằng đã đánh đổi tất cả chỉ để xin lấy về phần mình hơi thở của nghệ thuật. Vũ Bằng thích sống một đời sống nhiều đam mê, dù là tội lỗi, hơn đạo đức. Theo anh, đã sống phải nếm đủ mùi đời mới thực là sống, còn bôn ba theo đuổi danh lợi rồi chết im lìm thì chỉ là sống một cách què cụt, thiếu sót...Tuy nói vậy, chứ Vũ Bằng còn ham làm việc lắm. Anh thường nói với tôi, anh ước mong viết...Đó, chân dung Vũ Bằng với ngần ấy ước vọng mức tuổi gần 60. Ước vọng tuy không lớn lao nhưng thời gian và cơm áo có cho phép Vũ Bằng thực thi dự định? Riêng tôi, tôi cầu chúc cho ước vọng của Vũ Bằng thành sự thực. Nhưng khi nhìn thẳng vào đời sống của Vũ Bằng dưới mái nhà nhỏ bé bên chân cầu Tân Thuận, tự nhiên trong lòng tôi thấy xót xa… Chính vì cần tiền nên cứ vào khoảng giờ sáng, Vũ Bằng một mình một bóng vừa viết...vừa ngồi hứng từng chậu nước đổ vào bể chứa cho vợ nấu cơm và giặt giũ. Trời vừa hửng sáng, mặc quần áo đi làm, mang theo bản thảo. Buổi trưa đến cây xăng Cống Bà Xếp ngồi giữa hơi xăng và đống dầu mỡ mà viết, vì về nhà con còn nhỏ, la hét um sùm không viết nổi. Có lúc nhà in giục gấp quá, Vũ Bằng viết luôn tại nhà in, được trang nào đưa sắp chữ ngay trang ấy. Nhiều khi Vũ Bằng viết ghế đá công viên, nghĩa là chỗ nào và lúc nào anh cũng viết được, vì chữ nghĩa đã có sẵn, chờ dịp trút xuống. Trong đời, tôi được biết có hai nhà văn viết bản thảo một mạch ít khi sửa chữa. Đó là Vũ Bằng và Đào Trinh Nhất..... Ngoài ra, không ít nhà văn, nhà phê bình nghiên cứu văn học cho rằng ngay từ những năm Ba mươi, Vũ Bằng là một trong những người có công lớn cách tân tiểu thuyết Việt Nam, hiện đại hóa nền văn xuôi Việt Nam Ba tác phẩm chính của Vũ Bằng Trong số trước tác của Vũ Bằng, Thương Nhớ Mười Hai là tác phẩm tiêu biểu cho tâm tư và phong cách viết của ông. Nội dung sách ông viết về hình ảnh người vợ tên Quỳ bên kia vỹ tuyến. Ông khởi sự viết từ tháng Giêng 1960, ròng rã mười một năm mới hoàn thành tác phẩm dày khoảng 340 trang vào năm 1971. GS Hoàng Như Mai đánh giá: :Dù phải thích ứng với hoàn cảnh chính trị như thế nào đấy, cuốn sách vẫn bày tỏ rất rõ tâm sự của một người con miền Bắc nhớ da diết quê hương bên kia "giới tuyến". Chính tấm lòng ấy đã cùng với ngòi bút tài hoa của Vũ Bằng làm nên giá trị văn chương của tác phẩm này. Nó hấp dẫn chúng ta từng dòng, từng trang... Nhà văn Triệu Xuân ca ngợi: :Có người bạn thân, trong lúc đàm đạo văn chương, hỏi tôi: "Sắp sang thế kỷ 21 rồi, nếu chỉ được phép mang mười cuốn sách văn học vào thế kỷ mới, ông mang những cuốn nào?". Tôi trả lời ngay: "Một trong những cuốn tôi mang theo là Thương Nhớ Mười Hai của Vũ Bằng!… :Bởi viết về Hà Nội, viết về đất nước quê hương, không ai có thể hơn Vũ Bằng. Bởi Vũ Bằng yêu Hà Nội, yêu đất nước quê hương khi mà ông đang sống Sài Gòn, cách Hà Nội chưa đầy hai giờ máy bay mà vời vợi ngàn trùng. Nỗi nhớ niềm yêu ấy là tuyệt vọng! Hơn thế nữa, bà Nguyễn Thị Quỳ, vợ hiền của ông, người đã góp phần quyết định làm nên một Vũ Bằng nhà văn, nhà báo, là nguồn cảm hứng văn chương của ông… Và trong Từ điển văn học (bộ mới): :Văn hồi ký của ông là loại văn trữ tình, giàu chất thơ, hướng vào biểu hiện nội tâm, hướng về phong cảnh thiên nhiên bốn mùa xứ sở. Các câu văn tràn đầy cảm xúc, cảm giác tinh tế. Cùng với Thương nhớ mười hai, Miếng ngon Hà Nội…đã góp phần định hình kiểu hồi ký trữ tình độc đáo. Có thể xem đây là một đóng góp quan trọng của Vũ Bằng vào thể ký nói riêng và nền văn học hiện đại nói chung. Nhà văn Triệu Xuân kể: :Một thời gian dài, Vũ Bằng và gia đình ông âm thầm chịu tiếng là nhà văn "dinh tê, về thành", nhà văn "quay lưng lại với Kháng chiến", là "di cư vào Nam theo giặc"! Có lẽ vì thế mà trong sách giáo khoa phổ thông cũng như bậc đại học, người ta không giảng dạy về Vũ Bằng. :Mặc dù vào những năm 1932 1945, Vũ Bằng đã nâng đỡ, hướng nghiệp, dìu dắt rất nhiều nhà văn trẻ, sau này trở thành những nhà văn tên tuổi lẫy lừng; và những người am hiểu Vũ Bằng từ khi ông vào Nam mà tôi đã gặp đều khẳng định: Vũ Bằng là một con người chân chính, một nhà văn yêu nước, có tấm lòng son sắt với Hà Nội. :Khi ông lâm bệnh cho đến lúc trút hơi thở cuối cùng, gia cảnh ông vô cùng túng thiếu. :Nhờ có rất nhiều người yêu mến Vũ Bằng, đã bỏ công sức tìm hiểu lai lịch cuộc đời ông, nên phát hiện thêm nhiều bằng chứng cho thấy không phải ông "dinh tê, di cư, phản bội", mà là ông đã nhận nhiệm vụ hoạt động bí mật trong giới trí thức nội thành từ năm 1952. :Nhờ vậy, vấn đề Vũ Bằng đã được Hội Nhà văn Việt Nam cử người xác minh. :Tháng năm 2000, Cục Chính trị thuộc Tổng cục Bộ Quốc phòng Việt Nam đã có văn bản xác nhận nhà văn Vũ Bằng là chiến sĩ quân báo. Hy vọng rằng nơi chín suối, hương hồn nhà văn Vũ Bằng sẽ thanh thản sau những năm dài buồn tủi... Lọ văn (tập văn trào phúng, 1931) Một mình trong đêm tối (tiểu thuyết, 1937) Truyện hai người (tiểu thuyết, 1940) Tội ác và hối hận (tiểu thuyết, 1940) Chớp bể mưa nguồn (tiểu thuyết, 1941) Quých va Quác (truyện thiếu nhi, 1941) Để cho chàng khỏi khổ (tiểu thuyết, 1941) Bèo nước (tiểu thuyết, 1944) Ba truyện mổ bụng (tập truyện, 1941) Cai (hồi ký, 1944) Mộc hoa vương (tiểu thuyết, 1953) Ăn tết thủy tiên (1956) *Miếng ngon Hà Nội (bút ký, 1960) *Miếng lạ miền Nam (bút ký, 1969) Bốn mươi năm nói láo (hồi ký, 1969) Khảo về tiểu thuyết (biên khảo, 1969) Mê chữ (tập truyện, 1970) Nhà văn lắm chuyện (1971) Những cây cười tiền chiến (1971) Thương nhớ mười hai (bút ký, 1972) Người làm mả vợ (tập truyện ký, 1973) Bóng ma nhà mệ Hoát (tiểu thuyết, 1973) Nước mắt người tình (tiểu thuyết, 1973) Tuyển tập Vũ Bằng (3 tập, Nhà xuất bản Văn học, 2000) Những kẻ gieo gió (2 tập, Nhà xuất bản Văn học, 2003) Vũ Bằng toàn tập (4 tập, Nhà xuất bản Văn học, 2006) Vũ Bằng, Các tác phẩm mới tìm thấy (Lại Nguyên Ân sưu tầm. Nhà xuất bản. Văn hóa Sài Gòn, 2010) Hà Nội trong cơn lốc (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2010) Văn Hóa... Gỡ'' (Nhà xuất bản Phụ Nữ, 2012). và một số sách dịch khác. Một triển lãm tác phẩm Vũ Bằng kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông được ra mắt tháng năm 2013 tại Nhã Nam thư quán (TP. Hồ Chí Minh) với gần 40 đầu tài liệu gồm sách, báo, thủ bút bản thảo của ông. Bài viết về Vũ Bằng của Triệu Xuân Bài viết về Vũ Bằng trên web Chim Việt Bài viết về Vũ Bằng của Vương Trí Nhàn Tư liệu về Vũ Bằng trên web Tiền Vệ Vũ Bằng viết về Nam Cao, Nam Cao mô tả Vũ Bằng Đọc sách: "Đời sống và Đời viết" của Văn Giá | Vũ Bằng | Nhà văn Việt Nam, Nhà báo Việt Nam, Người Hải Dương, Người Hà Nội, Điệp viên Việt Nam, Người được truy tặng Giải thưởng Nhà nước (Việt Nam) |
SU-76 (tiếng Nga: Samokhodnaya Ustanovka 76) là loại pháo tự hành chống tăng của Liên Xô được sử dụng trong và sau Thế chiến thứ hai. SU-76 dựa trên phiên bản kéo dài và mở rộng của khung gầm xe tăng hạng nhẹ T-70. Cấu trúc đơn giản của nó khiến nó trở thành chiếc xe bọc thép được sản xuất nhiều thứ hai của Liên Xô trong Thế chiến thứ hai, chỉ sau xe tăng T-34. Chiếc xe được các kíp lái ưa thích vì sự đơn giản, độ tin cậy và dễ sử dụng của nó. Tuy nhiên, cơ cấu lái được cũng đôi khi được coi là khó khăn, là cơ sở tham khảo của các loại xe như suka (; "Chó") hoặc suchka (; "con chó nhỏ"). Nó cũng có biệt danh là Golozhopiy Ferdinand (; Ferdinand trần trụi") do có bộ giáp rất nhẹ và hình dáng hơi giống nhau, khi so sánh với pháo tự hành chống tăng hạng nặng khác như Ferdinand Elefant của Đức nặng khoảng 65 tấn. Thiết kế của SU-76 bắt đầu vào tháng 11 năm 1942, khi Ủy ban Quốc phòng Nhà nước ra lệnh chế tạo pháo tự hành hỗ trợ bộ binh được trang bị pháo chống tăng ZiS-3 76mm và lựu pháo M-30 122mm. Khung gầm T-70 được chọn để gắn súng ZiS-3. Nó được kéo dài, thêm một bánh xe mỗi bên, để tạo điều kiện gắn súng tốt hơn. Chiếc xe không hoàn toàn được bọc giáp hoàn toàn, phần nóc phía sau và phía trên được để lộ ra. Hệ thống truyền động gắn trong những chiếc SU-76 được sản xuất hàng loạt đầu tiên là không đáng tin cậy. Hai động cơ tô GAZ-202 được sử dụng gắn "song song", mỗi động cơ lái một bên xích. Lái xe cảm thấy thấy khó điều khiển đồng thời cả hai động cơ và lực rung mạnh dẫn đến nhanh chóng hỏng hóc động cơ và bộ truyền động. Sau khi 320 chiếc SU-76 được sản xuất, việc sản xuất hàng loạt đã bị dừng lại để giải quyết các vấn đề. Hai nhà thiết kế chính tại nhà máy GAZ, N.A. Astrov và A.A. Lipgart, đã thay đổi cách bố trí hệ thống truyền động nguyên thủy của xe bệ T-70 hai động cơ được gắn song song bên phải của chiếc xe. Mái bọc thép trên khoang súng đã được gỡ bỏ để cải thiện khả năng tiếp cận và bảo dưỡng vũ khí. Phiên bản sửa đổi này, được gọi là SU-76M, được đưa vào sản xuất hàng loạt vào đầu năm 1943. Sau khi sản xuất trở lại, GAZ và hai nhà máy Kirov và Mytishchi đã sản xuất 13.932 SU-76M; hơn 9.000 xe được chế tạo chỉ bởi GAZ. Việc sản xuất hàng loạt SU-76M đã ngừng vào nửa cuối năm 1945. Trong các tài liệu đương thời, SU-76M thường được nhắc đến trong các văn bản, đài phát thanh và truyền hình công cộng là SU-76 mà không có chữ "M" bị bỏ qua, do tính phổ biến của chúng so với ohie6n bản SU-76 ban đầu. Thiết kế SU-76 là cơ sở cho phương tiện phòng không bọc thép đầu tiên của Liên Xô ZSU-37. Việc sản xuất hàng loạt ZSU-37 được tiếp tục sau khi ngừng sản xuất SU-76M. Tất cả SU-76M đã bị rút khỏi tuyến đầu ngay sau khi chiến tranh kết thúc, mặc dù một số được giữ lại làm phương tiện huấn luyện cho các kíp xe T-34 vào cuối năm 1955. OSU-76 Mô hình thử nghiệm dựa trên khung gầm xe tăng T-60. SU-76 Dựa trên khung gầm xe tăng T-70 kéo dài, với sự sắp xếp động cơ kép kém hơn so với những chiếc T-70 trước đó. Chỉ có một số ít được sản xuất, và những thứ này đã nhanh chóng được rút khỏi dịch vụ tiền tuyến. SU-76M Mô hình sản xuất chính. SU-76B Nổi bật với khoang điều khiển bọc thép hoàn toàn. Chỉ có một số ít được sản xuất. ZSU-37 Pháo phòng không tự hành, dựa trên SU-76. SU-76i (viết tắt của "Inostrannaya", hay "ngoại quốc" trong tiếng Nga), được thiết kế và chế tạo lần đầu tiên vào năm 1943. Chúng dựa trên một số lượng lớn các khung gầm Panzer III và StuG III chiến lợi phẩm thu được sau trận Stalingrad. Xe được trang bị súng chống tăng S-1 76,2 mm (một biến thể rẻ hơn của F-34 ZiS-5 nổi tiếng đã được gắn trên xe tăng T-34 và KV-1) trên tháp pháo nhưng vẫn giữ lại động cơ xăng Maybach nguyên bản của Đức và hệ thống treo thanh xoắn. Khoảng 200 xe chiến lợi phẩm đã được chuyển đổi thành SU-76i tại Nhà máy số 37 để bổ sung cho lượng SU-76 hiện có. Chúng được cấp cho các đơn vị xe tăng và pháo tự hành bắt đầu từ mùa thu năm 1943. Cuối cùng chúng được rút khỏi mặt trận vào đầu năm 1944 và sau đó được sử dụng để huấn luyện và thử nghiệm cho đến cuối năm 1945. Chỉ có hai xe còn lại sau chiến tranh, hầu hết chúng bị loại bỏ sau năm 1945. SU-76P được thiết kế năm 1941 dựa trên khung gầm T-26. Nó được chế tạo tại Leningrad trong Cuộc bao vây Leningrad, tháp pháo T-26 được thay bằng pháo cấp trung đoàn 76 mm M1927 trên khung gầm. Điều này là do sự thiếu hụt đạn 45mm nổ bên trong Leningrad đang bị bao vây, do đó một số xe tăng T-26 được trang bị súng 37mm hoặc 76mm để có nguồn đạn đáng tin cậy. Chúng được sử dụng cho đến năm 1944, sau khi cuộc bao vây bị phá vỡ. Ban đầu chúng được gọi là SU-76, cho đến khi SU-76 đi vào hoạt động, sau đó nó được đổi tên thành SU-76P ("polkovaya" trung đoàn). MLVM: Năm 1978, Viện 111 Rumani đã thiết kế một loại xe chiến đấu bọc thép dựa trên khung gầm SU-76, được trang bị tháp pháo TAB-71. Chiếc xe được đưa vào sử dụng với tên MLVM (, có nghĩa là "xe chiến đấu bộ binh của Vânători de munte") Tập đoàn xe tăng Liên Xô (Chiến dịch Budapest, tháng 10 năm 1944). SU-76M hầu như thay thế xe tăng bộ binh trong vai trò hỗ trợ chặt chẽ. Mặc dù lớp giáp mỏng và khoang hở khiến nó dễ bị tấn công bằng vũ khí chống lựu đạn, lựu đạn và vũ khí nhỏ, nhưng trọng lượng nhẹ và áp lực mặt đất thấp giúp nó có khả năng cơ động tốt. SU-76M kết hợp ba vai trò chiến trường chính: pháo xung kích hạng nhẹ, pháo chống tăng tự hành và lựu pháo tự hành. Là một pháo xung kích, SU-76M được các lính bộ binh Liên Xô đánh giá cao (trái ngược với các kíp lái của chính nó). Nó có hỏa lực mạnh hơn bất kỳ xe tăng hạng nhẹ nào trước đây để hỗ trợ bộ binh và việc liên lạc giữa bộ binh và kíp lái SU-76M cũng dễ dàng hơn do khoang lái mở. Điều này cực kỳ hữu ích trong tác chiến đô thị, nơi rất cần sự phối hợp tốt giữa bộ binh và kíp xe. Mặc dù khoang mở rất dễ bị tổn thương bởi hỏa lực nhỏ và lựu đạn, nhưng nó thường cứu mạng kíp lái trong trường hợp bị Panzerfaust tấn công, khi mà vụ nổ chấn động bị phân tán khá nhiều so với một khoang xe kín. SU-76M có hiệu quả đối với bất kỳ xe tăng hạng trung hoặc hạng nhẹ nào của Đức. Nó cũng có thể hạ gục xe tăng Panther bằng một cú bắn vào sườn, nhưng súng ZiS-3 không hiệu quả với xe tăng Tiger. Hướng dẫn sử dụng của Liên Xô cho kíp xe SU-76M thường hướng dẫn xạ thủ nhắm vào xích xe hoặc nòng súng khi đối mặt với Tiger. Để cải thiện khả năng xuyên giáp của SU-76M, các loại đạn pháo vật liệu cứng tổng hợp xuyên giáp (APCR) và đạn nổ lõm đã được phát triển. Điều này đã cho SU-76M một cơ hội tốt hơn trước các phương tiện bọc thép hạng nặng của Đức. Cấu hình thấp, tiếng ồn thấp và độ cơ động tốt là những ưu điểm khác của SU-76M. Điều này là lý tưởng để tổ chức các cuộc phục kích và các cuộc tấn công bên sườn hoặc phía sau bất ngờ trong trận chiến gần, trong đó súng ZiS-3 là đủ để chống lại hầu hết các phương tiện chiến đấu bọc thép của Đức. Góc ngẩng cao tối đa của ZiS-3 là cao nhất trong tất cả các loại pháo tự hành của Liên Xô. Khoảng cách hỏa lực gián tiếp tối đa là gần 17 km. SU-76M đôi khi được sử dụng làm phương tiện pháo nhẹ (như Wespe của Đức) để bắn phá và hỗ trợ hỏa lực gián tiếp. Tuy nhiên, sức mạnh của 76.2 đạn mm không đủ trong nhiều trường hợp. SU-76M là chiếc xe duy nhất của Liên Xô có thể hoạt động trong đầm lầy với sự hỗ trợ tối thiểu từ các kỹ sư. Trong Chiến dịch Bagration năm 1944, nó cực kỳ hữu ích để tổ chức các cuộc tấn công bất ngờ qua đầm lầy; bỏ qua hàng phòng thủ hạng nặng của Đức trên mặt đất vững chắc hơn. Thông thường chỉ có bộ binh vũ trang nhẹ mới có thể đi qua các khu vực đầm lầy lớn. Với sự hỗ trợ của SU-76M, các binh sĩ và kỹ sư Liên Xô có thể tiêu diệt hiệu quả các điểm mạnh của kẻ thù và tiếp tục tiến công. Tập bị tiêu diệt tại Hàn Quốc, 1950. SU-76M có số lượng lớn các loại đạn. Chúng bao gồm xuyên giáp (thông thường, với mũi đạn đạo và siêu tốc độ phụ), điện tích rỗng, chất nổ cao, phân mảnh, mảnh đạn và đạn gây cháy. Điều này làm cho SU-76M trở thành một phương tiện chiến đấu bọc thép hạng nhẹ đa năng tuyệt vời. Một phi hành đoàn nổi tiếng là Rem Nikolaevich Ulanov. Thời còn trẻ, ông là một lái xe cơ khí và sau đó là chỉ huy của một chiếc SU-76. Ông và một số binh sĩ khác gọi họ SU-76 Columbina sau khi nữ kỳ Phục hưng Commedia dell'arte nhân vật. Sau Thế chiến II, SU-76 được sử dụng bởi các lực lượng Cộng sản trong Chiến tranh Triều Tiên. Một số lượng nhỏ SU-76M đã bị Hàn Quốc bắt giữ và sử dụng sau khi hạ cánh tại Incheon. 260 132 30; thấy chiến đấu rộng rãi trong Chiến tranh Việt Nam. Do số lượng xe lớn được sản xuất, nhiều chiếc SU-76M đã sống sót sau những năm sau chiến tranh, và hầu hết các bảo tàng quân sự lớn hơn của Nga đều có ví dụ về SU-76M trong các triển lãm của họ. Chúng cũng có thể được tìm thấy tại các đài tưởng niệm hoặc đài tưởng niệm Chiến tranh Đức-Liên Xô tại các thành phố khác nhau của Nga, Bêlarut và Ucraina. Tập SU-76M trong bảo tàng xe tăng Bovington, Dorset. Tập SU-76M trong Bảo tàng Lịch sử Quân sự Quốc gia (Bulgaria) Ba Lan ** Muzeum Oręża Arlingtonkiego Kołobrzeg SU-76 ** Bảo tàng vũ khí bọc thép Poznań SU-76M ** Bảo tàng quân đội Ba Lan tại Warsaw *** triển lãm trước tòa nhà chính chiến thuật SU-76 số 203, số sê-ri 403062 *** Bảo tàng Công nghệ Quân sự Ba Lan Chiến thuật SU-76 số 207 Rumani ** Bảo tàng Quân sự Quốc gia, Romania Bucharest *Vương quốc Anh ** Bảo tàng xe tăng Bovington SU-76M bị bắt từ Bắc Triều Tiên năm 1950 *Châu Úc ** Bảo tàng Thiết giáp và Pháo binh Úc (Cairns) SU-76M Bulgaria ** Bảo tàng Lịch sử Quân sự Quốc gia Danh sách xe tăng Liên Xô | SU-76 | |
ceylanicum' là một loài thực vật có hoa trong họ rô. Loài này được Arn. Nees mô tả khoa học đầu tiên năm 1837. Tập ceylanicum1.jpg Tập ceylanicum2.jpg | null | Chi Lõa gié |
David Ricardo (18 tháng năm 1772–11 tháng năm 1823) là một nhà kinh tế học người Anh, có ảnh hưởng lớn trong kinh tế học cổ điển sánh ngang cùng Adam Smith và Thomas Malthus. David Ricardo là người cổ vũ thương mại tự do dựa trên lý luận với lợi thế so sánh. Ông đã tiếp bước Adam Smith và đóng góp lớn vào việc phát triển thuyết giá trị lao động. Các lý luận của ông đã ảnh hưởng đáng kể đến tư tưởng kinh tế của Karl Marx. David Ricardo cũng là một thương gia, chuyên gia tài chính, nhà đầu cơ, ông được coi là người đã tích lũy được một tài sản lớn. Works, 1852 Ricardo sinh ra London, là con thứ ba trong số bảy người con của một gia đình người Do Thái nhập cư từ Hà Lan đến Đế quốc Anh trước khi ông được sinh ra. Khi 14 tuổi, sau một khóa học ngắn Hà Lan, Ricardo đã tham gia công việc cùng với cha của ông Sở giao dịch chứng khoán London, nơi ông bắt đầu học về các công việc tài chính. Đây là nền tảng cho các thành công sau đó của ông trong thị trường chứng khoán và kinh doanh bất động sản. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Ricardo là Principles of Political Economy and Taxation (Những nguyên lý của kinh tế chính trị và thuế khóa). Ricardo đưa ra trong chương đầu tiên với một công bố về thuyết giá trị lao động. Trong phần sau của chương này, ông giải thích về việc giá cả không phù hợp, tương ứng với giá trị. Ricardo cũng đã phân tích và đi tới kết luận rằng khi dân số gia tăng thì địa tô cũng gia tăng theo. Trong tác phẩm này, Ricardo còn đưa ra luận điểm rằng một hệ thống thương mại tự do cho tất cả các quốc gia sẽ đem lại lợi ích cho mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Kinh tế chính trị Lịch sử kinh tế chính trị On the Principles of Political Economy and Taxation, by David Ricardo. Complete, text at the Library of Economics and Liberty. Biography, at the Concise Encyclopedia of Economics Biography at New School University Biography at EH.Net Encyclopedia of Economic History The Works of David Ricardo (McCulloch edition 1888) at the Online Library of Liberty The Works and Correspondence of David Ricardo (Sraffa edition) 11 vols at the Online Library of Liberty Timeline of the Life of David Ricardo (1772-1823) at the Online Library of Liberty | David Ricardo | Sinh năm 1772, Mất năm 1823, Nhà kinh tế học Anh, Nhà kinh tế học cổ điển, Kinh tế chính trị, Kinh tế học quốc tế |
Ngọc Khuê (sinh ngày tháng năm 1947), là một nhạc sĩ người Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với ca khúc "Mùa xuân làng lúa làng hoa". Ngoài ra, ông cũng là một nhạc sĩ đáng chú với hơn 300 ca khúc sáng tác về cuộc đời người lính. Ngọc Khuê hiện được phong hàm Thượng tá. Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2012. Ngọc Khuê tên đầy đủ là Nguyễn Ngọc Khuê. Ông sinh ngày tháng năm 1947, nguyên quán xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, Hà Nội. Cha của ông là một người thuộc gia tộc Nguyễn Bá, đồng thời là một thầy đồ dạy chữ Nho. Mẹ ông là người thuộc dòng dõi họ Phan Huy Sài Sơn, Chùa Thầy. Lúc ông mới chào đời, cha mẹ chưa kịp đặt tên đã phải di tản về quê ngoại làng Thụy Khuê, dưới chân núi Thầy. Nên sau đó mẹ ông lấy tên Khuê để đặt với niềm hi vọng "tương lai thanh bình, tươi sáng" gửi gắm vào đứa con trai út. Ngay từ nhỏ, ông tỏ ra bộc lộ năng khiếu ca hát và được thầy giáo dạy nhạc trường làng phát hiện, bồi dưỡng. Ngọc Khuê nhập ngũ vào Quân đội Nhân dân Việt Nam từ năm 1965 và đã từng trải qua các nhiệm vụ như pháo thủ, chiến đấu trong Trung đoàn 228 bảo vệ Cầu Hàm Rồng từ năm 1965, 1967 đến 1973. Ông bắt đầu tiếp xúc với sáng tác nhạc từ năm 19 tuổi. Vào ngày 27 tháng 12 năm 1972, ông được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam ngay tại cầu Hàm Rồng. Năm 1974, ông là diễn viên hát của Đoàn Ca Múa Phòng không Không quân và chính thức bắt đầu sự nghiệp nghệ thuật Ông làm trưởng đoàn kiêm chỉ đạo nghệ thuật của Đoàn Nghệ thuật Không quân, đồng thời là chủ nhiệm của Nhà văn hóa Quân chủng Không quân. Ngọc Khuê đã dàn dựng, chỉ đạo nghệ thuật cho nhiều chương trình ca múa nhạc đạt hiệu quả cao. Ông hiện được phong hàm Thượng tá. Sáng tác đầu tay của Ngọc Khuê là ca khúc "Tiếng hát bên dòng sông Mã", được Đài Tiếng nói Việt Nam sử dụng năm 1968, sau đó ông viết tiếp nhiều ca khúc thuộc thể loại trữ tình. Tuy nhiên, phải đến khi "Mùa xuân làng lúa làng hoa" ra đời năm 1980, tên tuổi của Ngọc Khuê mới thực sự được công chúng Việt Nam biết đến. Ông cho biết bản thân sáng tác tác phẩm trong một dịp ra hồ Tây khi đến thăm nhà người bạn, nhưng trước đó đã dành vài năm ấp sáng tác để dành tặng cho một người bạn là phụ nữ dù bản thân đã có vợ. Đây cũng chính là tác phẩm giúp ông nhận được giải thưởng Nhà nước sau này. Năm 1996, album âm nhạc của ông là "Hạt nắng hạt mưa” “Mùa xuân làng lúa làng hoa" đã được xuất bản bởi nhà xuất bản Âm nhạc và Hội nhạc sĩ Việt Nam. Năm 2002, Ngọc Khuê đã xuất bản một số sách âm nhạc như “Tuyển chọn ca khúc Ngọc Khuê”, “Hoa và nắng” (gồm 108 ca khúc) do Nhà xuất bản Thanh niên phát hành. năm sau, tập thơ “Cơn mưa xanh” của ông tiếp tục được Nhà xuất bản Hội nhà văn phát hành. Năm 2007, trong Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” được phát động, Ngọc Khuê đã nung nấu định viết về Hồ Chí Minh. Năm 2008, nhạc sĩ An Thuyên có trao đổi với ông về cuộc vận động sáng tác hưởng ứng chủ đề “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Ngọc Khuê đã hồi tưởng lại những ấn tượng mạnh về Hồ Chí Minh qua các câu chuyện được nghe, đặc biệt là tình cảm của vị chủ tịch này đối với quân đội Việt Nam. Từ đó, bài hát Tình Bác ra đời sau nhiều năm dự định ấp ủ. Năm 2012, ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật. Năm 2015, Ngọc Khuê tham gia chương trình nghệ thuật “Tình yêu Hà Nội” giới thiệu tác phẩm âm nhạc của ông và các nhạc sĩ Đức Trịnh, Minh Quang. Đây là chương trình âm nhạc với chủ đề Tình yêu Hà Nội lần thứ nhằm tôn vinh các nhạc sĩ được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật là hội viên Hội Âm nhạc Hà Nội. Năm 2020, ông tổ chức chương trình nghệ thuật và giao lưu kỷ niệm 55 năm làm nghệ thuật mang tên “Tình yêu tự hát” với sự tham gia của nhiều thế hệ nghệ sĩ. Tai sân khấu này, cuốn sách “Ngọc Khuê Tác giả Tác phẩm” được ông ấp từ nhiều năm trước đã ra mắt công chúng yêu nhạc tại Việt Nam. Trong khoảng thời gian Đại dịch COVID-19 có diễn biến mạnh tại Việt Nam, Ngọc Khuê sáng tác "Cùng nhau vượt qua mùa đại dịch". Năm 2022, nhân dịp kỷ niệm 50 năm sự kiện Chiến dịch Linebacker II, Ngọc Khuê sáng tác bài hát Ông tôi là một người anh hùng với nội dung mượn tâm tư, tình cảm của một sĩ quan trẻ, một người đại diện cho thế hệ trẻ Việt Nam nghĩ về quá khứ của thế hệ trước. Cũng trong năm đó, trong chuyến đi thực tế sáng tác huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai, Ngọc Khuê đã sáng tác ca khúc "Tình ca từ thượng nguồn sông Hồng". Năm 2023, Ngọc Khuê sáng tác ca khúc Khắc ghi tên "Người Bác Ba Lê Duẩn" nhân dịp kỉ niệm 116 năm ngày sinh của Lê Duẩn. Theo nhà nghiên cứu âm nhạc Vũ Tự Lân, các ca khúc của Ngọc Khuê có giai điệu "mềm mại, khoáng đạt". Một trang web báo cho biết trong cả cuộc đời sáng tác, Ngọc Khuê đã sáng tác hàng trăm ca khúc được khán giả đón nhận một cách "nồng nhiệt". Lời ca trong sáng tác của ông được nhận xét là "mộc mạc, giản dị nhưng thấm đẫm tình yêu của một người con xa quê luôn đau đáu nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn." Sự nghiệp âm nhạc của Ngọc Khuê bao gồm 300 ca khúc, gồm nhiều đề tài khác nhau phản ánh đời sống của một người chiến sĩ tuy nhiên ca khúc "Mùa xuân làng lúa làng hoa" thường là ca khúc mà người nghe nhớ đến nhiều nhất của ông. Nhiều người gọi Ngọc Khuê là "nhạc sĩ của những ca khúc về mùa xuân", nhưng ông chỉ nhận mình là người "có duyên" và được trời phú cho một vài ca khúc về mùa xuân rồi may mắn được công chúng biết đến. Dưới đây là danh sách giải thưởng Ngọc Khuê được trao tặng liệt kê trong trang web Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Giải thưởng Bộ Văn hóa Thông tin (1982) Giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam (2005, 2014, 2015) Giải thưởng Bộ Quốc phòng (1984, 1989, 2004, 2009, 2014), Giải thưởng của Bộ Nông nghiệp và phá triển Nông thôn, Giải thưởng Quân chủng Phòng không Không quân Giải thưởng Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Huân chương Kháng chiến hạng Ba Huân chương Chiến công hạng Nhì Đầu thập niên 2010, Ngọc Khuê xây dựng cho mình một căn nhà quê. Căn nhà có quy mô lớn hơn so với căn nhà của ông phố Trần Điền (Hà Nội) từng là nơi sinh sống của cả gia đình ông. Năm 2021, báo chí đưa tin ông và vợ đang sống một căn hộ trong khu đô thị cao cấp giữa Hà Nội nhưng thường xuyên về thăm quê mỗi dịp cuối tuần. Theo báo Người lao động đưa tin, vì tỏ ra bức xúc trước “cách làm việc không khoa học, thiếu công minh của hội đồng nghệ thuật cơ sở Hội Nhạc sĩ Việt Nam trong việc xét tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2011” nên ngày 15 tháng năm 2011, các nhạc sĩ Đoàn Bổng, Đinh Quang Hợp, Ngọc Khuê, Thế Song, Lê Việt Hòa đã có buổi gặp gỡ báo chí để lên tiếng sự việc này. Trước đó, 68 nhạc sĩ trên toàn Việt Nam trong đó có Ngọc Khuê và nhạc sĩ trên được đề nghị làm hồ sơ xét duyệt giải thưởng Nhà nước. Hồ sơ gửi đi nhưng năm nhạc sĩ này đã nhận được thông báo không lọt vào danh sách cuối cùng vì không đạt 75% số phiếu của hội đồng. Ngọc Khuê sau đó tỏ ra vui mừng khi được đưa vào danh sách xét duyệt lần hai, tuy nhiên ông cũng bày tỏ sự "chạnh lòng" khi cảm thấy 10 vị nhạc sĩ theo ông là rất xứng đáng vẫn bị loại. Trong khi có những người theo ông không đủ tiêu chuẩn vẫn được có tên trong danh sách. Ông cho biết có người khuyên đã có tên trong danh sách cấp Bộ rồi thì "đừng dính vào kiện tụng". Tuy nhiên ông vẫn tiếp tục ký vào đơn kiến nghị tập thể với suy nghĩ "giải thưởng Nhà nước phải dành cho những người xứng đáng". Ngày 28 tháng 10 năm 2021, Trung tâm bảo vệ Quyền tác giả Âm nhạc Việt Nam tiếp nhận kiến nghị của Ngọc Khuê về việc nhiều tác phẩm của ông sáng tác và đầu tư sản xuất hoặc do Hội Nhạc sĩ đầu tư sản xuất và thuê Dihavina thu âm đã bị BH Media xác nhận chủ sở hữu bản quyền khi đưa lên chính kênh YouTube của mình. | Ngọc Khuê | Sinh năm 1947, Nhân vật còn sống, Nhạc sĩ Việt Nam, Người Hà Nội |
Lev Zakharovich Mekhlis (, (13) tháng năm 1889, Odessa 13 tháng năm 1953, Moskva) là một chính trị gia Liên Xô. Ông là Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô khóa VII, là thành viên của Xô Viết Tối cao Liên Xô khóa I-II, Ủy viên dự khuyết của Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b) (1934-1937), Ủy viên Trung ương Đàng cộng sản Liên Xô (b) (1937-1953), thành viên của Ban tổ chức Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b) (1938-1952). Ông đạt được học vị Tiến sĩ Khoa học vào năm 1935. Trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945), Mekhlis từng giữ vai trò chính ủy của một số phương diện quân và kết thúc chiến tranh với quân hàm Thượng tướng. Tuy nhiên, theo sự đánh giá của các nhà nghiên cứu, sự lộng quyền và kém khả năng của Mekhlis đã dẫn đến một số thất bại không đáng có của quân Liên Xô, tỉ như thảm họa của Phương diện quân Krym trong trận bán đảo Kerch (1942). Mekhlis sinh ngày tháng (13 tháng theo lịch mới) năm 1889 trong một gia đình người Do Thái sống tại Odessa. Ông học hết lớp trong một trường tư dành cho người Do Thái. Từ năm 1904 đến 1911, ông hành nghề thư ký và gia sư. Từ năm 1907 đến 1910, ông tham gia Đảng Công nhân Zion (Poale Zion), một tổ chức chính trị theo chủ nghĩa Mác của người Do Thái. Năm 1911, Mekhlis nhập ngũ và phục vụ trong Lữ đoàn lựu pháo số 2. Năm 1912 ông được thăng hàm Hạ sĩ pháo binh (Бомбардир) và sau đó được thăng hàm Trung sĩ pháo binh Mekhlis phục vụ trong quân đội Nga hoàng cho đến năm 1917. Năm 1918, Mekhlis gia nhập Đảng Cộng sản, và đến năm 1920, ông phục vụ trong Hồng quân công nông, khởi đầu với vai trò chính ủy sư đoàn bộ binh số 46, cấp bậc Chính ủy lữ đoàn (Бригадный комиссар), tương đương Đại tá. Trong các năm 1921-1922, ông làm công tác thanh tra trong Ban thanh tra của Dân ủy Công nông do Dân ủy I. V. Stalin đứng đầu. Từ năm 1922 đến 1926, ông là Trợ lý Tổng Bí thư và Chánh văn phòng Ban bí thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô; nói cách khác Mekhlis đã trở thành thư ký riêng của Stalin. Trong giai đoạn 1926-1930, Mekhlis theo học tại Học viện Cộng sản và Học viện tuyên giáo Hồng quân. Từ năm 1930 ông là Trưởng ban Báo chí Trung ương Đảng kiêm thành viên của Ban biên tập, và sau đó là Tổng biên tập của báo "Sự Thật". Dưới sự chỉ đạo của Mekhlis, các bản in của báo được đưa tới Leningrad bằng máy bay và người dân trong thành phố có thể mua đọc được báo "Sự Thật" mỗi ngày. Từ năm 1932, một "đường dây thư tín" vận hành bởi các phi công giỏi nhất Liên Xô dưới sự lãnh đạo của L. G. Kruze được thành lập. Năm 1934, Mekhlis nhận bằng tiến sĩ khoa học. Từ 1937 đến 1940, Mekhlis đảm nhận chức vụ Thứ trưởng Bộ Dân ủy Quốc phòng và là Chủ nhiệm chính trị của Hồng quân Liên Xô. Từ năm 1939, ông là thành viên của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (b), trong giai đoạn 1938-1952, là thành viên của Ban tổ chức Trung ương Đảng và trong các năm 1940-1941, là Bộ trưởng Dân ủy phụ trách Ủy ban Kiểm soát của Hội đồng Dân ủy Liên Xô (Комиссия советского контроля при СНК СССР КСК). Tháng năm 1941, Mekhlis được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị và sau đó là Thứ trưởng Bộ Dân ủy Quốc phòng. Ông được phong quân hàm Chính ủy Tập đoàn quân bậc 1, tương đương quân hàm Đại tướng. Ngày 20 tháng năm 1942, Mekhlis được cử làm Đại diện Đại bản doanh tại Phương diện quân Krym vào lúc lực lượng này đang tham gia chiến dịch bán đảo Kerch nhằm giải vây cho lực lượng Liên Xô đang bảo vệ Sevastopol. Và từ đấy tai vạ bắt đầu giáng lên đầu Tập đoàn quân Krym khi sự lộng quyền và kém khả năng của Mekhlis càng ngày càng bộc lộ. Phương pháp chỉ huy của ông này đã được đánh giá tại Hội nghị quân sự cấp cao tháng năm 1942 của Đại bản doanh Liên Xô là quan liêu, giấy tờ, hình thức chủ nghĩa, kiêu ngạo và bất tuân thượng lệnh. Khi đánh giá Tư lệnh phương diện quân D. T. Kozlov thì Mekhlis không tiếc lời chê bai ông này là con người "tẻ nhạt", "lười thâm nhập thực tế", "không quan tâm đến hoạt động quân sự", "thường truy vấn quân nhân để trừng phạt", "tự cho mình có thẩm quyền quyết định mọi chuyện" và hơn nữa là "một kẻ nói dối nguy hiểm" và yêu cầu Stalin thay người khác làm tư lệnh. Những động thái đó của Mekhlis đã có tác hại to lớn đến việc chỉ huy quân đội khi hai lãnh đạo đứng đầu Phương diện quân Krym tập trung để đánh nhau nhiều hơn là đánh địch. Bộ Tham mưu của Phương diện quân nhiều lần đã điên đầu không biết Kozlov hay là Mekhlis là chỉ huy của Phương diện quân, và những cuộc tranh cãi vô bổ giữa hai người đứng đầu của đơn vị đã để mất vô số thời gian quý báu. Đồng thời, những cuộc "trừng phạt" các tướng lĩnh "không nghe lời" và việc lộng quyền, tự ra lệnh theo mình của Mekhlis đã gây nên những thất bại không đáng có cho Tập đoàn quân Krym. Kết quả: từ khởi đầu đầy hứa hẹn, chiến dịch Kerch trở thành một thảm họa trong đó Phương diện quân Krym mất đến 15 vạn binh sĩ thương vong cùng 1.600 pháo cối, 217 xe tăng. Đáng nói hơn, trong một bức điện dài dòng gửi Stalin, Mekhlis đã có đổ mọi tội lỗi cho tư lệnh Phương diện quân Kozlov và các tư lệnh Tập đoàn quân. Tuy nhiên, Mekhlis không qua mặt được Tổng tư lệnh tối cao. Stalin đã trả lời ông ta rằng đó là một thái độ tuy tiện lợi nhưng hết sức thối tha và vô trách nhiệm. Trả lời cho việc đòi hỏi thay thế Kozlov, Stalin mỉa mai: Kết quả, Mekhlis bị kỷ luật giáng cấp xuống Chính ủy Quân đoàn (tương đương Thiếu tướng), bị cách chức Thứ trưởng Bộ dân ủy quốc phòng, cách chức Chủ nhiệm Tổng cục chính trị của Hồng quân, bị đưa ra khỏi Đại bản doanh và điều đi làm Ủy viên hội đồng quân sự Tập đoàn quân 6. Tuy nhiên, may mắn cho Mekhlis, mối quan hệ tốt trước đó với Stalin đã cứu ông ta thoát khỏi sự trừng phạt của tòa án quân sự. Khi được gọi về Moskva "nhận thông báo quyết định truy tố trước tòa án quân sự", Mekhlis được mô tả là đã quỳ xuống dưới chân Stalin và kêu lên: "Đồng chí Stalin! Xin đồng chí hãy nói với họ rằng kẻ Do Thái ngu ngốc này rất ăn năn hối hận". Stalin trầm ngâm một lúc rồi trả lời: "Được, chỉ cần anh biết tự phê bình như vậy là ổn". Và Mekhlis "qua phà" yên ổn. Trung tướng G. F. Samoilovich, khi đó là Đại tá, trợ lý về bản đồ quân sự các mặt trận của Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô đã chứng kiến và kể lại "cuộc rửa tội" vô tiền khoáng hậu này. Gì thì gì, thảm họa Kerch cũng đã để lại một bài học đắt giá cho Mekhlis. Theo Otto Chaney, từ sau vụ việc đó Mekhlis đã tỏ ra "biết điều" hơn và chỉ tập trung lo những sự vụ đúng chuyên môn của mình chứ không còn tự tiện xen vào công việc của người khác nữa. Trong thời gian sau đó, Mekhlis tiếp tục đảm nhiệm vai trò Ủy viên Hội đồng quân sự của một số Tập đoàn quân, Phương diện quân và dần dần được thăng chức trở lại: ngày 12 tháng năm 1942, cấp bậc của Mekhlis được chuyển thành hàm Trung tướng và ngày 29 tháng năm 1944 được thăng hàm Thượng tướng. Trong Chiến dịch Bagration, Mekhlis được bổ nhiệm làm Ủy viên Hội đồng quân sự Phương diện quân Byelorussia với hàm Trung tướng. Tư lệnh Phương diện quân là Thượng tướng I. Ye. Petrov, người anh hùng trong các trận bảo vệ Sevastopol, Kavkaz và các chiến dịch giải phóng Krym. Ngay sau khi tiếp nhận Sở chỉ huy mới tại Mstislavl, giữa Mekhlis và Petrov đã xảy ra hục hặc. Trong khi Petrov và Tham mưu trưởng, Trung tướng A. N. Bogolyubov dốc sức xây dựng kế hoạch tấn công cho phương diện quân thì Mekhlis lại "ngồi lê đôi mách" với Stalin rằng Petrov không có khả năng chỉ huy, rằng ông có vẻ bệnh hoạn và hay lui tới các bác sĩ làm mất thì giờ. Điều khôi hài là trong khi tại chiến dịch bán đảo Kerch, những lời buộc tội vô căn cứ này bị Tổng tư lệnh Tối cao chỉ trích thẳng tay, thì lần này Stalin chỉ cho là tính Mekhlis vốn "xấu" như thế. Vì lợi ích của chiến dịch, không thể để một bộ máy chỉ huy một phương diện quân làm việc trong tình trạng mâu thuẫn, ngày tháng năm 1944, Stalin chỉ thị triệu hồi Petrov về Đại bản doanh. Ngày tháng năm 1944, Petrov được cử làm Tư lệnh Phương diện quân Ukraina (thành lập lần trên hướng Carpath). Người thay thế Petrov là Thượng tướng G. F. Zakharov, một vị tướng có kinh nghiệm chỉ huy thành công tại Tập đoàn quân cận vệ mặt trận Krym. Tuy nhiên, Mekhlis cũng không Phương diện quân này lâu. Tính tình khắc nghiệt, thô bạo với đồng đội của ông này đã khiến các cán bộ quân sự của Phương diện quân không hài lòng và tháng năm 1944, Mekhlis bị điều về Đại bản doanh. Người thay thế ông ta là trung tướng N. E. Subbotin, một nhà giáo dục quân sự thực thụ đã giữ cương vị này đến hết cuộc chiến tranh. Tháng năm 1944, Mekhlis được điều đi làm Ủy viên Hội đồng quân sự của Phương diện quân Ukraina và công tác đó cho đến hết chiến tranh. Một lần nữa, ông ta lại dưới quyền của tướng Petrov (được thăng Đại tướng tháng 10 năm 1944). Theo Nguyên soái G. K. Zhukov, Đại diện Đại bản doanh, lần này mối quan hệ của hai người không có gặp trắc trở gì lớn: "I. Ye. Petrov làm việc ăn với Mekhiks và Petrov không có gì phàn nàn về Mekhliks." Tuy nhiên cương vị mới, Mekhlis tiếp tục phạm phải những sai lầm gây ra các thất bại không đáng có cho quân Liên Xô. Những báo cáo phóng đại của Mekhlis về việc quân Hungary rã ngũ và ra hàng hàng loạt đã gây nên những ảo tưởng về một chiến thắng dễ dàng cho Tổng tư lệnh Tối cao và góp phần khiến Stalin yêu cầu Phương diện quân Ukraina sớm tấn công vào Budapest trong khi binh lực chưa chuẩn bị đầy đủ. Kết quả, đúng như Tư lệnh Phương diện quân Ukraina R. Ya. Malinovsky dự kiến, đòn tấn công sớm này đã chịu thiệt hại lớn mà không hoàn thành mục tiêu chiến dịch. Đến tháng năm 1945, Mekhlis một lần nữa liên tục yêu cầu Phương diện quân Ukraina ngay lập tức thực thi Chiến dịch tấn công theo lệnh của Đại bản doanh trong khi binh lực của Phương diện quân chưa kịp thời hồi phục sau chiến dịch Tây Carpath. Yêu cầu này một lần nữa dẫn đến thất bại trong các cuộc tấn công đầu tiên của Phương diện quân Ukraina 4. Năm 1946, Mekhlis được bổ nhiệm làm Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Nhà nước, nhưng vào ngày 27 tháng 10 năm 1950 thì bị huyền chức vì lý do sức khỏe. Ngày 13 tháng năm 1953, ông qua đời tuổi 64. Thi hài ông được hỏa táng và chôn nghĩa trang tại chân tường Điện Kremlin. A. I. Ugarov, một trong những người từng làm việc chung với Mekhlis trong năm 1928, đánh giá Mekhlis là một con người khắc nghiệt. Mekhlis cũng có mối quan hệ xấu với S. M. Kirov, lãnh đạo Đảng ủy Leningrad lúc đó. Theo Nguyên soái không quân A. E. Golovanov, Mekhlis từng bị cách chức vì thái độ cửa quyền quá lộ liễu của ông ta: Theo lời của cựu Bộ trưởng tế, Thượng tướng Ye. I. Smirnov, vào năm 1949 khi ông đề nghị Stalin bổ nhiệm Mekhlis làm người đứng đầu một Hội đồng địa phương, Stalin đã ôm bụng cười chảy cả nước mắt và trả lời: Trong hồi ký, N. S. Khruschyov đã nhận xét về Mekhlis như sau: "Đây là một con người thật sự nhiệt thành, nhưng hơi điên điên, điều này phản ánh trong sự cuồng loạn của ông ta khi đâu ông ta cũng nhìn thấy kẻ thù và kẻ phá hoại." Nhà thơ, nhà văn và nhà báo F. I. Chuyev kể lại rằng trong một cuộc thảo luận diễn ra giữa Stalin và các nhà văn Makariev, Fadeyev về Mekhlis lúc này đang là Tổng biên tập báo Sự thật, Stalin nhiều lần lặp đi lặp lại: "Mekhlis là một con người kinh khủng. Cứ yêu cầu bất cứ thứ gì đồng chí muốn, nhưng với anh ta tôi chả thể làm được gì cả." Bút ký của Mekhlis gửi cho Zhdanov năm 1937. Trong hồi ký, Đại tướng A. V. Gorbatov đã kể lại quãng thời gian mình chịu sự "giám sát" của Mekhlis: *The Red Army Today Speeches Delivered by Voroshilov, Mekhlis, Budyonny, and Stern at the Eighteenth Congress of the CPSU(B), March 10–21, 1939, by Kliment Voroshilov, Lev Mekhlis, Semyon Budyonny, Grigori Stern, pub Foreign Languages Publishing House, Moscow, 1939 * The U.S.S.R. and the Capitalist Countries, edited by Lev Mekhlis, Varga, and Vyacheslav Karpinsky, pub Moscow, 1938, reprinted University Press of the Pacific, 2005, ISBN 978-1410224194 Rubtsov, Yuri Рубцов В, Alter ego to Stalin Alter ego Сталина, pub Zvonnitsa-MG, Moscow, 1999, ISBN 978-5880930562 Rubtsov, Yuri Рубцов В, Mekhlis, Shadow Leader Мехлис: Тень вождя, pub Veche, Moscow, 2011. Part of the series: Military Secrets of the 20th Century Военные тайны XX века, ISBN www.hrono.ru Chronos world history online, biography of Lev Zakharovich Mekhlis | Lev Zakharovich Mekhlis | Chính khách Liên Xô, Đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô |
Tại Đài Loan, Khu/quận (區, qu) là một loại đơn vị hành chính địa phương. Không giống với khu của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bao gồm cả thành thị và nông thôn, mà lại giống với khu của Nhật Bản hơn, các khu/quận của Đài Loan là các đơn vị hành chính thành thị thuộc các thành phố trực thuộc trung ương hoặc thành phố trực thuộc tỉnh. Các khu/quận của Đài Loan chỉ tương đương với cấp hương trấn. Loại phân cấp Thành phố trực thuộc trung ương Thành phố trực thuộc tỉnh Tổng Tên Cao Hùng Đài Bắc Đài Nam Đài Trung Tân Bắc Cơ Long Gia Nghĩa Tân Trúc Khu/quận 38 12 37 29 29 157 Thành phố Cao Hùng Thành phố Đài Bắc Thành phố Đài Nam Thành phố Đài Trung Thành phố Tân Bắc Liên Cổ Sơn Cương Sơn Di Đà Diêm Trình Đại Liêu Đại Thụ Đại Xã Đào Nguyên Điểu Tùng Điền Liêu Gia Định Giáp Tiên Hồ Nội Kiều Đầu Kỳ Sơn Kỳ Tân Lâm Viên Linh Nhã Lộ Trúc Lục Khưu Mậu Lâm Mỹ Nùng Na Mã Hạ Nam Tử Nhân Vũ Nội Môn Phượng Sơn Sam Lâm Tả Doanh Tam Dân Tân Hưng Tiền Kim Tiền Trấn Tiểu Cảng Tử Quan Vĩnh An Yên Sào Bắc Đầu Đại An Đại Đồng Nam Cảng Nội Hồ Sĩ Lâm Tín Nghĩa Trung Sơn Trung Chính Tùng Sơn Vạn Hoa Văn Sơn An Bình An Định An Nam Bạch Hà Bắc Bắc Môn Diêm Thủy Đại Nội Đông Đông Sơn Giai Lý Hạ Doanh Hậu Bích Học Giáp Ma Đậu Liễu Doanh Long Khi Lục Giáp Nam Nam Hóa Nam Tây Ngọc Tĩnh Nhân Đức Quan Điền Quan Miếu Quy Nhân Sơn Thượng Tả Trấn Tân Doanh Tân Hóa Tân Thị Tây Cảng Thất Cổ Thiện Hóa Trung Tây Tướng Quân Vĩnh Khang Bắc Bắc Đồn Đại An Đại Đỗ Đại Giáp Đại Lý Đại Nhã Đàm Tử Đông Đông Thế Hậu Lý Hòa Bình Long Tĩnh Nam Nam Đồn Ngoại Bộ Ngô Thê Nhật Phong Nguyên Sa Lộc Thạch Cương Thanh Thủy Thái Bình Thần Cương Tân Xã Tây Tây Đồn Trung Vụ Phong Bản Kiều Bát Lý Bình Lâm Bình Khê Cống Liêu Đạm Thủy Kim Sơn Lâm Khẩu Lô Châu Ngũ Cổ Oanh Ca Lai Song Khê Tam Chi Tam Hạp Tam Trọng Tân Điếm Tân Trang Thạch Đĩnh Thạch Môn Thái Sơn Thâm Khanh Thổ Thành Thụy Phương Thụ Lâm Tịch Chỉ Trung Hòa Vạn Lý Vĩnh Hòa Thành phố Cơ Long Thành phố Gia Nghĩa Thành phố Tân Trúc An Lạc Nhân Ái Noãn Noãn Tín Nghĩa Trung Chính Trung Sơn Thất Đổ Đông Tây Bắc Đông Hương Sơn Trong khi các khu của Đài Bắc và Cao Hùng là đơn vị hành chính địa phương cấp 2, cùng cấp với thành phố trực thuộc tỉnh và huyện, thì các khu/quận của thành phố còn lại là các đơn vị hành chính địa phương cấp 2, ngang với thành phố trực thuộc huyện, trấn, hương. | Khu/quận | Phân cấp hành chính Đài Loan |
Halcyon chelicuti là một loài chim trong họ Alcedinidae. Loài này lần đầu tiên được mô tả bởi Edward, Lord Stanley, trong chuyến đi của Salt đến Abyssinia vào năm 1814 với tên "Chelicut kingfisher" Alaudo Chelicuti. Tên chi Halcyon xuất phát từ một con chim trong truyền thuyết Hy Lạp thường gắn liền với chim bói cá. Có một niềm tin cổ xưa rằng loài halcyon xây tổ trên biển, nó đã bình tĩnh để đẻ trứng vào một tổ nổi. Tên loài chelicuti có nguồn gốc từ Chelicut Ethiopia, vị trí mà mẫu vật của Stanley thu được. Đây là loài chim có tính lãnh thổ cao sẽ đuổi theo không chỉ những loài khác cùng loài, mà còn là những bách thanh, chim bồ câu và con lăn. Lãnh thổ có thể có diện tích lên đến ba hecta (7.4 mẫu Anh) và giữ 100 cây cao. Chủ nhân lãnh thổ giám sát lãnh thổ của mình từ một ngọn cây, hót từ trước bình minh không liên tục cho đến sau buổi trưa. | ''Halcyon chelicuti | Halcyon, Động vật được mô tả năm 1814, Chim châu Phi Hạ Sahara, Loài ít quan tâm |
Cnemidaria chocoensis là một loài dương xỉ trong họ Cyatheaceae. Loài này được Stolze mô tả khoa học đầu tiên năm 1974. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Cnemidaria chocoensis | Cnemidaria, Unresolved names |
Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội là người đứng đầu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội, cơ quan lập pháp của thành phố. Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội là Phó bí thư Thành ủy và từ gần đây là Ủy viên Trung ương Đảng. Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố do Hội đồng nhân dân thành phố bầu không quá nhiệm kỳ liên tiếp. Chủ tịch Hội đồng nhân dân phải là đại biểu Hội đồng nhân dân và được bầu theo sự giới thiệu của Chủ tọa kỳ họp. Chủ tịch Hội đồng nhân dân Thành phố có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Giới thiệu Phó Chủ tịch, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân, Trưởng ban và các thành viên khác của các Ban của Hội đồng nhân dân thành phố để Hội đồng nhân dân thành phố bầu. Giới thiệu Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố để Hội đồng nhân dân thành phố bầu. Chịu trách nhiệm trước Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố, Thành uỷ về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố theo quy định của pháp luật. Đại diện Hội đồng nhân dân thành phố trong quan hệ công tác với Quốc hội, các Ban của Quốc hội và các Bộ, ban, ngành Trung ương; thay mặt Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố giữ mối liên hệ công tác với Thường trực Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, các cơ quan nhà nước, Ban thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội và công dân; trong quan hệ đối ngoại với Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, và thành phố trực thuộc trung ương khác. Chỉ đạo việc thể chế hóa chủ trương của Quốc hội, Trung ương Đảng, Chính phủ, Thành uỷ, Nghị quyết của Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy; chỉ đạo xây dựng và thực hiện chương trình hoạt động của Hội đồng nhân dân thành phố hàng năm. Phân công nhiệm vụ Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố, Uỷ viên thường trực Hội đồng nhân dân thành phố để bảo đảm hoạt động thường xuyên của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố giữa hai kỳ họp theo luật định. Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của Hội đồng nhân dân thành phố; Trực tiếp quyết định những vấn đề trình Hội đồng nhân dân thành phố tại các kỳ họp, Quyết định chương trình, nội dung giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố; Chủ trì các đợt giám sát, hội nghị liên tịch, hội nghị giao ban, các cuộc họp,…do Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố tổ chức. Thay mặt Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố dự các cuộc họp, hội nghị, các kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thuộc địa bàn thành phố. Tiếp công dân, đôn đốc và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân. Ký các văn bản của Hội đồng nhân dân thành phố và của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố theo quy định của pháp luật. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố có quyền hạn và nhiệm vụ sau: Giúp Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố thực hiện nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố. Khi Chủ tịch vắng mặt thì Phó Chủ tịch thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch, chịu trách nhiệm cá nhân trước Chủ tịch về kết quả thực hiện nhiệm vụ; liên đới chịu trách nhiệm tập thể trước Hội đồng nhân dân thành phố về kết quả thực hiện nhiệm vụ. Phối hợp với Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố và Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố ứng cử trên địa bàn thị xã triển khai và thực hiện các mặt công tác có liên quan của Hội đồng nhân dân thành phố và Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố; Phối hợp với Ban Hội đồng nhân dân thành phố xem xét, đánh giá, thẩm định các nội dung có liên quan trình kỳ họp và xem xét kết quả giám sát của các Ban của Hội đồng nhân dân thành phố. Chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện, chương trình công tác hàng năm của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố. Trực tiếp chỉ đạo xây dựng kế hoạch giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố và tham gia giám sát cùng với các Ban Hội đồng nhân dân thành phố, theo dõi và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn giám sát đối với lĩnh vực kinh tế-ngân sách, thi hành pháp luật, xây dựng chính quyền. Chủ trì đôn đốc, kiểm tra, giám sát Ủy ban nhân dân thành phố cùng cấp và các ngành chức năng có liên quan thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân thành phố và các kiến nghị của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố, các Ban Hội đồng nhân dân thành phố sau các đợt giám sát. Cùng với Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố chủ tọa và điều hành các kỳ họp của Hội đồng nhân dân thành phố; Chủ trì các đợt giám sát, hội nghị, cuộc họp do Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố tổ chức theo sự phân công, ủy quyền của Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố; Thay mặt Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố dự các cuộc họp, hội nghị, các kỳ họp của Hội đồng nhân dân các cấp khi được mời liên quan đến lĩnh vực phụ trách và theo sự phân công, ủy quyền của Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố. Thay mặt Hội đồng nhân dân thành phố trực tiếp dự và báo cáo với Thường trực Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy các nội dung thuộc thẩm quyền của Hội đồng nhân dân thành phố và Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố khi có yêu cầu. Tiếp công dân, đôn đốc và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân. Ký các văn bản của Thường trực Hội đồng nhân dân thành phố, hoặc các văn bản khác được Chủ tịch Hội đồng nhân dân ủy quyền. Trực tiếp chỉ đạo, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc công tác tham mưu, chuẩn bị các nội dung, cơ sở vật chất phục vụ đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân thành phố. Chức vụ Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố được thành lập tại kỳ họp thứ nhất khóa Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội từ ngày 12-14/12/1989 do Vũ Mão Ủy viên Hội đồng Nhà nước,Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước trình bày nghiên cứu Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân các cấp. Trước đó tại mỗi kỳ họp, Hội đồng nhân dân thành phố lại bầu ra đoàn Chủ tịch và đoàn thư ký của kỳ họp. STT Khóa Nhiệm kỳ Số đại biểu Lãnh đạo Hội đồng nhân dân Ghi chú 10 1989-1994 119 Chủ tịch:Phạm Lợi Phó Chủ tịch: Vũ Mạnh Kha (đến 1/1993) Bằng Việt (từ 10/1993) 11 XI 1994-1999 85 Chủ tịch:Phạm LợiPhó Chủ tịch:Bằng Việt 12 XII 1999-2004 85 Chủ tịch: Trần Văn Tuấn (tới 7/2001) Phùng Hữu Phú (từ 7/2001) Phó Chủ tịch:Ngô Thị Doãn Thanh Năm 2001 Trần Văn Tuấn được cử làm Bí thư Tỉnh ủy Nam Định 13 XIII 2004-2009 95 Chủ tịch: Phùng Hữu Phú (tới tháng 11/2006) Ngô Thị Doãn Thanh (từ tháng 11/2006) Phó chủ tịch: Ngô Thị Doãn Thanh (tới tháng 11/2006) Lê Quang Nhuệ (từ tháng 11/2006) Từ tháng 11/2006 Ngô Thị Doãn Thanh làm chủ tịch và Lê Quang Nhuệ làm phó chủ tịch. Tháng 9/2006 Phùng Hữu Phú được Bộ Chính trị bổ nhiệm làm Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương 14 2009-2011 162 Chủ tịch:Ngô Thị Doãn Thanh Phó chủ tịch: Lê Quang Nhuệ Nguyễn Văn Phúc Ủy viên thường trực: Lê Xuân Hoạt Nguyễn Thị Thu 15 XIV 2011-2016 95 Chủ tịch: Ngô Thị Doãn Thanh (đến ngày 25/5/2015) Nguyễn Thị Bích Ngọc (từ ngày 25/5/2015) Phó chủ tịch:Lê Văn HoạtỦy viên thường trực:Nguyễn Văn Nam Ngô Thị Doãn Thanh từ tháng 3/2015 giữ chức vụ Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương 16 XV 2016-2021 105 Chủ tịch: Nguyễn Thị Bích Ngọc Phó chủ tịch Thường trực: Nguyễn Ngọc Tuấn Phó chủ tịch: Phùng Thị Hồng Hà | Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội | Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội |
Phymatodes coronans là một loài dương xỉ trong họ Dipteridaceae. Loài này được C.Presl mô tả khoa học đầu tiên năm 1836. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Phymatodes coronans | Phymatodes, Unresolved names |
Thỏ New Zealand lam là một giống thỏ có nguồn gốc từ nước Anh. Chúng đã được công nhận bởi British Rabbit Club và được công nhận rộng rãi trên khắp Vương quốc Anh. Một sự kiện vào mùa thu năm 2015, tiêu chuẩn giống thỏ lam New Zealand được thông qua sau khi chúng lần đầu tiên được diễn tại Mỹ dưới sự tổ chức và tài trợ của Hiệp hội nhân giống thỏ Mỹ (Rabbit Breeders Association) tại Portland, Oregon. Chúng là một giống thỏ vừa phục vụ nhiều mục đích (kiêm dụng). Chúng có trọng lượng 9-12 pounds khi hoàn toàn trưởng thành thời điểm tháng tuổi trở lên. Khi thể hiện mình trong cuộc thi, chúng được đánh giá cao chủ yếu vào kiểu hình và hình dáng cơ thể. Chúng là vật nuôi nhạy cảm với các yếu tố ngoại cảnh (chốn trạy, sợ tiếng động), khả năng thích ứng với môi trường kém. Sống trong nhà chúng sẽ được an toàn hơn. Cần tránh tiếp xúc với các loài động vật khác, đặc biệt là chuột. Nếu ban ngày chúng ăn không hết thức ăn thì cần vét sạch máng, nếu thừa chuột sẽ lên ăn và cắn chết thỏ, nhất là thỏ con mới đẻ. Dạ dày chúng co giãn tốt nhưng co bóp yếu. Nhiều con bị chứng sâu răng hành hạ và có vấn đề về tiêu hóa. Chúng cũng bị mắc một số bệnh như bại huyết, ghẻ, cầu trùng, viêm ruột, do ăn thức ăn sạch sẽ, không bị nấm mốc. Nếu thấy chúng có hiện tượng phân hôi, nhão sau đó lỏng dần thấm dính đét lông quanh hậu môn, kém ăn, lờ đờ uống nước nhiều đó là bệnh tiêu chảy. Cho ăn cà rốt có thể khiến chúng bị sâu răng, cũng như gây nên những vấn đề về sức khỏe khác. Cà rốt và táo chứa nhiều đường thực vật, chỉ nên cho thỏ ăn những loại này ít. Chúng thích cam thảo nhưng nó lại không tốt bởi thỏ không thể tiêu hóa đường. Chúng thông thường không ăn rau củ có rễ, ngũ cốc hoặc trái cây, đặc biệt là rau diếp. Nên cho thỏ ăn cỏ, cải lá xanh đậm như bắp cải, cải xoăn, bông cải xanh. Luôn có thức ăn xanh trong khi chăm sóc, lượng thức ăn xanh cho chúng luôn chiếm 90% tổng số thức ăn trong ngày. Có thể cho chúng ăn thêm thức ăn tinh bột, không được lạm dụng vì chúng sẽ dễ bị mắc bệnh về đường tiêu hóa dẫn đến chết. Nhiều người cho rằng thỏ không cần uống nước là sai. Thỏ chết không phải do uống nước hay ăn cỏ ướt mà vì uống phải nước bẩn và ăn rau bị nhiễm độc. Thỏ này ăn thức ăn được chia làm hai loại là thức ăn thô và thức ăn tinh. Thức ăn thô là cỏ, rau, củ, quả. Vì là động vật gặm nhấm nên thức ăn thô của thỏ chiếm 70-80% khẩu phần thức ăn hàng ngày, lượng cho ăn vào ban đêm nhiều gấp 2-3 lần ban ngày. Thức ăn tinh bao gồm các loại hạt chính phẩm hay phế phụ phẩm nông nghiệp như ngô, khoai, sắn, cám ngô, cám gạo. Thỏ con khi nuôi từ vài tuần đến tháng chỉ cần cho ăn cám viên là đủ. Ăn thêm rau cỏ thỏ dễ bị tiêu chảy và chết. Khi thỏ trưởng thành sức đề kháng tốt hơn thể cho ăn thêm rau, cỏ đã rửa sạch sẽ và để ráo nước. Hàng ngày nên cho thỏ ăn bữa rau, bữa cám để tăng lượng tinh bột. đối với thỏ sinh sản và thỏ con nên hạn chế cho ăn cám vì không tốt cho sức khỏe, nên tăng cường nhiều rau xanh. Thức ăn viên phải đảm bảo thành phần dinh dưỡng cho thỏ tăng trưởng theo thời gian nuôi: Thỏ con nuôi đến trưởng thành: 10% protein, 4% lipid, 10 20% glucid và trên tháng tuổi một ít chất xơ. Thỏ có thai và cho con bú: 10 15% protein, 7% lipid, 10 20% glucid và thức ăn xanh. Thỏ lứa: 30 50g cám viên, mỗi ngày chia làm lần và thức ăn xanh. Thỏ đực giống, cái nuôi con và mang thai: 80 100g cám viên và thức ăn xanh. Một số bệnh thỏ thường mắc phải như: bệnh bại huyết; bệnh tụ huyết trùng; bệnh cầu trùng, bệnh tiêu chảy; bệnh nấm ngoài da với các bệnh như trên cần thực hiện theo đúng các quy trình phòng bệnh và sử dụng các loại thuốc đặc trị như thuốc Biseptol trị tiêu chảy, thuốc Griseofulvin trị nấm, thuốc Ampicoli trị tụ huyết trùng… nhìn chung, khả năng kháng bệnh của thỏ khá cao, nên rủi ro thấp trong chăn nuôi. Rabbit Colours | Thỏ New Zealand lam | Giống thỏ |
György Gordon Bajnai (phát âm là ɡordon bɒjnɒi, sinh ngày tháng năm 1968, Szeged) là Thủ tướng thứ Chính phủ Hungary 2009-2010. Trong tháng năm 2009, sau khi công bố của Thủ tướng Chính phủ lúc đó Ferenc Gyurcsány, Bộ trưởng Ferenc Gyurcsány của Bajnai đã được đề cử bởi đảng cầm quyền MSZP trở thành thủ tướng tiếp theo của Hungary. Bajnai đã trở thành thủ tướng khi Quốc hội đã thông qua một cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm chống lại Ferenc Gyurcsány ngày 14 tháng năm 2009. Bajnai lớn lên Baja, Hungary. Ông tốt nghiệp từ các trường Đại học Khoa học kinh tế Budapest (nay là Đại học Corvinus) ngành quan hệ quốc tế vào năm 1991. Đối với hoạt động công cộng và chuyên nghiệp của mình, ông đã được tưởng thưởng giải thưởng Universitate Pro. Bajnai đã không phải là một lãnh đạo KISZ (Kommunista Ifjúsági Szövetség), giống như Gyurcsány (là Phó Chủ tịch của tổ chức thanh niên cộng sản vào năm 1989), nhưng ông hoạt động trong thanh niên-chính trị. Trong năm 1987, Bajnai đã tổ chức một cuộc tẩy chay của căng-tin của trường Đại học Kinh tế, và là chủ tịch của Hội đồng sinh viên độc lập. Ông cũng là người đứng đầu của Cục Lịch sử Studium Generale, nghiên cứu Dự bị trường Cao đẳng. | György Gordon Bajnai | |
Lễ hội Katé còn được gọi là Mbang Katé là một lễ hội của đồng bào dân tộc Chăm. Đây là một lễ hội dân gian thiêng liêng đặc sắc và rất quan trọng. Tưởng nhớ đến những người đã khuất, tưởng nhớ đến các vị anh hùng dân tộc (được người Chăm tôn vinh làm thần). Thường được tổ chức vào tháng theo lịch của người Chăm (khoảng 25/9 đến 25/10 dương lịch). Người dân tập trung tại các đền tháp cổ kính, thưởng thức các điệu múa nhạc dân gian trong kho tàng âm nhạc của người Chăm. Mọi người nghỉ ngơi và tràn ngập niềm vui, đi thăm viếng chúc tụng lẫn nhau. Lễ hội được chia làm hai phần là phần lễ và phần hội Nghi thức hành lễ đón rước phục y, lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần, lễ mặc phục cho tượng thần, đại lễ. Khi điệu múa thiêng kết thúc thì ngoài tháp Chăm bắt đầu mở hội. Các điệu múa, làn điệu dân ca cộng hưởng với trống Gi Năng, trống Paranưng và kèn Saranai làm vui nhộn cả một vùng. Được kết thúc vào chiều tối ngày thứ hai của lễ. Lễ hội Katé được tổ chức theo quy mô nhỏ tiến hành từng làng, một ngày sau đó là lễ hội từng gia đình một. Các thành viên từng gia đình cùng quần tụ đông đủ, có một người chủ tế. Thường được lựa chọn là người chủ hộ, lớn tuổi, hay trưởng dòng họ trong dòng tộc. Cầu mong cho gia đình được tổ tiên thần linh phù hộ, con cháu làm ăn phát đạt gặp nhiều may mắn. Mọi thành viên trong gia đình đây là cơ hội để mọi người gần gũi, gắn bó, đoàn kết, thương yêu nhau hơn trong cuộc sống, là dịp để vui chơi, giải trí sau một năm lao động miệt mài. Tưng bừng lễ hội Kate của người Chăm Ninh Thuận | Lễ hội Katé | Lễ hội của người Chăm, Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Mười, Di sản văn hóa phi vật thể tại Việt Nam |
Vào ngày 25 tháng năm 2016, ít nhất 19 người đã thiệt mạng và 50 người bị thương trong một vụ đâm người hàng loạt tại một nhà chăm sóc người khuyết tật Midori-ku, Sagamihara, Nhật Bản. Một người đàn ông 26 tuổi, được xác định là Satoshi Uematsu, đã bị bắt giữ khi đầu hàng cảnh sát với một túi xách đựng dao sau khi vụ việc xảy ra. Kẻ tấn công chính là một cựu nhân viên của cơ sở chăm sóc này. Cuộc tấn công được mô tả là vụ giết người hàng loạt ghê gớm nhất kể từ vụ tương tự vào năm 1938 tại Tsuyama và là một trong những tội ác tồi tệ nhất trong lịch sử hậu chiến tranh của Nhật Bản. | null | Giết người hàng loạt năm 2016, Sagamihara, Sự kiện tội ác căm thù |
CGS-21680 220x220px Names IUPAC name 3-4-2- acid Other names CGS 21680 Identifiers CAS Number 120225-54-9 7x7pxY 3D model (JSmol) Interactive image ChEBI CHEBI:73283 8x8pxN ChEMBL ChEMBL331372 7x7pxY ChemSpider 2343185 8x8pxN IUPHAR/BPS 375 424 PubChem CID 3086599 CompTox Dashboard (EPA) DTXSID6043882 Edit this at Wikidata InChI 8x8pxNKey: 8x8pxN SMILES Properties Chemical formula C23H29N7O6 Molar mass 499.52 Except where otherwise noted, data are given for materials in their standard state (at 25 °C 77 °F, 100 kPa). 14x14pxN verify (what is 7x7pxY8x8pxN ?) Infobox references CGS-21680 là một chất chủ vận thụ thể tiểu phần adenosine A2A. Nó thường được biểu hiên dưới dạng muối hydrochloride hữu cơ với trọng lượng phân tử 536,0 g/M. Nó hòa tan đến 3,4 mg/mL trong DMSO và 20 mg/mL trong 45% (w/v) aq Hóa chất này hiện đang được sử dụng bởi các nhà nghiên cứu quan tâm đến việc nghiên cứu truyền dẫn nơ-ron với một chất tương tự đặc hiệu, phân nhóm phụ cho adenosine. Điều này bao gồm nghiên cứu về hô hấp nơi người ta tin rằng các thụ thể A2A có liên quan đến việc tạo nhịp trong phức hợp tiền Bötzinger. Thuốc hiện không được phê duyệt để sử dụng trong khả năng điều trị. Thụ thể Adenosine | CGS-21680 | Purine |
Cá bỗng hay cá dốc (Danh pháp hai phần: Spinibarbus denticulatus) là loài cá thuộc họ Cá chép. Cá bỗng đực có thể dài đến 41,5 cm. Trong văn hóa bình dân, loài cá này được người dân Thanh Hóa gọi là Cá thần với những đàn cá sống Suối Cá thần, người Mường gọi là "cá Phốôc" (cá phốc), do tâm linh mê tín nên người dân Thanh Hóa không ăn loại cá này nhưng những nơi khác thì nó là đặc sản. Loài này có phân bố trong khu vực Đông Nam Á, và được biết đến từ các con sông trên đảo Hải Nam (Trung Quốc), đông nam Trung Quốc, Lào và Việt Nam. Tại Việt Nam, nó phân bố từ sông Thạch Hãn (sông Quảng Trị) tỉnh Quảng Trị tới lưu vực sông Lam tại các tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An. Tại Lào nó được biết đến từ sông Nậm Ma (sông Mã). Theo tác giả Trong Yue et al. (2000) người ta mô tả phân loài của S. denticulatus tại Trung Quốc, bao gồm: S. d. denticulatus được biết đến từ sông Nguyên Giang (sông Hồng), Châu Giang và các con sông trên đảo Hải Nam; S. d. yunnanensis được biết đến từ hồ Dương Tông Hải và Phủ Tiên (tỉnh Vân Nam); S. d. polylepis được biết đến từ sông Nam Bàn (thượng nguồn sông Châu Giang). Từ khi phát hiện ra Suối cá thần người dân trong bản đã lập ban thờ bên cạnh khu vực hang động nằm cách suối cá 10m để thờ Thần Cá. Những câu chuyện ly kỳ xung quanh suối cá thần là đề tài thu hút khách thập phương. Người dân tin rằng sự sung túc của bầy cá là biểu tượng của sự bình yên, no ấm, và suối cá rất linh thiêng, ai dám bắt và ăn thịt các loại cá trên dòng suối này là xúc phạm đến thần linh gây tai họa cho mình và cả cộng đồng Thanh Hóa, do yếu tố tâm linh nên người ta không được ăn loại cá này khiến cho đàn cá được bảo vệ và ngày càng nhiều lên, còn Hà Giang, Yên Bái, Hòa Bình, Tuyên Quang thì cá Bỗng được nuôi nhiều và khá đại trà, những con nhỏ họ dùng để ăn, những con to được bán với giá rất đắt do thịt chúng ngon. Cá bỗng còn là đặc sản các vùng núi phía Bắc, được bán với giá đắt | Cá bỗng | Cá châu, Cá Việt Nam |
'Scadoxus là một loài thực vật có hoa trong họ Amaryllidaceae. Loài này được (Decne.) Friis Nordal miêu tả khoa học đầu tiên năm 1976. Tập tin:Scadoxus cinnabarinus blossoms (aka).jpg Tập tin:Scadoxus cinnabarinus Tập tin:Scadoxus cinnabarinus MS 3511.jpg | null | Scadoxus |
Map Lâu đài Herrenchiemsee Đảo (tên cũ: Herrenwörth), có diện tích là 238 mẫu vuông, là đảo lớn nhất của đảo chính tại Chiemsee, một hồ trong tiểu bang Bayern, Đức. Cùng với đảo Fraueninsel và đảo Krautinsel nó lập thành một xã tại Chiemsee. Mặc dù lớn nhất đảo Herreninsel chỉ có khoảng 30 người ở. Đảo nổi tiếng vì có lâu đài Herrenchiemsee cho xây bởi Ludwig II của Bayern, người mà chỉ tổng cộng cho tới 10 ngày đó. Ngoại trừ lâu đài chính, đảo còn có lâu đài cũ mà trước đó là một tu viện Augustinian của Herenchiemsee. Đảo này có thể viếng thăm quanh năm với tuyến tàu của hãng chủ yếu là từ Gstadt và Prien, một phần cũng có thể tới từ các nơi khác chung quanh hồ cũng như từ đảo Fraueninsel. Đảo không có xe cộ. Mùa hè có xe ngựa chở du khách. Tu viện trên Herreninsel theo truyền thống được thành lập bởi Công tước Tassilo III của Bayern. Việc thành lập trên thực tế đã diễn ra (theo những phát hiện khảo cổ mới nhất) trong khoảng thời gian từ 620 đến 629. Qua 12 thế kỷ cho đến khi thế tục hóa Bayern, hòn đảo thuộc sở hữu của tu viện Herrenchiemsee. Hòn đảo đã được vua Ludwig II mua lại vào năm 1873 với giá 350.000 Gulden, sau đó ông đã xây dựng lâu đài Herrenchiemsee mới tại đây. Tại lâu đài cổ (tu viện cũ) ủy ban Công ước Hiến pháp đã họp từ ngày 10 đến 23 tháng năm 1948, để chuẩn bị cho Luật cơ bản của Cộng hòa Liên bang Đức. Công viên tại Herrenchiemsee Bavarian Palace Department | null | Đảo tại Bayern |
là một chi động vật có vú trong họ Sóc, bộ Gặm nhấm. Chi này được Robinson and Kloss miêu tả năm 1915. Loài điển hình của chi này là Pteromys tephromelas Günther, 1873. Chi này gồm loài: *Aeromys tephromelas, (Günther, 1873) Sóc bay đen tuyền *Aeromys thomasi, (Hose, 1900) Sóc bay Thomas *Thorington, R. W. Jr. and R. S. Hoffman. 2005. Family Sciuridae. pp. 754–818 in Mammal Species of the World Taxonomic and Geographic Reference. D. E. Wilson and D. M. Reeder eds. Johns Hopkins University Press, Baltimore. | null | Chi động vật có vú |
Sinh học đất là các hoạt động của vi sinh vật và hệ động vật và sinh thái học trong đất. Sự sống trong đất, sinh vật đất, động vật trong đất, hoặc edaphon là một thuật ngữ tập thể bao gồm tất cả các sinh vật sống một phần đáng kể trong vòng đời của chúng trong một cấu trúc đất hoặc giao diện đất. Những sinh vật này bao gồm giun đất, giun tròn, động vật nguyên sinh, nấm, vi khuẩn, các động vật chân đốt khác nhau, cũng như một số loài bò sát (như rắn), và các loài động vật có vú như chuột, cầy thảo nguyên. Sinh học đất đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định nhiều đặc tính của đất. Sự phân hủy chất hữu cơ bằng các sinh vật đất có ảnh hưởng lớn đến độ màu mỡ của đất, sự phát triển của cây trồng, cấu trúc của đất, và chu trình cacbon. Là một ngành khoa học tương đối mới, vẫn còn nhiều điều chưa biết về sinh học đất và ảnh hưởng của nó đối với các hệ sinh thái đất. Đất có tỷ lệ đa dạng sinh học cao trên thế giới. Mối liên hệ giữa các sinh vật đất và các chức năng của đất được quan sát thấy phức tạp vô cùng. Sự kết nối và phức tạp của "mạng lưới thức ăn" đất này có nghĩa là bất kỳ sự thẩm định nào về chức năng của đất phải nhất thiết phải tính đến các tương tác với các sinh vật sống trong đất. Chúng ta biết rằng các sinh vật đất phân hủy chất hữu cơ, làm cho chất dinh dưỡng có sẵn để hấp thu bởi thực vật và các sinh vật khác. Các chất dinh dưỡng chứa trong cơ thể các sinh vật đất ngăn ngừa sự mất đi chất dinh dưỡng bằng cách thẩm thấu. Dịch tiết của vi sinh vật để duy trì cấu trúc đất, và giun đất rất quan trọng trong sự biot hóa. Tuy nhiên, chúng ta không hiểu các khía cạnh quan trọng về cách thức những quần thể này hoạt động và tương tác. Sự khám phá ra glomalin năm 1995 cho thấy chúng ta thiếu kiến thức để trả lời đúng một số câu hỏi cơ bản nhất về chu trình sinh địa hóa học trong đất. Cần có nhiều nghiên cứu để hiểu rõ hơn về vai trò sinh thái của các thành phần sinh học đất trong sinh quyển. Trong môi trường đất, thực vật phát triển trong một môi trường hoạt động và ổn định. Hàm lượng khoáng chất trong đất và cấu trúc của nó rất quan trọng đối với sự an toàn của chúng, nhưng nó là sự sống trên trái đất, tạo ra năng lượng cho chu kỳ và sinh sản. Nếu không có hoạt động của các sinh vật đất, vật liệu hữu cơ sẽ tích tụ và xả rác mặt đất, và sẽ không có thức ăn cho cây. Các sinh vật đất bao gồm: *Megafauna: kích thước khoảng từ 20 mm trở lên, ví dụ: chuột chũi, thỏ và một số loài thuộc bộ gặm nhấm khác. *Macrofauna: khoảng cách kích thước đến 20 mm, ví dụ: oniscidea, giun đất, bọ cánh cứng, rết, sên lãi, ốc sên, kiến và opiliones. *Mesofauna: khoảng kích thước 100 micromet đến mm, ví dụ: gấu nước, mite và collembola. *Microfauna và Microflora: phạm vi kích thước đến 100 micromet, ví dụ: nấm men, vi khuẩn (thường là xạ khuẩn), nấm, động vật nguyên sinh, giun tròn, và luân trùng. Trong số này, vi khuẩn và nấm đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì một đất tốt. Chúng hoạt động như những chất phân huỷ các chất hữu cơ để tạo ra các mảnh vụn và các sản phẩm phân hủy khác. Ăn mùn bã, như giun đất, ăn phế thải và phân hủy nó. Saprotrophs, đại diện tốt bởi nấm và vi khuẩn, chiết suất các chất hòa tan hòa tan từ delitro. Kiến (macrofaunas) giúp phá vỡ theo cùng một cách nhưng chúng cũng cung cấp một phần chuyển động khi chúng di chuyển. Ngoài ra loài gặm nhấm, phân hủy gỗ giúp đất hấp thụ nhiều hơn. Sinh học đất liên quan đến nghiên cứu trong các lĩnh vực sau: *Mô hình hóa các quá trình sinh học và động lực dân số *Sinh học, vật lý và hóa học đất: Sự xuất hiện của các tham số hoá lý và tính chất bề mặt của quá trình sinh học và hành vi dân số *Quần thể sinh học và sinh thái phân tử: phát triển phương pháp luận và đóng góp cho nghiên cứu quần thể vi khuẩn và động thực vật; tính đa dạng và động lực dân số; biến đổi gen, ảnh hưởng của các yếu tố môi trường *Sinh thái cộng đồng và các quá trình hoạt động: các tương tác giữa các sinh vật và các hợp chất khoáng hoặc hữu cơ; sự tham gia của các tương tác như vậy trong sự gây bệnh của đất; chuyển đổi khoáng sản và các hợp chất hữu cơ; cấu trúc đất Các biện pháp kỷ luật bổ sung cần được sử dụng liên quan đến sinh học phân tử, di truyền học, sinh thái học, địa lý sinh học, sinh thái, chu trình đất, vật chất hữu cơ, động lực dinh dưỡng và sinh thái cảnh quan. Vi khuẩn là các sinh vật đơn bào với số lượng sống từ 100 triệu đến tỷ trong một gram. Chúng có khả năng tái tạo rất nhanh bằng cách phân chia đôi trong điều kiện thuận lợi. Trong điều kiện tối ưu, vi khuẩn có thể phát triển và phân chia cực nhanh, và quần thể vi khuẩn có thể tăng gấp đôi nhanh chóng trong 9,8 phút. Hầu hết các vi khuẩn đất sống gần rễ cây trồng và thường được gọi là Vi khuẩn sống trong bùn, bao gồm cả màng độ ẩm xung quanh các hạt đất, và một số loài có thể bơi bằng tiên mao. Phần lớn các vi khuẩn có ích đất cần oxy (và do đó được gọi là vi khuẩn hiếu khí), trong khi đó những vi khuẩn không cần không khí được gọi là vi khuẩn yếm khí và có xu hướng gây ra sự suy thoái chất hữu cơ. Các vi khuẩn hiếu khí hoạt động mạnh nhất trong đất ẩm ướt (nhưng không bão hoà vì điều này sẽ làm mất đi vi khuẩn hiếu khí trong không khí mà chúng cần) và pH đất trung tính và pH đất trung hoà, và nơi có rất nhiều thực phẩm (cacbohydrat và nguyên tố vi lượng từ chất hữu cơ) có sẵn. Các điều kiện không tốt sẽ không giết chết hoàn toàn vi khuẩn; Thay vào đó, vi khuẩn sẽ ngừng phát triển và đi vào giai đoạn ngủ đông, và những vi khuẩn có đột biến thích nghi có thể cạnh tranh tốt hơn trong điều kiện mới. Một số vi khuẩn Gram dương sản sinh ra bào tử để chờ đợi những trường hợp thuận lợi hơn, và các vi khuẩn Gram âm đi vào giai đoạn "không nuôi cấy được". Theo quan điểm của người làm vườn hữu cơ, vai trò quan trọng của vi khuẩn là: Chu trình nitơ (Turkish) Nitrat hóa là một phần quan trọng của chu trình nitơ, trong đó một số vi khuẩn (mà tự sản xuất cung cấp cacbohydrat của mình mà không sử dụng quá trình quang hợp) có thể biến đổi nitơ dưới dạng amoni, được tạo ra bởi sự phân hủy protein, thành nitrat, có sẵn cho cây trồng, và một lần nữa chuyển đổi thành protein. Trong một phần khác của chu trình, quá trình cố định đạm liên tục đưa nitơ bổ sung vào lưu thông sinh học. Điều này được thực hiện bởi các vi khuẩn nitơ tự do sống trong đất hoặc nước như hoặc những loài sống trong sự cộng sinh gần gũi với các cây họ đậu, chẳng hạn như rhizobia. Những vi khuẩn này hình thành các khuẩn lạc trong các nốt sần mà chúng tạo ra trên rễ đậu Hà Lan, đậu và các loài liên quan. Chúng có thể chuyển đổi nitơ từ khí quyển thành các chất hữu cơ chứa nitơ. Trong khi cố định nitơ từ khí quyển thành các hợp chất hữu cơ, một loạt các quá trình gọi là khử nitơ mang lại một lượng nitơ xấp xỉ với khí quyển. Các vi khuẩn khử phân huỷ có xu hướng là những vi khuẩn yếm khí, bao gồm và Quá trình tinh chế do các điều kiện không oxy chuyển nitrat và nitrit trong đất thành khí nitơ hoặc thành các hợp chất khí như dinitơ monoxit hoặc nitơ monoxit. Việc khử nitơ quá nhiều có thể dẫn đến tổn thất tổng thể của lượng nitơ trong đất và sự mất màu của đất. Tuy nhiên, nitơ cố định có thể lưu thông nhiều lần giữa các sinh vật và đất trước khi khử nitơ đưa nó vào khí quyển. Biểu đồ trên minh hoạ cho chu trình nitơ. Xạ khuẩn có vai trò rất quan trọng trong sự phân huỷ của chất hữu cơ và sự hình thành của mùn, và sự có mặt của chúng chịu trách nhiệm cho sự hình thành một môi trường đất giàu dinh dưỡng. Chúng đòi hỏi nhiều không khí và pH giữa 6,0 và 7,5, nhưng chịu được điều kiện khô hơn hầu hết các loại vi khuẩn và nấm khác. Một gram đất vườn có thể chứa khoảng một triệu loại nấm, chẳng hạn như nấm men và nấm mốc. Nấm không có diệp lục, và không thể quang hợp. Chúng không thể sử dụng cacbon dioxide trong khí quyển như một nguồn cacbon, vì vậy chúng có tính dị dưỡng, có nghĩa là chúng giống như động vật, chúng đòi hỏi một nguồn năng lượng hóa học hơn là sử dụng ánh sáng làm nguồn năng lượng cũng như chất nền hữu cơ lấy carbon cho sự tăng trưởng và phát triển. Giun đất, kiến và mối kết hợp đất lại với nhau, ảnh hưởng đáng kể đến sự hình thành của đất. Giun đất ăn các hạt đất và dư lượng hữu cơ, tăng cường sự sẵn có của chất dinh dưỡng thực vật trong vật chất đi qua và ra khỏi cơ thể của chúng. Bằng cách xay xát và khuấy trộn đất, và tăng tính ổn định của đất, các sinh vật này đảm bảo sự thâm nhập của nước sẵn sàng. | Sinh học đất | Sinh học đất, Khoa học đất, Sinh học |
Kosmas "Makis" Gezos (sinh ngày 15 tháng năm 1992 Athens) là một cầu thủ bóng đá người Hi Lạp thi đấu vị trí trung vệ for câu lạc bộ Thụy Điển Akropolis IF. | Kosmas "Makis" Gezos | Sinh năm 1992, Nhân vật còn sống, Người Athens, Cầu thủ bóng đá Hy Lạp, Hậu vệ bóng đá, Cầu thủ bóng đá Superleague Hy Lạp, Cầu thủ bóng đá Panionios F.C., Cầu thủ bóng đá Albania, Cầu thủ bóng đá nước ngoài Thụy Điển |
Lechuang tên cũ Lạc Thị ảnh nghiệp''' là một doanh nghiệp sản xuất phim điện ảnh và truyền hình, được thành lập vào tháng năm 2011, dưới hình thức Công ty điện ảnh trực tuyến Tháng năm 2011, nguyên tổng giám đốc Quang Tuyến ảnh nghiệp Trương Chiêu thành lập lên Lạc Thị ảnh nghiệp, đồng thời nhậm chức CEO Ngày 28/05/2013, đạo diễn Trương Nghệ Mưu kí hợp đồng đạo diễn với Lạc Thị ảnh nghiệp, đảm nhiệm chức vụ Giám đốc nghệ thuật Trương Nghệ Mưu và Lạc Thị đã hợp tác trong các bộ phim: "Trở về" (công chiếu ngày 16/05/2014) và "Tử chiến Trường Thành" (công chiếu tháng 12 năm 2016) Le Chuang Entertainment không còn tự định nghĩa mình là một công ty điện ảnh và truyền hình thuần túy, mà chuyển đổi thành nội dung phim và truyền hình cho người xem. IP là phương hoạt đồng chính của công ty. Giải pháp là người dùng là nguồn và IP là gốc, điện ảnh và truyền hình là phương tiện truyền thông, liên kết internet thiết bị đầu cuối máy tính, thông qua hỗ trợ vốn, thu hút nhiều đối tác hơn, cho phép IP phục vụ người dùng chính xác hơn và nhận ra một cách nhận thức đa dạng. Quan trọng hơn, điện ảnh và truyền hình điều khiển IP hoạt động nối tiếp, tăng dần giá trị thương hiệu của IP và thúc đẩy giá trị gia tăng của người xem IP để đạt được chu kỳ khuếch đại dương từ IP sang giá trị phái sinh. Trong quá trình sản xuất và phân phối các bộ phim xuất sắc, LeTV đặt mục tiêu thiết lập hệ thống thị trường phim O2O "ba trong một" và "liên kết năm màn hình" trong bối cảnh thời đại Internet 2.0, cung cấp cho người xem cái nhìn toàn diện từ trực tuyến đến ngoại tuyến. Năm 2012, LeTV đã sản xuất và phát hành bộ phim, đứng thứ trong số công ty tư nhân hàng đầu. Trong số đó, "Viên đạn biến mất" của LeTV đã giành được bốn đề cử cho Phim Đài Loan hay nhất Giải thưởng Kim Mã và 13 đề cử Giải thưởng Điện ảnh Hồng Kông. Bộ phim "Biệt đội đánh thuê 2" của LeTV tại Hoa Kỳ, được sản xuất và chịu trách nhiệm cho thị trường Trung Quốc, đã đạt doanh thu 54 triệu đô la Mỹ tại thị trường Trung Quốc, chiếm 18,5% thị phần toàn cầu. Mô hình kinh doanh sáng tạo của LeTV và hệ sinh thái nội dung thương hiệu được thị trường rất ưa chuộng. Vào tháng năm 2013, LeTV đã hoàn thành vòng đầu tiên tài trợ 200 triệu RMB, và định giá của công ty đạt 1,55 tỷ nhân dân tệ. Năm 2013 LeTV thu mua 100% cổ phần của Đông Dương Lạc Thị Văn hóa Điện ảnh và Truyền hình với giá 900 triệu Nhân dân Tệ Năm 2013, LeTV đã sản xuất phát hành bộ phim, với doanh thu phòng vé 1,05 tỷ nhân dân tệ, đứng thứ ba trong số các công ty phim tư nhân. Trong số đó, "Tiểu thời đại" và "Tiểu thời đại 2" đã giành được gần 800 triệu phòng vé, "Tiểu Thời Đại" vào ngày đầu tiên đạt 73 triệu phòng vé trở thành bộ phim 2D trong nước đầu tiên lập kỷ lục phòng vé, hai ngày hơn 100 triệu, ba ngày hơn 200 triệu, sáu ngày hơn 300 triệu cũng nằm trong số ba phim đứng đầu doanh thu trong lịch sử đại lục. Ngoài ra, LeTV luôn đi đầu trong hợp tác phim quốc tế. Chiến lược hợp tác quốc tế bao gồm thành lập một cơ quan điều hành tại Hollywood, thành lập một tổ chức nghiên cứu và phát triển tài sản trí tuệ trực quan phim Trung-Mỹ (Visual IP-Radical Vision China), sản xuất các sản phẩm hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ, dịch vụ thị trường Trung Quốc vủa sáu hãng phim Hollywood và các công ty hợp tác phim Trung-Mỹ. Phát triển và bán hàng. Bố cục sâu sắc như vậy sẽ khiến LeTV trở thành công ty hàng đầu trong hợp tác ngành công nghiệp điện ảnh giữa hai nước. 18 tháng năm 2014, LeTV đã chính thức công bố hoàn thành việc cấp vốn cho Series với số tiền tài trợ là 340 triệu nhân dân tệ. Hengtai Capital và các nhà đầu tư khác đã tham gia đầu tư. Định giá của LeTV là 4,8 tỷ nhân dân tệ, tăng gấp 3,2 lần định giá của vòng tài chính năm ngoái. Năm 2014, LeTV đã sản xuất phát hành 13 bộ phim, với doanh thu phòng vé khoảng 2,4 tỷ nhân dân tệ, tốc độ tăng trưởng khoảng 130%, đứng đầu trong năm công ty phim tư nhân hàng đầu. Bao gồm các sản phẩm của Hollywood như "Biệt đội đánh thuê 3" và "Số hóa", cũng như bộ phim văn học 4K IMAX đầu tiên của Trung Quốc "Trở về" và các bộ phim xuất sắc trong nước nặng ký khác. Ngoài phép màu phòng vé liên tục Trung Quốc, LeTV đang thúc đẩy mạnh mẽ chiến lược ra nước ngoài: "Đêm Trung Hàn Lạc thị" được tổ chức tại Seoul, Hàn Quốc và công bố thành lập chi nhánh tại Hàn Quốc, và công bố hợp tác với một số đạo diễn Hàn Quốc; Việc thành lập chi nhánh Bắc Mỹ của LeTV đã trở thành một phần quan trọng trong chiến lược nước ngoài của LeEco. Năm 2015, bộ phim "Tiểu thời đại 4" của LeTV đã giành được 487 triệu phòng vé, và loạt phòng vé phim "Tiểu thời đại" đạt tổng cộng hơn 1,8 tỷ nhân dân tệ, tạo ra một kỷ lục phòng vé mới cho loạt phim điện ảnh Trung Quốc, và cũng trở thành loạt phim điện ảnh có lợi tức đầu tư cao nhất Trung Quốc. Năm 2015, bộ phim bom tấn toàn tiếng Anh "Vạn lý trường thành" do đạo diễn và giám đốc nghệ thuật ký hợp đồng với LeTV Trương Nghệ Mưu làm đạo diễn bắt đầu bấm máy. Khoản đầu tư 135 triệu đô la đứng đầu trong các sản phẩm hợp tác hiện tại của Trung Quốc và nước ngoài. tháng năm 2016, LeTV.com đã thông báo rằng công ty dự định mua 100% vốn của LeTV dưới dạng kết hợp thêm cổ phiếu và tiền mặt, với giá mục tiêu là 9,8 tỷ nhân dân tệ. Năm 2016, LeTV đã đạt được sự tăng trưởng thành công trong sự tăng trưởng cân bằng của ngành giải trí trong 11 bộ phim. Trong bối cảnh thị trường phim Trung Quốc chậm lại, LeTV đã trở thành công ty điện ảnh phát triển nhanh nhất trong ngành giải trí, với tổng doanh thu phòng vé đứng thứ hai trong số các công ty phim tư nhân. Tháng năm 2017, LeTV không còn tự định nghĩa là một công ty điện ảnh và truyền hình thuần túy, mà chuyển đổi thành một công ty điều hành IP sử dụng nội dung chuyển thể làm phương tiện chính. 27 tháng năm 2017, LETV dự tính đổi tên và thượng hiệu thành Tân Lạc Thị 27 tháng năm 2018, Chủ tịch và Giám đốc điều hành của LeTV, Trương Chiêu đã đưa ra một lá thư nội bộ nói rằng công ty sẽ chính thức được đổi tên thành Lechuang Entertainment. Sau khi đổi tên, Trương Chiêu vẫn là chủ tịch và CEO của Lechuang Entertainment. 22 tháng năm 2018, công ty tố tụng tài sản trực tuyến của Tòa án nhân dân đã công bố kết quả đấu giá tư pháp các cổ phần do Leshi Holding nắm giữ, bao gồm ba dự án của Leshi Zhixin do Leshi Holding nắm giữ và vốn chủ sở hữu của LeTV. Giá là 773 triệu nhân dân tệ. Nhà thầu là Thiên Tân Jiarui Huixin Enterprise Management, một công ty đầu tư thuộc sở hữu của Sunac China. Năm Tên phim Ghi chú 2012 Bát tinh bão hỉ Truy hung Viên đạn biến mất Đội cảm tử Hợp tác Trung Mỹ 2013 Đồng mưu Tiểu Thời Đại Tiểu Thời Đại Đội cảm tử Hợp tác Trung Mỹ 2014 Tiểu Thời Đại Trở về Trương Nghệ Mưu đạo diễn Mãnh long quá giang Thái Bình Luân Ngô Vũ Sâm đạo diễn 2015 Bên nhau trọn đời Bản điện ảnh Tử chiến Trường Thành Trương Nghệ Mưu đạo diễn, hợp tác Trung Mỹ 2016 Tước tích 2017 Kì môn độn giáp 2018 Ảnh Trương Nghệ Mưu đạo diễn 2019 Gấu Boonie: Vụ nổ quá khứ Lechuang Pictures (Thiên Tân) sản xuất và phát hành Tần Minh·Người giải mã sinh tử Lechuang Pictures (Thiên Tân) phát hành 2021 Đồ Lan Đóa Trịnh Hiểu Long đạo diễn, hợp tác Trung-Anh, do Đông Dương Lạc Thị Văn hóa Điện ảnh và Truyền hình sản xuất 乐视影业 | Lechuang tên cũ | Hãng phim Trung Quốc, Hãng phim Bắc Kinh |
Tai tượng đỏ (danh pháp hai phần: 'Acalypha là loài cây bụi thường xanh thuộc chi Cỏ tai tượng. Cây này cao đến m, tán rộng đến m. Tai tượng đỏ được dùng để chữa một số bệnh như nấm ngoài da image:Acalypha wilkesiana'' at Courtallam image:Cây Tai tượng đỏ (Acalypha Tai tượng đỏ chụp tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam File:金邊紅桑 wilkesiana Muell. Arg. wilkesiana Muell. Arg. | Tai tượng đỏ | |
Redmond là một thành phố nằm trong quận King thuộc tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Thành phố này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, thành phố có dân số người. Người Mỹ bản địa đã sinh sống khu vực Redmond trong khoảng 10,000 năm, theo những di vật được phát hiện Trung Tâm khảo cứu Thị Trấn Redmond và cứ điểm Tiền Sử Ấn Độ Marymoor. Người khai hoang châu Âu đặt chân đầu tiên đến đây là vào những năm 1870. Luke McRedmond tiến hành cấp đất cho người di cư đến đây sinh sống cạnh Sammamish Slough vào ngày tháng 9, năm 1870, sau đó vài năm, Warren Perigo đã khai hoang vùng đất gần kề. Các nhánh sông và suối có nhiều cá hồi, nên người ta gọi khu di cư đầu tiên đây là Salmonberg. Những người di cư càng đến nhiều hơn, bưu điện đầu tiên được xây dựng vào 1881, tên gọi của cộng đồng đầu tiên là Melrose. Tên gọi mới bắt nguồn là từ thành công từ quán trọ của Perrigo, Melrose House, đã đánh bật McRedmond. Sau đó, ông trở thành giám đốc bưu điện, ông đã thành công hơn với kiến nghị đổi tên thành Redmond vào năm 1883. Sự giàu có của các khu rừng và cá Redmond đã tạo nhiều việc làm cho nghề lấy gỗ và chài lưới, công việc này tạo nên sự đòi hỏi về thực phẩm cũng như dịch vụ, làm xuất hiện người làm việc như lái buôn. Ngành lấy gỗ được mở rộng đáng kể vào 1889, khi Settle, Lake Shore và Eastern Railway thiết lập nhà ga vào trung tâm thị trấn. Bản đồ đầu tiên cho Redmond được thiết lập vào ngày 11 tháng năm 1891, được vẽ như hiện tại cũng chính là trung tâm thương mại. Khi dân số đạt mốc cần thiết với 300 người, Redmond được thiết lập thành đơn vị vào ngày 31 tháng 12 năm 1912. Redmond đã trải qua thời kì khủng hoảng kinh tế vào những năm 1920. Luật cấm sản xuất rượu được ban hành làm cho những vũ trường buộc phải đóng cửa, điều này gây giảm khoản thuế cho thành phố. Cánh rừng đã bị đốn trụi một cách thô bạo khi đối mặt với nạn khai thác quá mức, làm cho các xưởng gỗ buộc phải ngưng hoạt động. Khu vực đã được khai hoang rừng lại phù hợp để trồng trọt. Nông nghiệp đã trở thành hoạt động kinh doanh cốt lõi tại Redmond, duy trì cho dân trong suốt thời kì Đại Khủng Hoảng. Khi Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ tham gia Thế Chiến thứ 2, công việc đóng tàu và những công việc hậu cần chiến tranh đã đến Redmond. Sau chiến tranh, sự bành trướng Redmond bắt đầu tiến triển một cách bền hơn. Thành phố bắt đầu lớn mạnh hơn gấp 30 lần trong khu vực trong suốt quá trình sáp nhập từ 1951 đến 1967. Từ năm 1956 đến 1965, Redmond được đánh dấu bởi thị trấn từ Phía Đông Redmond, nơi được hình thành từ các chủ trang trại vùng ven bị giải thể sau đó bởi Tòa Án Tối Cao Washington. Khi Cây cầu Nổi Evergreen Point được xây dựng hoàn chỉnh vào năm 1963 thúc đẩy Redmond phát triển phồn thịnh khu ngoại Seattle. Vào năm 1978, Cục điều tra dân số Hoa Kỳ công bố Redmond là thành phố có tốc độ phát triển nhanh nhất trong Ban. Rất nhiều công ty công nghệ biến thành phố này là nhà của họ, sự phát triển dân số cũng làm gia tăng nhiều cửa hàng bán lẻ. vào cuối những năm 1980, Trung Tâm Thương Mại Redmond đã trở thành trung tâm được "vây quanh bởi các dãy bãi đỗ xe" với kế hoạch tích hợp nhiều mục đích đã 'nuôi sống' trung tâm thương mại. Redmond đã trải qua bùng nổ thương mại trong suốt những năm 1990, đỉnh điểm là vào năm 1997 với Trung Tâm Thị Trấn Redmond, với những trung tâm thương mại chính tại cứ điểm thay thế những khóa đánh golf không còn tồn tại.Trong những năm gần đây, trước tình hình ùn tắt giao thông thành phố là hệ lụy từ bành trướng một cách chóng vánh, nhưng lại đối lập với sự trì trệ từ khu đô thị. Nhằm giải quyết những vấn nạn trên, SR520 phải chấp nhận sự mở rộng và làm nổi bật dịch vụ đường sắt với dự án Xa Lộ Cao Tốc từ Seattle đến Redmond dự kiến hoạt động vào 2024. Redmond được đánh dấu khu vực từ Kirkland đến bờ tây, Bellevue đến Tây Nam, và Sammamish đến Đông Nam. Khu trung tâm đô thị thành phố nằm phía bắc, cạnh hồ Sammamish, Khu dân cư khu vực phía bắc và phía tây của hồ. Overlake là trung tâm đô thị thứ nhì của thành phố bên bờ tây của Hồ Sammamish. Sông Sammamish đổ từ phía bắc hồ xuyên suốt đường biên phía tây của trung tâm thương mại. Theo Cục Đièu tra dân số Hoa Kỳ, thanh phố với tổng diện tích đến 43.87 km2, với diện tích đất đai là 42.17 km2 và diện tích mặt nước chiếm 1.71 km2. | Redmond | |
Thanh toán điện tử (Tiếng Anh: E-payment, Electronic Payment) được định nghĩa là bất kỳ hình thức chuyển tiền nào được thực hiện thông qua các thiết bị điện tử. Thanh toán bằng hệ thống này có thể được thực hiện qua Internet, hệ thống chuyển tiền điện tử (EFT Electronic Funds Transfer), các hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng (Interbanking Clearing Systems) và hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử tài chính (Financial EDI). Hệ thống thanh toán điện tử Electronic Payment System EPS) có thể chia làm hai loại chính: thanh toán bán sỉ (Wholesale EPS) và thanh toán bán lẻ (Retail EPS). Thanh toán điện tử đóng một vai trò quan trọng và việc thiếu một hệ thống thanh toán hiệu quả có thể cản trở sự thành công của sự phát triển thương mại điện tử nói chung. Sự tăng trưởng vượt trội của internet đã kích thích các nhu cầu về hệ thống thanh toán điện tử. Nó hỗ trợ cho hoạt động thương mại điện tử, giúp cho các giao dịch thanh toán hàng hóa trở nên nhanh hơn, tiện lợi hơn và an toàn hơn. Thanh toán điện tử đã xuất hiện rất lâu trên thế giới cùng với sự phát triển của Internet. Công nghệ là yếu tố hàng đầu thúc đẩy sự phát triển của thanh toán điện tử. Cùng với sự phát triển của các trang thương mại điện tử, nhu cầu thanh toán điện tử được tăng cao và phát triển đến hiện nay. Thanh toán điện tử bắt nguồn từ những năm 1870, khi Western Union ra mắt hệ thống chuyển tiền điện tử vào năm 1871. Kể từ đó, mọi người đã chú trọng tới tưởng gửi tiền để thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ mà không nhất thiết phải có mặt tại các điểm bán hàng. Từ những năm 1870 đến cuối những năm 1960, các khoản thanh toán trải qua một sự chuyển đổi chậm nhưng dần dần. Vào những năm 1910, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (tiếng Anh: Federal Reserve of America) bắt đầu sử dụng điện báo để chuyển tiền. Những năm 1950, Diner Diner Club International đã trở thành công ty thẻ tín dụng độc lập đầu tiên, ngay sau đó là American Express. Năm 1959, American Express đã giới thiệu với thế giới thẻ nhựa đầu tiên cho thanh toán điện tử. Bước vào thập niên 1970, mọi người trở nên phụ thuộc hơn vào máy tính như một phần của quy trình mua hàng. Năm 1972, Nhà thanh toán tự động (ACH Automated Clearing House) được phát triển để xử lý hàng loạt khối lượng giao dịch lớn. NACHA đã thiết lập các quy tắc hoạt động cho thanh toán ACH chỉ hai năm sau đó. Hệ thống thanh toán tiền điện tử có những ưu điểm giống như thanh toán tiền mặt, cụ thể là ẩn danh và thuận tiện. Như trong các hệ thống thanh toán điện tử khác (tức là dựa trên EFT và các trung gian), bảo mật trong quá trình giao dịch và lưu trữ là mối quan tâm hàng đầu. Tại Việt Nam, thanh toán điện tử phát triển mạnh mẽ cùng với sự phát triển của Internet, 3G, điện thoại thông minh, thẻ ngân hàng và các trang thương mại điện tử, cụ thể là từ khoảng 2015. Người tiêu dùng thời đại mới đề cao sự thuận tiện nên sự ra đời của những trang thương mại điện tử kéo theo sự ra đời của thanh toán điện tử giúp cho người dùng tiết kiệm được thời gian trong việc mua sắm (mua vé máy bay, mua hàng trực tuyến) cũng như thanh toán các hóa đơn mỗi ngày (dịch vụ điện, nước, Internet, điện thoại, truyền hình cáp, đóng phí bảo hiểm) một cách nhanh chóng và thuận tiện hơn. Có rất nhiều hình thức thanh toán điện tử trên toàn thế giới, tùy thuộc vào mỗi quốc gia, mỗi khu vực mà họ sử dụng và chấp nhận các hình thức thanh toán điện tử khác nhau. Có rất nhiều quan điểm khi phân nhóm các hình thức thanh toán điện tử nhưng nhìn chung, có thể chia thanh toán điện tử thành các hình thức chính như sau. Hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng cho phép chuyển khoản, thanh toán bù trừ và thanh toán tiền giữa các ngân hàng. Các tổ chức nằm trong mạng lưới hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng có thể kể đến Hiệp hội Viễn thông Liên Ngân hàng và Tài chính Quốc tế (Society for Worldwide Interbank Financial Telemunication SWIFT), Fedwire, Hệ thống thanh toán bù trừ liên ngân hàng quốc tế (Clearing House Interbank Payment Sytstem CHIPS) và Hệ thống thanh toán bù trừ Úc. Thanh toán bù trừ là một quy trình kế toán theo đó các ngân hàng xác định tổng số tiền mà họ nợ các ngân hàng khác hoặc các ngân hàng khác nợ họ (dựa trên thanh toán liên ngân hàng) và sau đó trả cho nhau số tiền chênh lệch để cân bằng sổ sách. Chuyển tiền điện tử (EFT) là việc chuyển tiền từ tài khoản ngân hàng này sang tài khoản ngân hàng khác một cách tự động. Những giao dịch thanh toán EFT được thực hiện dựa trên hướng dẫn thanh toán. Thông tin hướng dẫn thanh toán bao gồm tài khoản thanh được sử dụng để thực hiện giao dịch và thông tin chi tiết tài khoản của người nhận tiền, và nó được cung cấp bởi người trả tiền cho tổ chức tài chính của họ. EFT thường được được sử dụng cho các thanh toán B2B, hoặc thanh toán bán sỉ. Ngoài ra các doanh nghiệp cũng sử dụng hệ thống EFT để nhận thanh toán từ nhiều khách hàng. Sau này, hệ thống EFT còn được sử dụng để trả nợ, thanh toán hóa đơn tiện ích, thanh toán thuế, chuyển khoản liên tài khoản,.... Hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử tài chính là trao đổi điện tử thanh toán, thông tin liên quan đến thanh toán và các tài liệu liên quan đến tài chính định dạng chuẩn giữa các đối tác thương mại và kinh doanh. Cụ thể hơn, người trả tiền có thể gửi cho tổ chức tài chính của mình một hướng dẫn thanh toán hoặc tư vấn chuyển tiền dựa trên EDI, trong đó, tổ chức tài chính sẽ thực hiện thanh toán (thông qua một nhà điều hành thanh toán bù trừ tự động) với tổ chức tài chính thanh toán. Tổ chức tài chính từ người được trả tiền sau đó sẽ gửi cho người nhận tiền lời khuyên chuyển tiền, cũng có thể dựa trên EDI. Sự phát triển của Internet và thương mại điện tử đã kích thích nhu cầu giao dịch trực tuyến. Hình thức này rất phù hợp đối với các giao dịch nhỏ và chi tiết, diễn ra thường xuyên trong cuộc sống hằng ngày. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều công ty cung cấp dịch vụ này, ví dụ như Planet Payment, Total Merchant Services, Merchant Exchange Services…Để sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử các doanh nghiệp cần phải có một tài khoản thương mại và một cổng thanh toán điện tử. Có thể kể đến các hình thức thanh toán điện tử trực tuyến thường gặp dưới đây. = Hệ thống sử dụng các bên thứ ba để thiết lập niềm tin giữa hai bên đàm phán, bằng cách cung cấp ủy quyền cho cả hai bên. Ưu điểm lớn của phương pháp này là nó thực sự cung cấp cách xác minh danh tính của các bên liên quan, để các bên trong giao dịch có thể tin tưởng lẫn nhau. = Micropayments là hệ thống cho phép người mua thực hiện các khoản thanh toán giá trị nhỏ mà không mất bất kỳ khoản phí dịch vụ nào. Hệ thống thanh toán này dựa trên khái niệm tiền điện tử. Tiền điện tử kết hợp sự tiện lợi của máy tính với bảo mật và quyền riêng tư cải thiện hơn so với tiền mặt. Tiền điện tử có thể lưu trữ giá trị và trao đổi giá trị điện tử hoặc kỹ thuật số. Đây là hình thức đang được áp dụng rộng rãi vì tính thực tế của nó đối với sự phát triển thương mại điện tử hiện nay. = Với hình thức này, khách hàng được sử dụng trực tiếp thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ hoặc thẻ thông minh để thanh toán cho giao dịch. Người dùng được yêu cầu cung cấp thông tin chủ thẻ để thực hiện thanh toán trực tuyến. Thẻ thông minh đã được sử dụng rộng rãi tại các nước Châu Âu và châu trong thập kỷ gần đây. Các hệ thống thanh toán điện tử dựa trên thẻ thông minh. Trong các hệ thống này, số dư tài khoản được lưu trữ ngay trên chip của thẻ, không cần phải lưu trên một tài khoản bên ngoài tại ngân hàng, điều này cho phép các trạm đầu và cuối trong giao dịch quyết định luôn việc chấp nhận thanh toán từ thẻ hay không mà không cần phải nối mạng về trung tâm ngân hàng. Bằng hình thức thanh toán điện tử, đặc biệt là trong đời sống hiện đại ngày nay, nó đem lại rất nhiều sự thuận tiện cho người tiêu dùng và cả các doanh nghiệp. Hiện nay, có nhiều những hoạt động mua bán, trao đổi và thanh toán bằng hình thức này vì các đặc tính mà nó mang lại như: Tính độc lập, bảo mật, giảm thiểu chi phí giao dịch, thuận tiện, linh hoạt, dễ dàng kiểm soát lịch sử thanh toán. Quá trình mua bán hàng hóa và thanh toán trở nên dễ dàng hơn hay nói cách khác là góp phần hoàn thiện và phát triển thương mại điện tử làm cho hoạt động của các trang mua bán qua mạng hoạt động trơn tru và đơn giản hơn. Đảm bảo quyền lợi cho các bên tham gia và giảm thiểu những rủi ro thanh toán bằng tiền mặt như thất thoát, thiếu tiền, quên ví,...đặc biệt là đối với những giao dịch có giá trị lớn. Khi sử dụng thanh toán điện tử, mọi giao dịch sẽ được thực hiện chính xác tới từng con số, minh bạch và rõ ràng. Góp phần hiện đại hóa hệ thống thanh toán và giúp cho những giao dịch được thực hiện nhanh hơn và an toàn hơn. Dễ dàng theo dõi, kiểm soát và quản lý dòng tiền: Các doanh nghiệp sẽ dễ dàng kiểm soát được dòng tiền và theo dõi những tiến trình giao dịch bằng cách tra cứu lại những giao dịch đã thực hiện và được lưu trữ cụ thể những thông tin chi tiết từng giao dịch. Tạo sự chuyên nghiệp cho hoạt động kinh doanh: Đặc biệt đối với các hoạt động kinh doanh trực tuyến, khi các doanh nghiệp mở rộng kênh phân phối trực tuyến thì việc đảm bảo sự thuận lợi khi mua hàng cho khách hàng qua kênh này là rất cần thiết. Ngày nay, khi khách hàng mua hàng trực tuyến sẽ có xu hướng thanh toán qua thẻ tín dụng trực tuyến hay ví điện tử. Vì vậy, khi tất cả mọi hoạt động trao đổi trở nên dễ dàng hơn, khách hàng sẽ có những giá trị cảm nhận cao hơn về doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không thực hiện các cổng thanh toán trực tuyến sẽ tạo ra một rào cản đối với khách hàng bởi những bất tiện trong quá trình mua hàng. Giảm chi phí cho doanh nghiệp, tăng hiệu quả kinh doanh: Các thanh toán mà các doanh nghiệp thực hiện gần như được diễn ra hàng ngày với nhiều cách thức khác nhau. Với thanh toán điện tử thì các giao dịch sẽ được thực hiện thông qua internet, các chi phí sử dụng giấy bút và bưu chính trong cách thức thanh toán truyền thống sẽ được giảm đi rất nhiều và cả những thất thoát mà doanh nghiệp phải chịu khi giao dịch bằng tiền mặt, chi phí nhân viên, chi phí văn phòng,... Tiếp cận đối tượng mới: Thương mại điện tử mở ra thị trường mục tiêu mới rất đáng kể. Vì tính chất không có giới hạn về địa lý hoặc thời gian của nó mà, khách hàng có thể truy cập trang web của doanh nghiệp và mua sản phẩm từ bất cứ đâu và bất cứ lúc nào. Duy trì được khách hàng: Trải nghiệm khách hàng có ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ giữa doanh nghiệp và khách hàng sau này. Do đó, không chỉ các hình thức mua bán trực tuyến mà cả những cửa hàng trực tiếp đều đang cải thiện hệ thống thanh toán nhằm mang một trải nghiệm tốt hơn cho khách hàng. Như khi khách hàng không thể thanh toán bằng tiền mặt họ sẽ có thể thay thế bằng những hình thức khác. Việc lưu trữ được giao dịch với khách hàng trước đây sẽ tiết kiệm được thời gian khi thanh lần kế tiếp, khiến cho trải nghiệm khách hàng được tốt hơn. Từ đó mà mối quan hệ với khách hàng được thiết lập và gắn bó bền vững. Giảm tải được việc phải duy trì một nguồn tài liệu lớn về thanh toán: Khi thanh toán bằng hệ thống thanh toán điện tử, tất cả thanh toán sẽ được lưu trữ lại trên hệ thống trực tuyến. Doanh nghiệp có thể rà soát, xem lại mà không cần tốn nhiều công sức để tra cứu các hồ sơ thanh toán theo cách thức truyền thống. Khách hàng có thể giao dịch nhanh chóng và thuận tiện hơn: Hiện nay, việc mua sắm trực tuyến không còn là quá xa lạ với chúng ta. Vì thế để đáp ứng cho sự phát triển của kinh doanh trực tuyến, các hình thức thanh toán trực tuyến cũng được chú trọng và ứng dụng nhiều hơn. Người mua hàng sẽ có thể thực hiện thanh toán đơn hàng một cách nhanh chóng và chính xác hơn mà không cần phải di chuyển nhiều hay thông qua một đơn vị trung gian khác như ngân hàng, bưu điện,... Tiết kiệm chi phí và thời gian: Nhờ những đặc tính mà thanh toán trực tuyến có được giúp cho người tiêu dùng tiết kiệm được nhiều loại chi phí hơn trước như chi phí di chuyển, chi phí giao dịch, cũng như các chi phí phát sinh khác. An toàn, bảo mật thông tin: Với thanh toán điện tử, việc bị đánh mất thông tin sẽ rất khó có khả năng xảy ra. Những nhà cung cấp dịch vụ thanh toán điện tử đều có cơ chế bảo mật thông tin tốt nhất cho khách hàng. Vì vậy, người dùng có thể an tâm với các dữ liệu cá nhân được cung cấp. Cho phép người tiêu dùng tiếp cận với thị trường toàn cầu: Không chỉ đơn giản giúp cho người tiêu dùng linh hoạt và thuận tiện hơn trong việc thanh toán chi phí khi mua hàng nó còn cho phép người tiêu dùng có thể tiếp cận với thị trường toàn cầu và thực hiện mua hàng mọi nơi trên thế giới dễ dàng và đơn giản hơn. Người tiêu dùng chỉ cần có một tài khoản với đầy đủ thông tin của mình như số lượng, địa chỉ thanh toán và thẻ tín dụng. Tất cả những gì họ cần làm là xác nhận đơn hàng và thực hiện thanh toán chỉ với một nút bấm là đã có thể mua được hàng từ nhiều nơi trên thế giới. Dù vai trò nào trong bất kỳ một giao dịch thì cũng cần có những lưu khi thực hiện thanh toán điện tử. Để sử dụng thanh toán điện tử, người dùng cần có tài khoản thương mại và thanh toán bằng thẻ tín dụng hoặc các loại thẻ ghi nợ bao gồm: Visa, Mastercard, American Express, Discover,... và cung cấp các thông tin cơ bản như họ tên, số điện thoại, số thẻ tín dụng, hạn sử dụng thẻ thanh toán,... Đảm bảo được tính bảo mật: Khi sử dụng thanh toán điện tử thì điều nên cân nhắc đó chính là điều khoản về bảo mật. Hiện tại các cổng thanh toán đều thiết lập nhiều bước nhằm đảm bảo thông tin của người sử dụng như: cài đặt mật khẩu mạnh, thay đổi mật khẩu định kỳ. Ngoài ra có nhiều hãng điện thoại cho ra đời những ứng dụng hỗ trợ thanh toán tích hợp với điện thoại nhằm tạo ra những giao dịch dựa trên thông tin của thẻ tín dụng để đảm bảo an toàn. Trong đó, hiện tại Samsung Pay là một trong những ứng dụng phổ biến và được tin dùng. Có rất nhiều đối tượng lừa đảo, tiếp cận khách hàng bằng nhiều hình thức nhằm truy cập vào được ví điện tử của khách hàng có thể là qua một tin nhắn, một website hoặc email,... để đánh cắp thông tin. Hiện nay, các ngân hàng đang nỗ lực đầu tư vào công nghệ mới trong thanh toán điện tử và chúng ta cũng cần chung tay cảnh giác, chủ động phòng ngừa các hành vi gian lận. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp thì cần phải đảm bảo tất cả những yếu tố sau: dịch vụ kiểm tra thẻ tín dụng, tài khoản thương mại, các công cụ phát triển website cũng như các phần mềm liên quan đến kiểm hàng, thanh toán và đóng gói hàng để đảm bảo tốt nhất cho hệ thống thanh toán của doanh nghiệp. | Thanh toán điện tử | Bài sinh viên đóng góp cho Wikipedia, Công nghệ thông tin, Kinh tế |
Grammitis crassa là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được mô tả khoa học đầu tiên năm 1850. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Grammitis crassa | Grammitis, Unresolved names |
$1,000 Touchdown là một bộ phim hài của Mỹ năm 1939 do James P. Hogan đạo diễn, Delmer Daves viết kịch bản và có sự tham gia của Joe E. Brown, Martha Raye, Eric Blore, Susan Hayward, John Hartley và Joyce Mathews. Bộ phim được phát hành vào ngày tháng 10 năm 1939, bởi Paramount Pictures. Marlowe Booth và vợ Martha thừa kế một trường đại học và quyết định tăng cường đội bóng đá của trường đại học để tăng tài trợ, vì vậy họ quyết định tặng 1.000 đô la cho mỗi cú chạm bóng được thực hiện. *Joe E. Brown trong vai Marlowe Mansfield Booth *Martha Raye trong vai Martha Madison *Eric Blore trong vai Henry *Susan Hayward trong vai Betty McGlen *John Hartley as Bill Anders *Joyce Mathews as Lorelei *George McKay trong vai Mr. Fishbeck *Syd Saylor trong vai Bangs *Tom Dugan trong vai Popcorn vendor *Matt McHugh trong vai Brick Benson *Don Wilson trong vai Announcer *Paula DeCardo trong vai Dora (không được công nhận) *Dot Farley trong vai Hysterical Girl (không được công nhận) *Bill Thompson trong vai người lồng tiếng động vật và chim (không được công nhận) *Adrian Morris trong vai Two Ton Terry (không được công nhận) Frank Nugent của tờ The New York Times chỉ trích bộ phim là không có tính độc đáo. | ''$1,000 Touchdown | Phim năm 1939, Phim hài năm 1939, Phim Mỹ, Phim đen trắng Mỹ, Phim hài Mỹ, Phim hài thể thao của Mỹ, Phim tiếng Anh thập niên 1930, Phim đạo diễn bởi James Patrick Hogan, Phim của Paramount Pictures |
Cổng vào trường Đại học Nhân dân Đại học Nhân dân Trung Quốc (RUC; là một trường đại học công lập trọng điểm quốc gia tại Bắc Kinh, Trung Quốc. Trường có liên kết với Bộ Giáo dục và được đồng tài trợ bởi Bộ và Ủy ban Nhân dân Thành phố Bắc Kinh. RUC được chỉ định là một trường Đại học Lớp thuộc Đề án Song Nhất Lưu (tiếng trung: 双一流). Ngoài ra, trường cũng được tài trợ bởi Đề án 985 và Đề án 211, và được xem là trường đại học danh giá nhất về nghệ thuật, nhân văn và khoa học xã hội tại Trung Quốc. Trường là thành viên của Mạng lưới Đại học Toàn cầu (WUN), Hội đồng Đại học Quốc tế Châu Thái Bình Dương (APAIE) và Liên minh Đại học Bắc Kinh Hồng Kông. Theo Bảng xếp hạng Đại học thế giới năm 2021, Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc đã xếp hạng trong top 40 trên thế giới về triết học, top 51 về nghiên cứu pháp luật, top 80 về các chuyên ngành "Khoa học và Quản lý xã hội" và top 100 về các chuyên ngành liên quan đến "Nghệ thuật và Nhân văn học". Đáng chú ý, tờ Financial Times cũng xếp Trường Kinh doanh Nhân dân vào danh sách 50 trường kinh doanh hàng đầu trên thế giới. Trong đó, chương trình MBA toàn cầu của trường được xếp hạng 38, chương trình Executive MBA xếp hạng 43 và chương trình Giáo dục Quản lý cấp cao của trường đứng hạng 11 trên thế giới (cao nhất châu Á). Trường Đại học Nhân Dân Trung Quốc có nguồn gốc từ Trường Công lập Bắc Thiểm Tây (), được thành lập vào năm 1937 bởi Đảng Cộng sản Trung Quốc "nhằm đào tạo hàng trăm nghìn cán bộ cách mạng để đáp ứng nhu cầu của Chiến tranh kháng Nhật" Sau này, trường được đổi tên thành Đại học Liên hiệp Bắc Kinh và Đại học Bắc Kinh. Năm 1950, một số cơ sở giáo dục đã được hợp nhất để thành lập Đại học Nhân dân Trung Quốc. Vào năm 1954, Đại học Nhân dân Trung Quốc được xác định là một trong sáu trường đại học trọng điểm quốc gia của Trung Quốc, trở thành trường đại học trọng điểm quốc gia trẻ tuổi nhất tại thời điểm đó. Ngô Ngọc Trương, Thành Phùng Ngô, Quách Anh Tều, Viên Bảo Hoa, Hoàng Đạt, Lý Văn Hải, Kỷ Bảo Thành và Trần Vũ Lộ đã lần lượt giữ vị trí Hiệu trưởng của trường. Hiệu trưởng hiện tại của trường là Lâm Thượng Lập. Tảng đá được khắc khẩu hiệu của trường "Thật sự cầu thị" (实事求是) Hiện nay, Đại học Nhân dân Trung Quốc bao gồm 25 trường, 13 viện nghiên cứu và trường sau đại học, cung cấp 63 chương trình đào tạo cho sinh viên đại học, chương trình cho sinh viên đạt bằng thứ hai cử nhân, 149 chương trình cho sinh viên thạc sĩ, 100 chương trình cho sinh viên tiến sĩ và 33 chuyên ngành trọng điểm quốc gia. Thư viện của trường hiện có 2,5 triệu quyển sách và được Bộ Giáo dục công nhận là Trung tâm Thông tin Văn học Nghệ thuật. Tòa nhà thư viện mới được khánh thành vào nửa sau năm 2011. Nhà xuất bản Đại học Nhân dân Trung Quốc là một trong những nhà xuất bản nổi tiếng nhất và là nhà xuất bản đầu tiên của một trường đại học tại Trung Quốc, đã xuất bản một số lượng lớn các tác phẩm học thuật về nhân văn và khoa học xã hội. Thư viện của trường có tổng diện tích 26.000 mét vuông, gồm 15 phòng đọc và một phòng Kinh tế học, với hơn 2.000 chỗ ngồi. Đại học Nhân dân Trung Quốc đã thiết lập quan hệ đối tác với 125 trường đại học và cơ sở nghiên cứu của 32 quốc gia và vùng lãnh thổ, điều này cho phép trường trở thành trung tâm giao lưu văn hóa và học thuật giữa Trung Quốc và các nước ngoài. Tập Luật Đại học Nhân dân Trung Quốc *Trường Nông nghiệp kinh tế và Phát triển Nông thôn *Trường Nghệ thuật *Trường Kinh doanh *Trường Văn học ngôn ngữ Trung Quốc *Trường Giáo dục thường xuyên *Trường Kinh tế *Trường Giáo dục *Trường Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên *Trường Tài chính *Trường Ngoại ngữ **Bộ môn Ngoại ngữ Tiếng Anh **Bộ môn Ngoại ngữ Tiếng Pháp **Bộ môn Ngoại ngữ Tiếng Đức **Bộ môn Ngoại ngữ Tiếng Nhật **Bộ môn Ngoại ngữ Tiếng Nga **Bộ môn Ngoại ngữ Tiếng Tây Ban Nha *Trường Lịch sử *Trường Thông tin *Trường Quản lý tài nguyên thông tin *Trường Ngoại giao học **Bộ môn Chính trị quốc tế **Bộ môn Ngoại giao **Bộ môn Chính trị *Trường Báo chí *Trường Nhân lực và Quản trị nhân sự *Trường Luật *Trường Văn học *Trường Nghiên cứu chủ nghĩa Marx *Trường Giảng dạy Tiếng Trung Quốc như Ngoại ngữ *Trường Triết học *Trường Quản lý hành chính công vụ *Trường Thống kê *Trường Xã hội học và Nghiên cứu Dân số **Bộ môn Xã hội học **Bộ môn Công tác xã hội **Bộ môn Dân số học Trường Khoa học ** Bộ môn Vật lý **Bộ môn Hóa học **Bộ môn Tâm lý học *Viện Lịch sử nhà Thanh *Viện Việt Pháp. Trung tâm Phát triển nông thôn thuộc Đại học Nhân dân thành lập vào năm 2005 và có trụ sở tại Bắc Kinh. Sứ mệnh chính của trung tâm là khám phá lý thuyết và thực tiễn về tái thiết nông thôn. Ngoài ra, trung tâm còn tham gia đấu tranh cho thương mại công bằng, phối hợp các hoạt động năng lượng xanh đô thị và nông thôn cũng như khuyến khích giáo dục công bằng. Viện Nghiên cứu Tài chính Trùng Cửu là trung tâm tư vấn chiến lược liên kết với Đại học Nhân dân. Các cộng tác viên bao gồm Vijay Prashad và John Ross. Giám đốc điều hành của Viện là Vương Văn. Năm 2022, Vương Văn đã thăm bán đảo Crimea, nơi bị Nga sáp nhập trong cuộc xâm lược Ukraine năm 2022. Những bài viết của ông bị mô tả là làm biến tướng việc Nga sáp nhập Crimea. Năm 2021, một báo cáo chung giữa Viện Taihe, Viện Intellisia và Viện Nghiên cứu Tài chính Trùng Cửu đã chỉ ra những khuyết điểm được cho là của Hoa Kỳ trong việc ứng phó với đại dịch Covid-19. Sân tứ giác phía trước Nhà Giảng đường số 2. Khuôn viên phía Đông trong quá trình xây dựng vào tháng năm 2018. Hiện nay, Đại học Nhân dân Trung Quốc có hai khuôn viên hoạt động, một khuôn viên đang được xây dựng và một khuôn viên cũ. Khuôn viên chính nằm tại số 59 đường Trung Quan Thôn, quận Hải Điền, Bắc Kinh. Hầu hết các trường, phòng ban và viện nghiên cứu của trường đại học đều nằm đây. **Góc học tập tiếng Anh trong khuôn viên này rất nổi tiếng Bắc Kinh. Mỗi tối thứ Sáu, mọi người đều tụ tập tại Vườn Cứu Thế gần cổng phía đông để luyện tập tiếng Anh. **Khuôn viên này có khoảng 1.165 sinh viên quốc tế, nhiều trong số đó đến từ Hàn Quốc. Có nhiều sinh viên Hàn Quốc đến mức Phòng ăn cho Sinh viên Quốc tế có thực đơn Hàn Quốc riêng bên cạnh thực đơn Trung Quốc truyền thống. Trường Đại học Nhân dân có một khuôn viên phụ tọa lạc tại Công viên Công nghiệp Tô Châu. Nơi đây là trụ sở của Viện Trung Pháp RUC (IFC Renmin) và 900 sinh viên trong nước và quốc tế. Ngoài ra, một số chương trình thạc sĩ Trung Quốc và Trung nước ngoài của một số khoa của trường Đại học Nhân dân cũng được đặt tại cùng khuôn viên dưới sự giám sát của Trường Đại học Quốc tế RUC. Khuôn viên RUC Tô Châu là một phần của Khu Giáo dục Đại Học Tô Châu Độc Thư Hồ, cùng với các trường sau đại học hướng ngoại Trung nước ngoài khác như Đại học Giao thông Tây An Liverpool hoặc Trường Sau đại học Liên kết Đại học Đông Nam Giang Tô Đại học Monash. Hiện nay, Đại học Nhân dân Trung Quốc đang xây dựng khu trụ sở chính mới của mình tại Lộ Thành, quận Thông Châu, được đặt tên là "Khu Đông, nằm phía Đông của khu trung tâm Bắc Kinh. Trường được đặt tại cùng một thị trấn với cơ quan chính quyền của thành phố Bắc Kinh, hiện đang lên kế hoạch di dời. Dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2017. Dự kiến sẽ hoàn thành vào cuối năm 2017. Trước đây, Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc có trụ sở chính nằm về phía đông của Tử Cấm Thành, quận Đông Thành. Hiện tại, tuy tài sản vẫn thuộc về trường, nhưng trụ sở này không được sử dụng cho mục đích giáo dục nữa. Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc có khẩu hiệu là "Thật sự cầu thị"; hoạt động theo tinh thần "Định hướng học tập cho nhân dân và quản lý đất nước"; Mục tiêu đào tạo của trường là "tạo ra những cá nhân xuất sắc, trở thành gương mẫu cho cả nước và trụ cột của xã hội"; Lý tưởng quản lý của trường là "Vì nhân dân, hướng tới con người và đạo đức", điều này được thể hiện qua ba ký tự "人" (nhân) trên huy hiệu của trường Đại học Nhân dân Trung Quốc. Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc đã có nhiều phiên bản ca khúc, bao gồm: "Ca khúc trường công lập Bắc Thiểm Tây" sáng tác tại Diên An vào năm 1937. "Ca khúc trường Đại học Liên hiệp Bắc Kinh" được sáng tác tại khu biên giới Sơn Tây-Sát Cáp Nhĩ-Hà Bắc vào năm 1937. "Ca khúc trường Đại học Bắc Kinh" được sáng tác tại Chính Định, Hà Bắc vào năm 1948. "Ca khúc trường Đại học Nhân dân Trung Quốc" do Kỷ Bảo Thành sáng tác "đã được chọn làm ca khúc của trường vào năm 2007, thay thế cho bài hát cũ mang đậu màu sắc màu sắc chính trị đã được áp dụng từ năm 1980. Năm 2017, "Ca khúc trường công lập Bắc Thiểm Tây" được xác định là ca khúc đại diện của Đại học Nhân dân Trung Quốc. Trường Đại học Nhân dân Trung Quốc được xem là một trong những trường cạnh tranh khốc liệt nhất của đất nước vì chỉ tuyển sinh những thí sinh có điểm thi đạt top 0,1% trong mỗi tỉnh/thành phố. Nhiều bảng xếp hạng đánh giá Đại học Nhân dân Trung Quốc là một trong những trường đại học hàng đầu Trung Quốc đại lục. Năm 2015, Hiệp hội Cựu sinh viên Đại học Trung Quốc phối hợp với Trung tâm Giáo dục Trung Quốc xem xét việc xếp trường thứ hạng trong tất cả các trường đại học Trung Quốc. Trong bảng xếp hạng Đại học Thế giới Times Higher Education năm 2014, Đại học Nhân dân Trung Quốc đứng thứ tại Trung Quốc, sau các trường (Bắc Kinh, Thanh Hoa, Đại học Khoa học và Công nghệ Trung Quốc và Phục Đán) xếp hạng #13 tại các nước đang phát triển, #32 châu và #226-250 trên toàn cầu. Trong năm 2020, Đại học Nhân dân Trung Quốc đã được xếp hạng là một trong những trường đại học hàng đầu thế giới về trình độ học thuật trong bảng xếp hạng Đại học Thế giới QS. Các sinh viên tốt nghiệp của trường được đánh giá cao trong cả Trung Quốc và toàn cầu, bởi thứ hạng tốt nghiệp của trường được xếp hạng trong danh sách top 181-190 trường đại học toàn cầu với các sinh viên tốt nghiệp hàng năm, theo Bảng xếp hạng QS Graduate Employability Ranking 2022 Theo đánh giá mới nhất của Bộ Giáo dục Trung Quốc, RUC đứng hạng trong số tất cả các trường đại học Trung Quốc với ngành đào tạo gồm Kinh tế học lý thuyết, Kinh tế học ứng dụng, Luật học, Khoa học chính trị, Xã hội học, Báo chí truyền thông, Lý thuyết thống kê, Quản trị kinh doanh và Quản lý hành chính công vụ. RUC cũng được ban hành 25 ngành trọng điểm quốc gia (đứng hạng của Trung Quốc), 13 cơ sở nghiên cứu chuyên môn quốc gia về Nhân văn học và Khoa học xã hội (đứng hạng của Trung Quốc), và cơ sở giảng dạy và nghiên cứu quốc gia về các ngành nghệ thuật cơ bản (đứng hạng 1). Đại học Nhân dân đang dẫn đầu trong số các trường đại học Trung Quốc về số lượng các ngành học liên quan đến Khoa học xã hội và nghệ thuật cơ bản. Ví dụ, trong Bảng xếp hạng các trường đại học Trung Quốc theo các ngành học đại học năm 2022 với 92 danh mục chuyên sâu, Đại học Nhân dân có 25 ngành đứng hạng trên toàn quốc, 48 ngành trong top và 57 ngành trong top 10. Theo bảng xếp hạng Đại học Thế giới theo từng chuyên ngành năm 2021, Đại học Nhân dân Trung Quốc được xếp hạng trong top 100 thế giới về các chuyên ngành liên quan đến "Nhân học Nghệ thuật" và "Khoa học và Quản lý xã hội". Trường cũng được xếp trong top 40 thế giới về Triết học, top 80 về Khoa học Quản lý và top 51 thế giới về Nghiên cứu pháp luật. Theo báo cáo của tờ Financial Times, Trường Kinh doanh Đại học Nhân dân Trung Quốc được xem là một trong 50 trường kinh doanh hàng đầu thế giới, trong đó chương trình MBA toàn cầu của trường được xếp hạng thứ 38 trên thế giới, chương trình Thạc sĩ kinh doanh MBA được xếp hạng thứ 43 và chương trình Giáo dục điều hành được xếp hạng thứ 11 trên thế giới (cao nhất châu Á). Đến năm 2022, tờ U.S. News World Report xếp hạng Đại học Nhân dân Trung Quốc là trường đứng thứ tại Trung Quốc, thứ 12 tại châu và thứ 83 trên toàn cầu về kinh tế và kinh doanh. Đến năm 2022, theo Bảng xếp hạng Đại học Thế giới, Đại học Nhân dân Trung Quốc đứng thứ 35 trên thế giới về Quản lý hành chính công vụ, thứ 76 trên toàn cầu về Tài chính,thứ 101 về Kinh tế và Quản lý, thứ 151 trên thế giới về Thống kê, thứ 201 trên toàn cầu về Quản trị kinh doanh, Luật, Tâm lý học, Địa lí tài nguyên và môi trường và thứ 301 về Khoa học Chính trị, Khoa học Máy tính và Khoa học Vật liệu. *Hoàng Đạt 黄达) Giáo sư Emeritus, Trường Tài chính; Chủ tịch, Đại học Nhân dân Trung Quốc (1991-1994). *Kim Thán Vinh (金灿荣) Giáo sư, Trường Nghiên cứu Quốc tế. *Lưu Tiểu Phong (刘小枫) Giáo sư, Trường Văn học. *Manuel Pérez García () Nguyên Phó Giáo sư, Trường Nghiên cứu Quốc tế (2013-2017). *Mao Thọ Long () Giáo sư, Trường Quản lý hành chính công vụ. *Bàn Túy Minh () Giáo sư, Trường Xã hội học và Nghiên cứu Dân số, học giả nổi tiếng về tình dục học. *Thời Âm Hoằng (时殷宏) Giáo sư, Trường Nghiên cứu Quốc tế, xem thêm::zh:时殷弘 *Tống Tân Ninh () Giáo sư Jean Monnet, Trường Nghiên cứu Quốc tế. *Vương Lợi Minh () Giáo sư và cựu Hiệu trưởng (2005-2009), Trường Luật, học giả nổi tiếng về Luật dân sự. *Ôn Thiết Quân () Giáo sư và Hiệu trưởng, Trường Kinh tế nông nghiệp và Phát triển nông thôn. *Ngô Hiểu Cầu () Giáo sư, Trường Tài chính. *Dương Thụy Long () Giáo sư và Hiệu trưởng, Trường Kinh tế. *Baron von Pfetten () Giáo sư thỉnh giảng, Trường Kinh tế. *Tăng Hiến Nghĩa () Giáo sư Emeritus và cựu Hiệu trưởng (1990-2005), Trường Luật, học giả nổi tiếng về lịch sử pháp luật. *Trương Khang Chi (张康之) Giáo sư tại Bộ môn Quản lý hành chính công vụ. *Trương Minh () Giáo sư, Trường Nghiên cứu Quốc tế. *Chu Hiếu Chính () Giáo sư, Trường Xã hội học và Nghiên cứu Dân số. Từ năm 2017, Trường Đại học Nhân Dân đã có ít nhất 44 tỷ phú tốt nghiệp tại trường, đưa trường này vào vị trí thứ sáu trên toàn quốc, xếp sau Thanh Hoa, Bắc Kinh, Chiết Giang, Phục Đán và Giao thông Thượng Hải. *Lưu Vũ (刘瑜) Nhà khoa học chính trị tại Đại học Thanh Hoa, tác giả của cuốn sách bán chạy nhất trên toàn quốc "Details of Democracy." Liu đã đạt được bằng Tiến sĩ tại Đại học Columbia, hoàn thành khóa học Tiến sĩ tại Harvard và giảng dạy tại Đại học Cambridge trong ba năm. *Tiền Lý Quần () Giáo sư, Khoa Ngôn ngữ và Văn học Trung Quốc, Đại học Bắc Kinh. *Ngô Thụ Thanh () Chủ tịch Đại học Bắc Kinh (1989-1996), nhà kinh tế học. *Châu Văn Thông () Giáo sư Khoa Luật thuộc Đại học Florida Levin, ông đã đạt được bằng Tiến sĩ ngành kinh tế tại Đại học Stanford. *Châu Kỳ Nhân () Nhà kinh tế học (Tiến sĩ, Đại học California, Los Angeles), Giám đốc Trường Phát triển Quốc Gia (trước đây được biết đến với tên gọi Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc, CCER), Đại học Bắc Kinh. *Triệu Đình Dương (趙汀陽) Triết gia chính trị tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Hàn Tự () Đại sứ đến thăm Hoa Kỳ (1985-1989). Lưu Diên Đông () -Nữ chính trị gia có quyền lực cao nhất hiện nay tại Trung Quốc và là người phụ nữ duy nhất có ghế trong Bộ Chính trị. Mã Khải () Chủ tịch Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (2003-2008). Tiêu Dương () Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao (1998-2003, 2003-2008). Vương Cửu Toàn (王如玄) Bộ trưởng Bộ Lao động Đài Loan (2008-2012).. Trần Vũ Lộc (陈雨露) Phó thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (2015 không rõ). Grace Mugabe Cựu Đệ nhất phu nhân Zimbabwe (1996-2017) *Lưu Hạc (刘鹤) Thành viên của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc, một trong những phó thủ tướng của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và giám đốc Ủy ban Kinh tế Tài chính Trung ương. *Đoàn Vĩnh Bình () Nhà doanh nghiệp và nhà đầu tư, người sáng lập công ty Subor () và BBK (). Duan và vợ Liu Xin quyên góp 30 triệu đô la Mỹ cho Đại học Nhân dân vào tháng năm 2010.. *Hồ Thư Lập () Người sáng lập kiêm Tổng biên tập của tạp chí Tài Kinh, tạp chí tài chính phổ biến nhất đại lục. *Lưu Lạc Phi () Chủ tịch, Quản lý Quỹ đầu tư Citic. *Phan Công Thắng () Phó Chủ tịch điều hành Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc. *Vương Khánh () Chuyên gia Kinh tế trưởng thuộc Morgan Stanley, Đại Trung Hoa (2007 không rõ). *Hạng Tuấn Ba () Chủ tịch Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc (2009 không rõ). *Tiêu Cảnh () Chủ tịch Ngân hàng Trung Quốc (2003 không rõ) Dương Vĩ Quang () Chủ tịch Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (1991-1999). *Trương Lợi () Nhà sáng lập và Chủ tịch công ty đầu tư Hillhouse Capital Management, quyên góp 8.888.888 đô la Mỹ cho Khoa Quản lý Đại học Yale vào năm 2010. *Lưu Cường Đông () Nhà sáng lập và Chủ tịch trang JD.com, nền tảng thương mại điện tử B2C lớn nhất Trung Quốc. *Lý Học Lăng () Nhà sáng lập và Tổng giám đốc của trang www.yy.com. *Phù Hy Thu (傅希秋) Một trong số các nhà tổ chức của cuộc biểu tình tại Quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989, ông đã sáng lập tổ chức China Aid nhằm hỗ trợ pháp lý cho những người bất đồng chính kiến tại Trung Quốc. *Vương Tiểu Bạch () Nhà văn hiện đại,có tầm ảnh hưởng đối với giới trẻ Trung Quốc. Ông cũng là chồng của Li Yinhe, một nhà xã hội học và chuyên gia tâm lý tình dục nổi tiếng. *Trương Khiết () Nhà văn, tốt nghiệp đại học RUC vào năm 1960 và đã đạt nhiều giải thưởng trong sự nghiệp của mình. *James Veneris và Samuel David Hawkins Những người lính Mỹ tham gia Chiến tranh Triều Tiên và bị bắt giữ bởi Bắc Triều Tiên, sau đó đào ngũ sang Trung Quốc khi thỏa thuận ngừng bắn được công bố. *Quách Tinh Tinh () Giành huy chương vàng và huy chương bạc trong hạng mục nhảy cao mét tại Thế vận hội Mùa hè năm 2004, cùng với đồng đội của cô. *Vương Quân Hạ () Giành huy chương vàng và huy chương bạc tại hạng mục đua ngựa nữ tại Thế vận hội Mùa hè 1996; nữ vận động viên giữ kỷ lục chạy 10.000m từ năm 1993 với thời gian 29:31:78. *Tăng Kim Diên () Nhà hoạt động nhân quyền, một trong những người được tạp chí Time bình chọn là 100 người có ảnh hưởng nhất trên thế giới năm 2007; vợ của Hu Jia người đoạt giải thưởng Giải thưởng Tự do Tư tưởng Sakharov năm 2008. *Trương Chí Tân () Nhà chính trị bị giam giữ và xử tử vì chỉ trích sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa. *Đại Dật (戴逸)- Nhà sử học *Robert S. Paywala Trợ lý tổng cục trưởng, phòng nghiên cứu hành chính, Tổ chức An sinh xã hội và Phúc lợi Quốc gia thuộc Cộng hòa Liberia. Trường Đại học Nhân dân duy trì mối quan hệ hợp tác với nhiều trường đại học nổi tiếng trên thế giới, bao gồm Đại học Queen, Trường Luật Boston College, Đại học Columbia, Đại học Ludwig Maximilian Munich, Đại học Princeton, Đại học Geneva, Đại học McGill, Đại học Queen Mary, Đại học King's College, Đại học Waseda, Đại học Carleton, Đại học Chicago, Đại học Rutgers, Đại học Michigan và Đại học Yale. Vào tháng năm 2010, Zhang Le cựu sinh viên của Trường Đại học Nhân dân và Trường Quản lý Yale (SOM) đã tặng cho SOM số tiền 8.888.888 đô la Mỹ, đây là khoản quà lớn nhất từ cựu sinh viên mà trường nhận được từ trước đến nay. Từ năm 2010 trở đi, sinh viên và giảng viên Đại học Rutgers đã thường xuyên trao đổi với nhau thông qua quan hệ đối tác tại Đại học Nhân Dân. Trường được nhiều đại biểu nước ngoài yêu thích khi đến tham quan. Ví dụ, trong chuyến thăm Trung Quốc vào tháng năm 2008, Thủ tướng Anh Gordon Brown đã đến Đại học Nhân dân cùng với Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo để giao lưu với sinh viên, học giả, vận động viên và doanh nhân. Trường Đại học Nghiên cứu Quốc tế cung cấp chương trình cấp bằng kép Thạc sĩ tại Châu và Châu Âu với sự hỗ trợ từ trường Đại học King's College. Sinh viên của Đại học Nhân dân tích cực tham gia vào các chương trình thực tập và trao đổi nước ngoài, bao gồm hội nghị thường niên về Mô hình Liên hợp quốc được tổ chức hàng năm tại thành phố New York. Trung tâm Đại học Chicago tại Bắc Kinh đã được mở cửa từ tháng năm 2010 và nằm tại Khu Văn hóa trong khuôn viên Đại học Nhân dân. Trường Trung học trực thuộc Đại học Nhân dân Trung Quốc là một trong những trường phổ thông danh tiếng nhất tại Bắc Kinh, và là đối tác của Học viện Phillips Andover tại Massachusetts, Học viện Phillips Exeter tại New Hampshire và Học viện Punahou tại Honolulu. Chin Renmin University Press TDRD Internet Bulletin Diễn đàn internet của sinh viên bán chính thức của Đại học Nhân dân. RUCOL Forum Diễn đàn internet của sinh viên không chính thức của Đại học Nhân dân | Đại học Nhân dân Trung Quốc | Đại học Nhân dân Trung Quốc, Cơ sở giáo dục thành lập năm 1937, Đại học trọng điểm quốc gia Trung Quốc, Đề án 211, Đề án 985, Đề án 111 |
Sierpc là một thị trấn thuộc huyện Sierpecki, tỉnh Mazowieckie trung-đông Ba Lan. Thị trấn có diện tích 19 km². Đến ngày tháng năm 2011, dân số của thị trấn là 18368 người và mật độ 988 người/km². Историческая информация городе Серпец | Sierpc | Khu dân cư thành lập thế kỷ 10 |
Sin-le-Noble là một xã tỉnh Nord miền bắc nước Pháp. Xã này có diện tích11,53 km², dân số năm 1999 là 16.976 người. Xã nằm khu vực có độ cao trung bình 25 mét trên mực nước biển. *Xã của tỉnh Nord INSEE commune file Sinlenoble | Sin-le-Noble | |
Quận Brown là một quận thuộc tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ. Quận này được đặt tên theo. Theo điều tra dân số của Cục điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2000, quận có dân số 6.950 người. Quận lỵ đóng ở. Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có diện tích km2, trong đó có km2 là diện tích mặt nước. Theo điều tra dân số năm 2000, quận đã có dân số 6.950 người, 2.108 hộ gia đình, và 1.380 gia đình sống trong quận hạt. Mật độ dân số là 23 người trên một dặm Anh vuông (9/km ²). Có 2.456 đơn vị nhà mật độ trung bình của trên một dặm Anh vuông (3/km ²). Cơ cấu chủng tộc của dân cư sinh sống trong quận bao gồm 80,29% người da trắng, 18,20% da đen hay Mỹ gốc Phi, 0,09% người Mỹ bản xứ, 0,13% châu Á, Thái Bình Dương 0,07%, 0,68% từ các chủng tộc khác, và 0,55% từ hai hoặc nhiều chủng tộc. 3,93% dân số là người Hispanic hay Latino thuộc một chủng tộc nào. 31,7% là người gốc Đức, 22,2% người Mỹ, 16,3% và 12,8% tiếng Anh gốc Ailen theo điều tra dân số năm 2000. 96,4% nói người gốc Anh và 3,3% tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ đầu tiên của họ. Có 2.108 hộ, trong đó 29,10% có trẻ em dưới 18 tuổi sống chung với họ, 55,30% là đôi vợ chồng sống với nhau, 6,80% có một chủ hộ nữ và không có chồng, và 34,50% là không lập gia đình. 30,80% hộ gia đình đã được tạo ra từ các cá nhân và 13,90% có người sống một mình 65 tuổi hoặc lớn hơn. Cỡ hộ trung bình là 2,36 và cỡ gia đình trung bình là 2,96. Tháp tuổi dân cư sinh sống trong quận với tỷ lệ như sau: 17,80% dưới độ tuổi 18, 12,60% 18-24, 37,50% 25-44, 19,40% từ 45 đến 64, và 12,70% từ 65 tuổi trở lên người. Độ tuổi trung bình là 35 năm. Đối với mỗi 100 nữ có 174,70 nam giới. Đối với mỗi 100 nữ 18 tuổi trở lên, đã có 194,50 nam giới. Thu nhập trung bình cho một hộ gia đình trong quận đã đạt mức USD 35.445, và thu nhập trung bình cho một gia đình là USD 43.207. Phái nam có thu nhập trung bình USD 24.888 so với 20.558 USD của phái nữ. Thu nhập bình quân đầu người đạt mức 14.629 USD. Có 4,80% gia đình và 8,50% dân số sống dưới mức nghèo khổ, bao gồm 10,00% những người dưới 18 tuổi và 10,00% của những người 65 tuổi hoặc hơn. | Quận Brown | Quận của Illinois, Khởi đầu năm 1839 Illinois, Khu dân cư thành lập năm 1839 |
Roger Federer là đương kim vô địch và xuẩt sắc bảo vệ thành công danh hiệu khi đánh bại Marin Čilić chung kết, 6–2, 6–7(5–7), 6–3, 3–6, 6–1. Đây là danh hiệu Grand Slam đơn thứ 20 của Federer và kỷ lục danh hiệu thứ sáu của Giải quần vợt Úc Mở rộng (cùng với Roy Emerson và Novak Djokovic). Với chiến thắng, Federer trở thành tay vợt nam đầu tiên giành được ít nhất sáu danh hiệu tại hai giải đấu Grand Slam (sáu tại Úc Mở rộng và tám tại Wimbledon). Federer trợ thành tay vợt nam già nhất giành danh hiệu Grand Slam đơn Kỳ nguyên Mở kể từ khi Ken Rosewall vào 1972. Hai hạt giống hàng đầu, Rafael Nadal và Federer sẽ tranh vị trí số bảng xếp hạng ATP vào lúc giải đấu bắt đầu. Federer có thể trở lại ngôi số nếu anh vô địch giải và Nadal thua trước vòng tứ kết. Trận thua vòng bốn của Djokovic với Chung là trận thua ba séc trắng đầu tiên của anh tại Australian Open kể từ năm 2007. = = = = = = = = Kết quả | null | Giải quần vợt Úc Mở rộng 2018 2018, ATP World Tour 2018 |
MŠK Senec là một câu lạc bộ bóng đá Slovakia đến từ Senec. Hiện tại đội bóng thi đấu 4. liga (cấp độ thứ trong hệ thống bóng đá Slovakia). Câu lạc bộ được thành lập năm 2014 và chỉ vận hành đội trẻ cho đến mùa hè năm 2016, đội một được hình thành và bắt đầu thi đấu 6. liga. Thông tin câu lạc bộ at Futbalnet portal | MŠK Senec | Câu lạc bộ bóng đá Slovakia, Câu lạc bộ bóng đá thành lập năm 2014, Khởi đầu năm 2014 Slovakia |
là một lớp rêu trong ngành Bryophyta, với bộ. Bộ Sphagnales có chi còn sinh tồn: Sphagnum, Eosphagnum, và mỗi chi có một loài. Bộ Protosphagnales có loài hóa thạch. Shaw, A. Jonathan, 2000. "Phylogeny of the Sphagnopsida Based on Chloroplast and Nuclear DNA Sequences" The Bryologist 103 (2): 277-306. Thể | 103 (2) | |
Culleredo là một đô thị của Tây Ban Nha tỉnh Coruña trong cộng đồng tự trị của Galicia. Culleredo ngoại của Coruña. Dân cư của Culleredo làm việc trong khu vực dịch vụ, và có công nghiệp, nông nghiệp trong lãnh thổ của Culleredo. Sân bay của Coruña, hay Alvedro, đặt Culleredo. Weblog of Culleredo | Culleredo | Đô thị Coruña |
Ngọc Lân (chữ Hán: 玉麟, 1833), tự Tử Chấn (子振), người thị tộc Cáp Đạt Na Lạp (Hada Nara hala) thuộc Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, quan viên nhà Thanh. Năm Càn Long thứ 60 (1795), Ngọc Lân đỗ Tiến sĩ, được chọn làm Thứ cát sĩ, rồi thụ chức Biên tu. Đầu thời Gia Khánh, Ngọc Lân trải qua lần thăng chức thì được làm đến Tế tửu; rồi lần lượt được nhận các chức vụ Chiêm sự, Nội các Học sĩ. Ngọc Lân tham gia biên soạn Cao Tông thực lục một thời gian dài, thì nhận được đặc chiếu sung vào công tác Tổng biên, khi dâng tác phẩm lên Hoàng đế cũng được ghi tên vào nhóm các Tổng tài. Sau đó Ngọc Lân được vào trực Thượng thư phòng; trải qua các chức vụ Lễ bộ, Lại bộ Thị lang, rồi được coi thi Hội. Ngọc Lân phụng mệnh tham gia thẩm tra vụ án Thọ Châu, An Huy tiếp đó tra xét việc thợ đúc quan ngân Hồ Bắc bị cắt giảm lương tiền, khiến quan viên đầu tỉnh đều chịu khiển trách. Sau đó Ngọc Lân đi Hồ Nam, Giang Tây, Trực Lệ, Hà Nam tra án, được người thời ấy khen là công chánh. Năm Gia Khánh thứ 12 (1807), Ngọc Lân được làm Đốc An Huy Học chính, rồi điều đi Giang Tô. Năm thứ 16 (1811), Ngọc Lân được kiêm chức Hữu dực Tổng binh; sau đó bị kết tội sai lầm trong việc thuyên chuyển quan viên khi còn bộ Lại, chịu đoạt chức. Ít lâu sau, Ngọc Lân được thụ chức Nội các Học sĩ, kiêm Hộ quân Thống lĩnh, Tả dực Tổng binh, rồi được thăng Hộ bộ Thị lang. Năm thứ 18 (1813), tháng 8, xa giá từ Nhiệt Hà quay về, Ngọc Lân nghênh đón Bạch Giản, rồi về kinh trước. Đúng lúc nghĩa quân Thiên Lý giáo của Lâm Thanh tấn công Tử Cấm thành, Ngọc Lân soái bộ thuộc tham gia đánh dẹp; sau đó bị kết tội canh phòng lười nhác, bị cách toàn bộ chức vị. Năm thứ 19 (1814), Ngọc Lân phong Tam đẳng Thị vệ, đi Diệp Nhĩ Khương làm việc. Năm thứ 22 (1817), Ngọc Lân được gia hàm Phó Đô thống, sung chức Trú Tạng Đại thần. Sau đó Ngọc Lân được trải qua các chức vụ Tả dực Tổng binh, Phó Đô thống Hán quân Tương Bạch kỳ, rồi được thăng làm Tả đô Ngự sử, Thượng thư Lễ bộ, Lại bộ và Binh bộ. Năm Đạo Quang thứ (1824), Ngọc Lân nhận mệnh làm Quân cơ đại thần Thượng hành tẩu. Năm thứ (1826), Trương Cách Nhĩ thuộc thị tộc Hòa Trác (Jahanghir Khoja) nổi dậy Hồi Cương, chiếm thành Khách Thập Cát Nhĩ, Anh Cát Sa Nhĩ, Diệp Nhĩ Khương, Hòa Điền. Khắc Tô biện sự đại thần Trường Thanh có thể đơn độc cố thủ và đẩy lùi địch, trước đây là nhờ Ngọc Lân tiến cử, nên triều đình giáng chiếu khen ngợi, ban cho ông Hoa linh. Năm thứ (1827), Ngọc Lân được kiêm chức Hàn Lâm viện Chưởng viện Học sĩ, sung chức Thượng thư phòng Tổng sư phó, gia hàm Thái tử Thiếu bảo. Năm thứ (1828), nhà Thanh bình định xong Hồi Cương, Ngọc Lân được tấn hàm Thái tử Thái bảo, vẽ tranh treo gác Tử Quang. Đạo Quang Đế đang muốn củng cố biên thùy phía Tây, cho rằng Ngọc Lân biết rõ tình hình vùng biên, vào năm thứ (1829), đặc mệnh cho ông ra làm Lê Tướng quân. Ngọc Lân dâng sớ nói Hạo Hãn (Kokand) chẳng chịu ngồi yên, không nên điều động quân đội đi nơi khác; bọn Thản Đài, Thái Liệt Khắc chỉ xin quy thuận ngoài miệng cần tăng cường quân đội để phòng bị; ngoài ra ông khen ngợi Tát Khắc (Isak) trung dũng đắc lực, đề nghị trọng thưởng cho bọn Cận di Bố Hô khiến họ trở thành tai mắt cho quan quân. Triều đình giáng chiếu làm theo lời ấy, còn lệnh cho Khách Thập Cát Nhĩ Tham tán đại thần Trát Long phòng bị. Nhưng Trát Long tin lầm bọn Thái Liệt Khắc, không cho là phải. Mùa thu năm thứ 10 (1830), người An Tập Duyên (Andijan) quả nhiên dẫn lối cho quân Hạo Hãn xâm phạm, Khách Thập Cát Nhĩ Bang biện đại thần Tháp Tư Cáp soái binh ngăn chặn, bị mai phục giết chết. Trát Long sắp bỏ thành chạy về giữ Khắc Tô, Ngọc Lân gấp dâng sớ, xin triều đình đòi bọn Trường Thanh nhanh chóng trù bị lương thảo, Cáp Phong nhanh chóng tiến đánh, lấy ra 4500 lính Lê, lệnh cho Dung An soái lãnh đi cứu viện. Dung An đến Khắc Tô, cùng Trường Thanh bàn bạc; Trường Thanh cho rằng giữa đường có Đóa Lan Hồi Tử cản trở, lệnh cho Cáp Phong A, Hiếu Thuận Đại từ đồng cỏ Hòa Điền tiến binh. Ngọc Lân dâng sớ phản đối, cho rằng quan quân nên xuất phát từ Diệp Nhĩ Khương đi thẳng đến Khách Thập Cát Nhĩ, thay vì theo lối Hòa Điền gặp nhiều cản trở. Đạo Quang Đế khen ngợi, nhưng vẫn đốc thúc Cáp Phong tiến binh không đổi. Đến khi Trường Linh đốc bọn Dương Phương, Hồ Siêu đem đại binh đến Khách Thập Cát Nhĩ, Anh Cát Sa Nhĩ thì kẻ địch đã rút xa. Ngọc Lân cho rằng quan quân đây đã lên đến vạn người, hàng tháng dùng hết 1500 vạn thạch lương thực, chi phí vận chuyển hao hết hơn 10000 lạng bạc, vì thế không cần điều binh từ Thiểm, Cam đến nữa; triều đình nghe theo. Khi xưa thủ lĩnh người Hồi mang hàm Bối tử là Tát Khắc dẫn dụ Trương Cách Nhĩ, giúp quan quân bắt được hắn ta, được triều đình phong tước Đa La Quận vương, nhưng cũng chịu sự bài xích của thủ lãnh các bộ tộc khác. Sau đó một âm mưu binh biến bị phát giác, quan quân giết thủ phạm, trục xuất dân chúng tham gia; có kẻ nhân đó vu cáo Tát Khắc thông mưu vơi thủ phạm, rồi kéo nhau đến cướp bóc gia đình ông ta, còn giết hại hơn 200 người Hồi tránh loạn. Trát Long không thể áp chế cuộc bảo động, còn hùa theo bọn họ, giam cầm Tát Khắc. Ngọc Lân cho rằng Tát Khắc được phong Vương tước, trợ giúp kẻ khác làm loạn là vô lý, huống hồ con cháu của ông ta làm con tin Khắc Tô, gia sản đều Khố Xa, há không lo sợ ư? Ngọc Lân dâng sớ trình bày những điều khả nghi, triều đình mệnh cho Trường Linh tra xét, bắt quả tang Trát Long sợ tội, muốn giết người diệt khẩu; đến khi bọn Ủy viên Chương kinh cùng dâng tấu xác nhận chứng cứ phạm tội thì Trát Long chịu đền tội, Tát Khắc được khôi phục chức tước, khiến dân Hồi cả phục. Bấy giờ triều đình bàn luận về tình hình Hồi Cương, Ngọc Lân dâng sớ, phản đối định tái lập Thổ tư những biên thành đã cải thổ quy lưu, cho rằng muốn nhập Hồi Cương vào bản đồ Trung Quốc thì phải thiết lập quan quân trú phòng những nơi ấy, đồng thời phản đối Tham tán đại thần dời từ Khách Thập Cát Nhĩ về Khắc Tô. Vì thế triều đình giáng chiếu cho Trường Linh bí mật trình bày tình hình, kết hợp với lời tâu của nhiều người khác, rồi giao cho Ngọc Lân trù tính kế hoạch sáp nhập Hồi Cương. Năm thứ 11 (1831), Ngọc Lân cùng Trường Linh dâng sớ, Đạo Quang Đế bèn dời tham tán đại thần sang trú Diệp Nhĩ Khương, để dễ bề không chế Hồi Cương. Năm thứ 12 (1832), việc xong, Ngọc Lân quay về Lê, luân phiên điều động binh sĩ đồn thú để cân bằng canh phòng nghỉ ngơi. Thành Huệ Viễn được xây dựng bờ nam Hoàng Hà Ngọc Lân định lệ sửa sang thành trì hằng năm; đem đất chưa gieo trồng cấp cho dân Hồi, thu tô để sung làm lương thực của quân đội, còn chu cấp cho những kẻ khốn khó được thuê mướn để giúp việc vặt. Ngoài ra Ngọc Lân thúc đẩy quá trình Hán hóa bằng cách sửa sang trường học, xây dựng Văn miếu; Đạo Quang Đế đặc biệt ban biển ngạch để tỏ ra xem trọng việc này, khiến phong trào học tập văn hóa Hán Tân Cương được nâng cao. Năm thứ 13 (1833), Ngọc Lân nhận mệnh hồi kinh, triều đình lấy Đặc Thuận Bảo thay thế ông. Nhưng Ngọc Lân về đến Thiểm Tây thì mất, Đạo Quang Đế nghe tin thì thương xót, giáng chiếu ban tuất, tặng hàm Thái bảo, đưa vào thờ trong Hiền Lương từ. Linh cữu về đến kinh sư, Đạo Quang Đế đích thân đến viếng, ban thụy Văn Cung. Người Lê xin lập từ để cúng tế, triều đình đồng ý. *Thanh sử cảo, Quyển 367, liệt truyện 154 Ngọc Lân truyện | Ngọc Lân | Quan nhà Thanh, Người Mãn Châu, Mất năm 1833, Năm sinh không rõ, Nhân vật quân sự nhà Thanh, Người Mãn Châu Chính Hoàng kỳ |
Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa (; mã IOC: TPE) là Ủy ban Olympic quốc gia đại diện cho Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Liên đoàn vận động viên nghiệp dư quốc gia Trung Quốc (中華業餘運動聯合會) được thành lập vào ngày tháng năm 1922. Cuối năm đó, Ủy ban Olympic Quốc tế công nhận Liên đoàn là Ủy ban Olympic Trung Quốc (中國奧林匹克委員會). Năm 1924, Vương Chính Đình (王正廷), chủ tịch của Ủy ban, được bầu làm thành viên của Ủy ban Olympic Quốc tế trong kỳ họp IOC lần thứ 22, được tổ chức tại Paris, Pháp. Liên đoàn điền kinh nghiệp dư quốc gia Trung Quốc được tổ chức lại vào ngày 24 tháng năm 1924 tại Thượng Hải; tên của Liên đoàn vẫn được giữ nguyên trong tiếng Anh nhưng trong tiếng Trung Quốc thì lại không như vậy. Liên đoàn đã tham dự lễ khai mạc Thế vận hội Mùa hè 1924 tại Paris, nhưng không tham dự các sự kiện thi đấu; không có vận động viên nào được cử đi tham dự Thế vận hội Mùa hè 1928 Amsterdam. Thế vận hội Mùa hè 1932, được tổ chức tại Los Angeles, Liên đoàn đã sử dụng tên "Trung Quốc" và chỉ có một vận động viên, Lưu Trường Xuân, thi đấu môn chạy nước rút. Với hậu quả của cuộc nội chiến Trung Quốc, 19 trong số 26 thành viên của Liên đoàn rời đại lục đến Đài Loan. Trụ sở chính của Liên đoàn chuyển từ Nam Kinh đến Đài Bắc và, với sự chấp thuận của IOC, Liên đoàn được đổi tên thành Liên đoàn vận động viên nghiệp dư quốc gia, Ủy ban Olympic Trung Quốc. Người giành được tấm huy chương Olympic đầu tiên trong lịch sử của quốc gia này là vận động viên Dương Truyền Quảng tại Thế vận hội Mùa hè 1960. Tập tượng của Ủy ban Olympic Trung Hoa Dân Quốc đã được sử dụng từ năm 1960. Ban tổ chức Thế vận hội Mùa hè 1952 đã mời cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc tham dự Thế vận hội, vì IOC đã công nhận cả hai Ủy ban Olympic, nhưng Ủy ban Olympic Trung Hoa đã rút khỏi kỳ hội này vì đoàn của họ được liệt kê với tên gọi là "Trung Quốc (Formosa)". Liên đoàn sau đó đã được Ủy ban Quốc tế thông báo rằng, vì nó không kiểm soát thể thao Trung Quốc đại lục, nên nó không thể tiếp tục được công nhận là "Ủy ban Olympic Quốc gia Trung Quốc", và chỉ những đơn đăng ký dưới một cái tên khác mới được xem xét. Hơn nữa, thông báo nêu rõ: "IOC không nên can dự vào bất kỳ vấn đề hoặc quan điểm chính trị nào." Ủy ban điều hành của Ủy ban Olympic quốc tế cho biết Ủy ban Olympic quốc gia nên được coi là cơ quan tài phán địa phương của chính mình, nhưng có quyền tài phán đối với việc quản lý của mình. Do đó, Liên đoàn đã tự tổ chức lại thành Ủy ban Olympic Trung Hoa Dân Quốc (ROCOC), (中華民國奧林匹克委員會) vào ngày tháng năm 1960, và cái tên này đã được chấp thuận vào những năm 1960. ROCOC đồng rằng phái đoàn phải được gọi là "Đài Loan", nhưng sẽ được phép sử dụng tên viết tắt "ROC" trên trang phục thi đấu. Kể từ năm 1971, Trung Quốc đại lục đã sử dụng nhiều cách khác nhau để từ chối tư cách thành viên của Trung Hoa Dân Quốc trong các liên đoàn thể thao quốc tế khác nhau kể từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc. Ví dụ, vào năm 1971, Chính phủ Canada tuyên bố không cho phép các thành viên của ROCOC tham dự Thế vận hội Mùa hè 1976 Montréal vì nước này công nhận Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất dựa theo chính sách Một Trung Quốc. Liên đoàn đã tổ chức thường niên Học viện Olympic Đài Bắc Trung Hoa (CTOA, 中華奧林匹克學院) với tư cách là Kỳ họp Học viện Olympic Quốc gia (NOA, 奧林匹克研討會) mỗi năm tại các quận khác nhau của Đài Loan kể từ năm 1978, và Học viện đã trở thành Ủy ban Olympic Quốc gia thứ tư, và là NOC đầu tiên châu có Học viện Olympic. Ủy ban Olympic Hoa Kỳ đã cố gắng giải quyết vấn đề về tư cách thành viên giữa ROCOC và Ủy ban Olympic Trung Quốc tại Kỳ họp IOC lần thứ 81 Montevideo, Uruguay, khi quan hệ giữa Trung Hoa Dân Quốc và Hoa Kỳ tan vỡ vào năm 1979. ROCOC đã buộc phải thay đổi tên của Ủy ban và sẽ không còn được phép sử dụng quốc ca và quốc kỳ của Trung Hoa Dân Quốc theo kết quả của một cuộc bỏ phiếu qua bưu điện (với tỉ lệ là 62 thuận:17 chống) của Ủy ban Điều hành Ủy ban Olympic Quốc tế Nagoya, Nhật Bản. Sau đó, Tòa án Thụy Sĩ đồng việc xem xét tư pháp của ROCOC và thành viên IOC người Đài Loan là Từ Hanh bởi IOC đã vi phạm Hiến chương Olympic. Do đó, IOC đã sửa đổi Hiến chương Olympic vào năm 1980, trong đó quy định rằng các đoàn Olympic được IOC công nhận là Ủy ban Olympic quốc gia và các thành viên của IOC không thể kiện IOC theo phán quyết của Tòa án Thụy Sĩ. Tập cờ của Đài Bắc Trung Hoa (phải) được kéo lên trong một lễ trao huy chương tại Đại hội Thể thao Đông 2009 Hồng Kông. ROCOC được đổi tên thành Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa (中華奧林匹克委員會) theo thỏa thuận đã được phê duyệt giữa Ủy ban Olympic Quốc tế, Lausanne và Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa, tại Đài Bắc đã ký bởi Thẩm Gia Minh (đại biểu của Ủy ban), người đã trình bày nó với Ủy ban Olympic Quốc tế Lausanne, Thụy Sĩ vào ngày 23 tháng năm 1981, với sự hỗ trợ của Juan Antonio Samaranch, chủ tịch IOC. Thỏa thuận đã được phê duyệt này cho phép phái đoàn của Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa sử dụng Đài Bắc Trung Hoa (中華臺北) để làm biểu tượng của mình, và biểu tượng của Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa và cờ Olympic của Đài Bắc Trung Hoa làm biểu tượng của phái đoàn. Hơn nữa, đoàn thể thao Đài Bắc Trung Hoa sẽ sử dụng chữ T để xác định thứ tự bảng chữ cái trong bảng thứ tự mã IOC. Lần đầu tiên Ủy ban đã thi đấu với biệt danh mới là tại Thế vận hội Mùa đông 1984, Sarajevo. Đối với những cuộc đối đầu thể thao giữa Trung Quốc đại lục và Trung Hoa Dân Quốc, bất kỳ phái đoàn hoặc tổ chức nào từ Trung Hoa Dân Quốc sẽ sử dụng cái tên "Đài Bắc Trung Hoa" (中華台北) thay vì "Đài Bắc Trung Quốc" (中國台北) để tham gia các sự kiện liên quan theo thỏa thuận và ký kết giữa Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa và Ủy ban Olympic Trung Quốc vào ngày tháng năm 1989, tại Hồng Kông. Tập tin:Flag of Chinese Taipei for Olympic cờ được Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa sử dụng với biểu tượng hoa mai tại các kỳ Thế vận hội từ một thỏa thuận với IOC vào năm 1981. Biểu tượng của Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa bao gồm các biểu tượng của Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa và đoàn thể thao Đài Bắc Trung Hoa. Hình dạng bên ngoài là hoa mai tượng trưng cho quốc hoa của Trung Hoa Dân Quốc. Nó bao gồm các vòng tròn Olympic và biểu tượng Thanh Thiên Bạch Nhật (lưu rằng biểu tượng Thanh Thiên Bạch Nhật này khác với cả quốc huy của Trung Hoa Dân Quốc và Đảng huy của Quốc dân Đảng mặc dù nó có vẻ giống với Quốc huy của Trung Hoa Dân Quốc). Đối với cờ Olympic của Đài Bắc Trung Hoa thì lại giống như quốc huy. Quốc ca của Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa Quốc kỳ ca của Trung Hoa Dân Quốc được sử dụng làm quốc ca của Đài Bắc Trung Hoa cũng như làm quốc ca của Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa (中華奧林匹克委員會會歌) nhưng không phải là quốc ca của Trung Hoa Dân Quốc, sau khi hiệp định ký vào tháng năm 1981 được Ủy ban Olympic Quốc tế phê duyệt. Ngoài ra, phần lời bài hát đã được sửa đổi để phù hợp với triết lý về Chủ nghĩa Olympic khi được đệ trình phê duyệt vào năm 1981 nhưng phiên bản lời này không được sử dụng phổ biến Đài Loan. Bảng danh sách tất cả các chủ tịch của Ủy ban: Tên tiếng Việt Tên tiếng Trung Thời gian Dấu ấn Vương Chính Đình 王正廷 1922–1954 Hác Canh Sinh 郝更生 1954–1956 Đồng sáng lập Đại hội Thể thao châu Châu Chí Nhu 周至柔 tháng 6, 1956–tháng 12, 1957 Đặng Truyền Khải 鄧傳楷 tháng 12, 1957–tháng 9, 1962 Dương Sâm 楊森 24 tháng 2, 1962–tháng 6, 1973 Từ Hanh 徐亨 17 tháng 7, 1973–tháng 5, 1974 Thẩm Gia Minh 沈家銘 tháng 5, 1974–tháng 9, 1982 Chết do bệnh tim Trịnh Vi Nguyên 鄭為元 tháng 12, 1982–tháng 9, 1987 Trương Phong Tự 張豐緒 tháng 9, 1987–19 tháng 1, 1998 Đồng thời là chủ tịch của Liên đoàn Điền kinh Nghiệp dư Quốc gia Đài Loan cho đến năm 1994 10 Hoàng Thái Châu 黃大洲 19 tháng 1, 1998–tháng 1, 2006 11 Thái Thần Uy 蔡辰威 tháng 1, 2006–tháng 12, 2013 12 Lâm Hồng Đạo 林鴻道 tháng 12, 2013–nay Chủ tịch hiện tại Ủy ban Olympic Trung Quốc Liên đoàn Thể thao và Ủy ban Olympic Hồng Kông, Trung Quốc Ủy ban Thể thao và Olympic Ma Cao, Trung Quốc Đài Bắc Trung Hoa Đài Bắc Trung Hoa tại Thế vận hội Hiệu kỳ Đài Bắc Trung Hoa Ủy ban Olympic Đài Bắc Trung Hoa | Ủy ban Olympic Đài Bắc | Ủy ban Olympic quốc gia, Khởi đầu năm 1922 Đài Loan, Bài viết có chữ Hán phồn thể |
Piubega là một đô thị tại tỉnh Mantova trong vùng Lombardia của Italia, có vị trí cách khoảng 110 km về phía đông của Milano và khoảng 20 km về phía tây bắc của Mantova. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 1.722 người và diện tích là 16,4 km². Piubega giáp các đô thị: Asola, Casaloldo, Ceresara, Gazoldo degli Ippoliti, Mariana Mantovana, Redondesco. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:3000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:1372 bar:1871 from: till:1555 bar:1881 from: till:1617 bar:1901 from: till:1927 bar:1911 from: till:2335 bar:1921 from: till:2525 bar:1931 from: till:2514 bar:1936 from: till:2426 bar:1951 from: till:2534 bar:1961 from: till:2055 bar:1971 from: till:1733 bar:1981 from: till:1729 bar:1991 from: till:1640 bar:2001 from: till:1630 PlotData= bar:1861 at:1372 fontsize:XS text: 1372 shift:(-8,5) bar:1871 at:1555 fontsize:XS text: 1555 shift:(-8,5) bar:1881 at:1617 fontsize:XS text: 1617 shift:(-8,5) bar:1901 at:1927 fontsize:XS text: 1927 shift:(-8,5) bar:1911 at:2335 fontsize:XS text: 2335 shift:(-8,5) bar:1921 at:2525 fontsize:XS text: 2525 shift:(-8,5) bar:1931 at:2514 fontsize:XS text: 2514 shift:(-8,5) bar:1936 at:2426 fontsize:XS text: 2426 shift:(-8,5) bar:1951 at:2534 fontsize:XS text: 2534 shift:(-8,5) bar:1961 at:2055 fontsize:XS text: 2055 shift:(-8,5) bar:1971 at:1733 fontsize:XS text: 1733 shift:(-8,5) bar:1981 at:1729 fontsize:XS text: 1729 shift:(-8,5) bar:1991 at:1640 fontsize:XS text: 1640 shift:(-8,5) bar:2001 at:1630 fontsize:XS text: 1630 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Dữ liệu từ ISTAT | Piubega | Đô thị tỉnh Mantova |
Sống trong bóng đêm là một bộ phim truyền hình được thực hiện bởi Công ty Sóng Vàng do Nguyễn Phương Điền làm đạo diễn. Phim phát sóng vào lúc 20h00 từ thứ đến thứ hàng tuần bắt đầu từ ngày tháng năm 2017 và kết thúc vào ngày 23 tháng năm 2017 trên kênh THVL1. Sống trong bóng đêm xoay quanh câu chuyện của một gia đình gồm nhiều thế hệ cùng chung sống với nhau trong căn nhà ọp ẹp tại một khu chuột bên bờ kênh Nhiêu Lộc, qua đó lột tả số phận của những người phụ nữ không thể định nghĩa cuộc sống bằng từ “hạnh phúc”... *Bích Huyền trong vai Hương *Hương Giang trong vai Bà Hoa *Trương Mỹ Nhân trong vai Thanh *Thái Hòa trong vai Lô *Quốc Cường trong vai Tâm *Đào Anh Tuấn trong vai Sáu Xiên *NSƯT Lê Thiện trong vai Bà Bao *NSƯT Công Ninh trong vai Hai Tranh *NSƯT Mạnh Dung trong vai Ông Hai Gạo *Nam Thư trong vai Thu *Hải Lý trong vai Bà Hành *Long Đẹp Trai trong vai Mèo *Tiết Cương trong vai Lơ *Phi Phụng trong vai Bà Ba *Thành Tâm trong vai Nâu *Phạm Nhật Hoàng trong vai Lem Cùng một số diễn viên khác... Bài hát trong phim là ca khúc "Hoa quỳnh nở về đêm" do Nguyễn Văn Chung sáng tác và Thiên Phú thể hiện. Năm Giải thưởng Hạng mục (Người) đề cử Kết quả Tham khảo 2017 Giải Cánh diều Phim truyện truyền hình Sống trong bóng đêm trên THVLi | ''Sống trong bóng đêm | Phim truyền hình Việt Nam phát sóng trên kênh THVL1, Phim truyền hình Việt Nam ra mắt năm 2017 |
là một đô thị thuộc bang Ceará, Brasil. Đô thị này có diện tích 278,4 km², dân số năm 2007 là 18152 người, mật độ 65,2 người/km². Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 | null | Đô thị bang Ceará |
lacustris' là loài thực vật có hoa trong họ Cói. Loài này được (L.) Palla miêu tả khoa học đầu tiên năm 1888. Tập lacustris 260605a.jpg Tập tin:360 Scirpus lacustris L., S. setaceus L.jpg Tập tin:423 Scirpus lacustris.jpg Tập Thể | null | |
là một chi thực vật có hoa trong họ, Orchidaceae. *Danh sách các chi Phong lan *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (1999). Genera Orchidacearum 1. Oxford Univ. Press. *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (2001). Genera Orchidacearum 2. Oxford Univ. Press. *Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. Rasmussen, F. eds. (2003). Genera Orchidacearum 3. Oxford Univ. Press *Berg Pana, H. 2005. Handbuch der Dictionary of Orchid Names. Dizionario dei nomi delle orchidee. Ulmer, Stuttgart | null | Danh sách các chi phong lan |
Huy chương Gottschalk (tiếng Anh: Gottschalk Medal) là một giải thưởng của Viện hàn lâm Khoa học Úc, dành cho các nhà khoa học Úc, có cống hiến xuất sắc trong nghiên cứuY học. Huy chương này được đặt theo tên viện sĩ A. Gottschalk thuộc Viện hàn lâm Khoa học Úc, được trao hàng năm cho các nhà nghiên cứu dưới 40 tuổi, không là viện sĩ của Viện hàn lâm này. Ngoài huy chương, còn có khoản tiền thưởng là 1.000 dollar cho người đoạt giải. *2015 Peter Czabotar *2014 Kieran F. Harvey *2013 B. Kile *2012 K. Gaus *2011 S. Tangye *2010 J. Whisstock *2009 C.G. Vinuesa *2008 G.T. Belz *2007 J. Rossjohn *2006 J.P. Mackay *2005 R.W. Johnstone *2004 M.H. Little *2003 L.M. Khachigian *2002 M. Crossley *2001 C.C. Goodnow *2000 D.L. Vaux *1999 M.W. Parker *1998 D.J. Hilton *1997 P.R. Schofield *1997 B.J. Wainwright *1996 D.I. Cook *1995 M.J. Smyth *1994 P.J. Goadsby *1993 A. Cowman *1992 P.M. Hogarth *1991 R.A. Cuthbertson *1990 N.M. Gough *1989 A.R. Hardham *1988 A. Cockburn *1987 J.J. Burdon *1986 N.A. Nicola *1985 R. Appels *1984 J.A. Angus *1983 G.D. Farquhar *1982 J. Shine *1981 A.W. Burgess *1980 M.B. Renfree *1979 C.R. Parish | Huy chương Gottschalk | Giải thưởng khoa học kỹ thuật, Y học, Úc, Khởi đầu năm 1979 |
là một loài thực vật có hoa thuộc họ Lamiaceae. Loài này chỉ có Cameroon. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. P. dissitiflorus hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Cheek, M. Cable, S. 2000. Plectranthus dissitiflorus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 20 tháng năm 2007. dissitiflorus | null | |
Oxyptilus ericetorum là một loài bướm đêm thuộc họ Pterophoridae. Nó được tìm thấy hầu hết châu Âu (except Iceland, Ireland, Đảo Anh, the Benelux, Croatia, Hungary và Ukraina), phía đông đến Xibia. Sải cánh dài 16–19 mm. Ấu trùng ăn Hieracium pilosella và Hieracium murorum. Fauna Europaea Pterophoridae collection of Siberian Zoological Museum Swedish Moths | ''Oxyptilus ericetorum | Oxyptilus, Côn trùng châu Âu |
Tập nguồn của một tài liệu XHTML có JavaScript, với cú pháp được tô màu. Công cụ tô màu cú pháp (syntax highlighting) dùng màu sắc để giúp lập trình viên thấy nhiệm vụ của các phần mã nguồn. Mã nguồn () được hiểu trong tin học là một dãy các câu lệnh được viết bằng một ngôn ngữ lập trình. Mã nguồn thường được lưu trong một hoặc một vài tập tin văn bản hoặc có thể được in trong sách. Thuật ngữ này thường được dùng trong ngữ cảnh của một phần mềm máy tính. Mã nguồn của một chương trình máy tính là một tập các tệp có thể chuyển đổi được từ dạng con người có thể đọc sang dạng máy có thể thực hiện. Mã nguồn được dịch sang dạng tệp mã máy tương ứng với một kiến trúc máy tính cụ thể bởi một trình biên dịch, hoặc được thực thi thẳng với sự trợ giúp của một trình thông dịch. Ngôn ngữ máy Phần mềm nguồn mở Ngôn ngữ lập trình (VEW04) "Using Decompiler for Real-World Source Recovery", M. Van Emmerik and T. Waddington, the Working Conference on Reverse Engineering, Delft, Hà Lan, 9–ngày 12 tháng 11 năm 2004. Extended version of the paper Source Code Definition by The Linux Information Project (LINFO) Same program written in multiple languages | Mã nguồn | Mã nguồn |
Inga yasuniana là một loài rau đậu thuộc họ Fabaceae. Loài này chỉ có Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừngs ẩm vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Neill, D. Pitman, N. 2004. Inga yasuniana. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 19 tháng năm 2007. | ''Inga yasuniana | |
Thiên thể (viết tắt: TŻO hay TZO'''), còn được gọi là sao lai, là một loại sao được phỏng đoán, trong đó một sao khổng lồ đỏ hoặc siêu sao chứa một sao neutron lõi của nó, được hình thành từ sự va chạm của sao khổng lồ với sao neutron. Những thiên thể như vậy đã được Kip Thorne và Anna Żytkow đưa ra giả thuyết vào năm 1977. Năm 2014, người ta phát hiện ra rằng ngôi sao HV 2112 là một ứng cử viên nặng ký nhưng kể từ khi đó thì điều này đã bị nghi vấn. Một thiên thể Thorne-Żytkow được hình thành khi một sao, thường là sao khổng lồ đỏ hoặc siêu sao, va chạm với một sao neutron. Các thiên thể va chạm có thể chỉ đơn giản là những sao lang thang. Điều này chỉ có khả năng xảy ra trong các cụm sao cầu cực kỳ đông đúc. Ngoài ra, sao neutron có thể hình thành trong một hệ sao đôi sau khi một trong hai ngôi sao trở thành siêu tân tinh. Do không có siêu tân tinh nào là đối xứng hoàn hảo và vì năng lượng liên kết của hệ sao đôi thay đổi theo khối lượng bị mất trong siêu tân tinh, nên sao neutron sẽ bị bỏ lại với một số vận tốc tương đối so với quỹ đạo ban đầu của nó. Cú hích này có thể khiến quỹ đạo mới của nó giao cắt với quỹ đạo của sao đồng hành của nó, hoặc, nếu sao đồng hành của nó là một sao dãy chính, nó có thể bị nhấn chìm khi sao đồng hành của nó tiến hóa thành một sao khổng lồ đỏ. Khi sao neutron đi vào sao khổng lồ đỏ, lực cản giữa sao neutron và các lớp khuếch tán bên ngoài của sao khổng lồ đỏ làm cho quỹ đạo của hệ sao đôi phân rã, và sao neutron và phần lõi của sao khổng lồ đỏ di chuyển theo xoắn ốc hướng vào trong về phía nhau. Tùy thuộc vào sự phân tách ban đầu của chúng, quá trình này có thể mất hàng trăm năm. Cuối cùng, khi hai sao này va chạm vào nhau, sao neutron và phần lõi của sao khổng lồ đỏ sẽ hợp nhất. Nếu khối lượng kết hợp của chúng vượt quá giới hạn thì cả hai sẽ sụp đổ thành một lỗ đen, dẫn đến một siêu tân tinh phân tán các lớp bên ngoài của ngôi sao. Nếu không, cả hai sẽ hợp lại thành một sao neutron duy nhất. Nếu một sao neutron và một sao lùn trắng hợp nhất, điều này có thể tạo thành một thiên thể Thorne–Żytkow với các tính chất của sao biến quang Bắc Miện R. Bề mặt của sao neutron là rất nóng, với nhiệt độ vượt quá 109 K: nóng hơn phần lõi của tất cả, ngoại trừ những ngôi sao to lớn nhất. Nhiệt lượng này bị chi phối hoặc là bởi phản ứng hợp hạch trong khí tích tụ hoặc do sự nén khí bởi trọng lực của sao neutron. Do nhiệt độ cao, các quá trình hạt nhân bất thường có thể diễn ra khi phần vỏ bao của sao khổng lồ đỏ rơi vào bề mặt của sao neutron. Hydro có thể hợp nhất để tạo ra một hỗn hợp các đồng vị khác với trong quá trình tổng hợp hạt nhân sao thông thường, và một số nhà thiên văn học đã đề xuất rằng tổng hợp hạt nhân proton nhanh xảy ra trong các vụ bạo phát tia cũng diễn ra bên trong các thiên thể Thorne–Żytkow. Về mặt quan sát, một thiên thể Thorne–Żytkow có thể giống với một siêu sao khổng lồ đỏ, hoặc nếu nó đủ nóng để thổi bay các lớp bề mặt giàu hydro, thì giống một sao Wolf–Rayet giàu nitơ (loại WN8). Một TŻO có tuổi thọ ước tính 10 -10 năm. Với tuổi thọ này, có thể có từ 20 đến 200 thiên thể Thorne-Żytkow hiện đang tồn tại trong Ngân Hà. Người ta đã đưa ra giả thuyết rằng sự mất mát khối lượng cuối cùng sẽ kết thúc giai đoạn TŻO, với lớp vỏ còn lại chuyển thành một đĩa, dẫn đến sự hình thành của một sao neutron với một đĩa bồi tụ lớn. Những ngôi sao neutron này có thể tạo thành quần thể các sao xung cô lập với các đĩa bồi tụ. Đĩa bồi tụ lớn cũng có thể dẫn đến sự sụp đổ của một ngôi sao, trở thành sao đồng hành của sao neutron. Sao neutron cũng có thể tích tụ đủ vật chất để sụp đổ thành một lỗ đen. Vào năm 2014, ứng cử viên gần đây nhất, sao HV 2112, đã được quan sát thấy có một số tính chất bất thường cho thấy nó có thể là một thiên thể Thorne–Żytkow. Nhóm khám phá, với Emily Levesque là tác giả chính, lưu rằng HV 2112 thể hiện một số đặc điểm hóa học không hoàn toàn khớp với các mô hình lý thuyết, nhưng nhấn mạnh rằng các dự đoán lý thuyết cho một thiên thể Thorne–Żytkow đã khá cũ và các cải tiến lý thuyết đã được thực hiện kể từ khi nó được khái niệm hóa lần đầu. Tuy nhiên, một bài báo năm 2018 nhận định lại các tính chất của HV 2112, đã lập luận rằng ngôi sao này không có khả năng là một thiên thể Thorne-Żytkow, và nhiều khả năng nó là một sao AGB có khối lượng trung bình. Ứng viên Xích kinh Xích vĩ Vị trí Khám phá Ghi chú Tham chiếu HV 2112 01 10 03,87 −72° 36′ 52,6″ Đám mây Magellan nhỏ 2014 Ngôi sao này trước đây được xếp vào danh sách sao nhánh tiệm cận khổng lồ, nhưng theo quan sát là phù hợp hơn với tình trạng siêu sao khổng lồ đỏ. Aquarii 22 03 19,69 −16° 37′ 35,2″ Bảo Bình 1999 Ngôi sao này từng được xếp vào danh mục sao biến quang Bắc Miện R. VZ Sagittarii 18 15 08,58 giây −29° 42′ 29,6″ Nhân Mã 1999 Ngôi sao này từng được xếp vào danh mục sao biến quang Bắc Miện R. HV 11417 2019 Cựu ứng viên TŻO Xích kinh Xích vĩ Vị trí Khám phá Ghi chú Tham chiếu GRO J1655-40 16 54 00,14 giây −39° 50′ 44,9″ Thiên Yết 1995 Tiền thân cho cả sao đồng hành và lỗ đen trong hệ thống này được giả thuyết là TŻO. Chuẩn tinh Sao lỗ đen | Thiên thể (viết tắt: | Khoa học năm 1977, Sao khổng lồ đỏ, Sao neutron, Loại sao |
Huỳnh Minh Hoàng (sinh năm 1963) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, thuộc đoàn đại biểu Bạc Liêu. Ngày sinh: 5/2/1963 Giới tính: Nam Dân tộc: Kinh Tôn giáo: Không Quê quán: Xã Phong Thạnh Đông A, huyện Giá Rai, Bạc Liêu Trình độ chính trị: Cao cấp lý luận chính trị Trình độ chuyên môn: Tiến sỹ nông nghiệp, Cử nhân Luật Nghề nghiệp, chức vụ: Tỉnh ủy viên; Ủy viên Uỷ ban Khoa học, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bạc Liêu, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Nơi làm việc: Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Bạc Liêu Ngày vào đảng: 24/2/1995 Nơi ứng cử: Bạc Liêu Đại biểu Quốc hội khoá: XI,XIII Đại biểu chuyên trách: Không Đại biểu Hội đồng nhân dân: Đại biểu HĐND tỉnh khóa VIII nhiệm kỳ 2011-2016 | Huỳnh Minh Hoàng | Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII, Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII Bạc Liêu, Người Bạc Liêu, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Người họ Huỳnh tại Việt Nam |
Bhilwara là một thành phố và là nơi đặt hội đồng đô thị (municipal council) của quận Bhilwara thuộc bang Rajasthan, Ấn Độ. Bhilwara có vị trí Nó có độ cao trung bình là 421 mét (1381 foot). Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Bhilwara có dân số 280.185 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Bhilwara có tỷ lệ 65% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 74%, và tỷ lệ cho phái nữ là 55%. Tại Bhilwara, 15% dân số nhỏ hơn tuổi. | Bhilwara | |
Tập tin:Vòng đường tròn với bán kính của nó. Trong hình học cổ điển, bán kính của một đường tròn hay của mặt cầu là khoảng cách từ một điểm bất kỳ của đường tròn/mặt cầu đến tâm của nó. Từ bán kính được sử dụng lần đầu tiên trong tiếng La Tinh là radius với nghĩa tia hoặc cũng có thể là nan hoa của bánh xe ngựa. Bán kính thường được ký hiệu bằng chữ r hoặc R. Độ dài của bán kính đường tròn bằng một nửa đường kính d của đường tròn đó. Nếu đối tượng đề cập tới không có tâm, khái niệm này có thể đề cập tới bán kính của đường tròn ngoại tiếp hoặc mặt cầu ngoại tiếp đối tượng đó. Trong cả hai trường hợp, bán kính này có thể dài hơn một nửa khoảng cách lớn nhất giữa hai điểm bất kì của đối tượng đó. Ngoài ra, khái niệm bán kính này cũng có thể được sử dụng cho đường tròn nội tiếp đường tròn lớn nhất có thể nằm trong một đa giác cho trước. Bán kính của đường tròn có chu vi C là: | bán kính | Mặt cắt hình nón, Đường tròn |
Nghiêm Kim Hải (tiếng Trung giản thể: 严金海; bính âm Hán ngữ: Yán Jīn Hǎi; chữ Tạng: ཡན་ཅིན་ཧའེ; chuyển tự: yan cin ha'e; sinh tháng năm 1962, người Tạng) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX, Ủy viên dự khuyết khóa XIX, hiện là Phó Bí thư Khu ủy, Bí thư Đảng tổ, Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng. Ông nguyên là Bí thư Thành ủy thành phố Lhasa; Phó Bí thư chuyên chức Khu ủy Khu tự trị Tây Tạng; Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Thanh Hải. Nghiêm Kim Hải là Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, học vị Cử nhân Ngôn ngữ và Văn học Trung Quốc. Ông có sự nghiệp công tác tỉnh Thanh Hải gần 40 năm trước khi chuyển sang Tây Tạng. Nghiêm Kim Hải sinh tháng năm 1962 tại huyện tự trị dân tộc Hồi Dân Hòa, địa cấp thị Hải Đông, tỉnh Thanh Hải, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trong một gia đình dân tộc Tạng. Ông lớn lên và tốt nghiệp phổ thông quê nhà. Tháng 11 năm 1978, ông tới thủ phủ Tây Ninh, nhập học Học viện Dân tộc Thanh Hải (青海民族学院, nay là Đại học Dân tộc Thanh Hải), Khoa Tiếng Trung, tốt nghiệp Cử nhân chuyên ngành Ngôn ngữ và Văn học Trung Quốc vào tháng năm 1982. Tháng 12 năm 1983, ông được kết nạp Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong quá trình công tác, ông từng tham gia lớp bồi dưỡng cán bộ trẻ và trung niên một năm tại Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc từ tháng năm 2007 đến tháng năm 2008. Tháng năm 1982, sau khi tốt nghiệp đại học, Nghiêm Kim Hải bắt đầu sự nghiệp của mình khi được tuyển dụng làm cán bộ Trường Sư phạm Dân tộc của Châu tự trị dân tộc Tạng Hoàng Nam, tỉnh Thanh Hải. Tháng 11 năm 1984, ông được chuyển sang vị trí Chuyên viên Cục Giáo dục châu tự trị Hoàng Nam và liên tục công tác về giáo dục suốt thập niên 80. Tháng năm 1990, ông nhậm chức làm Phó Chủ nhiệm Văn phòng Châu ủy Hoàng Nam, và được thăng chức thành Chủ nhiệm Văn phòng Châu ủy từ tháng năm 1991. Sau đó, tháng năm 1993, ông là Phó Thư ký trưởng Châu ủy Hoàng Nam kiêm Chủ nhiệm Văn phòng Châu ủy. Tháng năm 1996, ông được bầu vào Ban Thường vụ Châu ủy Hoàng Nam, cấp phó sảnh, địa. Tháng năm 1998, Nghiêm Kim Hải được Tỉnh ủy Thanh Hải điều động tới Châu tự trị dân tộc Tạng Ngọc Thụ, vào Ban Thường vụ Châu ủy, nhậm chức Phó Bí thư Châu ủy Ngọc Thụ. Ông giữ vị trí này cho đến cuối năm 2004. Vào tháng năm 2005, ông được Tỉnh ủy Thanh Hải điều tới Châu tự trị dân tộc Tạng Hải Bắc, vào Ban Thường vụ Châu ủy, nhậm chức Phó Bí thư Châu ủy Hải Bắc, được bổ nhiệm làm Châu trưởng Chính phủ Nhân dân châu tự trị Hải Bắc. Tháng năm 2008, ông nhậm chức Bí thư Châu ủy Hải Bắc và lãnh đạo châu tự trị này cho đến năm 2013. Tháng năm 2013, Tổng lý Quốc vụ viện Ôn Gia Bảo bổ nhiệm ông làm Phó Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân tỉnh Thanh Hải, cấp phó tỉnh, bộ. Tháng năm 2017, ông được bầu vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hải. Tháng 10 năm 2017, ông tham gia đại hội đại biểu toàn quốc, được bầu làm Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XIX tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19. Tháng năm 2020, Bộ Tổ chức, Ban Bí thư Trung ương Đảng họp bàn và điều động Nghiêm Kim Hải tới Khu tự trị Tây Tạng, vào Ban Thường vụ Khu ủy. Ngày 20 tháng năm 2020, Ban Thường vụ Khu ủy Tây Tạng họp mở rộng truyền đạt quyết định của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về việc điều chỉnh lãnh đạo khu tự trị, công bố quyết định điều chuyển của ông, giữ vị trí Phó Bí thư chuyên chức Khu ủy Tây Tạng. Tháng năm 2021, ông được phân công nhậm chức Bí thư Thành ủy thành phố Lhasa, thủ phủ của Tây Tạng. Tháng 10 năm 2021, ông được giao vị trí Bí thư Đảng tổ Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng, và vào sáng ngày tháng 10, hội nghị lần thứ 33 của Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng khóa XIII đã quyết định bổ nhiệm ông làm Phó Chủ tịch Khu tự trị Tây Tạng và Quyền Chủ tịch Tây Tạng. Ông trở thành lãnh đạo hành pháp Tây Tạng, kế nhiệm Che Dalha, phối hợp cùng Bí thư Khu ủy Tây Tạng Vương Quân Chính. Cuối năm 2022, ông tham gia Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ XX từ đoàn đại biểu Tây Tạng. Trong quá trình bầu cử tại đại hội, ông được bầu là Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX. Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân Bí thư Tỉnh ủy (Trung Quốc) Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng Danh sách Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX Tiểu sử Nghiêm Kim Hải Báo Nhân dân Trung Quốc. | Nghiêm Kim Hải | Sinh năm 1962, Nhân vật còn sống, Người Tạng, Người Thanh Hải, Chủ tịch Chính phủ Nhân dân Khu tự trị Tây Tạng, Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XIX, Ủy viên Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XX |
+郑州市Trịnh Châu thị Trịnh Châu được tô màu trong bản đồ nàyVị trí của Trịnh Châu tại Trung Quốc Cấp hành chính Địa cấp thị Diện tích 7.446,2 km² Dân số 7.082.000 (2004) GDP ¥23305 đầu người (2005) Dân tộc chính Hán Huyện 12 Xã Không rõ Mã điện thoại 371 Trịnh Châu (), trước đây gọi là Dự Châu hay Trung Châu, là một địa cấp thị và là tỉnh lỵ tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Địa cấp thị này tọa lạc ngay phía bắc của miền trung tỉnh Hà Nam và phía nam sông Hoàng Hà. Thành phố này giáp giới với Lạc Dương về phía tây, Tiêu Tác về phía tây bắc, Tân Hương về phía đông bắc, Khai Phong về phía đông, Hứa Xương về phía đông nam và Bình Đỉnh Sơn về phía tây nam. Trịnh Châu Địa cấp thị (thành phố trực thuộc tỉnh) Trịnh Châu bao gồm 12 đơn vị cấp huyện, trong đó có quận (khu) và thành phố cấp huyện và huyện. Trung Nguyên khu (中原区) Nhị Thất khu (二七区) Kim Thủy khu (金水区) Quản Thành Hồi tộc khu (管城回族区) Huệ Tế khu (惠济区) Thượng Nhai khu (上街区) Huỳnh Dương thị (荥阳市) Củng Nghĩa thị (巩义市) Đăng Phong thị (登封市) Tân Mật thị (新密市) Tân Trịnh thị (新郑市) Trung Mâu huyện (中牟县) Saitama, Nhật Bản (1981) Richmond, Hoa Kỳ (1994) Cluj-Napoca, România (1995) Jinju, Hàn Quốc (2000) Mariental, Namibia (2001) Irbid, Jordan (2002) Samara, Nga (2002) Joinville, Brasil (2003) Schwerin, Đức (2006) Shumen, Bulgaria (2007) Napoli, (2007) Mogilev, Belarus (2007) Website chính thức của Trịnh Châu (tiếng Anh và tiếng Hoa) Bản đồ Trịnh Châu Một vài hình ảnh về Trịnh Châu | 郑州市Trịnh Châu thị | |
Chính thống giáo Đông phương theo quốc gia (số liệu năm 2015): Dưới đây là thống kê về Chính thống giáo Đông phương theo quốc gia tính đến năm 2015. Chính thống giáo Đông phương theo quốc gia Quốc gia Tỷ lệ Số tín hữu 72% 104,000,000 54% 61,560,000 76.6% 34,850,000 81.1% 16,321,389 15% 15,000,000 90% 9,380,749 97.1% 8,478,459 1.6% 5,000,000 73% 4,590,000 59.4% 4,374,135 23.9% 4,300,000 82.1% 3,550,000 93.3% 3,158,015 92.5% 3,017,535 47% 2,530,000 8% 1,800,000 69.8% 1,610,184 3.1% 1,500,000 1.9% 1,500,000 31% 1,086,733 17% 1,000,000 5% 1,000,000 1.5% 900,000 89.1% 781,900 1.4% 730,000 1% 700,000 2.6% 563,100 1.7% 550,690 3% 550,000 81% 509,749 1.4% 504,400 6% 500,000 ' 91% 460,000 5% 410,000 17.9% 370,000 4.5% 350,000 9% 330,000 2.5% 240,000 4.4% 195,969 1% 180,000 13.7% 176,773 2% 160,000 6.8% 148,992 1.5% 145,279 1.7% 140,000 0.06% 135,000 4.2% 125,189 2.5% 100,000 0.7% 100,000 0.2% 100,000 1.1% 70,000 0.9% 49,133 2.2% 45,000 0.03% 30,000 1.5% 25,837 0.4% 21,993 0.2% 20,533 0.06% 15,000 0.00012% 15,000 0.001% 15,000 0.3% 13,883 0.01% 6,000 0.001% 2,000 0.02% 200 0.1% 100 Tổng cộng NA ~340 triệu''' *Kitô giáo theo quốc gia | Chính thống giáo Đông phương theo quốc gia (số liệu năm 2015): | Kitô giáo Trung Đông, Chính thống giáo Đông phương châu Âu |
Drynaria elastica là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được mô tả khoa học đầu tiên năm 1866. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Drynaria elastica | Drynaria, Unresolved names |
Tập tin:Crab vân Con Cua, một tàn tích sao siêu mới do Kính viễn vọng vũ trụ Hubble chụp. Thiên văn học (; từ nghĩa đen là khoa học nghiên cứu quy luật của các vì sao) là một ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu những thiên thể (như các ngôi sao, hành tinh, sao chổi, tinh vân, quần tinh, thiên hà) và các hiện tượng có nguồn gốc bên ngoài vũ trụ (như bức xạ nền vũ trụ). Nó nghiên cứu sự phát triển, tính chất vật lý, hóa học, khí tượng học, và chuyển động của các vật thể vũ trụ, cũng như sự hình thành và phát triển của vũ trụ. Thiên văn học là một trong những ngành khoa học hiện đại nhất. Các nhà thiên văn học của những nền văn minh đầu tiên đã tiến hành những cuộc quan sát có phương pháp bầu trời đêm, và các dụng cụ thiên văn học đã được tìm thấy từ những giai đoạn còn sớm hơn nữa. Tuy nhiên, sự xuất hiện của kính viễn vọng là thời điểm thiên văn học bắt đầu bước vào giai đoạn khoa học hiện đại. Về lịch sử, thiên văn học từng gồm cả các ngành đo sao, hoa tiêu thiên văn, quan sát thiên văn, làm lịch, và thậm chí cả chiêm tinh học, nhưng ngành thiên văn học chuyên môn hiện đại ngày nay thường chỉ có nghĩa vật lý học thiên thể. Từ thế kỷ XX, lĩnh vực thiên văn học chuyên nghiệp được chia thành các nhánh quan sát và thực nghiệm. Thiên văn học quan sát chú trọng tới việc thu thập và phân tích dữ liệu, sử dụng các nguyên tắc cơ bản của vật lý. Thiên văn học lý thuyết định hướng theo sự phát triển các mô hình máy tính hay mô hình phân tích để miêu tả các vật thể và hiện tượng thiên văn. Hai lĩnh vực bổ sung cho nhau, thiên văn học lý thuyết tìm cách giải thích các kết quả quan sát, và việc quan sát lại thường được dùng để xác nhận các kết quả lý thuyết. Các nhà thiên văn nghiệp dư đã đóng góp nhiều khám phá quan trọng cho thiên văn học, và thiên văn học là một trong số ít ngành khoa học nơi các nhà thiên văn nghiệp dư có thể đóng vai trò quan trọng, đặc biệt trong sự phát hiện và quan sát các hiện tượng thoáng qua. Thiên văn học cổ hay thậm chí thiên văn học cổ đại không nên bị nhầm lẫn với ngành chiêm tinh học, hệ thống niềm tin rằng những công việc của con người liên quan tới các vị trí của các vật thể vũ trụ. Dù hai lĩnh vực cùng có nguồn gốc chung và một phần phương pháp thực hiện (cụ thể, việc sử dụng lịch thiên văn), chúng là khác biệt. Năm 2009 đã được Liên hiệp quốc coi là Năm Thiên văn học Quốc tế (IYA2009). Mục tiêu là tăng cường nhận thức và sự tham gia của mọi người vào thiên văn học. Từ thiên văn học (chữ Hán: 天文學) trong tiếng Việt được vay mượn từ tiếng Hán. Thiên trong thiên văn học 天文學 có nghĩa là trời, bầu trời, còn văn có nghĩa là hiện tượng, học có nghĩa là ngành. Thiên văn học 天文學 nghĩa mặt chữ là ngành nghiên cứu về các hiện tượng trên bầu trời. Nói chung, cả "thiên văn học" hay "vật lý học thiên thể" đều có thể được dùng để chỉ môn này. Dựa trên các định nghĩa chính xác của từ điển, "thiên văn học" để chỉ "việc nghiên cứu các vật thể và chủ đề bên ngoài khí quyển Trái Đất và các tính chất vật lý và hoá học của chúng" và "vật lý học thiên thể" để chỉ nhánh thiên văn học nghiên cứu "cách thức, các tính chất vật lý, và các quá trình động lực của các thiên thể và hiện tượng vũ trụ". Trong một số trường hợp, như trong phần giới thiệu của cuốn sách hướng dẫn Physical Universe (Vũ trụ Vật lý) của Frank Shu, "thiên văn học" có thể được sử dụng để miêu tả việc nghiên cứu định lượng của hiện tượng, trong khi "vật lý học thiên thể" được dùng để miêu tả vùng định hướng vật lý của hiện tượng. Tuy nhiên, bởi hầu hết các nhà thiên văn học hiện đại nghiên cứu các chủ đề liên quan tới vật lý, thiên văn học hiện đại thực tế có thể được gọi là vật lý học thiên thể. Nhiều cơ quan nghiên cứu chủ đề này có thể sử dụng "thiên văn học" và "vật lý học thiên thể", một phần dựa trên việc cơ quan của họ về lịch sử có liên quan tới một cơ sở vật lý hay không, và nhiều nhà thiên văn học chuyên nghiệp thực tế đều có bằng cấp vật lý. Một trong những tờ báo khoa học hàng đầu trong lĩnh vực có tên gọi Thiên văn học và Vật lý học thiên thể. Tập tin:Planisphæri bản đồ bầu trời từ thế kỷ XVII, của nhà bản đồ người Hà Lan Frederik de Wit. Buổi đầu, thiên văn học chỉ bao gồm việc quan sát và dự đoán các chuyển động của vật thể có thể quan sát được bằng mắt thường. một số địa điểm, như Stonehenge, các nền văn hoá đầu tiên đã lắp dựng những dụng cụ quan sát to lớn có lẽ có một số mục đích thiên văn. Ngoài việc sử dụng trong nghi lễ, các đài quan sát thiên văn có thể được sử dụng để xác định mùa, một yếu tố quan trọng để biết thời điểm canh tác, cũng như biết được độ dài của năm. Trước khi các dụng cụ như kính thiên văn được chế tạo việc nghiên cứu các ngôi sao phải được tiến hành từ các điểm quan sát thuận lợi có thể có, như các toà nhà cao và những vùng đất cao với mắt thường. Khi các nền văn minh phát triển, đáng chú nhất là Mesopotamia, Hy Lạp, Ai Cập, Ba Tư, Maya, Ấn Độ, Trung Quốc, Nubia và thế giới Hồi giáo, các cuộc quan sát thiên văn học đã được tổng hợp, và các tưởng về tính chất vũ trụ bắt đầu được khám phá. Hoạt động thiên văn học sớm nhất thực tế gồm vẽ bản đồ các vị trí sao và hành tinh, một ngành khoa học hiện được gọi là thuật đo sao. Từ các quan sát này, những tưởng đầu tiên về những chuyển động của các hành tinh được hình thành, và trạng thái của Mặt trời, Mặt Trăng và Trái Đất trong vũ trụ đã được khám phá về mặt triết học. Trái Đất được cho là trung tâm của vũ trụ với Mặt trời, Mặt Trăng và các ngôi sao quay quanh nó. Điều này được gọi là mô hình Địa tâm của vũ trụ. Một số phát hiện thiên văn học đáng chú đã được thực hiện trước khi có kính viễn vọng. Ví dụ sự nghiêng elíp được ước tính từ ngay từ năm 1000 trước Công Nguyên bởi các nhà thiên văn học Trung Quốc. Người Chaldean đã phát hiện ra rằng nguyệt thực tái xuất hiện trong một chu kỳ lặp lại gọi là saros. thế kỷ thứ II trước Công Nguyên, kích thước và khoảng cách của Mặt Trăng được Hipparchus và các nhà thiên văn học Rập sau này ước tính. Thiên hà Andromeda, thiên hà gần nhất với Ngân hà, được nhà thiên văn học người Ba tư Azophi phát hiện năm 964 và lần đầu tiên được miêu tả trong cuốn sách Book of Fixed Stars (Sách về các định tinh) của ông. Sao siêu mới SN 1006, sự kiện sao có độ sáng biểu kiến lớn nhất được ghi lại trong lịch sử, đã được nhà thiên văn học Ai Cập Rập Ali ibn Ridwan và các nhà thiên văn học Trung Quốc quan sát năm 1006. Thiết bị thiên văn học sớm nhất được biết là cơ cấu Antikythera, một thiết bị của người Hy Lạp cổ đại để tính toán các chuyển động của các hành tinh, có niên đại từ khoảng năm 150-80 trước Công Nguyên, và là tổ tiên sớm nhất của một máy tính tương tự thiên văn. Các thiết bị máy tính tương tự thiên văn giống như vậy sau này đã được các nhà thiên văn học Rập và châu Âu sáng chế. Trong thời Trung Cổ, việc quan sát thiên văn học hầu như đã bị ngưng trệ châu Âu Trung Cổ, ít nhất cho tới thế kỷ XIII. Tuy nhiên, thiên văn học đã phát triển mạnh thế giới Hồi giáo và các vùng khác trên thế giới. Một số nhà thiên văn học Rập đáng chú từng thực hiện các đóng góp quan trọng cho ngành khoa học gồm Al-Battani, Thebit, Azophi, Albumasar, Biruni, Arzachel, trường Maragha, Qushji, Al-Birjandi, Taqi al-Din, và những người khác. Các nhà thiên văn học trong thời kỳ này đã đưa ra nhiều tên Rập hiện vẫn được sử dụng cho các ngôi sao riêng biệt. Mọi người cũng tin rằng các tàn tích tại Đại Zimbabwe và Timbuktu có thể chứa đựng một đài quan sát thiên văn học. Người châu Âu trước kia từng tin rằng không hề có việc quan sát thiên văn học tại vùng Châu Phi hạ Sahara thời Trung Cổ tiền thuộc địa nhưng những phát hiện gần đây cho thấy điều trái ngược. Tập tin:Galileo moon hoạ và những quan sát Mặt Trăng của Galileo cho thấy một bề mặt nhiều đồi núi. Trong thời Phục hưng, Nicolaus Copernicus đã đề xuất một mô hình Nhật tâm của hệ mặt trời. Công việc của ông được ủng hộ, mở rộng và sửa chữa bởi Galileo Galilei và Johannes Kepler. Khám phá kính viễn vọng của Galileo đã giúp đỡ rất nhiều cho những quan sát của ông. Kepler là người đầu tiên sáng tạo một hệ thống miêu tả chính xác các chi tiết chuyển động của các hành tinh với Mặt trời trung tâm. Tuy nhiên, Kepler không thành công trong việc lập ra một lý thuyết cho những định luật đã được ông viết ra. Phải tới khi Newton khám phá ra chuyển động thiên thể và luật hấp dẫn các chuyển động của hành tinh cuối cùng mới được giải thích. Newton cũng đã phát triển kính viễn vọng phản xạ. Các khám phá thêm nữa đi liền với những cải thiện trong kích thước và chất lượng kính thiên văn. Các catalogue sao chi tiết hơn được Lacaille lập ra. Nhà thiên văn học William Herschel đã thực hiện một cataloge chi tiết về các cụm sao và tinh vân, và vào năm 1781 phát hiện ra hành tinh Sao Thiên Vương, hành tinh mới đầu tiên được tìm thấy. Khoảng cách tới một ngôi sao lần đầu tiên được thông báo năm 1838 khi thị sai của 61 Cygni được Friedrich Bessel đo đạc. Trong thế kỷ mười chín, sự quan tâm tới vấn đề ba vật thể của Euler, Clairaut, và D'Alembert đã dẫn tới những dự đoán chính xác hơn về chuyển động của Mặt Trăng và các hành tinh. Công việc này được Lagrange và Laplace chỉnh sửa thêm nữa, cho phép tính toán cả trọng lượng của các hành tinh và vệ tinh trong các nhiễu loạn của chúng. Những tiến bộ quan trọng trong thiên văn học đến cùng sự xuất hiện của kỹ thuật mới, gồm quang phổ và chụp ảnh. Fraunhofer đã phát hiện khoảng 600 băng trong quang phổ Mặt trời năm 1814-15, mà, vào năm 1859, Kirchhoff quy cho sự hiện diện của những nguyên tố khác nhau. Các ngôi sao được chứng minh tương tự như Mặt trời của Trái Đất, nhưng dải nhiệt độ, khối lượng và kích thước khác biệt. Sự tồn tại của thiên hà của Trái Đất, Ngân hà, như một nhóm sao riêng biệt, chỉ được chứng minh trong thế kỷ XX, cùng với sự tồn tại của những thiên hà "bên ngoài", ngay sau đó, sự mở rộng của vũ trụ, được quan sát thấy trong sự rời xa của hầu hết các thiên hà khỏi chúng ta. Thiên văn học hiện đại cũng đã khám phá nhiều vật thể kỳ lạ như các quasar, pulsar, blazar, và thiên hà radio, và đã sử dụng các quan sát đó để phát triển các lý thuyết vật lý miêu tả một số vật thể đó trong các thuật ngữ của các vật thể cũng kỳ lạ như vậy như các hố đen và sao neutron. Vật lý vũ trụ đã có những phát triển vượt bậc trong thế kỷ XX, với mô hình Big Bang được các bằng chứng thiên văn học và vật lý ủng hộ rộng rãi, như màn bức xạ vi sóng vũ trụ, định luật Hubble, và sự phong phú các nguyên tố vũ trụ. Tập cực lớn tại New Mexico, một ví dụ về kính viễn vọng radio. Trong thiên văn học, thông tin chủ yếu được tiếp nhận từ việc khám phá và phân tích ánh sáng nhìn thấy được hay các vùng khác của bức xạ điện từ. Thiên văn học quan sát có thể được phân chia theo vùng quan sát của quang phổ điện từ. Một số phần của quang phổ có thể được quan sát từ bề mặt Trái Đất, trong khi những phần khác chỉ có thể được quan sát từ các độ cao lớn hay từ vũ trụ. Thông tin đặc biệt về các lĩnh vực nhỏ đó được cung cấp dưới đây. Thiên văn học radio nghiên cứu bức xạ với các bước sóng lớn hơn hay xấp xỉ milimét. Thiên văn học radio khác biệt so với hầu hết các hình thức thiên văn học quan sát khác trong đó các sóng radio được quan sát có thể được coi là các sóng chứ không phải các photon riêng biệt. Vì thế, nó khá dễ dàng để đo cả biên độ và phase của các sóng radio, trong khi điều này không dễ thực hiện các bước sóng ngắn hơn. Dù một số sóng radio được tạo ra bởi các vật thể thiên văn dưới hình thức phát xạ nhiệt, hầu hết phát xạ radio được quan sát từ Trái Đất được thấy dưới hình thức bức xạ synchrotron, được tạo ra khi các electron dao động quanh các từ trường. Ngoài ra, một số lượng vạch quang phổ do khí liên sao tạo ra, đáng chú là vạch quang phổ hydro kích thước 21 cm, có thể được quan sát các bước sóng radio. Rất nhiều vật thể có thể được quan sát các bước sóng radio, gồm sao siêu mới, khí liên sao, các pulsar, và các nhân thiên hà hoạt động. Thiên văn học hồng ngoại chịu trách nhiệm thám sát và phân tích bức xạ hồng ngoại (các bước sóng dài hơn ánh sáng đỏ). Ngoại trừ các bước sóng gần ánh sáng nhìn thấy được, bức xạ hồng ngoại bị khí quyển hấp thụ mạnh, và khí quyển cũng tạo ra nhiều phát xạ hồng ngoại. Vì thế, các đài quan sát hồng ngoại được đặt những địa điểm cao và khô hay trong không gian. Quang phổ hồng ngoại rất hữu dụng khi nghiên cứu các vật thể quá lạnh để có thể phát xạ ra ánh sáng nhìn thấy được, như các hành tinh và đĩa cạnh sao. Các bước sóng hồng ngoại dài hơn cũng có thể xuyên qua vào các đám mây bụi vốn ngăn ánh sáng, cho phép quan sát các ngôi sao trẻ trong các đám mây phân tử và lõi của các thiên hà. Một số phân tử phát xạ mạnh dải sóng hồng ngoại, và điều này có thể được sử dụng để nghiên cứu hoá học không gian, cũng như phát hiện ra nước trong các thiên thạch. Tập tin:The Keck Subaru and Infrared viễn vọng Subaru (bên trái) và Đài quan sát Keck (trung tâm) tại Mauna Kea, chúng là hai ví dụ về một đài quan sát thiên văn hoạt động các bước sóng gần hồng ngoại và có thể thấy được. Cơ sở Kính viễn vọng Hồng ngoại NASA (bên phải) là một ví dụ về một kính thiên văn chỉ hoạt động các bước sóng gần hồng ngoại. Về lịch sử, thiên văn học quang học, cũng có thể được gọi là thiên văn học ánh sáng nhìn thấy được, là hình thức cổ nhất của thiên văn học. Các hình ảnh quang học ban đầu được vẽ bằng tay. Cuối thể kỷ mười chín và trong hầu hết thế kỷ hai mươi, các hình ảnh được thực hiện bằng thiết bị chụp ảnh. Các hình ảnh hiện đại sử dụng thiết bị thám sát số, đặc biệt là các thiết bị thám sát sử dụng cảm biến charge-coupled devices (CCD). Dù chính ánh sáng nhìn thấy được kéo dài từ xấp xỉ 4000 tới 7000 (400 nm tới 700 nm), thiết bị tương tự cũng được sử dụng để quan sát một số bức xạ gần cực tím và gần hồng ngoại. Thiên văn học cực tím nói chung được dùng để chỉ những quan sát tại các bước sóng cực tím giữa xấp xỉ 100 và 3200 (10 to 320 nm). Ánh sáng các bước sóng này bị khí quyển Trái Đất hấp thụ, vì thế những quan sát các bước sóng đó phải được tiến hành từ thượng tầng khí quyển hay từ không gian. Thiên văn học cực tím thích hợp nhất để nghiên cứu bức xạ nhiệt và các đường phát xạ từ các ngôi sao xanh nóng (Sao OB) rất sáng trong dải sóng này. Điều này gồm các ngôi sao xanh trong các thiên hà khác, từng là các mục tiêu của nhiều cuộc nghiên cứu cực tím. Các vật thể khác thường được quan sát trong ánh sáng cực tím gồm tinh vân hành tinh, tàn tích sao siêu mới, và nhân thiên hà hoạt động. Tuy nhiên, ánh sáng cực tím dễ dàng bị bụi liên sao hấp thụ, và việc đo đạc ánh sáng cực tím từ các vật thể cần phải được tính tới số lượng đã mất đi. Thiên văn học tia là việc nghiên cứu các vật thể vũ trụ các bước sóng tia X. Đặc biệt là các vật thể phát xạ tia như phát xạ synchrotron (do các electron dao động xung quanh các đường từ trường tạo ra), phát xạ nhiệt từ các khí mỏng (được gọi là phát xạ bremsstrahlung) trên 107 (10 triệu) độ kelvin, và phát xạ nhiệt từ các khí dày (được gọi là phát xạ vật thể tối) trên 107 độ Kelvin. Bởi các tia bị khí quyển Trái Đất hấp thụ, toàn bộ việc quan sát tia phải được thực hiện trên những khí cầu độ cao lớn, các tên lửa, hay tàu vũ trụ. Các nguồn tia đáng chú gồm sao kép tia X, pulsar, tàn tích sao siêu mới, thiên hà elíp, cụm thiên hà, và nhân thiên hà hoạt động. Thiên văn học tia gamma là việc nghiên cứu các vật thể vũ trụ các bước sóng ngắn nhất của quang phổ điện từ. Các tia gamma có thể được quan sát trực tiếp bằng các vệ tinh như Đài quan sát Tia Gamma Compton hay bởi các kính viễn vọng đặc biệt được gọi là kính viễn vọng khí quyển Cherenkov. Các kính viễn vọng Cherenkov trên thực tế không trực tiếp thám sát các tia gamma mà thay vào đó thám sát các đám loé bùng của ánh sáng nhìn thấy được tạo ra khi các tia gamma bị khí quyển Trái Đất hấp thụ. Đa số các nguồn phát xạ tia gamma trên thực tế là các loé bùng tia gamma, các vật thể chỉ tạo ta bức xạ gamma trong vài phần triệu tới vài phần ngàn giây trước khi mờ nhạt đi. Chỉ 10% nguồn tia gamma là các nguồn kéo dài. Những vật thể phát xạ tia gamma bền vững đó gồm các pulsar, sao neutron, và các vật thể bị cho là hố đen như các nhân thiên hà hoạt động. Trong thiên văn học neutrino, các nhà thiên văn học sử dụng hệ thống quan sát neutrino đặt ngầm dưới đất như SAGE, GALLEX, và Kamioka II/III để thám sát các neutrino. Các neutrino này chủ yếu có nguồn gốc từ Mặt trời nhưng cũng có từ các sao siêu mới. Các tia vũ trụ gồm các phần tử có năng lượng rất cao có thể phân rã hay bị hấp thụ khi đi vào khí quyển Trái Đất, tạo ra các đợt phân tử. Ngoài ra, một số hệ thống quan sát neutrino tương lai có thể nhạy cảm với các neutrino được tạo ra khi các tia vũ trụ đâm vào khí quyển Trái Đất. LIGO đo được sóng hấp dẫn tại trạm Livingston (phải) và trạm Hanford (trái), tín hiệu này khớp với giá trị dự đoán theo thuyết tương đối rộng. Ngoài việc phát xạ điện từ, một số vật thể có thể được quan sát từ Trái Đất có nguồn gốc từ những khoảng cách rất xa. Thiên văn học sóng hấp dẫn là một ngành mới xuất hiện của thiên văn học, nó có mục đích sử dụng các thiết bị thám sát sóng hấp dẫn để thu thập các dữ liệu quan sát về các vật thể nén. Một số cuộc quan sát đã được tiến hành, như Laser Interferometer Gravitational Observatory LIGO, tuy nhiên các sóng hấp dẫn rất khó quan sát. Sau 100 năm Einstein tiên đoán tồn tại sóng hấp dẫn, LIGO đã thu được trực tiếp tín hiệu sóng hấp dẫn lần đầu tiên từ kết quả hai lỗ đen sáp nhập vào ngày 14 tháng năm 2015, và phát hiện này được Quỹ Khoa học Quốc gia (NSF) thông báo trong cuộc họp báo tổ chức ngày 11 tháng năm 2016. Tín hiệu sóng hấp dẫn thứ hai cũng đo được bởi LIGO vào ngày 26 tháng 12 năm 2015 và có thể thêm nhiều tín hiệu nữa đo được trong tương lai nhưng để phát hiện được sóng hấp dẫn đòi hỏi những thiết bị có độ nhạy rất cao. Thiên văn học hành tinh đã được hưởng lợi từ việc quan sát trực tiếp dưới hình thức tàu vũ trụ và các phi vũ lấy mẫu vật. Chúng gồm các phi vụ bay lướt qua với các cảm biến từ xa; các thiết bị hạ cánh có thể tiến hành thực nghiệm với các vật thể trên bề mặt; các thiết bị nén cho phép cảm biến từ xa vật thể bị chôn vùi phía dưới, và các phi vụ lấy mẫu cho phép thực hiện thí nghiệm trực tiếp trong phòng thí nghiệm. Một trong những lĩnh vực cổ nhất của thiên văn học, và trong mọi ngành khoa học, là việc đo đạc các vị trí của các vật thể vũ trụ. Về mặt lịch sử, hiểu biết chính xác về các vị trí của Mặt trời, Mặt Trăng các hành tinh và các ngôi sao là kiến thức rất quan trọng trong hoa tiêu thiên văn. Những đo đạc tỉ mỉ về các vị trí của các hành tinh đã dẫn tới sự hiểu biết chính xác về các nhiễu loạn hấp dẫn, và khả năng xác định các vị trí trong quá khứ và trong tương lai của các hành tinh với độ chính xác rất cao, một lĩnh vực được gọi là các cơ cấu vũ trụ. Gần đây hơn việc thám sát các vật thể gần Trái Đất sẽ cho phép các thực hiện các dự đoán về các vụ va chạm gần, và những vụ va chạm có khả năng diễn ra, với Trái Đất. Việc đo đạc thị sai sao của các ngôi sao gần cung cấp những cơ sở nền tảng cho thang khoảng cách vũ trụ được sử dụng để đo đạc tầm mức vũ trụ. Các đo đạc thị sai của các ngôi sao gần cung cấp một cơ sở chắc chắn về các tính chất của các ngôi sao xa hơn, bởi các tính chất của chúng có thể được so sánh. Việc đo đạc tốc độ xuyên tâm và chuyển động thực thể hiện động học của các hệ thống đó xuyên qua thiên hà Ngân hà. Các kết quả đo đạc sao cũng được sử dụng để đo sự phân bố của vật thể tối trong thiên hà. Trong thập niên 1990, kỹ thuật đo đạc lắc lư sao đã được dùng để thám sát các hành tinh ngoài thái dương hệ lớn quay quanh các ngôi sao bên cạnh. Các nhà thiên văn học lý thuyết sử dụng nhiều loại dụng cụ gồm cả các mô hình phân tích (ví dụ, các polytrope để ước đoán các hoạt động của một ngôi sao) và Phân tích số học máy tính. Mỗi cách đều có một số lợi thế. Các mô hình phân tích của một quá trình nói chung là tốt hơn để có một cái nhìn bên trong sự kiện đang diễn ra. Các mô hình số có thể phát lộ sự tồn tại của hiện tượng và các hiệu ứng không thể quan sát bằng cách khác. Các nhà lý thuyết trong thiên văn học nỗ lực tạo ra các mô hình lý thuyết và xác định các kết quả quan sát của các mô hình đó. Điều này giúp các nhà quan sát tìm kiếm dữ liệu có thể bác bỏ một mô hình hay giúp lựa chọn giữa nhiều mô hình thay thế hay xung đột lẫn nhau. Các nhà lý thuyết cũng tìm cách tạo lập hay sửa đổi các mô hình để phù hợp với dữ liệu mới. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn, khuynh hướng chung là tìm các thực hiện các sửa đổi nhỏ nhất với mô hình để phù hợp với dữ liệu. Trong một số trường hợp, một lượng lớn dữ liệu không thống nhất theo thời gian có thể dẫn tới sự từ bỏ một mô hình. Các chủ đề được các nhà thiên văn học lý thuyết nghiên cứu gồm: động lực sao và tiến hoá sao; thành tạo thiên hà; cơ cấu tầm mức lớn của các vật thể trong Vũ trụ; nguồn gốc các tia vũ trụ; tương đối rộng và vật lý thiên văn, gồm vũ trụ học dây và vật lý phân tử thiên văn. Thuyết tương đối vật lý thiên văn là một công cụ để xác định các tính chất của các vật thể tầm mức lớn trong đó lực hấp dẫn đóng một vai trò quan trọng trong hiện tượng vật lý được nghiên cứu và như một căn bản cho hố đen (vũ trụ) vật lý và việc nghiên cứu các sóng hấp dẫn. Một số lý thuyết được chấp nhận và nghiên cứu rộng rãi và các mô hình trong thiên văn học hiệm gồm mô hình Lambda-CDM là Big Bang, lạm phát vũ trụ, vật thể tối, và các lý thuyết nền tảng của vật lý. Một số ví dụ về quá trình này: Quá trình vật lý Công cụ thực nghiệm Mô hình lý thuyết Giải thích/dự đoán Hấp dẫn Các kính viễn vọng radio Hệ thống tự hấp dẫn Sự xuất hiện của một hệ sao Tổng hợp hạt nhân Quang phổ học Tiến hoá sao Các ngôi sao toả sáng như thế nào và tại sao kim loại được hình thành Big Bang Kính viễn vọng thiên văn Hubble Vũ trụ mở rộng Tuổi vũ trụ Các dao động lượng tử Lạm phát vũ trụ Vấn đề phẳng Sụp đổ hấp dẫn Thiên văn học tia Thuyết tương đối rộng Các hố đen trung tâm thiên hà Andromeda Chu kỳ CNO trong các ngôi sao Vật thể tối và năng lượng tối là các chủ đề hiện tại trong thiên văn học, bởi sự khám phá ra chúng và nguồn gốc bị tranh cãi của chúng trong việc nghiên cứu các thiên hà. khoảng cách khoảng tám phút ánh sáng, ngôi sao thường được nghiên cứu nhất là Mặt trời, một ngôi sao lùn căn bản trong dãy chính của lớp sao G2 V, và có khoảng 4.6 tỷ năm tuổi. Mặt trời được coi là một ngôi sao biến đổi, nhưng nó có trải qua các thay đổi theo chu kỳ trong hoạt động được gọi là chu kỳ đốm mặt trời. Đây là một sự dao động với chu kỳ 11 năm trong số lượng đốm mặt trời. Các đốm mặt trời là các vùng có nhiệt độ thấp hơn trung bình và gắn liền với hoạt động từ trường mãnh liệt. Tập tin:Uvsun trace hình ảnh cực tím về hoạt động quyển sáng của Mặt trời bởi kính viễn vọng TRACE. ảnh NASA. Mặt trời có độ sáng tăng đều trong suốt cuộc đời nó, tăng 40% từ khí nó lần đầu tiên trở thành một ngôi sao dãy chính. Mặt trời cũng trải qua các thay đổi độ sáng theo chu kỳ có thể tác động mạnh tới Trái Đất. Ví dụ, tối thiểu Maunder, được cho là đã gây ra hiện tượng Băng hà ngắn trong thời Trung Cổ. Bề mặt nhìn thấy được bên ngoài Mặt trời được gọi là quyển sáng. Trên lớp này là một vùng mỏng được gọi là quyển sắc. Nó được bao quạnh bởi một vùng chuyển tiếp với nhiệt độ tăng lên nhanh chóng, tiếp sau đó là một quầng siêu nóng. trung tâm Mặt trời là vùng lõi, một khối lượng nhiệt độ và áp lực đủ để phản ứng tổng hợp hạt nhân diễn ra. Bên trên lõi là vùng bức xạ, nơi plasma truyền dòng năng lượng bằng các phương tiện bức xạ. Các lớp bên ngoài tạo thành một vùng đối lưu nơi vật liệu khí chuyển năng lượng chủ yếu thông qua việc dời chuyển vật lý của khí. Mọi người tin rằng vùng đối lưu này tạo ra hoạt động từ tạo nên các đốm mặt trời. Gió mặt trời là các dòng phân tử plasma liên tục thoát ra ngoài Mặt trời tới khi nó tới nhật mãn (heliopause). Gió mặt trời tương tác với quyển từ của Trái Đất để tạo nên các vánh đai bức xạ Van Allen, cũng như cực quang nơi các dòng của từ trường Trái Đất đi xuống vào trong khí quyển. Lĩnh vực thiên văn học này nghiên cứu sự tập hợp của các hành tinh, vệ tinh, hành tinh lùn, sao chổi, thiên thạch, và các vật thể quay xung quanh Mặt trời, cũng như các hành tinh ngoài hệ mặt trời. Hệ mặt trời đã được nghiên cứu khá kỹ, ban đầu bằng các kính viễn vọng và sau này bởi các tàu vũ trụ. Điều này đã cung cấp một sự hiểu biết tổng thế khá tốt về sự thành tạo và tiến hoá của hệ hành tinh này, dù nhiều phát hiện mới vẫn đang diễn ra. Tập đen đỉnh là một bụi quỷ bên trên một bức tường hố va chạm trên Sao Hoả. Cột xoáy và chuyển động này của Khí quyển Sao Hoả (có thể so sánh với một trận cuồng phong trên Trái Đất) tạo ra sọc dài và tối. Hình NASA. Hệ mặt trời được phân chia nhỏ thành các hành tinh bên trong, vành đai tiểu hành tinh, và các hành tinh bên ngoài. Các hành tinh kiểu Trái Đất gồm Sao Thủy, Sao Kim, Trái Đất, và Sao Hoả. Các hành tinh khí khổng lồ bên ngoài là Sao Mộc, Sao Thổ, Sao Thiên Vương, và Sao Hải Vương. Bên ngoài Sao Hải Vương là Vành đai Kuiper, và cuối cùng là đám Mây Oort, có thể mở rộng xa tới một năm ánh sáng. Các hành tinh được thành tạo bởi một đĩa tiền hành tinh bao quanh Mặt trời buổi đầu. Thông qua một quá trình gồm lực hút hấp dẫn, va chạm và bồi tụ, đĩa hình thành các cụm vật chất, cùng với thời gian, trở thành các tiền hành tin. Áp lực bức xạ của gió mặt trời sau đó đã đẩy hầu hết vật chất không bồi tụ, và chỉ các hành tinh có đủ khối lượng mới giữ được khí quyển của chúng. Các hành tinh tiếp tục quét sạch, hay đẩy đi, số vật chất còn lại trong một quá trình ném bom dày đặc, với bằng chứng là nhiều hố va chạm trên Mặt Trăng. Trong giai đoạn này, một số tiền hành tinh có thể đã va chạm nhau, dẫn tới lý thuyết về sự hình thành của Mặt Trăng. Khi các hành tinh đã có đủ khối lượng, các vật chất với mật độ khác nhau cô lập bên trong, trong sự phân biệt hành tinh. Quá trình này có thể tạo thành một lõi đá hay kim loại, được bao quanh bởi một lớp áo và một bề mặt bên ngoài. Lõi có thể gồm các vùng rắn và lỏng, và một số lõi hành tinh tạo ra từ trường của riêng nó, có thể bảo vệ khí quyển của nó khỏi sự tước đoạt của gió mặt trời. Sức nóng bên trong của hành tinh hay vệ tinh được tạo ra từ các va chạm, các vật liệu phóng xạ (ví dụ uranium, thorium, và 26Al), hay nhiệt thủy triều. Một số hành tinh và vệ tinh tích tụ đủ nhiệt để tạo ra các quá trình địa chất như hoạt động núi lửa và kiến tạo. Những hành tinh và vệ tinh tích tụ hay giữ được một khí quyển cũng có thể trải qua sự xói mòn bề mặt bởi gió và nước. Các vật thể nhỏ hơn, không có nhiệt thủy triều, lạnh đi nhanh chóng; và hoạt động địa chất của chúng ngừng loại ngoại trừ khi có sự kiện va chạm. Tập tin:Ant vân Con kiến. Sự phun ra khí từ tâm đang chết của ngôi sao cho thấy những mô hình đối xứng không giống các mô hình hỗn loạn hay các vụ nổ thông thường. Việc nghiên cứu các ngôi sao và quá trình tiến hoá sao là nền tàng của sự hiểu biết vũ trụ của chúng ta. Vật lý vũ trụ về các ngôi sao đã được quyết định thông qua việc quan sát và hiểu biết lý thuyết; và từ các mô hình giả lập máy tính phần bên trong. Sự thành tạo sao xảy ra tại các vùng đặc có nhiều khí và bụi, được gọi là các đám mây phân tử lớn. Khi mất ổn định, các mảnh đám mây có thể sụp đổ dưới ảnh hưởng của trọng lực, để hình thành nên một tiền sao. Với một lõi có độ đặc, nhiệt độ đủ sẽ tạo ra phản ứng tổng hợp hạt nhân, và tạo nên một ngôi sao dãy chính. Hầu hết các nguyên tố nặng hơn hydro và heli được tạo ra bên trong lõi các ngôi sao. Các tính chất của ngôi sao được hình thành phụ thuộc chủ yếu vào khối lượng ban đầu của nó. Ngôi sao càng có khối lượng lớn, càng tạo ra nhiều ánh sáng, và càng tiêu thụ nhanh chóng nhiên liệu hạt nhân trong lõi. Cùng với thời gian, nhiên liệu hạt nhân bị biến đổi hoàn toàn thành heli, và ngôi sao bắt đầu tiến hoá. Phản ứng tổng hợp heli đòi hỏi nhiệt độ cao trong lõi, vì thế ngôi sao vừa mở rộng về kích thước vừa tăng mật độ trong lõi. Kết quả là ngôi sao đỏ khổng lồ có tuổi thọ ngắn, trước khi nhiên liệu heli đến lượt nó cũng bị sử dụng. Các ngôi sao có khối lượng rất lớn có thể trải qua một loạt phase tiến hoá giảm dần, bởi chúng ngày càng nấu chảy nhiều nguyên tố nặng. Số phận cuối cùng của ngôi sao phụ thuộc vào khối lượng của nó, với những ngôi sao có khối lượng lớn hơn khoảng tám lần khối lượng Mặt trời, nó sẽ trở thành sao siêu mới sụp đổ lõi; trong khi các ngôi sao nhỏ hơn hình thành nên các tinh vân hành tinh, và phát triển thành các sao lùn trắng. Tàn tích của một sao siêu mới là một sao neutron đặc, hay nếu khối lượng sao ít nhất gấp ba lần khối lượng Mặt trời, là một hố đen. Những ngôi sao kép gần nhau có thể đi theo những con đường tiến hoá phức tạp, như chuyển đổi khối lượng trở thành một ngôi sao lùn trắng đồng hành và có khả năng tạo ra một sao siêu mới. Tinh vân hành tinh và sao siêu mới là cần thiết cho sự phân bố kim loại vào không gian liên sao; không có chúng, mọi ngôi sao mới (và hệ thống hành tinh của chúng) sẽ chỉ được tạo thành từ hydro và heli. Tập tin:Milky Way Spiral cấu được quan sát của những cánh tay xoắn ốc của Ngân hà Hệ mặt trời của chúng ta chuyển động trên quỹ đạo trong Ngân hà, một thiên hà xoắn ốc kẻ vạch là một thành viên lớn của Nhóm Địa phương của các thiên hà. Nó là một khối lượng khí, bụi, sao và các vật thể quay tròn, được giữ cùng nhau bằng sự hấp dẫn trọng lượng lẫn nhau. Bởi Trái Đất nằm bên trong các cánh tay bụi bên ngoài, có một tỷ lệ lớn Ngân hà không thể được quan sát từ Trái Đất. Trong trung tâm Ngân hà là lõi, một chỗ lồi hình thanh với cái được tin là một hố đen siêu trọng lượng trung tâm. Nó được bao quanh bởi bốn cánh tay chính có hình xoắn ốc từ lõi. Đây là một vùng thành tạo sao tích cực chứa nhiều sao dân số sao cấp I. Đĩa được bao quanh bởi một vòng sáng hình cầu với các ngôi sao dân số sao cấp II già hơn, cũng như những khu vực tập trung sao với mật độ khá dày được gọi là các cụm cầu. Giữa các ngôi sao là không gian liên sao, một vùng có vật chất thưa thớt. Tại các vùng có mật độ lớn nhất, các đám mây phân tử của phân tử hydro và các nguyên tố khác tạo ra các vùng thành tạo sao. Chúng khởi đầu như các đĩa tinh vân bất thường, cô đặc lại và sụp đổ (về khối lượng được xác định bởi độ dài Jeans) để hình thành nên các tiền sao đặc. Khi các ngôi sao có khối lượng lớn xuất hiện, chúng chuyển đám mây thành một vùng II của khí và plasma sáng. gió sao và các vụ nổ sao siêu mới từ các ngôi sao đó cuối cùng làm tan rã đám mây, thường để lại một hay nhiều cụm mở của các ngôi sao. Các cụm này dần tan rã, và các ngôi sao gia nhập vào dân số của Ngân hà. Các cuộc nghiên cứu động học của vật chất trong Ngân hà và các thiên hà khác đã chứng minh rằng có nhiều khối lượng có thể được tính toán cho vật thể nhìn thấy được. Một quầng vật thể tối dường như thống trị khối lượng, dù tính chất của vật thể tối này vẫn chưa được xác định. Việc nghiên cứu các vật thể bên ngoài thiên hà của chúng ta là một nhánh của thiên văn học liên quan tới sự thành tạo và tiến hoá của các thiên hà; hình thái học của chúng và xếp hạng; và sự xác định các thiên hà hoạt động, và các nhóm và cụm thiên hà. Việc xác định các thiên hà hoạt động và các nhóm và cụm thiên hà là quan trọng để hiểu được cơ cấu tầm mức lớn của vũ trụ. Tập này thể hiện nhiều vật thể xanh có hình vòng là những hình ảnh chồng của cùng một thiên hà, bị nhân lên bởi hiệu ứng thấu kính hấp dẫn của cụm các thiên hà màu vàng gần trung tâm hỉnh. Thấu kính được tạo ra bởi trường hấp dẫn trọng lượng của cụm uốn cong ánh sáng khiến nó khuếch đại và bóp méo hình của một vật thể xa. Hầu hết thiên hà được tổ chức thành các hình khác biệt cho phép thực hiện các mô hình xếp hạng. Thường chúng được chia thành thiên hà xoắn ốc, thiên hà elíp và thiên hà bất thường. Như cái tên cho thấy, một thiên hà elíp có hình dạng mặt cắt của một elíp. Các ngôi sao di chuyển theo các quỹ đạo ngẫu nhiên và không có hướng ưu tiên. Các thiên hà này chứa ít hay không chứa bụi liên sao; ít vùng thành tạo sao; và nói chung gồm các ngôi sao già. Các thiên hà elíp thường được tìm thấy trung tâm các cụm thiên hà, và có thể từng được thành lập thông qua sự hoà trộn các thiên hà lớn. Một thiên hà xoắn ốc được tổ chức thành một đĩa xoay, phẳng, thường với một chỗ phồng hay thanh lớn trung tâm, và các cánh tay sáng hình vệt xoắn ốc ra bên ngoài. Các cánh tay này là vùng bụi thành tạo sao nơi nhiều ngôi sao trẻ được tạo ra như những chấm nhỏ màu xanh. Các thiên hà xoắn ốc nói chung được bao quanh bởi một quầng sao già. Cả Ngân hà và Thiên hà Andromeda đều là các thiên hà xoắn ốc. Các thiên hà bất thường thường có hình thái hỗn loạn, và không có hình xoắn ốc cũng như elíp. Khoảng một phần tư các thiên hà là thiên hà bất thường, và các hình dạng kỳ lạ của các thiên hà đó có thể là kết của sự tương tác hấp dẫn. Một thiên hà hoạt động là một thành tạo phát ra một lượng lớn năng lượng của nó từ một nguồn ngoài các ngôi sao, bụi và khí; và được cấp năng lượng bởi một vùng nén tại lõi, thường được cho là một hố đen khối lượng siêu lớn phát ra bức xạ từ vật liệu rơi vào đó. Một thiên hà radio là một thiên hà hoạt động rất sáng phần quang phổ radio, và phát ra nhiều chùm hay vấu khí. Các thiên hà hoạt động phát ra bức xạ năng lượng cao gồm các thiên hà Seyfert, các Quasar, và các Blazar. Quasar được cho là các vật thể sáng ổn định nhất trong vũ trụ đã được biết tới. Kết cấu có tầm mức lớn của vũ trụ được thể hiện bởi các nhóm và cụm thiên hà. Kết cấu này được tổ chức trong một hệ thống cấp bậc của các nhóm, với hệ lớn nhất là các siêu cụm. Vật chất chung được thành tạo trong các sợi và các bức tường, để lại những khoảng trống giữa. Vũ trụ học (từ từ tiếng Hy Lạp κοσμος "thế giới, vũ trụ" và λογος "từ, nghiên cứu") có thể được coi là việc nghiên cứu vũ trụ như một tổng thể. Các quan sát cấu trúc tầm mức lớn của vũ trụ, một nhánh được gọi là vật lý vũ trụ, đã cung cấp một hiểu biết sâu về sự thành tạo và tiến hoá của vũ trụ. Nền tảng cho vũ trụ học hiện đại là lý thuyết big bang được chấp nhận rộng rãi, theo đó vũ trụ của chúng ta khởi đầu tại một điểm duy nhất trong thời gian, và sau đó mở rộng trong 13.7 tỷ năm để trở thành như hiện tại. tưởng Big Bang có thể được truy nguyên dấu vết từ sự khám phá bức xạ vi sóng vũ trụ năm 1965. Trong quá trình mở rộng này, vũ trụ trải qua nhiều giai đoạn tiến hoá. những khoảnh khắc đầu tiên, lý thuyết cho rằng vũ trụ trải qua một giai đoạn lạm phát vũ trụ rất nhanh chóng, làm đồng nhất các điều kiện khởi đầu. Sau đó, tổng hợp hạt nhân tạo ra sự phong phú nguyên tố của vũ trụ buổi đầu. (Xem thêm Niên đại hạt nhân vũ trụ.) Khi các nguyên tử đầu tiên hình thành, vũ trụ trở nên trong suốt với bức xạ, nhả ra năng lượng có thể được thấy hiện nay dạng màn bức xạ vi sóng. Vụ trụ mở rộng sau đó trải qua một Thời kỳ Tối vì sự thiếu hụt các nguồn năng lượng sao. Một cơ cấu cấp bậc vật chất bắt đầu hình thành từ những sự thay đổi trong thời gian ngắn trong mật độ khối lượng. Vật chất tích tụ trong những vùng đặc nhất, hình thành nên các đám mây khí và những ngôi sao đầu tiên. Những ngôi sao lớn này gây ra quá trình tái tổ chức và được cho là đã tạo ra nhiều nguyên tố nặng trong vũ trụ buổi đầu và thường có xu hướng phân rã trở lại thành các nguyên tố nhẹ hơn mở rộng chu kỳ. Những sự tích tụ hấp dẫn tập trung thành các sợi, để lại các khoảng trống trong các lỗ hổng. Dần dần, các tổ chức khí và bụi hoà trộn để hình thành nên các thiên hà nguyên thủy đầu tiên. Cùng với thời gian, chúng lôi kéo vào trong thêm nhiều vật chất và thường được tổ chức thành các nhóm và cụm thiên hà, sau đó thành các siêu cụm tầm mức lớn. Nền tảng của cơ cấu của vụ trụ là sự tồn tại của vật chất tối và năng lượng tối. Chúng hiện được cho là các thành phần chiếm ưu thế, tạo ra 96% mật độ vũ trụ. Vì lý do này, nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm tìm hiểu tính chất vật lý của các thành phần đó. Thiên văn học và vật lý vũ trụ đã phát triển khá nhiều kết nối đa lĩnh vực với các lĩnh vực khoa học khác. Khảo cổ thiên văn học là việc nghiên cứu thiên văn học truyền thống hay cổ đại trong bối cảnh văn hoá của chúng, sử dụng bằng chứng khảo cổ và nhân loại. Sinh vật học vũ trụ là việc nghiên cứu sự xuất hiện và tiến hoá của các hệ sinh thái trong vũ trụ, với sự nhấn mạnh đặc biệt trên khả năng về sự sống ngoài Trái Đất. Việc nghiên cứu các hoá chất được tìm thấy trong vũ trụ, gồm sự thành tạo, tương tác và phá huỷ của chúng, được gọi là hoá học thiên thể Các chất đó thường được tìm thấy trong các đám mây phân tử, dù chúng có thể xuất hiện trong những ngôi sao nhiệt độ thấp, sao lùn nâu và các hành tinh. Hoá học vũ trụ là việc nghiên cứu các hoá chất được tìm thấy bên trong Hệ mặt trời, gồm cả các nguồn gốc của các nguyên tố và các biến đổi trong các tỷ lệ đồng vị. Cả hai lĩnh vực này đều có sự trùng lặp trong phương pháp thiên văn học và hoá học. Tập tin:Telescope trailer nhà thiên văn nghiệp dư có thể chế tạo thiết bị của riêng mình, và có thể tổ chức các bữa tiệc sao, như kiểu câu lạc bộ Stellafane. Thiên văn là một trong những ngành khoa học mà những người nghiệp dư có thể đóng góp nhiều nhất. Nói chung, các nhà thiên văn học nghiệp dư quan sát nhiều loại vật thể và hiện tượng vũ trụ thỉnh thoảng bằng thiết bị tự chế. Các mục tiêu thông thường của các nhà thiên văn nghiệp dư gồm Mặt Trăng, các hành tinh, các ngôi sao, sao chổi, mưa sao băng và nhiều loại vật thể sâu trong vũ trụ như các cụm sao, thiên hà hay tinh vân. Một nhánh của thiên văn nghiệp dư, chụp ảnh vũ trụ nghiệp dư, liên quan tới việc chụp ảnh bầu trời đêm. Nhiều người nghiệp dư muốn chuyên biệt trong quan sát các vật thể đặc biệt, các kiểu vạt thể hay các kiểu sự kiện làm họ quan tâm. Đa số nhà thiên văn nghiệp dư làm việc các bước sóng nhìn thấy được, nhưng một cộng đồng nhỏ làm việc với các bước sóng bên ngoài quang phổ nhìn thấy được. Điều này gồm việc sử dụng các thiết bị lọc hồng ngoại trên các kính viễn vọng thông thường, và việc sử dụng các kính viễn vọng radio. Người đi đầu trong thiên văn học radio nghiệp dư là Karl Guthe Jansky, ông đã bắt đầu quan sát bầu trời những bước sóng radio từ thập niên 1930. Một số nhà thiên văn nghiệp dư sử dụng các kính viễn vọng tự làm hay các kính viễn vọng radio ban đầu được sản xuất cho nghiên cứu thiên văn nhưng hiện các nhà thiên văn nghiệp dư đã có thể tiếp cận (ví dụ Kính viễn vọng Một Dặm). Các nhà thiên văn nghiệp dư tiếp tục thực hiện các đóng góp khoa học trong lĩnh vực thiên văn. Quả thực, đây là một trong số ít ngành khoa học nơi những người nghiệp dư vẫn có thể có những đóng góp quan trọng. Những người nghiệp dư có thể thực hiện đo đạc che khuất được dùng để tinh chỉnh các quỹ đạo của các hành tinh nhỏ. Họ cũng có thể khám phá các sao chổi, và thực hiện những quan sát thường xuyên với các ngôi sao biến đổi. Những cải tiến trong kỹ thuật số đã cho phép những người nghiệp dư thực hiện những tiến bộ quan trọng trong lĩnh vực chụp ảnh vũ trụ. Dù lĩnh vực khoa học thiên văn đã có bước phát triển lớn trong việc tìm hiểu bản chất vũ trụ và nội dung của nó, vẫn còn một số vấn đề chưa được giải quyết. Những câu trả lời cho chúng có thể đòi hỏi những công cụ mới trên mặt đất và trong không gian, và có thể những phát triển mới trong vật lý lý thuyết và thực nghiệm. Cái gì là nguồn gốc của quang phổ khối lượng sao? Có nghĩa, tại sao các nhà thiên văn quan sát cùng sự phân bố các khối lượng sao chức năng khối lượng ban đầu rõ ràng không quan tâm tới các điều kiện ban đầu? Cần có một sự hiểu biết sâu hơn về sự thành tạo sao và hành tinh. Có sự sống trong vũ trụ không? Đặc biệt, có sự sống thông minh khác không? Nếu có, đâu là sự giải thích cho nghịch lý Fermi? Sự tồn tại của sự sống một nơi nào đó có những hàm khoa học và triết học quan trọng. Đâu là bản chất của vật chất tối và năng lượng tối? Chúng thống trị sự tiến hoá và số phận vũ trụ, quả thực chúng ta vẫn chưa chắc chắn về các bản chất thực của chúng. Tại sao những hằng số vật lý lại hài hoà như vậy tới mức chúng cho phép sự tồn tại của sự sống? Chúng có thể là kết quả của sự lựa chọn tự nhiên của vũ trụ không? Cái gì gây ra lạm phát vũ trụ đã tạo ra vũ trụ đồng nhất của chúng ta? Đâu là số phận cuối cùng của vũ trụ? Trong cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 62 của Liên hiệp quốc, năm 2009 đã được công bố là Năm thiên văn học quốc tế (IYA2009), với nghị quyết được chính thức hoá ngày 20 tháng 12 năm 2008. Một sự phối hợp toàn cầu do Hiệp hội Thiên văn Quốc tế (IAU) bố trí, nó đã được UNESCO cơ quan của Liên hiệp quốc chịu trách nhiệm về các vấn đề Giáo dục, Khoa học và Văn hoá, tán đồng. Năm Thiên văn quốc tế 2009 được dự định trở thành một lễ hội toàn cầu về thiên văn học và những đóng góp của nó vào xã hội và văn hoá, khơi dậy sự quan tâm toàn cầu không chỉ với thiên văn và cả khoa học nói chung, với sự nhấn mạnh vào thanh niên. Chiêm tinh học và Thiên văn học Nhà thiên văn Hệ thống dữ liệu vật lý vũ trụ :Category:Thiên văn cổ đại :Category:Quan sát thiên văn :Category:Tổ chức thiên văn :Category:Biểu thời gian thiên văn học Chòm sao Thuyết nguồn gốc vũ trụ Tỷ lệ khoảng cách ngoài thiên hà Năm thiên văn quốc tế Danh sách từ viết tắt thiên văn học Hệ mặt trời Thám hiểm không gian Khoa học không gian Kính viễn vọng Universe: Biên giới vô định (loạt phim truyền hình) Lịch Thiên văn bằng tiếng Việt Câu lạc bộ thiên văn học trẻ Việt Nam Câu lạc bộ thiên văn học nghiệp dư thành phố Hồ Chí Minh Trang tin Ftvh Vũ trụ trong tầm tay Câu lạc bộ thiên văn học Đà Nẵng Bản đồ sao quay Bản đồ sao International Year of Astronomy 2009 IYA2009 Main website Cosmic Journey: History of Scientific Cosmology from the American Institute of Physics Southern Hemisphere Astronomy Celestia Motherlode Educational site for Astronomical journeys through space Astronomy History G. Forbes 1909 (eLibrary Project eLib Text) Prof. Sir Harry Kroto, NL, Astrophysical Chemistry Lecture Series. Freeview Lectures provided by the Vega Science Trust. Core books and core journals in Astronomy, from the Astrophysics Data System | Thiên văn học | Vật lý vũ trụ, Khoa học tự nhiên, Không gian ngoài thiên thể, Vật lý thiên văn, Vũ trụ học |
Bão Vongfong là cơn bão mạnh nhất thế giới năm 2014, đổ bộ Nhật Bản vào tháng Mười. Là cơn bão thứ 19 và trận cuồng phong thứ chín của mùa bão, nó cũng gián tiếp ảnh hưởng đến Philippines và Đài Loan. Cả JTWC và JMA cùng phát tin bão vào ngày tháng 10. Lúc này, tuy sức gió còn thấp nhưng việc đi vào vùng biển ấm làm cho Vongfong trở thành một cơn bão cuồng phong khu vực đảo Guam vào ngày tháng 10. Bão bắt đầu gia tăng cường độ. Ngày 07 tháng 10, Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines (PAGASA) đã đặt tên cho bão là Ompong, khi nó đã vượt qua kinh tuyến 135 độ Đông-giới hạn của vùng biển được theo dõi bởi cục này. JTWC sau đó đã xếp Vongfong là siêu bão mạnh thứ sáu của năm 2014, ngay trước khi đạt cường độ mạnh nhất khi hình thành mắt bão vào cuối ngày. Ước tính thiệt hại từ cơn bão Vongfong là khoảng 48 triệu Đô (USD năm 2014), chủ yếu là làm chìm một tàu nghiên cứu của Đài Loan. Ít nhất người đã thiệt mạng dọc theo đường đi của bão các quốc gia. JMA General Information of Typhoon Vongfong (1419) from Digital Typhoon | Bão Vongfong | Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2014, Nhật Bản năm 2014, Bão tại Nhật Bản |
Lwiza Msyani John (sinh ngày 19 tháng 12 năm 1980 tại Dar-es-Salaam) là một vận động viên người Tanzania, chủ yếu thi đấu cự ly 800 mét. Thành tích tốt nhất của cô ấy là 1: 59,58 phút, đạt được vào năm 2000. Đại hội thể thao châu 2003 huy chương vàng Đại hội Thể thao toàn châu Phi 2003 huy chương đồng Giải vô địch Đông Phi 2003 huy chương vàng Giải vô địch Đông Phi 2001 huy chương vàng Giải vô địch Đông Phi 2001 huy chương vàng (200 mét) Giải vô địch trong nhà thế giới IAAF 2001 vị trí thứ tư Lwiza John | Lwiza Msyani John | Người Dar es Salaam, Nhân vật còn sống, Sinh năm 1980 |
Mã số định danh chuẩn Amazon (ASIN Amazon Standard Number) là một dải gồm 10 ký tự chữ cái và số định danh duy nhất được gán bởi Amazon.com và đối tác áp dụng với những sản phẩm trong nội bộ tổ chức Amazon.com. ASIN được áp dụng tại nhiều phiên bản địa phương của Amazon, gồm các hệ thống mua sắm tại Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Pháp, Đức, Ý, Canada và Nhật Bản. Mặc dù ASIN từng là độc nhất trên toàn thế giới, sự mở rộng của thị trường toàn cầu đã khiến nó chỉ được áp dụng trong thị trường nội bộ của Amazon. Cùng một sản phẩm có thể có nhiều ASIN, và những hệ thống website những nước khác nhau của Amazon có thể dùng những ASIN khác nhau cho cùng một sản phẩm. Nhìn chung, ASIN có thể sẽ khác biệt nhau từng hệ thống của từng nước, trừ phi chúng được gán cho một lớp sản phẩm mà ASIN dựa trên một mã số tiêu chuẩn quốc tế có tính chất thương mại duy nhất, chẳng hạn như ISBN đối với sách. Mỗi sản phẩm bán trên Amazon.com đều có một ASIN độc nhất. Đối với sách có 10 số ISBN thì ASIN và ISBN sẽ giống nhau. Ấn bản Kindle của sách sẽ không dùng ISBN như ASIN, mặc dù phiên bản e-book của nó có thể có ISBN riêng. Trong hầu hết trường hợp, người ta có thể chuyển đổi ASIN để có một mã EAN tương ứng. ASIN | Mã số định danh chuẩn Amazon | Định danh |
Sông Dinh là phụ lưu cấp của Sông Hiếu trong hệ thống sông Lam, chảy huyện Quỳ Hợp và Nghĩa Đàn tỉnh Nghệ An, Việt Nam Sông Dinh bắt nguồn từ các phụ lưu hợp thành huyện Quỳ Hợp, trong đó lớn nhất là Nậm Nọc, Huổi Huống và Nậm Chông Từ thị trấn Quỳ Hợp sông chảy hướng đông, đổ vào Sông Hiếu ngã ba sông, ranh giới xã Nghĩa Hưng, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Liên huyện Nghĩa Đàn. | Sông Dinh | Hệ thống sông Lam Dinh |